Upload
day-kem-quy-nhon
View
239
Download
8
Embed Size (px)
DESCRIPTION
LINK MEDIAFIRE: https://www.mediafire.com/?2v15pg94qizim5j LINK BOX: https://app.box.com/s/oo6rw6tzx8b32eqtvxxb0re3mhd8v5ec
Citation preview
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
-‐-‐-‐-‐-‐�²�-‐-‐-‐-‐-‐-‐
PHẠM VĂN QUANG
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ TÍCH LŨY PHYTOLITH
ĐẾN MỘT SỐ TÍNH CHẤT LÝ - HÓA HỌC ĐẤT LÚA
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
HÀ NỘI – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
-‐-‐-‐-‐-‐�²�-‐-‐-‐-‐-‐-‐
PHẠM VĂN QUANG
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ TÍCH LŨY PHYTOLITH
ĐẾN MỘT SỐ TÍNH CHẤT LÝ - HÓA HỌC ĐẤT LÚA
Chuyên ngành: Khoa học môi trường
Mã ngành: 60440301
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC MINH
HÀ NỘI – 2015
i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài, tôi nhận được sự quan tâm
giúp đỡ nhiệt tình, sự đóng góp quý báu của tập thể và nhiều cá nhân đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành bản luận văn này.
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô thuộc Bộ môn Thổ
nhưỡng và Môi trường đất, Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự
nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi có thể
học tập và làm việc trong suốt thời gian nghiên cứu.
Đặc biệt, với lòng biết ơn và sự kính trọng sâu sắc, tôi xin chân thành
cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Ngọc Minh – Bộ môn Thổ nhưỡng và Môi trường Đất,
Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên đã trực tiếp hướng dẫn,
tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Cảm ơn thầy đã
rất tâm huyết chỉ dẫn và góp ý để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè luôn quan tâm động viên và
đóng góp ý kiến giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thiện luận văn.
Tôi xin cám ơn sự hỗ trợ kinh phí thực hiện từ đề tài mã số: 105.08 –
2013.01 của Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia - Nafosted.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 8 năm 2015
Học viên
Phạm Văn Quang
ii
MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. i
MỤC LỤC ................................................................................................................. ii
DANH MỤC BẢNG ................................................................................................ iv
DANH MỤC HÌNH ẢNH ........................................................................................ iv
DANH CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................................... ivi
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chương 1 - TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ........................... 3
1.1. Silic trong đất .............................................................................................. 3
1.2. Sự tích lũy silic trong thực vật .................................................................... 6
1.2.1. Vai trò của silic với thực vật ....................................................................... 6
1.2.2. Sự hình thành của phytolith trong thực vật .............................................. 11
1.3. Con đường tích luỹ phytolith vào đất ....................................................... 18
1.4. Phytolith trong đất.................................................................................... 20
1.5. Định lượng phytolith trong đất ................................................................ 23
Chương 2 - ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................... 27
2.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................... 27
2.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 28
2.2.1. Xác định đặc tính cơ bản của mẫu đất nghiên cứu .................................. 28
2.2.2. Xác định đặc tính cơ bản của mẫu phytolith tách từ rơm ........................ 29
2.2.3. Quá trình hòa tan giải phóng nguyên tố dinh dưỡng từ phytolith ............ 31
2.2.4. Phương pháp định lượng phytolith trong đất ........................................... 32
2.2.5. Ảnh hưởng của phytolith tới sự phân tán của cấp hạt sét trong đất ........ 33
iii
Chương 3 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................................ 34
3.1. Một số tính chất đất cơ bản tại khu vực nghiên cứu ................................. 34
3.2. Một số đặc tính cơ bản của phytolith ........................................................ 35
3.2.1. Đặc điểm hình thái ................................................................................... 35
3.2.2. Đặc điểm cấu trúc và đặc điểm khoáng vật học ....................................... 37
3.2.3. Đặc điểm liên kết hoá học bề mặt ............................................................. 38
3.2.4. Đặc điểm điện động học ........................................................................... 40
3.2.5. Thành phần hoá học ................................................................................. 41
3.2. Hàm lượng và sự phân bố của phytolith trong đất ................................... 45
3.3. Ảnh hưởng của sự tích luỹ phytolith đến một số tính chất đất ................. 47
3.3.1. Ảnh hưởng đến một số tính chất lý học đất .............................................. 47
3.3.2. Ảnh hưởng đến một số tính chất hoá học đất ........................................... 51
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 59
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 70
iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Vị trí lấy mẫu đất thuộc khu vực nghiên cứu ............................................. 27
Bảng 2. Phương pháp xác định một số tính chất cơ bản của mẫu đất ..................... 28
Bảng 3. Phương pháp xác định một số tính chất lý – hóa học cơ bản của phytolith 30
Bảng 4. Một số tính chất cơ bản của mẫu đất nghiên cứu ....................................... 34
Bảng 5. Hàm lượng dạng hoà tan của một số ion trong phytolith ........................... 44
Bảng 6. Hàm lượng phytolith trong các tầng đất trong 7 phẫu diện nghiên cứu ..... 45
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 1. Bồn Si, quá trình chuyển đổi và dòng Si trong đất ....................................... 3
Hình 2. Sự biến đổi của DSi trong đất ....................................................................... 4
Hình 3. Các dạng Si sinh học trong đất ..................................................................... 5
Hình 4. Vai trò của Si trong việc giảm tác động của kim loại nặng ở thực vật ......... 9
Hình 5. Một số dạng phytolith và phân bố của phytolith trong thực vật ................. 11
Hình 6. Cơ chế kiểm soát quá trình hút thu Si của lúa ............................................ 14
Hình 7. Quá trình polyme hóa axit monosilicic trong thực vật ............................... 16
Hình 8. Sản phẩm phytolith được tạo ra trong từng giai đoạn thu hoạch ................ 19
Hình 9. Lượng C bị giữ lại trong đất bởi phytolith (PhytOC) so với C tổng số ..... 21
Hình 10. Tích lũy C trong đất trồng có hàm lượng PhytOC khác nhau .................. 22
Hình 11. Sơ đồ tách phytolith từ đất bằng dung dịch nặng .................................... 23
Hình 12. Minh họa cho phương pháp luận sử dụng để giải thích cho sự hòa tan đồng
thời Si từ khoáng trong suốt quá trình chiết dạng ASi ............................. 25
v
Hình 13. Bản đồ khu vực nghiên cứu ...................................................................... 27
Hình 14. Ảnh SEM của phytolith tách từ cây lúa theo phương pháp tro hoá khô ... 36
Hình 15. Ảnh SEM mẫu phytolith trong rơm rạ xử lý ở nhiệt độ 400oC (a), 600oC
(b) và 800oC (c) ........................................................................................ 37
Hình 16. Nhiễu xạ đồ tia X của các mẫu phytolith khi rơm rạ xử lý ở các nhiệt độ
khác nhau .................................................................................................. 37
Hình 17. Phổ hồng ngoại FT-IR của mẫu phytolith xử lý tại các nhiệt độ khác nhau
.................................................................................................................. 39
Hình 18. Thế zeta (ζ) của phytolith xử lý ở các nhiệt độ khác nhau ....................... 40
Hình 19. Biểu đồ phân tích nhiệt sai của mẫu rơm rạ .............................................. 41
Hình 20. Hàm lượng CHC trong các mẫu phytolith ở các nhiệt độ khác nhau ....... 42
Hình 21. Hàm lượng Si và K trong phytolith .......................................................... 44
Hình 22. Hàm lượng phytolith trung bình tại khu vực nghiên cứu .......................... 47
Hình 23. Tương quan giữa CHC, khoáng sét và phytolith với CEC của đất ........... 49
Hình 24. Ảnh hưởng của Si đến sự phân tán của khoáng sét tại các pH khác nhau 50
Hình 25. Cơ chế tạo liên kết bề mặt của anion SiO44- với các nhóm chức trên bề mặt
khoáng sét ................................................................................................. 51
Hình 26. Khả năng hoà tan của phytolith khi được xử lý ở các nhiệt độ khác nhau 52
Hình 27. Cường độ giải phóng Si và K từ phytolith ................................................ 53
Hình 28. Hàm lượng Si hoà tan và phytolith trong phẫu diện đất nghiên cứu ........ 54
Hình 29. Mối quan hệ giữa Si-CaCl2 với Si tổng số và phytolith trong đất ............ 55
Hình 30. Tương quan giữa hàm lượng phytolith và tổng lượng Ca, Mg trao đổi
trong đất .................................................................................................... 56
vi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASi : Dạng Si vô định hình
BSi : Dạng Si sinh học
CHC : Chất hữu cơ
CEC : Dung tích trao đổi cation
DSi : Dạng Si hoà tan
FTIR : Phương pháp phân tích phổ hấp phụ
hồng ngoại
ISi : Dạng Si vô vơ
MSi : Dạng Si trong khoáng vật
SEM : Kính hiển vị điện tử quét
TPCG : Thành phần cơ giới
ts : Tổng số
X-ray : Phương pháp nhiễu xạ tia X
ζ : Thế zeta
1
MỞ ĐẦU
Silic (Si) là nguyên tố giàu thứ hai sau oxy trong lớp vỏ trên của trái đất
(~28%) và có mặt trong hầu hết các loại đá mẹ cũng như các khoáng vật thứ sinh
trong đất. Sự tồn tại của Si thường gắn liền với oxy để tạo thành oxit silic. Ước tính
oxit silic có thể chiếm tới 66,6% lớp vỏ lục địa của trái đất. Mặc dù rất dồi dào
trong tự nhiên nhưng không phải dạng oxit silic nào thực vật cũng có thể sử dụng
được. Trải qua quá trình phong hóa, Si từ các khoáng vật được giải phóng vào đất
và có thể được thực vật hút thu trong quá trình sinh trưởng. Si được đưa vào qua hệ
rễ sau đó kết tủa trong các mô bào của thực vật để hình thành nên các “tế bào silic
sinh học” và còn có một số tên gọi khác như opal-Si hay phytolith.
Một số quan điểm cho rằng Si không phải là nguyên tố “tối quan trọng” như
N, P hay K. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh Si có vai trò quan trọng góp phần
làm cho thực vật trở nên cứng cáp hơn, chống chịu sâu bệnh tốt hơn. Đối với lúa
nước nếu hàm lượng Si dễ tiêu trong đất thấp hơn 40 mg/kg sẽ ảnh hưởng đến sự
sinh trưởng và phát triển của lúa (Barbosa-Filho và nnk, 2001). Một số cây trồng
khác như cà chua, dưa chuột cũng có thể cho năng suất thu hoạch cao hơn nếu được
đáp ứng đầy đủ nhu cầu về Si (Korndoerfer và Lepsch, 2001). Khi phytolith được
giải phóng và tích lũy trong đất, nguồn Si này có thể được cây trồng quay vòng sử
dụng. Việc bón phytolith vào đất sẽ giúp giải quyết tình trạng “đói Si” của thực vật
mà quá trình phong hóa không đáp ứng đủ. Một số tài liệu đã chứng minh rằng
phytolith không chỉ đóng vai trò như là nguồn cung cấp Si cho cây trồng khi được
bổ sung vào đất, mà nó còn có thể tham gia vào các quá trình hóa – lý của đất: cải
thiện CEC, tăng khả năng đệm, cố định các chất ô nhiễm, và hạn chế phát thải khí
nhà kính nhờ khả năng “hút giữ” chất hữu cơ dưới dạng khó phân hủy sinh học
(Parr và Sullivan, 2005). Tuy nhiên, vai trò của dạng Si sinh học này cũng chỉ nhận
được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong hai thập kỷ gần đây.
2
Tập quán vùi rơm rạ lại ruộng, đốt tại ruộng hay sử dụng tro bếp để bón
ruộng đã được bà con nông dân thực hiện từ rất xa xưa, đây được biết đến như một
cách thức để hoàn trả một số khoáng chất quan trọng cho đất. Đây cũng là những
phương thức mà phytolith được hoàn trả lại đất sau mỗi vụ thu hoạch. Tuy nhiên,
các phương thức này tác động tới tính chất của phytolith trong rơm rạ ra sao và khi
đó vai trò của phytolith trong đất sẽ thay đổi thế nào thì chưa có nhiều nghiên cứu
nhắc tới.
Với những vai trò đặc biệt kể trên, đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của sự tích lũy
phytolith đến một số tính chất lý - hóa học đất lúa” được tiến hành thực hiện với
một số mục tiêu đặt ra:
- Cung cấp thông tin về một số tính chất đất cơ bản tại khu vực nghiên cứu,
- Khảo sát một số đặc tính chung của phytolith trong rơm rạ,
- Định lượng hàm lượng phytolith trong đất, và
- Đánh giá mối quan hệ của hàm lượng phytolith tích luỹ tới một số tính chất
đất tại khu vực nghiên cứu.
3
Chương 1 - TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Silic trong đất
Đất là yếu tố chính làm nên hệ sinh thái trên cạn trong đó quá trình hóa học
và quá trình sinh học tác động qua lại lẫn nhau. Trong đất các chất dinh dưỡng được
cố định, hòa tan, biến động cũng như được vận chuyển ngang dọc do các tác nhân
khác nhau. Quá trình vận chuyển ngang và dọc, quá trình cố định tạm thời hay lâu
dài hoạt động ở nhiều mức độ, tạo nên rất nhiều bồn chứa Si cũng như các nguyên
tố khác trong đất. Theo đó, Si có thể bị chia nhỏ ra thành bồn Si vô cơ và bồn Si
sinh học.
Hình 1. Bồn Si, quá trình chuyển đổi và dòng Si trong đất
(không tính xói mòn/lắng)
Trong bồn Si vô cơ, Si có mặt trong trên 370 khoáng vật hình thành đá và là
nguyên tố cơ bản của các loại đá mẹ hình thành đất. Có thể chia Si trong bồn vô cơ
thành bốn pha tồn tại như một dạng sản phẩm trong quá trình phong hoá hình thành
đất: (1) các khoáng vật nguyên sinh có nguồn gốc từ đá mẹ, (2) các khoáng vật thứ
sinh chủ yếu là khoáng sét, (3) các dạng khoáng vật nano có độ trật tự thấp (opal-A,
imogolit, allophan) (Monger và Kelly, 2002) và (4) cuối cùng là dạng Si hoà tan
4
trong dung dịch đất (DSi). Trong đó dạng DSi có thể biến đổi sang các dạng còn lại
và là dạng duy nhất thực vật có thể sử dụng (Hình 2).
Hình 2. Sự biến đổi của DSi trong đất
DSi có thể liên kết với Al hòa tan để tạo thành dạng khoáng vật chuyển tiếp
như imogolite hoặc allophanes (Harsh và nnk, 2002) hoặc có thể kết tủa từ dung
dịch đất lên bề mặt khoáng vật (Drees và nnk, 1989). Ngoài ra, DSi còn được hấp
phụ hóa học ở bề mặt của các thành phần khác trong đất khác như cacbonat, oxit
hoặc hydroxit sắt và nhôm (Dietzel, 2002). Trong quá trình này, hydroxit sắt đóng
vai trò quan trọng trong quá trình tương tác giữa thể rắn và thể lỏng trong đất do sự
hình thành axit polysilicic từ DSi trên bề mặt của hydroxit này (Dietzel, 2002). DSi
trong dung dịch đất có thể kết tinh lại dẫn đến sự tích tụ Si. Trong vùng khí hậu với
giai đoạn khô rõ rệt, tầng đất bị cứng hơn bởi sự bổ sung của Si vô định hình gây ra
sự gắn kết của các hạt đất. Những quá trình này dẫn đến sự chai cứng của
đất (Monger và Kelly, 2002).
5
Hình 3. Các dạng Si sinh học trong đất (Puppe và nnk, 2015)
Si sinh học (BSi) trong đất có thể chia thành Si hữu cơ có nguồn gốc từ động
vật, Si trong thực vật (Si phytogenic) đặc biệt là các loài thuộc nhóm siêu tích lũy
Si, vi khuẩn và sinh vật đơn bào (chủ yếu là tảo diatomit) (Hình 3). Nhìn chung,
hiểu biết về các dạng Si này vẫn hạn chế ở hầu hết các loại đất. Chưa có nhiều
thông tin được đưa ra với vi khuẩn và sinh vật đơn bào mà chỉ có những bằng
chứng cho sự tồn tại của chúng trong đất dưới dạng sống hoặc vết tích khảo cổ
(Clarke, 2003). Hầu hết thông tin về BSi có được nhờ các kết quả nghiên cứu về Si
phytogenic – dạng Si vô định hình kết tinh tại rễ, thân cây, cành, lá và gai ở cây.
Thành phần của Si phytogenic trong đất dao động từ 0,01% tới 50% (Clarke, 2003).
Nếu tốc độ tích tụ dạng Si phytogenic lớn hơn tốc độ phân rã, một bồn BSi có thể
hình thành trong đất. Meunier và nnk (1999) nghiên cứu lớp đất giàu Si phytogenic
dày 15 cm tại phía bờ tây của Piton des Neiges (đảo La Réunion, Ấn Độ
Dương) nơi có loài tre đặc hữu Nastus borbonicus. Kết quả của ông chỉ ra rằng, loài
tre này có chứa lượng Si vô định hình lên tới 41 đến 58 mg/g sinh khối khô và ước
tính dạng Si vô định hình lắng đọng trong đất từ sinh khối tre cho giá trị khoảng 453
– 649 kg/ha/năm. Việc trồng cây có hàm lượng Si cao như lúa, mía, có thể dẫn đến
sự tích lũy Si trong hệ nhiều hơn. Một ví dụ khác, hơn 100 kg Si/ha có thể được trả
lại đất sau mỗi năm ở các cánh đồng mía (Berthelsen và nnk, 2001).
Lượng Si mất đi từ đất trong hệ có thực vật bao phủ có thể gấp 2 - 8 lần so
với các vùng đất trống (Moulton và nnk, 2000). Lucas (2001) đã giải thích điều này
6
do sự phong hóa dưới tác động của sinh vật đặc biệt là thực vật diễn ra nhanh hơn
so với sự phong hóa khoáng do các cơ chế vật lý, hóa học. Những thay đổi của vòng
tuần hoàn Si trên mặt đất dưới tác động của con người đã trở thành một vấn đề có
thể tác động đến trạng thái cân bằng và phát triển bền vững nông nghiệp. Nếu coi
phytogenic là nguồn Si duy nhất cho cây trồng, với tộc độ mất Si là 50 – 100
kg/ha/năm và lượng phytogenic bổ sung là 1 tấn/ha/năm thì bể chứa này sẽ bị cạn
kiệt trong vòng vài thập kỷ (Bartoli, 1983). Hay ở Úc, 30 năm canh tác mía dẫn đến
sự sụt giảm của Si dễ tiêu có sẵn trong đất đến khoảng một nửa so với số lượng ban
đầu (tương ứng là 5,3 và 13,1 mg/kg) (Berthelsen và nnk, 2001). Trong nghiên cứu
thực hiện bởi Klotzbücher và nnk (2014) tại Laguna, Philipin trên cây lúa nước cho
thấy, tổng Si hấp thu bởi cây lúa khi thu hoạch là 51,4 - 70,8 g Si/m2 và phần lớn Si
đã được lưu trữ trong tàn dư sau thu hoạch (> 86%). Với việc người dân không
hoàn trả lượng lớn phụ phẩm sau thu hoạch lại cho đất và hàm lượng Si có trong
nước tưới ở dưới giới hạn phát hiện gây ảnh hưởng tới năng suất của vụ kế tiếp cho
thấy tàn dư sinh khối sau thu hoạch là một nguồn cung Si quan trọng.
Trong hệ sinh thái lúa nước Việt Nam và Philipin, hàm lượng Si cây trồng có
thể hấp thụ được trên tầng đất mặt ở Philipin cao hơn so với Việt Nam (222 ± 92
mg/kg so với 37 ± 14 mg/kg). Do ở Việt Nam, nguồn Si chủ yếu giải phóng ra từ
quá trình phong hoá các tầng đất cổ, trong khi ở Philipin có sự bổ sung từ tro của
các núi lửa đang hoạt động hoặc nguồn nước chảy ra từ các núi lửa hoạt động âm ỉ.
Tổng Si hấp thu bởi cây lúa của Philippin cũng cao hơn đáng kể ở Việt Nam, 709 ±
144 kg/ha so với 201 ± 102 kg/ha, sự khác biệt này có thể là do tác động phương
thức canh tác nông nghiệp ở mỗi đất nước là khác nhau (giống, khí hậu, chế độ thuỷ
lợi và đặc biệt là phương thức quản lý dư lượng cây trồng) (Marxen và nnk, 2014).
1.2. Sự tích lũy silic trong thực vật
1.2.1. Vai trò của silic với thực vật
Si được coi là một nguyên tố dinh dưỡng “không bình thường” bởi xét về
vai trò dinh dưỡng có lẽ nó không thật sự cần thiết cho sự sinh trưởng và phát
7
triển của thực vật. Nhưng dù sao Si hữu hiệu vẫn thúc đẩy sự sinh trưởng,
phát triển và năng suất của một vài loại cây trồng, bao gồm: lúa, mía đường, lúa
mì và một số loại cây hai lá mầm. Trong mô tế bào, Si được tìm thấy với một khối
lượng lớn và chúng ngang bằng với tổng các chất dinh dưỡng thiết yếu (N, P,
K, Ca, Mg). Cây trồng hút Si ở một dạng duy nhất là axit monosilicic, phổ biến
gọi là axit Ortho-Si và tích lũy thông qua việc hình thành cấu trúc ở lá, thân và hệ
thống rễ (Parr và Sullivan, 2005). Vai trò của Si trong vòng đời của cây trồng thể
hiện qua một số khía cạnh sau:
- Tăng khả năng quang hợp, điều hòa dinh dưỡng khoáng
Si giúp cho cây mọc thẳng cứng cáp, lá đứng giúp cây sử dụng ánh sáng hiệu
quả, tăng khả năng quang hợp. Si đã được coi là quan trọng cho sự phát triển bình
thường của cây lúa. Chức năng sinh lý của Si trong trong hệ thống biểu bì lá là có
thể hoạt động như một "cửa sổ" để tạo thuận lợi cho việc truyền ánh sáng đến mô
thịt lá. Tầm quan trọng của góc lá đối với quang hợp của tán ruộng trồng được biết
nhiều, lá đứng được mong muốn ở giống lúa có năng suất cao. Góc lá là yếu tố đặc
trưng của giống, nó cũng bị ảnh hưởng tình trạng dinh dưỡng. Nitơ có khuynh
hướng làm cho lá lúa rủ xuống trong khi đó Si làm cho lá đứng thẳng. Sự rủ xuống
của lá lúa là một chỉ tiêu quan sát để biết đến sự thiếu hụt Si trong cây lúa. Hiện
tượng không xuất hiện ngay sau khi cấy lúa vào trong dung dịch không có Si. Một
tuần sau khi cấy và thời gian sau thì có sự khác nhau giữa hai dung dịch có và
không có Si. Lá lúa của dung dịch có cung cấp Si thì đứng thẳng trong khi lá lúa
không cung cấp Si thì rủ xuống. Sự rủ xuống của lá lúa là do ảnh hưởng của mức độ
cung cấp nitơ. Khi nồng động nitơ trong dung dịch thấp thì mức độ rủ xuống của lá
lúa khi thiếu Si trở nên nhỏ và ngược lại. Si có ảnh hưởng rõ ràng đến hoạt tính
của một vài loại enzim có liên quan đến quang hợp của cây lúa thông qua việc
hạn chế sự già cỗi của lá lúa. Si có thể làm giảm sự thoát ra ngoài của các chất
điện phân từ lá lúa và vì vậy đã giúp đẩy mạnh hơn quá trình quang hợp của các
loại cây trồng được trồng trong điều kiện khô hạn hoặc nắng nóng.
8
Ngoài ra, sự tăng hấp thu Si làm giảm quá trình bốc thoát hơi nước và tăng
tính chống chịu của cây đối với giảm thế năng thẩm thấu trong môi trường mọc
rễ. Sự hấp thu Si tăng làm tăng lực oxy hóa của rễ và giảm sự hấp thu thái quá
của Fe và Mn giúp cây lúa sinh trưởng tốt (Okuda và Takahashi, 1965). Si tăng
cường sự hấp thu P của cây, giảm sự giữ chặt P trong đất, giúp tăng hàm lượng P dễ
tiêu cho cây. Theo Ma và Takahashi (1990), Si tác động gián tiếp đến tăng trưởng
thực vật khi nồng độ P thấp hay cao trong đất. Phương thức này tác động khác nhau
theo mức P trong dung dịch. Khi P thấp, Si làm hạn chế sự cố định P gây ra bởi Fe
và Mn và do đó làm tăng P hữu dụng trong cây. Khi P cao, Si làm giảm sự hấp thu
P và do đó P tập trung ở chồi. Si còn có tác dụng tăng hiệu lực của phân N và các
chất dinh dưỡng khác. Nhiều nghiên cứu cho thấy, Si giúp cây loại bỏ khả năng bị
ngộ độc Mn, Fe và Al vì Si giúp cây phân phối các nguyên tố kim loại này một cách
hợp lý. Nếu thiếu Si, các nguyên tố kim loại này tích trữ không đều và gây ngộ độc.
Bên cạnh đó, Si còn giúp loại bỏ sự mất cân đối dinh dưỡng có hại giữa Zn và P
trong cây làm cho cây khỏe hơn (Ma, 2004).
- Tăng cường sức chống chịu cơ học
Trong cây, Si kết hợp với lớp biểu bì làm thành tế bào trở nên chắc chắn hơn.
Nhiều mối liên kết như vậy giúp cây cứng cáp nhưng lại có khả năng đàn hồi. Si tạo
nên các phức hợp với polyphenol để hình thành những hợp chất với lignin tăng
cường độ cứng của thành tế bào.
- Tăng sức chống chịu với điều kiện bất lợi của môi trường
Trong đất phèn, Si tạo phức với Fe, Al thành những hợp chất khó tan, qua
đó, giảm nồng độ các yếu tố độc hại như Fe, Mn và Al trong dung dịch đất (Datnoff
và nnk, 2005). Bên cạnh đó, Si đóng vai trò quan trọng trong giảm độc tính Cd ở
lúa bằng cách tăng tích lũy Cd trong rễ và giảm vận chuyển Cd từ rễ đến chồi (Ma
và nnk, 2001,2012; Epstein và Bloom, 2005).
9
Hình 4. Vai trò của Si trong việc giảm tác động của kim loại nặng ở thực vật
(Meharg và nnk, 2015)
Cây trồng được hấp thu Si ở điều kiện có muối sẽ kích thích màng không bào
của tế bào rễ cây, phần bề mặt xung quanh không bào tạo ra enzym H+-ATPase và
H+-PPase, hai loại enzym này sẽ kết hợp với nhau trong việc đưa gốc Na+ từ tế bào
chất vào trong không bào, điều này làm cho việc vận chuyển Na+ từ rễ cây đến ngọn
và lá giảm đi so với cây không được hấp thụ Si. Nếu trong lá cây có lượng Na+ cao
sẽ làm cho lượng chlorophyl giảm, khả năng quang hợp của cây cũng giảm đi. Khi
cây trồng phát triển ở điều kiện có muối thì sẽ làm cho cây bị “stress” và sinh ra các
gốc tự do, khi tích tụ ở mức độ nhiều sẽ gây nguy hiểm cho tế bào. Nếu được hấp
thụ Si vừa đủ sẽ tạo ra nhóm enzym có khả năng kiểm soát các chất thuộc nhóm tự
do như nhóm enzym antioxidant. Ngoài ra, Si làm giảm các tổn thương được gây ra
bởi các điều kiện bất lợi của khí hậu như bão, mưa đá đối với cây lúa, làm giảm
bớt khả năng ảnh hưởng của nhiệt độ thấp đối với cây mía và một số loại cây
trồng khác.
- Tăng sức đề kháng, ngăn ngừa sâu bệnh
Si là một nguyên tố có hoạt tính sinh học tác dụng cả hai cơ chế sinh học và
sinh lý. Si tác động như một chất điều chỉnh liên quan đến thời điểm và mức độ
10
phản ứng của cây trồng tạo sức đề kháng cho cây trồng. Việc bổ sung Si có tác động
đến việc kiểm soát nhiều bệnh quan trọng của cây lúa. Những nghiên cứu cho thấy
khi bón bổ sung từ 1,5 – 2 tấn/ha các nguồn Si khác nhau trên những ruộng thiếu Si
đã làm giảm đột ngột tỷ lệ mắc bệnh và giảm thiệt hại do bệnh đạo ôn, đốm nâu,
khô vằn và bạc lá cây lúa Oryza sativa (Ma và nnk, 2002). Datnoff và nnk (1991)
chứng minh rằng bón Si dưới dạng CaAl2Si2O8 làm giảm 73 – 78% tỷ lệ lúa bị
nhiễm đạo ôn và giảm được 58 – 75% tỷ lệ lúa bị nhiễm đốm nâu giúp tăng năng
suất và phẩm chất lúa.
Ở chồi và lá, sự phân phối Si phụ thuộc vào tỉ lệ thoát hơi nước của cây và
được tích tụ ở giai đoạn cuối của dòng thoát hơi nước thường ở ngoài và trong
thành tế bào biểu bì lá. Thành tế bào biểu bì lá bị thấm một màng mỏng Si và trở
thành những rào cản có hiệu quả chống lại sự mất nước do thoát hơi nước qua lớp
cutin và sự xâm nhiễm của nấm (Epstein và Bloom, 2005; Ma và nnk, 2002).
Si cũng ngăn chặn côn trùng gây hại như sâu đục thân, châu chấu và rầy lưng
trắng, bọ hình nhện và bọ ve. Dưỡng chất giúp cây trồng kháng lại sâu bệnh bằng
cách làm thay đổi hình thái, cấu trúc hay hóa học của cây ở vào một số giai đoạn
sinh trưởng và phát triển. Chẳng hạn như làm cho tế bào biểu bì của lá dày hơn,
mức độ hóa gỗ của các mô mạnh hơn, giúp lá chống lại sự xâm nhiễm của nấm
bệnh; thân, lá cứng cáp hơn, chống lại sự tấn công của côn trùng; hoặc cây sản sinh
ra những chất ngăn cản hay xua đuổi côn trùng.
- Tăng năng suất và phẩm chất cây trồng
Ngoài các cơ chế tác động tới khả năng quang hợp, đặc điểm cấu tạo cũng
như khả năng chống lại một số sâu bệnh và sự thay đổi thiếu tích cực của điều kiện
môi trường, các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy Si có tác dụng làm tăng số bông,
số hạt/bông và số hạt chắc, tăng năng suất lúa cũng như một số loài cây hai lá mầm
khác. Theo một nghiên cứu tại Hàn Quốc ở lúa gạo: bón 2.000 kg phân Si/ha, năng
suất tăng 28% so đối chứng (không bón phân Si); lúa mì: bón 2.500 kg phân Si/ha,
năng suất tăng 20%; lúa mạch: bón 1.370 kg phân Si/ha, năng suất tăng 37% (Đỗ
11
Hải Triều, 2008). Bón phân chứa Si còn có tác dụng giảm tỷ lệ lép hạt, giúp cho hạt
lúa vàng sáng, sạch bệnh, góp phần tăng phẩm chất và giá trị của lúa gạo.
1.2.2. Sự hình thành của phytolith trong thực vật
Phytolith (trong tiếng Hy Lạp, phyto = cây, lithos = đá: “cây hóa thạch”) là
dạng oxit silic vô định hình (có công thức tổng quát là SiO2.nH2O) hình thành trong
cả nội hay ngoại bào các mô của thực vật sống (Jones và nnk, 1967).
Hình 5. Một số dạng phytolith và phân bố của phytolith trong thực vật
Nhiều họ thực vật hạt kín, hạt trần và một vài họ của Pteridophytes (thực vật
không có hoa, đặc biệt là dương xỉ) được biết đến như các “nhà máy” sản xuất
phytolith với lượng khác nhau từ 0,1 đến 16% (Epstein và nnk, 2005). Sự hình
thành và phát triển của phytolith trong thực vật liên quan đến một số yếu tố, bao
gồm điều kiện khí hậu, tính chất đất, lượng nước trong đất, độ tuổi của cây và quan
trọng nhất sự tương tác qua lại giữa các thành tố này. Quá trình hình thành phytolith
được bắt đầu khi thực vật hấp thụ Si hòa tan qua rễ và kết thúc khi các tế bào Si rắn
được hình thành trên thành tế bào, tế bào nội chất, hoặc các khoảng gian bào. Quá
trình này đôi khi ở giai đoạn rất sớm hoặc cũng có thể rất muộn trong vòng đời phát
triển của thực vật tuỳ thuộc vào loại thực vật và điều kiện môi trường sống của
chúng.
12
1.2.2.1. Cơ chế hút thu Si của thực vật
Si hoà tan được thực vật hút thu qua lông hút của rễ và vận chuyển lên các
cơ quan khí sinh trong dòng vận chuyển nước qua hệ thống mạch dẫn xylem. Dạng
Si trong dung dịch đất đi vào thực vật là axit monosilicic, Si(OH)4 trong điều kiện
pH dao động từ 2 tới 9. Quá trình hút thu Si của thực vật dựa trên hai cơ chế: hút
thu chủ động có tiêu tốn năng lượng trong quá trình trao đổi chất và hút thu thụ
động thông qua dòng không chuyên biệt cùng dòng hút thu các nguyên tố dinh
dưỡng khác hoặc dòng thoát hơi.
Có một số lượng đáng kể các nghiên cứu cho thấy sự hấp thu thụ động và
truyền dẫn của axit monosilicic trong các loài thực vật (Raven, 1983). Một số
nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đã chỉ ra rằng lượng Si (đo bằng phần trăm khối
lượng khô) ở một số loài tích lũy Si tăng tỷ lệ thuận với lượng Si hòa tan trong các
môi trường sinh trưởng (Jones và Handreck, 1965). Jones và Handreck (1965) có
thể dự đoán tương đối chính xác hàm lượng Si trong yến mạch và cỏ ở vùng đất khô
hạn bằng việc biết nồng độ của axit monosilicic trong đất và lượng thoát hơi nước
của cây. Mối quan hệ thuận này được xem như kết quả và minh chứng cho sự hấp
thu Si thụ động của thực vật.
Mặt khác, có những bằng chứng thuyết phục cho sự vận chuyển chủ động Si
hòa tan của một số loài thực vật. Okuda và Takahashi (1964) thấy rằng axit
monosilicic xuất hiện trong hệ thống xylem dẫn truyền nhựa lên các chồi lúa với
nồng độ cao mà không tuân theo gradient nồng độ. Van der Worm (1980) cũng đã
chứng minh sự hấp thu tích cực Si trong mía đường, lúa mì và lúa nước. Ví dụ khác,
dưa chuột (Cucumis sativus) hấp thu và vận chuyển Si có thể bị ức chế mạnh bởi
nhiệt độ thấp và chất 2,4-dinitrophenol, trong khi các chất ức chế chuyển hóa tương
tự không có tác dụng với việc hạn chế Si xâm nhập thụ động vào qua dòng vận
chuyển nước của cây đậu răng ngựa (Vicia faba) (Liang và nnk, 2005). Rõ ràng,
thực vật có tích luỹ phytolith phải có một số cơ chế hút thu có kiểm soát hoặc từ
chối sự xâm nhập của axit monosilicic ở bề mặt rễ hoặc ngăn không cho nó đi từ rễ
13
vào các cơ quan khí sinh. Jones và Handreck (1969) kết luận rằng rễ của các loài
thực vật ít hoặc không tích luỹ Si có thể tạo ra lớp “rào chắn” trong lớp biểu bì, cho
phép axit monosilicic xâm nhập vào với tỷ lệ thấp hơn nhiều so với sự xâm nhập
của nước, trong trường hợp này, việc xâm nhập thụ động của axit monosilicic đã
được kiểm soát. Cơ chế tương tự cũng được phát hiện trong nghiên cứu thực
nghiệm của Parry và Winslow (1977). Việc cắt bỏ một phần rễ của cây đậu Hà Lan
(loài tích luỹ Si ở mức thấp), dẫn đến sự tích luỹ cao của Si trong thành tế bào của
lá và tua (tuy nhiên không phải ở dạng tế bào rắn màu trắng đục, phytolith); trong
khi các cây được trồng trong dung dịch Si tương tự với rễ còn nguyên vẹn không
thấy có tích lũy như vậy. Điều này chỉ ra rằng một cơ chế hạn chế Si tồn tại trong rễ
và có lẽ nằm ở bề mặt bên ngoài của rễ, vì không phát hiện thấy Si trong rễ cây còn
nguyên vẹn. Parry và Winslow (1977) tiếp tục chỉ ra rằng lông rễ của một số thực
vật tích luỹ phytolith thấp được bao bọc bởi một lớp mỏng chất béo có tính chất
tương tự cutin và suberin, trong khi chất này duy trì tính thấm với nước lại trở thành
một rào cản đối với axit monosilicic. Ở một số loài thực vật còn hình thành các gen
chuyên hoá kiểm soát quá trình hút thu và vận chuyển Si từ môi trường ngoại bào.
Ví dụ ở lúa, Ma và nnk (2004) đã phân lập và tìm ra được gen nằm trên màng
plasma ở vỏ tế bào rễ (SIT1 hay LSi1 - Low silicon rice 1) và một số khác nằm trên
màng plasma của các tế bào nhu mô của xylem (SIT2 hay LSi2 - Low silicon rice 2)
(Ma và nnk, 2004) (Hình 6).
Ngoài vai trò neo giữ vào giá thể của hệ rễ, thực vật còn chủ động tăng
cường khả năng hút thu Si bằng cách tiết qua hệ thống rễ các hợp chất axit hữu cơ
hoặc H2CO3 để hoà tan các khoáng vật silicat trong giá thể mà chúng sinh trưởng.
Nói cách khác, mức Si hoà tan trong đất không có giới hạn dưới cho việc chấm dứt
sự hình thành phytolith trong các loài loài tích lũy Si. Blackman (1969) đã tăng số
lượng cỏ trồng trên đất nghèo Si hoà tan và vẫn quan sát thấy hàm lượng đáng kể
phytolith được tạo ra. McNaughton và Tarrants (1983) cũng đưa ra giả thiết rằng cỏ
có khả năng hòa tan Si từ hạt sét để tạo ra lượng Si cần thiết cho nhu cầu của chúng.
14
Hình 6. Cơ chế kiểm soát quá trình hút thu Si của lúa (Ma và nnk, 2004)
Các nghiên cứu cho ra những bằng chứng tương đối thuyết phục chứng minh
cho sự tồn tại của hai cơ chế hút thu Si của thực vật, tuy nhiên, mối quan hệ cũng
như vai trò riêng biệt của mỗi cơ chế trong quá trình hút thu Si ra sao thì chưa được
làm rõ. Trong thực vật thường tồn tại đồng thời hai cơ chế hút thu Si chủ động và
thụ động; tuỳ vào điều kiện môi trường mà mối quan hệ giữa hai có chế có thể là
tương hỗ hoặc cản trở nhau (ở đây là sự điều chỉnh quá trình hút thu thụ động dựa
trên các cơ chế hút thu chủ động qua việc tăng cường hoặc cản trở sự xâm nhập của
Si qua màng tế bào lông hút hoặc màng tế bào xylem). Tuy nhiên, sự biến động
hàm lượng Si trong các loài thực vật được cho là phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố
môi trường quy định nồng độ của Si hòa tan trong thực vật. Các yếu tố này chủ yếu
là những yếu tố ảnh hưởng đến mức độ Si hòa tan trong đất (mức độ phong hoá
khoáng vật silicat và dạng tồn tại của Si trong đất). pH là yếu tố ảnh hưởng đáng kể
tới Si hòa tan, pH liên quan đến sự hấp thụ axit monosilicic bởi oxit sắt, nhôm và
khoáng sét trong đất. Những sesquioxit thường hấp thụ hoặc liên kết với axit
monosilicic lên bề mặt và tách nó ra khỏi dung dịch đất. Quá trình hấp phụ này
được cho là tối ưu ở khoảng pH 9,5. Trong khi đó, khả năng hấp phụ Si hoà tan của
đất thay đổi theo các thay đổi pH và đạt giá trị tốt nhất trong khoảng pH 8 và 9. Có
nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng sự hấp thu của Si bởi các thực vật tăng lên cùng với
15
tăng hàm lượng nước và có thể là nhiệt độ của đất (Jones và Handreck, 1967). Jones
và Handreek (1967) nhận xét rằng lúa nước gần như chắc chắn có chứa Si nhiều
hơn lúa trồng cạn khoảng 10 – 15%. Miller (1980) cũng nhận thấy rằng cỏ trồng
trong điều kiện ấm áp, môi trường ẩm có quá trình phytolith hoá hoàn chỉnh hơn ở
các lớp biểu bì so với cỏ ở các vùng có kiều kiện khô lạnh. Bên cạnh đó, có bằng
chứng cho thấy các loại đất có hàm lượng chất hữu cơ hòa tan cao thường kèm theo
sự gia tăng lượng Si hòa tan, trong khi, sự hiện diện của N và P với hàm lượng lớn
được cho là dẫn đến giảm nồng độ của Si trong thực vật (Jones và Handreck, 1967).
1.2.2.2. Quá trình hình thành phytolith trong thực vật
Khi axit monosilicic đi vào mô thực vật quá trình hình thành phytolith được
bắt đầu, theo đó một phần Si hoà tan được polyme hóa và hình thành dạng rắn của
oxit silic (dạng SiO2 ngậm nước có tính chất giống với silica gel) lắng đọng trong
và xung quanh các tế bào thực vật. Trong mô thực vật có ba vị trí có thể xảy ra sự
lắng đọng Si: (1) kết tủa trên thành tế bào, (2) lấp đầy hệ thống lumen của tế bào và
(3) lắng đọng ở không bào. Các thông tin ở cấp độ tế bào của quá trình lắng đọng Si
trong thực vật trên cạn chưa được giải thích một cách thoả đáng và có hai giả thiết
được đưa ra giải thích cho quá trình này: kết tủa và lắng đọng xảy ra một cách thụ
động như là kết quả của quá trình hút nước và thoát hơi nước hoặc được kiểm soát
một cách chủ động. Trong thực tế, hai giả thuyết tương thích với nhau và cơ chế
hoạt động phụ thuộc vào loại tế bào (Motomura và nnk, 2004).
Quan sát cơ quan khí sinh của cỏ, Jones và Handreck (1967) cùng Raven
(1983) kết luận rằng hàm lượng SiO2 lắng đọng ở lá cao hơn nhiều so với ở thân và
rễ. Nguyên nhân do ở lá có mật độ khí khổng cao hơn nhiều so với ở thân trong khi
ở rễ thì hoàn toàn không có. Sự mất nước trong quá trình thoát hơi nước dẫn đến
nồng độ Si trong tế bào lá tăng lên tương đối tại một thời điểm nào đó (khi lượng
thoát hơi nước từ khí khổng lớn hơn so với lượng nước dẫn truyền lên qua xylem
sau khi được hút thu bởi rễ), tại thời điểm này quá trình trùng hợp các phân tử axit
monosilicic diễn ra.
16
Hình 7. Quá trình polyme hóa axit monosilicic trong thực vật
Perry và nnk (2003) cho rằng khi nồng độ Si hoà tan trong thực vật đạt
ngưỡng 100 - 200 mg/kg, phản ứng trùng hợp của axit monosilicic sẽ diễn ra hình
thành hạt nhân cơ sở, các hạt nhân này tiếp tục phát triển thành các hạt hình cầu ổn
định với kích thước tới hạn. Phản ứng polyme hoá tiếp tục ở cấp độ các hạt hình cầu
tạo thành chuỗi phân nhánh hoặc cấu trúc hình học đặc trưng (Hình 7). Khi hạt
polyme Si phát triển tiệm cận kích thước 1 – 3 nm chúng sẽ mang điện tích âm bề
mặt. Các hạt này sau đó tương tác với môi trường nội bào và lắng đọng tạo thành
các lớp Si tiếp giáp với màng tế bào (phủ bên ngoài hoặc lót bên trong tế bào).
Các nghiên cứu khác đã cho rằng Si trong quá trình trùng hợp có thể được
liên kết với các chất hữu cơ tham gia vào quá trình lignin hoá. Cơ sở của quá trình
được hình thành bởi ái lực mạnh mẽ của axit monosilicic với hợp chất hữu cơ
polyhydroxy tham gia vào tổng hợp lignin (Perry và Keeling-Tucker, 2000). Ví dụ,
trong ngô các phối tử Si liên kết với teosinte glume architecture1 (tga1) (Dorweiler
và Doebley, 1997); trong khi ở bí ngô (Cucurbita), sự hình thành phytolith chủ yếu
được quyết định bởi một locus về di truyền chi phối được ký hiệu là “Hr” (hard
rind) (Piperno và nnk, 2002). Bên cạnh đó, một số đại phân tử hữu cơ khác giúp
hình thành các ma trận hữu cơ tương hỗ cho sự lắng đọng của Si (Harrison, 1996).
Có thể kể đến như lysine và arginine được tổng hợp tư gen PRP1 (proline-rich
protein 1) ở dưa chuột (Sativus) (Kauss và nnk, 2003), peptit này mang điện tích
dương với mật độ lớn và có thể kết hợp với sản phẩm polyme của axit monosilicic
17
để tạo thành các lớp Si lắng đọng. Vai trò tương tự được tìm thấy ở serine,
glutamine hay axit glutamic và glycine (Perry và Keeling-Tucker, 1998).
1.2.2.3. Thời điểm hình thành, sự phân bố và vai trò của phytolith trong thực vật
Như đã đề cập trong phần cơ chế thành tạo phytolith trong thực vật, sự lắng
đọng Si hoà tan có liên quan chặt chẽ với quá trình bốc thoát hơi nước và quá trình
này cũng trở thành yếu tố chi phối tới sự phân bố của phytolith trong thực vật. Tốc
độ lắng đọng và phát triển của phytolith phụ thuộc vào giai đoạn phát triển hay tuổi
của thực vật. Ở giai đoạn cây non, quá trình phân hoá tạo các tế bào mới diễn ra
mạnh mẽ, thời gian tồn tại của tế bào trước khi phân chia không đủ để hình thành
các màng Si hoàn chỉnh. Do vậy, trong giai đoạn này rất ít phytolith được hình
thành. Sang giai đoạn phát triển ổn định của thực vật, các bộ phận đạt kích thước tối
đa (đặc biệt là tế bào lá), các tế bào chồi có tốc độ hình thành mới chậm dần. Lúc
này, quá trình tích luỹ Si, hình thành và phát triển của phytolith diễn ra trọn vẹn
hơn. Hay nói các khác, hàm lượng phytolith tích lũy trong các mô hoàn chỉnh nhiều
hơn trong các mô mới phát sinh hay đang phát triển (Ma và Yamaji, 2006).
Hàm lượng phytolith trong cây trồng thay đổi theo mô (Li và nnk, 2013),
tuổi (Ma và Yamaji, 2006), các loài (Parr và Sullivan, 2005, 2011; Li và nnk, 2013)
và giống cây trồng (Parr và Sullivan, 2011). Ví dụ: lúa nước, lúa mì, ngô, mía và
tích lũy nhiều hơn phytolith (>30 mg/g sinh khối khô) so với các cây trồng khác
(<10 mg/g) (Parr và nnk, 2009; Parr và Sullivan, 2011). Ngay trong loài lúa mì
(Triticum sp.), các giống khác nhau tích luỹ một lượng phytolith khác nhau, thay
đổi từ 26,8 - 78,5 mg/g (Parr và Sullivan, 2011).
Trong khi độ tuổi của thực vật quyết định tốc độ hình thành phytolith (Ma và
Yamaji, 2006) thì cường độ thoát hơi nước (đại diện là mật độ khí khổng) quy định
sự phân bố của phytolith trong thực vật. Tuân theo quy luật về sự phân bố khí
khổng trong cây, hàm lượng phytolith trong vỏ cây và lá là cao hơn nhiều so với các
hạt và rễ (Li và nnk, 2013). Ví dụ trong cây lúa, hàm lượng phytolith thay đổi từ
12,46 đến 23,6% trong rơm rạ; 13,1 - 24,3% trong trấu; 5,5 - 11,4% trong rễ; 0,2 -
18
1,9% đối với hạt (Prajapati và nnk, 2015). Tại từng bộ phận của thực vật, Si và
phytolith có xu hướng tích luỹ ở phần ngoài cùng tiếp giáp với lớp biểu bì và những
phần khung gia cố cho các bộ phận này (Li và nnk, 2013).
1.3. Con đường tích luỹ phytolith vào đất
Vai trò của Si (đại diện là phytolith) trong thực vật, đặc biệt là thực vật siêu
tích luỹ Si, ngày càng trở nên quan trọng và trở thành yếu tố chi phối năng suất của
thực vật giống như các nguyên tố dinh dưỡng khác. Si tồn tại trong đất với hàm
lượng lớn (~28,8%) và sẽ không có gì đáng nói nếu quá trình phong hoá tạo ra
lượng Si hoà tan đáp ứng đủ nhu cầu của thực vật. Tuy nhiên, trong tự nhiên, Si tồn
tại dưới dạng DSi có hàm lượng dao động từ khoảng 0,1 đến 0,6 mM (Epstein,
1994). Hàm lượng như vậy là tương đối thấp đối với các loại cây tích luỹ Si với
hàm lượng cao, ví dụ như ở lúa nếu hàm lượng Si dễ tiêu trong đất thấp hơn 40
mg/kg sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của lúa (Barbosa-Filho và nnk,
2001).
Trong các hệ sinh thái tự nhiên, điều này hoàn toàn có thể được khắc phục
khi các dạng Si trong sinh khối thực vật (Si hoà tan và phytolith) được quay trở lại
đất. Trong khi đó, các hệ sinh thái nhân tạo, cùng với sự mang đi của sinh khối, sự
thiếu hụt Si càng trở nên trầm trọng. Các hệ sinh thái nông nghiệp chiếm một khu
vực khoảng 15,33 × 108 ha diện tích toàn cầu và đóng vai trò quan trọng trong việc
tuần hoàn các nguyên tố trong đó có C và Si (Song và nnk, 2013). Ước tính, canh
tác toàn cầu và thu hoạch các loại cây trồng có thể mang đi 50 – 100 kg Si/ha/năm
(Meunier và nnk, 2008) hay 220 – 820 Tg Si/năm (1 Tg = 1012 g, Carey và
Fulweiler, 2012), trong khi Si rửa trôi theo các thuỷ vực ra đại dương ~ 140 Tg
Si/năm (Tréguer và nnk, 1995) có thể làm cạn kiệt bồn Si trong đất (Meunier và
nnk, 2008; Vandevenne và nnk, 2012; Barão và nnk, 2014).
Do đó, hàm lượng phytolith trong đất và việc bồi hoàn dạng Si này lại cho
đất sau mỗi mùa vụ trở thành yếu tố quyết định hàm lượng Si hoà tan cung cấp cho
cây trồng. Gạo, ngô và lúa mì là các cây trồng chính góp phần vào sự hình thành
19
phytolith trong sản phẩm lương thực trên thế giới vì khu vực phân bố lớn của chúng
và thông lượng sản xuất phytolith cao lần lượt khoảng 617 ± 132 kg/ha/năm, 404 ±
116 kg/ha/năm và 342 ± 114 kg/ha/năm (Carey và Fulweiler, 2012; Rajendran và
nnk, 2012; Song và nnk, 2014). Ước tính rộng hơn trên quy mô toàn sinh quyển, tỷ
lệ sản xuất phytolith có thể lên tới 167 – 286 Tg SiO2/năm (Rajendran và nnk,
2012) hay 240 ± 66 Tg SiO2/năm (Song và nnk, 2013).
Trong các hệ sinh thái trên cạn ít được quản lý, hầu hết sinh khối thực vật
chứa phytolith được trả lại cho đất thông qua tàn dư sinh khối sau thu hoạch hoặc
phân hủy từ rễ (Bartoli, 1983). Ví dụ ở khu vực canh tác lúa, sau khi thu hoạch vụ
mùa, một phần phytolith trong rơm và / hoặc rễ có thể được trả trực tiếp (Ngoc
Nguyen và nnk, 2014) hoặc gián tiếp qua than sinh học - dạng than sau đốt trực tiếp
trên đồng ruộng hoặc qua các quá trình đốt cháy khác - vào đất tại ngay khu vực
canh tác (Houben và nnk, 2014). Ngược lại, một tỷ lệ đáng kể của phytolith được
thoát khỏi hoàn toàn hệ sinh thái trong các sản phẩm thu hoạch (Meunier và nnk,
2008). Dạng phytolith này sẽ được chuyển qua chất thải của người và động vật vào
đất hoặc các nguồn nước bề mặt (Vandevenne và nnk, 2012; Song và nnk, 2013).
Hình 8. Sản phẩm phytolith được tạo ra trong từng giai đoạn thu hoạch
và sử dụng sản phẩm canh tác
20
Ở Việt Nam, trung bình trong 10 năm qua (2004 – 2013) diện tích cây lương
thực có hạt chiếm 8.476,7 nghìn ha trong đó có tới 7.497,15 nghìn ha diện tích
trồng lúa với sản lượng 39.167,2 nghìn tấn/năm (Tổng cục thống kê, 2015). Theo
Putun và nnk (2004), rơm rạ chiếm hơn 50% tổng trọng lượng cây lúa, lượng rơm
rạ phát sinh hằng năm của cả nước ~ 40 triệu tấn. Rơm rạ được sử dụng vào nhiều
mục đích khác nhau như trồng nấm, đun nấu, đốt trên cánh đồng, phân bón, thức ăn
chăn nuôi (23%), phủ luống trồng cây ăn quả, trong đó tỷ lệ đốt bỏ trung bình lên
tới 42% (Tổ chức Phát triển Hà Lan SNV, 2012). Như vậy, sau mỗi vụ, có thể có tới
4,9 triệu tấn – 9,4 triệu tấn phytolith được hoàn trả lại đất theo con đường tiêu huỷ
sinh khối (phytolith chiếm 12,46 đến 23,6% rơm rạ theo Prajapati và nnk, 2015).
Tuy nhiên, khác với phytolith hoàn trả lại đất theo con đường vùi lấp rơm rạ (đặc
biệt là thời gian chuyển giao giữa vụ xuân hè sang hè thu khi mà ruộng luôn tồn tại
nước), khi sinh khối được đốt bỏ phần nào đó của phytolith sẽ biến đổi tính chất
phụ thuộc vào phương thức đốt (đốt đống, đốt rãi rác,…); trạng thái sinh khối (bộ
phận, độ ẩm, kích thước,...); điều kiện đồng ruộng (mực nước trong ruộng, điệu
kiện gió, địa hình). Tác động của phytolith tới tính chất đất và dinh dưỡng cây trồng
vì thế sẽ thay đổi, điều này chưa thực sự được nghiên cứu một cách cụ thể và sẽ
được làm rõ phần nào đó trong luận văn này.
1.4. Phytolith trong đất
Nếu như phytolith trong thực vật đã và đang được các nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu thì sự có mặt chúng tồn tại ra sao, tương tác với các hợp phần khác
trong đất thế nào vẫn còn là một bí ẩn chưa được làm sáng tỏ. Các nghiên cứu về
vấn đề này mới chỉ tập trung vào khả năng và vai trò của phytolith trong việc tích
luỹ, cố định C trong đất cũng như những tác động có thể có của một số yếu tố trong
đất tới tính bền vững của phytolith. Trong khi đó, những công bố khoa học liên
quan tới sự có mặt của phytolith tác động như thế nào tới tính chất đất lại vô cùng
hạn chế.
21
Các ion Si4+ là các hạt nhân liên kết và nhờ chuỗi các phản ứng polyme hóa
để phát triển cấu trúc của phytolith. Trong quá trình kết tủa, các màng Si có thể bao
bọc các lipit, protein hay cacbonhydrat. Lượng chất hữu cơ bị phytolith hấp phụ và
tích lũy trong đất có thể lên đến 5% và chúng được gọi chung là PhytOC. Ngay cả
khi phytolith được đưa trở lại môi trường đất, những hợp chất PhytOC này vẫn có
thể được bảo quản trong một thời gian rất dài chống lại sự phân hủy sinh học bởi
các vi sinh vật nhờ các màng Si vững chắc (Elbauma và nnk, 2009). Do đó, tốc độ
khoáng hóa chất hữu cơ chậm lại sẽ góp phần giảm phát thải các khí nhà kính từ đất
vào không khí (Parr và nnk, 2009).
Tuy nhiên, tỷ lệ tích lũy, giải phóng phytolith và cô lập cacbon trong
phytolith thay đổi nhiều giữa các loại thực vật. Nghiên cứu xem xét phần PhytOC
tích lũy trên một số vùng đất nhiệt đới tại miền Tây nước Anh, Parr và Sullivan
(2005) đã đưa ra biểu đồ mô phỏng sự tích lũy PhytOC trong đất.
Hình 9. Lượng C bị giữ lại trong đất bởi phytolith (PhytOC) so với C tổng số
được vùi vào đất qua thời gian (Parr và Sullivan, 2005) Nghiên cứu của Schlesinger (1990) chứng minh khả năng giữ chất hữu cơ
của phytolith là rất có ý nghĩa với thực trạng tác động của hiệu ứng nhà kính ngày
càng gia tăng như hiện nay. Nghiên cứu mô phỏng này dựa trên các điều kiện biên:
1) tỷ lệ phân hủy PhytOC là 25%/100 năm, 2) cây trồng được phát triển liên tục.
Mô hình thí nghiệm được bố trí trên nền đất “trưởng thành”.
22
Hình 10. Tích lũy C trong đất trồng có hàm lượng PhytOC khác nhau
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: quá trình tích lũy C trong tự nhiên tương đối
chậm, đạt ~25 kg/m2 sau khoảng 20.000 năm. Quá trình này tăng lên khi thực vật
canh tác là kê (~38 kg/m2) và lên tới ~110 kg/m2 khi canh tác các loài siêu tích lũy
Si như mía. Như vậy, các loài siêu tích lũy Si như mía có thể giúp cố định C trong
đất gấp ~4,4 lần quá trình tự nhiên.
Sự biến đổi, chuyển hóa của phytolith trong môi trường đất tương đối phức
tạp và phụ thuộc vào các yếu tố như pH, Eh, nồng độ cation, anion trong dung dịch
hay sự có mặt của chất hữu cơ hòa tan… Những yếu tố này tương tác với các nhóm
hoạt động bề mặt và quyết định tốc độ hòa tan của phytolith. Các tứ diện SiO4 liên
với nhau thông qua cầu nối oxy để tạo thành bề mặt của phytolith. Quá trình thủy
phân bề mặt là nguyên nhân dẫn đến các liên kết Si-O bị phá vỡ và Si được giải
phóng. pH (độ chua của đất) là một trong những yếu tố quan trọng nhất góp phần
tăng cường quá trình thủy phân bề mặt (Fraysse và nnk, 2006). Bổ sung cation kim
loại kiềm và kiềm thổ (Na, Ca) vào đất có thể làm cho pH tăng và thúc đẩy quá
trình hòa tan phytolith (Dove, 1999). Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại cho
rằng sự có mặt của các cation trong dung dịch và chất hữu cơ trong “sẵn có” trong
cấu trúc của phytolith có thể gây cản trở quá trình hòa tan. Trong đất lúa, tương tác
với các phức của Fe/Al có thể làm giảm tốc độ hòa tan của phytolith (Sommer và
23
nnk, 2006). Khác với các cation, anion có thể tác động vào “nhân Si” của khối tứ
diện SiO4 theo cơ chế tương tự như OH-. Sự hấp phụ anion vào “nhân Si” được cho
là nguyên nhân chính làm yếu đi các mối liên kết Si-O và tạo tiền đề cho Si có thể
tách ra khỏi bề mặt siloxan (Ehrlich và nnk, 2010).
1.5. Định lượng phytolith trong đất
Hình 11. Sơ đồ tách phytolith từ đất bằng dung dịch nặng
Trong số ít nghiên cứu về quá trình phong hóa lục địa và chu trình sinh địa
hoá của Si (Dürr và nnk, 2011; Struyf và Conley, 2012; Tréguer và De La Rocha,
2013) hai tham số được quan tâm phổ biến là: Si ở dạng hòa tan – DSi (dissolved
silica) và Si ở dạng hạt - PSi (particulate silica). Trong đất, PSi bao gồm: 1) dạng Si
vô định hình - ASi (amorphous silica) chủ yếu là phytolith (dạng Si sinh học hình
thành trong quá trình sinh trưởng và phát triển của thực vật và được trả lại đất sau
khi thực vật chết đi; the biogenic silica, BSi) (Bartoli, 1983; Cornelis và nnk,
2011a). Bên cạnh đó, trong đất cũng có thể có các hạt Si hữu cơ khác như xác tảo
diatomit, bọt biển, các loại amip (Cary và nnk, 2005; Clarke, 2003; Sommer và nnk,
2006) và phần rất nhỏ Si ở dạng phi tinh thể vô cơ (ISi) (Saccone và nnk, 2007;
Mẫu đất qua xử lý cơ học
Loại bỏ cacbonat và các oxit/hydroxit (đặc biệt Fe, Al)
(HCl, HNO3, …)
Loại bỏ CHC (H2O2, …)
Phân tán trong dung dịch (EDTA, …)
Tách hỗn hợp limon + phytolith
Tuyển nổi phytolith bằng dung dịch nặng
Hạ trọng lượng riệng của dung dịch nặng, ly tâm
thu phytolith
Sấy khô thu phytolith bột
24
Sauer và nnk, 2006); 2) dạng Si có cấu trúc tinh thể có nguồn ngốc từ đá mẹ (các
khoáng Si nguyên sinh) hoặc thứ sinh là sản phẩm của quá trình hình thành đất
(Saccone và nnk, 2007).
Như vậy, việc định lượng phytolith trong đất trở nên khó khăn hơn khi
không những phải tách biệt được với dạng dạng Si có cấu trúc tinh thể mà còn phải
loại bỏ ảnh hưởng của tảo diatomit, bọt biển, các loại amip, đặc biệt là ở các mẫu
đất của sông ven biển. Phương pháp đầu tách phytolith đầu tiên được áp dụng dựa
trên khả năng “tan” của phytolith trong các dung dịch nặng có khối lượng riêng là
2,3 g/cm3 (Cornelis và nnk, 2010, 2011b) (Hình 11).
Một số dung dịch nặng thường được sử dụng có thể kể tới như: CdI2/KI,
ZnBr2/HCl, ZnI2/H2O, SPT (sodium polytungstate, 3Na2WO4.9WO3.H2O), …
Phương pháp này thu được phytolith tương đối nguyên vẹn và rất có ý nghĩa trong
khảo cổ học, tuy nhiên, nó cũng mắc phải những hạn chế nhất định: khả năng tái sử
dụng dung dịch nặng thấp (Herbauts và nnk, 1994); một phần ASi có thể bị hòa tan
cùng tác nhân chiết rút (Zhao and Pearsall, 1998) và khả năng tách không triệt để
khi bỏ qua phần phytolith có kích thước nhỏ tương đồng với cấp hạt sét của đất mặc
dù tỷ lệ của phần này là rất nhỏ (Saccone và nnk, 2007).
Cách tiếp cận thứ hai dựa trên độ tan của Si vô định hình tăng mạnh tại giá
trị pH cao (Iler, 1979). Hai phương pháp chiết hóa học với NaOH (bazơ mạnh) hoặc
Na2CO3 (bazơ yếu) thường được sử dụng để phân tích ASi trong đất (Foster, 1953;
Follett và nnk, 1965), cũng như BSi trong nước ngọt và trầm tích biển (DeMaster,
1979, 1981; Mortlock và Froelich, 1989; Müller và Schneider, 1993; Conley và
Schelske, 2001; Koning và nnk, 2002). Theo kết quả nghiên cứu của Saccone và
nnk (2007), phương pháp sử dụng NaOH thường cho kết quả lượng ASi hoặc BSi
tương đương hoặc cao hơn so với sử dụng Na2CO3. Tuy nhiên, việc sử dụng kiềm
mạnh (NaOH) cũng dẫn tới sự hòa tan của các tinh thể khoáng Si mạnh mẽ hơn và
sự ảnh hưởng tới tính chính xác của phương pháp từ quá trình hòa tan này cũng trở
nên khó loại bỏ hơn (Sauer và nnk, 2006). Điều này được quan tâm tới trong nghiên
25
cứu của DeMaster (1981, 1991) và cho tới nay, phương pháp chiết dạng BSi được
phát triển từ những nghiên cứu của ông vẫn là phương pháp được sử dụng phổ biến
nhất và đơn giản nhất. DeMaster (1981) đã thử nghiệm một loạt mốc nhiệt độ, nồng
độ bazơ khác nhau và sử dụng các vật liệu khác nhau (sét, diatomit, amip protozoa
và ASi) để kiểm tra các điều kiện tốt nhất cho hoà tan tất cả các BSi trong khi giảm
thiểu sự tan rã của Si từ khoáng chất. Phương pháp của ông dựa trên hai giả thiết (1)
Có sự khác biệt lớn về khả năng hoà tan giữa ASi và Si trong các khoáng silicat
(MSi) trong đất (Van Cappellen, 2003), và (2) sự hoà tan ASi là một quá trình bề
mặt (Koning và nnk, 2002).
Hình 12. Minh họa cho phương pháp luận sử dụng để giải thích cho sự hòa tan đồng
thời Si từ khoáng trong suốt quá trình chiết dạng ASi
(DeMaster, 1981; Koning và nnk, 2002)
Trong các thí nghiệm của DeMaster, mẫu chứa các dạng ASi ngâm trong
dung dịch Na2CO3 ở 80 – 85oC với tổng thời gian 6 giờ, mẫu được lấy 1 giờ/lần.
DeMaster quan sát thấy rằng, các dạng ASi hòa tan hoàn toàn trong ~2 giờ đầu tiên,
trong khi các khoáng silicat có tốc độ hòa tan là không đổi trong suốt thời gian thí
26
nghiệm. Phép ngoại suy các giá trị nồng độ Si trong giai đoạn nồng độ Si trong
dung dịch được gia tăng bởi sự hoà tan của các khoáng silicat cho phép tính gián
tiếp ra lượng Si hòa tan ra từ các dạng ASi và định lượng ra được hàm lượng của
các dạng ASi trong mẫu (Hình 12).
27
Chương 2 - ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Mẫu đất
Các mẫu đất được thu thập ở khu vực canh tác lúa nước điển hình của đồng
bằng sông Hồng với diện tích ~80 ha có cơ cấu 2 vụ lúa/năm và không có vụ trồng
màu của xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội vào tháng 11/2014. Tại một vị trí
lấy mẫu, mẫu đất được lấy hỗn hợp từ hai mẫu khác nhau trong cùng khu vực (với
khoan đất chuyên dụng) theo các tầng 0 - 25, 25 - 50, 50 - 75 và 75 – 100 cm, ví trí
chi tiết của các mẫu đất được trình bày trong Bảng 1 và Hình 13. Mẫu đất được để
khô không khí trong phòng thí nghiệm, xử lý các vật liệu lẫn, đồng nhất, rây qua rây
2 mm và bảo quản trong túi plastic.
Mẫu đất sau đó được phân tích những chỉ tiêu lý hoá cơ bản nhằm cung cấp
thông tin cơ sở về tính chất đất của khu vực nghiên cứu; xác định hàm lượng tích
luỹ của phytolith và qua đó đánh giá sự ảnh hưởng cũng như mối tương quan giữa
sự tích luỹ phytolith và một số tính chất cơ bản của đất.
Bảng 1. Các vị trí lấy mẫu đất thuộc
khu vực nghiên cứu (*)
Hình 13. Bản đồ khu vực nghiên cứu
Ký hiệu Vị trí
Vĩ độ Kinh độ
Đ1 20°54'34,8" 105°49'17,6"
Đ2 20°54'45,9" 105°49'20,9"
Đ3 20°54'37,9" 105°49'28,0"
Đ4 20°54'28,7" 105°49'28,3"
Đ5 20°54'26,1" 105°49'37,2"
Đ6 20°54'35,5" 105°49'39,9"
Đ7 20°54'43,1" 105°49'35,1"
28
2.1.2. Mẫu phytolith
Hiện nay, cây lúa đang là cây trồng chính trong nền nông nghiệp ở nước ta
và là cây nông nghiệp duy nhất tại khu vực nghiên cứu. Do đó, đây là nguồn
phytolith duy nhất bổ sung cho đất tại khu vực xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, Hà
Nội. Do đó, mẫu phytolith dùng trong nghiên cứu được tách ra từ rơm rạ sau thu
hoạch theo phương pháp tro hoá khô (Parr và nnk, 2001). Phytolith được phân tích
một số đặc tính lý hoá học cơ bản làm cơ sở để dự đoán và đánh giá ảnh hưởng của
lượng phytolith tích luỹ trong đất tới một số tính chất đất tại khu vực nghiên cứu.
Rơm rạ sau thu hoạch được rửa sạch, phơi khô, cắt nhỏ tới 1 – 2 cm và nung
trong bát sứ ở các mức nhiệt độ khác nhau: 300, 400, 500, 600, 700, 800, 900,
1000oC trong 2 giờ với lò nung Controller B170 (hãng Nabertherm – CHLB Đức).
Sản phẩm nung được để nguội về nhiệt độ phòng khi kết thúc quá trình gia nhiệt.
Sau đó được rửa nhanh với nước cất 3 lần, sấy khô tại 90oC và nghiền nhỏ qua rây
0,2 mm.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Xác định đặc tính cơ bản của mẫu đất nghiên cứu
Phương pháp phân tích một số tính chất cơ bản của mẫu đất sau khi xử lý sơ
bộ (phơi khô không khí và đồng nhất qua rây 1 mm) được trình bày trong bảng sau:
Bảng 2. Phương pháp xác định một số tính chất cơ bản của mẫu đất
Tính chất Phương pháp phân tích
Thành phần
nguyên tố (Sits và
Kts)
Phương pháp huỳnh quang tia X (Particle Induce X-Ray
Emission, PIXE), Khoa Vật lý, Trường Đại học Khoa học Tự
nhiên.
29
pHKCl - 10 g đất khô không khí rây qua 1mm : 25 ml KCl 1 N
- Lắc 15 phút tại 150 vòng/phút, để yên 2 giờ và đo pH với
máy pH meter Starter 3000, Ohaus, Mỹ.
Thành phần cơ
giới
Phương pháp gạn lắng trong môi trường thủy tĩnh theo
phương trình lắng Stockes sử dụng ống hút Robinson.
Chất hữu cơ Phương pháp Walkley_Black
Si hòa tan trong
dung dịch đất
(Theo Haysom and
Chapman, 1975)
- 0,01 M CaCl2, tỷ lệ mẫu: dung dịch = 1 g : 20 ml
- 16 giờ lắc liên tục ở 150 vòng/phút
- Si hòa tan được phân tích theo phương pháp so màu xanh
molipden (chi tiết được trình bày trong mục 2.2.3)
Ca và Mg trao đổi - 1 N KCl, tỷ lệ mẫu: dung dịch = 1 g : 5 ml
- Lắc 1 giờ ở 150 vòng/phút
- Ca, Mg hoà tan được phân tích trên máy Quang phổ hấp thụ
nguyên tử AAS.
CEC Scheffer
Tỷ trọng Phương pháp khối lượng với picnômét
2.2.2. Xác định đặc tính cơ bản của mẫu phytolith tách từ rơm
Mẫu phytolith tách từ rơm rạ theo phương thức tro hoá khô ở các nhiệt độ
khác nhau (trong khoảng 300 – 1000oC) được xác định đặc điểm vật lý và hóa học
cơ bản, chi tiết về phương pháp phân tích được trình bày trong Bảng 3:
30
Bảng 3. Phương pháp xác định một số tính chất lý – hóa học cơ bản của phytolith
Tính chất Phương pháp phân tích Thiết bị phân tích
Đặc điểm hình
thái
Kính hiển vi điện tử quét JSM – 5410LV, hãng
Joel
Đặc điểm cấu
trúc
Nhiễu xạ tia X Bruker-AXS D5005,
hãng Siemens, Đức
Nhóm hoạt
động bề mặt
Phổ hấp thụ hồng ngoại FT-IR Nicolet™ iS™5 FTIR
Spectrometer, hãng
Thermo Scientific, Mỹ
Diện tích bề mặt
riêng (BET)
Quantachrome,
NOVA-4000e,
Boynton Beach, FL,
Mỹ
Điện tích bề mặt Phân tích thế điện động zeta Mütek PCD – 05, hãng
BTG, Đức
Thành phần
nguyên tố chính
(Si và K)
- Mẫu tro sau nung được rửa sạch phần
khoáng hoà tan bằng nước cất: 10g tro
+ 50ml H2O lắc trong 3p với tốc 150
vòng/phút. Ly tâm thu phần rắn và lặp
lại quy trình 3 – 5 lần. Mẫu sau đó
được sấy tại 105oC trong 1 giờ.
- Si và K trong mẫu tro sau khi loại bỏ
phần khoáng dễ tan trong nước được
xác định theo phương pháp: tro hóa khô
mẫu bằng phương pháp nung chảy với
- Lò nung Controller
B170 (Nabertherm –
Đức)
- Quang kế ngọn lửa
(PFP7, Jenway, Anh)
31
chất nóng chảy natri cacbonat
(Na2CO3) trong chén platin tại 1000oC
với lò nung Controller B170. Sau đó
chuyển dạng nung chảy trong chén
platin về dạng dung dịch bằng dung
dịch HCl 1:1. Si và K sau đó được xác
định bằng phương pháp gelatin – HCl
(lò nung Controller B170) và quang kế
ngọn lửa (PFP7, Jenway).
CHC Chiurin -
2.2.3. Quá trình hòa tan giải phóng nguyên tố dinh dưỡng từ phytolith
Khả năng giải phóng nguyên tố dinh dưỡng từ phytolith: Mẫu phytolith tách
từ rơm rạ qua quá trình xử lý nhiệt ở các nền nhiệt độ khác nhau từ 300oC đến
1000oC được ngâm trong nước cất theo tỷ lệ 1 mg/ml trong bình tam giác plastic ở
nhiệt độ phòng. Lắc nhẹ dung dịch và để yên 24 giờ. Dịch lọc được xác định Na, K
hòa tan trên máy quang kế ngọn lửa (PFP7, Jenway, Anh); PO43- và Si hòa tan theo
phương pháp so màu xanh; Ca và Mg được phân tích trên máy quang phổ hấp thụ
nguyên tử AAS; Cl- và SO42- được xác định theo phương pháp Mohr và phương
pháp chuẩn độ ngược theo Xlap.
Tốc độ giải phóng nguyên tố dinh dưỡng từ phytolith: Phytolith tạo ra tại 400
và 800oC được đem ngâm với nước cất theo tỷ lệ 1 mg/ml ở nhiệt độ phòng. Hàm
lượng K và Si hòa tan trong dung dịch được xác định sau mỗi khoảng thời gian 24
giờ và kéo dài 7 ngày, cụ thể: 50 mg mẫu cùng 50 ml nước cất được cho vào lọ
nhựa dung tích 100 ml. Hỗn hợp được lắc nhẹ và để ổn định trong 24 giờ ở nhiệt độ
phòng. Sau mỗi 24 giờ, hỗn hợp được lắc nhẹ, đều và hút 5 ml dung dịch bằng pipet
tự động sử dụng đầu côn nhựa. Dung dịch được lọc qua giấy lọc băng xanh và bảo
32
quản trong lọ nhựa để để xác định Si và K hòa tan tại thời điểm thí nghiệm tương
ứng.
Kết quả về tính chất lý hoá học của pytolith cũng như khả năng và tốc độ của
hoà tan giải phóng nguyên tố dinh dưỡng kết hợp với kết quả phân tích hàm lượng
của phytolith trong đất (trình bày trong phần kế tiếp) và các tính chất cơ bản của đất
giúp đưa ra được tương quan giữa sự có mặt của phytolith tới một số tính chất lý
hoá học cở bản của đất tịa khu vực xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
2.2.4. Phương pháp định lượng phytolith trong đất
Dựa theo các nghiên cứu của DeMaster (1981), Koning và nnk (2002),
Saccone và nnk (2006), Meunier và nnk (2014) phương pháp định lượng phytolith
trong đất được cụ thể hóa cho mẫu nghiên cứu như sau: mẫu đất khô không khí rây
qua rây 0,25 mm sau đó rửa 3 lần với nước cất (10 g đất + 50 ml H2O, lắc 3 phút, ly
tâm thu phần rắn tại 3000 vòng/phút trong 5 phút) sau đó được sấy khô tại 105oC.
Cân 30 mg mẫu đất sau xử lý vào lọ nhựa dung tích 100 ml, bổ sung 40 ml dung
dịch Na2CO3 1% (pH = 11,2) đã được làm nóng tới 85oC. Lắc đều và duy trì nhiệt
độ dung dịch trong lọ nhựa bằng bể ổ nhiệt ở 85oC trong 7 giờ. Sau mỗi khoảng thời
gian 1 giờ, 5 ml dung dịch huyền phù trong lọ được lấy bằng pipet tự động với đầu
côn nhựa sau khi lắc đều hỗn hợp. 5 ml mẫu vừa lấy được ly tâm thu dung dịch và
phân tích nồng độ Si (mg Si/l) hòa tan theo phương pháp so màu xanh molipden(*)
trên máy quang phổ khả kiến (Labnics, L_VIS_400).
Phương trình hồi quy tuyến tính các giá trị nồng độ Si thu được sau 3, 4, 5, 6
và 7 giờ thí nghiệm có dạng: y = ax + b (Hình 12). Trong đó: y (mg Si/l) là nồng độ
Si tại thời điểm >2 giờ; x (giờ, x > 2) là thời gian thí nghiệm; a (mg DSi/giờ) là hệ
số góc của phương trình, biểu thị tốc độ giải phóng Si từ các khoáng silica trong
đất; b là hệ số biểu thị nồng độ Si chỉ do lượng BSi hòa tan hết gây ra mà không
tính tới sự đóng góp của các khoáng vật.
(*) Phương pháp xác định Si hòa tan – phương pháp so màu xanh molipden:
33
- Hút 0,5 ml dịch lọc cho vào ống nghiệm plastic dung tích 15 ml. Sau đó thêm
lần lượt vào 2 ml molipdat 1% + 3 ml axit tactaric 3,3%, lắc đều và để yên 10
phút.
- Tiếp tục thêm 2 ml axit ascobic 0,4%. Nước cất được thêm vào sao cho tổng thể
tích dung dịch trong ống nghiệm là 10 ml, lắc đều và để ổn định 15 phút rồi đem
so màu dung dịch ở bước sóng 810 nm.
2.2.5. Ảnh hưởng của phytolith tới sự phân tán của cấp hạt sét trong đất
Cấp hạt sét trong mẫu đất tầng mặt được tách theo phương pháp gạn lắng với
thời gian tách được tính toán theo phương trình chìm lắng Stockes. Huyền phù sét
sau khi tách được điều chỉnh bằng H2O để được dung dịch làm việc với hàm lượng
10 mg sét/ml.
Sự ảnh hưởng của các Si hòa tan đối với sự phân tán của khoáng sét trong
dung dịch được xác định theo phương pháp Lagaly cải biên: Hút 2 ml huyền phù sét
vào ống nghiệm, dung dịch axit HCl 0,1 N và NaCl 0,1 N được thêm vào với thể
tích tương ứng để có pH thay đổi từ 1 – 7 và nền điện ly (EB) được duy trì tại 0,16
mol/l. Dung dịch Si và nước cất được bổ sung sao cho tổng thể tích trong ống
nghiệm đạt 10 ml và nồng độ Si đạt 0, 5, 10, 15, 20, 30, 35 và 40 mg/l. Mẫu được
phân tán bằng máy rung siêu âm TCP–40 trong 1 phút, sau đó để lắng 3 giờ và hút 2
cm dung dịch trong ống nghiệm (tính từ mặt thoáng, tương ứng với ~2 ml dung
dịch) để xác định độ truyền qua (T%) tại bước sóng 600 nm. Độ truyền qua lớn biểu
thị cho dung dịch không còn các hạt lơ lửng hay các hạt sét tồn tại ở trạng thái gel
(tụ keo). Ngược lại lại độ truyền qua nhỏ, dung dịch chứa các hạt lơ lửng và các hạt
keo tồn tại ở trạng thái huyền phù (tán keo).
34
Chương 3 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Một số tính chất đất cơ bản tại khu vực nghiên cứu
Mẫu đất trong khu vực nghiên cứu có phản ứng trung tính (pHKCl 6,7 - 7,2), thành phần cơ giới nặng (thịt pha sét và pha limon) với hàm lượng sét khá cao (ở độ sâu 25 cm ~ 31%, tới độ sâu 100 cm ~ 51%). Hàm lượng chất hữu cơ trong tầng mặt ở mức trung bình (2,1%) và giảm dần theo chiều sâu phẫu diện, điều này cho thấy tàn tích thực vật được tích tụ sau mùa vụ có khối lượng không lớn. Hàm lượng CHC và sét từ trung bình đến cao kéo theo giá trị CEC cao trong các tầng đất, giá trị này dao động từ 15,2 – 18,0 cmol/kg. Ngược lại với khả năng giữ lại các cation (thể hiện qua giá trị CEC) của mẫu đất, hàm lượng ở dạng hoà tan của các nguyên tố Si, Ca, Mg chiết rút được tương đối thấp với các giá trị lần lượt đạt 6,5 – 13,8 mg Si/kg; 5,17 – 5,80 mlđl/100 g đất và 1,36 – 1,49 mlđl/100 g đất. Trái ngược với 3 nguyên tố trên, mẫu đất nghiên cứu có hàm lượng Kts rất giàu, sự tích luỹ cao nhất lên tới ~7% ở tầng 50 – 75 cm (Bảng 4).
Bảng 4. Một số tính chất cơ bản của mẫu đất nghiên cứu
Tính chất Đơn vị Tầng đất(*) (cm)
0 – 25 25 – 50 50 – 75 75 – 100
CHC % 2,1 1,2 1,8 1,6
pHKCl - 7,1 7,2 6,9 6,7
CEC cmol/kg 16,1 15,2 17,1 18,0
Sits % 26,04 26,67 27,03 26,76
DSi mg/kg 6,5 8,6 13,8 11,9
Kts % 3,15 3,17 7,15 3,10
Ca2+ meq/100g 5,17 5,37 5,80 5,46
Mg2+ meq/100g 1,38 1,36 1,41 1,49
Tỷ trọng g/cm3 2,2 2,4 2,6 2,6
35
TPCG
Sét % 30,79 31,88 37,26 50,82
Limon % 59,90 61,26 55,62 42,17
Cát % 9,31 6,86 7,12 7,01
Tên phân loại Thịt pha sét, pha limon
Thịt pha sét, pha limon
Thịt pha sét, pha limon
Sét pha limon
Sét: <0,002 mm; Limon: 0,002 – 0,05 mm; Cát: 0,05 – 2 mm (*): Kết quả được tính trung bình cho 7 phẫu diện nghiên cứu
3.2. Một số đặc tính cơ bản của phytolith
Phytolith được hoàn trả lại đất như một phần đi cùng của rơm rạ khi được bổ
sung vào đất sau mỗi vụ thu hoạch. Do đó, phytolith không tồn tại độc lập mà luôn
có sự song hành của CHC, nước và các phần vô cơ khác trong thực vật với hàm
lượng khác nhau tuỳ thuộc vào cách mà rơm rạ được đưa lại ruộng. Khác với bỏ
rơm rạ tự nhiên hoặc vùi xuống đất, phương thức đốt bỏ rơm rạ có thể làm biến đổi
tính chất và hàm lượng các chất trong cũng như đi cùng phytolith trước khi chúng
quay trở lại đất. Việc đốt rơm rạ thường được áp dụng hàng loạt ngay sau khi thu
hoạch trong thực tế canh tác ở Việt Nam những năm gần đây do những ưu điểm mà
phương thức này mang lại như: nhanh, tiện dụng, chi phí thấp và phòng từ được các
mầm bệnh của vụ trước. Do đó, tính chất của phytolith trước khi được trả vào đất
theo phương thức đốt bỏ rơm rạ được đề tài tập trung tìm hiểu. Một số kết quả thu
được trong quá trình nghiên cứu về đặc điểm chung của dạng phytolith này có thể
kể tới như sau:
3.2.1. Đặc điểm hình thái
Phytolith trong cây lúa được tạo thành với hai dạng hình thái cơ bản: hình
quả tạ (dumb-bells) và hình chữ thập với chiều dài cạnh trung bình, trong đó dạng
quả tạ chiếm chủ yếu (Saxena và nkk, 2006). Hình thái phytolith tương tự được tìm
thấy trong mẫu rơm lúa tại khu vực nghiên cứu với kích thước ~20 µm (Hình 14).
36
Mặt khác, bề mặt sần sùi và cấu trúc vi xốp là đặc điểm hình thái điển hình của
phytolith, điều này giúp phytolith có bề mặt riêng lớn và cấu trúc cơ học bền vững.
Hình 14. Ảnh SEM của phytolith tách từ cây lúa theo phương pháp tro hoá khô
Nếu coi axit monosilicic và các phân tử hữu cơ là các nguyên liệu kết dính
thì mỗi tế bào thực vật được ví như một “khuôn đúc” thành tạo nên phytolith. Và
như một hệ quả tất yếu, hình dạng của phytolith phản ánh lại đặc điểm cấu tạo của
tế bào và cũng trở nên phong phú, đa dạng như chính khuôn mẫu tạo ra chúng. Đặc
điểm này giúp phytolith trở thành yếu tố tin cậy được các nhà khảo cổ học sử dụng
trong việc nhận diện các loại thực vật và sự xuất hiện của các nền văn minh nông
nghiệp trong lịch sử.
Tuy nhiên, phytolith được trả lại đất theo phương thức đốt rơm rạ lại có bề
mặt bị biến đổi do sự thay đổi trình tự sắp xếp các liên kết trên lớp vỏ Si của khi
rơm rạ được xử lý tại các nhiệt độ khác nhau. Mẫu phytolith được xử lý ở nhiệt độ
400oC có bề mặt xù xì, rỗng xốp trong khi mẫu xử lý ở nhiệt độ 800oC có bề mặt
nhẵn và các lỗ rỗng trên bề mặt được lấp đầy (Hình 15). Nhiệt độ tăng cao có thể
khiến lớp Si của phytolith bị tái kết tinh thành các tinh thể oxit silic làm cho lớp vỏ
này trở nên trơ hơn và cố định chặt các chất bên trong phytolith không cho giải
phóng ra ngoài.
37
(a) (b) (c)
Hình 15. Ảnh SEM mẫu phytolith trong rơm rạ xử lý ở nhiệt độ 400oC (a), 600oC (b) và 800oC (c)
3.2.2. Đặc điểm cấu trúc và đặc điểm khoáng vật học
Hình 16. Nhiễu xạ đồ tia X của các mẫu phytolith khi rơm rạ xử lý ở các nhiệt độ khác nhau
Phytolith được hình thành nhờ quá trình kết tủa Si quanh các vách tế bào của
mô cây để hình thành các lớp oxit silic hydrat hóa SiO2.nH2O. Do đó, khác với đa
số các khoáng Si trong tự nhiên, phytolith không có cấu trúc mạng tinh thể. Điều
này đồng nghĩa với nhiễu xạ đồ tia X của phytolith sẽ không có hiệu ứng nào đặc
38
trưng. Tuy nhiên, cách mà phytolith được đưa trở lại đất đôi khi lại làm biến đổi
trạng thái cấu tạo của chúng (Hình 16), đặc biệt là với các phương thức đốt sinh
khối.
Kết quả phân tích nhiễu xạ tia X cho thấy không có bất cứ hiệu ứng nhiễu xạ
của dạng tinh thể điển hình nào trong mẫu rơm rạ được xử lý ở nhiệt độ < 700oC. Ở
nhiệt độ xử lý > 700oC lớp vỏ Si vô định hình của phytolith bắt đầu chuyển hóa
thành một số dạng oxit silic bền vững như: cristobalit, tridymit. Trong đó, dạng
cristobalit chiếm chủ yếu và có thể được nhận biết nhờ sự có mặt của hiệu ứng
nhiễu xạ tại góc 2-theta: 21,9o; 31,5o; và 36,3o (Hình 16). Điều này giúp giải thích
rõ hơn về sự biến đổi bề mặt của các mẫu phytolith được đốt ở các nhiệt độ khác
nhau (Hình 15). Mặt khác, kết quả phân tích diện tích bề mặt chỉ ra rằng, quá trình
nóng chảy và tái kết tinh của lớp vỏ Si dẫn đến sự sụp đổ của cấu trúc vi xốp điển
hình của phytolith. Giá trị diện tích bề mặt giảm từ 68,9 m2/g xuống 19,8 m2/g và 1
m2/g khi lần lượt ở các nhiệt độ 400, 600 và 800oC. Mất cấu trúc xốp và bề mặt
nhẵn hơn sẽ dẫn đến giảm tốc độ phá hủy cấu trúc Si, và K nhiều khả năng sẽ bị giữ
chặt hơn trong cấu trúc cũng như giảm hoạt tính của phytolith.
3.2.3. Đặc điểm liên kết hoá học bề mặt
Kết quả phân tích hồng ngoại cho thấy bề mặt của phytolith được cấu thành
chủ yếu từ các liên kết >Si-O-Si< (siloxan), >Si-OH (silanol). Các hiệu ứng ở
khoảng số sóng 1.100 cm-1 và 810 cm-1 biểu thị dao động giãn của các tứ diện SiO4
và dao động uốn của các liên kết nội tứ diện >Si-O-Si<. Trong khi đó, hiệu ứng
quanh khoảng số sóng 950 cm-1 là dấu hiệu tồn tại của dao động Si-O của nhóm
>Si-OH lại biểu hiện không rõ ràng và hoàn toàn biến mất khi mẫu phytolith được
gia nhiệt ở nhiệt độ > 800oC, song song với đó là sự gia tăng của nhóm liên kết >Si-
O-Si< (thể hiện ở sự tăng về chiều cao và diện tích hiệu ứng tại khoảng số sóng -
1.100 cm-1 trong các nhiễu xạ đồ của mẫu phytolith được tác động nhiệt > 800oC so
với các hiệu ứng khác trong cùng nhiễu xạ đồ) (Hình 17). Như vậy, nhiệt độ đốt
rơm rạ có thể làm biến đổi bề mặt phytolith thông qua việc chuyển hoá nhóm >Si-
OH thành >Si-O-Si<.
39
Hình 17. Phổ hồng ngoại FT-IR của mẫu phytolith xử lý tại các nhiệt độ khác nhau
Đối với các liên kết >Si-O-Si<, lực liên kết lớn làm cho nhóm này trở nên
khá trơ về mặt hóa học. Ngược lại, nhóm >Si-OH có khả năng tham gia vào quá
trình cho nhận proton tùy thuộc vào điều kiện môi trường. Ion H+ từ nhóm này có
thể tách trong một số trường hợp (ví dụ khi pH tăng) và làm cho bề mặt trở nên
thiếu hụt điện tích. Như vậy, phytolith có thể bị giảm khả năng hấp phụ cation nếu
được xử lý ở nhiệt độ cao trước khi được đưa trả lại đất.
Ngoài hai nhóm liên kết >Si-O-Si< (siloxan), >Si-OH (silanol) điển hình cho
phytolith, ta cũng có thể quan sát thấy một số nhóm chức hoạt động bề mặt và các
liên kết khác trên bề mặt phytolith do sự có mặt của CHC mang lại như: -OH
(~3.500 cm-1), -C=C- (~1.600 cm-1), -COOH (~1.710 cm-1), -C-C- (500 cm-1), -C-H
(~3.000 cm-1). Các liên kết này sẽ biến mất cùng sự phân huỷ của CHC theo nhiệt
độ đốt rơm rạ.
40
3.2.4. Đặc điểm điện động học
Với bề mặt chứa nhiều nhóm chức có khả năng phân ly H+ khiến bề mặt
phytolith có độ âm điện khá cao. Điều này được thể hiện qua thế zeta (ζ) đo được
khi mẫu phytolith được ngâm với dung dịch nước cất (Hình 18). Kết quả cho thấy,
mẫu phytolith chịu tác động ở nhiệt độ 300oC có ζ đạt -975 mV và giảm xuống -
1.492 mV với mẫu xử lý ở 1000oC. Nguyên nhân dẫn tới sự sụt giảm thế điện động
này do quá trình phân huỷ CHC bao bọc phytolith dưới tác động của nhiệt độ tạo
điều kiện cho bề mặt silanol lộ ra nhiều hơn. Như vậy, ngoại trừ phương thức đốt cá
biệt (đốt với đống lớn), nếu phytolith được đưa trở lại đất theo cách đốt bỏ sinh khối
rơm rạ theo cách thông thường (nhiệt độ không cao quá 400oC) thì sản phẩm này sẽ
có thế điện động bề mặt dao động trong khoảng -1.000 tới -1.200 mV. Thế điện
động là giá trị tỷ lệ thuận và biểu diễn cho điện tích của bề mặt pha rắn điều này
đồng nghĩa với dung tích hấp phụ cation của phytolith là rất cao và nó có thể cao
hơn nhiều so với một số loại khoáng sét, đặc biệt là khoáng sét trong đất vùng nhiệt
đới.
Hình 18. Thế zeta (ζ) của phytolith xử lý ở các nhiệt độ khác nhau
41
Nghiên cứu về sự di chuyển của kim loại nặng trong đất tại cùng khu vực
nghiên cứu, tác giả Khương Minh Phượng (2011) phát hiện thấy rằng có thể định
lượng một cách tương đối các loại khoáng sét chính trong mẫu đất tại khu vực này
theo thứ tự giảm dần từ illit > kaolinit > clorit. Các khoáng sét này đều thuộc nhóm
có dung tích trao đổi cation thấp (illit: 15 – 30 cmol(-)/kg; kaolinit: 8 – 10 cmol(-)/kg;
clorit(-): 1,0 – 2,5 cmol(-)/kg) (Ross, 1975; Ross và Kodama, 1976; Jaynes và
Bigham, 1986; Kohut, 1994) do sự trao đổi đồng hình trong cấu trúc là rất hạn chế.
Như vậy, sự có mặt của phytolith trong đất, đặc biệt là tại khu vực nghiên cứu có
vai trò rất lớn trong việc nâng cao khả năng lưu giữ các chất dinh dưỡng trong đất
phục vụ cho nhu cầu phát triển của cây trồng.
3.2.5. Thành phần hoá học
- Chất hữu cơ
Hình 19. Biểu đồ phân tích nhiệt sai của mẫu rơm rạ
CHC có khả năng bị giữ bên trong cấu trúc của phytolith trong suốt quá trình
kết tủa hình thành những tế bào phytolith. Mặt khác, màng CHC bên ngoài có thể
bao bọc phytolith thông qua liên Si - hữu cơ với lớp vỏ Si, phần CHC này quyết
42
định lượng CHC “đồng hành” cùng phytolith vào môi trường đất và vai trò cố định
C của phytolith. Chưa có nghiên cứu cụ thể về mức độ bao bọc và sự bền vững của
các liên kết Si – hữu cơ để chỉ ra lượng CHC bám trên bề mặt phytolith còn lại sau
quá trình phân giải CHC khi rơm rạ tươi được vùi vào đất. Lượng CHC này có thể
dao động từ 0 – 80% nếu trả lại đất theo phương thức vùi sinh khối, tuy nhiên theo
phương thức đốt thì lượng CHC sẽ biến đổi theo nhiệt độ mà các phương thức đốt
khác nhau tạo ra.
Về cơ bản, khi đốt rơm rạ sẽ loại bỏ một lượng nhất định nước và CHC. Sự
mất nước diễn ra ở khoảng nhiệt độ thấp < 220oC trong khi đó CHC bị phân hủy ở
khoảng nhiệt độ 250 - 480oC (Hình 19). Khi nhiệt độ đốt > 480oC, phần rắn thu
được sau khi đốt còn khoảng 23%, phần rắn này bao gồm chủ yếu là phytolith và
CHC không cháy với hàm lượng thấp (Hình 20). Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi
nhiệt độ đốt biến đổi từ 300 – 1000oC thì lượng CHC bao bọc phytolith sẽ giảm từ
22,5 – 0% (Hình 20).
Hình 20. Hàm lượng CHC trong các mẫu phytolith ở các nhiệt độ khác nhau
Trong thực tế, nhiệt độ đốt sinh khối rơm rạ thường dao động từ 245 – 415oC
(Li và nnk, 2012) và có thể đạt cao nhất tới 750 – 800oC (Miura và Kanno, 1997)
43
tuỳ theo phương thức đốt. Do đó, tổng lượng CHC cùng với phytolith đi vào đất sẽ
dao động từ 15 đến 22,5%. Như vậy, nếu 1 tấn rơm rạ được đốt ngay trên đồng
ruộng sau khi thu hoạch, lượng phytolith cung cấp vào đất sẽ tương đương 150 kg
(hàm lượng phytolith trong lúa nước ~15%, Nguyễn Ngọc Minh và nnk (2011)) với
lượng CHC sẽ dao động từ 176,5 - 193,5 kg.
- Silic và Kali
Ngoài Si, nguyên tố chiếm hàm lượng cao thứ hai trong phytolith là K.
Tương tự như CHC, hàm lượng hai nguyên tố này cũng bị biến đổi theo cách mà
phytolith được trả lại đất. Nếu nhiệt độ đốt cháy rơm rạ tăng từ 300 – 1000oC, hàm
lượng Si và K sẽ tăng lên tương ứng từ 15,0 – 35,6% và 0,4 – 7,6% (Hình 21). Hàm
lượng Si và K tăng lên do sự mất đi của CHC bao bọc quanh phytolith, từ khoảng
nhiệt độ 600 – 700oC trở đi, quá trình mất CHC xảy ra chậm dần do vậy sự tăng lên
tương đối của hàm lượng Si và K cũng vì thế mà chậm dần (Hình 21). Theo nguyên
tắc bảo toàn vật chất, hàm lượng Si và K chỉ thay đổi về trị số % so với phần tro sau
khi gia nhiệt do hai nguyên tố này không bị mất đi. Tuy nhiên, tỷ số hàm lượng
Si/K lại giảm dần theo nhiệt độ tác động tới rơm rạ từ 41,9 xuống 36,7 khi nhiệt độ
tăng từ 300 lên 500oC và giảm mạnh xuống 7,3 khi nhiệt độ tăng thêm 100oC và ổn
định ở ~4,6 trong quãng nhiệt độ sau đó (Hình 21). Tỷ lệ Si/K thay đổi do sự hoà
tan Si trong quá trình rửa phần khoáng hoà tan trong sản phẩm nung trước khi phân
tích Si và K dẫn đến sự thoát ra của K vốn bị bọc lại trong phytolith sau lớp vỏ Si.
Như vậy, nhiệt độ các đống đốt cao (> 600oC) lớp vỏ Si của phytolith bị biến đổi và
trở nên khó bị hoà tan hơn kéo theo sự cố định K chặt hơn. Nhiệt độ đốt đồng thực
tế thường không cao quá 400oC, điều này đồng nghĩa với việc khả năng giải phóng
Si và K từ phytolith vào đất là khá nhanh khi các chân ruộng có nước sau khi rơm rạ
được đốt.
44
Hình 21. Hàm lượng Si và K trong phytolith
khi rơm rạ được đốt ở các nhiệt độ khác nhau
- Các nguyên tố dinh dưỡng khác
Ngoài ba nguyên tố Si, K và C, phytolith còn có thể chứa các nguyên tố khác
như Al, Fe, Mn, Mg, P … với hàm lượng thấp (Piperno và nnk, 2006). Khả năng
giải phóng các nguyên tố này từ phytolith được trình bày trong Bảng 5.
Bảng 5. Hàm lượng dạng hoà tan của một số ion trong phytolith
Mẫu phytolith Hàm lượng ion hoà tan (mg/kg)
Na+ K+ Ca2+ Mg2+ Cl- PO43- SO4
2-
400oC 505 521 220 180 19,9 3,5 13,8
800oC 455 153 65 145 7,0 1,7 11,6
Nhiệt độ đốt rơm rạ khiến bề mặt phytolith trở nên khó bị phá huỷ và hạn chế
khả năng giải phóng các nguyên tố hoá học. Hệ quả là hàm lượng ion hoàn tan từ
phytolith giảm lần lượt 9,9%; 74,1%; 70,1%; 19,45%; 64,8%; 51,42% và 15,9% của
các nguyên tố Na+, K+, Ca2+, Mg2+, Cl-, PO43- và PO4
3- ở mẫu phytolith trong rơm
được đốt ở 800oC so với mẫu ở 400oC.
0
10
20
30
40
50
0
5
10
15
20
25
30
35
300 400 500 600 700 800 900 1000
K Si Si/K
Nhiệt độ (oC)
Tỷlệ
Si/K
Hàm
lượn
gSi
(K) c
òn lạ
i (%
)
45
3.2. Hàm lượng và sự phân bố của phytolith trong đất
Sự phân bố theo độ sâu của phytolith trong đất là khác nhau theo từng loại
đất, nhưng nói chung, hàm lượng cao nhất thường được tìm thấy trong lớp đất phía
trên và giảm dần theo độ sâu (Saccone và nnk, 2007). Sự phân bố này phản ánh sự
cân bằng giữa tỷ lệ phytolith đầu vào thông qua bổ sung sinh khối và tỷ lệ đầu ra
qua sự hòa tan.
Trong đất canh tác, kết quả phân tích hàm lượng phytolith có thể không tuân
theo quy luật trên và bị chi phối bởi vòng tuần hoàn sinh khối. Việc thu hoạch cây
trồng lặp đi lặp lại có thể làm giảm hàm lượng có sẵn có của phytolith đến mức mà
việc bón phân Si để duy trì năng suất cây trồng là cần thiết (Datnoff và Rodrigues,
2005; Eneji và nnk, 2005; Meunier và nnk, 2008). Tương tự, Desplanques và nnk
(2006) chỉ ra rằng nếu coi silica vô định hình như nguồn cung cấp Si duy nhất cho
thực vật thì trữ lượng này sẽ bị cạn kiệt sau 5 năm canh tác (khu vực nghiên cứu tại
Camargu, Pháp).
Tại khu vực nghiên cứu, hàm lượng phytolith trong đất dao động từ 0,41 –
1,01% ở các phẫu diện có độ sâu 100 cm (Bảng 6). Khi lượng phytolith trong đất
trung bình dao động từ 0,1% tới 3% (Clarke, 2003), giá trị hàm lượng phytolith tại
khu vực nghiên cứu được đánh giá ở mức trung bình. Tuy nhiên, so sánh với hàm
lượng phytolith trong cách hệ sinh thái cạn khác như đất rừng hay đồng cỏ thì hàm
lượng phytolith ở khu vực nghiên cứu nhỏ hơn khá nhiều (phytolith thường chiếm
0,7 - 3% trọng lượng khô của đất rừng (Bartoli, 1985) và 1 - 2% trong đất đồng cỏ
(Jones và Handreck, 1967)).
Bảng 6. Hàm lượng phytolith trong các tầng đất trong 7 phẫu diện nghiên cứu
Mẫu
Nồng độ Si
tại các thời điểm lấy mẫu Phương trình
hồi quy
Hệ số
R²
Hệ số b
(mgSi/l)
Phytolith
(%SiO2) 1h 2h 3h 4h 5h 6h 7h
Đ1.1 1,8 2,5 2,9 3,5 3,6 4,1 4,3 y = 0,3589x + 1,8785 0,97 1,88 0,54
Đ1.2 1,8 3,3 3,4 3,5 3,9 4,1 4,4 y = 0,2277x + 2,7303 0,94 2,73 0,78
Đ1.3 2,6 4,3 4,5 4,5 4,8 5,2 5,9 y = 0,2950x + 3,5267 0,88 3,53 1,01
46
Đ1.4 1,7 3,3 4,1 4,5 5,0 5,0 6,1 y = 0,4876x + 2,4951 0,94 2,50 0,71
Đ2.1 1,6 2,3 2,5 2,8 3,1 3,1 3,1 y = 0,2345x + 1,8170 0,96 1,82 0,52
Đ2.2 1,6 2,5 2,6 3,0 3,3 3,2 3,5 y = 0,2047x + 2,0730 0,91 2,07 0,59
Đ2.3 2,1 2,9 3,4 3,7 4,3 4,0 4,5 y = 0,2907x + 2,4776 0,88 2,48 0,71
Đ2.4 1,7 3,0 3,6 3,9 4,5 4,7 5,5 y = 0,4697x + 2,1030 0,98 2,10 0,60
Đ3.1 1,3 2,6 2,9 3,2 3,4 3,5 4,2 y = 0,2880x + 1,9757 0,90 1,98 0,56
Đ3.2 1,3 2,3 2,4 2,9 3,6 3,7 3,9 y = 0,3593x + 1,5157 0,93 1,52 0,43
Đ3.3 2,5 3,8 4,0 4,6 4,8 5,1 5,3 y = 0,3193x + 3,1607 0,96 3,16 0,90
Đ3.4 2,2 3,5 3,7 4,5 5,1 5,6 6,3 y = 0,5790x + 2,1537 0,99 2,15 0,62
Đ4.1 1,0 2,3 2,6 2,7 3,2 3,5 3,8 y = 0,2967x + 1,6806 0,97 1,68 0,48
Đ4.2 1,6 2,4 2,4 2,8 3,0 3,9 3,9 y = 0,3389x + 1,5485 0,91 1,55 0,44
Đ4.3 1,9 2,2 2,8 3,5 3,8 4,1 4,2 y = 0,4001x + 1,6285 0,93 1,63 0,47
Đ4.4 1,5 3,1 3,3 3,7 4,4 4,6 5,1 y = 0,4346x + 2,0761 0,98 2,08 0,59
Đ5.1 1,1 2,2 2,7 2,9 3,0 3,5 3,8 y = 0,3023x + 1,6447 0,98 1,64 0,47
Đ5.2 1,6 2,7 2,9 3,0 3,7 3,8 4,4 y = 0,3416x + 1,8804 0,93 1,88 0,54
Đ5.3 1,6 3,5 3,6 4,2 4,7 4,8 5,2 y = 0,3693x + 2,6690 0,97 2,67 0,76
Đ5.4 2,1 3,6 3,7 4,4 5,0 5,3 6,1 y = 0,5044x + 2,4059 0,97 2,41 0,69
Đ6.1 1,3 2,4 2,5 2,6 3,5 3,7 4,1 y = 0,3649x + 1,4931 0,92 1,49 0,43
Đ6.2 1,2 2,2 2,7 3,0 3,2 3,5 3,5 y = 0,2516x + 1,8921 0,91 1,89 0,54
Đ6.3 1,7 3,4 3,8 4,7 5,1 5,1 5,2 y = 0,3810x + 2,8330 0,86 2,83 0,81
Đ6.4 2,1 3,8 4,0 4,1 5,2 5,4 5,9 y = 0,4486x + 2,7031 0,93 2,70 0,77
Đ7.1 1,6 2,3 3,2 3,3 4,2 4,3 3,3 y = 0,5035x + 1,4490 0,92 1,45 0,41
Đ7.2 1,1 2,2 2,5 2,6 3,2 3,6 3,8 y = 0,3376x + 1,4551 0,97 1,46 0,42
Đ7.3 1,9 3,0 4,0 4,1 4,6 5,4 5,4 y = 0,4667x + 2,2940 0,94 2,29 0,66
Đ7.4 2,1 3,2 4,2 4,6 5,1 5,2 5,2 y = 0,3844x + 2,8376 0,83 2,84 0,81
Chú thích:
+ Mẫu Đx.1: mẫu x tầng 0 – 25 cm; Mẫu Đx.2: mẫu x tầng 25 – 50 cm; Mẫu Đx.3: mẫu x tầng 50 – 75 cm;
Mẫu Đx.4: mẫu x tầng 75 – 100 cm.
+ y (mg Si/l) là nồng độ Si tại thời điểm >2 giờ; x (giờ, x > 2) là thời gian thí nghiệm; a (mg DSi/giờ) là hệ
số góc của phương trình, biểu thị tốc độ giải phóng Si từ các khoáng silica trong đất; b là hệ số biểu thị nồng
độ Si chỉ do lượng BSi hòa tan hết gây ra mà không tính tới sự đóng góp của các khoáng vật.
Hàm lượng phytolith có xu hướng giảm dần theo chiều sâu phẫu diện và dần
ổn định ở độ sâu > 50 cm với giá trị trung bình tại các tầng đất nghiên cứu lần lượt
là 0,49 ± 0,06; 0,53 ± 0,13; 0,71 ± 0,17 và 0,73 ± 0,11% tương ứng với tầng 0 – 25
47
cm; 25 – 50 cm; 50 – 75 cm và 75 – 100 cm (Hình 22). Quá trình xáo trộn lớp đất
mặt trong mỗi vụ canh tác trong điều kiện ngập nước thúc đẩy quá trình hoà tan
phytolith. Bên cạnh đó, việc sinh khối chứa phytolith được đưa ra khỏi hệ canh tác
qua sản phẩm thu hoạch như thóc và rơm rạ; hay không được bổ sung lại đất do thói
quen đốt rơm rạ tại nơi tập kết lúa sau khi đã tuốt trong những năm gần đây là
nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm hàm lượng phytolith tại tầng đất mặt trong khu
vực nghiên cứu. Tuy nhiên, sự biến đổi, chuyển hóa của phytolith trong môi trường
đất tương đối phức tạp và phụ thuộc vào các yếu tố như pH, Eh, nồng độ cation,
anion trong dung dịch hay sự có mặt của chất hữu cơ hòa tan… (Nguyễn Ngọc
Minh, 2012). Do đó, cần có thêm những nghiên cứu cụ thể hơn để giải thích rõ ràng
cho quy luật phân bố phytolith trong đất tại khu vực nghiên cứu.
Hình 22. Hàm lượng phytolith trung bình tại khu vực nghiên cứu
3.3. Ảnh hưởng của sự tích luỹ phytolith đến một số tính chất đất
3.3.1. Ảnh hưởng đến một số tính chất lý học đất
- Thành phần cấp hạt và tỷ trọng
Kích thước của phytolith có thể từ dao động từ 5 - 200 µm và hầu hết trong
khoảng 10 - 30 µm (Pearsall, 1990), chúng có hình dạng rất đa dạng và phong phú
tùy thuộc vào loài thực vật và bộ phận mà nó khu trú. Khoảng kích thước này trùng
48
với kích thước phân loại của cấp hạt limon trong đất. Do đó, trong môi trường thuỷ
tĩnh, vận tốc chìm lắng của chúng là như nhau và kết quả phân tích thành phần cấp
hạt 0,002 – 0,05 mm sẽ bao gồm cả limon và phytolith. Tuy nhiên, phytolith có cấu
trúc vi xốp và lưới điện tích âm bề mặt lớn với có nhiều nhóm hoạt động bề mặt
trong khi limon lại là vật liệu trơ hình thành do phong hoá cơ học trong quá trình
hình thành đất. Như vậy, không chỉ có cấp hạt sét mà trong các phương pháp phân
tách thành phần cơ giới hiện tại, cấp hạt limon cũng trở nên có hoạt tính nhờ sự có
mặt của phytolith. Bên cạnh đó, quá trình tích luỹ phytolith trong đất sẽ gián tiếp
làm tỷ lệ cấp hạt 0,002 – 0,05 mm gia tăng. Tại khu vực nghiên cứu, phytolith trong
rơm rạ có đường kính ~20 µm và chiếm lần lượt 0,82; 0,87; 1,28 và 1,73% trong
cấp hạt 0,002 – 0,05 mm ở các tầng 0 – 25 cm; 25 – 50 cm; 50 – 75 cm và 75 – 100
cm.
Tỷ trọng của phytolith đạt ~2,3 g/cm3 (Piperno, 2006) và nhỏ hơn các cấp hạt
khác trong đất (tỷ trọng của sét, limon và cát lần lượt là 2,83; 2,79 và 2,65 g/cm3, do
vậy, sự tích luỹ phytolith trong đất có thể sẽ dẫn đến giảm tỷ trọng của đất. Tuy
nhiên, mối quan hệ giữa hàm lượng phytolith trong đất và tỷ trọng đất tại khu vực
nghiên cứu lại không rõ ràng vì tỷ lệ của phytolith tương đối thấp so với các cấp hạt
khác. Tầng đất có tỷ trọng lớn nhất tại 50 – 100 cm nơi có hàm lượng sét đạt cao
nhất mặc dù đây cũng là đô sâu tích luỹ nhiều phytolith hơn so với tầng 0 - 50 cm.
- Dung tích trao đổi cation (CEC)
Phytolith với bề mặt âm điện sẽ có vai trò như một keo âm trong đất, do đó,
mối quan hệ giữa CHC, hàm lượng khoáng sét và hàm lượng phytolith với CEC
được phân tích để đánh giá sự đóng góp của mỗi thành tố trên trong khả năng hấp
phụ trao đổi cation của đất. Kết quả được trình bày trong Hình 23.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, giá trị CEC trong đất nghiên cứu phụ thuộc chủ
yếu vào hàm lượng sét và phytolith biểu thị qua hệ số tương quan R² lần lượt đạt
0,79 và 0,76. Trong khi đó, giá trị này chỉ đạt 0,1 trong phép tương quan giữa hàm
lượng CHC và CEC. Tuy có giá trị lớn hơn rất nhiều so với phytolith nhưng thành
49
phần khoáng sét chủ yếu trong mẫu nghiên cứu đều là những khoáng sét có CEC
thấp, điều này cho thấy, sự có mặt của phytolith trong đất ảnh hưởng khá nhiều tới
khả năng hấp phụ trao đổi cation của đất.
Hình 23. Tương quan giữa CHC, khoáng sét và phytolith với CEC của đất
- Tương tác với hệ keo đất (keo sét)
Do có bề mặt mang điện tích, phytolith có thể biểu hiện đặc tính keo và
tương tác với các thành phần keo khác trong đất. Với bản chất là một keo âm, nên
giữa phytolith và các keo âm như keo mùn và keo sét sẽ tồn tại một lực đẩy làm
tăng trạng thái phân tán của cả hệ keo trong đất. Các khoáng chất dinh dưỡng (hấp
phụ bởi hệ keo) có khả năng bị mất đi một khi các phần tử keo ở trạng thái phân tán
và bị cuốn trôi bởi dòng chảy bề mặt. Mặt khác, phytolith cũng có thể tạo ra ái lực
liên kết với các keo dương (oxit sắt) và thúc đẩy sự tụ keo. Tuy nhiên, trong môi
trường đất lúa thường xuyên ngập nước, tương tác của phytolith với các keo dương
có thể ít bắt gặp do sự phá hủy của các oxit sắt, mangan trong điều kiện môi trường
khử. Trên thực tế, hàm lượng phytolith trong đất nhỏ hơn rất nhiều so với cấp hạt
sét, sự tương tác trực tiếp giữa hai cấu tử này cũng hạn chế. Do đó, ảnh hưởng của
50
phytolith tới sự phân tán của cấp hạt sét được cho là do anion SiO44- mang lại khi
mà phần lớn anion này trong đất tạo ra do sự phân giải phytolith.
Sự ảnh hưởng của anion SiO44- lên đặc tính keo của khoáng sét trong dung
dịch được tiến hành trong ống nghiệm với sự có mặt của anion SiO44- ở các nồng độ
khác nhau và ở các pH khác nhau. Kết quả nghiên cứu thí nghiệm phân tán sét trong
ống nghiệm cho thấy với nồng độ SiO44- khác nhau thì có khả năng thúc đẩy phản
ứng tán keo với tốc độ khác nhau và nhìn chung khi nồng độ SiO44- tăng dần thì tốc
độ keo tụ giảm dần (Hình 24).
Hình 24. Ảnh hưởng của Si đến sự phân tán của khoáng sét tại các pH khác nhau
Khi nồng độ anion SiO44- thay đổi thì quá trình phân tán của khoáng sét diễn
ra mạnh mẽ có thể nhận biết được quá trình này thông qua giá trị của độ truyền qua
(T%). Độ truyền qua lần lượt được xác định là: 94,10 – 32,70% với mẫu không bổ
sung Si; 94,10 – 5,54% với nồng độ Si 5 mg/l; 93,90 – 3,06% với nồng độ Si 10
mg/l; 94,66 – 2,30% với nồng độ Si 15 mg/l; 94,39 – 2,26% với nồng độ Si 20 mg/l
và 92,53 – 2,57% với nồng độ Si 25 mg/l tương ứng với pH thay đổi từ 2 – 7.
51
Ngoài sự liên kết giữa anion SiO44- với điện tích dương trên bề mặt rìa của
khoáng sét còn có sự liên kết giữa anion SiO44- với các nhóm -OH trên bề mặt oxit
sắt liên kết với bề mặt cơ sở của khoáng sét, sự trao đổi giữa các phối tử này tạo ra
cấu trúc phức nối đôi phức tạp hơn (Parr và Sullivan, 2005) (Hình 25). Các liên kết
tạo ra khiến bề mặt của khoáng sét trở nên âm điện hơn và tương tác giữa các phân
tử mang điện cùng dấu sẽ dẫn đến sự phân tán mạnh mẽ hơn của khoáng sét trong
dung dịch.
Hình 25. Cơ chế tạo liên kết bề mặt của anion SiO44-
với các nhóm chức trên bề mặt khoáng sét
Trong thực tế tại khu vực nghiên cứu, pH đo được dao động trong khoảng 6
– 8 và hàm lượng Si dễ tiêu 6,5 - 13,8 mg/kg (tương đương 24,4 – 51,8 mg Si/l nếu
lớp nước trên bề mặt ruộng đạt 10 cm), như vậy sự hoà tan của phytolith sẽ thúc đẩy
quá trình tán keo của khoáng sét trong khu vực nghiên cứu (thể hiện qua độ truyền
qua thấp tại khoảng giá trị pH 6 – 8 và nồng độ Si 5 – 20 mg/l, Hình 24). Điều này
dẫn đến sự rửa trôi của khoáng sét cũng như gián tiếp giảm khả năng lưu giữ chất
dinh dưỡng của đất.
3.3.2. Ảnh hưởng đến một số tính chất hoá học đất
3.3.2.1. Nguồn cung cấp dinh dưỡng khoáng cho cây trồng
Kết quả phân tích hàm lượng nguyên tố trong phytolith ho thấy Si và K là hai
nguyên tố có hàm lượng cao nhất, đây cũng là hai nguyên tố quan trọng chi phối
trực tiếp tới năng suất lúa. Với ~150 kg phytolith trong 1 tấn rơm rạ khi được bồi
hoàn lại đất, lượng Si và K sẽ tương ứng 49,8 kg và 10,8 kg (lấy trung bình Si
chiếm 33,2% và K chiếm 7,2% trong phytolith, Hình 21). Thực tế trong phẫu diện
52
đất nghiên cứu với hàm lượng phytolith tích luỹ 0,49% ở 25 cm đất tầng mặt, tính
cho 1 ha với dung trọng trung bình là 1,5 g/cm3 với 3.750 tấn đất thì lượng Si và K
mà phytolith lưu trữ lại sẽ tương ứng 6,1 tấn và 1,3 tấn. Trong khi đó, cây lúa hằng
năm lấy đi 950 kg SiO2/ha (tương đương 443,3 kg Si/ha/năm) trong đó có 70% Si
có nguồn gốc từ đất và 30% trong nước tưới (Imaizumi và Yoshida, 1958). Bên
cạnh đó, theo Thomas Dierolf và nnk (2001), trung bình để đạt năng suất 4
tấn/ha/năm ở vùng Đông Nam Á cây lúa lấy đi 90 kg N; 13 kg P; 108 kg K. Như
vậy, lượng Si và K tích luỹ trong phytolith tại khu vực nghiên cứu cùng với lượng
bổ sung theo sinh khối rơm rạ quay vòng lại đất hàng năm là hoàn toàn có tiềm
năng cung cấp đủ cho sự phát triển của cây lúa.
Hình 26. Khả năng hoà tan của phytolith khi được xử lý ở các nhiệt độ khác nhau
Tuy nhiên, điều này phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng “hoà tan” của
phytolith. Khi được đưa vào đất theo các phương thức khác nhau thì khả năng hoà
tan phytolith và giải phóng các nguyên tố dinh dưỡng cũng hoàn toàn khác nhau.
Trong trường hợp rơm rạ được vùi vào đất theo cách truyền thống, vỏ bọc hữu cơ sẽ
ngăn cản sự thuỷ phân của nước và kìm hãm quá trình hoà tan phytolith. Trong
trường hợp lớp CHC này được phân huỷ bởi nhiệt trong quá trình đốt rơm rạ trên
53
đồng ruộng thì tuỳ thuộc vào nhiệt độ tạo ra từ quá trình đốt tạo ra mà lượng CHC
còn lại nhiều hay ít và tính chất của phytolith cũng bị biến đổi theo. Khả năng hòa
tan của phytolith trong những điều kiện như vậy được minh họa qua Hình 26.
Tại khoảng nhiệt từ 500 – 700oC, CHC bị oxy hoá mạnh để lộ ra lớp vỏ Si
của phytolith, khiến lớp vỏ này bị thuỷ phân nhanh chóng nên hàm lượng Si, K giải
phóng cũng là lớn nhất ~ 20,25 mg/l sau 24 giờ ngâm trong nước. Từ mức nhiệt độ
800 – 1000oC hàm lượng Si và K giải phóng giảm nhanh khi nhiệt độ xử lý cao do
phytolith bị biến đổi và chuyển hóa thành các dạng oxit silic bền vững khiến bề mặt
phytolith trở nên trơ hơn. Như vậy nhiệt độ tạo ra do đốt rơm rạ nếu đạt ~600oC sẽ
tạo ra phytolith có khả năng “trả lại” các chất dinh dưỡng vào đất là lớn nhất.
Phương thức đưa phytolith vào đất không chỉ ảnh hưởng tới khả năng mà
còn ảnh hưởng tới tốc độ giải phóng các nguyên tố dinh dưỡng từ phytolith (Hình
27).
Hình 27. Cường độ giải phóng Si và K từ phytolith
Sau 7 ngày, nồng độ Si, K giải phóng từ các mẫu xử lý ở 400oC, 800oC
tương ứng là 48,91; 36,97 mg Si/l và 7,04; 12,22 mg K/l. Phytolith tạo ra ở nhiệt độ
54
800oC có lượng Si giải phóng sau 7 ngày tương ứng khoảng 75% so với mẫu ở
400oC, trong khi đó lượng K giải phóng của mẫu 400oC tương ứng khoảng 58% so
với mẫu xử lý ở 800oC. Sau 7 ngày nồng độ Si, K hòa tan của mẫu xử lý tại 400oC
có xu hướng chuyển sang trạng thái bão hòa, từ ngày thứ 6 lượng Si hòa tan tăng
không đáng kể. Trái ngược xu hướng trên, mẫu 800oC, lượng Si, K tiếp tục được
giải phóng và chưa có xu hướng đạt trạng thái bão hòa.
Như vậy, phytolith được tạo ra ở nhiệt độ đốt rơm rạ thấp hơn có xu hướng
phân giải nhanh và tạo ra nhiều Si, K hơn so với những mẫu đốt ở nhiệt độ cao.
Nhiệt độ đốt rơm rạ thường không cao hơn 500oC, do đó phytolith được đưa vào đất
có khả năng hoà tan rất cao. Trong đất nhiệt đới nói chung và tại khu vực nghiên
cứu nói riêng, thành phần khoáng sét illit và kaolinit chiếm ưu thế dẫn đến hàm
lượng K dễ tiêu trong đất thấp. Phytolith tích luỹ trong đất lúc này trở thành nguồn
cung cấp K dễ tiêu cũng như tham gia điều tiết hàm lượng K và Si hoà tan phục vụ
nhu cầu của cây trồng.
3.3.2.1. Cân bằng và giải phóng nguyên tố dinh dưỡng trong đất
Hình 28. Hàm lượng Si hoà tan và phytolith trong phẫu diện đất nghiên cứu
55
Si hoà tan trong đất là chỉ tiêu quan trọng cho phép đánh giá khả năng cung
cấp dinh dưỡng Si cho cây trồng của đất. Hiện nay, phương pháp phổ biến và được
cho là tốt nhất để chiết rút dạng Si này ra khỏi đất là sử dụng dung dịch chiết CaCl2
0,01M (Camargo và nnk, 2007). Hàm lượng Si hoà tan chiết rút bằng CaCl2 0,01M
(Si-CaCl2) trung bình trong 100 cm phẫu diện tại khu vực nghiên cứu dao động
trong khoảng 6,5 - 13,8 mg/kg và đạt cao nhất tại độ sâu 50 – 75 cm (Hình 28).
Nếu lớp nước trên bề mặt ruộng đạt 10 cm và lượng Si hoà tan trong đất
phân bố đều trong lớp nước này thì giá trị Si hoà tan trong nước sẽ đạt 24,4 – 51,8
mg Si/l. Tuy nhiên, giá trị Si hoà tan trong đất tại khu vực nghiên cứu còn tương đối
thấp so với nhu cầu Si hoà tan cần cho sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa nước
(≥ 40 mg Si/kg, Barbosa-Filho và nnk năm 2001). Kết quả nghiên cứu cũng cho
thấy, hàm lượng Si-CaCl2 trong các tầng đất có quy luật biến đổi theo đúng quy luật
phân bố của phytoltith trong đất (Hình 28). Tương quan tỷ lệ thuận giữa hàm lượng
phytolith và Si-CaCl2 tương đối chặt chẽ, thể hiện qua hệ số hồi quy R2 đạt 0,98
trong khi tương quan này chỉ đạt 0,70 giữa Si-CaCl2 và Si tổng số trong đất (Hình
29).
Hình 29. Mối quan hệ giữa Si-CaCl2 với Si tổng số và phytolith trong đất
56
Nói các khác, hàm lượng Si dễ tiêu trong đất bị chi phối hoàn toàn bởi sự có
mặt của phytolith. Kết quả này tương đồng với kết quả đã công bố của Bartoli
(1985), khi các nghiên cứu này cho rằng 85% và 74% lượng Si hoà tan trong đất có
nguồn gốc từ sự tan rã của phytolith. Mặt khác, khi so sánh khả năng hoà tan của
phytolith và khoáng silicat trong đất, Fraysse và nnk (2009) kết luận rằng, phytolith
có khả năng hoà tan giải phóng Si cao gấp 10.000 lần so với khoáng smectit,
kaolinit và illit trong khoảng pH 6 – 8. Đây cũng là ba loại khoáng chính cũng như
khoảng pH đo được tại khu vực nghiên cứu.
Ngoài Si, phytolith khi hoà tan còn giải phóng các nguyên tố khác như K,
Na, Ca, Mg, Cl, S, P … (kết quả chi tiết trong Bảng 5, mục 3.2.5). Với ~150 kg
phytolith / 1 tấn rơm rạ khi hoà tan sẽ đưa vào đất tương ứng 75,8; 78,2; 33,1; 27,0;
3,0; 0,5 và 2,1 g các ion hoà tan Na+, K+, Ca2+, Mg2+, Cl-, PO43- và SO4
2-. Trong
tầng 0 – 25 cm của phẫu diện nghiên cứu, với 0,49% lượng phytolith tích luỹ, lượng
ion hoà tan này sẽ tương ứng là 9,28; 9,57; 4,04; 3,31; 0,37; 0,06 và 0,25 kg (3.750
tấn đất / 1 ha có độ s`âu 25 cm với dung trọng trung bình 1,5 g/cm3). Điều này có
ảnh hưởng lớn tới tổng lượng ion hoà tan cũng như độ dẫn (EC) của đất.
Hình 30. Tương quan giữa hàm lượng phytolith và
tổng lượng Ca, Mg trao đổi trong đất
57
Trong 7 ion kể trên, Ca và Mg không chỉ là nguyên tố trung lượng cần thiết
cho cây trồng mà còn đóng vai trò tăng cường cấu trúc cho đất vì thế hàm lượng
hoà tan của hai nguyên tố này trong đất hết sức được quan tâm. Trong mẫu đất
nghiên cứu, tổng hàm lượng Ca và Mg có mối quan hệ tỷ lệ thuận với hàm lượng
phytolith biểu thị qua giá trị hồi quy tương quan R2 = 0,8 (Hình 30).
Như vậy, qua các phép phân tích mối tương quan giữa hàm lượng phytolith
và các nguyên tố hoà tan trong đất có thể rút ra nhận xét như sau: Sự có mặt của
phytolith trong đất không chỉ đóng vai trò như kho dự trữ chất dinh dưỡng (Si, K,
Ca, Mg) mà phytolith còn tham gia vào việc điều tiết các nguyên tố dinh dưỡng này
thông qua quá trình hoà tan, phân giã dưới các điều kiện môi trường. Tuy nhiên,
phytolith cũng như các hợp phần khác trong đất luôn đặt trong mối tương tác qua lại
lẫn nhau, do đó cần có thêm những thí nghiệm trên thực tế đồng ruộng với hàm
lượng phytolith được bổ sung ở mức độ khác nhau để đánh giá chi tiết hơn về ảnh
hưởng của sự có mặt phytolith tới các tính chất của đất.
58
KẾT LUẬN
Ngoài những thông tin về một số tính chất đất cơ bản tại khu vực nghiên cứu
tại xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, kết quả nghiên cứu của luận
văn cung cấp những thông tin chi tiết về đặc điểm chung của phytolith trong rơm rạ
như thành phần hoá học; đặc điểm hình thái; cấu trúc, đặc điểm khoáng vật học và
đặc điểm hoá học bề mặt của chúng. Luận văn cũng xác định được hàm lượng cũng
như sự phân bố của phytolith theo các tầng sâu phẫu diện tại xã Đại Áng, huyện
Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Cụ thể: Hàm lượng phytolith trong đất tại khu vực
nghiên cứu dao động từ 0,41 – 1,01% trong các phẫu diện có độ sâu 100 cm với giá
trị trung bình đạt 0,49 ± 0,06%; 0,53 ± 0,13%; 0,71 ± 0,17% và 0,73 ± 0,11% tương
ứng với tầng 0 – 25 cm; 25 – 50 cm; 50 – 75 cm và 75 – 100 cm. Đây là công bố
khoa học đầu tiên và hết sức có ý nghĩa về sự tồn tại của phytolith cũng như hàm
lượng của chúng trong đất xã Đại Áng nói riêng và đất nông nghiệp Việt Nam nói
chung. Bên cạnh đó, việc phân tích mối tương quan giữa hàm lượng tích luỹ của
phytolith với tính chất lý hoá học cơ bản của đất tại khu vực nghiên cứu cũng phần
nào chỉ ra được sự ảnh hưởng của sự có mặt của phytolith tới các tính chất này của
đất. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự có mặt của phytolith trong đất sẽ góp phần làm
tăng tỷ lệ cấp hạt limon (0,002 – 0,05 mm), làm giảm tỷ trọng của đất và thúc đẩy
quá trình phân tán của cấp hạt sét (<0,002 mm). Với sự tích luỹ 0,49%, phytolith
lưu trữ lại tương ứng 6,1 và 1,3 tấn Si và K trong tầng đất 25 cm bề mặt. Sự hoà tan
của hàm lượng phytolith trong tầng đất này có thể giải phóng vào đất 9,28; 9,57;
4,04; 3,31; 0,37; 0,06 và 0,25 kg các ion Na+, K+, Ca2+, Mg2+, Cl-, PO43- và SO4
2-.
Mặt khác, sự có mặt của phytolith có “đóng góp” tương đương với khoáng sét trong
giá trị CEC của đất thể hiện qua mối quan hệ giữa hàm lượng khoáng sét, phytolith
với CEC của đất (R² lần lượt đạt 0,79 và 0,76) cũng như chi phối hàm lượng Si,
tổng lượng Ca và Mg dễ tiêu trong đất thể hiện qua hệ số tương quan R2 = 0,98 và
0,8. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu “đặt” phytolith trong hệ tương tác giữa
các hợp phần khác nhau của đất trong điều kiện thực tế ngoài đồng ruộng để có thể
đánh giá chính xác hơn sự ảnh hưởng của phytolith tới tính chất đất.
59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
v Tiếng Việt:
1. Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam (2012), Chương trình Năng lượng
sinh khối Bền vững của Hà Lan, thực hiện bởi Tổ chức Phát triển Hà Lan
SNV.
2. Đỗ Hải Triều (2008), “Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón silica đến sinh
trưởng, năng suất và chất lượng lạc trên đất phù sa cũ bạc màu tỉnh Vĩnh
Phúc”, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Nông nghiệp.
3. Khương Minh Phượng (2011), “Ứng dụng mô hình Hydrus - 1D để mô phỏng
sự di chuyển của kim loại nặng (Cu, Pb, Zn) trong đất lúa xã Đại Áng,
huyện Thanh Trì, Hà Nội”, Luận văn ThS. Khoa học môi trường và bảo vệ
môi trường, mã số: 60 85 02; Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn
Ngọc Minh.
4. Nguyễn Ngọc Minh (2012), “Vai trò của silic sinh học (Phytolith) trong rơm
rạ đối với môi trường đất và dinh dưỡng cây trồng”, Tạp chí Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn, 11, 47 – 52.
v Tiếng Anh:
5. Barão, L., Clymans, W., Vandevenne, F., Meire, P., Conley, D.J., Struyf, E.
(2014), “Pedogenic and biogenic alkaline-extracted silicon distributions
along a temperate land-use gradient”, Eur. J. Soil Sci.
6. Barbosa-Filho, M.P, Snyder, G.H, Elliott, C.L, Datnoff, L.E (2001),
“Evaluation of soil test procedures for determining rice-available silicon”,
Commun Soil Sci. Plant Anal, 32, 1779-1792.
7. Bartoli, F. (1985), “Crystallochemistry and surface—properties of biogenic
opal”, Journal of Soil Science, 36:335–350
8. Bartoli, F. (1983), “The biogeochemical cycle of silicon in two temperate
foresty ecosystems”, Environmental Biogeochemistry, Ecol. Bull.
(Stockholm), 35, 469-476.
60
9. Berthelsen, S., Noble, A. D., and Garside A. L. (2001), “Silicon research down
under: Past, present and future”, Silicon in agriculture, Pp. 241–256.
10. Blackman, E. (1969), “Observations on the development of the silica cells of
the leaf sheath of wheat (Triticumaestivum)”, Canadian Journal of Botany
47:827-838.
11. Carey, J.C., Fulweiler, R.W. (2012), “Human activities directly alterwatershed
dissolved silica fluxes”, Biogeochemistry, 111, 125–138.
12. Cary, L., Alexandre, A., Meunier, J.D., Boeglin, J.L., Braun, J.J. (2005),
“Contribution of phytoliths to the suspended load of biogenic silica in the
Nyong basin rivers (Cameroon)”, Biogeochemistry, 74, 101–114.
13. Clarke, J. (2003), “The occurrence and significance of biogenic opal in the
regolith”, Earth Science Reviews, 60:175–194.
14. Conley, D.J., and Schelske, C.L. (2001), “Biogenic silica. In: Smol J.P., Birks
H.J.B. and Last W.M. (eds), Tracking Environmental Changes in Lake
Sediments: Volume 3: Terrestria” l, Algal, and Siliceous Indicators.
Kluwer Academic Publishers, Dordrecht, pp. 281–293.
15. Cornelis, J.T., Delvaux, B., Georg, R.B., Lucas, Y., Ranger, J., Opfergelt, S.
(2011), “Tracing the origin of disolved silicon transferred fromvarious
soil-plant systems towards rivers”: Biogeosciences 8, 89–112.
16. Cornelis, J.T., Delvaux, B., Ranger, J., Iserentant, A. (2010a), “Tree species
impact the terrestrial cycle of silicon through various uptakes”,
Biogeochemistry, 97, 231–245.
17. Cornelis, J.T., Titeux, H., Ranger, J., Delvaux (2011b), “Identification and
distribution of the readily soluble silicon pool in a temperate forest soil
belowthree distinct tree species”, Plant Soil, 342, 369–378.
18. Datnoff, LE, Rodrigues FA (2005), “The role of silicon in suppressing rice
diseases”, APS net Feature Story, 1–28.
61
19. Datnoff, L.E., Raid, R.N., Snyder, G.H., and Jones, D.B. (1991), Effect of
calcium silicate on blast and brown spot intensities and yields of rice,
Plant Disease, 75:729-732.
20. DeMaster, D.J. (1979), “The marine budgets of silica and 32Si. Ph.D.
Dissertation”, Yale University, 308 pp.
21. DeMaster, D.J. (1981), “The supply and accumulation of silica in the marine
environments”, Geochim. Cosmochim. Acta: 1715–1732.
22. DeMaster, D.J. (1991), “Measuring biogenic silica in marine sediments and
suspended matter”, Geophysical Monograph 63, America Geophysical
Union, pp. 363–367.
23. Desplanques, V., Cary, L., Mouret, J.-C., Trolard, F., Bourrie, G., Grauby, O.,
Meunier, J.-D. (2006) “Silicon transfers in a rice field in Camargue
(France)”, J. Geochem. Explor., 88, 190–193.
24. Dierolf, T., Fairhurst T., Mutert E. (2001), Soil fertility kit. A toolkit for acid,
upland soil fertility management in Southeast Asia. 1st ed., Oxford
Graphic Printers, page 113.
25. Dietzel, M. (2002), “Interaction of polysilicic and monosilicic acid with
mineral surfaces”, Water–rock interaction, pp. 207–235.
26. Dolores R Pipernoand MD Lanham (2006), Phytoliths: A Comprehensive
Guide for Archaeologists and Paleoecologists, AltaMira Press.
27. Dorweiler, J.E., Doebley, J. (1997), “Development analysis of Teosinte Glume
Architecture1”: American Journal of Botany, 84, 1313-1322
28. Dove P.M. (1999), “The dissolution kinetics of quartz in aqeous mixed cation
solutions”, Geochim. Cosmochim. Acta. 63, 3715-3727.
29. Drees, L. R., Wilding, L. P., Smeck, N. E., and Sankayi, A. L. (1989), “Silica
in soils: Quartz and disordered silica polymorphs”, Minerals in soil
environments, pp. 913–974.
30. Dürr, H.H., Meubeck, M., Harttmann, J., Laruelle, G.G., Roubeix, V. (2011),
“Global spatial distribution of natural riverine silica inputs to the coastal
62
zone”, Biogeosciences, 8, 5978-620.
31. Ehrlich H., Demadis K.D., Pokrovsky O.S., Koutsoukos P.G. (2010), “Modern
Views on Desilicification: Biosilica and Abiotic Silica Dissolution in
Natural and Artificial Environments”, Chem. Rev. 110, 4656–4689.
32. Elbauma R., Melamed-Bessudo C., Tuross N., Levy A.A., Weiner S. (2009),
“New methods to isolate organic materials from silicified phytoliths reveal
fragmented glycoproteins but no DNA”, Quaternary International, 193,
11–19.
33. Eneji E, Inanaga S, Muranaka S, Li J, An P, Hattori T, Tsuji W (2005), “Effect
of calcium silicate on growth and dry matter yield of Chloris gayana and
Sorghum sudanense under two soil water regimes”, Grass and Forage
Science, 60:393–398.
34. Epstein, E. (1994), “The anomaly of silicon in plant biology”, Proceedings of
the National Academy of Sciences of the United States of America, 91, 11.
35. Epstein, E. and Bloom, A. J. (2005), “Mineral Nutrition of Plants: Principles
and Perspectives”, Second Edition. Sinauer.
36. Ersan Putunand Esin Apaydin. Ricestraw as a bio-oil source via pyrolysis and
steampyrolysis. Energy, 29 (2004) 2171 – 2180.
37. Follett, E.A.C., McHardy, W.J., Mitchell, B.D. and Smith, B.F.L. (1965),
“Chemical dissolution techniques in the study of soil clays”, Part I. Clay
Minerals, 6: 23–34.
38. Foster, M.D. (1953), “The determination of free silica and free alumina in
ontmorillonites”, Geochim. Cosmochim., Acta 3: 143–154.
39. Fraysse, F., Pokrovsky, O. S., Schott, J., Meunier, J.-D. (2009), “Surface
chemistry and reactivity of plant phytoliths in aqueous solutions”, Chem.
Geol., 258, 197–206.
40. Fraysse F., Pokrovsky O.S., Schott J., Meunier J.D. (2006) “Surface
properties, solubility and dissolution kinetics of bamboo phytoliths”,
Geochim. Cosmochim. Acta. 70, 1939-1951.
63
41. Harrison, C.C (1996), “Evidence for intramineral macromolecules containing
protein from plant silicas”, Phytochemistry, 41, 37-42
42. Harsh, J. B., J. Chorover, and E. Nizeyimana. (2002), “Allophane and
imogolite”, Soil mineralogy with environmental applications, pp. 291–
322.
43. Haysom, M.B.C. and Chapman, L.S. (1975), “Some aspects of the calcium
silicate trials at Mackay”, Proc. Austr. Sugar CaneTechnol., 42:117–122
44. Herbauts, J., Dehalu, F.A., Gruber, W. (1994), “Quantitative determination of
plant opal content in soils, using a combined method of heavy liquid
separation and alkali dissolution”, Eur. J. Soil Sci., 45, 379–385.
45. Houben, D., Sonnet, P., Cornelis, J.T. (2014), “Biochar from Miscanthus: a
potential silicon fertilizer”, Plant Soil, 374, 871–882.
46. Iler R.K. (1979), “The Chemistry of Silica”, Wiley and Sons, New York, pp
621.
47. Imaizumi, K. and Yoshida, S. (1958), “Studies on silicon supply of paddy
soil”, Bull. Jpn. Agric. Tech. Inst., B8, 261-304.
48. Jaynes, E.F, Bigham, J.M (1986), “Multiple cation-exchange capacity
measurements on standard clays using a commercial mechanical
extractor”, Clays Clay Miner, 34:93-98,
49. Jones, L. H. P., and K. A. Handreck (1965), “Studies of silica in the oat plant.
III. Uptake of silica from soils by the plant”, Plant and Soil, 23:79-96.
50. Jones, L. H. P., and K. A. Handreck (1969), “Uptake of silica by
Trifoliumincarnatum in relation to the concentration in the external
solution and to transpiration”, Plant and Soil, 30:71-80.
51. Jones, L.P.H., Handreck, K.A. (1967), “Silica in soils, plants, and animals”,
Advances in Agronomy, 19, 107–149.
52. K. Prajapati, S. Rajendiran, M. VassandaCoumar, M. L. Dotaniya, V. D.
Meena, Ajay Srivastava, N. K. Khamparia, A. K. Rawat, S. Kundu (2015),
“Bio-Sequestration of Carbon in Rice Phytoliths”, Natl. Acad. Sci. Lett.,
64
38(2):129–133
53. Kauss H, Seehaus K, Franke R, Gilbert S, Dietrich RA, Kroger N (2003),
“Silica deposition by a strongly cationic proline-rich protein from
systemically resistant cucumber plants”, Plant Journal, 33, 87-95
54. Klotzbücher T, Leuther F, Marxen A, Vetterlein, D., Jahn, R. (2014), Silicon
cycling and budgets in rice production systems of. Laguna, the
Philippines, 6th Int. Conference on Silicon in Agriculture, 26-30 August
2014, Stockholm Sweden.
55. Kohut C.K (1994), “Chemistry and mineral stability in saline, alkaline soil
environments”, Doctoral thesis, University of Alberta, Edmonton, AB,
Canada.
56. Koning E., Epping E. and Van Raaphorst W (2002), “Determining biogenic
silica in marine samples by tracking silicate and aluminium concentrations
in alkaline leaching solutions”, Aquat. Geochem., 8, 37–67.
57. Li, Z.M., Song, Z.L., Parr, J.F., Wang, H.L. (2013), “Occluded C in rice
phytoliths: implications to biogeochemical carbon sequestration”, Plant
Soil, 370, 615–623.
58. Liang, Y., Si, J., Römheld, V. (2005), Silicon uptake and transport is an active
process in Cucumis sativus, New Phytol., 167(3):797-804.
59. Liexang, Li, YutaIshikawwa, MachitoMihara (2012), “Effects of Burning
Crop Residues on Soil Quality in Wenshui”, International Journal of
Environmental and Rural Development, 3-1, 30 – 35.
60. Lucas, Y. (2001), “The role of plants in controlling rates and products of
weathering: Importance of biological pumping”, Annual Review Earth
Planet Science, 29:135–163.
61. Ma J.F. (2004), “Role of Silicon in enhancing the resistance of plants to biotic
and abiotic stresses”, Soil Sci. Plant Nutr, 50, 11-18
62. Ma, J. F., Takahashi, E. (1990), “Effect of silicon on the growth and
phosphorus uptake of rice”, Plant Soil, 126, 115-119
65
63. Ma, J.F., Miyake, Y., Takahashi, E (2002), “Soil, Fertilizer, and Plant Silicon
Research in Japan”, Elsevier Science.
64. Ma, J.F., Miyake, Y., Takahashi, E. (2001), “Silicon as a beneficial element
for crop plants. In Datonoff L., Korndorfer G., Snyder G., eds, Silicon in
Agriculture”, Elsevier Science Publishing, New York, 17-39.
65. Ma, J.F., Nishimura, K., Takahashi, E. (2012), “Effect of silicon on the growth
of rice plant at different growth stages”, Soil Science and Plant Nutrition,
35(3), 347 – 356
66. Ma, J.F., Yamaji, N. (2006), “Silicon uptake and accumulation in higher
plants”, Trends Plant Sci., 11, 392–397.
67. Marxen, A., Klotzbücher, T., Vetterlein, D., Jahn, R. (2013), Controls on
silicon cycling in Southeast Asian rice production systems, EGU General
Assembly 2013, held 7-12 April, in Vienna, Austria, id. EGU2013-9821
68. McNaughton, S. J., and J. L. Tarrants (1983), “Grass leaf silicification:
Natural selection for an inducible defense against herbivores”,
Proceedings of the National Academy of Science, 80:790-791.
69. Meunier JD, Guntzer F, Kirman S, Keller C (2008), “Terrestrial plant-Si and
environmental changes”, Mineral. Mag., 72:263–267.
70. Meunier, J. D., F. Colin, and C. Alarcon. (1999), “Biogenic silica storage in
soils”, Geology, 27:835–838.
71. Meunier, J.D., Guntzer, F., Kirman, S., Keller, C. (2008), “Terrestrial plant–Si
and environmental changes”, Mineral. Mag., 72, 263–267.
72. Miller, Á. (1980), “Phytoliths as indicators of farming techniques”, Paper
presented at the 45th annual meeting of the Society for American
Archaeology, Philadelphia.
73. Monger, H. C., and E. G. Kelly. (2002), “Silica minerals”, Soil mineralogy
with environmental applications, pp. 611–636.
74. MônicaSartori de Camargo, Hamilton Seron Pereira, Gaspar Henrique
Korndörfer, Angélica Araújo Queiroz and Caroline Borges dos Reis
66
(2007), Soil reaction and absorption of silicon by rice, Sci. agric.
(Piracicaba, Braz.), vol. 64, no. 2, Piracicaba.
75. Mortlock R.A. and Froelich P.N. (1989), “A simple method for the rapid
determination of biogenic opal in pelagic marine sediments”, Deep-Sea
Res, 36(9): 1415–1426.
76. Motomura, K, Fuji, T, Suzuki, M (2004), “Silica deposition in relation to
ageing of leaf tissues in Sasaveitchii (Carrière) Rehder (Poaceae:
Bambusoideae)”, Ann. Bot., 93:235–248
77. Moulton, K. L., J. West, and R. A. Berner (2000), “Solute flux and mineral
mass balance approaches to the quantification of plant effects on silicate
weathering”, American Journalof Science, 300:539–570.
78. Müller P.J. and Schneider R. (1993), “An automated leaching method for the
determination of opal in sediments and particulate matter”, Deep-Sea Res
I, 40(3): 425–444.
79. Ngoc Nguyen, M., Dultz, S., Guggenberger, G. (2014), “Effects of
pretreatment and solution chemistry on solubility of rice-straw phytoliths”,
J. Plant Nutr. Soil Sci., 177, 349–359.
80. Okuda, Á., and E. Takahashi (1964), “The role of silicon. In The Mineral
Nutrition of the Rice Plant. Proceedings of the Symposium of the
International Rice” Research Institute, pp. 123-46.
81. Okuda, A., Takahashi, E. (1965), “The role of silicon”, In: Themineral
nutrition of the rice plant, 123-146.
82. Parr J.F., Sullivan L. A. (2005), “Soil carbon sequestration in phytolith”, Soil
Boil. Biochem, 37, 117 – 124
83. Parr, J.F., Sullivan, L.A. (2011), “Phytolith occluded carbon and silica
variability in wheat cultivars”, Plant Soil, 342, 165–171.
84. Parr, J.F., Sullivan, L.A., Quirk, R. (2009), “Sugarcane phytoliths:
encapsulation and sequestration of a long-lived carbon fraction”, Sugar
Technol., 11, 17–21.
67
85. Parry, D. W., and A. Winslow (1977), “Electron-probe microanalysis of
silicon accumulation in the leaves and tendrils of Pisumsativum (L.)
following root severance”, AnnaU of Botany, 41:275-278.
86. Pearsall, D. M. (1990), “Application of phytolith analysis to recon-struction of
past environments and subsistence: Recent research in the Pacific”,
Micronesica Suppl., 2, 65–74
87. Perry, CC, Belton, D, Shafran, K. (2003), “Studies of biosilicas; structural
aspects, chemical principles, model studies and the future”, Progress in
Molecular and Subcellular Biology, 33: 269–299.
88. Perry, CC, Keeling-Tucker T (1998), “Aspects of the bioinorganic chemistry
of silicon in conjunction with the biometals calcium, iron and aluminium”,
J InorgBiochem, 69:181–191
89. Piperno, D.R, Holst, I, Wessel-Beaver L, Andres TC (2002), “Evidence for the
control of phytolith formation in Cucurbita fruits by the hard rind (Hr)
genetic locus: Archaeological and ecological implications”, Proceeding of
the National Academy of Sciences, USA 99, 10923-10928.
90. Puppe, D., O. Ehrmann, D. Kaczorek, M. Wanner& M. Sommer (2015), “The
protozoic Si pool in temperate forest ecosystems – Quantification, abiotic
controls and interactions with earthworms”, Geoderma, 243-244, 196-204.
91. Rajendiran, S., Coumar, M.V., Kundu, S., Ajay, Dotaniya, M.L., Rao, A.S.
(2012), “Role of phytolith occluded carbon of crop plants for enhancing
soil carbon sequestration in agro-ecosystems”, Curr. Sci., 103, 911–920.
92. Raven, J.Á. (1983), “The transport and function of silica in plants”, Biological
Reviews of the Cambridge Philosophical Society, 58:179-207.
93. Ross G.J. (1975), “Experimental alteration of chlorites into vermiculites by
chemical oxidation”, Nature 255:133-134,.
94. Ross G.J., Kodama H., (1976), “Experimental alteration of chlorites into a
regularly interstratified chlorite – vermiculite by chemical oxidation”,
Clays Clay Miner, 24:183-190,.
68
95. Saccone L., Conley D.J., Koning E., Sauer D., Sommer M., Kaczorek D.,
Blecker S.W., Kelly E.F. (2007), “Assessing the extraction and
quantification of amorphous silica in soils of forest and grassland
ecosystems”, European Journal of Soil Science 58:1446–1459.
96. Sauer, D., Saccone, L., Conley, D.J., Herrmann, L., Sommer, M. (2006),
“Review of methodologies for extracting plant-available and amorphous
Si from soils and aquatic sediments”, Biogeochemistry, 80, 89–108.
97. Saxena, Prasad, V., Singh, I. B., Chauhanand, M.S., Hasan, R. (2006),
“evidence for rice-basedagriculture”, Current Science, Vol. 90, No. 11,
1547 – 152.
98. Schlesinger W. H. (1990), “Evidence from chronosequence studies for a low
carbon-storage potential of soils”, Nature, 348 , 232–234.
99. Sommer, M., Kaczorek, D., Kuzyakov, T., Breuer, J. (2006), “Silicon pools
and fluxes in soils and landscapes—a review”, J. Plant Nutr. Soil Sci.,
169, 310–329.
100. Song, Z.L., Parr, J.F., Guo, F.S. (2013), “Potential of global cropland phytolith
carbon sink from optimization of cropping system and fertilization”, PLoS
ONE 8, 1–6.
101. Song, Z.L., Wang, H.L., Strong, P.J., Guo, F.S. (2014), “Phytolith carbon
sequestration in China's croplands”, Eur. J. Agron., 53, 10–15.
102. Struyf, E., Conley, D.J. (2012), “Emerging understanding of the
ecosystemsilica filter”, Biogeochemistry, 107, 9–18.
103. Tréguer, P., Nelson, D.M., Van Bennekom, A.J., DeMaster, D.J., Leynaert, A.,
Quéguiner, B. (1995), “The silica balance in the world ocean: a
reestimate”, Science, 268, 375–379.
104. Van Cappellen, P. (2003), “Biomineralization and global biogeochemical
cycles”, Rev. Mineral. Geochem., 54, 357–381.
105. Van der Worm, P. D. J. (1980), “Uptake of Si by five plant species as
influenced by variations in Sisupply”, Plant and Soil, 56:153-156.
69
106. Vandevenne, F., Struyf, E., Clymans, W., Meire, P. (2012), “Agricultural
silica harvest: have humans created a new loop in the global silica cycle?”
Front. Ecol. Environ., 10, 243–248.
107. Yoshinori Miura and Tadanori Kanno (1997), “Emissions of trace gases (CO2,
CO, CH4, and N2O) resulting from rice straw burning”, Soil Science and
Plant Nutrition, 43:4, 849 - 854
108. Zhao, Z., Pearsall, D.M. (1998), “Experiments for improving phytolith
extraction from soils”, J. Archaeol. Sci., 25, 587–598.
v Websites:
109. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=717
70
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kết qủa phân tích một số tính chất cơ bản của đất
1. Thàn phần nguyên tố hoá học
Kết quả phân tích thành phần nguyên tố hoá học của đất theo kỹ thuật phân tích PIXE
trên hệ máy gia tốc Pelletron 5SDH-2.
Hệ máy gia tốc Pelletron 5SDH-2 là loại máy gia tốc tĩnh điện có điện áp 1.7 MV. Hệ máy gồm các thành phần chính như: Nguồn Ion, Buồng gia tốc chính, Hệ chân không, Các bộ phận hội tụ điều chỉnh chùm tia, Kênh phân tích, Kênh cấy ghép!
Sơ đồ hệ máy gia tốc được trình bày ở hình dưới đây:
Hình. Sơ đồ hệ máy gia tốc Pelletron 5SDH-2
Nguyên lý hoạt động:
Chùm ion âm sinh ra từ một trong hai nguồn tạo ion (nguồn RF hoặc nguồn SNICS) được gia tốc sơ bộ và đi vào buồng gia tốc. Sau khi ra khỏi buồng gia tốc, nhờ cấu trúc gia tốc kép mà năng lượng của ion sau khi gia tốc sẽ bằng (n+1)*e*V, với e là điện tích electron, V là điện thế đỉnh, n là hóa trị của ion. Nam châm chuyển kênh (nam châm lái hướng) điều chỉnh hướng chùm tia ra kênh phân tích hoặc kênh cấy ghép tùy mục đích sử dụng.
Kỹ thuật phân tích PIXE.
Phương pháp huỳnh quang tia X (tên tiếng anh: Particle Induce X-Ray Emission, viết tắt: PIXE) là một trong các phương pháp phân tích không phá hủy mẫu tiên tiến, được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như y học, khảo cổ, môi trường… Phương pháp này có các ưu điểm nổi bật như: Có thể phân tích đồng thời nhiều nguyên tố với khoảng điện tích nguyên tố Z rộng cùng độ nhạy phân tích cao, cỡ ppm và thời gian phân tích ngắn.
Để sử dụng kỹ thuật phân tích PIXE ta điều chỉnh chùm tia (chùm proton) đi vào buồng phân tích. Trong buồng phân tích có gắn sẵn mẫu cần phân tích và mẫu chuẩn để chuẩn năng lượng và các hệ số phân tích. Chiếu chùm proton bắn vào mẫu, các nguyên tử trong mẫu sẽ bị kích thích và phát ra tia X đặc trưng cho từng nguyên tố. Các tia X phát ra sẽ được thu nhận bởi Detecter tia X gắn trong buồng phân tích. Số liệu sau khi được ghi nhận sẽ được sử lý bằng phần mềm GUPIX. Phần mềm GUPIX sử dụng thuật toán bình phương tối thiểu phi tuyến để tiến hành khớp phổ và tính toán hàm lượng dựa trên diện tích đỉnh phổ tia X đặc trưng được nhận diện và nhập vào chương trình.
Các bước tiến hành:
Mẫu đo dạng bột được xác định là mẫu dày chưa biết thành phần và hàm lượng các nguyên tố chính. Mẫu được hòa với nước cất, sau đó gắn vào giá đựng mẫu làm bằng Graphit dạng tròn với bán kính 0.4cm. Đem mẫu đi sấy với nhiệt độ 1030C. Gắn mẫu chuẩn Nist vào giá đựng mẫu. Đưa mẫu vào buồng phân tích. Đo phép chiếu năng lượng thấp để xác định thành phần các nguyên tố chính ( các nguyên tố nhẹ). Đo mẫu chuẩn Nist 611 để chuẩn năng lượng và các hệ số.
Thông số Phép chiếu năng lượng thấp
Năng lượng ( keV) 831
Diện tích chùm tia (cm2) 0.4*0.4
Thời gian chiếu ( s) 850
Cường độ dòng (nA) 10
Kết quả phân tích: Hàm lượng nguyên tố (ppm)
Mẫu Na Mg Al Si P S Cl K Ca Ti Cr Mn Fe Đ1.1 4396 13484 131642 282833 244.7 1031 71.88 28246 3874 5693 122.7 332.7 53571 Đ1.2 4465 13658 146503 297033 161.2 439.3 78.7 30275 3426 5832 133 514.3 46896 Đ1.3 2939 11243 150973 272408 81.47 326.3 76.79 28165 3330 5309 179.1 249.6 42719 Đ1.4 3328 11323 152725 272637 117 355.3 108 28356 3496 5214 152.9 354.4 48575 Đ2.1 4738 14502 122910 259633 291 4286 303.6 27523 7640 4968 176.4 560.8 46933 Đ2.2 4348 13744 118761 251335 192.9 3266 135.7 26501 6931 5179 165 729.9 49094 Đ2.3 4189 13010 140062 264843 97.87 4825 268.1 28341 8416 5065 178.4 569.5 41993 Đ2.4 3041 11462 137005 245624 146.7 5280 336.1 26618 8527 4405 221.3 306.3 36292 Đ3.1 5509 12171 108319 224549 189.9 4069 129.8 24963 6421 4587 253.3 442.3 46824 Đ3.2 4956 13096 111856 236394 307 260.5 135.9 26029 3448 5361 145.4 673.9 52251 Đ3.3 3701 10804 139327 244837 93.29 7852 103.4 27363 10693 4817 132.2 177.2 33949 Đ3.4 3672 12192 155799 272564 91.51 983.4 173 29841 4421 4972 190.8 309.2 33617 Đ4.1 5258 14530 124737 270501 276.3 5180 139.9 28113 8008 5241 241.9 649.2 53427 Đ4.2 4762 14989 128228 276183 391.5 584.3 166.8 29500 4186 5551 153.2 766.9 57343 Đ4.3 4653 15276 134313 289665 356.4 1189 182.3 30146 4697 5887 151.3 757.1 58015 Đ4.4 3637 12548 150771 279616 95.54 2040 292.8 29547 5471 5266 232.1 272.1 39450 Đ5.1 5363 13832 119644 252759 257.9 3749 356.6 27018 6349 5197 118.4 464 48985 Đ5.2 4995 15091 132565 267473 337.1 382.5 199.4 29964 3604 5811 187.2 714 58586 Đ5.3 4643 12490 149214 272472 173.9 1045 210.5 29526 4292 5277 184 435.8 41874 Đ5.4 3242 11841 157142 271203 21.64 824 204.5 29633 3987 4909 166.3 288.7 33983 Đ6.1 5638 14038 121283 263860 514.8 3977 213.5 27531 6958 5228 71.97 643.5 51821 Đ6.2 4985 15553 136243 299926 504 1182 166.1 31547 4688 6105 146.8 981.8 61298 Đ6.3 4714 12476 149769 279802 163.9 1742 188.7 30024 4539 5353 161.9 549.4 44538 Đ6.4 3332 11398 150951 267299 100.5 1975 195.8 28958 4736 4791 167.5 145.9 41451 Đ7.1 6117 14391 122663 268677 900.4 3045 262.8 27968 6647 5270 459.8 678.4 53940 Đ7.2 5887 13313 114537 238257 413.1 3065 675.6 24796 5962 4874 180 823.7 50876 Đ7.3 3251 11573 152401 268286 66.38 1153 202.7 29168 4191 4976 125.5 202.5 32619 Đ7.4 3479 11574 147529 264390 146.1 1312 183.1 28285 4312 4947 160.9 254.9 35653
2. Thành phần cấp hạt (%)
mẫu sét limon cát mẫu sét limon Cát Đ1.1 65,31 31,17 3,52 Đ4.3 14,00 83,59 2,41 Đ1.2 70,75 27,02 2,23 Đ4.4 32,20 63,16 4,64 Đ1.3 63,15 24,13 12,72 Đ5.1 22,63 68,04 9,33 Đ1.4 68,33 21,84 9,83 Đ5.2 14,80 82,70 2,50 Đ2.1 34,40 57,64 7,96 Đ5.3 29,60 62,83 7,57 Đ2.2 34,40 60,37 5,23 Đ5.4 54,40 38,03 7,57 Đ2.3 29,20 65,96 4,84 Đ6.1 28,40 57,40 14,20 Đ2.4 38,40 57,15 4,45 Đ6.2 30,40 58,91 10,69 Đ3.1 23,60 67,66 8,74 Đ6.4 43,20 48,45 8,35 Đ3.2 26,00 64,87 9,13 Đ6.3 44,40 47,25 8,35 Đ3.3 42,93 50,19 6,88 Đ7.1 18,40 61,94 19,66 Đ3.4 53,20 38,59 8,21 Đ7.2 38,40 48,96 12,64 Đ4.1 22,80 75,48 1,72 Đ7.3 38,73 54,17 7,10 Đ4.2 8,40 85,98 5,62 Đ7.4 64,80 29,19 6,01
3. pH và hàm lượng chất hữu cơ (%)
mẫu pH CHC mẫu pH CHC Đ1.1 6,61 1,794 Đ4.3 7,26 1,56 Đ1.2 6,97 1,17 Đ4.4 6,75 2,106 Đ1.3 6,8 1,014 Đ5.1 7,05 2,028 Đ1.4 7,38 0,78 Đ5.2 7,09 1,17 Đ2.1 7,27 2,418 Đ5.3 6,83 1,872 Đ2.2 7,39 1,404 Đ5.4 6,5 1,404 Đ2.3 7,16 2,028 Đ6.1 7,94 0,624 Đ2.4 6,62 2,262 Đ6.2 7,23 1,482 Đ3.1 6,64 2,418 Đ6.4 7 1,794 Đ3.2 7,15 1,482 Đ6.3 7,47 1,638 Đ3.3 6,71 2,184 Đ7.1 6,86 2,496 Đ3.4 6,62 1,95 Đ7.2 7,13 0,78 Đ4.1 7,19 2,652 Đ7.3 6,65 1,872 Đ4.2 7,4 1,092 Đ7.4 6,74 1,404
Phụ lục 2: Kết quả phân tích một số tính chất cơ bản của mẫu phytolith
1. Nhiễu xạ đồ Xray của các mẫu phytolith xử lý tại các nhiệt độ khác nhau
!Mẫu Phytolith tại 500oC
!Mẫu Phytolith tại 700oC!
VNU$HN$SIEMENS*D5005*$*Mau*Tro
33$116 1*(D)*$*Qu artz,*syn*$*SiO2*$*WL:*1.54056*$*d*x*b y:*1 .000Fi le:*Quang$Moitruong$Tro.raw*$*Type :*2Th/Th*locked*$*Start:*1.000*°*$*End:*70 .000*°*$*Step:*0.010*°*$*Step*time:*1.0 *s*$*Temp.:*25.0*°C*(Room)*$*Anode :*Cu*$*Creation:*04/07/11*09:3 2:13
Lin*(Cps)
0
100
200
300
400
500
600
2$Theta*$*Scale
1 10 20 30 40 50 60 70
d=3.340*
VNU$HN$SIEMENS*D5005*$*Mau*tro*700C
05$058 6*(*)*$*Calci te,*syn*$*CaCO3*$*Y:*1.85*%*$*d *x*by:*1.000*$*WL:*1.5405639$142 5*(*)*$*Cristobali te,*syn*$*SiO2*$*Y:*1.81 *%*$*d*x*by:*1.000*$*WL:*1.5405616$015 2*(D)*$*Tridymi te*$*SiO2*$*Y:*1.93 *%*$*d*x*by:*1.000*$*WL:*1.5405646$104 5*(*)*$*Quartz,*syn*$*SiO2 *$*Y:*1 .83*%*$*d*x*by:*1.000*$*WL:*1.5 4056Fi le:*Quang$Moitruong$Tro$70 0C.raw*$*Type:*2Th/Th*l ocked *$*Start:*3.00 0*°*$*End:*69.990*° *$*Step:*0.030*°*$*Step*time:*1.0*s*$*Temp.:*25.0*°C*(Room)*$*Anode:*Cu*$*Creation:*05/05 /14*14:41:25
Lin*(Cps)
0
100
200
300
400
2$Theta*$*Scale5 10 20 30 40 50 60 70
d=4.266*
d=4.086*
d=3.340*
d=3.022*
!Mẫu Phytolith tại 800oC!
!Mẫu Phytolith tại 900oC!
VNU$HN$SIEMENS*D5005*$*Mau*tro*800C
39$142 5*(*)*$*Cristobali te,*syn*$*SiO2*$*Y:*4.53 *%*$*d*x*by:*1.000*$*WL:*1.54056
16$015 2*(D)*$*Tridymi te*$*SiO2*$*Y:*3.12 *%*$*d*x*by:*1.000*$*WL:*1.54056
46$104 5*(*)*$*Quartz,*syn*$*SiO2 *$*Y:*1 .74*%*$*d*x*by:*1.000*$*WL:*1.5 4056
Fi le:*Quang$Moitruong$Tro$80 0C$1.raw*$*Type:*2Th/Th*l ocked *$*Start:*3.000*°*$*End:*69.990*° *$*Step:*0.030*°*$*Ste p*time:*1.0*s*$*Temp.:*25.0*°C*(Room)*$*Anode:*Cu*$*Creation:*05/05 /14*16:21:45
Lin*(Cps)
0
100
200
300
400
2$Theta*$*Scale
5 10 20 30 40 50 60 70
d=4.077*
d=3.343*
d=2.4899*
d=4.294*
VNU$HN$SIEMENS*D5005*$*Mau*tro*900C
39$142 5*(*)*$*Cristobali te,*syn*$*SiO2*$*Y:*6.55 *%*$*d*x*by:*1.000*$*WL:*1.54056
16$015 2*(D)*$*Tridymi te*$*SiO2*$*Y:*2.26 *%*$*d*x*by:*1.000*$*WL:*1.54056
46$104 5*(*)*$*Quartz,*syn*$*SiO2 *$*Y:*1 .16*%*$*d*x*by:*1.000*$*WL:*1.5 4056
Fi le:*Quang$Moitruong$Tro$90 0C.raw*$*Type:*2Th/Th*l ocked *$*Start:*3.00 0*°*$*End:*69.990*° *$*Step:*0.030*°*$*Step*time:*1.0*s*$*Temp.:*25.0*°C*(Room)*$*Anode:*Cu*$*Creation:*05/05 /14*17:00:14
Lin*(Cps)
0
100
200
300
400
2$Theta*$*Scale
5 10 20 30 40 50 60 70
d=17.777*
d=4.277*
d=4.069*
d=2.9641*
d=2.4905*
d=1.6165*
d=1.4322*
d=3.340*
!Mẫu Phytolith tại 1000oC!
2. Phổ hấp thụ hồng ngoại (FTIR) của các mẫu phytolith xử lý tại các nhiệt độ khác nhau
!Mẫu phytolith tại 300oC
!
VNU$HN$BRUKER$*Mau*Tro*rom*ra
47$170 1*(N)*$*Potassium*Oxid e*$*K2O*$*Y:*10.91*% *$*d*x*by:*1.00 0*$*WL:*1.54056
11$069 5*(D)*$*Cristobalite,*syn*$*SiO2 *$*Y:*89.09 *%*$*d*x*by:*1.000*$*WL:*1.54056
16$015 2*(D)*$*Tridymi te*$*SiO2*$*Y:*29.09*%*$*d*x*b y:*1 .000 *$*WL:*1.54056
Fi le:*Ninh$Mo itruong$Tro*rom*ra.raw *$*Type:*2Th/Th*locked*$*Start:*5.0 00*° *$*En d:*70.010*°*$*Step:*0 .030 *°*$*Step*time:*1.0*s*$*Temp.:*25.0 *°C*(Room)*$*Anode:*Cu*$*Crea tion :*04/28/14 *18:32:10
Lin*(Cps)
0
100
200
300
400
500
600
2$Theta*$*Scale
5 10 20 30 40 50 60 70
d=4.065*
d=3.230*
d=2.9701*
d=2.8591*
d=2.8084*
d=2.4960*
d=2.2989*
d=1.9739*
d=1.8776*
!Mẫu phytolith tại 400oC
Mẫu phytolith tại 800oC
!Mẫu phytolith tại 800oC
!Mẫu phytolith tại 1000oC
!!
!