103
BGIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BVĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LCH TRƯỜNG ĐẠI HC MTHUT VIT NAM NGUYN TIN HIP NGHTHUT TRANG TRÍ TRÊN KIN TRÚC VÀ ĐỒ THCHÙA BI KHÊ LUẬN VĂN THẠC SĨ MỸ THUT HÀ NI, 2017

NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN KIẾN TRÚCmythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/NGUYENTIENHIEP.pdf · Mỹ thuật Việt Nam mang nhiều đặc điểm của Mỹ ... một trong

Embed Size (px)

Citation preview

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN TIẾN HIỆP

NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN KIẾN TRÚC

VÀ ĐỒ THỜ CHÙA BỐI KHÊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ MỸ THUẬT

HÀ NỘI, 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN TIẾN HIỆP

NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN KIẾN TRÚC

VÀ ĐỒ THỜ CHÙA BỐI KHÊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ MỸ THUẬT

Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)

Mã số: 60210102

Khóa: 18 (2015-2017)

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS.TS BÙI THỊ THANH MAI

HÀ NỘI, 2017

1

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Gs : Giáo sư

H : Hình

NXB : Nhà xuất bản

Pgs : Phó Giáo sư

SCN : Sau công nguyên

TCN : Trước công nguyên

Tr : Trang

Ts : Tiến sĩ

Tskh : Tiến sĩ Khoa học

2

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 4

2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 5

3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 7

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu .............................................. 7

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7

6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 8

7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 8

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG DỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ............ 9

1.1. Khái niệm trang trí, các thể loại nghệ thuật tạo hình ................................. 9

1.2. Mối quan hệ giữa trang trí và kiến trúc, điêu khắc với kiến trúc trong

nghệ thuật tạo hình .......................................................................................... 11

1.2.1. Mối quan hệ giữa trang trí và kiến trúc ................................................. 11

1.2.2. Mối quan hệ giữa điêu khắc và kiến trúc .............................................. 13

1.3. Khái quát về đồ thờ trong kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của người Việt 14

1.4. Khái quát về kiến trúc chùa Việt, giới thiệu chùa Bối Khê ..................... 16

Chương 2: NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN KIẾN TRÚC, ĐỒ THỜ

CHÙA BỐI KHÊ ............................................................................................ 22

2.1. Mặt bằng tổng thể kiến trúc chùa Bối Khê, phân loại hệ thống đồ thờ ... 22

2.1.1. Mặt bằng tổng thể kiến trúc chùa Bối Khê ........................................... 22

2.1.2. Phân loại hệ thống đồ thờ ...................................................................... 24

2.2. Các mô típ trang trí mang tính biểu tượng trên kiến trúc, đồ thờ chùa Bối

Khê .................................................................................................................. 25

2.3. Các hình thức trang trí, đặc trưng ngôn ngữ tạo hình trên kết cấu kiến

trúc, hệ thống đồ thờ chùa Bối Khê ................................................................ 31

2.3.1. Đặc trưng ngôn ngữ tạo hình ................................................................ 31

3

2.3.2. Hình thức trang trí dựa trên kết cấu kiến trúc thể hiện đặc trưng ngôn

ngữ tạo hình của nghệ thuật trang trí và chạm khắc ....................................... 33

2.4. Hình thức trang trí, đặc trưng ngôn ngữ tạo hình trên hệ thống đồ thờ

chùa Bối Khê ................................................................................................... 47

2.4.1. Đồ thờ nhân cách ................................................................................... 47

2.4.2. Đồ thờ phi nhân cách ............................................................................ 52

Chương 3: GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ

KIẾN TRÚC CHÙA BỐI KHÊ ..................................................................... 58

3.1. Giá trị và vai trò của trang trí trên kiến trúc chùa Bối Khê ..................... 58

3.2. Giá trị và vai trò của trang trí trên hệ thống đồ thờ ................................. 63

3.3. Bai học rút ra sau khi nghiên cứu đề tai ................................................... 65

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 71

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 75

4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam là một đất nước có lịch sử lâu đời, trong quá trình hình thành,

định hình và phát triển đất nước, văn hóa nghệ thuật đóng vai trò quan trọng

trong việc phản ánh đặc điểm tính cách, dáng hình dân tộc. Mỹ thuật là loại

hình tiêu biểu, có khả năng phản ánh, chuyển tải nhiều đặc điểm về tinh thần,

vật chất của con người. Mỹ thuật Việt Nam mang nhiều đặc điểm của Mỹ

thuật phương Đông, có nhiều khác biệt với Mỹ thuật phương Tây. La một

người hoạt động trong lĩnh vực Mỹ thuật, nghiên cứu tâm linh, tôn giáo, bản

thân tôi có mong muốn tìm hiểu những giá trị đẹp đẽ của nghệ thuật Việt, từ

con người cho tới văn hóa, xã hội; muốn tìm hiểu về giá trị nghệ thuật xưa cũ

còn lưu lại tới nay.

Đất nước Việt Nam là một trong số ít các quốc gia được sự ưu ái của tự

nhiên, trong suốt chiều dài lịch sử, đã có rất nhiều công trình nghệ thuật được

tạo ra để thể hiện sự phát triển đầy đủ, hoàn thiện của con người, xã hội. So

với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là một trong số ít quốc

gia có nhiều công trình kiến trúc tâm linh, có tín ngưỡng bản địa thờ Mẫu tam

phủ được Unesco công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Những

di tích tôn giáo tại Việt Nam vẫn tồn tại, không chỉ la nơi phế tích mà còn tiếp

nối vai trò của nó khi được xây dựng nên. Là một quốc gia đa tôn giáo, song

Phật giáo có ảnh hưởng nhiều nhất đến con người Việt. Mái chùa, mái đình

Việt có thể coi như mái nha của dân tộc. Đời sống tinh thần của người Việt rất

phong phú, nó thể hiện ra rõ ràng ở các công trình kiến trúc tâm linh. Những

công trình này có sự xuất hiện dày đặc của nghệ thuật trang trí. Tìm hiểu về

những dấu tích tâm linh-nghệ thuật này, có thể thấy được phần nao đời sống

văn hóa – nghệ thuật của người xưa.

5

Chùa Việt gần như la lưu giữ những tác phẩm mỹ thuật truyền thống,

mà chủ yếu la điêu khắc và kiến trúc. Chùa Việt có giá trị như một kho tàng

vô giá mà nhiều thế hệ nghệ sỹ, nhà nghiên cứu, những người yêu văn hóa-

nghệ thuật đón nhận. Trong quá trình sinh sống, học tập tại Hà Nội, bản thân

người viết có duyên đi, đến và cảm nhận nhiều không gian văn hóa khu vực

đồng bằng sông Hồng, tôi có quan tâm đến chùa Bối Khê (Đại bi tự) ở Tam

Hưng, Thanh Oai, Ha Nội. Bối Khê là một di tích tâm linh nổi tiếng trong số

những chùa cổ khu vực đồng bằng sông Hồng. Chùa có giá trị về nhiều mặt :

tôn giáo, kiến trúc cổ, mỹ thuật truyền thống. Bối Khê là một di tích còn lưu

giữ được tương đối di vật, có niên đại cổ, màu sắc tôn giáo hỗn hợp hấp dẫn

với sự tích Đức thánh Bối; nên thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.

Bản thân người viết cũng không nằm ngoài hấp lực đó. Mong muốn tìm hiểu,

nghiên cứu nghệ thuật trang trí tại chùa theo phương diện Mỹ thuật là lý do

chính để tiến hành nghiên cứu đề tai “ Nghệ thuật trang trí trên kiến trúc va đồ

thờ chùa Bối Khê”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Kiến trúc Phật giáo Việt Nam từ lâu đã la nguồn đề tài lớn cho các nhà

nghiên cứu Văn hóa-Xã hội-Nghệ thuật, đã có nhiều công trình nghiên cứu về

chùa Việt. Với riêng chùa Bối Khê thì đã có không dưới mười nghiên cứu,

khảo sát về các mặt, các khía cạnh của chùa. Nhiều tài liệu và nghiên cứu về

chùa Bối Khê đang được lưu tại Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Viện

Nghiên cứu Hán –Nôm, Viện Khảo cổ học, Viện Nghiên cứu Mỹ thuật, Bảo

tàng Tổng hợp Hà Tây, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Trung tâm bảo tồn và tu

bổ di tích Trung ương, Trường Đại học Khoa học xã hội va nhân văn, với

hang trăm bản vẽ kiến trúc, bản ảnh, thác bản bi ký được thu thập từ trước

năm 1945 tới nay. Các nghiên cứu hầu hết chỉ tập trung làm rõ một vài khía

cạnh, một số di vật, lịch sử nghệ thuật, song có nhiều chỗ chưa thống nhất và

6

chính xác. Nhìn chung chưa thấy nghiên cứu cụ thể, tổng hợp về nghệ thuật

trang trí chùa Bối Khê dựa trên cơ sở Mỹ thuật tạo hình. Có thê điểm qua

những nghiên cứu có trước luận văn nay:

- Viện Viễn đông Bác cổ (1932), Pagodes, temples et maisons de culte

de Hadong, Hà Nội. Đây la cuốn sách tra cứu về kiến trúc do người Pháp tiến

hành tổng hợp, phát hành. Từ khi thành lập Viện Viễn đông Bác cổ

(Imprimerie Tonkinoise) người Pháp đã tiến hành nghiên cứu các di sản lịch

sử văn hóa Việt, phần lớn là các công trình thờ tự ở châu thổ Bắc Bộ. Thông

tin về chùa Bối Khê có được dành số trang lớn, song thiếu tính chính xác ( có

thể là do sai lệch về cách hiểu chữ viết trên bi ký).

- Lâm Biền, Huy Bá (1962),Chùa Bối Khê(Đại Bi Tự), Ha Sơn Bình tư

liệu, bản đánh máy, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội. Nghiên cứu của

hai ông mang tới những ghi nhận khái quát về kiến trúc, tính chất di sản của

di tích chùa Bối Khê. Nghiên cứu có sự sai lệch về các phong cách nghệ thuật

của chùa Bối Khê ( sự nhận nhầm phong cách thời Mạc va Lê Sơ giống thời

Trần).

- Nguyễn Bá Lăng (1973), Kiến trúc Phật giáo Việt Nam,I, NXB Vạn

Hạnh, Sài Gòn. Chùa Bối Khê được nhắc đến, song do tác giả không có điều

kiện khảo sát thực địa nên có nhiều khiếm khuyết đáng tiếc.

- Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ (1981), Chùa Bối Khê ( Đại Bi Tự -

một kiến trúc từ thời Trần), Phòng tư liệu, Viện Mỹ thuật.

- Trần Lâm Quân (1994), Chùa Bối Khê, Khóa luận tốt nghiệp đại học

chuyên ngành khảo cổ học, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội

và Nhân văn, Đại học Quốc Gia, Hà Nội.

7

- Nguyễn Quốc Tuấn (2001), Di tích chùa Bối Khê, Luận án tiến sĩ Khoa

học lịch sử, Bảo vệ luận án tại Viện Khảo cổ học, Hà Nội.

3. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu các di tích tôn giáo Việt Nam để thấy được nét đẹp trong văn

hóa, nghệ thuật của dân tộc. Mục đích chính của luận văn la nghiên cứu nghệ

thuật trang trí trên kiến trúc, đồ thờ tại chùa Bối Khê. Nghiên cứu dựa trên cơ

sở của nghệ thuật tạo hình. Luận văn mong muốn mang lại hiểu biết có tính

hệ thống về nghệ thuật trang trí kiến trúc chùa, trang trí đồ thờ tự, những đặc

điểm thẩm mỹ định hình cụ thể ở chùa Bối Khê.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn la “nghệ thuật trang trí” trên kiến

trúc, đồ thờ tự chùa Bối Khê. Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn kết

cấu kiến trúc chùa Bối Khê, hiện vật còn lưu lại được. Ngoài ra còn mở rộng

so sánh với các chùa khác cùng tính chất thờ cúng, cùng khu vực địa lý và

niên đại lịch sử.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng những phương pháp sau:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tiếp cận, tổng hợp hệ thống các tư

liệu ảnh, văn bản về chùa Bối Khê, lịch sử Phật giáo, kiến trúc đình chùa Việt.

Tra cứu tư liệu văn bản và hình ảnh có liên quan tới đối tượng nghiện cứu tại

thư viện quốc gia, viện mỹ thuật, viện kháo cổ học. Để có cái nhìn đa chiều

hơn về vấn đề nghiên cứu, tra tìm thêm tài liệu về Mĩ học, Nghệ thuật tạo

hình, Kiến trúc, lịch sử Phật giáo. Phân tích, nghiên cứu các tư liệu để tìm ra

giá trị nghệ thuật, đặc điểm nghệ thuật trang trí ở chùa Bối Khê.

8

- Phương pháp diễn dịch: Luận văn sử dụng phương pháp diễn dịch để

trình bày và làm rõ các vấn đề đặt ra.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Triết học, mĩ học, mỹ thuật

học, văn hóa học, xã hội học.

- Phương pháp điền dã, quan sát: Đi tới thực địa chùa Bối Khê để tiếp

xúc với nền chùa, các di vật, và tìm hiểu không gian văn hóa, tôn giáo. Kết

hợp đi thăm một số chùa trong khu vực Hà Nội để có cơ sở so sánh kiến trúc.

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn mang đến cho những người yêu thích nghệ thuật cổ truyền;

hoạt động trong lĩnh vực mỹ thuật; thích chùa Việt va hướng về Phật giáo một

tài liệu về nghệ thuật trang trí kiến trúc, đồ thờ chùa Bối Khê.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn bao gồm phần mở đầu (5 trang), nội dung (60 trang), kết luận

( 2 trang). Phần nội dung của đề tài gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung để nghiên cứu đề tài (13trang)

Chương 2: Nghệ thuật trang trí trên kiến trúc, đồ thờ chùa Bối khê (36 trang)

Chương 3: Giá trị, vai trò của nghệ thuật trang trí kiến trúc, đồ thờ chùa Bối

Khê (11 trang)

Ngoài ra luận văn còn có tai liệu tham khảo, phụ lục ảnh minh họa

9

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG DỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. Khái niệm trang trí, các thể loại nghệ thuật tạo hình

Theo “Từ điển Tiếng Việt” thì “trang trí” la “ Sắp xếp, bố trí các vật có

hình khối, đường nét, màu sắc khác nhau sao cho tạo ra một sự hài hoà, làm

đẹp mắt một khoảng không gian nào đó”[15 ]. Có nhiều quan niệm khác nhau

về khái niệm trang trí, song tựu chung lại là ở mục đích làm đẹp cho vẻ ngoài,

tăng giá trị thẩm mỹ của đối tượng. Tính trang trí cũng có mặt ở các mảng

nghệ thuật điêu khắc và hội họa. “Mỹ thuật là từ chỉ loại hình nghệ thuật có

quan hệ đến sự thụ cảm bằng mắt và sự tạo thành các hình tượng lấy từ thế

giới vật chất bên ngoài để đưa lên mặt phẳng hai chiều hoặc một không gian

ba chiều” [ 14]. Hiện nay chưa có sự nhất quán về quan niệm chuẩn mực mỹ

thuật. Tuy vậy, mỹ thuật có hệ thống giá trị thẩm mỹ riêng, mang tính hàn

lâm, kinh viện để đánh giá mức độ, giá trị nghệ thuật của các tác phẩm. Theo

“Từ điển mỹ học” của Étienne Souriau (1990) thì tiêu chuẩn mỹ thuật mang

tính kinh viện gồm có: “nhạy cảm, mang tới nhiều cảm xúc cho người thưởng

thức, kĩ thuật thể hiện tốt, mức độ diễn tả đạt tới một trong các loại hình mỹ

học”. Trên thế giới, ở Việt Nam chúng ta thường chỉ thừa nhận khái niệm Mỹ

thuật theo nghĩa han lâm va có sự phân biệt rõ rệt giữa mỹ thuật với thủ công

mỹ nghệ, mỹ thuật ứng dụng. Mỹ thuật còn có tên gọi khác là nghệ thuật tạo

hình.

Theo “ Từ điển tiếng Việt ”[15] nghệ thuật tạo hình la “Tạo ra các hình

thể bằng đường nét, hình khối, màu sắc”. Theo “ Từ điển bách khoa toàn

thư” [11] thì nghệ thuật tạo hình la “Thủ pháp sáng tạo nghệ thuật bằng

ngôn ngữ hình khối, màu sắc, chất cảm, không gian, bố cục”. Như vậy, có thể

hiểu nghệ thuật tạo hình nói chung, là nghệ thuật sử dụng một số phương tiện

10

và chất liệu, tạo nên những hình thức trên mặt phẳng và trong không gian.

Những tác phẩm hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc, đồ họa, được coi là những sản

phẩm của lĩnh vực nghệ thuật tạo hình. Bên cạnh đó, nghệ thuật tạo hình còn

được gọi là nghệ thuật không gian, nghệ thuật thị giác… Mỗi loại hình nghệ

thuật thị giác có cách biểu hiện khác nhau tuỳ thuộc vao đặc trưng ngôn ngữ

tạo hình. Có 4 thể loại nghệ thuật tạo hình được chia theo nội dùng và hình

thức thể hiện là Hội Họa, Kiến Trúc, Điêu Khắc va Đồ Họa. [8]

Hội Họa: Nghệ thuật tạo hình được thể hiện thông qua đường nét, hình,

màu sắc chủ yếu ở không gian phẳng (không gian 2 chiều). Các tác phẩm hội

họa được thể hiện trực tiếp va có tính độc bản. Hội họa có không gian ảo chỉ

có thể cảm nhận bằng thị giác. Một đặc trưng nữa của hội họa là tính tạo hình

trực tiếp bằng các yếu tố ngôn ngữ tạo hình: hình, khối, đường nét, màu sắc.

Hội họa là một mảng quan trọng của mỹ thuật.

Đồ Họa: Nghệ thuật tạo hình được thể hiện gián tiếp trên bề mặt 2

chiều thông qua các kĩ thuật in ấn, vì vậy có tính đa dạng về số lượng tác

phẩm, có thể có nhiều bản sao hoặc các tác phẩm độc bản. Ngôn ngữ đặc

trưng của đồ họa la đường, nét, chấm, vạch, hình và màu.

Điêu khắc: Nghệ thuật tạo hình được thể hiện trong không gian ba

chiều (tượng tròn) hoặc hai chiều (phù điêu, chạm khắc). Nghệ thuật điêu

khắc sử dụng các chất liệu như: gỗ, đá, đồng, đất, thạch cao... để tạo nên tác

phẩm nghệ thuật tồn tại và chiếm chỗ trong không gian thực bằng cách tạc,

đục, nặn gò. Điêu khắc có ngôn ngữ tạo hình giống với hội họa va đồ họa,

nhưng được khai thác trên những góc độ khác do tính đặc trung của mình:

khối, hình, đường nét, bề mặt, chất liệu, không gian, màu sắc.

Kiến trúc: Nghệ thuật tạo hình được thể hiện trong không gian ba chiều

và thiên về công năng sử dụng, thông qua các kỹ thuật xây dựng, trang trí. Ở

11

một mức độ nao đó nó có thể coi là tổng hòa ứng dụng của các loại hình nghệ

thuật khác (chủ yếu ở mục đích trang trí các công trình kiến trúc).

1.2. Mối quan hệ giữa trang trí và kiến trúc, điêu khắc với kiến trúc

trong nghệ thuật tạo hình

1.2.1. Mối quan hệ giữa trang trí và kiến trúc

Kiến trúc va trang trí la các loại hình nghệ thuật xuất hiện rất sớm trong

lịch sử xã hội loai người luôn có mối quan hệ gắn bó với nhau bởi tính đặc

thù của nó. Kiến trúc va trang trí đều có ý nghĩa thực dụng rất rõ nét; một mặt

nó la lĩnh vực tinh thần – sáng tạo nghệ thuật va lĩnh vực vật chất – sáng tạo

trong sản xuất vật chất. Các công trình kiến trúc đều có sự xuất hiện của nghệ

thuật trang trí. Sự luân chuyển nhịp nhang, uyển chuyển va sự kết hợp các

đường nét hình học cách điệu va các yếu tố tạo hình hợp thanh hoa văn – họa

tiết trang trí trên kiến trúc. Cũng chính vì vậy, trang trí như một bộ phận hợp

thanh toan bộ công trình kiến trúc, song mặt khắc bản thân nó cũng có thể

được coi la một tác phẩm nghệ thuật hội họa riêng biệt, độc đáo.

Kiến trúc la một loại hình nghệ thuật ma cho đến ngay nay trong nghệ

thuật vẫn còn diễn ra những cuộc tranh cãi rằng, nó có thuộc nghệ thuật hay

không. Xét về chức năng của nó, thì kiến trúc la thực dụng, nhằm thỏa mãn

những nhu cầu vật chất của xã hội, va trước hết la nhu cầu về nha ở, công

trình để lao động, nghỉ ngơi va điều hanh các chức năng xã hội. Nhưng đồng

thời kiến trúc la một nghệ thuật riêng biệt, trong đó cũng như nghệ thuật ứng

dụng, điều có ý nghĩa quan trọng không chỉ la chức năng thực dụng, công

dụng thực tế của các công trình, ma còn la bản chất thẩm mỹ của chúng, sự

tác động giữa tư tưởng với tình cảm, sự thỏa mãn nhu cầu cái đẹp của con

người. Đặc trưng của ngôn ngữ của nghệ thuật kiến trúc la ở chỗ, trong hai

tính năng phục vụ lợi ích va thẩm mỹ, thì tính năng phục vụ lợi ích có ý nghĩa

12

nội dung, mang tích mục đích, tính năng thẩm mỹ mang ý nghĩ hình

thức. Cho nên, các hình tượng của nó mang tính chất ích dụng; mặt khác cái

đẹp về hình thức kết hợp cái ích dụng vật chất và tinh thần lại phản ánh những

tư tưởng chung, về sự khẳng định cuộc sống, về tầm vĩ đại, về sự hùng mạnh

của những tư tưởng thẩm mỹ về cái đẹp.

La nghệ thuật chiếm lĩnh không gian, bằng phương pháp tạo hình, nên

cái đẹp trong kiến trúc được tạo dựng thông qua hình khối, đường nét, các tỉ

lệ, nhịp điệu va kiểu dáng cao - thấp, rộng - hẹp, cong - thẳng, mau - thưa. Do

những điều kiện lịch sử, tôn giáo khác nhau ma các phong cách kiến trúc cũng

khác nhau. Kiến trúc châu Âu khác với kiến trúc châu Á, kiến trúc Thiên chúa

giáo, Hồi giáo, Phật giáo cũng khác nhau. Trong đặc trưng ngôn ngữ của nghệ

thuật kiến trúc tác động, gợi ý nghĩa bằng đặc tính chất liệu của nó từ đất, đá,

gỗ, mây, tre, nứa, lá, kim loại... Kiến trúc bao gồm nhiều thể loại được phân

theo chức năng của công trình.

Trang trí cũng la loại hình có từ lâu đời gắn bó mật thiết với nghệ thuật

kiến trúc, ma đặc điểm nổi bật của nó cũng bao ham tính năng phục vụ lợi ích

va thẩm mỹ. Đặc trưng của nghệ thuật trang trí la hình trang trí (hoa văn). Các

yếu tố hợp thanh hoa văn la họa tiết va nhịp điệu. Trong đó các họa tiết kết

hợp các đường nét hình học theo một kiểu nao đó thì nhịp điệu lại nối các họa

tiết với nhau thanh một khối thống nhất, lặp đi, lặp lại nhiều lần tạo sự hai

hòa, nhịp nhang va thống nhất giữa các yếu tố trong một tác phẩm trang trí.

Có thể thấy sự gắn kết giữa nghệ thuật trang trí va kiến trúc xuất hiện

từ sớm, ngay từ thuở bình minh sơ khai của loai người. Nhu cầu về nơi ở,

không gian sống, nơi sinh hoạt tâm linh,... đã thúc giục con người lao động va

sáng tạo. Những công trình kiến trúc cổ cũng chính la những công trình đậm

tính nghệ thuật. Trong lịch sử mỹ thuật thế giới nói chung, những công trình

kiến trúc phục vụ cộng đồng người đều la nơi thể hiện giá trị văn hóa, nghệ

13

thuật rõ nét, đặc biệt la những công trình kiến trúc tôn giáo. Có thể điểm qua

một vai công trình kiến trúc – nghệ thuật-tôn giáo : Đền Taj Mahal ở Ấn Độ,

khu đồi Acropolis ở Hy Lạp, những Kim tự tháp ở Ai Cập, những Kim tự

tháp đôi của nền văn minh Aztec – Mexico, Angkor Wat ở Campuchia.... Việt

Nam cũng có những công trình kiến trúc-nghệ thuật đẹp, đó la những đền đai,

miếu mạo, chùa chiền trải khắp chiều dai đất nước.

1.2.2. Mối quan hệ giữa điêu khắc va kiến trúc

Điêu khắc là một ngành của nghệ thuật tạo hình, quá trình sáng tạo dựa

trên nguyên tắc về thể tích, hình khối, vật chất trong không gian ba chiều và

chịu sự chi phối của những quy luật tạo hình. Tác phẩm của điêu khắc

thường được tạo ra bằng cách tạo hình hoặc kết hợp vật liệu như kim loại, đá,

thủy tinh, gỗ, đất sét, dệt may, nhựa, polyme, các kim loại nhẹ... Các thể loại

chính của điêu khắc gồm có “tượng tròn” va “phù điêu”. “Tượng tròn” la

danh từ chỉ các tác phẩm điêu khắc tồn tại ba chiều trong không gian . Căn cứ

vào hình thức biểu đạt, có thể chia “tượng tròn” ra thanh các thể loại: chân

dung, nhóm tượng, tượng trang trí nội ngoại thất. “Phù điêu” la một từ Hán

Việt, có thể hiểu như sau : “phù” la nổi, “điêu” la đắp, chạm, khắc. Vậy, “phù

điêu” la hình thức đắp, chạm, khắc làm cho hình nổi, chìm, cao, thấp trên một

mặt phẳng nao đó. Điêu khắc rất hay được sử dụng trong trang trí kiến trúc.

Loại hình tượng tròn có mặt trong bài trí không gian, loại hình phù điêu có

mặt trong trang trí các kết cấu kiến trúc.

Đặt trong mối quan hệ chung giữa các thể loại của nghệ thuật tạo hình,

Kiến trúc và Điêu khắc có mối liên hệ hữu cơ khá bền chặt Tùy theo công

năng, mục đích sử dụng công trình kiến trúc mà có thể loại trang trí tương

xứng. Có thể thấy mối quan hệ này thể hiện ở các mảng tường trang trí phù

điêu đắp nổi, những mảng chạm khắc trang trí kết cấu kiến trúc. Tính trang trí

14

ứng dụng của điêu khắc được khai thác hiệu quả khi kết hợp với kiến trúc.

Điêu khắc gắn bó mật thiết với kiến trúc, vì đều la hình khối, rất dễ hòa quyện

va tô điểm cho nhau. Mối liên hệ hữu cơ giữa điêu khắc va kiến trúc có truyền

thống lâu đời. Hai hình thức nghệ thuật nay có đối tượng nghiên cứu chung la

hình khối. Khối trong kiến trúc gắn với công năng sử dụng rõ rang la phục vụ

con người, khối trong điêu khắc la ngôn ngữ tạo hình đặc trưng.

Điêu khắc trong trang trí kiến trúc có hai loại: một loại thuần túy có

tính chất trang trí, lam đẹp cho kiến trúc, như hình rồng phượng trên nóc nha,

đầu đao. Loại thứ hai được sáng tác nhằm phục vụ tính chất, nội dung, tư

tưởng tôn giáo tín ngưỡng của công trình, như các tượng thờ. Có thể thấy điêu

khắc góp mặt trong trang trí kiến trúc với cả hai loại hình của mình la tượng

tròn va phù điêu (chạm khắc, đắp nổi). Điêu khắc có vai trò quan trọng đối

với trang trí kiến trúc, lam tăng giá trị thẩm mỹ, nghệ thuật, công năng sử

dụng cho các công trình kiến trúc. Trong nền mỹ thuật truyền thống Việt

Nam, nghệ thuật điêu khắc kết hợp với trang trí kiến trúc tôn giáo la đặc điểm

điển hình.

1.3. Khái quát về đồ thờ trong kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của người

Việt

Kiến trúc tôn giáo va đồ thờ là mối liên kết không thể tách rời. Gs. Trần

Lâm Biền đã viết “Không có một di tích tôn giáo nao không có đồ thờ. Đồ thờ

xác định tư cách cho kiến trúc cùng với hệ thống tượng liên quan để trở thành

di tích tôn giáo tín ngưỡng. Ngược lại, nếu không có đồ thờ thì cùng lắm di

tích đó chỉ mang hình thức một nha trưng bay” [2, tr.5] Có thể thấy đồ thờ có

vai trò quan trọng trong kiến trúc tôn giáo, cụ thể hơn la kiến trúc chùa Việt.

Đồ thờ không chỉ mang giá trị tâm linh mà còn là vật mốc đánh dấu chặng

đường phát triển của lịch sử, con người và nghệ thuật. Khi nghiên cứu những

15

kiến trúc cổ, đồ thờ cũng đóng góp tích cực vào việc xác định giá trị xác thực

của kiến trúc. Thêm vao đó, bản thân đồ thờ cũng la một mảnh đất đặc biệt

của nghệ thuật trang trí. Đồ thờ gần như la một gương mặt đại diện văn hóa

nghệ thuật tạo hình dân tộc. Do vậy, nghiên cứu về đồ thờ cũng la một cách

hiệu quả để tìm hiểu lịch sử nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Đồ thờ được cho

là có sức linh nhất định, thông qua nó con người thể hiện mình và lòng thành

kính với những đấng thiêng liêng. Theo Gs. Trần Lâm Biền, có thể chia đồ

thờ theo hai dạng chính : Đồ thờ mang tính nhân cách va đồ thờ phi nhân

cách. [2, tr.46]

- Đồ thờ mang tính nhân cách: Từ thời cổ đại con người đã từng tin

rằng có một linh hồn siêu hình chi phối muôn loài. Theo đa phát triển của tư

duy và lịch sử, con người luôn chuẩn hóa hình tượng thiêng liêng ấy theo

chính hình tượng của con người. Thần linh nhân cách nảy sinh. Tư duy con

người đa diện và thần linh cũng đa diện theo. Đồ thờ mang tính nhân cách

hữu hình hóa thanh tượng thờ. Tượng thờ cũng mang những đặc điểm hình

tượng của con người. Đặc điểm này có thể thấy ở hầu như tất cả những cái nôi

của loai người. Đối chiếu tính nhân bản đó, đồ thờ mang tính nhân cách với

người Việt cũng mang đặc điểm chung ấy. Tượng thờ của người Việt thể hiện

tư duy văn hóa tín ngưỡng, cũng la tác phẩm nghệ thuật điêu khắc. Tượng thờ

xuất hiện trước, rồi những thứ có liên quan đến tượng xuất hiện theo.

- Đồ thờ phi nhân cách: Là những đồ thờ không được gán cho những

đặc điểm mang tính người, mang ý nghĩa biểu tượng, được con người dùng để

“giao tiếp” với những đấng thiêng liêng. Đồ thờ phi nhân cách cũng la một đề

tài nhiều đất diễn cho mỹ thuật ứng dụng, cụ thể hơn la nghệ thuật trang trí.

Lịch sử phát triển của những nền văn hóa lớn trên thế giới đã chứng

mình rằng, tín ngưỡng tôn giáo là thứ dẫn động, tác động đến con người rất

16

mạnh. Từ cổ đại, từ lúc tồn tại “tư duy vạn vật hữu linh” đã những vị thần

cây, thần đá, tô tem thờ linh vật. Cho tới khi tôn giáo xuất hiện, những “vị

giáo chủ, thần chủ” được gán cho những quy chuẩn mang tính tuyệt đối về

đạo đức, trí tuệ, sinh mệnh. Không nằm ngoai đặc điểm chung đó, ngay từ

thời cổ đại, người Việt đã có tín ngưỡng thờ vật, rồi thờ Thần. Việt Nam là

một quốc gia có nền văn minh lúa nước cổ, sớm có những giao cảm với thế

giới tự nhiên. Nhu cầu dự đoán, mong muốn mùa mang tươi tốt đã dẫn tới

những đúc kết kinh nghiệm phục vụ lao động sản xuất. Khi Phật giáo vao đất

Việt vào khoảng thế kỉ thứ 2 SCN, tín ngưỡng thờ Thần của người Việt nhanh

chóng thu nhận, hòa tan và biến đổi Phật giáo thanh tôn giáo tín ngưỡng bản

địa. Đồ thờ của người Việt có thêm nhiều hình thức mới. ( nói một cách hình

tượng thì điện Thần của người Việt có thêm nhiều nhân vật mới). Hệ thống đồ

thờ nhân cách, ban thờ và những thứ liên quan xuất hiện trong kiến trúc tôn

giáo như một lẽ tự nhiên.

1.4. Khái quát về kiến trúc chùa Việt, giới thiệu chùa Bối Khê

Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam châu Á, vừa dựa vào lục địa vừa

hướng ra biển, la điểm dừng chân của các con đường giao thông giữa Ấn Độ

Dương va Thái Bình Dương. Do đặc điểm vị trí địa lý, Việt Nam dù không

sinh ra một tôn giáo lớn nao, nhưng từ rất sớm đã la nơi gặp gỡ của nhiều tôn

giáo khác nhau: Phật, Nho, Lão...Trong quá trình phát triển lịch sử, các tôn

giáo không những không triệt tiêu lẫn nhau mà còn giao thoa với nhau, hòa

trộn thành một hỗn hợp tôn giáo có màu sắc phong phú. Phật giáo vào Việt

Nam trong giai đoạn Bắc thuộc ( khoảng thế kỉ 2 trước công nguyên ),nhanh

chóng bắt rễ và phát triển trong lòng dân tộc. Muốn phát triển phải có nơi

truyền đạo, có giáo đường, và những kiến trúc tôn giáo đầu tiên ra đời.

17

Sự ra đời của kiến trúc chùa Việt chưa có ghi nhận cụ thể, vẫn còn có

quan niệm mang tính huyền sử; có thể từ thời Cao Biền, có thể từ bốn ngôi

chùa quanh khu vực Luy Lâu, thời kì Sĩ Nhiếp cai trị nước ta. Bốn ngôi chùa

có từ thời Bắc thuộc la Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi va Pháp Điện. Có thể

thấy màu sắc của văn minh nông nghiệp lúa nước ở tên các chùa nay; qua đó

có thể thấy sự “Phật hóa” thần linh tại các am, miếu thờ. Qua thời gian, những

ngôi chùa thời Bắc thuộc đến nay không còn lại dấu vết gì ngoài ghi chép

trong thư tịch cổ. Có thể tìm hiểu về đặc điểm của kiến trúc chùa Việt qua

từng thời kì với những cuốn sách của Pgs, Ts Chu Quang Trứ. [23]

Thời Lý: Xét theo dấu tích, thư tịch rõ ràng thì thời Lý, chùa đã định

hình về dạng kiến trúc. Bốn ngôi chùa có từ thời Bắc thuộc là Pháp Vân, Pháp

Vũ, Pháp Lôi va Pháp Điện. Có thể thấy màu sắc của văn minh nông nghiệp

lúa nước ở tên các chùa nay; qua đó có thể thấy sự “Phật hóa” thần linh tại

các am, miếu thờ. Qua thời gian, những ngôi chùa thời Bắc thuộc đến nay

không còn lại dấu vết gì ngoai ghi chép trong thư tịch cổ. Phật giáo vao nước

ta từ thế kỉ thứ 2, ngay từ thời Đinh- Tiền Lê đã có hình thức tu Phật giáo Mật

Tông, song cho tới nay chỉ còn dấu tích ở các di vật khảo cổ. Có thể lấy triều

Lý lam cơ sở để xác định. Thời Lý chùa tháp được xây dựng nhiều, có thể

chia làm 4 loại với kết cấu, bố cục khác nhau. Chùa dựng trên một cây cột, có

dáng hình của một bông hoa sen cách điệu. Loại thứ hai là chùa vừa thờ Phật

vừa la nơi Vua nghỉ khi đi du ngoạn, dạng này chùa rất lớn, thường có bút

tích của Vua. Loại thứ ba không có tháp, không phải hành cung. Loại thứ tư la

chùa nhỏ ẩn trong thôn xóm, thường phát triển lên từ am thờ, miếu thờ.

Thời Trần: Còn khá nhiều kiến trúc Phật giáo còn nguyên vẹn cho tới

nay, có thể chia ra hai loại chùa chính: Chùa do triều đình xây va chùa lang do

quý tộc, bình dân xây dựng. Sở dĩ có sự chia ra như vậy, vì thời Trần, Việt

Nam đã có một hệ thống tư tưởng Thiền riêng, do vua Trần Nhân Tông lập ra,

18

tên la “thiền phái Trúc Lâm”. Cuối thời Trần do sự phân hóa xã hội phát triển

mạnh nên màu sắc văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng cũng biến đổi theo.

Thời Hậu Lê: Phật giáo bị nha nước hạn chế, không xây chùa mới, chùa

cũ hỏng bỏ hoặc bị dồn lẫn, vậy nên số lượng dấu tích vật chất của kiến trúc

rất ít ỏi. Triều Mạc, Phật giáo được phục hồi. Thời Mạc, quan niệm về Phật

giáo khác những thời trước, hướng về “hiện thực” va đại chúng hơn, nên có

sự thay đổi lớn về kiến trúc Phật điện, tượng thờ. Không gian chùa làng trở

thanh trung tâm văn hóa lang xã.

Từ thế kỉ XVII cho tới thế kỉ XX: Do đặc điểm nội chiến ( Trịnh -

Nguyễn); triều Nguyễn đề cao Nho giáo, Phật giáo xuống hàng thứ yếu, nên

không có sự thay đổi lớn về phong cách kiến trúc, chỉ có thay đổi về quy mô,

kích thước và hình thức, đề tài trang trí. Mặt bằng kiến trúc kiểu “ nội Công

ngoại Quốc” ra đời. Do ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, tính chất Phật

giáo Việt chuyển dần sang Đại thừa, nên hệ thống đồ thờ tự có thay đổi, thêm

nhiều đề tài mới cho nghệ thuật điêu khắc, trang trí. Có thể nhận định rằng,

mỹ thuật truyền thống Việt Nam được thể hiện rõ nét ở các kiến trúc tôn giáo,

chủ yếu la chùa va đình.

Chùa Bối Khê có tên chữ Hán là Đại Bi Tự, là một chùa cổ, có từ lâu

đời, nằm trên đất làng Bối Khê, nằm hướng ra con sông cổ Đỗ Động huyền

thoại ( nay đã biến mất) ở đất Oai Lộ xưa ( nay la Thanh Oai, Ha Nội). Đây la

vùng đất xưa kia thuộc lãnh địa của sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, một trong 12 sứ

quân ma vua Đinh mất nhiều thời gian dẹp loạn. Chùa có thờ Phật và Thánh

trong cùng một khuôn viên. Chùa thờ Đức Thánh Bối, một nhân vật lịch sử có

thật. Đức Thánh Bối có tên thật là Nguyễn Nữ (hay còn gọi là Nguyễn Nhũ),

tự Bình An, hiệu Đức Minh Chân Nhân. Thân phụ ngài là Nguyễn Hương,

thân mẫu là Trần Thị Hoa. Ngai sinh ra vao đầu thời Trần, hóa năm 95 tuổi.

19

Đức Thánh Bối xuất hiện vao đầu thời Trần, những câu chuyện về việc Ngài

thường xuyên thị hiện pháp thuật để giúp đời cũng được ghi lại trong văn tự

cổ. ( Trong sách Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái)

Theo nhiều nhà nghiên cứu (Gs Trần Lâm Biền, Pgs, Ts Chu Quang

Trứ, Gs Ha Văn Tấn) phân tích, so sánh phong cách nghệ thuật trang trí, kiến

trúc chùa thì Bối Khê được xây dựng vào khoảng năm 1338, thời Trần. Có

nhiều nghiên cứu mới của giới khảo cổ học, bằng các phương pháp xác định

niên đại kỹ thuật cao kết hơp với tìm hiểu các bi kí, di vật mới được phát hiện

ở Thượng Điện, đã cho một cách hiểu khác. Căn cứ theo nội dung văn bia

mới phát hiện ghi lại những lần trùng tu, thì đã có một ngôi chùa Phật lập

trước năm 1226, đến khoảng năm 1320 thì xuất hiện am thờ Thánh Bối. Chùa

Bối Khê là một kiến trúc tôn giáo có niên đại sớm, còn giữ được tương đối giá

trị nghệ thuật trang trí và kiến trúc.

Tiểu Kết:

Mỹ thuật là một loại hình nghệ thuật ra đời sớm. Từ thời cổ đại con

người đã dùng những nét vẽ để ghi lại cuộc sống, truyền đạt thông tin, kinh

nghiệm lao động sản xuất. Ngay từ sớm, nghệ thuật tạo hình đã gắn bó với

con người, la phương tiện chuyển tải đời sống tinh thần. Khi thế giới quan của

con người ngày càng mở rộng va đa diện, nghệ thuật tạo hình cũng đa sắc, đa

chiều hơn. Nghệ thuật tạo hình được ứng dụng vào cuộc sống. Nhu cầu làm

đẹp cả về thể xác lẫn tinh thần của con người là có thật, luông tăng tiến theo

từng thời kì. Qua thời gian, nghệ thuật tạo hình có nhiều biến đổi, nhưng tính

ứng dụng vào cuộc sống thì không hề mất đi. Trong nghệ thuật tạo hình, tính

trang trí có mặt ở điêu khắc và hội họa. Trang trí trên kiến trúc là một dạng

ứng dụng của nghệ thuật tạo hình.

20

Thế giới đa chiều, hiểu biết về tự nhiên còn hạn chế, con người từ thời

cổ đại bị ảnh hưởng bởi mẹ thiên nhiên rất lớn. Lý giải về sự ra đời của những

hiện tượng siêu nhiên, thiên tai, con người hướng về một lực lượng thiêng

liêng siêu hình nao đó chi phối vạn vật sống. Tín ngưỡng ra đời. Tín ngưỡng

thờ cúng la đặc điểm chung của mọi nền văn hóa. Đồ thờ cúng ra đời phục vụ

văn hóa tín ngưỡng. Tín ngưỡng phát triển, đồ thờ cũng đa dạng theo. Có thể

phân loại đồ thờ thành hai dạng chính : Đồ thờ có nhân cách và phi nhân cách.

Đồ thờ có nhân cách la tượng thờ, đồ thờ phi nhân cách là những thứ liên

quan đến tượng thờ, linh thú, linh vật. Nghệ thuật tạo hình cũng góp mặt trong

mảng đời sống tinh thần này,với gần như toan bộ các loại hình của mình :

Điêu Khắc, Hội Họa, Đồ Họa và Kiến Trúc. Chính những giá trị, quy chuẩn

thẩm mỹ của nghệ thuật là những thước đo, cơ sở xác định giá trị và chức

năng của đồ thờ. Những nhu cầu về tín ngưỡng thờ cúng đã dẫn tới sự phát

triển tín ngưỡng thành tôn giáo. Những công trình kiến trúc-mỹ thuật-tôn giáo

luôn có giá trị nghệ thuật, giá trị văn hóa.

Văn hóa tín ngưỡng của người Việt phát triển từ khá sớm. Kể từ khi

đạo Phật vàoViệt Nam, kiến trúc Phật giáo được xây dựng rất nhiều. Có thể

thấy rất nhiều tác phẩm nghệ thuật chạm khắc trang trí kiến trúc, nghệ thuật

điêu khắc tượng thờ ở những kiến trúc tôn giáo như Đình, Chùa. Nghệ thuật

tạo hình cổ Việt Nam tồn tại ở các kiến trúc Tôn giáo. Kiến trúc chùa Việt là

một sự tổng hòa của nghệ thuật trang trí, kĩ thuật xây dựng, cảnh quan môi

trường va không gian văn hóa – nghệ thuật. Kiến trúc chùa Việt luôn có sự

góp mặt của nghệ thuật trang trí. Mối quan hệ hữu cơ giữa kiến trúc va điêu

khắc thể hiện trên những mảng chạm trang trí kết cấu kiến trúc. Kiến trúc

chùa Việt la nơi lưu giữ những đặc điểm của mỹ thuật truyền thống.

Từ thế kỉ 17 ở Bắc Bộ, chùa tiền Phật hậu Thánh khá phổ biến. Trong

loại hình chùa này, sự bai trí tượng thờ và kiến trúc không đi theo một mô

21

thức quy phạm mà tùy vào sự chuyển hóa chức năng thờ cúng dẫn đến cách

bố trí phù hợp. Ở đồng bằng Bắc Bộ có ba dạng chùa Tiền Phật hậu Thánh

nếu phân loại dựa theo đặc điểm của Thánh, số lượng Thánh được thờ. Đó la

Thánh lịch sử, Thánh huyền thoại, Thánh là hậu thân của Phật; chùa thờ một,

hai và ba Thánh. Chùa Bối Khê thờ thánh lịch sử , huyền thoại kết hợp, kiến

trúc va trang trí thay đổi theo chức năng thờ cúng. Chùa Bối Khê là một kiến

trúc tôn giáo điển hình. Chùa có niên đại vào loại cổ, nằm trên một khu vực

địa lý khá đặc biệtChùa Bối Khê có kiến trúc kiểu tiền Phật hậu Thánh. Hệ

thống đồ thờ ở chùa Bối Khê được bố trí, sắp đặt trong không gian kiến trúc

nhằm xác định chức năng tôn giáo của kiến trúc. . Quần thể kiến trúc chùa

Bối Khê là một phức hợp độc đáo về nghệ thuật trang trí trên kiến trúc va đồ

thờ.

22

Chương 2

NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN KIẾN TRÚC, ĐỒ THỜ CHÙA

BỐI KHÊ

2.1. Mặt bằng tổng thể kiến trúc chùa Bối Khê, phân loại hệ thống đồ

thờ

2.1.1. Mặt bằng tổng thể kiến trúc chùa Bối Khê

Chùa Bối Khê gồm nhiều thành phần kiến trúc khác nhau , hiện được

bố cục trên một khoảnh đất có chiều dài 158,20m, rộng 92m, tổng diện tích

14.554,40m2. Trên mặt bằng này,các thành phần kiến trúc được sắp xếp theo

trục từ Tây sang Đông theo thứ tự như sau:

- Năm ngôi tháp cạnh đường chính của làng, xây theo thứ tự từ trái

sang phải. Toàn bộ các tháp được bao quanh bằng tường gạch xây trát vữa

đơn giản dài 13,80m, rộng 6,48m, cao 1,15m.

- Đền thờ Đức Ông có quy mô nhỏ, mặt bằng chữ Đinh, dai 5,10m.

Chiều rộng là 5,30m (tính cả chuôi vồ). Đền nằm ở góc khoảng sân trước Ngũ

Không Môn, gần cùng một hàng ngang với các tháp trên.

- Đường vào chùa lát gạch chỉ cắm đứng, dài 70m, rộng 3.5m. Hai bên

đường là khoảng sân đất trống trồng cây đa, cây đề. Góc sân bên phải phía

ngoai la Đền Đức Ông, thẳng vao trong la Ngũ Không Môn.

- Ngũ Không Môn. Kiến trúc nay được gọi tên theo các câu đối chính

tại chỗ. Kiến trúc gần giống nghi môn, đồ sộ, mở thành 5 cổng, kết hợp với

tường xây chắn hết chiều ngang của cả khoảng sân đất trước Ngũ Không

Môn.

23

- Cầu gạch. Cầu bắc qua con lạch trước Tam Quan ma khi xưa chính la

con sông Đỗ Động. Cầu xây bằng gạch chỉ dài 9,30m, rộng 4m.

- Tam Quan, giếng va ao chùa. Trước Tam Quan có hai phiến đá lớn

đặt sát nhau, vốn được coi là vết chân của Đức Thánh Bối. Đối xứng với Tam

Quan, gần hai cổng ngách là giếng chùa, bên phải la ao chùa. Ao chùa đã bị

lấp và biến dạng, không quy chuẩn như giếng.

- Sân chùa Phật. Sân chùa được lát bằng gạch vuông Bát Tràng. Trên

sân có một sập đá lớn đặt ở giữa sân, cách mép Tiền Đường 6,35m. Sập có

dạng khối hộp chữ nhật, mặt phẳng, chân dạng quỳ dạ cá, xung quanh thành

sập chạm khắc hình rồng chầu đuôi xoắn, rồng mặt hổ phù, hoa sen... Sập là

nơi đặt kiệu Đức Thánh Bối khi tiến hành các nghi lễ. Phía trước sập có 2 gốc

cây đại, tượng 2 voi lớn đặt trên bệ liền khối.

- Chùa Phật va cung Thánh. Đây la hai cụm kiến trúc chính và quan

trọng nhất của chùa Bối Khê. Về phối cảnh kiến trúc thì có sự liên kết với

nhau thành một khối, song về chức năng tôn giáo va sắp xếp kiến trúc trọng

yếu thì là hai cụm khác nhau. Chùa Phật bao gồm các tòa nhà Tiền Đường,

Thiêu Hương, Thượng Điện. Hai dãy hành lang và một phần của tòa Đại Bái(

hai gian chái, hai gian hồi) thuộc cơ bản vào cung Thánh phía sau. Tòa Thiêu

Hương nối liền với gian giữa của Tiền Đường với Thượng Điện. Cấu trúc này

tạo cho mặt bằng của riêng chùa Phật có hình chữ Công (I). Đây la loại hình

phân loại mặt bằng của chùa ở Việt Nam nói chung. Cung Thánh gồm tòa Đại

Bái, phần nối gian giữa Đại Bái và Hậu cung (Cung Tổ). Sự kết nối của ba tòa

nha lam cho cung Thánh cũng có mặt bằng hình chữ Công (I). Hai chữ Công

nay nằm trọn vẹn trong một chữ Quốc (chữ Hán). Chức năng tôn giáo thờ cả

Phật và Thánh trong một khuân viên định hình kiến trúc chùa Bối Khê là loại

“ tiền Phật hậu Thánh.”

24

- Các công trình kiến trúc khác gồm nhà Bia và khu nhà ở của sư trụ trì,

nhà thờ Tổ. Trên mặt bằng tổng thể của chùa Bối Khê, ta thấy có năm tháp,

một Ngũ Không Môn, một Tam Quan, một cụm kiến trúc chùa Phật, một cụm

kiến trúc Cung Thánh và một số kiến trúc phụ khác. Các thành phần kiến trúc

chính của chùa đều nằm trên một trục thẳng dai theo hướng Tây sang Đông.

Trong các bộ phận kiến trúc, phần chùa Phật, cung Thánh, Ngũ Không Môn,

Tam Quan có giá trị nghệ thuật cao. Các kiến trúc phụ, tháp, giếng cổ có cấu

trúc đơn giản.

2.1.2. Phân loại hệ thống đồ thờ

Đồ thờ là một bộ phận quan trọng trong kiến trúc chùa Việt. Đồ thờ thể

hiện tính thiêng, quyết định chức năng tâm linh của kiến trúc. Hiện quan

niệm, cơ sở để nghiện cứu vai trò, giá trị của đồ thờ trong kiến trúc tôn giáo

chưa có sự thống nhất. Áp dụng theo cách phân loại đồ thờ của Gs Trần Lâm

Biền [2, tr.176- 178] ta có thể chia đồ thờ thành hai loại chính : Đồ thờ nhân

cách va đồ thờ phi nhân cách. Bản thân đồ thờ đã la những tác phẩm ứng

dụng của nghệ thuật tạo hình. Tượng thờ(đồ thờ nhân cách) là tác phẩm của

nghệ thuật điêu khắc. Ban thờ và những thứ liên quan(đồ thờ phi nhân cách)

lại là sản phẩm ứng dụng, la đối tượng, không gian thể hiện của nghệ thuật

trang trí. Hệ thống đồ thờ của chùa Bối Khê có số lượng tương đối lớn, có thể

áp dụng phương pháp phân loại thành hai dạng chính trên.

Đồ thờ nhân cách: Đồ thờ nhân cách gồm có tượng thờ và những thứ

liên quan đến tượng. Tổng số tượng thờ có trong chùa la 92 pho, được bố trí

theo mặt bằng kiến trúc tiền Phật hậu Thánh. Có một số tượng bị mất, đã thay

thế bằng tượng khác ít giá trị nghệ thuật hơn.

+ Tượng thờ ở Phật điện : Khu chùa Phật gồm có 3 tòa chính là Tiền

Đường, Thiêu Hương va Thượng điện. Tổng số có 27 tượng ở khu thờ Phật,

trong đó 20 pho ở Thượng Điện, 4 pho ở Thiêu Hương, 3 pho ở Tiền Đường.

25

Tất cả la tượng gỗ. Trong kết cấu kiến trúc chùa Bối Khê thì khu chùa Phật

nối với khu thờ Thánh bằng hai hành lang . Hai hành lang chạy song song

bao lấy cả khu chùa Phật và cung thánh, (chính là chữ Quốc vòng ngoài). Hai

hanh lang có 18 tượng La Hán bằng đất.

+ Tượng thờ ở cung Thánh: Khu thờ Thánh chùa Bối Khê có tổng số 27

tượng gỗ, bố trí ở hai khu chính Đại Bái và Hậu Cung. Khu Đại bái có 13 pho

đặt thành 4 cụm chia đều ở hai bên nối với hành lang chung của chùa. Tượng

ở Hậu cung có 14 pho bằng gỗ, được chia thành 2 nhóm : một nhóm 4 pho ở

hai nhang án chính giữa, nhóm kia 10 pho bố trí chia đều hai bên nhang án

chính, hai gian chái, sát vách Hậu Cung.

Đồ thờ phi nhân cách: Bao gồm nhang án và những thứ có liên

quan,văn bia va sắc phong, sập đặt kiệu thờ, 2 chậu “cây mệnh” ( theo cách

gọi của dân lang)...Đồ thờ tự ở Bối Khê khá nhiều, có một số đồ quý bị mất.

Đồ bị mất gồm có 5 chân đèn gốm men, bát hương thời thời Mạc, tất cả đều

có minh văn. Đồ thờ ở chùa Bối Khê hầu hết là di sản của thời Nguyễn. Một

số đồ thờ giá trị nghệ thuật: ban thờ đá hoa sen thời Trần, mảng đá móng bệ

hoa sen chạm phong cách trang trí thời Lý, các bia đá từ Lê sơ đến Nguyễn,

hai quả chuông đồng treo trên một gác chuông Tam Quan, hai cây hương đá.

Hệ thống đồ thờ góp phần định hình kiến trúc va xác định giá trị tôn

giáo, giá trị nghệ thuật của chùa Bối Khê.

2.2. Các mô típ trang trí mang tính biểu tượng trên kiến trúc, đồ thờ

chùa Bối Khê

Từ “biểu tượng “ trong tiếng Hán bao gồm hai thành tố: “biểu” là dấu

hiệu, là sự bộc lộ, phô bày; “tượng” la hình (tượng). Thoạt tiên, biểu tượng

được dùng theo một nghĩa thực dụng: là một vật (đá, ngọc, sành, hay gỗ)

được chia làm hai trong một giao ước như tín vật, khi gặp nhau chắp lại để

làm tin. Biểu tượng la phương tiện phản ánh tư duy, hanh vi, khát vọng, kể cả

26

điều cấm kỵ, ám ảnh, sợ hãi. Biểu tượng thể hiện những góc khuất của tiềm

thức và vô thức, cho nên biểu tượng “bộc lộ rồi lủi trốn; càng tự phơi bầy

sáng tỏ, nó lại càng tự dấu mình đi. Các biểu tượng tiết lộ mà che dấu và che

dấu mà tiết lộ” (Gurvitch). Biểu tượng la phương tiện chuyển tải tư tưởng,

thông điệp vượt ra ngoài khuôn khổ của dấu hiệu, hình ảnh, âm thanh. Biểu

tượng mang đến nhiều điều bất khả tri giác. Nhà từ điển Pháp André Lalande

định nghĩa: “Biểu tượng là cái biểu hiện một cái khác căn cứ vào một tương

ứng loại suy”. Hay đơn giản hơn, “biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, bằng

con vật sống động hay đồ vật, nó biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình

ảnh cụ thể của một sự hay một điều gì đó”. (Petit Larousse, 1981). Sáng tạo ra

biểu tượng đòi hỏi một trình độ tư duy trừu tượng nhất định. Việc sử dụng mô

típ trang trí có ý nghĩa va biểu tượng thể hiện quan niệm, tư tưởng của chủ

thể. Những mô típ trang trí được sử dụng ở kiến trúc tôn giáo cũng bao ham

những quan niệm, tư tưởng của xã hội, tư duy nghệ thuật tạo hình thuộc mỗi

thời kì lịch sử. Sau khi tham khảo sách Thông qua tham khảo sách “Trang trí

trong mĩ thuật truyền thống của người Việt” [4] thấy rằng trong điêu khắc

trang trí chùa Bối Khê, các mô típ trang trí có ý nghĩa va biểu tượng gồm 3

chủ đề chính: thiên nhiên - vũ trụ; thực vật; linh thú, động vật.

- Mô típ thiên nhiên – vũ trụ:

+ Mô típ Thái cực: Thái cực được quan niệm là khởi nguyên của vũ trụ.

Thái cực được diễn tả bằng một biểu tượng dưới dạng một hình tròn, ở giữa

có đường lượn hình chữ S. Một nửa màu trắng (biểu tượng cho dương) có

chấm đen (âm), nửa bên kia mau đen (biểu tượng cho âm) có chấm trắng

(dương). Thái cực là nguồn gốc, là sự bắt đầu của sự sống. Sự chuyển động

của Thái cực sản sinh ra âm - dương. Âm dương vận động sản sinh ra vạn

vật. Biểu tượng Thái cực mang ý nghĩa về sự khởi đầu, hoàn hảo, toàn vẹn,

mang lại điềm lành, hạnh phúc. Đây la mô típ trang trí mang ảnh hưởng của

27

Đạo Giáo, xuất hiện ở chùa Bối Khê ở vị trí mặt bên của sập đá thờ đặt trước

sân nhà Tiền Đường. Mô típ trang trí này xuất hiện không nhiều.

+ Mặt trời, mặt trăng: Hình tượng mặt trời biểu tượng cho sự chủ động

và sự thống lĩnh. Mặt trời la thái dương hay đại diện cho nguyên lý thuần

dương, biểu hiện của dương tính mạnh mẽ. Mặt trăng la hình ảnh mang

nguyên lý đối lập với mặt trời. Xét theo nguyên lý âm dương, mặt trăng

mang tính thuần âm, liên quan đến phụ nữ. Mặt trăng mang lại điềm lành,

hạnh phúc. Trong chạm khắc trang trí kiến trúc, mô típ mặt trời và mặt trăng

thương xuất hiện dưới dạng “lưỡng long chầu nhật, lưỡng long chầu nguyệt”.

Môtíp nay thường được bố trí ở vị trí trung tâm, trang trọng, như cửa võng,

bàn thờ, ở trên nóc kiến trúc, trên trán bia đá. Mô típ mặt trời được sử dụng

với hình tượng “lưỡng long chầu nhật”, được đắp nổi bằng vữa có gắn mảnh

sanh, kính đỏ trên nóc cung Thánh chùa Bối Khê. Mô típ lưỡng long chầu

nhật (nguyệt) còn được sử dụng tren nóc mai Ngũ Không Môn, Tam Quan và

Thượng điện ( những thành phần kiến trúc chính của chùa Bối Khê).

+ Nước: Đối với cư dân nông nghiệp lúa nước, nước là nguồn sống của

con người và vạn vật. Hình tượng sóng nước thường là những môtíp được bố

trí ở phía dưới của bố cục, gồm những đường lượn cong đều. Nhiều nhà

nghiên cứu mỹ thuật nhận thấy ở môtíp nay có hình tượng lưỡng nguyên: vừa

la hình tượng cây, vừa mang hình tượng núi. Trong nghệ thuật trang trí kiến

trúc, mô típ nước thường được sử dụng dưới dạng đề tai như rồng phun nước,

cá chép hoá rồng... Nước luôn ở thế động va được cách điệu thanh sóng nước

như hình vẩy cá xếp lớp. Mô típ trang trí nước được sử dụng khá nhiều trong

trang trí kiến trúc, trang trí đồ thờ chùa Bối Khê.

+ Mây: Mây mang đến những dấu hiệu tốt lành, hạnh phúc. Đối với cư

dân nông nghiệp, mây dấu hiệu báo hiệu cơn mưa. Cuộc “mây mưa” còn

28

được ví như hanh vi tính dục, có ý nghĩa phồn thực. Đối với cộng đồng, cá

nhân, mây mang đến điềm báo cát tường, như mây ngũ sắc cũng có nghĩa la

ngũ phúc. Trong những lễ tế thần, người xưa quan niệm có ứng nghiệm là khi

có những đám mây trắng hoặc mây ngũ sắc hiện ra. Với ý nghĩa trên, hình

tượng mây được những người nghệ nhân dân gian xưa bố trí trong những đề

tài trang trí cùng với Tứ linh như long vân khánh hội, long ẩn vân, phượng

mây...

+ Tia chớp: Hệ quả của mối quan hệ lửa va nước, dấu hiệu báo trước

cơn mưa la tia chớp, sét. Hình tượng của tia chớp có ý nghĩa giao hòa để tạo

ra mưa thuận, gió hòa. Tia chớp còn là biểu tượng của thanh gươm, tia sáng

mặt trời. Trên trang trí kiến trúc chùa Bối Khê, hình tượng tia chớp thường

xuất hiện cùng với hình rồng, thể hiện sự uy quyền, siêu linh. Đặc biệt là ở

hình tia chớp hình chữ S trên đầu rồng thời Trần.

Mô típ trang trí thực vật:

Mô típ trang trí thực vật có ở chùa Bối Khê gồm: Tùng cúc trúc mai (tứ

quý); hoa sen, hoa cúc, cây đao, Tứ quý hóa Tứ linh, hoa chanh, dây leo. Hoa

sen, hoa cúc thuộc hệ mô típ Phật giáo, xuất hiện ở trang trí kiến trúc khu

chùa Phật, trên trang trí các bệ tượng thờ. Các hình tượng thực vật còn lại

thuộc hệ mô típ Đạo giáo, đặc trưng của phong cách nghệ thuật Nguyễn

muộn, xuất hiện với mật độ dày ở khắp các thành phần kiến trúc của chùa

Bối Khê.

Mô típ trang trí động vật:

Người xưa quan niệm loai động vật trong thiên nhiên được chia ra 5

loại gồm: lông vũ (phượng hoàng), lông phủ (kỳ lân), lông trần (con người),

loài có vẩy (con rồng) và loài có mai (con rùa). Lục súc gồm: trâu (ngựa), bò,

lợn, chó, dê, ga. Ngũ tính gồm 5 loại thú, trừ con chó. Đó la các loại thú dùng

29

để hiến sinh trong tế lễ thần linh. Trong điêu khắc trang trí kiến trúc tôn giáo,

có 2 loại chủ yếu là linh thú (những con thú thiêng có tính biểu tượng cao) và

những loại thú khác.Sử dụng những mô típ trang trí động vật, người xưa thể

hiện những thông điệp có tính tư tưởng và quan niệm nghệ thuật truyền thống.

Ở kiến trúc tôn giáo Bối Khê, có những mô típ trang trí nổi bật sau:

+ Hình Rồng: Con rồng phương Đông la con vật tổng hợp của nhiều

con vật khác : thân rồng là loài bò sát, gần với rắn, có vẩy như cá. Đầu rồng

được hợp thành từ nhiều bộ phận của những con thú khác nhau như: miệng

lang, tai thú, trán lạc đa, mũi sư tử, móng chim ưng... Con rồng thể hiện tư

duy lưỡng phân lưỡng hợp của cư dân nông nghiệp: sống ở dưới nước như cá,

nhưng bay trên trời như chim, khạc ra lửa, sấm chớp để lam ra mưa bão. La

con vật đứng đầu trong Tứ linh, con rồng là con vật huyền thoại, linh thiêng,

đầy quyền uy. Trong nghệ thuật trang trí kiến trúc tôn giáo Việt, hình rồng

thường chiếm vị trí trung tâm trong các bố cục mảng trang trí, có mặt ở khắp

các thành phần kiến trúc . Chùa Bối Khê cũng vậy. Hình Rồng trang trí trên

các chi tiết kết cấu kiến trúc cốn (ván bịt phần khung đỡ mái, thuộc hệ khung

trong kiến trúc nhà gỗ truyền thống) ở phần mái hiên nhà Tiền Đường. Đặc

biệt la hinh đầu rồng thời Trần ngậm đỡ đầu đao, đầu bẩy xà ở khu nhà

Thượng Điện. Hình rồng còn xuất hiện ở trang trí bệ tượng thờ, các hoa văn

vẽ trên men gốm đèn thờ, các hình rồng đắp nổi ở nhang án gỗ, bát hương đá,

và ban thờ đá hoa sen thời Trần.

+ Kỳ lân : Kỳ lân là một vật linh thiêng trong bộ Tứ linh. Lân là con vật

báo hiệu điều tốt lành, là biểu tượng cho sự trường thọ, sang quý, niềm hạnh

phúc lớn lao. Hình tượng trang trí Lân không xuất hiện ở vị trí trung tâm của

bố cục trang trí mảng, xuất hiện ở trên nóc, ở những nơi cần canh giữ thế lực

tà ám. Hình Lân xuất hiện nhiều trong trang trí hệ khung cung Thánh, gác mái

Thượng Điện chùa Bối Khê. Mô típ trang trí lân có xuất hiện ở hệ thống đồ

30

thờ phi nhân cách, cụ thể là trang trí ở khám thờ thánh Bối, nhang án nhà Tiền

Đường, bệ đỡ những tượng trong Phật Điện và Cung Thánh.

+ Phượng hoang: Phượng Hoàng báo hiệu cho điềm lành. Trong mối

quan hệ với hình Rồng, Phượng là yếu tố mang tính âm. Mô típ trang trí

Phượng ở chùa Bối Khê xuất hiện cùng vị trí với Rồng ( Trừ chỗ đầu rồng

thời Trần).

+ Rùa : Hinh tượng biểu trưng cho sự trường tồn, chịu đựng. Hình rùa

xuất hiện ở chùa Bối Khê tương đối ít, cá biệt có hình rùa con ở mảng trang

trí cốn hiên trước sân nhà tiền đường.

+ Thời Mạc, thời Nguyễn rất hay dùng mô típ trang trí Tứ Linh, chùa

Bối Khê được trùng tu với mật độ khá day dưới thời Nguyễn, do đó hình

tượng trang trí Tứ linh ở chùa Bối Khê thường gắn với Tứ Quí ( Tứ quí hóa

Tứ linh) va mang đặc điểm của nghệ thuật Nguyễn.

+ Hệ thống đồ thờ của chùa Bối Khê thuộc tôn giáo chính là Phật giáo,

mô típ tứ linh xuất hiện rất ít trong trang trí đồ thờ, chỉ có ở những đồ thờ ít

tính giá trị va tính năng sử dụng linh hoạt.

+ Hình chim thần Garuda:

Hình tượng chim thần Garuda có nguồn gốc từ Ấn Độ. Cùng với sự

phát triển của Ấn Độ giáo, Garuda trở thanh mô típ trang trí trong các đền đai

Ấn Độ giáo, lan tràn sang khắp các nước Đông Nam Á. Trải qua nhiều lần

biến đổi, mô típ trang trí chim thần Garuda cũng được đưa vao Phật Giáo. Mô

típ trang trí chim thần Garuda hay xuất hiện trong các kiến trúc tôn giáo giai

đoạn Lý Trần, về sau không thấy nữa do Phật Giáo biến đổi ( sự ảnh hưởng

của Phật giáo từ Trung Hoa sang). Mô típ trang trí chim thần Garuda trở

thanh đặc trưng cho phong cách nghệ thuật trang trí kiến trúc thời kì Lý -

31

Trần. Trong trang trí chi tiết kết cấu kiến trúc chùa Bối Khê, chim thần

Garuda có ở phần góc nền Thượng Điện, ở đầu đao đỡ mái Thượng Điện.

Trong hệ thống đồ thờ, mô típ này chỉ có ở bàn thờ đá hoa sen đặt bệ tượng

Quán Âm.

Sự tồn tại của những mô típ trang trí có tính biểu tượng trong trang trí

kiến trúc và hệ thống đồ thờ chùa Bối Khê thể hiện mức độ phát triển cao, của

tư duy tạo hình. Những phong cách nghệ thuật của mỹ thuật truyền thống qua

các thời kì lịch sử cũng được bóc tách, làm rõ qua tìm hiểu các mô típ trang

trí. Có thể thấy ở chùa Bối Khê đặc điểm nghệ thuật của các thời kì : Thời Lý

Trần, thời Mạc, thời Lê trung hưng, thời Nguyễn. Thời Nguyễn la để lại nhiều

dấu tích nghệ thuật nhất, thời Lê trung hưng va thời Mạc tương đối ít dấu tích.

Thời Trần còn lại những dấu tích rất đặc trưng va có giá trị. Trong các công

trình kiến trúc tôn giáo thì mảng điêu khắc được đánh giá là một trong những

yếu tố quan trọng bậc nhất tạo nên vẻ đẹp cho công trình. Bối Khê là một

kiến trúc tôn giáo cổ, ở đó có các mô típ trang trí mang tính biểu tượng

thường gặp trong chùa Việt.

2.3. Các hình thức trang trí, đặc trưng ngôn ngữ tạo hình trên kết cấu

kiến trúc, hệ thống đồ thờ chùa Bối Khê

2.3.1. Đặc trưng ngôn ngữ tạo hình

Nghệ thuật trang trí trên kiến trúc chùa Bối Khê la tổng hòa của nghệ

thuật điêu khắc va nghệ thuật trang trí. Về mặt ngôn ngữ tạo hình, đặc trưng

của nghệ thuật trang trí va điêu khắc hòa quện với nhau, song vẫn nhận ra

những nét riêng của mỗi loại hình.

- Ngôn ngữ tạo hình đặc trưng của nghệ thuật trang trí là hình trang trí

(hoa văn). Các yếu tố hợp thanh hoa văn la họa tiết va nhịp điệu. Trong đó các

32

họa tiết kết hợp các đường nét hình học theo một kiểu nao đó thì nhịp điệu lại

nối các họa tiết với nhau thanh một khối thống nhất, lặp đi, lặp lại nhiều lần

tạo sự hai hòa, nhịp nhang va thống nhất giữa các yếu tố trong một tác phẩm

trang trí.

Điêu khắc la loại hình nghệ thuật không gian, nó phản ánh hiện thực

bằng hình khối không gian ba chiều có thể tích. Điêu khắc hầu như không thể

hiện bối cảnh, hoan cảnh hoạt động của nhân vật, việc thể hiên hình tượng

hầu như hoan toan dựa vao cách thể hiên diện mạo bên ngoai. Điêu khắc còn

phát hiện bản chất bên trong của đối tượng, thể hiện những phẩm chất tiêu

biểu của đối tượng. Nói một cách hình tượng thì điêu khắc “nói” bằng hình

khối. Điêu khắc có những quy chuẩn, giá trị thẩm mỹ riêng. Ngôn ngữ tạo

hình đặc trưng của điêu khắc la hình khối, ánh sáng, không gian, chất liệu.

+ Trong bản thân điêu khắc lại có hai loại hình chính la tượng tròn va

phù điêu. Nếu ngôn ngữ tạo hình của tượng tròn la hình khối được thể hiện

trong không gian ba chiều, hình khối thật thì hình khối của phù điêu diễn tả

không gian ba chiều trên bề mặt phẳng, khối không thật ma gây được cảm

giác về khối. Hình khối giau chất trang trí. Bố cục của phù điêu được sắp xếp

bằng những mảng hình có chính có phụ trong một mảng hình học (bố cục

hình vuông, tròn, chữ nhật…)

+ Trong điêu khắc thì bố cục có ưu điểm là thể hiện được nhiều thứ

trong đó như núi non, sông biển, cỏ cây, hoa lá, sinh hoạt xã hội. Ưu điểm này

thể hiện trên phù điêu la chính, tượng tròn thì bị hạn chế về mặt này.

+ Không gian trong phù điêu được diễn tả theo từng lớp, lớp trước ở

gần, lớp sau ở xa và cứ theo thứ tự như vậy.

+ Chất liệu phù điêu: Gỗ, đá, thạch cao, đất nung, ximăng, hay các kim

loại như đồng, nhôm, bạc…

33

+ Bố cục của phù điêu trong điêu khắc giống như trang trí trong mỹ

thuật. Bố cục đòi hỏi phải có sự nhịp nhàng về đường nét, phong phú về hình

khối. Phải có mảng chính, mảng phụ, đồng thời chú ý các mảng đặc, mảng

trống và cách diễn tả đường nét sao cho có tính trang trí. Nếu bố cục phù điêu

toàn những mảng đặc, không có mảng trống thì phù điêu trở nên tức, bí rất

khó chịu. Do đó, các mảng trống, mảng đặc nói trên phải bố trí sao cho vừa

vặn, cân đối, không bị trống hay bị lốm đốm, vụn vặt. Bố cục phù điêu có ưu

điểm mà bố cục tượng tròn không thể diễn tả được, ví dụ như phong cảnh.

Ngôn ngữ tạo hình của nghệ thuật trang trí kiến trúc, hệ thống đồ thờ

chùa Bối Khê bao gồm cả ngôn ngữ của nghệ thuật trang trí, của nghệ thuật

điêu khắc. Trên kết cấu kiến trúc có ngôn ngữ của phù điêu, chạm khắc. Trên

trang trí đồ thờ thì có ngôn ngữ của tượng tròn va phù điêu, các mô típ trang

trí trong chạm khắc trang trí đồ thờ. Đặc trưng ngôn ngữ tạo hình gồm các

yếu tố: Đường nét, Hình, Mảng, Khối, Ánh sáng, Không gian, Chất liệu, Kĩ

thuật thể hiện. Những đặc điểm này thể hiện ở những mảng trang trí dựa theo

kết cấu kiến trúc. Những mảng trang trí kiến trúc phải thỏa mãn những yêu

cầu về bố cục, hình khối, hiệu quả truyền đạt tư tưởng của nghệ thuật tạo

hình.

2.3.2. Hình thức trang trí dựa trên kết cấu kiến trúc thể hiện đặc trưng

ngôn ngữ tạo hình của nghệ thuật trang trí và chạm khắc

Các hình thức trang trí trên kiến trúc chủ yếu là nghệ thuật phù điêu,

gồm có chạm khắc gỗ, chạm khắc đá, đắp vữa nổi trang trí. Các thành phần

kết cấu kiến trúc bao gồm: Ngũ Không Môn, Tam Quan, gian Tam Bảo và

Cung Thánh. Các mảng trang trí kiến trúc được phân bố tập trung ở các chi

tiết, kết cấu kiến trúc thuộc các thành phần nêu trên. Bố cục các mảng trang

trí được dựa trên kết cấu kiến trúc. Ngôn ngữ tạo hình đặc trưng của phù điêu.

34

2.3.2.1. Ngũ Không Môn

- Kết cấu kiến trúc: Ngũ Không Môn có tính năng tương tự Nghi Môn,

có năm cổng, được xây dựng hoàn toàn bằng gạch, vôi vữa. Ngũ Không Môn

mở một cổng lớn ở chính giữa, bốn cổng phụ đăng đối ở hai bên. Các cổng có

kích thước khác nhau. Cổng chính lớn nhất, xây theo kiểu hai tầng tám mái,

tầng một gồm 4 trụ lớn chịu lực ở 4 góc, 4 trụ xây tường nối với nhau thành

khung, lòng tầng một xây vòm cuốn. Tầng 2 cổng chính hẹp hơn tầng một,

mở 3 cổng vòm cuốn nhỏ, 4 mái giả ngói ống có 4 góc đao cong. Mái trên

cùng giả ngói ống, hai đầu kìm đắp hình rồng và bốn góc đao cong. Hai cổng

bên đối xứng nhau qua cổng chính, hình thức tương tự cổng chính, kích thước

va trang trí ít hơn, cửa tầng trên chỉ trổ một lỗ tròn. Hai cổng ngách ở ngoài

cùng, đối xứng nhau qua 3 cổng, cấu trúc tương tự, không có tầng 2, trang trí

đơn giản, la bình phong đắp vữa.

- Trang trí trên kết cấu kiến trúc: Ngũ Không Môn được trang trí ở khá

nhiều vị trí, đề tai trang trí la các linh thú thiêng như Rồng, Phượng, Voi, Hổ

và hoa lá, chữ Hán và vài cảnh sinh hoạt.

+ Trang trí ở cổng chính: Cổng nay được trang trí công phu nhất,nhiều

nhất. Trang trí thể hiện ở đầu kìm, các góc đao, phần cổ diêm va bên dưới

mái. Hai đầu kìm nóc đắp hai đầu rồng ngậm bờ nóc, đối xứng chầu vào giữa.

Đầu rồng đơn giản, trán to, mắt mở to, sừng hai nhánh, má ngắn, bờm có

nhiều dải ngắn lượn mềm về phía sau. Các góc đao cong ở tầng trên đắp hình

hoa dây và hình lân. Có hình rồng tương tự như trên. Hình lân đắp dạng tượng

tròn thân mập, đầu khỏe ngẩng cao, bờm cuộn xoắn, đuôi cong, bốn chân

mập. Phần cổ diêm mặt trước chia ba ô, mỗi ô đắp một con chim phượng

hoang. Dáng chim phượng thon mảnh, mỏ nhỏ, một dải bờm, đuôi la nhiều

dải nhỏ tia mềm. Phần tường bên dưới mái có trổ thủng hoa văn chữ Vạn.

35

Trang trí tầng một thể hiện ở bốn trụ góc, lan can, cửa vòm cuốn. Bốn trụ góc

đắp hình lồng đèn có trang trí hình lân va chim phượng. Bên trên lồng đèn la

một đế vuông chân quỳ trang trí hình hổ phù. Trên mỗi đế đắp hình một chim

phượng quay đầu ra bốn góc, đuôi chụm vào giữa rồi hất ngược lên trên. Lan

can bao quanh sân thượng đắp hình chữ Triện, phía dưới hình triện chia ba ô,

có đắp hình lư hương; lọ hoa; ống quyển;mâm ngũ quả. Trên tường vòm cuốn

đắp nổi hình đôi rồng chầu mặt nguyệt, trên mặt nguyệt gắn hình một đĩa sứ

hoa lam; Hình rồng có thân lượn thẳng, đuôi nhiều dải cuộn xoắn, hai bên

rồng có đắp hình lá sen.

+ Trang trí hai cổng bên: Hai cổng bên trang trí như cổng chính, số

lượng ít hơn. Hai bên phần cổ diêm đắp cảnh Bát Tiên, ba cụ gia. Đỉnh các

đầu trụ góc đắp hình mâm ngũ quả. Trên trụ còn có hình lân múa trong mây,

lân vờn cầu.

+ Trang trí ở tường bao nối các cổng: Hình thức trang trí đắp vữa trên

tường , dựa trên các đề tài, mô típ trang trí gồm có rồng, long mã, sóng, mây,

voi. Ngôn ngữ tạo hình của nghệ thuật phù điêu đắp nổi.

Căn cứ vao văn tự ghi trên Ngũ Không Môn, căn cứ vao đặc điểm của

nghệ thuật trang trí, có thể xác định Ngũ Không Môn có phong cách nghệ

thuật thời Nguyễn muộn (cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20). Nghệ thuật trang trí

gồm đắp nổi theo các đề tai, hình tượng : linh thú, bát bửu Đạo giáo, hoa –

quả quý. Phương thức trang trí kiến trúc đặc trưng của điêu khắc: kỹ thuật

chạm khắc trổ thủng (hình chữ Vạn nhà Phật), đắp nổi (một dạng đơn giản

của “phù điêu”. Ngôn ngữ tạo hình của trang trí là ngôn ngữ của phù điêu.

36

2.3.2.2. Tam quan

- Kết cấu kiến trúc Tam quan: Mặt bằng Tam quan hình gần vuông,

nền lát gạch vuông Bát Trang cao hơn sân chùa,bó nền xây bằng gạch chỉ.

Mặt trước là tam cấp có thành bậc đá trắng lưng uốn lượn chạm hình mây

cách điệu. Tam quan chùa Bối Khê thuộc loại hai tầng tám mái, giống tam

quan chùa Quảng Nghiêm ( Trăm gian), tầng một là cửa ra vào, tầng hai là

gác treo chuông. Cấu trúc Tam quan gồm bộ vì kèo, bộ khung, mái.

- Trang trí Tam Quan: Các đề tài trang trí Tam Quan trùng lặp nhiều,

phong cách tương tự nhau, chỉ có thay đổi tư thế của những hình tượng trang

trí. Các vị trí của Tam Quan có trang trí kiến trúc:

+ Các đầu bẩy, đầu các thanh rường được chạm nổi hình các loại lá

cách điệu soi tỉa đơn giản, uốn lượn hình sin ở hai bên má bẩy.

+ Các đầu dư đều được chạm hình rồng. Hai đầu dư phía bên phải

chạm đầu rồng có dáng khỏe, bờm nhiều dải hình mũi mác dai. Hai đầu dư

bên trái chạm rồng dáng uốn lượn, bờm rồng mảnh, lượn cong ở phía cuối.

+ Các cốn chạm mảng tập trung ở tầng một của Tam quan. Tính từ

ngoài vào, hai cốn ngang chạm Tứ Linh và hoa lá, cốn có ván nhỏ chạm thủng

hình chim, phượng hoàng, long mã. Các cốn dọc phía ngoài chạm chim bay,

hoa cúc, lan, bướm. Các cốn dọc phía trong chạm hình triện có xen lẫn hình

phật thủ, đao, lựu.

+ Trên cùng vì nóc có chạm hổ phù. Bộ mái Tam Quan trang trí đơn

giản. Bờ nóc mái tầng trên đắp hình lưỡng long chầu nhật, hai đầu mái có

hình sừng cong. Mái tầng một Tam quan không trang trí nhiều, có hình rồng

ngoảnh đầu vào trong.

37

Căn cứ vao văn tự trên Tam Quan, sự khác nhau của các chân tảng, có

thể thấy phong cách trang trí trên Tam Quan hiện giờ có bị thay đổi do trùng

tu, sửa chữa. Hai đầu dư có phong cách Lê trung hưng. Các kết cấu kiến trúc

khác của Tam Quan lại có phong cách trang trí thời Nguyễn sau lần trùng tu

1916. Dấu vết Tam Quan cũ còn có ở hệ thống chân tảng, vì các kiến trúc cổ

sẽ có những loại chân tảng khác nhau, có loại chân tảng tương tự như ở chùa

Phổ Minh thời Trần. Vậy, Tam Quan có thể được xây dựng ở thời Trần, qua

nhiều lần trùng tu thì nghệ thuật trang trí trên Tam quan bị thay đổi.

2.3.2.3. Chùa Phật

- Kiến trúc chùa Phật: Kiến trúc khu vực thờ Phật bao gồm 3 tòa nhà:

Tiền Đường, Thiêu Hương va Thượng điện. Ba tòa nhà này nối với nhau

thành hình chữ “công”. Hai hanh lang chạy song song hai bên chữ “công”.

Một đầu của hai hành lang nối liền với Tiền Đường, đầu kia nối với tòa Đại

Bái của cung Thánh, tạo cho mặt bằng tổng thể chùa Phật có kiểu nội “công”

ngoại “quốc”. Tiền Đường va Thiêu Hương, hai hanh lang có cùng một độ

cao mặt nền. Mặt nền của Thượng Điện cao vượt lên gần 1m so với nền các

kiến trúc khác ở khu chùa Phật. Có bậc cấp lên xuống từ sân chùa lên Tiền

Đường và từ Thiêu Hương lên Thượng Điện. Đây có đặc điểm giống với khu

các chùa khác thời nhà Trần. Nền các tòa kiến trúc trong khu chùa Phật chủ

yếu được xây bó bằng gạch, lát nền là gạch vuông Bát Tràng; vật liệu bậc

thềm la đá xanh. Tiền Đường có bảy gian: một gian giữa, hai gian hai bên, hai

gian hồi, hai gian chái. Thiêu Hương có hai gian. Thượng Điện có một gian

hai chái. Toàn bộ khung các kiến trúc chùa Phật đều được làm bằng gỗ, liên

kết với nhau qua nhiều bộ vì kèo, xà và cột. Kết cấu kiến trúc nay la “đất” cho

nghệ thuật chạm khắc trang trí thể hiện.

38

- Trang trí kiến trúc chùa Phật

+ Trang trí khung nhà: Trang trí khung nha được thể hiện ở Tiền

Đường, Thiêu Hương va Thượng Điện. Các đề tài trang trí và phong cách

trang trí nghệ thuật ở tòa Tiền Đường va Thiêu Hương tương tự nhau, khác

với tòa Thượng Điện.

+ Trang trí kiến trúc tòa Tiền Đường

Trang trí phần vì nóc rất ít, chỉ hai bên đầu các xà lòng là có các mảng

chạm cách điệu to bản, chỉ chìm uốn lượn. Hai đầu của các đầu kê thượng

lương có chạm hình chữ Thọ vuông. Các đầu dư chỉ có vai đường chỉ cong.

Phần hiên Tiền Đường, hình chạm đặc biệt nhiều trên đầu bẩy hiên, cốn hiên,

xà nách và nóc cửa. Phần hiên Tiền Đường có phong cách nghệ thuật thời

Nguyễn. [ ]Các mảng, hình trang trí được chạm khắc rất công phu, tỉ mỉ.

+ Trên đầu bẩy hiên, các đề tai trang trí được chạm gồm có : lá cách

điệu (2 lần), liên áp (1 lần), mẫu đơn va phong cảnh (1lần), tùng điểu (1 lần),

liễu va đôi chim nhạn (1 lần), mai hóa long (2 lần). Các hình được chạm nổi

kết hợp với chạm bong kênh. Hình tượng trang trí trên các đầu bẩy hiên gồm

có Tứ Linh, hoa quả quý, chim, vịt.. mang tính hiện thực, tả kĩ.

+ Trên xà nách có chạm mai hóa long, cúc hóa long, lựu hóa long, đan

hóa phương, Bát Bửu của đạo Lão,( sách bút, tù và, sáo, quạt đan...); quả quý

(lê, lựu, đao, phật thủ..) Phong cách chạm khắc tả thực.

+ Trên các cốn gian và phần nóc cửa của Tiền Đường cũng có các hình

chạm khắc. Cốn gian trang trí hình động vật ( chim, chim trĩ, hươu, lân), hoa

lá, quả quý chen lẫn chạm hình chữ Triện. Nóc cửa Tiền Đường có chạm

khắc trang trí hình Tứ quí hóa Tứ linh, Bát bửu của Nho giáo. Phong cách

39

trang trí hiện thực giống như ở hiên, song kỹ thuật chạm thủng được sử dụng

nhiều hơn.

+ Trên các cốn hiên nghệ thuật trang trí phức tạp, nhiều chi tiết hơn cả.

Hình tượng trang trí chủ yếu là Tứ Linh ( 6 lần), phong cảnh-nhân vật (4 lần),

phong cảnh (2 lần). Tứ Linh gồm long, ly, quy, phượng. Sáu khu vực chạm

hình nay có đủ bốn con, thay đổi loại, và thêm vào nhiều con vật khác (long

mã, cá chép, lân vờn cầu). Riêng có một cốn hiên thể hiện toàn bộ dạng Tứ

Quý hóa Tứ Linh, Mỗi con vật là một loại cây quý hóa thành; rồng được trúc

va mai hóa thanh, phượng do cúc hóa thành, long mã do lan hóa, rùa do sen

hóa; phần gốc cây la đầu, thân cây là thân con vật, ngọn cây la đuôi các con

vật. Bố cục các con vật thiêng tại tất cả các cốn hiên đều đặt ở vị trí giống

nhau. Đề tài phong cảnh – nhân vật thì có thể thấy rõ chạm khắc theo tích

truyện Tây Du Kí! Kỹ thuật chạm khắc trên các cốn hiên chủ yếu là chạm nổi

và chạm bong kênh, hình ken đặc mặt cốn.

+ Trang trí ở phần hiên nhà Tiền Đường còn thể hiện ở các viên gạch

va đá bó thềm, bậc thềm. Trang trí gồm có rồng, phượng, sư tử. Rồng có hai

kiểu: một loại thân thon không có vảy; uốn khúc yên ngựa; đầu ngẩng cao

hướng về trước, mắt to má dài, râu bờm thưa thớt; vây lưng to va thưa; toan

thân rồng trải dài theo khung hình chữ nhật. Kiểu rồng khác kích thước nhỏ

hơn, dáng tương tự nhưng thân cuộn tròn trong một khung nổi tròn. Phượng:

mỏ dài, hai cánh xòe rộng, thân thon, đuôi tỉa nhỏ trong tư thế bay lên. Sư tử:

thân thon gầy cao, đầu ngoảnh sau, có bờm lượn dai, lưng va thân có vảy và

lông cách điệu, đuôi cong. Về bố cục, rồng kiểu thứ nhất va sư tử mỗi con

một ô chữ nhật, Rồng kiểu hai va Phượng ở chung ô chữ nhật chia đôi. Tổng

số có 31 hình rồng, 33 hình sư tử, 4 hình phượng. Gạch trang trí thềm hiên

nhà Tiền Đường Trang trí hình rồng, hình sư tử, phượng giống với trang trí di

vật gốm thời Mạc.

40

+ Hai gian bên và gian hồi tòa Tiền Đường còn có ba phiến đá chạm

hình hoa cúc dây va hoa lá cách điệu uốn lượn hình sin, đường nét thưa mảnh

gần như hoa lá chạm trên gỗ.

+ Trang trí khung kiến trúc tòa Thiêu Hương

Khung nha tòa Thiêu Hương được trang trí ít nhất, chỉ có ở hai bức cốn

ở gian đầu tiên và trên cửa võng đặt dưới câu đầu. Cửa võng chạm đề tài Tứ

Linh: chính giữa la lưỡng long chầu nguyệt, hai bên la phượng hoàng hàm

thư, long mã, rùa; tất cả chạm khắc trên nền mây cuộn. Trên cốn hai bên cửa

võng đều chạm các con vật thiêng, đề tài: cửu long tranh châu- châu là bông

hoa mai tròn bảy cánh. Chính giữa cốn có rồng đầu hướng lên trên, góc cao

nhất cốn có phượng nhìn xuống rồng, vây quanh có long mã và ba con lân.

Phía dưới cốn lả rùa, cá nhô lên khỏi mặt hồ sen gợn sóng.

+ Trang trí kiến trúc tòa Thượng Điện

Nghệ thuật trang trí tại Thượng Điện được thể hiện tại bộ giá chiêng,

bẩy hiên, đầu dư va một vài ván nong, hai bức cốn vì nách.

+ Trang trí trên hệ thống giá chiêng: Trang trí có ở hai cột giá chiêng và

ván bịt khoảng trống của giá chiêng. Toàn bộ chi tiết kết cấu nay được chạm

hai mặt. Toàn bộ các cột giá chiêng có dáng thắt cổ bồng; gần mặt chạm một

lớp cánh sen ngửa; gần chân cột chạm mộ lớp cánh sen úp, cánh sen mập.

Chạm trang trí hình cánh sen có loại để trơn, lõm vai va đầu mũi cong xoắn.

Mỗi mặt của thân cột đều chạm một bông hoa, mỗi bông một kiểu khác nhau (

hoa cúc cánh nhỏ thẳng, hoa mai cánh tròn số lượng hình ít hơn). Cốn bịt giá

chiêng được tạo thanh hình lá đề, dáng bè mập, choán kín lòng giá chiêng.

Diềm lá đề hình ngọn lửa lớn, lượn đều xung quanh. Các mặt trong lá đề đều

có chạm một đôi rồng chầu, đầu rồng hướng vào giữa, thân rồng mập uốn

khúc doãng rộng ra hai bên rồi chụm lại ở đỉnh lá đề. Đầu rồng có mào lửa

41

dai, lườn ngắn, sừng hai nhánh. Chính giữa lá đề có một lá đề nhỏ đặt trên

một bông sen nhỏ.Các mặt ngoài của hai lá đề chạm một đôi phượng có chân.

Phượng có dáng thon thả, mỏ nhỏ quặp, có bờm dải ngắn, đuôi chẻ thảnh các

dải dai lượn cong, chân nhỏ, hai cánh xòe rộng. Tất cả phượng đều trong tư

thế bay về hai phía, đầu ngoảnh vào trong.

+ Các bẩy hiên va ván nong đều chung một hình thức trang trí: Đầu

rồng đỡ đầu. Đầu rồng chạm cả hai mặt, kích thước khá lớn, ngửa đầu vào

trong, mặt hướng lên trên, miệng há rộng ngoạm chân đầu bẩy. Rồng có mào

lửa vươn dai, má khỏe, mập phù vẩy kép hoa, mang rồng nhiều xoáy, tai

xoáy, răng nanh dai vắt ngược theo mào, sừng hai nhánh, góc mào có hình

chữ S.

+ Các đầu dư của xà nối từ cột cái ra cột quân cũng được chạm hình

đầu rồng. Dáng rồng tương tự như ở đầu bẩy hiên chỉ khác la đơn giản hơn va

đầu nhìn thẳng ra ngoai. Riêng hai đầu xà ở gian giữa phía trước chạm thân cá

và một đoạn thân rồng phủ vẩy kéo. Đầu rồng hình không khỏe như ở đầu bẩy

hiên, má ngắn không có mào, sừng cong dài, tai thú. Ở gian nách phía phải

còn hai bức cốn nhỏ hình chữ nhật đều chạm một con rồng dáng tương tự như

rồng trong lá đề, đuôi uốn cong lên trên, đầu ngoảnh vào.

+ Ở góc đao bên phải phía bên ngoài có tạo hình chim thần Garuda.

Chim ở tư thế chân khuỳnh gập, hai tay gập khuỷu đưa lên đỡ đầu đao, ngực

ưỡn, bụng căng tròn, hai cánh dang rộng, trên cánh có tỉa các đường gân gần

giống cánh dơi, có điểm các chấm tròn.

+ Nền Thượng Điện: Khoảng nền mặt sau, phía Đông, chia thanh bảy ô

chữ nhật không đều nhau, ô giữa đắp hình lưỡng long chầu nguyệt, bốn ô đắp

hoa, hai ô đắp phượng. Những hình trang trí này thuộc phong cách nghệ thuật

Nguyễn muộn. ( Trong lần điền dã năm 1999 của các nhà nghiên cứu thuộc

42

đại học NIhon lại phát hiện thêm một con chim thần nằm ở góc trong của nền

thượng điện, nay đã được để lộ).

+ Bộ mái Thượng Điện: Bộ mái gồm có phần của Thượng Điện và nhà

Thiêu Hương, trang trí bằng cách đắp vữa. Trên bờ nóc nha Thiêu Hương có

đắp nổi ba chữ Hán Đại Bi Tự ở chính giữa, đặt trên đầu một hổ phù lớn. Hai

bên khung có đề chữ chỉ thời gian tu tạo thời Nguyễn( Khải Định Bát Niên,

Tuế Thứ Quý Hợi). Mỗi bên khung đều đắp nổi hai con lân, thân thon lẳn, mặ

ngoảnh trước. Ngoài hình lân là hình Triện vuông; trang trí kéo dai đến hai

đầu đốc mái đắp hình đấu. Trên bờ dải mái cũng đắp lân. Các đầu đao đều đắp

hình Triện hóa đầu rồng, mặt hướng lên trên. Bờ nóc mái Thượng Điện để

trơn, không có trang trí, hai đầu bờ nóc đắp hai sừng dạng mây cuốn để trơn.

- Ngôn ngữ tạo hình của trang trí Thượng Điện: Ở Thượng Điện, ta

thấy đặc điểm nghệ thuật của ba triều đại Trần, Mạc, Nguyễn. Phong cách

nghệ thuật Trần có tại các đầu bẩy chạm rồng, góc đao chạm chim thần, đấu

thuyền kê thượng lương. Phong cách mỹ thuật Mạc thể hiện ở hai bộ vì nóc

va các đầu xa nách phía trước. Phong cách nghệ thuật Nguyễn thể hiện ở các

phần còn lại của Thượng Điện. Nghệ thuật trang trí thành phần kiến trúc

Thượng Điện có nhiều hình thức, công phu hơn, khác hẳn về phong cách nghệ

thuật va đề tài trang trí so với các khu vực khác. Phương thức trang trí gồm

có phù điêu đắp nổi (đắp vữa), chạm khắc gỗ, phù điêu dạng bán tròn ( những

đầu rồng, chim thần Garuda). Mô típ trang trí rất phong phú, gồm Tứ Linh, tứ

quý, mô típ Phật giáo, mô típ thực vật, mô típ Bát bửu của Nho giáo.. Các

hình tượng trang trí được phân loại, bố cục theo chức năng của kết cấu kiến

trúc mà có hình thức thể hiện phù hợp.

43

2.3.2.4 Cung Thánh

- Kết cấu kiến trúc cung Thánh

Cung Thánh được bố trí ở sau chùa Phật, la nơi thờ đức Thánh Bối.

Cung Thánh hội đủ các thành phần của một ngôi đền, đình ở Bắc Bộ nếu tách

hẳn nó ra khỏi chùa Phật. Mặt bằng chung cung Thánh có hình chữ Công,

được kết hợp từ ba bộ phận kiến trúc : Đại Bái (chức năng nha Tiền Tế) mặt

bằng hình chữ nhật, Ống Muống mặt bằng hình chữ nhật và Hậu Cung mặt

bằng hình gần vuông. Tổng thể mặt nền Đại Bái và Ống Muống cung độ cao

bằng mặt, nối liền mạch với hai hành lang chùa Phật. Nền Hậu Cung cao hơn

hẳn Đại Bái và Ống Muống ( 24cm). Nền toàn bộ cung Thánh xây bó bằng

gạch, đá. lát nền gạch vuông và gạch chỉ. Các bộ phận kiến trúc đều có bậc

thềm lên xuống bằng đá xanh. Bộ vì kèo, liên kết khung, bộ mái tương tự như

ở khu chùa Phật, chỉ có khác ở khung khu Hậu Cung có hệ thống các cụm đấu

củng liên kết khác biệt. Hậu cung là bộ phận kiến trúc đáng chú ý nhất trong

toàn bộ phần cung Thánh. Hậu cung có kiến trúc một gian hai chái, hai tầng

tám mái. Kết cấu bộ vì và các cụm đấu củng rất độc đáo, doanh tạo ( xây

dựng lần đầu) thời Lê trung hưng, trùng tu hai lần vào thế kỉ 18 và thời

Nguyễn. Cung Thánh là một kết cấu kiến trúc đặc biệt của chùa Bối Khê. Ở

đây kiểu kiến trúc hai tầng tám mái sử dụng đấu củng là một điểm độc đáo.

Kiểu sử dụng đấu củng này có thể thấy trước đó ở Đình Tây Đằng, song Cung

Thánh có sự kế thừa và cho thấy dấu ấn sáng tạo của người Việt. Đó la xử lý

các xa đỡ dọc có trang trí đầu rồng và mây cuộn; đặc biệt các cụm đấu củng ở

các tầng trên mặt khung lại được sử dụng để đội hình trang trí linh vật la điều

không giống với cách dùng đấu củng của Trung Hoa.

44

- Nghệ thuật trang trí trên kết cấu kiến trúc cung Thánh

+ Trang trí tòa Đại Bái

Kiến trúc tòa Đại Bái được trang trí rất ít và chỉ có ở một vài vị trí.

Trên các đấu kê xà nóc có chạm hình chữ Thọ vuông ở cả hai đầu. Hai đầu

của câu đầu có chạm dải lá diềm răng cưa, gân lá to va thưa. Các đầu kẻ chạm

hình mây cuộn đường nét đơn giản. Đầu các cột quân ở gian giữa có các đấu

tròn chạm một lớp cánh sen mập, đường nét mềm mại. Tại gian giữa, phần

tiếp giáp xà nách –giáp mái được chạm trổ khá đẹp. Đầu các xà nách chạm

hình đầu rồng trán to, má nhỏ dài. Liền sát nách rồng chạm hình một con rồng

nhỏ và một chim phượng thân thon dáng xòe cánh múa. Trên các lưng kẻ có

gắn một mảng đầu rồng có bờm tỉa hình mây lưỡi mác lượn đều về sau. Loại

rồng này có cùng phong cách với loại hình rồng thế kỉ 18. (theo Pgs, Ts Chu

Quang Trứ, (1970), Con rồng trong nghệ thuật Việt Nam qua các thời.)

+ Trang trí phần Ống Muống

Trang trí có ở phần cửa võng và cả hai vì. Hình chạm trang trí cửa

võng khác ở Thiêu Hương, các hình chạm trên ván có dạng rèm treo, sơn son

thếp vàng. Các hình chạm gồm có: Hình rồng ở trên diềm trên, hai bên; hình

Triện, hoa cúc, hai con lân quay mặt ra ngoai; hai con phượng chúc đầu vào

trong đối mặt nhau. Các nét chạm khỏe khoắn, khối và nét lớn. Trên cửa võng

còn có cả hình hoa dây chạm thủng. Ở phần vì ngoài, mặt quay vào phía trong

Hậu cung, có chạm các dải lá lớn ở các con rường. Ở hai đầu của một con

rường( thứ 3 từ ngoài vào) có chạm hình hai con lân quay mặt ra ngoài, nét

chạm khỏe, khối lớn. Cũng trên lưng con rường này có một đấu kê hình bán

nguyệt cõng một đấu kê thượng lương được chạm giật cấp. Ở vì trong, trên

con cung có chạm một hổ phù lớn, chiếm kín diện tích. Các cốn bịt khoảng

45

trống phía ngoai đều chạm hình một con kỳ lân mình phủ vảy hướng mặt vào

trong.

+ Trang trí phần Hậu Cung

+ Mặt trước: Trang trí có ở các ván bịt khoảng trống giữa hai cột quân,

giữa khung cửa và cột quân, giữa xà và khung cửa phía trên; xà nối hai đấu

củng, xa ngưỡng. Ván bịt giữa hai cột quân bên trái chạm hình cây thông

dáng to khỏe, môt con nghê ngồi gần gốc cây thông; ván bịt giữa hai cột quân

bên phải chạm một cụm trúc lớn, một con sư tử mình thon khỏe, có móng

vuốt, tư thế cuộn thân xuống dưới đầu hướng lên trên, còn có một cá trê chạm

theo lối tả thực tư thế bơi lên trên. Hai bức ván bịt khoảng trống giữa khung

cửa và cột quân chạm Tứ Linh, phong cách tương tự Tiền Đường chùa Phật,

phía trên mỗi bức ván có một hình đầu rồng nghiêng ra ngoai, đuôi rồng luồn

qua hai cột quân và xoáy tròn hai bên nách. Ván bịt khoảng trống giữa xà và

khung cửa phía trên chia ô để chạm khắc; phía ngoài cùng hình cúc hóa long,

cây thiêng; ở giữa có chữ Phật Tổ Am, niên đại doanh tạo và tu tạo Hậu

Cung. Trên xà nối hai đấu củng chạm hình lưỡng long triều nguyệt. Dưới xà

ngưỡng chạm các sóng nước hình sin, sóng lừng nhấp nhô và các núi đá; trên

sóng có hoa sen, lá sen, nụ sen vươn lên, xen kẽ có long mã, rùa.

+ Trang trí ở mặt bên và mặt sau phía ngoài: Trang trí có ở hai bên hồi

mái, phần cổ diêm, ván bịt khoảng trống giữa hai cột quân ở góc va đầu xà

nách. Ở hai hồi mái có đắp vữa hai mặt hổ phù trán lớn, mồm rộng, hai chân

khuỳnh rộng sang hai bên. Phần cổ diêm tầng trên có chạm hoa trong các ô

tròn ở các ván gỗ bịt giữa các cụm đấu, hai bên phải trái hình chữ Thọ giữa 2

ô tròn hoa cúc, mặt sau hai ô chữ Thọ xen giữa hai lẵng hoa. Phần cổ diêm

tầng dưới, hai mặt bên có năm ô chạm tùng, sen, mai, cúc, cỏ linh chi. Mặt

sau có sáu ô chạm lựu, phật thủ, hoa hồng. Các đầu xà nách chạm đầu rồng,

46

hai đầu xà phía bên phải bờm mây đao mác, hai đầu xà phía bên trái bờm râu

lượn mềm. Sáu bức ván bịt khoảng trống giữa hai cột quân thì 2 ván chạm

rồng dáng mập khỏe, 4 ván chạm rồng đuôi xoắn.

+ Trang trí ở bên trong khung gỗ: Trang trí được thể hiện ở một số cụm

đấu củng và cốn chạm. Trên các cụm đấu giữa, xà trên cùng có chạm đầu

rồng ở trong, mây cuộn bên ngoai. Trên đỉnh các cụm đấu ở tầng dưới có các

bức chạm lớn gồm nhiều hình trang trí khác nhau trong các khung hình lá đề:

kỳ lân thân phủ vảy, mập, tai to đuôi lớn; sư tử cúi đầu nhìn xuống dưới, chim

phượng xòe cánh múa. Mỗi cụm đấu có một lá đề chạm chữ đại tự Cung,

Phúc, Lộc. ( chữ Phúc đặt trong hình cá hóa long cuộn cong lên trên). Các

mảng cốn chữ nhật bịt khoảng trống hai vì nách chạm hình mây đao mác,

hình hoa cúc. Phong cách trang trí trên bộ khung Hậu cung có đặc điểm của

mỹ thuật thời Lê Trung hưng.

+ Trang trí trên bộ mái: Trang trí bộ mái cung Thánh chủ yếu tập trung

thể hiện ở mái Hậu cung. Trên bờ nóc, chính giữa là hình mặt trời đắp vữa lắp

kính đỏ. Hai đầu kìm hình sấu mình thon, đuôi dai cuốn xoáy cong, đầu chầu

hướng mặt trời. Các dải đao cong đều có đắp hình đầu rồng quay lên phía

trên. Gần góc đao có hình sấu tương tự sấu bờ nóc. Xen giữa các vị trí nóc

mái là hình hoa chanh.

- Ngôn ngữ tạo hình của trang trí kiến trúc cung Thánh

Trang trí kiến trúc cung Thánh gồm có các hình thức đắp vữa trên bờ

mái, chạm khắc gỗ trong kết cấu khung nhà. Mô típ trang trí có nhóm động

vật ( Tứ Linh, Lân, Sư tử) nhóm thực vật (Tứ Quí, hoa quả quí, hoa dây, hoa

chanh), nhóm thiên nhiên-vũ trụ (mặt trời, mặt trăng, mây). Các hình tượng

trang trí được bố cục trên kết cấu khung gỗ, bờ nóc mái. Đặc trưng ngôn ngữ

47

tạo hình của nghệ thuật chạm khắc, phù điêu: Hình khối, chất liệu, đường nét,

ánh sáng và không gian.

2.4. Hình thức trang trí, đặc trưng ngôn ngữ tạo hình trên hệ thống đồ

thờ chùa Bối Khê

2.4.1. Đồ thờ nhân cách

Đồ thờ nhân cách là những tượng được thờ cúng, gán cho chức năng

tâm linh , mang hình tượng va đặc điểm của con người. Đồ thờ nhân cách ở

chùa chủ yếu la tượng tròn. Các loại hình của nghệ thuật điêu khắc gồm tượng

tròn, phù điêu, chạm khắc đều góp mặt trong tạo hình va trang trí đồ thờ. Hệ

thống tượng thờ ở chùa Bối Khê có tổng cộng 92 pho, niên đại sớm nhất là

tượng gỗ Quán Âm tạo tác vào thế kỉ thứ 16, muộn nhất là những pho tượng

đất La Hán tạo tác vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Có nhiều tượng bị mất, đã

được thay vào chỗ cũ. Những pho tượng có giá trị gồm Quán Âm, bà Hậu

được tạo tác vào thời Mạc ( thế kỉ 16), tượng Thích Ca Sơ Sinh ( Cửu Long)

có tòa Cửu Long độc đáo ít thấy, và tượng Đức Thánh Bối. Những tượng tiêu

biểu, có giá trị độc đáo la tượng Quán Âm, tượng Cửu Long va tượng đức

Thánh Bối. Ngôn ngữ tạo hình của nghệ thuật trang trí va điêu khắc thể hiện

rõ nét ở một số tượng thờ tiêu biểu.

- Tượng Quán Âm

Tượng Quán Âm được đặt ở trung tâm của Phật điện chùa Bối Khê.

Điều này thể hiện rằng chùa Bối Khê trước đây thờ Phật la chính. Tượng thờ

quyết định chức năng tôn giáo của kiến trúc.

+ Tượng Quán Âm làm bằng gỗ, cao 1,35m, cao cả bệ 2,28, ngang vai

rộng 50cm, rộng ngang gối 90cm. Toàn bộ tượng và bệ được đặt trên một ban

thờ bằng đá hoa sen thời Trần. Tượng ở tư thế ngồi bán kiết già, hai chân xếp

bằng, để lộ bàn chân phải trên đùi trái.Tượng có bảy đôi tay lớn được xếp cân

48

xứng từng đôi một, tất cả để trần, cổ tay tròn lẳn va đeo vòng, các ngón thon

thả. Mặt biểu hiện rõ nét nữ phúc hậu, mắt nhìn xuống chúng sinh, mũi dọc

dừa thanh cao. Miệng khẽ mỉm cười, tai dai va đeo hoa. Đầu đội mũ, tóc cuộn

trong búi tròn bè ở đỉnh nhưng lại có hai dải buông xuống vai rồi chia ba

nhánh phủ xuống áo trên bắp tay, cổ có một ngấn chia hai khấc. Toàn bộ thân

tượng được sơn son đỏ, duy chỉ có mặt từ phần ngấn cổ trở lên được thếp

vàng.

+ Mũ có vành cao tạc dáng thanh năm cánh hoa sen xếp liền, lòng mỗi

cánh sen chạm hình một khuôn mặt Phật trong các ô tròn. Mặt trước và hai

bên mũ có chạm hình Tam Thế Phật ngồi thiền định trên tòa sen. Có hình

diềm hoa sen dưới Tam Thế Phật ở mặt trước. Mặt sau mũ có các đường gờ

tạc viền xoắn ở hai bên. Dưới thân mũ có nhiều nếp vòng cung rồi từ đó có

hai dải mũ rủ dài xuống lưng.

+ Tượng mặc áo cà sa không tay, gấp nhiều nếp, các ảy dếp phía sau

như phủ lá sen, các nếp phía trước từ vai chảy xuống lòng đùi che hết cổ

chân, trùm lên cả mặt bệ tượng hoa sen.Lưng áo có dải thắt nhiều múi được

tạc dáng như hoa sen nở tỏa đều về hai tướng trên dưới. Ngực có yếm che tạc

dáng hoa văn như ý.

+ Bệ tượng được tạc riêng, là loại bệ lục giác – hoa sen, gồm có nhiều

tầng lớp khác nhau, được trang trí phong phú, trên cùng là tòa sen (mặt bệ),

có ba lớp cánh sen ngửa, một lớp cánh úp.Lớp thứ nhất có 17 cánh sen mập,

diềm cánh có hai gờ đầu mũi xoắn tròn, lòng cánh sen có chạm hoa cúc cánh

tròn. Lớp thứ hai kích thước bé hơn, lớp thứ ba lòng cánh chỉ có một đường

gờ bao quanh, lớp thứ tư cũng tương tự lớp thứ 3 nhưng cánh úp xuống.

+ Đội tòa sen là một đầu quỷ, nhô lên mặt sóng để lộ từ cằm đến đầu.

Mắt tròn lồi, mũi lớn, miệng bạnh, tai dai đeo khuyên, má gồ, dáng vẻ gân

guốc dữ tợn. Hai tay quỷ nhô lên khỏi mặt sóng từ khuỷu tay, ban tay cũng

49

trong tư thế đỡ tòa sen, cổ tay đeo vòng. Xen giữa tai và tay quỷ là một đôi

rồng vờn trên sóng nước xoáy hình sóng bạc đầu. Thân rồng lẳn, phủ vảy đơn,

ẩn hiện khúc chìm khúc nổi.

+ Phần đế bệ tượng hình lục giác tạc thành dáng ba lớp giật cấp.

+ Cấp thứ nhất cao 15 cm, có sáu tai nhỏ ở sáu góc được viền một

đường xoắn. Mặt trước cấp này chia ba ô, ô ở giữa chạm rồng thân lượn dài

kiểu yên ngựa, khúc uốn doãng, hai bên có cánh nhỏ, đầu ngoảnh về sau. Hai

ô bên chạm đầu rồng hổ phù, trán có chữ Vương. Hai mặt bên cũng trang trí

tương tự. Mặt sau ba ô chạm hình hoa sen va lá cách điệu. Hai mặt góc phía

sau chạm hoa sen, kết thúc cấp là một lớp sen ngửa cánh tỉa nhỏ.

+ Cấp thứ hai cao 11cm, thụt vào so với cấp thứ nhất.Có sáu cột góc

kiểu con tiện. Cá sáu mặt cấp đều chạm hình lá đề. Trong lá đề ở mặt trước

chạm một hình rồng lượn, lưỡi vươn dai đỡ viên ngọc tròn. Năm lá đề còn lại

có hình sừng tê nhọn bắt chéo kiểu chữ X có xen kẽ sáu ụ tròn. Mỗi ụ tròn có

hai vạch cong. Trên ụ tròn và sừng tê có hình cây lá cách điệu, trên cùng là

hoa văn như ý.

+ Cấp thứ ba cao 10,5cm, mở rộng ra từ tầng cánh sen úp. Mỗi mặt của

cấp chia hai ô. Hai ô mặt trước chạm long mã có cánh đang phi nước kiệu. Ở

giữa có nốn chữ Hán viết bằng sơn đen Giáp Thìn Trùng Tu. Năm mặt còn lại

chạm hoa nở và các móc hoa sen nở

+ Cấp dưới cùng cao 13,5m để trơn hoan toan.

Tượng Quán Âm thờ ở chùa Bối Khê có nhiều chi tiết ổn định, tương

đồng với phong cách nghệ thuật giai đoạn chuyển từ thế kỉ 16 sang 17. So

sánh với các tượng thờ Quán Âm ở các chùa khác, gồm cả Quán Âm Tọa Sơn

và Quán Âm Thiên Thử Thiên Nhãn, tượng thờ của chùa Bối Khê rất tương

đồng về phong cách, đặc biệt là gần gũi với pho Quan Âm ở chùa Động Ngọ

(Hải Dương). Tượng Quán Âm ở Bối Khê có niên đại chính xác la năm 1582

50

( căn cứ vào chữ sơn đen trên bệ tượng). Các hoa văn trang trí trên bệ tượng

đều mang đặc trưng nổi bật của nghệ thuật Mạc. Tiêu biểu là các dạng rồng

có cánh chỉ xuất hiện trong trang trí gốm có men thời Mạc khoảng cuối thế kỉ

16. Tượng thờ Quán Âm là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc có phong cách

mỹ thuật truyền thống thời Mạc.

Về ngôn ngữ tạo hình, tượng thờ Quán Âm thuộc thể loại tượng tròn

của nghệ thuật điêu khắc. Phần bệ tượng được trang trí bằng nghệ thuật chạm

khắc gỗ.

+ Hình khối và chất liệu : Tượng gỗ, có kích thước lớn, toàn thể tượng

gồm phần bàn thờ đá đỡ bệ, bệ, tượng. Tượng đạt yêu cầu về 32 tướng tốt của

Phật, tỉ lệ hợp lý theo khổ người Việt.

+ Không gian và Ánh Sáng: Tượng đặt trong không gian khá hẹp, kích

thước tượng lớn nên gây cảm giác choáng ngợp khi đứng gần. Nguồn sáng tận

dụng ánh sáng tự nhiên, gian thờ ít cửa sổ, nên ánh sáng chỉ mờ ảo, thể hiện

được tinh thần của tượng thờ cúng tâm linh. Vị trí đặt tượng đạt mục đích gây

hiệu quả thị giác choán chỗ, khối cao lớn và nặng, lại nằm ở trung tâm nên

gây chú ý của thị giác.

- Tượng Cửu Long ( Thích Ca sơ sinh)

Có bốn pho tượng Thích Ca Sơ Sinh tại nha Thiêu Hương. Tất cả làm bằng

gỗ. Ba pho đặt trên một nhang án gỗ, một pho đứng trước nhang án. Pho

tượng đặt trước nhang án là làm lại, thay cho tượng cũ bị mất. Pho ở giữa

trong ba tượng đặt trên nhang án có tòa Cửu Long và bệ hoa sen trang trí khá

đẹp và lạ.Tòa Cửu Long được thể hiện thành một cụm mây cuộn lớn bốc lên

nhiều lớp vươn cao che trên đầu tượng. Từ trong mỗi cụm mây nhô một đầu

rồng, gồm có 9 đầu tất cả. Đầu rồng có sừng hai nhánh, tai thú, trán to khỏe.

Trên tòa Cửu Long, ngoài 9 con rồng đuôi xoắn còn có tượng chư Phật, chư

51

Thiên nhỏ rải rác xen kẽ từ trên cao xuống dưới bệ gỗ.Phía trước Cửu Long là

tượng Phật Thích Ca sơ sinh được thể hiện dưới dạng một chú bé bụ bẫm

mình trần. Mặc quần là vải quấn ngắn, nhiều nếp. Tượng đứng trên tòa sen

nhiều lớp, cánh sen thon dài. Một tay chỉ xuống đất, một tay chỉ lên trời. Cả

bốn pho tượng Thích Ca sơ sinh đều có niên đại thế kỉ 19. Tượng thờ Thích

Ca nói trên thuộc thể loại tượng tròn của nghệ thuật điêu khắc. Chất liệu gỗ.

Bệ hoa sen ứng dụng nghệ thuật chạm khắc trang trí. Tòa Cửu Long là một

dạng phù điêu, tức chạm khắc nổi. Kĩ thuật thể hiện theo lối mô tả. Đề tài,

hình thức trang trí lấy cảm hứng từ Kinh Phật.

- Tượng đức Thánh Bối

Tượng Đức Thánh Bối là một loại đồ thờ nhân cách đặc biệt, khác với

tượng thờ Quán Âm. Tượng Ngai xác định chức năng tâm linh của của kiến

trúc chùa tiền Phật, hâu Thánh. Tất cả những trang trí kiến trúc, bài trí sắp xếp

không gian, hệ thống đồ thờ liên quan, các hình thức trang trí ở khu vực

Cung Thánh đều tập trung quanh nơi đặt tượng Ngài.

+ Tượng đức Thánh Bối đặt trong một khám thờ có ghép ván và cửa

bức ban khép kín. Quanh đường diềm, các tai khám đều có chạm hình rồng

chầu mặt nguyệt, dạng rồng đuôi xoắn thời Nguyễn, và có trang trí hoa lá kiểu

thời Nguyễn. Khám được đặt trên một nhang án gỗ. Tượng đức Thánh Bối đặt

chính giữa khám. Tượng được thể hiện ở tư thế đang ngồi khoanh chân xếp

bằng trên một hòn giả sơn. Tượng cao gần 50 cm, ngang vai rộng 20cm,

ngang gối rộng 30cm. Tượng mang nét nữ, khuôn mặt phúc hậu, mắt dai, mũi

thẳng, miệng mím. Thân hình đầy đặn, hai tay đặt ngay ngắn trước lòng và ẩn

kín dưới tay áo. Áo choang lượn những nếp lớn, mềm mại phủ từ trên đầu

xuống trùm kín thân, cổ áo liền từ trên đầu xuống lượn tròn ở trước bụng để

52

lộ vanh mũ. Vanh mũ bên trong có trang trí hoa cúc tròn. Một phần áo và thắt

lưng buông rủ mềm mại.

+ Bệ tượng tạo dáng núi, gồ ghề, khối dạng thắt hợp lý. Toàn bộ bệ làm

thành một khối dáng thon, cao khoảng 28 cm. Mặt bệ hình ô-van. Xung quanh

mặt bệ có các đường diềm gần như hình ngọn lửa rủ xuống mềm mại.

+ Về ngôn ngữ tạo hình của nghệ thuật trang trí, điêu khắc: Tượng đức

Thánh Bối được bố trí ở hậu cung cùng với 13 pho khác, ở vị trí trung tâm

của Hậu Cung. Tượng là tác phẩm điêu khắc gỗ, thể loại tượng tròn. Tượng

có phong cách ước lệ. Gần như không có trang trí trên mặt tượng. Đường nét

tạc đơn giản nhưng gây cảm giác khối khá nặng. Phần mặt có dạng khối đơn

giản, không tả thực cầu kì. Các chi tiết phụ dưới thân cũng ít, song được trau

chuốt cẩn thận. Tương lam bằng gỗ, được sơn son thếp vàng cẩn thận. Tượng

đặt trong không gian Hậu Cung, thiếu sáng, cửa chính lại ít khi mở. Khi đứng

trước tượng, người ta có cảm giác vừa nể sợ vừa gần gũi. Nể sợ là do không

gian, gần gũi la do nét tượng tương đối hiền hòa. Xét về những tiêu chí của

nghệ thuật điêu khắc, tượng thờ Thánh Bối thỏa mãn yêu cầu. So sánh với hệ

thống tượng thờ trong chính Cung Thánh, ngoài chùa Phật,thấy sự tương đồng

về phong cách nghệ thuật thời kì Nguyễn muộn, vào khoảng giữa thế kỉ 19,

đầu thế kỉ 20. Khám thờ đặt tượng cũng có phong cách trang trí Nguyễn điển

hình.

2.4.2. Đồ thờ phi nhân cách

Đồ thờ phi nhân cách ở chùa Bối Khê có số lượng lớn, hầu hết có niên

đại vào thời Nguyễn. Phong cách trang trí đồ thờ thời Nguyễn có thể dễ dàng

tìm thấy ở hầu hết những ngôi chùa Nguyễn điền hình. Những đồ thờ có giá

trị nghệ thuật cổ có số lượng ít, nhưng tiêu biểu, đủ để qua đó thấy được đặc

điểm mỹ thuật tại các giai đoạn lịch sử. Đồ thờ tiêu biểu có giá trị nghệ thuật

53

ở chùa Bối Khê gồm có : bàn thờ đá hoa sen thời Trần, bia đá thời Mạc và Lê

trung hưng, chân đèn va bát hương gốm có ghi minh văn thời Mạc, hai cây

hương đá thời Nguyễn. Có điều đáng tiếc là sau nhiều đợt trùng tu, bảo tồn thì

đã bị thất lạc bộ bát hương va chân đèn gốm thời Mạc, nghiên cứu phải qua

tài liệu lưu trữ.

- Cây hương đá: Có hai cây hương đá, một ở Thượng Điện, một ở sân

trước nha Đại Bái.

+ Cây hương ở Thượng điện: Cao cả bệ 2,80m, nơi rộng nhất ở hai

cánh sừng la 1,02m. Cây hương được chia làm hai phần. Phần trên hình cánh

cung cân, hai đầu chạm đầu rồng, hai mặt chạm đôi chim phượng đang múa

trong mây, mặt dưới chạm hoa sen. Chính giữa phần nay đặt bát hương đá

dáng đai sen có chạm hình hổ phù. Phần dưới là cột vuông, đầu cột trang trí

hoa lá, thân cột chỉ có ba mặt trang trí. Mặt trước trang trí hình mặt trời, và có

đề chữ ghi thời gian tạo tác. Hai mặt bên chạm mâm ngũ quả, bình hoa sen,

tùng trúc cúc mai...

+ Cây hương ở sân trong( trước nha Đại Bái) : có cùng phong cách

trang trí với cây ở Thượng Điện, chỉ khác ở chỗ không có sừng cong.

- Bia đá thời Mạc va Lê trung hưng:

+ Có hai bia thời Mạc, một cái niên hiệu Minh Đức, năm 1529, cao

80cm rộng 50cm, khắc chữ hai mặt, trán bia trang trí hình mặt trời, diềm bia

chạm hoa dây. Bia thứ 2 niên hiệu Sùng Khang, năm 1575, cao 130 cm, rộng

50cm. Trán bia trang trí hình mặt trời, diềm bia chạm dây leo, cánh sen.

+ Có 1 bia thời Lê trung hưng, niên hiệu Hoang Định, 1603, cao 88cm,

rộng 45 cm. Trán bia trang trí rồng chầu mặt trời, diềm bia chạm hoa lá.

54

- Bàn thờ đá hoa sen. Bàn thờ đá hoa sen đặt ở vị trí gần trong cùng của

Thượng Điện. Tượng Quán Âm đặt trên bệ này. Bàn thờ đã bị tháo lắp lại nên

không còn giữ được kích thước ban đầu. Bàn thờ hình khối hộp chữ Nhật, cao

118cm, mặt bàn thờ dài 253cm, rộng 116cm.

+ Phần mặt bệ: Tạo dáng hình hoa sen nở ba lớp, hai lớp ngửa một lớp

úp. Dáng cánh sen mập, giữa cánh sen là nhiều vòng tròn nhỏ xếp thành hình

hoa, có nhà nghiên cứu gọi đó la loại hoa “mặt nhẫn”. Phía trong rìa cánh sen

có đường gờ nổi gãy khúc và xoắn lại ở đầu cánh.

+ Phần thân bệ: Phần đường diềm chạm hoa dây hình sin. Bốn góc

chạm bốn chim thần Garuda. Các chim thần đều ở tư thế quỳ,hai chân gập gối

xoạc ra hai bên,hai tay khuỳnh ngang đưa lên đầu trong tư thế nâng đỡ tòa

sen. Mỏ chim quặp, to khỏe, hai cánh dang rộng, các móng vuốt chân tay sắc

nhọn. Mình trần ngực nở,bụng căng tròn, chân tay mập tròn. Đầu chim đội

mũ có chữ Vương, tai đeo khuyên tròn, xiêm áo rộng có những nếp gấp mềm.

Lòng bàn tay, chân có cầm viên ngọc tròn.

+ Mặt trước thân bệ chia thành ba ô chạm rồng. Ở giữa là một cặp rồng

chầu trong khung hình lá đề. Dáng rồng thon khỏe, thân uốn khúc hình sin,

thân trơn không phủ vảy. Đầu rồng có mào hình ngọn lửa thon dài, sừng hai

nhánh, má dai, mang xoáy, vây lưng thưa, bờm trải dài về sau, chân bốn

móng,sau các khuỷu chân có túm lông lượn dai. Đan xen quanh hình rồng

chạm các cụm mây hình khánh. Xen giữa ba ô có chạm hình hươu ngậm cành

lá. Hươu được chạm tả thực, thân thon, bốn chân cao. Ở ô dưới có chạm một

dãy đường diềm hoa bốn cánh. Dưới diềm hoa là một lớp cánh sen úp xếp

nghiên. Mặt sau thân bệ chạm chữ Hán, xác định năm tạo tác bàn thờ là 1382.

Chân ban thờ chạm kiểu chân quỳ dạ cá.

55

+ Móng đế bàn thờ là các phiến đá xếp đơn giản. Ở góc phải phía ngoài

có phiến đá lộ lên một phần có chạm hoa và một phần thân rồng. Hình chạm ở

đây khác hẳn với phần chạm ở những khu vực khác của bàn thờ, rất mềm mại

và thanh nhẹ, tỉ mỉ trau chuốt. Mảng đá nay có trang trí, song do một phần

liền khối với ban thờ, một phần bị lấp nên không xem toàn bộ được, chỉ có thể

xem ở góc. Một phần có mô-típ hình dây lá cuốn lượn hình sóng, dạng chữ S

đan vao nhau. Các chữ S liền mạch, ở giữa mỗi chỗ lõm ( điểm cong) có

chạm hoa cúc. Đường nét chạm nhẹ, tinh tế. Dải hoa dây kéo dài. Có sót hình

chạm một phần đầu rồng nằm trong một vòng trang trí kiểu hình lá đề.

- Bên cạnh những đồ thờ phi nhân cách còn lại trên, chùa còn có lưu lại

hình ảnh của một số chân đèn gốm có minh văn thời Mạc. Hoa văn trang trí

miệng bình là hàng cánh sen màu chàm ( hoặc làm bằng đất mỏng dán lên

được phủ men trắng mỏng hoặc mộc-không men). Bụng bình có một con rồng

đắp nổi dán vao để mộc. ( hoặc phủ men trắng mờ), thân rồng rất dài,phủ vẩy

đơn, dáng ẻo lả, uốn khúc yên ngựa. Chùa còn có một loại đồ thờ hiếm thấy ở

các chùa, đó la đôi “cây mệnh”. Có hai chậu cây, mỗi chậu 2 cây uốn thế phụ

tử, nhiều cành,không lá. Hai chậu cây bằng gỗ, sơn son thếp vàng và trang trí

đơn giản. Dân địa phương coi đây la loại cây thiêng, hút linh khí đất trời,

tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ của trời đất, của con người.

- Đặc trưng ngôn ngữ tạo hình của trang trí trên hệ thống đồ thờ phi nhân

cách:

Hình thức trang trí đồ thờ phi nhân cách chủ yếu là chạm khắc gỗ, đá.

Ngôn ngữ tạo hình đặc trưng của phù điêu. Ngoài ra, sự bai trí đồ thờ phi

nhân cách cũng góp phần xác định chức năng tôn giáo của kiến trúc, trang trí

cảnh quan, không gian kiến trúc. Các đặc điểm ngôn ngữ tạo hình của trang

trí thể hiện ở các mô típ trang trí, bố cục các mảng trang trí dựa theo chức

56

năng của đồ thờ. Trang trí nhằm mục đích tăng giá trị thẩm mỹ cũng như giá

trị tượng trưng cho lòng thanh kính với “thiêng liêng”.Đồ thờ phi nhân cách

chùa Bối Khê cũng la những tác phẩm của điêu khắc được tạo hình, bài trí, sử

dụng nhằm tăng tính thẩm mỹ, giá trị tâm linh cho kiến trúc tôn giáo. Những

đặc trưng của trang trí gồm những mô típ trang trí mang tính biểu tượng,

những hoa văn trang trí cách điệu, mảng hình đường nét sắp xếp theo bố cục

nhất định. Ngôn ngữ tạo hình của nghệ thuật trang trí hệ thống đồ thờ chùa

Bối Khê là ngôn ngữ tổng hợp của điêu khắc-kiến trúc và một phần nhỏ của

hội họa.

Tiểu kết

Kiến trúc Phật giáo gồm có hai loại hình chính là Chùa và Tháp. Kể từ

khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo không ngừng biến đổi để hòa nhập cùng

văn hóa tín ngưỡng bản địa. Ở thời kì đầu xuất hiện, chùa Việt chỉ là một kiến

trúc tôn giáo thờ một vị thần bản địa được Phật hóa. Loại hình này hiện có đại

diện là các chùa Tứ Pháp ở vùng Luy Lâu ( Thuận Thành, Bắc Ninh). Thời Lý

Trần có xây dựng rất nhiều chùa, tháp. Từ thời Lê Sơ trở về sau có nhiều loại

hình chùa hơn, song độc đáo nhất là loại “tiền Phật hậu Thánh” có quy mô to

lớn, quy củ và hoàn chỉnh. Kiến trúc chùa kiểu tiền Phật hậu Thánh này bắt

đầu ở thế kỉ 17, định hình ở thế kỉ 18. Kiến trúc tôn giáo tiền Phật hậu Thánh

rất có giá trị khai thác vì phù hợp với tâm lý dân tộc Việt – hệ thống Thánh

luôn được bổ sung. Sự phổ biến của kiểu chùa Tiền Phật hậu Thánh thể hiện

đặc điểm “bản địa hóa” đạo Phật, là biểu hiện của kiến trúc Phật giáo Việt

Nam. Giá trị của kiến trúc chùa tiền Phật hậu Thánh được làm rõ khi nghiên

cứu đối tượng điển hình là chùa Bối Khê.

Nghệ thuật trang trí và kiến trúc là một mối quan hệ hữu cơ. Kiến trúc

mang lại cho trang trí không gian thể hiện, trang trí lam đẹp, tăng giá trị thẩm

mỹ của kiến trúc.Nghệ thuật chạm khắc trang trí kiến trúc ở chùa Bối Khê đa

57

dạng va độc đáo, thể hiện được những đặc điểm chính của mỹ thuật truyền

thống là giàu tính trang trí ứng dụng, tính cách điệu cao, đơn giản và ít lệ

thực. Mỹ thuật truyền thống tồn tại ở các di sản văn hóa, các kiến trúc tôn

giáo thông qua các tác phẩm điêu khắc ở cả hai thể loại tượng tròn và phù

điêu. Những mảng chạm khắc trang trí kết cấu kiến trúc ở chùa Bối Khê rất có

giá trị , cả về nghệ thuật tạo hình lẫn lịch sử, mĩ thuật.

Đồ thờ truyền thống của người Việt là kết tụ về tinh hoa từ bàn tay khối

óc của tổ tiên. Đồ thờ là một trong những chứng cứ cụ thể để nói lên diễn

trình phát triển của nghệ thuật tạo hình Việt. Đồ thờ lại gắn liền với lịch sử

văn hóa, những biến động xã hội. Lịch sử nghệ thuật tạo hình không nằm

ngoài lịch sử văn hóa dân tộc, mỗi thời kì có đặc điểm riêng về mỹ thuật. Mối

liên hệ giữa đồ thờ và nghệ thuật tạo hình là mối quan hệ gián tiếp. Đồ thờ

gồm có hai loại hình chính la đồ thờ nhân cách và phi nhân cách. Hai loại

hình đồ thờ này có mặt ở kiến trúc tôn giáo Bối Khê, mang tới sự định danh

cho kiến trúc và không gian thể hiện cho nghệ thuật chạm khắc, trang trí.

Chùa Bối Khê vốn là một chùa lang, không có sư tăng ở tu tập mà chỉ

có các thầy cúng, ông từ giữ chùa lo việc thờ cúng. Hệ thống đồ thờ được bài

trí theo mặt bằng kiến trúc “tiền Phật hậu Thánh” phổ biến. Hệ thống đồ thờ ở

chùa Bối Khê là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc va trang trí đẹp, có giá

trị về lịch sử, mỹ thuật, đồng thời cũng có vai trò “kho lưu trữ” những giá trị

nghệ thuật tạo hình truyền thống của dân tộc. Có thể tìm thấy đặc điểm nghệ

thuật của các thời kì trên hệ thống đồ thờ của chùa Bối Khê. Đó la phong cách

nghệ thuật điêu khắc gỗ thời Mạc, nghệ thuật trang trí chạm khắc gỗ thời

Nguyễn. Quần thể kiến trúc tôn giáo Bối Khê xứng đáng la một ngôi chùa

Việt điển hình, từ kiến trúc, trang trí kiến trúc cho đến hệ thống đồ thờ tự.

58

Chương 3

GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ KIẾN

TRÚC CHÙA BỐI KHÊ

3.1. Giá trị và vai trò của trang trí trên kiến trúc chùa Bối Khê

- “Nghệ thuật tạo hình” la từ chỉ loại hình nghệ thuật có quan hệ đến sự

thụ cảm bằng mắt và sự tạo thanh các hình tượng lấy từ thế giới vật chất bên

ngoai để đưa lên mặt phẳng hai chiều hoặc một không gian ba chiều”. Đó la

khái niệm chung nhất về nghệ thuật tạo hình. Nghệ thuật trang trí kiến trúc, hệ

thống đồ thờ cũng có mục đích tăng giá trị thẩm mỹ, cả về hình thức lẫn nội

dung của đối tượng được trang trí. Có thể nói, trang trí lam tăng giá trị nghệ

thuật, giá trị thẩm mỹ, giá trị về mặt công năng sử dụng cho công trình kiến

trúc tôn giáo.

- Có thể thấy mối quan hệ giữa các thể loại của nghệ thuật tạo hình thể

hiện qua “phương tiện truyền tải” la nghệ thuật trang trí trên kiến trúc va đồ

thờ. Chùa Bối Khê có nguồn gốc từ thời Trần, tồn tại qua các thời Lê sơ, Mạc,

Lê Trung Hưng va Nguyễn. Một loạt hệ thống chùa từ thế kỉ 16 trở đi đã lấy

phong cách kiến trúc, phong cách trang trí của Bối Khê lam cơ sở để xây

dựng và phát triển. Có thể thấy tính điển hình của chùa Việt ở Bối Khê.

- Đặc điểm của mỹ thuật truyền thống Việt nam là sự hòa trộn của văn

hóa với nghệ thuật, tồn tại ở những kiến trúc tôn giáo. Ngôn ngữ tạo hình

của mỹ thuật truyền thống thể hiện trên trang trí chi tiết, kết cấu kiến trúc. Có

thể thấy, trang trí kiến trúc chùa là một thành phần quan trọng đối với Mỹ

thuật cổ Việt Nam. Tại kiến trúc chùa, nghệ thuật chạm khắc được ứng dụng

vào trang trí, tham gia vào các kết cấu kiến trúc, nghệ thuật tạc tượng cung

cấp những pho tượng thờ vừa có chức năng tâm linh, vừa có giá trị nghệ

thuật. Nghiên cứu trang trí trên kiến kiến trúc, ta có thể bóc tách được đặc

59

điểm nghệ thuật của từng giai đoạn. Giá trị của nghệ thuật trang trí kiến trúc

Bối Khê cũng la giá trị của những phong cách mỹ thuật cổ Việt Nam. Có thể

thấy đặc trưng của các giai đoạn của mỹ thuật cổ qua các thời kì: thời Lý –

Trần, thời Mạc – Lê trung hưng va thời Nguyễn.

- Thời Lý- Trần: Vết tích duy nhất của thời Lý còn lại ở mạng chạm đá

trên phiến đá lam móng ban thờ đá hoa sen. Phong cách nghệ thuật chạm khắc

Lý được kế thừa và phát triển ở thời Trần rất rõ nét. Mỹ thuật Lý – Trần là

một sự tổng hòa của kế thừa và phát triển. Phong cách nghệ Thuật thời Trần

có ở chùa Bối Khê, dấu vết không nhiều song khá đặc trưng. Dấu tích nghệ

thuật Trần được thể hiện khá rõ ở các đầu bẩy hiên chạm rồng, góc đao chạm

hình chim thần Garuda và các chân tảng chạm hoa sen ở Thượng Điện.

+ Hình tượng trang trí Rồng được ứng dụng thanh đầu rồng đỡ các đầu

bẩy, đầu dư ở hiên nha Thượng Điện. Rồng ở trên các bẩy hiên mang đậm đặc

tính của rồng thời Trần, thể hiện ở bộ mào có diềm hình ngọn lửa sắc. Ở

những hình chạm còn nguyên ven nhất có thể thấy hình rồng còn giữ được

chữ S ở gần gốc mào. Phần nanh rồng dài vắt ngược ra ngoài mép, phần mang

má được xoáy, tỉa rất kỹ. Đây có lẽ là rồng Trần thế kỉ 13, sao chép gần như

nguyên vẹn rồng Lý, rõ nhất là ở môi trên kéo dài thành mào, vẫn còn chữ S

tượng trưng cho mây mưa sấm chớp- đặc trưng cho tín ngưỡng thờ Tứ Pháp

của văn minh lúa nước thế kỉ 10. Tuy nhiên vẫn thấy được sự khác biệt của

Rồng Trần là thân ngắn mập, uốn doãng thân chữ U chứ không lượn tròn

khúc hình sóng như rồng Lý; va đáng kể nhất là ứng dụng trang trí kết hợp

kiến trúc khi đầu rồng há miệng ngậm đầu bẩy. So sánh về phong cách tạo

hình, đầu rồng tư thế ngửa mặt há miệng ngậm đầu bẩy này giống với đầu

rồng ở tháp Chương Sơn (thời Lý). Đây la biểu hiện tiếp thu truyền thống

nghệ thuật Lý của nghệ thuật Trần.

60

+ Hình tượng chim thần Garuda đã có từ thời Lý, xuất hiện ở chùa Bối

Khê ở vị trí góc nền Thượng Điện, góc bàn thờ hoa sen dưới dạng chạm khắc

đá. Đặc biệt hơn cả là Garuda ở góc đao chùa Bối Khê là chạm trên gỗ. Hình

tượng chim thần Garuda có mặt khá phổ biến trong các chùa tháp Phật giáo

Lý - Trần. Gốc của Garuda là vật cưỡi của thần Visnu trong Ấn Độ giáo, là

mô típ trang trí trong các đền đai Ấn Độ, du nhập vào Việt Nam, biến thể

thanh hình tượng trang trí của Phật giáo. Chim thần Garuda thường được

chạm bằng đá, chỉ có duy nhất (được tìm thấy cho tới nay) ở góc đao Thượng

Điện Bối Khê là chạm gỗ. Chim thần Garuda gỗ này khá thống nhất với chim

thần đá về tư thế khuỳnh chân xòe cánh, ưỡn ngực nâng đỡ các góc mái. Phân

biệt được so với chim thần thời Lý ở dáng mập, tư thế nâng đỡ rất mạnh mẽ

hơn. ( đối chiếu với chim thần chùa Phật Tích, tháp Chương Sơn).

+ Những cấu kiện bằng gỗ trong các kiến trúc thời Trần còn sót lại cho

đến nay rất hiếm. Những cấu kiện có trang trí thì lại càng quí, chỉ còn bốn di

tích giữ được cấu kiện gỗ: Chùa Phổ Minh (Nam Định) giữ được bộ cánh cửa

gỗ chạm rồng rất đẹp; Đồng Bói (Nam Định) có mấy thanh xà gỗ chạm tiên

nữ múa dâng hoa sen; chùa Dâu (Bắc Ninh) giữ được bộ khung giá chiêng có

lá đề chạm rồng và một số cột chạm tiên nữ dâng hoa sen; chùa Thái Lạc

(Hưng Yên) giữ được bộ khung giá chiêng vì nóc, cột trốn, các ván gió chạm

tiên nữ dâng hoa, nhạc công và rồng. Những cấu kiện kiến trúc trang trí chạm

khắc gỗ (rồng,chim thần Garuda) ở chùa Bối Khê có giá trị hiếm, quí cả về số

lượng va phong cách đối với nghệ thuật điêu khắc cổ nói riêng, mỹ thuật cổ

nói chung. Thông qua sự xuất hiện của hai hình tượng trang trí nổi bật trên có

thể thấy được phần nào màu sắc mỹ thuật Lý - Trần.

- Thời Mạc: Đặc điểm nghệ thuật thời Mạc có thể tìm thấy ở trang trí

hai bộ vì nóc Thượng Điện và một số thành phần khác như xa nách, thanh

chống. Đặc trưng nhất là ở các cấu kiện kiến trúc to mập của hai bộ vì nóc,

61

trang trí dàn kín bộ giá chiêng. Lối trang trí, cách thể hiện các cấu kiện kiến

trúc va các đề tai trang trí vì nóc Thượng Điện chùa Bối Khê rất gần với đặc

điểm kiến trúc và trang trí vì nóc chùa Thái Lạc (Hưng Yên), chùa Dâu (Bắc

Ninh) - những ngôi chùa có đặc điểm mỹ thuật thời Mạc. Những viên gạch

trang trí bó thềm Tiền Đường chùa Bối Khê là loại gạch thời Mạc, đã từng

tìm thấy ở chùa Thái Lạc (Hưng Yên), chùa Lạng (Hưng Yên), chùa Hộ (Hà

Tây cũ). Trang trí hình rồng, hình sư tử, phượng giống với trang trí di vật gốm

thời Mạc. Các hình chim phượng gần gũi với phượng trên các chân đèn thời

Mạc. Hình rồng trên lá đề có bố cục giống thời Trần nhưng khác về dáng,

khúc uốn, các chi tiết đầu rồng đơn giản không sắc sảo và linh hoạt như thời

Trần, (so với rồng Trần ở chùa Dâu, so với đầu rồng Trần trên đầu bẩy ở Bối

Khê).

+ So sánh bộ vì nóc Thượng Điện Bối Khê với những chi tiết kiến trúc

gỗ thời Mạc khác tìm thấy ở chùa Cói (Vĩnh Phúc), chùa Dương Liễu ( Hà

Tây cũ), bộ vì nóc của các ngôi đình thế kỉ 16 ở Ba Vì ( đình Thụy Phiêu, Tây

Đằng) thấy được sự thống nhất về mô típ trang trí, kĩ thuật thể hiện. Bộ vì

nóc chùa Bối Khê tương tự bộ vì nóc chùa Cói va chùa Dương Liễu ở khung

giá chiêng khỏe. mập đặt trên câu đầu, bịt kín khung bằng một cốn lá đề. Sự

khác biệt là ở trang trí cốn lá đề. Các trụ trốn và giá chiêng chùa Bối Khê

trang trí rồng, hoa cúc, hoa mẫu đơn. Ở chùa Cói là một con rồng cuộn choán

kín diện tích lá đề, chùa Dương Liễu là hình cá hóa long. Chạm khắc trang trí

đầu dư chạm rồng, cá hóa long trên thanh chống ở chùa Bối Khê tương tự

trang trí bộ phận cùng loại tại chùa Cói. Có thể thấy đặc trưng vì kèo chùa

Mạc rất gần với đặc trưng vì kèo đình Mạc. Các chi tiết kiến trúc nay đều

được chạm khắc chung mô- típ trang trí, chỉ khác ở hình tượng trang trí. Kết

cấu các công trình kiến trúc Phật giáo thời Mạc về cơ bản giống với kiến trúc

Phật giáo thời Trần. Sự chuyển giao và thay thế giữa hai triều đại chỉ vòng

62

hơn 120 năm nên hầu như Mỹ thuật Mạc thừa hưởng nguyên vẹn tinh hoa của

mỹ thuật Trần.

- Thời Lê trung hưng: Đặc điểm mỹ thuật thời Lê trung hưng được thể

hiện ở trang trí kết cấu kiến trúc khung gỗ cung Thánh chùa Bối Khê. Mặc dù

còn rất ít hiện vật, nhưng vẫn thấy được sự tương đồng về phong cách nghệ

thuật trang trí với các kết cấu kiến trúc tương tự ở các chùa khác cùng niên

đại. So sánh cung Thánh chùa Bối với gác chuông chùa Keo về hình thức

trang trí, thấy tương tự về hình tượng trang trí ( cá hóa long, mây lửa, mây

đao mác) va kỹ thuật chạm khắc ( chạm lộng, chạm bong kênh). Chùa Keo

dưới ( Thái Bình) la nơi lưu giữ gần như nguyên vẹn đặc điểm mỹ thuật thời

Lê trung hưng, vậy có cơ sở để xác định đặc điểm mỹ thuật Lê trung hưng ở

chùa Bối Khê.

- Thời Nguyễn: Dấu ấn nghệ thuật Nguyễn có mặt day đặc khắp nơi

trong chùa Bối Khê. Điều này dễ hiểu, bởi chùa Bối Khê là một chùa cổ, tính

trung bình từ thời Trần đến thời Nguyễn cứ 60 năm lại có một đợt trùng tu

chùa Phật ( căn cứ vao các văn bia lưu lại ở chùa). Phong cách trang trí kiến

trúc Nguyễn ở Bối Khê rất quen thuộc, có thể thấy ở mọi ngôi chùa Nguyễn

điển hình. Mô-típ trang trí cũng quen thuộc: Trang trí khung rất ít, toàn bộ

chỉ bao trơn, không chạm khắc. Chỉ tập trung vào cốn mê, ván gió với đề tài

là Tứ Linh, Tứ Quí. Tuy vậy, vẫn có phần trang trí giá trị, độc đáo của mỹ

thuật Nguyễn tại Bối Khê. Đó la trang trí ở hiên nhà Tiền Đường. Mật độ

trang trí ở đây xuất hiện đậm đặc. Trang trí cốn hiên với các đề tài phong

cảnh, sinh hoạt, tích chuyện Tây du kí, tứ linh xen thêm lân, rùa con, rồng

con, tứ quí hóa tứ linh. Trang trí có cả ở các cột hiên đá xanh ( trang trí hoa lá

tỉ mỉ, khắc câu đối).

63

3.2. Giá trị và vai trò của trang trí trên hệ thống đồ thờ

Các công trình kiến trúc tôn giáo cần xác định chức năng bởi hệ thống

đồ thờ. Hệ thống đồ thờ chùa Bối Khê có giá trị cao về nghệ thuật tạo hình,

văn hóa tín ngưỡng. Giá trị nghệ thuật, giá trị tâm linh của hệ thống đồ thờ có

sự đóng góp không nhỏ của nghệ thuật điêu khắc. Đồ thờ nhân cách thì là

những tác phẩm nghệ thuật tượng tròn. Đồ thờ phi nhân cách là những tác

phẩm của chạm khắc.

Giá trị thể hiện trên đồ thờ nhân cách: Có thể thấy các tượng thờ tiêu

biểu ở phần chùa Phật và cung Thánh là những tác phẩm đẹp của nghệ thuật

tạo hình truyền thống Việt Nam. Trong số các tượng thờ ở khu chùa Phật,

đáng lưu ý nhất là các pho: Quán Âm thời Mạc, tượng bà Hậu thời Mạc, tòa

Cửu Long thế kỉ 19, bộ tượng Di Đa Tam Tôn bằng gỗ thời Nguyễn.

- Khu Chùa Phật: Giá trị cao nhất la pho tượng Quán Âm.

+ Nghệ thuật trang chạm khắc trang trí thể hiện nhiều ở phần bệ tượng.

Trên tượng thờ Quán Âm ít trang trí bằng chạm khắc, y phục đều được tạc

liền khối chứ không lắp ghép, chỉ có phần mặt chất liệu gỗ được xử lý sơn

tránh mối mọt. Pho tượng Quán Âm này còn có ghi minh văn, la cơ sở quý để

xác định phong cách nghệ thuật của tượng thờ. So sánh Quán Âm ở chùa Bối

Khê với tượng Quán Âm thiên thủ thiên nhãn ở các chùa Động Ngọ ( Hải

Dương, Đa Tốn ( Gia Lâm, Hà Nội), Hội Hạ ( Vĩnh Phúc), Phổ Minh ( Nam

Định); thấy tương đồng về phong cách nghệ thuật, chỉ khác ở hình thức thể

hiện bệ, chân dung và số lượng tay.

+ Trên phương diện mỹ thuật, pho tượng Quán Âm được đặt ở vị trí

trung tâm, cao va đắc địa nhất của gian Thượng Điện. Vốn là một tác phẩm

điêu khắc, pho tượng đã thỏa mãn những yếu tố chính là: hình, khối, ánh sáng

64

và không gian. Trang trí chạm khắc trên bệ tượng có phong cách nghệ thuật

Mạc, một giai đoạn quan trọng trong lịch sử mỹ thuật.

+ Trên phương diện đồ thờ, tượng thờ Quán Âm là loại xuất hiện nhiều

trong Phật Giáo. Pho tượng của chùa Bối Khê có nét khác biệt so với tượng

thờ Quán Âm của Trung Quốc, mặc dù thời kì này ảnh hưởng của Trung Hoa

về mặt nghệ thuật tới các nước trong khu vực rất lớn. Cơ sở khẳng định điều

này có nhiều, ở cả các mặt văn hóa, tôn giáo và lịch sử nghệ thuật. Từ thế kỉ

thứ 2 SCN Phật giáo đã có mặt ở nước Việt, ảnh hưởng nhất trong thời kì đó

là Mật Tông. Những dòng chú chữ Phạn “Phật đại quán đỉnh đà la ni tâm

chú” được tìm thấy trên các di chỉ cột đá thời Đinh, Lý. Việt Nam lại có dòng

thiền Tì ni đa lưu chi dòng Mật Tông, thờ Quán Âm, lưu truyền từ Tây tạng

sang. Ở thời điểm Chùa Bối Khê được xây dựng (thời điểm cuối Lý, đầu

Trần) ảnh hưởng của Mật Tông ở Việt Nam rất lớn. Hơn nữa, về sau này,

khoảng thời Lê Sơ, thời Mạc thì Phật giáo Trung Hoa mới có nhiều ảnh

hưởng. Pho tượng Quán Âm chùa Bối Khê là một tổng hòa của nghệ thuật

điêu khắc, trang trí, kiến trúc, văn hóa tín ngưỡng.

+ Tượng thờ ở khu chùa Phật còn có hệ thống tượng thế kỷ 19-20.

Phong cách chung của các pho tượng này giống với tượng chùa Trăm Gian,

các ngôi chùa khác cùng thời. Kích thước tượng nhỏ, vừa phải. Trang trí

tượng nhiều với các hình tượng quen thuộc của thời Nguyễn như Tứ Quý, Tứ

Linh, Bát Bửu. Đặc biệt trong số tượng thờ thời Nguyễn, bộ di đa Tam Tôn va

Tam Thế là những tượng gỗ đẹp, được tạo tác trau chuốt rất hoàn chỉnh,

trang trí bệ công phu.

- Cung Thánh: Hệ thống tượng ở cung Thánh có phong cách Nghệ thuật

Nguyễn. Số lượng tượng ở đây nhiều nhất trong số các cung Thánh của loại

65

hình chùa cùng loại (tiền Phật hậu Thánh). Giá trị nhất la tượng đức Thánh

Bối va đức Thánh Mẫu ( mẹ Thánh Bối).

+ Về mặt mỹ thuật, tượng Thánh Bối là một tác phẩm nghệ thuật điêu

khắc đạt yêu cầu thẩm mỹ. Tượng có hình khối nhỏ, đường nét trau chuốt, gợi

chứ không tả kĩ. Tư thế và chân dung giống tượng Phật, ngồi trên tòa Giả sơn

dễ khiến người xem liên tưởng đến hình ảnh Quán Âm Tọa Sơn, đây la ý

tưởng ẩn rất đáng tìm hiểu. So sánh với ngay tượng cùng thờ Thánh Bối ở

chùa Trăm gian va các chùa khác cùng loại( chùa Thầy, chùa Keo dưới, chùa

Láng) tượng Thánh Bối chùa Bối Khê khác biệt rất nhiều ở sắc tướng nữ tính,

trái ngược với nét nam tính ở các chùa kia.

+ Về giá trị văn hóa, tín ngưỡng, lịch sử mỹ thuật, bản thân la tượng

thờ, những pho xuất hiện trong cung Thánh xác định tính chất thờ cúng cho

kiến trúc chùa Bối Khê. Đây la nét riêng của nghệ thuật điêu khắc, trang trí

tượng thờ của mỹ thuật truyền thống Việt Nam.

- Giá trị thể hiện trên đồ thờ phi nhân cách: Hệ thống đồ thờ phi nhân cách

ở chùa Bối Khê có giá trị nghệ thuật ở tính chất lịch sử mỹ thuật. Những đồ

thờ tiêu biểu mang đặc trưng nghệ thuật chạm khắc truyền thống có bàn thờ

đá hoa sen thời Trần, mảng đá chạm trang trí phong cách thời Lý, những

mảng chạm khắc gỗ trang trí bệ tượng. Rất tiếc là chùa không còn giữ được

những bát hương va chân đèn gốm thờ thời Mạc, những thứ đồ thờ giá trị

khác bị thất lạc sau lần trùng tu lớn năm 1995.

3.3. Bai học rút ra sau khi nghiên cứu đề tai

- Bai học về kế thừa va phát huy truyền thống, di sản nghệ thuật

tạo hình của người xưa. Chùa Bối Khê la một chùa cổ, phát tích từ đầu thời

Trần, qua thời gian, những dấu tích của những nền Mỹ thuật cổ không hề bị

chìm lấp ma luôn có sự tiếp nối, kế thừa. Ví dụ như trường hợp hình tượng

66

con rồng Việt Nam ((theo Pgs, Ts Chu Quang Trứ, (1970), Con rồng trong

nghệ thuật Việt Nam qua các thời.) la mô típ trang trí, la hình tượng nghệ

thuật được kế thừa từ mỹ thuật Lý sang Mỹ thuật Trần, từ nghệ thuật Mạc cho

tới nghệ thuật Nguyễn. Con rồng biến đổi từ con rắn, ở thời Lý nó biến đổi về

hình, khúc thân uốn lượn hình sóng nước nhịp nhang. Sang đến thời Trần, con

rồng được nhiều lần biến đổi, từ chỗ kế thừa nguyên dạng rồng Lý, tới chỗ

kéo dai môi trên thanh chữ S, rồi mất dần thân, chỉ còn hình đầu. thân phủ

vảy, có sừng va móng chân... Hình tượng con Rồng qua thời Trần đến Mạc có

khác đi nhiều, lại được cách tân một lần theo quan niệm của nghệ sĩ tạo hình

thời Mạc. Con rồng Mạc vẫn giữ nét đầu, kế thừa cách bố cục hình rồng song

có biến đổi phần thân, uốn doãng dạng khác, va dai thân hơn. Tới thời

Nguyễn, hình Rồng gần như hoan chỉnh với đuôi xoắn, nét đầu vẫn giữ những

đặc trưng điển hình của những nền mỹ thuật trước đó. Con rồng thời Nguyễn

va con rồng thời Lý, không thể nỏi rồng nao đẹp hơn. Đặt hai con rồng cạnh

nhau, ta có thể phân biệt được dựa vao các đặc điểm được ghi chép trong thư

tịch, so sánh bằng hiện vật. Song nhìn cả hai vẫn có nét truyền thống Việt

Nam, không giống với rồng Trung Hoa, rồng châu Âu. Bai học về sự kế thừa,

phát huy di sản tiền nhân lúc nao cũng có giá trị.

- Bai học về bảo tồn, gìn giữ di sản, di tích văn hóa nghệ thuật. Trong

công cuộc đổi mới về văn hóa xã hội, những tinh hoa văn hóa nghệ thuật,

những di sản của cha ông để lại la rất đáng quí. Đã có nhiều bai học về sự bảo

tồn, trùng tu di tích thô bạo, thiếu khoa học, lam cho những giá trị nghệ thuật,

văn hóa bị mai một. Những kiến trúc tôn giáo cổ, những di vật của lịch sử

nghệ thuật đã tồn tại qua nhiều thiên tai địch họa, cho tới nay lại đứng trước

nguy cơ bị xóa sổ bởi chính những người dân, những người lam công tác bảo

tồn không có tâm, có tầm. Có thể thấy vai trò quan trọng của những người

nghiên cứu mỹ thuật, đó la giữ gìn va phát huy ý thức về cái đẹp. Đồng thời,

67

giáo dục về mỹ thuật, thẩm mỹ cũng la điều cần quan tâm.

- Bai học về nghiên cứu mỹ thuật, nhất la mỹ thuật truyền thống thì cần

tìm hiểu đa dạng, đa nganh, va la công việc khó khăn. Bản thân mỹ thuật cổ

Việt Nam không còn nhiều tư liệu, cơ sở vì lí do khách quan la thiên tai địch

họa, những cơ sở lưu giữ giá trị mỹ thuật thường tồn tại chung với các nganh

khác của văn hóa. Nghiên cứu mỹ thuật truyền thống Việt phải nương theo

đặc điểm tính cách dân tộc, đi theo lối riêng không giống với Mỹ thuật

phương tây. Đây la một thách thức không nhỏ! Mỹ thuật Việt Nam, cả nhìn từ

góc độ văn hóa va ngược lại, la một cái đẹp tổng hòa, mang đậm đặc tính dân

tộc. [23]

68

Tiểu Kết

Nghệ thuật trang trí trên kiến trúc, hệ thống đồ thờ chùa Bối Khê thể

hiện mối quan hệ sâu sắc giữa các thể loại của nghệ thuật tạo hình. Nghệ thuật

điêu khắc được ứng dụng vào trang trí kiến trúc. Nghệ thuật điêu khắc la cơ

sở xác định giá trị thẩm mỹ của hệ thống đồ thờ đặt trong kiến trúc tôn giáo.

Kiến trúc tôn giáo la nơi lưu giữ những thành quả của nghệ thuật trang trí,

điêu khắc. Đồng thời, những giai đoạn lịch sử của Mỹ thuật truyền thống

được thể hiện ở những kiến trúc tôn giáo cổ như chùa Bối Khê. Nghệ thuật

hòa trộn vao đời sống văn hóa thể hiện giá trị độc đáo của Mỹ thuật cổ Việt

Nam

Nghệ thuật trang trí trên kiến trúc, hệ thống đồ thờ chùa Bối Khê mang

lại sự phức hợp về phong cách cho Mỹ thuật truyền thống. Có thể thấy đặc

điểm của mỹ thuật cổ qua nhiều thời kì lịch sử thể hiện ở nghệ thuật chạm

khắc trang trí. Chùa Bối Khê la nơi lưu giữ những giá trị nghệ thuật, lam cơ

sở cho việc tìm hiểu lịch sử mỹ thuật. Đặt trong bối cảnh thiếu thốn về tư liệu

nghiên cứu của mỹ thuật cổ, những di tích tôn giáo có kiến trúc điển hình như

chùa Bối Khê rất quý báu. Hệ thống đồ thờ góp phần định hình kiến trúc và

xác định giá trị tôn giáo, giá trị nghệ thuật của chùa Bối Khê.

Thông qua việc nghiên cứu đề tai trang trí trên kiến trúc va hệ thống đồ

thờ chùa Bối Khê, rút ra được nhiều bai học kinh nghiệm. Kế thừa va phát

huy giá trị truyền thống, chuẩn mực của những nền nghệ thuật trước la bai

học của mỗi người nghệ sĩ. Công cuộc gìn giữ bảo tồn những giá trị thẩm mỹ,

cái đẹp la công cuộc khó khăn, có vai trò lớn của những người lam công tác

nghiên cứu mỹ thuật. Quan tâm, định hướng giáo dục mỹ thuật cũng la bai

học “cũ” ma không “mới”.

69

KẾT LUẬN

Nghiên cứu đã trình bay đặc điểm của nghệ thuật trang trí trên kiến trúc

va đồ thờ của chùa Bối Khê. Từ đặc điểm kiến trúc tiến hành nghiên cứu các

hình thức trang trí trên kết cấu, chi tiết kiến trúc của chùa Bối Khê. Để có cái

nhìn toàn diện hơn về đặc điểm mỹ thuật truyền thống qua các thời kì, tìm

hiểu thêm về lịch sử văn hóa, đặc điểm tôn giáo, phân loại va xác định hệ

thống đồ thờ, so sánh đối chiếu các hiện vật còn lại tại chùa Bối Khê. Từ đó

xác định chức năng tâm linh, các giá trị của nghệ thuật điêu khắc, chạm khắc

trang trí thể hiện trên kết cấu kiến trúc, hệ thống đồ thờ.

Cơ sở lý thuyết để nghiên cứu đề tài này là những khái niệm của nghệ

thuật tạo hình, nghệ thuật trang trí, mối quan hệ giữa kiến trúc và nghệ thuật

chạm khắc trang trí kiến trúc. Tìm hiểu những đặc điểm kiến trúc chùa Việt

qua các thời kì lịch sử. Khái quát về đồ thờ trong kiến trúc tôn giáo, phân loại

đồ thờ va xác định chức năng định danh kiến trúc tôn giáo của nó. Từ đó, giới

thiệu một kiến trúc tôn giáo truyền thống điển hình, có sự kết hợp tổng hòa

của các thể loại nghệ thuật tạo hình, có sự độc đáo về chức năng tín ngưỡng,

là chùa Bối Khê.

Tiến hành nghiên cứu những hình thức trang trí trên đặc điểm kiến trúc,

kết cấu chi tiết kiến trúc. Đặc điểm kiến trúc của chùa Bối Khê là kiểu phân

bố mặt bằng “tiền Phật hậu Thánh” trên cơ sở mặt nền “nội Công ngoại

Quốc” phổ biến của kiến trúc chùa Việt. Tìm hiểu các giá trị nghệ thuật tạo

hình, đặc điểm của mỹ thuật cổ Việt Nam qua các thời kì tiêu biểu. Tại chùa

Bối Khê có lưu giữ dấu tích và giá trị nghệ thuật của các thời kì : Lý, Trần, Lê

trung hưng, Mạc và Nguyễn. Có thể thấy sự điển hình của nghệ thuật trang trí

trên kiến trúc, hệ thống đồ thờ tại kiến trúc tôn giáo “tiền Phật hậu Thánh”

Bối Khê.

70

Có chức năng văn hóa tín ngưỡng độc đáo, hệ thống đồ thờ của chùa

Bối Khê đóng vai trò xác định chức năng tôn giáo, góp phần trang trí bên

trong kiến trúc, là không gian thể hiện của nghệ thuật điêu khắc trên cả hai thể

loại : tượng tròn va phù điêu, Phân loại hệ thống đồ thờ chùa Bối Khê theo

phương pháp của Gs. Trần Lâm Biền, chìa thành hai loại hình chính: Đồ thờ

nhân cách và phi nhân cách. Từ đó nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật, lựa chọn

những đồ thờ tiêu biểu về giá trị lịch sử, nghệ thuật tạo hình.

Qua việc nghiên cứu đề tai, rút ra được bài học về cách tiếp cận vấn đề,

phân tích, xử lý thông tin có liên quan, áp dụng kiến thức đa nganh. Bai học

về thừa hưởng nền tảng giá trị nghệ thuật truyền thống. Bài học kinh nghiệm

về bảo tồn, lưu giữ tác phẩm nghệ thuật. Luận văn được hoàn thành dựa trên

cơ sở tìm hiểu, phân tích, tổng hợp tài liệu của những nghiên cứu trước có

liên quan đến chùa Bối Khê về mặt văn hóa, khảo cổ và nghệ thuật điêu khắc

tượng cổ. Cùng với quá trình nghiên cứu của bản thân, sự định hướng, gợi ý,

giúp đỡ của giảng viên hướng dẫn đóng vai trò quan trọng để hoàn thành

nghiên cứu này.

71

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu sách

1. Đao Duy Anh (1998), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Đồng Tháp (tái

bản), Đồng Tháp.

2. Trần Lâm Biền (1979), Chùa Bối Khê, sách tư liệu, Viện Mỹ Thuật, Hà

Nội.

3. Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ (1981), Chùa Bối Khê ( Đại Bi Tự-một

kiến trúc bắt đầu từ thời Trần), sách tư liệu, Viện Mỹ Thuật, Hà Nội.

4. Trần Lâm Biền (2001), Trang trí trong mĩ thuật truyền thống của người

Việt, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

5. Trần Lâm Biền (2003), Đồ thờ trong di tích của người Việt, NXB Văn

hóa thông tin, Hà Nội.

6. Nguyễn Tiến Cảnh, Nguyễn Du Chi, Nguyễn Bá Vân, Chu Quang Trứ

(1993),Mỹ thuật thời Mạc, Viện Mỹ thuật, Hà Nội.

7. Nguyễn Du Chi (2003), Hoa văn Việt Nam từ thời tiền sử đến nửa đầu

thời kì phong kiến, Trường đại học mỹ thuật Việt Nam, Viện Mĩ thuật,

Hà Nội.

8. Phạm Thị Chỉnh (2007), Giáo trình mỹ thuật học,NXB Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

9. Trần Nguyên Đán, Đặng Thế Minh, Nguyễn Xuân Tiệp ( Hội đồng biên

tập), Tác phẩm mỹ thuật, NXB Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam.

10. Nguyễn Phi Hoanh ( 1978), Lược sử Mỹ thuật Việt Nam, NXB Khoa học

xã hội, Hà Nội.

11. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam

(2003), Từ điển bách khoa Việt Nam,NXB Từ điển Bách Khoa, Ha Nội.

12. Hoang Văn Khoán (chủ biên) (2000), Văn hóa Lý Trần, nghệ thuật kiến

trúc và điêu khắc chùa tháp, Viện văn hóa va NXB Văn hóa thông tin.

Hà Nội.

72

13. Vũ Tam Lang (1998), Kiến trúc cổ Việt Nam, NXB Xây dựng, Hà Nội.

14. Đặng Bích Ngân (chủ biên) (2003), Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ

thông, NXB Giáo dục, Hà Nội.

15. Hoang Phê ( Chủ biên) (1988), Từ điển tiếng Việt,NXB Hồng Đức,

thanh phố Hồ Chí Minh.

16. Nguyễn Quân – Phan Cẩm Thượng (1989), Mỹ thuật của người Việt,

NXb Mỹ thuật, Hà Nội.

17. Ha Văn Tấn, ảnh Nguyễn Văn Kự - Phạm Ngọc Long, dịch Hồ Hải

Thụy (1993), Chùa Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

18. Lê Mạnh Thát (1969), Sơ thảo lịch sử Phật giáo Việt Nam, Vạn Hạnh

xuất bản, Sài Gòn.

19. Tống Trung Tín (1997), Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời

Trần, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

20. Tống Trung Tín cùng nhiều tác giả (2000), Văn hóa Lý -Trần, nghệ

thuật chùa tháp, Viện văn hóa, Ha Nội.

21. Chu Quang Trứ (2003), Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam,

NXB Mỹ thuật , Hà Nội.

22. Chu Quang Trứ (2012), Mĩ thuật Lý –Trần : Mĩ thuật Phật giáo, NXB

Mỹ thuật, Hà Nội.

23. Chu Quang Trứ (2012), Sáng giá chua xưa. Mỹ thuật Phật giáo, NXB

Mỹ thuật, Ha Nội.

24. Chu Quang Trứ (2016), Tượng cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc

dân tộc, NXB Mỹ thuật, Hà Nội.

25. Thích Thanh Từ (1992), Thiền sư Việt Nam, Thành hội Phật giáo Hồ

Chí Minh.

26. Trần Quốc Vượng ( 1994), Theo dòng lịch sử, NXB Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

73

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN TIẾN HIỆP

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN KIẾN

TRÚC VÀ ĐỒ THỜ CHÙA BỐI KHÊ

PHỤ LỤC ẢNH

Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)

Mã số: 60210102

Khóa: 18 (2015-2017)

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

PGS.TS BÙI THỊ THANH MAI

HÀ NỘI, 2017

74

MỤC LỤC

PHỤ LỤC ẢNH

Phụ lục 1 Cảnh quan kiến trúc chùa Bối Khê ............................................ 75

Phụ lục 2 Nghệ thuật trang trí trên kiến trúc chùa Bối Khê .................... 80

Phụ lục 3 Nghệ thuật trang trí trên đồ thờ chùa Bối Khê ......................... 90

Phụ lục 4 Một số ảnh so sánh, đối chiếu của các nơi khác ........................ 98

75

Phụ lục 1

H 1.1. Ngũ không môn chùa Bối Khê. (Nguồn ảnh:

http://truongquy.blogspot.com/2009/05/chua-boi-khe.html)

H 1.2. Mặt sau Ngũ Không Môn nhìn từ gác chuông.(Nguồn ảnh:

http://truongquy.blogspot.com/2009/05/chua-boi-khe.html)

76

H 1.3.Tam Quan hai tầng tám mái chùa Bối Khê. (Nguồn ảnh:

http://thegioidisan.vn/vi/chua-boi-khe.html)

H 1.4.Sân chùa Phật, đoạn giữa Tam Quan và Tiền Đường. (Nguồn ảnh:

https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=7EC001)

77

H 1.5. Nhà tiền đường góc nhìn từ nhà bia. (Nguồn ảnh:

http://truongquy.blogspot.com/2009/05/chua-boi-khe.html)

H 1.6. Hiên nhà Tiền đường. .(Nguồn ảnh: www.phatam.com/chua-boi-khe-di-san-

ton-giao-vung-bac-bo_3a96a32be.html)

78

H 1.7. Mặt sau thượng điện, đoạn sân nối chùa Phật với Đại Bái cung Thánh.

(Nguồn ảnh: http://truongquy.blogspot.com/2009/05/chua-boi-khe.html)

79

H 1.8. Phần nóc cung Thánh chùa Bối Khê, nhìn từ mặt sau. (Nguồn ảnh:

www.phatam.com/chua-boi-khe-di-san-ton-giao-vung-bac-bo_3a96a32be.html)

H 1.9. Mặt sau cung Thánh chùa Bối Khê.(Nguồn ảnh: www.phatam.com/chua-boi-khe-di-

san-ton-giao-vung-bac-bo_3a96a32be.html)

80

Phụ lục 2

H 2.1. Trang trí phong cách nghệ thuật Nguyễn cốn gác chuông trên Tam Quan(Nguồn

ảnh: http://truongquy.blogspot.com/2009/05/chua-boi-khe.html)

81

H 2.2. Trang trí đắp vữa ở Ngũ Không Môn. (Nguồn ảnh: www.thiensulacviet.com/tho-

van/tap-van/chuyen-doi/tham-chua-bối-khe-3)

H 2.3. Góc hiên nhà Tiền Đường

(Nguồn ảnh: http://truongquy.blogspot.com/2009/05/chua-boi-khe.html)

82

H 2.4. Trang trí phong cách nghệ thuật Nguyễn trên cốn hiên Tiền Đường. (Nguồn ảnh:

http://truongquy.blogspot.com/2009/05/chua-boi-khe.html)

H 2.5. Trang trí cốn hiên nhà Tiền Đường. (Nguồn ảnh:

http://truongquy.blogspot.com/2009/05/chua-boi-khe.html)

83

H 2.6. Trang trí cốn hiên nhà tiền đường. (Nguồn ảnh:

http://truongquy.blogspot.com/2009/05/chua-boi-khe.html)

H 2.7. Cốn hiên chạm khắc trang trí phong cách nghệ thuật Nguyễn.

(Nguồn ảnh: http://truongquy.blogspot.com/2009/05/chua-boi-khe.html)

84

H 2.8. Gạch bó thềm hiên Tiền Đường phong cách nghệ thuật Mạc.

(Nguồn ảnh: http://truongquy.blogspot.com/2009/05/chua-boi-khe.html)

H 2.9. Cận cảnh trang trí gạch rồng thời Mạc ở thềm hiên nhà Tiền Đường

(Nguồn ảnh: http://truongquy.blogspot.com/2009/05/chua-boi-khe.html)

85

H 2.10. Góc thềm hiên Tiền Đường xây bó gạch thời Mạc.(Nguồn ảnh:

http://www.phuot.vn/threads/1296/page42)

H 2.11. Đầu rồng gỗ thời Trần ở đầu bẩy góc mái Thượng Điện. (Nguồn ảnh:

http://www.phuot.vn/threads/1296/page42)

86

H 2.12. Chim thần Garuda chạm khắc đá góc nền Thượng Điện.

(Nguồn ảnh: http://www.phuot.vn/threads/1296/page43)

87

H 2.13. Chim thần Garuda gỗ thời Trần đỡ góc đao mái Thượng Điện.

(Nguồn ảnh: http://www.phuot.vn/threads/1296/page42)

88

H 2.14. Trang trí ván bịt mặt sau Hậu Cung ( Cung Thánh)

(Nguồn ảnh: http://www.phuot.vn/threads/1296/page42)

89

H 2.15. Mặt sau va trang trí đắp vữa phần nóc cung Thánh chùa Bối Khê.

(Nguồn ảnh: http://thucduong.vn/forums/lofiversion/index.php?t353.html)

H 2.16. Phần kết cẩu đấu củng, chồng rường cung Thánh chùa Bối Khê. ( Nguồn

ảnh: http://thucduong.vn/forums/lofiversion/index.php?t353.html)

90

Phụ lục 3

H 3.1. Tượng thờ Quán Âm chùa Bối Khê. (Nguồn ảnh:

http://truongquy.blogspot.com/2009/05/chua-boi-khe.html)

91

H 3.2. Tượng Thích Ca Sơ Sinh và tòa Cửu Long thời Nguyễn.

(Nguồn ảnh: Sách ảnh Chùa Việt Nam, Thư viện Quốc gia, Hà Nội)

92

H 3.3. Tượng Quán Âm trên bệ đá hoa sen thời Trần trong không gian Phật điện. (nguồn:

http://phatam.org/boikhe)

93

H 3.4. Tượng Thánh Nguyễn Bình An ( Thánh Bối) tại Hậu Cung chùa Bối Khê

(Nguồn ảnh: Tượng cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc dân tộc, NXB Mỹ thuật)

94

H 3.5. Bộ tượng tổ trước nha Đại Bái ( trước cung Thánh) khu vực hành lang nối

tiếp chùa Phật và Cung Thánh. (Nguồn ảnh: http://www.phuot.vn/threads/1296/page42)

H 3.6. HÌnh rồng trang trí trên mặt bệ ban thờ đá hoa sen thời Trần chùa Bối Khê.

( Nguồn ảnh: Sách Mỹ thuật Trần, Viện Khảo cổ, Hà Nội.)

95

H 3.7. Góc ảnh mặt trước ban thờ đá hoa sen thời Trần tại gian Phật điện, chùa Bối

Khê(Nguồn ảnh: http://www.phuot.vn/threads/1296/page43)

H 3.9. Ảnh góc ban thờ đá hoa sen thời Trần đã được đặt ra một góc riêng.

(Nguồn ảnh: http://www.phuot.vn/threads/1296/page42)

96

H 3.8. Chim thần Garuda ở góc ban thờ đá hoa sen thời Trần.(Nguồn ảnh:

http://www.vncgarden.com/di-tich-danh-thang/chuavietnam-xuavanay/ha-tay/chua-dhai-

bi-boi-khe)

H 3.9. Sập đá thờ đặt kiệu, trước Tiền Đường. (Nguồn ảnh:

http://truongquy.blogspot.com/2009/05/chua-boi-khe.html)

97

H 3.11. Cây Mệnh được thờ ở trong gian thờ Phật chùa Bối Khê. (Nguồn ảnh:

http://www.phuot.vn/threads/1296/page42)

98

Phụ lục 4

H 4.1. Bộ ba tượng thánh Từ Đạo Hạnh, chùa Thầy, Ha Tây cũ.

( Nguồn ảnh: http://giacngo.vn/chuathay/tudaohanh)

H 4.2. Lối bài trí Thánh chung với Phật tại Phật Điện chùa Thầy.

( Nguồn ảnh: http://vi.wikiperdia/chuathay)

99

H 4.3. Hình trang trí mặt đá rồng thời Lý ở tháp Chương Sơn. ( Nguồn: Sách Mỹ thuật

Trần, Viện Khảo cổ, Hà Nội)

H 4.4.. Hình rồng chạm khắc đá ở chùa Dâu, Bắc Ninh. (Nguồn: Sách Mỹ thuật Trần, Viện

Khảo cổ, Hà Nội)

100

H 4.5. Đầu rồng thời Lý. ( Nguồn ảnh: http://vi.wikipedia.org/rongviet)

101

H 4.6. Tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn chùa Bút Tháp, Bắc Ninh.(Nguồn

ảnh: Sách Tượng cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc dân tộc. NXB Mỹ thuật. )