Upload
levietduc
View
26
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN TUẤN ANH
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TẠM GIỮ,
TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
HÀ NỘI - 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN TUẤN ANH
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TẠM GIỮ,
TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luậtMã số : 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS TRƯƠNG HỒ HẢI
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả
Trần Tuấn Anh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP
LUẬT TRONG LĨNH VỰC TẠM GIỮ, TẠM GIAM 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam 7
1.2. Nội dung kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm
giữ, tạm giam 14
1.3. Điều kiện đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm
giữ, tạm giam 31
1.4. Về phân cấp thẩm quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tạm giữ, tạm giam của viện kiểm sát nhân dân tối cao 32
Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TẠM GIỮ, TẠM GIAM VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC TẠM GIỮ, TẠM GIAM 35
2.1. Thực trạng công tác tạm giữ, tạm giam 35
2.2. Thực trạng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm
giam của viện kiểm sát nhân dân tối cao 43
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG KIỂM
SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC TẠM GIỮ, TẠM
GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 67
3.1. Quan điểm về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực
tạm giữ, tạm giam 67
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam 68
KẾT LUẬN 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ,
tạm giam là một bộ phận hợp thành công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
và thi hành án hình sự là một trong những khâu công tác thực hiện chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân, theo quy định
của Hiến pháp và Pháp luật. Đối tượng của hoạt động kiểm sát của Viện kiểm
sát nhân dân trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam là sự tuân thủ pháp luật của cơ
quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam nhằm đảm
bảo việc tạm giữ, tạm giam đúng theo quy định của pháp luật; chế độ tạm giữ,
tạm giam được chấp hành nghiêm chỉnh; tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh
dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam và các quyền khác của họ
không bị pháp luật tước bỏ, được tôn trọng. Hoạt động này giữ vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm tính thống nhất, công bằng và nghiêm minh của
pháp luật nhằm phục vụ công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm và vi phạm
pháp luật, bảo vệ bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân, góp
phần thực hiện nhiệm vụ chung của ngành Kiểm sát. Mục tiêu của hoạtđộng
kiểm sát là kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật trong công tác quản lý giam
giữ, tìm ra nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật, áp dụng các
biện pháp theo quy định để loại trừ vi phạm pháp luật đó.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan “đầu não Trung ương” của
hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, thực hiện nhiệm vụ định hướng, xây dựng
kế hoạch; lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện thực hiện các
kế hoạch và chỉ thị công tác của toàn ngành Kiểm sát nhân dân trong đó có
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam.
Đồng thời thực hiện một số nhiệm vụ kiểm sát theo phân cấp trong ngành.
Thời gian qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện
2
kiểm sát nhân dân tối cao trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam đã đạt được nhiều
kết quả đáng khích lệ, cơ bản đã định hướng hoạt động cho toàn ngành theo
đúng yêu cầu của Đảng và Nhà nước; Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
kiểm tra, hướng dẫn nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát trong toàn
ngành; Thông qua hoạt động kiểm sát đã kịp thời phát hiện, đề ra biện pháp
pháp lý nhằm loại trừ nhiều vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm
giam. Bên cạnh những kết quả đã đạt được hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam còn bộc lộ những hạn chế, thiếu
sót như: chất lượng hoạt động kiểm sát chưa cao, vi phạm pháp luật trong quá
trình tổ chức giam giữ chậm được phát hiện để yêu cầu khắc phục nên ở một
số nơi công tác chấp hành pháp luật, nội quy, quy chế về tạm giữ, tạm giam
chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc dẫn đến vẫn còn tình trạng quá hạn
tạm giam, hiện tượng người bị tạm giữ, tạm giam trốn, tự sát, phạm tội mới,
vi phạm kỷ luật trật tự tại nơi giam giữ còn diễn ra, tính mạng, tài sản, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam chưa được tôn
trọng.... đã làm giảm hiệu quả trong các hoạt động tố tụng. Nguyên nhân chủ
yếu là do nhận thức về vị trí và vai trò của hoạt động kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam chưa toàn diện, thống nhất, kiểm sát viên trực tiếp thực hiện nhiệm
vụ chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật, quy chế nghiệp vụ khi thi hành
nhiệm vụ, quy định của pháp luật chưa thực sự rõ ràng cụ thể nhưng không
được các cơ quan có thẩm quyền giải thích dẫn đến nhận thức chưa thống
nhất. Trình độ năng lực của một bộ phận cán bộ còn hạn chế, thiếu về số
lượng. Sự phối kết hợp giữa các cơ quan, đơn vị, các ngành, các cấp trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn nhằm phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam được thực hiện chưa tốt, cơ sở vật chất,
phương tiện kỹ thuật chưa bảo đảm cho quá trình thực hiện nhiệm vụ….
Từ phân tích ở trên cho thấy hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân tối cao giai
3
đoạn hiện nay còn nhiều hạn chế bất cập, do những nguyên nhân chủ quan và
khách quan khác nhau, vấn đề này chưa được nghiên cứu tổng kết để tìm ra
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động trong thời gian tới. Vì vậy, tôi
lựa chọn đề tài: “Cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân tối cao" làm đề
tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nâng cao chất lượng công tác của Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong
đó có hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm
giam là một trong những nội dung cơ bản của cải cách tư pháp giai đoạn hiện
nay. Nội dung này đã và đang thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của
nhiều nhà nghiên cứu trong cũng như ngoài ngành kiểm sát, có một số công
trình nghiên cứu liên quan đến đề tài được quan tâm như:
- Luận án tiến sĩ “Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Viện kiểm sát
nhân dân” của Nguyễn Hồng Vinh, bảo vệ tại Học viện Cảnh sát nhân dân,
năm 2007 đã khái quát những vấn đề cơ bản về hoạt động phòng ngừa tội
phạm của VKSND trong điều kiện cải cách tư pháp.
- Đề án: Phòng ngừa vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực tư pháp do
VKSND tối cao thực hiện năm 2014.
- Các đề tài khoa học và chuyên đề nghiệp vụ do của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao nghiên cứu:
+ Đề tài khoa học cấp bộ “Kháng nghị của Viện kiểm sát với các cơ quan
có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù” của VKSNDTC, do Nguyễn Hoàng Thế và các thành viên
thực hiện, nghiệm thu năm 2004 nêu nên thực trạng việc sử dụng quyền
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân trong khâu công tác kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù và một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền năng này.
4
+ Đề tài khoa học cấp bộ “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo yêu
cầu cải cách tư pháp hiện nay” của VKSNDTC, do Ngô Quang Liễn và các
thành viên thực hiện, nghiệm thu năm 2007, nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục
người chấp hành án phạt tù theo yêu cầu cải cách tư pháp.
+ Chuyên đề “Tổng kết 50 năm công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù” của VKSNDTC, do Bùi Đức
Long và các thành viên thực hiện, nghiệm thu năm 2010, đã khái quát quá trình
hình thành, phát triển cùng những thành tựu, hạn chế trong công tác kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù từ khi
Viện kiểm sát nhân dân thành lập năm 1960 đến năm 2010.
Ngoài ra còn có một số công trình, bài báo được đăng tải trên tạp chí
trong và ngoài ngành Kiểm sát.
Tuy nhiên, do cách thức tiếp cận và phạm vi nghiên cứu khác nhau, chưa
có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam. Vì vậy đề tài luận văn là không trùng
lập với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục tiêu nghiên cứu: Đề tài nhằm làm rõ căn cứ pháp lý, đặc điểm,
nội dung, phương pháp, biện pháp tiến hành và thực tiễn hoạt động kiểm sát
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong
lĩnh vực tạm giữ, tạm giam, rút ra kết quả đã đạt được, tồn tại thiếu sót,
nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh thiếu sót. Qua đó tìm ra những giải pháp
nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm
giữ, tạm giam của VKSND tối cao.
Để thực hiện mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu cần phải giải
quyết một số nhiệm vụ chính sau đây:
5
- Nghiên cứu, làm rõ căn cứ pháp lý, đặc điểm, nội dung, phương pháp,
biện pháp tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm
giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng về tình hình công tác quản lý tạm giữ,
tạm giam tại các nhà tạm giữ, trại tạm giam do Công an nhân dân quản lý;
thực trạng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm
giam của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chỉ rõ ưu, khuyết điểm, cùng
nguyên nhân của ưu điểm và yếu kém, tồn tại của hoạt động này.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm
sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong
lĩnh vực tạm giữ, tạm giam thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực
tiễn kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đảm bảo việc tuân theo pháp
luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào căn cứ pháp lý, đặc điểm,
nội dung, phương pháp, biện pháp tiến hành kiểm sát của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam
và khảo sát thực tế, thu thập số liệu, tài liệu về hoạt động kiểm sát này ở Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, thời gian từ năm 2010 đến năm 2015.
Hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát quân sự
không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
phòng ngừa và đấu tranh tội phạm, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát nhân dân, những thành tựu của khoa học điều tra hình sự, khoa học
pháp lý hình sự…
6
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng
phương pháp cụ thể như: phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp; phương
pháp so sánh, hệ thống hóa; phương pháp suy luận logic; phương pháp khảo
sát thực tiễn; các phương pháp nghiên cứu của tội phạm học, khoa học điều
tra tội phạm và các khoa học pháp lý khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài luận văn
- Về lý luận: Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về vị trí, vai trò hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao. Ngoài ra luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy trong các cơ sở đào tạo chuyên ngành.
- Về thực tiễn: Luận văn là tài liệu tham khảo giúp cán bộ, kiểm sát viên
đang trực tiếp thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh
vực tạm giữ, tạm giam ở Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ được giao. Với những đề xuất của luận văn là những chỉ dẫn mang
tính khoa học có cơ sở lý luận và thực tiễn có thể giúp cán bộ làm công tác
thực tiễn nâng cao hiệu quả hoạt đấu tranh chống tội phạm và phòng ngừa vi
phạm pháp luật tại nơi giam giữ.
7. Bố cục của đề tài luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận vă được cấu trúc làm 03 chương 06 tiết.
Chương 1. Cơ sở lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm
giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Chương 2. Thực trạng công tác tạm giữ, tạm giam và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm chất lượng hoạt động kiểm
sát việc tuân thep pháp luật trong tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG LĨNH VỰC TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIỆC TUÂN
THEO PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1.2.1.Khái niệm hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân
đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam
Xuất phát từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác tạm giữ, tạm
giam đòi hỏi hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh
vực này là hết sức cần thiết và là một yêu cầu khách quan của quá trình giải
quyết các vụ án hình sự, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
lĩnh vực tạm giữ, tạm giam là một trong những hoạt động kiểm sát thực hiện
chức năng của VKSND được Hiến pháp và pháp luật quy định.
Kiểm sát là một dạng hoạt động giám sát đặc thù chỉ gắn duy nhất với
một loại chủ thể kiểm sát là Viện kiểm sát với quyền năng và phương thức
kiểm sát riêng biệt, theo từ điển Luật học thì Kiểm sát được hiểu là kiểm tra
và giám sát việc tuân thủ pháp luật của Nhà nước.
Có nhiều tác giả đưa ra khái niệm khác nhau về hoạt động kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam, theo giáo trình kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của Học viện tư pháp thì
…hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam được hiểu là những
thao tác nghiệp vụ khi tiến hành kiểm sát thường kỳ, bất thường tại
chỗ nhà tạm giữ, trại tạm giam về việc tạm giữ, tạm giam nhằm áp
dụng các biện pháp pháp luật để yêu cầu cơ quan hữu quan đình chỉ
thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong
việc tạm giữ, tạm giam; góp phần bảo đảm cho việc tạm giữ, tạm
giam đúng quy định của pháp luật, bảo đảm việc thực hiện chế độ
8
đối với người bị tạm giữ, tạm giam; bảo đảm tính mạng, tài sản,
danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam và các quyền
khác của họ không bị pháp luật bảo vệ được tôn trọng… [7].
Khái niệm trên đã khái quát được toàn bộ công việc mà hoạt động kiểm
sát việc tạm giữ, tạm giam phải làm, tuy nhiên chưa thể hiện được vị trí và vai
trò hoạt động kiểm sát của VKSND trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam là một
bộ phận của kiểm sát hoạt động tư pháp trong thực tiễn.
Giáo trình công tác kiểm sát đưa ra khái niệm về công tác kiểm sát việc
giam, giữ và cải tạo như sau:
…là một trong các công tác thực hiện chức năng của Viện kiểm sát
nhân dân, có nội dung là kiểm sát tuân theo pháp luật của cơ quan,
đơn vị và người có trách nhiệm trong việc giam, giữ và cải tạo
nhằm bảo đảm việc giam giữ và cải tạo được chấp hành nghiêm
chỉnh, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị giam,
giữ và cải tạo và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ
được tôn trọng… [16, tr 6].
Khái niệm trên đã nêu được vị trí và vai trò của hoạt động kiểm sát của
VKSND đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam,
tuy nhiên chưa khái quát được công việc mà hoạt động kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam phải làm trên thực tế.
Theo quy định tại Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và năm 2014 thì
hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam là bộ phận hợp thành của công tác
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, một trong những khâu
công tác thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
nhân dân. Đây là một trong những hoạt động nhằm củng cố và thực hiện
quyền lực Nhà nước, được Đảng và Nhà nước giao cho hệ thống cơ quan
Viện kiểm sát; là hoạt động mang tính nghiệp vụ, thông qua hoạt động kiểm
sát kịp thời phát hiện vi phạm trong công tác tạm giữ, tạm giam, áp dụng biện
9
pháp luật định loại trừ vi phạm pháp luật, giúp công tác tạm giữ, tạm giam
hoạt động có hiệu quả, phục vụ quá trình giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam.
Từ những phân tích trên tác giả đưa ra khái niệm về hoạt động kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam là hoạt động nghiệp vụ thực hiện chức năng của
VKSND, được tiến hành các biện pháp theo quy định nhằm bảo đảm cho
công tác tạm giữ, tạm giam được tổ chức và thực hiện thống nhất trên cơ sở
quy định của pháp luật góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật xảy ra, tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam không bị pháp luật tước bỏ
được tôn trọng.
1.2.2. Cơ sở pháp lý và những đặc điểm cơ bản hoạt động kiểm sát
của Viện kiểm sát nhân dân đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong lĩnh
vực tạm giữ, tạm giam
+ Về cơ sở pháp lý hoạt động kiểm sát của VKSND đảm bảo việc tuân
theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam
Hoạt động của ngành Kiểm sát gắn với sự ra đời, phát triển cải cách
của bộ máy nhà nước Việt Nam theo đó chức năng cơ bản của Viện kiểm sát
được Hiến pháp và pháp luật quy định ổn định qua các thời kỳ đó là thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong đó hoạt động thực
hành quyền công tố, Viện kiểm sát bảo đảm mọi tội phạm xảy ra đều được
phát hiện, kịp thời xử lý đúng người, đúng tội đúng pháp luật không bỏ lọt
tội phạm và người phạm tội. Để thực hiện chức năng công tố nhà nước Viện
kiểm sát tiến hành nhiều biện pháp, phối hợp chặt chẽ cùng các cơ quan bảo
vệ pháp luật nói chung, cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra và Toà
án) nói riêng áp dụng các biện pháp cần thiết do pháp luật quy định để nhanh
chóng tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát là kịp thời phát hiện những vi phạm pháp luật trong
10
lĩnh vực tư pháp để áp dụng các biện pháp pháp lý loại trừ vi phạm pháp luật
đảm bảo hoạt động của các cơ quan tư pháp, các chức danh tư pháp hoạt
động tuân thủ pháp luật đồng thời bảo đảm quyền, lợi ích của công dân
không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng. Chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát có mối quan hệ khăng
khít, hỗ trợ lẫn nhau cùng tồn tại trong một chỉnh thể, hoạt động kiểm sát tư
pháp giúp phòng ngừa, ngăn chặn và loại trừ vi phạm pháp luật của cơ quan
tư pháp, nhân viên tư pháp, kết quả kiểm sát hoạt động tư pháp giúp cho
hoạt động tố tụng nói chung và thực hành quyền công tố nói riêng được
thuận lợi, nhanh chóng.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam là
một phần trong nội dung công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành
án hình sự, là bộ phận quan trọng tạo thành chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp của VKSND. Hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam giữ vai trò
quan trọng bảo đảm tính thống nhất, công bằng và nghiêm minh của pháp luật
về tạm giữ, tạm giam, với nhiệm vụ là trực tiếp phục vụ công tác đấu tranh
chống tội phạm, kịp thời phát hiện và đề ra những biện pháp pháp lý cần thiết
nhằm loại bỏ vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam; một mặt
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người bị tạm giữ, tạm giam không bị
pháp luật tước bỏ. Bên cạnh đó kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam còn góp phần
thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành Kiểm sát nhân dân.
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND, kế thừa quy định pháp luật trước đó có sự bổ sung, chỉnh
sửa hoàn thiện hơn, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa X đã thông qua Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. Qua hơn 10 năm thi hành Luật tổ
chức VKSND năm 2002, ngày 24 tháng 11 năm 2014, tại kỳ họp thứ 8, Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật có hiệu lực thi hành kể từ
11
ngày 01/6/2015, tại Điều 8 quy định trách nhiệm phối hợp của Viện kiểm sát
nhân dân “Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân
dân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an, Tòa án, Thi hành án,
Thanh tra, Kiểm toán, các cơ quan nhà nước khác, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận để phòng, chống tội phạm
có hiệu quả; xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp
luật trong hoạt động tư pháp; phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp
luật; đào tạo, bồi dưỡng; nghiên cứu tội phạm và vi phạm pháp luật.”
Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã dành Chương VI, từ Điều 26 đến
Điều 29; Luật tổ chức VKSND năm 2014 từ Điều 22 đến Điều 26; quy định
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát khi thực hiện công tác
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự.
Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 06/9/1989 quy định: “Khi
VKSND tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật nơi giam giữ…thấy có
văn bản, biện pháp hoặc việc làm trái pháp luật thì kiến nghị, kháng nghị tới
ban giám thị, cơ quan quản lý cùng cấp hoặc cấp dưới để yêu cầu sửa chữa,
bải bỏ hoặc đình chỉ văn bản, biện pháp hoặc việc làm trái pháp luật đó.”
Nhằm thực hiện đúng và thống nhất các quy định của pháp luật trong
toàn ngành, đáp ứng có hiệu quả việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của khâu
công tác này đồng thời đề cao trách nhiệm của các chức danh pháp lý giúp cho
việc chỉ đạo điều hành thống nhất, thông suốt, ngày 29/01/2013 Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành quy chế công tác kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam và thi hành án hình sự kèm theo quyết định số 35/2013/QĐ-
VKSTC-V4, quy chế đã bổ sung và tập trung làm rõ hơn và cụ thể hơn vị trí,
phạm vi, nội dung, phương thức thực hiện công tác để đưa công tác kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự của VKSND các cấp đi vào hoạt
động nề nếp.
12
Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác quản lý giam giữ, đòi hỏi
hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực quản lý
giam giữ cũng như các quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam là một
yêu cầu khách quan của quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình
sự. Hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm
giữ, tạm giam giao cho VKSND các cấp thực hiện được quy định tại Luật Tổ
chức VKSND từ khi thành lập ngành Kiểm sát nhân dân đến nay, đã trở thành
một trong các hoạt động kiểm sát thực hiện chức năng. Nghiên cứu quy định
pháp luật về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát có thể rút
ra một số đặc điểm cơ bản về hoạt động kiểm sát của VKSND đảm bảo việc
tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam như sau:
+ Chủ thể tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
lĩnh vực tạm giữ, tạm giam, là người trực tiếp tiến hành các hoạt động kiểm
sát, được quy định tại Luật tổ chức VKSND năm 2002 và Pháp lệnh kiểm sát
viên năm 2002 bao gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng và kiểm sát viên.
+ Về đối tượng hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam:
Đây là vấn đề hết sức cơ bản, mở đầu đối với bất cứ hoạt động kiểm sát
nào, nếu nhận thức sai về đối tượng dẫn đến hoạt động kiểm sát sẽ đi lệch quỹ
đạo, mục đích của hoạt động không thành công. Trong thực tế hiện nay có
không ít trường hợp nhận thức chưa đúng về đối tượng của hoạt động kiểm
sát việc tạm giữ, tạm giam, có quan điểm cho rằng người bị tạm giữ, tạm
giam là đối tượng của hoạt động này [9]. Tuy nhiên khi đối chiếu với quy
định của pháp luật quy định tại Điều 23 BLTTHS và Điều 26 Luật Tổ chức
VKSND năm 2002, Điều 22 26 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì đối
tượng của hoạt động kiểm sát của VKSND đảm bảo việc tuân theo pháp luật
trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam được xác định là việc tuân thủ pháp luật của
các cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam. Đó
là việc chấp hành pháp luật trong việc bảo đảm chế độ giam giữ, thời hạn
13
giam giữ, tính có căn cứ và hợp pháp của lệnh tạm giữ, tạm giam…. Xác định
đúng đối tượng của hoạt động kiểm sát không chỉ bảo đảm hiệu quả trong
công tác mà còn giúp xác định rõ phạm vi, nội dung, mục đích của hoạt động
kiểm sát.
+ Về mục đích của hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam:
Hoạt động kiểm sát của VKSND trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam bảo
đảm pháp luật về tạm giữ, tạm giam được thi hành nghiêm chỉnh thống nhất;
phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sơ hở, thiếu sót, vi phạm và tội phạm ở
nơi giam giữ; bảo đảm trật tự trị an, an toàn nơi giam giữ phục vụ cho công
tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được kịp thời, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm
giam không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng.
+ Về chức năng của hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam:
Nhà nước giao cho mỗi cơ quan trong bộ máy thực hiện những chức
năng khác nhau, có sự phân công rành mạch, tránh chồng chéo khi thực hiện
nhiệm vụ, tuy nhiên trong thực tế chưa hiểu nhất quán về các chức năng của
hoạt động Thanh tra, Giám sát và Kiểm sát. Cần thiết có sự phân biệt giữa
hoạt động Thanh tra, Giám sát và hoạt động Kiểm sát tuân theo pháp luật
trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam.
Thanh tra, kiểm tra công tác trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam là hoạt
động của cơ quan chủ quản (Bộ Công an) tiến hành để kiểm tra việc thực hiện
kế hoạch chung của ngành trên cơ sở chức năng, được tiến hành khi có yêu
cầu của thủ trưởng ngành.
Giám sát là hoạt động của các cơ quan dân cử trong hệ thống cơ quan
quyền lực như Ủy ban của Quốc Hội, Đoàn đại biểu Quốc Hội, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban mặt trận tổ quốc nhằm xem xét hoạt động của cơ quan hành
pháp trong việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam đây là
lĩnh vực không thường xuyên.
14
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND trong lĩnh
vực tạm giữ, tạm giam, đây là hoạt động của cơ quan Tư pháp, thực hiện chức
năng kiểm sát, được tiến hành thường kỳ và bất thường kỳ nơi giam giữ chỉ
tuân theo quy định của pháp luật.
+ Về thẩm quyền của hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam:
Phân định thẩm quyền kiểm sát nhà tạm giữ, trại tạm giam được quy
định tại Luật Tổ chức VKSND năm 2002 (Điều 1); Thông tư liên ngành số
02/TTLN ngày 06/9/1989 và Quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam và thi hành án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 35/2013/QĐ-
VKSTC-V4 ngày 29/01/2013 theo chức năng của mình Viện kiểm sát mỗi cấp
có trách nhiệm tiến hành kiểm sát thường kỳ và bất thường ở nơi giam giữ
cấp mình và cấp dưới.
+ Về phạm vi của hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam là thời
điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc các hoạt động của công tác đó. Phạm vi
của hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam là giới hạn hoạt động về mặt
không gian và thời gian, xác định đúng phạm vi sẽ bảo đảm tính liên tục,
thống nhất trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND, giúp
nâng cao hiệu quả trong công tác, nếu vượt quá giới hạn đó hoạt động kiểm
sát sẽ bị trùng chéo với hoạt động kiểm sát khác.
Phạm vi hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam về thời gian được
thực hiện từ khi bắt đầu việc tạm giữ, tạm giam và kết thúc khi chấm dứt việc
tạm giữ, tạm giam.1.2. NỘI DUNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1.2.1.Nội dung hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân
Trải qua 50 năm hình thành và phát triển, việc nhận thức về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND
15
trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam vẫn còn hạn chế, bất cập nhất định. Do vậy làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận để nhận thức đúng đắn, đầy đủ về chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND trong hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu
tranh phòng ngừa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam giai đoạn
hiện nay.
Nắm vững nội dung hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
lĩnh vực tạm giữ, tạm giam là vấn đề hết sức cần thiết và quan trọng bởi lẽ nội
dung kiểm sát là sự cụ thể hóa hoạt động kiểm sát nhằm thực hiện các nhiệm
vụ và thẩm quyền luật định. Nội dung hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam chính là quy định về công việc phải làm khi thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của VKSND các cấp, bao gồm những nội dung sau:
Một là, Viện kiểm sát nhằm đảm bảo việc tạm giữ, tạm giam được thực
hiện đúng quy định của pháp luật.
- Về kiểm sát việc tạm giữ, VKSND các cấp phải quản lý chặt chẽ số
người bị tạm giữ, xử lý bảo đảm mọi trường hợp bị tạm giữ phải có quyết
định của cơ quan và người có thẩm quyền. Quyết định tạm giữ phải căn cứ
vào các trường hợp phạm tội quả tang, bắt khẩn cấp, bắt theo lệnh truy nã,
đầu thú và tự thú theo Điều 86 BLTTHS. Quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do
tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm giữ một bản, kịp
thời phát hiện những trường hợp quá hạn tạm giữ, yêu cầu khắc phục những
vi phạm trong quá trình tạm giữ. Trường hợp xét thấy việc tạm giữ không có
căn cứ thì ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm
giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, kiểm sát việc tạm giữ phải kiểm
sát chặt chẽ việc thực hiện quyết định này, nếu người ra quyết định tạm giữ
không trả tự do cho người bị tạm giữ thì VKS sẽ quyết định trả tự do cho họ
theo Khoản 1 Điều 28 Luật tổ chức VKSND năm 2002.
16
Khi tiến hành trực tiếp kiểm sát nhà tạm giữ, trại tạm giam, kiểm sát
viên phải trực tiếp nghiên cứu hồ sơ tạm giữ, phối hợp với các đơn vị thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử để quản lý chặt chẽ
những trường hợp Viện kiểm sát không phê chuẩn việc bắt khẩn cấp, những
trường hợp Viện kiểm sát phê chuẩn bắt sau đó trả tự do vì không có căn cứ
phạm tội, các trường hợp không phê chuẩn gia hạn tạm giữ, quá hạn tạm giữ,
các trường hợp Viện kiểm sát quyết định hủy quyết định tạm giữ. Các trường
hợp trên nếu không được trả tự do thì VKS sẽ quyết định trả tự do cho họ theo
quy định tại Khoản 1 Điều 28 Luật Tổ chức VKSND năm 2002.
- Về kiểm sát việc tạm giam, VKSND các cấp phải quản lý chặt chẽ số
người bị bắt, tạm giam và xử lý trong các giai đoạn tố tụng hình sự, bảo đảm
việc tạm giam phải có lệnh của cơ quan và người có thẩm quyền, lệnh tạm
giam phải ghi rõ: ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ người ra lệnh, họ tên địa
chỉ người bị tạm giam, lý do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người
bị tạm giam một bản. Kịp thời phát hiện những trường hợp không có lệnh tạm
giam hợp pháp, quá hạn tạm giam, phân tích các trường hợp quá hạn tạm
giam thuộc trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng để yêu cầu khắc
phục, sửa chữa. Các trường hợp tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật
thì ra quyết định trả tự do cho họ theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Luật Tổ
chức VKSND năm 2002. Phối hợp với các đơn vị thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử để quản lý chặt chẽ những trường hợp Viện
kiểm sát ra quyết định không phê chuẩn lệnh tạm giam, quyết định không gia
hạn tạm giam, các trường hợp đình chỉ điều tra, đình chỉ do không phạm tội ở
các giai đoạn tố tụng, Tòa án tuyên không phạm tội để kịp thời xem xét việc
trả tự do cho họ. VKSND các cấp quản lý chặt chẽ số bị án đã bị Tòa án tuyên
bằng một bản án phạt tù có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn bị tạm giam tại các
nhà tạm giữ, trại tạm giam chưa được đưa đi chấp hành án để kiến nghị cơ
17
quan có thẩm quyền hoàn tất thủ tục theo quy định nhằm khắc phục tình trạng
quá tải trong giam giữ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị án. Nắm
chắc số bị cáo Tòa án tuyên hình phạt tử hình ở các giai đoạn xét xử [36].
- Kiểm sát chặt chẽ công tác quản lý giam giữ ở các nhà tạm giữ, trại
tạm giam nhằm khắc phục tình trạng người bị tạm giữ và người bị tạm giam
chung buồng, người đã thành niên và chưa thành niên giam giữ chung buồng,
những người cùng vụ án bị giam giữ chung buồng, kịp thời yêu cầu cơ quan
quản lý giam giữ thực hiện chế độ giam giữ theo đúng Điều 15 quy chế về
tạm giữ, tạm giam góp phần hạn chế việc thông cung, liên lạc phục vụ tốt cho
quá trình xử lý vụ án.
- Nắm bắt kịp thời những trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam vi
phạm qui chế, nội qui của nhà tạm giữ, trại tạm giam và các hình thức xử lý
đối với họ để kịp thời yêu cầu trưởng nhà tạm giữ, giám thị trại tạm giam xem
xét loại trừ nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm.
Hai là, kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong việc bảo đảm chế độ
tạm giữ, tạm giam.
VKSND các cấp cần kiểm sát chặt chẽ việc thực hiện chế độ ăn, ở,
mặc, phòng chữa bệnh và thăm gặp, nhận quà của người bị tạm giữ, tạm giam
theo đúng quy định tại quy chế về tạm giữ, tạm giam ban hành kèm theo Nghị
định số 89/1998/NĐ - CP ngày 7/11/1998 của Chính phủ.
- Về chế độ ăn, mặc, ở, kiểm tra các loại sổ sách quyết toán hàng tháng,
quý, 6 tháng, năm, trực tiếp gặp hỏi người bị tạm giữ, tạm giam về việc thực
hiện chế độ ăn đối với họ nhằm bảo đảm cho người bị tạm giữ, tạm giam ăn
đúng định lượng, tiêu chuẩn về lương thực, thực phẩm, hàng tháng mức ăn
của họ được hưởng theo định lượng cụ thể là 15kg gạo, 0,3kg thịt, 0,5kg cá,
0,8kg muối, 0,5 lít nước chấm, 15 kg rau xanh, 15kg chất đốt. Tuy nhiên
Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam có thể hoán đổi định lượng ăn
18
của họ cho phù hợp với thực tế và khẩu vị của họ để đảm bảo họ ăn hết tiêu
chuẩn, định lượng. Trong các ngày Lễ, tết Dương lịch (theo quy định của Nhà
nước) được ăn thêm gấp 3 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường, Tết nguyên đán ăn
gấp 5 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường. Ngoài ra một tháng hai lần người bị tạm
giam được nhận quà tiếp tế do thân nhân gia đình gửi; trong quá trình bị giam
giữ, người bị tạm giữ, tạm giam được sử dụng quần áo, chăn, chiếu, màn của
cá nhân, nếu thiếu thì nhà tạm giữ, trại tạm giam cho mượn, hàng tháng được
cấp 0,2 kg xà phòng, 02 tháng được cấp 01 khăn mặt, đối với người bị tạm
giữ, tạm giam là nữ được cấp thêm một số tiền ( tương đương với 02 kg gạo,
tính theo giá thị trường ở từng địa phương) để mua đồ dùng cần thiết cho vệ
sinh phụ nữ, ngoài ra còn đảm bảo vệ sinh khu vực giam giữ, được bố trí diện
tích giam, giữ tối thiểu 2m2/người.
- Về chế độ y tế, kiểm sát chặt chẽ việc sử dụng kinh phí mua thuốc
điều trị cho người bị tạm giữ, tạm giam bị đau ốm, bệnh tật nhằm đảm bảo
thuốc điều trị phải được cấp đến người bị giam giữ. Việc thực hiện chế độ
phòng chống dịch bệnh tại các nhà tạm giữ, trại tạm giam được thực hiện
theo đúng quy định của ngành y tế đảm bảo tốt vệ sinh nơi ăn, ở, sinh hoạt ở
nơi giam giữ. Trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam bị ốm đau, bệnh tật,
thương tích vượt quá khả năng khám và điều trị của cán bộ y tế nhà tạm giữ,
trại tạm giam thì yêu cầu trưởng nhà tạm giữ, giám thị trại tạm giam chuyển
đến bệnh viện tuyến trên để điều trị, bảo đảm sức khỏe cho người bị tạm giữ,
tạm giam khi tham gia tố tụng chống suy kiệt sức lực, trong quá trình điều
trị đơn vị quản lý giam giữ phải tổ chức canh gác không để người bị tạm giữ,
tạm giam trốn.
Ba là, kiểm sát nhằm đảm bảo tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm
của người bị tạm giữ, tạm giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật
tước bỏ được tôn trọng.
19
Một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS quy định: “Công dân
có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài
sản đều bị xử lý theo pháp luật”, hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
phải bảo đảm nội dung này.
- Về đảm bảo tính mạng, danh dự, nhân phẩm, khi tiến hành kiểm sát
trực tiếp tại nhà tạm giữ, trại tạm giam cần xem xét đến vấn đề xâm phạm đến
tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam như truy bức,
gây thương tích, dùng nhục hình, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm con
người có thể do đối tượng cùng buồng giam gây ra hoặc cán bộ quản lý gây
ra, làm rõ nguyên nhân và kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm
pháp luật. Các trường hợp trên nếu có dấu hiệu của tội phạm thì yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền khởi tố xử lý theo pháp luật, đối với những vụ án xâm
phạm hoạt động tư pháp do cán bộ làm công tác tư pháp gây ra thì chuyển hồ
sơ đến cơ quan điều tra thuộc VKSNDTC để xử lý theo thẩm quyền.
-Về đảm bảo tài sản, kiểm sát chặt chẽ việc quản lý lưu ký tài sản của
người bị tạm giữ, tạm giam, bảo đảm nguyên tắc có biên bản giao nhận, có
chữ ký của người bị tạm giữ, tạm giam, có sổ sách theo dõi và trả cho họ khi
họ được trả tự do. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam chết thì
trưởng nhà tạm giữ, giám thị trại tạm giam phải trả tài sản lưu ký cho người
thân gia đình người chết.
- Đảm bảo quyền khiếu nại- tố cáo của người bị tạm giữ, tạm giam,
quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được
quy định tại Điều 74 Hiến pháp năm 1992, cũng là một nguyên tắc cơ bản của
tố tụng hình sự được quy định trong BLTTHS. Do vậy khi nhận được đơn
khiếu nại, tố cáo của người bị tạm giữ, tạm giam VKSND các cấp phải khẩn
trương xem xét giải quyết theo thẩm quyền.
20
- Đảm bảo quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, tạm giam, đây là
nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 11 BLTTHS theo đó người bị tạm
giữ, tạm giam có quyền nhờ người khác bào chữa, cơ quan quản lý giam giữ
phải tạo điều kiện thuận lợi để đó người bị tạm giữ, tạm giam thực hiện quyền
của họ, VKSND các cấp bảo đảm cho họ thực hiện quyền này.
1.2.2. Phương thức thực hiện hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam
Để thực hiện các nội dung kiểm sát, VKSND thực hiện các phương
thức để tác động đến đối tượng kiểm sát được pháp luật cho phép đó là:
Phương thức trực tiếp kiểm sát thường kỳ; Phương thức trực tiếp kiểm sát bất
thường; Phương thức yêu cầu cơ quan cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp quản
lý nhà tạm giữ, trại tạm giam tự kiểm tra và thông báo kết quả cho VKS và
phương thức yêu cầu cơ quan cùng cấp hoặc cấp dưới và người có trách nhiệm
trong việc tạm giữ, tạm giam thông báo tình hình chấp hành pháp luật trong
việc tạm giữ, tạm giam.
- Phương thức kiểm sát thường kỳ việc tạm giữ, tạm giam: Hàng ngày
Viện kiểm sát cử kiểm sát viên tiến hành kiểm sát việc bắt tạm giữ tại nhà tạm
giữ (đối với cấp huyện) và các buồng tạm giữ tại trại tạm giam (đối với cấp
tỉnh và Bộ Công an ). Hàng tuần phải tiến hành kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam đối với trại tạm giam công an tỉnh, định kỳ 03 tháng phải trực tiếp kiểm
sát từng mặt, 06 tháng phải trực tiếp kiểm sát toàn diện việc tạm giữ, tạm
giam tại nhà tạm giữ, trại tạm giam. Đối với kiểm sát định kỳ 3 tháng, 6
tháng, 01 năm, khi kết thúc các cuộc kiểm sát trực tiếp, Viện kiểm sát phải có
kết luận bằng văn bản.
Khi tiến hành kiểm sát thường kỳ có thể đi sâu kiểm sát toàn bộ việc
chấp hành pháp luật trong giam giữ hoặc cũng có thể kiểm sát những vấn đề
nào thấy cần thiết hoặc phúc tra lại những vi phạm đã được phát hiện của lần
21
kiểm sát trước mà Viện kiểm sát đã kháng nghị yêu cầu sửa chữa, xem kết
quả sửa chữa vi phạm của Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam.
- Phương thức kiểm sát bất thường việc tạm giữ, tạm giam: Khi thực
hiện công tác kiểm sát, Viện kiểm sát có quyền kiểm sát bất thường nhà tạm
giữ, trại tạm giam. Điều kiện để áp dụng phương thức này là “Khi có dấu hiệu
vi phạm pháp luật xảy ra ở nhà tạm giữ, trại tạm giam, xét thấy cần phải kiểm
sát thì phải tiến hành kiểm sát ngay bất kỳ thời gian nào, không kể là ngày
hay đêm, miễn là khi kiểm sát viên nhận được nguồn thông tin đáng tin cậy,
có cơ sở để xác định là có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng ở nơi
giam giữ như: Người bị giam giữ, tạm giam trốn, phạm tội mới, chết do tai
nạn lao động hoặc dịch bệnh, chết bất thường không rõ nguyên nhân, tự tử
chết… Sau khi kiểm sát phải có kết luận bằng văn bản xác định nguyên nhân
và hậu quả (nếu có) do hành vi vi phạm pháp luật gây ra. Yêu cầu Trưởng nhà
tạm giữ, Giám thị trại tạm giam nơi đã kiểm sát có biện pháp chấm dứt việc
làm vi phạm pháp luật và xử lý người vi phạm pháp luật” [36]. Yếu tố “Có
dấu hiệu vi phạm pháp luật” được hiểu ở đây có thể là vi phạm về căn cứ, về
thời hạn, về thủ tục tạm giữ, tạm giam, cũng có thể là vi phạm về việc thực
hiện các chế độ quản lý, các chế độ ăn ở, sinh hoạt, chữa bệnh…của người bị
tạm giữ, tạm giam.
- Phương thức yêu cầu cơ quan cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp quản
lý nhà tạm giữ, trại tạm giam tự kiểm tra và thông báo kết quả cho VKSND.
Mặc dù kiểm sát trực tiếp nhà tạm giam, trại tạm giam là phương thức
chủ yếu, song không nhất thiết lúc nào cũng tiến hành kiểm sát trực tiếp mà
có lúc, có việc, có nơi, tuỳ theo tình hình, căn cứ vào tính chất, mức độ của vi
phạm của nhà tạm giữ, trại tạm giam hoặc do yêu cầu thông tin mà có thể yêu
cầu cơ quan quản lý nhà tạm giữ, trại tạm giam kiểm tra những nơi đó và
thông báo kết quả theo quy định. Yêu cầu tự kiểm tra thường được áp dụng
khi phát hiện có dấu hiện vi phạm pháp luật hoặc đã có vi phạm xảy ra ở nơi
22
giam giữ nhưng chưa có điều kiện để kiểm sát. Mặt khác Viện kiểm sát cũng
phải có cơ sở để khẳng định việc tự kiểm tra của cơ quan quản lý nhà tạm giữ,
trại tạm giam là khách quan, có kết quả thì áp dụng thẩm quyền này.
Dấu hiệu vi phạm pháp luật thường được phát hiện thông qua kết quả
hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam trước đó,
qua công tác quản lý tình hình, qua khiếu nại, tố cáo của người bị giam giữ và
của công dân, qua phương tiện thông tin đại chúng, qua kiến nghị của các cơ
nhà nước và tổ chức xã hội. Yêu cầu kiểm tra và báo cáo kết quả không chỉ là
phương thức kiểm sát mà còn là biện pháp có hiệu quả để cơ quan trực tiếp tổ
chức tạm giữ, tạm giam thấy được những vi phạm của mình để từ đó có biện
pháp khắc phục kịp thời.
Khi yêu cầu tự kiểm tra, Viện kiểm sát phải yêu cầu kiểm tra những
vấn đề chính, không nên yêu cầu quá nhiều việc, không yêu cầu một cách tràn
lan, không cần thiết…
- Phương thức yêu cầu cơ quan cùng cấp hoặc cấp dưới và người có
trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam thông báo tình hình chấp hành pháp
luật trong việc tạm giữ, tạm giam.
Yêu cầu cơ quan cùng cấp, cấp dưới và người có trách nhiệm thông
báo tình hình chấp hành pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam trả lời về
quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ,
tạm giam chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi
phạm pháp luật. Yêu cầu này cũng đã được Liên ngành Bộ nội vụ (nay là Bộ
Công an) và VKSNDTC quy định tại Thông tư liên tịch số 02 ngày 6/9/1989
về mối quan hệ giữa công tác giam giữ, cải tạo và kiểm sát giam giữ, cải tạo.
Trong 04 phương thức kiểm sát trên, Viện kiểm sát phải đặc biệt lưu ý
tới 2 phương thức chính là trực tiếp kiểm sát thường kỳ và trực tiếp kiểm sát
bất thường tại nhà tạm giữ, trại tạm giam.
23
1.2.3. Các biện pháp loại trừ vi phạm pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam
Quá trình thực hiện chức năng phát hiện vi phạm pháp luật trong công
tác tạm giữ, tạm giam, pháp luật quy định cho VKSND các cấp quyền áp
dụng các biện pháp cần thiết để loại trừ vi phạm pháp luật. Áp dụng các biện
pháp pháp luật để loại trừ những vi phạm trong giam giữ là nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của VKSND trong hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam, được quy định tại các Điều 26, 27, 28 Luật Tổ chức VKSND năm
2002; Điều 22 đến Điều 26 Luật Tổ chức VKSND năm 2014. VKSND các
cấp xác minh, làm rõ nguyên nhân dẫn đến vi phạm, quy rõ trách nhiệm của
cơ quan, đơn vị và người có vi phạm. Tùy theo tính chất, mức độ, hậu quả,
loại vi phạm mà áp dụng các biện pháp loại trừ vi phạm, pháp luật quy định
các biện pháp loại trừ vi phạm là quyết định trả tự do; kiến nghị; kháng nghị
và khởi tố hoặc yêu cầu khởi tố về hình sự.
- Về quyết định trả tự do, Viện kiểm sát ra quyết định trả tự do cho
người bị giam giữ không có căn cứ và trái pháp luật là một biện pháp được
quy định tại Khoản 1, Điều 28 Luật Tổ chức VKSND năm 2002. Đây là một
biện pháp pháp lý quan trọng góp phần bảo đảm quyền tự do thân thể, quyền
tự do dân chủ của công dân theo quy định tại Điều 72 Hiến pháp 1992 và
Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2001. Đây là quyền năng đặc biệt, quyền hạn
duy nhất chỉ có Viện kiểm sát mới được giao quyền này.
Viện kiểm sát ra quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm
giam không có căn cứ và trái pháp luật trong các trường hợp sau đây:
+ Đối với người bị tạm giữ: Các trường hợp VKS không phê chuẩn bắt
khẩn cấp mà vẫn bị tạm giữ; người bị tạm giữ không có quyết định của cơ
quan và người có thẩm quyền; người đã được VKS huỷ bỏ quyết định tạm giữ
nhưng vẫn bị tạm giữ; người bị tạm giữ đã có quyết định trả tự do; người mà
24
VKS không phê chuẩn gia hạn tạm giữ; Đã hết thời hạn tạm giữ và không có
quyết định hợp pháp nào khác nhưng vẫn bị tạm giữ.
+ Đối với người bị tạm giam: Người bị tạm giam nhưng không có lệnh
của cơ quan có thẩm quyền hoặc có lệnh tạm giam nhưng không có phê chuẩn
của VKS theo qui định của BLTTHS; người đã được VKSND quyết định
không gia hạn tạm giam; người đã có quyết định huỷ bỏ việc tạm giam; người
đã có quyết định trả tự do hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác; người đã
có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án và không bị giam giữ về
hành vi phạm tội khác; Người đã được Tòa án xét xử và quyết định trả tự do,
tuyên không phạm tội, được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, hình
phạt không phải là tù giam, thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian đã
bị tạm giam. Đây là biện pháp nghiệp vụ rất quan trọng, cũng là thẩm quyền
đặc biệt được giao cho hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, cho nên
cần nắm chắc các quy định của pháp luật, quy chế nghiệp vụ cũng như thực
tiễn áp dụng.
- Về kháng nghị, kháng nghị là biện pháp pháp lý quan trọng của Viện
kiểm sát khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam thì
Viện kiểm sát ban hành văn bản kháng nghị yêu cầu đình chỉ việc thi hành,
sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật, chấm dứt việc làm vi
phạm pháp luật, VKSND ban hành kháng nghị trong các trường hợp sau:
Những quyết định của Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam về
việc giam giữ trái pháp luật như việc đưa người vào tạm giữ, tạm giam không
có lệnh, quyết định của người có thẩm quyền; quyết định kỷ luật người bị tạm
giữ, tạm giam không có căn cứ…
Những lệnh, quyết định tạm giam của Tòa án (Chánh án, Phó Chánh
án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử) trái pháp luật trong giai đoạn xét xử.
Chẳng hạn, qua hoạt động kiểm sát việc tạm giam, phát hiện lệnh, quyết định
25
tạm giam của Tòa án không có căn cứ, không đúng đối tượng, không đúng
thời hạn theo qui định của BLTTHS…
Những việc làm của cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong
việc giam giữ trái pháp luật, đây là những việc làm vi phạm pháp luật đã xảy
ra thực tế. Chẳng hạn như các hành vi dùng nhục hình đối với người bị tạm
giữ, tạm giam; bớt xén chế độ của họ …
Khi thực hiện biện pháp kháng nghị, đòi hỏi Viện kiểm sát phải nêu rõ
quy định của pháp luật làm căn cứ kháng nghị, phải xác định rõ vi phạm, căn
cứ xác định vi phạm và cơ quan, tổ chức và người vi phạm để kháng nghị
đúng, kịp thời nhằm ngăn chặn, hạn chế hậu quả do vi phạm gây ra.
Theo quy định tại Luật Tổ chức VKSND, Viện kiểm sát chỉ kháng nghị
đối với cơ quan cùng cấp hoặc cấp dưới thuộc phạm vi kiểm sát. Nếu phát
hiện vi phạm của cơ quan cấp trên thuộc thẩm quyền kháng nghị của VKSND
cấp trên thì báo cáo rõ lên Viện kiểm sát cấp trên để kháng nghị theo thẩm
quyền. Trong quá trình kiểm sát, nếu thấy vi phạm thuộc lỗi trực tiếp của cơ
quan quản lý giam giữ thuộc thẩm quyền kiểm sát thì kháng nghị yêu cầu
khắc phục ngay vi phạm và yêu cầu xử lý nghiêm những người trực tiếp gây
ra vi phạm đó. Nếu vi phạm đó không phải là lỗi của cơ quan trực tiếp quản lý
giam giữ mà thuộc lỗi của cơ quan tiến hành tố tụng,.. thì báo cáo Viện
trưởng có biện pháp giải quyết kịp thời.
- Về kiến nghị, Viện kiểm sát chỉ ban hành kiến nghị đối với việc tạm
giữ, tạm giam trong các trường hợp phát hiện những việc làm được xác định
là nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật hoặc những việc nếu
không có biện pháp khắc phục sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật.
Kiến nghị của VKSND phải phân tích làm rõ những việc làm được xác
định là nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật hoặc những việc
nếu không có biện pháp khắc phục sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật. Từ đó kiến
nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp loại trừ nguyên nhân,
26
điều kiện dẫn đến vi phạm, các biện pháp phòng ngừa thích hợp. Sau khi ban
hành kiến nghị, Viện kiểm sát phải theo dõi việc thực hiện kiến nghị đó.
- Về khởi tố vụ án hình sự, trong quá trình thực hiện hoạt động kiểm
sát việc tạm giữ, tạm giam nếu phát hiện có dấu hiệu phạm tội thuộc các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan
tư pháp trong quản lý giam giữ thì Viện kiểm sát thu thập các tài liệu ban đầu
(kể cả chụp ảnh hiện trường, xem xét dấu vết, lấy lời khai, ghi âm…) sau đó
báo cáo Cơ quan điều tra thuộc VKSNDTC để xem xét, kiểm tra xác minh và
quyết định việc khởi tố vụ án hình sự. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
mà người phạm tội là cán bộ nhân viên làm công tác tư pháp như các tội như
tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội; tha trái pháp luật người
bị giam, giữ; tội dùng nhục hình, tội lạm dụng chức vụ quyền hạn giam giữ
trái pháp luật; tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn...
Nếu phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm khác (không thuộc
trường hợp nêu trên) thì yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền khởi tố
điều tra theo qui định của pháp luật. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp,
phạm tội mới thường gặp mà người phạm tội không phải là cán bộ nhân viên
làm công tác tư pháp như các tội: Trốn khỏi nơi giam giữ; cố ý gây thương
tích; giết người; đánh bạc; tội phạm về ma tuý; trộm cắp tài sản; tội đánh
tháo người bị giam giữ...
Ngoài ra pháp luật cũng quy định trách nhiệm của cơ quan, đơn vị và
người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam trong việc trả lời việc thực
hiện các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát [22].
Như vậy, nhiệm vụ và quyền hạn hoạt động kiểm sát của VKSND đảm
bảo việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam gồm hai nhóm
chính, một là các quy định về phát hiện vi phạm pháp luật; hai là các quy định
của pháp luật về loại trừ, phòng ngừa vi phạm pháp luật, thể hiện vai trò của
VKSND trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam.
27
1.2.4.Về mối quan hệ công tác giữa viện kiểm sát nhân dân với các
cấp, cơ quan, đơn vị trong việc phòng ngừa vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực tạm giữ, tạm giam
Mối quan hệ công tác của VKSND trong hoạt động kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam là những quy định của pháp luật, quy chế nội bộ trong ngành
kiểm sát, thể hiện sự tác động qua lại giữa VKSND với cơ quan, đơn vị và
người có trách nhiệm liên quan đến công tác tạm giữ, tạm giam và giữa hoạt
động kiểm sát tạm giữ, tạm giam với các hoạt động công tác kiểm sát khác
trong đấu tranh phòng ngừa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm
giam, mối quan hệ công tác thể hiện dưới hai khía cạnh là quan hệ chế ước
lẫn nhau và quan hệ phối hợp trong giải quyết công việc.
+ Mối quan hệ giữa VKSND trong việc thực hiện hoạt động kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam với cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong
việc tạm giữ, tạm giam.
Đây là mối quan hệ lâu dài, trực tiếp trong hoạt động công tác được thể
hiện tại Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 06/9/1989 giữa Bộ Nội Vụ
(nay là Bộ Công An) với VKSNDTC về mối quan hệ giữa hai ngành trong
công tác giam, giữ, cải tạo và kiểm sát việc giam, giữ, cải tạo. Theo đó cơ
quan Công an là cơ quan quản lý việc tạm giữ, tạm giam và cải tạo, có trách
nhiệm đảm bảo việc chấp hành đúng những quy định của pháp luật trong công
tác giam, giữ, cải tạo. VKSND có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật
ở những nơi giam, giữ, cải tạo thuộc ngành Công an quản lý nhằm đảm bảo:
Các việc giam, giữ và cải tạo theo đúng thủ tục pháp luật và có căn cứ; Các
chế độ giam, giữ và cải tạo được chấp hành nghiêm chỉnh; Tính mạng, tài sản,
danh dự, nhân phẩm và các quyền khác của đương sự không bị pháp luật tước
bỏ được tôn trọng.
Theo quy định này Viện kiểm sát mỗi cấp tiến hành kiểm sát thường
kỳ, bất thường kỳ những nơi giam, giữ thuộc cấp mình và cấp dưới. Cụ thể là
28
VKSNDTC, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm
giam đối với các trại tạm giam do Bộ Công an quản lý; VKSND cấp tỉnh
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam đối với các
trại tạm giam do Công an cấp tỉnh quản lý; VKSND cấp huyện kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam đối với các nhà tạm giữ
thuộc Công an cấp huyện quản lý.
Thường xuyên gửi cho nhau những văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về thủ
tục, chế độ giam, giữ và kiểm sát giam, giữ. Theo định kỳ thời gian, cơ quan
quản lý, ban giám thị, cán bộ phụ trách những nơi giam, giữ có trách nhiệm
thông báo với Viện kiểm sát cùng cấp: Tình hình tăng, giảm về số lượng
giam, giữ, việc chấp hành pháp luật ở nhà tạm giữ cấp quận, huyện và tương
đương mỗi tuần 1 lần, trại tạm giam mỗi tháng 1 lần; Khi xảy ra sự việc đột
xuất ở nơi giam, giữ như trốn, chết, dịch bệnh… những khó khăn, trở ngại đặc
biệt trong việc thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam, thời hạn tạm giữ, tạm
giam đã hết, Giám thị trại tạm giam, trưởng nhà tạm giữ thông báo ngay đến
Viện kiểm sát cùng cấp. Viện kiểm sát nhận được thông báo phải cử ngay
kiểm sát viên đến xem xét hoặc có văn bản chỉ dẫn yêu cầu làm rõ nguyên
nhân, điều kiện vi phạm để có biện pháp xử lý kịp thời. Trong mối quan hệ
này VKSND các cấp chủ động cùng với cơ quan quản lý giam giữ xác định
nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm để thực hiện các biện pháp phòng
ngừa có hiệu quả.
Dưới góc độ lý luận có thể nhận thấy về chức năng, nhiệm vụ hai công
tác này được giao hai cơ quan khác nhau trong hệ thống cơ quan nhà nước
thực hiện, vừa có mối quan hệ chế ước vừa có mối quan hệ phối hợp, trong đó
cơ quan giam giữ thực hiện chức năng tổ chức tạm giữ, tạm giam đúng theo
quy định của pháp luật, cơ quan kiểm sát thực hiện quyền kiểm sát đảm bảo
việc thi hành pháp luật đó song suy cho cùng nhằm mục đích chung là thi
hành đúng pháp luật của Nhà nước về tạm giữ, tạm giam [22].
29
+ Mối quan hệ công tác trong hệ thống hoạt động kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam, đây là mối quan hệ nội vụ trong ngành Kiểm sát do vậy được
quy định tại Quy chế công tác ngành, cụ thể là hoạt động kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND các cấp, sự chỉ đạo
của đơn vị nghiệp vụ cấp trên và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng
VKSNDTC.
Theo quy định bộ phận thực hiện chức năng kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và sự chỉ đạo
của đơn vị nghiệp vụ cấp trên.
Mối quan hệ giữa kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam với kiểm sát điều
tra, kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam phải thông báo kịp thời, đầy đủ cho kiểm
sát điều tra những vi phạm, tội phạm xảy ra trong nhà tạm giữ, trại tạm giam
những quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát hết thời hạn thi hành, những
phát hiện trong việc thông cung, bức cung, những khiếu nại tố cáo về việc bắt,
tạm giữ, tạm giam oan, sai hoặc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam.
Mối quan hệ giữa kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam với kiểm sát xét xử,
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam phải thường xuyên quan hệ với kiểm sát xét
xử để kịp thời thông báo những dấu hiệu của việc oan, sai trong quá trình tạm
giam để bảo đảm thi hành bản án, tiếp nhận quyết định kháng nghị, kháng cáo
của người bị tạm giam.
Mối quan hệ giữa kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam với kiểm sát thi
hành án hình sự, kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam phải thông báo cho kiểm sát
thi hành án hình sự những trường hợp bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng
người bị giam giữ ở trại tạm giam do chưa được Tòa án có thẩm quyền ra
quyết định thi hành án để đưa đi chấp hành hình phạt tù.
Mối quan hệ giữa kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam với kiểm sát xét
khiếu tố, kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam phải phối hợp chặt chẽ với kiểm sát
30
xét khiếu tố trong việc tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm kiểm
sát việc tạm giữ, tạm giam giải quyết đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật và
thông báo cho kiểm sát xét khiếu tố biết kết quả giải quyết đơn, phối hợp tiếp
công dân đến khiếu nại có liên quan đế việc tạm giữ, tạm giam.
Trong mối quan hệ nội bộ trong ngành thì kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam là lực lượng chủ trì phối hợp với các lực lượng nghiệp vụ trong ngành
thực hiện phòng ngừa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm
giam[36].
+ Mối quan hệ giữa kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam với Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra; cơ quan xét xử, thường xuyên trao
đổi cung cấp cho nhau những thông tin, hướng dẫn nghiệp vụ có liên quan
đến việc tạm giữ, tạm giam. Phối hợp kiểm tra, hướng dẫn cấp dưới về nghiệp
vụ nhằm phát hiện, uốn nắm những vi phạm và khắc phục những vi phạm, tội
phạm xảy ra tại nhà tạm giữ, trại tạm giam nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng chống vi phạm, tội phạm.
+ Mối quan hệ giữa hoạt động kiểm sát của VKSND trong lĩnh vực tạm
giữ, tạm giam với cấp ủy, Hội đồng nhân dân cùng cấp, Ủy ban mặt trận tổ
quốc Việt Nam.
VKSND các cấp chịu sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện cấp ủy cùng cấp,
hoạt động của VKSND nói chung và hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam nói riêng đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Theo định kỳ
VKSND các cấp xây dựng kế hoạch công tác và báo cáo kết quả công tác
trước cấp ủy.
Hội đồng nhân dân, Ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam thực
hiện quyền giám sát việc thi hành BLTTHS; phòng ngừa vi phạm pháp luật và
quy định pháp luật khác có liên quan đến hoạt động tạm giữ, tạm giam là
nguyên tắc cơ bản được quy định tại điều 32 BLTTHS, hoạt động của
VKSND trong phạm vi chức năng nhiệm vụ cũng là đối tượng giám sát của
31
Hội đồng nhân dân, Ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên
với tư cách là cơ quan tư pháp có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
VKSND chủ động mời đại diện các ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp, Ủy
ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam cùng tham gia kiểm tra giám sát
việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực bắt, tạm giữ, tạm giam từ đó yêu cầu
khắc phục, đề ra biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm
giữ, tạm giam. Trong mối quan hệ này VKSND là cơ quan chủ trì, chủ động
thực hiện công tác phòng ngừa vi phạm pháp luật.1.3. ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1.3.1. Về công tác tổ chức, cán bộ
Tổng biên chế, số lượng, cơ cấu tỷ lệ ngạch Kiểm sát viên của VKSND
do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao sau khi có ý kiến của Chính phủ; Căn cứ tổng biên
chế, số lượng, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Kiểm sát viên đã được Ủy ban thường
vụ Quốc hội quyết định, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết
định biên chế, số lượng Kiểm sát viên, công chức khác, viên chức và người
lao động khác của các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
Hàng năm, căn cứ vào nhu cầu công tác VKSND các cấp, VKSND tối
cao xây dựng phương án nhằm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán
bộ, kiểm sát viên thực hiện hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, kinh
phí cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ do Nhà nước đảm bảo.
1.3.2. Về chế độ, chính sách và trang thiết bị
Về kinh phí và cơ sở vật chất bảo đảm cho VKSND hoạt động do ngân
sách Nhà nước bảo đảm; Quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
và thi hành án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 35/QĐ- VKSTC-V4
ngày 29/01/2013 tại Điều 34 quy định về chế độ, chính sách và trang thiết bị
trong công tác như sau: Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình
32
sự được trang bị và sử dụng các phương tiện nghiệp vụ trong công tác. Khi
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình
sự, cán bộ, công chức ngành Kiểm sát được trang bị khẩu trang, găng tay cao
su, ủng cao su và các dụng cụ, trang thiết bị cần thiết khác để phục vụ.1.4. VỀ PHÂN CẤP THẨM QUYỀN KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO
PHÁP LUẬT TRONG TẠM GIỮ, TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự (Vụ 8) là
một đơn vị nghiệp vụ thuộc bộ máy làm việc của VKSND tối cao, nhiệm vụ
và quyền hạn được quy định tại Quy chế về tổ chức và hoạt động của Vụ
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự (Vụ 8) ban hành kèm
theo Quyết định số 260/QĐ- VKSTC ngày 16/7/2011 của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao theo đó Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự có nhiệm vụ giúp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
thực hiện các công tác sau đây:
Theo dõi, quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra đối với Viện kiểm sát
nhân dân địa phương trong công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự; việc thi hành các quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành
chính có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân; việc áp dụng trình tự, thủ tục
xem xét, quyết định việc hoãn, miễn chấp hành, giảm thời hạn, tạm đình chỉ
hoặc miễn chấp hành thời gian áp dụng biện pháp còn lại của Tòa án nhân dân;
Phát hiện, tổng hợp vi phạm pháp luật của các cơ quan, đơn vị và người
có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự và thi
hành biện pháp xử lý hành chính của Tòa án nhân dân để tham mưu với Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu thực
hiện các biện pháp khắc phục và phòng ngừa vi phạm pháp luật;
Tổ chức thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với
hoạt động của các cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm
33
giữ, tạm giam, thi hành án hình sự và thi hành biện pháp xử lý hành chính của
Tòa án nhân dân;
Trực tiếp kiểm sát việc lập hồ sơ đề nghị đặc xá và việc thực hiện quyết
định đặc xá của Chủ tịch nước tại các trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công
an; hướng dẫn, kiểm tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh về công tác này tại
trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh và quyết định đặc xá trong trường hợp
đặc biệt theo quy định của Luật đặc xá;
Tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc tạm giữ, tạm giam,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù. Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động tạm giữ, tạm
giam, thi hành án hình sự của các tổ chức, cá nhân có liên quan;
Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao giao.
- Về phân cấp theo thẩm quyền kiểm sát VKSND tối cao kiểm sát việc
chấp hành pháp luật tại 04 trại tạm giam do Bộ Công an quản lý và tiến hành
kiểm sát việc chấp hành pháp luật tại một số đơn vị giam giữ, thi hành án cấp
dưới theo chỉ tiêu nghiệp vụ do Viện trưởng VKSND tối cao yêu cầu.
- Đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của
VKSND tối cao là việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam của
cơ quan và người có trách nhiệm của các cơ quan tư pháp trung ương.
- Phạm vi của công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam thực hiện từ
khi có người bị tạm giữ, tạm giamđến khi kết thúc khi chấm dứt việc tạm giữ,
tạm giam theo quy định của pháp luật.
Kết luận chương 1
Để làm rõ nhận thức cơ bản về hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tạm giữ, tạm giam của VKSND tối cao, tác giả đã phân tích và
làm rõ các khái niệm liên quan là tạm giữ; tạm giam; công tác tạm giữ, tạm
giam và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam
34
của VKSND. Đề tài đã nghiên cứu, đưa ra khái niệm, rút ra một số đặc điểm
cơ bản về chủ thể, đối tượng, mục đích, tính chất, phạm vi và nội dung công
tác quản lý tạm giữ, tạm giam qua đó khẳng định công tác tạm giữ, tạm giam
là hoạt động bổ trợ tư pháp giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ
án hình sự có hiệu quả. Nghiên cứu, phân tích và đưa ra khái niệm, những
đặc điểm cơ bản về hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm
giữ, tạm giam của VKSND, bộ phận hợp thành công tác kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, một trong các khâu công tác kiểm sát
thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND theo quy định
của Hiến pháp và pháp luật.
Trên cơ sở các nội dung được phân tích chương 1 đã đưa ra khái niệm,
làm rõ cơ sở pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKSND trong
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại nơi giam, giữ; các điều kiện về
công tác tổ chức cán bộ, cơ sở vật chất để bảo đảm cho công tác kiểm sát hoạt
động; mối quan hệ công tác giữa VKSND chủ thể của hoạt động kiểm sát với
cơ quan hữu quan, các ngành, các cấp trong việc phát hiện, loại trừ và phòng
ngừa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam. Nêu và phân tích
từng nội dung, các phương thức và các biện pháp cơ bản mà VKSND sử
dụng để tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực
tạm giữ, tạm giam trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định
và quy định nội vụ tại quy chế nghiệp vụ của ngành Kiểm sát nhân dân.
Từ đó, chỉ ra nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm để phân định thẩm
quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam của
VKSND tối cao. Kết quả nghiên cứu này góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận
và căn cứ pháp lý của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
VKSND tối cao trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam.
35
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TẠM GIỮ, TẠM GIAM VÀ KIỂM SÁT VIỆC
TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC TẠM GIỮ, TẠM GIAM
2.1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TẠM GIỮ, TẠM GIAM
2.1.1. Kết quả đạt được
Trong những năm qua trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, hội
nhập kinh tế quốc tế đã đang là xu hướng chủ đạo tạo những điều kiện thuận
lợi để giao lưu quốc tế, điều kiện kinh tế xã hội từng bước ổn định đang trên đà
phát triển giúp cho đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Cùng đồng hành
với những thuận lợi đó nhiều khó khăn, thách thức được đạt ra, sự tác động của
mặt trái kinh tế thị trường, nhiều quan hệ xã hội phức tạp phát sinh. Đặc biệt là
tình hình tội phạm gia tăng có những diễn biến phức tạp khó lường, số lượng
các vụ phạm tội năm sau cao hơn năm trước, nhiều loại tội phạm hoạt động với
thủ đoạn phạm tội mới xuất hiện, trên nhiều lĩnh vực, tinh vi hơn, một số loại
tội phạm có chiều hướng gia tăng như tội phạm về ma tuý, băng nhóm kiểu “
xã hội đen”, tội phạm có yếu tố nước ngoài, xuyên quốc gia, nhiều băng nhóm
tội phạm cấu kết với tội phạm người nước ngoài thực hiện hành vi phạm tội ở
nhiều quốc gia... từ đó dẫn đến hệ quả số lượng người bị bắt, tạm giữ, tạm giam
gia tăng theo từng năm.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, nhất là sau khi có Chỉ thị số 53-
CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị về một số công việc cấp bách của
các cơ quan tư pháp và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới,
công tác bắt, tạm giữ, tạm giam trong phạm vi toàn quốc đã từng bước đi vào
nề nếp hoạt động có hiệu quả góp phần quan trọng vào đấu tranh phòng chống
tội phạm, các quyền dân chủ của công dân đã được tôn trọng, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân được tôn trọng và bảo đảm. Chất lượng bắt đưa vào
36
tạm giữ, tạm giam đã được nâng lên rõ rệt, tình trạng vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực tạm giữ, tạm giam giảm đáng kể, kết quả cụ thể như sau.
Tính đến năm 2010 toàn quốc có 676 nhà tạm giữ thuộc Công an cấp
huyện quản lý, 70 trại tạm giam thuộc Công an các cấp quản lý trong đó lực
lượng Cảnh sát nhân dân quản lý 68 trại tạm giam, lực lượng An ninh nhân
dân quản lý 02 Trại tạm giam thực hiện việc tạm giữ người theo lệnh của cơ
quan tiến hành tố tụng cùng cấp.
Theo báo cáo của các VKSND các địa phương tình hình tạm giữ trong
toàn quốc từ năm 2010 đến năm 2014 như sau (Phục lục số 2.1).
Tổng số người bị bắt đưa vào tạm giữ trong 05 năm (từ năm 2010 đến
năm 2014) là 299.001 người. Số liệu thống kê phản ánh lưu lượng người bị
bắt đưa vào tạm giữ năm sau tăng cao hơn năm trước (năm 2011: 72.051; năm
2012:76.159; năm 2013: 76.536 người ; năm 2014: 76.372 người). Tỷ lệ tạm
giữ giải quyết trung bình hàng năm đạt 98,72% (năm 2011: 70.888/7.2051
(98,38%), năm 2012: 75.248/76.159 (98,8%), năm 2013: 75.726/76.536
(98,9%); năm 2014 : 75.453/76.372 (98,8%) ; trong đó tỷ lệ tạm giữ hình sự
chuyển khởi tố hàng năm cũng đạt cao chiếm 96,84%, năm 2011: 96,6% ;
năm 2012: 95,58% ; năm 2013: 97% ; năm 2014: 98,18%. Công tác đề nghị
phê chuẩn bắt, gia hạn tạm giữ nhìn chung đã được các cơ quan tiến hành tố
tụng tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS); những
trường hợp không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ được
chuyển áp dụng biện pháp ngăn chặn khác rộng rãi hơn.
Những trường hợp không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giam được chuyển áp dụng biện pháp ngăn chặn khác rộng rãi hơn như
cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh…là 41.112 người trong đó năm 2005 là:
5.796 người; năm 2006 là: 7.499 người; năm 2007 là: 7.854 người; năm 2008
là: 10.213 người; năm 2009 là: 9.750 người.
37
Công tác đề nghị phê chuẩn bắt, gia hạn tạm giữ nhìn chung đã được
các cơ quan tiến hành tố tụng tuân thủ đúng quy định của BLTTHS, tiến độ
giải quyết trong tạm giữ cũng rất khẩn trương đã góp phần khắc phục tình
trạng quá hạn tạm giữ, quá hạn tạm giữ trong số đã giải quyết giảm từ 205
trường hợp năm 2010 còn 42 trường hợp năm 2014.
Theo báo cáo của các VKSND các địa phương tình hình tạm giam
trong toàn quốc từ năm 2010 đến năm 2014 như sau ( Phục lục số 2.2).
Lưu lượng người bị tạm giam trong 05 năm là 556.140 người, việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đã được các cơ quan tiến hành tố tụng
thực hiện thận trọng hơn do vậy số lượng người bị tạm giam được đưa ra xét
xử hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn cũng vì thế mà nhiều hơn, trong thời
điểm nghiên cứu các cơ quan tiến hành tố tụng đã giải quyết 372.073 người
(đạt 67%); trong đó thay đổi biện pháp ngăn chặn khác 46.877 người, Cơ
quan có thẩm quyền trả tự do 37.485 người. Nhìn chung, việc tạm giam và xử
lý người bị tạm giam được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Công tác quản lý người bị tạm giam tại các Nhà tạm giữ, Trại tạm giam
trên cả nước đã có nhiều tiến bộ, cơ sở vật chất một số nơi đã được đầu tư,
phần nào giảm bớt áp lực cho công tác quản lý giam giữ, góp phần đáp ứng
yêu cầu mới cho công tác quản lý giam giữ ở các nhà tạm giữ, trại tạm giam.
Cùng với việc đầu tư cơ sở vật chất phục vụ công tác quản lý giam giữ là sự
quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm trong quản lý giam giữ.
Về thủ tục, hồ sơ đã được cơ quan quản lý giam giữ chú trọng hơn, đã
kịp thời phát hiện và chủ động thông báo cho cơ quan tiến hành tố tụng ra
lệnh giam và Viện kiểm sát cùng cấp thực hiện thẩm quyền kiểm sát biết
nhiều trường hợp thiếu thủ tục hồ sơ, chuẩn bị hết thời hạn tạm giam …
Việc nâng cấp, xây mới một số khu giam, buồng giam được quan tâm
nên từng bước khắc phục được tình trạng giam giữ quá tải, cơ sở giam giữ
xuống cấp gây khó khăn cho công tác quản lý giam giữ, nơi ở của người bị
38
tạm giam rộng rãi hơn bảo đảm sức khoẻ cho họ và an toàn trong quá trình tổ
chức giam giữ.
Sau khi tiếp nhận đối tượng vào nhà tạm giữ, trại tạm giam đều được
cơ quan quản lý giam giữ phân loại, tổ chức giam giữ nhìn chung phù hợp
theo quy định pháp luật, việc phân loại tạm giam, quản lý đã được tiến hành
chặt chẽ hơn nên đã hạn chế được tình trạng thông cung giữa các bị can trong
cùng một vụ án, tình hình vi phạm nội quy, quy chế trong giam giữ từng bước
giảm. Hồ sơ, thủ tục nhận, trích xuất, trả tự do đều được thực hiện cơ bản
đúng quy định của pháp luật, đều có quyết định hợp pháp của cơ quan có
thẩm quyền.
Những trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam vi phạm nội quy, quy
chế giam giữ nhìn chung đều được kịp thời phát hiện lập biên bản, căn cứ vào
tính chất, mức dộ của từng trường hợp vi phạm để quyết định hình thức kỷ
luật phù hợp bằng văn bản của cấp có thẩm quyền nên trật tự, kỷ cương nơi
tạm giữ, tạm giam luôn được tôn trọng và bảo đảm thực hiện, trong thời gian
qua không xảy ra trường hợp cướp, phá nhà tạm giữ, trại tạm giam.
Về chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam về cơ bản được thực hiện
theo đúng quy định của pháp luật. Tiêu chuẩn lương thực cũng được tăng lên,
các tiêu chuẩn khác như cá, thịt, rau, đường, xà phòng, chất đốt, nước mắm,
muối được quy định theo định lượng, nhiều nhà tạm giữ, trại tạm giam đã chủ
động hoán đổi định lượng ăn của người bị tạm giữ, tạm giam cho phù hợp với
thực tế và khẩu vị để đảm bảo cho người bị tạm giữ, tạm giam ăn hết tiêu
chuẩn. Khắc phục hoàn toàn tình trạng người bị tạm giữ, tạm giam chết suy
kiệt do hậu quả của chế độ ăn uống không đảm bảo. Khi tiếp nhận các trường
hợp tạm giữ, tạm giam cán bộ y tế đã khám sức khỏe, phân loại, khi ốm được
khám bệnh và cấp thuốc. Việc thăm gặp phần lớn được bố trí theo lịch, việc
nhận quà đảm bảo đúng trình tự, định lượng, các trường hợp vi phạm nội quy,
quy chế được xử lý kịp thời [44].
39
Công tác quản lý đã bảo đảm tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm
của người bị tạm giữ, tạm giam và các quyền khác của họ như quyền bào
chữa, quyền khiếu nại - tố cáo….đều được tôn trọng, qua khảo sát nhận thấy
số lượng người bị tạm giữ, tạm giam bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm và các quyền cơ bản khác trong những năm gần đây
giảm rõ rệt..
Nhìn chung trong những năm qua công tác tạm giữ, tạm giam từ việc
tiếp nhận, quản lý, thực hiện các chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam về
cơ bản đã được tổ chức, thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Những hạn chế
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên tình hình
chấp hành pháp luật trong công tác tạm giữ, tạm giam vẫn còn có một số hạn
chế như sau:
Nhà tạm giữ, trại tạm giam ở một số địa phương được xây dựng từ lâu
xong qua thời gian sử dụng đã xuống cấp vẫn chưa được cơ quan có thẩm
quyền quan tâm đầu tư, sửa chữa, dẫn đến không an toàn trong việc tổ chức
quản lý người bị tạm giữ, tạm giam; do lưu lượng người bị tạm giữ, tạm giam
trong những năm qua tăng nhanh nên tình trạng quá tải vẫn còn chưa được
khắc phục, nhiều nơi giam giữ do Bộ Công an quản lý đều vượt quá quy mô
giam giữ do đó chỗ nằm tối thiểu của người bị tạm giữ, tạm giam không được
đảm bảo 2 m2/1 người do vậy chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam
không được đảm bảo như tại một số nhà tạm giữ Công an thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội, trại tạm giam thuộc Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Sơn La,
Điện Biên…. .
Vẫn còn hiện tượng bắt giữ không đúng quy định dẫn đến bắt nhầm đối
tượng vẫn còn xảy ra như Công an thành phố Đà Lạt, lạm dụng tạm giữ hành
chính để giữ người phạm tội quả tang, người phạm tội ra đầu thú [34].
40
Quá thời hạn giam giữ xảy ra còn nhiều, trong 5 năm từ năm 2010 đến
năm 2014 có 406 trường hợp quá thời hạn tạm giữ trong đó quá hạn tạm giữ
(năm 2005 là: 205 trường hợp; năm 2006 là: 67 trường hợp; năm 2007 là: 37
trường hợp; năm 2008 là: 52 trường hợp; năm 2009 là: 45 trường hợp ) trong
đó số quá hạn tạm giữ đã giải quyết là: 370 trường hợp; quá hạn tạm giữ chưa
giải quyết qua các năm là 36 trường hợp, qua số liệu cho thấy vi phạm thời
hạn tạm giữ tuy có giảm nhưng không ổn định.
Số lượng người bị tạm giam quá thời hạn diễn ra còn nhiều nhất là các
địa bàn có nhiều án, phức tạp như thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh, tình trạng tạm giam kéo dài vẫn chưa được khắc phục trong thời gian
từ năm 2010 đến năm 2014 có 3.561 trường hợp để quá hạn trung bình chiếm
0,63%, trong đó số quá hạn đã giải quyết là 2.563 trường hợp trung bình
chiếm 0,45%; số quá hạn chưa giải quyết là 998 trường hợp trung bình chiếm
0,17%. (năm 2005 có 479 trường hợp; năm 2006 có 1.096 trường hợp; năm
2007 có 1.004 trường hợp; năm 2008 có 608 trường hợp; năm 2009 có 374
trường hợp) hậu quả trực tiếp của quá hạn tạm giam đã ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền, lợi ích của người bị tạm giam, đồng thời ảnh hưởng đến quá trình
giải quyết vụ án hình sự.
Nhìn chung các trường hợp quá hạn trong tạm giữ, tạm giam như đã
nêu trên trách nhiệm trước hết thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng đã ra
lệnh tạm giữ, tạm giam đã tuân thủ không đúng quy định của BLTTHS về
giam giữ, tuy nhiên cũng có phần trách nhiệm của cơ quan trực tiếp thực hiện
việc tạm giữ, tạm giam trong việc thông báo, đôn đốc, nhắc nhở các cơ quan
đang trực tiếp giải quyết vụ án.
Công tác quản lý người bị tạm giữ, tạm giam, tại một số nhà tạm giữ,
trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh vẫn xảy ra việc tổ chức giam, giữ không
đúng theo quy định như còn tạm giữ chung đối tượng chưa thành niên với đối
tượng đã thành niên; đối tượng trong cùng một vụ án, tạm giữ hành chính
41
chung buồng với tạm giữ hình sự như tỉnh Gia Lai, Đồng Tháp, Bạc Liêu,
Thừa Thiên Huế, Thái Nguyên, Hưng Yên, Hải Dương….[28]. Có những
trường hợp do phân loại, quản lý không đúng quy định đã tạo điều kiện thuận
lợi để các đối tượng vi phạm nội quy, quy chế trại giam, thậm chí thực hiện
hành vi phạm tội mới.
Về thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam, ở một số nhà
tạm giữ, trại tạm giam vẫn còn xảy ra tình trạng không đảm bảo diện tích chỗ
nằm tối thiểu 2m2 đối với 1 người; thực hiện cấp phát các đồ dùng thiết yếu
như khăn mặt, xà phòng, chế độ vệ sinh đối với người bị tạm giữ, tạm giam là
nữ... ở một số nơi còn thiếu như Quảng Trị, Lao Cai, Nghệ An, Lâm Đồng,
Hưng Yên .... Thực hiện tiêu chuẩn ăn thêm đối với người bị tạm giữ, tạm
giam vào các ngày Lễ, Tết không đúng theo quy định; không cho người bị
tạm giữ, tạm giam mượn chăn, chiếu, quần áo khi họ thiếu. Nhà tạm giữ chưa
có hệ thống loa phát thanh, chưa được cấp báo hoặc cấp báo chưa bảo đảm
quy định; chưa tiến hành khám sức khỏe khi tiếp nhận người bị tạm giữ, tạm
giam, nguồn nước sinh hoạt không đảm bảo vệ sinh; không có buồng thăm
gặp, không mở sổ sách theo dõi lưu ký, việc thăm gặp, nhận đồ tiếp tế vượt
quá số lần quy định… .
Về tình hình vi phạm pháp luật tại nơi giam giữ có nhiều diễn biến
phức tạp. Ở một số nhà tạm giữ, trại tạm giam có lúc, có nơi còn buông lỏng
công tác quản lý để người bị tạm giam vi phạm kỷ luật, các dạng vi phạm chủ
yếu là trốn khỏi nơi giam, đánh nhau, chiếm đoạt đồ của can phạm khác,
mang vật cấm vào buồng giam, giữ, sử dụng rượu, gây mất trật tự khu giam,
giữ. Có nhiều vụ việc đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự ở các tội giết
người, cố ý gây thương tích, trốn khỏi nơi giam, giữ....
Trong các năm từ 2010 đến năm 2014 có 59 trường hợp người bị tạm
giữ trốn (trong đó năm 2010 là 15 trường hợp; năm 2011 là 08 trường hợp;
năm 2012 là 15 trường hợp; năm 2013 là 09 trường hợp; năm 2014 là 12
42
trường hợp), trong đó bắt lại được 39 trường hợp, còn lại 20 trường hợp chưa
bắt lại được; Tổng số có 498 trường hợp người bị tạm giam trốn (năm 2010 là
95 trường hợp; năm 2011 là 82 trường hợp; năm 2012 là 91 trường hợp; năm
2013 là 113 trường hợp; năm 2014 là 117 trường hợp) trong đó chưa bắt lại
được 160 trường hợp.
Nghiên cứu báo cáo cho thấy các hình thức người bị tạm giữ, tạm giam
trốn diễn ra rất đa dạng nhưng chủ yếu là đào tường, khoét ngạch, không chế
các đối tượng khác cùng buồng giam để trốn… các đối tượng có thể trốn tại
nơi bị tạm giam giữ hoặc trên đường dẫn giải, nhiều trường hợp người bị tạm
giữ, tạm giam trốn khi đang được điều trị tại bệnh viện…Đáng lưu ý có nhiều
trường hợp người bị tạm giam chuẩn bị công cụ, phương tiện diễn ra trong
thời gian dài, tổ chức trốn tập thể mà vẫn không được cơ quan quản lý giam
giữ kịp thời phát hiện mà nguyên nhân chính vẫn do trong quá trình quản lý
đối tượng cán bộ, chiến sỹ thực hiện nhiệm vụ đã không tuân thủ đúng quy
trình công tác, mất cảnh giác, thiếu ý thức trách nhiệm, sao nhãng buông lỏng
trong kỷ luật. Hậu quả là những trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam trốn
phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án sau nhiều năm mới bắt lại được gây cản trở
lớn cho việc giải quyết vụ án, xử lý đồng phạm hoặc có những trường hợp
trốn ra lại phạm tội mới.
Đối với cán bộ, chiến sỹ làm công tác quản lý giam, giữ do thiếu trách
nhiệm để người bị tạm giam vi phạm kỷ luật nơi giam đã được các cơ quan,
đơn vị đưa ra kiểm điểm, xử lý nghiêm khắc, đáng tiếc có những trường hợp
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm để người bị tạm giam
trốn theo Điều 301 BLHS.
Tình trạng người bị tạm giam chết khi đang áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam trên toàn quốc có xu hướng giảm song vẫn còn nhiều, có 1.591
người chết, chủ yếu là do tự tử, bệnh lý như HIV, bệnh về tim, mạch ... có
nhiều trường hợp chậm được cơ quan quản lý giam giữ phát hiện để kịp thời
43
điều trị (năm 2010 là 275 trường hợp; năm 2011 là 330 trường hợp; năm 2012
là 275 trường hợp; năm 2013 là 327 trường hợp; năm 2014 là 384 trường
hợp). Xảy ra 155 trường hợp người bị tạm giữ chết chủ yếu là do bệnh lý và
tự sát ( năm 2010 là 34 trường hợp; năm 2011 là 24 trường hợp; năm 2012 là
34 trường hợp; năm 2013 là 28 trường hợp; năm 2014 là 35 trường hợp).
Đặc biệt do công tác quản lý còn nhiều sơ hở, thiếu sót, cán bộ, chiến
sỹ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tại nơi giam giữ không tuân thủ quy định, móc
lối tạo điều kiện để người bị tạm giam vi phạm nội quy trại tạm giam dẫn đến
có thai và sinh con trong thời gian bị áp dụng biện pháp ngăn chặn như tại trại
tạm giam Chí Hòa thuộc Công an Thành phố Hồ Chí Minh và trại tạm giam
thuộc Công an tỉnh Hòa Bình.
Tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam có
nơi, có lúc chưa được tôn trọng, bảo đảm, theo báo cáo của các VKSND các
địa phương và qua công tác nắm tình hình của VKSNDTC cho thấy trên
phạm vi toàn quốc vẫn còn xảy ra nhiều trường hợp người bị tạm giữ, tạm
giam bị đánh đập, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe… thể hiện qua những
trường hợp gây thương tích, giết người xảy ra trong các nhà tạm giữ, trại tạm
giam đã không được cơ quan và người có trách nhiệm trong công tác quản lý
giam giữ kịp thời phát hiện.2.2. THỰC TRẠNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG
TẠM GIỮ, TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
2.2.1. Thực trạng về tổ chức bộ máy và phân cấp nhiệm vụ
Về tổ chức bộ máy: Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự được tổ chức thực hiện ở 03 cấp. Ở VKSND tối cao có Vụ
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự (ký hiệu Vụ 8) là đơn
vị nghiệp vụ trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao .
Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự được tổ
chức theo 04 phòng chuyên môn thực hiện các nhiệm vụ chuyên sâu gồm
44
Phòng Tham mưu- tổng hợp (Phòng 1); Phòng Kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam (Phòng 2); Phòng Kiểm sát thi hành án phạt tù (Phòng 3); Phòng Kiểm
sát thi hành án hình sự khác ngoài phạt tù (Phòng 4).
Về công tác cán bộ: Ở Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành
án hình sự hiện biên chế 25 cán bộ, gồm 14 kiểm sát viên (chiếm 56%) trong
đó 09 kiểm sát viên cao cấp (trong đó 1 Vụ trưởng, 4 Phó Vụ trưởng), 02 kiểm
sát viên trung cấp, 03 kiểm sát viên sơ cấp; 11 kiểm tra viên (chiếm 44%) trong
đó 03 kiểm tra viên cao cấp, 3 kiểm tra viên chính và 5 kiểm tra viên.
Về trình độ chuyên môn: Trình độ Thạc sĩ: 05 (chiếm 20%); Đại học :
20 (chiếm 80%)
Về trình độ lý luận chính trị: Cao cấp lý luận chính trị: 20 (chiếm 80%);
Trung cấp lý luận chính trị và tương đương: 05 (chiếm 20%).
Về độ tuổi: Trên 55: 06 (chiếm 24 %), 40 đến 55: 14 (chiếm 56 %), Dưới
40: 05 (chiếm 20 %).
Về cơ cấu: 09 nữ (chiếm 36 %), 15 nam (chiếm 60 %); dân tộc thiểu số
01(chiếm 4 %).
So với định biên của VKSND tối cao ấn định so với hiện tại Vụ kiểm
sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự thiếu 01 biên chế.
Đối chiếu với quy định của pháp luật và quy định của ngành Kiểm sát
nhân dân thấy, Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự là
đơn vị nghiệp vụ thuộc bộ máy làm việc của VKSND tối cao thực hiện 03
nhiệm vụ cơ bản là Tham mưu cho lãnh đạo VKSND tối cao; Kiểm tra,
hướng dẫn nghiệp vụ đối với VKSND cấp dưới trong công tác kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự; Trực tiếp kiểm sát tuân theo pháp
luật trong tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự. Mặt khác lại phải thực
hiện thêm một số nhiệm vụ mới như quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra
nghiệp vụ đối với VKSND địa phương trong hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc hoãn, miễn chấp
45
hành, giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành thời gian áp dụng
biện pháp xử lý hành chính còn lại của Tòa án nhân dân; kiểm sát việc bắt, tạ
giữ hình sự của các Đồn Biên phòng... những nhiệm vụ này do đội ngũ cán bộ
giữ chức danh pháp lý là Kiểm sát viên cao cấp và Kiểm sát viên trung cấp
tiến hành. Trong khi đó, đơn vị đang có 14 kiểm sát viên trong đó 09 kiểm sát
viên cao cấp chiếm 36%, 02 kiểm sát viên trung cấp chiếm 8%, lực lượng quá
mỏng ảnh hưởng không nhỏ đến yêu cầu nghiệp vụ. Đối chiếu với yêu cầu
nhiệm vụ mới thấy, cần bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, tăng số lượng Kiểm
sát viên cao cấp từ 09 đồng chí lên 12 đồng chí, Kiểm sát viên trung cấp từ 02
đồng chí lên 10 đồng chí.
Nhiệm vụ của toàn ngành kiểm sát là kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự tại 53 trại giam, 04
trại tạm giam do Bộ Công an quản lý; 63 cơ quan thi hành án hình sự, 66 trại
tạm giam do Công an cấp tỉnh quản lý và 676 Nhà tạm giữ do công an địa
phương quản lý.
Về phân cấp đối tượng kiểm sát, tính đến năm 2014 toàn quốc có 70
trại tạm giam do lực lượng Công an nhân dân quản lý thuộc thẩm quyền kiểm
sát của VKSNDTC và cấp tỉnh trong đó có 04 trại tạm giam do Bộ Công an
quản lý thuộc thẩm quyền kiểm sát của Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù thuộc VKSNDTC, 66 trại tạm
giam thuộc Công an cấp tỉnh quản lý thuộc thẩm quyền kiểm sát ngang cấp
của VKSND cấp tỉnh, có 676 nhà tạm giữ thuộc Công an cấp huyện quản lý
thuộc thẩm quyền kiểm sát ngang cấp của VKSND cấp huyện.
Tổ chức cán bộ trong hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
lĩnh vực tạm giữ, tạm giam những năm qua đã tạo ra nhiều chuyển biến tích
cực trong công tác nhưng vẫn còn tồn tại những bất cập giữa việc thực hiện
chức năng nhiệm vụ với việc xây dựng tổ chức và quản lý; giữa lực lượng
thực hiện nhiệm vụ với khối lượng công việc được giao; giữa cơ chế hoạt
46
động và lực lượng thực hiện và đòi hỏi của xã hội đối với hoạt động kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam. Tổ chức bộ máy chưa thể hiện đầy đủ tính hệ thống,
toàn diện và đồng bộ do vậy dẫn đến tình trạng cấp trên nắm được tình hình
hoạt động của cấp dưới không đầy đủ, công tác chỉ đạo điều hành chưa sát,
thiếu rành mạch cụ thể, hiệu lực chỉ đạo điều hành chưa cao.
- Kết quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ,
tạm giam
Kết quả hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam là sự phản ánh đầy
đủ, khách quan, chính xác những ưu điểm, khuyết điểm, tồn tại của các cơ
quan tiến hành tố tụng và cơ quan quản lý giam giữ trong việc tổ chức thực
hiện quy định pháp luật về tạm giữ, tạm giam. Những đóng góp của VKSND
đã góp phần đảm bảo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất, giúp cho việc loại trừ vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam có hiệu quả, gián tiếp góp phần đấu tranh
phòng chống tội phạm (phụ lục số 2.3, 2.4).
Kết quả hoạt động kiểm sát thể hiện ở một số nội dung cơ bản như sau:
VKSND tối cao (Vụ 8) tiến hành kiểm sát trực tiếp 20 lần trại tạm giam
do Bộ Công an quản lý trong đó định kỳ hàng năm tiến hành kiểm sát mỗi trại
tạm giam 01 lần.
VKSND cấp tỉnh kiểm sát trực tiếp 4.076 lần trại tạm giam thuộc Công
an cấp tỉnh, trong đó năm 2010 là 508 lần, năm 2011 là 473 lần, năm 2012 là
473 lần, năm 2013 là 2.127 lần, năm 2014 là 495 lần.
VKSND cấp huyện đã tiến hành 27.194 lần kiểm sát trực tiếp nhà tạm
giữ Công an cấp huyện trong đó năm 2010 là 5.197 lần, năm 2011 là 5.947
lần; năm 2012 là 7.723 lần, năm 2013 là 3.336 lần, năm 2014 là 4.991 lần;
VKSND cấp tỉnh tiến hành trực tiếp kiểm sát 1.230 lần nhà tạm giữ công an
cấp huyện trong đó năm 2010 là 250 lần, năm 2011 là 259 lần, năm 2012 là
217 lần, năm 2013 là 261 lần, năm 2014 là 243 lần.
47
VKSND các cấp đã ban hành tổng số 1.605 kháng nghị yêu cầu
chấm dứt vi phạm pháp luật, trong đó năm 2010 là 511 kháng nghị, năm
2011 là 455 kháng nghị, năm 2012 là 269 kháng nghị, năm 2013 là 244
kháng nghị, năm 2014 là 126 kháng nghị. Ban hành tổng số 6.966 kiến
nghị yêu cầu sửa chữa, khắc phục và phòng ngừa nguyên nhân điều kiện
dẫn đến vi phạm, trong đó năm 2010 là 1.581 kiến nghị, năm 2011 là
1.977 kiến nghị, năm 2012 là 774 kiến nghị, năm 2013 là 732 kiến nghị,
năm 2014 là 1.902 kiến nghị.
Qua kết quả hoạt động kiểm sát, VKS đã nắm chắc được số liệu về tạm
giữ, tạm giam, nắm bắt đầy đủ tình hình chấp hành pháp luật ở nơi giam, giữ;
thông qua hoạt động kiểm sát đã phát hiện nhiều vi phạm trong công tác tạm giữ,
tạm giam đồng thời đã ban hành kháng nghị, kiến nghị yêu cầu cơ quan, người
có trách nhiệm trong việc quản lý giam giữ khắc phục vi phạm và áp dụng các
biện pháp phòng ngừa có hiệu quả, đã góp phần đưa công tác bắt, tạm giữ, tạm
giam và xử lý đi vào nề nếp, có hiệu quả, chất lượng. Cụ thể là đã chấm dứt
được tình trạng bắt tràn lan, bắt người không dùng lệnh rồi đưa vào tạm giữ, hạn
chế được tình trạng lạm dụng bắt khẩn cấp, gọi hỏi rồi bắt, con phạm pháp chưa
đủ tuổi thì bắt cha, tạm giữ người tranh chấp nhà cửa, ruộng đất, đi lại không có
giấy tờ... .
Trong thời gian từ năm 2010 đến năm 2014, VKSND các cấp đã kiểm
sát tiếp nhận 273.716 trường hợp bị tạm giữ hình sự trong đó bắt khẩn cấp
là :77.834 trường hợp; bắt quả tang là: 158.862 trường hợp; bắt truy nã:
16.670 trường hợp; đầu thú, tự thú: 20.350 trường hợp và có chiều hướng gia
tăng năm 2010 là: 43.135 người; năm 2011 là: 53.234 người; năm 2012 là:
53.331 người; năm 2013 là: 64.176 người ; năm 2014 là: 59.840 người.
Hoạt động kiểm sát việc tạm giam được tiến hành thận trọng và đầy đủ
hơn, từ tình hình chấp hành pháp luật trong việc tạm giam cho thấy việc chấp
hành thủ tục tạm giam được thực hiện nghiêm túc hơn, chấm dứt tình trạng
48
tạm giam không có phê chuẩn của VKS, những trường hợp VKS từ chối phê
chuẩn tạm giam đều bảo đảm có căn cứ và đúng pháp luật. Trong 05 năm, từ
năm 2010 đến năm 2014 VKSND các cấp đã kiểm sát việc tiếp nhận là
560.838 đối tượng bị tạm giam (năm 2010 là 92.368 người; năm 2011 là:
105.094 người; năm 2012 là: 107.999 người; năm 2013 là: 120.365 người;
năm 2014 là: 135.012 người).
Trong những năm qua được sự quan tâm chỉ đạo trong toàn ngành
Kiểm sát nhân dân, hoạt động kiểm sát việc tạm giữ tạm giam đã có nhiều cố
gắng ở cả 3 cấp ( Cấp trung ương- cấp tỉnh- cấp huyện), hoạt động kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam đã được tiến hành thông suốt, có trọng tậm, trọng
điểm theo đúng chỉ tiêu đề ra tại Chỉ thị của Viện trưởng VKSNDTC các năm
2010, 2011, 2012, 2013, 2014 và hướng dẫn công tác của Vụ kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự. Hàng năm các Viện kiểm sát đã
tăng cường kiểm sát theo chuyên đề như chuyên đề về thủ tục tố tụng, chế độ
đối với người bị tạm giữ, tạm giam, trốn, chết… Do vậy hoạt động kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam đã đi vào nề nếp, chất lượng hoạt động được nâng cao,
qua mỗi lần kiểm sát, phát hiện vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm
giam đã xác định rõ nguyên nhân vi phạm, ban hành nhiều kháng nghị, kiến
nghị yêu cầu cơ quan, người có trách nhiệm trong quản lý giam giữ khắc
phục, được chủ thể tiếp thu, khắc phục kịp thời, đây là nguyên nhân cơ bản
làm cho tình hình chấp hành pháp luật về bắt, tạm giữ, tạm giam và xử lý
phạm vi toàn quốc đã thực sự chuyển biến tích cực. Như số người bị bắt, tạm
giữ được cơ quan tiến hành tố tụng các cấp khởi tố tăng, số quá hạn giảm số
trốn giảm dần năm 2010 là 378 trường hợp, năm 2014 giảm còn 136 trường
hợp…
Thông qua số liệu bắt, tạm giữ, tạm giam và xử lý cho thấy trong thời
điểm 5 năm toàn quốc có 10.165 trường hợp cơ quan bắt phải trả tự do. Trong
đó VKS trả tự do theo khoản 3 điều 86 BLTTHS là 1.408 trường hợp, Cơ
49
quan điều tra lạm dụng bắt khẩn cấp, bắt không đúng sau phải trả tự do là
1.640 trường hợp.
Quá hạn tạm giữ, tạm giam còn để xảy ra nhiều nơi, hoạt động kiểm
sát của VKSND các cấp trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam đã phát hiện và
trực tiếp ban hành văn bản kháng nghị và yêu cầu chấm dứt vi phạm song
tình trạng quá hạn vẫn chưa được giải quyết triệt để. Trong thời điểm 5
năm trở lại đây có 406 người quá hạn tạm giữ, 3.561 trường hợp quá hạn
tạm giam, trong số quá hạn đều có phần trách nhiệm của CQĐT, Viện kiểm
sát và Tòa án các cấp.].
Qua đó cho thấy tình trạng quá hạn tạm giữ ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình giải quyết vụ án và quyền lợi ích của người bị tạm giữ, tạm giam
xong không được cơ quan quản lý giam giữ kịp thời thông báo đến cơ quan
tiến hành tố tụng để giải quyết theo pháp luật, đồng thời thông báo đến Viện
kiểm sát cùng cấp với nhà tạm giữ, trại tạm giam. Có thể thấy mối quan hệ
phối hợp giữa cơ quan quản lý giam giữ với cơ quan tiến hành tố tụng và
Viện kiểm sát chưa được thực hiện tốt.
Kiểm sát việc phân loại, tổ chức giam giữ đã được VKSND các cấp
quan tâm hơn, tuy nhiên vẫn còn tình trạng giam giữ chung buồng giữa người
chưa thành niên với người thành niên; đối tượng bị tạm giữ với đối tượng bị
tạm giam; đối tượng trong cùng một vụ án, người có quốc tịch Việt Nam và
người có quốc tịch nước ngoài. Qua hoạt động kiểm sát phát hiện ở một số
nhà tạm giữ, trại tạm giam, công tác kiểm tra, kiểm soát còn nhiều sơ hở để
đối tượng đưa vật cấm vào buồng tạm giữ, tạm giam còn nhiều, thông qua
hoạt động kiểm sát đã kịp thời phát hiện, yêu cầu loại trừ.
Kiểm sát việc thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam là
nội dung cơ bản của hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam được chú
trọng quan tâm, nội dung được thể hiện tại các Chỉ thị của Viện trưởng
VKSNDTC qua các năm, thông qua hoạt động kiểm sát đã kịp thời phát hiện
50
ở một số nhà tạm giữ, trại tạm giam chưa thực hiện đúng quy định về chế độ
đối với người bị tạm giữ, tạm giam như:
Diện tích giam giữ không bảo đảm theo quy định, năm 2010 có 13/66
trại tạm giam chiếm 19,7%, có 189/676 nhà tạm giữ chiếm 28%. Còn một số
Công an cấp huyện chưa xây dựng nhà tạm giữ nên phải giam chung với các
huyện khác hoặc giam giữ tại trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh.
Chế độ ăn, mặc, khám chữa bệnh chưa đảm bảo: Chưa chi ăn thêm
ngày 30/4, ngày 1/5 cho người bị tạm giữ, tạm giam như nhà tạm giữ thuộc
Công an quận Hà Đông, Phú Xuyên, Từ Liêm - Hà Nội, quận Thủ Đức-
Thành phố Hồ Chí Minh, Trại tạm giam thuộc Công an thành phố Hải Phòng;
Chưa cấp phát hoặc cấp phát không đầy đủ chế độ khăn mặt, xà phòng, chiếu,
chăn, quần áo như các nhà tạm giữ thuộc Công an Hà Nội, nhà tạm giữ thuộc
Công an quận 5- Thành phố Hồ Chí Minh, nhà tạm giữ thuộc Công an cấp
huyện của tỉnh Lao Cai, Vĩnh Phúc, Tiền Giang, Sóc Trăng…, thiếu cán bộ y
tế xảy ra ở đa số các nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố Hà Nội, Bắc Ninh,
Thanh Hóa, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau…
Vi phạm trong việc thăm gặp, nhận quà, sinh hoạt: Nhà tạm giữ chưa
được trang bị hệ thống loa phát thanh, người bị tạm giữ, tạm giam chưa
được cấp báo như hầu hết các nhà tạm giữ thuộc Công an tỉnh Đak Nông,
Bến Tre, Trà Vinh, nhà tạm giữ Công an huyện Thường Tín, Đông Anh,
Thanh Trì, Tây Hồ, Đống Đa- Hà Nội..., chưa thực hiện mua bán hàng qua
căng tin như các nhà tạm giữ thuộc Công an tỉnh Lao Cai, Hải Dương, Hòa
Bình, Đồng Tháp, Trà Vinh, Cần Thơ, Hà Tĩnh…, cho nhận quà không đúng
quy định như tại trại tạm giam thuộc công an tỉnh Thanh Hóa, Quảng Ninh,
Lạng Sơn….
Kiểm sát việc bảo đảm an toàn về tính mạng, tài sản, danh dự, nhân
phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam và các quyền khác của họ không bị
pháp luật tước bỏ được tôn trọng. Đây là quyền con người được Công ước
51
quốc tế ghi nhận, Việt Nam là một thành viên tham gia Công ước, pháp luật
nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng, tài sản, danh dự, nhân
phẩm cũng như quyền và lợi ích hợp pháp khác của người bị tạm giữ, tạm
giam, nhất là những hành vi lợi dụng sự lệ thuộc, tình trạng mất tự do của
người bị tạm giữ, tạm giam để đánh đập, dùng nhục hình, nhục hình biến
tướng. Cơ quan quản lý giam giữ phải triển khai tổ chức thực hiện quy định
này trên thực tế, VKS có trách nhiệm giám sát việc thực hiện nội dung này.
Thông qua việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
VKSND các cấp trả tự do cho người bị tạm giữ, tạm giam 176 trường hợp
không có căn cứ và trái pháp luật theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Luật Tổ
chức VKSND trong đó năm 2010 là 41 trường hợp; năm 2011 là 32 trường
hợp; năm 2012 là 32 trường hợp; năm 2013 là 52 trường hợp; năm 2014 là 19
trường hợp. Thông qua việc trả tự do VKS yêu cầu cơ quan hữu quan khôi
phục lại quyền lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, tạm giam.
Hoạt động quản lý tình hình tại nơi giam giữ ở một số VKSND địa
phương còn nhiều hạn chế, chưa chặt chẽ do vậy nhiều vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam xảy ra đã không được kịp thời phát hiện để
áp dụng biện pháp loại trừ vi phạm, có nơi vi phạm mang tính chất rất nghiêm
trọng thể hiện qua số liệu như:
Trong 5 năm có 9.614 lượt người vi phạm vi phạm pháp luật tại nơi
giam giữ (bao gồm vi phạm nội quy, quy chế trại giam và phạm tội mới)
nhiều trường hợp việc vi phạm của đối tượng xuất phát từ sự cẩu thả, thiếu
trách nhiệm, không tuân thủ quy trình công tác, vi phạm kỷ luật nghiệp vụ của
một bộ phận cán bộ, chiến sỹ trực tiếp thực hiện công tác tạm giữ, tạm giam.
Vi phạm pháp luật tại nơi giam giữ xảy ra khá phổ biến như đánh
nhau, gây rối trật tự buồng giam, uống rượu, cờ bạc, mang vật cấm vào buồng
giam… có nhiều trường gây hậu quả nghiêm trọng phải truy cứu trách nhiệm
hình sự như hiện tượng trốn khỏi buống giam tập thể tại nhà tạm giữ thuộc
52
Công an quận 3- Thành phố Hồ Chí Minh năm 2008 ( 03 bị can đang bị tạm
giam và 04 đối tượng bị tạm giữ chui qua lỗ thủng tường trốn khỏi buồng
giam); hay được sự hậu thuẫn của cán bộ để người bị tạm giam có thai trong
thời gian bị tạm giam chờ án tử hình, xảy ra ở trại tạm giam thuộc Công an
tỉnh Hòa Bình….
Tình trạng “đầu gấu, anh, chị” trong trại tạm giam, ở một số trại tạm giam
có chức danh “trực buồng” để giúp cán bộ quản giáo nắm tình hình, duy trì
trật tự, nhưng trên thực tế lợi dụng sự tin tưởng của cán bộ các đối tượng lợi
dụng chức danh này để đối xử thiếu bình đẳng, xâm phạm đến quyền của đối
tượng khác, đã xảy ra nhiều vụ việc có hậu quả nghiêm trọng do “trực buồng”
gây ra.
Việc quản lý, canh gác, bảo vệ còn nhiều sơ hở dẫn đến việc người bị
tạm giữ, tạm giam trốn, tự sát chết trong đó có cả trường hợp bị kết án tử
hình, có nơi còn cho người bị tạm giam sử dụng tiền mặt, giam bị can trong 1
vụ án cùng buồng hay đưa đối tượng đi lao động đã dẫn đến hiện tượng thông
cung gây khó khăn cho quá trình xử lý vụ án của các cơ quan tiến hành tố
tụng như tại trại tạm giam thuộc Công an tỉnh Sóc Trăng. Những vi phạm này
làm cho tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm và các quyền lợi ích khác của
người bị tạm giữ, tạm giam trong quá trình giam giữ không được bảo đảm.
Quá trình thực hiện hoạt động kiểm sát VKSND các cấp đã không kịp thời
nắm bắt, tìm ra nguyên nhân, điều kiện yêu cầu cơ quan quản lý giam giữ
khắc phục.
Chất lượng hoạt động kiểm sát thường kỳ, bất thường kỳ tại nhà tạm
giữ, trại tạm giam còn nhiều hạn chế, việc vận dụng các biện pháp loại trừ vi
phạm pháp luật không chính xác và đúng với quy định của ngành như một số
VKSND địa phương còn nhầm lẫn giữa biện pháp kháng nghị và kiến nghị;
một số VKSND địa phương còn kháng nghị cả nguyên nhân, điều kiện dẫn
đến vi phạm, thậm chí còn kháng nghị cả biện pháp phòng ngừa; có VKSND
53
địa phương cho rằng áp dụng biện pháp kháng nghị là quá cứng rắn nên chỉ
nhắc nhở để cơ quan, đơn vị có trách nhiệm trong việc giam giữ tự tìm biện
pháp khắc phục….
Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ tạm giam diễn ra nhiều xong
hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam không kịp thời phát hiện yêu cầu
khắc phục. Thông qua công tác kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ của
VKSNDTC (vụ 4) đối với các VKSND địa phương hàng năm đã phát hiện
nhiều vi phạm cơ bản mà VKSND cấp dưới không kịp thời phát hiện, điều
này chứng tỏ chất lượng hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam ở nhiều
VKSND địa phương còn bộc lộ tồn tại, hạn chế.
Mối quan hệ giữa VKSND trong hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam với cơ quan hữu quan liên quan, các ngành, các cấp trong công tác chưa
được thực hiện tốt, nội dung này được thể hiện cụ thể ở việc trong thời gian từ
năm 2010 đến năm 2014 vẫn có 406 người quá hạn tạm giữ, 3.561 trường hợp
quá hạn tạm giam, trách nhiệm chính thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng.
Trước khi BLTTHS năm 2003, Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày
07/11/1998 ban hành kèm theo quy chế về tạm giữ, tạm giam ra đời giữa hai
ngành Công an - Kiểm sát đã ban hành một số văn bản pháp lý quan trọng để
hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện trong mối quan hệ công tác giữa cơ quan quản
lý giam giữ và Viện kiểm sát mà điển hình là thông tư liên ngành số 02/TTLN
ngày 06/9/1989 của liên ngành Công an, Kiểm sát. Nghiên cứu toàn diện quy
định về mối quan hệ giữa hai đơn vị trong công tác thấy quy định chưa đồng
bộ, toàn diện, đầy đủ và cụ thể mới chỉ dừng lại ở việc quy định chung một số
chế định. Do tính chất phức tạp của mối quan hệ giữa cơ quan quản lý giam
giữ và Viện kiểm sát hướng dẫn chưa kịp thời, đầy đủ nên trong hoạt động
thực tế nhận thức của một bộ phận cán bộ công tác tại hai đơn vị về mối quan
hệ chưa thống nhất, vẫn còn tình trạng “quyền anh, quyền tôi” chưa thông
suốt, khi vận dụng còn tùy tiện, nể nang và chưa thống nhất. Mối quan hệ
54
hiện nay hình thành và ảnh hưởng do lề lối làm việc ở từng địa phương, chưa
vận dụng thống nhất trong thực tiễn do vậy ở một số địa phương vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam còn chậm được phát hiện, loại trừ.
Quy định về mối quan hệ phối hợp giữa VKSND với Ủy ban mặt trận
tổ quốc các cấp, cơ quan dân cử như Quốc hội, các Ủy ban trực thuộc Quốc
hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, hiện này dựa trên cơ sở là những
nguyên tắc quy định trong BLTTHS do vậy là quy định chung, không cụ thể,
dẫn đến ở mỗi địa phương là khác nhau việc giám sát của các cơ quan này đối
với hoạt động của các cơ quan tư pháp trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam còn
nhiều hạn chế.
Sự phối hợp giữa hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam với các bộ
phận nghiệp vụ trong ngành kiểm sát như Thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án hình sự; kiểm sát khiếu tố kiểm sát thi hành
án còn chưa chặt chẽ, chưa được thường xuyên.
Nhận xét, đánh giá chung về hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát
nhân dân đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam
2.2.2. Những ưu điểm chính đạt được và nguyên nhân
Một là, hoạt động kiểm sát của VKSND các cấp đảm bảo việc tuân theo
pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam đã từng bước được các ngành, các
cấp chú trọng quan tâm hơn nên đã có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được
những kết quả đáng ghi nhận, kịp thời phát hiện, loại bỏ nhiều vi phạm pháp
luật của cơ quan quản lý giam giữ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, tạo
điều kiện thuận lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng xử lý tội phạm có hiệu quả.
Hai là, hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam được tiến hành ngay
từ đầu khi nhà tạm giữ, trại tạm giam nhận người bị tạm giữ, tạm giam, kết
thúc khi có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền, qua đó
đã đảm bảo cho hoạt động quản lý giam giữ được tổ chức thực hiện kịp thời
55
có hiệu quả, từng bước hạn chế được tình trạng vi phạm pháp luật trong quá
trình giam giữ.
Ba là, quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ hoạt động kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam luôn đi sâu vào từng nội dung cụ thể giúp cho hoạt động
kiểm sát có trọng tâm, trọng điểm đảm bảo đúng quy định của pháp luật và
loại trừ được vi phạm pháp luật mang tính bức xúc, phổ biến, chất lượng hoạt
động kiểm sát ngàng càng được nâng lên rõ rệt.
Bốn là, hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam được VKSND các
cấp tiến hành theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quy định của pháp
luật và quy chế của ngành nên bảo đảm sự chặt chẽ, thông suốt, nề nếp, tình
hình chấp hành pháp luật tại nơi giam giữ về cơ bản đều được VKSND các
cấp nắm chắc về số liệu, quản lý có hiệu quả.
Năm là, những vi phạm pháp luật mà VKSND các cấp phát hiện trong
quá trình hoạt động được áp dụng biện pháp loại trừ trong lĩnh vực tạm giữ,
tạm giam đều bảo đảm sự kịp thời, khách quan và có căn cứ đa số đều được
cơ quan quản lý giam giữ chấp nhận sửa chữa, qua đó góp phần phòng ngừa
vi phạm pháp luật có hiệu quả trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam.
Nguyên nhân đạt được kết quả:
Những kết quả mà hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam đạt được
xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan như sau
Một là, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong đó có
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm
giam đã được Đảng và Nhà nước xác định rõ hơn trong lộ trình cải cách tư
pháp, đáng chú ý là Chỉ thị 53/CT-TW ngày 21/03/2000 của Bộ Chính trị về
một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp; Nghị quyết 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Thực hiện chủ
56
trương cải cách tư pháp của Đảng, Nhà nước đã sửa đổi, bổ sung và ban
hành mới nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực hình sự và tố
tụng hình sự như BLHS năm 1999; BLTTHS năm 2003; Luật Tổ chức
VKSND năm 2002; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999
(năm 2009)… Ngoài ra liên ngành tư pháp trung ương còn ban hành nhiều
văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án hình sự, tạm
giữ, tạm giam do vậy hệ thống pháp luật liên quan đến VKSND và công tác
tạm giữ, tạm giam từng bước được hoàn thiện là cơ sở pháp lý cần thiết, tạo
điều kiện quan trọng trong quá trình thực hiện hoạt động kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam có hiệu quả.
Hai là, nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND trong lĩnh vực tạm giữ, tạm
giam từng bước được nâng lên, hàng năm căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ chính
trị mà Đảng và Nhà nước giao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp
đề ra chương trình công tác ở cấp mình trong đó rất chú trọng đến hoạt động
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam như thực hiện kiểm sát theo chuyên đề, nội
dung cụ thể, đã tạo sự đồng thuận trong thực hiện nhiệm vụ của toàn ngành,
được sự ủng hộ quan tâm của xã hội.
Ba là, công tác kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ đã được VKSND các
cấp chú trọng hơn, hoạt động tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, làm rõ cơ sở lý
luận hoạt động kiểm sát được quan tâm hơn, đã làm sáng rõ hơn về mục tiêu,
yêu cầu trong công tác, cơ bản xây dựng phương pháp, nội dung và quy trình
của hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam giúp hoạt động kiểm sát có nề
nếp, đi vào chiều sâu, hiệu quả.
Bốn là, lực lượng cán bộ, kiểm sát viên thực hiện hoạt động kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam được bổ sung, tăng cường, bộ máy tổ chức không
ngừng được kiện toàn. Đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kinh
nghiệm thực tiễn, được trang bị kỹ năng nghiệp vụ và kiến thức pháp luật.
57
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong ngành Kiểm sát nhân dân được
tăng cường và thực hiện kịp thời. Thông qua thực hiện các chuyên đề, báo
cáo, sơ kết, tổng kết, tập huấn các đơn vị kiểm sát cấp trên đã xây dựng nhiều
văn bản hướng dẫn nghiệp vụ đối với VKSND cấp dưới từ đó giúp cho cán
bộ, kiểm sát viên nâng cao trình độ năng lực trong công tác.
Năm là, sự phối hợp giữa VKSND với các cơ quan hữu quan, các
ngành, các cấp trên cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ, giúp hoạt động
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam kịp thời phát hiện nhiều vi phạm pháp luật, là
một trong những nguyên nhân cơ bản để hoạt động kiểm sát đạt được kết quả.
Sáu là, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc và chế độ chính sách
đối với cán bộ trực tiếp thực hiện hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam từng bước được cải thiện đã động viên, khích lệ tinh thần độ ngũ cán
bộ, kiểm sát viên.
- Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả, ưu điểm nêu trên, hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKSND trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam còn những
hạn chế sau đây:
Một là, công tác quản lý tình hình tạm giữ, tạm giam ở một số VKSND
địa phương còn hạn chế, chưa chặt chẽ, không kịp thời nắm bắt diễn biến tình
hình chấp hành pháp luật nơi giam, giữ tại địa phương mình nên nhiều vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam xảy ra đã không được kịp
thời phát hiện để áp dụng biện pháp loại trừ vi phạm pháp luật chính vì vậy có
nhiều vi phạm pháp luật diễn ra kéo dài hoặc tái diễn phức tạp và nghiêm
trọng hơn.
Hai là, ở nhiều VKSND địa phương chưa thực hiện đúng theo chương
trình, nội dung hướng dẫn của VKSND cấp trên và yêu cầu thực tế của cấp
mình, do vậy hoạt động kiểm sát còn dàn trải, không có trọng tâm, trọng điểm,
chất lượng hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam đạt kết quả chưa cao.
58
Ba là, việc áp dụng quy định pháp luật để xác định vi phạm pháp luật,
vận dụng các biện pháp pháp lý để loại trừ vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
tạm giữ, tạm giam ở một số VKSND địa phương chưa thống nhất, không
chính xác và đúng với quy định của ngành, vẫn còn nể nang, chưa kiên quyết
đã làm hạn chế hiệu quả hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam.
Bốn là, những tác động của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của VKSND đến công tác quản lý giam giữ chưa đủ mạnh để thực sự tạo sự
chuyển biến tích cực trong đấu tranh phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội
phạm tại nơi giam, giữ.
Nguyên nhân của tồn tại, thiếu sót
- Nguyên nhân khách quan
Một là, trong những năm qua tình hình tội phạm diễn biến phức tạp có
chiều hướng tăng năm sau cao hơn năm trước, một số vụ án lớn, có tổ chức,
băng ổ, nhóm, liên quan đến nhiều địa phương, ngành, lĩnh vực, số lượng
người bị bắt, đưa vào tạm giữ, tạm giam năm sau cao hơn năm trước. Trong
khi đó cơ sở vật chất sử dụng cho việc giam, giữ được xây dựng quá lâu, đã
xuống cấp gây quá tải trong việc tạm giữ, tạm giam, mất an toàn cho công tác
tạm giữ, tạm giam, đã không chống được thông cung, vi phạm về chế độ giam
giữ, ảnh hưởng đến quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm và hiệu quả
hoạt động kiểm sát.
Hai là, công tác đào tạo cán bộ còn nhiều bất cập nên năng lực, trình độ
của một bộ phận cán bộ, kiểm sát viên làm công tác kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam còn nhiều hạn chế, thiếu kinh nghiệm thực tiễn trong công tác.
Ba là, điều kiện làm việc, cở sở vật chất và đời sống cán bộ chưa được
đầu tư phù hợp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao nhất là VKSND cấp
huyện, vùng sâu, vùng xa, hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam phải
trực tiếp tiếp xúc với môi trường có độ độc hại cao, ảnh hưởng đến sức khoẻ
59
cán bộ, kiểm sát viên như bệnh truyền nhiễm, sự chống đối của các đối tượng
song vẫn chưa có chế độ đãi ngộ xứng đáng.
Bốn là, cơ sở pháp lý liên quan đến hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của VKSND trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam còn chưa thống nhất,
thiếu đầy đủ, chưa cụ thể dẫn đến cách hiểu và vận dụng ở một số địa phương
và cơ quan tiến hành tố tụng không thống nhất, nhiều văn bản quy phạm pháp
luật ban hành đã lâu có những phần không còn phù hợp nhưng chưa được cơ
quan có thẩm quyền xem xét chỉnh sửa cho phù hợp; nhiều quy định pháp luật
về tổ chức quản lý giam giữ chưa phù hợp với thực tiễn, quá trình nghiên cứu
thấy còn một số tồn tại do quy định của pháp luật cụ thể như.
- Về cách tính thời gian tạm giữ, theo quy định tại khoản 2 Điều 81
BLTTHS “ Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương
đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; Người chỉ huy
tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng” có
quyền tạm giữ hình sự nhưng về cách tính thời hạn tạm giữ tại khoản 1 Điều
87 BLTTHS quy định: “ Kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt” và tại
khoản 2 Điều 87 BLTTHS cho phép cơ quan ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn
tạm giữ, vậy thời hạn tạm giữ được tính như thế nào? Vì những người quy
định tại khoản 2 điều 81 BLTTHS như đã nêu không phải Cơ quan điều tra,
do đó cần sửa đổi, bổ sung điều luật này cho phù hợp.
- Về việc quản lý đối với đối tượng bị kết án tử hình: Người bị kết án tử
hình là những đối tượng đặc biệt, có quy định riêng về chế độ quản lý những
đối tượng này, Nhà nước đòi hỏi ở cán bộ quản lý phải có chế độ quan tâm
riêng, đặc biêt, tuy nhiên trong thực tế khi tiến hành quản lý đang gặp rất
nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu là do các đối tượng gây nên.
Đa số đối tượng bị tạm giam sau khi bị xét xử tuyên án tử hình thường
có thái độ chống đối tích cực, thể hiện bằng nhiều hành vi vi phạm nội quy,
quy chế giam giữ như: Chửi bới cán bộ quản giáo, tìm nhiều cách trốn hoặc tự
60
tử để trốn tránh việc thi hành án, do vậy những đối tượng này có những diễn
biến tâm lý phức tạp, khó lường, khó đoán biết để phát hiện giáo dục gây ra
nhiều khó khăn cho công tác quản lý. Chế độ giam giữ đối với đối tượng bị
kết án tử hình được quy định riêng, cụ thể là có khu giam và buồng giam
riêng, có thể bị cùm chân 24/24 giờ trong trường hợp cần thiết, cho gặp thân
nhân, quy định nêu trên cho phép quản lý riêng từng loại đối tượng để kịp
thời đề ra những biện pháp quản lý cụ thể. Tuy nhiên đối tượng bị kết án tử
hình thường có số lượng rất ít so với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam do vậy
khi đối tượng phát sinh tâm lý tiêu cực sẽ không được cán bộ chiến sỹ phát
hiện để kịp thời giáo dục, những đối tượng này là những đối tượng lì lợm,
nhiều thủ đoạn tinh vi, với quyết tâm thực hiện hành vi vi phạm nội quy, quy
chế giam giữ rất cao nếu những hành vi đó không kịp thời phát hiện sẽ gây ra
hậu quả xấu.
Tại Điều 258 BLTTHS năm 2003 quy định thủ tục xem xét bản án tử
hình trước khi thi hành: “…Trong trường hợp người bị kết án xin ân giảm
hình phạt tử hình thì bản án tử hình chỉ được thi hành sau khi Chủ tịch nước
bác đơn xin ân giảm...”. Pháp luật không quy định thời hạn để Chủ tịch nước
bác hay chấp nhận đơn ân giảm nên đã gây không ít khó khăn cho công tác
quản lý.
- Về việc tạm giữ, tạm giam đối với bị can, bị cáo là người chưa thành
niên, theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 303 của BLTTHS thì người chưa
thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu
có đủ căn cứ quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này,
nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; Người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại
các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những
trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc
61
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, Điều 303 BLTTHS không quy
định bắt, tạm giữ, tạm giam trong các trường hợp người chưa thành niên bỏ
trốn và bị bắt theo lệnh truy nã hoặc trường hợp người chưa thành niên được
áp dụng biện pháp ngăn chặn tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi cản trở quá
trình xử lý vụ án, những trường hợp là đối tượng lang thanh, bụi đời, không
có địa chỉ cư trú rõ ràng nên nếu cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp
dụng biện pháp ngăn chăn tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên
trong các trường hợp này là không đúng với điều kiện quy định tại khoản 1, 2
Điều 303 BLTTHS, được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nhà
tạm giữ, trại tạm giam thực hiện việc tạm giữ, tạm giam cũng vi phạm pháp
luật, song cũng không có căn cứ để trả tự do theo quy định.
-Về việc trả tự do cho người bị tạm giam khi hết thời hạn tạm giam.
Điểm d -mục 1- Thông tư số 08/2001/TT-BCA ngày 12/11/2001 hướng
dẫn thực hiện một số điều của quy chế về tạm giữ, tạm giam quy định:
" Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam trả tự do cho người bị
tạm giữ, tạm giam trong các trường hợp sau:
- Có quyết định trả tự do của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà
án đang thụ lý vụ án;
- Quyết định huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam;
- Có quyết định thay đổi biện pháp tạm giữ, tạm giam bằng biện pháp
ngăn chặn khác;"
Điểm 4.1- mục 4 - Nghị quyết số: 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004
của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao quy định:
b. Nếu thời hạn phạt tù còn lại dưới 45 (bốn mươi năm) ngày, thì
ghi thời hạn tạm giam bằng thời hạn hình phạt tù còn lại, kể từ ngày
tuyên án cần ghi thêm: hết thời hạn tạm giam này, Trại tạm giam có
trách nhiệm trả tự do ngay cho bị cáo, nếu họ không bị tạm giam,
giữ về hành vi vi phạm pháp luật khác.
62
Khi nghiên cứu nội dung quy định nêu trên thấy: Việc trả tự do cho
người bị tạm giữ, tạm giam, Bộ công an hướng dẫn phải có quyết định trả tự
do hoặc quyết định thay đổi hay huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm
giam, song tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn
ghi thêm vào lệnh tạm giam của Hội đồng xét xử việc trả tự do cho người bị
tạm giữ, tạm giam mà không dùng quyết định đây là một mâu thuẫn lớn về
quy định, do vậy trong thực tế có nhiều trường hợp người bị tạm giam đến
ngày hết thời hạn tạm giam theo quyết định của Toà án nhân dân đã xét xử mà
không được Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam trả tự do cho người
bị tạm giữ, tạm giam, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của họ, là nguyên nhân chính dẫn đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp đã
quyết định trả tự do cho người bị tạm giữ, tạm giam nêu trên theo Khoản 1
Điều 28 Luật tổ chức VKSND năm 2002.
- Về phân loại tạm giữ, tạm giam, theo quy định tại Điều 15 quy chế
tạm giữ, tạm giam ban hành kèm theo Nghị định số 89/NĐ-CP ngày
7/11/1998 của Chính Phủ thì người bị tạm giữ, tạm giam được giam giữ riêng
theo loại ở các buồng giam, khu giam cụ thể là: Phụ nữ; vị thành niên; người
nước ngoài, người có bệnh truyền nhiễm; đối tượng nguy hiểm, côn đồ hung
hãn, giết người cướp tài sản, tái phạm nguy hiểm; phạm tội an ninh quốc gia;
án tử hình chờ thi hành án; người bị kết án phạt tù chờ chuyển thi hành án;
phạm nhân, không giam, giữ chung buồng những cùng một vụ án đang điều
tra. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của khoa học và y học hiện đại việc
chuyển đổi giới tính là một hiện tượng xã hội đang diễn trong thực tế, pháp
luật Việt Nam hiện nay chỉ quy định và ghi nhân 2 loại giới tính là Nam và
Nữ, chưa quy định về đối tượng lưỡng tính hoặc chuyển đổi giới tính, do vậy
trong thực tế đã xảy ra trường hợp đối tượng bị tạm giữ, tạm giam là người đã
chuyển đổi giới tính nên việc phân loại để tổ chức giam giữ gây ra nhiều khó
khăn, lung túng cho cơ quan quản lý giam giữ và hoạt động kiểm sát việc tuân
63
theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam do chưa có khung pháp lý
điều chỉnh.
- Nguyên nhân chủ quan
Một là, nhận thức về vị trí, vai trò và trách nhiệm của VKSND trong
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam
chưa được đánh giá đúng, đầy đủ với yêu cầu của nhiệm vụ được giao, do vậy
việc xây dựng cơ sở pháp lý làm nền tảng hoạt động kiểm sát, bố trí lực lượng
và điều kiện về cơ sở vật chất bảo đảm thực hiện nhiệm vụ còn ở mức khiêm
tốn, ở nhiều địa phương còn có biểu hiện coi nhẹ hoạt động kiểm sát này.
Hai là, công tác chỉ đạo điều hành của một bộ phận lãnh đạo chưa sâu,
chưa sát với yêu cầu đề ra, việc kiểm tra đôn đốc chưa thời xuyên, liên tục,
kịp thời, công tác tổng kết thực tiễn diễn ra chậm, chưa được thường xuyên,
định kỳ do vậy nhiều khó khăn vướng mắc diễn ra trong thực tiễn chưa được
kịp thời tổng hợp để tìm biện pháp tháo gỡ thích hợp. Quy chế công tác kiểm
sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự ban hành kèm theo Quyết
định số 35/QĐ-VKSTC-V4 ngày 29/01/2013 vẫn nặng nề nhắc lại các quy
định của Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và Thông tư liên ngành số
02/TTLN ngày 06/9/1989 chưa thể hiện được quy trình tác nghiệp khi tiến
hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam. Hệ
thống kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam theo ngành dọc từ VKSNDTC đến các
VKSND cấp huyện vận hành có lúc chưa được thông suốt do cơ chế hoạt
động còn nhiều bất cập. Công tác nghiên cứu lý luận phục vụ công tác kiểm
sát thiếu sắc bén chưa gắn liền với thực tiễn đang diễn ra, hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam là hoạt động quan
trọng của ngành Kiểm sát nhân dân song đến nay chỉ có ít công trình khoa
học nghiên cứu nên chưa đầy đủ, toàn diện, chưa chú ý đến tổng kết thực tiễn
để xây dựng thành lý luận đề ra phương pháp tác nghiệp một cách khoa học.
64
Công tác tổ chức- cán bộ ở một số VKSND địa phương chưa được
thực hiện tốt, thường xuyên thay đổi cán bộ- kiểm sát viên thực hiện nhiệm
vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam nhất là ở VKSND cấp huyện nên kỹ
năng kiểm sát của cán bộ không mang tính chuyên sâu, ổn định. Về biên chế
cán bộ vừa thiếu lại không cân đối giữa công việc được giao với lực lượng
cán bộ hiện có dẫn đến tình trạng quá tải, kiêm nhiệm ở một số đơn vị. Quy
trình tuyển chọn bổ kiểm chức danh pháp lý còn chậm; việc đào tạo, bồi
dưỡng kỹ năng nghiệp vụ còn nhiều yếu kém, chưa quan tâm đến trang bị,
đào tạo kỹ năng cơ bản về kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam do vậy học viên
khi ra trường được phân công thực hiện công tác này chưa nắm được
phương pháp tiến hành kiểm sát, công tác cán bộ chưa ngang tầm với yêu
cầu thực hiện chức năng.
Ba là, việc phân định ranh giới các bộ phận thực hiện chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp trong ngành kiểm sát chưa rõ ràng như giữa kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù và
kiểm sát thi hành án; phân cấp kiểm sát trong hoạt động kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam chưa khoa học nhất là ở cấp huyện và cấp tỉnh, khối lượng
công việc được giao nhiều xong lực lượng thực hiện nhiệm vụ lại rất hạn chế
dẫn đến quá tải trong công việc, cán bộ, kiểm sát viên phải kiêm nhiệm nhiều
việc, thiếu kiểm sát viên chuyên trách trực tiếp thực hiện hoạt động kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam nhất là ở VKSND cấp huyện.
Bốn là, việc vận dụng các phương thức, nội dung các cuộc kiểm sát ở
một số VKSND địa phương không linh hoạt, một số cán bộ, kiểm sát viên
chưa nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật về hoạt động kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam và công tác tạm giữ, tạm giam do vậy khi vận dụng các
quy định vào thực tế chưa chính xác dẫn đến giảm hiệu quả của công tác.
Nhận thức của một bộ phận cán bộ, kiểm sát viên trực tiếp tiến hành hoạt
động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam chưa đúng đắn, đầy đủ, có biểu hiện
65
xem nhẹ hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam so với công tác kiểm sát
khác, chưa thấy hết tầm quan trọng, tính chất phức tạp, nhạy cảm của công tác
tạm giữ, tạm giam, ý thức trách nhiệm với công việc chưa cao.
Năm là, ở nhiều địa phương, mối quan hệ phối hợp giữa VKSND với
các cơ quan hữu quan, các cấp, các ngành; giữa hoạt động kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam với các bộ phận nghiệp vụ khác trong ngành chưa còn chưa
chặt chẽ, chưa được thường xuyên, chưa phân công cụ thể trách nhiệm của
từng cơ quan, ngành, cấp trong quan hệ phối hợp, chưa thực sự chủ động trao
đổi thông tin cần thiết, không thực hiện đúng nguyên tắc khi xử lý mối quan
hệ công tác cũng phần nào ảnh hưởng đến chất lượng công tác.
Kết luận chương 2
Để phản ánh rõ thực trạng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của VKSND trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam luận văn đã phân tích, đánh giá
một số nét cơ bản về tình hình chấp hành pháp luật trong công tác quản lý tạm
giữ, tạm giam tại các nhà tạm giữ, trại tạm giam do Bộ Công An quản lý từ
năm 2010 đến năm 2014, qua đó cho thấy về cơ bản hoạt động quản lý tạm
giữ, tạm giam đã từng bước đi vào nề nếp, bảo đảm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền cơ bản khác của người bị tạm giữ, tạm
giam không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng, kết quả đã đóng góp tích cực
cho đấu tranh phòng ngừa chấn áp tội phạm, tuy nhiên ở nhiều đơn vị việc tổ
chức thực hiện quy định pháp luật về tạm giữ, tạm giam còn nhiều hạn chế,
tồn tại, tình trạng vi phạm pháp luật còn xảy ra, có nhiều diễn biến phức tạp.
Từ đó bằng các phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh;
luận văn phân tích, đánh giá kết quả hoạt động kiểm sát của VKSND đảm bảo
việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam, sự tác động của
VKSND các cấp đến công tác quản lý tạm giữ, tạm giam trong lực lượng Công
an nhân dân, tuy không khắc hết vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm
giam xong đã góp phần không nhỏ trong việc phát hiện vi phạm, yêu cầu khắc
66
phục, tìm ra nguyên nhân, điều kiện giúp cơ quan quản lý giam giữ phòng ngừa
vi phạm pháp luật có hiệu quả. Tổng hợp kết quả nghiên cứu luận văn đã đánh
giá một số ưu điểm và khuyết điểm hoạt động kiểm sát của VKSND đảm bảo
việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam, từ đó chỉ ra nguyên
nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan lẩy sinh thiếu sót, tồn tại, làm cơ sở
cho việc đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm
sát của VKSND đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm
giam giai đoạn hiện nay.
67
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT VIỆC
TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC TẠM GIỮ, TẠM GIAM
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
3.1. QUAN ĐIỂM VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC TẠM GIỮ, TẠM GIAM
Cùng với những mặt hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang
đứng trước nhiều thách thức. Tình hình phạm tội diễn biến phức tạp, với tính
chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Đòi hỏi của công dân và xã hội đối
với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là
chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời
phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu
tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm.
Cải cách hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm
giữ, tạm giam của VKSND nói chung, của VKSND tối cao nói riêng cũng đặt
trong yêu cầu cải cách tư pháp do vậy cần quán triệt một số quan điểm sau để
hạn chế những sai lầm, yếu kém khi cải cách:
3.1.1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam phải quán triệt chính sách pháp luật của Đảng Cộng sản Việt Nam
Cải cách hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm
giữ, tạm giam của VKSND tối cao phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của
Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa
các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
68
3.1.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ,
tạm giam phải thực hiện nghiêm mục tiêu của cải cách tư pháp
Cải cách hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm
giữ, tạm giam của VKSND tối cao phải đặt trong mục tiêu chung của cải cách
tư pháp là: Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Nâng cao hiệu quả và hiệu lực của hoạt
động tư pháp.
3.1.3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ,
tạm giam phải kế thừa và phát huy thành quả đạt được đồng thời tiếp
thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới
Cải cách hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm
giữ, tạm giam của VKSND tối cao phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc,
những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam: tiếp
thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh
nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế; đáp ứng được xu thế phát triển
của xã hội trong tương lai; phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có
trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc.3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN
THEO PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC TẠM GIỮ, TẠM GIAM
3.2.1. Các giải pháp chung
3.2.1.1. Hoàn thiện luật tố tụng hình sự và một số quy định đối với
công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
Quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp trong thời gian tới sẽ vẫn là
tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp để các cơ quan
tư pháp thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý và quyền
con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu để bảo vệ pháp luật và pháp
chế XHCN, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm pháp luật.
69
Hoàn thiện cơ sở pháp lý, xác định rõ mục tiêu, yêu cầu, xây dựng nội dung,
quy trình, phương pháp là một trong những nhiệm vụ cơ bản, yêu cầu khách
quan nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát của VKSND đảm bảo việc
tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam.
Thứ nhất, về hoàn thiện cơ sở pháp lý tạo ra hành lang cho hoạt động
kiểm sát của VKSND trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam là cần thiết, hiện tại
theo quy định của Hiến pháp, BLTTHS, Luật tổ chức VKSND và các văn
bản liên quan mô hình, tổ chức và hoạt động của VKSND được thành lập ở
3 cấp là Trung ương, tỉnh, huyện gắn liền với đơn vị hành chính. Nghiên cứu
sắp xếp lại hệ thống cơ quan Viện kiểm sát theo 4 cấp không phụ vào đơn vị
hành chính theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW và Kết luận 79-KL/TW
ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị là bước đi đúng đắn song cần xem xét cân
nhắc cho phù hợp vì khi thay đổi mô hình cấu trúc của hệ thống đòi hỏi phải
sắp xết các bộ phận cấu thành của hệ thống cho phù hợp, mối quan hệ của
từng bộ phận cấu thành lên VKS, phân định rõ thẩm quyền của từng bộ phận
bảo đảm sự thống nhất, xuyên suốt của toàn hệ thống trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ.
- Trước hết cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 từ
Điều 137 đến Điều 140 theo hướng tiếp tục khẳng định VKSND là hệ thống
cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, có chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, tổ chức theo 4 cấp không phụ thuộc vào đơn
vị hành chính, xử lý các vấn đề về nguyên tắc tổ chức hoạt động của VKSND
các cấp, mối quan hệ với cơ quan dân cử.
- Sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 theo
hướng quy định vai trò, vị trí, chức năng nhiệm vụ của VKSND phù hợp với
quy định của Hiến pháp sau khi sửa đổi. Hiện tại Luật tổ chức VKSND năm
2002 quy định chương VI từ Điều 26 đến Điều 29 về kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, để bảo đảm tính
70
thống nhất theo nhiệm vụ mới được phân công đề nghị sửa đổi thành chương
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, chuyển toàn bộ quy
định về hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự về quy định tại chương VI.
- Sửa đổi bổ sung Pháp lệnh kiểm sát viên năm 2002 theo hướng quy
định 4 ngạch kiểm sát viên là Kiểm sát viên VKSNDTC, kiểm sát viên cao
cấp, kiểm sát viên trung cấp và kiểm sát viên sơ cấp, thay cho 3 ngạch như
hiện nay, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp là một chức danh
pháp lý trong hoạt động của các cơ quan tư pháp do vậy cần thiết phải tăng
nhiệm vụ, quyền hạn, nâng cao tính độc lập của kiểm sát viên khi thi hành
nhiệm vụ để đảm bảo kiểm sát viên chịu trách nhiệm trước các quyết định
của mình.
- Sửa đổi, bổ sung thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 06/9/1989, do
tính chất phức tạp của mối quan hệ công tác giữa cơ quan quản lý giam giữ và
Viện kiểm sát trong thực tế, hiện nay thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày
06/9/1989 của liên ngành có nội dung quy định chưa đồng bộ, toàn diện, đầy
đủ và cụ thể mới chỉ dừng lại ở việc quy định chung một số chế định. Liên
ngành trung ương cần xem xét, nghiên cứu xây dựng văn bản liên tịch thay
thế Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 06/9/1989 theo hướng quy định
toàn diện, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Bộ Công an trong
lĩnh vực giam giữ và kiểm sát việc giam giữ, quy định rõ nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm cụ thể của mỗi cơ quan trong từng hoạt động để tháo gỡ
những vướng mắc từ thực tiễn cụ thể là định kỳ hàng tháng cơ quan quản lý
giam giữ thông báo cho VKS cùng cấp (thông qua bộ phận kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam) tình hình chấp hành pháp luật tại nơi giam giữ, kịp thời thông
báo những trường hợp tăng, giảm người bị tạm giữ, tạm giam, thông báo ngay
những trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam phát hiện có dấu hiệu vi phạm
pháp luật. Trước mắt cần nghiên cứu, xây dựng quy chế phối hợp công tác
71
liên ngành Công an- Kiểm sát để bảo đảm tốt hơn cho việc xử lý và phòng
ngừa vi phạm pháp luật tại nơi giam giữ.
- Xây dựng văn bản liên tịch giữa VKSND với Ủy ban mặt trận tổ quốc
trong việc phối hợp giám sát thi hành pháp luật về tạm giữ, tạm giam, thực
hiện quan điểm cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước về tăng cường vai trò
giám sát của cơ quan dân cử, tổ chức chính trị xã hội đối với hoạt động tư
pháp, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, liên ngành trung ương cần xây dựng văn
bản liên tịch về mối quan hệ công tác giữa VKSND với Ủy ban mặt trận tổ
quốc các cấp và cơ quan dân cử để phối hợp giám sát việc tuân thủ pháp luật
trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam.
- Sửa đổi, bổ sung quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù ban hành kèm theo Quyết
định số 959/QĐ-VKSTC-V4 ngày 17/9/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, do những thay đổi về chức năng nhiệm vụ trong thời gian
tới, để bảo đảm tiếp tục phát huy hiệu quả trong công tác đề nghị Lãnh đạo
Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần nghiên cứu ban hành quy chế mới về công
tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự thay thế quy chế
đang thực hiện ban hành kèm theo Quyết định số 959/QĐ-VKSTC-V4 ngày
17/9/2007 theo hướng đầy đủ, cụ thể, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của các đơn vị, các cấp trong quá trình thực hiện hoạt động kiểm
sát, phân cấp công việc thật cụ thể để các đơn vị nghiệp vụ, các cấp kiểm sát
có căn cứ vận dụng nghiêm chỉnh, thống nhất trong thực tiễn. Theo tác giả
việc xây dựng quy chế phải dựa trên những nguyên tắc, cơ cấu và các nội
dung cơ bản sau đây: Quy chế phải bảo đảm nguyên tắc phù hợp với quy định
của Hiến pháp và pháp luật, thể chế hóa được các quy định Luật tổ chức
VKSND và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của VKSND trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam; tuân thủ
nguyên tắc cơ bản về tổ chức, hoạt động của VKSND. Ngoài ra quy chế
72
nghiệp vụ thể hiện được nội dung, trình tự, thủ tục của từng hoạt động kiểm
sát cụ thể, về cơ cấu, cấu trúc của quy chế phải thể hiện rõ, phân công từng
loại công việc mà các cấp kiểm sát, các bộ phận nghiệp vụ phải tiến hành
đồng thời tương ứng là quy định rõ ràng trách nhiệm pháp lý của cán bộ, kiểm
sát viên, người quản lý, người đứng đầu của mỗi đơn vị nghiệp vụ, mỗi cấp
trong thực thi những nhiệm vụ cụ thể đó.
Thứ hai, xác định rõ mục tiêu, yêu cầu trong công tác, hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam là một hoạt
động nghiệp vụ thực hiện chức năng của VKSND, có phạm vi hoạt động rộng
với vai trò và quyền năng rất lớn, do vậy ở từng thời điểm, địa phương cụ thể
VKSND căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương và đơn vị mình cần chủ
động đề ra mục tiêu và xác định rõ yêu cầu để đảm bảo hoạt động kiểm sát có
trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng với yêu cầu chính trị, có như vậy hoạt động
kiểm sát mới hoạt động đúng hướng, góp phần phục vụ công cuộc đấu tranh
phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm có hiệu quả.
Thứ ba, xây dựng, đổi mới về nội dung và phương pháp tiến hành hoạt
động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam,
tùy từng điều kiện cụ thể ở địa phương mình mà VKSND các cấp cần đổi mới
nội dung tiến hành kiểm sát, vận dụng linh hoạt các phương thức kiểm sát và
các biện pháp pháp lý nhằm loại trừ vi phạm pháp luật có hiệu quả. Trước hết
nội dung và phương thức kiểm sát cần tuân thủ đúng quy định của pháp luật
và quy chế của ngành, điều đó đòi hỏi cán bộ, kiểm sát viên thực hiện hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam phải
nắm chắc quy định của pháp luật liên quan đến công tác tạm giữ, tạm giam và
hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam để vận dụng linh hoạt trong quá
trình kiểm sát; mặt khác quản lý chặt chẽ tình hình chấp hành pháp luật tại nơi
giam giữ để kịp thời đề ra những biện pháp xử lý thích hợp; lãnh đạo VKSND
các cấp cần quản lý nghiệp vụ thật tốt để sử dụng, phối hợp lực lượng có hiệu
73
3.2.1.2. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam
+ Đổi mới về tổ chức bộ máy
Trải qua năm năm thực hiện Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002, hoạt động của công tác này đã bộc lộ những hạn chế cần phải nghiên
cứu để đổi mới cho phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và đem lại hiệu quả
cao hơn nhằm thực hiện tốt chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong thời
gian tới, đó là:
- Một khâu công tác do nhiều đơn vị đảm nhiệm cho nên rất khó khăn
trong hoạt động quản lý, chỉ đạo thống nhất cũng như xử lý những vụ việc cụ
thể có liên quan đến nhiệm vụ của nhiều đơn vị.
- Việc phân công và phối hợp giữa các khâu công tác còn bất cập, thậm
chí thông tin cho nhau không kịp thời hoặc không thông tin cho nên việc phát
hiện kịp thời vi phạm trong bắt giữ, giam còn nhiều khó khăn. Thậm chí có
những địa phương khi không phê chuẩn quyết định của Cơ quan điều tra trong
việc gia hạn tạm giữ, tạm giam còn không thông báo cho đơn vị kiểm sát tạm
giữ, tạm giam biết vì sợ ''tiêu cực''.
- Việc nhận thức cũng như áp dụng các quyền cũng như các phương
thức kiểm sát còn khác nhau cả Kiểm sát thi hành án và Kiểm sát tạm giữ,
tạm giam, quản lý và giáo dục nhười chấp hành án phạt tù .
Để thu gọn đầu mối trong tổ chức bộ máy thuận lợi cho công tác chỉ
đạo, quản lý cũng như tổng kết rút kinh nghiệm trong công tác Kiểm sát thi
hành án và Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù chúng tôi đề xuất:
Ở Viện kiểm sát nhân dân Tối cao và Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh,
Thành phố trực thuộc Trung ương chỉ nên tổ chức một đơn vị Kiểm sát Thi
hành án bao gồm cả Kiểm sát thi hành án hình sự và dân sự. Công tác Kiểm
74
sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù
giao cho các đơn vị Kiểm sát điều tra. Với tổ chức bộ máy trên có những ưu
điểm sau:
- Về Kiểm sát thi hành án hình sự có điều kiện quản lý, chỉ đạo thống
nhất từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi người bị kết án chấp hành
xong hình phạt, được xóa án tích. Quản lý được cả các trường hợp hoãn, Tạm
đình chỉ, chết trong các thời kỳ phải Thi hành án ... Việc hướng dẫn nghiệp vụ
tập trung thống nhất đầu mối, có điều kiện thuận lợi tổng kết rút kinh nghiệm,
có điều kiện phối hợp các ngành thuận lợi hơn trong một đầu mối.
- Có điều kiện kết hợp giữa Thi hành án hình sự với Thi hành án dân
sự nhất là Thi hành án phần dân sự trong hình sự để khi xét giảm án, xét
đặc xá ...
- Công tác Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam giao cho đơn vị Kiểm sát
điều tra gắn với việc Quyết định phê chuẩn các Quyết định của Cơ quan điều
tra trong việc tạm giữ, tạm giam. Gắn việc tạm giữ, tạm giam với Kiểm sát
điêù tra rất thuận lợi, có điều kiện làm tốt cả hai nhiệm vụ, phục vụ tốt cho
hoạt động thông khâu hiện nay.
- Thu gọn đầu mối, đáp ứng yêu cầu cải cách tổ chức bộ máy, nhất là
tạo ra điều kiện cho việc thống nhất nhận thức và áp dụng pháp luật trong lĩnh
vực này.
+ Đổi mới về hoạt động của công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
Trong hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước nói chung, của từng cơ
quan nói riêng, vấn đề cơ chế hoạt động tạo ra tính chủ động, linh hoạt của
con người thì bao giờ cũng đem lại hiệu quả cao hơn. Do đó, bên cạnh việc
hoàn thiện pháp luật xác định rõ vị tri, chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm
trong công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
75
chấp hành án phạt tù thì cần thiết phải đổi mới hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân trong công tác này bao gồm:
- Tiếp tục nghiên cứu đổi mới và kết hợp các phương thức kiểm sát Thi
hành án cả hình sự và dân sự có hiệu quả. Nhất là tạo được sự gắn kết giữa
Kiểm sát thi hành án hình sự và dân sự đối với những bản án áp dụng cả hình
phạt về hình sự với trách nhiệm về dân sự.
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các mẫu biểu quản lý nghiệp vụ, mẫu
các văn bản như mẫu Kết luận kiểm sát trực tiếp, mẫu yêu cầu tự kiểm tra
thông báo kết quả cho Viện kiểm sát; Mẫu kháng nghị, kiến nghị; Mẫu quyết
định trả tự do theo khoản 1 Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
- Tổ chức ngay hội nghị tập huấn nhằm thống nhất nhận thức và áp
dụng các đạo luật mới được ban hành như: Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số
điều của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù; Luật đặc xá; Các Nghị quyết số 01,
số 02 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao mới ban hành liên
quan đến công tác Kiểm sát thi hành án. Thường xuyên thông báo rút kinh
nghiệm, kịp thời hướng dẫn xử lý những vấn đề phát sinh trong thực tế và
trong điều kiện hội nhập ...
- Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, nhất là vai trò của
lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp đối với công tác này vì đây là hoạt
động liên quan đến con người. Những quyền của người bị giam giữ không bị
pháp luật tước bỏ phải được tôn trọng. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lý, chỉ đạo. Điều đáng quan tâm nữa là ý thức trách nhiệm, tính
chủ động, sáng tạo của cán bộ, kiểm sát viên làm công tác này.
- Xây dựng quy chế phối hợp giữa các khâu công tác có liên quan như
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử, kiểm sát thi hành án... nhằm thông tin kịp
thời cho nhau những quyết định liên quan đến trách nhiệm từng khâu để xử lý
kịp thời.
76
3.2.2. Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát tạm
giữ, tạm giam
3.2.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy về công tác kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam
Trước hết cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục hoàn thiện nội
dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tạm giữ, tạm giam và
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND trong lĩnh vực tạm
giữ, tạm giam, khắc phục tình trạng cấp uỷ buông lỏng lãnh đạo hoặc Cấp uỷ
viên can thiệp không đúng vào các hoạt động này. Do đó các hoạt động của
VKSND trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp,
toàn diện của cấp ủy trong đó có sự phối hợp giữa hai đơn vị nhằm đấu tranh
phòng ngừa vi phạm pháp luật tại nơi giam giữ. Trong các chương trình, kế
hoạch hoạt động của cấp ủy cần có nội dung chỉ đạo các hoạt động của hai cơ
quan về tạm giữ, tạm giam và hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam. Sáu
tháng, năm cần nghe hoặc yêu cầu hai ngành báo cáo về tình hình, kết quả
công tác để có biện pháp tháo gỡ.
3.2.2.2. Nâng cao trình độ, phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực
chuyên môn của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên
Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”, tổ chức các lớp tập huấn, quán triệt nghiêm túc và sâu
rộng các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
quy định, quy chế của Ngành, cụ thể hoá bằng nhiệm vụ phù hợp với điều
kiện thực tiễn của Ngành, của cơ quan đơn vị. Qua đó, nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, rèn luyện ý thức đạo đức phải tự giác,
gương mẫu kiểm điểm, tự phê bình, tự điều chỉnh mình, cái gì tốt thì phát
huy, cái gì xấu thì tự sửa chữa, cảnh giác trước mọi cám dỗ về danh lợi, vật
chất, tránh rơi vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực dụng để thật sự trở thành
những cán bộ “Vững về chính trị”, “Kỷ cương và trách nhiệm”.
77
Hai là, để đảm bảo hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật trong tạm
giữ, tạm giam đạt chất lượng và hiệu quả cao, thì cán bộ làm công tác này
phải nhận thức sâu sắc và thực hiện đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của
mình trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực tư pháp... Nếu
không nhận thức đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thì
sẽ không làm hết chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, dẫn đến oan sai trong hoạt
động tư pháp.
Ba là, rà soát đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên hiện có để có biện đào tạo,
bồi dưỡng, sử dụng cán bộ lâu dài.
Bốn là, cùng với việc xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát phải tiến hành
đồng thời với việc đổi mới và kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ ở
Viện kiểm sát các cấp. Trong thời gian tới phải nâng cao phẩm chất, trình độ
kiến thức và năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác cán bộ, tuyển chọn
những người công tâm, trung thực, trong sáng, có uy tín, kinh nghiệm và trình
độ chuyên môn làm công tác cán bộ, có chính sách đào tạo, bồi dưỡng chuyên
sâu về công tác cán bộ cho đội ngũ làm công tác cán bộ để họ thực sự là lực
lượng tham mưu tích cực trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ ngành
Kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp.
3.2.2.3. Xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa đơn vị làm nhiệm vụ
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam với các cơ quan hữu quan
Do đặc thù về phạm vi hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam là
hoạt động đan xen, xuyên suốt quá trình tố tụng bắt đầu từ tiền khởi tố ( khi
có người bị tạm giữ) cho đến khi án có hiệu lực pháp luật, người bị tạm giam
được chuyển đi chấp hành án. Để thực hiện có hiệu quả hoạt động kiểm sát
tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam thì ngoài các biện pháp
nghiệp vụ thì mối quan hệ với các cơ quan hữu quan là quan trọng và cần
thiết, quan hệ phối hợp trong công tác là quan trọng, quyết định đến hiệu quả
78
công tác góp đấu tranh phòng ngừa tội phạm có hiệu quả, cần thực hiện tăng
cường các mối quan hệ sau:
- Tăng cường mối quan hệ phối hợp với cơ quan quản lý giam, giữ
trong đấu tranh phòng ngừa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm
giam, từ thực tiễn cho thấy, nếu VKSND và cơ quan quản lý giam giữ nhận
thức thống nhất và thực hiện nghiêm chỉnh quy định về mối quan hệ phối hợp
sẽ giúp loại trừ, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam. VKSND chủ động phối hợp với cơ quan
quản lý giam giữ (là các nhà tạm giữ, trại tạm giam) trong việc quản lý tình
hình về tạm giữ, tạm giam, đảm bảo luôn nắm chắc số lượng người bị tạm
giữ, tạm giam ở từng thời điểm, phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật xảy ra
tại nơi giam giữ. Khi có sự việc phức tạp xảy ra nhất là những vụ việc liên
quan đến trách nhiệm trong công tác quản lý như trốn, chết, phạm tội mới,
dịch bệnh… kịp thời cử kiểm sát viên cùng cơ quan quản lý giam giữ xác
định làm rõ nguyên nhân và trách nhiệm trong công tác quản lý để có hình
thức xử lý nghiêm minh, giải quyết triệt để, đúng pháp luật. Cơ quan quản lý
giam giữ tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát thực hiện nhiệm vụ, ngay
từ khi tiếp nhận và xử lý người bị tạm giữ, tạm giam kịp thời thông báo để
VKSND cùng cấp nắm tình hình theo quy định.
- Tăng cường mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng, thông qua
hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam kịp thời thông báo cho các cơ quan
tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án biết những trường hợp khiếu nại, tố cáo về
bắt, tạm giữ, tạm giam theo quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự hoặc khiếu nại, tố cáo về hoạt động của cơ quan tiến hành tố
tụng, hành vi của người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, xét xử.
Các cơ quan tiến hành tố tụng kịp thời thông báo cho VKSND thông
qua hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam những trường hợp từ chối gia
hạn tạm giữ, không phê chuẩn lệnh tạm giam, gia hạn tạm giam, hủy bỏ biện
79
pháp tạm giữ, tạm giam để kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam biết, kiểm tra theo dõi, bảo đảm các lệnh, quyết định của cơ quan tiến
hành tố tụng được thực hiện nghiêm chỉnh.
- Tăng cường phối hợp chặt chẽ với các khâu công tác nghiệp vụ
trong ngành Kiểm sát nhân dân, để thực hiện tốt chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, ngoài các biện pháp về
nghiệp vụ, thì việc phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong công tác là hết sức cần
thiết. Do vậy cần tiếp tục tăng cường mối quan hệ giữa các khâu nghiệp vụ
để kịp thời nắm bắt những thông tin cần thiết phục vụ phòng ngừa vi phạm
pháp luật. Xong để bảo đảm sự phối hợp giữa các khâu nghiệp vụ được
thường xuyên, kịp thời, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp chịu
trách nhiệm và phải chủ động điều hành việc phối hợp có như vậy mới bảo
đảm yêu cầu trong công tác.
3.2.2.4. Tăng cường giám sát và cơ sở vật chất, phương tiện điều kiện
làm việc đối với cán bộ làm công tác tạm giữ, tạm giam
- Tăng cường mối quan hệ phối hợp với Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt
Nam và cơ quan dân cử, phối hợp chặt chẽ với Ủy ban mặt trận tổ quốc các
cấp nhằm thực hiện tốt hơn chức năng nhiệm vụ của VKSND, đồng thời cũng
thực hiện quyền và trách nhiệm của Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam. Cụ
thể là Viện kiểm sát các các cấp tạo kiện để Ban thường trực Ủy ban mặt trận
tổ quốc cùng cấp phối hợp kiểm tra liên ngành tại các nhà tạm giữ, trại tạm
giam theo định kỳ 6 tháng một lần. VKSND cùng cấp phải gửi kế hoạch trước
để Ủy ban mặt trận tổ quốc cử đại diện tham gia. Khi nhận được đơn thư
khiếu nại tố cáo liên quan đến công tác tạm giữ, tạm giam do Ủy ban mặt trận
tổ quốc Việt Nam gửi đến, Viện kiểm sát cùng cấp phải xác minh, kết luận
theo quy định của pháp luật và thông báo kết quả giải quyết đến Thường trực
Mặt trận tổ quốc cùng cấp.
80
Tiếp tục tăng cường mối quan hệ với cơ quan dân cử đại diện cho ý chí
và nguyện vọng của nhân dân như Quốc Hội, cơ quan thuộc Quốc hội như Ủy
ban Tư pháp, Ủy ban pháp luật…; Hội đồng nhân dân cùng cấp và các cơ
quan thuộc Hội đồng nhân dân như Ban pháp chế… VKSND cấp lắng nghe ý
kiến, nguyện vọng của nhân dân. Tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để Hội
đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân tham gia giám sát tình hình chấp
hành pháp luật tại nơi giam, giữ, định kỳ chủ động mời đại diện của cơ quan
quyền lực trực tiếp tham gia giám sát trực tiếp nơi giam giữ; một mặt không
ngừng nâng cao vị thế của ngành đồng thời bảo đảm sự giám sát tối cao của
nhân dân tại nhưng nơi nhạy cảm như nhà tạm giữ, trại tạm giam.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam, đề nghị lãnh đạo ngành Kiểm sát và lãnh đạo VKSND các cấp
quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, dụng cụ hỗ trợ, trang thiết bị làm việc cho
cán bộ kiểm sát viên làm công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành
án hình sự. Tiếp tục áp dụng tin học hóa đối với hoạt động thống kê và báo
cáo trong công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự.
Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho
công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực công tác kiểm sát nhằm đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới và công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
81
KẾT LUẬN
Kịp thời phát hiện, tìm ra nguyên nhân, điều kiện và áp dụng các biện
pháp pháp lý nhằm loại trừ vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm
giam là chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn mà Đảng và Nhà nước giao cho
Viện kiểm sát nhân dân. Trước yêu cầu của cải cách tư pháp ở giai đoạn hiện
nay, nghiên cứu mô hình, đổi mới tổ chức hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt
động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân là nội dung hết sức cần thiết, cấp
bách và được nhiều người quan tâm. Trong thời gian qua tình hình tội phạm
và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tư pháp có nhiều diễn biến phức tạp đòi
hỏi từ thực tiễn nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam của VKSND tối cao nhằm phát hiện,
xử lý và phòng ngừa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam là
một tất yếu khách quan.
Với mục đích đó đề tài đã tập trung phân tích làm rõ cơ sở pháp lý,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND tối cao trong hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật tại nơi giam, giữ và mối quan hệ giữa VKSND tối cao chủ thể
của hoạt động kiểm sát với cơ quan hữu quan, các ngành, các cấp trong việc
phát hiện, loại trừ và phòng ngừa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ,
tạm giam. Đặc biệt đã nêu và phân tích từng nội dung, các phương thức và
biện pháp cơ bản mà Viện kiểm sát nhân dân sử dụng để tiến hành hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam trên cơ sở
nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định và quy chế nghiệp vụ của
ngành Kiểm sát nhân dân. Kết quả nghiên cứu này góp phần làm sáng tỏ cơ
sở lý luận và căn cứ pháp lý về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND tối cao trong hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam.
82
Nghiên cứu thực trạng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tạm giữ, tạm giam của VKSND tối cao trong mối quan hệ hữu cơ giữa
hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tạm giữ, tạm
giam với hoạt động của cơ quan tổ chức thực hiện việc tạm giữ, tạm giam
trong lực lượng Công an nhân dân, cơ quan tiến hành tố tụng, cấp ủy Đảng,
cơ quan dân cử, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, giữa hoạt động kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam với chức năng thực hành quyền công tố và các công tác kiểm
sát hoạt động tư pháp khác trong ngành kiểm sát nhân dân; trong mối liên hệ
biện chứng giữa thực trạng chất lượng kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam với
giải pháp khắc phục tồn tại, thiếu sót của thực trạng đó, luận văn đã đánh giá
toàn diện kết quả đã đạt được và những hạn chế còn tồn tại cần khắc phục.
Đánh giá sự tác động của VKSND tối cao đến công tác quản lý tạm giữ, tạm
giam trong lực lượng Công an nhân dân, đưa ra nhận xét một số ưu điểm và
khuyết điểm cơ bản về kết quả hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại
nơi giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, từ đó chỉ ra những nguyên
nhân chủ quan, khách quan và điều kiện lẩy sinh của thiếu sót, tồn tại, làm cơ
sở cho việc đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam của
VKSND nói chung và VKSND tối cao nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn đã phân tích và dự báo những
yếu tố tác động gây ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam của VKSND tối cao thời gian tới đó là
quy định của pháp luật; về tổ chức bộ máy và diễn biến tình hình của công tác
tạm giữ, tạm giam cùng những thuận lợi, khó khăn của hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam trong thời gian tới,
luận văn đưa ra các giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam của VKSND tối cao.
Những giải pháp cụ thể được đưa ra đó là: Nâng cao nhận thức về vị trí, vai
83
trò của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân
dân trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam, trước hết nghiên cứu bổ sung làm rõ
những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam để quán triệt đến đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên nâng cao nhận thức về vị
trí, vai trò hoạt động kiểm sát trong ngành, tuyên truyền, phổ biến rộng rãi
trên các diễn đàn để tạo sự đồng thuận, ủng hộ của cơ quan hữu quan, các
cấp, các ngành và toàn xã hội; Hoàn thiện cơ sở pháp lý, xác định rõ mục tiêu,
yêu cầu, xây dựng nội dung, quy trình, phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, trong giai đoạn tới cần sửa đổi, bổ
sung văn bản pháp quy về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
nhân dân trong hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam nhằm tạo ra hành
lang pháp cần thiết bảo đảm hoạt động kiểm sát có hiệu quả đồng thời xây
dựng và phổ biến quy trình nghiệp vụ, kỹ năng kiểm sát để đội ngũ cán bộ,
kiểm sát viên nâng cao trình độ, năng lực công tác, vận dụng linh hoạt các
phương thức kiểm sát; phân công rõ trách nhiệm, tăng cường mối quan hệ
giữa Viện kiểm sát với các cấp, các ngành nhằm phòng ngừa vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam; củng cố tổ chức tăng cường lực lượng,
phương tiện cần thiết để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ; Bên cạnh đó luận văn
đưa ra một số kiến nghị về hoàn thiện một số quy định pháp luật, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, chế độ bồi dưỡng và trang bị phương tiện liên quan đến hoạt
động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam.
Nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tạm giữ, tạm giam của VKSND tối cao là một vấn đề lớn cả về lý luận và thực
tiễn. Trong phạm vi đề tài tác giả chỉ nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về lý
luận và tiến hành tổng kết, đánh giá thực tiễn liên quan đến chất lượng hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam của VKSND
tối cao, từ đó đề ra một số giải pháp và kiến nghị ở mức độ khiêm tốn, hy
84
vọng trong thời gian tới đề tài sẽ được nghiên cứu ở cấp độ cao hơn đáp yêu
cầu lý luận và thực tiễn đang đặt ra.
Với thời gian nghiên cứu không dài, quá trình khảo sát số liệu và viết
luận văn gặp nhiều khó khăn nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết,
tác giả mong muốn nhận được sự góp ý chân tình của các đồng chí, các bạn
đồng nghiệp giúp đề tài ngày càng hoàn thiện, chất lượng và hiệu quả.
85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2000), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị
về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp trong năm
2000, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội
4. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 về đề án đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan
điều tra theo Nghị quyết 49- NQ/TW của Bộ chính trị chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về việc tiếp
tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ
Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
7. Chính phủ (1989), Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1989 của
Chính phủ về việc ban hành Quy chế về tạm giữ, tạm giam, Hà
Nội.
8. Chính phủ (2002), Nghị định số 98/2002/NĐ-CP ngày 27/11/ 2002 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế về tạm giữ,
tạm giam ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày
07/11/1989 của Chính phủ, Hà Nội.
86
9. Chính phủ (2011), Nghị định số 09/2011/NĐ-CP, ngày 25/1/2011 của
Chính phủ sửa đổi chế độ ăn và khám, chữa bệnh đối với người bị
tạm giữ, tạm giam quy định tại điều 26 và điều 28 của Quy chế về
tạm giữ, tạm giam ban hành kèm theo Nghị định 89/1998/NĐ-CP
ngày 07/11/1989 của Chính phủ, Hà Nội.
10. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
11. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
12. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
13. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
14. Quốc Hội (2012), Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 Quốc hội
về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác
của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi
hành án năm 2013, Hà Nội.
15. Quốc hội (2013), Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 ngày
23/11/2012 Quốc hội về tăng cường các biện phápđấu tranh phòng
chống tội phạm, Hà Nội.
16. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Thông tư liên ngành số 02/TTLN
ngày 06/9/1998 của liên Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) Viện kiểm
sát nhân dân tối cao về công tác giam, giữ, cải tạo và kiểm sát
việc giam, giữ, cải tạo, Hà Nội.
17. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Quy chế công tác kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự ban hành kèm theo
Quyết định số 35/2013 ngày 29/1/2013 của Viện trưởng viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
18. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Quy chế về chế độ thông tin, báo
cáo và quản lý công tác trong ngành kiểm sát nhân dân ban hành
kèm theo QĐ số 379/2012/QĐ-VKSTC; sửa đổi, bổ sung theo QĐ
122/2013/QĐ-VKSTC, Hà Nội.
87
19. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá
kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành kiểm sát nhân dân ban
hành kèm theo Quyết định số 297/QĐ-VKSTC ngày 13/6/2012 và
Quyết định sửa đổi, bổ sung QĐ số 62/QĐ-VKSTC ngày
22/3/2013 , Hà Nội.
20. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2011 - 2014), Báo cáo tổng kết, Báo cáo
sơ kết và Thông báo rút kinh nghiệm công tác kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam và thi hành án hình sự của viện kiểm sát nhân dân
tối cao (Vụ 8) năm 2011 - 2014, Hà Nội.
21. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2011 - 2014), Các báo cáo tổng kết công
tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự của
Phòng kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
(VKSNS các tỉnh) từ năm 2011 - 2014, Hà Nội.
22. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014), Các kết luận kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của VKSND tối cao (Vụ 8) và VKSND cấp tỉnh
(Phòng 8) từ năm 2011 - 2014. Các kết luận kiểm tra, hướng dẫn
nghiệp vụ từ năm 2011 - 2014 của VKSND tối cao (Vụ 8) và
VKSND cấp tỉnh (Phòng 8), Hà Nội.
88
PHỤ LỤC