Upload
pvdai
View
705
Download
4
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011Mô hình nhà trồng cây với điều khiển tự động ứng dụng tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh The Model of The Automated Greenhouse used for HoChiMinh City’s AreaNguyễn Ngọc Lâm, Đỗ Quang Minh, Trần Công Thịnh, Phạm Hữu Nhượng/1/ Viện Nghiên cứu Điện tử, Tin học và Tự động hoá (Phân Viện Tp.HCM) /1/ Khu Nông nghiệp Công Nghệ Cao, Tp.HCM e-Mail: [email protected], [email protected], [email protected], nhuongphcnc@g
Citation preview
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
Mô hình nhà trồng cây với điều khiển tự động
ứng dụng tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh
The Model of The Automated Greenhouse used for HoChiMinh City’s Area
Nguyễn Ngọc Lâm, Đỗ Quang Minh, Trần Công Thịnh, Phạm Hữu Nhượng/1/
Viện Nghiên cứu Điện tử, Tin học và Tự động hoá (Phân Viện Tp.HCM) /1/
Khu Nông nghiệp Công Nghệ Cao, Tp.HCM
e-Mail: [email protected], [email protected],
[email protected], [email protected]
Tóm tắt Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu và ứng dụng nhà
trồng cây có điều khiển tự động được xây dựng phù
hợp với điều kiện sinh thái Tp.HCM.
Nhà trồng cây GH-300 đã được thiết kế, lắp đặt có
mái dạng tam giác liền kế, với diện tích tổng cộng ~
300m2, gồm 3 nhà (kích thước: 6x16,6x3,5m(máng)–
5,3m(nóc) có hệ điều khiển riêng, phủ lợp bằng tấm
polycarbonate, bao quanh bằng màng plastic và lưới.
Hệ thống đã áp dụng các công nghệ cho nhà trồng
cây, gồm điều khiển tự động đóng mở mái, kéo rèm,
điều hoà vi khí hậu, tưới – cấp dịch và điều khiển ánh
sáng theo chương trình, kết nối với máy tính và điều
khiển từ xa. Mùa khô, nhiệt độ ban ngày ngoài trời
cao (37÷580C), độ ẩm thấp (15÷20%), hệ thống GH-
300 cho phép hạ nhiệt độ trong nhà với chênh lệch
~12÷150C. Mùa mưa, những ngày nắng, hệ thống
GH-300 cho phép hạ nhiệt độ trong nhà với chênh
lệch ~ 8÷120C. Thời gian sau mưa, hệ thống cho phép
hạ nhiệt độ trong nhà với chênh lệch ~ 5÷70C. Ở mức
tự động hoá trung bình, hệ thống đã thực hiện có giá
thành bằng 40÷50% so với giá ngoại nhập).
Các thực nghiệm canh tác để lựa chọn giống cây phù
hợp, chế độ dinh dưỡng, tưới, quy trình canh tác,… đã
được thực hiện cho các loại rau ăn lá (rau muống và
rau cải xanh) và ăn quả (dưa chuột, dưa lưới - giống A
Liên và Dưa lê - Kim cô nương), các loại hoa nền (dạ
yên thảo, thu hải đường),
Từ các kết quả trên, cấu hình rút gọn mô hình nhà
trồng cây và danh mục cây trồng được đề xuất để có
thể triển khai rộng trên địa bàn Tp.HCM.
Abstract The GH-300 three-section 300m
2- area greenhouse is
designed and produced for use to plant the vegetables
and flowers in HCMC.
The GH-300 is the automatic system that included the
greenhouse environmental control with the roof and
shading control, coolpad equipment, fogging,
automated irrigation, nutrient dosing and lighting. The
system allows to reduce the greenhouse temperature
about 12-150C in a dry season and 8-12
0C or 5-7
0C in
a rain season depended on the environmental
humidity.
The GH-300 system is effectively used to plant the
musk melon, cucumber, small colza, water morning
glory, flowers (begonia, ...). The fertilizer and plant
procedures in this greenhouse for these greens are
proposed.
Từ khoá: Nhà trồng cây; điều khiển; vi khí hậu; nhiệt độ; độ
ẩm.
1. Mở đầu Nhà trồng cây đã được nhiều Hãng – Nhà sản xuất
trên thế giới (như Richel Greenhouses; Netafim;
Sundance,…) nghiên cứu, thiết kế và cung cấp cho thị
trường [1, 2, 3, 9, 14]. Các kỹ thuật tạo nhà trồng cây
cũng đã được phổ biến rộng rãi trên mạng Internet.
Ở nước ta, trong những năm gần đây, sự phát triển
nhảy vọt mang tính tự phát về nhà màng-nhà lưới
công nghệ thấp (70.000-100.000 đ/m2) ở các địa
phương, cùng với sự đầu tư nhà trồng cây
(Greenhouse) công nghệ cao của các công ty có vốn
đầu tư nước ngoài đã làm thay đổi bức tranh về nông
nghiệp hướng công nghệ cao ở nước ta. Điều này thúc
đẩy nhiều địa phương nhập khẩu nhà trồng cây có
điều khiển tự động. Thoạt nhìn thì vấn đề này có vẻ
dễ đạt hiệu quả. Tuy nhiên, việc triển khai canh tác
nông nghiệp công nghệ cao trong các hệ thống nhà
trồng cây này đang gặp những khó khăn, cản trở sự
thành công của việc áp dụng công nghệ mới. Nguyên
nhân là, ngoài việc giá thành đầu tư cao (3÷5 triệu
đ/m2), việc nghiên cứu chọn lựa mô hình và hệ thống
điều khiển thích hợp cho nhà trồng cây trong điều
kiện khí hậu cụ thể của địa phương, việc chọn lựa loại
cây trồng thích hợp, chế độ dinh dưỡng,…chưa được
giải quyết. Nhìn chung, các nghiên cứu này cần có sự
kết hợp chặt chẽ giữa nhà nông-sinh với người thiết
kế kỹ thuật nhà trồng cây.
Các kết quả điều tra ở một số địa phương [22] cho
thấy tới hơn 90% diện tích nhà trồng cây hiện nay là
tự phát và ở mức công nghệ thấp, được lợp phủ bằng
lưới hoặc màng plastic. Nhà thường cao không quá
3m, bao quanh bằng lưới hoặc để trống. Loại nhà này
dễ xây dựng, rẻ tiền, sử dụng trong các hộ gia đình để
trồng các loại cây nhỏ, ươm giống. Phần nhỏ còn lại
là các nhà trồng cây nhập khẩu, công nghệ chủ yếu ở
mức trung bình, được lợp phủ màng plastic (1 hoặc 2
lớp), có chiều cao 4-5m và được tự động điều khiển
làm mát, thông gió tự nhiên hoặc cưỡng bức. Loại này
phần nào kiểm soát môi trường canh tác, được bảo vệ
tốt hơn (hạn chế vật nuôi phá hoại cũng như sự lây
nhiễm bệnh từ bên ngoài), có giá thành tương đối cao,
sử dụng tại các trang trại, khu nông nghiệp để trồng
các loại cây lớn, canh tác phục vụ sản xuất thương
mại và ươm giống. Một tỷ lệ nhỏ là các nhà trồng cây
công nghệ cao sử dụng ở các công ty đầu tư nước
804
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
ngoài. Nhà được lợp phủ bằng 2 lớp màng Plastic
hoặc bằng tấm nhựa polycarbonate, chiều cao 5-8m.
Nhà trồng cây loại này được tự động điều khiển điều
hoà khí hậu và có hệ thống kiểm soát dinh dưỡng và
tưới tự động công nghệ cao, có giá tương đối đắt. Hệ
thống này thích hợp cho cho sản xuất sản phẩm chất
lượng cao, cho thương mại và ươm giống với số
lượng lớn, lý tưởng cho việc kiểm soát các tác động
của môi trường lên việc canh tác.
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, song khí
hậu các miền khá khác nhau, đặc biệt có những vùng
quanh năm mát và lạnh như Đà Lạt, Tam Đảo,.. rất
thuận tiện cho việc phát triển nhà trồng cây. Vấn đề
xây dựng nhà trồng cây ở những vùng nóng, vùng có
độ ẩm cao là khó khăn hơn nhiều. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu xây dựng mô hình nhà trồng cây với trang
bị điều khiển tự động, phù hợp với điều kiện khí hậu
và canh tác ở từng địa phương, tạo điều kiện để tiến
hành thử nghiệm và xác lập quy trình công nghệ canh
tác cho một số loại cây hoa – rau trồng theo hướng
công nghệ cao – là có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Các vấn đề trình bày trong bài báo này là những
nghiên cứu chúng tôi thực hiện cho nhà trồng cây
công nghệ trung bình, ứng dụng tại thành phố Hồ Chí
Minh (TP.HCM) và khu vực.
2. Thiết kế cấu trúc nhà trồng cây Cấu trúc nhà được thiết kế trên cơ sở xem xét ảnh
hưởng của các tham số môi trường đối với cây trồng.
Với mái nhà vòm cong, bức xạ mặt trời suốt ngày
luôn vuông góc với mái cho phép đa phần tia sáng đi
vào trong nhà và tia phản xạ sẽ ít, do vậy lượng bức
xạ nhận được trên diện tích canh tác rất lớn. Loại mái
vòm thường được dùng ở những vùng có lượng bức
xạ mặt trời yếu (vùng ôn đới – vùng có tuyết vì khả
năng chịu tải của mái lớn). Ở vùng nhiệt đới nhiều
nắng, với loại mái tam giác, bức xạ mặt trời vào sáng
và chiều mới vuông góc với mái nhà. Vào giữa trưa
nắng gắt, lượng bức xạ nhận được trên diện tích canh
tác lại được giảm đi do bị phản xạ nhiều trên hai phần
mái nhà.Vì vậy nhà mái tam giác thường được dùng ở
những vùng nhiều nắng (nhiệt đới, sa mạc). Ngoài ra,
các phân tích tác dụng nâng mái của gió (theo Định
luật Bernuli) cho thấy dạng mái vòm dưới tác dụng
của gió chịu lực nâng lớn hơn dạng mái tam giác. Các
phân tích dòng khí khí đối lưu tự nhiên trong nhà với
mái vòm và dạng mái tam giác có các kiểu thông hơi
trên mái cho thấy sự đối lưu tuỳ thuộc mạnh vào vị trí
cửa thoát trên mái. Những nhà mái tam giác dễ thực
hiện cửa thoát ở phần nóc, nên sẽ có đối lưu tự nhiên
tốt, dễ dàng cho phép khí nóng tích tụ ở phần trên mái
thoát ra ngoài.
Căn cứ phân tích ở trên, cấu hình nhà lựa chọn là
dạng mái tam giác, được xây dựng liên kế để giảm bớt
vật liệu xây dựng và cho phép tạo diện tích canh tác
rộng. Nhà trồng cây GH-300 gồm 3 nhà liên kế
(3x100m2), thực hiện cho 3 đối tượng cây trồng cụ
thể: Nhà trồng rau ăn lá; Nhà trồng rau ăn quả, dưa
các loại trên giá thể; và Nhà trồng hoa chất lượng cao
(xem H.1). Với nhiều loại vật liệu làm khung nhà,
việc chọn thép ống mạ trong xây dựng là phù hợp về
độ bền và giá cả. Kết cấu khung nhà sử dụng thép ống
dài 6m (đường kính 21mm, 27mm và 60mm), đảm
bảo sức chịu tải của nhà cũng như các đà ngang theo
tiêu chuẩn quốc tế là 100pound/foot2 (90kg/929cm
2 ),
chịu được sức nặng của 1 công nhân trèo lên mái và
các cấu kiện khác treo hay gắn trong nhà. Để giải
lượng nhiệt tích tụ tại vùng trung tâm nhà, cấu trúc cơ
khí phải đảm bảo các yêu cầu điều khiển của hệ thống
như đóng/mở mái tự động, thông gió cưỡng bức,
thông gió mái và đảo gió bằng quạt, hệ thống làm mát
không khí trong nhà, có màn che nắng bên ngoài và
thoát nước bằng máng xối.
Tại Tp.HCM tháng nóng nhất là tháng 3 - tháng 4
cuối mùa khô, hướng nhà được đặt theo hướng bắc -
tây bắc –> nam - đông nam để có thể khai thác gió
Tín phong theo hướng nam - đông Nam (có trong
khoảng từ tháng 3 đến tháng 5.
H. 1 Nhà trồng cây GH-300
Các dãy nhà GH-300 tại Khu Nông nghiệp Công
Nghệ Cao Tp.HCM (Xã Phạm Văn Cội, Huyện Củ
Chi Tp.HCM) dựng theo hướng bắc - tây bắc/nam-
đông nam (xem H.2).
N
WWN
EES
S
Nam
- Đông nam
Bắc - T
ây bắc
H. 2 Hướng nhà, hướng gió Tín phong, quỹ đạo mặt
trời
Loại vật liệu sử dụng phủ lợp: Lớp phủ trong suốt cho
mái nhà trồng cây có ảnh hưởng chủ yếu đến khả
năng truyền ánh sáng cung cấp cho cây trồng, sự dẫn
truyền nhiệt độ, hiệu suất năng lượng sử dụng cũng là
những yếu tố quyết định cho việc thiết kế hệ điều
khiển tối ưu môi trường bên trong nhà.
Các loại vật liệu lợp sử dụng hiện nay gồm 3 nhóm
chính là kính, màng plastic (nhựa PVC, Polyvinyl
Cloride, Polyethylene mật độ thấp/LDPE), PVC,
805
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
Ethylene vinyl acetate copolymer /EVA) và tấm
plastic (PolyCarbonate/PC, thuỷ tinh hữu cơ /Acrylic–
PMMA– Polymethylmethacrylate). Từ nhiều loại
plastic có cấu trúc hoá học khác nhau, khi lựa chọn ta
cần phải tính đến hai đặc tính cho nhà trồng cây là
khả năng truyền qua của bức xạ mặt trời và khả năng
dẫn nhiệt. Nhà màng xứ ôn đới có yêu cầu giảm sự
mất nhiệt. Ngược lại, nhà màng xứ nóng lại cần giải
nhiệt tích tụ bên trong nhà.
Quá trình quang hợp của cây trồng cần phần ánh sáng
nhìn thấy (khả kiến - PAR) của bức xạ mặt trời, có
bước sóng (400~700nm), chiếm 38,2% trong tổng số
các bức xạ mặt trời. Sau khi đi qua bầu khí quyển, tỷ
lệ này tăng lên 42,9% trong tổng năng lượng bức xạ
khi đến mặt đất [4,5]. Ngoài ra còn có các sóng trong
vùng tử ngoại (UV), hồng ngoại (IR) và rìa đỏ (FR:
Far-Red), hoặc gần đỏ (NIR). Năng lượng mặt trời bị
phản xạ và hấp thụ bởi bầu khí quyển và vật liệu phủ
nhà. Phần truyền qua dành cho sự phát triển của cây
thực tế chỉ khoảng 1 - 5 %. Phần còn lại bị hấp thu và
phát ra bức xạ nhiệt làm nóng không khí bên trong
nhà, hiệu ứng này được gọi là hiệu ứng nhà kính. Đối
với xứ nóng, việc nghiên cứu hiệu ứng này cho thấy
bắt buộc phải làm mát không khí trong nhà thì mới
đảm bảo nhiệt độ môi trường cho cây phát triển. Đồng
thời khả năng truyền nhiệt của vật liệu lợp nhà cần
phải được xem xét kỹ khi thiết kế nhà.
Vật liệu phủ nhà được lựa chọn theo hai thông số:
- Hệ số truyền là tỷ số cường độ bức xạ bên dưới lớp
phủ (I) được đo đồng thời với cường độ bức xạ bên
trên lớp phủ (Io) với cùng một bước sóng = I / Io.
Đối với nhà trồng cây, hai loại bức xạ được quan tâm
là bức xạ ánh sáng khả kiến cần cho quang hợp của
cây và bức xạ nhiệt góp phần làm nóng môi trường
trong nhà trồng cây. Trong bảng dưới giới thiệu hệ số
truyền của ánh sáng khả kiến và bức xạ nhiệt cho các
loại vật liệu (mới) sử dụng phổ biến lợp nhà trồng cây
hiện nay [7,8].
Loại vật liệu Hệ số truyền
PAR BX nhiệt
Kính 1 lớp 0,60 0,03
Màng PE 1 lớp(0.1mm ) 0,67 0,80
Màng PE 2 lớp(0.1mm ) 0,67 0,63
FRP một lớp ( 0.63mm) 0,89 0,12
Polycarbonate đặc 4mm 0,89 0,81
3 lớp ruột rỗng 8mm 0,71 0,61
3 lớp ruột rỗng 16mm 0,63 0,53
- Những yếu tố khác ảnh hưởng đến hệ số truyền ánh
sáng: Các thông số khí tượng (ngày giờ nắng trong
năm), quỹ đạo mặt trời,; Cấu trúc nhà (góc và độ cong
của mái nhà), số lượng gian nhà trải ra, độ cao của
bức tường cuối.
Căn cứ vào các thông số nói trên, 3 loại vật liệu
thường được dùng phổ biến cho nhà trồng cây là kính,
màng plastic và tấm plastic (có các lớp rỗng).
Kính có hệ số truyền sáng tốt, hạn chế tối đa tia cực
tím (UV), bền (tuổi thọ trên 25 năm), giữ nhiệt ban
đêm tốt, chi phí bảo quản sửa chữa thấp. Tuy nhiên,
kính lợp có giá thành cao, trọng lượng nặng và không
an toàn khi có tuyết, bão, mưa đá …, vì vậy, chúng ít
được sử dụng trong các nhà trồng cây hiện nay.
Màng Plastic- Polyethylen (PE)/ Ethylvinyl Acetate/
Polyvinyl Cloride (PVC). Có hệ số truyền sáng và tia
cực tím khá tốt, giữ nhiệt kém. Màng dễ rách, thủng,
dễ bám bẩn, thường phải thay thế sau thời gian sử
dụng 9 đến 36 tháng tùy môi trường khí hậu. Tuy
nhiên do giá rất rẻ, trọng lượng rất nhẹ, nên chúng
được ứng dụng phổ biến (loại màng EVA) trong các
nhà màng canh tác phổ thông. Mái thường được lợp 2
lớp để giảm bớt sự truyền nhiệt và hạn chế rách thủng.
Tấm Plastic loại Polycarbonate là loại vật liệu nhiều
triển vọng vì sự bền vững (tuổi thọ trên 10 năm), khả
năng truyền sáng, khả năng cách nhiệt, nhẹ và ngăn
bức xạ tử ngoại tốt, cho phép dễ dàng cọ rửa rêu, tảo,
chất bẩn phủ trên mái.
Từ các phân tích trên, nhà GH-300 được lợp bằng các
tấm Multicell Polycarbonate 1 lớp ruột rỗng 6mm.
Phần bao quanh nhà sử dụng màng plastic và lưới.
3. Thiết kế thiết bị công nghệ Việc lựa chọn thiết bị công nghệ cho nhà trồng cây
phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu địa phương.
(Tp.HCM) và khu vực nằm trong vùng nhiệt đới gió
mùa cận xích đạo, có nhiệt độ cao đều trong năm, có
hai mùa mưa – khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng
11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Ðiều
kiện nhiệt độ và ánh sáng thuận lợi cho sự phát triển
các chủng loại cây trồng và vật nuôi đạt năng suất
sinh học cao.
Lượng bức xạ mặt trời ở Tp.HCM cao, trung bình
khoảng 140 Kcal/cm2/năm. Số giờ nắng trung bình
160-270 giờ/tháng. Tháng 4 là tháng nóng nhất, có
nhiệt độ trung bình (trong bóng râm) là 28,80C (cao
nhất tới 400C). Tháng 12 là tháng mát, có nhiệt độ
trung bình 25,70C (thấp nhất tới 13,8
0C). Ðộ ẩm
tương đối của không khí mùa mưa 80% (cao nhất tới
100%), mùa khô 74,5% (thấp nhất tới 20%). Lượng
mưa cao, bình quân 1.949mm/năm. Số ngày mưa
trung bình/năm là 159 ngày. Khoảng 90% lượng mưa
hàng năm tập trung vào các tháng mùa mưa từ tháng 5
đến tháng 11 (cao nhất trong tháng 6 và 9). Các tháng
1, 2, 3 mưa rất ít, lượng mưa không đáng kể. Các
hướng gió chính: gió tây -tây nam trong mùa mưa (từ
tháng 6 đến tháng 10) và gió bắc- đông bắc trong mùa
khô (từ tháng 11 đến tháng 2). Ngoài ra có gió Tín
phong, hướng nam - đông nam (từ tháng 3 đến tháng
5), tốc độ trung bình 3,7 m/s. Về cơ bản Tp.HCM
thuộc vùng không có gió bão (nguồn: Nha khí tượng –
Thuỷ văn, Khu vực Nam Bộ).
Với điều kiện khí hậu nóng và nắng quanh năm như
tại Tp.HCM, nhà màng công nghệ mức trung bình
phải có các thiết bị công nghệ để đảm bảo môi trường
canh tác cho các loại rau quả và hoa. Các hệ thống
phải đảm bảo điều hoà về nhiệt độ, bức xạ, độ ẩm đạt
yêu cầu canh tác đòi hỏi. Nhà trồng cây GH-300 phải
giải quyết một cách hợp lý và tối ưu các nhiệm vụ
điều khiển sau đây: Điều hoà nhiệt độ trong nhà (mở
mái tự động, thông gió cưỡng bức, thông gió mái và
đảo gió bằng quạt, làm mát không khí trong nhà, đóng
mở rèm che nắng bên ngoài) và các điều khiển khác
phục vụ canh tác (tưới và điều khiển chiếu sáng).
806
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
Điều hoà nhiệt độ:
Nhiệt độ trong nhà trồng cây tăng theo ba nguồn
nhiệt: do hiệu ứng nhà kính, do thiết bị toả nhiệt, do
nhiệt cây trồng sinh ra. Các giải pháp hạ nhiệt gồm:
- Thiết kế hệ thống đóng/mở mái tự động: Phần mái
mở có bản lề gắn trên trục nóc. Kích thước phần mở
là 0.89mx16.6m (suốt chiều dài 1 gian nhà trồng cây).
Tính toán hệ số thông gió [19] cho thấy khi cửa mở
=600 hay 90
0 thì hệ số thông gió không khác nhau
nhiều (=0,56 & 0,63).Việc mở đến 900
đòi hỏi khẩu
độ bánh răng dài, phức tạp về cơ khí, vì vậy góc mở
tối đa là 600 được chọn với các chế độ: đóng/mở mái
50% (ứng với góc mở 300), mở mái 100% (ứng với
góc mở 600). Cấu tạo đóng/mở mái cho phép thông
gió tự nhiên hoặc cưỡng bức khi mở mái để thoát
phần khí nóng tích tụ ở phần nóc nhà. Khi trời mưa
hoặc lạnh, mái được điều khiển đóng lại.
Hệ thống chỉ sử dụng 1 motor để dẫn động cơ cấu mở
mái. Nhà có 5 trụ chính. Ở mỗi trụ đặt một cơ cấu
bánh răng mở mái, liên kết động với hộp số của motor
dẫn động (xem H.3).
H. 3 Cơ cấu đóng mở mái
Cơ cấu mở mái có các thanh răng có 1 đầu gắn với
phía đẩy của mái. Motor dẫn động (3 pha, rotor lồng
sóc, ½ hp) có hộp số giảm tốc (100:1) khi vận hành sẽ
làm quay 1 trục gắn bánh răng (r=3,15cm, L=19,8cm,
21 răng/vòng). Trục này quay làm quay thanh răng
(R=480mm), cho phép vận hành dịch chuyển mái.
Khi điều khiển motor chạy theo chiều thuận hoặc
ngược sẽ tương ứng với vận hành đóng và mở mái
(tốc độ 28.7cm/phút). Trục gắn bánh răng được nối
dài cho 4 cơ cấu đẩy còn lại cho 1 mái. Các công tắc
hành trình gắn trên cơ cấu cho phép điều khiển dừng
motor tại các giới hạn 0%, 50% (300) và 100% (60
0).
- Tạo phần tường nhà có phần trống (điều khiển đóng
mở được). Gió tự nhiên thổi qua tường trống sẽ đẩy
phần khí nóng tích tụ trên đỉnh mái ra ngoài.
- Hạ nhiệt độ trong nhà thấp hơn môi trường bên
ngoài: sử dụng phương pháp phổ biến làm mát không
khí bằng sự bay hơi của nước. Quá trình bay hơi của
nước đòi hỏi năng lượng đã biết là nhiệt hoá hơi (đối
với nước ~2400kJ/kg). Sự làm mát xuất hiện khi nước
hấp thụ năng lượng nhiệt trong nhà màng để bốc hơi,
do đó làm giảm nhiệt độ không khí. Quá trình này
kèm theo sự tăng độ ẩm trong nhà màng. Các nghiên
cứu [10, 11, 12, 13] cho thấy sử dụng phương pháp
này có thể giảm nhiệt độ bên trong nhà một cách đáng
kể so với nhiệt độ bên ngoài. Hiệu quả làm mát phụ
thuộc mạnh vào độ ẩm không khí (không khí khô có
độ ẩm ~10%, nhiệt độ có thể giảm từ 45÷300C xuống
tới 26.5÷17.50C, chênh lệch tới 18.5÷12.5
0C. Không
khí có độ ẩm ~40%, nhiệt độ giảm từ 45÷300C xuống
tới 34÷230C (độ ẩm tăng tới 60%), chênh lệch còn
11÷70C (độ ẩm tăng tới 75%). Công trình [11] tiến
hành khảo sát sự tối ưu năng lượng cho hệ làm mát,
cho kết quả phân bố nhiệt độ theo khoảng cách sau
tấm PAD ở tốc độ quạt khác nhau. Kết quả nghiên
cứu dùng để điều chỉnh tốc độ quạt theo nhiệt độ môi
trường, cho phép tối ưu nguồn năng lượng sử dụng.
Khu vực Tp.HCM có độ ẩm mùa khô xuống tới 20%,
sử dụng hệ thống làm mát bằng bay hơi nước (PAD)
cho nhà trồng cây là thích hợp. PAD là các tấm bằng
cellulose hoặc vật liệu khác xếp nhiều lớp thành khối
tiêu chuẩn dày 15cm hoặc 30cm.
Các tấm PAD được bố trí theo chiều nước chảy từ
trên xuống. Hệ thống làm mát (xem H.4) sử dụng
bơm để bơm nước từ bồn chứa (TK-2) cấp cho ống
phun chạy dọc trên tấm PAD. Các lỗ trên ống phun
cho phép tạo tia nước áp lực phun xuống tấm PAD.
Nước không bay hơi chảy dọc theo PAD xuống máng
dưới và thu hồi trở lại bể chứa TK-2. Khi phun nước
từ trên xuống, dòng nước bị va đập vào các thành dích
dắc của tấm PAD, sẽ tạo thành các hạt nhỏ và bị bay
hơi, làm hạ thấp nhiệt độ môi trường. Ở đầu đối diện
của nhà màng được bố trí quạt hút (quạt ngược áp –
extracting fan) để hút không khí từ trong nhà màng ra,
tạo thành chân không trong nhà màng, do đó kéo
không khí từ ngoài vào nhà màng qua hệ thống PAD
làm mát.
Bơm nước
FV-1
FV-2
V-1V-6
V-5
Cool Pad
Ống phun
Đường cấp
Đường ồi
FV-1
TK-1
TK-2
M-6
Bể chứa nước
Bồn cấp nước
V-2
220V
h
H. 4 Hệ thống làm mát (Cool Pad)
Do quá trình bay hơi nước thu hồi bị giảm (~ 4÷5 lít/
phút cho 10m2 PAD trong ngày khô). Lượng nước
hao hụt ở bể chứa TK-2 được bổ sung nhờ van phao
cấp nước từ bồn chính TK-1. Nước sử dụng cho hệ
thống làm mát cần sạch sẽ vì có thể tảo và muối tích
luỹ trên tấm PAD sẽ làm hỏng PAD. Các tính toán
cho hệ GH-300, với thể tích mỗi nhà là 435m3 với
đòi hỏi tần suất thay đổi không khí 1,5 lần/phút khi
nhiều nắng và nhiệt độ cao, lưu lượng khí hút ~ 290
m3/phút, có thể sử dụng 1 quạt hút (220V, 0,7 kW, lưu
lượng 15.000m3/giờ ~250m
3/phút gắn ở giữa vách nhà
đối diện với hệ PAD. Với PAD loại Aspen dày 15cm,
cần lưu lượng khí cung cấp qua 1m2
của PAD là
45m3/phút [14]. Với GH-300, ta tính được diện tích
tấm PAD cho mỗi nhà là 6,4m2
. Với diện tích PAD
và thông số làm ướt bề mặt PAD là 3.78 lít/mét dài
của PAD [11, 14], ta tính được lưu lượng bơm là 13.6
lít/ phút. Tốc độ hao hụt nước cho GH-100 tính được
là 2 lít/phút.
- Khống chế bức xạ ánh sáng để hạn chế ánh sáng và
do đó làm giảm nhiệt độ bên trong nhà: Che rèm cho
807
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
nhà màng bằng lưới đen (giá thành rẻ, thông thoáng,
mật độ lưới che chọn thay đổi dễ dàng) ở phía trên
bên ngoài nhà. Cơ cấu kéo rèm lưới sử dụng motor có
thể quay đảo chiều với các ròng rọc kéo. Tuy nhiên,
việc ứng dụng công nghệ tự động để điều khiển lưới
che sẽ làm hệ thống trở nên cồng kềnh.
Màn che nhà GH-300 (xem H.5) gồm một motor dẫn
động (3 pha, rotor lồng sóc, ½ hp) có hộp số (15:1)
khi vận hành sẽ làm quay 1 trục có gắn 2 ru lô quấn
cáp (r=2,5cm, L=15,7) ở mỗi đầu trục. Khi motor vận
hành theo chiều thuận, 1 ru lô sẽ quấn cáp ru lô còn
lại sẽ nhả cáp (Tốc độ kéo rèm: 1,5m/phút) Thanh nối
dẫn rèm liên kết khoang rèm với dây cáp để khi dây
cáp chạy, sẽ dẫn rèm đóng/mở. Khi motor vận hành
theo chiều ngược, các ru lô sẽ đảo vai trò quấn - nhả
cáp và sẽ dẫn rèm chạy ngược lại. Các công tắc hành
trình gắn trên cơ cấu cho phép điều khiển dừng motor
tại các giới hạn đóng/mở hoàn toàn. Rèm che sáng
Motor +Hộp số
Mo
tor
+
Hộ
p s
ố
Bánh xe dẫn cáp Ru lô quấnThanh nối dẫn rèmDây cáp
Khoang rèm 1 Khoang rèm 2 Khoang rèm 3 Khoang rèm 4
4,15m
6m
Chiều thuận (đóng)Chiều ngược (mở)
H. 5 Hệ thống kéo rèm che
- Thiết bị phun sương: Việc phun sương cũng làm
bay ra các hạt nước, khi bay hơi chúng thu nhiệt môi
trường và làm giảm nhiệt độ không khí và cho phép
bổ sung độ ẩm trong nhà. Thiết bị phun sương cho 1
nhà GH-100 gồm bơm cao áp (1hp, áp suất cực đại tới
50 Kg/cm2) và qua 14 đầu Pet/vòi phun (bán kính
phun ~11,25m, lưu lượng ~6cm3/s), bố trí theo 2
dãy, độ cao 2.5m, cách nhau 2m và hướng lên trên.
Áp suất đầu phun: 25-30Kg/cm2. Lưu lượng nước
tính được ~0,3m3/giờ.
- Hệ thống quạt đối lưu cho phép giảm sự chênh lệch
nhiệt độ và độ ẩm không khí trong nhà trồng cây. Hệ
thống GH-300 sử dụng quạt ngang công nghiệp, thay
vì sử dụng quạt hướng trục chuyên dụng có giá thành
cao. Các quạt đối lưu/đảo gió được đặt cách vách
1,4m, độ cao 3m, xếp thành 2 cột có hướng quạt
ngược nhau để tạo vòng đối lưu.
Tuỳ điều kiện môi trường trong nhà màng và thời tiết
bên ngoài, thiết bị điều khiển sẽ điều khiển riêng rẽ
hoặc kết hợp các các thiết bị công nghệ mô tả ở trên
(mở mái, hệ thống làm mát, phun sương, quạt đối lưu)
để điều hoà nhiệt độ cho nhà màng.
Các thiết bị phục vụ canh tác:
- Hệ thống tưới chủ động các loại [2, 3] có sẵn trên thị
trường. Trong nhà GH-300 sử dụng 8 đầu tưới trên
loại quay tròn (bán kính nước 2.5m), nối với máy
bơm nước 1/2hp. Hệ thống tưới nhỏ giọt là hệ thống
áp suất thấp nhằm cung cấp nước một cách chậm,
chính xác cho cây trồng theo từng giọt. Ưu điểm của
phương pháp tưới này là tiết kiệm nước, không bị thất
thoát nước do tưới thừa, tưới ra vùng đất không có
cây trồng, hoặc do bay hơi (chỉ ~30% lượng nước tưới
thông thường [22]). Phương pháp này thích hợp để
cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng theo cụm, theo
gốc và đặc biệt thích hợp cho cây trồng trên giá thể.
Trong hệ GH-300, tưới nhỏ giọt thực hiện bằng biện
pháp đơn giản là dùng áp lực bồn chứa nước hoặc
dinh dưỡng nối qua ống dẫn tới các ống nhỏ giọt có
điều áp [21] cắm ở khóm cây. hệ thống tưới được điều
khiển tự động để có thể thay đổi chế độ tưới theo quy
trình canh tác.
- Hệ thống chiếu sáng gồm các đèn, được điều khiển
chiếu sáng trong khoảng thời gian đặt trước với mục
đích kích thích cây trồng.
4. Thiết kế hệ thống điều khiển Hệ thống điều khiển với phần cứng cố định, cho phép
lựa chọn, xác lập các chế độ công nghệ tối ưu, mềm
dẻo cho cây trồng bằng cách sử dụng các phần mềm
tương ứng.
Hệ thống điều khiển cho GH-300 được xây dựng trên
PLC S7-200 (xem H.6), Hệ thống là 1 mạng ghép 3
trạm GHC-100 theo mạng PC-PPI, qua cáp
RS485/RS232 về trạm chính PLC-Main (S7-200,
CPU-226). Trạm chính đặt tại nhà 1, giữ vai trò quản
lý mạng và kết nối máy tính. Máy tinh đặt ở nhà điều
hành của Khu, ở xa nhà trồng cây GH300 ~ 300m.
Thiết bị điều khiển trong mỗi nhà GHC-100 gồm
PLC-SIMATIC S7-200 CPU224, khối vào ra thông
minh loại tương tự EM235 (chứa ADC 12 bit), khối
vào ra loại số EM223 (4 In/4 Out) và khối điều khiển
chỉ thị lưu động trên TD200. Nhiệm vụ của phần này
là điều khiển tự động các quá trình đo đạc, xử lý và
lưu trữ số liệu, Lối vào tương tự gồm 4 đầu đo nhiệt
độ (LM335, cho ra điện thế tỷ lệ tuyến tính với nhiệt
độ, 10mV/0K), 4 đầu đo độ ẩm (HIH-4030/31 cho ra
điện thế từ 0.8-3.8V ứng với độ ẩm tương đối từ 0-
100%), đặt ở 4 gian trong 1 nhà, độ cao 2m. Tín hiệu
logic là trạng thái các công tắc hành trình đóng mở
mái và rèm che sáng (5 LS), tín hiệu báo mưa, nắng
và tốc độ gió. Bộ báo mưa gồm cảm biến mưa kiểu
cầu điện trở mắc ở lối vào tầng ngưỡng. Khi có mưa,
nước mưa ướt làm giảm trở cảm biến, kích hoạt tầng
ngưỡng, tạo là tín hiệu báo mưa. Bộ báo nắng sử dụng
cảm biến transistor quang. Máy đo gió được thiết kế
gồm chong chóng quay có trục gắn với bộ tạo mã
(Encoder loại ENB-360-3-2 ), cho ra 360 xung/vòng.
Lối ra logic để điều khiển điều hoà nhiệt độ trong nhà
màng (phối hợp làm mát bằng Cool Pad, mở mái,
thông gió, kéo rèm che nắng, phun sương), điều khiển
độ ẩm trong nhà màng (phun sương), điều khiển tưới
phun hoặc bơm dịch và điều khiển ánh sáng.
Tuỳ điều kiện môi trường (nhiệt độ, nắng, mưa,
gió,…), CPU sẽ điều khiển riêng hoặc kết hợp các
thiết bị ngoại vi (thông qua bộ điều khiển công suất
trong DRIVE BOX-100).
808
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
PC/PPI Cable
RS232/RS485
PC
GHC-100/1GH-100/1
GH-100/2
GH-100/3
GHC-100/2
GHC-100/3
GHC-MAIN
CPU-224
CPU-224
CPU-224
EM-235
EM-235
EM-235
EM-223
EM-223
EM-223
TD-200 V2.0
MASTER CPU-226
Màn che sáng
Phần nóc quay mở mái
- Nhiệt độ
Analog
Analog
Analog
INPUT
INPUT
INPUT
OUTPUT
OUTPUT
OUTPUT
Slg
4
+RLY
Slg
Slg
Digital
Digital
Digital
Digital
Digital
Digital
- Đóng mở mái
- Độ ẩm
- Báo mưa 1
1
- Kéo rèm
- Báo nắng 1
1
- Đo gió 1
1 - Quạt đảo
- LS 5
-
- Cấp dịch
- Bảo vệ 1
1
- Chiếu sáng
- Tưới phun - Tưới
- Cảnh báo
- Bảo vệ
H. 6 Cấu hình hệ thống điều khiển nhà trồng cây GH-300
Các lối ra từ PLC được đưa tới tủ công suất DBOX-1
để điều khiển các điều khiển các motor, bơm, quạt,
van ,… trong hệ thống. DBOX-1 có công tắc chọn
điều khiển bằng “Tay ” hoặc “Tự động”. Các hệ thống
bảo vệ như phao cho các bồn nước, các công tắc hành
trình đều sử dụng điện thế thấp (24VDC) nhằm bảo
đảm an toàn khi sử dụng.
Phần mềm cho mỗi nhà được cài đặt theo nhiệm vụ
công nghệ tương ứng.
Bộ cảnh báo đột nhập bằng hồng ngoại cho phép cảnh
báo đột nhập trực tiếp bằng đèn – còi và gửi về CPU
để ghi nhận và xử lý.
Chương trình ghi trong CPU/PLC được viết trên
Microwin 32. Trên H.7 trình bày giản đồ chương trình
điều khiển điều hoà nhiệt độ.
Khi gió mạnh (Wd>Wo), hệ thực hiện điều khiển mở
rèm.
Khi có mưa, hệ thực hiện điều khiển đóng mái và mở
rèm.
Khi trời không mưa, nhiệt độ trong nhà lớn hơn T3
(T≥T3), thực hiện điều khiển chạy hệ làm mát (bơm
nước và và quạt hút làm mát), quạt đối lưu (đảo gió).
Đồng thời, nếu độ ẩm không cao, hệ thực hiện điều
khiển chạy bơm phun sương.
Nếu nhiệt độ hoặc độ ẩm trong 4 khoang nhà lệch
nhau 10%, hệ quạt đối ưu sẽ được điều khiển vận
hành. Khi trời có nắng và nhiệt độ trong nhà lớn hơn
T2 (T ≥T2), hệ điều khiển đóng rèm che trong khoảng
thời gian giữa trưa.
Chương trình điều khiển tưới - cấp dịch dinh dưỡng -
chiếu sáng khá đơn giản – là tổ chức các bộ định thời
(Timers) để điều khiển cho các chức năng. Khi khởi
động, thiết bị thực hiện xác lập đồng hồ thời gian thực
(Clock). Bộ định thời gian Timer 1 điều khiển van
solenoid để cấp dịch kiểu tưới nhỏ giọt. Bộ định thời
gian Timer 2 điều khiển bơm tưới phun từ trên. Bộ
định thời gian Timer 3 điều khiển cho hệ chiếu sáng.
809
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
Để đảm bảo an toàn và phục vụ lâu dài cho hệ thống
bơm, quạt làm mát và phun sương trong chế độ vận
hành được điều khiển hoạt động cứ 60 phút sẽ nghỉ 15
phút và tự chạy lại.
Trên hình H.8 giới thiệu giao diện màn hình của hệ
thống điều khiển. Trên màn hình hiển thị thông số
nhiệt độ - độ ẩm cho 4 vùng trong mỗi nhà, cho phép
đặt các giá trị cho điều khiển nhiệt độ, độ ẩm và các
trạng thái hoạt động của các thiết bị, Bắt đầu
Mở rèm
Mưa
Giómạnh
?
Nắng ?
?
?
?
?
Khởi tạo Clock
Đóng mái
Đóng rèm
Mở mái
Mở rèm
Mở che dưới
Đóng che dưới
Run
Bơm nước làm mát
Run
Quạt hút làm m át
Run
Quạt đảo
Run
Bơm phun sương
Y
Y
Y Y
Y
Y
Y
N
N
N
N
NN
N N
N
N
giữa trưa
giữa trưa
>10%cao
Chênhlệch H-T
LS3
LS2LS1
LS5
LS4
không caoĐộ ẩm
Q0.0
Q0.1
Q0.2
Q0.3
Q0.4
Q0.5
Q0.6
Q0.7
Q2.1
Q2.2
?
?
??
Y
YY
Độ ẩm
Td>T2
Td>T3
T
T
H. 7 Giản đồ chương trình điều hoà nhiệt độ
H. 8 Giao diện màn hình của hệ thống điều khiển.
5. Kết quả Trên hình H.9 giới thiệu một số hình ảnh về GH-300.
Dữ liệu đo và kiểm soát hệ thống được lưu trữ thành
các file Data trong máy tính, cho phép lưu trữ các kết
quả đo nhiệt độ - độ ẩm (4 vùng), tốc độ gió và các
trạng thái thiết bị công nghệ tại các mốc thời gian quy
định. Các mốc thời gian lấy số liệu được nhập vào
màn hình giao diện. Kết quả trên H.10 là bảng số liệu
đo ngày 20-08-2010 cho nhà GH-100/1 lưu trữ trong
máy tính
Bố trí thiết bị trong nhà màng
Khối làm mát/ Cool Pad
Hệ điều khiển tự động GH-300 trên PLC S7-200
H. 9 Hệ thống nhà trồng cây GH-300
H. 10 Dữ liệu theo dõi vi khí hậu trong nhà GH-100/1
ngày 20-08-2010
Trên H.11 là kết quả điển hình so sánh hiệu quả làm
mát nhà trồng cây GH-100/1 ghi ngày 09-04-2010.
Các kết quả theo dõi nhiệt độ - độ ẩm cho thấy, trong
mùa khô, độ ẩm thấp (15÷20%) , nhiệt độ ban ngày
810
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
ngoài trời cao (37÷580C), hệ thống nhà trồng cây GH-
300 cho phép hạ nhiệt độ trong nhà với chênh lệch ~
12÷150C; còn trong mùa mưa, những ngày nắng độ
ẩm không cao (25÷40%), nhiệt độ ban ngày ngoài trời
nắng cao (37÷580C), hệ thống nhà trồng cây GH-300
cho phép hạ nhiệt độ trong nhà với chênh lệch
~8÷120C. Thời gian sau mưa, độ ẩm cao (60÷70%),
hệ thống nhà trồng cây GH-300 cho phép hạ nhiệt độ
trong nhà với chênh lệch ~ 5÷70C.
Hệ thống đã được bàn giao từ đầu tháng 6/2009 và
chính thức từ tháng 3/2010 để Khu Nông nghiệp
Công Nghệ cao (KNN CNC) Tp.HCM sử dụng.
30
32
34
36
38
40
42
44
46
48
50
52
54
56
58
60
8h
8h30
9h
9h30
10h
10h30
11h
11h30
12h
12h30
13h
13h30
14h
14h30
15h
15h30
16h
16h30
Nhiệt độ ngoài trời nắng
Nhiệt độ trong nhà 1
Nhiệt độ trong nhà 2 có che rèm
Nhiệt độ trong nhà 3
Nhiệt độ nhà màng PE không điều khiển
H. 11 So sánh hiệu quả làm mát trong nhà GH-100/1
Các nghiên cứu về nông nghiệp-sinh học do KNN
CNC thực hiện bao gồm [22]:
- Xác định và thử nghiệm chế độ dinh dưỡng cho một
số loại cây như dưa chuột, dưa ăn trái (dưa lưới, kim
cô nương), rau (rau muống, cải xanh), hoa nền (dạ yên
thảo, thu hải đường).
- Xác định quy trình công nghệ canh tác các loại cây
trồng nói trên cho khu vực Tp.HCM.
- Sản xuất thử nghiệm một số loại rau và hoa nhiệt đới
trồng trong nhà màng để xác định hiệu quả kinh tế của
mô hình nhà màng.
Các kết quả thử nghiệm cho thấy, ngoài việc hạn chế
nhiễm bệnh cho cây, các loại cây thử nghiệm trồng
trong nhà màng GH-300 đều sinh trưởng tốt, cho năng
suất cao hơn so với đối chứng. Năng suất các loại dưa
tắng gấp đôi.
Trên hình H.12 giới thiệu vài sản phẩm nông nghiệp
trồng tại GH-300.
6. Kết luận Việc nghiên cứu thiết kế nhà màng không phải là vấn
đề mới. Tuy nhiên việc giải quyết về mặt phương
pháp luận cho ứng dụng trong điều kiện những vùng
nắng nóng ở Việt Nam là cần thiết và thiết thực.
Cùng với việc xúc tiến các nghiên cứu nông-sinh học
về xác định chế độ dinh dưỡng, tưới cho các loại cây
trồng và thực nghiệm kéo dài suốt năm (mùa khô và
mùa mưa) cho một số loại rau ăn quả, ăn lá và hoa
nền trồng trong nhà màng GH-300 đã cho những kết
quả tốt so với nhà màng đối chứng. Từ đó, có thể kết
luận việc sử dụng nhà màng có điều khiển đem lại
hiệu quả đáng kế, cho phép phát triển trồng các loại
rau hoa trong nhà màng có điều khiển trong điều kiện
khí hậu thành phố Hồ Chí Minh với các quy trình
trồng trọt và dinh dưỡng đã thử nghiệm thành công
(Dưa lê, dưa lưới và dưa chuột, Hoa Dạ yên thảo) và
không nhất thiết phải sử dụng nhà màng công nghệ
trung bình để trồng rau ăn lá và hoa Thu hải đường.
Mặc dù năng suất một số loại cây có tăng gấp đôi,
song vẫn còn kém so với nước ngoài (~gấp bốn), vì
vậy vấn đề dinh dưỡng - giống cây trồng vẫn cần
được tiếp tục triển khai nghiên cứu.
Dưa lưới trồng trong nhà GH-300
Dưa chuột trồng trong nhà GH-300
Dạ yên thảo
H. 12 Một số cây trồng trong nhà GH-300
811
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
Kinh phí để xây dựng nhà màng mức công nghệ trung
bình GH-300 ~ 1,8 triệu đ/m2 (2010). Để giảm bớt
kinh phí đầu tư, có thể lợp mái bằng vật liệu màng PE
(2 lớp). Đối với nhà màng mức công nghệ trung bình
ở nước ta, không cần thiết phải áp dụng tự động hoá
toàn bộ mà chỉ nên tự động hoá cho điều hoà nhiệt độ
(coolpad, phun sương), độ ẩm, đối lưu. Còn những
chế độ khác như kéo rèm che, tưới tiêu, đóng mở vách
hông, mở mái có thể làm bằng tay. Điều này cho phép
giảm kinh phí tới mức ~ 1,4 triệu đồng/m2 và phù hợp
với thực tế là ở hiện trường trồng trọt ban ngày luôn
có người chăm sóc cây trồng.
Tài liệu tham khảo [1] Richel Greenhouses: The Standard of
Innovation, Serres de France: Multispan
Greenhouses, 2010.
[2] Sundancesupply.com.: Framing Guide.
[3] Netafim.com: Greenhouse Project, Strutures &
Technology, 2010.
[4] Duffie J.A.; and Beckman: 1980, Solar
Engineering of Thermal Processes, Wiley,
Newyork,
[5] Thimijan R.W.; Heins (Photometric,
Radiometric, and Quantum Light Units of
Measure): A Review of Procedures for Inter
Conversion. Hort Science, 18(6), 818-822.
[6] Gerrit van Straten: Investment in Novel Closed
Greenhouse Systems: the Watery design and
other developments. Wageningen University –
Systems & Control Bornsesteeg 59-6708 PD
Wageninger,The Netherlands.
[7] Ting K.C.; G.A. Giacomelli: Availability of
Solar Photosynthetically Active Radiation,
Tran.ASAE, 30(5), 1452-1456’ 1987.
[8] Godbey L.C.; T.E.Bond; H.F.Zornig:
Transmission of Solar and Long-wavelength
Energy by Materials used as Cover for Solar
Collectors and Greenhouse. Trans.of ASAE,
22(5): 1137-1144, 1979.
[9] Aldrich, R.A; J.W. Bartok: Jr. Greenhouse
Engineering. NRAES-33. Northeast Regional
Agricultural Engineering Service. Cornell
University, Ithaca, NY. 14853, 1989.
[10] Bucklin R.A.; J.D.Leary; D.B.McConnel;
E.AG.Wilkerson: Fan and Pad Greenhouse
Evaporative Colling System. Department of
Agricultural and Biological Engineering, Florida
Cooperative Extension Service, Institute of Food
and Agricultural Sciences, University of Florida.
Publication date, 2004.
[11] Sapounas S.; C.Nikita-Martzopoulou;
T.Bartzanas; C.Kitas: Aspect of CFD modeling
of fan and pad evaporative cooling system in
greenhouse. 2nd
PALENC Conference and 28th
AIVC Conference on Building low Energy
Cooling and Advanced Ventilation
Technologies in the 21st Century, Crete Island,
Greece, September 2007.
[12] Jessica J. Prenger; Peter P. Ling: Greenhouse
Condensation Control/ Improving Air
Circulation, AEX-803-00. Ohio State University
Fact Sheet, Food, Agricultural and Biological
Engineering, 1680 Madison Ave., Wooster, OH
44691.
[13] Buffington D.E., R.A.Bucklin, R.W.Henley and
D.B.McConnell , Greenhouse Ventilation.
[14] Evans M.R.: Greenhouse Management, Design
& Construction, 2005.
[15] Nguyễn Ngọc Lâm; Nguyễn Văn Uyển: Nhà
trồng cây có điều khiển tự động IGH-24, Tài
liệu thiết kế và báo cáo kỹ thuật, 2005.
[16] Buchanan R.; Charles Hand: Greenhouse
Equipment, Facilities shown are UGA &
JCCHS Greenhouses, Georgia Agriculture
Education Curriculum Office, June, 2002.
[17] Netafim: Proposal for design, supply &
supervision of Vegetables Greenhouse Project
for HoChiMinh City Agriculture Hi-Tech Park,
2008.
[18] S. William; J.Roberts: Glazing Materials,
Structural Design, and Other Factors Affecting
Light Transmission in Greenhouse. Bioresource
Engineering Rutgers University.
[19] Bùi Hải; Hà Mạnh Thư; Vũ Xuân Hùng: Hệ
thống điều hòa không khí và thông gió, NXB
KHKT, 2001.
[20] Castilla.N: Greenhouse Drip Irrigation
management and Water Saving, C.I.D.A.
Apartado 2027 18080 Granada-Spain.
[21] Ngô Trí Dương: Thiết kế hệ thống điều khiển
quá trình tưới nhỏ giọt áp dụng trồng cây trong
nhà lưới, nhà kính, Tạp chí Khoa học kỹ thuật
nông nghiệp,Vol 3. No 4. p. 321-326, 2005.
[22] Nguyễn Ngọc Lâm: Nghiên cứu, thiết kế, chế
tạo và đưa vào ứng dụng nhà màng polyethylen
trồng cây có điều khiển tự động phù hợp với
điều kiện sinh thái Tp.HCM, Báo cáo khoa học
công nghệ Đề tài nhánh mã số KC.03.11-1/06-
10, 10-2010.
812