Upload
others
View
12
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ
theo quy định.
Tác giả
Nguyễn Thị Tuyến
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
7
1.1 Những công trình nghiên cứu ở Việt Nam 7
1.2 Những công trình nghiên cứu của nước ngoài 18
1.3 Công trình của các nhà khoa học trong nước nghiên cứu về
kinh nghiệm của nước ngoài
26
Chương 2 QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP NGOÀI KHU VỰC NHÀ NƯỚC Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG HỒNG - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
29
2.1 Tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong các doanh
nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng
hiện nay.
29
2.2 Quan niệm, nội dung, phương thức, vai trò, đặc điểm
quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực
nhà nước ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay.
52
Chương 3 QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP NGOÀI KHU VỰC NHÀ NƯỚC Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG HỒNG - THỰC TRẠNG, NGUYÊN
NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
78
3.1 Thực trạng đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng.
78
3.2 Thực trạng quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng.
83
Chương 4 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU ĐỂ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI KHU VỰC
NHÀ NƯỚC Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
ĐẾN NĂM 2025
109
4.1 Mục tiêu, phương hướng tăng cường quản lý đảng viên
trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng
bằng sông Hồng đến năm 2025
109
4.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản lý đảng
viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở
đồng bằng sông Hồng đến năm 2025
116
KẾT LUẬN 153
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 157
PHỤ LỤC 167
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
Ban thường vụ BTV
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH
Chủ nghĩa xã hội CNXH
Công ty trách nhiệm hữu hạn CTTNHH
Doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước DNNKVNN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN
Doanh nghiệp tư nhân DNTN
Đồng bằng sông Hồng ĐBSH
Nhà xuất bản Nxb
Tổ chức cơ sở đảng TCCSĐ
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Chất lượng đội ngũ đảng viên suy cho đến cùng là một trong những nhân tố
quyết định đến sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng và thắng
lợi của cánh mạng Việt Nam. Để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên phải thực
hiện tốt công tác đảng viên bao gồm: Cụ thể hóa tiêu chuẩn, giáo dục, rèn luyện,
đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra, giám sát, đánh giá phân loại, khen thưởng, kỷ luật
đảng viên; kết nạp đảng viên…và quản lý đảng viên. Trong đó, quản lý đảng viên là
một trong những nội dung quan trọng, liên quan và chi phối phần lớn các khâu của
công tác đảng viên. Chính vì vậy, quản lý đảng viên là một nhiệm vụ rất quan trọng
và thường xuyên của các cấp ủy đảng, nhất là cấp ủy cơ sở và mỗi tổ chức cơ sở
đảng (TCCSĐ).
Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến công
tác xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, trong đó có công tác quản lý
đảng viên. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: "Đổi mới, tăng
cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, đảm bảo chất lượng đảng viên theo
yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính
trị, trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu
giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính tiền phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo
của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi
Đảng những người không đủ tư cách đảng viên” [36, tr.260].
Trong những năm gần đây, do yêu cầu bức thiết của nhiệm vụ chính trị thời kỳ
đổi mới, công tác đảng viên nói chung và quản lý đảng viên nói riêng đã được các
cấp ủy đặc biệt quan tâm và đã đạt được kết quả quan trọng góp phần to lớn vào
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên,
trước tác động của mặt trái cơ chế thị trường và những tiêu cực khác trong xã hội,
bên cạnh phần lớn đảng viên kiên định vững vàng vượt qua khó khăn, thử thách
vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ và trưởng thành, đóng góp to lớn vào thành tựu
công cuộc đổi mới thì một bộ phận không nhỏ đảng viên suy thoái về tư tưởng
2
chính trị, đạo đức lối sống, đã lợi dụng chức quyền để vun vén cá nhân, làm giàu bất
chính, cơ hội, thực dụng, chạy chức, chạy quyền, tìm mọi thủ đoạn nhằm thực hiện
tham vọng cá nhân, gây mất đoàn kết nội bộ. Có đảng viên là cán bộ lãnh đạo quản
lý chủ chốt nhưng thiếu trách nhiệm trong chỉ đạo, điều hành công việc gây hậu quả
nghiêm trọng. Một số đảng viên (trong đó có đảng viên là cán bộ cao cấp) cũng vi
phạm pháp luật, hoặc bị kẻ xấu mua chuộc, lôi kéo chống lại Đảng, làm phương hại
đến uy tín, thanh danh của Đảng, Nhà nước. Những vụ án tiêu cực liên quan đến
cán bộ, đảng viên đã được xử lý trong những năm gần đây là những ví dụ điển hình
về tình trạng yếu kém trong quản lý đảng viên. Những ưu điểm và khuyết điểm, hạn
chế nêu trên về đội ngũ đảng viên liên quan mật thiết đến công tác quản lý đảng
viên các của cấp ủy, tổ chức đảng.
Trong những năm qua, công tác quản lý đảng viên đã có những ưu điểm, tiến
bộ và có nhiều đổi mới góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất đội ngũ đảng
viên và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Tuy
nhiên công tác quản lý đảng viên của các cấp ủy, tổ chức đảng còn nhiều yếu kém,
bất cập nhất là nội dung, hình thức, phương pháp quản lý đảng viên trong điều kiện
mới. Đặc biệt, nhiệm vụ quản lý đảng viên của các cấp ủy, tổ chức đảng trong các
doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước (DNNKVNN) chưa được chú trọng đúng
tầm. Đã có đảng viên là chủ DNNKVNN vi phạm pháp luật bị cơ quan chức năng
bắt giữ, xử lý, cấp ủy mới biết. Tình trạng đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự
yếu kém, buông lỏng công tác quản lý đảng viên.
Cùng với cả nước, các tỉnh đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) đang có bước phát
triển mạnh mẽ, nhất là trong công nghiệp, dịch vụ. Các khu công nghiệp, khu kinh
tế tập trung và các khu vực kinh tế dân doanh phát triển với tốc độ nhanh, quy mô
ngày càng lớn và có đóng góp ngày càng quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã
hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) giải quyết việc làm cho người lao động. Các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ
đảng viên trong các DNNKVNN đã có vai trò lớn hơn đối với sự phát triển của
3
doanh nghiệp và địa phương. Việc xây dựng các tổ chức đảng vững mạnh, nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp là rất cần thiết.
Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, Đảng ta đang đặc biệt quan
tâm tới công tác xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp và quản lý đảng
viên trong doanh nghiệp, trong đó có DNNKVNN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng ta đã chỉ rõ nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ trong các doanh
nghiệp: “Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng, tạo sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ
sở đảng, nhất là tổ chức Đảng trong các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế” [36, tr. 259-260], trong đó, có nhiệm vụ tăng cường quản lý
đảng viên.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng các tổ chức Đảng trong các DNNKVNN
phát triển còn chậm, hiệu quả hoạt động còn thấp. Công tác phát triển đảng viên gặp
nhiều khó khăn, đặc biệt là việc quản lý đảng viên còn bị coi nhẹ hoặc lúng túng,
chưa có hiệu quả và chưa trở thành nền nếp. Nguyên tắc, quy trình, thủ tục quản lý
đảng viên còn bị vi phạm. Nhiều đảng viên không chuyển đảng về tham gia sinh
hoạt đảng tại nơi làm việc do ở đó chưa thành lập được chi bộ hoặc do cố tình giấu
diếm tổ chức, không dám công khai mình là đảng viên. Do không được tổ chức
đảng quản lý có hiệu quả nên việc phát huy vai trò của đảng viên hết sức hạn chế và
uy tín của đảng viên bị giảm sút, vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong
DNNKVNN bị mờ nhạt. Chính vì vậy, tăng cường quản lý đảng viên trong các
DNNKVNN là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống toàn diện các giải pháp khả thi phát
huy ưu điểm; khắc phục những khuyết điểm hạn chế về công tác quản lý đảng viên;
tăng cường quản lý đảng viên trong các DNKNN ở ĐBSH trong những năm tới góp
phần vào sự phát triển của các doanh nghiệp và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với các doanh nghiệp thực sự là vấn đề cấp thiết và cấp bách hiện nay. Để góp
phần giải quyết vấn đề nêu trên tôi chọn đề tài:“Quản lý đảng viên trong các doanh
4
nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay" làm
luận án tiến sỹ góp phần giải quyết những vấn đề về lý luận và thực tiễn cấp thiết
đang đặt ra.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đíchTrên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý đảng viên
trong các DNNKVNN ở ĐBSH, luận án đề xuất các giải pháp khả thi tăng cường
quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp đó đến năm 2025.
2.2. Nhiệm vụ- Tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu trong và ngoài nước liên quan
đến đề tài luận án.
- Khái quát về các tỉnh, thành phố ở ĐBSH; đặc điểm của các DNNKVNN, các
tổ chức đảng, đoàn thể và đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp trên địa bàn
các tỉnh, thành phố ĐBSH.
- Làm rõ khái niệm, vai trò, đặc điểm, nội dung, phương thức quản lý đảng viên
trong DNNKVNN ở ĐBSH.
- Đánh giá đúng thực trạng quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH
từ năm 2005 đến nay, làm rõ những nguyên nhân của thực trạng, rút ra những kinh
nghiệm và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu, khả thi tăng cường quản lý đảng viên trong
các DNNKVNN ở ĐBSH đến năm 2025.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án là: quản lý đảng viên của các
cấp ủy đảng và tổ chức đảng trong các DNNKVNN ở ĐBSH giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án chủ yếu tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng, chất lượng quản lý
đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH từ năm 2005 đến nay và đề xuất phương
hướng, giải pháp khả thi tăng cường quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp đó
đến năm 2025.
5
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn* Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Đảng, nhất là về đảng
viên và công tác đảng viên trong điều kiện thực hiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời luận án tiếp thu, kế
thừa kết quả nghiên cứu về lý luận của các công trình khoa học có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận án là kết quả công tác quản lý đảng viên của cấp ủy, tổ
chức đảng trong các DNNKVNN ở ĐBSH từ năm 2005 đến nay; các báo cáo tổng
kết về công tác xây dựng đảng, công tác đảng viên của các cấp uỷ và TCCSĐ trong
các DNNKVNN ở ĐBSH từ năm 2005 đến nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứuLuận án sử dụng phương pháp luận trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, các phương pháp nghiên cứu của khoa học liên ngành và chuyên ngành
như: phân tích - tổng hợp, lôgic - lịch sử, hệ thống, thống kê, so sánh, điều tra, khảo
sát, phỏng vấn chuyên gia, nhất là tổng kết thực tiễn để nghiên cứu, xây dựng luận
án.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận án
5.1. Ý nghĩa khoa học- Làm rõ khái niệm, vai trò, đặc điểm, nội dung, phương thức quản lý đảng viên
trong các DNNKVNN ở ĐBSH hiện nay.
- Tổng kết những kinh nghiệm về quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở
ĐBSH từ năm 2005 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp đặc thù, khả thi tăng cường quản lý đảng viên của
các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở ĐBSH đến năm 2025.
6
5.2. Ý nghĩa thực tiễn- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
các tổ chức đảng trong các DNNKVNN ở ĐBSH về tăng cường quản lý đảng viên
giai đoạn hiện nay.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy,
học tập môn học xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh, thành phố, trung tâm
bồi dưỡng chính trị cấp huyện ở các tỉnh, thành phố ĐBSH.
6. Kết cấu của luận ánNgoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả đã
công bố liên quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm
tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và 4 chương với 8 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁNCông tác đảng viên, trong đó có quản lý đảng viên luôn là vấn đề quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng không chỉ được đề cập trong các tác phẩm kinh điển
của C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh, các bài viết của các lãnh tụ
Đảng, Nhà nước mà còn có rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Có thể
tổng quan tình hình nghiên cứu từ các công trình của các nhà khoa học trong thời
gian gần đây liên quan đến đề tài luận án như sau:
1.1. Những công trình nghiên cứu ở Việt Nam
1.1.1. Các đề tài, hội thảo khoa học- Tô Huy Rứa, Làm người cộng sản trong giai đoạn hiện nay [75].
Đề tài đã làm rõ những điều kiện hoàn cảnh mới của đất nước tác động đến
công tác đảng viên của Đảng, nhất là việc giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên
nhằm tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản. Đề tài bàn luận
nhiều về tiêu chuẩn đảng viên, các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên,
trong đó có bàn về đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân, đưa ra những giải pháp,
kiến nghị để đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân nhưng vẫn phát huy vai trò, tư
cách đảng viên, không ảnh hưởng đến bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Luận án có thể tiếp thu những nội dung quản lý đảng viên, nhất là đảng viên là
chủ doanh nghiệp nhằm đảm bảo và phát huy vai trò của đảng viên trong bất cứ
điều kiện, hoàn cảnh nào.
- Đỗ Ngọc Ninh, vai trò của đội ngũ đảng viên là người nghỉ hưu trong hoạt
động của các tổ chức đảng ở khu vực nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay [62]
Với 25% đảng viên của Đảng là người nghỉ hưu, tập trung chủ yếu ở vùng đô
thị, nông thôn nhưng ở khu vực nông thôn đồng bằng Bắc Bộ là đông nhất. Việc
phát huy vai trò của đảng viên nói chung và đảng viên nghỉ hưu là nhân tố quan
trọng nhằm góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng
hiện nay. Tuy đối tượng nghiên cứu của đề tài là đảng viên hưu nhưng đối với tác
8
giả luận án này sẽ khai thác những đặc điểm của đồng bằng Bắc bộ - với nội dung
của nó sát với đề tài luận án, đó là đặc điểm của ĐBSH. Hơn nữa, vai trò của đảng
viên hưu nói riêng và chi bộ nơi cư trú nói chung là rất quan trọng trong công tác
quản lý đảng viên của DNNKVNN hiện nay mà đề tài nêu trên chưa có điều kiện
nghiên cứu chuyên sâu.
- Lâm Quốc Tuấn, Đảng viên làm kinh tế tư nhân ở Thành phố Hà Nội giai
đoạn hiện nay [93]
Tác giả luận án đã tiếp thu được ở Đề tài sự phân tích sâu sắc lý luận về đảng
viên làm kinh tế tư nhân, những đóng góp của họ đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội, những tấm gương của họ trong việc đối xử với nhân viên, công nhân, người lao
động và các hoạt động xã hội nhân đạo, từ thiện. Tuy vậy, cũng còn có đảng viên là
chủ doanh nghiệp chưa thực sự gương mẫu trong sản xuất kinh doanh như buôn lậu,
trốn thuế, chậm đóng bảo hiểm, trả lương cho công nhân, người lao động thấp hơn
so với quy định của pháp luật, vi phạm cam kết, vi phạm quy chế dân chủ trong
doanh nghiệp, vi phạm pháp luật, đã gợi ý cho tác giả luận án vấn đề quản lý đảng
viên với đối tượng là chủ doanh nghiệp nói chung và DNNKVNN hiện nay.
- Huỳnh Thị Gấm, Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài ở miền Đông Nam bộ giai đoạn hiện nay [43].
Sau khi trình bày các vấn đề về lý luận, phân tích thực trạng, nguyên nhân,
tác giả đề tài đề xuất 6 kiến nghị : 1) Tiếp tục nâng cao nhận thức hơn nữa về vị trí,
vai trò việc thành lập và hoạt động của các tổ chức đảng đối với cấp uỷ, chính
quyền các cấp, hội đồng quản trị, ban giám đốc, doanh nhân và người lao động ; 2)
Cần có sự chỉ đạo ráo riết của Trung ương và cấp uỷ các cấp uỷ đảng trong việc
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ ở doanh nghiệp, nhất là
những nơi còn yếu ; 3) Tiếp tục cải tiến nội dung, hình thức sinh hoạt đảng cho phù
hợp với cơ chế hoạt động của doanh nghiệp, có sức hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực ;
4) Tiếp tục chỉ đạo các cơ quan, ban ngành đoàn thể tham mưu đề xuất các giải
pháp tháo gỡ khó khăn vướng mắc có liên quan đến cơ chế nhằm đẩy mạnh phát
triển tổ chức đảng ; 5) Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, cấp uỷ viên
9
làm công tác xây dựng đảng ; 6) Những doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng, đảng
viên thì phân công cấp uỷ viên, đảng viên có kinh nghiệm, phối hợp với các đoàn
thể để làm tốt công tác phát triển đảng viên mới.
Đề tài đã đề cập đến công tác phát triển đảng viên trong DNNKVNN nhưng
chưa có điều kiện đi sâu vào công tác quản lý đảng viên. Luận án có thể so sánh, đối
chiếu, liên hệ những nét đặc thù của DNNKVNN trên phạm vi cả nước.
- Phùng Anh Tuấn, Quản lý đảng viên thường xuyên làm việc xa nơi cư trú,
đảng viên là sinh viên tốt nghiệp chưa có việc làm ổn định - Thực trạng và giải
pháp [95].
Đề tài đã phân tích làm sâu sắc hơn những quan điểm của Đảng về vai trò của
công tác quản lý đảng viên trong tổ chức và hoạt động của Đảng; đánh giá đúng
thực trạng, làm rõ những hạn chế yếu kém, khó khăn và những nguyên nhân chủ
yếu trong công tác quản lý đảng viên thường xuyên làm việc xa nơi cư trú, đảng
viên là sinh viên chưa có việc làm ổn định; đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ
thể nhằm tăng cường quản lý đảng viên đối tượng này trong thời gian tới. Tuy đối
tượng đảng viên có khác nhau nhưng tác giả luận án sẽ kế thừa, tiếp thu những giá
trị khoa học lý luận về nội dung, phương thức quản lý đảng viên và làm rõ hơn đối
với đảng viên trong DNNKVNN hiện nay.
- Các Đề tài nhánh: Thực trạng và một số kiến nghị về công tác quản lý đảng
viên lưu học sinh và lao động xuất khẩu tại khu vực Châu Á và Nam Thái Bình
Dương” do Hà Văn Thích làm chủ nhiệm; Thực trạng và giải pháp công tác quản
lý đảng viên là lưu học sinh, tu nghiệp sinh và lao động xuất khẩu ở Nhật Bản, Hàn
Quốc do Nguyễn Văn Quán làm chủ nhiệm; Thực trạng đội ngũ đảng viên và công
tác quản lý đảng viên lưu học sinh, đảng viên lao động xuất khẩu tại Trung Quốc và
Đài Loan của Nguyễn Xuân Định; Thực trạng và giải pháp công tác quản lý đảng
viên là lưu học sinh, lao động xuất khẩu ở một số nước ASEAN.
Các đề tài nêu trên đều nhất quán khẳng định vai trò của công tác quản lý
đảng viên của các tổ chức đảng trong điều kiện hiện nay, nhất là đảng viên công tác
xa Tổ quốc. Tuy chưa có điều kiện làm sâu sắc những vấn đề có tính lý luận về
10
quản lý đảng viên nhưng chưa làm rõ thực trạng quản lý đảng viên của các tổ chức
đảng đối với đảng viên là sinh viên, lưu học sinh, tu nghiệp sinh, cán bộ công chức
và đội ngũ đảng viên là công nhân làm việc ngoài nước. Trên cơ sở phân tích
nguyên nhân của tình hình quản lý đảng viên ngoài nước, các nhóm tác giả đề tài đã
đề xuất được hệ thống những giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý đảng
viên ngoài nước theo hướng đơn giản về thủ tục, tạo thuận lợi và chú trọng tính hiệu
quả, khả thi. Tuy có nhiều nét khác nhau về đối tượng quản lý nhưng những phân
tích sắc sảo và thuyết phục của các tác giả đề tài cũng góp phần quan trọng để
nghiên cứu sinh tiếp thu, vận dụng trong thực hiện đề tài luận án về công tác quản
lý đảng viên trong các DNNKVNN ở các tỉnh ĐBSH hiện nay.
- Lê Thanh Hà, Phát triển đảng viên trong công nhân các loại hình doanh
nghiệp, thực trạng và giải pháp [46]. Với phương pháp thống kê, điều tra, khảo sát
công phu, đề tài đã đánh giá thực trạng hết sức khó khăn trong công tác kết nạp
đảng viên ở các loại hình doanh nghiệp, nhất là DNNKVNN. Nguyên nhân chính là
chưa phát huy được vai trò của tổ chức đảng và đảng viên trong doanh nghiệp, công
nhân không muốn vào Đảng, thủ tục vào Đảng, chuyển đảng phức tạp ; không có
nhiều thời gian để tham gia sinh hoạt đảng, chủ doanh nghiệp không tạo điều kiện
và không muốn thành lập tổ chức đảng; thậm chí có cả vấn đề đóng đảng phí...Đề
tài cũng đã đề xuất các giải pháp cho doanh nghiệp đã có tổ chức đảng, doanh
nghiệp chưa có tổ chức Đảng. Tuy nhiên, công tác quản lý đảng viên vẫn còn mờ
nhạt, hầu như chưa có sự khảo sát đánh giá một cách toàn diện.
1.1.2. Các sách đã xuất bản- Dương Xuân Ngọc, Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [63].
Đây là một trong những cuốn sách viết khá công phu về giai cấp công nhân
Việt Nam trong điều kiện mới, với 258 trang, gồm 3 chương.
Nội dung mà nghiên cứu sinh quan tâm và có thể tiếp thu là khái niệm giai cấp
công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó trong điều kiện mới, khi đất nước đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; sự xuất hiện của các thành phần kinh tế,
11
cùng với nó là sự phát triển nhanh chóng, với số lượng ngày càng tăng của đội ngũ
công nhân trong DNNKVNN. Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội quan trọng của
Đảng, việc tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, đảng viên trong các
DNNKVNN đang đặt ra như một tất yếu. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập nhiều đến
công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp đó, nhất là chưa đề cập đến công
tác quản lý đảng viên.
- Bùi Thị Thanh Hà, Công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên
doanh ở nước ta thời kỳ đổi mới [45].
Sách dày 170 trang, gồm 3 phần: Phần I - Sự nghiệp đổi mới và sự nghiệp
hình thành nhóm công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên doanh; Phần
II - Đặc điểm của đội ngũ công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên
doanh ở chặng đầu của thời kỳ Đổi mới; Phần III - Kết luận và các vấn đề đặt ra.
Cuốn sách đã đi sâu nghiên cứu về giai cấp công nhân trong các doanh nghiệp
liên doanh ở nước ta khi tiến hành công cuộc đổi mới, mở cửa. Có thể coi đây là
một trong những công trình tiêu biểu phân tích khá sâu sắc về đội ngũ giai cấp công
nhân mới được xuất hiện, trưởng thành qua sự nghiệp đổi mới, mở cửa, có nhiều ưu
điểm nhưng cũng đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc về dân chủ, việc làm, thu nhập,
công bằng xã hội…Để giải quyết triệt để những bức xúc đó, rất cần có tổ chức
đảng, đoàn thể mà nòng cốt là đội ngũ đảng viên hoạt động trong các doanh nghiệp.
Tuy vậy, tác giả cũng chưa có điều kiện để đi sâu vào công tác xây dựng tổ chức
đảng và đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp đó.
- Trần Trung Quang, Tổ chức đảng ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh và
phương thức hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay [73].
Sách dày 155 trang, gồm 2 phần: Phần I – Tổ chức đảng ở các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh; phần II – Tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng trong các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Cuốn sách đã làm rõ sự cần thiết phải thành lập tổ
chức Đảng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; đưa ra những kiến nghị về
hình thức tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức Đảng, đoàn thể chính trị
trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tuy vậy, cuốn sách chưa đề cập sâu về
12
quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đặc biệt chưa đề cập
quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH.
- Đinh Ngọc Giang, Chuẩn hóa chức danh Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, (Qua
khảo sát ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng) [43].
Cuốn sách dày 310 trang gồm 3 chương. Điều quan tâm nhất của nghiên cứu
sinh là tác giả cuốn sách đã chỉ ra được một số nét cơ bản về ĐBSH và những đặc
điểm của các xã trên địa bàn về tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc
phòng, an ninh. Tuy mới chỉ là những đặc điểm các xã nhưng tác giả luận án có thể
kế thừa, tiếp thu để phân tích, khái quát chỉ ra những đặc điểm chung nhất của cả
vùng ĐBSH, coi đó là những nhân tố quan trọng để phân tích xu thế phát triển của
DNNKVNN và các tổ chức đảng ở đó trong thời gian tới.
1.1.3. Các luận văn, luận án- Bùi Thị Oanh, Quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở
thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội [70].
Luận văn đã góp phần làm rõ thêm quan niệm, nội dung, phương thức, biện
pháp quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội hiện nay.
Đồng thời, luận văn đã đánh giá đúng thực trạng và đề xuất những giải pháp có tính
khả thi để tăng cường quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở
thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, luận văn mới chỉ giải quyết
được vấn đề lý luận về quản lý đảng viên trong phạm vi đối tượng là cán bộ, công
chức ở Hà Nội, chưa phải là đảng viên làm việc tại DNNKVNN. Tác giả luận án sẽ
kế thừa những nghiên cứu của tác giả luận văn về quan niệm, nội dung, phương
thức, biện pháp quản lý đảng viên và làm sáng tỏ hơn đối với công tác quản lý đảng
viên trong DNNKVNN ở ĐBSH.
- Tôn Mạnh, Công tác quản lý đảng viên ở đảng bộ các cơ quan Dân chính
Đảng, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Xây
13
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội [61].
Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn đối với công tác
quản lý đảng viên nói chung, công tác quản lý đảng viên ở cơ sở nói riêng. Đồng
thời, luận văn đã đánh giá đúng thực trạng, làm rõ những nguyên nhân, kinh nghiệm
trong thời gian qua về công tác quản lý đảng viên ở cơ sở và đề xuất các giải pháp
cơ bản có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý đảng viên của
đảng bộ các cơ quan Dân chính Đảng, tỉnh Nghệ An trong thời gian tới. Tuy luận
văn chưa đề cập đến công tác quản lý đảng viên trong các DNNKVNN nhưng tác
giả luận án có thể kế thừa, phát triển những vấn đề lý luận về nội dung, phương thức
quản lý đảng viên nói chung. Nghiên cứu sinh sẽ kế thừa, phát triển những nghiên
cứu của tác giả luận văn về quan niệm, nội dung, phương thức, biện pháp quản lý
đảng viên và làm sáng tỏ hơn đối với công tác quản lý đảng viên trong DNNKVNN
ở ĐBSH trong tình hình mới.
- Nguyễn Văn Doãn, Quản lý đảng viên là người Công giáo ở các đảng bộ xã
của huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [30].
Luận văn đưa ra quan niệm một cách chung nhất - quản lý là hoạt động khoa
học có mục đích của chủ thể tác động vào các đối tượng bằng các phương thức, biện
pháp nhằm duy trì, ổn định, phát triển và đạt được hiệu quả cao nhất [30, tr.24-25].
“Quản lý đảng viên là một nội dung quan trọng trong công tác đảng viên và công
tác xây dựng Đảng. Thông qua quản lý đảng viên, các cấp ủy và các tổ chức đảng
nắm chắc đội ngũ đảng viên và từng cá nhân đảng viên để có chủ trương, biện pháp
thích hợp, nâng cao chất lượng đảng viên, chất lượng tổ chức cơ sở đảng; góp phần
quan trọng vào việc bảo vệ nội bộ Đảng, ngăn ngừa kẻ địch, phần tử xấu chui vào
Đảng [30, tr.190].
Quan niệm trên chỉ ra chủ thể, nội dung, tác dụng của công tác quản lý đảng
viên nói chung nhưng chưa có khái niệm nào nói về quản lý đảng viên ở
14
DNNKVNN ở ĐBSH giai đoạn hiện nay. Hơn nữa, luận án có thể tham khảo cách
nghiên cứu đặc thù của thành phần đảng viên là người Công giáo để có những
phương thức quản lý phù hợp đối với đảng viên là công nhân trong DNNKVNN ở
ĐBSH trong tình hình hiện nay.
1.1.4. Các bài viết trên báo, tạp chí
- Tạp chí Xây dựng Đảng, Hội nghị chuyên đề: “ Tăng cường xây dựng tổ chức
đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp các khu công nghiệp” [77].
Ngoài những ưu điểm, công tác xây dựng đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp
còn bộc lộ một số hạn chế, khuyết điểm: Một số cấp uỷ đảng, BTV các đoàn thể
chưa nhận thức sâu sắc, chưa thật sự quan tâm chỉ đạo công tác xây dựng đảng,
đoàn thể trong doanh nghiệp. Những bài học kinh nghiệm sẽ được tác giả đề tài tiếp
thu, kế thừa trong nghiên cứu, đề xuất những giải pháp về sự phối hợp, phát huy vai
trò của các tổ chức quần chúng trong quản lý, xây dựng đội ngũ đảng viên trong
DNNKVNN vững mạnh góp phần đấu tranh khắc phục những tình trạng nêu trên.
- Hanh Nguyên, Một số vấn đề của tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài nhà
nước ở Hà Nội [67].
Tác giả cho biết: số DNNKVNN ở Hà Nội hiện nay là 142.456, trong đó có
138.837 DNTN, 557 doanh nghiệp có vốn Nhà nước dưới 50%; 2.370 doanh nghiệp
FDI; 692 doanh nghiệp hoạt động theo Luật HTX. Tính đến tháng 6/2013, các
DNNKVNN đã đóng góp hơn 34 ngàn tỷ đồng cho ngân sách thành phố, chiếm
63% tổng số thuế ; đã có 1.043 tổ chức đảng với 2.171 chi bộ, 21.665 đảng viên.
Tuy nhiên chất lượng của TCCSĐ khu vực này còn nhiều hạn chế.. . Trưởng ban Tổ
chức Thành uỷ Hà Nội Ngô Thị Thanh Hằng cho biết: “Phần lớn các chi bộ còn
lúng túng khi xác định nội dung sinh hoạt. Không khí sinh hoạt chi bộ đơn điệu, rập
khuôn theo thủ tục, nặng về phổ biến quán triệt, ít trao đổi, bàn bạc, cho nên không
gây được hứng thú, thu hút các đảng viên tham gia thảo luận, góp ý kiến. Có những
nơi, bí thư chi bộ “độc diễn” suốt buổi sinh hoạt. Những tâm tư tình cảm, diễn biến
tư tưởng của đảng viên bị coi nhẹ, rất ít được nêu ra và thảo luận. Rất nhiều chi bộ
không duy trì được sinh hoạt hằng tháng và phần lớn các buổi sinh hoạt không đủ
15
100% đảng viên. Không ít đảng viên thờ ơ, ngại sinh hoạt, ngại đấu tranh, né tránh
trong công tác phê bình, thậm chí tỏ thái độ thiếu nghiêm túc. Chất lượng sinh hoạt
như vậy dẫn đến vai trò của Đảng chưa được phát huy, chưa thuyết phục được chủ
doanh nghiệp về lợi ích của việc cần có tổ chức đảng. Vì vậy đã có những chủ
doanh nghiệp không ủng hộ, tạo điều kiện cho chi bộ hoạt động”. Tác giả luận án
quan tâm tiếp thu nghiên cứu, hoàn thiện thêm những đề xuất của tác giả như: Chủ
doanh nghiệp phải phối hợp bàn bạc vấn đề của doanh nghiệp như sản xuất kinh
doanh, chế độ chính sách, chủ trương của chủ doanh nghiệp để chi bộ bàn,.. kết nạp
chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ DNNKVNN vào Đảng, có thể làm bí thư chi bộ.
- Cầm Thị Lai, Vấn đề phát triển đảng viên trong doanh nghiệp ngoài quốc
doanh [55].
Tác giả cho biết, do tính chất công việc trong các doanh nghiệp tư nhân
thường không ổn định, nơi ở cách xa nơi làm việc hoặc phải làm ca kíp nên không
có thời gian sinh hoạt đoàn thể và vì thế công tác tạo nguồn kết nạp đảng gặp nhiều
khó khăn. Bài viết nêu được những nét cơ bản, khái quát nhất về những khó khăn
trong công tác kết nạp đảng viên trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh, những ý
tưởng mà luận án sẽ tiếp thu và làm rõ hơn những giải pháp đối với công tác quản
lý đảng viên trong DNNKVNN ở ĐBSH mà bài viết trên chưa đề cập.
- Phạm Ngọc Dũng, Bình Dương với công tác phát triển tổ chức đảng trong
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh [31]. Tác giả cũng cho biết, Bình Dương mới
chỉ có 2% tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và đảng viên
cũng chỉ chiếm 0,18 tổng số công nhân làm việc trong doanh nghiệp. Luận án này
sẽ chú trọng trước tiên đến công tác củng cố, kiện toàn TCCSĐ để làm căn cứ, điều
kiện để thực hiện tốt công tác đảng viên nói chung và quản lý đảng viên trong
DNNKVNN.
- Phạm Xuân Hà, Đồng Nai xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh [50]. Mặc dù công tác xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chưa đạt được kết quả như mong muốn nhưng những gì đã đạt
được và chưa đạt được đều để lại cho Đảng bộ tỉnh những bài học kinh nghiệm quý
16
để định hướng cho chặng đường tiếp theo. Tuy nhiên, công tác quản lý đảng viên
vẫn chưa được tác giả đề cập đến.
- Trương Văn Tiếp, Công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh ở Long An: Thực trạng và một số kiến nghị [97, tr. 77 - 79].
Bài viết cũng đã rút ra một số kinh nghiệm bước đầu: Có quy định mang tính
pháp lý về việc thừa nhận và tạo điều kiện của doanh nghiệp đối với thành lập tổ
chức đảng, đoàn thể ở đó; Bố trí đảng viên có chức vụ trong doanh nghiệp làm bí
thư; khẳng định vai trò của tổ chức đảng chính là tham góp cho sự phát triển của
doanh nghiệp. Đề tài này có thể tiếp thu khi đề xuất giải pháp về cơ chế chính sách
nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức đảng trong DNNKVNN hoạt động có hiệu quả.
- Trần Xuân Thiện , Xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên trong
doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Vĩnh Long [96, tr. 29, tr.30, tr.45]. Tác giả đề
xuất giải pháp và kiến nghị: Công tác xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp
ngoài quốc doanh phải được các cấp uỷ đảng triển khai ngay từ khi doanh nghiệp
mới bước vào hoạt động; tăng cường công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động
tạo sự đồng thuận của giới chủ doanh nghiệp về việc thành lập tổ chức đảng ở đó và
sẵn sàng kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng (đây được coi là khâu then
chốt). Mặc dù tác giả đã đề cập đến công tác phát triển đảng viên nhưng chưa đi sâu
nghiên cứu công tác quản lý đảng viên trong DNNKVNN.
- Cao Khoa Bảng, Xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp tư nhân ở Hà
Nội”, Tạp chí Xây dựng Đảng [1].
Tác giả nhận định: hầu hết doanh nghiệp có tổ chức đảng, đoàn thể nhân dân
thì doanh nghiệp gắn bó hơn với địa phương và giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy
sinh trên địa bàn. Tuy nhiên tình trạng lúng túng trong phương thức lãnh đạo diễn ra
khá phổ biến ở các tổ chức đảng, vai trò tổ chức đảng không rõ nét nhất là trong sản
xuất kinh doanh và công tác cán bộ, sinh hoạt chi bộ không đều, chất lượng chưa
cao, chưa thực sự lãnh đạo các đoàn thể có hiệu lực để chăm lo đến người lao động
nhiều khi mờ nhạt, phụ thuộc vào chủ doanh nghiệp. Tác giả đã đề ra 6 giải pháp:
tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên; tăng cường tuyên truyền nâng cao
17
nhận thức; xây dựng mô hình tổ chức đảng, đoàn thể theo phương châm đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng; tập trung nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng,
tăng cường kết nạp đảng viên mới, nhất là chủ doanh nghiệp tư nhân có đủ điều
kiện vào đảng; củng cố nâng cao chất lượng hoạt động các đoàn thể nhân dân; chăm
lo xây dựng đội ngũ cán bộ đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp.
- Hồng Vân, Vì sao đảng viên bỏ sinh hoạt đảng? [98]. Tác giả cho biết, một số
đảng viên, nhất là đảng viên khi nhận chế độ nghỉ hưu, nghỉ mất sức do doanh
nghiệp bị giải thể, bộ đội phục viên xuất ngũ, thì thờ ơ với sinh hoạt đảng, thậm chí
không làm thủ tục chuyển sinh hoạt đảng và tự ý bỏ sinh hoạt đảng. Điều đáng quan
tâm là tác giả đưa ra các lý do đảng viên bỏ sinh hoạt đảng như sau: Do tổ chức
đảng nơi chuyển đến uy tín không cao, dân oán trách đảng viên nhiều; tổ chức đảng
chẳng giúp gì khi đảng viên về không có việc làm, đời sống khó khăn; ngại bị ràng
buộc, không muốn tham gia công việc địa phương do chi bộ giao; có khuyết điểm
cũ tuy đã bị xử lý nhưng do mặc cảm không tham gia sinh hoạt. Một trong những
giải pháp mà tác giả đưa ra mà tác giả luận án quan tâm là tăng cường công tác quản
lý đảng viên. Theo đó, các chi bộ phải nắm chắc diễn biến tư tưởng của đảng viên,
điều kiện hoàn cảnh của mỗi đảng viên, các mối quan hệ của đảng viên trong làm
ăn, sinh hoạt và cuộc sống để kịp thời chia sẻ, giúp đỡ, uốn nắn. Cần cải tiến thủ tục
chuyển sinh hoạt đảng, nơi làm thủ tục chuyển sinh hoạt đảng phải có phiếu báo đến
đảng bộ, chi bộ nơi chuyển đến và sau khi nhận được phiếu báo đó thì nơi nhận
chuyển đến lại làm phiếu báo với nơi chuyển đi. Một mặt làm cho đảng viên không
dễ tự ý bỏ sinh hoạt đảng, có điều kiện thời gian để kịp thời chia sẻ, động viên đảng
viên nộp hồ sơ chuyển đảng, mặt khác các tổ chức đảng cũng nắm được số đảng
viên bỏ sinh hoạt đảng ngay từ khi chuyển sinh hoạt. Tác giả luận án sẽ kế thừa và
làm sâu sắc hơn vấn đề đơn giản hoá thủ tục hành chính trong Đảng, nhất là công
tác đảng viên, trong đó có thủ tục về công tác đảng viên có tính đặc thù ở
DNNKVNN.
- Trần Duy Hưng, Quản lý đảng viên đi làm ăn xa ở Nam Định [51]).
18
Tác giả nhận định: tuy chưa có số liệu thống kê cụ thể nhưng chắc chắn đảng
viên, nhất là đảng viên khu vực nông thôn tỉnh Nam Định đi làm ăn xa nơi cư trú
khá đông, không chỉ ảnh hưởng đến công tác lãnh đạo chỉ đạo của cấp uỷ cơ sở mà
còn gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên. Về
giải pháp cơ bản lâu dài là phát triển mạnh kinh tế - xã hội địa phương, phát huy vai
trò tự quản của đảng viên và trách nhiệm quản lý đảng viên của tổ chức đảng với
các thủ tục quản lý thuận tiện, nhưng chặt chẽ, giữ mối liên hệ thường xuyên với
đảng viên.
Tác giả tiếp tục nghiên cứu làm rõ thêm mối liên hệ giữa địa phương và
DNNKVNN trong sự phối hợp nhằm quản lý tốt đội ngũ đảng viên.
1.2. Những công trình nghiên cứu của nước ngoài
1.2.1. Những công trình nghiên cứu ở Trung Quốc- Sách: Bộ Tổ chức Thành ủy Thẩm Quyến, Sổ tay công tác tổ chức đảng của
đặc khu Thẩm Quyến (tài liệu tham khảo) [25]. Sách đã đề cập đến hầu hết các mặt
hoạt động xây dựng nội bộ đảng ở khu công nghiệp đặc thù. Riêng về công tác quản
lý đảng viên, tác giả luận án này rất quan tâm đến những quy định của Đảng Cộng
sản Trung Quốc về chế độ báo cáo:
"Chế độ định kỳ hội báo
Định kỳ hội báo tư tưởng và công tác của mình với tổ chức là một phương
thức để đảng viên chịu sự giáo dục và giám sát của tổ chức đảng, là một con đường
để tổ chức đảng tìm hiểu nắm vững tình hình tư tưởng và công tác của đảng viên,
cũng là truyền thống tốt đẹp về sinh hoạt trong Đảng chúng ta.
Gọi là định kỳ hội báo, chủ yếu là chỉ việc định kỳ tham gia cuộc họp sinh
hoạt chi bộ đảng và tổ chức đảng, tại cuộc họp sinh hoạt tổ chức của Đảng, hội báo
tư tưởng và công tác của mình với tổ chức đảng một cách chân thật và có trách
nhiệm, mong được sự giúp đỡ của tổ chức đảng và các đồng chí. Ngoài ra, bản thân
đảng viên hoặc người khác nếu có xảy ra vấn đề gì, xuất hiện tình hình gì về tư
tưởng hoặc trong công tác, cần kịp thời hội báo và phản ánh cho tổ chức đảng. Đảng
19
viên khi đi xa, với thời gian tương đối dài, cần thường xuyên hội báo với tổ chức
đảng tình hình tư tưởng và công tác của mình bằng văn bản hoặc bằng miệng.
Đảng viên hội báo tư tưởng và công tác với tổ chức đảng có ý nghĩa quan trọng:
- Có thể giúp tổ chức đảng hiểu và nắm được tình hình đảng viên quán triệt
chấp hành đường lối, phương châm, chính sách và nghị quyết của Đảng, giúp đảng
viên tăng cường nhận thức chính sách, chỉnh đốn phương hướng chính trị, tạo được
sự nhất trí với Trung ương về tư tưởng, về chính trị.
- Có thể giúp tổ chức đảng thiết thực tìm hiểu tình hình tư tưởng của đảng
viên, để tiến hành giáo dục tư tưởng đúng chỗ, giúp đỡ đảng viên nâng cao giác ngộ
tư tưởng, khắc phục các loại tư tưởng phi vô sản, xác lập vững chắc thế giới quan
cộng sản chủ nghĩa.
- Có thể bồi dưỡng và tăng cường ý thức tổ chức và ý thức kỷ luật của đảng
viên, đôn đốc họ luôn chiếu theo điều kiện đảng viên cộng sản để kiểm tra và đòi
hỏi mình, thúc dục họ phát huy đầy đủ vai trò tiền phong gương mẫu trong mọi
công tác và hoạt động xã hội. Thẩm Quyến ở giao điểm giữa hai loại chế độ, hai
loại văn hóa, tình hình càng thêm phức tạp, cho nên cần phải nhấn mạnh việc đảng
viên nghiêm khắc chấp hành chế độ định kỳ hội báo.
- Sách, Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc, Xây dựng Đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm
của Trung Quốc [ 66].
Đây là cuộc hội thảo thu hút được nhiều nhà lãnh đạo, các chuyên gia đầu
ngành về công tác xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Sách gồm 322 trang gồm các bài viết của: Vương Gia Thụy - Phát
biểu khai mạc; Hạ Quốc Cường - Không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình
độ cầm quyền, tăng cường năng lực chống tha hóa, phòng biến chất và chống rủi ro;
Tạ Xuân Đại - Công tác cán bộ và việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng;
Tôn Hiển Quần - Tăng cường xây dựng ban lãnh đạo, cố gắng hình thành tầng lớp
lãnh đạo hăng hái, sôi nổi, phấn đấu thành đạt; Lý Bồi Nguyên - Thực tiễn và sự tìm
tòi về xây dựng tổ chức cơ sở và xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản
20
Trung Quốc; Trần Tuấn Hồng - Kiên trì việc xây dựng lý luận tư tưởng là nhiệm vụ
hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng; Chu Húc Đông - Kiên trì phương châm
quản lý Đảng nghiêm minh, triển khai cuộc xây dựng Đảng phong liêm chính và
đấu tranh chống tham nhũng; Triệu Gia Kỳ - Tăng cường xây dựng đảng ủy địa
phương, phát huy đầy đủ vai trò hạt nhân lãnh đạo; Giả Cao Kiến - Phát huy đầy đủ
vai trò của trường Đảng, làm tốt công tác giáo dục và đào tạo cán bộ; Chu Phúc
Khởi - Xuất phát từ đại cục, hướng tới lâu dài, cố gắng xây dựng một đội ngũ cán
bộ dự bị tố chất cao; Trần Thành - Đấu tranh chống những nguy cơ đối với Đảng
Cộng sản cầm quyền; Lý Tiểu Tân - Tiến cùng thời đại, mở mang sáng tạo, giữ mãi
sức sống của Đảng; Tôn Hiểu Quần - Phát biểu bế mạc.
Các bài viết đề cập khá toàn diện về công tác xây dựng đảng của Đảng Cộng
sản Trung Quốc, nhưng với tác giả bài viết này đặc biệt quan tâm đến những kinh
nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc về xây dựng tổ chức đảng và đảng viên của
các DNNKVNN.
- Lý Bồi Nguyên, Thực tiễn và sự tìm tòi về xây dựng tổ chức cơ sở và xây
dựng đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong Xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh trong tình hình mới, kinh nghiệm của Trung Quốc - kinh
nghiệm của Việt Nam [68].
Tác giả Lý Bồi Nguyên, Cục trưởng Cục Giáo dục cán bộ, Ban Tổ chức Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đánh giá:
“Công tác xây dựng Đảng của xí nghiệp phi công hữu cũng đã giành được
những tiến triển mới. Theo yêu cầu về “nền kinh tế phi công hữu phát triển đến đâu
thì công tác xây dựng Đảng mở rộng đến đó”, chúng tôi đã tăng nhanh nhịp bước
công tác xây dựng tổ chức Đảng ở các xí nghiệp phi công hữu. Theo nguyên tắc
“quy mô nhỏ, làm ngoài giờ, đa dạng hóa và làm thực tế”, tổ chức đảng ở nhiều xí
nghiệp tích cực tìm tòi nội dung công tác và phương thức hoạt động phù hợp với
đặc điểm của xí nghiệp phi công hữu, sức ảnh hưởng của tổ chức đảng ở các xí
nghiệp phi công hữu không ngừng được mở rộng” [68, tr.113].
21
“Việc xây dựng đội ngũ đảng viên và việc xây dựng tổ chức cơ sở của Đảng là
dựa vào nhau, thúc đẩy lẫn nhau, cùng nhau cấu thành nội dung cơ bản của công tác
xây dựng Đảng ở cơ sở. Chúng tôi bám chắc mục tiêu chung của công trình vĩ đại
mới là thúc đẩy xây dựng Đảng, nhằm vào việc xây dựng một đội ngũ đảng viên “tố
chất ưu tú, kết cấu hợp lý, quy mô vừa mức, vai trò nổi bật”, tăng cường giáo dục
quản lý, thúc đẩy xây dựng chế độ, làm cho tố chất đội ngũ đảng viên được nâng
cao rõ rệt, vai trò càng thêm nổi bật.
Làm tốt công tác phát triển đảng viên là con đường quan trọng để tăng cường
sức sống của Đảng, nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Lâu nay, căn cứ theo phương
châm “kiên trì tiêu chuẩn, đảm bảo chất lượng, cải thiện cơ cấu, thận trọng phát
triển”, Trung Quốc luôn luôn kiên trì coi việc phát triển đảng viên trên tuyến đầu
sản xuất, công tác và trong thanh niên làm trọng điểm công tác phát triển đảng viên,
tích cực làm tốt công tác phát triển đảng viên, không ngừng tăng thêm sức sống mới
cho đội ngũ của Đảng” [68, tr.115].
“Hai là, nghiêm chỉnh làm tốt công tác quản lý đảng viên. Trước thực tế là sau
khi cải cách mở cửa, người đảng viên từ “người của đơn vị” trở thành “người của xã
hội” ngày càng nhiều. Việc chú ý kết hợp hài hòa giáo dục đảng viên với việc quản
lý đảng viên làm cho công tác quản lý đảng viên từng bước chuyển từ trạng thái tĩnh
sang trạng thái động, chuyển từ khép kín sang mở cửa, chuyển từ nhằm vào quản lý
cho được sang quản lý cho tốt và quản lý cho sống động, bước đầu tìm tòi được cơ
chế quản lý đảng viên thích ứng với nhu cầu phát triển của tình hình. Căn cứ vào
tình hình mới là sự lưu động, cố gắng thực hiện được “đảng viên lưu động đến đâu
thì tổ chức đảng xây dựng đến đấy và hoạt động trong Đảng triển khai đến đấy”.
Song song với yêu cầu nghiêm ngặt và tăng cường quản lý đối với đảng viên, chúng
tôi còn chú trọng bảo vệ quyền lợi dân chủ của đảng viên, quan tâm việc sản xuất và
sinh hoạt của đảng viên, giúp họ giải quyết khó khăn thực tế” [68, tr.117].
“Trong xí nghiệp, triển khai hoạt động “bốn có một thúc đẩy” (tức là xây dựng
một ban lãnh đạo tốt, một đội ngũ đảng viên tốt, một cơ chế công tác tốt, một chế độ
công tác tốt, thúc đẩy xí nghiệp không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế và khả năng
22
cạnh tranh thị trường) và “kết thành đôi để trợ giúp nhau”, thúc đẩy công tác xây
dựng Đảng ở xí nghiệp quốc hữu đi vào chiều sâu, thiết thực giúp đỡ tổ chức đảng
và công nhân viên chức đặc biệt khó khăn của những xí nghiệp phải ngừng sản
xuất, đóng cửa và phá sản giải quyết vấn đề thực tế. Trong khu dân cư đô thị, bám
chặt việc xây dựng và phục vụ của khu dân cư đô thị, triển khai các hoạt động được
quần chúng ưa thích như “công trình sức hội tụ”, “sáng lập tiểu khu văn minh an
toàn”, v.v., không ngừng bổ sung nội dung hoạt động, cải tiến phương thức hoạt
động, tăng cường tính hiệu quả thực tế của các hoạt động.
Thứ tư, tìm tòi cơ chế công tác. Chúng tôi đã tích cực tìm tòi cơ chế mới về
xây dựng tổ chức cơ sở và xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng. Trong công tác
xây dựng Đảng ở xí nghiệp quốc hữu, tích cực tìm tòi cơ chế công tác tổ chức đảng
thích ứng với cơ cấu quản lý pháp nhân công ty. Trong công tác xây dựng Đảng ở
khu dân cư đô thị, đã tìm tòi và xây dựng được cơ chế công tác “ba phục vụ” là tổ
chức đảng cấp trên phục vụ cho tổ chức đảng cấp dưới, tổ chức đảng các cấp phục
vụ cho đảng viên, tổ chức đảng và đảng viên phục vụ cho quần chúng. Về mặt xây
dựng đội ngũ đảng viên, đã tìm tòi và xây dựng được cơ chế về các mặt như đảng
viên học tập giáo dục, quản lý động thái, làm trong sạch đội ngũ, v.v.. Trong công
tác, chúng tôi rất chú ý chuyển những kinh nghiệm và cách làm thành công về xây
dựng tổ chức cơ sở và đội ngũ đảng viên của Đảng thành cơ chế công tác thường
xuyên nắm chắc không lơi lỏng [68, tr.118].
Nhìn lại, quá trình xây dựng tổ chức cơ sở và đội ngũ đảng viên của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là tổng kết những thực tiễn sau Hội nghị Trung
ương 4 khóa XIII đến nay, chúng tôi có điều thể nghiệm đối với việc tăng cường
xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở và xây dựng đội ngũ đảng viên như sau: Một là, tăng
cường xây dựng tổ chức cơ sở và đội ngũ đảng viên của Đảng, phải kiên trì lấy tư
tưởng quan trọng “ba đại diện” làm chỉ đạo, bám sát trung tâm xây dựng kinh tế,
phục vụ cho đại cục công tác của toàn Đảng. Hai là, tăng cường xây dựng tổ chức
cơ sở và đội ngũ đảng viên của Đảng, phải căn cứ nhiệm vụ, mục tiêu và những vấn
đề chủ yếu tồn tại trong công tác của các giai đoạn khác nhau, nhấn mạnh công tác
23
trọng điểm, nắm chắc những khâu yếu kém, tăng cường phân loại chỉ đạo, thực hiện
đúc kết thúc đẩy tổng kết. Ba là, tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở và đội ngũ
đảng viên của Đảng, phải kiên trì kết hợp xây dựng tư tưởng, xây dựng tổ chức với
xây dựng tác phong, lấy xây dựng chế độ làm sợi chỉ xuyên suốt. Bốn là, tăng
cường xây dựng tổ chức cơ sở và đội ngũ đảng viên của Đảng, phải giỏi về vận
dụng phương tiện chuyển tải hoạt động phong phú nhiều màu sắc, tổng kết và nhân
rộng những điển hình tiên tiến mang đặc trưng thời đại, tăng cường sức hấp dẫn của
các hoạt động, khích lệ sức sống nội tại của tổ chức đảng ở cơ sở. Năm là, tăng
cường xây dựng tổ chức cơ sở và đội ngũ đảng viên của Đảng, phải kiên trì tiến
cùng thời đại, và nghiên cứu tình hình mới và giải quyết vấn đề mới bằng tinh thần
cải cách, cố gắng thực hiện sáng tạo về lý luận, sáng tạo về chế độ và sáng tạo về
công tác. Sáu là, tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở và đội ngũ đảng viên của
Đảng, phải xây dựng và kiện toàn chế độ trách nhiệm công tác, hình thành cục diện
công tác là đảng ủy lãnh đạo thống nhất, bộ ngành cơ quan cùng nắm cùng quản,
trên dưới cùng tiến hành, lớp lớp phụ trách và nắm chắc thường xuyên không lơi
lỏng” [68, tr. 121-123].
Luận án tiếp thu, kế thừa những kinh nghiệm về sự phối hợp trong công tác
quản lý đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc và đi sâu nghiên cứu tình hình
quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH giai đoạn hiện nay để đề xuất
những giải pháp cụ thể, khả thi.
- Lý Bồi Nguyên, Thực tiễn và sự tìm tòi về xây dựng tổ chức cơ sở và xây
dựng đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc [69].
Bài viết đã đưa ra những kinh nghiệm quý “... Hai là, nghiêm chỉnh làm tốt
công tác quản lý đảng viên. Trước thực tế là sau khi cải cách mở cửa, người đảng
viên từ “người của đơn vị” trở thành “người của xã hội” ngày càng nhiều. Việc chú
ý kết hợp hài hòa giáo dục đảng viên với việc quản lý đảng viên làm cho công tác
quản lý đảng viên từng bước chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động, chuyển
từ khép kín sang mở cửa, chuyển từ nhằm vào quản lý cho được sang quản lý cho
tốt và quản lý cho sống động, bước đầu tìm tòi được cơ chế quản lý đảng viên thích
24
ứng với nhu cầu phát triển của tình hình. Căn cứ vào tình hình mới là sự lưu động,
cố gắng thực hiện được “đảng viên lưu động đến đâu thì tổ chức đảng xây dựng đến
đấy và hoạt động trong Đảng triển khai đến đấy”. Song song với yêu cầu nghiêm
ngặt và tăng cường quản lý đối với đảng viên, chúng tôi còn chú trọng bảo vệ quyền
lợi dân chủ của đảng viên, quan tâm việc sản xuất và sinh hoạt của đảng viên, giúp
họ giải quyết khó khăn thực tế” [69, tr.117]. Tác giả luận án sẽ kế thừa kết quả
nghiên cứu trên, vận dụng vào điều kiện Việt Nam với tinh thần “đảng viên lưu
động đến đâu thì tổ chức đảng xây dựng đến đấy và hoạt động trong Đảng triển khai
đến đấy”.
- Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Vấn đề xây dựng Đảng trong doanh nghiệp
phi công hữu và kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng Cộng sản Trung Quốc
. Đại hội XI Đảng Cộng sản Trung Quốc 11/2002 quy định: “Công nhân, nông dân,
quân nhân, trí thức và những phần tử tiên tiến trong các tầng lớp xã hội khác của
Trung Quốc đủ 18 tuổi, thừa nhận Cương lĩnh và Điều lệ Đảng, có nguyện vọng
tham gia một tổ chức đảng, chấp hành nghị quyết của Đảng và nộp đảng phí theo
định kỳ, có thể xin gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc”. Do thành phần kinh tế tư
nhân ngày càng tăng, lược lượng lao động cũng ngày càng nhiều và chủ trương kết
nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng cho nên thành phần đảng viên từ các thành
phần kinh tế phi công hữu ngày càng tăng, năm 2010 đạt 214.000 người, chiếm 7%
tổng số đảng viên mới kết nạp hằng năm.
1.2.2. Những công trình nghiên cứu ở Lào
- Lăm lợt Hỏm bút xạ Vông, Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên nông thôn
tỉnh Khăm Muộn hiện nay [54]. Luận văn đã nêu được những đặc điểm đội ngũ
đảng viên nông thôn tỉnh Khăm Muộn, một số khái niệm và những nội dung,
phương thức nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên nói chung và đội ngũ đảng viên
ở nông thôn tỉnh Khăm Muộn nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Trên cơ sở
nội dung, phương thức đó, luận văn đã đánh giá thực trạng ưu, khuyết điểm của đội
ngũ đảng viên và các biện pháp nâng cao chất lượng đảng viên của các tổ chức
25
đảng, đề ra các giải pháp khả thi để tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
ở nông thôn tỉnh Khăm Muộn nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào.
Tác giả luận án quan tâm đến một trong những giải pháp mà luận văn đưa ra là
tăng cường công tác quản lý đảng viên ở nông thôn tỉnh Khăm Muộn nước Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay. Tuy chưa đề cập sâu sắc, đầy
đủ đến các giải pháp về quản lý đảng viên nhưng luận án có thể nghiên cứu, tiếp thu
những đề xuất, kiến nghị về công tác đảng viên nói chung và quản lý đảng viên ở
nông thôn tỉnh Khăm Muộn nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào.
- Pheng Sỏn Khu Thoong Khăm, Chất lượng đội ngũ đảng viên ở nông thôn
các tỉnh miền trung nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện
nay, Luận án Tiến sỹ chính trị học, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [71].
Luận án đã làm rõ một số khái niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ
đảng viên nói chung và đội ngũ đảng viên ở nông thôn các tỉnh miền trung nước
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Trên cơ sở tiêu chí đó, luận án đã đánh giá thực
trạng ưu, khuyết điểm của đội ngũ đảng viên và công tác nâng cao chất lượng đảng
viên của các tổ chức đảng, đề ra các giải pháp khả thi để nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên.
Tác giả luận án quan tâm đến một trong những giải pháp mà luận án đưa ra là
tăng cường công tác quản lý đảng viên ở nông thôn trong tình hình mới. Tuy còn là
những vấn đề chung nhất về quản lý đảng viên nhưng có thể nghiên cứu, tiếp thu
những kinh nghiệm quý trong công tác quản lý đảng viên ở nông thôn các tỉnh miền
trung nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào.
- Chăn thạ nỏm băn đa Vông, Quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ trongg hệ
thống chính trị các huyện ở thành phố Viêng Chăn giai đoạn hiện nay, Luận văn
thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Luận văn đã xây dựng được quan niệm, xác định rõ nội dung, phương thức
quản lý đội ngũ đảng viên, đánh giá thực trạng quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ
26
trong hệ thống chính trị các huyện thuộc Thành phố và rút ra những nguyên nhân,
kinh nghiệm. Luận văn đã đề xuất được 7 giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác
quản lý đảng viên là cán bộ trong hệ thống chính trị các huyện thuộc Thành phố
Viêng Chăn.
Mặc dù DNNKVNN ở Lào cũng đã phát triển ở mức độ nhất định từ khi thực
hiện đường lối đổi mới do Đảng Nhân dân cách mạng Lào khởi xướng và lãnh đạo.
Tuy nhiên, tác giả luận án chưa tìm thấy một đề tài, bài viết nào về quản lý đảng
viên trong DNNKVNN ở Lào.
1.2.3. Công trình của các nhà khoa học trong nước nghiên cứu về kinh
nghiệm của nước ngoài
Hoài Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc với việc cho phép đảng viên làm kinh
tế tư nhân [64].
Bài viết cho biết văn bản đầu tiên của Đảng Cộng sản Trung Quốc đề cập đến
vấn đề này là “Thông tri của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về tăng
cường công tác xây dựng Đảng” ngày 28/8/1989: “Kinh tế tư doanh là sự bổ sung
của kinh tế công hữu XHCN, việc kinh doanh chính đáng và quyền lợi, lợi ích hợp
pháp của chủ xí nghiệp tư doanh cần được bảo hộ. Đảng chúng ta là đội tiên phong
của giai cấp công nhân. Giữa chủ xí nghiệp tư doanh và công nhân trên thực tế vẫn
còn tồn tại quan hệ bóc lột và bị bóc lột, không thể thu hút chủ xí nghiệp tư nhân
vào Đảng. Những chủ xí nghiệp tư doanh đã là đảng viên, ngoài việc gương mẫu
chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, kinh doanh theo pháp luật, nộp thuế
theo quy định ra, còn cần phải kiên trì lý tưởng và tôn chỉ của Đảng, nghiêm túc
thực hiện nghĩa vụ đảng viên, tự giác tiếp nhận sự giám sát của tổ chức đảng; về
mặt phân phối thu nhập của doanh nghiệp, ngoài việc lĩnh phần thu nhập của người
quản lý kinh doanh cần được hưởng ra, còn phải đem đại bộ phận lợi nhuận sau khi
nộp thuế doanh nghiệp sử dụng cho quỹ phát triển sản xuất, tăng thêm sự giàu có
cho xã hội, cho sự phát triển công ích; phải đối xử bình đẳng với công nhân, tôn
trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân. Nếu không làm được như vậy thì
không thể tiếp tục là đảng viên”.
27
Tác giả còn cho biết, trên thực tế tỷ lệ đảng viên trong số chủ xí nghiệp tương
đối cao, 1993 là 17,1%; 1997 là 16,6%, đều cao hơn đảng viên là công nhân, nông
dân và đều cao hơn tỷ lệ đảng viên so với tổng số dân trên cả nước. Thậm chí, trong
số đảng viên chủ doanh nghiệp tư nhân, có một bộ phận trở thành chủ doanh nghiệp
sau khi gia nhập Đảng: ở thành phố thị trấn là 8,7% còn ở nông thôn (trong số đảng
viên cũ là 37,14%, số đảng viên mới là 11,43%). Đề tài kế thừa và tiếp thu kinh
nghiệm phát triển đảng viên từ chủ DNNKVNN của Đảng Cộng sản Trung Quốc để
nghiên cứu sâu hơn về công tác phát triển đảng viên trong giới chủ doanh nghiệp -
nhiệm vụ vốn đang chuyển biến hết sức chậm chạp và khó khăn ở ĐBSH cũng
như ở nước ta và công tác quản lý đảng viên trong DNNKVNN của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Nhận xét : Qua phân tích một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước
trên, có thể thấy công cuộc cải cách vì CNXH do Đảng Cộng sản lãnh đạo, các
nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Lào, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu to lớn về nhiều mặt. Với chính sách phát triển kinh tế thị trường hay phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế phi công hữu
ra đời rất nhanh với số lượng và ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động, đóng
góp to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Theo đó, giai cấp công
nhân mới ra đời với tốc độ nhanh, số lượng lớn và trình độ ngày càng cao, đáp ứng
được nhu cầu lao động ngày càng lớn và đa dạng về ngành nghề của các
DNNKVNN.
Do sự phát triển nhanh chóng của các thành phần kinh tế phi công hữu (do
DNNN được sắp xếp lại, do thành lập mới, cổ phần, giải thể và các hoạt động liên
doanh liên kết trong cái cách, đổi mới, mở cửa…), giai cấp công nhân tăng, các tổ
chức đảng và đoàn thể xã hội phát triển không kịp thời và chậm đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động. Công tác đảng viên cũng vì thế mà chậm được quan tâm
đúng mức, phương thức tổ chức của hệ thống tổ chức đảng trong DNNKVNN thiếu
thống nhất, chậm tổng kết nhân rộng đã ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng
hoạt động của đảng viên, chưa phát huy hết sức mạnh của đội ngũ đảng viên trong
doanh nghiệp.
28
Trong công tác đảng viên, việc phát triển đảng viên mới gặp nhiều khó khăn.
Ngay cả khi giai cấp công nhân khá đông đảo thì cũng có rất ít người trong số họ
thiết tha phấn đấu vào Đảng. Thậm chí, có không ít đảng viên làm việc trong
DNNKVNN không dám thừa nhận mình là đảng viên trước đây, không chuyển sinh
hoạt đảng về doanh nghiệp hoặc vẫn sinh hoạt ở địa phương nơi cư trú, thậm chí
không ít người bỏ sinh hoạt đảng rồi tự ý ra khỏi Đảng.
Chính vì vậy đã có không ít các nhà khoa học trong nước và ở các nước mà
Đảng Cộng sản lãnh đạo công cuộc cải cách, đổi mới như Trung Quốc, Lào dành
tâm huyết, trí tuệ của mình đề nghiên cứu những vấn đề chính trị - xã hội phát sinh
trong DNNKVNN như vấn đề phát triển giai cấp công nhân trong điều kiện mới,
nền kinh tế thị trường, cải cách, mở cửa, đổi mới; vấn đề phát triển tổ chức đảng,
nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng, phát huy vai trò của đội ngũ
đảng viên trong doanh nghiệp trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đã có nhiều bài viết
mang tính tổng kết thực tiễn khá sâu sắc, khẳng định sự cần thiết phải phát triển,
củng cố và hoàn thiện hệ thống tổ chức đảng trong các DNNKVNN, đề xuất thực
thi các hình thức, phương pháp hoạt động phù hợp, tăng cường công tác phát triển
đảng viên mới, nâng cao chất lượng, uy tín của đội ngũ đảng viên trong
DNNKVNN.
Các bài viết về công tác quản lý đảng viên nói chung và trong các loại hình tổ
chức đảng đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác đảng viên nói
chung và công tác quản lý đảng viên nói riêng; khẳng định tính tất yếu và vai trò
của công tác quản lý đảng viên; nêu lên những nội dung và phương thức cũng như
quy trình thủ tục trong công tác quản lý đảng viên mà tác giả rất trân trọng, nghiên
cứu nghiêm túc và kế thừa cho đề tài nghiên cứu của mình.
Tuy nhiên, các đề tài, bài viết về công tác quản lý đảng viên trong DNNKVNN
còn chưa nhiều, đặc biệt chưa có đề tài khoa học, bài viết về công tác quản lý đảng
viên trong DNNKVNN ở ĐBSH trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu sinh
chọn nghiên cứu đề tài này làm luận án Tiến sĩ không trùng lặp với các đề tài khoa
học, các luận văn, luận án đã nghiệm thu và bảo vệ.
29
Chương 2
QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI KHU
VỰC NHÀ NƯỚC Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài
khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay
2.1.1. Khái quát về các tỉnh, thành phố đồng bằng sông HồngTheo Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 14 tháng 9 năm 2005 của Bộ Chính trị
“về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng
Sông Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”, ĐBSH được xác định
gồm 10 tỉnh và 2 thành phố. Năm 2008, sau khi sáp nhập tỉnh Hà Tây vào thành phố
Hà Nội, ĐBSH còn 9 tỉnh (Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng
Ninh, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình) và 2 thành phố (Hà Nội, Hải
Phòng). Các tỉnh ĐBSH có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các tỉnh ĐBSH là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng của
cả nước.
Các tỉnh ĐBSH có diện tích hơn 21.049,2 km2, chiếm 6,3% diện tích toàn
quốc với một vùng biển rộng lớn ở phía Đông và Đông Nam. Các tỉnh ĐBSH tiếp
giáp với biển Đông, với các vùng trung du, miền núi phía Bắc và miền Trung. Dân
số các tỉnh ĐBSH là 19.654.800 người (2008), chiếm 22,7% số dân cả nước [22,
tr.9]. ĐBSH là một trong những vùng có mật độ dân số đông nhất của cả nước.
Không chỉ là địa bàn trọng yếu của cả miền Bắc, ĐBSH còn là huyết mạch về
giao thông của cả vùng và của cả nước. Những con đường giao thông quan trọng đủ
loại như đường bộ, đường thủy, đường sắt và đường không đi các tỉnh Đông
Bắc, Tây Bắc, miền Trung và các tỉnh phía nam và khắp mọi miền đất nước và
nước ngoài.
Các tỉnh ĐBSH có thành phố Hà Nội - Thủ đô, trung tâm chính trị, hành
chính, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc gia, trái tim của cả nước. Với vị trí là
30
địa bàn chiến lược của cả miền Bắc, ĐBSH luôn có vai trò đặc biệt quan trọng của
nền quốc phòng, an ninh, kinh tế quốc gia.
Là một trong những địa bàn quan trọng phát triển kinh tế - xã hội lớn của cả
nước, ĐBSH có nhiều ngành kinh tế phát triển năng động như tài chính, ngân hàng,
xuất nhập khẩu, du lịch, thông tin, tư vấn, chuyển giao công nghệ và được mở rộng
ra trên phạm vi cả nước, chủ yếu với các tỉnh phía Bắc. Trong tiến trình lịch sử dân
tộc, nhất là từ khi có Đảng lãnh đạo, ĐBSH luôn là nơi cung cấp sức người, sức của
lớn nhất cho các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm và là địa bàn chiến lược của
cách mạng, nơi đảm bảo an toàn cho các cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà
nước. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở ĐBSH được đảm bảo vững chắc,
quốc phòng được xây dựng vững mạnh, là nhân tố quan trọng đảm bảo an ninh,
quốc phòng của cả nước.
Do vị trí chiến lược quan trọng của vùng ĐBSH, Bộ Chính trị (khóa IX) đã
ban hành Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 14 tháng 9 năm 2005 về phát triển kinh tế
- xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSH đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020. Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động ngày 17 tháng 8
năm 2006 thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW nêu trên, trong đó giao Bộ Quốc
phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Công an và các địa phương liên quan lập quy hoạch
tổng thể các cơ sở bảo đảm quốc phòng, an ninh trình Chính phủ phê duyệt và tổ
chức thực hiện [22, tr. 19].
Thứ hai, các tỉnh ĐBSH có tiềm năng to lớn, vị trí địa lý thuận lợi cho sự
phát triển nhanh về mọi mặt.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, cận nhiệt đới, nhiệt độ không khí trung
bình năm khoảng 22,5°C - 23,5°C và lượng mưa trung bình năm 1.400 – 2.000 mm,
khí hậu 4 mùa rõ rệt nên cơ cấu cây trồng, vật nuôi khá phong phú và đa dạng, nhất
là các sản vật mùa Đông mà ít nơi nào trong cả nước có được. Với hệ thống sông
ngòi đa dạng, ĐBSH luôn là vùng nông nghiệp trù phú, là một vựa lúa lớn của đất
nước và truyền thống phát triển kinh tế biển. Tuy điều kiện tự nhiên của ĐBSH
cũng có những bất lợi như sự chia cắt về địa hình, thiên tai như bão, lũ lụt, hạn hán,
31
dịch bệnh, tình trạng xâm nhập mặn có xu hướng gia tăng trong điều kiện biến đổi
khí hậu nhưng có thể nói, ĐBSH được thiên nhiên ban tặng cho những ưu đãi đặc
biệt. Vùng Đông Bắc và ngay trong lòng đất giữa vùng ĐBSH là nguồn tài nguyên
khoáng sản với trữ lượng lớn. Đặc biệt ĐBSH có nguồn nhân lực dồi dào, trình độ
dân trí cao nhất cả nước, tập trung đội ngũ các nhà khoa học, nhân sỹ, trí thức giỏi.
Nhân dân khu vực ĐBSH có truyền thống lao động cần cù, sáng tạo.
Ngành công nghiệp của ĐBSH hình thành sớm và phát triển rất mạnh trong
thời kỳ đất nước thực hiện CNH, HĐH. Giá trị công nghiệp tăng mạnh từ 18,3%
(năm 1995) lên 23% GDP công nghiệp của cả nước (năm 2007). Là trọng điểm
công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, vật liệu xây
dựng và công nghiệp cơ khí. Sản phẩm công nghiệp quan trọng của vùng là máy
công cụ, động cơ điện, phương tiện giao thông, thiết bị điện tử, hàng dệt kim, giấy
viết, vật liệu xây dựng… Với nhiều tiềm năng về cảnh quan thiên nhiên, về di tích
văn hoá, lịch sử, dân tộc và gần các vùng có tiềm năng du lịch quan trọng, ĐBSH
đang là trọng điểm du lịch quốc gia và từng bước có ảnh hưởng tích cực trong khu
vực và quốc tế. Với sự phát triển mạnh của ngành công nghiệp, dịch vụ đã góp phần
quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm cho người lao
động, góp phần xoá đói giảm nghèo, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân
dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong khu vực.
Các tỉnh ĐBSH nằm ở vị trí trung tâm chính trị, văn hoá của cả nước, có
nguồn nhân lực dồi dào, phong phú và có chất lượng cao hơn so với các vùng khác
trong cả nước. Số lượng và mật độ các học viện, viện nghiên cứu, các trường đại
học, cao đẳng và dạy nghề cao nhất toàn quốc. Với truyền thống hiếu học, ĐBSH có
trình độ dân trí cao nhất toàn quốc. Lực lượng cán bộ có trình độ trên đại học của
vùng chiếm tới 72,4% so với cả nước; lao động đã qua đào tạo chiếm tới 39,5% lao
động xã hội, mặt bằng dân trí ngày càng được nâng cao, chất lượng nguồn nhân lực
ngày càng được cải thiện, tạo điều kiện thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh
CNH, HĐH vùng ĐBSH và cả nước [22, tr. 38].
32
Thứ ba, các tỉnh ĐBSH có truyền thống lịch sử, văn hoá lâu đời, nhiều di
tích lịch sử gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước oanh liệt của dân tộc.
Lịch sử hình thành và phát triển của các tỉnh ĐBSH gắn liền với quá trình
dựng nước và giữ nước của cả dân tộc Việt Nam. Nhân dân các dân tộc ĐBSH có
truyền thống yêu nước, anh dũng, sáng tạo trong chiến đấu và lao động sản xuất.
Chính vì thế, trong hằng ngàn năm dưới ách đô hộ của bọn phong kiến phương Bắc,
ngót trăm năm dưới ách cai trị của bọn thực dân phong kiến, nhân dân ĐBSH vẫn
kiên cường đấu tranh anh dũng, góp phần to lớn giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Với một quá trình phát triển lâu dài, liên tục, vùng đất, con người ĐBSH luôn thấm
đậm chất văn hoá dân tộc với hệ thống văn hoá vật thể và phi vật thể phong phú, đa
dạng nhất của cả nước.
Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các tỉnh ĐBSH đi theo Đảng làm cách
mạng, cùng Đảng vượt qua khó khăn, gian khổ vì độc lập tự do của Tổ quốc, đã
cùng toàn dân giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám, lập nên nhà nước công
nông đầu tiên ở Đông Nam Á; giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến “Toàn dân,
toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”, bảo vệ vững chắc chính quyền
non trẻ; xây dựng miền Bắc XHCN trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn
miền Nam, cung cấp rất lớn sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, đánh
thắng đế quốc Mỹ, giành độc lập tự do cho Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo, truyền thống yêu nước, cần cù, thông minh, sáng tạo trong
lao động sản xuất được phát huy mạnh mẽ để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp đổi mới, cùng cả nước, từng bước tiến đến mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh [22, tr. 42].
Thứ tư, các tỉnh ĐBSH vừa có nét văn hoá thuần Việt, đặc trưng truyền thống
vừa đa dạng, phong phú, sớm tiếp cận với nền văn hoá thế giới.
ĐBSH là một trong những trung tâm văn minh của người Việt, nơi tập trung
sản xuất và quần cư của nhiều dân tộc anh em nên nhiều huyện, xã ở ĐBSH có
nhiều dân tộc cùng sinh sống như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Quảng Ninh. Đây là vùng
33
có truyền thống văn hoá lâu đời, nhiều giá trị văn hoá được lưu giữ, bảo tồn và được
công nhận cấp quốc gia và quốc tế như: vịnh Hạ Long - Quảng Ninh, dân ca Quan
họ vùng Kinh Bắc, ca trù vùng Vĩnh Phúc…ĐBSH là nơi tập trung nhiều công trình
văn hoá có giá trị vừa là địa điểm du lịch, văn hoá danh lam thắng cảnh và tâm linh
như khu di tích Hoàng Thành Thăng Long, Văn Miếu Quốc tử Giám, Lăng Chủ tịch
Hồ Chí Minh, làng Cổ Đường Lâm, các đình, đền (Hà Nội)…, đền thờ nhà Trần ở
Vụ Bản (Nam Định), đền thờ vua Đinh – Lê và khu du lịch Tràng An, Hoa Lư
(Ninh Bình), Yên Tử, Uông Bí (Quảng Ninh)…Đây cũng là nơi phát triển nhiều tôn
giáo lớn ở nước ta như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, đi theo là các công trình đình,
chùa, nhà thờ vừa là nơi sinh hoạt tôn giáo, vừa là điểm du lịch văn hoá…Thiền
phái phật giáo Trúc Lâm Yên Tử đã từng là quốc đạo thời nhà Trần. Bùi Chu Phát
Diệm là nơi đầu tiên và trở thành trung tâm Thiên chúa giáo miền Bắc.
Nằm sát với thị trường rộng lớn là Trung Quốc và các nước Đông Bắc Á, các
tỉnh ĐBSH có điều kiện thuận lợi để giao thương buôn bán với nước ngoài. Các
nước Đông Bắc Á là những nước có nền kinh tế - xã hội phát triển rất nhanh, đứng
vào vị trí hàng đầu thế giới rất thuận lợi để cho ta học tập kinh nghiệm. Hơn nữa,
việc giao lưu buôn bán với các nước Đông Bắc Á diễn ra rất sớm trong lịch sử Việt
Nam. Thương cảng Vân Đồn ở Quảng Ninh từ thời Lý là thương cảng đầu tiên của
quốc gia có quan hệ buôn bán với nhiều nước trong khu vực và thế giới như
Malaixia, Nhật Bản, Ấn Độ [ 22, tr. 46].
Thứ năm, ĐBSH có tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Trong các tỉnh, thành phố ĐBSH có tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng –
Quảng Ninh là khu vực có kinh tế thị trường phát triển khá mạnh, có nhiều
DNNKVNN phát triển với số lượng lớn công nhân góp phần rất lớn vào thu ngân
sách cho địa phương và cả nước, giải quyết việc làm cho người lao động. Như Hà
Nội, năm 2013, các DNNKVNN đóng góp 40% ngân sách của thành phố, giải quyết
được 113.000 lao động cho nhân dân trong và ngoài thành phố. Cùng với Thủ đô
Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh cũng nằm trong 10 tỉnh, thành phố có thu nhập
GDP cao nhất cả nước.
34
Tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh đã và đang ngày càng
trở nên quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của ĐBSH và cả vùng Bắc
bộ [22, tr. 48].
Thứ sáu, các tỉnh ĐBSH đang phải giải quyết nhiều bất cập do sự chuyển đổi
nhanh chóng của nền kinh tế - xã hội.
Mật độ dân số ở ĐBSH vẫn cao nhất nước (934 người/km2), gấp 3,7 lần so
với bình quân chung của cả nước, gấp 2,14 lần so với Đồng bằng sông Cửu Long,
gấp 8 lần so với miền núi và trung du phía Bắc và gấp hơn 10 lần so với Tây
Nguyên [24, tr. 9-12]. Dân số đông, diện tích đất canh tác bình quân đầu người rất
thấp (chưa đạt 450 m2/người) lại đang có xu hướng bị thu hẹp do yêu cầu phát triển
công nghiệp, dịch vụ… tỷ lệ lao động thiếu việc làm còn lớn và có xu hướng ngày
càng tăng, đời sống nhiều vùng nông thôn còn khó khăn… là sức ép không nhỏ đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của cả vùng.
Do dân số phát triển nhanh và các phương tiện giao thông phát triển rất mạnh
trong khi cơ sở hạ tầng giao thông thấp kém, chậm được đầu tư theo quy hoạch và
thiếu tầm nhìn chiến lược. Dù đã có nhiều biện pháp khắc phục nhưng tình trạng tắc
nghẽn giao thông diễn ra khá phổ biến, tai nạn giao thông xảy ra liên tục, gây nhức
nhối trong xã hội, nhất là những thành phố lớn và các tỉnh có đường giao thông
quan trọng của quốc gia đi qua.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Công nghiệp, đô thị phát triển nhanh nhưng còn mang tính tự phát; môi trường bị ô
nhiễm nặng. Quy hoạch đô thị cũng còn chậm và nhiều yếu kém so với sự phát triển
quá nhanh của đô thị, nhất là các trung tâm đô thị lớn. Cũng do đô thị phát triển
nhanh, nhiều vùng nông thôn trở thành đô thị. Vấn đề giãn dân, di dân, tái định cư
cho dù được chú trọng thường xuyên nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển
đổi cơ cấu ngành nghề, ổn định đời sống vật chất và tinh thần cho một bộ phận
không nhỏ nông dân.
Trình độ phát triển giữa các địa phương trong vùng, giữa các tiểu vùng còn
chênh lệch đáng kể. Khoảng cách giàu nghèo giữa các gia đình nông dân, giữa cư
35
dân thành thị và nông thôn có xu hướng ngày càng doãng ra. Một bộ phận dân cư
thuộc các xã vùng sâu, vùng miền núi, hải đảo, dân tộc ít người còn rất khó khăn cả
về đời sống vật chất và tinh thần.
Cũng do sự phát triển kinh tế - xã hội năng động nhất khu vực phía Bắc, trình
độ đội ngũ cán bộ chưa ngang tầm với yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ chính
trị thời kỳ mở cửa, đổi mới, hội nhập quốc tế. Tình trạng quản lý của Nhà nước kém
hiệu lực, hiệu quả; một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống, tham nhũng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân làm cho niềm
tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng bị suy giảm. Đã xuất hiện những
nguy cơ không thể xem thường về mối quan hệ giữa dân với Đảng thông qua một số
vụ khiếu kiện đông người, vượt cấp kéo dài, có nhiều vụ việc gây bất bình trong dư
luận. Do số lượng các DNNKVNN ở ĐBSH phát triển nhanh dẫn đến có nơi chính
quyền địa phương và các cơ quan chức năng không đánh giá hết những tác động
môi trường do quá trình sản xuất của các DNNKVNN gây ra làm ô nhiễm môi
trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân dân, đến phát triển bền vững của mỗi địa
phương và cả khu vực.
Do những tác động của những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, những
hành vi vi phạm pháp luật gia tăng trên tất cả các lĩnh vực, tất cả các thành phần
giai cấp như tệ làm hàng kém phẩm chất, độc hại cho xã hội, nạn làm hàng giả,
buôn lậu, trốn thuế, trộm cắp, nghiện hút, mất an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội làm cho toàn xã hội lo lắng, bất an. Do sự phát triển nóng của cả vùng cùng với
sự khắc phục kém hiệu quả của các cơ quan chức năng và sự thiếu ý thức của không
ít người dân, môi trường nhiều vùng đô thị và nông thôn ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh
hưởng trực tiếp, tiêu cực đến sự phát triển sản xuất, đời sống sinh hoạt, sức khoẻ
của người dân và sự phát triển bền vững của cả vùng.
Cũng do kinh tế khu vực ĐBSH phát triển nên tập trung nhiều lao động tự do
nhập cư vào địa bàn các tỉnh, thành phố ĐBSH dẫn đến phát sinh nhiều tệ nạn xã
hội. Mặt khác ở nhiều địa phương tình trạng người lao động thiếu việc làm việc rất
lớn là những khó khăn đang đặt ra cho khu vực ĐBSH [24, tr.76-78].
36
2.1.2. Khái quát về các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng
bằng sông Hồng
2.1.2.1. Khái niệm về doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng
sông Hồng.* Doanh nghiệp
Theo Luật Doanh nghiệp, QH số: 60/2005/QH ngày 29 tháng 11 năm 2005,
“Điều 4. 1. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Theo đó, doanh nghiệp được hiểu chung là một đơn vị kinh tế thực hiện hạch
toán kinh tế độc lập, có đầy đủ tư cách pháp nhân, được thành lập theo Luật Doanh
nghiệp nhà nước; Luật Hợp tác xã; Luật Doanh nghiệp; Luật Đầu tư trực tiếp nước
ngoài hoặc theo Hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với chính phủ nước
ngoài, gồm:
+ Các DNNN do Trung ương quản lý và do địa phương quản lý (kể cả các
doanh nghiệp kinh tế đảng, đoàn thể do Nhà nước cấp vốn)
+ Các doanh nghiệp tập thể được thành lập theo Luật Hợp tác xã.
+ Các công ty hợp danh.
+ Các công ty cổ phần (kể cả DNNN cổ phần hoá, công ty cổ phần có vốn
góp của nhà nước).
+ Các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, doanh nghiệp
liên doanh được thành lập theo Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài”.
* Doanh nghiệp nhà nước
+ Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoạt động theo Luật DNNN do Trung
ương quản lý hoặc địa phương quản lý.
+ Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, đó
là các công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước do Trung ương quản lý và địa phương
quản lý.
37
+ Công ty cổ phần vốn trong nước mà Nhà nước chiếm giữ trên 50% vốn
điều lệ.
* Doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước
Là các doanh nghiệp vốn trong nước mà nguồn vốn thuộc sở hữu tập thể, tư
nhân hay một nhóm người hoặc có sở hữu nhà nước nhưng chiếm từ 50% vốn điều
lệ trở xuống, gồm:
+ Các hợp tác xã.
+ Các doanh nghiệp tư nhân.
+ Các công ty cổ phần có vốn nhà nước có từ 50% vốn điều lệ trở xuống.
* Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, không phân biệt tỷ
lệ vốn của bên nước ngoài đóng góp là bao nhiêu, gồm:
+ Các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài.
+ Các doanh nghiệp liên doanh giữa nước ngoài với các đối tác trong nước.
Thuật ngữ DNNKVNN mà luận án đề cập là để phân biệt với DNNN.
DNNKVNN bao gồm tất cả các loại hình doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài (trừ DNNN) đăng ký hoạt động kinh doanh trong nước
theo pháp luật.
* Doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng.
Là các doanh nghiệp vốn trong nước mà nguồn vốn thuộc sở hữu tập thể, tư
nhân hay một nhóm người hoặc có sở hữu nhà nước nhưng chiếm từ 50% vốn điều
lệ trở xuống, gồm:
+ Các hợp tác xã.
+ Các doanh nghiệp tư nhân.
+ Các công ty cổ phần có vốn nhà nước có từ 50% vốn điều lệ trở xuống ở
đồng bằng sông Hồng.
2.1.2.2. Những đặc điểm tích cực của các doanh nghiệp ngoài khu vực
nhà nước ở đồng bằng sông Hồng.
38
Những năm gần đây, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, số lượng các
DNNKVNN ở ĐBSH tăng khá nhanh
Trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước, ĐBSH được Nhà nước đầu tư lớn, tạo dựng được cơ sở vật
chất ban đầu để phát triển ngành công nghiệp. DNNN ra đời và chiếm ưu thế tuyệt
đối. Trước “đổi mới”, trong thời gian dài, Việt Nam đã áp dụng mô hình CNXH
kiểu Xô - viết, với những đặc trưng chủ yếu là nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao
cấp, không thừa nhận sản xuất hàng hóa và thị trường. Sau ngày đất nước hoàn toàn
được giải phóng, mô hình kinh tế đó ngày càng trở nên lạc hậu, cản trở sự phát triển
kinh tế - xã hội. Từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, Ðảng ta đã có những thử
nghiệm để cải cách theo hướng sản xuất hàng hoá, tuân theo nguyên tắc quy luật
của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Ðại hội VI của Ðảng (12-
1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó nhấn mạnh “đổi mới
tư duy, trước hết là tư duy kinh tế”, tạo bước ngoặt có ý nghĩa quyết định trong
công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng CNXH ở nước ta. Cũng phải mất
nhiều năm, từ chủ trương phát triển "nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa" đến việc xác định nền "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"
và từ Ðại hội IX của Đảng (4-2001) đã khẳng định một cách dứt khoát đó là mô
hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã gần 30 năm, theo đó,
DNNKVNN ở ĐBSH được hình thành và phát triển ngày càng tăng. Sự phát triển
về số lượng và chất lượng của các DNNKVNN trước hết phụ thuộc vào chủ trương
đúng đắn, kịp thời của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và
các tỉnh ĐBSH nói riêng.
Nghị quyết số 54 – NQ/BCT ngày 14 tháng 9 năm 2005 của Bộ Chính trị về
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng ĐBSH đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020 đã đề cập khá toàn diện về sự lãnh đạo của Đảng:
39
Quan điểm chỉ đạo là:
Trên cơ sở phát huy cao độ lợi thế của từng vùng, cùng với sự tập trung đầu tư
của Trung ương, thu hút mạnh nguồn lực đầu tư của nước ngoài, đảm bảo liên kết
chặt chẽ thống nhất không gian kinh tế vùng, đưa kinh tế của vùng phát triển với tốc
độ cao, hiệu quả và bền vững, xứng đáng với vị trí của vùng, đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tăng trưởng kinh tế đi liền với giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, nâng
cao đời sống nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội, từng bước thu hẹp khoảng cách
về mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa các địa phương trong vùng, giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, ngăn chặn, đẩy lùi tội phạm và tệ nạn xã hội.
Coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng
yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
- Đi đôi với phát triển kinh tế - xã hội, luôn quan tâm đến giữ vững ổn định
chính trị, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Đảng, chính
quyền, các đoàn thể vững mạnh, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ
môi trường sinh thái.
Mục tiêu định hướng đến năm 2020 là: Tập trung đầu tư, xây dựng hệ thống hạ
tầng kinh tế - xã hội hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển; khai thác tối đa các lợi thế
về tài nguyên, nguồn nhân lực, trí tuệ của đội ngũ trí thức, doanh nhân; phát huy
tinh thần cần cù, sáng tạo, tiết kiệm của nhân dân để phát triển nhanh, đạt trình độ
cao, tiếp tục khẳng định rõ vai trò của vùng kinh tế động lực, đóng góp lớn vào tăng
trưởng kinh tế của cả nước, thúc đẩy hỗ trợ các vùng khác, nhất là những vùng khó
khăn cùng phát triển, phấn đấu đạt mục tiêu cơ bản trở thành vùng công nghiệp
trước năm 2020.
Nhiệm vụ chủ yếu:
Về kinh tế: Nhịp độ tăng GDP bình quân hằng năm của vùng đạt 11-12%, đóng
góp 40-45% cho ngân sách Trung ương trong giai đoạng 2006-2010. Trong đó,
công nghiệp và xây dựng tăng 14,3-15,3%, dịch vụ 10-11%, nông lâm ngư nghiệp
3,5-4%, xuất khẩu 9-10%/năm, chiếm 20-25% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.
40
Riêng vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức bình
quân của vùng; tỉ trọng GDP của vùng đạt khoảng 34-24% so với GDP cả nước vào
năm 2010 và 26-27% vào năm 2020. Năm 2010, tỉ trọng ngành công nghiệp, xây
dựng trong tổng GDP chiếm khoảng 42%, dịch vụ 48%, nông nghiệp 10% và góp
phần quan trọng vào việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Từ khi thực hiện Nghị quyết 54-QĐ/TW của Bộ Chính trị, các DNNKVNN ở
ĐBSH phát triển với tốc độ cao nhất, với số lượng nhiều nhất từ trước đến nay.
Ở Thành phố Hà Nội, tính đến tháng 06/2014 toàn thành phố có gần 150.000
DNNKVNN đăng ký hoạt động. Trong đó, có 86.208 doanh nghiệp đang hoạt động
và nộp thuế vào ngân sách Thành phố với số tiền 100.348 tỷ đồng, chiếm 63,2%
tổng số tiền thuế nộp ngân sách Thành phố mỗi năm [78]. Ở Hải Phòng, tính đến
ngày 31/12/2013, toàn thành phố có 13.358 DNNKVNN đăng ký hoạt động, trong
đó có 7.332 DNNKVNN nộp thuế. Quảng Ninh có 7.563 DNNKVNN đăng ký hoạt
động với tổng số vốn đăng ký là 49.427 triệu đồng; Bắc Ninh có 4.344
DNNKVNN. Nam Định có 4.241 DNNKVNN hoạt động ở nhiều ngành nghề khác
nhau. Hải Dương có 6.201 DNNKVNN, bao gồm: 6.047 doanh nghiệp có vốn trong
nước (trong đó có 1.555 doanh nghiệp siêu nhỏ; 3.146 doanh nghiệp nhỏ; 1.207
doanh nghiệp vừa; 139 doanh nghiệp lớn) và 154 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (trong đó có 143 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; 11 doanh nghiệp liên
doanh giữa nước ngoài với các đối tác trong nước) với số vốn đăng ký 99.012 tỷ
đồng. Toàn tỉnh Hà Nam có 2.186 DNNKVNN, trong đó doanh nghiệp có vốn
trong nước 2140 doanh nghiệp, chiếm 97,9%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài 46, chiếm 2,1%. Hưng Yên có gần 3000 DNNKVNN, gồm: 12 doanh nghiệp
thành lập theo Luật Hợp tác xã; 133 doanh nghiệp tư nhân; 1.287 công ty TNHH,
1.313 công ty cổ phần tư nhân, 43 công ty cổ phần có vốn nhà nước không chi phối;
25 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 126 doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài. Thái Bình có 3.506 DNNKVNN với trên 120.000 lao động. Ninh Bình có
1.687 DNNKVNN đăng ký và hoạt động. Vĩnh Phúc có 2.676 DNNKVNN.
41
Thứ hai, các DNNKVNN ở ĐBSH có quy mô sản xuất kinh doanh ngày càng
tăng và tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực thương mại, công nghiệp nhẹ, chế biến
nông, lâm sản.
Ở Thành phố Hà Nội, Số vốn đăng ký ban đầu của mỗi doanh nghiệp thường
từ 700 triệu đến hơn 1.000.000 đồng (VNĐ). Số lao động dưới 100 người đến vài
trăm người. Kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội năm 2013 đạt 7.990 tỷ đồng, tăng
15,7% so với năm 2009 (trong đó, kinh tế ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng 15%, khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài 43,9%). Đây là kết quả đáng phấn khởi trong bối
cảnh kinh tế Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng đang phải đối mặt với nhiều
khó khăn [79].
Ở Thành phố Hải Phòng, tổng số lao động trong các doanh nghiệp tư nhân
trên địa bàn năm 2001 là 49.003 người, tăng lên 101.620 người vào năm 2005 và
141.800 người vào năm 2008; chiếm tỷ trọng 48,4% tổng số lao động trong các
doanh nghiệp trên địa bàn vào năm 2015. Doanh thu năm 2008 đạt 57.740 tỷ đồng,
tăng 33.623,2 tỷ đồng so với năm 2005, gấp 12 lần so với năm 2005 [80].
Tỉnh Quảng Ninh, trước thời điểm thực hiện Kết luận số 80 của Ban Bí thư
(tháng 12/2009), trên địa bàn tỉnh có 7.563 DNNKVNN với tổng vốn đăng ký là
49.427 triệu đồng (năm 2010 và 2011 có trên 1200 doanh nghiệp đăng ký kinh
doanh, năm 2012 có 882 doanh nghiệp với vốn đăng ký 4.775 tỷ đồng); năm 2013,
có 915 doanh nghiệp đăng ký thành lập với tổng vốn đăng ký 5.500 tỷ đồng, tăng
3,7% số doanh nghiệp và tăng 15% về vốn điều lệ đăng ký so với cùng kỳ (không
tính số đã thu hồi, giải thể trong năm) [90].
Ở Bắc Ninh có 4.344 DNNKVNN. Số công nhân khu vực ngoài quốc doanh
tăng nhanh, đến nay có 126.230 công nhân lao động (chiếm gần 80% công nhân lao
động trong toàn tỉnh), trong đó có 59.390 công nhân lao động làm việc tại các khu
công nghiệp, cụm công nghiệp với mức thu nhập bình quân 3 – 3,5 triệu
đồng/người/tháng [83].
Tỉnh Nam Định, số doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn, số lượng công
nhân đông chiếm tới hơn 40%. DNNKVNN hoạt động sản xuất kinh doanh với
42
nhiều ngành nghề khác nhau. Tổng số công nhân lao động đang trực tiếp làm việc
3.265 người, trong đó số lao động được đóng bảo hiểm xã hội là 1.186 người, số lao
động có việc làm thường xuyên là 2.570 người [88].
Ở Tỉnh Hải Dương, tính đến 30/6/2008 trên địa bàn tỉnh có 6.201
DNNKVNN, bao gồm: 6.047 doanh nghiệp có vốn trong nước (trong đó có 1.555
doanh nghiệp siêu nhỏ; 3.146 doanh nghiệp nhỏ; 1.207 doanh nghiệp vừa; 139
doanh nghiệp lớn) và 154 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (trong đó có 143
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; 11 doanh nghiệp liên doanh giữa nước ngoài
với các đối tác trong nước) với số vốn đăng ký 99.012 tỷ đồng [85].
Ở Tỉnh Hà Nam, đa số các doanh nghiệp của tỉnh là siêu nhỏ và nhỏ (doanh
nghiệp siêu nhỏ 1.072, chiếm 2,1%; doanh nghiệp nhỏ 823, chiếm 37,6%; doanh
nghiệp vừa 250, chiếm 11,4%; doanh nghiệp lớn 41, chiếm 2%) [84].
Tỉnh Thái Bình có 3.506 doanh nghiệp với trên 120.000 lao động, trong đó có
8 công ty TNHH một thành viên, chiếm 0,2%; 3.447 doanh nghiệp tư nhân, công ty
cổ phần tư nhân, công ty TNHH, chiếm 98,3%; 51 doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài và liên doanh với nước ngoài, chiếm 1,5% [ 91].
Ở Tỉnh Ninh Bình, các DNNKVNN chủ yếu quy mô vừa và nhỏ. Cụ thể:
Doanh nghiệp thành lập theo Luật HTX: 68 doanh nghiệp, với 725
lao động. Doanh nghiệp tư nhân: 749 doanh nghiệp, với 29.178 lao động. Công ty
hợp doanh: 01 công ty, với 135 lao động. Công ty trách nhiệm hữu hạn: 676 công
ty, với 41.500 lao động. Công ty cổ phần: 164 công ty, với 7.977 lao động. Công ty
cổ phần có vốn nhà nước dưới 50%: 04 công ty, với 5.311 lao động [ 89].
Ở Tỉnh Vĩnh Phúc, tính đến 30/6/2014 có 6.044 DNNKVNN trong đó có:
1.489 công ty TNHH, 501 công ty cổ phần, 457 công ty tư nhân, 229 công ty
TNHH một thành viên còn lại là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào
địa bàn tỉnh với tổng số vốn đăng ký là 37.440 tỷ đồng.
Ở tỉnh Hưng Yên, các DNNKVNN tập trung đầu tư vào các lĩnh vực, ngành
nghề như: Sản xuất công nghiệp các loại chiếm 29,29%, Giao thông vận tải chiếm
6,81%, lĩnh vực xây dựng chiếm 17,18%, sản xuất nông, lâm nghiệp chiếm 12,3%,
43
thương mại, dịch vụ chiếm 34,28%, công nghệ chiếm 0,12%. Giải quyết việc làm
cho 16.500 lao động [87].
Thứ ba, lao động làm việc trong các DNNKVNN ở ĐBSH có trình độ học
vấn, chuyên môn, kỹ thuật cao, các chủ doanh nghiệp ngày càng có nhiều kinh
nghiệm sản xuất – kinh doanh
Qua khảo sát, ở nhiều doanh nghiệp số lao động có trình độ học vấn, chuyên
môn, kỹ thuật còn cao hơn lao động ở DNNN cùng ngành nghề. Ví dụ ở Hà Nội số
lao động này chiếm 38%, số lao động có trình độ đại học chiếm 43,8%, cá biệt có
những doanh nghiệp ở Hà Nội tỷ lệ còn cao hơn, như công ty Cavico có 5 tiến sỹ,
15 thạc sỹ và 178 kỹ sư.
Các chủ DNNKVNN phần lớn là cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước, có
kinh nghiệm sản xuất - kinh doanh, đã nghỉ hưu hoặc xin ra khỏi biên chế Nhà nước
để thành lập doanh nghiệp, hoặc từ các DNNN do giải thể xin đăng ký thành lập
doanh nghiệp riêng. Ở Hà Nội số chủ doanh nghiệp này chiếm trên 60%, Hải Phòng
là 56%. Quảng Ninh trên 60%.
Tuổi đời của các chủ DNNKVNN thường từ 35 đến 50 tuổi, độ tuổi đã tích
lũy được một số kinh nghiệm trong sản xuất – kinh doanh, độ tuổi sung sức trong
hoạt động chính trị, xã hội, đối ngoại, quản trị doanh nghiệp, có trình độ học vấn,
tin học, ngoại ngữ cao. Ở Hà Nội số chủ doanh nghiệp này là 86,2%, Hải Phòng là
78,5%, Quảng Ninh là 79,1%...Chủ doanh nghiệp là nữ chiếm tới gần 30%.
Thứ tư, các DNNKVNN đã thu hút khá lớn vốn và lao động vào sản xuất –
kinh doanh, góp phần giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động.
Số vốn của các doanh nghiệp này khoảng hơn 300 ngàn tỷ đồng. Bình quân
số vốn đăng ký của một doanh nghiệp ở Hà Nội là hơn 1 tỷ đồng, ở Hải Phòng là
hơn 700 triệu đồng, ở Quảng Ninh là hơn 1 tỷ đồng và ở Nam Định và các tỉnh là
hơn 600 triệu đồng. Trong khi Nhà nước và các DNNN còn khó khăn và chưa có
nhiều giải pháp giải quyết cơ bản việc làm cho người lao động, các DNNKVNN đã
đóng góp đáng kể vào giải quyết việc làm. Ở Hà Nội làm việc trong các
DNNKVNN có trên 800 ngàn lao động; Ở Hải Phòng 49.003 lao động; Ở Quảng
44
Ninh thu hút 57.068 lao động; Ở Nam Định là 306.895 lao động; các tỉnh còn lại
trong ĐBSH số lao động rất lớn. Tiền lương trung bình hàng tháng của một lao
động trong các DNNKVNN không đều nhau, song nhìn chung cao hơn bình quân
chung của cả nước và cao hơn tiền lương của một lao động trong các DNNN. Ở
thành phố Hà Nội lương của một lao động trong các DNNKVNN từ 4,5 triệu đến 6
triệu đồng, khu vực ngoại thành từ 3,5 đến 5 triệu; ở Hải Phòng thu nhập của một
lao động trong các DNNKVNN từ 3,5 đến 5 triệu; ở Quảng Ninh từ 3 triệu đến 5
triệu; ở các tỉnh khác trong khu vực ĐBSH từ 2,5 đến 5 triệu đồng. Ngoài tiên công
hàng tháng, phần lớn các DNNKVNN còn chi thêm tiền ăn trưa, tiền thưởng năng
suất, chất lượng sản phẩm, thưởng nhân ngày lễ, ngày tết, tiền tàu xe đi phép và trợ
cấp khi người lao động gặp khó khăn.
Thứ năm, DNNKVNN sản xuất kinh doanh đạt kết quả khá cao, đóng góp lớn
vào ngân sách Nhà nước, góp phần đáng kể trong giải quyết các vấn đề xã hội.
Với những kinh nghiệm của các tỉnh, thành phố ở ĐBSH, các doanh nghiệp
nhất là ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh đã chú trọng hơn đến vấn đề này, các sản
phẩm của các DNNKVNN đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Nhiều doanh
nghiệp đã tổ chức sản xuất hợp lý, quản lý chặt chẽ quá trình sản xuất kinh doanh
nên đã đạt hiệu quả cao trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nhìn tổng quát hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các DNNKVNN cao hơn các DNNN. Một số lớn
doanh nghiệp đã đạt tỷ suất lợi nhuận tăng 3 đến 5 lần tỷ suất lợi nhuận của các
DNNN. Nhiều mặt hàng của các DNNKVNN như may mặc, giày da, cao su, hàng
mây tre giang đan...đã xuất khẩu ra các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU, Hàn
Quốc, bước đầu cạnh tranh được với các mặt hàng cùng loại của các nước trong khu
vực và thế giới. Doanh thu của các DNNKVNN ở ĐBSH hàng năm đạt tăng trưởng
khá. Ở Hà Nội hàng năm các doanh nghiệp này đóng góp hơn 45% ngân sách của
thành phố, ở Hải Phòng là 55%, Quảng Ninh là 46,5%, các tỉnh khác các
DNNKVNN đóng góp vào ngân sách địa phương khoảng 40%.
45
2.1.2.3. Những mặt còn hạn chế của các doanh nghiệp ngoài khu vực
nhà nước ở đồng bằng sông Hồng.Thứ nhất, phần lớn các DNNKVNN có quy mô nhỏ, mặt bằng sản xuất chật
hẹp, tình độ công nghệ thấp, trang thiết bi lạc hậu.
Do xuất phát điểm của các DNNKVNN thường do tư nhân thành lập hoặc do
mua lại của các DNNN trong quá trình cổ phần hóa và hợp tác xã nên quy mô ban
đầu thường nhỏ, số vốn thấp, mặt bằng chật hẹp, trình độ công nghệ thấp, trang thiết
bị thường cũ và lạc hậu. Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố ở ĐBSH con số này
khoảng hơn 40% doanh nghiệp. Chỉ có một số ít các DNNKVNN ở Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh sử dụng số lượng lao động và vốn khá lớn, sử dụng công nghệ,
trang thiết bị hiện đại. Như: Tập đoàn Hải Phát của Hà Nội sử dụng hơn 10 ngàn lao
động, Tập đoàn Phú Mỹ (Hà Nội) sử dụng trên 10 ngàn lao động, sử dụng công
nghệ hiện đại.
Thứ hai, các DNNKVNN đầu tư khá nhiều vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ,
bất động sản nhưng hiệu quả kinh tế - xã hội chưa cao.
Trong điều kiện kinh tế hiện nay của nước ta, lẽ ra các DNNKVNN phải đầu
tư nhiều vào lĩnh vực sản xuất, đầu tư đến mức nhất định vào lĩnh vực thương mại
và dịch vụ, bảo đảm tỷ lệ đầu tư tương xứng vào hai lĩnh vực này, góp phần tạo nên
sự phát triển bình thường, cân đối vững chắc của nền kinh tế quốc dân; song thực tế
lại không diễn ra như vậy. Các DNNKVNN đầu tư nhiều vào lĩnh vực thương mại,
bất động sản nên đã làm mất cân bằng trong nền kinh tế các địa phương ở ĐBSH
những năm qua. Tỷ lệ tồn kho ở thị trường bất động sản ở Hà Nội năm 2013 là hơn
40%, ở Hải Phòng là hơn 30 %, Quảng Ninh là Trên 30%, các địa phương khác là
trên 20%, dẫn đến các DNNKVNN nợ vốn của ngân hàng, ảnh hưởng đến cán cân
thanh khoản trong sản suất kinh doanh.
Thứ ba, nhiều doanh nghiệp còn biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh,
nhiều doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Trong những năm qua, nhiều chủ doanh nghiệp để chạy theo lợi nhuận đã lợi
dụng sự lỏng lẻo trong quản lý của Nhà nước, những thiếu sót và kẽ hở của pháp
46
luật, làm ăn bất chấp luật pháp, kể cả lừa đảo, làm hàng giả móc ngoặc, hối lộ,
chiếm dụng vốn lẫn nhau, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước...Nhiều DNNKVNN
thực hiện chưa nghiêm pháp luật và các quy định của Nhà nước về pháp lệnh thống
kê, kế toán, bộ luật lao động, luật bảo hiểm xã hội, hợp đồng kinh tế,...Tình trạng
trốn lậu thuế, kinh doanh các mặt hàng ngoài phạm vi đăng ký diễn ra phức tạp và
khá phổ biến. Điều đáng chú ý hơn là việc đăng ký vốn ban đầu thường thấp hơn
nhiều so với vốn thực tế. Tình trạng vi phạm các quy định của Nhà nước về hợp
đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, về chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
khá phổ biến. Chủ doanh nghiệp chỉ muốn tuyển lao động từ nông thôn vì tiền công
rẻ. Lao động có tay nghề cao chủ doanh nghiệp sẽ sử dụng dài hạn, các lao động
khác, chủ doanh nghiệp muốn sử dụng ngắn hạn để không có những dàng buộc chặt
chẽ giữa chủ và người lao động, cơ bản hơn là không phải nộp bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế và chi phí bảo hộ lao động.
Thứ tư, các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp chậm được
thành lập, hiệu quả hoạt động thấp.
Số lượng các tổ chức chính trị - xã hội đã được thành lập chiếm tỷ lệ rất thấp
so với tổng số DNNKVNN. Số tổ chức công đoàn, hội liên hiệp thanh niên chiếm
chiếm tỷ lệ thấp (Phụ lục số 3). Việc thành lập các tổ chức chính trị - xã hội còn gặp
nhiều khó khăn do chưa có tổ chức Đảng lãnh đạo nên nhiều nơi sảy ra đình công,
lãng công hoặc do công nhân làm việc không ổn định; có những nơi còn bị giới chủ
lợi dụng...
2.1.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế nêu trênThứ nhất, phần lớn các DNNKVNN chưa có tổ chức đảng, còn ở những
doanh nghiệp đã thành lập được tổ chức đảng thì vị trí, vai trò, hiệu quả hoạt động
của tổ chức Đảng ở đó lại chưa phát huy tốt. Vì thế, nhiều chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước chậm đến các DNNKVNN. Những chủ trương, chính sách
đó một mặt dừng lại ở tầm vĩ mô, mặt khác cũng chỉ đến với cấp quản lý các doanh
nghiệp. Do nhiều doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng hoặc thiếu sự hoạt động tích
47
cực đúng hướng của tổ chức đảng nên thiếu sự góp ý thường xuyên những lệch lạc
trong hoạt động của các doanh nghiệp chưa được uốn nắn kịp thời.
Thứ hai, hầu hết các DNNKVNN mới thành, nhiều chủ doanh nghiệp còn
thiếu kiến thức về pháp luật, kiến thức về quản lý kinh tế. Mặt khác, sự quan tâm
của cấp ủy, chính quyền các cấp đối với hoạt động của các DNNKVNN có những
hạn chế. Chính sách của Nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này chưa hoàn
chỉnh, phù hợp và đồng bộ nên các cấp ủy Đảng, chính quyền gặp khó khăn trong
lãnh đạo, quản lý.
Thứ ba, công tác quản lý nhà nước đối với DNNKVNN còn nhiều yếu kém:
Thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, tiêu cực, những vi phạm trong kinh doanh của
các DNNKVNN còn diễn ra khá phổ biến gây nhức nhối trong xã hội.
Tình trạng tiếp tay cho buôn lậu của một số cán bộ công chức vẫn còn, gây
nhiều khó khăn cho sản xuất trong nước.
Tình trạng trốn thuế, làm hàng giả, hàng nhái, kém chất lượng vẫn còn nhiều
nhưng chưa có biện pháp khắc phục có hiệu quả.
2.1.3. Tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng
2.1.3.1. Về tổ chức đảng và đội ngũ đảng viênMặc dù đã đạt được những kết quả trong việc thành lập TCCSĐ, nâng cao chất
lượng hoạt động của tổ chức đảng trong DNNKVNN nhưng công tác xây dựng
Đảng trong các DNNKVNN ở hầu hết các tỉnh, thành phố ĐBSH chưa có chuyển
biến đáng kể, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Tính đến 30/7/2014 trong các DNNKVNN ở ĐBSH đã thành lập được
TCCSĐ nhưng số lượng còn khiêm tốn.
Đảng bộ tỉnh Hải Dương thành lập 15 tổ chức đảng trong DNTN và doanh
nghiệp có vốn đầu nước ngoài với tổng số 151 đảng viên (trong đó tổ chức đảng
DNTN có 12 chi bộ với 112 đảng viên; tổ chức đảng doanh nghiệp có vốn ĐTNN
có 03 chi bộ với 39 đảng viên). Có 05 đảng viên là chủ doanh nghiệp [ 86].
48
Đảng bộ tỉnh Hà Nam đã thành lập được 53 TCCSĐ với 714 đảng viên
(chiếm 2,27% so với tổng số doanh nghiệp). Phân theo loại hình gồm: Có 4 TCCSĐ
thuộc doanh nghiệp cổ phần nhà nước dưới 50% vốn, với 171 đảng viên; 38
TCCSĐ thuộc doanh nghiệp tư nhân, với 384 đảng viên; 11 TCCSĐ thuộc doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có 159 đảng viên [ 84].
Đảng bộ tỉnh Nam Định thành lập được 146 TCCSĐ trong doanh nghiệp tư
nhân và 1 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với tổng số 3.417 đảng viên.
Trong số 146 TCCSĐ của đảng bộ tỉnh mới chỉ có 41 DNNKVNN có tổ chức đảng,
số còn lại là các TCCSĐ trong doanh nghiệp tư nhân trực thuộc Đảng bộ khối
Doanh nghiệp [88].
Đảng bộ tỉnh Hưng Yên có 81 TCCSĐ, gồm 38 TCCSĐ trong công ty cổ
phần tư nhân và công ty TNHH, 43 TCCSĐ trong công ty cổ phần có vốn nhà nước
không chi phối, với tổng số 1.666 đảng viên [87].
Số đảng viên trong DNNKVNN chiếm 3,19% tổng số đảng viên của đảng bộ
tỉnh. Đánh giá chất lượng trung bình hằng năm: đảng viên đủ tư cách, hoàn thành
tốt nhiệm vụ đạt 66,73% (trong đó, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm 14,03%);
đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ chiếm 32,96%; vi phạm tư cách chiếm 0,3%. Đánh
giá chất lượng TCCSĐ: TSVM đạt 64,21%, hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 17,28%,
hoàn thành nhiệm vụ chiếm 17,28%, yếu kém chiếm 1,23%.
Đảng bộ tỉnh Thái Bình có 169 TCCSĐ trong các loại hình DNNKVNN với
tổng số 4.963 đảng viên, trong đó có 23 TCCSĐ trong các công ty TNHH một
thành viên (gồm cả 15 doanh nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh), chiếm
13,6%; 59 TCCSĐ trong các công ty cồ phần được chuyển đổi từ DNNN sang,
chiếm 35%; 85 TCCSĐ trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ
phần tư nhân, chiếm 50,2%; 2 TCCSĐ trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, chiếm 1,2 %). Mặt khác, ở Đảng bộ
tỉnh Thái Bình, qua khảo sát có 130 doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng nhưng có
311 lao động đang làm việc tại doanh nghiệp là đảng viên (72 doanh nghiệp có 1
49
đảng viên, 31 doanh nghiệp có 02 đảng viên, 27 doanh nghiệp có từ 03 đảng viên
trở lên) [91].
Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, công tác tạo nguồn và kết nạp đảng viên trong các
DNNKVNN đạt kết quả khá toàn diện. Số lượng, chất lượng đảng viên mới kết nạp
đều tăng lên. Hiện nay, toàn tỉnh có 58 tổ chức đảng trong DNNKVNN với 1.222
đảng viên (tăng 14 tổ chức đảng và 236 đảng viên so với năm 2008), đặc biệt là đã
kết nạp được 08 đảng viên mới là chủ doanh nghiệp tư nhân [89].
Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh có 97 tổ chức đảng trong tổng số 4.344 DNNKVNN
(chiếm 2,23%), trong đó 52 TCCSĐ, 45 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở). Số doanh
nghiệp có tổ chức đảng không tăng so với những năm trước, trong đó: số tổ chức
đảng trong doanh nghiệp thành lập theo Luật HTX là 7, doanh nghiệp tư nhân là 5,
công ty TNHH tư nhân là 6, công ty cổ phần tư nhân là 14, công ty cổ phần có vốn
nhà nước là 63, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 2, trong đó: đảng bộ cơ
sở là 6, chi bộ cơ sở là 91. Số lượng đảng viên trong các doanh nghiệp là 1.013
đảng viên, tăng 73 đảng viên, chiếm 2,6% tổng số đảng viên của đảng bộ tỉnh. Công
tác quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp được các cấp ủy đảng quan tâm,
phân công nhiệm vụ cho đảng viên, tạo điều kiện cho đảng viên hoàn thành
nhiệm vụ [ 83].
Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh có 97 TCCSĐ (trong đó: có 35 đảng bộ, 62 chi bộ cơ
sở). Trong 97 TCCSĐ có 257 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở, ngoài ra còn có 24
chi bộ doanh nghiệp tư nhân trực thuộc đảng bộ xã, phường, thị trấn) với 4.508
đảng viên (chiếm 4,9% số đảng viên trong đảng bộ tỉnh). Hầu hết các tổ chức đảng
trong DNNKVNN trực thuộc các huyện, thị, thành ủy; có 78 doanh nghiệp chưa có
tổ chức đảng nhưng có 173 đảng viên là người lao động làm việc trong các
DNNKVNN đang sinh hoạt ở các chi bộ khu dân cư. Trong 4.508 đảng viên trong
DNNKVNN, có 90 chủ doanh nghiệp là đảng viên; 556 đồng chí cấp ủy viên thuộc
các tổ chức đảng trong DNNKVNN, trong đó 71 bí thư cấp uỷ là giám đốc, chủ
doanh nghiệp [ 90].
50
Ở Đảng bộ Thành phố Hà Nội có 1.071 tổ chức đảng trong các DNNKVNN với
tổng số 21.829 đảng viên (số tổ chức đảng và đảng viên có chủ yếu từ trước khi các
DNNN tiến hành cổ phần hoá, tổng số đảng viên là chủ DNTN được kết nạp vào
đảng là 1.903 đồng chí, chủ yếu các chủ DNTN được kết nạp vào đảng khi là chủ
DNNN, hiện đang giữ các chức danh chủ tịch hội đồng thành viên). Tính đến tháng
7/2014, đảng bộ thành phố có 16 chủ DNTN được kết nạp vào đảng. [79]
Đảng bộ Thành phố Hải Phòng, số TCCSĐ trong các doanh nghiệp tư nhân
sớm được hình thành và từng bước tăng về số lượng. Năm 1997, thành phố có 11 tổ
chức đảng ở doanh nghiệp thuộc loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, với 102
đảng viên. Tính đến tháng 12 năm 2014 số TCCSĐ ở doanh nghiệp tư nhân là 90,
trong tổng số 7.232 doanh nghiệp, chiếm 1,2%. Trong đó có 17 đảng bộ cơ sở, 73
chi bộ cơ sở với 1.600 đảng viên. Trong 90 TCCSĐ, có 20 TCCSĐ trong công ty
trách nhiệm hữu hạn; 70 TCCSĐ là công ty cổ phần tư nhân, tăng 38 TCCSĐ so với
2005, gấp 8,1 lần so với năm 1997 [ 80].
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc, do Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh tích cực chỉ đạo
cải thiện môi trường đầu tư, theo Báo cáo số 214- BC/TU ngày 24/1/2014 của Tỉnh
ủy, tỉnh đã tiến hành đồng loạt các giải pháp, trong đó đặc biệt chú trọng đến công
tác xúc tiến đầu tư từ một số nước châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc... đã thêm 42
dự án mới đầu tư vào tỉnh. Tính đến cuối năm 2014, có 6.044 DNNKVNN đầu tư
vào địa bàn tỉnh với tổng số vốn đăng ký là 37.440 tỷ đồng. Trong tổng số
DNNKVNN của tỉnh Vĩnh Phúc có 115 tổ chức đảng với 3.572 đảng viên.
2.1.3.2. Về hoạt độngNhìn chung các TCCSĐ trong các DNNKVNN khi được thành lập đều đi
vào hoạt động. Tuy chất lượng hoạt động còn những hạn chế, song ở những mức độ
khác nhau, các tổ chức đảng đã thể hiện vai trò, vị trí của mình trong các doanh
nghiệp. Tổ chức đảng tồn tại và hoạt động trong các DNNKVNN đã góp phần hạn
chế những hoạt động không lành mạnh của các chủ doanh nghiệp như: Không ký
hợp đồng lao động, không tuân thủ pháp luật...Một số nơi tổ chức đảng đã thể hiện
vai trò của mình trong việc giải quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa chủ doanh nghiệp
51
với người lao động. Tổ chức Công đoàn, hội Liên hiệp Thanh niên, tổ chức Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, phụ nữ trong các DNNKVNN đã được tổ chức
Đảng định hướng các hoạt động trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất, cải tiến kỹ thuật,
tăng năng suất lao động, cải thiện đời sống, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp
của người lao động theo chế độ, chính sách hiện hành của Nhà nước. Đảng viên
được sinh hoạt trong TCCSĐ trong các DNNKVNN có điều kiện tham gia các hoạt
động chính trị của doanh nghiệp, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tổ chức Đảng và đảng viên là cầu nối liền
những người lao động trong doanh nghiệp với tổ chức đảng. Tổ chức đảng mới chủ
yếu cố gắng duy trì sinh hoạt Đảng, nhưng vẫn còn lúng túng trong xác định nội
dung sinh hoạt. Sinh hoạt Đảng mới chủ yếu là thông báo tình hình thời sự, chỉ thị,
nghị quyết của Đảng. Việc thảo luận, trao đổi những vấn đề như bảo vệ lợi ích của
người lao động, thực hiện các chế độ quy định đối với công nhân còn rất hạn chế.
Việc phát triển đảng viên có được triển khai nhưng không thường xuyên, số lượng
phát triển đảng viên mới còn hạn chế. Việc quản lý đảng viên chủ yếu thông qua
sinh hoạt chi bộ, quản lý thông qua công việc, quản lý nơi cư trú...chưa làm được.
Sự gắn bó giữa đảng viên với tổ chức đảng còn lỏng lẻo, trách nhiệm của tổ chức
Đảng với đảng viên còn rất yếu...
Những mặt hạn chế nêu trên của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong
các DNNKVNN ở ĐBSH do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, cấp ủy nhiều nơi chưa nhận thức sâu sắc sự cần thiết phải thành
lập tổ chức đảng trong các DNNKVNN; nhiều nơi chưa quan tâm đúng mức, chưa
chỉ đạo chặt chẽ việc thành lập các tổ chức đảng; chưa chủ động xúc tiến công việc
mà còn trông chờ, ỷ lại vào cấp trên, bị động, đợi khi có đủ điều kiện mới tiến hành
thành lập tổ chức đảng hoặc kết nạp đảng viên mới. Những đảng viên là chủ
doanh nghiệp chưa được chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện những quy định hiện hành
của Đảng.
Thứ hai, nhiều đảng viên trong các DNNKVNN chưa muốn chuyển sinh hoạt
Đảng trong các DNNKVNN, hoặc chưa sẵn sàng cho việc thành lập tổ chức Đảng.
52
Thứ ba, bề ngoài thì các chủ doanh nghiệp ủng hộ việc thành lập tổ chức
Đảng trong doanh nghiệp của họ. Họ không công khai chống đối việc đó, nhưng họ
chần chừ, lảng tránh, tìm cách khéo léo trì hoãn. Tình trạng này là khá phổ biến.
Thứ tư, DNNKVNN là một loại hình kinh tế mới ở nước ta, nó được hình
thành và phát triển rất nhanh những năm gần đây. Việc chỉ đạo xây dựng tổ chức
đảng là vấn đề mới và rất khó. Hiện nay chưa có chuẩn mực về mô hình tổ chức, về
phương thức lãnh đạo...Vì vậy hoạt động của các tổ chức Đảng nơi đây không trách
khỏi những khó khăn, lúng túng.
Từ những đặc điểm của các tỉnh ĐBSH, các DNNKVNN và các tổ chức
đảng, đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH cho thấy vai trò to lớn của các
DNNKVNN đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của các địa phương trong khu vực.
Với sự phát triển mạnh và nhanh chóng các DNNKVNN đã khẳng định vị trí của
mình trong nền kinh tế, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động và ổn định
kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, còn nhiều DNNKVNN sản xuất kinh doanh còn nhiều
khó khăn, làm ăn thua lỗ, thậm chí nhiều doanh nghiệp phải giải thể. Số
DNNKVNN thành lập được tổ chức đảng còn thấp, hoạt động còn nhiều khó khăn.
2.2. Khái niệm, vai trò, nội dung, phương thức quản lý đảng viên
của tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng
bằng sông Hồng
2.2.1. Khái niệm, vai trò quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng
2.2.1.1. Khái niệm quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu
vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng* Đảng viên là thành viên của một đảng chính trị, tự nguyện gia nhập vào tổ
chức đảng, được tổ chức đảng xem xét, quyết định vào tổ chức đảng đó nếu đủ điều
kiện mà đảng đó quy định. Người được tổ chức đảng có thẩm quyền chính thức
công nhận bằng việc ra quyết định kết nạp đảng và giao trách nhiệm sinh hoạt tại
một chi bộ thì gọi là đảng viên.
53
* Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng
của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên
trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh, gắn bó mật thiết với nhân
dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong
Đảng”[35, tr.7].
* Quản lý là phạm trù lịch sử bắt nguồn từ một chức năng lao động xã hội,
mang tính chất xã hội của lao động. Quản lý ra đời gắn liền với hoạt động chung
của nhiều người trong xã hội, bởi vì “mọi lao động xã hội trực tiếp hoặc lao động
chung thực hiện trên qui mô tương đối lớn ở mức độ nhiều hay ít đều cần đến quản
lý” [100, tr. 34 ]. Theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của con người,
là loại lao động đặc biệt, lao động sáng tạo và phát triển từ thấp đến cao, gắn với nó
là sự phân công, chuyên môn hóa lao động quản lý, hình thành các chức năng quản
lý. Từ chức năng, nhiệm vụ, chủ thể quản lý có thể theo dõi, kiểm tra, đánh giá, điều
chỉnh sự hoạt động của mỗi bộ phận và toàn bộ hệ thống quản lý. Mỗi cá nhân trong
hệ thống quản lý đều phải hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể; chủ thể quản
lý theo dõi, kiểm tra, điều chỉnh, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ các hoạt động để tạo
ra sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống quản lý hướng vào mục tiêu chung.
Theo từ điển Tiếng Việt, quản lý có hai nghĩa: “1. Trông coi và giữ gìn theo
những yêu cầu nhất định. 2. Tổ chức và điều khiển theo những yêu cầu nhất định” [
100, tr. 800].
Thuật ngữ pháp lý của Vũ Duy Lâm định nghĩa quản lý là: “Các phương thức,
biện pháp nhằm làm cho hoạt động, tư duy của con người riêng lẻ, hoạt động của
các tổ chức với những cơ chế khoa học được tiến hành phù hợp với mục đích, lợi
ích chung nhằm đạt hiệu quả cao. Các biện pháp quản lý chủ yếu gồm các biện pháp
kinh tế, biện pháp hành chính, biện pháp giáo dục”.
54
Giáo sư Mai Hữu Kế cho rằng: “Hoạt động quản lý là một dạng hoạt động đặc
biệt của người lãnh đạo mang tính tổng hợp của các hoạt động lao động trí óc, liên
kết với bộ máy quản lý làm cho hoạt động nhịp nhàng đưa đến hiệu quả” [53, tr.61].
Ở đây, cần hiểu rằng quản lý là giải quyết công việc phải làm, phải cụ thể hóa mục
tiêu chiến lược thành mục tiêu kế hoạch công việc. Quản lý là xây dựng bộ máy cụ
thể với điều kiện có hiệu lực; xây dựng cơ chế chính sách để thực hiện mục tiêu.
Như vậy, quản lý là điều hành được tài lực, vật lực, nhân lực và quyền lực để đi đến
kết quả quản lý.
Theo Sách tra cứu từ về Tổ chức: Quản lý là quá trình thu thập và xử lý thông
tin, ra quyết định và truyền tải quyết định đó dưới dạng văn bản tới các đối tượng bị
quản lý [65]
Dù cách dùng, cách hiểu của tác giả nêu trên trong các trường hợp, các lĩnh
vực cụ thể có khác nhau, nhưng về cơ bản, khái niệm quản lý bao hàm nghĩa chính
của nó là chăm sóc, là giữ gìn, là duy trì ổn định và phát triển.
Như vậy, có thể quan niệm một cách chung nhất, quản lý là hoạt động có mục
đích, có tổ chức của chủ thể tác động vào các đối tượng bằng các phương thức,
biện pháp nhất định nhằm điều khiển hành vi của các thành viên trong tổ chức, duy
trì sự ổn định và phát triển của một tổ chức đạt được hiệu quả cao nhất mục tiêu
quản lý.
* Quản lý đảng viên
Tập bài giảng nghiệp vụ công tác cán bộ, đảng viên III, Viện Xây dựng Đảng –
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm: “Quản lý đảng viên là
một công tác quan trọng của tổ chức đảng, bao gồm quản lý từng cá nhân đảng viên
trên các mặt như: Quản lý hồ sơ lý lịch gia đình và cá nhân, quản lý quá trình hoạt
động, quản lý trong diễn biến tư tưởng của từng đảng viên; đồng thời quản lý cả đội
ngũ đảng viên về số lượng, về cơ cấu, về chất lượng; quản lý việc phát thẻ và sử
dụng thẻ Đảng. Tất cả công tác đó nhằm mục đích để tổ chức đảng nắm chắc được
thực chất đội ngũ đảng viên để có kế hoạch cho công tác khác của Đảng nhằm phát
55
huy và sử dụng có hiệu quả từng người, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị
chung của Đảng” [47, tr.195].
Luận văn thạc sỹ của Bùi Thị Oanh cho rằng: Quản lý đảng viên là toàn các
hoạt động của các cấp ủy, chi bộ, bao gồm nhiều nội dung nhằm mục đích để các
cấp ủy nắm bắt được thực chất đội ngũ đảng viên của mình để có kế hoạch cho các
công tác khác của đảng bộ, chi bộ, phát huy và sử dụng có hiệu quả từng đảng viên,
góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị chung của Đảng; bảo vệ nội bộ Đảng, ngăn
ngừa kẻ địch, phần tử xấu chui vào Đảng.
Sách tra cứu các mục từ về tổ chức đưa ra khái niệm: “Quản lý đảng viên, một
trong những nhiệm vụ của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với đảng viên Đảng Cộng
sản việt Nam, trước hết ở cấp cơ sở...Nội dung quản lý đảng viên bao gồm các mặt:
Quản lý công tác, quản lý học tập, quản lý sinh hoạt của đảng viên; nhằm giúp đảng
viên phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, khắc phục khó khăn, ngăn ngừa tác
động, ảnh hưởng của các mặt tiêu cực trong xã hội”[65].
Từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm:
Quản lý đảng viên là một trong những nhiệm vụ của cấp ủy và các tổ chức
đảng, trực tiếp nhất là các chi ủy, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở; nhằm nắm chắc
từng đảng viên và đội ngũ đảng viên về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, công
tác và học tập, quan hệ xã hội, hồ sơ và thẻ đảng..., số lượng, cơ cấu và chất lượng
đội ngũ đảng viên để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, khắc phục khó khăn,
ngăn ngừa tác động, ảnh hưởng của các mặt tiêu cực trong xã hội...góp phần xây
dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở, tổ chức đảng cấp trên và toàn Đảng trong sạch, vững
mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Quản lý đảng viên cũng có thể hiểu là toàn bộ hoạt động của tổ chức đảng có
thẩm quyền (cấp uỷ, chi bộ) nhằm nắm chắc những thông tin về việc thực hiện
nhiệm vụ của đảng viên để giáo dục, rèn luyện, góp phần nâng cao chất lượng đảng
viên, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.
56
Những khái niệm trên chỉ ra chủ thể, nội dung, vai trò của công tác quản lý
đảng viên nói chung có thể vận dụng để xác định khái niệm về quản lý đảng viên ở
DNNKVNN ở ĐBSH giai đoạn hiện nay.
* Quản lý đảng viên trong DNNKVNN ở ĐBSH giai đoạn hiện nay là toàn bộ
hoạt động của tổ chức đảng (cấp uỷ, chi bộ) nhằm nắm chắc những thông tin về
việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên để giáo dục, rèn luyện, góp phần nâng
cao chất lượng đảng viên, xây dựng tổ chức đảng trong DNNKVNN trong sạch,
vững mạnh.
Theo khái niệm nêu trên, có thể phân tích một số nội dung chính là:
Về chủ thể quản lý: Chủ thể quản lý đảng viên trong các DNNKVNN là tổ
chức đảng (bao gồm cấp uỷ đảng có thẩm quyền quản lý đảng viên diện cấp uỷ cấp
trên cơ sở quản lý), đặc biệt là cấp uỷ, chi bộ đảng trong các DNNKVNN - nơi đảng
viên trực tiếp sinh hoạt và các cơ quan quản lý DNNKVNN.
+ Cấp uỷ cấp trên cơ sở: lãnh đạo bằng việc thể chế hoá cụ thể hoá các quan
điểm, chủ trương của Đảng, ban hành các quy định hướng dẫn, kiểm tra, giám sát
công tác quản lý đảng viên ở các đảng bộ, chi bộ cơ sở, quản lý hồ sơ đảng viên,
xem xét quyết định cấp thẻ đảng viên, tổ chức làm thẻ, lập danh sách phát thẻ trong
đảng bộ. Giải quyết những khó khăn, vướng mắc từ cơ sở hoặc kiến nghị với cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết.
+ Đảng ủy (Chi uỷ, chi bộ cơ sở): có nhiệm vụ lãnh đạo công tác quản lý đảng
viên và trực tiếp tổ chức tiến hành công tác quản lý đảng viên của đảng bộ (chi bộ).
Trực tiếp quản lý danh sách đảng viên, quản lý hoạt động, quản lý trình độ năng lực,
quản lý các mối quan hệ, quản lý số lượng, cơ cấu, chất lượng, thực hiện vai trò
quản lý. Lãnh đạo, phân công cấp uỷ viên thực hiện nhiệm vụ quản lý đảng viên và
kiểm tra giám sát đôn đốc việc thực hiện. Thực hiện vai trò quản lý thông qua các
chủ doanh nghiệp, đoàn thể, qua hội nghị thường kỳ của đảng ủy, qua các cấp ủy
viên phụ trách các chi bộ, qua công tác sơ kết, tổng kết công tác đảng, công tác
chuyên môn của doanh nghiệp.
57
+ Chi ủy, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở (Chi uỷ chi bộ cơ sở): quản lý danh
sách đảng viên, quản lý chính trị, tư tưởng, trình độ, năng lực công tác, sinh hoạt gia
đình và quan hệ xã hội, số lượng, cơ cấu chất lượng đảng viên. Tổ chức duy trì chế
độ sinh hoạt chi bộ, phân công công tác cho đảng viên và thông qua ý kiến nhận xét
của nhân dân, của các tổ chức đoàn thể, kể cả thông qua việc sơ kết, tổng kết công
tác của doanh nghiệp.
Lực lượng tham gia quản lý :
+ Đảng viên trong tổ chức Đảng và tổ chức chính trị - xã hội, quần chúng nhân
dân nơi đảng viên sinh hoạt. Thực hiện vai trò quản lý thông qua công tác, sinh
hoạt, lối sống của đảng viên là cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp.
+ Chủ doanh nghiệp: Với tư cách là cơ quan quản lý cán bộ, nhân viên và
người lao động của doanh nghiệp, trong đó có đảng viên, quản lý trình độ, năng lực
công tác, kết quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, lối sống và
các mối quan hệ xã hội; thông qua sơ kết, tổng kết công tác của doanh nghiệp.
+ Chi bộ nơi đảng viên cư trú: Quản lý sinh hoạt, đạo đức, lối sống; quản lý
việc chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, những nghị quyết, qui định của Đảng, của cấp trên và của cấp mình. Thực
hiện quản lý đảng viên ở nơi cư trú, nắm bắt tình hình sinh hoạt gia đình và các mối
quan hệ khác của đảng viên.
* Đối tượng quản lý đảng viên và đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN
ở ĐBSH.
Mọi đảng viên với tư cách là thành viên của tổ chức Đảng (cấp uỷ, chi bộ):
phẩm chất, năng lực, các mối quan hệ xã hội, lịch sử chính trị, hồ sơ, thẻ đảng của
từng đảng viên của tổ chức Đảng trong DNNKVNN.
Tuy nhiên, giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý ở từng mối quan hệ cụ
thể có thể có sự chuyển hóa. Một đảng viên trong DNNKVNN ở ĐBSH giai đoạn
hiện nay là đối tượng quản lý của cấp ủy, tổ chức Đảng nhưng lại là lực lượng tham
gia quản lý đảng viên khác, đặc biệt là chủ thể năng động, sáng tạo trong quá trình
tự quản lý bản thân.
58
* Về mục đích quản lý: Quản lý đảng viên nhằm nắm chắc những thông tin có
liên quan về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đảng viên theo Điều lệ Đảng và
các quy định khác của Đảng. Cụ thể là nắm chắc việc thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy chế quy định của các cấp
uỷ Đảng, các quy định của cơ quan, nhất là các quy định của Bộ Chính trị về 19
điều đảng viên không được làm đối với đảng viên trong chi bộ, góp phần xây dựng
đội ngũ đảng viên và tổ chức Đảng vững mạnh về mọi mặt, bảo đảm hoàn thành
nhiệm vụ chính trị của Đảng ở doanh nghiệp.
Trên cơ sở nhận xét, đánh giá đảng viên, tổ chức đảng góp ý, phê bình thường
xuyên để mỗi đảng viên phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, thực hiện tốt
chức trách nhiệm vụ được giao, luôn là đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm
vụ. Khi mỗi đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động của tổ chức đảng, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của doanh nghiệp, ổn
định việc làm, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ,
nhân viên trong doanh nghiệp.
2.2.1.2. Vai trò của quản lý đảng viênQuản lý đảng viên là một nội dung quan trọng trong công tác đảng viên và
công tác xây dựng Đảng. Thông qua quản lý đảng viên, các cấp ủy và các tổ chức
đảng nắm chắc đội ngũ đảng viên để có chủ trương, biện pháp thích hợp, nâng cao
chất lượng đảng viên, chất lượng tổ chức cơ sở đảng; góp phần quan trọng vào việc
bảo vệ nội bộ Đảng, ngăn ngừa kẻ địch, phần tử xấu chui vào Đảng,[30, tr 190]. Cụ thể:
Quản lý đảng viên góp phần quan trọng vào việc nắm chắc đội ngũ đảng viên
và phân công công tác cho đảng viên trong DNNKVNN
Tổ chức cơ sở Đảng lập thành nền tảng của Đảng, là nơi mà tổ chức đảng và
đảng viên gắn bó mật thiết với nhân dân, hoạt động trong lòng nhân dân. TCCSĐ
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao được năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của mình sẽ là yếu tố quyết định đến sức mạnh của toàn Đảng, đến
thành công của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng giai đoạn
cách mạng.
59
Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị ở cơ sở, nơi quán triệt, chấp hành chủ
trương, đường lối, nhiệm vụ chính trị của cấp trên; cụ thể hoá, đề ra nhiệm vụ của
cấp mình và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ đó, biến chủ
trương, đường lối, nhiệm vụ của Đảng thành hiện thực trong cuộc sống. TCCSĐ là
nơi trực tiếp có điều kiện quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của nhân dân; là nơi tổng kết thực tiễn, bổ
sung vào chủ trương, đường lối của Đảng ngày càng hoàn thiện và đúng đắn, có lý
có tình, hợp với ý Đảng lòng dân.
Tổ chức Đảng lại do những đảng viên tạo thành. Vì vậy, chất lượng đội ngũ
đảng viên suy cho cùng có tính chất quyết định chất lượng tổ chức Đảng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức nên” [59, tr.
235], “đảng viên tốt thì Đảng mới mạnh” [60, tr. 571]
Công tác quản lý đảng viên là một khâu quan trọng, có tính chất bao trùm
toàn bộ công tác đảng viên. Nếu như công tác đảng viên bao gồm các khâu như: bồi
dưỡng phát triển đảng; kết nạp đảng viên; phân công đảng viên; giáo dục, rèn luyện
đảng viên; nhận xét đánh giá, xếp loại đảng viên; khen thưởng, kỷ luật đảng viên....
thì quản lý đảng viên chỉ là một trong những khâu nêu trên.
Quản lý đảng viên góp phần nắm chắc đội ngũ đảng viên, nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên nên vai trò của quản lý đảng viên thể hiện trước hết ở
chính vai trò của đảng viên. Đảng viên có vai trò quan trọng, góp phần quan trọng
vào việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng; họ là người trực tiếp cùng
TCCSĐ nơi họ sinh hoạt, dân chủ thảo luận đề ra nhiệm vụ chính trị của địa
phương, cơ quan, đơn vị và tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa
phương, cơ sở. Đảng viên luôn sinh hoạt trong một tổ chức đảng nên tổ chức đảng
trong sạch, vững mạnh là điều kiện quan trọng quyết định chất lượng đội ngũ đảng
viên. Song, mỗi đảng viên lại là một nhân tố quan trọng trong tổ chức, góp phần tạo
nên sức mạnh của tổ chức đảng. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng mạnh
là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”. Hơn nữa, đảng viên sống
60
gắn bó và trưởng thành trong lòng nhân dân, được thử thách, rèn luyện thông qua
hoạt động thực tiễn. Đảng viên là người tuyên truyền, giáo dục, tổ chức, hướng dẫn
cho nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ sở, chấp hành nghiêm chỉnh
đường lối, chủ trương, chính sánh của Đảng và Nhà nước. Qua phong trào nhân
dân, một mặt người đảng viên thuyết phục, giáo dục, vận động nhân dân, mặt khác
học hỏi nhân dân được rất nhiều những kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Mọi công việc của Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết của
Đảng đều do đảng viên chấp hành...Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của đảng đều do
đảng viên cố gắng thực hiện” [59, tr. 235-236].
Sức mạnh của tổ chức đảng phụ thuộc vào từng đảng viên nên mỗi đảng
viên với tư tưởng lập trường quan điểm của mình và năng lực uy tín với quần chúng
đều là sự thể hiện và góp phần tạo dựng nên uy tín của tổ chức đảng.
Quản lý đảng viên giúp cấp uỷ, chi bộ trong DNNKVNN nắm vững tình hình
chất lượng đảng viên để tiến hành mọi mặt công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên.
Quản lý đảng viên là một trong những công việc có liên quan đến công tác
đảng viên và có mối liên hệ với tất cả các công việc khác trong công tác đảng viên.
Ví dụ, để đánh giá, xếp loại đảng viên hằng năm ngoài việc theo dõi đánh giá đảng
viên qua công việc được giao tại doanh nghiệp thì phải nắm được thông tin khác về
đảng viên trong mối quan hệ với gia đình, xã hội, nhất là dân cư nơi đảng viên cư
trú. Việc nắm toàn diện về đảng viên của tổ chức đảng chính là công tác quản lý
đảng viên. Quản lý đảng viên không phải chỉ để nắm vững tình hình mọi mặt của
đảng viên mà mục tiêu chính là có được những biện pháp, giải pháp về công tác xây
dựng Đảng trên cơ sở căn cứ khoa học và thực tiễn. Nhiệm vụ xây dựng nội bộ
đảng của mỗi chi bộ thường được xác định sau khi phân tích đánh giá tình hình thực
tế công tác xây dựng Đảng của tổ chức đảng và căn cứ vào yêu cầu thưc tiễn để đề
ra nhiệm vụ trong thời gian tiếp theo - thường là của tháng sau. Như vậy, công tác
quản lý đảng viên suy cho cùng là nhằm nâng cao chất lượng đảng viên, chất lượng
chi bộ, đảng bộ.
61
Quản lý đảng viên góp phần nắm chắc ưu điểm của đảng viên để phát huy,
khuyết điểm để khắc phục, đồng thời ngăn ngừa những tác động tiêu cực đối với
đảng viên
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhiều cám dỗ của cuộc sống rất dễ dẫn đến sự sa ngã đối với đảng viên nến như
không được quản lý tốt, giáo dục tốt và tự rèn luyện tốt của mỗi đảng viên. Hơn
nữa, đất nước ta trải qua các cuộc chiến tranh kéo dài, lý lịch của nhiều đảng viên
khá phức tạp, kẻ thù thua trận luôn tìm mọi cách chống phá cách mạng và không ít
những trường hợp địch cài cắm với mưu đồ phá hoại Đảng từ bên trong. Vì vậy
công tác quản lý đảng viên, nhất là lý lịch đảng viên, tính trung thực trong việc kê
khai lý lịch của đảng viên cần được hết sức coi trọng.
Quản lý đảng viên không thuần tuý là nắm đảng viên. Vấn đề quan trọng hơn
rất nhiều việc nắm chắc đảng viên về mọi mặt chính là để có biện pháp giáo dục,
nhắc nhở, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong nhận thức và hành vi sai trái của
đảng viên. Xét việc quản lý đảng viên với tư cách là việc nắm thông tin về việc
đảng viên thực hiện quyền và trách nhiệm của mình ở mọi lúc, mọi nơi để đánh giá
đúng đảng viên, phê bình góp ý đảng viên thì công tác quản lý đảng viên có tính
chất bao trùm toàn bộ các khâu của công tác đảng viên. Do vậy, công tác quản lý
đảng viên trở nên quan trọng đặc biệt, có liên quan mật thiết với chất lượng đội ngũ
đảng viên.
Do đó, hiểu quản lý đảng viên không phải là khâu tiếp nối của các khâu khác
mà chính là hoạt động thường xuyên của tổ chức đảng, nhất là từ khi quần chúng trở
thành đảng viên, mang danh đảng viên cho đến hết cả cuộc đời hoạt động cách
mạng của mỗi đảng viên. Theo đó, quản lý đảng viên là việc thường xuyên, chủ
động của tổ chức, có sự phân công, có các quy chế, quy định, quy trình nắm thông
tin, xử lý thông tin và có các giải pháp nhằm làm cho mỗi đảng viên - với tư cách là
người được quản lý luôn phấn đấu rèn luyện và trưởng thành, thực hiện tốt nhiệm
vụ được giao, luôn là đảng viên gương mẫu, được đồng nghiệp, đồng chí và nhân
dân tin tưởng, yêu mến, kính trọng.
62
Quản lý đảng viên góp phần quan trọng vào việc xây dựng TCCSĐ, đoàn thể
chính trị - xã hội trong DNNKVNN trong sạch vững mạnh.
Quản lý đảng viên thông qua việc phân công đảng viên thực hiện nhiệm vụ
công tác vận động quần chúng trong doanh nghiệp với tư cách là thành viên của mỗi
đoàn thể chính trị - xã hội. Như vậy, nếu quản lý tốt đảng viên, phân công công việc
cụ thể, yêu cầu báo cáo tình hình hoạt động của tổ chức đoàn thể mà đảng viên tham
gia, đồng thời giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên sẽ góp phần tạo uy
tín của tổ chức đảng với đoàn thể quần chúng thông qua đội ngũ đảng viên và cũng
thông qua đó tổ chức đoàn thể để rèn luyện, quản lý được đảng viên. Đại hội lần
thứ VIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Chấn chỉnh và cải tiến sinh hoạt đảng; có quy
định chặt chẽ đối với những trường hợp đảng viên đi công tác, làm việc lưu động
nơi xa, ở nước ngoài. Thực hiện có nền nếp việc quản lý đảng viên”; “Xây dựng nền
nếp quản lý chặt chẽ đảng viên giúp cho Đảng nắm chắc đảng viên” [33, tr. 148 - 149].
Mỗi đảng viên “phải tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi bộ” [33, tr. 143].
Quản lý đảng viên trong các DNNKVNN tốt góp phần nâng cao uy tín của
Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước và của chủ doanh nghiệp.
2.2.1.3. Đặc điểm đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu
vực nhà nước ở đồng bằng sông HồngThứ nhất, phần lớn đảng viên trong DNNKVNN ở các tỉnh ĐBSH xuất thân từ
nông dân, điều kiện kinh tế khó khăn.
Bản thân các tỉnh, thành phố ở ĐBSH luôn trong tình cảnh “đất chật, người
đông”. Bình quân diện tích đất canh tác trên mỗi người dân thấp nhất so với các
vùng trong cả nước nên đã từ lâu, nhất là thời kỳ đổi mới, lao động phi nông nghiệp
tăng nhanh và hầu hết đi làm ở những vùng lân cận, nhất là ở thành phố lớn. Ngay
cả thành phố Hà Nội - Thủ đô và là thành phố lớn nhất của vùng ĐBSH cũng đang
chịu áp lực rất lớn từ các nguồn nhân lực tập trung về. Trong số công nhân, người
lao động đó có khá đông đảng viên. Mọi hoạt động dịch vụ của Thành phố trở nên
quá tải. Hơn nữa, bản thân Thành phố Hà Nội cũng đang bị thu hẹp nhanh chóng
vùng đất nông nghiệp nhường chỗ cho các khu công nghiệp, giao thông và do đó
63
công nhân, người lao động, đảng viên từ nông dân cũng tham gia vào sự gia tăng,
thậm chí làm gia tăng quá nhanh về dân số của Thủ đô Hà Nội.
Thứ hai, đảng viên trong DNNKVNN của các tỉnh ĐBSH được kết nạp từ quần
chúng ưu tú ở nhiều nguồn khác nhau và rất ít người được kết nạp từ chính
DNNKVNN.
Cũng do đảng viên trong các DNNKVNN chủ yếu xuất thân từ nông dân nên
nguồn phát triển đảng cho các tổ chức đảng trong các DNNKVNN chủ yếu từ nông
dân. Tuy nhiên, số đảng viên được kết nạp ban đầu thường từ trong quân đội trở về
nông thôn sau khi hết nghĩa vụ quân sự. Một số đảng viên được kết nạp từ địa
phương sau quá trình công tác đoàn thể, chuyên môn tại địa phương. Một số đảng
viên lại từ các đơn vị, cơ quan, doanh nghiệp ở nhiều tỉnh, thành phố khác cũng
chuyển về địa phương - nơi gia đình cư trú nay còn tuổi lao động, lại đi làm công
cho DNNKVNN.
Mặc dù DNNKVNN ở ĐBSH tăng rất nhanh nhưng so với các loại hình tổ
chức đảng, tổ chức đảng trong DNNKVNN không những chậm được thành lập nhất
mà còn khó khăn nhất trong công tác phát triển đảng. Do đó, nơi có quần chúng
công nhân đông, sống và làm việc tập trung, lẽ ra có điều kiện thuận lợi để phát
triển tổ chức đảng và đảng viên nhưng lại không phát triển đảng được với nhiều lý
do khác nhau. Chính vì vậy, sự đa dạng, nhiều nguồn phát triển đảng trong đội ngũ
đảng viên của DNNKVNN vừa làm phong phú thêm cho tính đa dạng của đội ngũ
đảng viên nhưng cũng tạo nên nhiều bất cập trong quá trình sinh hoạt, công tác khi
nhận thức, quan điểm chưa tạo được sự tương đồng.
Thứ ba, phần lớn đảng viên trong DNNKVNN ở ĐBSH làm việc xa nhà, không
ổn định về nơi làm việc nên chỗ ở cũng bị thay đổi thường xuyên.
Đối với công nhân, người lao động nói chung và đảng viên nói riêng trong các
DNNKVNN khi nghề nghiệp bấp bênh thì nơi ăn, chốn ở không thể ổn định. Đây
cũng là trở ngại nhất cho việc chuyển sinh hoạt đảng của đảng viên và ảnh hưởng
lớn nhát đến chất lượng sinh hoạt đảng của đảng viên trong DNNKVNN. Đặc điểm
lớn nhất của đa số DNNKVNN ở các tỉnh ĐBSH, nhất là doanh nghiệp tư nhân là
64
quy mô nhỏ, vốn ít, hoạt động cầm chừng, khó khăn lớn, sản xuất kinh doanh bập
bênh làm cho đảng viên của Đảng trong DNNKVNN cũng thường xuyên biến động.
Không ít doanh nghiệp sau một thời gian thành lập phải giải thể hoặc trốn thuế, trốn
nợ, làm ăn phi pháp, buôn lậu, làm hàng giả, hàng kém chất lượng mà đôi khi các
cơ quan nhà nước không thể kiểm soát được. Nhiều DNNKVNN chỉ còn trên giấy
đăng ký hoặc biển hiệu công ty mà thực chất đã giải thể, phá sản từ lâu. Hơn nữa,
hầu hết các DNNKVNN thường không lo được chỗ ở cho công nhân, cũng làm cho
công nhân, đảng viên trong DNNKVNN không gắn bó trọn đời với doanh nghiệp
được. Hơn thế nữa, cơ chế thị trường, nơi nào trả lương cao hơn, công nhân, đảng
viên cũng sẵn sàng từ bỏ nơi mình đang làm việc để chuyển công tác ở một doanh
nghiệp mới. Chính vì vậy công tác quản lý đảng viên đã khó lại càng khó khăn hơn
ở DNNKVNN.
Thứ tư, đảng viên trong DNNKVNN ở ĐBSH ít có điều kiện học tập, sinh hoạt
để nâng cao trình độ lý luận chính trị và tay nghề.
Nhìn chung lao động ở ĐBSH nói riêng và cả nước nói chung ít được đào tạo
nghề một cách bài bản, thiết thực. Ngay cả tính số lượng đã qua đào tạo, năm 2010
tỷ lệ lao động qua đào tạo cũng chỉ đạt 40%, trong đó lao động qua đào tạo nghề là
25%. Việc học qua các trường đào tạo chất lượng cũng chưa cao, chưa thiết thực
nên lao động ở Việt Nam nói chung tay nghề còn hạn chế. Khi lao động đi làm việc
trong các DNNKVNN, không ít trường hợp không thể sử dụng được những lao
động đã được đào tạo nghề vì không phù hợp. Thường thì các DNNKVNN tự đào
tạo, truyền nghề nhằm giúp người lao động có được những kiến thức tối thiểu, đủ để
làm việc. Việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề rất ít được các
DNNKVNN coi trọng. Tuy vậy, cũng có nhiều trường hợp, DNNKVNN thu hút lao
động giỏi, có tay nghề cao từ cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp khác, kể cả công chức
nhà nước song số này thường không muốn vào Đảng, thậm chí đã là đảng viên bỏ
sinh hoạt đảng hoặc xin ra khỏi Đảng.
Thứ năm, tâm lý tự ti, ngại tham gia các hoạt động chính trị - xã hội là khá phổ
biến trong đội ngũ đảng viên ở DNNKVNN
65
Mặc dù những “ông chủ” của DNNKVNN cũng thường xuất thân từ nông dân
và các tầng lớp khác trong xã hội nhưng công nhân, người lao động, trong đó có
đảng viên thường mặc cảm với công việc mình làm, luôn cho rằng mình là người
làm thuê. Từ tâm lý đó mà không muốn ai biết mình là đảng viên nên trì hoãn, coi
nhẹ việc thực hiện trách nhiệm sinh hoạt và hoạt động của mình với tư cách là
người đảng viên. Họ cho rằng, Đảng là người lãnh đạo nhưng ở DNNKVNN, lãnh
đạo lại là chủ doanh nghiệp, tất cả công nhân, đảng viên ở đó là người làm thuê,
không thể nói đến lãnh đạo được. Tâm lý mặc cảm với bản thân mình đã làm cho
đảng viên không muốn tham gia những vấn đề chính trị - xã hội trong doanh nghiệp,
không đấu tranh bảo vệ lẽ phải, phê phán việc làm sai trái, nhất là của chủ doanh
nghiệp trong việc thực hiện hợp đồng lao động với công nhân, những cam kết với
công nhân, trách nhiệm với xã hội và nghĩa vụ đối với Nhà nước...
2.2.2. Nội dung, phương thức quản lý đảng viên trong doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay
2.2.2.1. Nội dung quản lý đảng viên trong doanh nghiệp ngoài khu vực
nhà nước ở đồng bằng sông Hồng* Quản lý về số lượng đảng viên
Đây là hoạt động quản lý đảng viên thuần tuý về nghiệp vụ, tức là việc theo
dõi sự biến đổi các thông tin về số lượng đảng viên được kết nạp mới; số đảng viên
qua đời; số đảng viên chuyển đi, chuyển đến; số đảng viên bị xóa tên trong danh
sách đảng viên của đảng bộ, chi bộ. Tuy vậy, qua sự biến đổi về số lượng cũng có
thể đánh giá, kết luận về xu hướng vận động của công tác xây dựng Đảng ở
DNNKVNN. Mặc dù số lượng đông không phải lúc nào cũng phản ánh chất lượng
và thay thế cho chất lượng nhưng sự biến đổi về số lượng có thể làm thay đổi về
chất lượng đảng viên trong trường hợp cụ thể. Không thể có tổ chức Đảng mạnh khi
có quá ít đảng viên. Thậm chí, khi không đủ đảng viên để thành lập tổ chức Đảng
nên nhiều nơi phải tổ chức sinh hoạt ghép, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
đảng viên, chất lượng TCCSĐ. Việc nắm được sự biến đổi về số lượng đảng viên sẽ
66
giúp các cấp uỷ đảng đưa ra những biện pháp, giải pháp nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên, đảm bảo sự phát triển ổn định về số lượng đảng viên.
* Quản lý chất lượng đội ngũ đảng viên
Nội dung quản lý đảng viên nói chung bao gồm các hoạt động nhằm làm cho
đảng viên thực hiện đầy đủ, đúng đắn những tiêu chuẩn đảng viên và nhiệm vụ của
đảng viên theo quy định của Điều lệ Đảng. Nội dung quản lý đảng viên cũng còn
bao gồm các hoạt động nhằm làm cho đảng viên thực hiện đúng đắn những quyền
của đảng viên theo quy định của Điều lệ Đảng.
Đảng ủy, chi uỷ phải nắm chắc và đầy đủ về phẩm chất, năng lực của đội ngũ
đảng viên cũng như từng đảng viên, cả quá trình biến đổi về chất lượng đảng viên.
Hiện tại, đội ngũ đảng viên của đảng bộ, chi bộ có mặt bằng trình độ thế nào, hằng
năm có bao nhiêu đảng viên học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, sự
biến đổi về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống ra sao, những biến đổi theo xu
hướng tích cực hay tiêu cực. Đó là những thông số quan trọng mà đảng uỷ, chi uỷ
phải thường xuyên cập nhật.
Quản lý chất lượng đảng viên có thể được thể hiện qua các yếu tố sau:
Thứ nhất, quản lý về chính trị, tư tưởng
Quản lý đảng viên về chính trị tư tưởng là việc các tổ chức đảng theo dõi,
quản lý sự xác lập, biến động về quan điểm, lập trường chính trị của người đảng
viên, từ đó có định hướng, giáo dục, giúp đỡ đảng viên có suy nghĩ và hành động
đúng đắn theo đúng quy định về tư cách của người đảng viên cộng sản. Do tác động
nhiều chiều của cuộc sống đối với mỗi đảng viên, tổ chức đảng phải kịp thời phát
hiện những yếu kém, sai lầm, lệch lạc về tư tưởng chính trị; giáo dục uốn nắn giúp
họ sửa chữa, tiến bộ. Đồng thời xử lý nghiêm túc những người qua giáo dục nhiều
lần mà vẫn không tiến bộ, thậm chí thoái hóa, biến chất hoặc có những hành vi
chống phá Đảng về tư tưởng, chính trị.
Quản lý đảng viên về chính trị tư tưởng là một việc khó nhưng có thể xác định
được những biểu hiện lệch lạc về tư tưởng của đảng viên. Đó là việc đảng viên nói
67
và viết trái với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
a dua, cổ suý, tuyên truyền cho các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.
Thứ hai, quản lý về đạo đức, lối sống
Quản lý đảng viên về tư tưởng, đạo đức, lối sống là việc theo dõi, nhận định,
xác minh, đánh giá đảng viên theo những yếu tố biểu hiện về đạo đức cách mạng để
tham, góp ý kiến phê bình để đảng viên đó tiến bộ và xử lý kỷ luật nếu đảng viên đó
không sửa chữa khuyết điểm.
Người đảng viên đương nhiên phải là người có đạo đức như mọi công dân và
phải gương mẫu hơn trong việc giữ gìn đạo đức lối sống nhưng vấn đề đòi hỏi cao
hơn thế là đạo đức cách mạng.
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực xã hội thừa nhận, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm
tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [52, tr. 7].
Đạo đức cách mạng Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là:
“Nhận rõ phải trái. Giữ vững lập trường
Tận trung với nước. Tận hiếu với dân” [59, tr. 480].
Như vậy, đạo đức cách mạng (hay đạo đức của cán bộ, đảng viên), trước hết
phải là đạo đức của một con người, một công dân nhưng đòi hỏi cao hơn về tinh
thần hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. Cụ thể là:
+ Tận trung với nước, tận hiếu với dân, hết lòng, hết sức phục vụ sự nghiệp
của Đảng, của Tổ quốc và nhân dân, đặt lợi ích của cách mạng, của đất nước và
nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân.
+ Thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Không tham nhũng, lãng phí.
Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, cương lĩnh, kỷ luật của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
+ Ra sức học tập, rèn luyện không ngừng nâng cao trình độ, năng lực công tác,
giữ gìn lối sống trong sạch, lành mạnh. Đề cao tự phê bình và phê bình nhằm góp
phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh.
68
+ Gương mẫu trong mọi việc, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, đoàn
kết, thân ái, nêu cao tinh thần thương yêu đồng chí, thương yêu con người, đồng loại.
+ Có tinh thần quốc tế trong sáng.
Trong điều kiện hiện nay, đạo đức của người đảng viên được nhấn mạnh ở lối
sống lành mạnh, văn minh, trung thực, nhân nghĩa không tham nhũng và luôn đấu
tranh chống tham nhũng; tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước cộng đồng, có ý
thức bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và môi trường sinh thái. Đạo đức của người đảng
viên gắn liền với một niềm tin vào sức mạnh và sự nghiệp của nhân dân, vào tiền đồ
của dân tộc, vào sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối đổi mới của Đảng.
Thứ ba, quản lý công tác thực tiễn, thực hiện nhiệm vụ và học tập
Cấp ủy, tổ chức đảng nắm vững trình độ và năng lực công tác thực tiễn của
người đảng viên để tiến hành phân công nhiệm vụ cho đảng viên phù hợp với năng
lực và sở trường, đồng thời có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và giới thiệu những
đảng viên thực sự ưu tú ứng cử vào chức vụ lãnh đạo trong bộ máy Đảng, cơ quan,
lãnh đạo doanh nghiệp và các đoàn thể chính trị - xã hội. Thời kỳ hội nhập quốc tế
đang đặt ra những yêu cầu cao hơn về trình độ, năng lực đối với từng người đảng
viên, đòi hỏi mỗi đảng viên phải không ngừng cố gắng học tập nâng cao trình độ
chính trị, văn hóa, khoa học – công nghệ, ngoại ngữ, tin học và rèn luyện về bản
lĩnh chính trị, tích lũy kinh nghiệm công tác thực tiễn để có thể hoàn thành mọi
nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, quản lý về quan hệ xã hội
Ngoài những hoạt động tại cơ quan, tổ chức mà tổ chức Đảng có thể theo dõi,
quản lý được thì người đảng viên có một khoảng thời gian dài trong ngày sinh hoạt
tại gia đình và tham gia các hoạt động xã hội. Từ đó, đòi hỏi tổ chức Đảng cũng
phải có biện pháp, hình thức phù hợp để quản lý những hoạt động cơ bản của đảng
viên tại nơi cư trú và ngoài xã hội.
69
Quản lý về sinh hoạt gia đình đối với đảng viên là theo dõi, xem xét, đánh giá
các quan hệ của đảng viên đó trong gia đình, vợ, con, họ hàng theo các quan hệ đạo
đức là chủ yếu.
Quản lý về quan hệ xã hội của đảng viên là theo dõi, xem xét, đánh giá các
quan hệ của đảng viên đó với hàng xóm, bạn bè, người khác có liên quan đến quan
hệ tình cảm, kinh tế, xã hội khác trong việc chấp hành các quy định của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và các quan hệ xã hội của đảng viên.
* Quản lý về cơ cấu đội ngũ đảng viên
Quản lý đảng viên không chỉ chú ý đến chất lượng, số lượng mà còn cần quan
tâm quản lý về cơ cấu, bởi vì cơ cấu đội ngũ đảng viên có thể tác động đến chất
lượng và quan trọng hơn là ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của tổ
chức Đảng trên các lĩnh vực.
Cơ cấu đội ngũ đảng viên là sự so sánh về số lượng đảng viên trong các ngành
chuyên môn, độ tuổi, nam nữ, dân tộc, tôn giáo và đánh giá những tác động của nó
đối với công tác đảng viên, nhất là những nhận thức, quan điểm, lối sống, phong
cách công tác để có những biện pháp giáo dục, học tập, sinh hoạt cho phù hợp, giữ
gìn đoàn kết trong chi bộ.
Việc quản lý cơ cấu đội ngũ đảng viên phải chú ý đến số đảng viên phân bố ở
các lĩnh vực chuyên môn; về giới tính, độ tuổi, dân tộc, tôn giáo… có bất cập
không, có thể xảy ra các xung đột trong tư tưởng không ?.
Cơ cấu về độ tuổi đảng viên trong mỗi tổ chức đảng trong DNNKVNN cũng
cần được chú ý vì nó đảm bảo cho tổ chức đảng chú ý kết nạp đảm bảo tính liên tục,
ổn định giữa các thế hệ cán bộ, đảng viên. Lớp đảng viên cũ ngày càng cao tuổi nếu
như không kết nạp được đảng viên mới liên tục qua các năm thì đến một lúc nào đó,
DNNKVNN sẽ không còn đảng viên và khi đó đương nhiên là không còn tổ chức
Đảng. Cơ cấu trình độ chuyên môn cũng đáng được quan tâm nhằm tạo sự nhận
thức chung ngày càng cao, càng có điều kiện để thống nhất về nhận thức, quan
điểm và chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đồng đều trong đội ngũ
70
đảng viên. Công tác quản lý về cơ cấu đảng viên phải đặc biệt quan tâm với tinh
thần không để một lĩnh vực nào mà không có đảng viên hoặc tổ chức đảng.
* Quản lý hồ sơ và thẻ đảng viên
Việc quản lý hồ sơ đảng viên là một việc lưu giữ lý lịch đảng viên và các văn
bản có liên quan đến đảng viên lâu dài. Ngay từ khi Đảng ra đời, Nghị quyết Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ sáu (khoá I) đã nêu rõ: “Đảng viên từ chỗ này qua
chỗ khác phải có sự giới thiệu về lý lịch cẩn thận thì mới công nhận”.
Quản lý hồ sơ và thẻ đảng viên có vai trò quan trọng trong việc có thêm thông
tin để đánh giá đảng viên kể cả trong quá khứ, trước khi vào Đảng và trong suốt quá
trình hoạt động cách mạng. Trong nhiều trường hợp, mặc dù đã có sự chuẩn bị khá
công phu nhưng vẫn có thể phải xem lại xác minh những điều kiện gia nhập Đảng,
những thông tin tự khai của đảng viên, xác nhận của các tổ chức để xác định lại tính
trung thực của đảng viên.
Đảng ủy có trách nhiệm quản lý hồ sơ đảng viên và danh sách đảng viên. Hồ sơ
đảng viên là hệ thống giấy tờ theo quy định của Trung ương, ghi nhận về người
đảng viên, phản ánh về lịch sử chính trị, quan hệ gia đình, quan hệ xã hội, quá trình
hoạt động cách mạng, phẩm chất, trình độ, năng lực và quá trình công tác của người
đảng viên. Hồ sơ đảng viên bao gồm: lý lịch đảng viên, các quyết định kết nạp vào
Đảng, công nhận đảng viên chính thức, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật và các bản
kiểm điểm, nhận xét đảng viên, xếp loại đảng viên hằng năm hay giấy chuyển sinh
hoạt đảng… Hồ sơ đảng viên là tài liệu mật của Đảng, phải được tổ chức quản lý
chặt chẽ theo đúng quy định về sử dụng, bảo quản tài liệu mật.
Việc phát thẻ và quản lý thẻ đảng viên là công việc quan trọng của Đảng góp
phần nâng cao ý thức đảng, tinh thần phấn đấu, ý thức tổ chức, kỷ luật và đoàn kết
nội bộ, ngăn ngừa kẻ địch, phần tử xấu chui vào Đảng. Đảng ủy có thẩm quyền xét
và làm thủ tục đề nghị về phát thẻ đảng viên, cấp lại thẻ đảng viên bị mất hoặc bị
hỏng; tổ chức lễ phát thẻ đảng viên; định kỳ mỗi năm một lần tổ chức kiểm tra thẻ
đảng viên; thu hồi thẻ đảng viên của người đã ra khỏi Đảng nộp lên cấp ủy cấp trên.
71
Như vậy, xét về tổng thể, việc kiểm điểm, đánh giá, xếp loại đảng viên hằng
năm có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý đảng viên.
Quản lý chất lượng đảng viên phải được thể hiện trước hết qua việc đánh giá
chất lượng đảng viên hằng năm. Việc đánh giá, phân loại chất lượng đảng viên thực
hiện theo Hướng dẫn số 27 - HD/BTCTW ngày 25/9/2014 của Ban Tổ chức Trung
ương “về đánh giá, phân loại chất lượng của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng
viên”, căn cứ vào 4 nội dung: về tư tưởng chính trị; về phẩm chất đạo đức và lối
sống; về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; về ý thức tổ chức kỷ luật. Chất
lượng đảng viên được xếp thành 4 mức sau:
Mức thứ nhất, đảng viên đủ tư cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: là những
đảng viên thực hiện xuất sắc 4 nội dung nêu trên và được trên ½ số đảng viên chính
thức của chi bộ biểu quyết bằng phiếu kín, được chi bộ biểu dương hoặc đề nghị cấp
trên khen thưởng. Số đảng viên này không vượt quá 15% tổng số đảng viên đủ tư
cách hoàn thành tốt nhiệm vụ của chi bộ. Trường hợp chi bộ dưới 7 đảng viên, nếu
có đảng viên xuất sắc thì tối đa cũng chỉ 1 đồng chí.
Mức thứ hai, đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ: là những đảng
viên phấn đấu thưc hiện tốt 4 nội dung nêu trên và được trên ½ số đảng viên chính
thức của chi bộ biểu quyết bằng phiếu kín tán thành.
Mức thứ ba, đảng viên đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ: là những đảng viên
cơ bản thực hiện được 4 nội dung đánh giá nêu trên và được ½ số đảng viên chính
thức của chi bộ biểu quyết bằng phiếu kín tán thành. Trong số đảng viên đủ tư cách,
hoàn thành nhiệm vụ, chi bộ cần chỉ rõ những đảng viên còn có mặt hạn chế và
những hạn chế đó cần có giải pháp kịp thời sửa chữa, khắc phục.
Mức thứ tư, đảng viên vi phạm tư cách hoặc không hoàn thành nhiệm vụ: là
những đảng viên đang chấp hành kỷ luật của Đảng, chính quyền, đoàn thể từ khiển
trách trở lên trong năm, hoặc phạm một số khuyết điểm sau và có trên ½ đảng viên
chính thức trong chi bộ biểu quyết bằng phiếu kín tán thành.
Qua theo dõi đánh giá chất lượng đảng viên hằng năm để kịp thời có hình thức
khen thưởng đảng viên phù hợp qua 3 năm, 5 năm liên tục hoặc để xử lý đảng viên
72
vi phạm tư cách, không tiến bộ. Hội nghị Trung ương 6 (khoá X) Đảng ta đã chỉ đạo
rõ: “Những đảng viên 2 năm liền xếp loại vi phạm tư cách thì đưa ra khỏi Đảng
bằng hình thức phù hợp”.
2.2.2.2. Phương thức quản lý đảng viên trong doanh nghiệp ngoài khu
vực nhà nướcPhương thức quản lý đảng viên là biện pháp, cách thức mà tổ chức đảng sử
dụng để quản lý đảng viên có hiệu lực hiệu quả, đảm bảo được mục tiêu quản lý.
Mục tiêu quản lý đảng viên thực chất cũng là nhằm xây dựng, rèn luyện đội
ngũ đảng viên. Đó là một trong những biện pháp của tổ chức đảng, của mỗi đảng
viên nhằm nâng cao chất lượng từng đảng viên và cả đội ngũ đảng viên về số lượng,
chất lượng, cơ cấu đồng bộ, bảo đảm đội ngũ đảng viên thực sự tiền phong, gương
mẫu, được quần chúng nhân dân tín nhiệm, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Nâng cao chất lượng của từng đảng viên để đảng viên đạt được các tiêu chí
cụ thể là: phẩm chất chính trị phải vững vàng; phẩm chất đạo đức và lối sống trong
sáng, lành mạnh, trình độ mọi mặt đáp ứng nhiệm vụ được giao, có năng lực công
tác, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; thường xuyên giữ mối quan hệ mật
thiết với quần chúng, có tinh thần học tập, tu dưỡng... được thể hiện ở hiệu quả thiết
thực của hành động, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Chất lượng của từng
đảng viên là yếu tố cơ bản tạo nên chất lượng của cả đội ngũ, của tổ chức đảng.
Xây dựng cả đội ngũ với tính cách là một chỉnh thể, thể hiện ở số lượng phải
đi đôi với chất lượng, cơ cấu đội ngũ hợp lý, có tỷ lệ cân đối về giới tính, dân tộc,
tôn giáo, độ tuổi. Đội ngũ đảng viên phải được phân bố đều đặn khắp các đơn vị.
Đội ngũ đảng viên phải được sự quan tâm của tổ chức đảng trong việc duy trì
sinh hoạt đúng quy định, có chất lượng cao; quản lý chặt chẽ; kiểm tra, giám sát
thường xuyên; kỷ luật nghiêm minh nếu có sai phạm.
Chất lượng cuối cùng của đội ngũ đảng viên là kết quả của việc hoàn thành
nhiệm vụ chính trị nói chung và hoàn thành nhiệm vụ mà từng đảng viên được phân
công nói riêng.
Thứ nhất, quản lý đảng viên thông qua nhiệm vụ được giao và nhiệm vụ đảng viên
73
Thông qua việc giao nhiệm vụ cho đảng viên và việc thực hiện đầy đủ, đúng
đắn các quy định, hướng dẫn của cấp trên về nhiệm vụ đảng viên.
Các quy định, hướng dẫn của cấp trên là căn cứ quan trọng để các cấp uỷ, chi
bộ tiến hành quản lý đảng viên. Thực chất việc nắm thông tin về đảng viên là nắm
những quy định của Đảng có liên quan đến đảng viên và đối chiếu, so sánh vận
dụng vào từng đảng viên để biết việc gì của đảng viên làm là đúng, việc gì mà đảng
viên làm là không đúng.
Các văn kiện quan trọng cần nắm vững để quản lý đảng viên là Điều lệ Đảng,
Quy định số 47 – QĐ/ TW của Ban Chấp hành Trung ương về 19 điều đảng viên
không được làm, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ mà đảng viên được tổ chức
đảng phân công. Quy trình nắm và xử lý thông tin, nhắc nhở kiểm điểm, yêu cầu
đảng viên nói đúng, làm đúng các quy định của Đảng là rất cần thiết, tránh sai sót,
vi phạm và có thể gây mất đoàn kết trong tổ chức đảng.
Thứ hai, quản lý đảng viên thông qua việc quản lý của chi bộ đảng trong các
doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, qua việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi
bộ, xây dựng chi bộ đảng trong sạch vững mạnh.
Chi bộ là tổ chức gắn bó mật thiết nhất với mỗi đảng viên, nơi đảng viên trực
tiếp sinh hoạt, công tác có điều kiện để hiểu rõ từng hành vi, quá trình phấn đấu của
đảng viên. Chi bộ cũng là nơi thực hiện tốt nhất công tác xây dựng đội ngũ đảng
viên vững mạnh thông qua sinh hoạt thường xuyên hằng tháng, kiểm điểm nhắc
nhở, góp ý cho từng đảng viên để điều chỉnh, uốn nắn những lệch lạc để đảng viên
tiến bộ không ngừng. Đảng viên là người đưa đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng vào quần chúng, trực tiếp tổ chức, giáo dục và lãnh đạo quần chúng thực hiện.
Đảng viên là người duy trì và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng.
Mặt khác, phong trào cách mạng của quần chúng là môi trường tốt nhất để giáo dục,
rèn luyện đảng viên, sàng lọc đội ngũ đảng viên. Chính phong trào cách mạng của
quần chúng ở cơ sở là trường học lớn để đội ngũ đảng viên thể hiện phẩm chất và
năng lực của mình. Đồng thời, phong trào cách mạng của quần chúng giúp đảng
74
viên tự hoàn chỉnh mình, để đảng ủy, chi bộ làm tốt hơn nữa công tác quản lý
đảng viên.
Thứ ba, thông qua chi uỷ, ban Mặt trận Tổ quốc nơi đảng viên cư trú.
Đảng viên trong DNNKVNN chỉ làm việc khoảng 1/3 thời gian tại doanh
nghiệp còn lại là thời gian sống với gia đình, nơi cư trú và xã hội trong thời gian
khá dài và liên tục. Quản lý đảng viên là quản lý toàn diện, trong tình hình hiện nay,
quản lý đạo đức, lối sống được xem là nội dung quan trọng; quản lý tốt nội dung
này tổ chức đảng có đảng viên đang công tác cần kết hợp chặt chẽ với chi bộ nơi có
đảng viên đang cư trú theo Qui định số 76-QĐ/TW ngày 15 tháng 6 năm 2000 của
Bộ Chính trị “Về việc đảng viên đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự
nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực
hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú” để kịp thời ngăn ngừa, chấn chỉnh những vi
phạm có thể xảy ra.
Thứ tư, quản lý đảng viên thông qua các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh
nghiệp ngoài khu vực nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị của địa
phương và nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội là nơi rèn luyện, bồi dưỡng và giới thiệu những
quần chúng ưu tú cho đảng, đồng thời là nơi đảng viên tham gia sinh hoạt, hoạt
động; Bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực công tác, phẩm chất đạo đức, lối sống
của đảng viên được thể hiện ra trong công tác sinh hoạt, lối sống. Thông qua thực tế
hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức Đảng sẽ có cơ sở khách quan
trong việc đánh giá đúng chất lượng của mỗi đảng viên.
Khi đảng viên trong DNNKVNN thường chủ yếu là công nhân công việc
không ổn định, làm việc xa nhà, ít được sự giám sát, kiểm tra thường xuyên của cấp
uỷ nên dễ dẫn đến vi phạm tư cách đảng viên trong các mối quan hệ xã hội nhiều
khi tổ chức Đảng trong doanh nghiệp không thể kiểm soát được. Nhiều trường hợp
do túng thiếu mà đảng viên vay mượn tiền của người khác trong khi khả năng trả nợ
khó khăn hay những quyến rũ đời thường đảng viên có quan hệ với khá nhiều đối
tượng không lành lạnh, dễ sa vào con đường cờ bạc, thậm chí các tệ nạn xã hội
75
nghiêm trọng như trộm cắp, mại dâm, nghiện hút chất ma tuý, ảnh hưởng lớn đến
sức khoẻ, kinh tế và hạnh phúc gia đình mà nghiêm trọng hơn là thanh danh uy tín
của đảng viên. Thông qua cộng đồng dân cư và sự tham gia của nhân dân trong việc
phát hiện những sai phạm của đảng viên sẽ giúp tổ chức Đảng có thêm căn cứ để
xem xét, đánh giá, xử lý đảng viên vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. biện pháp này góp phần quan trọng trong việc giáo dục, rèn luyện và
sàng lọc đảng viên theo tinh thần nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI).
Thứ năm, quản lý đảng viên thông qua công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ
các cấp, chi bộ
Cấp ủy, chi bộ tiến hành kiểm tra, giám sát đảng viên trong việc chấp hành
Điều lệ Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên và
của cấp mình; kiểm tra, giám sát các hoạt động của đảng viên, việc giữ gìn phẩm
chất đạo đức, lối sống và việc giữ mối quan hệ với tổ chức đảng nơi cư trú. Qua
kiểm tra, giám sát cấp ủy, chi bộ sẽ có đầy đủ thông tin về đảng viên và đội ngũ
đảng viên để khích lệ những đảng viên phát huy những ưu điểm, kịp thời chấn
chỉnh, uốn nắn những lệch lạc. Kiểm tra, giám sát đối với đảng viên trong
DNNKVNN là một công việc khó khăn khi đảng viên hoạt động dưới sự chỉ đạo,
kiểm soát của chủ doanh nghiệp nên không dễ để cấp uỷ có được thông tin chính
thức đối với đảng viên của mình ngay chính tại doanh nghiệp nơi đảng viên công
tác. Hơn thế nữa, chỗ ở của không ít đảng viên trong DNNKVNN lại không ổn
định, thậm chí tạm bợ hoặc di chuyển nhiều nơi nên việc kiểm tra, giám sát của cấp
uỷ và nhân dân nơi cư trú đối với đảng viên càng khó khăn hơn. Chính vì vậy rất
cần các cấp uỷ đảng quan tâm thực sự đến công tác kiểm tra, giám sát đảng viên, có
phương thức phù hợp nhằm phát huy tính tự quản của đảng viên, thông qua các chi
bộ nơi đảng viên cư trú, quần chúng cùng công tác, cùng ở và phối hợp cả với gia
đình đảng viên khi cần thiết.
Thứ sáu, quản lý đảng viên thông qua hồ sơ và thẻ đảng viên
Do bởi đảng viên nói chung, đặc biệt là trong DNNKVNN dễ biến động,
chuyển đổi vị trí công tác, lại qua nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, quản lý nên chỉ có
76
thông qua hồ sơ đảng viên mới có thể hiểu rõ ràng, sâu sắc hơn về quá trình phát
triển của đảng viên, hoàn cảnh gia đình, bản thân để có thêm những thông tin nhận
xét, đánh giá cán bộ, đảng viên. Khi cấp uỷ, người đứng đầu cấp uỷ hiểu đầy đủ có
hệ thống về đảng viên về quá khứ cũng như hiện tại về hoàn cảnh gia đình, quá
trình công tác, ưu khuyết điểm qua các thời kỳ công tác có thể chắp nối liền mạch
trong đánh giá mặt mạnh, bản chất cũng như những khuyết điểm cơ bản của đảng
viên mà không dễ khắc phục trong mỗi con người để chia sẻ, cảm thông và có cách
ứng xử phù hợp, giúp đảng viên tiến bộ, trưởng thành.
Thứ bảy, quản lý đảng viên thông qua việc tự quản, tự rèn luyện của mỗi đảng viên.
Quản lý đảng viên là quá trình giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tổ chức
đảng với trách nhiệm của từng đảng viên, trong đó phát huy tính tích cực, tự giác, tự
quản lý của từng đảng viên bao giờ cũng có ý nghĩa quyết định trực tiếp. Sự hình
thành, phát triển về phẩm chất và năng lực, đạo đức, lối sống của đảng viên nói
chung là một quá trình phấn đấu lâu dài, bền bỉ, thông qua nhiều hình thức đào tạo,
bồi dưỡng ở nhà trường, sự tự giác rèn luyện của đảng viên trong hoạt động thực
tiễn. Chính vì vậy, ý thức tự giác chấp hành kỷ luật đảng của đảng viên, tự giác rèn
luyện, phấn đấu, giữ vững phẩm chất đạo đức của công dân, đạo đức cách mạng của
người đảng viên giữ vai trò quan trọng có tính quyết định đến sự phát triển của mỗi
đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết luận: “Đạo đức cách mạng không phải trên
trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [57, tr. 293].
Kết luận chương 2
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất là đường lối đổi mới trên lĩnh
vực kinh tế, gần 30 năm qua, thay vì chủ yếu là các DNNN và HTX chiếm tuyệt đối
trong nền kinh tế bao cấp là sự phát triển mạnh mẽ về số lượng các DNNKVNN. Ở
ĐBSH, nơi có nhiều tiềm năng, lợi thế so với cả nước về vị trí địa lý, điều kiện cơ
sở hạ tầng, văn hoá truyền thống đa dạng, phong phú, đặc biệt là lực lượng lao động
dồi dào, có mặt bằng kiến thức cao nhất toàn quốc, các DNNKVNN ra đời nhanh
chóng và sớm trưởng thành về mọi mặt. Với việc phát huy mọi nguồn lực cho sự
77
phát triển, thu hút các nguồn vốn, chất xám trong quản lý của các doanh nhân, các
DNNKVNN đã tập hợp được lực lượng lao động đông đảo có tay nghề, thậm chí tự
đào tạo để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, từng bước mở rộng sản xuất. Các
DNNKVNN đã có những đóng góp to lớn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết
việc làm, xoá đói giảm nghèo cho người lao động, đóng góp thuế cho Nhà nước,
làm giàu cho bản thân, gia đình và quê hương đất nước.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng về số lượng các DNNKVNN, các tổ chức
đảng cũng bắt đầu được xác lập tại một số DNNKVNN. Công tác xây dựng Đảng
nói chung và công tác đảng viên nói riêng cần được coi trọng và thực hiện tốt ngay
từ đầu và liên tục cùng với sự tồn tại, phát triển của mỗi tổ chức đảng. Tuy nhiên,
không được như các tổ chức đảng của các loại hình khác, đảng viên trong
DNNKVNN có những đặc điểm mà nó chi phối rất mạnh mẽ đến công tác đảng
viên ở đó. Công tác quản lý đảng viên cũng phải chú trọng đến đặc điểm đảng viên
trong DNNKVNN các tỉnh ĐBSH để có cách đánh giá khách quan, chính xác, tìm
ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan và đề ra những giải pháp khoa học,
khả thi nhằm làm tốt công tác quản lý đảng viên, góp phần nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên trong DNNKVNN.
Quản lý đảng viên trong DNNKVNN có vai trò quan trọng trong công tác đảng
viên. Mục tiêu quản lý đảng viên là nắm chắc từng đảng viên về mọi mặt để kịp thời
phát hiện những sai sót, khuyết điểm để nhắc nhở, uốn nắn làm cho mỗi đảng viên
luôn thực sự là người gương mẫu, đi đầu trong mọi mặt, để quần chúng noi theo và
góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh. Nội dung quản lý đảng
viên rất rộng, bao gồm quản lý chất lượng, số lượng, cơ cấu, quản lý hồ sơ, thẻ đảng
viên và thông qua việc đánh giá, xếp loại đảng viên hằng năm. Phương thức quản lý
đảng viên cũng rất đa dạng. Đó là những cách thức mà cấp uỷ, chi bộ sử dụng trong
công tác quản lý đảng viên như căn cứ vào các văn bản của Đảng, nhiệm vụ được
giao của đảng viên, phát huy vai trò của tập thể chi bộ, quần chúng trong doanh
nghiệp nơi đảng viên công tác và chi bộ, địa phương nơi đảng viên cư trú, đặc biệt
là phát huy vai trò tự giác rèn luyện của mỗi đảng viên.
78
Chương 3
QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
NGOÀI KHU VỰC NHÀ NƯỚC Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG -
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
3.1. Thực trạng đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu
vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng
3.1.1. Ưu điểm
3.1.1.1. Về số lượng đảng viên* Số lượng đảng viên trong DNNKVNN ở các tỉnh, thành phố đồng bằng
sông Hồng như sau:
Đảng bộ tỉnh Hải Dương, tính đến 30/7/2014, trong doanh nghiệp tư nhân
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tổng số 151 đảng viên (doanh nghiệp
tư nhân có 112 đảng viên; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 39 đảng viên;
có 05 đảng viên là chủ doanh nghiệp) [85].
Đảng bộ tỉnh Hà Nam, tính đến ngày 30/6/2014, có 714 đảng viên (doanh
nghiệp cổ phần nhà nước dưới 50% vốn có 171 đảng viên; doanh nghiệp tư nhân có
384 đảng viên; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 159 đảng viên) [ 84].
Đảng bộ tỉnh Nam Định có 3417 đảng viên, trong đó: công ty cổ phần có
vốn nhà nước dưới 50% với 2.099 đảng viên; công ty cổ phần tư nhân với 555 đảng
viên; doanh nghiệp tư nhân: có 498 đảng viên; doanh nghiệp thành lập theo Luật
Hợp tác xã: có 233 đảng viên; công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân: với 25 đảng
viên; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 07 đảng viên [88] .
Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, tính đến 31/6/2014, toàn tỉnh có 1.666 đảng viên.
Số đảng viên trong doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 3,19% tổng số đảng viên
của đảng bộ tỉnh [87].
Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, năm 2013 có 1.222 đảng viên (tăng 236 đảng viên
so với năm 2008), đặc biệt là đã kết nạp được 08 đảng viên mới là chủ doanh
nghiệp tư nhân [ 89].
79
Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, đến tháng 12/2014 Số lượng đảng viên trong các
doanh nghiệp là 4.344 đảng viên, bằng 2,6% tổng số đảng viên của đảng bộ tỉnh [83].
Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, Tính đến 30/6/2014, toàn tỉnh có 4.508 đảng viên
trong các DNNKVNN, trong đó: 3699 đảng viên trong doanh nghiệp có 100% vốn
trong nước, 104 đảng viên trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; 78 doanh
nghiệp có đảng viên nhưng chưa có tổ chức đảng với 173 đảng viên sinh hoạt ở các
chi bộ khu dân cư. Có 124 đảng viên là chủ doanh nghiệp [ 90].
Đảng bộ Thành phố Hà Nội, tính đến 30/6/2014, trong các DNNKVNN với
tổng số 21.829 đảng viên. Trong đó: 15.949 đảng viên trong các doanh nghiệp có
vốn nhà nước dưới 50%; 1.915 đảng viên trong các loại hình doanh nghiệp tư nhân;
308 đảng viên trong các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài; doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài với 342 đảng viên. Trong các doanh nghiệp hợp tác xã phi
nông nghiệp có 79 đảng viên [79].
Đảng bộ Thành phố Hải Phòng, Tính đến tháng 12 năm 2014, trong các
doanh nghiệp tư nhân có 1.600 đảng viên. TCCSĐ trong các doanh nghiệp liên
doanh với nước ngoài và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, năm 2009 với 330
đảng viên [ 80].
Đảng bộ tỉnh Thái Bình, tính đến ngày 31-12-2012, toàn tỉnh có 169
TCCSĐ trong các loại hình DNNKVNN với tổng số 4.963 đảng viên, trong đó có
23 TCCSĐ trong các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (bao gồm 15
doanh nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh), chiếm 13,6%; 59 TCCSĐ trong
các công ty cồ phần được chuyển đổi từ DNNN sang, chiếm 35%; 85 TCCSĐ trong
các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân,
chiếm 50,2%; 2 TCCSĐ trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh
nghiệp liên doanh với nước ngoài, chiếm 1,2 %; 130 doanh nghiệp chưa có tổ chức
đảng có 311 công nhân, lao động đang làm việc tại doanh nghiệp là đảng viên (72
doanh nghiệp có 1 đảng viên, 31 doanh nghiệp có 02 đảng viên, 27 doanh nghiệp có
từ 03 đảng viên trở lên) [91].
80
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc, tính đến hết 30 tháng 09 năm 2014, có 6.044 doanh
nghiệp đầu tư vào địa bàn tỉnh. Trong tổng số doanh nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc có
115 tổ chức Đảng với 3.572 đảng viên. Trong đó có 63 TCCSĐ với 1.452 đảng viên
sinh hoạt trong các DNNKVNN.
Trong 5 năm (2008 – 2014) trong các DNNKVNN ở ĐBSH công nhân được
kết nạp chiếm 9-10% nhưng lại chủ yếu từ DNNN trước khi cổ phần hóa; công
nhân trực tiếp sản xuất được kết nạp chiếm tỷ lệ bình quân 6-8%/năm. Hà Nội có
đến 137 ngàn lao động nhưng đến 68% lao động ngoại tỉnh. 400 ngàn doanh nghiệp
nhưng chỉ có 40 ngàn doanh nghiệp có tổ chức Công đoàn. Khu công nghiệp khu
chế xuất ở Hà Nội chỉ có 23/534 DNNKVNN có TCCSĐ.
3.1.1.2. Về chất lượng đảng viênPhần lớn đội ngũ đảng viên giữ gìn phẩm chất, thấy rõ trách nhiệm của mình,
tích cực học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, chấp hành tốt chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong điều kiện thế giới có nhiều
biến động chính trị và những khó khăn trong nước, nhất là những khó khăn của các
DNNKVNN khi nền kinh tế thế giới suy giảm nhưng tuyệt đại đa số đảng viên đều
trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công của chủ
doanh nghiệp và nhiệm vụ do TCCSĐ giao.
Nhiều đảng viên trong DNNKVNN đều tích cực học tập, rèn luyện, nâng
cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng,
có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan
liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của
Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm. Nhiều cấp
ủy, tổ chức đảng đã quan tâm bồi dưỡng tạo nguồn kết nạp vào Đảng những quần
chúng có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề cao, cán bộ trong bộ máy quản lý
và cán bộ các đoàn thể trong doanh nghiệp có đủ điều kiện vào Đảng.
81
Đa số đảng viên trong DNNKVNN đều có mối liên hệ chặt chẽ với công
nhân, tôn trọng, phát huy quyền làm chủ, quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần
và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động; tích cực tham gia công tác quần
chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Đa số đảng viên trong DNNKVNN đều có trách nhiệm tham gia xây dựng,
bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn
kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với
Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng
quy định.
3.1.2. Hạn chế
3.1.2.1. Về số lượng đảng viênMặc dù chất lượng đảng viên là yếu tố quyết định đến phẩm chất, năng lực
của đội ngũ đảng viên nhưng cũng cần tính đến yếu tố số lượng đảng viên. Chỉ khi
nào có số lượng đảng viên cần thiết mới đáp ứng được yêu cầu thành lập tổ chức
đảng, bảo đảm quy mô lãnh đạo của tổ chức đảng. Tuy nhiên, công tác xây dựng,
phát triển tổ chức đảng và kết nạp đảng viên trong các loại hình doanh nghiệp này
còn chậm và gặp nhiều khó khăn, chưa đạt được yêu cầu nêu trong Chỉ thị 07-
CT/TW của Bộ Chính trị. Nhiều cấp ủy đảng chưa tập trung chỉ đạo nên nhiều
doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng; một bộ phận công nhân lao động giác ngộ
chính trị thấp, ngại tham gia các hoạt động chính trị xã hội, không thiết tha phấn đấu
vào Đảng; một số chủ doanh nghiệp không muốn nhận đảng viên vào làm việc và
không muốn có tổ chức đảng trong doanh nghiệp của mình… Nhiều doanh nghiệp
đủ số lượng đảng viên nhưng chưa thành lập được tổ chức đảng; một số đảng viên
làm việc ổn định ở doanh nghiệp nhưng vẫn sinh hoạt đảng ở nơi cư trú, cá biệt có
đảng viên không nhận là đảng viên do sợ ảnh hưởng đến việc làm; nhiều doanh
nghiệp nhỏ ở nông thôn số lượng công nhân ít và không ổn định hoặc đảng viên
doanh nghiệp là người thân trong gia đình, dòng họ, nên cấp ủy cấp trên còn ngại
thành lập các tổ chức đảng, đoàn thể nhân dân trong doanh nghiệp đó…
82
3.1.2.2. Về chất lượng đảng viênTrong điều kiện kinh tế thị trường, bản thân là lao động làm thuê cho chủ
doanh nghiệp nên khó tránh khỏi những tâm tư, tuy vẫn trung thành với mục đích lý
tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhưng vẫn có một bộ
phận đảng viên băn khoăn, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thậm chí có
một bộ phận không thiết tha với Đảng.
Do công việc bận rộn, thiếu thời gian nên một bộ phận đảng viên trong
DNNKVNN chưa tích cực học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực
công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng. Tinh thần đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu
cực khác trong doanh nghiệp còn yếu, thậm chí thờ ơ với mọi vấn đề diễn ra trong
doanh nghiệp.
Một số đảng viên trong DNNKVNN chưa thực sự là tấm gương trong công
nhân, ít quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng
của công nhân, chưa chủ động tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi
làm việc và nơi ở.
Hiệu quả tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của
Đảng, của đảng viên trong DNNKVNN còn thấp. Tinh thần tự phê bình và phê bình
trong nội bộ Đảng còn yếu, chưa tích cực làm công tác phát triển đảng viên; sinh
hoạt đảng chưa đầy đủ và đóng đảng phí có lúc còn chậm, chưa đúng quy định.
Những cố gắng của đội ngũ đảng viên trong DNNKVNN trong điều kiện đặc
biệt khó khăn đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng, củng cố tổ chức nâng
cao chất lượng hoạt động của các TCCSĐ và các đoàn thể nhân dân, nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp uỷ đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, phát
huy được vai trò, vị trí của các tổ chức đảng, đoàn thể trong DNNKVNN. Đội ngũ
đảng viên đã cùng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh,
góp phần đảm bảo việc làm, thu nhập, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
83
của người lao động, đóng góp tích cực trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, các mục
tiêu kinh tế - xã hội của địa phương các tỉnh, thành phố ĐBSH trong những năm qua.
Chất lượng đảng viên cũng được thể hiện ở kết quả phân loại đảng viên
trong những năm qua (Phụ lục 1): Ví dụ: Ở Thành phố Hà Nội, năm 2012, có
32.559/33.018 đảng viên được đánh giá chất lượng đạt 98,6%, trong đó: Đủ tư cách,
hoàn thành tốt nhiệm vụ 24.065 đảng viên, đạt 73,91%; đủ tư cách hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ 4.288, đạt 13,16%; đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ 4.092, đạt
12,56%, đảng viên vi phạm tư cách 114 (0,35%).
Năm 2013, có 32.111/32.946 đảng viên được đánh giá phân loại đạt 97,46%,
trong đó: Đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ 23.248 đảng viên đạt 72,39%; đủ tư
cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ 4.069, đạt 12,67%; đủ tư cách, hoàn thành
nhiệm vụ 3.734, đạt 11,62%, đảng viên vi phạm tư cách 1.060 (3,3%). Ở tỉnh Hưng
Yên: Đánh giá chất lượng trung bình hằng năm: đảng viên đủ tư cách, hoàn thành
tốt nhiệm vụ đạt 66,73% (trong đó, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm 14,03%);
đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ chiếm 32,96%; vi phạm tư cách chiếm 0,3%. Chất
lượng đảng viên ở các tỉnh, thành phố được đánh giá ở (phụ lục 1)
3.2. Thực trạng quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu
vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng
3.2.1. Ưu điểm
3.2.1.1. Về nội dung quản lý đảng viênCác cấp uỷ đảng, chính quyền ở các tỉnh, thành phố ĐBSH đã đầu tư lớn về
mọi mặt nhằm khẩn trương xây dựng, củng cố và phát triển TCCSĐ trong các
DNNKVNN, thể hiện bằng nghị quyết, chỉ thị, đề án và các kế hoạch cụ thể.
Ở Thành phố Hà Nội, ngoài các nghị quyết, đề án, Thành uỷ đã ban hành Kế
hoạch số 47-KH/BCĐTU ngày 02/3/2012 của Ban Chỉ đạo Thành phố về tổ chức
thực hiện nghị quyết và kế hoạch hằng năm của Ban Chỉ đạo xây dựng Đảng và các
đoàn thể nhân dân trong các DNNKVNN trên địa bàn thành phố; Quyết định số
1371-QĐ/BCĐ ngày 01/3/2012 "về việc giao chỉ tiêu thành lập mới tổ chức đảng
trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước trên địa bàn Thành phố”; Quy định
84
số 1774-QĐ/TƯ ngày 19/6/2012 quy định tạm thời một số điểm khi thành lập Đảng
bộ khối doanh nghiệp, đảng bộ cụm công nghiệp trực thuộc quận, huyện, thị uỷ;
Quyết định số 2100-QĐ/TU ngày 5/9/2012 “về việc ban hành Quy định tạm thời
một số chế độ, định mức chi hỗ trợ tổ chức đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội
trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước trên địa bàn Thành phố".
Để thực hiện có kết quả Nghị quyết số 09-NQ/TU của BTV Thành uỷ, BTV
các quận, huyện, thị uỷ đã thành lập Ban Chỉ đạo và Tổ công tác giúp việc. Trên cơ
sở phân bổ chỉ tiêu của Thành uỷ, các quận, huyện, thị uỷ đã thực hiện sắp xếp, bố
trí, phân công cán bộ chuyên trách thuộc Ban Tổ chức để làm tốt công tác tham
mưu, theo dõi thực hiện Nghị quyết 09 - NQ/TƯ. Đối với các Đảng uỷ Khối và
Đảng uỷ Tổng công ty trực thuộc Thành uỷ không thành lập Ban chỉ đạo, thực hiện
ngay việc phân công một đồng chí Uỷ viên BTV cấp uỷ trực tiếp phụ trách công tác
phát triển tổ chức đảng và các đoàn thể nhân dân ngoài khu vực nhà nước của doanh
nghiệp của mình.
Đối với những doanh nghiệp chưa có đảng viên hoặc chưa đủ đảng viên để
thành lập chi bộ theo quy định Điều lệ Đảng, BTV các quận, huyện, thị uỷ, đảng uỷ
trực thuộc đã phân công cấp ủy viên, đảng viên có kinh nghiệm, phối hợp với các
đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp phát hiện, bồi dưỡng, tạo nguồn kết nạp
đảng viên để khi có đủ điều kiện sẽ triển khai thành lập tổ chức đảng mới. Một số
nơi có cách làm sáng tạo, cử đảng viên đang công tác tại các ban đảng của các quận,
huyện ủy, đảng ủy Khối xuống sinh hoạt tại doanh nghiệp để giúp thành lập chi bộ
ở những DNNKVNN chưa đủ số lượng đảng viên theo quy định. Ban hành cơ chế
hỗ trợ kinh phí cho hoạt động của TCCS đảng và các đoàn thể nhân dân trong các
DNNKVNN; hàng quý giao ban kiểm điểm tiến độ triển khai các chỉ tiêu về thành
lập TCCS đảng, các đoàn thể và kết nạp đảng viên mới trong các loài hình doanh
nghiệp này; có sơ tổng kết và khen chê kịp thời. Trong hơn hai năm triển khai thực
hiện hướng dẫn số: 17 – HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương và Nghị quyết
09- NQ/TU của Thành ủy, Hà Nội đã kết nạp được 19 chủ doanh nghiệp tư nhân
vào đảng, trong đó: có hai đồng chí là chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc, 04 đồng
chí là chủ tịch HĐQT, 11 đồng chí là tổng giám đốc. Hàng năm lãnh đạo thành phố
85
đều tổ chức gặp gỡ, đối thoại với chủ doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước để tháo
gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nhất là vốn và thị trường tiêu thụ sản phẩm [79].
Ở Thành phố Nam Định đã tổ chức hội nghị toạ đàm “Nâng cao chất lượng
hoạt động của TCCSĐ trong doanh nghiệp tư nhân”, mời chủ doanh nghiệp ngoài
khối tham gia để giao lưu, tìm hiểu, tuyên truyền vai trò của tổ chức đảng và đảng
viên trong việc xây dựng và phát triển doanh nghiệp. Phối hợp với Ban quản lý các
khu công nghiệp tỉnh, Liên đoàn lao động tỉnh khảo sát, nắm tình hình, số lượng
đảng viên đang làm việc tại các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài trên địa bàn thành phố Nam Định (tập trung khảo sát 52 doanh nghiệp
tại khu công nghiệp Hoà Xá). Tiếp cận với các doanh nghiệp có đủ số luợng đảng
viên, hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định, vận động những đảng viên trong các
doanh nghiệp làm thủ tục chuyển sinh hoạt đảng từ nơi cư trú về nơi làm việc, tuyên
truyền thuyết phục chủ doanh nghiệp thành lập tổ chức đảng [88].
Ở tỉnh Quảng Ninh, đã chuyển các chi bộ trực thuộc đảng ủy xã, phường, các
chi bộ cơ sở có ít đảng viên, hợp nhất các tổ chức đảng hoạt động phân tán thành
mô hình hoạt động chung và chuyển đảng viên trong doanh nghiệp đang sinh hoạt ở
nơi cư trú để thành lập đảng bộ cơ sở Khối các DNNKVNN. Cùng với những nỗ lực
trong công tác xây dựng tổ chức đảng trong DNNKVNN, công tác quản lý đảng
viên được các cấp uỷ có thẩm quyền chú trong toàn diện [90]. Cụ thể:
*Về quản lý số lượng đảng viên
Trong quá trình thành lập các TCCSĐ, nếu doanh nghiệp nào chỉ có 1-2 đảng
viên đều được giới thiệu sinh hoạt ghép. Ở các chi bộ, TCCSĐ đều có sổ theo dõi
sự biến đổi các thông tin về số lượng đảng viên được kết nạp mới; số đảng viên qua
đời; số đảng viên chuyển đi, chuyển đến; số đảng viên bị xóa tên trong danh sách
đảng viên của đảng bộ. Ở những doanh nghiệp đã có 1-2 đảng viên phải chuyển
sinh hoạt ghép thì công tác phát triển đảng viên mới được chú trọng đặc biệt. Mục
tiêu trước mắt là kết nạp để có đủ điều kiện thành lập chi bộ, tạo điều kiện bước đầu
hết sức quan trọng trong công tác xây dựng Đảng ở DNNKVNN.
86
*Về quản lý chất lượng đội ngũ đảng viên
Về cơ bản, các cấp uỷ đảng, nhất là đảng ủy, chi uỷ đã chủ động nắm được đội
ngũ đảng viên của mình về phẩm chất, năng lực, quá trình biến đổi về chất lượng
đảng viên. Đó là các thông tin về đảng viên như trình độ bằng cấp, chế độ học tập,
bồi dưỡng về chuyên môn, lý luận chính trị.
Những diễn biến về tư tưởng của đảng viên đều được quan tâm. Những dấu
hiệu lệch lạc về quan điểm, lập trường chính trị của người đảng viên được phân
tích, phê phán kịp thời. Do nhiều tác động của xã hội, do việc làm đời sống của
công nhân, của đảng viên còn nhiều khó khăn, có lúc đảng viên bi quan chán nản
nên cấp uỷ đảng đã thường xuyên định hướng, giáo dục, giúp đỡ đảng viên có suy
nghĩ và hành động đúng đắn theo đúng quy định về tư cách của người đảng viên
cộng sản.
Do đó, trong điều kiện đầy biến động chính trị trên thế giới và những diễn biến
phức tạp trong nước nhưng đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH vẫn trung
thành với Đảng, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Trong điều kiện nhiều đảng viên sống xa nhà, dễ phát sinh những tiêu cực
trong cuộc sống nhưng các cấp uỷ đảng đã thường xuyên giáo dục nâng cao đạo
đức, lối sống cho đảng viên trong chi bộ. Những biểu hiện suy thoái về đạo đức lối
sống đều được phê phán, cảnh báo thường xuyên trong các cuộc họp chi bộ. Đồng
thời, các chi bộ đã chú trọng việc giáo dục tinh thần gương mẫu của đảng viên về đạo
đức, lối sống để quần chúng noi theo.
Từ mỗi buổi sinh hoạt chi bộ, từng đảng viên đều được phân công nhiệm vụ
phù hợp với năng lực và sở trường. Qua các hoạt động của đảng viên, sự gương
mẫu, năng lực tổ chức được thể hiện, đã có nhiều đảng viên được chủ doanh nghiệp
lựa chọn, bổ nhiệm giữ cương vị phụ trách các đơn vị, bộ phận của doanh nghiệp.
Chi bộ thường xuyên kiểm điểm và yêu cầu đảng viên phải không ngừng cố
gắng học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học – công nghệ, ngoại ngữ,
tin học và rèn luyện về bản lĩnh chính trị, tích lũy kinh nghiệm công tác thực tiễn để
có thể hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
87
Công tác quản lý những hoạt động cơ bản của đảng viên tại nơi cư trú và ngoài
xã hội cũng được các chi bộ, cấp uỷ đảng quan tâm. Hoàn cảnh gia đình, điều kiện
ăn ở của đảng viên trong điều kiện hiện nay còn nhiều khó khăn nhưng các cấp uỷ
đảng vẫn cố gắng đến mức cao nhất trong việc theo dõi, xem xét, đánh giá các quan
hệ của đảng viên đó trong gia đình, vợ, con, họ hàng theo các quan hệ đạo đức là
chủ yếu. Nhìn chung đảng viên chấp hành tốt các quy định của pháp luật, quy định
địa phương nơi cư trú và giữ đúng quan hệ đạo đức, không có điều tiếng lớn hay vi
phạm phải xử lý kỷ luật.
*Về quản lý cơ cấu đội ngũ đảng viên.
Trong điều kiện ngày càng khó khăn trong việc kết nạp đảng viên trong các
DNNKVNN ở ĐBSH, việc theo dõi, đánh giá, nhận định cơ cấu đội ngũ đảng viên
được các cấp ủy ở các tỉnh ĐBSH coi trọng. Những bất hợp lý trong cơ cấu như
điều kiện, hoàn cảnh và nguồn kết nạp đảng viên được chú trọng tìm ra các biện
pháp khắc phục. Đó là cơ cấu ngành chuyên môn, ngày càng thấp tỷ lệ đảng viên
là người trực tiếp sản xuất vào Đảng. Độ tuổi bình quân không được cải thiện
theo hướng trẻ hoá. Tỷ lệ nữ, người dân tộc vào Đảng đã ít lại còn ít hơn so với
nam giới.
*Về quản lý hồ sơ và thẻ đảng viên
Các cấp uỷ đều nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý hồ sơ
đảng viên, chú trọng phân công cán bộ quản lý, lưu giữ lý lịch đảng viên và các văn
bản có liên quan đến đảng viên.
Qua công tác quản lý hồ sơ và thẻ đảng viên, các cấp uỷ đảng đã hiểu biết sâu
sắc hơn điều kiện hoàn cảnh của từng đảng viên, chia sẻ, động viên đảng viên hoàn
thành nhiệm vụ. Lý lịch đảng viên, các quyết định kết nạp vào Đảng, công nhận
đảng viên chính thức, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật và các bản kiểm điểm, nhận xét
đảng viên, xếp loại đảng viên hằng năm hay giấy chuyển sinh hoạt đảng…đều
được xác định là tài liệu mật của Đảng, phải được tổ chức quản lý chặt chẽ theo
đúng quy định.
88
Việc phát thẻ và quản lý thẻ đảng viên được tiến hành thường xuyên nghiêm
túc theo hướng dẫn của cấp trên. Đảng ủy có thẩm quyền xét và làm thủ tục đề nghị
về phát thẻ đảng viên, cấp lại thẻ đảng viên bị mất hoặc bị hỏng; tổ chức lễ phát thẻ
đảng viên; định kỳ mỗi năm một lần tổ chức kiểm tra thẻ đảng viên; thu hồi thẻ
đảng viên của người đã ra khỏi Đảng nộp lên cấp ủy cấp trên.
Việc đánh giá, phân loại chất lượng đảng viên thực hiện theo Hướng dẫn số
27- HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương ngày 25/9/2014 về đánh giá, phân
loại chất lượng của TCCSĐ và đội ngũ đảng viên, căn cứ vào 4 nội dung: về tư
tưởng chính trị; về phẩm chất và đạo đức, lối sống; về thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao; về ý thức tổ chức kỷ luật.
3.2.1.2. Về phương thức quản lý đảng viên trong doanh nghiệp ngoài khu
vực nhà nướcMột là, các cấp uỷ đảng đã chú trọng việc giao nhiệm vụ cho đảng viên để quản
lý đảng viên
Các buổi sinh hoạt chi bộ, cấp uỷ đảng có điều kiện tốt nhất để trực tiếp nắm
tình hình hoạt động mọi mặt của từng đảng viên, đánh giá những ưu, khuyết điểm
từng người và giao nhiệm vụ cho đảng viên trong tháng đó. Nhiệm vụ đảng viên
thường là công tác chuyên môn, đoàn thể, xây dựng Đảng, phát triển đảng viên…
Mỗi đảng viên thông qua sinh hoạt chi bộ cũng được bày tỏ nguyện vọng, những
thắc mắc để được chi bộ giải đáp hoặc báo cáo với cấp trên.
Nội dung kiểm điểm đảng viên được căn cứ vào Điều lệ Đảng, Quy định 19
điều đảng viên không được làm, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ mà đảng viên
được tổ chức đảng phân công.
Hai là, các cấp uỷ đảng đã chú trọng việc thông qua chi bộ, doanh nghiệp - nơi
đảng viên sinh hoạt, công tác để thực hiện nhiệm vụ quản lý đảng viên.
Các cấp uỷ đảng đã chú trọng công tác xây dựng đội ngũ đảng viên thông qua
sinh hoạt thường xuyên hằng tháng, kiểm điểm nhắc nhở, góp ý cho từng đảng viên
để điều chỉnh, uốn nắn những lệch lạc để đảng viên tiến bộ không ngừng.
89
Đảng viên là người đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào quần
chúng, trực tiếp tổ chức, giáo dục và lãnh đạo quần chúng thực hiện. Đảng viên là
người duy trì và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng. Mặt khác,
phong trào cách mạng của quần chúng là môi trường tốt nhất để giáo dục, rèn luyện
đảng viên, sàng lọc đội ngũ đảng viên. Chính phong trào cách mạng của quần chúng
ở cơ sở là trường học lớn để đội ngũ đảng viên thể hiện phẩm chất và năng lực của
mình. Đồng thời, phong trào cách mạng của quần chúng giúp đảng viên tự hoàn
chỉnh mình, để đảng ủy, chi bộ làm tốt hơn nữa công tác quản lý đảng viên.
Ba là, các cấp uỷ đảng thường xuyên nắm thông tin từ chi uỷ, khu dân cư nơi
cư trú để nắm đảng viên.
Đảng viên trong DNNKVNN chỉ làm việc khoảng 1/3 thời gian tại doanh
nghiệp còn lại là thời gian sống với gia đình, nơi cư trú và xã hội trong thời gian
khá dài và liên tục. Quản lý đảng viên là quản lý toàn diện, trong tình hình hiện nay,
quản lý đạo đức, lối sống luôn được xem là nội dung quan trọng. Thực hiện tốt Qui
định số 76-QĐ/TW ngày 15 tháng 6 năm 2000 của Bộ chính trị “Về việc đảng viên
đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên
hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú”.
Bốn là, các cấp uỷ còn thông qua các quan hệ xã hội của đảng viên để quản
lý đảng viên.
Chi uỷ, đảng uỷ đã quan tâm quản lý đảng viên trong việc theo dõi các mối
quan hệ của đảng viên nhất là những đảng viên trong lúc công việc không ổn định,
làm việc xa nhà.
Đã có nhiều trường hợp cấp uỷ nhắc nhở, thậm chí kiểm điểm một số đảng
viên trong quan hệ kinh tế, vay mượn tiền của người khác hay lối sống buông thả,
vô trách nhiệm, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ, kinh tế và hạnh phúc gia đình mà
nghiêm trọng hơn là thanh danh uy tín của đảng viên. Tuy không được thường
xuyên và đầy đủ nhưng sự quan tâm nhắc nhở đảng viên trong các mối quan hệ xã
hội đã góp phần vào việc giáo dục, rèn luyện đảng viên và sàng lọc đảng viên, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
90
Năm là, các cấp uỷ coi trọng việc kiểm tra, giám sát để thực hiện nhiệm
vụ quản lý đảng viên; Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc kế hoạch kiểm tra, giám
sát của cấp uỷ các cấp, công tác kiểm tra giám sát nói chung và kiểm tra, giám
sát các hoạt động của đảng viên, việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống và
việc giữ mối quan hệ với tổ chức đảng nơi cư trú.Qua kiểm tra, giám sát cấp ủy, chi bộ có thêm nhiều thông tin về đảng viên và
đội ngũ đảng viên, chia sẻ, động viên, khích lệ những đảng viên phát huy những ưu
điểm, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những khuynh hướng lệch lạc, tiêu cực.
Các cấp uỷ đảng cũng đã bước đầu phối hợp được với chủ doanh nghiệp trong
công tác kiểm tra đảng viên ở doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, việc kiểm tra,
xác minh cũng được thực hiện có kết quả khi phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ địa
phương, nơi cư trú, thậm chí cả gia đình đảng viên.
Sáu là, các cấp uỷ đã chú trọng thông qua hồ sơ lý lịch của đảng viên để
quản lý đảng viên.
Cấp uỷ, người đứng đầu cấp uỷ luôn coi trọng công tác quản lý hồ sơ để nắm
bắt đầy đủ thông tin về đảng viên, đồng thời thường xuyên bổ sung hồ sơ đảng viên
hằng năm theo quy định của Đảng. Thông qua kiểm tra xem xét hồ sơ đảng viên mà
trong nhiều trường hợp đã cung cấp thông tin đầy đủ cho cấp ủy xác minh, có thêm
thông tin để đánh giá đảng viên, giúp đỡ đảng viên hoàn thành nhiệm vụ.
Bảy là, các cấp uỷ còn thường xuyên động viên, nhắc nhở mỗi đảng viên cần
phát huy vai trò tự quản, tự rèn luyện để phấn đấu vươn lên.
Cấp uỷ đảng đã xác định trong điều kiện công tác của đảng viên có những
nét đặc thù nên phải thường xuyên nhắc nhở đảng viên nêu cao ý thức tự giác chấp
hành kỷ luật đảng của đảng viên, tự giác rèn luyện, phấn đấu, giữ vững phẩm chất
đạo đức của công dân, đạo đức cách mạng của người đảng viên. Hầu hết đảng viên
trong DNNKVNN ở ĐBSH đều tự giác phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ trong lao
động sản xuất để có thể có thu nhập cao nhất, tiết kiệm đến mức cao nhất để góp
phần chăm lo cuộc sống gia đình trong điều kiện hết sức khó khăn hiện nay và cho
sự phát triển của doanh nghiệp. Qua việc tự giác rèn luyện, trong mỗi đảng viên đã
góp phần hình thành, phát triển thêm về phẩm chất và năng lực, đạo đức, lối sống
91
của đảng viên, xứng đáng là tấm gương cho quần chúng noi theo.
3.2.2. Khuyết điểm
3.1.2.1. Về nội dung quản lý đảng viênMột số cấp uỷ đảng vẫn còn coi nhẹ việc quản lý số lượng đảng viên; chưa
thực sự quan tâm việc khảo sát nắm tình hình đảng viên trong doanh nghiệp. Có
đảng viên không khai báo với chi bộ mình là đảng viên khi nhận công tác tại doanh
nghiệp nhưng chi bộ cũng không gần gũi, nắm bắt tình hình để sớm yêu cầu đảng
viên chuyển sinh hoạt. Thậm chí, khi không đủ đảng viên để thành lập tổ chức đảng
nên nhiều nơi phải tổ chức sinh hoạt ghép, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
đảng viên, chất lượng TCCSĐ.
Một số chi bộ, cấp uỷ còn lúng túng trong việc quản lý chất lượng đội ngũ
đảng viên.Việc tuyên truyền, tổ chức học tập lý luận chính trị, đường lối, chính sách
cho đảng viên nhằm nâng cao nhận thức cho đảng viên trong chi bộ chưa được chú
trọng đúng mức. Chất lượng quán triệt tư tưởng, nâng cao nhận thức lý luận ngay ở
các buổi sinh hoạt cho bộ, cấp uỷ còn thấp. Không ít cấp uỷ không nắm được diễn
biến tư tưởng của đảng viên. Chưa kịp thời phát hiện xử lý những tư tưởng phát
sinh, thậm chí chưa xác định được những biểu hiện lệch lạc về tư tưởng của
đảng viên. Một số cấp uỷ chưa thực sự chú trọng quản lý về phẩm chất đạo đức, lối
sống của đảng viên. Do lao động, sinh hoạt phân tán, nhiều cấp uỷ đảng chưa nắm
chắc được tình trạng phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên. Tuy nhiên, trong
điều kiện đảng viên chủ yếu là công nhân, mối quan hệ chủ thợ chi phối mạnh nên
tình trạng tham nhũng, tha hoá của đảng viên trong DNNKVNN rất ít.
Do không tham gia vào lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nên nhiều cấp uỷ đảng không nắm chắc được trình độ năng lực của đảng
viên, nhất là chuyên môn. Cũng do mối quan hệ giữa cấp uỷ với lãnh đạo, quản lý
doanh nghiệp chưa chặt chẽ hoặc chưa được thiết lập nên công tác phát hiện, đào
tạo, rèn luyện đội ngũ đảng viên để trở thành cán bộ cho doanh nghiệp ít được thực
hiện có hiệu quả. Còn những cấp uỷ chưa chú trọng quản lý đảng viên trong sinh
hoạt gia đình và trong các quan hệ xã hội. Do lực lượng công nhân đông đảo nhưng
92
làm việc theo ca, kíp và lưu động và do chỗ ở của công nhân thường thiếu ổn định
nên các cấp uỷ rất khó theo dõi hoạt động của đảng viên khi ở ngoài doanh nghiệp.
Đặc biệt, nhiều cấp uỷ còn không nắm được đội ngũ đảng viên của mình trong các
quan hệ gia đình, bạn bè, xã hội nhất là khi doanh nghiệp thiếu việc làm.
Không ít cấp uỷ chưa chú trọng quản lý về cơ cấu đội ngũ đảng viên
Với sự bất cập về cơ cấu diễn ra chủ yếu ở các TCCSĐ trong DNNKVNN
nhưng ít khi cấp uỷ các cấp phát hiện, bàn bạc đề ra các giải pháp để khắc phục. Cơ
cấu đội ngũ đảng viên cũng tác động đến chất lượng hoạt động của tổ chức đảng và
quan trọng hơn là ảnh hưởng đến hiệu quả lãnh đạo của tổ chức đảng trên các lĩnh vực.
Cơ cấu đảng viên bất hợp lý, quá trình đào tạo và cơ hội tiếp cận với công tác đào
tạo, bồi dưỡng của đảng viên trong DNNKVNN là rất khác nhau và thường rất ít so
với đảng viên các loại hình tổ chức khác cũng đã xảy ra các xung đột trong tư tưởng
của đảng viên. Nhiều đảng viên là người lao động trực tiếp thường thụ động, ngại
va chạm, an phận và ít tham gia hoạt động chính trị - cho dù được tổ chức dân chủ,
công khai.
Hiệu quả công tác quản lý hồ sơ và thẻ đảng viên ở nhiều tổ chức đảng chưa cao
Phân công đảng viên giữ hồ sơ, quản lý, khai thác hồ sơ của một số cấp
uỷ còn coi nhẹ, không ổn định, khó quy trách nhiệm khi có sai sót xảy ra.
Nhiều tổ chức đảng trong các DNNKVNN chưa có văn phòng riêng, thiếu
trang bị cơ sở vật chất cũng làm cho công tác quản lý hồ sơ đảng viên chưa đi
vào nền nếp và do đó hiệu quả khai thác thông tin từ hồ sơ đảng viên còn
thấp. Ở nhiều TCCSĐ trong các DNNKVNN ở ĐBSH lý lịch đảng viên, các
quyết định kết nạp vào Đảng, công nhận đảng viên chính thức, đề bạt, khen
thưởng, kỷ luật và các bản kiểm điểm, nhận xét đảng viên, xếp loại đảng viên
hằng năm hay giấy chuyển sinh hoạt đảng ở một số nơi… chưa được quản lý
theo chế độ tài liệu mật của Đảng.Công tác phát thẻ và quản lý thẻ đảng viên
cũng chưa được coi trọng đúng mức ở nhiều tổ chức đảng nhất là tình trạng
mất thẻ không khai báo, làm thủ tục để sớm được cấp lại thẻ. Việc tổ chức
kiểm tra thẻ đảng của các đảng viên chưa đi vào nền nếp. Việc thu hồi thẻ
93
đảng viên của người đã ra khỏi Đảng nộp lên cấp ủy cấp trên chưa được
coi trọng.
3.2.2.2. Về phương thức quản lý đảng viên trong doanh nghiệp ngoài khu
vực nhà nướcNhiều cấp uỷ chưa chú trọng phương thức quản lý đảng viên thông qua việc
giao nhiệm vụ cho đảng viên. Vẫn còn tình trạng sinh hoạt đảng hình thức chiếu lệ,
cốt cho xong. Việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên không rõ ràng nên kỳ họp
tháng sau việc kiểm điểm cũng chung chung, không rõ ràng. Qua kiểm tra sổ sinh
hoạt của chi bộ và ghi chép của đảng viên rất ít đảng viên được giao nhiệm vụ cụ
thể về công tác chuyên môn, công tác đảng hay công tác vận động quần chúng. Kể
cả những đảng viên được phân công giúp đỡ, bồi dưỡng quần chúng kết nạp nhưng
cũng hiếm khi báo cáo kết quả phấn đấu của quần chúng với chi bộ trong thời gian
theo dõi. Hiệu quả thông qua chi bộ, đảng viên, quần chúng trong DNNKVNN còn
thấp. Quần chúng ít được tổ chức tham gia đóng góp ý kiến với tổ chức đảng và
đảng viên. Do đó, sự quan tâm của quần chúng đối với công tác xây dựng Đảng còn
mờ nhạt. Uy tín của tổ chức đảng trong DNNKVNN với quần chúng chưa cao.
Việc quản lý đảng viên thông qua chi uỷ, dân cư nơi cư trú cũng chưa
được chú trọng và hiệu quả chưa thiết thực. Vẫn chỉ trong tình trạng chung là
có giấy xác nhận của cấp uỷ nơi cư trú khi có nhu cầu đánh giá đảng viên cuối
năm. Nhiều trường hợp, do chuyển công tác, chuyển chỗ ở thường xuyên nên
việc xác nhận nơi cư trú cho một số trường hợp cũng gặp khó khăn và rất khó
xử lý trách nhiệm của đảng viên.Do tính chất đa dạng, phức tạp, thường
xuyên không ổn định của hầu hết đảng viên trong DNNKVNN khi họ là công
nhân lao động nên việc quản lý đảng viên thông qua các quan hệ xã hội ít
được thực hiện có hiệu quả.
Công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ các cấp với đảng viên tuy có triển
khai nhưng kết quả hết sức hạn chế. Hoạt động kiểm tra đảng viên trong
DNNKVNN thường ít và đơn giản hơn nhiều so với các loại hình tổ chức
đảng khác.Cũng do đảng viên chủ yếu là công nhân nên việc quản lý đảng
94
viên thông qua hồ sơ lý lịch đảng viên cũng chưa được quan tâm đúng mức.
Hiếm có trường hợp nào cần tham khảo thêm hồ sơ lý lịch đảng viên khi việc
cất nhắc đề bạt cán bộ không thuộc về cấp uỷ.Một số cấp uỷ đảng coi nhẹ việc giáo dục đảng viên trong chi bộ, kể cả việc rèn
luyện đảng viên thông qua việc phát huy tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác của
chính bản thân mỗi đảng viên.
Như vậy, những kết quả bước đầu trong công tác quản lý đảng viên nói riêng,
công tác đảng viên, công tác xây dựng Đảng nói chung ở các DNNKVNN ở ĐBSH
đã góp phần nhất định vào kết quả phát triển kinh tế - xã hội của cả vùng. Sau 5
năm thực hiện Nghị quyết số 54 – NQ/TW của Bộ Chính trị, những kết quả bước
đầu đạt được về phát triển kinh tế - xã hội của ĐBSH là hết sức quan trọng. Kết
luận số 13-KL/TW ngày 28 tháng 10 năm 2011 của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện
Nghị quyết số 54 – NQ/TW ngày 14 tháng 9 năm 2005 của Bộ Chính trị (khoá IX)
“về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông
Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” đã chỉ rõ:
Nghị quyết số 54 – NQ/TW của Bộ Chính trị đã được các tỉnh uỷ, thành uỷ
trong vùng ĐBSH, đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng uỷ trực thuộc Trung ương tổ
chức quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, từng bước đi vào cuộc sống và đã
đạt được kết quả quan trọng. Nổi bật là:
Năm 2006-2010, trong điều kiện có nhiều khó khăn, thách thức nhưng đã thực
hiện, đạt và vượt yêu cầu đề ra 8 mục tiêu nêu trong Nghị quyết (tốc độ tăng trưởng
GDP, tốc độ phát triển nông nghiệp, tỷ trọng công nghiệp – xây dựng trong GDP,
tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu so
với cả nước, tốc độ tăng thu ngân sách, tỷ lệ lao động không có việc làm, tỷ lệ dân
số nông thôn được sử dụng nước sạch). Tốc độ tăng trưởng kinh tế của toàn vùng
đạt khá cao (11,93%); cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng tích cực
(giảm dần tỉ trọng nông nghiệp, tăng dần tỉ trọng công nghiệp - dịch vụ). Các ngành,
lĩnh vực đều có bước phát triển, một số sản phẩm, dịch vụ mới có hàm lượng công
nghệ cao, chất lượng cao. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, chiếm 24,9% tổng kim
95
ngạch xuất khẩu của cả nước. Thu ngân sách hằng năm tăng cao (31%/năm). Thu
hút đầu tư trong nước và nước ngoài đạt kết quả khá, tổng nguồn đầu tư phát triển
toàn xã hội ngày càng tăng. Kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông trong
vùng được đầu tư mở rộng theo hướng hiện đại; nhiều công trình, dự án trọng điểm
ghi trong Nghị quyết đã và đang được triển khai thực hiện. Các lĩnh vực văn hoá –
xã hội đạt một số kết quả quan trọng; giáo dục –đào tạo, y tế phát triển nhanh; công
tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội có nhiều tiến bộ;
đời sống nhân dân trong vùng từng bước được cải thiện. Chính trị, xã hội ổn định; quốc
phòng, an ninh được giữ vững.
Tuy nhiên vẫn còn 4 mục tiêu quan trọng đề ra trong Nghị quyết thực hiện
chưa đạt yêu cầu (chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn vùng, tỷ trọng thu ngân sách nhà
nước của vùng so với cả nước, giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân hằng năm, tỷ lệ lao
động qua đào tạo); một số nhiệm vụ, công trình, dự án triển khai thực hiện chậm.
Kinh tế từng tỉnh, thành phố và cả vùng phát triển chưa bền vững, quy mô còn nhỏ,
chất lượng và năng lực cạnh tranh còn thấp, chưa tương ứng với tiềm năng, lợi thế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, công nghiệp gia công, lắp ráp còn chiếm tỷ trọng
lớn; công nghiệp phụ trợ, chế biến nông - lâm - hải sản chậm phát triển. Chất lượng,
hiệu quả sản xuất công nghiệp chưa cao; quản lý sử dụng đất đai hiệu quả thấp; kinh
tế biển đảo phát triển chậm; chất lượng dịch vụ còn thấp; công tác quy hoạch còn
nhiều yếu kém, đến nay chưa phê duyệt được quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-
xã hội của cả vùng. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá liên kết vùng còn nhiều bất cập, hiện quả kém.
Không gian kinh tế vùng chưa được hình thành rõ nét còn bị giới hạn bởi địa giới
hành chính từng tỉnh, thành phố.
3.2.3. Nguyên nhân, kinh nghiệm và một số vấn đề đặt ra về quản lý
đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng
sông Hồng
3.2.3.1. Nguyên nhân
* Nguyên nhân của ưu điểm:
96
Thứ nhất, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới đúng đắn và nhiều quyết định quan
trọng trong công tác xây dựng Đảng.
Trong gần 30 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới, những chủ trương phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Đảng đã đề ra nhiều chủ
trương xây dựng, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, theo đó, các
DNNKVNN ra đời và phát triển với tốc độ nhanh, góp phần quan trọng vào việc
giải phóng năng lực sản xuất, tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động, tạo ra
nhiều của cải vật chất cho xã hội, góp phần làm thay đổi mọi mặt đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân. Để tạo điều kiện cho các tổ chức đảng trong
DNNKVNN, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết chỉ thị, quy định. Các cấp uỷ đảng
đã có nhiều cách làm sáng tạo, tập trung nhiều nguồn lực để tạo dựng, củng cố các
tổ chức đảng trong các DNNKVNN. Các ban tham mưu, tổ chức đảng các cấp đã
tích cực triển khai công tác xây dựng tổ chức đảng trong DNNKVNN.
Thứ hai, các cấp uỷ đảng đã có nhiều cố gắng trong công tác xây dựng Đảng
trong điều kiện đầy khó khăn thiếu thốn.
Có thể nói hoạt động của các tổ chức đảng trong DNNKVNN là khó khăn
nhất trong các loại hình tổ chức đảng. Với tính chất của công tác xây dựng Đảng
trong DNNKVNN, cấp uỷ không có chính quyền, cơ quan lãnh đạo cùng cấp, thậm
chí chủ doanh nghiệp không ủng hộ. Các cấp uỷ đảng vẫn cơ bản duy trì được chế
độ sinh hoạt theo quy định, thực hiện triển khai các công việc xây dựng nội bộ Đảng.
Một số cấp uỷ đã có những tìm tòi, thường xuyên đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động cho phù hợp với đặc điểm, tình hình hoạt động của doanh nghiệp,
nhất là các tổ chức đảng mới thành lập ở các DNNKVNN; đồng thời phân công cấp
ủy viên, đảng viên phối hợp với các đoàn thể trong doanh nghiệp, bồi dưỡng tạo
nguồn kết nạp đảng viên, thành lập tổ chức đảng khi đủ điều kiện. Nâng cao chất
lượng nội dung sinh hoạt chi bộ, ban hành hướng dẫn sinh hoạt chi bộ trong các
DNNKVNN để phát huy mạnh mẽ vai trò của tổ chức Đảng, đoàn thể nhân dân trong
các DNNKVNN. Các đảng bộ, chi bộ trong DNNKVNN đã có sự cố gắng trong
công tác quản lý đảng viên, đưa công tác quản lý đảng viên dần đi vào nền nếp.
97
Thứ ba, đã bước đầu quan tâm công tác sắp xếp, bố trí cán bộ; chăm lo công
tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác đảng, đoàn
thể trong doanh nghiệp
Các cấp uỷ đảng không chỉ quan tâm củng cố, kiện toàn, sắp xếp lại tổ chức
đảng trong các đảng bộ chuyển đổi từ DNNN do cổ phần hoá, hay thực hiện chủ
trương thoái vốn nhà nước ở một số công ty thành viên để phù hợp chủ trương tái
cơ cấu doanh nghiệp của Chính phủ. Các đảng uỷ khối doanh nghiệp đã được thành
lập ở hầu khắp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Các cấp uỷ đảng còn quan
tâm bố trí, phân công cán bộ chuyên trách thuộc ban tổ chức cấp uỷ để làm công tác
tham mưu, theo dõi việc thực hiện, nhất là bố trí cán bộ chuyên trách công tác đảng
trong DNNKVNN như: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Quảng Ninh… Đó là những
cán bộ cấp cơ sở có năng lực, trình độ, tâm huyết, nhiệt tình với nhiệm vụ được
giao; khuyến khích sử dụng cán bộ đã nghỉ chế độ có chuyên môn sâu về công tác
xây dựng Đảng làm cộng tác viên phát triển đảng, đoàn thể trong các DNNKVNN.
Có chế độ, chính sách đối với những tổ chức Đảng, đoàn thể được thành lập mới
theo quy định; khuyến khích các cấp ủy có chính sách hỗ trợ riêng cho các TCCSĐ
trong các DNNKVNN thuộc địa bàn.
Thứ tư, phát huy được ý thức tự giác của đảng viên
Trong điều kiện gặp nhiều khó khăn về việc làm, thời gian, cơ sở vật chất phục
vụ cho hoạt động của tổ chức đảng, thậm chí thiếu sự ủng hộ của chủ doanh nghiệp
nhưng nhiều đảng viên vẫn thể hiện tính kiên trung, gương mẫu, thực hiện nhiệm vụ
của người đảng viên.
Với tinh thần trách nhiệm cao, nhiều đảng viên đã sớm có ý thức chuyển sinh
hoạt đảng, tham gia tích cực vào công tác xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh,
làm tốt công tác vận động, thuyết phục giúp đỡ quần chúng vào Đảng.
Thứ năm, có sự ủng hộ của chủ DNNKVNN, sự tham gia quản lý của các chi
bộ nơi đảng viên cư trú và quần chúng nhân dân
Không ít các chủ doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức đảng hoạt
động nếu được giải thích, tuyên truyền vai trò của tổ chức đảng trong DNNKVNN.
98
Nhiều chủ DNNKVNN đã tạo điều kiện cơ sở vật chất cho các tổ chức đảng hội họp
và hoạt động. Đã có một số chủ doanh nghiệp phấn đấu vào Đảng, thường xuyên có
những việc làm cụ thể thực hiện nhiệm vụ trách nhiệm của chủ doanh nghiệp, thực
hiện đúng pháp luật, tham gia các vấn đề xã hội từ thiện khi được phát động. Các
địa phương nơi có đảng viên trong DNNKVNN cư trú đều được chi bộ, tổ dân phố
quan tâm giúp đỡ. Quần chúng nhân dân, đội ngũ công nhân trong DNNKVNN đều
tôn trọng, tạo điều kiện giúp đỡ trong mọi hoạt động của đảng viên trong công việc
cũng như trong cuộc sống.
* Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm
+ Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng chưa thực sự quyết liệt. Các ban tham
mưu, tổ chức đảng các cấp chưa dành nhiều công sức cho việc triển khai công tác
xây dựng tổ chức đảng trong DNNKVNN.
Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ và Ban chỉ đạo còn mờ nhạt; công
tác tuyên truyền, phổ biến và quán triệt nghị quyết chưa thật sự sâu rộng; vai trò, vị
trí và chất lượng hoạt động của một số tổ chức đảng, đoàn thể trong DNNKVNN
còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Chính sách cán bộ công tác
đảng trong DNNKVNN tuy đã có những cải thiện nhưng vẫn chưa khuyến khích
cán bộ yên tâm công tác và tận tâm với công việc. Đội ngũ cán bộ Đảng, đoàn thể ở
DNNKVNN chủ yếu kiêm nhiệm, thiếu thời gian hoạt động, chưa thực sự quan tâm
đến việc xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các DNNKVNN.
Thứ hai, một số đảng bộ, chi bộ trong DNNKVNN vẫn còn thụ động, trông chờ, ỷ lại
vào cấp trên, chưa có biện pháp cụ thể thực hiện nhiệm vụ của công tác quản lý đảng viên.
Công tác tuyên truyền, quán triệt nghị quyết và phổ biến pháp luật cho công nhân
lao động và người sử dụng lao động của một số cấp ủy đảng, chính quyền và các
đoàn thể vẫn chưa mạnh, chưa thường xuyên, thiếu đồng bộ.
Báo cáo do Ban Tổ chức Trung ương phối hợp với BTV Tỉnh uỷ Đồng Nai tổ
chức vào ngày 21, 22-10-2010 đã nêu:
99
“Nhiều tổ chức đảng trong doanh nghiệp chưa thực hiện được vai trò là hạt
nhân lãnh đạo ở cơ sở, lúng túng trong xây dựng mối quan hệ công tác với chủ
doanh nghiệp, vai trò tiên phong, gương mẫu của nhiều đảng viên còn hạn chế.
Công tác phát triển đảng viên còn yếu và gặp nhiều khó khăn”.
Thứ ba, việc chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ của cấp ủy cấp trên trực tiếp có lúc
chưa kịp thời.
Hướng dẫn về công tác xây dựng đảng, đoàn thể của một số quận, huyện, thị
ủy, đảng ủy trực thuộc cho các tổ chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp ngoài
khu vực nhà nước chưa được coi trọng đúng mức, còn quan liêu, hành chính. Việc
kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên, chưa kịp thời; đặc biệt là công tác khảo sát
doanh nghiệp ở một số quận, huyện, thị xã chưa được coi trọng. Một số cán bộ
chuyên trách công tác đảng, đoàn thể năng lực, trình độ còn hạn chế, chưa tâm
huyết với nhiệm vụ được giao.
Nghiệp vụ quản lý đảng viên chưa được chú trọng thực hiện đúng dắn và đầy đủ.
Thứ tư, nhiều chủ DNNKVNN chưa hiểu đúng và chưa ủng hộ công tác xây
dựng Đảng trong doanh nghiệp.
Nhiều chủ DNNKVNN, nhất là trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài do chưa hiểu hết vai trò của tổ chức đảng trong doanh nghiệp nên đã tỏ ra
thiếu thiện chí khi thành lập tổ chức đảng và không tạo điều kiện cho tổ chức đảng
hoạt động. Nhiều trường hợp, chủ doanh nghiệp còn mặc cảm với đảng viên, làm
cho đảng viên không dám công khai “danh tính” khi hợp đồng lao động với chủ
doanh nghiệp.
Thứ năm, nhiều đảng viên chưa tự giác, thậm chí muốn từ bỏ danh hiệu đảng
viên của mình. Do không xác định đúng đắn lập trường, quan điểm, khi gặp khó
khăn, nhất là khi giới chủ không ủng hộ, nhiều đảng viên đã từ bỏ Đảng hoặc hoạt
động cầm chừng, thậm chí chỉ còn mang danh đảng viên. Trong những trường hợp
như vậy, uy tín không chỉ của đảng viên mà còn cả tổ chức đảng trong doanh nghiệp
với quần chúng rất thấp.
+ Nguyên nhân khách quan
100
Thứ nhất, do đường lối đổi mới đang trong quá trình hoàn thiện, đổi mới chính
trị chưa theo kịp với đổi mới kinh tế;
Do suy giảm kinh tế kéo dài, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
gặp nhiều khó khăn, hoạt động không ổn định, mang tính thời vụ, tình trạng thiếu
việc làm, giảm thu nhập ảnh hưởng tới đời sống của người lao động, do đó họ ngại
tham gia các hoạt động chính trị - xã hội, chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng.
Hệ thống chính sách pháp luật chưa hoàn thiện cũng làm cho các DNNKVNN
gặp những khó khăn trong đầu tư sản xuất kinh doanh, thiếu ổn định, làm cho công
nhân chưa yên tâm công tác.
Thứ hai, tác động của mặt trái cơ chế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ, khoảng
cách ngày càng rộng hơn. Mặc dù Đảng, Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm
khắc phục nhằm rút ngắn khoảng cách giàu nghèo nhưng kết quả vẫn chưa được
như mong muốn.
Đó là sự phân biệt giàu nghèo giữa các vùng, miền, đảng viên giữa các ngành
nghề; cán bộ, công chức với đảng viên là công nhân, nhất là công nhân lao động. Sự
phân biệt đó còn thể hiện ngày càng rõ nét ở ngay cả đảng viên là công nhân lao
động trong các DNNN với đảng viên là công nhân trong các DNNKVNN.
Thứ ba, nhiều loại hình DNNKVNN mới ra đời, các cấp ủy trong doanh nghiệp ngoài
nhà nước chưa có kinh nghiệm trong công tác xây dựng tổ chức Đảng, đoàn thể ở
DNNKVNN. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sự khác biệt về văn hoá, bất đồng
về ngôn ngữ giữa chủ sử dụng lao động nước ngoài với người lao động Việt Nam dẫn tới
hạn chế trong việc thông cảm, chia sẻ những khó khăn, vướng mắc trong sản xuất kinh
doanh và sinh hoạt cũng dẫn đến khó khăn trong việc thành lập tổ chức Đảng, các đoàn thể
và quản lý đảng viên trong các DNNKVNN.
3.2.3.2. Những kinh nghiệm tăng cường quản lý đảng viên trong các doanh
nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay
Từ thực trạng quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở đồng bằng sông
Hồng và nguyên nhân, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm tăng cường quản lý đảng
viên trong các DNNKVNN ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay như sau:
101
Một là, thường xuyên nâng cao nhận thức, phát huy đầy đủ trách nhiệm của
cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp về công tác quản lý đảng viên.
Nhận thức là cơ sở của hành động. Nhận thức đúng thì hành động mới khỏi
sai lạc và mới bảo đảm chất lượng và hiệu quả thiết thực của hoạt động. Trong
công tác quản lý đảng viên, chỉ khi nào các chủ thể, các lực lượng có nhận thức
đúng, có hiểu biết sâu sắc về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác
quản lý đảng viên, có trách nhiệm cao và có những chủ trương, biện pháp cụ thể,
thiết thực thì công tác quản lý đảng viên mới được tăng cường và có hiệu quả cao.
Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ đảng viên đã chứng tỏ rằng: khi cấp ủy,
tổ chức đảng có trách nhiệm cao, quan tâm quản lý, nắm chắc đội ngũ đảng viên về
mọi mặt thì dù điều kiện khách quan thuận lợi hay khó khăn, âm mưu thủ đoạn của
các thế lực thù địch thâm độc, nguy hiểm đến đâu, đội ngũ đó vẫn luôn phát huy tốt
vai trò tiền phong gương mẫu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Tổ quốc và
nhân dân giao phó. Đặc biệt, trước những “bước ngoặt” của tình hình nhiệm vụ của
cách mạng, những lúc khó khăn, gian khổ, nếu cấp uỷ nhạy bén, chủ động nắm bắt
thực tiễn, dự báo đúng xu hướng biến đổi của tình hình, kịp thời phát hiện và xử lý
những vấn đề mới nảy sinh, tăng cường các hoạt động quản lý, giáo dục, rèn luyện
thì đội ngũ đảng viên vẫn kiên định, vững vàng về mọi mặt, thực hiện tốt nhiệm vụ
người đảng viên.
Thực tiễn công tác quản lý đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN ở đồng
bằng sông Hồng cho thấy: ở đâu và khi nào, cấp ủy, tổ chức đảng có nhận thức đầy
đủ, sâu sắc về công tác quản lý đảng viên; đề cao trách nhiệm trong quản lý đảng
viên thì đội ngũ đảng viên mới phát huy tốt vai trò tiền phong, gương mẫu trong
thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng TSVM. Ngược lại,
khi nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng về công tác quản lý đảng viên còn hạn chế
thì xuất hiện nhiều khuynh hướng lệch lạc như buông lỏng sự quản lý, không nắm
chắc tình hình hình đội ngũ đảng viên, thiếu những biện pháp cụ thể, thiết thực
trong giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên, dẫn đến sự thoái hóa, biến chất về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ đảng viên. Bởi vậy, nâng cao nhận
102
thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng về công tác quản lý đảng viên là vấn đề
quan trọng hàng đầu để tăng cường công tác quản lý đối với đội ngũ đảng viên
trong các DNNKVNN ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa quản lý đảng viên của cấp ủy, tổ chức đảng
trong các doanh nghiệp ngoài vực nhà nước với sự quản lý đảng viên nơi cư trú.
Quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở đồng bằng sông Hồng là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mọi cấp, mọi ngành. Trong đó chủ thể - những
người chịu trách nhiệm chính là cấp uỷ cùng cấp, tổ chức đảng và sự tham gia tích
cực của mọi lực lượng, mọi người, mọi tổ chức ở trong và doanh nghiệp, nhất là cấp
ủy, chính quyền, nhân dân địa phương nơi đảng viên cư trú, tạm trú. Mặt khác,
trong nhiều DNNKVNN ở đồng bằng sông Hồng chưa thành lập được tổ chức đảng,
nhiều đảng viên phải sinh hoạt đảng và thực hiện nhiệm vụ đảng viên nơi cư trú
hoặc tạm trú. Bởi vậy, để quản lý chặt chẽ, thường xuyên nắm chắc tình hình mọi
mặt của đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN cần kết hợp chặt chẽ giữa quản lý
đảng viên của cấp ủy, tổ chức đảng trong các doanh nghiệp nơi đảng viên công tác,
sinh hoạt với quản lý của cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương nơi đảng
viên cư trú, tạm trú.
Thực tiễn cũng cho thấy: ở đâu và khi nào cấp uỷ, tổ chức đảng trong các
doanh nghiệp kết hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương nơi
cư trú, tạm trú của đảng viên thì mới kịp thời nắm bắt được tình hình mọi mặt của
đảng viên, có nhận xét, đánh giá khách quan, chính xác về kết quả thực hiện nhiệm
vụ và phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực công tác của đảng viên.
Qua đó, có những biện pháp cụ thể để giáo dục, rèn luyện, không ngừng nâng cao
phẩm chất, năng lực của đảng viên, bảo đảm cho đảng viên thực hiện tốt các nhiệm
vụ đảng viên.
Ba là, phát huy tính tích cực, tự giác của đội ngũ đảng viên trong tự quản lý.
Tự quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành công và phát
triển, trưởng thành của mỗi con người nói chung và mỗi đảng viên nói riêng. Mức
độ phát triển của các phẩm chất nhân cách phụ thuộc rất lớn vào ý thức, khả năng tự
103
quản lý, tự tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện của mỗi đảng viên. Sự trưởng thành của
đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN ở đồng bằng sông Hồng suy cho đến cùng
là kết quả của quá trình “tự soi”, “tự sửa” của họ trong hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn đã chứng tỏ rằng: ở bất cứ nơi đâu, khi mà đội ngũ đảng viên có ý
thức trách nhiệm cao trong tự quản lý, có dũng khí vượt qua những ham muốn cá
nhân, những cám dỗ trong cuộc sống, biết đặt mình trong tổ chức, tích cực, tự giác
tu dưỡng, rèn luyện mình ở mỗi lúc mỗi nơi….thì họ luôn giữ gìn và phát huy được
vai trò tiên phong, gương mẫu và thực hiện tốt nhiệm vụ của người đảng viên.
Ngược lại, những đảng viên nào buông thả, không chịu tu dưỡng, rèn luyện, thoát ly
sự quản lý, giáo dục của tổ chức, đặt mình ra ngoài hoặc lên trên tổ chức thì tất yếu
sẽ thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống.
Ngày nay, khi mặt trái của nền kinh tế thị trường, xu thế mở cửa, hội nhập
và những tiêu cực xã hội đang hàng ngày, hàng giờ tác động đến mọi lĩnh vực hoạt
động của đời sống xã hội; mặt khác, các thế lực thù địch đang ráo riết tiến hành
chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, thúc đẩy quá
trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ nội bộ thì hoạt động tự quản lý của đội ngũ
cán bộ, đảng viên càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chỉ khi nào đội ngũ cán bộ,
đảng viên thực sự làm chủ bản thân, tự kiểm tra, giám sát, quản lý được mọi hành
vi của mình, luôn nghiêm khắc và tích cực, tự giác rèn luyện mọi lúc, mọi nơi, thì
họ mới có được bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng,
mới phòng, chống có hiệu quả âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch nhằm thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ nội bộ đối
với cách mạng nước ta.
Thứ tư, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, quần chúng nhân
dân và tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của chủ doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước
trong công tác quản lý đảng viên.
Ðảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây
dựng Ðảng, xây dựng đội ngũ đảng viên. Thực tiễn cũng đã chứng tỏ vai trò to lớn
104
của tổ chức chính trị, xã hội và quần chúng, nhân dân trong công tác quản lý đảng
viên. Với tư cách là tổ chức đại biểu cho quyền làm chủ của quần chúng, nhân dân,
các tổ chức chính trị - xã hội đã tích cực đóng góp ý kiến xây dựng tổ chức đảng và
đội ngũ đảng viên. Khi các ý kiến đóng góp của các tổ chức chính trị - xã hội và
quần chúng, nhân dân được tôn trọng, được xem xét cân nhắc cẩn thận thì cấp uỷ, tổ
chức đảng có thêm thông tin để đánh giá khách quan và chính xác hơn về đảng viên,
từ đó có biện pháp phù hợp để giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên. Các tổ chức
chính trị - xã hội, quần chúng, nhân dân còn thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát
mọi hoạt động cán bộ, đảng viên. Ở nhiều doanh nghiệp, phần lớn các vụ việc tiêu
cực như tham ô, tham nhũng, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, lối sống do sự
phát giác, phản ánh của quần chúng, nhân dân. Qua đó, những vi phạm được phát
hiện và xử lý kịp thời, góp phần điều chỉnh hành vi, làm chuyển biến tình hình của
đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp.
Những năm qua, các tổ chức đảng trong DNNKVNN chậm được củng cố và
kiện toàn. Điều đó do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu, mang tính
chi phối là chủ doanh nghiệp không muốn thành lập tổ chức đảng ở doanh nghiệp
của họ. Chủ doanh nghiệp thường quan niệm rằng tổ chức đảng có mặt thì chỉ gây
thêm phiền hà cho họ, để “dạy bảo” họ, nhưng “lãnh đạo” thì chưa đủ tầm và nếu để
chống tham nhũng, tiêu cực thì họ không thích. Hơn nữa, họ cũng chưa nhận thức
được việc thành lập tổ chức đảng sẽ đem lại lợi ích gì cho doanh nghiệp, thậm chí
có tạo điều kiện cho tổ chức đảng hoạt động thì cũng chẳng được tôn vinh...Vì vậy,
phải tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của chủ doanh nghiệp trong xây dựng, kiện toàn
các tổ chức đảng trong doanh nghiệp nói chung và trong công tác quản lý đảng viên
nói riêng. Một mặt, phải kiên trì giải thích, thuyết phục cho họ về ý nghĩa, vai trò
của tổ chức đảng và đảng viên trong hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, tổ chức
đảng, đảng viên cần phải đổi mới phương thức hoạt động, phát huy tốt vai trò, trách
nhiệm trong xây dựng và phát triển doanh nghiệp, đem lại lợi ích chung, trong đó có
lợi ích của DNNKVNN, lợi ích của chủ DNNKVNN.
105
3.2.3.3. Những vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý đảng viên trong
doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông HồngThứ nhất, lấy ngăn chặn, phòng ngừa những sai phạm của đảng viên là chính
Phương châm là những vấn đề có tính quy luật được khái quát từ thực tiễn.
Xác định phương châm quản lý đảng viên để giúp các cấp uỷ đảng, đảng viên nhận
thức đúng và hướng theo đó mà hành động. Có thể xác định phương châm quản lý
đảng viên như sau:
Việc quản lý đảng viên nhằm nắm chắc những thông tin về đảng viên có liên
quan đến tiêu chuẩn đảng viên, kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đảng
viên. Khi cấp uỷ, chi bộ đảng nắm chắc tình hình cụ thể của mỗi đảng viên, đánh
giá được những ưu điểm, phát hiện những khuyết, nhược điểm để nhắc nhở, góp ý
phê bình chân thành giúp đảng viên tiến bộ.
Thứ hai, phải đảm bảo tính chân thực, khách quan những thông tin về đảng
viên để có những nhận xét, đánh giá chính xác
Những thông tin về quản lý đảng viên là những thông tin liên quan đến việc
thực hiện nhiệm vụ của đảng viên. Thông tin có thể phát hiện thêm về đảng viên
trong quá khứ, hiện tại đều có tác dụng để xem xét đánh giá đảng viên. Mọi thông
tin về đảng viên đều có ý nghĩa quan trọng liên quan đến nhận xét đánh giá tư cách
đảng viên. Vì vậy, phải luôn xác định việc cung cấp những thông tin liên quan đến
đảng viên có ý nghĩa quan trọng liên quan đến “sinh mệnh chính trị” của đảng viên.
Những thông tin trong quản lý đảng viên phải đảm bảo tính trung thực, khách quan,
tin cậy và phải phản ánh đầy đủ cả ưu điểm và khuyết điểm.
Thứ ba, phải xử lý kịp thời, đúng mức những thông tin quan trọng có liên quan
đến đảng viên
Việc nắm thông tin có liên quan đến đảng viên là thường xuyên và xử lý thông
tin đó cũng là công việc thường xuyên. Không thể đợi đảng viên có nhiều khuyết
điểm rồi xử lý. Cấp uỷ, chi bộ phải thường xuyên kiểm điểm, nhắc nhở, góp ý với
đồng chí đảng viên hằng ngày, trong cuộc họp chi bộ hằng tháng hoặc dịp kiểm
điểm đảng viên hằng năm. Tuỳ theo tính chất, mức độ của thông tin có liên quan
106
đến đảng viên mà có hình thức xử lý phù hợp. Những vấn đề có thể chỉ cần nhắc
nhở góp ý cá nhân mà đem lại hiệu quả cao thì đó là cách xử lý tốt nhất, hiệu quả
nhất. Có những vấn đề cần phải phân tích, góp ý tại chi bộ mới có hiệu quả. Thậm
chí có những vấn đề phải có sự kiểm điểm nghiêm túc, sâu sắc xác định rõ nguyên
nhân và tìm biện pháp khắc phục khả thi thì mới đủ sức để ngăn ngừa khuyết điểm
tiếp nối của đảng viên.
Thứ tư, phải phát huy vai trò của tổ chức đảng, đoàn thể chính trị - xã hội trong
các DNNKVNN và nơi đảng viên cư trú
Trách nhiệm của tổ chức đảng là quản lý đảng viên. Nói cách khác, chi bộ, cấp
uỷ không quản lý được đội ngũ đảng viên thì tổ chức Đảng tan rã hoặc có tồn tại thì
cũng mất sức chiến đấu, rệu rã, tê liệt. Tổ chức Đảng gồm những đảng viên thường
xuyên cùng làm việc, công tác nên có điều kiện để hiểu rõ về từng người trong tổ
chức. Đây là nơi quản lý đảng viên tốt nhất và hiệu quả nhất với điều kiện là tổ chức
phải mạnh dạn phê bình, can thiệp kịp thời nhằm ngăn chặn ngay những biểu hiện
tiêu cực của đảng viên. Trong thực tế, không ít tổ chức đảng biết rõ những khuyết
điểm của đảng viên mình nhưng ngại va chạm, “dĩ hoà vi quý”, không đấu tranh
phê bình, để đảng viên của mình, đồng chí mình sa ngã, trượt sâu vào lỗi lầm, tham
nhũng, sa đoạ về đạo đức, lối sống. Tổ chức đảng cũng không thể quản được đảng
viên trong những thời gian đảng viên sống ở khu dân cư và các quan hệ xã hội khác.
Vì vậy, phải phát huy vai trò của tổ chức đảng, dân cư nơi đảng viên cư trú. Trong
khi một số đảng viên thiếu tự giác rèn luyện thì việc tăng cường quản lý không chỉ
ở cơ quan tổ chức nơi đảng viên công tác và nơi đảng viên và gia đình cư trú là rất
cần thiết, bổ sung cho nhau để đánh giá đảng viên một cách khách quan, chính xác.
Thứ năm, quản lý đảng viên phải nhằm phát huy tính tự giác và vai trò, trách
nhiệm tự quản của đảng viên
Đảng viên cũng là một con người bình thường với biết bao sở thích, cá tính và
sinh hoạt mang tính cá nhân. Hoạt động của đảng viên rất đa dạng, phong phú, phức
tạp cả không gian và thời gian. Vì vậy, phải tăng cường công tác giáo dục, tuyên
truyền về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống để mỗi đảng viên tự nhận thức và
107
hành động theo lẽ phải, theo quy định của Đảng và Nhà nước; không làm điều gì
ảnh hưởng đến người khác, đến xã hội, thanh danh uy tín của bản thân và gia đình.
Chỉ khi nào đảng viên tự giác, khép mình vào khuôn khổ của tổ chức, giữ vững
nguyên tắc thì quản lý đảng viên mới có hiệu quả đích thực. Nếu đảng viên không
nhận thức đầy đủ, thiếu rèn luyện, thiếu cả văn hoá ứng xử thì sẽ hành động theo
kiểu đối phó, thụ động. Trong những trường hợp như vậy thì tổ chức có cố gắng đến
mấy cũng khó có thể quản lý đảng viên có hiệu lực và hiệu quả.
Kết luận chương 3
Nhận thức được vai trò của tổ chức đảng trong DNNKVNN nên cho dù còn rất
nhiều khó khăn, các cấp uỷ đảng đã quan tâm quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của
Trung ương nhất là chỉ thị số: 07- CT/TW của Bộ Chính Trị (khóa VIII), sớm chỉ
đạo xây dựng, củng cố tổ chức đảng. Một số tổ chức đảng đã có nhiều cố gắng duy
trì chế độ sinh hoạt đảng, tham góp nhất định đối với công việc sản xuất kinh doanh
của chủ doanh nghiệp, lãnh đạo các tổ chức quần chúng trong doanh nghiệp hoạt
động đúng hướng, phát triển thêm đáng kể số lượng đảng viên. Mối quan hệ giữa tổ
chức đảng, chủ doanh nghiệp ở nhiều nơi thực hiện tốt, thân thiện, ủng hộ, tạo điều
kiện cho nhau cùng phát triển. Đảng viên trong DNNKVNN về cơ bản đều phấn
khởi, tin tưởng, hoàn thành tốt nhiệm vụ của người đảng viên và nghĩa vụ của người
làm công trong doanh nghiệp, được quần chúng tín nhiệm, tin tưởng.
Theo đó, công tác đảng viên, nhất là quản lý đội ngũ đảng viên cũng được coi
trọng bước đầu. Từ việc yêu cầu, thuyết phục đảng viên chuyển sinh hoạt đảng về tổ
chức đảng trong DNNKVNN đến hoàn thiện hồ sơ đảng viên, bổ sung hằng năm
những văn bản liên quan đến nhận xét, đánh giá, xếp loại đảng viên, quản lý sự thay
đổi về bản thân, gia đình cũng như nhận xét nơi đảng viên cư trú. Công tác quản lý
đảng viên bước đầu được chú trọng và có nơi đã đi vào nền nếp, góp phần quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Tuy nhiên, nhiều cấp uỷ đảng đưa ra mục tiêu phấn đấu là các doanh nghiệp có
quy mô lớn, đông công nhân nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
108
đều có tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên vẫn chưa thực hiện được. Số DNNKVNN
có tổ chức đảng còn quá ít. Nhiều tổ chức đảng trong DNNKVNN hoạt động kém
hiệu quả, nguyên tắc kỷ luật đảng ở một số TCCSĐ còn lỏng lẻo, vai trò, vị trí bị lu
mờ, công tác phát triển đảng viên mới ngày càng khó khăn.
Công tác đảng viên ở nhiều tổ chức đảng trong DNNKVNN còn nhiều khuyết
điểm, kết nạp đảng viên ngày càng khó khăn, chất lượng thấp; việc phân công
nhiệm vụ cho đảng viên chưa rõ ràng và thiếu tính khả thi. Quản lý đảng viên ở
nhiều tổ chức đảng còn lỏng lẻo, chưa thực sự coi trọng và chưa trở thành nền nếp.
Ý thức tự giác của đảng viên trong việc tự quản còn yếu, có xu hướng coi nhẹ, né
tránh, ngại khó.
Nguyên nhân khách quan của những khuyết điểm trên là thiếu những quy chế,
quy định cụ thể, thuận tiện trong công tác quản lý đảng viên; điều kiện đảng viên
còn nhiều khó khăn, ít thời gian, làm ăn xa, công việc không ổn định. Tuy nhiên,
những nguyên nhân chủ quan đáng quan tâm và khắc phục ngay đó là sự vào cuộc
của cấp uỷ đảng các cấp có trách nhiệm còn chậm và chưa quyết liệt. Cơ quan chức
năng, kể cả lãnh đạo cấp uỷ, tổ chức đảng còn lúng túng trong nội dung, phương
thức thực hiện quản lý đảng viên; nhiều đảng viên trong DNNKVNN chưa tự giác
rèn luyện và chịu sự quản lý của tổ chức, thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện bản thân,
thậm chí có trường hợp nhạt Đảng, không dám tự nhận mình là đảng viên, không
muốn chuyển sinh hoạt đảng về doanh nghiệp nơi công tác, không muốn phải thực
hiện các thủ tục về công tác quản lý đảng viên theo quy định.
Từ những ưu, khuyết điểm trong công tác quản lý đảng viên trong DNNKVNN
ở các tỉnh ĐBSH đã để lại những kinh nghiệm quý.
109
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ TĂNG
CƯỜNG QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
NGOÀI KHU VỰC NHÀ NƯỚC Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
ĐẾN NĂM 20254.1. Những yếu tố tác động và mục tiêu, phương hướng tăng cường
quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở
đồng bằng sông Hồng
4.1.1. Dự báo những yếu tố tác động đến quản lý đảng viên hiện nay
4.1.1.1. Tình hình thế giớiTình hình thế giới có nhiều thay đổi đang tác động nhiều mặt và chi phối
mạnh mẽ đến đảng viên, quần chúng nhân dân, giai cấp công nhân, đội ngũ đảng
viên nói chung và đảng viên trong DNNKVNN. Các nhà lý luận hiện nay, kể cả ở
các nước tư bản vẫn thừa nhận dự đoán thiên tài của C. Mác về vai trò của cách
mạng khoa học - công nghệ. Những bước phát triển nhảy vọt về chất đã biến khoa
học thành lực lượng sản xuất trực tiếp, dẫn đến sự ra đời của nền kinh tế tri thức.
Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển nhảy vọt, đồng thời bản thân khoa học - công nghệ là lực lượng sản xuất
mới, hiện đại. Khoa học, công nghệ, tri thức là tài sản chung của cả loài người
không của riêng ai, của giai cấp hay dân tộc nào. Song hiện nay những thành tựu
của cách mạng khoa học - công nghệ lại do các tập đoàn tư bản lớn và các nước tư
bản phát triển chi phối.
Với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ, của kinh tế
thị trường và toàn cầu hóa, sự hình thành và phát triển của nền kinh tế tri thức đã trở
thành xu thế tất yếu khách quan, không chỉ đối với các nước phát triển mà đối với
cả các nước đang phát triển, kể cả Việt Nam. Hiện nay trên thế giới hoà bình, hợp
tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm
ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
110
xung đột dân tộc, tôn giáo, sắc tộc, các hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, bạo loạn
chính trị, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt, gia tăng với những phương thức mới; các
tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông,
sinh học, môi trường, các hoạt động nghe lén, chiếm đoạt thông tin, bí mật quốc
gia... vẫn tiếp tục gia tăng, phức tạp và tinh vi, gây căng thẳng trong quan hệ giữa
các nước. Cục diện thế giới đa cực thể hiện rõ hơn, xu thế dân chủ trong quan hệ
quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối và tác động mạnh mẽ
hơn các quan hệ quốc tế. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ sẽ phát
triển mạnh mẽ hơn, đạt những thành tựu mới, tác động ngày càng lớn đến sự phát
triển mọi mặt của nước ta. Trong khi đó, CNXH vẫn trong tình trạng thoái trào. Một
số Đảng cầm quyền đã kiên trì đường lối đổi mới, cải cách trên cơ sở nhận thức lại,
nhận thức mới về CNXH, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong điều kiện kinh tế
thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế. Các đảng cánh tả, đảng cầm quyền ở các
nước Châu Mỹ La tinh chủ trương đưa đất nước đi lên theo hướng xã hội chủ nghĩa
theo cách thức riêng và là nguồn cổ vũ, động viên và khích lệ nhân dân ở nhiều
nước trên thế giới trong công cuộc xây dựng đất nước vững mạnh vì cuộc sống ấm
no, hạnh phúc của nhân dân.
Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng, nhưng vẫn
còn nhiều khó khăn, tiềm ẩn những bất ổn mới. Tương quan sức mạnh kinh tế giữa
các nước, sự cạnh tranh về vị thế kinh tế và sự chi phối kinh tế thế giới giữa các
nước lớn sẽ tiếp tục phức tạp và gay gắt. Hiện nay và thời gian tới, cạnh tranh về
kinh tế - thương mại, tranh giành nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công
nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao ...giữa các nước, nhất là các nước
lớn sẽ gay gắt và phức tạp hơn. Những mâu thuẫn của thời đại vẫn gay gắt và ngày
càng gay gắt hơn. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu
tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp.
Nhiều vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh lương thực, an ninh
năng lượng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh lớn ... sẽ tiếp
111
tục diễn biến phức tạp hơn đòi hỏi các quốc gia, các tổ chức quốc tế tăng cường
phối hợp và tích cực giải quyết.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á
(ASEAN) đã và sẽ trở thành khu vực phát triển năng động nhất của thế giới, nhưng
đã xuất hiện nhiều nhân tố gây phức tạp, mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, không
phận, nhất là biển, đảo, ngày càng gay gắt, căng thẳng hơn, tiềm ẩn những xung đột
khó lường giữa một số nước. Sự xuất hiện chủ nghĩa nước lớn, sự vi phạm chủ
quyền và toàn vẹn lãnh hải của Trung Quốc đối với Việt Nam qua sự kiện hạ đặt
giàn khoan Hải Dương 981 đã gây quan ngại sâu sắc trong các nước trong khu vực
và trên thế giới. Khối ASEAN tuy còn nhiều khó khăn trong hoạt động, song sẽ
tiếp tục giữ và thể hiện rõ vai trò quan trọng trong giải quyết những vấn đề phức tạp
trong khu vực Đông Nam Á và góp phần giải quyết những vấn đề trong khu vực và
thế giới.
4.1.1.2. Tình hình trong nướcCông cuộc đổi mới qua gần 30 năm đạt được thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử, tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với
trước để tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới đạt thành tựu lớn hơn. Ngay sau Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, những hạn chế vốn có của nền kinh tế cùng nhiều
khó khăn khác làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định
kinh tế vĩ mô. Kinh tế tăng trưởng chậm lại, hoạt động của các doanh nghiệp, kết
quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, sức cạnh tranh
còn thấp trong khi hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Bên cạnh đó là thiên tai,
dịch bệnh gây thiệt hại nặng nề. Nhu cầu bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội,
bảo vệ và cải thiện môi trường ngày càng cao. Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời điều
chỉnh mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm theo hướng tập trung ưu tiên kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bảo đảm an
sinh xã hội…Với những nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, cộng đồng doanh nghiệp, tình hình kinh tế - xã hội đã chuyển
biến tích cực, đúng hướng trên hầu hết các lĩnh vực, đạt được những kết quả quan
trọng, khá toàn diện: Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát; kinh
112
tế dần được phục hồi, đạt mức tăng trưởng khá; tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới
mô hình tăng trưởng đạt kết quả bước đầu; các đột phá chiến lược được triển khai
đồng bộ; văn hoá, xã hội tiếp tục có tiến bộ, an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống
nhân dân có bước cải thiện; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng
phó với biến đổi khí hậu được tăng cường; phòng, chống tham nhũng và thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí đạt được một số kết quả; quốc phòng, an ninh, chủ quyền
quốc gia được bảo đảm; hoạt động đối ngoại đạt được nhiều kết quả tích cực.
Kinh tế nước ta đã bắt đầu phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy
giảm. Quan hệ quốc tế ngày càng rộng mở. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khoá XI) về “Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng” đã đạt kết quả quan trọng bước đầu, khắc phục những hạn chế,
yếu kém trong công tác xây dựng Đảng; xây dựng hệ thống chính trị; đem lại kết
quả lớn hơn về chống tham nhũng, củng cố lòng tin trong nhân dân. Việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đang tiếp tục thực hiện rộng khắp, liên
tục, góp phần nâng cao đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh của cán
bộ, đảng viên và nhân dân. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
được Quốc hội khóa XIII thông qua (2013), có hiệu lực, là cơ sở và căn cứ đặc biệt
quan trọng để mọi hoạt động của Đảng, các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên,
các tổ chức trong hệ thống chính trị và nhân dân theo Hiến pháp.
Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước những thách thức lớn, có những thách
thức mới gay gắt hơn, đan xen nhau phức tạp, tác động tổng hợp gây bất trắc khó
lường. Trong quá trình phục hồi kinh tế đất nước, vẫn có thể xảy ra những phức tạp,
rủi ro, trong khi chưa tìm được nhiều giải pháp có tính khả thi cao để giải quyết
những khó khăn. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế nhưng
chưa thật vững chắc. Nợ xấu còn cao, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn
thấp. Sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, doanh nghiệp khó tiếp cận vốn,
sức mua chậm phục hồi, cung, cầu mất cân bằng, số doanh nghiệp giải thể, ngừng
hoạt động còn lớn. Tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn chậm so
với yêu cầu. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn thấp. Tái cơ cấu DNNN và các tổ
chức tín dụng chưa đạt yêu cầu. Triển khai thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược tuy
113
đạt được một số kết quả bước đầu nhưng vẫn còn chậm. Lĩnh vực văn hoá, xã hội
còn nhiều hạn chế yếu kém. Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường còn
nhiều bất cập. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu đề ra.
An ninh chính trị vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Bảo vệ chủ
quyền quốc gia còn nhiều thách thức.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới vẫn là thách thức lớn và có những phức tạp mới. Mặt trái của kinh tế thị
trường, mở cửa, hội nhập quốc tế tác động mạnh không chỉ trong xã hội, đối với
nhân dân, mà còn vào trong Đảng, đối với cán bộ, đảng viên; sự phân hoá giàu
nghèo trong Đảng ngày càng rõ. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục tăng cường chống
phá Đảng, phá hoại sự nghiệp đổi mới, xây dựng CNXH trên đất nước ta, với các
thủ đoạn rất thâm độc, sảo quyệt của chiến lược “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn
lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ
chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu, con đường xã
hội chủ nghĩa, bỏ Đảng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến phức
tạp mới.
Theo đó, có thể nhiều DNNKVNN làm ăn khó khăn hơn, số công nhân có
thể giảm mạnh, đời sống tiếp tục khó khăn. Báo cáo số: 789/BC-VPCP ngày 4
tháng 6 năm 2012 “về việc chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 và năm tháng đầu năm 2012” cho biết:
“Trong 5 tháng đầu năm, cả nước có khoảng 30,1 ngàn doanh nghiệp đăng ký thành
lập mới với tổng số vốn đăng ký ước đạt 190 ngàn tỷ đồng (giảm 12,2% về số lượng
doanh nghiệp và giảm 3,6% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2011). Số doanh
nghiệp khó khăn phải tạm ngừng hoạt động hoặc giải thể tăng cao so với cùng kỳ
năm 2011). Hiện có khoảng 3,4 nghìn doanh nghiệp làm thủ tục giải thể (tăng
36,5% so với cùng kỳ năm 2011); trên 18,4 nghìn doanh nghiệp đăng ký ngừng
hoạt động có thời hạn hoặc dừng thực hiện các nghĩa vụ thuế (tăng 4,4%). Ước tạo
việc làm cho khoảng trên 612.138 người, trong đó xuất khẩu lao động ước đạt xấp
xỉ 32.138 người.
114
Theo Bản tin Viện Công nhân – Công đoàn số 08/12/2013 cho biết: Hiện có
15 triệu công nhân, tăng 1,3 triệu người/năm. Chiếm 33% lao động và bằng 15%
dân số nhưng đóng góp 60% tổng sản phẩm quốc dân, 70% ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên đời sống của đa số công nhân còn khó khăn, có tới 80% công nhân thuê
nhà ở, diện tích chỉ từ 2-3m2/người.
Theo số liệu của Tổng cụ thống kê, tính đến tháng 4 năm 2012 cả nước có
gần 342.000 doanh nghiệp đang tồn tại, tăng 216.000 doanh nghiệp, gấp 2,7 lần so
với 2007, trong đó có 312.000 doanh nghiệp đang hoạt động (Báo cáo của Ban Chỉ
đạo tổng điều tra cơ sở kinh tế sự nghiệp), trong đó doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm
97,5% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động; có 205.400 doanh nghiệp thuộc loại
siêu nhỏ (dưới 10 lao động), chiếm 67,4% tổng số doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hơn
107.000 doanh nghiệp có 10 lao động trở lên, trong đó có trên 7.700 doanh nghiệp
có trên 200 lao động. Riêng năm 2012 có khoảng 55.000 doanh nghiệp ngừng hoạt
động và giải thể. Hằng trăm ngàn lao động bị mất việc làm, ảnh hưởng đến thu
nhập, đời sống, kể cả công tác phát triển đảng viên, quản lý đảng viên trong
DNNKVNN. Lao động trong doanh nghiệp là 14,5 triệu lao động làm việc trong các
cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Khối doanh nghiệp tăng nhanh nhất với trên 10,9
triệu lao động (so với năm 2007 có 6,6 triệu lao động, trong đó có DNNN gần 1,59
triệu lao động, DNNKVNN 6,75 triệu, doanh nghiệp FDI có gần 243 .000 lao động;
khối hành chính đoàn thể 1,25 triệu; khu vực công lập trên 2,15 triệu. Từ năm 2007
đến nay, hằng năm tăng gần 1 triệu lao động, tăng khoảng 10,7%/năm.
Đối với DNNN có 100% chi, đảng bộ; công đoàn cơ sở, đoàn thanh niên, số
ít có chi hội Cựu chiến binh. Đối với DNTN chỉ có 40% công đoàn; rất ít chi bộ,
đảng bộ cơ sở. Đối với doanh nghiệp FDI có 80% công đoàn cơ sở, hầu hết chưa có
tổ chức đảng, chi đoàn thanh niên.
Những khó khăn của nền kinh tế nói chung và hoạt động sản xuất kinh
doanh nói riêng của các doanh nghiệp đã ảnh hưởng tới việc làm, thu nhập của
người lao động, nhất là lao động trong các doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô, tạm
ngừng hoạt động hoặc giải thể. Để giảm bớt khó khăn cho người lao động, đặc biệt
là những người lao động mất việc làm, hộ gia đình bị thu hồi đất sản xuất, người
115
nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa…các cấp, các ngành đã
tích cực triển khai, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; hỗ trợ giá điện, giá nhà
ở, xoá nhà ở dột nát; hỗ trợ tín dụng; hỗ trợ giảm nghèo, cứu đói…. Trong 5 tháng
đầu năm đã hỗ trợ cứu đói khoảng 20,7 nghìn tấn lương thực và trên 23,2 tỷ đồng.
Những nhân tố nêu trên tác động tạo ra những thuận lợi, thời cơ và thách
thức đan xen nhau đối với sự lãnh đạo của Đảng trong những năm tới. Đồng thời,
những yếu tố trên cũng sẽ có những yếu tố thuận lợi và khó khăn tác động trực tiếp
đến công tác xây dựng Đảng, trong đó có công tác đảng viên, nhất là quản lý đảng
viên vốn đã rất khó khăn trong thời gian qua của các tổ chức đảng trong
DNNKVNN.
4.1.2. Mục tiêu, phương hướng quản lý đảng viên trong doanh nghiệpngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng đến năm 2025
4.1.2.1. Mục tiêuMục tiêu của quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà
nước ở ĐBSH là để nắm chắc tình hình đội ngũ đảng viên, từ đó có biện pháp tăng
cường quản lý, giáo dục, rèn luyện nhất là tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của
đảng viên nhằm góp phần giữ vững và phát huy vai trò của đội ngũ đảng viên trong
DNNKVNN ở ĐBSH thời gian tới.
4.1.2.2. Phương hướngĐổi mới, tăng cường công tác quản lý đảng viên, phát triển đảng viên, bảo đảm
chất lượng đội ngũ đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí,
yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống
của đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính tiền phong
gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ
được giao, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên.
Phương hướng của quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH cụ thể:
- Thực hiện đúng quan điểm, nguyên tắc quản lý đảng viên là quản lý tất cả
mọi đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ lãnh đạo, không để một đảng viên nào
đứng ngoài sự quản lý của tổ chức đảng; quản lý mọi mặt, thường xuyên; phải dựa
vào dân để quản lý đảng viên.
116
- Quản lý toàn diện đảng viên về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, hoạt
động công tác, trình độ năng lực, quan hệ xã hội, hồ sơ; diễn biến số lượng, cơ cấu
của đội ngũ đảng viên.
- Thực hiện đúng Quy định số 76-QĐ/TW ngày 15/6/2000 của Bộ Chính trị “về
việc đảng viên đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường
xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ
công dân nơi cư trú.”; Hướng dẫn 23-HD/TCTW ngày 14/10/2003 của Ban Tổ chức
Trung ương; Công văn số 5147-CV/BTCTW ngày 16 tháng 12/2008 của Ban Tổ
chức Trung ương.
- Thực hiện nghiêm túc công tác phát thẻ đảng viên, quản lý hồ sơ đảng viên,
giới thiệu sinh hoạt đảng theo đúng quy định của Điều lệ Đảng.
- Thực hiện đúng đắn, khoa học việc xây dựng và quản lý các cơ sở dữ liệu về
đảng viên.
- Thực hiện đúng chế độ báo cáo về đảng viên hằng năm (theo 11 biểu báo cáo
thống kê định kỳ về đảng viên và TCCSĐ trên mạng thông tin của Đảng).
4.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản lý đảng viên
trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng
đến năm 2025
4.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, đảngviên về công tác quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vựcnhà nước ở đồng bằng sông Hồng
4.2.1.1. Nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, đảng viên và quần
chúng về việc xây dựng, phát triển tổ chức đảng trong các doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng hiện nayÝ chí quyết tâm xây dựng đội ngũ đảng viên và quản lý chặt chẽ đội ngũ đảng
viên trong DNNKVNN ở ĐBSH phụ thuộc trước hết vào nhận thức về việc xây
dựng, phát triển tổ chức đảng trong DNNKVNN. Nhận thức, ý thức trách nhiệm về
sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng các cấp đối với công tác xây dựng Đảng trong
DNNKVNN là nhân tố trực tiếp có tính quyết định đến thành công của công tác xây
117
dựng Đảng nói chung và công tác đảng viên, quản lý đảng viên trong DNNKVNN.
Nhiều trường hợp, việc xây dựng tổ chức đảng, công tác phát triển đảng trong
DNNKVNN chậm, thậm chí khi thành lập rồi nhưng hoạt động cầm chừng, lúng
túng, nhàm chán là do chính sự nhận thức không đúng đắn của cấp uỷ các cấp. Việc
xây dựng và phát triển tổ chức đảng trong DNNKVNN vốn đã rất khó khăn nhưng
tư tưởng coi nhẹ, không mặn mà với việc xây dựng, phát triển đảng trong
DNNKVNN là nguyên nhân dẫn đến sự chùn bước trước những khó khăn, thử thách
đó. Trên thực tế, khi DNNKVNN phát triển rất nhanh, yêu cầu xây dựng hệ thống
chính trị tương xứng với sự phát triển của DNNKVNN đã được Đảng ta đặt ra rất
sớm (Chỉ thị 07 của Bộ Chính trị khoá VIII) năm 1996 với những quan điểm rõ
ràng, khẳng định sự quyết tâm cao của Trung ương Đảng trong việc xây dựng và
phát triển tổ chức đảng trong điều kiện có thể ở tất cả các doanh nghiệp – nơi có
quần chúng, công nhân, người lao động. Tuy nhiên những chủ trương đúng đắn của
Đảng chưa thực sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của một số
cấp uỷ đảng và đảng viên. Thể hiện rõ nhất là sau hai mươi năm triển khai thực
hiện, mới chỉ có 2.009 tổ chức đảng trên tổng số 165.348 DNTN (số DNTN có tổ
chức đảng chỉ chiếm 1,22%) với 29.459 đảng viên. Đó là con số quá ít, không
tương xứng với sự phát triển của DNTN nói riêng và DNNKVNN nói chung và
không đạt yêu cầu đề ra. Không thể phủ nhận được là có quá nhiều khó khăn trong
việc xác lập, củng cố, nâng cao vai trò của tổ chức đảng trong DNNKVNN do vị thế
của tổ chức đảng ở đó, do đảng viên không muốn chuyển về sinh hoạt và những khó
khăn khác nữa nhưng rõ ràng nếu cấp uỷ có ý chí quyết tâm cao, chỉ đạo quyết liệt
thì tổ chức đảng trong DNNKVNN vẫn có thể phát triển tốt.
Để có được nhận thức đúng đắn về việc xây dựng, phát triển tổ chức đảng trong
DNNKVNN, các cấp uỷ đảng phải thống nhất được yêu cầu khách quan của việc
thành lập tổ chức đảng, cảm nhận được nhu cầu bức xúc của công nhân, người lao
động cần có được tổ chức để bảo vệ quyền lợi thiết thân hằng ngày cho họ. Trong
khi tổ chức Công đoàn được thành lập theo Luật cũng rất chậm và không ít nơi hoạt
động còn hình thức, đối phó, làm cho công nhân ở đó bị vi phạm hợp đồng lao
118
động, thiệt thòi nhiều mặt trong thu nhập, việc làm, đóng bảo hiểm xã hội, những
điều kiện bảo hộ lao động và nhiều vấn đề xã hội khác trong và ngoài DNNKVNN.
Ở đó đông đảo công nhân, người lao động rất cần có sự lãnh đạo trực tiếp của tổ
chức đảng. Bản thân tổ chức Công đoàn cũng rất cần chỗ dựa tinh thần và sự lãnh
đạo, chỉ đạo trực tiếp thường xuyên có hiệu quả đích thực từ tổ chức đảng trong
DNNKVNN. Trong khi đó, chính bản thân một số chủ DNNKVNN – nơi chưa có
tổ chức đảng cũng chưa thật “mặn mà” với việc thành lập tổ chức đảng ở đó vì họ
cho rằng chẳng mấy tác dụng, thậm chí chỉ để “soi mói” làm cho DNNKVNN khó
làm ăn, mất thời gian, tốn kém về cơ sở vật chất mà thôi. Mặt khác, nếu tổ chức
đảng thực sự hoạt động có hiệu quả sẽ tập hợp được sức mạnh trí tuệ của tập thể,
góp ý cho chủ doanh nghiệp về phương thức sản xuất kinh doanh, làm cho doanh
nghiệp hoạt động đúng hướng, vận động công nhân phát huy tinh thần trách nhiệm,
chung sức xây dựng doanh nghiệp thì tổ chức đảng có được vị thế của mình, phát
triển ổn định, hiệu quả.
Việc giáo dục nâng cao nhận thức về vai trò, sự cần thiết phải thành lập tổ
chức đảng, công tác đảng viên nói chung và quản lý đảng viên nói riêng phải được
tiến hành thường xuyên và bản thân tổ chức đảng đã được thành lập phải thực sự
phát huy tác dụng thì giáo dục mới có ý nghĩa. Chỉ khi nào nhận thức đúng đắn dựa
trên căn cứ khoa học và thực tiễn vững chắc thì công tác xây dựng, phát triển tổ
chức đảng, đảng viên trong DNNKVNN mới ổn định, tạo nên sức mạnh, uy tín,
điều kiện thực tế để các tổ chức đảng hoạt động thuận lợi, đem lại hiệu quả thực tế,
được xã hội, công nhân, người lao động và chủ doanh nghiệp thừa nhận.
Việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho từng chủ thể của công tác xây
dựng tổ chức đảng, cơ quan quản lý Nhà nước và đảng viên, công nhân, người lao
động, chủ doanh nghiệp phải được tiến hành riêng với nhiều hình thức khác nhau và
ở nhiều thời điểm thích hợp khác nhau và phải kiên trì, bền bỉ, gắn với việc nêu
gương sáng, những điển hình tiên tiến của những tổ chức đảng nơi đã thành lập. Từ
phân tích trên cho thấy cần phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy
119
đảng, đảng viên và quần chúng nhân dân về công tác xây dựng Đảng, công tác quản
lý đảng viên trong các DNNKVNN là rất cần thiết.
4.2.1.2. Giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp uỷ đảng,
đảng viên và quần chúng về công tác quản lý đảng viên trong doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước hiện nayQuản lý đảng viên là một trong những khâu quan trọng của công tác đảng
viên, góp phần vào việc bảo đảm và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Quản
lý đảng viên trong DNNKVNN càng trở nên quan trọng khi mà DNNKVNN có
nhiều nét đặc thù.
Đảng viên được kết nạp từ rất nhiều nguồn nhưng chủ yếu là từ quân đội,
trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, từ địa phương hoặc từ
các DNNN trước đây sau khi được sắp xếp lại. Tuy vậy, không ít đảng viên không
muốn chuyển sinh hoạt đảng về DNNKVNN mà mình công tác chỉ vì do chủ doanh
nghiệp không ủng hộ, không thích hoặc bản thân đảng viên không muốn chịu sự
ràng buộc của tổ chức đảng. Cũng do công việc trong DNNKVNN thường không
ổn định nên đảng viên ngại chuyển đi chuyển lại, thủ tục phiền hà, phức tạp thêm,
mất quá nhiều thời gian. Lý do chủ yếu nhất vẫn là do bản thân đảng viên chưa
nhận thức đúng đắn quyền và trách nhiệm của người đảng viên.
Trong những trường hợp như vậy, cấp uỷ đảng quản lý đảng viên không
thường xuyên theo dõi đảng viên được vì đi làm ăn xa, xin miễn sinh hoạt theo quy
định, chỉ đóng đảng phí hoặc hiếm khi gặp bí thư chi bộ để nắm thông tin về công
tác đảng. Cấp uỷ nơi công việc không nắm được đảng viên – dù đảng viên đó công
tác tại doanh nghiệp mình nhưng không chuyển sinh hoạt đảng, thậm chí cũng
không hề biết người đó là đảng viên. Hơn thế nữa, đa số các DNNKVNN chưa có tổ
chức đảng làm cho đảng viên không thể chuyển sinh hoạt về doanh nghiệp mình
đang làm và càng có lý do để trì hoãn việc chuyển sinh hoạt đảng về nơi công tác.
Như vậy chẳng những làm cho công tác xây dựng Đảng ở doanh nghiệp nơi đảng
viên công tác chậm và còn lãng phí “nguồn tài nguyên” của Đảng - những đảng
viên không lộ diện, không có điều kiện, cơ hội để khẳng định vị thế của mình, của
120
tổ chức đảng. Trên thực tế, công tác quản lý đảng viên ngày càng gặp khó khăn, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến chất lượng đội ngũ đảng viên, làm cho một bộ phận đảng
viên đã từng rất tiên phong, gương mẫu nay hoạt động cầm chừng, không phát huy
tác dụng, ảnh hưởng đến thanh danh uy tín của chính họ và ảnh hưởng không
nhỏ đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng nơi đảng viên đó
sinh hoạt.
Quản lý đảng viên trong DNNKVNN đang cần được nhận thức đầy đủ, đúng
đắn hơn bao giờ hết theo hướng đổi mới. Để nâng cao nhận thức của tổ chức đảng
các cấp, đảng viên, quần chúng trong DNNKVNN, ngoài việc học tập nâng cao
nhận thức chung về công tác xây dựng Đảng, công tác đảng viên, trong đó có công
tác quản lý đảng viên. Khi còn nhận thức khác nhau, cần thiết có các cuộc tranh
luận khoa học nhằm phát hiện những vướng mắc trong quá trình tổ chức thực thi, có
nguyên nhân nào do nhận thức, trách nhiệm thuộc về ai... để có biện pháp sớm khắc
phục. Việc chậm có những chuyển biến trong công tác xây dựng, phát triển tổ chức
đảng trong DNNKVNN và công tác quản lý đảng viên làm việc trong DNNKVNN
lỏng lẻo như trong thời gian qua đã chứng tỏ nhận thức trách nhiệm của các chủ thể
quản lý đảng viên chưa cao, chưa quyết liệt, chưa sâu sắc.
Rõ ràng, việc giáo dục, nâng cao nhận thức các cấp uỷ đảng, đảng viên và quần
chúng về vai trò của tổ chức đảng trong DNNKVNN và chất lượng đội ngũ đảng
viên trong DNNKVNN gắn kết chặt chẽ với nhau, làm tiền đề cho nhau và cần được
giải quyết đồng bộ. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ vai trò của quản lý đảng viên trong
DNNKVNN hay không phụ thuộc vào chương trình hành động cụ thể của từng cấp
uỷ có trách nhiệm chứ không chỉ dừng lại ở lời nói, nghị quyết. Việc giao trách
nhiệm, quyền hạn, điều kiện vật chất tương ứng của cấp uỷ có thẩm quyền trong
việc xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức đảng trong DNNKVNN là rất quan trọng.
Đó là việc làm cần thiết, trước hết vì những khuyết điểm trong công tác quản lý
đảng viên nhiều năm vẫn chưa được khắc phục như Đảng ta đã đánh giá: Vấn đề
quản lý đảng viên hiện nay còn nhiều thiếu sót. Việc giới thiệu đảng viên khi thay
đổi công tác có nơi làm không đúng thủ tục; việc kê khai lý lịch, nhận xét, giúp đỡ
121
đảng viên trong quá trình công tác còn chưa được chu đáo...Để tránh những khuyết
điểm trên đây, chế độ quản lý đảng viên cần phải đi vào nền nếp chặt chẽ.
4.2.2. Thực hiện có hiệu quả công tác quản lý đảng viên trên cả ba
mặt: tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; quá trình công tác và hồ sơ đảngviên
4.2.2.1. Quản lý về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của đảng viên
trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nướcTư tưởng có vai trò chi phối toàn bộ hoạt động chính trị của người đảng viên.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, nhất là trước những bước ngoặt của cách mạng,
bước ngoặt của mỗi cuộc đời con người, của đảng viên thì tư tưởng cũng có thể có
sự thay đổi ở các mức độ khác nhau. Tư tưởng cũng chịu tác động, sự chi phối bởi
thực trạng xã hội rất nhiều. Sự tấn công của các thế lực thù địch với “diễn biến hoà
bình” trên lĩnh vực tư tưởng, sự yếu kém trong quản lý nhà nước, tình trạng tham
nhũng chậm được ngăn chặn và đẩy lùi, tình trạng bất bình đẳng xã hội, khoảng
cách giàu nghèo ngày càng cao... đang làm cho không ít đảng viên phân tâm, nghi
ngờ vào sự lãnh đạo của Đảng, vào khả năng của điều hành của Nhà nước trong
việc giải quyết những vấn đề hệ trọng về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng
hiện nay.
Trong thời đại bùng nổ thông tin, khi các phương tiện thông tin tràn lan, nhất là
mạng internet dễ tiếp cận, nhiều thông tin, thông tin nhiều chiều cả tích cực lẫn tiêu
cực và thông tin rất nhanh...làm cho đảng viên trong DNNKVNN vốn chưa có điều
kiện để hiểu biết sâu sắc bản chất của các nguồn tin, không đủ năng lực để nhận biết
đúng - sai, tốt - xấu nên rất dễ nghi ngờ, dao động.
Diễn biến tư tưởng có thể đến rất nhanh đối với đảng viên trong DNNKVNN.
Với mặc cảm là người làm thuê cho các ông chủ, thu nhập thường thấp và bấp bênh,
việc làm không ổn định, nơi ăn chốn ở cũng thiếu ổn định, thường là tạm bợ, các
hoạt động xã hội khác, nhu cầu cho con cái học tập, cư trú... gặp muôn vàn khó
khăn làm cho đảng viên không có điều kiện để học tập nâng cao trình độ nhận thức,
hiểu biết thời cuộc, chính sách để tự “miễn dịch” với thông tin trái chiều.
122
Diễn biến tư tưởng theo chiều hướng xấu của đảng viên trong DNNKVNN ở
mức độ nhẹ là nghi ngờ, thiếu niềm tin vào con đường đi lên CNXH mà Đảng, Bác
Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Ở mức độ suy thoái về tư tưởng chính trị cao hơn là
“tự diễn biến”, không còn niềm tin vào chế độ XHCN, vào sự lãnh đạo của Đảng và
sự quản lý của Nhà nước. Mức cao nhất của sự suy thoái về tư tưởng chính trị là bất
mãn, bỏ Đảng, cổ suý cho những tư tưởng trái chiều, phản động, tiếp tay cho kẻ
địch tuyên truyền chống phá Đảng và chế độ, tham gia tổ chức phản động.
Để nắm được diễn biến tư tưởng nêu trên thì không còn cách nào khác là phải
quản lý được tư tưởng của đảng viên, xem đảng viên đó có suy nghĩ, nói, viết và
làm như thế nào, có quan hệ gì với bên ngoài, với tổ chức, cá nhân bất mãn, chống
chế độ.
Chủ thể quản lý đảng viên về tư tưởng chính trị là cấp uỷ, chi bộ, quần chúng
nơi đảng viên sinh hoạt, công tác và nơi cư trú. Muốn quản lý được tư tưởng đảng
viên phải luôn gần gũi, lắng nghe hiểu biết mọi điều kiện tác động đến tư tưởng của
đảng viên để phân tích, giải thích, thuyết phục, giúp đỡ, kéo đảng viên đang có nhận
thức lệch lạc trở lại với tổ chức. Trong nhiều trường hợp khi đảng viên có những
dấu hiệu suy thoái về tư tưởng, nếu tổ chức phát hiện sớm, động viên, chia sẻ và
điều chỉnh, uốn nắn, nhắc nhở kịp thời thì sẽ giữ được sự ổn định trong tư tưởng của
đảng viên.
Trong những trường hợp đặc biệt, qua theo dõi, uốn nắn, nhắc nhở nhiều lần
mà đảng viên vẫn không sửa chữa, vi phạm kỷ luật đảng về phát ngôn, vi phạm 19
điều đảng viên không được làm trong đó có việc phát tán tài liệu có nội dung xấu...
phải được xử lý kỷ luật Đảng, thậm chí phải xử lý theo pháp luật để làm trong sạch
đội ngũ đảng viên, trong sạch tổ chức đảng, không để đảng viên mang danh Đảng
để bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng và chống Đảng.
Quản lý đảng viên còn là quá trình liên tục theo dõi, đánh giá đúng phẩm chất
đạo đức cách mạng, lối sống của đảng viên, tinh thần đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực
khác trong doanh nghiệp nơi mình công tác và chính quyền địa phương nơi cư trú
123
trong điều kiện có thể.
Đạo đức lối sống của đảng viên được thể hiện trong cách hành xử với công
việc, với đồng nghiệp, quần chúng, gia đình và xã hội. Thậm chí đạo đức, lối sống
còn thể hiện trong cách hành xử với thiên nhiên, của cải, lợi ích của doanh nghiệp,
của cộng đồng. Đảng viên không chỉ thực hiện đúng đắn những hành vi đạo đức lối
sống lành mạnh mà còn phải gương mẫu, vận động, lôi kéo quần chúng thực hiện
những nghĩa cử cao đẹp, trong sáng, lành mạnh, tiết kiệm và ứng xử có văn hoá.
Quản lý đạo đức, lối sống của đảng viên không dễ, nhất là đối với đảng viên trong
DNNKVNN hoạt động, sinh hoạt phân tán, nghề nghiệp, thu nhập bấp bênh. Đảng
viên phải đảm bảo giữ gìn phẩm chất đạo đức lối sống đúng mực trong các mối
quan hệ công tác xã hội và với bản thân mình nhằm nêu gương cho quần chúng noi
theo. Quản lý đảng viên trên lĩnh vực đạo đức, lối sống phải được tiến hành thường
xuyên vì như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: xây dựng đạo đức thì rất khó như leo
lên đỉnh núi, nhưng nếu để trượt ngã thì rất nhanh. Những cảm dỗ của đời thường,
những tác động về tâm lý đối với đảng viên DNNKVNN là rất lớn, rất nhiều và
thường xuyên do bởi đặc thù công việc, dễ bị tổn thương về tinh thần nên việc theo
dõi, quản lý đạo đức, lối sống đối với các chi bộ, tổ chức đảng để giúp đỡ, chia sẻ,
thuyết phục, uốn nắn là vô cùng quan trọng. Tất nhiên, những trường hợp đảng viên
không chấp hành tốt, sa ngã, vi phạm tư cách đạo đức của đảng viên phải được xử
lý nghiêm minh bằng những hình thức kỷ luật thích hợp để nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên.
4.2.2.2. Quản lý chặt chẽ mọi hoạt động liên quan đến thực hiện nhiệm vụ
của đảng viên theo quy định của ĐảngHoạt động của đảng viên rất rộng lớn nhưng xét trong mối quan hệ và yêu cầu
quản lý đảng viên thì chỉ tập trung vào những hoạt động có liên quan đến nhiệm vụ
của đảng viên theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định của Bộ Chính trị về
những điều đảng viên không được làm.
Hoạt động của đảng viên khá rộng về phạm vi, kể cả không gian, thời gian và
các phương diện khác. Theo đó, quản lý hoạt động của đảng viên phải có cách nhìn
124
toàn diện, trong mối quan hệ biện chứng và theo quan điểm lịch sử, cụ thể.
Đó là sự trung thành tuyệt đối của đảng viên với mục đích lý tưởng cách mạng
của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết,
chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong bất cứ hoàn cảnh nào, điều kiện
nào kể cả lúc đảng viên gặp khó khăn nhất về nghề nghiệp, cuộc sống, những bước
ngoặt của cuộc cách mạng, nhất là khi CNXH lâm vào thoái trào, khi mà đất nước
đổi mới tuy đã đạt được những thành tự to lớn có ý nghĩa lịch sử nhưng vẫn còn đó
tệ nạn tham nhũng, phân hoá giàu nghèo và các vấn đề an sinh xã hội. Quản lý
đảng viên của các tổ chức đảng trong DNNKVNN là phải căn cứ vào từng giai
đoạn, từng hoàn cảnh của đảng viên mà nhận định, đánh giá, tìm nguyên nhân và
biện pháp khắc phục ngay.
Quản lý đảng viên còn phải căn cứ vào thực tế chất lượng công tác của đảng
viên trong DNNKVNN. Đó là số lượng, chất lượng công việc được giao (kể cả
nhiệm vụ do chủ doanh nghiệp giao) trên nguyên tắc phục tùng tuyệt đối sự phân
công của Đảng.
Cho dù hoạt động cho doanh nghiệp, đánh giá chất lượng công tác, trả lương
theo sản phẩm công việc nhưng cấp uỷ vẫn phải quản lý sự học tập, rèn luyện, nâng
cao trình độ kiến thức, năng lực công tác để đảng viên có thu nhập cao hơn cho bản
thân và gia đình mình. Thái độ lao động, chất lượng công việc được giao vẫn là
những yếu tố cơ bản nhất để đánh giá, theo dõi sự phát triển đối với đảng viên.
Hiện tại, một bộ phận đảng viên làm việc trong DNNKVNN còn nhiều khó
khăn, việc làm, thu nhập bấp bênh, nhưng trong hoàn cảnh nào cũng phải nắm chắc
và chấp hành nghiêm túc quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều
đảng viên không được làm. Đảng viên còn phải làm tốt công tác vận động quần
chúng, liên hệ chặt chẽ với công nhân, người lao động trong doanh nghiệp; góp ý
với người sử dụng lao động luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của công
nhân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của
người lao động trong doanh nghiệp. Đảng viên còn có nghĩa vụ tham gia công tác
xã hội nơi cư trú, tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối,
125
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đảng viên trong DNNKVNN có
trách nhiệm tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng,
nhất là những chính sách có liên quan đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
đời sống vật chất và tinh thần của công nhân, góp phần làm cho doanh nghiệp phát
triển ổn định, bền vững, đảm bảo lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, doanh nghiệp và
người lao động. Trong hoàn cảnh nào, với tư cách của người đảng viên hoạt động
trong DNNKVNN cũng phải phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong
Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác
phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Quản lý đảng viên không thuần tuý chỉ là việc theo dõi đánh giá việc thực hiện
nhiệm vụ của đảng viên mà còn theo dõi việc thực hiện các quyền của đảng viên
trong DNNKVNN. Cho dù còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, thời gian song
đảng viên trong DNNKVNN vẫn có quyền được thông tin và thảo luận các vấn đề
về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng;
biểu quyết công việc của Đảng; ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp
của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương; được phê bình, chất vấn
về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo
cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời; trình bày ý kiến
khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.
Quản lý đảng viên trong DNNKVNN không chỉ thuần tuý nắm chắc và đánh
giá đúng đảng viên về các mặt nêu trên mà quan trọng hơn là khích lệ những đảng
viên tốt, uốn nắn những lệch lạc trong nhận thức và hành động để đảng viên ngày
càng tiến bộ, đóng góp thực sự vào sự phát triển của doanh nghiệp và xây dựng,
phát triển đảng trong DNNKVNN.
4.2.2.3. Quản lý chặt chẽ, đúng quy định về hồ sơ và thẻ đảng viênQuản lý hồ sơ lý lịch của đảng viên là một hoạt động quan trọng, có tính chất
bao trùm trong toàn bộ quản lý đảng viên. Quản lý hồ sơ lý lịch của đảng viên phải
đảm bảo tình toàn diện, liên tục và lưu trữ lâu dài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chi bộ phải hiểu rõ lý lịch, mặt mũi chính trị,
126
trình độ giác ngộ, ưu điểm, khuyết điểm của mỗi đảng viên cũ. Phải đôn đốc họ học
tập và tham gia mọi công tác của Đảng” [59, tr 243].
Quản lý đảng viên nói chung và quản lý hồ sơ đảng viên nói riêng rất quan
trọng cho tổ chức đảng. Do thời gian của một cuộc đời con người đảng viên rất dài,
lại chuyển công tác thường xuyên và nhất là các thế hệ quản lý đảng viên sẽ chuyển
tiếp liên tục nên công tác hồ sơ đảng viên trở nên cực kỳ quan trọng. Có quản lý tốt
hồ sơ đảng viên thì mới có thể xác minh, thẩm định tính trung thực của người đảng
viên đó, theo dõi đánh giá đảng viên trong cả một quá trình và trong nhiều trường
hợp có thể phát hiện những kẻ cơ hội chui vào Đảng.
Quản lý hồ sơ đảng viên ngay từ khi đảng viên chuẩn bị kếp nạp Đảng cho đến
cuối đời đảng viên, thậm chí kể cả sau khi đảng viên qua đời. Theo quy định hiện
hành (quy định này khá ổn định trong suốt quá trình phát triển của Đảng từ khi ra
đời đến nay), hồ sơ đảng viên bao gồm: Lý lịch đảng viên – văn bản quan trọng
nhất xuyên suốt cuộc đời đảng viên; bản sao công chứng bằng cấp, giấy khai sinh;
giấy giới thiệu của đoàn thanh niên, công đoàn, cam kết của người giới thiệu, biên
bản, văn bản đề nghị của chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và các quyết định của cấp trên có
thẩm quyền về chuẩn y kết nạp đảng. Nếu làm tốt công tác xây dựng hồ sơ đảng
viên ngay từ đầu thì sau này việc bổ sung hồ sơ rất thuận tiện và dễ theo dõi như
quyết định công nhận đảng viên chính thức, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật và các bản
kiểm điểm, nhận xét đảng viên nơi sinh hoạt, nơi cư trú hằng năm, giấy chuyển sinh
hoạt Đảng… Thông qua theo dõi hồ sơ, cấp uỷ đảng có thể có thêm những nhận xét,
đánh giá chính xác hơn khi có yêu cầu đề bạt, luân chuyển cán bộ. Hồ sơ đảng viên
là tài liệu mật của Đảng, phải được tổ chức quản lý chặt chẽ theo đúng quy định về
sử dụng, bảo quản tài liệu mật. Để quản lý tốt lý lịch đảng viên, các cấp uỷ đảng
phải phân công, chỉ đạo nhân viên nắm chắc những quy định về bổ sung hồ sơ,
những quy định về việc cung cấp hồ sơ cho các cơ quan chức năng khi có yêu cầu
để hồ sơ không thể tẩy xoá, thay đổi nội dung trong bất cứ hoàn cảnh nào. Khi có sự
thay đổi cán bộ quản lý hồ sơ, cần coi trọng khâu bàn giao đầy đủ, chính xác, gắn
trách nhiệm của cấp uỷ, của cán bộ quản lý hồ sơ. Trong điều kiện hiện nay, phải
127
kết hợp quản lý hồ sơ bằng văn bản và quản lý hồ sơ trên máy tính, chúng hỗ trợ
cho nhau, tạo điều kiện thuận lợi để khai thác thông tin về đảng viên từ hồ sơ bằng
văn bản. Cho dù thông tin có hiện đại đến mấy thì không thể thay thế được quản lý
hồ sơ đảng viên truyền thống là bằng văn bản.
Thẻ đảng viên không chỉ là sự công nhận danh hiệu đảng viên, được sử dụng
trong những sự kiện quan trọng như đại hội đảng viên, đại hội đại biểu mà còn là
niềm vinh dự tự hào của đảng viên. Việc phát thẻ và quản lý thẻ đảng viên là công
việc quan trọng của Đảng góp phần nâng cao ý thức Đảng, tinh thần phấn đấu, ý
thức tổ chức, kỷ luật của đảng viên. Quản lý thẻ đảng viên là việc cấp thẻ đầy đủ,
đúng quy định cho đảng viên; kiểm tra thẻ đảng viên thường xuyên, nhất là dịp đại
hội Đảng. Những đảng viên làm mất hoặc bị nhàu nát cần phải có trách nhiệm báo
cáo đầy đủ, để cấp lại thẻ, tránh trường hợp không kiểm tra, không yêu cầu mang
theo khi tiến hành đại hội sẽ làm cho đảng viên coi nhẹ thẻ đảng viên. Đảng ủy có
thẩm quyền xét và làm thủ tục đề nghị về phát thẻ đảng viên, cấp lại thẻ đảng viên
bị mất hoặc bị hỏng; tổ chức lễ phát thẻ đảng viên; định kỳ mỗi năm một lần tổ
chức kiểm tra thẻ đảng viên; thu hồi thẻ đảng viên của người đã ra khỏi Đảng nộp
lên cấp ủy cấp trên. Quản lý thẻ đảng viên không chỉ thuần tuý là một trong những
nội dung quản lý đảng viên mà còn là sự tôn vinh, niềm tự hào, khích lệ đảng viên
phấn đấu giữ vững danh hiệu cao quý của mình - người đảng viên Cộng sản.
4.2.3. Nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi bộ trong các doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình
Chi bộ là tế bào của Đảng, hạt nhân lãnh đạo chính trị ở các địa bàn dân cư,
trong các tổ chức và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chi bộ có năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu cao là một nhân tố quyết định đến chất lượng hoạt động của các tổ
chức trong hệ thống chính trị. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ
quan hệ mật thiết và là nhân tố đặc biệt quan trọng tạo nên năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng và có vai trò quan trọng trong công tác quản lý đảng viên.
Chất lượng sinh hoạt chi uỷ, nhất là sinh hoạt chi bộ không chỉ là khâu quan
trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ của chi bộ, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của
128
người đảng viên theo quy định của Điều lệ Đảng mà còn thông qua đó có thể thực
hiện tốt nhiệm vụ quản lý đảng viên. Ý thức đảng của đảng viên, phẩm chất năng
lực của đảng viên được bộc lộ chủ yếu thông qua các cuộc sinh hoạt đảng mà trước
hết là sinh hoạt chi bộ hằng tháng theo quy định của Điều lệ Đảng.
Quản lý đảng viên thông qua các cuộc họp chi bộ thể hiện trước hết là việc
đánh giá ý thức của đảng viên tham gia sinh hoạt định kỳ. Đảng viên có quyền và có
nghĩa vụ phải tham gia sinh hoạt đảng hằng tháng. Chi uỷ, chi bộ có trách nhiệm tổ
chức đúng thời gian, địa điểm phù hợp để đảng viên thực hiện quyền và trách nhiệm
của mình. Chỉ khi tổ chức đảng tổ chức kỳ họp chi bộ đúng thời gian, địa điểm thì
mới có thể kiểm soát được việc đảng viên tham gia sinh hoạt hay không. Đây vẫn là
khâu yếu của các chi uỷ, chi bộ trong DNNKVNN trong thời gian qua.
Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, trách nhiệm trên hết, trước hết là của
chi uỷ, đứng đầu là bí thư chi bộ. Việc lựa chọn thời gian, địa điểm sinh hoạt chi bộ
phải đảm bảo tính hài hoà giữa công việc của đảng viên, công việc của doanh
nghiệp và tính khả thi. Địa điểm sinh hoạt chi bộ cũng phải trang trọng trong điều
kiện có thể, tránh đơn giản hoá quá mức làm giảm tính nghiêm túc của cuộc họp, tự
hạ thấp vị thế của chi bộ. Chi uỷ, bí thư chi bộ phải có sự chuẩn bị chu đáo: từ
thông tin cuộc họp (thời gian địa điểm, nội dung chính) đến việc chuẩn bị nội dung
đầy đủ, thiết thực, hấp dẫn bổ ích đối với đảng viên. Nhiều cuộc họp diễn ra hình
thức, đối phó, dẫn đến sự nhàm chán đối với đảng viên có nguyên nhân sâu xa là
nội dung nghèo nàn, thiết tính thiết thực đối với đảng viên. Nội dung sinh hoạt đảng
thường là triển khai nghị quyết, chủ trương của cấp trên, kiểm điểm việc thực hiện
nhiệm vụ của đảng viên trong tháng, xác định thống nhất phương hướng nhiệm vụ
của tháng sau và tiến hành công tác xây dựng nội bộ đảng nếu có (công tác phát
triển đảng, công tác lãnh đạo các đoàn thể...).
Tuy nhiên, nhiều nội dung thuộc về chủ trương của Đảng trên các lĩnh vực
khác không có liên quan gì nhiều đến doanh nghiệp thì không nhất thiết phải trình
bày sâu, thậm chí không cần có chương trình hành động thực hiện nghị quyết. Vấn
đề quan trọng là những chủ trương có liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp, đến
129
công nhân, đến các vấn đề dân sinh như việc làm, đời sống, lương, an toàn lao
động, đạo đức nghề nghiệp, an toàn thực phẩm, an toàn xã hội, thương hiệu sản
phẩm, vấn đề học tập cho con em công nhân, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thất nghiệp, trợ cấp thất nghiệp, nhà ở cho người có thu nhập thấp.
Cấp uỷ, chi bộ phải cung cấp đầy đủ thông tin về quan điểm, chính sách có liên
quan đến đảng viên trong chi bộ, không phải một lần mà phải thường xuyên, liên
tục nhằm giúp đảng viên có nhận thức đúng, tuyên truyền cho quần chúng công
nhân, người lao động để biết bảo vệ lợi ích cho chính mình, cho người lao động,
cho chủ doanh nghiệp và cho địa phương, Nhà nước. Không chỉ biết và thực hiện
đúng, đảng viên, cấp uỷ, chi bộ phải bàn bạc, thảo luận xem xét những vấn đề nảy
sinh, những yếu tố bất hợp lý, những kiến nghị từ đoàn thể, công nhân, người lao
động để nghiên cứu, đề xuất cấp trên, chủ doanh nghiệp thực hiện, thay đổi cho phù
hợp và phải giải thích, vận động người lao động thực hiện những quy định, những
chính sách đúng đắn.
Đổi mới nội dung và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo Chỉ thị số 10-
CT/TW ngày 30/3/2007 của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”;
“Hướng dẫn số 05 - HD/BTCTW ngày 25/7/2007 của Ban Tổ chức Trung ương
“nội dung sinh hoạt chi bộ trong các loại hình cơ sở đảng”. Tiếp theo, nghị quyết
Trung ương 6 ( khóa X) của Đảng (tháng 2 năm 2008) “ về nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”,
tiếp tục nhấn mạnh: “ Khắc phục tính hình thức đơn điệu trong sinh hoạt chi bộ”,
Cấp ủy, TCCSĐ ở cơ sở thực hiện nghiêm túc có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng
định kỳ. Nội dung sinh hoạt phải cụ thể, thiết thực, giải quyết kịp thời những vấn đề
bức xúc sảy ra ở địa phương, đơn vị. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ phải đổi
mới cách thức và quy trình ra nghị quyết của chi bộ, đảng bộ cơ sở. Theo lối cũ, cấp
uỷ chuẩn bị mọi nội dung, khi sinh hoạt chi bộ thì đã nhận xét đánh giá đầy đủ rồi,
chỉ việc bàn bạc thêm đôi chút là thông qua ngay. Rất hiếm các chi bộ trong
DNNKVNN sinh hoạt theo chuyên đề. Nên chăng, đổi mới nội dung sinh hoạt chi
bộ, cấp uỷ theo hướng mỗi kỳ sinh hoạt đều được thông báo trước nội dung sinh
130
hoạt đến đảng viên (có thể thông báo từ kỳ họp trước) để đảng viên phải thu thập
thông tin, có quan điểm nhận định đánh giá riêng trên cơ sở khảo sát, phân tích khoa
học và có đề xuất giải pháp cụ thể để cho bộ thảo luận quyết định. Nếu làm được
như vậy sẽ khuyến khích tính sáng tạo của từng đảng viên, đảng viên được tôn trọng
hơn sẽ hăng hái tích cực chuẩn bị nội dung, hào hứng trong kỳ sinh hoạt tới và sau
khi thảo luận thông qua tại chi bộ, họ dễ tiếp thu hơn, sẽ quyết tâm thực hiện với
chất lượng tốt hơn.
Sinh hoạt chi bộ phải đảm bảo tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu cao.
Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng. Nguyên tắc
cơ bản nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Đặc biệt chú trọng đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt chi bộ, mở
rộng dân chủ trong sinh hoạt đảng, đảm bảo thực sự giải phóng tư tưởng trong sinh
hoạt nội bộ đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 ( khóa XI). Mọi việc của
Đảng đều do tập thể bàn bạc, quyết định theo đúng quan điểm của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, các quy định của địa phương, doanh nghiệp và xuất phát từ thực tế
của chi bộ. Sau khi quyết định tập thể, mọi đảng viên phải nói và làm theo nghị
quyết. Mọi đảng viên đều có quyền trình bày chính kiến, quan điểm, tư tưởng trong
sinh hoạt nội bộ đảng. Các ý kiến của đảng viên phải được tôn trọng, bàn bạc thảo
luận kỹ càng theo phương châm “chưa đồng tình nhưng không bao giờ bác bỏ”,
không được quy kết, chụp mũ, áp đặt ý kiến chủ quan (thường là của người chủ trì,
của lãnh đạo). Khi có ý kiến đảng viên khác với kết luận (nghị quyết) thì tập thể cấp
uỷ, chi bộ phải thảo luận thêm phân tích đúng, sai trên cơ sở đường lối của Đảng,
nguyên tắc sinh hoạt đảng và pháp luật của Nhà nước và với phương châm “Việc gì
có lợi cho dân phải hết sức làm việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh” [57, tr. 47].
Vẫn biết không phải bao giờ ý kiến của tập thể cũng đúng, của cá nhân đều sai,
nghị quyết là đúng, quan điểm khác nghị quyết là sai nhưng trong điều kiện thực tế
thì vẫn phải thực hiện theo đa số (sau khi đã bàn bạc nghiêm túc thấu đáo). Ý kiến
cá nhân khác với ý kiến tập thể nhưng cần trân trọng, khuyến khích sáng kiến, phát
huy được trí tuệ của tập thể, sức sáng tạo của đảng viên, tránh áp đặt, bảo thủ, giáo
131
điều. Một khi phong cách dân chủ trong sinh hoạt đảng trở thành nền nếp thì khi đó
tư tưởng được giải phóng, đảng viên dám nói, dám đấu tranh với những nhận thức
và hành động sai trái, bè cánh. Ý kiến cá nhân được bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ
cấp trên nhưng trong khi chưa có sự trả lời, kết luận của cấp có thẩm quyền thì đảng
viên đó vẫn phải thực hiện nghị quyết của cấp uỷ, không được truyền bá ý kiến của
riêng mình khác với quyết định của tập thể chi bộ, cấp uỷ mà mình tham gia. Cấp
uỷ cấp trên phải quan tâm nghiên cứu khi nhận được báo cáo có ý kiến thuộc về
thiểu số, sớm có kết luận hoặc thông báo đến tổ chức đảng cấp dưới tiếp tục nghiên
cứu, xem xét. Trong khi đó, kể cả sai hay đúng, cấp uỷ, chi bộ phải thực sự cầu thị,
tôn trọng ý kiến đảng viên, không được có hành vi coi thường, xúc phạm hoặc trù
dập, quy kết về chính trị tư tưởng đối với đảng viên.
Tập thể chi bộ, cấp uỷ phải thực sự là một tập thể đoàn kết thương yêu giúp đỡ
lẫn nhau, động viên nhau hoàn thành nhiệm vụ, vượt qua khó khăn. Tập thể cấp uỷ
,chi bộ phải lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển đảng. Tất nhiên, tự
phê bình và phê bình phải dựa trên nguyên tắc khách quan, công bằng và tinh thần
nhân ái theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm
điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa
chữa và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển,
công việc mới thành công” [58, tr. 223]. Nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết
điểm, thì cũng như giấu giếm bệnh tật trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh
ngày càng nặng, nguy đến tính mệnh: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm là một
Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhân khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái
đó, vì đâu mà có khuyết điểm, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi
cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc
chắn, chân chính” [58, tr. 261].
Thông qua sinh hoạt chi bộ, cấp uỷ, đảng viên được phân công nhiệm vụ cụ thể
(công tác xây dựng Đảng, phát triển đảng viên, vận động quần chúng) trong tháng,
thì tháng sau mới có điều kiện căn cứ để kiểm điểm đảng viên, đánh giá đảng viên
và xếp loại đảng viên cuối năm. Chỉ qua phân công nhiệm vụ cụ thể, phù hợp với
132
điều kiện hoạt động trong DNNKVNN mới có thể quản lý được đảng viên, làm cho
đảng viên gắn bó với tổ chức đảng, phấn đấu thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đảng
phân công.
4.2.4. Tăng cường sự quản lý của cấp ủy nơi đảng viên cư trú và vai trò
của tổ chức Công đoàn trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước đối
với công tác quản lý đảng viên.
4.2.4.1. Thông qua công nhân, người lao động trong các doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước nơi đảng viên công tácCông nhân trong các DNNKVNN có đặc điểm riêng, đó là những công nhân
xuất thân từ nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhiều địa phương khác nhau và không có
tư liệu sản xuất, là người làm thuê cho các chủ DNNKVNN, chính từ đặc điểm này,
để quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên có hiệu quả làm cho đảng viên trong
DNNKVNN thông qua những công nhân trong Doanh nghiệp trước hết phải xây
dựng đội ngũ công nhân vững mạnh, có kiến thức, có hiểu biết và giác ngộ cách
mạng. Để đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN luôn giữ được tư cách, đạo đức,
lối sống trong sạch, hoàn thành tốt nhiệm vụ của người đảng viên theo quy định của
Điều lệ Đảng thì các tổ chức đảng cần phải biết dựa vào sức mạnh của quần chúng.
Quần chúng trong DNNKVNN nơi đảng viên làm việc là những cộng sự, đồng
nghiệp, công nhân, người lao động trong DNNKVNN. Khi mang danh hiệu đảng
viên, bản thân đảng viên đó phải gương mẫu về mọi mặt trước quần chúng, vận
động quần chúng hoàn thành nhiệm vụ được giao, chấp hành tốt kỷ luật, hợp đồng
lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, quần chúng luôn là “tai mắt của Đảng”.
Mọi hành vi của đảng viên đúng hay sai, tốt hay xấu đều không thể che mắt được
quần chúng. Vấn đề là làm thế nào để quần chúng tham gia tích cực vào công tác
xây dựng Đảng, tham gia giám sát đảng viên thực hiện nhiệm vụ của đảng viên theo
quy định của Đảng. Nếu cấp uỷ thực sự trân trọng ý kiến của quần chúng, khích lệ
quần chúng hăng hái tham gia giám sát đảng viên thì công tác quản lý đảng viên của
cấp uỷ đảng có tác dụng và hiệu quả hơn rất nhiều. Ngoài việc định kỳ lấy ý kiến
của quần chúng góp ý cho đảng viên, cần chú trọng việc quần chúng phát hiện góp
133
ý thường xuyên cho đảng viên hoặc thông tin cho cấp uỷ chi bộ biết để có biện pháp
giáo dục, khắc phục ngay những khuyết điểm khi chúng mới phát sinh.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, dựa vào quần chúng để quản lý đảng viên là
biện pháp thiết thực để góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân,
thể hiện sự quan tâm của Đảng với quần chúng, khai thác nguồn lực quan trọng cho
công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác quản lý đảng viên nói riêng, khắc
phục bệnh quan liêu đối với Đảng. Tổ chức Đảng, đảng viên phải thực sự cầu thị
khi được quần chúng tham gia góp ý kiến phê bình, tránh có thái độ coi nhẹ, hình
thức, thiếu trân trọng những góp ý, thậm chí có thái độ ứng xử không đúng đắn với
những ý kiến quần chúng góp ý thẳng thắn với tinh thần xây dựng. Trên thực tế,
nhiều năm qua, nhiều vụ việc tiêu cực của đảng viên lại do chính quần chúng phát
hiện, tố cáo chứ không phải là tổ chức đảng – nơi thường xuyên nắm được những
hoạt động của đảng viên.
Để nhân dân tham gia quản lý đảng viên có hiệu quả, cũng cần phải phân công
đảng viên thực hiện nhiệm vụ của mình trong các tổ chức quần chúng của
DNNKVNN với tư cách mình là thành viên. Khi tham gia vào các tổ chức chính trị
- xã hội như vậy, đảng viên phải phát huy vai trò gương mẫu, chuyển tải tinh thần
lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với các tổ chức quần chúng, báo cáo với tổ chức đảng
những vấn đề phát sinh và qua đó, quần chúng có điều kiện để nhận xét đáng giá
đảng viên. Quan điểm nắm dân của Đảng được thực hiện chủ yếu thông qua các
đảng viên, nhất là đảng viên tham gia lao động, công tác và sinh hoạt trong các đoàn
thể nhân dân. Vì vậy, có phân công đảng viên trong công tác dân vận như phụ trách
đoàn thể, tham gia sinh hoạt đoàn thể, chịu sự quản lý của đoàn thể và mới có điều
kiện để kiểm điểm, đánh giá, quản lý tốt đảng viên.
4.2.4.2. Thông qua chi uỷ, quần chúng nhân dân nơi đảng viên cư trúĐể công tác quản lý đảng viên một cách toàn diện, thường xuyên và liên tục,
Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 76 - QĐ/TW ngày 15/6/2000 và Ban Tổ chức
Trung ương ban hành Hướng dẫn số 23-HD/TCTW ngày 14/12/2003 của “về việc
đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường
134
xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ
công dân nơi cư trú”.
Về nhận thức, cần khẳng định Quy định về việc đảng viên đang công tác ở các
DNNKVNN thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và gương mẫu
thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú thực sự thiết thực, góp phần quan trọng
trong công tác quản lý đội ngũ đảng viên. Cần tiếp tục giáo dục, nâng cao nhận thức
cấp uỷ nơi công tác, nơi cư trú và mỗi đảng viên về ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ
của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ đã được quy định trong Quy định của Bộ
Chính trị và Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương nhằm góp phần củng cố mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Sớm rà soát, khắc phục tình trạng một số
cơ sở đảng chậm giới thiệu sinh hoạt nơi cư trú đối với đảng viên khi thay đổi chỗ
ở, đảng viên được kết nạp, đặc biệt là đảng viên đang sinh hoạt trong DNNKVNN.
Thực hiện nghiêm túc trách nhiệm của đảng viên khi thay đổi nơi cư trú, đồng thời
tăng cường sự phát hiện của TCCSĐ nơi cư trú đối với những đảng viên chưa được
giới thiệu sinh hoạt để có ý kiến bằng văn bản đến tổ chức đảng nơi đảng viên đang
sinh hoạt. Cần tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng, đảm bảo
tính thiết thực, hiệu quả trong sinh hoạt đảng ở nơi cư trú.
Theo Hướng dẫn số 23-HD/TCTW, triệu tập họp chi bộ nơi cư trú ít nhất 2 lần/
năm, họp đột xuất khi thật cần thiết do chi ủy nơi cư trú chủ trì. Do nội dung, tính
chất của cuộc họp, nên chăng chỉ quy định sinh hoạt ít nhất 1 lần/năm và họp đột
xuất khi cần thiết. Cần đổi mới nội dung sinh hoạt chi bộ theo hướng thiết thực,
hiệu quả với sự chuẩn bị công phu của chi uỷ nơi cư trú. Tập trung vào những vấn
đề quan trọng, về kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, những nhiệm vụ trọng tâm
của địa phương, việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, những khó khăn vướng mắc trong quản lý nhà nước trên địa bàn cần tháo gỡ,
những vấn đề bức xúc, những tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Cần cải tiến thủ
tục nhận xét, đánh giá đảng viên tham gia sinh hoạt nơi cư trú. Thống nhất mẫu giấy
giới thiệu, thủ tục giới thiệu, quy trình nhận xét và thời gian gửi văn bản nhận xét.
Việc nhận xét đánh giá đảng viên hằng năm nên quy định 1 lần vào tháng 11- trừ
135
trường hợp đột xuất (tức là khi có dấu hiệu vi phạm, khi có phản ánh từ địa phương
nơi cư trú hoặc khi có nhu cầu cất nhắc đề bạt cán bộ nơi đảng viên đang sinh hoạt).
Không ít trường hợp ghi nội dung nhận xét rất hình thức, cốt cho xong.
Việc lập sổ theo dõi giới thiệu, tiếp nhận chưa chặt chẽ. Phương thức trao đổi
thông tin còn thiếu nhất quán và có nhiều cách làm khác nhau, hiệu quả không cao.
Ví dụ, về trách nhiệm của chi uỷ, đảng uỷ nơi đảng viên công tác: Quy định 76 tại
điều 3.3 “Đại diện cấp uỷ, chi bộ nơi đảng viên công tác định kỳ và khi cần thiết
tiến hành việc trao đổi ý kiến với đại diện cấp uỷ, đảng uỷ nơi cư trú để nắm tình
hình đảng viên thực hiện việc giữ mối liên hệ với chi uỷ, đảng uỷ nơi cư trú và
nghĩa vụ công dân nơi cư trú” nhưng Hướng dẫn số 23-HD/TCTW thì không phải
“định kỳ” đến nơi đảng viên cư trú để nắm tình hình đảng viên. Vì vậy, có nhiều
ngành vẫn thực hiện theo Quy định 76, hằng năm đều cử đại diện cấp uỷ đến chi uỷ
nơi đảng viên cư trú nắm tình hình. Điều đó thể hiện sự thiếu nhất quan trong việc
triển khai thực hiện, dẫn dến nơi làm, nơi không. Thực tế, không nhất thiết phải
“định kỳ hằng năm” đến chi uỷ nơi đảng viên cư trú vì quy định này không có tính
khả thi vì mỗi cơ quan, đơn vị đều có quá nhiều đảng viên cư trú ở nhiều nơi khác
nhau. Nên chăng đại diện cấp uỷ, chi bộ nơi đảng viên công tác chỉ tiến hành việc
trao đổi ý kiến với đại diện cấp uỷ, chi bộ nơi đảng viên cư trú khi cần thiết (đảng
viên có dấu hiệu vi phạm cần xác minh hoặc khi cất nhắc đề bạt cán bộ).
Về trách nhiệm của chi uỷ, đảng uỷ nơi đảng viên cư trú: Quy định 76 tại Điều
4.3 “Định kỳ hằng năm hoặc khi cần thông báo với cấp uỷ, chi bộ nơi đảng viên
đang công tác về tình hình đảng viên thực hiện nhiệm vụ nơi cư trú; đề nghị biểu
dương những đảng viên thực hiện tốt và góp ý kiến với những đảng viên chưa thực
hiện tốt hoặc có thiếu sót, khuyết điểm nơi cư trú”, có thể thay đổi hình thức thông
báo cho tiết kiệm, hiệu quả hơn.
4.2.5. Phối hợp chặt chẽ giữa cấp uỷ đảng với chủ doanh nghiệp ngoài
khu vực nhà nước trong công tác quản lý đảng viên
4.2.5.1. Phối hợp chặt chẽ giữa cấp uỷ đảng với chủ doanh nghiệp ngoài
khu vực nhà nước trong công tác xây dựng Đảng, đoàn thể chính tri – xã hội.
136
Chủ DNNKVNN là người nắm toàn bộ vốn, tư liệu sản xuất và năng suất lao
động trong doanh nghiệp, đồng thời là người quản lý người lao động trong đó có
đảng viên trong các DNNKVNN thông qua hợp động lao động. Để đảng bộ, chi bộ
trong DNNKVNN được thành lập và hoạt động có hiệu quả thì sự giúp đỡ, tạo điều
kiện của chủ doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng.
Những trở ngại của đảng viên không chuyển sinh hoạt đảng về doanh nghiệp,
thậm chí không muốn công khai danh hiệu đảng viên cao quý của mình cũng chỉ vì
ngại chủ doanh nghiệp không quan tâm và tỏ thái độ không đồng ý hoặc bất cần.
Các tổ chức đảng có sớm được thành lập hay không và đi vào hoạt động có thuận
lợi hay không đều chịu sự ảnh hưởng, chi phối từ phía chủ doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy, nhiều nơi tổ chức đảng ra đời sớm, hoạt động có hiệu quả
đều có nguyên nhân từ sự thiện chí, ủng hộ của chủ doanh nghiệp kể cả vật chất và
tinh thần. Do vị thế của chủ doanh nghiệp đối với đảng viên (với tư cách là công
nhân, người lao động làm công cho chủ doanh nghiệp) nên đảng viên rất ngại và
thậm chí là rất sợ chuyển sinh hoạt đảng về chi bộ trong DNNKVNN nếu chủ doanh
nghiệp không thiện chí, không ủng hộ. Theo đó, quần chúng tích cực cũng không
dám phấn đấu vào Đảng - ngay cả khi họ có nguyện vọng thực sự. Để có sự đồng
thuận, tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của tổ chức đảng trong DNNKVNN,
trước hết phải làm tốt công tác tư tưởng đối với chủ DNNKVNN. Đó là sự thống
nhất chung về vai trò, vị trí của tổ chức đảng trong DNNKVNN. Theo quy định của
Đảng, các loại hình TCCSĐ đều có chức năng hạt nhân lãnh đạo chính trị. Dù
không trực tiếp quyết định những vấn đề về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nhưng tổ chức đảng vẫn là linh hồn chính trị, lãnh đạo đảng viên, quần chúng công
nhân và người lao động thực hiện tốt mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, đem lại lợi ích hài hoà, đúng đắn giữa Nhà nước - chủ doanh nghiệp và
người lao động theo các quy định của pháp luật. Sự lãnh đạo ở đây được hiểu theo
nghĩa rộng là thực hiện đúng pháp luật của Nhà nước về sản xuất kinh doanh. Pháp
luật của Nhà nước là thể chế hoá đường lối lãnh đạo của Đảng trong hoạt động của
doanh nghiệp như: sản xuất kinh doanh theo đúng đăng ký, thực hiện nghĩa vụ thuế
137
đối với Nhà nước; đảm bảo vệ sinh môi trường, lương, thu nhập cho người lao
động; bảo hiểm xã hội; thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn cho người lao
động. Tổ chức đảng vận động quần chúng, thông qua sự gương mẫu của đội ngũ
đảng viên thực hiện nghiêm túc hợp đồng lao động, phát huy tính sáng tạo, làm việc
có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đem lại lợi ích cho doanh nghiệp, người lao
động và Nhà nước.
Tổ chức đảng còn là người lãnh đạo các tổ chức quần chúng trong
DNNKVNN nên có vai trò động viên phát huy sức mạnh của quần chúng trong mọi
mặt hoạt động của doanh nghiệp, nhất là sản xuất kinh doanh. Khi có những tranh
chấp, bất đồng giữa người lao động với chủ doanh nghiệp, cấp uỷ đảng có thể giải
thích, tham vấn giải quyết đúng đắn hợp lý trên cơ sở lãnh đạo trực tiếp các tổ chức
quần chúng, theo đúng pháp luật, sự cam kết của người lao động với doanh nghiệp.
Sự phối hợp giữa cấp uỷ và chủ doanh nghiệp trong quản lý đảng viên chủ yếu là
những thông tin từ chủ doanh nghiệp đánh giá đảng viên thực hiện hợp đồng lao
động: ý thức với công việc được giao, tính sáng tạo trong công việc, tính hiệu quả,
sự gương mẫu.
Tăng cường công tác kết nạp đảng viên trẻ từ các nhà trường đại học, cao
đẳng, trường dạy nghề, kỹ thuật từ học sinh, sinh viên khá giỏi, có ý thức tổ chức
cao, có kiến thức am hiểu, năng lực lãnh đạo sức thuyết phục cảm hoá quần chúng
chắc chắn để tuyển dụng vào công tác và làm việc trong các DNNKVNN sẽ là
người công nhân tốt, người lao động giỏi mà chủ doanh nghiệp sẽ quý mến, trân
trọng và Đảng, TCCSĐ rất cần những đảng viên như thế. Nếu sau này chủ doanh
nghiệp mà đến tận các trường đại học, trường dạy nghề tuyển chọn những học sinh,
sinh viên giỏi, họ lại là đảng viên thì lẽ đương nhiên, chủ doanh nghiệp đã tìm đến
đảng viên. Đó là những điều kiện vô cùng thuận lợi, có ý nghĩa lâu dài, bền vững
thực sự và trước hết cho công tác xây dựng phát triển đảng trong DNNKVNN mà
lâu nay chúng ta chưa thực sự coi trọng.
4.2.5.2. Phối hợp có hiệu quả giữa cấp uỷ đảng với chủ doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước trong quản lý đảng viên
138
Nhiệm vụ cơ bản nhất của người đảng viên là hiệu quả công việc chuyên môn
chính được giao. Khi đảng viên là người lao động cho chủ doanh nghiệp thì việc
giao nhiệm vụ của cấp uỷ đối với đảng viên trước hết là phải hoàn thành tốt nhiệm
vụ mà chủ doanh nghiệp giao. Đó chính là nhiệm vụ chuyên môn của người đảng
viên và chỉ có chủ yếu thông qua việc thực hiện nhiệm vụ đó mới có căn cứ quan
trọng để đánh giá đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ hay không.
Khác với các loại hình tổ chức đảng ở các cơ quan hành chính nhà nước, các
DNNN hay các cơ quan chính quyền địa phương, nhiệm vụ chuyên môn của đảng
viên trong DNNKVNN được giao là do chủ doanh nghiệp. Chính vì vậy, để theo
dõi, đánh giá đảng viên trong DNNKVNN cần phải căn cứ vào kết quả hoàn thành
nhiệm vụ chuyên môn của đảng viên đó. Vai trò, vị trí của chủ doanh nghiệp trong
việc đánh giá đảng viên (với tư cách là người lao động cho doanh nghiệp) có ý
nghĩa quan trọng để cấp uỷ có thêm căn cứ quan trọng giá đúng đảng viên. Do đặc
thù của cấp uỷ trong DNNKVNN là cấp uỷ viên đảng viên hoạt động phân tán,
kiêm nhiệm và việc giao nhiệm vụ cho đảng viên nhiều khi cấp uỷ cũng không có
điều kiện nắm chắc được do đó phải dựa vào chủ doanh nghiệp để đánh giá đảng
viên hoàn thành nhiệm vụ hay không. Cũng thông qua kết quả công tác chuyên môn
mà cấp ủy có thêm biện pháp giáo dục, nhắc nhở động viên đảng viên của mình
thực hiện tốt nhiệm vụ mà chủ doanh nghiệp giao cho. Khi mục tiêu của cấp uỷ
đồng nhất với mục tiêu của chủ doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì sự phối hợp giữa cấp uỷ và chủ doanh nghiệp
trong quản lý đảng viên trở nên có ý nghĩa quan trọng và là sự gắn kết lâu dài, bền vững.
Năng lực công tác, kết quả và hiệu quả công việc của đảng viên chủ yếu được
thể hiện ở mức độ hoàn thành nhiệm vụ do chủ DNNKVNN giao cho. Vì vậy muốn
đánh giá hằng năm đối với đảng viên thì tổ chức đảng phải căn cứ vào kết quả đánh
giá của chủ DNNKVNN với đảng viên của mình thông qua hợp đồng lao động, thực
hiện kỷ luật lao động, thu nhập từ lương, thưởng, học tập nâng cao tay nghề và thực
hiện các nội quy, quy định của doanh nghiệp và các chế độ chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước trong doanh nghiệp.
139
Thực hiện Nghị định số 98/2014 – NĐ/CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ
“về việc thành lập các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội tại doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế”, trong đó tại điều 8 có quy định “Doanh nghiệp có
trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức Đảng, tổ chức chính trị
- xã hội cấp trên nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính thực hiện: 1. tôn trọng, tạo
điều kiện và bảo đảm các quyền thành lập các tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị -
xã hội của người lao động tại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và Điều lệ
của tổ chức đó; 2. phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức Đảng, các tổ chức
chính trị - xã hội cấp trên tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn người lao động tham
gia thành lập tổ chức phù hợp với điều kiện hoạt động và phát triển của doanh
nghiệp; 3. Tạo điều kiện thuận lợi, phối hợp với tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị
- xã hội đã được thành lập tại doanh nghiệp giải quyết kịp thời những vấn đề liên
quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động”.
Chú trọng việc thực hiện kết nạp đảng viên là chủ doanh nghiệp theo Hướng
dẫn số 17-HD/BTCTW, ngày 30 tháng 01 năm 2013 của Ban Tổ chức Trung ương
“thực hiện thí điểm việc kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu
chuẩn vào Đảng”. Đó là “những cá nhân chủ sở hữu toàn bộ hoặc sở hữu phần vốn,
tài sản chi phối trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty hợp danh, công ty cổ phần (không thuộc loại hình DNNN và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài), đồng thời giữ một trong các chức danh quản lý: Giám đốc
doanh nghiệp tư nhân, Chủ tịch Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn,
thành viên hợp danh công ty hợp danh và Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty cổ
phần”. Tuy nhiên cần chú trọng đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của
Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn hiện hành của Trung ương. Chủ doanh
nghiệp tư nhân phải có nguyện vọng thiết tha phấn đấu vào Đảng; đồng thời phải là
quần chúng ưu tú, có uy tín trong doanh nghiệp và cộng đồng dân cư, được người
lao động và nhân dân tin yêu, mến phục; gương mẫu thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà
nước; tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức đảng, các đoàn thể chính trị - xã
hội trong doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo đúng pháp luật và điều lệ
của mỗi tổ chức, chăm lo lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động; tích
140
cực tham gia phong trào của địa phương nơi cư trú và nơi doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh.
4.2.6. Nâng cao ý thức, trách nhiệm tự quản lý của đảng viên trong các
doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông HồngTự quản của mỗi người hay tự quản của mỗi đảng viên luôn là nhân tố nội lực
có tính chất quyết định đến mọi hành vi của con người. Tự quản của mỗi người nói
chung là sự tự kiểm soát hành vi của mình phù hợp với các phong tục tập quán
truyền thống, các giá trị đạo đức xã hội và hành động đúng với pháp luật của Nhà
nước với tư cách là công dân. Tự quản của đảng viên là sự tự ý thức rèn luyện mình,
làm theo đúng những quy định của Đảng về tư cách đảng viên, nhiệm vụ của người
đảng viên, tự giác thực hiện sự phân công nhiệm vụ của của tổ chức đảng.Nâng cao ý thức, trách nhiệm tự quản lý của đảng viên là giải pháp rất quan
trọng, có ý nghĩa thiết thực, là khâu đột phá nhằm tăng cường công tác quản lý đảng
viên trong các DNNKVNN ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay.
Quản lý và tự quản lý là hai mặt thống nhất, có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó
mật thiết với nhau trong một tổ chức. Cùng với hoạt động định hướng, quản lý, giáo
dục, rèn luyện của tổ chức, đòi hỏi mỗi thành viên trong tổ chức tự giác ghép mình
vào tổ chức, gắn bó với tổ chức, hoạt động trong khuôn khổ của tổ chức, tích cực và
nỗ lực tự học tập, rèn luyện, phấn đấu, thực hiện tốt nhiệm vụ mà tổ chức giao cho.
Tự quản lý của mỗi cá nhân luôn là yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến
chất lượng hoạt động của tổ chức, trực tiếp xây dựng tổ chức vững mạnh, thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và cả dân tộc Việt Nam. Đảng viên của Đảng là những người thừa nhận và
tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ
đảng viên, sinh hoạt và hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng. Hoạt động trong
khuôn khổ của tổ chức đảng, tự giác thực hiện nhiệm vụ của đảng viên; chịu sự
quản lý, giáo dục, rèn luyện của cấp ủy và tổ chức đảng; tự giác và nghiêm túc chấp
hành các quy định, kỷ luật của Đảng là đặc trưng nổi bật trong phẩm chất của người
đảng viên, là cơ sở bảo đảm cho người đảng viên thực sự xứng đáng là chiến sĩ cách
141
mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc
Việt Nam.
Giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có những biến động phức
tạp, khó lường. Trong nước, các thế lực phản động, thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến
lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” từ nội bộ. Mặt trái cơ chế thị trường, xu thế hội nhập, mở cửa đang hàng
ngày, hàng giờ tác động tiêu cực đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đến hoạt động
của đội ngũ đảng viên. Nâng cao ý thức, trách nhiệm tự quản lý của đảng viên không
những là yêu cầu khách quan, thường xuyên mà còn trở thành đòi hỏi cấp thiết hiện
nay. Chỉ khi nào mỗi đảng viên thực sự là chủ thể tích cực của quá trình tự quản lý, tự
giáo dục, tự kiểm tra, kiểm soát được hành vi của mình, nghiêm khắc với những sai
lầm khuyết điểm của bản thân, tự giác tu dưỡng, rèn luyện ở mỗi lúc, mỗi nơi thì mới
khắc phục có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
mới phòng, chống có hiệu quả nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ nội bộ.
Tự quản lý của đảng viên trong các DNNKVNN ở đồng bằng sông Hồng là
toàn bộ những hoạt động của đảng viên trong tự nhận xét, tự đánh giá về kết quả
thực hiện nhiệm vụ và phẩm chất, năng lực của đảng viên; tự giác tu dưỡng, rèn
luyện về mọi mặt; luôn ghép mình vào khuôn khổ của tổ chức, thực hiện nghiêm kỷ
luật của Đảng. Tự quản lý của đảng viên là quá trình “tự soi”, “tự sửa”; là hoạt động
tự kiểm tra, kiểm soát và điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với các giá trị,
chuẩn mực đạo đức cách mạng, với yêu cầu về phẩm chất, năng lực của người đảng viên
và hành động đúng với nguyên tắc, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Tự quản lý của đảng viên có nội dung rất toàn diện, gắn với nhiệm vụ và
hoạt động của đảng viên. Trước hết, tự quản lý của đảng viên được biểu hiện cụ thể
trong thực hiện nhiệm vụ của đảng viên; mỗi đảng viên đều phải tự giác và nỗ lực
phấn đấu để thực hiện tốt nhiệm vụ đảng viên được xác định ở Điều 2, Chương 1,
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Tự quản lý của đảng viên được biểu hiện rõ nét ở
ý thức tự ghép mình vào khuôn khổ của tổ chức, hoạt động trong khuôn khổ tổ
chức, chịu sự quản lý, giáo dục, rèn luyện và sự phân công của tổ chức. Luôn tự
142
kiểm tra, đánh giá về phẩm chất, năng lực công tác của bản thân, có ý thức trách
nhiệm cao trong tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu không ngừng nâng cao
phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh, năng lực công tác,
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Tự quản lý của đảng viên được biểu
hiện sinh động ở ý thức tự giác chấp hành kỷ luật Đảng, luôn tự giác và gương mẫu
hoạt động theo các nguyên tắc, quy định của Đảng; chấp hành nghiêm Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy, tổ chức đảng, quy định của
Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm.
Để nâng cao ý thức, trách nhiệm trong tự quản lý của đội ngũ đảng viên
trong các DNNKVNN, cần thực hiện tốt một số biện pháp chủ yếu sau đây:
Một là, xây dựng động cơ đúng đắn và trách nhiệm cao trong hoạt động tự
quản lý của đảng viên.
Tự quản lý là hoạt động tự giác, mang tính độc lập của chủ thể. Đó là quá
trình “hướng nội”, “tự thân vận động”, được thôi thúc bởi “nội lực” - động cơ bên
trong. Hoạt động đó chỉ thực sự có hiệu quả khi các đảng viên trong các
DNNKVNN ở đồng bằng sông Hồng có nhu cầu tự hoàn thiện mình để phấn đấu
vươn lên. Vì thế, đòi hỏi trước tiên trong tự quản lý của đội ngũ đảng viên là họ
phải có nhu cầu, động cơ, thái độ đúng đắn và có trách nhiệm cao. Luôn coi tự quản
lý, tự tu dưỡng, rèn luyện, không ngừng phấn đấu vươn lên là nghĩa vụ, là trách
nhiệm chính trị của bản thân đối với Đảng, với nhân dân. Mỗi đảng viên phải thực
hiện tốt quan điểm của Đảng được thể hiện ở Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ 6 (lần 2) khóa VIII: “Cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện về đạo đức,
lối sống, cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; gương mẫu giữ gìn phẩm chất đạo
đức của người cộng sản, đề cao tinh thần đoàn kết, chống chủ nghĩa cá nhân; chấp
hành nghiêm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng thời, chú ý giáo dục,
thuyết phục gia đình cùng thực hiện”[34, tr.28-32].
Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự là một tấm gương sáng về ý chí, nghị lực
tự quản lý, tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu trong công tác cũng như trong
cuộc sống để cho quần chúng, nhân dân học tập và noi theo. Xây dựng động cơ
143
đúng đắn, ý thức trách nhiệm cao trong tự quản lý còn đòi hỏi đội ngũ đảng viên
phải nghiêm khắc đấu tranh với bản thân về những biểu hiện của tư tưởng thỏa mãn,
dừng lại, hoặc giản đơn, xem thường việc tự quản lý, tu dưỡng, rèn luyện. Đồng
thời, đấu tranh phê phán những biểu hiện tự do, vô kỷ luật, không ghép mình vào
khuôn khổ tổ chức, không chịu sự quản lý của tổ chức; thiếu ý thức tự tu dưỡng, rèn
luyện dẫn đến suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống cách mạng.
Hai là, mỗi đảng viên phải có ý chí quyết tâm cao trong tự quản lý.
Tự quản lý là quá trình “tự chiến đấu” để “chiến thắng” bản thân, đó là quá
trình vô cùng khó khăn, gian khổ, phức tạp. Thực tế cho thấy, nhiều đảng viên đã
vững vàng trong chiến đấu, kiên cường, bất khuất khi đối mặt với quân thù, coi
thường sự hy sinh mất mát của bản thân, nhưng lại gục ngã trước những cám dỗ của
cuộc sống đời thường, trước những “viên đạn bọc đường”. Bởi vậy, mỗi đảng viên
không những phải có động cơ đúng đắn, có trách nhiệm cao trong “tự soi”, “tự sửa”,
mà còn phải có ý chí quyết tâm, luôn tỉnh táo và tìm mọi cách để vượt qua những
lôi kéo, cám dỗ, mua chuộc từ các thế lực thù địch cũng như những đòi hỏi, ham
muốn, những tính toán ích kỷ của chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy từ bên trong. Dù điều
kiện thuận lợi hay khó khăn, đảng viên đều phải kiên nhẫn, bền bỉ, có nỗ lực cao để
không ngừng phấn đấu vươn lên, không bị sa ngã, bị chệch hướng dẫn đến “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”.
Để tự quản lý có hiệu quả, mỗi đảng viên phải đặt mình vào trong tập thể và
chịu sự quản lý, giáo dục của tổ chức, tham gia tích cực vào các phong trào, các
hoạt động của doanh nghiệp. Tôn trọng và lắng nghe ý kiến của đồng chí, đồng
nghiệp, cũng như những đóng góp của nhân dân. Luôn tự điều chỉnh hành vi, thái
độ cho phù hợp với yêu cầu chung của tập thể và của dư luận tích cực trong cơ
quan, đơn vị. Đề cao tự phê bình và phê bình, có quyết tâm sửa chữa những thiếu
sót, khuyết điểm, kiên quyết đấu tranh với biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, lối sống
thực dụng.
Ba là, gắn quá trình tự quản lý của đảng viên với đẩy mạnh học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
144
Ngày 07-11-2006, Bộ Chính trị (khóa X) đã ban hành Chỉ thị 06-CT/TW, về
“Tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Kết quả cuộc vận động đã khẳng định việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh là rất quan trọng và cần thiết, có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Vì vậy, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ
thị 03-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ và sâu rộng hơn nữa về ý thức tu dưỡng,
rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Chỉ thị xác định: Đưa việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào sinh hoạt thường xuyên của tổ
chức đảng, chính quyền, đoàn thể. Lấy kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh làm một tiêu chí để đánh giá, phân loại đảng viên, tổ chức đảng
hằng năm.
Các doanh nghiệp, địa phương cần đẩy mạnh hơn nữa phong trào tự giác học
tập, tu dưỡng, rèn luyện của đảng viên gắn với việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự thống nhất cao về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, coi đây là công việc thường
xuyên hằng ngày, là trách nhiệm chính trị của mọi đảng viên. Đề cao ý thức tự giác
quản lý, tu dưỡng, rèn luyện của mỗi người, nhất là vai trò gương mẫu của đảng
viên là cán bộ chủ chốt các cấp, của người đứng đầu, của cấp trên. Phải làm cho
việc học tập, rèn luyện, phấn đấu tu dưỡng đạo đức của đảng viên trở thành hành
động tự giác, tự nguyện, tự thân trong mỗi người và là thước đo lòng cao thượng
của họ.
Bốn là, tăng cường sự định hướng, kiểm tra, giúp đỡ của cấp uỷ, tổ chức
đảng đối với tự quản lý của đảng viên.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải thường xuyên quan tâm nâng cao chất
lượng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, bồi dưỡng thế giới quan, tư duy khoa
học, làm cho đảng viên luôn nhận thức sâu sắc về mục tiêu lý tưởng chiến đấu, về
trách nhiệm và nghĩa vụ…, tạo ra nhu cầu và khả năng để đảng viên thực hiện tự
quản lý, tự tu dưỡng, rèn luyện có hiệu quả. Đồng thời, làm tốt việc hướng dẫn, giúp
145
đảng viên lựa chọn và phát triển những giá trị chính trị, đạo đức tốt đẹp, có phương
pháp tự tu dưỡng, rèn luyện phù hợp.
Cùng với việc thường xuyên khuyến khích nhu cầu tự quản lý, tu dưỡng, rèn
luyện, định hướng sự phấn đấu rèn luyện cho đảng viên, cấp ủy, tổ chức đảng còn
phải xác lập và tạo ra môi trường, điều kiện khách quan thuận lợi để đội ngũ đảng
viên tự quản lý. Kịp thời phản ánh những vấn đề mang tính phổ biến, những bức
xúc trong cuộc sống như về nơi ăn ở, các dịch vụ công cộng, điều kiện an ninh và
những vấn đề đảm bảo cho cuộc sống của gia đình vợ con đảng viên, công nhân để
báo cáo kiến nghị với chính quyền các cấp giải quyết. Quan tâm xây dựng tổ chức
đảng trong các doanh nghiệp trong sạch vững mạnh, có tập thể đoàn kết gắn bó, dân
chủ được phát huy, kỷ luật được tăng cường và củng cố, chế độ tự phê bình và phê
bình trở thành nền nếp. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra của cấp ủy đối với
hoạt động tự quản lý của đảng viên. Nắm chắc tình hình, kịp thời cổ vũ, động viên
những thành tích và kết quả đạt được, biểu dương, khen thưởng những đảng viên
làm việc tốt, tận tụy, trong sạch. Đồng thời, uốn nắn những thiếu sót, lệch lạc xử lý
nghiêm những hiện tượng vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức, lối sống. Để phát huy
tinh thần tự quản của đảng viên được chú trọng và phát huy ở mọi nơi, mọi lúc, mọi
hoàn cảnh thuận lợi hay khó khăn, trước những tác động của xã hội và trước những
thông tin nhiều chiều hiện nay Đảng ta cần quy định cụ thể việc tự quản của mỗi
đảng viên nói chung và đảng viên trong các DNNKVNN nói riêng.
4.2.7. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của cấp uỷcấp trên đối với cấp uỷ trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước
4.2.7.1. Lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện các cơ sở pháp lý cho hoạtđộng của tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước
Chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển các tổ chức đảng trong tất cả các
cơ sở kinh tế - chính trị, xã hội là nhất quán và được tiến hành nhiều năm qua. Các
tổ chức đảng trong mỗi cơ sở xã hội được ví như “tế bào của Đảng”, thậm chí là
“đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng”. Khi chính sách kinh tế thay đổi, thành phần
kinh tế ngoài nhà nước tăng nhanh với các loại hình doanh nghiệp đa dạng, phong
146
phú đã tạo nên lực lượng công nhân – cơ sở xã hội quan trọng của Đảng rất đông
đảo và rất cần được quan tâm xây dựng tổ chức đảng ở đó để đảm bảo vai trò lãnh
đạo trực tiếp của Đảng. Theo đó, các cơ sở pháp lý để thành lập, hoạt động cũng
phải đồng hành với sự thay đổi và chuyển biến nhanh chóng của tình hình. Tại Điều
4, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 2013 đã xác
nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội. Điều lệ Đảng Cộng
sản Việt Nam khóa XI cũng đã xác định thành lập tổ chức đảng tại Điều 21 như sau:
“Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công
an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ
chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở); cấp uỷ cấp trên trực tiếp
xem xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp uỷ cấp trên nào cho phù
hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu
đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp”. Nét mới so với quy định của
Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội X ở chỗ, cho phép cấp uỷ cấp trên trực tiếp
xem xét, quyết định tổ chức đảng trực thuộc cấp uỷ cấp trên nào cho phù hợp đã tạo
thuận lợi cho các tổ chức đảng trong các DNNKVNN với quy mô, tính chất, số
lượng đang rất khác nhau ở mỗi địa phương có điều kiện thuận lợi hơn trong quá
trình hoạt động.
Quy chế hoạt động của tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng
đã được Ban Bí thư ban hành bao gồm cho doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Đó là
Quy định số 288 – QĐ/TW ngày 08-02-2010 của Ban Bí thư Trung ương về chức
năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ trong công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, trong đó Nhà nước sở hữu từ 50% vốn điều lệ trở xuống (gọi tắt là công ty);
Quy định số 15 – QĐ/TW ngày 28/6/2006 của Ban Chấp hành Trung ương ( khóa
X) về đảng viên làm kinh tế tư nhân.
Mặc dù đã có những văn bản pháp lý về sự hình thành tổ chức và cơ chế hoạt
động của tổ chức đảng trong các loại hình doanh nghiệp nhưng tính khả thi chưa
147
cao, chưa có động lực về chính trị, kinh tế và tổ chức ràng buộc để sớm hình thành
tổ chức đảng như mong muốn.
Lý do của sự chậm trễ trong việc thành lập các tổ chức đảng trong doanh
nghiệp có nhiều nhưng chủ yếu vẫn là nguyên nhân chủ quan của các cấp uỷ đảng.
Trung ương cần ban hành chính sách, hướng dẫn nhằm thể chế hoá việc thành
lập tổ chức đảng trong DNNKVNN, cần thiết phải bổ sung vào Luật Doanh nghiệp
theo đó quy định rõ trách nhiệm của chủ doanh nghiệp trong việc thành lập đầy đủ
các tổ chức đảng, đoàn thể chính trị xã hội ngay từ đầu khi mới thành lập
DNNKVNN là tốt nhất. Những quy định rõ ràng, cụ thể, có tính pháp lý cao về vai
trò của các tổ chức đảng, đoàn thể trong DNNKVNN sẽ giúp các chủ thể làm công
tác xây dựng Đảng, đoàn thể có cơ sở pháp lý rõ ràng, chặt chẽ để thực hiện tốt
nhiệm vụ theo chức năng. Trước mắt, thực hiện tốt Luật Công đoàn trong
DNNKVNN. Dứt khoát thực hiện nguyên tắc có tổ chức công đoàn đồng thời với
hoạt động của doanh nghiệp. Đó là quy định của Pháp luật có thể thực hiện được
ngay. Việc chần chừ, đại khái, nương nhẹ cho các DNNKVNN hoạt động khi chưa
có tổ chức công đoàn sẽ gây khó khăn ngay từ đầu cho công tác thành lập các tổ
chức đảng sau này.
Hơn thế nữa, cần phải dựa vào tổ chức Công đoàn để xây dựng Đảng trong
DNNKVNN. Chính những cán bộ công đoàn phải trở thành lực lượng xung phong
nhất, tin tưởng nhất để xây dựng Đảng trong DNNKVNN. Nghiên cứu việc bố trí
chủ tịch công đoàn đồng thời là bí thư chi, đảng bộ trong DNNKVNN. Muốn chủ
tịch công đoàn thực hiện được “hai vai” trong DNNKVNN thì phải có chế độ chính
sách đặc thù, có thể công nhân – công đoàn viên sẽ trả lương cho việc đấu tranh bảo
vệ lợi ích của công nhân và doanh nghiệp, đồng thời có thêm phụ cấp của Đảng, đủ
để chủ tịch công đoàn “miễn dịch” với sự chi phối từ DNNKVNN do lợi ích của họ
gắn chặt với chủ doanh nghiệp. Cũng có thể có chính sách luân chuyển cán bộ Công
đoàn - những người thực hiện chức trách càng tốt thì càng có thể xem xét luân
chuyển, đào tạo, đề bạt ở vị trí cao hơn trong hệ thống tổ chức của cả hệ thống
chính trị. Có thể xem đây là giải pháp quan trọng, có sức mạnh mang tính đột phá
148
trong công tác xây dựng Đảng ở DNNKVNN và cũng là việc làm thiết thực để thực
hiện chủ trương của Đảng là: phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ công nhân, nhất
là công nhân trực tiếp sản xuất, công tác trong các loại hình doanh nghiệp hiện nay.
Ban Tổ chức Trung ương cần có hướng dẫn làm rõ hơn tiêu chuẩn, điều kiện kết
nạp đảng viên là chủ DNTN vào Đảng. Ban hành chế độ phụ cấp, kinh phí cho cán bộ
làm công tác đảng, đoàn thể trong DNNKVNN, cấp kinh phí cần thiết cho hoạt động
của tổ chức đảng trong DNNKVNN. Tăng biên chế cho các địa phương, để đủ điều
kiện về tổ chức nhân sự cho sự theo dõi, giúp đỡ các DNNKVNN thành lập tổ chức
đảng, đoàn thể.
Trong nhiều trường hợp do đi lại khó khăn, công việc không ổn định đảng viên
ngại chuyển sinh hoạt đảng do thủ tục rườm rà phức tạp, tốn kém thời gian mà đảng
viên bỏ sinh hoạt đảng, ở nơi sinh hoạt cũ cũng không nắm được. Nơi công tác mới
của đảng viên cũng không biết họ là đảng viên và việc quản lý đội ngũ đảng viên
này càng gặp khó khăn, trong nhiều trường hợp đảng viên tự ý bỏ sinh hoạt đảng, tự
từ bỏ danh hiệu đảng viên. Trước thực tế đó, cần nghiên cứu để có thể đơn giản hoá
thủ tục kết nạp đảng viên trong DNNKVNN. Ví dụ quy định về xác minh lý lịch
của quần chúng (thông qua công văn giữa các tổ chức đảng và chuyển qua bưu
điện); chuyển đổi công tác sinh hoạt đảng thường xuyên giữa các doanh nghiệp
trong một công ty chỉ cần trình thẻ đảng viên và giấy xác nhận là đảng viên của cấp
uỷ có thẩm quyền nơi đảng viên đó đang sinh hoạt để làm thủ tục sinh hoạt đảng
tạm thời khi chưa chuyển đảng về đơn vị mới được. Kết hợp với việc nắm thông tin đảng
viên trên các phương tiện internet qua cổng thông tin điện tử của các đảng bộ...
Cần tổ chức thực hiện đồng bộ trong tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế Nghị định số: 98/2014 –NĐ/CP ngày 24/10/2014 của Chính Phủ “Quy
định việc thành lập tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội tại doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế”. Trong đó quy định đối tượng áp dụng là: Công ty
trách nhiệm hữu hạn (Công ty TNHH) , Công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh
nghiệp tư nhân, bao gồm cả Công ty TNHH, công ty cổ phần được chuyển đổi từ
149
doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức Đảng và của các tổ
chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.
4.2.7.2. Kết hợp kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên
trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nướcĐảng ta luôn coi trọng công tác kiểm tra, giám sát nói chung và kiểm tra đảng
viên chấp hành Điều lệ Đảng nói riêng. Kiểm tra đã trở thành một trong những
phương thức lãnh đạo của Đảng. Trách nhiệm kiểm tra, giám sát đảng viên chủ yếu
thuộc về chi bộ nơi đảng viên trực tiếp tham gia sinh hoạt. Chi bộ phải kiểm tra,
giám sát, quản lý chặt chẽ đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ lãnh đạo; nắm được
cụ thể và chính xác phẩm chất và tình hình công tác, các hoạt động của từng cán bộ,
đảng viên thuộc trách nhiệm và phạm vi mình quản lý. Hết sức coi trọng giáo dục,
đồng thời phát hiện kịp thời, cảnh báo, nhắc nhở và kiên quyết xử lý những đảng
viên vi phạm kỷ luật của Đảng.
Kiểm tra, giám sát còn nhằm rà soát nắm tình hình, tiếp thu các kiến nghị của
các tổ chức đảng trong DNNKVNN để kiến nghị cấp có thẩm quyền hoặc xử lý giải
quyết những vướng mắc phát sinh. Qua kiểm, tra giám sát sẽ có những biện pháp cụ
thể để giúp đỡ tổ chức đảng về chuyên môn, nghiệp vụ công tác đảng, đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của tổ chức đảng, phổ biến trao đổi kinh nghiệm ở
những DNNKVNN làn tốt công tác xây dựng Đảng và công tác quản lý đảng viên.
Kiến nghị với cơ quan chức năng kể cả những kiến nghị của chủ doanh nghiệp
nhằm tạo sự ổn định, phát triển bền vững cho doanh nghiệp, tháo gỡ những khó
khăn cho doanh nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ công cộng, dịch
vụ xã hội.
Trong điều kiện đảng viên công tác trong DNNKVNN nhưng chỗ ở không ổn
định do công việc không ổn định, lại thường xa gia đình nên công tác quản lý đảng
viên trong DNNKVNN lại càng phải được chú trọng hơn. Nếu không được giáo dục
tốt, tinh thần tự giác cao và công tác quản lý tốt của cấp uỷ thì dễ dẫn đến tình trạng
đảng viên sống buông thả, thậm chí cờ bạc, trộm cắp và các tệ nạn xã hội khác vi
phạm phẩm chất đạo đức, vi phạm pháp luật của Nhà nước.
150
Các hình thức kiểm tra, giám sát cũng đa dạng, mềm dẻo và linh hoạt. Có thể
chỉ là tiếp xúc, gặp gỡ nghe đảng viên tâm sự, báo cáo hoặc thể hiện qua các hành
vi, quan điểm qua sinh hoạt chi bộ. Có thể nắm tình hình đảng viên qua các kênh
thông tin khác từ quần chúng công nhân, người lao động cùng làm, cùng sống trong
khu dân cư. Cũng có thể thông qua gia đình, bạn bè, người thân của đảng viên đó để
nắm thêm thông tin. Vấn đề quan trọng nhất là việc nắm thông tin sớm, thường
xuyên và chính xác về đảng viên giúp cấp uỷ có kế hoạch, biện pháp nhắc nhở góp
ý phê bình chân thành để đảng viên sửa chữa, tiến bộ. Trong trường hợp thật cần
thiết, có thể tiến hành kiểm tra, xác minh, kết luật và xử lý theo thầm quyền của
UBKT hoặc của cấp uỷ.
4.2.7.3. Thường xuyên đánh giá, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về hoạt
động của tổ chức đảng và công tác quản lý đảng viên trong doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nướcTổng kết, sơ kết, đánh giá rút kinh nghiệm trong công tác quản lý đảng viên
theo tinh thần đổi mới tư duy về quản lý đảng viên. Một mặt tổ chức đảng phải quản
lý chặt chẽ hồ sơ lý lịch gia đình, bản thân đảng viên nhưng mặt khác, việc quản lý
đảng viên cần coi trọng chất lượng thực tế thông qua tư cách, đạo đức, tính tiền
phong gương mẫu, hiệu quả công tác và đóng góp với xã hội. Trong mối quan hệ
giữa quá khứ và hiện tại thì coi trọng tư cách đạo đức lối sống hiện tại của đảng
viên không quá nhấn mạnh quá vào lý lịch, quá khứ lịch sử gia đình và bản thân
đảng viên. Trong mối quan hệ giữa đức và tài thì phải lấy đức làm gốc. Kết hợp
chặt chẽ hồ sơ lý lịch với quản lý tư tưởng và những mối quan hệ khác của đảng
viên, nhất là mối quan hệ với quần chúng nơi công tác và nhân dân nơi cư trú. Quản
lý đảng viên trong DNNKVNN là nắm được và xử lý linh hoạt kiên quyết, dứt điểm
những thông tin có liên quan và có dấu hiệu vi phạm tư cách đảng viên, tiêu chuẩn
đảng viên. Và do đó, quản lý đảng viên trong DNNKVNN là sự kết hợp chặt chẽ
giữ chi bộ đảng trong doanh nghiệp - chủ doanh nghiệp - các tổ chức quần chúng và
chi uỷ nơi đảng viên cư trú.
151
Mỗi đảng viên phải tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi bộ, tham gia sinh
hoạt đầy đủ, tự khép mình vào khuôn khổ kỷ luật của Đảng. Không để một đảng
viên nào đứng ngoài trách nhiệm quản lý của một tổ chức, một tập thể...
Nghiên cứu khoa học về xây dựng, phát triển tổ chức đảng trong DNNKVNN
làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách nói chung cho sự phát triển của
DNNKVNN và tổ chức đảng, đoàn thể ở đó.
Tỉnh uỷ, thành uỷ cần có hướng dẫn về mô hình tổ chức đảng, phương thức
hoạt động, sinh hoạt đối với từng loại hình DNNKVNN cho phù hợp, khả thi và
hiệu quả. Quy định rõ quy mô doanh nghiệp, đặc thù DNNKVNN để thành lập hệ
thống tổ chức đảng cho phù hợp nhất, doanh nghiệp hoạt động trên nhiều địa bàn
khác nhau, quy chế phối hợp các địa phương, cấp uỷ đảng ở những địa phương khác
nhau trong quản lý đảng viên của DNNKVNN được thành lập theo ngành dọc.
Kết luận chương 4
Quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH cả nước nói chung và khu vực các tỉnh ĐBSH
nói riêng đang đặt ra yêu cầu bức thiết nâng cao chất lượng toàn diện cho đội ngũ
đảng viên trong các doanh nghiệp nói chung và các DNNKVNN, trong đó nhiệm vụ
quản lý đảng viên là vấn đề có tính sống còn của TCCSĐ trong các loại hình doanh
nghiệp này. Muốn làm tốt công tác quản lý đảng viên trong các DNNKVNN cần
phải có các giải pháp có tính đồng bộ, vừa phải được quán triệt trong nhận thức của
từng TCCSĐ và mọi đảng viên; đồng thời phải vận dụng sao cho có hiệu quả trong
thực tế.
Căn cứ vào thực trạng quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở các tỉnh
ĐBSH; căn cứ đặc thù của đội ngũ đảng viên trong các loại hình doanh nghiệp này;
trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm chỉ đạo của Đảng ta, tác giả đã nêu ra một số phương hướng và giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao chất lượng quản lý đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN ở
ĐBSH giai đoạn hiện nay. Những giải pháp đã nêu trên cần được tiến hành đồng bộ
không xem nhẹ mặt nào; tiến hành đến đâu chắc đến đó và có tổng kết rút kinh
152
nghiệm. Đồng thời phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức đảng với lãnh đạo
doanh nghiệp, các đoàn thể và từng cá nhân đảng viên trong việc nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên. Trong đó vai trò của tổ chức đảng với chính quyền, các
đoàn thể và từng cá nhân đảng viên là rất quan trọng. Để thực hiện tốt các giải pháp
trên cần tăng cường sự chỉ đạo và phối hợp của cấp ủy cấp trên với cấp cơ sở tạo
thành sức mạnh đồng bộ, nhất quán trong công tác chỉ đạo và quản lý đảng viên
trong các DNNKVNN.
153
KẾT LUẬN1. Trong gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đã khuyến khích mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã xuất nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân
phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch, tạo động lực cho nền kinh tế
phát triển.
Cùng với sự phát triển chung đó, các DNNKVNN ở ĐBSH ra đời và phát triển
rất mạnh. Theo đó, các tổ chức đảng trong DNNKVNN ở ĐBSH ra đời và từng
bước phát huy vai trò, khẳng định tính tất yếu phải thành lập các tổ chức Đảng ở đó,
đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, công nhân và người lao động trong
DNNKVNN, đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các loại hình
DNNKVNN. Trong công tác xây dựng Đảng đối với các DNNKVNN ở ĐBSH
việc quản lý đảng viên có vai trò quan trọng, được chú ý ở nhiều khâu, nhiều nội
dung. Tuy nhiên quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH còn nhiều
khuyết điểm, hiệu quả chưa đạt như mong muốn, chưa thực sự trở thành nền nếp,
khoa học. Nhận thức của một số cấp uỷ đảng về tầm quan trọng của tổ chức Đảng
và quản lý đảng viên trong DNNKVNN còn chưa đầy đủ, đúng đắn. Chính vì vậy,
tăng cường quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH là vấn đề cần thiết và
cấp bách hiện nay.
2. Quản lý đảng viên trong các DNNKVNN có vai trò rất quan trọng nhằm tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các loại hình DNNKVNN. Quản lý đảng viên
trong các DNNKVNN ở ĐBSH giai đoạn là toàn bộ hoạt động của các tổ chức
Đảng (cấp ủy, chi bộ) nhằm nắm chắc các thông tin về việc thực hiện nhiệm vụ của
đảng viên để giáo dục, rèn luyện, góp phần nâng cao chất lượng đảng viên, xây
dựng tổ chức đảng trong DNNKVNN trong sạch, vững mạnh.
154
3. Trong những năm qua, phần lớn đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN
giữ gìn phẩm chất đạo đức, thấy rõ trách nhiệm của mình, tích cực học tập nâng cao
trình độ về mọi mặt, chấp hành tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Trong điều kiện thế giới có nhiều biến động chính trị và
những khó khăn trong nước, nhất là những khó khăn của các DNNKVNN khi nền
kinh tế khu vực và thế giới suy giảm nhưng tuyệt đại đa số đảng viên đều trung
thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công của chủ
doanh nghiệp và nhiệm vụ do TCCSĐ giao. Nhiều đảng viên trong DNNKVNN ở
ĐBSH tích cực học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác,
phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện
tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều
đảng viên không được làm. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã quan tâm bồi dưỡng tạo
nguồn kết nạp vào Đảng những quần chúng có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay
nghề cao, cán bộ trong bộ máy quản lý và cán bộ các đoàn thể trong doanh nghiệp
có đủ điều kiện vào Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình; góp phần tạo sự
đoàn kết thống nhất trong DNNKVNN. Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng, phát
triển TCCSĐ và quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH còn nhiều khó
khăn, yếu kém.
4. Trong thời gian tới, DNNKVNN sẽ tiếp tục phát triển mới với số lượng
ngày càng tăng và doanh nghiệp giải thể, phá sản cũng vẫn tiếp tục diễn biến phức
tạp bởi sự chi phối của quy luật của nền kinh tế thị trường. Để tăng cường quản lý
đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở ĐBSH đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ công tác quản lý đảng viên trong giai đoạn hiện nay cần đề ra nhiều giải pháp,
trong đó nghiên cứu và thực hiện đồng bộ các giải pháp do luận án đề xuất: Thứnhất, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp ủy đảng, đảng viên và
quần chúng về việc xây dựng, phát triển tổ chức đảng trong các DNNKVNN ở
ĐBSH hiện nay. Thứ hai, thực hiện có hiệu quả việc quản lý đảng viên trên cả ba
155
mặt: tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; quá trình công tác và hồ sơ đảng viên.
Thứ ba, nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi ủy, chi bộ, đẩy mạnh tự phê bình và
phê bình trong sinh hoạt đảng. Thứ tư, tăng cường sự tham gia quản lý của nhân dân
và cấp ủy, ban Mặt trận Tổ quốc nơi cư trú đối với mọi hoạt động của đảng viên.
Thứ năm, tăng cường sự phối hợp giữa cấp ủy đảng với chủ DNNKVNN trong công
tác quản lý đảng viên. Thứ sáu, nâng cao ý thức, trách nhiệm tự quản lý của đảng
viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng. Thứbảy, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên đối với
cấp ủy trong DNNKVNN.5. Quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH giai đoạn hiện nay là vấn
đề rất lớn và khó cần được tổ chức nghiên cứu công phu, với quy mô lớn và thời
gian dài. Kết quả nghiên cứu của luật án chỉ là một phần rất nhỏ. Do trình độ và
năng lực của nghiên cứu sinh còn nhiều hạn chế. Tác giả luật án rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo, các nhà khoa học, các tỉnh,
thành ủy, các cấp ủy trực thuộc, cán bộ hoạt động thực tiễn ở các tỉnh, thành phố
ĐBSH và đồng nghiệp. Song tác giả cũng hy vọng luận án sẽ góp phần nâng cao
chất lượng quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH đạt chất lượng tốt
hơn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng trong những năm tới đối
với các loại hình doanh nghiệp này.
156
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ1. Nguyễn Thị Tuyến (2009), “Doanh nghiệp nào có tổ chức đảng thì quan hệ
lao động hài hòa hơn, sản xuất, kinh doanh hiệu quả hơn” Tạp chí Cộng sản chuyênđề cơ sở, số 34, Hà Nội, tháng 10 [ tr.17 - tr.20].
2. Nguyễn Thị Tuyến (2014), “ Công tác xây dựng Đảng và đoàn thể nhân dântrong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở Hà Nội ”, Tạp chí Cộng sảnchuyên đề cơ sở số 90, Hà Nội, tháng 6 [ tr.78 – tr.82].
3. Nguyễn Thị Tuyến (2013), “ Xây dựng đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng yêu cầuthời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Cộngsản chuyên đề cơ sở, số 77, Hà Nội, tháng 5 [ tr.58 - tr.61].
4. Nguyễn Thị Tuyến (2013), “Công tác xây dựng đảng trong doanh nghiệpngoài Nhà nước ở Thành phố Hà Nội – Những khó khăn cần giải quyết”, Tạp chíthông tin khoa học chính trị - hành chính, số 2 (14), Hà Nội [tr.18 - tr.21].
5. Nguyễn Thị Tuyến (2012), “ Kinh nghiệm từ sinh hoạt chi bộ dân cư ởhuyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 189, Hà Nội,tháng 12 [ tr.70 - tr.72]
6. Nguyễn Thị Tuyến (2013), “ Đảng bộ huyện Chương Mỹ tập trung đẩymạnh công tác xây dựng đảng”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 3, Hà Nội, tháng 3 [tr.102 - tr.103].
7. Nguyễn Thị Tuyến (2013), “Đánh giá hoạt động của Ban thường vụ, bí thư,phó bí thư do Đại hội đảng bộ cấp cơ sở trực tiếp bầu ở Thành ủy Hà nội”, Hội thảokhoa học cấp cơ sở Học viện Xây dựng Đảng năm 2013 “Thực hiện thí điểm chủtrương Đại hội đảng bộ trực tiếp bầu ban thường vụ, bí thư, phó bí thư, cấp ủy”, Hà
Nội [ tr.1 - tr.10].
8. Nguyễn Thị Tuyến (2012), “Nhận thức về môn học Xây dựng Đảng từ phíangười học – Những các bộ lãnh đạo, quản lý – đề xuất và kiến nghị”, Hội thảo khoahọc cấp cơ sở Học viện Xây dựng Đảng năm 2012, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Tuyến (2014), Đổi mới sinh hoạt chi bộ dân cư nông thôn trongđiều kiện hiện nay, (qua khảo sát thực tế ở các huyện của Hà Nội), (đồng tác giả),Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
157
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Khoa Bảng (2011), “Xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp tư nhân ở Hà
Nội”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (10).
2. Ban Bí thư Trung ương (2007), Chỉ thị số 10-CT/TW “Về nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ”.
3. Ban Bí thư Trung ương (2010), Kết luận số 80 – KL/TW “ Về tiếp tục thực hiện
Chỉ thị 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về tăng cường công tác xây
dựng Đảng, các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”.
4. Ban Bí thư Trung ương (2010), Quy định số 288 - QĐ/TW ”Về chức năng, nhiệm
vụ của đảng bộ, chi bộ trong công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,
trong đó Nhà nước sở hữu từ 50% vốn điều lệ trở xuống (gọi tắt là công ty)”.
5. Ban Chấp hành Trung ương (2002), Nghị quyết số 20 - NQ/TW (Trung ương 6
khoá X) “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh CNH-HĐH đất nước”.
6. Ban Chấp hành Trung ương (2006), Quy định số 15 - QĐ/TW “Về đảng viên
được làm kinh tế tư nhân”.
7. Ban Chấp hành Trung ương (2008), Nghị quyết số 22-NQ/TW (Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 6 Khóa X) “Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”.
8. Ban Chấp hành Trung ương (2012), Hướng dẫn số 01 - HD/TW “ Về một số vấn
đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng”.
9. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2012), Nghị quyết số 12-NQ/TW - Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
10. Ban Chấp hành Trung ương, Ban Tổ chức (2010), Báo cáo số 211-BC/BTCTW
Tổng kết thực hiện Chỉ thị 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) “Về tăng
cường công tác xây dựng Đảng, các đoàn thể nhân dân trong các doanh
nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”.
158
11. Ban Chỉ đạo xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong DNNKVNN Thành
phố Hà Nội (2014), Báo cáo số 13 – BC/ BCĐ “Về sơ kết hai năm thực hiện
Nghị quyết số 09-NQQ/TU của Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội”.
12. Ban Tổ chức Trung ương (2003), Hướng dẫn 23-HD/TCTW “Về việc đảng viên
đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ
mối liên hệ với chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công
dân nơi cư trú”.
13. Ban Tổ chức Trung ương (2004), Báo cáo tại Hội nghị “Về xây dựng tổ chức
đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp ở các khu công nghiệp”.
14. Ban Tổ chức Trung ương (2008), Hướng dẫn số 20- HD/BTCTW” Về đánh giá,
phân loại chất lượng của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên”.
15. Ban Tổ chức Trung ương (2014), Hướng dẫn số 27 – HD/BTCTW “ Về đánh giá,
phân loại chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên”.
16. Ban Tổ chức Trung ương (2007), Hướng dẫn số 05-HD/BTCTW “Nội dung sinh
hoạt chi bộ trong các loại hình cơ sở đảng”.
17. Ban Tổ chức Trung ương (2008), Hướng dẫn số 20- HD/BTCTW “Về đánh giá,
phân loại chất lượng của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên”.
18. Ban Tổ chức Trung ương (2013), Hướng dẫn số 17-HD/BTCTW “Về thực hiện thí
điểm việc kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn
vào Đảng”.
19. Ban Tổ chức Trung ương (2010), Báo cáo số 241- BC/BTCTW “Về tổng kết thực
hiện Chỉ thị 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về tăng cường công tác
xây dựng Đảng, các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”
20. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Nam Định (2011), Báo cáo số 456 - BC/BTCTU “Về kết
quả thực hiện Kết luận số 80-KL/TW ngày 29/7/2010 của Ban Bí thư Trung
ương (khóa X)”.
159
21. Bộ Chính trị (2000), Quy định số 76-QĐ/TW “Về việc đảng viên đang công tác ở
cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với
chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú”.
22. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 54-NQ/TW “Về phát triển kinh tế - xã hội và
bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSH đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020”.
23. Bộ Chính trị (2006), Quy định số 76 QĐ/TW “Về việc đảng viên đang công tác ở
các cơ quan, doanh nghiệp giữa mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và
gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú”.
24. Bộ Chính trị (2011), Kết luận số 13 - KL/TW “Về việc tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 54-NQQ/TW, ngày 14-9-2005 của Bộ Chính trị (Khoá X) về phát
triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông
Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”.
25. Bộ Tổ chức Thành ủy Thẩm Quyến (1996), “ Sổ tay công tác tổ chức Đảng của
đặc khu Thẩm Quyến”), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. ChănThạ Nỏm Băn ĐaVông (2011), Quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ trong
hệ thống chính trị các huyện ở thành phố Viêng Chăn giai đoạn hiện nay,
Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
27. Chính phủ (2009), Nghị định số 56/ 2009/NĐ – CP “Về trợ giúp doanh nghiệp
vừa và nhỏ”.
28. Chính phủ (2012), Báo cáo số 789/ BC – CP “Về chỉ đạo, điều hành của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu
năm 2012”.
29. Chính phủ (2014), Nghị định số 98/ 2014/ NĐ – CP “ Quy định về việc thành lập
tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội tại doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế”
30. Nguyễn Văn Doãn (2008), “Quản lý đảng viên là người Công giáo ở các đảng bộ
xã của huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay”, luận văn
160
thạc sĩ, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
31. Phạm Ngọc Dũng (2009), “Bình Dương với công tác phát triển tổ chức đảng trong
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh”, Tạp chí Cộng sản chuyên đề cơ sở, (32).
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng ủy Khối doanh nghiệp thành phố Hải Phòng (2013), Báo cáo số 36-
BC/ĐUK về Tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2013 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2014.
38. Đảng ủy khối doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang (2013), Báo cáo Số 183 -BC/ĐU về
tổng kết công tác của đảng ủy năm 2013, phương hướng, nhiệm vụ năm 2014
39. Đảng ủy khối doanh nghiệp tỉnh Hải Dương (2014), Báo cáo Số 152 - BC/ĐU về
công tác xây dựng đảng năm 2013 và một số nhiệm vụ trọng tâm năm 2014
40. Đảng ủy khối doanh nghiệp tỉnh Ninh Bình (2014), Báo cáo số - BC/ĐU về Kết
quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2013, phương hướng, nhiệm vụ trọng
tâm năm 2014
41. Đảng ủy khối doanh nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc (2014), Báo cáo Số 109 -BC/ĐUK Sơ
kết công tác quý I;Phương hướng, nhiệm vụ quý II năm 2014
42. Đảng uỷ Khối doanh nghiệp, Đảng bộ tỉnh Nam Định (2009), Báo cáo số 60-
BC/ĐUK tổng kết Chỉ thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị (Khoá VIII) về
‘Tăng cường công tác xây dựng đảng và các đoàn thể nhân dân trong các
161
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”:
43. Đinh Ngọc Giang (2011), Chuẩn hóa chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã
(qua khảo sát ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
44. Huỳnh Thị Gấm (2011), Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài ở Miền Đông Nam Bộ giai đoạn hiện nay, đề tài khoa học
cấp bộ, Học viện Chính tri – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
45. Bùi Thị Thanh Hà (2003), Công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên
doanh ở nước ta thời kỳ đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Đặng Minh Huân (2010), Suy nghĩ về bài “Vào Đảng để làm gì?”, Tạp chí Xây
dựng Đảng, (7)
47. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Viện Xây dựng Đảng (2007), Tập bài
giảng Nghiệp vụ công tác tổ chức cán bộ và đảng viên III, Hà Nội.
48. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Xây dựng Đảng,
Nxb Chính trị quốc gia , Hà Nội.
49. Tạp chí Xây dựng Đảng (2004), Tăng cường xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể
trong doanh nghiệp các khu công nghiệp, Hội nghị chuyên đề (11)
50. Phạm Xuân Hà (2010), “Đồng Nai xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh”, Tạp chí Cộng sản chuyên đề cơ sở, (40)
51. Trần Duy Hưng (2010), “Quản lý đảng viên đi làm ăn xa ở Nam Định”, Tạp chí
Xây dựng Đảng, (10).
52. Khoa Triết (2004), Giáo trình Đạo đức học Mác - Lênin, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
53. Mai Hữu Kế (1998), Phân tích hệ thống trong quản lý và tổ chức, Nxb Lao động,
Hà Nội.
54. Lăm lợt nỏm BútXạVông (2001), Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên nông
thôn tỉnh Khăm Muộn hiện nay, Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
162
55. Cầm Thị Lai (2009), “Vấn đề phát triển đảng viên trong doanh nghiệp ngoài quốc
doanh”, Tạp chí xây dựng Đảng, (8).
56. Vũ Duy Lâm (2004), Thuật ngữ pháp lý, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
57. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Tôn Mạnh (2008), Công tác quản lý đảng viên ở đảng bộ các cơ quan Dân chính
Đảng, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay , luận văn thạc sĩ, chuyên
ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
62. Đỗ Ngọc Ninh ( 2007), vai trò của đội ngũ đảng viên là người nghỉ hưu trong
hoạt động của các tổ chức đảng ở khu vực nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện
nay, Đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
63. Dương Xuân Ngọc (2004), Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Hoài Nam (2006), “Đảng Cộng sản Trung Quốc với việc cho phép đảng viên làm
kinh tế tư nhân”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (3).
65. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2004), Sách tra cứu các mục từ về tổ chức, Hà
Nội
66. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2004), Hội thảo lý luận giữa Đảng cộng sản Việt
Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc - Xây dựng đảng cầm quyền kinh nghiệm
của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc, Hà Nội.
67. Hanh Nguyên (2013), “Một số vấn đề của tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài
khu vực nhà nước ở Hà Nội”, Báo Nhân dân, thứ 6 ngày 4 tháng 10.
68. Lý Bồi Nguyên (2013), “Thực tiễn và sự tìm tòi về xây dựng tổ chức cơ sở và xây
dựng đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc”. Kỷ yếu hội thảo,
163
xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh trong tình hình mới, kinh nghiệm
Trung Quốc – kinh nghiệm của Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
69. Lý Bồi Nguyên ( 2013), “ Thực tiễn và sự tìm tòi về xây dựng tổ chức cơ sở và
xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc”, Kỷ yếu hội
thảo khoa học, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh trong tình hình mới,
kinh nghiệm Trung Quốc – kinh nghiệm của Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
70. Bùi Thị Oanh (2009), Quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở
thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
71. Pheng Sỏn Khu Thoong Khăm (2008), Chất lượng đội ngũ đảng viên ở nông thôn
các tỉnh miền trung nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn
hiện nay, Luận án Tiến sỹ khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
72. Nguyễn Huy Quý (2008), Nghiên cứu Trung Quốc học (Những bài viết chọn lọc),
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
73. Trần Trung Quang (1999) chủ biên, Tổ chức đảng ở doanh nghiệp ngoài quốc
doanh và phương thức hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay, Nxb Lao
động, Hà Nội.
74. Vũ Hào Quang (2004), Xã hội học quản lý, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
75. Tô Huy Rứa (1996-2000) chủ nhiệm, “Làm người cộng sản trong giai đoạn hiện
nay”, Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước KHXH. 05, Hà Nội
76. Phùng Anh Tuấn (2011), Quản lý đảng viên thường xuyên làm việc xa nơi cư trú,
đảng viên là sinh viên tốt nghiệp chưa có việc làm ổn định - Thực trạng và
giải pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
77. Tạp chí Xây dựng Đảng (2004), “Tăng cường xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể
trong doanh nghiệp các khu công nghiệp”, Tạp chí Xây dựng Đảng (số 11)
164
78. Thành ủy Hà Nội (2011), Báo cáo số 41-BC/TU tình hình thực hiện Kết luận số
80-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) trong tình hình mới.
79. Thành ủy Hà Nội (2014), Báo cáo số 225, Kết quả thực hiện Nghị quyết số 09-
NQ/TU, ngày 27/02/2012 của BTV Thành uỷ Hà Nội về tăng cường công tác
xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp ngoài khu
vực Nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội, giai đoạn từ nay đến năm
2020.
80. Thành uỷ Hải Phòng (2009), Báo cáo số 138-BC/TU Tổng kết thực hiện Chỉ thị số
07-CT/TW của Bộ Chính trị (Khoá VIII)“Về tăng cường công tác xây dựng
Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”.
81. Thủ tướng chính phủ (2008) Quyết định số: 98/2008/QĐ-TTg, phê duyệt Quy
hoạch phát triển hành lang kinh tế Lạng Sơn – Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh đến năm 2020
82. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2009), Báo cáo số 84-BC/TU tổng kết thực hiện Chỉ thị số 07-
CT/TW ngày 23/11/1996 của Bộ Chính trị (khóa VIII) “Về tăng cường công
tác xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư
nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”.
83. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2011), Báo cáo số 24-BC/TU về việc thực hiện Kết luận số 80-
KL/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị só 07-CT/TW của Bộ Chính
trị (khóa VIII) trong tình hình mới”.
84. Tỉnh ủy Hà Nam (2011), Báo cáo số 27-BC/TU Kết quả thực hiện Kết luận Số 80-
KL/TW, ngày 29/7/2010 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ
thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) trong tình hình mới.
85. Tỉnh ủy Hải Dương (2008), Báo cáo số 134-BC/TU vê việc Tổng kết thực hiện Chỉ
thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị “Về tăng cường công tác xây dựng đảng
và các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài”.
165
86. Tỉnh ủy Hải Dương (2011), Báo cáo số 31- BC/TU về Kết quả thực hiện Kết luận
số 80-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá X) "Về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) trong tình
hình mới"
87. Tỉnh ủy Hưng Yên (2011), Báo cáo số 28-BC/TU Kết quả thực hiện Kết luận số
80-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương (khóa X)
88. Tỉnh ủy Nam Định (2011), Báo cáo của Ban Tổ chức về Kết quả thực hiện Kết
luận số 80-KL/TW ngày 29/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương (khóa X).
89. Tỉnh ủy Ninh Bình (2011), Báo cáo số 37-BC/TU về kết quả thực hiện Kết luận số
80-KL/TW ngày 29/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) trong tình
hình mới.
90. Tỉnh ủy Quảng Ninh (2011), Báo cáo số 33-BC/TU thực hiện kết luận số 80-
KL/TW ngày 29/7/2010 của Ban Bí thư (khóa X) về “Tiếp tục thực hiện Chỉ
thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII).
91. Tỉnh ủy Thái Bình (2011), Báo cáo số 31-BC/TU kết quả triển khai thực hiện Kết
luận số 80-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII)
92. Lại Tiến Thịnh (2010), “Phát triển đảng viên trong doanh nghiệp tư nhân ở Phú
Thọ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (10).
93. Lâm Quốc Tuấn (2011), Đảng viên làm kinh tế tư nhân ở Thành phố Hà Nội giai
đoạn hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Thành ủy Hà Nội.
94. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), “Thông tin nghiên cứu về công nhân
và công đoàn”, Bản tin Viện Công nhân – Công đoàn số 11, ngày 8 tháng 12,
Hà Nội.
95. Phùng Anh Tuấn (2011), Quản lý đảng viên thường xuyên làm việc xa nơi cư trú,
đảng viên là sinh viên tốt nghiệp chưa có việc làm ổn định - Thực trạng và
giải pháp, đề tài khoa học cấp bộ, Trường đại học Khoa học, Xã hội & nhân
văn, Hà Nội.
166
96. Trần Xuân Thiện (2010), “Xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên trong
doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Vinh Long”, Tạp chí Xây dựng Đảng, 12.
97. Trương Văn Tiếp (2007), “Công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh ở Long An: Thực trạng và một số kiến nghị”, Tạp chí Cộng
sản, (777).
98. Hồng Vân (2011), “Vì sao đảng viên bỏ sinh hoạt đảng?” Tạp chí Xây dựng Đảng,
(11).
99. Viện Công nhân – công đoàn, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (2014), Phát
triển đảng viên mới trong công nhân các loại hình doanh nghiệp, thực trạng
và giải pháp, Đề tài khoa học, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hà Nội.
100. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt , Nxb Đà Nẵng.
167
PHỤ LỤC
168
Phụ lục 1
BẢNG TỔNG HỢP SỐ LIỆU VỀ ĐẢNG VIÊN(NĂM 2010-2013)
------------------------------Đơn vị tính: người
Đánh giá chất lượngđảng viên
Khen thưởng - Kỷ luậtđảng viên
Khen thưởngđảng viên
Kỷ luậtđảng viên
STTĐảng bộ Tỉnh;
Thành phốNăm
Thànhlập mới
cácTCCSĐ
Kếtnạp
đảngviên
HT
XSN
V
HT
TN
V
HT
NV
Yếu k
ém
Bằng
khen
Gi
ấy k
hen
Khi
ển tr
ách
Cảnh
cáo
Các
h ch
ức Kha
i tr
ừ
1 2 3 4 5 10 11 12 13 20 21 22 23 24 25
2010 56 8137 37085 232627 60685 6742 255 9604 582 373 81 72
2011 137 8479 38018 238477 62211 6912 272 8851 728 405 73 86
2012 170 7581 38852 243708 63576 7064 265 9905 637 396 85 901 Hà Nội
2013 183 9136 39686 248939 64940 7215 283 10524 651 471 96 107
2010 8 3217 11852 73267 20471 2154 1652 1638 88 67 12 31
2011 17 3623 12250 75730 21160 2227 1606 1575 93 71 16 22
2012 22 3707 12658 79402 20713 2301 1560 1512 127 66 14 402 Hải Phòng
2013 34 3582 13052 81874 21358 2372 1732 1902 221 65 16 45
3 Quảng Ninh 2010 830 3680 9870 53407 5839 343 425 4510 174 75 8 51
169
2011 841 3784 8935 53892 9487 366 404 5818 135 55 6 46
2012 862 3743 8698 56964 9566 491 369 9247 239 78 8 44
2013 787 4035 9330 60135 8884 498 311 4704 341 71 10 30
2010 9 1863 6363 39917 10413 1157 51 3164 108 44 17 29
2011 15 1740 6555 41117 10726 1191 65 3225 119 65 12 36
2012 28 1716 6743 42301 11035 1226 54 3128 123 54 13 414 Bắc Ninh
2013 14 1832 6945 43565 11365 1262 52 3385 142 61 18 35
2010 10 2086 8867 55622 14510 1612 46 3920 165 71 19 46
2011 12 2207 9110 57145 14907 1656 38 3811 194 82 25 37
2012 7 1961 9325 58498 15260 1695 41 3875 235 72 16 435 Nam Định
2013 13 2467 9597 60201 15704 1744 42 3955 250 69 20 38
2010 6 2174 11739 37170 8991 350 25 538 78 137 23 40
2011 19 2502 10049 56990 12154 382 8 1240 112 97 10 24
2012 7 2623 10251 58196 12116 440 34 4664 236 75 6 336 Hải Dương
2013 7 2803 10641 60946 10871 412 45 4087 278 73 16 40
2010 5 1326 5773 36214 8922 1574 41 2598 172 58 11 36
2011 16 1435 5931 37204 9705 1078 39 2685 186 65 9 42
2012 9 1384 6083 38159 9954 1106 42 2756 197 72 8 397 Hà Nam
2013 18 1520 6250 39208 10228 1136 35 2876 213 64 12 31
2010 4 1636 10783 34825 9817 1126 58 3896 109 43 4 398 Hưng Yên
2011 3 1506 11052 36043 9974 1087 64 4020 93 21 7 48
170
2012 8 1815 11337 36993 10192 1175 56 3958 125 36 3 42
2013 6 1760 11687 38137 10457 1231 70 4217 189 47 6 51
2010 9 1539 8169 51244 14110 1114 56 3195 138 41 5 44
2011 20 1714 8357 52426 13676 1519 51 3625 146 44 9 56
2012 13 1625 8536 53548 13969 1552 58 3692 153 40 8 479 Thái Bình
2013 28 1856 8740 54828 14303 1589 62 3875 166 48 7 53
2010 5 1907 8285 30705 8773 974 41 2588 81 33 4 15
2011 24 1876 8604 31381 9616 1012 52 2665 102 42 6 12
2012 12 1952 8936 33117 9987 525 45 2738 99 34 5 1810 Ninh Bình
2013 7 2268 9312 34546 10967 548 57 2986 118 43 3 22
2010 11 2308 6030 37827 9868 1096 92 2912 136 46 11 31
2011 9 2609 6317 39628 10337 1148 85 2886 126 44 9 28
2012 26 2435 6585 41308 10776 1197 98 3080 132 57 6 2411 Vĩnh Phúc
2013 19 2517 6862 43044 11229 1247 107 3215 140 65 8 30
(Nguồn của các tỉnh, thành ủy ở đồng bằng Sông Hồng)
171
Phụ lục 2
BẢNG TỔNG HỢP SỐ LIỆU VỀ TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG(NĂM 2010-2013)
------------------------------
Đánh giá chất lượngTCCSĐ
Khen thưởng - Kỷ luậtTCCSĐ
Khen thưởngTCCSĐ
Kỷ luậtTCCSĐ
STTĐảng bộ Tỉnh;
Thành phốNăm
Thànhlập mới
cácTCCSĐ
Kếtnạp
đảngviên
TSV
M
HT
TN
V
HT
NV
Yếu k
ém
Cờ
Bằng
khen
Gi
ấy k
hen
Khi
ển tr
ách
Cảnh
cáo
Gi
ả
i tán
1 2 3 4 5 6 7 8 9 14 15 16 17 18 19
2010 56 8137 1030 507 125 27 63 318 609 22 19
2011 137 8479 1013 449 112 32 56 347 516 26 23
2012 170 7581 978 489 147 16 67 335 598 25 201 Hà Nội
2013 183 9136 1037 502 117 18 68 376 631 29 8
2010 8 3217 588 284 56 16 232 3 2
2011 17 3623 598 309 49 19 257 2 4
2012 22 3707 612 316 48 11 236 2 22 Hải Phòng
2013 34 3582 633 327 51 10 3 29 261 3 1
3 Quảng Ninh 2010 830 3680 655 139 39 0 20 35 125 2 1
172
2011 841 3784 666 155 34 0 25 30 115 3 2
2012 862 3743 614 124 34 2 22 35 120 4 2
2013 787 4035 627 125 31 2 25 40 135 2 1
2010 9 1863 394 203 30 5 13 46 152 15 2
2011 15 1740 403 208 32 6 17 42 170 12 4
2012 28 1716 420 217 27 14 15 50 162 10 34 Bắc Ninh
2013 14 1832 429 221 34 7 18 58 155 11 5
2010 10 2086 522 269 42 9 16 75 138 6 4
2011 12 2207 529 273 41 8 9 67 126 8 1
2012 7 1961 555 275 43 9 14 76 144 6 35 Nam Định
2013 13 2467 720 115 36 3 12 88 135 7 2
2010 6 2174 579 140 51 1 13 87 126 4 1
2011 19 2502 619 135 22 2 8 104 137 4 1
2012 7 2623 617 141 22 1 12 91 129 46 Hải Dương
2013 7 2803 658 100 27 0 15 90 147 6 1
2010 5 1326 266 137 25 8 10 48 156 17 8
2011 16 1435 276 133 31 5 8 52 163 15 6
2012 9 1384 282 145 18 9 9 55 174 13 47 Hà Nam
2013 18 1520 293 151 28 5 12 58 185 10 5
2010 4 1636 468 82 39 13 14 95 147 2 18 Hưng Yên
2011 3 1506 483 76 37 10 9 90 162 5
173
2012 8 1815 488 59 44 8 12 72 154 3 3
2013 6 1760 491 60 45 11 17 102 176 7 2
2010 9 1539 406 196 39 13 9 68 175 8 5
2011 20 1714 418 209 40 6 12 75 183 7 6
2012 13 1625 426 220 34 7 14 89 172 7 49 Thái Bình
2013 28 1856 443 229 28 15 15 97 165 6 5
2010 5 1907 263 135 17 13 18 72 140 5 7
2011 24 1876 277 134 22 9 14 81 132 4 2
2012 12 1952 292 150 23 5 13 76 128 6 410 Ninh Bình
2013 7 2268 296 148 28 10 16 84 145 5 3
2010 11 2308 398 205 25 13 12 35 114 4 3
2011 9 2609 404 208 32 6 8 39 102 6 5
2012 26 2435 420 216 33 7 13 46 116 9 111 Vĩnh Phúc
2013 19 2517 432 223 35 14 10 42 124 8 2
(Nguồn của các tỉnh, thành ủy ở đồng bằng Sông Hồng)
174
Phụ lục 3
Các tổ chức đảng, đoàn thể trong DNNKVNN các tỉnh đồng bằng sông HồngTCCSĐ Công đoàn Thanh niên Phụ nữ
STT Tỉnh/TPSố
DNNKVNN Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng %
1 Hải Dương 6201 15 0,52 475 16,40
2 Hà Nam 2140 53 2,42 253 11,57 39 1,78
3 Nam Định 4241 146 3,44 624 14,71 63 1,49 12 0,28
4 Hưng Yên 3000 81 2,70 807 26,90 24 0,80
5 Thái Bình 3506 169 1,49 366 11,35 64 1,98
6 Ninh Bình 1687 58 3,44 140 8,30 36 2,13
7 Bắc Ninh 4344 97 2,23 464 10,69 92 2,12
8 Quảng Ninh 7563 97 1,14 675 8,93 144 1,90
9 Hà Nội 117.740 1071 0,54 2301 1,95 653 0,55 132 0,11
10 Vĩnh Phúc 6.044 115 7,66 91 7,19 63 4,98
11 Hải Phòng 7232 130 1,24 3456 678 156
Tổng 19698 1371 9652 1853 300
(Nguồn của các tỉnh, thành ủy ở đồng bằng sông Hồng)
175
Phụ lục 4
TỔNG HỢP KẾT QUẢ 2 NĂMThực hiện Nghị quyết số 09, ngày 27/02/2012 của BTV Thành ủy Hà Nội
TỔNG SỐ TỔ CHỨC ĐẢNG ĐẢNG VIÊN
STT TÊN ĐƠN VỊ Tổngsố
Thànhlập
trướcT2/2012
Thànhlập năm
2012
Thànhlập năm2013 sovới chỉ
tiêu
Tổngsố
Số đảngviên kết
nạp trướcT2/2012
Số đảngviên kếtnạp năm
2012
Số đảngviên kết
nạp2013
1 2 3 4 5 6 7 8 9
I Khối quận, Thị 444 323 56 65 7919 7366 271 282
1 Quận ủy Ba Đình 34 25 5 4/6 506 482 11 13
2 Quận ủy Hà Đông 53 39 8 6/6 700 675 12 13
3 Quận ủy Tây Hồ 11 4 3 4/6 172 167 5 0
4 Quận ủy Long Biên 22 7 7 8/7 151 142 3 6
5 Quận ủy HBT 66 57 3 6/8 1328 1253 38 37
6 Quận ủy Hoàn Kiếm 46 37 2 7/6 706 629 39 38
7 Quận ủy Cầu Giấy 42 26 7 9/8 608 576 6 26
8 Quận ủy Thanh Xuân 44 37 1 6/5 1064 986 68 10
9 Quận ủy Đống Đa 58 42 10 6/7 1499 1397 57 45
10 Quận ủy Hoàng Mai 42 28 8 6/5 622 563 26 33
11 Thị ủy Sơn Tây 26 21 2 3/7 563 496 6 61
II Các Huyện, Thị uỷ 290 141 73 76 3006 2692 143 171
1 H.ủy Hoài Đức 27 10 10 7/5 98 87 5 6
2 H.ủy Sóc Sơn 19 17 2 0/4 453 435 4 14
3 H.ủy Chương Mỹ 15 5 4 6/5 205 195 2 8
4 H.ủy Thanh Oai 14 7 4 3/4 64 49 6 9
5 H.ủy Quốc Oai 12 5 2 5/4 154 146 3 5
6 H.ủy Từ Liêm 40 24 7 9/7 763 698 31 34
7 H.ủy Phú Xuyên 15 8 5 2/3 183 177 2 4
8 H.ủy Gia Lâm 22 9 6 7/6 140 122 9 9
9 H.ủy Ba Vì 13 4 5 4/4 127 98 12 17
10 H.ủy Mê Linh 13 4 4 5/5 142 131 8 3
11 H.ủy Ứng Hòa 6 2 0 4/3 26 26 0 0
12 H.ủy Thanh Trì 17 4 7 6/5 98 68 20 10
13 H.ủy Phúc Thọ 19 13 3 3/3 85 85 0 0
14 H.ủy Đan Phượng 5 2 1 2/4 90 67 9 14
15 H.ủy Thạch Thất 16 8 4 4/4 81 80 1 0
16 H.ủy Mỹ Đức 13 9 1 3/4 105 88 8 9
176
17 H.ủy Thường Tín 5 2 1 2/4 26 10 15 1
18 H.ủy Đông Anh 19 8 7 4/4 166 130 8 28
III Các Đảng ủy khối 170 101 31 38 5225 4624 128 473
1 ĐU khối Doanh Nghiệp 61 38 11 12/11 841 725 41 75
2 ĐU khối Du Lịch 20 1 8 11/10 103 3 15 85
3 ĐU khối Công Nghiệp 67 58 4 5/8 3982 3701 46 235
4 ĐU khu CN&CX 22 4 8 10/10 299 195 26 78
IV Các Đảng ủy TCT 187 177 10 4/13 6118 5622 153 3431 ĐU-TCT Thương mại 8 8 0 0 176 160 5 11
2ĐU-TCT Đầu tư nướcvà MTVN
5 5 0 0 88 87 1 0
3 ĐU-TCT xây dựng HN 33 33 0 0 320 320 0 0
4ĐU-TCT xây dựngCTGT1 17 17 0 0 518 518 0 0
5ĐU-TCT ĐTPT hạ tầngđô thị
17 15 0 0 380 267 41 72
6 ĐU-TCT CP Sông Hồng 14 12 2 2 1086 937 10 139
7 ĐU-TCT VINACONEX 15 13 2 0 564 450 61 53
8ĐU-TCT đầu tư và PTnhà HN
34 34 0 0 1465 1440 0 25
9ĐU-TCT XD ThăngLong 19 19 0 0 643 582 29 32
10 ĐU-TCT Du lịch 3 3 0 0 62 56 6 0
11 ĐU-TCT Điện lực 0 0 0 0 1 0 0 1
12ĐU-TCT Xây dựngCTGT8 19 11 6 0 678 678 0 0
13ĐU-TCT Xây dựngCTGT4 0 0 0 2 4 0 0 4
14ĐU-TCT Cơ khí XD(COMA) 7 7 0 0 133 127 0 6
15 ĐU-TCT Vận tải HN 183 0 0 0 0 0 0 0
Tổng cộng 1095 742 170 183 22268 20304 695 1269
(Nguồn: Báo cáo số 225 của Thành ủy Hà Nội [79])
177
Phụ lục 5
CHỈ TIÊU
Thành lập mới tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà
nước trên địa bàn thành phố hà Nội năm 2014
(Kèm theo Quyết định số 12- QĐ/BCĐTƯ, ngày 13/03/2014 của Ban chỉ đạo
xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp ngoài khu
vực nhà nước Thành phố Hà Nội)
TT Tên đơn vịChỉ tiêu
năm 2014Ghi chú
I Các quận, thị ủy 80
1 Quận ủy Ba Đình 6
2 Quận ủy Hà Đông 6
3 Quận ủy Tây Hồ 4
4 Quận ủy Long Biên 7
5 Quận ủy HBT 8
6 Quận ủy Hoàn Kiếm 7
7 Quận ủy Cầu Giấy 8
8 Quận ủy Thanh Xuân 7
9 Quận ủy Đống Đa 8
10 Quận ủy Hoàng Mai 5
11 Quận ủy Bắc Từ Liêm 5
12 Quận ủy Nam Từ Liêm 5
13 Thị ủy Sơn Tây 4
II Các huyện ủy 75
1 HU Hoài Đức 5
2 HU Sóc Sơn 4
178
3 HU Chương Mỹ 6
4 HU Thanh Oai 4
5 HU Quốc Oai 4
6 HU Phú Xuyên 3
7 HU Gia Lâm 8
8 HU Ba Vì 4
9 HU Mê Linh 4
10 HU Ứng Hòa 4
11 HU Thanh Trì 5
12 HU Phúc Thọ 3
13 HU Đan Phượng 4
14 HU Thạch Thất 4
15 HU Mỹ Đức 3
16 HU Thường TÍn 5
17 HU Đông Anh 5
III Các đảng ủy khối 26
1 ĐU Khối DN 6
2 ĐU Khối Du Lịch 5
3 ĐU Khối Công Nghiệp 5
4 ĐU Khu CN & CX 10
IV Các Đảng ủy Tổng công ty 20
Căn cứ tính hình sắp xếp, cổ
phần hóa các doanh nghiệp
thành viên thuộc các Tổng công
ty và tình hình cụ thể của từng
đơn vị, củng cố, thành lập tổ
179
chức đảng và các đoàn thể trong
tất cả (100%) các doanh nghiệp
có vốn Nhà nước dưới 50%; và
thành lập từ 1 đến 2 tổ chức
Đảng trong công ty liên kết.
doanh nghiệp có vốn của đối tác
Việt Nam liên doanh với nước
ngoài ( nếu có)
TỔNG CỘNG 201
(Nguồn: Báo cáo số 225 của Thành ủy Hà Nội [79])
180
Phụ lục 6
Tình hình tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nướcKèm theo Báo cáo số 79 Ngày 29 tháng 2 năm 2012
số liệu tính đến 30/06/2011
Trong đó DN lỗ/lãi
TT Chỉ tiêu tổng số DNsiêu nhỏ nhỏ vừa
Vốn đăngký(tỷ đồng)
Tổng sốLĐ
trongDN
Doanhthu
(thuần)(Tỷ Đ)
số DN lãi Số Dn lỗ
Thuếvà cáckhoảnnộp
NSNN(Tỷ
đồng)2010
ThunhậpBQ 1tháng1 LĐ
(100đ)
CáckhoảnđónggópcôngtácXh
2010
Tổngsố lợinhuận
(tỷđồng)2010
1 2 3 4 5 6 7 12 13 14 15 16 17 18 19
I DN tư nhân 80216 57172 12804 10240 8848476 787092 290462 20206 17646 7630 30767
1 Cty cổ phần 37409 25485 5588 6336 2643297 347000 199935 9751 8491 5855 3277 18176
2 Cty TNHH 40982 30328 6837 3817 6158432 416400 84910 9751 8491 1545 3735 12306
3 DN tư nhân 1802 1341 374 87 16696 23366 5586 694 662 227 2861 253
4 Cty hợp danh 23 18 5 0 8 326 31 10 2 3 8968 32
II Cty CP, Cty TNHH vốn NN < 50% 389 8 348 33 30043 116940 71611 338 38 3674 4872
1 Còn vốn Nhà nước 389 8 348 33 30043 116940 71611 338 38 3674 3396 4872
2 Không còn vốn Nhà nước Số liệu công ty cổ phần không còn vốn NN được cộng gộp vào mục 1 (Cty CP)
III DN 100% vốn nước ngoài 1381 703 476 211 8345703 127226 173884 293 362 6850 5804 9447
IV DN liên doanh với nước ngoài 404 170 151 83 39967 57014 93630 177 85 4567 5688 8716
V DN thành lập theo Luật Hợp tác xã 606 341 508 22 4834 28560 2011 653 174 43 1658 437
Tổng số 82996 58394 14278 10589 17269023 1116832 631598 21667 18305 22764 54239
(Nguồn của Thành ủy Hà Nội)
181
Phụ lục 7Tổng hợp các tổ chức đảng và các đoàn thể trong cac loại hình doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước
Trong đó Số DN có tổ chứccông đoàn Số DN có tổ chức
Đoàn TNSố DN có Hội thanh niên
Số DN có tổchức Hội PN
Đẩng bộ cơ sở
TT Loại hình doanh nghiệp Tổngsố Dn
Tổngsố tổchứcĐảng Số
lượng
SốlượngCBtrực
thuộc
Chibộcơsở
CB DNtrực thuộc
ĐB xã,phường,thị trấn;ĐBCSDNNN
Tổngsố
đảngviên Tổng
sốSL đoàn
viênTổng số SL
ĐV Tổng số SL hội viên Tổng sốSLhộiviên
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17I DN tư nhân 80216 212 13 0 115 84 1915 1880 166455 153 2752 79 10468 122 2115
1 Cty cổ phần 37409 163 10 90 63 1480 1448 128170 127 2284 52 6904 96 1909
2 Cty TNHH 40982 38 2 15 21 335 357 29962 22 412 20 2640 23 186
3 DN tư nhân 1802 9 1 8 100 73 8147 4 56 5 660 3 20
4 Cty Hợp danh 23 2 2 2 176 2 264 0 0
II Cty CP. Cty TNHH vốn NN < 50% 389 389 199 190 15949 389 34232 389 6216 1 219
1 Còn vốn Nhà nước 389 389 199 190 15949 389 34232 389 6216 1 219
2 Không còn vốn NN 0 0
III Doanh nghiệp 100 % vốn nước ngoài 1381 7 3 4 342 7 616 5 70 2 264 5 284
IV DN liên doanh với nước ngoài 404 14 4 9 1 308 14 1232 9 126 5 660 2 149
V Dn thành lập theo Luật HTX 606 11 1 1 9 79 11 968 7 98 4 528 2 12
Tổng cộng 82996 633 220 0 319 94 18593 2301 203503 563 9262 90 11920 132 2779
Tỷ lệ % 0,8% 2,8% 0,7% 0,1% 0,2%
(Nguồn của Thành ủy Hà Nội)
182
Phụ lục 8
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ ĐẢNG VIÊN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI KHU VỰC NHÀ NƯỚCTRÊN ĐỊA BÀN CÁC QuẬN, HUYỆN, THỊ ỦY VÀ ĐẢNG BỘ TRỰC THUỘC THÀNH ỦY HÀ NỘI
Năm 2009 Năm 2010
Tăng, giảm so với 2008 Tăng, giảm so với 2009TT Nội dung các chỉ tiêu Năm
2008Số lượng
Số lượng Tỷ lệ %Số lượng
Số lượng Tỷ lệ %a b c d e F G h i
A ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TỔCHỨC ĐẢNG VÀ ĐẢNG VIÊN
1 Đánh giá chất lượng tổ chức đảng* Tổng số tổ chức Đảng 570 626 56 9,8 604 -22 -3,5
Trong đó:* TCCSĐ đã đánh giá 556 574 18 -3,2 579 5 0,009Trong sạch, vững mạnh 302 346 44 14,6 372 26 7,5Hoàn thành tốt nhiệm vụ 151 127 -24 -15,9 157 30 23,6Hoàn thành nhiệm vụ 97 95 -2 -0,02 45 -50 -52,6Yếu kém 6 6 0 0 5 -1 -16,7*TCCSĐ chưa đánh giá 14 52 38 271 25 -27 51,9
2 Đánh giá chất lượng đảng viênTổng số Đảng viên 19360 18856 -504 -2,6 18500 -356 -1,9Trong đó:
183
* Đảng viên đã đánh giá 18957 18647 -310 -1,6 17867 -780 -4,1Đủ tư cách HTXSNV 3366 2917 -449 -13,3 3273 356 12,2Đử tư cách HTTNV 13205 13400 195 1,5 12136 -1264 -9,4Đủ tư cách HTNV 2336 2262 -74 -3,2 2372 110 4,9Không hoàn thành nhiệm vụ 50 68 18 36 86 18 26,5* Đảng viên chưa đánh giá 403 209 -194 -48,1 633 424 203
B CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG* Tổng số tổ chức Đảng 564 518 -46 -8,2 573 55 10,6
Tổng số đảng viên mới kết nạp 1417 1456 39 2,8 1456 0 0Trong đó:
1 Cơ cấu đảng viên mới kết nạpLà cán bộ chủ chốt DN 143 171 28 19,5 165 -6 -3,5Là nữ 456 501 45 9,8 526 25 4,9Đảng viên trẻ (dưới 35 tuổi) 796 872 76 9,5 944 72 8,3Lao động trực tiếp 801 579 -222 -27,7 497 -82 14,2
2 Trình độ chuyên môn đảng viên mớiTrung cấp 518 482 -36 -6,9 442 -40 -8,3Cao đẳng 176 206 30 17 207 1 0,005Đại học trở lên 723 768 45 6,2 807 39 5,1
(Nguồn của Thành ủy Hà Nội)
184
Phụ lục 9
Số tổ chức đảng được thành lập theo Nghị quyết 28 kết nạp được Đảng viên mới vào cấp ủy trực thuộc của các tổ chức Đảng
Kết nạp Đảng viên mới Trực thuộc cấp ủy
TT Tên đơn vị
TS tổ chứcĐảng đượcthành lập
(1)Số TCĐkết nạp
được Đảngviên mới
(2)
TS Đảngviên mớiđược kết
nạp(3)
Quận,huyện ủyvà tương
đương(4)
Đảng ủycơ sở
(5)
1 ĐU khối DN TP 17 8 30 172 ĐU khu kinh tế 4 2 27 43 QU Ngô Quyền 10 6 10 5 54 QU Lê Chân 11 2 13 8 35 QU Hải An 12 10 20 2 106 HU Thủy Nguyên 29 3 36 1 287 HU Tiên Lãng 23 3 4 1 228 HU Hồng Bàng 6 1 1 5 19 HU An Dương 5 1 1 2 310 HU Dương Kinh 4 1 3 411 HU Kiến Thụy 4 0 0 412 HU An Lão 2 1 9 213 HU Kiến An 1 0 0 114 HU Vĩnh Bảo 1 1 6 115 QU Đồ Sơn 1 0 0 116 HU Cát Hải 0 0 0 0 0
Tổng cộng 130 39 160 49 81
(Nguồn của Thành ủy Hải Phòng)
185
Phụ lục 10BIỂU TỔNG HỢP KẾT QUẢ THÀNH LẬP TỔ CHỨC ĐẢNG, CÔNG ĐOÀN, ĐOÀN THANH NIÊN
THEO NGHỊ QUYẾT 28
(Nguồn của Thành ủy Hải Phòng)
Trước NQ 28 Kết quả phát triển 3 năm (2010, 2011, 2012) Tính đến nay (31/12/2012)
Tổ chứcđảng
Tổ chứccông đoàn
Tổ chứcĐTN
Tổ chứcĐảng
Tổ chứccôngđoàn
Tổ chứcđoàn-hội
thanhniênLoại
hình
TSđơn
vị h.động
ổnđịnh
Tổ chứcĐảng
Tổ chứccông đoàn
Tổ chứcĐTN
TSđơnvị
hoạtđộng
ổnđịnh
TSđơnvịcóđủ
điềukiện
KQthànhlập
TSđơnvị códủ
điềukiện
KQthànhlập
TSđơnvị cóđủ
điềukiện
KQthànhlập
SL % SL % SL %
Doanhnghiệp
9973 279*(272) 628*(609) 211*(176) 7821 183 87 2927 199 2375 48 359 4,6 808 27,6 224 9,4
Hợp tácxã
248 23 42*(10) 03 431 80 35 159 33 125 03 58 13,4 43 27 6 4,8
Cộng 10221 295 619 179 8252 263 122 3086 232 2500 51 417 5,05 851 27,5 230 9,2
TrườnghọcNCL
204 163*(12) 119*(10) 162*(8) 30 30 8 22 20 22 22 20 66,6 30 100 30 100
TS 10425 465*(307) 789*(629) 376*(187) 8282 273 130 3108 252 2522 73 437 5,3 881 28,3 260 10,3
1