97
THÍCH HUỆ THÔNG MTSUỐI NGUỒN YÊU THƯƠNG ĐẾN CHÂN TRỜI GIÁC NGNhà Xuất Bản VĂN HÓA SÀI GÒN - 2007

Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

  • Upload
    tam1984

  • View
    3.319

  • Download
    7

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Tấm lòng, tình thương bao la vô bờ bến của Mẹ.

Citation preview

Page 1: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

THÍCH HUỆ THÔNG

MẸ TỪ SUỐI NGUỒN YÊU THƯƠNG ĐẾN CHÂN TRỜI GIÁC NGỘ

Nhà Xuất Bản VĂN HÓA SÀI GÒN - 2007

Page 2: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

2

LỜI TỰA

Hằng năm cứ mỗi độ thu về, vào dịp rằm tháng bảy, tâm thức người con Phật sâu lắng hơn, cảm xúc về song thân phụ mẫu dạt dào hơn. Rằm tháng bảy, sự liên hệ giữa người đang sống và người đã khuất trở nên mật thiết, tình người chan chứa nhiều hơn và truyền thống tâm linh cũng được dịp tuôn trào ... Đơn giản, bởi đó là mùa Vu Lan báo hiếu.

Tại Ấn Độ, cách đây trên 2550 năm, Tôn giả Mục Kiền Liên vâng theo lời Phật dạy, đã thỉnh cầu chư Tăng mười phương nhân ngày Tự tứ, chú nguyện cầu siêu độ thoát cho mẹ đang thọ khổ nơi cảnh giới ngạ quỉ. Chính nhờ sức chú nguyện của chư Tăng mà bà Thanh Đề liền đó được sanh về Thiên giới.

Tấm gương cứu mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên được đề cập trong kinh Vu Lan Bồn luôn được Phật tử xem là bài học sinh động sâu sắc về tấm gương hiếu đạo của người con đã giác ngộ giáo lý Phật Đà.

Từ tấm gương hiếu đạo của Tôn giả Mục Kiền Liên, thiết nghĩ, mỗi người hiện diện trên cõi đời, ai cũng có tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Dù là Phật tử hay không phải Phật tử, dù theo bất cứ tôn giáo nào hay không theo tôn giáo, thì ai ai cũng có gia đình, huyết thống gia đình và nguồn suối tâm linh. Do đó mùa Vu Lan báo hiếu đã vượt ra ngoài giới hạn của một ngày lễ truyền thống trong Phật giáo, để rồi trở thành chuỗi ngày đại lễ cho những ai có tấm lòng hiếu thảo đối với bậc sinh thành.

Hơn nữa, dân tộc Việt Nam chúng ta là dân tộc có đạo lý “Ẩm thủy tri nguyên”, nên khi Phật giáo du nhập vào nước ta, thì tinh thần hiếu đạo của người con Phật được khơi nguồn sâu hơn, nhân lên rộng hơn. Chính nhờ nền đạo lý truyền thống dân tộc kết hợp nhuần nhuyễn với tâm đức từ bi cứu khổ và hạnh hiếu trong đạo Phật đã nghiễm nhiên biến mùa Vu Lan trở thành ngày đại lễ của những người con Phật luôn lấy hạnh hiếu làm đầu.

Để thể hiện tấm lòng hiếu đạo, hàng Phật tử tại gia vâng theo lời Phật dạy, trong đời sống hằng ngày đã thực hành các thiện pháp, bố thí, phóng sanh, trì trai, giữ giới, sám hối, niệm Phật... cuối cùng hồi hướng công đức về song thân phụ mẫu. Đặc biệt nhân mùa Vu Lan, noi theo tấm gương hiếu hạnh của Tôn giả Mục Kiền Liên, Phật tử thường đến chùa cúng dường chư Tăng nhân ngày Tự tứ, nhờ tâm thanh tịnh và oai lực của chư Tăng chú nguyện cho cha mẹ nhiều đời và cửu huyền thất tổ sớm thoát khỏi cảnh giới địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh ... cũng nhân đây cha mẹ nhiều đời được kết duyên Tam Bảo, thêm nhiều lợi lạc.

Đến chùa trong dịp lễ Vu Lan, nơi đây đã cho chúng ta một cảm xúc thiêng liêng về tình mẹ. Chúng ta sẽ được cài lên trên áo một đóa hoa hiếu hạnh, và trong đóa hoa đó, chúng ta sẽ cảm nhận sự hiện hữu của cha mẹ luôn tồn tại trong ta, dù đó là hoa hồng hay hoa trắng. Nơi đây quí vị sẽ được tận tay dâng những chiếc y hoại sắc giải thoát lên chư Tăng Ni để cúng dường với tâm nguyện cầu mọi sự an lành cho cha mẹ hiện đời và quá vãng.

Tuy nhiên đối với người chưa có điều kiện đến chùa cúng dường chư Tăng nhân mùa Vu Lan, hoặc trong đời sống chưa nhận thức đúng đắn về phương cách báo hiếu sao cho trọn vẹn từ đời sống vật chất, tinh thần đến đời sống tâm linh, đã vậy việc báo hiếu tất nhiên sẽ giới hạn. Qua đó chúng ta cần định hướng một phương cách báo hiếu sao cho hiệu quả thiết thực, đồng thời nói lên ý nghĩa quan trọng của tinh thần hiếu đạo nhân mùa Vu Lan.

Mùa Vu Lan trước đây không lâu, chúng tôi có dịp thuyết giảng đề tài “Xây dựng cõi Tịnh Độ trong tâm hồn người con hiếu đạo”. Sau thời pháp này, một số Phật tử đã đề nghị chúng tôi nên thực hiện thành cuốn sách nhỏ nhằm phổ biến rộng hơn trong Phật tử.

Page 3: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

3

Nay mùa Vu Lan lại về, chúng tôi thiết nghĩ, “Mẹ” đã ban cho tất cả chúng ta vị ngọt ngào từ “Suối Nguồn Yêu Thương” và trong vòng tay êm ấm thiêng liêng của tình mẫu tử, chúng ta đã cất bước đến bầu trời cao hơn, mở tầm nhìn đến chân trời xa hơn và đời sống của mỗi chúng ta trở nên ý nghĩa hơn: - Đó là “Chân Trời Giác Ngộ”. Từ yêu cầu của Phật tử và từ những ý tưởng nêu trên, chúng tôi đã hình thành nên tập sách nhỏ: “Mẹ! Từ Suối Nguồn Yêu Thương Đến Chân Trời Giác Ngộ”. Thật ra, đây chỉ là tấm lòng thành mà chúng tôi dâng lên cúng dường cha mẹ và đây cũng là điều mà chúng tôi cưu mang bấy lâu nay ngõ hầu đền đáp phần nào thâm ân trời biển của hai đấng sinh thành. Nhân duyên này, chúng tôi xin được gởi đến quí Phật tử tập sách nhỏ viết về “Mẹ” để làm món quà ý nghĩa trong mùa Vu Lan báo hiếu.

Dù tập sách nhỏ này đã thực hiện xong, nhưng chúng tôi vẫn nghĩ rằng, chữ nghĩa vẫn là cái giới hạn so với tình Mẹ bao la vô hạn. Dù nói thế nào đi chăng nữa cũng không thể nào diễn tả hết thâm ân cao dày như trời biển của hai đấng sinh thành.

Nội dung tập sách nhỏ này chắc hẳn cũng khó tránh khỏi những điều sơ xuất như bao công việc khác trong cuộc sống. Do vậy, chúng tôi kính mong đón nhận sự đồng cảm của chư Tôn Đức và Phật tử xa gần.

Chùa Hội Khánh, mùa Vu Lan – PL 2551 THÍCH HUỆ THÔNG

� Ý NGHĨA QUAN TRỌNG

CỦA NGÀY

CHƯ TĂNG TỰ TỨ

Trong các sinh hoạt lễ hội truyền thống của Phật giáo Đại thừa, thì đại lễ Vu Lanmang nhiều ý nghĩa trọng đại: Vừa thiêng liêng cao tột trong đời sống tâm linh của cộng đồng Phật giáo, lại vừa mang chất liệu đạo đức và tình cảm gần gũi thân thương thấm sâu trong đời sống dân gian, chan hòa trong đời sống mỗi gia đình.

Page 4: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

4

Trước khi nói đến mùa “Vu Lan báo hiếu” tất nhiên chúng ta cần phải nói đến ý nghĩa trọng đại của ngày chư Tăng Tự tứ, vì ngày họp mặt của chư Tăng rất đặc biệt này đã tạo nên dấu ấn quan trọng để hình thành nên mùa Vu Lan báo hiếu. Tuy nhiên, để hiểu rõ ý nghĩa ngày chư Tăng Tự tứ, thiết nghĩ chúng ta cũng nên có đôi dòng về mùa “An cư kiết hạ”.

Mùa “An cư kiết hạ” có từ thời Phật còn tại thế, nhưng khi Phật giáo du nhập vào nước ta, do ảnh hưởng thời tiết khí hậu khu vực Á Đông và văn hoá vùng miền nên mùa an cư kiết hạ của chư Tăng Phật giáo Bắc tông bắt đầu từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy. Sau ba tháng an cư, những vị Tăng sĩ sẽ được giáo hội xác nhận thêm một “tuổi đạo” mà trong Phật giáo thường gọi là “hạ lạp”. Có thể nói đây là một nét sinh hoạt độc đáo trong chốn Thiền môn của Phật giáo Đại thừa (Bắc tông). Trong khoảng thời gian “ba tháng hạ”, chư Tăng (Ni) được sống trong thanh quy giới luật của chốn thiền môn, được sống trong một không gian thiêng liêng thanh tịnh và môi trường trong lành tinh khiết toả ra từ đạo đức giới hạnh của đại chúng. Ba tháng an cư, chư Tăng Ni tập trung thúc liễm thân tâm tinh tấn tu hành (hơn thường ngày) tất nhiên sẽ đạt được những kết quả công phu nhất định, cùng với việc nghiêm trì giới luật trong đời sống thiền môn thì công phu tu học trong ba tháng an cư chính là nền tảng vững chắc cho suốt quãng đời tu học về sau.

Tại các trường hạ chư Tăng an cư trong ba tháng, thường có bốn chữ “Tịnh nghiệp đạo tràng”, tức là tại những nơi đây đang xây dựng cảnh giới Tịnh Độ trang nghiêm thanh tịnh. Thế nhưng muốn cho tâm hồn thanh tịnh thì đương nhiên chúng ta phải giác ngộ, mà muốn cho giác ngộ thì trước mắt chúng ta phải từ bỏ ác nghiệp, mà muốn đoạn trừ ác nghiệp thì chúng ta phải tha thiết sám hối, sửa chữa lỗi lầm. Đây chính là ý nghĩa và cũng là mục tiêu hàng đầu của “Tịnh nghiệp đạo tràng” trong ba tháng an cư kiết hạ.

Theo truyền thống sinh hoạt trong Phật giáo Đại thừa, để kết thúc mùa an cư kiết hạ, chư Tăng tại các trường hạ thường tiến hành ngày Tự tứ vào rằm tháng bảy.

Trong kinh Vu Lan Bồn, đức Phật dạy ngài Mục Kiền Liên muốn cứu độ mẹ mình thì phải chờ sau ba tháng an cư, thành tâm cúng dường nhân ngày chư Tăng Tự tứ đặng nhờ sức chú nguyện của chư Tăng thì mới có thể chuyển hoá được nghiệp lực và đem lại lợi lạc cho cha mẹ hiện đời cũng như quá vãng.

Trên tinh thần cởi mở của người học đạo, chúng ta có thể đặt câu hỏi rằng: Tại sao đức Phật dạy Tôn giả Mục Kiền Liên muốn cứu mẹ thì phải chọn ngày chư Tăng Tự tứ sau ba tháng an cư kiết hạ? Ngày Tự tứ có ý nghĩa trong đại như thế nào mà ngay cả chư Phật mười phương cũng quan tâm và hoan hỷ?

Như chúng ta đã biết, ngày chư Tăng Tự tứ là ngày mà đại chúng phát lồ sám hối, nghĩa là đại chúng Tăng (Ni) mỗi người tự đem cái lỗi của mình ra phơi bày trước mọi người rồi thành tâm ăn năn sám hối, tự khắc kỷ bản thân sẽ không bao giờ phạm phải lỗi lầm đó nữa, kế đến tha thiết khẩn cầu đại chúng chỉ rõ những lỗi lầm sai phạm của mình (do chủ quan không nhận ra) để kịp thời khắc phục chuyển hóa bản thân. Có thể nói đây là một tinh thần tu tập rất tự giác, một ý chí hướng thượng rất tuyệt vời, một hình ảnh vô cùng cao đẹp mà trên thế gian này hiếm có một tôn giáo nào thực hiện được điều đó. Cũng cần nói thêm, tinh thần tự giác và ý chí hướng thượng dõng mãnh của chư Tăng trong ngày Tự tứ đã làm tăng thêm tính thuần khiết thanh tịnh trong tâm thể của chư Tăng vốn đã nghiêm tịnh trong suốt ba tháng an cư kiết hạ vừa qua.

Thấy được lỗi, sửa được lỗi, hiện tại và tương lai không sai phạm thì thân tâm chúng ta mới trở nên thanh tịnh. Thật ra, tinh thần giác ngộ trong Phật giáo chính là tinh thần tự giác. Tự giác để thường xuyên hướng thượng. Điều then chốt trong tinh thần tự giác đó là mỗi người tự nhìn nhận một cách trung thực và chân thật nhất về những lỗi lầm nơi tự thân thì mới

Page 5: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

5

có cơ hội để tiến tu trên con đường đạo pháp. Tựu trưng ngày chư Tăng Tự tứ trên căn bản được hình thành từ tinh thần giác ngộ như đã nêu trên.

Kết hợp giữa sức chú nguyện từ tâm thể thanh tịnh của oai lực đại chúng Tăng (Ni) với tấm lòng hiếu đạo của những người con Phật đã hình thành ý nghĩa thiêng liêng của mùa Vu Lan báo hiếu.

Tấm lòng hiếu đạo của những người con Phật trong lễ Vu Lan là biểu hiện của niềm tin Phật pháp một cách tuyệt đối, cũng là biểu hiện của tâm hạnh từ bi cứu khổ và tinh thần hướng thượng. Bởi vì chỉ có hướng thượng, thành tâm nương về chánh pháp và được sự chú nguyện của đại chúng Tăng thanh tịnh thì mới có thể tháo gở nghiệp lực và hoá giải mọi khổ đau phiền trượt. Do vậy Vu-Lan-Bồn (U-Lan-Ba-Na) có nghĩa là tháo gỡ nghiệp lực, hoá giải nghiệp lực, giải thoát mọi khổ đau ràng buộc …

Thật ra, trong ngôi nhà Phật pháp, không riêng gì ngày chư Tăng Tự tứ mà đối với những Phật tử thuần thành, trong đời sống hằng ngày, một khi biết mình có tội lỗi, tôi nghĩ , hầu như tất cả Phật tử chúng ta đều có tâm tha thiết sám hối, qua đó nổ lực tinh tấn tu hành để không sai phạm nữa, điều này sẽ khiến cho thân tâm Phật tử trở nên thanh tịnh.

Ở đây chúng ta cùng trao đổi về ngày chư Tăng Tự tứ tức là ngày chư Tăng thanh tịnh đã đặt gót chân lên nấc thang giác ngộ. Chúng tôi thiết nghĩ, biết sám hối tức là đã giác ngộ vì chỉ có người giác ngộ mới tha thiết và thành tâm sám hối. Ở đây chúng ta chợt nhận ra vì sao ngày chư Tăng Tự tứ lại là ngày chư Phật mười phương vô cùng hoan hỷ! Cũng chính vì vậy mà đức Phật đã dạy Tôn giả Mục Kiền Liên hãy chọn lấy ngày chư Tăng Tự tứ (giác ngộ) để cứu mẹ mình thoát khỏi đói khổ đọa đày trong cảnh giới ngạ quỉ.

Từ ý nghĩa trong đại của ngày chư Tăng Tự tứ , chúng ta thử liên hệ và so sánh giữa tinh thần giác ngộ cũng như huớng thượng trong ngày chư Tăng Tự tứ và tinh thần hướng thiện cao cả trong đời sống xã hội, để chúng ta có nhận thức đúng đắn và khách quan đối với tính thiêng liêng cao tột của ngày chư Tăng Tự tứ.

Trong dân gian vẫn thường hay nói “xấu che, tốt khoe” và trong đời sống gia đình xã hội, thông thường cái gì xấu xa, tội lỗi thì người ta hay che đậy, bưng bít, còn cái gì tốt đẹp, quý giá thì ai cũng tìm cách phô trương, khoe khoang trước mọi người, đó là bản chất của cuộc sống và tâm lý chung của mọi người.

Quả đúng là như vậy, trong đời sống thực tế, thật hiếm có người can đảm phơi bày cái lỗi của mình trước thiên hạ hoặc nhờ người khác chĩ rõ cái lỗi của mình để mọi người cùng biết. Thế nhưng đối với đệ tử của Phật thì sự thể hoàn toàn ngược lại. Đệ tử Phật một khi đã giác ngộ chân lý, khi thấy mình có lỗi thì ngay đó thành tâm sám hối, chưa thấy thì nhờ người khác chỉ giùm để kịp thời sửa chữa và không tiếp tục sai phạm. Phải chăng đó là thực tế sinh động nhất về tinh thần hướng thượng và giác ngộ chân lý mà giới Tăng sĩ Phật giáo đã biểu hiện trọn vẹn trong ngày chư Tăng Tự tứ.

Trong đời sống hằng ngày, nếu người nào thường hay nhìn lại mình, thường tự kiểm điểm bản thân, thường xấu hổ và xót xa mỗi khi bản thân gây ra lỗi lầm, thì người đó luôn có cơ hội thăng tiến trong cuộc sống, và một điều chắc chắn là đời sống tinh thần cũng như tâm linh của người này sẽ được an vui hạnh phúc, nhẹ nhàng thanh thản. Đồng thời người có tâm cầu tiến hướng thiện ắt sẽ được mọi người tin yêu, quí mến và nể trọng. Nhờ thường xuyên khắc phục những sai sót, sửa chữa lỗi lầm, người này sẽ nhanh chóng khẳng định mình trong cuộc sống, đương nhiên uy tín của người này cũng sẽ được nhân lên tương ưng với nhân cách và hạnh kiểm của họ.

Đối với một người sống bình thường trong xã hội, chỉ với cái tâm biết xấu hổ với lỗi lầm của bản thân mà đã có thể đàng hoàn đứng thẳng người để khẳng định mình và thành

Page 6: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

6

công như vậy, huống gì đối với một vị Tăng sĩ, suốt đời trường trai thanh tịnh, hằng ngày được sống trong một môi trường trang nghiêm của oai nghi giới luật, tâm hạnh luôn thăng tiến trên đường tu học theo giáo lý Phật Đà, nếu thường xuyên thúc liễm thân tâm, thường xuyên quán sát những sai sót bản thân, tất nhiên đạo hạnh sẽ cao tột và như vậy chắc chắn rằng người đời trong thế gian khó ai có thể sánh bằng.

Đức Phật dạy rằng, trong đời sống có hai hạng người mạnh mẽ nhất: Một là người hoàn toàn trong sạnh, nghĩa là người chưa từng chuốc lấy tội lỗi vào thân. Hai là hạng người khi đã phạm phải tội lỗi sai lầm mà biết xấu hổ, tha thiết ăn năn sám hối, thành tâm sửa chữa lỗi lầm đã gây ra. Như vậy rõ ràng là chư Phật luôn tán thán khen ngợi những người biết lỗi và thành tâm sửa lỗi, không chỉ thế, đức Phật còn xác quyết hạng người này là mạnh mẽ nhất trong thế giới con người.

Lại nữa, cùng với hàng trăm hạng người từ đủ loại thành phần và giai cấp trong đời sống thì giới Tăng sĩ Phật giáo từ xưa đến nay vẫn luôn được xã hội xem là thành phần cao quí và được trọng vọng nhất trong đời sống cộng đồng.

Khi đã thực thụ là một vị Tăng thì bản thân vị Tăng đó đã là kỳ hoa dị thảo trong thế giới con người rồi, và theo như lời đức Phật dạy, nếu người nào mà biết xấu hổ, tha thiết ăn năn sám hối, thành tâm sửa chữa lỗi lầm đã gây ra, thì đây là hạng người mạnh mẽ nhất. Như vậy, đối với một vị chân Tăng, luôn quán sát những sai sót bản thân, tha thiết ăn năn sám hối, thành tâm sửa chữa lỗi lầm đã gây ra, thì rõ ràng đây là bậc chân tu giác ngộ. Dù đã giác ngộ chân lý nhưng phần đông giới Tăng sĩ vẫn luôn hướng thượng và không ngừng thăng hoa trên bước đường mà đấng Đại Giác đã đi qua, như vậy dĩ nhiên họ là những con người, dù chưa phải Thánh nhân, nhưng vẫn đáng được thế gian tôn quí cúng dường và quay về nương tựa.

Từ ý nghĩa thiêng liêng và trọng đại trên tinh thần giác ngộ và hướng thượng của một vị Tăng, lòng thành tín Phật pháp của chúng ta đã cảm thấy vô cùng kính trọng ngưỡng mộ, và điều này thật đáng để chúng ta thành kính cúng dường, huống gì không phải một hay hai ba vị Tăng như vậy mà là hàng chục hàng trăm vị Tăng thanh tịnh tề tựu về nhóm họp để phát lồ sám hối trong ngày Tự tứ. Có thể nói đây là đại sự nhân duyên rất là hy hữu trong cõi Ta Bà mà chúng ta đang sống, điều này càng trở nên ý nghĩa, trọng đại hơn đối với bất kỳ ai có diễm phúc được cúng dường chư Tăng nhân ngày đại lễ trọng thể này. Hơn nữa, trong kinh Phật thường nói đến “Phước chúng như hải” đây cũng là yếu tố vô cùng quan trọng tạo nên đại oai lực và không khí trang nghiêm thanh tịnh trong ngày đại lễ.

Chúng ta vẫn biết rằng ý nghĩa thiêng liêng của mùa Vu Lan báo hiếu được hình thành từ sự kết hợp chan hòa đồng nhất giữa sức chú nguyện và oai lực đại chúng Tăng thanh tịnh với tấm lòng hiếu đạo của những người con Phật. Tuy nhiên mùa Vu Lan báo hiếu cũng sẽ mất đi một phần ý nghĩa thiết thực nếu như cha mẹ chúng ta vẫn mãi thọ khổ đau trong ác đạo và nói một cách rõ ràng hơn nếu như tâm thức của cha mẹ chúng ta cứ khư khư ôm ghì ác nghiệp, tà kiến cùng mọi cố chấp trong lòng.

Nếu là Phật tử nặng lòng hiếu đạo, nếu là người con chí hiếu trong mỗi gia đình, chúng ta hãy cùng nhau noi gương Tôn giả Mục Kiền Liên thực hành theo lời Phật dạy: Đó là bằng tâm hồn Tịnh Độ của chính bản thân mình và bằng tất cả tấm lòng, tâm tư tình cảm nồng hậu nhất của người con hiếu đạo dành cho cha mẹ, chúng ta phải thực sự tha thiết ân cần hướng dẫn cha mẹ mình trở về nẽo thiện, khiến cho cha mẹ phát bồ đề tâm, qui y Tam Bảo, lập nguyện tu hành theo chánh pháp, có như vậy chúng ta mới có thể chuyển hóa nghiệp lực của cha mẹ mình, chúng ta mới thật sự góp phần làm cho ngày đại lễ báo hiếu trở thành Vu-lan thắng hội trọn vẹn ý nghĩa tháo gỡ mọi nghiệp lực khổ đau trong đời sống nhân gian và cả trong mai hậu.

Page 7: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

7

� MÙA VU LAN BÁO HIẾU

Theo truyền thống, chánh lễ Vu Lan hằng năm, đúng ra phải được tổ chức vào ngày chư Tăng Tự tứ (rằm tháng bảy), nhưng trên thực tế, lễ Vu Lan tại nước ta lại diễn ra trong rất nhiều ngày, việc tổ chức lễ Vu Lan ở hầu hết các chùa đều diễn ra chưa đồng bộ, chưa thống nhất thời gian, lý do đơn giản là nếu như đúng ngày rằm tháng bảy, chư Tăng Ni tập trung hết về một vài chùa lớn thì vô số ngôi chùa khác sẽ thiếu vắng hình bóng Tăng Ni và như vậy buổi lễ Vu Lan sẽ không đáp ứng trọn vẹn được tinh thần cúng dường chư Tăng nhân ngày Tự tứ. Đây cũng là một phần nguyên do mà người ta hay nói “rằm tháng bảy” là “mùa” Vu Lan báo hiếu, chứ không giới hạn là “ngày” Vu Lan báo hiếu.

Từ tấm lòng hiếu đạo của người con Phật và từ oai đức của chư Tăng nhân ngày Tự tứ, mùa Vu Lan báo hiếu đã được hình thành trên tinh thần hóa giải nghiệp lực, cứu khổ ban vui, khơi nguồn hiếu đạo trong cộng đồng Phật giáo và cả chốn nhân gian. Từ đó mùa Vu Lan báo hiếu đã trở thành chuổi ngày đại lễ của những người con chí hiếu và cũng là cơ hội để những người con Phật thể hiện tấm lòng hiếu đạo của mình.

Hằng năm, chư Tăng Ni cùng Phật Tử thường tiến hành lễ Vu Lan báo hiếu vào dịp rằm tháng bảy tại các chùa chiền tịnh viện. Đại lễ Vu Lan được tổ chức trang trọng, thu hút rất đông Phật tử cùng quần chúng nhân dân địa phương đến tham dự. Do mang ý nghĩa đặc thù của ngày lễ báo hiếu nên hầu hết Phật tử đều biểu lộ cảm xúc chân thật hướng về hai đấng sinh thành, đặc biệt là hướng về người mẹ kính yêu nhiều hơn. Đây là một sinh hoạt tôn giáo đậm tính truyền thống đạo đức tâm linh và bao hàm nhiều ý nghĩa trọng đại của Phật giáo Đại thừa.

Theo kinh Vu-Lan-Bồn, tấm gương cứu mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên thoát khỏi cảnh ngạ quỉ đọa đày, đối với Phật tử chúng ta, đó là bài học sinh động, chứa chan cảm xúc về tấm lòng hiếu đạo của một người con đã giác ngộ giáo lý Phật Đà.

Dù câu chuyện về tấm gương hiếu đạo của Tôn giả Mục Kiền Liên đã diễn ra cách nay trên 25 thế kỷ tại Ấn Độ, thế nhưng hình ảnh Tôn giả Mục Kiền Liên canh cánh trong lòng chữ hiếu, mang nặng tình thâm, mong muốn báo đền ơn sâu sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, đối với người con Phật khắp năm châu thì hình ảnh đó đã đi vào bất tử, cảm xúc đó mãi tồn tại và mãi khắc ghi trong tâm hồn những người con hiếu đạo về ý nghĩa thiêng liêng và sâu thẳm của hai tiếng “Mẹ ơi”.

Khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam chúng ta, cùng với truyền thống đạo đức của một dân tộc có 4000 năm văn hiến, chẳng hạn như “uống nước nhớ nguồn”, “chim có tổ người có tông” … thì đại lễ Vu-Lan đã nhanh chóng trở thành một lễ hội đặc thù thuần nhất về tinh thần hiếu đạo, có ý nghĩa thiêng liêng, sâu sắc và rất cụ thể về tình “mẫu tử”, chính vì vậy mà đại lễ Vu-Lan cũng đã mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống đạo đức dân tộc. Do sớm thích nghi, phù hợp, rồi dễ dàng hòa quyện với văn hóa dân gian, ngày nay đại lễ Vu-Lan đã không còn là ngày lễ riêng của Phật giáo mà nó đã trở thành ngày lễ truyền thống về hiếu đạo của cả dân tộc.

Từ một ngày lễ trong vô số ngày lễ vía của Phật giáo, lễ Vu-Lan mặc nhiên đã được cộng đồng xã hội quan tâm và ngầm chấp nhận đó là ngày lễ báo hiếu chung cho cả dân tộc.

Page 8: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

8

Trước hết có thể nói, đây là điều rất đáng tự hào của Phật giáo, vì Phật giáo vốn không phô trương hay quảng bá hình ảnh, thế nhưng mạch sống đạo đức và tâm linh của Phật giáo đã thấm sâu một cách chắc thật trong tâm tư tình cảm của mỗi một người dân Việt. Thật ra, điều này cũng dễ hiểu, bởi vì tất cả mọi người được sinh ra ở cõi đời này, từ một kẻ lam lũ ở miền quê hẻo lánh đến một người giàu sang quyền quí ở chốn đô thành, từ một vị giáo sư đáng kính đến một kẻ ít học ở một miền rừng núi xa xôi, thì không một ai có thể từ trên trời rơi xuống mà không do cha mẹ sinh ra, không một ai có thể lớn khôn trưởng thành mà không ở trong vòng tay nâng niu chăm sóc dưỡng nuôi của cha và mẹ, đặc biệt là không ai có thể sống đến ngày hôm nay mà không từ nguồn suối yêu thương của hai bầu sữa mẹ. (Nói đến đây chúng tôi mong quí vị hãy cùng lắng lòng sẻ chia với một vài trường hợp bất hạnh nào đó trong cuộc sống này đã không có duyen may như hầu hết chúng ta).

Như vậy thì ngoài vài trường hợp không may, hầu hết chúng ta, ngay từ thời thơ ấu đều nhận được sự chăm sóc nuôi dưỡng của hai đấng sinh thành. Chính nhờ cha mẹ mà chúng ta mới có hình hài này và cũng nhờ hình hài này mà chúng ta đã có thể biết đến đạo pháp, nhờ đó mà chúng ta tạo nhiều thiện nghiệp, tu sửa bản thân, giảm bớt ác nghiệp, tạo phước điền cho kiếp vị lai. Và thực tế ngay trong cuộc sống hiện nay, nhờ vào tấm thân cường tráng mà cha mẹ ban cho, chúng ta mới có thể trở thành một công dân hữu ích, mới có thể đóng góp công sức xây dựng quê hương đất nước và làm rạng danh cho tổ tiên và gia tộc. Khi nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của hai đấng sinh thành, chắc chắn là chúng ta sẽ không thể nào diễn tả hết dù thiên kinh vạn quyển, huống gì trong một vài trang giấy. Ở đây chúng ta đang cùng nhau nói về mùa Vu Lan báo hiếu, do vậy chúng tôi chỉ lướt sơ qua vài ý liên quan, còn vấn đề trọng tâm này, chúng ta sẽ bàn đến trong các chương kế tiếp.

Như chúng ta đã biết, kiếp sống của một con người có thể gói gọn trong phạm vi một đời sống ngắn ngủi chỉ vài chục năm, người nào thọ lắm cũng chỉ “bách niên giai lão” là cùng. Thế nhưng trải qua vô số kiếp trong quĩ đạo luân hồi sanh tử thì tất cả chúng ta không thể nào thông tỏ về quá khứ lâu xa cũng như vị lai mà chúng ta vô cùng tối tăm mù mịt. Do vậy chúng ta khó có thể hình dung ra được những gì mà chúng ta đã trải qua và những gì chưa đến. Đối với bản thân mỗi chúng ta, khi nghĩ về hai đấng sinh thành, thường thì chúng ta chỉ nghĩ đến cha mẹ hiện đời, thậm chí chữ hiếu có khi còn lo không trọn, huống gì là nghĩ đến cha mẹ nhiếu đời nhiều kiếp? Có thể nói rằng đây là một điều đáng tiếc rất lớn đối với những người con Phật. Tuy nhiên, nhờ vào kinh Vu-Lan-Bồn, chúng ta được biết đến tấm gương hiếu đạo của Tôn giả Mục Kiền Liên, nhất là khi được nghe đức Phật chỉ bày phương cách báo hiếu cho cha mẹ hiện đời cũng như cha mẹ đã quá vãng, chúng ta mới thật sự thấy mình là những đứa con bất hiếu, mới thật sự xót xa vì đã chưa thể hiện được điều gì thật ý nghĩa để đền đáp thâm ân sinh thành dưỡng dục.

Trải qua hàng ngàn năm, dân tộc ta đã từng chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn hóa Trung Hoa. Những thế hệ cha ông chúng ta hầu như đều thấm nhuần đạo lý Tam cương, Ngũ thường, Tam tòng, Tứ đức … Trong hệ thống kinh sách của Khổng và Lão giáo cũng đều bàng bạc những tấm gương hiếu đạo, bên cạnh đó các nhà đạo đức học Trung Hoa đã sưu tầm tập hợp ghi chép về 24 tấm gương hiếu thảo rất cảm động và bộ sách “Nhị thập tứ hiếu” ấn tượng này từ lâu đã trở thành một cẩm nang đặc thù về đạo hiếu trong chốn nhân gian.

Đối với dân tộc ta, từ nền đạo đức truyền thống của dân tộc kết hợp với sự ảnh hưởng bởi nền luân lý Trung Hoa, tâm hiếu đạo đã được xã hội xem là thước đo chuẩn về giá trị và nhân cách con người, qua đó “hiếu hạnh vi tiên” trở thành đạo lý nghìn đời mà mỗi người dân Việt đều luôn tâm niệm canh cánh trong lòng. Trong đời sống hàng ngày, ngoài bổn phận và trách nhiệm làm con, hầu hết chúng ta đều tìm mọi cách để làm vui lòng cha mẹ, chúng ta cung phụng vật chất, chăm sóc khi đau ốm, động viên tinh thần … và xem đó là cách báo hiếu thông thường mà trong đời sống chúng ta có thể thực hiện được.

Page 9: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

9

Trong đời sống nhân gian, để thực hiện một phương cách báo hiếu rõ ràng, sâu sắc, thiết thực, có thể nói đức Không Tử được xem là người tiên phong đã đưa ra những giáo điều mang tính kim chỉ nam, giúp cho những người con hiếu thảo thể hiện tấm lòng hiếu đạo của mình đối với bậc sinh thành dưỡng dục. Đức Khổng Tử thường dạy môn đồ của mình: “Hiếu tử chi sự thân, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí kỳ ưu, tang tắc trí kỳ ai, tế tắc trí kỳ nghiêm”, điều này ngụ ý rằng, là người con hiếu thảo, ngoài việc cung phụng cho cha mẹ vật chất và những tiện nghi trong đời sống, thì phải thường xuyên ân cần chăm sóc, phải thể hiện tấm lòng chân thành, yêu thương cha mẹ. Đặc biệt trong ăn ở cư xử phải hết lòng cung kính, lúc nuôi dưỡng cha mẹ phải nhiệt tâm và vui vẻ, lúc cha mẹ đau ốm phải hết lòng lo lắng thuốc thang chữa chạy, khi ma chay thì phải hết lòng thương xót, khi cúng tế tang lễ thì phải nghiêm trang chánh niệm. Có thể nói rằng, đây là nguyên tắc báo hiếu rất thiết thực và sâu sắc, chúng ta cũng dễ nhận ra rằng, người xưa chỉ dạy phương cách báo hiếu bằng cách dụng tâm chân thật và hiếu đạo thông qua cách thể hiện, lễ nghi ứng xử hành đạo chứ không lệ thuộc nhiều vào vật chất. Đối với người Trung Hoa có tấm lòng hiếu đạo, thì cách báo hiếu như thế này được xem là tối ưu và rốt ráo. Còn đối với người Việt Nam chúng ta là một dân tộc có truyền thống đạo đức lâu đời, bên cạnh đó đã ảnh hưởng không ít bởi nền văn hóa mỹ tục Trung Hoa mà cụ thể là ảnh hưởng nền đạo đức tư tưởng Khổng học, do vậy mà nhân dân ta, từ xa xưa đã thấm nhuần một nếp sống thuần lương hiếu hạnh. Những điều mà đức Khổng Tử đã dạy môn đồ về đạo hiếu như nêu trên, đã được cha ông chúng ta nói tóm gọn trong những câu ca dao đầy ý nghĩa: “Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha. Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Chúng tôi nghĩ rằng, mỗi một thành viên trong gia đình chỉ cần khắc ghi trong lòng và luôn thể hiện “một lòng thờ mẹ kính cha” thì chắc chắn rằng mọi thế sự trên cuộc đời này sẽ chu toàn như ý. Và chính nhờ đó mà đạo đức và tôn ty trật tự trong mỗi gia đình được duy trì, an ninh xã hội được ổn định, kỷ cương phép nước được bảo toàn, bản sắc nhân văn không ngừng thăng hoa khởi sắc.

Tuy nhiên, so với tinh thần hiếu đạo trong chốn nhân gian thì phương cách báo hiếu của đạo Phật thiết thực rốt ráo với ý nghĩa xuyên suốt thẳm sâu hơn. Người Phật tử có tấm lòng hiếu đạo, trước hết là phải xây dựng cho bản thân một thế giới an vui cực lạc, kế đến là phải tìm mọi cách để chuyển hóa tâm hồn để cha mẹ mình tránh các điều ác, làm các việc lành, phát tâm qui y hướng về Tam Bảo. Và như vậy, chỉ có đạo Phật mới có thể đưa ra một phương cách báo hiếu hoàn mãn từ nhu cầu vật chất cho đến tinh thần, đặc biệt phương cách báo hiếu trong Phật giáo sẽ ảnh hưởng lớn lao đến đời sống tâm linh của các đấng sinh thành xuyên suốt quá khư, hiện tại, và cho cả tương lai vô hạn lượng. Chúng ta sẽ bàn về phương cách báo hiếu tối ưu này sau khi đã cùng nhau tham khảo nội dung và ý nghĩa kinh Vu Lan Bồn trong phần mục kế tiếp.

� KINH VU LAN BỒN

Hằng năm, lễ Vu Lan thường được tổ chức trang trọng vào dịp rằm tháng bảy. Đối với người xuất gia, đây là khoảng thời gian thiêng liêng và vô cùng ý nghĩa, nó đánh dấu một bước trưởng thành trên con đường đạo hạnh. Bởi vì chư Tăng vừa kết thúc một mùa an cư kiết hạ, cũng có nghĩa là vừa được tăng thêm một tuổi đạo. Đặc biệt, trước khi giải hạ, theo thông lệ và truyền thống tu tập của Phật giáo Đại thừa, đại chúng Tăng thường họp mặt để cùng nhau phát lồ sám hối, ngõ hầu làm nền tảng vững chắc cho những ngày tu học và hành

Page 10: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

10

đạo về sau. Cũng trong giây phút thiêng liêng trọng đại này, đại lễ Vu Lan đã được diễn ra đúng vào dịp chư Tăng Tự tứ (phát lồ sám hối).

Trong giây phút thiêng liêng, tràn dâng cảm xúc, dạt dào tình yêu thương khi hướng về hai đấng sinh thành, toàn thể Phật tử đoan nghiêm chánh niệm thành kính dâng lên đại chúng Tăng Ni những tịnh tài, tịnh vật và những nén tâm nhang, những lời cầu nguyện tha thiết, thành khẩn nhất để hồi hướng về cha mẹ hiện đời cũng như quá vãng được sống lâu trăm tuổi, được siêu sanh Tịnh Độ.

Hòa vào nguồn cảm xúc lắng sâu chân thành đó là những lời kinh Vu Lan Bồn du dương trầm bổng theo tiếng mỏ và nhịp chuông ngân tràn đầy cảm động, qua đó tấm gương hiếu đạo của Tôn giả Mục Kiền Liên lần hồi hiện về trong tâm thức mỗi người, đã làm xao xuyến, lay động tâm hồn những người con hiếu đạo. Điều này đã khơi dậy trong lòng những người con Phật những hoài niệm thân thương về cha mẹ, về trách nhiệm và bổn phận làm con đối với bậc sinh thành.

Kinh Vu Lan Bồn được đức Bổn Sư của chúng ta thuyết tại tịnh xá Kỳ Viên, sau đó được Tôn giả A Nan thuật lại, nội dung chúng tôi xin tóm lược như sau: Thuở nọ, Tôn giả Mục Kiền Liên khi vừa chứng được lục thông, vì muốn báo đáp ân đức sâu dày của cha mẹ, Ngài đã dùng thiên nhãn quan sát khắp các nơi, qua đó Ngài thấy mẹ mình là bà Thanh Đề đang phải thọ khổ trong cảnh giới ngạ quỉ, nghiệp báo mà bà Thanh Đề phải chịu là không thể ăn uống được, mặt dù bà rất đói khát, do vậy mà thân thể gầy ốm tiều tuỵ trông rất thảm thương. Khi tận mắt (thiên nhãn) nhìn thấy mẹ mình phải chịu đau khổ đọa đày như vậy, lòng Tôn giả quặn đau như dao cắt, Ngài bèn dùng bình bát đựng cơm đem dâng lên mẹ. Nhưng hỡi ôi! Do nghiệp chướng quá nặng, cơm liền biến thành hòn than lửa không thể ăn được, cơn đói khát tăng lên, khổ đau lại chồng chất, trông rất thê lương. Tôn giả đem tình cảnh thảm thương vừa xảy ra tác bạch lên đức Phật. Ngay đó đức Phật dạy Tôn giả Mục Kiền Liên rằng, muốn cứu được mẹ mình thì phải nhờ đến thần lực của chư Tăng trong mười phương. Đặc biệt vào dịp rằm tháng bảy, nên sắm sửa các phẩm vật thành kính dâng lên cúng dường mười phương Tăng nhân ngày Tự tứ, đặng nhờ giới hạnh trong sạch và thần lực nhiệm mầu của đại chúng Tăng thanh tịnh chú nguyện, nhân đó cha mẹ hiện đời được tăng long phước thọ, an vui hạnh phúc, cha mẹ quá vãng trong bảy đời được sanh về cảnh giới an lành thánh thiện hơn.

Vâng theo lời Phật dạy, Mục Kiền Liên bèn sắm sửa đầy đủ phẩm vật dâng lên cúng dường chư Tăng nhân ngày Tự tứ với lòng tha thiết khẩn cầu cho mẹ mình sớm siêu thoát khổ đau trong cảnh ngạ quỉ. Chư Tăng trong lễ thọ nhận cúng dường của Tôn giả Mục Kiền Liên đã thành tâm chú nguyện và ngay sau đó bà Thanh Đề thoát khỏi cảnh ngạ quỉ sanh về Thiên giới.

Khi được biết nhờ tâm thành của mình và sức chú nguyện của chư Tăng mà mẹ mình liền thoát khỏi cảnh ngạ quỉ sanh về Thiên giới, Tôn giả Mục Kiền Liên vô cùng vui mừng, tâm hồn nhẹ nhàng thanh thoát, cũng nhân đó Ngài đã thành tâm thỉnh cầu đức Phật chỉ bày phương cách báo hiếu để chúng sanh có cơ hội đền đáp thâm ân sâu nặng của hai đấng sinh thành. Trước sự thỉnh cầu tha thiết của Mục Kiền Liên, đức Phật dạy rằng, chúng sanh hiện đời và muôn đời sau, nếu muốn thể hiện lòng hiếu đạo, báo đền ơn sâu của cha mẹ, thì đến ngày chư Tăng Tự tứ vào dịp rằm tháng bảy hằng năm, nên sắm sửa phẩm vật, với lòng thanh tịnh thành kính dâng lên cúng dường đại chúng Tăng, thì cha mẹ hiện đời cũng như quá vang sẽ được nhiều lợi lạc.

Như lời đức Phật từ bi chỉ dạy, với tấm lòng hiếu đạo, Phật tử chúng ta nên y giáo phụng hành để trọn vẹn chữ hiếu. Đồng thời là Phật tử, thì chúng ta nên tuân giữ truyền thống báo hiếu này để nhân rộng ra trong đời sống thế gian, ngõ hầu làm nền tảng đạo đức chung cho cộng đồng của thế giới con người.

Page 11: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

11

Trên đây là nội dung kinh Vu Lan Bồn, một bộ kinh thuần nhất về tinh thần hiếu đạo trong Phật giáo. Kinh Vu-Lan-Bồn mà ngày nay chúng ta được biết đến là do đức Phật tuyên thuyết tại tịnh xá Kỳ Viên trên quê hương của chính đức Phật, dù đã trên 25 thế kỷ qua, thế nhưng cốt chuyện và hàm ý bộ kinh vẫn sống động, vẫn tràn đầy xúc cảm như vừa mới diễn ra trong hiện tại và ngay trước mặt những người con Phật chúng ta.

Theo như kinh Vu Lan Bồn thì nhờ lòng chí hiếu của Tôn giả Mục Kiền Liên kết hợp với sức chú nguyện của chư Tăng mà bà Thanh Đề được thoát khổ trong cảnh ngạ quỉ sanh về Thiên giới, ở đây chúng tôi nhận thấy có một điều hết sức quan trọng cần phải nêu ra, đó là việc bản thân bà Thanh Đề đã buông ác hướng thiện, đã cải tà qui chánh hay chưa? Hay chỉ dựa vào tha lực của đại chúng Tăng và tấm lòng hiếu đạo của Tôn giả Mục Kiền Liên mà ngay đó được sanh về Thiên giới?

Về điều này, dù trong kinh không nói rõ rằng, bà Thanh Đề, vẫn chưa hay là đã “buông xả cố chấp, giải trừ ác nghiệp” … nhưng chúng ta vẫn ngầm hiểu rằng, nếu tự thân bà Thanh Đề không tự hối và tự cứu lấy mình, thì cũng khó có thể nương nhờ trọn vẹn vào sức chú nguyện của đại chúng Tăng mà giải thoát khổ đau, phát sanh hỷ lạc.

Do vậy Phật tử chúng ta cũng nên nhận thức rằng, thông qua kinh Vu Lan Bồn, đức Phật đã mở bày ra cho chúng ta một phương cách báo hiếu rốt ráo và hoàn hảo, tạo cho chúng ta cơ hội đền đáp thâm ân mẹ cha đã cưu mang nuôi dưỡng, nhưng cũng bắt chúng ta phải tư duy chín chắn rằng, trong phương cách báo hiếu, thì việc chuyển hóa tâm thức người đang thọ khổ phải hướng thiện, hướng thượng là tối cần, là thiết yếu, vì đây là then chốt để tâm chú nguyện và tâm cầu nguyện sẽ hòa hợp, dung thông được với tâm thức tự hóa giải (tự hối tự cứu ) của người đang thọ khổ trong ba đường ác. Chúng tôi nghĩ rằng, đây là chỗ sống động của kinh Vu Lan Bồn, cho nên đã 25 thế kỷ trôi qua mà ý kinh vẫn tràn đầy xúc cảm, vẫn có sức cuốn hút và mãi tươi nguyên như vừa mới diễn ra trong hiện tại.

Nhân đây cũng cần nói thêm rằng, khi Phật giáo mới du nhập vào Việt Nam, có thể nói trong thời kỳ ban đầu, văn hóa Phật giáo vẫn còn không ít dị biệt với văn hóa truyền thống dân tộc và còn phải chờ một khoảng thời gian cần thiết để thích ứng. Tuy nhiên với Kinh Vu Lan Bồn thì có lẽ không cần phải đợi thời gian mà nó vẫn tương thích ngay với tinh thần hiếu đạo của người Việt Nam chúng ta, đó là mong muốn thể hiện một việc gì đó thật có ý nghĩa, thể hiện lòng hiếu đạo đối với hai đấng sinh thành và đặc biệt là người mẹ.

Kinh Vu Lan Bồn thuật chuyện người con hiếu đạo là Mục Kiền Liên không quản gian lao cứu mẹ là bà Thanh Đề thoát khỏi cảnh ngạ quỉ đã gây xúc động và cảm thông sâu sắc trong xã hội. Trước sự đồng cảm sâu sắc đó, nhân dân ta đã đồng hóa hai nhân vật: “Tôn giả Mục Kiền Liên” và “bà Thanh Đề” thành câu cửa miệng “Mục Liên - Thanh Đề”, và cũng từ rất lâu xa trong đời sống dân gian của người Việt Nam chúng ta, hể nói đến “Mục Liên -Thanh Đề” tức là người ta nghĩ ngay đến một tấm gương hiếu thảo nào đó trong đời sống, vô hình chung Tôn giả Mục Kiền Liên đã biến thành một người thuần Việt trong nếp nghĩ và đời sống của người dân Việt và câu chuyện báo hiếu cảm động này gần như đã trở thành một câu chuyện ấn tượng về những tấm gương hiếu thảo trong kho tàng trong chuyện cổ Việt Nam.

� TẤM GƯƠNG HIẾU ĐẠO CỦA ĐỨC THẾ TÔN

Page 12: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

12

Đức Thế Tôn Bổn Sư của chúng ta, khi mới phát tâm cầu đạo Vô Thượng Bồ Đề, đã vì tất cả chúng ta mà tu hành đạo Bồ tát, trải qua vô lượng kiếp, nếm đủ mọi mùi cay đắng gian lao. Khi ta gây nghiệp, Ngài rất xót xa, tìm mọi cách giáo hóa. Khi chúng ta đọa vào địa ngục, Ngài càng đau xót hơn, chỉ muốn thay chúng ta chịu khổ. Khi chúng ta sinh ra làm người, Ngài dùng mọi phương tiện khai thị giúp chúng ta nhận ra bổn tâm thanh tịnh, gieo trồng căn lành, phát tâm bồ đề, xa lìa ác đạo, đời đời kiếp kiếp, không lúc nào Ngài rời bỏ chúng ta, điều này đã được Thế Tôn tuyên thệ rất rõ ràng trong tứ hoằng thệ nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”.

Đối với những người con Phật có tấm lòng hiếu đạo, Ngài đã phương tiện thuyết kinh Vu Lan Bồn chỉ bày phương cách báo hiếu rốt ráo và thiết thực ngõ hầu giúp chúng ta đền đáp thâm ân mẹ cha trong muôn một. Đặc biệt, đã dù là bậc thầy của trời người, đức Thế Tôn vẫn còn thị hiện là một người con chí hiếu đối với thân phụ của mình để làm bài học giúp cho tất cả chúng sinh nhân đó noi gương sống cho tròn đạo hiếu. Sau đây là câu chuyện về tấm gương hiếu đạo của Đức Thế Tôn, chúng tôi nghĩ rằng, thông qua câu chuyện này, tất cả chúng ta sẽ có được nhận thức sâu sắc hơn nữa về bổn phận và trách nhiệm làm con đối với hai đấng sinh thành.

Vào thời Phật còn tại thế, thân phụ của đức Phật là Tịnh Phạn Vương làm vua nước Xá Di. Vua Tịnh Phạn nỗi tiếng là một đấng quân vương nhân từ, thường dùng chánh pháp để cai trị đất nước và lấy nhân nghĩa đạo đức để cảm hóa nhân dân, đối với muôn loài, ông cũng hết lòng yêu thương gần gủi. Lúc bấy giờ vua Tịnh Phạn lâm trọng bệnh, mặc dù được các quan ngự y hết lòng chữa trị, nhưng do tuổi già sức yếu nên bệnh tình không thuyên giảm. Trong những ngày cuối đời tâm trạng nhà vua lộ vẻ ưu phiền. Lúc này các em của vua Tịnh Phạn là Bạch Phạn, Hộc Phạn và Đại Xưng đồng lên tiếng an ủi: “ Sư huynh hằng ngày thường gieo trồng căn lành, vun bồi đức hạnh, tu tập theo chánh pháp, đời sống quang minh chánh đại, nhờ đó nhân dân được an lạc, đất nước thanh bình. Hơn nữa, sư huynh là bậc quân vương đã giác ngộ lý vô thường, sanh lão bệnh tử là qui luật tất yếu của một kiếp người, thì có gì đâu mà sư huynh phải ưu sầu phiền muộn”. Nghe xong, vua Tịnh Phạn mới đáp lời các em mình: “Đúng vậy, dù ta có giả từ cuộc đời huyễn mộng này thì chẳng có gì luyến tiếc. Tuy nhiên chỉ có điều là ta không thấy được mặt các con ta, các cháu ta, thì quả là đáng tiếc,đáng buồn lắm. Nếu như tình trạng sức khỏe của ta có nguy kịch đi chăng nữa mà ta thấy được mặt các con các cháu của ta thì cũng chẳng có gì là khổ đau hay luyến tiếc”.

Khi vua Tịnh Phạn đáp lời các người em của mình, thì đức Phật lúc này đang tĩnh tọa trên núi Linh Thứu, Ngài dùng thiên nhãn quán sát, thấy phụ vương đang lâm bệnh nặng. Tức thì, đức Phật liền báo tin ngay cho Nan Đà, La Hầu La và A Nan biết rõ tình hình sức khỏe vua cha. Ngài Nan Đà nghe xong liền tác bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, Tịnh Phạn Vương là thân phụ của chúng ta, người đã sinh ra đấng Đại Giác trên thế gian này, đã làm lợi ích rất lớn cho muôn loài, nay Ngài lâm bệnh, chúng ta nên mau về thăm để báo ân sâu của thân phụ”. Ngài A Nan cũng tác bạch: “Bá phụ đã cho phép con xuất gia theo Phật học đạo, ân này sâu nặng khó đáp đền. Cúi xin đức Thế Tôn cho phép con về thăm bá phụ”. Liền đó, La Hầu La cũng quì xin đức Phật: “Đức Thế Tôn là thân phụ của con, nhưng sớm bỏ ngai vàng đi tìm chân lý. Lúc đó con đã nhờ ông nội nuôi dưỡng dạy dỗ trưởng thành, để ngày hôm nay con mới được xuất gia theo Phật. Nay con cúi xin Thế Tôn cho con được về thăm người lần cuối”. Nghe xong những lời tác bạch chí tình chí hiếu, đức Phật vô cùng hoan hỷ và chấp thuận những lời cầu xin ấy. Ngay sau đó đức Phật dẫn mọi người đi về hướng hoàng cung.

Page 13: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

13

Nói về vua Tịnh Phạn, dù đang trong cơn bệnh nặng, nhưng khi hay tin đức Phật dẫn Nan Đà và La Hầu La trở về hoàng cung thăm mình, thì tâm hồn liền thanh thản, sức khỏe bỗng dưng như được hồi phục một cách bất ngờ. Vua Tịnh Phạn gắng ngồi dậy, chấp tay xá chào đức Phật, rồi thưa rằng: “Thân thể tôi đang bị bức bách bởi sự hoại diệt của vô thường, đó là những cơn đau không thể chịu nỗi. Tôi sắp giả từ cõi đời này, có lẽ đây là lần cuối cùng mà tôi được gặp Thế Tôn. Xin Thế Tôn hãy đặt bàn tay của Thế Tôn lên mình tôi cho đỡ bớt cơn đau đang dày xéo tâm can. Nay được gặp Thế Tôn lần cuối, tôi mãn nguyện lắm rồi” Đức Phật lắng nghe phụ vương bộc bạch nỗi niềm, lặng trong giây lâu, Thế Tôn mới thưa lại vua cha: “ Kính thưa Phụ vương! Xin người chớ quá âu sầu. Suốt một đời người đã sống thiện lành và lợi ích. Thế Tôn quán xét chẳng có điều gì khuyết điểm, đạo đức sáng ngời, giới hạnh tròn đầy, nay người chẳng có gì phải âu sầu lo lắng cả”. Ân cần động viên phụ vương xong, đức Phật bèn đưa bàn tay đặt lên trán vua cha, tiếp tục vỗ về an ủi: “Phụ vương là người giữ giới thanh tịnh, tâm đã xa lìa cấu nhiễm, hơn nữa vạn vật không có gì bền chắc, vậy Phụ vương không nên âu sầu mà hãy hoan hỷ, giữ cho tâm hồn bình yên, quán sâu vào nghĩa lý giáo kinh “. Trong những giây phút cuối cùng, vua Tịnh Phạn đã được nghe những lời vỗ về an ủi, dịu êm ngọt ngào như những giọt cam lồ nhỏ mát cõi tâm linh. Trong giây phút ấy, Ngài sanh tâm hoan hỷ, chân hạnh phúc ngập tràn tâm hồn, Ngài bèn cầm tay Thế Tôn đặt lên trái tim mình, như ngầm tỏ ý cảm tạ những lời giáo huấn cuối cùng của đức Thế Tôn. Cũng trong giây phút thiêng liêng ấy, vua Tịnh Phạn thanh thản ra đi mà gương mặt vẫn còn rạng rỡ.

Sau khi nhà vua băng hà, kim quan của Tịnh Phạn Vương được hoàng tộc tôn trí trên tòa sư tử, khi đó đức Phật của chúng ta cùng với Tôn giả Nan Đà cung kính đứng hầu phía trước kim quan, còn A Nan và La Hầu La thì đứng hầu đằng sau kim quan. Mọi lễ nghi nhập quan, tôn trí kim quan, đón tiếp các đoàn đến viếng thăm đã hoàn tất, sau cùng thì phút giây trọng đại tiễn biệt Tịnh Phạn Vương cũng đã đến, đó là lễ di quan và lễ trà tỳ. Lúc bấy giờ đức Phật của chúng ta tướng hảo quang minh, nghiêm thân oai lực, tận tay bưng lư trầm hương toả thơm ngào ngạt, dẫn đầu các con cháu trong hoàng tộc và đệ tử hướng về khu hỏa táng. Lúc bấy giờ còn có một ngàn hai trăm vị A La Hán từ núi Linh Thứu cũng tập trung về đự lễ tang. Đến khi kim quan được đặt lên giàn hỏa, Phật và đại chúng chú nguyện và ngọn lửa bắt đầu phừng cháy. Khi ngọn lửa bốc cao, đức Phật đã khuyên dạy mọi người: “Thế gian vô thường, khổ, không, vô ngã. Tấm thân huyễn hóa này cũng như giọt sương đầu cành, cũng như tia điện chớp, chẳng gì là kiên cố. Các người chỉ thấy sức nóng của ngọn lửa hoả thiêu, nhưng không lường nỗi sự huỷ diệt của ngọn lửa tham sân si còn khủng khiếp hơn vạn ngàn lần. Vậy các người hãy tinh tấn nổ lực tìm cầu giải thoát”.

Khi đó đại chúng cùng lên tiếng thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn, đức vua Tịnh Phạn nay đã thác sinh về cõi nào? Cúi xin Thế Tôn vì lòng từ bi giải bày cho đại chúng tỏ tường”. Bấy giờ đức Phật mới hướng về đại chúng dõng dạc: “Phụ vương của ta là đạo nhân giới hạnh thanh tịnh, tâm hồn trong sáng như đài gương bảy báu, nay đã được sanh về cõi Tịnh Cư Thiên”. Đại chúng nghe xong vui mừng khôn xiết, đồng thời lễ Phật ra về.

Ngoài tấm gương báo hiếu trong câu chuyên trên đây, thì trong tiền kiếp, đức Phật của chúng ta đã trãi vô số kiếp làm người con chí hiếu. Trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, đức Phật đã kể lại tiền thân của Ngài khi làm Thái tử tên là Tu Xà Đề, Ngài đã tự tay lóc thịt mình dâng lên cha mẹ để cha mẹ qua cơn đói lòng trong lúc chạy giặc bị hết lương thực. Một lần khác, Ngài làm Thái tử tên là Nhẫn Nhục, Ngài đã tự tay hiến dâng đôi mắt mình để cứu cha thoát khỏi căn bệnh nguy kịch …

Qua những câu chuyện mang tính tượng trưng này, chúng ta nhận thấy, đức Phật của chúng ta là đấng Đại Giác đầy đủ mười hiệu: Như Lai, Ưng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Page 14: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

14

Dù Ngài là đấng Đại Giác, là Thầy của trời người, thế nhưng đối với song thân phụ mẫu, đức Phật của chúng ta vẫn tự xem mình là một con người bình thường như muôn người sống trên thế giới này. Ở đức Phật tình thương và lòng hiếu đạo vô bờ bến, hình ảnh đức Phật đứng hầu kim quan thân phụ sau khi qua đời cũng như bao con người bình thường trong đời sống nhân loại mà chẳng hề có biểu hiện mình là đấng Đại Giác Như Lai, và hình ảnh Ngài đã tự tay lóc thịt mình dâng lên cha mẹ, rồi tự tay hiến dâng đôi mắt mình để cứu cha thoát khỏi căn bệnh nguy kịch … đã thực sự gây xúc động và vô cùng ấn tượng về một tấm gương hiếu đạo.

Trên thế giới Ta Bà này, chúng ta cũng khó có thể kiếm ra một vị giáo chủ nào đã thể hiện tấm lòng hiếu đạo đối với bậc sinh thành như đức Phật của chúng ta.

Đức Phật đã chí tình chí hiếu như vậy, có khi nào chúng ta thử hỏi lại mình, đã “một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con” chưa? Hay chúng ta chỉ thực hiện bổn phận và trách nhiệm với hai đấng sinh thành một cách miễn cưỡng và cho có lệ, trong khi chúng ta chỉ là những con người tầm thường, thậm chí chưa có một vị trí, danh xưng gì, dù trong đời sống tạm bợ ở thế gian này.

� CÔNG ƠN CHA MẸ

VÀ PHƯƠNG CÁCH

BÁO HIẾU Nói đến công ơn cha mẹ và phương cách báo hiếu, chắc có lẽ rằng, ngoài những nội dung chi tiết đã được đề cập đến trong kinh Vu Lan Bồn, thì chúng ta khó có thể tìm đâu ra một bản kinh nào, một áng văn nào … nêu ra công ơn trời biển của cha mẹ và phương cách báo hiếu cụ thể thiết thực đến như vậy.

Trong phần mục “Công ơn cha mẹ và phương cách báo hiếu” này, chúng tôi chỉ trình bày thêm một vài ý nghĩ từ cảm xúc chân thành nhất hướng về song thân phụ mẫu và chúng tôi nghĩ rằng, đây cũng là dịp để tất cả chúng ta cùng nhau ôn lại những kỷ niệm sâu sắc về tình cảm thiêng liêng mà các bậc cha mẹ đã trọn một đời chắt chiu tần tảo hy sinh dưỡng nuôi chúng ta cho đến ngày khôn lớn.

Nói đến hai chữ “công ơn” đối với “cha mẹ”, chúng tôi nghĩ rằng, dường như nó vẫn còn quá giới hạn, vẫn còn cạn cợt hẹp hòi so với những gì mà cha mẹ đã ban tặng cho tất cả chúng ta. Nếu gọi tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái là “công ơn” thì vẫn có điều gì đó chưa thật sự ổn trong cách tôn xưng, mà đối với những gì cha mẹ đã ban cho, chúng ta phải tôn vinh đó là “công đức” sinh thành thì mới thấu tình trọn nghĩa. Thật ra khi chúng ta dùng văn tự tán thán ca tụng công ơn cha mẹ, nào là “Thâm ân sâu nặng”, “Công ơn trời bể”, nào là “Ân đức cù lao”, “Cha mẹ là Phạm Thiên”, “Cha mẹ là Phật tại tiền” … thì cũng không thể nào diễn đạt hết tình yêu thương và sự chịu đựng vô bờ bến của cha mẹ đã trọn một đời hy sinh vì con cái.

Page 15: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

15

Hơn nữa, khi đề cập đến những gì mà các bà mẹ đã ban tặng, chắt chiu tần tảo hy sinh cho thế giới con người, trước hết chúng ta phải nói đến tình thương yêu vô bờ bến của người mẹ, mà nói đến tình mẫu tử và công đức sinh thành dưỡng dục của người mẹ thì chúng ta không thể so sánh hay tính toán cho rằng đó là “ơn” hay “nghĩa”.

Đối với người Việt Nam chúng ta, thì việc báo hiếu chính là bổn phận thiêng liêng của tất cả mọi người. Có lẽ do vậy mà đã có rất nhiều người được biết đến kinh Thi, một bản kinh văn nằm trong hệ thống văn học cổ đại Trung Hoa, đã nêu ra công ơn của người mẹ rất vắn gọn nhưng hàm súc và tương đối đầy đủ. Trong kinh Thi, công ơn của người mẹ được trình bày tuần tự như sau: “Sinh – Cúc – Phủ – Dục – Súc – Trưởng – Cố – Phục – Phúc”, nghĩa là: “Sinh nở – Nâng đỡ – Vỗ về – Dạy dỗ – Bú mớm – Nuôi dưỡng – Chăm sóc – Nuông chiều –Che chở”. Đây là 9 đức hạnh hy sinh của người mẹ kể từ khi chúng ta vừa mới chào đời cho đến trưởng thành mà tất cả chúng ta đều phải chịu ơn và đều phải có bổn phận đền ơn đáp nghĩa.

Như chúng ta đã biết, hiếu đạo vốn là một đạo lý có từ ngàn đời, nó tồn tại và thăng hoa trong thế giới con người, vì từ muôn ngàn đời nay, tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái không những không hề vơi cạn mà con lung linh dịu ngọt, êm đềm bay bỗng theo dòng chảy thời gian để dưỡng nuôi những mầm sống được lớn khôn và trở thành người hữu ích. Đối với những dân tộc có hàng ngàn năm văn hiến và truyền thống đạo đức lâu đời như dân tộc Việt Nam chúng ta, thì những tấm gương hiếu đạo trong đời sống, qua nhiều thời đại là rất nhiều không thể nào tính đếm nỗi. Chẳng hạn, tấm gương hiếu đạo của vua Trần Anh Tông đối với phụ hoàng hay của vua Tự Đức đối với mẫu hậu được nhân dân ta xem là hai tấm gương tiêu biểu về tinh thần hiếu thảo trong chốn hoàng cung.

Dân tộc ta từ rất lâu xa đã sớm thích nghi và ứng dụng những tư tưởng tích cực về đạo lý làm người của đức Khổng Tử như “Tam Cương”, “Ngũ thường”, “Tam Tòng”, “Tứ Đức” … vào đời sống gia đình và xã hội, điều này đã giúp cho nền đạo đức trong đời sống được bảo tồn và phát triển. Riêng đối với tinh thần hiếu đạo, người dân Việt Nam chúng ta cũng rất dễ đồng cảm và nhạy bén trong việc học tập theo những tấm gương hiếu thảo của bất kỳ một dân tộc nào. Có thể nói đạo lý về hiếu hạnh gần gũi với đời sống văn hóa đạo đức và nếp sống hiếu hạnh của người dân Việt Nam chúng ta nhất phải nói đến những tấm gương hiếu đạo trong “Nhị thập tứ hiếu”, ở đó là những tấm lòng chí hiếu, chỉ mới nghe qua cũng đã làm xao động lòng người, nếu chịu khó tư duy loài người cũng có thể nhân đó mà cải hoá bản tâm, điển hình như Hán Linh Đế đã đích thân sắc thuốc dâng mẹ mỗi khi mẹ ốm đau mà không để ai làm thay công việc này, hoặc như Đinh Lăng khắc tượng mẹ để thờ và mỗi bữa ăn đều dâng cơm nước lên mẹ như khi người vẫn còn sống … những tấm gương chí hiếu như vậy đã thật sự gây xúc động và ấn tượng tốt đối với những tâm hồn hiếu đạo.

Trong đời sống nhân gian, phương cách báo hiếu cũng đã được đức Không Tử đề ra: “Hiếu tử chi sự thân, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí kỳ ưu, tang tắc trí kỳ ai, tế tắc trí kỳ nghiêm”, điều này hàm ý, trong cách ăn ở cư xử phải hết lòng cung kính, lúc nuôi dưỡng cha mẹ phải nhiệt tâm và vui vẻ, lúc cha mẹ đau ốm phải hết lòng lo lắng thuốc thang chữa chạy, khi ma chay thì phải hết lòng thương xót, khi cúng tế tang lễ thì phải trang nghiêm. Có thể nói rằng, người xưa đã rất chú trọng đến tinh thần hiếu đạo, tuy nhiên việc báo hiếu lại thiên về đời sống thế gian, vì vậy mà các đấng sinh thành vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi so với những gì mà họ đã ban cho thế giới con người.

Trong Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, đức Phật đã nêu ra 10 công đức sâu dày của người mẹ như sau: 1.Chín tháng cưu mang khó nhọc. 2.Sợ hãi đau đớn khi sinh. 3.Nuôi con cam đành cực khổ.

Page 16: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

16

4.Nuốt cay, mớm ngọt cho con. 5.Chịu ướt, nhường ráo con nằm. 6.Nhai cơm sú nước cho con. 7.Vui giặt đồ dơ cho con. 8.Thường nhớ khi con xa nhà. 9.Có thể tạo tội vì con. 10.Nhịn đói cho con được no”.

Đây là 10 công đức của người mẹ, mà bất cứ ai trong chúng ta cũng đều đã thọ nhận, cũng đều phải chịu ơn, thế nhưng có điều là chúng ta ít khi tưởng nhớ đến sự hy sinh lớn lao và thầm lặng của người mẹ, mặc dù trong số chúng ta đã có rất nhiều người trưởng thành và không ít người đang nỗi danh nỗi tiếng. Do vậy khi đọc được những lời vàng ngọc từ kim khẩu đức Phật nói về thâm ân sâu nặng của người mẹ, dường như tất cả chúng ta đều không khỏi chạnh lòng bồi hồi xúc động, đồng thời tâm nguyện mong muốn thể hiện ngay một việc gì đó thật có ý nghĩa đối với hai đấng song thân và đặc biệt là người mẹ.

Trong 10 công đức sâu dày của người mẹ mà đức Phật đã nêu ra trong Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, ngoài những điều như “Chín tháng cưu mang khó nhọc”, “Sợ hãi đau đớn khi sinh”, “Nuôi con cam đành cực khổ”, “Nuốt cay, mớm ngọt cho con” … thì đặc biệt ở điều thứ chín là “Có thể tạo tội vì con”, chúng ta nhận thấy, đức Phật không đơn thuần chỉ nêu ra công ơn của người mẹ như những chi tiết khác, mà ở đó là tâm lượng vị tha quảng đại của “Bồ tát”, là sự hy sinh lớn lao vô cùng, ở đó là tình thương không ngằn mé của người mẹ đã vì sự sống của con mà chấp nhận tạo nên mọi tội lỗi. Chúng tôi nghĩ rằng, điều này dường như chưa thấy ở một tôn giáo nào đề cập đến, chưa có một nền đạo lý nào chú tâm đến. Tạo tội cho mình tức là tạo ác nghiệp cho mình, tức là phải chịu khổ vĩnh kiếp trầm luân mà vẫn vui vẻ thản nhiên chấp nhận, thậm chí còn cảm thấy được hạnh phúc khi tạo tội vì con. Than ôi! Tất cả cũng chỉ vì xuất phát từ tình yêu thương con vô bờ bến mà đấng sinh thành đã dành cho con cái.

Đây là vấn đề thực sự trọng yếu mà mỗi một người con Phật chúng ta không thể thờ ơ hay xem nhẹ. Vì điều này sẽ ảnh hưởng không chỉ đời này cho người mẹ mà còn cho đời đời kiếp kiếp về sau, vì thương con mà những quả báo khốn khổ này người mẹ phải gánh chịu toàn bộ. Có thể nói đây là sự hy sinh hết sức vĩ đại, mà mỗi một người con như chúng ta không thể nào đáp đền nỗi, nếu như chúng ta không có duyên với Phật pháp, nếu như chúng ta không vâng theo lời Phật dạy.

Trong Kinh Tâm Địa Quán, đức Phật đã đề cao công ơn cha mẹ cao như núi Thái, sâu như biển Đông: Ân từ phụ cao dường núi Thái Đức mẫu thân sâu tợ biển Đông Dù cho phụng hiến trọn đời

Cũng không trả nỗi công ơn sinh thành.

Qua đó chúng ta nhận thấy rằng, đức Phật đã hình tượng hóa ân đức sinh thành của cha mẹ như núi Thái, như biển Đông, và cuối cùng Ngài cảnh báo cho tất cả chúng ta biết rằng, dù trọn một đời này chúng ta dâng hiến cung phụng tất cả những gì mà chúng ta đang có thì cũng chưa chắc là có thể đền đáp nỗi công ơn trời biển của cha mẹ.

Đặc biệt trong Tương Ưng Bộ Kinh, đức Phật của chúng ta đã đưa ra một ẩn dụ so sánh rất ấn tượng khi nói về ân đức sinh thành và suối nguồn yêu thương của người mẹ đã dành cho con cái: “Sữa của mẹ mà chúng ta đã thọ nhận so với nước của bốn đại dương, bên nào nhiều hơn?”. Và cũng thật đầy bất ngờ, khi chúng ta được biết thêm một sự thật về những gì mà chúng ta đã thọ nhận từ tình yêu thiêng liêng của người mẹ trong vô số kiếp từ trước cho đến trở lại đây. Đó cũng là một điều hiển nhiên mà chúng ta đã không thể nào ngờ được,

Page 17: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

17

nếu như chúng ta chua từng nghe đức Phật chỉ dạy: “ Này các Thầy Tỳ kheo! Trong lục đạo luân hồi, sữa mẹ mà các Thầy đã thọ nhận còn nhiều hơn là nước trong bốn đại dương”.

Ôi! Tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái là vô biên, là bất tận, là sâu dày, là vĩnh cữu … như vậy chúng ta có thể nào báo đáp ân sâu của hai đấng sinh thành bằng tất cả những gì mà chúng ta đang sở hữu. Chúng tôi thiết nghĩ, chúng ta vẫn có thể nếu như tự thân mỗi chúng ta cố gắng xây dựng một cõi Cực Lạc ngay trong tâm hồn mình, rồi chúng ta đemnguồn năng lượng hạnh phúc an lạc này chan hòa vào trong đời sống hằng ngày của cha mẹ, biến gia đình mình thành một cõi Cực Lạc hiện hữu trong cõi Ta Bà khốn khổ. Vấn đề này, chúng ta sẽ cùng bàn đến trong chương mục “Xây dựng cõi Tịnh Độ trong tâm hồn người con hiếu hạnh” …

Bây giờ chúng ta hãy cùng nhau tiếp tục lắng lòng đón nhận những lời vàng ngọc mà chính đức Từ Phụ của chúng ta nói về công ơn sâu dày của cha mẹ trong Kinh Tăng Nhất A Hàm: “ Này các Thầy Tỳ kheo! Trong đời này, nếu có người nào nâng mẹ đặt lên bên vai phải, nâng cha đặt lên bên vai trái, cõng cha mẹ đi xa ngàn dặm, lại phụng dưỡng cha mẹ bằng các loại vật thực quí hiếm, ngon lành, chăn nệm và thuốc thang đầy đủ, dùng hương trầm và dầu thơm xoa bóp thân thể cha mẹ cho bớt mỏi mệt, kéo tay chân cho giãn gân cốt, tắm rửa nước ấm khi trời lạnh, nước mát khi trời nóng, thậm chí cha mẹ có tiểu tiện, đại tiện trên đôi vai của mình … thì cũng chưa hẳn là chúng ta đã trả được thâm ân sâu nặng của cha mẹ”. Đức Phật lại dạy rằng: “Các Thầy phải hiểu rằng, ân đức sinh thành của cha mẹ sâu nặng lắm, bồng ẳm dưỡng nuôi, tìm đủ mọi cách để ta khôn lớn trưởng thành … vì thế mà ơn này khó trả. Này các Thầy Tỳ kheo! Có hai việc có thể làm cho hạng người phàm phu được công đức lớn. Đó là phụng dưỡng cha và phụng dưỡng mẹ”.

Còn nữa, bậc làm cha làm mẹ nào cũng mong muốn con mình xinh đẹp, giỏi dang, thông minh sáng suốt, có trí tuệ, có ý chí, nghị lực … nhưng nếu có lỡ sinh ra một đứa con tật nguyền như đui, mù, câm, điếc hay hư đốn, bất hiếu, ngỗ nghịch .. thì suối nguồn yêu thương của người mẹ, không do vậy mà suy giảm hay giận ghét ruồng bỏ con cái, mà càng quan tâm nhiều hơn, sự hy sinh càng tăng lên, trong đó có cả sự chịu đựng buồn tủi của một người mẹ kém phần may mắn. Thật vậy, khi gặp những hoàn cảnh trớ trêu mà cuộc đời đã sắp đặt an bài thì bậc cha mẹ nào cũng một tấm lòng yêu thương con mình, dù rằng nỗi bất hạnh đến với mình ra sao đi nữa.

Nói về tình yêu thương của người mẹ dành cho con cái, chúng ta thử xem lại câu chuyện dưới đây, một câu chuyện được xem là khuôn mẫu điển hình khi nói về tình thương không bờ bến của người mẹ dành cho con mình:

“ Có một chàng thanh niên sống trong một gia đình có hai mẹ con. Anh ta rất siêng năng chăm chỉ làm lụng để nuôi mẹ già. Anh ta lại có chí hướng thượng và rât kính ngưỡng đức Phật, dù hằng ngày anh rất chăm chỉ làm lụng nuôi dưỡng mẹ già, nhưng trong lòng thì luôn ao ước một ngày nào đó được diện kiến đức Phật. Niềm mong ước đó lớn dần theo thời gian. Do quá sốt ruột được gặp Phật, không kiên nhẫn được nữa, thế là nên anh ta đã lén mẹ già ra đi vào một buổi bình minh trong khi mẹ già còn đang say giấc.

Anh ta hăm hở hướng về phía trước mà rảo bước, anh ta đi không kịp nghỉ ngơi nhưng vẫn không biết mệt mỏi. Trải qua những chặng đường dài, suốt nhiều ngày tháng, anh ta đã đi mòn không biết bao nhiêu là đôi giày, băng qua không biết bao nhiêu là suối, đồi, rừng, núi … Thắm thoát đã tàn mùa Xuân rồi đến mùa Hạ, Thu lại về và Đông sắp đến, thế nhưng anh ta vẫn không hề hay biết là bốn mùa đã trôi qua nhanh dưới gót chân tìm Phật khong biết mệt mõi của mình …

Khi chưa gặp Phật, chưa diện kiến đức Phật, anh ta vẫn quyết chí đến cùng. Thế nhưng những ngày về sau bước chân của anh ta không còn đi nhanh và hăm hở như buổi ban

Page 18: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

18

đầu nữa. Và càng ngày anh ta càng lộ vẻ ngao ngán trên khuôn mặt cháy sạm vì nắng nóng trên suốt chặng đường dài.

Trước khi lên đường đi tìm Phật, anh vẫn thường nghe nhiều người bảo rằng: “Phật ở mọi nơi”. Thế nhưng không hiểu sao đi hoài đi mãi mà anh vẫn không trông thấy Phật. Sau khi rời gót khỏi một phố thị, anh ta bước từng bước chạm chạp về phía trước, đang lúc rã rời tha thẩn, anh ta gặp một cụ già râu tóc bạc phơ. Ông lão nhìn anh hỏi: - Cậu đi đâu mà trông bộ dạng mệt mỏi và thất vọng đến vậy? - Dạ thưa cụ, cháu đi tìm Phật – Dù rất mệt mõi nhưng chàng thanh niên cũng lễ phép trả lời. - Cậu đi tìm Phật, mà đã gặp Phật chưa? – Ông lão hỏi. - Dạ chưa cụ ạ, tìm Phật sao mà khó quá. Phật từ bi thương xót chúng sinh khắp mọi nơi mà sao đến giờ con vẫn không thấy Ngài ở đâu cả. Chàng thanh niên trả lời cụ già mà như một lời than vãn. Cụ già nghe xong, ôn tồn bảo: - Thôi cậu hãy nghe tôi mà về nhà đi. Nhưng cậu hãy nhớ cho, trên đường về nhà, nếu cậu gặp bất cứ ai mang dép trái (ngược) thì đó chính là đức Phật mà hằng ngày cậu mong tìm gặp đó.

Chàng thanh niên nghe lời ông cụ bèn quay gót trở về. Trên đường về với tâm trạng sẽ được gặp Phật như lời ông cụ, anh ta luôn hướng đôi mắt xuống bàn chân của bất cứ ai mà anh ta gặp được trên đường. Nhưng vẫn không thấy ai mang đôi dép ngược như ông lão nói. Anh ta vô cùng thất vọng, tự trách mình hoài công va không có duyên với Phật.

Đường về nhà mỗi lúc một gần, niềm hy vọng được gặp Phật của anh mỗi lúc mỗi vơi cạn dần. Đang lúc ê chề thất vọng, bất chợt anh ta thấy đôi chân của một bà lão mang đôi dép ngược đang chạy về phía mình. Trong lòng chàng thanh niên rộn lên niềm hân hoan vui sướng khó tả. Sau khi vội vàng quì xuống dưới chân “Phật” đảnh lễ, đảnh lễ xong rồi anh ta mới ngước nhìn lên và cũng đúng lúc ấy bà cụ già ôm chầm lấy cậu nghẹn ngào ràn rụa nước mắt không nói được nên lời. Chàng thanh niên sững người trong giây lát khi thấy đó chính là mẹ mình. Anh ta chợt hiểu ra và gục đầu xuống, anh ta ôm chầm lấy mẹ mình mà khóc nức nở … Cũng trong giây phút xúc động đó, chàng trai chợt nhớ đến lời cụ già, anh ta liền ngữa mặt lên trời nói như tự trách: “Đây là Phật của con mà đã bao năm nay con được kề cận sớm hôm mà con chẳng hề hay biết. Bây giờ con mới cảm nhận ra một điều rằng, con đã có một vị Phật ở trong nhà”. Kề từ đó anh ta cung phụng mẹ mình như cung phụng Phật.

Thì ra kể từ lúc đứa con bỏ nhà ra đi, người mẹ đã vô cùng đau khổ, ngày đêm lo lắng cho sự an nguy của đứa con thân yêu. Ngày qua ngày, lúc nào bà cũng tựa cửa trông ngóng tin con. Bà hỏi thăm bất cứ ai đến nhà thăm, đêm bà không ngủ, ngày bà không ăn. Người mẹ già thương nhớ con như điên như dại ấy, khi hay được tin đứa con thân yêu mà mình trông ngóng ngày đêm đã về đến đầu làng, từ giường bệnh bà liền vùng dậy, quơ vội đôi dép và phóng ra như bay ra khỏi nhà với mong ước được sớm thấy mặt con. Trong lúc vội vàng xỏ dép vào chân bà đã không kịp chú ý, vì vậy người mẹ già đã mang ngược đôi dép … Bây giờ chàng thanh niên kia đã biết, suốt những năm tháng qua mình không những được diện kiến “Phật” mà còn được sống, được yêu thương, ấp ủ, bảo bọc trong vòng tay của “Phật” mà trước đây mình không hề hay biết”.

Tình thương thiêng liêng của người mẹ dành cho con nó bao la dạt dào như vậy đó!

Đây là câu chuyện có ý nghĩa và rất xúc động về tính thiêng liêng cao cả của tình thương yêu vô bờ bến mà người mẹ đã dành cho con mình. Qua câu chuyện này, trong đời sống hằng ngày, Phật tử chúng ta hãy nên cung phụng tôn thờ và lễ lạy cha mẹ mình giống như cung phụng tôn thờ và lễ lạy đức Phật vậy, mà chính đức Phật cũng dạy chúng ta điều này: “Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế”.

Page 19: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

19

Tình thương của người mẹ dành cho con mình thiêng liêng dạt dào như vậy, còn tình thương của người cha dành cho con cái ra sao? Đương nhiên lòng mẹ thương con thì không còn phải bàn nữa, nhưng tình thương yêu của người cha cũng thiêng liêng dạt dào không kém. Điển hình về tình thương của người cha đối với con mình, chúng tôi xin kể ra đây một mẩu chuyện ngắn về tình thương yêu của vua Tịnh Phạn dành cho đức Phật của chúng ta:

“ Khi Thái tử Tất-Đạt-Đa từ bỏ cung vàng điện ngọc, trốn người cha của mình là vua Tịnh Phạn đi vào rừng tu khổ hạnh, trải qua sáu năm ròng rã chuyên cần tinh tấn công phu tịnh niệm. Đến khi thành Phật, đức Phật của chúng ta mới quay về hoàng cung để thuyết pháp độ vua cha. Sau thời thuyết pháp của đức Phật, Tịnh Phạn Vương tỏ ngộ chân lý nhiệm mầu và cũng ngay trong buổi gặp mặt hôm đó, vua Tịnh Phạn đã cầu xin đức Phật một điều, mà người cho là rất quan trọng:

- Thế Tôn có biết không? Khi Thế Tôn bỏ trẫm đi tu, trẫm nhớ thương Thế Tôn nhiều lắm. Trẫm bỏ ăn, bỏ ngủ, thậm chí không lâm triều để lo quốc sự. Đến khi Thế Tôn đắc đạo, trở về lập Tăng đoàn thì La–Hầu-La cũng bỏ trẩm xuất gia theo Thế Tôn, trẫm thêm một lần buồn khổ nữa. Từ lòng thương con thương cháu của trẩm, trẩm mới hiểu ra rằng, còn có biết bao nhiêu bậc cha mẹ khác cũng phải chịu cảnh cô đơn, sầu muộn vì con cháu họ cũng bỏ nhà ra đi xuất gia theo Thế Tôn. Cho nên điều duy nhất mà trẫm cầu xin Thế Tôn là từ nay về sau, nếu có nhận ai xuất gia thì trước hết phải được sự đồng ý của cha mẹ họ, rồi sau đó Thế Tôn mới cho nhận vào Tăng đoàn.

Khi nghe lời cầu xin lẫn tâm sự chân tình của vua cha, đức Phật cảm nhận ngay được tình cảm của người cha dành cho con là vô cùng thiêng liêng, thẳm sâu không ngằn mé. Liền đó đức Phật đã chấp nhận ngay lời cầu xin cua vua cha”.

Cũng kể từ đây, trong giáo luật của đạo Phật có thêm điều luật là bất cứ người nào đi tu, dù là bao nhiêu tuổi, dù có chức phận gì, nếu còn cha mẹ thì trước hết vẫn phải được sự đồng ý của cha mẹ mình, sau đó mới được giáo hội tiếp nhận. Như vậy, chúng ta thấy rõ là đi tu ở đạo Phat không phải là bất hiếu.

Qua câu chuyện này, chúng ta cảm nhận thêm về tình cảm của người cha cũng mãnh liệt, cũng sâu đậm như tình thương của mẹ dành cho con.

Trên thực tế đời sống ở nhiều gia đình thì người cha thường không nhu mì, mềm mỏng nâng niu chiều chuộng như người mẹ, ngược lại ở người cha tính cách lại luôn tỏ ra mạnh mẽ, cứng rắn, cương nghị. Chính vì vậy mà trong quan hệ ở gia đình, với tính cách đó, người cha giữ vị trí trụ cột trong việc giáo dục con cái. Dù tình thương của ngươi cha dành cho con cũng sâu đậm không thua kém người mẹ, nhưng do sự khác biệt trong tính cách và trong dụng tâm thể hiện mà tình thương yêu của người mẹ nặng về phần “Từ” và ở người cha thì nặng về phần “Bi”, do vậy mà trong dân gian, người ta thường hay nói: “Mẫu từ – Nhiêm phụ”. Về điều này chúng tôi sẽ đề cập chi tiết hơn trong chương kế tiếp.

Ngoài tình yêu thương con cái và trách nhiện làm trụ cột trong mỗi gia đình, thì đức hy sinh chịu đựng ở người cha cũng không thua kém người mẹ. Để minh chứng điều này, chúng tôi xin kể ra đây một câu chuyện rất cảm động về tình yêu thương và đức hy sinh chịu đựng của Bình Sa Vương đối với người con bất hiếu của mình là Hoàng tử A Xà Thế:

“Tại vương quốc Ma Kiệt Đà vào thời đức Phật còn tại thế, Bình Sa Vương có người con trai bất hiếu tên là A Xà Thế. Vì nghe lời xúi dục của Đề Bà Đạt Đa, A Xà Thế âm mưu sát hại vua cha để chiếm đoạt ngai vàng. Thế nhưng công việc bị bại lộ. Dù vậy, vua cha cũng vì thương con mà sẵn sàng tha thứ, điều đáng nói là không những tha thứ mà vua cha còn nhường ngôi lại cho con.

Page 20: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

20

Để trả ơn, vị hoàng tử bất hiếu này liền ra lệnh hạ ngục vua cha và bỏ đói cho đến khi nào chết thì thôi. Duy chỉ có một đặc ân dành cho cha mình, đó là việc cho phép hoàng hậu được vào thăm. Trong mỗi lần vào thăm vị hoàng đế bất hạnh này, hoàng hậu phải giấu đồ ăn trong túi áo đem cho chồng. Sau nhiều lần như vậy, A Xà Thế biết được liền quở trách mẹ. Vì quá thương chồng và bất lực trước đứa con bất hiếu, hoàng hậu phải lén giấu đồ ăn trong đầu tóc, vậy mà A Xà Thế cũng biết được. Cùng đường hoàng hậu bèn nghĩ ra cách tắm gội sạch sẽ rồi thoa vào mình một thứ đồ ăn làm bằng mật ong trộn với đường và sữa. Vua cha mới dùng vật cứng gọt lấy đồ ăn này mà sống. Đã vậy mà A Xà Thế cũng bắt được, lúc này y cấm hẳn mẹ không cho vào thăm vua cha nữa.

Cuối cùng A Xà Thế quyết định hạ lệnh cho người thợ cạo vào ngục giết chết cha mình. Cũng trong ngày giết chết vua cha, thì vợ A Xà Thế hạ sinh một hoàng nam kháu khỉnh. Tin tốt lành đến tai A Xà Thế cũng là lúc tin cha Bình Sa Vương bị thảm sát trong tù ngục.

Khi nghe tin chánh hậu vừa hạ sanh một hoàng nam, thì nỗi vui mừng được làm cha lần đầu tiên của A Xà Thế không kìm hản nỗi. Cả người y ngập tràn một niềm hân hoan sung sướng vô bờ bến. Tình thương của người cha lần đầu tiên chớm nở trong lòng A Xà Thế nó mặn nồng và sâu sắc như thấm sâu vô từng khớp xương ống tủy. Đối với A Xà Thế lúc đó thì cảm giác đầu tiên của người cha mới được đứa con đầu lòng dường như đưa y vào một cảnh giới thánh thiện bất ngờ. Điều này khiến cho y có cảm tưởng rằng máu huyết mình đã khai sinh ra một dòng sống để nối tiếp đời mình.

Tức thì A Xà Thế chạy đi tìm người mẹ và hỏi ngay rằng: - Thưa mẫu hậu, khi con còn nhỏ, phụ vương có thương con không? - Tại sao con hỏi vậy? Mẹ tưởng trên thế gian này không thể tìm đâu ra một người cha thánh thiện hiền lành đạo đức như cha con.

Bà nói tiếp: - Để mẹ thuật lại con nghe? Lúc mẹ còn mang bào thai con trong bụng, ngày nọ mẹ bỗng thèm ăn một món lạ lùng kỳ quái, đó là mẹ thèm hút một vài giọt máu trong bàn tay mặt của cha con, dù rất thèm mà nào mẹ dám nói ra. Rồi càng ngày mẹ càng xanh xao và sau cùng phải thú nhận với cha con. Khi nghe vậy cha con vui vẻ lấy dao rạch tay cho mẹ hút máu. Lúc ấy, nhà tiên tri trong triều tiên tri rằng, con sẽ là người thù của cha con. Do đó, tên con là A Xà Thế, có nghĩa là “kẻ thù chưa sinh”. Khi đó mẹ có ý định giết con trong lòng nhưng cha con không cho. Khi con sinh ra, mẹ nhớ lời tiên tri, nên môt lần nữa muốn giết con. Một lần nữa cha con lại ngăn cản. Một hôm, con có cái nhọt trên đầu ngón tay, đau nhức vô cùng, khóc suốt đêm ngày không ai dỗ được. Cha con đang cùng bá quan phân xử việc triều đình, nghe vậy người cầm lòng không đặng, đã bế con vào lòng và không ngại ngậm ngón tay của con trong miệng, nhè nhẹ nút cho con đỡ đau. Gớm thay! Cái nhọt bể, máu mủ tuông tràn ra đầy miệng cha con, rồi cha con sợ lấy tay ra thì con sẽ đau, nên cha con nuốt luôn cả mũ lẫn máu vào bụng! Phải, người cha hết lòng yêu thương con, vì tình phụ tử đậm đà, nhè nhẹ nuốt hết vừa máu, vừa mủ của con như vậy đó …

Nghe đến đó, A Xà Thế không chịu nỗi nữa, ông bèn đứng phắt dậy, kêu lên như điên, như dại:

- Hãy thả ngay lập tức người cha yêu quí của trẫm!

Nhưng than ôi! Người cha yêu quí ấy đã ra người thiên cổ. Lúc bấy giờ, A Xà Thế dậm chân than trời nức nở kêu gào như một đứa trẻ lên ba thương cha nhớ mẹ. Và cũng từ khi đó, vua A Xà Thế mới nhận ra rằng chỉ khi bắt đầu làm cha thì mới biết được tình phụ tử mà người cha dành cho con cũng mặn nồng sâu thẳm biết dường nào”.

Page 21: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

21

Trong đời sống nhân gian, tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái lúc nào cũng lai láng, dạt dào như vậy, thế thì đối với bậc Thánh nhân xuất thế, suối nguồn yêu thương này có khác chăng? Để tìm hiểu thêm vấn đề này, chúng tôi xin mời quí vị cùng để tâm đến nội dung của một bộ kinh có tên là “Ma-Ha-Ma-Da” hay còn được gọi là “Phật thăng Đao Lợi Thiên vị mẫu thuyết pháp”. Một phần nội dung trong bản kinh này, đức Thế Tôn đã nói đến tình yêu thương không bờ bến của Hoàng hậu Ma Da dành cho Ngài. Chúng tôi xin tóm lược nội dung câu chuyện trong bản kinh để một lần nữa khẳng định tình thương yêu của người mẹ dành cho con mình là vô biên và vĩnh cửu, dù người mẹ đó có là Thánh nhân như Hoàng hậu Ma Da và người con đó có là đấng Đại Giác như đức Phật của chúng ta:

“Tôi nghe như thế này, một thuở nọ đức Phật cùng với 1250 vị Tỳ kheo an cư tại gốc cây Ba-Lợi-Chất-Đa-La, trong vườn Hoan Hỷ, nơi cung trời Đao Lợi. Bấy giơ Phật bảo Văn-Thù-Sư-Lợi:

- Ông mau đến chỗ mẫu thân ta báo tin rằng, ta đang ở đây, xin người hãy tạm thời dời gót đến nơi này đảnh lễ Tam Bảo. Ông nhớ đọc thuộc bài kệ này, rồi đến đọc lại cho mẫu thân ta nghe: Thích Ca thành tựu Nhất Thiết Trí. Diêm Phù Đề quang minh suốt thấu. Nay khát ngưỡng gặp mặt mẫu thân. Xưa sinh con chỉ mới bảy ngày. Liền siêu Thiên, di mẫu dưỡng nuôi. Đã thành Chánh Giác, độ chúng sinh. Nay đến thời báo hiếu ơn mẹ. Mong người, quyến thuộc quang lâm đến. Lễ Phật Pháp Tăng, thọ thanh tịnh.

Khi Ma-Ha-Ma-Da nghe đức Văn Thù đọc bài kệ đó xong, thì nơi bầu vú của người liền vọt lên dòng sữa. Bà nói:

- Nếu bậc Nhất Thiết Trí. ấy là Tất-Đạt-Đa con ta, thì những giọt sữa này hãy rơi vào miệng người ấy.

Khi Hoàng hậu Ma Da vừa dứt lời, bỗng nhiên từ nơi bầu vú, những tia sữa trắng tinh khiết như hoa sen vọt ra rồi bay thẳng vào miệng đức Như Lai. Cảm nhận được điều này, gương mặt Hoàng hậu Ma Da trở nên rạng rỡ. Bà nói với Văn-Thù-Sư-Lợi:

- Từ khi ta được phúc duyên làm mẹ con với đấng Đại Giác đến nay. Thật chưa có lúc nào lòng ta được an lạc hoan hỷ như giây phút này.

Nói xong bà cùng Văn-Thù-Sư-Lợi liền đến chỗ Phật. Từ xa đức Phật nhìn thấy mẫu thân, tự nhiên lòng dậy lên sự cảm kính tột độ. Khi đến gần, Ngài nói với mẹ:

- Thưa mẫu từ, tấm thân tứ đại này trải qua vui khổ đã nhiều, nay đến thời cần phải tu tập pháp Niết bàn để vĩnh viễn xa lìa những điều khổ ấy.

Nghe lời Phật nói, bà tĩnh lặng suy tư, bất chợt cảm thán: Vô số kiếp uống sữa của ta. Nay chứng vô sanh, vô thượng đạo. Nay báo ân, giúp ta lìa ba độc. Qui mạng đấng Thế Tôn, ban ân huệ. Quy mạng bậc Điều Ngự, không gì sánh. Quy mạng Thiên Nhơn Sư, lìa si ái. Ngày đêm nhớ nghĩ không đoạn tuyệt. Cúi đầu đảnh lễ đấng Pháp Vương.

Page 22: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

22

Nghe xong Thế Tôn tâu với mẫu thân: -Xin mẫu thân lắng nghe và khéo suy nghĩ: Giáo pháp này đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối.

Đều thuần thiện, thanh tịnh, nghĩa lý rất thậm thâm. Ngôn từ thật kỳ diệu, thuần nhất không pha tạp.

Đầy đủ tướng phạm hạnh, trong sáng thật vẹn toàn.

Khi nghe đức Phật thuyết pháp, Ma-Ha-Ma-Da nương nhờ thần lực của Phật nhớ lại những kiếp trước, đồng thời lúc này thiện căn cũng đã thuần thục nên ngay đó đoạn tuyệt kiết sử trong 80 ức kiếp, chứng quả Tu-Đà-Hoàn …

… Nói về đức Thế Tôn, sau khi đã tròn ba tháng thuyết pháp tại cung trời Đao-Lợi và đã độ được mẫu thân, Ngài muốn trở lại cõi Diêm-Phù-Đề để nhập Niết Bàn. Lúc đó đức Phật thưa với Ma-Ha-Ma-Da:

- Trong dòng sinh tử, hễ có tụ thì có tan, nay con phải xuống cõi Diêm-Phù-Đề và không bao lâu nữa sẽ nhập Niết-Bàn.

Ma-Ha-Ma-Da nghe xong, lòng xót xa rơi lệ, bà đọc bài kệ: Thế Tôn nhiều kiếp xót thương chúng sinh.

Lìa bỏ tất cả nay thành Chánh Giác. Chúng sinh ba cõi chìm trong si ái.

Thuyền pháp cứu vớt sao vội Niết Bàn.

Thế Tôn liền đọc bài kệ đáp lại: Chư Phật vì đại nhân duyên hiện ra đời.

Duyên hết phải rời, pháp Phật là thế.

Đức Thế Tôn đọc xong bài kệ, từ biệt mẫu thân, trở về Diêm-Phù-Đề. Sau ba tháng Phật thuyết pháp hoá độ tám bộ chúng và các đệ tử xong, đến nửa đêm Thế Tôn đọc bài kệ cuối cùng trước giờ nhập Niết Bàn:

Chúng sinh hữu duyên đều được hóa độ.Đêm vắng trời mát, Niết-Bàn đã đến.

Nói kệ xong, đức Phật bắt đầu nhập và xuất tuần tự từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ đến Diệt tận định. Sau đó Ngài xuất và nhập tuần tự từ Diệt tận định, trở về Phi Phi tưởng xứ, Vô sở hữu xứ, Thức xứ, Không xứ, Tứ thiền, Tam thiền, Nhị thiền, Sơ thiền. Đoạn từ Sơ thiền Ngài nhập và xuất như giai đoạn đầu cho đến Diệt tận định. Ngay nơi Diệt tận định, Thế Tôn an trụ Niết-Bàn. Lúc ấy Trời đất rúng động, Thiên Long Bát Bộ đau thương khóc lóc bi ai …

Lúc đó Ma-Ha-Ma-Da đang ở cung trời Đao Lợi trông thấy năm tướng suy vi hiện ra: 1-Hoa trên đầu tàn úa. 2-Dưới nách đổ mồ hôi. 3-Ánh sáng trên đầu tắt. 4- Đôi mắt co giật từng hồi. 5- Không ưa thích chiếc ghế ngồi. Đồng thời cũng trong đêm đức Phật nhập Niết Bàn, bà thấy năm ác mộng, mộng thấy những điều không lành, Ma-Ha-Ma-Da kinh hoàng thức dậy thầm nghĩ: “… Năm ác mộng này thật kinh hoàng, phải chăng đây là điềm báo cho ta biết con ta là Thích Ca Như Lai đã nhập Niết Bàn”.

Bấy giờ Tôn giả A-Na-Luật thấy nhục thân của Như Lai đã nhập vào kim quan, bèn bay lên cung trời Đao-Lợi báo tin cho Ma-Ha-Ma-Da. Nghe tin dữ, Ma-Ha-Ma-Da cực kỳ đau đớn, bà ngã quị xuống đất hôn mê bất tỉnh. Bà đập đầu bứt tóc, khóc lóc bi ai thảm thiết:

- Đêm qua nằm thấy năm ác mộng, ta đoán chắc Phật đã nhập Niết-Bàn. Giờ đây quả nhiên A-Na-Luật đến báo rằng Phật đã diệt độ tại Ta-La song thọ, chẳng bao lâu nữa sẽ trà tỳ. Ôi, Đau đớn biết dường nào! ... Ngày xưa, tại cung vua Tịnh Phạn, vừa sinh Thái tử được bảy ngày thì ta liền mạng chung. Rốt cuộc chưa được bồng bế để biểu lộ tình mẫu tử … Đến lúc khôn lớn, vừa được mười chín tuổi, Thái tử vượt thành ra đi … Đến khi thành đạo, đã mở mắt

Page 23: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

23

trí tuệ cho trời người, che chở mọi loài giống như từ phụ. Vì sao bổng chốc phải nhập Niết Bàn …

Thế rồi bà đọc bài kệ: Từ vô lượng kiếp từng làm mẹ con

Con thành Chánh Giác, nay duyên cũng mãn. Thế rồi hôm nay thị hiện Niết-Bàn

Như cây cao lớn, bầy chim quần đậu Sáng sớm bay đi tối lại bay về

Cùng là mẹ con, cùng nương sinh tử Nay thành đạo quả, vĩnh biệt cội này Thị hiện diệt độ, chẳng còn gặp nhau

Ma-Ha-Ma-Da đọc kệ mà nước mắt ràn rụa, đau buồn ảo não … Từ xa, thấy kim quan của Phật, lòng bà đau buồn tột độ, ngất xỉu ngã quị. Các thiên nữ phải dìu bà đến bên kim quan. Ma-Ha-Ma-Da đảnh lễ Phật với lời bi thiết:

- Từ vô lượng kiếp đến nay đều làm mẹ con, giờ đây bỗng chốc biệt ly, không còn gặp lại. Than ôi! Khổ thay …

Lúc bấy giờ đức Phật dùng đại thần lực khiến các nắp kim quan tự động mở ra. Từ trong kim quan, Phật ngồi dậy, chấp tay chào hỏi, an ủi mẹ:

- Mẫu thân từ xa đến cõi Diêm Phù Đề này. Các pháp hữu vi đều như vậy. Mong mẹ đừng âu sầu bi thương nữa.

Chào hỏi mẫu thân xong, đức Phật bèn nói kệ: … Chư Phật dù diệt độ. Pháp – Tăng bảo vẫn còn. Thân mẫu đừng ưu sầu. Hãy quán lý vô thường.

Khi nghe đức Phật nói kệ xong, Ma-Ha-Ma-Da mới được khuây khỏa. Lúc nay Tôn giả A Nan bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, nếu chúng sinh đời sau muốn biết Thế Tôn trước giờ Niết Bàn có dạy điều gì thì phải trả lời như thế nào, cúi xin Thế Tôn chỉ dạy.

Phật bảo A Nan:

- Ông hãy đáp rằng: Sau khi Thế Tôn Niết Bàn, mẫu thân ta là Ma-Ha-Ma-Da từ cung trời Đao Lợi đi đến nơi đặt kim quan. Lúc đó Như Lai vì những chúng sinh bất hiếu trong đời sau mà từ kim quan ngồi dậy, dũng mãnh như sư tử, muôn ngàn ánh sáng phát ra từ lỗ chân lông. Mỗi luồng hào quang có hàng ngàn hóa Phật đều chấp tay hướng về Ma-Ha-Ma-Da mà đọc bai kệ mà ta vừa tuyên đọc.

Tôn giả A Nan lại hỏi: - Bạch Thế Tôn, Kinh này đặt tên là gì? Phải giữ gìn ra sao?

Phật dạy: … Ông có thể vì chúng sinh đời sau mà gọi kinh này là “Kinh Ma Ha Ma Da” cũng gọi là “Kinh Phật thăng Đao Lợi Thiên vị mẫu thuyết pháp”, cũng gọi là “Kinh Phật lâm Niết Bàn mẫu tử tương kiến”. Khi đức Phật nói xong, tất cả đại chúng đều hoan hỷ tín thọ phụng hành.

Trên đây là những câu chuyện được ghi lại trong kinh điển Phật giáo và là những câu chuyện có thật mà lịch sử Phật giáo đã ghi nhận.

Page 24: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

24

Chúng ta thấy đó, Hoàng hậu Ma Da là mẹ của đức Phật, dù không được diễm phúc bồng ẳm con mình như bao bà mẹ bình thường khác, và dù sau khi sinh chỉ mới bảy ngày đã thác sanh về cung trời Đao Lợi, đặc biệt hơn nữa, mẹ của đức Phật lại là một Thánh nhân vì đã chứng được quả vị Tu-Đà-Hoàn … Vậy mà khi chứng kiến sự việc Thế Tôn nhập Niết-Bàn, bà đã bi ai than khóc giống như bao người mẹ khác. Qua đây, chúng ta nhận thấy tình mẫu tử sâu nặng đến dường nào. Cũng từ đây chúng ta cảm nhận ra điều kỳ diệu mà tạo hóa đã ban tặng cho loài người, đó là tình yêu thương vô bờ bến mà cha mẹ đã dành cho con cái. Tình yêu thương này vượt thời gian và trở thành vĩnh cữu trong lòng những người con hiếu đạo. Thông qua những câu chuyện trên đây, chúng ta mới hiểu rằng tình thương mà cha mẹ dành cho con cái quả là thậm thâm không thể nghĩ bàn. Quả thật như vậy, bậc làm cha làm mẹ, dù người đó có là vua chúa quan quyền hay là Thánh nhân, là Phật đi chăng nữa thì suối nguồn yêu thương mỗi ngày được khơi rộng ra chứ không thể nào vơi cạn. Một điều khá lý thú nữa là trong những đoạn kinh văn nói về tình yêu thương của Hoàng hậu Ma Da đối với đức Phật, chúng ta chú ý sẽ thấy trong một bài kệ, đức Phật đã dạy rằng, từ vô lượng kiếp đến nay, Hoàng hậu Ma Da và đức Phật đã từng làm mẹ con với nhau trải qua rất nhiều đời nhiều kiếp, cho đến khi Thái tử Tất Đạt Đa thành Phật thì nhân duyên mẹ con giữa Ngài với Hoàng hậu Ma Da mới kết thúc. Như vậy, một khi chúng ta thành Phật, thì cội rể sanh tử mới được nhổ tận gốc. Khi đó tình yêu thương vô bờ của bậc làm cha làm mẹ sẽ trở thành tình yêu thương bao la vĩ đại hơn, đó chính là tình yêu thương chúng sanh, cứu vớt chúng sanh đang chìm đắm trong bể luân hồi sanh tử. Do vậy đối với Phật tử chúng ta, để báo đáp ân sinh thành của cha mẹ trong muôn một, điều cần thiết nhất là chúng ta phải phát bồ đề tâm, và chỉnhư vậy chúng ta mới có thể trên đền bốn ơn nặng dưới cứu khổ tam đồ, tâm tâm niệm niệm của chúng ta mới ứng hợp với tâm đại từ đại bi độ thoát chúng sanh của mười phương chư Phật.

Như chúng ta đã biết, nhờ có cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng, chúng ta mới có mặt trên cuộc đời này. Chúng ta khôn lớn trưởng thành rồi biết đến đạo lý Thánh hiền, thông hiểu Phật pháp, cho đến khi chúng ta thâm chứng đạo quả giải thoát thì cũng là nhờ vào ân đức sinh thành dưỡng dục ấy. Ân đức này cao tựa núi Thái, sâu dường biển Đông, không sao kể xiết. Như vậy chúng ta có cách nào để có thể đền đáp được công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ một cách tương xứng?

Để báo đền công ơn người mẹ, trong Kinh Thi Ca La Việt (Trường Bộ Kinh), đức Phật đã đề ra năm bổn phận mà người con phải thực hiện để báo hiếu cha mẹ như sau: 1- Cung kính vâng lời cha mẹ. 2- Phụng dưỡng cha mẹ khi già yếu. 3- Giữ gìn thanh danh và truyền thống gia đình. 4- Bảo quản tài sản do cha mẹ để lại. 5- Lo tang lễ chu đáo khi cha mẹ qua đời.

Như lời Phật dạy thì đây là năm bổn phận mà bất kỳ một người con nào cũng phải thực hiện mới mong báo đền công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Qua đó chúng ta nhận thấy sự sâu sắc trong tinh thần hiếu đạo của đạo Phật đã đáp ứng được mong muốn thể hiện sự tri ân của những người con đối với cha mẹ của mình mà trước đó chưa có phương cách nào thể hiện được trọn vẹn.

Trong đời sống hàng ngày, một khi nói về công ơn của người mẹ chúng ta thường hay liên tưởng đến câu ca dao: “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, “Nghĩa mẹ” ở đây chúng ta nên hiểu là “Tình thương của mẹ” mà “Suối nguồn tình thương của mẹ” thì không bao giờ vơi cạn, không bao giờ khô héo … Để tinh thần hiếu đạo trọn vẹn với cội nguồn yêu thương thiêng liêng lai láng ấy, chúng tôi nghĩ rằng, chỉ có phương cách báo hiếu mà đức Phật chỉ dạy mới có thể đền đáp được thâm ân trong muôn một. Sự sâu sắc và thiết thực của

Page 25: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

25

phương cách báo hiếu mà đức Phật đã chỉ dạy là giúp cho chúng ta không những chu toàn trong việc phụng dưỡng các bậc cha mẹ khi còn sống mà còn rốt ráo đối vơi tâm linh người quá vãng.

Trong kinh “Tăng Nhất A Hàm” đức Phật đã chỉ dạy chúng ta bốn cách báo ân cha mẹ như sau:

1- Nếu cha mẹ chưa có đức tin Tam Bảo thì chúng ta phải có bổn phận khuyến khích, hướng dẫn, tạo duyên để cha mẹ tin sâu Tam Bảo.

2 - Nếu cha mẹ có tâm bỏn xẻn hay tham đắm luyến tiếc của cải vật chất thì chúng ta phải có trách nhiệm khuyên cha mẹ mở lòng hỷ xả với mọi người xung quanh, khuyên cha mẹ bố thí cho những ngươi có hoàn cảnh ngặt nghèo, bất hạnh. Nhất là khuyên cha mẹ thành tâm cúng dường Tam Bảo để loại trừ tâm bỏn xẻn và gieo duyên với Phật pháp.

3 - Nếu cha mẹ làm ác thì chúng ta phải có trách nhiệm khuyên cha mẹ làm lành lánh dữ, hướng dẫn cha mẹ quay về nẽo thiện.

4 - Nếu cha mẹ lỡ gieo phải tà kiến, lỡ theo tà đạo thì chúng ta phải có trách nhiệm khuyên cha mẹ tìm đọc giáo lý, học hỏi Phật pháp, quan trọng hơn chúng ta phải có trách nhiệm hướng dẫn cha mẹ trở về con đường chánh đạo.

Trong trường hợp chúng ta không đủ năng lực giúp cha mẹ mình phát bồ đề tâm, thì chúng ta nên nhờ đến những bậc tôn túc, trưởng lão thuyết pháp, giảng dạy cho cha mẹ hiểu rõ sự lợi ích của sự phát tâm bồ đề, thực hành các thiện pháp, vì đây là hành trình tiến hóa tâm linh rất quan trọng của một đời người.

Trong Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, đức Phật đã dạy những người con Phật có tấm lòng hiếu đạo thì nên thực hiện 6 bổn phận đối với cha mẹ như sau:

1- Giữ gìn Tam qui, ngũ giới2- Siêng năng học tập giáo lý và thọ trì đọc tụng kinh điển. 3- Thường xuyên lễ Phật sám hối.4- Năng cúng dường Tam Bảo.5- Bố thí làm phước và thực hiện các pháp lành, hồi hướng công đức cho cha mẹ.6- Hằng năm đến mùa Vu Lan báo hiếu thì hãy thành tâm cúng dường chư Tăng trong

ngày Tự tứ.

Có thể nói đây là những phương cách báo hiếu mang đậm dấu ấn giác ngộ chân lý của đạo Phật và cũng là những biểu hiện sự sâu sắc rốt ráo về việc lo lắng về đời sống tâm linh của cha mẹ, có nghĩa là báo hiếu cha mẹ trong muôn kiếp về sau chớ không giới hạn trong đời sống hiện tại.

Dù chúng ta biết như vậy, nhưng trên đời sống thực tế thì việc thể hiện bổn phận của một người con hiếu đạo cũng còn tùy thuộc vào mỗi quốc gia, mỗi gia đình và mỗi hoàn cảnh khác nhau. Ở Trung Hoa do ảnh hưởng bởi nền Khổng giáo và các tập tục phong kiến lâu đời, nên các Thiền sư đã gặp rất nhiều trở ngại trong việc báo hiếu cho cha mẹ. Theo quan niệm truyền thống Trung Hoa: “Phụ mẫu tại đường, bất khã viễn du”. Nghĩa là cha mẹ còn sống thì không được đi xa. Mà đi tu tức không trở về lại nhà của mình nữa, tức là một phen bỏ cha, bỏ mẹ, điều này cũng đồng với nghĩa là đi “rất xa”. Từ quan niệm này mà người đời thường cho rằng, những người đi tu đều là những người bất hiếu. Hơn nữa, tư tưởng phong kiến còn cho rằng: “Bất hiếu vô tông vi hậu vô đại”, nghĩa là người con trai mà không nối dõi tông đường là bất hiếu, không vợ không con là bất hiếu. Từ đó người ta qui kết, hể ai xuất gia vào chùa tu hành là mang tội bất hiếu.

Như đã nói, do bởi các tập tục thời phong kiến và ảnh hưởng không ít bởi nền đạo lý mang tính cực đoan thiển cận trong đời sống thế gian mà người xuất gia đã gặp phải những

Page 26: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

26

khó khăn nhất định trong việc báo hiếu cho cha mẹ. Tuy nhiên, đối với những người con Phật thì bản thân việc xuất gia tu hành theo chánh pháp đã là một hiếu sự cao sâu hơn tất cả mọi hiếu sự mà người đời cố công thực hiện. Như Thiền sư Hư Vân (1840 – 1959) bản thân mồ côi mẹ từ lúc mới sinh được vài ngày. Năm lên 17 tuổi, Ngài muốn xuất gia vào chùa tu theo hạnh Phật nhưng không được cha già cho phép vì Ngài chỉ là người con duy nhất trong gia đình. Thế nhưng do chí xuất trần quá mãnh liệt, nên đã lén người cha thân yêu lên đường tầmsư học đạo. Đến khi được tin thân phụ qua đời, Ngài vô cùng ân hận. Để thể hiện tấm lòng hiếu đạo đối với hai đấng sinh thành đã khuất bóng, Ngài đã phát nguyện chiêm bái Ngũ Đài Sơn bằng cách cứ bước đi ba bước thì Ngài lễ lạy đức Văn Thù Sư Lợi một lần, Ngài đã thành tâm lễ lạy như vậy cho đến Ngũ Đài Sơn mới thôi. Công đức này Ngài hồi hướng về cho cha mẹ và cầu nguyện song thân sớm thác sinh về cảnh giới an lành. Còn ngài Trần Tôn Túc đi tu rồi nhưng vẫn báo hiếu cho cha mẹ bằng cách đưa mẫu thân vào ở trong chùa để tiện chăm sóc nuôi dưỡng tuổi già, nhưng Ngài sợ mẹ ăn cơm của đàn na tín thí mà không tu hành gì thì sẽ không “tiêu hóa” được ắt sẽ bị đọa vào địa ngục, do đó ngoài việc tu hành, Ngài còn đan những đôi hài bằng cỏ để bán lấy tiền nuôi mẹ. Cũng từ hiếu sự này mà Ngài còn có tên là Trần Bộ Hài. Nóivề những tấm gương báo hiếu của người xuất gia tại nước ta thì cũng vô số kể, chẳng hạn như Thiền sư Huyền Quang là Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử , bình sinh Tổ là một vị trạng nguyên xuất chúng, mặc dù thi đỗ làm quan, nhưng Ngài xem phú quí công danh như sương khói bọt bèo. Trong một lần theo vua đến chùa Vĩnh Nghiêm tham dự pháp hội, nơi đây như đã gợi lại duyên xưa, thế là Ngài dâng biểu xin vua từ quan để xuất gia học đạo. Một hôm, Tổ chạnh lòng nghĩ đến ân đức của hai đấng sinh thành, Ngài liền xuống núi trở về cố hương viếng thăm cha mẹ. Khi về đến nhà, Ngài trông cha mẹ còn khỏe mạnh và biết song thân rất sùng tín Tam Bảo, Ngài liền cho xây một ngôi chùa ở phía tây ngôi nhà và đặt tên là chùa Đại Bi. Từ ngày có ngôi Tam Bảo này, cha mẹ Ngài hằng ngày siêng năng tụng niệm, nhờ đó mà càng ngày càng thâm tín Phật pháp, tuổi già được sống trong cảnh an vui cực lạc. Báo hiếu xong Ngài mới quay lại đạo tràng tiếp tục sứ mệnh hoằng dương chánh pháp. Còn ở tỉnh Bình Dương cũng có Thiền sư “Tổ Đĩa”, sở dĩ Ngài có tên “Tổ Đĩa” là vì Ngài đã hoá độ được một con đĩa chúa ở trong một ngôi làng, nên dân chúng gọi Ngài bằng tên như vậy. Ngài là người con chí hiếu với mẹ, khi Ngài đi tu một thời gian, thì mẹ Ngài đi tìm, bà mẹ cứ lê gót tìm con như vậy qua nhiều năm tháng, bỗng một hôm bà đến đúng ngôi chùa mà Ngài đang trụ trì. Gặp được người mẹ già thân yêu nhất trên đời, Ngài vô cùng xúc động và nhận vào chùa nuôi dưỡng ngay, nhưng vì sợ mẹ hiểu ra tông tích con mình là Thầy trụ trì tất sẽ đâm ra ngã mạn, nên Ngài không nói gì cả mà chỉ căn dặn các đệ tử hãy săn sóc “bà già này” một cách chu đáo.

Qua những mẫu chuyện vừa kể, rõ ràng chúng ta đi tu thì không phải là bất hiếu, nhưng điều mà chúng ta cần phải xác định rằng, tuy có nhiều phương cách để đáp đền công ơn cha mẹ, nhưng điều quan trọng nhất để chúng ta đền ơn cha mẹ như trong Kinh Hiếu Tử và Kinh Tăng Chi Bộ mà đức Phật đã dạy:”Một người con muốn báo hiếu, muốn đền đáp ơn sâu của cha mẹ, điều duy nhất là hướng cha mẹ mình đừng gieo tạo nghiệp ác”.

Đối với những Phật tử tại gia, đến mùa báo hiếu Vu-Lan, chúng ta thường noi gương tấm lòng hiếu đạo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế, cách báo hiếu phổ thông nhất như ca dao từng nói: Cha già là Phật Thích Ca Mẹ già như thể Phật Bà Quan Âm Nhớ ngày xá tội vong nhân Lên chùa lạy Phật đền ơn sinh thành

Đó là cách báo hiếu đơn giản của người sơ phát tâmmới gieo duyên với Tam Bảo, còn đối với Phật tử đã thuần thành thì vào dịp này thường sắm sửa phẩm vật, thiết lễ trai Tăng,

Page 27: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

27

cúng dường chư Tăng nhân ngày Tự Tứ để hồi hướng công đức cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền được phước thọ tăng long, người quá vãng siêu sanh về cảnh giới an lành.

Trong chương mục này, chúng ta cùng tìm hiểu về công đức sinh thành dưỡng dục của song thân phụ mẫu và những phương cách báo hiếu điển hình của người xuất gia cũng như hàng Phật tử tại gia. Trong cuộc sống chúng ta mỗi người mỗi hoàn cảnh, nhưng tất cả chúng ta đều gặp nhau ở điểm chung là cùng được tắm gội trong tình yêu thương bao la của hai đấng sinh thành và chúng ta cũng đều mang nặng tấm lòng hiếu đạo như nhau, do vậy trong, Phật tử chúng ta cần phải dụng tâm nhiều hơn nữa trong việc tu học, thực hành các thiện pháp và hồi hướng công đức về hai đấng sinh thành.

Tóm lại có hai phương cách báo hiếu, một là theo truyền thống hiếu đạo trong đời sống dân gian và hai là báo hiếu theo truyền thống Phật giáo mà cụ thể là thực hiện bổn phận và trách nhiệm làm con theo như lời Phật dạy. Trong cách báo hiếu đời thường, thì bổn phận người làm con phải cung phụng cho cha mẹ những nhu cầu vật chất cần thiết trong lúc sinh tiền và lo hậu sự chu đáo khi cha mẹ qua đời. Đối với những người con chí hiếu, nếu có thể thực hiện hoàn hảo như lời dạy của đức Khổng Tử “Hiếu tử chi sự thân, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí kỳ ưu, tang tắc trí kỳ ai, tế tắc trí kỳ nghiêm” thì quả là rất tốt đẹp, đáng trân trọng. Tuy nhiên phương cách báo hiếu trong đời sống thế gian cũng không thể nào rốt ráo và ưu việt như phương cách báo hiếu đúng với chân lý mà Phật đã dạy.

� XÂY DỰNG CÕI TỊNH ĐỘ

TRONG TÂM HỒN

NGƯỜI CON HIẾU ĐẠO

Dân tộc Việt Nam là dân tộc có bốn ngàn năm văn hiến và đạo hiếu là một đạo lý truyền thống lâu đời có cội nguồn gốc rễ sâu bền nhất của dân tộc. Cùng với ảnh hưởng từ những giáo điều đạo đức của Khổng học, nên từ rất lâu, trong đời sống dân gian đã tiếp thu và áp dụng các nguyên tắc sống như Tam cương, Ngũ thường, Tam tòng, Tứ đức .v.v… vào trong đời sống gia đình một cách hoà nhập. Trong sự giao thoa văn hóa này, đạo hiếu truyền thống của dân tộc ta không những không mất đi mà còn được bổ sung bởi kinh Thi như: “Phụ hề sinh ngã, Mẫu hề cúc ngã, Ai ai phụ mẫu, Sinh ngã cù lao, Dục báo thâm ân, Hiệu thiên võng cực”. Nghĩa là: “Cha sinh ra ta, mẹ nuôi nấng ta, thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc, muốn báo ân sâu, trời cao tột cùng”. Thêm vào đó nền hiếu đạo truyền thống của dân tộc ta cũng được bổ sung bởi những phương cách báo hiếu tương đối hoàn thiện hơn. Điều này đã làm phong phú thêm đơì sống đạo đức gia đình, nhất là phương cách báo hiếu cũng đã được đức Khổng Tử cụ thể hóa bằng những việc làm thiết thực hơn, trong đó cung cách lễ nghi báo hiếu được đề cao hơn so với phương diện vật chất.

Xét về chủ trương nhập thế của đức Khổng Tử, chúng ta thấy lời giáo huấn của Ngài thật là chu đáo, sâu sắc và cụ thể, chủ trương này đã thấm nhuần những chuẩn mực đạo đức, nhân bản cho đời sống mỗi gia đình cũng như cho toàn xã hội Nhờ đó, mỗi gia đình đều có chuẩn mực đạo đức, còn xã hội thì hình thành nếp sống thuần lương, con người trở nên đức

Page 28: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

28

hạnh, chính điều này đã duy trì được tôn ti trật tự trong gia đình và xã hội, làm nền tảng cho sự phát triển của tổ quốc một cách bền vững.

Về phương diện báo hiếu thì những cách báo hiếu như vừa nêu quả thật là quá chu đáo. Tuy nhiên đối với Phật giáo thì con người không chỉ sống trong phạm vi một đời mà còn luân hồi trong vô lượng kiếp tuỳ theo phước duyên và nghiệp lực. Hơn nữa mỗi một con người không phải chỉ có một ông cha và một bà mẹ trong hiện đời, mà có rất nhiều cha mẹ trong vô số đời quá khứ về trước … Đặc biệt phương cách báo hiếu trong Phật giáo không những rất chú trọng đến đời sống vật chất, tinh thần theo tinh thần hiếu đạo thế gian mà còn quan tâm sâu sắc đến đời sống tâm linh của song thân phụ mẫu hiện đời và đa sanh phụ mẫu nữa.

Từ sự lãng quên của người xưa về những nhu cầu tâm linh rất thiết yếu mà các bậc cha mẹ hiện đời cũng như quá vãng phải gánh chịu quá nhiều thiệt thòi, đã khiến cho tinh thần báo hiếu trong đại lễ Vu Lan hằng năm được quần chúng trong và ngoài giới Phật giáo quan tâm đặc biệt. Có lẽ tinh thần hiếu đạo trong Phật giáo được lan rộng và thăng hoa bay bỗng là kể từ khi đức Phật của chúng ta giới thiệu phương cách báo hiếu rốt ráo hoàn thiện nhất thông qua tấm gương hiếu đạo của Tôn giả Mục Kiền Liên mà kinh Vu-Lan-Bồn đã đề cập.

Trong kinh Vu-Lan-Bồn, đức Phật dạy Mục Kiền Liên muốn cứu độ mẹ mình phải chờ sau ba tháng an cư của chư Tăng mới nên thực hiện. Tại sao vậy? Tại sao phải chọn sau ba tháng an cư của chư Tăng mới cứu được mẹ? Chúng ta biết rằng, sau ba tháng an cư sẽ có ngày tự tứ, nghĩa là trong ngày đó chư Tăng tự phát lồ sám hối, đem cái lỗi của mình ra, hoặc nhờ người khác chỉ rõ các lỗi của mình. Đây quả là điều cao thượng và hy hữu trong thế giới con người. Thật đúng là như vậy. Vì trong cuộc sống, không dễ ai có can đảm nhờ người khác chĩ rõ cái lỗi của mình. Đệ tử của Phật thì khác, đệ tử Phật thì hết sức hoan hỷ và thành tâm bày tỏ lòng mình với mọi người và xin được chỉ giùm những lỗi lầm để từ bỏ nó. Đây là một tinh thần cao đẹp mà trên thế gian không tôn giáo nào làm được điều đó. Đây cũng chính là ngày mà đức Phật của chúng ta vô cùng hoan hỷ khi thấy học trò của mình có tinh thần tàm quí tự giác và hướng thượng, vì trong ngày này hầu hết chư Tăng đều một lòng tha thiết thành tâm phát lồ, sám hối.

Thông thường cái gì xấu xa lỗi lầm thì người ta che đậy dấu kín đi, còn cái gì tốt cái gì đẹp thì người ta mới đem ra chưng bày khoe khoang, thế nhưng đối với người đã giác ngộ chân lý Phật Đà thì thường xuyên phải thấy lỗi mình, phải luôn luôn biết xấu hổ để sửa chữa lỗi lầm mới mong tiến tu trên con đường đạo pháp. Cho nên đức Phật vô cùng hoan hỷ khi chúng ta phát lồ sám hối là như vậy. Biết sám hối tức là biết giác ngộ. Chính vì vậy mà đức Phật đã dạy Tôn giả Mục Kiền Kiên rằng, hãy lấy ngày chư Tăng giác ngộ để cứu mẹ mình thoát khỏi đói khát khốn khổ trong cảnh giới ngạ quỉ. Cho nên chữ “Vu-Lan” tức là “U-Lan-Ba-Na” có nghĩa là tháo gỡ nghiệp lực khổ đau. Tinh thần hiếu đạo trong mùa Vu Lan cũng chính là tinh thần giác ngộ để hoá giải mọi nghiệp lực đau khổ mà song thân phụ mẫu đang phải gánh chịu.

Bà Thanh Đề mang tội lớn vì bảo thủ việc làm ác của mình. Từ chỗ không biết việc làm của mình là sai trái, bà tiếp tục bảo thủ và tâm địa của bà cứ tương tục với ác nghiệp. Tại sao bà Thanh Đề lại gieo nghiệp ác? Nếu xét kỹ chúng ta thấy rằng chính bà cũng không muốn làm điều đó, chỉ vì bà không biết việc làm của mình đó là xấu ác. Cũng như những điều sai trái khác thường xãy ra trong đời sống, khi chúng ta nhúng tay vào làm một việc không đúng, thì thâm tâm chúng ta cũng không mong muốn bàn tay mình phải nhúng chàm. Thế nhưng một khi chúng ta không chiến thắng nỗi nghiệp chướng tham dục, chúng ta bị cám dỗ mãnh liệt và chúng ta bị sa ngã, nếu không có chân lý, không có giác ngộ thì chúng ta sẽ không gượng dậy được. Một lần bị sa ngã không gượng dậy được, đó sẽ là tiền đề cho những sai phạm tiếp theo và cứ thế chúng ta trượt dài trong vòng xoáy tội lỗi.

Page 29: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

29

Đệ tử của Phật khi đã giác ngộ được chân lý, thấy mình có lỗi thì tha thiết sám hối, nếu chưa thấy được lỗi mình thì chân thành nhờ huynh đệ đồng môn chỉ giùm để mình không tiếp tục lầm lỗi nữa. Thấy được lỗi, sửa được lỗi thì chúng ta không còn lỗi nữa. Như vậy là chúng ta đã giác ngộ. Giác ngộ là tự thấy, tự mình nhìn nhận ra vấn đề một cách rõ ràng, mạch lạc, tường tận như chúng ta nhìn thấy ánh nắng mặt trời là ánh nắng mặt trời, điều này không thể nhầm lẫn với một thứ ánh sáng nào khác được. Do vậy Phật dạy, chỉ có thành tâm cúng dường vào ngày chư Tăng giác ngộ thì nghiệp lực của cha mẹ hiện đời cũng như quá vãng mới có thể chuyển hóa được. Chúng ta học theo tấm gương hiếu đạo của Tôn giả Mục Kiền Liên, và học theo lời Phật dạy, nếu là người con chí hiếu chúng ta cần phải xây dựng một tâm hồn tịnh độ cho bản thân thì mới có thể chuyển hóa nghiệp lực của cha mẹ mình, mới có thể hướng cha mẹ mình về đường ngay nẽo thiện. Được như vậy thì chúng ta mới thật sự làm đúng theo lời Phật dạy và thể hiện đúng với tinh thần báo hiếu của lễ Vu Lan. Vu-lan là tháo gỡ đau khổ của nghiệp lực, cứu cha mẹ mình, hướng cha mẹ mình trở về chánh đạo.

Chúng ta nhận thấy, nơi chư Tăng an cư trong ba tháng tại các trường hạ đều có bốn chữ “Tịnh Nghiệp Đạo Tràng”, tức là nơi xây dựng cảnh giới thanh tịnh, tức là nơi lấy việc thanh tịnh tam nghiệp, thanh tịnh quốc độ … làm sự nghiệp. Mà muốn tam nghiệp thanh tịnh thì chúng ta phải giác ngộ, muốn có giác ngộ chúng ta phải từ bỏ ác nghiệp. Muốn từ bỏ ác nghiệp trước hết chúng ta phải thành tâm sám hối và từng bước xây dựng cõi tịnh độ trong tâm hồn của mỗi chúng ta.

Kinh Vu-Lan-Bồn trình bày câu chuyện của Tôn giả Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy thỉnh cầu chư Tăng mười phương chú nguyện, cầu siêu độ cho mẹ mình vào dịp chư Tăng Tự tứ trong ngày rằm tháng bảy. Nhờ đó mà bà Thanh Đề thoát khỏi cảnh ngạ quỉ, liền được sinh về Thiên giới. Câu chuyện này đã được Tôn giả A-nan (Ananda) ghi nhớ lại lời Phật dạy tại tịnh xá Kỳ Viên, nội dung đại khái như sau:

… Lúc bấy giờ Tôn giả Mục Kiền Liên vừa chứng quả sáu pháp thần thông, muốn báo đáp ân đức sinh thành của cha mẹ, bên dùng thiên nhãn quan sát khắp thế giới thì thấy mẹ mình hiện sinh trong loài ngạ quỉ, không được ăn uống, gầy ốm giơ xương. Tôn giả cảm động liền dùng bát đựng cơm của mình đem hiến cho mẹ. Nhưng hỡi ôi! Do nghiệp chướng quá nặng, cơm liền biến thành lửa than không thể ăn được, rất thảm thương. Tôn giả liền trở về, thống thiết bạch lại toàn bộ sự việc với Đức Thế Tôn về tình cảnh của mẹ mình.

Nghe xong Phật dạy rằng:

“-Muốn cứu được mẹ, ông phải nhờ đến thần lực của chư Tăng trong mười phương. Nhân dịp tháng bảy, ngày chư Tăng Tự Tứ, ông nên sắm các phẩm vật thiết dụng cúng dường lên thập phương Đại Đức chúng Tăng, vì ngày này chư Hiền Thánh Tăng đều bình đẵng thọ cơm Tự Tứ. Nương nhờ giới thể thanh tịnh và pháp lực nhiệm mầu của Thánh chúng mà cha mẹ hiện đời của thí chủ sẽ được trường thọ, hạnh phúc, còn cha mẹ trong bảy đời quá khứ của thí chủ sẽ thoát khỏi khổ thú, sinh về cảnh giới an lành.

Vâng lời Phật dạy, Tôn giả Mục Kiền Liên sắm sửa các vật phẩm, thành kính dâng lên cúng dường chư Tăng trong dịp Tự Tứ. Chư Tăng thọ lễ cúng dường, thành tâm chú nguyện, chính nhờ sức chú nguyện này mà thân mẫu của Ngài ngay trong ngày đó, thoát khỏi được nỗi thống khổ đói khát của kiếp ngạ quỉ.

Trong các lễ hội truyền thống của Phật giáo Đại thừa, thì lễ Vu Lan mang một ý nghĩa thiêng liêng và rất đặc thù về tinh thần hiếu đạo trong đời sống cộng đồng Phật giáo. Hằng năm lễ Vu Lan thường được tổ chức vào rằm tháng 7, đã thu hút đông đảo quần chúng kể cả trong và ngoài giới Phật giáo đến tham dự với tâm niệm thành kính trong không khí thiêng liêng, ấm áp, chan chứa tình người của ngày đại lễ.

Page 30: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

30

Trên tinh thần của đại lễ Vu Lan báo hiếu, tấm lòng hiếu đạo của người con Phật đã được định hướng sâu sắc hơn trong cách nhìn nhận về cội nguồn yêu thương cũng như ân đức cao dày mà các đấng sinh thành đã một đời hy sinh cưu mang dưỡng nuôi con cái. Qua đó cũng đã định hướng những phương cách báo hiếu hoàn thiện rốt ráo hơn so với những phương cách báo hiếu theo truyền thống dân gian mà cha ông chúng ta đã thể hiện.

Lễ hội Vu Lan đã gắn kết chặt chẽ với tinh thần hiếu đạo truyền thống ngàn đời của cha ông và đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc để rồi trở thành một phương tiện nhập thế độ sanh hoàn hảo và ấn tượng nhất của Phật giáo Đại thừa. Đồng thời qua đó đã biến tinh thần hiếu đạo luôn tiềm ẩn nơi mỗi con người thành những việc làm cụ thể, thiết thực dâng lên các đấng sinh thành một cách trọn vẹn nhất và khơi rộng nguồn yêu thương cũng như nền nhân bản trong đời sống cộng đồng.

Khởi nguồn từ thiện tâm nồng hậu của những tâm hồn hiếu đạo, và đặc biệt là xuất phát từ kinh Vu Lan Bồn, lễ hội Vu Lan là lễ hội của những người con hướng vọng về các bậc sinh thành, từ đó trở thành nhịp cầu yêu thương nối liền hai bờ mê giác, cũng là sợi dây vô hình tạo mối liên hệ mật thiết hơn giữa người đang sống và người đã khuất và cuối cùng đó là ngày hội tình thương bao la không ranh giới của nhân loại.

Phát xuất từ kinh Vu-Lan-Bồn, tấm gương cứu mẹ thoát đói khát khổ đau trong cảnh giới ngạ quỉ của Tôn giả Mục Kiền Liên, là một câu chuyện tràn đầy cảm xúc về tinh thần hiếu đạo của một người con nặng tình chí hiếu. Câu chuyện tấm gương cứu mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên đã khơi dậy trong tất cả chúng ta nguồn cảm hứng sâu xa về tất cả những gì thuộc về người mẹ, và đã làm chạnh lòng những người con khi cảm thấy bản thân mình chưa từng một lần sống tròn đạo hiếu. Kinh Vu Lan Bồn như là một bản tuyên ngôn độc đáo nhất về lòng hiếu thảo của thế giới loài người đối với song thân phụ mẫu, ở đó cũng ngầm khơi dẫn chúng ta trở về với bản tâm thanh tịnh, trở về với cội nguồn uyên nguyên bản thể mà nhân duyên gắn kết chính là tình yêu thương vô bờ bến của hai đấng sinh thành.

Sự sâu sắc của tinh thần hiếu đạo trong đạo Phật đã đáp ứng được mong muốn thể hiện sự tri ân của những người con đối với các đấng sinh thành mà trước đó chưa có phương cách nào thiết thực. Người dân Việt Nam chúng ta ai cũng thuộc nằm lòng câu ca dao: “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. “Nguồn” thì không bao giờ vơi cạn, đây là biểu tượng của gốc rễ tình thương sâu xa, nó luôn hiện hữu trong mỗi đấng sinh thành mà chúng ta đã và đang từng ngày thọ nhận thừa hưởng. Để báo hiếu ân đức sinh thành và chan hòa vào nguồn cội yêu thương, chúng tôi nghĩ rằng chỉ có thể nương theo những phương cách báo hiếu mà đức Phật đã chỉ dạy trong các bộ kinh có liên quan đến tinh thần hiếu đạo.

Tình thương cha mẹ dành cho con cái trải qua một chuỗi thời gian dài vô tận. Tình thương đó đã làm cho không biết bao nhiêu con người ở nhiều tầng lớp xã hội phải ngợi ca tán thán, các thi nhân, văn nghệ sĩ đã đem hết ngôn từ giấy mực trình bày, diễn xuất … vẫn không lột tả nỗi. Chính vì vậy mà trong Tương Ưng Bộ Kinh (tập 1) đức Phật của chúng ta đã đưa ra một ẩn dụ so sánh rất ấn tượng khi nói về ân đức sinh thành và suối nguồn yêu thương của người mẹ đã dành cho con cái: “Sữa của mẹ mà chúng ta đã thọ nhận so với nước của bốn đại dương, bên nào nhiều hơn?”. Và cũng thật đầy bất ngờ, khi chúng ta được nghe đức Phật chỉ dạy: “ Này các Thầy Tỳ kheo! Trong lục đạo luân hồi, sữa mẹ mà các Thầy đã thọ nhận còn nhiều hơn là nước trong bốn đại dương”. Ở đây chúng ta thấy rất rõ dưới cái nhìn tuệ nhãn và sự so sánh của đức Phật thì ở tình thương của người mẹ quả là mênh mông, là bao la bất tận và những gì mà chúng ta đã thọ hưởng từ người mẹ quả là quá tuyệt vời. Như chúng ta biết, hể cái gì đó mà được đem ra so sánh là “rộng như biển cả, cao như bầu trời” thì nó vẫn còn giới hạn ở “chân trời góc bể”, còn tình thương của người mẹ thì được hòa quyện vào máu, sữa và nước mắt để nuôi lớn chúng ta thì vô tận. Chúng ta nên hiểu rằng, sữa ở đây là giọt sữa của tình thương được chiết ra từ trái tim yêu thương của người mẹ và chính chất liệu này đã

Page 31: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

31

nuôi dưỡng hết thảy hàng tỷ tỷ con người có mặt trên hành tinh này cho đến ngày khôn lớn. Chính điều này đã cho chúng ta có một cái nhìn đích thực về công đức và tình thương yêu của cha mẹ. Trong kinh Đại Tập, đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy vị trí cao tột của cha mẹ như sau: “Sanh trong đời không gặp được Phật thì khéo thờ cha mẹ là thờ Phật” Như vậy đức Phật muốn nói rằng, cha mẹ chính là đức Phật của chúng ta, bởi vì cha mẹ đã ban cho chúng ta quá nhiều phép mầu nhiệm mỗi lần chúng ta mong muốn. Hầu như tất cả chúng ta thường cầu xin trời Phật thánh thần những điều mà chúng ta mong muốn cầu nguyện và có lẽ là chưa bao giờ chúng ta xem cha mẹ như Phật, như vị thần phò hộ để chúng ta cầu xin. Về điều này thì bản thân tôi cũng như vậy và bây giờ tôi mới cảm nhận ra một điều, những gì mà tôi mong muốn thì mẹ tôi đều cho tôi cả. Những lần tôi vấp ngã, thì chỉ có mẹ tôi đở đần và an ủi rôi để tôi vượt qua tất cả những cam go thử thách trong cuộc đời này. Các bạn hãy một lần nghe lời Phật dạy, hãy xem cha mẹ là Phật đi, thì quí vị sẽ thấy hai vị Phật ở trong nhà, cùng một lúc sẽ ban tặng cho quí vị những điều kỳ diệu mà quí vị sẽ không bao giờ ngờ tới! Quả thật ở Mẹ là chất liệu “Từ” của Phật và ở cha là chất liệu “Bi” của Phật . Mà “Từ” là ban vui và “Bi” là cứu khổ …

Tại sao đức Phật lại lấy tình thương của cha mẹ đem so sánh với tình thương của Phật dành cho chúng sanh? Ở đây chúng tôi chỉ mượn một vài chiếc lá trong lòng bàn tay để diễn đạt thì không thể nào đầy đủ so với công ơn cha mẹ thì nhiều vô lượng như lá ở trong rừng.

Thật ra cha mẹ chúng ta sanh con nuôi con, chưa bao giờ có ý niệm để con nuôi lại, mà chỉ mong sao cho những đứa con của mình khôn lớn, sống có ích, có đạo đức ... là cha mẹ vui rồi. Nhưng đối với những người thọ ơn cao cả thì không thể nào không đền đáp thâm ân đó. Trong trường hợp này, trong Kinh Đại Tập, đức Phật đã cho chúng ta chỉ dạy cho chúng ta phương cách đền đáp ân đức sâu dày của cha me: “ Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng cung phụng của cải vật chất tiền bạc thì sẽ không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Này các Thầy Tỳ kheo! Đối với cha mẹ chưa có lòng tin Tam Bảo thì khuyến khích cha mẹ an trú vào lòng tin. Đối với cha mẹ theo ác pháp thì khuyến khích cha mẹ an trú vào thiện pháp. Đối với cha mẹ xan tham bỏn xẻn thì khuyến khích cha mẹ an trú bố thí. Đối với cha mẹ theo tà kiến ác đạo thì khuyến khích cha mẹ an trú vào trí tuệ chánh kiến, cho đến như vậy đối với tất cả các pháp. Này các Thầy Tỳ kheo! Thực hành như vậy tức là đã làm đủ và trả ơn cho cha mẹ”.

Chúng ta cũng nên nhìn nhận rằng, tinh thần hiếu đạo cũng chính là tâm đạo trong Phật pháp, do vậy để báo đáp ân đức sinh thành, chúng ta cần phải xây dựng một cảnh giới Tịnh độ trong tâm hồn của người con hiếu đạo. Cứ mỗi lần đến mùa Vu-lan, tất cả chúng ta dù là Phật tử hay không là Phật tử, cũng nên hướng vọng về cha mẹ mình, để chúng ta duy ngẫm ân đức sinh thành dưỡng dục của song thân, để chúng ta không chỉ làm một điều gì đó mang tính chung chung, mà để thể hiện rằng chúng ta thật sự là một người con chí hiếu đối với hai đấng sinh thành.

Nói về công ơn cha mẹ, trong dân gian đã có những so sánh tỷ dụ rất hình tượng thông qua những câu đố mà ở nơi mỗi câu đố đó không thể có câu trả lời thoả đáng được. Vì sao vậy? Vì lá trong rừng không ai có thể đếm nỗi, mà dẫu như có thần thông quảng đại có thể đếm hết lá trong rừng đi chăng nữa, thì cũng không thể nào đong đếm được công ơn của các bậc cha mẹ suốt một đời vất vả, tảo tần, hy sinh, chịu đựng trọn vì con cái. Vâng! Có bao nhiêu lá ở trong rừng, có bao nhiêu vì sao ở trên trời, và có bao nhiêu thế giới, có bao nhiêu tầng trời trong khoảng không gian mênh mông vô tận? Quả thật thì không thể nào biết được, không thể nào đếm được. Và công ơn cha mẹ thì lại càng khó đếm hơn sao trên trời và lá trong rừng: Đố ai quét sạch lá rừng Đố ai đếm được mấy từng trời cao Đố ai đếm được vì sao

Page 32: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

32

Đố ai đếm được công lao mẹ hiền.

Bốn câu ca dao trên đây đã khái quát được phần nào công ơn trời biển của người mẹ dành cho con, vì nó quá cao tột nên đã có sự so sánh tột bực đến như vậy. Và công cha cao dường núi Thái và nghĩa mẹ sâu tợ biển Đông đã được người dân Viện Nam ghi nhớ đến thuộc nằm lòng: Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Chúng ta phải hết lòng thờ kính ân đức cao dày của hai đấng sinh thành vì song thân đã cưu mang chúng ta từ khi còn trứng nước cho đến lúc trưởng thành, đã phải chịu biết bao nhiêu khó khăn gian khổ: Công cha đức mẹ cao dày. Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ. Nuôi con khó nhọc đến giờ. Trưởng thành con phải tôn thờ song thân.

Và còn biết bao nhiêu ngôn cú mỹ từ văn chương thi phú ca dao tục ngữ không tiếc lời tán thán ngợi ca về ân đức sâu dày của hai đấng sinh thành. Thế nhưng ngôn ngữ cũng chỉ là ngôn ngữ và văn tự cũng chỉ là văn tự …

Thật ra nếu đem tình thương của cha mẹ để ngợi ca hoặc so sánh với điều này sự nọ thì đã có rất nhiều văn chương thi phú mỹ từ đề cập đến, nhưng rồi cuối cùng họ cũng không thể nào diễn tả nỗi. Cho nên chúng ta càng nói về tình thương của cha mẹ thì càng không đạt đến điều mà chúng ta muốn nói. Vì sao vậy? Vì ngôn ngữ chỉ là một phương tiện quá hạn hẹp, làm sao diễn bảy, lột tả hết được nội ý thâm sâu về tình thương và công đức của cha mẹ. Một văn hào phương Tây có nói vấn đề này bằng câu nói rất hay: “Ngôn ngữ trần gian là một cái túi rách, đựng sao đầy hai chữ mẹ ơi, còn văn tự chỉ là chiếc xe mòn cọc cạch, mà đường về quê mẹ thì nghìn trùng xa xăm”, nghĩa là tình thương và công đức của cha mẹ thì vô tận, nó sâu thẳm, nó bao la, nó mênh mông cho nên chúng ta không thể nào diễn tả hết tình thương yêu của cha mẹ dành cho con cái được.

Để nói lên sự bao la vô tận về tình thương và công đức của người mẹ, đức Phật đã đưa ra một câu hỏi hết sức ấn tượng: “- Sữa của mẹ với nước của đại dương bên nào nhiều hơn?”.

Theo như các bạn thì bên nào nhiều, bên nào ít? Nước của đại dương thì bao la mênh mông bất tận, nói tóm lại là rất nhiều, nhiều đến nỗi chúng ta không thể nào đong đếm được nước của một đại dương, huống gì nói đến nước của bốn đại dương. Ấy vậy mà đức Phật xác định rằng sữa mà chúng ta đã thọ nhận từ người mẹ từ vô lượng kiếp đến nay nó nhiều hơn nước của cả bốn đại dương, đức Phật nói rằng: “Sở dĩ ta thành Phật đến hôm nay, cũng nhờ bầu sữa tình thương của mẹ đã nuôi ta trải qua vô lượng kiếp, cho đến hôm nay ta thành Phật". Trong Tương Ưng Bộ Kinh đức Phật đã dạy rằng: “Này các Thầy Tỳ kheo! Sữa mẹ mà các Thầy đã thọ nhận từ vô lương kiếp đến nay còn nhiều hơn là nước trong bốn đại dương”. Và điều này đức Phật đã xác định trong Kinh Tăng Nhất A Hàm: “ Này các Thầy Tỳ kheo! Trong đời này, nếu có người nào nâng mẹ đặt lên bên vai phải, nâng cha đặt lên bên vai trái, cõng cha mẹ đi xa ngàn dặm, lại phụng dưỡng cha mẹ bằng các loại vật thực quí hiếm, ngon lành, chăn nệm và thuốc thang đầy đủ, dùng hương trầm và dầu thơm xoa bóp thân thể cha mẹ cho bớt mỏi mệt, kéo tay chân cho giãn gân cốt, tắm rửa nước ấm khi trời lạnh, nước mát khi trời nóng, thậm chí cha mẹ có tiểu tiện, đại tiện trên đôi vai của mình … thì cũng chưa hẳn là chúng ta đã trả được thâm ân sâu nặng của cha mẹ”. Cuối cùng đức Phật dạy rằng: “Các Thầy phải hiểu rằng, ân đức sinh thành của cha mẹ sâu nặng lắm, bồng ẳm dưỡng nuôi, tìm đủ mọicách để ta khôn lớn trưởng thành … vì thế mà ơn này khó trả. Này các Thầy Tỳ kheo! Có hai

Page 33: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

33

việc có thể làm cho hạng người phàm phu được công đức lớn. Đó là phụng dưỡng cha và phụng dưỡng mẹ”.

Như lời đức Phật dạy thì việc đền đáp công ơn của cha mẹ chỉ nội trong một đời này cũng đã là không phải dễ, huống gì là đối với cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp. Theo như lời đức Phật dạy thì nếu chúng ta nâng mẹ đặt lên bên vai phải, nâng cha đặt lên bên vai trái, hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, dù cho cha mẹ có thọ đến một trăm tuổi, thì việc phụng dưỡng của chúng ta đối với cha mẹ như vậy cũng chưa thể gọi là đền đáp một cách trọn vẹn công ơn sinh thành dưỡng dục. Hoặc như chúng ta có suy tôn người cha của mình lên ngôi Chuyển Luân Thánh Vương và suy tôn người mẹ của mình lên ngôi Chánh Cung Hoàng Hậu, cung phụng đầy đủ báu vật trên đời này, dù việc làm của chúng ta có lớn lao đến đâu đi nữa, thì vẫn chưa thể gọi là đền đáp một cách trọn vẹn ân đức sinh thành. Bởi vì khi phụng dưỡng cho cha mẹ tất cả các vật dụng tốt đẹp nhất trên đời thì chúng ta cũng chỉ bồi bổ giúp cho cha mẹ được thỏa mãn ở phần thể xác, cùng lắm là thọ thêm vài chục tuổi trong kiếp hiện tại mà thôi, và điều quan trọng là nghiệp chướng của cha mẹ rất cần được hoá giải tiêu trừ thì chúng ta vẫn chưa báohiếu được điều này. Mà đã như vậy thì chúng ta vẫn chưa thật sự là những người con chí hiếu, dù rằng chúng ta có tấm lòng tri ân và mong muốn đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục.

Việc báo hiếu cha mẹ vì sao lại khó đến như vậy? Vậy có cách nào để người con có thể đền đáp được công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ một cách trọn vẹn hay không?

Về điều này, trong kinh Tăng Nhất A Hàm, đức Phật đã chỉ dạy rất rõ về bốn cách báo ân cha mẹ như sau:

1- Nếu cha mẹ chưa tin Tam Bảo thì phải làm cho cha mẹ tin vào Tam Bảo.

2 - Nếu cha mẹ có tâm bỏn xẻn hay tham đắm luyến tiếc của cải vật chất thì chúng ta phải có trách nhiệm khuyên cha mẹ mở lòng hỷ xả với mọi người xung quanh, khuyên cha mẹ bố thí cho những ngươi có hoàn cảnh ngặt nghèo, bất hạnh. Nhất là khuyên cha mẹ thành tâm cúng dường Tam Bảo để loại trừ tâm bỏn xẻn và gieo duyên với Phật pháp.

3 - Nếu cha mẹ làm ác thì chúng ta phải có trách nhiệm khuyên cha mẹ làm lành lánh dữ, hướng dẫn cha mẹ quay về nẽo thiện.

4 - Nếu cha mẹ lỡ gieo phải tà kiến, lỡ theo tà đạo thì chúng ta phải có trách nhiệm khuyên cha mẹ tìm đọc giáo lý, học hỏi Phật pháp, quan trọng hơn chúng ta phải có trách nhiệm hướng dẫn cha mẹ trở về con đường chánh đạo.

Trường hợp chúng ta không đủ năng lực giúp cha mẹ mình phát bồ đề tâm, thì chúng ta nên nhờ đến chư Tăng giảng dạy phân tích để cha mẹ hiểu rõ sự lợi ích của sự phát tâm bồ đề, thực hành các thiện pháp, vì đây là hành trình tiến hóa tâm linh rất quan trọng của cha mẹ.

Khi thực hành trọn đủ bốn pháp vừa nêu, chúng ta không những chắc chắn giúp cho cha mẹ thân tâm thường an lạc trong kiếp hiện tại mà cha mẹ chúng ta còn hưởng được nhiều sự lợi lạc trong kiếp vị lai.

Điều đáng chú ý là trong bốn pháp mà đức Phật đã dạy để chúng ta báo hiếu cha mẹ đó chính là chánh nhân rất quan trọng để làm nền tảng cho cha mẹ chúng ta kết duyên sâu dày với Phật pháp, từ nền tảng này cha mẹ chúng ta mới có thể tiến tu và chứng ngộ chân lý, thành tựu Thánh quả, an trú Niết Bàn.

Trong kinh Puttasutta, đức Phật dạy: Cha mẹ cầu mong có con trong gia đình với hy vọng nơi con rằng, khi già yếu sẽ được con cái phụng dưỡng, con cái sẽ gánh vác đở đần công việc cho cha mẹ, con cái sẽ nối dõi dòng giống tổ tiên, con cái sẽ giữ gìn sản nghiệp của cha mẹ và khi qua đời thì con cái sẽ làm việc phước thiện để hồi hướng … Đó là năm điều mà bậc

Page 34: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

34

cha mẹ nào khi sanh con ra cũng đều tin tưởng hy vọng vào người con của mình. Như vậy đối với hàng Phật tử tại gia, chúng ta phải tuỳ duyên mà làm tròn trách nhiệm bổn phận để những điều mà cha mẹ đã đặt hy vọng được thành tựu. Dù có nói gì thì điều quan trọng nhất mà chúng ta cần quan tâm là phải làm sao, bằng cách nào để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ một cách rốt ráo như lời Phật dạy. Vì đây là vấn đề thiết yếu của người con hiếu đạo, đó là điểm chính mà chúng ta cần tìm hiểu trong mùa Vu Lan báo hiếu. Chúng ta làm gì để đền ơn đáp nghĩa, để cứu độ cho cha mẹ và cha mẹ phải làm gì để thể hiện trọn vẹn tình thương của mình đối với con cái theo tinh thần của đạo Phật. Đây là vấn đề lớn mà chúng ta cần phải biết, cần phải thực hiện để không hổ thẹn với diễm phúc là đệ tử của Phật mà vẫn chưa làm được điều gì đúng theo tinh thần của Phật dạy.

Những phương pháp đền ơn đáp nghĩa cho cha mẹ thì có rất nhiều, nhưng nó còn tùy thuộc vào mỗi hoàn cảnh, mỗi quốc gia, mỗi gia đình và mỗi người khác nhau. Ở Trung Hoa các Thiền sư đã gặp nhiều khó khăn trong việc báo hiếu cho cha mẹ. Vì theo quan niệm truyền thống Trung Hoa: “Phụ mẫu tại đường, bất khả viễn du”. Nghĩa là cha mẹ còn sống thì không được đi xa, mà đi tu là bỏ cha, bỏ mẹ cho nên người ta quan niệm người đi tu là người bất hiếu. Còn nữa: “Bất hiếu vô tông vi hậu vô đại”, nghĩa là người con trai mà không nối dõi tông đường là bất hiếu, không vợ không con là bất hiếu. Đối với Phật tử, cách báo hiếu thông thường như trong dân gian đã có ca dao rằng: Đêm đêm khấn nguyện Phật trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

Thật đơn giản! Bổn phận đền ơn đối với đấng sinh thành của người con chỉ thực hành có bấy nhiêu thì thật quá đơn giản phải không? Hoàn toàn đơn giản! Tại sao đức Phật không khuyên chúng ta bưng cơm rót nước, cung phụng vật chất, xây dựng nhà cao cửa rộng, cung cấp chăn êm nệm ấm, thu gom tiền tài, củng cố địa vị cho cha mẹ … Nếu đức Phật dạy chúng ta như thế thì gay go quá phải không? Ngài đã không dạy chúng ta như vậy và sự thật thì cha mẹ chúng ta cũng không cần như vậy. Đức Phật chỉ dạy chúng ta khuyên nhủ cha mẹ mình đừng tạo nghiệp ác. Vâng, không nên tạo ác nghiệp và đơn giản chỉ có như vậy thôi!

Chúng ta đừng xem thường sự đơn giản này, vì ở đó nó ngầm chứa một giá trị lớn lao về trí tuệ, về nhân quả, về sức mạnh vô biên của thiện pháp mà chúng ta không thể nào đo đếm được. Chúng ta đã biết, tình thương cha mẹ dành cho ta là sâu thẳm, là mênh mông bất tận, chúng ta không thể lấy gì so sánh hoặc đền trả tương xứng được. Cho nên nếu lấy vật chất hữu hạn của thế gian, để đáp trả tình thương yêu vô hạn của cha mẹ thì chúng ta đã làm một việc quá dại khờ. Vì chúng ta không thể đem cái vật chất hữu hạn để đền đáp tình yêu thương vô hạn được.

Nếu quả thật có ai đó lấy vật chất để đáp đền công ơn cha mẹ thì thử hỏi cha mẹ mình hưởng được bao nhiêu? Được bao lâu? Chẳng hạn như cha mẹ chúng ta đi chiếc xe đời mới có gắn máy lạnh, chúng ta đưa cha mẹ đi đâu đó chừng vài tiếng đồng hồ, rồi khi bước xuống xe, cửa xe đóng lại cái “kịch”. Thế là xong! Còn như cha mẹ chúng ta được ở cái nhà sang trọng đầy đủ tiện nghi cũng vậy, dù ở được vài chục năm rồi các đấng sinh thành cũng ra đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại. Chúng ta tạo dựng danh vọng cho cha mẹ làm ông nọ bà kia trong xã hội thì cũng đến một tuổi nào đó phải nghỉ hưu, phải về nhà, khi đó hư danh hảo huyền chấm hết. Nói tóm lại vật chất và danh vọng chỉ đem lại cho cha mẹ chúng ta cũng như tất cả chúng ta sự thỏa mãn nhất thời, một khoảnh khắc thọ hưởng khoái lạc thế gian trong chớp nhoáng đó thì có gì đâu là hạnh phúc, có gì đâu là an lạc.

Trong việc báo hiếu cha mẹ, đức Phật đã dạy chúng ta một điều thiết yếu duy nhất là phải giúp cha mẹ mình thường tạo các nghiệp lành và phải dứt khoát từ bỏ các nghiệp ác, có như vậy thì cha mẹ chúng ta mới có thể hóa giải được những nghiệp lực mà người đã gieo tạo từ những ngày nuôi dưỡng chúng ta … cho đến nghìn đời về trước.

Page 35: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

35

Là Phật tử chúng ta đều đã biết, tạo nhiều ác nghiệp thì hiện đời chuốc lấy khổ đau còn tương lai thì quả báo sẽ khốc liệt đến dường nào. Cho nên để báo hiếu cha mẹ, điều quan trọng cấp thiết là phải cố gắng nổ lực xây dựng cảnh giới Cực Lạc trong tâm hồn mỗi chúng ta, xây dựng quốc độ trang nghiêm thanh tịnh ngay trong gia đình của chúng ta. Đây là phương cách báo hiếu rất cao quí, giá trị của nó lớn hơn gấp triệu triệu lần các thứ vật chất mà chúng ta cung phụng cho cha mẹ. Vì sao vậy? Vì nó có công năng chuyển hoá nghiệp lực của cha mẹ trong hiện đời cũng như đã quá vãng, hơn nữa nó có giá trị vĩnh hằng trong đời sống tâm linh của tất cả chúng ta và ảnh hưởng tích cực đến đời sống cộng đồng xã hội. Còn nếu như chúng ta không xây dựng được cõi tịnh độ trong tâm hồn của chúng ta, thì đừng bao giờ đặt vấn đề cứu khổ cho cha mẹ, đừng bao giờ mong đợi cha mẹ mình có được cuộc sống an lạc. Xây dựng cảnh giới Cực Lạc trong tâm hồn mỗi người con hiếu đạo và xây dựng cảnh giới cực lạc trong mỗi gia đình, đó là phương cách báo hiếu thiết thực và rốt ráo nhất.

Trong kinh đức Phật dạy, vì thương con mà cha mẹ đã cam lòng tạo bao ác nghiệp. Về điều này chúng ta vẫn thường chứng kiến ngay trong gia đình chúng ta, chẳng hạn như người mẹ thường xuyên tạo nghiệp sát sanh vì muốn có nồi canh chua ngon ngọt phục vụ gia đình thì phải tự tay đập đầu những con cá lóc, hay người cha làm nghề đồ tể, thường ngày chỉ thọt huyết chừng năm sáu con heo, thế nhưng vì muốn có tiền nhiều hơn để cho con đi du lịch thì phải tranh thủ chọc tiết cả vài chục con heo trong một buổi. Trong đời sống thế gian thì những việc như thế này được xem là thường tình, thế nhưng đối với một Phật tử thuần thành thì làm như vậy là phạm vào giới sát, đó là một trong năm giới cấm mà người Phật tử tại gia phải chú tâm gìn giữ, còn đối với Tăng sĩ như tôi thì những việc như vậy được xem là một tội ác. Hoặc như khi con cái ham thích một chiếc xe đòi mới, một cái máy di động đắt tiền, hay một cái máy vi tính xách tay thời đại, trong trường hợp chưa chuẩn bị đủ tiền, mà con cái đòi hỏi thái quá, thì người cha người mẹ đôi khi phải tham ô thụt két để thỏa mãn nhu cầu xa xí của con mình … Như chúng ta đã biết, nếu cha mẹ chúng ta đã tạo nhiều ác nghiệp thì chắc chắn rằng phải chịu quả báo, trước mắt nếu vi phạm pháp luật thì phải sợ hãi, lo lắng, thậm chí phải ngồi tù gở lịch, còn nặng thì thường xuyên bị dằn vặt đau khổ không chỉ ở đời này mà còn cả đời sau, kiếp sau và cuối cùng là bị đọa vào địa ngục, bị rơi vào ngạ quỉ, phải đi đầu thai vào cảnh giới súc sanh, cứ như thế luân hồi trôi lăn mãi mãi từ kiếp này sang kiếp khác. Cho nên bằng mọi cách chúng ta đừng để cha mẹ mình phải rơi vào ba ác đạo.

Trình bày đến đây, tôi nhớ đến một câu chuyện khó phai trong ký ức về tình thương yêu chiều chuộng mà mẹ tôi đã dành cho tôi những ngày tôi còn đi học. Ngày trước đây khi tôi còn nhỏ, kinh tế gia đình tôi còn rất nghèo, mẹ tôi phải vất vả tảo tần suốt ngày trên những cánh đồng ruộng mới có tiền nuôi tôi ăn học. Lúc đó thấy chúng bạn đi xe gắn máy, bấy giờ thường gọi chung chung là xe Hon Da. Vì thích quá, tôi mới đòi mẹ mua cho tôi một chiếc để đi, mà nói đúng hơn là để dợt le với bạn bè. Dù nhà tôi lúc đó rất nghèo nhưng mẹ tôi vẫn gật đầu vui vẻ, sau đó bà đã mua ngay cho tôi một chiếc xe mới cáu. Từ lúc có xe mới tôi vui lắm và tôi nhìn mẹ tôi, người cũng rất vui với niềm hạnh phúc của tôi … Rồi thời gian tuần tự trôi qua trong niềm hạnh phúc mà hai mẹ con tôi đang có. Thế rồi một hôm tôi bất chợt thấy trên gương mặt mẹ tôi còn thấm đọng những giọt nước mắt, tôi vội ôm chầm lấy người hỏi tới … nhưng mẹ tôi chỉ cười thôi và người không nói gì cả. Về sau tôi mới biết, để có tiền mua xe cho tôi, mẹ tôi đã phải bán lúa non và vay mượn tiền thêm từ nhiều nơi bà mới đủ tiền mua xe cho tôi đi học. Và những ngày sau đó, mẹ tôi đã phải cật lực trên những cánh đồng đầy nắng gắt để tranh thủ kiếm tiền trả nợ mua xe … Kể từ khi nhìn thấy những giọt nước mắt của mẹ lăn dài trên đôi gò má khô gầy, tôi bỗng chạnh lòng và thương mẹ nhiều hơn. Cũng kể từ đó tôi không đòi hỏi hay làm bất cứ điều gì để mẹ tôi phải tủi buồn hay phải vất vả vì tôi nữa. Từ ngày ấy tôi mới biết thương yêu mẹ, hay nói đúng hơn, tôi mới biết cách thể hiện mình là người con có hiếu.

Page 36: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

36

Là người con hiếu đạo chúng ta cần phải quyết tâm ngăn chặn những việc làm phi pháp của cha mẹ, dẫu rằng những việc làm đó có mang về cho chúng ta những tiện nghi đắc dụng trong đời sống. Về phần chúng ta cũng nên luôn kiểm điểm bản thân, cố tránh tất cả nhữnbg việc làm vi phạm pháp luật dẫn đến hậu quả xấu bản thân gia đình và xã hội. Nếu tất cả những thành viên trong mỗi gia đình đều là những người con hiếu đạo, đều chung tay xây dựng cõi tịnh độ trong mỗi tâm hồn, trong mỗi gia đình tức là chúng ta đã góp phần xây dựng một xã hội tịnh độ, một đất nước Cực Lạc, và cụ thể trước mắt là chúng ta đã góp phần phòng chống ngăn ngừa tội phạm một cách tích cực nhất.

Thật ra dưới cái nhìn tuệ giác và khách quan của Phật giáo, thì không chỉ trong Phật giáo mới có định hướng xây dựng cõi tịnh độ trong tâm hồn người con hiếu hạnh, mà ngay cả trong đời sống thế gian thì định hướng thánh thiện này cũng đã được quan tâm đúng mức. Về điều này, có lẽ trong tất cả chúng ta thì ai cũng biết, tuy nhiên chẳng qua là không để tâm quán sát mà thôi. Nếu các bạn còn thắc mắc thì tôi xin đưa ra một vài điển hình dẫn chứng: Trong đời sống xã hội, ngay khi còn độ tuổi thiếu niên nhi đồng, các em nhỏ cũng đều đã học nằm lòng năm điều bác Hồ dạy về đạo đức và nhân cách làm người. Đó là “Yêu tổ quốc, yêu đồng bào. Học tập tốt, lao động tốt. Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt. Giữ gìn vệ sinh thật tốt. Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm” Thật ra dưới cái nhìn tuệ giác và khách quan của Phật giáo thì đây là năm điều ngăn ngừa ác nghiệp và phát huy thiện nghiệp ngay từ độ tuổi còn thơ ấu mà Hồ Chủ Tịch đã rất bén nhạy trong việc kiến thiết một đất nước an bình hạnh phúc bền lâu cho dân tộc Việt Nam chúng ta. Còn đối với cán bộ công chức, Bác Hồ đã dạy: “Cần kiệm. Liêm chính. Chí công. Vô tư” thật ra đây cũng là nền móng để xây dựng một con người thánh thiện, một xã hội hạnh phúc, một đất nước giàu đẹp. Bởi vì làm cán bộ công chức mà ai cũng cần kiệm liêm chính thì lấy đâu ra người sai phạm, tìm đâu ra tội phạm. Như vậy là đã xây dựng một cõi Cực Lạc ngay trong thế giới Ta bà này rồi còn gì nữa.

Từ những gì mà tôi vừa trình bày trên đây, cũng là nhằm nhắc nhở tất cả chúng ta luôn ghi nhớ tình thương và công ơn cha mẹ, và phải làm tròn bổn phận và trách nhiệm của một người con hiếu thảo đối với đấng sinh thành. Ôn lại những kỷ niệm thời thơ ấu như thế này, chúng tôi thiết nghĩ cũng rất cần thiết vì lẽ trong cuộc sống thời kinh tế thị trường như ngày hôm nay, khi đời sống vật chất ngày càng nâng cao bao nhiêu thì đời sống đạo đức và tinh thần càng suy giảm và có nguy cơ bị đe dọa bấy nhiêu. Hằng ngày trên ti vi, báo đài hay các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta thường chứng kiến không ít bậc làm cha làm mẹ là các quan chức phải ra trước vành móng ngựa vì tham ô hối lộ, mà chúng ta thừa biết rằng, tất cả hành vi tội lỗi đó cũng chỉ vì gia đình vì con cái mà thôi.

Chúng ta là Phật tử chúng ta phải cố gắng sống đúng theo lời Phật dạy, chúng ta hãy đem ánh sáng Phật pháp mà truyền bá rộng ra trong đời sống cộng đồng. Cụ thể nhất là chúng ta hãy thông qua phương pháp niệm Phật mà xây dựng cõi Cực Lạc trong tâm hồn người con hiếu đạo.

Nay chúng ta thử tìm hiểu về cõi Cực Lạc là gì? Tịnh Độ là gì? Cực Lạc hay Tịnh độ đều là chỉ về quốc độ trang nghiêm thanh tịnh do dức Từ Phụ A Di Đà làm giáo chủ. Tịnh độ là quốc độ thanh tịnh không ô nhiễm. Tại thế giới đó, Phật A Di Đà phóng luồng hào quang sáng suốt mười phương cõi, thấu tỏ hơn bạch nhật, Bồ Tát Đại Thế Chí, Quán Thế Âm rưới nước cam lồ, tay cầm dương liễu, Hội Liên Trì đủ mặt vãng sanh, tên họ rõ ràng, tinh thần tươi tốt, chuỗi anh lạc trang nghiêm, ngàn bộ chúng ma vương cúi đầu cửa Phạm, mấy ngôi trời Thiên Tử, ngửa mặt dưới đài sen, gió rung cây như trăm giọng ca cùng đờn vang thánh thót êm tai, cư dân nơi đây thoát lòng trần tục, hoa nở đủ bốn màu thể sắc, vẻ vang đẹp đẽ, vui thú thanh nhàn. Cảnh giới Cực Lạc không có một chút khổ, cũng không tai nạn, không sanh, lão, bệnh, tử, không có A-tu-la, không có địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, không mối nợ dây oan, không tật nguyền đói khát, bốn mùa không lạnh nóng đổi thay, muôn ngàn sự vui đều đủ, có

Page 37: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

37

đạo có pháp, có phước đức nhơn duyên, có huệ kiếm từ đăng, có trân châu mã não, có dị hương thiên nhạc, có bảo cái tràng phan, muôn kiếp có áo cơm thong thả, chẳng phiền lo liệu, muốn mặc có mặc, muốn ăn có ăn. Phật hóa đủ các cảnh hiện tiền an lạc. Ấy là những sự vui thắng diệu và nhiệm mầu nơi cảnh giới Cực Lạc.

Chúng ta cũng nên thường xuyên tự khắc kỷ lòng mình là chúng ta đang phải chịu cảnh trầm luân khổ hải trong luân hồi sanh tử. Thật vậy, con người sinh ra trong vũ trụ này đều do vọng nghiệp mà phải chịu khổ, như sinh, già, bệnh, chết và thiên hình vạn trạng nỗikhổ bức ngặt khác trong đời sống thế gian mà chúng ta không thể nào kể xiết. Đã vậy, chúng ta nay tạo ra ác nhân này, mai tạo ra bất thiện nhân khác … mà hễ tạo nhân thì ngộ quả, làm cho chơn tánh lu mờ, nghiệp ác đeo đuổi, không ngày nào mà thoát khỏi thảm trạng trong cõi này. Đó có phải là chúng ta tự nguyện lăn lộn trong biển nghiệp?

Khi thành tựu chánh đẳng chánh giá, đức Phật của chúng ta đã chỉ dạy rất rõ ràng rằng, tất cả chúng sanh đều có bổn giác thanh tịnh như Ngài vậy, nhưng do bị màn vô minh che lấp, nên mới u minh trầm nịch, mê mờ không thể giải thoát đặng. Đó là trầm luân khổ hải. Do vậy Ngài thuyết pháp trọn 49 năm là mong cứu vớt hết thảy chúng sanh, để được phần an vui, thoát khỏi biển nghiệp xoay vần trong ba cõi, mở bày pháp môn niệm Phật để độ thoát chúng sanh hưởng quả phước thanh tịnh nơi cảnh giới cực lạc, tiến tu chứng bậc bất thối chuyển rốt ráo chẳng sanh chẳng diệt nữa.

Vì sao chúng ta phải xây dựng cõi Tịnh Độ trong tâm hồn của chúng ta? Đức Phật quán thấy chúng sinh đa số là hàng hạ căn phước mỏng nghiệp dày, đầy dẫy phiền não, vì lòng từ bi, Ngài đã giới thiệu cảnh giới Tịnh Độ của Đức Từ Phụ A-Di-Đà để chúng sinh nương nơi tha lực bản nguyện của Phật A-Di-Đà mà được vãng sinh về quốc độ của Ngài. Pháp môn Tịnh Độ do đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên thuyết, giống như một dòng suối trong lành mát dịu, gội sạch những phiền não và cuốn trôi nghiệp chướng, khiến cho tâm hồn chúng ta thanh lương, bình yên, hạnh phúc. Trong kinh Tượng Pháp Quyết Nghi viết: “Chúng sinh ở thời chánh pháp, tu Giới Luật dễ thành tựu. Chúng sinh ở thời tượng pháp, tu Thiền Định dễ thành tựu. Chúng sinh ở thời mạt pháp, tu Tịnh Độ dễ thành tựu” Tịnh Độ tông không chỉ dành riêng cho bậc hạ căn mà còn là pháp môn thù thắng của hàng trung và cả bậc thượng căn, vì vậy đại đa số chư Tăng, Ni ở nước ta đều hướng về pháp môn Tịnh Độ.

Trong hầu hết các bộ kinh Đại thừa chuyên về Tịnh Độ, Đức Bổn Sư đặc biệt xác quyết, pháp tu trì danh niệm Phật cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc do Đức Từ Phụ A Di Đà làm giáo chủ, là pháp tu thù thắng, phù hợp mọi căn cơ, tóm thâu cả phàm Thánh … Từ hàng đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền; các bậc đại trí như ngài Thiện Tài, hải chúng Hoa Tạng; các bậc thượng nhơn như: Tổ sư Mã Minh, Long Thọ … cũng đều tha thiết cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc … nhẫn đến hàng hạ căn độn trí, tạo nghiệp ngũ nghịch thập ác, một khi đã biết ăn năn quay đầu, phát tâm bồ đề, tín nguyện đầy đủ, chí thành cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc tha thiết trì danh niệm Phật nhẫn đến một niệm “nhất tâm bất loạn”, cũng nhân đó tùy nghiệp đới sanh, sẽ có đại diễm phúc cùng chư thượng thiện nhơn câu hội … Như vậy, từ bậc thượng trí đến hàng hậu học độn căn kém cõi, cũng đều có thể thực hành pháp môn niệm Phật, đều có thể thành tựu sở nguyện vãng sanh về Tây phương Cực Lạc, đạt ngôi Bất Thối Chuyển … Điều này chứng tỏ trì danh niệm Phật là pháp môn tối thắng, chẳng thể nghĩ bàn, chỉ có tín nguyện sâu dày, tha thiết chí thành, nhất tâm niệm Phật, mới có thể chứng nghiêm sự mầu nhiệm, chứ chẳng thể nào dùng ngôn ngữ lý giải được.

Điều mà đôi khi chúng ta không nghĩ đến là gia đình còn rất quan trọng đối với chúng ta, bởi vì mỗi gia đình đều có một truyền thống đạo đức lâu đời. Những gì chúng ta có được hôm nay là sự kế thừa tất yếu từ ông bà, cha mẹ, tổ tiên nhiều đời, trong đó ảnh hưởng trực tiếp từ cha mẹ. Cha mẹ không chỉ để lại cho con cái sản nghiệp mà suốt một đời đã vất vả lắm

Page 38: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

38

mới tạo ra, mà còn để lại cho chúng ta cả một bầu trời tương lai tươi sáng nếu chúng ta biết nghe lời mẹ cha sống có đạo đức và thực hành theo chánh pháp.

Hiểu như thế, chúng ta thấy môi trường sống của gia đình và xã hội là quan trọng đến dường nào đối với việc hình thành tính cách của con người nói chung và trẻ em nói riêng. Khi một phụ huynh ta thán về tật nói dối của con em mình, họ đã không lưu tấm đến một phương pháp chữa trị chóng vánh thay vì tìm hiểu căn nguyên để tiêu trừ tận gốc tật xấu đó.

Để khuyên dạy con cái không nói dối, người Trung Hoa ngày xưa có chuyện “Sát trư giáo tử”, tức là giết heo dạy con. Câu chuyện này có từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, viết về một người có tên là Tăng Tử, tục gọi là Tăng Sâm, một trong những học trò xuất chúng của đức Khổng Tử. Ông là người hiếu thuận, rất coi trọng vấn đề giáo dục, nhất là giáo dục con cái. Một lần vì có việc, vợ ông phải đi xa mới có phiên chợ, đứa con nhỏ thường ngày rất được cưng chiều, hôm đó nó đòi đi theo, nói mấy cũng không được, cứ níu áo mẹ chẳng chịu buông. Bà Tăng Tử vì đang có việc vội vàng nên tan chợ. Bà bèn nói dỗ con:

- Con ở nhà ngoan, lát nữa mẹ về thịt con heo ở nhà mình nuôi cho con ăn.

Đứa bé nghe nói, vui vẻ ở nhà không đòi đi theo mẹ nữa.

Đến khi bà đi chợ về thì thấy chồng đang chuẩn bị bắt heo cùng đứa con trai lớn làm thịt. Bà vội nói:

- Ông làm cái gì vậy? - Giết heo lấy thịt cho thằng nhỏ ăn. Tăng Tử điềm nhiên nói với vợ như vậy. Vợ Tăng Tử liền ngăn lại nói: - Vừa rồi tôi nói là để dỗ nó thôi, sao lại giết heo thật? Tăng Tử nghiêm nghị nói: - Cha mẹ nói với con cái không thể tùy tiện được. Con trẻ luôn tin tưởng lời nói của người lớn là đúng, là thật. Nay đánh lừa nó, nói dối với nó, thực tế bà đã dạy nó cách nói dối. Bà nghĩ xem cách giáo dục con như thế có được không?

Vợ Tăng Tử nghe chồng lý giải sáng tỏ vấn đề, tuy tiếc con heo nhưng đành để chồng làm thịt.

Do vậy chúng ta phải biết rằng,phương pháp hay nhất để ngăn chặn những tật xấu nảy nở nơi con trẻ là để nó được sống trong môi trường gia đình lành mạnh, thích đáng. Đừng vì lý do nào mà làm gương xấu, dù chúng ta có bị thiệt hại vật chất hay tinh thần. Nếu con trẻ đã lỡ nhiễm những thói quen xấu ấy rồi thì phải bình tĩnh, tìm ra nguyên nhân và nói thật cho nó biết nó đã hiểu sai vấn đề và yêu cầu không được tái diễn. Nhưng phải kiên trì, đừng nóng vội và đừng dùng roi vọt, chúng ta luôn tâm niệm rằng, tất cả lỗi lầm hoàn toàn không phải xuất phát từ con trẻ.

Hoàn cảnh gia đình giữ được sự thanh khiết, một vài nguyên tắc của đời sống tinh thần được kính trọng và được thi hành thì sẽ tạo nên những ảnh hưởng tốt đẹp cho con cái.

Khi là bậc cha mẹ, chúng ta cần phải chon một môi trường cư trú tương đối hoàn thiện, chí ít cũng phải tạo cho con trẻ nguồn vui sống thiện lành. Đồng thời tự bản thân chúng ta cũng phải là một môi trường tốt đẹp để chan hòa trong cuộc sống gia đình.

Trong sự hướng đến một cuộc sống tốt đẹp, tất cả chúng ta ai cũng ao ước tìm cho mình một môi trường sống trong lành thánh thiện. Cho nên, bất cứ ai mà hướng tâm đến một môi trường sống bình an trong lành thánh thiện thì chắc chắn rằng phải nghĩ ngay tới việc tự bản thân mình phải tạo dựng nên môi trường như vậy để tự nuôi dưỡng thân tâm mình và còn có thể làm chỗ an trú cho quyến thuộc.

Page 39: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

39

Môi trường trong lành thánh thiện nhất trong thế giới con người chính là an trú trong thiện pháp. Và môi trường trang nhhiêm thanh tịnh giải thoát nhất trong thế giới loài người dó chính là an trú trong chánh pháp.

Trong “Khóa Hư Lục” có ghi: “Niệm Phật là do tâm phát khởi, tâm phát khởi về nẻo thiện thì đó là thiện niệm, thiện niệm đã phát khởi thì thiện nghiệp sẽ huân tập đắp bồi. Tâm phát khởi về nẻo ác, thì đó là ác niệm, ác niệm đã sinh thì ác nghiệp sẽ ứng nghiệm”. Đó là ý niệm căn bản về sự thực tập dựa trên nền tảng nhân quả. Tất cả đều do tâm, nếu tâm niệm mình thiện thì hành động của mình, nếp sống của mình là thiện thì mình sẽ được quả báu tốt đẹp bởi điều thiện mà mình đã gieo tạo. Nếu tâm mình khởi ác niệm thì hành động của mình là ác nhân tất nhiên sẽ cấu thành ác nghiệp. Ác nghiệp đưa đến hậu quả khổ đau bất hạnh. Vì vậy khi tâm chúng ta hướng về đức Phật A Di Đà, niệm niệm chúng ta luôn có xu hướng xây dựng cõi Tịnh Độ trong tâm hồn mình thì niệm niệm đó chính là giác ngộ, là cực lạc, là tịnh độ. Mà có giác ngộ tức là có hạnh phúc và giải thoát khỏi khổ đau luân hồi sanh tử.

Trong “Khóa Hư Lục” còn có đoạn: “Nay hành giả muốn khởi chánh niệm để dứt tam nghiệp thì cũng cần mượn công phu niệm Phật. Vì sao? Vì niệm Phật là dứt trừ được tam nghiệp. Khi niệm Phật, thân ngồi ngay thẳng, không hành tà đạo, đó là dứt thân nghiệp. Miệng trì danh hiệu Phật, không nói lời vọng tà nguỵ ngữ, đó là dứt khẩu nghiệp. Ý duy trì tinh tấn mà không khởi niệm, đó là dứt trừ ý nghiệp”. Như vậy khi chúng ta niệm Phật tức là chúng ta chuyển hóa tam nghiệp từ bất tịnh trở nên thanh tịnh. Khi chúng ta niệm Phật tức là chúng ta chuyển hóa ác nghiệp trở thành thiện nghiệp. Trong kinh “Niệm Phật Ba La Mật” (phẩm thứ sáu) đức Quán Thế Âm Bồ Tát nói rằng: “Đức Thích Ca trọn đời giáo hóa, điều phục chúng sinh đã ban bố tám vạn bốn nghìn pháp tu, nhưng trong đó niệm Phật là hơn cả”. Ngày nay pháp môn niệm Phật A Di Đà đã trở nên phổ biến đối với những người học Phật, thậm chí đến nỗi câu “Nam Mô A Di Đà Phật” luôn được nam phụ lão ấu trong cộng đồng Phật giáo dùng làm ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày.

Chúng ta niệm Phật chính là chúng ta đang xây dựng cõi Tịnh Độ ngay trong tâm hồn mình. Chúng ta trì danh niệm Phật tức là chúng ta đang từng bước dứt trừ tam nghiệp bất tịnh và tích cực hướng thân, khẩu, ý an trú trong chánh pháp. Do vậy muốn xây dựng được cõi Tịnh Độ trong tâm hồn, chúng ta chỉ cần trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chúng ta sẽ điều phục thân, khẩu, ý hướng về nẻo thiện. Hướng về nẻo thiện thì sẽ tăng phần thiện nghiệp và giảm dần ác nghiệp, từ đây cảnh giới Cực Lạc dần dần lộ diện và cánh cửa ngôi nhà Tịnh Độ cũng từ từ hé mở. Đó là lý do tại sao muốn cứu độ cha mẹ mình thì chúng ta phải xây dựng cõi Tịnh Độ trong tâm hồn người con hiếu đạo.

Trong tự truyện của Mục Kiền Liên có nói về nguyên nhân đã dẫn đến sự đọa đày đau khổ của bà Thanh Đề cũng bởi do cái tâm sân hận. Cái tâm sân hận này nó được khởi lên từ một niệm tham lam, bảo thủ. Câu chuyện xảy ra như sau: Tại một ngôi chùa nọ, vào một ngày kia, vị Hòa thượng trụ trì vì có việc cần phải vắng chùa nên gọi các học trò lại dặn dò cẩn thận:

- Hôm nay Thầy có việc phải đi vắng, nhưng khi lúc Thầy vắng chùa sẽ có hai vị đại thí chủ đến chùa lễ Phật cúng dường, các con nhớ tiếp hai vị thí chủ này cho chu đáo.

Nói rồi Hòa thượng khăn gói lên đường. Mấy chú đạo ở nhà vẫn làm lụng mọi việc như thường ngày, dù làm việc nhưng trong tâm mấy chú đạo lại luôn hướng ra cổng chùa mong ngóng hai vị đại thí chủ đến lễ Phật và cúng dường như lời Thầy căn dặn. Các chú đạo thầm nghĩ, hai vị đại thí chủ này chắc phải là quyền cao, chức trọng ghê lắm, hoặc ít ra cũng là một phú thương nào đó giàu có, như vậy họ sẽ cúng dường nhiều tiền bạc và vật phẩm để chùa mình sửa sang, ăn uống … Vì thầm nghĩ như vậy nên mấy chú đạo tỏ ra háo hức trông chờ … Đợi mãi, đợi mãi nhưng vẫn không thấy hai vị đại thí chủ đến, thay vào đó lại là hai ông bà già trông rất bình dị đi bộ đến lễ Phật. Dovì các chú đạo cứ mãi miết nhìn ra cổng chùa

Page 40: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

40

trông chờ hai đại thí chủ đến để tiếp đón như lời thầy dặn,thành thử không ai để tâm tiếp đón ông bà già này một cách chu đáo.

Nói về hai ông bà này, sau khi lên chánh điện lễ Phật xong, liền nói với mấy chú tiểu trong chùa:

- Hôm nay vợ chồng tôi đến chùa lễ Phật và xin cúng dường một lon gạo, đây là lon gạo đặc biệt, mà vợ chồng tôi đã tách ra từ những hạt lúa đầu mùa để cúng dường chư Tăng bằng tấm lòng thành kính nhất của vợ chồng chúng tôi.

Khi nghe bà già thưa chuyện nhưng mấy chú đạo vẫn tỏ vẻ thờ ơ, vì thầm nghĩ trong bụng rằng, chùa mình hiện nay đâu có thiếu gạo, hơn nữa những người khác đem đến cả vài chục bao, vài trăm bao, chứ ai lại cúng dường một lon như vậy. Nghĩ như thế nên các chú vẫn làm thinh, chào hỏi qua loa chứ không nhiệt tình quan tâm đến. Do cảm nhận sự thờ ơ coi thường của mấy chú đạo nên bà vợ lộ rõ sự bất bình, mặt bà bừng bừng tức giận:

- Công lao của ta lột từng hột lúa để cúng chùa, vậy mà mấy người trong chùa xem thường ta, không tiếp đón đã đành, lại còn không đoái hoài gì đến vật phẩm cúng dường.

Bà càng nói tâm bất mãn sân luận càng trào lên, nghiệp lực sân si bảo thủ của bà cáng tuôn trào. Do quá sân hận, thuận tay bà đổ hắt lon gạo xuống sân chù và dùng chân chà đạp lên. Cùng lúc đó bà lập nguyện rằng: “Từ nay về sau, nếu gặp thầy chùa ở đâu và gặp bất cứ lúc nào ta cũng nguyền rủa hết”.

Khi Hòa thượng về, nghe học trò kể lại đầu đuôi sự việc đã xảy ra. Hòa Thượng nghe xong thì tự trách mình không nói rõ hơn về hai vị đại thí chủ này, khiến sự việc phải rơi vào một tình cảnh hết sức nguy hiểm cho nữ thí chủ này, vì bà ta đã phát khởi lên một lời nguyện quá độc ác. Đêm đó vị Hòa Thượng trầm tư suy nghĩ nhiều về việc này và lập nguyện rằng: “Ta sẽ đời đời kiếp kiếp làm người con bà cụ đó, để độ bà thoát khỏi lời nguyện ác đó”.

Từ đó vị Hòa thượng kiếp nào cũng là con bà cụ đó, cho đến kiếp cuối cùng thì vị Hoà thượng đó là Tôn giả Mục Kiền Liên, còn bà cụ đó chính là bà Thanh Đề.

Chúng ta thấy đó, chỉ cần sự xuất hiện của một đứa con có tinh thần hiếu đạo đã giác ngộ chân lý Phật Đà thì đã có thể hoán chuyển nghiệp lực cho cha mẹ mình. Từ câu chuyện này chúng ta thấy rằng, chỉ cần chúng ta khởi lên một niệm thiện hay một niệm ác thì chúng ta sẽ phải chịu quả báo ngay sau đó. Thiện niệm thì tạo nên phước báu an lạc,còn ác niệm thì phải chịu đọa đày trong thế giới khổ đau triền miên. Tiền thân của bà Thanh Đề chỉ vì khởi một niệm độc ác, bà đã bị trượt dài trên con đường tội lỗi của mình, cuối cùng bà phải đọa vào cảnh giới ngạ quỉ. Nhưng may mắn thay, bà Thanh Đề còn có người con hiếu đạo đó là Tôn giả Mục Kiền Liên. Tiền thân của Mục Kiền Liên là vị Hòa thượng đã giác ngộ Phật pháp, nhờ tư duy quán xét và đã khởi lên một niệm thiệnmà đã cứu người đàn bà tội lỗi do vô minh sân hận sai khiến kia. Vị Hòa thượng đó khởi niệm sẽ làm con bà cụ này mãi mãi cho đến khi giải cứu được bà cụ đó thì thôi. Cuối cùng thì Tôn giả Mục Kiền Liên cũng đã độ thoát được mẹ mình khỏi kiếp đói khát đọa đày trong cảnh giới ngạ quỉ. Điều quan trọng ở đây là Mục Kiền Liên muốn cứu độ mẹ mình cũng phải là người giác ngộ, cũng đã hoàn thiện thế giới cực lạc trong tâm hồn của chính ông ta. Nếu như không xây dựng được cảnh giới cực lạc trong tâm hồn mình thì chắc gì Mục Kiền Liên đã cứu độ được mẹ mình.

Chúng ta được nghe, được biết đến rất nhiều phương pháp báo hiếu, chúng ta đã từng dâng lên cha mẹ rất nhiều món ngon bổ dưỡng, vật lạ quí hiếm để cha mẹ thọ hưởng. Chúng ta cũng đã từng dùng nhiều vật phẩm thiết yếu để dâng lên cúng dường thập phương Tăng nhân ngày Tự tứ, thông qua đó, nhờ chư Tăng chú nguyện nhằm cứu độ cha mẹ mình thoát khỏi chướng nghiệp. Nhưng kỳ thật, đây chỉ là phương tiện nhất thời. Vì sao vậy? Vì trong một năm chỉ có một ngày chư Tăng tự tứ vào mùa Vu Lan, còn cha mẹ mình vì tình yêu

Page 41: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

41

thương con cái nên đã tạo tội không kể bất cứ lúc nào. Do vậy cái chính trong tinh thần của đạo Phật là phải xây dựng một cõi tịnh độ, một thế giới cực lạc trong tâm hồn mỗi chúng ta, mà phải xây dựng nó trong từng giây từng phút, xây dựng bền bỉ, thường xuyên không để gián đoạn. Có được như vậy hương thơm đức hạnh của chúng ta mới có thể ảnh hưởng đến cha mẹ, mới có thể chiêu cảm đến chư Phật mười phương và mới có thể hóa giải được nghiệp lực của hai đấng sinh thành.

Có hương thơm đức hạnh và cảnh giới cực lạc của người con hiếu đạo thì sẽ chiêu cảm và hóa giải được nghiệp lực của cha mẹ. Một câu chuyện nữa sẽ giúp cho chúng ta thấy rõ rằng, niệm Phật là phương pháp tối ưu để chúng ta có thể chuyển tâm tham dục, sân hận, si mê thành tâm sáng suốt thanh tịnh an vui cực lạc, chuyển thân ngũ trượt ác thế thành thân liên hoa hóa sanh trong thế giới Cực Lạc hiện tiền, ấy cũng gọi là đạt được niệm Phật Tam Muội. Tâm hồn hiếu đạo của người con đã tạo duyên, đã chiêu cảm được nghiệp xấu của cha mình trong câu chuyện như sau:

“Có hai cha con người Nhật nọ rất giàu có, người con đã qui y theo Phật, thường đến chùa cúng dường, nghe giảng pháp, tụng kinh, thường hay thực hành các thiện pháp, trái lại, người cha tánh nết tham lam, keo kiệt, chỉ chú trọng đến tiền, với người này thì càng nhiều tiền thì càng tốt. Ông cha đã không bố thí cúng dường, mà còn báng bổ Phật pháp, thấy ai cúng dường thì tỏ ý khinh thường, sinh tâm đố kỵ và cho rằng si mê dại dột. Thường ngày nếu ông có chín đồng, ông sẽ chắc bóp, thu vén để kiếm thêm một đồng cho đủ chục và nếu đã gom góp được chín chục ông sẽ miệt mài lăn lộc bòn tro đãi trấu kiếm thêm cho đủ một trăm đồng gửi ngân hàng.

Người con thấy vậy rất buồn, một hôm đã đến chùa thưa với vị Thầy mà mình đã qui y, nhờ vị Thầy này tìm cách hóa độ người cha tham lam để người cha biết tin Phật và biết tu tập các thiện pháp, mà cụ thể là biết bố thí. Sau khi bàn luận, vị thầy này đã thuê người cha làm một công việc tương đối khác thường, đó là “niệm Phật” và trả tiền công hằng ngày với số tiền cao hơn giá lao động bên ngoài. Dĩ nhiên khoản tiền này là của người con mang từ nhà lên để thầy mình trả lương cho cha, nhưng sự việc không để lộ ra cho người cha biết.

Người cha rất mừng vì công việc quá dễ mà lại được lương cao. Ông bắt đầu niệm Phật từ sáng đến chiều, ông tranh thủ niệm Phật trong mọi thời gian dù đang đi đứng hay nằm ngồi, cho đến chiều ông ghi vào sổ là đã niệm được bao nhiêu, sau đó ông lên chùa gặp thầy để lãnh tiền. Lúc đầu ngày nào ông cũng mong buổi chiều đến nhanh hơn để lên chùa lãnh tiền. Nhưng sau một năm niệm Phật thỉnh thoảng ông lại quên cái buổi chiều quan trọng đó, do vậy có khi vài ba ngày thậm chí cả tuần ông mới đến chùa để nhận tiền công một lần. Sau gần hai năm niệm Phật, người cha giác ngộ ra chân lý. Từ đó bệnh tham lam tiền bạc ở ông không còn nữa. Bây giờ hằng ngày ông chỉ biết niệm Phật, ngoài ra không để ý đến những việc khác. Tâm của ông đã thật sự thanh tịnh, đã đi vào “Niệm Phật Tam Muội”. Cảnh vật chung quanh lúc này đối với ông là cảnh giới Cực lạc.

Qua câu chuyện này, chúng ta thấy đó, nguyên nhân mà loài người chúng ta tạo ác nghiệp có hai lý do chính. Một là do chúng ta tham lam và cố chấp, chúng ta luôn cho rằng cuộc đời này là của chúng ta, thế giới này là của chúng ta, thân này là của chúng ta. Vì nghĩ như vậy, nên chúng ta mới tham lam chiếm hữu về cho mình. Do chúng ta ngộ nhận rằng, cuộc đời này sẽ tồn tại mãi nên chúng ta gom tất cả mọi vật chất, địa vị của cải để chúng ta hưởng thụ. Trong khi đó trên thực tế thì mỗi người sinh ra ở cõi đời này cũng chỉ bắt đầu từmột tấm thân trần trụi, hoàn toàn không có gì cả và rồi ngày ra đi từ giả cuộc đời này vĩnh viễn, chung cuộc cũng không ai có thể mang theo được bất cứ thứ gì.

Nhưng cái khoảng giữa của hai thời điểm sanh và tử ấy, chúng ta luôn ngộ nhận và cố chấp vào thấy biết hẹp hòi của chính mình. Chúng ta không ngừng phát triển tâm chiếm hữu đến tận cùng để vơ vét, tích lũy thật nhiều vật chất, tài sản, danh vọng … mà chúng ta gọi là

Page 42: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

42

tài sản và sự nghiệp của mình. Trong khi đó điều cần thiết đáng tập trung thực hiện là chuyển hoá nghiệp lực, trau giồi đức hạnh, tu tập các pháp lành, báo hiếu mẹ cha, cứu độ muôn loài … thì chúng ta lãng quên một cách đáng tiếc.

Trong cuộc sống hầu như chúng ta không mấy khi hài lòng, thỏa mãn với những gì mình đang có. Do vậy khi chúng ta vừa thỏa mãn được nhu cầu này, nó lại lập tức sinh ra một nhu cầu khác cao hơn. Cho nên những gì chúng ta sở hữu được trong cuộc sống là rất nhiều nhưng chưa bao giờ chúng ta thấy đủ.

Một thực tế phủ phàng đối với những ai chưa giác ngộ chân lý Phật Đà, đó là trên thực tế đời sống, sự thật thì chúng ta chưa bao giờ sở hữu được bất cứ một thứ gì. Tất cả những gì gọi là chúng ta đang sở hữu, nó hoàn toàn hư ảo, nó là gốc của bất an và hoại diệt. Một khi con người chúng ta mong muốn sở hữu nhiều vật chất, nhiều danh vọng, thì lòng tham dục của chúng ta dâng cao lên, bởi vì chúng ta phải sinh ra nhiều thủ đoạn và bằng mọi giá để đạt cho được mục tiêu mà cám dỗ dẫn dắt chúng ta hướng đến. Có người tham lam bằng mồ hôi, công sức của mình khiến sức lực kiệt quệ, tinh thần hư hao mòn mõi, có người tham lam bằng chính những mưu ma chước quỉ của mình để trục lợi hại người, có người lại tham ô công quỹ dẫn đến vi phạm pháp luật.

Với tâm niệm cố chấp và tham đắm trong tiền tài danh vọng, dù chúng ta có sở hữu được khá nhiều của cải vật chất, nhưng có một điều chắc chắn rằng, chúng ta sẽ phải trả giá cho việc làm của chính mình. Nếu cái nhân mà chúng ta gieo ra do mồ hôi nước mắt và trí tuệ của mình thì chúng ta cũng phải tốn rất nhiều thời gian công sức cho những cám dỗ thường tình đó. Nếu như chúng ta đã gieo cái nhân bất chánh thì cái giá sẽ là nỗi lo âu, phiền muộn kèm theo là những tháng ngày bất an sợ hãi … Như vậy, trong đời sống thế gian, khi chưa thấu tỏ chân lý thì những gì làm cho chúng ta thỏa mãn nhất thời, sung sướng ngắn ngủi, nó hoàn toàn không chắc chắn, nó cũng là nguồn gốc của bất an và đau khổ. Và tất nhiên là những khổ đau, những bất an, thiệt thòi đó chúng ta phải gánh chịu. Chúng ta phải gánh chịu quả báo đó không chỉ trong một đời mà trong nhiều đời, khổ đau dai dẳng, như vậy so với những gì chúng ta thụ hưởng thì quá ít còn đau khổ thì vô vàn.

Là Phật tử chúng ta nên quán xét lý vô thường, phải nhận thức rõ là cuộc đời này không thể tồn tại mãi được. Cũng không có gì là của ta mãi mãi được. Chẳng hạn như mái “tóc xanh mượt của các cô gái đang độ xuân thì” có tồn tại mãi mãi với các cô gái ấy không? Làn môi son của các cô có thắm mãi với thời gian đang trôi nhanh qua không? Chỉ có người tu giác ngộ chân lý của Phật mới biết rõ sự hữu hạn của nó, mới biết là nó thật sự không phải của mình.

Trong Kinh Pháp Cú, đức Phật dạy rằng: Thử ngã tử, ngã tài Ngu nhân thường vi ưu Ngã thử vô hữu ngã. Hà hữu tử dữ tài

Nghĩa là: Con tôi, tài sản tôi Người dại thường lo nghĩ Ta đã là không có. Con đâu, tài sản đâu?

Do vậy chúng ta phải ý thức được tính chất vô ngã, vô thường của cuộc sống, chúng tacũng phải thấm thía với việc thọ nhận những thứ bất tịnh, những sản phẩn từ tâm niệm tham dục là nguồn gốc của đau khổ. Qua đó chúng ta cần phải nhận chân giá trị thật sự của các mục tiêu vật chất mà chúng ta luôn đeo đuổi. Chẳng hạn như: Nó có giá trị bao nhiêu? Giới hạn

Page 43: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

43

đến đâu? Phục vụ nhu cầu gì? Có cần thiết lắm không? … Để chúng có kế sách thực hiện vừa phải và cũng đừng quá tham đắm khi biết sự vô nghĩa của nó với thời gian và với chíng đời sống tâm linh của mỗi chúng ta. Dưới cái nhìn trí tuệ của đạo Phật và cái nhìn từ giác ngộ chân lý, chúng ta sẽ lập tức giải phóng ngay ra khỏi tâm thức chúng ta những vướng mắc do ngộ nhận si mê bởi lòng tham lam.

Khi đã nhận thức sâu sắc vấn đề này, một điều cần đặt ra là chúng ta có thật sự dũng cảm ứng dụng những hiểu biết này vào đời sống thường ngày, để biến sự hiểu biết của mình trở thành những hoa thơm trái ngọt, khiến cho cuộc sống của chúng ta ngập tràn an vui và hạnh phúc hay khôing? Chúng ta vẫn biết rằng, biết và thực hiện được điều mình biết là hai thực thể khác nhau, nhưng dẫu sao khi chúng ta có chánh kiến thì cũng đã là một khởi đầu tốt đẹp để chúng ta có cơ sở quản chiếu về những hành vi của bản thân mình. Điều này đầu tiên sẽ khiến chúng ta không lệch lạc trong hành xử, không hành xử sai lạc là tiền đề để chúng ta thực hiện các pháp lành trong đời sống hằng ngày. Thực hành các hiểu biết của mình về sự vô ngã, như vậy chúng ta sẽ có cơ hội thực sự tháo gỡ những trói buộc bởi “cái ta” nhỏ bé, nhờ đó niềm vui trong cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên cỡi mở chan hòa và cộng thông với pháp giới. Có như vậy thì chúng ta mới có thể vất bỏ những gì hình thành từ ngộ nhận, cố chấp, ảo tưởng … vốn dĩ được tạo ra từ cái tâm tham dục.

Khi chúng ta triệt tiêu được những tư kiến sai lầm này thì chúng ta cũng sẽ thấy rõ những buồn khổ, sướng khổ, những chán nản thất vọng trong tâm thức của mình là không thật. Thay vào đó là những niềm vui nhẹ nhàng sâu sắc qua sự cảm nhận tinh tế trong tinh thần vô ngã. Tinh thần vô ngã không phủ nhận những gì hiện hữu trong đời sống mà xác nhận sự tích cực của mỗi cá nhân thông qua cái nhìn trí tuệ của đạo Phật. Người đầu tiên nhận chân được tinh thần vô ngã đó chính là đức Phật, trong Kinh Pháp Cú có ghi lại bài kệ của Ngài như sau: Ôi! Người làm nhà kia, Nay ta đã thấy ngươi Ngươi không làm nhà nữa, Đòn tay ngươi bị gãy Kèo cột ngươi bị tan, Tâm ta đạt tịch diệt Tham ái thảy tiêu vong. (H.T.Thích Minh Châu dịch)

Bây giờ chúng ta đã biết tu tập theo lời Phật dạy, do vậy chúng ta biết rõ là thân xác của chúng ta cũng như mọi thứ liên quan đến nó đều có tính chất vô thường. Từ những hiểu biết đó, chúng ta khéo khuyên cha mẹ mình cũng nhận biết những điều như mình biết, để từ đó không rơi vào chấp ngã và như vậy sẽ không bị chi phối bởi những tham dục, sân hận, si mê lầm lạc nữa. Một khi đã không chi phối bởi tâm vô minh tham dục thì sẽ không tạo ra ác nghiệp. Người không tạo ra ác nghiệp thì sẽ có cái quả an lạc, hạnh phúc. Như vậy chúng ta đã thực hiện được công việc xây dựng thế giới Tịnh Độ trong gia đình chúng ta rồi vậy.

Chúng ta biết rằng, một gia đình đạt đến giá trị chân hạnh phúc là gia đình đã xây dựng được cõi cực lạc trong chốn nhân gian. Và trong Tăng Chi Bộ Kinh, đức Phật dạy rằng, gia đình có hiếu là gia đình hưởng hạnh phúc ngang hàng với trời Phạm Thiên. Như chúng at đã biết, trời Phạm Thiên người Ấn Độ gọi là Bra-ma. Phật giáo xem trời Phạm Thiên là cảnh giới hưởng cực lạc hạnh phúc cao nhất ở cõi dục giới. Thế mà đức Phật so sánh một gia đình hạnh phúc có tinh thần hiếu đạo hưởng hạnh phúc ngang hàng với trời Phạm Thiên.

Muốn hưởng được hạnh phúc cao tột như vậy thì chúng ta phải xây dựng cõi Cực Lạc trong tâmhồn chúng ta, chúng ta phải xây dựng cõi Tịnh Độ trong gia đình chúng ta. Chúng ta đã chuyên chú niệm Phật từ bấy lâu nay mà vẫn chưa xây dựng được cõi cực lạc trong gia đình mình, như vậy không đáng tiếc lắm sao? Vì sao vậy? Vì chúng ta chưa thật sự buông xả.

Page 44: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

44

Chúng ta nên lưu ý rằng khi chúng ta niệm Phật thì phải dứt khoát buông bỏ tất cả những tạp niệm gây chướng ngại công phu chánh niệm. Trong cuộc sống chúng ta vẫn phải làm việc, không những thế chúng ta còn phải tích cực làm việc nhiều hơn nữa để cuộc sống quanh chúng ta được ảnh hưởng bởi sự niệm Phật thanh tịnh của chúng ta. Có điều là chúng ta chỉ cần loại bỏ bớt những việc làm nhỏ nhặt, cũng không nên nhớ nghĩ mông lung nhiều chuyện, trong đời sống hằng ngày chúng ta nên hành xử mọi việc với một phong cách tự nhiên, xong việc rồi hãy quên đi, đừng để vướng víu đến tâm niệm Phật của chúng ta, thế là được. Nếu chúng ta niệm Phật mà tâm ý chưa thuần thục thì tâm trí sẽ không suốt tỏ. Sự sống hằng ngày thông qua các công việc mưu sinh, va chạm với đủ mọi điều đã chiếm quá nhiều thời gian của chúng ta, do đó những lớp hồng trần đeo bám, và cả những toan tính của chúng ta, đã khiến chúng ta không thể tập trung, dẫn đến sự rối loạn tâm trí. Thế nên khi đã xác định cái tấm thân này là tạm bợ, trả vay, thì chúng ta cần phải quay về với đời sống tâm linh chân thật, chúng ta còn chần chờ gì nữa mà không mạnh dạn buông bỏ tất cả chướng duyên để nhất tâm niệm Phật ngõ hầu xây dựng cõi thanh tịnh và cực lạc trong tâm hồn mỗi chúng ta.

Người niệm Phật phải tuyệt đối không hoài nghi, không xen tạp và không gián đoạn. Hoài nghi do tin chưa đủ mạnh, tin chưa đủ sẽ sinh tạp niệm, khi có tạp niệm tức không liên tục niệm Phật. Là Phật tử chúng ta nên nhận chân một cách thấu đáo rằng, Phật tử không phải chỉ là cái tên, cái danh gọi cho có, mà Phật tử là con Phật, đã là con Phật thì chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào lời Phật dạy. Đối với người chuyên tâm niệm Phật thì trước hết chúng ta phải cẩn trọng với khẩu nghiệp của mình. Trong cuộc sống, nếu chúng ta vô ý thốt ra một lời tai hại hay vô nghĩa thì chúng ta cũng phải ăn năn, huống chi chúng ta nói điều gì đó khiến cho người khác đau khổ thù hận.

Phật luôn tượng trưng cho sự thuần khiết và thanh tịnh. Chúng ta niệm Phật bằng cái miệng bất tịnh thì được ích lợi gì? Miệng là nơi tuôn chảy muôn sự, sự lành sự ác đều từ đó mà ra, “Ăn có nhai, nói có nghĩ” chúng ta phải điều khiển cho được cái miệng, bằng cách phải uốn lưỡi bảy lần trước khi mở lời. Đó là kinh nghiệm quí báu của người xưa. Niệm Phật lại càng phải cẩn thận hơn, chúng ta cần phải làm cho khẩu nghiệp thật sự thanh tịnh. Tu thân, tu tâm mà chúng ta không tu cái miệng thì đó là một thiếu sót đáng tiếc. Chúng ta cũng đừng nghe ai đó nói: “Tôi tuy khẩu xà mà tâm lại Phật” để mà tự bằng lòng mình, mà không chịu sửa ngay cái tật xấu đó.

Chúng ta tu tập được như vậy, niệm Phật được như vậy thì chúng ta sẽ có được cảnh giới cực lạc, chúng ta sẽ xây dựng được cõi tịnh độ trong gia đình của chúng ta . Cõi tịnh độ đó chính là một đời sống thiện lành, thanh tịnh, an vui. Nó hoàn toàn ngược lại với uế độ là một thế giới đầy khổ đau phiền muộn mà trước khi chưa niệm Phật chúng ta đã từng giờ từng ngày chung sống với nó.

Đức Phật đã dạy chúng ta rằng: “Cha mẹ là Phật, cúng dường trời Phạm Thiên không bằng cúng dường cha mẹ”. Điều này quả thật là như vậy, bởi ân đức và tình yêu thương mà cha mẹ đã dành cho con cái thật vô bờ bến. Đức Phật còn dạy rằng, cha mẹ là Phật ở ngay trong nhà chúng ta, mà nơi nào có Phật, thì ở đó có từ bi, nơi nào có Phật nơi đó có hạnh phúc. Như vậy rõ ràng muốn có Phật trong nha thì cha mẹ phải từ bi. Do người mẹ vốn được di truyền tố chất phải hoài thai sanh nở, cưu mang, đùm bọc và cho con bú bằng chính nguồn sữa của mình, nên người mẹ luôn được thế gian suy tôn là “mẫu từ” và người cha cũng được thế gian suy tôn là “bi phụ” hay “nghiêm phụ”.

Từ bi là hai trong bốn trạng thái tâm giải thoát mà đức Phật dạy là “Tứ lượng vô tâm” có nghĩa là “từ” vô lượng, “bi” vô lượng, “hỉ” vô lượng và “xả” vô lượng. Vô lượng là không có giới hạn. Lòng “từ” là trạng thái luôn mong muốn đem lại niềm vui cho kẻ khác một cách vô tâm, mang đến niềm vui cho tha nhân mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào kèm theo. Lòng “bi” trong khi cũng mong muốn đem lại niềm an lạc cho kẻ khác, nhưng hầu như lại có

Page 45: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

45

hành động ngược lại, đó là trạng thái muốn chấm dứt mọi đau khổ mà kẻ khác đang gánh chịu. Chấm dứt đau khổ cũng đồng với nghĩa là đang mang lại hạnh phúc.

Do đó khi lòng “từ bi” sinh khởi, chúng ta luôn mong muốn làm bất cứ điều gì để mang lại niềm vui cũng như chia sẻ, giảm nhẹ hay chấm dứt những lo toan khổ não của người khác. Cho nên làm cha mẹ với trách nhiệm của mình phải xây dựng lòng từ bi cho con cháu mình trong gia đình.

Người mẹ như đã biết, với từ tâm của mình nên thường chiều chuộng con, nó muốn thứ gì cho thứ nấy, không ngăn trở hay xà xẻo bớt đi, đó là ban vui. Ưu thế của phụ nữ đối với con cái luôn có một giá trị rõ rệt hơn nam giới, con cái dễ gần gũi mẹ hơn, dễ tâm sự hơn, người mẹ do đó dễ an ủi con khi nó có vấn đề cần san sẻ, nên xã hội thường vẫn hay nói về mẹ nhiều hơn, nhưng đồng thời xã hội cũng cảnh báo sự quá dễ dãi nuông chiều con cái của người mẹ bằng câu “con hư tại mẹ”, bởi con muốn gì mẹ cũng cho, miễn con vui là mẹ vui. Trong khi đó thì người cha không như vậy, người cha mang chất liệu của bi, có nghĩa là cứu khổ, ở đây là sự thương yêu nhưng nghiên khắc, giáo dục nhưng lại mang nhiều yếu tố răn đe, kìm hãm, để hạn chế tối đa những nổi khổ mà con cái có thể vướng vào trong tương lai.

Cho nên có ban vui mà không cứu khổ thì nguy hiểm lắm, ví như đứa con do ham vui cùng chúng bạn, bỏ học. Người mẹ thì an ủi, động viên, vỗ về để đứa con bình tâm. Nhưng người cha có thể răn đe bằng cách đánh đòn, đánh đòn trong cái tâm lượng thương yêu, vì người cha biết hậu quả của việc nuông chiều con sẽ rất nguy hiểm. Người cha nghiêm khắc để người con biết phải sinh hoạt trong một giới hạn chừng mực, không được buông thả, chạy theo mọi xa xỉ, những nhu cầu không cần thiết để thỏa mãn cái thân ngũ dục này. Người cha hiểu rõ những thói quen còn nguy hiểm hơn một vài tật xấu. Tật xấu nó chỉ có thể bộc phát ở những môi trường thuận tiện của nó, còn thói quen thì không như vậy, một thói quen xấu sẽ không chừa bất cứ hoàn cảnh nào, khi chạy theo thói quen xấu một cách vô thức, không chủ đích, không có nhu cầu, thì ác nghiệp cũng thành hình ngay khi đó. Điều này quả là vô cùng nguy hiểm. Do như vậy mà người cha với chất liệu bi đã ngăn chặn những thói xấu có thể làm hại con mình trong một thời điểm nào đó, đồng thời qua đó người cha cũng đã xây dựng trong tâm hồn con mình chất liệu của “bi” ngay từ thuở còn thơ ấu.

Một gia đình có mẹ ban vui, có cha cứu khổ thì ở đó đã có hai đấng từ bi và đó là sự hiện hữu của đức Phật. “Nghiêm phụ mẫu từ”, tức là “Cha nghiêm, mẹ hiền”, đó là điều kiện cần và đủ cho một gia đình hạnh phúc. Chúng ta không thể có một cuộc sống hạnh phúc nếu chúng ta không xây dựng được một gia đình hạnh phúc. Điều này thật hết sức đơn giản dễ hiểu, bởi chúng ta thành người từ gia đình và chúng ta hư đốn cũng từ gia đình. Thế nhưng cũng không ít người trong số chúng ta vì quá bận rộn, hay vì quá xem nhẹ mà quên đi tổ ấm gia đình quan trọng đến thế nào trong đời sống chúng ta. Cùng với mục đích xây dựng một cảnh giới cực lạc ngay trong mái ấm gia đình, chúng ta nên lưu ý rằng, chúng ta còn có cả một dòng huyết thống truyền thừa, mà ở chúng ta là một sự kế thừa hoàn hảo tốt đẹp từ tổ tiên nhiều đời để lại trong mái ấm gia đình mà chúng ta đang thọ nhận, đang thọ hưởng đó.

Vì thế, cha mẹ chúng ta không những để lại cho chúng ta hình hài, vóc dáng, mà còn để lại cho chúng ta những giá trị tinh thần cao quí, để chúng ta có điểm tựa khi bước đi trên con đường đầy chông gai, thử thách. Đến đời chúng ta thì trách nhiệm xây dựng con cái trở thành người hữu dụng đối với xã hội, đối với Phật pháp là trách nhiệm thiêng liêng mà chúng ta phải gánh vác, cũng giống như cha mẹ chúng ta đã nuôi dưỡng giáo dục ta nên người hữu dụng. Trong suốt quá trình đó, chúng ta sẽ thật sự trưởng thành khi nào chúng ta có tâm phúc nhìn nhận một cách tường tận công ơn trời bể của cha mẹ, cho đến khi chúng ta phát hiện ra rằng, cha mẹ chúng ta vì quá thương yêu chiều chuộng con cái mà cam lòng tạo ra vô vàn ác nghiệp. Đến lúc này, một người con gọi là chí hiếu, chỉ khi nào nó khéo léo chỉ ra những ác nghiệp mà cha mẹ đang tạo tác, đồng thời hướng dẫn để cha mẹ nhận biết những ác

Page 46: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

46

nghiệp, buông bỏ những ác nghiệp mà quay về thiện nghiệp, quay về chánh pháp. Hướng dẫn được như vậy là đã ngăn chặn được con đường ác đạo mà chắc chắn cha mẹ sẽ phải đến. Khi không tạo ác nghiệp nữa đồng nghĩa lúc này cha mẹ đã có cảnh giới cực lạc ngay trong tự thân. Khi con người có được tịnh độ ở tự thân thì sẽ có được vô lượng vô biên hạnh phúc. Nhân như vậy thì chắc chắn quả cũng như vậy. Nhân an lạc thì quả sẽ an lạc. Và đương nhiên là cảnh giới Tịnh độ sẽ ngự trị ở trong tâm hồn những người con hiếu đạo. Như vậy chúng ta đã xây dựng thành công cõi tịnh độ trong gia đình mình. Gia đình chúng ta sẽ hưởng được hạnh phúc ngang hàng với trời Phạm Thiên như lời Phật đã dạy.

Chúng ta nổ lực để có kết quả là một gia đình tịnh độ, chúng ta đã xây dựng được cõi cực lạc trong tâmhồn người con hiếu đạo, hướng được cha mẹ trở về với nẻo thiện, như vậy chúng ta đã phương tiện độ thoát được cho hai đấng sinh thành đúng theo tinh thần của đại lễ Vu Lan báo hiếu.

Có thể nói rằng, đâylà phương pháp báo hiếu khả thi nhất. Tất cả những phương pháp khác không phải không hay, không đúng, nhưng nếu đã là con Phật chúng ta cần phải thực hiện tinh thần xây dựng cõi tịnh độ trong tâm hồn người con hiếu hạnh. Trong Phật pháp chúng ta nên thực tế, nên sống và hành đạo trên cơ sở trí tuệ và khoa học, chúng ta đừng nên nghĩ tưởng quá xa xôi, cũng đừng cầu nguyện quá xa vời. Báo hiếu cho cha mẹ bằng phương pháp xây dựng cõi cực lạc ở trong tâm hồn mỗi người con hiếu đạo, để rồi phát triển nó lên, nhân rộng nó ra và biến gia đình mình thành một gia đình cực lạc, xã hội chúng ta đang sống là xã hội tịnh độ, nếu được như vậy thì đây là một thực tế nhiệm mầu. Nếu cha mẹ đã qua đời, thì chúng ta vẫn phải cố gắng xây dựng trên tinh thần đó để làm nền tảng phước báo sau này và đó cũng là nguồn năng lượng tâm linh để chúng ta cầu siêu và hồi hướng cho “Cửu Huyền Thất Tổ” được siêu thoát.

Trong cuộc sống, do phải giao lưu, học tập, làm ăn, chúng ta phải có những quan hệ nhất định với cộng đồng xã hội. Những quan hệ đó là cần thiết, các quan hệ này, thoạt nhiên mới nhìn qua chỉ là các quan hệ bắt buộc do bởi mục đích là sinh lợi chứ không có tình cảm. Thế nhưng dưới nhãn quan Phật pháp thì tất cả mọi quan hệ đó đều có nhân duyên với nhau, dù ngắn ngủi hay dài lâu, tất cả đều để lại dấu ấn, sâu đậm hay mờ nhạt nó còn tùy ở nhân duyên bởi mỗi sự việc, ở mỗi con người. Ngay cả đến quan hệ giữa ông chủ và kẻ làm thuê cũng có thể có một ảnh hưởng rất sâu sắc như câu chuyện dưới đây trích dịch từ “Tục Tạng Kinh”.

Ngày xưa, tại quận Ninh Ba, có người tên Trương Mân, mồ côi cha mẹ từ rất sớm. Do côi cút một mình, Trương Mân phải nương vào sự hảo tâm của lối xóm để lây lất qua ngày. Ngày tháng trôi qua, đứa bé cũng lớn dần lên và đã có thể cắt cỏ, chăn trâu được nên đến ở mướn cho một phú hộ nọ ở cách làng, ông này chuyên kinh doanh các loại dép cỏ.

Mỗi sáng mai, chàng gánh giỏ đi cắt lát, đường phải đi ngang một ngôi chùa nên thường được nghe các sãi công phu tụng niệm. Lần nào chàng cũng để giỏ cỏ trước cửa chùa, vào nghe kinh một lát rồi mới tiếp tục lên đường.

Hòa thượng trụ trì thường thấy chàng đến như vậy, nên một bữa nọ ngài kêu chàng vào hỏi rằng:

- Con muốn tu hay sao mà ngày nào cũng đến chùa nghe kinh?

Trương Mân nghe Hòa thượng hỏi liền chắp tay thưa:

- Bạch thầy, con muốn lắm, nhưng bổn phận con là người làm mướn, ở đợ nhà người ta, không biết tính làm sao mà tu cho được.

Hòa thượng nói:

Page 47: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

47

- Hể muốn tu thì được, việc tu hành chẳng luận giàu sang, chủ hay tớ và cũng không cần ở chùa hay ở nhà, nếu có lòng thành, gặp cảnh ngộ nào cũng tu được. Con đang làm công cho người mà có chí hướng tu, thì ta dạy cho một phương pháp dễ dàng, miễn chí thành thì sẽ thành tựu.

Trương Mân nghe nói mừng rỡ, liều quì xuống đảnh lễ thưa:

- Xin nhờ ơn thầy chỉ dạy cho con.

Hòa thượng nói:

- Từ nay con cứ về tập ăn chay, trước theo kỳ hạn rằm, mồng một, sau thì tăng lên cho đến lúc trường chay và giữ năm điều cấm cho tinh nghiêm, rời cứ thường ngày niệm sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”, mỗi khi niệm danh hiệu Phật như vậy con phải chuyên tâm chú ý đừng xao lãng, thì cả đời này con sẽ được bình yên, cho đến khi lâm chung con sẽ được siêu sanh Tịnh độ nữa.

Trương Mân nghe Hoà thượng truyền dạy tâm huyết, trong lòng rất mừng, bèn bái tạ mà trở về, rồi cứ y theo lời dạy, nguyện thành tâm ăn chay và thường xuyên niệm Phật.

Chàng đan một cái giỏ tre để trước mặt, mỗi khi đan hài cỏ, tay đan miệng niệm Phật đến độ thành thục, tâm để ở việc tụng niệm mà tay đan vẫn thoăn thoắt. Mỗi khi niệm Phật được một biến thì ngắt một cọng lác bỏ vào giỏ ấy, như lần hạt chuỗi bồ đề vậy. Mỗi khi cọng lát đầy giỏ, chàng mang đến chùa bạch Hòa thượng, rồi đem đến trước bàn đức Địa Tạng lạy xong đốt đi. Chàng chí tâm liên tục như vậy đến mười năm sau thì ông chủ của Trương Mân gặp biến.

Ông chủ của Trương Mân bị đau chứng ung thư phát bối, người nhà tìm nước, đủ mọi lương y tên tuổi trong làng để cứu chữa, nhưng bệnh tình không thuyên giảm lại ngày càng nặng ra. Một hôm trong cơn bệnh, ông chiêm bao thấy quỉ sứ đến bắt ông trở về Minh Phủ, bị Diêm Vương quát nạt kể những tội mà ông đã phạm trên dương thế.

Nghe Diêm Vương quở trách và kê đủ mọi tội của mình không sai sót, ông phú hộ sợ quá liền lạy lục xin tha thứ cho về dương thế lo việc sửa sai, tu hành hòng chuộc tội đã phạm. Diêm Chúa thấy lão phú hộ tỏ vẻ ăn năn và nghĩ đến Trương Mân một khi niệm Phật đều có cầu nguyện cho ông nên phán rằng: “Nhà ngươi khi ở trên dương thế đã làm nhiều điều ác đức, cho vay cắt cổ, chẳng thương kẻ khó, lại thường ức hiếp, bóc lột kẻ nghèo. Nếu chiếu theo luật mà xử, ắt phải bỏ người vào rừng đao, núi kiếm mới đáng tội. Nhưng nhà ngươi có một đứa ở tên Trương Mân, người này trung tín không ai bì, thường ngày niệm Phật mà có lòng cầu nguyện cho chủ. Người được phước đó, nay ta cho người trở lại dương thế, hãy ban cho nó một số tiền để nó làm những điều từ thiện.

Ông phú hộ nghe Diêm Vương phán như vậy mừng quá rồi giật mình thức giấc. Ông bèn kêu cả vợ con lại, thuật điềm chiêm bao vừa thấy, cả nhà nghe nói đều lấy làm kỳ lạ. Ông phú hộ bảo gọi Trương Mân lại nói rằng:

- Con đến ở với ông đã lâu, ông chưa đối xử tốt với con điều gì, không ngờ con có lòng chí thành, biết ăn chay niệm Phật, cảm đến cả Diêm đình, lại thành tâm nguyện cầu cho nhà ông được thọ. Nay ông còn sống ở đây là nhờ công đức của con, vậy ông cho con một ngàn nén bạc, tự ý con liệu dùng được vào việc phước thiện nào đó thì dùng.

Trương Mân nghe xong liền nói:

- Thưa ông! Con vì nghèo cực mới đến ở mướn nhà ông, nương nhờ manh áo bát cơm, dẫu sao cũng nhờ ông bảo dưỡng. Con thật chẳng có nhiều công đức để được ông cho số tiền lớn như vậy. Cách đây mười năm, trong những lần đi cắt cỏ ngang qua chùa, được Hòa thượng thương xót, dạy cách ăn chay niệm Phật, con cứ y lời mà thực hành. Những lúc chú

Page 48: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

48

nguyện như vậy, con có cầu cho ông được phước thọ để đền đáp công ơn ông cưu mang, âu đó cũng là bổn phận mà con phải làm. Nếu ngày nay ông nghe lời Diêm Chúa mà cho con nhiều tiền thế này, thật tình con cũng không biết để làm gì, cha mẹ đã mất, họ hàng thân thích không có, vợ con cũng không. Vậy con xin với ông một điều: -Nguyên ngày trước trong những lần được nghe sư phụ giảng ở chùa về sự tu phước, về lập chùa, đúc tượng Phật, bố thí cho kẻ nghèo đói và bắt cầu, đắp đường cho mọi người đi thì được nhiều phước đức. Nghe nói con cũng muốn lắm, nhưng ngặt nỗi vì không tiền nên không thể đạt được tâm nguyện. Thôi, ngày nay số tiền ông cho con, con xin để lại lập một ngôi chùa, còn dư nhiều ít thì ông bố thí cho dân nghèo trong làng và bắt cây cầu ngang qua sông cho mọi người qua lại. Được như vậy con đây mừng lắm.

Ông phú hộ nghe Trương Mân nói xong, bèn thỉnh Hòa thượng đến chứng minh để ông phát nguyện giữa Phật đài. Cách ít lâu sau ông khỏi bệnh hẳn. Lành bệnh ông gọi ngay đám thợ cất một ngôi chùa gần đó để Trương Mân tu hành, ông cũng bắt cầu và bố thí như ý nguyện của Trương Mân.

Qua câu chuyện Trương Mân niệm Phật cứu chủ trên đây, chúng ta nhận thấy rằng, pháp môn Tịnh Độ thật dễ tu và dễ thành tựu nếu như chúng ta thành tâm tha thiết tu hành giống như anh chàng Trương Mân thiệt thà chất phát tốt bụng kia.

Còn nữa, ý chính của câu chuyện được đề cập ở đây là tính chất quan hệ từ nhân duyên của Trương Mân và lão phú ông. Hai người không có quan hệ huyết thống, không có sợi dây liên hệ nhiều đời, nhưng chỉ với cái nhân duyên ngắn ngủi như vậy mà cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời của phú ông. Huống gì là giữa cha mẹ với con cái có sợi dây liên hệ huyết thống và nhân duyên nghiệp báo vốn nhiều đời nhiều kiếp với nhau.

Cha mẹ chúng ta dù có mất đi cũng không hoàn toàn mất hẳn. Vì sao vậy? Vì trong thân thể của ta luôn có sự hiện hữu của cha mẹ, bởi vì hình hài của chúng ta là do cha mẹ tạo nên, do đó trong thân ta đã có phần thân xác của cha mẹ ta … Điều này khiến cho sự ảnh hưởng liên đới nhau mãi mãi không thôi không dứt. Do vậy khi mình làm việc thiện tất cũng đã có phần quả báo thiện lành của cha mẹ trong nhân thiện mà chúng ta đã gieo tạo đó. Nếu sau khi mất, cha mẹ ta dù có ở cảnh giới nào đi nữa thì cũng hưởng được phước báu khi chúng ta làm phước.

Chúng ta không nên nghĩ rằng, cha mẹ, ông bà đã mất lâu rồi, đi đầu thai lâu rồi thì nay còn cúng kiếng làm gì? Thật ra nếu nghĩ như vậy là quá thiển cận và sai lầm. Do chúng ta có sợi dây liên hệ, một sự gắn kết nghiệp lực với nhau, cho nên cha mẹ ông bà dù được sanh ở cõi trần gian thì do lời nguyện của đứa con, họ vẫn được thêm tuổi thọ. Nhờ việc cầu nguyện của người con, cho dù cha mẹ được sanh ở cõi trời thì cha mẹ cũng cảm nhận được phước báo ở cõi chư thiên chứ không hề mất. Do vậy chúng ta có quyền nguyện cầu mãi mãi, trong sự thành tâm nguyện cầu này, chúng ta luôn thấy bao giờ mình cũng còn cha mẹ. Trước đây khi mỗi mùa Vu Lan trở về với những tâm hồn hiếu đạo, tôi thường thầm đọc hai câu thơ: Tôi không khóc khi tôi cài hoa trắng. Bởi trong hoa tôi thấy mẹ tôi cười

Chính điều này đã khiến cho tôi không bao giờ cảm thấy mình mồ côi hay thấy mình không có mẹ bên cạnh.

Đây thực sự là hai câu thơ đã lột tả được tính chất nhân duyên nghìn đời của cha mẹ đối với con cái. Chúng ta sẽ luôn cảm nhận được một niềm hạnh phúc vô biên bởi sự hòa quyện giữa thân xác và tâm hồn của chúng ta và cha mẹ mình ngay giữa cõi nhân gian này.

Qua phương cách báo hiếu mà đức Phật đã dạy, chúng ta chợt cản nhận ra một điều thật vô cùng kỳ diệu, đó là ngay trong thân xác chúng ta đang sống, nó luôn hiện hữu từng hơi

Page 49: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

49

thở, từng nhịp đập con tim và suối nguồn yêu thương dạt dào lai láng của hai đấng sinh thành vẫn mãi ngập tràn tuôn chảy trong sự sống của mỗi chúng ta.

Nói tóm lại nếu chúng ta xây dựng được cõi Tịnh Độ trong tâm hồn chúng ta, chúng ta xây dựng được cảnh giới cực lạc trong đời sống gia đình của chúng ta, tức là chúng ta đã báo đền được ân đức sinh thành Còn nếu như chúng ta không quan tâm đến vấn đề này thì đừng bao giờ đặt hy vọng chuyện cứu khổ cho cha mẹ, và như vậy cũng đừng trông mong hay đòi hỏi cha mẹ của mình được an vui hạnh phúc. Chúng tôi xin nhắc lại rằng, trong kinh đức Phật thường dạy, đại đa số các bà mẹ vì quá thương con mà đã cam lòng tạo bao ác nghiệp. Các bà mẹ đã vì cuộc sống của con mình mà quên đi bản thân, lao vào cơn lốc cuộc đời, lao vào vòng xoáy của tội lỗi và bằng hết sức lực của mình để nhằm tạo ra những thuận tiện tối đa cho đời sống của con cái. Sự dấn thân đó đã khiến các mẹ có rất ít sự chọn lựa cho bản thân, chính vì thế những ác nghiệp mà các bà mẹ phải gánh chịu mỗi ngày cứ chồng chất lên mãi, nghiệp chướng của cha mẹ cũng dày theo sau sự lớn khôn trưởng thành của con cái. Chúng ta luôn biết rằng, khi con người đã rơi vào vòng xoáy của ác nghiệp thì hậu quả không chỉ ở đời này mà còn phải gánh chịu trong muôn đời sau và tiếp tục luân chuyển triền miên trong guồng quay khổ đau của ba đường ác: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Sự đọa đày này không có giới hạn, cho nên bằng mọi cách chúng ta đừng để cha mẹ mình phải rơi vào những cảnh gới đọa đày đau thương đó dù là hiện tại hay trong vị lai, dù chỉ trong khoảnh khắc hay miên viễn trầm luân khổ ải. Chúng tôi thiết nghĩ, nhắc lại điều này để một lần nữa chúng ta thấy tầm quan trọng của việc xây dựng cõi Tịnh Độ trong tâm hồn những người con hiếu hạnh.

� MẸ TỪ SUỐI NGUỒN

YÊU THƯƠNG

ĐẾN CHÂN TRỜI

GIÁC NGỘ

Một khi nói đến tình yêu thương của cha mẹ, chúng ta không thể nào quên được lời dạy bất hủ của đức Phật: “Trong lục đạo luân hồi, sữa mẹ mà các Thầy đã thọ nhận còn nhiều hơn là nước trong bốn đại dương”. Với một người đời bình thường khi nghe điều này, sẽ nghĩ rằng đức Phật của chúng ta cường điệu hay phóng đại một sự kiện và họ sẽ không bao giờ tin, thế nhưng đối với những người con Phật như chúng ta khi đã nhận thức sâu sắc về thuyết nghiệp báo nhân quả luân hồi thì điều này quả là chân lý.

Thật đúng như lời Phật dạy, nguồn sữa tình thương của người mẹ dành cho chúng ta còn nhiều hơn nước trong bốn đại dương, bởi vì chỉ xét trong một đời này thôi, kể từ khi chúng ta được mẹ sinh ra cho đến trưởng thành và cho đến tận cuối cuộc đời, thì suối nguồn yêu thương của người mẹ dành cho con là không bao giờ vơi cạn, không những thế mà cho đến ngày gần đất xa trời, nỗi niềm của người mẹ, tình thương yêu của người mẹ càng tăng cao hơn khi thấy mình tuổi già sức yếu không còn cơ hội để tiếp tục gần gủi cháu con, để bảo ban chỉ dạy.

Đối với thế gian thì suối nguồn yêu thương của người mẹ đã được đức Khổng Tử, một nhà tư tưởng đạo đức học vĩ đại nhất phương Đông đã nêu ra bàng bạc trong hầu hết các bài thuyết giảng cho các môn đồ cũng như truyền bá sâu rộng trong đời sống của người Á Đông qua nhiều thời đại. Và Kinh Thi là một bản kinh văn đã tóm gọn tình yêu thương cũng như sự

Page 50: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

50

hy sinh gian khổ của người mẹ vỏn vẹn trong 9 chữ cù lao mà chúng tôi đã nêu trong các chương mục trước đây.

Trong thế giới nhân loại thì 9 chữ cù lao là 9 tầng trời vút cao xanh thẳm mà mỗi con người đều được bóng mát của 9 tầng trời này nâng niu che chở. Công ơn mẹ hiển nhiên là như vậy, suối nguồn yêu thương của mẹ miệt mài nuôi lớn thế nhân để rồi trong vũ trụ bao la này đã hình thành nên dấu ấn diệu kỳ do chính những người con của mẹ khai sinh.

Trong đó sự thành tựu đạo quả Vô Thượng Bồ Đề của Thái tử Tất Đạt Đa phải chăng cũng đã bắt đầu từ nguồn sữa mẹ ngọt ngào của Hoàng hậu Ma Da … Và trong tất cả chúng ta, có ai đã vượt ra ngoài 9 tầng trời yêu thương chứa chan sâu thẳm tình yêu thương của mẹ mà có thể lớn khôn hay tồn tại.

Đối với đức Phật của chúng ta, người đã vượt ra khỏi luân hồi tam giới, từ ngoài càn khôn thiên địa, với lục thông quảng đại, trí huệ siêu nhiên, đức Phật đã tận tường mọi chi tiết, dù chi tiết đó cực kỳ vi tế đến đâu cũng không có gì ngăn ngại trước Phật nhãn của Ngài. Chính vì vậy mà đức Phật của chúng ta đã tuyên bố rằng sữa mẹ mà chúng ta đã thọ nhận từ vô lượng kiếp đến nay còn nhiều hơn nước trong bốn đại dương.

Nhờ thâm ân sâu nặng của mẹ và từ nguồn sữa tình thương bao la của mẹ mà đức Phật của chúng ta mới có thể lớn khôn để rồi thành bậc Đại Giác. Chính vì vậy mà dưới huệ nhãn, đức Phật đã nêu ra 10 công đức sâu dày của người mẹ một cách tận tường từng chi tiết: “Chín tháng cưu mang khó nhọc. Sợ hãi đau đớn khi sinh. Nuôi con cam đành cực khổ. Nuốt cay, mớm ngọt cho con. Chịu ướt, nhường ráo con nằm. Nhai cơm sú nước cho con. Vui giặt đồ dơ cho con. Thường nhớ khi con xa nhà. Có thể tạo tội vì con. Nhịn đói cho con được no”. Nếu thật sự lắng tâm và thong thả mhẫm đọc từng công đức một mà người mẹ đã hết lòng vì con cái, chúng ta sẽ thấm thía nhiều hơn bởi vị ngọt ngào của nguồn sữa tình thương mà mẹ ban cho mãi đến giây phút này vẫn còn làm ngây ngất những tâm hồn hiếu đạo. Ôi sự hy sinh lớn lao vĩ đại quá!

Trong 10 công đức sinh thành của mẹ, thì “chín tháng cưu mang” hay “ba năm nhũ bộ” là hai công đức vĩ đại nhất mà ngay từ thuở lọt lòng ra chúng ta đã phải thọ ơn của mẹ. Những công đức này đã trở thành bài học sâu sắc nhất về tình mẹ bao la mà khi đọc lên hay nghe qua chúng ta đều phải chạnh lòng thương tưởng về người mẹ muôn vàn kính yêu của mình:

Nhớ ơn chín chữ cù lao. Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.

Tình thương yêu của người mẹ đã cưu mang nuôi dưỡng chúng ta từ thuở ấu thơ mà trong văn học dân gian đã phần nào nói lên được công ơn trời bể của hai đấng sinh thành và qua đó chúng ta càng thấm thía hơn về ân đức sâu dày cao cả của người mẹ:

Sinh thành đức mẹ cao dày. Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ. Nuôi con khó nhọc đến giờ. Trưởng thành con phải biết thờ mẫu thân.

Và khi chúng ta lớn khôn trưởng thành thì người mẹ càng phải lao tâm lao lực nhiều hơn gấp vạn lần để nuôi dưỡng dìu dắt chúng ta trở thành một con người hữu dụng cho xã hội. Tình thương yêu của mẹ bao la bát ngát, nó đã đi vào tâm hồn trẻ thơ hòa cùng nhịp võng đưa là những lời ru ngọt ngào của mẹ:

Ví dầu cầu ván đóng đinh. Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi.

Page 51: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

51

Con đi trường học mẹ đi trường làng.

Sự tảo tần vì con của người mẹ đã được đời sống dân gian ghi nhận một cách cụ thể và những công đức trời biển đó vẫn muôn đời in sâu vào tâm khảm những người con hiếu đạo thông qua những câu ca dao tục ngữ như sau:

Nuôi con buôn bán tảo tần. Chỉ mong con lớn nên thân với đời. Những khi trái gió trở trời. Con đau là mẹ đứng ngồi không yên. Trọn đời vất vả triền miên. Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con.

Và vào những đêm trái gió trở trời, hoặc khi con thơ đau ốm, lòng dạ người mẹ chẳng yên, phải thức thâu đêm suốt sáng canh chừng giấc ngủ cho con, dẫu rằng bơ phờ mỏi mệt vì năm canh thức trắng nhưng khi nhìn thấy con yên giấc, người mẹ hiền liền quên hết mỏi mệt, trong lòng trỗi dậy niềm hạnh phúc vô biên:

Gió mùa thu mẹ ru con ngủ. Năm canh chày, thức đủ năm canh.

Như vậy chúng ta thử hỏi trên đời này có thứ tình thương nào đậm đà sâu thẳm như tình mẹ thương con, có tình thương nào ngọt ngào tha thiết như tình mẫu tử. Chúng tôi khẳng định rằng: “Không”. Do vì không có bất cứ tình thương nào ngọt ngào miên viễn và đậm đà chân thực như tình mẹ thương con, nên người dân quê Việt Nam dù đã không dùng những mỹ từ bóng bẩy để tỏ bày tình thương yêu của mẹ, mà đã khéo ví von nó như những món dân dã miền quê mà ai nghe qua cũng cảm nhận ngay tính hiền hòa chân thật ngọt ngào trong sáng:

Mẹ già như chuối ba hương. Như xôi nếp một, như đường mía lau.

Dù đã ví von như vậy, nhưng cha ông chúng ta dường như thấy rằng, nó cũng chỉ mới lột tả được phần chân thực hiền hòa của cái duyên quê, cái vị ngọt ngào đậm đà của tình quê, chứ chưa thể hiện ở chiều sâu thẳm của công lao người mẹ mà suối nguồn yêu thương ấy vẫn lặng lẽ và miệt mài tuôn chảy để tiếp tục dưỡng nuôi bao thế hệ con thơ trong vòng tay của mẹ:

Đố ai quét sạch lá rừng. Đố ai đếm được mấy từng trời cao. Đố ai đếm được vì sao. Đố ai đếm được công lao mẹ hiền …

Chính vì vậy mà công ơn của người mẹ chúng ta không thể đong đếm được hay dùng bất cứ thứ gì trên đời để có thể so sánh ân đức cù lao ấy được. Nếu như chúng ta có dùng một hình tượng gì đó để so sánh thì cũng chỉ là giới hạn, bởi vì:

Ai rằng công mẹ như non. Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn.

Vâng! Công ơn của mẹ lớn hơn núi Thái sâu hơn biển Đông, cao dày sâu nặng thậm thâm khó thể nghĩ bàn mà tâm hồn chúng ta chỉ có thể ngân rung lên những cung bậc yêu thương bát ngát mỗi khi tưởng nhớ về ân đức sinh thành. Thiền sư Nhất Hạnh đã cất cao tiếng hát ngợi ca suối nguồn yêu thương mà người mẹ đã suốt một đời trọn vì con cái:

Mẹ là dòng sữa ngọt ngào. Mẹ là tiếng hát ca dao. Mẹ là nôi ru con ngủ.

Page 52: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

52

Mẹ là tình biển rạt rào.

Dù biết ngôn ngữ diễn đạt chỉ là giới hạn, tuy nhiên trong đời sống dân gian, để tán dương công đức của người mẹ, với tất cả tấm chân tình, giới văn nghệ sĩ cũng đã không ngăn được dòng xúc cảm khi bộc bạch nỗi lòng của mình về suối nguồi yêu thương và công ơn trời biển của người mẹ. Những lời ca tiếng hát về mẹ ấy đã nhanh chóng đi vào lòng người, để rồi in sâu vào trong tâm thức những người con hiếu đạo chúng ta:

Rủi mai này mẹ hiền mất đi, thì con côi như đóa hoa không mặt trời như tuổi thơ không nụ cười … như đơi mình không lớn khôn thêm như bầu trời thiếu ánh sao đêm Mẹ là dòng suối diệu hiền Mẹ là bài hát thần tiên là bóng mát trên cao là ánh sáng trăng sao Mẹ là lọn mía ngọt ngào Mẹ là nải chuối, buồng cau là tiếng dế đêm thâu là nắng ấm nương dâu là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời này.

Để tạc ghi công đức sinh thành và những cống hiến của những người mẹ cho gia đình, cho xã hội và đất nước thì ngoài những câu ca dao tục ngữ, thi ca nhạc họa tô điểm và tôn vinh người mẹ thì hầu như chúng ta chưa làm được điều gì tương xứng.

Tuy nhiên niềm hạnh phúc lớn lao ở người mẹ đó là chỗ dựa và sự tin cậy tuyệt đối ở những người con. Thật vậy, gần như hầu hết con trẻ đều chờ mẹ để thổ lộ những nhu cầu về tình cảm, vật chất v.v … Với ưu thế của sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng của mình, các bà mẹ đã dạy cho con trẻ lòng tử tế, sự độ lượng, vị tha và cả tính cách ôn hòa, lễ phép một cách hiệu quả hơn ai hết. Từ người mẹ, con trẻ tiếp nhận những vấn đề tích cực ấy nhanh hơn ở đâu cả. Đó thật sự là một điều căn bản mà các bà mẹ có ưu thế rõ rệt.

Chúng ta nhận được các xúc cảm nền tảng đó từ mẹ mình, đó là một thuận lợi lớn vì khi có lòng tử tế, sự độ lượng thì chúng ra có đủ sự nhẫn nại cần thiết để lắng nghe với một thái độ văn hóa đối với người tiếp xúc. Khi lớn lên, việc giao hảo tốt là một thuận lợi để hòa nhập vào cộng đồng, từ đó có nhiều cơ may thành đạt hơn. Sự tinh tế trong cảm xúc mà chúng ra học được từ mẹ, người ta gọi đó là “Trí thông minh cảm xúc”. Kinh nghiệm cho chúng ta biết có trí thông minh, có năng lực tốt không đồng nghĩa với sự thành đạt, nếu thiếu yếu tố biết hòa nhập vào cộng đồng xã hội.

Khi thấy con trẻ chơi thui thủi một mình, với sự tinh tế, các bà mẹ biết ngay ra vấn đề là con mình thiếu tinh thần giao hảo. Có thể em đã không gặp may để tìm được bạn đáng giao hảo, nhưng đa số trường hợp là so sự nhút nhát, thiếu tự tin của trẻ là chủ yếu. Nếu được hỏi trẻ sẽ nói: “Tụi nó chẳng thèm chơi với con, còn thằng đó bẩn như ma…” Lúc đó một buổi tiệc ngọt được tổ chức ở nhà, một lời mời đến tất cả các bạn học của trẻ là điều cần thiết mà các bà mẹ luôn thông hiểu. Ở nhà mình, con trẻ sẽ tự tin hơn, tạo được sợi dây thân ái đó cho con mình với bạn bè nó chỉ có từ người mẹ với vị thế đặc biệt của mình. Bây giờ con trẻ đã biết được tình bạn chỉ nảy sinh khi biết quan tâm đến người khác, chứ không phải chỉ chờ đợi người khác quan tâm đến mình.

Một lời khen đúng chỗ của các bà mẹ, rất dễ làm phát sinh những điều kỳ diệu ở con mình. Ngược lại, nếu chúng thường xuyên bị phê phán, dù những lời phê phán ấy đúng cũng

Page 53: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

53

là một điều tệ hại, con trẻ sẽ mất dần niềm tin vào bản thân, không dám thổ lộ hay hành động một cách độc lập nữa. Với sự dịu dàng của mình, các bà mẹ không bao giờ hành động như thế. Các bà ít khi nói: “Con đã làm một việc tốt”, nhưng lại tinh tế nói: “Con làm mẹ rất hãnh diện”, cho nên bao giờ cũng đạt hiệu quả tốt. Các bà mẹ rất hiểu tâm lý của con mình là lúc nào cũng muốn làm mẹ ình hài lòng một cách cụ thể, chứ không phải là những điều tốt chung chung.

Sự ngợi khen nếu dành cho ai đó, nhất là lời khen ấy đã được chạm vào khu vườn bí mật của người đó thì từ sâu thẳm trong tâm hồn người đó sẽ bật dậy sự nhạy cảm với lòng biết ơn thầm kín. Cảm xúc được khen ngợi đã đẩy con người hướng thượng một cách mạnh mẽ. Lời ngợi khen như một viên đá lót đường đưa chúng ta đi tới, tiến lên một tầng cao mới ở nhân cách mà các bà mẹ luôn biết cách dành cho con mình.

Người cha thường khen con mình một cách trịnh trọng nhân một sự kiện lớn nào đó rồi thôi. Người mẹ lại luôn khen con mình ở những việc nhỏ nên thường xuyên hơn, do đó có giá trị hơn. Không có mối quan hệ nào lâu bền và sâu sắc như quan hệ giữa mẹ và con. Có biết bao quan hệ trong xã hội phải thay đổi, nhưng vị thế của người mẹ từ nguyên thủy dù có lúc thế này, lúc thế khác nhưng yếu tố làm nên người mẹ vẫn không thay đồi, bởi bản chất của phụ nữ là khả năng sinh con, mang thai và trực tiếp nuôi con bằng chính sữa của mình. Với thiên chức đó các bà mẹ đều có khả năng trở thành nhà giáo hóa đầu tiên cho con mình. Ở trong đôi tay của mẹ, con cái sẽ có được những bài học đầu tiên về ngôn ngữ và cũng từ môi trường mẹ con đó, chúng ra đã học được cách làm người.

Quả như vậy, dù người cha có được điều kiện học hỏi tốt hơn trình độ thấu hiểu cao hơn nhưng bao giờ cũng vẫn kém hơn người mẹ ở khả năng giáo hóa con mình. Chính người mẹ luôn tạo ra những hoàn cảnh gia đình chứ không phải người cha, dù người mẹ không trực tiếp làm ra tiền, hay làm ra ít hơn. Có kinh nghiệm rằng, khi người mẹ vui thì gia đình vui lây. Tuy ít kinh nghiệm về xã hội hơn, nhưng do trực giác làm mẹ của mình các bà luôn là cố vấn sáng suốt cho con cái.

Phụ nữ không phải là thuốc nổ nhưng là thuốc bồi, kích thích không chỉ cho con mà còn cho cả chồng mình hành động, hướng đến sự thiện lành hữu hiệu nhất. Các bà mẹ thực hiện những hành động đó một cách tự nhiên, không gượng ép. Họ có đầy đủ tố chất để hành động như vậy. Tất cả các bà mẹ là hiện thân của sự sâu đậm và chân thành nhất của tình yêu nhân loại.

Chúng ta biết nhiệm vụ giáo hóa, chăm sóc con cái của người mẹ nặng nề và cao trọng như thế nào rồi chứ? Thật ra nếu đem tình thương của cha mẹ để diễn tả thì rất nhiều thi ca, tất nhiều các loại hình nghệ thuật khác đã đề cập đến, nhưng rồi cuối cùng cũng không làm sao diễn tả đầy đủ được. Cho nên trong Phật giáo đã dành hẳn một tháng bảy gọi là mùa báo hiếu, mùa Vu Lan để mọi người con hướng vọng về cha mẹ mình, để chúng ta nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, để chúng ta không những chỉ làm một điều gì đó mà thật sự để làm được một đứa con trong tinh thần hiếu đạo. Chúng ta nói dù hay đến đâu đi nữa đó cũng chỉ là ngôn ngữ thôi. Một văn hào Tây phương có nói: “Ngôn ngữ trần gian là một cái túi xách, đựng sao đầy hai chữ: Mẹ ơi!, còn văn tự là chiếc xe mòn cọc cạch, đường về quê mẹ thì nghìn trùng xa xăm”, có nghĩa lòng mẹ là vô tận, không bến bờ nào ôm giữ hết được, không phương tiện nào chuyên chở nổi. Có một bài hát viết về mẹ: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình … dạt dào …” Giai diệu rất hay nhưng dù là biển Thái Bình hay là bốn đãi dương mênh mông bát ngát thì cũng không thể so sánh được với tình thương của mẹ dành cho con cái. Ở phương diện này ca dao Việt Nam có câu nói thật xác đáng: “Mẹ nuôi con, biển hồ lai láng, con nuôi mẹ kể tháng kể ngày”.

Tình thương hạnh phúc và đau khổ, có thể đó là điều bình đẳng mà con người có ở nhân gian này. Nói nó là bình đẳng, bởi trên đời này, ngoài tình thương hạnh phúc và đau

Page 54: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

54

khổ, thì không có gì được gọi là bình đẳng theo đúng nghĩa của nó. Đời sống như một vườn hoa, có nhiều loại đắc tiền, có loại bình dân ít tiền, thậm chí có loại hoang dã. Nhưng tất cả đều là hoa, đều là tinh anh được phát sinh từ những gì quí hiếm nhất của mỗi loài để có những bông hoa cho mình. Đó là kết quả của những chắt lọc, những tìm kiếm khó khăn để phát tiết được phần cao quí nhất. Bởi vậy, tuy mỗi loài có màu sắc khác nhau, hương thơm khác nhau nhưng giá trị lại bằng nhau ở phần thai nghén và sinh nở chúng. Chúng phải biết trân trọng, phải biết xâu cho mình những tràng hoa từ những bông hoa như thế, để làm đẹp không những cho đời mà còn cho chính chúng ta. Mỗi bông hoa là một việc tốt lành, những việc làm tốt lành sẽ là một tràng hoa tươi bất tận.

Trong kinh “Pháp cú” có bài kệ của đức Phật: Như nhặt từ đống hoa Làm thành những tràng hoa Cũng vậy thân tâm này Hãy thâu nhặt điều thiện

Suối nguồn yêu thương của mẹ là một cánh tay được đưa ra giữa những người yêu thương nhau để kết lại thành chiếc cầu thân ái với hai bờ ngăn cách âm dương, nối lại tình yêu giữa các thế hệ, giữa cái hiện tại với quá khứ trong truyền thống tâm linh của chúng ta.

Mùa báo hiếu cũng khơi dậy trong chúng ta những mối tương quan được bồi đắp vững chắc bên trong con người chúng ta. Tháng bảy bao giờ cũng nhắc rằng, dẫu hoàn cảnh thế nào, chúng ta cũng không bao giờ bị đơn độc giữa cuộc đời. Chúng ta có rất nhiều mối tương quan hữu hình và cả vô hình, những mối tương quan mà chúng ta biết được hoặc không biết, nhưng tất cả đều là những mối tương qua tốt đẹp.

Một tổ ấm luôn bao gồm cha, mẹ và con cái, đó là những bao gồm tối thiểu để hình thành một tổ ấm. Tổ ấm này có đủ ấm hay không phải dựa vào đời sống tâm linh hơn là độ dày của cái tổ cũng như chất liệu của nó. Vu Lan là cơ hội để chúng ta, những người con hiếu thảo biến những suy nghĩ thành hành động, hành động giản dị nhưng thiết thực, giúp hai đấng sinh thành được an vui, tự tại.

Nhưng cha mẹ tôi đã khuất bóng thì sao? Vu Lan cũng sẽ cho bạn một cơ hội, một cơ hội để bạn biết rằng bạn vẫn hiện hữu trong cha mẹ và ngược lại, để bạn có một tâm niệm thiện lành, tốt đẹp cho một thế giới đã khuất.

Vu Lan là mùa của sự gặp gỗ giao lưu trong nhẹ nhàng, thân ái của những đứa con còn có dịp cái hoa trắng hay hoa hồng trên ngực áo để hỷ xả, tha thứ, cảm thông và đồng cảm.

Vu Lan người ta có thể không nói về mẹ, ý niệm về tình thương đã gắn chặt vào hình bóng người mẹ, còn chất liệu nào ngọt ngào như tình thương của người mẹ? Chúng ta có thể ăn uống rất nhiều vẫn không thể lớn lên nếu thiếu tình thương của người mẹ. Khi con người bị nhiều giằng xé giữa phong ba bảo táp của cuộc đời làm cho khô cằn, chai sạn. Muốn lấy lại cảm xúc như thuở ban đầu làm người thì chỉ có một cách hãy nghĩ về mẹ, hồi tưởng về mẹ. Sự chai lỳ sẽ bị rửa trôi như bụi đất bám trên mái nhà bị cơn mưa giông đầu mùa cuốn trôi, khóe mắt chai lỳ sẽ ngấn lệ, dù không long lanh nhưng chất nước diệu kỳ ấy sẽ làm đôi mắt ngầu đỏ trở nên dịu dàng, êm đềm. Một bầu trời thương yêu lịm ngọt, thanh bình sẽ hiện ra, dù thực tế lúc đó có là nữa đêm của mùa đông lạnh giá. Dù người mẹ không bao giờ biết và muốn con mình nói về mẹ một cách hoa mỹ, văn chương. Nhưng điều này cũng không cản được chúng ta dành những từ (vốn hạn chế) đẹp đẻ nhất để suy tôn mẹ. Chỉ cần nghe nhắc đến mẹ, lòng ta liền chùng xuống tràn ngập yêu thương.

Một mạch nước, một dòng suối trong lành, mát rượi là một tài nguyên vô giá, không những để chúng ta được nuôi sống, được thỏa thuê vẫy vùng khi biết trời oi ả của mè hè nóng bỏng. Mạch nước, dòng suối còn cho ta một cảm nhận bình yên ở hiện tại và tương lai. Chúng

Page 55: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

55

ta an tâm sống vì dâng nước mát không ngừng tuôn chảy và chúng ta cũng thật vô tâm không nhận biết dòng suối đã và đang âm thầm hy sinh, trao tặng mà không cần đòi hỏigì ở chúng ta, chúng ta vô tâm vì nghĩ dòng suối, mạcch nước tuôn chảylà sẽ đương nhiên phải thế. Chúng ta đã lãng phí một cách oan uổng vì vô tâm, vì suy nghĩ hẹp hòi như thế. Chúng ta không biết chăm sóc cẩn thận, phải chu đáo món quà mà cuộc đời dã ban tặng cho chúng ta. Chúng ta chỉ đến với mạch nước, dòng suối khi khát hay khi nóng bứt rồi vô tâm quay đi, để lại những cáu bẩn phàm phu của chúng ta.

Rồi một ngày nào đó ( tôi nghĩ sẽ có một ngày nào đó) trên bước đường đời gập ghềnh, Thử thách. Chúng ta gặp trắc trở, khó khăn vì một vấn đề rắc rối, chúng ta quá mệt mỏi và lo sợ. Chúng ta liền nghĩ đến dòng suối ở quê nhà mát mẻ, êm đềm đang từ tốn tuôn chảy.Chúng ta sẽ có một khao khát mãnh liệt sự trở về để được dòng suối ôm ấp, cưu mang. Chúng ta mong muốn được dòng suối tẩy sạch những bụi trần ô trọc để hứa nguyện ở mãi bên dòng suối nguồn yêu thương.

Chúng ta đã mệt mỏi. Phải ! và đó là hành động một lần nữa muôn nương tựa vào dòng suối . Nhưng còn đâu ? Dòng suối đã cạn, có thể không phải do những thờ ơ của chúng tanhân dòng suối cũng già nua theo luật vô thường. Chúng ta tiềc thương dòng suối, khóc than cho dòng suối và cũng khóc than cho chính mình. Đây là điều chân thật và đáng trân trọng. Chúng ta đã nhận ra, đã hiểu ngọn nguồn của sự mất mát, những giọt nước mắt sẽ làm mộ dòng suối khác tuôn chảy, kế tiếp dòng suối đã cạn. Chỉ khio hiểu được ngọn nguồn của dòng suối mẹ, chúng ta mới sẳn sàng biến mình trở thành một dòng nước mát kế tục.vậy tại sao chúng ta không hiểu về dòng suối trước khi cạn. Đó mới là vấn đề trọng tâm của chúng ta, nói như thiền sư Nhất Hạnh “ Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca, em hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng …”.

Phải ! đừng để những vô tâm, những quên lãng giày vò, ray rứt chúng ta. Hãy sống trong hiện tại với một quán sét thông tuệ, cái gì của ngày hôm nay, đừng để ngày mai. Vu lan là mùa báo hiếu, là mùa của tình thương, không ai trách cứ chúng ta, nhưng hãy sống xứng đáng với tình thương đó.

Valentine, người ta nói đó là tên của ngày lễ tình nhân. Nhìn ngoài đường phố đâu đâu cũng bày bán hoa hồng đủ loại, trên các thành cầu, bờ đường, ở ngã ba, ngã tư hoa được bày sáng rực cả không gian. Các bạn sinh viên nhân dịp này cũng tràn ra đường, lên xe buýt mời chào khách tận tay những bông đẹp còn đẩm sương đêm mà ngậm ngùi. Những bạn tham gia năng nổ nhất của ngày này đa số hẳn còn mẹ, các bạn có nhớ, có biết tặng mẹ mình một bông hoa nhân ngày Vulan không? Tại sao một ngày lễ truyền thống như thế, có tinh thần nhân bản như thế mà chúng ta lại quên đi, lại vô tâm thế. Một bông hoa cho mẹ trong ngày Vulan không nói được gì nhiều cho nỗi lòng mẹ, nhưng là một biểu hiện của sự quan tâm, của lòng chân thành mong muốn mẹ được an lạc dù chỉ một ngày như ngày Vulan. Xin nhắc lại, đừng để cuộc đời chìm trong vô tâm, quên lãng để khỏi ray rứt, ân hận mãi.

“ người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Đừng làm một người buồn, Vu Lan không làm chúng ta buồn, đạo phật hướng chúng ta đến chốn cực lạc cũng không thể làm chúng ta buồn. Sở dĩ chúng ta buồn là vì nội tâm chúng ta có vấn đề. Hãy giải quyết vấn đề đó, hãy triệt tiêu nguồn căn vấn đề bằng sự quan tâm, chia sẽ và lắng nghe.

Vì nghề nghiệp, chỉ cảm nhận vai trò của mẹ một cách cụ thể đến cuộc đời của chị và đó cũng là điều chúng ta phải thấy vị trí, vai trò của tất cả những người mẹ, chúng ta cũng phải ăn ý, cũng là người bạn diễn tri kỷ, tri ân. Chỉ khi có sự hòa quyện trong tâm nguyện, giữa hai mẹ con như vậy chúng ta mới thấu hiểu về mẹ, chúng ta mới không vô tâm, quên lãng một cách đáng tiếc, để rồi khỏi phải ray rứt, ăn năn.

Page 56: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

56

Chúng ta tự nghĩ, nếu mình luôn luôn “ăn ý” với mẹ, thì mẹ mình sẽ có tâm trạng như thế nào? Sẽ có suy nghĩ về đứa con của mẹ? Và nếu cứ như thế thì có phải chúng ta đã có cảnh giới cực lạc ở gia đình mình phải không? Câu trả lời có lẽ đã có sẵn.

Chúng ta phải biết rằng, không thể có sự gặp may nào không có xuất xứ từ những duyên lành trước đó.

Duyên lành phải được khởi phát từ trước, phải được tụ tập, hành xử từ trước mới có quả ngọt hôm nay. Không có một qui chuẩn nói đến thời điểm khởi phát là lúc nào, nhưng chắc chắn muốn có duyên lành phải có điểm khởi phát từ trước để làm nền móng cho duyên lành viên mãn. Ví dụ như ngay từ khi còn nhỏ, lúc chúng ta bắt đầu hiểu về đạo làm con, đã biết nghĩa vụ như thế nào đối với cha mẹ mà phát nguyện tâm Bồ Đề, báo hiếu cha mẹ. Chúng ta ai cũng có cha mẹ, đã có cha mẹ tất nhiên ai cũng mong ân thâm nghĩa trọng. Ơn sanh thành đã nặng, tình nuôi dưỡng càng sâu, mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm, nhường khô nằm ướt, nuối đắng nhả ngọt.

Cha đã vì con mà phải thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm sương, lao động khổ cực chẳng quản nắng mưa cốt có tiền nuôi con, nhiều khi phải lâm nguy đến tính mạng. Mẹ thì trăm ngàn vất cả, đi đứng khó khăn mang con trong bụng, giữ mồm giữ miệng cho con thành hình hài tươi tốt. Lúc lâm bồn thì thập tử nhất sinh, chịu nhiều đau đớn, khổ sở, dù con ra đời có xinh đẹp hay tật nguyện, lòng vẫn tràn một nỗi sung suớng, dù bao nhiêu nhọc nhằn, dơ uế để nuôi con cũng không từ nan.

Biết như vậy, nhưng mấy ai trong chúng ta khởi phát tâm báo hiếu, vậy thì làm sao có duyên lành.

Trong kinh “Đại tập” có dạy: “Gặp đời không có Phật, khéo thơ cha mẹ tức là thờ Phật”.

Hãy khởi niệm tâm báo hiếu ngay từ bây giờ, để có duyên lành ở gia đình mai sau.

Khởi niệm tâm báo hiếu chính là chiếc cầu nối yêu thương.

Một chút tâm sự của tác giả: Thưa quý Phật tử, sở dĩ tôi yêu quí cách thức báo hiếu của Đức Phật dạy nhân mùa Vu Lan, vì tôi sẽ luôn cảm nhận được một niềm hạnh phúc vô biên bởi sự hòa quyện giữa thân xác và tâm hồn của tôi với cha mẹ ngay giữa cõi trần gian này.

Tôi quí trọng phương cách này bởi vì hồi còn nhỏ, khi cạo đầu vô chùa được một năm thì mẹ tôi qua đời. Khoảng thời gian đó tôi không biết gì về tình thương của cha mẹ. Khi đến chùa học đạo và nghiên cứu kinh phật, tôi thấy thật rõ ràng tôi đã bỏ đi một thời gian đẹp thơ mộng, tôi đã bỏ đi một vị Phật hiện hữu ở trong nhà. Cho nên tôi muốn tâm sự riêng với quí Phật tử chuyện tôi tuy là một tu sĩ, nhưng tôi cũng là một người sáng tác cải lương, những sáng tác về mẹ. Tôi có một đĩa CD do ca sĩ Hương Lan trình bày về tình mẹ, được phát hành ở Hoa Kỳ. Trong sáng tác tôi có viết như thế này ở bài: “Lợi tự tình với mẹ” Mẹ ơi! Đúng ra con không nên bỏ mẹ đi tu, mà phải sống bên mẹ, quì bên mẹ như quì trước đấng từ bi cứu khổ…”.

Khi tôi còn nhỏ, tôi không cảm nhận được tình yêu của mẹ và cũng chưa bao giờ được gọi tiếng Cha. Tôi thật sự bất hạnh, bất hạnh nhiều lắm, không được như quí vị bây giờ hạnh phúc. Bây giờ quí Phật tử có điều kiện đạt đến cảnh giới chư thiên, ngang hàng với trời Phạm Thiên. Tôi thì không được như vậy, tại sao ư? Quí vị biết không, tôi có cha, nhưng không được gọi là cha, tại vì cha tôi là thầy tu, cho nên tôi phải gọi bằng Thầy, không gọi cha.

Tôi bộc bạch tâm hồn của tôi qua lời bài hát như trên, nếu mẹ tôi nghe được chắc bà quở tôi dữ lắm: Tại sao con nói vậy, đi tu là được phước”. Tôi muốn nói như vậy để quí Phật

Page 57: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

57

tử cảm nhận một điều là chúng ta cố gắng sống thế nào và hòa nhập thế nào vào tâm hồn của mẹ mình bằng một trái tim thật sự. Khi giác ngộ, tôi nghĩ đến một điều rằng: Mẹ tôi không chết, cha tôi không chết, thầy tôi không chết vì trong cơ thể tôi có sự tiếp quản và hiện hữu của cha mẹ tôi. Chính vì lẽ đó mà tôi quyết tâm tu, chết cũng tu, đem xử bắn cũng tu, không ai cúng dường đồng nào cũng tu. Bao nhiêu cám dỗ của danh lợi, tiền tài, vật chất kể cả sự cám dỗ của sắc đẹp nhục dục cũng tu. Là vì nếu tôi không tu là tôi đánh mất cảnh cực lạc trong tôi, lúc đó tôi là kẻ bất hiếu đối với cha mẹ, tôi có lỗi với cha mẹ, với thầy tôi.

Chính vì giác ngộ đạo Phật, chính vì tôi xây dựng được cảnh giới cực lạc ở trong lòng tôi như vậy, chính vì chữ hiếu của tôi, cho nên tôi còn ngồi đây nói chuyện cùng quí Phật tử, nếu không thì cũng chết lâu rồi, cũng bị cám dỗ bởi nhiều nhục cảm thanh sắc rồi. Cái điều tôi muốn tâm sự là nhằm nhắc nhở với tất cả quí vị Phật tử ở đây, chúng ta là con Phật, chúng ta vào đạo tràng để tu mà tôi tin rằng đạo tràng Hoằng Pháp ở đây thật sự có điều kiện tốt, một mảnh đất tốt, một điều kiện môi trường tốt để quí Phật Tử gieo cái ruộng Phước, trong đó có Phật, có cha, có mẹ, có bạn, có thầy, có huynh đệ đồng tu. Khó lắm, không đơn giản để có được khung cảnh như vậy đâu. Quí vị biết trên thế gian này có biết bao nhiêu người con bất hiếu, cũng có biết bao nhiêu người mẹ phải rơi vào cảnh tội lỗi để rồi biến cả gia đình vào cảnh khổ đau, đọa đày, chẳng những kiếp này mà còn triền miên ở kiếp khác. Còn chúng ta đã gieo trồng ruộng phước nhiều đời, cha mẹ chúng ta cũng như chúng ta đã có cái duyên với nhau, cho dù đâu đó có vô tình hay cố ý mà tạo một ít nghiệp lực, có thể là ác nghiệp. Nhưng khi sinh được đứa con đi tu, hay được một người con hiếu đạo trở về qui y tam bảo, tu tập Phật pháp thì rõ ràng đã có một cõi thanh tịnh trong gia đình. Tại sao có câu “Nhất nhơn hành đạo cửu huyền siêu”. Muốn cửu huyền thăng thì phải tu chứ không nói suông, không phải nói cho có hình thức. Tôi mong mỏi tất cả đạo tràng chúng ta phải xây dựng cảnh giới Tịnh Độ ngay trong lòng của nhiều con hiếu đạo. Phải xây dựng cảnh giới Tịnh Độ trong gia đình của mình, khi đó chúng ta mới hưởng được Phước báo ngang hoặc hơn với trời Phạm Thiên, như lời Đức Phật dạy trong Tăng chi bộ. Nếu không xây dựng được, quí phật tử đừng bao giờ đòi hỏi, đừng bao giờ muốn vì nhân nào quả nấy. Đó là định luật bất di bất dịch của Đạo Phật, cũng như của nhân loại. Một lần tôi giảng ở Oa-Sinh-Tơn (Hoa Kỳ) nhiều Phật tử biết tôi có sáng tác cải lương, nên đề nghị tôi ca bài “Lời tự tình với mẹ” do tôi sáng tác. Nhưng tôi rất ngại khi hát trước đám đông quần chúng, nếu chỉ có một vài người gặp riêng thì có thể được. Nếu có duyên thì khi nào gặp, nhưng ít thôi, bây giờ cho tôi khất nợ. Trong đạo Phật còn nợ thì còn trả, tôi đã xin khất, để dịp khác.

Trong 10 công đức của người mẹ mà đức Phật của chúng ta đã nêu ra trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, nếu để ý chúng ta sẽ thấy, từ khi vừa cất tiếng khóc chào đời cho đến khi chúng ta khôn lớn, trong đó có điều thứ 8 chính là nhân duyên gắn kết bền chặt nhất của tình mẫu tử, cho dù các thế hệ con cái có trở thành các ông già bà lão thì tình thương của người mẹ vẫn không thể nào vơi cạn, các bà mẹ vẫn không khi nào quên được hình bóng con mình mỗi khi vắng bóng con trong đời sống tình cảm của người mẹ. Đó chính là điều thứ 8: “Thường nhớ khi con xa nhà”. Công đức này thể hiện rõ nét và sâu sắc thông qua câu chuyện chàng thanh niên bỏ mẹ già ở nhà để đi tìm Phật mà chúng tôi đã đề cập trong các chương trước đây. Điều đáng chú ý nữa là người mẹ nào cũng sẳn sáng tạo nghiệp vì con. Đây là một công đức hy sinh lớn lao nhất mà tất cả chúng ta không thể nào có thể đền trả thâm ân một cách xứng đáng nếu như chúng ta chưa nhận thức đúng đắn về suối nguồn tình thương của mẹ và phương cách báo hiếu rốt ráo mà chư Phật đã dạy.

Trong tập sách nhỏ này tôi dành hẳn một chương mục để nói về mẹ. Thật ra những gì về công ơn sinh thành dưỡng dục và tình thương vô bờ bến của người mẹ tôi đã trình bày trong các chương mục trước đây.

Page 58: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

58

Tuy nhiên trong tâm tư, tôi vẫn cảm thấy mình vẫn chưa bày tỏ hết nỗi lòng về mẹ, và chắc có lẽ rằng tôi không thể nàobày tỏ nỗi lòng hết được. Tuy nhiên, trong vòng tay yêu thương của mẹ, tôi đã được nuôi dưỡng lớn khôn và theo dòng thời gian lặng lẽ trôi, tôi cũng đã được trưởng thành trong môi trường đạo pháp, chính môi trường khá đặc biệt này đã giúp cho tôi nhìn về mẹ ngoài vị trí là một đấng sinh thành, mẹ còn là một vị cứu tinh, một vị Bồ Tát đã dẫn dắt cho tôi vượt qua những gập gềnh trắc trở cuộc đời và đã ban cho tôi những bước chân an lạc hướng tôi về chân trời Phật pháp nhiệm mầu.

Thật sự thì mẹ tôi chưa hề thuyết pháp cho tôi nghe, nhưng sự hy sinh thầm lặng và tình thương sâu thẳm của người đã cảm hóa tôi ngay từ thời thơ ấu, và đó cũng là những bài thuyết pháp hiệu quả nhất về tình thương yêu trong đời sống con người. Có lẽ đây là một trong những lý do khiến cho tôi phải bộc bạch tấm lòng trên những trang giấy hạn hữu này.

Từ suối nguồn yêu thương sâu thẳm dạt dào của mẹ, tôi đã bước những bước đi vững chắc đến chân trời giác ngộ để hôm nay tôi có thể khẳng định rằng, mẹ là đức Phật của đời tôi. Do vậy mà trong những tháng ngày được sống trong chốn thiền môn trang nghiêm thanh tịnh, tôi càng nổ lực nhiều hơn để vị Phật hiện hữu trong tôi mĩm cười hân hoan hỷ lạc vì người đã sinh ra một đứa con hiếu đạo.

Vì đây là những tâm sự chân thành nhất từ đáy lòng mình hướng về người mẹ kính yêu nên tôi không cần thiết phải sáo ngữ hay dè dặt. Với suy nghĩ như vậy, tôi xin được phép thoải mái bày tỏ lòng thành của mình và tôi cũng mong rằng, sẽ có sự đồng cảm chia sẻ của quí vị.

Mẹ là suối nguồn yêu thương sâu thẳm nồng nàn nhất của đời tôi. Mẹ là dòng sữa ngọt ngào mà tôi đã được dưỡng nuôi và tắm mát trong cuộc đời không ít gập gềnh này. Vâng, quả đúng là như vậy. Bởi vì từ tâm hồn thể xác cho đến những bước đi bình yên của tôi cho mãi đến ngày hôm nay cũng là do mẹ ban cho. Mẹ tôi qua đời khi tôi còn rất nhỏ. Ngày mẹ tôi mất, lòng tôi nhói đau, bầu trời như sập xuống. Đến khi lớn lên, nói đúng hơn là đến khi ngộ ra chân lý về tình yêu của mẹ, tôi mới hiểu ra mẹ tôi vẫn còn đó! Vâng, người vẫn hiện hữu trong từng hơi thở của tôi, từng bước đi của tôi, và cứ mỗi lần tôi làm một điều gì đó chưa tốt, tôi cảm nhận ngay rằng, mẹ tôi đã không vui. Vì sao tôi biết? Vì lúc đó chính tôi đã không vui!

Là một người con, một tu sĩ, và cũng là một soạn giả cải lương, mỗi khi có dịp thuyết giảng về mẹ, tôi như được sống lại những ngày thơ ấu tràn đầy kỷ niệm thân thương bên vòng tay trìu mến yêu thương của mẹ. Và những dịp như vậy là những cơ hội ngàn vàng để tôi hiểu nhiều hơn về tâm tư tình cảm của những người mẹ hiền khoát dưới tấm th6n gầy yếu dưới nhiều lớp áo khác nhau nhưng tất cả bà mẹ đều có chung một tấm lòng thương con vô bờ bến. Qua đó tôi cũng được chứng kiến những tấm gương tần tảo hy sinh vì con của những bà mẹ hiền tựa hồ như những vị Bồ Tát thị hiện giữa cuộc đời đầy phong ba bão tố … Từ suối nguồn yêu thương vô bờ bến, những vị Bồ Tát mà hiện thân là những bà mẹ hiền tần tảo trong vô lượng kiếp chỉ biết ban cho mà không hề đặt để bất cứ một điều kiện gì nơi con cái.

Cũng chính vì vậy mà trong tâm hồn của bất cứ con trẻ nào thì người mẹ luôn giữ một vị trí thiêng liêng và tuyệt vời nhất. Tại chùa Hội Khánh chúng tôi có một chú tiểu mới lên năm, vì hoàn cảnh gia đình nên khi xin vào chùa tu học thì chỉ có người cha dẫn chú đến chùa mà không có mẹ đưa đi. Do vậy mà mỗi khi có khách viếng thăm chùa, nhất là mỗi khi có nữ thí chủ đến dâng hương lễ Phật, mấy thầy thường chỉ mấy cô Phật tử rồi bảo với chú rằng: “ Mẹ của con đó phải không?”. Chú liền lắc đầu quầy quậy: “Không! Mẹ con đẹp lắm”. Cho đến khi có mấy diễn viên ca sĩ đến chùa lễ Phật, mấy Thầy mới chỉ các Phật tử này bảo chú: “ Mẹ của con có đẹp bằng cô Phật tử này không?”. Chú liền trả lời ngay: “ Mẹ con đẹp hơn”. Cho đến một ngày trong dịp lễ Vu Lan, mẹ của chú đến chùa thăm chú thì đó là một phụ nữ gầy gò xanh xao và trông rất tiều tụy, gương mặt thì khắc khổ sạm nắng có lẽ do vất vả nhiều

Page 59: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

59

trong cuộc sống. Thế nhưng đối với chú tiểu thì người phụ nữ này là đẹp nhất và tuyệt vời nhất trên thế gian này. Đến lúc này, mọi người mới vỡ lẽ vì sao chú tiểu lại một mực khăng khăng rằng mẹ của chú đẹp hơn mọi người phụ nữ khác. Thật ra điều này không phải ngẫu nhiên đối với chú tiểu mà là điều hiển nhiên đối với tất cả mọi người con hiện diện trong cuộc đời này.

Thật vậy trong tâm hồn trong trắng của trẻ thơ thì người mẹ là thiêng liêng cao tột, là suối nguồn yêu thương mặn nồng sâu thẳm nhất. Điều này cho chúng ta thấy rằng, tình yêu thương của người mẹ đã cảm hóa những tâm hồn thơ ngây trong trắng của con trẻ để các em luôn cảm nhận sâu sắc về tình mẹ thiêng liêng, để rồi dù đứng trước một vẻ đẹp tối ưu nào đi chăng nữa thì vẫn không có vẻ đẹp nào bằng vẻ đẹp từ suối nguồn yêu thương của người mẹ.

Con người khác với cỏ cây ở một chữ tình, khác hẳn muôn thú là ở chữ hiếu. Trong muôn vàn loại tình cảm hiện hữu ở thế gian thì tình mẹ con là thiêng liêng cao tột. Trong muôn hạnh hiện hữu ở thế gian thì hạnh hiếu đứng đầu. Tình mẫu tử và tấm lòng hiếu đạo của loài người đã hoà quyện và khơi nguồn cho mạch sống trở nên lung linh dịu ngọt thánh thiện nhiều hơn, nhờ đó mà loài người đã vượt qua muôn ngàn dông bão để tồn tại thăng hoa đến ngày hôm nay. Trong tôi cũng vậy, suối nguồn yêu thương của mẹ đã nuôi lớn tâm hồn tôi, đã gieo vào tâm khảm tôi chủng tử yêu thương và lòng vị tha nhân ái. Từ ngày mẹ đi xa, và cứ mỗi lần mùa Vu Lan trở về, tôi lặng lẽ tự cài lên ngực một đóa hoa hồng như thầm nhủ với lòng mình: Mẹ vẫn hằng an trú trong tôi!

Vâng! Người mẹ suốt một đời kham nhẫn hy sinh tảo tần và cũng dễ dàng chấp nhận tạo tội vì con, đó là những vị Bồ Tát chỉ biết ban cho từ suối nguồn yêu thương vô bờ bến mà không hề đặt để bất cứ một điều kiện gì, người mẹ đó vẫn hằng hiện hữu trong tâm hồn của những người con hiếu đạo.

Trong sự hy sinh thầm lặng mà vô cùng vĩ đại của người mẹ, chúng ta nhận thấy rằng, khi chưa giác ngộ thì người mẹ vì quá yêu thương con mình mà sẵn sàng tạo ác nghiệp, thế nhưng khi đã giác ngộ chân lý Phật Đà và nhất là đạo lý nhân quả thì tính cách của người mẹ thay đổi hoàn toàn và vị trí của người mẹ trở nên vô cùng quan trọng đối với những người con.

Lúc này ngoài vị trí của một đấng sinh thành thì người mẹ còn là bậc đạo sư trực tiếp hướng đạo cho con mình bước những bước đi vững chắc trên con đường chánh pháp. Có thể nói đây là đại diễm phúc cho bất cứ những ai khi có được một bà mẹ tuyệt vời như vậy và cũng có thể nói rằng, đây là bước ngoặc vô cùng quan trọng trong cuộc đời của những người con khi được chính người mẹ của mình khai thị về lẽ sống đạo đức, chân thiện mỹ và về chânlý nhiệm mầu của Phật pháp.

Trích hai câu chuyện trong Giải Trình Ý Nghịe Vu Lan và khuyên người niệmPhật. Xong kết kluận về Từ Suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ. Sau đó nói về Bàmẹ VN anh hùng. Mẹ VN of dân tộc. Mẹ VN anh hùngcủathờiđạiHCMvàMẹVNanhhùnhgcủamọithời đại Trích thơ Trần Đăng khoa.

00000000000000000000000000000000000000000000000000000000000000000000

Mẹ ốm (thơ Trần Đăng Khoa) Cánh màn khép lỏng cả ngày. Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa. Nắng mưa từ những ngày xưa. Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan. … Vì con mẹ khổ đủ điều. Quanh đôi mắt mẹ đã nhiều nếp nhăn. Con mong mẹ khỏe dần dần. Ngày ăn ngon miệng, đêm nằm ngủ say. Rồi ra đọc sách cấy cày. Mẹ là đất nước tháng ngày của con.

Page 60: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

60

Dù tổ quốc đang hồi chiến tranh với quân thù hay lúc hòa bình, các mẹ vẫn luôn đối diện hiểm nghèo và giữ vững phẩm chất làm mẹ của mình qua những lần vượt cạn. Không có một vị thế nào có thể so sánh được với người mẹ như ở vị thế này. Sự phát triển cộng đồng, phát triển quốc gia cũng đồng nghĩa với việc các bà mẹ vẫn luôn có nguy cơ cao khi thực hiện việc sinh nở. Ngày nay qua các phương tiện thông tin đại chúng, thỉnh thỏang chúng ta vẫn còn được biết một người mẹ gặp phải khó khăn như thế nào khi sinh đứa con của mình, huống chi ngày xưa, nền y học còn kém, việc các bà mẹ không qua được lần vượt cạn thì không biết bao nhiêu mà kể, hầu như lúc nào cũng có. Chính khó khăn và sự bất lực không thể can thiệp của xã hội đã thể hiện rất rõ qua hai chữ vượt cạn để chỉ công việc người mẹ phải thực hiện một mình trong lúc lâm bồn.

Sự kiện này gắn kết với tinh thần uống nước nhớ nguồn, một tinh thần căn bản nền tản xây dựng nên xã hội Việt đầy nhân bản. Người mẹ là một hình ảnh luôn song hành về sự sinh sôi, nảy nở phát triển, một hình ảnh xây dựng truyền thống như hình ảnh mẹ Au Cơ mang nặng bầu thai trăm trứng nở trăm con, một người mẹ là tổ mẩu của dân tộc.

Từ ngàn xưa khi chưa có đạo Phật, dân tộc Việt Nam đã xây dựng hình tượng người mẹ vĩ đại thông qua hình tượng mạ Âu Cơ. Các nhà luân lý xã hội đã biết nền tảng xã hội phải được xây dựng trên tinh thần không mệt mỏi của những người mẹ, những công dân lành mạnh hữu ích chỉ có thể được đào tạo từ những người mẹ chịu thương chịu khó, một nắng hai sương. Nói không ngoa, chính các bà mẹ là những viên đá để xây dựng nền móng ngôi nhà dân tộc bền vững.

Cộng đồng gia đình không chọn lựa nhau, bởi con cái không chọn lựa đấng sinh thành và ngược lại cũng cũng vậy, cha mẹ không chọn lựa được con cái. Sự mang nặng đẻ đau và nuôi nấng, vỗ về con trẻ đã tạo thành sợi dây tình cảm vượt ra ngoài biên giới của huyết thống, đó là sự mềm yếu mà dẻo dai rất đặc thù của gia đình. Do đó được điều kiện tiếp xúc gần gũi và thường xuyên nên ở gia đình, ngoài tính huyết thống, nó còn mang nét đặc trưng văn hóa của gia đình Phật tử nữa, một loại hình văn hóa truyền thống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nối tiếp nhau không ngưng nghỉ. Chính sự thẩm thấu lâu dài đó đã tạo nên phong cách văn hóa của mỗi gia đình Phật tử mà các thành viên của nó luôn mang trong cơ thể một cách tiềm ẩn. Tính chất truyền thống đó đã tạo nên những hiệu ứng tích cực khi được phát huy tối đa trong xã hội.

Một họa sĩ suốt đời mơ ước vẽ được bức tranh ý nghĩa nhất trần gian. Ông ta đến hỏi một giáo sĩ để biết được điều gì đẹp nhất trần gian. Giáo sĩ trả lời:

“- Tôi nghĩ điều đẹp nhất trần gian là niềm tin, vì niềm tin nâng cao giá trị con người”

Họa sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái, cô gái trả lời:

“- Tình yêu là đẹp nhất trần gian, bởi tình yêu làm cho cay đắng trở nên ngọt ngào, mang đến nụ cười cho kẻ khóc than, làm cho điều nhỏ bé trở nên cao trọng. Cuộc sống sẽ nhàm chán, xấu xí biết bao nếu không có tình yêu”.

Họa sĩ gặp một người lính trở về từ mặt trận, được hỏi người lính nói:

“- Hòa bình là điều đẹp nhất trần gian, ở đâu có hòa bình ở đó có nụ cười và cái đẹp”

Họa sĩ tự nhủ: “Làm sao có thể vẽ cùng một lúc niềm tin, tình yêu và cả hòa bình trong một bức tranh”.

… Trở về nhà họa sĩ nhìn thấy niềm tin trong ánh mắt con, tình yêu trong nụ hôn của người vợ. Chính những điều đó làm tâm hồn ông tràn ngập niềm tin và tình yêu trong hạnh phúc bình yên. Họa sĩ đã hiểu thế nào là một bức tranh ý nghĩa nhất cần. Sau khi hoàn thành tác phẩm, ông đặt tên cho nó là: “Gia đình”.

Page 61: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

61

Thật vậy, gia đình là nơi đầy ắp tiếng cười của trẻ thơ, tiếng hát của người mẹ và sức mạnh của người cha. Nơi đó có hơi ấm của những con tim biết yêu thương, quí trọng nhau, là ánh sáng của đôi mắt tràn đầy hạnh phúc, là sự ân cần và lòng thủy chung.

Gia đình là nơi đầu tiên cho trẻ thơ học những điều hay của Phật dạy.

Đó là nơi chúng ra tìm về để được nâng đỡ

Đó là nơi mà món ăn đơn sơ cũng trở thành cao lương mỹ vị

Đó là nơi tiền bạc không quí bằng tình yêu.

Đó là nơi mà ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm vui hạnh phúc.

Dẫu bạn là một tu sĩ, một cô gái đang yêu, một chiến binh, hay bạn là một ai khác thì cũng khó phản bác bức tranh tuyệt vời được vẽ lên như thế.

Ở gia đình người mẹ giữ một vị trí cực kỳ quan trọng. Người mẹ do bản chất di truyền được tiến hóa không những ở phương diện cảm xúc, tâm lý mà còn ở thiên chức làm mẹ, phần sinh lý đặc biệt đến tận phần cơ năng sinh học sâu thẳm nhất.

“- Sữa của mẹ với nước của đại dương bên nào nhiều hơn?”

Một câu hỏi thật bất ngờ phải không? Đối với đại đa số chúng ta, đại dương không thấy bến bờ, mênh mông và vô tận đến vậy, còn sữa của mẹ thì… Đức Phật xác định một điều ngược lại:

“- Sở dĩ mà ta thành Phật đến hôm nay, là nhờ bầu sữa tình thương của mẹ nuôi ta trải qua vô lượng kiếp đến nay…”

Chúng ta hiểu được tại sao nước ở đại dương không thể so sánh được với sữa mẹ rồi phải không?

Tôi có một người bạn đồng niên, thửơ thiếu thời ở cùng nhau, nô đùa, học tập, đi đâu, chơi gì cũng có nhau. Quan hệ của hai chúng tôi cũng vô tư như bao bạn bè cùng trang lứa khác. Bây giờ tôi là một tu sĩ còn anh ấy là đệ tử tục giao của Phật. Sau thời gian dài không gặp nhau, vừa qua nhân một sự kiện trong giáo hội, chúng tôi gặp nhau. Anh ấy vẫn như ngày nào trong trí nhớ của tôi, vẫn gầy gò, nhỏ thó, duy chỉ có đôi mắt đen tròn, tinh nghịch ngày nào nay đã có phần đổi khác, đã không còn tinh như trước nữa, cộng thêm máo tóc hoa râm, tôi thấy nơi anh cái vẻ an lạc của người đã bước qua những nắng mưa dãi dầu trong cuộc sống, nay đang điềm tĩnh đối diện với chính mình. Tôi biết một người sống tận nhân lực như anh chắc chẳng có điều gì đáng phải hối tiếc. Đêm ấy, ngồi gần nhau bên đống lửa ở một vùng cao nguyên, tôi được nghe kể một câu chuyện về mẹ của anh ấy khiến tôi phải nhớ mãi. Đây là một câu chuyện thật của một người con nghĩ về mẹ mình, một câu chuyện cảm động và thật đẹp.

Vào khoảng năm mười ba tuổi. Tôi đã có một giấc mơ tuyệt đẹp mà ấn tượng mãi đến giờ vẫn chưa phai, ấn tượng ấy mãnh liệt đến độ tôi không dám kể lại với bất kỳ ai. Nay tôi kể cho Thầy nghe, như muốn được chia sẻ một nỗi niềm cảm xúc bao nhiêu năm qua, nay đã chín muồi cũng như tuổi già đã hiện diện bấy lâu trên thân xác tôi.

Thửơ ấy tuy còn nhỏ, nhưng tôi vẫn thường được theo mẹ lên Chùa tụng kinh “Phổ Môn” vào mỗi buổi tối (nhà tôi ở gần Chùa). Tuy chưa hiểu gì nhiều về những câu kinh, nhưng tôi đã có sự kính ngưỡng rất sâu sắc về hình tượng của vị Bồ Tát Quán Thế Âm với lòng đại từ, đại bi luôn sẵn sàng cứu khổ cứu nạn cho hết thảy những ai xưng danh hiệu ngài.

Trong những lần theo mẹ đến Chùa như thế, có nhiều khi tôi đứng lặng rất lâu trước pho tượng của ngài để chiêm ngưỡng, cảm nhận vẻ đẹp từ hòa trong màu có trắng ngần tinh khiết. Trong đầu óc tinh khôi, non nớt của tôi ngày ấy, nhành dương liễu ngài cầm trên tay

Page 62: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

62

hẳn phải vô cùng mầu nhiệm mới có thể ngày đêm tuôn xuống những giọt nước cam lộ mát rượu, làm vơi đi vô vàn những khổ đau của chúng sinh trần thế.

Rồi một đêm kia, tôi đã có một giấc mơ thật đẹp. Trong mơ tôi gặp rất nhiều điều kỳ thú, nhưng điều kỳ diệu nhất là tôi đã nhìn thấy Bồ Tát Quán Thế Âm, với tất cả vẻ sinh động tuyệt vời mà từ lâu tôi hằng kính ngưỡng. Từ xa, tôi nhìn thấy rất rõ ngài đứng trên tòa sen trắng giữa đám mây cũng trắng như màu áo của ngài, tay cầm nhành dương liễu với tịnh bình và đôi mắt nhìn xuống tôi đầy vẻ từ hòa trìu mến. Lạ thay trong phút chốc, tôi thấy thân thể mình chợt nhẹ bổng đi, rồi bồng bềnh bay lên cao dần, cao dần đến gần sát dưới chân ngài. Tôi cui đầu quì dưới chân ngài một lát rồi từ từ ngẩng lên để nhìn cho rõ mặt ngài. Ô hay ! Tôi nhận ra nét quen thuộc quá trên gương mặt của ngài, quen quá… Rồi như chợt hiểu ra, vừa ngạc nhiên vừa sung sướng đến tột độ, vì khuôn mặt của Bồ Tát cũng chính là gương mặt của mẹ tôi, đúng rồi, đúng là mẹ tôi rồi.

Tôi tĩnh giấc và thấy hối tiếc vì đó chỉ là một giấc mơ. Nhưng kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai dịu hiền hơn mẹ, càng không ai yêu thương tôi như mẹ. Vậy thì mẹ đúng là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Trong kinh đã chẳng nói rất rõ đó sao, vì muốn cứu độ chúng sinh nên Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hóa thân với mọi hình dạng khác nhau và ở khắp mọi nơi. Hơn nữa, nếu người không hóa thân làm mẹ tôi thì sao tôi lại mơ thấy như thế kia chứ. Tôi vốn đã yêu thương, kính trọng mẹ, nay lại còn yêu quí nhiều hơn.

Rồi một lần khác, tôi sang chơi với hai đứa bạn con cô Tư hàng xóm. Sau một hồi đùa nghịch bụi đất và cái nắng, mặt mũi bọn tôi đứa nào cũng đen nhẻm vì lấm đất. Vừa lúc cô Tư đi chợ về, hai đứa con cô bỏ chơi chạy ra tới tranh nhau xách giỏ để xem có quà gì cho chúng không. Cô Tư đứng nhìn chúng tranh nhau xách giỏ với ánh mắt thương yêu, hiền từ, rồi lặng lẽ vào nhà lấy ra cái khăn thấm nước và dịu dàng lau mặt sạch sẽ cho hai đứa.

Đứng nhìn cảnh ấy, bất chợt tôi cảm thấy cô Tư rất giống Quan Thế Âm Bồ Tát, cũng dịu dàng, cũng bao dung và hết lòng yêu thương con cái. Một ý nghĩ nảy ra trong đầu tôi: Phải chăng cô Tư cũng là Quan Thế Âm Bồ Tát hiện thân?

Sau lần ấy tôi nghiệm ra rằng, có lẽ đối với con cái thì hết thảy những người mẹ đều là hóa thân của Bồ Tát Quan Thế Âm. Bởi không có người con nào lại không thấy mẹ mình dịu hiều, bao dung, thương yêu và luôn che chở cho mình.

Tuổi thơ tôi dần trôi qua. Bước vào tuổi trưởng thành, những hiểu biết thực tế khiến tôi không còn giữ được những ý nghĩ mơ mộng như xưa. Thật ra, với tôi thì mẹ vẫn tuyệt vời, nhưng không phải cái tuyệt vời trong ánh hào quang mầu nhiệm như thửơ nhỏ, mà đó là sự tuyệt vời rất thật của một người mẹ tảo tần nuôi con. Anh chị em tôi đông như tất thảy đều do một tay mẹ tôi nhọc công chăm sóc từ nhỏ cho đến lớn khôn.

Những ý nghĩa sâu sắc của giấc mơ ngày ấy thì mãi về sau tôi mới đủ sức hiểu được. Ngày nay tôi đã hiểu nhiều hơn về Bồ Tát Quán Thế Âm và những hạnh nguyện của Ngài. Những ý nghĩa sâu xa của kinh Phổ Môn cũng đã được dùng như kim chỉ nam trong đời tôi giúp tôi vững vàng vượt qua biết bao sóng gió cuộc đời. Nhưng có một điều thú vị nhất mà chính tôi cũng không ngờ tới. Đó là sau rất nhiều sự nghiền ngẫm và trải nghiệm, tôi mới hiểu ra được rằng, ý nghĩa sâu xa nhất của phẩm kinh Phổ Môn nằm ngay trong giấc mơ của tôi thửơ nhỏ.

Bằng vào trực giác tôi đã có được một giấc mơ nói lên ý nghĩa sâu xa nhất về sự hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát. Đây có thể nói là một trong những kinh nghiệm quí giá nhất mà bản thân tôi đã có duyên may gặp được. Trong khi bằng vào tri thức, để có thể đạt đến ý nghĩa sâu xa về sự hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm đòi hỏi phải nghiền ngẫm một số lượng

Page 63: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

63

rất nhiều kinh liận, thì sự cảm nhận ý nghĩa đó đã có thể xuất hiện nơi một đứa trẻ chỉ mới tuổi mười ba bằng trực giác.

Toàn thể phẩm kinh Phổ Môn mô tả Bồ Tát Quán Thế Âm là vị Bồ Tát hiện thân của lòng yêu thương. Với nguyện lực vô biên, ngài trải lòng thương yêu hết thảy chúng sinh mà không đòi hỏi phải có bất cứ một điều kiện gì. Khi có sự đau khổ, dù ở bất cứ nơi đâu, chỉ cần có người xưng niệm đến danh hiệu của ngài là sẽ được chở che, cứu độ. Vì muốn cứu độ chúng sinh, ngài đã dùng nguyện lực để hóa thân vào vô số những hình thức khác nhau, từ thân Phật, Bồ Tát cho đến Phạm Vương, Đế Thích, cho đến cả các loài rồng, dạ xoa, càn thát bà, a ta la… Chỉ cần có thể sử dụng một hình tướng nào đó để cứu thoát khổ nạn cho chúng sinh, ngài lền lập tức hóa hiện trong hình tướng đó.

Một người bạn khác của tôi có lần nói: “Quả thật, tuy là người tin Phật nhưng tôi chỉ có thể lấy đức tin để tin nhận kinh Phổ Môn chứ không thể hiểu nỗi những ý nghĩa trong đó. Lẽ nào những điều trong kinh nói là có thật.

Tôi rất cảm thông với suy nghĩ của bạn mình và biết chắc rằng còn rất nhiều trí thức trẻ hiện nay cũng không tránh khỏi sự băn khoăn như thế. Chỉ bằng cảm nhận của trực giác, trong tiềm thức của tôi khi ấy đã hình thành một sự tương đồng giữa lòng thương yêu của ngài Bồ Tát trong kinh với lòng thương yêu của người mẹ. Vì thế trong giấc mơ của tôi Bồ Tát Quán Thế Âm đã có khuôn mặt của chính mẹ tôi chứ không phải là ai khác.

Thật ra ý nghĩa của giấc mơ này là phổ quát đối với tất cả chúng ta. Nếu đã hiểu rằng Bồ Tát Quán Thế Âm là hiện thân của lòng yêu thương, chúng ta cũng sẽ hiểu được rằng ngài không những hóa thân thành những người mẹ dịu dàng mà còn có thể là những người cha, người anh, người chị hay người thầy.

Một lần khác nữa ở bệnh viện, trong khi chờ đến lượt mình, tôi ngồi nhìn một nữ bác sĩ khám bệnh cho một em bé gái. Trước khi mang ống nghe vào, cô dịu dàng vuốt mái tóc rối bời của em, nhẹ ngành gỡ từng sợi tóc rối, rồi lấy một sợi dây nhỏ buộc lại cho gọn gàng. Sau đó cô mới bắt đầu khám bệnh cho bé. Ngồi nhìn sự “mất thời gian” ấy tôi và mọi người chung quanh không một mảy may tỏ ra khó chịu. Ánh mắt cô bác sĩ đã làm dịu đi những đau đớn, khó chịu mà vì nó chúng tôi mới phải đến đây. Tôi bất chợt nhận ra sự hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm nơi vị bác sĩ.

Đó, câu chuyện của bạn tôi, một đệ tử tục gia của Phật kể đến đây là hết. Câu chuyện chấm dứt đã trả lại cho căn phòng nhỏ ở miền cao nguyên một sự thinh lặng. Không, có thật sự không tinh lặng bởi tuy đã lâu là tu sĩ mà lòng tôi lại xao động qua câu chuyện vừa được nghe. Các bạn biết không? Tôi rất tự hào, rất hãnh diện vì đã được đứng vào hàng ngũ con Phật và có lẽ chỉ có Đức Phật nhân từ của chúng ta mới nói một câu độc nhất như thế này: “Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế”. Đức Phật xác quyết vấn đề một cách rõ ràng, cha mẹ ngang hàng với Đức Phật. Tôi quả thật chưa có dịp biết có đấng giáo chủ nào khác trên thế giới đã nhìn nhận vấn đề tương tự như vậy không. Một lần nữa, để so sánh tình thương của Phật đối với chúng sinh, Ngài lại nói: “Phật ái chúng sinh như mẫu tử ái”. Quả vậy, Ngài cũng so sánh tình thương ấy ngang bằng với cha mẹ mà thôi.

Chúng ta vẫn thường lạy Phật ở Chùa, ở nhà nhưng có bao giờ chúng ta lạy cha mẹ mình chưa? “Phụ mẫu tại đường như Phật tái thế cơ mà. Bản thân tôi cũng chưa làm được điều này, thật đáng tiếc. Sự thật thì tôi cũng đã lạy mẹ mình một lần, tôi lạy mẹ để theo thầy xuất gia. Đó là điều kiện bắt buộc của giáo luật, trước khi xuất gia phải lạy cha mẹ mình. Lúc đó tôi chưa biết, chưa cảm nhận mẹ mình là Phật, cho nên nói tôi chưa từng lạy cha mẹ mình thì đúng hơn. Nếu như chúng ta xem cha mẹ như Phật thì chúng ta phải lạy cha mẹ mình, lạy ngay khi người còn sống, còn hiện hữu với chúng ra, chứ không phải lạy khi người đã qui tiên, lạy cái hình ảnh trên bàn thờ. Cha mẹ đã ban cho chúng ta rất nhiều hạnh phúc. Đức Phật

Page 64: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

64

là đấng đã giác ngộ, ngài thấy rõ được tâm niệm, tình thương của người mẹ, người cha dành cho con bao la vô bờ bến. Một cách rõ ràng chứ không phải vô cớ Đức Phật đem cha mẹ so sánh với Phật về lãnh vực tình thương yêu đối với con cái.

Có một Thanh niên, một người con ngoan trong một gia đình chỉ có hai mẹ con. Cậu ta là một người hướng thượng, có chí nguyện, luôn mong ước một ngày nào đó được diện kiến Đức Phật mà cậu ngày đêm hằng ngưỡng mộ. Niềm ao ước ấy lớn dồn theo thời gian. Cậu sốt ruột vì mối nặng tình này và đã không kiên nhẫn được.

Bây giờ đứa con đã biết, suốt những năm tháng qua mình không những được diện kiến mà còn được sống, được ấp ủ, bảo bọc trong vòng tay của Phật mà không hay. Tình thương của mẹ dành cho con luôn bao la như Phật dạy:”Phật ái chúng sinh như mẫu ái tử”. Từ đó cậu con luôn cung phụng mẹ mình như cung phụng Phật. Cho nên trong mùa Vu Lan về chúng ta cũng nên nhìn và lạy mẹ mình như lạy Đức Phật.

Niệm ác thì chuốc lấy quả khổ, niệm thiện hưởng được phước lành. Tam giới do tâm tạo, tâm giống như hôa sĩ, sáng tạo của họa sĩ có thể vẽ nên cảnh thiêng đàng, nhưng đồng thời cũng có thể vẽ nên cảnh đọa đày ở địa ngục. “Tiền tâm tác ác như vân phú nhật, hậu tâm khởi thiện như cự tiêu ám”. Nghĩa là: Tâm trước làm ác như đám mây che khuất mặt trời, tâm sau khởi thiện như ngọn đuốc xua tan bóng tối (Kinh Luật Dị Tướng). Kh tâm bà Thanh Đề chuyển hướng được kết hợp với mãnh lực chú nguyện của các bậc Thánh tăng giàu lòng từ mẫu, thiết nghị bà được giải thoát khỏi cảnh u đồ, sinh lên thiên giới là điều rõ ràng hiểu được. Trái lại, giả sử tâm bà vẫn khăng khăng giữ tâm bảo thủ ác niệm trước sau như một, thì dù cho với đạo lực thì bi cao cả như chư Phật, chung cuộc cũng không thể nào cứu vớt được.

Chúng ta không thể có cuộc sống hạnh phúc nếu không xây dựng được một gia đình hạnh phúc. Điều này thật quá đơn giản, dễ hiểu. Bởi vì phần lớn cuộc sống của con người là gắn bó với gia đình.

Khi tạo dựng được ở gia đình khung cảnh lành mạnh trong sáng như thế, mọi thành viên trong gia đình sẽ cảm thấy hoan hỷ, bình đẳng để tiến bộ, con cái sẽ vâng lời cha mẹ, vợ chồng yêu thương, kính trọng nhau và hòa thuận. Sự bình đẳng, tôn trọng nhau ở gia đình là rất cần thiết, ở đó mọi ý kiến luôn được bày tỏ một cách tự do, nhờ vậy chúng ta có được điều kiện để bổ sung sự hiểu biết của nhau. tinh, muôn thú êm đềm, cây ngọc bảng hàng, thành chân bảy lớp, ngọc ma ni thuyết pháp, chim Ca lăng giành kinh, trời rưới hoa thơm đất ngời gương sáng, ngọc xây nền cát, vàng lót đáy ao, cung điện bảy báu sáng ngời, lầu bách bảo trăm màu rực rỡ, lò ngũ hương nghi ngút, nước bát đứt trong veo.

Chúng ta thấy rằng, biết lắng nghe là rất khó khăn, nhất là lắng nghe ý kiến trái ngược với sự suy nghĩ của mình. Nhưng đó là điều chúng ta buộc phải học, phải tu tập để có được đức tính đó, đặc biệt chúng ta là gia đình phật tử, thường được nghe giảng về sự lợi ích của sự nhẫn nhịn.

Qua sự nhẫn nhịn, chúng ta sẽ tạo dựng được một gia đình hiếu đạo, chúng ta sẽ được các phước ngang hàng với trời phạm thiên. Sự nhẫn nhịn trong tình nghĩa phu thê sẽ tạo nên không gian ở gia đình trong lành, hóa khí, khiến cha mẹ chúng ta an tâm, vi hưởng tuổi già, ít lo nghĩ. Như vậy tâm của các vị cũng an lạc hơn, tâm an lạc thì dễ tạo nghiệp lành, dễ nghe lời nói phải.

Trong “Tăng Chi Bộ” đức Phật dạy, một gia đình xây dựng được cõi cực lạc nhân gian là gia đình đang ở trong thế giới tịnh độ, như vậy hạnh phúc ở đó đã ngang hàng với trời Phạm Thiên. Trời Phạm Thiên người Ấn Độ gọi là Fa-ma. Phật giáo xem Trời Phạm Thiên là cảnh giới cực lạc, hưởng hạnh phúc cao nhất cõi dục giới. Ấy vậy mà đức Phật nói rằng, một gia đình hạnh phúc thì gia đình đó ngang hàng với trời Phạm Thiên. Muốn được như vậy chúng ta phải xây dựng cõi tịnh độ, cõi cực lạc trong mỗi gia đình bằng việc làm đầu tiên bình

Page 65: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

65

đẳng, nhẫn nhịn, tôn trọng và học hỏi lẫn nhau. Niệm Phật đến lần thứ 41 mà kh6ng xây dựng được cõi cực lạc trong nhà thì uổng lắm.

Gia đình là một cộng đồng xã hội thu nhỏ, như đã nói, ở đó có các thành viên sống hợp quần cùng nhau, tuy có tính huyết thống, nhưng mỗi người là một thực thể riêng lẻ, trực tiếp chịu mọi trách nhiệm cá nhân của mình. Chính vì vậy, mỗi người đều có trách nhiệm của bản thân nhưng đồng thời cũng có trách nhiệm cùng nhau tạo dựng đời sống chung. Như vậy nó phải có tính cộng hưởng, hễ cáinày được hay mất, đều ít nhiều có ảnh hưởng lẫn nhau. Bản thân chúng ta, con cái, cha mẹ đều là cá thể sống trong một tổng thể và sự ảnh hưởng lẫn nhau là điều đương nhiên.

Chính vì vậy, đức Phật mới đặt mạnh vấn đê ở việc xây dựng nên cõi tịnh độ, an lạc ở gia đình. Đương nhiên ảnh hưởng của tinh thần tích cực đó đến mọi thành viên là như nhau, nhưng ở đây chúng ta nói nhiều đến cha mẹ của mình là có lý do riêng. So sánh về tuổi đời thì cha mẹ ta cao tuổi nhất, điều này cho chúng ta hiểu thêm, suốt những năm tháng dài lăn lóc ngoài đời, với trách nhiệm phải sinh con, nuôi nấng, dạy dỗ, cha mẹ ta chắc chắn đã không ít lần vấp phải những điều bất như ý, nhưng với áp lực phải vượt qua để có điều kiện nuôi con cái thì nghiệp lực của cha mẹ cũng nhiều hơn chúng ta và con cháu. Hơn nữa với tuổi cao, các vị cũng đang đến gần với sự vô thường hơn; nên ở gia đình nếu phải quan tâm đến ai thì người đó chắc chắn phải là cha mẹ chúng ta. Bởi cha mẹ đã kinh qua nhiều chiều mưa nắng, bây giờ tóc bạc, răng long, mắt mờ, chân mỏi nên phải nhờ đến con cái. Tóc mẹ bạc để đầu con xanh, mắt cha mờ để con được sáng tỏ … Cho nên việc báo hiếu cho cha mẹ là điều cần thiết và cấp bách.

Chúng ta nghe nói rất nhiều đến những phương tiện, những món ăn ngon, vật lạ để dâng lên cúng dường thập phương bá tánh, cứu độ cha mẹ mình. Nhưng kỳ thật cái chính trong tinh thần của đạo Phật là xây dựng cõi tịnh độ trong tâm hồn người con hiếu thảo, tâm hồn, tâm hồn cực lạc ở đứa con hiếu đạo. Bởi hương thơm của đức hạnh, hương thơm cực lạc của đứa con hiếu đạo sẽ chiêu cảm được nghiệp lực của cha mẹ đã vì mình mà phạm phải do lòng thương con, muốn con mình nở mày nở mặt với xã hội, cho nên cha mẹ đã sẵn sàng lao vào bất cứ việc làm nào (dù đó là việc tạo ra ác nghiệp) để đem lại điều mà các vị nghĩ là hạnh phúc cho chúng ta.

Sở dĩ con người bị mãi cái hấp lực của nghiệp ác chi phối, lôi kéo là bởi o chúng ta tham lam. Chúng ta tham lam vì cứ đinh ninh rằng cuộc đời này là của chúng ta, thế giới này là của chúng ta, thân này là của chúng ta, gia đình là của chúng ta. Do nghĩ như vật nên lòng tham của chúng ta luôn ở cấp số nhân và không bao giờ dừng. Thậm chí dù không nói ra, nhưng chúng ta cứ đoan chắc con cái do mình sinh ra, nên nó là sở hữu của mình. Thân xác này có thể mất đi nhưng chúng ta trường tồn là thông qua con cáo. Với các móc xích tư tưởng như vậy chúng ta nghĩ rằng cuộc đời này cứ dài mãi, tồn tại mãi, nên phải gom lại mọi vật chất, địa vị nay cứ dài mãi, tồn tại mãi, nên phải gom lại mọi vật chất, địa vị mà chúng ta có thể để làm của riêng, để con cháu thừa hưởng. Tư tưởng này đã đẩy con người đến với cái ác, con người dùng thủ đoạn để tranh đoạt mỗi khi không thể làm khác được. Địa vị và vật chất trần gian thì qua kinh nghiệm, càng ác độc, càng hủ bại càng thu được nhiều. Nghiệp lực do vậy càng chồng chất cao như núi, sâu như vực thẩm.

Mỗi chúng ta sinh ra ở đời dù với bất cứ lý do nào đi nữa, với một ví thế nào đi nữa thì cũng một tấm thân trần trụi như nhau chẳng có gì. Sau đó, với bao trí lực, tâm huyết, mỗi người khác chúng ta có thành bại khác nhau. Nhưng khi chết đi không ai trong chúng ta mang theo được gì, châu báu thì nó vẫn luôn nằm đó mãi mãi, trong khi hình hài đã mục náy, xương tan.

Tuy nhiên giữa hai khoảng cách của cái “không có gì” lại là sự tiếp nối những ảo tưởng về biết bao nhiêu sự việc, như vậy nó mới dệt nên cả một cuộc đời, một xã hội, một thế

Page 66: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

66

giới đầy dẫy sự lầm than, đau khổ. Do mỗi cá thể đều nỗ lực xây dựng, tích lũy quanh mình ngày càng nhiều tài sản vật chất, danh vọng cho đến vợ con, thân bằng quyến thuộc.

Là Phật tử, chúng ta biết cuộc đời này không tồn tại mãi được, không phải của mình, mái tóc xanh của các cô gái trẻ có tồn tại mãi không? Cặp mắt mơ huyền của các cô có tồn tại mãi không? Làn môi thắm của các cô có còn thắm mãi không? Người đời không biết và không để ý đến điều này; Chúng ta là Phật tử phải biết. Tuy nhiên rất hiếm khi ta có được cảm giác của cái đang có, do vậy chúng ta sống phần lớn ở đời là để cố gắng vươn lên phấn đấu nhiều hơn để chiếm hữu được nhiều hơn. Nhưng có phải chúg ta chiếm hữu được là chúng ta sở hữu được chúng? Không phải ! Tất cả những gì được gọi là của ta, thật ra chỉ có ý nghĩa ở phần nhân duyên nhất định nào đó mà thôi, chứ chưa bao giờ là hoàn toàn do nơi ý muốn chủ quan của chúng ta. Do đó ta mệt mỏi, đau khổ, chịu được để tích cóp suốt cả đời, rồi cuối cùng dù muốn hay không, chúng ta vẫn phải từ bỏ để ra đi vĩnh viễn với hai bàn tay trắng.

Sữa mẹ là vật phẩm đầu tiên con người chúng ta cần đến do nhu cầu tồn tại thúc đẩy. Nhưng lâu dần chúng ta chiếm hữu nó một cách vô thức khi bị giằng ra môt lý do nào đó, hay có một em bé khác đang định bú nhờ. Chúng ta sẽ khóc thét lên, vì nghĩ rằng đã bị “cướp” đi cái vật thể vốn không phải của mình. Tiếng khóc thét giận dữ là biểu hiện đầu tiên của sự chiếm hữu. Chúng ta phản ứng quyết liệt như vậy khi bị lấy đi hay ai khác sử dụng là bởi sự tham lam đã manh nha xuất hiện…

Cùng với sự lớn lên của thân xác, lòng tham của con người chúng ta cũng lớn theo, thậm chí còn lớn hơn rất nhiều so với thân xác ta. Khi nhận biết những sự vật chung quanh như môi trường thì: con đường ta đi, trở thành của ta. Ngôi trường ta học trở thành của ta. Công viên ta nô đùa trở thành của ta v.v… Đối với con người thì: Cha mẹ của ta, anh chị của ta, em của ta, bạn của ta…. Đối với đồ vật thì: áo ta ta mặc; đồ chơi ta, ta chơi, nhà ta ta ở, v.v… Ta không thể nào chịu chấp nhận những thứ của ta đó bị người khác cướp đi, thậm chí những thứ đó có mất đi theo định luật vô thường chúng ta cũng khéo chấp nhận nên cố gắng chống đỡ, khóc lóc, hối tiếc, ân hận…

Khi chúng ta hết phát triển thân xác thì sự lớn lên của lòng tham, không phải vì thế mà dừng lại, vì lòng tham được khởi nguồn tự nguyên thủy vốn không phải do nhu cầu của thân xác ta mà ra. Nó xuất phát từ một ý niệm thống trị, thống trị đồng loại, thống trị thiên nhiên. Có nhiều tiền, bạc chúng ta sẽ có nhiều tuân người tuân phục, nhiều lãnh địa dưới quyền. Cho nên càng có cái “của ta” nhiều chúng ta lại càng có nhiều cái “của ta”. Nhiều đến nổi chúng ta bị chìm ngập, che khuất hoàn toàn vào những thứ bên ngoài đó, khiến bản thân ta như không hiện hữu. Chúng ta luôn được nghe: Tổng thống A, chủ tịch B, bá tước C, v.v… Chúng ta bị liên hệ không phải là A, B, hay C mà bởi các chức danh đứng trước nó.

Thật vậy, chúng ta thường được người khác nhận diện không phải qua bản chất thật của chính mình, mà qua các thứ quanh ta như xe cộ, quần áo, đồ trang sức và đặc biệt ở tiền bạc và địa vị. “Tôi gặp ông chủ tịch chứ tôi không muốn gặp ông A hay B”. Đó là điều có thật, dù đau lòng chúng ta vẫn phải chấp nhận điều đó.

Để có được tất cả những gì “của ta” đó, chúng ta thường phải tranh đoạt, phải giận dữ, phải thủ đoạn với đồng loại và cả thiên nhiên. Với những đầu tư công sức như thế cũng chưa chắc chúng ta thành công để có được nhiều thứ “của ta”. Cho nên chúng ta phải trả giá, đôi khi rất đắt cho những phiền muộn, nhọc nhằn, trăn trở, v.v… So sánh với những lo toan, tính toán không dứt đó thì kết quả đạt được dù hoàn mỹ đến đâu cũng luôn là nhỏ nhoi, hèn mọn. Những thứ ta có được qua những lo toan, tranh đoạt không bao giờ vững bền, bởi tất cả các vật chất đó cũng luôn bị định luật vô thường chi phối.

Page 67: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

67

Khi thật sự tĩnh tâm, tư duy, chúng ta sẽ dần thấy được chỉ có hai khoảnh khắc trong đời người không bị chi phối bởi bất cứ thứ gì, đó là lúc mới sinh ra đời và giây phút cuối cùng rời khỏi trần gian này.

Khoảnh khắc đầu đời con người chưa thể lo toan, khao khát do bởi tính không thể của nó, chứ không phải do bản chất không lo toan, khao khát. Do vậy thời gian không bị ràng buộc này bị trôi qua rất nhanh để sau đó phải nhường chỗ cho sự tham muốn vốn là nghiệp dĩ của con người. Ta nhận biết được điều này qua chứng thực những lo toan, nhưng niền khao khát đã chế ngự tâm hồn ta như thế nào, như làm sao để mọi người càng ngày càng vừa lòng với mình hơn. Được nhiều người vừa lòng là một bảo đảm cho sự thương yêu, chiều chuộng, chúng ta sẽ được thỏa mãn nhiều hơn khi ta chưa thể tự thỏa mãn. Đây là mấu chốt đầu tiên trói buộc, điều khiển mọi suy nghĩ và hành động của chúng ta trong cuộc sống. Nếu ý thức được điều này, chúng ta sẽ nhận ra rằng, mọi ràng buộc, thôi thúc trên đời vốn không tự có, nó có là do ta khởi niệm lên mà thôi.

Giờ phút lâm chung đến, con người vẫn còn khao khát, lo toan. Khao khát được gặp đứa con này, người thân nọ. Lo toan chưa căn dặn cặn kẽ phải giữ gìn cơ ngơi, sản nghiệp nhiều đời của ông cha, v.v… Chỉ khi chết đi, mọi lo toan, khao khát mới chấm dứt. Sự thật thì trước đó khá lâu chúng ta dù tới nghĩ cũng biết được sẽ không manggì theo sau cái chết, nhưng do bản chất tham lam khiến chúng ta vẫn cứ không thể dứt ra khỏi những thứ mà mình đã lo toan có được một cách khó nhọc. Nếu ý thức được chẳng thể mang theo được gì, dù nhỏ nhất chúng ta sẽ nhận ra rằng mọi sự toan tính để có cái này, thành đạt thứ kia, cũng là một sự hoang tưởng. Nó không qua trọng như chúng ta lầm tưởng. Xét theo ý nghĩa tận cùng của mọi chân tướng thì những thành đạt ấy cũng chỉ thoáng hiện diện ngắn ngủi trong sự miên viễn cùa kiếp người.

Dù không thể nhớ được thời khắc mình ra đời như thế nào, cũng như chưa ai đã từng nếm trải sự chết để có kinh nghiệm. Tuy vậy hai điều trên vẫn không quá khó để chúng ta quán xét sự việc, để có những thông tin cần biết. Thậm chí ngày nay mức độ thông tin bằng hình ảnh đã cho chúng ta nhiều hơn sự mong đợi: Sự sinh ra là bất cứ ở châu lục nào, màu da ra sao, quốc gia giàu hay nghèo, v.v… thì hài nhi nào cũng như nhau đỏ hỏn và trần trụ, chỉ khóc mà thôi. Chết: tất cả những thông tin về kim tự tháp, lăng mộ nguy nga của ông hoàng bà chúa, ít nhiều vẫn còn hiện diện, kể cả các đồ tùy táng bằng vàng, ngọc, mã não, trân châu. Còn chủ nhân của nó đâu? Không thấy ! hoặc có thì một xác ướp khô đét hay bộ xương không còn nguyên vẹn.

Như đã nói, ý niệm chiếm hữu đầu tiên của chúng ta xuất phát từ các nhu cầu sợ hãi. Sợ không giữ được nguồn sữa mẹ, sợ không giữ được mẹ, v..v… Nhưng do bản chất tham, con người chúng ta đã không may, vì mọi vật chất đều hữu hạn trong khi chúng ta không có bất cứ một giới hạn nào cho sự tham lam. Con vật chỉ tranh ăn khi chúng đói, sau khi được thỏa mãn cái bụng, chúng nằm im, dù có con mồi đứng trước mặt chúng cũng không màng đến. Con người chúng ta khác, ăn no chỉ là một bản năng thấp nhất của chúng ta, chúng ta còn rất nhiều nhu cầu được thỏa mãn ngoài sự ăn uống, ví như muốn được tôn trọng, muốn được an toàn, muốn thống trị, muốn vinh hiển… Suy cho cùng, tất cả mọi nhu cầu muốn được thỏa mãn đó điều cần đến vật chất như tiền, vàng, đất đai, nhà cửa… Chính vì lẽ đó, chúng ta bị quá nhiều sự cám dỗ. Quá nhiều nhu cầu khiến chúng ta không thể đáp ứng, dẫn đến việc thèm thuồng, ham muốn. Chính sự không thể đáp ứng đã đẩy việc thèm muốn lên cao, việc thèm muốn càng cao, sự đáp ứng lại càng không thể.

Đó thật sự là những điều luẫn quẩn mà con người chúng ta đang vấp phải và mãi mãi bị vấp phải. Tại sao ư? Khi chúng ta có được điều mình mong uốn, dù không nói ra và chỉ mong muốn một điều cụ thể nào đó thôi, nhưng sự mong muốn đó không phải là điều mong muốn cuối cùng. Khi đói chúng ta có nhu cầu được ăn, lúc đó chúng ta chỉ nghĩ đến ăn thôi;

Page 68: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

68

Nhưng sau đó thì sao? Sau đó chúng ta sẽ mong muốn được uống, sau đó nữa, sẽ là gì? Còn tùy, có thể đó là một giấc ngủ hay một cuộc đi chơi v.v… Những khao khát ham muốn của ta cứ mở rộng ra mãi, càng về sau càng cao hơn, khó hơn.

Cứ như vậy, mọi nỗ lực của chúng ta phải dồn hết vào sự thỏa mãn lòng ham muốn, nhưng đó là điều vô vọng, như một người đang cố chạy thi với ngay cái bóng của mình. Con người liệu có thể chạy nhanh để thoát khỏi cái bóng của mình không? Câu trả lời đã rất rõ ràng rồi phải không? Lịch sử đã từng ghi nhận nhiều trường hợp điển hình của lòng tham lam vô tận, trong số đó Tần Doanh Chính là ột minh chứng rõ rệt nhất: Xuất phát là con của một thái tử bị đưa đi làm con tin vô thời hạn ở một nước khác, chịu nhiều thiếu thốn và khinh rẻ. Lúc này chỉ mong làm sao gia đình được trở về cố quốc. Được về cố quốc lại mong muốn cha mình được phục hồi ngôi Thái Tử. Cha được phục hồi ngôi Thái tử, lần này mong chúng ta mau chóng lên ngôn và chọn mình là kẻ kế truyền. Cha lên ngôi vua và bản thân được chọn làm Thái Tử. Được chọn làm Thái tử, lần này lại mong nhanh chóng được truyền ngôi. Được làm vua nước Tần, ông ta đẩy tham vọng lên một nấc mới: Gồm thâu lục quốc, lên ngôi Tần Thủy Hoàng Đế (vị vua khởi thủy nhà Tần). Gồm thau được lục quốc, thống nhất Trung Hoa, ông ua này chưa dừng lại lòng ham muốn, lần này là mong được Trường Sinh bất tử.

Thật là một điển hình của lòng ham muốn điên rồ. Nhưng Tần Thủy Hoàng luôn gặp may nên ông đạt được tất cả những điều ham muốn đó một cách trọn vẹn và khá nhanh chóng. Duy chỉ còn điều cuối cùng ông không thể thực hiện được và oái ăm thay, mong muốn được trường sanh bất tử nhưng Tần Thủy Hoàng phải chết khi tuổi mới ngoài năm mươi. Chậu thần của vị vua này phải đưa xác về chung hàng tấn cá thối chung quanh mới khỏi gặp biến.

Cho dù mục tiêu của chúng ta thành công hay không, thì chúng ta vẫn phải trả giá cho những cuộc chạy đua với lòng ham muốn. Chúng ta đã đánh mất phần lớn bản thân, khi phải hao tâm tổn trí cho những việc như thế. Chiếm hữu một đối tượng nào đó làm “của riêng” là một khao khát không có thật.

Với các trói buộc như vừa kể, chúng ta dễ dàng đánh mất những bản chất tốt đẹp của bản thân, qua đó chúng ta không thể tìm đến được bến bờ của sự an vui, thanh thản và hạnh phúc. Một điều rất dễ thấy, dễ hiểu là những ai càng nhiều tham vọng, cuộc sống của họ sẽ nhọc nhằn, tình cảm khô cằn và đương nhiên niềm vui trong họ sẽ biến mất.

Đa số người trong chúng ta thì sự khát khao và lòng ham muốn cũng như sự nỗ lực để đạt được một điều gì đó trong cuộc sống có vẻ là như sự đúng đắn, thậm chí nó được xem như rất cần thiết cho việc tồn tại, vì con người sống không thể thiếu mục đích. Do lẽ đó trong thực tế có không ít người bị hụt hẫng, chán nản, trầm cảm do bất ngờ bị mất đi mục đích trong đời sống mà mình đang đeo đuổi.

Tuy nhiên khi chúng ta mở rộng tâm thức để nhìn lại cuộc sống một cách toàn diện và sâu sắc, chúng ta sẽ nhận ra rằng, một điều gì đó nếu không phải xuất phát từ nhận thức yêu thương, không vụ lợi của lòng vị tha thì dẫu điều đạt được đó có to lớn thế nào cũng chỉ là một ảo tưởng không hơn, không kém. Chỉ có đạt được mục đích của nhận thức yêu thương, bất vụ lợi của lòng vị tha mới khiến con người làm lành, tránh dữ, từ đó tạo được nghiệp lành, giải bớt nghiệp ác. Đó mới thật sự là khởi đầu tốt đẹp cho kiếp vị lai của chúng ta. Và đó không phải là mục đích tối thượng của con người ở thì hiện tại sao?

Nếu những mục đích của con người chỉ được xây dựng trên nền tảng xã hội trần gian thì không có gì đáng nói do sự hữu hạn của nó. Thi sĩ Tản Đà đã viết hai câu thơ tuyệt hay thể hiện sâu sắc ý nghĩa này:

Vèo trông lá rụng ngoài sân Công danh phù thế có ngần ấy thôi!

Page 69: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

69

Đúng vậy ! Một đời rồi cũng qua nhanh, dù con người sống đến trăm tuổi cũng có là bao. “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy”, như chiếc lá vàng vèo bay trong gió, dù cố uốn lượn thì đích đến cũng là mặt đất, rồi mục rã không để lại vết tích gì. Biết vậy, nhưng chúng ta trong thực tế lại cố tình đốt cháy cuộc đời mình một cách vô lý bằng các hành động vô nghĩa. Nhận thức đúng về vấn đề hữu hạn của đời người so với sự vô hạn của tự nhiên không phải là bi quan, yếu thế. Đó chính là tiền đề thiết thực nhất để chúng ta biết quí trọng đời sống này của cha mẹ ta ban cho. Từ sự trân quí đó chúng ta đã thật sự thấy cuộc đời không ngắn ngủi như đã nói.

Động lực chính cho việc tồn tại và vươn lên của mỗi chúng ta trong cuộc sống không phải là lòng ham muốn thành công ở xã hội mà chính là nhận thức được tính chất ngắn ngủ nhưng quí giá trong cuộc đời. Sự khác biệt sâu sắc là ở đây. Khi bị thôi thúc bởi lòng ham muốn, chúng ta luôn bị trói buộc, hạn chế tầm tư duy của lý trí, khiến không giữ được sự sáng suốt. Ngược lại, khi được thúc đẩy bởi sự nhận chân giá trị ngắn ngủi của đời sống hiện tại, chúng ta sẽ nỗ lực thực hiện, những việc làm ý nghĩa hơn, giá trị hơn mà hiện tại có thể mang lại cho sự lâu dài ở kiếp vị lai.

Cổ nhân có câu: “Nhất thất nhân thên, vạn kiếp nan phục”, nghĩa là: một phen để mất thân người, muôn kiếp khó được lại. Như thế, được sanh làm người, dù cuộc đời ngắn ngủi, nhưng được nghe pháp Phật, có thể tu hành để giải thoát, đây là điều đáng quí lắm. Phải biết trân trọng cuộc sống mà cha mẹ ban cho, đừng phí phạm, uổng công ơn sinh thành dưỡng dục của song thân

Những người sống tốt ở đời này luôn giống nhau ở nỗ lực vươn lên. họ có một đặc điểm quí giá chung, đó là mọi suy nghĩ và hành động của họ không bao giờ xuất phát từ lợi ích cá nhân. Họ làm việc vì lợi ích của tha nhân, do đó mọi thôi thúc không xuất phát từ lòng ham muốn. Nếu xuất phát từ sự ham muốn họ đã không thể sống tốt. Nói cách khác, chính chế phục được lòng ham muốn là yếu tố kiên quyết để sống tốt, sống có ý nghĩa.

Sống tốt, sống có ý nghĩa là điều kiện tiên quyết cho tâm được trong sáng, rủ bỏ dần các mê lầm. Người đời ai cũng có khả năng đó, nhưng do nhận định sai từ lòng ham muốn nên bị màn vô minh che phải mà không thể phát hay khả năng vốn có của mình.

Trong “Tục tạng Kinh” có viết chuyện của đôi vợ chồng Dương Thị và Tống Khán, xin trích diễn như sau để nói lên cái ý này.

Trong kinh Pháp cú, kệ số 62, đức Phất dạy rằng:

Thử ngã tử, ngã tàiNgu nhân thường vi ưuNgã thả vô hữu ngã,Hà hữu tử dữ tài?

Nghĩa là:

Con tôi, tài sản tôiNgười ngu thường lo nghĩTa đã là không có,Con đâu? Tài sản đâu?

Vì thế, một khi ý thức được tính chất vô ngã, vô thường của cuộc đời, chúng ta đồng thời thấy được tính chất vô nghĩa của những thành công vật chất mang lại do ta ngày đêm nỗ lực đeo đuổi, điều này ngay tức khắc giải phóng tâm thức ta khỏi sợi dây ràng buộc của lòng ham muốn.

Page 70: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

70

Nguyên tại sứ Giang Hoài có nàng Dương thị, con nhà trâm anh biết trọng lễ nghi. Cha mất sớm nên nàng hết lòng phụng dưỡng mẹ già, sớm viếng chiều thăm, hiếu đạo khôn cùng.

Khi nàng tuổi mới mười lăm thì đã nổi tiếng tài sắc đức độ.

Một đêm kia, nàng trăn trở suy xét, con người sanh ở cõi tạm này, khác gì bức tranh vân cẩu, thấm thoát hiệp tan nếu không thức tỉnh hồi đầu, nghiệp lực nặng nề khó tránh.

Cách vài bữa sau, nàng sắm lương đăng trà quả, đến chùa Phổ Quang gần đó qui y. Từ đó dêm nào cũng tụng niệm kinh Phật, cầu nguyện cho mẹ sống lâu trăm tuổi.

Việc nông đến lúc rảnh rang, nàng vào chủa viếng Phật. Khi về bỗng nhiên gặp một chàng trai trên đường, diện mạo khôi ngô, phng lưu nho nhã. Trai tài gái sắc gặp duyên kỳ ngộ.

Người thanh niên đó chính là Tống Khán, hai mươi tuổi, hình dung đã tuấn tú, ngôn ngữ lại thanh hòa. Chàng là người phong lưu đúng bực, nổi tiếng tao nhân mặc khách, yêu thiên nhiên, thích non xanh nước biếc, ngoạn cảnh, ngâm thơ. Cha mẹ đã mất nên chán ngán thế sự, không màng công danh chỉ vui thú danh sơn thắng cảnh mà thôi.

Tống Khán nghe đồn ở Phổ quang cổ tự, có cây cao bóng cả, có ao hồ trong xanh, nên lần đường tìm đến. Chàng đang say mê ngắm cảnh thì trời tà gác núi, chợt nghe tiếng chuông chùa ngân vang cảnh tỉnh, bất ngờ lại gặp người thiếu nữ, nhan sắc mặn mà, đứng đi đoan trang. Hai người tình cờ gặp nhau, kẻ nhìn đỏ mặt, người thẹn cúi đầu.

Tống Khán về nhà trầm tư suy ghĩ: “Ta nay đã thành nhân, cần lập gia thất, trước nối nghiệp tổ tông, sau tìm công danh vẻ vang cho gia đình, nếu trì hoãn ngày xuân không trở lại”

Nghĩ như vậy, chàng bèn cậy nhờ mối mai đánh tiếng Dương Thị. Sau khi dò hỏi, mẹ nàng biết chàng là một danh sĩ, nên ưng ý gọi Dương Thị lại:

- Phàm ở đời không ai mặc áo khỏi đầu, nay con đã lớn khôn, bổn phận cha mẹ, ai không mong con cái đến tuổi cập kê phải lo yên bề gia thất. Vậy con nên thuận lòng, sắm sửa, chờ đến ngày xuất giá tòng phu, mẹ đã hứa giả con cho chàng Tống Khán rồi.

Tống Khán và Dương Thị nên duyên từ đó. Chàng lo sanh kế nên nhận chân thơ ký một sở diêm (muối)

Nàng Dương Thị từ khi về nhà chồng, công dung ngôn hạnh đủ bề, nội trợ tề gia trọn vẹn. Tuy đã có đôi bạn, nhưng tâm vẫn thường thọ trì, tụng nệm luôn.

Một ngày kia, có người bạn cũ của Tống Khán đến nhà rủ chàng đi Bắc Kinh.

Tống Khán nói cho vợ hay, Dương Thị can:

- Từ đây đi Bắc Kinh, đường xá xa xôi, mưa gió thất thường, xin chàng đừng tham cảnh phú quí, nơi đô hộ là cảnh nhơn tạo, tuy náo nhiệt nhưng sao bằng cảnh tự nhiên, non cao cảnh đẹp, phơi phới nồng nàn, non biếc hồ sen, bóng nguyệt trắng tỏa sẵn có nơi đây, hà tất chàng phải đi Bắc Kinh.

Tống Khán không nghe lời cản của Dương Thị, sửa soạn cùng bạn lên đường, ra khơi vượt sóng. Đi đã vài ngày nhưng thuyền thưa, nhạn vắng.

Ngày thứ hai mươi, trời đang xanh, thình lình mây den che phủ mịt mùng, cuồng phong ào ào thổi tới, mặt biển ba đào, mảnh thuyền lênh đênh không thể nào chịu nổi phải chìm dưới làn nước hung dữ.

Trời biển mênh mông, một màu mây nước, mọi người không còn ai. Tống Khán liền than: “Thôi rồi một kiếp, hổ mặt non sông”.

Page 71: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

71

Than vừa dứt, Tống Khán bỗng đâu thấy bó rơm trôi đến, chàng bám lấy, lần lựa tấp vào mé bờ. Lúc này chàng như say mới tỉnh, không ngờ mình vẫn còn ở cõi dương gian. Tống Khán ôm bó rơm cảm thán: “Cái kiếp sống này nhờ ngươi tế độ”

Nói rồi liền vác bó rơm đi, được ít dặm, mặt trờ đã xế. Thấy xa có quán chàng xăm xăm nhanh tới. Trong quá có bà cụ ngoài bảy mươi, da mồi, tóc bạc. Chàng xin nghỉ một đêm, sáng dậy trời quang, chàng tháo bó rơm phơi, không ngờ trong bó rơm rơi ra một ống tre. Tống Khán thấy lạ, bèn đập ra xem, lạ chưa, trong đó có quyển kinh Kim Cang.

Bà cụ trong quán nói: “Đây là quyển kinh vợ người thường tụng ở nhà”

Nghe như vậy, chàng trong lòng bán tín bán nghi, vộ vành bó bó rơm lại rồi từ tạ bà cụ. Về đến nhà nàng Dương Thị thấy chồng, mưng mừng tủi tủi, nhưng thấy chồng buồn nàng hỏi:

- Sao nay chàng trở về, hành lý để đâu không thấy, ôm bó rơm ở đâu về, mà sao chàng buồn quá vậy?

Tống Khán thuật mọi chuyện cho vợ nghe, Dương Thị nghe xong ngạc nhiên đáp:

- Quả thật có như vậy thật. Từ khi chàng đi, thiếp ở nhà chép ra một bản kinh Kim Cang để mỗi đêm, thọ trì tụng nệm, cầu cho chàng đi bình an. Trong bản kinh có nhiều chữ sai, Thiếp nhờ một cao tăng sửa lại, đã mười ngày qua bản kinh ấy mất. Nếu quả như lời chàng thuật thì đó là nhờ phước lực của Phật gia hộ.

Nói xong Dương Thị bèn mở bó rtơm xem kỹ thì quả trong đó là bản kinh nàng chép.

Tống Khán nhờ vợ sắm sửa lễ Phật, đến quán chàng ngụ một dêm đặng tạ ơn bà cụ. Nhưng đến nơi chẳng thấy quán xá gì cả.

Từ đó về sau Tống Khán tin tưởng Phật pháp, dứt hẳn chí công danh, toàn tâm toàn ý trau dồi dức độ, cùng vợ thường tụng niệm kinh Phật, trang nghiêm trai giới, quyết lòng nương cửa bồ đề, trau gương trí tuệ, may nhờ đuốc tuệ mà khỏi lạc nẻo mê đồ, lên thuyền từ, vượt qua bể khổ.

Sự hình thành ý thức sở hữu và lòng ham muốn có công danh như là một khuynh hướng tự nhiên của con người. “… Phải có danh gì với núi dông” rõ ràng là một hấp lực mạnh mẽ, nó khiến chúng ta được nổi bật giữa đám đông, được trầm trồ tán tưởng. Tống Khán tuy là một “Tao nhân mặc khách”, “Phong lưu nho nhã” và là một “doanh sĩ”, nhưng tất cả những cái vẻ bề ngoài tốt đẹp đó vẫn không nói được gì nhiều về con người của Tống Khán. Mỗi người đời đã dùng các mỹ từ ấy để nói về chàng thì người đời vẫn có thể dùng những từ đối lập để nói về một ai đó như: phóng đảng, thô lậu, bỉ ổi … Xét thấy hai cụm từ ấy về ngữ nghĩa có thể khác nhau, nhưng nó lại hoàn toàn giống nhau khi chỉ về trạng thái bên ngoài của hai đối tượng. Bởi cả hai đối tượng đều có một sự khao khát ham muốn ái dục. Tống Khán trước khi lập giađình đã nghĩ đến nối nghiệp tổ tông, tìm công danh để vinh hiển cho gia đình. Với sự chủ đạo của tư tưởng đó chàng không nghe lời vợ can là điều dễ hiểu, chàng nghe bạn và đi Bắc Kinh. Nhưng may mắn cho Tống Khán, chàng đã có người vợ, người bạn đường đúng nghĩa. Thử hỏi nếu Tống Khán không có được người vợ có tâm lượng như Dương Thị thì sao chàng có thể tự mình thoát khỏi được mọi ham muốn không? Đây là một câu hỏi mà tất cả chúng ta cần quan tâm, vì đây thực sự là điều quan trọng.

Như đã nói ở phần trước, tuy mỗi con người là một thực thể độc lập, chịu trách nhiệm trực tiếp và cao nhất cho mọi suy nghĩ và hành động của mình. Nhưng sự thật chúng ta vẫn có liên đới ảnh hưởng đến các thực thể khác trong một tổng thể bao quanh ta. Sự liên đới này khiến sự độc lập của con người có giới hạn và không có một bản ngã độc lập hoàn toàn nào hết.

Page 72: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

72

Đúng thế, chưa bao giờ chúng ta là một chủ thể tồn tại độc lập. Cái gọi là “đời sống của ta” thật ra chỉ là một phần của cái tổng thể mà thôi. Cái thực thể của ta do đó chỉ có thể tồn tại trong những mối tương quan nhất định với vô số thực thể khác. Không bao giờ có sự tồn tại độc lập của bất kỳ một thực thể nào, cho dù đó chỉ là những sinh vật nhỏ nhất như những siêu vi khuẩn hay một con voi cũng vậy. Mỗi một thực thể chí có thể tồn tại nếu dựa vào sự tồn tại của những thực thể khác và mỗi thực thể đồng thời cũng là điều kiện cho sự tồn tại của một tổng thể. Người ta gọi đó là mối tương quan cộng sinh. Mối tương quan cùng tồn tại này là một định luật tồn tại khách quan mà chúng ta chỉ có thể nhận biết chứ không thể can thiệp được.

Định luật tương quan cùng tồn tại này chi phối mọi thực thể trong vũ trụ, ngay cả trong thân thể này của chúng ta cũng không thể có bất cứ một chi tiết nào tồn tại độc lập. Xét theo ý nghĩa này thì không tồn tại độc lập cũng đồng nghĩa với không chi tiết nào quan trọng hơn chi tiết nào. Tất cả đều tồn tại trong một tương quan mật thiết, mỗi yếu tố là điều kiện cần thiết để tồn tại của các yếu tố khác.

Khi chúng ta nhận chân được qui luật tương quan này, chúng ta sẽ thấy được tính chất bình đẳng tuyệt đối giữa muôn loài, muôn vật. Những thứ mà chúng ta nhìn nhận có sự khác biệt như tính chất, vị thế, giàu nghèo… thật ra chỉ là những hình tướng bên ngoài, còn bản chất thật sự thì đều giống nhau, bình đẳng trong vai trò tương quan trong một tổng thể. Chính trong ý nghĩa này mà một người phu quét đường không thể xem là kém quan trọng hơn vị kiến trúc sư kiến tạo nên thành phố, một tài xế kém không có vai trò bằng một kỹ sư thiết kế chiếc xe… Tất cả đều có giá trị như nhau dù vị thế có khác nhau. Một thực thể trong tổng thể nếu vì lý do gì đó mất đi không ít thì nhiều sẽ có ảnh hưởng nhất định đến các thực thể khác.

Khi không có một thực thể nào tồn tại độc lập được, thì bản ngã của cái “ta” cũng không có lý do gì để tồn tại. Như vậy việc tìm kiếmcái “ta” để xây dựng, tôn tạo nó cho có vẻ “hoành tráng” hơn người khác là một điều không thể, bởi đơn giản là cái “ta” chưa bao giờ hiện hữu theo đúng từ nguyên của nó. Tất cả chỉ hiện hữu trong mối tương quan cùng hiện hữu. Cho nên không thể có “một cái ta” nào cả mà chỉ có “cái ta trong tất cả chúng ta”

Nhận thức đúng về việc hoàn toàn không có cái ta tồn tại độc lập, mà chỉ có chúng ta cùng tồn tại không có nghĩa là phủ nhận sự hiện hữu của các cả nhân trong vũ trụ hay đi đến chủ thuyết hư vô. Bởi như đã nói mỗi cá nhân phải trực tiếp chịu trách nhiệm cao nhất cho mọi suy nghĩ và hành động của mình. Cho nên như phần trước kể chuyện đức Thế Tôn báo hiếu cho cha là Tịnh Phạn Vương, dù có bàn tay của đức Phật đặt lên trái tim mình Tịnh Phạn vương vẫn không thể sống, báo thân hết thì mạng vong, thần thức chuyển theo nghiệp lực mình bồi đắp.

Khi hiểu rõ cái “ta” trong “chúng ta” con người đã đạt đến tinh thần “vô ngã” có nghĩa là không có ta, một cái ta riêng lẻ, đối lập với thế giới bên ngoài. Thực hành tinh thần vô ngã, chúng ta thực sự được giải phóng khỏi những ràng buộc chật hẹp trong sự vị kỷ, hẹp hòi, chúng ta buông bỏ được tất cả những khao khát, ham muốn vốn dễ được hình thành từ ảo tưởng của cái ta không có thật.

Tiêu trừ được những khao khát, ham muốn sai lầm, chúng ta sẽ không còn phải vướng mận những thất vọng tràn trề, đau thương chán nãn. Thay vào đó chúng ta được vui vẻ, nhẹ nhàng cảm thông chia sẻ với mọi người chung quanh vì đã biết rằng đó chính là một phần của chính ta. Những niềm vui, nỗi buồn của ta vốn không tách tời với họ. Giữa chúng ta có duyên với nhau, giữa cha mẹ với con cái có sợi dây liên hệ của Đức Phật và mẹ ngài. Tuy mẹ Ngài bà Ma-ha-ma-da lúc ấy đang ở cõi trời cùng các chư thiên, nhưng nhờ con mình Thái Tử Tất-đạt-đa nơi vườn hoan hỷ, tại cung trời Đao-Lợi mời đến nghe thuyết và nhờ uy thần của Phật mà nhớ lại các kiếp quá khứ, đoạn trừ sạch kiết sử, chứng quả Tu-đà-hoàn. Chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên là một minh chứng khác. Lúc bấy giờ Mục Kiền Liên và thành tựu sám pháp

Page 73: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

73

thần thông, bèn dùng thiên nhãn quan sát khắp thế giới, thấy mẹ mình đang hiện thân trong loài Ngạ quỉ, không được ăn uống, da bọc xương. Tôn giả đau xót liền dùng bát đựng cơm hiến cho mẹ. Nhưng mẹ Ngài do nghiệp chướng quá nặng, cơm biến thành lửa. Tôn giả thống thiết bạch với Thế Tôn. Thế Tôn dạy là phải nhờ thần lực các chư tăng mười phương. Nhân dịp rằm tháng bảy, ngày chư tăng tự tứ, sắm sửa lễ vật, hiến cúng thập phương đại đức chúng tăng, ngày này Chư hiền Thánh Tăng đều bình đẵng thọ cơm tự tứ. Nương nhờ giới thể thanh tịnh, pháp lực nhiệm mầu của Thánh chúng mà cha mẹ của thế chủ hiện tại được trường thọ, hạnh phúc; cha mẹ bảy đời trong quá khứ, thoát khỏi khổ thú, sinh về cảnh giới an lành.

Nghe lời Phật dạy, Tôn giả Mục Kiền Liên sắm sửa các đồ dùng cần thiết, thanh kính dâng cúng chư tăng trong dịp Tự Tứ. Chính nhờ sức chú nguyện của Chư Tăng mà bà Thanh Đề ngay trong ngày ấy thoát khỏi nỗi thống khổ của kiếp Ngạ quỉ.

Chúng ta nhớ cho, Đức Phật dạy không những cha mẹ hiện tại của ta mà đến cha mẹ bảy đời trong quá khứ vẫn có thể nhờ cậy được chúng ta nếu chúng ta thật sự có lòng báo hiếu thì tất cả đều được phước.

Cha mẹ vì vật\y có mất đi cũng không mất hoàn toàn, vì trong thân thể ta có cha mẹ nữa, điều này khến có sự liên đới với nhau, mình làm việc thiện cũng có phần của cha mẹ. Nếu sau khi mất cha mẹ dù đang ở cảnh giới nào cũng hưởng được phước, khi chúng ta làm phước. Chúng ta đừng nghĩ cha mẹ mất lâu rồi, đi đầu thai rồi còn cúng làm gì, cầu làm gì, đó là một suy nghĩ không đúng, do chúng ta có sợi dây liên hệ, một sự gắn kết nghiệp lực với nhau. Chúng ta cũng đừng nghĩ rằng cha mẹ ta lúc sinh tiền làm nhiều việc thiện, nên sau khi chết nếu không thành bậc thánh thì cũng được sinh lên cõi Trời hưởng mọi phước lộc, chứ đâu có đọa địa ngục như bà Thanh Đề mà phải gầy dựng công đức, thỉnh cầu chư Tăng cứu độ.

Trên đây chỉ là mấy ví dụ điển hình về sự liên hệ duyên nợ, ân oán và ảnh hưởng của chúng ta đến cha mẹ mình như thế nào. Nhưng chú ng ta không chỉ có chừng đó sự liên hệ, đối tượng liên hệ của chúng ta còn được mở rất rộng đến các đối tượng khác nhau như giữa đôi vợ chồng Tống Khán và Dương Thị cụng vậy. Ở đây rõ ràng có sự ảnh hưởng rất lớn của Dương Thị đức hạnh, chuyên tâm thọ trì tụng niệm kinh Kim Cang mà Tống Khán tai qua nạn khỏi.

Triết học phương Đông quan niệm về nhân sinh rằng: “Nhân Chi sơ Tánh Bổn Thiện”, quan niệm này có lẽ xuất phát từ việc quan sát các em bé mới sinh và những năm đầu của nó. Sự tinh khôi, vô lo, không vụ lợi và chất phát của các em là cả một khối tài sản ai cũng hằng mong ước hướng tới, chúng ta yêu quí, nựng nịu các em bởi các em đang sở hữu khối tài sản lớn này mà chúng ta không có. Hay nói đúng hơn là chúng ta đã đánh mất khối tài sản này lần hồi theo năm tháng chồng chất và sự lăng lộn vào cuộc sống của chúng ta. Một triết gia phương Tây nói: “Sức khỏe cũng như tiềnbạc, khi chúng ta nghĩ đến có nghĩa rằng nó đã gần hết rồi” và ở đây chúng ta có thể thêm vào “Sức khỏe cũng như tiến bạc và cả sự thánh thiện…”. Sở dĩ những người càng lớn càng năng đi đến những nơi như Chua, nhà thờ là bởi họ đã thấy rất rõ bản thân mình không còn được như thưở ấu thơ một sự tiếc nối, cay đắng vì không có cơ hội nữa. Như vậy chúng ta biết rất rõ về con người chúng ta: “Sinh ra vốn tính hiền lành”. Có thể những người đến Chùa, nhà thờ chưa chắc tâm họ đã tin gì vào các vị Thần linh, nhưng một điều rõ ràng là họ đã bắt đầu không tin vào bản thân nữa. Có thể họ không biết gì về định luật vô thường, nhưng họ thấy rằng không có gì là bất biến cả, mọi cái điều biến đổi và đầu tiên, bản thân họ là một minh chứng.

Nhưng liệu có phải: “Con người sinh ra vốn tính hiền lành” hay không? Vì cũng có thuyết ngược lại: “Nhân chi sơ tánh bổn…ác”. Quan iện này cho rằng không ai tự dưng mà lương thiện cả, sở dĩ con người có tính thiện là do được học tập, rèn luyện từ thưở nhỏ. Cho nên ca dao Việt Nam có câu: “Dạy con từ thửơ lên ba, dạy vợ từ thửơ mẹ cha đưa về”. Con trẻ

Page 74: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

74

nếu không được giáo dục tốt, uốn nắn tốt thì chỉ có thể đi vào con đường xấu chứ không thể tốt đẹp được. Điều này rất dễ kiểm chứng, bằng vào kinh nghiệm của bản thân. Một em bé đang bú bỗng nhiên cắn vào bầu vú rất mạnh, khiến mẹ em phải la lên, một con gà mới nở rơi vào tay em bé, em bé bóp chết, v.v… Các em vô tư, không biết việc làm của mình là ác, đúng vậy các em không biết việc của mình làm.

Như thế việc chúng ta yêu các em là vì các em không biết việc của các em làm, chứ không phải các em “vốn thiện”. Đương nhiên chẳng phải vì thế mà chúng ta nghĩ rằng các em “vốn ác”, cái mà chúng ta gọi là “ác” bởi chúng ta quán xét sự việc trong tầm nhận thức của chúng ta, còn các em không nghĩ thế. Thế thìcác em nghĩ gì khi hành động như vậy? Đơn giản là các em không nghĩ gì cả, các em không biết cắn thì sẽ đau và các em không đi bắt gà để giết vì các em lúc đó chưa có khái niệm về sự sống chết. Cho nên phải mạnh dạn nói rằng các m “vốn không thiện, không ác”. Thiện và ác là do môi trường sống và cách tiếp thu giáo dục của các em mà thành.

Tuy vậy con người vốn được sinh ra là một sinh vật giống như mọi sinh vật khác, bị chi phối bởi qui luật phải đấu tranh để sinh tồn mọi hoạt động và tư duy đều xoay quanh vòng xoáy làm cách nào để tồn tại đều trở thành mục tiêu khai thác, tranh đoạt. Đôi khi vật chất đoạt được vượt quá xa nhu cầu tồn tại, nhưng con người vẫn không ngừng tranh đoạt, đây là một vấn đề kỳ lại và khó hiểu đối với những nhà đạo đức học, nhưng cũng không có gì khó hiểu đối với những nhà xã hội học, do vật chất có tính chất quyết định duy nhất cho sự tồn tại của con người, nên nó cũng có hấp lực rất cao, là mục tiêu của các vụ tranh đoạt, cho nên có được vật chất càng nhiều càng bảo đảm cho sự tồn tại và thống trị.

Khi bị lôi kéo vào vòng xoáy phải đấu tranh để sinh tồn, mọi sinh vật trong đó có con người vận hành quanh cái trục tranh đoạt, tất cả đều có suy nghĩ (nếu biết suy nghĩ) rằng mọi hành động của mình đều đúng, không có gì sai trái cả. Nói như một triết gia phương Tây:”Mọi loài đều đấu tranh, chiếm đoạt không gian và thời gian của các loài khác”, vậy mà không loài nào thấy mình quá đáng cả”.

Ở đây chúng ta muốn nói đến con người. Hầu hết những việc làm “quá đáng” của chúng ta đều bị xếp vào loại “xấu ác”. Nhưng như đã nói những việc làm xấu ác mà con người phạm phải thường không phải vì bản thân họ muốn. Điều mà họ mong muốn, ưa thích chính là những giá trị đạt được mà vật chất đó đem lại qua việc làm xấu ác đó. Một tên trọm vốn dĩ không hề yêu thích hành động ăn trộm của nó, nhưng bởi hấp lực vật chất mà tên trọm nhắm đến quá lớn khiến tên trộm không có sự chọn lựa khác. Một quan chức tham nhũng cũng không phải vì thích làm điều đó, nhưng động lực thôi thúc khiến vị quan này phải bỏ qua mọi tiêu chuẩn đạo đức cũng như pháp luật chính là sự cám dỗ của cuộc sống xa hoa mang lại.

Nói một cách khác, động lực thúc đẩy chúng ta đi vào con đường tội lỗi chính là lòng ham muốn, một sự ham muốn vượt quá mức của nhu cầu tồn tại. Nếu có thể thỏa mãn lòng ham muốn mà không phải làm những điều xấu ác, có lẽ chẳng mấy ai chịu nhúng tay vào tội lỗi. Vì vậy, có thể nói rằng thủ phạm đứng sau mọi tội lỗi của chúng ta là lòng tham. Nhưng liệu có bao giờ con người thỏa mãn được lòng tham? E rằng không, khi cái than này vừa được thỏa mãn thì nó không còn là mục tiêu nữa, bởi mục tiêu bây giờ đã cao hơn và nó được hình thành ngay khi mục tiêu trước vừa đạt được.

Cũng có nhiều trường hợp người ta thực hiện những hành vi xấu ác chỉ vì hận thù, ghen tức… Nhưng nếu xét kỹ những nguyên nhân dẫn đến sự thù hận, ghen tức đó chúng ta cũng nhận thấy bóng dáng của lòng ham muốn thông qua các xungđột về địa vị, danh tiếng, quyền lực … Vì vậy, nếu chế ngự được lòng ham muốn thì những hành vi xấu ác thuộc loại này cũng không thể xảy ra.

Page 75: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

75

Ở phần trước, chúng ta đã phân tích và thấy được rằng lòng ham muốn tự nó không phải là yếu tố sẵn có, mà vốn dĩ chỉ được hình thành từ những nhu cầu của chúng ta rồi sau đó được nuôi dưỡng ngày càng lớn bởi ý thức chấp ngã.

Chúng ta không thể ham muốn những sự vật mình không có nhu cầu sử dụng chẳng hạn như dnah hiệu Anh hùng hay học hàm một tiến sĩ, khi chúng ta là người tầm thường và học lực thấp, vì thực tế chúng ta không thể sử dụng chúng. Vì lẽ đó, sự ham muốn dù vô tận nhưng không phải với bất cứ thứ gì.

Một đứa bé hình thành lòng ham muốn đối với bầu ví mẹ trước tiên vì đó là nhu cầu để nó tồn tại. Nó sẽ ôm giữ bầu vú mẹ và khóc thét lên phản kháng khi bị giằng ra mà chưa được bú no. Cũng thế, nó sẽ khóc khi đói mà vẫn chưa được mẹ cho bú, những lúc như thế nếu được đáp ứng trở lại nó sẽ bú một cách tham lam hơn, vì trong nó đã hình thành một nỗi sợ hãi về sự không an toàn, nó thấy nguồn sữa mẹ đó nằm ngoài tầm kiểm soát của nó. Sự tham lam đã hình thành từ ột nỗi sợ hãi nào đó mà trong quá khứ chúng ta đã vấp phải, thậm chí, với kinh nghiệm đã trải qua, con người luôn có xu hướng đề phòng những bất trắc khác nữa, dù trên thực tế các bất trắc này chưa bao giờ xảy ra với chúng ta.

Lòng ham muốn đã bắt đầu lớn lên vượt quá nhu cầu vì được nuôi dưỡng bởi ý thức chấp ngã, ban đầu là bầu vú là của “ta”, người mang bầu vú ấy cũng của “ta”, rồi đến những gì thuộc về mẹ ta là của “ta” không ai khác được dùng đến, dù những thứ ấy ta không sử dụng hay không còn sử dụng nữa.

Cái “ta” càng lớn, ý thức chấp ngã càng phát triển, do đó lòng ham muốn cũng không ngừng phát triển và đương nhiên như đã biết, lòng ham muốn đầu tiên được xuất phát từ một nỗi sợ hãi có thật đó là nguồn sữa mẹ luôn nằm ngoài tầm kiểm soát, sau đó những nỗi sợ hãi khác hầu như chỉ có tính chất mơ hồ do không đủ năng lực tự tin là chính, như sợ không được đẹp, không được yêu thương, sợ không học đạt yêu cầu như người khác, sợ không được kính trọng, v.v… Những nỗi sợ hãi mơ hồ này luôn hiện diện trong tư tưởng con người khiến chúng ta tạo ra các nhu cầu khác không thuộc bản chất thật của ta, như cố ăn mặc đẹp hơn mọi người, cố tỏ ra giàu có hơn thực tế, cố tỏ ra có uy quyền, cố tỏ ra có năng lực, v.v… Những nhu cầu này chính là thủ phạm khiến sự ham muốn không có điểm dừng, dân gian Việt Nam ta có câu: “Lòng tham không đáy”, thật là một câu nói tượng hình. Có quá nhiều những kinh nghiệm xưa và nay cho chúng ta thấy, các vị vua chúa ngày xưa kho đạn như núi, thê thiếp cả trăm người… Họ vơ vét như vậy để làm gì? Để đỡ bớt sợ hãi, càng có nhiều của cải càng bảo đảm sự tồn tại, ít nhất họ cũng nghĩ như vậy. Cho nên xét cho cùng, mọi sự ham muốn quá độ đó cũng là một nhu cầu, bởi có nó chúng ta cảm thấy được yên tâm hơn và cũng ở mặt khác nó cũng cho chúng ta biết những hành động như thế, suy nghĩ như thế đã biểu lộ sự thiếu năng lực, thiếu tự tin và yếu đuối của những kẻ có ham muốn quá độ đó.

Còn một tên khác để gọi các hình thức biểu lộ này, đó là Vị kỷ, có nghĩa là chỉ biết quan tâm đến cá nhân mình bất chấp đến mọi người chung quanh. Tính vị kỷ chi phối mọi suy nghĩ và hành động của chúng ta ở mọi lúc, mọi nơi ở từng mức độ khác nhau và cũng đa dạng, phức tạp không thể biết trước được. Đối với những người có ham muốn quá lớn mà không biết nhẫn nại chúng ta rất dễ dàng nhận ra cách ứng xử đầy tham lam và hẹp hòi của họ, bất chấp mọi thiệt hại gây ra cho kẻ khác. Ở những người có mức độ vị kỷ ít hơn, lòng tham lam thường được kiềm chế, cân nhắc trước khi biểu lộ thành hành động và do đó không những ít gây tổn hại cho người khác mà còn có nhiều cơ hội phục thiện hơn để trở thành một người tốt đẹp, do biết đắn đo, cân nhắc, kiềm chế một lúc nào đó họ sẽ kìm chế được tính vị kỷ của mình.

Mặt khác, đối với những người ít hoặc không có điều kiện học tập tốt, tính vị kỷ nơi họ thường được bộc lộ rõ qua lời nói cũng như hành động. Nhưng với người có học hành đàng hoàng ở những môi trường giáo dục tốt, họ thường ít vị kỷ hơn, nhưng khi đã vị kỷ

Page 76: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

76

thường rất trầm trọng về tính chất và khó nhận ra ngay, chính vì thế ở các trường hợp này rất nguy hiểm và ít có cơ may phòng chống hay sửa chữa hậu quả của nó.

Một kẻ du côn chận đường hành khách đòi tiền mãi lộ đã biểu lộ tính ích kỷ rất dễ nhận ra, với bộ dạng hung hăng, lời nói đầy hăm dọa. Vì điều đó không được che đập dưới bất cứ hình thức nào. Nhưng đối với một nhân viên kiểm soát giao thông tham lam vị kỷ sẽ có hành động khác. Với dáng vẻ tự tin trong bộ dắc phục chuyên ngành của mình việc nhận tiền mãi lộ được che đậy dưới hình thức “phạt” do vi phạm một điều gì đó mà thực chất không có, việc thu tiền mãi lộ đã trót lọt và hầu như không ai biết chuyện gì xảy ra, chỉ có người nhân viên biến chất nọ biết rõ mà thôi. Ở đây tính vị kỷ được che đậy nhờ tính hợp pháp của bộ sắc phục nên rất ít được phát hiện. Điều này lý giải tại sao những vi phạm kiểu này khi bị phát hiện thường rất trầm trọng vì sự sai phạm đã hình thành một hệ thống. Đương nhiên tính hợp pháp đã được dùng để che đậy nên không thể phát hiện sớm hơn để sửa chữa, uốn nắn. Khi đã trở thành tinh vi, chuyên nghiệp, việc thực hiện hành động tham lam cũng đã được nâng lên một vị thế khác và lại càng khó nhận ra. Nghĩa là kẻ vi phạm này có đủ trăm phương nghìn kế để biện minh cho việc làm của mình.

Trong nhiều trường hợp khác, tính vị kỷ âm thầm thúc đẩy chúng ta thực hiện một cách không cố ý mà đôi khi bản thân chúng ta cũng không chú ý, không biết, giống như một chiếc xe xuống dốc đã lệch khỏi mặt đường, gần rơi xuống rãnh đường mà tài xế vẫn không hay biết để kiểm soát.

Chúng ta quá chú tâm vào việc làm sao đừng bị rơi vào vòng xoáy của sự chi phối vật chất và quá đăm đăm vào đó chúng ta lại có thể bị rơi vào một thứ ham muốn vị kỷ khác ngoài vật chất như lời khen tặng, sự kính trọng, được nổi tiếng, v.v… Trong trường hợp này lòng thamlam, vị kỷ càng khó nhận biết, không những đối với người ngoài mà còn ngay chính chúng ta.

Vì lẽ đó mà người xưa luôn dạy ta: “Thi ân bất cầu báo”, nhưng bởi chúng ta không hề biết, không hề kiểm soát được hành động của mình nên cứ nghĩ mình không bị chi phối nào từ phía ngoài, như trường hợp của một nữ thí chủ (tiền thân và Thanh Đề) đến chùa cúng dường một lon gạo, khi chúng dường người nữ thí chủ này không đòi hỏi hay mong ngóng được nhà chùa báo đáo một vật phẩm nào cả. Chính vì vậy bà ta cứ đinh ninh vào sự trong sáng của mình, cho đến khi nhận được sự thờ ơ không đón tiếp của các chú đạo, bà mới lộ rõ nhu cầu được nể trọng, được khen tặng của mình. Nhưng sự lộ rõ đó là đối với vị hòa thượng trụ trì (tiền thân Tôn giả Mục Kiền Liên) và với chúng ta sau này khi biết chuyện, chứ tiêng người nữ thí chủ đó không biết, bà tin chắc vào sự trong sáng của mình. Chính vì thế bà mới bảo thủ, qui kết mọi sai lầm cho nhà chủa và thề nguyền sẽ sĩ nhục mọi thầy chùa mà bà sẽ gặp cũng như giận dữ hắt đổ lon gạo đi và giẫm đạp lên.

Tóm lại, có thể nói rằng ý thức chấp ngã hay tính vị kỷ là nguyên nhân chính tạo ra khuynh hướng xấu ác của con người, bởi nó nuôi lớn lòng ham muốn và thúc đẩy con người đi vào con đường sai trái. Do vậy chúng ta cũng có thể suy luận ngược lại để thấy rằng, nếu diệt trừ được sự vị kỷ hay ý thức chấp ngã thì lòng ham muốn của chúng ta sẽ không thể phát triển vượt quá như cầu thật sự trong đời sống chúng ta.

“Đói ăn, khát uống”, bốn từ ngắn gọn, dễ đọc, dễ nghe nhưng hoàn toàn khó thực hiện. Bởi không phải cứ đói là ăn, cứ khát là uống, vì nếu không có một ý chí kiểm soát thì chúng ta có thể ăn nhiều hơn phần của mình và uống cũng nhiều hơn phần của mình. Như vậy đã là sự vị kỷ, chấp ngã. Đói ăn, khát uống phải được hiểu rằng chỉ khi đói mới ăn và ăn không những chỉ ăn phần của mình mà còn ăn vừa đủ, không ăn để thỏa mãn cái bụng; Uống cũng vậy, uống khi khát, cũng chỉ vừa đủ và phải cẩn thận, không gì dễ bằng việc uống nước, nhưng chính vì quá dể nên chúng ta xem thường và hậu quả là sặc sụa, ho. Khi kiểm soát

Page 77: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

77

được việc ăn uống chúng ta đã kiểm soát được lòng vị kỷ, sự ham muốn đến một giới hạn tận cùng rồi.

“Miếng ăn là miếng tồn tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu”, thật không còn gì sát thực hơn và cũng không gì cay đắng hơn! Phải nói rằng chính miếng ăn là thủ phạm đầu tiên và cuối cùng lôi kéo chúng ta lê lết qua hết những nẻo đường tăm tối này đến vũng lầy khác và cuối cùng là dẫn đến chiến tranh, dẫn đến suy đồi bại hoại. Một học giả phương Tây viết: “Con người tự đào lỗ chôn mình bằng chính hàm răng của họ”, hoàn toàn đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Ăn nhiều đồng nghĩa với cái chết, chết thể xác lẫn tâm hồn.

Như vậy, muốn diệt trừ mọi tật xấu, hãy bắt đầu bằng việc kiểm soát ăn uống hàng ngày của chúng ta. Phương pháp này nghe qua thật đơn giản nhưng hiệu quả vô cùng to lớn, bởi chẳng phải mọi bất hòa, mọi cuộc chiến tranh đều có nguyên nhân sâu xa từ miếng cơm, manh áo đó sao? Kiểm soát được việc ăn uống con người đã triệt tiêu được trở lực của lòng yêu thương. Chẳng thế mà ông cha ta khi nói đến lòng yêu thương thì sự thể hiện của nó phải là “nhường cơm xẻ áo”.

Lòng yêu thương mang đến cho chúng ta niềm vui thanh thản, nhẹ nhàng và cao quí. Điều này chúng ta thật dễ kiểm chứng, giúp được một học sinh tiếp tục đến trường bằng số tiền mình dành dụm được là cả một sự hân hoan khó tả; cùng lối xóm dựng lại căn nhà bị sập do cũ nát, lòng ta cũng thật sự thấy ấm áp hơn trong ngôi nhà của mình mỗi khi có gío táp, mưa sa.

Lòng vị kỷ thì ngược lại, tuy thỏa mãn được trong mấy giây phút đầu tiên do sự ích kỷ mang lại, nhưng ngay sau đó là cả một sự nặng nề, bực bội vì nỗi cô đơn xâm chiếm. Con người không thể vui một mình hay có thể vui với những người cùng ích kỷ như mình.

Tuy nhiên mối tương quan đối kháng của hai khuynh hướng này lại là vấn đề rất ít người quan tâm. Trong thực tế, sự ích kỷ luôn là trở lực lớn nhất ngăn cản chúng ta mở rộng lòng yêu thương. Mặc dù là hai khuynh hướng đối nghịch nhau, chúng hoàn toàn tách nhau, nhưng vẫn luôn hiện diện cùng nhau trong mỗi chúng ta. Chúng không rời khỏi con người, vĩnh viên cho đến khi chết, dù mạnh yếu có lúc này lúc khác. Khi lòng yêu thương được phát triển, tính vị kỷ sẽ tạm lui, ẩn nấu đâu đó, nhưng không hoàn toàn mất đi. Ngược lại không phải tính ích kỷ mạnh lên mà do lòng yêu thương của ta đang yếu đi khiến tính vị kỷ lớn lên. sự thật này đã tạo nên những mâu thuẫn nội tại trong bản thân mổi chúng ta. Đôi khi đứng trước một quyết định nào đó, bản thân ta thường bị giằng co giữa hai khuynh hướng này. Trong khi tính ích kỷ luôn thôi thúc ta giành lấy mọi nguồn lợi về mình thì lòng thương yêu lại hướng ta đến việc chia sẻ và giúp đỡ người khác. Mâu thuẫn tất yếu ở đây là chúng ta không thể cùng lúc làm được hai điều này, lợi người và lợi ta. Vì thế việc chọn một trong bao giờ cũng là chuyện khó khăn và đòi hỏi nhiều nghị lực.

Nếu chúng ta đã từng đứng trước một sự giằng co, chọn lưa tương tự chúng ta mới hiểu thế nào là “khó khăn và đòi hỏi nhiều nghị lực. Những ai sống buông thả đều rất ít khi trãi qua tâm trạng giằng co này, vì thế họ không có khả năng hiểu được sự gay go của nó. Chỉ khi nào nhận chân được giá trị đích thật của cuộc sống và biết quay về đời sống hướng thiện thì họ mới đối mặt với tâm trạng khó khăn này.

Con người vốn không ai là hoàn thiện “Nhân vô thập toàn”. Nếu không được hướng dẫn từ sự công phu tu tập hướng thượng, con người nếu để tự do hành động một cách vô thức, sẽ đi dần đến cái ác. Cho nên những khuynh hướng xấu ác, lầm lạc là phổ biến ở tất cả chúng ta. Tuy vậy, vẫn có sự khác biệt ở mỗi cá nhân, những trỡ lực đó gây được nhiều ít khó khăn là tùy vào sự buông thả hay không ngừng học tập để chống chọi, để vươn lên hoàn thiện chính mình.

Page 78: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

78

Vì thế, việc nhận ra được tính ích kỷ như một sự trở lực trong sự phát triển trong lòng yêu thương, không hoàn toàn đồng nghĩa với việc vượt qua được trở lực ấy. Ngay cả sự nhận biết trở lực này đã là một khó khăn không nhỏ. Nhưng khốn thay, khi nhận biết trở lực nào ngóng trở mình không đến được với lòng thương yêu, nhưng mình vẫn không có khả năng vượt qua thì đó hoàn toàn đã trở nên bi kịch lớn cho đời mình. Còn gì đớn đau bằng khi biết nguồn nước cứu sống mình chỉ còn cách mấy bước chân nhưng chúng ta lại hoàn toàn kiệt sức, không thể bò đến đó được, cơn khát lúc này mới dữ dội làm sao. Bởi vậy, khi nhận ra chính đạo hãy mạnh dạn và quyết tâm đi trên con đường đó, dù chông gai, có như thế tâm hồn chúng ta mới thư thái, bình yên, dẫu có đi được bao xa cũng không thành vấn đề, vấn đề chính là chúng ta không sợ lạc lối nữa. Nếu không như thế con người chúng ta vốn không đạt được gì nhiều từ các trở lực củalòng yêu thương, bây giờ lại khó khăn gấp bội đã nhận chân được trở lực mà vẫn không thể loại bỏ nó.

Một ví dụ: Lòng ganh tị chẳng hạn, vì sau chúng ta lại thấy khó chịu trước những thành công của người khác, ngay cả khi điều đó không trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến mình? Mặc dù sợi dây liên hệ ở đây là mỏng manh và rất khó nhận ra, nhưng điều gây khó chịu cho ta là bởi chúng ta thấy như bị lép vế, không nổi bật lên được trước sự nổi lên của người khác. Một lần nữa cái “ta” lại được nói đến. Tự sâu trong lòng mònh, chúng ta luôn có cảm giác những thành công của kẻ khác bao giờ cũng là trở ngại cho sự thành công của mình. Điều này đương nhiên không đúng, vị sự thành công bao giờ cũng mang tính tích cực, nó có sợi dây liên đới, móc xích với nhau, sự thành công của người này sẽ tạo điều kiện để nhiều người khác cùng thành công ở mức cao hơn, chứ không bao giờ là ngược. Nhưng lòng ganh tị luôn cho ta một suy nghĩ ngược lại. Chính vì điều này mà những người thất bại luôn lẫn tránh những người thành công, chứ không phải do đã thành công nên “giàu đổi bạn…” Nếu dẹp bỏ lòng ganh tị phải nói chắc chắn rằng chúng ta rồi cũng sẽ thành công. Nếu không như thế tạo sao xã hội lại phát triển theo su thế đồng đều đến vậy, có ngành học nào còn áp dụng những phương thức, những công cụ cách đây nữa thế kỷ đâu. Một ngành khoa học tiến bộ sẽ kéo cả nền khoa học tiến bộ, đó là chân lý mà chúng ta không cần phải bàn cải.

Một ví dụ khác: ghen tuông. Hầu hết chúng ta luôn nghĩ rằng ghen tuông là biểu hiện của tình yêu, bởi không yêu làm sao có thể tức giận, đau khổ, nhớ nhung về người đó. Đúng vậy, ghen tuông có nguồn gốc ở tình yêu, nhưng nó đã biến thái để trở thành bệnh hoạn, vì yêu thương không thể đem đến đau thương cho ai. Sự thật là khi yêu ai đó, chúng ta muốn luôn thuộc về người ấy và chỉ mình mà thôi. Nghe qua thì thật cao cả, hy sinh, nhưng thật ra đó là một sự vị kỷ không hơn, vì mình muốn thuộc về người đó cũng đồng nghĩa người đó cũng thuộc về mình, đó là một sự chiếm hữu trá hình. Đúng hơn nữa khi nói rằng, chính ý thức chiếm hữu đã thúc đẩy lòng ghen tuông.

Điều này lý giải cho những trường hợp hy sinh cho tình yêu, khi con người thực sự chiến thắng được ý thức chiếm hữu và chỉ hoàn toàn nghĩ đến hạnh phúc của người mình yêu. Trong những trường hợp này, chúng ta không thể tìm thấy bất cứ dấu hiệu nào của sự ghen tuông. Ngược lại nếu không thấy được khuynh hu71ng chiếm hữu, người ta sẽ sẵn sàng làm bất cứ điều gì để thỏa mãn ghen tuông, ngay cả khi biết chắc điều đó sẽ gây tổn hại cho người mình yêu thương. Đúng hơn nữa lúc này họ kh6ng còn yêu nữa, họ đang căm ghét thì đúng hơn, vì sự chiếm hữu mới dẫn đến căm ghét còn tình yêu chỉ chấp nhận sự hy sinh.

Vì vậy, lòng yêu thương mỗi khi bị chi phối bởi ý thức chiếm hữu sẽ bị biến dạng theo từng mức độ. Khi yêu thương ai mà không bị chi phố của ý thức chiếm hữu tình thương yêu đó mới thật sự có được niềm vui thanh thản và hạnh phúc trng cuộc sống. Còn khi bị ý thức chiếm hữu chi phối, lòng thương yêu bị giới hạn trong sự hẹp hòi, tính toán do đó không thể có hạnh phúc đúng nghĩa.

Page 79: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

79

Một phụ nự có con lần đầu, tất cả mọi bản năng của người mẹ sẽ thúc đẩy tình yêu vô bờ bến với đứa con của mình. Tình thương đó sẽ giúp người mẹ tiếp nhận mọi khốn khó, vất cả từ việc có con mang lại, cho nên người mẹ lúc này rất dễ thương cảm, cởi mở hơn với các bà mẹ khác và cả những đứa trẻ khác.

Tuy nhiên nếu tình thương đó bị chi phối bởi ý thức chiếm hữu, lòng người mẹ ấy sẽ nảy sinh lòng ích kỷ và chỉ biết thương con mình, vì những đứa trẻ khác không thể chiếm hữu được. Lòng ích kỷ của sự chiếm hữu sẽ thúc dục người mẹ toan tính, làm cách nào để phần lợi luôn ở phía con mình nhiều nhất, mặc cho các bé khác thiệt thòi như thế nào. Giờ đây lòng thương yêu của người mẹ không còn trong sáng nữa, nó đã bị chi phối bởi sự chiếm hữu, tình thương đó bị biến dạng khiến nó thay đổi tính chất mẹ con thành tính nhất một bà chủ với một vật sở hữu.

Những ảnh hưởng tương tự như vậy của sự chiếm hữu có thể nhận ra ở rất nhiều trường hợp. Nếu chúng ta không có được niềm vui thanh thản và hạnh phúc thật sự khi thương yêu, có thể chúng ta phải xem lại mình, vì nhiều khả năng chúng ta đang rơi vào trạng thái chiếm hữu mà chúng ta chưa biết. Bởi quá yêu thương con người rất dễ lạc lối vào sự chiếm hữu; Yêu thương ai, hãy xem bản thân đối tượng yêu thương là một thực thể độc lập, đối tượng đó hoàn toàn sống và phát triển chỉ vì đối tượng đó, không liên quan gì đến chúng ta, đừng nhào nặn đối tượng yêu thương đó theo sự mong muốn của mình, đó mới thật sự yêu thương đúng cách. Chỉ có biết yêu thương như vậy mới không bị tổn thương cho đối tượng yêu thương và cả chính chúng ta.

Do đó chúng ta không thể thực hiện lòng thương yêu một cách trong sáng, nếu như không vượt qua được trở lực của sự chiếm hữu. Khi trong con người chúng ta hình thành tínhcách chiếm hữu, chúng ta thật sự chỉ còn nghĩ đến mình mà thôi, dẫu đôi lúc chúng ta cũng hành động vì sự hy sinh cho ai đó, nhưng đó chỉ là trường hợp cá biệt và không thường xuyên. Đặc biệt, đối tượng đầu tiên chúng ta nghĩ đến thường là chính… chúng ta, người ta gọi đó là “ý thức chấp ngã”

Sự chiếm hữu nếu đạt kết quả cũng chỉ cho chúng ta một thời gian thỏa mãn nhất định, nhưng luôn luôn âu lo, vì chiếm hữu là khái niệm chỉ tồn tại nơi kẻ mạnh mà chúng ta thì không thể mạnh mãi được. Do vậy ý thức chiếm hữu là một loại ý thức không bề vững, nó dễ bị thoái hóa và biến dạng dù với tinh thần hay vật chất đều có sự không bền vững như nhau. Đối với người bị chiếm hữu cũng như kẻ chiếm hữu thật sự cũng có tình cảm với nhau, cũng đậm đà nhưng như đã biết, do tính chất chiếm hữu, thứ tình cảm này luôn bị áp lực của sự ép buộc nên không thể bền vững, nó có yếu tố của một loại ảo tình, không thật. Khi lập gia đình, lấy vợ, lấy chồng chúng ta ngoài miệng thì nói yêu nhau, nhưng kỳ thực là chiếm hữu nhau. Sinh ra con cái, các bậc cha mẹ cũng bảo yêu thương con cái, nhưng cũng vậy, chúng ta chiếm hữu con cái là chính. Do ý thức chiếm hữu này mà chúng ta luôn sống trong một thứ tình cảm ảo, chồng tôi, vợ tôi, con cái của tôi. Sự chiếm hữu càng trọn vẹn thì khi đỗ vỡ, mất mát con người chúng ta càng đau khổ.

Định luật vô thường của vạn vật tất cả chúng ta đều iết, ấy vậy mà ý thức chiếm hữu làm của riêng vẫn luôn mạnh mẽ, cứ như định luật vô thường sẽ không chạm được đến ta.

Người viết sách này hồi còn nhỏ đã được nghe một câu chuyện có thể dịp này hầu bạn đọc được:

- Ở thành phố thuộc nước Xá Vệ nọ, từ khi được đức Phật đến thuyết pháp, giáo hóa đại chúng, thì dân trong thành trở nên có đạo đức, có lễ độ, biết thương yêu đùm bọc nhau và đặc biệt hiểu rất rõ về sự vô thường ở cõi nhân gian này. Họ sống thật bình yên, hạnh phúc, biến nước Xá Vệ trở tàhnh một xứ an lạc.

Page 80: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

80

Tin này truyền đi gần xa, có nhiều người ở nước Ma-Kiệt-Đà ngưỡng mộ đức Phật, không quản đường xa cố tìm đến nước Xá Vệ cầu Phật dạy bảo

Số là nước Xá Vệ ở vào xứ nóng thường có nhiều rắn độc lẫn vào cỏ khô, nếu ai vị nó cắn thì chết ngay lập tức, không cách gì cứu được.

Hôm đó, một khách xa tìm đến nước Xá Vệ cầu Phật, vừa đến ngoài thành, trời oi bức, vị khách ngồi nghĩ dưới một bóng cây cổ thụ, nhìn bên đường thấy có hai người một già một trẻ dang cuốc đất. Bỗng đâu một con rắn độc bên dưới đám cỏ phóng ra cắn chết người trẻ tuổi, người lớn tuổi chạy lại, thấy người kia đã chết hẳn, ông lộ vẻ buồn một chốc rồi thản nhiên quay lại chỗ cũ cuốc đất.

Người khách xa thấy thái độ đó lạ quá, liền tiến lại gần ông lão mà hỏi rằng:

- Này cụ ! cậu thanh niên vừa chết kia là gia nhân của cụ ?

Ông già đáp tự nhiên:

- Nó là con tôi.

Người khách ngạc nhiên hỏi:

- Ua! Lệnh lang bị rắn cắn chết, sao cụ lại thản nhiên quá vậy, cụ không đau buồn sao?

Ông già lại nói:

- Nó là con trai tôi thật, nhưng bây giờ đã chết, thiết tưởng dù có khóc than chỉ thêm phiền não mà cũng chẳng cứu sống nó được. Vậy khóc than có ích lợi gì? Con người ở đời này trước sau thế nào cũng phải chết, luật vô thường, có thành tựu thì phải có hoại không, đó là hiện tượng tự nhiên của tuần hoàn vũ trụ. Nếu lúc sống gây nhiều nhân thiện, thì sau có báo ứng tốt, nhược bằng gây nhiều nhân ác thì có ác báo không sai. Còn nay đã chết rồi, chẳng còn ý nghĩa gì nữa.

Ông già nói xong, thấy khách thừ người ra vẻ suy nghĩ liền nói:

-Phải chang ông định vào thành? Tôi muốn cảm phiền giúp cho một việc, phỏng có được không?

Vị khách nhận lời nói:

- Có việc gì xin cụ cứ nói.

Ông già lộ vẻ vui mừng nói:

- Thế thì hay lắm ! Này nhà tôi ở ngay cổng thành đi vào, rẽ sang phải, bỏ gian đầu đến gian thứ hai ấy là nhà tôi. Vậy xin ông đi qua đó, ghé vào nói giúp với bà nhà tôi rằng đứa con đã chết, vậy trưa nay chỉ đem một suất cơm cho tôi mà thôi.

Người khách nghe ông già dặn thì sửng cả người, vừa đi vừa tự nhủ: “Người cha này keo kiệt quá, con trai mới chết mà còn đếm xỉa đến cả bữa cơm, thật thế gian này không đau có người cha như thế”. Vừa khi qua cửa thành, rẽ phải theo lời ông cụ, đến gian thứ hai quả nhiên thấy một bà cụ đang làm gì đó ở cửa, người khách chào và nói:

- Thưa bà, con trai bà bị rắn cắn chết, ông nhà có nhắn tôi về báo, chỉ cần đem một phần cơm cho ông thôi.

Bà nghe khách nói xong, lộ vẻ buồn thoáng chốc, rồi trân trọng cảm tạ khách đã báo tin. Người khách thêm một lần nữa ngạc nhiên và tự hỏi: “tại sao người mẹ nghe tin con chết mà không hoảng hốt chút nào?”, không tìm được tò mò khách hỏi:

Page 81: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

81

- Này bà, xin thứ lỗi cho tôi hỏi câu đường đột, bà không thương xót lệnh lang hay sao?

Bà lão thong thả đáp:

- Thưa ông ! đạo con cái với cha mẹ là tự túc nhân nghiệp báo nên mới có sự thác sinh vào nhà, chứ không phải do cha mẹ mời vào mà được. Đến khi chế cũng do mãn nhân, mãn nghiệp mà đi, nên cũng không thể lưu lại được. Cha mẹ khác nào như người chủ quán trọ, chiều nay có khách lại nghỉ, sáng mai hay ngày kia khách lại đi, chủ quán không thể muốn mà lưu lại được. Ấy sự liên quan của cha mẹ với con cái cũng như thế. Vậy thì có thương tiếc, kêu gào khóc lóc liệu có thể có thể cứu sống lại được người đã chết không? Hay chỉ gây thêm phiền muộn mà chẳng ích gì?

Nghe bà cụ nói, người khách càng hoang mang, cho rằng vợ chồng ông này quả thật xứng đôi vừa lứa, cả hai đều có tấm lòng sắc đá như nhau. Giữa lúc này từ phía trong nhà, một người con gái đi ra, bà lão giới thiệu là chị gái của người vừa chết, khách liền hỏi ngay:

- Em trai cô vừa bị rắn cắn chết, chắc cô thương em lắm?

Người chị thản nhiên trả lời:

- Thương xót là lẽ thường, nhưng thương xót có thể cứu em tôi sống lại không? Tôi tưởng chị em một nhà, khác nào như các cây gỗ ở rừng hạ xuống đóng thành cái bè rồi thả xuống giòng sông cho tôi. Nếu sông hồ phẳng lặng thì bè trôi mại, bằng có cơn phong ba bão táp nỗi lên đánh tan chiếc bè thì mỗi cây trôi theo mỗi ngã, có bao giờ còn hy vọng lắp lại liền với nhau? Tình chị em cũng thế, đó là nhân duyên kiếp trước hợp rồi sinh vào một cửa, tuổi thọ cũng tùy nghiệp báo, có người dài kẻ ngắn, cũng là vô thường, không sao biết trước được. Nay em tôi chết, mặc dù là chị nó, nhưng có làm gì được nưa, huống chi khóc lóc có phải không ông?

Người chị đang nói, bỗng ở phía sau một người đàn bà khác nữa xuất hiện, khi có cô chị nói thì kêu lên:

- Ôi ! Thế ra chồng tôi đã chết rồi sao?

Người khách hỏi:

- Đúng đấy ! Chồng cô đã bị rắn cắn chết ở ngoài đồng, vậy cô chắc phải buồn đau lắm.

- Thưa ông! Chồng chết thì ai không đau buồn. Nhưng cái đạo làm vợ chồng ở đời khác nào như đồ chim trong rừng, tối đ61n cùng ngủ một cành, sáng ngày lại bay đi kiếm ăn, nếu có duyên thì trở về cùng nhau, nhược bằng gặp tai họa thì mỗi con bay đi mỗi ngã. Ấy nghĩa vợ chồng ở đời là thế, mỗi người có nghiệp lực riêng, không làm sao nói được rằng: Chồng chết thay cho vợ, hay vợ chết thay cho chồng. Như thế liệu khóc lóc liệu có ích gì?

Người khách nghe lời mọi người trong gia đình này nói cùng một kiểu, lòng liền sanh hoài nghi cho thế tục nhân tâm ở xứ này. Liền hối hận đã mất công tìm đến đây để học cái hay cái tốt của đức Phật giáo hóa dân chúng, nào ngờ dân chúng như thế hỏi còn học được cái gì ở đây? Chi bằng lui gót về quê hương xứ sở thì hơn. Nhưng hồi lâu lại nghĩ: “Nay ta chưa gặp được Đức Phật đã nóng nảy phê bình một vài thái độ của người dân, rồi vội vã quay về như thế là hành động nông nổi, chắc sau này phải ân hận. Vậy ta phải đến thẳng tịnh xá tại Kỳ Viên để gặp đức Phật rồi sẽ hay. Nghĩ rồi người khách đi thẳng đến tịnh xá, vào ra mắt Phật.

Khi nhìn thấy Phật, khách khoanh tay cúi đầu đảnh lể đoạn lui sang ngồi một bên, lặng yên không nói gì. Đức Phật hiểu thấu những suy nghĩ trong lòng ông ta, nhưng cũng cất tiếng từ bi hỏi:

Page 82: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

82

- Tại sao ông lại có dáng vẻ buồn như thế?

Người khách đáp:

- Bạch Thế Tôn, nhân vì con hy vọng một việc mà chưa được như ý nên trong lòng con không vui.

Đức Phật nói với khách:

- Có việc gì với bản thân thì nên nói ra, không nên để trong lòng mà ưu sầu, không giải quyết được điều gì hết.

Khách nghe vậy yên tâm kể chuyện đã gặp ở ngoài thành. Cuối cùng khách phê bình thái độ của người trong gia đình đó là trái bới tình đời.

Đức Phật nghe xong mỉm cười nhân từ nói:

- Điều mà viễn khách cho rằng trái với tình đời là thuộc nhân tính. Còn chân lý thì không những không theo nhân tính mà còn phải dẹp bỏ nhân tính cho đến hết, đó mới thực là điều khẩn yếu của kẻ xuất gia.

Dừng một chút Ngài nói tiếp:

- Vì ông chưa hiểu được chân lý, nên thấy gia đình nhà nông kia hành động như thế thì vội cho là trái với tình đời. Nhưng đứng về mặt chân lý mà xét, những người ấy quả nhiên là không có hành động lỗi lầm, vì họ biết rõ thế nào là cuộc đời vô thường, nghĩa là người đời không thể nào nắm giữ vỉnh viễn được cái sắc thên sinh mạng của mình. Hãy xem từ xưa đến nay, dù là phàm hay thánh cũng không ai có thể tránh được cái chết.

Nếu vì một cái chết mà cả nhà theo nhau khóc lóc đến phát đau, phát ốm thì sự khóc lóc ấy hỏi có ích lợi gì cho cả người sống và người chết? Vả lại con người ngay khi lác sơ sinh đã nắm chắc cái chết trong tay rồi. Nay thấy cái chết mà phiền não trong lòng thì rõ là mê hoặc chưa hiểu được lẽ vô thường. Nên biết rằng sống và chết là hai đầu mối luôn luôn tiếp diễn và luân chuyển không ngừng. Khi biết được như thế là đã giải thoát rồi

Người khách nghe Phật giảng giải thì lòng bỗng nhiên tỉnh ngộ, liền nguyện ở lại làm đệ tử Phật và qui y Phật pháp tức thì

Người khách này về sau trở nên một tỳ kheo rất tinh tấn.

Khi ý thức chiếm hữu đã chiếm trọn tâm hồn ta thì việc mất đi mợt vật bị chiếm hữu là một nỗi đau lớn khó vượt qua, vì thế chúng ta khó chấp nhận sự “mất mát” này. Những gì chúng ta chiếm hữu sẽ là một phần không thể tách rời thân xác chúng ta, đó chính là khó khăn mà con người khó chấp nhận việc bị mất một phần thân thể của mình. Nhưng ngay chính thân thể mình, chúng ta còn không thể bảo vệ, giữ gìn nữa thì làm sao giữ được những sự vật của mình chiếm hữu.

Thế nhưng, phần lớn những nỗ lực trong cuộc sống chúng ta thường được dành cho các cuộc chạy đua vô vọng như thế. Những gì được chúng ta xem là thành tựu lại chẳng có ý nghĩa gì khác hơn là những ảo ảnh do những vật chất vô tri và cả những thứ tình cảm ảo của ta buộc phải buông bỏ lúc lâm chung. Bởi ngay chính bản thân ta vốn cũng được cấu tạo từ các chất liệu không bền chắc, thì những gì chúng ta thu góp được trong cuộc sống làm sao có ý nghĩa trường tồn.

Trong kinh “Pháp cú”, kệ 62, đức Phật dạy:

Thử ngã tử, ngã tàiNgu nhân thường ni ưuNgã thả vô hữu ngã,

Page 83: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

83

Hà hữu tử dữ tải

Nghĩa là:

Con tôi tài sản tôiNgười dại thường lo nghĩTa đã là không cóCon đâu? Tài sản đâu?

Vì thế, khi ý thức được sự vô ngã, vô thường của đời sống, chúng ta cũng đồng thời thấy được tính chất cô nghĩa của những mục tiêu vật chất và những ảo tình mà ta ngày đêm đeo đuổi.Điều nhận biết ngay lập tức giải phóng tâm thức ta khỏi sợi dây ràng buộc của ý thức chiếm hữu. Rời bỏ được ý thức chiếm hữu, con người của chúng ta nhẹ nhàng, thanh thản biết bao.

Dẫu biết rằng cuộc sống của một đời người là ngắn ngủi, là hữu hạn so với sự vô hạn của thiên nhiên. Nhưng nó thật sự đáng quý nhờ ở cái ngắn ngủi đó. Chúng ta phải biết rằng, nhờ được sống làm người trong cuộc đời này mà chúng ta có dịp từ bỏ những ác nghiệp để thực hiện những việc lành, tạo thêm thiện nghiệp cho bản thân chúng ta. Do đó, đừng phí phạm thời gian được sống vào những việc làm vô bổ như mấy vấn đề được đề cập trong cuốn sách này.

Hãy sống một cuộc sống hiện tại thật tích cực, thật hoan hỷ. Các cháu bé luôn cho ta một hình ảnh đẹp trong cách sống. Các cháu toàn tâm, toàn ý vào các trò chơi của mình, để biết tâm trí, sức lực vào cuộc chơi, bất chấp lấm lem, nắng gió . . . Mà các cháu bé là hiện thân của chúng ta khi còn trẻ. Điều đó cho thấy bản năng tự nhiên của chúng ta là sống trong hiện tại.

Cuộc sống chính là hiện tại, đã đến lúc chúng ta phải học để biết cách sống trong hiện tại, để có thể cảm nhận, tận hưởng niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống này.

Xác định là như vậy, nhưng chúng ta thường không biết bắt đầu từ đâu, và bằng cái gì. Chúng ta thường quan tâm đến việc nuôi dưỡng cơ thể bằng những loại thức ăn bổ dưỡng, nhưng lại không biết quan tâm đến việc nuôi dưỡng tâm hồn.

Ai cũng biết hạnh phúc đến với những con người không phải từ vật chất. Anh giàu có, ăn mặc đẹp, đi xe hơi đời mới, vào nhà hàng sang trọng, nhưng anh vẫn không có hạnh phúc vì anh không thư thái, đỉnh đạt, tự tin khi anh luôn có kẻ thù ghét rình rập. Có kẻ thù, anh phải đề phòng, đối phó, vậy hạnh phúc sẽ ở đâu khi anh luôn có những thứ đó bên mình. Đúng ra hạnh phúc chỉ đến những ai có tâm hồn rộng mở, biết cảm thông, chia sẻ, vị tha. . . Như vậy, tâm hồn mới là yếu tố đem lại cho chúng tahạnh phúc, nhưng tâm hồn cũng có thể bị khô cằn,nếu chúng ta không biết chăm sóc đến nó, chúng ta phải biết nuôi dưỡng tâm hồn bằng sự quan tâm chu đáo, thường xuyên, để có được một cuộc sống yên vui, hạnh phúc, một tâm hồn trong sáng, thanh thản.

Cuộc sống quanh ta có biết bao điều tốt đẹp đáng quí và đáng trân trọng. Chỉ cần ta khéo léo, biết nhận ra và chọn lọc thì chúng ta không hề thiếu những hạt giống tốt đẹp để gieo trồng. Mặt khác, trong cuộc sống cũng đầy dãy những cỏ dại xấu xa của lòng ganh tị, sự nghi ngờ. . .Chỉ cần ta lơ là chăm sóc tâm hồn, thì sẽ phải trả giá bằng những u ám, tối tăm.

Để có được một tâm hồn tươi đẹp, đầy hoa thơm trái quý và tránh được những loài cỏ dại tàn phá, chúng ta phải biết xây dựng một con đường, một nền tảng trong cõi tịnh độ, cực lạc, thì tâm hồn chúng ta mới bền vững trước mọi biến đổi bất lợi của m6i trường chung quanh. Xây dựng được cõi tịnh độ, con người chúng ta sẽ an nhiên hành đồng chính nghĩa, lời nói nhẹ nhàng chánh pháp, không còn nỗi lo âu, sợ sệt. Lòng của ta sẽ tràn ngập một suối nguồn yêu thương đến tất cả mọi lòi, mọi người.

Page 84: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

84

Không phải an nhiên nhờ xây dựng được tâm hồn cực lạc, cõi tịnh độ mà chúng ta bàn quang với đời sống quanh ta. Ngược lại, trong cõi tịnh độ chúng ta sẽ biết yêu thương đúng cách hơn và nhiều hơn, thiết thực hơn. Xây dựng được cõi tịnh độ, mỗi chúng ta sẽ có sức thuyết phục hơn, dễ cảm hóa hơn, do đó chúng ta cũng dễ lôi kéo mọi người theo con đường chính đạo hơn, đầu tiên là những người trong gia đình. Sự lan tỏa sức mạnh của thế giới cực lạc, của cõi tịnh độ đã làm cho chúng ta có một gia đình tịnh độ. Một gia đình tịnh độ là trong đó mỗi thành viên có đầy đủ mọi tố chất để đạt đến hạnh phúc toàn diện trong suộc sống mà không bị chi phối bởi ngoại cảnh. Như vậy gia đình đã trở thành một khối hạnh phúc. Đức Phật dạy rằng, một gia đình như vậy là một gia đình xây dựng được cõi cực lạc ở nhân gian, gia đình đó là một gia đình có hiếu đạo. Một cõi tịnh độ, một thế giới cực lạc mà chính chúng ta đã xây dựng được cho cha, cha mẹ mình là điều đáng quí gấp trăm, ngàn lần những nỗ lực cung phụng vật chất cho cha mẹ.

Đây là một phương pháp báo hiếu khả thi nhất, hiệu quả nhất. không phải các phương pháp khác không đúng, nhưng nếu chúng ta là đệ tử của Phật, chúng ta phải thực hiện báo hiếu trên tinh thần này. Không những bởi nó có hiệu quả đối với sự báo hiếu, nó còn có giá trị to lớn và lâu dài đối với chúng ta.

Xây dựng được cõi tịnh độ, cực lạc trong tâm hồn, chúng ta có cả một thế giới rộng lớn trong tầm kiểm soát của mình, chúng ta an nhiên trước ngoại cảnh, vì chúng ta kiểm soát, hiểu rõ được ngoại ảnh; chúng ta không sợ chết vì chúng ta kiểm soát và hiểu được sau cái chết chúng ta sẽ về đâu. Chúng ta yêu đời, vì cuộc đời thật sự đáng yêu. Chúng ta biết ơn cha mẹ, vì cha mẹ đã cho chúng ta đời sống này.

Chúng ta đã dành nhiều thời gian trong đời để suy nghĩ và chiêm nghiệm về cái chết. Chúng ta có dịp ngời cạnh người hấp hối. Chúng ta đã hân hạnh được nghe kể về những cảm giác khi sắp đi vào cõi chết. Chúng ta đã học hỏi và biết rõ cái kinh sách nói gì về sự sống và cái chết. Nhưng chúng ta có sợ hay không sợ cái chết, chúng ta liệ có tin hắc rằng mình không sợ chết?

Một lần nữa, xin nhắc nhở rằng: Chúng ta chỉ có thể tiếp nhận bình thản trước mọi chuyện to nhỏ khi xây dựng được trong tâm hồn mình cảnh giới cực lạc và cõi tịnh độ. Như đã nói, cuộc đời này là một món quà mà cha mẹ đã ban tặng cho chúng ta, nhưng ý thức được cuộc sống này như thế nào lại không do cha mẹ ta, mà do chính chúng ta tu tập, h5c hỏi như thế nào đó, để đến với cuộc đời bằng một tinh thần tích cực hay tiêu cực. Phải hoan hỷ sống để cám ơn cuộc đời này dã cho ta nghé tạm làm người và nếu được dịp làm người nữa chúng ta cũng hoan hỷ, tích cực sống để một lần nữa giải bớt nghiệp ác, tăng thêm nghiệp lành.

Cho nên chúng ta vẫn có thể bị hút hồn trước những điều kỳ diệu của vạn vật và chẳng bao giờ đánh mất niềm đam mê đối với muôn Thú. Tất cả mọi sinh vật điều đẹp theo cách riêng của chúng, đẹp lộng lẫy và chúng ta hãy yêu thích tạo vật đến quên mình.

Môt buổi hoàng hôn đẹp, vị mặn của gió biển, đóa hoa dại đầu tiên lúc nở, một giọt sương mai rơi nhẹ vào chúng ta có làm chúng ta lắng dịu lại không?

Tôi tin là có, nếu chúng ta đã xây dựng được thế giới cực lạc, tịnh độ trong tâm hồn mình. Hãy vui sống để tiếp nhận tất cả mọi vấn đề một cách hoan hỷ như biểu tượng của đức Phật Di Lặc.

Tất cả mọi suy nghĩ và hành động đó đều xuất phát từ tinh thần hoan hỷ, tích cực theo Phật pháp.

Page 85: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

85

� NHỮNG CÂU KINH PHẬT-

CA DAO - TỤC NGỮ - THI CA

VỀ CÔNG ƠN CHA MẸ

Hằng năm, cứ đến mùa Vu Lan báo hiếu, từ trong sâu thẳm đáy lòng người con Phật lại trào dâng lên những cảm xúc dạt dào thiết tha về song thân phụ mẫu và là cơ hội để những người con thể hiện lòng hiếu thảo đối với đấng sinh thành. Mùa Vu Lan cũng là dịp để mọi người cùng nhau bày tỏ tấm lòng thành của mình bằng cảm xúc qua thơ văn khi hồi tưởng về công ơn như trời biển của cha mẹ.

Đối với người Việt Nam, khi nói đến công ơn cha mẹ, người ta liên tưởng ngay đến bốn câu ca dao mà bất cứ ai cũng thuộc nằm lòng: “Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha. Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Còn những bậc trưởng thượng, thì thường nhắc nhở cháu con giữ gìn đạo hiếu bằng câu: “Thiên hữu tứ thời Xuân tại thủ. Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên” (Trời có bốn mùa Xuân là gốc. Người sinh trăm nết hiếu đứng đầu). Riêng đối với Phật tử chúng ta, thì kinh Vu Lan Bồn được xem là bản kinh sâu sắc và thiết thực mà đức Phật đã nói về công ơn cha mẹ và chỉ dạy chúng ta phương cách báo hiếu một cách rốt ráo và hiệu quả nhân ngày chư Tăng Tự tứ. Bên cạnh đó, Phật tử chúng ta cũng còn biết đến rất nhiều những câu ca dao, tục ngữ, tuy ngắn gọn nhưng rất hàm súc khi nói về công ơn cha mẹ và cách báo đền ơn sâu của hai đấng sinh thành, chẳng hạn như: “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu” , “Đố ai quét sạch lá rừng. Đố ai đếm được mấy từng trời cao. Đố ai đếm được vì sao. Đố ai đếm được công lao mẹ hiền” hay: “Gió mùa thu mẹ ru con ngủ. Năm canh chày thức đủ năm canh” …

Nói về tình thương của cha mẹ đối với con cái cũng như công đức của cha mẹ đã tảo tần hy sinh vì con cái, thì đã có rất nhiều ca dao, tục ngữ, thi ca, nhạc họa … đề cập đến. Thế nhưng nếu đem văn chương chữ nghĩa để so sánh để diễn đạt tỏ bày thì cuối cùng chúng ta cũng không thể nào diễn tả nỗi. Bởi vì chúng ta càng nói càng không đạt đến điều muốn nói, vì ngôn ngữ chỉ là một phương tiện hữu hạn, không thể nào tỏ bày, diễn tả hết được công đức vô hạn vô biên của cha mẹ. Một văn hào phương Tây đã nói về vấn đề này bằng câu nói rất hay: “Ngôn ngữ trần gian là một cái túi rách, đựng sao đầy hai chữ Mẹ ơi. Còn văn tự là chiếc xe mòn cọc cạch, mà đường về quê mẹ thì nghìn trùng xa xăm”. Vâng! Sự thật là như vậy đó. Điều này có nghĩa là tình yêu thương và công ơn của cha mẹ thì sâu thẳm và vô tận, không thể nào nói hết, trong khi đó “văn tự là chiếc xe mòn cọc cạch”!

Nhân mùa Vu Lan, tôi xin trích đăng một vài đoạn kinh nói về công ơn cha mẹ và phương cách báo hiếu mà đức Phật đã dạy chúng ta. Bên cạnh đó, tôi cũng đã góp nhặt một vài câu ca dao, tục ngữ và những câu thơ nói về công ơn cha mẹ, với mục đích mong muốn những giá trị tinh thần này sẽ mang lại cho bạn đọc những cảm xúc chứa chan tha thiết về cha mẹ nhiều hơn sau khi đọc cuốn sách này. Cũng trong chương mục này, tôi xin gởi tặng đến bạn đọc hai bài vọng cổ “Lời tự tình với Mẹ” và “Bông hồng cài áo” do tôi sáng tác. Hai bài vọng cổ này đã được ca sĩ Hương Lan thể hiện trên đĩa CD và được phát hành tại Hoa Kỳ.

Ban đầu chúng tôi dự định, cứ sau mỗi câu ca dao hay mỗi câu thơ, chúng tôi mong muốn được chia sẻ cùng bạn đọc một vài suy nghĩ từ nội dung những câu thơ, ca dao, tục ngữ đó. Tuy nhiên, chúng tôi lại nghĩ rằng, ngay trong mỗi câu thơ, hay mỗi câu ca dao, tục ngữ này, tự thân nó vốn đã đầy đủ và trọn vẹn ý nghĩa sâu xa khi truyền tải những thông điệp thiêng liêng về tình thương cũng như công ơn của cha mẹ đối với con cái và ngược lại từ con

Page 86: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

86

cái hướng về hai đấng sinh thành. Do vậy chúng tôi chỉ trích đăng mà không bàn luận gì thêm. Điều này cũng nhằm tôn trọng những cảm nhận riêng của mỗi người khi tường nhớ về song thân phụ mẫu của mình.

Đối với những đoạn kinh Phật, chúng tôi đều mở ngoặc ghi rõ là từ bộ Kinh nào. Đối với những câu ca dao thì chúng tôi không mở ngoặc, như vậy khi đọc những câu không có mở ngoặc, quí vị biết đó là ca dao hoặc tục ngữ. Riêng đối với những câu thơ nói về cha mẹ, chúng tôi xin phép được trích đăng lại một số câu thơ của các tác giả: Đỗ Trung Quân, Phạm Như Vân, Tâm Uyên, Bùi Bích Tâm, Thanh Sơn và bài thơ viết về mẹ rất giàu cảm xúc của nhà thơ Thanh Tịnh. Với mục đích hoằng pháp lợi sanh, chúng tôi rất mong các tác giả có những câu thơ được trích đăng trong tập sách nhỏ này hoan hỷ cùng chúng tôi thực hiện pháp thí nhân mùa Vu Lan báo hiếu.

000

Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu với cha mẹ. (Trích trong 14 điều răn của Phật)

Điều thiện tột cùng không gì bằng hiếu đạo. Điều ác tột cùng không gì bằng bất hiếu. (Kinh Nhẫn Nhục)

Ân cha lành cao như núi Thái. Đức mẹ hiền sâu tợ biển khơi. Dù cho dâng trọn một đời. Cũng không trả hết ân người sinh ra. (Kinh Tâm Địa Quán)

Sữa mẹ mà các con đã uống còn nhiều hơn Nước trong bốn đại dương (Kinh Tương Ưng)

Chín tháng cưu mang khó nhọc. Sợ hãi đau đớn khi sinh. Nuôi con cam đành cực khổ. Nuốt cay, mớm ngọt cho con. Chịu ướt, nhường ráo con nằm. Nhai cơm sú nước cho con. Vui giặt đồ dơ cho con. Thường nhớ khi con xa nhà. Có thể tạo tội vì con. Nhịn đói cho con được no. (Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân)

Cung kính vâng lời cha mẹ. Phụng dưỡng cha mẹ khi già yếu.

Page 87: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

87

Giữ gìn thanh danh và truyền thống gia đình. Bảo quản tài sản do cha mẹ để lại. Lo tang lễ chu đáo khi cha mẹ qua đời.

(Kinh Thi Ca La Việt trong Trường Bộ Kinh)

Khuyên cha mẹ phát tâm tin tưởng, qui y Tam Bảo. Khuyên cha mẹ phát tâm bố thí. Khuyên cha mẹ hướng thiện, làm lành, lánh dữ. Hướng dẫn cha mẹ vào chánh tín trong Phật pháp. (4 trách nhiệm để báo đáp công ơn khi cha mẹ còn tại thế – Tăng Chi Bộ Kinh)

Giữ gìn Tam qui, Ngũ giới. Thường học hỏi và đọc tụng kinh điển. Siêng năng lễ Phật sám hối. Thường cúng dường Tam Bảo.

Bố thí làm phước, hồi hướng công đức cho cha mẹ. Cúng dường chư Tăng trong ngày Tự tứ. (6 bổn phận để báo hiếu cha mẹ – Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân)

Cha mẹ là Phạm Thiên. Là Đạo sư đời trước. Xứng đáng được cúng dường. Vì thương yêu con thảo … Do vậy bậc hiền trí. Đảnh lễ và tôn trọng. Dâng thức ăn nước uống. Vải mặc và giường nằm. Thoa bóp cả thân thể. Tắm rửa cả tay chân. Bằng việc làm như vậy. Đối với mẹ và cha. Đời này nhiều người khen. Đời sau hưởng thiên lạc. (Vị trí của cha mẹ đối với người con – Tăng Chi Bộ Kinh)

Chân như đạo Phật rất mầu. Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân. Hiếu là phải độ song thân. Nhân là phải cứu trầm luân muôn loài. (truyện Nam Hải Quan Âm)

Cha già là Phật Thích Ca. Mẹ già như thể Phật Bà Quan Âm. Nhớ ngày xá tội vong nhân. Lên chùa lạy Phật đền ơn sinh thành.

Page 88: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

88

Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha. Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

Thiên hữu tứ thời Xuân tại thủ. Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên. (Trời có bốn mùa, Xuân là gốc. Người sinh trăm nết, hiếu đứng đầu – Cổ Đức)

Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh tức vi Phật hạnh. (Tâm hiếu tức là tâm Phật. Hạnh hiếu cũng là hạnh Phật)

Hoàng thiên bất phụ hiếu tâm nhân. (Trời cao không phụ người có lòng hiếu thảo)

Điều thiện cao nhất không gì bằng hiếu hạnh.

Kẻ nào bất hiếu với cha mẹ chắc chắn sẽ bất trung với tổ quốc và bất nghĩa với bạn bè.

Phật không ở quá xa vời. Phật luôn hiển hiện trong đời chúng ta. Phật là mẹ, Phật là cha. Đã sinh đã dưỡng dạy ta thành người. (Bùi Bích Tâm)

Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu.

Công cha đức mẹ cao dày. Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ. Nuôi con khó nhọc đến giờ. Trưởng thành con phải tôn thờ song thân. Ở đời ai cũng có lần. Làm cha mẹ mới biết công sinh thành. Ngày xưa khó nhọc nuôi mình. Khác nào mình đã hết tình nuôi con.

Page 89: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

89

Phụ hề sinh ngã. Mẫu hề cúc ngã. Ai ai phụ mẫu. Sinh ngã cù lao. Dục báo thâm ân. Hiệu thiên võng cực. (Cha sinh ra ta. Mẹ nuôi nấng ta. Thương thay cha mẹ. Sinh ta khó nhọc. Mong báo ân sâu. Trời cao vòi vọi) - Kinh Thi.

Nhớ ơn chín chữ Cù lao. Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình.

Vời vợi non cao ơn dưỡng dục. Mênh mang biển rộng đức sinh thành.

Tổ tiên phúc dày lưu hậu thế. Cháu con đức sáng rạng tiền nhân.

Ơn cha dưỡng dục dường non Thái. Nghĩa mẹ sinh thành tợ biển Đông.

Vạn cổ tình thâm ơn cúc dục. Thiên thu nghĩa trọng đạo sinh thành.

Công dưỡng dục ví bằng núi Thái. Nghĩa sinh thành sánh tựa biển Đông.

Cha mẹ nhận một đời bão tố. Để cho con mãi mãi bình yên.

Ơn cha bằng núi âm thầm. Nghĩa mẹ lặng lẽ nước sông đầu nguồn.

Một đời dãi nắng dầm sương. Nuôi con khôn lớn tình thương dạt dào. (Lệ Chi)

Con vui chi mây khói cảnh trần gian.

Page 90: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

90

Khi cha mẹ sức mòn theo hạnh nghiệp. (Chánh Tín)

Mẹ cha gánh vác hy sinh. Mẹ cha quên cả thân mình vì con.

Chấp tay cầu nguyện Phật trời. Cầu cha cha mẹ sống đời với con.

Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha. Biển nước mênh mông không đong đầy tình mẹ.

Cha là tất cả, cha ơi! Cha là hình ảnh trọn đời thiêng liêng.

Cha là người bạn tốt nhất của con.

Cha là tất cả, cha ơi! Ngàn năm con vẫn trọn đời yêu thương.

Khi con tát cạn biển Đông. Thì con mới hiểu được lòng của cha.

Cha là bóng mát giưa trời Cha là điểm tựa bên đời của con.

Con có cha như nhà có nóc. Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.

Còn cha gót đỏ như son. Một khi cha khuất gót con đen sì. Còn cha, nhiều kẻ yêu vì. Đến khi cha mất, ai thì yêu con.

Con hãy nói là “Con thương mẹ”. Chỉ thế thôi! Mẹ mãn nguyện lắm rồi.

Hương thơm vạn đóa hoa hồng. Đâu bằng tình mẹ mặn nồng trong con.

Page 91: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

91

Tôi không khóc khi cài hoa hồng trắng. Vì trong hoa tôi thấy mẹ tôi cười. (T. Huệ Thông)

Hạnh phúc của mẹ là hạnh phúc của con. Hạnh phúc của con cũng là hạnh phúc của mẹ. Nếu thiếu một trong hai hạnh phúc ở mẹ và ở con thì sẽ không có hạnh phúc. (T. Huệ Thông)

Đường đi không tới nửa ngày. Nói về thăm mẹ hẹn rày hẹn mai?

Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng. Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.

Lên non mới biết non cao. Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.

Ngó lên ngó xuống thì vui. Ngó về quê mẹ ngậm ngùi nhớ thương.

Ngó lên Hòn Kẽm, Đá Dừng. Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi.

Đối với con: Mẹ là tất cả!

Con dù lớn vẫn là con của mẹ. Suốt đời lòng mẹ vẫn thương con.

Con đi khắp vạn nẻo đường. Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền.

Đừng đợi một ngày kia mẹ mất đi, mới giật mình khóc lóc, những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ … (Đỗ Trung Quân)

Hãy nói đi: “Rằng, con yêu mẹ!” Đừng chờ đến lúc mẹ ra đi và cũng đừng khắc lên bia đá vô tri,

Page 92: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

92

những mỹ từ mà con chưa hề nói. (Đỗ Trung Quân)

Người con yêu quí nhất đời. Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu.

Ôm con mẹ đếm sao trời. Đếm hoài không hết một đời long đong. (Tâm Uyên)

Nghìn năm hồ dễ con thương mẹ. Như mẹ thương con giữa cuộc đời.

Võng đưa ai hát xa vời. Tưởng như thấy lại từng lời mẹ ru. (Phạm Như Vân)

Kẻ bất hiếu với cha mẹ thì dù cho ở chức vụ nào cũng không xứng đáng là con người. (Thanh Sơn)

Đố ai quét sạch lá rừng. Đố ai đếm được mấy từng trời cao. Đố ai đếm được vì sao. Đố ai đếm được công lao mẹ hiền …

Trông lên trời thấy cặp cu đang đá. Ngó ra ngoài bể thấy cặp cá đang đua. Anh về lập miếu thờ vua. Lập trang thờ mẹ lập chùa thờ cha

Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi, con đi trường học mẹ đi trường làng.

Mẹ già như chuối ba hương. Như xôi nếp một, như đường mía lau.

Gió mùa thu mẹ ru con ngủ.

Page 93: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

93

Năm canh chày thức đủ năm canh.

Nuôi con buôn bán tảo tần. Chỉ mong con lớn nên thân thành người. Những khi trái gió trở trời. Con đau là mẹ đứng ngồi không yên. Trọn đời vất vả triền miên. Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con.

Đây bát cơm đầy nặng ước mong. Mẹ ơi, đây ngọc với đây lòng. Đây tình con đọng trong tha thiết. Ơn nghĩa sinh thành chưa trả xong. (Tác giả khuyết danh)

Đêm đêm khấn nguyện Phật trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

Mong sao gần mẹ gần cha. Khi vào thúng thóc, khi ra quan tiền.

Mẹ già ở túp lều tranh. Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.

Ai về tôi gửi buồng cau. Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy (cha). Ai về tôi gởi đôi giày. Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi

Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi. Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già. Đói lòng ăn đọt chà là. Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.

Em thì đi cấy ruộng đông. Anh đi cắt lúa để chung một nhà. Đem về phụng dưỡng mẹ cha. Muôn đời tiếng hiếu người ta còn truyền.

Sao cho cốt nhục vẹn truyền. Trong khi ngộ biến tùng quyền biết sao. Duyên hội ngộ, đức cù lao.

Page 94: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

94

Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành. Quyết tình nàng mới hạ tình. Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha. (Thúy Kiều bán mình chuộc cha – trích Truyện Kiều)

Hổ sinh ra phận đào tơ. Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong! Lỡ làng nước đục bụi trong. Trăm năm để một tấm lòng từ đây. (trích Truyện Kiều)

Năm xưa tôi còn nhỏ. Mẹ tôi đã qua đời. Lần đầu tiên tôi hiểu. Thân phận kẻ mồ côi. Quanh tôi ai cũng khóc. Im lặng tôi sầu thôi. Để dòng nước mắt chảy. Là bớt khổ đi rồi. … Kìa nhà ai sung sướng. Mẹ con vỗ về nhau. Tìm mẹ, con không thấy. Khi buồn biết trốn đâu! Rồi năm tháng dần trôi. Mỗi khi chiều buông xuống. Hoàng hôn phủ trên mộ. Chuông chùa nhẹ rơi rơi. Tôi thấy tôi mất mẹ. Mất cả một bầu trời. (thơ Thanh Tịnh)

LỜI TỰ TÌNH VỚI MẸ

Sáng tác: Thích Huệ Thông

Lý con sáo:

Con kính dâng lên đấng mẫu từ cao thâm. Lời tạ từ ra đi, theo dấu chân đức Phật oai hùng. Xin mẹ chứng cho lòng.

Lòng con khờ xin ghi khắc sâu, công dưỡng sanh ví như trời cao. Quyết tu hành con xin hiến dâng, tấm lòng con xin mẹ chứng tri.

Vọng cổ :

1. Từ giã mẹ hiền trong mái nhà thân yêu, cùng bạn bè nơi xóm nhỏ, để con dấn thân trên đường tu học, hầu đem ánh từ quang tỏa khắp muôn …… loài.

Page 95: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

95

Ngày con ra đi nước mắt mẹ đầm đìa. Con bịn rịn trong vòng tay của mẹ, mà cõi lòng như xé nát tim con. Như thấu hiểu được lòng con mẹ dỗ dành an ủi: Con ơi! “Nhứt nhơn hành đạo cửu huyền thăng”. Con đi tu không biết có thành chánh quả hay không, mà hiện tại chỉ thấy con là đứa con bất hiếu!!?

Lòng mẫu từ ôi! Tình cao dịu vợi Chắc mẹ sầu chờ đợi đứa con yêu Chốn am không con quặn thắt nhớ mẹ hiền Trước điện Phật lời nguyện cầu cho mẹ.

2. Tiếng chuông mùa Vu Lan vọng lại từ xa, như thúc dục con trở lại với Phật đài. Mẹ tiễn con đi mà nửa tủi, nửa mừng. Buổi lễ xuất gia của con trước điện Phật uy nghiêm qua lời truyền giới của chư Tăng trong chánh điện. Trước khi trở thành người đệ tử xuất gia, con phải kính lạy đấng sanh thành dưỡng dục.

Mẹ ơi! Mẹ khóc vì mừng cho con thành người giác ngộ, hay mẹ khóc vì mẹ phải xa con.

Nói lối : Từ giả mẹ con trở thành người Tăng sĩ Tiếng kinh chiều, nhớ mẹ lại quặn đau Đường tu hành con chưa thành chánh quả Mà mẫu từ lại trở gót quy tây

Vọng cổ :

5. Mẹ ơi! Bao năm tháng trôi qua con chuyên tâm trong lời kinh tiếng kệ, mong sao sớm trở thành người chứng quả để báo chút thâm ân của đấng sanh thành.

Nhưng đạo nghiệp chưa xong mà mẹ đã lìa cõi hồng trần. Trước khi nhắm mắt từ giả cuộc đời ảo mộng, mẹ nở nụ cười hãnh diện được có đứa con đi tu. Ôi! Lòng mẹ bao dung từ ái làm sao, nhưng con cũng tự trách mình sao chưa một lần báo đáp. Rồi từ đây cứ mỗi lần Vu Lan về nhớ mẹ, tiếng kệ câu kinh, con nguyện mẹ được Liên Đài.

Hoàng hôn phủ trên mộ Chuông chùa nhẹ rơi rơi Con thấy con mất mẹ Là mất cả bầu trời

6. Đến giờ con mới thật sự hiểu được câu: “Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế”. Đúng ra con không nên bỏ mẹ đi tu, mà phải sống bên mẹ như quỳ trước đấng từ bi cứu khổ. Nhưng mẹ ơi! Xin mẹ hãy bình an trong cõi thiên thu, con nguyện sẽ mãi mãi sống sao như lời mẹ ước, để hồn mẹ được sanh về cõi Phật, tỏa ngát hương thơm câu hiếu đạo trên đời.

000

BÔNG HỒNG CÀI ÁONhạc: Phạm Thế Mỹ

Vọng cổ : T.Huệ ThôngVu Lan 2546 – 2002

Page 96: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

96

Nhạc:

Một bông hồng cho em, một bông hồng cho anh và một bông hồng cho những ai, cho những ai đang còn mẹ, đang còn mẹ để lòng vui sướng hơn, rủi mai này mẹ hiền có mất đi, như đóa hoa không mặt trời, như trẻ thơ không nụ cười, ngỡ đời mình không lớn khôn thêm như bầu trời chiếu ánh sao đêm.

Vọng cổ :

1. Cứ mỗi lần Vu Lan trở về lòng người con hiếu đạo, là mỗi lần anh và em trào dâng niềm cảm xúc, hồn lâng lâng được cài trên áo đóa hoa … hồng.

Một đóa hoa chứa đựng cả một tâm hồn. Nếu ai diễm phúc được cài trên áo đóa hoa hồng tươi thắm là để nhắc nhở mình còn mẹ thân yêu. Để anh cùng em và tất cả những người còn mẹ, thì đừng bao giờ để mẹ quạnh hiu, để ta tận hưởng cả bầu trời trong hằng triệu vì sao, như tình thương bao la của tình mẫu tử.

Mẹ mãi muôn đời mẹ của con Dù Nam Hải cạn Thái Sơn mòn Trái tim in dấu thời mơ mộng Tuổi ngọc ngà vươn nét lệ son.

Những năm tháng ấu thơ đã đi, nhưng hình ảnh mẹ hiền vẫn ngồi bên khung cửa, qua lời ru giấc mộng êm đềm. Ai lớn lên mà không nhớ dòng sữa ngọt ngào. Ôi! Ta không thể đem bất cứ thứ tình nào so sánh với tình thiêng liêng của mẹ, dù cho cả bầu trời cũng cảm thấy nhỏ nhoi. Hình ảnh người mẹ hiền như hình ảnh của đấng cao siêu, như sự hiện hữu của đấng từ bi cứu khổ.

“Mẹ già như chuối ba hương Như xôi nếp một, đường mía lao”

Nhạc:

Mẹ! Mẹ là dòng suối dịu hiền. Mẹ! Mẹ là bài hát thần tiên, là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối. Mẹ! Mẹ là lọn mía ngọt ngào. Mẹ! Mẹ là nải chuối buồng cau, là tiếng dế đêm thâu, là nắng ấm nương dâu, là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời.

Rồi một chiều nào đó anh về nhìn mẹ yêu, nhìn thật lâu, rồi nói với mẹ rằng: Mẹ ơi! Mẹ có biết hay không, biết vì, biết là, biết là con thương mẹ không? Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó anh, đóa hoa màu hồng được cài lên áo đó em. Vì tin anh, vì tin em hãy cùng tôi vui sướng đi, hãy cùng tôi vui sướng đi.

Vọng cổ:

5. Mẹ ơi! Trong những năm tháng lãng du nơi phương trời đất khách, nay trở về quê thăm mẹ, hình ảnh người mẹ hiền năm xưa còn đó và trái tim yêu vẫn còn nguyên vẹn chẳng phai mờ.

Trái tim người mẹ yêu thương chứa đựng cả bầu trời. Con gục đầu vào vai của mẹ, như ngày nào bé bỏng ngây thơ. Con khẻ nói nhỏ vào tai của mẹ: - Mẹ ơi! Con thương mẹ lắm, mẹ có biết hay không? Giờ đây quỳ trước chư Tăng bên màu huỳnh y giải thoát, để cầu mẹ được bên con cho đến suốt cuộc đời.

6. Nhưng cuộc đời nó không như vậy. Có một người con phải cài đóa hoa của người bất hạnh (đóa hoa màu trắng đau buồn của bầu trời như trái đất mới sanh). Nhưng anh và em cùng tất cả chúng ta không thể chỉ thấy mẹ ở hoa hồng hay hoa trắng. Mà tình mẹ luôn ở trong lòng của người con hiếu đạo, dù mẹ không còn nhưng vẫn mãi trong con. Giờ đây, ta phải cài đi một đóa hoa bất diệt, đóa hoa của màu hiếu đạo vẫn đẹp mấy bông hồng.

Page 97: Mẹ từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ

Mẹ - từ suối nguồn yêu thương đến chân trời giác ngộ Thích Huệ Thơng

97

Dù bây giờ mẹ có còn sống hay không, nhưng trong tim con mẹ vẫn là bất tử. Giờ nếu ai diễm phúc được còn có mẹ, đừng để thẹn lòng mình khi trên áo cài hoa.

MỤC LỤC

� LỜI TỰA

� Ý NGHĨA QUAN TRỌNG CỦA NGÀY CHƯ TĂNG TỰ TỨ

� MÙA VU LAN BÁO HIẾU

� KINH VU LAN BỒN

� TẤM GƯƠNG HIẾU ĐẠO CỦA ĐỨC THẾ TÔN

� CÔNG ƠN CHA MẸ VÀ PHƯƠNG CÁCH BÁO HIẾU

� XÂY DỰNG CÕI TỊNH ĐỘ TRONG TÂM HỒN NGƯỜI CON HIẾU ĐẠO

� MẸ – TỪ SUỐI NGUỒN YÊU THƯƠNG ĐẾN CHÂN TRỜi GIÁC NGỘ

� CA DAO TỤC NGỮ NÓI VỀ CÔNG ƠN CHA MẸ