Upload
vuphuc
View
240
Download
6
Embed Size (px)
Citation preview
NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ NHÂN CÁCH THEO PHƯƠNG PHÁP NEO PI-R CẢI BIÊN
NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ NHÂN CÁCH THEO PHƯƠNG PHÁP NEO PI-R CẢI BIÊN
Phạm Minh Hạc (Chủ biên)
LỜI NÓI ĐẦU
Việc xây dựng con người Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa
luôn đặt ra yêu cầu phải xuất phát từ mô hình nhân cách nào đó trên cơ sở
làm rõ hiện trạng và xu hướng phát triển nhân cách phù hợp với những điều
kiện kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế. Mô hình này tuy đã được
xác định từng bước qua những kết quả nghiên cứu của các Chương trình
khoa học cấp Nhà nước KX-07 "Con người là mục tiêu và động lực phát triển
kinh tế xã hội" (1991 - 1995), KHXH-04 "Phát triển văn hóa, xây dựng con
người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" (1996 - 2000), nhưng mới
chỉ là bước đầu và chưa đề cập tới vấn đề con người trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2001 - 2020.
Trong bối cảnh đó, mục đích nghiên cứu của đề tài KX05-07 là điều tra
đo đạc những đặc điểm giá trị nhân cách của một số tầng lớp người Việt Nam
hiện nay, từ đó rút ra những nhận định làm cơ sở cho những kiến nghị, giải
pháp đối với việc xây dựng con người Việt Nam theo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế. So với các
đề tài trước, đề tài KX05-07 có đặc trưng độc đáo là lần đầu tiên những người
nghiên cứu đã áp dụng phương pháp đo đạc tâm lý đang thịnh hành nhất trên
thế giới NEO PI-R có sửa chữa và bổ sung cho phù hợp với mục tiêu của đề
tài và thực tế của Việt Nam, góp phần đưa nghiên cứu Việt Nam trong lĩnh
vực này tiếp cận hội nhập được với thế giới. Hơn nữa ngoài số lượng mẫu
điều tra đo đạc lớn (trên 5000 người) trong nước, lần đầu tiên đề tài cũng đã
thực hiện việc điều tra với 450 người Việt Nam định cư ở nước ngoài qua thư
điện tử khiến cho kết quả nghiên cứu phong phú hơn và cũng mở ra một
hướng mới trong phương pháp điều tra ứng dụng kỹ thuật tin học, khắc phục
những hạn chế về tài chính, không gian và thời gian.
Kết quả đo đạc điều tra nhân cách của một khối lượng lớn số mẫu đại
diện cho các tầng lớp người Việt Nam (học sinh, sinh viên, nông dân, công
nhân, giáo viên, trí thức, doanh nhân) và một số điển hình thành đạt đã tạo cơ
sở rút ra những nhận định chung về mặt mạnh, mặt yếu của người Việt Nam
hiện nay. Có thể nói hiện trạng và xu thế phát triển nhân cách của thế hệ trẻ
ngày nay mang một tiềm năng tâm lực rất phong phú sẵn sàng đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước nhưng vẫn còn một số điểm cần khắc phục, cần giải
phóng mọi tiềm năng, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng
người, cộng đồng và xã hội.
Trên đây là một phần thành quả nghiên cứu của đề tài KX05-07, với
việc lần đầu tiên đưa vào áp dụng phương pháp trắc nghiệm tâm lý thịnh
hành trên thế giới. Hy vọng kết quả nghiên cứu này có giá trị tham khảo bổ
ích cho nhiều bạn đọc. Chúng tôi cũng rất mong nhận được sự góp ý phê
bình của bạn đọc.
NHÓM TÁC GIẢ
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬNĐể thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, trước hết trong chương này,
tập thể tác giả đã tập trung vào việc nghiên cứu những cơ sở lý luận và
phương pháp luận của vấn đề xây dựng con người trong hoàn cảnh hiện nay
với nội dung chủ yếu bao gồm những phần sau:
- Chủ nghĩa Mác - Phương pháp luận nghiên cứu con người.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và nhân cách con người Việt
Nam.
- Nghiên cứu nhân cách người Việt Nam.
- Nghiên cứu con người đầu thế kỷ XXI.
- Quan niệm về con người.
- Cách tiếp cận nghiên cứu nhân cách.
- Khái niệm giá trị.
- Giá trị nhân cách.
- Về nhân cách theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
I. CHỦ NGHĨA MÁC - PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU CON NGƯỜIChủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và
cũng là chủ nghĩa nhân đạo. Đây là phương pháp luận tổng quát để nghiên
cứu con người. Mục tiêu của xã hội chúng ta, theo tư tưởng của C.Mác, là
giải phóng con người khỏi mọi sự áp bức bóc lột, tha hóa: chủ nghĩa Mác
cũng mang đầy tính nhân văn.
Sự phát triển lý luận về con người của C.Mác, nhìn một cách tổng quát,
trải qua ba thời kỳ: thời kỳ thứ nhất đánh dấu bằng năm 1844, thời kỳ thứ hai
- năm 1847, thời kỳ thứ ba - năm 1857. Các tác phẩm điển hình của ba thời
kỳ này hết sức phức tạp, có khi trái ngược nhau, nhưng toát lên một ý chung
là vấn đề con người giữ một vị trí khoa học quan trọng trong chủ nghĩa Mác.
Mác đã đặt vấn đề con người và sự tha hóa của nó từ năm 1844.
Trong thời kỳ thứ hai đã có một luận đề cực kỳ quan trọng mà chúng tôi
coi đây là phương pháp luận tổng quát của nhân học hiện nay là Luận cương
thứ 6 về Phoiơbách "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hòa những quan hệ xã hội". Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội và ý thức
của từng người.
Đến thời kỳ thứ ba, bằng toàn bộ tác phẩm Tư bản, Mác đã xây dựng lý
thuyết hoạt động duy vật biện chứng. Con người tồn tại theo cả quy luật sinh
thể lẫn quy luật lịch sử (có khi gọi là quy luật lịch sử - xã hội; cũng có khi gọi
là quy luật lịch sử văn hóa), nhưng quy luật lịch sử giữ vai trò chủ đạo. Chính
bằng lý thuyết đó với mô hình hoạt động đối tượng (chứ không phải là hoạt
động của "tinh thần tuyệt đối, kiểu Hêghen), mới hiểu được con người, tìm ra
con người, đi đến giải phóng con người. Hoạt động đối tượng này được khái
quát trong lý thuyết về hai thuộc tính của hàng hóa (sử dụng và trao đổi),
trong tính chất của giá trị lao động và đặc biệt là giá trị trao đổi, và trong học
thuyết giá trị thặng dư. Đó là chìa khóa để nghiên cứu con người và nhân
cách: nghiên cứu con người theo phương pháp tiếp cận hoạt động - giá trị -
nhân cách.
Muốn giải phóng con người thì phải tìm ra chìa khóa giải phóng xã hội,
giải phóng khỏi những nguyên nhân đầu tiên, những nguyên nhân kinh tế - xã
hội làm cho con người đánh mất bản thân mình, bị tha hóa. Người ta gọi tác
phẩm Tư bản là lý thuyết về giải phóng con người.
Một trong những công trình của giáo sư triết học Pháp Giắccơ Đêriđa
được viết ra từ một bài nói về chủ đề "Chủ nghĩa Mác đi đến đâu?" tại một
câu lạc bộ tại Mỹ và sau phát triển thành sách với tiêu đề Những bóng ma của
Mác. Phương pháp tiếp cận của tác giả đi bằng con đường "qua những bóng
ma". Vì trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác đã dùng hình tượng
những bóng ma để ám chỉ chủ nghĩa cộng sản; sau này trong bài Ngày 18
tháng Sương mù của Lui Bonapáctơ lại gọi là "bóng ma đỏ". Tác giả liệt kê
mười bóng ma, tức là đề cập tới mười vấn đề, như con người và chúa trời,
bản thể học và nhân loại học, vấn đề tinh thần của nhân dân, tinh thần dân
tộc… Trong đó vấn đề con người được gọi là vấn đề gần nhất và cũng là vấn
đề đáng sợ nhất. Tác giả nhấn mạnh tới di sản, tiếp thu theo luận điểm của
Mác mà ông gọi là “những mệnh lệnh của Mác”.
Muốn nghiên cứu con người không thể đựng ngoài nhận định về tình
hình thế giới. Thế giới vẫn còn âm mưu thiết lập một chủ nghĩa tư bản mới và
một chủ nghĩa tự do mới. Nói vấn đề con người dính liền với đồng tiền và tư
hữu trong thế giới tư bản chủ nghĩa. Và chính ở đây, thế giới tư bản chủ
nghĩa đã đưa ra luận điểm Mác đã chết rồi, họ công nhiên nói chủ nghĩa tư
bản muôn năm, thị trường muôn năm, chủ nghĩa tự do kinh tế và chính trị
muôn năm. Nhưng sự thật của thế giới tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa tự do
lại ảm đạm đến ghê sợ và đang bị đe dọa. Hiện nay người ta đang lên án chủ
nghĩa tư bản và những nước mệnh danh là thị trường tự do, tình hình bạo
lực, sự bất công, tính chuyên chế và độc tài của nó. Cho nên xu thế dân tộc
đã đặt lại những vấn đề về nhà nước và dân tộc, con người và công dân, cái
chung và cái riêng… Trong bài diễn văn tại Diễn đàn cách mạng công khai, tổ
chức ngày 27 - 1 - 2001, đồng chí Phi đen Caxtơro đã nhận định: thế giới tư
bản chủ nghĩa đang có những dấu hiệu đầu tiên của sự khủng hoảng và "cuối
cùng sẽ xảy ra một cuộc khủng hoảng sâu sắc…"
Đêriđa đã mô tả trật tự thế giới theo mười đặc điểm: 1) Nạn thất nghiệp;
2) Quẳng ra lề đường hàng loạt con người; 3) Chiến tranh kinh tế; 4) Mâu
thuẫn về khái niệm, về chuẩn mực và thực tế của thị trường tự do; 5) Gia tăng
nợ nước ngoài; 6) Phổ biến và buôn bán vũ khí; 7) "Phát tán" vũ khí nguyên
tử; 8) Chiến tranh sắc tộc; 9) Tăng cường quyền lực vô hạn mà ông gọi là
những nhà nước ma xuất hiện, nhà nước siêu hiệu lực và đặc biệt tư bản chủ
nghĩa maphia; 10) Những hạn chế của luật pháp quốc tế. Chính trong ngữ
cảnh này đã nói nhiều đến hướng tương lai mà Mác gọi là "quốc tế mới". Có
thể đối với Mác sẽ có con người đang hoàn thiện, nơi mà tính nhân loại thuần
túy của con người đang bắt đầu báo hiệu một cách hy vọng và tác giả đã nói
đến các mệnh lệnh của Mác: 1) Cải tạo thế giới, 2) Phải đấu tranh, 3) Cách
mạng giải phóng để khẳng định cách chọn lọc và để tiến tới một nền dân chủ.
Di sản Mác là tuyệt đối Mác là nhà phân tích sáng suốt nhất trong thời hiện
tại. Đêriđa khẳng định: Chúng ta cần có chủ nghĩa Mác, phải kế thừa di sản
của Mác, phải trung thành với di sản của Mác và sự trung thành với di sản
của Mác là nghĩa vụ của chúng ta, là trách nhiệm cấp thiết và hàng đầu. Qua
đây một lần nữa, chúng ta thấy sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác với
tính thời sự của việc nghiên cứu và vận dụng chủ nghĩa Mác.
Để khẳng định chức năng phương pháp luận của triết học mác xít trong
các nghiên cứu về con người, chúng tôi xin trình bày đôi điều suy nghĩ khi đọc
tác phẩm Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người của GS.
Trần Đức Thảo. Lấy cớ nói về lý luận không có con người của Antuysơ (nhà
triết học Pháp), sự thực trong này không trình bày nhiều về Antuysơ. Năm
1965, Antuysơ có viết hai cuốn sách ủng hộ Các Mác và Đọc Tư bản. Trong
tác phẩm của mình, Trần Đức Thảo chủ yếu nói về con người, phương pháp
luận nghiên cứu con người, nhằm chứng minh ở con người có nhân tính là
cái cơ bản chung của loài người và trình bày nguồn gốc ra đời của cái cơ bản
chung đó. Đó là cơ sở của con người xã hội, con người giai cấp. Tác giả
muốn chứng minh là có nhân tính và sau trở thành nhân cách bằng con
đường thông qua các mối quan hệ xã hội, bắt đầu từ quan hệ nguyên thủy ở
trong thời kỳ cộng sản nguyên thủy, và đối với đứa trẻ ở độ tuổi nhi đồng
trong mối quan hệ gia đình mà tác giả gọi là cộng đồng gia đình.
Antuysơ có nhắc đến mấy luận điểm sau: Một là, chỉ có giai cấp và con
người giai cấp, chứ không có con người với tư cách là con người theo nghĩa
cơ bản chung của con người; Hai là, mỗi hệ thống quan hệ xã hội tạo nên
những con người đặc thù của nó. Như vậy không có con người theo nghĩa
chung của loài người. Chúng ta khẳng định tính nhân loại, tính dân tộc, tính
giai cấp trồng con người hòa quyện với nhau.
Các quan hệ xã hội trong con người đều có nền tảng chung là các mối
quan hệ qua lại từ khi bắt đầu hình thành lịch sử. Mác nói lịch sử loài người là
lịch sử con người. Nói cách khác, con người hình thành nên con người từ khi
tách khỏi động vật, và từ đó bắt đầu có lịch sử loài người. Tất nhiên nó có
những giai đoạn khác nhau mà sau này khái quát lại thời kỳ tiền sử và thời kỳ
sử. Tiền sử là trước khi có chữ viết, khoảng 5 nghìn năm nay. Theo cách tiếp
cận của Mác, GS.Trần Đức Thảo đã chứng minh ngay từ ban đầu, khi loài
người mới hình thành tức là con người mới hình thành đều phụ thuộc vào ba
yếu tố: sức lao động giản đơn, tiếng nói và ý thức. Lao động giản đơn ngay từ
ban đầu cũng là lao động hợp tác. Cái đó nói lên bản chất của quan hệ xã hội
cộng sản nguyên thủy, cái bản chất này quy định cái bản chất ban đầu của
con người, nhân cách ban đầu của con người.
Giáo sư Trần Đức Thảo tìm cấu trúc tinh thần của con người, tập trung
vào cơ cấu ý thức. Ông đã đưa ra cấu trúc của ý thức, vô thức, sinh thức và
cái gọi là cái mình và cái bản thân mình. Luận điểm xuất phát ở đây là luận
điểm của Mác, Ăngghen về nguồn gốc lịch sử của loài người, cũng như
nguồn gốc của con người và nguồn gốc của nhân cách bắt đầu từ lao động,
tiếng nói và ý thức. Vấn đề tập trung cuội cùng là vấn đề tinh thần và trong
tinh thần tập trung vào cấu trúc của ý thức là một trong những vấn đề phức
tạp nhất của tâm lý học và nhân học, giáo dục học và triết học, cho đến nay
vẫn còn nhiều vấn đề đang bỏ ngỏ. Tất nhiên bản thể luận của cấu trúc ý thức
là cấu trúc hoạt động.
Giáo sư Trần Đức Thảo cũng đề cập đến giá trị nhân bản gọi là tính
người trong con người. Có ba cấp bậc hình thành nên tính người: 1) Cái cơ
bản chung của loài người, ở trong từng con người; 2) Từng người tiếp thu di
sản văn hóa chung của loài người; 3) Những giá trị phổ cập hướng về tương
lai. Các vấn đề nhân tính, giai cấp tính, dân tộc tính là các vấn đề hết sức
phức tạp, tế nhị và nhạy cảm. Đó là những vấn đề triết học, những vấn đề của
cuộc sống, phải trực tiếp xử lý trong các giai đoạn cách mạng. Theo tư tưởng
mác xít, nhất là trong những văn bản nói về văn hóa, về giáo dục và về con
người, trong con người ngày nay có vốn liếng của suốt cả lịch sử loài người
đã tích tụ và truyền thụ lại. Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương giữ gìn bản
sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa có ở trong con người với tư
cách là đại diện của loài người. Nhưng triết học, tâm lý học, giáo dục học… lại
có nói đến phần tích cực và phần tiêu cực ở trong con người. Từ lúc nào bên
cạnh nhân tính, tính người lại có tính xâm lăng, tính hung hăng, tính phản
động…? Trong nhân tính luôn giằng co như vậy. Nhưng trong tiến trình lịch
sử (và trong phần lớn con người hay một phần đời người), cái thiện cũng
thắng cái ác, cái tốt cũng thắng cái xấu, cái tích cực cũng thắng cái tiêu cực
cho nên loài người mới phát triển theo hướng đi lên; tuy nhiều khi phải qua
các chặng đường gập ghềnh, quanh co theo hướng kế thừa và phát huy
truyền thống, tiếp cận, hoà quyện và sáng tạo hiện đại. Điều này ảnh hưởng
rất lớn đến phát triển con người với phương hướng chung là ngày càng tiệm
cận với một khẳng định chung của văn hóa loài người và con người nói
chung.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT NAM
1. Khung lý thuyết của đề tài “Xây dựng con người Việt Nam theo định
hướng XHCN trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế”
được cụ thể hoá, như trong văn bản của Chương trình KX-05, là nghiên cứu
nhân cách người Việt Nam… bao gồm các khái niệm được trình bày trong
Phần thứ hai này, với xuất phát điểm là tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội IX
khẳng định nội dung "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm lý
luận chính trị toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng
về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh của nhân dân, xây
dựng lực lương vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức
cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí.công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho, đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán
bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của
nhân dân…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta".
Nhiệm vụ của chúng ta là học tập, nghiên cứu, vận dụng vào tất cả các
mặt hoạt động trong đời sống thực tiễn và đời sống lý luận của đất nước,
trong đó có vấn đề nghiên cứu con người, xây dựng giáo dục nhân cách con
người. "Tư tưởng về con người, về giải phóng và phát triển con người, như
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch hồ
Chí Minh, đã viết: "Coi con người là nhân tố quyết định thành công của cách
mạng quán xuyến toàn bộ sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh". Trong di
chúc Bác đã căn dặn: sau khi chiến tranh kết thúc "Đầu tiên là công việc đối
với con người ".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là hạt nhân của chủ nghĩa nhân
văn Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là phường pháp luận tổng
quát nhất chỉ đạo việc nghiên cứu con người, sơ bộ có thể tóm tắt vào 5 điểm
sau:
a. Cốt lõi ở đây là lòng yêu thương con người trên cơ sở yêu nước, yêu
dân tộc và nhân loại.
b. Coi trọng tâm lý con người, như Bác đã viết về văn hoá “Nhật ký
trong tù”; trong văn hoá, yếu tố số một là tâm lý, rồi mới đến kinh tế, chính
trị… Bác cũng đã nói: "Cách mạng tiên cách tân". Trong công tác của Đảng,
Bác hết sức coi trọng suy nghĩ, ước vọng, nhu cầu của người dân. Như vậy là
Bác đã đặt con người vào vị trí số một, vị trí trung trâm trong toàn bộ đời sống
xã hội. Chiến lược 1991-2000 đã quán triệt tư tưởng này và Chiến lược 2001-
2010 tiếp tục phát triển. Đó là tư tưởng của thời đại công nghiệp. Trong xã hội
nông nghiệp chỉ có nhân cách làng xã, nhân cách thôn xóm. Coi trọng tâm lý
con người là coi trọng con người, trả lại con người vị trí của nó, làm cho nó
thoát khỏi mọi cảnh tha hoá. Con người trở thành một chủ thể độc lập của
mọi hoạt động, là đơn vị cơ sở của đội ngũ nhân lực, coi trọng nhân cách của
từng con người. Đây là cơ sở của tư tưởng dân chủ và nhân quyền.
c. Điều có ý nghĩa hết sức thời sự trong thời đại khoa học - công nghệ
tiến như vũ bão ngày nay là làm sao cho con người đối với con người phải
bằng thái độ khoan dung, như Bác viết trong "Đường Kách mệnh" (1927).
Năm 1965, UNESCO lấy là năm quốc tế khoan dung. Đây là đạo lý ở đời của
thời đại ngày nay.
d. Mục tiêu của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là giải phóng con
người khỏi ách áp bức, bóc lột, bần cùng, tha hoá. Toàn bộ các cuộc tranh
đấu phải được thực hiện nhằm mục đích "Tất cả vì mục đích con người".
e. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ là một triết lý của cách
mạng giải phóng con người mà còn là tâm hồn nhân văn của Hồ Chí Minh đã
dẫn dắt Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh là chủ nghĩa nhân văn mácxit vạch ra con đường tiến tới các mục tiêu
nhân văn; sự nghiệp giải phóng con người gắn liền với sự nghiệp giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp Tinh thần bao quát của Báo cáo Chính trị trình
Đại hội IX đã quán triệt sâu sắc triết lý này. Một trong những con đường giải
phóng con người, thực hiện được triết lý nhân văn, như Bác Hồ đã chỉ ra,
chính là con đường dân chủ hoá toàn bộ xã hội, người dân được thực sự làm
chủ đời mình, làm chủ đất nước, thực hiện mọi quyền làm người, trước hết là
quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền được hưởng hạnh phúc…,
như Bác đã nói trong Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945. Và suốt hơn nửa thế kỷ
qua, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã và đang giành lại những
quyền đó, tinh thần được giải phóng, tiềm năng được phát huy, trí tuệ được
phát triển làm cho con người thực sự trở thành giá trị cao quý nhất của loài
người và là người sáng tạo ra mọi giá trị.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - phương pháp luận nghiên cứu con
người, vừa là điểm xuất phát vừa là điểm hội tụ của mọi người chúng ta.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên một định nghĩa độc đáo về con
người: "Chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình anh em, họ hàng, bạn bè. Nghĩa
rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài người". Như vậy con
người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là con người xã hội, và Người rất quan tâm
đến những mối quan hệ gắn bó giữa con người và cộng đồng, con người bao
giờ cũng mang tính xã hội, nói một cách khái quát như C. Mác nói, nghiên
cứu con người cũng như xây dựng con người trước hết phải quan tâm đến
“phẩm chất xã hội”của con người. Từ đây sẽ dẫn đến cách hiểu nhân cách
con người và giáo dục nhân cách mà hạt nhân trong đó là hệ thống thái độ
(quan hệ) giữa con người với bản thân, con người với con người khác và con
người với công việc.
Nói một cách tổng quát, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, con người có cấu
trúc nhân cách là Đức và Tài, trong đó đức là gốc. Đó là "các phẩm chất xã
hội" do con người sống, hoạt động, giao tiếp, học tập, và rèn luyện đúc kết lại
bóng con người. Nói như vậy "nhân cách" gần đồng nghĩa với "tâm lý", tinh
thần" do thân thể, nhất là não bộ, là cơ sở vật chất, nơi chứa đựng và tạo
điều kiện vật chất để hình thành, phát triển (phát huy tác dụng) của nhân
cách, tức là ngăn cách có nguồn gốc là lịch sử - văn hoá của cộng đồng mà
con người mang nhân cách ấy sống trong đó, có cơ sở vật chất là cơ thể và
bộ não và cơ chế vận động là hoạt động và giao tiếp. Nói một cách khác,
nhân cách là tổng thể các đặc điểm riêng của từng người, cá tính, tư cách
của từng người. Theo Vưgotxki đây là vấn đề tập trung cao nhất của toàn bộ
tâm lý học, vấn đề phức tạp nhất trong các khoa học liên ngành triết học - tâm
lý học - xã hội học - giáo dục học v.v… trong đó tâm lý học giữ vai trò trung
tâm. Nó phức tạp đến nỗi nhiều tác giả đã đánh đồng giữa "con người" và
“nhân cách”. Nhưng nhiệm vụ của khoa học là đi từ chỗ không biết đến chỗ
biết, từ hiện tượng đến bản chất, từ mô tả hiện thực đến tổng kết thành quy
luật. Vận dụng vào vấn đề đang bàn ở đây, để hiểu quan niệm của Hồ Chí
Minh về nhân cách, có thể tham khảo ý kiến của nhà tâm lý học Nga Kovaliov
đề xuất cấu trúc nhân cách bao gồm khí chất, xu hướng (nhu cầu, hứng thú,
lý tưởng) và năng lực. Hai cách quan niệm này rất gần nhau. Bác Hồ luôn
luôn nhấn mạnh vai trò lý tưởng vì độc lập dân tộc, dân chủ và tự do cho
nhân dân, vì chủ nghĩa xã hội, làm sao ai cũng có cơm ăn áo mặc. Bác coi đó
là nhu cầu tinh thần quan trọng nhất, là động cơ quyết định nhất trong nhân
cách của con người. Hứng thú lâu bền của cả đời người cũng là ở đó. Giá trị
bền vững nhất trong con người chính là bắt nguồn từ đó. Đức và tài - nhân
cách của con người - là biểu hiện của lý tưởng, động cơ, nhu cầu, hứng thú
mang đầy tính nhân văn, nhân quần làm cơ sở đã hình thành và phát huy
năng lực; đạo đức và năng lực: quyện vào nhau thành nhân cách con người,
giúp mai một chúng ta thực hiện được sứ mệnh cao cả và chức danh CON
NGƯỜI, đem lại hạnh phúc cho mình, gia đình mình vả cộng đồng mình
sống, dân tộc, đất nước, loài người.
Con người ấy có cấu trúc nhân cách bao gồm đức và tài. Thành tố đức
có các tiểu cấu trúc là cần, kiệm liêm, chính. Thành tố tài có các tiểu cấu trúc
là các năng lực. Cũng có khi Bác xác định cấu trúc nhân cách là: NHÂN,
NGHĨA, TRÍ, DŨNG, LIÊM, và riêng với các vị tướng: TRÍ, TÍN, DŨNG,
NHÂN, LIÊM, TRUNG.
3. Một nội dung tiêu điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
nhân cách là tư tưởng "trồng người" - làm cho mỗi con người THÀNH NGƯỜI
và LÀM NGƯỜI (ở đời). Chính Bác là một tấm gương vĩ đại về học tập, sống,
chiến đấu, hoạt động để thành người và làm người. Bác viết:
“Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Đây là một chân lý về sự tồn tại của loài người, như V.I.Lênin đã nói,
giáo dục là phạm trù vĩnh cửu: từ khi có loài người là có giáo dục. Con người
ta sinh ra, nhìn đại thể, giống như các động vật cao đẳng, như loài khỉ vượn
Sánhpăngde, nhưng từ trong bụng mẹ đã khác với các loài vật, cũng theo lời
của Lênin, đứa trẻ đã bú bầu sữa xã hội, nhiều mầm mống của năng lực, của
khí chất… bắt đầu từ đó. Và từ khi ra đời, con người đã chịu chi phối chủ yếu
của các quy luật lịch sử-văn hoá (L. Vưgôtxki, A. N. Leônchiep). Nghĩa là với
sự sinh tồn trong xã hội, trước hệt thông qua người mẹ và các người thân, rồi
sau có các hoạt động, từ hoạt động vui chơi, học tập, lao động, nghỉ ngơi mà
mỗi cá thể - đại diện (thành viên) của loài người dần dần trở thành người.
Các hoạt động của từng người có nghĩa là làm người, ở đời. Hoạt động luôn
luôn kết hợp chặt chẽ với giao tiếp - quan hệ người - người (mình với mình,
mình với người, mình với đồ vật, mình với công việc - đây là một cơ sở, như
ở dưới sẽ trình bày trong phần cách tiếp cận nghiên cứu nhân cách", để tập
trung vào hệ thống thái độ trong nhân cách), vì vậy làm người, ở đời chính là
cái mà ta hay nói chung chung là "đạo lý", là “đối nhân xử thế” - là có thái độ
đúng đắn theo lập trường của người dân yêu nước, người cách mạng, cụ thể
là:
- Thái độ đối với đất nước: “Tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
- Thái độ đối với giá trị của con người: “Ai giữ được đạo đức đều là
người cao thượng”.
- Thái độ đối với xã hội: "Giữ đúng đạo đức công dân".
- Thái độ đối với lao động: “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn
sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
- Thái độ với bản thân: luôn luôn có tinh thần phê bình và tự phê bình,
ham học, ham làm, ham tiến bộ?.
- v.v…
Nói về tư cách (mà chúng tôi hiểu là nhân cách) người cách mệnh,
trong tác phẩm Đường cách mệnh (1972), Nguyễn Ái Quốc đã nêu lên thái độ
đối với bản thân, thái độ đối với người khác và thái độ đối với công việc.
Người viết:
“Tự mình phải
Cần kiệm,
Hoà mà không tư,
Cả quyết sửa lỗi mình.
Cẩn thận mà không nhút nhát.
Hay hỏi.
Nhân nại (chịu khó).
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh, không kiêu ngạo.
Nói thì phải làm.
Giữ chủ nghĩa cho vững.
Hy sinh.
Ít lòng tham muốn về vật chất.
Bí mật.
Đối với người phải:
Với từng người thì khoan thứ.
Với đoàn thể thì nghiêm.
Có lòng bày vẽ cho người.
Trực mà không táo bạo.
Hay xem xét người
Làm việc phải:
Xem xét hoàn cảnh kỹ càng.
Quyết đoán.
Dũng cảm.
Phục tùng đoàn thể”.
Trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hoá, ngày 20/2/1947 khi
nói về đức tính của cán bộ, Người cũng đã xác định một hệ thống thái độ -
thái độ mình đối với mình, thái độ đối với đồng chí mình, thái độ với công việc,
thái độ đối với nhân dân và thái độ đối với đoàn thể.
Vận dụng vào tâm lý học nhân cách và giáo dục nhân cách, những lời
nói trên của Bác Hồ dẫn tới định nghĩa nhân cách là một bộ mặt tâm lý, bao
gồm một hệ thống thái độ của con người với bản thân và chung quanh dựa
trên một động cơ đúng đắn, vươn theo một là tưởng cao cả. Động cơ của
nhân cách Hồ Chí Minh, như chính Bác viết nhiều là: ham muốn tột bậc của
tôi là làm sao cho nước nhà được độc lập, tự do, dân ta ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành. Lý tưởng của Bác là xây dựng một nước
Việt Nam hoả bình: thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh một thế giới
đại đồng trong đó mọi dân tộc được sống bình đẳng, độc lập, tự do. Đây là
nội dung hết sức cơ bản của tâm lý học nhân cách và công việc giáo dục
nhân cách của chúng ta. Trước đây (xem Mục tiêu và kế hoạch dạy học
trường PTCS. Bộ Giáo dục 1985), trong chương trình các môn học có cấu tạo
chung là tri thức, kỹ năng và thái độ. Ngày nay, các nhà nghiên cứu giáo dục
trên thế giới đề nghị xếp sắp lại cấu tạo đó theo trình tự ưu tiên: thái độ, tri
thức, kỹ năng. Xem vậy thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nhân cách
tiên tiến và hiện đại biết nhường nào.
Vấn đề thời sự hiện nay đang đặt ra là chính trong cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khi quy luật giá
trị tác động rõ rệt ở khắp mọi nơi, thang giá trị đang có biến đổi mạnh, kéo
theo những biến động lớn trong nhân cách, trong hệ thống thái độ, chúng ta
phải tiến hành tác động vào định hướng giá trị của xã hội, giáo dục giá trị và
định hướng giá trị cho học sinh, cho thế hệ trẻ, làm sao tạo ra một thang giá
trị lành mạnh, phát huy tính tích cực có lợi cho cả xã hội và từng cá thể, tính
năng động của cộng đồng và xã hội, giải phóng mọi sức sáng tạo, mọi lực
lượng sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao ở mọi lĩnh vực của đời sống,
nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động ở khắp mọi nơi, trên các bình
diện, các cấp độ khác nhau, trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, phát triển xã
hội, phát triển kinh tế, phát triển con người.
Tóm lại, tư tưởng “trồng người” ở Bác rất khoa học và toàn diện cả về
nội dung lẫn phương pháp. Người nói: “ta xây dựng con người cũng phải có ý
nghĩa rõ ràng như nhà kiến trúc”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ rõ: “Con
người cần xây dựng là con người có lý tưởng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội, có ý thức làm chủ và tinh thần làm chủ: là con người có phẩm chất và
đạo đức, một lòng một đã phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng; là con
người ham hiểu biết, có kiến thức văn hoá, khoa học, kỹ thuật; ủng hộ cái
mới, có tinh thần tìm tòi, sáng tạo trên con đường muôn dặm của cách mạng
kỹ thuật"; là con người có lối sống lành mạnh, giản dị, phong cách làm việc
khoa học, khẩn trương, có tác phong điều tra nghiên cứu. Con người mới
phải đặt công việc lên trên hết, phải có nhân cách, có bản lĩnh, cách mạng và
khoa học, trung thực và đoàn kết, chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa cơ
hội dưới mọi hình thức”.
Đại tướng viết tiếp:
“Để xây dựng con người như vậy thì "trong việc giáo dục và học tập
phải chú trọng các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn
hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất". Giáo dục phải toàn diện: đức, trí, lao
động, thể, mỹ. "Học để làm việc. Học để làm người". "Học phải đi đôi với
hành". Bác thường nhấn mạnh đến lý tưởng, đạo đức và tinh thần”.
III. NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH NGƯỜI VIỆT NAM Nghiên cứu con người và nhân cách nhất thiết phải đề cập đến vấn đề
truyền thống và hiện đại nói riêng và tâm lý học dân tộc nói chung. Tìm hiểu
tâm lý dân tộc đã là mối quan tâm của các học giả Việt Nam từ đầu thế kỷ XX.
Ở đây, chúng tôi sẽ tập trung vào những nghiên cứu đề cập đến tính cách
con người Việt Nam (mà chủ yếu là người Việt) từ năm 1945 trở lại đây.
Tương tự như đối với những nghiên cứu tính cách quốc gia ở các nước khác,
chúng tôi chủ trương đặt những nghiên cứu của các học giả trong nước vào
bối cảnh chính trị và kinh tế - xã hội của đất nước đương thời, để tìm hiểu
những đóng góp và những hạn chế về quan niệm và phương pháp tiếp cận.
Về mặt thời gian, chúng tôi nhận thấy có thể chia làm hai khối nghiên cứu
chính đề cập đến tính cách hoặc truyền thống Việt Nam: một là những nghiên
cứu từ năm 1954 cho đến trước Đổi mới (1986), tiêu biểu là Xã thôn Việt Nam
và Tìm hiểu tính cách dân tộc của Nguyễn Hồng Phong (1959 - 1963) và Giá
trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam của Trần Văn Giàu (1980); và
hai là những nghiên cứu từ Đổi mới (1986) đến nay, bao gồm Chúng ta kế
thừa di sản nào? của Văn Tạo (1990), Văn hoá Việt Nam trên con đường phát
triển của đất nước của Vũ Khiêu (1993), một số bài viết của Nguyễn Hồng
Phong về văn hoá (2000), Nội dung của truyền thống Việt Nam của Vũ Minh
Giang, và Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của Phạm Minh Hạc (2001). Về mặt lĩnh vực (ngành) nghiên
cứu, tuyệt đại bộ phận các nghiên cứu nói trên chủ yếu thuộc về khoa học lịch
sử, trong đó một số nghiên cứu dân tộc học chịu ảnh hưởng sâu sắc của các
quan mềm và phương pháp lịch sử. Một số ít nghiên cứu (như của Nguyễn
Hồng Phong, Phạm Minh Hạc) lấy tâm lý học hoặc tâm lý dân tộc làm trọng
tâm và kết hợp với các phương pháp liên ngành trong khoa học xã hội. Sau
đây chúng ta sẽ điểm lại những nghiên cứu này, đặc biệt chú tâm đến những
quan niệm về truyền thống (và hiện đại) và những phương pháp tiếp cận tính
cách Việt Nam của các tác giả.
1. Những nghiên cứu trước Đổi mới (1986)
Xã thôn Việt Nam (1959) của Nguyễn Hồng Phong được xuất bản vào
thời điểm cuộc Cải cách ruộng đất đã hoàn thành và phong trào hợp tác hoá
bắt đầu được đẩy mánh trên toàn miền Bắc. Công trình này dựa một cách
vững chắc trên nền tảng lý thuyết về hình thái kinh tế xã hội macxit, đặt trọng
tâm vào nghiên cứu "những dấu vết của tổ chức xã hội nguyên thuỷ - công xã
thị tộc và công xã nông thôn - còn tồn tại trong xã thôn Việt Nam trong cơ sở
kinh tế cũng như trong tổ chức xã hội và ý thức tư tưởng". Sau khi đã phân
tích cơ sở kinh tế, đặc biệt là chế độ ruộng đất ở nông thôn Việt Nam qua các
thời kỳ lịch sử, tác giả trình bày những đặc trưng về cấu trúc xã hội như gia
đình: gia tộc, cộng đồng và các sinh hoạt cộng đồng. Những nhận xét và phần
nhiều là phê phán của tác giả về tính chất bóc lột, gia trưởng, chế độ tôn ti
đẳng cấp và tính tự trị xã thôn đều xuất phát từ quan điểm trọng tâm nhìn
nhận các quan hệ xã hội dựa trên quan hệ sản xuất đối với tư liệu sản xuất.
Chẳng hạn, để giải thích sự suy giảm tương đối của quyền lực của người
trưởng tộc trong chế độ gia tộc phụ quyền - mà theo tác giả đặc trưng cho
nông thôn Việt Nam trước năm 1945 - so với quyền lực đó trong chế độ thị
tộc nguyên thủy, Nguyễn Hồng Phong cho rằng nguyên nhân là do “uy quyền
của anh tộc trưởng ngày nay không được xây dụng trên cơ sở kinh tế, không
được cơ sở kinh tế củng cố”. Tương tự, khi bàn về địa vị người phụ nữ trong
gia đình, tác giả chỉ ra rằng "Uy quyền người gia trưởng, tư tưởng trọng nam
khinh nữ lúc đầu đã xuất hiện trên cơ sở vai trò của người đàn ông trong sản
xuất mà ra", và nhấn mạnh, quan hệ sản xuất phong kiến đã “biến quan hệ
giữa người gia trưởng với vợ con họ thành quan hệ giữa kẻ thống trị và kẻ bị
trị”. Có thể nói, tiếp sau Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình (Trường
Chinh và Võ Nguyên Giáp (1959), Xã thôn Việt Nam của Nguyễn Hồng Phong
là một trong những công trình về nông thôn Việt Nam dựa trên lý thuyết mác
xít. Hơn nữa, đây là một công trình có tính khoa học trong lĩnh vực nghiên
cứu lịch sử, mà điểm khác biệt so với Vấn đề dân cày chính là ở những bàn
luận tương đối khách quan về cả tính tiêu cực lẫn tích cực của tính cách
(nhân cách) truyền thống ở người Việt Nam. Bên cạnh những phê phán đối
với những đặc trưng tiêu cực của xã thôn và nông dân Việt Nam như đầu óc
tư hữu, tính tản mạn, vụn vặt, riêng rẽ, tính thủ cựu, tôn ti trật tự, đẳng cấp, và
chia rẽ tâm lý thích ăn uống linh đình trả nợ miệng, sự mê tín "óc xã thôn hẹp
hòi" hoặc "tinh thần ích kỷ xã thôn", tác giả cũng chỉ ra những đặc trưng gắng
với nhân dân và có thể có tác dụng tích cực trong sự phát triển, như những
khả năng và đức tính của người lao động, tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn
nhau, tinh thần cộng đồng, biết ơn tổ tiên và uống nước nhớ nguồn v.v… Tác
giả đã dành chương cuối của cuốn sách để bàn về vai trò của “truyền thống
cũ trong giai đoạn cách mạng mới”. Nguyễn Hồng Phong đã đặt ra những câu
hỏi lý luận hết sức căn bản như:
Một vấn đề đặt ra là trong điều kiện của xã hội ta ngày nay, những
truyền thống cũ, những phong tục tập quán cũ có còn tác dụng gì không, thái
độ của chúng ta, của những người xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản đối với những cái cũ đó như thế nào? […] Tất cả những cái gì đã
được xây dựng trong xã hội cũ, trong nông thôn cũ, tất cả những cái gì gắn
liền với nông dân trong xã hội cũ, hiện nay trong xã hội mới của chúng ta có
còn ảnh hưởng gì không, còn có tác dụng gì không? Có phải là ta xoá bỏ hết
chăng hay có thể tiếp thu được phần nào?
Tác giả đã đề xuất một quan điểm lịch sử biện chứng để giải đáp vấn
đề trên. Biện chứng chính là ở chỗ kết hợp cả hai tính chất, tính cách mạng
và tính kế thừa, tức là loại bỏ những gì gắn liền với áp bức, bóc lột, đồng thời
“kế thừa, phát huy và cải tạo cho thích hợp với xã hội ngày nay” những gì gắn
với nhân dân lao động “để phục vụ cho nhu cầu của công cuộc xây dựng đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân ta ngày nay". Tác giả đặc biệt nhấn
mạnh quan điểm lịch sử trong nhìn nhận những đặc trưng truyền thống, tức là
đánh giá cuộc sống sinh hoạt trong những thời gian và hoàn cảnh cụ thể. Có
thể nói, với những quan điểm và phương pháp luận hết sức rõ nét này,
Nguyễn Hồng Phong đã đặt những nền tảng vững chắc cho lý luận và tiếp
cận tính cách Việt Nam truyền thống trong khoa học lịch sử.
Tác phẩm Tìm hiểu tính cách dân tộc (1963) là một bước tiến của
Nguyễn Hồng Phong trong việc phát triển khái niệm tính cách dân tộc. Đây là
một trong những nỗ lực đầu tiên phân biệt giữa "tâm lý dân tộc" (Xtalin, Chủ
nghĩa Mác và vấn đề dân tộc, trích trong Nguyễn Hồng Phong 1963) và tính
cách dân tộc". Tác giả đã chỉ rõ nội hàm của tính cách dân tộc, bao gồm: toàn
bộ những đặc điểm tâm lý có tính chất bền hững hình thành trong con người
ta. Các đặc điểm ấy nói lên thái độ và hành vi đối với xã hội, đối với bản thân,
đối với nghề nghiệp, và những đặc điểm về ý chí và phẩm chất con người.
Sử dụng chủ yếu nguồn tư liệu từ văn học và văn học dân gian,
Nguyễn Hồng Phong đã phát triển nội dung tính cách dân tộc một cách phong
phú, vừa chi tiết vừa có tính khái quát cao, như việc chỉ ra các đặc tính “tập
thể - cộng đồng”, “trọng đạo đức”, cần, kiệm, giản dị, thực tiễn tinh thần yêu
nước bất khuất và lòng yêu chuộng hoà bình, nhân đạo và lạc quan. Tác giả
cũng đã đi sâu phân tích các nhân tố cấu thành tâm lý dân tộc, cũng như
quan điểm lịch sử trong việc tiếp cận vấn đề này. Bên cạnh đó, Nguyễn Hồng
Phong nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa hệ tư tưởng giai cấp với tính cách
dân tộc, hay nói cách khác, những biểu hiện khác nhau của tính cách dân tộc
ở các giai cấp khác nhau. Đáng chú ý là, mặc dù trong thời điểm cao trào cửa
hợp tác hoá nông nghiệp đầu thập niên 1960, tác giả một mặt khẳng định
rằng "nhân dân lao động […] thể hiện một cách sâu sắc nhất, đầy đủ nhất và
toàn diện nhất, liên tục và lâu bền nhất cho tính cách dân tộc", nhưng mặt
khác cũng nhấn mạnh rằng trí thức phong kiến yêu nước “diễn đạt một cách
hệ thống và sâu sắc những tư tưởng và nguyện vọng của dân tộc, là đại biểu
chân chính cho tính cách dân tộc”. Tiếp tục khẳng định quan niệm về sự lựa
chọn đối với truyền thống đã trình bày trong tác phẩm trước (1959), tác giả
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nhận thức ra tính dân tộc đó là gì, cái
mặt nào tiên tiến cần tiếp thu, cái nào lỗi thời, lạc hậu cần phải trừ bỏ". Có thể
nói, kể từ sau năm 1945, Nguyễn Hồng Phong là một trong những nhà sử học
macxit tiên phong trong nghiên cứu tính cách dân tộc, quan niệm của ông
hàm ý rõ một định hướng hiện đại hoá mà chúng ta sẽ trở lại bàn kỹ hơn ở
phần sau.
Năm năm sau ngày thống nhất đất nước (1975), Trần Văn Giàu công
bố công trình Giá trị tinh thần truyền thông của dân tộc Việt Nam (1980) và
ngay sau đó công trình đã trở thành một tác phẩm mẫu mực kinh điển. Có thể
nói đây là một trong những nỗ lực khoa học nổi bật nhằm hệ thống hoá và
khái quát hoá hệ tư tưởng và hệ thống đạo đức truyền thống của người Việt
Nam trong lịch sử. Trong tác phẩm này, Trần Văn Giàu đã đúc kết và chỉ ra 7
giá trị mà theo ông là cốt lõi tinh thần của người Việt Nam: yêu nước, cần cù,
anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người và vì nghĩa. Những giá trị này,
theo tác giả là kết quả của lịch sử tái sản xuất vật chất và tinh thần liên tục
trong một hoàn cảnh với 5 đặc trưng chính về: hoàn cảnh địa lý thiên nhiên; vị
trí ngã tư đường giao lưu văn hoá và kinh tế; nền văn minh bản địa đặc sắc,
có cá tính; và gần đây hơn, trạng thái xã hội sôi động và xáo trộn, đặc biệt về
tự tưởng, tôn giáo, và đạo đức của thế kỷ XVIII-XIX; và sự du nhập của chủ
nghĩa Mác-Lênin từ đầu thế kỷ XXI.
Có lẽ hoàn cảnh chiến tranh kéo dài suốt gần 30 năm (1946- 1975), và
đặc biệt là thắng lợi đối với đế quốc Mỹ đã có những ảnh hưởng nhất định
đến việc tác giả lựa chọn và sắp xếp các giá trị trong bảng giá trị tinh thần nói
trên. Ngay ở chương nhập đề, để chỉ rõ tính cần thiết của đề tài, tác giả đã
dẫn ra nhu cầu "ta cần hiểu ta hơn nữa" và nhất là nhu cầu của người nước
ngoài muốn hiểu biết về con người Việt Nam với những kỳ tích chiến tranh.
Tác giả đã đặt giá trị yêu nước lên hàng đầu và coi đó như "tiêu điểm của các
tiêu điểm, giá trị của các giá trị" xuyên suốt trong lịch sử hình thành và phát
triển của đất nước. Tác giả cũng đã bàn luận về giá trị “anh hùng” mà theo
ông xuất phát và phát triển trên cơ sở từ chủ nghĩa yêu nước, từ anh hùng
truyền thống phát triển anh hùng cách mạng. Có thể nói, tác giả đã giành
những trang viết hùng hồn và những dẫn chứng thuyết phục nhất để trình bày
về hai giá trị chủ đạo nói trên trong hệ thống đạo đức tinh thần Việt Nam.
Tác phẩm Giá trị tinh thần truyền thống của Trần Văn Giàu có thể coi là
một công trình mẫu mực đạt tới đỉnh cao về chất lượng học thuật. Công trình
được kết cấu một cách chặt chẽ và lô gích, bắt đầu từ những khái niệm căn
bản và công cụ dựa trên những nền tảng về quan niệm lý luận vững chắc.
Sau khi thao tác hoá tỉ mỉ cặn kẽ khái niệm "giá thị truyền thống", tác giả trình
bày những điều kiện lịch sử quyết định sự hình thành và phát triển và sự tiếp
thu ảnh hưởng bên ngoài lên đạo đức truyền thống Việt Nam. Đối với mỗi một
giá trị, tác giả đều định nghĩa rõ ràng, minh hoạ bằng tư liệu lịch sử xác đáng
và phong phú, và liên hệ giữa giá trị truyền thống với hiện đại (trong tác phẩm
này, hiện đại hoặc đương đại được diễn đạt trong thuật ngữ, “cách mạng”).
Về mặt quan điểm lý luận, theo chúng tôi, đáng chú ý nhất là quan niệm của
tác giả về giá trị truyền thống của một dân tộc. Có lẽ đây là một trong những
công trình hiếm hoi từ trước cho tới đó có một định nghĩa mang tính học thuật
cô đọng và rõ ràng nhất về truyền thống. Truyền thống là những đức tính hay
những thói tục kéo dài nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử và hiện có nhiều tác
dụng, tác dụng có thể tích cực, cũng có thể tiêu cực.
Tiếp đến, tác giả thao tác cụ thể truyền thống nào thì được gọi là “giá
trị”: chỉ có những điều “tốt phổ biến, có tác dụng tích cực cho đạo đức luân lý,
có cả tác dụng hướng dẫn sự nhận định và hướng dẫn sự hành động”. Đồng
thời, tác giả cũng nhấn mạnh tính cấu thành, tính khái quát đại diện, và cả hai
mặt bền vững và biến đổi của những giá trị truyền thống. Một cách xúc tích
nhất, ông viết:
Không có giá trị nào không do con người các thế hệ nối tiếp nhau tạo
thành. Giá trị tinh thần cũng không phải là những cái gì nhất thành bất biến;
nhưng nếu mỗi lúc mỗi thay thì tính truyền thống không có nữa; nói truyền
thống là nói lâu dài qua nhiều thời mà lõi cốt vẫn giữ; nói của dân tộc là nói
của chung đại đa số nhân dân.
Như vậy có thể nói, những luận điểm của Trần Văn Giàu tương tự như
Nguyễn Hồng Phong ở chỗ chỉ rõ sự bác hàm hai mặt tốt, xấu, tích cực và
tiêu cực của truyền thống cũng như sự cần thiết phải loại bỏ và lựa chọn.
Nhưng Trần Văn Giàu, bằng những quan niệm rõ nét về “giá trị truyền thống”
đã nâng lý luận về truyền thống lên một mức cao hơn, hay nói đúng hơn là đã
thao tác khái niệm giá trị truyền thống một cách cụ thể hơn bằng cách xác
định một cách chính xác những tính chất đặc trưng của khái niệm đó. Mặc dù
bản thân tác giả không đi sâu hơn vào diễn giải chúng tôi thấy có thể tóm tắt 4
tính chất căn bản trong khái niệm "giá trị truyền thống" mà ông đã nói tới là:
tính cấu thành, tính đại diện, tính bền vững, và tính biến đổi. Tiếc rằng cho tới
nay ít có những nghiên cứu tiếp tục theo đuổi và bàn luận sâu hơn về những
tính chất này của giá trị truyền thống.
2. Nghiên cứu con người sau Đổi mới (1986 - đến nay)
Cuối thập niên 1980 đầu 1990, một mặt đứng trước nhu cầu thực tiễn
của một đất nước đang bước sang thời kỳ Đổi mới với những chuyển biến
ban đầu rõ nét về kinh tế, xã hội và văn hoá, mặt khác sự giao lưu học thuật
với cộng đồng quốc tế ngày càng được tăng cường và đa dạng hoá, các
ngành khoa học xã hội đã trải qua những bước chuyển căn bản và toàn diện
trong định hướng nghiên cứu. Trong khi những nhà nghiên cứu kinh tế thể
chế vi mô bắt đầu đề cập đến kinh tế hộ gia đình, nghiên cứu lịch sử bắt đầu
vượt ra khỏi lĩnh vực lấy lịch sử chiến tranh và nghệ thuật quân sự làm trọng
tâm mà hướng ra các mảng đề tài lịch sử kinh tế - xã hội, tư tưởng và nhận
định lại một số thời kỳ lịch sử các ngành nghiên cứu văn hoá dân gian và dân
tộc học chú trọng đặc biệt tới các đề tài liên quan đến lễ hội, nghi lễ tôn giáo,
v.v… (Đinh Gia Khánh chủ biên, 1993), còn xã hội học và một bộ phận dân
tộc học hướng vào những nghiên cứu điều tra có tính ứng dụng trong phát
triển.
Một đặc điểm nổi trội trong nghiên cứu khoa học xã hội nói chung trong
15 năm gần đây là định hướng tập trung vào những vấn đề liên quan đến
"văn hoá", "con người", và "bản sắc". Thập kỷ 90 mở đầu bằng các cuộc hội
thảo cấp quốc gia về văn hoá và phát triển, tiếp theo bằng các chương trình
nghiên cứu cấp Nhà nước KX-07 và KX-04 đề cập đến con người Việt Nam
một cách toàn diện. Hàng loạt các nghiên cứu đề cập đến di sản truyền thống
và tính cách con người Việt Nam được xuất bản tương đối đều đặn và liên
tục, như Chúng ta kế thừa di sản nào? (1993) của Văn Tạo, một số các bài
viết của Vũ Khiêu, Trần Văn Giàu, Nguyễn Hồng Phong, Vũ Minh Giang và
gần đây nhất là Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực (2001) của Phạm
Minh Hạc. Nhìn chung, những nghiên cứu này đều là những nỗ lực quan
trọng trong việc nhìn nhận lại quan niệm về truyền thống và hiện đại, được soi
sáng bởi những lý thuyết phương Tây được cập nhật trong bối cảnh mới ở
Việt Nam, cũng như những nỗ lực nhất định trong việc tìm kiếm những
phương pháp tiếp cận mới.
Trong những nghiên cứu nói trên, Chúng ta kế thừa di sản nào? (1993)
của Văn Tạo có lẽ là công trình lần đầu tiên đề cập tới di sản truyền thống
một cách tương đối toàn diện, không chỉ trong nông thôn, nông nghiệp, mà
còn về khoa học, công nghệ, pháp luật và quản lý xã hội. Tuy nhiên, điểm nổi
bật của công trình này là việc tiếp tục dựa vững chắc vào lý thuyết hình thái
kinh tế - xã hội macxit. Đáng lưu ý chính là ở chỗ nghiên cứu này được tiến
hành vào cuối thập niên 1980 và xuất bản vào đầu thập niên 1990, trong bối
cảnh tác động của sự thừa nhận và phát triển của nhiều thành phần kinh tế,
đặc biệt là chính sách Khoán 10 trong nông nghiệp, trong lúc không ít nhà
nghiên cứu và lý luận còn cảm thấy "chưa biết rõ mô hình chủ nghĩa xã hội
của Việt Nam, chưa biết rõ xã hội […] cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI sẽ ở
một hình thái nào". Trong một bối cảnh kinh tế - xã hội và học thuật như vậy,
Văn Tạo đã lựa chọn cách tiếp tục triển khai hướng tiếp cận kinh điển, xem
xét những tàn dư của các hình thái kinh tế xã hội tiền tư bản như công xã thị
tộc, phương thức sản xuất Châu Á, phong kiến, kinh tế tư bản nông thôn (phú
nông) và tiểu nông trong xã hội đương đại. Vấn đề nghiên cứu Văn Tạo: đặt
ra không khác về căn bản so với câu hỏi Nguyễn Hồng Phong đặt ra hơn 30
năm trước: “Chúng ta kế thừa di sản vào trong nông thôn, nông nghiệp… [và]
chúng ta từ bỏ di sản nào trong lãnh vực này”.
Trên thực tế, phần trình bày về "Di sản lịch sử trong nông thôn, nông
nghiệm của Văn Tạo chính là sự tiếp nối căn bản của Nguyễn Hồng Phong
(1959) về nông thôn Việt Nam được minh hoạ bằng những tư liệu mới và có
tính thời sự. Chẳng hạn, nếu như hơn 30 năm trước, Nguyễn Hồng Phong đã
chỉ ra và phê phán những tiêu cực do tàn dư của chế độ gia tộc phụ quyền và
chế độ tôn ti đẳng cấp ở thôn xã (xem phần trên), thì nay Văn Tạo dẫn ra
những tư liệu cập nhật về những biểu hiện của sự tồn tại và tái lập của uy
quyền thân tộc trong hệ thống chinh quyền địa phương, "hiện tượng ganh đua
ghen tị, đi đến kỳ thị giữa các họ với nhau trong một làng" và hiện tượng xuất
hiện hoặc tái lập những "đẳng cấp mới trong xã hội". Trong quan niệm về
truyền thống, Văn Tạo vẫn duy trì cách nhìn nhận của các nhà nghiên cứu
trước đó, chia di sản thành những đặc trưng tiêu cực và tích cực, đối với di
sản tiêu cực thì cần xoá bỏ hoặc khắc phục, còn với di sản tích cực thì kế
thừa, phát huy. Xét về mặt thao tác khái niệm này, vẫn chưa có những bước
đột phá đáng kể trong việc tiếp cận những vấn đề về di sản truyền thống.
Gần như đồng thời và tiếp tục với những nghiên cứu của Văn Tạo, đề
tài KX-07-02 về "Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay",
thuộc Chương trình KX-07, tập trung vào những nội dung của truyền thống
Việt Nam và những biểu hiện của nó trong lịch sử hoặc thông qua tư liệu lịch
sử (Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang chủ biên, 1996). Tuy nhiên, như nhận
định của Chủ nhiệm Chương trình KX-07, "không phải tất cả các đề tài đều xử
lý tốt mối tương quan [giữa truyền thống và hiện đại] theo như mong muốn
Vấn đề chính là ở chỗ những nghiên cứu này chưa đem lại một bước tiến mới
hoặc hoàn thiện hơn quan niệm về truyền thống, cũng như chưa tiến hành
những thao tác khái niệm cần thiết tương ứng để tạo ra những bước chuyển
căn bản mang tính học thuật liên quan đến vấn đề này.
Trước hết, khái niệm "truyền thống" được sử dụng trong đề tài này
không được thao tác hóa một cách cụ thể nhằm phục vụ tốt hơn cho nghiên
cứu, mà ngược lại, lại bị làm cho trở nên một mặt vừa giản đơn hơn, mặt
khác lại vừa khó nắm bắt hơn. Ở trên chúng tôi đã chỉ ra, hơn 15 năm trước
khi đề tài KX-07-02 công bố những phát hiện của mình, Trần Văn Giàu đã
không chỉ đưa ra một quan niệm xúc tích nhất từ trước tới đó về truyền thống,
mà còn chỉ ra những tính chất căn bản của khái niệm đó. Tác giả của "Nội
dung của truyền thống Việt Nam" đã không kế thừa được di sản học thuật có
tính chất nền tảng đó, mà dựa hoàn toàn vào từ điển ngôn ngữ trong nước và
một số nước khác để cung cấp một định nghĩa phổ thông và tương đối giản
đơn về truyền thống, chỉ là "những yếu tố được di tồn lại. Tuy nhiên trong báo
cáo của đề tài (không xuất bản tác giả đã cung cấp một định nghĩa tương đối
rõ ràng hơn, nhưng cũng không khác là bao so với định nghĩa của Trần Văn
Giàu. Truyền thống là tập hợp những tư tưởng và tình cảm, những tập quán,
thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất
định: được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ
thế hệ này qua thế hệ khác" (Vũ Minh Giang).
Tiếp theo đó, tác giả đã chỉ ra một số đặc trưng thuộc tính của truyền
thống, như tính di tồn, tính ổn định, và tính cộng đồng. Tuy nhiên, cũng như
Trần Văn Giàu, Vũ Minh Giang chỉ nêu ra mà không diễn giải thêm về những
tính chất này. Tuy vậy, một trong những điểm mới đáng kể hơn cả trong phần
định nghĩa khái niệm của nghiên cứu này chính là chỉ ra một đặc tính hết sức
thiết yếu của truyền thống: sự hiện hữu mà vô hình, “tồn tại thông qua sự
khống chế các hành vi xã hội của con người”. Tiếc rằng, bài viết cũng như
các nghiên cứu trong cùng đề tài này lại không triển khai làm rõ hơn sức
mạnh ràng buộc vô hình này.
Điểm chúng tôi cho là một đóng góp quan trọng của đề tài: KX-07-02 là
đúc kết những gì các nhà nghiên cứu đề cập trước đó về một bên là tính hai
mặt của truyền thống (có tích cực và tiêu cực) và một bên là tính lịch sử hoặc
biến đổi của truyền thống thành "phép biện chứng" của truyền thống. Vũ Minh
Giang viết:
Khi cơ sở tạo nên một truyền thống đã thay đổi thì với tính ổn định
tương đối, truyền thống đó vẫn được bảo tồn và lưu truyền trong một thời
gian nhất định, nhưng rồi cũng phải biến đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới
hoặc phải thay thế bằng truyền thống mới. Đó chính là phép biện chứng của
truyền thống với quá trình hình thành, phát triển và biến đồi diễn ra liên tục
trong tiến trình lịch sử, ở một thời điểm nhất định của lịch sử, vì vậy truyền
thống bao gồm cả mặt tích cực góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc, có tác dụng
thúc đẩy sự phát triển của xã hội, và cả mặt tiêu cực phản ánh tính bảo thủ
của một số truyền thống đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, không phù hợp cuộc
sống đã biến đổi và có khi cản trở sự phát triển của xã hội.
Có thể nói đây là phát biểu về truyền thống một cách rõ ràng nhất, đại
diện cho quan niệm của các học giả Việt Nam, thể hiện tư duy, trong hầu hết
các trường hợp dường như vô thức, của thuyết "hiện đại hóa". Chúng ta sẽ
trở lại bàn luận sâu hơn về "thuyết hiện đại hóa" và quan niệm và truyền
thống - hiện đại của các học giả Việt Nam ở phần sau.
Công trình gần đây tổng kết một cách khoa học và toàn diện nhất về
vấn đề con người là của Phạm Minh Hạc, Nghiên cứu con người và nguồn
nhân lực: đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa (2001). Trong tác phẩm này,
dựa trên sự tổng thuật, phân tích và phê phán những lý thuyết và phương
pháp luận tiếp cận nghiên cứu của các tác giả đi trước, tổng hợp nhìn lại
nghiêm túc kết quả của các Chương trình Nhà nước liên quan, tác giả đã đưa
ra đề xuất một phương pháp luận liên ngành, bao gồm lịch sử, nhân học, xã
hội học và tâm lý học, trong đó lấy phương pháp tiếp cận tâm lý học "hoạt
động giá trị" làm nhân lõi. Đồng thời với việc cung cấp những định nghĩa học
thuật được thao tác hóa một cách chuẩn xác về "giá trị", "hệ thống giá trị
"thang giá trị", v.v., tác giả đã khẳng định một cách vững chắc những quan
niệm lý luận về con người, hoạt động và quan hệ xã hội. Trước hết, xuất phát
từ lý luận Mác-ăngghen về con người, tác giả khẳng định quan niệm cua mình
rằng “con người, kể cả trẻ em, là chủ thể của hoạt động”. Điều này tưởng như
đơn giản và hiển nhiên, nhưng những ứng dụng của quan niệm căn bản này
trong nghiên cứu con người và những mối quan hệ xã hội, những động năng
nhóm là vô cùng quan trọng. Tác giả bàn luận về hoạt động và các mối quan
hệ xã hội như sau:
Hoạt động của con người diễn ra trong giao lưu (các mối quan hệ) giữa
người và người, giữa người và nhóm… Các mối quan hệ này là một bộ phận
gắn bó của các quan hệ xã hội, trong đó quan hệ kinh tế giữ vai trò trọng yếu,
cũng chịu sự chi phối của quy luật giá trị, được thể hiện bởi thang giá trị của
xã hội, giai cấp, nhóm, bao gồm cả giá trị tinh thần lẫn giá trị vật chấn.
Tiếp đó, tác giả nhấn mạnh mối quan hệ giữa hoạt động và thang giá
trị:
Hoạt động thông qua thang giá trị, thước đo giá trị, định hướng giá trị là
bản thể của nhân cách - tổ hợp các quan hệ và thái độ của chủ thể, tạo ra bộ
mặt riêng của từng người…Thang giá trị và thước đo giá trị của xã hội, cộng
đồng, nhóm chuyển thành thang giá trị và thước đo giá trị của từng người;
chúng trở thành động lực của hoạt động, của cuộc sống con người.
Cụ thể hóa phức hợp các quan hệ xã hội, tác giả chỉ rõ:
Nghiên cứu con người nhằm đi đến xử lý sao cho phù hợp với xu thế
lịch sử, với thế giới hàng loạt các mối quan hệ: quan hệ giữa con người tự
nhiên và con người xã hội; quan hệ giữa con người công dân và con người
gia đình, con người cá thể; quan hệ giữa con người hành động và con người
tâm linh; quan hệ giữa con người giai cấp và con người dân tộc; quan hệ giữa
con người dân tộc và con người nhân loại; quan hệ giữa con người truyền
thống và con người hiện đại; quan hệ giữa con người lý tưởng và con người
đời thường; quan hệ giữa con người với tự nhiên và vũ trụ…
Ở đây chúng ta có thể thấy một cái nhìn tổng thể toàn diện về con
người. Điểm chúng tôi cho là hết sức quan trọng trong nhận diện những vấn
đề về con người trong công trình này chính là đưa phạm trù xã hội - trong đó
có nhóm - trở thành một trong hai bình diện nghiên cứu.
Chương trình KX-07 trước hết nghiên cứu con người ở bình diện cá
thể. Thứ hai là, nghiên cứu con người ở bình diện xã hội. Như thế, cùng một
lúc nhấn mạnh phạm trù cá thể và phạm trù xã hội. Phạm trù xã hội bao hàm
cả quan niệm có nội hàm là "nhóm".
Mặc dù đây có thể coi là một công trình có tính lý luận cao và phương
pháp luận phù hợp nổi trội từ trước tới đó về vấn đề con người, chúng tôi vẫn
nhận thấy một số điểm bất cập về mặt phương pháp tiếp cận và triển khai
nghiên cứu. Một là, về mặt phương pháp tiếp cận, chúng tôi nhận thấy khái
niệm công cụ mà tác giả đưa ra chưa thể giải đáp được toàn bộ những mối
quan tâm nói trên. Cụ thể hơn nữa, khái niệm "nhân cách" tác giả sử dụng
nhừ công cụ căn bản trong nghiên cứu, về bản chất là một khái niệm có tính
thống kê:
Nhân cách của con người là mức độ phù hợp giữa thang giá trị và
thước đo giá trị của người ấy với thang giá trị và thước đo của cộng đồng và
xã hội.
Hơn nữa, để có thể xác định được mức độ phù hợp nói trên, cần xác
định được thang giá trị và thước đo giá trị của hai chủ thể hoặc hai khối chủ
thể, một là của cá nhân, hai là của cộng đồng hoặc xã hội, hãy khoan chưa
bàn tới sự khác biệt quan trọng giữa cộng đồng (nhóm xác định hoặc không
xác định) và xã hội. Ngay chính thang giá trị và thước đo giá trị cũng là những
công cụ có tính thống kê về căn bản. Như vậy, để có thể tìm hiểu được nhân
cách con người Việt Nam theo định hướng nghiên cứu này, phần nhiều sẽ
phải dựa vào các phương pháp thống kê định lượng, thực hiện thông qua các
trắc nghiệm dự đoán tâm lý và điều tra xã hội học. Điển hình cho những công
trình đã sử dụng các phương pháp tâm lý xã hội học này có thể kể đến
nghiên cứu của Vũ Khắc Liên và cộng sự.
Vấn đề là ở chỗ, mặc dù những phương pháp định lượng mà tác giả,
đồng thời là chủ nhiệm Chương trình KX-07 có phần nào ưu tiên hơn có sức
mạnh vượt trội trong việc lượng hóa, đo lường, điều tra và khảo sát chọn mẫu
đại diện trên một tổng thể rộng lớn, có khả năng đặc biệt trong việc chỉ ra tần
suất phân bố các giá trị và xu hướng định hướng giá trị, có tính khái quát cao
và có tính đại diện lớn, nhưng có nhiều khía cạnh và chiều sâu của hiện thực
mà hệ phương pháp định lượng không thể đáp ứng. Chẳng hạn, việc cung
cấp một bức tranh toàn diện và sâu sắc về bối cảnh hình thành nhân cách,
đặc biệt là nhân cách của các nhóm xã hội khác nhau, chỉ ra những quá trình
phức tạp và vô cùng linh hoạt của thực hành hình thành và biến đổi nhân
cách, nêu bật lên những quan niệm của chính bản thân chủ thể hành động
hay nói một cách khác là trình bày vấn đề nhân cách thông qua lăng kính chủ
thể… chỉ có thể thực hiện được bằng hàng loạt những công cụ hữu hiệu và
đặc trưng của hệ các phương pháp định tính trong khoa học xã hội.
Điểm thứ hai, theo chúng tôi, chưa được đề cập một cách thực sự thỏa
đáng trong nghiên cứu này, chính là ở chỗ chưa có định hướng khai thác một
cách đúng mức sự đa dạng giữa các giá trị nhóm. Mặc dù tác giả đã nhấn
mạnh tầm quan trọng của nhóm, ảnh hưởng của nhóm và cộng đồng trong
việc hình thành nhân cách cá nhân, nhưng tiếc rằng trong số các đề tài thuộc
cả hai Chương trình KX-07 và KHXH-04 chưa có một sự quan tâm đáng kể
đến vấn đề đa dạng nhóm. Hơn nữa, một trong những tiềm năng quan trọng
của phương pháp định lượng chính là giúp cung cấp tư liệu để chỉ ra được
cách thức xã hội tổ chức sự đa dạng của nó như thế nào, hay nói một cách
khác là minh chứng cho tính đa dạng của các nhân cách nhóm trong xã hội.
3. Một vài nhận xét
Trên đây là một số phân tích về những nghiên cứu đề cập đến vấn đề
tính cách, nhân cách con người Việt Nam truyền thống của các học giả từ sau
năm 1945 tới nay. Về nội dung, qua các thời kỳ với những đặc trưng khác
nhau về kinh tế - xã hội, chiến tranh và sau chiến tranh, những nghiên cứu nói
trên đề cập đến các tính cách con người Việt Nam từ những góc độ khác
nhau, với những trọng tâm (điểm nhấn) khác nhau, và những hàm ý ứng dụng
khác nhau. Chẳng hạn, một số nghiên cứu xuất bản trong và một thời gian
không xa sau chiến tranh thường có xu hướng đặt những phẩm chất như lòng
yêu nước, tính dũng cảm lên hàng đầu (Trần Văn Giàu 1980). Trong khi đó,
những nghiên cứu xuất bản tại thời điểm những bước chuyển lớn về chính
sách kinh tế - xã hội lại tập trung vào thảo luận những tính cách tiêu cực có
thể làm cản trở cho các công cuộc cải cách kinh tế. Cụ thể như tính tiểu nông
tư hữu có thể làm cản trở quá trình tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa
(Nguyễn Hồng Phong 1959), hay sự kém khả năng hạch toán có thể cản trở
việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường (Vũ Minh Giang 1996 a và b).
Về mặt lý luận và phương pháp luận, chúng tôi nhận thấy có hai điểm
nổi bật chung trong hầu hết các nghiên cứu đề cập đến trong bài viết này. Một
là quan niệm về tính lưỡng diện (hai mặt) của truyền thống, "tích cực" và “tiêu
cực”. Và hai là xu hướng khái quát hóa, đi tìm hằng số chung phổ quát của
tính cách Việt Nam.
Bên cạnh việc một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra một số tính chất quan
trọng của truyền thống như tính tiếp nối và tính biến đổi (Trần Văn Giàu 1980;
Vũ Minh Giang 1996a), hầu hết các học giả đề cập đến ở trên đều thống nhất
ở một điểm, truyền thống có hai mặt, tích cực và tiêu cực. Quan niệm này
trực tiếp dẫn đến những khuyến nghị có tính ứng dụng, ủng hộ việc kế thừa
và phát huy những mặt tích cực, và bác bỏ loại trừ những mặt tiêu cực của
truyền thống (Văn Tạo 1993). Tương tự, chỉ những mặt nào tích cực của
truyền thống mới được coi là "giá trị" (Trần Văn Giàu 1980; Phạm Minh Hạc
2001).
Chúng tôi nhận thấy quan niệm về tính lưỡng diện và ứng dụng của nó
đối với truyền thống gần với quan niệm của thuyết “hiện đại hoá” ở phương
Tây. Trước tiên, chúng tôi phải khẳng định rằng hầu hết các công trình trên
đều dựa vững chắc vào chủ nghĩa Mác-Lênin và các phương pháp kinh điển
như phương pháp lịch sử và không một nghiên cứu nào trong số đó trích dẫn
hoặc dựa vào các nguồn lý thuyết và phương pháp tiếp cận phương Tây. Vì
vậy sự mô phỏng của quan niệm về tính lưỡng diện của truyền thống trong
những nghiên cứu đương đại ở Việt Nam với thuyết hiện đại hoá phương Tây
có lẽ chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng cho dù là ngẫu nhiên, chúng
ta cũng rất nên tìm hiểu sâu hơn về lý thuyết này, những bước phát triển tiếp
sau, sự phê phán, và ứng dụng của nó trong nghiên cứu khoa học xã hội
đương đại trên thế giới. Tiếc rằng trong khuôn khổ báo cáo này, chúng tôi
không thể trình bày sâu về lý thuyết này, mà chỉ xin tóm lược sau đây một số
nét căn bản, đặc biệt là những ứng dụng của nó trong ngành nhân học.
Thuyết "hiện đại hoá" là một hệ thống quan niệm phổ biến ở phương
Tây từ khoảng giữa thế kỷ XX, với trọng tâm là giả thuyết cho rằng hiện đại
hoá là một quá trình tất yếu và có tính toàn cầu trong đó các xã hội sẽ đạt
được sự phát triển về kinh tế, xã hội và văn hoá tương tự như những xã hội
công nghiệp hiện đại, giống như những ví dụ của các quốc gia phương Tây.
Một trong những điểm quan trọng của thuyết này chính là giả thuyết cho rằng
những quốc gia chưa phát triển sớm hay muộn cũng sẽ tiến kịp các quốc gia
phát triển, và sự phát triển đó sẽ kéo theo sự thay thế những tổ chức xã hội,
thế giới quan, văn hoá và tính cách "truyền thống" bằng những thế phẩm
tương ứng “hiện đại”.
Trong ngành nhân học, thuyết hiện đại hoá được phát triển thành quan
niệm về khuyếch tán văn hoá, áp dụng để nhìn nhận những vấn đề "truyền
thống" và "hiện đại", với những tác giả đại diện mà chúng tôi đã giới thiệu ở
phần đầu bài viết này như F.Boas, R.Benedict, v.v… Những nhà nghiên cứu
suy nghĩ theo hướng khuyếch tán văn hoá cho rằng, những yếu tố nhất định
trong khuôn mẫu văn hoá của một xã hội truyền thống giúp cho xã hội đó
chấp nhận hoặc khước từ sự hiện đại hoá. Nói một cách khác, trong văn hoá
truyền thống, có những yếu tố "trở ngại" ngăn cản quá trình hiện đại hoá, và
cũng có những yếu tố "tiền đề" thúc đẩy cho quá trình đó.
Cách nhìn nhận theo hướng phân cực (chia làm hai khối đặc trưng) của
lý thuyết hiện đại hoá nói trên đã gặp phải hàng loạt những khó khăn trong
kiến giải khoa học khi đối mặt với thực tế "phản phát triển" của các nước
thuộc địa hoặc thế giới thứ Ba. Ở đây có một điều cần nhấn mạnh là cách giải
thích phân cực như vậy thực chất là một sự giản đơn hoá hiện thực phức tạp,
đặc biệt là làm giảm đi khả năng nhìn nhận những mối liên hệ có tính cấu trúc
và sự mất cân bằng quyền lực giữa những xã hội "phát triển" và "chưa phát
triển" và nội tại chính những xã hội đó.
Ở Việt Nam, tiếp xúc tương đối sớm và một cách phê phán với lý thuyết
hiện đại hoá phải kể đến Nguyễn Hồng Phong. Mặc dù vào giữa thập niên
1950 và đầu thập niên 1960, bản thân Nguyễn Hồng Phong đã tiên phong
trong việc nhìn nhận tính cách dân tộc từ quan niệm lựa chọn với hàm ý hiện
đại hóa, nhưng về cuối sự nghiệp của mình, ông đã chỉ rõ những bất cập của
việc áp dụng cách nhìn nhận theo lối hiện đại hóa vào bối cảnh những xã hội
như Việt Nam:
Lý luận hiện đại hóa không bao giờ chứng minh được tính thích đáng
của nó đối với các nước đang phát triển. Bởi vì nó coi phương Tây là một xã
hội lý tưởng, sự phát triển của Thế giới thứ Ba là xích lại gần xã hội phương
Tây. Hiện đại hóa là con đường phát triển đơn tuyến.
Tác giả đặc biệt nhấn mạnh:
Khi lý thuyết hiện đại hóa đụng chạm đến cấu trúc đặc thù của Thế giới
thứ Ba, thì nó không nghiên cứu tính đặc thù ấy, để đưa ra các quan điểm và
giải pháp thích hợp, mà cố đơn giản hóa cái thực tại đặc thù ấy làm cho nó đi
vào cái khuôn của cấu trúc xã hội của phương Tây.
Đem những phê phán này của Nguyễn Hồng Phong soi sáng vào
những nghiên cứu về các giá trị con người Việt Nam truyền thống gần đây,
chúng ta thấy rõ rằng các tác giả đã chưa khắc phục được, nếu không nói là
không lưu ý đến xu hướng đơn giản hóa thực tại này. Hơn nữa, ngay trong
việc lựa chọn đặc trưng nào là tích cực, đặc trưng nào là tiêu cực của truyền
thống cũng đã ẩn chứa những hình dung của sự hiện đại và coi đó mặc nhiên
là tiến bộ hoặc chuẩn mực. Chẳng hạn, khi cho rằng người Việt có "tập tính
kém hạch toán, không hay lường tính xa" dường như tác giả có hàm ý so
sánh với những đặc trưng biết hạch toán và có kế hoạch cần thiết cho một
nền kinh tế thị trường. Tương tự, khi chỉ ra rằng người Việt có "tác phòng tùy
tiện, kỷ luật không chặt chẽ", dường như tác giả có hàm ý so sánh những đặc
trưng này với tác phong của nền công nghiệp hiện đại.
Việc chỉ ra những nhược điểm để khắc phục là một điều cần thiết (Trần
Văn Giàu 1993). Nhưng vấn đề là ở chỗ, theo chúng tôi, một nhận định
chung, phổ quát, một khuyến nghị áp dụng cho một tổng thể dân số rộng lớn,
liệu có hiệu lực hay không? Rõ ràng là, nếu như chỉ dừng lại ở việc phát hiện
và phân loại những đặc trưng tính cách của con người Việt Nam thành hai
khối tích cực và tiêu cực, theo chúng tôi là chưa đủ và thậm chí chưa thật
đúng hướng. Hàng loạt những đặc trưng hết sức quan trọng khác của truyền
thống như tính lựa chọn và cấu thành bởi nhu cầu xã hội, nói một cách khác
là cội rễ sức mạnh của truyền thống ứng dụng trong xã hội đương đại, vẫn
chưa được làm sáng tỏ. Mặt khác, nếu chúng ta tiếp tục phát triển lý thuyết
macxit về hình thái kinh tế - xã hội và áp dụng vào nghiên cứu văn hóa và
nhân cách, chúng ta cần nhìn nhận ra những mối liên hệ có tính cấu trúc nội
tại của một xã hội để từ đó đưa ra những kiên giải thực sự thuyết phục về
động lực phát triển.
Muốn tìm ra được động lực phát triển trong một cấu trúc kinh tế - xã hội
đương đại, theo chúng tôi, trước hết phải nhìn nhận được sự khác biệt giữa
các nhóm xã hội. Chưa tìm hiểu được sự đa dạng và động năng nhóm chính
là nhược điểm lớn thứ hai của những nghiên cứu về tính cách Việt Nam, bắt
nguồn từ xu hướng khái quát hóa. Tuyệt đại bộ phận các nghiên cứu này đều
theo đuổi cuộc kiếm tìm những hằng số chung phổ quát của tính cách Việt
Nam - mà chủ yếu là chỉ của người Việt - có thể áp dụng được cho mọi nhóm
người, mọi giai cấp, và ở mọi địa phương trên đất nước Việt Nam.
Theo chúng tôi, ở một thời điểm nhất định trong sinh hoạt khoa học,
đưa ra những nhận định khái quát về tính cách con người Việt Nam, vừa
nhằm mục đích "ta hiểu ta hơn" và để giúp thế giới hiểu về đất nước và con
người Việt Nam hơn là hết sức cần thiết (Trần Văn Giàu 1980). Tuy nhiên,
trong một xã hội ngày càng trở nên phân hóa và đa dạng như hiện nay, không
thể chỉ dừng lại ở những khái quát hóa phổ niệm. Nếu như chỉ bằng lòng với
những nhận định phổ quát rằng người Việt có tính kém hạch toán, tác phong
không kỷ luật, chúng ta sẽ hiểu được gì hơn về hiện thực một số nhóm người
nhất định trong xã hội - với những đặc trưng nhất định về hoàn cảnh gia đình,
giáo dục, cuộc sống và địa phương - lại có thể vươn lên vượt trội đi trước
trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tương tự, nếu chỉ bằng lòng
với những nhận định bao trùm về tâm lý bình quân chủ nghĩa, chúng ta sẽ
hiểu được gì hơn về thực tế một số nhóm nhất định có khả năng vươn lên
cạnh tranh xuất sắc trong nền kinh tế thị trường, v.v… Vấn đề là ở chỗ những
nhận định khái quát và phổ niệm như trong các công trình nghiên cứu tính
cách Việt Nam từ năm 1945 đến nay, đã tách những đặc trưng tính cách ra
khỏi bối cảnh con người, nhóm, cộng đồng và địa phương mà chỉ ở trong
những bối cảnh riêng biệt và cụ thể đó, những tính cách đó mới thực sự có
tác động dù là tiêu cực hay tích cực. Một khi đã trở thành những nhận định
phổ niệm trong một môi trường chân không, thì những khuyến nghị xây dựng
trên đó sẽ giảm hẳn hoặc mất đi tác dụng.
Theo chúng tôi, thay vì theo đuổi những nhận định về những hằng số
bao trùm luôn đúng của văn hóa Việt Nam, sẽ là bổ ích hơn nhiều nếu chúng
ta tìm ra được những đặc trưng của từng nhóm, chỉ ra được những động
năng giữa các giai cấp và thậm chí nhóm địa phương, để từ đó chỉ ra được
động năng phát triển của xã hội.
Tóm lại, phân tích tổng thuật một số nghiên cứu của các học giả Việt
Nam đương đại về tính cách con người Việt Nam, xuất phát từ những nhận
xét có tính phê phán, chúng tôi có thể đưa ra hai đề xuất căn bản định hướng
cho nghiên cứu của đề tài như sau:
a. Cần có một nghiên cứu tổng thuật tìm hiểu những quan niệm lý luận
và phương pháp luận về "truyền thống" và "hiện đại" trên thế giới. Một chuyên
khảo sâu rộng hơn về cuộc tranh luận xung quanh vấn đề "truyền thống" và
"hiện đại" trên thế giới, đối thoại giữa các lý thuyết, trường phái, và các ngành
khoa học xã hội nhân văn khác nhau, sẽ là hết sức cần thiết cho việc chúng ta
lựa. chọn được phương pháp tiếp cận tối ưu.
Trước mắt, một nghiên cứu về tính cách con người Việt Nam cần vượt
qua sự phân chia hai cực giản đơn các yêu tõm trong xã hội truyền thống, mà
cần hướng tới việc phân tích về tính chủ thể, tính tạo dựng và tính lựa chọn
của cái gọi là "truyền thống". Từ đó mới có thể thực sự chỉ ra được nguồn gốc
sức mạnh "truyền thống".
b. Cần nhìn nhận lại xu hướng khái quát hóa một cách bao trùm trong
nghiên cứu. Có lẽ đã đến lúc cần tạm dừng theo đuổi những kết luận khái
quát và phổ niệm mà thay vì đó tập trung vào việc tìm hiểu sự đa dạng, khác
nhau giữa những giá trị nhóm (trong đó có giai cấp, nhóm địa phương, và các
nhóm xã hội khác). Chúng tôi tin tưởng rằng, chỉ bằng cách hiểu được sự đa
dạng trong xã hội, chúng ta mới có thể hiểu được động năng của sự phát
triển.
IV. VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI ĐẦU THẾ KỶ XXIBước sang thiên niên kỷ mới, chúng ta cũng bước vào một thế kỷ mới -
thế kỷ của thời đại thông tin, công nghệ cao (công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới), thời đại của
kinh tế tri thức tạo nên biết bao biến đổi sâu sắc, to lớn trong mọi mặt của đời
sống xã hội, trong đó nổi bật lên là tính chất toàn cầu hóa, hội nhập và mở
cửa. Kinh tế tri thức đang được đánh giá có thể là cơ sở hạ tầng của xã hội
học tập (xã hội trí tuệ, xã hội thông tin). Đối mặt với những biến đổi xã hội khó
lường, loài người đồng thời cũng hy vọng thế kỷ này sẽ là thế kỷ của văn hoá
hoà bình, văn hoá bao dung, văn hoá hợp tác và phát triển với lòng mong
muốn sẽ thực hiện được ước mơ dân chủ, tự do, công bằng hơn thế kỷ
trước, vừa hết sức coi trọng sự thống nhất các giá trị nhân văn, nhân bản
chung của loài người như tính người, tình người, vừa hết sức bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc, tạo nên tính đa dạng ngày càng phong phú: của
văn hoá thế giới. Và ở nước ta, nét nổi bật tổng quát là đẩy mạnh công
nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH), độc lập dân tộc và CNXH.
Bước vào thế kỷ XXI nổi lên vấn đề con người và tâm lý con người,
nhân cách con người, trí tuệ con người. Tiềm năng con người, nguồn lực con
người. Tất cả các nước đều đặt vấn đề con người là vấn đề trung tâm trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong các thập kỷ đầu của thế kỷ mới.
Nhiều nơi nói chiến lược con người là linh hồn của chiến lược kinh tế - xã hội,
nhấn mạnh vai trò của khoa học về con người, nghiên cứu con người.
Ở ta, Đại hội IX (4/2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam lấy phát triển
nguồn nhân lực, giáo dục, đào tạo, khoa học - công nghệ là một trong ba
khâu đột phá đưa đất nước đi vào thời kỳ CNH, HĐH, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh - xây dựng CNXH và
bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội VI (1986) là Đại hội mở ra thời kỳ đổi mới chuyển từ kinh tế tập
trung - quan liêu - bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự
quản lý của nhà nước, hội nhập, mở cửa: một thời kỳ phát triển hoàn toàn
mới mẻ cho cả đất nước lẫn cho từng cá thể, cá nhân con người. Chính Đại
hội này đã khẳng định vai trò quyết định của "nhân số người" trong tiến trình
phát triển xã hội. Từ đó con người được chuyển dịch dần vào vị trí trung tâm
của mọi quá trình phát triển. Các Đại hội sau tiếp tục khẳng định "con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội". Đây chính là quan
điểm tư tưởng tiến bộ của loài người bước vào thế kỷ XXI - thời đại mới của
nền văn minh mới, nền văn minh thông tin điện tử lấy phát triển người làm
yếu tố cơ bản.
Nửa sau thế kỷ XX có thể nói là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch
sử loài người với thành tựu nổi bật nhất là cách mạng thông tin đã mở ra một
thời đại mới là thời đại thông tin bắt đầu từ máy tính điện tử (cuối những năm
40 của thế kỷ XX), rồi vi điện tử (những năm 70 của thế kỷ XX). Nhờ vậy, thập
kỷ qua trong nghiên cứu con người đã đặt ra bao nhiêu vấn đề mới mẻ, bắt
đầu từ vấn đề nguồn gốc sự sống: cuộc sống bắt đầu từ các hạt coasecva ở
dưới biển hay từ các hạt bụi ở trên trời? Vấn đề nguồn gốc loài người: con
người tinh khôn (homo sapiens) xuất hiện từ bao giờ? 1 triệu - 50 vạn năm
hay cách đây 4 - 5 triệu năm? tiến hoá tiệm tiến hay đột biến? Hoạt động của
con người do di truyền quyết định hay do hoạt động của bản thân quyết định?
Hay môi trường, hay hai yếu tố hoạt động và môi trường, hay ba yếu tố di
truyền - hoạt động - môi trường?… Ở đây phải nhắc tới một thành tựu được
coi là một trong những khám phá vĩ đại nhất của thế kỷ XX là giải mã bản đồ
bộ đen người gồm tất cả khoảng 30.000 - 40.000 đến. Nhờ cách mạng thông
tin điện tử, công việc vĩ đại này chỉ tiến hành trong 10 nằm (1990 - 2000). Tiếp
theo đó, từ năm 2001, các nhà khoa học đã bắt tay vào một công trình đồ sộ
khác - giải mã protein của con người (proteomics). Rồi người rôbốt
knowboots (người máy có hiểu biết)… Dần dần đi đến hiểu bản chất sinh thể
của con người là cơ sở vật chất của các hoạt động của con người.
Con người luôn luôn tồn tại trong xã hội, trong thiên nhiên, mọi hoạt
động của con người đều diễn ra trong các mối quan hệ ấy (kinh tế, chính trị,
pháp luật…, gia đình, nhóm, làng bản, cộng đồng, đất nước…, môi trường,
người-máy). Tất cả các mối quan hệ ấy bộc lộ bản chất văn hoá - lịch sử của
con người. Hai "bản chất" này, bản chất sinh thể và bản chất xã hội - lịch sử
quan hệ với nhau như thế nào? Quan hệ giữa các quy luật sinh vật và các
quy luật xã hội - lịch sử diễn biến trong con người như thế nào? Có phải, như
vừa nói, cái trước chỉ là cơ sở vật chất côn cái sau mới là bản chất thực sự
của con người không? Toàn bộ việc nghiên cứu con người là nhằm trả lời câu
hỏi Con người là gì? Bản chất con người là gì? Đây là nhiệm vụ trung tâm
của nghiên cứu con người trên con đường đi đến bản chất con người, nâng
dần phẩm chất tâm lý con người lên các tầm cao mới, tôn trọng cá tính,
khẳng định vai trò cá nhân cùng với khả năng hợp tác, kỹ năng lao động đồng
đội…
Cũng nhờ cách mạng thông tin điện tử gần đây mới đếm lại được số nơ
lon thần kinh trong não bộ không phải là khoảng 14 tỷ mà có thể nhiều hơn.
Trước người ta tính có đến mấy tỉ, thì bây giờ phát hiện ra có đến hàng chục
tỷ nơron thần kinh còn là các nơron "câm" chưa trả lời các kích thích từ ngoài
vào, coi đó là bộ phận dự trữ nằm ở bán cầu phải (đối với người thuận tay
phải). Sáng tạo ra hệ thần kinh điện tử, người máy chơi cờ, làm thơ… rồi
ngày càng nhiều phát hiện thấy vai trò to lớn của các bộ phận dưới vỏ não. Ở
đây nói nhiều đến vô thức, trực giác, "tâm lý học sâu thẳm"… Đây chính là
vấn đề tiềm năng con người - năng lực tiềm tàng trong cơ thể, trong não bộ,
trong tinh thần, nói cụ thể hơn, đó là thể lực, trí lực, tâm lực ở dạng tiềm tàng
của mỗi con người. Đây là sản phẩm tiến hoá từ thế giới sinh vật đến lịch sử
văn hoá, văn minh từ bao nhiêu triệu năm của tổ tiên, cha ông để lại cho
chúng ta, chứa đựng trong các khí quan tự nhiên và các khí quan xã hội mà
Các Mác gọi là "các sức mạnh bản chất" (Wesenskrafte) của con người.
Nghiên cứu con người chính là nhằm giải phóng tiềm năng; hình thành và sử
dụng năng lực con người, phát huy nội lực con người thông qua hai con
đường - hai cơ chế: cơ chế di truyền và cơ chế di sản, hoặc có người gọi, tiến
hoá sinh vật và tiến hoá văn hoá. Cơ chế di sản, tiến hoá văn hoá chính là
giáo dục theo nghĩa rộng. Đảng ta và Nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Đi vào thế kỷ XXI, vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH xây dựng
CNXH, hơn lúc nào hết, phải tập trung thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có con người xã hội
chủ nghĩa", giáo dục nguồn nhân lực với những con người kế thừa và phát
huy bản sắc dân tộc, như Nghị quyết kỳ họp thứ 5 Ban chấp hành Trung
ương khoá VIII đã khẳng định phát triển con người, nguồn nhân lực đủ tài trí
và đức độ thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh". Cần chú trọng giáo dục đạo đức, tư tưởng - chính trị - làm tốt
định hướng giá trị trên cơ sở nghiên cứu hệ thống, thang giá trị, xác định
thước đo giá trị. Nghiên cứu nhân cách thông qua nghiên cứu giá trị nhân
cách, giá trị xã hội và giáo dục nhân cách là nhiệm vụ quan trọng của nghiên
cứu con người với phương pháp tiếp cận hoạt động - nhân cách - giá trị trên
cơ sở duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trong giải phóng tiềm năng cần chú ý tiềm năng đỉnh cao, chú ý tới
chăm sóc và trọng dụng nhân tài - đầu tàu của nguồn nhân lực: "Người tài là
nguyên khí quốc giai. Trong tiến trình thực hiện mục tiêu nêu ra ở đây đồng
thời thực hiện công cuộc giải phóng con người khỏi mọi sự tha hoá, từng
bước bảo đảm các quyền của con người: quyền sống, quyền lao động, quyền
học tập, quyền hưởng hạnh phúc, tự do v.v… Đây là sứ mệnh trọng đại nhất
của nghiên cứu con người - lĩnh vực khoa học liên ngành, bao gồm nhân học
sinh thể, nhân học văn hoá, khảo cổ học, tâm lý học, triết học, giáo dục học, y
học, dân tộc học.v.v… Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi tập trung vào
nghiên cứu giá trị nhân cách và nhân cách xã hội, liên quan nhiều đến tâm lý
học và xã hội học.
VI. QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI: KHÁI NIỆM CON NGƯỜI, CÁ THỂ, CÁ NHÂN, NHÂN CÁCH
Con người với tư cách là tột đỉnh tiến hóa của thế giới sinh vật và tiếp
tục phát triển con người thành cá thể, rồi cá nhân và nhân cách. Khi con
người là đại diện của loài ta gọi nó là cá thể. Với tư cách là thành viên xã hội
ta gọi nó là cá nhân như là một thực thể độc lập và khi nó có đủ khả năng để
trở thành chủ thể của hoạt động học tập, lao động, vui chơi, con người trở
thành nhân cách (hình 1).
Hình 1. Các khái niệm chỉ con người
Nội hàm của bốn khái niệm này thật ra có phần đan xen lẫn nhau,
chồng lấn lên nhau. Cách phân biệt chúng vừa trình bầy ở đây là một cách,
tất nhiên là rất tương đối. Theo đó, nhiều khi người ta nói "cá thể người" là
thành phần của loài người đã bứt khỏi loài vật, vừa chứa đựng thành tựu tiến
hoá của thế giới vật chất, nhất là của thế giới sinh vật, tức là vẫn chịu sự chi
phối của các thế giới đó, vừa thoát ra ngoài vòng cương tỏa của các thế giới
đó, tức là đứng ngoài sự chi phối của các thế giới đó: vừa chịu tác động các
quy luật trong vũ trụ (luật "trường"…) vừa chịu tác động của các quy luật sinh
vật, vừa bắt đầu chịu tác động của các quy luật xã hội.
Tiến lên một bước nữa trong thang phát triển ta có cá nhân người” -
một thành viên của xã hội, kẻ mang tổng hòa các quan hệ xã hội, vừa chịu
ảnh hưởng của chúng, vừa góp phần tạo ra chúng. Nghiên cứu nhân cách là
trọng điểm trong nghiên cứu con người. Từ hoạt động, sự tồn tại và phát triển
của con người sau khi cơ thể, nhất là não bộ, đã định hình xong ở tuổi thiếu
niên (13, 14 tuổi), và đến tuổi thanh niên (trên dưới 20 tuổi) chủ yếu diễn ra ở
Chu the cua hoat dong
Thanh vien xa hoi
Dai dien loai
Nhan cachCa nhanCa theCon nguoi
TG sinh vat
Vu tru
ngoài cơ thể, theo quy luật xã hội, hay nói chính xác hơn, quy luật xã hội - lịch
sử hay lịch sử - văn hóa.
Và bậc thang tiếp theo, cũng là bậc thang cao nhất, là "nhân cách
người" - chủ thể của hoạt động, đưa tính cá thể lên trình độ khá hoàn chỉnh,
tính cá nhân (cá tính) lên trình độ mới với nét đặc trưng là con người phân
biệt được khách thể và chủ thể: phân biệt được tồn tại ở ngoài tác động vào
ta, tác động ở trong ta vào ta, phân biệt khi nào bản thân ta là chủ thể, khi nào
bản thân ta là khách thể. Mác và Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản đã nhấn mạnh đến cá tính con người. Anhstanh cũng đã khẳng định: “Đôi
khi người ta coi nhà trường chỉ là công cụ chuyển giao phần lớn kiến thức
đến thế hệ trẻ. Nhưng sự thật không phải như vậy. Tri thức thì khô cằn, còn
nhà trường thì phải phục vụ cuộc sống sinh động. Nhà trường phải phát triển
ở cá thể các phẩm chất và năng lực có giá trị cho cuộc sống xã hội (Phạm
Minh Hạc nhấn mạnh). Nhưng nói như vậy không có nghĩa là phá hủy các cá
nhân hay các cá nhân trở thành các công cụ đơn thuần của cộng đồng, như
những bầy ong, đàn bướm. Một cộng đồng toàn những cá thể đồng loạt giống
nhau, không có độc đáo cá nhân và mục đích cá nhân – thì sẽ là một cộng
đồng nghèo, không có khả năng phát triển. Ngược lại, nhà trường phải có
mục tiêu là đào tạo ra những cá thể suy nghĩ và hành động độc lập - những
người này coi việc phục vụ xã hội là có ý nghĩa sống còn của mỗi người". Và
như đã trình bày ở trên khi nói về hoạt động, con người với tư cách là "nhân
cách người" đặt ra được mục đích của hoạt động, có động cơ (động lực nội
tại) và biết vận hành các điều kiện khách quan mà tạo ra thao tác, hành động
và từng hoạt động cụ thể và cả dòng hoạt động (dòng đời) để đạt từng mục
đích cụ thể đến mục đích bộ phận và cuối cùng là mục đích của cuộc đời
(đường đời, cuộc sống, lý tưởng), thể hiện một lối sống, một nhân sinh quan,
một thế giới quan. Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản của Mác và Ăngghen
đã mong muốn mỗi cá nhân con người phải có tính độc lập, có cá tính.
Khái niệm người, con người hết sức phức tạp, nhiều khi, người ta gọi là
hồn tại người" - một tồn tại mang các điểm của con người, loài người, xã hội.
Có khi người ta gọi con người là một hệ thống tích hợp mạng cả đặc điểm
của vũ trụ, giới sinh học, xã hội, sinh lý, tâm lý, chứa đựng tất cả các cấp độ
(hình thức) phản ánh: cơ, sinh, xã hội, tâm lý. Đến đây ta tiếp cận đến vấn đề
cấu trúc người.
Cấu trúc người, cấu trúc nhân cách biểu hiện ở các giá trị tinh thần (giá
trị nhân cách, giá trị xã hội, v.v…) là vấn đề rất phức tạp, rất khó, phải dày
công nghiên cứu. Cấu trúc con người bao gồm cả cấu trúc nhân cách, không
chỉ ở trong con người mà còn nằm ở ngoài con người. Điều này phù hợp với
quan niệm của Mác: Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hòa các mối quan hệ xã hội. Con người là kẻ mang các giá trị xã hội, mỗi
người có hệ giá trị nhân cách của mình. Đây là tinh thần cốt lõi của phương
pháp tiếp cận lịch sử - xã hội, hoạt động - nhân cách đối với việc nghiên cứu
con người. Chúng ta có thể tiếp thu các quan niệm trên, đặt toàn bộ cấu trúc
người trong mối quan hệ giữa bản thân với bản thân, và một loạt quan hệ
khác: mình và người khác, bản thân với xã hội, với tự nhiên và với vũ trụ,
v.v… Trước mắt, chúng ta tập trung vào vấn đề con người và xã hội. Thí dụ:
mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích Nhà nước giải quyết
như thế nào cho đúng với cơ sở khoa học của nó để có thể sư dụng con
người với tư cách là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Từ đây đặt ra
vấn đề quan hệ giữa "lợi ích xã hội" và "giá trị nhân cách", phần sau chúng tôi
sẽ quay lại vấn đề này.
Nghiên cứu cấu trúc người nói chung, cấu trúc tâm lý, cấu trúc nhân
cách nói riêng, phải đề cập đến một loạt cặp phạm trù sau đây:
Tinh thần ________ Thể xác
Tâm linh
Tâm ________ Thân
Tâm hồn
Tâm lý ________ Thể xác
Phẩm chất ________ Thân thể
Nhân cách ________ Sinh thể
Lý tưởng _______ Cuộc sống
Động cơ ________ Hành vi (ứng xử)
Đi theo các khái niệm này, cách giải quyết mối quan hệ của các phạm
trù này là các quan niệm khác nhau về cấu trúc của con người. Thí dụ: Thể
xác - Tâm hồn. Còn tâm linh là gì? Có cái gọi là tâm linh không? Trong tiếng
Việt ta bắt gặp "3 hồn, 7 vía", "hồn xiêu phách lạc".v.v… Có phải đây là các
đại lượng trong cấu trúc con người không? Trong đó, khái niệm Con người là
khái niệm công cụ trung tâm của Chương trình nghiên cứu con người. Chắc
chính chúng ta phải thảo luận nhiều lần, ở đây đừng lại nói thăm một cách
khái quát về khái niệm cực kỳ phong phú này. Từ xa xưa và cho đến bây giờ
vẫn còn tồn tại một cách hiểu con người như là một tồn tại thần bí. Có lúc
người ta lại coi con người như là "Cây sậy biết nói". Hiểu như vậy thì chỉ thấy
(hoặc nhấn mạnh) khả năng nói dường như quyết định cuộc đời. Có khi lại
thấy không hiểu nổi chính mình, nên có giả định rằng hình như trong mỗi
người trần mắt thịt mà ta trông thấy lại có một con người bé xíu - con người
thần linh, mắt ta không trông thấy, con người tí hon này điều khiển con người
thể xác kia. Theo cách nhìn này, con người mà ta thấy được chỉ là một thân
xác giống như muôn loài trên trái đất. Còn cái phần khó hiểu kia thuộc về con
người "tí hon" vô hình đầy ma lực, và do đó đầy bí ẩn. Nhưng cứ quan sát kỹ,
suy ngẫm sâu, điểm qua các thành tựu triết học, tâm lí học, v.v… dần dần
thấy ra chẳng làm gì có con người "tí hon" trong con người thân xác, mọi thứ
do con người làm ra cũng từ con người thân xác này cả. Nhưng thân xác con
người, nhìn một cách kinh nghiệm chủ nghĩa, đâu có khác gì mấy so với các
loại động vật bậc cao, cũng phải ăn, uống, sinh đẻ, sống chết. Thế là đưa ra
lý thuyết "con người bản năng", con người là một tồn tại sinh vật, hoặc có
người cho con người từ lúc hình thành tế bào trứng đến lúc 2 tuổi là tồn tại
sinh vật, và theo đây mọi sự sống của con người, mọi thứ do con người làm
ra, đều bắt nguồn từ bản năng. Đúng là con người có bản năng, nhưng bản
năng ở người khác nhiều, khác về chất lượng so với bản nặng của động vật.
Quan sát hàng ngày về cách ăn, cách ở, cách bảo tồn và phát triển loài, v.v…
cũng đủ giúp chúng ta hiểu ra một chân lý triết học, như Ăngghen đã chỉ ra,
bản năng của con người đã được ý thức hóa. Thật khó có thể chấp nhận lý
thuyết "con người bản năng" được, ở dưới sẽ trình bày tiếp.
Trong thời văn minh cổ đại đã thấy vai trò của công cụ lao động quyết
định sự tiến bộ của loài người nên có lúc đã đưa ra khái niệm "con người kỹ
thuật" để chỉ tồn tại sống có đặc trưng là biết sử dụng công cụ lao động. Khi
xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, có thể chế xã hội, và con người sống
trong vòng cương tỏa của các thể chế xã hội, thì xã hội nào cũng có nền
chính trị của nó, từ đó nảy sinh lý thuyết "con người chính trị", mọi ứng xử của
con người đều có tính chất chính trị. Lý thuyết này gần với lý thuyết "con
người xã hội" - con người là tồn tại xã hội.
Các lý thuyết trên: "con người bản năng", "con người kỹ thuật", "con
người chính trị", "con người xã hội",… đều nói lên một tiêu chí cực kì quan
trọng của con người. Nói tổng quát hơn, bản chất con người không phải là cái
gì có sẵn, hay là cái gì nhất thành bất biến, mà bản chất con người là cái gì
đó được hình thành nên hay bộc lộ ra trong cuộc sống của nó. Trong cuộc
sống, bằng hoạt động của bản thân, con người mới chịu tác động của các quy
luật tứ nhiên và quy luật xã hội (trong xã hội có nền kinh tế thị trường thì
không thể bỏ qua quy luật giá trị) và các quan hệ xã hội và nhờ hoạt động con
người hội nhập vào các quan hệ đó, góp phần củng cố, phát triển các quan
hệ đó. Toàn bộ tồn tại khách quan chung quanh con người tác động vào con
người thông qua các quan hệ xã hội (quan hệ sản xuất, quan hệ chính trị,
quan hệ giai cấp, quan hệ cộng đồng quan hệ nhóm, v.v.), hoặc dưới hình
thức của các quan hệ xã hội mà tác động vào con người. Ngược lại, con
người có tác động trở lại vào tồn tại khách quan (môi trường tự nhiên, môi
trường sinh sống, gia đình, các quan hệ, thể chế xã hội, v.v…) Con người bao
giờ cũng cùng với những người khác (nhóm, cộng đồng, giai cấp, dân tộc,
v.v…) lao động, học tập, vui chơi, đấu tranh, xây dựng. Chính trong quá trình
học tập, lao động này con người thiết lập nên các mối quan hệ xã hội.
Có một số nhà nghiên cứu quá nhấn mạnh tính xã hội trong con người
coi nhẹ phần thể xác. Hay nói như trong tiếng Việt: nặng về phần "Người",
nhẹ về phần "Con". Họ đưa ra quan niệm coi con người là tồn tại sinh vật - xã
hội (có người coi đứa trẻ sơ sinh đến lúc 2 tuổi là tồn tại sinh vật, và sau 2
tuổi là tồn tại xã hội). Thật ra, quan niệm này không khác gì lắm so với quan
niệm coi con người như là "Cây sậy biết nói". Mới nghe tưởng như đó là một
quan niệm phù hợp với thực tế khách quan: con người có thể xác và có tâm
hồn, có bản năng và có ý thức, có vật chất và có tinh thần… Nhưng thử hỏi
con người có "xác" mà không "hồn" (hệ giá trị) thì đâu còn là con người? ở
con người bình thường, cuộc sống bản năng cũng đã được ý thức hoá, ở con
người không bình thường, tức là con người bệnh hoạn, con người sa đọa,
con người của bộ máy phát xít, diệt chủng là những con người trở lại với thú
tính, đâu còn cơ chế “ý thức hóa”.
Gần đây, có một số tác giả lại đưa ra quan niệm con người như là "cái
máy có suy nghĩ", “cái máy biết lựa chọn”, “cái máy biết yêu đương”, các
rôbốt. Đúng là trong hoạt động thần kinh của con người cũng như trong cuộc
sống của con người có cơ chế tự điều chỉnh, tự thích nghi, sáng tạo,… cực kì
hoàn thiện mà không có một máy nào sánh kịp, tuy có khoa học phỏng sinh
dựa vào cơ thể một số động vật và người lập mô hình sáng tạo ra máy móc.
Người ta sáng chế ra máy tính, vi xử lý, máy đánh cờ, máy làm thơ…
Có thể một số thao tác hay công việc nào đó trong cuộc sống hàng ngày
được chương trình hóa đến khi rất hợp lý thì thành thói quen tốt, làm cho
cuộc sống thoải mái, nhẹ nhàng, ít tốn năng lượng mà hiệu quả lại cao.
Nhưng con người vẫn là con người, không phải là cái máy.
Theo quan niệm của chúng tôi, con người, kể cả trẻ em đến một tuổi
nào đó là chủ thể của hoạt động. Con người có muốn nhớ thì mới nhớ, con
người suy nghĩ, con người tiếp thu,… Mỗi người là chủ thể của hoạt động,
hoạt động lao động, hoạt động vui chơi, hoạt động học tập,… và khi ấy con
người có nhân cách. Ví dụ, khi trẻ chơi thì rõ: đúng là khi trẻ chơi trẻ miệt mài,
say sưa, có thể nói hình như quên: hết mọi thứ - tức nó là chủ thể của hoạt
động vui chơi, cốt được chơi. Người lao động cũng vậy, bình thường họ làm
một cách nghiêm túc, trách nhiệm, lương tâm, và nhằm tới sản phẩm mà lao
động phải đạt tới theo quy trình sản xuất, được xã hội chấp nhận, trân trọng,
đánh giá cao, nói tóm lại, theo thang giá trị của nhóm người, cộng đồng hay
xã hội, con người tiến hành hoạt động trong sự tác động của quy luật giá trị.
Như vậy, mỗi người phải tự (có thể có sự giúp đỡ của người khác, chẳng hạn
như thầy giáo, người cùng nhóm trong một quy trình sản xuất,. v.v…) tiến
hành hoạt động trong các mối quan hệ xã hội, theo các thể chế xã hội, luật
pháp Nhà nước, từ nhà trường, gia đình đến quy định của sản xuất, vui chơi,
… Nói con người là chủ thể của hoạt động là khẳng định các cấp độ cả con
người thể xác, con người tâm hồn, tâm lý, tâm linh, con người ý thức, con
người sinh vật - xã hội - văn hóa,… đồng thời toàn bộ sự tồn tại người ở các
cấp độ ấy cũng vận động trong sự phát triển nhân cách. Muốn nghiên cứu
con người phải nghiên cứu nhân cách.
VI. CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH1. Đến nay đã gần 50 năm kể từ khi bắt đầu có tâm lý học Việt Nam,
vấn đề nhân cách luôn là một vấn đề rất được quan tâm. Vấn đề nhân cách
và phát triển nhân cách, Vưgốtxki viết, là vấn đề tập trung cao nhất của toàn
bộ tâm lý học. Đây là một trong những vấn đề hóc búa nhất, nào là đặt vấn đề
này dưới góc độ triết học, nào là xem xét nó trong bình diện sinh học, nào là
nghiên cứu nhân cách trong xã hội học, v.v… Vào những năm 60 của thế kỷ
trước, thuật ngữ "nhân cách" còn ít người dùng, có lẽ chỉ có một vài nơi, như
khoa Tâm lý - giáo dục hay Viện Triết học là hay nói đến danh từ này với lòng
mong ước khi nào thuật ngữ này, hay nói chính xác hơn, vấn đề nhân cách,
sẽ đi vào đời thường, để lý luận gắn liền với thực tế, khoa học với cuộc sống.
Có thể nói lòng mong ước đó đã và đang trở thành sự thực trong các công
trình nghiên cứu như ở học sính Bắc Lý (Tỉnh Hà Nam) hay trẻ em hư ở
Trường phổ thông công nông nghiệp Thủy Nguyên (Hải Phòng), và nhất là
trong các chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước (KX-07, 1991-
1995; KHXH-04, 1996-2000) và một số đề tài khác phần nào đã đi vào chủ đề
này.
Rất may mắn là trong Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước
KX-05 về Văn hóa, con người và nguồn nhân lực lại có đề tài KX-05-07
nghiên cứu về nhân cách tiến hành thực nghiệm theo phương pháp NEO PI-
R là phương pháp đang thịnh hành trên thế giới, và đi sâu tìm hiểu lý luận tâm
lý học về nhân cách. Lần này thực sự mới có cơ hội đi vào lịch sử vấn đề,
xem các nhà khoa học từ lúc khởi thủy nghiên cứu vấn đề này đã có các cách
tiếp cận vấn đề như thế nào, để xác định nhân cách như là một trong các đối
tượng nghiên cứu của tâm lý học, nói đơn giản hơn, đã hiểu nhân cách như
thế nào, nhân cách là gì, tất nhiên cả trong khoa học lẫn trong đời sống, trong
đó có vấn đề giá trị nhân cách.
2. Tìm hiểu lịch sử tâm lý học, có thể phát hiện ra là mãi đến đầu thế kỷ
XX người ta mới đi vào nghiên cứu nhân cách đúng như là một vấn đề khoa
học tâm lý học. Ở Nga các tác giả cuốn Tâm lý học nhân cách (1982) viết:
Một trong những thành quả có ý nghĩa hơn cả trong nửa đầu thế kỷ thứ XX là
phát hiện ra rằng có thể nghiên cứu nhân cách như là một đối tượng nghiên
cứu khoa học. Đến nay có người còn đánh giá nhân cách hãy còn ở giai đoạn
“tiền khoa học”, dừng lại ở các triết lý chung chung. Theo tổng kết của các
nhà tâm lý học Nga, trong lĩnh vực tâm lý học nhân cách thấy được qua một
số tác giả, đại diện cho các lý thuyết khác nhau sau đây:
1. Lý thuyết nhân cách của D.N. Udơnatde (1886 - 1950),
2. Nhân cách trong luận điểm triết học - tâm lý học của X.L.Rubin Stêin
(1889 - 1960),
3. Lý thuyết nhân cách của B.G.Ananhiép (1907 - 1972),
4. Quan điểm của A.G.Kovaliốp về nhân cách,
5. Quan điểm của K.K.Platônốp về nhân cách,
6. Luận điểm của V.N.Miaxisép (1892 - 1973) về nhân cách,
7. Cách tiếp cận nhân cách của A.N.Lêônchiép (1903 - 1979).
Khi đi vào từng tác giả trong số kể ra ở đây, khó tìm thấy một định
nghĩa rành mạch về nhân cách, cho nên ở đây nói về lý thuyết này, luận điểm
kia là nói tới cách tiếp cận đối với vấn đề nhân cách.
Udơnátde đưa ra tiêu chí để xác định nhân cách là ý thức, rồi chỉ ra
rằng một đặc điểm của nhân cách là ở động cơi nhu cầu trước mắt, nhu cầu
lâu dài. Từ đây thấy nhân cách là một thể hiện tập trung cao tính tích cực của
chủ thể, và cuối cùng phải đưa ra phạm trù "cái tôi" để nói tới nhân cách. Lý
thuyết nhân cách của Udơnátde là sự vận dụng lý thuyết “tâm thế” vào vấn đề
nhân cách. Và tâm thế đi liền với các thái độ của nhân cách đối với bản thân,
với người khác và với các mẫu mực của xã hội gọi là "siêu nhân cách". Như
vậy là biểu hiện của nhân cách là hệ thống thái độ của con người với mọi thứ
xung quanh và với chính mình. Chúng tôi cũng nhất trí với quan điểm này.
Ananhiep đã lưu ý mọi người rằng chính Rubinstêin đã đồng nhất khái
niệm nhân cách với khái niệm con người. Ananhiep đã xem xét vấn đề nhân
cách trong bình diện tâm lý học và trong bình diện nhân học triết học. Ông là
tác giả của bộ môn hiểu biết về con người ("trelaveckov dơnanhia" - tiếng
Nga), không gọi là nhân học ("anthropology"). Ông coi nhân cách là hệ thống
tích hợp của con người, nhân cách là hệ thống thái độ, tâm thế, động cơ, giá
trị.
Kovaliốp cũng được coi là một người có công đầu trong nghiên cứu
tâm lý học nhân cách ở Nga, nhất là vấn đề cấu trúc nhân cách: nhân cách
bao gồm khí chất, xu hướng (nhu cầu, hứng thú và lý tưởng) và năng lực.
Ông là một trong những tác giả đầu tiên phân biệt rõ ba khái niệm: quá trình
tâm lý, trạng thái tâm lý và thuộc tính tâm lý, và sự chuyển hóa giữa các quá
trình, trạng thái và thuộc tính này.
Pơlatônốp cũng chú ý nghiên cứu cấu trúc của nhân cách. Ông gọi
thành phần của cấu trúc này là các phạm trừ các hiện tượng tâm lý hay còn
gọi là các tiểu cấu trúc của nhân cách:
- Tiểu cấu trúc có nguồn gốc xã hội: xu hướng, thái độ, phẩm chất đạo
đức;
- Kinh nghiệm (tri thức, kỹ xảo, kỹ năng, thói quen);
- Đặc điểm cá thể:
- Tiểu cấu trúc có nguồn gốc sinh vật quy định (khí chất và các thuộc
tính cơ thể bệnh lý).
Đây là một cách hiểu nhân cách khá rộng, gần như bao gồm hầu hết
đời sống tâm lý của con người, gần với quan niệm nhân cách là đức và tài
cộng với một số nét gọi là cá tính của từng người, trong đó có cả thái độ.
Chính Miaxisép đã tập trung vào định nghĩa nhân cách là tổ hợp các
thái độ đối với thế giới, mặc dù phải thấy rằng tất cả các tác giả vừa kể trên
đều cho rằng trong nhân cách thế nào cũng có thành phần thái độ. Nhưng chỉ
với Miaxisép, có người mới gọi tâm lý học của ông là tâm lý học thái độ, bao
gồm các loại thái độ sau:
1. Thái độ đánh giá,
2. Hứng thú như là một thái độ trí tuệ đặc biệt,
3. Thái độ đối với hoạt động.
Các thái độ này đều có tính hai mặt: Tích cực và tiêu cực, trái và phải,
âm và dương, mâu thuẫn và hài hòa, tiềm tàng và hiện hữu, nhất thời và
thường trực, phát triển và suy thoái, bình thường và bệnh lý.
Ở đây dừng lại nói kỹ hơn về "tâm lý học thái độ" của Miaxisép vận
dụng vào tâm lý học nhân cách. Tuy không đi vào nhân học triết học để giải
quyết vấn đề tâm lý học nhân cách như Ananhiép, nhưng Miaxisép lại tách
"thái độ đánh giá" như một phạm trù rất quan trọng trong hệ thống các thái độ.
Ngày nay đi vào nghiên cứu con người trong điều kiện xã hội nước ta chuyển
sang cơ chế thị trường (từ đầu những năm 90 thế kỷ XX) có lẽ cần vận dụng
phương pháp tiếp cận giá trị của giá trị học (axiology) và kết hợp với phương
pháp tiếp cận hoạt động vào nghiên cứu tâm lý học nhân cách. Từ đó, nhất là
sau năm 2000, các nhà tâm lý học ở Nga, nơi sinh ra tâm lý học hoạt động,
cũng đưa nghiên cứu nhân cách đi theo phương hướng đó. Như
Ansưpherôva đã gọi phương pháp tiếp cận này là phương pháp tiếp cận chức
năng của nhân cách: nhân cách là cái gì đó đứng ra tổ chức cuộc sống -
đường đời, gợi các thái độ của con người đối với thế giới là thái độ giá trị
trong khi giải quyết các vấn đề của cuộc sống đặt ra cho con người, tức là
phải tìm cái gì có ý nghĩa, có giá trị sống còn đối với bản thân mình. Cách tiếp
cận như thế này bây giờ ở Nga gọi là cách tiếp cận đến với nhân cách hiện
thực. Cũng có khi gọi là cách tiếp cận nhân văn đối với nhân cách do Các
Rôgiơ, nhà tâm lý học Mỹ nổi tiếng, đề ra từ giữa thế kỷ trước, thậm chí có
người nói là bây giờ ta chuyển từ "chủ nghĩa nhân văn trừu tượng" sang "chủ
nghĩa nhân văn hiện thực".
3. Cũng như ở Nga, ở Mỹ đi vào thế kỷ XXI, trong nhiều lĩnh vực người
ta đều nhìn lại thế kỷ qua xem đã có những thành tựu gì. Trong cuốn Những
lý thuyết nhân cách của tiến sĩ Gioóc Bôiri (C. George Boere), khoa Tâm lý
học trường Đại học Tổng hợp Sipenbuốc (Shippensburg), xuất bản năm 1997
có tổng kết khá công phu về lý thuyết nhân cách, có thể lấy là một căn cứ
tham khảo xem ở Mỹ và phương Tây hiện nay đã liệt kê ra các lý thuyết tâm
lý học nhân cách nào.
Danh sách cụ thể như sau:
1. S. Phơrớt (Sigmund Freud) (1856 - 1939)
2. A. Phơrớt (Anna Freud) (1895 - 1982)
3. Ê.Êrichsơn (Erik Erikson) (1902 - 1994)
4. Iung (Carl Jung) (1875 - 1961)
5. Ô. Răng (Otto Rank) (1884 - 1939)
6. A. Átle (Alfred Adler) (1870 - 1937)
7. K.Honây (Karen Homay) (1885 - 1952)
8. A.Elis (Albert Ellis) (1913)
9. Ê.Phơrom (Erick Fromm) (1900 - 1980)
10. B.Skinơ (B.F. Skinner) (1904 - 1990)
11. H. Âysen (Hens Eysenck) (1916 - 1997)
12. A.Banđura (Albert Bandura) (1925-)
13. G.ônpooc (Gordon Allport) (1897 - 1967)
14. G.Keli (George Kélly) (1905 - 1967)
15. Sních và Cômbơ (Snygg và Combs) (1 904 - 1 967)
16. A.Matxlâu (Abram Maslow) (1 908 - 1 972)
17. C.Rôgiơ (Cerl Rogers) (1902 - 1987)
18. L.Binsvagơ (Ludwig Binswager) (1881 - 1966)
19. V. Phơrăng (Viktor Frankl) (1905 - 1997)
20. R.Mây (Rollo May) (1909 - 1994)
21. J.Piagiê (Jean Piaget) (1896 - 1980)
Tác giả Bôiri cho rằng đến nay chưa có khoa học về nhân cách, mà
mới chỉ có các lý thuyết về nhân cách, mặc dù trong tâm lý học đã có các
trường phái rõ rệt, như tâm lý học Phơrớt, tâm lý học hành vi, tâm lý học nhân
văn, tâm lý học hiện sinh. Ở đây sẽ giới thiệu một cách tổng quát về nghiên
cứu nhân cách ở Mỹ và Tây âu, qua đó có thể tìm hiểu bản chất của vấn đề
nghiên cứu nhân cách nói chung, tìm hiểu nội hàm khái niệm nhân cách nói
riêng.
21 các lý thuyết nhân cách nêu ra ở đây được đưa vào 3 dòng tâm lý
học được gọi là ba lực lượng:
1. Lực lượng thứ nhất- Tâm lý học phân tích Phơrớt: Síchmun Phơrớt,
Anna Phơrớt, Êrichsơn, Iung, Átle, Honây, Phơrôm.
2. Lực lượng thứ hai - tâm lý học hành vi: Âysen, Skinơ, Banđura.
3. Lực lượng thứ ba - tâm lý học nhân văn, bao gồm cả tâm lý học hiện
sinh: Mátxlâu, Rôgiơ, Ken, Binsvagơ, Phơrăng.
Theo tác giả cuốn sách này, ngày nay ta mới có thể nêu một số đặc
điểm của lý thuyết về nhân cách như sau:
a. Ý thức và vô thức là tiêu chí do Phơrớt là người có đóng góp nhiều
nhất, tập trung vào các mặt khác nhau của ý thức vô thức, như mặt sinh vật,
mặt xã hội, mặt cá thể của vô thức và ý thức. Xét về mặt sinh vật của vô thức
và ý thức, có bản năng và khí chất và các "mặc cảm": cái này gọi là "cái Nó".
Xét về mặt vô thức xã hội - cái mà trong lý thuyết Phơrớt gọi là "cái Siêu tôi",
bao gồm ngôn ngữ, các cái xã hội cấm đoán, tập tục văn hóa, các giá trị. Xét
về mặt vô thức và ý thức cá thể - cái mà trong thuyết Phơrớt gọi là "cái Tôi,
tất cả những gì ta học tập được, giá trị của bản thân, mọi thói quen, cách nhìn
nhận của bản thân (cách cảm, cách nhận biết, cách suy nghĩ), nói tóm lại,
"tâm lý riêng" của mỗi người.
b. Phân định lứa tuổi: có cách chia ra thời kỳ thai nhi, tuổi niên thiếu,
tuổi người lớn. Và cũng có thể chia: tuổi thơ, tuổi niên thiếu, tuổi già. Đáng
lưu ý là ở đây cho rằng trong thời kỳ thai nhi là sự phát triển sinh vật, đến thời
kỳ trẻ em sự phát triển sinh vật chuyển thành sự phát triển cái Tôi, tiếp đó đến
tuổi thiếu niên là thời kỳ phát đạt, sau đến tuổi người lớn là sự phát triển xã
hội.
Tác giả còn đưa ra một cách hiểu khác, trực tiếp đề cập đến vấn đề khi
nào con người có thể nói nhân cách: Trong thời kỳ thai nhi và tuổi thơ ta phát
triển khí chất, Trong thời kỳ tuổi thơ ta phát triển nhân cách (các thói quen),
Trong thời niên thiếu và người lớn ta phát triển tính cách.
c. Khí chất được coi là một phần của nhân cách hay tính cách mà do ta
tự tạo nên, hơn bởi 5 nhân to lớn do Âysen (Eysenck) đề xuất:
1) Độ ổn định xúc cảm,
2) Hướng ngoại - hướng nội,
3) Tính ý thức (conscientiousness),
4) Tính tình dễ thương,
5) Tính cởi mở.
Bảng hỏi nghiên cứu NEO PI-R (sẽ trình bày ở sau) lấy thuyết 5 nhân
tố làm cơ sở lý luận.
d. Xúc cảm được coi là một điểm rất được quan tâm trong các lý thuyết
về tâm lý học nhân cách: thích hay không thích, trái ý hay vừa lòng, đau buồn
hay lạc thú, trong đó đưa ra các mức độ khác nhau: lo lắng, sợ hãi, tội lỗi, tiếc
rẻ, buồn bực, thương đau, chán nản, giận dỗi, xâm kích, thù địch. Trong thái
độ giá trị có phần phản ánh rõ tâm trạng xúc cảm.
e. Động cơ là điểm trung tâm trong các lý thuyết tâm lý học nhân cách.
Bôiri phân định: động cơ sinh vật, phần lớn là có tính bản năng, như các nhu
cầu có không khí, có nước uống, có thức ăn; động cơ xã hội được xây dựng
trên các động cơ sinh vật, nhưng chủ yếu phụ thuộc vào văn hóa, hoàn cảnh
xã hội và học tập; động cơ cá thể dựa vào kinh nghiệm cá nhân, các kỹ xảo;
động cơ cao cấp là ý thức, tạo ra ý nghĩa cho cuộc sống cá nhân, bao gồm
động cơ am hiểu, có chuyên môn, hoàn thiện bản thân, động cơ ích kỷ. Tất cả
các động cơ này đều nhằm mục tiêu thể hiện, khẳng định bản thân con người
(Rôgiơ) và Iung cùng Honây gọi là tự thể hiện bản thân con người.
Như vậy là Bôiri đã đi vào cấu trúc (thành phần) của nhân cách, và
phần nào cả nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển nhân cách. Ông
xuất phát từ 10 nguyên tắc, tiêu chí sau đây:
(1) Ý thích tự do hay là quyết định luận,
(2) Tính độc đáo hay tính toàn thể,
(3) Động cơ sinh lý học hay động cơ mục đích,
(4) Động cơ ý thức hay động cơ vô ý thức,
(5) Thiên nhiên hay tự tạo,
(6) Có thời kỳ phát triển hay không,
(7) Quyết định luận văn hóa hay văn hóa tiên nghiệm,
(8) Nhân cách hình thành từ sớm hay muộn,
(9) Đánh giá các bệnh tâm lý như thế nào,
(10) Lạc quan hay bi quan trong cách hiểu bản chất con người.
Trên đây là một loạt quan điểm triết học có thể vận dụng vào cách tìm
hiểu vấn đề tâm lý học nhân cách, mà ta sẽ tìm hiểu dần.
4. Dưới đây trình bày cách hiểu nhân cách của một số nhà tâm lý học
nổi tiếng nhất thế kỷ XX. Về cách tiếp cận của Phơrớt, Người đầu tiên đến với
vấn đề này từ những năm 20 thế kỷ trước là Phơrớt. Nội dung cơ bản của
học thuyết này, nhất là cấu trúc nhân cách ("cái Nó" - "cái Tôi - "cái Siêu tôi")
… có thể tìm thấy trong cuốn Nhập môn tâm lý học. Trong cuốn sách này có
bài giảng của Phơrớt về nhân cách, qua đó có thể hiểu khái niệm nhân cách
do ông đề xuất.
Một thành tựu nổi bật trong học thuyết Phơrớt là đưa ra được cấu trúc
tâm lý của con người bao gồm: "Cái Nó" (cái trung tính), "cái Tôi" và "cái Siêu
tôi". Ba cái này được Phơrớt coi là 3 vương quốc, 3 lĩnh vực, 3 vùng miền của
tâm lý học, ba cái này hợp lại thành "bộ máy tâm lý của nhân cách", như
Phơrớt đã khẳng định trong bài thứ 31 của giáo trình phân tâm học; tất nhiên,
trong đó có các mối tác động qua lại giữa các vùng miền, giữa các lĩnh vực,
giữa các vương quốc. Rất chú ý đến các động thái của các vùng miền này.
Từ "bộ máy tâm lý của nhân cách" đã tạo nên nhân cách. Ta xem quá trình
Phơrớt đi đến hiểu nhân cách như thế nào, tức là xem quá trình "bộ máy tâm
lý của nhân cách" tạo nên cái được coi là nhân cách như thế nào?
Phân tích tâm lý theo Phơrớt bắt đầu bằng phân tích chứng bệnh xa lạ
nhất với "thành tố tôi" trong tâm hồn. Chứng bệnh này khởi xuất từ cái đã bị
chèn ép, đồng thời là đại diện của cái tôi, nhưng mà là cái bị chèn ép đối với
cái tôi - đấy là một miền xa lạ, là biên giới bên trong, và cũng là một thực tiễn
là biên giới bên ngoài. Từ chứng bệnh ta đã đến cái vô thức, đến các đam
mê, đến tính dục. Có những ý kiến phản đối, cho rằng con người không chỉ là
tồn tại tình dục, mà nó còn có ý tưởng cao đẹp hơn.
Ngay từ đầu có người cho rằng con người phải chịu đau khổ vì mâu
thuẫn giữa yêu cầu của cuộc sống đam mê và sự chống đối lại đam mê -
chúng tôi, Phơrớt viết, không bao giờ bỏ qua mâu thuẫn này tạo ra một vùng
bị chèn ép, chống đối chệch chuẩn có một lực riêng và ý hướng của cái tôi
vùng này chính là "cái Tôi" trong tâm lý học thường đã nói đến. Chúng tôi
chuyển chú ý từ cái đã bị chèn ép sang cái đang bị chèn ép - đây là "cái Tôi".
Nghiên cứu "cái Tôi" - cái tôi riêng nhất của mỗi một chúng ta - nó thực
sự là chủ thể. Nó có thể là khách thể nghiên cứu được không? Có thể được:
tôi tự lấy tôi làm khách thể, tự tôi đối với tôi như với các khách thể khác, tự
quan sát mình, tự phê phán bản thân, v.v… Thêm trong tôi có một cái tôi nảy
đôi lại với một cái tôi khác, tức là bắt đầu có một thái độ của cái này với cái
kia. Tôi tự phân chia mình ra, ít nhất là phân chia theo chức năng của mình,
thay đổi theo thời gian. Ở đây chú ý tới nhận xét có sự "phân chia mình ra,
tức là có các vùng miền khác nhau và mối quan hệ giữa các vùng miền. Ta
vứt một vật thủy tinh xuống sàn, nó vỡ ra theo các vết có thể tạo nên rạn nứt
theo câu trúc của vật thủy tinh ấy - người bệnh tâm thần cũng có cấu trúc tiềm
tàng các vết rạn nứt tương tự. Khi họ xoay lưng lại với thực tiễn bên ngoài, do
đó họ biết sâu hơn về thực tiễn tâm lý bên trong mà ta là người thường không
hiểu được. Ta gọi những người đó là người bị bệnh ám ảnh bị quan sát theo
dõi (Beobachtugswahn). Người bệnh bị ám ảnh bị quan sát - theo dõi tách
phần bị quan sát trong tôi khỏi "cái Tôi" - việc tách biệt này có thể là một nét
có tính quy luật trong cấu trúc của cái tôi, ta phải nghiên cứu đặc điểm của
vùng tách biệt này. Cái chỗ bị quan sát dõi theo này chuẩn bị cho một sự lên
án và trừng phạt, đồng thời có một chức năng nữa mà ta gọi là lương tâm.
Lương tâm chính là cái phần tôi tự tách ra khỏi cái tôi và cái đó dễ chống lại
tôi nhất. Tôi cảm thấy định làm một cái gì đó mà có thể đem lại khoái cảm cho
tôi, nhưng tôi lại không làm vì lương tâm không cho phép. Hoặc là chạy theo
khoái cảm, tôi làm một cái gì đó trái với lương tâm, thì sau cử chỉ sai lầm đó
lương tâm tôi trừng phạt tôi, quở mắng tôi, tôi cảm thấy xấu hổ. Lương tâm là
một vùng đặc biệt do tôi tự phân tách từ cái tôi ra, nó là một trong những chức
năng của vùng này, còn tự quan sát như là một tiền đề cần thiết của hoạt
động lên án của lương tâm là một chức năng khác của vùng này. Vùng này
được gọi là "Siêu tôi" trong tôi, ta đi dần tới cách hiểu nhân cách là mình tự
quan sát về mình, tách từ tôi thành "cái Tôi" và "cái Siêu tôi", cái sau quan sát
cái trước, tỏ thái độ đối với cái trước.
"Cái Siêu tôi có những yêu cầu đạo đức rất nghiêm ngặt đối với "cái
Tôi" yếu ớt nằm trong sự điều khiển của "cái Siêu tôi. Từ đây ta có thể hiểu
rằng tình cảm lỗi lầm là sự biểu hiện của sự căng thẳng giữa "cái Tôi" và “cái
Siêu tôi” ở những người bệnh tâm thần thường hay nói tới đạo đức (luân lý)
một cách định kỳ. Sau một số tháng nhất định nó qua đi, không nói tới đạo
đức nữa, "cái Siêu tôi" không lên án nữa, "cái Tôi" được hồi phục và con
người lại sống bình thường đến cơn thần kinh sau. Khi say rượu khoái chí,
"cái Siêu tôi, hết hiệu lực và hòa nhập vào "cái Tôi"…
Cái Siêu tôi là lương tâm được hình thành như thế nào? Căng (nhà triết
học Đức) ví lương tâm với bầu trời đầy sao. Bầu trời thì vĩ đại, nhưng lương
tâm thì trời chưa cho mấy và sơ sài lắm, nên ta chưa nói gì được mấy về
lương tâm, mà mới chỉ khẳng định được rằng lương tâm là trời cho. Nếu
lương tâm cũng là cái gì đó ở trong ta, thì đó không phải là cái khởi nguyên -
đó là cái gì đó hoàn toàn đối nghịch với cuộc sống tình dục, cuộc sống này là
cái đứng ở đầu ngọn nguồn của cuộc sống, sau đó không có thêm gì. Nhưng
như mọi người biết, trẻ em vô đạo đức, nó không có ức chế nội tại chống lại
các mong muốn được thỏa mãn. Vai trò mà sau này "cái Siêu tôi" đảm trách,
lúc đầu do một lực lượng bên ngoài - uy tín của cha mẹ thực hiện, do trẻ em
có tình yêu cha mẹ và sợ cha mẹ trừng phạt. Trẻ rất sợ bị mất tình yêu này.
Có sự sợ hãi này thật, rồi sau mới có cái sợ đối với lương tâm - cái sợ này
chính là "cái Siêu tôi" và lương tâm tạo ra. Cái sợ cha mẹ là quan hệ bên
ngoài giữa trẻ và cha mẹ, được chuyển vào trong, tạo thành "cái Siêu tôi
đứng đằng sau "cái Tôi". Ta rất chú ý tới quá trình chuyển từ ngoài vào trong
là một quy luật tâm lý rất quan trọng đã được chú ý từ đây.
“Cái Siêu tôi”, có uy quyền, làm việc và có phương pháp của khẩu độ
(khoảng cách) cha mẹ. "Cái Siêu tôi" tiếp thu tính nguyên tắc cứng rắn và
nghiêm túc của cha mẹ, thực hiện chức năng cấm đoán và trừng phạt. "Cái
Siêu tôi" chỉ đạo và đe dọa "cái Tôi" giống như cha mẹ đối với con cái trước
đó.
Quan hệ con cái - cha mẹ chuyển thành "cái Siêu tôi", quá trình chuyển
hóa này được gọi là quá trình đồng nhất (Identifizierung) làm "cái Tôi" này
đồng nhất với cái tôi khác: "cái Tôi" này biểu hiện như "cái Tôi" kia, bắt chước
"cái Tôi" kia. Có thể gọi quá trình đồng nhất này là quá trình nhân cách này
nhập thân vào nhân cách khác. Có thể coi “cái Siêu tôi”, là cái đồng nhất với
quan hệ cha mẹ, cấu tạo mới này gắn liền với mặc cảm ơ-đíp (về mặc cảm
này tôi đã trình bày tỉ mỉ trong "Nhập môn tâm lý học"). “Cái Siêu tôi” là con đẻ
của mối quan hệ tình cảm này từ thuở nhỏ. Khái niệm "cái Siêu tôi" mô tả
quan hệ cấu trúc thực, chứ không phải cá nhân hóa cái trừu tượng gọi là
lương tâm, cái Siêu tôi có một chức năng nữa - kẻ mang cái tôi - lý tưởng -
đây là thước đo bản thân, cái vươn tới. Uy tín của cha mẹ, thầy cô giáo, các
mẫu lý tưởng có tác dụng tạo nên cái Siêu tôi. Sau này khái quát lên có thể
nói "cái Siêu tôi" là đại diện của "cả xã hội" trong con người. Dần dần mặc
cảm ơ-díp bị "cái Siêu tôi" thay thế: ảnh hưởng của cha mẹ tới trẻ lúc đã lớn,
có tác dụng hình thành tính cách.
“Cái Siêu tôi”, là tự quan sát, lương tâm và chức năng lý tưởng. Phơrớt
khẳng định "cái Siêu tôi"… là kẻ mang truyền thống, tất cả các giá trị từ xa
xưa để lại qua các thế hệ và đang tồn tại hiện nay", từ đây hiểu được hành vi
xã hội không đơn giản là thượng tầng của các quan hệ kinh tế của hệ tư
tưởng, mà là còn cả quá khứ, các truyền thống - độc lập với quan hệ kinh tế.
"Cái Siêu tôi" là các lớp cao nhất trên bề mặt của bộ máy tâm lý, là đỉnh cao
của tâm lý học về cái tôi.
Như vậy là "cái Siêu tôi" được tách từ "cái Tôi", còn "cái Tôi" được tách
từ "cái Nó" ("cái trung tính") ra, tức là "cái Siêu tôi; cũng có điểm xuất phát từ
"cái Nó" mà ra cả. "Cái Nó" là các "cái sinh vật" - các bản năng trong con
người, được coi là "cái vô thức". "Cái Tôi" và "cái Siêu tôi" đều được coi là
"cái có ý thức", nhưng vì nó có điểm xuất phát từ "cái trung tính", cho nên cả
hai này đều có "cái vô thức". Phơrớt khẳng định: "Toàn bộ lý thuyết phân tâm
học được xây dựng trên sự công nhận có sự chống đối giữa vô thức và ý
thức, làm cho cái vô thức thành có ý thức". Vai trò của nhân cách chính là ở
chỗ này. Giữa vô thức và ý thức có tiềm thức là ý thức ở dạng tiềm tàng.
Trong "cái Tôi" và "cái Siêu tôi" đều có mặt của ý thức, nhưng như Phơrớt
nhận xét, có ý thức trong một thời gian ngắn, sau lại thành ở dạng tiềm tàng,
từ đây có thể chuyển xuống "không ý thức" và cũng có thể chuyển lên "có ý
thức". Tâm lý học phải rất chú ý tới các mối quan hệ cơ động (động thái) này,
theo cả hai chiều tạm gọi là chuyển lên có ý thức và chuyển xuống vô thức.
Nguyên tắc hoạt động của "cái Nó" ("cái trung tính") là "cái sinh vật" theo
nguyên tắc thỏa mãn, tức là nó không biết đến "cái Tôi" và nó bị “cái Siêu tôi”,
là "cái Xã hội" theo nguyên tắc chèn ép, kiểm duyệt, không cho "cái Nó" vào
chị Siêu tôi", cho nên luôn luôn có mâu thuẫn giữa vô thức và ý thức, nhiều
khi như Phơrớt nhận xét, các quá trình xảy ra trong tâm hồn là vô thức trong
nghĩa động thái của nó. Động thái theo hướng nào - tùy thuộc vào nhân cách.
Trong bài giảng thứ 31 đang trích ở đây Phơrớt nói: Nhân cách phải cố sức
đưa chúng ("cái Tôi" và "cái Siêu tôi"- PMH) lên bình diện có ý thức". Dòng vô
thức - tiềm thức - ý thức là một dòng chảy liên tục, như trên đã nói, trong sự
giằng co theo các hướng khác nhau. Nhân cách là quá trình tách từng miền
trong 3 miền tâm hồn, tức là tạo được hệ thông thái độ giữa các vùng miền
này theo hướng làm cho "cái Tôi" được củng cố, thắng nổi "cái Tôi" và độc lập
hơn với “cái Siêu tôi”, Phơrớt kết luận bài giảng thứ 31 này như vậy. Ở đây
cũng phải nói thêm về "cái Tôi" mà Phơtớt có nói tới trong bài giảng này.
Phơrớt nói: trong "cái Tôi" có quá trình tổng hợp, khái quát, thống nhất, tức là
có tư duy như ta thường nói. Hơn thế nữa ông còn nói: nét đặc trưng của "cái
Tôi" là đam mê, rồi còn có cả ý lành mạnh, thiện chí nữa. Như thế là "cái Tôi"
chỉ ra cả một miền suy nghĩ, hứng thú, tình cảm, tức là có nội dung của thái
độ của con người đối với cái này hay đối với cái kia, ở trong ta và ở ngoài ta.
Cách tiếp cận của L.X. Vưgôtxki (1896 -1934). Khi điểm đến các tác giả
Nga ở trên không có Vưgôtxki: Nhưng thực ra, người đầu tiên ở Nga trong
thế kỷ trước, từ cuối những năm 20 đầu những năm 30, đã đi tìm xem nhân
cách là gì - chính là Vưgôtxki. Về tâm lý học nói chung của Vưgôtxki, có thể
xem trong Tâm lý học: Vưgôtxki, tập I, trong đó có nói qua tới vấn đề tâm lý
học nhân cách. Bây giờ ta tìm hiểu kỹ xem Vưgôtxki đã đến với vấn đề nhân
cách như thế nào, qua chương thứ 15 trong tác phẩm Lịch sử phát triển các
chức năng tâm lý cấp cao. Đây là chương kết của tác phẩm có tiêu đề:
"Những con đường tiếp tục nghiên cứu. Sự phát triển nhân cách và thế giới
quan của trẻ em".
Trong chương kết này tác giả đã vận dụng lý thuyết lịch sử - văn hóa
vào xác định nội hàm của khái niệm nhân cách. Ông viết: "… lịch sử phát triển
văn hóa của trẻ đưa chúng ta đến lịch sử phát triển nhân cách", nói cụ thể
hơn, sự phát triển nhân cách và thế giới quan của trẻ chính là sự phát triển
văn hóa. Sự phát triển văn hóa nói ở đây là quá trình hình thành các chức
năng tâm lý cấp cao: từ trí nhớ trực tiếp lên trí nhớ gián tiếp, từ chú ý không
chủ định lên chú ý có chủ định, từ đếm bằng que tính (hay hạt ngô) lên tính
nhẩm bằng số, tư duy trừu tượng, hình thành khái niệm… quá trình hình
thành này gắn liền với quá trình lĩnh hội, quá trình học tập, quá trình tiếp thu
các tri thức, kỹ năng, v.v., gọi một cách khái quát là các kinh nghiệm lịch sử
kinh nghiệm xã hội ("kinh nghiệm kép") và chuyển thành các kinh nghiệm của
bản thân. Các kinh nghiệm của bản thân được coi là các "công cụ tâm lý" -
tức là dùng các cái này để tác động lên hành vi, lên các quá trình tâm lý của
chính bản thân mình hay tâm lý của người khác: thông qua hột ngô để điều
khiển trí nhớ hay tư duy, dùng một câu chữ để điều khiển quá trình chú ý…
tạo nên các chức năng tâm lý cấp cao - tập hợp hệ thống các chức năng này
góp là "hành vi văn hóa" khác biệt với sự phát triển theo tuyến tự nhiên (sinh
vật): Như vậy là trong quá trình phát triển tâm lý ở con người, khoảng cuối
tuổi thiếu niên, hình thành nên một khả năng tự điều khiển các hiện tượng
tâm lý của bản thân mà Vưgôtxki gọi là "cái tổng hợp tâm lý cao nhất". Đó
chính là quá trình hình thành nên "cái tôi" trong tôi: nắm lấy các công cụ tâm
lý chứa đựng trong văn hóa của xã hội chuyển thành các công cụ tâm lý của
bản thân để điều khiển bản thân, tức là tạo nên các thái độ của mình với
chính bản thân mình. Tập hợp các thái độ này thành cái tổng hợp tâm lý cao
nhất, tạo nên cái nhìn nhận, cái đánh giá, cái ứng xử của từng cá thể. Đó
chính là nhân cách, và vì vậy nhân cách được Vưgôtxki gọi là thế giới quan:
thái độ văn hóa đối với thế giới bên ngoài, với các người khác, với bản thân.
Ông cũng nhắc tới vai trò của xúc cảm và đam mê trong hệ thống thái độ của
bản thân - trong nhân cách.
Cách tiếp cận của X.L.Rubinstêin (1889 - 1960). Tìm hiểu qua một tác
phẩm nổi tiếng của Rubinstêin mang tên lúc đầu là Cơ sở của tâm lý học xuất
bản năm 1935, lần thứ 2 với đầu đề Cơ sở tâm lý học đại cương năm 1946,
tức là sách viết phản ảnh những kết quả nghiên cứu từ cuối những năm 20 -
đầu những năm 30 thế kỷ trước, gần với thời gian Phơrớt và Vưgôtxki nghiên
cứu vấn đề tâm lý học nhân cách. Nhưng khác với các tác giả này, trong công
trình lớn của mình với chương "Xu hướng của nhân cách" và chương XX với
đầu đề là "Tự ý thức của nhân cách và đường đời"? Rubinstêin đi từ các
phạm trù "tinh thần", "ý thức", "chủ thể"… đến phạm trù nhân cách, coi nhân
cách là các trải nghiệm (tiếng Nga là pêrêgiưvanhe) và đi vào vấn đề hình
thành và phát triển nhân cách trong hoạt động. Rubinstêin đã nhấn mạnh tính
chất đặc thù của riêng từng nhân cách, nói lên xu hướng riêng của người ấy,
bao gồm ý hướng, ý muốn của từng người, năng lực của từng người, bản
tính của nó - nội dung này gắn liền với cái gọi là ý thức của chủ thể và các
thái độ: thái độ đối với thế giới xung quanh, thái độ đối với người khác và thái
độ đối với bản thân. Rubinstêin coi nhân cách là bộ máy điều chỉnh toàn bộ
hệ thống thân thể con người và con người nói chung, gắn liền với khái niệm
"đường đời".
Trong hai chương vừa dẫn ra ở đây Rubinstêin không đi vào nghiên
cứu trong con người nhân cách được nảy sinh như thế nào, trong một cấu
trúc tâm lý của con người như thế nào có một bộ phận được coi là nhân cách
của con người đó, mà đi từ một nhận xét triết học rằng toàn bộ tâm lý học
người được coi là tâm lý học nhân cách, coi tất cả các hiện tượng tâm lý
được mô tả trong tâm lý học đại cương đều diễn ra trong nhân cách và đều
phụ thuộc vào nhân cách. Toàn bộ sự phát triển của các hiện tượng tâm lý
đều phụ thuộc vào sự phát triển của nhân cách. Nhân cách ở đậy được hiểu
là các đặc điểm cá thể riêng của từng người. Nhân cách cũng được hiểu là
khả năng con người điều khiển các quá trình hay thuộc tính tâm lý của bản
thân, hướng chúng vào giải quyết các nhiệm vụ đặt ra cho bản thân. Từ đó
muốn hiểu nhân cách là gì, phải xem con người mang nhân cách ấy có xu
hướng gì (mong muốn cái gì? động cơ nào?), có khả năng đáp ứng mong
muốn đó không vấn đề năng lực), vấn đề nghĩa và ý của cuộc đời, của từng
công việc. Từ đây Rubinstêin đến rất gần với cách tiếp cận của Udơnátde về
nhân cách, tức là ông cũng thấy trong nhân cách có các thành phần tâm lý gọi
là hứng thú, sự đam mê; tâm thế tạo nên các xu hướng, lý tưởng của nhân
cách.
Trong chương XX của Cơ sở tâm lý học đại cương Rubinstêin đã chỉ ra
sự cần thiết phải đi vào tìm hiểu khái niệm "cá thể" để mà hiểu khái niệm
nhân cách. Ông viết: nhân cách là "chủ thể cụ thể, lịch sử, sống động". Rất
tiếc ông mới dừng ở đó, không lý giải từ chủ thể đến nhân cách như thế nào.
Đó là nhiệm vụ của những người đi sau. Trong trang sách đang trích dẫn ta
tìm được một tư tưởng quan trọng khác của Rubinstêin giúp chúng ta đi đến
cách tiếp cận với tâm lý học nhân cách. "Con người là một nhân cách,
Rubinstêin viết, - chỉ khi nào nó tách khỏi thiên nhiên, và nó có thái độ đối với
thiên nhiên và với những người khác, đúng như là thái độ, tức là chừng nào
nó có ý thức" (PMH nhấn mạnh). Quá trình hình thành nhân cách chính là quá
trình hình thành ý thức và thái độ như là hai thành tố tạo nên nhân cách. Ông
đã chỉ ra rằng nghiên cứu tâm lý học nhân cách là nghiên cứu tự ý thức của
nhân cách, nghiên cứu "cái tôi, như là chủ thể nắm lấy tất cả cái gì con người
làm ra, có trách nhiệm của bản thân đối với tất cả các sản phẩm vật chất và
tinh thần mà mình tạo ra. Rubinstêin cũng nói đến nhân cách như là bộ mặt
của từng con người, nói lên lập trường, thế giới quan của con người ấy.
Tác phẩm Hoạt động, ý thức, nhân cách của A.N.Lêônchiép, như tên
cuốn sách đã chỉ ra, có 3 phần, trong đó một phần chuyên bàn về nhân cách:
Chương V với đầu đề là "Hoạt động và Nhân cách", thực chất nói về mối
quan hệ giữa phạm trù hoạt động và phạm trù nhân cách, chưa đi sâu vào nội
hàm của khái niệm nhân cách. Mở đầu A.N Lêônchiép khẳng định nhân cách
là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học, như triết học, sử học, xã hội
học, nhân chủng hợp. Ông cũng điểm qua một vài lý thuyết coi nhân cách
như là "một thể thống nhất có một không hai nào đó", nhân cách là "ông chủ
của các chức năng tâm lý" (James, Mỹ) hoặc nhân cách là "cái qui định các
hành vi và ý ngư (G.Ônpoóc, Mỹ), nhân cách đồng nghĩa với đặc điểm cá
nhân, cá tính, với thái độ đối với mọi người.
Tác giả đi sâu vào một số cách tiếp cận nghiên cứu nhân cách:
1. Cách tiếp cận sinh vật hoá nhân cách mà điển hình là học thuyết
Phơrớt như trên đã trình bày;
2. Cách tiếp cận văn hoá, nhân chủng học (Margaret Mead, Mỹ).
Hệ thống của nhân cách chính là hệ thống văn hoá đã được cá thể hoá.
A.N. Lêônchiép cho rằng tâm lý học quan tâm đến cá nhân với tư cách là
nhân cách, còn nền văn hoá dù có tồn tại dưới hình thức nhân cách hoá, nó
là đối tượng của sử học, xã hội học chứ không phải là đối tượng của tâm lý
học. Tuy vậy, cũng phải công nhận nhân cách ở con người có "cơ sở" chung
mà ta gọi là kiểu nguyên thuỷ chung của loài người, có thể bộc lộ ra tính dân
tộc, nhóm tộc người, giai cấp trong nhân cách của từng con người.
A.N. Lêônchiép đưa ra một cách tiếp cận coi nhân cách là một cấu tạo
tâm lý mới được hình thành trong các mối quan hệ sống của cá nhân, do hoạt
động của người đó cải biến đi mà thành. Khẳng định bản chất xã hội - lịch sử
của nhân cách: nhân cách lần đầu tiên nảy sinh ra trong xã hội, con người
bước vào lịch sử (và đứa trẻ bước vào cuộc sống) chỉ mới là một cá thể, cá
thể này trở thành nhân cách khi nó là chủ thể của các quan hệ xã hội.
Nhân cách là một sản phẩm tương đối muộn của sự phát triển xã hội -
lịch sử và sự tiến hoá. Tác giả phân định rõ con người với tư cách là cá thể
người với con người với tư cách là nhân cách, biểu hiện tính chỉnh thể của
chủ thể cuộc sống. Cá thể phải thành chủ thể, tức là phải có một quá trình
phát triển thì mới thành nhân cách, nói theo Các Mác, nhân cách được "sản
sinh ra", tương tự như ý thức được sản xuất ra, nhu cầu được sản xuất ra,
nhân cách được tạo ra bởi các quan hệ xã hội mà cá nhân gia nhập vào đó
trong hoạt động của mình. Nhân cách là một cấu tạo chuyên biệt của con
người, tương tự như ý thức, tự ý thức xem xét các hoạt động của bản thận,
xem nó có ý gì riêng đối với nhân cách, xuất phát từ hệ thống động cơ, thứ
bậc các động cơ trong hệ thống này, sắp xếp thứ bậc các hoá động, tạo
thành hạt nhân của nhân cách. Nhân cách chính là phẩm chất hoàn chỉnh
đánh giá hệ thống thứ bậc động cơ, nhận ra ý riêng của từng hoạt động đối
với bản thân của chủ thể hoạt động.
Trong các bài giảng tâm lý học đại cương, A.N Lêônchiép có đề cập
đến vấn đề này trong hai bài cuối: bài thứ nhất có tiêu đề là "Cá thể và Nhân
cách", bài thứ hai "Một số vấn đề về hình thành nhân cách". Đọc bài thứ nhất,
tìm được ý tưởng của giáo sư giải đáp vấn đề đang đề cập ở đây. Cụ thể là
trước hết phải phân biệt khái niệm "cá thể" và khái niệm "nhân cách". Nếu
khái niệm thứ nhất gắn bó cả những gì do giống loài để lại cho cá thể và cả
những gì do cá thể tự tạo, thì nhân cách là cấu tạo mới hoàn toàn do con
người tự tạo cho mình trong quá trình sống của người đó. Quá trình tạo ra
nhân cách được bắt đầu khi con người ăn nhập vào các mối quan hệ xã hội,
đó chính là các mối quan hệ đối với thế giới đối tượng.
Tác giả các bài giảng trung thành với một luận điểm nổi tiếng của Các
Mác nói trong Luận cương về Phoiơbách: "Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội". Ở đây ta phải chú ý
tới cụm từ đầu câu "Trong tính hiện thực…", tức là trong hoạt động. Nói trong
hoạt động con người ăn nhập vào hệ thống các mối quan hệ xã hội, có nghĩa
là con người có thái độ đối với thế giới đối tượng bao gồm cả thế giới tự
nhiên và thế giới xã hội, có thái độ đối với sự vật, với người khác, với bản
thân. Khi đó có nhân cách. Đương nhiên, nhân cách được hình thành và phát
triển. Qua vấn đề hình thành và phát triển nhân cách sẽ hiểu sâu hơn bản
chất nhân cách là gì.
Tóm lại, tuy các cách tiếp cận có khác nhau, dù xuất phát từ các luận
điểm cơ bản rất khác nhau về tâm lý con người, các nhà tâm lý học đại diện
của một số trường phái trong tâm lý học thế kỷ XX, những người đã đặt nền
tảng cho việc nghiên cứu nhân cách, đều đi đến cách hiểu nhân cách là các
thái độ của con người đối với thế giới xung quanh, với người khác và với bản
thân. Vận dụng vào cách tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách, có thể khẳng
định các thái độ ấy nói lên các giá trị của người này hay người khác trong mối
quan hệ với hệ thống giá trị, thước đo giá trị, định hướng giá trị của nhóm,
cộng đồng, xã hội.
VII. KHÁI NIỆM GIÁ TRỊ1. Về khái niệm giá trị
Đây là một khái niệm công cụ quan trọng của đề tài. Vì vậy cần xem giá
trị nói trong khoa học là gì? Chữ "giá trị" có nhiều nghĩa, thường trong đời
sống hàng ngày ta hay gặp thuật ngữ này để nói lên giá cả ở nơi mua bán,
giá thành ở nơi sản xuất. Kinh tế học thường đề cập đến giá trị sử dụng và
giá trị trao đổi. Người ta cũng hay nói: "Cái gì cũng có cái giá của nó", với ý là
muốn được một cái gì đó thì phải mất một cái gì đó, như công sức, tiền tài
hay một sự chịu đựng, thậm chí đến tổn thương tinh thần.
Nói một cách tổng quát toàn bộ sự tồn tại ở loài người trên thế giới này
bao gồm các giá trị vật chất và giá trị tinh thần - các giá trị bảo đảm sự tồn tại,
cuộc sống của con người, cộng đồng. Giá trị như là đối tượng của khoa học
về giá trị là các giá trị tinh thần, không nghiên cứu các giá trị vật chất. Các giá
trị vật chất nằm ngay trong sự vật, hàng hoá… Còn giá trị tinh thần nói lên ý
nghĩa của sự vật, hàng hoá đối với từng người, nhóm người, cộng đồng, dân
tộc nhân loại. Có các giá trị vật chất có sẵn trong thiên nhiên như sông, núi,
đất, nước… Ví dụ, cái hoa có giá trị vật chất, được con người đánh giá là đẹp
nó lại có giá trị tinh thần, và như một cái đẹp tự nhiên được đánh giá chi tiết
hơn nói lên ý nghĩa với từng trường hợp cụ thể như: đẹp duyên dáng, đẹp
kinh hồn, đẹp trang trọng, đẹp lộng lẫy, đẹp hấp dẫn, đẹp khôi hài… Đó là các
giá trị tinh thần do con người tạo ra. Cũng có giá trị vật chất do lao động của
con người làm ra như các sản vật thoả mãn các nhu cầu ăn, ở đi lại. Bản thân
các vật thể này chứa đựng giá trị nội tại có thể dùng vào việc này hay việc
khác, ta gọi đó là các giá trị sử dụng. Khi các sản vật này trở thành hàng hoá,
đem trao đổi giữa người này với người kia, lúc đó sản vật có giá trị trao đổi.
Sở dĩ, các sản vật này trở thành giá trị vì nó thoả mãn nhu cầu này hay nhu
cầu khác của con người. Và khi nào sự thoả mãn nhu cầu này được con
người nhận ra ý nghĩa của vật thể hay sản phẩm đó đối với cuộc sống của
bản thân, nhất là khi nhu cầu ấy trở thành ước muốn (động cơ của hoạt
động), vật thể, sản phẩm trở thành mục đích của một hoạt động cụ thể, khi đó
ta có các giá trị tinh thần, thúc đẩy con người phải làm cái này, không làm cái
kia. Khoa học giá trị nghiên cứu các giá trị này. Ở đây, ta thấy vấn đề nghiên
cứu giá trị rất gắn bó với nghiên cứu hoạt động tâm lý con người. Cách hiểu
khái niệm giá trị trong giá trị học có quan hệ chặt chẽ với khái niệm chủ thể,
tính chủ thể. Tính chủ thể biểu hiện rõ nhất ở tính mục đích của hoạt động,
mà mục đích của hoạt động bao giờ cũng là làm sao đạt tới cái mà mình coi
nó là giá trị đối với bản thân. Từ đó, có thể đi tới định nghĩa giá trị là cái quy
định mục đích của hoạt động. Đó là vấn đề sống còn của từng con người, mà
tổng hợp lại có thể nói rằng vấn đề giá trị đi theo suốt đời người: xác định hệ
giá trị, thang giá trị, thước đo giá trị, định hướng giá trị (gọi tắt là xác định giá
trị), rồi theo đuổi giá trị, biểu hiện giá trị, thực hiện giá trị.
Như vậy là, nói đến giá trị là nói đến đánh giá, tìm ra ý nghĩa của sự vật
này, sản phẩm kia mà chủ thể quan tâm tới có ước muốn đạt được để thực
hiện một mục đích nào đấy… Đó là thái độ (hệ thống thái độ) của từng con
người đối với xung quanh, cũng tức là một phần cực kỳ quan trọng trong lối
sống, cách sống. Hệ thống thái độ con người, đó là nhân cách của con người,
cá tính của nói. Trong đó, có cả nhận thức, triết lý, tình cảm, tâm trạng, tâm
thế và hành động. Tất cả những gì con người đã sống, đang sống và sẽ sống,
ta gọi là vốn trải nghiệm. Theo lý thuyết hoạt động trong tâm lý học đời người
là một dòng hoạt động. Dưới góc độ của giá trị học, đời người là tổng các giá
trị do người đó tạo nên, tiếp thu, chấp nhận, lấy làm chuẩn mực bằng dòng
hoạt động của bản thân. Tổng các giá trị này là văn hoá của người đó. Trong
đời sống hàng ngày con người có các phán đoán về các giá trị: thái độ ủng hộ
giá trị này, phản đối giá trị kia, đánh giá giá trị này cao, coi giá trị kia thấp,
v.v… Cuộc điều tra giá trị ở đây là điều tra các phán đoán đó, các thái độ đó.
Các cuộc điều tra giá trị trên thế giới, trong từng khu vực lâu nay cũng đã và
đang làm như vậy. Mấy thập kỷ qua đã xác định cơ sở khoa học và thực tiễn
của các cuộc điều tra này, chứng minh tính khách quan, độ chính xác, độ tin
cậy và tác dụng của chúng đối với quản lý xã hội.
Cùng với các giá trị cá thể - có chỗ gọi là giá trị nhân cách - có các giá
trị của cộng đồng mà ta gọi là các giá trị xã hội, ở đây trình bày kết quả điều
tra các giá trị xã hội, tức là những yếu tố trong đời sống tinh thần được cả xã
hội quan tâm, nói một cách chính xác hơn, từ các giá trị này (cũng với các giá
trị khác), tạo dựng lên xã hội, như giá trị dân chủ, niềm tin xã hội của các
cộng đồng từ các đơn vị cơ sở đến cộng đồng tộc người, cộng đồng các dân
tộc cư trú trên lãnh thổ một đất nước như Việt Nam, cộng đồng các dân tộc
một vùng như Đông Nam Á, Đông Á, và cộng tiếng toàn thể loài người. Trong
cộng đồng có các giai tầng, giai cấp, như công nhân, nông dân, trí thức mà
cuộc điều tra NVS - 2003 trình bày ở đây đã tiến hành điều tra các giá trị ở
các giai tầng này. Có thể tiến hành điều tra theo lứa tuổi học sinh, sinh viên,
lao động trẻ… Trong các cuộc điều tra giá trị giới thiệu ở đây, người ta đều
tập trung vào tìm hiểu ý kiến phán đoán thái độ của những người được hỏi
đối với một giá trị nào đấy, với các phương pháp khoa học được tính toán và
rút kinh nghiệm qua thời gian hàng gần thế kỷ nay, mở đầu từ R.Hartman đã
toán học hoá, với công cụ thống kê hiện tại, bảo đảm độ chính xác tin cậy từ
việc soạn các câu hỏi (được gọi là các giá trị), việc chọn mẫu, chọn người để
hỏi theo phương pháp xác xuất mang tính đại diện cho cả một nhóm dân cư
của từng vùng và cả nước. Từ chỗ tính toán các số liệu với sự mô tả trên các
tư tưởng phương pháp luận nhất định, đánh giá, phân tích… đi đến các nhận
định về một nét tình hình nào đó của xã hội tương ứng, như thái độ của người
dân đối với giá trị dân chủ, giá trị thị trường, giá trị niềm tin v.v… Cao hơn
nữa, có thể đi đến đưa ra giả định về xu thế của xã hội sẽ tiến tới, như xu thế
từ truyền thống sang thế tục trong các quan niệm đạo đức, văn hoá… của
trào lưu hiện đại hoá xã hội ngày nay.
Các giá trị nghiên cứu trong công trình này là các giá trị hiện hữu (có
người gọi là giá trị bộc bạch), các giá trị đang tồn tại trong não được phát biểu
ra bằng phán đoán (thái độ) đối với một giá trị nào đấy. Bên cạnh giá trị hiện
hữu, còn có giá trị tiềm tàng (có người gọi là giá trị ẩn dụ) là các giá trị cũng
tồn tại trong não người nào đó, nhưng chưa phát biểu ra thành phán đoán,
chưa bộc lộ thái độ đối với một giá trị nào đó. Trong các giá trị này phổ biến
nhất là các giá trị xã hội: trong đó các giá trị cốt yếu nhất đối với cuộc sống
(đối với nhân loại) gọi là giá trị nhân loại như giá trị hòa bình, hợp tác, khoan
dung, dân chủ v.v…; đối với dân tộc: độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, bản
sắc v.v…; đối với con người: phát triển con người, thu nhập, việc làm, quyền
con người, v.v… gọi là các giá trị cốt yếu (có khi còn gọi là giá trị khởi thuỷ),
giá trị sống còn. Có người còn cho rằng loài người có cả giá trị vĩnh hằng
(thiên đường, niết bàn, v.v).
Căn cứ vào luận điểm, mỗi thế giới đều có 3 chiều kích: Nội tại, ngoại
tại và hệ thống, R.Hartman (1910 - 1973) đã đưa ra 3 chiều kích của giá trị để
đi đến các thước đo giá trị.
a. Giá trị nội tại là giá trị cá thể hay giá trị tinh thần, được xác định qua
vô số các đặc điểm bằng vô số cách đo; được mô tả như là giá trị của bản
thân sự vật hay bản thân cá thể người. Thước đo giá trị ở đây là sự đồng
cảm, lòng tự tin, xác định giá trị của bản thân sự vật và của riêng cá thể
người.
b. Giá trị ngoại tại là giá trị thực tiễn, gắn vào hoàn cảnh, được xác định
qua một số thuộc tính nhất định; được mô tả qua các quan điểm trừu tượng,
giá trị so sánh, nhóm lớp các sự vật họ hàng, cụ thể; giá trị tốt, tốt hơn, tốt
nhất; các khá trị vật chất, thực tiễn. Thước đo giá trị là một phán đóan thực
tiễn hay ý thức về vai trò. Xác định xem sự vật này có giống sự vật khác
không, xếp vào lớp sự vật nào.
c. Giá trị hệ thống là quan điểm giá trị hay giá trị lý thuyết, được xác
định qua một số thuộc tính hữu hạn, được mô tả qua kiến tạo của tâm trí hay
ý tưởng, giá trị của sự hoàn thiện, vật trắng hay vật đen, tính phù hợp, thứ tự
diễn dịch lôgic, tính kiên định, uy quyền, vận dụng vào mọi vật là bộ phận của
hệ thống; Thước đo giá trị là hệ thống phán đoán và phương hướng của bản
thân, xem sự vật này được đo đạc có thích hợp không.
2. Quan điểm biến đổi trong nghiên cứu giá trị
Từ những năm 1950 những nghiên cứu về giá trị bằng phương pháp
thực nghiệm đã bắt đầu được tiến hành và phát triển. Những nghiên cứu thực
nghiệm về giá trị trong giai đoạn đầu này triển khai trên cơ sở lý thuyết của
Parsons nhằm đi tìm các "giá trị cơ bản" (basic values) là những giá trị được
cho rằng một khi đã hình thành thì khó thay đổi, bất chấp những rối loạn tâm
lý xã hội, do đó có thể trở thành cơ sở đáng tin cậy của kế hoạch hoá. Vào
thời bấy giờ rất phổ biến cách suy nghĩ cho rằng giá trị là một đại lượng xác
định quan niệm, hy vọng và khả năng hành động xã hội; đại lượng này ổn
định và bền chắc khó biến - đổi hoặc nếu có biến đổi cũng diễn ra trong
khoảng thời gian rất dài.
Nhưng bước vào thập kỷ 70 suy nghĩ trên đã thay đổi đánh dấu bằng
những nghiên cứu thực nghiệm về giá trị - trên một quan điểm mới mang tính
đối lập đó là những quan điểm coi giá trị có thể biến đổi hay những quan điểm
về sự biến đổi lâu dài của giá trị được gọi là hệ khái niệm biến đổi giá trị.
Những nghiên cứu trong giai đoạn này được tiến hành trên cơ sở các quan
niệm tâm lý học với một nhân vật trung tâm là Ronald Inglehart. Lần đầu tiên
trong một bài viết vào năm 1971, Inglehart đã đưa ra một lập luận cho rằng có
chuyển đổi về giá trị giữa các thế hệ từ giá trị duy vật (hay hiện đại) sang hậu
duy vật hay (hậu hiện đại) đang diễn ra trong các xã hội công nghiệp tiên tiến.
Luận điểm về sự chuyển đổi giá trị giữa các thế hệ này của Inglehart đã vấp
phải một sự phản kháng mạnh mẽ của dư luận các nhà nghiên cứu thời bấy
giờ khi họ cho rằng sự thay đổi chẳng qua chỉ là sự khác biệt về vòng đời, và
sự khác biệt về vòng đời này sẽ mất đi khi thế hệ những người trẻ hơn sẽ già
đi và lập luận về vòng đời này ngụ ý rằng không hề có sự biến đổi xã hội nào
diễn ra cả. Tuy nhiên bước vào thập kỷ 90 thì những người chống lại quan
điểm Inglehart cũng bắt đầu phải đi đến chỗ công nhận rằng không còn nghi
ngờ gì nữa ở các nước phương Tây định hướng giá trị đang chuyển dịch. Với
kết quả của một nghiên cứu đồ sộ được sự tài trợ của Quỹ Khoa học Châu
Âu với sự tham gia của hơn 50 nhà khoa học xã hội của nhiều nước trên thế
giới, người ta đã đi đến kết luận rằng sự chuyển đổi hướng tới các giá trị hậu
hiện đại đang thức sự diễn ra. Không những thế người ta còn cho rằng có
những bằng chứng về sự tồn tại của mô hình biến đổi xã hội từ sự biến đổi
giá trị, và từ sự biến đổi giá trị sang biến đổi thái độ và hành vi chính trị. Tuy
nhiên lập luận của Inglehart về sự chuyển đổi của giá trị về cơ bản vẫn xuất
phát từ giả thiết cho rằng những giá trị một khi đã hình thành sẽ ổn định cao
độ suốt cuộc đời, vì vậy sự chuyển đổi giá trị trong lập luận của ông (từ duy
vật sang hậu duy vật) thực ra là sự chuyển đổi lâu dài giữa các thế hệ mà chủ
yếu là do lớp thanh niên thực hiện. Đó là lớp người được sống trong điều kiện
thịnh vượng về kinh tế vào những năm tháng của tuổi trưởng thành và với
kinh nghiệm sâu sắc này giải toả được tâm lý chịu đựng sức ép của thiếu
thốn đã hình thành một hệ thống giá trị hậu duy vật. Tuy vậy trong khi những
người theo chủ nghĩa duy vật vẫn tiếp tục nắm giữ các vị trí quyền lực chủ
chốt của xã hội thì những người theo chủ nghĩa hậu duy vật chỉ có thể dần
dần ảnh hưởng, lấn át những người theo chủ nghĩa duy vật, và xuất phát từ
những người duy vật quan điểm căng thẳng phản kháng xã hội và chính trị sẽ
lan truyền ra.
Mặc dù không phải là không còn những phê phán gay gắt chống lại
Inglehart nhưng có thể nói thuyết biến đổi giá trị của ông đã thu được thành
công, được chấp nhận rộng rãi và thu hút được sự chú ý có lẽ bởi phương
pháp thực nghiệm tiến hành trên quy mô thế giới về điều tra giá trị. Ông đã
tiến hành điều tra về quan điểm giá trị ở rất nhiều vùng (gần 90 vùng) trên thế
giới với cùng một bộ công cụ lặp đi lặp lại trong suốt một thời gian dài hàng
chục năm để chứng minh cho giả thuyết về sự biến đổi giá trị lâu dài qua các
thế hệ. Kết quả các cuộc điều tra này đã cho thấy trong xã hội công nghiệp đã
có sự biến đổi về hệ thống và quan điểm giá trị từ hiện đại chuyển sang hậu
hiện đại, sự biến đổi này liên quan chặt chẽ với sự biến đổi ở tất cả các mặt
văn hoá, kinh tế và xã hội cũng theo hướng từ hiện đại sang hậu hiện đại.
Các cuộc điều tra giá trị này cho thấy một loạt các giá trị và thái độ có
liên quan đến chính trị, lao động, nghề nghiệp, tôn giáo và chuẩn mực giới
tính, giáo dục và nuôi dậy trẻ đều có sự chuyển đổi theo chiều hướng có thể
tiên đoán được đó là sự chuyển đổi từ chỗ mang tính duy vật và hiện đại sang
hậu duy vật và hậu hiện đại. Sự biến đổi qua các thế hệ biểu hiện ở chỗ
những ưu tiên giá trị của người già và người trẻ khác nhau, người già có thái
độ tương tự như những người duy vật và người trẻ có thái độ tương tự như
người hậu duy vật. Tuy nhiên không phải tất cả các nước tiến hành điều tra
giá trị thế giới đều cho thấy những biểu hiện thay đổi giá trị theo chiều hướng
giống nhau mà thực ra có sự khác nhau tuỳ theo nước. Ví dụ có những nước
hầu như đã hoàn thành hiện đại hoá chuyển sang hậu hiện đại như Bỉ, Hà
Lan, Pháp, ở đó có rất nhiều người theo khuynh hướng hậu hiện đại, hậu duy
vật, trong khi đó còn rất nhiều nước khác vẫn đang tiến hành hoặc mới bắt
đầu công cuộc công nghiệp hoá ví dụ như Nam Phi là nước ít có khả năng
nhất để vận động nhanh chóng tới các giá trị hậu hiện đại.
Nói chung, theo Inglehart, có thể phân biệt một cách khái quát giữa xã
hội tiền công nghiệp, hiện đại đang chuyển sang công nghiệp hoá và hiện đại
hoá với xã hội đã tiến hành xong công nghiệp hoá, hiện đại hoá chuyển sang
hậu hiện đại hoá ở một tính cách cơ bản nhất là xã hội đầu có tình trạng sinh
tồn bất an và xã hội sau có tình trạng sinh tồn an toàn, ổn định. Tương ứng
với xã hội đầu là chủ nghĩa duy vật nhấn mạnh an toàn kinh tến và vật chất
còn tương ứng với xã hội sau là chủ nghĩa hậu duy vật nhấn mạnh tự thể hiện
mình và chất lượng cuộc sống. Ngoài ra, tương ứng với hai xã hội này là hệ
thống giá trị - thái độ tiền công nghiệp, hiện đại và hệ thống giá trị hậu hiện
đại (công nghiệp và hậu công nghiệp) với những nét tương phản như sau:
Hai hệ thống giá trị tương phản:
Sinh tồn bất ổn
(tiền công nghiệp)
Sinh tồn an toàn
(công nghiệp và hậu công nghiệp)
1. Chính trị:
Nhu cầu về một lãnh đạo mạnh
Mệnh lệnh tuân thủ
Bài ngoại/ Chủ nghĩa chính thống
Không nhấn mạnh quyền uy chính trị
Tự thể hiện, tham gia
Hấp dẫn trước sự mới lạ
2. Kinh tế
Ưu tiên phát triển kinh tế
Mục tiêu thành đạt
Sở hữu cá nhân đối với nhà nước
Ưu tiên hàng đầu cho chất lượng cuộc
sống
Hạnh phúc cá nhân
Giảm uy quyền sở hữu tư nhân và nhà
nước
3. Chuẩn giới tính gia đình
Đẻ nhiều nhất nhưng chỉ trong gia
đình quan hệ giới tính 2 bố mẹ
Thoả mãn giới tính cá nhân. Tự thể hiện
cá nhân
4. Tôn giáo
Nhấn mạnh đấng tối cao
Những nguyên tắc tuyệt đối
Nhấn mạnh vào định mệnh, tiên tri
Giảm quyền uy tôn giáo
Nguyên tắc linh hoạt, luân lý tuỳ thời
Nhấn mạnh ý nghĩa và mục đích cuộc
sống
3. Một số cuộc điều tra giá trị trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có nhiều tổng công ty (TCT) đo đạc điều tra giá
trị, trong đó có TCT Carpenter đặt trụ sở ở Nashville, bang Tennessee (Mỹ),
có 500 công ty con, là công ty đo đạc giá to lớn nhất và nổi tiếng nhất thế giới.
Khoa học về giá trị đã hình thành và hoạt động một cách tích cực, nhất
là từ nửa sau thế kỷ XX. Trong đó, phải kể đến một số sau:
Từ những năm 80, (1) đã có một cuộc điều tra về giá trị ở Châu Âu.
Trên cơ sở kết quả, tác dụng và kinh nghiệm của cuộc điều tra này, từ năm
1990 người ta đã tổ chức (2) những cuộc điều tra giá trị thế giới (WVS), và
Việt Nam bắt đầu tham gia vào vòng 4 của WVS từ năm 2001. Dự án này
(WVS) đang tích cực chuẩn bị tiến hành vòng 5 vào năm 2005 - 2006.
Từ kết quả, hiệu quả, kinh nghiệm của WVS, vào những năm cuối thế
kỷ trước và đầu thế này đã có các dự án điều tra giá trị ở các châu lục, được
gọi là Hàn thử biểu: (3) Hàn thử biểu Đông Á (4) Hàn thử biểu Nam Á, (5) Hàn
thử biểu Châu Phi, (6) Hàn thử biểu Mỹ - Latinh. Năm (2004), 2 Hàn thử biểu
Đông Á và Nam Á hợp lại thành (7) Hàn thử biểu Châu Á, chuẩn bị điều tra
vòng II, sẽ tiến hành vào năm 2005 - 2006. Việt Nam đã được mời tham gia
vào Hàn thử biểu Châu Á. Điều tra giá trị Châu Âu đi vào giai đoạn phát triển
mới gọi là Điều tra mới về giá trị Châu Âu. Gần đây (2003), Viện Nghiên cứu
con người cùng (8) Đại học: Glasgow (Anh) tiến hành một cuộc điều tra giá trị.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên có cuộc điều tra giá trị tiến hành vào năm
1993 - 1994, tổ chức trong phạm vi chương trình khoa học công nghệ Nhà
nước KX-07: Đầu thế kỷ mới KX-05-07 lại tổ chức cuộc điều tra giá trị xã hội
và điều tra giá trị nhân cách. Tuy điều tra giá trị đối với chúng ta hãy còn mới
mẻ, vừa làm, vừa học, học từ những vấn đề cơ bản, như trong báo cáo này
đã giới thiệu, phần nào hy vọng có chút ít đóng góp vào sự phát triển khoa
học xã hội ở nước ta trong thời kỳ mới.
4. Mô hình lý thuyết về quan điểm giá trị
Nếu căn cứ vào vấn đề "con người đặt giá trị ở đâu?" (mặt thứ hai của
ý nghĩa giá trị) thì có hai mô hình lý thuyết nổi tiếng thế giới về quan điểm giá
trị, đó là lý thuyết của E.Spranger và C.Morris. Spramger sử dụng phương
pháp thấu hiểu để khảo sát một số lĩnh vực trong cuộc sống xã hối của con
người, từ đó rút ra 6 mô hình phương hướng hay lĩnh vực liên quan đến giá
trị như sau:
- Mô hình lý luận: trong đó quan điểm giá trị thống tri là nhận thức phổ
biến và chân lý thoả đáng đối với đối tượng, trọng tâm cuộc sống của những
người thuộc mô hình này có quan điểm giá trị được đặt vào việc truy tìm chân
lý và nhận thức phổ biến.
- Mô hình kinh tế: trong đó quan điểm giá trị thống soái là tính hiệu quả,
tính kinh tế như "được thất", đánh giá mọi sự vật trên quan điểm hiệu quả và
kinh tế, nhìn nhận thời gian và không gian, hành động của con người cũng từ
góc độ ấy
- Mô hình thẩm mỹ: trong đó quan điểm giá trị về cái đẹp thống trị toàn
bộ cuộc sống của những người thuộc mô hình này, họ theo đuổi cái đẹp trên
lập trường tự do vượt lên mọi giới hạn của hiện thực.
- Mô hình xã hội: trong đó tình yêu con người thống trị toàn bộ cuộc
sống của những người thuộc mô hình xã hội, họ trải nghiệm qua sự thăng tiến
của giá trị với những hành vi xã hội quên mình vì người khác.
- Mô hình quyền lực: trong đó ý chí quyền lực chi phối tất cả giá trị trung
tâm đặt vào việc làm thế nào để chi phối mọi sự vật và xã hội theo ý mình.
- Mô hình tôn giáo: trong đó toàn bộ cơ cấu tinh thần hướng vào việc
liên tục sản sinh ra những kinh nghiệm giá trị thoả mãn cao nhất và đầy đủ
nhất.
Những mô hình phương hướng này nói một cách khác chính là thang
giá trị chi phối mọi hành vi, lối sống, ứng xử của cá nhân (ví dụ, cá nhân theo
mô hình kinh tế thường lấy tiêu chuẩn "được mất" để đánh giá và quyết định
hành vi và phương tiện thực hiện hành vi…).
Còn Morris thì kiểm tra so sánh triết học nhân sinh chủ yếu trong lịch sử
tư tưởng và rút ra ba loại hình cơ bản liên quan đến cách sống của con người
(mô hình deonisos, mô hình promesius, mô hình buddha) để từ đó đưa ra 13
mô hình sống cơ bản là: kiểu trung dung, kiểu triệt để, kiểu yêu thương, kiểu
thụ lạc, kiểu hợp tác, kiểu nỗ lực, kiểu đa sắc, kiểu an lạc, kiểu thụ nhận, kiểu
kìm nén (chiến thắng bản thân), kiểu suy tưởng, kiểu hành động, kiểu phục
vụ.
Nếu so sánh hai lý thuyết này với nhau thì có thể thấy rằng mô hình
Spranger nhìn giá trị từ đặc tính thái độ, mô hình Morris mang màu sắc nhân
sinh quan hơn. Nhưng dù đứng trên mô hình nào thì cũng cần có cơ sở giá trị
là tôn trọng con người, sinh mạng con người - vấn đề gốc rễ của tồn tại
người. Đó cũng cần trở thành nội dung giáo dục quan trọng nhất đối với lứa
tuổi trẻ ngày nay.
VIII. GIÁ TRỊ NHÂN CÁCH1. Vấn đề giá trị nhân cách
Hết sức mới mẻ đối với chúng ta, và mặc dù đây là một khái niệm trung
tâm của đề tài song tài liệu tham khảo chưa phải là nhiều. Vấn đề chẳng
những hoàn toàn mới đối với chúng ta, mà còn là một vấn đề phức tạp, vì giá
trị học ở ta mới xuất hiện trên văn đàn và tâm lý học nhân cách đang trên
đường mới hình thành. Trong phạm vi của đề tài KX-05-07, chúng tôi đã triển
khai nghiên cứu lý luận về nhân cách và công việc đã thu được kết quả là sự
ra đời của cuốn sách Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách, đọc qua cuốn
sách này ta thấy đây là một vấn đề vô cùng phức tạp. Trong công trình này
cũng có tác giả nghiên cứu nhân cách đề cập đến giá trị, nhưng chưa có bài
nào đề cập đến giá trị nhân cách. Vấn đề đặt ra ở đây là tìm mối liên quan
giữa giá trị (theo nghĩa của giá trị học) và nhân cách, hay là vận dụng cách
nghiên cứu của giá trị học vào nghiên cứu nhân cách rồi từ đây đi đến khái
niệm giá trị nhân cách. Cả ba nội dung này đều rất phức tạp, nhưng trên cơ
sở một số kết quả điều tra giá trị của KX-05-07, bước đầu góp phần tìm hiểu
vấn đề này, hy vọng phần nào đóng góp vào tâm lý học nhân cách nước nhà.
2. Giá trị và hoạt động
Như trong một số sách và bài báo đã trình bày, giá trị học và tâm lý học
có quan hệ rất mật thiết. Mối quan hệ này trước hết là việc vận dụng phương
pháp tiếp cận giá trị vào tâm lý học người nói chung, và vào lý thuyết hoạt
động trong tâm lý học nói riêng, xây dựng phương pháp tiếp cận hoạt động -
giá trị - nhân cách, giá trị nói ở đây chủ yếu là các giá trị tinh thần. Phân định
ra giá trị vật chất và giá trị tinh thần là để nghiên cứu, để nhận thức và phần
nào để tổ chức, quản lý xã hội. Trong cuộc sống thực, hai phạm trù (hai loại)
giá trị này gắn bó với nhau rất chặt chẽ và suy cho cùng các giá trị tinh thần
đều có cơ sở là giá trị vật chất và đối với con người mọi giá trị vật chất đều có
ý nghĩa tinh thần. Nói vận dụng phương pháp tiếp cận giá trị vào tâm lý học
người (chứ không phải vài ví dụ tâm lý học động vật: động vật không có phạm
trù giá trị), nói chung có nghĩa là các hiện tượng tâm lý - quá trình tâm lý,
trạng thái tâm lý, thuộc tâm lý - đều phải được xem xét trong phạm vi tác động
của quy luật giá trị; nói trong phạm vi hẹp hơn, theo quan điểm của lý thuyết
hoạt động trong tâm lý học, điều đó có nghĩa là, xây dựng phương pháp tiếp
cận hoạt động - giá trị - nhân cách.
Tất nhiên, đây là việc làm tiếp nối những công trình học tập nghiên cứu
góp phần phát triển tâm lý học hoạt động. Nhìn một cách tổng quát, có hai
cách gắn bó giữa tâm lý học và giá trị học.
1) Đưa phương pháp tiếp cận giá trị vào tâm lý học.
2) Đưa phương pháp tiếp cận tâm lý học vào giá trị học.
Theo cách thứ hai này, người ta đưa ra ý tưởng vận dụng các dòng
phái (lý thuyết) tâm lý học, như phân tâm học, tâm lý học hành vi, tâm lý học
hoạt động, tâm lý học nhận thức, tâm lý học sinh thái, tâm lý học nhân văn,
tâm lý học tiếp hóa, v.v… xếp gọn lại thành bốn dòng tâm lý học hiện đại là:
- Tâm lý học phân tâm (phân tâm học);
- Tâm lý học hành vi;
- Tâm lý học hoạt động;
- Tâm lý học nhân văn;
vào quá trình hình thành lý giải giá trị cũng như vai trò và tác dụng của
giá trị đối với cuộc sống con người, cộng đồng và xã hội. Ví dụ như theo tâm
lý học hành vi thì giá trị được hình thành do tác động của tác nhân củng cố
(conditioning), theo công thức S -> R, phần thưởng, v.v…
Còn đối với tâm lý học nhận thức, giá trị được hình thành bởi việc học,
việc nhớ. Theo phân tâm học, có thể dùng cấu trúc tâm lý "cái nó - cái tôi - và
cái siêu tôi" giải thích mọi giá trị trên đời. Tâm lý học sinh thái lại đặt các vấn
đề nghiên cứu giá trị nhân cách trong mối quan hệ với môi trường sống, môi
trường tự nhiên. Đối với tâm lý học nhân văn, một bộ môn có mối quan hệ rất
gần gũi với xã hội học và giá trị học đưa ra các lý giải giá trị như là sản phẩm
của loài người và con người của xã hội và cá thể. Cách lý giải này rất gần gũi
với quan điểm của tâm lý học tiến hóa coi giá trị là một trong những phẩm
chất cao nhất của thang tiến hóa, đặc biệt của tiến hóa (hình thành và phát
triển) xã hội và cá nhân con người. Tâm lý học hoạt động đi đến vấn đề giá trị
bằng cách dùng cơ chế giá trị vào tìm hiểu quá trình hình thành và tác dụng
của ba thành phần trong cấu trúc của hoạt động là điều kiện hoạt động, động
cơ, mục đích hoạt động, cũng như quá trình hình thành giá trị từ ba thành
phần vừa kể; mặt khác dùng cơ chế (vai trò và tận dụng) của giá trị của từng
người (giá trị nhân cách) vào giải thích cột thứ hai của ba thành tố khác trong
cấu trúc của hoạt động là hành động từng hoạt động cụ thể và toàn bộ hoạt
động chung của con người. Khái niệm "giá trị nhân cách" đưa ra một khung lý
thuyết, ở dưới sẽ trình bày vài suy nghĩ và kết quả ban đầu của chúng tôi về
vấn đề này. Bây giờ đề cập đến vấn đề giá trị trong cấu trúc nhân cách.
3. Giá trị trong cấu trúc nhân cách
Như trong bài Cách tiếp cận nghiên cứu tâm lý học nhân cách chúng ta
thấy một số nhà tâm lý học đã khẳng định vị trí của giá trị trong cấu trúc của
nhân cách, như Ananhiep coi "nhân cách là hệ thống thái độ, tâm thế, động
cơ, giá trị", Allport, Znanieski đã gắn khái niệm "giá trị" với khái niệm “tâm thế”
tuy hai khái niệm này không đồng nghĩa. Thật ra, sự gắn bó của hai khái niệm
này thể hiện ở chỗ thực chất tâm thế xuất phát từ giá trị, và sau đó (hay xen
kẽ) thái độ (hay giá trị) lại chịu ảnh hưởng của tâm thế. Có điều chắc chắn rút
ra từ đây là có thể vận dụng phượng pháp tiếp cận giá trị vào giải quyết vấn
đề về cấu trúc của nhân cách mà ở đây chúng tôi muốn đi tới một khẳng định
cụ thể là trong cấu trúc của nhân cách nhất thiết phải có giá trị. Ansưpherôva
xác định: nhân cách là thái độ giá trị trong khi giải quyết các vấn đề của cuộc
sống đặt ra cho mình, tức là phải tìm cái gì có ý nghĩa, có giá trị sống còn đối
với bản thân mình, ở dưới ta sẽ quay lại vấn đề này.
Trong giới tâm lý học ngày nay (đầu thế kỷ XXI) ngày càng có xu
hướng khẳng định vị trí của giá trị trong cấu trúc nhân cách. Theo lý thuyết 5
yếu tố lớn của nhân cách bao gồm: 1) Thần kinh (Nhiễu tâm), 2) Liên nhân
cách (hướng ngoại), 3) Cầu thị, ham hiểu biết, 4) Dễ thương (Dễ chấp nhận),
5) Làm chủ, kiểm soát bản thân, mà đề tài KX-05-07 dựa vào để thực nghiệm
(trắc nghiệm) gọi là trắc nghiệm nhân cách (NEO PI-R), yếu tố thứ 3 có 6
thành tố (item) được gọi là giá trị.
Hơn thế nữa, có tác giả còn khẳng định có cả một hệ thống thứ bậc giá
trị trong cấu trúc nhân cách (tất nhiên tùy trường hợp cụ thể). Có cả khẳng
định rằng từ xúc cảm, tình cảm muốn chuyển thành hành động đều qua sự
kiểm định của hệ thống thứ bậc giá trị của nhân cách - cái mà ở trên tôi gọi là
"cơ chế giá trị".
Những điều trình bày lý giải dẫn chúng ta đến sự cần thiết phải tìm hiểu
khái niệm "giá trị nhân cách" mà chúng tôi cùng một số đồng nghiệp đã theo
đuổi suốt hơn 10 năm qua…
4. Khái niệm giá trị nhân cách
Trong bài "Tìm hiểu khoa học về giá trị" chúng tôi đã nói tới khái niệm
này cùng "giá trị xã hội" như là một cặp khái niệm trong một số khái niệm
khác về giá trị, như là "giá trị hiện hữu, "giá trị tiềm tàng" và "giá trị cốt yếu có
khi còn gọi là "giá trị khởi thủy", v.v… Đó là những khái niệm công cụ, tiếng
Anh gọi là "paradigm" do Thomas Kuhn (Mỹ) từ năm 1947 trong luận án tiến
sĩ đưa thành một công cụ tức là khái niệm quan trọng bậc nhất, có thể là một
hệ thống khái niệm, có ý nghĩa quyết định giải quyết một vấn đề. Paradigm
thường được hiểu là một khung lý thuyết, một cách nhìn ưu việt (ưu thế, lợi
thế), một cách suy nghĩ mới. Vận dụng vào khoa học tâm lý như Freud lấy
khái niệm "cái nó", "cái tôi", "cái siêu tôi" là Paradigm để xây dựng ra phân
tâm học, hay khái niệm "hoạt động" hay "hành vi" là Parađigm để xây dựng
nên hai dòng tâm lý học của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Khái niệm "giá trị
nhân cách" có thể xây dựng thành khái niệm công cụ (Paradigm) của tâm lý
học giá trị đang được giới thiệu mà khoa học xã hội rất quan tâm.
Muốn giải quyết vấn đề này, phải giới thiệu một chút về phân loại giá trị,
phát triển cách phân loại chung nhất thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Có bảng phân loại đã tồn tại hơn hai nghìn năm nay là bảng phân loại các giá
trị thành CHÂN, THIỆN, MỸ là ba giá trị tổng quát nhất; sau đến giữa thế kỷ
XX, T.Makiguchi bổ sung thêm giá trị ÍCH. Cũng có một cách phân loại giá trị
tổng quát nữa là giá trị nhân loại, giá trị thời đại, giá trị dân tộc, giá trị vùng,
giá trị các nhóm (giai tầng, giai cấp) v.v… Ví dụ, ngày nay thường coi giá trị
nhân loại là tính người, tình người (giá trị cội nguồn, giá trị nền tảng của mỗi
con người), hòa bình, tôn trọng lẫn nhau, trong đó có tôn trọng bản sắc văn
hóa dân tộc, v.v… Ở Nga qua một công trình nghiên cứu gần đây có một số
người coi gia đình, sức khỏe, học vấn, việc làm là giá trị chung của loài
người; giá trị dân tộc: bình đẳng dân tộc, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc
v.v…; giá trị vùng miền, giá trị Châu Á, văn minh Châu Âu, giá trị Mỹ. Có tác
giả Nga đưa ra sáu giá trị nổi bật của Mỹ là: gia đình bình an, hoàn cảnh sống
tốt, hòa bình, tự do, được người khác kính trọng, hạnh phúc, khôn ngoan; còn
của người Nga là: sức khoẻ, việc làm lý thú, cuộc sống vật chất đầy đủ các
giá trị vừa nêu đều là (hoặc có liên quan) các giá trị nhân cách.
Có một cách phân loại khác, dưới góc độ của vấn đề đặt ra trong phần
này đó là phân loại giá trị ra thành giá trị công cụ và giá trị cơ bản của cuộc
sống. Theo bài "Nhân cách" của M. Rokeach, người ta đã phân loại giá trị
thành giá trị công cụ và giá trị mục đích. Các giá trị công cụ (các giá trị điều
kiện đạt mục đích) bao gồm 18 giá trị:
- Tính cẩn thận - Duy lý
- Lịch sự, ngoan, ứng xử khéo
- Có tham vọng, chí tiến thủ
- Vui tính
- Tinh thần kỷ luật
- Tinh thần độc lập, tự chủ
- Học vấn
- Tinh thần trách nhiệm
- Sửa chữa khuyết điểm
- Tự kiểm tra (tự kiềm chế)
- Kiên định, dũng cảm
- Ý chí
- Nhẫn nại
- Tầm nhìn xa trông rộng
- Thành quả
- Hiệu quả
- Nhạy cảm
Tác giả này cũng đưa ra 18 giá trị cơ bản của cuộc sống:
- Tích cực (chăm chỉ, cần cù)
- An ninh thực tiễn
- Sức khoẻ (thể chất và tâm lý tinh thần)
- Có công việc thích thú
- Thích thử nghiệm cái đẹp
- Tình yêu
- Cuộc sống đầy đủ
- Có bạn tốt (trung thành)
- Hoàn cảnh tốt (thế giới, trong nước, cá nhân)
- Được xã hội công nhận
- Nhận thức
- Bình đẳng
- Tinh thần độc lập
- Tự do
- Gia đình hạnh phúc
- Sáng tạo
- Tự tin
- Thỏa mãn
Không đi sâu vào thảo luận đâu là giá trị công cụ, giá trị phương tiện,
giá trị điều kiện, chúng tôi thấy trong đó có các giá trị nhân cách. Xác định
được các giá trị cơ bản của một nhân cách, một gia đình, một nhóm người có
ý nghĩa cực kỳ quan trọng, các giá trị ấy xác định cuộc sống. Từ đó con
người, nhóm người, cộng đồng có cuộc sống tốt, sống đẹp hoặc ngược lại, có
ý nghĩa đối với việc xây dựng xã hội, phát triển con người.
Giá trị nhân cách, nói đơn giản là một hay một hệ giá trị của một nhân
cách tức là hệ giá trị của một con người khi là một chủ thể của hoạt động.
Cũng có thể coi giá trị nhân cách là một hay một hệ giá trị của con người ở
bình diện nhân cách. M. Weber coi trọng phân loại hành động (hành động xúc
cảm bất thần; hành động theo truyền thống; hành động nhằm mục đích làm
khoa học), con người có hành động lý trí là hành động dựa trên phán đoán về
giá trị. Chúng tôi coi giá trị nhân cách là một nét (hay mảng) nhân cách vận
hành theo cơ chế giá trị, tạo ra hành động dựa trên phán đoán về giá trị. Các
giá trị nhân cách xuất phát có khi từ các giá trị cơ bản của con người như là
quyền sống, quyền hạnh phúc v.v… Quyền sống bắt đầu từ giá trị con người
sinh ra trên đời này như là một con người, tồn tại cùng với mọi người trong
gia đình, cộng đồng, xã hội. Các giá trị này và thái độ, phán đoán (trả lời các
câu hỏi) về giá trị này sâu xa, hay suy cho cùng gắn liền với bản năng sống,
bản năng tự vệ. Cho nên có khi nói nhân cách là ý thức về cái vô thức, qua
đây ta có thể hiểu được trong một số sách về thiền cho rằng thiền giúp người
ta hoàn thiện nhân cách của mình, mà thiền (ở mức thuần thục) tác động đến
cái vô thức qua sự tập trung tư tưởng tác động vào các phần sâu dưới vỏ
não. Không đi sâu vào vấn đề rất phức tạp này chúng tôi chỉ muốn khẳng định
là nhân cách và giá trị nhân cách cũng có sự gắn bó với cơ chế thần kinh
dưới vỏ não, với một số bản năng. Các giá trị nhân cách này được xếp ở cấp
độ sinh thể của con người. Phải nói thêm rằng tuy con người đã bứt ra khỏi
thế giới động vật về mặt sinh thể nhưng nó được hưởng thụ kết quả tinh hoa
của suốt quá trình tiến hóa sinh vật và có khi cả sinh quyển, hàng tỷ năm qua,
đặc biệt 3, 4, 5 triệu năm gần đây. Cho nên trong bộ óc con người, và đi theo
đó là thân thể tinh thần, tâm lý, nhân cách của con người đến nay còn đầy bí
hiểm. Ở đây chỉ khoanh lại vấn đề giá trị nhân cách và đang nói tới các giá trị
nhân cách ở cấp độ sinh thể: giá trị sống, giá trị tự vệ giá trị lứa đôi, bảo vệ
giống nòi, v.v…
Thực ra các giá trị này vừa ở cấp độ sinh thể, vừa ở cấp độ cao hơn.
Có thể gọi các giá trị nhân cách ở cấp độ sinh thể là các giá trị nhân cách sinh
thể. Từ đây phát triển lên thông qua các biến đổi về chất ta có các giá trị xã
hội là các giá trị của cả một nhóm người, một giai tầng, giai cấp, dân tộc nhân
loại. Các giá trị nhân loại là các giá trị chung trước hết bảo đảm sự tồn tại của
loài người, đều gắn liền với các giá trị bảo đảm cuộc sống và sự tồn tại, mà
trước hết là sự sinh ra và sự tồn tại của các sinh thể. Chính vì vậy trong
những điều kiện đặc biệt khó khăn như chiến tranh, đói nghèo, bệnh tật… các
giá trị sống còn (survival), các giá trị nhân cách sinh thể thường nổi lên hàng
đầu, không kể các trường hợp các chiến sĩ cách mạng trong lao tù hay bộ đội,
anh hùng ngoài mặt trận, sống và chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Các giá trị nhân loại bắt nguồn từ giá trị tính người và tình người là hai giá trị
cốt lõi, giá trị gốc, giá trị nhân loại bảo đảm sự tồn tại của cả loài người và
từng con người. Từ hai giá trị này phát triển thành các giá trị xã hội, cộng
đồng của từng nhóm tộc người, của cả một dân tộc, quốc gia, v.v… Rồi từ đó,
con người phát triển, được xã hội hóa, mà có giá trị nhân cách.
Như vậy là các giá trị nhân cách từ mức độ sinh thể qua các giá trị
chung của nhân loại thành các giá trị xã hội khác; như lòng yêu nước, tinh
thần dân tộc, bản sắc văn hóa, chuẩn mực đạo đức, và ở ta, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, dân chủ, thị trường, hội nhập, mở cửa v.v… Từ các giá
trị xã hội chuyển thành giá trị nhân cách qua giáo dục gia đình, giáo dục nhà
trường, giáo dục xã hội và tự giáo dục. Quan hệ giữa giá trị xã hội và giá trị
nhân cách là mối quan hệ cực kỳ phức tạp, không tuyến tính một chiều,
không đơn thuần giữa cái chung và cái riêng hay cái toàn thể và cái bộ phận,
tuy về cơ bản giá trị nhân cách có nguồn gốc lịch sử xã hội - văn hóa. Nhưng
như trên đã trình bày, khảo sát giá trị nhân cách phải tính đến sự liên quan
của từng giá trị nhân cách với cả ba cấp độ:
- Sinh thể.
- Xã hội.
- Nhân cách.
Ví dụ nói đến giá trị sức khoẻ, có thể coi đó là giá trị cá thể biểu hiện ở
cả ba tầng bậc: cơ thể khoẻ mạnh (sinh thể), thoải mái trong cộng đồng (xã
hội), thoải mái tinh thần (nhân cách), tức là có thể coi sức khoẻ là giá trị nhân
cách. Tương tự như vậy, có thể nói tới hạnh phúc, nhất là hạnh phúc lứa đôi,
cũng liên quan cả ba tầng bậc, thậm chí gốc rễ sâu xa của nó là sự tồn tại của
loài người - đặc điểm cơ bản nhất của tính người, tình người. Ở đây có sự
thoả mãn. bản năng và cả biểu hiện cao nhất của ý thức - được người khác
yêu, được tự khẳng định mình… Một ví dụ khác: khí chất là một cơ sở của
nhân cách, nó vừa là di truyền, vừa là tự tạo có cơ sở loại hình thần kinh,
hoặc môn…, vừa do luyện tập mà hình thành nên..
Trong bản hỏi trắc nghiệm NEO PI-R có gần 200 câu là các giá trị nhân
cách trong đó có 6 giá trị (thái độ) đối với sức khoẻ, học vấn, đạo đức, tiền
bạc, quyền lực, hạnh phúc gia đình mà chúng tôi coi là các giá trị cơ bản
(sống còn) của con người. Ngoài ra có hơn 60 câu về 9 vấn đề: lý tưởng phấn
đấu, thái độ chính trị, yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tôn trọng luật pháp, thái
độ học tập, thái độ đối với đồng tiền, hội nhập mở cửa, thái độ đối với môi
trường và thái độ đối với công việc. Như vậy là các câu hỏi mà tác giả NEO
PI-R cũng như 60 câu chúng tôi bổ sung đáp ứng thêm các điều kiện sống
của người Việt Nam hiện nay đều là các câu hỏi nêu lên như là các giá trị xã
hội và yêu cầu những người tham gia thực nghiệm dùng các phán đoán của
mình trả lời các câu hỏi đó, tức là tỏ thái độ cá nhân đối với các giá trị xã hội,
các phán đoán đó được gọi là các giá trị nhân cách. Ở đây một lần nữa có thể
khẳng định nhân cách là một hệ thống thái độ đối với thế giới xung quanh và
với bản thân. Đó là lời tổng kết một thế kỷ nghiên cứu nhân cách của các nhà
tâm lý học. Vận dụng vào điều tra giá trị, có thể thấy hầu hết (hoặc tất cả) các
phán đoán trả lời câu hỏi đều là thái độ của từng người (mà sau tính toán tìm
ra các đại lượng phản ánh thái độ của một nhóm người N), có thể coi đây là
giá trị trung bình của nhân cách, tức là giá trị nhân cách đại diện cho một
nhóm người. Qua đó ta có thể biết được một (hay một phần) thực trạng của
đời sống tâm lý của một nhóm người (có thể suy ra một giai tầng, dân cư một
địa phương, một vùng có khi cả nước). Và một lần nữa có cơ sở để khẳng
định nhân cách là khoảng cách giữa hệ giá trị của từng người (nhóm người)
với giá trị xã hội (chuẩn mực xã hội).
IX. VỀ NHÂN CÁCH THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN Nghiên cứu con người nhất thiết phải nghiên cứu nhân cách. Nghiên
cứu con người Việt Nam phải nghiên cứu nhân cách con người theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vì chế độ chính trị nước ta là chế độ xã hội chủ
nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội
ngày 20/06/1960: "Muốn có chế độ xã hội chủ nghĩa, phải có con người xã hội
chủ nghĩa". Từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), nước ta
chuyển từ nền kinh tế bao cấp, tập trung kế hoạch sang nền kinh tế nhiều
thành phần, nhiều hình thức sở hữu có sự quản lý của Nhà nước, và từ Đại
hội IX (2001) đã khẳng định là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Do đó cũng đặt ra vấn đề hình thành và phát triển nhân cách con
người theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa thể
hiện trong tất cả các mặt đời sống xã hội, trước hết ở con người, giáo dục và
văn hoá. Trong thời kỳ đổi mới, khoa học xã hội đã có bước phát triển mới,
được tăng cường hơn trước nhiều, trong đó đề tài nghiên cứu con người liên
tục có mặt trong 3 chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước (KX-07,
KHXH-04 và KX-05) từ năm 1991 đến nay. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá IX (18-03-2002) về nhiệm vụ chủ
yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới đã nhấn mạnh: cần tập
trung nghiên cứu vấn đề con người đi liền theo vấn đề phát triển văn hoá và
nguồn nhân lực. Đó cũng là sự quan tâm liên tục trong quá trình Đảng lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Ở đây, điểm lại quá trình phát triển quan điểm của
Đảng ta về giáo dục, hình thành phát triển nhân cách con người xã hội chủ
nghĩa, qua đó tìm hiểu lý luận hình thành và phát triển nhân cách con người
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Vấn đề nhân cách định hướng XHCN qua các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước đây trong các Văn kiện chính trị và tài liệu khoa học ở Liên Xô cũ
và các nước XHCN Đông âu có đề cập tới vấn đề nhân cách XHCN. Nhưng
từ ngày các chế độ chính trị ở các nước này sụp đổ, hầu như không có sách
báo nói về vấn đề này nữa. Với các nước XHCN khác như Trung Quốc, Cu
Ba thì không có quan hệ với các cơ quan khoa học có liên quan đến vấn đề
này, vì vậy cũng không có tài liệu gì của họ. Do đó, đề tài chúng tôi khoanh lại
việc tổng thuật vấn đề nhân cách định hướng XHCN trong các văn kiện của
Đảng ta qua các sản phẩm nghiên cứu của KX-07 và KHXH-04.
Có một may mắn cho những người nghiên cứu con người là vấn đề
phẩm chất con người bao giờ cũng được đề cập trong các văn kiện của các
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, phản ánh những suy nghĩ và mong muốn
giáo dục cũng như trong thực tế đã tiến hành công cuộc giáo dục, nhằm hình
thành và phát triển nhân cách các thế hệ phục vụ công cuộc kháng chiến và
xây dựng đất nước.
Qua tìm hiểu những Văn kiện đó, có thể thêm phần hiểu biết nhận thức
về con người Việt Nam, nhân cách con người Việt Nam XHCN.
Văn kiện Đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam (1960) đã khẳng định:
Con người là vốn quý nhất… Sự nghiệp giáo dục của chúng ta phải bồi
dưỡng thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ đất nước, có giác ngộ xã hội
chủ nghĩa, có văn hoá và kỹ thuật, có sức khoẻ, những người phát triển toàn
diện để xây dựng xã hội mới, đồng thời phải phục vụ đắc lực cho việc đào tạo
cán bộ xây dựng kinh tế và văn hoá xã hội chủ nghĩa, và việc nâng cao không
ngừng trình độ văn hoá của nhân dân lao động.
Phải giáo dục quan điểm lao động xã hội chủ nghĩa, tự giác phục tùng
kỷ luật lao động mới, căm ghét bóc lột và kiên quyết trừ bỏ mọi tàn tích của tư
tưởng bóc lột của giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản.
Phải giáo dục chủ nghĩa yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, kết hợp
với tinh thần quốc tế chủ nghĩa của giai cấp vô sản, căm thù đế quốc và
phong kiến, bảo vệ của công, chống tham ô, lãng phí, tinh thần khoa học và
tác phong làm việc mới.
Như vậy là Đại hội III đã đặt ra trong con người mà xã hội chúng ta cần
là con người “giác ngộ XHCN”, tức là phải có nhận thức đúng về chủ nghĩa xã
hội và biến nhận thức đó thành niềm tin có đủ sức mạnh chỉ đạo hành động
cụ thể của người lao động đóng góp vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, đó là một nội dung quan trọng nhất của nhân cách XHCN. Ở đây cũng chỉ
ra quan điểm phát triển toàn diện cọn người, trong đó rất chú ý đến năng lực,
sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của con người có vậy mới có thể
tiến hành được công cuộc xây dựng xã hội mới. Đạo đức, theo truyền thống
của phương Đông và của dân tộc ta, được hết sức coi trọng, với một tinh thần
nền tảng của con người xã hội là tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc kết
hợp với tinh thần quốc tế chủ nghĩa chân chính.
Tiếp theo, Đại hội IV (1976) là Đại hội tiến hành sau Đại thắng mùa
Xuân 1975 thống nhất đất nước sống trong hoà bình. Đại hội này đưa ra quan
điểm giáo dục nhằm phát triển con người mới. Con người mới xã hội chủ
nghĩa là con người Việt Nam mới mà những đặc trưng nổi bật là: làm chủ tập
thể, lao động, yêu nước xã hội chủ nghĩa và tính thần quốc tế vô sản. Đó
cũng là sự kết tinh và phát triển những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn và cốt
cách Việt Nam hun đúc qua bốn nghìn năm lịch sử.
Con người mới là con người có tư tưởng đúng và tình cảm đẹp, có tri
thức và năng lực để làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân.
Con người mới tất yếu phải là con người lao động, biết phát huy truyền
thống lao động cần cù và đấu tranh anh dũng của dân tộc, lao động với tinh
thần tự nguyện, tự giác cao, với đầy đủ nhiệt tình, tận tụy sẵn sàng cống hiến
mọi sức lực và trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; là con người
có tinh thần cách mạng tiến công, không lùi bước trước bất kì khó khăn nào,
coi lao động là vinh dự, là hạnh phúc, là lẽ sống; là con người lao động thật
thà, kiên quyết đoạn tuyệt với thái độ chây lười, khinh lao động, thích sống ăn
bám, coi thường kỷ luật lao động, nói đối, làm dối; là con người biết quý trọng
và bảo vệ của công, lao động một cách có kỷ luật.
Con người mới là con người có lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa nồng
nàn kết hợp nhuần nhuyễn với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng.
Con người mới là con người có tình thương yêu sâu sắc đối với nhân
dân lao động, biết đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ nhau trong lao động chiến đấu
và xây dựng cuộc sống tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người, lấy đó làm lý
tưởng cao đẹp, làm hạnh phúc lớn của mình.
Con người mới là con người biết xây dựng gia đình hạnh phúc trên cơ
sở của một xã hội hạnh phúc có trách nhiệm đầy đủ và một tình yêu chân thật
trong quan hệ vợ chồng, có trách nhiệm cao đối với việc xây dựng con cái
thành những con người mới.
Xây dựng con người mới Việt Nam như vậy là xây dựng con người
phát triển toàn diện, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa và
phong phú.
Luận điểm ở đây được phát biểu qua các khái niệm “con người mới",
“làm chủ tập thể” là những tư tưởng hình thành nên trong thời ấy. Sau này,
qua thực tiễn kiểm nghiệm, tư tưởng "làm chủ tập thể" không được phát triển.
Tư tưởng con người mới" bây giờ có người dùng, có người không dùng. Với
căn cứ khoa học là con người hiện đại được coi là từ con người
“Homosapiens” xuất hiện cách đây khoảng 10 vạn năm. Từ đó, cơ thể con
người về đại thể không thay đổi nữa, mọi sự sáng tạo do con người làm ra
đều được ghi lại trong các sản phẩm ở ngoài cơ thể con người. Về mặt tinh
thần, con người ngày nay thừa kế cả một di sản của mấy triệu năm tiến hoá
loài người để lại, như chính Văn kiện Đại hội VI đã ghi: Con người Việt Nam
ngày nay là "kết tinh và phát triển những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn và cốt
cách Việt Nam hun đúc qua 4 nghìn năm lịch sử". Vấn đề này đã được trình
bày trong bài "Con người hay con người mới". Không nên dùng thuật ngữ
"con người mới".
Ngoài hai khái niệm do Đại hội V đưa ra vừa trình bày ở trên, nội dung
xã hội chủ nghĩa trong nhân cách con người đã tiếp nối phát triển những ý
tưởng cơ bản về nhân cách mà xã hội ta cần như Đại hội III đã đưa ra, nghĩa
là vẫn là con người có tư tưởng XHCN (yêu nước XHCN và tinh thần quốc tế
vô sản trong sáng), người lao động đủ năng lực và sẵn sàng cống hiến cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lần này nhấn mạnh thêm thành phần
tình cảm (tình thương yêu sâu sắc đối với nhân dân lao động), vẫn kiên trì
quan điểm phát triển toàn diện con người.
Tư tưởng này - tư tưởng coi trọng thành tố tình cảm trong nhân cách,
tiếp tục khẳng định và phát triển trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương trình Đại hội V (1981) thành gần như một châm ngôn thương
nước, thương nhà, thương người, thương mình", coi biểu tượng của tinh thần
dân chủ, bình đẳng trong quan hệ người - người, tạo nên sức mạnh văn hoá
dân tộc suốt quá trình lịch sử bốn nghìn năm.
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đưa ra đường lối đổi
mới đất nước, đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhân tố con người,
phát huy yếu tố người; gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, lấy việc
phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, lấy sự quan
tâm đến con người và thái độ tôn trọng lẫn nhau là một tiêu chuẩn đạo đức
trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội. Trong các phẩm chất của con
người đặc biệt nhấn mạnh sức sáng tạo, tài năng, nhiệt tình lao động và năng
suất lao động, việc làm, thu nhập, trật tự, kỷ cương, tôn trọng và đảm bảo các
quyền công dân, chú ý đến các đối tượng thiệt thòi (già yếu, không nơi nương
tựa, trẻ mồ côi, trẻ tàn tật, người già cô đơn), tính cộng đồng, tính đa dạng và
bản sắc dân tộc, tính thống nhất dân tộc. Đại hội này là Đại hội đầu tiên đưa
ra luận điểm hết sức coi trọng "yếu tố con người" trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, và xác định mục tiêu của giáo dục là "hình thành và phát
triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa", nâng cao trình độ giác ngộ xã hội
chủ nghĩa" của nhân dân. Theo tư tưởng này từ cuối những năm 80 đã bắt
đầu chuẩn bị nghiên cứu vấn đề này cho thời kỳ 1991 - 1995. Theo Nghị
quyết của Đại hội VII (1991) và Cương lĩnh mới của Đảng (1991) đã có
Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước mã số KX-07 với đầu đề là
con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội", 5 năm sau
(1996 - 2000) lại có Chương trình mã số KHXH-04 với đầu đề là phát triển
văn hoá, xây dựng con người thời kỳ CNH, HĐH". Và đến 5 năm (2001 -
2005) có Chương trình KX-05, trong đó có đề tài KX-05-07, theo đó có yêu
cầu tổng thuật tình hình nghiên cứu, cũng như cơ sở lý luận của việc hình
thành và phát triển nhân cách định hướng xã hội chủ nghĩa đang trình bày ở
đây. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở rà một thời kỳ mới trong
tiến trình cách mạng Việt Nam - thời kỳ đổi mới, kinh tế nhiều thành phần có
sự quản lý của Nhà nước, hội nhập mở cửa, đường lối đổi mới cũng đã mở ra
một thời kỳ mới trong phát triển khoa học xã hội, trong đó rất chú ý đến các
khoa học nghiên cứu con người. Chưa bao giờ ở nước ta lại có nhiều công
trình khoa học về con người và cũng là làm nhiều cho con người như trong
những năm đổi mới.
Đại hội VI mở đầu, các Đại hội sau tiếp nối phát triển, đổi mới, khoa
học, ngày càng rõ nét về vai trò của con người trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, từng bước thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh: "Công việc đầu
tiên là công việc với con người". Đại hội VIII (1991) chú trọng "phát huy sức
mạnh của nhân tố con người và vì con người", "phát triển sự nghiệp khoa
học, giáo dục, văn hoá nhằm phát huy nhân tố con người và vì con người
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Sứ mệnh của văn học, nghệ
thuật cũng nhấn mạnh vì sự hoàn thiện con người, bồi dưỡng tâm hồn, tình
cảm cao đẹp, đề cao tinh thần tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, phấn
đấu làm cho dân giàu nước mạnh, phê phán những thói hư tật xấu, cái độc
ác, thập hèn. Có thể nói, ngày càng khẳng định được một xu thế giáo dục,
hình thành phát triển con người, để thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất
nước; cần nhấn mạnh xu thế gắn với con người đời thường. Con người từ khi
xuất hiện đến ngày hôm nay, và chắc cả ngày mai nữa lúc nào và bất cứ một
ai cũng đều mong muốn hoàn thiện mình, trong mỗi con người luôn có sự
giằng co giữa cái thiện và cái ác, luôn phải chống cái thấp hèn trong con
người.
Làm sao mọi người có sức khoẻ và trí tuệ, tâm hồn và tình cảm, đem
cái vốn liếng này ra phục vụ mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, nâng
cao đời sống và tinh thần cho mình, cho gia đình mình và cộng đồng. Như
vậy là đg góp vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội VII
đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh đã xác định nội hàm của xã hội chủ nghĩa ờ Việt Nam là:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện cá nhân (PMH nhấn mạnh)
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên
thế giới.
Từ đây, ta có thể xác định rõ hơn nội hàm cụ thể định hướng XHCN
trong nhân cách con người: tinh thần yêu nước, lao động làm chủ, tích cực
phát triển kinh tế, trong đó chế độ công hữu là chủ yếu, có bản sắc văn hoá
dân tộc, tiên tiến, đoàn kết các dân tộc anh em cùng chung sống trên dải đất
Việt Nam và có tinh thần hữu nghị, hợp tác với các dân tộc khác trên thế giới.
Có hẳn một tiêu chí về con người trong Cương lĩnh, đây có thể coi là thành
phần của các giá trị định hướng xã hội chủ nghĩa, có thể điều tra định lượng
và khái quát định tính làm cơ sở cho công việc giáo dục thế hệ trẻ nói chung,
giáo dục tư tưởng - đạo đức nói riêng, ở dưới sẽ trình bày tiếp.
Bây giờ ta xem tiếp trong Văn kiện Đại hội VIII Đảng ta (1996), các tư
tưởng về con người bắt đầu từ Đại hội VI một lần nữa đã được khẳng định và
cụ thể hoá vào các văn bản của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ hai (1996) và lần thứ năm khoá VIII (1998) nhấn mạnh cần xây dựng
con người có lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, một nét không thể
thiếu được trong nhân cách mà mục tiêu giáo dục của chúng ta phải đạt tới:
khoẻ, đạo đức, có trình độ kỹ thuật và kỹ năng lao động giỏi, định hướng
XHCN" trong nhân cách ở con người chúng ta bao gồm cả tinh thần độc lập
dân tộc và ý thức giác ngộ XHCN.
Bước vào năm đầu tiên của thế kỷ XXI, Đảng ta tiến hành Đại hội IX
(2001), xác định hai thập kỷ đầu của thế kỷ mới là thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2020 về cơ bản nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại và xác định mục tiêu của giai đoạn cách mạng
ngày nay cụ thể là: "Nước mạnh, dân giàu, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh". Cũng có thể coi đây là nội dung định hướng XHCN. Để thực hiện được
mục tiêu này, Đại hội tiếp tục nhấn mạnh: tạo chuyển biến mạnh mẽ về giáo
dục đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người (PMH nhấn
mạnh).
2. Luận điểm phát triển toàn diện con người Việt Nam - cơ sở lý luận hình thành nhân cách định hướng XHCN
Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1848) Các Mác và Ăngghen đã đưa
ra khái niệm “phát triển tự do con người” là mục tiêu của một xã hội tốt đẹp.
Gần một trăm năm mươi năm sau chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc
(UNDP) tiến hành đo đạc chỉ số phát triển người (HDI) và từ năm 1990 hàng
năm công bố HDI của các nước trên thế giới. Theo các tác giả của UNDP,
phát triển người phải tính đến cả khả năng chủ quan của con người lẫn các
điều kiện khách quan, tức là nói đến tăng khả năng lựa chọn của con người
và điều kiện thoả mãn sự lựa chọn đó. Trong một số bài đã mở rộng khái
niệm phát triển người ít phát triển nhân cách, Các Mác và Ăngghen thì nhấn
mạnh phát triển cá tính, ở đây nói thêm: Phát triển nhân cách định hướng
XHCN.
Ở đây trình bày quan điểm phát triển toàn diện con người theo kết quả
nghiên cứu của KHXH-04. Phát triển toàn diện con người là sự phát triển
khắc phục tình trạng phiến diện, què quặt, hướng tới khắc phục dần tình trạng
tha hoá. Đó là sự "Phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có" (Hồ Chí Minh,
tháng 9/1945), tức là làm cho toàn bộ thể lực và trí lực phát triển hài hoà, tiến
tới phát triển tự do mọi đặc điểm tâm lý của con người. Từ cách hiểu này Hồ
Chí Minh khái quát lên rằng cấu trúc của nhân cách là Đức và Tài. Cái Đức
của người Việt Nam trước hết là tinh thần phụng sự Tổ quốc; nước mình là
nước XHCN, thì phải có tình cảm yêu mến đất nước XHCN của mình; Tài đây
là năng lực, là tay nghề mà môi người phải hình thành và phát triển, cũng
phải đem ra phát triển kinh tế - xã hội làm cho dân giàu, nước mạnh, gia đình
và bản thân hạnh phúc. Con người với tư cách là thành viên của xã hội, sống
trong xã hội phải hành động, hoạt động như vậy.
Cụ thể hoá cấu trúc của nhân cách, nhân cách bao gồm xu hướng,
năng lực, hoạt động tạo ra sản phẩm, hệ thống thái độ, tương quan giữa hệ
giá trị của cá nhân và hệ giá trị của cộng đồng. Ở trên ta vừa nói tới xu hướng
xã hội của nhân cách, thể hiện xu hướng tâm lý của từng cá nhân, kết hợp cái
cá nhân và cái xã hội, biểu hiện cái nhìn của cá nhân đối với thế giới xung
quanh - theo đa nhân cách lấy thế giới quan và nhân sinh quan làm tiêu điểm,
hạt nhân của lý tưởng - cái mà con người hướng cả cuộc đời (hay một đoạn
đường đời) vào theo đuổi, thực hiện. Lý tưởng phản ánh cả nhận thức, ước
mơ, động cơ, tình cảm và hành động, hoạt động vươn tới lý tưởng. Vì vậy,
nói tới nhân cách định hướng XHCN là nói tới giác ngộ XHCN, yêu chủ nghĩa
xã hội và có năng lực lao động nghề nghiệp vì cuộc sống và hạnh phúc của
cá nhân, của gia đình và cũng là vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân tự chủ, văn minh. Cấu trúc của nhân cách định hướng XHCN
ở nước ta hiện nay mà toàn bộ sự nghiệp giáo dục, cả giáo dục nhà trường.
giáo dục gia đình và giáo dục xã hội đều phải nhằm tới được cụ thể hoá thành
các đức tính sau:
- Có tinh thần yêu nước: tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và CNXH, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu,
đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý
thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao với lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình
độ thẩm mỹ và thể lực.
Điều 2 (Luật giáo dục 1998) đã được sửa đổi và trình Quốc hội trong
tháng 5 năm 2005 cũng quy định mục tiêu giáo dục của Nhà nước hiện nay
và sắp tới như sau:
Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Có kiến nghị cần bổ sung một số phẩm chất nhân cách định hướng
XHCN chuẩn bị nguồn nhân lực phát triển đất nước có nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, hội nhập, mở cửa.
Mục tiêu giáo dục này cũng nêu lên một kiểu cấu trúc nhân cách quán
triệt quan điểm phát triển giáo dục toàn diện con người Việt Nam (đức, trí, thể
mỹ, nghề nghiệp) có lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, theo yêu
cầu của xã hội công dân mà trước hết mỗi con người đều phải là người lao
động chân chính - con người có hệ thống thái độ thực sự là con người đối với
mình, với người khác và với công việc, như Hồ Chí Minh đã viết trong Đường
cách mệnh (1927).
3. Giá trị nhân cách định hướng XHCN
Từ Đại hội III Đảng Cộng sản Việt Nam (1960) đã xác định miền Bắc
nước ta sẽ chuyển từ chế độ dân chủ nhân dân quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
sau Đại thắng mùa Xuân 1975 đã thành đường lối chung của cả nước. Sau
Đại hội VI (1986) đã khẳng định rằng chúng ta bỏ qua chủ nghĩa tư bản,
nhưng sử dụng cơ chế thị trường, sản xuất hàng hoá, coi đây là thành tựu
chung của văn minh nhân loại.
Vận dụng vào hoàn cảnh nước ta, từ Đại hội IX nước ta xây dựng “nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Theo đường lối chung này,
công tác tư tưởng chính trị, mục tiêu giáo dục nhà trường đều có nội dung
giáo dục tư tưởng định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa
trở thành một giá trị chung của xã hội và nền giáo dục, coi đây là một vấn đề
cốt yếu của cách mạng, vấn đề có tính nguyên tắc.
Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (3/2002)
đã ra Nghị quyết về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong
tình hình mới. Hội nghị nhận định: "Trong quá trình đổi mới, phần đông cán
bộ, đảng viên kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng… có nhận thức đúng
hơn về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta… ".
Đồng thời Hội nghị cũng chỉ ra: "Hiện tượng phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa
sút phẩm chất đạo đức, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá
nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng có chiều hướng phát triển.
Chiều hướng tiêu cực này xuất hiện rõ nét từ khi chuyển đổi sang kinh
tế thị trường. Đầu những năm 90 thế kỷ trước, chương trình khoa học công
nghệ cấp nhà nước KX-07 có hai đề tài điều tra giá trị xã hội và giá trị nhân
cách đã ghi lại một số liệu nói lên tình hình này. Đó là, có thể đi đến nhận xét
chung rằng thang giá trị của xã hội chúng ta đang thay đổi cực kỳ nhanh
chóng, rộng khắp, có người cho rằng đang có biến động thái quá, thậm chí có
nơi cho là mất định hướng, có khi đảo lộn, suy thoái, tha hoá mạnh mẽ, có bi
kịch, khủng hoảng dẫn tới sự đánh giá rất khác nhau về thế giới tinh thần, về
đạo đức trong xã hội, nhất là đạo đức của thế hệ trẻ. Sự chuyển động trong
thang giá trị ở nhiều người đang diễn ra theo hướng: từ chỗ coi trọng các giá
tế chính trị - xã hội sang các giá trị kinh tế - vật chất, từ chỗ lấy con người xã
hội - tập thể làm mẫu mực sang chỗ quá nặng về con người cá nhân, từ quan
niệm lấy đức làm gốc trong nhân cách sang chỗ cốt là làm ăn được, từ chỗ
coi thường sang ưu ái người giàu và khái quát lên, từ chỗ sống có lý tưởng
sang lối sống thực dụng… Tất nhiên, bên cạnh đã có những chuyển động tích
cực, như năng động hơn, dám cạnh tranh, không chờ đợi bao cấp, tinh thần
tự chịu trách nhiệm cao hơn, thậm chí dám chịu rủi ro…
Trong kết luận chung vừa nêu ở trên, trong biến động thang giá trị như
vậy, vấn đề lý tưởng định hướng xã hội chủ nghĩa trong nhân cách con người
Việt Nam nói chung, nhất là ở thế hệ trẻ trở thành một vấn đề đòi hỏi có sự
quan tâm đặc biệt. Trong khi một số người đáng kể (44% trong 678 người;
trong đó 50% công nhân; 43% nông dân, 38% sinh viên) vẫn tin tưởng vào
tương lai tốt đẹp của nhân loại thì có một tỉ lệ khá cao (42%) dao động về lý
tưởng phấn đấu. Tuy vậy, tỷ lệ những người được hỏi (597 người) không
muốn vào Đoàn, vào Đảng không cao (38,7%) nhất là so với tỷ lệ Đảng viên
trong nhân dân là một tỷ lệ rất nhỏ đa số họ (khoảng 80%) không coi trong
định hướng lý tưởng cho thánh niên. Hồi đó (1993 - 1994) chế độ chính trị ở
Liên Xô và các nước Đông Âu mới bị sụp đổ, ảnh hưởng rất rõ rệt lòng tin của
người dân đối với chủ nghĩa xã hội: trong 538 người trả lời có (34,9%) mất
lòng tin vào chủ nghĩa xã hội.
Sở dĩ tình hình còn được như vậy vì ở ta chủ nghĩa xã hội thực sự đã
mang lại cho dân tộc; cho con người nhiều lợi ích thiết thực: độc lập, thống
nhất, ruộng đất, công việc, học hành… Làm sao từ đây nâng lên tầm tư tưởng
XHCN cho các thế hệ nối tiếp nhau trên cơ sở họ rất tôn trọng những giá trị
chung như hoà bình, dân chủ, tự do, nhân đạo, cũng như những giá trị cơ
bản như lòng yêu nước, -tinh thần dân tộc, các quyền của con người.
Một đề tài khác trong KX-07, đề tài KX-07-102 điều tra về giá trị nhân
cách ở 4.986 người thuộc 7 nhóm xã hội: học sinh, sinh viên, thanh niên,
nông thôn, công nhân viên chức, cán bộ khoa học kỹ thuật, tuổi từ 15 đến 45,
ở cả 3 miền trong nước… Các số liệu của đề tài này cũngcho các kết quả
tương tự đề tài KX-07-04 vừa trình bày ở trên. Ví dụ, chỉ có 12% tổng số
người được hỏi là có ý thức định hướng XHCN trong mọi hoạt động; 70,7%
có niềm tin vào Đảng và Nhà nước; so sánh hai lứa tuổi 46 (I) và 35 (II), tức là
lứa tuổi sống nhiều trong thời kỳ bao cấp và lứa tuổi lớn lên (sau 25 tuổi) và
trưởng thành trong thời kỳ kinh tế thị trường, ta thấy có sự khác biệt khá rõ
trong thái độ đối với giá trị tập thể - xã hội: (I) = 78,4 %, (II) = 58,1%, nhóm (I)
hướng vào giá trị tập thể - xã hội nhiều hơn nhóm (II).
Để hiểu được tình hình phức tạp đối với giá trị định hướng XHCN, ta
xem thái độ của những người được hỏi đối với giá trị "sống có mục đích"
trong 20 giá trị được mang ra hỏi, họ xếp giá trị hoà bình là số 1, tự do - 2,
sức khoẻ - 3, việc làm - 4, công lý - 5, học vấn - 6, gia đình - 7, an ninh - 8,
niềm tin - 9, nghề nghiệp - 10, sống có mục đích - 11, cao hơn các giá trị tình
nghĩa - 12, tự trọng - 13, chân lý - 14, tự lập - 15, tình yêu - 16, sáng tạo - 17,
cái đẹp - 18, cuộc sống giàu sang - 19, địa vị xã hội - 20.
Bảng số liệu này giúp ta hiểu vấn đề giáo dục lý tưởng, niềm tin cho thế
hệ trẻ trong thời kỳ đổi mới thật có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Và vốn con người
sống nhiều năm trong cơ chế bao cấp, tập trung, quan liêu, giáo dục nhân
cách đang đặt ra bao vấn đề ngổn ngang, chẳng hạn như những người được
hỏi xếp giá trị sáng tạo đứng thứ 17/20 các giá trị được đưa ra điều tra, cái
đẹp cũng được rất ít người đánh giá cao, địa vị xã hội được coi trọng, chứng
tỏ cuộc sống còn nặng về ranh giới sống, còn giành giật lấy những điều kiện
tồn tại tối thiểu. Qua đây, ta thấy cần tiếp tục nghiên cứu lâu dài thang giá trị
của người dân chúng ta, để từ đó đi đến định hướng giá trị và giáo dục giá trị,
theo yêu cầu của Nhà nước và xã hội.
Chính vì vậy, trong những năm tiếp theo (1996 - 2000) nhà nước đã
quyết định có chương trình "Phát triển văn hoá, xây dựng con người trong
thời kỳ công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH)", với mã số KHXH-04,
trong đó có đề tài KHXH-04-07 "Chiến lược phát triển toàn diện con người
Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Một đề tài
nhánh của đề tài chuyên sâu về phần đạo đức có thể cung cấp một số số liệu
giúp ta hiểu định hướng XHCN con người Việt Nam vào cuối thế kỷ XX. Đề tài
nhánh này đã dùng phương pháp điều tra giá trị nhân cách như các công
trình điều tra đang dùng ở trên thế giới và ở nước ta, năm 1997 - 1998 đã hỏi
666 người, phần lớn là học sinh, sinh viên. Các số liệu điều tra này cho thấy
về cơ bản thanh niên của chúng ta đa số vẫn có đạo đức tốt, về cơ bản trong
nhân cách của họ vẫn rõ nét các phẩm chất thể hiện đạo lý làm người, tôn
trọng các quan hệ người - người (kính trọng, biết ơn thầy cô giáo 99,7%, hiếu
thảo với ông bà, cha mẹ 99,1 % v.v)…
Đáng chú ý là xuyên suốt chiều dài lịch sử, cũng như các cuộc điều tra
giá trị đã tiến hành trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX một lần nữa đem lại
minh chứng khẳng định là tinh thần dân tộc, lòng yêu nước luôn giữ một vị trí
xứng đáng trong nhân cách, tuy các tỷ lệ người trả lời đánh giá các giá trị về
quyền, nghĩa vụ công dân không được cao bằng các giá trị lòng biết ơn, hiếu
thảo, tình anh em (96,8%) yêu quý và bảo vệ Tổ quốc (87,9%) trung thành với
Tổ quốc (87,6%); tỉ lệ vừa nêu ở đây được một tỷ lệ khác làm sáng tỏ, đó là
có tới (32,8%) các em được hỏi trả lời rằng có nguyện vọng có quốc tịch
nước ngoài; có tới (32,4%) người được hỏi đánh giá là đạo đức của học sinh,
sinh viên đang xuống cấp nghiêm trọng, và (63,1%) đánh giá là cái tốt và cái
xấu đang xen lẫn nhau.
Trong tình hình như vậy đại đa số người được hỏi (86,2)% vẫn biểu thị
lòng tin tưởng vào đường lối của Đảng, 18,7% sinh viên có nguyện vọng gia
nhập hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam (hiện nay số đảng viên của Đảng
hơn 2 triệu, dân số 80 triệu, trong đó tính số thành niên khoảng 50% tức là tỷ
lệ đảng viên trên dân số thành niên khoảng 4 - 5%) các chỉ số này nói lên tính
chất định hướng XHCN trong nhân cách thanh niên học sinh, sinh viên của
chúng ta ngày nay. Đây là một vấn đề cực kỳ phức tạp, đòi hỏi phải dầy công
nghiên cứu, kiên trì giáo dục, cả giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo
dục xã hội nhất là làm sao các em học sinh, sinh viên tự giác ngộ, tự giáo dục
hình thành và phát triển lý tưởng chính trị của đời mình bên cạnh các phẩm
chất khác trong nhân cách, nhằm ngày càng ăn nhập (bớt khoảng cách) giữa
các giá trị, thước đo giá trị, định hướng giá trị của xã hội và của bản thân. Với
suy nghĩ đó, đề tài KX-05-07 trong KX-05 (2001 - 2005) tiếp nối các chương
trình trước, đã nêu ở trên, nghiên cứu "Xây dựng con người Việt Nam theo
định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa và hội
nhập".
Tóm lại, căn cứ vào nhân cách truyền thống và xu hướng nghiên cứu
con người đầu thế kỷ XXI, đồng thời xuất phát từ những khái niệm công cụ,
quan điểm của Đảng và Hồ Chí Minh về con người, đề tài sẽ được triển khai
nghiên cứu theo hai hướng chính là cách tiếp cận nhân cách qua trắc nghiệm
và cách tiếp cận giá trị qua điều tra xã hội học để từ đó đi đến cách tiếp cận
vấn đề xây dựng con người Việt Nam với cấu trúc nhân cách, giá trị nhân
cách định hướng XHCN.
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUĐề tài KX-05-07 được triển khai qua làm trắc nghiệm và điều tra xã hội
học, một cuộc phỏng vấn sâu cá nhân, tuy nhiên về cuộc điều tra định hướng
giá trị người Việt Nam (đối tượng trong nước) chúng tôi sẽ trình bày ở một
cuốn sách khác. Chương này trình bày các phương pháp cũng như nội dung
đã tiến hành trong các cuộc trắc nghiệm, điều tra và phỏng vấn với các phần
như sau:
- Trắc nghiệm điều tra nhân cách NEO PI-R có sửa đổi và bổ sung (A).
- Phỏng vấn sâu (B).)
- Điều tra quan điểm giá trị người Việt Nam định cư ở nước ngoài (C).
- Tổng hợp số lượng nghiệm thể và địa bàn nghiên cứu (D).
- Cách tính (xử lý) các số liệu điều tra (E).
A. TRẮC NGHIỆM ĐIỀU TRA NHÂN CÁCH NEO PI-R
I. THUYẾT 5 NHÂN TỐ LỚN CỦA NHÂN CÁCH1. NEO PI-R lấy thuyết 5 nhân tố lớn của nhân cách làm cơ sở lý
luận
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta đều nhận thấy như người một
khác không ai giống ai và sự khác nhau này thể hiện ra từ những hình thức
đơn sơ nhất. Mục đích của thuyết 5 nhân tố FFM (Five Factor Model) là nhằm
"quan sát người khác; ghi chép lại những sự khác biệt giữa các cá nhân đó".
Qua nghiên cứu từ vựng (lexical study), người ta giả định rằng "sự khác biệt
giữa các cá nhân có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động con người được ký
hiệu hóa thành ngôn ngữ (ngôn ngữ tự nhiên) sử dụng hằng ngày (giả thuyết
từ vựng cơ bản = fundamental lexical hypothesis; Goldberg, L.R., 1981). Do
đó nếu tập trung, phân loại, chỉnh lý các từ ngữ biểu hiện sự khác biệt cá
nhân (đặc tính ngữ) có trong từ điển hay những mô tả người có trong tiếp xúc
và ghi chép thì có thể nhìn thấy cấu trúc của nhân cách.
Những nghiên cứu về từ vựng được bắt đầu từ Alloprt, G.W. và Odbert,
H.S. (1936) cùng với sự phát triển của phương pháp phân tích nhân tố đã
phát triển thành ghi chép nhân cách dựa vào 5 nhân tố. Tiếp theo các nghiên
cứu của Tupes, E.C. và Christal, R.E. (1961) rồi Norman, W.T. (1963),
Goldberg, L.R. trên cơ sở xem xét lại bản chất ý nghĩa tâm lý của các yếu tố,
đã đi đến chỗ coi 5 nhân tố là mô hình có thể ghi chép một cách bao quát về
nhân cách vượt qua sự phân loại đơn thuần về đặc tính ngữ (hay những từ
ngữ biểu thị đặc tính nhân cách, D.Peabody, D. & Goldberg, L.R., 1989).
Phương pháp cấu thành thước đo trên cơ sở lý thuyết nhân cách và sử
dụng thước đo đó để ghi chép về những sự khác biệt cá nhân được gọi là
nghiên cứu phiếu hỏi hay nghiên cứu qua hỏi đáp viết (questionnaire study).
Trong khi nghiên cứu từ vựng xuất phát từ sự quan tâm đến từ vựng (đặc tính
ngữ) và cơ cấu của nó để hệ thống hóa chúng theo phương thức từ dưới lên
(bottom up) và tìm ra đặc tính nhân cách ở thứ nguyên cao thì trong nghiên
cứu qua hỏi đáp viết chủ yếu người ta dùng phương pháp xác minh cấu trúc
nhân cách từ lí luận với phương thức từ trên xuống (top down). Trong bối
cảnh như vậy những nghiên cứu nhằm nắm bắt nhân cách một cách trả quát
đi tìm những mô hình dễ hiểu được tiến hành nhiều lần, dần dần những thành
tựu của nghiên cứu từ vựng và nghiên cứu hỏi đáp viết được đưa vào kết
hợp lại và hình thành nên FFM. Kết quả là thước đo với 5 nhân tố định sẵn ra
đời. Trọng số đó có NEO PI-R (Revised NEO Personality Inventory) một mô
hình hiện nay đang được sử dụng rộng rãi nhân đã được Costa, P.T., Jr và
Mccrae, R.R. đưa ra năm 1992. Thước đo này đo 5 mặt (lĩnh vực) của nhân
cách, mỗi mặt bao gồm 6 chỉ số và mỗi chỉ số được đo bằng 8 hành vi thể
hiện (8 items). Như vậy tổng cộng trắc nghiệm có 240 item. Với giả định về cơ
cấu tầng bậc của các mặt và chỉ số, người ta hy vọng sẽ nắm bắt được nhân
cách một cách tổng quát và chi tiết.
2. Các thành phần của bộ trắc nghiệm NEO PI-R
Bộ trắc nghiệm NEO PI-R gồm 5 thang đo nhân tố với 30 tiểu thang đo.
1. Cân bằng cảm xúc (Neuroticism, gọi là mặt N: nhiễu tâm):
- Lo âu (N1). có 8 item,
- Thù nghịch, hung tính (N2): có 8 item,
- Trầm cảm (N3): có 8 item,
- Tự ty, mặc cảm (N4): có 8 item,
- Khó kiểm soát xung tính (N5): có 8 item,
- Dễ bị thương tổn (N6): có 8 item,
2) Hướng ngoại (Extraverson, gọi là mặt E: hướng ngoại)
- Cởi mở thân thiện (El): có 8 item,
- Quảng giao (E2): có 8 item,
- Tự khẳng định (E3): có 8 item,
- Tích cực hoạt động (E4): có 8 item,
- Tìm kiếm sự kích thích (E5): có 8 item,
- Xúc cảm tích cực (E6): có 8 item,
3) Cởi mở, ham hiểu biết (Opennes, gọi là mặt O: cởi mở)
- Giàu trí tưởng tượng (O1): có 8 item,
- Óc thẩm mỹ (O2): có 8 item,
- Hiểu xúc cảm tình cảm của mình (O3): có 8 item,
- Đa dạng hoá hoạt động (O4): có 8 item,
- Giàu ý tưởng (O5): có 8 item,
- Các giá trị (O6): có 8 item,
4) Dễ thương, dễ chấp nhận (Agreeableness, gọi là mặt A: dễ thương):
- Niềm tin (A1): có 8 item
- Thẳng thắn, chân tình (A2): có 8 item
- Vị tha (A3): có 8 item
- Phục tùng (A4): có 8 item
- Khiêm tốn (A5): có 8 item
- Nhân hậu (A6): có 8 item
5) Tận tâm, chu đáo, có ý chí phấn đấu (Conscientiousness, gọi là mặt
C: có ý chí phân đấu)
- Năng lực (C1): có 8 item
- Ngăn nắp (C2): có 8 item
- Trách nhiệm, bổn phận (C3): có 8 item
- Nỗ lực thành đạt (C4): có 8 item
- Kỷ luật tự giác (C5): có 8 item
- Thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng (C6): có 8 item
3. Mô tả tổng thể nhân cách cá nhân theo 5 nhân tố
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, các tác giả NEO PI-R đã mô tả nhân
cách theo 5 nhân tố như sau.
Người có điểm trung bình ở thang đo N (Neuroticism: nhiễu tâm) hay
bất thường về tâm thần, là những người có tính ổn định về mặt xúc cảm ở
mức trung bình. Họ là những người trải nghiệm một khối lượng những stress
tiêu cực ở mức vừa phải và trong cuộc sống họ có sự cân bằng giữa sự hài
lòng và không hài lòng. Họ có lòng tự trọng không quá cao, cũng không quá
thấp. Năng lực ứng phó với stress của họ ở mức trung bình như những người
bình thường khác.
Điểm khác biết rõ nhất của nhân cách người có điểm số trung bình trên
mặt E (Extraversion: hướng ngoại), là thích làm nhiều việc một mình hoặc với
nhóm nhỏ. Họ là những người không thích chỗ đông người, không thích hội
hè, nơi ồn ào, họ có xu hướng thích sự tĩnh lặng, thanh bình và có sự hạn
chế trong các tương tác xã hội. Những ai biết họ thường mô tả họ như là
những người về hưu, nghiêm trang. Sự thật những người hướng nội này
không nhất thiết phải là những người thiếu kỹ năng giao tiếp xã hội. Rất nhiều
người hướng nội vẫn tỏ ra thành thạo trong các giao tiếp xã hội, mặc dù họ
vẫn thích né tránh các giao tiếp xã hội.
Người có điểm trung bình ở mặt O (Openness: cởi mở), là những
người thích trải nghiệm vì lợi ích riêng của họ. Họ thích sự lãng mạn và thích
sự phong phú đa dạng. Họ nhạy cảm với những tình cảm riêng tư của mình
và có khả năng tốt hơn những người bình thường khác trong việc nhận diện
những xúc cảm của người khác. Họ cũng là những người có hiểu biết tốt và
biết thưởng thức vẻ đẹp trong nghệ thuật, vẻ đẹp trong thiên nhiên. Họ mong
muốn, quan tâm đến những ý tưởng mới, những giá trị mới và có thể họ là
những người không thích tuân theo những quy ước trước hiện có, mà thích
có những cách nhìn riêng của mình. Bạn bè thường đánh giá những người
này như là những người “độc đáo” hay tò mò.
Người có điểm ở mức trung bình trên thang đo C (Conscientiousness:
có ý chí phấn đấu). Những người đàn ông có điểm số ở mức này có nhu cầu
thành đạt ở mức vừa phải. Họ có thể xếp công việc sang một bên để tham gia
các hoạt động giải trí, nghỉ ngơi. Họ cũng là người có khả năng tổ chức ở
mức trung bình, đáng tin ở mức trung bình, và họ có tính kỷ luật tự giác ở
mức vừa phải.
4. Nhược điểm và ưu điểm của mô hình 5 nhân tố
Các tác giả của FFM và trắc nghiệm NEO PI-R đã đưa ra các nhận xét
sau đây của mô hình 5 nhân tố nhân cách.
Nhược điểm
Có người cho rằng, FFM bắt nguồn từ nghiên cứu từ ngữ, phân loại và
chỉnh lý các từ ngữ ghi chép sự khác biệt giữa các cá nhân. Năm nhân tố có
được từ sự ghi chép các đặc trưng hành động như vậy chẳng qua chỉ là thứ
nguyên nhận thức người khác của người quan sát chứ không phái là cấu trúc
nhân cách. Đây là một phê phán dai dẳng nhất đối với FFM. Thuộc tính
(attribute) có thể quan sát được được biểu hiện ra ở từ vựng vốn dĩ sinh ra từ
nguyên do này vẫn chưa được làm rõ và như vậy cũng có nghĩa là không thể
giải thích đầy đủ về khởi nguồn của sự khác nhau giữa các cá nhân. Hơn nữa
việc lý giải dựa vào đặc tính chung quá mang tính bề ngoài, vì có thể nói ở
đây thiếu quan điểm tìm hiểu tính cách dựa trên cơ sở bao hàm cả kinh
nghiệm chủ quan của từng người hoặc do tính cách chung chung và trừu
tượng như vậy liệu có thể đo được hành động trên thực tế đến mức nào cũng
là câu hỏi chưa giải đáp được. Thêm vào đó về bản chất của các nhân tố cơ
bản đã có sự nhất trí nhưng việc lý giải chúng và đặt tên cho từng nhân tố lại
hoàn toàn không có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Ví dụ riêng về
nhân tố thứ 5 tùy theo từng tác giả có thể được diễn giải là “văn hóa” theo
Norman, là “trí tuệ” theo Peabody & Goldberg, là “tính mở hay thích trải
nghiệm” theo Costa & Mccrae, và có khi còn được diễn giải là "tính ham chơi".
Ưu điểm:
Mặc dù chịu nhiều phê phán như vậy nhưng mô hình FFM vẫn được
coi là có ích cho đo đạc nhân cách vì các ưu điểm sau. Thứ nhất, FFM đem
lại một khung nghiên cứu cơ bản khi ghi chép đặc tính nhân cách của con
người. Mô hình bắt nguồn từ phương pháp kinh nghiệm như phân loại và ghi
chép từ ngữ, đặc điểm này cung cấp một thước đo dễ hiểu đời với tất cả mọi
người khi cần chỉnh lý và nắm bắt toàn diện đặc trưng hành động thường
ngày của con người. Điều này đóng vai trò to lớn trong những lĩnh vực liên
quan đến trắc định và ứng dụng nhân cách như giáo dục, lâm sàng và công
nghiệp.
Thứ hai, đối với những lý thuyết và thước đo nhân cách được thể hiện
một cách riêng biệt đã có từ trước đến nay, FFM được đưa ra như một sự
tham khảo đối chiêu. Có thể sử dụng 5 khung lớn để xem xét, chỉnh lý và kết
hợp lại với nhau rất nhiều các khái niệm về nhân cách đã được nghiên cứu
trước đây nhưng chưa có quan hệ với nhau. Thông qua thao tác này những
đặc điểm nổi bật của các học thuyết đó sẽ được tô đậm thêm, những gì từng
bị che khuất sẽ trở nên sáng tỏ, việc chỉnh lý những phần còn chưa rõ ràng có
thể tiến hành được. Điều này không nhất thiết đi đến phủ nhận hết những học
thuyết đã có. Ngược lại chúng có thể trở thành nhân tố kích thích nghiên cứu
mới phát triển. Ngoài ra, khi các khái niệm có liên quan đến nhân cách, ví dụ
hành động đối với người khác - hứng thú nghề nghiệp - nhu cầu trí năng,
được chỉnh lý và liên hệ với nhau trên cơ sở lấy 5 nhân tố là thứ nguyên cơ
bản thì có thể hy vọng có được sự phát triển hơn nữa trong nghiên cứu.
Thứ ba, FFM có ưu điểm ở chỗ khơi dậy sự chú ý nhiều hơn đối với
các nhân tô đặc tính thường hay bị bỏ qua trong lý thuyết đặc điểm nhân cách
đã có. Việc đưa 5 nhân tố, nhất là hoạt động nhận thức mang tính chất trí tuệ
và sáng tạo vào trong lý thuyết đặc điểm nhân cách đã mang lại nhiều ý
nghĩa.
Cuối cùng FFM có khả năng trở thành chiếc cầu bắc qua lý thuyết đặc
điểm nhân cách và nghiên cứu nhận biết con người. FFM thu thập những
thuộc tính có thể quan sát, có khởi nguồn từ cách tiếp cận từ vựng được
phân loại, đây cũng là một trong những phê phán FFM trên phương diện lý
thuyết đặc điểm nhân cách. Tuy nhiên nếu coi 5 nhân tố vừa là thứ nguyên
đặc tính vừa là thứ nguyên nhận biết người khác (và mình) thì FFM có tính
khả năng sinh ra những nghiên cứu mới kết hợp nhân cách với nhận thức xã
hội.
5. Những điểm cần lưu ý khi vận dụng thước đo năm nhân tố
FFM nảy sinh từ phương pháp đơn giản là quan sát và ghi chép sự
khác nhau giữa các cá nhân. Dựa vào việc kết hợp các kết quả nghiên cứu lý
thuyết tâm lý học và các lĩnh vực kề cận, cho đến nay người ta đang phát
triển đi đến một mô hình giải thích và thuyết minh nguyên nhân của sự khác
biệt cá nhân chứ không chỉ dừng lại ở việc phân loại và ghi chép về nhân
cách. Thời đại của "khi phân tích nhân tố về từ ngữ và thước đo sẽ tìm thấy 5
nhân tố" đã qua đi, bây giờ chính là lúc tìm kiếm xem có thể dự đoán và giải
thích đến mức nào về hành vi dựa vào FFM.
Mô hình 5 nhân tố dù sao cũng chỉ là một mô hình để hiểu nhân cách.
Việc ghi chép bằng FFM chẳng qua chỉ là nhân cách đã được khái quát hoá
và trừu tượng hóa. Chúng ta có thể cho những người muốn biết về nhân cách
của bản thân mình kết quả điều tra nhân cách bằng FFM nhưng những điều
chưa thỏa mãn vẫn còn nhiều. Hành động, tư duy, tình cảm của "cái tôi" được
biểu hiện trong sự giao hòa với muôn hình muôn vẻ của hoàn cảnh, tình
huống và người khác, được truyền đến chúng ta giống như một cái gì đó “rất
riêng của người đó” chứ không thể nắm bắt như những “đặc tính” đã được
khái quát hóa trừu tượng hóa. Việc hiểu nhân cách qua “đặc tính” phải được
bổ sung hoàn thiện bằng những ghi chép về kính nghiệm của các cá nhân
như vậy. Hơn nữa hiện nay, tuy FFM được coi là hữu hiệu để hiểu nhân cách
song không có nghĩa là một mô hình hoàn thiện cố định. Mô hình có thể được
tu chỉnh và mở rộng bằng cách thường xuyên đưa vào những kinh nghiệm
của từng cá nhân.
Khi Việt hóa bộ công cụ NEO PI-R (sẽ trình bày sau), cần tham khảo
những chủ trương chính sách và văn hoá xã hội Việt Nam. Nhật Bản khi sử
dụng NEO PI-R cũng đã căn cứ trên chủ trương phát triển suốt đời của xã hội
Nhật, vì thế bản tiếng Nhật được tiến hành tiêu chuẩn hóa (Nhật hóa) trên cơ
sở lưu ý đến sự thích ứng với các lọai tuổi tác từ mới trưởng thành cho đến
thời kỳ cao tuổi, thích ứng sử dụng trong nghiên cứu so sánh quốc tế.
Một điểm thuận lợi khi sử dụng thước đo này là có thể thu được nhiều
kinh nghiệm hiểu biết mang tính văn hóa so sánh từ những kết quả nghiên
cứu của nhiều nước cũng sử dụng thước đo này. Thêm vào đó những tích lũy
kết quả nghiên cứu của nguyên bản sẽ giúp cho chúng ta thuận lợi hơn trong
việc lập giả thuyết và dự đoán dựa trên đó. Trong trường hợp khó trả lời cả
240 item có thể sử dụng bản thu nhỏ 60 item (NEO FFI). Tuy nhiên những
nghiên cứu văn hóa so sánh sử dụng thước đo này cũng mới chỉ bắt đầu
(1992) vẫn đang được tích cực rút kinh nghiệm. Nhiều nước đã biên tập tên
của thước đo và nội dung thích ứng với nước mình theo nhiều cách: có thể
rút gọn lại tối đa, ví dụ thay vì 5 x 6 x 8 = 240 items thì rút gọn chỉ còn 5 x 5 x
6 = 150 items v.v… Ngoài ra, việc dịch (hoặc tìm từ tương ứng) cho hợp với
văn hóa và điều kiện sinh hoạt cụ thể của từng nước.
II. TRẮC NGHIỆM NEO PI-R1. Khái quát chung
Bộ trắc nghiệm đánh giá nhân cách NEO PI-R (Personahty Inventory -
Revised) được xây dựng dựa trên mô hình nhân cách 5 nhân tố. Có nhiều
cách tiếp cận đo lường phát triển các phép đo về nhân cách đã được chấp
nhận rộng rãi. Một số phép đo được thiết kế để xác định những cấu trúc trung
tâm theo những mô hình lý thuyết về nhân cách. Một số khác được thiết kế
chỉ để dự đoán những thuộc tính hoặc năng lực chuyên biệt, chẳng hạn phát
hiện những dấu hiệu tâm bệnh, dự đoán sự thành công nghề nghiệp… Các
thang đo được xây dựng dựa trên những cách tiếp cận này thường tiện lợi
cho việc áp dụng, tuỳ theo những mục tiêu đo lường do người thiết kế đặt ra.
Tuy nhiên, nếu đem những thang đo này sử dụng cho những mục đích khác
thì kết quả thường là rất hạn chế. Do vậy, các chuyên gia thiết kế trắc nghiệm
đề xuất một chiến lược thay thế là phát triển những thang đo nhân cách đa
mục đích, nhằm đánh giá tất cả những mặt cơ bản, những khía cạnh mà ở đó
có thể phát hiện các khác biệt đáng kể giữa các cá nhân. Vì những đặc điểm
nhân cách được xem là tương đối ổn định (trong ý nghĩ, tình cảm, hành vi)
nên có thể xây dựng một bộ công cụ đánh giá nhân cách đa diện đa tầng có
lợi cho việc hiểu và dự đoán một loạt các đặc điểm, đặc tính, chẳng hạn như
hứng thú nghề nghiệp, sức khoẻ tâm thần, những hành vi kém thích nghi,
những kiểu ứng phó đặc trưng…
NEO PI-R đã được phát triển theo hướng tiếp cận mới này và các
nghiên cứu thực tế đã chứng minh nó là một phép đo nhân cách đa mục đích,
rất tiện lợi cho việc phát hiện và dự báo.
Từ năm 1985 những nghiên cứu sử dụng trắc nghiệm NEO PI-R đã
chứng minh rằng mô hình 5 nhân tố có thể giải thích cho những mặt cơ bản
của cấu trúc nhân cách mà các phép đo về nhân cách muốn đo lường như
các chức năng (theo mô hình của Jung) các nhu cầu (theo mô hình của
Murray), các đặc điểm của mối quan hệ liên nhân cách và các dạng rối nhiễu
nhân cách theo DSM - III - R (Mccrae, T. Costa, 1990).
Các nhân tố (factor) được xác định theo các nhóm mà những đặc điểm
nhân cách thuộc nhóm đó có tương quan đáng kể với nhau hơn là tương
quan với các đặc điểm thuộc nhóm khác. Mỗi một nhóm được xem như là
một tiền đo, một mặt của nhân cách. Mỗi miền đo hay mỗi nặt này thường
bao quát một phạm vi rộng lại gồm những khía cạnh được cụ thể hoá trong
một phạm vi hẹp hơn.
Như vậy bằng cách mô tả cá nhân một cách chi tiết trên cả 5 miền đo,
chúng ta sẽ có được một bản phác họa nhân cách khá đầy đủ. Bản phác họa
này tóm lược những kiểu suy nghĩ, thái độ, tình cảm và hành vi đặc trưng cho
những xúc cảm, quan hệ liên nhân cách, sự trải nghiệm, thái độ, động cơ của
cá nhân.
Nguyên tắc hướng dẫn, chỉ đạo quá trình nghiên cứu xây dựng trắc
nghiệm NEO PI-R là việc đánh giá nhân cách nên bắt đầu lừ khái quát rồi cụ
thể hoá thành các chi tiết. Thoạt đầu nhận diện những miền đo như là những
phạm vi đo lường rộng nhất bao quát các đặc điểm nhân cách có tương quan
với nhau. Sau đó đi sâu phân tích từng miền đo này, thao tác hoá để nhận
diện những khía cạnh, những nét nhân cách quan trọng nhất của mỗi miền đo
rồi viết các items để đo lường các khía cạnh này.
2. Cấu trúc của bộ trắc nghiệm NEO PI–R
1. Mặt N (Nhiễu tâm):
Các tiểu thang đo hay tiểu trắc nghiệm ở mặt này lập trung đánh giá xu
hướng một cá nhân dễ trải nghiệm những trạng thái xúc cảm, và tình cảm tiêu
cực kém điều chỉnh, kém thích nghi như sợ hãi, buồn chán, lo âu, lúng túng,
tức giận, tự ty, tội lỗi, thất vọng.
Những người đạt điểm trắc nghiệm cao ở miền đo này có sự mất cân
bằng hoặc bất thường về tâm thần. Họ có nhiều nguy cơ mắc một vài chứng
rối nhiễu tâm thần. Tuy nhiên, không nên xem các tiểu trắc nghiệm ở mặt này
là những phép đo chẩn đoán các loại tâm bệnh. Có thể một cá nhân có điểm
số cao trên thang đo này vẫn không mắc bất cứ loại rối nhiễu tâm trí nào.
Ngược lại, không phải tất cả các cá nhân có rối nhiễu tâm thần đều có điểm
cao trên thang đo này. Ví dụ, một cá nhân chống đối xã hội có thể không cơ
điểm cao trên thang đo này.
Những cá nhân đạt điểm trắc nghiệm thấp ở miền đo này là những
người có xúc cảm, tình cảm ổn định. Họ thường là những người bình tĩnh,
tỉnh táo, biết kiềm chế, thanh thản, thư giãn. Họ có thể ứng phó có hiệu quả
với hầu hết các tình huống gây stress thường gặp trong cuộc sống. Mặt nhân
cách này bao gồm 6 thang đo sau:
a. Anxiely (N1): Lo âu
Những người hay lo âu có đặc điểm là hay lo lắng, sợ hãi, có xu hướng
thường xuyên căng thẳng, bất an, bồn chồn, sốt ruột. Tiểu trắc nghiệm này
không đo những sợ hãi cụ thể hoặc đo những ám sợ mà chủ yếu đo khả năng
đương đầu, kiểm soát sự lo âu của cá nhân. Người có điểm trắc nghiệm cao
ở tiểu trắc nghiệm này là những người có xu hướng hay gặp những nỗi lo sợ
và họ thường là không có khả năng kiểm soát những nỗi lo âu này. Người có
điểm trắc nghiệm thấp ở tiểu trắc nghiệm này là những người bình tĩnh, cân
bằng, ít bị căng thẳng. Họ ít bị phụ thuộc vào hoàn cảnh, ít chịu sự chi phối
của các tình huống khó khăn. Khi hoàn cảnh trở nên bất lợi với họ, họ sẵn
sàng đương đầu và thường biết cách đương đầu có hiệu quả.
b. Angely Hostility (N2): Giận dữ, thù địch
Tiểu trắc nghiệm này đánh giá mức độ sẵn sàng của cá nhân và khả
năng kiểm soát của họ khi trải nghiệm sự giận giữ, thù địch. Phạm vi đo
lường của tiểu trắc nghiệm này liên quan đến những trạng thái bất ổn như sự
tức giận, nổi đoá nổi khùng…
c. Depression (N3): Trầm cảm
Tiểu trắc nghiệm này đo sự khác biệt giữa các cá nhân khi họ trải
nghiệm các trạng thái trầm cảm. Những người đạt điểm cao trên tiểu trắc
nghiệm này có xu hướng dễ có mặc cảm tội lỗi, dễ buồn rầu, dễ chán nản,
tuyệt vọng và cô đơn. Họ là những người dễ chán nản, dễ bỏ dở công việc.
Những người đạt điểm thấp hiếm khi có những xúc cảm tiêu cực như vừa kể.
Tuy nhiên không nhất thiết họ phải là những người lạc quan, có lý trí, bản lĩnh
(những đặc điểm này sẽ được phản ánh ở mặt E).
d. Self Consciousness (N4): Ý thức về bản thân
Những xúc cảm tiêu cực như: xấu hổ, e thẹn, lúng túng là hạt nhân của
tiểu miền đo này. Những cá nhân có điểm cao trên tiểu trắc nghiệm là những
người có nhiều mặc cảm tự ty họ là những người luôn không cảm thấy thoải
mái, thiếu tự tin khi ở bên cạnh người khác (nhất là cạnh thủ trưởng, những
người có chức sắc). Họ rất nhạy cảm với những lời châm chọc giễu cợt, chế
giễu và họ có khuynh hướng đánh giá thấp mình. Đó cũng là những người
nhút nhát và có lo âu xã hội. Những cá nhân có điểm thấp không nhất thiết
phải là những người có kỹ năng xã hội tốt. Họ đơn giản chỉ là những người ít
có khó khăn, ít bị phiền toái khi gặp các tình huống xã hội tiêu cực.
e. Impulsiveness (N5): Xung tính
Những người xung tính (người có điểm cao trên tiểu trắc nghiệm này)
thường không có năng lực kiểm soát làm chủ những ham muốn, những thôi
thúc từ bên trong. Những thèm muốn, thôi thúc bên trong thường biểu hiện
qua các nhu cầu về ăn uống, hút thuốc, sử dụng chất kích thích, nhu cầu sở
hữu… Những nhu cầu này được xem là quá mạnh, không thể cưỡng lại được
ở những cá nhân này đến mức họ không thể kiểm soát được, không thể làm
chủ được chúng; mặc dù sau đó họ thường tỏ ra hối hận vì những hành vi
nhằm thoả mãn các nhu cầu này.
Những người có điểm thấp ở tiểu trắc nghiệm này thường dễ dàng
kiểm soát, làm chủ được những nhu cầu như vậy. Họ là những người có sức
chịu đựng cao, ít chán nản khi gặp thất bại. Thuật ngữ này về mặt lý thuyết có
nhiều cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi đo lường của tiểu trắc
nghiệm này không nên nhầm lẫn xung tính với tính bột phát, mức độ mạo
hiểm, thời gian quyết định quá nhanh…
g. Vulnerability (N6): Dễ bị thương tổn
Tiểu trắc nghiệm này đo lường khả năng dễ bị thương tổn khi gặp các
tình huống gây stress. Những người đạt điểm cao trên tiểu trắc nghiệm này ít
có khả năng ứng phó với stress. Họ là những người dễ bị phụ thuộc, thụ
động, thiếu niềm tin, kém tự tin hay thất vọng hoặc hay hoảng sợ khi phải đối
mặt với các tình huống khó khăn. Những người có điểm thấp trên tiểu trắc
nghiệm này được xem là những người có năng lực giải quyết những vấn đề
của họ trong các tình huống, hoàn cảnh khó khăn bất lợi.
2. Mặt E (Hướng ngoại):
Những người có nhân cách hướng ngoại thường là những người có
năng lực hoạt động xã hội. Tuy nhiên năng lực xã hội chỉ là một đặc điểm
nhân cách được đo ở mặt này, phạm vi đo lường của mặt này bao quát một
phạm vi rộng hơn. Vì những người quảng giao là những người thích tham gia
vào các hoạt động xã hội họ cũng là những người có tính tự khẳng định, ưa
hoạt động mới mẻ. Họ thích tìm kiếm sự kích thích, có xu hướng lạc quan và
có những xúc cảm tích cực. Thang đo này tập trung đo lường 6 thang đo sau
đây:
a. Warmth (E1): Cởi mở, thân thiện
Cởi mở thân thiện là một khía cạnh đặc trưng trong mối quan hệ giữa
các cá nhân. Những người có điểm cao trong tiểu trắc nghiệm này có tính cởi
mở thân thiện là những người giàu tình yêu thương và giàu tình bè bạn. Họ
yêu thích mọi người và dễ dàng hình thành sự gắn bó thân thiết với người
khác. Những người có điểm thấp trên tiểu trắc nghiệm này không phải là
những người có tính thù địch, cũng không nhất thiết là những người thiếu tình
thương, mà chủ yếu họ là những người nghiêm nghị, luôn giữ khoảng cách
với người khác hoặc kín đáo dè dặt hơn những người điểm cao.
b. Glegariousness (E2): Quảng giao
Đây là khía cạnh thứ hai của miền đo này. Những người có điểm cao
trên tiểu trắc nghiệm này thích giao du ưa thích kết bạn với người khác.
Những người này thích tụ họp với người khác và thích vui vẻ với người khác.
Những người có điểm thấp trên tiểu thang đo này có xu hướng thích sống
một mình, họ không thích tìm kiếm, thậm chí tránh né những kích thích về mặt
xã hội.
c. Assertiveness (E3): Tự khẳng định, quả quyết
Những người đạt điểm cao trên tiểu thang đo này là những người thích
nổi trội, mạnh mẽ, có uy lực và uy thế về mặt xã hội. Họ nói năng tự nhiên và
thường trở thành các thủ lĩnh nhóm. Những người có điểm thấp trên tiểu
thang đo này thường thích đứng ở sau hội trường và để người khác nói và
điều khiển.
d. Activity (E4): Tích cực hoạt động
Những người đạt điểm cao trên tiểu thang đo này được xem là những
người có tính cách mạnh mẽ, nhanh nhẹn (nhìn từ góc độ năng lượng sinh
học) và có nhu cầu thích bận rộn. Những người này thích hợp với nhịp sống
nhanh, gấp gáp Những người điểm thấp thích nhịp sống đều đều, nhàn tản,
mặc dù họ không nhất thiết là những người lề mề, chậm chạp hoặc lười nhác.
e. Exeitemenr-seeking (E5): Tìm kiếm sự kích thích, cổ vũ
Đạt điểm cao trên tiểu thang đo này là những người khao khát sự cổ
vũ, kích thích. Họ thích những màu sặc sỡ, những môi trường ồn ào náo
nhiệt. Những người điểm thấp ít có nhu cầu tìm kiếm sự kích thích và thích
một cuộc sống mà những người có điểm cao có thể cảm thấy nhàm chán.
g. Positive Emotions (E6): Những xúc cảm tích cực
Tiểu trắc nghiệm này đánh giá khuynh hướng trải nghiệm những xúc
cảm tích cực chẳng hạn như: vui mừng, hạnh phúc, tình yêu và sự hân hoan.
Những người có điểm cao trên tiểu thang đo này là những người dễ cười và
thường xuyên cười. Họ là những người vui tính, lạc quan. Những người có
điểm thấp không nhất thiết phải là những người bất hạnh. Đơn giản họ chỉ là
những người ít hồ hởi và ít hăng hái. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng tiểu trắc
nghiệm này có thể làm những dự báo phù hợp nhất về mức độ cảm nhận
hạnh phúc của cá nhân.
3. Mặt O (Cởi mở):
Đây cũng là mặt rất cơ bản của nhân cách mặc dù nó ít được đề cập
hơn hai mặt trước. Mặt này liên quan đến sự ham hiểu biết, cầu thị, thích
khám phá. Các thành tố chủ yếu của mặt này là giàu trí tưởng tượng, nhạy
cảm thẩm mỹ, chú ý tới những tình cảm bên trong, tò mò về trí tuệ, ham hiểu
biết, độc lập trong xét đoán. Những đặc tính này đóng vai trò quan trọng trong
các lý thuyết cũng như các phép đo về nhân cách.
Những người ham học hỏi, cầu thị là những người tò mò muốn tìm hiểu
cả thế giới bên trong và bên ngoài cá nhân. Họ có cuộc sống giàu có phong
phú về sự trải nghiệm. Họ mong muốn trải nghiệm những ý tưởng lãng mạn,
mơ mộng, những giá trị không có trong quy ước. Họ trải nghiệm cả những
xúc cảm tích cực và tiêu cực.
Người ta cũng thường đặt một cái tên khác cho mặt này như là “trí tuệ”.
Các nghiên cứu cho thấy mặt này thường có tương quan với học vấn, đặc
biệt tương quan với các thành tố của trí thông minh chẳng hạn như tư duy
phân kỳ (cái được xem là cơ sở tạo ra sự sáng tạo). Tuy nhiên thang đo này
không nên xem là tương đương như một phép đo về trí thông minh. Một số
người rất thông minh nhưng lại có phạm vi trải nghiệm hẹp. Cũng vậy một số
người có phạm vi trải nghiệm rất phong phú nhưng lại tương đối hạn chế về
khả năng trí tuệ.
Những người có điểm số thấp (dù là nam hay nữ) trên thang đo này
thường có xu hướng luôn tôn trọng, tuyệt đối tuân thủ các quy ước về hành vi
và họ thường bảo thủ trong cách nhìn. Những người này thường có phạm vi
hẹp hơn và tập trung hơn về các hứng thú và họ có xu hướng bảo thủ hơn về
mặt chính trị, xã hội. Những người có điểm trắc nghiệm cao ở mặt này là
những người không quá lệ thuộc vào các quy ước họ mong muốn chất vấn
chính quyền và sẵn sàng tiếp nhận những ý tưởng mới về chính trị, xã hội
cũng như đạo đức. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa rằng họ là những người
vô nguyên tắc. Mặt nhân cách này có 6 thang đo sau:
a. Fantasy (O1): Giàu tưởng tượng
Những người có điểm cao là những người có trí tưởng tượng sinh động
và có đời sống lãng mạn, mơ mộng. Họ chìm đắm trong suy tư mơ mộng
không đơn giản là sự chạy trốn mà như là một cách khám phá thế giới bên
trong đầy thú vị. Họ thích thí nghiệm, phát triển sự mơ mộng của mình và tin
rằng trí tưởng tượng tạo ra một cuộc sống sáng tạo và làm phong phú tâm
hồn. Những người có điểm thấp trên tiểu trắc nghiệm này là những người ít
lãng mạn, dung tục hơn. Họ quan tâm hơn đến những nhiệm vụ trước mắt
thực tế hơn.
b. Aesthetic (O3): Óc thẩm mỹ
Những người có điểm cao trên thang đo này có hứng thú chiêm
ngưỡng nghệ thuật và vẻ đẹp. Họ yêu thích, rung động với thơ ca, âm nhạc
và bị nghệ thuật cuốn hút. Họ cần, không phải để trở thành một tài năng nghệ
thuật, cũng không nhất thiết là cái mà mọi người đều ưa thích, mà chủ yếu
hứng thú của họ đối với nghệ thuật sẽ đưa họ đến chỗ phát triển những hiểu
biết rộng hơn và có khả năng thưởng thức tốt hơn những người bình thường
khác. Những người có điểm thấp ít nhạy cảm và không thực sự yêu thích
nghệ thuật và vẻ đẹp.
c. Feelings (O3): Hiểu xúc cảm, tình cảm nội tâm
Tìm hiểu khám phá các loại xúc cảm, tình cảm bên trong của cá nhân
và đánh giá chúng là một phần rất quan trọng trong cuộc sống nội tâm của
mỗi người. Những người có điểm cao trên tiểu trắc nghiệm này là những
người có phạm vi trải nghiệm những trạng thái xúc cảm, tình cảm đa dạng
hơn, phong phú hơn, sâu sắc hơn. Họ cảm nhận cả hạnh phúc và bất hạnh
đều ở mức mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn những người bệnh thường khác.
Những người có điểm thấp trên tiểu thắc nghiệm này cảm nhận các trạng thái
xúc cảm, tình cảm có cái gì đó hời hợt, ít nhạy cảm, ít sâu sắc. Và họ tin rằng
các trạng thái xúc cảm, tình cảm không thật quan trọng đối với họ.
d. Actions (O4): Hành động
Khía cạnh này thể hiện ở sự mong muốn thử nghiệm mình qua các loại
hoạt động khác nhau để đa dạng hoá hoạt động nhằm tìm kiếm sự thay đổi
như: đi đến những nơi mới lạ, hoặc thưởng thức những món ăn lạ. Những
người có điểm cao trên tiểu trắc nghiệm này thích lãng mạn và thích làm
phong phú, đa dạng những gì đã quen thuộc, đường mòn. Họ thường thích
tham gia vào một loạt các loại hoạt động ưa thích khác nhau. Những người có
điểm thấp trên tiểu trắc nghiệm này là những người khó thay đổi thói quen,
nếp nghĩ. Họ chỉ ưa thích tiếp tục những gì mình đã từng làm, đã được coi là
đúng.
e. Ideas (O5): Giàu ý tưởng
Khía cạnh này liên quan đến sự tò mò về mặt trí tuệ. Họ là những
người không chỉ tích cực theo đuổi những hứng thú về trí tuệ cho riêng mình
mà thường có tâm hồn rộng mở, ham học hỏi và mong muốn tiếp cận tìm
hiểu cái mới, dù là những ý tưởng ngoài những quy ước, không có tiền lệ.
Những người có điểm cao trên tiểu trắc nghiệm này thích những tranh luận
triết học và thích động não. Không nhất thiết họ phải là những người có trí tuệ
cao, mặc dầu đây là cơ sở để phát triển các tiềm năng về trí tuệ. Những
người có điểm trắc nghiệm thấp là những người ít tò mò, không ham tìm hiểu,
và nếu đó là người thông minh thì họ chỉ tập trung những nguồn lực của họ
vào một số rất ít những vấn đề.
g. Values (O6): Các giá trị
Khía cạnh này đánh giá khả năng sẵn sàng xem xét lại những giá trị tôn
giáo, chính trị, xã hội. Những cá nhân không có tính cầu thị đối với các giá trị,
có khuynh hướng chấp nhận những giá trị chính thống. Họ nói chung có tính
bảo thủ, ít để ý đến sự xuất hiện của các đảng phái chính trị. Những người có
điểm cao thường là những người đối nghịch với chủ nghĩa giáo điều.
4. Mặt A (Dễ thương, dễ chấp nhận):
Cũng giống như mặt thứ 2 (mặt E: hướng ngoại), mặt thứ 4 này đo
những xu hướng trong mối quan hệ liên cá nhân: xu hướng chấp nhận người
khác hay không chấp nhận người khác.
Những người dễ chấp nhận người khác thường là những người vị tha,
để cảm thông với người khác, mong muốn giúp đỡ người khác và tin rằng
những người khác cũng là những người hay giúp đỡ. Những người khó chấp
nhận, hay chống đối người khác có xu hướng ích kỷ, hay nghi ngờ những ý
định tốt đẹp của người khác. Họ có xu hướng ganh đua hơn là hợp tác.
Những người dễ chấp nhận người khác là những người khoẻ mạnh
hơn về mặt tâm lý và được ưa thích hơn về mặt xã hội. Tuy nhiên, tính sẵn
sàng đấu tranh cho những lợi ích của cá nhân ở góc độ nào đó vẫn có lợi.
Mặt khác, tính dễ chấp nhận không phải là điều tốt trong những cuộc chiến
hoặc ở toà án. Cũng vậy, tính hoài nghi, tư duy phê phán lại tỏ ra có lợi, góp
phần tạo ra sự phân tích chính xác trong nghiên cứu khoa học.
Như vậy, không có cực nào của mặt này về bản chất tốt hơn cực kia,
xét từ quan điểm tính đa dạng xã hội. Cũng vậy không có cực nào nhất thiết
tốt hơn cực nào ở góc độ sức khoẻ tâm thần của cá nhân. Honney đã xem
xét hai khuynh hướng bất thường: chống đối mọi người và theo đuôi mọi
người. Chúng giống như những hình thức cực đoan của tính dễ chấp nhận và
tính dễ chống đối.
Những người có điểm rất thấp trên thang đo này thường liên quan đến
những rối nhiễu nhân cách kiểu là mê mình, chống đối xã hội, hoang tưởng.
Trái lại, những người có điểm trắc nghiệm rất cao ở thang đo này có thể liên
quan đến rối nhiễu nhân cách kiểu phụ thuộc.
a. Trust (A1): Lòng tin
Những người có điểm cao trên tiểu trắc nghiệm này có đặc điểm luôn
tin rằng những người khác là trung thực và có ý định tốt. Những người có
điểm thấp trên tiểu trắc nghiệm này có xu hướng nghi ngờ, không tin người
khác và hay cho rằng người khác có thể không trung thực hoặc nguy hiểm.
b. Straightforwardness (A2): Thẳng thắn, chân tình
Những cá nhân có điểm cao trên tiểu trắc nghiệm này là những người
trung thực, chân thành và khéo léo. Những người có điểm thấp thường muốn
lôi kéo người khác dù có phải dùng đến những thủ đoạn như nịnh hót, tâng
bốc, xảo trá hoặc lừa gạt. Họ xem những chiến thuật này như là những "kỹ
năng xã hội" cần thiết và có thể coi những người thẳng thắn như là những kẻ
chất phác, ngây thơ.
Khi phân tích điểm số trên tiểu trắc nghiệm này, điều đặc biệt quan
trọng là luôn nhớ rằng điểm số phản ánh mối quan hệ thường trực đối với các
cá nhân khác. Những người có điểm thấp trên tiểu trắc nghiệm này thích
đánh bóng sự thật hoặc thích bảo vệ những tình cảm thật của mình, không
muốn người khác biết. Nhưng điều này không nên hiểu rằng họ là người
không trung thực, lèo lá. Đặc biệt, tiểu thang đo này không nên xem là một
thang đo mức độ nói dối hoặc đánh giá độ hiệu lực của chính phép đo này
hoặc làm những dự báo về tính trung thực trong việc quyết định thuê mướn
nhân công.
c. Altruism (A3): Vị tha
Những người có điểm cao trên tiểu trắc nghiệm (thang đo) này có mối
quan tâm đặc biệt đến phúc lợi của người khác, thể hiện ở sự độ lượng, ân
cần với người khác và mong muốn giúp đỡ người khác. Những người có
điểm thấp trên tiểu thang đo này thường chỉ quan tâm đến mình, không quan
tâm đến những vấn đề của người khác hoặc chỉ miễn cưỡng khi buộc phải
quan tâm đến người khác.
d. Compliance (A4): Phục tùng
Tiểu trắc nghiệm này xem xét những phản ứng đặc trưng đối với những
xung đột liên nhân cách. Những người có điểm cao trên tiểu trắc nghiệm này
có xu hướng thích làm theo người khác, kiềm chế tức giận, dễ bỏ qua, dễ tha
thứ. Họ là những người nhu mỳ, hiền lành có tính khí ôn hoà, dịu dàng.
Những người có điểm thấp là những người hay nóng nảy, thích ganh đua hơn
là hợp tác, dễ nổi xung.
e. Modesty (A5): Khiêm tốn
Những người có điểm cao trên tiểu thang đo này là những người khiêm
nhường, thích ẩn lánh, nép mình mặc dù không nhất thiết họ là những người
thiếu tự tin hoặc thiếu tự trọng. Những người có điểm thấp trên tiểu thang đo
này thường tự cho rằng mình là người siêu phàm và thường bị người khác
đánh giá là người hay tự phụ, kiêu ngạo hoặc ngạo mạn. Thiếu tính khiêm tốn
ở mức nghiêm trọng là một phần của cái gọi là rối nhiễu tâm lý kiểu tự mê
mình.
g. Tender-Mindedness (A6): Nhân hậu
Tiểu trắc nghiệm này đánh giá thái độ đồng cảm và sự quan tâm đến
người khác. Những người có điểm cao thường hay quan tâm đến nhu cầu
của người khác và luôn coi trọng mặt nhân văn của các chính sách xã hội.
Người có điểm thấp trên tiểu trắc nghiệm này là những người coi trọng lý trí,
họ ít bị lay chuyển (mủi lòng) do tình cảm. Họ thường tự xem mình là người
có đầu óc thực tế, họ thường làm những quyết định hợp lý dựa trên những
lôgic lạnh lùng.
5. Mặt C (Có ý chí phấn đấu):
Một số lớn các lý thuyết nhân cách, đặc biệt là lý thuyết động thái tâm lý
rất quan tâm đến việc kiểm soát xung tính, làm chủ ham muốn. Trong quá
trình phát triển hầu hết các cá nhân đều học cách làm thế nào để kiểm soát
những ham muốn của mình. Không có khả năng kiềm chế, kiểm soát xung
tính, không làm chủ được các ham muốn, cám dỗ - đó là những người không
ổn định về tâm thần như đã đề cập ở mặt thứ nhất.
Tuy nhiên, tự kiểm tra, kiểm soát còn liên quan đến một quá trình tích
cực khác gồm lập kế hoạch, tổ chức, thực hiện và mỗi cá nhân thường có sự
khác nhau ở quá trình này. Đây là nội dung chính được đánh giá ở mặt thứ
năm này. Những người có khả năng tự kiểm tra, kiểm soát, làm chủ bản thân
trong phạm vi đánh giá của thang đo này là những người làm việc có mục
đích rõ ràng, có nghị lực, ý chí mạnh và có tính quyết đoán. Có thể một vài
người trở thành các nhà soạn nhạc lớn, hoặc các vận động viên điền kinh
không có những mức độ cao của các phẩm chất nhân cách này.
Digman và Takemoto-chock (1981) xem mặt này như là ý chí, nhu cầu
muốn thành đạt. Ở mặt tích cực, những người có điểm cao trên thang đo này
thường là những người thành đạt ở học đường, thành đạt trong nghề nghiệp,
nhưng ở mặt tiêu cực, họ có thể là những người khó tính đến mức khó chịu,
ngăn nắp trật tự một cách thái quá hoặc những người chỉ biết có công việc,
quá ham mê công việc. Những người có điểm cao nói chung là người tỉ mỉ,
cẩn trọng, đúng giờ và đáng tin. Những người có điểm thấp không nhất thiết
là những người thiếu các nguyên tắc đạo đức mà đơn giản họ là những
người thiếu nhiệt tình, thiếu quyết tâm trong việc nỗ lực đạt mục đích của bản
thân. Có những bằng chứng nói rằng những người điểm thấp có cái gì giống
như những người ham thích khoái lạc, ham thích tình dục.
a. Competence (C1): Năng lực
Khái niệm năng lực liên quan đến quan niệm cho rằng đó là một người
có khả năng, nhạy cảm, khôn ngoan và làm việc có hiệu quả. Những người
có điểm cao trên tiểu thang đo này cảm thấy họ được chuẩn bị tốt để ứng phó
với những vấn đề trong cuộc sống của họ. Những người có điểm thấp là
những người đánh giá thấp các năng lực của bản thân và thừa nhận rằng họ
thường không có sự chuẩn bị tốt và dường như họ luôn không có khả năng.
Trong số tất cả các tiểu trắc nghiệm của mặt này, tiểu thang đo năng lực có
tương quan cao nhất với lòng tự trọng và sự tự kiềm chế.
b. Order (C2): Ngăn nắp
Những người đạt điểm cao trên tiểu trắc nghiệm này là những người
ngăn nắp gọn gàng và là người biết sắp xếp có thứ tự. Họ là những người giữ
đồ vật đúng cho quy định. Những người điểm thấp không có khả năng sống
gọn gàng, ngăn nắp và họ tự mô tả mình như là những người hay vứt đồ đạc
bừa bộn, không có trật tự. Tuy nhiên những người quá ngăn nắp có thể có
nguy cơ dễ mắc loại rối nhiễu nhân cách ép buộc.
c. Dutifulness (C3): Trách nhiệm, bổn phận
Những người có điểm cao đặc biệt trung thành với các nguyên tắc đạo
đức của họ và thường là người rất cẩn trọng khi thực hiện các nghĩa vụ đạo
đức của họ. Những người có điểm thấp thường xuề xoà hơn trong những vấn
đề như vậy và có cái gì đó ít bị phụ thuộc hoặc không đáng tin cậy.
d. Achievement Stiving (C4): Nỗ lực thành đạt
Những người có điểm cao trên tiểu thang đo này thường có nhu cầu rất
cao và làm việc cật lực để đạt các mục đích của họ. Họ là những người siêng
năng, chịu khó và luôn có mục đích, có định hướng (hoài bão) trong cuộc
sống. Người có điểm rất cao, tuy nhiên, có thể là người quá đam mê công
việc, đam mê nghề nghiệp (trở thành kẻ "tham công tiếc việc"). Những người
điểm thấp là những người thiếu quan tâm, thiếu nhiệt tình và thậm chí là
người lười biếng. Họ là những người ít hoặc không có nhu cầu thành đạt họ
không có hoài bão và thường thiếu những mục đích có ý nghĩa để nỗ lực
phấn đấu. Họ cũng là những người luôn cảm thấy thoả mãn với mức độ thấp
của sự thành đạt (kiểu an phận).
e. Self-Discipline (C5): Kỷ luật tự giác
Người có kỷ luật tự giác là người có khả năng bắt đầu các nhiệm vụ và
kiên trì thực hiện chúng cho đến khi hoàn thành dù là công việc đó không hấp
dẫn, thậm chí nhàm chán. Những người có điểm cao trên tiểu thang đo này là
những người có năng lực tự động viên mình hoàn thành công việc. Những
người có điểm thấp là những người ngay từ đầu đã hay trì hoãn thực hiện
nhiệm vụ và thường dễ chán nản mong muốn bỏ cuộc giữa chừng.
Người có kỷ luật tự giác thấp dễ nhầm với xung tính, cả hai đều minh
chứng cho sự thiếu khả năng làm chủ được mình, nhưng trên thực nghiệm
chúng có sự khác nhau. Người có điểm cao trên tiểu thang đo xung tính
thường khó hoặc không thể kháng cự lại cái họ không muốn làm. Nhưng
người có điểm thấp trên tiểu thang đo kỷ luật tự giác không thể buộc họ làm
cái họ phải làm - Cái trước liên quan đến sự ổn định về xúc cảm, cái sau liên
quan đến mức độ động cơ hoá.
g. Deliberation (C6): Thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng
Tiểu thang đo này đánh giá mức độ mỗi cá nhân suy nghĩ cẩn thận
trước khi hành động. Những người có điểm cao là những người thận trọng,
chín chắn làm gì cũng cân nhắc, suy nghĩ kỹ càng. Những người có điểm
thấp là người bộp chộp vội vàng thường nói và hành động không tính đến
những hậu quả xẩy ra sau đó. Tuy nhiên ở cực tốt của những người có điểm
thấp là khả năng làm quyết định nhanh.
3. Cách cho điểm
Nếu người trả lời không trả lời từ 41 item trở lên thì không dùng kết quả
này để phân tích. Nếu ít hơn 41 item bị bỏ không trả lời thì các tiềm này có
thể được cho điểm như là những ý kiến trả lời trung lập hoặc cho điểm như
điểm trung bình của mẫu. Khi có trên 3 tiểu thang đo bị bỏ thì việc giải thích
kết quả nên thận trọng.
Kết quả phân tích trên mẫu chuẩn hoá cho thấy có 99% số người trả lời
đồng ý, rất đồng ý với ít hơn 150 item và cũng có 99% số người trả lời đồng ý,
rất đồng ý với trên 50 item. Do vậy, nếu cá nhân nào có trên 151 item chọn
câu trả lời đồng ý rất đồng ý và dưới 50 item chọn câu trả lời đồng ý, rất đồng
ý thì phải thận trọng (có thể những cá nhân này đánh bừa hoặc trả lời mà
không hiểu câu hỏi).
Cũng dựa trên sự phân tích các nhóm đối tượng trả lời từ mẫu chuẩn
hoá, hãy cẩn thận với những cá nhân có các kiểu trả lời sau đây:
- Rất phản đối liên tiếp từ 7 item trở lên;
- Phản đối liên tiếp từ 10 item trở lên;
- Trung lập liên tiếp từ 11 item trở lên;
- Đồng ý liên tiếp từ 15 item trở lên;
- Rất đồng ý liên tiếp từ 10 item trở lên.
Bộ trắc nghiệm NEO PI-R được tính theo bảng điểm chuẩn (điểm thô
được quy đổi ra điểm chuẩn T - Scores. Có bảng điểm chuẩn cho người lớn
từ 21 tuổi trở lên và cũng có bảng điểm chuẩn cho sinh viên, học sinh từ 17 -
20 tuổi. Có bảng chuẩn cho nam riêng, nữ riêng.
NEO PI-R có thể được giải thích theo phạm trù chẩn đoán. Nếu ở thang
đo N (Nhiễu tâm), người làm trắc nghiệm có điểm số T-scores > 70 điểm thì
nên xem đó như là một chỉ báo về tâm bệnh.
III. THÍCH NGHI, BỔ SUNG TRẮC NGHIỆM NHÂN CÁCH NEO PI-R VÀO VIỆT NAM
1. Quy trình thích nghi hoá trắc nghiệm NEO PI-R
Tất cả những trắc nghiệm bằng lời đều có bản chất văn hoá và sẽ
không thích hợp nếu dùng chúng cho các đối tượng có bối cảnh văn hoá khác
nhau mà không thông qua một quá trình thích nghi, bổ sung và chuẩn hoá lại.
Bộ trắc nghiệm NEO PI-R có 2 phiên bản: phiên bản cá nhân tự đánh
giá (Form S) và phiên bản người khác đánh giá (Form R). Do tính chất và
điều kiện của đề tài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ thích nghi hoá phiên bản tự
đánh giá - Form S.
Quy trình mà chúng tôi sử dụng để thích nghi hoá trắc nghiệm tự đánh
giá NEO PI-R gồm những bước chính sau đây.
- Bước 1: Là bước mà người làm trắc nghiệm cần hiểu rõ những đặc
tính bản chất của trắc nghiệm: hiểu rõ xuất xứ của trắc nghiệm, những đặc
tính thiết kế của trắc nghiệm (trắc nghiệm có mục đích đo cái gì, được dùng
cho đối tượng nào, các thủ tục hướng dẫn, cho điểm, ý nghĩa của điểm số),
cấu trúc của trắc nghiệm (trắc nghiệm gồm những miền đo nào, những chỉ
báo nào), nội dung mục tiêu cụ thể của từng item (từng item đo những nội
dung, biểu hiện cụ thể nào, thuộc miền đo nào)…
- Bước 2: Trên cơ sở hiểu rõ những đặc tính vừa nêu, nội dung của trắc
nghiệm được chuyển ngữ tương đương từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Tức là
các item được dịch ra vẫn không bị thay đổi nội dung, không đi chệch khỏi
mục tiêu cụ thể (đo một biểu hiện nào đó có nhiệm vụ phải đo), không chệch
khỏi cấu trúc của trắc nghiệm. Các thang đo, tiểu thang đo, từng đem sau khi
Việt hoá ở bước này phải bảo đảm thuần ngôn ngữ tiếng Việt, dễ hiểu, đơn
nghĩa và trung thành với mục tiêu đo lường vốn có của nó. Trong quá trình
thích nghi hoá có một số item có nội dung, hình thức không thích hợp phải
được sửa chữa, thay thế.
- Bước 3: Trên cơ sở trắc nghiệm đã được dịch và Việt hoá ở bước 2,
một nhóm chuyên gia cùng xem xét từng đem của trắc nghiệm sau khi Việt
hoá có đi chệch khỏi mục tiêu đo lường cụ thể (đo theo nhiệm vụ phải) có bị
thay đổi nghĩa hoặc trở nên vô nghĩa, có khó hiểu do thay đổi bối cảnh văn
hoá xã hội hay không.
- Bước 4: Trắc nghiệm sau khi qua Việt hoá ở bước 3 được làm thử
trên mẫu nhỏ để kiểm tra các đặc tính thiết kế và các đặc tính đo lường của
trắc nghiệm, đồng thời kiểm tra mức độ đọc hiểu, thời gian cần thiết để hoàn
thành trắc nghiệm, mức độ hấp dẫn người làm trắc nghiệm. Mẫu thử nghiệm
được thiết kế tương đồng với mẫu chính thức. Các trắc nghiệm viên được tập
huấn kỹ về mục đích thử nghiệm, các thủ tục hướng dẫn làm thử, kỹ năng
quan sát thái độ của người làm trắc nghiệm, ghi chép các câu hỏi, ý kiến nhận
xét của người làm trắc nghiệm.
- Bước 5: Căn cứ trên kết quả thử nghiệm ở bước 4, xác định lại đối
tượng, trình độ đọc hiểu tối thiểu cần có, thời gian cần thiết để làm xong trắc
nghiệm, thống nhất các thủ tục hướng dẫn… Đồng thời chỉnh sửa hoặc thay
thế những đêm khó hiểu, đa nghĩa, có độ tin cậy yếu, hiệu lực kém.
- Bước 6: Trắc nghiệm sau khi sửa, hoàn chỉnh ở bước 5 được in lại và
thành công cụ đo lường trên mẫu chính thức. Các đặc tính đo lường của trắc
nghiệm (độ tin cậy, độ hiệu lực) phải được đánh giá lại trên mẫu chính thức.
Các thông số này phải đáp ứng các tiêu chuẩn đo lường của trắc nghiệm (cần
cảnh báo thận trọng với các tiềm, thang đo không đáp ứng tiêu chuẩn đo
lường) đồng thời so sánh với mẫu chuẩn hoá để xác định mức độ thay đổi,
sai lệch.
- Bước 7: Trên cơ sở các kết quả ở bước 6, xác đỉnh lại các điểm
chuẩn (norms). Bước này cũng bao hàm những gợi ý, những cảnh báo về
việc nên sử dụng trắc nghiệm như thế nào trong tương lai.
2. Thiết kế phiếu hỏi bổ sung trắc nghiệm
Do trắc nghiệm NEO PI-R có nguồn gốc từ nước ngoài nên trắc nghiệm
này không thể đánh giá được một số đặc điểm nhân cách đặc trưng của
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, kinh tế thị trường… như đề tài
KX-05-07 yêu cầu. Vì vậy các chuyên gia của đề tài KX-05-07 phải tự thiết kế
một bảng hỏi bổ sung đo lường những đặc điểm nhân cách đặc trưng này.
Các chuyên gia thiết kế bảng hỏi đưa ra một danh sách các tiêu chí để
thảo luận và đi đến nhất trí: chọn 12 tiêu chí trên mẫu học sinh, sinh viên và
13 tiêu chí trên mẫu lao động trẻ để đo lường. Nội dung cơ bản của từng tiêu
chí này được xác định rõ, chi tiết hoá thành các biểu hiện thái độ hành vi để
viết thành các item. Mỗi tiêu chí được các chuyên gia viết từ 12-20 item. Sau
đó các item cho từng tiêu chí được tập hợp để các chuyên gia cùng xem xét
thảo luận rất kỹ dưới góc độ hiệu lực hoá nội dung và cấu trúc như: tính rõ
ràng, đơn nghĩa, cụ thể và xác định về nội dung đo của từng item (tức là nó
có đo một biểu hiện thái độ, hành vi cụ thể trong tiêu chí đó), tính độc lập
tương đối (có nội dung đo không trùng lặp với các item khác), tính đồng
hướng (các item có tương quan cao hơn với các item khác cùng tiêu chí và
tương quan thấp hơn hoặc không tương quan với các item khác tiêu chí). Chỉ
những item được các chuyên gia xem xét đáp ứng các tiêu chuẩn về hiệu lực
hoá nội dung, cấu trúc vừa nêu mới được sắp xếp ngẫu nhiên vào bảng hỏi
(lúc này mỗi tiêu chí chỉ giữ lại 8-10 item) đem đi thử nghiệm. Các thủ tục
hướng dẫn và cho điểm của phiếu hỏi được thiết kế giống như của trắc
nghiệm NEO PI-R, mỗi item cũng có 5 bậc điểm (từ 0 đến 4), đảm bảo từng
tiêu chí đo đều có một tỷ lệ đáng kể các item được thiết kế theo chiều nghịch.
Điểm của mỗi tiêu chí là tổng điểm của các item thiết kế theo chiều thuận và
điểm đổi ngược lại của các item thiết kế theo chiều nghịch trong tiêu chí đó.
Kết quả thử nghiệm sau đó lại được xử lý, phân tích để xác định các
item ở từng tiêu chí có độ tin cậy tốt, sửa chữa, loại bỏ những item có độ tin
cậy thấp.
Dưới đây là cấu trúc hai bảng hỏi đã hoàn chỉnh sau khi thử nghiệm:
Bảng hỏi 1 dành cho học sinh sinh viên gồm 12 tiểu thang đo:
1- Lý tưởng phấn đấu.
2- Thái độ đối với các vấn đề chính trị thời sự.
3- Yêu nước, tự hào dân tộc.
4- Tôn trọng pháp luật: gồm các item.
5- Thái độ đối với công việc.
6- Thái độ đối với cuộc sống.
7- Thái độ đối với đồng tiền.
8- Thái độ đối với môi trường.
9- Thái độ đối với các xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá, hội nhập và
mở cửa.
10- Thái độ và năng lực học tập.
11- Năng lực thích ứng, cạnh tranh.
12- Năng lực sử dụng vi tính, ngoại ngữ và làm chủ công nghệ mới.
Bảng hỏi 2 dành cho lao động trẻ gồm 12 tiểu thang đo ở Bảng hỏi 1
cộng thêm tiểu thang đo thứ 13: Năng lực tìm và tự tạo việc làm.
IV. TỔ CHỨC ĐIỀU TRA THỬ ĐỂ THỬ NGHIỆM CÔNG CỤ1. Mục đích thử nghiệm
Kiểm tra các đặc tính thiết kế và đo lường của trắc nghiệm NEO PI-R
sau khi đã được các chuyên gia dịch và Việt hoá để hiệu chỉnh, bổ sung.
2. Mẫu thử
Đối tượng làm thử các công cụ là những nhóm đối tượng đại diện cho
mẫu khảo sát chính thức. Mẫu thử là hơn 400 người thuộc 3 nhóm đối tượng
cụ thể như sau:
Nhóm 1: học sinh lớp 10, 11 trường THPT Sóc Sơn, Hà Nội
Nhóm 2: sinh viên (năm thứ 3 - 4) Đại học Sư phạm, Bách Khoa, Khoa
học xã hội và Nhân văn thuộc khu vực Hà Nội.
Nhóm 3: lao động trẻ (tuổi từ 19 - 35), có học vấn từ THCS trở lên
(nông dân, công nhân, thợ tiểu thủ công nghiệp, trí thức, giáo viên).
Nhiệm vụ chính của việc thử nghiệm trắc nghiệm NEO-PI-R và phiếu
hỏi không tập trung nhiều vào kết quả làm trắc nghiệm, kết quả trả lời phiếu
hỏi (điểm test là bao nhiêu?), mà tập trung chủ yếu vào quá trình làm test, tức
là người làm test có đáp ứng như thế nào:
Họ có hiểu các item?
Có item nào khó hiểu ở góc độ diễn đạt ngôn ngữ, hoặc thuật ngữ
không? Có item nào quá nhạy cảm, khó trả lời trung thực?
Các item của trắc nghiệm có phù hợp với đối tượng làm test không?
Họ có thái độ trả lời thế nào: nghiêm túc hay không nghiêm túc, có
trả lời theo những suy nghĩ thực của họ không?
Thời gian thực, cần thiết để hoàn thành trắc nghiệm:
- Thời gian hướng dẫn đủ để họ hiểu là mấy phút?
- Thời gian thực làm từng trắc nghiệm là bao nhiêu phút?
Thu thập các ý kiến góp ý của người làm test về hình thức, nội dung
các item.
Thu thập các góp ý về các thủ tục hướng dẫn làm test: hướng dẫn
có ngắn gọn, rõ ràng và dễ hiểu không?…
3. Kết quả trắc nghiệm thử
Trắc nghiệm NEO PI-R: Kết quả thử nghiệm cho thấy: hệ số tin cậy của
các thang đo biểu thị 5 mặt: N, E, O, A, C của trắc nghiệm NEO PI-R có hệ số
tin cậy alpha từ mức khá đến cao (r từ 0.70 đến 0.89). Các tiểu thang đo có
hệ số tin cậy alpha từ thấp đến khá. Cụ thể, có 18/30 tiểu thang đo của trắc
nghiệm NEO PI-R có hệ số tin cậy từ mức trung bình đến khá (r từ 0.54 đến
0.76). Có 6/30 tiểu thang đo có hệ số tin cậy hơi thấp (r từ 0.42 đến 0.47). Có
6/30 tiểu thang đo có hệ số tin cậy rất thấp (r từ 0.24 đến 0.39). Những tiểu
thang đo có hệ số tin cậy thấp hoặc rất thấp là do một số đếm của các tiểu
thang đo này có hệ số tin cậy thấp, do sự khác biệt về văn hoá, hoặc khi Việt
hoá bị biến đổi nghĩa, lệch khỏi mục tiêu đo lường. Tất cả các item có hệ số
tin cậy thấp (< 0.20) đã được các chuyên gia thảo luận, tìm cách chỉnh sửa
hoặc viết lại.
Phiếu hỏi dành cho học sinh, sinh viên: Kết quả thử nghiệm cho thấy:
mặc dù số lượng đem cho mỗi tiểu thang đo khá ít (5-8 item) nhưng hệ số tin
cậy của hầu hết các tiểu thang đo của phiếu hỏi (dành cho học sinh, sinh
viên) vẫn có hệ số tin cậy alpha đạt mức trung bình đến khá (r từ 0.60 đến
0.72). Chỉ có 1/12 tiểu thang đo có hệ số tin cậy hơi thấp (r = 0.47). Các item
có độ tin cậy thấp của tiểu thang đo này đã được các chuyên gia xây dựng
công cụ chỉnh sửa.
Phiếu hỏi dành cho lao động trẻ: Kết quả thử nghiệm cho thấy: hệ số tin
cậy của 10/12 tiểu thang đo của phiếu hỏi (dành cho lao động trẻ) có hệ số tin
cậy alpha đạt mức trung bình đến khá (r từ 0.58 đến 0.71). Chỉ có 2/12 tiểu
thang đo có hệ số tin cậy thấp (r < 0.45). Các item có độ tin cậy thấp của 2
tiểu thang đo này đã được các chuyên gia xây dựng công cụ chỉnh sửa.
Như vậy nhìn chung bộ công cụ dùng để nghiên cứu nhân cách học
sinh, sinh viên và lao động trẻ sau khi thử nghiệm đã được chỉnh sửa cẩn
thận, đảm bảo tất cả các thang đo, tiểu thang đo, các item của từng tiểu thang
đo đáp ứng yêu cầu tối thiểu về độ tin cậy trước khi đưa vào sử dụng trong
mẫu chính thức.
V. ĐỘ TIN CẬY VÀ ĐỘ HIỆU LỰC CỦA TRẮC NGHIỆM NEO PI-R CÓ ĐIỀU CHỈNH VÀ BỔ SUNG
1. Độ tin cậy
Theo các chuyên gia thiết kế trắc nghiệm, những đặc tính quan trọng
nhất của một phép đo đáng tin cậy là độ ổn định (stability) và tương quan
trong hay độ phù hợp (internal consistency) và có nhiều phương pháp khác
nhau để đánh giá độ tin cậy của một phép đo.
Để đánh giá độ tin cậy của các phép đo trong nghiên cứu này, chúng tôi
dùng phương pháp đánh giá độ tương quan trong (internal consistency
methods), sử dụng mô hình tương quan alpha của Cronbach (Cronbachs
Coefficient alpha). Mô hình này đánh giá độ tin cậy của phép đo dựa trên sự
tính toán phương sai của từng item trong toàn phép đo và tính tương quan
điểm của từng kèm với điểm của toàn bộ các item còn lại của phép đo.
Công thức tính: Rxx = = (1 -k
) x 2 i
k - 1 2 x
k = Tổng số item của phép đo
2 x = Phương sai của cả phép đo
2 i = Phương sai của từng item của phép đo
2 i = Tổng phương sai của từng đem của phép đo
Kết quả phân tích độ tin cậy của trắc nghiệm NEO PI-R theo từng thang
đo, lượng giá từng mặt nhân cách cho thấy hệ số tin cậy của các thang đo
này đạt mức khá đến cao (hệ số tin cậy alpha từ 0.70 đến 0.90). Kết quả phân
tích độ tin cậy theo, từng tiểu thang đo, lượng giá từng nét nhân cách trong
mỗi mặt cũng cho thấy hệ số tin cậy của hầu hết các tiểu thang đo này đạt
mức trung bình đến khá (26/30 tiểu thang đo có hệ số tin cậy alpha của từ
0.44 đến 0.71), ngoại trừ một vài tiểu thang đo (xúc cảm, nhân cách, thái độ
với môi trường v.v…) có hệ số tin cậy thấp (4/30 tiểu thang đo có hệ số tin
cậy alpha từ 0.35 đến 0.40).
Kết quả phân tích độ tin cậy của phiếu hỏi cho thấy các tiểu thang đo
của nó đều có độ tin cậy ở mức khá (r từ 0.60 đến 0.82) (xem bảng 1b). Điều
này cho thấy các công cụ đo lường nhân cách đều có hệ số tin cậy bảo đảm.
Bảng 1: Độ tin cậy của phiên hỏi trên các mẫu điều tra
Các tiểu thang đo của phiếu hỏi
Mẫu học sinh
N=832
Mẫu sinh viên
N=652
Mẫu lao động
trẻ
N=935
1. Lý tưởng phấn đấu 0,67 0,63 0,60
2. thái độ đối với các vấn đề chính trị thời sự 0,60 0,59 0,51
3. Yêu nước tự hào dân tộc 0,64 0,64 0,70
4. Tôn trọng pháp luật 0,61 0,56 0,70
5. Thái độ đối với công việc 0,61 0,62 0,70
6. Thái độ đối với cuộc sống 0,82 0,83 0,80
7. Thái độ đối với đồng tiền 0,64 0,69 0,66
8. Thái độ đối với môi trường 0,37 0,29 0,46
9. Thái độ đối với các xu hướng quốc tế hoá, 0,63 0,53 0,55
toàn cầu hoá, hội nhập và mở cửa
10. Thái độ và năng lực học tập 0,67 0,64 0,74
11. Năng lực thích ứng, cạnh thanh 0,65 0,67 0,58
12. Năng lực sử dụng vi tính, ngoại ngữ và
làm chủ công nghệ mới0,82 0,79 0,86
13. Năng lực tìm việc làm 0,56
2. Độ hiệu lực
Một trắc nghiệm tốt, ngoài độ tin cậy tốt, cần phải có độ hiệu lực tốt.
Theo các chuyên gia thiết kế trắc nghiệm, độ hiệu lực là mức độ chính xác, đo
đúng cái nó cần đo. Mỗi trắc nghiệm có nhiều kiểu hiệu lực khác nhau: độ
hiệu lực nội dung, độ hiệu lực cấu trúc, độ hiệu lực tiêu chuẩn, độ hiệu lực dự
báo… Đồng thời cũng có nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá các kiểu
hiệu lực.
Để đánh giá độ hiệu lực nội dung chúng tôi sử dụng một nhóm chuyên
gia rà soát từng item đối chiếu chúng với bản gốc để xác định mức độ tương
đồng và tập huấn cho một nhóm nghiệm viên có kỹ năng phỏng vấn người
làm trắc nghiệm để phát hiện các sai sót khi thử nghiệm.
Để đánh giá độ hiệu lực cấu trúc chúng tôi dùng phương pháp phân
tích yếu tố. Kết quả phân tích yếu tố cho thấy trắc nghiệm NEO PI-R có độ
hiệu lực cấu trúc khá tốt. Các item trong tiểu thang đo, trong từng thang đo có
tính đồng hướng (cùng thuộc về một factor) - tức là cùng đo một năng lực.
Điểm số của mặt N (Nhiễu tâm) có tương quan nghịch với điểm số của các
mặt E, O, A, C (r từ -0,21 đến -0,60) tức là trắc nghiệm bảo đảm có hiệu lực.
Điểm số của mặt E hướng ngoại) có tương quan thuận khá chặt với điểm số
của mặt O (Cởi mở). Điều này phùhơp với thực tế và phản ánh đúng quan hệ
mong muốn, được giả thiết trong cấu trúc của phép đo.
VI. TIẾN HÀNH TRẮC NGHIỆM1. Đối tượng
1. Nhóm học sinh trung học phổ thông: Có khoảng 900 học sinh lớp 11
và 12 (chủ yếu là học sinh lớp 12) của 13 trường PTTH thuộc 6 tỉnh và thành
phố (Hà Nội, Hoà Bình, Đà Nẵng, Đắc Lắc, TP. Hồ Chí Minh và Long An)
2. Nhóm sinh viên: Có khoảng 800 sinh viên năm thứ hai và thứ tư/năm
của 14 trường đại học (ĐH) thuộc 3 vùng Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà
Nẵng.
3. Nhóm lao động trẻ: Mẫu lao động trẻ tham gia khảo sát có khoảng
1000 người (từ 45 tuổi trở xuống, trong đó 91% tuổi từ 35 trở xuống) thuộc 6
tỉnh và thành phố (Hà Nội, Hoà Bình, Đà Nẵng, Đắc Lắc, TP. Hồ Chí Minh và
Long An).
2. Chọn mẫu trắc nghiệm
Đề tài sử dụng phương pháp chọn mẫu phân tầng theo cụm nhiều giai
đoạn, kết hợp với mẫu ngẫu nhiên (các phương pháp này đã được cải tiến
cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam), cụ thể như sau:
1. Mẫu học sinh trung học phổ thông (lớp 11-12):
Học sinh từ 13 trường THPT, đại diện cho các khu vực: thành phố,
nông thôn tồng bằng, trung du, miền núi. Mẫu học sinh chia thành 3 khu vực:
miền Bắc (Hà Nội, Hoà Bình), miền Trung (Đà Nẵng, Buôn Mê Thuật) miền
Nam (TP. Hồ Chí Minh, Vĩnh long). Khu vực thành phố (Hà Nội, Đà Nẵng, TP.
Hồ Chí Minh) mỗi nơi chọn ngẫu nhiên 2 trường, gồm 1 trường nội thành, 1
trường ở khu vực nông thôn ngoại thành. Mỗi trường chọn ngẫu nhiên 2 lớp.
Khu vực nông thôn (Hoà Bình, Đắc Lắc, Long An), mỗi nơi chọn 1 huyện
(thuần nông thôn) vào loại trung bình của tỉnh, mỗi huyện này chọn 1 trường
vào loại trung bình, mỗi trường sau khi loại lớp chọn, lớp yếu nhất ra sẽ chọn
ngẫu nhiên 2 lớp để điều tra.
Thành phần của mẫu học sinh phân theo giới tính xấp xỉ là 50:50.
Thành phần của mẫu học sinh phân theo khu vực sẽ là học sinh thuộc khu
vực thành phố: 60%, học sinh thuộc khu vực nông thôn: 40%; đa số là học
sinh khu vực đồng bằng, chỉ khoảng 30% học sinh khu vực miền núi.
2. Mẫu sinh viên:
Sinh viên từ 14 trường đại học, chia theo 3 vùng: sinh viên các trường
đại học thuộc khu vực Hà Nội; sinh viên các trường đại học thuộc khu vực Đà
Nẵng; và sinh viên các trường đại học thuộc khu vực TP. Hồ Chí Minh (đây là
3 trung tâm lớn, tập trung phần lớn sinh viên các trường đại học). Ngoài ra có
một số sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long, Đại học Dân lập Cửu
Long cũng tham gia mẫu khảo sát này. Mỗi vùng, mẫu sinh viên lại được
phân thành 4 tầng theo ngành học: sư phạm, khoa học xã hội và nhân văn, kỹ
thuật và công nghệ, kinh tế và quản trị kinh doanh. Các trường được chọn
ngẫu nhiên, mỗi trường chọn ngẫu nhiên 2 khoa, mỗi khoa chọn ngẫu nhiên 1
lớp năm thứ 2 và 1 lớp năm thứ 4 hoặc 5 (nếu ngành đó học 5 năm). Thành
phần của mẫu sinh viên theo giới tính sẽ xấp xỉ 50:50. Thành phần của mẫu
sinh viên theo vùng, gồm: 40% sinh viên các trường đại học thuộc khu vực Hà
Nội; 20% sinh viên các trường thuộc khu vực Đà Nẵng; và 40% sinh viên các
trường đại học thuộc khu vực TP. Hồ Chí Minh. Thành phần của mẫu sinh
viên theo phân ngành, gồm: 20% sinh viên khối sư phạm; 20% sinh viên kỹ
thuật và công nghệ; 20% sinh viên khoa học xã hội và nhân văn; 20% sinh
viên khối kinh tế, quản trị kinh doanh.
3. Mẫu lao động trẻ
Thuộc 6 tỉnh và thành phố (Hà Nội, Hoà Bình, Đà Nẵng, Đắc Lắc, TP.
Hồ Chí Minh và Long An), tương quan giới là 50:50, tương quan khu vực
nông thôn - thành thị cũng vậy. Thành phần của mẫu gồm 24% công nhân,
24% nông dân, 26% giáo viên, 16% lao động có trình độ đại học làm trong
các doanh nghiệp, 10% trí thức. Trình độ học vấn của nhóm lao động trẻ từ
trung học cơ sở đến thạc sĩ.
B. PHƯƠNG PHÁP PHỎNG VẤN SÂUĐể có thêm nguồn cứ liệu qua người thực việc thực (L.Daten,
R.B.Cattell) một nhóm nghiên cứu đã phỏng vấn sâu một số người thành đạt,
có sự phát triển nhân cách đáp ứng ở mức cao độ những yêu cầu hiện nay
trên lĩnh vực hoạt động của họ.
Mục đích nghiên cứu của đề tài KX-05-07-03 là đo đạc nhằm tìm ra một
số đặc điểm (giá trị) nhân cách của một số tầng lớp người Việt Nam hiện nay,
từ đó cung cấp cơ sở thực tiễn và lý luận cho việc xây dựng con người Việt
Nam theo định hướng XHCN trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập
mở cửa. Thực hiện mục tiêu này, song song với việc tiến hành đo đạc trắc
nghiệm trên một mẫu lớn là hơn 2.700 người Việt Nam đại diện cho tầng lớp
học sinh, sinh viên và lao động trẻ trên khắp các vùng miền trong cả nước
như trên đã đề cập, và để bổ sung và minh họa thiết thực, sinh động cho
những nét chung mang tính đại diện, những nhận định mang tính khái quát
được rút ra từ điều tra khảo sát đó, chúng tôi còn tiến hành phỏng vấn sâu
một số trường hợp điển hình bước đầu đã có thành đạt nhất định của tầng
lớp lao động trẻ như doanh nhân, nông dân, trí thức.
I. ĐỐI TƯỢNG PHỎNG VẤN
Doanh nhân: 5 người, các đối tượng phỏng vấn đều là giám đốc công
ty tư nhân, đã thu được thành quả nhất định trong kinh doanh, có tuổi đời từ
24 đến 34 trong đó 4 người ở độ tuổi 30, đều là nam và đều ở miền Bắc có
trình độ đồng đều là tốt nghiệp đại học, không theo tôn giáo với nghề nghiệp
là kinh doanh vận tải, máy tính, phần mềm, điện thoại di động, quảng cáo. Có
3 người đã đi nước ngoài và 2 người chưa đi.
Nông dân: 5 người, là những nông dân thành đạt so với cộng đồng
xung quanh nơi mình sinh sống, được các cấp có thẩm quyền công nhận và
giới thiệu. Là những nông dân trong các lĩnh vực khác nhau như trồng trọt,
trồng lúa, trồng màu), chăn nuôi (nuôi cá, nuôi lợn) và nghề phụ: thú y. Họ có
độ tuổi như sau: 34, 44, 45, 50, 55. Như vậy có 3 người từ 45 tuổi trở xuống
(được coi là người trẻ tuổi thành đạt) và 2 người trên 45 tuổi. Về giới tính: 1
nữ, 4 nam, về khu vực: đồng bằng sông Cửu Long (Sóc Trăng, Trà Vinh);
ngoại thành Hà Nội (Đông Anh, Thanh Trì)
Trí thức: 5 người, là những trí thức thành đạt gồm hai bác sỹ, một
nghiên cứu viên, một giáo viên. Có hai người đã hoặc đang giữ cương vị
giám đốc, một người là trưởng phòng nghiên cứu. Một người là GS.TSKH,
một người là tiến sĩ, một người là thạc sĩ. Về giới tính hai nữ, hai nam. Tuổi
của những người được phỏng vấn là 28, 29, 45, 77.
II. PHƯƠNG PHÁP PHỎNG VẤN
Xác định các đặc trưng tâm lý của một hay một nhóm cá nhân là vấn đề
trung tâm trong nghiên cứu giá trị nhân cách. Rõ ràng là các đặc trưng tâm lý
phổ biến góp phần làm nên thành công của tầng lớp lao động trẻ (mà ở đây là
trí thức, nông dân và doanh nhân) tập trung nhất ở những cá nhân thà đạt.
Khái niệm thành đạt ở đây được hiểu là có các kết quả khá tốt không chỉ
trong sự nghiệp, mà còn trong cuộc sống, bao gồm cả lĩnh vực kinh tế và
quan hệ gia đình. Phương pháp nghiên cứu được lựa chọn là phân tích so
sánh thông qua tiếp xúc và phỏng vấn sâu dưới hình thức câu hỏi mở, được
xây dựng thống nhất với các chuyên đề khác trong cùng Chương trình dựa
trên mô hình nhân cách năm yếu tố NEO PI-R nhằm định dạng nhân cách các
đối tượng nghiên cứu, phát hiện những phẩm chất bền vững, có ảnh hưởng
quyết định đến thành công của họ. Phương pháp được sử dụng là phỏng vấn
bán cấu trúc: Nội dung chính để phỏng vấn đã được chuẩn bị sẵn từ trước về
các vấn đề chính dưới hình thức các câu hỏi mở. Ngoài ra phỏng vấn viên có
thể tuỳ theo từng đối tượng mà hỏi thêm những câu hỏi khác nhằm làm rõ và
bổ sung thêm thông tin về vấn đề quan tâm. Tuy nhiên, các câu hỏi này có nội
dung không nằm ngoài những vấn đề chính.
Các cuộc phỏng vấn đều được sự đồng ý của người được phỏng vấn
để ghi âm, sau đó được cán bộ phỏng vấn gỡ băng. Trong quá trình phỏng
vấn, cán bộ phỏng vấn còn kết hợp quan sát và ghi chép những điều đáng
chú ý.
Thời gian phỏng vấn người lâu nhất là 3 giờ, ngắn nhất là 1 giờ 45
phút. Nói chung những người được chọn phỏng vấn này đều rất bận. Để có
được cuộc phỏng vấn phải sắp xếp kế hoạch từ trước đã khó, duy trì cuộc
phỏng vấn diễn ra liên tục còn khó hơn bởi đối với tất cả họ, thời gian là vô
cùng quí báu. Bên cạnh đó, trước mắt họ luôn là một núi công việc cần giải
quyết ngay hoặc cần sự quan tâm thích đáng tức thì của họ. Những cán bộ
phỏng vấn đều có chung cảm giác có lỗi bởi đã làm mất thì giờ của những
con người coi công việc là trên hết này.
C. ĐIỀU TRA GIÁ TRỊ NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀITrên cơ sở nhận thức rằng người Việt Nam định cư ở nước ngoài là
một bộ phận của dân tộc Việt Nam, hơn nữa đó là nhóm người sống trong
hoàn cảnh biến đổi về văn hóa so với người Việt Nam trong nước, đã trải qua
một quá trình hội nhập, quốc tế hóa, toàn cầu hóa nhất định vì vậy nếu điều
tra so sánh với các nhóm người Việt Nam trong nước chắc chắn sẽ là một
mẫu đối chiếu thú vị, hứa hẹn những kết quả bất ngờ, chúng tôi đã tiến hành
2 cuộc điều tra xã hội học (diện rộng và diện hẹp) gần 450 người Việt Nam
định cư ở một số nước như Mỹ, Pháp, Úc, Séc, Lào, Thái Lan, Cămpuchia.
I. ĐIỀU TRA DIỆN RỘNG
Nhằm nghiên cứu về người Việt Nam ở nước ngoài nhất là về nhân
cách và thái độ đối với toàn cầu hóa, mở cửa và hội nhập, nhánh KX-05-07-
03: Nghiên cứu người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa đã tiến hành
điều tra khảo sát về nhận thức, thái độ và quan điểm giá trị của 317 người
Việt Nam (sau khi đã loại bỏ phiếu không hợp lệ) đang sống ở nước ngoài, cụ
thể là trên các mặt sau:
- Nhận thức về toàn cầu hóa.
- Quan niệm về công dân toàn cầu.
- Đánh giá chung về mở cửa và hội nhập.
- Đánh giá tác động của mở cửa và hội nhập đối với độc lập dân tộc,
văn hóa dân tộc, nguy cơ chiến tranh.
- Những hoạt động hòa nhập cụ thể.
- Thái độ đối với các tổ chức quốc tế.
- Tác động của các tổ chức quốc tế đối với kinh tế Việt Nam.
- Đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
- Thái độ đối với dân tộc.
- Niềm tin vào cuộc sống.
- Niềm tin đối với chính phủ.
- Hành động cụ thể đóng góp cho đất nước.
Tổng số người: Tham gia cuộc khảo sát trên diện rộng có 317 người
Độ tuổi: Đối tượng có độ tuổi trải khá rộng từ 19 đến 84, trong đó 19
tuổi có 1 người và:
Từ 20 đến 29 tuổi: 36 người (16,4%)
Từ 30 đến 39tuổi: 40 người (18,6%)
Từ 40 đến 49tuổi: 62 người (28,8%)
Từ 50 đến 59 tuổi: 41 người (19,1 %)
Từ 60 đến 69 tuổi: 17 người (8,0%)
Từ 70 tuổi trở lên: 19 người (9,1%)
Địa điểm: 7 nước và khu vực
Số lượng đối tượng tham gia khảo sát phân theo khu vực
Nước, khu vực Số người %
Cămpuchia 57 18,0
New York 81 25,6
Thái Lan 57 18,0
Úc 15 4,7
Pháp 50 15,8
San Francisco 29 9,1
Sec 28 8,8
Tổng cộng 317 100,0
Giới tính: Có 62,5% đối tượng là nam và 37,5% là nữ. Trong đó nữ có tỉ
lệ tham gia đạt trên 40% có các nước, khu vực như Pháp (54%), Séc
(46,4%), San Francisco (41,4%), dưới 40% có New York (39,5%), và thấp từ
20 đến 30% có Cămpuchia (22,8%), Thái Lan (29,8%), Úc (33,3%).
Tôn giáo: Đa số các đối tượng theo đạo Phật: 158 người chiếm hơn
60%; đạo Thiên chúa 36 người chiếm 13,8%, dạo Tin lành có 9 người ngoài
ra 3 người theo đạo Cao đài, 2 người Hồi giáo và 48 người trả lời không theo
đạo gì, 57 người không trả lời. Xét về tương quan học vấn, người có trình độ
phổ thông theo đạo Phật ở tỉ lệ cao hơn, 70,9% so với 46,3% ở người có trình
độ đại học, ngược lại người có trình độ đại học theo các đạo Công giáo và Tin
lành với tỉ lệ cao hơn, là 18,5% và 3,7% so với 10,8% và 3,4% ở người có
trình độ phổ thông. Xét về tương quan giới, nữ theo đạo Phật nhiều hơn nam,
còn nam theo Công giáo và Tin lành nhiều hơn nữ. Xét tương quan khu vực,
người theo đạo Phật nhiều nhất là ở Thái Lan (89,3%), Cămpuchia 66,7%,
Pháp 65,9%, người theo đạo Công giáo nhiều nhất ở Úc 38,5%, New York
34,1%.
Học vấn: Đa số đối tượng có trình độ từ trung học phổ thông đến đại
học (202 người), sau đó đến tiểu học và trung học cơ sở (66 người), trên đại
học (26 người) ngoài ra có 18 người có chức danh hoặc làm công tác nghiên
cứu giảng dạy tại đại học.
Trình độ học vấn của đối tượng tham gia khảo sát
Trình độ Số người %
Tiểu học 35 11,2
Trung học cơ sở 31 9,9
Trung học phổ thông 107 34,3
Đại học 95 30,4
Thạc sĩ 10 3,2
Tiến sĩ 16 5,1
Giảng viên đại học 5 1,6
PGS 2 0,6
Nghiên cứu viên 11 3,5
Tổng cộng 312 100,0
Tất cả 317
Mức sống: Chỉ có 2 người tự đánh giá bản thân có mức sống thượng
lưu, đa số ở mức thấp hơn cụ thể là: trung lưu 198 người chiếm hơn 65%,
thấp hơn là 104 người chiếm hơn 34% và 13 người không trả lời. Xét về
tương quan vấn, người có trình độ đại học có tỉ lệ mức sống cao hơn người
có trình độ phổ thông: thượng lưu là 1,5% so với 0% và trung lưu là 73,5% so
với 57,9%. Xét về tương quan giới thì tỉ lệ nữ thuộc trung lưu có nhỉnh hơn
nam chút ít. Về tương quan khu vực, người tự xếp mức sống của mình vào
mức thượng lưu chỉ có 2 người ở Cămpuchia và Úc, ngoài ra ở mức trung lưu
tỉ lệ cao nhất là người Việt ở Thái Lan 88,9%, Séc 85,7%, San Francisco
76,9%, Pháp 75%, ngoài ra là Úc 53,3%, Cămpuchia 48,1%, và thấp nhất là
New York 45,7%.
II. ĐIỀU TRA DIỆN HẸP
Trong cuộc khảo sát này, hơn 100 người Việt Nam định cư ở nước
ngoài (có cả người đang về Việt Nam làm ăn, công tác) đã tham gia trả lời
các câu hỏi xoay quanh nội dung tìm hiểu nhận thức, thái độ và quan điểm giá
trị thể hiện trên các mặt chủ yếu như:
- Nhận thức và quan niệm về mô hình nhân cách (kể cả mô hình nhân
cách lý tưởng) trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập thông
qua những phẩm chất nhân cách của mẫu người lý tưởng và phẩm chất cần
thiết phải giáo dục cho trẻ.
- Quan điểm đối với nghề nghiệp: nhấn mạnh vào thu nhập hay nhấn
mạnh vào cuộc sống theo ý muốn?
- Lối sống thể hiện trong việc sử dụng quỹ thời gian.
- Niềm tin vào sự hội nhập và mở cửa thể hiện ở mức độ tin tưởng các
tổ chức quốc tế mà Việt Nam tham gia.
- Lòng tin vào cuộc sống thể hiện ở tính lạc quan (hay bi quan) đối với
cuộc sống của xã hội đang sống, đối với con người và xã hội loài người nói
chung.
- Quan điểm và hành động giữ gìn bảo bệ môi trường một hành động
thiết thực đối với việc hội nhập quốc tế.
- Quan điểm và hành động tôn trọng pháp luật một yếu tố cần thiết khi
mở cửa và hội nhập quốc tế.
Tổng số người: tham gia khảo sát là 100 người.
Địa điểm:
Tỉ lệ số người phân bổ theo nước
Nước, khu vực Số người %
Lào 33 33
Việt Nam (đang công tác tại VN) 12 12
Sec 16 16
Không rõ 50 50
Tổng cộng 111 111
Độ tuổi: Từ 21 đến 62 tuổi, trong đó: Từ 20 đến 30 tuổi có 14 người, từ
31 đến 40 tuổi: 28 người, từ 41 đến 50 tuổi: 22 người, từ 51 đến 62 tuổi: 10
người và không rõ tuổi: 37 người.
Giới tính: 50% nam và 50% nữ.
Tôn giáo: Đa số theo đạo Phật: có 45 người chiếm hơn 46,4%; đạo
Thiên chúa 14 người chiếm 14,4%, 38 người trả lời không theo đạo gì chiếm
39,2%, 14 người không trả lời.
Mức sống: Chỉ có 1 người trả lời ở mức sống thượng lưu đa số ở mức
thấp hơn cụ thể là: trung lưu 82 người chiếm hơn 82%, dưới trung lưu 17
người, chiếm hơn 17%.
Học vấn: Đa số là trung học phổ thông và đại học (81 người), sau đó
đến tiểu học (8 người), trên đại học (6 người) ngoài ra có 1 người có chức
danh phó giáo sư, 15 người không rõ.
Trình độ học vấn của đối tượng tham gia khảo sát
Trình độ Số người %
Tiểu học 8 8,3
Trung học phổ thông 33 34,4
Đại học 48 50,0
Thạc sĩ 5 5,2
Tiến sĩ 1 1
PGS 1 1
Tổng cộng 96 100,0
Không rõ 15
Hình thức điều tra: Bằng thư điện tử với sự cộng tác của mạng lưới
cộng tác viên ở các sứ quán Việt Nam tại các nước thực hiện điều tra.
D. TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG NGHIỆM THỂ VÀ ĐỊA BÀN ĐIỀU TRA, TRẮC NGHIỆM
1. Đối tượng điều tra, trắc nghiệm
Đối tượng điều tra, trắc nghiệm của đề tài là khoảng 5.300 người Việt
Nam ở trong nước và khoảng 450 người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
gồm các thành phần học sinh trung học phổ thông (lớp 11-12), sinh viên,
nông dân, công nhân, trí thức, doanh nhân…
2. Địa bàn điều tra, trắc nghiệm
Trong nước: đại diện cho các vùng ở 3 miền Trung, Nam, Bắc; cả vùng
núi và đồng bằng, cả nông thôn và thành thị. Cụ thể như sau:
1) Miền Bắc: Hà Nội
Hòa Bình
Hải Phòng
Thái Nguyên
2) Miền Trung: Huế
Đà Nẵng
Đắc Lắc
3) Miền Nam: TP.Hồ Chí Minh
Vĩnh Long
Đồng Tháp
Cần Thơ
Người Việt ở nước ngoài: Mỹ, Pháp, Úc, Séc, Lào, Cămpuchia, Thái
Lan.
3. Thời gian điều tra, trắc nghiệm
Từ tháng 12/2002 đến 1/2004.
E. CÁCH TÍNH (XỬ LÝ SỐ LIỆU)I. MỘT SỐ THUẬT NGỮ DÙNG TRONG THỐNG KÊ
Trong nghiên cứu này có sử dụng một số thuật ngữ thống kê sau đây.
1. Điểm trung bình (mean):
Điểm trung bình là một trong những thông số thống kê đo xu hướng
trung tâm của mẫu. Nó được tính bằng trung bình cộng của các điểm đạt
được. Công thức tính như sau:
Điểm trung bình = Xi
n
Trong đó: Xi là giá trị của các số hạng
n là dung lượng mẫu
Bởi điểm trung bình lấy mọi giá trị của dãy số nên khi trong dãy số có
giá trị cực lớn hoặc cực nhỏ so với các số hạng khác trong đó thì mức độ mô
tả của thông số này sẽ bị ảnh hưởng.
2. Độ lệch chuẩn (standard deviation):
Độ lệch chuẩn là chỉ số thống kê đo độ phân tán của một phân phối. Nó
chỉ ra mức độ dao động của các cá nhân so với điểm trung bình.
II. TRẮC NGHIỆM GIÁ TRỊ NHÂN CÁCH NEO PI-R
1, Kết quả nghiên cứu nhân cách trên mẫu học sinh được rút ra từ kết
quả điều tra khảo sát 900 học sinh lớp 11 - 12 của 6 tỉnh thuộc 3 khu vực
(miền Bắc, miền Trung và miền Nam) bằng trắc nghiệm đánh giá nhân cách:
NEO PI-R và phiếu hỏi.
Để đảm bảo tính khoa học cho việc phân tích những số liệu thu được
từ mẫu điều tra học sinh và sử dụng những số liệu này vào dự đoán và suy
luận, trước hết chúng tôi giả thiết các phân phối điểm của trắc nghiệm NEO
PI-R đo lường các mặt nhân cách của học sinh đều có dạng phân phối chuẩn
và dùng các phép toán thống kê đánh giá tính chuẩn của các phân phối này.
Để nghiên cứu tính chuẩn của các phân phối điểm của trắc nghiệm
NEO PI-R chúng tôi dùng phương pháp thống kê tóm lược: dùng các phép
thử Skewness (đánh giá tính đối xứng của đường cong phân phối điểm) và
Kurtosis (đánh giá độ phẳng của đường cong phân phối điểm). Kết quả của
cả hai phép thử này đều có trị số nhỏ (Skewness từ -0,25 đến 0,41; Kurtosis
từ 0,2 đến 0,82). Điều này có nghĩa là các đường cong phân phối điểm của 5
thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R trên mẫu điều tra học sinh đều gần với
đường cong chuẩn (sẽ là lý tưởng nếu các trị số này tiệm cận zerô, lúc đó
đường phân phối điểm trùng với đường cong chuẩn).
Lược đồ tần suất có gắn đường cong chuẩn (histogam with normal
curve) dùng để kiểm tra tính chuẩn cũng cho thấy phân phối điểm của cả 5
thang đo đánh giá 5 mặt của nhân cách (N, E, A, O, C) trên mẫu khảo sát đều
gần giống với đường cong chuẩn.
Biểu đồ xác suất chuẩn (normal Q-Q plot) cũng cho thấy phân phối
điểm của cả hai mẫu xấp xỉ phân phối chuẩn. Điều này cho phép dùng những
số liệu từ các nhóm mẫu điều tra để suy đoán dự báo cho cả quần thể nghiên
cứu.
Như vậy, kết quả phân tích phân phối điểm của các thang đo của trắc
nghiệm NEO PI-R trên mẫu khảo sát cho thấy tính chuẩn của các phân phối
này bảo đảm. Điều này cho phép dùng các phương pháp thống kê mô tả (tính
điểm trung bình, độ lệch chuẩn, phương sai…) và thống kê suy luận (phân
tích hồi quy, phân tích yếu tố…) trên những số liệu từ các thang đo trên mẫu
điều tra này để suy đoán dự báo.
Theo các tác giả của trắc nghiệm NEO PI-R, điểm thô ở mỗi mặt của
từng học sinh được đổi thành điểm chuẩn T (theo giới tính), theo công thức
sau:
Điểm chuẩn T =(Xi – X)
x 10 + 50S
Xi: điểm thô trên từng mặt của từng học sinh.
X: điểm trung bình của mẫu (theo giới).
S: độ lệch chuẩn.
Điểm chuẩn sau đó được phân thành 5 nhóm:
- Điểm rất thấp (điểm chuẩn T < 35)
- Điểm thấp (điểm chuẩn T: 35 - 44)
- Điểm trung bình (điểm chuẩn T: 45 - 55)
- Điểm cao (điểm chuẩn T: 56 - 65)
- Điểm rất cao (điểm chuẩn T > 66)
2, Kết quả nghiên cứu nhân cách trên mẫu sinh viên được rút ra từ kết
quả điều tra khảo sát 655 sinh viên của 14 trường đại học, thuộc 3 khu vực:
Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh bằng trắc nghiệm đánh giá nhân cách
NEO PI-R và phiếu hỏi.
Để đảm bảo tính khoa học cho việc phân tích những số liệu thu được
từ mẫu điều tra, trước hết chúng tôi giả thiết các phân phối điểm của trắc
nghiệm NEO PI-R đo lường các mặt nhân cách của sinh viên đều có dạng
phân phối chuẩn và dùng các phép toán thống kê đánh giá tính chuẩn của các
phân phối điểm này.
Để đánh giá tính chuẩn của các phân phối điểm của trắc nghiệm NEO
PI-R chúng tôi dùng phương pháp thống kê tóm lược: là các phép thử
Skewness và Kurtosis. Kết quả của cả hai phép thử này đều có trị số rất nhỏ
(Skewness từ 0,01 đến 0,30; Kurtosis từ -0,19 đến 0,18). Điều này có nghĩa là
các đường cong phân phối điểm của 5 thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R
trên mẫu điều tra học sinh đều gần với đường cong chuẩn.
Lược đồ tần suất có gắn đường cong chuẩn vào (histogam with normal
curve) dùng để kiểm tra tính chuẩn cũng cho thấy phân phối điểm của cả 5
thang đo đánh giá 5 mặt của nhân cách (N, E, A, O, C) trên mẫu khảo sát sinh
viên đều gần giống với đường cong chuẩn.
Biểu đồ xác xuất chuẩn (normal Q-Q plot) cũng cho thấy phân phối
điểm của mẫu xấp xỉ phân phối chuẩn. Điều này cho phép dùng những số liệu
từ các nhóm mẫu điều tra để suy đoán dự báo cho cả quần thể nghiên cứu.
Như vậy, kết quả phân tích phân phối điểm của các thang đo của trắc
nghiệm NEO PI-R trên mẫu khảo sát cho thấy tính chuẩn của các phân phối
này bảo đảm. Điều này cho phép dùng các phương pháp thống kê mô tả (tính
điểm trung bình, độ lệch chuẩn, phương sai…) và thống kê suy luận (phân
tích hồi quy: phân tích yếu tố…) trên những số liệu từ các thang đo trên mẫu
điều tra này để suy đoán dự báo.
Theo các tác giả của trắc nghiệm NEO PI-R, điểm thô ở mỗi mặt của
từng sinh viên được đổi thành điểm chuẩn T (theo giới tính), theo công thức
đã nói ở trên.
Kinh nghiệm cho thấy việc lựa chọn phương pháp nghiên cứu đúng đắn
và khoa học là hết sức quan trọng, quyết định phần lớn kết quả nghiên cứu.
Vì vậy có thể kỳ vọng rằng nghiên cứu của chúng tôi xác định được các đặc
điểm cơ bản, chung nhất của nhân cách người Việt Nam hiện nay và cho thấy
trình độ phát triển nhân cách này đã đáp ứng được những yêu cầu của thời
kỳ CNH, HĐH hay chưa. Mặt khác, do sử dụng bộ trắc nghiệm nhân cách phổ
biến trên thế giới, kết quả nghiên cứu này cũng sẽ tạo nên được một thực
trạng chung, trong đó những nét giống nhau và khác nhau sẽ dẫn đến những
kết luận phong phú, có ý nghĩa, giúp người nghiên cứu có tầm nhìn rộng hơn.
Các kết quả thu được bước đầu cho thấy tính khoa học và thực tiễn, khả
năng phát hiện và dự báo của những phương pháp đã sử dụng, cho dù vẫn
còn phải tiếp tục hoàn thiện trong những nghiên cứu sau này.
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨUChương này sẽ trình bày các kết quả nghiên cứu thu được sau khi tiến
hành trắc nghiệm đo đạc nhân cách và điều tra định hướng giá trị người Việt
Nam ở nước ngoài. Nội dung chủ yếu bao gồm những vấn đề sau.
- Kết quả nghiên cứu nhân cách qua trắc nghiệm (NEO PI-R có sửa
chữa và bổ sung);
- Kết quả nghiên cứu nhân cách qua phỏng vấn sâu (các trường hợp
thành đạt);
- Kết quả nghiên cứu định hướng giá trị người Việt Nam ở nước ngoài.
A. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH QUA TRẮC NGHIỆM
I. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH HỌC SINH1. Kết quả nghiên cứu qua trắc nghiệm NEO PI-R
Trước hết, kết quả đo lường các mặt và các nét nhân cách qua trắc
nghiệm NEO PI-R được thể hiện chi tiết ở bảng 2a.
Bảng 2a: Điểm trung bình và độ lệch chuẩn ở từng mặt, nét nhân cách của HS lớp 11-12
Các thang đo / tiểu thang đo MẫuĐiểm trung bình
Độ lệch chuẩn
N: Nhiễu tâm (Neuroticism)
E: Hướng ngoại (Extraverson)
O: Cởi mở, ham hiểu biết (Opennes)
A: Dễ thương (Ageeableness)
C: Có ý chí phấn đấu (Conscicntiousness)
830
828
829
827
822
91.0
112.3
107.8
113.5
117.4
19.0
17.7
14.2
14.5
20.9
Nhiễu tâm:
N1: Lo âu
N2: Giận dữ / thù nghịch
N3:Trầm cảm
N4: Tự ty, mặc cảm
N5: Xung tính
N6: Dễ bị thương tổn
834
831
830
831
832
832
16.3
14.1
15.2
17.5
13.9
14.1
5.1
4.7
4.8
4.1
4.4
4.1
Hướng ngoại:
E1: Cởi mở, thân thiện 833 21.1 4.3
E2: Quảng giao
E3: Khẳng định, quyết đoán
E4: Tích cực hoạt động
E5: Tìm kiếm kích thích
E6: Xúc cảm tích cực
831
830
831
832
832
19.0
15.9
18.1
18.8
19.1
4.9
3.7
3.9
4.7
4.2
Cởi mở, ham hiểu biết:
O1: Giàu trí tưởng tượng
O2: Có óc thẩm mỹ
O3: Hiểu xúc cảm tình cảm
O4: Đa dạng hoá hoạt động
O5: Giàu ý tưởng
O6: Các giá trị
834
830
831
831
832
832
16.4
20.3
18.6
16.6
17.6
18.2
4.2
4.9
3.8
3.8
4.5
3.5
Dễ thương:
A1: Niềm tin
A2: Thẳng thắn
A3: Vị tha
A4: Phục tùng
A5: Khiêm tốn
A6: Nhân hậu
831
830
831
832
832
829
17.8
16.9
20.9
15.9
20.2
21.8
4.3
4.2
3.9
4.2
4.4
3.8
Có ý chí phấn đấu:
C1: Năng lực
C2: Ngăn nắp
C3: Trách nhiệm
C4: Nỗ lực thành đạt
831
823
831
828
18.3
18.7
22.4
20.5
3.9
5.3
4.3
4.7
C5: Kỷ luật tự giác
C6: Thận trọng
832
832
17.4
20.0
4.1
4.7
Kết quả đo lường qua trắc nghiệm NEO PI-R sẽ được phân tích so
sánh với kết quả đo lường trên học sinh Mỹ (đã được chuẩn hoá), phân nhóm
theo điểm chuẩn (các mặt nhân cách), phân nhóm kết hợp cả 5 nhân tố (mặt),
so sánh tương quan giới, vùng và nghề nghiệp của cha mẹ.
1.1. Nhân cách học sinh Việt Nam so với học sinh Mỹ
So với kết quả đo trên học sinh Mỹ (tuổi 17-20), điểm trung bình của
học sinh Việt Nam trong mẫu điều tra này thấp hơn một cách đáng kể ở mặt
N (nhiễu tâm 91.0 so với 96.3), mặt E (Hướng ngoại 112.1 so với 121.2) và
mặt O (Cởi mở 108.2 so với 116.8). Như vậy nhóm học sinh Việt Nam được
khảo sát ít bị nhiễu tâm hơn so với học sinh Mỹ, nhưng lại kém hơn ở hai mặt
E và O so với học sinh Mỹ. Kết quả so sánh cũng cho thấy hai mặt A (Dễ
thương) và C (có ý chí phấn đấu) không có sự khác biệt đáng kể về điểm số
trung bình giữa hai nhóm họ c sinh Việt Nam và học sinh Mỹ. Tuy nhiên sự so
sánh này chỉ là tương đối do thiếu tính tương đồng giữa hai nhóm ở một số
điểm, (chẳng hạn tuổi, kích cỡ mẫu), và do có một vài item đã chỉnh sửa…
Bảng 2b: Điểm trung bình và độ lệch chuẩn ở từng mặt nhân cách của nhóm học sinh Mỹ trong mẫu chuẩn hoá (N = 389)
Các mặt / nét nhân cáchĐiểm trung
bìnhĐộ lệch chuẩn
N: Nhiễu tâm (Neuroticism)
E: Hướng ngoại (Extraverson)
O: Cởi mở (Opennes)
A: Dễ thương (Agreeableness)
C: Có ý chí phấn dấu (Conscientiousness)
96.3
121.2
116.8
113.5
114.5
21.9
18.2
17.8
16.6
21.1
Nhiễu tâm:
N1: Lo âu
N2: Giận dữ / thù nghịch
N3: Trầm cảm
N4: Tự ty, mặc cảm
N5: Xung tính
N6: Dễ bị thương tổn
17.5
16.0
15.3
16.4
18.4
12.8
5.0
5.1
5.7
4.7
4.3
4.4
Hướng ngoại:
E1: Cởi mở, thân thiện
E2: Quảng giao
E3: Khẳng định, quyết đoán
E4: Tích cực hoạt động
E5: Tìm kiếm kích thích
E6: Xúc cảm tích cực
23.2
19.2
17.0
18.8
21.5
21.5
4.3
5.1
5.1
3.8
4.0
4.1
Cởi mở:
O1: Giàu trí tưởng tượng
O2: Có óc thẩm mỹ
O3: Hiểu xúc cảm tình cảm
O4: Đa dạng hoá hoạt động
O5: Giàu ý tưởng
O6: Các giá trị
20.1
18.6
22.4
15.8
19.1
20.8
4.8
5.6
4.3
3.5
5.0
3.7
Dễ thương:
A1: Niềm tin
A2: Thẳng thắn
A3: Vị tha
18.7
18.3
23.2
4.4
4.8
3.6
A4: Phục tùng
A5: Khiêm tốn
A6: Nhân hậu
15.6
18.0
19.8
4.4
4.5
3.3
Có ý chí phấn đấu:
C1: Năng lực
C2: Ngăn nắp
C3: Trách nhiệm
C4: Nỗ lực thành đạt
C5: Kỷ luật tự giác
C6: Thận trọng
21.1
17.8
21.2
18.9
18.9
16.6
4.0
4.9
4.1
4.9
5.1
4.5
1.2. Kết quả phân nhóm học sinh theo điểm chuẩn
Như phần Phương pháp đã trình bày, các tác giả của trắc nghiệm NEO
PI-R dùng điểm thô ở mỗi mặt nhân cách của từng học sinh đổi thành điểm
chuẩn T, sau đó căn cứ vào điểm chuẩn này phân chia thành 5 nhóm (theo
giới tính). Kết quả phân nhóm ở đây được thể hiện ở hai bảng 2c và 2d:
Bảng 2c: Phân nhóm theo điểm chuẩn ở từng mặt nhân cách trên nhóm học sinh nam lớp 11-12 (Nam = 382)
Các thang đo /
tiểu thang đo
Nhóm điểm
rất thấp <35
Nhóm điểm thấp
(35-44)
Nhóm điểm trung
bình (45-55)
Nhóm điểm cao
(56-65)
Nhóm điểm
rất cao > 66
N: Nhiễu tâm (Neuroticism) 6% 20,4% 44,5% 24,6% 4,5%
E: Hướng ngoại
(Extraverson)5,2% 22,6% 44,1% 23,4% 4,7%
O: Cởi mở (Opennes) 4,5% 26,7% 43,5% 18,8% 6,5%
A: Dễ thương
(Agreeableness)4,2% 26,3% 40,5% 21,6% 7,4%
C: Có ý chí phấn dấu
(Conscientiousness)4,2% 28% 42,2% 19% 6,6%
Bảng 2d. Phân nhóm theo điểm chuẩn ở từng mặt nhân cách trên nhóm học sinh nữ lớp 11-12 (Nữ = 448)
Các thang đo /
tiểu thang đo
Nhóm điểm
rất thấp <35
Nhóm điểm thấp
(35-44)
Nhóm điểm trung
bình (45-55)
Nhóm điểm
cao (56-65)
Nhóm điểm rất
cao > 66
N: Nhiễu tâm (Neuroticism) 3,8% 13,6% 46,7% 27,5% 8,5%
E: Hướng ngoại
(Extraverson)4,5% 26% 40,9% 21,9% 6,7%
O: Cầu thị, ham hiểu biết
(Opennes)4,9% 25,1% 43,6% 20,8% 5,6%
A: Dễ chấp nhận
(Agreeableness)4% 25,1% 44,7% 19,5% 6,7%
C: Làm chủ, kiểm soát bản
thân (Conscientiousness)5,9% 25,1% 40,2% 22,1% 6,8%
Theo hai bảng 2c và 2d, chúng ta thấy:
- Có 29,1 % học sinh nam và 36% học sinh nữ có điểm chuẩn cao và
rất cao ở mặt N. Số học sinh này có những dấu hiệu không ổn định, bất
thường về tâm thần như hay lo lắng thái quá, dễ bị stress, dễ giận dữ, hay có
ý nghĩ thù nghịch, dễ mặc cảm tự ty, hay bị trầm cảm, không có khả năng
kiềm chế, kiểm soát xung tính, dễ nổi xung và dễ bị thương tổn. Trong số này
có 2,1% các em nam và 2,5% các em nữ có điểm chuẩn > 70, các em này có
thể được chẩn đoán bị rối nhiễu nhân cách ở mức tâm bệnh. Ngược lại có
26,4% học sinh nam và 17,4% học sinh nữ được điều tra có điểm chuẩn thấp
và rất thấp ở mặt N. Số học sinh này có những dấu hiệu nhân cách đặc trưng
như có xúc cảm, tình cảm ổn định, luôn bình tĩnh, tỉnh táo, biết kiềm chế,
thanh thản, thư giãn và có thể ứng phó có hiệu quả với hầu hết các tình
huống gây stress thường gặp trong cuộc sống.
- Có 27,8% học sinh nam và 30,5% học sinh nữ được điều tra có điểm
chuẩn thấp và rất thấp ở mặt E. Số học sinh này có những nét nhân cách đặc
trưng như luôn giữ khoảng cách với người khác hoặc kín đáo dè dặt, ít hồ hởi
và ít hăng hái, ít có nhu cầu tìm kiếm sự kích thích, thích nhịp sống đều đều,
nhàn tản, có xu hướng thích sống một mình, họ không thích tìm kiếm, thậm
chí tránh né những kích thích về mặt xã hội và thường thích đứng ở sau hội
trường và để người khác nói và điều khiển. Có 28,1% học sinh nam và 28,6%
học sinh nữ có điểm chuẩn cao và rất cao ở mặt này. Các em này có những
nét, đặc điểm nhân cách đặc trưng như thích hoạt động xã hội, dễ kết bạn, có
uy tín và năng lực trong hoạt động xã hội, nhanh nhẹn hoạt bát, thích mạnh
mẽ nổi trội, có tính tự khẳng định, ưa hoạt động mới mẻ, thích tìm kiếm sự
kích thích, có xu hướng lạc quan và luôn có những xúc cảm, tình cảm tích
cực.
- Có 3 1,2% học sinh nam và 30% học sinh nữ có điểm chuẩn thấp và
rất thấp ở mặt O. Số học sinh này có những đặc điểm nhân cách đặc trưng
như thường có phạm vi hứng thú hẹp (chẳng hạn, ít tò mò, không ham tìm
hiểu), có xu hướng luôn coi trọng, tuyệt đối tuân thủ các quy ước về hành vi,
bảo thủ trong cách nhìn (chẳng hạn khó thay đổi thói quen, nếp nghĩ, chỉ ưa
thích tiếp tục những gì mình đã từng làm, đã được coi là đúng), tình cảm có
cái gì đó hời hợt, ít nhạy cảm, ít sâu sắc và có xu hướng bảo thủ hơn về mặt
chính trị, xã hội. Có 25,3% học sinh nam và 26,4% học sinh nữ đạt điểm
chuẩn cao và rất cao ở mặt O. Số học sinh này có những đặc điểm nhân cách
đặc trưng như giàu trí tưởng tượng, nhạy cảm thẩm mỹ, chú ý tới những tình
cảm bên trong, tò mò về trí tuệ, ham hiểu biết, độc lập trong xét đoán, có cuộc
sống giầu có phong phú về sự trải nghiệm (mong muốn trải nghiệm những ý
tưởng lãng mạn, mơ mộng, những giá trị không có trong quy ước, trải nghiệm
cả những xúc cảm tích cực và tiêu cực).
- Có 30,5% học sinh nam và 29,1% học sinh nữ được điều tra có điểm
chuẩn thấp và rất thấp ở mặt A. Số học sinh này có những nét nhân cách đặc
trưng như khó chấp nhận người khác, hay chống đối người khác, có xu
hướng ích kỷ, hay nghi ngờ những ý định tốt đẹp của người khác (chẳng hạn,
có xu hương nghi ngờ, không tin người khác, thường chỉ quan tâm đến mình,
không quan tâm đến những vấn đề của người khác hoặc chỉ miễn cưỡng khi
buộc phải quan tâm đến người khác), có xu hướng ganh đua hơn là hợp tác.
Những ai có điểm rất thấp trên thang đo này thường liên quan đến những rối
nhiễu nhân cách kiến tự mê mình, chống đối xã hội, hoang tưởng. Có 29%
học sinh nam và 26,2% học sinh nữ được điều tra có điểm chuẩn cao và rất
cao ở mặt A. Số học sinh này có những nét nhân cách đặc trưng như có xu
hướng dễ chấp nhận người khác, khiêm nhường, dễ tha thứ, vị tha, dễ cảm
thông với người khác, mong muốn giúp đỡ người khác, dễ hợp tác, thích làm
theo người khác, nhu mỹ, hiền lành là có tính khí ôn hoà.
- Có 32,2% học sinh nam và 31% học sinh nữ được điều tra có điểm
chuẩn thấp và rất thấp ở mặt C. Số học sinh này có những đặc điểm nhân
cách đặc trưng như thiếu nhiệt tình, thiếu quyết tâm trong việc nỗ lúc đạt mục
đích của bản thân (thường không có nhu cầu thành đạt, không có hoài bão,
thiếu vắng những mục đích có ý nghĩa để nỗ lực phân đấu, thích an phận),
thường đánh giá thấp năng lực của bản thân (thường cho rằng mình không
có sự chuẩn bị tốt và không có khả năng), hay trì hoãn thực hiện nhiệm vụ, dễ
chán nản, muốn bỏ cuộc giữa chừng hay bộp chộp vội vàng thường nói và
hành động không tính đến những hậu quả xảy ra sau đó, thiếu tính gọn gàng
ngăn nắp. Có 25,6% học sinh nam và 28,9% học sinh nữ được điều tra có
điểm chuẩn cao và rất cao ở mặt C. Số học sinh có điểm chuẩn cao và rất
cao ở mặt này có những đặc điểm nét nhân cách đặc trưng như làm việc có
mục đích rõ ràng, kiên trì, có năng lực tự động viên mình hoàn thành công
việc, có nghị lực, ý chí mạnh và có tính quyết đoán, cẩn trọng và đáng tin.
1.3. Kết quả phân nhóm học sinh kết hợp cả 5 mặt nhân cách
Tuy nhiên nếu kết hợp cả 5 mặt: N, E, O, A và C của NEO PI-R để xem
xét sự phát triển nhân cách của từng học sinh theo những điểm mạnh điểm
yếu, chúng ta có thể phân loại số học sinh được nghiên cứu thành 4 nhóm
như bảng 3a dưới đây.
Bảng 3a: Phân nhóm HS lớp 11-12 theo điểm chuẩn kết hợp cả 5 mặt của NEO PI-R
Mặt N Mặt E Mặt O Mặt A Mặt CSố HS
Nam Nữ
Nhóm 1 (có
nhiều ưu thế
ở tất cả 5 mặt
của nhân
cách)
Điểm
thấp đến
rất thấp
Điểm
cao đến
rất cao
Điểm
cao đến
rất cao
Điểm
cao đến
rất cao
Điểm
cao đến
rất cao 19 11
Nhóm 2 (có
ưu thế ở một
số mặt của
nhân cách)
Điểm
trung
bình đến
rất thấp
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
118 133
Nhóm 3 (có
điểm yếu ở
một số mặt
của nhân
cách)
Điểm
cao đến
rất cao
Điểm
thấp
đến rất
thấp
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
254 306
Điểm
trung
Điểm
trung
Điểm
thấp
Điểm
trung
Điểm
trung
bình đến
rất cao
bình
đến rất
cao
đến rất
thấp
bình
đến rất
cao
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình đến
rất cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
thấp
đến rất
thấp
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình đến
rất cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
thấp
đến rất
thấp
Nhóm 4 (có
nhiều điểm
yếu ở tất cả 5
mặt của nhân
cách)
Điểm
cao đến
rất cao
Điểm
thấp
đến rất
thấp
Điểm
thấp
đến rất
thấp
Điểm
thấp
đến rất
thấp
Điểm
thấp
đến rất
thấp
10 9
Theo kết quả phân loại trình bày trong Bảng 3a:
- Nhóm 1 có 19/382 (5%) học sinh nam và 11/448 (2,5%) học sinh nữ
lớp 11-12 được điều tra có điểm chuẩn thấp đến rất thấp trên mặt N, đồng
thời có điểm cao đến rất cao trên cả 4 mặt: E, O, A và C. Nhóm học sinh này
có nhiều đặc điểm nhân cách được mong đợi nhất như rất ổn định về tâm
thần (biết kiềm chế, tự chủ, lạc quan, bình tĩnh: tự tin), cởi mở, có uy tín và
năng lực trong hoạt động xã hội, nhanh nhẹn hoạt bát và luôn có những xúc
cảm, tình cảm tích cực, giàu trí tưởng tượng, nhạy cảm thẩm mỹ, tò mò, ham
hiểu biết, độc lập trong xét đoán, có cuộc sống phong phú, giàu sự trải
nghiệm, dễ chấp nhận người khác, khiêm nhường, vị tha, hay giúp đỡ người
khác, dễ hợp tác, làm việc có mục đích rõ ràng, kiên trì, có năng lực tự động
viên mình hoàn thành công việc, có nghị lực, ý chí mạnh và có tính quyết
đoán, cẩn trọng và đáng tin.
- Nhóm 2 có 118/382 (30,9%) học sinh nam và 133/448 (29,7%) học
sinh nữ lớp 11-12 được điều tra có điểm chuẩn mặt N từ trung bình trở
xuống, đồng thời có điểm chuẩn trên tất cả 4 mặt: E, O, A và C đều từ trung
bình trở lên. Những học sinh thuộc nhóm này không có những yếu điểm đáng
kể những cũng không có những ưu thế vượi trội ở tất cả các mặt như nhóm
1.
- Nhóm 3 có 254/382 (66,5%) học sinh nam và 306/448 (68,3%) học
sinh nữ lớp 11-12 được điều tra có điểm chuẩn trên mặt N từ cao đến rất cao
và/hoặc có điểm chuẩn của 1 đến 4 một: E, O, A và C từ thấp đến rất thấp.
Nhón học sinh này có điểm thấp ở 1 đến 4 mặt của nhân cách. Học sinh
thuộc nhóm này có những yếu điểm đáng kể ở một số mặt, nhưng không phải
ở tất cả các mặt như nhóm 4.
- Nhóm 4 có 10/382 (2,6%) học sinh nam và 9/448 (2%) học sinh nữ
lớp 11-12 được điều tra có điểm chuẩn cao trên mặt N đồng thời có điểm thấp
đến rất thấp trên cả 4 mặt: E, O, A và C. Nhóm học sinh này có điểm số
không mong muốn ở tất cả 5 mặt của nhân cách (có thiếu hụt ở tất cả 5 mặt
của nhân cách).
Ngoài ra, chúng tôi còn nghiên cứu sâu một số trường hợp thuộc nhóm
1 và 4 Biểu đồ 4a dưới đây minh hoạ điểm số của 4 học sinh nam có mã số
N118, N859, N1004, N1152 nằm trong số 19 học sinh thuộc nhóm 1 (nhóm có
nhiều nhất những đặc điểm nhân cách mong đợi) vừa nói ở trên:
- N653: Nam, 19 tuổi, học lớp 12, trường THPT Kim Bôi, Hoà Bình, có
điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 41; E: 65; O: 71;
A: 56; C: 73.
- N859: Nam, 18 tuổi, học lớp 12, trường THPT Buôn Mê Thuật, Đắc
Lắc, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 31,5; E:
59; O: 76; A: 72; C: 69.
- N1004: Nam, 17 tuổi, học lớp 1 1, trường THPT Nguyễn Bình Khiêm,
Vĩnh Long, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N:
32; E: 65; O: 57; A: 69; C: 75.
- N1152: Nam, 18 tuổi, học lớp 12, trường THPT, có điểm chuẩn trên
các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 43; E: 58; O: 60; A: 69; C: 64.
Biểu đồ 4b dưới đây minh hoạ điểm số của 4 học sinh nữ có mã số
N170, N860, N1180, N2029 nằm trong số 11 học sinh nữ thuộc nhóm 1
(nhóm có nhiều nhất những đặc điểm nhân cách mong đợi) vừa nói ở trên:
- N170: Nữ, 17 tuổi, học lớp 11, trường THPT Kim Bôi, Hoà Bình, có
điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 38,4: E: 58; O:
60; A: 57; C: 60.
- N860: Nữ, 18 tuổi, học lớp 12, trường THPT Buôn Mê Thuật Đắc Lắc,
có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 39,4; E: 62;
O: 72; A: 62; C: 76.
- N1004: Nữ, 18 tuổi, học lớp 12, Trung tâm giáo dục thường xuyên, Đà
Nẵng, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 38,9;
E: 56; O: 63; A: 67; C:65.
- N1152: Nữ, 18 tuổi, học lớp 12, trường THPT Nguyễn Hiền, TP. Hồ
Chí Minh, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N:
18,8; E: 59; O: 66; A: 82; C: 74.
Biểu đồ 3a dưới đây minh hoạ điểm số của 4 học sinh nam có mã số
N1069, N1154, N1430, N1535 nằm trong số 10 học sinh thuộc nhóm 4 (nhóm
có nhiều điểm yếu ở tất cả các mặt của nhân cách) vừa nói ở trên:
- N1069: Nam, 18 tuổi, học lớp 12, trường THPT Hoà Vang, Đà Nẵng,
có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 59,5; E: 38;
O: 44; A: 43; C: 42.
- N1154: Nam, 19 tuổi, học lớp 12, Trung tâm giáo dục thường xuyên,
Đà Nẵng, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N:
59,5; E: 43; O:44; A: 43; C: 41.
- N1430: Nam, 18 tuổi, học lớp 12, trường THPT Lê Quí Đôn, TP. Hồ
Chí Minh, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N:
62,2; E: 32; O: 38; A: 38; C: 36.
- N1535: Nam, 18 tuổi, học lớp 12, trường THPT Lê Quí Đôn, TP. Hồ
Chí Minh, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N:
62,7; E: 38; O: 31; A: 41; C: 43.
Biểu đồ 3b dưới đây minh hoạ điểm số của 4 học sinh nữ có mã số
N1122, N1431, N1526, N2046 nằm trong số 9 học sinh nữ thuộc nhóm 4
(nhóm có nhiều nhất những đặc điểm không mong đợi ở tất cả 5 mặt của
nhân cách) vừa nói ở trên:
- N1122: Nữ, 18 tuổi, học lớp 12, trường THPT Hoà Vang, Đà Nẵng, có
điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 54,6; E: 44; O:
42; A: 41; C: 43.
- Ni431: Nữ, 18 tuổi, học lớp 12, trường THPT Lê Quí Đôn, TP. Hồ Chí
Minh, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 59,9; E:
38; O: 37; A: 37; C: 40.
- N1526: Nữ, 18 tuổi, học lớp 12, trường THPT Lê Quí Đôn, TP. Hồ Chí
Minh, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 62,6; E:
35; O: 38; A: 44; C: 38.
- N2046: Nữ, 18 tuổi, học lớp 12, trường THPT Nguyễn Hiền, TP. Hồ
Chí Minh, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N:
54,6; E: 44; O: 41; A: 41; C: 39.
1.4. Kết quả nghiên cứu so sánh các mặt nhân cách theo giới
Kết quả so sánh nam nữ cho thấy có sự khác biệt đáng kể về điểm số
giữa học sinh nam và học sinh nữ ở mặt N (p < 0.001). Nhóm học sinh nữ có
điểm số cao hơn hẳn so với nhóm học sinh nam (93,5 so với 88,0). Học sinh
nữ có xu hướng dễ mắc các rối nhiễu hoặc dễ gặp khó khăn về tình cảm như
lo âu, thù địch, trầm cảm và dễ bị tổn thương hơn học sinh nam.
Kết quả so sánh điểm số ở 4 mặt còn lại cho thấy không có sự khác
biệt đáng kể giữa học sinh nam và học sinh nữ (p = 0,72 đến 0,995 đều >
0,05). Mặc dù không có sự khác biệt có ý nghĩa về điểm số ở 4 mặt E, O, A
và C, nhưng kết quả so sánh cũng cho thấy có vài sự khác biệt về điểm số
giữa nam nữ ở một số tiểu thang đo. Nhóm học sinh nữ có điểm số cao hơn
nam một cách có ý nghĩa ở một số tiểu thang đo như E6, O2, O3, C2, trong
khi nhóm học sinh nam có điểm số cao hơn một cách có ý nghĩa ở các tiểu
thang đo A4, O5 (xem bảng 3b). Điều này cho thấy đặc trưng về giới trong sự
phát triển nhân cách của học sinh.
Bảng 3b: Điểm trung bình và độ lệch chuẩn ở từng mặt nhân cách trên mẫu học sinh lớp 11-12 theo giới tính
Các thang đo / tiểu thang đo
Học sinh nam
(N=382)
Học sinh nữ
(N=448)
Mức độ
khác biệt
(p)
Trung bình
Lệch chuẩ
n
Trung bình
Lệch chuẩ
n
N: Nhiễu tâm (Neuroticism)
E: Hướng ngoại (Extraverson)
O: Cởi mở (Opennes)
A: Dễ thương (Agreeableness)
C: Có ý chí phấn đấu
(Conscientiousness)
88.0
111.3
106.9
113.5
116.8
18.9
16.7
14.3
14.3
20.9
93.5
112.9
108.6
113.5
117.9
18.7
18.4
14.0
14.6
21.0
.000
.217
.072
.995
.480
Nhiễu tâm:
N1: Lo âu 15.2 4.8 17.2 5.2 .000
N2: Giận dữ / thù nghịch
N3: Trầm cảm
N4: Tự ty, mặc cảm
N5: Xung tính
N6: Dễ bị thương tổn
13.5
14.8
17.0
13.9
13.6
4.7
4.8
4.0
4.5
4.1
14.5
15.5
17.9
13.8
14.6
4.7
4.7
4.1
4.3
4.1
.002
.042
.001
.753
.000
Hướng ngoại:
E1: Cởi mở, thân thiện
E2: Quảng giao
E3: Khẳng định, quyết đoán
E4: Tích cực hoạt động
E5: Tìm kiếm kích thích
E6: Xúc cảm tích cực
21.0
18.8
15.8
18.3
18.6
18.6
4.1
4.8
3.5
3.9
4.7
4.0
21.2
19.2
16.0
18.0
18.9
19.6
4.5
5.0
3.8
4.0
4.7
4.3
.619
.323
.428
.182
.429
.001
Cởi mở:
O1: Giàu trí tưởng tượng
O2: Có óc thẩm mỹ
O3: Hiểu xúc cảm tình cảm
O4: Đa dạng hoá hoạt động
O5: Giàu ý tưởng
O6: Các giá trị
16.4
19.8
18.2
16.4
18.2
17.9
4.1
4.9
3.9
3.7
4.4
3.6
16.4
20.8
19.0
16.7
17.2
18.5
4.4
4.8
3.7
3.9
4.6
3.4
.766
.001
.005
.243
.001
.029
Dễ thương:
A1: Niềm tin
A2: Thẳng thắn
A3: Vị tha
A4: Phục tùng
17.9
16.8
20.7
16.4
4.1
4.1
3.8
3.9
17.6
17.0
21.0
15.4
4.5
4.2
4.0
4.4
.330
.347
.205
.000
A5: Khiêm tốn
A6: Nhân hậu
20.0
21.7
4.3
3.8
20.4
22.0
4.4
3.8
.123
.346
Có ý chí phấn đấu:
C1: Năng lực
C2: Ngăn nắp
C3: Trách nhiệm
C4: Nỗ lực thành đạt
C5: Kỷ luật tự giác
C6: Thận trọng
18.3
18.2
22.2
20.4
17.5
20.1
4.0
5.3
4.3
4.5
4.1
4.8
18.2
19.1
22.6
20.6
17.3
19.9
3.8
5.3
4.3
4.8
4.1
4.7
.793
.015
.188
.722
.335
.678
1.5. Kết quả so sánh các mặt nhân cách theo vùng
Kết quả so sánh điểm số trung bình trên các thang đo của trắc nghiệm
NEO PI-R cho thấy có sự khác biệt đáng kể về điểm số giữa học sinh thành
phố và học sinh nông thôn ở tất cả 5 mặt: N, E, O, A và C (p < 0.001). Nhóm
học sinh thành phố có điểm số cao hơn hẳn so với nhóm học sinh nông thôn
trên mặt N (92.90 so với 87.53), nhưng lại có điểm số thấp hơn hẳn học sinh
nông thôn ở các mặt E (110.61 so với 114.87), O (106.51 so với 110.01), A
(109.28 so với 121.12), C (112.15 so với 126.6). Học sinh thành phố có xu
hướng dễ mắc các rối nhiễu hoặc dễ gặp khó khăn về tình cảm như thù địch,
xung tính và dễ bị tổn thương hơn học sinh nông thôn. Học sinh nông thôn có
điểm số trung bình ở tất cả các tiểu thang đo của mặt A và C đều cao hơn
học sinh thành phố. Điểm số trung bình của học sinh nông thôn cao hơn học
sinh thành phố ở các tiểu thang đo: E1, E2, E4, O2, O4, O5 của mặt E và O,
trong khi học sinh thành phố có điểm trung bình cao hơn học sinh nông thôn
chỉ ở một tiểu thang đo O1 (xem bảng 4).
Kết quả này cho thấy môi trường xã hội ở nông thôn dường như thuận
lợi hơn cho sự phát triển một số nét nhân cách của học sinh. Trong khi kết
quả nghiên cứu của đề tài KX-05-06 lại cho thấy học sinh thành phố có các
chỉ số trí tuệ cao hơn hẳn học sinh nông thôn. Phải chăng sự khác biệt đáng
kể này có nguồn gốc từ môi trường xã hội và cách giáo dục khác nhau của
các gia đình ở thành phố và nông thôn? Phải chăng các bậc phụ huynh trong
các gia đình ở nông thôn thường không quan tâm nhiều lắm đến việc phát
triển các năng lực nhận thức của con cái (ít đặt ra cho con cái các nhiệm vụ
phát triển năng lực nhận thức liên quan đến giải quyết vấn đề…) mà có phần
chú ý nhiều hơn đến giáo dục các phẩm chất nhân cách. Môi trường xã hội ở
nông thôn dường như dễ tạo ra các quan hệ người gần gũi, cởi mở hơn.
Theo chúng tôi cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn để làm sáng tỏ
những vấn đề này.
Bảng 4: So sánh điểm trung bình và độ lệch chuẩn ở từng mặt nhân cách đo bằng trắc nghiệm NEOPI-R của học sinh thành phố và học sinh nông thôn
Các thang đo / tiểu thang đo
Học sinh
thành phố
(N=531)
Học sinh
nông thôn
(N=229)
Mức độ
khác biệt
(p)Trung bình
Lệch chuẩn
Trung bình
Lệch chuẩn
N: Nhiễu tâm (Neuroticism)
E: Hướng ngoại (Extraverson)
O: Cởi mở (Opennes)
A: Dễ thương (Agreeableness)
C: Có ý chí phấn đấu
(Conscientiousness)
92.90
110.61
106.51
109.28
112.15
17.90
17.59
13.75
13.12
19.23
87.53
114.87
110.01
121.12
126.60
20.40
17.48
14.67
13.70
20.69
.000
.001
.001
.000
.000
Nhiễu tâm:
N1: Lo âu
N2: Giận dữ / thù nghịch
N3: Trầm cảm
16.27
14.61
15.39
4.95
4.41
4.84
16.22
13.13
14.75
5.34
5.13
4.61
.887
.000
.063
N4: Tự ty, mặc cảm
N5: Xung tính
N6: Dễ bị thương tổn
17.38
14.78
14.47
3.95
4.25
4.09
17.68
12.23
13.53
4.27
4.19
4.14
.306
.000
.002
Hướng ngoại:
E1: Cởi mở, thân thiện
E2: Quảng giao
E3: Khẳng định, quyết đoán
E4: Tích cực hoạt động
E5: Tìm kiếm kích thích
E6: Xúc cảm tích cực
20.64
18.40
15.86
17.74
18.94
18.93
4.46
4.79
3.70
3.94
4.81
4.15
21.99
20.13
16.04
18.81
18.45
19.45
3.96
4.97
3.63
3.84
4.58
4.16
.000
.000
.488
.000
.146
.083
Cởi mở:
O1: Giàu trí tưởng tượng
O2: Có óc thẩm mỹ
O3: Hiểu xúc cảm tình cảm
O4: Đa dạng hoá hoạt động
O5: Giàu ý tưởng
O6: Các giá trị
16.64
19.75
18.57
16.33
17.16
18.09
4.33
4.84
3.85
3.64
4.31
3.47
15.96
21.40
18.69
17.01
18.50
18.46
4.08
4.74
3.73
3.95
4.75
3.54
.024
.000
.666
.015
.000
.151
Dễ thương:
A1: Niềm tin
A2: Thẳng thắn
A3: Vị tha
A4: Phục tùng
A5: Khiêm tốn
A6: Nhân hậu
17.27
16.06
20.24
15.52
19.15
20.96
4.24
3.99
3.96
4.22
4.25
3.85
18.62
18.44
22.07
16.45
22.11
23.39
4.29
4.04
3.61
4.18
3.91
3.07
.000
.000
.000
.002
.000
.000
Có ý chí phấn đấu:
C1: Năng lực
C2: Ngăn nắp
C3: Trách nhiệm
C4: Nỗ lực thành đạt
C5: Kỷ luật tự giác
C6: Thận trọng
18.03
17.53
21.27
19.55
16.66
18.96
3.91
5.09
4.12
4.65
3.82
4.60
18.68
20.75
24.46
22.16
18.68
21.79
3.88
5.06
3.87
4.21
4.28
4.41
.021
.000
.000
.000
.000
.000
1.6. Kết quả so sánh các mặt nhân cách theo trường
Kết quả so sánh điểm số trung bình của học sinh ở mặt N đo bằng NEO
PI-R giữa các trường THPT cho thấy có sự khác biệt đáng kể (p < 0.001). Sự
chênh lệch giữa trường có điểm số trung bình thấp nhất và trường có điểm số
trung bình cao nhất lên đến 16 điểm (xem bảng 5a).
Bảng 5a: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt N trên mẫu học sinh THPT theo trường
Các trường THPT Mẫu
Mặt N Mức độ khác
biệt (p)Điểm
trung bìnhĐộ lệch chuẩn
Phan Đình Phùng HN
Sóc Sơn HN
Kim Bôi Hòa Bình
Chu Văn An Đắc Lắc
Buôn Mê Thuột Đắc Lắc
Nguyễn Bỉnh Khiêm Long An
Trung tâm GDTX Đà Nẵng
54
43
96
20
40
51
51
84.14
87.93
91.23
91.00
89.60
83.80
91.24
15.6
19.6
18.7
19.9
22.9
19.9
13.4
.000
Hoà Vang Đà Nẵng
Lê Quí Đôn TP.HCM
Nguyễn Thị Minh Khai TP.HCM
Nguyễn Hiền TP.HCM
Lê Hồng Phong TP.HCM
Lưu Văn Liệt Long An
98
154
39
104
31
49
95.67
96.99
87.44
91.85
92.26
80.71
16.6
16.2
19.0
20.7
22.0
21.5
So sánh điểm số trung bình ở mặt E đo bằng NEO PI-R giữa các
trường THPT cho thấy có sự khác biệt rất lớn (p < 0.001). Sự chênh lệch giữa
trường có điểm số trung bình thấp nhất và trường có điểm số trung bình cao
nhất ở mặt này khoảng 15 điểm (xem bảng 5b).
Bảng 5b: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt E trên mẫu học sinh THPT theo trường
Các trường THPT Mẫu
Mặt E Mức độ khác
biệt (p)Điểm
trung bìnhĐộ lệch chuẩn
Phan Đình Phùng HN
Sóc Sơn HN
Kim Bôi Hòa Bình
Chu Văn An Đắc Lắc
Buôn Mê Thuột Đắc Lắc
Nguyễn Bỉnh Khiêm Long An
Trung tâm GDTX Đà Nẵng
Hoà Vang Đà Nẵng
Lê Quí Đôn TP.HCM
Nguyễn Thị Minh Khai TP.HCM
54
43
95
20
40
51
51
98
153
39
121.02
108.05
113.60
113.45
117.95
119.24
110.98
109.46
107.89
116.67
19.1
16.8
15.1
17.6
18.8
17.5
16.3
14.1
15.1
20.0
.000
Nguyễn Hiền TP.HCM
Lê Hồng Phong TP.HCM
Lưu Văn Liệt Long An
104
31
49
109.47
106.65
117.98
19.8
18.2
18.1
So sánh điểm số trung bình ở mặt O đo bằng NEO PI-R giữa các
trường THPT cho thấy có sự khác biệt lớn (p < 0.001). Sự chênh lệch giữa
trường có điểm số trung bình thấp nhất và trường có điểm số trung bình cao
nhất ở mặt này khoảng 12 điểm (xem bảng 5c).
Bảng 5c: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt O trên mẫu học sinh THPT theo trường
Các trường THPT Mẫu
Mặt O Mức độ khác
biệt (p)Điểm
trung bìnhĐộ lệch chuẩn
Phan Đình Phùng HN
Sóc Sơn HN
Kim Bôi Hòa Bình
Chu Văn An Đắc Lắc
Buôn Mê Thuột Đắc Lắc
Nguyễn Bỉnh Khiêm Long An
Trung tâm GDTX Đà Nẵng
Hoà Vang Đà Nẵng
Lê Quí Đôn TP.HCM
Nguyễn Thị Minh Khai TP.HCM
Nguyễn Hiền TP.HCM
Lê Hồng Phong TP.HCM
Lưu Văn Liệt Long An
54
43
96
20
40
51
51
98
154
39
104
30
49
113.20
103.49
108.89
111.40
111.43
113.33
106.02
105.74
104.31
111.18
107.15
101.87
112.73
13.8
15.1
11.9
13.5
15.7
15.8
16.2
11.9
12.5
14.0
14.1
13.6
16.1
.000
So sánh điểm số trung bình ở mặt A đo bằng NEO PI-R giữa các
trường THPT cho thấy có sự khác biệt rất lớn. Sự chênh lệch giữa trường có
điểm số trung bình thấp nhất và trường có điểm số trung bình cao nhất ở mặt
này khoảng 18 điểm (xem bảng 5d).
Bảng 5d: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt A trên mẫu học sinh THPT theo trường
Các trường THPT Mẫu
Mặt A Mức độ khác
biệt (p)Điểm
trung bìnhĐộ lệch chuẩn
Phan Đình Phùng HN
Sóc Sơn HN
Kim Bôi Hòa Bình
Chu Văn An Đắc Lắc
Buôn Mê Thuột Đắc Lắc
Nguyễn Bỉnh Khiêm Long An
Trung tâm GDTX Đà Nẵng
Hoà Vang Đà Nẵng
Lê Quí Đôn TP.HCM
Nguyễn Thị Minh Khai TP.HCM
Nguyễn Hiền TP.HCM
Lê Hồng Phong TP.HCM
Lưu Văn Liệt Long An
54
43
95
20
40
50
51
97
154
39
104
31
49
111.98
123.33
120.06
119.85
120.98
119.72
112.04
112.05
104.84
113.46
108.19
111.71
123.31
12.7
12.9
12.7
10.2
16.1
13.6
12.4
11.7
12.2
15.9
13.9
11.7
15.6
.000
So sánh điểm số trung bình ở mặt C của NEO PI-R giữa các trường
THPT cho thấy có sự khác biệt rất lớn. Sự chênh lệch giữa trường có điểm số
trung bình thấp nhất và trường có điểm số trung bình cao nhất ở mặt này
khoảng 34 điểm (xem bảng 5e).
Bảng 5e: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt C trên mẫu học sinh THPT theo trường
Các trường THPT Mẫu
Mặt C Mức độ khác
biệt (p)Điểm
trung bìnhĐộ lệch chuẩn
Phan Đình Phùng HN
Sóc Sơn HN
Kim Bôi Hòa Bình
Chu Văn An Đắc Lắc
Buôn Mê Thuột Đắc Lắc
Nguyễn Bỉnh Khiêm Long An
Trung tâm GDTX Đà Nẵng
Hoà Vang Đà Nẵng
Lê Quí Đôn TP.HCM
Nguyễn Thị Minh Khai TP.HCM
Nguyễn Hiền TP.HCM
Lê Hồng Phong TP.HCM
Lưu Văn Liệt Long An
54
43
95
20
40
50
51
96
151
38
104
31
49
117.67
118.86
123.05
121.75
128.63
127.60
116.65
112.22
105.29
117.32
116.72
106.68
139.57
16.3
19.4
18.3
11.7
20.5
23.9
18.8
18.5
16.7
16.5
20.8
25.2
20.2
.000
Sự khác nhau về điểm số trung bình trên 5 mặt (thang đo) của trắc
nghiệm nhân cách NEO PI-R giữa học sinh các trường THPT được tổng hợp
vào biểu đồ 4. Biểu đồ này cho thấy có sự khác nhau rất lớn giữa học sinh
các trường trên từng mặt của nhân cách.
1.7. Kết quả so sánh các mặt nhân cách theo nghề nghiệp của cha mẹ
Kết quả so sánh điểm số trung bình của học sinh ở mặt N đo bằng NEO
PI-R theo nghề nghiệp của bố cho thấy không có sự khác biệt đáng kể. Tuy
nhiên lại có sự khác biệt đáng kể điểm số trung bình của học sinh ở mặt này
theo nghề nghiệp của mẹ. Sự chênh lệch giữa nhóm có điểm số trung bình
thấp nhất và nhóm có điểm số trung bình cao nhất ở mặt này vào khoảng 7
điểm (xem bảng 6a).
Bảng 6a: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt N trên mẫu học sinh THPT theo nghề nghiệp của bố mẹ
Nghề nghiệp của bố mẹ Mẫu
Mặt N Mức độ khác
biệt (p)Điểm
trung bìnhĐộ lệch chuẩn
Nghề của bố:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
172
146
233
86
29
43
93.16
87.56
89.82
93.29
91.90
94.67
16.2
18.5
20.1
17.8
24.0
23.6
.057
Nghề của mẹ:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
75
151
176
132
6
200
92.52
85.83
88.67
92.48
87.83
94.11
16.0
18.7
21.2
19.2
32.0
17.3
.005
So sánh điểm số trung bình của học sinh ở mặt E đo bằng NEO PI-R
theo nghề nghiệp của bố mẹ cho thấy có sự khác biệt đáng kể. Sự chênh lệch
giữa nhóm có điểm số trung bình thấp nhất và nhóm có điểm số trung bình
cao nhất ở mặt này vào khoảng 6-16 điểm (xem bảng 6b).
Bảng 6b: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt E theo nghề nghiệp của bố mẹ
Nghề nghiệp của bố mẹ Mẫu
Mặt E Mức độ khác
biệt (p)Điểm
trung bìnhĐộ lệch chuẩn
Nghề của bố:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
172
146
233
85
29
42
109.35
110.41
114.71
113.25
114.59
115.12
16.1
16.2
18.4
18.3
19.1
20.4
.027
Nghề của mẹ:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
75
150
176
132
6
199
110.00
111.49
115.51
114.93
124.83
108.97
14.895
16.302
18.950
17.510
22.284
17.956
.001
So sánh điểm số trung bình của học sinh ở mặt O đo bằng NEO PI-R
theo nghề nghiệp của bố mẹ cho thấy không có sự khác biệt đáng kể (xem
bảng 6c).
Bảng 6c: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt O trên mẫu học sinh THPT theo nghề nghiệp của bố mẹ
Nghề nghiệp của bố mẹ Mẫu
Mặt O Mức độ khác
biệt (p)Điểm
trung bìnhĐộ lệch chuẩn
Nghề của bố:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
172
146
232
86
29
43
106.80
106.63
109.11
108.00
106.86
112.28
14.2
13.7
14.5
12.6
11.5
18.5
.153
Nghề của mẹ:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
75
151
176
131
6
200
109.09
106.70
109.98
109.32
106.00
106.32
15.225
13.659
16.037
14.292
15.479
12.143
.102
So sánh điểm số trung bình của học sinh ở mặt A đo bằng NEO PI-R
theo nghề nghiệp của bố mẹ cho thấy có sự khác biệt đáng kể. Sự chênh lệch
giữa nhóm có điểm số trung bình thấp nhất và nhóm có điểm số trung bình
cao nhất ở mặt này khoảng 6-16 điểm (xem bảng 6d).
Bảng 6d. Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt A trên mẫu học sinh THPT theo nghề nghiệp của bố mẹ
Nghề nghiệp của bố mẹ Mẫu Mặt A Mức độ
khác biệt (p)Điểm
trung bìnhĐộ lệch chuẩn
Nghề của bố:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
171
145
232
86
29
43
109.35
110.41
114.71
113.25
114.59
115.12
12.6
13.5
14.7
14.9
17.4
14.5
.000
Nghề của mẹ:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
75
150
175
131
6
200
114.27
122.04
112.62
111.90
106.67
109.55
14.732
13.619
15.033
12.266
12.193
13.752
.000
So sánh điểm số trung bình của học sinh ở mặt C đo bằng NEO PI-R
theo nghề nghiệp của bố mẹ cho thấy có sự khác biệt đáng kể. Sự chênh lệch
giữa nhóm có điểm số trung bình thấp nhất và nhóm có điểm số trung bình
cao nhất ở mặt này khoảng 11-15 điểm (xem bảng 6e).
Bảng 6e: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt C trên mẫu học sinh THPT theo nghề nghiệp của bố mẹ
Nghề nghiệp của bố mẹ Mẫu Mặt A Mức độ
khác biệt (p)
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Nghề của bố:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
170
146
229
86
29
42
114.35
126.21
115.91
111.56
118.86
119.79
18.547
19.550
22.169
18.919
21.928
25.07
.000
Nghề của mẹ:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
74
151
173
131
6
198
115.09
125.84
116.79
115.92
117.33
114.11
18.131
20.302
22.606
19.893
27.696
20.596
.000
1.8. Kết quả so sánh tương quan giữa các mặt nhân cách học sinh
Kết quả phân tích tương quan điểm số biểu thị kết quả đo lường các
mặt nhân cách cho thấy: điểm số của mặt N (nhiễu tâm) tương quan nghịch
với 4 mặt còn lại (từ -0.21 đến -0.60). Điểm số của mặt N tương quan nghịch
cao nhất với mặt C (-0.60). Điều này có nghĩa là người nào có điểm số cao ở
mặt N sẽ dự báo những hạn chế ở các mặt kia của nhân cách (nhất là mặt C).
Điểm số của mặt C tương quan thuận với điểm số của mặt E, A và O (từ 0.35
đến 0.44). Điểm số của mặt O tương quan thuận cao nhất với điểm số của
mặt E (0.51). Kết quả này phù hợp với các kết quả đã được phát hiện về mối
tương quan giữa các mặt nhân cách đo bằng trắc nghiệm NEO PI-R trong các
công trình nghiên cứu ở nước ngoài (xem bảng 7).
Bảng 7: Tương quan điểm số giữa các thang đo đánh giá các mặt nhân cách trên mẫu học sinh lớp 11-12
Các mặt của NEO PI-R N E O A C
N
E -0.43**
O -0.21** -0.51**
A -0.33** -0.11** -0.12**
C -0.60* -0.44** -0.35** -0.44**
** P < .001
Việc sử dụng mô hình phân tích yếu tố và mô hình hồi quy đa biến để
phân tích mối tương quan giữa các nét với từng mặt cho thấy mỗi mặt của
nhân cách đều chịu ảnh hưởng của các nét nhân cách nhưng với mức độ
khác nhau. Trong từng mặt nhân cách, có 1-2 nét nhân cách ảnh hưởng
mạnh nhất; chúng giải thích cho khoảng 63% đến 83% sự biến thiên của một
nhân cách này. Chẳng hạn, điểm số của N1, N2, N3, N4, N5, N6 đều ảnh
hưởng đến điểm tổng của mặt N (nhiễu tâm), nhưng mức độ chi phối của
chúng đến mặt N là rất khác nhau. Trong đó, N1 (lo âu) và N2 (thù địch) theo
kết quả phân tích của mô hình hồi quy hơn biến có ảnh hưởng mạnh nhất
(r=0.877), tức chúng giải thích cho khoảng 76,9% sự biên thiên của mặt N.
Điều này rất có ý nghĩa khì ứng đụng thực tế tìm giải pháp tác động điều
chỉnh: muốn giảm điểm số mặt N của cá nhân nào đó cần tác động để giảm
điểm số N1 và N2 (xem bảng 8).
Bảng 8: Tương quan điểm số giữa các tiểu thang đo với toàn bộ thang đo (mặt N)
N1 N2 N3 N4 N5 N6
N1
N2 0.39**
N3 0.57** 0.43**
N4 0.48** 0.30** 0.39**
N5 0.26** 0.37** 0.31** 0.19**
N6 0.45** 0.37** 0.46** 0.37** 0.39**
Tổng N 0.77** 0.69** 0.76** 0.64** 0.60** .71**
Tương tự mặt A chịu tác động mạnh nhất của A5 và A1 (r = 0.797, giải
thích cho khoảng 63,5%); mặt E chịu tác động mạnh nhất của E1 và E5 (r =
0.873, giải thích cho khoảng 76,1%); mặt O chịu tác động mạnh nhất của 02
và 05 (r = 0.812, giải thích cho khoảng 65,8%); mặt C chịu tác động mạnh
nhất của Có và C4 (r = 0.912, giải thích cho khoảng 83 %).
2. Kết quả nghiên cứu qua phiếu hỏi bổ sung NEO PI-R
Phiếu hỏi được thiết kế để đo những nét / đặc điểm nhân cách đặc
trưng của con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH nhằm bổ sung những gì
trắc nghiệm NEO PI-R chưa đề cập. Kết quả đo lường các nét / đặc điểm
nhân cách bằng phiếu hỏi trên mẫu học sinh lớp 11-12 được thể hiện trong
bảng 9.
Bảng 9: Điểm trung bình và độ lệch chuẩn ở từng nét nhân cách (phiếu hỏi) trên mẫu học sinh lớp 11-12
Các tiểu thang đo MẫuĐiểm trung bình
Độ lệch
chuẩn
1- Lý tưởng phấn đấu (PH1) 832 21.4 4.7
2- Thái độ đối với các vấn đề chính trị thời sự
(PH2)835 9.4 2.8
3- Yêu nước tự hào dân tộc (PH3) 830 22.0 3.9
4- Tôn trọng pháp luật (PH4) 832 20.7 4. 1
5- Thái độ đối với công việc (PH5) 821 21.7 4.4
6- Thái độ đối với cuộc sống (PH6) 822 48.1 9.3
7- Thái độ đối với đồng tiền (PH7) 832 16.8 4.0
8- Thái độ đối với môi trường (PH8) 831 14.8 2.9
9- Thái độ đối với các xu hướng quốc tế hoá,
toàn cầu hoá, hội nhập và mở cửa (PH9)827 17.2 3.8
10- Thái độ và động cơ học tập (PH10) 830 26.4 4.6
11- Năng lực thích ứng, cạnh tranh (PH11) 828 21.0 4. 1
12- Năng lực sử dụng vi tính, ngoại ngữ và làm
chủ công nghệ mới (PH12)820 27.2 7.4
2.1. Kết quả chung
Kết quả nghiên cứu bằng phiếu hỏi đã cung cấp một bức tranh vừa khái
quát vừa chi tiết, bổ sung nhiều thông tin hữu ích về nhân cách của các em
học sinh lớp 11-12 với những điểm mạnh, điểm yếu như sau:
a. Lý tưởng phấn đấu:
Kết quả nghiên cứu cho thấy về cơ bản, đa số học sinh phấn đấu vì
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh"
(72,2%). Có 80,4% số học sinh khao khát, muốn đóng góp sức mình vào công
cuộc xây dựng đất nước và 84,5% học sinh muốn làm được một điều gì đó
giúp ích cho đất nước. Có 89,5% số học sinh nhất trí rằng Đảng Cộng sản
Việt Nam đã sáng suốt khi chủ trương tăng cường cải cách kinh tế, ổn định
chính trị theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ khi đất nước tiến hành cải
cách kinh tế chuyển từ cơ chế quản lý theo kiểu bao cấp sang cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đời sống của
người dân đã không ngừng được nâng cao, 71,3% số học sinh được khảo sát
nhận xét như vậy. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đã đạt được, nhiều
hiện tượng tiêu cực đã nảy sinh, kể cả trong đội ngũ đảng viên, cách thức
quản lý xã hội còn nhiều hạn chế, bất cập, không theo kịp sự vận động phát
triển của xã hội. Chính vì vậy có một bộ phận đáng kể học sinh giảm sút niềm
tin vào xã hội XHCN, vào những đảng viên. Có 22,6% số học sinh được khảo
sát cho rằng mình thiếu nhiệt tình và niềm tin vào đường lối phát triển kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN. Có 71,5% số học sinh được khảo sát chỉ
mong muốn làm một người tốt, không nhất thiết cứ phải phấn đấu trở thành
đảng viên, 41,7% số học sinh được hỏi chỉ mong xã hội ổn định về chính trị,
kinh tế phát triển, bớt tiêu cực, còn phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa hay không thì không quan trọng. Những con số này là sự cảnh tỉnh đối
với nhà trường và xã hội.
b. Thái độ của học sinh đối với các vấn đề chính trị thời sự:
Kết quả nghiên cứu cho thấy học sinh có quan tâm đến các vấn đề thời
sự, chính trị trong nước và quốc tế. Có 59,1% số học sinh được khảo sát
thường xuyên quan tâm, 38% học sinh nói rằng đôi khi có quan tâm đến các
chương trình thời sự trong nước và quốc tế. Có 13% số học sinh được khảo
sát chỉ quan tâm đến công việc riêng của mình mà ít để ý đến những vấn đề
thời sự, chính trị. Có 28,3% số học sinh được khảo sát hay quan tâm và bàn
luận về những vấn đề liên quan đến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, 39,6% học sinh đôi lúc có bàn luận, có quan tâm. Có 30,5% số học
sinh được khảo sát được đánh giá là người luôn tích cực trong các hoạt động
chính trị xã hội. Kết quả trả lời câu hỏi mở: nêu 3 sự kiện trong nước và 3 sự
kiện quốc tế em quan tâm nhất trong năm 2002-2003 cho thấy có 76,9% số
học sinh được khảo sát kể được ít nhất một sự kiện thời sự, chính trị trong
nước (cần lưu ý, có 23,1 % số học sinh không nêu được bất cứ một sự kiện
nào). Những vấn đề sự kiện thời sự, chính trị được các em quan tâm nhất
trong năm 2002-2003 (theo thứ tự giảm dần) là vụ cháy Trung tâm Thương
mại quốc tế TP. Hồ Chí Minh; vụ án Năm Cam và đồng bọn; cháy rừng U
Minh Thượng; thay đổi quy chế thi đại học và các kỳ họp Quốc hội.
Các nhóm vấn đề / sự kiện trong nước được các em quan tâm nhất
(theo thứ tự giảm dần) là an toàn (28,6%); chống tiêu cực chống tệ nạn xã hội
(14,7%); sự kiện chính trị xã hội (11, 8%); giáo dục (8,7%); kinh tế thương mại
(7,2%); và sự kiện văn hoá thể thao (5,3%).
Có 79,2% số học sinh được khảo sát kể được ít nhất một sự kiện thời
sự, chính trị quốc tế (có 20,8% số học sinh được khảo sát không nêu được
bất cứ một sự kiện quốc tế nào). Những vấn đề / sự kiện thời sự, chính trị
quốc tế được các em quan tâm nhất trong năm 2002-2003 (theo thứ tự giảm
dần) là World Cúp 2002; nạn khủng bố; Mỹ đánh Irắc; cuộc chiến Trung Đông.
Các nhóm vấn đề / sự kiện quốc tế được các em quan tâm nhất (theo
thứ tự giảm dần) là khủng bố, cuộc chiến Trung Đông, Irắc (49%); các sự kiện
văn hoá, thể thao (22,1%); sự kiện chính trị xã hội (4,8%); thiên tai (4,7%).
c. Lòng yêu nước, tự hào dân tộc của học sinh lớp 11-12:
Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết học sinh đều có ý thức yêu nước,
tự hào dân tộc. Có 91,5% số học sinh được khảo sát khẳng định tinh thần yêu
nước và tự hào dân tộc là những giá trị đạo đức quan trọng. Có 88,3% số học
sinh luôn cảm thấy tự hào vì mình là người Việt Nam. Có 92,4% số học sinh
được hỏi cho rằng nền văn hoá Việt Nam thực sự có một bản sắc riêng, rất
đáng tự hào. Có 89,6% số học sinh được khảo sát khẳng định nếu chiến
tranh xảy ra bản thân sẵn sàng chiến đấu cho Tổ quốc. Tuy nhiên vẫn có một
bộ phận đáng kể học sinh có ý muốn được mang quốc tịch nước ngoài, được
ra nước ngoài sinh sống và làm việc. Có 12,3% số học sinh mong muốn sau
này mình được mang quốc tịch nước ngoài Anh, Mỹ, Pháp, Úc là quốc tịch
Việt Nam (có 21,4% số học sinh được hỏi cho biết đôi lúc có ý nghĩ như vậy).
Có tới 49,4% số học sinh bày tỏ ý muốn được ra nước ngoài sinh sống và làm
việc, nếu có điều kiện. Đây là những con số làm chúng ta phải suy nghĩ: tại
sao trong điều kiện kinh tế khá phát triển, chính trị ổn định, xã hội mở cửa, an
ninh bảo đảm mà vẫn có một bộ phận đáng kể số học sinh muốn sau này
mình được mang quốc tịch nước ngoài, và gần một nửa số học sinh được hỏi
có ý muốn ra nước ngoài sinh sống và làm việc?
d. Ý thức và thái độ tôn trọng pháp luật của học sinh:
Kết quả nghiên cứu cho thấy 94,8% học sinh được điều tra ý thức rất rõ
rằng mọi người cần phải sống và làm việc theo pháp luật. Có 72,5% số học
sinh cảm thấy ân hận mỗi khi vi phạm một điều qui định chừng nào đó. Có
64,9% số học sinh cho rằng mình là một trong số những người nghiêm chỉnh
chấp hành luật pháp. Như vậy vẫn còn trên 1/3 số học sinh không phải là
những người chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp. Có 26,3% số học sinh cho
rằng mình đã nhiều lần làm ngơ khi thấy người khác làm sai luật pháp. Có
7,8% số học sinh thừa nhận nếu không nhìn thấy cảnh sát giao thông làm
nhiệm vụ, sẵn sàng vượt đèn đỏ. Nếu kết quả này phản ánh đúng sự thực thì
có nhiều điều đáng mừng vì cũng những câu hỏi tương tự, trong một nghiên
cứu khác: chuyên đề nghiên cứu thuộc đề tài KHXH.04-07 về thực trạng đạo
đức tư tưởng chính trị của học sinh và sinh viên tiến hành năm 1999 trên 750
học sinh lớp 12 và 1500 sinh viên trên tiểu thang đo thái độ độ tôn trọng luật
pháp có tới trên 1/3 số học sinh được hỏi cho rằng mình sẵn sàng vượt đèn
đỏ, nếu không nhìn thấy cảnh sát giao thông làm nhiệm vụ và chỉ có khoảng
gần 40% cho rằng mình là một trong số những người nghiêm chỉnh chấp
hành luật pháp. Đương nhiên vấn đề giáo dục luật pháp cho học sinh cần
phải đẩy mạnh hơn nữa để hầu hết các em là người chấp hành nghiêm chỉnh
luật pháp.
e. Thái độ đối với cuộc sống của học sinh:
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số học sinh có thái độ thân thiện, gần
gũi, cởi mở, lạc quan và tự tin. Có 77,9% học sinh cảm thấy gần gũi thân
thiện với những người xung quanh mình. Có 58% học sinh cảm thấy mình
được yêu mến và được tin cậy. Có 59,4% học sinh tin rằng mình không phải
là người thất bại trong cuộc sống, 52,8% học sinh tin rằng tương lai của bản
thân sẽ tốt đẹp, 52,7% học sinh tự khẳng định mình là người có nghị lực,
52,4% học sinh tin rằng có thể đương đầu với bất cứ vấn đề gì nếu nó xảy ra.
Như vậy còn một bộ phận khá đông học sinh (trên 40%) chưa có thái độ sống
tích cực. Các em này chưa có niềm tin vào tương lai, thiếu bản lĩnh, không có
nghị lực. Chỉ có 40,9% học sinh cho rằng mình luôn suy nghĩ mạch lạc và
sáng tạo. Có 29,4% học sinh luôn cảm thấy có cái gì đó không ổn với mình,
21,2% học sinh luôn cảm thấy mình đơn độc, mặc dù không muốn như vậy,
28,9% học sinh hay có những ý nghĩ vẩn vơ, luẩn quẩn vô tích sự. Điều này
phản ánh khách quan bức tranh thái độ đa màu sắc của lứa tuổi vị thành niên
muộn, các em có nhiều trăn trở khi phải đối mặt với bài toán kế hoạch đường
đời khi rời ghế nhà trường phổ thông.
Tìm hiểu những mong muốn trong 5 năm tới của học sinh, chúng tôi
nhận thấy các em luôn quan tâm đến những vấn đề đang và sẽ phải đối mặt
như thi đỗ đại học (53,9%), có việc làm ổn định (22,5%); gia đình hạnh phúc
(21%); được công tác làm việc đúng khả năng chuyên môn (12,6%); thành
người có ích cho xã hội (5,4%); được đi du học (5,1%)… Nếu tổng hợp thành
những nhóm vấn đề thì, nhóm vấn đề các em quan tâm và mong muốn nhất
là: học tập (69,4%), nghề nghiệp phù hợp (42,2%), hạnh phúc gia đình
(25,2%), xã hội ổn định kinh tế phát triển (12,8%). Kết quả nghiên cứu cũng
cho thấy khoảng gần 70% số học sinh tin rằng mình có khả năng biến những
mong ước của mình thành hiện thực (từ mức 5 đến mức 7 trên thang đo 7
mức - mức 1 là hoàn toàn không thể, mức 7 là hoàn toàn có thể).
Tìm hiểu những nỗi lo sợ trong 5 năm tới của học sinh, chúng tôi nhận
thấy mọi chuyện xoay quanh những vấn đề đang và sẽ phải đối mặt như thi
trượt đại học (39,1%), không có việc làm (24,7%); gia đình không hạnh phúc
(9,5%); sức khoẻ không tốt (8,6%)… Nếu tổng hợp thành nhóm vấn đề thì
nhóm vấn đề các em lo sợ nhất là: thi trượt tốt nghiệp, trượt đại học (46,3%),
không có việc làm, làm không đúng nghề (33%), không có ích cho xã hội, mất
sự kiểm soát bản thân (24,6%) gia đình mâu thuẫn, không hạnh phúc
(14,6%).
g. Thái độ của học sinh đối với các xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu
hoá, hội nhập và mở cửa:
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số học sinh ủng hộ xu hướng quốc tế
hoá, toàn cầu hoá, mở cửa hội nhập với thế giới. Có 72,6% số học sinh được
hỏi coi quốc tế hoá và toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu, 89% học sinh coi
mở cửa, hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới là một xu thế tất yếu
và mỗi người phải học cách thích nghi. Tuy nhiên có 10,7% học sinh tỏ thái
độ phản đối xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá và có tới 71 % học sinh
nhận thấy mình chưa được chuẩn bị tốt để thích ứng với một xã hội mở cửa
và hội nhập (29% số học sinh khác thực sự tin rằng mình đã được chuẩn bị
tốt để thích ứng với một xã hội mở cửa và hội nhập). Thậm chí có 15,6% học
sinh được hỏi cảm thấy lo sợ hơn là hy vọng ở xu thế mở cửa và hội nhập
của xã hội Việt Nam hiện nay và có 10,3% tỏ thái độ thờ ơ, không mong đợi
gì ở xu thế mở cửa, hội nhập. Rõ ràng số liệu này cảnh báo rằng trong thời
gian qua, nhà trường, gia đình và xã hội chưa làm tốt công tác giáo dục
chuẩn bị cho học sinh tâm thế chấp nhận và học cách thích nghi với xu thế
quốc tế hoá, toàn cầu hoá, phát triển của đất nước theo hướng mở cửa và
hội nhập với khu vực và thế giới.
h. Thái độ và động cơ học tập của học sinh được biểu hiện như thế
nào?
Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết học sinh đều có thái độ, động cơ
học tập đúng đắn, cơi trọng tự học. Có 92,8% học sinh ý thức được rằng nỗ
lực học tập là cách tốt nhất để chuẩn bị cho tương lai. Có 64,5% học sinh
xem học liên tục, học suốt đời là cách tốt nhất để thích ứng với xã hội hiện
nay. Có 89,8% học sinh coi tự học là một tiêu chuẩn quan trọng của con
người trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có 84,3% học sinh tin
rằng những ai có ý thức học tập suốt đời sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn
trong xã hội hiện nay. Có 58,6% học sinh cho rằng bản thân thường xuyên tự
học nhằm mở rộng kiến thức và nâng cao kỹ năng. Tuy nhiên chỉ có 30% học
sinh được những người xung quanh nhận xét là người ham học, và chỉ có
41,5% học sinh được hỏi tin rằng mình có khả năng tự học. Điều này đặt ra
cho nhà trường một nhiệm vụ cấp thiết không thể không làm là phải biến ý
thức, thái độ học tập tích cực của học sinh thành năng lực học tập, đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp để hình thành cho được năng lực tự
học ở học sinh - khắc phục điểm yếu nhất của học sinh hiện nay. Kết quả
nghiên cứu này cũng trùng với kết quả nghiên cứu của đề tài KX05-06 về sự
phát triển các chỉ số trí tuệ (IQ, CQ, EQ) của học sinh. Điểm yếu nhất của học
sinh Việt Nam hiện là năng lực sáng tạo và năng lực thực hành (vận dụng
kiến thức được học vào thực tiễn).
i. Về năng lực thích ứng, cạnh tranh của học sinh:
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số học sinh được khảo sát coi trọng
năng lực thích ứng và cạnh tranh. Có 82,4% học sinh ý thức được rằng thích
ứng và cạnh tranh là hai năng lực cốt lõi của người lao động trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có 58,2% học sinh tin rằng mình có thể dễ
dàng điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh mới, 58,3% học sinh tin rằng có
thể thích ứng được với những biên đối nhanh chóng của ra hội hiện nay. Có
74,3% học sinh tin rằng mở cửa và hội nhập tạo ra những cơ hội và thách
thức, bản thân đang tích các chuẩn bị để sẵn sàng thích nghi trong một xã hội
như vậy. Có 60,3% học sinh tin rằng các em có khả năng thích ứng về một xã
hội lấy cạnh tranh làm động lực phát triển. Đây là những con số đáng khích lệ,
là cơ sở để chúng ta tin vào năng lực của thế hệ trẻ hôm nay. Tuy nhiên cũng
phải thấy rằng có một bộ phận khá lớn học sinh (từ 35,3% 38,1%) cảm thấy
lúng túng, thiếu tự tin, cho rằng mình chưa được chuẩn bị tôi để thích ứng với
một xã hội lấy cạnh tranh làm động lực phát triển. Những học sinh này cần
được giúp đỡ, tạo cơ hội để họ trải nghiệm hình thành các năng lực để từ đó
có cơ sở hình thành niềm tin.
k. Năng lực sử dụng vi tính, ngoại ngữ và làm chủ công nghệ mới của
học sinh được chuẩn bị như thế nào?
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số học sinh quan tâm đến công nghệ
thông tin, có nhu cầu sử dụng intemet, có nhu cầu làm chủ công nghệ thông
tin phục vụ cho mục đích học tập xem tiếng Anh, máy vi tính là công cụ,
phương tiện quan trọng, không thể thiếu trong hành trang của mình. Các số
liệu thu được cũng đã chứng minh cho điều này: 66,3% học sinh thích tìm
hiểu về công nghệ thông tin, 61,7% học sinh có nhu cầu sử dụng internet vào
mục đích học tập hoặc công việc, 62,4% học sinh xem tiếng Anh là công cụ
quan trọng không thể thiếu, 50,6% học sinh coi máy tính là phương tiện quan
trọng không thể thiêu, 84,4% học sinh xem giỏi ngoại ngữ là một mục tiên
phân đâu rất quan trọng của bản thân, 62,4% học sinh biết sử dụng vi tính,
37,3% học sinh có khả năng sử dụng internet để tìm kiếm những thông tin
mình cần. Xu hướng này là những tín hiệu tích cực, phù hợp với xu thế phát
triển của xã hội Việt Nam, thời kỳ CNH, HĐH. Vấn đề là nhà trường, gia đình
và xã hội cần tạo điều kiện tốt nhất để các em có cơ hội phát triển nhanh
năng lực này.
2.2. Kết quả so sánh theo giới
Kết quả so sánh điểm số trung bình của các tiểu thang đo của phiếu hỏi
giữa học sinh nam và học sinh nữ cho thấy có sự khác biệt đáng kể về ở một
số nét nhân cách. Nhóm học sinh nữ có điểm số trung bình cao hơn so với
nhóm học sinh nam ở thái độ đối với đồng tiền, môi trường, hội nhập. Nhóm
học sinh nam có điểm số trung bình cao hơn so với nhón học sinh nữ ở thái
độ đối với các vấn đề chính trị thời sự. Tuy nhiên sự chênh lệch này là không
lớn (xem bảng 10).
Bảng 10: Điểm trung bình và độ lệch chuẩn ở từng nét nhân cách trên mẫu học sinh lớp 11-12 theo giới
Các tiểu thang đo
Nam (N=384) Nữ (N=451)Mức khác biệt
Trung bình
Lệch chuẩ
n
Trung bình
Lệch chuẩ
n
1- Lý tưởng phấn đấu 21.2 4.5 21.6 4.7 .241
2- Thái độ đối với các vấn đề chính
trị thời sự9.9 2.8 8.9 2.8 .000
3- Yêu nước tự hào dân tộc 22.0 3.7 22.1 4.0 .716
4- Tôn trọng pháp luật 20.7 4.2 20.6 4.0 .717
5- Thái độ đối với công việc 21.8 4.3 21.7 4.6 .679
6- Thái độ đối với cuộc sống 48.4 9.1 48.0 9.5 .554
7- Thái độ đối với đồng tiền 16.1 4.1 17.3 3.9 .000
8- Thái độ đối với môi trường 14.4 2.8 15.1 2.9 .000
9- Thái độ dối với các xu hướng
quốc tế hoá, toàn cầu hoá, hội nhập
và mở cửa
16.9 3.9 17.5 3.7 .021
10- Thái độ và năng lực học tập 26.3 4.5 26.4 4.7 .680
11- Năng lực thích ứng, cạnh tranh 21.2 4.0 20.7 4.1 .077
12- Năng lực sử dụng vi tính, ngoại
ngữ và làm chủ công nghệ mới27.6 7.5 26.7 7.3 .089
2.3. Kết quả so sánh theo vùng
Kết quả so sánh sự khác biệt về điểm số trung bình của các tiểu thang
đo của phiếu hỏi giữa học sinh thành phố và học sinh nông thôn cho thấy
cũng có sự khác biệt đáng kể ở một số nét nhân cách. Nhóm học sinh nông
thôn có điểm số trung bình cao hơn so với nhóm học sinh thành phố ở hầu
hết các nét nhân cách được thiết kế trong phiếu hỏi, ngoại trừ: năng lúc thích
ứng, cạnh tranh và năng lực sự dụng vi tính, ngoại ngữ và làm chủ công nghệ
mới (xem bảng 11).
Bảng 11: Điểm trung bình và độ lệch chuẩn ở từng nét nhân cách trên mẫu học sinh lớp 11-12 thành phố / nông thôn
Các tiểu thang đo
Học sinh thành phố
(N=538)
Học sinh nông thôn
(N=538) Mức khác biệtTrung
bình
Lệch chuẩ
n
Trung bình
Lệch chuẩ
n
Mặt P (thái độ)
1- Lý tưởng phấn đấu 20.1 4.7 23.8 3.5 .000
2- Thái độ đối với các vấn đề chính
trị thời sự8.8 2.8 10.4 2.5 .000
3- Yêu nước tự hào dân tộc 21.1 4.0 23.8 2.7 .000
4- Tôn trọng pháp luật 1 9.6 4.1 22.7 3.2 .000
5- Thái độ đối với công việc 20.9 4.5 23.2 3.9 .000
6- Thái độ đối với cuộc sống 47.4 9.6 49.6 8.6 .001
7- Thái độ đối với đồng tiền 15.8 4.1 18.5 3.2 .000
8- Thái độ đối với môi trường 14.4 3.1 15.5 2.3 .000
9- Thái độ dối với các xu hướng
quốc tế hoá, toàn cầu hoá, hội nhập
và mở cửa
16.7 4.0 18.2 3.2 .000
10- Thái độ và năng lực học tập 25.2 4.6 28.4 3.8 .000
Mặt H (năng lực)
11- Năng lực thích ứng, cạnh tranh 20.9 4.2 21.1 3.9 .413
12- Năng lực sử dụng vi tính, ngoại
ngữ và làm chủ công nghệ mới27.4 7.4 26.7 7.4 .162
2.4. Kết quả so sánh theo trường
Khi áp dụng mô hình phân tích nhân tố chúng tôi đã xác định được một
nhân tố chung (gọi là mặt P) đại diện cho 10 tiểu thang đo của phiếu hỏi (từ
PH1 đến PH10) và một nhân tố khác (gọi là mặt H) đại diện cho 2 tiểu thang
đo còn lại của phiếu hỏi (PH12 và PH12).
So sánh điểm số trung bình ở mặt P đo bằng phiếu hỏi giữa các trường
THPT cho thấy có sự khác biệt rất lớn. Sự chênh lệch giữa trường có điểm số
trung bình thấp nhất và trường có điểm số trung bình cao nhất ở mặt này vào
khoảng 52 điểm (xem bảng 12a).
Bảng 12a: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt P trên mẫu học sinh THPT theo đơn vị trường
Các trường THPT Mẫu
Mặt P Mức độ khác biệt
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Phan Đình Phùng HN
Sóc Sơn HN
Kim Bôi Hòa Bình
Chu Văn An Đắc Lắc
Buôn Mê Thuột Đắc Lắc
Nguyễn Bỉnh Khiêm Long An
Trung tâm GDTX Đà Nẵng
Hoà Vang Đà Nẵng
Lê Quí Đôn TP.HCM
Nguyễn Thị Minh Khai TP.HCM
Nguyễn Hiền TP.HCM
Lê Hồng Phong TP.HCM
Lưu Văn Liệt Long An
53
39
85
17
37
47
45
94
141
38
101
28
49
218.72
224.92
227.62
229.71
243.05
236.45
217.49
217.74
202.23
221.45
206.00
191.32
244.31
19.5
23.7
20.6
20.9
23.5
26.8
26.6
23.5
26.4
25.0
29.9
36.8
20.4
.000
So sánh điểm số trung bình ở mặt H đo bằng phiếu hỏi giữa các trường
THPT cho chúng ta thấy có sự khác biệt đáng kể. Sự chênh lệch giữa trường
có điểm số trung bình thấp nhất và trường có điểm số trung bình cao nhất ở
một này vào khoảng 11-12 điểm (xem bảng 12b).
Bảng 12b: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt H trên mẫu học sinh THPT theo đơn vị trường
Các trường THPT Mẫu
Mặt H Mức độ khác biệt
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Phan Đình Phùng HN
Sóc Sơn HN
Kim Bôi Hòa Bình
Chu Văn An Đắc Lắc
Buôn Mê Thuột Đắc Lắc
Nguyễn Bỉnh Khiêm Long An
Trung tâm GDTX Đà Nẵng
Hoà Vang Đà Nẵng
Lê Quí Đôn TP.HCM
Nguyễn Thị Minh Khai TP.HCM
Nguyễn Hiền TP.HCM
Lê Hồng Phong TP.HCM
Lưu Văn Liệt Long An
54
42
93
20
38
50
49
97
150
40
101
30
48
50.87
42.07
43.67
47.70
51.95
52.10
43.69
44.89
50.07
53.80
47.62
47.43
53.00
8.7
8.8
9.3
7.4
11.0
8.2
10.8
10.2
9.1
7.3
10.5
9.8
8.0
.000
2.5. Kết quả so sánh theo nghề nghiệp của bố mẹ
Kết quả so sánh điểm số trung bình của học sinh ở mặt H đo bằng
phiếu hỏi theo nghề nghiệp của bố mẹ cho thấy có sự khác biệt khá đáng kể:
Sự chênh lệch giữa nhóm có điểm số trung bình thấp nhất và nhóm có điểm
số trung bình cao nhất ở mặt này khoảng 7 điểm, nhưng ở mặt P có sự khác
biệt rất đáng kể: khoảng từ 13-17 điểm (xem bảng 13).
Bảng 13a: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt H trên mẫu học sinh THPT theo nghề nghiệp của bố mẹ
Nghề nghiệp của bố mẹ Mẫu Mặt H Mức độ
khác biệt
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Nghề của bố:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
172
143
226
86
27
41
47.65
43.65
51.39
49.01
50.15
47.24
9.6
9.9
9.0
9.7
8.0
11.8
.000
Nghề của mẹ:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Nội trợ
76
148
168
130
199
50.80
43.56
51.58
47.63
48.35
8.9
10.5
9.3
10.2
9.1
.000
Bảng 13b: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt P trên mẫu học sinh THPT theo nghề nghiệp của bố mẹ
Nghề nghiệp của bố mẹ Mẫu
Mặt P Mức độ khác biệt
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Nghề của bố:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
172
143
226
86
47.65
43.65
51.39
49.01
9.6
9.9
9.0
9.7
.000
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
27
41
50.15
47.24
8.0
11.8
Nghề của mẹ:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Nội trợ
76
148
168
130
199
50.80
43.56
51.58
47.63
48.35
8.9
10.5
9.3
10.2
9.1
.000
2.6. Kết quả so sánh tương quan giữa các mặt của nhân cách
Kết quả phân tích tương quan điểm số giữa các nét, đặc điểm nhân
cách đo bằng phiếu hỏi trên mẫu học sinh lớp 11-12 cho thấy chúng đều có
tương quan thuận với nhau. Điểm số của các nét, đặc điểm nhân cách đo
bằng phiếu hỏi đều có tương quan nghịch với mặt N (r từ -0,09 đến -0,59) và
tương quan thuận cao nhất với mặt O (r từ 0,17 đến 0,53).
Điểm số của tiểu thang đo thái độ đối với cuộc sống tương quan nghịch
cao nhất với mặt N (r = -0,59) và tương quan thuận cao nhất với các mặt E,
và C (r = 0,53). Điều này có nghĩa là người nào có thái độ sống tích cực thì
người đó ít bị nhiễu tâm (xem bảng 12). Đồng thời những người có thái độ
tích cực với cuộc sống cũng là những người có nhân cách ổn định và phát
triển hài hoà hơn. Kết quả này phản ánh đúng thực tế.
Điểm số của mặt P có tương quan nghịch với mặt N (r = -0,48) và
tương quan thuận với các mặt E, O, A và C (r từ 0,36 đến 0,65).
Sử dụng mô hình hồi quy đa biến để phân tích mối tương quan giữa
các nét, đặc điểm nhân cách đo bằng phiếu hỏi với mặt P cho thấy PH1 (lý
tưởng) và PH6 (thái độ đối với cuộc sống) có ảnh hưởng mạnh nhất đến P (r
= 0.864), tức chúng giải thích cho khoảng 74,7% sự biến thiên của mặt này.
Điều này rất có ý nghĩa khi ứng dụng vào thực tế, tìm giải pháp tác động điều
chỉnh: muốn tăng điểm số mặt P của một cá nhân nào đó cần tác động để
tăng điểm số PH1 và PH6 (tức là phải tăng cường giáo dục lý tưởng và thái
độ sống tích cực) (xem bảng 14).
Bảng 14: Tương quan điểm số giữa các tiểu thang đo của phiếu hỏi với các mặt nhân cách trên mẫu học sinh lớp 11-12
PH1
PH2
PH3
PH4
PH5
PH6
PH7
PH8
PH9
PH10
PH11
PH12
N E O A C
PH1
PH20.4
8
PH30.5
4
0.3
0
PH40.5
3
0.3
6
0.4
6
PH50.4
1
0.3
6
0.3
5
0.4
1
PH60.3
3
0.3
3
0.2
5
0.3
0
0.4
9
PH70.4
6
0.2
4
0.4
8
0.4
0
0.3
3
0.2
0
PH80.2
6
0.1
8
0.3
1
0.3
3
0.2
3
0.1
4
0.3
3
PH90.2
8
0.1
5
0.3
0
0.2
5
0.3
3
0.3
0
0.3
4
0.3
5
PH10
0.4
3
0.3
9
0.3
3
0.4
3
0.4
8
0.3
6
0.3
9
0.3
4
0.3
4
PH1 0.1 0.2 0.1 0.1 0.3 0.4 0.1 0.1 0.4 0.38
1 9 6 0 7 7 5 1 6 3
PH12
0.1
3
0.2
0
0.0
1
0.1
0
0.2
4
0.2
7
0.0
4
0.1
0
0.2
40.26 0.48
N-
0.2
6
-
0.3
2
-
0.2
0
-
0.2
2
-
0.4
3
-
0.5
4
-
0.1
8
-
0.0
9
-
0.2
2
-
0.27
-
0.36
-
0.17
E0.2
5
0.2
5
0.1
4
0.1
6
0.3
1
0.5
3
0.1
0
0.0
9
0.2
50.25 0.41 0.26
-
0.4
3
O0.1
9
0.2
3
0.1
3
0.1
4
0.2
7
0.3
2
0.1
3
0.1
9
0.2
80.27 0.37 0.27
-
0.2
1
0.5
1
A0.3
2
0.2
2
0.3
7
0.3
5
0.2
4
0.2
2
0.3
9
0.2
4
0.2
10.30 0.03 0.04
-
0.3
3
0.1
1
0.1
2
C0.4
8
0.4
4
0.3
2
0.4
6
0.5
1
0.5
3
0.3
4
0.1
9
0.2
80.48 0.34 0.17
-
0.6
0
0.4
4
0.3
5
0.4
4
P0.7
1
0.5
5
0.6
3
0.6
7
0.7
0
0.7
0
0.6
0
0.4
7
0.5
40.69 0.45 0.26
-
0.4
8
0.4
1
0.3
6
0.4
3
0.6
5
3. Nhận định chung về sự phát triển nhân cách của mẫu học sinh
Kết quả nghiên cứu đã trình bày ở trên cho thấy sự phát triển nhân
cách của học sinh THPT (lớp 11-12) chịu ảnh hưởng của một loạt yếu tố như:
giới tính, nhà trường, gia đình, vùng miền và là sản phẩm của quá trình tương
tác liên tục giữa một con người trẻ tuổi với môi trường sống xung quanh đang
thay đổi.
Trong số những nhân tố ảnh hưởng đáng kể, giáo dục nhà trường có
vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự khác biệt lớn nhất về phát triển trên tất
cả 5 mặt của nhân cách: N, E, A, O và C (theo kết quả đo lường bằng trắc
nghiệm NEO PI-R). Yếu tố nhà trường đồng thời cũng có vai trò quan trọng
tạo ra sự khác biệt lớn nhất trên hai mặt P (thái độ) và H (năng lực) theo kết
quả đo bằng bộ phiếu hỏi bổ sung nhãng nét nhân cách đặc trưng của người
Việt thời kỳ CNH, HĐH.
Nhìn chung học sinh của các trường THPT ở các vùng nông thôn có
điểm số trên 4 mặt của nhân cách (E, A, O, C) đều cao hơn đáng kể học sinh
các trường THPT thuộc khu vực thành phố. Học sinh ở các trường vùng nông
thôn lại có điểm ở mặt N (nhiễu tâm) thấp hơn đáng kể so với học sinh các
trường THPT thuộc khu vực thành phố. Điều này cho thấy môi trường văn
hoá xã hội vùng nông thôn thuần nhất hơn, thuận lợi hơn cho sự phát triển
trên tất cả các mặt nhân cách của học sinh. Cũng vậy học sinh các trường
THPT ở vùng nông thôn đều có điểm cao hơn ở tất cả các tiểu thang đo của
phiếu hỏi ngoại trừ 2 tiểu thang đo: Năng lực thích ứng cạnh tranh và Năng
lực sử dụng vi tính, ngoại ngữ và làm chủ công nghệ.
Kết quả nghiên cứu nhân cách học sinh cho thấy họ có những điểm
mạnh cơ bản là: đa số học sinh có lý tưởng phấn đấu lành mạnh, quan tâm
đến các vấn đề thời sự, chính trị trong nước và quốc tế, có thái độ sống lạc
quan, tin tưởng, ủng hộ xu hướng mở cửa hội nhập. Hầu hết học sinh đều có
thái độ, động cơ học tập đúng đắn, coi trọng tự học, tin rằng mình có khả
năng thích ứng với một xã hội lấy cạnh tranh làm động lực phát triển, quan
tâm đến công nghệ thông tin, có nhu cầu sử dụng internet, có nhu cầu làm
chủ công nghệ thông tin.
Tuy nhiên kết quả nghiên cứu cũng cho thấy học sinh trong mẫu nghiên
cứu này có những điểm yếu như có một bộ phận đáng kể học sinh thiếu bản
lĩnh chính trị, giảm sút niềm tin vào xã hội XHCN, vào những đảng viên (có
22,6% số học sinh được khảo sát cho rằng mình thiếu nhiệt tình và niềm tin
vào đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, 71,5% số
học sinh được khảo sát chỉ mong muốn làm một người tốt, không nhất thiết
cứ phải phấn đấu trở thành đảng viên, 41,7% số học sinh được hỏi chỉ mong
xã hội ổn định về chính trị, kinh tế phát triển, bớt tiêu cực, còn phát triển theo
định hướng XHCN hay không, không quan trọng). Có 13% số học sinh được
khảo sát chỉ quan tâm đến công việc riêng của mình mà ít để ý đến những
vấn đề thời sự, chính trị. Không ít học sinh chưa có lòng yêu nước, tự hào
dân tộc (ví dụ, có 12,3% học sinh mong muốn sau này mình được mang quốc
tịch nước ngoài như Anh, Mỹ, Pháp hoặc Úc hơn là quốc tịch Việt Nam,
49,4% học sinh bày tỏ ý muốn được ra nước ngoài sinh sống và làm việc, nếu
có điều kiện). Ý thức chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp của một bộ phận
đáng kể học sinh còn thấp. Trên 1/3 số học sinh được điều tra cho rằng mình
chưa phải là người chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp (có 26,3% học sinh cho
rằng mình đã nhiều lần làm ngơ khi thấy người khác làm sai luật pháp). Một
bộ phận khá đông học sinh (trên 40%) chưa có thái độ sống tích cực. Các em
này có những thiếu hụt đáng kể niềm tin vào tương lai, thiếu bản lĩnh, thiếu
nghị lực.
Điểm yếu lớn nhất của số học sinh được điều tra là thiếu năng lực thích
ứng, thiếu năng lực tự học, không ham học, thiếu tính sáng tạo. Có tới 71 %
học sinh cảm nhận mình chưa được chuẩn bị tốt để thích ứng với một xã hội
mở cửa và hội nhập (chỉ có 29% thực sự tin rằng mình đã được chuẩn bị tốt
để thích ứng với một xã hội mở cửa và hội nhập), có từ 35,3% đến 38,1%
cảm thấy lúng túng, thiếu tự tin, cho rằng mình chưa được chuẩn bị tốt để
thích ứng với một xã hội lấy cạnh tranh làm động lực phát triển. Chỉ có 30%
học sinh được những người xung quanh nhận xét là ham học. Có 41,5% học
sinh được hỏi, tin rằng mình có khả năng tự học, 40,9% học sinh cho rằng
mình luôn suy nghĩ mạch lạc và sáng tạo. Những con số này là sự cảnh tỉnh
đối với nhà trường và xã hội, đồng thời đặt ra cho nhà trường một nhiệm vụ
cấp thiết không thể không làm là phải nhanh chóng đổi mới chương trình, nội
dung, phương pháp dạy và học, tìm mọi cách để hình thành cho được các
năng lực tự học, năng lực thích ứng và năng lực sáng tạo ở học sinh - điểm
yếu nhất của học sinh hiện nay.
II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH SINH VIÊN1. Kết quả nghiên cứu qua trắc nghiệm NEO PI-R
Kết quả đo lường các nét / mặt nhân cách qua trắc nghiệm NEO PI-R
trên mẫu sinh viên được thể hiện ở bảng 15a.
Bảng 15a: Điểm trung bình và độ lệch chuẩn ở từng mặt nhân cách trên nhóm mẫu sinh viên
Các thang đo / tiểu thang đo MẫuĐiểm
trung bìnhĐộ lệch chuẩn
N: Nhiễu tâm (Neuroticism)
E: Hướng ngoại (Extraverson)
O: Cởi mở (Opennes)
A: Dễ thương (Agreeableness)
C: Có ý chí phấn đấu
(Conscientiousness)
637
638
638
638
638
86.9
113.2
110.9
115.9
123.6
19.6
16.6
12.9
12.8
18.7
Nhiễu tâm:
N1: Lo âu
N2: Giận dữ / thù nghịch
N3: Trầm cảm
N4: Tự ty, mặc cảm
N5: Xung tính
N6: Dễ bị thương tổn
649
649
642
642
643
643
15.5
13.3
14.6
17.0
13.3
13.1
5.1
4.7
4.9
4.2
4.5
4. 1
Hướng ngoại:
E1: Cởi mở, thân thiện
E2: Quảng giao
E3: Khẳng định, quyết đoán
649
643
642
21.5
18.8
16.2
4.1
4.8
3.8
E4: Tích cực hoạt động
E5: Tìm kiếm kích thích
E6: Xúc cảm tích cực
643
643
643
18.6
18.1
19.6
4.0
4.3
3.9
Cởi mở:
O1: Giàu trí tưởng tượng
O2: Có óc thẩm mỹ
O3: Hiểu xúc cảm tình cảm
O4: Đa dạng hoá hoạt động
O5: Giàu ý tưởng
O6: Các giá trị
649
642
642
643
643
644
16.5
20.9
19.3
17.0
18.2
19.2
4.0
4.5
3.5
3.7
4.4
3.2
Dễ thương:
A1: Niềm tin
A2: Thẳng thắn
A3: Vị tha
A4: Phục tùng
A5: Khiêm tốn
A6: Nhân hậu
649
642
642
643
643
643
18.3
17.3
22.0
15.7
20.2
22.0
3.8
4.4
3.8
4.0
4.1
3.2
Có ý chí phấn đấu:
C1: Năng lực
C2: Ngăn nắp
C3: Trách nhiệm
C4: Nỗ lực thành đạt
C5: Kỷ luật tự giác
C6: Thận trọng
649
638
642
640
643
644
19.1
20.2
23.3
21.6
18.3
20.8
3.9
5.4
3.7
4.2
3.8
4.5
1.1. Nhân cách học sinh Việt Nam so với học sinh Mỹ
So với nhóm sinh viên Mỹ (tuổi 17-20), điểm trung bình của nhóm sinh
viên Việt Nam trong mẫu điều tra này thấp hơn một cách đáng kể ở mặt N
(Nhiễu tâm - 86.9 so với 96.3), mặt E (Hướng ngoại - 113.2 so với 121.2) và
mặt O (Cởi mở - 110.9 so với 116.8). Hai mặt còn lại nhóm sinh viên Việt
Nam có điểm số trung bình đều cao hơn: mặt A (Dễ thương - 115.9 so với
113.5), mặt C (Có ý chí phấn đấu 123.6 so với 114.5). Tuy nhiên sự so sánh
này có một số bất cập do nhóm sinh viên Mỹ trong mẫu chuẩn hoá so với
nhóm sinh viên Việt Nam được điều tra thiếu tính tương đồng ở một số điểm
chẳng hạn tuổi, kích cỡ mẫu…
1.2. Kết quả phân nhóm sinh viên theo điểm chuẩn
Kết quả phân loại thành 5 nhóm theo điểm chuẩn ở từng mặt nhân
cách đo bằng trắc nghiệm NEO PI-R trên nhóm mẫu sính viên được thể hiện
ở bảng 15b và 15c.
Bảng 15b: Phân nhóm theo điểm chuẩn ở từng mặt nhân cách trên mẫu sinh viên nam (N = 280)
Các thang đo / tiểu thang đo
Nhóm điểm rất
thấp <35
Nhóm điểm thấp (35- 44)
Nhóm điểm trung bình
(45-55)
Nhóm điểm cao (56- 65)
Nhóm điểm rất
cao > 66
N: Nhiễu tâm (Neuroticism)
E: Hướng ngoại (Extraverson)
O: Cởi mở (Opennes)
A: Dễ thương (Agreeableness)
C: Có ý chí phấn đấu
(Conscientiousness)
4,6%
6,7%
6,0%
5.7%
5.4%
25,4%
22,3%
24,6%
20.4%
24.5%
44,3%
44,0%
42,7%
43,9%
42,8%
21,1%
20,2%
20.6%
25,4%
20,1 %
4,6%
6,7%
6.0%
4,6%
7,2%
Bảng 15c: Phân nhóm theo điểm chuẩn ở từng mặt nhân cách trên mẫu sinh viên nữ (N = 356)
Các thang đo / tiểu thang đo
Nhóm điểm rất
thấp <35
Nhóm điểm thấp (35- 44)
Nhóm điểm trung bình
(45-55)
Nhóm điểm cao (56- 65)
Nhóm điểm rất
cao > 66
N: Nhiễu tâm (Neuroticism)
E: Hướng ngoại (Extraverson)
O: Cởi mở (Opennes)
A: Dễ thương (Agreeableness)
C: Có ý chí phấn đấu
(Conscientiousness)
5,6%
3,9%
5,3%
4,8%
4.8%
20,5%
22,5%
24,7%
22,7%
23,2%
47,5%
46,2%
43,3%
44,3%
45,5%
22,2%
20,6%
20,2%
22,1%
18,6%
4,2%
6,8%
6,5%
6,2%
7,9%
Theo kết quả phân loại trên, ta nhận thấy:
- 25,7% sinh viên nam và 26,4% sinh viên nữ được điều tra có điểm
chuẩn cao và rất cao ở mặt N. Số sinh viên này có những dấu hiệu không ổn
định / bất thường về tâm thần như hay lo lắng thái quá, dễ bị stress, dễ giận
dữ, hay có ý nghĩ thù nghịch, dễ mặc cảm tư ty, hay bị trầm cảm, không có
khả năng kiềm chế, kiểm soát xung tính, dễ nổi xung và dễ bị thương tổn.
Trong số này có 4,6% các em nam và 4,2% các em nữ có điểm chuẩn ở mặt
này > 70, các em này có thể được chẩn đoán là bị rơi nhiễu nhân cách ở mức
tâm bệnh. Ngược lại, có 30% sinh viên nam và 26,1% sinh viên nữ có điểm
chuẩn thấp và rất thấp ở mặt N. Họ có những dấu hiệu nhân cách đặc trưng
như có xúc cảm, tình cảm ổn định, luôn bình tĩnh, tỉnh táo, biết kiềm chế,
thanh thản, thư giãn và có thể ứng phó có hiệu quả với hầu hết các tình
không gây stress thường gặp trong cuộc sống.
- 29% sinh viên nam và 26,4% sinh viên nữ được điều tra có điểm
chuẩn thấp và rất thấp ở mặt E. Số sinh viên này có những nét / đặc điểm
nhân cách đặc trưng như kín đáo dè dặt, thích sống một mình, ít giao tiếp xã
hội và thường để người khác nói và điều khiển. Có 26,9% sinh viên nam và
27,4% sinh viên nữ được điều tra có điểm chuẩn cao và rất cao ở mặt này.
Các em này có những nét / đặc điểm nhân cách đặc trưng như thích hoạt
động xã hội, dễ kết bạn, có uy tín và năng lực trong hoạt động xã hội, nhanh
nhẹn hoạt bát, thích mạnh mẽ nổi trội, có tính tự khẳng định, ưa hoạt động
mới mẻ, thích tìm kiếm sự kích thích, có xu hướng lạc quan và luôn có những
xúc cảm, tình cảm tích cực.
- 30,6% sinh viên nam và 30% sinh viên nữ được điều tra có điểm
chuẩn thấp và rất thấp ở mặt O. Số sinh viên này có những đặc điểm nhân
cách đặc trưng như thường ít đứng thứ (chẳng hạn, ít tò mò, không ham tìm
hiểu), có xu hướng luôn coi trọng, tuyệt đôi tuân thủ các quy ước về hành vi,
bảo thủ trong cách nhìn (chẳng hạn khó thay đổi thói quen, nếp nghĩ, chỉ ưa
thích tiếp tục những gì mình đã từng làm, đã được coi là đúng), tình cảm có
cái gì đó họ hộ ít nhạy cảm, ít sâu sắc và có xu hướng bảo thủ hơn về mặt
chính trị, xã hội. Có 26,6% sinh viên nam và 26,7% sinh viên nữ đạt điểm
chuẩn cao và rất cao ở mặt O. Số sinh viên này có những đặc điểm nhân
cách đặc trưng như giàu trí tưởng tượng, nhạy cảm thẩm mỹ, chú ý tới những
tình cảm bên trong, tò mò về trí tuệ, ham hiểu biết, độc lập trong xét đoán, có
vốn trải nghiệm phong phú.
- 26,1% sinh viên nam và 27,5% sinh viên nữ có điểm chuẩn thấp và rất
thấp ở mặt A. Số sinh viên này có những đặc điểm / nét nhân cách đặc trưng
như khó chấp nhận người khác, có xu hướng ích kỷ, hay nghi ngờ, có xu
hướng ganh đua hơn là hợp tác. Người có điểm thấp trên thang đo này
thường liên quan đến những rối nhiễu nhân cách kiến tự mê mình, chống đối
xã hội, hoang tưởng. Có 30% sinh viên nam và 28,3% sinh viên nữ được điều
tra có điểm chuẩn cao và rất cao ở mặt A. Số sinh viên có điểm chuẩn cao và
rất cao ở mặt này có những đặc điếng nét nhân cách đặc trưng như có xu
hướng dễ chấp nhận người khác, khiêm nhường, dễ tha thứ, vị tha, dễ cảm
thông với người khác, mong muốn giúp đỡ người khác, dễ hợp tác, thích làm
theo người khác, nhu mỳ, hiền lành và có tính khí ôn hoà.
- 29,9% sinh viên nam và 28% sinh viên nữ có điểm chuẩn thấp và rất
thấp ở mặt C. Số sinh viên này có những đặc điểm nét nhân cách đặc trưng
như thiếu nhiệt tình, thiếu quyết tâm trong việc nỗ lực đạt mục đích của bản
thân, thường đánh giá thấp năng lực của bản thân, hay trì hoãn thực hiện
nhiệm vụ, dễ chán nản, muốn bỏ cuộc giữa chừng, hay vội vàng, nói và hành
động không tính đến hậu quả, thiếu tính gọn gàng ngăn nắp. Có 27,3% sinh
viên nam và 26,5% sinh viên nữ có điểm chuẩn cao và rất cao ở mặt C. Số
sinh viên này có những đặc điểm / nét nhân cách đặc trưng như làm việc có
mức đích rõ ràng, kiên trì, có năng lực tự động viên mình hoàn thành công
việc, có nghị lực, ý chí mạnh và có tính quyết đoán, cẩn trọng và đáng tin.
1.3. Kết quả phân nhóm kết hợp 5 mặt nhân cách
Tuy nhiên nếu kết hợp cả 5 mặt: N, E, O, A và C của NEO PI-R để xem
xét sự phát triển nhân cách của từng sinh viên theo những điểm mạnh điểm
yếu, chúng ta có thể phân loại số sinh viên được nghiên cứu thành 4 nhóm
(xem bảng 15d):
Bảng 15d: Phân nhóm theo điểm chuẩn kết hợp cả 5 mặt của NEO PI-R trên mẫu SV
Mặt N Mặt E Mặt O Mặt A Mặt CSố SV
Nam Nữ
Nhóm 1 (có
nhiều ưu thế
ở tất cả 5 mặt
của nhãn
cách)
Điểm
thấp
đến rất
thấp
Điểm
cao đến
rất cao
Điểm
cao đến
rất cao
Điểm
cao đến
rất cao
Điểm
cao đến
rất cao 11 6
Nhóm 2 (có
ưu thế ở một
số mặt của
Điểm
trung
bình
Điểm
trung
bình
Điểm
trung
bình
Điểm
trung
bình
Điểm
trung
bình đến
89 101
nhân cách)đến rất
thấp
đến rất
cao
đến rất
cao
đến rất
cao
rất cao
Nhóm 3 (có
điểm yếu ở
một số mặt
của nhân
cách)
Điểm
cao đến
rất cao
Điểm
thấp
đến rất
thấp
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình đến
rất cao
175 256
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
thấp
đến rất
thấp
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình đến
rất cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
thấp
đến rất
thấp
Điểm
trung
bình đến
rất cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
trung
bình
đến rất
cao
Điểm
thấp đến
rất thấp
Nhóm 4 (có
nhiều điểm
yếu ở tất cả 5
mặt của nhân
cách)
Điểm
cao đến
rất cao
Điểm
thấp
đến rất
thấp
Điểm
thấp
đến rất
thấp
Điểm
thấp
đến rất
thấp
Điểm
thấp đến
rất thấp 5 3
Theo kết quả phân loại trình bày trong bảng 15d:
- Nhóm 1 có 12/280 (3,9%) số sinh viên nam và 6/356 (1,7%) số sinh
viên nữ có điểm chuẩn thấp đến rất thấp trên mặt N, đồng thời có điểm cao
đến rất cao trên cả 4 mặt: E, O A Và C. Đây là những sinh viên có nhiều nhất
những đặc điểm nhân cách được mong đợi như rất ổn định về tâm thần thiết
kiềm chế, tự chủ, lạc quan, luôn bình tĩnh, tự tin), cởi mở, có uy tín và năng
lực trong hoạt động xã hội, nhanh nhẹn hoạt bát, lạc quan và luôn có những
xúc cảm, tình cảm tích cực, giàu lí tưởng tượng, nhạy cảm thẩm mỹ, tò mò về
trí tuệ ham hiểu biết, độc lập trong xét đoán, có cuộc sống giàu có phong phú
về sự trải nghiệm, dễ chấp nhận người khác, khiêm nhường, vị tha, hay giúp
đỡ người khác, dễ hợp tác làm việc có mục đích rõ ràng, kiên trì, có năng lực
tự động viên mình hoàn thành công việc, có nghị lực, ý chí mạnh và có tính
quyết đoán, cẩn trọng và đáng tin.
- Nhóm 2 có 89/280 (31,8%) sinh viên nam và 101/356 (28,4%) sinh
viên nữ có điểm chuẩn trên mặt N từ trung bình trở xuống, đồng thời có điểm
chuẩn trên tất cả 4 mặt: E, O, A và C đều từ trung bình trở lên. Đây là những
sinh viên không có điểm thấp ở tất cả 5 mặt của nhân cách. Sinh viên thuộc
nhóm này không có những yếu điểm đáng kể ở tất cả các mặt, nhưng cũng
không có những ưu thế vượt trội ở tất cả các mặt như nhóm 1.
- Nhóm 3 có 175/280 (62,5%) sinh viên nam và 256/356 (71,9%) sinh
viên nữ có điểm chuẩn trên mặt N từ cao đến rất cao và / hoặc có điểm chuẩn
của 1 đến 4 mặt: E, O, A và C từ thấp đến rất thấp. Đây là những sinh viên có
điển thấp ở 1 trên 4 mặt của nhân cách. Sinh viên thuộc nhóm này có những
yếu điểm đáng kể ở một số mặt, nhưng không phải ở tất cả các mặt như
nhóm 4.
- Nhóm 4 có 5/280 (1,8%) sinh viên nam và 3/356 (0,8%) sinh viên nữ
có điểm chuẩn cao trên mặt N đồng thời có điểm thấp đến rất thấp trên cả 4
mặt: E, O, A và C. Đây là những sinh viên có điểm số không mong muốn ở tất
cả 5 mặt của nhân cách (có thiếu hụt ở tất cả 5 mặt của nhân cách).
Có thể tóm tắt kết quả phân loại sinh viên thành 4 nhóm (kết hợp cả 5
mặt) theo điểm chuẩn của NEO PI-R bằng biểu đồ 5 sau đây:
Biểu đồ 5: Phân loại SV thành 4 nhóm (kết hợp cả 5 mặt) theo điểm chuẩn của NEO PI-R
Biểu đồ 5a dưới đây minh hoạ điểm số của 4 sinh viên nam có mã số
N199, N230, N1685, N1715 nằm trong số 11 nam sinh viên thuộc nhóm 1
(nhóm có nhiều nhất những đặc điểm nhân cách mong đợi) vừa nói ở trên:
- N199: Nam, 21 tuổi, sinh viên năm thứ 4, Khoa kinh tế quản trị kinh
doanh, Đại học Mở, Hà Nội, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm
NEO PI-R: N: 25,6; E: 63; O: 61: A:56; C: 71.
- N859: Nam, 22 tuổi, sinh viên năm thứ 4, Khoa kinh tế quản trị kinh
doanh, Đại học Mở, Hà Nội, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm
NEO PI-R: N: 42; E: 59; O: 61; A:63; C: 67.
- N1685: Nam, 22 tuổi, sinh viên năm thứ 4, đại học Nông lâm,
TP.HCM, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 44;
E: 75; O: 56; A:56; C: 59.
- N1715: Nam, 21 tuổi, sinh viên năm thứ 2, Đại học Khoa học tự nhiên,
TP. HCM, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 38;
E: 70; O: 57; A:57; C: 59.
Biểu đồ 5b dưới đây minh hoạ điểm số của 4 sinh viên nữ có mã số
N319, N815, N1780, N2227 nằm trong số 6 sinh viên nữ thuộc nhóm 1 (nhóm
có nhiều nhất những đặc điểm nhân cách mong đợi) vừa nói ở trên:
- N319: Nữ, 19 tuổi, sinh viên năm thứ 2, Khoa kinh tế, Đại học Kinh tế
Quốc dân, Hà Nội, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-
R: N: 42,5; E: 58; O: 61; A;64; C: 62.
- N815: Nữ, 20 tuổi, sinh viên năm thứ 2, trường Đại học Tây nguyên,
có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 25,6; E: 58;
O: 65; A:68; C: 75.
- N1780: Nữ, 19 tuổi, sinh viên năm thứ 2 trường Đại học Sư phạm TP.
HCM, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 35,5;
E: 67; O: 68; A:68; C: 56.
- N2227: Nữ, 22 tuổi, sinh viên năm thứ 2, trường Đại học, có điểm
chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 40,5; E; 72; O: 57;
A:65; C: 74.
Biểu đổ 5c dưới đây minh hoạ điểm số của 3 sinh viên nam có mã số
N353, N832, N1748 thuộc nhóm 4 (nhóm có nhiều điểm yếu ở tất cả các mặt
của nhân cách) vừa nói ở trên:
- N353: Nam, 19 tuổi, sinh viên năm thứ 2, trường Đại học Y tế Cộng
Đồng, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 66,9;
E: 32; O: 44; A:44; C: 40.
- N832: Nam, 19 tuổi, sinh viên năm thứ 2, trường Đại học Tây Nguyên,
có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 62,4; E: 42;
O: 32; A:34; C: 37.
- N1748: Nam, 21 tuổi, sinh viên năm thứ 2, trường Đại học Sư phạm.
TP.HCM, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO pI-R: N:
61,4; E: 38; O: 32; A:39,9; C: 38.
Biểu đồ 5d dưới đây minh hoạ điểm số của 3 sinh viên nữ có mã số
N700, N824, N1678 thuộc nhóm 4 (nhóm có nhiều nhất những đặc điểm
không mong đợi ở tất cả 5 mặt của nhân cách) vừa nói ở trên:
- N700: Nữ, 20 tuổi, sinh viên năm thứ 2, Đại học Kinh tế Quản trị kinh
doanh, Đà Nẵng, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-
R: N: 61,5; E: 40; O: 34; A: 43; C: 40.
- N824: Nữ, 21 tuổi, sinh viên năm thứ 2, Đại học Tây Nguyên, có điểm
chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO PI-R: N: 64,5; E: 37; O: 43; A:
41; C: 39.
- N1678: Nữ, 22 tuổi, sinh viên năm thứ 4, Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn, TP. HCM, có điểm chuẩn trên các thang đo của trắc nghiệm NEO
PI-R: N: 58; E: 39; O: 43; A: 38; C: 35.
1.4. Kết quả so sánh theo giới
Kết quả so sánh điểm trung bình ở từng mặt nhân cách trên các thang
đo của NEO PI-R giữa nhóm sinh viên nam với nhóm sinh viên nữ cho thấy
có sự khác biệt đáng kể giữa nam nữ ở 3 mặt: Nhiễu tâm (N), Dễ chấp nhận
(A) và Hướng ngoại (E). Nhóm nữ có điểm số cao hơn nhóm nam ở mặt N và
A. Điều này cho thấy sinh viên nữ có xu hướng dễ mắc các rối nhiễu hoặc
khó khăn về tình cảm như lo âu, trầm cảm, tự ty và dễ bị tổ thương hơn sinh
viên nam, nhưng đồng thời họ lại là người dễ chấp nhận: trung thực, khiêm
tốn và nhân hậu hơn. Ngược lại nhóm nam sinh viên lại có điểm cao hơn
đáng kể ở mặt E. Điều này cho thấy nam sinh viên có xu hướng: tích cực hoạt
động, tìm kiếm kích thích và đặc biệt thích khẳng định và quyết đoán hơn.
Không có sự khác biệt đáng kể về điểm số trung bình giữa nam nữ ở 2
mặt O và C. Nhưng sinh viên nữ có điểm trung bình cao hơn đáng kể ở các
tiểu thang đo tính ngăn nắp, tính thẳng thắn, hiểu xúc cảm tình cảm, còn nam
sinh viên có điểm cao hơn đáng kể ở các tiểu thang đo năng lực, ý tưởng
(xem bảng 16).
Bảng 16: Điểm trung bình và độ lệch chuẩn ở từng mặt và nét nhân cách trên mẫu SV theo giới
Các thang đo
Nam
(N=285)
Nữ
(N=363) Mức khác biệt
Trung bình
Lệch chuẩ
n
Trung bình
Lệch chuẩ
n
N: Nhiễu tâm (Neuroticism) 84. 1 20.1 88.8 20.2 .001
E: Hướng ngoại (Extraverson)
O: Cởi mở (Opennes)
A: Dễ thương (Agreeableness)
C: Có ý chí phấn đấu
(Conscientiousness)
115.5
111.0
113.3
122.7
16.5
13.3
13.5
19.1
110.9
110.9
117.5
123.9
17.2
13.4
13.0
19.0
.001
.831
.000
0.54
1
Nhiễu tâm:
N1: Lo âu
N2: Giận dữ / thù nghịch
N3: Trầm cảm
N4: Tự ty, mặc cảm
N5: Xung tính
N6: Dễ bị thương tổn
14.6
13.0
14.1
16.5
13.5
12.4
5.3
4.7
5.0
4.0
4.6
3.9
16.2
13.5
15.0
17.5
13.1
13.6
4.8
4.6
4.8
4.3
4.4
4.1
.000
.151
.025
.003
.254
.000
Hướng ngoại:
E1: Cởi mở, thân thiện
E2: Quảng giao
E3: Khẳng định, quyết đoán
E4: Tích cực hoạt động
E5: Tìm kiếm kích thích
E6: Xúc cảm tích cực
21.9
19.1
16.8
19.3
18.6
19.7
4.0
5.0
3.8
4.0
3.9
4.1
21.3
18.6
15.6
18.1
17.7
19.6
4.1
4.7
3.6
4.0
4.5
3.8
.052
.253
.000
.000
.006
.710
Cởi mở:
O1: Giàu trí tưởng tượng
O2: Có óc thẩm mỹ
O3: Hiểu xúc cảm tình cảm
O4: Đa dạng hoá hoạt động
16.7
20.6
18.8
16.9
3.8
4.6
3.5
3.8
16.3
21.1
19.6
17.1
4.1
4.4
3.5
3.6
.262
.150
.004
.484
O5: Giàu ý tưởng
O6: Các giá trị
19.1
19.0
4.3
3.1
17.5
19.3
4.3
3.2
.000
.179
Dễ thương:
A1: Niềm tin
A2: Thẳng thắn
A3: Vị tha
A4: Phục tùng
A5: Khiêm tốn
A6: Nhân hậu
18.0
16.4
22.0
15.6
19.7
21.5
3.8
4.5
4.1
3.9
4.1
3.3
18.5
18.0
22.0
15.8
20.6
22.4
3.7
4.1
3.6
4.1
4.1
3.0
.084
.000
.968
.510
.003
.001
Có ý chí phấn đấu:
C1: Năng lực
C2: Ngăn nắp
C3: Trách nhiệm
C4: Nỗ lực thành đạt
C5: Kỷ luật tự giác
C6: Thận trọng
19.8
19.4
22.7
21.8
18.1
20.9
3.9
5.4
4.0
4.2
3.8
4.3
18.6
20.9
23.8
21.4
18.3
20.7
3.8
5.2
3.5
4.2
3.7
4.7
.000
.001
.196
.517
.518
.726
1.5. Kết quả so sánh theo vùng
Kết quả so sánh sự khác biệt điểm trung bình ở từng mặt nhân cách
trên các thang đo của NEO PI-R giữa 3 nhóm sinh viên: khu vực Hà Nội, Đà
Nẵng và TP. Hồ Chí Minh cho thấy không có sự khác biệt đáng kể. Tuy nhiên
so sánh điểm trung bình trên từng nét nhân cách có một số có khác biệt có ý
nghĩa (xem bảng 17).
Bảng 17: Sự khác biệt điểm trung bình ở từng mặt / nét nhân cách trên mẫu SV theo khu vực
Các Hà Nội N = 208 Đà Nẵng N =195 TP.HCM N = 237 Mức
thang đo/ tiểu thang
đo
độ khác biệt
Trung bình
Lệch chuẩn
Trung bình
Lệch chuẩn
Trung bình
Lệch chuẩn
Mặt N
Mặt E
Mặt O
Mặt A
Mặt C
N1
N2
N3
N4
N5
N6
E1
E2
E3
E4
E5
E6
O1
O2
O3
O4
84.3
113.4
2
111.1
9
114.6
6
121.1
7
14.70
13.02
13.93
16.79
12.78
13.03
21.51
18.88
16.01
18.28
18.52
19.88
19.3
16.91
13.2
13.4
16.4
5.276
4.637
4.794
4.202
4.460
3.807
3.951
4.894
3.574
4.108
4.121
3.856
4.058
4.665
3.125
3.721
86.76
111.79
110.12
115.76
124.47
15.84
13.16
14.81
17.15
12.85
13.14
21.26
18.53
16.46
18.59
17.60
18.97
16.50
20.52
18.54
17.35
17.6
15.6
12.7
11.4
17.5
4.883
4.172
4.749
3.863
3.806
3.877
3.841
4.683
3.745
3.703
3.865
3.811
3.715
4.508
3.365
3.489
88.86
114.04
111.39
117.17
125.06
15.98
13.53
14.97
17.10
14.13
13.13
21.77
18.98
16.04
18.92
18.14
19.92
16.48
21.56
19.58
16.55
21.3
17.2
12.8
13.2
21.2
5.0
5.1
5.1
4.5
4.9
4.5
4.4
4.9
3.9
4.2
4.6
4.1
4.1
4.2
3.9
3.8
.097
.361
.563
.116
.068
.016
.487
.060
.650
.001
.955
.425
.610
.410
.246
.090
.022
.990
.008
.003
.044
O5
O6
A1
A2
A3
A4
A5
A6
C1
C2
C3
C4
C5
C6
16.53
20.36
19.59
17.25
17.94
19.56
18.92
17.22
21.82
14.89
19.62
21.91
19.01
19.63
23.32
21.20
17.95
20.03
4.121
3.043
3.754
4.470
3.613
3.603
3.816
2.874
3.473
4.807
3.334
3.993
3.396
3.875
18.76
18.42
17.74
17.45
22.10
15.73
20.67
21.32
18.62
20.50
23.17
21.92
18.43
20.88
4.440
2.993
3.835
4.233
3.697
3.758
4.095
3.548
3.956
5.079
3.857
4.070
3.482
4.325
18.00
19.47
18.18
17.24
22.11
16.49
20.30
22.66
19.60
20.38
23.35
21.63
18.36
21.37
4.5
3.4
3.7
4.4
4.1
4.4
4.3
3.1
4.1
6.0
4.0
4.5
4.3
5.1
.113
.000
.006
.838
.685
.000
.032
.000
.030
.230
.872
.222
.374
.007
1.6. Kết quả so sánh theo ngành
Kết quả so sánh sự khác biệt về điểm trung bình của sinh viên, theo
ngành học ở từng mặt nhân cách trên các thang đo của NEO PI-R cho thấy
có sự khác biệt đáng kể ở 4 mặt: N, E, A và C. Không có sự khác biệt đáng
kể về điểm số trung bình theo ngành học ở mặt O. Tuy nhiên điểm trung bình
trên từng nét nhân cách ở mặt này có một số khác biệt có ý nghĩa (xem bảng
18).
Bảng 18: Sự khác biệt điểm trung bình ở từng mặt, nét nhân cách trên mẫu sinh viên theo ngành
Mặt/ nét
nhân cách
Sư phạm
N = 170
KHXH
N = 184
Sư phạm
N = 157
Sư phạm
N = 138Mức độ
khác biệt
Trung bình
Lệch chuẩn
Trung bình
Lệch chuẩn
Trung bình
Lệch chuẩn
Trung bình
Lệch chuẩn
Mặt N
Mặt E
Mặt O
Mặt A
Mặt C
N1
N2
N3
N4
N5
N6
E1
E2
E3
E4
E5
E6
O1
O2
O3
O4
O5
O6
A1
92.42
109.92
110.50
117.46
123.64
16.99
14.31
16.13
18.09
13.15
13.70
21.29
17.76
15.67
18.02
17.36
19.06
16.39
21.41
19.37
16.36
17.83
18.71
18.03
19.4
16.8
12.5
13.5
17.6
5.0
4.7
4.6
4.1
4.6
3.9
4.3
5.0
3.6
4.1
4.5
3.7
4.0
4.4
3.6
3.9
4.1
3.3
3.7
88.43
113.04
110.62
113.88
120.88
15.79
13.54
14.93
17.21
13.66
13.28
21.57
19.21
16.01
18.36
18.64
19.51
16.61
20.82
19.40
16.84
18.12
19.06
18.05
18.7
16.0
12.8
13.1
17.8
5.0
4.691
4.846
3.751
4.434
4.077
3.798
4.643
3.737
3.976
3.901
3.913
3.490
4.645
3.553
3.756
4.205
3.194
3.406
83.31
115.61
111.60
114.00
120.74
14.18
12.87
13.32
16.43
13.28
12.80
21.42
19.04
16.55
18.75
18.80
20.41
16.90
20.13
19.12
17.69
18.19
19.70
18.66
18.1
16.6
13.5
10.9
16.4
4.711
4.076
4.508
4.248
4.225
3.941
4.208
4.625
3.701
3.882
4.155
3.893
3.919
4.626
2.998
3.325
4.498
2.969
3.902
82.05
114.50
111.17
118.93
130.42
14.88
12.00
13.62
16.09
13.02
12.46
21.90
19.31
16.53
19.51
17.51
19.56
16.06
21.02
18.68
17.33
18.82
19.33
18.47
20.8
16.8
12.8
12.7
21.7
5.2
4.8
5.154
4.662
4.658
4.480
3.971
4.929
3.974
3.973
4.337
4.149
4.540
4.101
3.948
3.605
4.760
3.211
4.231
.000
.014
.861
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.059
.041
.610
.011
.104
.010
.001
.020
.311
.079
.067
.008
.264
.041
.344
A2
A3
A4
A5
A6
C1
C2
C3
C4
C5
C6
17.83
21.97
16.27
20.45
22.58
18.60
21.12
23.49
21.36
18.00
20.72
4.4
3.9
3.9
4.3
3.1
3.6
4.8
3.7
4.2
3.6
4.2
16.74
21.65
15.54
19.92
21.98
18.61
19.37
23.03
21.28
17.86
20.39
4.430
3.872
4.122
3.750
3.407
3.602
4.994
3.798
4.334
3.629
4.427
16.63
22.12
14.79
19.57
21.43
19.25
19.29
22.92
21.14
17.99
19.92
4.031
3.495
3.250
4.075
2.795
3.634
5.179
3.412
3.695
3.385
3.774
18.14
22.43
16.41
20.93
21.99
20.22
21.09
23.77
22.60
19.36
22.33
4.406
4.042
4.462
4.264
3.377
4.580
6.331
4.040
4.380
4.410
5.398
.003
.327
.001
.023
.015
.001
.001
.161
.015
.001
.000
Ghi chú: KHXH: Khoa học xã hội; KTQTKD: Kinh tế quản trị kinh doanh
1.7. Kết quả so sánh theo trường
Kết quả so sánh điểm số trung bình của sinh viên ở mặt N đo bằng
NEO PI-R giữa các trường đại học cho thấy có sự khác biệt rất lớn. Sự chênh
lệch giữa trường có điểm số trung bình thấp nhất và trường có điểm số trung
bình cao nhất ở mặt này lên đến 23 điểm (xem bảng 19a).
Bảng 19a: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt N trên mẫu sinh viên theo đơn vị trường
Các trường đại học Mẫu
Mặt N Mức khác biệt
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Mỏ địa chất, HN
Kinh tế quốc dân, HN
Sư phạm, HN
Y tế cộng đồng, HN
Tây nguyên, Đắc Lắc
Kinh tế và quản trị kinh doanh, Đà Nẵng
Sư phạm, Đà Nẵng
51
48
51
57
49
53
42
80.39
84.00
89.37
85.44
89.10
85.49
90.14
20.1
16.1
18.6
21.1
17.9
17.7
13.8
.000
Kỹ thuật, Đà Nẵng
Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
Nông lâm, TP.HCM
Khoa học tự nhiên, TP.HCM
Sư phạm, TP.HCM
Cao đẳng Sư phạm, Vĩnh Long
Dân lập Cửu Long, Vĩnh Long
50
43
13
48
75
37
20
82.96
94.58
89.00
88.56
95.76
72.38
81.75
19.5
18.5
12.5
21.7
22.2
17.8
13.8
So sánh điểm số trung bình của sinh viên ở một E đo bằng NEO PI-R
giữa các trường đại học cho thấy có sự khác biệt đáng kể. Sự chênh lệch
giữa trường có điểm số trung bình thấp nhất và trường có điểm số trung bình
cao nhất ở mặt này khoảng 10 điểm (xem bảng 19b).
Bảng 19b: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt E trên mẫu sinh viên theo đơn vị trường
Các trường đại học Mẫu
Mặt E Mức khác biệt
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Mỏ địa chất, HN
Kinh tế quốc dân, HN
Sư phạm, HN
Y tế cộng đồng, HN
Tây nguyên, Đắc Lắc
Kinh tế và quản trị kinh doanh, Đà Nẵng
Sư phạm, Đà Nẵng
Kỹ thuật, Đà Nẵng
Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
Nông lâm, TP.HCM
Khoa học tự nhiên, TP.HCM
Sư phạm, TP.HCM
Cao đẳng Sư phạm, Vĩnh Long
50
49
51
58
49
53
42
51
43
13
48
73
38
115.74
117.94
108.39
112.03
113.53
113.32
108.55
111.20
109.21
118.15
118.08
111.78
114.39
16.216
16.219
15.150
18.571
13.451
17.226
15.546
15.705
13.221
15.884
17.657
18.594
16.599
.020
Dân lập Cửu Long, Vĩnh Long 20 119.65 17.388
So sánh điểm số trung bình của sinh viên ở mặt O đo bằng NEO PI-R
giữa các trường đại học cho thấy có sự khác biệt đáng kể. Sự chênh lệch
giữa trường có điểm số trung bình thấp nhất và trường có điểm số trung bình
cao nhất ở mặt này khoảng 8 điểm (xem bảng 19c).
Bảng 19c: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt O đo bằng trắc nghiệm NEO PI-R trên mẫu sinh viên theo đơn vị trường
Các trường đại học Mẫu
Mặt O Mức khác biệt
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Mỏ địa chất, HN
Kinh tế quốc dân, HN
Sư phạm, HN
Y tế cộng đồng, HN
Tây nguyên, Đắc Lắc
Kinh tế và quản trị kinh doanh, Đà Nẵng
Sư phạm, Đà Nẵng
Kỹ thuật, Đà Nẵng
Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
Nông lâm, TP.HCM
Khoa học tự nhiên, TP.HCM
Sư phạm, TP.HCM
Cao đẳng Sư phạm, Vĩnh Long
Dân lập Cửu Long, Vĩnh Long
51
49
50
57
49
53
41
51
44
13
48
74
38
20
112.41
113.92
108.64
109.98
107.92
108.68
113.80
110.78
111.92
112.08
111.42
109.92
111.37
115.25
11.7
13.3
11.6
15.2
11.3
14.9
10.5
12.6
13.5
7.3
13.6
13.9
12.4
8.9
.325
So sánh điểm số trung bình của sinh viên ở mặt A đo bằng NEO PI-R
giữa các trường đại học cho thấy có sự khác biệt rất lớn. Sự chênh lệch giữa
trường có điểm số trung bình thấp nhất và trường có điểm số trung bình cao
nhất ở mặt này khoảng 17 điểm (xem bảng 19d).
Bảng 19d: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt A đo trên mẫu sinh viên theo đơn vị trường
Các trường đại học Mẫu
Mặt A Mức khác biệt
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Mỏ địa chất, HN
Kinh tế quốc dân, HN
Sư phạm, HN
Y tế cộng đồng, HN
Tây nguyên, Đắc Lắc
Kinh tế và quản trị kinh doanh, Đà Nẵng
Sư phạm, Đà Nẵng
Kỹ thuật, Đà Nẵng
Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
Nông lâm, TP.HCM
Khoa học tự nhiên, TP.HCM
Sư phạm, TP.HCM
Cao đẳng Sư phạm, Vĩnh Long
Dân lập Cửu Long, Vĩnh Long
51
49
50
57
49
53
41
51
44
13
48
74
38
20
113.90
114.00
118.22
112.74
111.18
114.10
122.71
116.12
114.55
118.00
114.63
113.96
128.08
119.65
10.6
12.5
13.3
16.0
11.6
9.8
9.5
11.5
10.1
11.5
12.0
14.6
10.4
12.1
.000
So sánh điểm số trung bình của sinh viên ở mặt C đo bằng NEO PI-R
giữa các trường đại học cho thấy có sự khác biệt rất lớn. Sự chênh lệch giữa
trường có điểm số trung bình thấp nhất và trường có điểm số trung bình cao
nhất ở mặt này khoảng 32 điểm (xem bảng 19e).
Bảng 19e: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt C đo trên mẫu sinh viên theo đơn vị trường
Các trường đại học Mẫu Mặt C Mức khác biệt
Điểm trung Độ lệch
bình chuẩn
Mỏ địa chất, HN
Kinh tế quốc dân, HN
Sư phạm, HN
Y tế cộng đồng, HN
Tây nguyên, Đắc Lắc
Kinh tế và quản trị kinh doanh, Đà Nẵng
Sư phạm, Đà Nẵng
Kỹ thuật, Đà Nẵng
Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM
Nông lâm, TP.HCM
Khoa học tự nhiên, TP.HCM
Sư phạm, TP.HCM
Cao đẳng Sư phạm, Vĩnh Long
Dân lập Cửu Long, Vĩnh Long
51
48
51
58
48
53
42
49
42
13
48
72
38
20
124.06
118.60
123.02
119.12
121.88
119.49
129.67
127.94
114.14
123.15
120.60
120.56
146.03
136.25
18.7
13.4
16.8
15.9
16.4
16.3
18.1
17.8
17.6
17.9
20.2
17.2
19.8
18.4
.000
1.8. Kết quả so sánh theo nghề nghiệp của bố mẹ
Kết quả so sánh điểm số trung bình của sinh viên ở mặt N theo nhóm
nghề của bố mẹ, đo bàng NEO PI-R, cho thấy không có sự khác biệt đáng kể
(xem bảng 20a).
Bảng 20a: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt N trên mẫu sinh viên theo nghề nghiệp của bố mẹ
Nghề nghiệp của bố mẹ Mẫu
Mặt NMức độ khác
biệtĐiểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Nghề của bố:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
172
146
233
86
93.16
87.56
89.82
93.29
16.2
18.5
20.1
17.8
.057
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
29
43
91.90
94.67
24.0
23.6
Nghề của mẹ:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
52
177
220
40
8
83
88.94
85.78
85.76
90.73
95.25
89.05
18.0
18.6
19.7
15.1
22.8
23.
.318
So sánh điểm số trung bình của sinh viên ở mặt E đo bằng NEO PI-R
cho thấy không có sự khác biệt theo nhóm nghề của mẹ, nhưng lại có khác
biệt, tuy không lớn, theo nhóm nghề của bố. (xem bảng 20b).
Bảng 20b: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt E trên mẫu sinh viên theo nghề nghiệp của bố mẹ
Nghề nghiệp của bố mẹ MẫuMặt E Mức độ khác
biệtĐiểm trung bình Độ lệch chuẩn
Nghề của bố:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
172
146
233
85
29
42
109.35
110.41
114.71
113.25
114.59
115.12
16.1
16.2
18.4
18.3
19.1
20.4
.027
Nghề của mẹ:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
52
178
222
41
7
111.62
111.60
115.09
109.00
119.00
15.9
15.7
17.3
14.3
19.6
.110
Nội trợ 81 114.68 18.5
So sánh điểm số trung bình của sinh viên theo nhóm nghề của bố mẹ,
ở mặt O đo bằng NEO PI-R cho thấy không có sự khác biệt đáng kể (xem
bảng 20c).
Bảng 20c: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt O trên mẫu sinh viên theo nghề nghiệp của bố mẹ
Nghề nghiệp của bố mẹ MẫuMặt O Mức độ khác
biệtĐiểm trung bình Độ lệch chuẩn
Nghề của bố:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
172
146
232
86
29
43
106.80
106.63
109.11
108.00
106.86
112.28
14.2
13.7
14.5
12.6
11.5
18.5
.153
Nghề của mẹ:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
52
177
219
41
8
84
110.77
110.77
111.27
108.59
112.63
113.04
14.4
12.5
12.7
13.0
14.7
13.3
.589
So sánh điểm số trung bình của sinh viên ở mặt A theo nhóm nghề của
bố cho thấy có sự khác biệt nhưng mức chênh lệch điểm số không lớn. So
sánh điểm số trung bình của sinh viên ở mặt A theo nhóm nghề của mẹ cho
thấy không có sự khác biệt đáng kể (xem bảng 20d).
Bảng 20d: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt A trên mẫu sinh viên theo nghề nghiệp của bố mẹ
Nghề nghiệp của bố mẹ
Mẫu
Mặt AMức độ
khác biệtĐiểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Nghề của bố:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
171
145
232
86
29
43
109.35
110.41
114.71
113.25
114.59
115.12
12.6
13.5
14.7
14.9
17.4
14.5
.000
Nghề của mẹ:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
52
178
221
40
8
83
116.33
118.06
114.26
113.70
113.50
116.45
14.0
11.0
13.2
14.5
10.1
12.9
.062
So sánh điểm số trung bình của sinh viên theo nhóm nghề của bố mẹ,
ở mặt C đo bằng NEO PI-R cho thấy có sự khác biệt khá lớn. Sự chênh lệch
giữa nhóm sinh viên có điểm số trung bình thấp nhất và nhóm sinh viên có
điểm số trung bình cao nhất ở mặt này khoảng 14-15 điểm (xem bảng 20e).
Bảng 20e: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt C trên mẫu sinh viên theo nghề nghiệp của bố mẹ
Nghề nghiệp của bố mẹ MẫuMặt C Mức độ khác
biệtĐiểm trung bình Độ lệch chuẩn
Nghề của bố:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
170
146
229
86
29
42
114.35
126.21
115.91
111.56
118.86
119.79
18.5
19.6
22.
18.9
21.9
25.1
.000
Nghề của mẹ:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
52
177
220
40
8
80
125.54
129.20
121.03
118.85
115.75
122.30
17.5
20.1
16.6
13.7
13.5
20.7
.000
1.9. Kết quả so sánh tương quan giữa các mặt của nhân cách
Kết quả phân tích tương quan điểm số biểu thị kết quả đo lường các
mặt nhân cách của NEO PI-R cho thấy: điểm số của mặt N (nhiễu tâm) tương
quan nghịch với 4 mặt còn lại (từ -0.21 đến -0.58). Điểm số của mặt N tương
quan nghịch cao nhất với mặt C (-0.58). Điều này có nghĩa là người nào có
điểm số cao ở mặt N sẽ dự báo những hạn chế ở các mặt kia của nhân cách
(nhất là mặt C). Điểm số của mặt C tương quan thuận với điểm số của mặt E,
A và O (đều là 0.33). Điểm số của mặt O tương quan thuận cao nhất với điểm
số của mặt E (0.46). Kết quả này phù hợp với các kết quả đã được phát hiện
về mối tương quan giữa các mặt nhân cách đo bằng trắc nghiệm NEO PI-R
trong các công trình nghiên cứu ở nước ngoài (xem bảng 21).
Bảng 21: Tương quan điểm số giữa các thang đo đánh giá các mặt nhân cách của trắc nghiệm NEO PI-R trên mẫu sinh viên
Các mặt của NEO PI-R N E O A C
N
E -0.40**
O -0.21** 0.46**
A -0.21** -0.05 0.08
C -0.58** 0.33** 0.33** 0.33**
**P<.001
Sử dụng mô hình phân tích yếu tố và mô hình hồi quy đa biến để phân
tích mối tương quan giữa các nét (các tiểu thang đo) với từng mặt (các thang
đo) cho thấy mỗi mặt của nhân cách đều chịu sự chi phối của các nét nhân
cách nhưng với mức độ ảnh hưởng khác nhau. Trong từng mặt nhân cách, có
1-2 nét nhân cách ảnh hưởng mạnh nhất, chúng giải thích cho khoảng 63%
đến 83% sự biến thiên của mặt nhân cách này. Chẳng hạn điểm số của N1,
N2, N3, N4, N5, N6 đều ảnh hưởng đến điểm tổng của mặt N (xem bảng 23),
nhưng mức độ ảnh hưởng của chúng đến mặt N rất khác nhau. Theo kết quả
phân tích của mô hình hồi quy hơn biến N3 (trầm cảng và N2 (thù nghịch) có
ảnh hưởng mạnh nhất (r = 0.908 tức chúng giải thích cho khoảng 82,4% sự
biến thiên của mặt N. Điều này rất có ý nghĩa khi ứng dụng thực tế tìm giải
pháp tác động điều chỉnh: muốn giảm điểm số mặt N của cá nhân nào đó cần
tác động để giảm điểm số N3 và N2.
Bảng 22: Tương quan điểm số giữa các tiểu thang đo (nét nhân cách) với toàn bộ thang đo (mặt N)
N1 N2 N3 N4 N5 N6
N1
N2 0.45**
N3 0.64** 0.47**
N4 0.51** 0.35** 0.59**
N5 0.32** 0.50** 0.40** 0.25**
N6 0.47** 0.45** 0.52** 0.48** 0.35**
Mặt N 0.77** 0.72** 0.82** 0.70** 0.62** .71**
**P<.001
Tương tự mặt A chịu tác động mạnh nhất của A2 và A3 (r = 0.802, giải
thích cho khoảng 64,2%); mặt E chịu tác động mạnh nhất của E1 và E3 (r =
0.850, giải thích cho khoảng 72,2%); mặt O chịu tác động mạnh nhất của O2
và O5 (r = 0.809, giải thích cho khoảng 65,4%); mặt C chịu tác động mạnh
nhất của C5 và C2 (r = 0.912, giải thích cho khoảng 83,2%).
2. Kết quả nghiên cứu qua phiếu hỏi
Phiếu hỏi được thiết kế để đo những nét / đặc điểm nhân cách đặc
trưng của con người Việt nam thời kỳ CNH, HĐH nhằm bổ sung những gì trắc
nghiệm NEO PI-R chưa đề cập Kết quả đo lường các nét nhân cách bằng
phiếu hỏi trên mẫu sinh viên được thể hiện trong bảng 23.
Bảng 23: Điểm trung bình và độ lệch chuẩn ở từng nét nhân cách trên mẫu sinh viên
Các tiểu thang đoMẫu
(N)
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
1- Lý tưởng phấn đấu
2- Thái độ đối với các vấn đề chính trị
3- Yêu nước tự hào dân tộc
4- Tôn trọng pháp luật
5- Thái độ đối với công việc
6- Thái độ đối với cuộc sống
7- Thái độ đối với đồng tiền
8- Thái độ đối với môi trường
9- Thái độ đối với các xu hướng quốc
652
652
653
652
649
649
652
652
643
22.4
10.2
22.8
20.7
22.5
49.7
16.6
15.0
18.0
4.3
2.6
3.5
3.7
4.2
9.0
4.1
2.5
3.2
tế hóa, toàn cầu hóa, hội nhập và mở
cửa
10- Thái độ và năng lực học tập
11- Năng lực thích ứng, cạnh tranh
12- Năng lực sử dụng vi tính, ngoại
ngữ và làm chủ công nghệ mới
650
648
643
28.1
21.8
29.3
3.9
3.7
6.0
2.1. Kết quả chung
Kết quả nghiên cứu bằng bảng hỏi đã cung cấp một bức tranh vừa
mang tính khái quát vừa chi tiết, bổ sung nhiều thông tin hữu ích về nhân
cách của sinh viên. Dưới đây là những điểm mạnh, điểm yếu rất đặc trưng
của nhóm sinh viên được nghiên cứu:
a. Lý tưởng phấn đấu của sinh viên:
Kết quả nghiên cứu cho thấy về cơ bản đa số sinh viên có lý tưởng
phấn đấu lành mạnh. Có 71,2% số sinh viên được khảo sát khẳng định mục
tiêu phấn đấu của mình là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh". Có 87,5% số sinh viên được khảo sát bày tỏ sự khao khát,
muốn đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng đất nước và 88,4% số
sinh viên muốn làm được một điều gì đó giúp ích cho đất nước. Có 76,3% số
sinh viên nhất trí rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã sáng suốt khi chủ trương
tăng cường cải cách kinh tế, ổn định chính trị theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Từ khi đất nước tiến hành cải cách kinh tế chuyển từ cơ chế quản lý
theo kiểu bao cấp sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN, đời sống của người dân đã không ngừng được nâng cao,
80,7% số sinh viên được khảo sát nhận xét như vậy. Tuy nhiên, cùng với
những thành tựu đã đạt được, nhiều hiện tượng tiêu cực đã nảy sinh, kể cả
trong đội ngũ đảng viên, cách thức quản lý xã hội còn nhiều hạn chế, bất cập,
không theo kịp sự vận động phát triển của xã hội. Chính vì vậy có một bộ
phận đáng kể sinh viên giảm sút niềm tin vào xã hội XHCN, vào những đảng
viên. Có 17,6% số sinh viên được khảo sát cho rằng mình thiếu vắng nhiệt
tình và niềm tin vào đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN. Có 62,3% số sinh viên được khảo sát chỉ mong muốn làm một người
tốt, không nhất thiết cứ phải phấn đấu trở thành đảng viên, 40,2% số sinh
viên được hỏi chỉ mong xã hội ổn định về chính trị, kinh tế phát triển, bớt tiêu
cực, còn phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa hay không, không quan
trọng. So với học sinh, nhóm sinh viên có lý tưởng phấn đấu tích cực hơn,
nhưng những con số này là vẫn có ý nghĩa cảnh báo. Muốn tạo được niềm tin
ở sinh viên, kinh tế phát triển, xã hội ổn định, đời sống nhân dân được cải
thiện mới là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ, cần phải tích cực giảm
thiểu các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, đặc biệt là tiêu cực ở đảng viên,
tiêu cực ở người có chức có quyền.
b. Thái độ của sinh viên đối với các vấn đề chính trị, thời sự:
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số sinh viên quan tâm đến các vấn đề
thời sự, chính trị trong nước và quốc tế. Có 79,4% số sinh viện được khảo sát
thường xuyên quan tâm (ở nhóm học sinh chỉ có 59,1%), 18,1% sinh viên nói
rằng đôi khi, thi thoảng có quan tâm đến các chương trình thời sự trong nước
và quốc tế. Có 9,5% số sinh viên được khảo sát chỉ quan tâm đến công việc
riêng của mình mà ít để ý đến những vấn đề thời sự, chính trị. Có 40,2% số
sinh viên được khảo sát hay quan tâm và bàn luận về những vấn đề liên quan
đến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước (ở nhóm học sinh chỉ có
28,3%), 39% sinh viên đôi lúc có bàn luận, có quan tâm. Có 30% số sinh viên
khảo sát được đánh giá là người luôn tích cực trong các hoạt động chính trị
xã hội. Như vậy so với học sinh, nhóm sinh viên có thái độ quan tâm hơn đối
với các vấn đề thời sự, chính trị và cũng tích cực hơn trong các hoạt động liên
quan đến chính trị xã hội.
Kết quả trả lời câu hỏi mở: nêu 3 sự kiện trong nước và 3 sự kiện quốc
tế em quan tâm nhất trong năm 2002-2003 cho thấy có 77,3% số sinh viên
được khảo sát nêu được ít nhất một sự kiện thời sự, chính trị trong nước (cần
lưu ý, có 22,7 % số sinh viên không nêu được bất cứ một sự kiện nào).
Những vấn đề/sự kiện thời sự, chính trị được sinh viên quan tâm nhất trong
năm 2002-2003 (theo thứ tự giảm dần) là vụ án Năm Cam và đồng bọn
(43%); vụ cháy Trung tâm Thương mại quốc tế TP. HCM (31,7%); thay đổi
quy chế thi ĐH (27,6%); cháy rừng U Minh thượng (25,9%); và các kỳ họp
Quốc hội (19,6%).
Các nhóm vấn đề / sự kiện trong nước được các em quan tâm nhất
(theo thứ tự giảm dần) là an toàn, an ninh (67,9%); chống tiêu cực, chống tệ
nạn xã hội (45,2%); sự kiện chính trị xã hội (37,4%); giáo dục (36,8%); kinh tế
thương mại (28,8%); và sự kiện văn hoá thể thao (21%).
Có 72,5% sinh viên nêu được ít nhất một sự kiện thời sự, chính trị quốc
tế (có 27,5 % số sinh viên không nêu được bất cứ một sự kiện quốc tế nào).
Những vấn đề/sự kiện thời sự, chính trị quốc tế được các em quan tâm nhất
trong năm 2002-2003 (theo thứ tự giảm dần) là World Cup 2002 (46,2%); nạn
khủng bố (39,2%); Cuộc chiến ở Apganistan (36%); Mỹ đánh I-rắc (33,l%);
cuộc chiến Trung Đông (26,4%).
Các nhóm vấn đề / sự kiện quốc tế được các em quan tâm nhất (theo
thứ tự giảm dần) là khủng bố, cuộc chiến Trung Đông, I-rắc, các sự kiện văn
hoá, thể thao, sự kiện chính trị xã hội, thiên tai.
c. Yêu nước tự hào dân tộc của sinh viên:
Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết sinh viên đều có ý thức yêu nước,
tự hào dân tộc. Có 93,8% số sinh viên được khảo sát khẳng định tinh thần
yêu nước và tự hào dân tộc là những giá trị đạo đức quan trọng. Có 88,8% số
sinh viên luôn cảm thấy tự hào vì mình là người Việt Nam. Có 91,6% số sinh
viên được hỏi cho rằng nền văn hoá Việt Nam thực sự có một bản sắc riêng,
rất đáng tự hào. Có 92,7% số sinh viên được khảo sát khẳng định "nếu chiến
tranh xảy ra tôi sẵn sàng chiến đấu cho tổ quốc mình". Tuy nhiên vẫn có một
bộ phận đáng kể sinh viên bày tỏ ý muốn được mang quốc tịch nước ngoài,
được ra nước ngoài sinh sống và làm việc. Có 5,5% số sinh viên mong muốn
sau này mình được mang quốc tịch nước ngoài như Anh, Mỹ, Pháp hoặc Úc
hơn là quốc tịch Việt Nam (ngoài ra còn 16,2% số sinh viên được hỏi cho biết
đôi lúc có ý nghĩ như vậy). Có tới 38,6% số sinh viên bày tỏ ý muốn được ra
nước ngoài sinh sống và làm việc, nếu có điều kiện. So với học sinh, nhóm
sinh viên có những suy nghĩ tích cực hơn. Tuy nhiên đây vẫn là điều làm
chúng ta phải suy nghĩ: tại sao trong điều kiện kinh tế khá phát triển, chính trị
ổn định xã hội mở cửa, an ninh bảo đảm mà vẫn có một bộ phận đáng kể số
sinh viên muốn sau này mình được mang quốc tịch nước ngoài như Anh, Mỹ,
Pháp hoặc Úc, trên một phần ba số sinh viên được hỏi có ý muốn ra nước
ngoài sinh sống và làm việc?
d. Ý thức và thái độ tôn trọng pháp luật của sinh viên:
Kết quả nghiên cứu cho thấy 96,4% sinh viên được điều tra ý thức rất
rõ rằng mọi người cần phải sống và làm việc theo pháp luật. Có 73,4% số
sinh viên cảm thấy ân hận mỗi khi vi phạm một điều qui định chung nào đó.
Có 74,7% số sinh viên cho rằng mình là một trong số những người nghiêm
chỉnh chấp hành luật pháp. Như vậy vẫn còn gần 1/3 số sinh viên không phải
là những người chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp. Có 24,4% số sinh viên
cho rằng mình đã nhiều lần làm ngơ khi thấy người khác làm sai pháp luật.
Có 10,6% số sinh viên thừa nhận nếu không nhìn thấy cảnh sát giao thông
làm nhiệm vụ, sẵn sàng vưu đèn đỏ. Có 16,8% số sinh viên được hỏi cho biết
không cảm thấy áy náy nên vi phạm pháp luật hoặc một qui định chung nào
đó mà không ai biết.
e. Thái độ đối với cuộc sống của sinh viên:
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số sinh viên có thái độ thân thiện, gần
gũi, cởi mở, lạc quan và tự tin. Có 79,8% sinh viên cảm thấy gần gũi thân
thiện với những người xung quanh mình. Có 67,7% sinh viên cảm thấy mình
được yêu mến và được tin cậy. Có 66,5% sinh viên tin rằng mình không phải
là người thất bại trong cuộc sống, 68,3% sinh viên tin rằng tương lai của bản
thân sẽ tốt đẹp, 66,6% sinh viên tự khẳng định mình là người có nghị lực,
64,3% sinh viên tin rằng có thể đương đầu với bất cứ vấn đề gì nếu nó xảy
ra… Như vậy so với học sinh, nhóm sinh viên có thái độ sống lạc quan, tự tin
hơn.
Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận đáng kể sinh viên (khoảng 1/3) chưa có
thái độ sống tích cực. Các em này có những thiếu hụt đáng kể niềm tin vào
tương lai, thiếu bản lĩnh, thụ động, thiếu nghị lực. Chỉ có 45,5% sinh viên cho
rằng mình luôn suy nghĩ mạch lạc và sáng tạo (kết quả này cũng trùng với kết
quả nghiên cứu của đề tài KX0506: khoảng 2/3 sinh viên được khảo sát có
điểm sáng tạo ở mức thấp). Có 22,4% sinh viên luôn cảm thấy có cái gì đó
không ổn với mình, 17,7% sinh viên luôn cảm thấy mình đơn độc, mặc dù
không muốn như vậy, 26,8% sinh viên hay có những ý nghĩ vẩn vơ, luẩn quẩn
vô tích sự. Điều này phản ánh khách quan bức tranh thái độ đối với cuộc
sống của sinh viên có sự pha trộn, đan xen giữa "màu sáng và màu tối", các
em có nhiều trăn trở khi phải đối mặt với bài toán cuộc sống.
Tìm hiểu về những mong muốn trong 5 năm tới chúng tôi nhận thấy
mong muốn của các em xoay quanh những vấn đề đang và sẽ phải đối mặt
như có việc làm ổn định (45,2%), gia đình hạnh phúc (39,5%); Được công
tác / làm việc đúng khả năng chuyên môn (27,7%); Tốt nghiệp đại học
(21,7%); Lập gia đình / có bạn đời như ý (13,2%); Học lên cao (10,9%);… Giỏi
chuyên môn (4,6%); Tự lập, thành đạt trong nghề nghiệp, cuộc sống (3,7%).
Những nhóm vấn đề các em quan tâm nhất và mong muốn là: nghề nghiệp
phù hợp (95,4%); hạnh phúc gia đình (62,6%); học tập (58,7%), xã hội ổn
định kinh tế phát triển (26,2%). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy 84,8% số
sinh viên tin rằng mình có khả năng biến những mong ước của mình thành
hiện thực (từ mức 5 đến mức 7 trên thang đo 7 mức - mức 1 là hoàn toàn
không thể, mức 7 là hoàn toàn có thể).
Tìm hiểu những nỗi lo sợ trong 5 năm tới chúng tôi nhận thấy nỗi lo sợ
của sinh viên cũng xoay quanh những vấn đề đang và sẽ phải đối mặt như:
không có việc làm (61,6%); sức khoẻ không tốt / bệnh tật (34,2%); gia đình
không hạnh phúc (26,7%); không hoà nhập với mọi người / cô đơn (23%);
không đạt ước mơ / mục đích (16,6%); thất bại trong công việc, không đủ
năng lực làm việc bị sa thải (16,2%)… Những nhóm vấn đề sinh viên quan
tâm và lo sợ nhất là: không có việc làm, làm không đúng nghề (100%); không
có ích cho xã hội, mất sự kiểm soát bản thân (56,4%); gia đình không hạnh
phúc (43,9%); bệnh tật (34,4%).
g. Về thái độ của sinh viên đối với các xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu
hoá, hội nhập và mở cửa
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số sinh viên được khảo sát ủng hộ xu
hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá, mở cửa hội nhập với thế giới. Có 83,6% số
sinh viên coi quốc ta hoá và toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu, 94% sinh viên
coi mở cửa, hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới là một xu thế tất
yếu và mỗi người phải học cách thích nghi. Tuy nhiên có 10,6% sinh viên tỏ
thái độ phản đối xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá và có tới 69,3% sinh
viên cảm nhận mình chưa được chuẩn bị tôi để thích ứng với một xã hội mở
cửa và hội nhập (chỉ có 30,7% sinh viên thực sự tin rằng mình đã được chuẩn
bị tốt để thích ứng với một xã hội mở cửa và hội nhập). Thậm chí có 11,3% số
sinh viên được hỏi cảm thấy lo sợ hơn là hy vọng ở xu thế mở cửa và hội
nhập của xã hội Việt Nam hiện nay và có 7,3% sinh viên tỏ thái độ thờ ơ,
không mong đợi gì ở xu thế mở cửa, hội nhập. Rõ ràng số liệu này cảnh báo
rằng trong thời gian qua, nhà trường, gia đình và xã hội chưa làm tốt công tác
giáo dục, chuẩn bị cho sinh viên tâm thế chấp nhận và thích nghi với xu thế
quốc tế hoá, toàn cầu hoá, sẵn sàng thích ứng với xu thế phát triển của đất
nước theo hướng mở cửa và hội nhập với khu vực và thế giới.
h. Về thái độ và động cơ học tập của sinh viên:
Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết sinh viên đều có thái độ, động cơ
học tập đúng đắn, coi trọng tự học. Có 95,2% sinh viên ý thức được rằng nỗ
lực học tập là cách tốt nhất để chuẩn bị cho tương lai. Có 74,9% sinh viên
xem học liên tục học suốt đời là cách tốt nhất để thích ứng với xã hội hiện
nay. Có 94,3% sinh viên coi tự học là một tiêu chuẩn quan trọng của con
người trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có 89,3% sinh viên tin
rằng những ai có ý thức học tập suốt đời sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn
trong xã hội hiện nay. Có 71,5% sinh viên cho rằng bản thân thường xuyên tự
học nhằm mở rộng kiến thức và nâng cao kỹ năng. Tuy nhiên chỉ có 43% sinh
viên được những người xung quanh nhận xét là người ham học, và chỉ có
53,4% sinh viên được hỏi tin rằng mình có khả năng tự học. Đây là một trong
những điểm yếu nhất của sinh viên hiện nay.
Say mê học tập, có năng lực tự học tốt là những phẩm chất, năng lực
không thể thiếu ở con người CNH, HĐH. Điều này đặt ra cho nhà trường một
nhiệm vụ cấp thiết không thể không làm là đổi mới chương trình, nội dung,
đặc biệt là phương pháp dạy và học để hình thành cho được năng lực tự học
ở sinh viên - khắc phụ điểm yếu nhất của sinh viên hiện nay. Kết quả nghiên
cứu này cũng trùng với kết quả nghiên cứu của đề tài KX05-06 về sự phát
triển các chỉ số trí tuệ: IQ, CQ, EQ của sinh viên - điểm yếu nhất, thiếu hụt
nhiều nhất của sinh viên Việt Nam hiện nay là năng lực sáng tạo và năng lực
thực hành (vận dụng kiến thức được học vào thực tiễn).
i. Về năng lực thích ứng, cạnh tranh của sinh viên:
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số sinh viên coi trọng năng lực thích
ứng và cạnh tranh. Có 88,7% sinh viên ý thức được rằng thích ứng và cạnh
tranh là hai năng lực cốt lõi của người lao động trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Có 65,4% sinh viên tin rằng mình có thể dễ dàng điều chỉnh
để thích nghi với hoàn cảnh mới, 66,2% sinh viên tin rằng có thể thích ứng
được với những biên đổi nhanh chóng của xã hội hiện nay. Có 8 1,2% sinh
viên tin rằng mở cửa và hội nhập tạo ra những cơ hội và thách thức, bản thân
đang tích cực chuẩn bị để sẵn sàng thích nghi trong một xã hội như vậy. Có
51,1% sinh viên tin rằng các em có khả năng thích ứng với một xã hội lấy
cạnh tranh làm động lực phát triển. Đây là những con số đáng khích lệ, là cơ
sở để chúng ta tin vào năng lực của thế hệ sinh viên hiện nay. Tuy nhiên cũng
phải thấy rằng có một bộ phận khá lớn sinh viên (34,6%) cảm thấy lúng túng,
thiếu tự tin, cho rằng mình chưa được chuẩn bị tốt để thích ứng với một xã
hội lây cạnh tranh làm động lực phát triển. Những sinh viên có thiếu hụt đáng
kể này cần được giúp đỡ, tạo cơ hội để họ trải nghiệm hình thành các năng
lực, kỹ năng này ngay trong thời gian học đại học.
k. Về năng lực sử dụng vi tính, ngoại ngữ và làm chủ công nghệ mới
của sinh viên:
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số sinh viên quan tâm đến công nghệ
thông tin, có nhu cầu sử dụng internet, có nhu cầu làm chủ công nghệ thông
tin phục vụ cho mục đích học tập, xem tiếng Anh, máy vi tính là công cụ,
phương tiện quan trọng, không thể thiếu trong hành trang của mình. Có
74,6% số sinh viên được điều tra thích tìm hiểu về công nghệ thông tin. Có
67,2% sinh viên có nhu cầu sử dụng internet vào mục đích học rập hoặc công
việc. Có 70,2% sinh viên xem tiếng Anh là công cơ quan trọng không thể
thiếu. Có 50,8% sinh viên coi máy tính là phương tiện quan trọng không thể
thiếu. Có 78,1% sinh viên xem giỏi ngoại ngữ là một mục tiêu phấn đâu rất
quan trọng của bản thân. Có 70,7% sinh viên biên sử dụng vi tính. Có 48,9%
sinh viên có khả năng sử dụng internet để tìm kiếm những thông tin mình cần.
Xu hướng này là những tín hiệu tích cực, phù hợp với xu thế phát triển của xã
hội Việt Nam, thời kỳ CNH, HĐH. Tuy nhiên một trong những đòi hỏi cấp thiết
của sự nghiệp CNH, HĐH là người lao động có trình độ đại học phải có khả
năng làm chủ được công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin. Họ phải
sử dụng thành thạo vi tính, internet và thành thạo ít nhất một ngoại ngữ, đặc
biệt là tiếng Anh. Nếu vậy, còn khoảng từ 1/3 đến 1/2 số sinh viên được điều
tra không coi trọng ngoại ngữ, vi tính, không có khả năng sử dụng internet,
đây là bộ phận sinh viên có sự thiếu hụt đáng kể, họ khó có thể đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH đất nước.
2.2. Kết quả so sánh theo giới
Kết quả so sánh điểm số trung bình của nam sinh viên và nữ sinh viên
trên các tiểu thang đo của phiếu hỏi cho thấy có sự khác biệt đáng kể ở một
số nét nhân cách. Nhóm học sinh viên nữ có điểm số trung bình cao hơn so
với nhóm sinh viên nam ở các tiểu thang đo: thái độ tôn trọng pháp luật, đồng
tiền, môi trường, hội nhập. Nhóm sinh viên nam có điểm số trung bình cao
hơn so với nhóm sinh viên nữ ở lý tưởng phấn đấu, thái độ đối với các vấn đề
chính trị thời sự, thái độ đối với công việc, thái độ đối với cuộc sống, năng lực
thích ứng, cạnh tranh, năng lực sử dụng vi tính, ngoại ngữ và làm chủ công
nghệ mới. Tuy nhiên sự chênh lệch này không lớn (xem bảng 24).
Bảng 24: Điểm trung bình và độ lệch chuẩn ở từng nét nhân cách trên mẫu SV theo giới
Các tiểu thang đo
Nam (N=290) Nữ (N=362) Mức khác biệt
Trung bình
Lệch chuẩn
Trung bình
Lệch chuẩn
1- Lý tưởng phấn đấu
2- Thái độ đối với các vấn đề
chính trị thời sự
3- Yêu nước tự hào dân tộc
4- Tôn trọng pháp luật
5- Thái độ đối với công việc
6- Thái độ đối với cuộc sống
7- Thái độ đối với đồng tiền
8- Thái độ đối với môi trường
9- Thái độ đối với các xu hướng
quốc tế hóa, toàn cầu hóa, hội
nhập và mở cửa
10- Thái độ và năng lực học tập
11- Năng lực thích ứng, cạnh
tranh
12- Năng lực sử dụng vi tính,
ngoại ngữ và làm chủ công
nghệ mới
22.8
10.7
22.6
20.3
23.0
50.6
15.8
14.7
17.7
28.1
22.4
30.7
4.1
2.5
3.7
3.7
4.0
8.8
4.1
2.4
3.3
4.1
3.5
6.1
22.0
9.8
23.0
21.1
22.0
48.9
17.2
15.3
18.2
28.1
21.3
28.3
4.3
2.6
3.3
3.7
4.2
9.1
3.9
2.5
3.1
3.8
3.9
5.8
.013
.000
.145
.005
.004
.020
.000
.002
.075
.981
.000
.000
2.3. Kết quả so sánh theo vùng
Kết quả so sánh sự khác biệt điểm trung bình trên các tiểu thang đo
của phiếu hỏi giữa 3 nhóm sinh viên: khu vực Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí
Minh cho thấy không có sự khác biệt đáng kể ở thái độ đối với công việc,
cuộc sống, đồng tiền, môi trường, hội nhập, học tập, thích ứng. Tuy nhiên vẫn
có sự khác biệt không đáng kể điểm trung bình trên một số nét nhân cách: lý
tưởng phấn đấu, tôn trọng pháp luật, yêu nước, công nghệ (xem bảng 25).
Bảng 25: Sự khác biệt điểm trung bình ở từng nét nhân cách trên mẫu SV theo khu vực
Nét nhân cách
Hà Nội
N = 210
Đà Nẵng
N = 204
TP.HCM
N = 239Mức độ
khác biệt
Trung bình
Lệch chuẩn
Trung bình
Lệch chuẩn
Trung bình
Lệch chuẩn
1- Lý tưởng
2- Chính trị
3- Yêu nước
4- Pháp luật
5- Công việc
6- Cuộc sống
7- Đồng tiền
8- Môi
trường
9- Hội nhập
10- Học tập
11- Thích
ứng
12- Công
21.73
9.74
22.96
19.94
22.33
49.53
16.67
15.20
18.37
27.88
22.10
28.50
3.594
2.502
3.238
3.587
3.741
7.870
3.951
2.550
2.947
3.645
3.599
5.8
24.01
10.58
23.25
21.51
22.49
49.43
16.59
14.99
17.86
27.93
21.63
29.06
3.579
2.433
3.125
3.416
4.362
9.011
3.922
2.418
3.278
4.161
3.451
6.3
21.55
10.17
22.36
20.71
22.55
49.89
16.26
14.81
17.68
28.43
21.61
30.33
4.879
2.757
3.956
3.949
4.383
10.015
4.240
2.486
3.386
3.997
4.085
5.9
.000
.005
.023
.000
.858
.849
.200
.257
.072
.263
.305
.004
nghệ
2.4. Kết quả so sánh theo ngành học
Kết quả so sánh sự khác biệt điểm trung bình trên các tiểu thang đo
của phiếu hỏi giữa các nhóm sinh viên theo ngành học: sư phạm, khoa học xã
hội và nhân văn, kinh tế quản trị kinh doanh và kỹ thuật công nghệ cho thấy
có sự khác biệt không đáng kể ở tất cả các tiểu thang đo ngoại trừ thái độ học
tập, lòng yêu nước (xem bảng 26).
Bảng 26: Sự khác biệt điểm trung bình ở từng nét nhân cách trên mẫu SV theo ngành học
Nét nhân cách
P & H
Sư phạm
N = 169
KHXH
N = 184
KTQTKD
N = 156
Kỹ thuật
N = 144Mức độ khá
c biệt
Trung
bình
Lệch chuẩ
n
Trung
bình
Lệch chuẩ
n
Trung
bình
Lệch chuẩ
n
Trung
bình
Lệch chuẩ
n
1- Lý
tưởng
2-
Chính
trị
3-
Yêu
nước
4-
Pháp
luật
5-
Công
21.93
10.26
23.11
20.76
22.10
47.73
17.27
15.62
17.51
28.01
20.74
4.5
2.3
3.5
3.9
4.0
8.9
3.9
2.4
3.1
3.8
3.8
22.26
10.17
22.34
20.13
21.62
49.17
16.02
14.80
17.43
27.96
21.82
4.3
2.7
3.5
3.7
3.8
8.9
3.9
2.5
3.2
3.8
3.5
22.13
9.58
22.85
20.63
22.39
50.37
16.03
14.79
18.81
27.65
22.40
3.2
2.6
3.0
3.5
4.0
8.0
4.0
2.5
2.9
3.9
3.6
23.30
10.67
23.13
21.50
24.04
51.66
17.19
14.71
18.24
28.86
22.24
4.8
2.6
4.0
3.7
4.6
9.9
4.4
2.5
3.5
4.3
3.9
.026
.003
.123
.012
.000
.001
.002
.002
.000
.051
.000
việc
6-
Cuộc
sống
7-
Đồng
tiền
8- Môi
trườn
g
9- Hội
nhập
10-
Học
tập
11-
Thích
ứng
12-
Công
nghệ
27.22 6.3 30.35 5.1 29.37 5.9 30.47 6.3 .000
2.5. Kết quả so sánh theo trường
Khi áp dụng mô hình phân tích nhân tố trên mẫu điều tra sinh viên,
chúng tôi cũng chiết xuất được một nhân tố chung (mặt P) đại diện cho 10
tiểu thang đo thái độ, phần đầu của phiếu hỏi (từ 1 đến 10) và một nhân tố
khác (mặt H) đại diện cho 2 tiểu thang đo năng lực, phần cuối của phiếu hỏi
(11 và 12).
So sánh điểm số trung bình ở mặt p đo bằng phiếu hỏi giữa sinh viên
các trường đại học cho thấy có sự khác biệt. Sự chênh lệch giữa trường có
điểm số trung bình thấp nhất và trường có điểm số trung bình cao nhất ở mặt
này khoảng 44 điểm (xem bảng 27a).
Bảng 27a: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt P trên mẫu sinh viên theo đơn vị trường
Các trường đại họcMẫu
Mặt P Mức độ
khác biệt
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Mỏ địa chất, HN
Kinh tế quốc dân, HN
Sư phạm, HN
Y tế cộng đồng, HN
Tây nguyên, Đắc Lắc
Kinh tế và quản trị kinh doanh,
Đà Nẵng
Sư phạm, Đà Nẵng
Kỹ thuật, Đà Nẵng
Khoa học Xã hội và Nhân văn,
TP.HCM
Nông lâm, TP.HCM
Khoa học tự nhiên, TP.HCM
Sư phạm, TP.HCM
Cao đẳng Sư phạm, Vĩnh Long
Dân lập Cửu Long, Vĩnh Long
48
48
51
58
46
53
41
56
42
11
45
71
39
20
224.67
227.29
225.51
221.21
222.43
224.30
241.54
229.34
214.07
229.55
217.76
214.46
258.26
235.10
21.4
18.3
17.4
24.9
24.7
19.8
23.8
25.1
21.5
28.1
28.2
21.5
24.4
21.1
.000
So sánh điểm số trung bình ở mặt H đo bằng phiếu hỏi giữa sinh viên
các trường đại học cho thấy có sự khác biệt đáng kể. Sự chênh lệch giữa
trường có điểm số trung bình thấp nhất và trường có điểm số trung bình cao
nhất ở mặt này khoảng 11 điểm (xem bảng 27b).
Bảng 27b: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt H trên mẫu sinh viên theo đơn vị trường
Các trường đại họcMẫu
Mặt H Mức độ
khác biệt
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Mỏ địa chất, HN
Kinh tế quốc dân, HN
Sư phạm, HN
Y tế cộng đồng, HN
Tây nguyên, Đắc Lắc
Kinh tế và quản trị kinh doanh,
Đà Nẵng
Sư phạm, Đà Nẵng
Kỹ thuật, Đà Nẵng
Khoa học Xã hội và Nhân văn,
TP.HCM
Nông lâm, TP.HCM
Khoa học tự nhiên, TP.HCM
Sư phạm, TP.HCM
Cao đẳng Sư phạm, Vĩnh Long
Dân lập Cửu Long, Vĩnh Long
51
49
52
57
49
55
42
56
44
11
46
68
39
19
50.08
54.00
45.23
53.11
50.47
51.42
49.13
51.30
52.23
55.00
56.48
49.18
50.41
52.26
6.7
6.6
8.3
7.6
7.0
9.6
7.3
8.9
7.6
8.9
6.0
9.3
8.5
6.7
.000
2.6. Kết quả so sánh theo nghề nghiệp của cha mẹ
Kết quả so sánh điểm số trung bình của sinh viên ở mặt P đo bằng
phiếu hỏi theo nghề nghiệp của bố mẹ cũng cho thấy có sự khác biệt đáng kể.
Sự chênh lệch giữa nhóm có điểm số trung bình thấp nhất và nhóm có điểm
số trung bình cao nhất ở mặt này khoảng 11-12 điểm (xem bảng 28a).
Bảng 28a: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt P trên mẫu sinh viên theo nghề nghiệp của bố mẹ
Nghề nghiệp của bố mẹ
Mẫu
Mặt PMức độ
khác biệtĐiểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Nghề của bố:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
92
156
238
27
39
10
221.98
232.85
224.96
223.41
228.23
222.60
24.5
28.3
23.0
20.1
22.3
19.1
.010
Nghề của mẹ:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Nội trợ
50
174
219
41
81
219.98
231.71
225.79
222.73
223.65
20.7
27.5
22.1
22.1
28.9
.004
So sánh điểm trung bình của sinh viên ở mặt H đo bằng phiếu hỏi theo
nghề nghiệp của bố mẹ cũng cho thấy có sự khác biệt đáng kể. Sự chênh
lệch giữa nhóm có điểm số trung bình thấp nhất và nhóm có điểm số trung
bình cao nhất ở mặt này khoảng 4-6 điểm (bảng 28b).
Bảng 28b: Sự khác biệt điểm trung bình ở mặt H trên mẫu sinh viên theo nghề nghiệp của bố mẹ
Nghề nghiệp của bố mẹ
Mẫu
Mặt HMức độ
khác biệtĐiểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Nghề của bố:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Lực lượng vũ trang
Nội trợ
93
161
241
27
38
11
52.39
49.48
51.48
55.74
50.87
52.27
8.4
8.2
8.3
8.1
8.2
6.1
.010
Nghề của mẹ:
Công nhân
Nông dân
Cán bộ viên chức
Doanh nhân
Nội trợ
51
178
223
40
82
51.25
49.53
51.58
53.30
52.27
7.5
8.4
7.7
9.2
9.1
.013
2.7. Kết quả so sánh tương quan giữa các nét nhân cách
Kết quả phân tích tương quan điểm số giữa các nét/đặc điểm nhân
cách đo bằng phiếu hỏi trên mẫu sinh viên cho thấy chúng đều có tương quan
thuận với nhau. Điểm số của các nét/đặc điểm nhân cách đo bằng phiếu hỏi
đều có tương quan nghịch với mặt N (r từ -0,09 đến -0,64) và tương quan
thuận cao nhất với mặt C (r từ 0,19 đến 0,52).
Điểm số của tiểu thang đo thái độ đối với cuộc sống tương quan nghịch
cao nhất với mặt N (r = -0,64) và tương quan thuận cao nhất với các mặt E, O
và C (r từ 0,31 đến 0,57) (xem bảng 12). Điều này có nghĩa là người nào có
thái độ sống tích cực thì người đó ít bị nhiễu tâm. Đồng thời những người có
thái độ tích cực với cuộc sống là những người có nhân cách ổn định và phát
triển hài hoà hơn. Kết quả này phản ánh đúng thực tế.
Điểm số của mặt P có tương quan nghịch với mặt N (r = -0,52) và
tương quan thuận với các mặt E, O, A và C (r từ 0,33 đến 0,68). Sự mô hình
hồi quy đa biến để phân tích mối tương quan giữa các nét/đặc điểm nhân
cách đo bằng phiếu hỏi với mặt P cho thấy PHI (lý tưởng) và PH6 (thái độ đối
với cuộc sống) có ảnh hưởng mạnh nhất đến P (r = 0.857), tức chúng giải
thích cho khoảng 73,3% sự biến thiên của mặt này. Điều này rất có ý nghĩa
khi ứng dụng vào thực tế, tìm giải pháp tác động điều chỉnh: muốn tăng điểm
số mặt P của một cá nhân nào đó cần tác động để tăng điểm số PH1 và PH6
(xem bảng 29).
Bảng 29: Tương quan điểm giữa các tiểu thang đo của phiếu hỏi với các mặt nhân cách trên nhóm sinh viên.
PH1
PH2
PH3
PH4
PH5
PH6
PH7
PH8
PH9
PH10
PH11
PH12
N E O A C
PH1
PH2
0.
4
4
PH3
0.
4
7
0.
2
4
P 0. 0. 0.
H44
0
2
7
3
7
PH5
0.
3
1
0.
3
0
0.
2
4
0.
3
3
PH6
0.
2
8
0.
3
6
0.
1
7
0.
2
5
0.
5
1
PH7
0.
3
9
0.
2
6
0.
4
4
0.
4
3
0.
3
6
0.
2
1
PH8
0.
1
6
0.
1
0
0.
2
3
0.
2
8
0.
1
6
0.
0
8
0.
3
3
PH9
0.
1
6
0.
0
6
0.
0
9
0.
2
0
0.
2
7
0.
3
0
0.
1
1
0.
1
7
PH10
0.
3
5
0.
3
1
0.
2
1
0.
3
2
0.
4
2
0.
2
8
0.
2
9
0.
2
5
0.
2
6
PH11
0.
1
2
0.
1
9
0.
0
3
0.
1
1
0.
3
2
0.
4
8
0.
0
2
0.
0
8
0.
3
8
0.
30
PH12
0.
0
7
0.
2
0
0.
0
8
0.
0
4
0.
1
6
0.
2
7
0.
0
4
0.
0
8
0.
2
0
0.
29
0.
39
N -
0.
-
0.
-
0.
-
0.
-
0.
-
0.
-
0.
-
0.
-
0.
-
0.
-
0.
-
0.
2
4
2
1
2
0
2
1
4
1
6
4
1
7
0
9
2
6
16 37 17
E
0.
1
3
0.
2
7
0.
0
2
0.
0
6
0.
2
9
0.
5
7
0.
0
2
0.
0
2
0.
2
5
0.
15
0.
43
0.
34
-
0.
4
0
O
0.
1
5
0.
2
3
0.
0
7
0.
1
1
0.
1
8
0.
3
1
0.
1
3
0.
1
5
0.
2
6
0.
20
0.
37
0.
30
-
0.
2
1
0.
4
6
A
0.
2
1
0.
0
6
0.
2
7
0.
3
4
0.
1
4
0.
1
6
0.
3
2
0.
2
0
0.
1
0
0.
20
-
0.
08
-
0.
04
-
0.
2
1
0.
0
5
0.
0
8
C
0.
4
4
0.
4
3
0.
3
1
0.
4
3
0.
5
0
0.
5
2
0.
3
5
0.
1
9
0.
2
3
0.
46
0.
31
0.
21
-
0.
5
8
0.
3
3
0.
3
3
0.
3
3
P
0.
6
5
0.
5
4
0.
5
4
0.
6
2
0.
7
0
0.
7
2
0.
6
2
0.
3
9
0.
4
4
0.
60
0.
36
0.
22
-
0.
5
2
0.
3
8
0.
3
3
0.
3
3
0.
6
8
3. So sánh các mặt nhân cách của học sinh và sinh viên
Kết quả so sánh sự khác biệt điểm số trung bình trên 5 mặt nhân cách
đo bằng trắc nghiệm NEO PI-R giữa nhóm học sinh và sinh viên cho thấy có
sự khác biệt ở các mặt N, O, A và C, nhưng không thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa trên mặt E (xem biểu đồ 8). Điểm số trung bình trên 3 một nhân cách:
O, A, C của nhóm sinh viên được điều tra đều cao hơn điểm trung bình của
nhóm học sinh lớp 11-12. Điều này phản ánh đúng thực tế, sinh viên có nhân
cách phát triển hơn. Điểm số trung bình trên mặt N của nhóm sinh viên được
điều tra lại thấp hơn điểm trung bình của nhóm học sinh lớp 11-12. Như vậy
sinh viên ít bị nhiễu tâm hơn nhóm học sinh cuối trung học phổ thông. Điều
này phải chăng trực tiếp hay gián tiếp phản ánh một thực tế: thi vào các
trường đại học cao đẳng là một cuộc đua đầy căng thẳng, nhưng khi vào
được trường đại học rồi thì cứ học nhàng nhàng cũng vẫn tốt nghiệp.
4. Nhận định chung về sự phát triển nhân cách của sinh viên
Kết quả nghiên cứu nhân cách sinh viên cho thấy họ có những điểm
mạnh và điểm yếu cơ bản như sau.
Điểm mạnh
Đa số sinh viên có lý tưởng phấn đấu lành mạnh, đa số sinh viên quan
tâm đến các vấn đề thời sự, chính trị trong nước và quốc tế, đa số sinh viên
có thái độ sống lạc quan tự tin, ủng hộ xu hướng mở cửa hội nhập. Hầu hết
sinh viên đều có thái độ, động cơ học tập đúng đắn, coi trọng tự học. Đa số
sinh viên tin rằng mình có khả năng thích ứng với một xã hội lấy cạnh tranh
làm động lực phát triển, đa số sinh viên quan tâm đến công nghệ thông tin, có
nhu cầu sử dụng intemet, có nhu cầu làm chủ công nghệ thông tin. Đây cũng
chính là những nét, đặc điểm nhân cách được mong đợi ở sinh viên thời kỳ
CNH, HĐH đất nước.
Điểm yếu
Kết quả nghiên cứu cho thấy một bộ phận khá lớn sinh viên trong mẫu
nghiên cứu này còn có những điểm yếu đáng kể là: thiếu bản lĩnh chính trị,
giảm sút niềm tin vào xã hội XHCN, vào mục tiêu phấn đấu trở thành đảng
viên (có 17,6% số sinh viên được khảo sát cho rằng mình thiếu vắng nhiệt
tình và niềm tin vào đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, 62,3% số sinh viên được khảo sát chỉ mong muốn làm một người tốt,
không nhất thiết cứ phải phấn đấu trở thành đảng viên, 40,2% số sinh viên
được hỏi chỉ mong xã hội ổn định về chính trị, kinh tế phát triển, bớt tiêu cực,
còn phát triển theo định hướng XHCN hay không, không quan trọng). So với
nhóm học sinh, nhóm sinh viên có lý tưởng phấn đấu tích cực hơn, nhưng
những con số này là vẫn có ý nghĩa cảnh báo. Muốn tạo được niềm tin ở sinh
viên, kinh tế phát triển, xã hội ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện mới
chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ, cần phải tích cực giảm thiểu
các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, đặc biệt là tiêu cực ở đảng viên, tiêu cực
ở người có chức có quyền.
Một bộ phận không nhỏ sinh viên chưa có lòng yêu nước, tự hào dân
tộc (có 5,5% số sinh viên mong muốn sau này mình được mang quốc tịch
nước ngoài như Anh, Mỹ, Pháp hoặc Úc hơn là quốc tịch Việt Nam, có 38,6%
số sinh viên bày tỏ ý muốn được ra nước ngoài sinh sống và làm việc nếu có
điều kiện). Ý thức chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp của một bộ phận đáng
kể sinh viên còn thấp. Còn gần 1/3 số sinh viên được khảo sát tự đánh giá
mình chưa phải là những người chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp (24,4% số
sinh viên được điều tra thừa nhận rằng mình đã nhiều lần làm ngơ khi thấy
người khác làm sai pháp luật, 10,6% sinh viên thừa nhận nếu không nhìn thấy
cảnh sát giao thông làm nhiệm vụ, sẵn sàng vượt đèn đỏ, 16,8% số sinh viên
được hỏi cho biết họ không cảm thấy áy náy nếu vi phạm pháp luật hoặc một
qui định chung nào đó mà không ai biết). Một bộ phận khá đông sinh viên
(trên 30%) chưa có thái độ sống tích cực. Các em thiếu niềm tin vào tương
lai, có tính thụ động, thiếu bản lĩnh, thiếu nghị lực.
Điểm yếu lớn nhất của một bộ phận lớn sinh viên được điều tra là thiếu
năng lực thích ứng, năng lực tự học, không ham học, thiếu tính sáng tạo. Có
tới 69,3% sinh viên cảm nhận mình chưa được chuẩn bị tốt để thích ứng với
một xã hội mở cửa và hội nhập (chỉ có 30,7% thực sự tin rằng mình đã được
chuẩn bị tốt để thích ứng với một xã hội mở cửa và hội nhập, có 34,6% cảm
thấy lúng túng, thiếu tự tin, cho rằng mình chưa được chuẩn bị tốt để thích
ứng với một xã hội lấy cạnh tranh làm động lực phát triển). Có 57% sinh viên
được những người xung quanh nhận xét là chưa ham học, có 46,6% sinh
viên được hỏi tin rằng mình thiếu khả năng tự học, trên 50% số sinh viên
được hỏi cho rằng mình thiếu tư duy sáng tạo. Còn tới 29,3% sinh viên chưa
biết sử dụng vi tính, 51,1% sinh viên chưa có khả năng sử dụng internet để
tìm kiếm những thông tin mình cần. Như vậy bộ phận sinh viên có sự thiếu
hụt đáng kể trên đây rõ ràng khó có thể đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất
nước.
Kết quả nghiên cứu đã trình bày ở trên cho thấy sự phát triển nhân
cách của sinh viên chịu ảnh hưởng đáng kể của một loạt yếu tố như: giới tính,
môi trường giáo dục của nhà trường, gia đình. Kết quả nghiên cứu này không
phát hiện thấy sự phát triển nhân cách của sinh viên chịu ảnh hưởng đáng kể
của các yếu tố lứa tuổi, vùng, miền. Trong số những nhân tố ảnh hưởng đáng
kể, môi trường giáo dục đại học có vai trò quan trọng nhất, tạo ra sự khác biệt
lớn nhất về điểm số trên tất cả 5 mặt của nhân cách: N, E, A, O và C của sinh
viên (theo kết quả đo lường bằng trắc nghiệm NEO PI-R). Hơn nữa, yếu tố
nhà trưởng đồng thời cũng có vai trò quan trọng nhất tạo ra sự khác biệt lớn
nhất trên hai mặt P (thái độ) và H (năng lực) theo kết quả đo bằng bộ phiếu
hỏi bổ sung những nét nhân cách đặc trưng của sinh viên thời kỳ CNH, HĐH.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH LAO ĐỘNG TRẺ1. Kết quả nghiên cứu qua trắc nghiệm NEO PI-R
Kết quả nghiên cứu sẽ được phân tích trước hết về các mặt nhân cách
chung cho toàn mẫu lao động trẻ. Sau đó, đặc điểm nhân cách của các nhóm
sẽ được so sánh theo giới tính, vùng, miền, học vấn và nghề nghiệp. Qua
đây, chúng ta có thể có được bức tranh chung nhất về đặc điểm nhân cách
của mẫu lao động trẻ, tìm ra được những khác biệt giới tính, cũng như phác
thảo ban đầu về sự khác biệt vùng miền (giữa nông thôn và thành thị) tìm
được một phần câu trả lời cho câu hỏi: liệu trình độ học vấn, và ngành nghề
có góp phần tạo nên những nét nhân cách khác biệt hay không. Ngoài ra,
chúng ta còn có được một bằng chứng về ảnh hưởng của môi trường xung
quanh đến đặc điểm nhân cách của con người.
1.1. Kết quả chung
Kết quả trắc nghiệm các mặt của nhân cách mẫu lao động trẻ được thể
hiện ở bảng 30.
Bảng 30: Điểm trung bình các mặt nhân cách theo trắc nghiệm NEO PI-R
Các mặt nhân cáchKết quả
Điểm trung bình Độ lệch chuẩn
Mặt N: Nhiễu tâm 83.10 17.89
N1: Lo âu 14.93 4.64
N2: Thù nghịch, hung tính 13.01 4.35
N3: Trầm cảm 13.66 4.55
N4: Tự ty, mặc cảm 16.25 3.76
N5: Khó kiểm soát xung tính 12.17 4.29
N6: Dễ bị tổn thương 13.08 3.82
Mặt E: Hướng ngoại 110.23 14.56
E1: Cởi mở, thân thiện 20.83 4.17
E2: Quảng giao 18.89 4.31
E3: Tự khẳng định 16.45 3.48
E4: Tích cực hoạt động 19.08 3.66
E5: Tìm kiếm sự kích thích 16.80 4.18
E6: Xúc cảm tích cực 18.18 3.84
Mặt O: Cởi mở 104.18 12.66
O1: Giàu trí tưởng tượng 15.32 3.62
O2: Óc thẩm mỹ 19.44 4.34
O3: Hiểu xúc cảm, tình cảm của
mình
17.85 3.36
O4: Đa dạng hóa hoạt động 16.24 3.53
O5: Giàu ý tưởng 16.99 4.32
O6: Các giá trị 18.33 3.57
Mặt A: Dễ thương 116.82 14.67
A1: Niềm tin 18.88 3.95
A2: Thẳng thắn, chân tình 17.58 21.62
A3: Vị tha 21.87 3.95
A4: Phục tùng 16.96 4.15
A5: Khiêm tốn 20.17 3.77
A6: Nhân hậu 21.36 4.07
Mặt C: Có ý chí phấn đấu 126.43 3.74
C1: Năng lực 19.45 21.62
C2: Ngăn nắp 20.38 4.96
C3: Trách nhiệm, bổn phận 23.56 4.77
C4: Nỗ lực thành đạt 21.45 4.39
C5: Kỷ luật, tự giác 19.90 4.03
C6: Thận trọng, cân nhắc kỹ
lưỡng
21.69 4.97
Nhìn vào bảng 30 có thể có nhận xét đầu tiên là độ lệch chuẩn của các
thang đo đều lớn cho thấy có sự khác biệt lớn về điểm số trong mẫu. Có
nghĩa là trong nhóm mẫu lao động trẻ có những người đạt điểm rất cao của
thang đo, và cũng có những người đạt điểm rất thấp ở mỗi mặt của nhân
cách cũng như mỗi tiểu thang đo. Có thể hiểu trong nhóm này có đủ các loại
đặc điểm nhân cách khác nhau. Sự phân hóa lớn nhất nằm ở mặt C (Có ý chí
phấn đấu) và thấp nhất ở mặt O (Cởi mở). Như thế có vẻ như trong mẫu lao
động trẻ có sự phân hoá rõ rệt ở khả năng làm chủ bản thân, quyết tâm nỗ
lực để đạt được mục đích nhưng lại không quá khác biệt nhau về sự tuân thủ
các qui ước, về khả năng và trí tuệ.
Nếu chia mẫu trắc nghiệm thành 3 nhóm: nhóm điểm thấp gồm những
người đạt được điểm chuẩn từ 44 trở xuống; trong khoảng từ 45 - 55 điểm thì
thuộc nhóm điểm trung bình và trên 55 điểm thì được xếp vào nhóm điểm
cao, ứng với các nhóm điểm như vậy chúng ta sẽ có các diễn giải khác nhau
về đặc điểm nhân cách. Điểm trung bình có thể hiểu là nhóm này thể hiện ở
mức bình thường nhất các đặc điểm cần đo, không có gì nổi trội, đáng chú ý,
trong khi đó nhóm điểm cao và thấp có ý nghĩa diễn giải lớn hơn, các đặc
điểm được thể hiện rõ nét hơn, mang tính đặc thù hơn.
Bảng 31 hiển thị tỷ lệ số người trong mẫu đạt được các mức điểm thấp,
trung bình và cao so với điểm chuẩn ở 5 mặt lớn của nhân cách.
Bảng 31: Tỷ lệ % phân theo thang điểm chuẩn về các mặt nhân cách của toàn mẫu lao động trẻ
Các mặt
Nhóm điểm thấp
<= 44
Nhóm điểm trung bình
45-55
Nhóm điểm cao
>= 56
N: Nhiễu tâm 26.7 40.9 32.4
E: Hướng ngoại 30.8 39.7 29.5
O: Cởi mở 30.2 41.9 27.9
A: Dễ thương 32.0 37.4 30.6
C: Có ý chí phấn đấu 32.0 36.5 31.5
Với phân bố điểm như trên, ta có một số nhận xét như sau:
- Phân bố điểm của các mặt nhân cách có xu hướng đối xứng xung
quanh trục điểm trung bình. Cụ thể là số người đạt điểm trung bình có tỷ lệ
cao nhất ở tất cả các mặt: số người đạt điểm thấp và cao có tỷ lệ thấp hơn.
Nó gần tương ứng với đường phân bố chuẩn của thống kê: Mọi đặc tính, đặc
điểm của con người đều xuất hiện ở một mẫu tuân theo đường cong chuẩn,
nghĩa là số người có đặc điểm không có gì nổi trội, bình thường, sự thể hiện
của đặc điểm ở những người này không rõ nét chiếm tỷ lệ cao nhất trong
mẫu, còn số người có sự thể hiện trội hoặc trái ngược chiếm tỷ lệ thấp hơn.
Nó tạo nên sự đa dạng về nhân cách con người trong xã hội. Điều quan trọng
là việc quản lý xã hội thế nào sao cho mọi người đều có thể phát huy tối đa
cái tích cực mình sẵn có và hạn chế được và biến cái có khả năng tiêu cực
thành tích cực.
- Mặt khác, tỷ lệ người đạt điểm trung bình tuy cao hơn các nhóm điểm
khác nhưng không phải cao một cách vượt trội, chỉ ở khoảng 40%. Nó cho
thấy một bức tranh chung về nhân cách của nhóm lao động trẻ là: những
người có vẻ bình bình, không có gì nổi trội so với xung quanh chiếm tỷ lệ cao
nhất (tuy không cao áp đảo). Cụ thể, họ là những người có tính ổn định về
mặt xúc cảm ở mức trung bình, trải nghiệm một khối lượng những stress tiêu
cực một cách vừa phải, và trong cuộc sống có sự cân bằng giữa hài lòng và
không hài lòng, lòng tự trọng không quá cao và không quá thấp; năng lực ứng
phó với stress đạt mức trung bình; trí tưởng tượng, các ý tưởng mới, óc thẩm
mỹ nghệ thuật ở mức độ trung bình
- Tại trục điểm trung bình, số người đạt điểm trung bình của các mặt
nhân cách có tỷ lệ không như nhau: tính cầu thị, ham hiểu biết (mặt O) có tỷ
lệ cao nhất (41.9%), trong khi đó làm chủ, kiểm soát bản thân (mặt C) có tỷ lệ
thấp nhất (= 36.5%). Như vậy, ở nhóm lao động trẻ sự kiểm soát làm chủ bản
thân, lòng quyết tâm và ý chí có sự phân hoá mạnh hơn, trong khi lòng ham
hiểu biết, năng lực, sự sáng tạo và tiếp thu cái mới thì phần lớn ở mức trung
bình.
- Tuy nhiên, số liệu cũng cho thấy số người đạt điểm cao và điểm thấp
không cân bằng nhau ở 4 mặt của nhân cách (N: Nhiễu tâm; E: Hướng ngoại;
O: Cởi mở; và A: Dễ thương). Điều này cho thấy nếu xét ở một mặt nhân
cách nhất định thì vẫn có những đặc điểm tương đối nổi bật trên bình diện
toàn mẫu do đặc điểm đó được thể hiện ở một số lượng lớn người trong mẫu.
Riêng mặt C (Có ý chí phấn đấu) có xu hướng cân bằng nhất (tỷ lệ người đạt
điểm thấp = 32% và đạt điểm cao = 31.5%).
- So với các mặt khác thì mặt N có số người đạt điểm thấp thấp hơn
hẳn và số người đạt điểm cao cũng cao hơn hẳn, điều đó có nghĩa là ở nhóm
lao động trẻ số người bị mất cân bằng về cảm xúc chiếm tỷ lệ lớn hơn số
người ổn định về cảm xúc.
- Phân bố của mặt C (Có ý chí phấn đấu) dàn trải tương đối đồng đều
qua cả 3 nhóm điểm. Có thể diễn giải rằng trong nhóm lao động trẻ có một tỷ
lệ tương đối lớn những người có khả năng làm chủ bản thân cao, có nghị lực
và có tính quyết đoán. Song bên cạnh đó cũng có một tỷ lệ tương đối lớn
những người thiếu nhiệt tình và quyết tâm trong việc nỗ lực đạt được mục
đích của mình.
- Mặt O (Cởi mở) có số người đạt điểm thấp lớn hơn số người đạt điểm
cao. Có thể hiểu là trong nhóm này những người bảo thủ, có xu hướng đi
theo những lối mòn đã vạch sẵn, tuân thủ các qui ước, bảo thủ trong cách
nhìn nhận, đánh giá… chiếm tỷ lệ lớn hơn những người cầu tiến, ham tìm
hiểu cái mới, không quá lệ thuộc vào các qui ước, cái có sẵn. Số người bình
thường, không thể hiện gì nổi bật ở mặt nhân cách này chiếm tỷ lệ lớn nhất
so với các mặt khác Đây là điểm đáng chú ý trong nhóm lao động trẻ so với
yêu cầu đổi mới đất nước đặt ra cho những người lao động trẻ tuổi trong giai
đoạn hiện nay.
Chúng ta sẽ xem xét chi tiết từng mặt nhân cách của nhóm lao động trẻ
với các tiểu thang đo từng đặc điểm nhân cách. Kết quả được hiển thị ở bảng
32.
Bảng 32: Tỷ lệ % số người đạt điểm thấp, trung bình và cao trong các tiểu thang đo (tính theo điểm chuẩn)
Các mặtNhóm điểm thấp <= 44
Nhóm điểm trung bình
45-55
Nhóm điểm cao >= 56
Mặt N: Nhiễu tâm
N1: Lo âu 27.9 45.0 27.1
N2: Thù nghịch, hung tính 27.1 44.3 28.7
N3: Trầm cảm 24.6 45.5 27.8
N4: Tự ty, mặc cảm 22.3 50.6 27.1
N5: Khó kiểm soát xung tính 25.8 44.6 29.6
N6: Dễ bị tổn thương 22.6 50.5 26.9
Mặt E: Hướng ngoại
E1: Cởi mở, thân thiện 28.6 44.8 26.6
E2: Quảng giao 29.0 43.8 27.2
E3: Tự khẳng định 28.2 44.1 27.7
E4: Tích cực hoạt động 23.3 52.1 24.6
E5: Tìm kiếm sự kích thích 27.7 45.3 27.0
E6: Xúc cảm tích cực 25.8 46.8 27.5
Mặt O: Cởi mở
O1: Giàu trí tưởng tượng 21.6 49.6 28.8
O2: Óc thẩm mỹ 25.3 43.7 31.0
O3: Hiểu xúc cảm, tình cảm của
mình
23.9 45.1 31.0
O4: Đa dạng hóa hoạt động 18.6 56.6 24.8
O5: Giàu ý tưởng 27.0 45.0 28.0
O6: Các giá trị 21.0 53.2 25.8
Mặt A: Dễ thương
A1: Niềm tin 27.8 47.6 24.6
A2: Thẳng thắn, chân tình 30.2 46.3 23.5
A3: Vị tha 28.7 45.0 26.4
A4: Phục tùng 24.4 49.8 25.8
A5: Khiêm tốn 27.1 44.7 28.2
A6: Nhân hậu 24.3 46.9 28.7
Mặt C: Có ý chí phấn đấu
C1: Năng lực 23.0 47.1 29.8
C2: Ngăn nắp 32.5 40.7 26.8
C3: Trách nhiệm, bổn phận 26.8 43.5 29.7
C4: Nỗ lực thành đạt 24.7 50.3 25.0
C5: Kỷ luật, tự giác 22.7 44.0 33.3
C6: Thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng 29.1 41.7 29.2
- Mặt N trong NEO PI-R tập trung đánh giá xu hướng cá nhân dễ trải
nghiệm những trạng thái xúc cảm tiêu cực, kém điều chỉnh, kém thích nghi.
Nó đặc trưng cho những bất ổn về mặt tâm thần, bất ổn về cảm xúc. Kết quả
ở bảng 32 cho thấy rằng số lượng người có mức điểm cao ở các tiểu thang
đo về trầm cảm, tự ty, mặc cảm, khó kiểm soát xong tính và dễ bị tổn thương
đều lớn hơn số người đạt điểm thấp về những đặc điểm này. Có thể thấy
rằng trong mẫu lao động trẻ, số người có nhiều mặc cảm tự ty, dễ chán nản,
không cảm thấy thoải mái, tự tin khi bên cạnh người khác, nhạy cảm với
những lời châm chọc, giễu cợt, có khuynh hướng lo âu xã hội, thiếu năng lực
kiểm soát những ham muốn, những thôi thúc từ bên trong, ít có khả năng ứng
phó với stress… chiếm một tỷ lệ lớn hơn những người điềm tĩnh, cân bằng, ít
căng thẳng, ít có những xúc cảm tiêu cực, có sức chịu đựng cao, ít chán nản
khi gặp thất bại, có năng lực giải quyết các vấn đề của mình trong những
hoàn cảnh khó khăn bất lợi. Trên bình diện xã hội, những xúc cảm tiêu cực,
sự mất cân bằng cảm xúc xuất hiện ở một bộ phận không nhỏ của lực lượng
lao động trẻ là điều đáng quan tâm, bởi nó dễ dẫn đến những bất ổn xã hội.
Mặt khác nó sẽ cản trở hoạt động lao động của lực lượng này ở một mức độ
nhất định.
Kết quả cũng cho thấy, điểm trung bình có tỷ lệ lớn nhất ở tự ty mặc
cảm và dễ bị tổn thương. Như vậy phần lớn lao động trẻ đạt ở mức trung bình
về những đặc điểm này, tức là phần lớn họ không có những mặc cảm tự ty,
bất ổn nhưng cũng không ở mức độ ổn định, cân bằng.
- Mặt E chủ yếu quan tâm đến sự hướng ngoại, quan hệ liên nhân cách
của các cá nhân cũng như sự thể hiện nhằm khẳng định mình, sự quảng
giao, tính tích cực hoạt động cũng như trải nghiệm những xúc cảm tích cực.
Ở mặt này, kết quả cho thấy rằng trong mẫu lao động trẻ thì nhóm điểm cao
và nhóm điểm thấp tương đối cân bằng nhau ở tất cả các tiểu thang đo.
Điểm trung bình có tỷ lệ cao nhất ở tích cực hoạt động (52,1%) cho
thấy hơn nửa số lao động trẻ có mức độ tích cực hoạt động ở mức bình
thường. Họ không thích nhanh nhẹn, sống gấp gáp, cũng không thích nhịp
sống đều đều, nhàn tản. Nó cho thấy để lao động của nước ta đạt hiệu quả
cao thì trước hết nhịp độ lao động, đặc điểm các hành động thao tác tối ưu
của từng nghề nhất định cần được chú ý sao cho nó phù hợp với đặc điểm
sinh học của người Việt.
- Mặt O liên quan đến sự ham hiểu biết, cầu thị, thích khám phá. Trên
mẫu lao động trẻ thì số người đạt điểm cao ở Giàu trí tưởng tượng, Óc thẩm
mỹ, Hiểu xúc cảm và tình cảm của mình, Đa dạng hoá hoạt động và Các giá
trị lớn hơn số người đạt điểm thấp ở các thang đo này. Điều này cho thấy
trong số lao động trẻ, những người giàu trí tưởng tượng, lãng mạn, có hứng
thú chiêm ngưỡng nghệ thuật và vẻ đẹp có cảm nhận mạnh mẽ cả về hạnh
phúc lẫn bất hạnh, mong muốn thử nghiệm mình qua các loại hoạt động khác
nhau nhằm tìm kiếm sự thay đổi, có khả năng sẵn sàng xem xét lại các giá trị
xã hội, tôn giáo, chính trị, ít bảo thủ… chiếm tỷ lệ lớn hơn những người ít lãng
mạn, dung tục, ít nhạy cảm với nghệ thuật và cái đẹp, cảm nhận các trạng
thái tình cảm hời hợt, ít sâu sắc, khó thay đổi thói quen, nếp nghĩ, bảo thủ,
giáo điều.
Tuy nhiên với tỷ lệ người có mức điểm trung bình cao nhất ở Đa dạng
hoá hoạt động (56.6%) thì mẫu lao động trẻ dường như bằng lòng với một số
loại hoạt động nhất định mà thôi. Họ không khó thay đổi thói quen, nếp nghĩ
nhưng không thích dấn thân vào những hoạt động mới, những cái mình chưa
từng làm để khám phá. Đây là một điểm yếu của lao động nước ta, nhất là đối
với lớp trẻ, vốn lại thường là đối tượng hay hướng đến cái mới, thích tìm hiểu
và khám phá.
- Mặt A liên quan đến xu hướng chấp nhận hay không chấp nhận người
khác. Kết quả cho thấy ở thang đo Niềm tin và Thẳng thắn, chân tình thì tỷ lệ
người đạt điểm thấp lớn hơn điểm cao. Nó cho thấy trong mẫu lao động trẻ,
những người nghi ngờ, thiếu tin tưởng vào người khác, hay dùng chiến thuật,
thậm chí thủ đoạn để lôi kéo người khác… lớn hơn những người luôn có lòng
tin vào người khác cũng như trung thực và chân thành trong quan hệ với mọi
người. Với tỷ lệ cao hơn hẳn của nhóm điểm thấp trong thang đo Chân tình,
thẳng thắn so với nhóm điểm cao (30.2 % so với 23.5%) những người thích
bảo vệ suy nghĩ, tình cảm thật của mình, không muốn người khác biết chiếm
số đông trong mẫu lao động trẻ.
Tuy nhiên, kết quả ở bảng 32 cũng cho thấy ở thang đo tính Nhân hậu
tỷ lệ người đạt điểm cao lớn hơn tỷ lệ người đạt điểm thấp. Như thế, thái độ
đồng cảm, sự quan tâm đến người khác cũng như dành sự chú ý đến khía
cạnh nhân văn của các chính sách xã hội hiện diện ở một nhóm người trong
mẫu lao động trẻ và số này lớn hơn số người có logic lạnh lùng, thực tế, ít bị
lay chuyển bởi tình cảm.
- Mặt C đề cập đến khả năng làm chủ những ham muốn cũng như quá
trình tích cực gồm khả năng lập kế hoạch, tổ chức, thực hiện và liên quan đến
chúng là nghị lực, nỗ lực đạt mục đích, ý chí và tính quyết đoán. Kết quả cho
thấy thang đo Năng lực và Kỷ luật tự giác có tỷ lệ người đạt điểm cao lớn hơn
điểm thấp. Có thể diễn giải là trong mẫu lao động trẻ tuổi những người có khả
năng, cảm thấy mình được chuẩn bị tốt để ứng phó với những vấn đề của
cuộc sống, có năng lực tự động viên mình hoàn thành công việc chiếm 1
phần lớn hơn những người luôn đánh giá thấp năng lực bản thân, thường
thấy mình không có khả năng, thường dễ chán nản muốn bỏ cuộc giữa
chừng. Đây có thể coi là một điểm mạnh của lao động trẻ nước ta và là cái
mà công cuộc chấn hưng đất nước đòi hỏi ở mỗi người lao động.
Tuy nhiên, kết quả cũng cho thấy ở thang đo tính Ngăn nắp của mẫu
lao động trẻ có tỷ lệ người đạt điểm thấp lớn hơn tỷ lệ người đạt điểm cao.
Điều đó có nghĩa là có đến 1/3 số lao động trẻ (32.5%) không có khả năng
sống gọn gàng, ngăn nắp, thiếu trật tự. Con số này lớn hơn những người
ngăn nắp, gọn gàng và biết sắp xếp có thứ tự (26.8%).
Trong các thang đo của mặt C, điểm trung bình có tỷ lệ lớn nhất ở
thang Nỗ lực thành đạt (50.3%). Nó cho thấy có đến một nửa lao động trẻ
trong mẫu chọn không quá đam mê với công việc, với nghề nghiệp, mặc dù
họ cũng không phải là những người an phận hoặc không có nhu cầu thành
đạt không có nỗ lực phấn đấu. Họ chỉ đạt mức trung bình về nỗ lực thành đạt
mà thôi.
Nhìn chung, với những số liệu ở trên có thể thấy phác thảo ra một số
đặc điểm nhân cách của lao động trẻ ở nước ta hiện nay như sau:
- Về mặt tâm thần liên quan đến việc trải nghiệm cảm xúc âm tính thì
lao động trẻ có những biểu hiện mất cân bằng về cảm xúc ở một bộ phận
không nhỏ, nhất là khả năng kiểm soát xung tính không được cao, có chút lo
lắng, trầm cảm cũng như cảm giác tự ty, mặc cảm.
- Về mặt quan hệ liên nhân cách thể hiện qua tính hướng ngoại thì một
số lớn không có tính quảng giao, tự khẳng định không cao, tính tích cực hoạt
động đạt mức trung bình.
- Về mặt cầu thị, ham hiểu biết: một tỷ lệ lớn những người trẻ tuổi có óc
thẩm mỹ, giàu trí tưởng tượng cũng như có khả năng trải nghiệm những xúc
cảm mạnh mẽ, sâu sắc. Tuy nhiên khả năng đa dạng hoá hoạt động để khám
phá cái mới chỉ đạt mức trung bình, đồng thời khả năng chấp nhận các giá trị
khác, giá trị mới để chung sống hoà bình cũng đạt mức trung bình.
- Về những đặc điểm trong quan hệ giữa con người với con người thì
một bộ phận thể hiện sự thiếu tin tưởng ở người khác, thiếu sự thẳng thắn
chân tình, thiếu lòng vị tha. Nhưng cũng có một số không nhỏ có lòng nhân
hậu và khiêm tốn.
- Về mặt ý thức, một phần lớn trong số họ có ý thức hoàn thành công
việc, có trách nhiệm với bổn phận của mình, có năng lực để ứng phó với các
vấn đề trong cuộc sống. Tuy nhiên một số không nhỏ khác lại chưa có tính
ngăn nắp, trật tự.
Những đặc điểm này đối chiếu với yêu cầu của người lao động mới mà
công cuộc CNH-HĐH đất nước đòi hỏi thì thấy rằng lực lượng lao động trẻ là
những người có khả năng thể hiện tinh thần trách nhiệm, có ý thức vươn lên,
có khả năng nắm bắt những kiến thức cơ bản để có thể làm chủ những kỹ
năng nghề nghiệp. Họ có thể cảm nhận được cái mới nhưng chưa sẵn sàng
khám phá cái mới. Họ cũng có một số những đặc điểm khiến cho khó hợp tác
với người khác như thiếu lòng tin và sự thẳng thắn chân tình.
1.2. Phân nhóm lao động trẻ kết hợp 5 mặt nhân cách
Nhân cách luôn được thể hiện như một chỉnh thể thống nhất mà không
xuất hiện như những mặt riêng biệt. Vì thế việc phân nhóm mẫu kết hợp cả 5
mặt nhân cách sẽ cho ta cái nhìn toàn diện hơn về nhân cách của mẫu lao
động trẻ nước ta hiện nay. Kết quả cho thấy tỷ lệ phân bố các nhóm theo giới
tính như sau:
Bảng 33: Phân nhóm theo giới tính cả 5 mặt
Số người Tỷ lệ % tổng mẫuNam Nữ
Nhóm 1: Có ưu thế ở tất cả các mặt 10 24 3.9
Nhóm 2: Có ưu thế ở một số mặt 82 94 20.0
Nhóm 3: Có điểm yếu ở một số mặt 293 348 72.8
Nhóm 4: Có điểm yếu ở tất cả các mặt 15 14 3.3
Số liệu cho thấy, về tổng thể, nhóm có ưu thế (nhóm 1 và nhóm 2)
chiếm tỷ lệ không lớn so với nhóm có yếu điểm (nhóm 3 và nhóm 4). Điều này
cho thấy một số những bất cập về mặt nhân cách của nhóm lao động trẻ hiện
nay (tính theo 5 mặt nhân cách).
Cụ thể của các nhóm như sau:
- Nhóm 1 chỉ có 2,5% nam (10/400 người) và 5% nữ (24/480 người) lao
động trẻ, có những đặc điểm nhân cách ổn định về tâm thần, có năng lực, trí
sáng tạo, tinh thần cầu thị, có tình cảm tích cực, và cởi mở và dễ chấp nhận
trong quan hệ liên nhân cách. Đây là những đặc điểm được mong đợi ở lớp
lao động mới, lớp người có đầy đủ những tố chất tích cực đáp ứng với cuộc
sống lao động trong xã hội hiện đại.
- Nhóm 2 có 20,5% nam (82/400 người) và 19,6% nữ (4/480 người) lao
động trẻ, không có điểm yếu ở tất cả các mặt nhân cách nhưng cũng không
có những ưu thế vượt trội ở tất cả các mặt như nhóm 1. Đây là nhóm những
người không gặp trở ngại nào đáng kể trong cuộc sống xã hội, nhưng mức độ
tích cực khi tham gia vào cuộc sống xã hội cũng ở mức bình thường và không
nổi trội. Đây cũng là nhóm người cần được bồi dưỡng để họ có thể phát triển
một cách tích cực trong cuộc sống xã hội.
- Nhóm 3 chỉ có 3,8% nam (15/400 người) và 2,9% nữ (4/480 người)
lao động trẻ có điểm yếu ở tất cả các mặt của nhân cách. Đây là những người
có vấn đề ở cả 5 mặt nhân cách và họ là những người gặp nhiều khó khăn,
trở ngại trong cuộc sống xã hội.
- Nhóm 4 có đến 73,3% nam (293/400 người) và 32,5% nữ (48/480
người) lao động trẻ có điểm yếu ở một số mặt nhân cách và số này chiếm tỷ
lệ áp đảo so với các nhóm trên.
Biểu đồ cho thấy tỷ lệ phân bố vào các nhóm giữa nam và nữ không có
sự khác biệt lớn. Riêng trong nhóm 1, tỷ lệ nữ cao hơn hẳn nam nhưng ở
mức độ nhỏ.
1.3. Đặc điểm nhân khẩu xã hội của những người thuộc nhóm điểm thấp và điểm cao của các thang đo
Khi xem xét những đặc điểm nhân khẩu xã hội của những người thuộc
nhóm điểm thấp và cao chúng ta sẽ biết được liệu có những đặc thù về nhân
cách cho từng loại đối tượng hay không? Kết quả phân tích số liệu cho thấy
có những nét phân biệt khá rõ về nhân cách của những người có trình độ học
vấn và nghề nghiệp khác nhau, tuy nhiên, không tìm thấy những nét tương tự
ở đặc điểm giới tính và khu vực.
1.3.1. Đặc điểm về trình độ học vấn
Bảng 34: Tỷ lệ % các nhóm điểm của các mặt nhân cách của lao động trẻ ở các trình độ học vấn khác nhau
Các mặt của nhân cáchCác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
Mặt N: Nhiễu tâm Cấp 1 + 2 10.4 40.6 49.0
Cấp 3 28.3 41.4 30.3
TH + CĐ 48.2 30.1 21.7
Đại học trở lên 30.2 43.6 26.2
E: Hướng ngoại Cấp 1 + 2 35.1 42.9 22.0
Cấp 3 26.0 40.9 33.1
TH + CĐ 21.6 35.2 43.2
Đại học trở lên 33.6 37.9 28.4
O: Cởi mở Cấp 1 + 2 45.5 37.5 17.0
Cấp 3 26.7 43.8 29.6
TH + CĐ 19.1 41.6 39.3
Đại học trở lên 26.9 42.2 30.9
A: Dễ thương Cấp 1 + 2 47.5 32.2 20.3
Cấp 3 30.3 38.1 31.6
TH + CĐ 23.6 42.7 33.7
Đại học trở lên 25.2 39.4 35.4
C: Có ý chí phấn đấu Cấp 1 + 2 47.3 34.6 18.0
Cấp 3 31.4 36.4 32.2
TH + CĐ 19.3 40.9 39.8
Đại học trở lên 25.2 37.3 37.6
Trong bảng 34 hiển thị tỷ lệ mo các nhóm điểm của các mặt nhân cách
của lao động trẻ ở các trình độ học vấn khác nhau, còn trong các bảng 34a,
34b, 34c, 34d, 34e là tỷ lệ % các nhóm điểm của các tiểu thang đo. Tương tự
như vậy ở bảng 36, 36a, 36b, 36c, 36d, 36e là tỷ lệ % nhóm điểm của lao
động trẻ ở các nhóm nghề khác nhau về các mặt nhân cách và các tiểu thang
đo tương ứng.
Sự phân hoá theo trình độ học vấn được thể hiện ở nhiều mặt nhân
cách. Nó khiến cho phân bố nhóm điểm không giữ được hình dáng của
đường cong chuẩn ban đầu.
Bảng 34a: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về mặt N “Nhiễu tâm” ở các trình độ học vấn khác nhau
Các tiểu thang đo của mặt NCác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
N1: Lo âu Cấp 1 + 2 21.6 42.7 35.7
Cấp 3 31.0 41.1 27.9
TH + CĐ 42.4 42.4 15.2
Đại học trở lên 26.9 48.0 25.1
N2: Thù địch, giận dữ Cấp 1 + 2 15.6 43.1 41.2
Cấp 3 28.7 45.3 26.0
TH + CĐ 37.0 40.2 22.8
Đại học trở lên 31.6 45.3 23.1
N3: Trầm cảm Cấp 1 + 2 18.4 40.6 41.0
Cấp 3 28.2 46.3 25.5
TH + CĐ 35.9 52.2 12.0
Đại học trở lên 27.0 50.0 23.0
N4: Mặc cảm, tự ty Cấp 1 + 2 23.8 45.3 30.8
Cấp 3 20.9 53.1 26.0
TH + CĐ 33.7 41.3 25.0
Đại học trở lên 18.7 55.7 25.7
N5: Xung tính Cấp 1 + 2 13.4 45.8 40.7
Cấp 3 28.2 45.2 26.6
TH + CĐ 34.8 46.7 18.5
Đại học trở lên 31.7 41.2 27.1
N6: Dễ bị thương tổn do stress Cấp 1 + 2 15.3 45.6 39.1
Cấp 3 26.1 46.0 28.0
TH + CĐ 39.2 53.8 15.1
Đại học trở lên 24.2 55.6 20.2
Bảng 34a cho thấy trong số những người mất cân bằng về cảm xúc
(điểm cao ở mặt N) thì những người có học vấn thấp (cấp 1 và 2) chiếm tỷ lệ
lớn, còn những người có học vấn cao hơn thì tương đối cân bằng hơn khi đạt
điểm thấp ở mặt N. Độ chênh lệch rất lớn giữa tỷ lệ điểm thấp và điểm cao ở
các tiểu thang đo của mặt này (hiển thị trong bảng 34a của những người có
học vấn thấp cho thấy đây là nhóm người thể hiện rõ nhất sự lo lắng, bất an
(N1), khả năng kiểm soát sự tức giận kém (N2), dễ chán nản, buồn rầu và
tuyệt vọng (N3), không có năng lực kiểm soát, làm chủ những ham muốn bên
trong (N5) và dễ bị thương tổn do stress (N6). Trong khi đó, kết quả ở bảng
4a cũng cho thấy những người có học vấn trung cấp và cao đẳng (thuộc loại
không cao và không thấp, có trình độ nghề và áp lực công việc không cao) lại
khá cân bằng về cảm xúc. Họ là những người bình tĩnh, cân bằng, ít bị căng
thẳng, có khả năng kiểm soát sự tức giận, ít khi có những xúc cảm tiêu cực, ít
có phiền toái khi gặp các tình huống xã hội tiêu cực, có khả năng làm chủ
những nhu cầu ham muốn bên trong cũng như năng lực giải quyết vấn đề
trong các tình huống bất lợi.
Bảng 34b: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về mặt E “Hướng ngoại” ở các trình độ học vấn khác nhau
Các tiểu thang đo của mặt ECác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
E1: Cởi mở, thân thiện Cấp 1 + 2 34.1 48.4 17.5
Cấp 3 27.3 42.8 29.9
TH + CĐ 21.5 44.1 34.4
Đại học trở lên 28.9 45.6 25.5
E2: Thích giao du Cấp 1 + 2 36.9 34.6 28.5
Cấp 3 24.7 46.3 29.0
TH + CĐ 24.7 41.9 33.3
Đại học trở lên 31.3 47.5 21.2
E3: Tự khẳng định Cấp 1 + 2 32.1 37.7 30.2
Cấp 3 24.7 46.3 29.0
TH + CĐ 25.0 47.8 27.2
Đại học trở lên 29.6 45.2 25.2
E4: Tích cực hoạt động Cấp 1 + 2 34.6 47.2 18.2
Cấp 3 22.8 51.0 26.3
TH + CĐ 17.4 51.1 31.5
Đại học trở lên 18.2 56.1 25.7
E5: Tìm kiếm sự kích thích, cổ
vũ
Cấp 1 + 2 23.1 47.2 29.6
Cấp 3 28.4 46.4 25.3
TH + CĐ 26.1 44.6 29.3
Đại học trở lên 36.0 42.7 21.3
E6: Những xúc cảm tích cực Cấp 1 + 2 29.8 45.1 25.1
Cấp 3 23.4 50.2 26.4
TH + CĐ 20.4 46.2 33.3
Đại học trở lên 25.9 45.8 28.2
Kết quả ở bảng 34b chỉ ra rằng rất nhiều người hướng ngoại (có điểm
cao ở mặt E) có học vấn không cao cũng không thấp trong xã hội (cấp 3 và
trung cấp, cao đẳng), còn trong số những người hướng nội (có điểm thấp ở
mặt E) thì học vấn thấp (cấp 1 và 2) và học vấn cao (đại học trở lên) lại chiếm
tỷ lệ lớn.
Ta cũng thấy rõ hơn ở bảng 34b, những người cởi mở, thân thiện, thích
quảng giao, tích cực hoạt động, tìm kiếm sự cổ vũ, kích thích, xu hướng trải
nghiệm những xúc cảm tích cực phần lớn là những người có học vấn cấp 3
hoặc trung cấp, cao đẳng. Còn những người kín đáo, dè dặt, luôn giữ khoảng
cách với người khác, né tránh các mối quan hệ xã hội, ít có nhu cầu tìm kiếm
sự cổ vũ, thích một cuộc sống bình lặng thì nhiều người trong số này có trình
độ học vấn hoặc thấp (cấp 1) hoặc cao (từ đại học trở lên).
Bảng 34c: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về mặt O “Cởi mở” ở các trình độ học vấn khác nhau
Các tiểu thang đo của mặt OCác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
O1: Giàu tưởng tượng Cấp 1 + 2 28.6 43.3 28.1
Cấp 3 18.6 52.3 29.2
TH + CĐ 20.4 53.8 25.5
Đại học trở lên 19.8 49.9 30.4
O2: Óc thẩm mỹ Cấp 1 + 2 42.5 40.2 17.3
Cấp 3 23.2 42.1 34.7
TH + CĐ 18.3 41.9 39.8
Đại học trở lên 17.4 45.8 36.8
O3: Hiểu xúc cảm và tình cảm
nội tâm
Cấp 1 + 2 31.6 48.1 20.3
Cấp 3 23.2 46.3 30.5
TH + CĐ 17.4 41.3 41.3
Đại học trở lên 21.2 44.1 34.8
O4: Đa dạng hóa hoạt động Cấp 1 + 2 21.5 51.4 27.1
Cấp 3 18.5 56.8 24.7
TH + CĐ 13.0 54.3 32.6
Đại học trở lên 19.1 60.7 20.2
O5: Giàu ý tưởng Cấp 1 + 2 28.2 46.8 25.0
Cấp 3 24.5 47.9 27.6
TH + CĐ 21.7 43.5 34.8
Đại học trở lên 32.9 42.8 24.3
O6: Các giá trị Cấp 1 + 2 32.3 49.3 18.4
Cấp 3 20.7 52.1 27.2
TH + CĐ 15.1 57.0 28.0
Đại học trở lên 13.3 56.2 30.5
Ở mặt cầu thị, ham hiểu biết thì những người ham học hỏi là những
người có học vấn từ trung cấp trở lên. Trong khi những người học vấn thấp
lại tương đối bảo thủ trong cách nhìn, có phạm vi hứng thú hẹp hơn.
Sự phân hoá rõ nét có thể quan sát thấy ở bảng 34c. Mức độ chênh
lệch về số lượng người giữa nhóm điểm thấp và điểm cao ở các tiểu thang đo
là rất lớn. Những người giàu trí tưởng tượng, óc thẩm mỹ, hiểu xúc cảm và
tình cảm nội tâm, đa dạng hoá hoạt động, khả năng chấp nhận các giá trị mới
xuất hiện nhiều ở những người có trình độ học vấn cao. Còn những người
không có óc thẩm mỹ, không ham tìm hiểu, khó chấp nhận các giá trị mới
phần lớn rơi vào những người có trình độ văn hoá thấp.
Bảng 34d: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về mặt A “Dễ thương” ở các trình độ học vấn khác nhau
Các tiểu thang đo của mặt ACác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
A1: Lòng tin Cấp 1 + 2 35.5 49.3 15.2
Cấp 3 23.5 50.8 25.8
TH + CĐ 25.8 40.9 33.3
Đại học trở lên 25.2 45.6 29.2
A2: Thẳng thắn, chân tình Cấp 1 + 2 37.3 42.9 19.8
Cấp 3 29.0 49.8 21.2
TH + CĐ 22.8 42.4 34.8
Đại học trở lên 25.8 47.0 27.2
A3: Vị tha Cấp 1 + 2 39.6 40.6 19.8
Cấp 3 29.3 38.6 32.0
TH + CĐ 23.9 52.2 23.9
Đại học trở lên 20.9 50.4 28.7
A4: Phục tùng người khác Cấp 1 + 2 23.7 49.8 26.5
Cấp 3 21.6 55.6 32.8
TH + CĐ 21.7 54.3 23.9
Đại học trở lên 25.4 52.3 22.3
A5: Khiêm tốn Cấp 1 + 2 37.5 42.1 20.4
Cấp 3 28.7 41.4 29.9
TH + CĐ 19.4 54.8 25.8
Đại học trở lên 21.1 46.0 32.9
A6: Nhân hậu Cấp 1 + 2 39.9 46.5 21.2
Cấp 3 26.1 44.4 29.5
TH + CĐ 16.1 41.9 41.9
Đại học trở lên 16.7 49.9 33.4
Tuy nhiên có thể thấy rằng mặt O của nhân cách liên quan đến sự cầu
thị và ham hiểu biết có tỷ lệ điểm trung bình cao nhất trong 5 mặt của nhân
cách. Nó cho thấy đặc điểm này của nhân cách được thể hiện ở mức độ trung
bình trong mẫu lao động trẻ.
Trong khi đó mặt A (dễ thương) lại có phân bố khá đặc biệt giữa các
nhóm điểm. Đó là nhóm điểm trung bình chiếm tỷ lệ không cao so với nhóm
điểm cao và điểm thấp của thang đo. Đây là điểm được thể hiện rõ nét hơn cả
ở mẫu lao động trẻ Việt Nam khi tỷ lệ người đạt điểm cao và thấp lớn hơn
nhóm trung bình vốn đặc trưng cho nhóm người thể hiện không rõ nét đặc
điểm cần đo. Số liệu ở bảng 34 chỉ ra rằng những người có điểm thấp ở
thang đo này phần lớn rơi vào nhóm những người có trình độ học vấn thấp,
còn điểm cao lại thuộc về những người có học vấn cao hơn.
Bảng 34e: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về mặt C “Có ý chí phấn đấu” ở các trình độ học vấn khác nhau
Các tiểu thang đo của mặt CCác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
C1: Năng lực Cấp 1 + 2 32.3 46.5 21.2
Cấp 3 26.1 44.4 29.5
TH + CĐ 26.1 41.9 41.9
Đại học trở lên 16.7 49.9 33.4
C2: Ngăn nắp Cấp 1 + 2 41.2 43.1 15.6
Cấp 3 29.5 46.1 24.4
TH + CĐ 26.1 30.4 43.5
Đại học trở lên 28.2 37.5 34.3
C3: Trách nhiệm, bổn phận Cấp 1 + 2 39.6 42.5 17.9
Cấp 3 25.1 41.7 33.2
TH + CĐ 18.5 40.2 41.3
Đại học trở lên 19.4 46.4 34.2
C4: Nỗ lực thành đạt Cấp 1 + 2 35.1 45.0 19.9
Cấp 3 26.7 46.5 26.7
TH + CĐ 14.1 59.8 26.1
Đại học trở lên 18.7 54.2 27.1
C5: Kỷ luật, tự giác Cấp 1 + 2 32.6 42.8 24.7
Cấp 3 20.7 42.1 37.2
TH + CĐ 17.2 39.8 43.0
Đại học trở lên 17.0 47.6 35.4
C6: Thận trọng, cân nhắc kỹ
lưỡng
Cấp 1 + 2 37.8 33.6 28.6
Cấp 3 26.4 44.1 29.5
TH + CĐ 21.5 37.6 40.9
Đại học trở lên 25.1 45.0 30.0
Đặc biệt, nhóm những người có học vấn trung cấp và cao đẳng có tỷ
người đạt điểm thấp rất ít. Người có điểm thấp được diễn giải là người có xu
hướng ích kỷ, hay nghi ngờ những ý định tốt đẹp của người khác, có xu
hướng ganh đua hơn là hợp tác, trong khi những người đạt điểm cao là
những người dễ được ưa thích hơn về mặt xã hội, và khoẻ mạnh hơn về mặt
tâm lý. Trong bảng 34e ta thấy rõ hơn về từng khía cạnh của mặt nhân cách
này. Trong số những người hay nghi ngờ người khác, thiếu thẳng thắn, ít
quan tâm đến những vấn đề của người khác có một tỷ lệ lớn là những người
có học vấn thấp. Còn trong số những người nhân hậu, khiêm tốn, và thẳng
thắn thì những người có học vấn cao chiếm một tỷ lệ đáng kể.
Trong bảng 34e ta có thể quan sát thấy rằng một tỷ lệ đáng kể người có
học vấn thấp thường thấy thiếu khả năng, làm việc không có hiệu quả, thiếu ý
chí thành đạt, còn trong số những người có học vấn cao thì có khả năng hơn,
có trách nhiệm, kỷ luật, tự giác và thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng hơn khi
quyết định làm một việc gì.
Với những số liệu đã dẫn ở trên có thể rút ra một nhận định là trình độ
học vấn góp phần tạo nên sự khác biệt về nhân cách giữa các nhóm. Tuy
nhiên ảnh hưởng của trình độ học vấn đối với các mặt của nhân cách là
không như nhau: có những mặt nó ảnh hưởng mạnh hơn, nhưng cũng có
những mặt nó gây ảnh hưởng nhỏ hơn hoặc không ảnh hưởng đáng kể. Số
liệu bảng 35 (hiển thị kết quả từ phép hồi qui với biến số phụ thuộc là các mặt
của nhân cách và biến dự báo là trình độ học vấn) sẽ chỉ rõ điều này.
Bảng 35: Dự báo ảnh hưởng của trình độ học vấn đối với các mặt nhân cách
Các mặt nhân cách R2 Hệ số Bê-ta p
N: Nhiễu tâm 0.029 -0.17 < 0.001
E: Hướng ngoại 0.001 0.03 > 0.005
O: Cởi mở 0.027 0.17 < 0.001
A: Dễ thương 0.035 0.19 < 0.001
C: Có ý chí phấn đấu 0.033 0.18 < 0.001
Có thể thấy cụ thể hơn qua bảng 35 rằng trình độ học vấn không có
ảnh hưởng đáng kể đến mặt hướng ngoại (quan hệ liên nhân cách), nhưng
có ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đối với các mặt còn lại của nhân cách,
trong đó nó chi phối mạnh hơn cả đối với mặt A (dễ thương). Tuy nhiên số
liệu cũng cho thấy mức độ dự báo của trình độ học vấn không lớn lắm qua độ
lớn của hệ số R2.
1.3.2. Đặc điểm về nghề nghiệp
Bây giờ chúng ta sẽ xét đến vai trò của nghề nghiệp đối với nhân cách.
Bảng 36 cho thấy trong các nhóm nghề khác nhau cũng có những phân bố
khác nhau về các mặt của nhân cách. Cụ thể là: trong số những người đạt
điểm cao ở mặt cân bằng cảm xúc thì công nhân và nông dân chiếm một tỷ lệ
lớn. Hầu như rất ít nông dân có điểm thấp ở mặt này (chỉ 10.1%). Như vậy
nhiều người trong số công nhân, đặc biệt là nông dân bị mất cân bằng về tâm
thần. Người nông dân có nhiều lo âu và bất an, dễ nổi giận, dễ chán nản, ít
năng lực kiểm soát những ham muốn từ bên trong và dễ bị tổn thương do
stress. Ở công nhân thì tỷ lệ những người như vậy chiếm tỷ lệ ít hơn.
Bảng 36: Tỷ lệ % các nhóm điểm của các mặt nhân cách trên mẫu lao động trẻ có nghề nghiệp khác nhau
Các mặt của nhân cáchCác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
N: Nhiễu tâm Công nhân 29.2 35.4 35.4
Nông dân 10.1 46.5 43.3
Trí thức + Giáo viên 34.3 40.9 24.8
Doanh nghiệp 33.1 40.0 26.9
E: Hướng ngoại Công nhân 21.3 41.7 37.0
Nông dân 38.9 43.4 17.6
Trí thức + Giáo viên 27.5 40.1 32.4
Doanh nghiệp 38.6 30.7 30.7
O: Cởi mở Công nhân 31.3 41.9 26.7
Nông dân 39.9 43.7 16.4
Trí thức + Giáo viên 20.8 42.6 36.6
Doanh nghiệp 32.9 37.7 29.5
A: Dễ thương Công nhân 35.2 34.7 30.1
Nông dân 43.8 33.8 22.4
Trí thức + Giáo viên 14.6 40.3 45.1
Doanh nghiệp 43.8 41.0 15.1
C: Có ý chí phấn đấu Công nhân 33.0 34.4 32.6
Nông dân 49.1 34.3 16.7
Trí thức + Giáo viên 13.0 40.5 46.5
Doanh nghiệp 41.6 35.1 23.4
Trong khi đó trí thức, giáo viên và người kinh doanh lại có tâm thần cân
bằng và ổn định hơn khi trong số những người đạt điểm thấp ở mặt này thì họ
chiếm phần lớn. Bảng 36a cho thấy những người bình tĩnh và cân bằng, kiểm
soát tốt sự giận dữ của mình, khi gặp các tình huống xã hội tiêu cực thì ít cảm
thấy ít bị phiền toái có năng lực giải quyết các vấn đề trong các tình huống bất
lợi thì doanh nhân và giáo viên, trí thức chiếm một tỷ lệ đáng kể. Tuy nhiên
trong số những người khó làm chủ những ham muốn từ bên trong thì có khá
nhiều doanh nhân nhưng lại rất ít những người thuộc đội ngũ trí thức.
Bảng 36a: Tỷ lệ % theo nhóm điểm về mặt N “Nhiễu tâm” ở các nhóm nghề khác nhau
Các tiểu thang đo của mặt NCác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
N1: Lo âu Công nhân 30.4 42.3 27.3
Nông dân 21.7 43.5 34.8
Trí thức + Giáo viên 31.0 39.9 29.0
Doanh nghiệp 30.6 55.4 14.0
N2: Thù nghịch, giận dữ Công nhân 26.4 40.5 33.0
Nông dân 16.7 48.2 35.1
Trí thức + Giáo viên 34.3 44.2 21.5
Doanh nghiệp 32.5 43.3 24.2
N3: Trầm cảm Công nhân 29.1 44.9 26.0
Nông dân 15.7 41.9 42.4
Trí thức + Giáo viên 30.6 50.7 18.8
Doanh nghiệp 27.7 50.3 22.0
N4: Mặc cảm, tự ty Công nhân 23.3 47.6 29.1
Nông dân 21.6 50.2 28.1
Trí thức + Giáo viên 19.1 50.5 30.4
Doanh nghiệp 26.6 57.0 16.5
N5: Xung tính Công nhân 27.4 41.9 33.5
Nông dân 17.6 45.9 36.5
Trí thức + Giáo viên 40.3 43.9 15.7
Doanh nghiệp 16.8 44.1 39.1
N6: Dễ bị thương tổn do
stress
Công nhân 26.4 48.0 25.6
Nông dân 13.4 44.8 41.8
Trí thức + Giáo viên 27.5 52.6 19.9
Doanh nghiệp 25.8 57.7 16.6
Bảng 36a cho thấy, ở mặt quan hệ liên nhân cách, một tỷ lệ đáng chú ý
những người đạt điểm cao ở thang đo này là công nhân và trí thức, xu hướng
điểm thấp là của người nông dân và kinh doanh. Ta biết rằng điểm cao là xu
hướng của những người hướng ngoại và điểm thấp là của người hướng nội.
Bảng 36b: Tỷ lệ % theo nhóm điểm về mặt E “Hướng ngoại” ở các nhóm nghề khác nhau
Các tiểu thang đo của mặt ECác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
E1: Cởi mở, thân thiện Công nhân 25.3 44.1 30.6
Nông dân 34.5 47.4 18.1
Trí thức + Giáo viên 20.9 48.4 30.7
Doanh nghiệp 41.4 38.7 20.2
E2: Thích giao tiếp Công nhân 24.5 41.9 33.6
Nông dân 37.1 38.0 24.9
Trí thức + Giáo viên 29.1 45.4 25.5
Doanh nghiệp 30.8 50.3 18.9
E3: Tự khẳng định Công nhân 23.8 45.4 30.8
Nông dân 34.9 38.9 26.2
Trí thức + Giáo viên 26.6 48.2 25.2
Doanh nghiệp 28.3 40.9 30.8
E4: Tích cực hoạt động Công nhân 24.2 49.3 26.4
Nông dân 34.2 50.6 15.2
Trí thức + Giáo viên 15.7 53.1 31.1
Doanh nghiệp 20.6 56.3 23.1
E5: Tìm kiếm sự kích
thích, cổ vũ
Công nhân 22.5 48.5 29.1
Nông dân 28.3 42.9 28.8
Trí thức + Giáo viên 40.0 39.7 20.3
Doanh nghiệp 23.3 52.1 24.5
E6: Những xúc cảm tích
cực
Công nhân 21.1 49.3 29.5
Nông dân 34.1 44.8 21.1
Trí thức + Giáo viên 22.2 49.3 28.4
Doanh nghiệp 27.6 41.1 31.3
Trên bảng 36b ta sẽ thấy cụ thể hơn những xu hướng này ở 6 khía
cạnh của một nhân cách này. Trước hết, nhiều người đạt điểm thấp trong các
thang đo E1, E2, E3 và E6 là nông dân và kinh doanh. Đó là những người kín
đáo, dè dặt, luôn giữ khoảng cách với người khác, né tránh những kích thích
xã hội, thích đứng đằng sau, thích nhịp sống đều đều ít hồ hởi và ít hăng hái.
Ngoài ra trong đội ngũ trí thức và giáo viên cũng có nhiều người không thích
tìm kiếm kiếm sự cổ vũ, kích thích. Trong số nông dân, một tỷ lệ nhỏ dễ dàng
hình thành sự gắn bó với người khác (18,1%) nhưng trong số những người
có đặc điểm này thì trí thức và công nhân lại chiếm một tỷ lệ lớn hơn (30.7%
và 30.6% tương ứng). Một tỷ lệ tương đối công nhân đạt điểm cao ở E2 (thích
giao du) với 33.6%. Trong số những người tích cực hoạt động thì trí thức
chiếm tỷ lệ đáng chú ý (31.1%), trong khi chỉ một tỷ lệ rất thấp số trí thức ưa
một cuộc sống đều, nhàm chán (15.7%). Số liệu cho thấy mặt tích cực hoạt
động là đặc điểm nhân cách được phân hoá khá rõ nét giữa các nhóm nghề.
Tuy nhiên chỉ với một tỷ lệ khiêm tốn ở nhóm điểm cao, những người làm
nghề kinh doanh trong mẫu lao động trẻ rõ ràng là vẫn chưa có đủ một đặc
điểm rất cần thiết cho nghề kinh doanh để đạt hiệu quả cao trong hoạt động
nghề.
Bảng 36c: Tỷ lệ % theo nhóm điểm về mặt O “Cởi mở” ở các nhóm nghề khác nhau
Các tiểu thang đo của mặt OCác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
O1: Giàu tưởng tượng Công nhân 18.8 55.0 26.2
Nông dân 30.2 44.0 25.9
Trí thức + Giáo viên 17.0 50.0 33.0
Doanh nghiệp 21.4 49.4 29.2
O2: Óc thẩm mỹ Công nhân 30.1 44.1 25.8
Nông dân 34.5 41.5 24.0
Trí thức + Giáo viên 18.3 42.5 39.2
Doanh nghiệp 16.4 46.5 37.1
O3: Hiểu xúc cảm và xúc
cảm nội tâm
Công nhân 26.0 48.5 25.6
Nông dân 31.9 47.2 21.0
Trí thức + Giáo viên 17.0 44.6 38.4
Doanh nghiệp 22.0 40.9 37.1
O4: Đa dạng hóa hoạt
động
Công nhân 19.4 55.5 25.1
Nông dân 20.8 50.6 28.6
Trí thức + Giáo viên 19.7 59.0 21.3
Doanh nghiệp 14.4 61.9 23.8
O5: Giàu ý tưởng Công nhân 22.0 44.5 33.5
Nông dân 31.3 44.6 24.0
Trí thức + Giáo viên 22.3 49.8 27.9
Doanh nghiệp 43.2 37.7 19.1
O6: Các giá trị Công nhân 21.8 51.5 26.6
Nông dân 33.6 51.3 15.1
Trí thức + Giáo viên 11.4 54.6 34.0
Doanh nghiệp 16.0 57.7 26.4
Với số liệu ở bảng 36c về phân bố tỷ lệ nhóm điểm của mặt O “Cởi
mở”, ở các nghề khác nhau, ta có thể thấy rằng tầng lớp trí thức khá khác biệt
với các nhóm nghề khác ở tỷ lệ người đạt điểm cao của những đo tương đối
lớn. Đó là những người ham hiểu biết, ham học hỏi, độc lập trong xét đoán.
Đây là những đặc điểm nhân cách phù hợp với tầng lớp trí thức, vốn là những
người có trình độ học vấn tương đối cao trong xã hội, và nghề của họ cũng
đòi hỏi phải tiếp cận với những tri thức mới. Các nhóm nghề khác đều có tỷ lệ
người đạt điểm thấp lớn hơn người đạt điểm cao trong thang đo. Điều đó có
nghĩa là những người của các nhóm nghề này có xu hướng bảo thủ trong
cách nhìn nhận, có phạm vi hứng thú hẹp hơn và không ham hiểu biết như trí
thức.
Bảng 36c cho biết cụ thể hơn về các tiểu thang đo của mặt nhân cách
này. Số liệu ở đây cho thấy trừ hai tiểu thang đo là O4 (Đa dạng hoá hoạt
động) và O5 (Giàu ý tưởng) thì tỷ lệ người đạt điểm cao lớn nhất trong các
tiểu thang đo còn lại (O1, O2, O3, O6) đều là giáo viên và trí thức. Ở tiểu
thang đo Giàu tưởng tượng, Óc thẩm mỹ, Hiểu tình cảm, xúc cảm nội tâm thì
doanh nhân tương đối giống giáo viên, trí thức khi có tỷ lệ người đạt điểm cao
cũng như điểm thấp tương đối bằng với tỷ lệ đó ở khối trí thức. Ở tiểu thang
đo O5 (giàu ý tưởng) doanh nhân có tỷ lệ điểm thấp lớn nhất. Điều này cũng
phản ánh đúng thực tế kinh doanh ở nước ta hiện nay bởi những ý tưởng mới
mẻ trong kinh doanh xuất hiện không nhiều trong đời sống xã hội. Trong số
những người đạt điểm thấp ở các tiểu thang đo O1, O2 và O3 thì phần nhiều
rơi vào công nhân và nông dân. Họ có xu hướng ít lãng mạn; không yêu thích
thẩm mỹ, nghệ thuật; và ít nhạy cảm, sâu sắc. Trong số những người không
ham tìm hiểu, ít ý tưởng mới thì nông dân cũng chiếm một phần đáng kể.
Ở mặt A (Dễ thương): số liệu ở bảng 6 và 36d chỉ ra rằng tỷ lệ điểm
cao lớn nhất thuộc về tầng lớp trí thức. Ý nghĩa các thang đo và các tiểu
thang đo cho thấy đây là những người dễ chấp nhận người khác: có lòng tin
vào người khác, thẳng thắn, chân tình, có lòng vị tha, khiêm tốn, và nhân hậu.
Trong khi đó tỷ lệ những người đạt điểm thấp thường rơi nhiều vào các nghề
khác. Cụ thể là ở những người làm nghề công nhân, nông dân và kinh doanh
thì tỷ lệ đạt điểm thấp nhiều hơn tỷ lệ đạt điểm cao ở nhiều tiểu thang đo của
mặt A của nhân cách. Sự khá giống nhau về tỷ lệ trong các nhóm điểm giữa
ba nhóm nghề này cho thấy có sự tương đồng nhất định về đặc điểm nhân
cách của cả 3 nhóm nghề.
Số liệu ở bảng 36d cũng cho thấy có sự phân hoá khá rõ rệt về đặc
điểm nhân cách theo nhóm nghề khi tỷ lệ điểm cao và điểm thấp chênh lệch
khá lớn, cho thấy đây là một trong những nhân tố tạo nên nét đặc trưng về
nhân cách cho từng nhóm nghề nhất định.
Bảng 36d: Tỷ lệ % theo nhóm điểm về mặt A “Dễ thương” ở các nhóm nghề khác nhau
Các tiểu thang đo của mặt ACác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
A1: Lòng tin Công nhân 24.5 52.4 23.1
Nông dân 36.2 43.1 17.7
Trí thức + Giáo viên 18.0 45.1 36.9
Doanh nghiệp 36.9 45.2 17.9
A2: Thẳng thắn, chân tình Công nhân 33.0 46.7 20.3
Nông dân 33.2 43.2 23.6
Trí thức + Giáo viên 18.7 48.5 32.8
Doanh nghiệp 36.5 45.3 18.2
A3: Vị tha Công nhân 31.7 33.5 34.8
Nông dân 38.0 44.5 17.5
Trí thức + Giáo viên 14.8 51.1 34.1
Doanh nghiệp 34.6 49.1 16.4
A4: Phục tùng người khác Công nhân 20.3 50.2 29.5
Nông dân 23.3 45.7 31.0
Trí thức + Giáo viên 23.9 50.2 25.9
Doanh nghiệp 27.5 55.6 16.9
A5: Khiêm tốn Công nhân 29.5 46.3 24.2
Nông dân 36.5 38.2 25.3
Trí thức + Giáo viên 17.3 49.7 33.0
Doanh nghiệp 29.0 41.4 29.6
A6: Nhân hậu Công nhân 29.1 45.4 25.6
Nông dân 32.6 43.0 24.3
Trí thức + Giáo viên 8.2 51.0 40.8
Doanh nghiệp 31.7 50.3 18.0
Ở mặt C (Có ý chí phấn đấu), tỷ lệ điểm cao lớn nhất cũng thuộc về trí
thức - giáo viên. Có thể diễn giải rằng những người có khả năng kiềm chế,
làm việc có mục đích, có ý chí và nỗ lực để thành đạt phần nhiều rơi vào khối
trí thức - giáo viên. Trong khi đó ở nhóm điểm thấp thì nông dân và doanh
nghiệp chiếm tỷ lệ lớn. Đây là những người có xu hướng thiếu quyết tâm,
thiếu nhiệt tình trong việc nỗ lực đạt mục đích của bản thân. Với nhóm nghề
công nhân thì số liệu trải đều tất cả các nhóm điểm, vì thế khó có thể coi công
nhân có đặc điểm gì nổi bật hơn ở mặt nhân cách này.
Số liệu cụ thể ở bảng 36e cho thấy tại tất cả các tiểu thang đo, tỷ lệ
điểm cao lớn nhất luôn thuộc về giáo viên - trí thức, còn tỷ lệ điểm thấp nhất
luôn thuộc về nông dân. Như vậy trí thức và nông dân khác nhau khá rõ nét ở
mặt nhân cách này khi hai nhóm nghề có xu hướng nằm ở hai cực của thang
điểm với ý nghĩa là có đặc điểm nhân cách trái ngược nhau. Cũng ở mặt này
người kinh doanh tương đối giống nông dân khi có tỷ lệ người ở nhóm điểm
thấp tương đương với nông dân trong nhiều tiểu thang đo (C2, C3, C6).
Bảng 36e: Tỷ lệ % theo nhóm điểm về mặt C “Có ý chí phấn đấu” ở các nhóm nghề khác nhau
Các tiểu thang đo của mặt CCác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
C1: Năng lực Công nhân 22.3 45.0 32.8
Nông dân 40.1 43.1 16.8
Trí thức + Giáo viên 15.4 46.7 37.9
Doanh nghiệp 14.1 55.2 30.7
C2: Ngăn nắp Công nhân 31.3 43.6 25.1
Nông dân 41.2 43.9 14.9
Giáo viên - Trí thức 20.1 38.5 41.4
Doanh nghiệp 41. 34.8 24.1
C3: Trách nhiệm, bổn
phận
Công nhân 30.0 38.8 31.3
Nông dân 35.8 45.9 18.3
Trí thức + Giáo viên 10.2 45.6 44.3
Doanh nghiệp 36.5 40.9 22.6
C4: Nỗ lực thành đạt Công nhân 27.3 50.2 22.5
Nông dân 37.7 39.9 22.4
Trí thức + Giáo viên 10.9 57.2 31.9
Doanh nghiệp 28.0 51.6 20.4
C5: Kỷ luật, tự giác Công nhân 22.0 39.2 38.8
Nông dân 34.5 42.7 22.8
Trí thức + Giáo viên 10.5 44.1 45.4
Doanh nghiệp 25.8 51.5 22.7
C6: Thận trọng, cân nhắc
kỹ lưỡng
Công nhân 29.7 34.9 35.4
Nông dân 38.4 37.1 24.6
Trí thức + Giáo viên 15.7 46.4 37.9
Doanh nghiệp 35.6 45.4 19.0
Nhìn chung, có thể thấy rằng những người đạt điểm cao hoặc thấp ở
các mặt nhân cách cũng như các tiểu thang đo có một số đặc thù nhất định về
trình độ học vấn và nghề nghiệp mà họ đang làm. Điều này cho thấy học vấn
và nghề nghiệp cũng góp phần ảnh hưởng đến đặc điểm nhân cách nổi trội
của con người, trong khi đó, giới tính và khu vực sinh sống là hai yếu tố
không có ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể đến đặc điểm nổi bật
của họ.
1.4. Kết quả nghiên cứu so sánh đặc điểm nhân cách của một số nhóm
1.4.1. So sánh sự khác biệt giới
Bảng 37: Điểm trung bình của nam và nữ ở các mặt và các tiểu thang đo nhân cách
Các mặt Nam Nữ p
Mặt N: Nhiễu tâm 82.88 83.30
N1: Lo âu 14.18 15.50 P<.001
N2: Thù nghịch, hung tính 13.06 13.00
N3: Trầm cảm 13.54 13.77
N4: Tự ty, mặc cảm 16.13 16.31
N5: Khó kiểm soát xung tính 12.95 11.59 P<.001
N6: Dễ bị tổn thương 12.88 13.38
Mặt E: Hướng ngoại 110.37 110.11
E1: Cởi mở, thân thiện 20.43 20.78
E2: Quảng giao 18.46 18.99
E3: Tự khẳng định 16.83 16.18 P<.01
E4: Tích cực hoạt động 18.77 19.28 P<.05
E5: Tìm kiếm sự kích thích 17.21 16.25 P<.001
E6: Xúc cảm tích cực 18.09 18.12
Mặt O: Cởi mở 104.03 104.31
O1: Giàu trí tưởng tượng 15.37 15.46
O2: Óc thẩm mỹ 19.15 19.53
O3: Hiểu xúc cảm, tình cảm của
mình
17.65 17.93
O4: Đa dạng hóa hoạt động 16.31 16.19
O5: Giàu ý tưởng 17.38 16.68 P<.05
O6: Các giá trị 18.10 18.43
Mặt A: Dễ thương 113.66 119.25 P<.001
A1: Niềm tin 18.23 19.22 P<.001
A2: Thẳng thắn, chân tình 16.88 18.28 P<.001
A3: Vị tha 20.93 22.50 P<.001
A4: Phục tùng 17.02 17.06
A5: Khiêm tốn 19.33 20.72 P<.001
A6: Nhân hậu 20.88 21.55 P<.005
Mặt C: Có ý chí phấn đấu 123.51 128.65 P<.01
C1: Năng lực 19.23 19.45
C2: Ngăn nắp 19.77 20.77 P<.01
C3: Trách nhiệm, bổn phận 22.49 24.33 P<.001
C4: Nỗ lực thành đạt 21.16 21.54
C5: Kỷ luật, tự giác 19.30 20.29 P<.001
C6: Thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng 21.14 21.85 P<.05
Sự khác biệt giữa nam và nữ thấy rõ nhất ở mặt A (Dễ thương) và mặt
C (Làm chủ, kiểm soát bản thân), trong đó nữ lao động trẻ dễ chấp nhận hơn
nam, cũng như có mức độ tự kiểm tra, kiểm soát và làm chủ bản thân cao
hơn hẳn nam lao động trẻ.
Mặc dù số liệu cho thấy nam và nữ của nhóm này không khác nhau về
tính ổn định cảm xúc hay là mặt bất thường về tâm thần nói chung (mặt Ni
nhưng xét từng khía cạnh riêng của nhân cách thì vẫn tìm thấy sự khác biệt
giới tính. Cụ thể là nữ giới có mức độ lo âu cao nam giới. Có thể hiểu là so
với nam giới thì nữ lao động trẻ có xu hướng hay gặp những những lo lắng,
nỗi sợ hơn. Đồng thời họ cũng có mức độ kiểm soát những lỗi lo âu này thấp
hơn nam giới. Nam giới thể hiện là những người bình tĩnh hơn, cân bằng hơn
cũng như ít bị căng thẳng hơn nữ giới. Họ ít bị chi phối bởi hoàn cảnh hơn nữ
giới.
Nếu như nữ giới thường khó kiểm soát sự lo lắng của mình hơn so với
nam giới thì nam giới lại khó làm chủ những ham muốn, những thôi thúc từ
bên trong hơn hẳn nữ giới. Những thèm muốn, thôi thúc từ bên trong thường
biểu hiện qua các nhà cầu ăn uống, hút thuốc, sử dụng chất kích thích, nhu
cầu sở hữu… Khả năng kiểm soát những ham muốn bên trong của nam giới
thấp hơn nhiều so với nữ giới.
Như vậy có thể thấy rằng phụ nữ thường bị tác động mạnh bởi tình
huống, hoàn cảnh hơn nam giới và họ thường thể hiện qua lĩnh vực cảm xúc
như lo lắng, bất an… Họ khó kiểm soát những lo âu này và dễ thể hiện ra bên
ngoài. Tuy nhiên, họ lại có khả năng hơn nam giới trong việc kiểm soát những
những ham muốn bên trong của mình. Sự làm chủ bản thân trước những thôi
thúc bên trong của ham muốn và nhu cầu cá nhân khiến cho họ có khả năng
chịu đựng tình huống khó khăn cao hơn nam giới.
Những khác biệt này là điều có thể hiểu được khi nó bắt nguồn phần
nhiều từ những đặc điểm sinh học khác nhau của hai giới. Tuy nhiên, điều
đáng lưu ý là ảnh hưởng của những mặt này đối với đặc thù của từng hoạt
động lao động sản xuất.
Bảng 38: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về các mặt của nhân cách ở nam và nữ
Các mặt của nhân cách
Điểm thấp
<= 44
Điểm trung bình
45-55
Điểm cao
>= 56
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
N: Nhiễu tâm 28.1 25.5 38.6 42.7 33.3 31.8
E: Hướng ngoại 32.0 29.8 37.7 41.2 30.2 29.0
O: Cởi mở 30.2 30.3 43.2 40.7 26.5 29.0
A: Dễ thương 39.8 25.7 38.3 36.7 21.9 37.6
C: Có ý chí phấn đấu 37.4 28.0 36.4 36.6 26.5 35.4
Về mặt quan hệ liên nhân cách (Hướng ngoại), nam và nữ lao động trẻ
có mức độ cởi mở, thân thiện và quảng giao như nhau. Sự khác biệt giới tính
được thể hiện rõ qua mức độ tự khẳng định, tích cực hoạt động và tìm kiếm
sự kích thích, cổ vũ từ xung quanh. Kết quả từ trắc nghiệm cho thấy, nam giới
có mức độ tự khẳng định cao hơn nữ giới. Điều này có thể diễn giải cụ thể là
trong các mối quan hệ liên nhân cách thì nam giới mạnh mẽ hơn, có uy thế về
mặt xã hội hơn nữ giới. Họ có phong thái ứng xử tự nhiên hơn, trong khi đó
phụ nữ lại thể hiện sự rụt rè của mình hơn, họ là những người ưa đứng đằng
sau, dễ để người khác nói và điều khiển hớn nam giới.
Nam và nữ không khác nhau về tính cầu thị và ham hiểu biết. Họ đều
có mức độ điểm như nhau về mặt này, duy chỉ có một tiểu thang đo điểm của
nam cao hơn hẳn điểm của nữ - tiểu thang đo tính kỷ luật tự giác (p < 0.05). Ý
nghĩa của thang điểm cho biết nam giới là người kiên trì thực hiện nhiệm vụ
đến cùng hơn là nữ giới.
Xét theo điểm chuẩn thì tỷ lệ phân bố các nhóm điểm của nam và nữ
được trình bày ở bảng 38. Số liệu cho thấy nam có tỷ lệ điểm thấp ở A và C
lớn hơn ở nữ và nữ cao hơn hẳn nam ở chính những đặc điểm này. Đây
chính là hai mặt của nhân cách mà hai giới khác nhau nhiều nhất.
Các bảng 38a, 38b, 38c, 38d, 38e là phân bố nhóm điểm của tất cả các
tiểu thang đo ở nam và nữ. Phân bố này sẽ cho thấy rõ hơn bức tranh phác
thảo đặc điểm nhân cách của nam và nữ.
Bảng 38a: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về mặt N “Nhiễu tâm”
Các tiểu thang đo của mặt NCác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
N1: Lo âuNam 33.8 42.2 24.0
Nữ 24.1 45.6 30.3
N2: Thù nghịch, hung tínhNam 26.7 45.5 27.7
Nữ 28.4 42.9 28.6
N3: Trầm cảmNam 27.3 47.0 25.6
Nữ 25.0 46.9 28.1
N4: Mặc cảm tự tyNam 23.3 49.1 27.3
Nữ 20.9 52.1 27.0
N5: Xung tínhNam 21.2 43.4 35.4
Nữ 30.9 44.5 24.7
N6: Dễ bị tổn thương do stressNam 27.6 48.4 24.0
Nữ 20.1 51.9 28.0
Bảng 38b: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về mặt E “Hướng ngoại”
Các tiểu thang đo của mặt ECác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
E1: Cởi mở, thân thiệnNam 32.2 40.9 26.9
Nữ 26.5 48.9 24.6
E2: Thích giao duNam 32.8 44.1 23.0
Nữ 38.2 43.0 28.8
E3: Tự khẳng địnhNam 25.1 44.3 30.5
Nữ 30.6 43.7 25.7
E4: Tích cực hoạt độngNam 25.0 54.4 20.6
Nữ 22.0 50.4 27.6
E5: Tìm kiếm sự kích thíchNam 26.6 42.2 31.2
Nữ 32.5 46.8 20.7
E6: Những xúc cảm tích cựcNam 25.7 46.5 27.9
Nữ 26.1 46.9 27.0
Bảng 38c: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về mặt O “Cởi mở”
Các tiểu thang đo của mặt OCác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
O1: Giàu tưởng tượngNam 21.5 50.1 28.3
Nữ 21.5 49.3 29.2
O2: Óc thẩm mỹNam 25.0 44.6 30.4
Nữ 24.7 42.4 32.9
O3: Hiểu xúc cảm tình cảm nội
tâm
Nam 23.4 46.1 30.5
Nữ 24.0 45.2 30.8
O4: Đa dạng hóa hoạt độngNam 18.9 55.9 25.2
Nữ 19.1 57.2 23.7
O5: Giàu ý tưởngNam 24.4 46.2 29.3
Nữ 31.1 44.1 24.8
O6: Các giá trịNam 21.4 54.5 24.1
Nữ 19.5 52.7 27.8
Bảng 38d: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về mặt A “Dễ thương”
Các tiểu thang đo của mặt ACác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
A1: Lòng tinNam 32.0 46.7 21.3
Nữ 24.0 47.8 28.4
A2: Thẳng thắn, chân tìnhNam 36.5 45.8 17.7
Nữ 23.0 46.6 30.4
A3: Vị thaNam 36.0 43.6 20.4
Nữ 22.0 45.6 32.4
A4: Phục tùng người khácNam 23.3 49.5 27.2
Nữ 23.7 50.6 25.8
A5: Khiêm tốnNam 33.7 45.0 21.3
Nữ 22.0 44.0 34.0
A6: Nhân hậuNam 28.7 44.1 27.2
Nữ 19.5 50.3 30.2
Bảng 38e: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về mặt C “Có ý chí phấn đấu”
Các tiểu thang đo của mặt CCác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
C1: Năng lựcNam 24.1 46.2 29.7
Nữ 22.2 47.5 30.3
C2: Ngăn nắpNam 36.8 39.8 23.5
Nữ 27.8 40.9 31.3
C3: Trách nhiệm, bổn phậnNam 33.0 41.9 25.1
Nữ 20.5 44.1 35.5
C4: Nỗ lực thành đạt Nam 26.5 50.0 23.5
Nữ 23.1 50.5 26.4
C5: Kỷ luật tự giácNam 24.4 47.4 28.1
Nữ 20.1 41.1 38.8
C6: Thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡngNam 32.4 39.4 28.2
Nữ 25.1 42.5 32.4
1.4.2. So sánh sự khác biệt khu vực
Kết quả so sánh điểm trong các thang đo và tiểu thang đo của nông
thôn và thành thị được trình bày ở bảng 39.
Bảng 39: Điểm trung bình (điểm thô) của người thành thị và nông thôn ở các mặt và các tiểu thang đo nhân cách
Các mặt Thành thị Nông thôn p
Mặt N: Nhiễu tâm
N1: Lo âu 14.77 15.06
N2: Thù nghịch, hung tính 12.95 13.12
N3: Trầm cảm 13.47 13.90
N4: Tự ty, mặc cảm 16.32 16.11
N5: Khó kiểm soát xung tính 12.35 12.01
N6: Dễ bị tổn thương 12.95 13.38
Mặt E: Hướng ngoại
E1: Cởi mở, thân thiện 20.46 20.84
E2: Quảng giao 18.56 18.98
E3: Tự khẳng định 16.56 16.37
E4: Tích cực hoạt động 19.24 18.87
E5: Tìm kiếm sự kích thích 16.47 16.93
E6: Xúc cảm tích cực 18.37 17.83 <.05
Mặt O: Cởi mở
O1: Giàu trí tưởng tượng 15.63 15.19
O2: Óc thẩm mỹ 19.71 18.94 <.01
O3: Hiểu xúc cảm, tình cảm của
mình
17.93 17.65
O4: Đa dạng hóa hoạt động 16.11 16.42
O5: Giàu ý tưởng 16.89 17.12
O6: Các giá trị 18.50 18.05
Mặt A: Dễ thương 115.82 117.95
A1: Niềm tin 18.82 18.74
A2: Thẳng thắn, chân tình 17.55 17.79
A3: Vị tha 21.97 21.64
A4: Phục tùng 16.71 17.42 <.01
A5: Khiêm tốn 19.97 20.25
A6: Nhân hậu 21.16 21.37
Mặt C: Có ý chí phấn đấu
C1: Năng lực 19.63 19.05 <.05
C2: Ngăn nắp 20.47 20.17
C3: Trách nhiệm, bổn phận 23.23 23.73
C4: Nỗ lực thành đạt 21.33 21.56
C5: Kỷ luật, tự giác 19.77 19.95
C6: Thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng 21.25 21.86
Nhìn chung hai vùng này không có sự khác nhau nhiều về những mặt
lớn của nhân cách, mà sự khác biệt chỉ xuất hiện ở một vài tiểu thang đo mà
thôi. Số liệu chỉ ra rằng người thành phố có óc thẩm mỹ và thưởng thức nghệ
thuật hơn người nông thôn. Người thành phố cũng có năng lực, khôn ngoan
và làm việc hiệu quả hơn người nông thôn. Trong khi đó người nông thôn lại
dễ bỏ qua, dễ tha thứ và thích làm theo người khác hơn người thành phố.
Với phân bố điểm chuẩn được trình bày ở bảng 40 thì tỷ lệ người đạt
điểm cao ở mặt cầu thị, ham hiểu biết của người thành thị cao hơn người
nông thôn. Có thể thấy, người thành phố có tinh thần cầu tiến hơn người
nông thôn. Theo số liệu ở 40c, thì tỷ lệ người đạt điểm cao ở tiểu thang đo O3
(Hiểu xúc cảm và tình cảm nội tâm) của người thành phố cao hơn nông thôn.
Còn trong số người nông thôn thì những người nghèo nàn về trí tưởng tượng
ở đây lại cao hơn ở thành phố và việc chấp nhận các giá trị khác để cùng
chung sống cũng có tỷ lệ người ở nông thôn cao hơn thành phố. Phân bố
điểm ở các tiểu thang đo giữa nông thôn và thành thị được trình bày ở các
bảng 40a, b, c, d, e.
Bảng 40: Tỷ lệ % phân theo thang điểm về các mặt của nhân cách của lao động trẻ ở khu vực thành thị và nông thôn
Các mặt của nhân cách
Các nhóm điểm
Điểm thấp
<= 44
Điểm trung bình
45-55
Điểm cao
>= 56
TP NT TP NT TP NT
N: Nhiễu tâm 28.6 24.8 38.8 43.1 32.6 32.1
E: Hướng ngoại 31.8 29.6 38.1 41.5 30.1 28.9
O: Cởi mở 30.5 29.8 38.6 45.8 30.9 24.5
A: Dễ thương 34.0 29.8 36.8 37.9 29.2 32.3
C: Có ý chí phấn đấu 32.8 31.1 35.2 37.8 32.0 31.1
Bảng 40a: Tỷ lệ % theo nhóm điểm về mặt N “Nhiễu tâm” của lao động trẻ ở khu vực thành thị và nông thôn
Các tiểu thang đo của mặt NCác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
N1: Lo âuThành thị 28.4 45.9 25.7
Nông thôn 28.6 42.1 29.3
N2: Thù nghịch, hung tínhThành thị 29.6 41.8 28.6
Nông thôn 25.2 47.0 27.8
N3: Trầm cảmThành thị 26.6 48.1 25.4
Nông thôn 25.4 45.9 28.7
N4: Mặc cảm tự tyThành thị 20.3 52.0 27.8
Nông thôn 24.1 49.4 26.5
N5: Xung tínhThành thị 25.2 43.3 31.5
Nông thôn 28.2 44.8 27.0
N6: Dễ bị tổn thương do stressThành thị 23.7 52.6 23.7
Nông thôn 23.1 48.0 28.9
Bảng 40b: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về mặt E “Hướng ngoại” của lao động trẻ ở khu vực thành thị và nông thôn
Các tiểu thang đo của mặt ECác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
E1: Cởi mở, thân thiệnThành thị 30.1 45.9 24.0
Nông thôn 27.6 44.8 27.6
E2: Thích giao duThành thị 30.4 47.3 22.2
Nông thôn 29.9 39.4 30.8
E3: Tự khẳng địnhThành thị 26.9 44.3 28.8
Nông thôn 29.6 43.6 26.8
E4: Tích cực hoạt động Thành thị 20.8 55.2 24.0
Nông thôn 26.0 48.7 25.3
E5: Tìm kiếm sự kích thíchThành thị 31.4 43.5 25.1
Nông thôn 27.9 46.4 25.6
E6: Những xúc cảm tích cựcThành thị 25.1 45.7 29.1
Nông thôn 26.6 48.0 25.4
Theo kết quả hiển thị ở bảng 40a, 40b và 40d, không thấy có sự khác
biệt rõ rệt về tỷ lệ phân bố vào các nhóm điểm giữa lao động trẻ ở thành thị
và nông thôn ở các đặc điềm mặt nhiễu tâm, quan hệ liên nhân cách và dễ
chấp nhận hay dễ thương. Việc thể hiện những mặt này ở người thành thị và
nông thôn có thể coi là hoàn toàn như nhau. Điều đó cũng có nghĩa là môi
trường sống ở thành thị hay nông thôn không tạo ra sự khác biệt về các mặt
này trong nhóm lao động trẻ.
Bảng 40c: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về mặt O “Cởi mở” của lao động trẻ ở khu vực thành thị và nông thôn
Các tiểu thang đo của mặt CCác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
O1: Giàu tưởng tượngThành thị 19.0 51.3 29.7
Nông thôn 24.4 47.6 28.0
O2: Óc thẩm mỹThành thị 23.3 43.1 33.7
Nông thôn 26.9 43.5 29.6
O3: Hiểu xúc cảm, tình cảm nội tâmThành thị 22.9 44.1 33.1
Nông thôn 24.9 47.1 28.0
O4: Đa dạng hóa hoạt độngThành thị 19.1 57.4 23.4
Nông thôn 18.6 55.7 25.8
O5: Giàu ý tưởng Thành thị 29.6 43.6 26.8
Nông thôn 26.3 46.9 26.8
O6: Các giá trịThành thị 17.6 55.1 27.3
Nông thôn 23.2 52.0 24.8
Kết quả ở bảng 40c và 40e cho thấy có chút chênh lệch về tỷ lệ người
phân bố vào các nhóm điểm cao, trung bình hay thấp ở khu vực thành thị và
nông thôn.
Bảng 40d: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về mặt A “Dẽ thương” của lao động trẻ ở khu vực thành thị và nông thôn
Các tiểu thang đo của mặt ACác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
A1: Lòng tinThành thị 27.3 47.7 25.1
Nông thôn 27.8 46.7 25.5
A2: Thẳng thắn, chân tìnhThành thị 30.0 47.1 22.9
Nông thôn 27.7 45.2 27.0
A3: Vị thaThành thị 28.4 44.3 27.3
Nông thôn 25.5 45.4 26.6
A4: Phục tùng người khácThành thị 25.5 51.9 22.6
Nông thôn 21.3 47.7 31.0
A5: Khiêm tốnThành thị 28.0 45.4 26.6
Nông thôn 26.3 43.5 30.2
A6: Nhân hậuThành thị 24.6 46.8 28.5
Nông thôn 22.3 48.1 29.6
Bảng 40e: Tỷ lệ % phân theo nhóm điểm về mặt C “Có ý chí phấn đấu” của lao động trẻ ở khu vực thành thị và nông thôn
Các tiểu thang đo của mặt CCác nhóm điểm
Thấp Trung bình Cao
C1: Năng lựcThành thị 19.6 48.8 31.6
Nông thôn 26.7 44.8 28.5
C2: Ngăn nắpThành thị 33.0 36.5 30.5
Nông thôn 30.4 44.9 24.8
C3: Trách nhiệm, bổn phậnThành thị 27.6 42.7 29.8
Nông thôn 24.2 43.6 32.2
C4: Nỗ lực thành đạtThành thị 24.6 52.4 23.0
Nông thôn 24.3 47.9 27.8
C5: Kỷ luật tự giácThành thị 20.9 47.2 32.0
Nông thôn 23.3 40.0 36.7
C6: Thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡngThành thị 29.4 42.9 27.7
Nông thôn 27.1 38.9 34.0
1.4.3. So sánh các đối tượng ở các trình độ học vấn khác nhau
Theo số liệu ở bảng 41 thì giữa các đối tượng có trình độ học vấn khác
nhau có một số đặc điểm nhân cách tương đối khác nhau. Sự khác biệt lớn
nhất là khác biệt giữa hai đối tượng: trình độ học vấn thấp (cấp 1+2) và trình
độ học vấn trung cấp - cao đẳng. Ta biết rằng trung cấp - cao đẳng không
phải là trình độ học vấn cao nhất trong xã hội mà chỉ ở mức vừa phải nhưng
số liệu ở mẫu lao động trẻ cho thấy nhóm học vấn trung cấp - cao đẳng có
điểm ở N thấp nhất (là người ổn định về tâm thần nhất trong số các nhóm học
vấn khác nhau). Trong khi đó, những người có trình độ học vấn thấp có điểm
ở các tiểu thang đo của N cũng cao nhất (mất cân bằng về tâm thần nhất so
với các nhóm khác). Điểm ở các tiểu thang đo của mặt N còn cho thấy trình
độ học vấn đại học trở lên và cấp 3 có điểm khá bằng nhau, cho biết họ
tương đương nhau về các đặc điểm nhân cách ở mặt này.
Bảng 41: Điểm trung bình các mặt nhân cách của đối tượng ở các trình độ học vấn khác nhau
Học vấn
C1 + C2 Cấp 3 TC + CĐ ĐH
N: Cân bằng cảm xúc
N1
N2
N3
N4
N5
N6
89.890
5
15.91
14.34
15.03
16.47
13.75
14.58
82.4981
14.95
12.97
13.47
16.22
12.08
13.01
74.945
7
12.67
12.17
12.27
15.32
10.82
11.78
81.5484
14.87
12.52
13.31
16.28
11.66
12.77
E: Quan hệ liên nhân cách
E1
E2
E3
E4
E5
E6
107.64
19.69
18.22
16.47
17.85
17.31
17.49
111.52
21.15
19.32
16.72
19.28
16.72
18.34
113.88
21.67
19.60
16.66
20.22
17.35
18.68
109.15
20.56
18.47
16.17
19.34
16.03
18.20
O: Cầu thị, ham hiểu biết
O1
O2
O3
O4
99.41
14.79
17.27
16.95
16.32
104.62
15.51
19.70
17.77
16.18
108.58
15.55
20.26
18.71
17.17
105.27
15.74
20.18
18.13
16.01
O5
O6
16.68
17.25
17.36
18.38
17.97
18.89
16.57
18.82
A: Dễ chấp nhận
A1
A2
A3
A4
A5
A6
111.28
17.88
17.01
20.31
17.00
18.95
19.72
117.51
18.89
17.47
22.09
17.54
20.28
21.39
119.14
18.87
18.15
22.47
16.92
20.49
22.20
118.91
19.32
18.03
22.41
16.73
20.64
21.89
C: Tự kiểm tra, kiểm soát, làm chủ bản thân
C1
C2
C3
C4
C5
C6
118.44
18.16
18.83
21.67
20.14
18.54
20.67
126.89
19.33
20.36
23.61
21.42
20.15
21.80
132.83
20.24
21.75
24.75
22.22
20.87
22.42
128.88
19.90
20.93
24.20
21.93
20.21
21.68
Ta cũng thấy rằng những người có trình độ học vấn trung cấp và cao
đẳng còn rất khác biệt so với những người có trình độ cấp 1 và 2 ở mặt quan
hệ liên nhân cách. Những người có học vấn trung cấp - cao đẳng luôn đạt
điểm cao hơn so với người có học vấn thấp. Có thể hiểu là người có trình độ
trung cấp - cao đẳng có đặc điểm hướng ngoại hơn, trong khi người có học
vấn có xu hướng hướng nội hơn. Đặc biệt ở tiểu thang đo E4 (Tích cực hoạt
động) và E6 (Những xúc cảm tích cực) thì nhóm có học vấn thấp đạt điểm
thấp hơn hẳn. Số liệu đó có ý nghĩa: đây là những người thích nhịp sống đều
đều và nhàn tản, ít hồ hởi và hăng hái trong việc trải nghiệm cảm xúc ở mức
độ sâu sắc hơn những đối tượng có trình độ học vấn khác.
Mặt cầu thị, ham hiểu biết: những người có học vấn thấp đạt điểm thấp
tương đối lớn (không có tinh thần học hỏi), trung cấp - cao đẳng có điểm cao
nhất (có tính cầu thị và ham hiểu biết hơn). Điều đáng ngạc nhiên là không
phải những người lao động trẻ có học vấn cao nhất trong xã hội đạt được
điểm cao nhất về mặt này, trong khi đây là thang đo vốn được cho là có
tương quan rất mạnh với trình độ học vấn. Nó đặt ra một vấn đề đối với
những người trẻ tuổi vốn đứng vào hàng ngũ những người có tri thức cao
trong xã hội.
Trong thang đo về đặc điểm "Dễ thương", và “Có ý chí phấn đấu” ta
cũng thấy một xu hướng tương tự là những người có học vấn thấp đạt điểm
thấp nhất ở tất cả các mặt, học vấn trung cấp cao đẳng có điểm cao nhất.
Duy chỉ ở tiểu thang đo A1 (Lòng tin) và A5 (Khiêm tốn) thì những người có
học vấn cao từ Đại học trở lên đạt điểm cao nhất so với các trình độ học vấn
khác.
Với số liệu này ta có thể tin tưởng về khả năng ứng phó và vươn lên
của những người lao động trẻ tuổi có trình độ học vấn chưa phải cao nhất
trong xã hội khi họ có những đặc điểm nhân cách phù hợp.
1.4.4. So sánh các đối tượng có nghề nghiệp khác nhau
Trong bảng 42, có thể quan sát thấy rằng những người lao động trẻ ở
các nghề khác nhau cũng tương đối khác nhau ở một số mặt nhân cách. Sự
khác biệt lớn nhất về đặc điểm nhân cách được tìm thấy giữa những người
nông dân và giáo viên - trí thức. Sự tương đồng giữa một số nhóm nghề về
đặc điểm nhân cách cũng được phát hiện ở những đối tượng có mức điểm
tương đương. Cụ thể như sau:
- Ở mặt N (Nhiễu tâm) thì giáo viên - trí thức đạt điểm thấp nhất, nông
dân cao nhất, có nghĩa nông dân là những người có mức độ lo lắng bất an về
tâm thần hơn so với các nghề nghiệp khác, trong khi giáo viên trí thức lại cân
bằng và ổn định hơn. Trong tất cả các tiểu thang đo của mặt này ta đều quan
sát thấy một xu hướng điểm như vậy giữa hai nhóm đối tượng này.
- Mặt E (Hướng ngoại): Số liệu ở bảng 42 cho thấy người nông dân đạt
điểm ở thang đo này thấp nhất, trong khi điểm cao nhất thuộc về những
người công nhân. Như thế nông dân có xu hướng hướng nội hơn còn công
nhân có xu hướng hướng ngoại hơn trong quan hệ liên nhân cách. Số liệu
cũng chỉ ra rằng ở các tiểu thang đo của mặt này, giới kinh doanh trẻ có điểm
gần tương đương với giáo viên và trí thức.
- Mặt O là mặt bao quát tính cầu thị và ham hiểu biết thì người nông
dân đạt điểm thấp nhất, còn điểm cao nhất là của trí thức - giáo viên. Công
nhân và người kinh doanh trẻ có sự tương đồng với nhau về nhân cách ở
những khía cạnh trong mặt này.
- Sự khác biệt về nhân cách giữa nông dân và trí thức còn được tìm
thấy ở mặt A khi người nông dân có xu hướng, đạt điểm thấp nhất ở thang đo
này còn trí thức thì đạt điểm cao nhất so với các nhóm nghề khác. Tuy nhiên,
có thể thấy ở bảng số liệu rằng người nông dân có điểm cao nhất ở A4 (Phục
tùng người khác).
- Mặt C (Có ý chí phấn đấu) cũng có một xu hướng tương tự như ở trên
khi người nông dân có điểm thấp nhất, và trí thức có điểm cao nhất ở tất cả
các tiểu thang đo của mặt này so với các nghề khác. Đặc biệt trí thức cao hơn
hẳn ở C3 (Trách nhiệm, bổn phận)
Như vậy, sự khác biệt về nhân cách giữa các nhóm nghề khác nhau đã
được phát hiện ở một số mặt. Tuy nhiên, để chỉ ra đặc trưng nhân cách cho
từng nhóm nghề thì vẫn cần phải tìm hiểu thêm. Mặc dù vậy, có thể thấy rằng
nghề nghiệp và trình độ học vấn là hai nhân tố góp phần tạo ta sự phân biệt
về đặc điểm nhân cách trong mẫu lao động trẻ.
Bảng 42: Điểm trung bình các mặt nhân cách của đối tượng ở các nhóm nghề khác nhau
Nghề nghiệp
Công nhân
Nông dân
Giáo viên- Trí
Doanh nghiệp
thức
N: Cân bằng cảm xúc
N1
N2
N3
N4
N5
N6
82.9163
14.70
13.29
13.25
16.22
12.58
12.88
89.6637
15.94
14.06
15.45
16.46
13.36
14.76
79.7417
14.89
12.27
12.92
16.43
10.55
12.52
80.4204
13.74
12.60
13.13
15.49
13.03
12.48
E: Quan hệ liên nhân cách
E1
E2
E3
E4
E5
E6
112.85
21.03
19.64
16.89
19.07
17.44
18.67
106.16
19.94
17.98
16.10
17.72
16.89
17.06
110.87
21.59
18.74
16.36
19.94
15.80
18.36
109.35
19.26
18.63
16.57
19.29
16.93
18.33
O: Cầu thị, ham hiểu biết
O1
O2
O3
O4
O5
O6
103.36
15.21
18.68
17.44
16.11
17.66
18.22
100.24
14.78
18.31
17.05
16.45
16.55
16.97
107.15
16.07
20.15
18.42
16.17
17.45
19.15
104.34
15.43
20.28
18.19
16.29
15.81
18.61
A: Dễ chấp nhận
A1
A2
A3
A4
115.49
18.90
17.12
21.98
17.30
113.26
17.84
17.35
20.34
17.41
122.36
19.92
18.37
23.21
16.98
112.54
17.88
16.88
20.97
16.27
A5
A6
19.64
20.59
19.52
20.54
20.96
22.74
19.99
20.42
C: Tự kiểm tra, kiểm soát, làm chủ bản
thân
C1
C2
C3
C4
C5
C6
125.64
19.69
20.27
22.89
20.80
19.85
21.81
118.31
17.55
18.97
22.13
20.29
18.47
20.49
134.94
20.34
21.99
25.60
22.80
21.18
22.97
121.16
19.60
19.46
22.11
21.04
19.37
19.96
1.5. Mối tương quan giữa các mặt nhân cách
Chúng ta sẽ thử tìm hiểu các mặt nhân cách có mối liên quan với nhau
như thế nào ở mẫu lao động trẻ. Bảng 43 dưới đây hiển thị hệ số tương quan
giữa các mặt nhân cách. Số liệu chỉ ra rằng tất cả các mặt nhân cách đều có
mối tương quan với nhau một cách có ý nghĩa về mặt thống kê (với p < 0.05).
Tuy nhiên, nhìn vào hệ số tương quan hiển thị trên bảng 43 ta cũng thấy rằng
độ mạnh của mối tương quan này giữa các mặt không như nhau. Có mặt có
tương quan mạnh với mặt này nhưng không mạnh với mặt khác.
Ta thấy mặt C “Có ý chí phấn đấu” có mối tương quan mạnh nhất với
tất cả các mặt khác của nhân cách. Cụ thể là những người có năng lực làm
chủ bản thân, kiểm soát tốt ham muốn của mình (điểm cao ở mặt C) cũng là
những người cân bằng và ổn định về mặt tâm thần (điểm thấp ở mặt N),
hướng ngoại (điểm cao ở E), dễ chấp nhận người khác (điểm cao ở A) và cởi
mở, cầu thị, ham hiểu biết (điểm cao ở O) và ngược lại những người không
có năng lực làm chủ bản thân cũng là những người bất ổn về tâm thần, có xu
hướng hướng nội, không quảng giao, ít cầu thị và không ham hiểu biết, bảo
thủ.
Mặt A (Dễ thương) có tương quan thuận mạnh với mặt C tương quan
nghịch mạnh với mặt N, còn với hai mặt còn lại (O: cởi mở và E: hướng
ngoại) không được mạnh bằng. Có thể diễn giải là những người dễ chấp
nhận người khác cũng là những người ổn định về mặt cảm xúc, cân bằng về
tâm thần (điểm thấp ở N), có năng lực làm chủ bản thân (điểm cao ở C),
quảng giao (điểm cao ở E), cầu thị, ham tìm hiểu cái mới (điểm cao ở O) và
ngược lại.
Bảng 43: Hệ số tương quan giữa các mặt nhân cách
N: Nhiễu tâm
E: Hướng ngoại
O: Cởi mởA: Dễ
thương
E: Hướng ngoại -0.459
O: Cởi mở -0.355 0.489
A: Dễ thương -0.460 0.282 0.213
C: Có ý chí phấn đấu -0.647 0.523 0.450 0.632
Mặt Hướng ngoại (E) và Cởi mở, cầu thị, ham hiểu biết (O) cũng có
tương quan thuận tương đối mạnh với các mặt nhân cách (trừ mặt A). Số liệu
chỉ ra rằng những người đạt điểm cao ở mặt O và E thì cũng đạt điểm cao ở
A và C, nhưng đạt điểm thấp ở N. Mối tương quan chặt chẽ giữa các mặt
nhân cách cho thấy nhân cách là một thể rất thống nhất giữa các mặt, mỗi
một nhân cách không đứng độc lập mà có mối quan hệ mạnh với các mặt
nhân cách khác. Đây cũng là điểm đáng chú ý trong công tác dự báo và chẩn
đoán rối nhiễu nhân cách.
Như vậy, kết quả nghiên cứu về đặc điểm nhân cách của mẫu lao động
trẻ theo trắc nghiệm NEO PI-R có thể đưa đến một số nhận định sau về từng
mặt nhân cách của họ. Thứ nhất, mặt Nhiễu tâm, có những biểu hiện mất cân
bằng về cảm xúc ở một bộ phận không nhỏ, nhất là khả năng kiểm soát xung
tính không chơi thể hiện sự lo lắng, trầm cảm, cảm giác tư ty, mặc cảm. Thứ
hai, mặt Hướng ngoại, một số tớn không có tính quảng giao, tự khẳng định
không cao, tính tích cực hoạt động đạt mức trung bình. Thứ ba, mặt cởi mở,
ham hiểu biết, một tỷ tệ không nhỏ những người trẻ tuổi có óc thẩm mỹ, giàu
trí tưởng tượng cũng như có khả năng trải nghiệm những xúc cảm mạnh mẽ,
sâu sắc Tuy nhiên khả năng đa dạng hoá hoạt động để khâm phá cái mới chỉ
đạt mức trung bình, đồng thời khả năng chấp nhận các giá trị khác, giá trị mới
để chung sống hoà bình cũng đạt mức trung bình. Thứ tư, mặt dễ thương, dễ
chấp nhận, một bộ phận thể hiện sự thiếu tin tưởng ở người khác, thiên sự
thẳng thắn chân tình, thiếu lòng vị tha. Nhưng cũng có một số không nhỏ có
lòng nhân hậu và khiêm tôn trong quan hệ và những người xung quanh. Và
cuối cùng, mặt có ý chí phấn đấu, tự chủ và kiểm soát bản thân, phần lớn lao
động trẻ có ý thức hoàn thành công việc có trách nhiệm với bổn phận của
mình, có năng lực để ứng phó với các vấn đề trong cuộc sống. Tuy nhiên một
số không nhỏ khác lại chưa có tính ngăn nắp, trật tự.
Tổng hợp 5 mặt của nhân cách cho thấy trong mẫu lao động trẻ những
người có nhiều đặc điểm nhân cách trội, thuận lợi trong cuộc sống xã hội như
sự cầu thị, ham hiểu biết, cân bằng cảm xúc, tích cực hoạt động… chiếm tỷ lệ
thấp hơn so với những người có những đặc điểm bất lợi gây ra một số khó
khăn nhất định trong cuộc sống như sự lo lắng, bất an, tự khẳng định thấp,
thiếu tin tưởng người khác…
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy nghề nghiệp và trình độ học vấn là
hai yếu tố thể hiện rõ đặc thù mang tính tương phản của nhân cách, đặc biệt
trong những đặc điểm như tính nhiễu tâm (sự mất cân bằng, lo lắng), sự cầu
thị, ham hiểu biết. Nghiên cứu cũng phát hiện thấy giữa các nhóm khác nhau
(giới tính, khu vực, nghề nghiệp và trình độ học vấn) có một số khác biệt về
đặc điểm nhân cách.
Các đặc điểm nhân cách có một tương quan chặt chẽ với nhau theo
các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào từng mặt, từng đặc điểm. Điều này thể
hiện tính thống nhất của các đặc điểm nhân cách trong một chỉnh thể.
Kết quả còn cho thấy đặc điểm vai trò của yếu tố môi trường đối với
đặc điểm của nhân cách như sau: Các yếu tố môi trường khác nhau ảnh
hưởng đến nhân cách ở các mức độ khác nhau; Chúng có vai trò không như
nhau đối với sứ hình thành đặc điểm nhân cách; Cùng một yếu tố môi trường
ảnh hưởng không như nhau đến các đặc điểm nhân cách khác nhau. Như
vậy, vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cũng
phải đa dạng, nhiều cấp độ và quan tâm đến nhiều mặt khác nhau thống nhất
trong một tổng thể chung.
2. Kết quả nghiên cứu qua phiếu hỏi bổ sung NEO PI-R
2.1. Lý tưởng phấn đấu
2.1.1. Lý tưởng phấn đấu
Các số liệu ở bảng 1 cho phép khẳng định rằng, về cơ bản, đội ngũ
những người lao động trẻ ở nước ta hiện nay có lý tưởng phấn đấu lành
mạnh (Điểm trung bình: ĐTB của các nhận định dương tính 4, 5, 7, 21, 58
đều lớn hơn 3, tức lớn hơn điểm trung vị 2,5 khá nhiều, ĐTB của nhận định
âm tính 9 thấp hơn 2). Nếu phân tích các kết quả khảo sát theo tỷ lệ phần
trăm chúng ta sẽ thấy được một cách cụ thể hơn nhận thức, thái độ của
những người lao động trẻ hiện nay đối với những vấn đề liên quan đến lý
tưởng phấn đấu. Các kết quả thu được từ khảo sát thực tiễn cho thấy 75,1%
những người lao động tham gia khảo sát khẳng định mục tiêu phấn đấu của
họ là làm sao cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, 83,7%
số người mong muốn đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng đất nước,
trở thành những người có ích cho xã hội. 87,5% số người nhất trí rằng Đảng
Cộng sản Việt Nam đã rất sáng suốt khi chủ trương tăng cường cải cách nền
kinh tế đất nước, ổn định xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bảng 44: Lý tưởng phấn đấu của những người lao động trẻ
Các ý kiến ĐTB% theo phương án trả lời
0 1 2 3 4
4. Tôi coi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh là lý tưởng phấn
đấu của mình
3,13 3,4 5,3 16,2 24,950,
2
5. Tăng cường cải cách kinh tế, ổn định xã hội
theo định hướng XHCN là sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng và nhân dân ta
3,49 2,0 3,3 7,3 18,858,
7
7. Tôi có nguyện vọng đóng góp sức mình xây
dựng đất nước3,15 1,8 4,4 15,6 33,4
44,
8
9. Tôi thiếu nhiệt tình và niềm tin vào đường lối
phát triển kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN
1,59 23,4 26,2 27,6 13,5 9,3
15. Tôi chỉ mong muốn được làm người tốt,
không nhất thiết phải phấn đấu trở thành đảng
viên
2,73 8,5 12,1 15,5 25,438,
4
49. Tôi chỉ mong xã hội ổn định về chính trị, kinh
tế phát triển, bớt tiêu cực, còn phát triển theo
định hướng XHCN hay không, không quan trọng
2,25 13,1 16,1 22,1 23,922,
7
58. Nhìn chung, nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN hiện nay đang tạo cho tôi cuộc
sống dễ chịu hơn
3,02 3,5 3,7 18,5 35,938,
4
21. Tôi luôn mong muốn làm được một điều gì
đó giúp ích cho đất nước3,28 20,0 3,9 10,3 30,9
52,
8
Từ khi nước ta tiến hành cải cách nền kinh tế đất nước, cơ chế quản lý
theo kiểu bao cấp được thay thế bằng cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống của người dân đã
không ngừng được nâng cao. 74,3% số người tham gia đợt khảo sát này đã
nhận xét như vậy.
Tuy nhiên, cùng với những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong
mọi mặt cuộc sống, nhiều hiện tượng tiêu cực đã nảy sinh, xuất hiện ngay
trong cả đội ngũ những người đảng viên - đội ngũ tiên phong trong các cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước trước đây. Những hạn
chế của cách thức quản lý xã hội không theo kịp sự phát triển của thực tiễn
cuộc sống cũng ngày càng bộc lộ rõ. Chính vì vậy không ít người đã giảm sút
niềm tin vào xã hội XHCN, vào những người đảng viên. "Trở thành đảng viên"
đã không còn là cái đích phấn đấu của nhiều người (ĐTB của các nhận định
liên quan đến những vấn đề này đều thấp hơn 3, thấp hơn hoặc cao hơn
điểm trung vị chút ít). Theo các kết quả khảo sát thì 46,6% số người được hỏi
chỉ mong muốn xã hội ổn định về chính trị, kinh tế phát triển, các hiện tượng
tiêu cực giảm bớt, còn đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
hay không đối với họ không quan trọng. Nếu chúng ta gộp cả 23,1% số người
đồng ý một phần với nhận định trên thì sẽ có một con số rất đáng quan tâm:
69,7%. 79,3% số người cho rằng, chỉ cần phấn đấu làm người tốt là được,
không nhất thiết phải trở thành đảng viên, trong đó 63,8% số người đồng ý về
cơ bản với ý kiến này và 15,5% - đồng ý một phần. 22,8% số người hoàn toàn
khẳng định rằng họ thiếu nhiệt tình và niềm tin vào đường lối phát triển kinh tế
theo định hướng XHCN của Đảng và 27,6% - phần nào cũng cảm thấy như
vậy. Ở một mức độ nhất định, những số liệu này cảnh báo rằng, một phần
khá lớn những người lao động trẻ hiện nay ít quan tâm đến những vấn đề
thuộc hệ tư tưởng chính trị, họ có cái nhìn thực dụng hơn đối với những vấn
đề liên quan đến cuộc sống của đất nước nói chung và của bản thân nói
riêng. Điều này cũng có nghĩa rằng các chủ trương phát triển kinh tế đất nước
theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN chỉ thu phục được niềm tin của
người dân khi đường lối đó thật sự tạo ra được một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, giảm thiểu các hiện tượng tiêu cực, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
2.1.2. Tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc
Bảng 45: Tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc của người lao động trẻ
Các ý kiến ĐTB% theo phương án trả lời
0 1 2 3 4
2. Tôi cho rằng tinh thần yêu nước, tự hào dân
tộc là những giá trị đạo đức quan trọng3,51 1,7 3,1 7,3 17,7
70,
1
6. Tôi luôn cho rằng, nền văn hóa VN thật sự có
bản sắc riêng, rất đáng tự hào3,52 1,8 2,4 5,4 23,4
67,
1
10. Tôi luôn cảm thấy tự hào mình là người VN3,47 3,0 3,1 6,9 17,4
69,
6
17. Mỗi khi được tiếp xúc với những giá trị văn
hóa của thế giới, tôi lại có mặc cảm, tự ti về
những gì gọi là giá trị văn hóa VN
1,33 37,6 23,0 16,9 13,3 9,2
19. Có lúc tôi mơ ước sau này mình được mang
quốc tịch nước ngoài như Anh, Mỹ, Pháp hoặc
Úc hơn là quốc tịch VN
0,75 59,5 20,7 10,5 4,4 4,9
22. Nếu có chiến tranh xảy ra, tôi sẵn sàng chiến
đấu cho Tổ quốc mình3,44 1,8 4,6 6,9 21,1
65,
6
36. Nếu có điều kiện, tôi muốn được ra nước
ngoài sinh sống và làm việc1,71 22,5 24,1 26,3 13,8
13,
3
Khi tiếp xúc với giá trị văn hoá của thế giới, có đến 22,5% số người có
cảm giác tự ti về những giá trị văn hoá của Việt Nam và 16,9% số người đôi
khi cũng có những trải nghiệm tương tự như vậy. Về thực chất, những số liệu
này phản ánh những cảm nhận xúc cảm của con người trong những hoàn
cảnh khác nhau: Cảm giác tự ti, một mặt, phản ánh sự thiếu tự tin của một số
người đối với bản thân và những gì mà họ có, mặt khác, sự tồn tại của cảm
giác đó ở một bộ phận những người lao động đã cho thấy rằng việc giáo dục
văn hoá ở nước ta trong thời gian qua chưa được thực hiên thật tốt.
2.1.3. Thái độ đối với những vấn đề chính trị, thời sự
Bảng 46. Thái độ đối với những vấn đề chính trị, thời sự của người lao động trẻ
Các ý kiến ĐTB% theo phương án trả lời
0 1 2 3 4
1. Tôi quan tâm đến các chương trình thời sự
trong nước và quốc tế3,15 2,3 5,6 15,6 27,7
48,
8
3. Tôi chỉ quan tâm đến công việc riêng của mình
mà ít để ý đến những vấn đề chính trị, thời sự1,31 32,1 27,9 22,9 10,8 6,3
13. Tôi hay quan tâm và bàn luận về những vấn
đề liên quan đến chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước
2,72 4,2 6,7 30,4 30,028,
7
20. Những người xung quanh tôi thường có
chung nhận xát rằng tôi là người luôn tích cực
trong các hoạt động chính trị xã hội
2,37 5,1 14,1 37,3 26,217,
3
Các giá trị của ĐTB ở bảng 46 cho phép nhận xét rằng những người
lao động trẻ hiện nay không phải là những người thờ ơ với các vấn đề thời
sự, chính trị nói chung (ĐTB của nhận định dương tính 1 lớn hơn 3 và ĐTB
của nhận định âm tính 3 nhỏ hơn 2). Điều này được thể hiện ở sự quan tâm
của phần lớn trong số họ (76,5%) tới các chương trình thời sự trong nước và
quốc tế. Tuy nhiên, tồn tại một thực trạng là sự quan tâm của họ đến các chủ
trương, chính sách của Đảng lại ít hơn và số người tích cực trong các hoạt
động chính trị xã hội càng ít: ĐTB của các nhận định liên quan đến những vấn
đề này chỉ xấp xỉ điểm trung vị, với các tỷ lệ phần trăm tương ứng là 58,7% và
43,5%. Những số liệu này khá phù hợp với những gì chúng ta đã phân tích ở
phần lý tưởng phấn đấu của những người lao động trẻ: họ có cái nhìn khá
thực dụng đối với những vấn đề liên quan đến cuộc sống và dường như ít
chú ý đến những vấn đề liên quan đến hệ tu tưởng, đồng thời cho thấy, ý
thức chính trị của những người lao động trẻ chưa thật cao. Sự quan tâm tới
các chương trình thời sự có thể nâng tầm hiểu biết của người lao động về
những diễn biến thời sự trong nước và quốc tế song điều đó chưa thể hiện
tính tích cực chính trị của họ. Nhiều người trong số họ chưa có ý thức thể
hiện quan điểm chính trị của mình trong các hoạt động thực tiễn. Điều này
còn thể hiện ở chỗ các chủ trương, đường lối của Đảng là những vấn đề có
liên quan trực tiếp tới sự phát triển của đất nước, đến đời sống của toàn dân
cũng chưa được nhiều người quan tâm.
2.1.4. Thái độ đối với xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá, mở cửa, hội
nhập
Bảng 47. Thái độ đối với toàn cầu hóa, quốc tế hóa, mở cửa, hội nhập của người lao động
Các ý kiến ĐTB% theo phương án trả lời
0 1 2 3 4
30. Tôi cảm thấy mình chưa được chuẩn bị tốt
để thích ứng với một xã hội mở cửa, hội nhập2,17 8,6 16,2 33,1 27,8
12,
3
54. Tôi coi toàn cầu hóa, quốc tế hóa là một xu
thế tất yếu, mọi người cần phải tìm cách thích
nghi
2,85 3,4 7,8 22,7 32,333,
8
57. Nhiều người phản đối xu huống quốc tế hóa,
toàn cầu hóa. Tôi cũng muốn làm như họ1,26 36,7 29,4 15,1 8,2
10,
5
59. Tôi coi mở cửa, hội nhập với các nước trong
khu vực và thế giới là xu thế tất yếu và mỗi
người cần phải học cách thích nghi
3,23 2,1 4,7 11,7 30,351,
1
61. Tôi không mong đợi gì ở xu thế mở cửa và
hội nhập của xã hội1,11 39,8 31,5 13,2 9,2 6,3
78. Tôi cảm thấy lo sợ hơn là hy vọng ở xu thế
mở cửa và hội nhập của xã hội VN hiện nay1,56 21,2 31,1 27,2 11,0 9,5
Nhìn chung, những người lao động trẻ ủng hộ xu thế mở cửa, hội nhập
(ĐTB = 3,23) hơn là việc quốc tế hoá, toàn cầu hoá (ĐTB 2,85). Cụ thể là
81,4% số người cho rằng mở cửa, hội nhập là xu thế tất yếu và mỗi người
phải học cách thích nghi, trong khi đó chỉ có 66,1% số người có cách nhìn
tương tự đối với vấn đề quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Có đến 28,7% số người
phản đối xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá và 15,1% số người đồng ý một
phần với quan điểm phản đối đó. Có lẽ các phong trào phản đối quốc tế hoá,
toàn cầu hoá đang diễn ra trên thế giới đã có tác động đến cách nhìn nhận
của một số người lao động vì vấn đề này có liên quan trực tiếp đến tương lai
việc làm của họ.
Mặc dù nhiều người lao động đã nhìn nhận xu thế mở cửa, hội nhập là
xu thế tất yếu, nhưng nhiều người trong số họ chưa chuẩn bị sẵn sàng để đón
nhận sự kiện này. Có đến 73,2% số người khẳng định họ chưa chuẩn bị tốt
để thích ứng với việc mở cửa, hội nhập thế giới của đất nước, thậm chí
20,5% số người còn lo sớ trước sự kiện này và 15,5% tỏ ra thờ ơ, không
mong đợi gì ở xu thế mở cửa, hội nhập. Có thể thấy rõ là giúp việc nhận thức
về tính tất yếu của xu thế phát triển của đất nước và việc chủ động đón nhận
xu thế đó ở người lao động có một khoảng cách đáng kể. Đối với những
người lao động trẻ, việc làm là một vấn đế thiết yếu. Xu thế mở cửa, hội nhập,
quốc tế hoá, toàn cầu hoá là những xu thế có liên quan trực tiếp đến vấn đề
việc làm của người lao động, đặc biệt là những người lao động có trình độ
nghề nghiệp thấp như ở nước ta hiện nay. Rõ ràng trong thời gian qua, nước
ta đã chưa làm tốt công tác chuẩn bị, đặc biệt là đào tạo, nâng cao tay nghề
cho người lao động để họ có thể tự tin đón nhận những xu thế phát triển tất
yếu của đất nước.
Tuy nhiên, những người lao động trẻ không giống nhau về thái độ đối
với những vấn đề liên quan đến đất nước và con đường phát triển đất nước.
Trong so sánh ba miền Bắc, Trung, Nam thì những người ở miền Trung tin
tưởng vào Đảng, vào CNXH, quan tâm đến những vấn đề thời sự chính trị
hơn. Thứ đến là những người lao động ở miền Bắc và cuối cùng là miền Nam
(Về lý tưởng: ĐTB tổng của nhóm khách thể ở miền Bắc = 21,36; ở miền
Trung = 22,71 và ở miền Nam = 20,48; p < 0,05). Nhưng những người lao
động ở cả ba miền lại không khác nhau trong việc nhìn nhận những vấn đề
quốc tế hoá, toàn cầu hoá, mở cửa và hội nhập.
Những người lao động ở trung du, miền núi cũng là những người tin
tưởng vào Đảng, vào CNXH hơn những người ở các vùng đồng bằng (Về lý
tưởng: ĐTB tổng của nhóm khách thể ở đồng bằng = 20,87; ở trung du, miền
núi = 23,74; p = 0,000);
Những người có trình độ cao đẳng, đại học có thái độ chấp nhận xu
hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá, mở cửa, hội nhập và chuẩn bị để thích ứng
với những xu thế đó tốt hơn những người những người có trình độ học vấn
thấp hơn (ĐTB tổng của nhóm khách thể có trình độ THCS = 14,52; của nhóm
THPT = 15,84; của nhóm trung cấp, cao đẳng = 17,85 và của nhóm đại học =
16,57, p < 0,05). Theo các nhóm ngành nghề thì nông dân là những người có
thái độ ít chấp nhận nhất và cũng ít được chuẩn bị để thích ứng với những xu
thế phát triển của xã hội trong tương lai nhất (ĐTB tổng của nhóm công nhân
= 15,76; nhóm nông dân = 14,48; nhóm tri thức = 17,69; nhóm giáo viên =
16,91 và nhóm doanh nghiệp = 16,42; p = 0,000).
2.2. Thái độ đối với một số vấn đề liên quan đến cuộc sống
2.2.1. Thái độ đối với cuộc sống nói chung
Nhìn chung, những người lao động trẻ có thái độ tương đối tích cực đối
với cuộc sống (ĐTB tích cực = 2,62, ĐTB tiêu cực = 1,30). Những số liệu điều
tra cho thấy, mặc dù chỉ có 46,4% số người nhận thấy rằng cuộc sống của họ
đang diễn ra đúng như họ mong muốn, 41,2% số người thường hài lòng với
bản thân, song 69,8% - tin tưởng rằng tương lai của họ sẽ tốt đẹp, 80,0% -
khẳng định những gì tốt đẹp nhất của cuộc đời đang chờ họ ở phía trước,
73,6% - cảm thấy vui vẻ với cuộc đời và 48,5% - không cảm thấy buồn chán
khi làm bất cứ việc gì. Về cơ bản, họ là những người thường trải nghiệm các
xúc cảm tích cực hơn là tiêu cực họ khá nhiệt tình (ĐTB=3,00), tốt bụng
(ĐTB=2,95), yêu thương mọi người (ĐTB=2,89), khá tự tin (ĐTB=2,73), lạc
quan (ĐTB=2,70), tự cảm thấy mình là những người có ích cho xã hội
(ĐTB=2,73).
Có thể nhận xét rằng năng lực của nhiều người lao động là có hạn và
những thành quả mà họ gặt hái được trong cuộc đời nhờ những năng lực của
bản thân có thể không được nhiều, nhưng những quan hệ giữa người với
người gần gũi, thân thiện, tin cậy lẫn nhau đã làm cho cuộc sống của những
người lao động vui vẻ hơn. Và có lẽ nhờ đó mà họ có thêm nghị lực để vươn
lên trong cuộc sống. Kết quả của cuộc khảo sát trên 891 người lao động trẻ
tại 6 tỉnh cho thấy rằng, tuy chỉ có 51,0% số người cảm thấy họ luôn suy nghĩ
mạch lạc và sáng tạo, 49,8% - cảm thấy họ có thể làm bất cứ điều gì mà họ
muốn, 56,5% - có thể đương đầu với bất cứ chuyện gì xảy ra với bản thân,
nhưng 81,4% số người cảm thấy gần gũi, thân thiện với những người xung
quanh, 67,1% - cảm thấy mình được yêu thương và tin cậy và 68,2% - tự
khẳng định họ là những người luôn có nghị lực trong cuộc sống.
Bảng 48. Thái độ đối với cuộc sống của người lao động
Các ý kiến ĐTB% theo phương án trả lời
0 1 2 3 4
1. Tôi luôn tươi cười2,66 4,4 8,1 28,5 35,0
24,
0
3. Tôi cảm thấy mình được yêu mến và tin cậy2,79 2,1 4,5 26,3 46,4
20,
7
6. Tôi thường hài lòng với mình2,27 6,5 17,0 35,2 25,6
16,
6
7. Cuộc sống của tôi diễn ra đúng như tôi muốn2,39 5,6 12,5 36,4 30,4
16,
0
9. Tôi không cảm thấy buồn chán khi làm bất cứ
việc gì2,28 12,5 14,2 24,7 29,9
18,
6
10. Tương lại của tôi sẽ tốt đẹp2,92 2,4 6,2 21,7 36,8
33,
0
12. Tôi cảm thấy gần gũi, thân thiện với những
người xung quanh3,11 2,1 4,4 12,1 43,2
38,
2
14. Tôi có thể đương đầu với bất cứ điều gì xảy
ra2,57 4,5 10,5 28,5 36,1
20,
0
18. Trong cuộc sống là người luôn có nghị lực2,83 2,3 5,4 24,2 43,1
25,
1
19. Tôi luôn suy nghĩ mạch lạc và sáng tạo2,51 3,8 7,7 37,4 35,6
15,
4
20. Tôi luôn cảm thấy mình có thể làm bất cứ
điều gì2,48 5,1 10,1 35,1 30,9
18,
9
ĐTB nhóm 2,62
Những biểu hiện thái độ tiêu cực
4. Cuộc sống của tôi dường như đang theo lối
mòn quen thuộc, buồn tẻ1,49 23,7 30,1 27,0 11,6 7,6
5. Tôi hay có những ý nghĩ vẩn vơ, lẩn quẩn, vô
tích sự1,67 21,0 26,6 27,8 13,5
11,
0
8. Tôi luôn cảm thấy mình đơn độc, mặc dù
không muốn thế1,42 26,9 31,4 22,2
111,
67,9
11. Tôi cảm thấy có cái gì đó không ổn với mình 1,74 15,4 27,5 34,2 13,8 9,2
13. Cuộc sống dường như chả có gì thật sự làm
cho tôi vui thú cả1,03 40,5 33,1 13,6 7,9 4,8
15. Tôi cảm thấy mình giống như một kẻ thất bại 1,05 38,3 33,9 17,5 5,1 5,2
16. Tôi mất hứng thú với người khác và không
quan tâm đến những gì xảy ra với họ1,23 29,3 36,0 21,9 7,3 5,4
17. Tôi nghĩ những năm tháng đẹp nhất của đời
mình đã kết thúc0,79 55,1 24,9 10,6 4,2 5,2
ĐTB nhóm 1,30
Tuy nhiên, có thể mức sống của những người lao động trẻ chưa cao và
đặc biệt đời sống tinh thần chưa được cải thiện nhiều và điều đó đã làm cho
một số người có cảm giác buồn tẻ. Các kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy
dù 72,2% số người khẳng định mình không phải là người thất bại trong cuộc
sống, nhưng có đến 19,2% - có cảm giác dường như cuộc sống của họ đang
đi theo lối mòn buồn tẻ và 27,0% số người cũng đồng ý một phần với nhận
định như vậy; 19,5% - cảm thấy đơn độc trong cuộc đời và 22,2% đôi khi
cũng cảm thấy điều đó; 23,0% - cảm thấy có cái gì đó không ổn đối với mình
và 34,2% - đồng ý một phần với ý kiến nêu trên; 24,5% số người hay có
những ý nghĩ vẩn vơ, vô tích sự và 27,8%. - đôi khi cũng ở vào tình trạng
đó… Những số liệu này cho chúng ta thấy được phần nào đời sống tinh thần
nghèo nàn của người dân. Đây là một thực trạng rất đáng quan tâm.
Tìm hiểu những mong muốn trong 5 năm, tới của những người lao
động trẻ, chúng tôi nhận thấy rằng những mong muốn của họ khá bình dị, chủ
yếu xoay quanh những vấn đề như hạnh phúc gia đình, sức khoẻ và việc làm.
Những mong muốn này, một mặt thể hiện hệ giá trị cuộc sống truyền thống
của dân tộc, mặt khác, thể hiện những vấn đề bức xúc mà con người đang
trải qua trong cuộc sống hiện tại.
Với câu hỏi “Ông (bà) hãy cho biết 3 điều mong muốn quan trọng nhất
của mình trong 5 năm tới” và "Ông (bà) hãy liệt kê 3 nỗi lo sợ nhất của mình
trong 5 năm tới", chúng tôi đã thu được các kết quả sau.
Bảng 49. Ba mong muốn quan trọng nhất trong 5 năm tới của những người lao động trẻ (%)
Những điều mong muốnMong muốn
TổngThứ 1 Thứ 2 Thứ 3
0. Không trả lời 2,9 5,6 4,5 13,0
1. Học tập 8,5 5,6 7,2 21,3
2. Hạnh phúc gia đình 23,7 43,2 31,4 98,3
3. Nghề nghiệp phù hợp 26,3 18,6 21.0 65,9
4. Sức khoẻ tốt 23,1 8,7 6,9 38,6
5. Quan hệ tốt với mọi người 0,3 1,2 1,5
6. Kinh tế gia đình phát triển 6,1 7, 1 10,5 23,7
7. Xã hội ổn định, kinh tế đất nước phát
triển
9,4 10,9 17,4 31,7
100,0 100,0 100,0
Bảng 50. Ba nỗi lo sợ nhất mong 5 năm tới của những người lao động trẻ (%)
Các nỗi lo sợNỗi lo sợ thứ
1
Nỗi lo sợ thứ
2
Nỗi lo sợ thứ
3Tổng
0. Không trả lời 6,5 9,5 10,5 26,5
1. Không có việc làm, làm không đúng
nghề
21,0 23,6 21,6 66,2
2. Gia đình không hạnh phúc 14,8 27,5 29,5 71,8
3. Sức khoẻ không tốt 35,8 16,5 10,2 62,5
4.Thiên tai, địch hoạ 12,3 9,9 9,8 32,0
5. Xã hội không ổn định, tiêu cực, kinh
tế đất nước kém phát triển
5,8 6,7 10,2 22,7
6. Mất kiểm soát bản thân, là người
không có ích
2,6 6,0 7,3 15,9
7. Thi trượt 1,3 0,4 0,7 2,4
100,0 100,0 100,0
Trên cơ sở các số liệu ở bảng 49, bảng 50 có thể thấy rằng, đối với
những người lao động trẻ ở nước ta hiện nay hạnh phúc gia đình, nghề
nghiệp phù hợp với khả nặng và điều kiện của bản thân, sức khoẻ và xã hội
ổn định, kinh tế đất nước phát triển là những giá trị được nhiều người xem là
quan trọng. Đó là những giá trị gắn liền với những mong muốn đạt được nhất
của họ cũng như những nỗi lo sợ bị mất chúng. Đây là những giá trị cuộc
sống liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau, tạo nên một cuộc sống yên
bình: Trong bốn giá trị đó thì hạnh phúc gia đình và nghề phù hợp là những
giá trị nổi trội hơn, được quan tâm nhiều hơn. 98,3% số người nhìn nhận
hạnh phúc gia đình như 1 trong 3 mong muốn quan trọng nhất. Thứ đến là
nghề nghiệp phù hợp với 65,9% số người lựa chọn, sức khoẻ với 38,6% số
người lựa chọn và xã hội ổn định, kinh tế đất nước phát triển với 37,7% số
người lựa chọn. Tương ứng với những nhìn nhận trên, 71,8% số người lo sợ
gia đình không hạnh phúc; 66,2% - lo mất việc làm hoặc phải làm những việc
không đúng với nghề của mình; 62,5% - lo sức khoẻ không tốt và 22,7% - lo
xã hội không ổn định, nhiều tiêu cực, kinh tế đất nước kém phát triển. Ngoài
ra, 32,0% số người còn lo xảy ra thiên tai, dịch hoạ.
Khi tìm hiểu xem những người lao động hiện nay coi trọng những vấn
đề nào hơn trong số 6 vấn đề là sức khoẻ, học vấn, đạo đức, tiền bạc, quyền
lực và hạnh phúc gia đình chúng tôi nhận thấy rằng phần lớn trong số họ
đánh giá cao giá trị của sức khoẻ. Nếu như 79,9% số người cho rằng sức
khoẻ là vấn đề quan trọng số một thì chỉ có khoảng từ 1,0% đến 10,1% số
người đánh giá các vấn đề còn lại có giá trị như vậy. Tiếp theo sức khoẻ là
các vấn đề như học vấn, đạo đức và hạnh phúc gia đình. Cuối cùng là tiền
bạc và quyền lực. Như vậy, ngoài sức khoẻ thể chất như một điều kiện rất
cần thiết để có thể có được mọi thứ khác trong cuộc sống, thì các phẩm chất
đạo đức của nhân cách và tri thức của con người vẫn là những giá trị rất
được người lao động coi trọng.
So sánh những số liệu nêu trên có thể có thể dẫn đến nhận xét rằng,
đối với những người lao động trẻ hiện nay, mặc dù họ rất coi trọng sức khoẻ,
nhưng vấn đề này không gây cho họ nhiều lo lắng, mà hạnh phúc gia đình và
việc làm mới là những vấn đề phải làm cho họ để tâm suy nghĩ nhiều.
Nhìn chung, những người lao động trẻ là những người khá hiện thực và
tự tin. Họ tự nhận thấy rằng, về cơ bản, họ là những người có khả năng thực
hiện các ước nguyện của mình, có thể biến chúng thành hiện thực. Nếu
chúng ta xây dựng một thang đo gồm 7 mức độ đánh giá khả năng thực hiện
các ước nguyện, từ mức hoàn toàn không có khả năng (được thể hiện bằng
số 1) đến hoàn toàn có khả năng (được thể hiện bằng số 7), với số 4 thể hiện
mức trung tính thì những kết quả khảo sát cho thấy rằng khoảng 2/3 số người
tham gia khảo sát (từ 68,1% đến 76,2%) tự đánh giá mình có khả năng thực
hiện các ước nguyện của mình với các mức độ khác nhau từ mức 5 đến mức
7, trong đó có đến 1/5 số người tin rằng họ hoàn toàn có khả năng thực hiện
các ước nguyện đó. Tuy nhiên, trong cuộc sống nhiều điều bất trắc có thể xảy
ra mà con người không thể lường trước được. Vì vậy khoảng 1/3 số người
cho rằng những nỗi lo sợ của họ có thể xảy ra trong thực tế và khoảng gần
30% - cảm thấy mình không có khả năng ngăn ngừa nỗi lo đó.
Trong số những người lao động tham gia khảo sát thì những người mới
chỉ tốt nghiệp trung học cơ sở, những người nông dân là những người có thái
độ đối với cuộc sống ít tích cực hơn cả (Theo trình độ học vấn: ĐTB tổng của
nhóm THCS = 48,56; nhóm THPT - 51,15; nhóm TC,CĐ = 52,49 và nhóm ĐH
= 50,28, p < 0,01. Theo nghề nghiệp: ĐTB tổng của nhóm công nhân - 50,81;
nhóm nông dân = 47,54; nhóm tri thức = 52,76; nhóm giáo viên = 52,51 và
nhóm doanh nghiệp = 49,23; p = 0,000). Có lẽ những khó khăn trong cuộc
sống của bản thân họ là một nguyên nhân khiến họ có thái độ như vậy.
2.2.2. Ý thức tôn trọng pháp luật
Bảng 51. Ý thức tôn trọng pháp luật của những người lao động trẻ
Các ý kiến ĐTB% theo phương án trả lời
0 1 2 3 4
8. Mọi người cần phải sống và làm việc
theo pháp luật
3,6 1,1 4,8 3,9 13,4 76,9
11. Theo tôi, nếu vô tình vi phạm các
quy đính ơ nơi công cộng thì cũng
chẳng sao
1,26 35,2 27,8 10,7 12,5 5,8
16. Nếu không thấy cảnh sát giao thông
làm nhiệm vụ, tôi sẵn sàng vượt đèn đỏ
0,82 57,5 18,1 12,6 5,8 4,9
18. Tôi cho rằng mình là người nghiêm
chinh chấp hành pháp luật
3,12 3,9 2,6 13,8 36,4 43,2
23. Tôi không cảm thấy áy náy nếu vi
phạm pháp luật hoặc một quy định
chung nào đó mà không ai biết
1,40 36,2 24,2 14,1 14,6 10,9
25. Tôi cảm thấy ân hận mỗi khi vi 3,06 3,6 6,2 14,6 31,8 43,8
phạm một điều quy định chung nào đó
33. Tôi đã nhiều lần làm ngơ khi thấy
người khác làm sai pháp luật
1,58 23,1 23,3 34,0 12,0 7,5
Theo đánh giá của bản thân những người tham gia khảo sát thì những
người lao động trẻ hiện nay là những người có ý thức tôn trọng pháp luật
tương đối cao. Điều này thể hiện ở chỗ phần lớn trong số họ có nhận thức
đúng đắn rằng cần phải sống và làm việc theo pháp luật và họ cũng là những
người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật (ĐTB của các nhận định dương tính
đều cao hơn 3, ĐTB của các nhận định âm tính đều thấp hơn 2). Kết quả cụ
thể như sau: 90,3% số người cho rằng, mọi người cần phải sống và làm theo
pháp luật; 79,6% - tự đánh giá mình là người chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật; 75,6% - cảm thấy ân hận khi vi phạm một điều quy định chung nào đó.
Tuy nhiên ý thức bảo vệ pháp luật trước những hành vi sai trái của người
khác chưa phải cao: chỉ có 46,4% số người đã không làm ngơ khi thấy người
khác vi phạm pháp luật.
Các nhà doanh nghiệp là những người có ý thức pháp luật thấp nhất
trong so sánh với những nhóm người khác (ĐTB tổng của nhóm công nhân =
20,53; nhóm nông dân = 20,63; nhóm tri thức = 20,41; nhóm giáo viên =
22,44 và nhóm doanh nghiệp = 18,71; p = 0,000).
2.2.3. Thái độ đối với đồng tiền
Bảng 52. Thái độ đối với đồng tiền của người lao động trẻ
Các ý kiến ĐTB% theo phương án trả lời
0 1 2 3 4
35. Tôi thích làm những công việc kiếm
được nhiều tiền, bất kể là công việc gì1,44 27,9 24,6 30,4 9,7 7,4
37. Tôi thích kiếm tiền bằng nghề mình
được đào tạo3,48 1,6 3,3 6,6 22,2 66,3
39. Giàu có về tri thức không bằng giàu 1,38 35,9 22,0 21,8 9,4 10,9
có bằng tiền bạc
47. Tôi không quan tâm đến việc làm gì
và bằng cách nào, miễn là kiếm được
nhiều tiền
1,01 40,8 33,9 13,8 6,1 5,4
50. Tôi thích làm một công việc an
nhàn, ít phải cố gắng mà có thu nhập
cao
1,84 16,3 24,8 30,3 16,0 12,6
52. Tôi muốn có việc làm được trả
lương cao, còn đúng nghề được đào
tạo hay không, không quan trọng
1,59 20,9 27,6 33,4 11,7 8,4
Các số liệu ở bảng 52 cho thấy, nhìn chung những người lao động trẻ
có thái độ khá đúng đắn đối với đồng tiền và cách kiếm tiền (ĐTB của các
nhận định dương tính đều lớn hơn 3, ĐTB các nhận định âm tính đều nhỏ
hơn 2). Tuy nhiên, phân tích cụ thể hơn chúng ta sẽ thấy có những vấn đề
đáng lưu ý. Trong xã hội hiện nay cách nhìn nhận về giá trị của đồng tiền đã
có nhiều thay đổi so với trước đây Ngoài giá trí như là điều kiện, là phương
tiện cần thiết để đảm bảo cuộc sống, đồng tiền còn được gán cho nhiều giá trị
khác nữa. Sống trong nền kinh tế thị trường, một số người đã đề cao quá
mức giá trị của đồng tiền. Theo các kết quả thu được thì 57,8% số lao động
trẻ tham gia khảo sát không chấp nhận quan điểm cho rằng giàu tri thức
không bằng giàu tiền bạc, nhưng cũng có tới 20,3% đánh giá cao giá trị đồng
tiền hơn tri thức của con người và 21,8% - phần nào đồng ý với cách nhìn
nhận như vậy.
Phần lớn người lao động vẫn mong muốn kiếm tiền bằng những cách
chính đáng. 88,5% số người muốn được kiếm tiền từ nghề mà họ đã được
đào tạo, 74,7% phản đối cách kiếm tiền bằng bất cứ cách nào hoặc bất cứ
việc gì mà không cần suy nghĩ. Tuy nhiên, những người lao động có trình độ
học vấn thấp, mới chỉ tốt nghiệp trung học cơ sở và các nhà doanh nghiệp là
những người chú trọng đến việc kiếm tiền mà ít chú ý đến cách thức thực
hiện điều đó (Theo trình độ học vấn: ĐTB tổng của nhóm THCS = 14,99;
nhóm THPT = 16,89; nhóm TC,CĐ = 17,84 và nhóm ĐH = 16,19; p = 0,000.
Theo nghề nghiệp: ĐTB tổng của nhóm công nhân = 15,79; nhóm nông dân =
15,70; nhóm tri thức = 16,47; nhóm giáo viên = 17,91 và nhóm doanh nghiệp
= 14,86; p = 0,000). Có lẽ trình độ nghề nghiệp và tính chất công việc là
những nhân tố có ảnh hưởng đến thái độ như vậy.
2.2.4. Thái độ đối với môi trường
Bảng 53. Thái độ đối với môi trường của người lao động trẻ
Các ý kiến ĐTB% theo phương án trả lời
0 1 2 3 4
8. Mọi người cần phải sống và làm việc
theo pháp luật3,6 1,1 4,8 3,9 13,4 76.9
11. Theo tôi, nếu vô tình vi phạm các
quy định ở nơi công cộng thì cũng
chẳng sao
1,26 35,2 27,8 10,7 12,5 5,8
16. Nếu không thấy cảnh sát giao thông
làm nhiệm vụ, tôi sẵn sàng vượt đèn đỏ0,82 57,5 18,1 12,6 5,8 4,9
18. Tôi cho rằng mình là người nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật3,12 3,9 2,6 13,8 35,4 43,2
23. Tôi không cảm thấy áy náy nếu vi
phạm pháp luật hoặc một quy định
chung nào đó mà không ai biết
1,40 36,2 24,2 14,1 14,6 10,9
25. Tôi cảm thấy ân hận mỗi khi vi
phạm một điều quy định chung nào đó3,06 3,6 6,2 14,6 31,8 43,8
33. Tôi đã nhiều lần làm ngơ khi thấy
người khác làm sai pháp luật1,58 23,1 23,3 34,0 12,0 7,5
Trên cơ sở các giá trị của các ĐTB (bảng 53) có thể nhận xét rằng, về
nhận thức nói chung thì những người lao động trẻ hiểu rõ sự cần thiết phải
bảo vệ môi trường (ĐTB của nhận định dương tính 45 bằng 3,58; ĐTB của
nhận định âm tính 53 bằng 1,02). Song nếu phải xem xét vấn đề môi trường
trong mối quan hệ với những vấn đề khác như phát triển kinh tế và tiêu dùng
thì thái độ ủng hộ việc bảo vệ môi trường của người lao động có phần giảm
sút (ĐTB của nhận định 68 bằng 2,92; ĐTB của nhận định 12 bằng 2,86). Cụ
thể, chúng ta có những số liệu phần trăm như sau: 90,0% số người khẳng
định rằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải đi đôi với việc bảo vệ
môi trường. Việt Nam hiện nay là một nước có nền kinh tế chậm phát triển,
vậy mà vẫn có tới 73,3% số người không đồng ý với quan điểm cho rằng Việt
Nam cần chú trọng phát triển kinh tế hơn là bảo vệ môi trường và chỉ có
15,5% số người đồng ý với nhận định trên. Tuy nhiên, nếu có 66,8% số người
đồng ý với quan điểm cho rằng, cần phải ưu tiên cho việc bảo vệ môi trường,
cho dù điều đó có làm chậm tốc độ phát triển kinh tế thì cũng có 9,4% số
người không đồng tình với quan điểm này và 23,8% số người băn khoăn,
không biết phải nhìn nhận thế nào. Nếu 64,2% số người đồng ý với việc phải
hạn chế sử dụng túi ni lông trong sinh hoạt, thì cũng có 12,5% số người
không đồng tình với quan điển trên và 23,3% - có quan điểm trung dung. Tuy
nhiên, nếu chúng ta lưu ý rằng trong mẫu khảo sát có tới 47,4% số người ở
nông thôn - nơi mà đời sống của đại đa số người dân còn nghèo khó thì có
thể thấy rằng nhận thức của người lao động về vấn đề bảo vệ môi trường là
cao. Đáng tiếc rằng chúng ta chưa có những giải pháp, quy định hữu hiệu để
người dân biến nhận thức của họ thành hành động thực tiễn bảo vệ môi
trường. Ngoài ra, những số liệu nêu trên cũng cho thấy rằng, trên thực tế,
việc giải quyết vấn đề môi trường không thể tách biệt với những vấn đề khác
của đời sống con người, vì vậy việc giáo dục ý thức môi trường cho người
dân cần được tiến hành trong những mối quan hệ cụ thể, gắn với cuộc sống
của họ thì mới có thể đạt được hiệu quả cao.
Những người có trình độ học vấn thấp, từ trung học phổ thông trở
xuống, những người là nông dân, công nhân là những người có thái độ bảo
vệ môi trường thấp nhất (Theo trình độ học vấn: ĐTB tổng của nhóm THCS =
14,13; nhóm THPT = 14,83; nhóm TC,CĐ = 15,82 và nhóm ĐH = 15,27; p =
0,000. Theo nghề nghiệp: ĐTB tổng của nhóm công nhân = 14,45; nhóm
nông dân = 14,41; nhóm trí thức = 15,96; nhóm giáo viên = 16,22 và nhóm
doanh nghiệp = 14,21; p = 0,000). Thông thường đây là những nhóm người
có mức sống tương đối thấp trong so sánh với những nhóm khác và điều đó
buộc họ phải chú ý tới việc ưu tiên phát triển kinh tế nhằm đảm bảo cuộc
sống. Ngoài ra, tính chất nghề nghiệp cũng có thể là nhân tố tác động đến
thái độ đối với việc bảo vệ môi trường. Các nhà doanh nghiệp cũng là những
người ít chú ý đến vấn đề bảo vệ môi trường.
2.3. Thái độ của người lao động đối với những vấn đề liên quan đến công việc.
2.3.1. Thái độ đối với công việc nói chung
Bảng 54. Thái độ đối với công việc của người lao động trẻ
Các ý kiến ĐTB% theo phương án trả lời
0 1 2 3 4
14. Công việc mà tôi đang làm rất phù
hợp khả năng của tôi3,13 2,2 7,1 15,4 26,3 48,0
24. Tôi không phải là người kiên trì
trong công việc1,47
28,
525,5 23,8 14,5 7,6
26. Tôi cho rằng ngành nghề mà tôi
đang làm đã và sẽ có những đóng góp
thiết thực cho xã hội
3,42 1,8 3,4 8,8 23,1 62,9
28. Tôi thường không tìm thấy niềm
vui trong công việc1,39
30,
026,3 23,2 9,9 8,5
29. Trong công việc tôi là người chịu
khó, nghiêm túc và yêu cầu cao với
bản thân
3,05 2,3 4,5 15,7 41,1 36,5
31. Trong công việc nhiều lúc tôi cảm
thấy thiếu sự tự tin cần thiết1,93
14,
019,7 37,6 16,3 12,4
32. Tôi muốn làm một công việc khác,
chứ không phải nghề tôi đang làm1,34
38,
018,3 24,4 10,2 9,1
34. Tôi luôn tự tin trong lĩnh vực nghề
nghiệp của mình3,06 2,8 5,3 18,0 30,74 43,2
Các số liệu ở bảng 54 cho thấy nhìn chung những người lao động trẻ là
những người có thái độ tương đối tích cực đối với công việc (ĐTB các nhận
định dương tính đều lớn hơn 3, ĐTB các câu nhận định âm tính đều nhỏ hơn
2). Tuy nhiên, việc phân tích cụ thể hơn các kết quả thu được cho thấy những
vấn đề rất đáng quan tâm, nhất là đối với những người quản lý loa động và có
trách nhiệm đối với hiệu quả làm việc của họ. Chúng ta thấy rằng, phần lớn
trong số họ (86,0%) thấy được ý nghĩa xã hội của công việc mà họ đang làm,
khẳng định rằng những công việc đó đã và sẽ có những đóng góp thiết thực
cho sự phát triển của đất nước.
Họ (77,6%) là những người có thái độ nghiêm túc đối với công việc của
mình. Họ tự tin, đồng thời nghiêm khắc và có những yêu cầu cao đối với bản
thân. Có điều đáng ngạc nhiên là dù có tới 75,3% số người khẳng định rằng
nghề nghiệp mà họ đang làm phù hợp với khả năng của họ, song chỉ có
57,3% muốn tiếp tục làm nghề hiện nay, 19,3% số người muốn đổi nghề và
24,4% đứng giữa ngã ba đường, tiếp tục theo nghề cũng được mà chuyển
nghề cũng được. Những người có trình độ học vấn thấp từ THPT trở xuống ít
gắn bó với nghề hơn những người khác (ĐTB tổng của nhóm THCS = 21,00;
nhóm THPT = 22,30; nhóm TC,CĐ = 24,28 và nhóm ĐH = 23,16; p = 0,000).
Những người lao động là nông dân, công nhân và doanh nghiệp cũng là
những người ít gắn bó với nghề hơn cả (ĐTB tổng của nhóm công nhân =
21,82; nhóm nông dân = 21,04; nhóm tri thức = 24,25; nhóm giáo viên =
24,58 và nhóm doanh nghiệp = 21,95; p = 0,000)… Những số liệu này cho
thấy một thực trạng đáng quan tâm, bởi sự không gắn bó với nghề của người
lao động thường làm cho họ thiếu tính sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp,
thiếu nhiệt tình và đương nhiên, hiệu quả công việc không cao. Thực trạng
này có thể có nhiều nguyên nhân, có những nguyên nhân từ phía người lao
động, cũng có những nguyên nhân từ phía những người quản lý lao động.
Các kết quả nghiên cứu thực tiễn của đề tài cho thấy rằng, trong tổng số 891
người lao động tham gia khảo sát có 22,1 % số người khẳng định chắc chắn
rằng họ hoàn toàn không kiên trì trong công việc và 23,8% - chỉ kiên trì ở mức
vừa phải; 28,7% - hoàn toàn thiếu tự tin trong công việc và 37,6% - cũng cảm
thấy phần nào như vậy; 18,4% - hoàn toàn không tìm thấy niềm vui trong
công việc và 23,2% - đôi lúc cũng thấy như vậy. Rõ ràng, sự cảm nhận ý
nghĩa xã hội của nghề, sự phù hợp với nghề chưa phải là những điều kiện đủ
để người lao động gắn bó với nghề nghiệp của mình. Kết quả của một số
nghiên cứu khác cho thấy rằng việc tạo niềm vui trong công việc, hình thành
hứng thú và niềm tin trong nghề là những nhân tố rất có ý nghĩa đối với hiệu
quả hoạt động nghề nghiệp của người lao động cũng như sự gắn bó của họ
với nghề.
2.3.2. Thái độ học tập
Bảng 55. Thái độ học tập của người lao động trẻ
Các ý kiến ĐTB% theo phương án trả lời
0 1 2 3 4
38. Nỗ lực học tập là cách tốt nhất để
chuẩn bị cáo tương lai3,50 1,8 3,7 7,1 17,1 70,3
41. Học suốt đời là cách tốt nhất để
thích ứng với xã hội hiện nay3,17 3,8 2,2 13,7 24,5 52,8
43. Tôi thường xuyên tự học nhằm mở
rộng kiến thức và nâng cao kỹ năng của
mình
2,95 3, 1 4,4 22,1 35,1 35,3
44. Tôi tin rằng những người có ý thức
học tập suốt đời sẽ có nhiều cơ hội
thành công hơn trong xã hội hiện nay
3,42 1,5 2,6 8,9 26,3 60,8
46. Không ngừng tự học là một tiêu 3,40 2,4 5,2 6,3 22,7 63,4
chuẩn quan trọng của con người trong
thời kỳ CNH, HĐH
51. Những người xung quanh nhận xét
rằng tôi là người ham học2,30 6,0 10,8 43,3 26,8 13,2
60. Tôi ít có khả năng tự học 1,71 17,9 28,7 28,9 1,34 11,1
69. Tôi thường đọc thêm sách báo hoặc
tài liệu để nâng cao kiến thức3,21 2,4 5,2 12,3 20,5 50,5
71. Thường xuyên tự học là cách tốt
nhất giúp tôi thành công3,08 3,4 5,4 15,2 31,5 44,5
Những người lao động trẻ hiện nay hiểu rất rõ vai trò của việc không
ngừng học tập đối với hoạt động nghề nghiệp (ĐTB của các nhận đỉnh liên
quan đến vấn đề này đạt giá trị từ 3,4 đến 3,5). Cụ thể là từ 86,1% đến 87,4%
số người hiểu rằng, không ngừng học tập là cách tốt nhất để chuẩn bị cho
tương lai, đó là tiêu chuẩn quan trọng của con người trong thời kỳ CNH, HĐH,
là cơ hội để thành công trong công việc. Tuy nhiên, theo đánh giá của bản
thân họ thì họ cũng khá tích cực học tập để đáp ứng những đòi hỏi của công
việc (ĐTB các nhận định liên quan xấp xỉ bằng 3). Thế nhưng chỉ có 40,0% số
người được những người xung quanh đánh giá là người ham học và chỉ có
46,6% cho rằng họ có khả năng tự học. Rõ ràng nhận thức về vai trò của việc
học tập đối với công việc của người lao động trẻ cao hơn hẳn tính tích cực
học tập của chính bản thân họ. Những người có trình độ học vấn từ trung
cấp, cao đẳng trở lên và những người là tri thức, giáo viên và doanh nghiệp là
những người có thái độ tích cực học tập cao nhất (ĐTB tổng của nhóm
TC,CĐ = 29,38; nhóm ĐH = 28,77 so với ĐTB tồng của nhóm THCS = 25,06
và nhóm THPT = 26,57; p = 0,000; và ĐTB tổng của nhóm tri thức = 29,37;
nhóm giáo viên = 29,67; nhóm doanh nghiệp = 27,42 so với ĐTB tổng của
nhóm công nhân = 25,50 và nhóm nông dân = 25,80; p < 0,05). Những người
lao động ở miền Trung cũng là những người luôn có thái độ học tập cao,
đúng như truyền thống của họ (ĐTB tổng của nhóm miền Bắc = 27,03; nhóm
miền Trung = 28,08 và nhóm miền Nam - 26,94; p < 0,05).
2.3.3. Nhu cầu sử dụng vi tính, ngoại ngữ và công nghệ mới
Bảng 56. Nhu cầu sử dụng vi tính, ngoại ngữ và công nghệ mới của người lao động trẻ
Các ý kiến ĐTB% theo phương án trả lời
0 1 2 3 4
48. Tôi có nhu cầu ứng dụng công nghệ
mới cho việc học tập và công việc của
mình
2,99 2,7 5,6 18,7 36,4 36,6
55. Tôi thích tìm hiểu về công nghệ
thông tin2,66 7,3 6,1 26,9 26,8 26,8
56. Tôi có nhu cầu sử dụng intemet vào
việc học tập hoặc công việc2,53 12,9 9,6 21,5 25,0 31,6
67. Tôi thích tìm hiểu và thích học cách
làm chủ các công nghệ mới2,73 6,2 7,7 21,6 37,1 28,1
70. Tôi có khả năng sử dụng intemet để
tìm kiếm các thông tin mình cần2,01 23,4 16.6 17,1 21,5 21,5
72. Tôi biết sử dụng máy tính 2,41 21,7 8,2 14,8 18,1 37,2
74. Tôi thích tìm thông tin cho mục đích
học tập và công việc qua intemet2,34 12,3 14,1 24,4 25,3 23,9
75. Tiếng Anh là một công cụ không thể
thiếu trong cuộc sống của tôi2,33 13,3 12,7 26,4 22,5 25,0
76. Giỏi ngoại ngữ là một mục tiêu phấn
đấu rất quan trọng của tôi2,42 10,8 12,2 27,1 24,0 25,9
79. Máy tính là một công cụ không thể
thiếu trong cuộc sống của tôi2,27 15,5 13,3 23,0 25,1 23,1
Nhìn chung, những người lao động trẻ hiện nay có nhu cầu sử dụng
công nghệ mới và làm chủ công nghệ mới hơn là sử dụng máy tính? song các
nhu cầu nhìn chung không cao lắm (ĐTB của các nhận định liên quan đến
việc sử dụng công nghệ mới đều cao hơn ĐTB của các nhận định liên quan
đến sử dụng vi tính, ngoại ngữ và đều có giá trị thấp hơn 3). Cụ thể là
73,0%.số người có nhu cầu sử dụng công nghệ mới và 65,2% - thích làm chủ
công nghệ mới, trong khi đó chỉ có 56,6% số người có nhu cầu sử dụng
intemet, 55,3% - biết sử dụng máy tính và 43,0% - biết sử dụng internet. Chỉ
có gần một nửa số người cho rằng máy tính và tiếng Anh là những phương
tiện quan trọng, không thể thiếu trong cuộc sống và cũng ngần ấy người phấn
đấu để giỏi ngoại ngữ.
Những người có nhu cầu cao về sử dụng máy vi tính, ngoại ngữ và
công nghệ mới là những người có trình độ học vấn từ trung cấp, cao đẳng trở
lên (ĐTB tổng của nhóm THCS = 20,00; nhóm THPT: 22,98; nhóm TC,CĐ =
28,00 và nhóm ĐH = 28,23; p = 0,000), những người là tri thức, giáo viên và
đặc biệt là những nhà doanh nghiệp (ĐTB tổng của nhóm công nhân = 21,20;
nhóm nông dân = 21,82; nhóm tri thức = 30,53; nhóm giáo viên = 24,94 và
nhóm doanh nghiệp = 31,60; p = 0,000)… Những người lao động ở thành
phố, đồng bằng cũng có nhu cầu về các đối tượng này cao hơn hẳn các vùng
nông thôn, trung du, miền núi (ĐTB tổng của nhóm thành phố = 26,30 và
nhóm nông thôn = 23,07; p = 0,000. ĐTB tổng của nhóm đồng bằng = 25,43
và nhóm trung du, miền núi - 22,41; p = 0,000). Nếu so sánh ba miền Bắc,
Trung, Nam thì thấy rằng những người lao động ở miền Nam là những người
có nhu cầu sử dụng và biết sử dụng máy vi tính, ngoại ngữ và các công nghệ
mới cao nhất, thứ đến là miền Trung và sau cùng là miền Bắc (ĐTB tổng của
nhóm miền Bắc = 21,43; nhóm miền Trung = 24,38 và nhóm miền Nam =
28,72; p = 0,000). Có lẽ tính chất công việc nghề nghiệp của mỗi nhóm người
và tốc độ phát triển kinh tế ở từng vùng là những nguyên nhân tạo ra sự khác
biệt nêu trên.
2.3.4. Khả năng thích ứng, cạnh tranh
Bảng 57. Khả năng thích ứng, cạnh tranh của người lao động trẻ
Các ý kiến ĐTB% theo phương án trả lời
0 1 2 3 4
40. Thích ứng và cạnh tranh là hai năng
lực cốt lõi của người lao động trong thời
kỳ CNH, HĐH
3,07 2,3 5,3 16,9 34,6 41,0
62. Tôi có thể dễ dàng điều chỉnh để
thích nghi với hoàn cảnh mới2,65 3,8 8,3 28,7 36,8 22,3
63. Tôi tin tưởng mình có thế thích ứng
được với những thay đổi nhanh chóng
của xã hội hiện nay
2,75 2,4 7,1 27,7 39,1 23,8
64. Trong xã hội hiện nay, người có
năng lực thích ứng và cạnh tranh sẽ có
nhiều cơ hội thành công hơn
3,19 2,6 4,7 11,7 32,9 48,1
65.Tôi luôn cảm thấy lúng lóng môi khi
phải đối mặt với những vấn đề mới lạ2,21 6,4 14,3 44,0 22,5 12,7
66. Tôi cảm thấy mình chưa được
chuẩn bị tôi để thích ứng với một xã hội
lấy cạnh tranh làm động lực phát triển
2,21 7,2 17,0 36,6 26,2 13,0
73. Mở của và hội nhập tạo ra những
cơ hội và thách thức. Tôi đang tích cực
chuẩn bị để sẵn sàng thích nghi với một
xã hội như vậy
2,86
77. Tôi có khả năng thích ứng với một
xã hội lấy cạnh tranh làm động lực phát
triển
2,39
Phần lớn những người lao động trẻ rất coi trọng năng lực thích ứng và
cạnh tranh trong thời kỳ CNH, HĐH (ĐTB của các nhận định có liên quan đều
lớn hơn 3). Kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy rằng 75,6% số người coi đây
là những năng lực cất lõi của người lao động trong thời đại hiện nay, 81,0% -
tin rằng những năng lực này tạo cho con người cơ hội để thành công. Tuy
nhiên, chỉ có 68,0% số người tích cực chuẩn bị để thích nghi với xã hội mới
và cũng gần từng ấy người tin rằng mình có thể thích ứng được. Hơn thế
nữa, chỉ có 20,8% số người cảm thấy vững tin trước những vấn đề mới lạ và
24,2% - nhận thấy mình đã được chuẩn bị tốt để đón nhận những thử thách
mới trong tương lai. Rõ ràng những người lao động đã nhận thức rõ những
khó khăn đang chờ đợi họ trong tương lai, nhưng họ chưa được chuẩn bị tốt
để đón nhận chúng.
Những người có trình độ học vấn thấp, đặc biệt là chỉ tốt nghiệp trung
học cơ sở và những người là nông dân là những người có khả năng thích
ứng và cạnh tranh thấp nhất (Theo trình độ học vấn: ĐTB tổng của nhóm
THCS = 18,72; nhóm THPT = 20,18; nhóm TC,CĐ = 21,86 và nhóm ĐH:
21,52; p = 0,000. Theo nghề nghiệp: ĐTB tổng của nhóm công nhân = 20,23;
nhóm nông dân = 18,66; nhóm trí thức = 22,37; nhóm giáo viên = 21,42 và
nhóm doanh nghiệp = 21,42; p = 0,000)
2.3.5. Khả năng tìm và tự tạo việc làm
Bảng 58. Khả năng tìm và tự tạo việc làm của người lao động trẻ (ĐTB)
Các ý kiến ĐTB% theo phương án trả lời
0 1 2 3 4
80. Tôi có khả năng tìm việc làm cho
mình2,64 5,7 10,2 26,9 28,3 28,9
81. Tôi có khả năng tự tạo việc làm cho
mình2,46 8,6 12,6 27,3 27,5 24,1
82. Tôi luôn thiếu việc làm 1,51 28,9 26,3 21,6 11,6 11,7
83. Nhiều người thiếu việc làm, trong
khi tôi làm không hết việc1,97 13,5 21,3 33,6 18,1 13,5
84. Nhiều người lo sợ mất việc làm,
không tìm dược việc làm, tôi cũng giống
như họ
1,88 21,6 21,9 22,4 15,6 18,6
85. Một số người được nhiều nơi mời
làm việc, tôi cũng thuộc nhóm này1,73 18,9 25,2 26,5 18,5 9,9
Nhìn chung, khả năng tìm và tự tạo việc làm của những người lao động
trẻ chỉ ở mức trung bình (ĐTB của các nhận định liên quan có giá trị từ 2,64
trở xuống). Các số liệu thu được từ khảo sát thực tiễn cho thấy, chỉ có khoảng
hơn một nửa số người lao động trẻ hiện nay (từ 51% đến 57%) có khả năng
tự tìm việc hoặc tự tạo việc làm cho mình. 31,6% số người làm không hết việc
và 19,4% - được nhiều nơi mời làm việc. Trong khi đó 23,3% số người thiếu
việc làm và 34,2% - lo mất việc.
Những người lao động có trình độ học vấn thấp, mới chỉ tốt nghiệp
trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông khó tìm việc hơn cả. Trong khi đó
những người có trình độ trung cấp, cao đẳng lại dễ tìm việc hơn những người
có trình độ đại học (ĐTB tổng của nhóm THCS = 11,66; nhóm THPT = 13,43;
nhóm TC,CĐ - 14,56 và nhóm ĐH = 14,21; p = 0,000). Xét theo nghề nghiệp
thì những người là nông dân hoặc công nhân là những người khó tìm việc
nhất, trong khi tri thức và doanh nghiệp dễ tìm việc làm nhất (ĐTB tổng của
nhóm công nhân =12,98; nhóm nông dân = 12,15; nhóm trí thức - 14,89;
nhóm giáo viên = 13,78 và nhóm doanh nghiệp = 14,79; p < 0,05). Việc làm
đối với những người lao động ở miền Trung, ở nông thôn và đối với nữ giới là
vấn đề nan giải hơn so với các vùng miền hoặc đối tượng khác (ĐTB tổng
của nhóm thành phố = 13,88 so với nhóm nông thôn - 12,92; p = 0,000. ĐTB
tổng của nhóm miền Bắc = 13,571 nhóm miền Nam = 14,15 so với nhóm
miền Trung = 12,50; p = 0,001. ĐTB tổng của nhóm nam = 13,74 so với nhóm
nữ = 13,15; p < 0,05).
Bảng 59. Hệ số tương quan Spearson giữa khả năng tìm và tự tạo việc làm và các biến khác
Thái
độ học
tập
Khả
năng
thích
ứng,
cạnh
tranh
NC công
nghệ, vi
tính, ngoại
ngữ
Thái
độ đối
với
công
việc
Thái
độ đối
với
đồng
tiền
Thái độ
đối với
cuộc
sống
Khả năng tìm
và tự lạo việc
làm
0,298** 0,380** 0,323** 0,324** 0,168** 0,376**
Ghi chú: khi p < 0,01
So sánh mức độ tương quan giữa khả năng tự trên và tạo việc làm cho
bản thân với một s ố khả năng hay thái độ khác như khả năng học tập, thích
ứng, cạnh tranh, nhu cầu và khả năng sử dụng công nghệ, vi tính, ngoại ngữ,
thái độ đối với công việc, đối với đồng tiền, thái độ đối với cuộc sống… chúng
tôi thấy rằng thái độ đối với đồng tiền ít có liên quan với khả năng tìm và tự
tạo việc làm, trong khi đó khả năng học tập, thái độ đối với công việc, khả
năng sử dụng công nghệ, vi tính, ngoại ngữ, đặc biệt là khả năng thích ứng,
cạnh tranh và thái độ đối với cuộc sống có thể là những nhân tố quan trọng có
ảnh hưởng đến khả năng tìm và tự tạo việc làm của người lao động (hệ số
tương quan giữa những nhân tố đó với khả năng tìm và tự tạo việc làm dao
động từ 0,298 đến 0,380; p < 0,01). Nhìn chung, những người có những khả
năng nêu trên càng cao, có thái độ đối với công việc càng tốt thì khả năng tìm
và tự tạo việc làm cho bản thân càng lớn (tương quan thuận).
Như vậy, nghiên cứu nhân cách của lao động trẻ theo phiếu hỏi dựa
vào những yêu cầu đối với nguồn nhân lực cho công cuộc HĐH-CNH đất
nước cho thấy những người lạo động trẻ ở nước ta hiện nay về cơ bản, là
những người có lý tưởng phấn đấu, có tinh thần yêu nước, và có sự quan
tâm nhất định đến những vấn đề chính trị thời sự. Tuy nhiên, cũng không ít
người còn cảm giác tự ti về giá trị văn hoá Việt Nam, cũng như giảm sút niềm
tin vào XHCN. Họ chưa sẵn sàng đón nhận xu thế phát triển mới đang diễn ra
ở nước ta cũng như trên thế giới.
Nghiên cứu cũng cho thấy những người lao động trẻ phần lớn lạc quan
trong cuộc sống, tôn trọng pháp luật, có thái độ đúng đắn trong cách thức
kiếm tiền, trong việc bảo vệ môi trường. Song đời sống nghèo nàn, đơn điệu
của một bộ phận những người lao động trẻ tuổi có thể là một trong những
nguyên nhân hạn chế phần nào thái độ tích cực của họ đối với việc bảo vệ
môi trường, đối với đồng tiền và cách thức kiếm tiền.
Kết quả cho thấy đa số những người lao động trẻ có thái độ nghiêm túc
đối với công việc, nhưng bên cạnh đó, không ít người không tìm thấy niềm vui
trong công việc, họ thiếu tự tin nước yêu cầu và nhiệm vụ của cuộc sống mới.
Họ nhận thức được những yêu cầu đối với người lao động trong thời đại hiện
nay, có tinh thần và ý thức học tập nhưng khả năng thích ứng và cạnh tranh
của nhiều người còn hạn chế.
IV. MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH CHUNG TỪ KẾT QUẢ TRẮC NGHIỆM1. Số sánh kết quả nghiên cứu nhân cách giữa các nhóm mẫu
Kết quả so sánh sự khác biệt điểm trung bình ở từng mặt nhân cách
trên các thang đo của NEO PI-R giữa 3 nhóm khách thể: học sinh, sinh viên
và lao động trẻ cho thấy có sự khác biệt đáng kể ở tất cả các mặt: N, E, O, A
và C. Điểm trung bình của Mặt N (Nhiễu tâm) có xu hướng giảm dần từ học
sinh (90,97), sinh viên (86,81), đến lao động trẻ (83,16). Trái lại điểm trung
bình của Mặt C (Có ý chí phấn đấu) có xu hướng tăng dần từ học sinh
(111,37), sinh viên (123,31), đến lao động trẻ (126,13). So với học sinh, sinh
viên, điểm trung bình của nhóm lao động trẻ ở Mặt E (Hướng ngoại) và Mặt O
(Cởi mở) đều thấp hơn. Kết quả này dường như phù hợp với thực tế. Tuy
nhiên nếu so sánh điểm trung bình trên từng nét nhân cách giữa 3 nhóm
khách thể: học sinh, sinh viên và lao động trẻ thì chỉ có một số nét nhân cách
có điểm khác biệt có ý nghĩa, điều này có thể giải thích là có nhiều nét nhân
cách đường như đạt tới sự phát triển ổn định ngay ở tuổi 19-22.
Bảng 60. Sự khác biệt điểm trung bình ở từng nét nhân cách trên các nhóm học sinh, sinh viên và lao động trẻ
Các thang đo / tiểu thang đo
Học sinh
N = 830
Sinh viên
N = 638
Lao động trẻ
N = 915Mức độ
khác biệt
Trung bình
Lệch chuẩ
n
Trung bình
Lệch chuẩ
n
Trung bình
Lệch chuẩ
n
Mặt N
Mặt E
Mặt O
Mặt A
Mặt C
90.97
112.14
107.77
113.53
117.37
19.00
3
17.65
8
14.18
0
14.48
7
20.94
2
86.81
112.9
7
11097
115.6
2
123.3
1
20.29
17.06
8
13.35
2
13.33
3
19.09
5
83.16
109.9
2
104.0
5
116.9
2
126.1
3
18.27
15.09
1
12.98
3
15.34
6
22.17
6
.000
.001
.000
.000
.000
2. Nhận định chung
Kết quả nghiên cứu về đặc điểm nhân cách của mẫu lao động trẻ theo
trắc nghiệm NEO PI-R và phiếu hỏi có thể đưa đến một số nhận định sau.
1) Chân dung nhân cách của lao động trẻ ở nước ta hiện nay có thể
được phác thảo với những đặc điểm chính ở 5 mặt như sau.
a) Có những biểu hiện mất cân bằng về cảm xúc ở một bộ phận không
nhỏ, nhất là khả năng kiểm soát xung tính không được cạo, có chút lo lắng,
trầm cảm cũng như cảm giác tự ty, mặc cảm;
b) Một số lớn không có tính quảng giao, tự khẳng định không cao, tính
tích cực hoạt động đạt mức trung bình;
c) Một tỷ lệ không nhỏ những người trẻ tuổi có óc thẩm mỹ, giàu trí
tưởng tượng cũng như có khả năng trải nghiệm những xúc cảm mạnh mẽ,
sâu sắc. Tuy nhiên khả năng đa dạng hoá hoạt động để khám phá cái mới
của đạt mức trung bình, đồng thời khả năng chấp nhận các giá trị khác, giá trị
mới để chung sống hoà bình cũng đạt mức trung bình;
d) Một bộ phận thể hiện sự thiếu tin tưởng ở người khác thiếu sự thẳng
thắn chân tình, thiếu lòng vị tha. Nhưng cũng có một số không nhỏ có lòng
nhân hậu và khiêm tốn trong quan hệ với những người xung quanh;
e) Phần lớn lao động trẻ có ý thức hoàn thành công việc, có trách
nhiệm với bổn phận của mình, có năng lực để ứng phó với các vấn đề trong
cuộc sống. Tuy nhiên một số không nhỏ khác lại chưa có tính ngăn nắp, trật
tự.
2) Kết hợp 5 mặt của nhân cách cho thấy nhóm những người có nhiều
đặc điểm trội, có ưu thế chiếm tỷ lệ khiêm tốn hơn so với những người có một
số khó khăn nhất định trong cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, để thẩm định tính
chính xác của số liệu cũng cần có những nghiên cứu rộng và sâu sắc hơn về
phương pháp cũng như cách tiếp cận.
3) Trong những người có điểm cao và thấp của thang điểm thì nghề
nghiệp và trình độ học vấn là hai yếu tố thể hiện rõ đặc thù mang tính tương
phản của nhân cách, điều này không phát hiện thấy rõ nét ở yếu tố giới tính
và khu vực sinh sống.
4) So sánh các nhóm khác nhau (giới tính, khu vực, nghề nghiệp và
trình độ học vấn) cho thấy có sự khác biệt nhất định ở một số mặt về đặc
điểm nhân cách của nam và nữ, của người thành phố và nông thôn.
5) Các đặc điểm nhân cách có mối tương quan chặt chẽ với nhau theo
các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào từng mặt, từng đặc điểm. Điều này thể
hiện tính thống nhất của các đặc điểm nhân cách trong một chỉnh thể.
6) Kết quả này cho thấy đặc điểm vai trò của yếu tố điều kiện hoạt động
(môi trường) đối với đặc điểm của nhân cách như sau:
- Các điều kiện hoạt động khác nhau ảnh hưởng đến nhân cách ở các
mức độ khác nhau. Chúng có vai trò không như nhau đối với sự hình thành
đặc điểm nhân cách.
- Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
cũng đa dạng, nhiều cấp độ và quan tâm đến nhiều mặt khác nhau thống nhất
trong một tổng thể chung.
7) Đối chiếu với yêu cầu của người lao động mới ngày nay, có thể thấy
lực lượng lao động trẻ của nước ta hiện nay là những người có khả năng thể
hiện tinh thần trách nhiệm, có ý thức vươn lên, có khả năng nắm bắt những
kiến thức cơ bản để có thể làm chủ những kỹ năng nghề nghiệp. Họ có thể
cảm nhận được cái mới nhưng chưa sẵn sàng khám phá cái mới. Đây là điều
rất đáng chú ý trong việc giáo dục và phát triển tư duy sáng tạo cho giới trẻ.
Họ cũng có một số những đặc điểm khiến cho khó hợp tác với người khác
như thiếu lòng tin và sự thẳng thắn chân tình. Rõ ràng đây là những điểm đặt
ra cho hoạt động giáo dục ngày nay.
8) Đội ngũ những người lao động trẻ ở nước ta hiện nay, về cơ bản, là
những người có lý tưởng phấn đấu lành mạnh, có tinh thần yêu nước, tự hào
dân tộc, quan tâm đến những vấn đề chính trị thời sự trong nước và quốc tế,
nhận thức rõ ràng những xu thế phát triển tất yếu của thời đại hiện nay. Tuy
nhiên, cũng không ít người còn mặc cảm; tự ti về giá trị vặn hoá Việt Nam,
giảm sút niềm tin vào XHCN, ý thức chính trị thể hiện trong hoạt động thực
tiễn chưa cao và chưa được chuẩn bị tốt để đón nhận những xu thế phát triển
tất yếu của đất nước và thế giới.
9) Phần lớn những người lao động trẻ là những người lạc quan trong
cuộc sống, tôn trọng pháp luật, có thái độ đúng đắn trong cách thức kiếm tiền,
trong việc bảo vệ môi trường. Song đời sống của một bộ phận những người
lao động trẻ còn nghèo nàn, đơn điệu và điều đó có thể là một trong những
nguyên nhân hạn chế phần nào thái độ tích cực của họ đối với việc bảo vệ
môi trường, đối với đồng tiền và cách thức kiếm tiền.
10) Đa số những người lao động trẻ có thái độ nghiêm túc đối với công
việc, nhưng cũng không ít người không tìm thấy niềm vui trong công việc, họ
thiếu tự tin và kiên trì trong hoạt động nghề nghiệp. Những người lao động trẻ
nhận thức rõ những yêu cầu đối với người lao động trong thời đại hiện nay,
có tinh thần và ý thức học tập. Song có thể các điều kiện học tập chưa tốt,
cách thức tổ chức và nội dung học tập chưa phù hợp nên khả năng thích ứng
và cạnh tranh của nhiều người còn hạn chế. Vì thế không ít người lao động
còn gặp khó khăn trong tìm việc hoặc tự tạo việc làm cho bản thân. Đây là
một vấn đề mà Nhà nước, các tổ chức xã hội và những nơi sử dụng lao động
cần phải thật sự quan tâm và có các giải pháp kịp thời.
Như vậy, có thể nói rằng nghiên cứu sự phát triển nhân cách người
Việt Nam trong giai đoạn CNH, HĐH và hội nhập quốc tế đã chú ý tới những
yêu cầu chuẩn mực chung (ngắn) và riêng (criterion) trên cơ sở quan niệm về
nhân cách và cách tiếp cận phù hợp với đối tượng, nhiệm vụ và khách thể
nghiên cứu. Những kết quả nghiên cứu cho thấy có thể đưa ra những kết luận
về nhân cách của các nhóm khách thể nhưng nhìn chung học sinh và sinh
viên cũng như lao động trẻ đều có tinh thần yêu nước, quan tâm đến vấn đề
thời sự - chính trị, mong muốn xã hội ổn định, phát triển; Các nhóm khách thể
đều tích cực phấn đấu vượt khó và nghiêm túc hoàn thành nhiệm vụ học tập,
lao động của mình; Tuy chưa đồng đều nhưng phần lớn yêu nghề, hiểu biết
về nghề, có nhu cầu nâng cao trình độ năng, lực thích ứng với cuộc sống
trong hoàn cánh mới. Tuy nhiên một số chưa thực sự có ý thức XHCN và đa
số chưa phấn đấu trở thành đảng viên; Đa số chưa có kiến thức kỹ năng và
lối sống có văn hóa phù hợp với thời đại văn minh hiện nay và do đó chậm
thích ứng với nhịp độ phát triển CNH, HĐH trong một xã hội mở cửa, hội nhập
và cạnh tranh; Một số đông chưa thiết lập được quan hệ xã hội cần thiết cho
sự giao lưu và hợp tác.
B. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH QUA PHỎNG VẤN SÂU
I. TRƯỜNG HỢP DOANH NHÂN THÀNH ĐẠT1. Đặc điểm nhân cách của doanh nhân thành đạt theo các mặt của
NEO PI-R
Mặt N (Nhiễu tâm): Hầu hết các doanh nhân thành đạt được phỏng
vấn đều không đánh giá cao mặt N đối với sự thành đạt, cụ thể là: Cả 5 người
đều cho rằng các mục của cân bằng xúc cảm (N) như lo âu, thù địch, trầm
cảm, mặc cảm, kiểm soát xung tính, dễ tổn thương không quan trọng lắm đối
với sự thành đạt của con người. Nhìn chung các doanh nhân thành đạt là
những người có xúc cảm khá cân bằng thể hiện ở sự chín chắn trong suy
nghĩ, nhận xét và đánh giá. Các doanh nhân thành đạt tỏ ra lạc quan, không
lo lắng, ngược lại rất tự tin vào tương lai nghề nghiệp, vào thế hệ trẻ nói
chung và vào bản thân mình vì cho rằng bản thân có đủ kinh nghiệm có thể
làm việc trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhờ kinh nghiệm sống và học tập,
họ đều có vẻ là người kiểm soát được xung tính, không dễ tổn thương thể
hiện trong sự tự tin khi giao tiếp và biết cách giao tiếp thu hút khách hàng, có
người còn chiều khách hàng theo phương châm "Mọi khách hàng đều đúng
và ý thích của khách là ý thích của mình" để đạt được mục đích của bản thân.
Mặt E (Hướng ngoại): Theo kết quả phỏng vấn, các doanh nhân thành
đạt đều là những người tích cực hoạt động, nỗ lực phấn đấu tự khẳng định
mình, đánh giá cao các yếu tố của mặt E trừ xúc cảm tích cực. Có người
đánh giá cao các mục của mặt E, tỏ ra cởi mở, quảng giao, tích cực hoạt
động, tự khẳng định mình thể hiện trong cách nói chuyện, trong quan niệm về
việc chú trọng giao tiếp với khách hàng và qua việc cố gắng phấn đấu, bươn
trải trong kinh doanh để từ một công nhân trở thành một người quản lý mấy
cửa hàng kinh doanh. Có người có quan niệm cởi mở về bí quyết nghề, cho
rằng trong xã hội công nghiệp tiên tiến không cần giữ bí quyết nghề, nên
truyền lại cho nhân viên, khuyến khích họ làm ăn riêng, hình thành một mạng
lưới hợp tác lẫn nhau. Mọi doanh nhân thành đạt đều chú trọng đến tầm quan
trọng của quan hệ trong kinh doanh của mình.
Mặt O (Cởi mở): Các doanh nhân thành đạt đều đánh giá cao việc đa
dạng hóa hoạt động, giàu ý tưởng, hiểu bản thân mình, các giá trị, tỏ ra là
người khá linh hoạt song không đánh giá cao những yếu tố như óc thẩm mỹ,
giàu trí tưởng tượng (duy nhất có 1 người do đặc trưng nghề thì đánh giá
cao). Ví dụ, PH. không đánh giá cao tất cả các mục của mặt O, chỉ có hai yếu
tố "đa dạng hóa hoạt động" và "giàu ý tưởng" được anh cho là khá quan trọng
đối với sự thành đạt, thực tế cuộc sống của anh cũng cho thấy điều đó: anh
không phải là người ra trường là vào luôn một nghề, anh đã làm nhiều nghề,
học nhiều thứ với quan niệm rằng người quản lý không trực tiếp làm kỹ thuật
vẫn cần phải nắm kỹ thuật. Tuy nhiên các mục còn lại khác như giàu trí tưởng
tượng, óc thẩm mỹ và hiểu bản thân và nhất là quan điểm giá trị thì anh lại
cho là hoàn toàn không quan trọng.
Mặt C (Có ý chí phấn đấu): Doanh nhân thành đạt có nỗ lực thành đạt
cao, có ước mơ và quyết tâm biến ước mơ thành hiện thực, đánh giá cao tính
thận trọng, kỷ luật, ngăn nắp và trách nhiệm. Họ đánh giá cao các phẩm chất
năng lực, thận trọng, và nỗ lực thành đạt - những nét tính cách có thể thấy
trong quãng đời nghề nghiệp của họ - nỗ lực thực hiện những năng lực của
mình (trong việc nắm bắt thị trường, thị hiếu khách hàng và biết cách quản lý
kinh doanh). Có người cho rằng trong trường hợp của mình, nỗ lực bản thân
chiếm đến 70% ngoài ra mới là sự hỗ trợ của gia đình, bè bạn. Tính thận
trọng thể hiện ở phương châm mở rộng quy mô kinh doanh một cách chắc
chắn (từ 1 cửa hàng đã khá vững chắc rồi mới mở cửa hàng thứ 2, và tương
tự cửa hàng thứ 2 chắc rồi mới đến cửa hàng thứ 3). Tuy nhiên có người lại
không đánh giá cao trách nhiệm và kỷ luật, nhất là "ngăn nắp" bị cho là hoàn
toàn không cần thiết đối với sự thành đạt. Điều này có lẽ cũng là một biểu
hiện của tính "thiếu bài bản" trong tầng lớp kinh doanh của ta.
Mặt A (Dễ thương): Các doanh nhân thành đạt có niềm tin vào bản
thân, lạc quan và có đánh giá nhất định đối với các yếu tố của mặt A (như
khiêm tốn, vị tha, nhân hậu) trừ phục tùng. Ví dụ, có người chỉ đánh giá cao
niềm tin, tính khiêm tốn cũng được coi là khá quan trọng đối với thành đạt còn
thẳng thắn, vị tha, phục tùng, nhân hậu bị xếp vào vị trí không quan trọng lắm,
mặc dù đánh giá cao sự kiên nhẫn và chân thành đối với khách hàng. Trong
tiếp xúc người này cũng tỏ ra là người cởi mở, khiêm tốn, rất tin tưởng vào
tương lai, không có những lo lắng không cần thiết.
Tóm lại, hầu hết những nét tính cách của 4 nhân tố (E, O A, C) đều
được các doanh nhân thành đạt đánh giá như những phẩm chất quan trọng
đối với sự thành đạt, ngoại trừ mặt cân bằng xúc cảm (N). Tuy nhiên trên thực
tế họ đều có vẻ là những người khá cân bằng về cảm xúc, vì vậy có thể nói
rằng mặt N (nhiễu tâm hay cân bằng thần kinh, cảm xúc) cũng là một nhân tố
quan trọng đối với sự thành đạt theo nghĩa muốn thành đạt trước hết phải là
người cân bằng về cảm xúc (điểm N thấp). Hầu hết các doanh nhân thành đạt
đều nhấn mạnh mặt đạo đức (giữ chữ tín) trên cả năng lực kiến thức, điều đó
cho thấy trên thực tế quan điểm giá trị đóng vai trò lớn trong sự thành đạt của
họ.
2. Đặc điểm doanh nhân thành đạt theo phiếu hỏi bổ sung
Các doanh nhân thành đạt có nhu cầu, động cơ thành đạt rất rõ rệt, thể
hiện ở những ước mơ và nghị lực, quyết tâm phấn đấu thực hiện.
Về quan điểm giá trị thể hiện ở mặt thái độ, niềm tin, các doanh nhân
thành đạt đều sống lạc quan, tin tưởng vào tương lai của nghề, của bản thân
và tương lai của thế hệ trẻ Việt Nam. Họ đánh giá (có thái độ) tích cực xu
hướng quốc tế hóa, mở cửa hội nhấp, có thái độ tích cực đối với cuộc sống
thể hiện ở tinh thần thái độ lao động nghiêm túc, biết dung hòa giữa công việc
và nghỉ ngơi, rèn luyện cả trí óc lẫn sức khoẻ, làm việc với tinh thần trách
nhiệm với bản thân và với người khác, có thái độ đúng mực với đồng tiền, có
ý thức kỷ luật vì vậy có cơ sở để tin rằng họ là những người biết tôn trọng luật
pháp
Có thể cho rằng họ là những người biết cách thích ứng với sự thay đổi
của cuộc sống thể hiện ở năng lực học tập và ý chí vươn lên tự khẳng định
mình (học thêm về tin học, kinh tế, tiếng Anh), có khả năng tự tìm và tạo việc
làm cho bản thân mình.
Họ có những quan niệm khác nhau về thành đạt, người thì nhấn mạnh
vào năng lực quản lý và đồng tiền, cho rằng có nhiều tiền là biểu hiện của
thành đạt, hoặc nhấn mạnh vào những gì sẽ để lại tên tuổi cho đời sau…
Người lại cho rằng bí quyết (thành công) nghề là chế độ đãi ngộ (quản lý) đối
với nhân viên để làm sao giữ được nhân viên không bỏ nghề, bỏ công ty.
Ba yếu tố của phiếu hỏi bổ sung là kĩ năng nghề, kiến thức và tính hiệu
quả đều được các doanh nhân thành đạt đánh giá cao cho rằng đó là những
yếu tố quan trọng tạo nên sự thành đạt của một doanh nhân. Họ đều có tinh
thần cầu thị, muốn nâng cao kiến thức và kỹ năng nghề, luôn tự đúc rút cho
mình kinh nghiệm qua những thực tế kinh doanh thành đạt và thất bại của
chính bản thân, luôn chú trọng học hỏi và học hỏi lẫn nhau từ cả nhân viên và
khách hàng. Liên quan đến những tiêu chí khác (thái độ đối với đất nước,
cuộc sống, và công việc), có thể nói họ đều là người sống có ước mơ, có lòng
tin vào thế hệ trẻ Việt Nam (sẽ không thua kém với thế giới) có thái độ tích
cực đối với xu hướng hội nhập quốc tế, muốn học tập những cái tốt của nước
ngoài, hiểu được điểm yếu của doanh nhân Việt Nam so với nước ngoài; luôn
vươn tới phía trước, không sợ thất bại, không tuyệt đối hóa vai trò của đồng
tiền nhưng rất chú trọng vào yếu tố vốn trong kinh doanh; Có ý thức tôn trọng
pháp luật biểu hiện ở chỗ nhận ra điểm yếu của doanh nhân Việt Nam là
không hiểu về luật pháp nên muốn có biện pháp khắc phục điểm này trong
chính sách đào tạo nhân lực; Có thái độ tích cực đối với công việc, yêu công
việc (khát vọng làm giàu) và có tính năng động tự trên và tạo việc làm cho
bản thân, có tinh thần học tập và năng học hỏi, có tính cạnh tranh song cũng
có tinh thần giúp đỡ đồng nghiệp, nhân viên. Tuy nhiên kế hoạch học tập để
nâng cao bản thân về chuyên môn chưa rõ ràng.
II. TRƯỜNG HỢP TRÍ THỨC THÀNH ĐẠT1. Đặc điểm nhân cách trí thức thành đạt theo các mặt của NEO
PIR
Mặt N (Nhiễu tâm): Kiểu nhân cách này với những nét đặc thù như lo
âu, thù địch, mặc cảm, tự ti, trầm cảm, dễ bị tổn thương đều được tất cả
những người được phỏng vấn cho là những nét nhân cách cần phải khắc
phục nếu thực sự muốn trở thành người trí thức thành đạt. Cho dù có những
nhà văn, nhà thơ, họa sỹ, nhà soạn nhạc xuất chúng cũng mang một vài nét
nhân cách này song cần thấy rằng những nét nhân cách này thường gây
những tác động tiêu cực hơn là tích cực. Trong khi đó, áp lực công việc triền
miên hay những thất bại nghề nghiệp lại có thể phá vỡ sự cân bằng nhân
cách, đẩy nó vào trạng thái nhiễu tâm với những hậu quả không lường trước
được. Chính vì thế, song song với việc không ngừng nâng cao trình độ
chuyên môn, việc chú trọng phát triển các mối quan hệ thân ái, tương trợ,
hiểu biết lẫn nhau, xây dựng "văn hóa tổ chức" gắn kết các cá nhân - nhân
cách lại với nhau là điều hết sức cần thiết.
Mặt E (Hướng ngoại): Có sự nhất trí cao giữa những người được
phỏng vấn về vai trò quyết định của nhân tố này đối với thành công hay thất
bại của những người trí thức. Trong thời đại thông tin và toàn cấu hóa, khi mà
giá trị của phát minh, sáng chế hay các sản phẩm trí tuệ khác thay đổi liên tục
và bất thường; mẫu trí thức "tủ kính", đơn độc giam mình trong "tháp ngà" để
suy tư đang mai một dần, hay nói đúng hơn là đang bị đào thải nhanh chóng.
Ngay cả sự phổ biến của trao đổi trực tuyến qua Internet cũng không ngăn
cản được xu thế này, mặc dù các phương tiện truyền thông hiện đại có thể hỗ
trợ phần nào cho những cá nhấn cứng nhắc, ngại giao tiếp, sợ va chạm. Kiểu
nhân cách hướng ngoại rõ ràng nhiều cơ hội thành công hơn và các trí thức
“sở hữu” những nét nhân cách của nó. thường thành đạt hơn. Không phải
ngẫu nhiên trong số các nét nhân cách này 3 phẩm chất: quảng giao, tự
khẳng định, tích cực hoạt động được xếp hàng đầu.
Quảng giao hay quan hệ rộng hàm ý năng lực giao tiếp, kỹ năng xã hội,
khả năng phối hợp hành động vượt trội. Các quan hệ này, mà việc xây dựng
chúng đòi hỏi sự đầu tư về thời gian và sức lực không nhỏ, nhiều lúc phải hy
sinh cả những lợi ích cá nhân, là phần vốn xã hội quan trọng của từng con
người. Những trí thức thành đạt cho thấy, họ đều phát triển được các mối liên
kết về nghề nghiệp cũng như xã hội hữu hiệu theo cả chiều ngang - giữa
những người đồng nghiệp, đối tác,… và chiều dọc - với cấp trên và cấp dưới.
Hợp tác theo chiều ngang giúp họ mở rộng cơ hội việc làm, xử lý nhanh
chóng các vấn đề phát sinh trong công việc (Bác sĩ K.), cọ sát, rèn luyện, phát
huy triệt để năng lực bản thân thông qua việc tiếp cận ý kiến chuyên gia, cũng
như sự động viên, hỗ trợ vật chất và tịnh thần từ bên ngoài (chị H., chị T.),
thông qua hợp tác, phân công lao động trong tập thể để hoàn thành những
công việc nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn lớn, phức tạp mà từng cá nhân
riêng rẽ không thể làm được (GS.Tr.). Hợp tác theo chiều dọc giúp người trí
thức thăng tiến nhanh hơn. Nó đòi hỏi ở họ, ngoài kiến thức chuyên môn sâu
rộng, là năng lực lãnh đạo, khả năng "thu phục nhân tâm", biết quản lý, bố trí,
sử dụng đội ngũ nhân viên đúng nơi, đúng chỗ, phát huy được sở trường
từng con người, biết lắng nghe ý kiến của người khác thậm chí ý kiến phê
bình, phản đối với sự bình tĩnh, sáng suốt, chân thành.
Đáng tiếc rằng, theo đánh giá thống nhất của tất cả những người được
phỏng vấn, sự thiếu hụt các vốn xã hội kể trên lại chính là điểm yếu chung
của giới trí thức nước ta, hạn chế nghiêm trọng khả năng phát huy tri thức,
kinh nghiệm cũng như các năng lực sáng tạo khác. "Một nhà khoa học Việt
Nam thì rất đáng khâm phục, nhưng nếu có ba nhà khoa học đó cộng tác với
nhau thì họ sẽ tự đánh mất sự khâm phục bởi sự tự đề cao cá nhân của
mình" - đó là nhận xét chứa đựng nhiều sự thật của các đồng nghiệp nước
ngoài theo lời kể của GS.Tr. Vấn đề không hoàn toàn xuất phát từ việc giáo
dục kỹ năng hợp tác đã không được coi trọng bồi dưỡng, phát triển ngay từ
gia đình và nhà trường. Trong khi mức độ năng động cá nhân hay là sự năng
nổ đã gia tăng đáng kể nhờ công cuộc cải cách kinh tế - xã hội, những hạn
chế kể trên dẫn đến một hệ quả hầu như tất yếu, đúng như chị H. đã nhận
xét, không phải sự hợp tác, chia sẻ mà là sự ganh đua, thói chơi trội, mong
muốn khẳng định vị trí độc tôn, duy nhất, không giống ai của cá nhân lại
chiếm ưu thế. Khoảng trống trong nhân cách người trí thức do sự phá bỏ
những cung cách giao tiếp, hợp tác của thời kỳ cũ để lại nhưng chưa được
thay thế bằng những cấu trúc mới lập tức bị chiếm chỗ bởi thái độ ghen ghét,
đố kỵ, dẫn đến những hành vi đua tranh thái quá, thậm chí không lành mạnh.
Có thể nói, đây là mặt trái của xu hướng muốn tự khẳng định mình.
Bản thân nỗ lực tự khẳng định mình, như những trí thức thành đạt
được hỏi đều khẳng định, là một nét nhân cách có vai trò quan trọng đối với
thành công. Nhu cầu mãnh liệt này kích thích nhân cách huy động và tập
trung tối đa thể lực, trí lực và tâm lực cho công việc. Sự khẳng định bản thân
trong môi trường trí thức nói riêng và trong xã hội nói chung đòi hỏi mỗi cá
nhân trước hết phải có chuyên môn sâu kỹ năng nghề nghiệp vững vàng, liên
tục được trau dồi, cập nhật. Bằng cách này người trí thức thành đạt luôn tự
trang bị cho mình công cụ lao động tốt nhất - đó là tri thức mới bao gồm cả tri
thức về chuyên môn lẫn quản lý hiện đại. Tuy nhiên, công cụ lao động tốt mới
chỉ là điều kiện cần để có thể vươn lên, mà chưa phải là điều kiện đủ. Phân
tích kết quả phỏng vấn đưa đến một nhận xét thú vị rằng, những phụ nữ
thành đạt thường nhạy bén, cảm nhận sớm các thách thức và uyển chuyển
hơn trong việc xử lý các tình huống khó khăn, trong khi nam giới lại hay dùng
cách giải quyết trực diện, mạnh và táo bạo hơn. Khác biệt này dẫn đến việc
nam giới có vẻ như có năng lực vượt thử thách lớn hơn, và do vậy thường
thăng tiến nhanh hơn, nhưng trong trường hợp ngược lại cũng thường thất
bại nặng nề hơn nữ giới. Một nhận xét nữa là cả nam và nữ trí thức thành đạt
đều có tư duy logic rất mạch lạc, rõ ràng. Họ nắm chắc "nghệ thuật biết thắng
từng bước", nghĩa là biết hoạch định lộ trình hợp lý bao gồm những bước đi
nhỏ để đạt được mục tiêu lớn.
Các tố chất tâm lý còn lại của kiểu nhân cách hướng ngoại như cởi mở,
thân thiện, tìm kiếm sự kích thích, xúc cảm tích cực chỉ được những trí thức
thành đạt đánh giá là các yếu tố có ý nghĩa hỗ trợ cho thành công. Những tố
chất này rất cần thiết cho những người hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh,
tiếp thị, biểu diễn nghệ thuật, thi đấu thể thao…, nhưng đối với hoạt động trí
óc như nghiên cứu, giảng dạy…, chúng chỉ có vai trò khiêm tốn.
Mặt O (Cởi mở): Có sự khác biệt lớn khi những người trí thức trẻ
thành đạt đánh giá cao hai phẩm chất: giàu ý tưởng và đa dạng hóa hoạt
động (chị H., anh K., chị T.), còn GS.Tr., đại diện cho thế hệ trí thức đi trước
lại cho rằng: yếu tố quan điểm giá trị mới là quan trọng nhất.
Những trí thức trẻ thành đạt thực sự coi trọng việc thể hiện bản thân.
Nhiệt tình của tuổi trẻ, chuyên môn vững vàng và thành công đến sớm làm họ
cảm thấy rất tự tin, sẵn sàng thử sức mình trong những công việc, môi trường
mới. Là con đẻ của một xã hội đang chuyển đổi đi lên nhanh chóng, "tầng lớp
sáng tạo mới" này thích nghi tốt hơn, dễ chấp nhận hơn những cái khác mình,
những quan điểm mới nhiều khi trái ngược với họ, cởi mở hơn với sự đa
dạng về nhân cách, chủ động đề đạt, bày tỏ chính kiến của mình về các vấn
đề khác nhau,… nhưng đồng thời họ cũng là những người thực dụng, cá
nhân và ích kỷ hơn. Theo anh K., điểm mạnh nổi bật của những người trẻ tuổi
thành đạt so với các bậc thầy là ngoài năng lực chuyên môn, họ còn là những
người hết sức năng động, phản ứng rất nhanh, biết xoay chuyển tình thế, gỡ
rối những khó khăn, nhạy bén nắm bắt các thông tin quan trọng trong nhiều
lĩnh vực ý tưởng phong phú chính là câu trả lời của họ đối với sự đa dạng hóa
môi trường sống xung quanh.
Còn theo GS.Tr. con người muốn thành đạt phải có lẽ sống, cách sống,
lối sống hay nói khái quát hơn là phải có lý tưởng sống vì lợi ích chung của xã
hội, của cộng đồng, cái mà thiếu nó thì người trí thức giỏi lắm cũng chỉ đi
được những đoạn đường ngắn, thành công từng phần nhưng quyết không
thể đi xa được. Thành đạt lớn là đem đến cho nhiều người những giá trị thực
sự, những cái làm nên sự phát triển bền vững. Ông phê phán nhiều người
trong lớp trẻ hiện nay chạy theo những giá trị ảo, kiến thức ảo.
Chúng tôi cho rằng sự khác biệt trong quan niệm giá trị trên giữa lớp trí
thức trẻ và những người đi trước là tất yếu và không quá nghiêm trọng, tuy
rằng trong không ít trường hợp nó cản trở quan hệ liên thế hệ, thậm chí dẫn
đến những mâu thuẫn vì dù sao giá trị cũng là cơ sở cho cá nhân nhận xét
đánh giá sự vật, từ đó quyết định về hành vi của mình.
Các tố chất còn lại của kiểu nhân cách này là óc thẩm mỹ, trí tưởng
tượng, hiểu xúc cảm của mình hầu như không được những người tham gia
nhắc đến. Điều này hoàn toàn khác với kết luận của một số nghiên cứu trước
đây về những người thành đạt, ít nhất là việc hiểu được cảm xúc của mình và
trí tưởng tượng phong phú luôn được đánh giá cao trong sáng tạo nghệ thuật.
Tuy nhiên những nét nhân cách đem lại thành công trong lĩnh vực này có thể
không thật quan trọng trong hoạt động khác.
Mặt A (Dễ thương): Tất cả các trí thức tham gia phỏng vấn đều thống
nhất đánh giá cao vai trò của niềm tin, sự thẳng thắn, chân thành, vị tha đối
với sự thành công. Vững tin vào công việc mình làm, lạc quan nhìn về tương
lai là những nét nhân cách chung ở những người thành đạt. Không có sự
thẳng thắn, chân tình thì sẽ không có được những mối quan hệ bền vững.
GS.Tr. nói: "Trong công việc chung với các đồng nghiệp nếu tôi không đối xử
với họ thành thật và trong sáng thì họ cần gì tôi, họ chỉ bị lừa một lần thôi".
Tuy nhiên, trong môi trường xã hội hiện nay còn nhiều dối trá, lươn lẹo, nịnh
nọt. Hơn thế nữa không hiếm khi những nét nhân cách đối lập này đan xen
nhau trong hành vi của một người, không phải vì người đó xấu mà đơn giản
vì lý do tồn tại theo số đông.
Đức tính khiêm tốn được hai người đánh giá là rất quan trọng đối với
thành công, vì nó cho phép đánh giá đúng năng lực bản thân giúp người hành
động đưa ra những quyết định chính xác. Trong khi hai người còn lại chỉ coi
khiêm tốn là đức tính tốt, đồng thời hết sức đề cao sự thận trọng, một phẩm
chất trong kiểu nhân cách tự chủ có tác dụng giúp người hành động đánh giá
đúng tình huống và hoàn cảnh xung quanh.
Lòng vị tha quan trọng đối với sự thành công; đặc biệt là đối với những
người ở vị trí lãnh đạo vì nó đem lại sự nể phục, tin tưởng của cấp dưới đôi
với cấp trên, tạo bầu không khí chan hòa, đoàn kết trong tập thể. Lòng nhân
hậu là rất quan trọng đối với con đường dẫn đến thành công vì nó giúp cho ta
định hướng đi đúng, tạo nên chân giá trị của con người.
Mặt C (Có ý chí phấn đấu): Năng lực là yếu tố quan trọng hàng đầu
đối với mọi trí thức vì nó là "công cụ sản xuất chính" của họ. Năng lực được
phát triển từ các khả năng bẩm sinh thông qua quá trình xã hội hóa nhân
cách. Nó là thước đo giá trị chuyên môn của những người làm công tác
nghiên cứu, sáng tạo. Những người được hỏi đều đánh giá cao việc tự học
hỏi, trau dồi kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, đúc kết kinh nghiệm. Đặc biệt
họ cùng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học hỏi từ những thất bại của
chính mình. Chị H., nói: “Càng năng nổ, càng hăng hái, thì càng sai nhiều.
Vấn đề là sau những cái thất bại không được dừng lại. Phải rút ra được
những điều có ích từ những lần vấp ngã, biến chúng thành bài học kinh
nghiệm cho lần sau”. GS.Tr. nói: "Kinh nghiệm tích luỹ từ các thành công và
thất bại. Mỗi thất bại là bài học đau đớn. Bậc thầy cũng có thể thất bại. Mỗi
bài học thất bại mình sẽ ghi nhớ và truyền đạt lại cho các lớp sau”. Anh K.
thậm chí còn cho rằng, thất bại là rất quan trọng, vì "thất bại là mẹ thành
công", là tiền đề cho những bước tiến tiếp theo. Rõ ràng những con người
thành đạt này không phải chỉ thất bại một đôi lần. Thất bại, dù lớn hay nhỏ,
đều gây trạng thái "sốc, làm mất thăng bằng nhân cách (nhiễu tâm) - trạng
thái vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến việc nhân cách có thể tồn tại và đưa
ra những quyết định và hành vi hợp lý. Trong trạng thái này, ngay cả những
người tưởng chừng rất mạnh mẽ cũng có thể chùn bước. Chỉ có sự tự chủ,
kiểm soát bản thân cao mới giúp họ chiến thắng "tâm lý thất bại" như mất tập
trung, hoang mang, bi quan, chán nản,… giữ vững động lực vươn lên.
Những người được hỏi đều tỏ ra hài lòng với những gì mình đạt được,
nhưng tất cả cùng không cho rằng thế là đủ. Chị T. cho rằng, những gì chị đạt
được mới chỉ là bước đầu và chị cần phải cố gắng hơn nữa để hoàn thiện
bản thân, nâng cao kỹ năng nghề. Còn anh K. nhận xét, "Nhiều lúc mình tự
bảo học xong cái này thì thôi vì nghĩ mình còn phải lo cuộc sống cho vợ con.
Đến khi mình đạt được rồi, mình lại muốn vươn lên nữa”.
Khả năng thích nghi cũng được nhắc đến như một năng lực cần thiết
cho thành công, đặc biệt là trong hoàn cảnh môi trường trí thức nước ta đang
trải qua những thay đổi quan trọng không chỉ xuất phát từ sự đổi mới tri thức
về khoa học - công nghệ và tổ chức - quản lý diễn ra vũ bão, mà còn từ quá
trình cải cách kinh tế - xã hội. Về bản chất, thích nghi chính là sự thiết lập lại
được sự cân bằng trong nhân cách bên trong (không bị nhiễu tâm) trước
những thay đổi của môi trường bên ngoài. Một mặt khả năng này liên quan
đến mức độ bền vững của nhận cách trước những "sốc" tâm lý như trên đã
đề cập, mặt khác nó cũng được quyết định bỏ sự mềm dẻo, linh hoạt của
nhấn cách đó. Biết sắp xếp, tổ chức công việc phù hợp với điều kiện thực tế,
nhạy bén, hòa nhập nhanh chóng với những thay đổi bên ngoài là những
phẩm chất không thể thiếu đối với sự thành đạt.
Một phát hiện thú vị là trong khi tố chất phục tùng thuộc kiểu nhân cách
Dễ chấp nhận không được những người được hỏi đánh giá cao, thì ý thức kỷ
luật tự giác lại rất được coi trọng. Chỉ dựa vào bổn phận, buộc một trí thức
thực hiện một mệnh lệnh không có luận chứng đầy đủ là một điều không dễ
đàng. Do mức độ tự do, nhất là tự do nghề nghiệp, tự do tranh luận, trong môi
trường trí thức thực sự cao hơn nhiều so với những môi trường chuyên môn
khác nên kỷ luật ở đây dựa một cách đáng kể vào tính tự giác cao của mỗi cá
nhân. Đáng tiếc rằng đây là điểm yếu của trí thức Việt Nam. Theo chị H., ngày
nay, tính kỷ luật là quan trọng lắm cần phải rèn luyện, trí thức ngày nay còn
nhiều hiện tượng vô tổ chức. So sánh với các trí thức nước ngoài, anh K
phàn nàn rằng "về tự giác thì ta không bằng họ, cái đó như là bản năng, là cái
gốc của con người họ. Nhưng họ làm việc rất khoa học, giờ giấc thì nghiêm
chỉnh, làm việc thì hết mình, chấp hành kỷ luật cao, rất tự giác". Yếu kém về ý
thức kỷ luật tự giác là một cản trở lớn trong việc nâng cao hiệu quả công tác
nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng khoa học kỹ thuật ở nước ta.
III. TRƯỜNG HỢP NÔNG DÂN THÀNH ĐẠT1. Đặc điểm nhân cách nông dân thành đạt theo các mặt của NEO
PI-R
Mặt N (Nhiễu tâm): Trong 5 mặt của nhân cách thì mặt N được tất cả
những nông dân thành đạt trả lời phỏng vấn cho là hoàn toàn không quan
trọng đối với sự thành công. Theo lý thuyết về 5 mặt nhân cách thì đây là
những đặc điểm thể hiện sự mất cân bằng trong cuộc sống tinh thần, những
bất ổn trong nội tâm. Trên thực tế, người có những đặc điểm này luôn gặp
những bất an trong cuộc sống xã hội và càng khó có cơ hội thành công trong
xã hội mà người đó sống. Với nhận định của những người thành công thì đây
cũng là những đặc điểm không đóng góp vào sự thành công mà còn ngược
lại, cản trở sự thành đạt của con người.
Mặt E (Hướng ngoại): Theo những nông dân thành đạt những đặc
điểm quan trọng nhất là cởi mở, thân thiện, quan hệ rộng, tự khẳng định, tích
cực hoạt động, tìm kiếm sự kích thích và xúc cảm tích cực. Đây là những đặc
điểm thuộc mặt E, có liên quan đến tính hướng ngoại, quan hệ liên nhân cách
của các cá nhân cũng như sự thể hiện nhằm khẳng định mình, sự quảng
giao, tính tích cực hoạt động cũng như trải nghiệm những xúc cảm tích cực.
Những người nông dân thành đạt đã đánh giá mặt này cao nhất trong sự
thành công của mình. Tất cả họ đều nói rằng trong bối cảnh Việt Nam, để
thành công thì con người phải có quan hệ rộng và phải biết cách quan hệ với
mọi người. Điều này đối với họ còn quan trọng hơn năng lực của bản thân.
Mặt O (Cởi mở): họ chỉ đánh giá cao tính giàu ý tưởng và đa dạng hoá
hoạt động. Còn các đặc điểm khác như giàu trí tưởng tượng, óc thẩm mỹ,
hiểu tình cảm của mình và chấp nhận các quan điểm giá trị khác không được
đánh giá cao lắm. Với so sánh này ta có thể thấy rằng điều mà những người
nông dân thành đạt coi trọng hơn cả là tính hướng ngoại, hay cụ thể thể là
hướng tới sự thể hiện mình ra bên ngoài, quảng giao trong quan hệ với
những người khác và hoạt động tích cực trong lĩnh vực này.
Mặt C (Có ý chí phấn đấu): với những đặc điểm như năng lực, ngăn
nắp, trách nhiệm, bổn phận, nỗ lực thành đạt kỷ luật tự giác và thận trọng
cũng được mọi người đánh giá cao, đứng ngay sau tính hướng ngoại trong
những thành công của mình. Ở đây, tính trách nhiệm; bổn phận, nỗ lực thành
đạt và thận trọng là những đặc điểm được người nồng dân rất coi trọng trong
công việc của mình.
Mặt A (Dễ thương): Nếu như các mặt trên đều có sự đồng thuận ý
kiến của tất cả những người được hỏi thì mặt A không có được sự thống nhất
này. Có người cho những đặc điểm này (niềm tin, thẳng thắn, chân tình, vị
tha, phục tùng, khiêm tốn, nhân hậu) là rất quan trọng đối với sự thành công,
đứng thứ hai, ngay sau mặt quan hệ liên nhân cách về mức độ quan trọng,
nhưng cũng có những người cho là không quán trọng lắm, đứng trước mặt
cân bằng xúc cảm, xếp hạng thứ 4 trong 5 mặt của nhân cách.
Như vậy, có thể tạm đưa ra mô hình nhân cách cho sự thành đạt theo ý
kiến của những người nông dân thành đạt như sau. Đó phải là những người
cân bằng và ổn định, có tính hướng ngoại (quan hệ rộng và tích cực hoạt
động), có tính tự chủ (trách nhiệm, bổn phận và nỗ lực), năng lực chung ở
mức độ vừa phải nhưng quan trọng nhất là phải giàu ý tưởng và đa dạng hoá
hoạt động. Những đức tính trong quan hệ người - người (nhân hậu, khiêm
tốn, vị tha…) thì có thể thay đổi tùy quan niệm cả nhân.
2. Những đặc điểm nhân cách nổi bật của người nông dân thành đạt
Ứng với thực tế từng trường hợp, có thể thấy rằng mô hình nhân cách
đã rút ra từ đặc điểm nhân cách theo NEO PI-R cũng chính là mô hình nhân
cách của các nông dân thành đạt. Tất cả họ đều có quan hệ rộng rãi, và có
thể từ đó mà có được những cơ hội may mắn do các mối quan hệ đưa lại.
Như bác Th. từng bộc bạch rằng: Mối quan hệ, phải tuyệt đối có. Quan hệ
giúp được nhiều việc: để học hỏi làm ăn, biết được đường đi nước bước
trong xã hội. Khi khúc mắc, người ta cũng mách, cũng giúp, người ta mách
làm thế này tốt hơn. Nếu không tin, không tốt với người ta, ai người ta mách
cho. Có lòng tin thì người ta mới mách cho công ăn việc làm, mách cho
đường đi lối lại, bảo cho làm ăn, khi cần thiết người ta mới giúp đỡ, chứ “ai
nắm tay được từ tối tới sáng”. Không có lòng tin muốn vay một trăm cũng
không ai cho vay. Có lòng tin người ta mới cho vay.
Đặc biệt ở Việt Nam thì mặt quan hệ lại càng quan trọng hơn khi mà
nhiều thứ được giải quyết trên các mối quan hệ. Chính bối cảnh này tạo ra
một tình hình là cơ hội tốt thường hay đến với những người quảng giao và chỉ
có quan hệ tốt, rộng rãi mới có được những cơ hội để khẳng định mình. Thiếu
những cơ hội này thì dù có năng lực thực sự tài năng thực sự thì cũng khó
lòng đạt được thành công. Đây là một đặc điểm tương đối đặc thù của văn
hoá và xã hội nước ta hiện nay. Ngoài ra, người thành đạt cũng là những
người giàu ý tưởng, được thể hiện trong khả năng hoạt động đa dạng của họ.
Có một điểm cần lưu ý nữa là hầu hết các nông dân thành đạt đều là
những người có thể gọi là "đa dạng hóa hoạt động", điều này thể hiện ở con
đường đến với nghề của họ. Trong mẫu chọn của chúng tôi, cả 5 người được
phỏng vấn đều đến với nghề hiện nay sau khi đã làm các việc khác nhau, một
số đến với nghề hết sức tình cờ. Nghề không phải là sự ấp ủ và dự định đầu
tiên của họ.
Bác Th. là thương binh nghỉ tự túc từ 1975. Sau khi phục viên, bác
tham gia công tác tín dụng, kế toán từ 1977. Với quyết tâm làm giàu trên
mảnh đất quê hương, bác đã lăn lộn, xoay xở với nhiều nghề như làm ruộng,
chăn bò, làm lò gạch, mở xưởng gò - hàn - sửa chữa ô tô… và cuối cùng đã
trụ lại với nghề nuôi cá. Bác làm nghề cá từ 1985 đến nay.
Còn anh V. đã làm kế toán ngân hàng, thủ quĩ, sau đó nghỉ việc vì
bệnh, rồi làm kế toán cho tập đoàn (một hình thức hợp tác xã), khi tập đoàn bị
giải thể, thì làm ở ban dân số và kế hoạch hoá gia đình xã, sau đó chuyển
sang ban thú y xã. Hiện tại, anh vừa trồng lúa, nuôi heo, vừa làm công tác thú
y (chích thuốc cho lợn của các hộ nông dân trong xã), Trước đây đã từng thử
trồng mía nhưng thất bại và chuyển sang trồng lúa và anh đã thành công
trong lĩnh vực này.
Anh T. thì trước tiên làm tài vụ ở huyện. Sau đó, bỏ do ý chí của mẹ và
trở về trồng lúa, cây ăn quả (nhãn, xài, dừa) và làm nghề xay xát.
Chị V. trước kia trồng lúa và trông ngô. Sau đó do được đi học lớp kỹ
thuật trồng màu một cách tình cờ mà chuyển hẳn sang trồng màu.
Cuối cùng, anh L. đã từng tham gia công tác xã hội, đã đi làm nhà
nước, sau đó về nhà phụ nghề nông cho mẹ nhưng sau khi mẹ mất thì phải
tự gánh vác lấy việc nông và trở nên yêu thích nghề này.
Có thể thấy, thành công hiện nay của những con người này là sự tìm
tòi và thử nghiệm, tự tìm lấy con đường đi sau khi đã trải qua nhiều việc khác
nhau. Không ai trong số họ thành công mà nhờ vào truyền thống và kinh
nghiệm nghề nghiệp của gia đình. Đây là điều rất đáng quan tâm.
IV. ĐIỂM MẠNH, ĐIỂM YẾU CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG THÀNH ĐẠT1. Doanh nhân thành đạt
Tổng kết các trường hợp doanh nhân thành đạt có thể rút ra những nét
tính cách tạo nên sự thành đạt (nguyên nhân của sự thành đạt) hay những
điểm mạnh, điểm yếu sau đây. Trước hết nói về những điểm mạnh:
- Theo mặt N (nhiễu tâm): Các doanh nhân thành đạt đều là những
người khá cân bằng, ít có xúc cảm tiêu cực, có sức chịu đựng cao, ít chán
nản khi gặp thất bại, có năng lực giải quyết vấn đề của mình trong hoàn cảnh
khó khăn khác với kết quả điều tra tra đại trà cho thấy số lượng người "nhiều
mặc cảm tự ty, dễ chán nản, không cảm thấy thoải mái, tự tin nhạy cảm với
những lời châm chọc, có khuynh hướng lo âu xã hội, thiếu năng lực kiểm soát
ham muốn, ít có khả năng ứng phó với stress… chiếm tỷ lệ lớn".
- Mặt E (Hướng ngoại): Những doanh nhân thành đạt đều là những
người có khả năng và ham muốn tự thể hiện, khẳng định mình, coi trọng quan
hệ và quảng giao, tích cực hoạt động trong khi điều tra đại trà cho thấy số
người như vậy khá ít, đa số lao động trẻ hiện nay có mức độ tích cực hoạt
động ở mức trung bình, mặc dù không thích nhịp sống đều đặn nhàn tản song
cũng không thích nhanh nhẹn, gấp gáp, nổi trội.
- Mặt O (Cởi mở): Các doanh nhân thành đạt có sự “lãng mạn, hứng
thú nhất định đối với nghệ thuật và vẻ đẹp có cảm nhận mạnh mẽ về hạnh
phúc và bất hạnh, mong muốn thử nghiệm mình qua các loại hoạt động khác
nhau nhằm tìm kiếm sự thay đổi, có khả năng sẵn sàng xem xét lại các giá trị
xã hội tôn giáo chính trị, ít bảo thủ…” Khác với đa số (có thể coi là điểm yếu
của lao động trẻ Việt Nam) "dường như bằng lòng với một số loại hoạt động
nhất định, không thích dấn thân vào hoạt động mới, những cái chưa từng trải
nghiệm nhằm khám phá", doanh nhân thành đạt có vẻ nổi trội hơn đa số lao
động trẻ ở mặt đa dạng hóa hoạt động, không ngại khó, ngại khổ để vượt qua
những khó khăn thực hiện bằng được ước mơ của mình.
- Mặt A (Dễ thương): Doanh nhân thành đạt là người tin tưởng vào bản
thân và thế hệ trẻ (người khác), tin tưởng vào tương lai của nghề khác với số
đông trong điều tra đại trà cho thấy những lao động trẻ "nghi ngờ, thiếu tin
tưởng vào người khác, thích bảo vệ suy nghĩ, tình cảm thật của mình, không
muốn người khác biết". (Tuy nhiên cũng giống như xu hướng chung, sự thẳng
thắn, chân tình của doanh nhân thành đạt cũng chưa thể hiện thật rõ rệt).
- Mặt C (Có ý chí phấn đấu): Nỗ lực thành đạt là điểm mạnh rõ rệt nhất
của những doanh nhân thành đạt so với đa số lao động trẻ "không quá đam
mê với công việc, với nghề nghiệp, họ cũng có nhu cầu thành đạt, nỗ lực
phấn đấu tuy nhiên chỉ ở mức trung bình".
- Ngoài ra, những người thành đạt có sự quan tâm nhất định đối với
các vấn đề quốc tế thể hiện trong sự so sánh thế yếu, thế mạnh của lao động
Việt Nam nói chung và doanh nhân nói riêng với nước ngoài, có thái độ tích
cực đối với mở cửa và hội nhập, toàn cầu hóa, thái độ đối với cuộc sống, với
pháp luật nhìn chung là tích cực, thái độ đối với đồng tiền vừa phải, không
quá coi trọng và thái độ đối với môi trường cũng vậy. Họ cũng là những người
chăm chỉ tìm tòi, không ngại khó, ngại khổ, tinh thần học hỏi cao, khá nhanh
trong tiếp thu kỹ thuật mới.
Điểm yếu:
- Do động cơ dẫn dắt đến với nghề là khát vọng làm giàu, các doanh
nhân thành đạt ở đây có xu hướng nhấn mạnh những yếu tố như vốn, quản
lý, chế độ đãi ngộ nhân viên mà ít nhấn mạnh đến yếu tố tự vươn lên bằng
con đường nâng cao chuyên môn, chưa thấy rõ ý chí và kế hoạch nâng cao
năng lực, kiến thức bản thân. Hơn nữa có thể nói, điểm mạnh là năng động
song điểm yếu là thiếu tính dài hơi. Nói cách khác là mặc dù có ước mơ song
không có kế hoạch rõ rệt để đảm bảo thực hiện ước mơ trọn vẹn và lâu dài,
có phần tùy theo thời cuộc và hoàn cảnh. Mặc dù rất yêu nghề, có ý thức
vươn lên trong lĩnh vực nghề song chưa thể hiện rõ thành những kế hoạch
từng bước và vững chắc để biến ý thức thành hành động thực tiễn thực sự
nâng cao được trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
- Có người thể hiện quan điểm không rõ ràng, đem lại cảm giác dường
như ít suy nghĩ sâu xa, làm việc có phần tùy hứng, độc lập, dựa vào bản thân
là chính, không dựa vững chắc vào gia đình và bè bạn.
- Mặc dù có động cơ, có ý thức, nhận thức song từ ý thức, nhận thức đi
đến hành động thực tế dường như vẫn có một khoảng cách nhất định, điều
này thể hiện ở một số điểm như sau: doanh nhân Việt Nam có lòng yêu nước,
tự tôn dân tộc song điều này chưa mãnh liệt đến mức biến thành động cơ
cháy bỏng muốn làm giàu cho quê hương đất nước; Có thái độ tôn trọng luật
pháp song nhận thức về luật pháp nhất là luật pháp quốc tế còn mơ hồ, ít có
nhu cầu cấp bách đối với việc tìm hiểu kiến thức trong lĩnh vực này để có
được phong cách làm ăn "bài bản", không hiểu rõ về luật pháp quốc tế (ví dụ
luật bản quyền) nên chưa bảo vệ được mặt hàng của mình, chưa có tiếng
tăm, chỗ đứng trên thị trường trong nước và quốc tế; Có ý thức bảo vệ môi
trường song chưa có những hành động thực tế, thường trực đối với vấn đề
môi trường.
- Doanh nhân Việt Nam nói chung ít được đào tạo chính quy phần lớn
do truyền thống gia đình hoặc do ý chí của bản thân mà chọn lựa con đường
kinh doanh; Không được phát hiện bồi dưỡng đào tạo nhân tài, ít va chạm
thực tế, thiếu tính kiên trì.
2. Trí thức thành đạt
Khái quát hóa các kết quả phân tích trường hợp các trí thức thành đạt,
có thể rút ra một số điểm mạnh và điểm yếu đáng lưu ý sau đây:
- Trí thức là một tầng lớp xã hội hết sức đa dạng, trong đó sự thành đạt
không đến từ một kiểu nhân cách nhất định nào. Điểm hội tụ duy nhất của họ
là có năng lực trí tuệ vượt trội. Điều này ngụ ý rằng ý định xây dựng một mô
hình nhân cách người Việt Nam thành đạt duy nhất là thiếu cơ sở.
- Tuy nhiên vẫn có một phổ tương đối rộng các kiểu loại và nét nhân
cách thường cho phép thành đạt hơn. Tính chất đặc thù của môi trường lao
động với tư cách là nguồn gây áp lực thách thức nhân cách người trí thức có
ý nghĩa quyết định đối với kiểu và nét nhân cách thành đạt.
- Có sự khác biệt đáng kể giữa các thế hệ trí thức thành đạt trong lát
cắt cấu trúc nhân cách "hướng ngoại, liên nhân cách": lớp trẻ thiên về tính cá
nhân, đa dạng, thực dụng, trong khi lớp già thiên về tính cộng đồng, sự thống
nhất.
- Các yếu điểm chính của giới trí thức Việt Nam đang cản trở họ thành
cộng là ý thức kỷ luật tự giác, kỹ năng hợp tác thấp, cá nhân chủ nghĩa và
ganh đua không lành mạnh. Ngoài ra khả năng ngoại ngữ, kỹ năng tiếp thu và
sử dụng các công nghệ cao còn yếu.
3. Nông dân thành đạt
Những điểm yếu, điểm mạnh của người nông dân thành đạt:
- Những mô hình thành công được phỏng vấn trong nghiên cứu này đạt
ở mức độ vừa phải, trong phạm vi không rộng. Vì thế sự thành công của họ là
có giới hạn. Chúng tôi cố gắng tìm ra những điểm yếu trong mô hình nhân
cách của họ như là một cách để tìm hiểu nguyên nhân của những hạn chế
thành công này ở họ.
- Trước hết phải thấy rằng một số nông dân thành đạt không đánh giá
cao sự hợp tác với người khác trong việc phát triển sản xuất. Theo anh V.,
không thể hợp tác làm ăn với người khác được vì không thể tận được tiếng
nói chung giữa họ: "Không làm được đâu bởi vì có người thích làm vườn thì
để nguyên vườn, người thích làm ruộng thì san vườn thành ruộng để trồng
lúa. Không ai bảo được ai nên khó lắm chị ạ. Tôi cũng đã đề nghị những nhà
xung quanh tôi làm. mương dẫn nước mà chừa có ai ủng hộ cả. Đào mương
dẫn nước là cả một vấn đề đây chị. Bên vì bảy tám năm nay nước không bị
mặn, năm nay nước ở đây mặn lắm. Vùng trên lũ ít mưa nên nước vùng dưới
này ngậm mặn hết, muốn đào mương dẫn nước cũng không được bởi không
kiếm đâu ra nước ngọt".
Còn bác Th. thì dứt khoát không làm chung với ai bởi những trải
nghiệm thua thiệt và thất bại của bác trong quá trình làm chung với những
người khác. "Làm chung không đơn giản, mặt ăn người ta bảo vì mày, mà có
được ăn thì người ta cũng bảo là nhờ có người ta. Cho nên dù có treo một
cục vàng, tôi cũng không làm chung, ý chí, quyết tâm của mình là phải tự lập,
không bao giờ phụ thuộc."
- Ngoài ra ở họ sự mở rộng kiến thức bị hạn chế, họ chưa nhìn xa trông
rộng để có thể phát triển nghề của mình lên một tầm cao hơn. Đây cũng có
thể là hệ quả của sự không hợp tác với người khác.
- Một điều thấy khá rõ là không có ai được coi là người thầy của họ.
Như thế sự phát triển của họ diễn ra một cách tự phát, chưa có định hướng
về sự phát triển của nghề cũng như chưa có những kiến thức chính thống.
Điều này cũng khiến cho qui mô sản xuất của họ bị hạn chế hơn. Như vậy là
trong mô hình nhân cách của những người nông dân thành đạt ở đây nổi lên
một số điểm yếu nổi bật như không coi trọng sự hợp tác, sự hạn chế về kiến
thức và tầm nhìn để có thể phát triển mạnh mẽ hơn.
Nghiên cứu đặc điểm nhân cách của người nông dân thành đạt trong
mối quan hệ với hoàn cảnh xã hội chúng tôi thấy rằng phần lớn người nông
dân thành đạt đều có chung những đặc điểm nhân cách cần thiết để có thể
dẫn tới thành công: yêu nghề, say mê với nghề, có kiến thức về nghề của
mình, biết tính toán, lượng sức mình, có ý thức vươn lên, biết xây dựng và
duy trì mối quan hệ người, có những quan niệm rõ ràng về xã hội, về con
người, có lối sống giản dị. Ngoài ra họ cũng phải có một gia đình hạnh phúc,
ổn định, con cái được giáo dục tốt, có được sự giúp đỡ của bạn bè khi cần,
được tạo điều kiện từ phía chính sách mở. Và quan trọng hơn cả là họ biết
nắm lấy cơ hội để phát triển bản thân.
V. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CÁC ĐIỂN HÌNH LAO ĐỘNG THÀNH ĐẠTTóm lại điểm mạnh của những người thành đạt là tính độc lập cao, có
ước mơ và nỗ lực thực hiện ước mơ, có thái độ tích cực đối với công việc,
yêu công việc (khát vọng làm giàu, khát vọng vươn lên trong cuộc sống) và có
tính năng động tự tìm và tạo việc làm cho bản thân, có tinh thần học tập và
năng học hỏi, có tính cạnh tranh song cũng có tinh thần giúp đỡ đồng nghiệp,
nhân viên. Điểm yếu thể hiện rõ rệt nhất ở sự thiếu liên kết, ít có cơ hội được
đào tạo lại và bản thân cũng thiếu kế hoạch trong việc tự đào tạo.
Từ nghiên cứu những trường hợp điển hình lao động thành đạt có thể
rút ra một số nhận xét cơ sở như là những kinh nghiệm định hướng phấn đấu
cho sự phát triển nhân cách như sau:
- Phải có lý tưởng xã hội và nghề nghiệp đúng đắn, phấn đấu thực hiện
hoài bão và tự khẳng định bản thân.
- Không ngừng tự nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và học hỏi
bạn bè đồng nghiệp.
- Cố gắng tạo lập một cuộc sống ổn định, cân bằng, hài hòa và năng
động.
- Chú ý hình thành và nâng cao năng lực giao tiếp, hợp tác liên văn
hóa.
C. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI
Trong phần này chúng tôi phân tích kết quả 2 cuộc điều tra người Việt
Nam ở nước ngoài được tiến hành trên diện rộng với số mẫu N = 317 người,
và diện hẹp với số mẫu N = 100 người. Kết quả phân tích sẽ cho thấy một số
nét tính cách đặc trưng truyền thống của người Việt vẫn giữ được khi điều
kiện sống thay đổi và ngược lại cũng có những nét tương phản với người Việt
trong nước có ích cho chúng ta khi phân tích cơ sở lý luận xây dựng con
người Việt Nam trong điều kiện mở cửa hội hập và CNH, HĐH.
I. ĐIỀU TRA DIỆN RỘNG1. Nhận thức về toàn cầu hóa
Đối với câu hỏi toàn cầu hóa sẽ làm cho ý thức dân tộc ngày càng cao
hơn hay sẽ mờ nhạt dần đi, đã có 39,9% người trả lời âm tính cho là sẽ mờ
nhạt dần và 60,1% người trả lời dương tính cho là sẽ ngày càng mạnh lên.
Điều này xét tương quan học yến, tỉ lệ những người có trình độ phổ thông trả
lời dương tính (65,4%) nhiều hơn tỉ lệ những người có trình độ đại học trả lời
dương tính (54,5%).
Tuy nhiên trong câu hỏi tương tự đối với quyền lực quốc gia (ngày một
mạnh hơn hay suy yếu đi), số người trả lời không phân hóa nhiều lắm (chênh
nhau khoảng 10%) mặc dù âm tính (suy yếu đi) 55,1% nhiều hơn so với số
người trả lời dương tính (mạnh lên) 44,9%. Và điều này hầu như cũng không
có sự khác biệt rõ rệt trong tương quan học vấn (giữa những người có trình
độ phổ thông và đại học).
Đối với câu hỏi: toàn cầu hóa ở thế kỷ XXI sẽ làm cho các khái niệm về
biên giới, quốc tịch mất đi hay vẫn tồn tại, số người trả lời lại có sự phân hóa:
số người trả lời mất đi chiếm 36,2%, ít hơn hẳn số người trả lời vẫn tồn tại
chiếm 63,8%. Tuy nhiên điều này không có sự khác biệt trong tương quan về
học vấn.
Cuối cùng trong câu hỏi tương tự đối với ý thức cá nhân (mạnh nên hay
mờ nhạt đi) trong xu thế của toàn cầu hóa thế kỷ XXI số người trả lời lại
khống phân hóa rõ rệt tuy vẫn cơ sự khác nhau: số người trả lời dương tính,
cho rằng ý thức cá nhân mạnh lên chiếm 55,7%, nhiều hơn trả lời âm tính cho
rằng ý thức cá nhân mờ nhạt dần đi chiếm 44,3%, tương quan học vấn giữa
những người có trình độ phổ thông và đại học là 50,6% so với 60% trong
mạnh lên và 49,4% và 40% trong yếu dần đi, tức là những người có trình độ
đại học có tỉ lệ tán đồng với nhận định (trong toàn cầu hóa ý thức cá nhân sẽ
mạnh lên) cao hơn là tỉ lệ tương tự của những người có trình độ phổ thông.
Xét tương quan giới, tỉ lệ nữ trả lời dương tính ít hơn nam trong mọi
nhận định: ý thức dân tộc mạnh lên (nam 70,3% và nữ 42,2%), quyền lực
quốc gia mạnh lên (nam 49,5% và nữ 36,7%), biên giới, quốc tịch vẫn còn
(nam 66,3% và nữ 59,35), và ý thức cá nhân mạnh lên (nam 58,4% và nữ là
50,9%). Điều này phải chăng có thể nói rằng dường như nam có thái độ lạc
quan đối với toàn cầu hóa hơn nữ.
Xét tương quan khu vực, tỉ lệ cho rằng toàn cầu hóa sẽ làm cho ý thức
dân tộc mạnh lên đạt cao nhất là người Việt ở Cămpuchia 80%, tiếp đến là ở
San Francisco 75%, các nước Úc (66,7%), Pháp (64,3%) đạt trên 60%, Thái
Lan đạt mức 55,6% và thấp nhất là người Việt ở Washington DC 45,7%, Séc
46,2%. Về tỉ lệ tán đồng với nhận định cho rằng quyền lực quốc gia mạnh lên,
người Việt ở Thái Lan đạt mức cao nhất 69,8%, sau đó tới Cămpuchia 58,5%,
San Francisco đạt 55,2%, còn lại tương đối thấp: Washington DC 38,3%, Úc
33,3%, Pháp 23,8% và Séc thấp nhất chỉ có 17,9%. Đối với nhận định biên
giới quốc tịch mất đi, tỉ lệ phản đối (cho rằng vẫn còn) cao nhất là người Việt
ở Washington DC 84%, Thái Lan 79,2%, San Francisco 67,9%, Cămpuchia
64,2%, Úc 53,3%, thấp nhất là Séc 22,2% và Pháp là 31,7%. Về ý thức cá
nhân mạnh dần lên, người Việt ở Washington DC tán thành với tỉ lệ cao nhất
80,2%, sau đó tới Úc 73,3%, San Francisco 67,9%, Cămpuchia 60,4%, Thái
Lan 53,7%, thấp nhất là Séc 14,8% và Pháp 15%.
Như vậy là trong số những người Việt Nam ở nước ngoài tham gia
khảo sát, đa số có quan niệm về dân tộc và Tổ quốc phù hợp với hoàn cảnh
của mình dù sống ở đâu (biên giới và quốc tịch không còn) thì ý thức dân tộc
vẫn có thể được duy trì (mạnh). Số người trả lời về toàn cầu hóa đối với
quyền lực quốc gia và ý thức cá nhân không có sự phân hóa rõ rệt mặc dù số
người cho rằng trong toàn cầu hóa, quyền lực quốc gia có thể suy yếu đi và ý
thức cá nhân mạnh lên có nhiều hơn một chút (khoảng 10%) so với số người
quan niệm ngược lại. Cũng có thể nói rằng thái độ đối với toàn cầu hóa của
người Việt Nam ở nước ngoài nhìn chung là tích cực (bởi cả số người cho
rằng ý thức dân tộc và ý thức cá nhân mạnh lên đều chiếm số đông cho dù số
người cho rằng quyền lực quốc gia sẽ yếu dần đi có phần nhỉnh hơn một chút
so với số người trả lời sẽ mạnh lên).
Ngoài ra xét về tương quan học vấn, tỉ lệ tỏ thái độ tích cực, lạc quan
với toàn cầu hóa của người có trình độ học vấn cao (đại học) thì cao hơn một
chút so với người có trình độ thấp hơn (phổ thông), còn xét về tương quan
giới thì nam có thái độ tích cực hơn nữ. Xét về tương quan khu vực, người
Việt Nam ở Thái Lan và Cămpuchia có thái độ tích cực (điểm trung bình các
tiêu chí cao) đối với toàn cầu hóa, và có phần tiêu cực ở Séc, Pháp và
Washington DC.
2. Quan niệm về công dân toàn cầu
Về việc có hay không có những công dân toàn cầu hay công dân trái
đất, đây là một từ đã trở nên quen thuộc trong giai đoạn toàn cầu hóa mặc dù
vẫn còn khá xa lạ đối với người Việt Nam nói chung, song có lẽ do hoàn cảnh
sống của mình, đa số người Việt Nam ở nước ngoài (75%) phản đối ý kiến
cho rằng công dân toàn cầu chẳng qua chỉ là một khái niệm lý thuyết không
có thực, và 77,6% phản đối ý kiến cho rằng công dân toàn cầu chẳng qua chỉ
là ý thức của một số người, trên thực tế là không tồn tại.
Về tương quan học vấn, tỉ lệ phản đối (ý kiến công dân toàn cầu chẳng
qua chỉ là khái niệm lý thuyết không có thực) ở người có trình độ đại học là
80,6% và người có trình độ phổ thông là 72,3%. Về tương quan giới, tỉ lệ nữ
phản đối là 72,3% so với nam là 77,8%. Về tương quan khu vực, tỉ lệ phản
đối (có nghĩa là cho rằng công dân toàn cầu không phải là khái niệm lý thuyết)
cao nhất là người Việt ở Cămpuchia 86%, sau đó đến Mỹ 82%, Séc 78,6%,
Pháp 72%, thấp nhất là Úc 53,3%, Thái Lan 59,6%. Chỉ có 24,3% đồng ý với
những nhận định rằng công dân toàn cầu không có trong thực tế, và chỉ có
19,6% số người trả lời đồng ý với ý kiến: công dân toàn cầu sẽ ra đời trong
thế kỷ XXI. Điều này cho thấy, đại đa số người Việt Nam ở nước ngoài công
nhận có sự tồn tại của công dân toàn cầu trong thực tế và phủ định việc cho
rằng đây chỉ là một khái niệm lý thuyết hoặc ý tưởng cá nhân.
Tuy nhiên, chỉ có 35,3% số người trả lời đồng ý với ý kiến cho rằng
ngay xung quanh chúng ta đã có những công dân toàn cầu (không có sự sai
khác rõ rệt trong tương quan học vấn và giới, riêng về tương quan khu vực tỉ
lệ cao nhất là người Việt ở Washington DC 49,4%, Thái Lan 38,6%, San
Francisco 37,9%, thấp nhất ở Pháp 16%, Séc 21%). Và đa số: 80,4% số
người trả lời cũng không đánh giá cao ý nghĩa của việc đưa ra khái niệm công
dân toàn cầu trong thời điểm hiện nay; xét về tương quan học vấn, trong số
những người có trình độ phổ thông tỉ lệ đánh giá dương tính đối với ý nghĩa
của khái niệm công dân toàn cầu chênh nhiều hơn đến 19% so với tỉ lệ đó ở
những người có trình độ đại học; xét về tương quan giới thì tỉ lệ nữ không tán
thành nhận định nhiều hơn nam: nữ 88,2% và nam là 75,8%. Xét về tương
quan khu vực, có tỉ lệ cao về đánh giá ý nghĩa của khái niệm công dân toàn
cầu là người Việt ở Campuchia 45,6%, Thái Lan 40,4%, tỉ lệ thấp nhất là ở
Washington DC: không có ai, trong khi San Francisco là 13,8%; Séc chỉ có
3,6%, Pháp 10%, Úc 20%.
Rất nhiều người (72,6%) phủ định cần phải có một số điều kiện mới có
thể trở thành công dân toàn cầu. Về tương quan học vấn, ở đây có sự khác
biệt khá lớn: những người có trình độ đại học có tỉ lệ phủ định ý kiến cần phải
có điều kiện mới có thể trở thành công dân toàn cầu (86,3%) nhiều hơn 25%
so với tỉ lệ phủ định của những người có trình độ phổ thông (61,3%). Về
tương quan giới, nữ cũng phản đối nhiều hơn nam: chiếm 80,7% so với nam
là 67,7%.
Chỉ có 27,4% là có ý kiến ngược lại khi cho rằng để trở thành công dân
toàn cầu cần phải có một số điều kiện nhất định như học vấn, tiềm lực kinh tế,
xét tương quan học vấn thì 38,7% số người có trình độ phổ thông có ý kiến
như vậy trong khi tỉ lệ tương tự ở những người có trình độ đại học chỉ là
13,7%.
Về tương quan khu vực, người Việt Nam ở Cămpuchia (63,2%) và Thái
Lan (50,9%) có tỉ lệ tán thành cao nhất với nhận định cho rằng để trở thành
công dân toàn cầu cần phải có một số điều kiện nhất định trong khi đó đứng
đầu tỉ lệ phản đối nhận định này là người Việt ở Washington DC (100%) các
nước khác cũng rất cao, Úc 93,3%, Pháp 88%, Séc 75%, San Francisco
72,4%.
Như vậy là, một mặt đa số người tham gia khảo sát khẳng định công
dân toàn cầu là có thực song mặt khác ít người cho rằng công dân toàn cầu
đã có hoặc đang hoạt động sôi nổi trong cuộc sống, và ít người đánh giá cao
khái niệm công dân toàn cầu. Chỉ có 1,9% số người trả lời có ý kiến khác với
mọi nhận định về công dân toàn cầu nói trên. Thêm vào đó tỉ lệ ủng hộ khái
niệm này (hoặc có thái độ tích cực) ở những người có học vấn thấp hơn lại
cao hơn tỉ lệ đó ở những người có học vấn cao hơn.
Về khái niệm công dân toàn cầu, 47% người trả lời đồng ý với ý kiến
cho rằng những người tham gia tích cực các phong trào quần chúng xây
dựng khu vực và bảo vệ môi trường là những người gần với với khái niệm
công dân toàn cầu hớn cả, (cao nhất là người Việt ở Cămpuchia 66,7%,
ngoài ra ở San Francisco 62,1%, Thái Lan 56,1%, thấp nhất là Séc 10,7%, Úc
26,7%, trung bình có Washington DC 40,7%, Pháp 42%); 30,6% đồng ý rằng
gần với công dân toàn cầu là người luôn tự giác về bản thân là một thành
viên của loài người trên trái đất (trong đó cao nhất là người Việt ở Thái Lan
đạt 71,9%, Cămpuchia 56,1%, thấp nhất là Washington DC: không có ai,
trong khi San Francisco là 20,7%, và Séc là 10,7%, Úc 20%, Pháp 24%);
21,8% đồng ý rằng đó là những chính trị gia đóng góp cho nền chính trị quốc
tế; 14,8% đồng ý rằng đó là người đoạt giải Nobel; 11,7% đồng ý rằng đó là
người đạt huy chương vàng quốc tế trong Olimpic.
Như vậy, mặc dù không chiếm đa số (chỉ gần một nửa: 47%) song
nhiều người quan niệm một cách khá trung tính về công dân toàn cầu: là
những người có thái độ và hành động vì lợi ích chung (hoạt động các phong
trào quần chúng, xây dựng khu vực và bảo vệ môi trường), chỉ có một số ít
quan niệm coi công dân toàn cầu như một tài năng được thế giới công nhận
(chính trị gia tầm cỡ quốc tế, hay đạt giải huy chương vàng, giải Nobel).
Hơn nữa mặc dù khá đông người (hơn 30%) đồng ý với ý kiến cho rằng
công dân toàn cầu là người có ý thức chung rộng lớn (ý thức bản thân là
thành viên của cả loài người trên trái đất) có nghĩa là không giới hạn về khu
vực, quốc gia, dân tộc, song đa số (72,9%) lại phản đối với định nghĩa công
dân toàn cầu là ý thức nhìn nhận sự việc trên quy mô toàn cầu vượt ra khỏi
phạm vi chủng tộc, dân tộc và quốc gia; trong đó tương quan học vấn là
61,8% và 79,1% giữa người có trình độ phổ thông so với trình độ đại học;
tương quan giới là 71,2% và 75,6% giữa nam và nữ. Còn xét về tương quan
khu vực thì tỉ lệ tán thành nhận định này cao nhất chỉ có người Việt ở Thái
Lan 47,4%, Cămpuchia 29,8%, ngoài ra chỉ ở tỉ lệ khá thấp là khoảng 12%
(Pháp) cho đến 20% (Úc, Séc, San Francisco). Điều này một lần nữa cho thấy
ngay cả đối với người Việt Nam đang sống (định cư) ở nước ngoài ý thức dân
tộc, quốc gia vẫn rất mạnh, và (khá bất ngờ là) càng có học vấn cao lại càng
có xu hướng mạnh hơn.
Về định nghĩa công dân toàn cầu, 32,8% số người trả lời đồng ý với
định nghĩa công dân toàn cầu là người công dân tự lập mong muốn chung
sống với tất cả mọi người trên trái đất, không mâu thuẫn với chủ nghĩa dân
tộc, chủ nghĩa yêu nước; 32,2% đồng ý với định nghĩa đó là sự kế thừa quan
điểm "tự do" và "bình đẳng" mở rộng ra trên quy mô toàn thế giới; 27,1%
đồng ý với định nghĩa là sự nhìn nhận sự việc trên quy mô toàn cầu vượt quá
khuôn khổ quốc gia, dân tộc; 22,7% đồng ý với định nghĩa là bản sắc mới của
loài người nảy sinh trong thời đại toàn cầu hóa và 20,2% đồng ý với định
nghĩa là người có quan điểm trái đất không chỉ của riêng loài người, mong
muốn chung sống với muôn loài trên trái đất.
Về tương quan học vấn, sự phân hóa rõ rệt chỉ thể hiện trong thái độ
đối với định nghĩa công dân toàn cầu là bản sắc mới của loài người nảy sinh
trong thời đại toàn cầu hóa, trong đó người có học vấn thấp ủng hộ định
nghĩa này nhiều hơn người có học vấn cao gần 20%. Về tương quan giới,
không có sự phân hóa rõ rệt giữa các câu trả lời ngoại trừ đối với định nghĩa
công dân toàn cầu là người công dân trập mong muốn chung sống với tất cả
mọi người trên trái đất không mâu thuẫn với chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa yêu
nước, tỉ lệ nữ tán thành là 21% ít hơn so với nam là 39,9%, chênh lệch gần
19%. Về tương quan khu vực, tỉ lệ tán thành cao nhất đối với định nghĩa công
dân toàn cầu là người công dân tự lập mong muốn chung sống với tất cả mọi
người trên trái đất, không mâu thuẫn với chủ nghĩa dân tộc chủ nghĩa yêu
nước là tỉ lệ của người Việt ở Cămpuchia (66,7%) và Thái Lan (54,4%), San
Francisco 51,7% (phải chăng có thể cho rằng đây là ý tưởng gần với giáo lý
đạo Phật cho nên đạt tỉ lệ cao ở những nơi có nhiều tín đổ Phật giáo). Tỉ lệ
tán thành với định nghĩa là sự kế thừa quan điểm "tự do" và "bình đẳng" mở
rộng ra trên quy mô toàn thế giới cao nhất là người Việt ở Mỹ đạt trên dưới
45% (phải chăng vì quan điểm này gần với tư tưởng của tuyên ngôn độc lập
của Mỹ), ngoài ra ở các khu vực khác chỉ vào khoảng trên 20%. Đối với định
nghĩa công dân toàn cầu là người có quan điểm trái đất không phải của riêng
loài người để mong muốn chung sống với muôn loài, tỉ lệ tán thành cao nhất
là người Việt ở Thái Lan 45,6% (có lẽ vì đây là nơi có tỉ lệ ăn chay cao nhất),
Úc 33,3%, Campuchia 17,5%, Pháp 16 %, và thấp nhất là San Francisco chỉ
có 6,9%, Séc 7%, Washington DC 13,6%.
3. Đánh giá chung về mở cửa và hội nhập
Nhìn chung có nhiều người trả lời đánh giá mở cửa và hội nhập là tích
cực vì cho rằng sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tến (77,3%), phát triển khoa học
(66,6%) và phát triển văn hóa (61,5%). Thêm vào đó 65,3% số người trả lời
nêu lí do tích cực vì đó là hướng đi phù hợp với xu thế của thời đại 59,6% vì
nâng cao vị trí của dân tộc và 65,9% vì phát triển được mối quan hệ đa
phương.
Xét tương quan học vấn, nói chung không có sự khác biệt rõ rệt ngoài
hai đánh giá phát triển khoa học và quan hệ đa phương có độ chênh lệch học
vấn gần 15%, trong đó người có trình độ phổ thông có xu hướng đánh giá cao
hơn về phát triển khoa học, còn người có trình độ đại học có xu hướng đánh
giá cao hơn với quan hệ đa phương.
Xét tương quan khu vực, ý kiến cho rằng mở cửa và hội nhập dẫn đến
tăng trưởng kinh tế được đa số người Việt ở Mỹ (100% Washington DC và
87% San Francsco), Úc (86,7%) tán thành trong khi đó tỉ lệ này ở Pháp và
Séc không cao lắm, chỉ đạt 46% và 57,1%. Tương tự, đối với đánh giá phát
triển khoa học, người Việt ở Mỹ (98,8%), Thái (73,7%) tán thành với tỉ lệ cao
trong khi đó tương đối thấp ở Pháp (32%) và Séc (21,4%). Về đánh giá phát
triển văn hoá, đa số người Việt ở các nước đều tán thành (Washington DC
đạt 92,6%) chỉ riêng ở Pháp (34%) và Séc (17,9%) tỉ lệ tán thành không cao.
Đối với đánh giá phù hợp xu thế thời đại, người Việt ở Washington DC có tỉ lệ
tán đồng cao nhất 100%, Thái Lan và Úc cũng đạt 84,2% và 86,7% trong khi
ở Pháp chỉ có 14%, ở Séc chỉ có 10,7% tán thành đánh giá này. Về đánh giá
nâng cao vị trí dân tộc người Việt ở Washington DC cũng dẫn đầu về tỉ lệ tán
thành đạt 95,1% trong khi Séc chỉ có 14,3% và Pháp 16%. Cuối cùng đối với
phát triển quan hệ đa phương, tỉ lệ tán thành cao nhất cũng là tỉ lệ của người
Việt ở Washington DC (96,3%) và thấp nhất cũng là ở Séc (10,7%) và Pháp
(26%). Điều này cho thấy những người Việt ở Mỹ đặc biệt là Washington DC
rất tán thành với xu hướng toàn cầu hóa, mở cửa và hội nhập và ít tán thành
nhất (hay nói khác đi là ít đánh giá tích cực đối với ảnh hưởng của toàn cầu
hóa tới sự phát triển của đất nước) là người Việt ở Séc và Pháp.
Số người đánh giá tiêu cực đối với mở cửa và hội nhập ít hơn hẳn đánh
giá tích cực song ý kiến cho rằng mở cửa và hội nhập sẽ dẫn đến một số hiện
tượng tiêu cực cũng không phải là ít, ví dụ nguy cơ xói mòn bản sắc văn hóa
19,6%; bí mật quốc gia bị rò rỉ 21,5%; lệ thuộc về chính trị 22,7%; chuẩn giá
trị xã hội bị đảo lộn 27,1%; và nhất là làm tăng tệ nạn xã hội 44,5%.
Với kết quả đánh giá dương tính như ở trên người ta dễ nghĩ rằng
người Việt ở Mỹ sẽ ít đánh giá âm tính về ảnh hưởng của mở cửa hội nhập
và người Việt ở Pháp có tỉ lệ này cao, tuy nhiên có điều bất ngờ là trong đánh
giá âm tính (ảnh hưởng tiêu cực của mở cửa và hội nhập đối với các mặt của
đất nước) thì người Việt ở Mỹ vẫn có tỉ lệ cao nhất: ví dụ đối với đánh giá mở
cửa, hội nhập làm suy thoái phá sản về kinh tế, tỉ lệ tán thành của người Việt
ở San Francisco cao nhất, 20,7%, trong khi Pháp là 12%; đối với đánh giá bị
lệ thuộc về chính tri, tỉ lệ tán thành của người Việt ở Washington DC là 30,9%
trong khi Pháp là 20%; đánh giá chuẩn giá trị xã hội bị đảo lộn, tỉ lệ tán thành
của người Việt ở Washington DC là 50,6% cao nhất trong khi ở Pháp là 16%;
đánh giá tăng tệ nạn xã hội tỉ lệ tán thành của người Việt ở Washington DC
71,6% cũng cao nhất trong khi Pháp là 18%, tỉ lệ tán thành đánh giá bí mật
quốc gia bị rò rỉ của người Việt ở Washington DC cũng cao nhất 39,5% trong
khi Pháp là 14%; chỉ riêng đối với đánh giá bản sắc văn hóa bị xói mòn thì tỉ lệ
tán thành của người Việt ở Pháp khá cao 22%, ở Séc là 25% so với ở
Washington DC là 7,4%. (nhưng ở San Francisco lại là 24,1%). Như vậy là
người Việt ở Washington DC có cách đánh giá ảnh hưởng của toàn cầu hóa
không thiên lệch một phía tiêu cực hay tích cực mà nhấn mạnh cả hai mặt có
thể có còn người Việt ở Pháp và Séc thì tỉ lệ đánh giá cả tiêu cực lẫn tích cực
đều thấp, điều này dường như cho thấy những người Việt ở đây ít suy nghĩ
sâu sắc (ít quan tâm) về toàn cầu hóa.
Những con số này cũng cho thấy tuy số người có thái độ lạc quan,
đánh giá dương tính về mở cửa và hội nhập nói chung là áp đảo song những
người có thái độ thận trọng đánh giá âm tính về mở cửa và hội nhập cũng
không ít, đặc biệt là tỉ lệ những người có ý kiến cho rằng mở cửa có thể làm
tăng tệ nạn xã hội cao vọt lên so với những ý kiến đánh giá âm tính khác.
4. Đánh giá tác động của mở cửa, hội nhập đối với những vấn đề cụ thể
Đối với độc lập dân tộc
Đánh giá dương tính cao nhất là 68,5% cho rằng mở cửa và hội nhập
có tác dụng tăng cường hiểu biết lẫn nhau, 66,2% cho rằng tăng cường sự
hợp tác lẫn nhau, tuy nhiên những đánh giá đương tính khác nói chung đều ở
mức dưới một nửa: 48,9% cho rằng mở cửa hội nhập có tác dụng phát huy
tính tự lực tự cường, 47% cho rằng làm tăng tinh thần độc lập dân tộc và
46,4% cho rằng có tác dụng giảm sự đối đầu.
Về tương quan học vấn, rõ rệt nhất có sự chênh lệch 15% trong đánh
giá về tăng cường hiểu biết lẫn nhau, cụ thể là người có trình độ phổ thông ít
đồng ý hơn người có trình độ đại học đối với nhận định: mở cửa hội nhập làm
tăng cường hiểu biết lẫn nhau.
Về tương quan khu vực, cũng tương tự như đánh giá tích cực đối với
ảnh hưởng của toàn cầu hóa tới các mặt của đất nước, trong đánh giá tích
cực đối với ảnh hưởng của mở cửa và hội nhập, tỉ lệ tán thành của người Việt
ở Mỹ vẫn là cao nhất: ví dụ đối với đánh giá mở cửa và hội nhập làm tăng tính
độc lập dân tộc, tỉ lệ tán thành ở Mỹ là 58% còn ở Pháp và Séc là 24%, 25%;
và đối với các đánh giá khác như phát huy tính tự cường, tăng cường hiểu
biết lẫn nhau, giảm đối đầu tăng cường hợp tác… thì tỉ lệ tán thành của người
Việt ở Mỹ vẫn là cao nhất (từ 58 đến 98%) và vào loại thấp nhất vẫn là ở
Pháp và Séc (từ 14,3% đến 42%).
Đánh giá âm tính nói chung không cao so với dương tính, ví dụ chỉ có
7,3% cho rằng mở cửa và hội nhập làm tăng nguy cơ chiến tranh vì dễ để lộ
điểm yếu cho đối phương, 21,5% cho rằng hạn chế tính tự lực tự cường, tuy
nhiên những đánh giá âm tính khác cũng không hẳn là ít: 28,1% cho rằng dễ
bị đối phương thâm nhập về mọi mặt, 30% cho rằng làm giảm tính độc lập tự
chủ, và 33,1% cho rằng dễ nảy sinh bành trướng vì quan hệ thiếu bình đẳng.
Xét tương quan khu vực, trong những đánh giá âm tính về tác động của
mở cửa và hội nhập đối với đất nước, tỉ lệ tán thành của người Việt ở Mỹ vẫn
là cao và ở Pháp vẫn là thấp, chỉ riêng đối với đánh, giá làm tăng nguy cơ
chiến tranh thì tỉ lệ tán thành của người Việt ở Mỹ lại thuộc loại thấp nhất:
4,9% trong khi tỉ lệ này ở Pháp lại cao nhất 16%. Tuy nhiên cần nói thêm rằng
tỉ lệ tán thành với những nhận định tiêu cực của người Việt ở Pháp tượng đối
ổn định, nói chung ở trong khoảng 16% đến 18% trong khi tỉ lệ này của người
Việt ở Mỹ lại thay đổi từ 4,9% (thuộc loại thấp nhất) cho đến 79% (cao nhất,
đối với nhận định dễ nảy sinh bành trướng). Liệu điều này một lần nữa có thể
nói rằng người Việt (tham gia điều tra này) ở Pháp ít suy nghĩ sâu về mở cửa
và hội nhập hơn là người Việt ở những khu vực khác nhất là Mỹ.
Đối với văn hóa dân tộc:
Nói chung đánh giá dương tính về ảnh hưởng của mở cửa và hội nhập
đối với văn hóa dân tộc là khá cao: 79,7% cho rằng mở cửa và hội nhập là cơ
hội để văn hóa dân tộc phát triển hơn, chỉ có 12,3% phủ định ý kiến này. Về lí
do đưa ra đánh giá này, 79,1% số người trả lời đồng ý với ý kiến cho rằng vì
có điều kiện để văn hóa dân tộc được giới thiệu rộng rãi với bạn bè quốc tế,
76,7% đồng ý với ý kiến làm tăng cơ hội học tập văn hóa nước ngoài, 66,8%
đồng ý với ý kiến nâng cao được nhu cầu văn hóa, 66% đồng ý với ý kiến làm
phong phú thị hiếu thẩm mỹ, nghệ thuật quần chúng, 60,5% đồng ý với ý kiến
là cơ hội để hiện đại văn hóa dân tộc.
Xét tương quan học vấn, đối với ý kiến mở cửa hội nhập là cơ hội để
hiện đại văn hóa dân tộc, thái độ của người trả lời khác nhau khá nhiều tùy
theo trình độ: người có học vấn phổ thông ít đồng ý hơn chỉ có 51,2% trong
khi ở người có trình độ đại học tỉ lệ này lên đến 70,8%.
Xét tương quan khu vực, trong khi đa số người Việt ở các nước đều có
tỉ lệ tán thành cao đối với những đánh giá tích cực của mở cửa và hội nhập
đối với văn hóa dân tộc thì người Việt ở Pháp có tỉ lệ tương đối thấp và vào
loại thấp nhất: Washington DC là 100% thì Pháp là 48,4% đối với nhận định
làm tăng cơ hội học tập văn hóa nước ngoài, Washington DC là 100% thì
Pháp là 25,8% đối với nhận định làm phong phú thị hiếu thẩm mỹ, nghệ thuật
quần chúng, Washington DC là 95,9% thì Pháp là 41,9% đối với đánh giá
nâng cao được nhu cầu văn hóa, Washington DC là 94,5% thì Pháp là 8,7%
đối với đánh giá hiện đại văn hóa dân tộc, Washington DC là 97,3% thì Pháp
là 35,5% đối với nhận định văn hóa dân tộc được giới thiệu rộng rãi với bạn
bè quốc tế.
Đánh giá âm tính cũng hoàn toàn không thấp: 62,2% số người trả lời
đồng ý với ý kiến cho tằng mở cửa và hội nhập sẽ khiến cho văn hóa dân tộc
phải chịu ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa nước ngoài, 54,1% đồng ý với ý
kiến về khả năng bị văn hóa nước ngoài lấn sân và áp đảo, 48,6% đồng ý với
ý kiến đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc.
Xét tương quan học vấn, ý kiến chịu ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa
nước ngoài có độ chênh lệch lên đến 28%: người có trình độ đại học ủng hộ
đến 81,8% trong khi tỉ lệ này ở người có trình độ phổ thông chỉ là 53,8%. Đối
với ý kiến cho rằng làm mất bản sắc văn hóa dân tộc, độ chênh lệch học vấn
lên tới 43%, cụ thể là tỉ lệ tán đồng ở người có trình độ phổ thông là 61,5%
trong khi tỉ lệ đó ở người có trình độ đại học chỉ có 18,2%. Như vậy là những
người có trình độ đại học mặc dù cho rằng mở cửa và hội nhập có làm cho
văn hóa dân tộc chịu ảnh hưởng tiêu cực của nước ngoài (81,8%) song lại
không cho rằng vì thế mà nền văn hóa bị mất bản sắc dân tộc (81,8%) mà
ngược lại nghiêng nhiều hơn về ý kiến cho rằng đó là cơ hội để hiện đại hóa
văn hóa dân tộc (70,8%).
Xét tương quan khu vực; đối với đánh giá mở cửa hội nhập sẽ khiến
văn hóa dân tộc bị văn hóa nước ngoài lấn sân và áp đảo, tỉ lệ tán thành cao
nhất là của người Việt ở Mỹ và thấp nhất là ở Úc (0%), Pháp 11%; đối với
chất ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa nước ngoài, tỉ lệ tán thành cao nhất là
của người Việt sống ở Washington DC, Séc, Úc (đều 100%) trong khi ở San
Francisco không có ai, thấp nhất 0% sau đó tới Pháp là 33,3%; đối với làm
một bản sắc văn hóa dân tộc tỉ lệ tán thành cao nhất là ở Úc (100%), Thái
(90%), thấp nhất là ở Séc (0%), rồi đến Cămpuchia (33,3%), Pháp (56,5%).
Như vậy có thể thấy việc đánh giá mở cửa và hội nhập đối với văn hóa
dân tộc nói chung tương đối khách quan, cả tích cực và tiêu cực cho dù tích
cực có phần cao hơn một chút. Kết quả này một lần nữa giúp khẳng định một
điều là không thể lơ là với những ảnh hưởng tiêu cực của mở cửa và hội
nhập, cần phải có những biện pháp đề phòng và kiềm chế thực sự có hiệu
quả đối với những ảnh hưởng tiêu cực đó tới nền văn hóa dân tộc. Về tương
quan học vấn, người có trình độ học vấn cao hơn có phần lạc quan hơn về
tác động của mở cửa và hội nhập đối với văn hóa dân tộc.
Đối với nguy cơ chiến tranh
Đối với nguy cơ chiến tranh, số người cho rằng mở cửa và hội nhập có
tác dụng làm giảm bớt nguy cơ chiến tranh khá cao chiếm đến 82,2% số
người trả lời, đồng thuận với kết quả trả lời trong phần trước (về ảnh hưởng
của mở cửa và hội nhập đối với độc lập dân tộc: làm giảm nguy cơ chiến
tranh và đối đầu); 74% đồng ý với ý kiến cho rằng mở cửa hội nhập sẽ làm
tăng cường hòa bình vì lý do hiểu biết lẫn nhau, giảm sự đối đầu; 89,7% đồng
ý với lý do tăng cường hợp tác đôi bên cùng có lợi.
Xét tương quan khu vực, hầu hết người Việt ở các nước đều có tỉ lệ tán
thành cao đối với nhận định dương tính (giảm nguy cơ chiến tranh) trong đó
cao nhất là người Việt ở Washington DC, sau đó tới người Việt ở Thái,
Cămpuchia, Séc, San Francisco, Pháp, Úc. Về lí do hiểu biết lẫn nhau, giảm
sự đối đầu, người Việt ở Washington DC có tỉ lệ tán thành cao nhất (100%),
tiếp đến là Thái, Úc, Cămpuchia, Pháp, San Francisco, Séc. Đối với lý do tăng
cường hợp tác đôi bên cùng có lợi, tỉ lệ tán thành cao nhất là người Việt ở
Washington DC, Úc (100%), sau đó tới Cămpuchia, Thái, San Francisco, Séc,
Pháp
Về đánh giá âm tính (dễ có nguy cơ nổ ra chiến tranh), trong số những
lý do khiến người trả lời đồng ý với nguy cơ nổ ra chiến tranh thì đến 58,3%
đồng ý với lý do dễ nảy sinh bành trướng từ quan hệ thiếu bình đẳng, 54,2%
đồng ý với lý do dễ bị đối phương thâm nhập về mọi mặt, và 20,8% đồng ý
với lý do dễ để lộ những điểm yếu với đối phương.
Xét về tương quan học vấn, chênh lệch rõ rệt nhất (24%) thể hiện trong
sự đánh giá dễ nảy sinh bành trướng từ quan hệ thiếu bình đẳng, người có
trình độ phổ thông ít đồng ý hơn và người có trình độ đại học đồng ý nhiều
hơn với quan điểm này. Xét tương quan khu vực, lý do dễ để lộ những điểm
yếu chỉ được người Việt ở Washington DC và Thái tán thành, còn những khu
vực khác không ai tán thành lý do này; đối với dễ bị đối phương thâm nhập về
mọi mặt, chỉ có người Việt ở Mỹ tán thành 100% còn lại những nước khác
như Thái (60%), Pháp (50%) thì tán thành ở mức trên trung bình ngoài ra
không có người Việt nào ở Úc và Séc tán thành lý do này. Đối với lý do dễ
nảy sinh bành trướng từ quan hệ thiếu bình đẳng, người Việt ở Úc tán thành
100%, Thái 80%, Washington DC 75%, Pháp 33,3% và Séc không có ai.
Như vậy có thể nói đánh giá của người Việt Nam ở nước ngoài - những
người sống trong hoàn cảnh có phần "mở và hội nhập" hơn người Việt Nam
trong nước - đối với mở cửa và hội nhập không phải là một chiều, tuy đánh
giá mặt tích cực nhiều hơn song không thiếu chủ quan quá mức mà tỏ ra khá
thận trọng đối với những tiêu cực có thể xảy ra. Và những đánh giá này tùy
từng nước, từng khu vực đôi khi vô cùng khác nhau, đặc biệt có một xu
hướng khá nổi bật là người Việt ở Mỹ đánh giá cả tích cực và tiêu cực đều ở
tỉ lệ cao trong khi người Việt ở Séc và Pháp có xu hướng cả hai phía đều
thấp. Điều này phần nào nói lên rằng người Việt ở các nước khác nhau có
mức độ quan tâm và tán thành khác nhau đối với mở cửa và hội nhập và
dường như ở Séc và Pháp mức độ này có vẻ thấp hơn cả.
5. Những hoạt động hội nhập cụ thể
Đối với câu hỏi đã từng tham gia hoạt động gì mang tính hội nhập quốc
tế, số người trả lời tham gia vào các hoạt động nói chung không vượt quá
nửa, ví dụ nhiều nhất là tham gia giới thiệu văn hóa, lịch sử Việt Nam cho
người nước ngoài: 44,8% và tham gia các buổi gặp gỡ giao lưu với người
nước ngoài: 43,5%; ngoài ra là tham gia hỗ trợ vật chất, cứu trợ quốc tế, bảo
vệ môi trường: 28,7%; thăm hỏi, giúp đỡ người nước ngoài: 28,4%; tham gia
dạy tiếng Việt cho người nước ngoài: 25,9%; tham gia các hoạt động ủng hộ
phong trào quần chúng tiến bộ: 19,6%; tham gia các hoạt động tình nguyện
hợp tác giao lưu quốc tế 11% và tham gia hoạt động các tổ chức phi chính
phủ và hợp tác quốc tế 9,5%. Ngoài ra có 2,8% số người trả lời có tham gia
các hoạt động khác nữa.
Về tương quan học vấn, người có trình độ đại học tham gia vào các
hoạt động hội nhập nhiều hơn người có trình độ phổ thông, cụ thể là tỉ lệ tham
gia hoạt động giới thiệu văn hóa lịch sử Việt Nam là 54,7% (so với 37,4% ở
người trình độ phổ thông), tham gia các buổi gặp gỡ giao lưu với người nước
ngoài là 59% (so với 31,2%), giúp đỡ người nước ngoài trong sinh hoạt hằng
ngày là 30,2% (so với 27,2%), hoạt động tình nguyện hợp tác quốc tế là
13,7% (so với 9,2%), hoạt động hợp tác quốc tế với các tổ chức phi chính phủ
là 12,9% (so với 6,9%), hỗ trợ vật chất, cứu trợ quốc tế, bảo vệ môi trường là
30,2% (so với 27,7%). Chỉ riêng có hoạt động dạy tiếng Việt cho người nước
ngoài thì tỉ lệ tham gia của người có trình độ phổ thông cao hơn người có
trình độ đại học 9% (29,5% và 20,5%).
Về tương quan giới, không có sự khác nhau nhiều lắm về giới trong tỉ lệ
tham gia các hoạt động hòa nhập nói chung, ngoại trừ tỉ lệ tham gia các hoạt
động ủng hộ các phong trào quần chúng tiến bộ của nữ cao hơn hẳn nam giới
gần 14%, cụ thể là 24,7% so với tỉ lệ tham gia hoạt động này ở nam chỉ có
10,9%.
Xét tương quan khu vực, Mỹ là nơi có nhiều người tham gia giới thiệu
văn hóa lịch sử Việt Nam nhất (San Francisco 62,1%, Washington DC
59,3%), sau đó đến Úc (54,4%), Thái Lan (46,7%), Cămpuchia (36,6%) và
Séc (7,1%) là nước có tỉ lệ thấp nhất. Về tham gia dạy tiếng Việt, Thái Lan là
nước có tỉ lệ cao nhất 45,6%, tiếp đến Úc 40%, Cămpuchia 36,8%, thấp nhất
là khu vực Washington DC 9,9%, thấp hơn Pháp 12%. Về mức độ tham gia
gặp gỡ giao lưu với người nước ngoài, Thái Lan là nước có tỉ lệ cao nhất đạt
57,9%, tiếp đến là Pháp 54%, Washington DC 50,6%, Úc 46,7%, Séc 42,9%,
thấp nhất là Campuchia 17,5%, thấp hơn San Francisco (27,6%). Đối với việc
tham gia giúp đỡ người nước ngoài, Thái Lan và Washington DC vẫn giữ tỉ lệ
cao hơn 43%, Séc cũng ở mức 25%, còn các khu vực khác đều thấp và thấp
nhất là Cămpuchia 12,3%. Về tham gia các hoạt động tình nguyện, hợp tác
quốc tế tỉ lệ nói chung thấp, trong đó khu vực San Francisco và Pháp có tỉ lệ
cao hơn cả, đạt 20,7% và 14 %, thấp nhất là Séc và Úc (3% và 6%). Về hoạt
động cứu trợ quốc tế, bảo vệ môi trường, tỉ lệ tham gia có phần nâng lên,
trong đó cao nhất là Washington DC 45,7%, Úc 40%, Thái Lan 38,6%, San
Francisco 34%, Pháp 16%, Cămpuchia 14% và Séc 0%. Về tham gia các
phong trào quần chúng tiến bộ, Cămpuchia (35,1%), Thái Lan (31,6%) là
nước có tỉ lệ cao nhất đạt trên 30%, thấp nhất là Séc (7,1%) và Mỹ
(Washington DC 11,1 % và San Francisco 10,3%).
Có thể thấy rằng mặc dù sống trong hoàn cảnh hội nhập là điều kiện
quan trọng trực tiếp của cuộc sống song số người Việt Nam ở nước ngoài
tham gia hội nhập chưa chiếm đa số và cũng chỉ dừng nhiều ở mức giao lưu
và giới thiệu. Hơn nữa điều này còn rất khác nhau giữa các khu vực, ví dụ về
giao lưu quan hệ với người nước sở tại, khu vực có tỉ lệ (tham gia các hoạt
động hoà nhập) cao nhất là Thái Lan, rồi đến Mỹ, Úc và Pháp, Cămpuchia,
còn Séc là nước có tỉ lệ thấp nhất. Có thể nói độ hội nhập (tỉ lệ trung bình các
tiêu chí trong mục này) của người Việt ở Thái Lan là cao nhất sau đó đến Mỹ,
và Séc là thấp nhất.
6. Tác động của các tổ chức quốc tế đối với kinh tế Việt Nam
Khi được hỏi Việt Nam tham gia vào các tổ chức quốc tế thì có lợi gì
cho phát triển kinh tế, nói chung số người trả lời đánh giá tích cực (có lợi)
nhiều trên một nửa, lý đo được nêu ra theo thứ tự từ cao xuống thấp như sau:
67,8% số người trả lời đồng ý với ý kiến cho rằng gia nhập WTO, cam kết
AFTA sẽ làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam (tỉ lệ nữ là 73,7%
so với nam là 58%, chênh nhau 15,7%), 67,8% đồng ý với ý kiến kích thích
sản xuất trong nước phát triển (nữ 70,7% so với nam là 63%, chênh nhau
13%), và 66,9% đồng ý với ý kiến được giảm thuế nên kích thích xuất khẩu
tăng. So với những đánh giá dương tính này đánh giá âm tính ít hơn song
cũng từ 20% đến hơn 40%, cụ thể là: 45,1% người được hỏi đồng ý với ý kiến
không quản lý được các nguồn hàng của nước ngoài; 42,6% đồng ý với nguy
cơ hàng hóa Việt Nam không cạnh tranh nổi với hàng hóa nước ngoài; 37,2%
đồng ý với ý kiến sẽ làm phá sản hàng loạt xí nghiệp trong nước, và tình trạng
công nhân mất việc làm, 21,5% đồng ý với ý kiến sẽ mất cả thị trường trong
nước, 2,2% số người trả lời cho rằng còn có những nguy cơ khác.
Xét tương quan học vấn, đánh giá dương tính không có sự chênh lệch
rõ rệt lắm (khoảng 5, 6%) song đánh giá âm tính có sự chênh lệch học vấn ít
nhất là gần 14%. Ví dụ về nguy cơ không quản lý được các nguồn hàng của
nước ngoài, tỉ lệ trả lời khẳng định có nguy cơ này của người có trình độ phổ
thông là 37,6% trong khi tỉ lệ này ở người trình độ đại học là 54,7%, về nguy
cơ phá sản, công nhân mất việc làm thì các tỉ lệ tương đương là 31,2% và
44,6%. Điều này dường như cho phép nói rằng người có trình độ cao hơn
đánh giá âm tính về việc tham gia vào các tổ chức quốc tế nhiều hơn nếu
không nói là đánh giá thận trọng hơn người có trình độ thấp hơn về những
nguy cơ có thể xảy ra khi Việt Nam tham gia vào các tổ chức quốc tế. Về
tương quan khu vực, đánh giá dương tính (mặt tích cực khi tham gia vào các
tổ chức quốc tế) có tỉ lệ cao nhất là người Việt sống ở Mỹ (đặc biệt là
Washington DC đạt 100% đối với nhận định có lợi cho phát triển kinh tế do
giảm thuế xuất khẩu) sau đó đến Thái Lan, thấp nhất là Úc (33,3%) thấp hơn
cả Séc (35,7%) và Pháp (36%). Tuy nhiên về đánh giá âm tính, người Việt ở
Mỹ cũng có tỉ lệ cao nhất (phải chăng mà do thận trọng hơn), ví dụ cho rằng
nếu tham gia vào các tổ chức quốc tế thì hàng hóa Việt Nam không cạnh
tranh nổi: San Francisco 65,5% so với Séc 14,3%, mất thị trường trong nước:
San Francisco 27,6% so với Séc 10,7%; không quản lý được nguồn hàng:
Washington DC 67,9% so với Pháp 26%; phá sản hàng loạt: Washington DC
77,8% so với Pháp 10%, trong khi người Việt ở Séc và ở Pháp có tỉ lệ thấp
nhất (lạc quan hơn). Về mọi nguyên nhân làm cho hàng hóa Việt Nam không
có sức cạnh tranh (chất lượng thấp, giá thành cao…) tỉ lệ đánh giá âm tính
của người Việt ở Washington DC là dẫn đầu (ví dụ chất lượng thấp 97,5% so
với Séc là 35,7%, Pháp là 48%; giá thành cao 86,4% so với Séc là 25%, Pháp
là 28%; ít sáng tạo 81,5% so với Séc là 21,4%, Pháp là 30%; thiếu hiểu biết
luật pháp quốc tế 86,4% so với Séc là 21,4%, Pháp 30%; cơ sở sản xuất lạc
hậu 90,1% so với Séc là 14,3%, Pháp là 30%; quản lý kém 90,1% so với Séc
là 10,7%, Pháp là 38%; công nghệ lạc hậu 88,9% so với Séc là 14,3%, Pháp
là 10%) Điều này cho thấy dường như Séc và Pháp là nước tương đối có thị
trường ôn hòa hơn (không đánh giá quá khắt khe như Washington DC) đối
với hàng hóa Việt Nam. Và tuy cùng là ở Mỹ song người Việt ở San Francisco
lại có tỉ lệ đánh giá âm tính nhẹ hơn rất nhiều so với Washington DC.
Như vậy cũng như đánh giá đối với mở cửa và hội nhập nói chung,
đánh giá đối với việc Việt Nam ra nhập các tổ chức thương mại quốc tế của
người Việt Nam ở nước ngoài tham gia cuộc khảo sát này tuy lạc quan song
không một chiều, không đánh giá quá cao việc tham gia vào các tổ chức quốc
tế, ngược lại có tính đến những rủi ro có thể có khi Việt Nam gia nhập.
7. Đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
Về lo ngại năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, lý do chất
lượng hàng hóa thấp được nhiều người đồng ý nhất: 71,6%, ngoài ra là các lý
do sau: 55,2% đồng ý với ý kiến cho rằng đó là do các cơ sở sản xuất trong
nước quá lạc hậu; 55,2% đồng ý với ý kiến thiếu hiểu biết luật pháp và tập
quán quốc tế, 53,3% đồng ý với ý kiến cho rằng đó là do công nghệ lạc hậu,
53,3% đồng ý với ý kiến quản lý sản xuất kém; 50,5% đồng ý với lý do giá
thành cao; 45,7% đồng ý với ý kiến ít sáng tạo. Ngoài ra có 2,5% số người trả
lời cho rằng còn có những lý do khác. Kết quả này cho thấy sống trong điều
kiện có thể so sánh trực tiếp về chất lượng của hàng hóa Việt Nam so với thế
giới, những người Việt Nam ở nước ngoài đánh giá không cao năng lực cạnh
tranh của hàng hóa Việt Nam và một số lý do quan trọng được nhiều người
tán thành là chất lượng thấp, giá thành cao, mẫu mã nghèo và những người
kinh doanh lại kém am hiểu luật lệ thương mại quốc tế. Đó chính là những
điểm yếu rất cần lưu ý đối với Việt Nam khi mở cửa, hội nhập về kinh tế vào
thị trường quốc tế.
Về tương quan học vấn, nói chlmg người có trình độ đại học có tỉ lệ
đồng ý với ý kiến ít sáng tạo (56,1%), thiếu hiểu biết luật pháp quốc tế
(64,7%), quản lý kém (63,3%) cao hơn tỉ lệ của người có trình độ phổ thông
(các tỉ lệ tương đương là 38,2%, 49,1%, và 46,8%). Về tương quan giới, có
sự chênh lệch rõ rệt nhất trong hai lý do dẫn đến giảm năng lực cạnh tranh
của hàng hóa Việt Nam là chất lượng thấp và thiếu hiểu biết luật pháp quốc
tế: tỉ lệ nữ cho rằng hàng hóa Việt Nam có chất lượng thấp là 78,3% so với tỉ
lệ này ở nam giới là 60,5%, chênh nhau gần 18%, tỉ lệ nữ cho rằng do thiếu
hiểu biết luật pháp quốc tế là 61,1% so với nam là 45,4% chênh nhau 16,3%.
Có lẽ đây cũng là một con số rất đáng lưu ý bởi nữ giới thường là người tiêu
dùng trực tiếp hơn và quan tâm nhiều hơn đến chất lượng hàng hóa tiêu
dùng.
8. Thái độ đối với dân tộc
Đối với câu hỏi cảm thấy thế nào khi mình là người Việt Nam, 59,8%
cho rằng rất tự hào và 28,8 % cho rằng khá tự hào, tổng cộng tiêu chí tự hào
có 88,6% người trả lời dương tính trong khi âm tính: không tự hào lắm là 7%
và không biết 4,4%. Như vậy có thể nói rằng đa số người Việt Nam ở nước
ngoài vẫn giữ được lòng tự hào dân tộc.
Về tương quan học vấn tỉ lệ trả lời rất tự hào ở người có trình độ phổ
thông (61,65) cao hơn tỉ lệ đó ở người có trình độ đại học (57,6%) song về tỉ
lệ khá tự hào thì người có trình độ đại học lại cao hơn (36% so với 23,3%)
nên tính chung là có tự hào thì tỉ lệ của người đại học lại cao hơn người phổ
thông mặc dù nhìn chung tỉ lệ này ở cả hái đối tượng đều chiếm áp đảo tổng
số người trả lời.
Về tương quan giới, tỉ lệ rất tự hào của nữ ít hơn nam song tỉ lệ tự hào
nhiều hơn và tỉ lệ không tự hào lắm cũng chiếm đa số so với nam (trong 7,6%
chung cho cả nam và nữ thì nữ là 9,6% so với nam là 2,5%).
Về tương quan khu vực, Người Việt sống ở Thái Lan có tỉ lệ rất tự hào
cao nhất đạt 87,7%; tiếp đến Pháp 80%, Cămpuchia 58,9%; thấp nhất là
Washington DC 38,3% sau đó đến Séc 42,9%, Úc 46,7% và San Francisco
55,2%, tuy nhiên nếu tính gộp với khá tự hào thì Séc đạt tỉ lệ cao nhất 100%
Thái Lan 98,2%, Pháp 98%, San Francisco 89,7%, Washington DC 82,7%, Úc
80%c, Cămpuchia 75%. Tỉ lệ không tự hào lắm cao nhất là người Việt ở
Cămpuchia 25% và Úc 20%, thấp nhất (ngoại trừ Séc 0%) là Thái Lan 1,8%.
9. Niềm tin vào cuộc sống
Đối với cuộc sống của con người nói chung, người Việt Nam ở nước
ngoài có cái nhìn lạc quan hơn là bi quan: 78,7% số người trả lời tán thành ý
kiến cho rằng cho dù khoa học công nghệ phát triển đến đâu thì tính người
(tính nhân bản) vẫn sẽ không bị mất đi (phản đối là 2,9%); 51,1 % cho rằng
loài người sẽ ngày càng hạnh phúc (phản đối là 10%); 58,3% cho rằng con
người sẽ ngày càng trở nên tự do hơn (phản đối là 18,1%); 68,5% cho rằng
sức khoẻ con người sẽ ngày càng tốt hơn (phản đối là 15,1%); 36% cho rằng
tâm hồn con người được thanh thản hơn trong tương lai. Trong khi đó số
người cho rằng hầu như không có gì thay đổi trong tương lai đối với hạnh
phúc của loài người là 24,4%; đối với tâm hồn con người được thanh thản
hơn là 23,5% (ít thanh thản hơn là 28%); đối với mức độ ngày càng tự do hơn
là 14,6% (ít tự do hơn là 18,1%); đối với sức khoẻ là 7,1% (xấu đi là 15,1%).
Nói chung đánh giá dương tính (tốt lên) nhiều hơn hẳn âm tính (xấu đi)
song nhận định âm tính lại nhiều hơn nhận định không thay đổi đối với sự
thanh thản hơn, tự do hơn và sức khoẻ tốt hơn.
Về tương quan học vấn, nói chung không có chênh lệch nhiều rõ rệt
ngoại trừ đánh giá đối với sức khoẻ con người, ví dụ tỉ lệ đồng ý với nhận
định sức khoẻ con người sẽ ngày càng xấu đi ở người có trình độ phổ thông
là 20,2% trong khi tỉ lệ tương tự của người có trình độ học vấn đại học là
7,9%, chênh lệch đến hơn 12%, ngược lại tỉ lệ cho rằng sức khoẻ của con
người sẽ ngày càng tốt lên của người có trình độ học vấn phổ thông là 62,5%
thì người có trình độ đại học là 79,1% cao hơn tới gần 16,6%. Điều này cho
thấy người có trình độ cao hơn có suy nghĩ lạc quan hơn người có trình độ
thấp hơn về sức khoẻ của con người nói chung trong tương lai.
Về tương quan giới, nữ tỏ ra lạc quan hơn nam trong việc nhìn nhận
tương lai, ví dụ về nhận định cho rằng cho dù khoa học phát triển đến đâu thì
tính người cũng không bị mất đi, có 83,7% nữ giới cho là đúng so với 70,3%
nam giới cho là đúng, về nhận định con người sẽ ngày càng hạnh phúc hơn
nữ tán thành đạt 54,6% so với nam là 45,2%; về nhận định từ nay về sau con
người sẽ thanh thản hơn nữ giới tán thành đạt 40,7% so với nam chỉ có
28,2%, về nhận định con người sẽ ngày càng tự do hơn nữ giới tán thành đạt
60,35 so với 54,8% ở nam và đối với nhận định sức khoẻ con người sẽ ngày
càng tốt lên nữ giới tán thành đạt 70,8% so với nam là 68,1%. Như vậy là
trong mọi nhận định dương tính đối với tương lai, nữ giới đều chiếm tỉ lệ
nhiều hơn nam ít nhất là 2,7% cho đến cao nhất là 13,4%.
Về tương quan khu vực, người Việt ở Thái Lan, Mỹ có tỉ lệ đánh giá
dương tính khá cao, ví dụ tỉ lệ tán thành nhận định vẫn còn tính người cho dù
khoa học phát triển là 93,1% ở Washington DC, so với Séc là 50%, Pháp
56%; tán thành nhận định trong tương lai con người sẽ ngày càng hạnh phúc
hơn: ở Thái Lan có 76,4%, San Francisco 69% so với Séc là 28,6%, Pháp
35,4%; con người được thanh thản hơn: Thái Lan cao nhất 58,9% so với
pháp thấp nhất 24%; con người ngày càng tự do hơn: Thái Lan cao nhất
89,3% so với Séc thấp nhất 33,3%; sức khoẻ con người ngày một tốt lên:
Washington DC cao nhất 87,7% và Pháp thấp nhất 46,9%. Như vậy có thể nói
rằng người lạc quan nhất (tỉ lệ trung bình mọi tiêu chí cao nhất) là người Việt
sống ở Thái, Mỹ và có phần bi quan với tương lai là ở Pháp và Séc.
Đối với cuộc sống của bản thân, người Việt Nam ở nước ngoài lại
không có thái độ lạc quan được như đối với cuộc sống của con người nói
chung. Theo biểu 19 cho thấy, chỉ có 12,2% số người trả lời cho rằng sẽ rất
tốt trong vòng 5 năm tới; 33% cho rằng tốt, như vậy tổng cộng trả lời dương
tính là 45,2%. Trong khi đó số người cho là bình thường (không thay đổi) là
30,1%; không tốt là 5,8% và không biết là 18,9%.
Về tương quan học vấn, tỉ lệ của người có trình độ đại học cho rằng
cuộc sống của bản thân sẽ rất tốt trong vòng 5 năm chỉ đạt 9,5% thấp hơn tỉ
lệ này ở người có trình độ phổ thông là 14,6%. Còn đối với nhận định cuộc
sống trong vòng 5 năm tới sẽ bình thường (không thay đổi) tỉ lệ tán thành của
người có trình độ phổ thông cao hơn, là 8,2% so với người có trình độ đại học
là 2,9%.
Về tương quan khu vực, tỉ lệ người cho rằng cuộc sống sẽ rất tôi trong
vòng 5 năm tới cao nhất là ở người Việt sống ở Cămpuchia đạt 31,5% sau đó
tới Úc 26,7%, thấp nhất là Séc 7,1% và Pháp là 8%, trong khi Thái Lan 12,5%
và San Francisco 14,3% còn Washington DC là không có người nào mặc dù tỉ
lệ kho rằng cuộc sống sẽ tốt ở đây là 14,8%. Như vậy nếu tính chung cả tốt
và rất tốt thì người Việt ở Thái Lan có tỉ lệ cao nhất đạt 72,2%, tiếp đến
Cămpuchia 71,4%, Úc đạt 60%, San Francisco 57,4%, Washington DC
56,8%, thấp nhất là Pháp chỉ có 34%, Séc 39,2%.
Điều này cho thấy cuộc sống ở nước ngoài của người Việt tuy có thể
cao hơn trong nước về mặt vật chất song về mặt tinh thần không phải đa số
đều lạc quan đối với tương lai của bản thân: 54,8% không cho rằng (không
đổi, không tốt không biết) cuộc sống bản thân sẽ tốt lên trong vòng 5 năm sắp
tới. Về tương quan học vấn, người có trình độ học vấn cao hơn có cuộc sống
dường như ổn định hơn thể hiện ở chỗ trong thang đánh giá "rất tốt - tốt -
bình thường - không tốt", người có trình độ học vấn cao hơn có tỉ lệ tán thành
cao ở khoảng giữa là tôi và bình thường, có tỉ lệ thấp ở hai cực là rất tốt và
không tốt, trong khi người có trình độ học vấn thấp hơn có tỉ lệ cao ở hai cực
là rất tốt và không tốt. Về tương quan giới, nữ tỏ ra lạc quan hơn nam về
tương lai cuộc sống của bản thân: tỉ lệ cho rằng cuộc sống của mình trong
vòng 5 năm tới sẽ rất tốt là 12,9% so với nam là 11%; bình thường là 33,5%
so với nam là 24,6% và không tôi chỉ có 4,6% so với nam là 7,6%. Về tương
quan khu vực, người Việt sống ở Thái Lan, Mỹ, Úc, Cămpuchia nói chung có
cái nhìn lạc quan đối với tương lai hơn người Việt sống ở Pháp và Séc.
10. Niềm tin đối với Chính phủ
Đối với câu hỏi bạn đánh giá thế nào về đường lối chính sách của
Chính phủ Việt Nam, đánh giá dương tính khá cao, ví dụ 72% số người được
hỏi cho rằng chính sách phù hợp với lòng dân, được cộng đồng ủng hộ; chỉ
có 11,3% cho rằng không phù hợp với lòng dân; và 13,1% cho rằng không
quan tâm; 3,6% muốn có kiến nghị với chính phủ về đường lối chính sách.
Xét về tương quan học vấn, tỉ lệ người có trình độ phổ thông đánh giá
dương tính cao hơn người có trình độ đại học gần 9,3% (76% so với 66,7%),
tỉ lệ đánh giá âm tính cũng ít hơn 4,6% (9,1% so với 13,7%), tỉ lệ không quan
tâm cũng ít hơn (12,3% so với 14,5%). Như vậy có thể nói so với người có
trình độ cao hơn, người có trình độ thấp hơn quan tâm hơn và đánh giá cao
hơn đối với đường lối chính sách của chính phủ.
Về tương quan giới, nam giới đánh giá dương tính cao hơn nữ giới
khoảng 14%, cụ thể là 77% nam giới đánh giá dương tính trong khi đó tỉ lệ
này ở nữ là 62,9%, tỉ lệ không quan tâm của nam cũng ít hơn nữ 14,8%: tỉ lệ
nữ không quan tâm đến đường lối chính sách của chính phủ là 22,7% so với
nam là 7,9%.
Về tương quan khu vực, người Việt Nam ở Thái Lan có tỉ lệ đánh giá
dương tính cao nhất đạt 87,7%, tiếp đến Washington DC 85,7%, Cămpuchia
80,4%, Séc 78,6%, Pháp 60%, thấp nhất là Úc 25%, San Francisco 35,7%. Tỉ
lệ không quan tâm cao nhất là ở Úc 58,3%, San Francisco 39,3%, Pháp 20%,
thấp nhất là Cămpuchia 2%, Thái Lan 3,5%.
11. Hành động cụ thể đóng góp cho đất nước
Đối với câu hỏi đã làm gì đóng góp cho đất nước, 39,7% số người
được hỏi cho rằng đã đóng góp vào những hoạt động thúc đẩy phát triển kính
tế, 47,6% đóng góp vào hoạt động từ thiện; 29,3% đóng góp vào hoạt động
văn hóa giáo dục; 15,1% đóng góp ý kiến xây dựng đường lối chính sách.
Xét về tương quan học vấn, người có trình độ phổ thông tham gia đóng
góp vào hoạt động kinh tế đạt 41% so với người có trình độ đại học là 38,8%,
các tỉ lệ này ở hoạt động từ thiện là 50,3% và 45,3%; hoạt động văn hóa giáo
dục là 33,5% và 24,55, tuy nhiên ở hoạt động đóng góp ý kiến xây dựng
đường lối chính sách thì ngược lại người có trình độ đại học có cao hơn một
chút là 18,7% so với người có trình độ phổ thông là 12,7%. Như vậy là, trong
các hoạt động khác ngoại trừ đóng góp ý kiến, người có trình độ thấp hơn có
xu hướng tham gia đóng góp với đất nước nhiều hơn người có trình độ cao
hơn một chút.
Xét về tương quan giới, nam có xu hướng tham gia đóng góp xây dựng
đất nước tích cực hơn nữ, thể hiện ở tỉ lệ tham gia mọi hoạt động đều cao
hơn, cụ thể là tỉ lệ tham gia hoạt động nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế của
nam là 40,4% so với nữ là 38,7%; tham gia hoạt động từ thiện của nam là
50,5% so với nữ là 42,9%; tham gia hoạt động văn hóa giáo dục của nam là
32,8% so với nữ là 23,5%; đóng góp ý kiến xây dựng đường lối chính sách
của nam là 20,7% so với nữ là 5,9%.
Xét tương quan khu vực, trong đóng góp cho hoạt động phát triển kinh
tế thì người Việt ở Pháp có tỉ lệ cao nhất đạt 56%, sau đó tới San Francisco
55,2%, Séc 53,6% Cămpuchia 49,1%, thấp nhất là Washington DC 22,2%, Úc
26%, Thái Lan 29,8%. Đối với hoạt động từ thiện, người Việt ở Cămpuchia có
tỉ lệ đóng góp cao nhất 57,9%, Washington DC 54,3%, Úc 53,3%, Thái Lan
52,6%, San Francisco 44,8%, thấp nhất là Séc 17,9%, Pháp 36%. Đối với
hoạt động văn hóa giáo dục, người Việt ở Thái Lan có tỉ lệ tham gia cao nhất
59,6%, Cămpuchia 49,1%, Úc và San Francisco đạt 20%, thấp nhất là Séc
7%, Washington DC 13,6%, Pháp 18%. Về đóng góp ý kiến xây dựng đường
lối chính sách cho đất nước nói chung tỉ lệ tham gia của người Việt Nam ở
nước ngoài đạt thấp, trong đó người Việt Nam ở Thái Lan có tỉ lệ tham gia
cao nhất đạt 28,1%, Úc 26,7%, Séc 17,9%, Cămpuchia 17,5%, thấp nhất là
Pháp, Mỹ chỉ có 4% và gần 10% (Washington DC 9,9%, San Francisco
10,3%).
Nhìn chung có thể nói rằng, mặc dù tinh thần dân tộc khá mạnh mẽ, ý
thức và thái độ đối với tổ quốc là tích cực song những người Việt Nam ở
nước ngoài tham gia vào cuộc khảo sát này có những việc, những hành động
cụ thể đóng góp xây dựng đất nước chưa chiếm đa số, nhiều nhất cũng chỉ ở
mức dưới trung bình. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân khách quan
song cũng phản ánh một điều là từ nhận thức và thái độ đi đến chỗ biến thành
hành động thực tế vẫn còn một khoảng cách nhất định, đa số mới chỉ ở dạng
tiềm năng (ý thức). Vì vậy điều này cũng cho thấy cần phải có nhiều hoạt
động phong phú hơn nữa nhằm khai thác hết tiềm năng đóng góp của kiều
bào ta ở nước ngoài.
Một số nhận xét
1. Đa số người Việt Nam ở nước ngoài có thái độ tích cực đối với dân
tộc, có tham gia đóng góp cho đất nước, tự hào là người Việt Nam
và đánh giá cao đường lối chính sách của chính phủ Việt Nam, tuy
nhiên họ chưa có nhiều cơ hội phát huy hết tinh thần thái độ tích cực
này bằng những hành động cụ thể xây dựng đất nước.
2. Đa số người Việt Nam ở nước ngoài có thái độ tích cực đối với mở
cửa, hội nhập, toàn cầu hóa song đánh giá ảnh hưởng của hội nhập
và mở cửa, toàn cấu hóa tương đối thận trọng, nhấn mạnh cả mặt
tích cực và tiêu cực, đặc biệt có cái nhìn hơi bi quan về năng lực
cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
3. Đa số người Việt Nam ở nước ngoài có thái độ đối với cuộc sống
của loài người nói chung thì lạc quan song đối với cuộc sống của
bản thân thì cách nhìn lạc quan chưa chiếm đa số, điều này cũng
phản ánh hoàn cảnh sống của họ: có thể sung túc về vật chất song
độ ổn định, nhất là về mặt tinh thần chưa thực sự chắc chắn.
4. Về mô hình nhân cách con người sống trong hoàn cảnh mở cửa, hội
nhập, toàn cầu hóa (được gọi là công dân trái đất hay công dân toàn
cầu), người Việt Nam ở nước ngoài có nhận thức không nhất quán,
đa số chấp nhận có mô hình nhân cách như vậy song về cụ thể đó
là mô hình nhân cách như thế nào thì ý kiến chân tán, trong đó ý
kiến mang tính trung tính chiếm đa số: không chú trọng đến ảnh
hưởng quốc tế mà chỉ nhấn mạnh đến mặt đó là người tích cực hoạt
động vì lợi ích chung của loài người.
II. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA DIỆN HẸP1. Đối với bạn cái gì là quan trọng nhất
Sức khỏe được nhiều người coi là quan trọng nhất chiếm 79,6% số
người được hỏi; trong khi đạo đức chỉ được 11 % số người được hỏi xếp vào
vị trí thứ nhất song được 27% số người được hỏi xếp vào vị trí quan trọng thứ
hai. Còn hạnh phúc gia đình và học vấn mỗi thứ chỉ được 6% số người được
hỏi xếp vị trí cao nhất song được 27% và 22% số người được hỏi xếp vị trí
quan trọng thứ hai. Ngoài ra tiền bạc, địa vị mỗi tiêu chí cũng chỉ được 2% số
người trả lời xếp vị trí cao nhất, và cũng chỉ có 9% và 6% số người được hỏi
xếp ở vị trí thứ hai.
Xét tương quan giới, đánh giá đối với sức khoẻ không có sự chênh lệch
về giới song đối với những đánh giá khác thì chênh lệch là có, từ ít nhiều đến
đáng kể. Ví dụ, đối với đạo đức có 25,8% nam xếp đạo đức vào vị trí quan
trọng nhất thì chỉ có 8,8% nữ cho là quan trọng nhất và tỉ lệ chênh lệch giới ở
đây là 17%. Ngược lại đối với học vấn, 40,7% nam cho rằng tiêu chí này quan
trọng nhất trong khi ở nữ tỉ lệ này là 47,8%, chênh nhau 7%. Đối với hạnh
phúc gia đình tỉ lệ coi là quan trọng nhất ở nam là 12 % thì nữ chỉ có 8,8%.
Như vậy nếu không phân biệt giới tính, có thể nói rằng có nhiều người
xếp sức khỏe vào vị trí quan trọng nhất, đạo đức và hạnh phúc gia đình ở vị
trí thứ hai, và học vấn cũng được nhiều người xếp ở vị trí thứ hai, do đó thang
giá trị ở đây là sức khoẻ - đạo đức = hạnh phúc gia đình - học vấn, còn tiền
bạc và địa vị thì được ít người coi là quan trọng kể cả thứ nhất, thứ hai và thứ
ba (chỉ có 1%, 9%, và 10% và 2%, 6% và 4%).
Xét tương quan giới, đối với nam, thang bậc giá trị quan trọng nhất là
sức khoẻ - đạo đức - học vấn (- hạnh phúc gia đình) còn ở nữ thang bậc giá
trị này là sức khoẻ - hạnh phúc gia đình - học vấn (- đạo đức). Như vậy trong
khi đối với nam đạo đức được nhấn mạnh hơn hạnh phúc gia đình thì đối với
nữ hạnh phúc gia đình là một giá trị quan trọng nhất đứng ngay sau sức khoẻ,
có phần được nhấn mạnh hơn đạo đức. Tuy nhiên đối với đa số cả nam và
nữ, học vấn đều là một tiêu chí quan trọng con tiền bạc, địa vị không được
đưa vào 3 thang bậc giá trị quan trọng nhất này.
2. Những phẩm chất cần dạy cho con cái trong nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập
Đối với câu hỏi cần dạy cho con cái những phẩm chất gì trong hoàn
cảnh kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập, tỉ lệ phần trăm số người trả lời
đánh giá độ quan trọng, cần thiết của các phẩm chất có thứ tự cao thấp như
sau:
Bảng 73: Những phẩm chất quan trọng cần dạy cho con cái
Những phẩm chấtCần thiết (%)
(nam và nữ)
Không cần thiết
(%)
Tính tự lập 80 (84% & 76%) 20
Sống có trách nhiệm 65 (60% & 70%) 35
Có ước mơ hoài bão 55 (54% & 56%) 45
Lòng khoan dung tôn trọng người khác 52 (62% & 42%) 48
Coi trọng gia đình 51 (46% & 56%) 49
Ý thức rèn luyện suốt đời 43 (42% & 44%) 57
Cần cù chăm chỉ kiên trì 42 (42% & 42%) 58
Không ích kỷ, tính hợp tác 40 (42% & 38%) 60
Ý chí lập thân làm giàu 40 (44% & 36%) 60
Tiết kiệm 25 (20% & 30%) 75
Tính cạnh tranh cao 8 (6% & 10%) 92
Nhìn vào bảng trên chúng ta thấy, nếu xếp thứ tự các phẩm chất được
coi là quan trọng theo thứ tự được nhiều người (%) lựa chọn ta sẽ có 5 thang
bậc những phẩm chất quan trọng mà đứng đầu là tính tự lập được đại đa số
người trả lời (80%) cho là phẩm chất quan trọng cần phải dạy cho con cái
trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập. Tiếp đến là việc sống
có trách nhiệm: 65%, sống có hoài bão: ước mơ 55%, lòng khoan dung tôn
trọng người khác: 52%, biết coi trọng gia đình: 51%. Ngoài ra, những phẩm
chất như có ý thức rèn luyện suốt đời (43%), cần cù chăm chỉ (42%), biết hợp
tác với người khác (40%), có ý chí làm giàu (40%) cũng được nhiều người
cho là cần thiết.
Như vậy nếu chỉ tính 5 phẩm chất quán trọng được nhiều người lựa
chọn nhất thì ta sẽ có một thang giá trị 5 bậc những phẩm chất quan trọng
nhất cần được giáo dục cho con cái là tính tự lập - sống có trách nhiệm - có
hoài bão ước mơ - lòng khoan dung tôn trọng người khác - coi trọng gia đình.
Tuy nhiên nếu xét theo tương quan giới, đối với nam, 5 phẩm chất quan
trọng nhất có thứ tự nhiều người lựa chọn như sau: tính tự lập - lòng khoan
dung tôn trọng người khác - sống có trách nhiệm - có ước mơ hoài bão - coi
trọng gia đình. Còn đối với nữ, thứ tụ này lại là tính tự lập - sống có trách
nhiệm - có ước mơ hoài bão - coi trọng gia đình - ý thức rèn luyện suốt đời.
Như vậy ở đậy có sự khác nhau giữa nam và nữ trong tỉ lệ số người lựa chọn
5 phẩm chất quan trọng nhất để giáo dục cho con cái cả về nội dung và thứ
tự: trong khi có nhiều nam (nhiều thứ hai) chọn lòng khoan dung tôn trọng
người khác thì không có nhiều nữ chọn phẩm chất này mà thay vào đó có
nhiều nữ (nhiều thứ ba) chọn ý thức rèn luyện suốt đó hơn, và tỉ lệ nữ (nhiều
thứ tư) chọn coi trọng gia đình cũng nhiều hơn tỉ lệ nam (nhiều thứ năm) chọn
phẩm chất này. Như vậy một lần nữa chúng ta lại thấy rằng nữ có xu hướng
coi trọng gia đình hơn nam mặc dù cần nói rằng cả nam và nữ đều coi trọng
phẩm chất này. Có lẽ đây cũng là một nét truyền thống Việt Nam (hoặc Á
Đông) vẫn được người Việt Nam ở nước ngoài gìn giữ mặc dù môi trường
sống đã thay đổi (có xu hướng công nghiệp và hiện đại hơn Việt Nam).
Có điều khá bất ngờ là sống trong điều kiện kinh tế thị trường với
nguyên tắc cạnh tranh chi phối mạnh mẽ song tính cạnh tranh lại được rất ít
người đánh giá cao: chỉ vẻn vẹn có 8% số người trả lời cho là cần thiết, bằng
1/5 số người cho rằng phẩm chất hợp tác với người khác là cần thiết phải
giáo dục cho con cái trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập, và
tính tiết kiệm cũng chỉ được 25% số người trả lời cho là cần thiết.
Điều này cho thấy rằng bất cứ trong xã hội nào thì việc sống có hoài
bão có ước mơ và phấn đấu thực hiện ước mơ cũng được đánh giá cao.
Nhưng có điều hơi bất ngờ là sống trong xã hội nước ngoài thường có xu
hướng chú trọng nhiều đến công việc có phần xem nhẹ hạnh phúc gia đình
song những người Việt Nam sống ở nước ngoài tham gia cuộc điều tra này
lại đánh giá cao việc coi trọng gia đình và coi đó là một phẩm chất quan trọng
cần giáo dục, chuẩn bị cho con cái bước vào cuộc sống trong điều kiện kinh
tế thị trường mở cửa và hội nhập.
2. Mẫu người lý tưởng
Số người xếp học vấn vào hàng 5 phẩm chất quan trọng của mẫu
người lý tưởng đạt mức cao nhất (54%), tiếp đến là thông minh, sáng tạo
(50%), có sức khoẻ (50%), có bản lĩnh và tự tin (48%), có lương tâm trách
nhiệm (38%). Như vậy có thể nói những phẩm chất nhân cách của mô hình lý
tưởng được nhiều người chọn lựa có thứ tự (hay nói khác đi mẫu hình lý
tưởng được nhiều người lựa chọn có các phẩm chất) sau: 1) Có học vấn cao,
2) Thông minh sáng tạo, 3) Có sức khỏe tốt, 4) Có bản lĩnh và tự tin vào bản
thân, và 5) Có lương tâm, trách nhiệm.
Mẫu hình lý tưởng được nhiều người lựa chọn có các phẩm chất nhân
cách khá toàn diện, từ trí tuệ (1, 2), sức khỏe (3) đến đạo đức, tinh thần (4, 5).
Tuy nhiên có một điều cần lưu ý đó là trí tuệ và sức khoẻ được nhiều người
chọn lựa hơn phẩm chất đạo đức (một bên là 50% trở lên, một bên chỉ có
38%). Và trong khi đại đa số người trả lời đánh giá cao giá trị của sức khoẻ,
sau đó đến đạo đức rồi mới đến học vấn (trong câu hỏi 1) thì trong mô hình lý
tưởng này thứ tự lại hoàn toàn thay đổi: học vấn được đưa lên hàng đầu sau
đó mới đến sức khoẻ và đạo đức xếp ở vị trí sau cùng. Như vậy, có thể thấy
rằng dường như mô hình lý tưởng đối với cá nhân dù sao cũng chỉ là mô hình
lý tưởng, một cái gì đó xa vời của xã hội nếu phấn đấu đạt được thì rất lý
tưởng hơn là một cái gì đó thực sự là giá trị đối với cá nhân.
Nếu xét tương quan giới thì thứ tự các phẩm chất của mẫu hình lý
tưởng (theo tỉ lệ phần trăm số người lựa chọn) có phần khác nhau. Đối với
nam mẫu hình lý tưởng có các phẩm chất theo thứ tự thống nhất với thứ tự
chung (cả nam và nữ) đó là 1) Học vấn 2) Thông minh sáng tạo, 3) Sức khỏe,
4) Có bản lĩnh tự tin, 5) Có lương tâm trách nhiệm, còn nữ là 1) học vấn 1)
sức khoẻ, 3) có bản lĩnh tự tin, 3) Thông minh sáng tạo, 5) có lương tâm trách
nhiệm (= trung thực, thẳng thắn, cương nghị), tức là trong bảng thứ tự của
nữ, sức khoẻ đứng hàng thứ hai, phẩm chất thông minh và bản lĩnh được xếp
như nhau và cuối cùng là phẩm chất lương tâm trách nhiệm có cùng tỉ lệ chọn
lựa với trung thực thẳng thắn, cương nghị.
4. Các tiêu chí lựa chọn công việc
Một trong các tiêu chí được nhiều người coi trọng nhất khi lựa chọn
công việc là sự phù hợp với năng lực bản thân (44%), tiếp đến là tiêu chí có
thu nhập cao (42%), có cơ hội phát huy sáng tạo, sử dụng sáng kiến (41%),
có cơ hội thành công (38%), công việc chắc chắn ổn định ít bị rủi ro, không sợ
thất nghiệp (36%).
Nhìn vào bảng tiêu chí chọn lựa công việc này chúng ta thấy rằng trong
các tiêu chí dùng để lựa chọn công việc, những tiêu chí nhấn mạnh đến năng
lực cá nhân và sự thể hiện mình được nhiều người đặt nặng hơn là sự thu
nhập cao và mức độ ổn định để khỏi thất nghiệp.
Nói khác đi những người Việt Nam ở nước ngoài khi chọn nghề thường
không nhấn mạnh vào thu nhập mà nhấn mạnh vào cuộc sống theo ý muốn.
Có thể nói đây là một biểu hiện mới so với việc phải lựa chọn công việc trong
điều kiện mà những yêu cầu về sinh tồn (thoả mãn những nhu cầu thiết yếu
trong cuộc sống) vẫn còn đòi hỏi phải được thỏa mãn một cách tất yếu, cấp
bách.
Xét tương quan giới, bảng thứ tự ưu tiên các tiêu chí khi chọn việc của
năm và nữ có sự khác nhau cả về nội dung và thứ tự (nhiều % người chọn),
của nam là: 1) Có cơ hội phát huy sáng tạo - 2) Có cơ hội thành công - 3) Phù
hợp với năng lực - 4) Phù hợp với sở thích - 5) Thu nhập ổn định, trong khi
nữ là: 1) Thu nhập ổn định - 2) Phù hợp năng lực - 3) Chắc chắn ổn định, ít
rủi ro, không sợ thất nghiệp. - 4) Có cơ hội thành công - 5) Có cơ hội phát huy
sáng tạo. Như vậy là trong khi nam có xu hướng chọn hầu hết các tiêu chí
nhằm thể hiện mình và sống theo sở thích, yếu tố thu nhập bị xếp vào vị trí
cuối thì ngược lại trong bảng của nữ yếu tố này được đưa lên hàng đầu, hơn
nữa yếu tố ít rủi ro, không sợ thất nghiệp không có mặt trong bảng chọn lựa
của nam thì trong bảng của nữ yếu tố này đứng hàng thứ hai. Điều này có thể
cho chúng ta thấy rằng, nữ mặc dù cũng đã có xu hướng chọn việc theo
hướng thể hiện mình song xu hướng chú trọng yếu tố sinh tồn vẫn rất mạnh
và mạnh hơn nam rất nhiều.
5. Sử dụng thời gian rỗi
Có thể nói một trong những biểu hiện của lối sống con người được thể
hiện trong cách người đó sử dụng quỹ thời gian rỗi đó như thế nào, vào việc
gì. Nếu thời gian rỗi chủ yếu chỉ dành cho việc làm thêm, kiếm tiền có nghĩa là
người đó ít chú trọng hoặc ít có điều kiện chú trọng vào việc hoàn thiện mình,
cân bằng cuộc sống giữa làm việc và nghỉ ngơi. Ngược lại nếu đa số thời
gian rỗi chỉ để dành cho mục đích giải trí vui chơi, kể cả những vui chơi vô bổ,
thì điều này cũng phản ánh một lối sống chú trọng hưởng thụ. Với suy nghĩ
như vậy chúng tôi đã điều tra việc sử dụng thời gian rỗi của những người Việt
Nam ở nước ngoài và đã thu được kết quả như trong bảng sau. % là tỉ lệ số
người trả lời trên tổng số người được hỏi.
Bảng 74: Sử dụng thời gian rỗi
Các hoạt động
Thường xuyên, thỉnh
thoảng
(%)
Không bao giờ
(%)
Quan hệ, giao tiếp 98
Thưởng thức văn hóa, nghệ thuật 97 1
Đọc sách báo, học tập nâng cao trình độ 95 3
Làm thêm nghề phụ, tìm cơ hội làm ăn 91 5
Làm việc nhà 88 8
Chơi thể thao 86 9
Hoạt động xã hội 84 13
Giải trí 57 39
Ngồi hàng quán 48 24
Theo bảng trên, chúng ta thấy người Việt Nam ở nước ngoài sử dụng
thời gian rỗi khá đông đều, cho cả việc giao tiếp thưởng thức văn hóa nghệ
thuật, học tập nâng cao trình độ tương đương với việc làm ăn kiếm thêm hay
làm việc nhà. Tuy nhiên trong khi thời gian rỗi đầu tư cho hoạt động xã hội,
hoặc giải trí như chơi thể thao khá tao (trên 80%) thì việc đầu tư cho loại giải
trí như đi vũ trường, karaoke, chơi điện tử (57%) hoặc la cà ở các hàng quán
(48%) ít hơn hẳn, đặc biệt là có đến 39% số người trả lời cho rằng không bao
giờ dành thời gian rỗi cho những loại giải trí như thế. Điều này cho thấy hầu
hết những người Việt Nam ở nước ngoài đều sử dụng thời gian rỗi khá hiệu
quả dành nhiều thời gian nhất cho việc giao tiếp và học tập rèn luyện thể thao
hoặc tìm kiếm cơ hội làm ăn mà ít dành thời gian cho những hoạt động giải trí
mang tính vô bổ khác. Với ý nghĩa đó, có thể nói những người tham gia điều
tra này có lối sống khá lành mạnh.
Xét tương quan giới, bảng ưu tiên các việc sử dụng thời gian rỗi của
nam có thứ tự như sau: 1) Giao tiếp, 2) Thưởng thức văn hóa nghệ thuật, 3)
Học hỏi nâng cao trình độ, 4) Hoạt động xã hội, 5) Tìm cơ hội làm ăn, 6) Chơi
thể thao, 7) Làm việc nhà, 8) Giải trí. Còn nữ thứ tự này là 1) Giao tiếp, 2)
Thưởng thức văn hóa nghệ thuật, 3) Tìm cơ hội làm ăn, 4) Học hỏi nâng cao
trình độ, 5) Làm việc nhà, 6) Giải trí, 7) Chơi thể thao, 8) Hoạt động xã hội.
Như vậy sự khác nhau ở đây là nữ ưu tiên hơn cho làm việc nhà, tìm cơ hội
làm ăn còn nam ưu tiên hơn cho hoạt động xã hội và cả hai đều chú trọng
giao tiếp cũng như thưởng thức văn bón nghệ thuật, giải trí, thể thao và học
học hỏi nâng cao trình độ.
6. Những điều kiện cần thiết bảo đảm thành công
Đối với câu hỏi những điều kiện nào là cần thiết để bảo đảm cho sự
thành công của một con người, số người trả lời đánh giá các điều kiện là cần
thiết có thứ tự nhiều ít như sau.
Bảng 75: Những điều kiện đảm bảo thành công
Điều kiện đảm bảo thành công % người trả lời cho là cần thiết
Có ý chí, bản lĩnh, chấp nhận mạo
hiểm
60
Có học vấn rộng 52
Có vốn có phương tiện 47
Gặp thời cơ 39
Quan hệ rộng 28
Học tập thường xuyên 26
Giỏi ngoại ngữ vi tính 23
Khao khát làm giàu 21
Theo bảng trên chúng ta thấy, nhiều người trả lời rất coi trọng yếu tố ý
chí, bản lĩnh, dám mạo hiểm coi đó là một trong số những điều kiện đảm bảo
sự thành công trong nền kinh tế thị trường (60%), tiếp đến là yếu tố có học
vấn (52%), có phương tiện (47%). Trong khi đó sự khao khát làm giàu được ít
người lựa chọn nhất, như là một trong số điều kiện cần thiết của thành công,
các yếu tố khác mà trong nước hay có xu hướng lựa chọn như thường xuyên
học tập nâng cao trình độ, giỏi ngoại ngữ vi tính cũng được ít người lựa chọn
(26%, 23%).
Có thể nói những người trả lời (sống ở nước ngoài) đã nhấn mạnh đến
điều kiện thành công trong kinh doanh ở cơ chế thị trường nhiều nhất là yếu
tố tinh thần sau đó đến năng lực rồi đến vốn và yếu tố may rủi. Còn những
yếu tố mà người Việt Nam trong nước có xu hướng chú trọng hơn như quan
hệ rộng, giỏi ngoại ngữ vi tính bị đẩy xuống hàng sau. Có thể vì yếu tố giỏi
ngoại ngữ, vi tính đã đương nhiên được bao hàm trong yếu tố học vấn và yếu
tố khao khát làm giàu được coi là động lực của ý chí dám mạo hiểm chăng?
Như vậy một lần nữa ở đây chúng ta thấy rằng học vấn được chú trọng
như là một trong số các điều kiện rất quan trọng đảm bảo sự thành công của
một con người.
Xét tương quan giới, bảng ưu tiên các yếu tố dẫn đến thành công của
nam có thứ tự số người lựa chọn nhiều nhất như sau: 1) Học vấn, 2) Có ý chí,
bản lĩnh, 3) Có vốn, 4) Gặp thời cơ, trong khi của nữ là 1) Có ý chí bản lĩnh,
2) Có vốn, 3) Học vấn, 4) Gặp thời cơ. Như vậy sự chọn lựa các yếu tố dẫn
đến thành công (trong kinh tế) của nam và nữ nói chung không có sự khác
nhau chỉ có điều nam thì nhấn mạnh để học vấn hơn là vốn còn nữ thì ngược
lại nhấn mạnh đến vốn hơn là học vấn.
7. Những tệ nạn xã hội trầm trọng nhất
Để tìm hiểu xem người Việt Nam ở nước ngoài đánh giá về xã hội Việt
Nam như thế nào chúng tôi đã đưa ra câu hỏi đề nghị họ sắp xếp theo thứ tự
các tệ nạn trầm trọng nhất của xã hội và kết quả thu được như sau:
Bảng 76: Các tệ nạn xã hội trầm trọng
Tệ nạn xã hội Trầm trọng nhất (% người trả lời)
Tham nhũng 64
Ma túy 17
Quan liêu cửa quyền 10
Mua bán chức, bằng cấp 5
Mại dâm 2
Cờ bạc rượu chè 2
Mê tín 1
Trộm cướp 1
Sử dụng văn hóa phẩm độc hại 1
Các tệ nạn xã hội xưa nay vốn có như mại dâm, cờ bạc rượu chè, trộm
cướp được ít người cho là trầm trọng nhất, trong khi đó những tệ nạn có xu
hướng mới phổ biến như tham nhũng (64%), ma túy (17%), quan liêu, cửa
quyền (10%) thì bị nhiều người trả lời đánh giá là trầm trọng nhất. Trong đó
nạn tham nhũng bị nhiều người cho là trầm trọng nhất (64% số người trả lời).
Còn ma túy và cửa quyền, ở vị trí thứ hai lại đổi chỗ cho nhau tuy vẫn chiếm tỉ
lệ cao nhất về số người cho là trầm trọng thứ hai: bệnh quan liên cửa quyền
30%, sau đó đến ma túy 19%. Xét về tương quan giới, nam có tỉ lệ coi quan
liêu cửa quyền trầm trọng nhất (14%) nhiều hơn ma túy (8%) ngược lại nữ có
tỉ lệ coi mua túy trầm trọng nhất (26%) nhiều hơn quan liêu cửa quyền (6,1%).
Ngoài ra, tệ nạn sử dụng văn hóa phẩm độc hại, một tệ nạn có xu
hướng liên quan đến mở cửa, hội nhập, lại ít người trả lời đánh giá là trầm
trọng thứ nhất cũng như thứ hai.
Có lẽ một điều đáng lưu ý ở đây là có hai tệ nạn xã hội bị coi là trầm
trọng nhất thì đều có liên quan đến cơ chế bộ máy hành chính, đó là nạn
tham nhũng và cửa quyền. Điều này rất cần được lưu ý bởi đây là những tệ
nạn phần nào về mặt chủ quan nếu quyết tâm có thể giải quyết được.
8. Quan niệm về cuộc sống hạnh phúc
Bảng 77: Các tiêu chuẩn đảm bảo cuộc sống hạnh phúc
Các tiêu chuẩn đảm bảo hạnh phúc Số người lựa chọn (%)
Sức khoẻ 86
Được sống yên vui hòa thuận bên người thân 60
Được làm công việc yêu thích 42
Được người xung quanh yêu mến quý trọng 38
Có cuộc sống đấy đủ sung túc 34
Có điều kiện phát triển tài năng 25
Có địa vị xã hội 14
Tự do vui chơi thoả thích 4
Theo bảng trên chúng ta nhận thấy, sức khỏe được coi là một điều kiện
quan trọng nhất đảm bảo một cuộc sống hạnh phúc, số người lựa chọn đưa
yếu tố này lên hàng đầu chiếm 86%, điều này cũng đồng thuận với việc họ đã
coi sức khoẻ là giá trị quan trọng nhất như ở phần trên ta đã thấy (78% số
người được hỏi cho rằng sức khoẻ là quan trọng nhất đối với họ).
Điều kiện được nhiều người lựa chọn nhiều thứ hai như là một yếu tố
quan trọng nhất đảm bảo cuộc sống hạnh phúc đó là được sống yên vui, hòa
thuận bên cạnh những người ruột thịt, thân thích chiếm 60% số người trả lời,
tiếp đến là được làm công việc mình yêu thích chiếm 42% số người trả lời. Có
điều khá bất ngờ là, yếu tố được mọi người quý trọng được nhiều người lựa
chọn (38%) là điều kiện quan trọng đảm bảo hạnh phúc nhiều hơn hẳn yếu tố
có địa vị xã hội (14%). Còn tự do vui chơi thỏa thích không phải làm gì thì hầu
như rất ít người coi đó là điều kiện quan trọng nhất đảm bảo hạnh phúc (mặc
dù vậy vẫn có 4% người lựa chọn).
Như vậy nếu chúng ta coi tiêu chuẩn đảm bảo một cuộc sống hạnh
phúc là một bảng thứ tự 5 yếu tố thì bảng này được những người Việt Nam
sống ở nước ngoài tham gia khảo sát lựa chọn theo thứ tự nhiều nhất như
sau: 1) Có sức khoẻ tốt, 2) Được sống yên vui hòa thuận bên người thân, 3)
Được làm công việc yêu thích, 4) Được mọi người quý trọng và 5) Có cuộc
sống sung túc. Nếu không tính yếu tố sức khoẻ, các yếu tố tinh thần trong đó
yếu tố phần nào nặng về tính khách quan (được sống hòa bình) được nhiều
người chọn lựa nhất, tồi đến yếu tố có phần chủ quan (công việc mình yêu
thích). Ngoài ra, yếu tố vật chất (cuộc sống sung túc) đứng ở vị trí cuối trong
bảng xếp hạng này và yếu tố có địa vị thì không được đưa vào đây.
Xét tương quan giới, bảng thứ tự nói chung đồng nhất chỉ có hơi khác
về thứ tự số người lựa chọn mà thôi, của nam là 1) Sức khoẻ, 2) Sống yên
vui, hòa thuận… 3) Được mọi người quý trọng, 4) Được làm công việc yêu
thích, của nữ là 1) Sức khoẻ, 2) Sống yên vui hoàn thuận…, 3) Được làm
công việc yêu thích, 4) Được mọi người quý trọng.
9. Đánh giá mức độ hạnh phúc của bản thân
Nếu như câu hỏi trên là quan niệm về những điều kiện đảm bảo một
cuộc sống hạnh phúc nói chung thì ở câu hỏi này chúng tôi muốn tìm hiểu
xem quan niệm của những người tham gia khảo sát về cuộc sống bản thân
như thế nào. Kết quả điều tra thể hiện trong bảng sau, hạnh phúc được đo
theo một thang đo có điểm từ 1 đến 10 thể hiện thức độ hạnh phúc của bản
thân từ hoàn toàn không đến có hạnh phúc và rất hạnh phúc, số người đánh
giá mức độ hạnh phúc trong cuộc sống của mình theo thang đo này có tỉ lệ
phần trăm như sau.
Bảng 78: Mức độ hạnh phúc của bản thân
Mức độ hạnh phúc từ thấp đến
cao
(1 đến 10)
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Số người (%) trả
lời
0 0 2 4 7 13 21 29 17 7
Nam (%) 2 2 6 14 18 34 14 10
Nữ (%) 2 6 8 12 24 24 20 4
Theo bảng trên chúng ta thấy rằng đa số những người trả lời đánh giá
cuộc sống bản thân là hạnh phúc và rất hạnh phúc (tính từ mức 6 đến 10)
chiếm 87% số người trả lời, so với không và không hạnh phúc lắm (từ mức 3
đến mức 5) chỉ có 13%. Điều này có thể hiện qua hai xu hướng, một là những
người Việt Nam sống ở nước ngoài tham gia cuộc khảo sát này thỏa mãn với
cuộc sống theo đúng tiêu chuẩn hạnh phúc mà họ đã nêu ở trên, và có thể có
một xu hướng thứ hai cũng là một xu hướng chung nhìn thấy có ở cả trong
nước, đó là dù cuộc sống trước mắt khó khăn (có thể là cả về vật chất) người
Việt Nam vẫn lạc quan cho rằng mình hạnh phúc và rất hạnh phúc. Có lẽ, có
thể nói rằng bản chất của người Việt Nam, kể cả người đã ra nước ngoài
sống trong những điều kiện văn hóa khác, nói chung là lạc quan.
Ngoài ra xét tương quan giới, nam có phần lạc quan hơn nữ nếu xét về
mặt tỉ lệ đánh giá mức độ hạnh phúc; tỉ lệ của nam có phần cao hơn nữ cả ở
mức cao và rất cao (10% so với 4%).
10. Niềm tin vào các tổ chức quốc tế
Đối với các tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC, UN, mức độ tin tưởng
lần lượt đạt tỉ lệ 90,4%; 83,1% và 64,8% số người trả lời cho rằng có tin
tưởng. Như vậy nói chung các tổ chức quốc tế đều được người Việt Nam ở
nước ngoài tin tưởng song có một điều khá bất ngờ là tổ chức Liên hiệp quốc
(UN) là một tổ chức quốc tế quy mô lớn và lâu đời song lại ít được tin tưởng
hơn cả, trong khi đó ASEAN là tổ chức mà Việt Nam mới gia nhập lại được
nhiều người tin tưởng hơn cả, điều này cũng cho thấy xu hướng hội nhập với
khu vực chung sống hòa bình với các nước trong khu vực là nguyện vọng
chung của người Việt Nam ở cả trong và ngoài nước.
Xét tương quan giới, tỉ lệ nam tin tưởng vào các tổ chức quốc tế cao
hơn tỉ lệ nữ khoảng từ 3 đến 5%.
11. Lòng tin vào con người và các tổ chức trong nước
Đối với câu hỏi liên quan đến lòng tin đối với con người nói chung,
25,3% (nếu tính gộp cả người trả lời không biết thì lên đến 48,5%) số người
được hỏi cho rằng nếu có dịp thì người ta sẽ lợi dụng mình, chỉ có 51,6% số
người trả lời phủ định điều này.
Như vậy có thể nói số người lạc quan tin vào cuộc sống và con người
nói chung vẫn nhiều hơn người bi quan song tỉ lệ hơn kém không hoàn toàn
tuyệt đối, không phân hóa rõ rệt.
Đối với các tổ chức xã hội, mức độ tin tưởng của người trả lời được
đánh giá như sau:
Bảng 79: Mức độ tin tưởng vào các tổ chức trong xã hội
Các tổ chức Số người trả lời là tin tưởng (%)
Chính phủ 89,7 nam: 91,9 nữ: 87,7
Quốc hội 89,0 nam: 87,7 nữ: 91,7
Truyền hình 85,6 nam: 85,5 nữ: 85,7
Các tổ chức đoàn thể chính trị 80,4 nam: 79,6 nữ: 81,3
Lực lượng vũ trang 76,2 nam: 78,0 nữ: 74,4
Tổ chức dân sự 74,2 nam: 75,5 nữ: 72,9
Báo chí 73,2 nam: 75,5 nữ: 70,8
Các liên đoàn lao động 71,2 nam: 70,9 nữ: 71,7
Cảnh sát 71,1 nam: 73,5 nữ: 68,8
Phong trào phụ nữ 69,0 nam: 71,4 nữ: 62,5
Phong trào bảo vệ môi trường 59,4 nam: 56,3 nữ: 59,6
Các công ty lớn 57,6 nam: 59,6 nữ: 55,6
Các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng 37,0 nam: 42,8 nữ: 34,1
Như vậy cũng đồng thuận với lòng tin vào chủ trương đường lối chính
sách của Chính phủ Việt Nam như kết quả trả lời câu hỏi đã nói ở phần trên,
ở đây số người trả lời tin tưởng Chính phủ và các cơ quan nhà nước như
Quốc hội và các tổ chức chính trị khác đạt tỉ lệ cao nhất và chiếm đại đa số số
người trả lời. Điều này cho thấy người Việt Nam sống ở nước ngoài tham gia
cuộc khảo sát này cũng giống như người Việt Nam sống ở trong nước (theo
kết quả WVS 2001) đều có lòng tin rất cao đối với chính phủ. Tuy nhiên lòng
tin này giảm dần đối với báo chí, cảnh sát và các phong trào quần chúng và
đứng ở cuối bảng là lòng tin đối với các công ty tư nhân và các tổ chức tôn
giáo, tín ngưỡng. Về tương quan giới, mức độ tin tưởng có hơi khác nhau
song không đáng kể ở mức rõ rệt.
12. Ba phẩm chất thanh niên thời nay cần có
Đối với câu hỏi hãy chọn ra 3 phẩm chất cơ bản mà thanh niên Việt
Nam thời đại ngày nay cần có, có 3 phẩm chất được nhiều người nêu lên
nhiều nhất đó là tinh thần sáng tạo chiếm 78%, có lý tưởng và phấn đấu thực
hiện lý tưởng 60%, có tư tưởng và tầm nhìn rộng 55% (Biểu 5). Hầu như
không có sự khác nhau về thứ tự chọn lựa các phẩm chất này giữa nam và
nữ mặc dù vẫn có những khác biệt không đáng kể giữa tỉ lệ chọn lựa các
phẩm chất.
Từ xưa đến nay khi nêu lên những yêu cầu đặt ra cho thanh niên,
người ta thường có xu hướng nhấn mạnh tinh thần nỗ lực phấn đấu thực hiện
lý tưởng cũng như tính cần cù chăm chỉ, trong thời đại ngày nay điều này vẫn
là cần thiết song có một yếu tố khác đã nổi lên như một yêu cầu mới của thời
đại đó là tính sáng tạo. Và đối với người Việt Nam ở nước ngoài thì đây được
coi là phẩm chất hàng đầu cần có, điều này cũng phản ánh một thực tiễn của
xã hội mà họ đang sống yêu cầu rất cao đối với nguồn nhân lực xã hội: ngoài
lý tưởng và nỗ lực thực hiện còn cần có phẩm chất thiên về tài năng là tính
sáng tạo và tầm nhìn (hiểu biết) rộng. Điều này đặt ra cho thanh niên cũng
như công tác giáo dục đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trẻ này những yêu
cầu mới cần xem xét và thực hiện có hiệu quả hơn mới có thể đáp ứng được
với yêu cầu mở cửa và hội nhập.
13. Mục tiêu hàng đầu của đất nước trong vòng 10 năm tới
Đối với câu hỏi hãy chọn ra hai mục tiêu quan trọng nhất của đất nước
trong vòng 10 năm tới (Biểu 25) thì mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao (kinh tế)
được 81,4% số người trả lời cho là quan trọng nhất (so với số người cho mục
tiêu có lực lượng vũ trang mạnh (quân sự) và người dân có quyền bàn nhiều
về cách thức tiến hành công việc tại nơi làm việc và cộng đồng (dân chủ) là
quan trọng nhất chỉ chiếm có 9% số người trả lời).
Về mục tiêu quan trọng thứ hai (Biểu 26), có 40% số người được hỏi
cho rằng người dân có quyền bàn nhiều về cách thức tiến hành công việc tại
nơi làm việc và cộng đồng (mục tiêu dân chủ) là mục tiêu quan trọng thứ hai,
tiếp đến là 35% số người trả lời cho rằng mục tiêu quan trọng thứ hai là làm
cho thành phố miền quê mình đẹp hơn (văn hóa) so với 13% số người trả lời
cho rằng mục tiêu quan trọng thứ hai là đảm bảo có lực lượng vũ trang mạnh.
Tuy nhiên xét về tương quan giới ở đây có sự khác nhau giữa nam và
nữ trong chọn lựa mục tiêu thứ hai, trong khi tỉ lệ nam chọn mục tiêu thứ hai
là làm cho thành phố mình đẹp hơn (47,6%) nhiều hơn hai mục tiêu còn lại thì
tỉ lệ nữ lại nghiêng về người dân có quyền… (52,2%). Đây cũng là một kết
quả khá bất ngờ vì có thể người ta thường nghĩ rằng xu hướng chung là nam
thích dân chủ và nữ thích đẹp song ở đây lại là ngược lại.
Như vậy đối với người Việt Nam ông ở nước ngoài, mục tiêu kinh tế,
mục tiêu dân chủ là quan trọng hơn cả cho Việt Nam trong 10 năm tới, ngoài
ra mục tiêu làm cho quê hương tươi đẹp được nhiều người lựa chọn hơn hẳn
mục tiêu có lực lượng vũ trang mạnh.
14. Quan hệ giữa con người và tự nhiên
Trong ba câu hỏi con người nên phục tùng, lợi dụng hay chinh phục tự
nhiên để đạt được hạnh phúc, số người trả lời nên chinh phục tự nhiên đạt tỉ
lệ cao nhất: 59,6%, nên lợi dụng đạt 23,4% và sau cùng là nên phục tùng đạt
12,8% số người trả lời (xem hình 27 dưới).
Như vậy điều đáng lưu ý ở đây là ngay trong điều kiện phong trào bảo
vệ môi trường lên cao chưa từng thấy như ngày nay, số người cho rằng cần
phải chinh phục tự nhiên (theo một nghĩa nào đó là những người theo chủ
nghĩa con người là trung tâm) vẫn chiếm tỉ lệ rất cao. Và điều này không có
sự khác nhau về giới, cả nam và nữ đều có tỉ lệ chọn chinh phục… chiếm đa
số (60,9% nam và 58,3% nữ). Điều này cho thấy công tác tuyên truyền giáo
dục bảo vệ môi trường để làm sao cho con người sống hòa đồng với thiên
nhiên, không coi việc phá hoại thiên nhiên vì lợi ích của mình là chính đáng
cũng vẫn còn phải nỗ lực rất nhiều.
15. Ý thức luật pháp
Đối với những câu hỏi nhằm tìm hiểu về ý thức tôn trọng pháp luật, nề
nếp kỷ cương, tỉ lệ phần trăm số người trả lời như sau:
Bảng 80: Một số hành vi liên quan đến ý thức pháp luật
Hành vi Số người trả lời khẳng định
Ân hận mỗi khi vi phạm quy định 83,8
Hiểu các điều luật còn lơ mơ 43,3
Không ân hận nếu vi phạm vì vô thức 28,1
Làm ngơ khi thấy người khác sai 20,4
Không mua vé khi không bị kiểm tra 14,4
Yên tâm nếu sai phạm không bị phát hiện 9,3
Pháp luật không quan trọng bằng quyền lực 9,2
Nhìn vào bảng trên chúng ta thấy ý thức về pháp luật, nền nếp kỷ
cương của người Việt Nam tham gia luộc khảo sát này khá cao vì đa số
người được hỏi (có đến 83,8%) trả lời rằng có ân hận khi vi phạm một điều
quy định nào đó (trong đó nam có tỉ lệ cao hơn 89,8% và nữ là 78%) và khá ít
người trả lời khẳng định đối với những tình huống vi phạm và thấy người khác
vi phạm pháp luật và nền nếp quy định mà không lên tiếng. Điều này còn thể
hiện ở hiện tượng số người quan niệm rằng quyền lực cao hơn pháp luật chỉ
chiếm tỷ lệ thiểu số: 9,2% (trong đó nam là 10,4% cao hơn nữ một chút là
8,0%).
Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là người ta ai cũng hiểu rõ về
luật pháp nhằm tuân thủ trong hành vi cụ thể, ngược lại ý thức thì cao sang
số người am hiểu về pháp luật thì chưa cao, có đến 43,3% số người trả lời
rằng chưa hiểu rõ về pháp luật (trong đó nam là 44,7% và nữ là 42,0%).
Như vậy một lần nữa ở đây lại cho thấy một điều là từ ý thức (mọi
người đều cần tuân thủ luật pháp) cho đến hành vi cụ thể (tìm hiểu về luật
pháp nhằm thực hiện cho đúng) vẫn còn một khoảng cách. Chính vì vậy Nhà
nước, chính quyền và các cơ quan đoàn thể cần có những biện pháp chủ
động và tích cực hơn nữa nhằm giáo dục về luật pháp cho người dân, nhân
viên của mình.
16. Vai trò của các thiết chế xã hội
Trong hệ thống chính trị, vai trò của các thiết chế được những người
tham gia khảo sát đánh giá như sau:
Bảng 81: Các thiết chế quan trọng trong xã hội
Các thiết chế Số người cho là quan trọng
Vai trò của cá nhân nhà lãnh đạo 100
Các chuyên gia chính phủ 99
Quân đội 97
Hệ thống chính trị dân chủ 96
Như vậy là đa số các thiết chế trong hệ thống chính trị đều được những
người tham gia khảo sát đánh giá cao về mức độ quan trọng trong đó nổi bật
có vai trò của cá nhân người lãnh đạo được 100% số người được hỏi cho là
quan trọng, trong đó rất quan trọng chiếm 78% (xét về giới thì nam nhiều hơn
nữ: 82% so với 74%) và khá quan trọng là 22%.
III. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI
1. Về quan điểm giá trị nhân cách
Thông qua cuộc khảo sát này bước đầu có thể rút ra mô hình nhân
cách (hệ giá trị nhân cách) trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội
nhập theo quan niệm của người Việt Nam ở nước ngoài là con ngữ có sức
khoẻ, có ước mơ, là tưởng và nỗ lực thực hiện, có tinh thần sáng tạo và trình
độ học vấn, tầm nhìn hiểu biết động, biệt coi trọng gia đình, có tinh thần trách
nhiệm, bản lĩnh và tự tin… Mô hình được thể hiện thông qua một số tiêu chí
như sau:
- Những yếu tố quan trọng nhất đối với một con người (hay nói khác đi
là quan điểm giá trị) của đa số những người Việt Nam sống ở nước ngoài
tham gia cuộc khảo sát này là sức khoẻ - đạo đức, hạnh phúc gia đình - học
vấn.
- Những phẩm chất quan trọng nhất được nhiều người Việt Nam sống
ở nước ngoài tham gia cuộc khảo sát này lựa chọn như là những phẩm chất
cần được giáo dục cho con cái là: tính tự lập - sống có thích nhiệm - có hoài
bão ước mơ - lòng khoan dung tôn trọng người khác - coi trọng gia đình, và ở
đây còn có sự khác nhau giữa nam và nữ. Nữ có xu hướng coi trọng gia đình
hơn nam, mặc dù cần nói ràng cả nam và nữ đều coi trọng phẩm chất này.
Kết quả này cho thấy, bất cứ trong xã hội nào việc sống có hoài bão ước mơ
và phấn đấu thực hiện ước mơ cũng được đánh giá cao. Nhưng có điều hơi
bất ngờ là, sống trong xã hội nước ngoài - những xã hội có phần chú trọng
nhiều đến công việc và phần nào xem nhẹ việc gia đình - song những người
Việt Nam vẫn đánh giá cao việc coi trọng gia đình và coi đó là một phẩm chất
quan trọng cần giáo dục, chuẩn bị cho con cái bước vào cuộc sống trong điều
kiện kinh tế thị trường, mở cửa, và hội nhập. Theo nghĩa đó, có thể nói rằng,
người Việt Nam ở nước ngoài dù sống trong môi trường đã thay đổi (có xu
hướng công nghiệp và hiện đại hơn trong nước) vẫn giữ được một nét truyền
thống Việt Nam (hoặc Á Đông).
- Thêm một điều khá bất ngờ là, sống trong điều kiện kinh tế thị trường
với nguyên tắc cạnh tranh chi phối mạnh mẽ song tính cạnh tranh lại được rất
ít người đánh giá cao (8% số người trả lời cho là cần thiết) chỉ bằng 1/5 số
người coi phẩm chất hợp tác với người khác là cần thiết phải giáo dục cho
con cái trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập. Hơn nữa tính tiết
kiệm cũng chỉ được một phần tư số người trả lời coi là cần thiết.
- Những giá trị nhân cách của mẫu người lý tưởng được nhiều người
Việt Nam sống ở nước ngoài tham gia cuộc khảo sát này lựa chọn nhất, đó là
có học vấn cao, thông minh sáng tạo - có sức khỏe tốt có bản lĩnh và tự tin
vào bản thân có lương tâm, trách nhiệm. Có thể thấy rằng nhân cách của
mẫu hình lý tưởng khá toàn diện, từ trí tuệ sức khỏe đến đạo đức, tinh thần.
Tuy nhiên nếu như trong quan điểm giá trị coi những gì là quan trọng nhất đối
với một con người nói chung: người ta nhấn mạnh đến sức khoẻ và đạo đức
hơn học vấn thì ở đây trí tuệ và sức khoẻ lại được nhiều người chọn lựa hơn
phẩm chất đạo đức (hơn 50% so với 38%).
- Ba giá trị nhân cách mà thanh niên Việt nam hiện nay cần có theo
quan niệm của người Việt Nam ở nước ngoài là tinh thần sáng tạo - có lý
tưởng và phân đâu thực hiện lý tưởng - có tư tưởng và tầm nhìn rộng. Có thể
thấy rằng, bất cứ trong xã hội nào, việc sống có lý tưởng và phấn đấu thực
hiện lý tưởng đều được coi là một phẩm chất quan trọng của một con người,
nhất là thanh niên. Nếu như trước đây chúng ta thường hay nhấn mạnh đến
tinh thần nỗ lực phấn đấu thực hiện lý tưởng cũng như đức tính cần cù chịu
khó trong những yêu cầu đặt ra cho thanh niên thì trong thời đại ngày nay
điều này vẫn là cần thiết song có một yếu tố khác đã nổi lên như một yêu cầu
mới của thời đại đó là tính sáng tạo. Và đối với người Việt Nam ở nước ngoài,
đây được coi là phẩm chất hàng đầu cần phải có để có thể đáp ứng được với
yêu cầu rất cao của xã hội đòi hỏi đối với nguồn nhân lực xã hội: bên cạnh
những phẩm chất có lý tưởng và nỗ lực thực hiện, trước hết cần phải có năng
lực sáng tạo và tầm nhìn (hiểu biết) rộng. Đây cũng là một điều đáng quan
tâm tham khảo đối với công tác giáo dục đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực
trẻ trong những yêu cầu mới, cần xem xét và thực hiện có hiệu quả hơn mới
có thể đáp ứng được với yêu cầu mở cửa và hội nhập.
2. Về lối sống
Người Việt Nam ở nước ngoài có lối sống khá lành mạnh thể hiện ở
quan niệm sống hạnh phúc không chỉ chú trọng đến vật chất; ở cách sử dụng
thời gian rỗi hiệu quả không nhấn mạnh vào những giải trí vô bổ mà cân bằng
giữa nghỉ ngơi thư giãn và thưởng thức nghệ thuật, tranh thủ nâng cao hiểu
biết; ở cách chọn việc nhấn mạnh vào sự thể hiện mình và có ý thức pháp
luật tương đối cao.
- Quan niệm về cuộc sống hạnh phúc: người Việt Nam sống ở nước
ngoài tham gia khảo sát đã lựa chọn các giá trị theo thứ tự nhiều nhất những
yếu tố đảm bảo cho một cuộc sống hạnh phúc là, có sức khoẻ tốt - được sống
yên vui hòa thuận bên người thân - được làm công việc yêu thích - được mọi
người quý trọng - có cuộc sống sung túc. Nếu không tính yếu tố sức khoẻ,
các yếu tố tinh thần trong đó yếu tố phấn nào nặng về tính khách quan (được
sống hòa bình) được nhiều người chọn lựa nhất, rồi đến yếu tố có phần chủ
quan (công việc mình yêu thích). Còn yếu tố vật chất (cuộc sống sung túc)
đứng ở vị trí cuối trong bảng xếp hạng này.
- Cách sử dụng thời gian rỗi: người Việt Nam ở nước ngoài sử dụng
thời gian rỗi khá đồng đều, cho cả việc giao tiếp thưởng thức văn hóa nghệ
thuật, học tập nâng cao trình độ tương đương với việc làm ăn kiếm thêm hay
làm tiệc nhà. Họ sử dụng thời gian rỗi khá hiệu quả, dành nhiều thời gian nhất
cho việc giao tiếp và học tập, rèn luyện thể thao hoặc tìm kiếm cơ hội làm ăn
mà ít dành thời gian cho những hoạt động giải trí mang tính vô bổ khác. Nữ
ưu tiên hơn cho làm việc nhà, tìm cơ hội làm ăn còn nam ưu tiên hơn cho
hoạt động xã hội và cả hai đều chú trọng giao tiếp cũng như thưởng thức văn
hóa nghệ thuật, giải trí, thể thao và học hỏi nâng cao trình độ.
- Tiêu chí chọn việc: trong các tiêu chí dùng để lựa chọn công việc,
những tiêu chí nhấn mạnh đến năng lực cá nhân và sự thể hiện mình được
nhiều người đặt nặng hơn là sự thu nhập cao và mức độ ổn định để khỏi thất
nghiệp. Nói khác đi những người Việt Nam ở nước ngoài khi chọn nghề
thường không nhấn mạnh vào thu nhập mà nhấn mạnh vào cuộc sống theo ý
muốn. Có thể nói đây là một biểu hiện mới so với việc phải lựa chọn công
việc trong điều kiện mà những yêu cầu về sinh tồn (thoả mãn những nhu cầu
thiết yếu trong cuộc sống) vẫn còn đòi hỏi phải được thỏa mãn một cách tất
yếu, cấp bách.
Bảng thứ tự ưu tiên các tiêu chí chọn việc của nam và nữ có sự khác
nhau cả về nội dung và thứ tự, nam có xu hướng chọn hầu hết các tiêu chí
nhằm thể hiện mình và sống theo sở thích, yếu tố thu nhập bị xếp vào vị trí
cuối thì ngược lại trong bảng của nữ yếu tố này được đưa lên hàng đầu, hơn
nữa yếu tố ít rủi ro, không sợ thất nghiệp không có mặt trong bảng chọn lựa
của nam thì trong bảng của nữ yếu tố này đứng hàng thứ hai. Điều này cho
thấy nữ mặc dù cũng đã có xu hướng chọn việc theo hướng thể hiện hành
song xu hướng chú trọng yếu tố sinh tồn vẫn rất mạnh và mạnh hơn nam rất
nhiều.
- Quan niệm về những yếu tố đảm bảo thành công: những người trả lời
đã nhấn mạnh đến điều kiện thành công trong kinh doanh ở cơ chế thị trường
nhiều nhất là yếu tố tinh thần sau đó đến năng lực rồi đến vốn và yếu tố may
rủi. Còn những yếu tố mà người Việt Nam trong nước có xu hướng chú trọng
hơn như quan hệ rộng, giỏi ngoại ngữ, vi tính bị đẩy xuống hàng sau. Một lần
nữa ở đây chúng ta thấy học vấn được chú trọng như là một trong số các
điều kiện rất quan trọng đảm bảo sự thành công của một con người.
Bảng ưu tiên các yếu tố dẫn đến thành công của nam và nữ nói chung
không có sự khác nhau, chỉ có điều nam thì nhấn mạnh đến học vấn hơn là
vốn, còn nữ thì ngược lại nhấn mạnh đến vốn hơn là học vấn.
- Ý thức pháp luật: những người tham gia cuộc khảo sát này có ý thức
pháp luật, nền nếp kỷ cương khá cao vì đa số người được hỏi (có đến 83,8%)
trả lời rằng có ân hận khi vi phạm một điều quy định nào đó và khá ít người
trả lời khẳng định đối với những tình huống vi phạm hoặc thấy người khác vi
phạm pháp luật và nền nếp quy định mà không lên tiếng. Điều này còn thể
hiện ở hiện tượng số người quan niệm quyền lực cao hơn pháp luật chỉ chiếm
tỷ lệ thiểu số. Tuy nhiên ý thức thì cao song số người am hiểu về pháp luật thì
chưa cao, có đến 43,3% số người trả lời rằng chưa hiểu rõ về pháp luật. Từ ý
thức cần tuân thủ luật pháp cho đến hành vi tìm hiểu và thực hiện đúng luật
pháp vẫn còn một khoảng cách.
- Ý thức bảo vệ môi trường: dù sống trong điều kiện phong trào bảo vệ
môi trường lên cao song số người (theo một nghĩa nào đó) theo chủ nghĩa
con người là trung tâm vẫn còn chiếm tỉ lệ rất cao: tỉ lệ chọn cần phải chinh
phục tự nhiên vì lợi ích con người chiếm đa số.
3. Niềm tin
Người Việt Nam ở nước ngoài sống khá lạc quan, đa số tin tưởng vào
tương lai tốt đẹp của loài người nói chung và cuộc sống của bản thân nói
riêng đồng thời tin tưởng vào đường lối chính sách của chính phủ Việt nam
khá cao, điều này thể hiện ở những điểm sau.
- Tính lạc quan: đa số những người trả lời đánh giá cuộc sống bản thân
là hạnh phúc và rất hạnh phúc. Điều này có thể hiểu qua hai xu hướng, một là
những người tham gia cuộc khảo sát này thỏa mãn với cuộc sống theo đúng
tiêu chuẩn hạnh phúc mà họ có; hai là cho dù cuộc sống trước mắt khó khăn
(có thể về vật chất) vẫn lạc quan cho rằng mình hạnh phúc và rất hạnh phúc.
Vì vậy, có thể nói rằng bản chất của người Việt Nam, kể cả người đã ra nước
ngoài sống trong những điều kiện văn hóa khác, nói chung là lạc quan
- Niềm tin vào cuộc sống và con người: đa số người tin rằng cuộc sống
vẫn còn tính người cho dù khoa học công nghệ có phát triển đến đâu trong
tương lai (66,7%), tin rằng con người sẽ ngày càng trở nên tự do hơn
(63,6%). Tuy nhiên số người cho rằng cuộc sống của con người sẽ ngày càng
hạnh phúc hơn (53,5%), sức khoẻ con người sẽ ngày càng tốt hơn (51,5%)
có phần giảm đi và chỉ có 37,4% cho rằng con người sẽ ngày càng được
thanh thản hơn.
- Đặc biệt đối với câu hỏi về cuộc sống của bản thân trong vòng 5 năm
tới thì chỉ có 58,5% cho rằng sẽ tốt hơn và 30,3% cho rằng sẽ không thay đổi.
Nhìn chung người Việt Nam sống ở nước ngoài có cái nhìn lạc quan đối với
cuộc sống của loài người nói chung và của bản thân mình nói riêng, phù hợp
với bản chất lạc quan của người Việt Nam như đã thấy ở trên.
- Đối với các tổ chức xã hội; mức độ tin tưởng của người Việt Nam ở
nước ngoài đồng thuận với lòng tin vào chủ trương đường lối chính sách của
chính phủ Việt Nam, số người trả lời tin tưởng chính phủ và các cơ quan nhà
nước đạt tỉ lệ cao nhất, chiếm đại đa số số người trả lời. Điều này cho thấy
người Việt Nam sống ở nước ngoài tham gia cuộc khảo sát này cũng giống
như người Việt Nam sống ở trong nước (theo kết quả WVS 2001) đều có lòng
tin cao đối với chính phủ..
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
I. VÀI NHẬN XÉT CHUNG VỀ GIÁ TRỊ CỦA CÁC NGHIỆM THỂCăn cứ vào kết quả thực nghiệm trình bày ở trên (qua trắc nghiệm NEO
PI-R) và trắc nghiệm giá trị xã hội (GTXH - 2003) chúng tôi có một vài nhận
xét chung về giá trị nhân cách của những người tham gia thực nghiệm (các
nghiệm thể) như sau.
Trong chương ba, chúng tôi đã trình bày các kết quả nghiên cứu, về
từng nhóm đối tượng đã có đánh giá chung theo các chỉ số rút ra từ các trắc
nghiệm hỏi và trả lời, nói cách khác, các phán đoán về các câu hỏi (item)
được coi là các giá trị, và các chỉ số giá trị về một câu hỏi hay nhóm câu hỏi
được coi là các giá trị nhân cách đại diện hay giá trị nhân cách trung bình.
Theo đó có thể đánh giá chung về một nhóm người tham gia thực nghiệm
(học sinh, sinh viên, lao động trẻ - công nhân, nông dân v.v…) là, phần lớn họ
hướng vào những giá trị tốt đẹp phù hợp với cuộc sống đương thời nhưng
một bộ phận còn thiếu những giá trị đó Khi quy tất cả các số liệu theo NEO
PI-R về bốn nhóm: (1) Không có điểm yếu; (2) Không có điểm yếu đáng kể;
(3) Có một số vấn đề trong một số mặt (yếu tố); (4) Có vấn đề trong tất cả các
mặt (các yếu tố), ta thấy số người đông nhất rơi vào cột (3). Theo kết quả trắc
nghiệm 5 nhân tố N, E, O, A, C, phần lớn (40% - 50%) các nhóm nghiệm thể
đều rơi vào mức trung bình. Số còn lại (50% - 60%) rơi vào mức thấp và mức
cao. Đấy là tình hình bình thường, với người Việt Nam cũng như với người
các dân tộc - quốc gia khác. Có lẽ đây cũng là quy luật của cuộc sống, nhất là
trong tình hình cực kì phức tạp của thế giới ngày nay, và ở nước ta - một
nước đã trải qua một cuộc chiến tranh trường kỳ, kinh tế kém phát triển. Vấn
đề có thể đặt ra ở đây là làm sao chuyển dịch cột đỉnh này từ (3) sang (2),
tránh không rơi vào cột (4), tức là theo quy luật chung trong điều kiện hiện
nay người ta đều phấn đấu để đa số dân cư có một cuộc sống phù hợp với
một nhân cách trung bình. Trừ một số thành đạt, như phấn nghiên cứu theo
"phương pháp phỏng vấn sâu đã trình bày, thì hầu như không có kiểu nhân
cách chung nào đối với trí thức. Các số liệu này cũng nói lên độ tin cậy của
trắc nghiệm này.
Các số liệu thu thập được khá lớn, có thể gọi là khổng lồ. Tập hợp vào
một số nhận định chung là một việc rất khó khăn. Ở đây trên cơ sở một số số
liệu đã trình bày ở trên, chúng tôi tập hợp lại theo một số giá trị nhân cách
như sau:
- Các giá trị nhân cách cơ bản,
- Các giá trị chính trị (thái độ đối với đường lối phát triển đất nước),
- Các giá trị cá nhân con người trong thời đại CNH, HĐH, kinh tế thị
trường,
- Các giá trị nhân sinh quan.
Các giá trị nhân cách cơ bản: Lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghiã, niềm tin, bản lĩnh
Trong mọi xu thế biến đổi giá trị, thang giá trị, thước đo giá trị và định
hướng giá trị, tất cả các nhà khoa học, nhà chính trị, mọi giai tầng trong xã hội
đều ngày càng khẳng định hộ giá trị - giá trị tính người và giá trị tình người -
có khi gọi là hai nhóm giá trị - giá trị cội nguồn, giá trị nền tảng - luôn luôn
được nhắc nhở giáo dục, lấy đó là trục vận động của các biến đổi giá trị. Đó
chính là hai giá trị nền tảng của các giá trị nhân cách.
Trong trường hợp các cộng đồng dân tộc, tinh thần dân tộc lòng yêu
nước được coi là giá trị cơ bản trong các giá trị nhân cách. Hơn 90% các
nhóm trắc nghiệm đều có quan niệm như vậy. Chính các giá trị này - nền tảng
và cơ bản - là nơi gặp gỡ, hội tụ, thống nhất giữa "con người xã hội" và "con
người cá nhân", tạo nên sức mạnh văn hóa, sức mạnh tinh thần của dân tộc,
của đất nước. Chân lý này thể hiện rực rỡ trong lịch sử Việt Nam và cho đến
ngày nay, chân lý ấy vẫn sáng ngời trong cuộc sống, trong tâm hồn người
Việt Nam đi vào thế kỷ XXI với kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập,
mở cửa. Cuộc điều tra giá trị của KX05-07 thu được các số liệu một lần nữa
chứng minh thế hể trẻ đang theo bước cha anh, nối tiếp truyền thống coi yêu
nước, tự hào dân tộc là giá trị số một trong 12 giá trị (trong bảng hỏi đưa ra
theo thứ tự):
1) Lý tưởng phấn đấu,
2) Thái độ đối với các vấn đề giá trị, thời sự,
3) Lòng yêu nước, tự hào dân tộc,
4) Tôn trọng pháp luật,
5) Thái độ học tập,
6) Thái độ đối với đồng tiền, v.v…
Với những câu hỏi cụ thể, ví dụ về nội dung lý tưởng có câu hỏi: “tôi coi
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh là lý
tưởng phấn đấu của mình” - tuyệt đại đa số người tham gia thực nghiêm đều
đánh giá đây là một trong các giá trị cơ bản, tức là một giá trị cần phải có
trong nhân cách. Lý tưởng XHCN được cụ thể hóa này - đại đa số chấp nhận.
Với nội dung lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, có câu hỏi: "Tôi
cho rằng tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc là những giá trị đạo đức
quan trọng" - người hỏi trả lời bằng cách cho điểm từ thấp là 0 điểm (hoàn
toàn không đúng) qua ba mức ở giữa tới mức cao nhất là "hoàn toàn đúng"
(tương ứng với điểm 5). Tính theo công thức Likelihood trong 12 giá trị đưa ra
hỏi 2.442 người, giá trị "yêu nước, tự hào dân tộc" được xếp hạng cao nhất.
Đây là kết quả theo bảng hỏi NEO PI-R. Bảng hỏi điều tra định hướng giá trị
thế giới (ĐTĐHGT), 2003 cũng cho một kết quả tương tự: khi Tổ quốc lâm
nguy, bạn có sẵn sàng chiến đấu vì Tổ quốc không? 95% người được hỏi
(N=1413 học sinh, sinh viên, nông dân) đều trả lời "sẵn sàng"; 90% (N=1725)
khẳng định là có tự hào là người Việt Nam ngay trong số người Việt sống ở
nước ngoài tham gia cuộc điều tra, 88,6% cũng khẳng định như vậy: đúng với
lịch sử, đúng với hiện tại và cả trong tương lai - một vốn quý mà dân tộc ta đã
xây đắp nên từ mấy ngàn năm, đạt một đỉnh cao mới ở thời đại Hồ Chí Minh,
được cả loài người trân trọng, tôn vinh, và mỗi người dân Việt Nam đều coi
đó là một giá trị không thể thiếu được trong mỗi một chúng ta, trong tâm khảm
sâu thẳm cũng như trong nhân cách hiện hữu.
Mặt khác, trong tình hình đổi mới (kinh tế thị trường, hội nhập, mở cửa)
có nét mới làm chúng ta phải chú ý tìm hiểu kỹ, quan tâm xử lý. Một số người
tỏ ra băn khoăn lo lắng, khi đưa ra phán đoán "Có lúc tôi mơ ước sau này
mình được mang quốc tịch nước ngoài Anh, Mỹ, Pháp hoặc Úc hơn là quốc
tịch Việt Nam", để người hỏi (N=1725 học sinh, sinh viên, nông dân) trả lời với
5 mức từ hoàn toàn không đúng (tương đương điểm 0) tới hoàn toàn đúng
(điểm 5). Kết quả cho thấy có 14,22% khẳng định là có, 17,82% cảm thấy
phân vân, và 68,86% khẳng định là không. Hiện nay có khoảng 3 triệu người,
tức là số người có quốc tịch nước ngoài, dân số cả nước hơn 81 triệu người,
tức là số người có quốc tịch nước ngoài so với dân số độ khoảng trên 2%.
Bây giờ cuộc điều tra cho thấy, nếu ta làm tròn con số và chỉ chia làm 2 loại:
(1) Không muốn di cư đi sống ở nước khác và (2) Muốn di cư, ta có con số
tương ứng là 69% và 31% - tức là 31% người được hỏi muốn có quốc tịch
của một trong 4 nước rất phát triển. Đúng là phải rất quan tâm đến tình hình
này, nhưng có đáng lo không, có xếp vào "mặt tiêu cực" trong hệ giá trị nhân
cách của các đối tượng tham gia vào hai cuộc điều tra này hay không thì cần
phải phân tích thêm.
Niềm tin là một giá trị nhân cách rất quan trọng, bảo đảm tính bền vững
của hệ thống thái độ của con người đối với xung quanh và đối với bản thân.
Trong bảng hỏi của điều tra giá trị thế giới (WVS) có các câu hỏi về giá trị
niềm tin với người khác. Trong bảng hỏi về định hướng giá trị chúng tôi cũng
quan tâm đến vấn đề này. Kết quả điều tra rất lý thú: trong 463 người (học
sinh, sinh viên, nông dân) trả lời chỉ có 13,39% cho rằng "ai cũng có thể tin
được" và 86,61% trả lời "nên thận trọng" trong thái độ tin người. Chính tình
hình này có ảnh hưởng không tốt đến sự hợp tác, "kỹ năng làm việc theo đội,
nhóm, tính cộng đồng". Tình hình, theo hồi tưởng, khác xưa rất nhiều, nhất là
trọng thời gian chiến tranh mọi người đối với nhau phần lớn như một nhà, sẵn
sàng chia sẻ, đùm bọc nhau để chống lại kẻ thù; rồi bao cấp, thiếu thốn mọi
người cũng đồng cam cộng khổ. Còn bây giờ, cả nước phát triển có cuộc
sống đã được cải thiện rõ rệt, 80% cảm nhận một cuộc sống hơn trước. Ở
các nước phát triển có cuộc sống giàu có trong khách sạn cũng như trong
nhà riêng, theo tôi quan sát buồng ai cũng cửa đóng then cài rất cẩn thận, có
nơi mỗi của có đến vài chốt cài. Họ nói đến an ninh cá nhân, đến tự do cá
nhân. Có phải như vậy hay là vấn đề lòng tin ở con người? Một vấn đề rất
đáng nghiên cứu.
Dân tộc chúng ta có một giá trị truyền thống rất quý báu là giá trị "bản
lĩnh", giá trị này đi liền (hoặc là một bộ phận của) giá trị yêu nước, tự hào dân
tộc làm nên bản lĩnh dân tộc - chỗ dựa tinh thần và một khi tinh thần đi vào
cuốc sống của mọi người, của cộng đông, nói theo Mác, sẽ trở thành sức
mạnh vật chất, bảo đảm sự trường tồn của dân tộc tai đất nước ta. Từ đó,
mỗi người chúng ta luôn cố gắng hình thành và giữ gìn bản lĩnh của bản thân
cũng như bản lĩnh dân tộc có tên gọi chung là "Bản lĩnh Việt Nam". Cuộc
ĐTĐHGT (2003) cho hay trong 1.771 người (công nhân, trí thức, sinh viên,
học sinh) trả lời câu hỏi về "mẫu người lý tưởng" với 20 tiêu chí (giá trị), trong
đó có giá trị "bản lĩnh", có tới 77,19% coi bản lĩnh là giá trị không thể thiếu
được - tỷ lệ cao nhất trong 20 tiêu chí (giá trị). Giá trị "bản lĩnh" cũng là giá trị
"tự tin", hay nói như các nhà tâm lý học nói, đó chính là giá trị bao trùm của
giá trị "tự khẳng định mình" - tin mình, tin người. Trong những điều cần dạy
con cái, những người Việt đang sống ở các nước phát triển tham gia khảo sát
đã yêu cầu giáo dục tính tự lập là yêu cầu số 1. Họ cũng rất chú ý giáo dục
bản lĩnh cho con cái.
Chính đây là một căn cứ giúp chúng ta giải thích tỷ lệ rất thấp (8,09%
của N=666) tin vào tôn giáo, theo điều tra về niềm tin. Trong câu hỏi xem tin
vào Chính phủ, các đoàn thể chính trị - xã hội, tôn giáo. v.v… như thế nào của
tất cả các nhóm nghiệm thể, tỷ lệ trả lời tin vào tôn giáo là thấp nhất, vào
đoàn thể - chính trị xã hội: cao hơn, và tin vào chính phủ - cao nhất. Kết quả
điều tra WVS năm 2001 cũng cho kết qua tương tự: tin vào Chính phủ hơn tin
vào tôn giáo, vào nhà thờ. Trong câu hỏi đề là "tin vào Chính phủ, nhưng
trong câu trả lời, người trả lời, theo nhận định của chúng tôi, thường gắn với
Đảng và Chính phủ. Mà nhìn vào lịch sử nước nhà, phải cộng nhận rằng, lịch
sử ngày nay của nước ta gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, và
trong đời sống thực tế từ ngày Cách mạng tháng Tám đến nay, trong đó có
20 năm đổi mới, nước Việt Nam nói chung, từng người Việt Nam, nhất là
người lao động (công nhân, nông dân, trí thức…) đều được hưởng thụ thành
quả của cách mạng, của đổi mới. Và ở ta số người có tôn giáo (không kể tôn
giáo thờ cúng tố tiên) chiếm khoảng 20% dân số. Vì vậy, ít nhất cho đến giờ
đấy là sự thật. Vấn đề là làm sao giữ được niên tin này, đừng đánh mất hoặc
làm giảm sút. Đấy là điểm tựa của cách mạng, điểm xuất phát của mọi thắng
lợi của cách mạng. Trong bảng hỏi có câu về ý kiến của bạn đối với việc vào
Đảng, con số trả lời "có" không cao: chỉ hơn 17%. Có bạn đánh giá là có vấn
đề. Theo chúng tôi, con số đó phản ánh một tình hình khá tốt đẹp, dân số hơn
80 triệu, hiện có hơn 2 triệu đảng viên, tức là hơn 2% là đảng viên. Ở đây ta
có hơn 17% ngỏ ý muốn gia nhập Đảng.
Thái độ (giá trị) chính trị: thái độ đối với đường lối phát triển đất nước
Nét nổi bật nhất trong sự phát triền đất nước ta trong 20 năm qua là
chuyển từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng CN theo đường
lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, hoàn toàn
đúng quy luật và hợp lòng dân. Cuộc điều tra định hướng giá trị (ĐTĐHGT -
2003) cho biết trong 1.099 công nhân, nông dân, doanh nghiệp được hỏi đã
có 21,75% có cuộc sống hạnh phúc và 67% có cuộc sống hạnh phúc từ mức
trung bình trở lên. Cuộc điều tra này cũng cho biết về mức sống của những
người được hỏi: 2,5% rất giàu, 27% khá giả, 38% trung bình, 35% dưới trung
bình. Có một con số khác cũng nói lên tình hình này: trong số người hỏi chỉ có
23,40% có tiền để dành, 62,60% đủ sống, 4% đi vay để sống. Tức là đa số
mới đang tiếp cận (hay đang vượt qua) mốc "sống còn". Tuy nhiên phần lớn
(80% - 90%) các nhóm nghiệm thể đều đánh giá cuộc sống của bản thân là
"hạnh phúc".
Tất nhiên, cách quan niệm về vấn đề này, cũng như cách cảm nhận tự
đánh giá cuộc sống hạnh phúc là một vấn đề tế nhị và phức tạp, có thể rất
khác nhau. Nhưng qua số liệu điều tra này ít nhất cũng thấy được các phán
đoán chủ quan của một số đại diện, một số giai tầng, nói lên một thực trạng
cuộc sống được cải thiện rõ ràng. Qua đó góp thêm một căn cứ khách quan
khẳng định sự thành công của đường lối đổi mới. Đồng thời, qua các số liệu
dẫn ra ở đây cũng có thể đi đến một nhận định khác hết sức có ý nghĩa đối
với việc nghiên cứu nhân cách là phần lớn (73%) có mức sống trung bình và
dưới trung bình, tức là phần lớn còn đang ở giáp ranh của mức "sống còn"
(survival), "tồn tại". Đặc điểm này như trên đã đề cập tới, có ảnh hưởng rõ rệt
tới các giá trị nhân cách: các cấp độ nguồn gốc từ bản năng tới xã hội và
nhân cách (tự khẳng định mình) còn đan xen nhau. Chính ở mốc này, có sự
phân hoá rõ rệt sự phát triển nhân cách của các cá thể trong xã hội: một số
rất nhỏ tiếp cận với chuẩn mực xã hội, một số không ít ngược lại đi vào con
đường suy thoái (bệnh hoạn của xã hội v.v…), phần lớn chuyển dần sang
cuộc sống trung bình.
Tuy thu nhập đời sống được cải thiện một bước, như vừa trình bày,
nhưng còn biết bao nhiêu vấn đề ngổn ngang. Cho nên ý kiến đánh giá chủ
trương tăng cường cải cách kinh tế, ổn định chính trị theo định hướng XHCN
còn khá phân kỳ, nhiều băn khoăn (bảng 82, theo kết quả điều tra giá trị nhân
cách theo NEọ PI-R có bổ sung):
Bảng 82: Ý kiến đánh giá chủ trương cải cách kinh tế, ổn định chính trị theo định hướng XHCN
Ý kiến đánh giáHọc sinh % của N=837
Sinh viên % của N-655
Lao động trẻ % của N=950
Hoàn toàn không đúng 5.9 3.5 9.1
Hầu như không đúng 14.3 13.0 11.8
Đôi khi đúng 44.9 43.2 39.7
Thường là đúng 26.6 33.1 27.5
Rất đúng, hoàn toàn đúng 8.2 7.2 12.0
Nếu cộng các tỷ lệ này theo 2 mức là "không đúng" và "đúng", kết quả
là khoảng 20% số người được hỏi (sinh viên có thấp hơn, 16,5%) đánh giá là
không đúng và 80% - đúng (tương ứng, sinh viên có hơn một ít: 83,5%). Một
số không nhỏ (khoảng 70%) đòi hỏi phải đổi mới triệt để hơn, nhất là cải cách
xã hội. Trong các yêu cầu đối với tiếp tục phát triển đất nước, các nghiệm thể
ghi “phát triển kinh tế” là yêu cầu số 1, dân chủ số 2, văn hóa số 3.
Như vậy chứng tỏ rằng ở đây cũng còn có vấn đề, chắc chắn phải hoàn
thiện, ví dụ như chưa thể chế hoá đủ cho cơ chế thị trường vận hành các vấn
đề xã hội, đời sống tinh thần trong đó có giáo dục, chăm sóc việc học và đời
sống của người đi học và lao động trẻ, y tế, v.v… Thông tin về chủ trương
này chưa được cập nhật đầy đủ và chủ yếu là chưa đến với tất cả mọi người.
Công việc giáo dục vấn đề này với các đối tượng đang nói ở đây cũng đang
là một vấn đề bức xúc.
Thái độ đối với chủ trương mở cửa, hội nhập cũng được những người
được hỏi hết sức tán thưởng, ủng hộ và tham gia thực hiện. Theo số liệu của
điều tra NEO PI-R (2003) thì đây là một giá trị được đánh giá rất cao: nếu lấy
1 là điểm cao nhất (hoàn toàn ủng hộ), đối với nhóm học sinh, sinh viên là lao
động trẻ (N=2442 người), giá trị này đạt tới 0,85%. Theo số liệu của cuộc điều
tra định hướng giá trị - 2003 có tới 92% (146) nhà doanh nghiệp ủng hộ chính
sách mở cửa. Thái độ với các tổ chức quốc tế cũng đã khác trước nhiều, có
tới 95,59% tin ASEAN và 81,90% tin vào APEC, 62,89% tin vào Liên hợp
quốc. Đa số người được hỏi đều đồng tình với đường lối mở cửa, hội nhập,
tuy có một chút lo có ảnh hưởng tiêu cực đến bản sắc văn hoá dân tộc đặc
biệt lo tệ nạn xã hội ngày càng tăng. Đấy là chuyện đương nhiên, vấn đề là ở
chỗ quản lý nhà nước, đời sống cộng đồng và bản thân con người. Công tác
tuyên truyền giáo dục và một phần biện pháp hành chính ở đây rất cần thiết
tăng cường, và nhất là tìm các con đường, các biện pháp phù hợp với các đối
tượng. Điều đáng lưu ý ở đây là một phần đáng kể thanh niên học sinh (hơn
70%) chưa được chuẩn bị tinh thần và năng lực đi vào hội nhập, mở cửa.
Giá trị cá nhân con người trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kinh tế thị trường
Như ở trên đã trình bày, trong biến động hệ giá trị, định hướng giá trị,
thước đo giá trị đang tiếp tục phát triển xu thế từ "con người xã hội", "con
người tập thể", "sang con người cá nhân", "con người cá thể". Ở đây cung
cấp thêm một số liệu nói về các giá trị đòi hỏi trong thời kỳ CNH, HĐH, kinh tế
thị trường. Sau 20 năm đổi mới đã có một thành tựu đáng mừng là đại bộ
phận thanh niên đã từ bỏ được tư tưởng bao cấp, giám tự chịu trách nhiệm
với "số phận của mình": trong số (N=458) sinh viên, nông dân và công nhân,
theo số liệu của cuộc điều tra ĐHGT (2003), có tới 93% cho biết họ sẵn sàng
vượt qua thách thức; phần lớn các doanh nghiệp trẻ (N=135) được hỏi cũng
cho hay là họ sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh, đây là yêu cầu của kinh tế thị
trường, thời đại CNH, HĐH. Vượt qua thách thức, chấp nhận cạnh tranh là
những biểu hiện rất cao của tính tích cực cá nhân có ý chí vươn lên; tự chịu
trách nhiệm về sai lầm của mình - một biểu hiện cực kỳ quan trọng của sự tự
khẳng định mình; và như trên đã nói, đây là một đỉnh điểm của các giá trị
nhân cách mà các nhà xã hội học, tâm lý học, giáo dục học thế giới coi là một
mục tiêu phấn đấu ngày càng phổ biến của con người đầu thế kỷ XXI - thế kỷ
cách mạng thông tin công nghệ mới và kinh tế tri thức. Vấn đề là làm sao có
quan hệ hài hoà, hợp lý giữa "con người xã hội" và “con người cá nhân”.
Bên cạnh một số chuyển biến tích cực trong hệ giá trị ở thanh niên
ngày nay, cũng còn biểu hiện của sự giao thời, quá độ: khi nền kinh tế chưa
phát triển, việc làm còn khó khăn, trong sinh viên, học sinh còn nhiều người
(70%) con trông chờ vào biên chế nhà nước, tuy thu nhập thấp nhưng an
tâm, cũng tức là lại công nhận một môi trường "an thân", giảm bớt hoặc thủ
tiêu tinh thần cạnh tranh, vượt qua thách thức. Tỷ số nhất trí và duy trì kỷ luật
nghiêm ở cơ quan và số không nhất trí: 50/50 (nếu làm tròn). Cuộc sống, nơi
làm việc cũng như nơi ở, phần nhiều thiếu ngăn nắp. Nhiều cơ quan thiếu kỷ
cương. Chưa thực sự theo pháp luật như xã hội công dân yêu cầu. Cần tăng
cường giáo dục và tự giáo dục đủ phẩm chất để từ đó đi vào xã hội công
nghiệp, hiện đại và xã hội công dân…
Đi vào CNH, HĐH không thể không nói đến khoa học, kỹ thuật, công
nghệ. Ở đây, theo điều tra của đề tài, có một điểm yếu rõ rệt trong thanh niên
ta: có tới gần 50% các em được hỏi đã cho biết là chưa biết máy tính, và
chưa sử dụng được Intemet. Lý do đơn giản là nước ta là nước đang phát
triển, các trường; nhất là đại học, cao đẳng, trung học chưa được cung cấp
đủ máy tính, nhiều nơi chưa nối mạng. Chương trình sách giáo khoa đang
vẫn có thiên hướng nặng về lý thuyết, ít giờ và điều kiện để thực hành. Trong
học sinh, sinh viên, (và một phần cả gia đình các em) tâm lý học suông, tâm lý
khoa cử, tâm lý quan trường vẫn còn khá phổ biến và nặng nề. Có một hiện
tượng cần nhắc lại ở đây là rất ít các em tham gia thực nghiệm tỏ ra có ý
thích làm công nhân, đa số đi vào nghề khoa học - công nghệ, như trên đã
trình bày. Đây là một xu thế vừa tích cực, vừa không phù hợp.
Trong CNH, HĐH có một nội dung rất quan trọng là phải CNH, HĐH
nông thôn, nông nghiệp, nông dân. Nhưng hỏi 1.543 thanh niên học sinh, lao
động trẻ, chỉ có 17,48% là tán thành "ly nông bất ly hương". Xu thế đô thị hoá
đang diễn ra nhanh chóng, đổ dồn về thành thị. Vấn đề đặt ra là làm thế nào
để có nguồn nhân lực, nhất là nhân lực có tay nghề, có trình độ công nghệ tốt
đáp ứng được sự nghiệp CNH, HĐH nông thôn, nông nghiệp.
Một đặc điểm nhân cách rất cần có ở con người đi vào kinh tế thị
trường, CNH, HĐH là tính thích nghi (thích ứng) cùng với tính sáng tạo. Tính
sáng tạo là một yêu cầu đặc trưng của xã hội hiện đại và nền kinh tế tri thức.
Ở đây trong cuộc điều tra trắc nghiệm đã tiến hành trong phạm vi đề tài có thể
rút ra nhận xét tính thích nghi ở đa số thanh niên chỉ có 29% thực sự tin rằng
mình đã được chuẩn bị tốt để thích nghi với xã hội ngày nay, gần 40% cảm
thấy lúng túng trong quá trình thích nghi với sự cạnh tranh trong xã hội. Trong
sinh viên tình hình tương tự: 69,3% cảm nhận chưa chuẩn bị tốt để thích nghi
với xã hội đương thời. Đây là hệ quả của thời kỳ bao cấp kéo dài làm phần
lớn người ta trì trệ, ỷ lại, được chăng hay chớ; phần khác do giáo dục đã tạo
nên những giá trị nhân cách như vậy. Còn đối với người Việt sống ở các
nước phát triển, họ rất coi trọng giá trị học vấn sáng tạo: trong mẫu người lý
tưởng của họ, học vấn xếp thứ nhất, sáng tạo - thứ hai, sức khỏe - thứ ba
v.v… KHXH-04 (1996-2000) cũng cho biết EQ (chỉ số sáng tạo) của các
nghiệm viên khá thấp.
Giá trị nhân sinh quan
Các giá trị nhân sinh quan là các giá trị quan trọng trong nhân cách.
Nhân sinh quan là bộ phận của thế giới quan. Trong "Từ điển triết học"
(Matxcơva, 1955) thế giới quan được định nghĩa là hệ thống quan điểm, khái
niệm và biểu tượng về thế giới xung quanh nói chung, bao gồm cả các hiện
tượng tự nhiên và xã hội. Trong thế giới quan và nhân sinh quan có các thái
độ đối với tự nhiên và xã hội; các thái độ này biểu hiện qua các phán đoán
(trả lời các câu hỏi) và được coi là các giá trị, bao gồm hệ giá trị xã hội và giá
trị của cá nhân, trong đó có một số giá trị nói lên đặc điểm nhân cách gọi là
giá trị nhân cách. Nếu coi hệ giá trị xã hội (nhóm người, cộng đồng người)
bao gồm các chuẩn mực xã hội (lượng hoá là 100%) thì hệ giá trị nhân cách
là mức độ ý thức của con người đó đối với hệ giá trị xã hội (chuẩn mực xã
hội) đó là lượng hoá < 100% (hay 1), tức là có một khoảng cách giữa hệ giá
trị nhân cách và hệ giá trị xã hội, như chúng tôi đã trình bày, khoảng cách đó
nói lên nhân cách của con người đó. Có người nói như vậy chẳng hoá ra giá
trị nhân cách bao giờ cũng thấp hơn giá trị xã hội. Không phải như vậy, về
nguyên tắc khoảng cách đó có thể bằng không, thậm chí có thể (-), như trong
trường hợp các vĩ nhân là người làm gương cho một hay nhiều thời đại, đó là
các giá trị nhân cách tiêu biểu. Nhưng nói chung, phần lớn khoảng cách này
(nhân cách) phụ thuộc vào giáo dục và tự giáo dục suốt đời của mỗi người,
có thể học vấn cao mà nhân cách thấp, người to mà nhân cách bé. Và ở đây
các khoảng cách này, như trên đã trình bày, được xác định qua phạm trù "giá
trị nhân cách trung bình" hay "giá trị nhân cách đại diện".
Trong nhân sinh quan, chúng tôi rất quan tâm hệ thái độ đối với người
khác và có cả hệ thái độ đối với bản thân - đây là các giá trị cực kỳ quan
trọng, như lòng tự tin, tự trọng, tự khẳng định mình mà các nhà tâm lý học
nửa sau thế kỷ XX đã phát hiện, coi là đỉnh cao trong hệ giá trị nhân cách thời
nay. Từ bao đời xưa đã coi trọng giá trị này, nhưng mới từng bước khắc phục
được tình trạng tha hoá, tiến dần tới hiện thực hoá giá trị này. Chính hệ thái
độ này là sự tồn tại của con người, và theo A.N. Lêônchiép, nhà tâm lý học
người Nga lỗi lạc, hạt nhân của nhân cách nằm trong sự tồn tại của con
người. Hệ thống thái độ của từng người biểu thị rõ nhất nhân cách của người
ấy. Nói cách khác nhân cách chính là hệ thái độ đối với thế giới tự nhiên, xã
hội, các người khác và bản thân.
- Các đo đạc trắc nghiệm trong đề tài này giúp chúng ta thấy được một
số nét tình hình chung (hay xu thế phát triển chung) của thái độ (giá trị) đối
với cuộc sống của bản thân. Ví dụ, trong trắc nghiệm nghiên cứu nhân cách
NEO PI-R ở item (86) có 6 giá trị thành 6 câu hỏi để 2.443 người lao động trẻ,
sinh viên học sinh trả lời bằng cách xếp thứ tự ưu tiên từ 1 đến 6. 6 giá trị đó
đưa ra hỏi theo thứ tự: Sức khoẻ, học vấn, đạo đức, tiền bạc, quyền lực, hạnh
phúc; và yêu cầu họ sắp xếp các giá trị này theo thứ tự: quan trọng nhất, nhì,
ba, tư, năm, sáu. Sáu giá trị này nói lên thái độ với cuộc sống của bản thân.
Kết quả là: Sức khoẻ được xếp số 1: 66%
Đạo đức được xếp số 2: 14,1%
Hạnh phúc được xếp số 3: 14%
Học vấn được xếp số 4: 8,2%
Tiền bạc được xếp số 5: 1,8%
Quyền lực được xếp số 6: 1%
Người Việt ở nước ngoài cũng thống nhất ý kiến tương tự như vậy (các
số liệu này có chỗ tương đồng với hệ giá trị Nga và Mỹ).
Điều chủ yếu có thể rút ra ở đây là hệ giá trị của thanh niên, học sinh
đang thay đổi: không còn coi đạo đức chung chung là quan trọng nhất trong
nhân cách con người nữa, đang chuyển từ coi trọng đạo đức chung chung
sang cuộc sống cụ thể. Có một chi tiết nữa cho ta thấy rõ hơn xu thế của các
thay đổi này; đó là tính riêng số liệu của sinh viên và lao động trẻ: vẫn sắp xếp
sức khoẻ là số 1, những thứ 2 là hạnh phúc, thứ 3 mới đến đạo đức. Nhận
xét thứ hai có thể nêu ở đây cho thấy xu hướng rất đáng chú ý trong "hệ giá
trị quá độ" là từ bỏ chế độ bao cấp, con người trước hết phải lo đến cuộc
sống, sự tồn tại và sự phát triển của bản thân, qua đó (hay từ đó) mới thực
hiện được trách nhiệm của từng người với cộng đồng, với xã hội.
Có một số liệu khác đo ĐTĐHGT (2003) cung cấp cũng nêu lên tình
hình này trong 688 người trả lời câu hỏi "có còn thích theo tam đại đồng
đường" (ba thế hệ cùng sống trong một nhà) có tới 54,6% người trả lời rằng
"gia đình 2 thế hệ là tốt nhất" và 40% nói rằng: 2 vợ chồng ở riêng là tốt nhất.
Rõ ràng có sự biến đổi trong “giá trị gia đình” hiện nay: 50% thế này, 50% thế
kia; đúng là có thời kỳ quá đó trong biến đổi giá trị, và có thể dự báo xu thế
thay đổi chuyển dịch từ “truyền thống sang thế tục”, như Liên đoàn nghiên
cứu giá trị thế giới đang đi theo hướng này do R. Inglehard đề ra. Trong xu
thế biến động giá trị đang diễn ra như vậy, chúng ta thấy dễ hiểu vì sao có tới
87% những người hỏi (N=1300 công nhân, nông dân, học sinh) đều tán thành
hoàn toàn hay tán thành một phần quan niệm đối với việc hôn nhân của con
cái, ý kiến của cha mẹ chỉ là ý kiến tham khảo. Đây là một biểu hiện sự
chuyển dịch từ giá trị truyền thống sang giá trị hiện đại: vai trò của từng con
người được chấp nhận, được tôn trọng, được đề cao, và quan trọng hơn cả
được phát huy tính tự lập của từng người, nhất là con người đã bước vào tuổi
thành niên: Giữa truyền thống và hiện đại có quan hệ biện chứng khá phức
tạp, vận dụng vào trường hợp đang bàn ở đây: tự mình quyết định đến đâu, ý
kiến của chà mẹ hay người khác đến đâu, lý trí và trực giác thông minh và
nhạy cảm, thực tế và lãng mạn.
Ở đây, có mặt tích cực cần khuyến khích? đó là phát huy được tính tích
cực, chủ động hoạt động (có sống, học tập làm việc thì mới nói đến tính tích
cực xã hội của con người). Có thời gian trong tâm lý học, xã hội học… ở một
số nơi đã quá nặng nề về tính tích cực xã hội, vì vậy không khỏi có sự lệch
lạc và giả tạo nào đó trong thể hiện đặc điểm này của con người. Tất nhiên,
phải giáo dục và tự giáo dục, đề phòng, ngăn ngừa mặt trái của thái độ đối
với các giá trị này: từ đấy có thể chuyển hẳn sang chủ nghĩa cá nhân là điều
mà xã hội ta không mong muốn. Có nước (có nơi) từ lâu đã đi theo triết lý tự
do cá nhân tuyệt đối, họ đã phải hứng chịu bao nhiêu thói hư, tật xấu. Một xã
hội tốt đẹp phải duy trì một nhân sinh quan - quan điểm (thái độ) đối với cuộc
sống mà nhóm 6 giá trị nói ở trên là một ví dụ đúng đắn, khoa học, hợp lý,
hợp tình, ai cũng thấy có thể chấp nhận được: mỗi người sống và phát triển,
đồng thời cả xã hội phát triển. Xã hội chúng ta vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN, mục đích là mọi người đều được sống tốt đẹp.
Theo kết quả của điều tra định hướng giá trị (2003), từ ngày Đổi mới đến nay,
có tới 21,7% số người (1099 công dân, nông dân, doanh nghiệp) trả lời cảm
thấy "rất hạnh phúc" và 67% số người này cảm thấy có hạnh phúc vừa vừa
(trung bình). Rõ ràng đời sống ngày nay đã hơn những năm 80 thế kỷ trước,
có những tiến bộ rõ rệt trong quá trình chuyển từ chỗ "sống còn" (sao cho tồn
tại) được sang chỗ sống thực sự như là một con người, từ sinh tồn bất ổn
sang sinh tồn an toàn. Vấn đề số một đặt ra ở đây là giáo dục định hướng giá
trị đúng đắn, trên cơ sở nhận định đúng hiện trạng cuộc sống, nhất là cuộc
sống tinh thần, tâm lý của người dân nói chung, của thanh niên học sinh nói
riêng.
Ở đây có thể cung cấp thêm một số liệu thu thập được trong ĐTĐHGT
(2003) nói lên 2 giáp ranh của hai phạm trù sinh tồn: trong 2.128 công nhân,
nông dân, nhà doanh nghiệp trả lời đối với các câu hỏi về việc làm - cốt là có
việc làm (không thất nghiệp) hay là có việc làm phù hợp với năng lực hoặc với
sở thích… thì đa số (58,36%) số người được hỏi đã coi là cất sao có việc làm,
không thất nghiệp là ưu tiên số 1, sau đó (50%) mới đến "hợp với năng lực",
hợp với sở thích" - còn thấp nữa 33%). Những số liệu này có thể là một trong
những căn cứ để xem xét nhân sinh quan - thái độ (quan niệm) đối với cuộc
sống hiện nay. Thời nay không còn là thời "cống hiến, hy sinh" như trước,
nhưng phải làm sao xây dựng được một lý tưởng sống - cân đối giữa tính xã
hội và tính cá nhân trong con người. Dưới góc độ này chúng tôi rất chú ý tới
con số khoảng 70% học sinh, sinh viên, lao động trẻ có ý kiến cho rằng đời
sống tốt là được, không cần đến định hướng XHCN.
- Giá trị "tích cực xã hội": Giá trị này nói lên thái độ có tham gia vào
hoạt động, đời sống xã hội hay không. Đây là một tiêu chí cực kỳ quan trọng
trong nhân cách con người ở mọi chế độ, mọi thời đại. Xã hội chúng ta đang
xây dựng với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, CNH, HĐH, hội nhập,
mở cửa - một xã hội dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh, đòi hỏi hơn bất cứ một xã hội nào khác tính tích cực xã hội từ mỗi con
người - thành viên của xã hội nói riêng từ toàn thể xã hội nói chung.
Trong bảng hỏi NEO PI-R có đưa ra 5 câu hỏi với 5 đáp án trả lời: 1-
Hoàn toàn không đúng, 2- Hầu như không đúng, 3- Đôi khi đúng, 4- Thường
xuyên đúng,. 5- Hoàn toàn rất đúng. Bạn đồng ý đáp án nào thì đánh dấu vào
đó. Kết quả do điều tra giá trị nhân cách (ĐTGTNC-2003) đem lại như sau:
Bảng 83: Thái độ đối với xã hội của học sinh (N-837)
TT Câu hỏi% người trả lời theo đáp án
1 2 3 4 5
1
1. Tôi hay quan tâm và bàn luận
những vấn đề liên quan đến chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà
nước.
9,7 18,5 28,8 27,2 15,8
22. Tôi quan tâm đến chương trình
thời sự trong nước và quốc tế5 19 38,1 23,2 14,7
3
3. Tôi chỉ quan tâm đến công việc
riêng của mình, ít để ý đến những
vấn đề chính trị, thời sự
3,1 9,1 36,3 33,3 10,2
Theo kết quả ở bảng trên ta thấy phần lớn học sinh đều tự công nhân
mình là chỉ quan lâm đến công việc rằng cửa mình, tuyệt đại đa số (94%;
N=1026) dành ưu tiên hàng đầu cho gia đình. Câu hỏi là "ít để ý đến những
vấn đề chính trị, thời sự": 33,3% các em cho rằng "thường là đúngl như vậy,
và 18,2% "rất đúng" như vậy, 36,3% "đôi khi đúng" như vậy, cộng 3 số này lại
bằng 87,8% số học sinh được hỏi chỉ quan tâm đến công việc của mình, ít để
ý đến những vấn đề thời sự, chính trị.
Cuộc ĐTĐHGT (2003) cũng cho kết quả tương tự: hỏi 141 nông dân,
học sinh, sinh viên xem họ có quan tâm đến các vấn đề thời sự, chính trị, thì
chỉ có 10,7% trong họ có quan tâm thường xuyên, 75,11% thỉnh thoảng quan
tâm, thực sự ít người trong số họ quan tâm, với câu hỏi trong gia đình thường
hay bàn chuyện gì, chỉ có 20% là dành cho chuyện thời sự, chính trị.
Theo điều tra giá trị nhân cách - 2003, trong 14 giá trị (hội nhập, yêu
nước, lý tưởng, môi trường, luật pháp, học tập v.v…) 873 học sinh xếp các
vấn đề thời sự là ưu tiên thứ 12, 652 sinh viên cũng vậy, 828 lao động trẻ
cũng vậy.
Còn trả lời câu hỏi (1) trong bảng trên, các tỷ lệ học sinh trả lời ở mức
3, mức 4, mức 5 bằng 61,8% các em rất quan tâm đến các vấn đề liên quan
đến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Như vậy là kết quả trả
lời câu hỏi 1 mới xem tưởng như không ăn khớp với kết quả trả lời câu hỏi (2)
và (3). Có lẽ trả lời đối với chính sách của Đảng và Nhà nước có thể xếp vào
loại theo "định hình" (thói quen được dập khuôn) chung của xã hội. Cũng có
thể nói thêm rằng thuật ngữ "quan tâm" với nghĩa rất mông lung (rất rộng),
hiểu thế nào cũng được. Nhưng đi vào cụ thể, hỏi rõ là có quan tâm đến thời
sự (đọc báo, nghe đài, xem truyền hình v.v….), thì dễ nhận được trả lời cụ
thể, dễ phản ánh đúng thực trạng: xếp "Chính sách của Đảng và Nhà nước"
vào ưu tiên cao - rất quan tâm, mà thái độ đối với các vấn đề thời sự chính trị
thì lại rất thấp.
Theo số liệu của ĐTĐHGT (2003) khi đưa ra 14 giá trị trong thời gian
rỗi anh hay (chị) thường làm gì (việc nhà, đọc sách, giao lưu, đi lễ bái, v.v..
…), thì mục tham gia công tác xã hội (hoạt động xã hội) được xếp vào hàng
thứ 7. Ở đây, một lần nữa ta có số liệu minh chứng xu thế ngày càng rõ
chuyển từ "con người tập thể", “con người xã hội” sang "con người cá nhân",
"con người gia đình". Trong số N=710 công nhân và nông dân được hỏi về
thái độ đối với các tổ chức phi chính phủ thì chỉ có 1/3 quan tâm, đối với công
việc từ thiện chỉ có 1/3 số người trả lời có tham gia, đối với các hội nghề
nghiệp chỉ có 1/5 tham gia; và chỉ có 38% số học sinh, sinh viên (N=1.069)
nhiệt tình với công tác xã hội.
Tóm lại, trên đây đã trình bày 4 nhóm giá trị: giá trị nhân cách cơ bản,
giá trị chính trị, giá trị nhân cách trong thời kỳ CNH, HĐH, KTTT và giá trị
nhân sinh quan. Khi trình bày các số liệu điều tra phần nào đã có lý giải và
nhận định. Đây là các giá trị rút ra từ các cuộc điều tra khảo sát, qua tính toán
(thống kê) rút ra các kết quả nói lên một số nét chung trong hệ giá trị nhân
cách của một số đại diện tham gia cuộc khảo sát. Có thể gọi các số liệu đó là
"giá trị nhân cách đại diện" cho một số giai tầng: nông dân, công nhân và lao
động trẻ, sinh viên, học sinh; qua đã tìm hiểu các biến động và dự báo xu thế
vận động của hệ giá trị và định hướng giá trị của xã hội, làm cơ sở khoa học
và thực tiễn cho công tác giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội và giáo dục
gia đình. Qua đấy có thể thấy mặt mạnh (tích cực) mặt yếu (tiêu cực) trong
nhân cách của thế hệ trẻ ngày nay.
Mặt tích cực
Nhìn chung đại bộ phận thanh niên học sinh và những người khác tham
gia trắc nghiệm điều tra này cũng cho thấy họ đang ở lát cắt bình thường (các
mặt nhân cách đo ở đây đa số rơi vào mức trung bình, phân loại nhóm phát
triển nhân cách cũng cho nhóm có điểm yếu và mạnh rơi vào hai cực với con
số không đáng kể). Phần lớn các nghiệm viên đều có được hệ giá trị nhân
cách tích cực, các giá trị nhân cách cơ bản, từ thái độ chính trị đến giá trị
nhân sinh quan, như là những điều kiện cần thiết đòi hỏi ở con người đi vào
thế giới thời hiện đại - kinh tế thị trường định hướng XHCN, CNH, HĐH, hội
nhập, mở cửa.
Mặt yếu kém
Bên cạnh đó so với yêu cầu của thời cuộc, từng người và cả thế hệ đều
phải cố gắng vươn lên vượt qua thách thức như mọi người thường nói. Ở đây
qua các số liệu trắc nghiệm - điều tra, ta thấy đáng chú ý một số điểm yếu
kém trong phát triển nhân cách của thế hệ trẻ mà đại diện là những nghiệm
viên trong công trình này:
- Thiếu tích cực xã hội, cần tăng cường trách nhiệm đối với đất nước
với xã hội.
- Với xã hội có nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thấy ở các
nghiệm viên thiếu khả năng thích ứng và cạnh tranh, niềm tin vào định hướng
XHCN chưa thật rõ ràng.
- Với đặc điểm hội nhập, mở cửa, còn nhiều người chưa sẵn sàng, một
số lo sợ, một số thờ ơ.
Với CNH, HĐH, nói chung đi vào xã hội công dân, xã hội thông tin, xã
hội học tập lưu ý đến các con số sau đây:
- Gần 1/3 nghiệm thể viên (HS, SV) chưa có đầy đủ ý thức pháp luật,
- Gần 1/3 chưa sống tích cực,
- Gần 1/3 chưa tích cực tham gia hoạt động xã hội,
- Gần 1/2 chưa dấn thân vào hoạt động mới,
- Gần 1/3 còn có mặc cảm tự ti,
- Gần 1/3 chưa thích ứng với hoàn cảnh mới,
- Gần 1/3 sống chưa ngăn nắp,
- Gần 1/2 có nhịp độ lao động thấp,
- Gần 1/2 chưa ham học,
- Gần 1/2 chưa biết sử dụng máy vi tính, intemet.
Hệ giá trị của xã hội chúng ta tiếp tục có nhiều biến đổi rõ rệt
Còn ít người cảm nhận có cái gì đó có thể coi là khủng hoảng, đảo lộn;
nhưng phần lớn cho rằng những biến đổi hệ giá trị, thang giá trị đang diễn ra
mạnh mẽ, chưa đi vào thế ổn định. Vấn đề đặt ra ở đây là có thể đi vào thế ổn
định được không, và có thì bao giờ, và phải giáo dục như thế nào để đi vào
ổn định?
Biến đổi rõ nét nhất trong hệ giá trị và định hướng giá trị hiện nay của
xã hội ta thể hiện trong các "giá trị quá độ" từ: "con người xã hội" sang "con
người cá nhân, từ "con người tập thể" sang "con người cá thể", "con người
đoàn thể" sang “con người gia đình”, “con người phục vụ” sang "con người
tồn tại", từ tồn tại bất ổn sang tồn tại an sinh. Vấn đề đặt ra là ở đây là các giá
trị quá độ có thể chuyển sang hẳn các giá trị của một thời kỳ phát triển của xã
hội công nghiệp, hiện đại, và nếu có thì bao lâu? Có thể cân đối hài hoà hai
“cực” trong nhân cách được không?
Trong mọi sự biến đổi con nơười của xã hội chúng ta vẫn giữ được các
nhóm giá trị cơ bản: như lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, niềm tin
vào bản thân và xã hội. Đây chính là nền tảng và linh hồn của hệ giá trị xã hội
và giá trị nhân cách. Các giá trị cơ bản này, nền tảng và linh hồn này gắn liền
với lịch sử và công cuộc phát triển hiện đại của đất nước, có mở ra một tương
lai tốt đẹp của cả xã hội và của từng con người không? Làm sao giữ cho
được nguồn sức mạnh tinh thần vô giá này của xã hội và từng con người
chúng ta?
Hiện trạng và xu thế phát triển nhân cách của thanh niên học sinh và
lao động trẻ mang một tiềm năng tâm lực rất phong phú, sẵn sàng đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước. Bên cạnh đó có một số điểm cần khắc phục, giải
phóng mọi tiềm năng, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng
người, cộng đồng và cả xã hội.
II. KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP GIÁO DỤC, XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM
1. Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước
Ở cấp vĩ mô:
1.1. Tư tưởng coi trọng con người
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước cần
tiếp tục tư tưởng coi trọng phát triển lên con người và nhân cách, cụ thể hóa
bằng những chính sách phát huy các mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu
cực, mà trước hết phải động viên tính tích cực của chủ thể, làm cho mọi
người ai cũng năng động, phát huy sáng kiến, sáng tạo. Kết hợp hài hoà "tính
tích cực cá nhân" và "tính tích cực xã hội".
1.2. Những nghị quyết chuyên đề
Bộ Chính trị hoặc Ban Bí thư Trung ương Đảng hoặc Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng cần có những nghị quyết chuyên đề về các vấn
đề có liên quan đến việc xây dựng con người theo định hướng XHCN. Ngày
21 tháng 2 năm 2005 Ban bí thư đã ra Chỉ thị số 49 CT/TW về việc xây dựng
gia đình trong thời kỳ CNH, HĐH thể hiện sự đặc biệt coi trọng giáo dục gia
đình. Gia đình là cái nôi cực kỳ quan trọng trong việc hình thành và phát triển
hệ giá trị nhân cách của từng thành viên. Gia đình cũng là tế bào cầu nối kết
hợp tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội kết hợp hài hoà, cùng nhau
xây dựng một xã hội tốt đẹp, tạo nên "vốn xã hội" quyết định tiến bộ xã hội. Vì
vậy có thể nói đây là một cố gắng ở tầm vĩ mô song chưa đủ, bởi xây dựng
con người không chỉ có giáo dục gia đình. Cần có những chủ trương và quyết
sách lớn về xây dựng con người Việt Nam theo tư tưởng (về con người) của
Hồ Chí Minh. Một việc trọng tâm nhất và cũng rất cấp bách được đặt ra trong
đề tài này là phải kịp thời đổi mới mạnh mẽ và triệt để, chấn hưng nền giáo
dốc nước nhà theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cung cấp một nguồn nhân lực đủ
thể lực, tâm lực, trí lực và tay nghề đi vào kinh tế thị trường, CNH, HĐH đất
nước.
1.3. Chương trình nghiên cứu khoa học về con người:
Cần thể hiện sự lãnh đạo và quản lý ở tâm vĩ mô thể hiện ở việc tiếp
tục đầu tư nghiên cứu về con người bằng một Chương trình nghiên cứu khoa
học cấp nhà nước về con người Việt Nam trong giai đoạn mới tiếp theo
(2006-2010). Bởi vấn đề con người là vấn đề luôn luôn mới, đòi hỏi sự đầu tư
nghiên cứu công phu, hệ thống, dài lâu và kế tiếp, nếu không hiểu biết về cón
người, về sự phát triển con người trong mọi giai đoạn khác nhau thì không
thể có sự thành công của mọi chủ trương, sách lược khác bởi tất cả mọi
thành công đều phụ thuộc vào yếu tố con người. Cần phải đầu tư nghiên cứu,
tổ chức các cuộc hội thảo ở quy mô quốc gia và quốc tế về con người Việt
Nam.
1.4. Xây dựng môi trường văn hoá mình mạnh:
Cần có những chính sách về văn hóa giáo dục nhằm giữ gìn và phát
triển môi trường lành mạnh - tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lành
mạnh hệ giá trị nhân cách phù hợp với bản sắc dân tộc, xu thế của thời đại và
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.5. Xây dựng niềm tin vào CN:
Việc xây dựng con người theo định hướng XHCN chỉ có thể và phải
được tiến hành đồng bộ với các chiến lược phát triển khác bởi chủ trương
phát triển đất nước theo cơ chế thị trường định hướng XHCN chỉ thu phục
niềm tin của người dân khi đường lối đó thực sự tạo ra một xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, giảm thiểu các hiện tượng tiêu cực, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Vì vậy kiên định đường lối
XHCN trong điều kiện mới đòi hỏi phải xây dựng một niềm tin vững chắc đối
với lý tưởng XHCN với một nội dung mới là "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ, văn minh".
1.6. Phát huy nguồn vốn xã hội:
Cần có những chính sách mới mẻ hơn trong việc phát huy sức mạnh
đoàn kết dân tộc hay nói khác đi là phát huy nguồn vốn xã hội thông qua
những chính sách tổng hợp trong đó bao gồm cả những sự động viên thường
xuyên, tức thời và những đòn bẩy mang tính quyết định.
1.7. Xây dựng xã hội học tập:
Phát huy tinh thần hiếu học không hề mai một trong cơ chế thị trường
bằng những chính sách thích hợp hướng vào việc hình thành một xã hội học
tập.
1.8. Giáo dục nhân cách công dân quốc tế:
Cần phải giáo dục tinh thần, thái độ và tư duy mở rộng ở tầm quốc tế
phù hợp với xã hội mở cửa và hội nhập, tiến tới giáo dục mọi công dân mang
những phẩm chất của công dân toàn cầu chung sống - bảo vệ thiên nhiên và
chung sống - tôn trọng các nền văn hóa đa dạng khác.
1.9. Chính sách phát huy nguồn nhân lực mới:
+ Lấy phát triển bền vững con người làm trung tâm của mọi chính sách
+ Lấy lợi ích của người lao động làm nguyên tắc cơ bản của quản lý lao
động nhằm tăng năng suất lao động, lấy hiệu quả lao động làm nguyên tắc
hàng đầu.
+ Bảo đảm môi trường dân chủ, thuận lợi cho tiến hành giao lưu đồng
thuận, tạo cơ hội thăng tiến cho tất cả mọi người.
+ Có chính sách giải phóng và phát huy tiềm năng người lao động, bảo
đảm hiệu quả công việc.
+ Phát triển nguồn nhân lực bám sát thị trường lao động. Mấu chốt là
xây dựng chính sách quản lý phát triển giáo dục và đào tạo đúng đắn.
Ở cấp ngành và địa phương:
1.10. Các cơ quan có trách nhiệm trước hết là Bộ Khoa học Công
nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Ban của Đảng… đều đóng vai trò quan
trọng đối với sự chỉ đạo và quản lý việc xây dựng con người. Các cơ quan
cần chủ động vận dụng xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam đi vào CNH,
HĐH, KTTT. Đặc biệt coi trọng định hướng giá trị (giáo dục giá trị) trong toàn
dân, nhất là trong thanh niên. Xác định thang giá trị và thước đo giá trị và vận
dụng vào việc dùng người, tuyển dụng cán bộ, chế độ tôn vinh, khen thưởng.
Từ đó, điều chỉnh hài hoà giữa các "cực" trong phát triển nhân cách.
1.11. Các cơ quan có trách nhiệm mà trước hết là ngành giáo dục cần
chủ động và phối hợp đồng bộ trong các công tác giáo dục trên mọi mặt trận:
- Giáo dục truyền thống: ngoài những chương trình thông qua ngôn
ngữ (sách, báo), cần tăng cường hình thức giáo dục bằng các phương tiện và
hình thức hấp dẫn, tác động mạnh đến trực giác con người như hình ảnh, âm
thanh, hành động (triển lãm, trình diễn, phim ảnh, kịch…) và tạo điều kiện cho
sự tham gia tích cực của họ.
- Giáo dục xã hội (giáo dục suốt đời, giáo dục thường xuyên): bên cạnh
các hình thức giáo dục qua phương tiện thông tin đại chúng, các chương trình
giáo dục bồi dưỡng ngắn hạn và dài hạn mang tính tập trung của nhà nước
hoặc chính quy trong nhà trường, cần tăng cường giáo dục thường xuyên
trong nội bộ cơ quan, xí nghiệp nhằm nâng cao tay nghề một cách thiết thực
và sát hợp nhất cho người lao động. Nhằm xóa bỏ cách làm hình thức, đưa
việc bồi dưỡng nâng cạo năng lực thành chế độ quý củ, cần có những kế
hoạch giáo dục và bồi dưỡng rõ ràng, chặt chẽ; bên cạnh khuyến khích, động
viên có thêm những quy chế, hình thức kỷ luật nghiêm để xây dựng cho được
ý thức, thái độ, tác phong và năng lực của người lao động trong thời đại mới.
- Giáo dục học đường: nên có kế hoạch lồng ghép nội dung giáo dục
giá trị vào chương trình học kiến thức để ngay từ khi còn trên ghế nhà trường
học sinh, sinh viên đã được giáo dục ý thức, thái độ, thói quen và tác phong
của người lao động thời đại công nghiệp. Thích hợp hơn cả là có những sinh
hoạt (câu lạc bộ) thường xuyên, bổ ích, hấp dẫn, lôi cuốn được sự tham gia
thực sự phát huy được nhiệt tình của thế hệ trẻ, tạo cho họ một cuộc sống
học đường tươi vui, có văn hóa.
- Giáo dục thể chất: cần có chương trình giáo dục lồng ghép (trong nhà
trường) và thường xuyên (trên phương tiện thông tin, trong nội bộ cơ quan, xí
nghiệp) về cách ăn uống, rèn luyện và giữ gìn sức khoẻ vệ sinh và khoa học,
góp phần nâng cao thể lực cho toàn dân và nguồn nhân lực xã hội. Làm sao
giải quyết sớm hoặc phòng tránh các căn bệnh do thói quen sinh hoạt, môi
trường thời đại gây ra điển hình như bệnh béo phì, tiểu đường, tim mạch…
Chăm lo cho thế hệ trẻ cũng như thế hệ có tuổi khi mà có một thực tế là tuổi
thọ ngày một tăng lên, lớp người cao tuổi trong xã hội ngày một đông hơn. Vì
vậy cần có những chương trình giáo dục và tuyên truyền cũng như các
phương tiện (tổ chức sinh hoạt, lớp học, câu lạc bộ…) giúp người cao tuổi -
một lực lượng quan trọng của nguồn vốn xã hội có cuộc sống xã hội hoà nhập
tích cực.
1.12. Việc xây dựng con người cần được quán triệt đến từng địa
phương, lãnh đạo địa phương cần chỉ đạo cán bộ vận dụng việc xây dựng
con người vào trong các công tác thực tiễn thường ngày. Cụ thể là vận dụng
đạo đức Hồ Chí Minh vào cuộc sống và công tác của địa phương, cơ quan và
cá nhân. Cảm giác tự ti của một số người (theo kết quả điều tra cho thấy) một
mặt phản ánh những nét tính cách cá nhân (thiếu tự tin) song mặt khác cũng
cho thấy việc xây dựng môi trường văn hóa, lối sống có văn hóa ở nước ta
trong thời gian qua chưa thực hiện tốt.
2. Nội dung xây dựng con người Việt Nam theo định hướng XHCN
2.1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân cách Hồ Chí Minh vào việc
xây dựng hệ giá trị nhân cách con người VN theo định hướng XHCN: Trong
lịch sử, nhân cách con người đã nhiều lần bị hoà tan vào cộng đồng, thậm chí
trong xã hội tư bản chủ nghĩa con người bị tha hóa ảnh hưởng to lớn đến sự
hình thành và phát triển nhân cách. Ở nước ta, tinh thần Hồ Chí Minh; nhân
cách Hồ Chí Minh tạo ra sức mạnh tâm lý kỳ diệu Hồ Chí Minh, đã và đang
góp phần tạo ra diện mạo tâm lý hoàn toàn mới mẻ của cả mấy thế hệt, suy
rộng hơn, của cả một dân tộc, một thời đại Chính đó là sức mạnh giúp chúng
ta giành độc lập dân tộc thống nhất Tổ quốc và biết bao thành tích kỳ vĩ khác.
Diện mạo tâm lý ấy chính là nhân cách với một hệ thống thái độ mang
một chất lượng mới, khác hẳn trước đó:
Thái độ với đất nước: "Tận trung với nước, tận hiếu với dân".
Thái độ đối với giá trị con người: "Ai giữ được đạo đức đều là người
cao thượng".
Thái độ đối với lao động: "Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn
sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Thái độ với bản thân: luôn luôn có tinh thần phê bình và tự phê bình,
"Ham học, ham làm, ham tiến bộ"…
2.2. Cần có sự thay đổi trong quan niệm về một số khái niệm liên quan
đến con người như:
- Khái niệm “truyền thống”: Cần vượt qua sự phân chia hai cực giản
đơn trong quan niệm về truyền thống, từ đó nhìn nhận lại xu hướng khái quát
hóa một cách bao trùm trong nghiên cứu để tập trung tìm hiểu những giá trị
truyền thống đa dạng nhóm.
- Khái niệm "tiềm năng con người": đối với một số tiềm năng con người
đã diễn ra trên thực tế vẫn chưa lý giải được, phải có sự đầu tư thích đáng
trong nghiên cứu và trước mắt không nên có sự tuyệt đối hóa (phủ nhận)
trong quan niệm và chính sách.
- Khái niệm "con người": Phải coi mỗi con người là một cá nhân độc
lập, làm chủ quá trình lao động của mình, mỗi cá nhân đều được tôn trọng và
bảo đảm quyền con người cơ bản.
3. Giải pháp xây dựng và giáo dục
Nhằm đáp ứng những yêu cầu mới đặt ra trong điều kiện KTTT, mở
cửa và hội nhập quốc tế cần phải có những biện pháp đồng bộ, cụ thể, thiết
thực, khả thi, vì con người (xét về mặt nhà nước) và bởi con người (ở góc độ
cá nhân tán thành, tự giác thực hiện) nhằm xây dựng cho được những năng
lực và phẩm chất phù hợp mà kết quả nghiên cứu đề tài đã chỉ ra rằng học
sinh, sinh viên và người lao động Việt Nam đang rất thiếu hoặc rất yếu (năng
lực thích ứng năng lực liên nhân cách, niềm tin):
3.1. Đối với học sinh, cần nâng cao trình độ phổ cập có chất lượng.
Đặc biệt xét về 3 loại mục tiêu, phải phấn đấu nắm vững tri thức cơ bản; tăng
cường hình thành kỹ năng; thực sự coi trọng hơn nữa giáo dục lao động,
hướng nghiệp và lối sống có văn hóa. Ngành giáo dục cần khắc phục bệnh
thành tích, hình thức chủ nghĩa, tình trạng lạc hậu so với khu vực và quốc tế
3.2. Đối với sinh viên, như kết quả điều tra cho thấy, các biện pháp sẽ
chỉ có tác dụng hình thành nhân cách nguồn nhân lực theo các mục tiêu đã
đề ra khi hướng vào các mặt sau:
- Tạo động cơ, ý thức tự nghiên cứu, rèn luyện đúng đắn, sâu sắc
không chỉ vì bằng cấp và phải có văn hóa học tập.
- Hình thành ý thức, thái độ chính trị - xã hội tích cực.
- Tạo năng lực thích ứng với cuộc sống và hoạt động nghề nghiệp trong
xã hội đương đại với sự tác động mạnh mẽ về nhiều mặt của những điều kiện
kinh tế thị trường, hội nhập và cạnh tranh.
Tuy nhiên, việc đáp ứng những yêu cầu trên lại phú thuộc rất nhiều vào
sự đổi mới giáo dục đại học nói chung cũng như vào đảm bảo có đủ lực
lượng giảng dạy đạt trình độ quốc tế tối thiểu không quá yếu kém như hiện
nay và từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại.
3.3. Đối với lao động trẻ, dựa trên kinh nghiệm và ý kiến của những
người thành đạt được phỏng vấn sâu căn cứ vào kết quả nghiên cứu trắc
nghiệm, điều tra, các giải pháp cần tạo ra hiệu quả thiết thực, nhất là về các
mặt dưới đây:
- Hình thành năng lực tự khẳng định trong cuộc sống và hoạt động
nghề nghiệp
- Tạo lập và thể hiện lối sống có văn hóa trên cơ sở lẽ sống hay nhân
sinh quan đúng đắn, tránh xu hướng cá nhân chủ nghĩa và sự định hướng giá
trị sai lệch chuẩn mực xã hội.
- Xây dựng phong cách quản lý và làm việc khoa học, có ý thức kỷ luật
và tinh thần trách nhiệm, đảm bảo chất lượng hiệu quả ngày càng cao, tránh
tham ô lãng phí và khắc phục tình trạng không công bằng trong tuyển chọn và
sử dụng, trong cống hiến, hưởng thụ.
- Tăng cường sự hiểu biết và chấp hành luật pháp quốc gia, quốc tế.
- Phát huy tinh thần lao động cần cù, ham học hỏi suốt đời và sáng tạo.
- Hình thành ở mọi người ý thức giữ gìn bản sắc dân tộc và năng lực
liên văn hóa để có thể hội nhập và cạnh tranh ngày một cao hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢOCác tác giả trong nước
1. Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp. Vấn đề dân cày. NXB. Văn Sử Địa,
Hà Nội 1959 [1937].
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX NXB. Chính trị Quốc gia, 2001.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở. Hội nghị toàn quốc tổng kết 6 năm thực hiện chỉ thị 30 của Bộ
chính trị (Khoá VIII), báo Nhân dân ngày 29-9-2004.
4. Vũ Minh Giang. Nội dung của truyền thông Việt Nam trong "Các giá trị
truyền thống và con người Việt Nam hiện nay", Phan Huy Lê và Vũ
Minh Giang (chủ biên), tập II, tài liệu Đề tài KX-07-02, 1996.
5. Vũ Minh Giang. Các giá trị truyền thống và cọn người Việt Nam hiện
nay. "Chương mở đầu" và "Chương Một". Tài liệu Đề tài KX-07-02,
1996.
6. Trần Văn Giàu. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam.
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1980.
7. Trần Văn Giàu. Bác Hồ giúp chúng tôi khi bị “già hóa”. Báo Quân đội
nhân dân, ngày 18-5-1995.
8. Phạm Minh Hạc. Một số vấn đề giáo dục và khoa học giáo dục. NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1986.
MỤC LỤCLời nói đầu
Chương ICơ sở lý luận
I. Chủ nghĩa Mác - Phương pháp luận nghiên cứu con người
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và nhân cách con người Việt
Nam
III. Nghiên cứu nhân cách người Việt Nam
IV. Vài nét về tình hình nghiên cứu con người đầu thế kỷ XXI
V. Quan niệm về con người: Khái niệm con người, cá thể, cá nhân,
nhân cách
VI. Cách tiếp cận nghiên cứu nhân cách
VII. Khái niệm giá trị
VIII. Giá trị nhân cách
IX. Về nhân cách theo định hướng XHCN
Chương IIPhương pháp nghiên cứu
A. TRẮC NGHIỆM ĐIỀU TRA NHÂN CÁCH NEO PI-R
I. Thuyết 5 nhân tố lớn của nhân cách
II. Trắc nghiệm NEO PI-R
III. Thích nghi, bổ sung trắc nghiệm nhân cách NEO PI-R vào
Việt Nam
IV. Tổ chức điều tra thử để thử nghiệm công cụ
V. Độ tin cậy và độ hiệu lực của trắc nghiệm NEO PI-R có điều
chỉnh và bổ sung
VI. Tiến hành trắc nghiệm
B. PHƯƠNG PHÁP PHỎNG VẤN SÂU
I. Đối tượng phỏng vấn
II. Phương pháp phỏng vấn
C. ĐIỀU TRA GIÁ TRỊ NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI
I. Điều tra diện rộng
II. Điều tra diện hẹp
D. TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG NGHIỆM THỂ VÀ ĐỊA BÀN ĐIỀU TRA
E. CÁCH TÍNH (XỬ LÝ SỐ LIỆU)
I. Một số thuật ngữ dùng trong thống kê
II. Trắc nghiệm giá trị nhân cách NEO PI-R
Chương IIIKết quả nghiên cứu
A. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH QUA TRẮC NGHIỆM
I. Kết quả nghiên cứu nhân cách học sinh
II. Kết quả nghiên cứu nhân cách sinh viên
III. Kết quả nghiên cứu nhân cách lao động trẻ
IV. Một số nhận định chung từ kết quả trắc nghiệm
B. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH QUA PHỎNG VẤN SÂU
I. Trường hợp doanh nhân thành đạt
II. Trường hợp trí thức thành đạt
III. Trường hợp nông dân thành đạt
IV. Điểm mạnh, điểm yếu của người lao động thành đạt
V. Một số nhận xét về các điển hình lao động thành đạt
C. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ NGƯỜI VIỆT
NAM Ở NƯỚC NGOÀI
I. Điều tra diện rộng
II. Kết quả điều tra diện hẹp
III. Một số nhận xét về định hướng giá trị của người Việt Nam ở
nước ngoài
Chương IVNhận xét và kiến nghị
I. Vài nhận xét chung về giá trị của các nghiệm thể
II. Kiến nghị, giải pháp giáo dục, xây dựng và phát triển con người Việt
Nam
--//--
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI
NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ NHÂN CÁCH
THEO PHƯƠNG PHÁP NEO PI-R
CẢI BIÊN
CÁC TÁC GIẢ
Phạm Minh Hạc (Chủ biên)
Vũ Thị Minh Chi
Nguyễn Văn Huy
Lê Thanh Hương
Phạm Mai Hương
Đào Thị Minh Hương
Nguyễn Công Khanh
Lê Đức Phú
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ NỘI 2007