Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (SCIS),
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn –
Đại học Quốc gia Tp.HCM, Việt Nam.
WORKING PAPER
NO.3
Linh hoạt để răn đe Một cách tiếp cận mới cho chính sách kiềm
chế của Mỹ tại biển Đông
Ngô Di Lân
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 4/2017
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 1
SCIS Working Papers hướng đến mục đích phổ biến các kết quả nghiên cứu trước khi
công bố trên các ấn phẩm khoa học, qua đó khuyến khích sự trao đổi nghiên cứu và tranh
luận học thuật. Các bài viết thuộc SCIS Working Papers được xem là một bài viết khoa
học đang trong quá trình hoàn thiện (work in process), các trích dẫn nội dung trong bài
cần được sự đồng ý của tác giả.
Quan điểm trong các bài viết hoàn toàn là của riêng tác giả và không đại diện cho quan
điểm chính thức của Trung tâm Nghiên cứu quốc tế (SCIS), Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn Tp.HCM. Mọi hình thức sao chép đối với các bài bình luận này đều phải có sự
cho phép của Trung tâm SCIS cũng như xác nhận từ tác giả. Các sản phẩm của SCIS
Working Papers có thể được xem và download trên trang website
http://scis.hcmussh.edu.vn/
Những phản hồi cho bài bình luận xin vui lòng gửi thư về địa chỉ của ban biên tập chuyên
mục: Nguyễn Thế Phương, email: [email protected]
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 2
LINH HOẠT ĐỂ RĂN ĐE:
MỘT CÁCH TIÊP CẬN MỚI CHO CHÍNH SÁCH KIỀM
CHẾ CỦA MỸ Ở BIỂN ĐÔNG
Ngô Di Lân1
Tóm tắt
Trung Quốc đã và đang là đối tác quan trọng nhất của Mỹ song sự trỗi dậy
của nước này cũng là mối hiểm hoạ chiến lược lớn nhất đối với trật tự khu
vực mà Mỹ đã thiết lập ở Châu Á - Thái Bình Dương. Với tham vọng trở
thành bá quyền khu vực, Trung Quốc từ lâu đã theo đuổi một chiến lược
dài hơi để kiểm soát toàn bộ Biển Đông. Chiến lược này có năm đặc điểm
cốt yếu: (i) thay đổi hiện trạng lãnh thổ từng bước, (ii) sử dụng ngoại giao
toàn diện, (iii) dựa vào nhiều hành động khiêu khích ở quy mô nhỏ, (iv)
nhấn mạnh tính chất song phương của tranh chấp và (v) sử dụng vũ lực ở
quy mô hạn chế. Để đảm bảo được an ninh của các đồng minh và duy trì
vị thế của mình, Mỹ cần kiềm chế sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển
Đông. Để đánh bại chiến lược "cắt lát salami" của Trung Quốc, nghiên
cứu này đề xuất một cách tiếp cận mới cho chính sách kiềm chế của Mỹ ở
Biển Đông với tên gọi "Phản ứng Linh hoạt". Các đòn trả đũa trong Phản
ứng Linh hoạt có bốn đặc điểm cốt lõi: (i) kịp thời, (ii) độc lập, (iii) chọn
lọc và (iv) tương xứng. Cách tiếp cận này sẽ giúp Mỹ kìm chân Trung
Quốc ở Biển Đông đồng thời giảm thiểu rủi ro xung đột vũ trang ở Biển
Đông nói riêng và khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói chung.
1 Nghiên cứu sinh của đại học Brandeis, Hoa Kỳ. Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới anh Trần
Chí Trung, anh Vũ Minh Hoàng cùng Đinh Nho Minh và Lê Trường Giang vì những lời nhận xét và phản
hồi quý báu giúp tác giả hoàn thiện nghiên cứu này.
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 3
Dẫn nhập
Nhiều chuyên gia nhận định rằng mối quan hệ Mỹ-Trung hiện là mối quan hệ song
phương "quan trọng nhất thế giới" (Friedberg, 2005; Ikenberry, 2013). Sự ổn định của
nền kinh tế thế giới phụ thuộc một phần rất lớn vào sự ổn định của nền kinh tế Mỹ và
Trung Quốc bởi đây là hai đầu tàu kinh tế lớn nhất hiện nay. Không chỉ về kinh tế, Mỹ và
Trung Quốc là hai nhân tố quan trọng nhất trong mọi vấn đề quốc tế. Trong hai thập niên
gần đây, từ vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân cho tới chống biến đổi khí hậu, Mỹ
gần như không thể thành công nếu không có sự hợp tác của Trung Quốc. Chính vì vậy,
trong thế kỷ XXI, Trung Quốc sẽ luôn là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu
của Mỹ.
Tuy nhiên, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc cũng khiến nước này trở thành
đối thủ chiến lược tiềm tàng nhất mà Mỹ từng phải đối mặt. Trong những thập niên tới,
nếu Trung Quốc tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt trội so với Mỹ và
kiên trì mục tiêu hiện đại hoá quân đội, hướng tới xây dựng một "hải quân biển xanh"
(Chen, 2015) thì an ninh của các đồng minh của Mỹ ở Châu Á và trật tư khu vực mà Mỹ
đã thiết lập ở Châu Á - Thái Bình Dương chắc chắn sẽ bị đe doạ nghiêm trọng. Nói cách
khác, tham vọng bá quyền của Trung Quốc sẽ đe doạ tới các lợi ích cốt lõi của Mỹ và vì
vậy Mỹ không có lựa chọn nào khác ngoài kiềm chế Trung Quốc. Trước mắt, để kiềm
chế Trung Quốc thành công, Mỹ cần phải ngăn không cho Trung Quốc độc chiếm Biển
Đông. Và để đánh bại chiến lược bành trướng mà Trung Quốc đã theo đuổi bấy lâu nay ở
Biển Đông, Mỹ cần một cách tiếp cận mới cho chính sách kiềm chế của mình.
Bài viết này được chia làm ba phần chính. Phần thứ nhất điểm qua những lợi ích
quốc gia cốt lõi của Mỹ và đặt vai trò của Biển Đông trong toàn thể lợi ích quốc gia của
Mỹ. Từ đó có thể nhìn thấy được sự xung đột lợi ích giữa Mỹ và Trung Quốc ở Biển
Đông. Trong phần thứ hai, tác giả phân tích một cách toàn diện chiến lược bành trướng
của Trung Quốc ở Biển Đông và chứng minh rằng Mỹ cần đánh bại chiến lược bành
trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Cuối cùng, nghiên cứu này đề xuất "Phản ứng Linh
hoạt" như một cách tiếp cận mới cho chính sách kiềm chế của Mỹ ở Biển Đông.
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 4
Lợi ích quốc gia của Mỹ ở Biển Đông
Sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh vào năm 1989 và sự sụp đổ của Liên Xô hai năm sau
đó đã phá vỡ trật tự thế giới hai cực và thay vào đó là trật tự đơn cực với Mỹ là siêu
cường duy nhất. Sự dịch chuyển lớn và đột ngột này đã một lần nữa làm dấy lên cuộc
tranh luận về đại chiến lược và vai trò của Mỹ trong giới học giả quan hệ quốc tế. Trên
thực tế, cuộc tranh luận này chủ yếu xoay quanh quan điểm của hai nhóm học giả: nhóm
ủng hộ chiến lược can dự sâu (deep engagement) và nhóm ủng hộ chiến lược cân bằng
khơi xa (offshore balancing) (Walt, 2013). Tuy cả hai bên đều đồng ý rằng Mỹ cần duy trì
trật tự thế giới do Mỹ thống trị nhưng lại có sự khác biệt lớn trong định nghĩa về lợi ích
quốc gia của Mỹ và cách thức tiếp cận địa chính trị nhằm bảo vệ những lợi ích quốc gia
này.
Những người ủng hộ chiến lược can dự sâu như Wohlforth, Brooks và Ikenberry
(2012; 2013) hay Art (2003) có một định nghĩa tương đối rộng về lợi ích quốc gia của
Mỹ. Những học giả này cho rằng để bảo toàn được an ninh quốc gia, Mỹ không những
phải duy trì được quân đội đủ mạnh để ngăn chặn bất kì đòn tấn công trực tiếp nào vào
lãnh thổ của mình mà còn phải chủ động can dự với thế giới, đồng thời hợp tác không
ngừng nghỉ với các đồng minh và đối tác chiến lược để duy trì hoà bình ổn định ở các
khu vực trọng yếu. Nói cách khác, Mỹ sẽ chỉ an toàn khi an ninh của các đồng minh cũng
được đảm bảo và trật tự thế giới tự do (liberal order) vẫn vững vàng. Hơn hết, những
người ủng hộ chiến lược can dự sâu cho rằng Mỹ phải duy trì các cam kết bảo vệ các
đồng minh và tích cực tham gia giải quyết các vấn đề ẩn chứa nguy cơ tiềm tàng như phổ
biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt hay xung đột sắc tộc kể cả khi phần lớn những vấn đề này
chưa có tác động trực tiếp đến an ninh của Mỹ ngay tức khắc.
Trong khi đó, nhóm ủng hộ chiến lược cân bằng khơi xa dẫn đầu bởi Gholz, Press
và Sapolsky (1997), Posen (2013; 2014) cùng Mearsheimer và Walt (2016) lại cho rằng
Mỹ nên có định nghĩa giới hạn hơn về lợi ích quốc gia của mình. Tất cả những học giả
này đều lo rằng nếu Mỹ tiếp tục giữ vai trò "cảnh sát thế giới" thì sớm muộn sức mạnh và
tài nguyên của nước này cũng sẽ kiệt quệ. Vì vậy, một mặt họ đồng ý rằng Mỹ cần phải
duy trì sức mạnh quân sự vô song, mặt khác họ nhấn mạnh rằng Mỹ cần hạn chế sự hiện
diện quân sự toàn cầu của mình và tránh can thiệp vào những cuộc xung đột không quan
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 5
trọng. Đồng thời, Mỹ cần phải yêu cầu các đồng minh chia sẻ và gánh vác nhiều trách
nhiệm hơn trong bảo vệ an ninh, đặc biệt về chi tiêu quốc phòng. Nhóm ủng hộ chiến
lược cân bằng khơi xa nhấn mạnh rằng Mỹ phải yêu cầu các đồng minh tự giải quyết các
vấn đề trong khu vực của mình và sẽ chỉ trực tiếp can thiệp, hỗ trợ các nước này khi
không còn lựa chọn nào khác.
Bất chấp những khác biệt tương đối lớn và rõ rệt, cả hai nhóm đều đồng ý rằng
Mỹ có ít nhất bốn lợi ích quốc gia cốt yếu (vital national interests). Thứ nhất, lợi ích cao
nhất của Mỹ là đảm bảo an ninh quốc gia, tức đảm bảo được chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ và sự bình an cho các công dân Mỹ. Thứ hai, Mỹ cần duy trì được vị thế dẫn đầu của
mình, ngăn chặn sự trỗi dậy của bất kì bá quyền khu vực nào khác đồng thời đảm bảo hoà
bình giữa các cường quốc. Thứ ba, Mỹ cần đảm bảo sự bền vững và lớn mạnh của trật tự
kinh tế tự do trên toàn cầu, vốn là nền tảng cho sức mạnh kinh tế của Mỹ. Cuối cùng, Mỹ
có lợi ích trong việc ngăn chặn thành công nỗ lực phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt và
quan trọng hơn hết là không để vũ khí huỷ diệt hàng loạt rơi vào tay những phần tử
khủng bố hay những quốc gia bất hảo (rogue states) như Bắc Triều Tiên.
Trên thực tế, để đạt được bốn mục tiêu trên, Mỹ cần ngăn chặn tham vọng bá
quyền của Trung Quốc ở Châu Á. Một khi Trung Quốc đã trở thành bá quyền, mức độ tín
nhiệm của các đồng minh như Nhật Bản, Philippines và Đài Loan vào các cam kết an
ninh của Mỹ sẽ sụt giảm đáng kể gần như ngay tức khắc. Những nước này hoàn toàn có
lý do để tin rằng Mỹ sẽ do dự ít nhiều trong việc tôn trọng cam kết bảo vệ họ một khi
Trung Quốc đã trở nên quá hùng mạnh. Điều này có thể dẫn đến (và trên thực tế đang xảy
ra) một cuộc chạy đua vũ trang gay gắt ở châu Á, gây leo thang căng thẳng và gia tăng rủi
ro có xung đột vũ trang xảy ra. Đồng thời, thời các nhà lãnh đạo Bắc Kinh sẽ cho rằng
Mỹ sẽ không can thiệp nếu Trung Quốc dùng vũ lực để uy hiếp các đồng minh của nước
này. Hệ quả gần như tất yếu là sẽ có xung đột vũ trang xảy ra. Một khi đồng minh của
Mỹ lâm vào chiến tranh với Trung Quốc, Mỹ sẽ lặp tức rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan.
Nếu Mỹ tôn trọng cam kết bảo vệ đồng minh, nước này sẽ buộc phải tham dự vào một
cuộc đụng độ đẫm máu với Trung Quốc. Mặt khác, nếu Mỹ từ chối bảo vệ đồng minh,
gần như tất cả các liên minh quân sự khác của Mỹ sẽ tan rã vì các đồng minh sẽ cho rằng
cam kết an ninh của Mỹ vô giá trị. Nói cách khác, một khi có chiến tranh nổ ra giữa
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 6
Trung Quốc và bất kì đồng minh nào của Mỹ, Washington sẽ rơi vào một tình huống
"thua-thua".
Hơn nữa, Mỹ có lợi ích trong việc ngăn Trung Quốc trở thành bá quyền bởi là
siêu cường và bá quyền khu vực duy nhất trên thế giới, Mỹ sẽ có an ninh gần như tuyệt
đối và sẽ có nhiều tự do để thực thi các chính sách phục vụ lợi ích của mình nhất. Theo
thuyết hiện thực tấn công của Mearsheimer (2014), bất kì quốc gia nào đều muốn tối đa
hoá quyền lực của mình và ngăn chặn sự trỗi dậy của các cường quốc khác. Bởi ở vị thế
dẫn đầu, các quốc gia sẽ có nhiều quyền lực để định hình môi trường chiến lược của
mình, từ đó đảm bảo lợi ích quốc gia. Hơn nữa, khoảng cách giữa quyền lực của cường
quốc dẫn đầu với các nước còn lại càng lớn bao nhiêu thì cường quốc đó càng dễ dàng
giải quyết được mọi vấn đề theo ý mình bấy nhiêu. Sự trỗi dậy của Trung Quốc đã và
đang thu hẹp khoảng cách về quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc. Một khi Mỹ chấp nhận
Trung Quốc là bá quyền ở Châu Á, gần như chắc chắn nước này sẽ có quyền "phủ quyết"
đối với mọi hành động của Mỹ ở Châu Á.
Để ngăn Trung Quốc trở thành bá quyền khu vực, Mỹ phải ngăn không cho Trung
Quốc kiểm soát Biển Đông vì các lý do sau. Thứ nhất, về kinh tế, Biển Đông có giá trị
đáng kể bởi đây là một vùng biển tương đối giàu tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ và
khí ga tự nhiên. Theo ước tính của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) thì có tới 11
tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỉ mét khối ga tự nhiên đang chờ được khai thác ở Biển Đông
(Tweed, 2015). Trong khi đó phía Trung Quốc ước tính có tới 900 tỉ mét khối khí ga tự
nhiên và 130 tỷ thùng dầu ở Biển Đông (Kaplan, 2014). Nếu như ước tính của Trung
Quốc đúng thì trữ lượng dầu thô ở Biển Đông lớn tương đương với toàn bộ trữ lượng dầu
mỏ của Iraq - nước có trữ lượng dầu mỏ lớn thứ năm trên thế giới theo EIA. Hơn nữa, với
dân số khổng lồ của mình và tốc độ phát triển như hiện nay, nhu cầu về năng lượng của
Trung Quốc là rất lớn. Vì vậy việc kiềm chế Trung Quốc sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nếu
Trung Quốc không kiểm soát được lượng tài nguyên trên. Thứ hai, về địa chiến lược,
Biển Đông nắm giữ một vị trí hết sức trọng yếu. Theo một số đánh giá thì Biển Đông
được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới bởi có đến hơn
một nửa lượng vận tải thương mại cùng với một phần ba lượng dầu thô của thế giới đi
qua Biển Đông (Hayton, 2015). Chính vì vậy, trong tương lai xa, khi Trung Quốc đã có
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 7
một hạm đội "hải dương xanh" và kiểm soát được toàn bộ Biển Đông, nước này có thể đe
doạ ít nhiều sự an toàn của các tàu thuyền đi qua các eo biển như Malacca, Lombok hay
Sunda. Khi đó, rất có thể các tàu thuyền sẽ phải đi đường vòng và chi phí vận chuyển sẽ
tăng gấp bội.
Hình 1. Phạm vi chiến lược chống tiếp cận của Trung Quốc ở Châu Á.
Nguồn: Bộ Quốc Phòng Mỹ (trong Nurkin, Burton, Skomba, & Hardy, 2014)
Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động kinh doanh nói riêng, đến tăng
trưởng và ổn định của kinh tế của khu vực Đông Á nói riêng và thế giới nói chung. Chính
vì vậy Trung Quốc có thể uy hiếp các đồng minh của Mỹ ở Châu Á, kể cả khi hải quân
Trung Quốc không thể đóng các eo biển này. Thứ ba, ở góc độ quân sự, việc Trung Quốc
kiểm soát được Biển Đông sẽ giúp nước này nâng cao hiệu quả của chiến lược chống tiếp
cận A2/AD (Biddle & Oelrich, 2016), giúp đẩy lùi hải quân Mỹ ra khỏi chuỗi đảo thứ
nhất (Cronin, 2013).
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 8
Hiện nay, mặc dù trình độ kỹ thuật và năng lực quân sự của Trung Quốc còn một
khoảng cách rất xa nữa mới theo kịp Mỹ, thực tế là Trung Quốc vẫn có những lợi thế rất
lớn, đặc biệt nếu càng ở gần đất liền của họ. Một khi hải quân Mỹ không thể tự do tác
chiến ở Biển Đông nữa, an ninh của các đồng minh của Mỹ ở châu Á sẽ bị đe doạ nghiêm
trọng. Hơn nữa, việc Trung Quốc kiểm soát được một vùng biển vô cùng trọng yếu như
vậy sẽ là đòn giáng lớn vào khả năng thống trị các vùng chung (global commons) của
quân đội Mỹ, vốn là nền tảng của bá quyền Mỹ (Montgomery, 2014; Posen 2003). Do đó
Mỹ cần duy trì được sự hiện diện quân sự vượt trội của mình ở Biển Đông để đảm bảo
được an ninh cho các đồng minh của mình và duy trì được vị thế dẫn đầu của mình.
Chiến lược bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông
Chiến lược hiếm khi được vạch ra một cách "ngăn nắp" và hệ thống bởi một vài nhà lãnh
đạo. Quá trình hoạch định chiến lược và chính sách luôn tốn kém thời gian và phức tạp
hơn những gì chúng ta tưởng bởi nó luôn có sự can dự của nhiều cá nhân, nhóm lợi ích và
cơ quan, bộ ngành khác nhau (Brands, 2014; Drezner, 2011). Những đại chiến lược của
Mỹ hay Trung Quốc mà các học giả thường thảo luận trong các tạp chí khoa học thường
là những khái niệm do chính họ tạo nên để có sự mạch lạc và lôgic khi phân tích. Vì vậy
trên thực tế những chiến lược này thường không hoàn chỉnh hoặc thậm chí không tồn tại.
Do đó không có bản vẽ (blue print) hoàn chỉnh nào về chiến lược bành trướng của Trung
Quốc ở Biển Đông trong bất kì tài liệu chính thống nào mà chính phủ Trung Quốc đã
công bố. Tuy nhiên, cách thức hành xử của Trung Quốc ở Biển Đông trong những năm
qua cho thấy sự xác quyết ngày một tăng dần của nước này trong những năm gần đây
không đơn thuần là hệ quả của một sự bùng phát của chủ nghĩa dân tộc hay bất kì tính
toán ngắn hạn nào. Trên thực tế, mặc dù với mức độ và thời điểm hành động khác nhau,
Trung Quốc từ lâu đã kiên định theo đuổi một chiến lược bành trướng dài hơi với mục
tiêu tối thượng là kiểm soát toàn bộ Biển Đông và các nguồn tài nguyên nằm trong vùng
biển này. Chiến lược này có năm đặc điểm chính sau đây.
Thứ nhất, chiến lược này theo đuổi mục tiêu thay đổi hiện trạng lãnh thổ ở Biển
Đông từ từ từng bước thay vì thay đổi đột ngột trong một thời gian ngắn (Segal, 1996).
Nói cách khác, Trung Quốc đã và đang kiên trì "gặm nhấm" từng bãi đá, từng hòn đảo
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 9
một chứ không tìm cách nuốt trọn Biển Đông trong một nước đi. Có thể thấy rất rõ điều
này qua cách Trung Quốc đã từng bước tăng cường sự hiện diện của mình ở Biển Đông
kể từ những năm 70. Đầu tiên, Trung Quốc lợi dụng thời cơ thuận lợi để chiếm đóng
Quần đảo Hoàng Sa trong bối cảnh Mỹ đã rút toàn bộ quân khỏi Việt Nam, khiến Việt
Nam Cộng Hoà suy yếu và quan hệ Mỹ-Trung đang ấm dần lên sau khi tiến trình bình
thường hoá quan hệ được khởi động bởi cặp đôi Nixon-Kissinger (Kissinger, 1994;
2011). Sau khi đã thiết lập được sự kiểm soát đối với Quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc
tiếp tục bành trướng về phía Nam bằng cách đánh chiếm các đảo và bãi đá của Việt Nam
thuộc Quần đảo Trường Sa. Sau khi đã củng cố được vị thế của mình ở Trường Sa, vào
cuối năm 2012, Trung Quốc một lần nữa châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng trên Biển
Đông với Philippines. Sau nhiều cuộc chạm trán căng thẳng, Trung Quốc một lần nữa
thành công trong việc thay đổi hiện trạng lãnh thổ ở Biển Đông bằng vũ lực khi giành
được quyền kiểm soát trên thực địa bãi cạn Scarborough từ tay Philippines (Kao, 2014).
Bằng việc thay đổi hiện trạng dần dần từng bước, Bắc Kinh có thể nâng cao vị thế đàm
phán của mình với các bên khác trong tranh chấp ở Biển Đông, đồng thời giảm thiểu sự
phương hại đến lợi ích quốc gia của các quốc gia khác trong khu vực bởi một hòn đảo
hiếm khi mang tính quyết định đối với an ninh của bất kì quốc gia nào đến mức phải gây
chiến. Vì vậy, cách thức bành trướng này giúp Trung Quốc giảm thiểu tối đa khả năng
các nước tập hợp lực lượng nhằm kiềm chế tham vọng bá quyền của họ.
Thứ hai, chiến lược của Trung Quốc dựa trên nền tảng ngoại giao toàn diện, nói
cách khác là việc vận dụng tất cả các công cụ ngoại giao sẵn có, từ "cây gậy" như uy hiếp
quân sự, gây sức ép về mặt địa-kinh tế cho đến "củ cà rốt" như các thoả thuận kinh tế và
thương mại hấp dẫn cùng các cuộc đàm phán cấp cao. Minh chứng điển hình nhất cho
cách Trung Quốc vận dụng ngoại giao toàn diện là cuộc khủng hoảng giàn khoan HYSY-
981. Bắc Kinh đã châm ngòi khủng hoảng khi quyết định hạ đặt một giàn khoan dầu
khổng lồ vào vùng biển đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Bất chấp những phản
ứng dữ dội chưa từng có của cả chỉnh phủ lẫn người dân Việt Nam, Trung Quốc đã duy
trì sức ép lên Hà Nội bằng việc đưa một loạt các tàu ngư chính và thậm chí là tàu hải
quân đã được cải trang ra khu vực tranh chấp để ngăn chặn và đánh đuổi các tàu cảnh sát
biển của Việt Nam. Sau khi từ chối nhiều cuộc điện đàm với lãnh đạo Việt Nam, Trung
Quốc chỉ thực sự xuống nước khi họ cảm thấy tình hình có khả năng vượt qua tầm quyển
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 10
soát, nguy cơ chiến tranh thực sự đến gần, và phản ứng của Việt Nam cũng như cộng
đồng thế giới mạnh hơn họ tưởng. Bắc Kinh sau đó quyết định cử ông Dương Khiết Trì
đến Hà Nội để đàm phán với Việt Nam nhằm xoa dịu căng thẳng và hàn gắn quan hệ giữa
hai nước sau cuộc khủng hoảng. Là cường quốc và cũng là nước mạnh hơn Việt Nam rất
nhiều về cả mặt kinh tế lẫn quân sự nhưng Trung Quốc không chỉ dùng một công cụ
riêng lẻ nào mà phối hợp nhuần nhuyễn tất cả để thăm dò cũng như gây sức ép lên Hà
Nội rồi rút lui khỏi cuộc khủng hoảng này một cách khéo léo. Chỉ hơn ba tuần sau khi
cuộc khủng hoảng giàn khoan 981 bắt đầu, tại Diễn đàn Shangri-La, Bộ trưởng Quốc
phòng Phùng Quang Thanh đã phát biểu rằng quan hệ giữa hai nước vẫn phát triển tốt
đẹp và ví cuộc khủng hoảng giàn khoan như một vấn đề mâu thuẫn nội bộ trong gia đình.
Đây có thể được xem là bằng chứng cho thấy "ngoại giao toàn diện" của Trung Quốc đã
mang lại hiệu quả ở một mức độ nhất định.
Thứ ba, chiến lược bành trướng của Trung Quốc thường xuyên dựa vào các hành
động khiêu khích ở quy mô nhỏ nhưng có tần suất liên tục ở nhiều địa điểm khác nhau.
Điều này giúp Trung Quốc buộc lực lượng quân sự của đối phương liên tục dàn trải ở
mọi nơi thay vì tập trung ở một số điểm được cho là trọng yếu hơn, từ đó làm suy giảm
khả năng ứng phó của họ. Đồng thời, bằng việc duy trì các hành động khiêu khích ở quy
mô nhỏ, Bắc Kinh có thể dễ dàng kiểm soát được tình hình hơn, giúp hạn chế rủi ro xung
đột leo thang vượt ngoài ý muốn. Hơn nữa, cách thức này cũng giúp Trung Quốc ngăn
chặn được sự đoàn kết từ các quốc gia khác trong khu vực. Mức độ nguy hại nhỏ khiến
các nước nghĩ rằng lợi ích của việc bắt tay chống lại tham vọng bá quyền khu vực của
Trung Quốc sẽ nhỏ hơn cái giá phải trả cho sự xấu đi trong quan hệ song phương với
Trung Quốc. Bởi dù sao nhượng bộ một nước lớn như Trung Quốc trong một vài cuộc
đụng độ nhỏ là điều có thể chấp nhận được với các nước nhỏ. Tuy nhiên điều đó không
có nghĩa là Trung Quốc không bao giờ gây ra những cuộc khủng hoảng lớn. Đôi lúc
Trung Quốc sẽ chủ đích tạo ra những tình huống căng thẳng phức tạp hơn để thử sức và
thử phản ứng từ các đối thủ của mình. Đồng thời, sẽ có lúc những nhà lãnh đạo ở Bắc
Kinh đưa những quyết định sai lầm. Mặc dù vậy, những cuộc khủng hoảng lớn như
khủng hoảng giàn khoan 981 vào tháng 5 năm 2014 là tương đối hiếm có.
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 11
Thứ tư, chiến lược này nhấn mạnh tính chất "song phương" của tranh chấp ở Biển
Đông nhằm hạn chế tối đa sự can thiệp của các cường quốc bên ngoài như Mỹ hay Nhật
Bản bởi những nước này chắc chắn sẽ ủng hộ các nước nhỏ hơn như Việt Nam hay
Philippines để kiềm chế Trung Quốc. Từ góc nhìn của Bắc Kinh, đàm phán song phương
có lợi hơn đàm phán đa phương với tất cả để giải quyết tranh chấp vì nhiều lý do khác
nhau. Một là, Trung Quốc luôn mạnh hơn từng quốc gia riêng lẻ rất nhiều về mọi mặt. Vì
vậy những nhà lãnh đạo Bắc Kinh sẽ có nhiều đòn bẩy ngoại giao nhất trên bàn đàm phán
khi họ "chia để trị" thành công. Hai là, đàm phán song phương cho phép Trung Quốc gây
sức ép lên đối phương nhiều hơn bởi có những lời đe doạ Trung Quốc sẽ chỉ dám đưa ra
"sau cánh cửa đóng kín" với một nước riêng lẻ như Việt Nam hay Philippines. Họ sẽ
không sẵn sàng đe doạ các nước nhỏ tại các phiên đàm phán đa phương có cả sự góp mặt
của những nước lớn như Mỹ hay Nhật vì những nước này sẽ bênh vực những nước nhỏ,
do đó vô hiệu hoá sự đe doạ của Trung Quốc. Đó là chưa nói đến việc uy tín của Trung
Quốc sẽ bị ảnh hưởng nếu cộng đồng quốc tế nhìn vào. Hơn nữa, việc gây sức ép lộ liễu
tại các diễn đàn đa phương nói chung sẽ gây thiệt hại lớn tới hình ảnh và sức mạnh mềm
của Trung Quốc. Lời đe doạ ngầm của ông Dương Khiết Trì tại Diễn đàn ARF năm 2010
tại Hà Nội chắc chắn đã để lại ấn tượng rất xấu về Trung Quốc trong mắt các nước
ASEAN và khiến những nước nhỏ quyết tâm hơn trong việc chống lại sự bành trướng của
Trung Quốc ở Biển Đông (Yahuda, 2013). Ba là, đàm phán song phương cho phép Trung
Quốc thảo luận những điều khoản bí mật mà họ không muốn cho các nước thứ ba biết.
Trung Quốc có thể chấp nhận nhân nhượng một vài bãi đá, hòn đảo cho một nước như
Philippines hoặc Việt Nam nhưng họ sẽ không sẵn sàng làm điều đó với tất cả các bên
trong một cuộc đàm phán đa phương. Điều này giúp Trung Quốc dễ đạt được thoả thuận
với từng bên trong tranh chấp hơn. Hệ quả tổng hợp là họ cũng sẽ dễ giải quyết được toàn
bộ tranh chấp theo ý mình hơn vì các bên còn lại trong tranh chấp sẽ cư xử mềm mỏng
hơn khi họ thấy rằng các "đồng minh" của mình đã lần lượt thoả hiệp với Trung Quốc.
Bốn là, việc đàm phán song phương giảm khả năng phối hợp chính sách giữa các bên còn
lại trong tranh chấp. Khi các nước không ở trong cùng phòng đàm phán với Trung Quốc,
họ không thể biết một cách chắc chắn Trung Quốc đã hứa hẹn gì với các nước này hay
nước kia đã thảo luận gì với Trung Quốc, do đó gia tăng sự nghi kỵ giữa các bên còn lại
trong tranh chấp. Cuối cùng, đàm phán song phương với từng nước sẽ giảm thiểu những
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 12
yếu tố bất định và những diễn biến bất ngờ bởi nó hạn chế số lượng các bên tham gia, do
đó giúp Trung Quốc dễ bề tính toán và chuẩn bị các phương án đàm phán hơn. Nhìn
chung, việc nhấn mạnh tính chất song phương của tranh chấp đem lại rất nhiều lợi ích
cho Trung Quốc và là một trong những điểm cốt lõi nhất trong chiến lược mà Trung
Quốc đang theo đuổi.
Cuối cùng, chiến lược của Trung Quốc dựa rất nhiều vào việc sử dụng vũ lực sát
thương và phi sát thương ở quy mô hạn chế. Trung Quốc thường xuyên sử dụng lợi thế
quân sự của mình để tạo dựng và củng cố vị thế của mình trên thực địa và gây sức ép lên
các bên còn lại để những nước này phải chấp nhận những tình huống "sự đã rồi" thay vì
châm ngòi cho một cuộc xung đột vũ trang lớn ở Biển Đông. Những hành động này bao
gồm cả những việc như thiết lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) (Daugirdas, &
Mortenson, 2014) hay đưa các hệ thống tên lửa ra các hòn đảo mà Trung Quốc chiếm
đóng (Lubold & Wong, 2016) cho đến trực tiếp tấn công hải quân của các nước khác
trong các chiến dịch ngắn hạn (Yoshihara, 2016). Như vậy rõ ràng Trung Quốc sẵn sàng
sử dụng vũ lực với mục đích sát thương chứ không chỉ nhằm răn đe đối phương. Tuy
nhiên, những xung đột vũ trang mà Trung Quốc đã từng phát động với Ấn Độ rồi với
Việt Nam cho thấy mỗi khi Trung Quốc sử dụng vũ lực để tấn công, họ thường chỉ sử
dụng ở một quy mô tương đối hạn chế để tránh các rủi ro có thể phát sinh từ một cuộc
chiến tranh kéo dài, giảm thiểu các chi phí kinh tế và quân sự ở mức tối đa, cũng như
không để cộng đồng quốc tế chú ý quá lâu.
Những đặc điểm trên cấu thành một chiến lược "cắt lát salami". Chiến lược "cắt
lát salami" mà Trung Quốc hiện đang theo đuổi ở Biển Đông trước mắt đã thành công
trong việc mở rộng được tầm kiểm soát của quân đội Trung Quốc và ngăn chặn các phản
ứng tập thể của ASEAN. Mỹ không những phải kiềm chế tham vọng độc chiếm Biển
Đông của Trung Quốc mà còn phải đánh bại chiến lược mà Bắc Kinh đang vận dụng để
biến Biển Đông thành sân sau của mình. Nếu Mỹ thất bại trong việc hoá giải chiến lược
bành trướng của Trung Quốc, hai hệ luỵ gần như tất yếu sẽ xảy ra. Thứ nhất, nếu Trung
Quốc cảm thấy rằng chiến lược gặm nhấm của mình có hiệu quả ở Biển Đông, rất có thể
nước này sẽ thử nghiệm chiến lược này ở những vùng có tranh chấp khác như biển Hoa
Đông để tranh giành sức ảnh hưởng với Mỹ. Đến một lúc nào đó chắc chắn Mỹ sẽ không
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 13
nhượng bộ được nữa nhưng có thể lúc đó Trung Quốc đã trở nên quá mạnh để Mỹ có thể
kiềm chế mà không phải chịu tổn thất lớn. Thứ hai, theo Waltz (1979) thì các quốc gia có
khuynh hướng bắt chước các chính sách đã được chứng minh là có hiệu quả. Chắc chắn
Mỹ không muốn các cường quốc khác như Nga sử dụng mô hình bành trướng của Trung
Quốc để thách thức Mỹ ở các vùng có tranh chấp khác. Do đó kể cả Mỹ có chấp nhận bá
quyền Trung Quốc ở Châu Á thì vẫn phải hoá giải được chiến lược "cắt lát salami" mà
Trung Quốc đang sử dụng để bành trướng ở Biển Đông.
Phản ứng linh hoạt: một cách tiếp cận mới cho chính sách kiềm chế của Mỹ ở Biển
Đông
Về lý thuyết, Mỹ có ba lựa chọn cơ bản để ngăn Trung Quốc độc chiếm Biển
Đông. Thứ nhất, Mỹ có thể phát động chiến tranh phòng ngừa để làm suy yếu Trung
Quốc khi còn có thể. Thứ hai, Mỹ có thể đàm phán với Trung Quốc để đi đến một sự thoả
hiệp ở Biển Đông. Cuối cùng, Mỹ có thể kiềm chế Trung Quốc như họ đã từng làm với
Liên Xô trong suốt quãng thời gian Chiến tranh Lạnh. Cho đến giờ tuy phía Mỹ vẫn phủ
nhận rằng họ có mong muốn kiềm chế Trung Quốc nhưng trên thực tế, các chính sách
của Mỹ đang theo đuổi ở Châu Á như đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các quốc gia
đang có tranh chấp với Trung Quốc trên Biển Đông, thúc đẩy việc thông qua Hiệp định
Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và tăng cường sự hiện diện hải quân của mình ở
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cho thấy ý đồ kiềm chế Trung Quốc tương đối rõ
ràng.
Việc Mỹ muốn kiềm chế Trung Quốc là tương đối dễ hiểu bởi cả hai phương án
còn lại đều không khả thi trên thực tế (Mearsheimer, 2014). Phát động chiến tranh phòng
ngừa với một cường quốc hạt nhân như Trung Quốc mang lại rủi ro leo thang quá cao. Kể
cả chiến tranh hạt nhân không xảy ra thì một cuộc chiến tranh đẫm máu với Trung Quốc
vẫn là cái giá mà các nhà lãnh đạo Washington chưa sẵn sàng chấp nhận. Mặt khác, việc
thoả hiệp với Trung Quốc ở Biển Đông vào lúc này khó có thể ngăn chặn được tham
vọng nam tiến của Bắc Kinh bởi một cường quốc đang trỗi dậy như Trung Quốc sẽ khó
lòng tự nguyện "giơ tay chịu trói", nhất là khi Trung Quốc đã nâng Biển Đông lên hàng
lợi ích cốt lõi sau Đại hội Đảng lần thứ XVIII. (Sinaga, 2015, tr. 136). Do đó, lựa chọn
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 14
duy nhất phù hợp với lợi ích của Mỹ là kiềm chế Trung Quốc, hoặc chí ít là đảm bảo sự
phát triển của Trung Quốc luôn nằm trong vùng quỹ đạo mà Mỹ đã xác lập cho trật tự thế
giới hiện nay.
Tuy nhiên không phải biện pháp kiềm chế nào cũng hiệu quả như nhau. Các biện
pháp mà Mỹ đang triển khai như thúc đẩy TPP, tăng cường sự hiện diện hải quân ở khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương, phát triển chiến lược tác chiến Không-Hải quân (Air-Sea
Battle) tuy thiết yếu về lâu dài nhưng khó có thể ngăn được bước tiến của Trung Quốc ở
Biển Đông trong thời gian trước mắt. Sở dĩ những biện pháp này không có hiệu quả bởi
chúng là những chính sách vĩ mô và cần một khoảng thời gian tương đối dài để mang lại
kết quả. Do đó trong thời gian trước mắt, chúng mang tính biểu trưng nhiều hơn là thực
chất. Nói cách khác, đa phần những biện pháp Mỹ đang triển khai hiện nay không có ảnh
hưởng đáng kể trực tiếp đến hiện trạng lãnh thổ ở khu vực tranh chấp. Trong khi đó, các
hành động của Trung Quốc ở Biển Đông chủ yếu nằm ở tầm vi mô và đem lại những thay
đổi thực chất về hiện trạng lãnh thổ trên thực địa. Các biện pháp như thiết lập liên minh
quân sự hay răn đe hạt nhân có thể hiệu quả trong việc ngăn chặn Trung Quốc tiến hành
một cuộc chiến tranh chính quy xâm lược đối với một nước khác trong khu vực. Tuy
nhiên, vì đây là những biện pháp mang tính quân sự mang tính cưỡng chế cao nên chúng
không có tác dụng ngăn chặn các hành động khiêu khích nhỏ lẻ hay những hành động
nhằm thay đổi hiện trạng lãnh thổ nhưng phi sát thương (non-lethal) của Trung Quốc như
việc bồi đắp các đảo nhân tạo hay triển khai các hệ thống tên lửa ra các hòn đảo mà họ
đang chiếm đóng. Nói cách khác, có một sự bất cân xứng giữa những hành động của
Trung Quốc và những biện pháp của Mỹ.
Để giải quyết sự bất cân xứng này và vô hiệu hoá chiến lược "cắt lát salami" của
Trung Quốc ở Biển Đông, Mỹ cần một chiến lược "Phản ứng Linh hoạt" với mục tiêu lớn
nhất là hạn chế và vô hiệu hoá các nỗ lực của Trung Quốc nhằm thay đổi hiện trạng lãnh
thổ và cán cân quyền lực ở Biển Đông bằng cách buộc nước này phải trả giá cho mọi
hành động thiếu xây dựng và gây leo thang căng thẳng. Chiến lược này có bốn đặc điểm
chính: kịp thời, độc lập, chọn lọc và tương xứng.
Kịp thời: Mỹ cần trả đũa kịp thời sau khi Trung Quốc có hành động leo thang
căng thẳng để gửi đi tín hiệu rằng Trung Quốc sẽ phải trả giá cho bất kì hành động nào
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 15
không mang tính chất xây dựng, dù lớn dù nhỏ. Ví dự thực tế là chỉ hai ngày sau khi Bắc
Kinh đơn phương tuyên bố thiết lập ADIZ trên vùng biển Hoa Đông, Mỹ đã lặp tức đưa
hai "pháo đài bay" B-52 bay qua để gửi đi tín hiệu rằng mình không công nhận ADIZ của
Trung Quốc. Việc buộc Trung Quốc phải trả giá ngay lặp tức cho tất cả các hành động
thiếu tính xây dựng ở Biển Đông sẽ thuyết phục các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh rằng những
bước đi gây leo thang căng thẳng của họ sẽ "lợi bất cập hại".
Độc lập: biện pháp trả đũa phải được thực hiện một cách độc lập, tức mỗi đòn trả
đũa đều phải là một hành động cụ thể và đủ đơn giản để Mỹ có thể triển khai tức thì. Ví
dụ cụ thể của một hành động trả đũa độc lập là việc Mỹ đưa tàu khu trục USS Lassen đi
qua vùng 12 hải lý để thách thức yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông vào
cuối năm 2015. Một đòn trả đũa sẽ không độc lập nếu nó bắt buộc phải được triển khai
cùng lúc với nhiều biện pháp khác và cần có sự đồng ý của nhiều bên khác.
Chọn lọc: đòn trả đũa phải nhắm vào các mục tiêu cụ thể để nhắm vào. Đây là
một yếu tố vô cùng quan trọng bởi chọn lọc mục tiêu sẽ giảm thiểu rủi ro Trung Quốc leo
thang qua việc đáp trả bằng các đòn trừng phạt ở quy mô lớn. Điều này cũng sẽ giúp xây
dựng tính chính đáng cho chính sách kiềm chế của Mỹ bởi các đòn trả đũa hoàn toàn chỉ
nhắm vào các đối tượng trực tiếp tham dự vào các hành động nhằm thay đổi hiện trạng ở
Biển Đông. Ví dụ như thay vì bao vây cấm vận Trung Quốc, Mỹ nên ngăn chặn các hành
động cải tạo và bồi đắp đảo nhân tạo của Trung Quốc thông qua việc trừng phạt các cá
nhân và công ty có liên quan đến hành động này. Trong trường hợp này, Mỹ phải nhắm
vào công ty nạo vét thuộc tập đoàn Truyền thông - xây dựng Trung Quốc (CCCC). Đồng
thời Mỹ có thể cấm đi lại và phong toả tài sản ở nước ngoài của các quan chức Trung
Quốc có liên quan đến các hành động cải tạo và bồi đắp đảo nhân tạo ở Biển Đông. Hơn
nữa, việc nhắm vào các công ty có thể sẽ tránh cho Mỹ phải đối đầu trực tiếp với chính
phủ Trung Quốc.
Tương xứng: độ mạnh của đòn trả đũa phải tương xứng với hành động khiêu
khích của Trung Quốc. Yếu tố này sẽ giúp giảm thiểu khả năng leo thang xung đột giữa
hai bên, tránh xảy ra chiến tranh chính quy ở diện rộng. Hơn nữa, việc phản ứng một cách
tương xứng như vậy sẽ giúp các người Trung Quốc hiểu rằng họ mới là người quyết định
xem Trung Quốc sẽ phải trả cái giá lớn đến mức nào cho các hành động của mình. Nói
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 16
cách khác, Bắc Kinh cư xử càng thô bạo thì đòn trả đũa càng cứng rắn, Trung Quốc càng
mềm mỏng thì đòn trả đũa càng nhẹ nhàng.
Về mặt lý thuyết, chiến lược Phản ứng Linh hoạt do tác giả đề xuất dựa trên lý
thuyết trò chơi về “song đề tù nhân”. Theo Axelrod (1981; 1984) và Keohane (1984),
chiến lược "ăn miếng trả miếng" là cách hiệu quả nhất để xây dựng quan hệ hợp tác giữa
hai người chơi trong trò chơi "song đề tù nhân" lặp lại nhiều lần. Trên thực tế, Mỹ và
Trung Quốc sẽ luôn là hai đối tác quan trọng hàng đầu của nhau, vì vậy cả hai bên đều có
lợi ích trong việc duy trì sự hợp tác với nhau. Cũng vì lẽ đó, chúng ta cơ sở để tin rằng
chính sách kiềm chế dựa dựa trên chiến lược "ăn miếng trả miếng" có thể giúp
Washington ít nhiều trong việc thuyết phục Bắc Kinh rằng họ không nên tiếp tục bành
trướng ở Biển Đông. Mặc dù vậy, Phản ứng Linh hoạt không thay thế cho những chiến
lược dài hơi mà Mỹ đã và đang triển khai, nhưng nó bổ sung và đặc biệt là giải quyết lỗ
hổng bất tương xứng như đã nêu ở trên bởi cách tiếp cận này chủ yếu tập trung vào việc
hoá giải chính sách bành trướng của Trung Quốc trong ngắn hạn.
Nhìn về tương lai
Sẽ không có hoà bình hay ổn định ở Biển Đông ngày nào các cường quốc còn tin rằng họ
có thể tự do sử dụng sức mạnh và vũ lực để bắt nạt các nước nhỏ và mở rộng lãnh thổ của
mình. An ninh của các quốc gia trong khu vực sẽ tiếp tục bị đe doạ ngày nào Trung Quốc
còn chưa từ bỏ tham vọng bá quyền và độc chiếm Biển Đông. Tuy an ninh của Mỹ không
bị ảnh hưởng trực tiếp bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc nhưng an ninh của các đồng minh
và vị thế dẫn đầu của Mỹ chắc chắn sẽ bị suy yếu nghiêm trọng trước một Trung Quốc
hùng cường và tham vọng. Chính quyền Trump mới đây đã tuyên bố chấm dứt chính sách
xoay trục về châu Á do tổng thống Obama khởi xướng nhưng lợi ích quốc gia của Mỹ
trong khu vực chưa hề thay đổi. Do đó, trong bối cảnh hiện nay, cách tốt nhất để Mỹ bảo
vệ lợi ích của mình là ngăn chặn bước tiến của Trung Quốc ở Biển Đông.
Để đánh bại chiến lược "cắt lát salami" của Trung Quốc, Mỹ nên sửa đổi cách tiếp
cận trong chính sách kiềm chế của mình theo hướng "Phản ứng Linh hoạt", tập trung vào
các đòn trả đũa có đủ bốn đặc điểm: (i) kịp thời, (ii) độc lập, (iii) chọn lọc và (iv) tương
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 17
xứng. Trước mắt, cách tiếp cận này sẽ khiến Bắc Kinh chùn chân bởi nó sẽ gia tăng tổn
thất và chi phí cho phía Trung Quốc nếu họ tiếp tục đơn phương thay đổi hiện trạng ở
Biển Đông. Hơn nữa, những biện pháp này sẽ gửi đi tín hiệu răn đe mạnh mẽ và rõ ràng
tới Trung Quốc bởi nó cho thấy Mỹ sẵn sàng chấp nhận rủi ro và tổn thất để ngăn bước
tiến của Trung Quốc chứ không chỉ nói suông. Qua đó Mỹ vừa có thể răn đe Trung Quốc,
vừa có thể trấn an được các đồng minh, từ đó giảm thiểu rủi ro có xung đột vũ trang xảy
ra ngoài ý muốn. Mặc dù vậy những biện pháp này một mình khó có thể thuyết phục
được Trung Quốc từ bỏ giấc mộng bá quyền của mình. Tuy nhiên, trước mắt cách tiếp
cận này giúp Mỹ kìm chân Trung Quốc ở Biển Đông đồng thời hạn chế leo thang căng
thẳng, qua đó tạo khoảng trống cho đàm phán ngoại giao để đi đến một sự thoả hiệp ở
Biển Đông. Kể cả trong trường hợp Trung Quốc không chấp nhận thoả hiệp và kiên định
theo đuổi mục tiêu của mình đến cùng thì Phản ứng Linh hoạt vẫn là cách tốt nhất để Mỹ
có thể kiềm chế Trung Quốc và giành chiến thắng chung cuộc trong cuộc chạy đua ma-
ra-tông của thế kỷ XXI.
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 18
Tài liệu tham khảo
Art, R. (2003). A grand strategy for America. Cornell University Press.
Axelrod, R. (1981). The emergence of cooperation among egoists. American political
science, 75(2), 306-318.
Axelrod, R. (1984). The evolution of cooperation. Basic books.
Biddle, S., & Oelrich, I. (2016). Future Warfare in the Western Pacific: Chinese
Antiaccess/Area Denial, US AirSea Battle, and Command of the Commons in
East Asia. International Security, 41(1), 7-48
Brands, H. (2014). What Good is Grand Strategy?: Power and Purpose in American
Statecraft from Harry S. Truman to George W. Bush. Cornell University Press
Brooks, S., Ikenberry, J., & Wohlforth, W. (2012). Don't come home, America: The case
against retrenchment. International Security, 37(3), 7-51.
Brooks, S., Ikenberry, J., & Wohlforth, W. (2013). Lean forward: In defense of American
engagement. Foreign Affairs, 92(1), 130-142.
Chen, A. (2015, May 26). China charts course for blue-water navy, extending reach into
open seas. South China Morning Post. Retrieved from
http://www.scmp.com/news/china/diplomacy-defence/article/1808948/beijing-
pledges-increase-range-role-navy-amid-tensions?page=all
Cronin, P. (2013, June). The Strategic Significance of the South China Sea. Paper
presented at the Conference on Managing Tensions in the South China Sea,
Washington, D.C.
Daugirdas, K., & Mortenson, J. (2014). China Announces New Air Defense
Identification Zone over East China Sea, Prompting US Response. The American
Journal of International Law, 108(1), 106-109.
Drezner, D. (2011). Does Obama Have a Grand Strategy: Why We Need Doctrines in
Uncertain Times. Foreign Affairs, 90(4), 57-68.
Friedberg, A. (2005). The future of US-China relations: Is conflict inevitable?.
International security, 30(2), 7-45.
Gholz, E., Press, D., & Sapolsky, H. (1997). Come home, America: The strategy of
restraint in the face of temptation. International Security, 21(4), 5-48.
Ikenberry, J. (2013). The Rise of China, the United States, and the Future of the Liberal
International Order. In D. Shambaugh (Ed.), Tangled titans: The United States
and China (pp. 53-73). Lanham, MD: Rowman & Littlefield.
Kao, S. (2014). Scarborough Shoal Dispute, China's Assertiveness, and Taiwan's South
China Sea Policy. International Journal of China Studies, 5(1), 153-178.
Kaplan, R. (2014). Asia's Cauldron. The South China Sea and the End of a Stable Pacific.
Random House: New York.
Keohane, R. (1984). After hegemony: Cooperation and discord in the world political
economy. Princeton University Press.
Kissinger, H. (1994). Diplomacy. New York: Simon and Schuster.
Kissinger, H. (2011). On China. New York: Penguin Press.
Lubold, G., & Wong, C. (2016, February 17). China Positions Missiles on Disputed
South China Sea Island. Retrieved October 04, 2016, from
http://www.wsj.com/articles/china-deploys- missiles-on-disputed-island-in-south-
WORKING PAPER NO.3
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ (SCIS) 19
china-sea-1455684150
Mearsheimer, J. (2014). The tragedy of Great Power politics (Updated ed.). New York:
Norton.
Mearsheimer, J., & Walt, S. (2016). The Case for Offshore balancing. Foreign Affairs,
95(4), 70-83.
Montgomery, E. (2014). Contested primacy in the Western Pacific: China's rise and the
future of US power projection. International Security, 38(4), 115-14.
Nurkin, T., Burton, P., Skomba, T., & Hardy, J. (2014, May 19). The global implications
of China’s military modernization [Blog post]. IHS Markit. Retrieved from
http://blog.ihs.com/q12-the-global-implications-of-chinas-military-modernization
Posen, B. (2003). Command of the commons: the military foundation of US hegemony.
International Security, 28(1), 5-46.
Posen, B. (2013). Pull back: The case of a less activist foreign policy. Foreign Affairs,
92(1), 116-128.
Posen, B. (2014). Restraint: A new foundation for US grand strategy. Cornell University
Press.
Segal, G. (1996). East Asia and the “constrainment” of China. International Security,
20(4), 107-135.
Sinaga, L. (2016). China’s Assertive Foreign Policy in South China Sea Under Xi
Jinping: Its Impact on United States and Australian Foreign Policy. Journal of
ASEAN Studies, 3(2), 133-149.
Tweed, D. (2015, January 2015). What Do Weak Oil Prices Mean for the South China
Sea? Bloomberg Business. Retrieved from
http://www.bloomberg.com/news/articles/2015-01-20/all-about-the-base-oil-drop-
won-t-stop-china-in-south-china-sea
Walt, S. (2013, January 2). More or less: The debate on U.S. grand strategy. Foreign
Policy. Retrieved from http://foreignpolicy.com/2013/01/02/more-or-less-the-
debate-on-u-s-grand-strategy/
Waltz, K. (1979). Theory of international politics. Reading: Addison-Wesley.
Yahuda, M. (2013). China's new assertiveness in the South China Sea. Journal of
Contemporary China, 22(81), 446-459.
Yoshihara, T. (2016). THE 1974 PARACELS SEA BATTLE: A Campaign Appraisal.
Naval War College Review, 69(2), 41-65.