63
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected] LỜI DẪN Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm thay đổi cơ bản cục diện chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản tận dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại nên đã thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển. Trật tự thế giới hai cực tan dã, quan hệ quốc tế chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá trong tiến trình hội nhập toàn cầu. Hoà bình, ổn định hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia. Toàn cầu hoá về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia,kinh tê được ưu tiên phát triển và trở thành chủ đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay. Trước bối cảnh quốc tế và xu thế chung của thế giới đang diễn ra như vậy, các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để thích ứng với tình hình mới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. 1

Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

LỜI DẪN

Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng

hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm thay

đổi cơ bản cục diện chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản tận

dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại

nên đã thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển.

Trật tự thế giới hai cực tan dã, quan hệ quốc tế chuyển dần từ đối đầu

sang đối thoại, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá

trong tiến trình hội nhập toàn cầu. Hoà bình, ổn định hợp tác để phát triển

ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia. Toàn cầu hoá về kinh

tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia,kinh tê được ưu

tiên phát triển và trở thành chủ đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay.

Trước bối cảnh quốc tế và xu thế chung của thế giới đang diễn ra như

vậy, các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để

thích ứng với tình hình mới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.

Chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của

Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí

Minh. Được khởi xướng từ năm 1986 và sau hơn 10 năm thực hiện, chính

sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần không nhỏ

đến sự phát triển của đất nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nhân tố

quốc tế, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đưa Việt Nam

thoát khỏi khủng hoảng và đi lên.

Chính sách đối ngoại đổi mới là một trong những mốc đánh dấu thành

tựu to lớn của Việt Nam trong thế kỷ XX, tạo tiền đề cho Việt Nam vững

bước đi vào thế kỷ XXI. Với lý do đó cùng với ham muốn được tìm hiểu

chính sách đối ngoại đổi mới và quan hệ quốc tế của Việt Nam giai đoạn này,

1

Page 2: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

em mạnh dạn chọn đề tài “Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới”

làm chuyên đề thực tập.

Đây là đề tài rất rộng lớn, cho nên bài viết này không tránh khỏi những

thiếu sót hạn chế. Mong được sự thông cảm, giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các

thầy cô và các bạn.

2

Page 3: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

CHƯƠNG 1

NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM

1.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI NHỮNG NĂM 80 VÀ ĐẦU THẬP KỶ 90

Từ nửa năm sau những năm 80, quan hệ Xô - Mỹ đã thực sự chuyển từ

đối đầu sang đối thoại. Để giải quyết các vấn đề tranh chấp, Xô - Mỹ đã tiến

hành nhiều cuộc gặp thượng đỉnh giữa Ri-Gan và Goóc-Ba-Chốp, giữa Busơ

và GoócBachốp. Qua đó có nhìêu văn kiện được ký kết trên các lĩnh vực kinh

tế thương mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật, nhưng quan trọng nhất là việc ký

kết hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung ở Châu Âu năm 1987 (gọi tắt là INF).

Cũng từ năm 1987, hai nước Mỹ và Liên Xô đã thoả thuận giảm một bước

quan trọng cuộc chạy đua vũ trang, từng bước chấm dứt cuộc diện “Chiến

tranh lạnh”, cùng hợp tác với nhau giải quyết các cụ tranh chấp và xung đột

quốc tế.

Cuối năm 1989, tại cuộc gặp không chính thức giữa Busơ và Gooc-Ba-

Chốp tại đảo Manta, hai nước Xô - Mỹ đã chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc

“chiến tranh lanh” kéo dài trên 40 năm giữa hai nước này.

Mối quan hệ giữa 5 nước lớn: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, là

5 thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ có vai trò quan tọng trong

việc duy trì hoà bình, an ninh và trật tự thế giới đã được thiết lập lên. Trong

“chiến tranh lạnh” mặc dù là 5 nước lớn nhưng vẫn chỉ là thế “hai cực” Xô -

Mỹ đối đầu nhau. Mối quan hệ giữa 5 nước lớn sau năm 1989 đã chuyển từ

“hai cực” đối đầu sang đối thoại, hợp tác với nhau trong việc giải quyết những

tranh chấp và xung đột quốc tế, tiêu biểu như cuộc chiến trung vùng vịch

Pecxic (1991), và việc giải quyết các cuộc xung đột vũ trang ở nhiều khu vực

trên thế giới.

Sau sự kiện xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, dẫn đến

khối quân sự Vac-Sa-Va tự giải thể (1/7/1991) và Hội đồng tương trợ kinh tế

(SEV) ngừng hàng hoạt động (28/6/1991). Xã hội chủ nghĩa tạm lâm vào

3

Page 4: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

thoái trào, việc Liên Xô sụp đổ bắt đầu từ khủng hoảng về đường lối chiến

lược do nhận thức sai lầm về đường lối đối ngoại như việc Liên Xô thoả

thuận với Mỹ về việc giải quyết vấn đề Apganictan, Campuchia, những thoả

thuận nhượng bộ đó không có lợi cho các cách mạng thế giới. Liên Xô còn

thực hiện chính sách “không can thiệp” vào vấn đề thống nhất nước Đức và

các nước Đông Âu, chính sách không thực hiện những cam kết với các đồng

minh cũ của Liên Xô (ngừng viện trợ cho Cuba, Việt Nam, Mông Cổ)1.

Những ngượng bộ đó được các phương Tây, nhất là Mỹ ngày các khai thác

triệt để, để làm giảm thế cân bằng về sức mạnh vũ khí hạt nhân với Mỹ và

làm suy giảm sức mạnh và vị trí của Liên Xô có ở khắp các khu vực trên thế

giới.

Còn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương kinh tế phát triển rất năng

động, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định như xung

đột ở Triều Tiên, tranh chấp quần đảo Cu-Rin giữa Nhật Bản và Liên Xô,

tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải ở biển Đông và căng thẳng ở eo biển

Đài Loan...

Trong khu vực Đông Nam Á cũng chứa đựng nhiều nguy cơ xung đột

bất ổn, trong đó vấn đề Campuchia. Những phản ứng từ của các ASEAN,

Trung Quốc và các nước phương Tây khác cho rằng Việt Nam xâm lược

Campuchia, họ tiến hành các hoạt động làm cho tình hình khu vực thêm căng

thẳng. Trung Quốc cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam và đưa quân vào

Việt Nam gây nên cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc nước ta. Một số nước

ASEAN cô lập nước ta ở các diễn đàn, tổ chức quốc tế... Về phía Việt Nam,

chúng ta trước sau vẫn khẳng định việc đưa quân vào Campuchia là giúp đỡ

nhân dân Campuchia đánh đuổi bọn diệt chủng PonPốt đem lại hoà bình cho

nhân Campuchia.

Cùng với những biến đổi trong tình hình an ninh, chính trị, cộng đồng

thế giới cũng đang đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu cấp bách mà

1

4

Page 5: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

không có một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được cho nên cần phải

có sự hợp tác đa phương trong các công việc quốc tế như: bảo vệ môi trường,

bùng nổ dân số, phòng chống bệnh tật hiểm nghèo và nạn khủng bố.

Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển như

vũ bão và được gọi là nền văn minh hậu công nghiệp hay nền văn minh trí

tuệ. ảnh hưởng của nó ngày càng tác động sâu hơn vào đời sống kinh tế xã

hội, nhất là trong sản xuất. Các phát minh khoa học mà nội dung cơ bản là

cách mạng về công nghệ thông tin, sinh học, năng lượng, vật liệu mới... tiếp

tục phát triển nhanh với trình độ cao, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, thúc

đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền sản xuất và

đời sống xã hội, làm cho tính chất tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày

càng gia tăng mạnh mẽ. Cuộc cách mạng trên đã tác động sâu sắc đến quan hệ

quốc tế, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế và toàn cầu hoá. Nó vừa là thời cơ

nhưng cũng là thách thức rất lớn đối với các nước, là điểm mà bất cứ nước

nào cũng không thể bỏ qua khi xây dựng đường lối, xác định phương hướng

và mục tiêu phát triển. các nước đều đứng trước những cơ hội để phát triển,

nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường... thuộc về các nước tư bản chủ

nghĩa và các công ty xuyên quốc gia nên các nước chậm phát triển đang đứng

trước những thử thách to lớn. Trong tình hình đó nếu các nước không nắm bắt

được cơ hội, tranh thủ những khả năng mới để phát triển thì sẽ bị tụt hậu.

Ngược lại nếu nước nào biết đón trước, khai thác được thời cơ, nỗ lực

phấn đấu thì sẽ có thể vượt lên một cách nhanh chóng. Cuộc cạnh tranh kinh

tế thương mại, khoa học công nghệ diễn ra gay gắt trên phạm vi toàn thế giới.

Tóm lại, hoà bình ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành

đòi hỏi búc xúc của các dân tốc và quốc gia trên thế giới. Các nước giành ưu

tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với

việc tăng cường sức mạnh tổng hợp mỗi nước.

Tình hình đó tác động mạnh mẽ đối với việc hoạch định chính sách đối

ngoại của các nước cũnh như ở Việt Nam. Kiến định mục tiêu độc lập dân tộc

5

Page 6: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

và chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng và Nhà nước ta khởi

xưởng công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới chính sách đối ngoại trở

thành một nội dung quan trọng đối với sự ngiệp phát triển của Việt Nam.

1.2. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM SAU 1975 ĐẾN 1986.

Chiến thắng của Việt Nam sau 30/4/1975 là niềm vui thống nhất cả

giang sơn về một mối. Nhưng hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài để lại

những khó khăn không nhỏ cho nhân dân Việt Nam: 1,1 triệu liệt sĩ, 60 vạn

thương binh, 30 vạn người mất tích, gần 2 triệu người dân bị thiệt mạng, hơn

2 triệu người dân bị tàn tật và nhiễm chất độc hoá học...

Hai cuộc chiến tranh biến giới phía Bắc (1979) và biên giới phía Tây

Nam (1978) lấy đi thêm nhiều tài lực, vật lực của đất nước khiến cho nền kinh

tế của Việt Nam đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Mà hậu quả của nó là

nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, lạm phát tăng phi mã

(774,7%) năm 1986, nền công nghiệp lạc hậu, nông nghiệp đình đốn.

Bên cạnh đó, do những khuyết điểm chủ quan trên các lĩnh vực nhất là

việc chỉ đạo và thực hiện xây dựng kinh tế xã hội. Mô hình kinh tế tập trung

quan liêu bao cấp bộc lộ nhiềukhuyết điểm yếu kém. Nền kinh tế đất nước rơi

vào tình trạng trì trệ, lạc hậu, khủng hoảng: Công nghiệp yếu kém, manh mún

thiếu rất nhiều ngành công nghiệp tiêu dùng... Nền nông nghiệp không đủ chi

dùng trong nước, phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng

thường xuyên khiến cho cán cân xuất nhập khẩu luôn thâm hụt mất cân đối,

thu không đủ chi, dẫn đến phải đi vay từ nước ngoài. Tính chung trong năm 5

năm 1981 - 1985, nguồn vay từ nước ngoài chiếm 22,4% thu ngân sách quốc

gia. Số nợ nhiều như vậy nhưng bội chi ngân sách vẫn lớn và tăng dần: Năm

1980 là 1,8%, năm 1985 là 36,6%. Do bội chi nhiều như vậy nên Chính phủ

buộc phải phát hành thêm tiền mặt để bù đắp. Cùng với việc không cân đối

được từ thu và chi, do nguồn thu không có vì không có sản phẩm công nghiệp

xuất khẩu. Cộng vào đó là sai lầm về chính sách cải cách giá, lương, tiền đã

làm cho nền kinh tế rơi tự do không kiểm soát được dẫn đến xuất hiện siêu

6

Page 7: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

lạm phát ở mức 774,7% (1986), kéo theo giá cả leo thang vô phương kiểm

soát.2

Đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang

gặp nhiều khó khăn. Tiêu cực xã hội phát triển, công bằng bị vi phạm, pháp

luật kỳ cương xã hội không nghiêm minh, cán bộ tham nhũng lộng quyền,

bọn làm ăn phi pháp không bị trừng trị kịp thời và nghiêm khăc. Quần chúng

giảm lòng tin với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước.3

Cuối những năm 80, tình hình kinh tế - xã hội ở Liên Xô và các nước

xã hội chủ nghĩa Đông Âu anh em cũng hết sức khó khăn và diễn ra ngày

càng phức tạp. Tình hình thế giới có nhiều thay đổi, cuộc chạy đua phát triển

kinh tế đã lôi kéo các nước vào cuộc. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước

ta nhận biết được xu thế của thế giới và nhìn thấy nguy cơ tụt hậu ngày càng

xa về kinh tế so với thế giới nếu không phát triển đất nước.

Thực tiễn tình hình trong nước và quốc tế đặt ra một yêu cầu khách

quan, bức xúc có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp các mạng nước ta, là để

làm xoay chuyển được tình thế, tạo ra một sự chuyển biến có ý nghĩa quyết

định trên bước đường đi lên. Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo và chỉ đạo một

cách mạnh mẽ. Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) được chuẩn bị và đáp

ứng những yêu cầu đó.

Tư tưởng cốt lõi của Đại hội VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất

hiện có, khai thác mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp

đỡ quốc tế để phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố

quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.4

Với ý nghĩa đó, chính sách đối ngoại đổi mới phải phá thế bao vây cấm

vận, cô lập của các thế lực thù địch từ đó lấy lại vị thế của ta trên trường quốc

22: Nguyễn Sinh 12 năm đổi mới (1986-1997). Tạp chí Cộng sản số 6 tháng 3 năm 1998, trang 333: Trích lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - NXB Giáo dục, 1997 trang144: Trích lịch sử Đảng CSVN - NXB Giáo dục - 1997 trang 167

7

Page 8: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

tế, tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước phát triển, góp sức mình vào sự

nghiệp chung của đất nước.

CHƯƠNG 2

QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY

2.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI.

Mốc quan trọng nhất quyết định cho chính sách đối ngoại đổi mới là

“Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng” họp tại Hà Nội.

Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật. Đại hội

VI đã thẳng thắn và khách quan chỉ ra những sai lầm thiếu sót trong chính

sách kinh tế, sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang

hoạt động trong thời kỳ quá độ. Sau khi nghiêm khắc kiểm điểm Đại hội cho

rằng để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm và những bất cập dẫn đến

khủng hoảng Kinh tế - Xã hội đòi hỏi phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy

kinh tế. Trên tinh thần đó Đại hội VI đã xác định nhiệm vụ trên lĩnh vực đối

ngoại trong thời gian tới là:

5Trong những năm tới nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực

đối ngoại là: “Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời

55: Trích văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần VI- NXB Sự thật trang 99 (viết theo các văn kiện VI, VII, VIII)

8

Page 9: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững

hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác

toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa”.

Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta phải phục vụ cho cuộc

đấu tranh bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, làm thất bại cuộc chiến

tranh phá hoại nhiều mặt của địch, tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế với

Campuchia và Lào. Chúng ta cần tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới về

hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi việc phân

công và hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời tranh thủ mở

rộng quan hệ với các nước khác.

Tăng cường hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng

trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời tăng sự phối

hợp với Liên Xô và các xã hội chủ nghĩa khác trong cuộc đấu tranh hoà bình

và các mạng trên thế giới, trước hết là ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: “Phát triển và củng cố mối quan hệ đặc

biệt giữa ba nước Đông Dương, đoàn kết và tôn trọng độc lập chủ quyền của

mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc là

quy luật sống còn và phát triển của ba dân tộc anh em”.

Chúng ta tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước

thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế. Chúng ta cũng mở rộng quan hệ với

các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác như Anbani, Triều Tiên...

Là một thành viên của phong trào không liên kết, chúng ta phấn khởi

trước sự trưởng thành và vai trò của ngày càng to lớn của phong trào trong

đời sống chính trị quốc tế.

Đảng ta chủ trương tích cực góp phần vào việc tăng cường đoàn kết của

phong trào trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.

9

Page 10: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Chúng ta ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh anh dũng của giai cấp công nhân và

nhân dân ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Ủng hộ mạnh mẽ đối với

nhân dân Châu Phi đang kiên cường đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ

nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa Apacthai. Đoàn kết

chặt chẽ với nhân dân các nước anh em như: An-giê-ri và Cộng hoà dân chủ

nhân dân Y-ê-men đang xây dựng cuộc sống mới.

Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình

và hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình

giữ các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau, loại trừ chiến tranh xâm

lược và mọi hình thức của chủ nghĩa khủng bố.

Với Trung Quốc, Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung quốc bất kỳ

lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hoá quan hệ giữa

hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên

thế giới.

Nhà nước ta chủ trương tăng cường và mở rộng quan hệ hữu nghị với

Thuỵ Điển, Phần Lan, Pháp, Oxtraylia, Nhật Bản và với các nước phương

Tây khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Chính phủ ta tiếp tục bàn bạc với

Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện

quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hoà bình ổn định ở Đông Nam Á .

Đường lối đối ngoại đổi mới tiếp tục được khẳng định ở Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ VII.

Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình,

mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho

công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời góp phần

tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình,

độc lập dân tọc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

10

Page 11: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và

thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng

sản xuất và xu hướng quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới để có những chủ

trương đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới phải coi vận dụng bài học kết

hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức

mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các

nước, không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở các

nguyên tắc cùng tồn tại hoàn bình. Trước sau như một tăng cường đoàn kết và

hợp tác với Liên Xô, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hợp tác Việt

- Xô nhằm đáp ứng lợi ích của mỗi nước.

Không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết và hữu nghị đặc biệt

giữa Đảng và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân

Campuchia anh em. Đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo

nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của

nhau. Phấn đấu góp phần sớm đạt được một giải pháp chính trị toàn bộ về vấn

đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Campuchia và Hiến chương

LHQ.

Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, từng

bước mở rộng sự hợp tác Việt - Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa

hai nước thông qua thương lượng.

Củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với Cu - Ba

và các nước xã hội chủ nghĩa khác.

Đảng cộng sản Việt Nam chủ trưng tăng cường quan hệ với các Đảng

cộng sản và công nhân, góp phần tích cực vào sự đoàn kết và hợp tác giữa các

11

Page 12: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin, đấu tranh vì những mục tiêu

cao cả của thời đại.

Đoàn kết với lực lượng đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân

chủ và tiến bộ xã hội, sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng xã

hội - dân chủ, các phong trào dân chủ và tiến bộ trên thế giới.

Phát triển quan hệ đoàn kết, tin cậy và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều

mặt với Ấn Độ. Tiếp tục mở rộng hợp tác với các nước đang phát triển khác.

Tiếp tục củng cố và tăng cường phong trào không liên kết. Phát triển quan hệ

hữu nghị với các nước ở Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương, phấn

đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác.

Mở rộng sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước Bắc Âu, Tây

Âu, Nhật Bản và các nước phát triển khác. Thúc đẩy quá trình bình thường

quan hệ với Hoa Kỳ.

Góp phần làm cho Liên Hợp Quốc phục vụ đắc lực hơn những mục tiêu

của nhân loại là hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Hợp tác với các tổ

chức chuyên môn của LHQ và các tổ chức phi chính phủ.

Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam

muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà

bình, độc lập, phát triển.

Việc Liên Xô sụp đổ vào 22-12-1991 đã làm chấn động thế giới vì tốc

độ nhanh chóng của các sự kiện và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các Đảng cộng

sản trên thế giới. Đứng trước tình hình đó, Hội nghị Ban chấp hành Trung

ương lần thứ III khoá VII đã họp và đưa ra 4 phương châm xử lý trong hoạt

động đối ngoại của ta là:

“Một là: Biết kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa

quốc tế của giai cấp công nhân đảm bảo lợi ích chân chính của dân tộc.

12

Page 13: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng

hoá, đa phương hoá nhưng hai vế đó không hề mâu thuẫn nhau mà thực ra là

thống nhất, phục vụ hỗ trợ cho nhau.

Ba là: Nắm vững hai mặt đối lập của hợp tác và đấu tranh trong quan

hệ quốc tế.

Bốn là: Nhìn rõ vai trò của các tổ chức khu vực, hợp tác tốt với tất cả

các nước trên thế giới, nhất là các nước lớn có vai trò kinh tế, chính trị cường

quốc trên thế giới”.

Bốn phương châm chỉ đạo trên đưa ra vào đúng thời điểm hợp lý, kịp

thời phát huy và đạt được những thành tựu tốt đẹp.

Trước những thành tựu của đường lối đối ngoại đổi mới Đại hội VI và

VII, Đại hội VIII tiếp tục đường lối đối ngoại đổi mới chỉ ra đường lối chính

sách đối ngoại tới mọi chủ thể trên thế giới.

Đại hội VIII chỉ rõ: “ Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố

môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh

phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, phục vụ

sự nghiệp xây dựng và bảo vệc tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh

chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ

xã hội.

Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa

phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các

nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.

Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa

phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn

trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào

công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, thông qua thương lượng để

13

Page 14: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

tìm những giải pháp phù hợp giải quyết những vấn đề tồn tại và các tranh

chấp, đảm bảo hoà bình, ổn định, an ninh, hợp tác và phát triển.

Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức

ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi

trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị trên

thế giới. Đồng thời luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang

phát triển ở Châu á, Châu Phi, Mỹ Latinh và phong trào không liên kết.

Tăng cường quan hệ với các tổ chức của Liên Hợp Quốc và các tổ chức

quốc tế khác. Tích cực hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết

các vấn đề toàn cầu. Ủng hộ cuộc đấu tranh loại trừ vũ khí hạt nhân và các

phương tiện giết người hàng loạt khác.

Phát triển quan hệ với các Đảng sản và công nhân, các lực lượng cách

mạng, độc lập dân tộc và tiến bộ, thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng

cầm quyền và các đảng khác

Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính

phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp

phần thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển.

Trên đây là những nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại qua từng

thời kỳ tổ chức đại hội, chính sách đổi mới này được áp dụng trong bối cảnh

quốc tế có nhiều biến động và tác động trực tiếp đến Việt Nam. Nhưng tựu

chung lại đây là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương

hoá theo tinh thầm Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới,

phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc và phát triển.

2.2. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI.

Chính sách đối ngoại đổi mới mà đại hội VI đề ra là kiên trì thực hiện

nhiệm vụ chiến lược giữ vững hoà bình, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi,

14

Page 15: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

tập trung cao nhất, nhằm từng bước ổn định và tạo cơ sở cho phát triển kinh tế

trong vòng 25 năm đến 30 năm (tức đến năm 2020), xây dựng chủ nghĩa xã

hội, bảo vệ độc lập của tổ quốc góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung

cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu

chiến lược và ích lợi cao nhất của toàn Đảng và toàn dân ta. Chính sách đối

ngoại đổi mới phải góp sức mình vào sự nghiệp chung đó.

Ngay sau khi đưa chính sách đối ngoại vào thực hiện, Đảng và nhà

nước đã “đưa vấn đề Campuchia ra để giải quyết bằng con đường hoà bình”.

Những giải pháp đưa ra trong chính sách để giải quyết vấn đề Campuchia, đã

có tác động thúc đẩy tác động đến một giải pháp chung trong vấn đề

Campuchia đi đến một giải pháp hoà bình toàn diện, đến năm 1989 thì cơ bản

hoàn thành bằng tuyên bố về một giải pháp chính trị toàn diện cho xung đột ở

Campuchia. Việt Nam và ASEAN cùng tìm ra một giải pháp đồng bộ cho vấn

đề này, từ đây 2 nhóm nước hiểu nhau hơn, tin tưởng nhau hơn. Điều đó có ý

nghĩa rất to lớn trong việc mang lại ổn định an ninh cho khu vực và làm giảm

nguy cơ xung đột tại khu vực Đông Nam Á vốn đang tiềm tàng nhiều mâu

thuẫn giữa các nước. Đây chính là thành công đầu tiên của chính sách đối

ngoại đổi mới. Bắt đầu từ thành công này tình hình ở Đông Nam Á được cải

thiện từ đối đầu sang đối thoại, tạo xu thế hoà bình, hữu nghị, hợp tác. Với

các nước Đông Nam Á, nước ta chủ trương mở rộng quan hệ về mọi mặt trên

nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội

bộ của nhau, hai bên cùng có lợi. Những năm qua cũng đã ghi nhận những cố

gắng to lớn của nhà nước ta trong việc cải thiện quan hệ với các nước khu vực

Đông Nam Á - ASEAN.

Tháng giêng năm 1989, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẵn sàng quan hệ hữu nghị với các nước

15

Page 16: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

ASEAN và các nước khác trong khu vực6. Từ đây các cuộc đi thăm lẫn nhau

của các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam và của các nước ASEAN đã đạt được

những thoả thuận quan trọng và đặt nền móng cho một thời kỳ mới trong

quan hệ giữa nước ta với các nước ASEAN. Ngày 22 tháng 7 năm 1992, Việt

Nam tham ký hiệp ước thân thiện Bali và trở thành quan sát viên của ASEAN.

Có thể nói đây là một tiền đề quan trọng cho sự hội nhập của Việt Nam sau

này. Ngày 28/7/1995 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của

ASEAN, đây là một thành công to lớn của ngoại giao Việt Nam, có ý nghiã

quyết định cho tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam.

Sau khi hội nhập ASEAN, Việt Nam đã trở thành nhân tố rất năng động

của tổ chức này, sau sự tổ chức thành công của hội nghị cấp cao ASEAN

tháng 12/1998 ở Hà Nội, Việt Nam càng chứng tỏ là một hạt nhân tích cực

của tổ chức này. Quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và các

nước ASEAN ngày càng được đẩy mạnh.

Năm 1994 thương mại 2 chiều đạt 2,4 tỷ USD, chiếm 28% tổng kim

ngạch ngoại thương của Việt Nam. Đến năm 1996 tăng lên 6 tỷ USD chiếm

33% kim ngạch xuất khẩu và 27% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Cho

đến năm 1998 khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang ở đỉnh cao thì các

nước ASEAN vẫn chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu và 18% đầu tư nước

ngoài vào Việt Nam 7.

Sau khi hội nhập ASEAN, chúng ta tham gia vào khu vực mậu dịch tự

do ASEAN (AFTA). Tuy nhiên, do sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa

Việt Nam và một số nước trong khuôn khổ AETA nên Việt Nam cần có thời

gian để điều chỉnh. Các nước ASEAN đã đồng ý kéo dài thời hạn giảm thuế

quan của Việt Nam đến năm 2006 thay vì 2003 như các thành viên khác.

66: Trích Lưu Văn Lai: 50 năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995) Tập II - NXB Công an nhân dân trang 251-252

77: ĐHKTQD kinh tế quốc tế - NXB Thống kê - Hà Nội, 1998 trang 139

16

Page 17: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Mặc dù được đánh giá là khu vực phát triển năng động của Châu Á -

Thái Bình Dương và của thế giới, nhưng cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997

đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển chung của khu vực, đối phó với vấn

đề này là rất khó, đòi hỏi các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng

cần phải nghiên cứu, rút kinh nghiệm và đề ra những giải pháp mang tính

phòng ngừa hữu hiệu, xây dựng mô hình phát triển bền vững hơn, ổn định

hơn cho từng thành viên của toàn khu vực.

Tóm lại, việc gia nhập ASEAN của Việt Nam là hướng đúng. Về kinh

tế, ta có thể tranh thủ được vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các

nước ASEAN tiên tiến. Tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển,

mở rộng thị trường trong khu vực.

Về an ninh, chính trị, Việt Nam tham gia vào diễn đàn khu vực

ASEAN chuyên bàn về những vấn đề an ninh khu vực ASEAN (ARF), khi

tham gia vào ASEAN chúng ta có thể góp phần củng cố môi trường xung

quanh mình, tạo dựng một vành đai an toàn mang tính chiến lược, bên cạnh

đó khi tham gia vào ASEAN tiếng nói của Việt Nam sẽ có thế và lực hơn trên

thị trường quốc tế. Hơn nữa, nếu các nước ASEAN gạt bỏ được những bất

đồng tranh chấp không đáng kể để đi tới một đồng thuận trong việc giải quyết

vấn đề tranh chấp ở Biển Đông đối với Trung Quốc thì tình hình sẽ bớt đi

căng thẳng, nhanh

*Đối với Trung Quốc

Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng gần, có quan hệ hữu

nghị văn hoá và lịch sử lâu dài. Chúng ta luôn quý trọng tình hữu nghị với

nhân dân Trung Quốc, với mong muốn khôi phục lại mối quan hệ hữu nghị

giữa hai dân tộc. Trong yêu cầu để hai bên Việt - Trung có thể đi đến bình

thường hoá quan hệ đó là thế giới đang tích cực chuyển từ đối đầu sang đối

thoại, mọi vấn đề tranh chấp quốc tế, các quốc gia trên thế giới ngày càng đi

17

Page 18: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

theo xu thế giải quyết bằng thương lượng hoà bình. Nhu cầu hoà bình là vấn

đề “tự thân” các nước phải phấn đấu, bởi chỉ có hoà bình mới có thể “dồn”

sức cho phát triển kinh tế và quan hệ Việt - Trung cũng không nằm ngoài quy

luật đó. Trong vấn đề đặt lại quan hệ ngoại giao giữa hai nước, cả hai nước đề

nhằm tới một mục tiêu là gạt bỏ đối đầu, mọi tranh chấp về biên giới lãnh hải

và các vấn đề xung đột giữa hai nước đều giải quyết bằng thương lượng hoà

bình. Ngoài ra hai nước còn muốn khôi phục lại quan hệ ngoại giao truyền

thống có từ lâu do hai lãnh tụ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh vun đắp cho

tình hữu nghị của hai dân tộc.

Cùng với việc nối lại mối quan hệ ngoại giao hai nước còn tìm thấy ở

nhau những tiềm năng có thể hợp tác được trong vấn đề kinh tế, như nhu cầu

thị trường của hai bên đều lớn do hai nước cùng thi hành chính sách phát triển

kinh tế dựa vào xuất khẩu là chính. Việt Nam mong muốn Trung Quốc giúp ta

sửa chữa nâng cấp một số nhà máy, xí nghiệp mà Trung Quốc giúp ta xây

dựng trước kia như nhà máy gang thép Thái Nguyên và các nhà máy xi măng

lò đứng của Trung Quốc. Còn phía Trung Quốc có nhu cầu về nguồn nguyên

liệu lớn nhất là nguồn nguyên liệu than đá, trong khi Việt Nam có thế mạnh ở

điểm này, ngoài ra Trung Quốc cần một thị trường tiêu thụ hàng hoá tiêu

dùng do các địa phương giáp Việt Nam sản xuất... Tính đến khi hai bên cùng

mở cửa biên giới cho hai bên giao lưu buôn bán hàng hoá thì hàng hoá Trung

Quốc tràn vào Việt Nam rất nhiều, nhất là hàng tiêu dùng với giá cả mẫu mã

phong phú.

Có thể đánh giá nhu cầu hai bên về việc bình thường hoá quan hệ là rất

cần thiết. Nhất là đối với Việt Nam, việc bình thường hoá quan hệ với Trung

Quốc giúp nước ta có thêm bạn bè, tạo môi trường thuận lợi để phá vỡ thế bao

vây cô lập... Khôi phục và phát triển quan hệ với Trung Quốc là nhiệm vụ

trọng tâm của nước ta trong chính sách đối ngoại đối nội.

18

Page 19: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Các cuộc gặp cấp cao Việt Trung từ tháng 9/1990 diễn ra tại Thành Đô

(Trung Quốc)8 đã mở ra một trang sử mới trong việc khai thông quan hệ giữa

hai nước, đến trung tuần tháng 11 năm 1991 tại Bắc Kinh hai bên đã ra thông

cáo chung: việc bình thường hoá quan hệ Việt - Trung phù hợp với lợi căn

bản, lâu dài của nhân dân hai nước, có lợi cho hoà bình ổn định ở khu vực,

đây là sự kiện “khép lại quá khứ, mở ra tương lai” hai nước là đồng chí,

không phải là đồng minh. Tranh chấp giữa hai nước cần được được giải quyết

theo hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, thông qua thương lượng hoà

bình, không được sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực.

Tuy nhiên các vấn đề cần giải quyết giữa hai nước là: vấn đề biên giới

trên bộ, tranh chấp ở biển Đông, phân định vịnh Bắc Bộ. Tháng 10 năm 1993

Tổng bí thư Đỗ Mười đã tuyên bố “Việt Nam chủ trương giải quyết tranh

chấp giữa các nước, kể cả tranh chấp về các quần đảo ở Biển Đông, thông qua

thương lượng hoà bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn

nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế và Công ước về luật biển năm 1982 và chủ

quyền các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của

họ”9.

Đến ngày 30-12-1999, hai nước đã hoàn thành phân định 164 điểm còn

tranh chấp biên giới trên bộ và ký kết Hiệp định biên giới trên bộ. Còn những

vấn đề còn lại như: phân định vịch Bắc Bộ và những vấn đề khác do lịch sử

để lại. Qua các cuộc gặp gỡ hàng năm, hai bên đã thống nhất về nguyên tắc:

Khai thác những điểm chung, gác lại những bất đồng, cùng nhau thương

lượng, giải quyết từng bước trên cơ sở hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau và cùng

có lợi. Bước sang giai đoạn mới, hai bên thống nhất cần phải đẩy mạnh hơn

nữa quan hệ hữu nghị, hợp tác lên một bước mới về chất cho phù hợp với nhu

cầu lợi ích của hai bên.

88: Trích Lưu Văn Lợii: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 209

99: Trích Lưu Văn Lợi: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 219-220

19

Page 20: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Trong chuyến thăm hữu nghị Trung Quốc của Tổng bí thư Đảng cộng

sản Lê Khả Phiêu đầu năm 1999, hai bên đã thảo luận thống nhất về nguyên

tắc quan hệ Việt - Trung từ nay sẽ phát triển theo tinh thần 16 chữ:

“Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện

Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”

Ngày 26 - 12 - 2000 nhân chuyến thăm của Chủ tịch nước Trần Đức

Lương đã ra một thông cáo chung về Hợp tác toàn diện và ký Hiệp ước phân

định vị trí Bắc Bộ

* Đối với Mỹ.

Một thành công của công tác đối ngoại trong giai đoạn đổi mới là việc

Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Mỹ vào ngày 11-7-1995, khép lại một

quá khứ đau thương và mở ra tương lai trong quan hệ hai nước.

Trước sự thay đổi của thế giới, trước chính sách đối ngoại đổi mới rộng

mở cùng tồn tại hoà bình của Việt Nam (1986) và những thiện chí của Việt

Nam trong vấn đề POW và MIA (người Mỹ mất tích trong cuộc chiến tranh ở

Việt Nam), chính quyền Mỹ đã phải thay đổi chính sách của mình, đã tuyên

bố xoá bỏ cấm vận đối với Việt Nam (3-2-1994). Thủ tướng Chính phủ nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng ra tuyên bố hoan nghênh tuyên bố

của Chính phủ Mỹ và bày tỏ sẵn sàng “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”.

Ngày 11-7-1995, Tổng thống Mỹ Clinton tuyên bố về việc bình thường

hoá quan hệ với Việt Nam “Hôm nay tôi loan báo việc bình thường hoá các

quan hệ ngoại giao với Việt Nam ”10

Đầu tháng 8/1995, Hoa Kỳ và Việt Nam đã chính thức lập quan hệ

ngoại giao và mở đại sứ quán ở thủ đô hai nước.

1010: Trích Lưu Văn Lợi: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 280

20

Page 21: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Có thể thấy rằng chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam hiện nay là một

bộ phận nằm trong chiếm lược toàn cầu của Mỹ. Mỹ rất chú trọng đến vị trí

chiến lược của Việt Nam ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương trong đó bao

gồm cả Đông Nam Á.

Nội dung chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

bao gồm những trọng điểm sau:

- Bình thường hoá quan hệ với Việt Nam giúp cho Mỹ có cơ hội xoá bỏ

được những mâu thuẫn trong nội bộ nước Mỹ. Giải quyết hết những di sản

của chiến tranh trước đây, đồng thời mở đường cho các nhà kinh doanh Mỹ

thâm nhập thị trường Việt Nam buôn bán và đầu tư, đem lại thêm lợi nhuận,

việc làm và lợi thế mới cho Mỹ trong cuộc cạnh tranh kinh tế và thương mại

toàn cầu hiện nay.

Tuyên bố của Tổng thống Mỹ Bill- Clinton về việc bình thường hoá

quan hệ với Việt Nam đã nêu rõ những vấn đề mà Mỹ rất quan tâm. Đó là,

việc tìm kiếm hết những người Mỹ mất tích trong chiến tranh, tạo điều kiện

cho Mỹ thoát khỏi “hội chứng Việt Nam” và làm cho xã hội Mỹ khỏi bị chia

rẽ. Mỹ cũng hy vọng Việt Nam sẽ phồn vinh hơn với sự hỗ trợ của Mỹ trong

tương lai để thực hiện nền kinh tế thị trường và mở cửa.

Chỉ sau ba năm bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, Mỹ đã trở

thành một trong những nước đầu tư lớn vào Việt Nam (trên 1 tỷ USD - đứng

hàng thứ 8), kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng lên nhanh chóng hàng

năm. Tương lai Mỹ có thể là nước dẫn trong việc đầu tư và buôn bán với Việt

Nam. Tất cả các công ty lớn của Mỹ đã mở văn phòng ở Việt Nam.

- Bên cạnh đó Mỹ theo chiến lược lâu dài, thực hiện “diễn biến hoà

bình” để chuyển hoá Việt Nam đi vào quỹ đạo của Mỹ, triệt tiêu mục tiêu và

bản chất xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.

21

Page 22: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản của Việt Nam, toàn quân, toàn

dân ta đoàn kết với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước

trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Thực

hiện đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại, tranh thủ sức mạnh

của thời đại kết hợp với việc phát huy nội lực đất nước và con người Việt

Nam, nhất định chúng ta sẽ thực hiện thành công sự nghiệp dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Mọi âm mưu nham hiểm của các thế lực

thù địch nhất định sẽ bị thất bại.

Trong quan hệ với Mỹ, Chính phủ Việt Nam luôn luôn xuất phát từ lập

trường nguyên tắc là đảm bảo “ cho quan hệ giữa hai nước trên cơ sở bình

đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của

nhau, cùng có lợi và phù hợp với các nguyên tắc phổ biến của luật pháp quốc

tế.11

Đến ngày 19-7-2000 hai nước Việt Nam - Mỹđã hoàn thành việc ký kết

Hiệp định thương mại giữa hai nước, đánh dấu sự phát triển hơn nữa quan hệ

thương mại giữa hai nước. Và gần đây nhất, chuyến đi thăm lịch sử lần đầu

tiên của Tổng thống Mỹ W.J.Clinton từ ngày 16 đến ngày 19-11-2000 đã

đánh dấu mong muốn hơn nữa phát triển trong quan hệ giữa hai nước trên tinh

thần “Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” phấn đấu vì lợi ích của nhân dân

hai nước.

Tóm lại, bình thường hoá quan hệ với Mỹ là một thành công quan trọng

của ngoại giao Việt Nam. Việt Nam đã đánh bại âm mưu cô lập, cấm vận về

kinh tế của các thế lực thù địch đối với Việt Nam và các nước, các tổ chức

quốc tế khác. Bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ mở ra cho Việt Nam những

cơ hội mới, đồng thời cũng tạo ra những thách thức mới. Việt Nam cần khai

thác những mặt thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế đồng thời luôn phải

cảnh giác với âm mưu “Diễn biến hoà bình” của Mỹ.

* Đối với EU.

1111: Tuyên bố của Thủ tướng CHXHCNVN Võ Văn Kiệt - Báo Nhân dân 13/7/1995

22

Page 23: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Trong chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam, việc tăng cường hợp

tác và mở rộng quan hệ với các nước EU là rất quan trọng. Bởi đây là một

trong ba trung tâm kinh tế chính trị của thế giới có thế mạnh đặc biệt về vốn

và công nghệ. Tranh thủ được các nước Tây, Bắc Âu này sẽ tạo điều kiện rất

thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước ta. Việc thi

hành chính sách đổi mới của Việt Nam đã tạo cơ sở, hành lang vững chắc cho

quan hệ của Việt Nam với các quốc gia trên khu vực này. Ngay từ khi Mỹ

chưa gỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, các quốc gia EU đã khởi động

quan hệ kinh tế thương mại với nước ta, nối lại ODA (viện trợ không hoàn

lại) cho Việt Nam.

Ngay từ 22 - 10 -1990 nước ta và EU ký hiệp định về lập quan hệ ngoại

giao và trao đổi Đại sứ. Đây là bước phát triển quan trọng thể hiện thiện chí

quan hệ hợp tác giữa hai bên. Từ đó quan hệ hợp tác ta và EU không ngừng

được tăng cường và mở rộng. Ta chủ trương thúc đẩy quan hệ hợp tác với các

nước EU và cả cộng đồng Châu Âu dưới cả hai hình thức: song phương và đa

phương. Do vậy “Pháp đã vận động các nước EC và EU cho Việt Nam vay 1

tỷ 800 triệu USD năm 1994 và 2 tỷ USD năm 1995”12 và từ khi Mỹ bỏ cấm

vận, các tổ chức IMF, WB đã cho Việt Nam vay 1 tỷ 500 triệu USD”12. Ngày

17-7-1995, tại trụ sở EU ở Bruxcells (Bỉ) Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam

Nguyễn Mạnh Cầm và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng liên minh Châu Âu

Javier Salana đã ký chính thức hiệp định hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam và Cộng đồng Châu Âu trước sự chứng kiến của 15 bộ

trưởng ngoại giao của 15 nước thành viên EU. Hiệp định này quy định những

điều khoản về đầu tư, thương mại, buôn bán trao đỏi, cho vay... giữa EU và

Việt Nam, tạo dựng một môi trường thuận lợi để mở rộng quan hệ hợp tác

trên nhiều lĩnh vực giữa hai bên. Tháng 9-1996, Uỷ ban hỗn hợp Việt Nam -

EU họp tại Hà Nội đã ký hai văn kiện quan trọng, đó là: Chiến lược hợp tác

1212: Nguyễn Minh Hằng - Cải cách Kinh tế ở CHND Trung Hoa - Lựa chọn mới cho sự phát triển - NXB 1995 trang 19 -Hội thảo khoa học: 50 năm NGVN dưới sự lãnh đạo của Đảng - Viện QHQT, 1995 trang 19

23

Page 24: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Việt Nam - EU 1996-2000 và chương trình hành động có định hướng 3 năm

1996-1998, lập ra 3 tổ công tác hỗ hợp phụ trách các lĩnh vực hợp tác phát

triển, kinh tế, đầu tư. Tháng 3-1997, Việt Nam chính thức tham gia hiệp định

hợp tác ASEAN - Eu. Hai bên đã thực hiện nhiều chuyến thăm cấp cao, tăng

cường hợp tác chính trị. Là một nước thành viên của ASEAN, Việt Nam đã

tham dự cuộc gặp cấp cao Á - Âu lần thứ nhất (1996) và lần thứ hai (1998)

gọi tắt là ASEM-1 và ASEM-2, lần thứ ba tại Xơun (Hàn Quốc) - ASEM 3.

Đây là một cơ chế hợp tác liên châu lục, giữa một châu Âu hiện đại đang phát

triển, giầu tiềm năng.

Tóm lại, việc mở rộng quan hệ, thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam và Eu

là chủ trương đúng đắn phù hợp với quan điểm đa dạng hoá, đa phương hoá

mà Đảng ta đã đề ra cho công tác đối ngoại trong thời kỳ đổi mới. Tăng

cường quan hệ với EU sẽ có lợi rất lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế

của nước ta. Song chúng ta cũng không quên rằng đa số thành viên EU là

đồng minh chiến lược của Mỹ, cùng chung những giá trị về dân chủ tự do

kiểu phương Tây.

Vì vậy, việc thúc đẩy, mở rộng quan hệ dựa trên cơ sở thận trọng, cân

nhắc kỹ lưỡng, nắm vững nguyên tắc độc lập tự chủ vừa hợp tác vừa đấu

tranh trong cùng tồn tại hoà bình.

* Đối với Liên bang Nga.

Sau khi Liên Xô tan rã (1991), so với 14 nước cộng hoà còn lại, Liên

bang Nga là nước lớn nhất kế thừa Liên Xô về mọi mặt. Bước lên vũ đài quốc

tế với một thể chế chính trị mới, với những hành trang trong đó có chính sách

đối ngoại “ Định hướng Đại Tây Dương” được áp dụng trong giai đoạn từ

1991-1993. Nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại này là thân phương

Tây, tìm kiếm sự công nhận về mặt ngoại giao và thu hút vốn đầu tư từ

phương Tây để khôi phục nền kinh tế. Vì vậy, quan hệ Việt - Nga thời kỳ này

cơ bản là ngưng trệ, một phần do chính sách đối ngoại của Liên bang Nga,

24

Page 25: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

phần khác Việt Nam cũng muốn có thời gian để nhận diện lại đối tác của

minh.

Từ 1994 đến nay, quan hệ Việt - Nga đã có những chuyển biển tích

cực, trước hết do sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Liên Bang

Ngan và các cuộc viếng thăm của lãnh đạo hai nước.

Với việc phát triển quan hệ với Liên Bang Nga, một bạn hàng truyền

thống, Việt Nam có thể đi trước các nước trong khu vực trong việc tranh thủ

thị trường gần 170 triệu dân, có thể tranh thủ các nước SNG khác. Ngược lại

Nga cũng muốn thông qua bạn hàng truyền thống là Việt Nam để vũ khí Nga

thâm nhập và thị trường ASEAN.

Hiện nay lĩnh vực hợp tác mà hai nước Việt Nam và Liên Bang Nga

quan tâm nhất là dầu khí, tiêu biểu là VietSopetro, nhà máy lọc dầu Dung

Quất...

Nói chung, trong xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới

hiện nay, việc thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước lớn như Liên Bang Nga

sẽ rất có lợi cho việc phát triển kinh tế của các nước đang phát triển như Việt

Nam. Mặc dù quan hệ hợp tá giữa hai nước hiện nay chưa tương xứng với

tiềm năng của hai nước. Song với những ưu thế của mình, Liên Bang Nga -

Việt Nam sẽ trở thành đối tác quan trọng của nhau vì lợi ích của nhân dân hai

nước.

* Bên cạnh việc thúc đẩy quan hệ với các nước, các nước láng giềng

và truyền thống, chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam cũng rất chú

trọng đến khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

Được đánh giá là khu vực năng động nhất của thế giới, thế kỷ XXI là

thế kỷ của Châu Á - Thái Bình Dương. Khu vực này đã, đang và sẽ là một

điểm nóng của nền kinh tế thế giới.

25

Page 26: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Việt Nam chủ trương mở rộng các nước của khu vực này, từ Đông Bắc

Á đến Nam Thái Bình Dương. Nhiều nước ở đây có nền kinh tế phát triển cao

và giàu tiềm năng như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga... Bằng sự nỗ lực

hoạt động ngoại giao từ sau khi áp dụng chính sách đối ngoại đổi mới, Việt

Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong quan hệ với các nước ở khu

vực này. Đối với Nhật Bản, quan hệ giữa hai nước được đánh dấu bằng hành

động mở lại viện trợ phát triển (ODA) cho Việt Nam của Nhật Bản. Sau 14

năm gián đoạn, đây là bước khởi đầu thuận lợi, tạo ấn tượng tốt đẹp thúc đẩy

quan hệ hợp tác giữa hai nước. Những cuộc đi thăm chính thức của các quan

chức cấp cao giữa hai nước đã taok tiền đề cho quan hệ buôn bán, đầu tư trên

quy mô lớn của Nhật Bản vào Việt Nam.

Về cơ bản, cho đến năm 1997 đã có 9 nước thuộc khu vực Châu Á -

Thái Bình Dương trong tổng số 11 nước đầu tư vào Việt Nam hơn 1 tỷ USD.

Đó là Singapore 4918,8 triệu USD; Đài Loan 4255,3 USD; Hồng Kông

3433,8 triệu USD; Nhật Bản 3275,1 triệu USD; Hàn Quốc3053,3 triệu USD;

Thái Lan 1035 triệu USD và Malayxia 1048 triệu USD13. Có thể nói sự thật

đây là những đối tác quan trọng của Việt Nam. Ta không chỉ khai thác được ở

họ vốn, công nghệ hay các kỹ năng quản lý mà còn có thể học hỏi, rút kinh

nghiệm từ quá trình phát triển kinh tế của các nước này.

Để mở rộng quan hệ hợp tác và phù hợp với chủ trương đã đề ta, chúng

ta không dừng lại ở mức độ hợp tác song phương mà còn đẩy mạnh quan hệ

đa phương của khu cực. Tháng 6-1996 ta đã chính thức nộp đơn xin ra nhập

tổ chức Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Với những nỗ

lực trong việc tham gia ASEAN, APEC chúng ta đã thực hiện thành công

chính sách đối ngoại khu vực và thế giới.

13

13: Dương Ngọc: Đầu tư nước ngoài qua những con số - Thời báo kinh tế Việt Nam 14/2/1998 trang 8

26

Page 27: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Cùng với việc tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước,

các khu vực trên thế giới trong thời gian qua, ngoại giao Việt Nam còn tham

gia tích cực vào việc giải quyết những vấn đề toàn cầu như môi trường, dân

số, y tế, giáo dục... Năm 1997, Việt Nam được bầu làm phó chủ tịch Đại hội

đồng Liên Hợp Quốc khoá 52 (1997 - 1998). Việt Nam còn được bầu làm uỷ

viên Hội đồng kinh tế - xã hội của LHQ (ECOSOC), một cơ quan quan trọng

vào bậc nhất của LHQ. Là thành viên mới của Hội nghị giải trừ quân bị, Việt

Nam đã tham gia soạn thảo và ký kết hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân toàn

diện (CTBT). Bên cạnh đó ta cũng góp phần tích cực vào mục tiêu chung là

đòi cải tổ LHQ theo hướng dân chủ hoá, đảm bảo quyền bình đẳng giữa các

quốc gia. Ngoài ra chúng ta tham gia tích cực và chủ động vào tổ chức không

liên kết, thúc đẩy hợp tác giữa các nước G77 kêu gọi tăng cường hợp tác Nam

- Nam, đấu tranh vì công bằng trong quan hệ Bắc - Nam. Không những thế

chúng ta cũng là một nhân tố năng động trong cộng đồng các nước có sử dụng

tiếng Pháp. Điều này đã được chứng tỏ bằng việc tổ chức thành công Hội nghị

thượng đỉnh các nước có sử dụng tiếng Pháp vào cuối tháng 5-1998 đã gây ấn

tượng tốt đẹp đối với các thành việc của tổ chức này.

* Đối với các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế. Trong điều kiện

phong trào đảng cộng sản và công nhân quốc tế đang bị thoái trào, quan hệ

giữa các Đảng cộng sản và Nhà nước với các Đảng cộng sản và công nhân

quốc tế được chúng ta coi là ưu tiên trong chính sách đối ngoại. Đại hội VIII

đã khẳng định: “Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các

Đảng cộng sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và

phong trào tiến bộ trên thế giới.14

Đối với các Đảng cộng sản và công nhân đang cầm quyền, Đảng cộng

sản Việt Nam tăng cường đoàn kết, hữu nghị trên cơ sở tôn trọng độc lập, tự

chủ với tinh thần khai thác những điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, phấn

đấu vì mục tiêu xã hội chủ nghíac. Các Đảng cộng sản và công nhân cầm

1414: Đảng CSVN - Văn kiện Đậi hội VIII - NXB Chính trị quốc gia trang 62

27

Page 28: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

quyền hiện nay chỉ còn 5 nước, đó là Việt Nam; Trung Quốc; Lào; CuBa; Bắc

Triều Tiên. Với Là và CuBa quan hệ đó vừa là quan hệ với các Đảng cộng sản

và công nhân, vừa là quan hệ với các nước láng giềng.

Bên cạnh việc xây dựng quan hệ tốt với Trung Quốc, Lào. Đối với

CuBa, Việt Nam luôn khẳng định đây là mối quan hệ tốt đẹp truyền thống.

Việt Nam cũng luôn ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân CuBa vì

mục tiêu hoà bình, đọc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Việt Nam

tích cực giúp đỡ CuBa trong khả năng cho phép của mình. Với Cộng hoà

nhân dân Triều Tiên, Việt Nam vẫn giữ vững hợp tác, quan hệ hữu nghị bình

đẳng, ủng hộ sự nghiệp thống nhất đất nước của nhân dân Triều Tiên. Gần

đâu quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước có những bước tiến mới sau một

thời gian dài chững lại.

Đối với các Đảng cộng sản và công nhân chưa cầm quyền, Việt Nam

tiếp tục ủng hộ về chính trị, trao đổi kinh nghiệm đấu tranh và giúp đỡ về vật

chất trong điều kiện cho phép của Việt Nam.

Tóm lại: Từ sau những năm 1975, Việt Nam từ một nước bị bao vây

cấm vận về kinh tế, cô lập chính trị. Đến những năm 1990 Việt Nam đã bình

thường hoá quan hệ với Trung Quốc, ký hiệp định Paris về Campuchia, đặc

biệt Việt Nam bước đầu thành công trong công cuộc đổi mới, thực hiện đa

dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại trên cơ sở độc lập tự chủ nên đã

mở ra thời kỳ cải thiện quan hệ với hầu hết các nước và các tổ chức quốc tế,

phá được thế bao vây, cô lập và cấm vận.

Hiện nay Việt Nam đã lập quan hệ ngoại giao với 168 nước và hơn 200

tổ chức chính trị trên thế giới, vị thế quốc tế của Việt Nam trên trường quốc tế

ngày càng được nâng cao.

Thắng lợi của hoạt động đối ngoại trong những năm qua cùng với

những thắng lợi trên lĩnh vực đối ngoại đảm bảo cho các hoạt động của Đảng

và Nhà nước dứng vững trong điều kiện thế giới có nhiều biến động, đồng

28

Page 29: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

thời những thắng lợi này cũng khẳng định chính sách “Đa dạng hoá, đa

phương hoa quan hệ đối ngoại” của Đảng và Nhà nước Việt Nam là hoàn toàn

đúng đắn phù hợp với mục tiêu “Việt Nam là bạn với tất cả các nước trong

cộng đồng quốc tế ”15. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có quan hệ

bình thường với tất cả các nước lớn, các tổ chức quốc tế có vai trò quan trọng

trên thế giới, đây là nền tảng thuận lợi cho Việt Nam bước vào thiên niên kỷ

mới.

1515: Nguyễn Mạnh Cầm: 3 nét nổi bật của hoạt động ngoại giao năm 1993 - Tuần báo quốc tế 2/1994

29

Page 30: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

CHƯƠNG 3

TRIỂN VỌNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI

3.1. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN.

* Thuận lợi.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng ta, với bản lính chính

trị vững vàng, sau 15 năm đổi mới Đảng dẫn dắt dân tộc ta thoát khỏi khủng

hoảng trầm trọng và giành được những thành tựu to lớn và quan trọng, làm

cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Cơ sở vật chất kỹ thuật của

nền kinh tế được tăng cường. Đất nước còn nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên

lao động. Nhân dân ta có nhiều phẩm chất cao quy. Tình hình chính trị - xã

hội ổn địng. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết, chủ động hội nhập

kinh tế quốc tế ngày càng phát triển tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát

huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực, nguồn vốn, công nhệ mới,

kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá. Đó là cơ hội lớn để chúng ta tạo ra bước phát triển mới.

Đầu thập kỷ 90, Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc,

ký kết hiệp địng Paris về Campuchia, cải thiện quan hệ với các nước phương

Tây, ASEAN và các tổ chức tiền tệ quốc tế.

Hiện nay quan hệ đối ngoại của Việt Nam đã được rộng mở. Việt Nam

bình thường quan hệ với các nước lớn, với hầu hết các chủ thể trong quan hệ

quốc tế. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có quan hệ bình thường

với tất cả các nước lớn, các tổ chức quốc tế chủ chốt. Vị thế của Việt Nam

ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, đây là nền tảng, thuận lợi cho

việc đặt nền móng cho đường lôứi đối ngoại của Việt Nam trong những năm

đầu thế kỷ XXI.

* Khó khăn.

30

Page 31: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Bên cạnh những thuận lợi, cơ hội lớn chúng ta cũng phải đối mặt với

nhiều khó khăn thách thức.

Thách thức lớn nhất là tình trạng thấp kém vủa nền kinh tế, khoảng

cách về trình độ phát triển giữa nước ta với nhiều nước trên thế giới còn rất

lớn, trong khi đó đất nước đi lên trong điều kiện cuộc cạnh tranh quốc tế ngày

càng quyết liệt, trong bộ máy của Đảng và Nhà nước tệ quan liên, tham nhũng

và sự thoái hoá về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ đảng viên

chưa được đẩy lùi. Bốn nguy cơ mà Đảng ta từng cảnh báo vẫn tồn tại và diễn

biến phức tạp. Các nguy cơ này đan xen và tác động lẫn nhau, không thể xem

nhẹ nguy cơ nào.

Bên cạnh đó về công tác đối ngoại của Việt Nam cũng còn nhiều tồn tại

đáng lưu ý:

Sự tham gia của Việt Nam vào các tổ chức đa phương ở khu vực trên

thế giới còn nhiều hạn chế. Một phần do tình độ tổ chức, quản lý và do thực

lực kinh tế có hạn. Nhưng cần phải khẳng định thêm rằng trong tương lai sự

tham gia này là rất cần thiết.

Bên cạnh đó việc nghiên cứu dự báo chiến lược của chúng ta còn chưa

được đầu tư thích đáng. Bởi nếu không dự báo được tình hình lường trước

những nguy cơ, đe doạ có thể xảy ra, sẽ rất khó khăn cho chúng ta nếu các thế

lực thù địch thay đổi chiến lược chống phá cách mạnh Việt Nam.

Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á vừa qua đã và đang nhắc

nhở chúng ta về tinh thần độc lập tự chủ giảm bớt phụ thuộc vào bên ngoài,

bởi nếu phục thuộc quá nhiều vào nước ngoài, khi học cắt giảm liên kết kinh

tế rất dễ dẫn tới mất ổn định về chính trị.

Mặt khác phải dự báo được nhu cầu, sở thích của thị trường thế giới để

có chủ trương đầu tư sản xuất trong nước thích hợp mới tăng được khả năng

cạnh tranh. Chúng ta phải năng động, nhạy bén hơn trong việc tìm kiếm thị

31

Page 32: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

trường và nắm bắt thông tin kinh tế đối ngoại tạo điều kiện định hướng cho

các doanh nghiệp trong nước.

Tựu trung lại, hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt

được những bước tiến căn bản tạo nền móng vững chắc cho quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên trong một thế giới sôi động,

phát triển như vũ bão hiện nay, tiềm ẩn rất nhiều những thức thức. Việt Nam

có tận dụng được thời cơ thuận lợi hay không , có vượt qua được những trở

ngại thác thức đưa đất nước tiến vào thế kỳ 21 hay không tuỳ thuộc rất nhiều

vào đường lối phát triển đất nước nói chung và hoạt động đối ngoại của Đảng

và Nhà nước ta nói riêng.

3.2. TRIỂN VỌNG CỦA QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỲ XXI.

Chúng ta tự hào về những thành tựu của Đảng và Nhà nước ta giành

được trong 15 năm đổi mới, chúng ta vững tin vào tiền đồ của đất nước những

năm tới.

Tình hình thế giới với nhiều mối liên hệ luôn vận động phát triển biến

đổi liên tục và phức tạp. Tuy nhiên những năm tới vẫn là kỷ nguyên của khoa

học và công nghệ. Kinh tế tri thức sẽ chiếm vị trí ngày càng lớn trong quá

trình phát triển. Toàn cầu hoá là một xu thế khác quan ngày càng có nhiều

nước tham gia, đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế xuyên

quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có

mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế

giới, biểu hiện dưới những hình thái và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát

triển có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn

ra dưới nhiều hình thức, lúc hoàn hoãn, lúc găy gắt. Chủ nghĩa tư bản hiện đại

còn tiếp tục tự điều chỉnh, nắm và sử dụng các thành tựu khoa học và công

nghệ, song không khắc phục được những mâu thuẫn vốn có. Các quốc gia độc

lập sẽ ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con

32

Page 33: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

đường phát triển cuả mình, chống lại sự áp đặt can thiệp và xâm lược của

nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hoá dân tộc. Chủ nghĩa xã

hội tạm thời lâm vào thoái trào nhưng vẫn cos điều kiện và khả năng để phục

hồi và phát triển. Tính chất của thời đại vẫn không thay đổi. Lịch sử thế giới

đã đang và sẽ còn trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng

nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật biến hoá của lịch sử.

Những năm gấn đây ít có khả năng diễn ra chiến tranh thế giới chiến

tranh tổng lực dùng vũ khí hạt nhân và vũ khí giết người hàng loạt. hoà bình

và hợp tác vẫn là một xu thế lớn phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia

dân tộc. Nhưng những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, dân tộc,

tôn giáo vẫn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Các dân tộc đấu tranh cho hoà

bình phát triển chống cường quyền, áp đặt phấn đấu vì dân chủ dân sinh tiến

bộ và công bằng xã hội sẽ có những bước tiến lớn. Khu vực Đông Nam á,

Châu á - Thái Bình Dương vẫn sản xuất là khu vực phát triển năng động và

chứa nhiều nhân tố ổn định.

* Đứng trước tình hình đó vẫn đề đặt ra cho quan hệ đối ngoại của

Việt Nam trong những năm tới phải nắm bắt được cơ hội, vượt qua thách

thức hoà bình cùng đường lối phát triển chung của đất nước.

Quan hệ đối ngoại của chúng ta trong thời gian tới vẫn sẽ tiếp tục tạo

môi trường hoà bình và điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển

kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo về

tổ quốc, đồng thời góp phần tích cức vào công cuộc đấu tranh chung của nhân

dân thế giới vì hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Mở rộng quan hệ nhiều mặt song phương và đa phương với các tổ chức

quốc tế và khu vực theo các nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc lập,

chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không dùng vữ lực và đe doạ sử

dụng vũ lực, bình đẳn và cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và giải quyết

33

Page 34: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình, chống mọi hành động gây sức ép,

áp đặt và cường quyền.

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy

tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và

định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát

huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. Thực hiện các biện

pháp đẩy mạnh chuyển dịch co cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế

- xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh

tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế, bồi dưỡng, rèn luyện năng lực,

phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại giao và kinh tế đối ngoại.

Tăng cường công tác thông tin, làm tối cong tác nghiên cứu và dự báo

tình hình khu vực và thế giới, kịp thời có chủ trương, chính sách thích hợp khi

tình hình thay đổi.

Coi trọng và ra sức phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước xã

hội chủ nghĩa và các nước lãng giềng. Mở rộng quan hệ với các nước trong tổ

chức ASEAN, từng bước nâng cao hiệu quả và chất lượng của sự hợp tác,

phấn đấu xây dựng Đông Nam á thành một khu vực hoà bình, ổn định hợp tác

cùng phát triển, không có vũ khí hạt nhân.

Tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống,

các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở Châu Phi, Trung Đông

và Mỹ La Tinh, với phong trào không liên kết, ủng hộ lẫn nhau cùng phát

triển, phối hợp bảo vệ lợi ích chính đáng của nhau.

Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ chức quốc

tế.

Chủ động tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Tham gia ủng hộ

cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới nhằm loại trờ vũ khí hạt nhân, vũ khí

34

Page 35: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

sinh học và những phương tiện chiến tranh hiện đại khác giết người hàng loạt,

bảo vệ hoà bình, chống nguy cơ chiến tranh và chay đua vũ trang, chóng

chính sách cường quyền, can thiệp vào công việc nội bộ của nhau của các

nước bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự lựa

chọn con đường phát triển của mỗi dân tộc trên thế giới, góp phần xây dựng

trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng hợp lý và ổn định.

Củng cố và quan hệ đoàn kết và hợp tác với các đảng cộng sản và công

nhân, các phong trào cách mạng, độc lập dân tộc và tiến bộ trên thế giới.

Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Mở rộng hơn nữa

công tác đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức nhân dân các nước,

nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ, góp phần thúc đẩy

giao lưu giữa các dân tộc làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ hơn đất nước, con

người, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta và công cuộc đổi mới

công nghiệp hoá Việt Nam; tranh thủ sự đồng tính ủng hộ và hợp tác rộng rãi

của nhân dân các nước với nhân dân ta; góp phần thúc đẩy xu thế hoà bình ổn

định hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác thông tin và văn hoá đối

ngoại.

Kết hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của nhà nước, hoạt động đối

ngoại của Đảng và ngoại giao nhân dân. hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất

hoạt động đối ngoại tạo thành sức mạnh tổng hợp trên lĩnh vực này.

35

Page 36: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

KẾT LUẬN

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo trong các thời kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc

Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI, VII, VIII ngoại giao Việt Nam đã phát

huy vai trò to lớn của mình đối với sự nghiệp đổi mới đất nước.

Với sự đổi mới trong tư duy đối ngoại cùng với bễn hữu quan chúng ta

giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia, bình thường hoá quan hệ với Trung

Quốc từng bước bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Với chiến lược và chính

sách đúng đắn Việt Nam đã phá được thế bao vây cô lập về chính trị, cấm vận

về kinh tế. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ đa dạng hoá đa

phương hoá các quan hệ quốc tế.

Từ chỗ bao vây cấm vận Việt Nam trở thành đối tác của tất cả các nước

lớn và các trung tâm kinh tế chính trị hàng đầu của thế giới... Những thành

tựu này là nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hoà bình ổn định khu vực và

thế giới nâng cao vị thế Việt Nam trong quan hệ quốc tế tạo môi trường thuận

lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc thời kỳ mới.

Có thể nói ra đời do yêu cầu bức thiết của công cuộc đổi mới của xu thế

QHQT thời đại mới, chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá là

đúng đắn kịp thời đáp ứng yêu cầu của Việt Nam, phù hợp với xu thế thế giới.

Chính sách đối ngoại đổi mới đã đem lại những thành tựu mới đưa đất nước

vững bước trên con đường phát triển. những thành tựu đạt được từ chính sách

đối ngoại đổi mới đã khẳng định rõ vị trí vai trò lãnh đạo của Đangr là nhạy

bén sâu sắc, kinh nghiệm và bản lĩnh lãnh đạo của Đảng rất vững vàng. Với

những kinh nghiệm thực hiện chính sách đối ngoại đổi mới những năm qua,

chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản

Việt Nam, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước chắc chắn có những

đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của Việt Nam, vào sự

nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước nhằm xây dựng một đất

nước Việt Nam dân giầu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ và văn minh,

đưa đất nước vững bước vào thế kỷ XXI.

36

Page 37: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII - NXB Chính trị quốc

gia - Hà Nội, 1996

2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI - NXB Sự thật - Hà Nội,

1987

3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII - NXB Sự thật - Hà

Nội, 1997

4. Lịch sử Đảng - NXB Giáo dục, 1997

5. Chính sách đối ngoại của 1 số nước lớn sau chiến tranh lạnh - NXB

Công an nhân dân - Hà Nội, 1998

6. 50 năm NGVN (Lưu Văn Lợi) 1945 - 1995

7. Thống kê của Bộ lao động, thương binh và xã hội - Tháng 10 năm 1993.

Tư liệu tham khảo - Viện thông tin khoa học Học viện Chính trị quốc gia -

Hồ Chí Minh.

8. Kinh tế học quốc tế - NXB Thống kê - Hà Nội, 1998

9. Hội thảo khoa học: 50 NGVN dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt

Nam - Học viện QHQT, 1995

10.Tuyên bố của Thủ tướng Cộng hoà XHCN Việt Nam Võ Văn Kiệt -

Báo Nhân dân ngày 13/7/1995

37

Page 38: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

11.Nguyễn Minh Hằng - Cải cách kinh tế ở Cộng hoà nhân dân Trung

Hoa - Lựa chọn mới cho sự phát triển - NXB Khoa học - Hà Nội, 1995

12.Lương Ngọc: Đầu tư nước ngoài qua những con số. Thời báo KTVN,

14/12/1998.

13.Nguyễn Trọng Phúc: Vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN trong thời kỳ

đổi mới đất nước.

14.Tô Huy Rứa: Công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN của Đảng

cộng sản Việt Nam trong hơn 10 năm qua - Tư liệu tham khảo: Viện

Thông tin khoa học Học viện chính trị quốc gia - Hồ Chí Minh, 1996

15.Nguyễn Mạnh Cầm: Ba nét nổi bật của hoạt động ngoại giao năm 1993

- Tuần báo Quan hệ quốc tế số 2 - 1994.

16.Bối cảnh quốc tế và chính sách đối ngoại của Việt Nam. - Tư liệu tham

khảo: Viện Thông tin khoa học Học viện chính trị quốc gia - Hồ Chí Minh.

17.Bộ ngoại giao: Hoà nhập quốc tế và giữ vững bản sắc - NXB Chính trị

quốc gia - Hà Nội,1995

18.Z.Barezinski: Bàn cờ lớn - NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội,1999

19.Nguyễn Sinh: 12 năm đổi mới (1986 - 1997) - Tạp chí Cộng sản - Số 6

tháng 3 năm 1998

38

Page 39: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

MỤC LỤC

Trang

Lời dẫn..... 1

Chương 1. Những nhân tố tác động tới đường lối đổi mới của Việt Nam......................................................................................3

1.1. Tình hình thế giới những năm 80 và đầu thập kỷ 90........................3

1.2. Sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam sau 1975 đến 1986......6

Chương 2. Quan hệ quốc tế của Việt Nam từ 1986 đến nay................8

2.1. Nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại đổi mới.........................8

2.2. Quá trình thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới...........................14

Chương 3. Triển vọng quan hệ đối ngoại của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI..................................................................28

3.1. Những thuận lợi và khó khăn.........................................................28

39

Page 40: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (72).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

3.2. Triển vọng của quan hệ đối ngoại của Việt Nam những năm đầu thế kỳ XXI.....................................................................................30

Kết luận..................................................................................................34

Danh mục tài liệu tham khảo...............................................................35

40