399
LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG TỈNH BÌNH PHƯỚC CôNG TrÌNH CHÀO mừNG ĐạI HỘI CôNG ĐOÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC LầN THứ IX (2013 - 2018) LỊCH SỬ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VIÊN CHỨC LAO ĐỘNG VÀ CÔNG ĐOÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC (1930 - 2012)

LỊCH SỬ - vnptbinhphuoc.vn DOAN... · tiền sử, còn trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ sau này thì “Rừng che bộ đội,

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG TỈNH BÌNH PHƯỚC

CôNG TrÌNH CHÀO mừNG ĐạI HỘI CôNG ĐOÀNTỈNH BÌNH PHƯỚC LầN THứ IX (2013 - 2018)

LỊCH SỬPHONG TRÀO CÔNG NHÂN VIÊN CHỨC

LAO ĐỘNG VÀ CÔNG ĐOÀNTỈNH BÌNH PHƯỚC

(1930 - 2012)

Chịu trách nhiệm xuất bảnBAN THƯỜNG VỤ LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG

TỈNH BÌNH PHƯỚC

Chỉ đạo biên soạn:Lâm Văn Phúc

Tỉnh ủy viên, Ủy viên BCH Tổng LĐLĐ Việt NamChủ tịch LĐLĐ tỉnh Bình Phước - Trưởng Ban chỉ đạo.

Đoàn Văn RồiPhó Chủ tịch Thường trực LĐLĐ tỉnh - Phó Ban chỉ đạo.

Trần Văn LậpPhó Chủ tịch LĐLĐ tỉnh - Thành viên.

Bùi Văn HiếuUVTV, Trưởng Ban CS - PL LĐLĐ tỉnh - Thành viên.

Cố vấn khoa họcTiến sỹ Lê Hữu Phước

Phó hiệu trưởng Trường Đại học KH-XH&NV TP.HCM

Ban biên soạn:Đoàn Tấn Dũng

Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy Khối Dân chính Đảng.Nguyễn Thanh Danh

Trưởng Phòng Lịch sử Đảng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.

Thư ký công trình:Huỳnh Minh Thạnh

Chuyên viên Ban TG - NC LĐLĐ tỉnh Bình Phước.

Bình Phước, mảnh đất kiên trung, con người cần cù, hiền hòa, dũng cảm. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mỗi mét đất, mỗi con người nơi đây đã gánh nhiều đạn bom, đau thương, tang tóc nhưng vẫn vươn cao, bay xa, ngẩng cao đầu đến ngày thắng lợi.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ tỉnh, công nhân viên chức lao động và Công đoàn tỉnh nhà đã có lịch sử hơn 80 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên quê hương Bình Phước. Đồng thời, suốt chặng đường lịch sử đấu tranh cách mạng của công nhân viên chức và tổ chức Công đoàn Bình Phước luôn gắn chặt với phong trào công nhân và sự phát triển của tổ chức Công đoàn cả nước, vì cả nước, cùng cả nước đấu tranh cho lợi ích giai cấp và dân tộc, làm nên truyền thống anh hùng của giai cấp công nhân Việt Nam.

Để thiết thực chào mừng Đại hội Công đoàn tỉnh Bình Phước lần thứ IX và Đại hội XI Công đoàn Việt Nam, Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh tổ chức biên soạn cuốn “Lịch sử phong trào công nhân viên chức lao động và Công đoàn tỉnh Bình Phước, giai đoạn 1930 - 2012”. Công trình

LỜI NÓI ĐầU

được viết dưới dạng sơ thảo, ghi chép lại một cách có hệ thống quá trình đấu tranh, phát triển của phong trào công nhân viên chức lao động và tổ chức Công đoàn tỉnh nhà dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng, trên tất cả các lĩnh vực chính trị tư tưởng, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội… Qua đó, làm nổi bật những đặc điểm, công lao đóng góp to lớn của lực lượng công nhân, viên chức, lao động và tổ chức Công đoàn qua từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

Mong muốn của Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh cũng như nguyện vọng của cán bộ Công đoàn qua các thời kỳ là công trình sẽ giúp cán bộ, đoàn viên, CNVCLĐ tìm hiểu truyền thống đấu tranh, xây dựng quê hương vẻ vang của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn mình; đồng thời bổ sung vào kho tư liệu quý của tỉnh, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ CNVCLĐ hôm nay và mai sau, tăng thêm lòng tin về dân tộc, giai cấp, vào con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, phấn đấu vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong quá trình biên soạn, Ban chỉ đạo, Ban Biên soạn đã cố gắng rất nhiều trong việc sưu tầm tư liệu thành văn, tư liệu đánh máy dưới dạng thảo, tư liệu viết tay, gặp gỡ nhân chứng và tổ chức nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo nhằm đảm bảo khi công trình ra mắt bạn đọc đạt chất lượng. Song, chúng tôi ý thức được rằng do trình độ, khả năng có hạn và trong nỗ lực hoàn thành kế hoạch biên soạn để

kịp chào mừng Đại hội Công đoàn tỉnh nhà lần thứ IX, sẽ không tránh những thiếu sót, hạn chế nhất định. Bên cạnh, chúng tôi coi lần xuất bản này là dịp thu thập ý kiến, để cho lần xuất bản sau.

Vì vậy, rất mong được các đồng chí lão thành cách mạng, lãnh đạo Công đoàn qua các thời kỳ và bạn đọc tham gia ý kiến để chúng tôi có điều kiện hoàn chỉnh, nâng chất lượng cuốn sách truyền thống quý báu của phong trào công nhân viên chức lao động và Công đoàn tỉnh nhà.

Nhân dịp này, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các cơ quan, đơn vị trong và ngoài tỉnh, các đồng chí lão thành cách mạng, lãnh đạo Công đoàn các thời kỳ, các nhân chứng lịch sử đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi hoàn thành công trình này. Và, cũng xin trân trọng giới thiệu cuốn “Lịch sử phong trào công nhân viên chức lao động và Công đoàn tỉnh Bình Phước, giai đoạn 1930 - 2012” đến với bạn đọc; đặc biệt là cán bộ, CNVCLĐ và đoàn viên Công đoàn trong tỉnh.

Bình Phước, ngày 10 tháng 01 năm 2013. TM. BAN THƯỜNG VỤ LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG TỈNH BÌNH PHƯỚC CHỦ TỊCH

Lâm Văn Phúc

MỞ ĐẦUBÌNH PHƯỚC: VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI VÀ

TRUYỀN THỐNG

Bình Phước là một tỉnh miền núi thuộc miền Đông Nam Bộ, diện tích tự nhiên 6.871,543 km�, dân số khoảng 893.353(�) người; trong đó đồng bào dân tộc có 25.678 hộ, với 133.256 người chiếm gần 20% dân số toàn tỉnh. Tỉnh có 3 thị xã và 7 huyện là: Thị xã Đồng Xoài, thị xã Bình Long, thị xã Phước Long, huyện Đồng Phú, huyện Hớn Quản, huyện Bù Gia Mập, huyện Lộc Ninh, huyện Bù Đăng, huyện Chơn Thành và huyện Bù Đốp. Phía Bắc giáp tỉnh Krachê và Mun Dun Ki Ri (Vương quốc Campuchia), phía Nam giáp tỉnh Bình Dương, phía Đông giáp tỉnh Đắc Nông, Lâm Đồng và Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và Công Pông Chàm (Vương quốc Campuchia).

Tỉnh Bình Phước nằm ở phía Bắc và Tây Bắc miền Đông Nam Bộ có tọa độ:

Bắc 12017’B (xã Bù Gia Mập - huyện Bù Gia Mập)Nam 11020’ B (xã Tân Hòa - huyện Đồng Phú) Đông 107025 ‘ Đ (xã Đồng Nai - huyện Bù Đăng)Tây 106025 ‘ Đ (xã Lộc Tấn - huyện Lộc Ninh)Địa hình tỉnh Bình Phước nằm trên sườn dốc phía

Tây Nam của cực Nam dãy Trường Sơn được bao phủ bởi những dãy đồi đất đỏ Bazan nối thành vòng cung từ Bù Gia

(1) Số liệu Niêm giám Thống kê tỉnh Bình Phước năm 2010, trang 29. Năm 1997 dân số Bình Phước là 653.644 người

7

Mập đến huyện Chơn Thành (ranh giới tỉnh Bình Dương). Đất đai màu mỡ, khí hậu và thủy văn ở Bình Phước được thiên nhiên ưu đãi. Ngoài đất đỏ Bazan còn có những vùng đất xám đan xen, tạo điều kiện cho các hệ động vật, thực vật phát triển như: dầu, sao, bằng lăng, cẩm lai, gõ đỏ, gõ mun, vên vên, trai... nhiều loại thú hoang dã như: voi, hổ, gấu, báo, heo rừng, nai, trâu rừng, bò rừng, mễn... và nhiều loài chim. Sự phong phú về các loài động vật, thực vật là nguồn thực phẩm quan trọng cho cư dân vùng đất này thời tiền sử, còn trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ sau này thì “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù’.

Trong suốt quá trình lịch sử, Bình Phước luôn có vị trí hết sức quan trọng về chính trị, kinh tế và an ninh - quốc phòng.

Dưới thời phong kiến nhà Nguyễn, Bình Phước thuộc trấn Biên Hòa. Nửa cuối thế XIX, sau khi đặt ách đô hộ tại 6 tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực lớn là Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát-xắc. Vùng đất Bình Phước thuộc khu vực Sài gòn, trong đó vùng đất phía Đông thuộc tiểu khu Biên Hòa, vùng đất phía Tây Nam và phía Nam thuộc tiểu khu Thủ Dầu Một. Năm 1889, Pháp đổi các tiểu khu thành các tỉnh, Bình Phước thuộc địa phận tỉnh Biên Hòa và tỉnh Thủ Dầu Một. Từ đó cho đến hết thời Pháp thuộc bộ máy hành chính cơ bản không thay đổi. Sau năm 1954, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vùng đất Bình Phước bị chia cắt, sát nhập nhiều lần để phục vụ ý đồ cai trị của thực dân đế quốc. Đến ngày 30/1/1971 Trung ương cục miền

8

Nam quyết định thành lập phân khu Bình Phước đến cuối năm 1972 phân khu Bình Phước giải thể, tỉnh Bình Phước chính thức được thành lập.

Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - văn hóa và quốc phòng an ninh, ngày 2/7/1976 Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra quyết định thành lập tỉnh Sông Bé bao gồm: tỉnh Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Phước và ba xã thuộc huyện Thủ Đức (Thành phố Hồ Chí Minh), chia thành 7 huyện, thị: Bình Long, Phước Long, Đồng Phú, Bến Cát, Tân Uyên, Thuận An và Thị xã Thủ Dầu Một. Tháng 3 năm 1978, tách một xã của huyện Bình Long và một số xã của huyện Phước Long để thành lập huyện Lộc Ninh. Năm 1988 huyện Phước Long được chia thành 2 huyện Bù Đăng và Phước Long. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Bình Phước được tái lập bao gồm 5 huyện phía Bắc thuộc tỉnh Sông Bé cũ: Đồng Phú, Bình Long, Lộc Ninh, Bù Đăng và Phước Long. Ngày 1/9/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/1999/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Đồng Xoài. Ngày 1/1/2000, thị xã Đồng Xoài chính thức đi vào hoạt động, tỉnh lỵ Bình Phước đặt tại thị xã Đồng Xoài. Ngày 20 tháng 02 năm 2003 Chính phủ ra Nghị định số 17/2003/NĐ-CP về việc tái lập hai huyện Chơn Thành và Bù Đốp thuộc tỉnh Bình Phước. Ngày 11/8/2009 Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP thành lập hai thị xã Bình Long và Phước Long và tách một số xã của hai huyện Bình Long, Phước Long, thành lập hai huyện mới là Hớn Quản và Bù Gia Mập.

9

Về khí hậu, cũng như các tỉnh Nam Bộ, khí hậu Bình Phước thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa ổn định. Trong năm chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa. Mùa khô thường bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 4 (Dương lịch), mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến cuối tháng 10. Đặc biệt ở Bình Phước hầu như không có bão mà chỉ chịu ảnh hướng của những cơn bão gần. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.400mm, rải đều trong nhiều tháng nên ít khi gây ra lũ lụt, nếu có lũ thì nước chỉ dâng lên từ các con suối từ 1 đến 3 ngày nên nhân dân cũng dễ khắc phục.

Bình Phước có nhiều tài nguyên phong phú, trước hết là rừng. Đầu thế kỷ XX, Bình Phước được phủ kín cây rừng, bạt ngàn, mênh mông với nhiều gỗ quí, cùng với nhiều loài thú rừng phong phú, có cả các loại thú quí hiếm như: voi, tê giác, trâu rừng, bò rừng, nai, khỉ, nhím, chồn...

Ngay khi mới đặt chân lên đất Nam Kỳ, thực dân Pháp đã nhận thấy ngay những điều kiện khí hậu nhiệt đới và chất đất đỏ xám của cả miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là đất ở Bình Phước rất thích hợp với cây cao su đã xây dựng ngành khai thác cao su ở đây rất sớm, nên diện tích rừng dần dần bị thu hẹp lại. Trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, rừng Bình Phước bị thu hẹp lại do bị bom đạn, chất độc hóa học tàn phá cùng với việc khai thác bừa bãi của các lực lượng lâm tặc và dân di cư tự do. Tuy vậy, đến nay rừng và đất rừng vẫn còn khá phong phú khoảng 360.000ha, chiếm 52,68% diện tích toàn tỉnh.

Bình Phước có 3 con sông lớn chảy qua: Sông Bé,

10

sông Đồng Nai và sông Sài gòn, Sông Bé là phụ lưu của sông Đồng Nai nhưng là dòng sông dài gần 200km chảy trong lãnh thổ của tỉnh, ở phía Bắc, nơi dòng sông chảy qua vùng cư trú của đồng bào S’ tiêng, M’nông, Sông Bé được gọi là sông Đaklung, xuôi về phía Nam đồng bào Kinh gọi là Sông Bé. Nhìn chung, Sông Bé không thuận lợi cho việc giao thông đường thủy vì mùa khô nước bị cạn, có chỗ mực nước hạ thấp còn khoảng 1mét, về mùa mưa nước chảy xiết, lòng sông có nhiều đá ngầm, nhiều ghềnh thác nên tàu thuyền lớn không thể đi được. Ngoài sông còn có hàng trăm hồ đập lớn, nhỏ, đủ nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt. Ngày nay, việc khai thác các dòng sông ở Bình Phước để làm thủy điện rất thuận lợi; trên Sông Bé có thuỷ điện Thác Mơ với công suất 150MW đã và đang hoạt động rất tốt, Thủy điện Cần Đơn đã đi vào vận hành với công suất 72MW, thủy điện Phú Miêng với công suất 70MW. Tiềm năng thủy điện Bình Phước còn rất lớn, đang chờ bàn tay của con người xây dựng. Thác Mơ (Phước Long) không chỉ có thủy điện để phục vụ cho nhân dân mà còn là một cảnh đẹp thiên nhiên thơ mộng và trong tương lai nơi đây là một khu du lịch đẹp của Bình Phước. Ngoài Sông Bé, phía Tây Bình Phước còn có sông Sài Gòn bắt nguồn từ phía Bắc Lộc Ninh, đoạn chảy qua địa phận Bình Long gần 50km.

Bình Phước có nhiều khoáng sản phong phú, khoáng (1) Quốc lộ 14 đi qua Bình Phước từ ngã tư Chơn Thành đến Cây Chanh (Đắk Lắk )dài 112,8 km; Quốc lộ 13 từ cầu Tham Rớt đến cửa khẩu Hoa Lư dài 79,9 km; đường ĐT 741 từ Bàu Trư (Bình Dương) đến xã Phú Nghĩa (Đăk Lắk) dài 92,8km)

��

sản phi kim loại khá đa dạng: sét cao lanh, sét gạch ngói, cát, đá xây dựng, đá vôi... Đá vôi có trữ lượng lớn, chất lượng tốt có khả năng khai thác hàng năm từ 1,4 đến 2 triệu tấn, cung cấp nguyên liệu cho sản xuất xi măng. Tỉnh đang thi công xây dựng và đi vào hoạt động sản xuất Nhà máy xi măng Thanh Lương - Tà Thiết với số vốn đầu tư 250 triệu USD. Vị trí nhà máy xi măng rất thuận lợi trong việc tiêu thụ sản phẩm xi măng (trong nước và xuất khẩu sang Campuchia. Ở Bình Long có loại đá vôi biến chất thành đá hoa, màu sắc và cấu trúc đẹp, độ cứng cao, có già trị về nghệ thuật và kinh tế, dùng để trang trí nhà cửa, tạc tượng làm đồ trang sức... Ngoài ra, còn có đá ba-dan chiếm nửa diện tích đá toàn tỉnh, chùng sĩ ba - dan lộ ra ở nhiều nơi được dùng làm vật liệu xây dựng rất tốt.

Tài nguyên nước ngầm của Bình Phước có giá trị lớn. Dù là tỉnh miền núi nhưng qua thăm dò địa chất thì nguồn nước ở Bình Phước phong phú , chất lượng nước tốt, đủ khả năng cung cấp cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt.

Bình Phước có 2 trục đường giao thông chiến lược quan trọng là Quốc lộ 14 và Quốc lộ 13 (l), nối liền Bình Phước với Tây Nguyên. Thành phố Hồ Chí Minh và Vương quốc Campuchia. Bên cạnh 2 con đường chiến lược còn có đường ĐT 741, ĐT 751, ĐT 752, ĐT 753, ĐT 754. . . Hiện nay đường giao thông đã nối liền từ tỉnh đến các huyện, xã và các vùng lân cận. Đặc biệt, đường Hồ Chí Minh - Công nghiệp hóa đi ngang qua Bình Phước khá dài, tạo thuận lợi cho Bình Phước có điều kiện hơn trong việc giao lưu văn hóa, buôn bán với các tỉnh Tây Nguyên các tỉnh miền Trung...

��

Như trên đã trình bày Bình Phước là một vùng đất được thiên nhiên ưu đãi là yếu tố thuận lợi cho việc quy tụ con người ngay từ thời tiền sử. Con người hái lượm những sản phẩm của rừng, đánh bắt cá ở các sông, suối, săn bắt các loài thú. Đất đai màu mỡ thuận tiện cho con người tiến hànhtrồng trọt và chăn nuôi. Sự phong phú các mỏ khoáng sản phi kim loại như: đá sa thạch, diệp thạch, đá Basaltem đá cuội là nguyên liệu để chế tác các công cụ lao động, sinh hoạt.

Các loại đất sét là nguyên liệu cho việc sản xuất đồ gốm. Các nhà khảo cổ học trong và ngoài nước đã phát hiện những rìu đá mài nhẵn bốn mặt hay còn gọi là rìu tứ diện ở Bình Long, Lộc Ninh, Phước Long, Bù Đăng. Di tích thành đất đắp hình tròn là một loại hình di chỉ khảo cổ ở nước ta lần đầu tiên được biết đến vào những năm 1930 khi người Pháp khai thác vùng đất đỏ để trồng cao su. Năm 1958 học giả L.Malleret cho công bố những nghiên cứu bước đầu, ông đã thống kê bằng bản đồ không ảnh 12 công trình thành đất cổ trên lãnh thổ Bình Phước. Đến năm 1999 Bảo tàng tỉnh đã phối hợp với Trung tâm khảo cổ học - Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện thêm 6 di tích mới, nâng tổng số thành đất cổ ở Bình Phước lên 18, phân bố ở các huyện Lộc Ninh, Bình Long, Phước Long. Qua khai quật dưới lòng đất, các nhà khảo cổ đã tìm thấy gần 1.000 hiện vật bằng đá gồm: rìu, mũi đục, dao, bàn mài, mảnh đàn đá. . . Những thành đất cổ ở Bình Phước chứng tỏ những khu vực cư trú của người Việt Cổ vào thời kỳ đồ đá chuyển sang đồ đồng cách đây 2 đến 3 ngàn năm. Tại Lộc Ninh nhân dân đã phát hiện

��

1 trống đồng nằm sâu trong lòng đất. Bằng phương pháp khoa học, các nhà khảo cổ kết luận trống đồng Lộc Ninh có niên đại cùng với trống đồng Đông Sơn ở miền Bắc nước ta. Gần đây, 2 chiếc trống đồng được phát hiện ở xã Thọ Sơn (Bù Đăng) và xã Long Hưng (Phước Long) ngày 24/4/1998 có niên đại cách đây từ 1.900 đến 2.200 năm.

Từ những chứng cứ trên cho thấy từ thuở xa xưa trên vùng đất Bình Phước ngày nay đã có con người sinh sống. Những con người ấy thuộc bộ tộc nào ? Và cuộc sống của họ ra sao? thì các nhà khoa học đang nghiên cứu. Chỉ biết rằng cho đến thế kỷ XVI chủ nhân của vùng đất là cư dân thuộc các dân tộc ít người S’tiêng, Châu ro, M’nông, Tà mun... Họ sống du canh, du cư, sống chủ yếu bằng việc săn bắt thú rừng, hái lượm trái cây có sẵn, tỉa lúa nương. Họ sống rải rác theo từng buôn sóc. Bộ lạc S’tiêng là những người có công khai phá vùng đất từ núi Bà Đen đến thượng nguồn sông Sài Gòn, vùng núi Bà Rá và vùng hữu ngạn sông Đồng Nai là vùng đất xưa của người Châu ro. Sang đầu thế kỷ XVII, vùng đất này đón nhận thêm những người Khơ –me và dân di cư từ các tỉnh miền Trung, miền Bắc vào, bởi không chịu nổi sự áp bức, bóc lột của chế độ phong kiến, mắc tội “nghịch mạng với triều đình” và trốn sưu thuế, binh dịch... Theo chân người Việt, một số người Hoa cũng bắt đầu du nhập vào Bình Phước.

Đến thời Pháp, qua những lần khai thác thuộc địa, người ở địa phương không đủ sức phục vụ cho các đồn điền rộng lớn của Pháp, buộc chúng phải ra miền Bắc, miền Trung tuyển mộ người mà chúng gọi là “mộ phu” hay “chiêu mộ nhân công giao kèo”. Nhưng trước và

��

sau năm 1929, đối tượng tuyển mộ của chúng ở miền Bắc, miền Trung cũng có sự khác nhau; trước năm 1929, chủ yếu là mộ những thanh niên trai trẻ chưa lập gia đình, sau năm 1929 chủ yếu mộ các hộ gia đình. Sự thay đổi này bắt nguồn từ ý đồ bảo đảm lâu dài nguồn nhân lực cho các đồn điền, đồng thời hạn chế sức đấu tranh của công nhân. Do vậy, người Kinh ở Bình Phước tăng nhanh, hình thành tầng lớp công nhân bị bóc lột hết sức nặng nề, mỗi ngày người công nhân phải làm tới 1 2 tiếng đồng hồ. Có hôm 8 - 9 giờ đêm họ mới được về nhà. Cho nên công nhân cao su thường có câu thơ chua chát:

“Con không biết mặt chaChó không biết mặt chủ nhà “Thời kỳ Mỹ - Ngụy, một bộ phận tín đồ công giáo

di cư từ miền Bắc vào, được Ngụy quyền bố trí ở các khu dinh điền, khu trù mật nhằm tạo cơ sở xã hội cho sự thống trị của chúng. Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm thành lập tỉnh Phước Long, tỉnh Bình Long rồi ép buộc, dụ dỗ nhân dân từ các tỉnh miền Trung vào, làm thay đổi cơ cấu dân cư ở Bình Phước. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, các cấp ủy Đảng. chính quyền của tỉnh Bình Phước tập trung chỉ đạo kháng chiến chống giặc ngoại xâm, củng cố vùng giải phóng; mặt khác cũng rất chú ý đến khối công - nông liên minh làm nòng cốt cho mặt trận thống nhất đoàn kết toàn dân, tiến hành cuộc kháng chiến thắng lợi, góp phần cùng nhân dân cả nước giải phóng miền Nam.

��

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, dân số của tỉnh Bình Phước tăng nhanh. Ngoài những người dân đến để xây dựng vùng kinh tế mới, số cán bộ, bộ đội công tác ở vùng này trong kháng chiến đến khi hòa bình thì ở lại làm ăn sinh sống và những người dân ở các tỉnh thành trong cả nước đến đây lập nghiệp. Chủ yếu là làm trang trại, trồng trọt, chăn nuôi.

Hiện nay, Bình Phước có đủ dân cư của 63 tỉnh thành trong cả nước làm ăn, sinh sống, cho nên Bình Phước được xem là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam với những bản sắc văn hóa đa dạng, làm phong phú thêm cho nền văn hóa của tỉnh . Nói đến nền văn hóa truyền thống ở Bình Phước, cần hết sức chú ý đến nền văn hóa truyền thống lâu đời của cư dân bản địa và tiêu biểu là người dân tộc S’tiêng. Bình Phước nói riêng, Đông Nam Bộ nói chung hay cả vùng Tây Nguyên rộng lớn, điều có nền văn hóa nghệ thuật mang tính cộng đồng cao. Toàn thể cộng đồng làm chủ nền văn hóa trong tất cả các khâu: sáng tác, chế tác, trình diễn và thưởng thức. Nhân dân sáng tác nên những bài dân ca nhỏ đến các sử thi dài. Nhân dân cũng là những nhà điêu khắc làm nên nhà cửa với hoa văn chạm khắc hấp dẫn. Họ chế tác nhạc cụ và sử dụng điêu luyện các nhạc cụ đó. Trong các buổi sinh hoạt văn hóa chung như cúng được mùa, cúng cầu mưa, hiến sinh trâu bò...thì mọi người đều cùng chung lo công việc và đều được hưởng thụ như nhau không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo...

Tín ngưỡng của cộng đồng S’tiêng, M’nông, Khơ me, Tà mun, Châu ro... ở Bình Phước là tín ngưỡng đa thần. Và khi người kinh xuất hiện thì ở Bình Phước có thêm các đạo

��

giáo như: Đạo Phật, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo...

Đạo Phật được truyền bá vào tỉnh Bình Phước từ cuối thế kỷ thứ XVI, khi những cư dân người kinh đầu tiên từ các tỉnh phía Bắc đến định cư vùng đất này. Đến nay cả tỉnh có 81.332 tín đồ . Hầu hết những người theo đạo Phật đều có lòng yêu nước, tích cực tham gia kháng chiến đánh giặc ngoại xâm.

Đạo Thiên Chúa vào Bình Phước từ đầu thế kỷ thứ XVII khi các nhà truyền đạo theo chân các thương nhân đến vùng đất này. Đạo Thiên Chúa phát triển nhanh nhất là thời kỳ Mỹ Diệm cầm quyền. Chúng đã dụ dỗ lôi kéo những người theo đạo vào Bình Phước và bố trí ở những nơi xung yếu để phục vụ cho những âm mưu thâm độc của chúng. Hiện nay, đạo Thiên Chúa có 72.628 tín đồ, đạo Tin Lành có 48.125 tín đồ. Đa số đồng bào theo đạo Thiên Chúa và Tin Lành là người lao động tốt, yêu nước, bất khuất chống giặc ngoại xâm, không xa vào âm mưu, cạm bẫy của kẻ thù.

Đạo Cao Đài được truyền vào Bình Phước trong những thập niên 30 của thế XX tín đồ Cao Đài trong tỉnh hiện nay có 2582 người. Trong chiến tranh, một số tên phản động đã bị Mỹ - Ngụy lôi kéo, chống lại cách mạng. Hiện nay, tuyệt đại bộ phận người có đạo làm ăn chân chính, góp phần xây dựng đất nước. Ngoài ra, tỉnh còn có 68 người theo Phật giáo Hòa Hảo, 310 người theo Hồi giáo.

Bình Phước là một trong những tỉnh có điều kiện phát

17

triển kinh tế bền vững: tỉnh nằm cạnh địa bàn kinh tế trọng điểm cả nước, trong nhóm của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có nhiều tiềm năng và lợi thế, tốc độ phát triển cao, môi trường đầu tư hấp dẫn. Dựa vào điều kiện tự nhiên và tiềm năng sẵn có, Bình Phước xác định cơ cấu kinh tế của tỉnh là nông - lâm nghiệp, dịch vụ, công nghiệp; Đẩy mạnh chương trình xuất khẩu trong đó chú trọng các mặt hàng chủ lực của tỉnh như: cao su, điều, tiêu, cà phê, cây ăn quả; thực hiện tốt các chương trình quốc gia và của tỉnh trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo . . .

Giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở Bình Phước trẻ, dồi dào, có đức tính cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo, tỷ lệ trẻ chiếm số đông là nguồn lực hết sức quan trọng để đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần cùng cả nước thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa thành công .

* * *

18

CHƯƠNG ITHỰC DÂN PHÁP CHIẾM ĐóNG BÌNH PHƯỚC VÀ SỰ RA ĐỜI ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THÀNH LẬP

I CHÍNH SÁCH KHAI THÁC THUỘC ĐỊA VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN LAO ĐỘNG TỈNH BÌNH PHƯỚC:

Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta, đến tháng 6/1862, Triều đình Huế ký Hiệp ước nhường hẳn 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) cho Pháp. Từ năm 1861 thực dân Pháp chiếm đóng Thủ Dầu Một và bắt đầu thiết lập bộ máy cai trị của chúng ở đây. Từ đó, chúng luôn tìm cách mở rộng phạm vi chiếm đóng lên phía Bắc như: Bù Đốp, Hớn Quản, Bà Rá... (Bình Phước ngày nay) nơi cư trú của đồng bào các dân tộc S’tiêng, M’nông, Khơ me, Châu ro, Mạ, Tà mun.. .. Nhưng mãi đến năm 1892, chúng mới lập được bộ máy cai trị của quận Chơn Thành (sau đổi thành quận Hớn Quản) gồm 6 tổng 50 buôn làng. Năm 1898, chúng đặt thêm một số đồn bót nhỏ ở vùng Bù Đốp, Chơn Thành, Bà Rá... giao cho ngụy quân đóng giữ.

Cùng với việc thiết lập bộ máy cai trị, thực dân Pháp tiến hành chính sách khai thác về kinh tế nhằm vơ vét tài nguyên và bóc lột sức lao động của nước ta để làm giàu cho chính quốc. Công cuộc khai thác thuộc địa được đẩy mạnh hơn đặc biệt sau chiến tranh thế giới lần thứ I. Thực dân Pháp ráo riết thi hành nhiều chính sách và thủ đoạn

19

nhằm khuyến khích bọn tư bản Pháp đến miền Đông Nam Bộ nói riêng và cả Đông Dương nói chung cướp đất của nông dân mở đồn điền. Bức thư của Đen cat xê (Delcassé) Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp gửi Toàn quyền Đông Dương ngày 23/6/1894 có ghi “Khai mở những miền đất rộng rãi mà ta đã chiếm được, lập những đồn điền nông nghiệp, phát triển lực lượng sản xuất thuộc địa và do đó mà phát triển quan hệ thương mại với nước Pháp, cải thiện hay là lập ra đường giao thông và những đường xâm nhập. Trong sự nghiệp này vai trò chính là vai trò của sáng kiến tư nhân. Song sáng kiến tư nhân vẫn được khuyến khích, được ủng hộ bởi Chính phủ và nhân viên Chính phủ’? (l)

Sắc lệnh 7/1888 và nhất là Sắc lệnh 18/8/1896 của Toàn quyền Đông Dương cho phép tư bản Pháp chiếm đất, đoạt đất của nông dân để khai thác lập đồn điền cao su.

Bình Phước thuộc miền Đông Nam Bộ, là vùng đất có điều kiện thổ nhưỡng thích hợp nhất và lý tưởng nhất cho việc trồng cây cao su. Ngoài lớp đất đỏ màu mỡ, vùng đất này nằm sâu trong đất liền, tránh được những trận bão và các cơn lốc dữ dội từ Biển Đông thổi vào; độ cao thích hợp cho năng suất mủ cây so với vùng ven biển hoặc rét cao Tây Nguyên; giao thông thuận tiện hơn với trục lộ 13 vừa mới hình thành. Đây là vùng đất mà hầu hết các buôn sóc đồng bào dân tộc đều đã có sự xâm nhập nghiên cứu và truyền giáo của các giáo sĩ Pháp vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Từ cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp đã

(�) GS Trân Văn Giàu. Giai cấp công nhân Việt Nam - NXB Sự Thật Hà Nội 1975, trang 32.

20

đóng đồn binh khá vững chắc ở Lộc Ninh, Hớn Quản, Bù Đốp và núi Bà Rá; khai thác vùng này còn có lợi cho thực dân Pháp trong việc chuẩn bị tạo thế xâm nhập vùng Đông Nam Campuchia.

Với công việc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, với những điều kiện về đất đai, địa hình và các yếu tố về kinh tế, quân sự, chính trị... các công ty tư bản Pháp đã ưu tiên số một vào khai thác vùng đất đỏ Bazan của Bình Phước để trồng cây cao su.

Sau khi thử nghiệm vườn ươm cao su thành công ở Bàu Ông Yệm (Lai Khê - Bến Cát - Bình Dương) cây cao su được trồng ở Việt Nam. Thực dân Pháp đã nhận thức được giá trị của vùng đất đỏ Bazan trải dài suốt từ Đông sang Tây trên vùng đất Bình Phước ngày nay. Cho nên tư bản Pháp thành lập hàng loạt công ty để khai thác cao su. Như Công ty Đất Đỏ (Plantation des Terres Rouges) thành lập năm 1910 trụ sở đóng ở Sài Gòn, những đồn điền lớn của công ty này đều ở Bình Phước như đồn điền Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch... Công ty C.EXO (Societé des caoutchoucs d’Extreme Orient) tức Công ty Viễn Đông ra đời năm 1911, có hai đồn điền lớn nhất là Lộc Ninh và Đa Kia. Công ty S.I.P.A (Societé Indochinoise des Plantations d’hévéas) tức là Công ty cao su Đông Dương thành lập năm 1910 trụ sở tại Paris, đối tượng chủ yếu khẩn hoang canh tác đất đai ở Viễn Đông; đặc biệt là Đông Dương và chủ yếu trồng cao su, công ty này chủ yếu trồng cao su ở Biên Hòa, có một vài đồn điền nhỏ ở Bình Phước ngày nay. Công ty Michelin (Socíet des Plantation et pneumatiques

��

Michelin au Việt Nam) ra đời năm 1917 đặt văn phòng chỉ đạo tại Dầu Tiếng - Bình Dương, công ty này lập nhà máy chế biến săm, lốp xe tại Việt Nam có hai đồn điền lớn nhất là Dầu Tiếng và Phú Riềng, ngoài ra còn có một vài công ty nhỏ khác.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ I ( 1914 - 1918), thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa trên quy mô lớn, chúng tăng cường đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, đẩy nhanh quá trình tập trung ruộng đất về tay bọn “Colon”. Thực dân Pháp đã ban hành Nghị định 18/9/1926 cho phép tư bản có thể xin cấp đất, không.phải mất tiền và khỏi nộp thuế về sản phẩm thu hoạch có diện tích từ 300ha trở lại. Sắc luật tháng 11/1928 của Chính phủ Pháp lại xóa bỏ mọi hạn chế về diện tích chiếm hữu và nới rộng quyền hạn cấp đất của các cấp chính quyền thuộc địa.

Vì vậy các công ty tư bản Pháp ồ ạt đầu tư vốn vào kinh doanh ngành cao su. Các đồn điền càng vụt tăng diện tích. Nếu năm 1918 , Nam Kỳ mới có 7.000ha cao su thì đến cuối năm 1921 đã lên đến 29.000ha (gấp 4 lần). Trong đó vùng Bình Phước ngày nay có diện tích cao nhất. Nhưng đến năm 1929 thì con số này tăng lên kinh khủng là 84.000ha và đến năm 1930 là 1 25.707ha gấp 18 lần diện tích năm 1918 . Số mủ cao su cũng tăng từ 150 đến 200 tấn năm 1914, lên 10.309 tấn năm 1929.

Trong thời kỳ này, trên địa bàn tỉnh Bình Phước ngày nay hàng loạt những đồn điền cao su mới được thành lập. Ở Lộc Ninh chủ sở Đờ La Lăng mở rộng đồn điền cao su của Công ty cao su Xét - Xô lên l0.000ha, Công ty

��

Michelin thành lập đồn điền cao su mới ở Phú Riềng và Dầu Tiếng cũng được mở rộng, diện tích cao su ở vùng đất xám pha cát ở Bến Cát, Tân Uyên, Phước Hòa... cũng đã tăng nhanh. Công ty cây trồng Nhiệt đới khai thác giống cao su vùng Đa Kia (Phước Long). Trong đó có những đồn điền lớn là Quản Lợi, Lộc Ninh, Dầu Tiếng, Phú Riềng, Xa Cam, Xa Cát... Đến năm 1930 tổng số công nhân cao su trong cả nước ước lượng đã lên 60.000 người (chưa kể những người ăn theo trong gia đình) và riêng các đồn điền thuộc địa bàn Bình Phước, số lượng công nhân cao su ở mức trên dưới 30.000 người, chiếm 1/2 công nhân cao su của cả nước.

Cùng với sự phát triển của tư bản cao su, chế độ mộ phu theo hợp đồng là điều kiện quan trọng để hình thành và phát triển số lượng công nhân cao su của cả nước và Bình Phước. Sự ra đời của ngành khai thác cao su, đội ngũ công nhân ở các thị trấn, thị tứ cũng bắt đầu hình thành. Tuy có khác nhau về ngành nghề, số lượng ít hơn công nhân cao su nhiều nhưng giai cấp công nhân ở Bình Phước cùng chung cảnh ngộ bị sự áp bức bóc lột của bọn tư bản Pháp và địa chủ. Cho nên, họ có tiếng nói chung là đoàn kết đấu tranh chống lại sự hà khắc của bọn chủ.

Về nguồn gốc, thành phần và sự phát triển về số lượng của đội ngũ công nhân cả nước đều thể hiện rõ nét trong đội ngũ công nhân Bình Phước. Các đặc điểm ấy cơ bản phù hợp với những đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam; như tinh thần cách mạng triệt để do xuất thân từ những thành phần cùng khổ nhất của xã hội, dễ dàng thiết

��

lập khối liên minh công nông do đa số có nguồn gốc xuất thân nông dân. Cũng do đặc điểm trên trong quá trình diễn ra các phong trào đấu tranh cách mạng, lực lượng công nông luôn đoàn kết gắn bó với nhau, hòa quyện lẫn nhau cuốn hút các tầng lớp xã hội khác tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến tay sai giành độc lập dân tộc.

Bên cạnh những đặc điểm chung, đội ngũ công nhân lao động Bình Phước còn có những đặc điểm riêng như công nhân Bình Phước chủ yếu là công nhân cao su, lao động nông nghiệp bị chi phối tính thời vụ và các thao tác lao động đơn giản, tỷ lệ lao động kỹ thuật rất ít cho nên những tập quán, tác phong phần nào còn nặng tư tưởng nông dân. Địa bàn làm việc chủ yếu ở các đồn điền nằm giữa các vùng heo hút, rất ít điều kiện tiếp xúc với những thành tựu khoa học, văn hóa, dẫn đến sự yếu kém về trình độ văn hóa, kỹ thuật của người công nhân.

II. ĐỜI SỐNG CÙNG CỰC CỦA CÔNG NHÂN LAO ĐỘNG VÀ NHỮNG CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HỌ TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI

1. Đời sống cùng cực của công nhân lao độngSau chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, số lượng công

nhân cao su ở các đồn điền thuộc địa bàn Hớn Quản, Lộc Ninh, Bà Rá tăng lên rất nhanh. Nguồn gốc công nhân đồn điền cũng có sự thay đổi cùng với sự phát triển của việc khai thác cao su. Do yêu cầu phát triển nhanh của các đồn điền cao su, dân địa phương không đủ cung cấp

��

cho các đồn điền, buộc tư bản Pháp phải ra tận miền Bắc, miền Trung tuyển mộ.Chúng thường gọi là “mộ phu” hay “Contrat”, do thiếu công nhân chuyên nghiệp có một số đồn điền mộ phu từ các thuộc địa của Hà Lan. Đến năm 1922 đồn điền cao su Lộc Ninh vẫn sử dụng công nhân người Chà-và (Java nás) tức mộ phu từ Inđônêsia thuộc loại công nhân có tay nghề cao.

Người dân phu được tuyển mộ phải chịu sự quản lý chặt chẽ ngay từ khi ký tên vào giấy giao kèo. Bọn cai mộ tập trung dân phu đưa lên tàu lửa, tàu thủy hoặc ô tô về các đồn điền. Hệ thống cai trị của giới chủ đồn điền hết sức chặt chẽ và khắc nghiệt. Đứng đầu đồn điền là chủ đồn điền (bao gồm chủ nhất và chủ nhì) chủ đồn điền có bộ phận chuyên môn giúp việc . Dưới các chánh giám thị (Xu vây dăng xếp).Các chánh giám thị điều khiển các giám thị viên. Các giám thị viên chỉ huy các cai theo dõi các kíp sản xuất, mỗi kíp có khoảng 10 công nhân.

Công nhân đồn điền bị áp bức bóc lột hết sức nặng nề và bị đối xử vô cùng tàn nhẫn, chế độ làm việc ngày từ 10g đến 12g. 3 giờ sáng, kẻng báo thức, 5 giờ sáng phải tập trung ra điểm danh để lấy mủ cao su, chiều về tới nhà đã 8-9 giờ đêm. Lao động cực nhọc như vậy vậy mà, cơm ăn không đủ no, quần áo không lành. Một ngày chủ Tây phát 800gr gạo lức, 300 gram khô mắm, giao cho thầy xu phân phát cho công nhân, nên bọn họ một phần cắt xén,

(�) Hồi ký của Nguyễn Mạnh Hồng. Tài liệu lưu trữ tại phòng Lịch sử Đảng - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Phước .(2) (Trần Tử Bình. Phú Riềng Đỏ, NXB Lao động, Hà Nội 1965, trang 36)

��

một phần chọn những thức ăn ngon tốt giữ lại, gạo xấu, khô móc giao cho công nhân. Người công nhân lao động suốt ngày nặng nhọc, hết ngày về đến nhà trời tối mịt. Họ phải “… vội vã vác ống nứa ra suối lấy nước và kiếm dăn ba cây củi khô về nhóm lửa nấu cơm. Thế rồi dần con cá khô nướng lên, khen khét, đăng đắng, ăn chập ăn chuội. Bữa nào khỏe người thì cố kiếm lá Văn Khôi, lá Bứa ngoài rừng nấu canh suông ăn đỡ xót ruột...” (�) Còn chỗ ở “mỗi làng đồn điền xây dựng mấy dãy Ba-rac,mỗi Barac là chỗ sinh sống của 50 công nhân. Bên trong Barac chúng ván gỗ ngăn thành 10 lán, mỗi lán vuông vức mỗi bề 5 mét. Chúng dồn chia nhau cứ 5 người 1 lán, ngủ trên sàn gỗ dài, nấu cơm ngay trong lán. Trong lán chật chội đến nổi chỉ đặt được bàn chân mỗi khi ra vào. Điều kiện vệ sinh thì lại rất thấp kém. Mưa thì lội, nắng thì chói chang...”

Bên cạnh các cuộc sống khó khăn, người công nhân đồn điền phải chịu nhiều hình phạt khắc nghiệt như cúp lương, bớt lương… những công nhân có vợ đẹp đều bị chủ Tây hành hạ và hãm hiếp, khi bệnh tật không có thuốc điều trị lâu ngày dẫn đến tàn phế, tử vong. Ở các đồn điền cao su Quản Lợi, Xa Cam,Xa Trạch, Xa Cát… thuộc công ty cao su Đất Đỏ tính ra cứ 100 công nhân thì có 19 người chết 37 người bị bệnh nặng. Ở đồn điền An Lọc tuổi thọ của nam nhân công không quá 30 tuổi, có 95% phụ nữ công nhân bị sẩy thai và ốm đau. Nhiều trẻ em hai đến ba tuổi đã mắc bệnh sưng lá và lách phù thận. Thật là một điều chua cay, tủi nhục cho thân phận người công nhân.

Cảnh khốn khó bần cùng được người công nhân đồn

��

điền cao su đúc kết trong câu ca dao:“Kiếp phu đổ lắm máu đàoMáu loang mặt đất, máu trào mủ câyTrần gian địa ngục là đâyĐồn điền đất đỏ nơi Tây giết người “.

Hay là:“Cao su xanh tốt chốn nàyMỗi cây bón một xác người công nhânHận thù trời đất khôn cầmCàng tươi dòng mủ, càng bầm ruột gan “.Rõ ràng các đồn điền cao su thời Pháp chính là những

“địa ngục trần gian”. Cuộc sống của người công nhân cao su đúng là cuộc sống của người nô lệ không hơn không kém, do vậy họ luôn nung nấu lòng căm hận ngút trời đối với bọn thực dân; và luôn tìm mọi cách đứng dậy đấu tranh chống lại bọn thống trị để tự giải phóng mình và giải phóng dân tộc.

2. Các cuộc đấu tranh của đồng bào dân tộc và công

nhân lao động Sau khi đặt ách thống trị lên vùng đất miền Đông Nam

Bộ và tiến hành khai thác các đồn điền cao su, tư bản Pháp đã cướp trắng trợn đất đai, nương rẫy của đồng bào dân tộc thiểu số. Họ phải bỏ buôn làng, phum sóc thân yêu của mình, bỏ lại những vùng đất bằng phẳng, màu mỡ cho bọn tư bản Pháp rồi chuyển vào rừng sâu. Tại nơi ở mới họ cũng không yên thân nếu là đất đỏ chúng lại tìm mọi

27

cách xua đuổi họ để chiếm đất mở rộng đồn điền. Đồng bào S’tiêng ở các Sóc Pau Tao, Bù Đốp, Bù Xa Vơ, Bù Đri Măng, Bù Ta Lốt, Bù Lơ Nhe, Bù Nho... (Bình Long, Lộc Ninh ngày nay) buộc phải rời bỏ các buôn sóc, rời bỏ địa bàn cư trú quen thân và thuận lợi, chuyển vào rừng sâu hẻo lánh để bọn Pháp lấy đất lập các đồn điền Lộc Ninh, Đa Kia, Xa Cam, Xa Cát.

Chính sách mỵ dân của cái gọi là “Đất Thượng của người Thượng “ mà bọn Pháp rêu rao trước đó nhưng không thực hiện đã dần dần bộc lộ sự giả dối trước đồng bào dân tộc thiểu số Mất đất, mất những quyền lợi thiết thân hàng ngày, cùng nhiều đau khổ do giặc Pháp gây ra đã tạo nên mối thù sâu sắc trong đồng bào dân tộc làm bùng nổ những cuộc nổi dậy có tiếng vang lớn trên toàn vùng núi miền Đông. Trong buổi đầu chống Pháp, cuộc khởi nghĩa của Trương Quyền - con trai của Trương Định - liên minh với lực lượng nhà sư yêu nước Pu Côm Pô (người Khơ me) diễn ra từ năm 1864 trên địa bàn rộng lớn ở vùng rừng núi Biên Hòa, dọc tuyến biên giới Việt Nam-Campuchia (Bình Phước ngày nay).

Sang đầu thế kỷ XX, ở Đông Nam Bộ cơn sốt thành lập đồn triển cao su gắn liền với việc cướp đất đai của đồng bào các dân tộc diễn ra gay gắt, làm mâu thuẫn giữa đông bào các dân tộc với bọn thực dân và bọn chủ đồn điền ngày càng phát triển, bùng nổ thành các cuộc nổi dậy diễn ra khá liên tục. Năm 1908, cuộc nổi dậy dưới sự lãnh

(1) Nơ Trang long (1870 - l935), người M’nông, quê quán ở vùng Phước Long, lấy vợ ở Tây Nguyên.)

28

đạo của ông Điểu Dố - người S’tiêng ở sóc Thủ Bổn, Xa Trạch, quận Hớn Quản đã thu hút đông đảo đồng bào các dân tộc S’tiêng, Châu ro, Mạ, Tà mun, M’nông, Khơ me... tham gia hưởng ứng, đoàn kết cùng nhau đánh giặc Pháp chiếm buôn làng. Tuy vũ khí còn rất thô sơ cung tên, giáo mác, cây rừng vót nhọn) nhưng tinh thần chiến đấu của nghĩa quân Điểu Dố rất dũng cảm làm tiêu hao sinh lực địch, ông Dố lập căn cứ ở Núi Gió (Quản Lợi), chỉ huy nghĩa quân đánh các bót ở Hớn Quản, Bù Đốp và hoạt động ở nhiều nơi khác. Thực dân Pháp hoảng sợ, nhiều lần mở các cuộc càn quét, đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau nhiều đợt chống trả quyết liệt, trước sức mạnh áp đảo cả về quân số lẫn vũ khí của giặc, nghĩa quân Điểu Dố rút về Long Nguyên (Bến Cát). Bị giặc truy đuổi ráo riết và khép chặt vòng vây. Điểu Dố cùng nghĩa quân quyết tâm chiến đấu đến cùng, không khuất phục kẻ thù, đế lại hình ảnh hy sinh anh dũng của người thủ lĩnh nghĩa quân trong mọi tầng lớp đồng bào.

Tiếp đó, là cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Nơ Trang Long (l) (19-12-1914). Đây là thời kỳ oanh liệt và hào hùng của phong trào đồng bào dân tộc vùng núi rừng Bà Rá, Hớn Quản, Lộc Ninh, Phú Riềng. Đứng đầu các cuộc khởi nghĩa là ông R’Đing, chủ làng S’tiêng ở sóc Bu Kơn, ông R’Ông, chủ làng M’nông ở lưu vực sông Đak Huýt, sóc Buluk Amprak. Đội quân của họ thường có từ 150 đến 170 người, có lúc lên đến 400 - 500 người, liên kết với một số thủ lĩnh khác trong vùng phối hợp cùng với phong trào đấu tranh của công nhân các đồn điền gây cho

29

giặc nhiều khó khăn đáng kể. Họ đánh đồn Bu Ndun nhằm ngăn chặn toán quân của tên công sứ Kratié đi đàn áp khởi nghĩa (l) (Mạc Đường - vấn đề dân tộc ở Sông Bé, 1985, trang 154), góp phần quan trọng làm nên chiến thắng lẫy lừng của nghĩa quân Nơ Trang Long tại Bu-mê-ra.

Những năm 1924 - 1 925 , thực dân Pháp đưa tên Đại úy Gatille lên làm quản đạo khu vực Bù Đốp và vùng tiếp giáp với Campuchia. Chính sách cai trị tàn bạo của Gatille đã thổi bùng ngọn lửa của đồng bào S’tiêng sau một thời gian tạm lắng. Thủ lĩnh R’đing lại đứng lên tập hợp lực lượng nghĩa quân S’tiêng và H’mông chống Pháp. Chiến công nổi bật nhất của R’Ding giai đoạn này là phục kích giết chết tên Đại úy Gatille, làm nức lòng nhân dân trong vùng, cũng như các địa phương lân cận.

Tuy nhiên. những cuộc nổi dậy anh dũng của các đồng bào, các dân tộc ở Bình Phước nói riêng và Đông Nam Bộ nói chung cuối cùng đều bị thực dân Pháp đàn áp và dập tắt. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại chung cuộc của phong trào chống Pháp ở miền Đông do tương quan lực lượng quá chênh lệch, vũ khí lạc hậu, trình độ tác chiến còn nhiều hạn chế.... nhưng bao trùm lên tất cả chính là do chưa có định hướng và phương pháp đấu tranh đúng đắn, phù hợp.

Song song với cuộc đấu tranh của các đồng bào dân

(Lịch sử Đảng bộ Sông Bé - tập 1. xuất bản năm 1995, trang 51)(1) Trần Tử Bình, Phú Riềng Đỏ, NXB Lao động, Hà Nội năm 1971, trang 46.(2) Hồi ký Nguyễn Mạnh Hồng, tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Phước.

30

tộc là những cuộc đấu tranh của công nhân ở các đồn điền cao su. Nhưng thời kỳ đầu do chưa có sự giác ngộ về giai cấp, chưa có sự nhận thức đúng đắn về phương hướng và mục tiêu đấu tranh, những cuộc đấu tranh đó đều mang tính tự phát nhằm thay đổi phần nào hoặc thoát khỏi cuộc sống đau khổ và tủi nhục hiện tại. Những hình thức phản ứng khá phổ biến lúc bấy giờ là bỏ trốn, tự tử, nổi dậy chém Tây, lãn công, triệt hạ cây trồng.

Bỏ trốn là một kiểu phản ứng truyền thống của những người phu trong giai đoạn đầu mới thành lập đồn điền. Nhưng trong số những người đi trốn, số thoát được rất ít. Trong các năm 1927 - 1929 ở các đồn điền Lộc Ninh, Hớn Quản, Đa Kia, Dầu Tiếng... hình thức bỏ trốn là phổ biến. Năm 1927, có 3.824 người bỏ trốn, bị bắt lại 1.440 người; năm 1929 có 4.301 người bỏ trốn, bị bắt lại 1.961 người (l

Bọn chủ tư bản Pháp tìm cách ngăn chặn như treo giải thưởng cho đồng bào Thượng bắt sống hoặc chặt đầu dân “Contrat” trốn thì được thưởng tiền và muối. Số phu đồn điền bỏ trốn ngày càng đông nên năm 1927 thực dân Pháp thành lập “Sở những người kiểm soát lao động” (Seruice des controleurs de travail) với quyền hạn đặc biệt bắt lại những người công nhân bỏ trốn.

Số người bị bắt lại sẽ chịu đựng cùng một lúc cả hai loại hình pháp luật đó là pháp luật của Nhà nước thực dân Pháp và pháp luật riêng của “Vương quốc cao su”. Số phận của họ bi thảm hơn những người phu đi trốn đã bỏ xác lại khi lạc đường như trường hợp 7 người phu bị lính (1) Trần Tử Bình, Phú Riềng Đỏ, Sđd, trang 46.

��

bắt lại ở đồn điền Phú Riềng mà Trần Tử Bình kể lại trong Phú Riềng đỏ: “Thằng chủ hạ lịnh cho lính mang giày săn đá vào, rồi bắt dằn người đi xuống đất, cho lính dẫm giày đinh lên lồng ngực người đứng ngoài nghe thấy tiếng xương gãy kêu răn rắc, xong chúng còn đánh tiếp một trận gậy “thừa sống thiếu chết “ nữa rồi bỏ vào nhà tối cùm lại. Một tuần sau nhân có chuyện cùm phạt một công nhân khác, chúng mở cửa nhà tối ra thì 7 người bữa đó đã chết cứng ngắt, chân vẫn còn tra chéo trong cùm” (l) Tự tử cũng là hình thức phản kháng tự phát mang tính tiêu cực trong thời kỳ đầu.

Do cuộc sống nô lệ đen tối và đầy bi thảm không lối thoát, không còn hy vọng thiết tha gì về tương lai, nhiều công nhân đồn điền đã dùng cách tự sát để chấm dứt nỗi khổ ải của mình.

Nguyễn Mạnh Hồng một công nhân kỳ cựu từ trước năm 1930 ở đồn điền Phú Riềng nói về tình hình tự tử của phu đồn điền như sau: “Tự sát thì nhiều vì con đường đánh Tây để về Bắc rất khó nên người đau ốm chỉ giải quyết bằng cách tự sát - tự sát trong nhà, tự sát ở suối nước. Từ nhà ra rừng cao su lúc nào cũng có mùi hôi thối của người tự sát treo cổ” (l) Bỏ trốn và tự tử là 2 hình thức phản ứng thấp nhất của công nhân cao su những ngày đầu đấu tranh tự phát. Nó bộc lộ những hạn chế tiêu cực của tâm lý giai cấp giai đoạn bước đầu .

Ở thời kỳ này, công nhân cao su còn sử dụng nhiều hình thức đấu tranh khác như: gửi đơn lên thưa kiện tòa án Biên Hòa (tháng 12/1927) , cử đại diện gặp phái viên

��

Nam Triều và Đen-ma-rơ (Delmarre) - thanh tra lao động - tố cáo tội ác của tên chủ Va-se (Vechet) ở Phú Riềng năm 1928. Tiêu biểu là việc kiện ra tòa tên Va-lăng-tanh (Valentin) đánh chết anh Nguyễn Văn Chánh xảy ra cuối năm 1927, cũng tại đồn điền cao su Phú Riềng. Một số công nhân liều lĩnh chọn một hình thức phản ứng tự phát đặc biệt - giết chết bọn cai gian ác, như trường hợp anh Nguyễn Đình Tư trước là “tay chơi nổi tiếng” ở Bắc, cầm đầu 120 anh em công nhân làng 2, Phú Riềng chém chết tên Mông - tây (Monteil) ác bá vào tháng 12/1927. Cuộc nổi dậy là cái cớ để bọn chủ tư bản Pháp gây ra vụ thảm sát lớn nhất đối với công nhân Phú Riềng cho đến lúc đó. Sau khi chém chết tên Mông - tây, anh em chạy trốn trong rừng. Tên chủ Tri-e (Triai) ra lệnh cho bọn lính người da đen kéo đến đàn áp, đuổi bắt và xả súng bắn vào rừng. Gần 50 người bị bắt lại trong số đó có anh Nguyễn Đình Tư, sau bị tòa án Biên Hòa kêu án tử hình, số còn lại bị chúng bắn chết và vùi xác luôn ngoài rừng.(�)

Ngoài những hình thức trên, các hình thức đấu tranh truyền thống như bãi công, đưa kiến nghị lên chủ đồn điền được nhiều nơi áp dụng như ở Lộc Ninh (8/4/1928), Phú Riềng có 3 cuộc đấu tranh với nội dung phong phú, yêu sách thiết thực đòi tăng lương và làm việc 8 giờ/ngày (9/1927), chống làm khoán và chống đánh đập (1928). Đặc biệt là cuộc bãi công lớn của 2000 công nhân Phú Riềng, đã cử đại diện đưa yêu sách đòi tăng lương, đòi nữ công nhân nghỉ đẻ được hưởng lương, đòi không phát gạo ẩm,

��

khô mục... Bọn chủ đưa lính tới đe dọa nhưng không có cớ để nổ súng, cuối cùng buộc phải chấp nhận sẽ giải quyết các yêu sách mà công nhân đã đề ra. Trong các hình thức đấu tranh tự phát của công nhân cao su trước khi Đảng ra đời còn có hình thức lãn công, triệt hạ cây cao su.

Tuy nhiên, hầu hết những hình thức đấu tranh tự phát của công nhân cao su đều không mang lại kết quả, có khi phải chịu đựng những sự trả thù rất đẫm máu của kẻ thù. Tuy nhiên, qua những cuộc đấu tranh này, công nhân càng yêu thương gắn bó và hiểu biết lẫn nhau. Nhận thức của họ về kẻ thù, về giai cấp mình được nâng lên và kinh nghiệm đấu tranh được tích lũy ngày thêm phong phú. Đó là những tiền đề quan trọng định hướng cho đội ngũ công nhân cao su tham gia phong trào cách mạng, từng bước hướng về chủ nghĩa Mác-Lênin. Cuối năm 1929, các cuộc đấu tranh của công nhân Phú Riềng bắt đầu có nhân tố mới là sự lãnh đạo của chi bộ cộng sản ở đây.

��

CHƯƠNG II PHONG TRÀO CÔNG NHÂN LAO ĐỘNG

BÌNH PHƯỚC TRONG THỜI KỲ ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 - 1945)

I. CHI BỘ ĐÔNG DƯƠNG CỘNG SẢN ĐẢNG PHÚ RIỀNG RA ĐỜI, PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA CÔNG NHÂN LAO ĐỘNG CHUYỂN TỪ TỰ PHÁT SANG TỰ GIÁC.

Những cuộc đấu tranh đầy hi sinh gian khổ của công nhân đồn điền Miền Đông nói chung, Bình Phước nói riêng trong những năm đầu thế kỷ 20, tuy thất bại nhưng họ kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đó là tinh thần yêu nước, sẵn sàng chiến đấu bảo về nền độc lập tự do. Tinh thần yêu nước căm thù thực dân Pháp xâm lược là động lực quan trọng thúc đẩy sự hình thành sớm ý thức giác ngộ giai cấp và dân tộc trong đội ngũ công nhân lao động Bình Phước. Tuy ý thức đó mới dừng lại mức độ tự phát, nhưng là điều kiện quan trọng để họ tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, đặt cơ sở cho sự ra đời của một tổ chức cách mạng trên mảnh đất cách mạng này.

Kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở Nam kỳ được thành lập vào năm 1927. Thực hiện chủ trương “Vô sản hóa”, nhiều hội viên của Kỳ bộ đã đi vào làm phu, làm thợ máy tại các đồn điền miền Đông Nam Bộ, trong số đó có đồng chí Nguyễn Xuân Cừ (tức Nguyễn

��

Văn Vĩnh), quê ở Bắc Ninh, là học sinh trường Bưởi ở Hà Nội, có bằng tú tài, nói tiếng Pháp rất thành thạo, sớm giác ngộ cách mạng, được cử đến vô sản hóa ở đồn điền cao su Phú Riềng vào khoảng đầu năm 1928. Người đầu tiên anh tìm gặp bắt liên lạc là anh Trần Tử Bình - công nhân làm việc ở trạm xá, người nổi tiếng trong các cuộc đấu tranh của công nhân Phú Riềng trước đây. Sau một thời gian tuyên truyền, phát triển hội viên, tháng 4/1928 chi bộ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đồn điền Phú Riềng được thành lập gồm 5 hội viên: Nguyễn Xuân Cừ, Trần Tử Bình, Phan Thu Hồng, Tạ và Hòa do đồng chí Nguyễn Xuân Cừ làm bí thư. Đây là tổ chức cách mạng có xu hướng cộng sản, lãnh đạo phong trào công nhân đồn điền Phú Riềng. Cho đến tháng 10/1929, đó là một trong 19 chi bộ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở Nam kỳ, 5 trong tổng số 500 hội viên của Kỳ bộ Nam Kỳ.

Sau một thời gian thành lập, Chi bộ Việt Nam cách mạng Thanh niên đồn điền Phú Riềng đã lãnh đạo cuộc bãi công với 2000 công nhân, nổ ra ngày 20/10/1929. Công nhân cử đại diện lên gặp chủ sở Xu-ma-nhắc (Soumagnac) đưa các yêu sách đòi tăng lương, chống đánh đập, không ăn gạo mục, nữ công nhân nghỉ đẻ được hưởng lương. Chủ sở cho lính đến đàn áp và bắt đi một số công nhân. Không nao núng, anh chị em công nhân tiếp tục cuộc đấu tranh, buộc chủ phải chấp nhận giải quyết các yêu sách của công nhân. Thắng lợi đầu tiên này đã cổ

��

vũ phong trào công nhân địa phương trong bối cảnh các tổ chức Cộng sản đang hình thành trên cả nước.

Tại Phú Riềng lần đầu tiên công nhân cao su đã hình thành được tổ chức Công hội đỏ, do đồng chí Phan Thu Hồng - hội viên Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, một công nhân lái xe của đồn điền làm thư ký - đã quy tụ đông đảo công nhân trong đồn điền. Chính tổ chức Công hội đỏ Phú Riềng là cơ sở quan trọng trong việc giác ngộ ý thức cách mạng cho công nhân đồn điền. Tổ chức Công hội đỏ Phú Riềng là một hình mẫu nền tảng của các tổ chức Công hội, Nghiệp đoàn của đội ngũ công nhân sau này.

Sau khi được thành lập, khoảng tháng 8/1929 Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng cử đồng chí Ngô Gia Tự và một số cán bộ vào Nam để xây dựng cơ sở Đảng ở 3 nơi trọng yếu: Vĩnh Kim (Mỹ Tho), Ba Son (Sài Gòn) và Phú Riềng (cao su miền Đông).

Đêm 28/10/1929, tại khu rừng sau lưng làng 3, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng được thành lập gồm 6 đảng viên: Nguyễn Xuân Cừ, Trần Tử Bình, Phan Thu Hồng, Tạ, Hòa và Doanh, do đồng chí Nguyễn Xuân Cừ làm bí thư. Đây là chi bộ cộng sản đầu tiên của miền Đông Nam Bộ và của ngành cao su Việt Nam.

Sau khi thành lập, Chi bộ tập trung củng cố và phát triển tổ chức Công hội đỏ. Sau cuộc đấu tranh đòi chủ sở phải tăng lương, chống đánh đập công nhân, trợ cấp cho phụ nữ hậu sản thắng lợi; công nhân tham gia tổ chức

37

Công hội đỏ (Nghiệp đoàn) rất đông. Nghiệp đoàn cho ra tờ báo “giải thoát” nhằm tuyên truyền giáo dục ý thức cách mạng, hướng dẫn công nhân đấu tranh theo đường lối của Đảng. Đây cũng là một tờ báo đầu tiên của công nhân cao su Việt Nam, có ảnh hưởng lớn đối với phong trào công nhân miền Đông Nam Bộ lúc bấy giờ. Trên cơ sở tổ chức nghiệp đoàn đó. Chi bộ mở rộng công tác phát triển Đảng. Nhân kỷ niệm lần thứ 12 Cách mạng tháng Mười Nga, Chi bộ kết nạp đồng chí Nguyễn Mạnh Hồng là đảng viên mới. Từ đây, Chi bộ đẩy mạnh hơn công việc đào tạo các “hạt giống đỏ” cho các đồn điền khác trong khu vực .

Để phát triển tổ chức cơ sở cách mạng, Chi bộ đã gắn kết chặt chẽ với phong trào đấu tranh của công nhân. Cuối tháng 1/1930, Chi bộ chủ trương mở một cuộc đấu tranh lớn đòi quyền lợi kinh tế cho nhiều đối tượng ở đồn điền, lấy tổ chức Nghiệp đoàn công nhân Phú Riềng làm nòng cốt. Trước đó, đồng chí Trần Tử Bình được giao nhiệm vụ Bí thư thay đồng chí Nguyễn Xuân Cừ (l) đã cùng Chi bộ chuẩn bị cho cuộc đấu tranh khá chu đáo. Ngày 3/2/1930, 5.000 công nhân thực hiện cuộc tổng bãi công với các khẩu hiệu: cấm đánh đập, chống cúp phạt, đòi miễn sưu thuế, trả lương cho công nhân bị tai nạn lao động, trả về quê cũ những người hết hạn giao kèo, trả tự

(Lúc này đồng chí Nguyễn Xuân Cừ đã bị bọn cầm quyền Pháp trục xuất về Bắc. Nhưng đông chí ở lại hoạt động bất hợp pháp ở Sài Gòn, bắt liên lạc với chi bộ cũ do đông chí Ngô Gia Tự chỉ đạo.)

38

do cho những người bị bắt...Mặc dù bị đàn áp, một công nhân bị đánh chết, một số bị bắt, nhưng công nhân vẫn tiếp tục đấu tranh với sức mạnh của công nhân 10 làng đồng loạt tham gia kéo lên quận Bà Rá với khẩu hiệu mới “Chủ sở không chấp nhận yêu sách quyết không đi làm”. Trước sức mạnh của cuộc đấu tranh, Quận trưởng Môre (Morève) cũng như chủ sở Xu-ma-nhắc (Soumagnac) phải chấp nhận giải quyết các yêu sách của công nhân bằng việc lập biên bản được ký kết giữa chủ và thợ, cam kết thực hiện tất cả những yêu sách của công nhân. Thừa thắng, một số đảng viên và công nhân có chủ trương tiến tới bạo động giành chính quyền ở Phú Riềng.

Được tin đó, Xứ ủy Nam Kỳ đã cử đồng chí Nguyễn Xuân Cừ (lúc này ở Sài Gòn) đến Phú Riềng kịp thời chỉ đạo chuyển hướng đấu tranh, tránh manh động nhưng vẫn duy trì được phong trào, bảo tồn lực lượng cách mạng. Cuộc bãi công mở đầu ngày 30/1 và kết thúc ngày 6/2/1930. Sau 8 ngày đấu tranh anh dũng, “Phú Riềng Đỏ” đã giành thắng lợi to lớn, tạo ảnh hưởng rộng rãi và để lại những bài học sâu sắc. Cuộc bãi công ấy đã làm rung chuyển cả hệ thống “địa ngục cao su” Đông Dương, làm chấn động dư luận báo chí nước Pháp. Bài học quý báu nhất của, cuộc đấu tranh là nổ ra đúng lúc, giành thắng lợi và bảo toàn được lực lượng cách mạng. Đây là Chi bộ cộng sản đầu tiên dựa vào tổ chức nghiệp đoàn công nhân vững mạnh để tổ chức đấu tranh và bằng cuộc đấu tranh tiêu biểu mùa Xuân 1930, “Phú Riềng

39

Đỏ”đã thúc đẩy việc xây dựng và phát triển cơ sở Đảng, cơ sở Nghiệp đoàn, thúc đẩy phong trào công nhân miền Đông Nam Bộ bước vào thời kỳ mới - thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

II. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN LAO ĐỘNG TRONG CUỘC ĐẤU TRANH ĐÒI QUYỀN DÂN SINH - DÂN CHỦ (1930 - 1939)

Vào thời điểm những năm 1929 - 1933, cuộc khủng hoảng kinh tế trong thế giới tư bản chủ nghĩa gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động. Mọi tai họa do cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra trước tiên trút lên đầu giai cấp công nhân và nông dân. Những tầng lớp xã hội khác cũng không kém phần điêu đứng.

Bên cạnh đó thực dân Pháp lại thi hành chính sách khủng bố trắng sau phong trào công nhân, nông dân Nghệ Tĩnh, công nhân đồn điền cao su Phú Riềng, cuộc khởi nghĩa Yên Bái..., làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân ta và thực dân Pháp ngày càng thêm sâu sắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã trực tiếp lãnh đạo và phát động phong trào cách mạng sôi nổi, rầm rộ trong cả nước .

Ở hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa phong trào cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đã bùng lên sôi nổi mạnh mẽ. Mở đầu là cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền Dầu Tiếng, đồng loạt đình công và kéo ra biểu tình phản đối sự có mặt của tên

40

cựu chủ sở Phú Riềng. Tiếp theo vào cuối năm 1932, một lần nữa công nhân Dầu Tiếng lại bãi công, kéo lên trụ sở đòi tăng lương, bớt giờ làm và phản đối việc chủ cai đánh đập công nhân. Cuộc đấu tranh này quyết liệt, có tổ chức hơn và đạt được thắng lợi. Tháng 5/1933 công nhân cao su Lộc Ninh đã bãi công kèm biểu tình của 500 công nhân thuộc các làng, sở, đòi tên Đờ - la - lăng (Delaland) phải thực hiện các yêu sách: không được tự tiện giảm lương từ 40 xu xuống còn 30 xu, không được uy hiếp công nhân. Bọn chủ sở viện lý do giảm lương là quyết định của “Chính phủ bảo hộ” nên không chấp nhận yêu sách. Thế là công nhân các làng, sở ở 2 đồn điền cao su Lộc Ninh và Đa Kia (Phước Long), dưới sự lãnh đạo của ban tổ chức đấu tranh, kẻ cầm gậy, người cầm dao, giáo, mác ùn ùn kéo đến văn phòng sở. Đoàn người lúc đầu 500 người. nhưng một lúc sau đã tăng lên gấp đôi, có cả công nhân là đồng bào dân tộc ít người. Từng đợt một họ đồng thanh hô khẩu hiệu: “Không được giảm lương của công nhân”.

Trước khí thê sôi sục của công nhân, chủ sở buộc phải nhận bản yêu sách của công nhân và hứa nghiên cứu giải quyết. Nhưng hắn đã xảo quyệt ra lệnh bí mật điều một trung đội lính đến đàn áp. Địch nổ súng vào đoàn biểu tình, làm một người chết. Cuộc đấu tranh như có thêm dầu vào lửa, công nhân xông lên đánh nhau với bọn lính. Chúng bắt đi 40 người, nhưng cuộc đấu tranh vẫn không dừng lại. Cuối cùng chúng phải thả những người

��

bị bắt và chấp nhận yêu sách, điều bọn lính đi nơi khác. Cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền Lộc Ninh và Đa Kia tuy có đổ máu, nhưng đã giành được thắng lợi.

Tiếng vang của những cuộc đấu tranh quyết liệt này có ảnh hưởng rất lớn đến đội ngũ công nhân cao su ở vùng Hớn Quản, Bà Rá. Khẩu hiệu đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ trong các đồn điền tiếp tục được nêu lên. buộc bọn chủ phải giải quyết những yêu sách chính đáng của công nhân. Mặc dù bị đàn áp. công nhân các đồn điền Quản Lợi, Xa Cam, Xa Trạch, Bình Sơn, Phú Hưng thuộc công ty Đất Đỏ cũng như các đồn điền khác trên khắp miền Đông Nam Bộ, lần lượt nổi dậy đấu tranh giáp mặt với chủ đồn điền, buộc chúng phải giải quyết những yêu sách không được phát gạo mục, cá thối cho công nhân. Thông qua những cuộc đấu tranh này đội ngũ công nhân được củng cố, kinh nghiệm đấu tranh được tích lũy. Nhiều công nhân được thử thách, đã trở thành những cán bộ ưu tú của Đảng.

Các cuộc đấu tranh của công nhân cao su Phú Riềng, Dầu Tiếng, Lộc Ninh, Đa Kia đã tác động đến phong trào yêu nước của đồng bào các dân tộc thiểu số. Bên cạnh một số hoạt động đấu tranh nổi bật như cuộc nổi dậy của đồng bào S’tiêng vùng Bà Rá do Điểu Son, Điểu Giang, Điểu Môn Điểu Mót lãnh đạo giết chết tên đồn trưởng cảnh sát August Morère (l0/1933); trận tấn công của hơn 300 nghĩa quân người S’tiêng vào đồn Bù Kơ (Bù Đốp) tháng 01/1934..., đồng bào còn tổ chức cắm chông bảo vệ

��

buôn sóc, ngăn địch lùng sục. Phong trào này lan nhanh từ vùng đồng bào S’tiêng đến các địa bàn cư trú lân cận của người M’nông, Mạ, Châu ro đến cả vùng dân tộc ít người ở Tây Nguyên. Bên cạnh đó, đồng bào còn hết lòng đùm bọc, che chở cho một số cán bộ đảng viên vượt ngục Bà Rá, Tà Lài... trở về khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng. Những hoạt động yêu nước của đông bào các dân tộc chống Pháp là những minh chứng hùng hồn cho sự đoàn kết thống nhất dân tộc, không kẻ thù nào có thể thực hiện được âm mưu chia rẽ ly gián.

Đầu năm 1936 , Tỉnh ủy lâm thời Thủ Dầu Một được thành lập để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong tỉnh. Lúc này ở Pháp, Chính phủ Mặt trận bình dân lên cầm quyền, thi hành một số quyền lợi cho quần chúng lao động ở thuộc địa, trong đó có sắc lệnh “Ân xá chính trị phạm “. Đây là cơ hội thuận lợi cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta.

Dựa vào chủ trương mới của Đảng, Tỉnh ủy chỉ đạo các chi hội và các hội quần chúng tận dụng mọi hình thức công khai hợp pháp và nửa hợp pháp, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, chống chế độ phản thuộc địa và tay sai tại các đồn điền cao su Hớn Quản, Lộc Ninh, Thuận Lợi và các địa phương khác, các tổ chức cơ sở cũ của công nhân được củng cố, phát triển các tổ chức cơ sở Đảng còn cử nhiều cán bộ về địa phương để gây dựng phong trào cách mạng. Một số cán bộ đi vào các làng công nhân gặp gỡ bà con tuyên

��

truyền giác ngộ cách mạng, vận động ra các tổ chức hội quần chúng như hội đá banh, hội đồng hương... làm cho phong trào đấu tranh ở các đồn điền lên mạnh.

Ngày 4/5/1938, 150 công nhân đồn điền cao su Thuận Lợi cử đại biểu lên gặp chủ sở đưa ra yêu sách: chống đánh đập, ngày làm 8 giờ, chống bán gạo mục, cá thối... Sự kiện này nổ ra còn do phong trào đấu tranh của công nhân Dầu Tiếng, Lộc Ninh tác động. Lúc này. Dầu Tiếng đã có chi bộ Đảng và hội ái hữu hoạt động mạnh, các đồng chí đảng viên từ Dầu Tiếng đã bí mật tuyên truyền gây cơ sở cách mạng ở Thuận Lợi.

Cuộc bãi Công của công nhân đồn điền cao su Quản Lợi, Xa Cát, Xa Trạch... phản đối hành động đánh đập của bọn cai. Trong cuộc bãi công này, 4 công nhân bị bắt, nhưng đã làm cho bọn cai, sếp chùn tay.

Cuộc bãi công, biểu tình của công nhân đồn điền cao su Lộc Ninh thuộc Công ty Xét-xô ngày 21/12/1938, hơn 300 công nhân biểu tình của các làng và cử đại diện công nhân đưa yêu sách cho tên chủ Đờ - la - lăng với nội dung: tăng lương cho công nhân, thi hành ngày làm việc 8 giờ, giảm phần cạo, bớt từ 400 cây xuống 350 cây/ngày, công nhân bị bệnh phải có thuốc uống. Công nhân tổ chức thành đội ngũ, từng đoàn đi diễu hành từ làng đến văn phòng sở. Trước tình hình đấu tranh quyết liệt của công nhân, bọn chủ đành chấp nhận yêu sách của công nhân và hứa giải quyết.

Như vậy, phong trào đấu tranh của công nhân lao

��

động Bình Phước trong thời kỳ 1930 - 1939 đã thực sự đưa lại phong trào cách mạng rộng lớn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân đã phối hợp chặt chẽ với nông dân, đồng bào dân tộc tham gia các phong trào đấu tranh chung. Qua thực tiễn đấu tranh công nhân lao động được rèn luyện, thử thách để chuẩn bị bước vào trận chiến đấu mới.

III. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA CÔNG NHÂN LAO ĐỘNG BÌNH PHƯỚC TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHóNG DÂN TỘC (1939 - 1945)

Từ cuối năm 1939 sang cuối năm 1940, tình hình quốc tế và trong nước có nhiều chuyển biến lớn: chiến tranh thế giới thứ II thứ bùng nổ, nước Pháp thua trận, phát xít Nhật đưa quân vào Đông Dương. Trong nước thực dân Pháp thi hành chính sách kinh tế thời chiến, ra sức vơ vét tiền của và nhân lực của nhân dân ta phục vụ cho chiến tranh, thẳng tay đàn áp Đảng Cộng sản và ngăn chặn các quyền tự do dân chủ . Những quyền lợi ít ỏi do Mặt trận dân chủ đem lại bị xóa sạch. Tự do nghiệp đoàn và ái hữu bị ngăn cấm. Nhiều thanh niên bị bắt đi lính đưa sang “Chính quốc” và đi đánh thuê ở Thái Lan.

Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, Tỉnh ủy Biên Hòa tổn thất lớn, đa số đảng viên trong tỉnh bị địch bắt, giết hại hoặc cầm tù. Những đảng viên, cán bộ còn lại và các nơi khác về đây vẫn kiên trì len lỏi hoạt động với nhiều ngành nghề khác nhau để tìm cách gây dựng lại phong trào. Đồng chí Nguyễn Văn Tửng là cấp ủy Đảng ở Mỹ Tho,

��

đồng chí Hoàng Dư Khương (Nguyễn Xang), Nguyễn Văn Tung, Văn Công Khai, HuỳnhVăn Một, Lê Đức Anh đã về vùng Thủ Dầu Một hoạt động chủ yếu trong công nhân cao su. Đồng chí Lê Đức Anh hoạt động hợp pháp ở Lộc Ninh lập ra nhóm “ Công nhân nòng cốt , các hội đá banh, hội đồng hương... để tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho quần chúng, từng bước củng cố và pháttriển phong trào đấu tranh của công nhân. Mặc dù sống trong hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm, nhưng nhờ sự đùm bọc che chở của quần chúng, những cán bộ trung kiên của Đảng được bảo vệ an toàn trước sự truy lùng, giăng bẫy của kẻ thù. Sự hoạt động tích cực của cán bộ Đảng thực sự là hạt nhân làm bùng lên những cuộc đấu tranh mới.

Cuối năm 1942, cuộc chiến tranh thế giới có nhiều chuyển biến thuận lợi cho quân Đồng minh. Liên Xô giành nhiều thắng lợi và tiến hành phản công trên khắp các mặt trận. Ở Đông Dương phát xít Nhật ngày càng lấn Pháp, nắm quyền kiểm soát hầu hết các đầu mối quân sự, kinh tế quan trọng.

Những chuyển biến ấy đã có tác động đến tình hình cách mạng Việt Nam. Riêng phong trào cách mạng trong tỉnh có sự chuyển biến mới. Ở nhà tù Bà Rá (Phước Long) nơi giam giữ gần 400 quần chúng yêu nước và những người cộng sản, trong đó phần lớn bị bắt vì tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ, các đồng chí đã bí mật thông tin cho nhau. Riêng tại Cô Lông, các đồng chí tổ chức hội “Người cùng quê” để làm công tác binh vận, liên

��

lạc với người nhà để nhận sách báo và tin tức đấu tranh ở các tỉnh.

Tại đồn điền Lộc Ninh, vào những ngày cuối năm 1942, hàng trăm công nhân các làng 4, 9, 10 đã biểu tình thị uy đòi chủ phải giảm giờ làm việc, thực hiện nghị định Toàn quyền Đông Dương đã ký trước đây, không được cúp lương công nhân. Thực dân Pháp và chủ sở chẳng những không đáp ứng nhu cầu chính đáng của công nhân mà còn nổ súng đàn áp làm gần 1 0 người chết và bị thương và bắt đi một số công nhân. Hành động này càng làm thêm sôi sục lòng căm thù của hai vạn công nhân cao su đang sống ở 11 làng.

Rút kinh nghiệm đấu tranh, ta kịp thời củng cố lại tổ chức. Đầu năm 1943, hơn 300 công nhân làng gốm đồn điền Lộc Ninh lại kéo vào văn phòng chủ sở, đòi giảm giờ làm, không được cúp lương mà phải tăng lương cho công nhân. Lần này đội ngũ công nhân đã tổ chức ra một lực lượng thanh niên khỏe để bảo vệ đoàn biểu tình. Tất cả tràn tới bao vây nhà tên chủ sở Đờ - la - lăng, bọn lính gác cấp báo cho chủ, cuối cùng Chánh chủ sở Công ty Xét-xô buộc phải tiếp đón đại diện công nhân, nhận giải quyết theo nội dung yêu cầu của công nhân, đồng thời chấp nhận thay một số lính ác ôn thường đàn áp công nhân đi nơi khác.

Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo công nhân và phong trào cách mạng chung của toàn tỉnh Thủ Dầu Một, đầu năm 1943 tại làng 1 đồn điền cao su Dầu Tiếng, Tỉnh

47

ủy lâm thời thành lập do đồng chí Văn Công Khai làm bí thư, các đồng chí Lê Đức Anh và Nguyễn Văn Trung được phân công chỉ đạo phong trào Lộc Ninh, Hớn Quản và toàn bộ phía Bắc của tỉnh. Đầu năm 1944. Tỉnh ủy lâm thời họp lần thứ 2 quán triệt thêm Nghị quyết Trung ương Đảng lần VIII, đẩy mạnh phong trào lên một bước, nhất là ở các đồn điền cao su và vùng dân tộc.

Tháng 2/1944, chi bộ Lộc Ninh được thành lập gồm 3 đảng viên do đồng chí Lê Đức Anh, ủy viên ban cán sự tỉnh phụ trách vấn đề dân tộc làm Bí thư. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Điều lệ Việt Minh được phổ biến sâu rộng trong công nhân và nhân dân ở Lộc Ninh, Hớn Quản. Ngoài ra, chi bộ còn thành lập nhóm trung kiên gồm các ông Hé, ông Ký Thịnh, ông Khiêm, ông Ba Đèn, ông Cai Loại và ông Hai Hưng làm nòng cốt vận động phong trào Việt Minh, tạo cơ sở cho các hội cứu quốc ra đời.

Đầu năm 1945, các hội cứu quốc lần lượt ra đời ở nhiều nơi trong tỉnh, trong đó có Bà Rá, Quản Lợi, Lộc Ninh... Sau khi được thành lập, hội viên các hội cứu quốc tích cực vận động nhân dân tham gia hội để đấu tranh chống lại Pháp - Nhật chuẩn bị giành chính quyền. Riêng ở Hớn Quản, đồng bào dân tộc thiểu số đã tổ chức ra một đội bán vũ trang khoảng vài chục người được trang bị cung tên, giáo gươm và khoảng 6, 7 cây súng trường, súng săn do anh Giáo (thầy giáo người Kinh) chỉ huy.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp, (ngày 9/3/1945), tình

48

thế khủng hoảng chính trị sâu sắc xuất hiện và kéo dài, làm cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa chín mùi nhanh chóng. Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Trung ương Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, rộng khắp làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa.

Quán triệt nghị quyết của Trung ương và Xứ ủy Nam Kỳ về Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đồng chí Văn Công Khai - Bí thư Tỉnh ủy thành lập ủy ban khởi nghĩa do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy phụ trách, các cơ sở lập ủy ban khởi nghĩa. Theo kế hoạch ngày 25/8/1945 tập trung lực lượng toàn tỉnh giành chính quyền tại thị xã; các thị trấn, đồn điền cao su cũng đồng loạt khởi nghĩa.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và Ủy ban khởi nghĩa, nhân dân trong tỉnh đã đứng lên giành chính quyền.

Tại Lộc Ninh, ngày 24/8/1945, đội tự vệ do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy cùng với công nhân cao su và quần chúng kéo vào thị trấn cướp chính quyền. Bọn Nhật nổ súng chống cự, lập tức đội tự vệ đánh nhau với chúng và sau 13 phút chiến đấu 18 tên Nhật bị diệt thu 40 súng buộc chúng phải xin hàng. Cùng ngày tại Bù Đốp, ta bao vây đánh địch thu được một kho súng, đây là nguồn súng cho lực lượng vũ trang Lộc Ninh đánh địch sau này.

Tại Hớn Quản, sáng 25/8/1945, công nhân và nhân dân các đồn điền Quản Lợi, Xa Trạch, Xa Cát, Xa Cam... tổ chức mít tinh rồi chuyển thành biểu tình có trang bị vũ khí chiếm nơi làm việc của bọn chủ, giành chính quyền

49

làm chủ đồn điền. Trước sức mạnh của quần chúng cách mạng, hầu hết bọn chủ đồn điền và bọn Nhật đều run sợ, vội vàng giao lại nhà xưởng, kho tàng, máy móc đồn điền cho nhân dân.

Cũng trong sáng 25/8 ủy ban khởi nghĩa cử 100 công nhân Lộc Ninh, Hớn Quản và 50 công nhân người dân tộc có trang bị vũ khí đến thị xã Thủ Dầu Một tham gia giành chính quyền. Ở Bà Rá (Phước Long) bọn chỉ huy và binh lính Nhật không dám đi khủng bố chờ quân Đồng minh (quân Anh) đến để giao nộp vũ khí.

Ở thị xã Thủ Dầu Một, theo kế hoạch đã định rạng sáng 25/8/1945 hàng chục ngàn đồng bào các nơi trong tỉnh kéo về thị xã. Đến 7 giờ sáng, một cuộc biểu tình lớn được to chức trước Dinh tỉnh trưởng. Đồng chí Văn Công Khai - Bí thư Tỉnh ủy - Trưởng ban khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền phản động, thành lập chính quyền cách mạng.

Lần đầu tiên, giai cấp công nhân ở Bình Phước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đứng lên xóa bỏ xiềng xích giành quyền làm chủ, góp phần cùng nhân dân trong tỉnh và cả nước làm một Cách mạng Tháng 8/1945 thành công. Những thành quả cách mạng mà đội ngũ công nhân cùng với nhân dân trong tỉnh làm được trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám 1945 đã tô thắm truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường bất khuất của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời tạo tiền đề thuận lợi để cùng nhân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống lại

50

CHƯƠNG IIICÔNG NHÂN LAO ĐỘNG BÌNH PHƯỚC TÍCH

CỰC THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954)

I. XÂY DỰNG CUỘC SỐNG MỚI VÀ THAM GIA KHÁNG CHIẾN (1945 - 1947)

Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng 8/1945 thành công, ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc trên địa bàn Bình Phước đã thực sự làm chủ bản thân mình và tham gia vào sự nghiệp xây dựng đất nước.

Nhiệm vụ chính trị khẩn cấp của chính quyền cách mạng địa phương lúc này đã đảm bảo ổn định trật tự trị an, nhanh chóng xây dựng chính quyền mới, tổ chức đời sống cho các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt là tổ chức sản xuất, ổn định đời sống cho công nhân các đồn điền cao su khi chưa có điều kiện phục hồi sản xuất cao su.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Tỉnh ủy Biên Hòa, tất cả các đồn điền cao su ở Bình Phước ngày nay đều thành lập Ban quản trị đồn điền hoặc Ủy ban công nhân cách mạng. Thành viên Ban quản trị đồn điền đều là những đại biểu ưu tú do công nhân bầu cử dân chủ, dựa vào những người tích cực trong cuộc nổi dậy giành chính quyền Cách mạng Tháng 8/1945 .

��

Ở Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh lãnh đạo Ban quản trị đồn điền trong đó có các đồng chí Ba Nguyên, Ba Anh, Ba Đèn, Ngàn, Cầu, Kỳ Năm phân công nhau phụ trách từng lãnh vực để ổn định lại cuộc sống; mở kho lương thực thực phẩm của giặc phân phát cứu tế cho dân nghèo, xây dựng lực lượng vũ trang chú trọng thu hút nhiều thanh niên dân tộc thành những “Đội quân áo nâu” hoặc “Bộ đội Việt Nam mới “ trang bị vũ khí thô sơ tự tạo, ngày đêm luyện tập quân sự nhằm ổn định trật tự trị an, tổ chức cuộc sống cho nhân dân.

Ở Hớn Quản, khi thiết lập chính quyền mới, ta tạm cử Phạm Văn Tốt (út Tốt) là thư ký Lãnh chính thời Pháp làm Chủ tịch, Nguyễn Văn Lân thường gọi là Cò Lân làm Phó Chủ tịch, Hai Tác làm ủy viên thư ký, đồng chí Nghĩa là đảng viên làm nòng cốt trong tổ chức ủy ban làm ủy viên quân sự.

Ở Bà Rá, lúc này chưa có cơ sở cách mạng. Mãi đến năm 1947, mới xây dựng cán bộ cốt cán và thành lập Ủy ban kháng chiến hành chính.

Ở đồn điền Thuận Lợi, ngay tại văn phòng chủ sở của người Pháp nơi trước đây công nhân đi qua không dám ngẩng mặt nhìn nay trở thành trụ sở của ủy ban kháng chiến hành chính.

Ở các đồn điền, Ban quản trị công nhân phối hợp với chính quyền cách mạng bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Dựa vào chính sách mười điểm của Mặt trận Việt Minh, công nhân tiếp quản toàn bộ cơ sở vật chất

��

của tư bản Pháp để lại gồm vườn cây, nhà máy, công sở, kho tàng. Toàn bộ nợ nần, tô thuế, lao dịch được hủy bỏ. Nhiệm vụ cấp bách lúc này là cứu đói, bởi số gạo, tiền thực phẩm trong kho còn lại không đủ duy từ cuộc sống chưa nói đến việc làm. Đứng trước tình hình ấy, Ban quản trị các đồn điền xuống từng làng công nhân kết hợp với cán bộ cốt cán tại chỗ vận động công nhân tăng gia sản xuất, trồng mì, lang, chăn nuôi heo, gà để chống đói. Những gia đình khá hơn nhận chia sẻ đùm bọc gia đình neo đơn, khó khăn trên tinh thần yêu thương, lá lành đùm lá rách. Trong thời gian ngắn, việc tận dụng đất vườn nhà, đất lô cao su để chăn nuôi, trồng trọt phát triển thành phong trào khắp các đồn điền.

Cuộc sống mới tự chủ, độc lập đã nhanh chóng được xác lập khắp nơi trong tỉnh. Cuộc sống tủi nhục, đọa đày bị xóa sạch. Bọn cai ký, tay sai của chủ sở lúc trước, một số được nhân dân giác ngộ, một số khác bị nhân dân trừng trị, số còn lại bỏ trốn theo bọn chủ. Công nhân và nhân dân lao động hăng hái tham gia các tổ chức đoàn thể cách mạng như Công nhân cứu quốc; thành lập các đội tự vệ đồn điền luân phiên luyện tập quân sự, canh gác và tuần tra bảo vệ vườn cây, nhà máy, công xưởng, làng xóm công nhân.

Chỉ một thời gian ngắn sau Tổng khởi nghĩa, bộ mặt các thị trấn, đồn điền, thôn xóm đã có những thay đổi quan trọng. Nhưng cách mạng thành công chưa bao lâu thì đêm 22 rạng 23/9/ 1 945 thực dân Pháp theo gót quân Anh (với

��

danh nghĩa Đồng minh vào tước vũ khí quân đội Nhật), trắng trợn tấn công vào các cơ quan hành chính Nam Bộ và những cứ điểm quan trọng của thành phố Sài Gòn, chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa. Trước dã tâm xâm lược của kẻ thù, sáng 23/9/1945, Xứ ủy và Ủy ban Nhân dân Nam Bộ ra lời kêu gọi đồng bào đứng lên kháng chiến !

Ngày 24/9/1945, Tổng Công đoàn Nam Bộ ra lời kêu gọi giai cấp công nhân hãy triệt để thực hiện lời kêu gọi cứu nước của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, sát cánh cùng đồng bào cả nước kháng chiến chống Pháp. Tin tức về hành động tái xâm lược của thực dân Pháp và cuộc chiến đấu của nhân dân Sài Gòn - Gia Định nhanh chóng bay khắp các đồn điền Nam và Trung Bộ. Trong không khí hừng hực tinh thần cách mạng từ sau Tổng khởi nghĩa tất thảy công nhân đều sôi sục quyết tâm chiến đấu chống Pháp.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ và Tổng Công đoàn Nam Bộ, công nhân tại các đồn điền cao su ở Hớn Quản, Lộc Ninh kéo về Sài Gòn chi viện cho mặt trận tiền tuyến miền Đông do đồng chí Lê Đức Anh phụ trách. Có mặt trong đội quân này, chủ yếu là những chiến sĩ trong “Đội quân áo nâu” và “Đội quân cung tên” từng đóng góp vai trò xung kích làm nên chiến thắng của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tại địa phương trước đó. Tuy vũ khí thô sơ nhưng đội quân này đã chiến đấu kiên cường, góp phần đáng kể vào việc cầm

��

chân địch suốt hơn 1 tháng, làm thất bại ý đồ “đánh nhanh thắng nhanh” của chúng.

Tại các đồn điền cao su sau Cách mạng tháng Tám, hầu hết đều có tổ chức Nghiệp đoàn. Thông qua Nghiệp đoàn các tổ chức Đảng lãnh đạo lực lượng tự vệ vũ trang và công nhân tích cực chuẩn bị sắm sửa vũ khí, luyện tập quân sự, tổ chức lực lượng sẵn sàng chiến đấu. Hầu hết các đồn điền đều xây dựng được đội tự vệ chiến đấu. Tại đồn điền Xa Cam, đã lựa chọn những trai tráng khỏe mạnh ở các làng, sở lập ra một đại đội với quân số 200 người, trang bị quần áo nâu, vũ khí là súng gỗ có lưỡi lê, súng 2 nòng và tên ná trưng mua của đồng bào dân tộc. Tại Lộc Ninh, Hớn Quản, Bù Đốp mọi công tác chuẩn bị cho kháng chiến được khẩn trương xúc tiến, huy động đồng bào tiến hành chặt cây, đào đường, đắp lũy... chắn đường tiến công của giặc, đồng thời lực lượng nòng cốt trong các đồn điền, làng sở cũng tích cực thực hiện chủ trương chuyển máy móc, kho tàng ra rừng núi để xây dựng căn cứ, phá hủy các cơ sở sản xuất còn lại của bọn chủ Tây, hỗ trợ đồng bào tản cư ra khỏi vị trí có khả năng địch sẽ tái chiếm. Tại đồn điền Thuận Lợi, công nhân cao su Nguyễn Đình Kính vận động, tổ chức đội thanh niên, tự trang bị vũ khí, hăng hái luyện tập quân sự. Hội Phụ nữ cứu quốc cũng vận động được nhiều chị em tham gia bảo vệ đồn điền dưới sự điều hành của Ủy ban Nhân dân Thuận Lợi.

Trong các ngày từ 23 - 25/10/1945, quân Pháp đánh chiếm Thủ Dầu Một và Biên Hòa. Sau đó chúng lần lượt

��

đánh chiếm thị trấn Bến Cát cùng nhiều nơi khác dọc tuyến đường 13 . Tại đoạn Chơn Thành - Lộc Ninh quân Pháp tổ chức tiến chiếm nhưng đều bị lực lượng ta đánh tiêu hao, buộc chúng phải tạm lui.

Do tầm quan trọng của địa bàn Hớn Quản, Bà Rá, Bù Đốp - nơi tập trung nhiều đồn điền cao su như Lộc Ninh, Hớn Quản, Thuận Lợi, Đa Kia, Bù Đốp... một nguồn nguyên liệu đem lại kinh tế to lớn nên việc bình định và phục hồi sản xuất ở các đồn điền trở thành mục tiêu chính của thực dân Pháp. Không những thế nơi đây còn là vùng có vị trí chiến lược rất lợi hại về quân sự. Là địa bàn rừng núi, dân cư thưa thớt, lương thực thực phẩm hiếm, giao thông liên lạc khó khăn, các đồn điền cao su dễ trở thành những trung tâm tiếp tế cung cấp mọi nhu cầu cho kháng chiến. Đây còn là nơi có trục đường giao thông chiến lược quan trọng như: Quốc lộ 13, Quốc lộ 14, chạy dài từ Bắc vào Nam nối với các tỉnh Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên và Campuchia, đường xe lừa Sài Gòn - Lộc Ninh.

Sau hai tháng chiếm Thủ Dầu Một quân Pháp được quân Anh yểm trợ mở cuộc tiến công với qui mô lớn, chia làm hai hướng đánh chiếm vùng cao su ở Hớn Quản, Bà Rá, Bù Đốp. Hướng từ thị xã Thủ Dầu Một đánh lên, hướng từ Tây Ninh đánh qua tạo thành hai gọng kìm hòng tiêu diệt quân ta, tưởng sẽ chiếm lại được ngay một vùng cao su rộng lớn. Song đi đến đâu địch cũng đều bị lực lượng công nhân cao su cùng nhân dân lao động, đồng bào dân tộc thiểu số, với vũ khí thô sơ chống trả quyết liệt,

��

ngăn chặn từng bước tiến buộc chúng, mấy lần phải tạm lui quân để củng cố lực lượng.

Tuy nhiên, do lực lượng quá chênh lệch giữa một bên là quân đội viễn chinh nhà nghề được trang bị vũ khí hiện đại, một bên là lực lượng công nhân cao su là du kích địa phương chỉ với gậy gộc, giáo mác, tầm vông vạt nhọn, nên cuối cùng lực lượng kháng chiến buộc phải rút lui để bảo toàn lực lượng. Cuối cùng quân Pháp chiếm đóng Hớn Quản, Lộc Ninh ngày 12/11/1945 , Bù Đốp ngày 13/11/1945 và sau đó vào cuối tháng 12/1945 chúng chiếm được Bà Rá, Thuận Lợi.

Theo chân bọn lính viễn chinh, đầu năm 1946 bọn chủ sở và tay sai kéo vào đồn điền. Các chủ sở lại bỏ tiền ra xây dựng nhà xưởng, tu bổ vườn cây, chiêu mộ công nhân. Càng về sau, do những cuộc đi bố càn gom dân kết hợp với các đợt mộ phu từ các nơi vào nên số lượng công nhân có tăng lên.

Và từ các đồn điền, phong trào tham gia kháng chiến của đội ngũ công nhân cao su Bình Phước lại tiếp tục diễn ra, vừa bền bỉ vừa quyết liệt.

II. NỔ LỰC VƯỢT KHó KHĂN, TỔ CHỨC PHÁ HOẠI CƠ SỞ KINH TẾ ĐỊCH, PHỐI HỢP ĐÁNH ĐỊCH TRÊN MẶT TRẬN QUÂN SỰ (1947 - 1952)

Những tháng cuối năm 1946 đầu năm 1947 , tình hình miền Đông Nam Bộ nói chung, tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa nói riêng có nhiều thay đổi lớn. Thực dân Pháp vạch kế hoạch bình định, bố trí lại chiến trường, phát triển

57

lực lượng ngụy binh tăng cường lực lượng gián điệp, mở nhiều cuộc hành quân lớn đánh vào căn cứ kháng chiến và vùng du kích, tìm kiếm lực lượng vũ trang và triệt phá cơ sở cách mạng ở địa phương.

Thực hiện chiến lược trên, ở các đồn điền Thuận Lợi, Lộc Ninh, Bù Đốp, Thuận Lợi. .. thực dân Pháp đều tăng cường lực lượng quân ngụy và trang bị thêm vũ khí cho các đồn bót để bọn lính canh giữ các cửa rừng cao su, các trung tâm đồn điền, hỗ trợ cho tư bản Pháp đẩy mạnh sản xuất. Tại vùng Lộc Ninh - Hớn Quản, tên chủ đồn điền Đờ - la - lăng ráo riết kích động hận thù, gây chia rẽ người Kinh với đồng bào dân tộc, treo giải thưởng 100 kg muối và thịt cho những người chặt đầu cán bộ Việt Minh nạp cho chủ sở. Để khủng bố tinh thần của quần chúng, có lần phát hiện cây cao su bị chặt phá, Đờ - la – lăng ra lệnh cho lính đàn áp những công nhân cạo mủ, bắt 2 người chặt đầu và dùng thủ cấp đá chơi như bóng. Tên ác ôn Tổng Mé cùng binh lính và tay sai chỉ điểm ngày đêm cưỡi voi tuần tra khắp các buôn làng đe dọa, mua chuộc đồng bào và bắt lùng cán bộ, cơ sở kháng chiến. Mặt khác, các công ty cao su ở Pháp cũng tăng cường đầu tư ngân sách sang Việt Nam để mở rộng sản xuất cao su, xây dựng công sở, kho tàng, nhà máy chế biến, trồng mới và trang thiết bị sản xuất. Riêng công ty Michelin (công ty mẹ của các đồn điền cao su Dầu Tiếng và Thuận Lợi) tiền đầu tư trong năm 1947 cao gấp 2 lần so với 1946.

58

Trước âm mưu mới của địch, quán triệt chủ trương của Xứ ủy Nam Bộ, các tổ chức nghiệp đoàn trong các đồn điền cao su được củng cố lại và đặt dưới sự lãnh đạo của Liên Hiệp đoàn Thủ Dầu Một trực thuộc sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy mà người phân công phụ trách là dồng chí Nguyễn Văn Trung- Tỉnh ủy viên. Nếu năm 1946 số đoàn viên của Liên hiệp Nghiệp đoàn trong các đồn điền mới chỉ trên 1000 người, thì đến năm 1947 đã lên 5000 người, năm 1948 con số lên đến 8000 người. Nghiệp đoàn đã đề ra 2 nhiệm vụ lớn cần khẩn trương thực hiện đó là: Củng cố, phát triển đội ngũ rộng khắp các đồn điền, vận động đưa thanh niên khỏe đi bộ đội và mở mặt trận “Cao su chiến “. Ngoài ra, chủ trương của các nghiệp đoàn cao su là phát triển mối quan hệ chặt chẽ cùng đoàn kết đấu tranh với công nhân xe lửa Sài Gòn - Lộc Ninh và vận động tổ chức tuyên truyền trong đồng bào dân tộc ít người.

Công đoàn cao su Lộc Ninh đã góp công rất lớn trong việc báo cáo địch tình cho chi đội 1 (lực lượng vũ trang Thủ Dầu Một) chống càn giành thắng lợi quan trọng ở Tà Bái, Sóc Xiêm, sau đó về đứng chân hoạt động thường xuyên tại Lộc Ninh, Bù Đốp, Đa Kia, phối hợp lực lượng công nhân nòng cốt các đồn điền tổ chức hàng loạt trận đánh giao thông đạt kết quả tốt. Cuối tháng 10/1947, chi đội 1 cùng với công nhân Hớn Quản lập chiến công nổi bật với trận Bến ông Khương (nằm trên tuyến đường sắt (1) Sinh hoạt và thành tích công nhân Nam Bộ đoàn Cao su Việt Nam. Cặp tài liệu năm 1997.

59

Sài Gòn - Lộc Ninh). Ba đại đội của chi đội 1 dùng địa lôi đánh đổ đoàn tàu quân sự của địch. Khi diệt xong ta đang chiếm chiến lợi phẩm thì bọn địch gần 400 lính âu Phi và lính ngụy bảo vệ đồn điền cao su gần đó kéo ra tiếp viện. Ta đánh tạt sườn, diệt thêm 80 tên thu 3 trung liên, 12 tiểu liên, 23 súng trường và nhiều chiến lợi phẩm khác. Quân Pháp phải điều động hơn 1 ngàn tên lấy xác đồng bọn và đánh trả thù. Chiến công này làm nức lòng nhân dân Lộc Ninh, Bù Đốp, Hớn Quản, mở đầu cho hàng loạt những thắng lợi quân sự suốt thời gian sau đó.

Cùng với tiếng súng đánh Pháp ở Hớn Quản, Lộc Ninh công nhân Thuận Lợi phối hợp với bộ đội chủ lực đánh một số trận giòn giã trên Đường 14 - Đồng Xoài, tạo tác dụng lớn đối với phong trào kháng chiến ở địa phương. Tiêu biểu là trận đánh ngày 19/12/1947, chi đội 1 và chi đội 10 (lực lượng vũ trang Biên Hòa) phối hợp cùng lực lượng địa phương tổ chức đánh một đoàn xe ở Đồng Xoài, thiêu hủy một xe chở xăng, 9 xe GMC chở lính, diệt 60 tên, bắt sống nhiều tù binh và thu nhiều chiến lợi phẩm khác.

Trong thời gian này, Nghiệp đoàn ở các đồn điền cao su tổ chức các cuộc đấu tranh, bãi công, biểu tình đòi dân sinh dân chủ. Các đợt phá hoại cao su diễn ra sôi nổi, rộng khắp. Công nhân tranh thủ tìm mọi cách để chặt cây, đổ mủ nước, vứt bỏ mủ bèo, mủ dâm, đập chén đựng mủ, đốt mủ thành phẩm. Năm 1947, công nhân cao các đồn điền Hớn Quản, Minh Thành, Xa Cam, Xa Cát, Thuận Lợi đã

60

chặt và vát vỏ hơn 1000ha cao su, phá hủy hàng trăm ngàn chén đựng mủ, hàng chục kho lương thực, kho chứa mủ. Riêng đồn điền Hớn Quản, công nhân phá hủy 430 tấn mủ gây thiệt hại nặng về kinh tế cho địch (l)

Nhằm đẩy mạnh hơn công tác vận động đồng bào dân tộc giữa năm 1948, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một quyết định thành lập Phòng Quốc dân thiểu số do đồng chí Trần Quang Sang (Ba Phước) nguyên bí thư Hớn Quản làm trưởng phòng, Phòng Quốc dân thiểu số tổ chức một đội vũ trang tuyên truyền phối hợp với các lực lượng công nhân nòng cốt ở các đồn điền và các cơ sở tích cực tuyên truyền vận động đồng bào các dân tộc và tội ác của kẻ thù xâm lược, hướng dẫn đồng bào đấu tranh bảo vệ nương rẫy hoa màu.

Tháng 9/1949, Hội nghị quân sự Nam Bộ nhấn mạnh nhiệm cụ của khu 7 trong giai đoạn mới : “...ta phải tăng cường phá hoại cao su, Khu 7 có nhiều cơ sở cao su, quan trọng nhất là vùng Hớn Quản, Lộc Ninh rồi đến Thuận Lợi, Xuân Lộc, Dầu Tiếng, công tác phá cao su nhằm vào một hướng chính, tập trung làm rung rinh cả cơ sở kinh tế của địch, đánh thắng hướng chính là Lộc Ninh, Hớn Quản (Vùng dân tộc )”(�)(Trích nghị quyết Hội nghị quân sự Nam Bộ. Tài liệu lưu trữ 03/49 tại Ban Tuyên Giáo tỉnh Ủy Sông Bé.)

Chấp hành chủ trương này, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đã thành lập đội phá cao su do đồng chí Nguyễn Gia Truyền làm chỉ huy, các đồng chí Trần Quang Sang (Ba Phước), Phan Đình Công cùng phụ trách chỉ huy. “Cao su chiến

��

“ đi vào hướng khác: hạn chế việc phá vườn cây, chủ yếu phá hủy cơ sở máy móc thiết bị nhiều hơn. Cuối năm 1949 đội phá cao su đã đốt cháy nhà đèn và xưởng chế biến cao su ở đồn điền Quản Lợi làm ngưng trệ sản xuất hàng tuần lễ, vận động một số anh chị em công nhân kỹ thuật cùng cán bộ Công đoàn ra chiến khu. Đồng chí Nguyễn Gia Truyền là người trực tiếp chỉ huy vụ phá này, được Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ tặng bằng khen. Ngoài ra, ta còn tổ chức nhiều cuộc vận động công nhân gom nộp dụng cụ lao động cho cách mạng rồi báo với chủ là bị Việt Minh tịch thu, gây khó khăn cho giặc.

Phạm vi hoạt động của đội phá cao su không chỉ trong các đồn điền cao su mà còn làm cả công tác vận động đồng bào dân tộc các thôn, sóc ven đồn điền. Đội phá cao su đã gây nhiều thiệt hại to lớn về kinh tế cho thực dân Pháp ở Quản Lợi, Lộc Ninh, Bù Đốp... Đến năm 1952 đội phá cao su mới giải thể, cán bộ chiến sĩ được điều về làm công tác công vận.

Trong cuộc “Cao su chiến”, công nhân cao su đã nêu bật phẩm chất dũng cảm sáng tạo của mình. Sau mỗi loạt phá hoại, địch truy lùng bắt bớ hàng loạt công nhân, thẳng tay đàn áp trả thù nhưng chúng vẫn không làm nao núng ý chí của công nhân. Ở Quản Lợi sau khi nhà máy bị phá, thực dân Pháp bắt 11 công nhân kỹ thuật tra khảo dã man nhưng các anh vẫn kiên quyết không khai, bọn Pháp bắn chết một loạt 11 người trong đó có các công nhân hoạt động hăng hái như anh Tiết, anh Sơn, anh Hùng. Mặc dù

��

địch khủng bố dã man nhưng vẫn không dẹp yên được phong trào “Cao su chiến” của công nhân. Sức sản xuất cao su của chúng giảm hẳn, chúng phải điều động quân giăng ra để bảo vệ khắp nơi, tạo thế chủ động cho ta trên mặt trận đấu tranh vũ trang.

Hầu hết các đơn vị vũ trang của Khu 7 như chi đội 1 , chi đội 10 sau này là các trung đoàn 301, 310, tiểu đoàn 303... đa số cán bộ chiến sĩ đều xuất thân từ công nhân cao su.

Ở đồn điền Thuận Lợi, khi Pháp quay trở lại chỉ trong thời gian ngắn đã có gần 400 thanh niên của công nhân tình nguyện vào bộ đội, không kể công nhân tham gia thoát ly xây dựng công binh xưởng. Ở đồn điền Lộc Ninh, sau khi Pháp quay lại tái chiếm, đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức lực lượng vũ trang, chỉ trong vài ngày kêu gọi đã có đủ số lượng công nhân thành lập được cả một tiểu đoàn tự trang bị đủ các loại vũ khí.

Tình hình thanh niên thoát ly tham gia bộ đội, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của công nhân cao su đã diễn ra liên tục khắp các đồn điền trong suốt 9 năm chống Pháp. Nhiều con em công nhân xin vào bộ đội cũng mang theo vũ khí trang bị tự tạo. Những người không đủ điều kiện thoát ly thì được vận động ở lại chiến đấu tại chỗ, hàng ngày tiếp tế lương thực, thực phẩm, tiền bạc, vũ khí, tin tức cho bộ đội.

Bên cạnh việc tham gia xây dựng các đơn vị vũ trang của tỉnh, của khu, công nhân còn là lực lượng nồng cốt để

��

thành lập những đơn vị vũ trang địa phương và đồn điền. Từ năm 1948, công nhân cao su đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các đại đội tập trung của huyện. Những đơn vị đó vừa làm công tác tổ chức móc nối, vận động xây dựng cơ sở tuyên truyền cách mạng, vừa làm vừa công tác đánh tiêu hao địch hoặc cầm chân địch, góp phần không nhỏ vào thắng lợi những trận đánh lớn của tỉnh, của khu. Mang nhiều tên gọi khác nhau, đội vũ trang tuyên truyền Lộc Ninh, Hớn Quản, Sông Bé, Ban công tác liên thôn 7 (hoạt động ở vùng Đồng Xoài - Thuận Lợi)

Tháng 4/1948, được công nhân đưa tin hướng dẫn, đơn vị Đại đội 2709 của Trung đoàn 301 đã tấn công tiêu diệt đồn Bù Đốp, phá nhà tù giải phóng 60 tù nhân thu 40 súng. Sau đó vùng Lộc Ninh, Hớn Quản lực lượng vũ trang chia thành 3 đơn vị: Trung đội 4 chịu trách nhiệm hoạt động vùng phía Đông quốc lộ 13 do đồng chí Nguyễn Đình Kính phụ trách; Trung đội 13 vùng phía Tây quốc lộ 13 do đồng chí Du - Huyên đội phó Hớn Quản phụ trách. Riêng các làng công nhân, đồng chí Nguyễn Văn Chức phụ trách 01 đơn vị xây dựng cơ sở bán công nhân. Cả 3 đơn vị đó công nhân cao su điều tham gia trực tiếp cầm súng chiến đấu và che chở nuôi dưỡng, bảo vệ, phối hợp với Phòng Quốc dân thiểu số của tỉnh vượt qua những khó khăn, gian khổ, bám làng công nhân, các buôn, sóc dân tộc xây dựng cơ sở phát triển lực lượng.

Giữa năm 1951, sau khi thành lập tỉnh Thủ Biên, Ban công vận Tỉnh ủy và Liên hiệp Công đoàn Thủ Biên đã

��

đưa 2 đồng chí Nguyễn Nại Sơn và vợ là Nguyễn Thị Điền (Năm Bình Minh) về sống và hoạt động hợp pháp ở đồn điền Lộc Ninh .Nhờ vậy phong trào bên trong đồn điền có bước phát triển mới. Tháng 2/1952, công nhân cao su đã vận động được các đồn điền gần xa trong vùng đồng loạt bãi công nêu yêu sách đòi tăng lương, phát gạo trắng... Cuộc đấu tranh tuy bị bọn Pháp đàn áp nhưng gây được tiếng vang trong thời kỳ này.

Sau trận bão lụt năm Thìn - 1952, rừng chiến khu Đ tiêu điều xơ xác nhưng cơ sở sản xuất tự túc của bộ đội bị hủy hoại hoàn toàn. Tình trạng thiếu lương thực xảy ra. Ngay lúc đó thực dân Pháp đã lợi dụng thời cơ hành quân tẩn công càn quét liên tục. Bộ đội ta trong nạn đói phải chiến đấu bảo vệ căn cứ, trong tình hình ấy công nhân đồn điền đã nhanh chóng bằng mọi sáng tạo dũng cảm, khai báo con số ma để lãnh gạo tiền, thu mua gom góp lương thực ở nhiều nơi để tiếp tế cho chiến khu. Có thể nói hạt gạo tình nghĩa quân dân đã thơm ngọt hương vị cách mạng và tình cảm gắn bó giai cấp trong suốt cuộc kháng chiến.

III. GIỮ VỮNG PHONG TRÀO, ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH TRÊN CÁC MẶT TRẬN, GóP PHẦN ĐƯA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP ĐI ĐẾN THắNG LỢI (1953 - 1954)

Từ giữa năm 1953, địch buộc phải rút quân ào ạt từ miền Nam ra chi viện cho chiến trường Bắc Bộ, Trung Bộ và đưa sang Lào. Do lực lượng còn lại không nhiều, nên mức độ đánh phá của địch trên toàn tỉnh Thủ Biên nói

��

chung, vùng Bình Long, Phước Long, Lộc Ninh, Đồng Xoài nói riêng giảm sút rõ rệt. Với lực lượng còn lại, địch không thể dàn trải mà phải bố trí tập trung ở đô thị và các đường giao thông quan trọng, từ đó chúng tổ chức các cuộc càn quét nhỏ vào vùng căn cứ kháng chiến.

Nắm chắc tương quan lực lượng ta - địch và diễn biến chiến trường, Phân khu miền Đông và Tỉnh ủy Thủ Biên đề ra chủ trương đẩy mạnh chiến tranh du kích, vừa đánh địch vừa tiêu diệt sinh lực địch trong các đợt càn quét, vừa tiến công mạnh ở vùng sau lưng địch làm căng kéo và phân tán lực lượng của chúng, tạo thế và lực phát triển phong trào quần chúng. Thực hiện chủ trương đó, Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã tập trung chỉ đạo xây dựng củng cố Công đoàn cơ sở trong các đồn điền cao su. Các đội vũ trang cao su mở hàng loạt cuộc tuyên tuyền trong các đồn điền. Du kích vùng cao su liên tục vào làng sở trấn áp, diệt bọn cai, giết bọn ác ôn có nợ máu; nhiều lần phối hợp cùng bộ đội tiến công vào các bót gác trung tâm thị trấn, nhà máy chế biến. Các cuộc đấu tranh của công nhân chống nộp thuế, chống chủ Tây đánh đập công nhân, đòi quyền dân sinh dân chủ... ở các đồn điền thu được thắng lợi. Nhân dân vùng tạm chiếm hăng hái tham gia diệt trừ gian, đấu tranh chống địch gom dân bắt lính, cung cấp tin tức cho cách mạng.

Lực lượng du kích công nhân phối hợp với Tiểu đoàn 303 tiến lên Lộc Ninh, diệt bót Thuận Lợi và Bù Na, kết hợp xây dựng và phát triển cơ sở trong công nhân cao su

��

và đồng bào dân tộc. Ở đồn điền Thuận Lợi, bọn chủ bót hung hăng độc ác khiếp sợ trước lực lượng công nhân, để được yên ổn sinh mạng và công việc làm ăn, bọn chúng phải chịu phép đóng thuế cho ta. Hàng tháng qua cơ sở bí mật của ta nộp những khoản tiền nhất định, đó là một đặc trưng trong hoạt động xây dựng hậu cần quân đội của công nhân cao su.

Phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ, những tháng đầu năm 1954, các tỉnh Nam Bộ trong đó có tỉnh Thủ Biên mở đợt tấn công quân sự tiêu hao sinh lực địch, lực lượng vũ trang tập trung kết hợp với các đội vũ trang cao su thường xuyên tổ chức đánh địch trên đường 13, 14 diệt hàng trăm tên, phá hủy nhiều xe quân sự. Nhiều vùng bị chiếm trở thành vùng du kích, vùng du kích trở thành vùng tự đo, các đường hành lang Lộc Ninh - Hớn Quản - Chơn Thành - Đồng Xoài - Bù Đăng - Phước Long mở ra thông suốt.

Giữa lúc đó, ngày 7/5/1954 quân dân ta giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, kết thúc vẻ vang 9 năm kháng chiến trường kỳ gian khổ anh dũng và vinh quang. Phong trào đấu tranh chính trị, kết hợp cùng các hoạt động vũ trang càng dâng cao ở khắp nơi trong tỉnh, bức rút hàng loạt đồn bót địch, giải tán hầu hết bộ máy cai trị tay sai ở các xã, làng, đồn điền cao su.

Ngày 20/7/1954 Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, theo chỉ đạo của Trung ương, Liên hiệp Công đoàn các tỉnh tiến hành bố trí, sắp xếp cán bộ đi tập kết và chuẩn

67

bị chuyển vùng công tác. Hầu hết cán bộ Công đoàn hoạt động ở khu vực Bình Phước ngày nay đều ở lại bám trụ, tiếp tục lãnh đạo phong trào công nhân bước vào cuộc chiến đấu mới chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giành độc lập dân tộc.

Nhìn lại chặng đường 9 năm kháng chiến vô cùng gian khổ, quân và dân Bình Phước đã cùng với nhân dân cả nước, đóng góp xương máu làm thất bại cuộc chiến tranh của Pháp.

Trong thắng lợi chung đó, đội ngũ công nhân lao động và tổ chức Công đoàn Bình Phước rất tự hào về vai trò tiêu biểu của mình góp phần quan trọng trong sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc, tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Mỹ thay thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đây là cuộc chiến tranh mới đầy hy sinh gian khổ, nhưng được sự lãnh đạo của Đảng, phong trào công nhân và tổ chức Công đoàn ngày càng phát huy bản chất giai cấp tiên phong của mình, ý thức giác ngộ về quyền lợi giai cấp và dân tộc được nâng cao với niềm tin vững chắc ở sự lãnh đạo của Đảng. Với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá đó, công nhân lao động Bình Phước cùng toàn thể công nhân lao động và nhân dân miền Nam bước vào cuộc chiến đấu mới.

68

CHƯƠNG IVPHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA CÔNG

NHÂN LAO ĐỘNG BÌNH PHƯỚC TRONG THỜI KỲ CHỐNG MỸ (1954 - 1975)

I. ĐẤU TRANH ĐÒI THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ, ĐÒI CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG, ĐÒI TỰ DO NGHIỆP ĐOÀN, TIẾN LÊN ĐỒNG KHỞI (1954 - 1960)

Ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta kết thúc thắng lợi. Hòa bình được lập lại trên toàn bán đảo Đông Dương. Theo tinh thần Hiệp định, hai bên thực hiện chuyển quân tập kết. Lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến tạm thời, sau hai năm tiến hành tổng tuyển cử, thống nhất nước nhà.

Cũng như tất cả các địa phương khác ở miền Nam trong thời gian này, Tỉnh ủy Thủ Biên (lúc bấy giờ địa bàn tỉnh Bình Phước thuộc tỉnh Thủ Biên) tiến hành tổ chức hội nghị bàn biện pháp thực hiện lời kêu gọi của Bác, thực hiện Chỉ thị của Trung ương, của Liên khu ủy để đề ra phương hướng, nhiệm vụ lãnh đạo trong thời gian tới. Một trong những nhiệm vụ mang tính cấp bách trước mắt đó là: Các Đảng bộ khẩn trương sắp xếp lại lực lượng (bố trí cán bộ đi tập kết và cán bộ ở lại hoạt động); từng bước chuyển căn cứ vào gần dân, để chuẩn bị lãnh đạo nhân dân đấu tranh; tổ chức mít tinh mừng

69

hòa bình và triển khai học tập văn bản pháp lý của Hiệp định rộng rãi trong dân; các tổ chức Đảng rút vào bí mật, đưa một bộ phận lớn cán bộ ra công khai hoạt động hợp pháp để trực tiếp lãnh đạo và cùng quần chúng tham gia đấu tranh. Quán triệt Chỉ thị của Trung ương, của Xứ ủy Nam Bộ về việc thực hiện nghiêm túc tinh thần nội dung Hiệp định, Tỉnh ủy Thủ Biên chỉ đạo các đơn vị bộ đội, cán bộ, công nhân viên chức hoạt động trên địa bàn tỉnh gấp rút chuyển quân về chiến khu Đ chuẩn bị tập kết ra Bắc. Đồng thời tổ chức mít tinh chào mừng thắng lợi của Hiệp định.

Trong khi ta nghiêm túc chấp hành Hiệp định, đế quốc Mỹ với âm mưu thôn tính miền Nam từ lâu, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và là khu căn cứ quân sự lớn nhất của Mỹ ở khu vực Đông Nam á, thay chân Pháp nhảy vào miền Nam Việt Nam, tấp nập đưa cố vấn Mỹ vào Sài Gòn, cùng lúc đưa Ngô Đình Diệm (tay sai được Mỹ nuôi dưỡng, huấn luyện từ trước trên đất Mỹ) lên thay Bửu Lộc làm Thủ tướng. Đến tháng 10/1955, Mỹ truất phế Bảo Đại qua trò hề “trưng cầu ý dân” đưa Diệm lên ghế Tổng thống, thiết lập chế độ Việt Nam cộng hòa ở miền Nam cực kỳ hiếu chiến và phản động.

Sau khi chính thức lên nắm quyền, Ngô Đình Diệm tiến hành xé nhỏ, chia lại các đơn vị hành chính cấp tỉnh trên toàn miền Nam để dễ kiểm soát, qua đó chống lại phong trào cách mạng. Đối với địa bàn tỉnh Bình Phước, chính

70

quyền Diễm đã ra Sắc lệnh số 143-NV ngày 22/10/1956 chia tỉnh Thủ Dầu Một thành các tỉnh Bình Dương, Bình Long, Phước Long. Về sau, chúng thành lập thêm tỉnh Phước Thành (Sắc lệnh số 25/NV ngày 23/01/1959) trong đó có một phần đất của tỉnh Phước Long cắt ra. Song song với chính sách chia nhỏ các tỉnh, chính quyền Mỹ - Diệm tăng cường lập các Dinh điền, Khu trù mật, mở đường, đóng bót, vơ vét tài nguyên và ra sức đánh phá cách mạng. Đồng thời, chúng gấp rút xây dựng các đội quân chủ lực, cùng lúc lập ra các thứ lính bảo an, dân vệ, xã đoàn... rải đều từ tỉnh đến thôn, ấp để khống chế, kèm cặp người dân. Trong các khu đồn điền, chúng tổ chức những làng công nhân thành những đơn vị hành chính (tương đương cấp xã) trong đó có tổ chức hội đồng xã, trưởng ấp liên gia trưởng. Mỗi xã có đội dân vệ từ 7 đến l2 người, được trang bị từ 5 đến 7 súng cùng hoạt động với các tổ chức công an, gián điệp, hương dũng đoàn. Chúng còn mua chuộc, cưỡng bức người tại chỗ hoặc lấy người từ nơi khác đến đưa vào làm tề, điệp trong các làng, sở, đồn điền để khống chế công nhân.

Sau năm 1954, công nhân và nhân dân ở đồn điền thuộc địa bàn các tỉnh Bình Long, Phước Long và Quảng Đức có khoảng 60.000 người (chiếm khoảng 1/3 dân số). Trong đó, công nhân chính chiếm khoảng 21.000 người(l). Do vậy, lực lượng công nhân và người dân sống trong các đồn điền luôn là đối tượng chính mà Mỹ - Diệm (thông (1) Báo cáo tình hình Khu 10 từ 1954 -1972.

71

qua chính quyền sở tại) luôn tìm cách lôi kéo, không chế, tách công nhân ra khỏi cách mạng. Một trong những thủ đoạn được chúng áp dụng để kìm kẹp, bóc lột công nhân là cấu kết với bọn chủ sở bóp nghẹt đời sống của công nhân và nhân dân trong các đồn điền, đặt thế kìm kẹp, khủng bố liên miên, gây áp lực về mặt kinh tế. Tại các đồn điền cao su Hớn Quản, Lộc Ninh, Thuận Lợi, Đa Kia, Phú Riềng . . . , bọn chủ sở tiến hành trang bị lại phương tiện sản xuất và khai thác mủ cao su như: Chia lại phần cây (tăng cây), mở thêm miệng cạo, ghép 3 phần cây làm một, nhưng chỉ tăng thêm một người bóc mủ chén; giao làm việc khoán nhưng trả lương công nhật; kéo dài thời gian lao động từ 11 giờ đến 12 giờ/ngày (thay vì 8 giờ/ngày). Những trò bịp bợm trên, đối với chủ sở nhằm loại ra khỏi đồn điền số lượng lớn công nhân cũ, công nhân người dân tộc thiểu số để thu vào số công nhân “tùy dịp” (công nhân xuất thân từ nông thôn, công nhân nữ, trẻ em, công nhân di cư...) với tiền công rẻ mạt, còn đối với Mỹ - Diệm đã thực hiện được mục đích là bóp nghẹt đời sống của công nhân, từ đó làm lung lay ý chí đấu tranh của họ. Nạn thất nghiệp cũng theo đó lan nhanh chưa từng có. Chỉ tính riêng công nhân trong các đồn điền cao su, thất nghiệp đã lên đến gần 40%, mặt khác thu nhập của công nhân quá thấp (khoảng 37đ/ngày), trong khi đó giá sinh hoạt tăng vọt (giá thịt từ 80 - 90đ/kg, giá cá khô từ 40 - 60đ/kg). Tình trạng thất nghiệp, thu nhập thấp đã kéo theo cảnh nghèo đói, nợ nần chồng chất, tạo điều kiện thuận lợi cho chính quyền sở tại

72

tha hồ bắt lính, bắt phu, bắt đi lao dịch khai phá lập dinh điền, trồng cao su không công cho chúng tại các sở Tích Thiện, Đồng Long, Xóm Ruộng, Chơn Thành, Cầu Bà Và, Căm Xe, Bù Đốp, Đa Kia, Phước Bình v.v.. .Ngoài lực lượng công nhân cao su trong các đồn điền, công nhân lao động làm các ngành nghề khác cũng chịu chung số phận do chính sách “đuổi nhà, dời chợ”, thay đổi chỗ buôn bán, cấm đoán đi lại buôn bán, tăng thuế môn bài, đặt ra thuế chỗ, thuế nhập thị... làm cho người lao động lâm vào cảnh khốn đốn, mất việc làm, mất chỗ buôn bán, dẫn đến phá sản, nghèo đói, thất nghiệp. Có nơi, như tại ngã ba Quản Lợi, Hớn Quản, Lộc Ninh, hàng ngày có hàng ngàn người thất nghiệp tụ tập xin việc làm. Đây cũng là nguyên nhân làm gia tăng lực lượng công nhân “tùy dịp “ làm trong các đồn điền ngày càng tăng, chiếm khoảng 50% (trước kia, bọn chủ đồn điền chủ yếu mộ dân Contrat trai tráng, độc thân). Như vậy, sau năm 1954, thành phần công nhân trên địa bàn tỉnh có một số thay đổi, xáo trộn và phức tạp hơn, không được thuần túy như trước đây. Số công nhân cũ ngày càng ít dần do một số thoát ly đi bộ đội, một số hy sinh, số bị tù đày, số bị sa thải, số già yếu, số bị bắt đi lính... Đây là những nguyên nhân cơ bản, dẫn đến số công nhân trong các đồn điền thiếu trầm trọng. Để bổ sung cho lực lượng công nhân thiếu hụt, bọn chủ sở vơ vét đủ các hạng người tuyển vào làm cho chúng, ngoài số công nhân tùy dịp, các chủ sở còn thu nhận một số đối tượng tương đối phức tạp (chủ yếu là nông dân bị địch càn quét, một

73

số tề, điệp bị ta đánh, một số trốn lính, đào ngũ chạy vào đây, cùng với một số bọn tề, điệp giả dạng cũng vào đây để hoạt động). Tuy phức tạp, nhưng phần lớn lực lượng công nhân được ta cảm hóa, giáo dục, rèn luyện nên phong trào đấu tranh của công nhân vẫn phát triển, cơ sở công nhân vẫn vững vàng, luôn là lá cờ đầu trong phong trào đấu tranh qua các thời kỳ : từ đấu tranh chính trị đòi địch thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, đòi dân sinh, dân chủ, đến đồng khởi, giải phóng đồn điền từ phá ấp chiến lược, đến tổng công kích nổi dậy Tết Mậu Thân sau này.

Quá trình phân hóa lực lượng công nhân lao động trong các nhà máy, làng, sở, công trường... dẫn đến thành phần tôn giáo cũng xáo trộn và tăng đột biến. Nếu trước đây, chỉ có một số ít công nhân theo đạo Thiên Chúa giáo; một số người Kinh, người Khơ me theo đạo Phật, một số ít người dân Tây Ninh sinh sống tại vùng Chân Thành theo đạo Cao Đài... nay, có đến 1/4 lực lượng công nhân trên địa bàn tỉnh có đạo (chủ yếu là đạo Thiên Chúa giáo). Nguyên nhân làm gia tăng lực lượng công nhân theo đạo là do Mỹ - Diệm cấu kết với bọn chủ sở tuyển công nhân di cư (gốc đạo Công giáo) từ các tỉnh miền Bắc, miền Trung vào. Đồng thời, chúng khuyến khích mua chuộc công nhân đăng tên gia nhập vào đạo Công giáo được thưởng 5.000đ. Phải nói rằng, đây là một trong những thủ đoạn nham hiểm nhất của kẻ thù. Lợi dụng chiêu bài dân tộc, tôn giáo để thực hiện ý đồ khoét sâu mâu thuẫn giữa công nhân không có đạo và công nhân có đạo, giữa công

74

nhân tại chỗ và công nhân di cư, giữa công nhân người Kinh và công nhân người dân tộc thiểu số. Mục đích cuối cùng của chúng là gây xáo trộn, mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp công nhân cũng có nghĩa là đã làm suy yếu dần và đi đến triệt tiêu phong trào đấu tranh của công nhân chống lại chúng. Không dừng lại ở việc bóp nghẹt đời sống kinh tế và dùng chiêu bài dân tộc, tôn giáo để gây mâu thuẫn trong nội bộ công nhân và nhân dân sống trong các đồn điền, Mỹ - Diệm còn dùng thủ đoạn mê hoặc hóa, trụy lạc hóa công nhân khuyến khích phát triển đồng bóng, cúng bái, bói toán, cho xây dựng đình, chùa, miếu mạo, bày ra tệ nạn cờ bạc, rượu chè, hút xách, đĩ điếm... trong các đồn điền, nhà máy. Đây cũng là một âm mưu thâm độc, ngoài việc thực hiện chính sách ngu dân, còn gieo rắc vào tư tưởng của công nhân lối sống hưởng thụ, lối sống gấp, lối sống ngày càng lệ thuộc vào cám dỗ vật chất, xa rời lý tưởng cách mạng, xa rời đấu tranh giai cấp.

Khoác áo dân chủ giả hiệu Mỹ - Diệm tiến hành thành lập các tổ chức Nghiệp đoàn theo nguyên tắc đa nguyên để nắm và phân hóa lực lượng công nhân. Tiêu biểu là “Tổng Liên đoàn Lao động” do Nguyễn Văn Của cầm đầu và “Tổng Liên đoàn lao công” do Trần Quốc Bửu làm chủ tịch. Trên cơ sở đó, chúng đến các đồn điền, nhà máy, công trường ở Quản Lợi, Lộc Ninh... vận động công nhân tham gia “Phong trào cách mạng quốc gia”, “Thanh niên cộng hòa, Phụ nữ liên đới”, “Tập đoàn công dân”... cưỡng bức công nhân gia nhập tổ chức, sinh hoạt tố cộng, đóng lệ phí.

75

Liên kết với bọn chủ sở bày ra “Nghiệp đoàn chủ nhân”, “Cộng đồng khế ước”, “Thanh niên thánh nghiệp”... nhưng bị công nhân phản đối quyết liệt. Đồng thời, tổ chức đào tạo “Cán bộ nghiệp đoàn” do các tổ chức Công đoàn quốc tế như “Nghiệp đoàn tự do Thế giới và Châu á”, “Tổng Liên đoàn Lao động quốc tế”, “Công đoàn Thiên Chúa giáo quốc tế” cấu kết cùng cùng với “Phòng lao động Hoa Kỳ”, “Phòng lao công”’ của phái đoàn USOM ngày đêm tung hô, giáo huấn, gieo rắc những trò bịp bợm, lừa đảo nhồi nhét vào tư tưởng công nhân bằng các khẩu hiệu “nghiệp đoàn không làm chính trị”, “thăng tiến cần lao, đồng tiến xã hội”, “lao tư lưỡng lợi”, “hòa hợp giai cấp” để lừa bịp, thủ tiêu phong trào đấu tranh của công nhân.

Căn cứ vào tình hình phát triển của cách mạng miền Nam, cũng như nắm rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, đầu năm 1955, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định tách tỉnh Thủ Biên lập thành tỉnh Thủ Dầu Một và tỉnh Biên Hòa (địa bàn Bình Long, Lộc Ninh thuộc tỉnh Thủ Dầu Một, địa bàn Phước Long, Đồng Xoài thuộc tỉnh Biên Hòa) để thuận lợi trong việc lãnh đạo phong trào cách mạng, chủ động đối phó với kẻ thù. Nhiệm vụ hàng đầu của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Tỉnh ủy Biên Hòa trong giai đoạn này là nhanh chóng đưa cán bộ, đảng viên về bám dân, phát triển chi bộ, gây dựng cơ sở cách mạng, phát động phong trào đấu tranh trong mọi tầng lớp nhân dân. Tại Hớn Quản, Huyện ủy được củng cố do đồng chí Vũ Đình Thính (Chín Thính) làm Bí thư, đồng chí Tám Cường (Năm Điền) làm phó Bí

76

thư, đồng chí Nguyễn Khắc Thành (Năm Thành) ủy viên thường vụ phụ trách Phòng dân tộc thiểu số. Sau bổ sung thêm đồng chí Chín Chức, Sáu Quyền (Ngô Tôn Quyền), Lê Sắc Nghi (Bảy Nghi) từ Xuân Lộc chuyển qua. Tại Lộc Ninh - Bù Đốp cấp ủy mới được thành lập mang mật danh là K ủy, do đồng chí Sáu Xu lãnh đạo. Ở vùng Phước Long ta bố trí đồng chí Ba Tuyên, Ba Đấu, út Lộc bí mật ở lại hoạt động, chủ yếu ở vùng công nhân cao su để lãnh đạo công nhân đấu tranh công khai với địch. Tại vùng Tân Thuận Bù Ca, Ban cán sự Đảng được thành lập tại rừng Bàu Chúc (6/1957) do đồng chí Ba Phú làm Bí thư, Ba Tuyên làm phó Bí thư, Ba Đấu ủy viên, về sau bổ sung thêm đồng chí Tư Quý, Hai Tuấn, Sáu Hải, Ba Hỷ và chị Tư Huệ làm ủy viên. Việc thành lập Ban cán sự Đảng vùng Tân Thuận - Bù Ca có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đó là lãnh đạo và phát động rộng rãi phong trào đấu tranh của công nhân cao su và đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, xây dựng mối đoàn kết Kinh - Thượng; chỉ đạo phát triển Đảng và xây dựng cơ sở cách mạng lên hướng Bù Đăng.

Ở các đồn điền, làng công nhân ta cũng nhanh chóng thành lập cơ sở Đảng để lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân. Tại Hớn Quản, Đảng ủy cao su được thành lập (ll/1954) gồm các đồng chí Tám Cường, Năm Điền, Sáu Quyền, Út Quẹo, Mười Bào, Bảy Nghi, Tám Lên, Năm Sao, do đồng chí Tám Cường làm Bí thư. Ở đồn điền Quản Lợi, chi bộ được thành lập (ll/1954) gồm 4 đồng chí (Sa, Hỷ, Nghi, Hoàng) do đồng chí Sắc Nghi (Bảy Nghi) làm

77

Bí thư. Tại đồn điền Lộc Ninh, chi bộ cũng được thành lập (26/2/1955) gồm 3 đồng chí Bình,.Chức, Tuyết do đồng chí Nguyễn Văn Tuyết làm Bí thư. Cuối năm 1956, tại đồn điền cao su Thuận Lợi, Bù Ca chi bộ được thành lập gồm 3 đồng chí Tư Quý, Sáu Hải và Ba Phú do đồng chí Ba Phú làm Bí thư; chi bộ 2 cơ sở Thuận Lợi do đồng chí Ba Đấu làm Bí thư cùng đồng chí Hai Tuấn và 2 đảng viên là công nhân của sở; chi bộ 3 ở Bù Ca do đồng chí Tuyên làm Bí thư và các đảng viên Hai Lạc, Sáu Xê, Bảy Hát, út Lộc. Đồng thời, Xứ ủy Nam Bộ đã mua sở cao su Bù Ca, sản xuất làm kinh tế, tạo kinh phí cho Đảng hoạt động, qua đó hình thành ở đây một bộ phận lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng sau này. Mặc dù ở một vài nơi cơ sở Đảng còn trắng, phân tán hoặc hoạt động đơn tuyến do ta chuyển quân tập kết, do lực lượng đảng viên mỏng, do địch lùng sục, khủng bố, nhưng nhìn chung công tác củng cố, xây dựng và phát triển cơ sở Đảng tại các làng, sở đồn điền trong thời kỳ này đạt kết quả tốt. Qua đó trực tiếp lãnh đạo, tập hợp công nhân đứng lên đấu tranh chống lại bọn chủ sở, chính quyền Mỹ - Diệm trong những năm đầu sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, nhưng nhân dân miền Nam vẫn nằm trong thế kìm kẹp của kẻ thù.

Trên cơ sở lực lượng công nhân tương đối lớn mạnh, một số nghiệp đoàn cách mạng ra đời, một vài nơi tổ chức được “Đội quân áo nâu “, các cơ sở Đảng được hình thành rộng khắp ở các đồn điền, làng, sở đủ sức đảm đương vai trò lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân đi đến

78

thắng lợi, ta đã phát động công nhân đứng lên đấu tranh. Trước mắt đòi địch thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ; đòi cải thiện đời sống cho công nhân. Mở đầu cho cuộc đấu tranh của công nhân Bình Phước trong giai đoạn này là vào ngày 1/8/1954, công nhân các sở cao su tổ chức đấu tranh kéo dài thời gian 3 ngày để chào mừng ký kết thắng lợi Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết hợp với việc đòi trả tự do cho tù chính trị, đòi bãi bỏ thuế đảm phụ chiến tranh, đòi các chủ sở tăng lương lên 20%. Tháng 11/1954 , hơn 40.000 công nhân ở các sở Quản Lợi, Lộc Ninh, Thuận Lợi, Dầu Tiếng đứng lên đấu tranh đòi chủ bỏ chế độ cấp phát gạo mục, cá ươn, chống đánh đập, sa thải công nhân,đòi chăm sóc, chữa trị công nhân khi bị ốm, đau, đòi tăng lương, giảm giờ làm. Cuối năm 1954, hơn 7.200 công nhân ở đồn điền Quản Lợi, 4.000 công nhân ở đồn điền Phú Riềng, Thuận Lợi nổi dậy đấu tranh đòi chủ sở cải thiện đời sống cho công nhân, đòi Mỹ - Diệm thi hành Hiệp định. Những cuộc đấu tranh trên của công nhân đã giành được một số thắng lợi bước đầu . Đặc biệt, ngày 16/12/1954 theo kế hoạch chỉ đạo của chi bộ và Ban chỉ huy phong trào đấu tranh, công nhân các làng Sóc Trào, Sóc Gòn, Xa Cô 28, Xa Cô xít, Xa Cô đơ, Trà Thanh và công nhân nhà máy Quản Lợi cùng kéo về tập hợp xung quanh chợ Quản Lợi (cách nhà tên chủ sở chưa đến 100m) tổ chức biểu tình. Bọn chủ sở và chính quyền địa phương hốt hoảng, vội vã điều một tiểu đoàn lính bảo an và lực lượng cảnh sát Quận ra đối phó, trong đó chúng bố trí một số bọn tề,

79

điệp, thám báo trà trộn vào đoàn biểu tình tung tin giả nhằm kích động để giải tán và phân tán lực lượng công nhân ra làm nhiều nơi để chúng dễ bề đối phó. Nhưng do làm tốt công tác tư tưởng, công tác binh vận, nắm được ý đồ xảo quyệt của kẻ thù, chi bộ Đảng cùng ban lãnh đạo cuộc đấu tranh không mắc mưu bọn chúng, kiên quyết lãnh đạo công nhân đấu tranh đến cùng với địch. Từ cuộc đấu tranh này đã lan nhanh, tỏa rộng ảnh hưởng đến các đồn điền Xa Cam, Xa Trạch, Xa Cát... Công nhân ở các sở này đứng lên hỗ trợ đấu tranh, càng làm cho cuộc biểu tình tăng thêm sức mạnh. Trước khí thế sôi nổi, không thể dập tắt được ngọn lửa đấu tranh của lực lượng công nhân, đúng 8 giờ sáng ngày hôm sau (17/12/1954) tên Lê Văn Bộ (Quận trưởng Quản Lợi) và tên chủ sở đại diện cho Công ty Terres Rouger gặp công nhân để quyết yêu sách: Đồng ý bỏ cấp phát gạo mục thay bằng gạo trắng loại 2, trong đó gạo tấm trắng chiếm 35%; hủy bỏ chế độ đánh đập công nhân; tăng lương 17đ lên 26đ/ngày; tăng khẩu phần của người bệnh nằm ở nhà thương từ 6đ lên 8đ/ngày. Chỉ trong khoảng thời gian 5 tháng, kể từ khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, làn sóng đấu tranh của công nhân đòi Mỹ - Diệm thi hành Hiệp định, kết hợp đòi bọn chủ sở cải thiện đời sống cho công nhân đã lần lượt nổ ra ở hầu hết các làng, sở, đồn điền cao su trên địa bàn tỉnh và giành một số thắng lợi bước đầu.

Để đối phó với phong trào đấu tranh của công nhân lao động Bình Phước (chủ yếu là công nhân cao su trong

80

các đồn điền) ngày càng dâng cao, đầu năm 1955, Mỹ - Diệm (thông qua chính quyền sở tại) tiến hành giải tán các Ban hội đồng xã để thành lập Hội đồng hương chính. Thực chất của việc làm này là sắp xếp lại tổ chức bộ máy chính quyền cơ sở, để loại ra những ai địch tình nghi là “thân cộng”, đồng thời chọn những người thân với chế độ, đưa vào làm tay sai cho chúng. Nắm được ý đồ của kẻ thù, một mặt ta phát động quần chúng đấu tranh đòi bầu cử công khai, dân chủ, tổ chức đưa người của ta ra tranh cử. Mặt khác, chỉ đạo công nhân ở các đồn điền tiến hành thành lập Nghiệp đoàn “Lao công tương tế”, các cấp (cấp hội và cấp chi hội) để bênh vực quyền lợi, động viên, giáo dục công nhân đấu tranh chống lại kẻ thù. Vậy là một trong những tổ chức Công đoàn giải phóng đã ra đời đầu tiên tại Bình Phước. Chỉ trong thời gian ngắn, các tổ chức hội đã được thành lập ở hầu hết các làng công nhân, đồn điền cao su (rầm rộ nhất ở các đồn điền thuộc Hớn Quản, Lộc Ninh) thu hút cả một số cai, ký tiến bộ tham gia vào Ban chấp hành hội. Thấy được sự phát triển lớn mạnh cũng như ảnh hưởng to lớn của “Hội lao công tương tế” đối với phong trào đấu tranh của công nhân, nên bọn của “Hội lao công” đã kịch liệt lên án Hội lao công tương tế. Chúng cho rằng, đây là một tổ chức bất hợp pháp. Được sự chỉ đạo sâu sát của trên, Ban chấp hành các cấp hội phát động phong trào đấu tranh đòi công nhận hội. Địch hèn hạ dùng lực lượng quân sự khủng bố, sát hại một số thành viên của Hội. Ban lãnh đạo các cấp hội tiếp tục vận động công

81

nhân đấu tranh đòi bồi thường nhân mạng, đòi được chữa trị vết thương, buộc địch phải nhượng bộ. Trên đà thắng lợi, tháng 7/1955, 3.000 công nhân ở đồn điền Quản Lợi đình công đòi thả 2 đại biểu của “Hội lao công tương tế” ở Xa Cô 2 bị chúng bắt giữ, tên Quận trưởng phải chấp nhận yêu sách. Phong trào đấu tranh của công nhân các sở Quản Lợi, Xa Cô 2, Lộc Ninh đòi địch công nhận “Hội lao công tương tế” các cấp là một thắng lợi lớn, có tính chất đột phá, mở đường cho hầu hết các đồn điền khác trong tỉnh dấy lên phong trào đấu tranh đòi tự do nghiệp đoàn, đòi cải thiện đời sống, kết hợp với việc đòi Mỹ - Diệm thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, cũng như đòi một số quyền lợi thiết thực khác diễn ra khá râm rộ.

Ngày 13/3/1955, Đảng bộ Lộc Ninh dựa vào tổ chức hợp pháp đã vận động 12.000 công nhân ở sở CEXO kéo về thị trấn Lộc Ninh biểu tình, đưa ra nhiều yêu sách, trong đó có yêu sách bênh vực quyền lợi cho công nhân là người dân tộc thiểu số, tên chủ Đờ - La - Lăng phải chấp nhận giải quyết. Tiếp đến, tháng 7/1955, nhân kỷ niệm một năm ngày ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, Tỉnh ủy Biên Hòa phát động phong trào đấu tranh trong mọi tầng lớp xã hội (kể cả binh lính địch) đòi chính quyền Mỹ - Diệm thi hành Hiệp định. Hưởng ứng lời kêu gọi của Tỉnh ủy công nhân sở cao su Thuận Lợi, Phú Riềng... đứng lên đấu tranh đòi Mỹ - Diệm thi hành Hiệp định, kết hợp đòi chủ sở nâng lương lên 15% cho anh em công nhân có mức lương dưới 1.000đ/tháng. Mặc dù bọn địch chưa dám công

82

khai khủng bố, nhưng chúng cho tay chân theo dõi ghi vào “Sổ bìa đen” những ai chúng tình nghi là cán bộ cốt cán của phong trào để sau này tập trung đàn áp, bắt bớ. Nắm được âm mưu của kẻ thù, thông qua các cơ sở cách mạng và quần chúng tốt cung cấp, ta đã biết được những cán bộ bị chúng ghi vào “Sổ bìa đen” nên nhanh chóng chuyển hướng hoạt động cũng như chủ động đề phòng. Phong trào đấu tranh của công nhân người dân tộc cũng diễn ra sôi nổi. Ở một số đồn điền, công nhân người dân tộc tham gia vào các cuộc đình công, biểu tình, cử đại biểu tham dự các hội nghị, nhờ đó lương của công nhân người dân tộc trong các đồn điền Sóc Soài, Xa Cô 28, Sóc Trào, Phú Miêng, Bò Com, Sóc Tranh, Phú Lố, An Lộc... cũng đã được tăng từ 12đ lên 28đ/ngày hoặc 25đ và 1 lít gạo.

Các cuộc đấu tranh của công nhân lao động Bình Phước nói riêng do Đảng ta lãnh đạo đã có ảnh hưởng nhất định, buộc chính quyền Mỹ - Diệm phải thực hiện chính sách nới lỏng và trao một số quyền lợi cho công nhân. Để xoa dịu tình hình hết sức rối ren, giải quyết mâu thuẫn giữa công nhân với bọn chủ, giữa chính quyền Mỹ - Diệm với nhân dân đang từng bước dâng cao, ngày 17/11/1955 . Bộ Lao động Sài Gòn ra Nghị định số 115/NĐ-LĐ quy định mức lương tối thiểu cho công nhân cạo mủ cao su và công nhân làm ngành nghề khác kể cả đàn ông, phụ nữ, thiếu niên có độ tuổi từ 14 - 18. Quy định một số quyền lợi mà công nhân được hưởng ngoài tiền lương cơ bản còn được cấp nhà ở. thuốc men. tiền thưởng, thâm niên...

83

Mặc dù Nghị định cũng chưa thật sự bênh vực quyền lợi cho người lao động, nhưng đây lại là một văn bản có tính pháp lý đầu tiên của chính quyền Mỹ - Diệm quy định tiền lương tối thiểu mà chủ sở phải trả cho công nhân và một số quyền lợi khác mà người lao động được hưởng.

Dựa vào một số quyền lợi mà Bộ Lao động Sài Gòn quy định tại Nghị định 115, đã tạo điều kiện cho các Chi, Đảng bộ, Ban Công vận động công nhân đấu tranh hợp pháp đòi cho bằng được các quyền lợi này. Mở đầu cho cuộc vận động đấu tranh, Huyện ủy Hớn Quản cử đồng chí Hà Xuân Thọ, Nguyễn Văn Sa, Trần Văn Lưu ra hoạt động công khai hợp pháp. Riêng đồng chí Hà Xuân Thọ (cán bộ công vận lâu năm) được cử về Sài Gòn thương thuyết, vận động Bộ Lao động, Bộ Nội vụ và Tổng Liên đoàn lao công Việt Nam của chính quyền ngụy Sài Gòn đồng tình và hợp thức hóa các thủ tục để tiến tới tổ chức Đại hội thành lập “Liên đoàn đồn điền Việt Nam”. Ngày 18/12/1955, tại Trung tâm nghiên cứu cao su của Pháp ở Lai Khê, có 250 đại biểu đại diện cho các đồn điền trồng cao su, chè, cà phê ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên tham dự đại hội . Đại hội tiến hành bỏ phiếu kín bầu ra Ban Chấp hành gồm 15 người. Đồng chí Hà Xuân Thọ trúng cử với 100% số phiếu bầu, được cử làm Tổng thư ký “Liên đoàn đồn điền Việt Nam” và hầu hết các đại biểu trong Ban Chấp hành đều là người của ta đưa vào. Trong khi đó, người của “Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam” giới thiệu ra tranh cử đều thất bại, nhưng trong tình thế bắt buộc. Trân Quốc

84

Bưu (Chủ tịch Hội lao công Việt Nam) phải công nhận kết quả bầu cử Ban Chấp hành “Liên đoàn đồn điền Việt Nam”. Như vậy, về danh nghĩa “Liên đoàn đồn điền Việt Nam” là một tổ chức thuộc hệ thống của “Tổng Liên đoàn lao công”, nhưng thực chất “Liên đoàn đồn điền Việt Nam” là một tổ chức công khai, hợp pháp của công nhân các đồn điền do Đảng ta lãnh đạo. Đây là một thắng lợi to lớn trong cuộc đấu tranh của công nhân trên con đường đòi tự do nghiệp đoàn. Sau đó không lâu, nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động, ngày 1/5/1956, Ban lãnh đạo “Liên đoàn đồn điền Việt Nam” đã huy động 3.000 công nhân, đại diện cho hơn 40.000 công nhân trong các đồn điền miền Đông rầm rộ kéo về Sài Gòn, kết hợp với đông đảo công nhân Sài Gòn xuống đường biểu tình thị uy đưa ra 16 yêu sách đòi Bộ Lao động, Bộ Nội vụ của chính quyền Mỹ - Diệm giải quyết. Trước sức ép của công nhân, chính quyền Ngô Đình Diệm phải chấp nhận yêu sách nhằm một mặt xoa dịu dư luận, mặt khác đê tập trung lực lượng chống lại các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên đang tập trung đánh phá, đòi lật đổ chính quyền Diệm - Nhu. Trước chứng kiến của đại diện chính quyền ngụy Sài Gòn các chủ công ty toàn miền Đông và đại diện công nhân đồn điền miền Đông đồng ký tên vào bản “Cộng đồng khế ước cao su Việc Nam”. Trong lịch sử đấu tranh đòi cải thiện đời sống, đòi tự do nghiệp đoàn của công nhân lao động, việc ra đời bản “Cộng đồng khế ước cao su Việc Nam” là một thắng lợi rực rỡ, chưa từng có từ trước đến nay của

85

công nhân cao su miền Nam, trong đó sự nghiệp đóng góp không nhỏ của công nhân lao động Bình Phước.

Khi Mỹ - Diệm bày trò “trưng cầu ý dân” nhằm thay đổi chế độ quốc trưởng của Bảo Đại bằng chế độ tổng thống của Ngô Đình Diệm (23/10/1955) và tổ chức bầu cử riêng lẻ để lập ra “Quốc hội” bù nhìn (4/3/1956) . Được sự chỉ đạo của Ban lãnh đạo cao su miền Đông Nam Bộ và Đảng bộ các địa phương, nhiều công nhân, cán bộ cơ sở cách mạng của ta ở các làng, sở cao su trong tỉnh tổ chức rải truyền đơn, dán khẩu hiệu tố cáo việc làm sai trái của Mỹ - Diệm. Công nhân trong các đồn điền cao su Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Lộc Ninh Phước Bình, Thuận Lợi... đứng lên đấu tranh bằng cách tẩy chay không đi bỏ phiếu, kết hợp đòi tăng lương 30%. Trước sức mạnh của cuộc đấu tranh, bọn chủ sở các đồn điền phải chấp nhận yêu sách của công nhân đưa ra là tăng lương từ 25đ/ngày lên 37đ/ngày. Trong khi đó, chính quyền Mỹ - Diệm hèn hạ dùng biện pháp quân sự trấn áp. Sử dụng lực lượng quân đội chặn các nẻo đường sau đó đưa bọn bảo an, dân vệ lùng sục vào tận từng nhà phát thẻ, cưỡng bức công nhân đi bỏ phiếu. Tại nơi bỏ phiếu, chúng kiểm soát gắt gao, nhưng công nhân cũng tìm mọi cách để chống phá như làm rách phiếu, gạch chéo, bỏ phiếu trắng, bôi bẩn...

Trong 3 năm kể từ khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, phong trào đấu tranh của công nhân trong các đồn điền liên tục phát triển cả về chiều sâu lẫn diện rộng. Từ cuộc đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, đòi thi hành

86

Hiệp định Giơ-ne-vơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, tẩy chay các trò hề “trưng cầu ý dân”, bầu cử quốc hội bù nhìn”, chống địch khủng bố, đàn áp, tố cộng. Đặc biệt sau khi tổ chức nghiệp đoàn các cấp ra đời do người của ta nắm giữ, phong trào đấu tranh của công nhân tiến lên một tầm cao mới. Đó là đấu tranh công khai, hợp pháp đấu tranh trực diện với kẻ thù, buộc bọn chủ sở và chính quyền Mỹ - Diệm phải chấp nhận mọi yêu cầu chính đáng của công nhân đưa ra. Đỉnh cao là bản ký kết “Cộng đồng khế ước cao su Việt Nam” ra đời. Phải nói rằng, phong trào đấu tranh của công nhân lao động Bình Phước kể từ khi địch phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ đến năm 1956 đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Qua đấu tranh, đội ngũ cán bộ lãnh đạo phong trào bản lĩnh hơn. Hình thức đấu tranh của công nhân cũng linh hoạt, khôn khéo hơn, sát hợp với từng thời điểm. Thực hiện nghiêm túc đường lối chủ trương của Đảng đề ra trong giai đoạn này là đấu tranh chính trị, công khai. hợp pháp. tránh thiệt hại, tổn thất lớn cho phong trào nhằm củng cố lực lượng, chuẩn bị bước vào giai đoạn mới: đấu tranh chính trị kết hợp với hoạt động diệt ác, trừ gian, bí mật. Có được kết quả trên, ngoài sự lãnh đạo có tính chiến lược, sát sao của các cấp ủy Đảng. Ban công vận, thì công sức đóng góp to lớn nhất. cơ bản nhất vẫn là lực lượng hùng hậu của đội ngũ công nhân lao động có ý thức tổ chức, kỷ luật cao được rèn luyện trau dồi qua thực tiễn đấu tranh và được dìu dắt, giáo dục trực tiếp của chi bộ. Ban công vận trong các đồn

87

điền, nhà máy, làng công nhân. Đáng kể nhất là trò của đồng chí Lê Sắc Nghi, Hà Xuân Thọ và một số đồng chí tiêu biểu khác.

Từ năm 1957 , nhận thấy phong trào đấu tranh của các tầng lớp xã hội ở miền Nam ngày càng dâng cao, có tổ chức, có sự tham gia chỉ đạo của Đảng ta, Mỹ - Diệm đẩy mạnh chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” vô cùng ác liệt. Chúng công khai tuyên bố: “không hiệp thương tổng tuyển cử” , “đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật “ , “đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh “, “biên giới Hoa Kỳ đến vĩ tuyến 17”, “lấp sông Bến Hải “, “Bắc tiến”... Để chứng minh cho hành động vừa hiếu chiến, vừa xảo trá này, chính quyền Mỹ - Diệm một mặt gấp rút củng cố lại chính quyền tay sai từ Trung ương đến cơ sở mà chúng gọi là chiến dịch “thanh lọc nội bộ”, mặt khác thẳng tay đàn áp, bắt bớ sát hại những ai chúng tình nghi “Cộng sản”, với phương châm “giết lầm hơn bỏ sót”.

Với quyết tâm chống phá cách mạng đến cùng, thực hiện chủ trương “tố cộng, diệt cộng” quyết liệt của Mỹ - Diệm, trên địa bàn Bình Phước, chính quyền sở tại đã tăng cường lập ra nhiều trạm kiểm soát trên các trục đường 13, 14 và một số đường giao thông khác, sử dụng bọn chiêu hồi, chỉ điểm nhận dạng cán bộ của ta. Ở các làng công nhân, nhà máy, đồn điền, chúng sử dụng bọn công dân vụ, mật vụ, tề, điệp sục sạo khắp nơi để tìm cho ra những ai đã bị chúng ghi vào “Sổ bìa đen” trước đó. Trong thời gian này tại các đồn điền cao su ở Bình Long không ngày

88

nào là không có người bị chúng bắt. Trong đó, có cả một số đồng chí lãnh đạo “Liên đoàn đồn điền Việt Nam đang hoạt động tại đồn điền Quản Lợi. Chi bộ Đảng ở Tân Khai có 9 đồng chí, bị chúng bắt 7 đồng chí. Ở các làng 2, 7, 9, 10 (Lộc Ninh) không còn đảng viên nào. Thậm chí một số nơi, nhiều đảng viên không chịu nổi phải ra hàng địch, gây tổn thất không nhỏ cho cách mạng. Trong một đêm, tại Quản Lợi, chúng đến 82 người. Tại Xa Cam, Xa Trạch, Minh Thành, mỗi nơi chúng bắt từ 40 - 50 người. Về mặt quân sự, địch dùng toàn bộ Sư đoàn 5, 2 Trung đoàn độc lập cùng với đầy đủ các ban, bệ, bộ máy các cấp đồng loạt mở chiến dịch Trương Tấn Bửu, do tên thiếu tướng Mai Hữu Xuân chỉ huy tập trung càn quét chủ yếu vào các đồn điền cao su, làng công nhân ở địa bàn miền Đông Nam Bộ. Khi đánh thí điểm ở Lộc Ninh, chúng đã bắt anh Trần Văn Đáng - Chủ tịch “Hội lao công tương tế” Lộc Ninh, công nhân đồn điền cao su tập hợp lại biểu tình chống đối giữ anh Đáng lại, chúng đang tâm nổ súng bắn chết và làm bị thương 43 người. Trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Hợp - Chủ tịch Tiểu phân bộ Nghiệp đoàn Làng 5. Ngoài ra, chúng còn bắt tra tấn tại chỗ và đày đi giam giữ ở nhà tù Côn Đảo toàn bộ Ban quản trị “Hội lao công tương tế” và 300 công nhân cao su Lộc Ninh. Sau đó, công nhân cao su Lộc Ninh đã biến lễ tang các công nhân bị chúng bắn chết thành những cuộc biểu tình thị uy và phát động căm thù trong toàn công nhân cao su các sở đóng trên địa bàn tỉnh Bình Long cùng với việc ký đơn tập thể khiếu nại, tố cáo

89

bọn giết người.Lợi dụng việc Mỹ - Diệm đánh phá cách mạng ác liệt,

khủng bố, bắt bớ và dìm phong trào đấu tranh của công nhân trong máu lửa qua chiến dịch “tố cộng. diệt cộng”, bọn chủ sở các đồn điền Xa Cam, Xa Trạch, Xa Cát, Quản Lợi, Minh Thạnh, Thuận Lợi, Phú Riềng... cấu kết với bọn ngụy quyền, ngụy quân thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh của công nhân. Lần lượt chúng tước đoạt mọi quyền lợi mà trước đây công nhân đấu tranh quyết liệt mới giành được như: Cấm mọi hoạt động của các tổ chức Nghiệp đoàn, Hội tương tế ái hữu, các phong trào thể dục thể thao, văn hóa văn nghệ, bình dân học vụ của anh em công nhân; sử dụng các tên xu, sếp, cai, đội ác ôn đánh đập, chửi mắng công nhân (tiêu biểu trong bọn này, có các tên Tám Linh, Tư Khả, Trọng... ở đồn điền Quản Lợi), tuyên bố bãi bỏ chế độ cấp phát thuốc cho người bệnh, hủy bỏ chế độ bác sĩ, nhà thương, cấp phát gạo trắng cho công nhân. Thâm độc hơn, chúng còn bày ra trò in truyền đơn giả, tìm cách bỏ vào nhà của công nhân vào buổi tối, sáng ra báo cảnh sát bắt giam, vu khống là cộng sản. Ngoài ra, bọn chủ sở ngang nhiên sa thải công nhân vô tội vạ và hãm hại những ai bị chúng tình nghi là cán bộ cách mạng. Ở Lộc Ninh, một lúc chủ sở sa thải 40 công nhân thợ mộc, ở Quản Lợi sa thải 30 công nhân thợ cạo, 20 tài xế. Khi chúng phát hiện 3 cán bộ Nghiệp đoàn (ông Cánh, ông Ban, ông Điều) là cơ sở cách mạng, chúng bắt đi giam cầm và tra tấn đến chết. Tại sở cao su Xa Cô 28, chúng bắt 4 công nhân (gồm

90

anh Đại, Hữu, Hậu, Mười Ba) cột sau xe Jeep kéo lê chạy trên đường, tập hợp công nhân chứng kiến để uy hiếp tinh thần. Trước hành động man rợ của kẻ thù, toàn thể công nhân Quản Lợi tổ chức đình công 6 ngày đòi chấm dứt bắt người và khủng bố công nhân, nhưng bọn chủ sở vẫn không chịu giải quyết, chi bộ vận động anh chị em công nhân đấu tranh đến cùng. Sau đó, được công nhân cao su Lộc Ninh ủng hộ gửi giúp hàng trăm bao gạo. Trước sức mạnh của cuộc đấu tranh, bọn chủ sở Quản Lợi đồng ý tăng thêm 1 đồng 50 xu/ngày và chấp nhận yêu sách bồi thường cho công nhân 4 ngày đình công. Ngoài ra, do bọn chủ sở tổ chức ám sát đại biểu công nhân, do vậy công nhân phải canh gác cẩn thận vào ban đêm; ban ngày đi làm phải tự vệ bằng dụng cụ lao động của mình. Đối với công nhân nữ, chúng tha hồ bắt bớ, hù dọa, hãm hiếp như vụ công an Lộc Ninh bắt 30 công nhân lao động nữ tra tấn, đánh đập dã man và chia nhau hãm hiếp. Riêng đối với bọn Hội đồng xã đi đến đâu là phải có lễ lộc cho chúng, dân vệ đến nhà nào phải có rượu, thịt mới được yên thân. Bên cạnh việc dùng bọn tay sai, ác ôn cấu kết với chủ sở thẳng tay đàn áp công nhân, chính quyền Diệm còn ban hành nhiều quy định vô lý nhằm bóp nghẹt, trấn áp công nhân như ban hành Lệnh giới nghiêm, tụm 5 tụm 3 bị bắt, đi lại ban đêm không có đèn cũng bị bắt. Mỗi gia đình ban đêm phải đốt đèn trong nhà, đi đâu phải có giấy phép, đến đâu phải trình diện, cấm không được đi ra khỏi lô cao su.

Như vậy, từ khi chính quyền Mỹ - Diệm phát động

91

chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” hầu hết trong các nhà máy, làng, sở, đồn điền cao su Bình Phước tình hình càng ngày càng thêm căng thẳng. Công nhân khắp nơi sống trong bầu không khí tối tăm, nghẹt thở. Hệ thống tổ chức cơ sở cách mạng của ta trong các đồn điền, làng, sở cao su bị thiệt hại khá nặng. Nhiều nơi, cơ sở Đảng, Đoàn, Hội tê liệt, ngưng hoạt động; nhiều đồng chí cán bộ trung kiên, cán bộ cốt cán của phong trào bị địch sát hại hoặc bị bắt đày đi tù Côn Đảo, Phú Quốc... Các tổ chức Nghiệp đoàn do ta cài cắm cán bộ nắm giữ trước đây, nay bị bọn tay chân của Trần Quốc Bửu cấu kết với bọn chủ sở đưa người của chúng vào khuynh đảo, tiếp tay cho chính quyền Mỹ - Diệm đàn áp phong trào đấu tranh của công nhân hết sức dã man. Trước tình hình đó, phong trào đấu tranh của công nhân lao động tạm lắng lại. Trong giai đoạn này, ngoài cuộc đấu tranh lớn nhất của hơn 4.000 công nhân ở đồn điền Xa Trạch, sau đó được 8.000 công nhân đồn điền Lộc Ninh ủng hộ diễn ra vào giữa năm 1957 và một số cuộc biểu tình nhỏ lẻ khác nổ ra, phần lớn ta phát động tổ chức đấu tranh bằng hình thức gửi đơn từ tố cáo, kiến nghị; cử đại biểu đòi yêu sách, đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ thiết thực hàng ngày, chống khủng bố.

Trong tình hình cực kỳ đen tối ấy, bản “Đề cương cách mạng miền Nam” của đồng chí Lê Duẩn (lúc bấy giờ là Bí thư Xứ ủy Nam Bộ) ra đời đã soi sáng con đường đấu tranh của cách mạng miền Nam theo phương thức mới, đó là đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh võ trang.

92

Tiếp thu bản “Đề cương cách mạng miền Nam” của đồng chí Lê Duẩn và Nghị quyết của Xứ ủy và Tỉnh ủy, tất cả địa phương trong tỉnh bắt tay ngay vào việc xây dựng lực lượng vũ trang. Bán vũ trang để hỗ trợ, làm hậu thuẫn cho phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân, đồng thời tổ chức diệt ác, trừ gian (chủ yếu là tiêu diệt những tên ác ôn, những tên có nợ máu; cảnh cáo những tên chiêu hồi, chỉ điểm). Trong lúc các địa phương trong tỉnh khẩn trương tập hợp, xây dựng các tổ vũ trang, đội ngũ công tác, có một tin vui đến: vào đêm 10/8/1957 lực lượng vũ trang của trên tỉnh miền Đông, được sự hỗ trợ của đội võ trang tuyên truyền tại chỗ, bất ngờ tấn công vào đồn Minh Thành tiêu diệt nhiều tên ác ôn, thu nhiều vũ khí, đạn dược, lương thực và một số lượng lớn tiền miền Nam. Sự kiện này, đã ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng, khôi phục, củng cố, phát triển phong trào đấu tranh của công nhân Bình Phước lên một tầm cao mới.

Đầu năm 1958, Đảng ủy cao su Thủ Dầu Một được thành lập nhằm thống nhất phong trào đấu tranh của công nhân cao su ở các đồn điền cao su Dầu Tiếng, Lai Khê, Hớn Quản, Phú Riềng, Lộc Ninh, Đa Kia... Từ đây, phong trào đấu tranh của công nhân được chuẩn bị chu đáo hơn. Có lực lượng dự bị, có sự phối hợp, hỗ trợ của quần chúng nhân dân và công nhân nơi khác. Đảng ủy gồm 11 đồng chí, do đồng chí Tám Cường - ủy viên thường vụ Tỉnh ủy Thủ Dầu Một được chỉ định làm Bí thư, đồng thời đặc trách sở cao su Minh Thành; đồng chí Bảy Niên ủy viên

93

phụ trách vùng cao su Hớn Quản; đồng chí Sáu Quyền (còn gọi là Sáu Xu) và đồng chí Sáu Sáng - ủy viên phụ trách vùng Lộc Ninh. Riêng ở địa bàn Phước Long để phù hợp với tình hình mới, Xứ ủy quyết định thành lập Tỉnh ủy Phước Long gồm khoảng 30 đồng chí, do đồng chí Phạm Thuận (Ba Thu) làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Ba Phú làm phó Bí thư, đồng chí Hai Đính (Tỉnh ủy viên) phụ trách khối công nhân cao su các sở Thuận Lợi, Phú Riềng, Bù Ca, Bù Nho. Theo đó, các K (tương đương cấp huyện) lần lượt ra đời. K2 do đồng chí Hai Đính phụ trách. Giữa năm 1959, Đảng ủy cao su Bình Long được thành lập gồm có các đồng chí Tám Cường, Sáu Xu, Út Quẹo, Mười Bào, Tám Lên, Năm Sao, do đồng chí Tám Cường làm Bí thư. Cuối năm 1959, Ban cán sự Đảng Lộc Ninh - Bù Đốp được thành lập.

Tiếp đến, Huyện ủy Hớn Quản được tách thành hai bộ phận công tác trực thuộc Tỉnh ủy Thủ Dầu Một gồm Ban cán sự Cao su vận do đồng chí Tám Cường phụ trách và Ban cán sự Dân tộc vận do đồng chí Năm Thành phụ trách. Sau khi được thành lập, Ban cán sự Cao su vận đã huy động hơn 15.000 công nhân ở các đồn điền cao su Xa Trạch. Quản Lợi, Xa Cam cùng 8 đồn điền cao su khác thuộc sở Sóc Tranh, Sóc Xiêm, Sóc Trào, Sóc Gòn, An Lộc, Phú Lố tổ chức bãi công kéo dài thời gian một tuần lễ đòi tự do nghiệp đoàn, đòi phụ cấp đắt đỏ. Cuộc đấu tranh lan rộng đến các đồn điền toàn miền Đông Nam Bộ và trên toàn miền Nam, được sự ủng hộ về vật chất tinh thần của

94

công nhân Đà Nẵng và Liên đoàn Nông dân miền Nam, nên đã giành được thắng lợi.

Phong trào đấu tranh của công nhân lại tiếp tục nở rộ, nhân dịp ngày Quốc tế lao động 01/5/1958 , trên 10.000 công nhân các đồn điền cao su đại diện cho hơn 60.000 công nhân các đồn điền cao su miền Đông kéo về Sài Gòn, phối hợp cùng với công nhân Sài Gòn, biểu tình đòi tăng lương, đòi bãi bỏ chế độ khắc nghiệt đối với công nhân lao động. đòi các quyền tự do dân chủ... Trên đà thắng lợi, ngày 11/11/1958 , hơn 14.000 công nhân cao su Lộc Ninh Hớn Quản tổ chức bãi công 4 ngày đấu tranh phản đối khủng bố nghiệp đoàn, đòi đảm bảo tự do nghiệp đoàn. Đặc biệt, sự kiện gây xôn xao dư luận xảy ra vào tháng 12/1958 , tại nhà tù Phú Lợi. Địch hèn hạ đầu độc gần 6.000 tù nhân, trong đó có nhiều người trúng độc nặng chết. Đảng ủy đồn điền cao su Bình Long đã nhanh chóng cử 200 đại biểu công nhân do đồng chí Sáu Xu,Kim Anh, Năm Thiều dẫn đầu kéo xuống tận Dinh tỉnh trưởng ở Bình Dương đấu tranh đòi được thăm bệnh nhân tù Phú Lợi. Mặc dù, yêu sách đưa ra không được giải quyết, nhưng cùng với các đoàn biểu tình khác đã biểu dương sức mạnh đấu tranh, thổi lên ngọn lửa căm thù của nhân dân ta trong cả nước và lan rộng đến cả các tầng lớp tiến bộ trên thế giới phẫn nộ đối với chế độ độc tài, phát xít Mỹ - Diệm.

Ngoài các cuộc đấu tranh của công nhân và nhân dân trong các đồn điền giành thắng lợi, tại hầu hết các đồn điền, nhà máy, làng, sở các tổ chức hội hoạt động trước

95

đây bị địch cấm nay được phục hồi hoạt động trở lại như Hội nhà giáo, Hội tương tế, Hội banh, Hội chùa... đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của công nhân. Cay cú, do thua đau trên cả mặt trận chính trị và quân sự, Mỹ - Diệm điên cuồng tăng cường mở chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”. Đỉnh cao của hành động hiếu chiến và tội ác tày đình của chúng là việc Mỹ - Diệm ban hành Luật 10/59 khét tiếng dã man, lê máy chém đi khắp nơi, giết hại người yêu nước, chiến sỹ, cán bộ cách mạng và một số người dân bị chúng gán tội “Cộng sản”. Trong đó, nhiều cơ sở cách mạng và cán bộ cốt cán lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân lao động Bình Phước đã bị chúng sát hại. Tuy tình hình căng thẳng bao trùm khắp các đồn điền, làng, sở, nhà máy, nhưng không vì thế mà phong trào công nhân lắng xuống, những cuộc đấu tranh của công nhân vẫn được duy trì phát triển. Nổi bật trong giai đoạn này, là cuộc đấu tranh của hơn 3000 công nhân đồn điền Lộc Ninh nổ ra vào 5/1959; của 1.000 công nhân Xa Cát, 5000 công nhân Lộc Ninh nổ ra vào tháng 12/1959 đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ, đòi cải thiện sinh hoạt, cải thiện lao động, chống sa thải giành thắng lợi. Bên cạnh đó, ta phát động đấu tranh bằng các hình thức như: Cử đại biểu đưa ra yêu sách đòi hủy bỏ Khoản cấm công nhân đình công; phản đối nhận lương căn bản quá thất; đòi thả các đại biểu của công nhân bị chúng bắt giam; tổ chức canh gác bắt quả tang bọn công an, gián điệp, chủ sở vu khống nhét truyền đơn vào nhà công nhân để qua đó phát động phong

96

trào đấu tranh tố cáo hành vi bỉ ổi của chúng lên báo chí ở Sài Gòn, báo chí trong cả nước và quốc tế; tổ chức đấu tranh đòi xây dựng thêm nhà ở, nhà vệ sinh. Kết quả công nhân chưa có nhà được chủ sở trả 200đ để xây nhà. Ngày 26/10/1959, Mỹ - Diệm tổ chức Tết cộng hòa tại Minh Thành, chúng cho lính vào từng nhà bắt công nhân đi dự, mục đích là để tố cộng, ai không dự bị khủng bố, có hàng trăm đại biểu công nhân kéo về Dinh tỉnh trưởng phản đối, buộc chúng phải nhượng bộ. Ở Brelin, Lộc Tấn, làng 3, 5, 1 1 , Cốc Rưới, công nhân đấu tranh chống cắt lương, đòi chủ trả lương cho những công nhân bị chúng bắt oan. Ở chợ Lộc Ninh, các tiểu thương và một số tầng lớp lao động khác đấu tranh đòi tự đi lại, phản đối việc dời nhà,đuổi chợ. Ở các phum, sóc đồng bào (có cả Công nhân) người dân tộc đấu tranh đòi bọn bảo an, dân vệ phải cho họ tự do vào rừng, ra rẫy, ra lô cao su được mang gạo, muối nấu ăn. Tháng l/1599. Ban Chấp hành Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị lần thứ 15 (khóa II) thông qua Nghị quyết về đường lối cách mạng miền Năm. Nghị quyết đã chỉ rõ: “Lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang đánh đổ quyền thống trị của đế quốc Mỹ và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”. Tinh thần nội dung Nghị quyết đã đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Nam trong giai đoạn đầy khó khăn, gian khổ này. Đó là, đấu tranh chính trị, vũ trang kết hợp bằng cả chính trị, quân sự và binh vận chuẩn bị

97

cho cuộc Đồng khởi trên toàn miền Nam.Thực hiện tinh thần nội dung Nghị quyết của Trung

ương, Tỉnh ủy đã chỉ đạo chuẩn bị tốt mọi mặt để tiến lên Đồng khởi. Một trong những nhiệm vụ cấp thiết nhất lúc bấy giờ là đưa cán bộ về cơ sở để gầy dựng, phát triển lực lượng nòng cốt đấu tranh. Ở Lộc Ninh, bố trí đồng chí Sáu Sáng, Sáu Quyền phụ trách; ở Hớn Quản bố trí đồng chí Tám Cường và nữ đồng chí Bảy Niên phụ trách, ở Thuận Lợi bố trí đồng chí Bảy Chiến, Út Lộc, Ba Thiều phụ trách. Ở các làng công nhân thuộc đồn điền cao su Lộc Ninh và một số đồn điền thuộc Quản Lợi (Lợi Hưng, Xa Cô 6, khu vực Téch-nich, Tân Khai, Xa Cam. Xa Cát...) chi bộ được củng cố cũng như thành lập mới. Ngoài ra, lực lượng quần chúng cũng được chú trọng phát triển để tổ chức đấu tranh hợp pháp và bán hợp pháp. Các tổ vũ trang, đội mũi công tác lần lượt ra đời. Riêng ở Hớn Quản. Lộc Ninh có trung đội vũ trang của huyện trước kia, nay phân thành các mũi công tác hỗ trợ cho các làng, thị trấn xung quanh. Ở khu vực Đa Kia, Bù Đốp có các đội mũi vũ trang do Ban thiểu số vận thành lập.

Để có vũ khí trang bị cho các đội công tác, tổ vũ trang, công nhân cơ khí trong các nhà máy chế biến mủ cao su của các đồn điền đã bí mật rèn đúc giáo, mác biến những ống sắt thành những nòng súng, thu gom dây điện, thuốc nổ, sắt, thép vụn chế tạo ra mìn, lựu đạn. Công nhân tổ chức lấy súng của địch về trang bị cho ta. Các cơ sở của ta cài cắm vào các đội thanh niên chiến đấu., dân vệ, bảo an của

98

địch mang về cho cách mạng không những vũ khí, quân trang, quân dụng mà còn cả những tin tức quan trọng.

Tại Bình Long, Tỉnh ủy chỉ đạo lấy ngày 25/2/1960 đồng loạt nổi dậy (đồng khởi) trong toàn tỉnh. Ngày 17/1/1960 tỉnh Bến Tre nổ ra Đồng khởi; tiếp theo đêm 25 rạng 26/2/1960 chiến thắng vang dội của dân ta ở Tua II - Tây Ninh đã tiếp thêm sức mạnh cho phong trào Đồng khởi trong toàn tỉnh.

Đúng vào ngày 25.�.1960, tại Bình Long được sự hỗ trợ của các đội công tác. nhân dân nổi dậy phá kìm, diệt ác. Tất cả mọi con đường, ngõ xóm, đồn điền cao su, làng công nhân, công nhân lao động quân chúng nhân dân đông loạt đánh trống, gõ thùng, treo băng rôn, biểu ngữ, rải truyền đơn, tạo tiếng nổ lớn uy hiếp tinh thần địch. Hòa nhịp vào khí thế hừng hực tiến công trừng trị bọn ác ôn, công nhân các sở cao su Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cô 6 , Xa Cát cũng đồng loạt nổi dậy khởi nghĩa. Ở các làng 2, 5, 7, 9 thuộc sở cao su Lộc Ninh cùng với các sở Bù Đốp , Brê-lin... công nhân nổi dậy tấn công, trừng trị bọn ác ôn. Trong đợt này, đa số các tên tề, ngụy, cảnh sát đã bị ta cảnh cáo, giáo dục, một số tên có nợ máu bị ta trừng trị tiêu diệt như các tên Thượng, Lai, Trí (cảnh sát Lộc Tấn), Minh, Tây (cảnh sát Lộc Thắng), Lâm, Khánh, Hưng (cảnh sát Lộc Hưng)...

Tại Phước Long, công nhân ở các đồn điền đứng lên chống địch, tạo nguồn tiếp tế, cung cấp tin tức, dẫn đường cho bộ đội tấn công, phối hợp diệt ác ôn, cảnh cáo bọn

99

tề, điệp. Đồng thời, xây dựng căn cứ, xây dựng lực lượng chính trị, tạo địa bàn đứng chân ở vùng nông thôn, xây dựng hệ thống đường giao thông chiến lược Bắc - Nam qua địa bàn tỉnh (đường 559). Từ đây con đường chiến lược Bắc - Nam được khai thông, đưa hàng vạn con em tập kết ra Bắc được về lại miền Nam chiến đấu. Các đơn vị chủ lực, phương tiện, khí tài được miền Bắc chi viện vào đều đi qua con đường chiến lược này. Đồng thời, chỉ đạo móc nối phát triển nhanh, rộng mạng lưới cơ sở Đảng trong lực lượng công nhân.

Sau Đồng khởi ở tất cả các đồn điền, nhà máy, làng công nhân, tình hình đã thay đổi hẳn. Cờ đỏ búa liềm được giương cao trong các cuộc mít tinh, hội họp. Nhưng một yêu cầu đặt ra có tính bức thiết nhất, là phải bảo vệ cho bằng được thành quả của Đồng khởi . Do vậy, công tác tổ chức, vận động, tập hợp lực lượng quần chúng, lực lượng công nhân tiếp tục tham gia đấu tranh chính trị, phát triển lực lượng vũ trang là việc làm ưu tiên hàng đầu. Để đáp ứng yêu cầu, hầu hết tại các làng, sở, nhà máy, chi bộ được cũng cố, quần chúng cao su được tổ chức vào “Hội công nhân giải phóng” ngày càng đông; chi đoàn Thanh niên, cơ sở cách mạng phát triển mạnh; có nhiều con em gia đình công nhân thoát ly tham gia cách mạng (ở Lộc Ninh, Xa Cam, Xa Trạch, Quản Lợi, Phú Riềng, Thuận Lợi, dinh điền Vĩnh Thiện có hơn 2.000 thanh niên tình nguyện vào bộ đội); các đội mũi công tác bám các làng, sở để móc ráp cơ sở, hỗ trợ công nhân đứng lên đấu tranh đòi quyền dân

100

sinh, dân chủ. Thực hiện chủ trương của Đảng, công nhân các đồn

điền cao su Lộc Ninh, Quản Lợi, Xa Cát, Xa Trạch, Xa Cam, Minh Thạnh tổ chức hàng trăm cuộc biểu tình đòi làm thêm nhà ở, đòi đào thêm giếng nước, đòi tăng khẩu phần người bệnh, đòi chế độ phụ cấp cho trẻ em ở nhà, đòi sửa nhà vệ sinh, hố rác, đòi chăm sóc y tế, bố trí người giữ trẻ, đòi tăng lương phụ trội, đòi giải quyết nạn thất nghiệp, đòi thả người bị bắt, đòi bồi thường nhân mạng... Phong trào phát triển rầm rộ nhất từ sau khi cuộc đảo chính hụt, lật đổ chính quyền Diệm - Nhu (l1/1l/1960) và Mặt trân Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời (ngày 20/12/1960). Để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh giành thắng lợi, ta phát động phong trào công nhân dùng dụng cụ làm việc của mình như cuốc, dao, búa xẻng, gậy gộc, dao cạo mủ... để tăng uy thế đấu tranh bảo vệ yêu sách. Phong trào đấu tranh chống đuổi nhà, tự vệ chiếm giữ khu nhà ở, cản xe ủi đất, xe cào nhà diễn ra rầm rộ (nhất là khu vực Bình Long). Ngoài ra, phong trào đấu tranh liên kết giữa công nhân với nông dân, giữa công nhân người Kinh với công nhân người dân tộc thiểu số cũng phát triển mạnh mẽ. Trong đó, tiêu biểu có cuộc đấu tranh của hàng trăm công nhân, nông dân, đồng bào dân tộc ở Minh Thạnh nổ ra vào tháng 10/1960, kéo lên tỉnh đòi giải quyết việc làm, đòi được đi làm ăn, chống bắt lính giành thắng lợi.

Phong trào Đồng khởi nổ ra và giành thắng lợi có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không những đánh bại chiến

101

lược “Chiến tranh đơn phương” của đế quốc Mỹ, mà còn tạo ra mối quan hệ bền vững lâu dài giữa công nhân lao động với các tầng lớp nhân dân lao động khác. Qua Đồng Khởi, bọn chủ sở, tề, điệp không dám hống hách, đối xử tệ mạt với công nhân. Riêng bọn chủ sở còn phải chấp nhận đóng thuế cho cách mạng. Qua Đồng khởi, phong trào đấu tranh của công nhân chuyển lên một tầng cao mới, đó là đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang. Nhận thức tư tưởng, bản lĩnh chính trị của công nhân được xác định rõ rệt và tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam.

II. TỔ CHỨC, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG, ĐÁNH BẠI QUỐC SÁCH ẤP CHIẾN LƯỢC CỦA MỸ - DIỆM (1961 - 1964)

Đồng khởi thắng lợi, cách mạng miền Nam chuyển sang thế chủ động tiến công. Trong khi đó, để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ chuyên sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Nội dung cốt lõi của chiến lược chiến tranh đặc biệt là sử dụng bọn phản cách mạng tại chỗ, cùng với sự chi viện, cung cấp mọi phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ để bình định cấp tốc miền Nam trong vòng 18 tháng. Một trong những kế sách của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” là “Quốc sách ấp chiến lược” nhằm đánh bật cách mạng ra khỏi nhân dân. Từng bước lấn chiếm vùng giải phóng, vùng tranh chấp, đặt lại ách kìm kẹp ở nông thôn.

Nằm trong kế hoạch chung đó, Bình Phước được Mỹ

102

- Diệm đặc biệt chú ý. Cùng với Thủ Dầu Một, Biên Hòa, địch tổ chức thành Khu chiến thuật 31, Vùng chiến chiến thuật 3. Tại mỗi quận. huyện. chúng thành lập một chi khu quân sự, một tua biệt kích, do Mỹ huấn luyện, quân số thường xuyên gồm 1 tiêu đoàn bảo an, một đội nghĩa quân và một đại đội biệt kích. Chúng sử dụng lực lượng Sư đoàn 5 và lính địa phương càn quét, đánh chiếm lại những nơi do ta làm chủ trước đây trong phong trào Đồng khởi. Đồng thời củng cố lại mạng lưới tình báo, gián điệp, tề xã, tề ấp; bố trí những tên sĩ quan khét tiếng gian ác nắm giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền các cấp. Ngoài ra, chúng rải thêm nhiều đồn, bót trục lộ 13, 14A, sử dụng bọn lính bảo an ở Chi khu sẵn sàng chi viện, hỗ trợ cho hệ thống ấp chiến lược.

Tại các đồn điền, làng công nhân, địch tiến hành gom dân, lập ấp bằng thủ đoạn cưỡng bức. Chúng gom dân vào tổ chức khóm gia đình. Mỗi ấp, chúng bố trí có một trung đội bảo an, dân vệ; 2 trung đội thanh niên chiến đấu, ngày đêm canh gác. Ở các ấp. được rào từ 2 đến 4 lớp rào kẽm gai, có bãi chông. bãi mìn bảo vệ xung quanh. Người dân chỉ được đi ra, vào ấp bằng 2 cửa chính, đồng thời phải xuất trình thẻ căn cước, có lính canh lục soát. Ngoài ra, bọn tề điệp được đào tạo từ các trung tâm huấn luyện ở Lộc Ninh, Bình Long được bố trí về từng ấp chiến lược để kìm kẹp. Bắt công nhân đóng góp vật liệu, bàn chông để xây dựng ấp, ai không nộp vật liệu, chúng quy ra tiền bắt nộp, ai không nộp chúng cưỡng chế bắt giam. Buộc

103

các chủ đồn điền phải thực hiện hàng loạt các biện pháp như : đưa con, em công nhân vô trong các đồn điền nuôi thêm một lính (l lính/10 công nhân). Đến cuối năm 1963, địch hoàn thành việc xây dựng ấp chiến lược trên toàn địa bàn tỉnh Bình Phước. Trong đó, ấp chiến lược Phú Miêng (Bình Long) được xem là ấp chiến lược kiểu mẫu trong số 139 ấp chiến lược ở địa bàn Bình Phước (tỉnh Bình Long chúng thành lập 75 ấp chiến lược, tỉnh Phước Long 64 ấp chiến lược). Ngoài ra, chúng phát triển gián điệp; quân sự hóa nam nữ thanh niên, bằng cách bắt đi tập luyện quân sự, bắt canh gác, bắt theo học các lớp gián điệp. Cấm công nhân sản xuất lương thực; cấm các chủ đồn điền đóng thuế góp lương thực cho cộng sản. Gạo, tiền phải để ở thị xã hoặc Sài Gòn; giảm lượng gạo cung cấp hàng ngày cho công nhân từ 933 gr xuống còn 600 gr. Lập ấp đến đâu chúng tiến hành giăng đồn bót, bố trí bọn bảo an, dân vệ đến đó kìm kẹp công nhân. Lấy công nhân lao động làm nguồn bổ sung cho quân đội, trước mắt là xây dựng củng cố chân đứng ở đồn điền để đánh phá nông thôn (1 lính kèm 2 công nhân). Như vậy, trong các đồn điền, làng công nhân, thực sự trở thành ấp chiến lược công nhân.

Về chính sách xã hội, chúng tiến hành mở các lớp dạy nghề như : may, nấu ăn, làm thuốc, đánh máy, thợ nguội, thợ máy; tổ chức các hợp tác xã bán rẻ, bán trả góp cho công nhân các loại xe mô tô, radio, tivi và các đồ dùng xa xỉ khác. Hô hào chiêu bài bảo đảm công ăn việc làm, tiếp tế lương thực cho công nhân (thực chất của những việc làm

104

trên của chúng ta là để lừa mỵ, cũng như ràng buộc công nhân cuốn theo lối sống vật chất, hưởng thụ). Ngoài ra, chúng chủ trương cho phát triển phim ảnh bạo lực, khiêu dâm, khuyến khích các kiểu ăn mặc cao bồi, hippy, cờ bạc, rượu chè, mại dâm, ăn chơi theo lối sống gấp diễn ra tràn lan trong các đồn điền.

Quốc sách ấp chiến lược của Mỹ - Diệm đã làm cho ta gặp không ít khó khăn (đến năm 1970, tại Bình Long chỉ còn 3000 dân chưa bị địch gom vào các ấp chiến lược, nhưng cũng phải chạy lên biên giới sang nước bạn Campuchia); một số cơ sở cách mạng bị vỡ; một số cán bộ bị bắt, hy sinh. Nhìn chung, hầu hết các cơ sở cách mạng của ta bị xáo trộn cả bên trong và lực lượng bên ngoài. Phần lớn liên lạc bị đứt hoặc đình trệ. một số cán bộ chuyển qua tỉnh khác hoạt động, nhiều cơ quan cấp tỉnh huyện bị đẩy ra xa. Sinh mạng của các tầng lớp nhân dân không kể già, trẻ, gái, trai thậm chí có cả một số nhân viên, binh lính... đều bị chà đạp, dày xéo, đau khổ, đói khát, chết chóc. Nhiều gia đình công nhân ở Lộc Ninh bị cưỡng bức đóng tiền làm ấp chiến lược phải bán con để lấy tiền nộp; việc anh Ba Chi một công nhân nghèo có 3 con tại thị xã Bình Long vì không có tiền đóng góp làm ấp chiến lược bị Mỹ - Diệm khủng bố phải tự tử; việc chị em nữ công nhân bị bắt đi làm xâu để xây dựng ấp chiến lược ở Bình Long, Phú Miêng, Lộc Thiện phải để con thơ dại bên miệng hố đất đang đào... đã tố cáo tội ác tày trời của Mỹ - Diệm khi chúng thực hiện quốc sách ấp chiến lược.

105

Tháng 1/1961, Bộ Chính trị tiến hành hội nghị để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ ba về phương hướng, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam, nhằm đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Tháng 10/1962, Bộ Chính trị tiếp tục họp bàn về công tác trước mắt của cách mạng miền Nam, đưa ra nhiệm vụ : phải phát triển dân quân du kích, củng cố lực lượng vũ trang đẩy mạnh công tác binh vận, chú ý tiến hành công tác mặt trận, công tác đô thị, xây dựng căn cứ địa và vùng giải phóng, tăng cường công tác xây dựng Đảng từ trên xuống tận cơ sở. Đến tháng 12/1963, hội nghị Trung ương lần thứ 9 (khóa III) đề ra nhiệm vụ phải làm thất bại kế hoạch gom dân, lập ấp chiến lược của địch.

Về phía địa phương, tháng 10/1961 , Bình Long tách khỏi tỉnh Thủ Dầu Một lập thành tỉnh riêng, đồng chí Bùi Đoàn (Ba Nghệ) làm Bí thư Ban cán sự Đảng Bình Long còn gọi C.35). Để thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo các phong trào đấu tranh, ta quyết định sáp nhập các khu đồn điền, vùng nông thôn lại, tổ chức thành 3 quận: quận Chơn Thành (C.45), quận Hớn Quản (C.55), quận Lộc Ninh (C.65). Ở Phước Long Đảng bộ vừa mới hình thành. do đồng chí Phạm Thuận làm Bí thư và tổ chức các K tương đương cấp huyện: K1 (Bù Đốp), K3 (Bù Đăng), K5 (Bắc Kiến Đức). Bên cạnh đó tại, hầu hết các đồn điền làng, sở cao su đã thành lập các Đội mũi công tác, Tổ du kích công nhân, Đội tự vệ mật và Cơ sở đơn tuyến. Một số nơi thành lập được Đoàn thanh niên, Hội mẹ chiến sĩ. Tổ phụ

106

nữ để nắm tình hình địch và vận động quyên góp ủng hộ cách mạng. Tại đồn điền Thuận Lợi, xây dựng được Chi bộ Đảng gồm 3 đảng viên (Ba Khai, Hai Hòa, Hai Đá); 2 Tổ du kích mật, mỗi tổ có 3 đồng chí Tổ Công đoàn (đồng chí Tư Thuận, Chị Vân. Cô Chín), Tổ kinh tế (đồng chí Vũ Khiêm, Ba Lý, Triệu Quyết Thắng). Các tổ chức này duy trì hoạt động đến tận ngày giải phóng.

Quán triệt Nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy Bình Long, Phước Long tổ chức Hội nghị cấp ủy Huyện, K và các đội công tác rút kinh nghiệm, nhất là công tác binh vận và phát động phong trào đấu tranh chính trị rộng rãi tại các đồn điền. Tháng 8/1962, Đại hội công nhân đồn điền Bình Long cũng được tổ chức, do đồng chí Trần Quang Sang (Ba Phước) chủ trì, đã tập trung bàn phương thức tổ chức xây dựng cơ sở, vận động đấu tranh, kết hợp đấu tranh bên trong và bên ngoài. Dự hội nghị đa số là cán bộ công vận ở đội mũi công tác.

Đầu năm 1964 diễn ra, hội nghị chính thức thành lập Ban công vận Miền tại rừng Trung ương Cục do đồng chí Võ Chí Công (phó Bí thư Trung ương Cục) và đồng chí Trần Nam Trung (ủy viên thường vụ Trung ương Cục) chủ trì. Hội nghị nhận định: “Chính sách ấp chiến lược của Mỹ - Diệm nhằm đánh vào phong trào đấu tranh của công nhân. Nhưng kế sách ấp chiến lược càng mở rộng thì mâu thuẫn giữa công nhân với chính quyền Ngụy càng sâu sắc”, Cũng đầu năm 1964, Trung ương Cục ra chỉ thị chỉ đạo cụ thể phong trào đấu tranh của công nhân cao su, nêu rõ:

107

“Phát động phong trào công nhân cao su sản xuất lương thực chống đói, chống giặc, xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang vững mạnh, làm tốt công tác binh vận, địch vận, kiên quyết bám trụ ở các đồn điền giải phóng...”.

Hoạt động đấu tranh thường xuyên của công nhân trong giai đoạn này là tổ chức cho cán bộ đi tuyên truyền trong các ngày lễ lớn; tố cáo âm mưu, tội ác của địch, cảnh cáo bọn ác ôn. Trong các đợt tuyên truyền có hàng ngàn truyền đơn được cơ sở ta rải khắp các lô cao su, đường lộ, nhà máy, trụ sở hành chính và đồn bót của địch. Ta còn tổ chức đón xe đưa rước công nhân tập trung vào các lô cao su sinh hoạt chính trị, kêu gọi thanh niên nhập ngũ; đấu tranh buộc chủ đồn điền cao su không được sa thải công nhân vô cớ, không được ép phạt công nhân, nếu có sự cố gì xảy ra giữa chủ và công nhân, phải báo cho Ủy ban tự quản công nhân giải quyết. Đối với bọn chủ sở trong các đồn điền, ta bắt chúng phải nộp thuế cho cách mạng bằng tiền, lương thực và các vật dụng cần thiết khác, nếu bọn chủ không thực hiện ta phát động công nhân đốt xe chở mủ. Một trong những cuộc đấu tranh tiêu biểu của công nhân Bình Phước là vào tháng 1/1961, hơn 4000 công nhân các đồn điền Xa Cát, Xa Cô 2, Xa Trạch, Trà Thanh, Phú Miêng, Minh Thành kéo vào thị xã An Lộc đấu tranh trực diện với tên Tỉnh trưởng Bình Long đòi Mỹ, Ngụy bãi bỏ kế hoạch Stalây - Taylo, bãi bỏ gom dân lập ấp chiến lược, đòi Mỹ cút về nước... được nhân dân đồng tình hưởng ứng.

Bước sang năm 1962, công nhân tổ chức đấu tranh

108

chống đi xâu, chống đóng góp, đòi miễn giảm, chống bắt lính, chống vào dân vệ, chống đi tập quân sự... Đấu tranh tuy không rầm rộ, nhưng âm ỉ, lan tỏa mạnh. Trước sức mạnh của cuộc đấu tranh, chính quyền sở tại nhận kiến nghị, hứa giải quyết. Song song với đấu tranh chính trị, ta phát động phong trào “tay dao, tay súng” sôi nổi trong đội ngũ công. nhân, cán bộ, công nhân viên chức; phong trào “vừa sản xuất vừa chiến đấu” trong các làng giải phóng với phương châm: thấy địch đến là đánh, giặc rút lại tiếp tục cạo mủ. Ngoài ra, phong trào “ủng hộ cách mạng” cũng được phát triển mạnh trong lực lượng công nhân. Mặc dù địch phát gạo từng bữa nhưng khi mang cơm ra lô, công nhân nhịn ăn nhường cơm cho bộ đội, cán bộ; lấy gạo, thực phẩm vào thùng đạn đại liên đem giấu ngoài rừng hoặc lô cao su, sau đó báo cho cách mạng biết đến lấy. Phụ nữ độn bụng gạo giả có bầu, pha muối vào canh đựng nước xách đi ra lô tiếp tế cho bộ đội. Chỉ trong thời gian ngắn, công nhân các sở Bù Nho, Phú Riềng, Thuận Lợi cùng nhân dân các ấp chiến lược đã giúp thu mua và đóng góp cho cách mạng hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm.

Trên mặt trận quân sự, lực lượng vũ trang cách mạng được sự hỗ trợ cua các đội mũi công tác và du kích công nhân, đã giáng cho địch những đòn đích đáng. Trong đó, có một số trận tiêu biểu như trận lực lượng vũ trang ở Minh Hòa, Minh Thạnh nổi dậy phá rã bộ máy của địch, giải phóng được làng 2, làng 3, Minh Thạnh nổ ra vào tháng

109

10/1961. Ở Xa Cát, Xa Trạch, Tân Khai, Nha Bích. được sự hỗ trợ của các đội mũi công tác, công nhân nổi dậy phá rã bộ máy kìm kẹp của địch. ở Xa Trạch ta diệt 2 tên ấp trưởng (trong đó có tên xu Tuấn rất gian ác); ở Tân Khai diệt tên lương chủ Dần, tên Nguyễn Văn Tuấn; tại Tàu Ô diệt tên ác ôn Tám Ai, Tư Đờn, Bảy Hoa, Bảy Đụng. Những tháng cuối năm 1961, nhiều làng, sở đồn điền cao su ở Quản Lợi , Xa Cát, Lộc Ninh... được giải phóng. Bên cạnh đó ta thường xuyên tổ chức đánh địch trên đường 13 và bắt được tên đại úy Trần Văn Giàu - Dinh điền trưởng khu vực Bình - Ninh (Bình Long - Tây Ninh).

Năm 1962, tại đồn điền Thuận Lợi, tổ du kích mật ở làng 2, nổi dậy phá bót, lấy 9 súng theo cách mạng (tổ du kích gồm Bảy Phụng, Mười Kỳ, Hoàng Một, Hùng Phong, Hoàng Cháy). Tháng 3/1963, B.75 kết hợp với du kích xã Lợi Hưng phá ấp chiến lược Sóc Xiêm, đánh rã 1 trung đội bảo an. Tháng 11/1963, ta tổ chức đánh đồn điền Quản Lợi, diệt 7 tên. bắt sống 2 tên. Cùng lúc, đồng bào nổi dậy phá banh dinh điền Suối Can, Cam Xe, Bầu Tây, cầu Bà Và, bọn lính bỏ chạy tan tác.

Tháng 11/1963 . chế độ Diệm bị lật đổ, lần lượt Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh lên thay. Nhân lúc tình hình rối ren, địch hoang mang, ta tổ chức cho công nhân phá hàng loạt các ấp chiến lược, nổi dậy làm chủ các làng, sở. Tại ấp chiến lược Thuận Hòa ở Thuận Lợi, đội công tác K. 27 kết hợp với nhân dân và hơn 2000 công nhân cao su trong ấp tự đốt nhà, phá rào ấp chiến lược kéo nhau về xóm cũ.

110

Bọn địch ở làng 2, làng 3 và chi khu Đôn Luân tuy rất đông nhưng do bị bất ngờ nên không dám đến giải vây cho đồng bọn. Sau sự kiên này có hơn 300 thanh niên công nhân cao su thoát ly tham gia cách mạng. Bước sang năm 1964, công nhân cao su đã vùng dậy giải phóng hàng loạt đồn điền nằm trên liên tỉnh lộ 2 như Phú Riềng, Đa Kia, Thuận Lợi và trên quốc lộ 14 như Bù Na, Vĩnh Thiện, Vi Thiện, Bù Đăng, Xa Rây, Bù Lố, Đăng Cơ, Đăng Lang 1, 2, Bù Nho, Phú Văn, Đức Hạnh, Thuận Kiệm, Văn Hiến 1 , 2, Trung Lợi, làng 2 (Lộc Ninh), Xa Cô đơ (Hớn Quản) v.v... Đặc biệt, tháng 5/1964, Đội công tác phối hợp với cơ sở bên trong, tổ chức diệt tên xu Lập - ấp trưởng làng 2 (Thuận Lợi) khét tiếng gian ác. Sau khi tiêu diệt xong tên Lập, ta tập trung đông đảo công nhân tại lô cao su làng 9 lên án tội ác tên Lập, đồng thời kêu gọi công nhân đoàn kết đấu tranh, giúp đỡ cách mạng không đi đưa đám ma tên Lập. Kết quả không có công nhân nào đi đưa tang tên Lập. Ngoài ra, ta cắt đứt một số trục lộ giao thông chính trên đường 10, 13, 14 và liên tỉnh lộ lA. Đặc biệt, phong trào công nhân tòng quân nhập ngũ nổi lên rầm rộ, nhất là từ khi ta mở chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài giành thắng lợi. Đây là đội quân hùng hậu bổ sung cho lực lượng vũ trang của Khu và địa phương. Giữa năm 1964, tại hội nghị Công đoàn toàn miền Đông, thay mặt Trung ương Cục miền Nam, đồng chí Trần Nam Trung nhiệt liệt biểu dương phong trào đấu tranh của công nhân tại các đồn điền thuộc tỉnh Bình Phước.

���

Trong khoảng thời gian 5 năm (1961 - 1965) , phong trào đấu tranh của công nhân lao động Bình Phước (chủ yếu là tổ chức phá ấp chiến lược) nổ ra mạnh mẽ. Địch lập, ta phá , diễn đi diễn lại nhiều lần. Từ phá lỏng, phá rã đến phá banh. Tính đến năm 1965, trên địa bàn tỉnh Bình Long ta phá banh 58/75 ấp, các ấp còn lại đều bị lung lay; phá rã 13 trung đội dân vệ biệt kích và phá rã hầu hết ban dân vệ trong các ấp chiến lược. Tại Phước Long, ta phá banh 35/64 ấp chiến lược, các ấp còn lại đều bị lung lay; phá rã 35 trung đội thanh niên chiến đấu và 35 bộ máy tề điệp của địch, giải phóng cho hơn 20.000 dân. Sau đó, biến 35 ấp chiến lược được giải phóng thành làng giải phóng để bao vây địch, làm bàn đạp tấn công vào chi khu Phước Long.

III. TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ LỰC LƯỢNG, ĐẬP TAN KẾ SÁCH QUÂN SỰ HóA CỦA MỸ - NGỤY, TIẾN LÊN TỔNG CÔNG KÍCH VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN (1965 - 1968)

Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ - Ngụy chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” bằng cách đưa quân đội lính viễn chinh của Mỹ và lính chư hầu các nước đổ bộ ào ạt vào miền Nam Việt Nam đồng thời dùng lực lượng không quân đánh phá miền Bắc.

Đối với Bình Phước, Mỹ - Ngụy luôn xem nơi đây là tuyến phòng thủ kiên cố nhất của chúng ở phía Bắc cửa ngõ Sài Gòn. Do vậy, chúng tổ chức các tỉnh Bình Dương, Bình Long. Phước Long thành Khu chiến thuật

���

32. Đông thời, xây dựng trên mảnh đất này hàng loạt khu quân sự tầm cỡ quy mô lớn, bố trí Sư đoàn 1 bộ binh “Anh cả đỏ”, Sư đoàn 1 “kỵ binh bay”, Sư đoàn dù 101, các Lữ đoàn 173, 196, 199 làm lực lượng đóng chốt. Ở từng huyện chúng cho xây dựng nhiều sân hay lực lượng cơ động được trang bị phương tiện tối tân, hiện đại sãn sàng càn quét cũng như chi viện đàn áp các cuộc đấu tranh của quần chúng cách mạng. Trên bầu trời và dọc quốc lộ 13, 14 máy bay trinh sát, trực thăng quần đảo suốt ngày đêm. Trong rừng, địch thả hàng loạt máy thu âm thanh, tiếng động và các loại bom, mìn có độ sát thương cao. Trong vùng giải phóng, chúng thường xuyên sử dụng máy bay ném bom và phi pháo bắn phá; sử dụng bọn biệt kích, thám báo luồn rừng để lùng sục, phát hiện căn cứ của cách mạng. Tại Bình Long, địch bố trí các căn cứ quân sự đan xen nhau, mở rộng nâng cấp cơ sở thí nghiệm Téc-ních của đồn điền cao su Quản Lợi thành khu căn cứ quân sự của Sư đoàn “Anh cả đỏ”; thành lập một số cứ điểm, trường đào tạo biệt kích tại cầu Sông Bé, căn cứ Tống Lê Chân, xây dựng sân bay Minh Hòa. Tại Phước Long, chúng bố trí hơn 70 vị trí chiến đấu lớn nhỏ (3.000 tên). Ở mỗi chi khu, chúng cho xây dựng 1 sân bay dã chiến cùng với hệ thống rào gai, công sự chiến đấu: hào giao thông, bãi mìn lựu đạn dày đặc.

Tại các làng, sở, đồn điền, địch tiếp tục gom dân lập ấp chiến lược (đổi tên là ấp đời mới). Chúng thực hiện

(1) Kết luận của Bộ Chính trị họp ngày 24.3.1994.

���

chính sách hai mặt. Một mặt. chúng cho xây dựng thêm một số công trình công cộng (bệnh viện, trường học...) phục vụ công nhân, những chủ yêu là lừa mị công nhân; mặt khác chúng dùng súng, đạn để khống chế, kìm kẹp. Đồng thời tiến hành chia công nhân làm ba loại để dễ quản lý: loại 1 (thân cộng), loại 2 (thân chính quyền), loại 3 (loại lưng chừng).

Để đối phó với địch, tại các làng, sở đồn điền nói riêng, ta chủ trương phát triển cơ sở Đảng, thành lập đội du kích mật, phát triển cơ sở cách mạng nòng cốt, “Chi đoàn Thanh niên giải phóng”, “Công đoàn giải phóng”, “Phụ nữ giới phóng” (tính đến năm 1967, hầu hết các làng, sở, đồn điền đều có Đội du kích mật, cơ sở cách mạng nòng cốt , có nơi phát triển được đảng viên là người dân tộc). Ở một số đồn điền, ta đã phát triển được cấp chi bộ trực thuộc Huyện ủy như đồn điền Thuận Lợi, Phước Bình. Ngoài ra, hầu hết các đồn điền đều có ít nhất một tiểu đội du kích thoát ly, tỉnh Phước Long thành lập cấp tiểu đoàn (D 168 - Phước Long). Bên cạnh, ta cũng chú trọng phát triển Đội mũi công tác để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của công nhân trong các đồn điền, làng sở, nhà máy. Các đồng chí phụ trách Đội mũi công tác đều là Bí thư chi bộ của Đội mũi công tác đó. Mỗi Đội mũi công tác có từ 3 - 8 đồng chí được trang bị bán vũ trang. Ở Ban kinh tài, cũng lập được một Đội thồ nữ gồm 22 chị em tuổi từ 17 - 22, do đồng chí Hai Ánh làm tổ trưởng. Ngoài ra, phong trào con em công nhân thoát ly tham gia vào lực lượng vũ trang diễn ra rầm

���

rộ để tăng cường cho các đơn vị bộ đội như C.270 (Phước Long) C.70, C.75 (Bình Long). C.271 ,273, 290 bộ binh và C.l4 cối, C.15 đặc công (tỉnh Phước Long)...

Kể từ năm 1965, thế trận đánh bao vây, đánh phối hợp diễn ra rầm rộ trong các đồn điên cao su, làng công nhân. Trong đó, có một số trận đánh tiêu biểu như: trận Phước Long - Đồng Xoài (6/1965), công nhân cao su đồn điền Thuận Lợi đã bí mật đưa các nhóm trinh sát của ta vào làng 2 đề nghiên cứu chiến trường, tổ chức đánh địch; tham gia tải đạn, ủng hộ lương thực tạo điều kiện cho đơn vị chủ lực triển khai kế hoạch tấn công và đã tiêu diệt và làm tan rã 2 tiểu đoàn quân địch, thu 337 súng các loại, 36 máy vô tuyến, bắn rơi 8 máy bay, thu nhiều quân trang, quân dụng. Đặc biệt công nhân đã thuyết phục, vận động được 1 trung đội dân vệ nộp 41 súng cho cách mạng, trong đó có 1 cảnh sát cũng nộp súng ra hàng.

Sau thất bại ở Đồng Xoài, liên tiếp trong 4 ngày (12- 15/1965), Mỹ, Ngụy đã hèn hạ tư thù bằng cách cho nhiều máy bay điên cuồng bắn phá vào đồn điền cao su ở Thuận Lợi, Phú Riềng giết hại hơn 350 đồng bào vô tội, thiêu hủy hàng ngàn ngôi nhà, 2 nhà chùa, 1 nhà thờ bị chúng đánh sập. phá hủy 1 bệnh viện với hàng trăm giường bệnh. Người dân nơi đây đã lập bia căm thù tại đồn điền cao su Thuận Lợi . Ngày 9/7/1966, du kích Xa Cát phối hợp C.70 phục kích địch từ Minh Thạnh đi Xa Cát diệt nhiều tên Mỹ, Ngụy phá hủy 40 xe cơ giới; ngày 11/6/1966, tại ấp chiến lược làng 3 và khu vực Lộc Ninh, lực lượng vũ trang huyện, du kích

���

địa phương phối họp với Tiểu đoàn 7 bẻ gãy 13 đợt xung phong của địch, diệt 350 tên Mỹ thuộc tiểu đoàn 1 - Lữ đoàn 173 của Mỹ, thu 25 súng các loại. Ngoài ra, trên các trụ giao thông chính như quốc lộ 1A (khu vực Đồng Xoài - Phước Long) đường từ Đức Liễu qua Phước Long, đường 309 từ Phước Bình qua Bù Gia Mập, đường 10 từ Phước Long qua Minh Hưng, đường từ Phước Bình qua ngã ba Công chánh, đường từ ngã ba Công Chánh qua Bù Đốp bị tự cắt đứt. Với thất bại liên tiếp trên mặt trận quân sự, ngày 15/4/1967, Mỹ buộc phải kết thúc cuộc hành quân Gian-xơn-xi-ty.

Từ 28/10 - 5/12/1967, các đội mũi công tác tại các đồn điền ở Lộc Ninh phá hợp với bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực đánh địch trên 60 trận diệt 5420 tên địch (2.956 tên Mỹ) phá hủy 153 xe quân sự, 63 đại bác, 4 kho đạn, xăng dầu, bắt sống 117 tù binh thu 72 súng các 1oại, làm suy yếu sư đòan “Anh cả đỏ”, “Tin chớp nhiệt đới” của Mỹ; Ở vùng giải Phóng, công nhân vừa sản xuất, vừa tham gia chiến đấu. Trong vùng tranh chấp và vùng địch tạm chiếm, công nhân đấu tranh chống chính sách độc tài, tổ chức phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ. Vận động nhân dân tham gia đấu tranh chính trị: Ban đêm tổ chức canh gác, bảo vệ các cuộc hội hợp... Ngòai phát triển sản xuất ta còn khai thác các cửa khẩu dọc biên giới Campuchia và một số nơi như Đồng Xoài, Thuận Lợi, Phú Riềng để mua hàng hóa gồm đủ các loại từ gạo, muối, nilông đến pin đèn, thuốc lá... Phục vụ cho lực lượng bộ đội. Lợi dụng tình hình địch phân tán, dao động, được sự hỗ trợ, móc ráp của

���

các đội mũi công tác, công nhân,nhân dân trong các làng, sở nổi dậy diệt ác trừ gian, phá rã ấp chiến lược đòi dân sinh dân chủ (phong trào nổ ra mạnh nhất ở các đồn điền Xa Cát, Xa Cô 2, Xa Cô 28, ấp An Lợi, Bình Phú, Phú Lố, Sóc Bế làng 4,5,6,7,8,9 (Lộc Ninh). Đặc biệt, trong đó có nhiều địa phương nổi tiếng, địch phải gán ghép danh hiệu như “Xóm hậu cần”, “Đồn điền Việt cộng”. Ở các ấp chiến lược Đa Kia, Đức Hạnh, Phú Văn, Bù Nho, Thuận Kiệm và các khu dinh điền, quần chúng đứng dậy phá banh, phá rã hàng loạt ấp chiến lược, ở làng 3, làng 5, làng 9, làng 10 Cốc Rưới tổ chức phá ấp chiến lược, đồng thời tổ chức truy bắt bọn thám báo trà trộn trong công nhân khi cạo mủ; ở làng 2 (Lộc Ninh) tổ chức đốt cháy chòi canh của địch, rồi hô hoán là “việt cộng về” để uy hiếp tinh thần địch; Ở làng 10 (Lộc Ninh), địch gom dân phát thẻ căn cước, công nhân đốt thẻ; Ở làng 9 (Lộc Ninh), công nhân đấu tranh với tên đồn trưởng, lính làm ngơ bắn chỉ thiên để yên cho công nhân đấu tranh; Ở Xa Cô 2, Xa Cô 28, công nhân liên tục đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, thường xuyên liên lạc với đội mũi công tác giúp cách mạng mua lương thực, thực phẩm. Mặc dù địch dùng nhiều biện pháp để gom dân vào các ấp chiến lược, nhưng các đội mũi công tác kiên trì ngày bám lô cao su, đêm đột nhập vào “Ấp đời mới”

(1) Theo tài liệu còn lưu giữ lại của đồng chí tên Mười Sương thì đến tháng 7-1969 lực lượng của ta như sau:- Tỉnh Phước Long: TS : 907, lực lượng của tỉnh 585, lực lượng của các huyện 322.- Tỉnh Bình Long TS : 761, lực lượng của tỉnh 515, lực lượng của các huyện 246.

117

tuyên truyền vận động, móc nối cơ sở đứng lên đấu tranh, tổ chức diệt ác, trừ gian, vận động thanh niên tham gia lực lượng vũ trang, phân phát truyền đơn của Mặt trận kêu gọi hưởng ứng lệnh ngừng bắn trong dịp tết cổ truyền dân tộc; giải thích chính sách lầm đường lạc lối cho binh sĩ và gia đình vận động kêu gọi chồng con bỏ hàng ngũ địch theo cách mạng (riêng Bình Long có 3.000 lính ngụy bỏ ngũ).

Tháng 1/1968, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 quyết định mở cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 . Thực hiện chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh ủy Bình Long, Phước Long đã bí mật và ráo riết chuẩn bị về mọi mặt để phối hợp với các địa phương trên toàn miền Nam tham gia tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Tại Phước Long, Bộ chỉ huy chiến dịch được thành lập, đồng thời cử đồng chí Năm Thắng, Thường vụ Khu ủy trực tiếp xuống địa bàn chỉ đạo chiến dịch ở huyện Hớn Quản, đội mũi công tác được thay thế bằng 4K trực thuộc Tỉnh. Trong đó các làng, sở Xa Cô, Xa Cô Quýt, Xa Cô 28 do đồng chí Chín Hằng phụ trách, Sở Xa Cam, Xa Cát do đồng chí Năm Chi phụ trách, Sở

(1) Theo tài liệu lưu giữ lại của đồng chí Mười Sương thì đến tháng 3 năm 1970.tỉnh Bình Long có 86 chi bộ với 775 đảng viên, trong đó có 8 chi bộ vùng yếu (62 đảng viên), một chi bộ thị xã (7 đảng viên), một chi bộ thị trấn (3 đảng viên), 49 chi bộ dân chính đảng (395 đảng viên), 27 chi bộ hệ quân sự (308 đảng viên).Tỉnh Phước Long có 97 chi bộ với 1186 đảng viên, trong đó 19 chi bộ vùng giải phóng (266 đảng viên), 2 chi bộ vùng yếu (13 đảng viên), một chi bộ thị trấn (5 đảng viên), 3 chi bộ dân chính đảng (350 đảng viên), 119 chi bộ quân sự (327 đảng viên), 19 chi bộ k28 (225 đảng viên).

118

Xa Trạch, Sóc Tranh do đồng chí Chín Chức phụ trách. Cùng tham gia trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy

Tết Mậu Thân năm 1968, tại các đồn điền, nhà máy, làng, sở công nhân tích cực tham gia ủng hộ lúa, gạo cho cách mạng mượn tiền, vàng, để mua lương thực, thực phẩm dự trữ. Tham gia may cờ Mặt trận, tích trữ lương thực; phục vụ công tác dân công hỏa tuyến. dẫn đường... Như vậy, tại các làng, sở, nhà máy. lực lượng công nhân làm nhiệm vụ “hậu cần tại chỗ”. Đây là nét độc đáo tiêu biểu của chiến trường Bình Phước. Đêm 30 rạng 31/1/1968, cùng với quân dân toàn miền Nam, quân dân Bình Phước đồng loạt tấn công vào các mục tiêu chính như: dinh tỉnh trưởng, nhà Tân Tây Lan, Tòa hành chính, Trại giam , ty cảnh sát ngụy trong thị xã An Lộc (thuộc Bình Long). Tại Phước Long, ta tấn công vào các cứ điểm địch trong tỉnh lỵ Phước Long, quận ly Phước Bình, ấp chiến lược Chu Ninh.(2) Từ 10.2 đến 15.3.1970, du kích các đồn điền phối hợp với bộ đội chủ lực tiến công địch ở ấp chiến lược Bắc Dinh, Tính Thuận, Lộc An, Lộc Tấn, diệt ác phá kìm. Ngày 26. 2. 1970, du kích đột nhập thị trấn Bắc do thám, tập hợp công nhân làm mit ting. Ngày 24 và 24.5.1 970, du kích và đại đội C31 huyện, diệt ác trong thị trấn, phục kích đường 14 Bù Đốp phá hủy 1 xe GMC, diệt 23 tên. Ngày 27.6 du kích Lộc Hòa đánh mìn trên đường 14, phá hủy 2 xe GMC, loại 14 tên. Ngày 27.6 du kích Lộc Tấn dùng mìn diệt 1 xe M41, 6 tên địch. Ngày 19.8 và ngày 29.8 du du kích Lộc Thiện, Lộc Tấn đánh bọn Bình định và lính địch trên đường 14, diệt 22 tên. Ngày 6.12.1970, du kích Lộc Tấn và đại đội 31 huyện đánh địch trên đường 13 từ Lộc Ninh đi Snoul, phá hay 2 xe quân sự, xe bọc thép, diệt 15 tên địch, thu 2 súng cối 82 ly. Tháng 5. 1971, đánh địch ở Sóc 2, Phú Miêng, Xa Trạch diệt Trung đội Bảo An.).

119

Ở các đồn điền, nhà máy, làng, sở, các đội mũi công tác phối hợp chặt chẽ với tổ du kích công nhân, đội tự vệ mật, được sự hỗ trợ của quần chúng đồng loạt tấn công bọn bảo an,dân vệ ; hướng dẫn quần chúng truy lùng, diệt ác, giành quyền làm chủ. Tại Bình Long, trong lúc chiến sự diễn ra ác liệt, công nhân, nhân dân các sở Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch, Sóc Trào, Quản Lợi tổ chức “nhập thị” xếp thành hàng ngũ chỉnh tề kéo vào thị xã An Lộc đòi bồi thường thiệt hại, đòi bỏ Lệnh thiết quân luật, đòi cung cấp lương thực cho bà còn di tản, đòi được chôn cất người chết. Đồng thời, tiến hành đào hầm chống phi pháo dọc lô cao su, quanh nhà giữ trẻ, đưa con em tham gia lực lượng vũ trang. Ở Xa Cam, Quản Lợi, đội tự vệ được thành lập để bảo vệ đồng bào làng, sở cao su. Tổ chức tuyên truyền cho 350 gia đình binh lính ngụy, phát 5000 truyền đơn, 65 thư tay, kêu gọi 57 binh sĩ bỏ ngũ. Tại Bù Đăng đánh thẳng vào ấp chiến lược vào Bù Na, đột nhập ấp chiến lược Vĩnh Thiện, Bù Môn phát loa kêu hàng, rã ngũ, làm địch co cụm, không dám hung hăng như trước. Tại Đồng Xoài, đột nhập vào các ấp chiến lược rải truyền đơn, treo cờ Mặt trận, dẫn đường cho bộ đội tấn công. Tại Lộc Ninh, thanh niên, phụ nữ nhập ngũ, người già, trẻ em tham gia dân công, dẫn đường cứu thương, tiêu biểu có anh giáo Hải đã gầy dựng được cơ sở nòng cốt, cơ sở cách mạng trong hàng ngũ giáo chức, học sinh hoạt động tiếp tế, báo tin, dẫn đường cho quân ta chiến đấu. Ngày 5/2/1968, 15.000 đồng bào Lộc Ninh giương cao cờ Mặt trận giải phóng

120

và biểu ngữ kéo về thị trấn Lộc Ninh, từ phía Nam, 5.000 đồng bào thuộc các xã Lộc Thái, Lộc Hòa, Lộc An tứ phía Bắc tiến vào thị trấn hô vang khẩu hiệu “chính quyền về tay nhân dân”. Tại Phước Long, quần chúng nổi dậy treo cờ rải truyền đơn phổ biến chính sách Mặt trận, cử cơ sở mang thư của Mặt trận kêu gọi tên Tỉnh trưởng trao chính chính quyền cho cách mạng; tổ chức truy bắt ác ôn, tề điệp, mít tinh ở chợ giữa ban ngày.

Trong những tháng cuối năm 1968, công nhân tiếp tục đấu tranh chống địch gom dân vào các khu tập trung, chống bắt lính, chống bắn pháo oanh kích vào các làng, lô cao su ; tích cực xây dựng các làng,sở chiến đấu; gài các chông tre, chông sắt bom bi, mìn tự tạo, mìn chống tăng, đào hầm chống phi pháo, kết hợp đưa con em gia nhập lực lượng vũ trang; củng cố xây dựng vững mạnh các đội du kích công nhân, đội tự vệ mật trong các làng sở .

Trong đợt tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, quân và dân Bình Phước đã giành những thắng lợi to lớn làm cho địch tổn thất nặng nề. Đóng góp vào thắng lợi chung đó, đội ngũ công nhân lao động Bình Phước giữ một vai trò quan trọng. Trước khi nổ ra cuộc tổng tiến công, phong trào đóng góp lương thực,thực phẩm, tiền, vàng, ủng hộ cho cách mạng diễn ra sôi nổi trong các đồn điền, làng, sở. Trong suốt thời gian nổ ra 3 đợt tấn công, ngoài việc phối hợp tham gia cùng các đội mũi công tác, lực lượng vũ trang tấn công tiêu diệt địch, còn tổ chức tham gia đấu tranh chính trị trực diện với kẻ thù, tham

���

gia dân công hỏa tuyến; vận động gia đình, bản thân binh lính ngụy bỏ ngũ; xây dựng làng kháng chiến; củng cố lực lượng vũ trang...

Cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, tuy ta chưa đạt được mục tiêu đề ra, nhưng gây tác động chính trị lớn, góp phần buộc Mỹ ngồi vào bàn đàm phán đi đến ký kết Hiệp Định Paris.

IV. BÁM ĐỊA BÀN, BẢO VỆ VÙNG GIẢI PHóNG, CHỐNG ĐỊCH PHẢN KÍCH VÙNG LỘC NINH, BÙ ĐỐP, THAM GIA CHIẾN DỊCH NGUYỄN HUỆ(1969 - 1972).

Thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” , buộc Mỹ phải bắt đầu quá trình xuống thang chiến tranh, chuyển sang chiến lược “phi Mỹ hóa” rồi “Việt Nam hóa chiến tranh”; và rút dần quân Mỹ về nước. Tổng thống Mỹ Giôn - Xôn phải tuyên bố:

1. Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra.

2. Không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 2.3. Nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Paris . Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, mặc

dù có một số hạn chế nhưng nó giữ một vị trí to lớn và oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, tạo nên bước ngoặt quyết định của chiến tranh. “Nhưng sau đó ta chuyển chậm, chủ trương tiếp tục các đợt tiến công vào đô thị khi không có điều kiện

���

và sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để địch gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất...”(l)

Lấy Sài Gòn làm trung tâm, địch tổ chức lực lượng phòng thủ thành 3 tuyến: tuyến ven đô, tuyến giữa và tuyến biên giới (Bình Long, Phước Long và Tây Ninh). Các đồn điền ở Bình Phước đều nằm trên tuyến biên giới nên từ cuối năm 1968, đầu năm 1969, địch tiến hành bình định cấp tốc, mở nhiều cuộc hành quân với qui mô lớn, tìm cách đẩy quân giải phóng chủ lực ở vùng ven, tuyến giữa ra biên giới đánh phá các khu vực cao su ven các trục lộ 13, 14, ĐT 741 . . . như cuộc hành quân “Đại bàng” tháng 2-1969 ở khu vực Bình Long, Phước Long, Tây Ninh. Địch sử dụng bom pháo ở mức độ cao, kết hợp với bình định nông thôn, gom tát dân quyết liệt, tập trung vào các khu vực cao su Lộc Ninh , Hớn Quản (Bình Long). Tại Bình Long, địch bắn chết 15 công nhân, làm bị thương 27 công nhân, bắt đi 1.125 người, phá hủy 750 căn nhà, bắt 900 công nhân vào nhân dân tự vệ (phòng vệ dân sự).

Gom dân đến đâu địch lập lại bộ máy kìm kẹp, tề xã, ấp đến đó. Ở mỗi quận trong tỉnh, địch tổ chức thành một trung tâm điều hợp quân sự, an ninh đến tận làng xã, đồn điền, tăng quân số Ngụy từ 1 trung đội lên 1 đại đội, buộc đàn ông từ 16 tuổi đến 50 tuổi đi quân dịch (nếu không đi quân dịch thì phải vào phòng vệ dân sự).

Bên trong các khu tập trung, các ấp chiến lược, địch tiến hành phân loại công nhân. Những công nhân có thân nhân tham gia cách mạng thì tập trung vào một khu vực

���

riêng, trước cửa có treo bảng đen phía dưới có ngôi sao đỏ hàng ngày phải lên trụ sở tề xã trình diện.

Về mặt chính trị, địch tiến hành tuyên truyền xuyên tạc cách mạng và thực hiện mị dân. Chúng tiến hành tổ chức lại “Nghiệp đoàn vàng” trong các đồn điền, điển hình là ở Bình Long, ngày 25/5/1969, địch tổ chức Hội nghị Nghiệp đoàn tỉnh, đưa tên Võ Văn Ngọc ra làm chủ tịch Hội đồng quản trị nhiệm kỳ 1969 - 1970, đồng thời mở các lớp đào tạo cán bộ Nghiệp đoàn trung cấp, 136 cán bộ Nghiệp đoàn cơ sở củng cố 6 Nghiệp đoàn Bình Long. Ngoài ra, chúng còn tổ chức “Hợp tác xã Tinh sáng”, kêu gọi công nhân góp vốn để mua lương thực rẻ. Chúng thực hiện nhiều thủ đoạn để gây uy tín cho “Nghiệp đoàn vàng” trong các Nghiệp đoàn cao su như bắt công nhân, bắt cán bộ cách mạng ở cơ sở rồi cho người của “nghiệp đoàn vàng” đứng ra bảo lãnh xin thả. Hoặc chúng bắn pháo vào lô cao su, vào làng, sở gây thiệt hại tính mạng, tài sản công nhân rồi cho “nghiệp đoàn vàng” đến thăm hỏi động viên giúp đỡ...

Về kinh tế, địch cấm công nhân trữ gạo ở nhà, không cho công nhân ra chợ mua gạo. Mặt khác, ngụy quyền thúc ép chủ tư bản đồn điền cao su cắt giảm phần gạo công nhân từ 700gr/ngày xuống còn 500gr/ngày. Công nhân ra lô cao su đi cạo bị cấm mang theo cơm trưa hoặc mang theo gạo để nấu, ra vào cổng ấp đều bị kiểm soát nghiêm ngặt nhằm ngăn chặn công nhân tiếp tế cho cán bộ cách mạng.

���

Sự kìm kẹp, đánh phá của địch làm cho đời sống công nhân khó khăn, đồng thời cũng làm cho phong trào cách mạng của công nhân bị thiệt hại nhiều. Song, kẻ thù không đè bẹp được ý chí đấu tranh của công nhân cao su. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân trên địa bàn tỉnh như chống ủi nhà cào dân diễn ra vô cùng ác liệt. Lính Mỹ dùng xe tăng lựa lúc công nhân đi làm thì đến phá nhà cửa, bắt con em của họ đưa đến khu tập trung để buộc cha mẹ ra theo, công nhân kéo lên chống lại, buộc địch phải thả con em trở về. Lính Mỹ còn bơm hơi ngạt vào nhà, công nhân tập hợp ra sân đấu tranh. Nhiều nơi chúng dùng súng M79 bắn sập hết các hầm trú ẩn trong lô cao su, hầm ngủ của công nhân và cho pháo bắn cấp tập để buộc dân phải bỏ nhà ra đi. Bị gom về khu tập trung thì công nhân cao su lại tổ chức đấu tranh đòi giải quyết công ăn việc làm, đòi cứu đói, đòi trở về làng cũ, đòi tự do làm ăn.

Trong năm 1969, ở Lộc Ninh, Bình Long đã có 3 cuộc đông đảo quần chúng chống địch gom dân ở làng 7, 8 (Xa Cát), Sóc Tranh (Xa Trạch), Sóc Xiêm, Xa Cô 28 (Quản Lợi) với các khẩu hiệu chống khủng bố, gom dân bình định lấn chiếm, chống lập bộ máy kìm kẹp ở thôn, ấp, chống bắt thanh niên vào phòng vệ dân sự, đòi các quyền lợi dân sinh , dân chủ. Ở làng 7, 8 Sóc Tranh địch xông vào lùng bắn chết dân thường, đập phá đồ đạc trong nhà của dân, cướp tài sản. Công nhân đã chặn đầu xe địch, đấu tranh tố cáo tội ác địch và tranh thủ vận động tuyên truyền binh lính địch bỏ ngũ trở về với gia đình. Công nhân trong

���

các đồn điền thuộc Lộc Ninh, Quản Lợi đòi bọn chủ phát đủ khẩu phần gạo, nếu không thì cương quyết nghỉ đi làm, bọn chủ không nhượng bộ. Tháng l0/1969, công nhân các đồn điền Quản Lợi, Xa Trạch, Xa Cát, đình công đòi phát đủ gạo, phát đủ tiền còn thiếu . . . đạt kết quả:

- Bọn chủ phát đủ 700gr gạo cho công nhân và gạo phụ cấp gia đình.

- Phát đủ số gạo mà chủ thiếu từ tháng 5 đến tháng 10/1969.

- Tăng tiền công đổ mủ lên xe 200 đồng/xe.- Một số đồn điền chủ phải tổ chức bán thực phẩm cho

công nhân với giá rẻ hơn thị trường.- Hạn chế mức độ bắn pháo ra lô của địch.Trong khắp các đồn điền phong trào đấu tranh binh

vận cũng được sử dụng theo sự hướng dẫn của cấp trên. Cụ thể là:

- Phát động phong trào quần chúng và gia đình binh sĩ làm binh vận, xây dựng lực lượng binh vận tấn công. Yêu cầu trước tiên là giáo dục làm cho quần chúng giác ngộ cách mạng, xác định rõ ngụy quân, ngụy quyền là kẻ thù của nhân dân. Làm cho quần chúng thấy rõ chỗ yếu về tư tưởng của ngụy, phân tích để quần chúng thấy rõ là đa số binh sĩ ngụy xuất thân từ quần chúng lao động vì bị lừa gạt, lợi dụng cầm súng cho ngụy quyền. Đồng thời làm cho quần chúng nắm chắc nội dung chính sách của Mặt trận đối với binh sĩ ngụy và vận dụng chính sách đó

���

để đánh địch. Mặt khác, ta giáo dục vận động cách mạng đối với gia đình binh sĩ ngụy vì gia đình binh sĩ dễ gần gũi với binh sĩ hơn và cũng có điêu kiện thâm nhập các binh sĩ khác. Qua các cuộc vận động đó đã đạt nhiều kết quả, ở các đồn điền thuộc tỉnh Bình Long, chỉ tính riêng trong năm 1969 , công nhân đã tổ chức gần 70 cuộc nổi dậy diệt ác, phá tề, diệt 11 tên tề ấp xã, cảnh cáo, răn đe 70 tên khác và trong số những tên này đã có người xin nghỉ việc trong bộ máy tề, số còn lại làm việc cũng không còn làm khó dễ công nhân như trước. Những tên ác ôn nổi tiếng như Ba Chớ (ở Tân Hưng), tên Ngọt (trưởng ấp Văn Hiên), Phú (ở làng 2 Lộc Ninh) đã bị ta trừng trị làm rung động tinh thần hàng ngũ bọn tề ngụy. Ở nhiều làng sở, địch không lập được tề vì không tên nào dám nhận chức như ở Sóc Xiêm, Xa Cô 2, Phú Miêng.

Đến giữa tháng 7/1969, lực lượng ta trên địa bàn tỉnh Bình Long có 761 tay súng, tỉnh Phước Long có 907 tay súng (l) cùng với lực lượng công nhân bám trụ giữ vững địa bàn, tạo điều kiện cho lực lượng của trên đứng chân tiêu diệt địch. Cụ thể là du kích mật làng 11 Lộc Ninh đã dùng lựu đạn 3 lần diệt địch, đội du kích lộ làng 5 Lộc Ninh đã độc lập tác chiến trên 40 trận lớn nhỏ, diệt 147 tên giặc, đắp mô trên đường 13 nhiều lần làm cản trở giao thông địch. Như vậy, trong năm 1969, du kích mật và lộ của tỉnh Bình Long đã độc lập tác chiến trên 100 trận, diệt và làm bị thương 277 tên, có 91 lính Mỹ, bắn rơi 2 máy bay, thu 28 súng, 500 viên đạn, 19 lựu đạn và nhiều

127

quân trang, quân dụng khác. Bên cạnh đó, phong trào dân quân du kích ở những làng, sở do ta quản lý cũng lớn mạnh. Chỉ 3 tháng đầu năm 1969, các làng sở Brê-linh, làng 2 Xa Cô Sud, làng 7, 8 Sóc Tranh đã cắm được 11 .000 cây chông, gài 60 quả bom bi, 20 đạn cối, 50 quả mìn làm -hạn chế mức độ càn quét của địch. Trong năm 1969, làng Xa Cô Sud đã gài mìn chống giặc lấn chiếm, diệt và làm bị thương 21 tên biệt kích. Công nhân An Lộc đắp 20 cái mô làm địch gián đoạn giao thông trên đường 13 trong 2 ngày.

Nhìn chung, sau Tết Mậu Thân 1968, các lực lượng vũ trang trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn, địch tăng cường đánh phá ác liệt gây cho ta nhiều tổn thất, nhưng với ý chí và truyền thống đấu tranh bất khuất, công nhân cao su đã cơ bản giữ vững được lực lượng và từng bước đưa phong trào tiến lên thắng lợi tạo điều kiện chiến đấu chống giặc ngoan cường của những năm sau.

Từ tháng 4/1970, hầu hết các lực lượng chủ lực ngụy như Sư đoàn 18, Sư đoàn 25, Sư đoàn 5... đều bị đưa đi tăng cường cho chiến trường Campuchia. Quân chủ lực ngụy bị tiêu hao nặng, còn bọn lính bảo an, dân vệ... thì lại rất hoang mang, lo sợ bị đôn quân đưa đi Campuchia và Nam Lào. Từ tháng 10-1970, quân Mỹ và các loại quân chư hầu từng bước rút về nước: kế đến là chiến thắng của quân giải phóng ở mặt trận Nam Lào. Tất cả những điều đó đã làm cho ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn hết sức hoang mang. Tình hình này rất có lợi cho cách mạng và

128

phong trào công nhân cao su ở Bình Phước.Tranh thủ thời cơ quân Mỹ rút và địch gặp nhiều thất

bại về quân sự, chính trị, ta củng cố lại phong trào công nhân cao su và nhanh chóng tiếp tục hoạt động (l) tại Bình Long, Phước Long khi bọn tư bản Pháp mở lại đồn điền Thuận Lợi (1970), Ban binh vận Tỉnh ủy Bình Phước Huyện ủy Đồng Xoài (K17) đã sử dụng hình thức công khai, xây dựng cơ sở tại chỗ, mở được cửa khẩu hậu cần cho kháng chiến. Riêng ở Phước Long, công nhân các đồn điền Thuận Lợi, Phú Riềng, Bù Nho, Đa Kia, Phước Bình phối hợp với các đơn vị như Tiểu đoàn 368, Đại đội đặc công, các đơn vị vũ trang huyện, tấn công hàng loạt các đồn bót địch, bức phá một số làng sở. Ở Lộc Tấn (Lộc Ninh), ngày 15/11/1972 , du kích phối hợp với lực lượng huyện bất ngờ đánh vào Sư đoàn 5 ngụy, bắn cháy một máy bay Hu lA, 1 máy bay phản lực, diệt và làm bị thương 20 tên, trong đó có 1 đại úy cố vấn Mỹ và 1 phụ tá an ninh. Tại đồn điền Lộc Ninh, hoạt động của Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9 lực lượng vũ trang Miền đã hỗ trợ cho phong trào du kích chiến tranh tại vùng đồn điền. Trong 2 năm 1970, 1971 các đội du kích công nhân cao su và công nhân người dân tộc thiểu số liên tục chặn đánh địch trên lộ giao thông, đồng thời đột nhập ấp chiến lược diệt ác phá kìm từng bước khôi phục và phát triển lại cơ sở mật (�)

Vào thời gian này, thấy điều,kiện sản xuất quá khó khăn, nhiều chủ đồn điền Pháp một mặt đóng thuế cho cách mạng, mặc khác địch áp dụng nhiều biện pháp làm

129

cạn kiệt mủ cao su và định tháo gỡ máy móc. Nhưng ta đã kịp thời phát động công nhân đấu tranh ngăn chặn kịp thời mưu đồ của địch.

Năm 1972 , sau thất bại trong cuộc hành quân “Toàn thắng 1 -71” và cuộc hành quân “Chen la 2” buộc địch phải bỏ tuyến phòng thủ phía Bắc biên giới, co lực lượng về phía Nam biên giới Việt Nam - Campuchia nhằm “ngăn chặn cuộc tiến công Xuân - Hè 1972” của quân ta. Chúng huy động 10 trung đoàn bộ binh, 4 thiết đoàn xe thiết giáp mở cuộc hành quân “Toàn thắng 72B”.

Như vậy ý đồ chiến lược và thủ đoạn chiến dịch của địch đã lộ rõ. Căn cứ vào tình hình đó Bộ Tư lệnh và Quân ủy Miền quyết định mở chiến dịch tiến công trên hướng Bắc Sài Gòn, đánh lớn từ tuyến biên giới đến tuyến trung gian lấy đường 13 làm hướng chủ yếu. Khu vực quyết chiến là Lộc Ninh (đợt I), Hớn Quản, Chơn Thành (đợt II) sau đó phát triển về hướng Lai Khê, Dầu Tiếng. Hướng thứ yếu là đường 22, khu vực quyết chiến là Xamát, Trảng Sụp. Hướng phối hợp là Tây Ninh, Phân khu 1, Phân khu 5 và Phước Bình. Mục đích nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sống còn đối với việc khôi phục, mở rộng và củng cố vững chắc chỗ đứng chân của bộ đội chủ lực Miền. “Chiến dịch tiến công Nguyễn Huệ” mang tên người anh hùng dân tộc, biểu thị được ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân đội ta.

Về phong trào công nhân cao su, tính đến đầu năm 1972, tuy bước đầu có được khôi phục, cơ sở và lực lượng

130

chính trị có được củng cố, nhưng so với yêu cầu nhiệm vụ thì chưa đạt.

Trước tình hình này, các Phân khu ủy, các Đảng ủy đồn điền, các Huyện ủy khi chuẩn bị cho chiến dịch đều nhấn mạnh đến công tác phát động quần chúng, huy động sức mạnh công nhân, nắm thời cơ chủ động tiến công.

Trên chiến trường trọng điểm, hướng chính của chiến dịch, được chia làm 3 khu vực: Bù Đốp, Lộc Ninh, Hớn Quản, Chơn Thành, các Huyện còn lại.

Phân Khu ủy Bình Phước, Ban Công vận tỉnh đã thành lập một tiểu đoàn thanh niên xung phong công nhân cao su để tham gia phục vụ chiến dịch. Hàng trăm công nhân các sở cao su Brêlinh, Cốc Rưới, Xa Cam, Xa Trạch tình nguyện đi dân công tải đạn, tải lương, chuẩn bị hậu cần cho chiến dịch. Công tác chuẩn bị cho chiến dịch Nguyễn Huệ đã được tiến hành trong 6 tháng. Tất cả đã sẵn sàng chờ lệnh nổ súng tiến công.

- Đúng 1 giờ sáng ngày 1/4/1972, quân ta nổ súng tiến công vào đội hình của địch ở Xa mát, Bào Dung và Bắc Thiện Ngôn và mở màn cho chiến dịch. Sau 24 giờ chiến đấu dũng cảm, ta hoàn toàn làm chủ cứ điểm Xa mát, diệt một bộ phận lực lượng của Chiến đoàn 49 ngụy. Từ ngày 2 đến ngày 4/4/1972, ta tiếp tục tấn công các đơn vị của Chiến đoàn 46 ngụy ở Bắc Thiện Ngôn, không cho chúng lên phía Bắc. Sau 4 ngày đêm chiến đấu mở màn chiến dịch, ta đã dành thắng lợi trên hướng thứ yếu : tiêu diệt cụm cứ điểm tiền tiêu của địch ở Xa mát, đánh thiệt

���

hại Chiến đoàn 49 ngụy làm chủ một vùng rộng lớn và đã triển khai trót lọt lực lượng lớn vào hướng tiến công chủ yếu của địch.

- Đúng 5 giờ 30 phút ngày 5.4.1972, Sư đoàn 5 nã pháo cấp tập vào cụm cứ điểm phòng thủ của địch ở chi khu Lộc Ninh - trận đánh then chốt mở đầu chiến dịch và kéo dài đến ngày 6/4/1972.

Từ 9 giờ sáng đến hết ngày 6/4/1972 ta phục kích và tiêu diệt gọn Thiết đoàn 1 và Tiểu đoàn 74 biệt động quân ngụy từ xã Lộc Tấn ở gần biên giới kéo về cứu nguy cho chi khu Lộc Ninh. Còn Tiểu đoàn 2 thuộc Sư đoàn 9 ngụy - lực lượng chi viện cho Lộc Ninh thì hốt hoảng chạy về phía Nam cũng bị quân ta chặn đánh. Kết quả trận đó ta diệt 900 tên, bắt 490 tên, phá hủy 56 xe, thu 32 xe, pháo, trong đó có 12 xe tăng M41 của Mỹ.

Đúng 5 giờ 30 phút ngày 5/4/1972, sau khi ta đã mở hết cửa, phá bảy vòng hàng rào dây thép gai, dưới sự yểm trợ của hỏa lực phòng không đánh trả máy bay địch, Đại đội 10 thuộc Tiểu đoàn xe tăng số 20 của ta phối hợp với bộ binh xung phong đánh chiếm cụm cứ điểm Chiến đoàn 9 Ngụy trong chi khu Lộc Ninh. Đến 7 giờ sáng ngày 7/4/1972, ta hoàn toàn làm chủ cụm cứ điểm của Chiến đoàn 9 địch trong chi khu Lộc Ninh.

Chi khu Lộc Ninh thất thủ, toàn bộ hệ thống đồn bảo an, dân vệ trong khu vực hoàn toàn tan rã. Phía Bắc Lộc Ninh, địch ở quận Bù Đốp rút chạy, phía Nam Lộc Ninh, chiến trường 52 ngụy bỏ căn cứ Hồng Tâm chạy về hướng

���

Bình Long cũng bị quân ta phục kích diệt một bộ phận lớn (diệt trên 800 tên, bắt 400 tên, thu 14 pháo, cối từ 105 đến 155 mm của địch). Lộc Ninh hoàn toàn giải phóng.

Cũng trên hướng chủ yếu của chiến dịch, từ ngày 5/4 đến ngày 28/8/1972, trải qua 150 ngày đêm chốt chặn trên đường 13 và cơ động chiến đấu ở khu vực Chơn Thành, Ngọc Lầu, Tân Khai... giữ vững chốt chặn Tàu Ô - Xóm Ruộng, bao vây thị xã An Lộc, củng cố vùng mới giải phóng ở Lộc Ninh, Bù Đốp.

Khi Lộc Ninh được giải phóng, lực lượng công nhân các làng giúp đỡ bộ đội chủ lực xây dựng chính quyền, tổ chức, quản lý, giáo dục đường lối của Mặt trận cho tù, hàng binh, ổn định cuộc sống và chuẩn bị chống địch phản kích tái chiến.

Du kích các làng, sở cao su đã kết hợp cùng bộ đội địa phương (C31) huyện Lộc Ninh nhất loạt tiến công vào các trụ sở tề, bót bảo an, dân vệ ở Lộc Tấn, làng 2, Lộc Thắng, đồn Hoa Lư... sau đó chuyển sang bao vây, gọi hàng và lùng bắt bọn ác ôn. Chị em công nhân cao su ở Khánh Hưng đã phát hiện chỉ bắt tên Smit, cố vấn Mỹ đang trà trộn trong dân.

Hàng ngàn công nhân cao su Lộc Ninh, Xa Cam, Xa Cát, Minh Thạnh, Quản Lợi trước sự hoang mang của địch, đã nổi dậy diệt ác phá kìm, phá rã phòng vệ dân sự, giải phóng làng, sở, đồn điền.

Vào đợt 2 chiến dịch, địch điều lực lượng lớn ở Quân đoàn III lên ứng cứu bọn ngụy đang bị quân giải phóng

���

bao vây quanh thị xã An Lộc. Du kích và công nhân cao su ở Tàu Ô Xóm Ruộng, Xa Trạch, Tân Khai, Bàu Bàng, lộ 13... chốt chặn cùng quân chủ lực bẻ gãy các cuộc phản công của địch vào thị xã An Lộc. Công nhân cao su Tân Khai, Xa Trạch cùng du kích đã nổi dậy giành quyền làm chủ làng, đồn điền, tham gia đánh chặn bọn địch đi giải tỏa hòng chiếm lại Quản Lợi, sân bay Técnich, Xa Cô, Phú Miêng...

Như vậy, sau thời kỳ khó khăn năm 1969 - 1971, phong trào công nhân cao su đã từng bước khôi phục và phát triển. Trong chiến dịch Nguyễn Huệ, du kích, công đoàn và công nhân cao su đã tiến công vũ trang, chính trị, nổi dậy giải phóng và làm chủ nhiều đồn điền, với 11.000 công nhân. Đặc biệt, việc giải phóng các đồn điền Lộc Ninh, Bù Đốp và một số sở như Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Minh Thạnh, Tân Khai, Xa Trạch đã tạo nên một hậu phương rộng lớn cho cách mạng, xây dựng được chính quyền cách mạng. So với năm 1971, thực lực cách mạng của công nhân năm 1972 có nhiều phát triển hơn.

V. THAM GIA XÂY DỰNG, BẢO VỆ VÙNG GIẢI PHóNG, PHỐI HỢP CÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG GIẢI PHóNG TOÀN BỘ CÁC ĐỒN ĐIỀN, GóP PHẦN GIẢI PHóNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM (1973 - 1975)

Khi mất Lộc Ninh, Bù Đốp, phòng tuyến biên giới của ngụy bị phá vỡ, nên chúng rất hoang mang và âm mưu tái chiếm. Hàng ngày, chúng cho máy bay thám thính trên

���

vùng trời Lộc Ninh, Bù Đốp kết hợp với bọn biệt kích gián điệp, phượng hoàng đã bị tan rã còn lẩn trốn trong rừng để đánh phá ta. Ngày 3/6/1972, chúng dội bom xuống chợ Lộc Ninh, làm hơn 300 đồng bào chết và bị thương. Một bộ phận dân cư ở Lộc Ninh, Bù Đốp phải tìm cách dời đi nơi khác để tránh bom pháo địch.

Sau tháng 4/1972, dân số Lộc Ninh từ 30.000 người tăng lên 60.000 người. Hàng chục ngàn đồng bào Việt kiều Campuchia chạy về với hai bàn tay trắng. Kinh tế vùng giải phóng của tỉnh bị địch bao vây, dân bị đói. Hàng trăm cán bộ, chiến sĩ của Lộc Ninh, Bù Đốp phải tập trung vào việc vận động tổ chức cho đồng bào về các thôn xóm. Các cơ quan của huyện, của tỉnh phải dành một phần lương thực, thực phẩm để cứu đói đồng bào. Trước tình hình khó khăn đó, Huyện ủy Lộc Ninh, Bù Đốp phát động toàn thể công nhân cao su tham gia phong trào sản xuất lương thực.

Để giúp bà con giải quyết khó khăn trước mắt, Ban cung cấp Trung ương Cục do đồng chí Trần Mão (Tư Trần) phụ trách đã chi cho tỉnh Bình Phước 1.000 tấn lương thực và cung cấp nông cụ, các loại hạt giống để nhân dân, công nhân sản xuất.

Được Ban dân y Miền tăng cường cán bộ y tế, hầu hết các xã ở Lộc Ninh, Bù Đốp đều có cán bộ y tế, khám và điều trị miễn phí cho nhân dân. Phong trào học tập bổ túc văn hóa được các cấp ủy chú trọng, các huyện đều có trường bổ túc văn hóa cấp I, cấp II, tạo điều kiện cho cán bộ và nhân dân theo học.

���

Nhìn chung, đến đầu năm 1973, công nhân vùng giải phóng đã tự túc được lương thực và đóng góp cho cách mạng 3.000 giạ lúa.

Về công tác xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức Công đoàn đã được Trung ương Cục, Ban công vận Miền và Tỉnh ủy Bình Phước quán triệt nhiệm vụ xây dựng lực lượng, bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ sản xuất và đời sống nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Phong trào du kích chiến tranh được phát động trong toàn dân, đặc biệt trong đội ngũ công nhân cao su, 1.500 công nhân cao su tỉnh Bình Phước đã tình nguyện gia nhập lực lượng vũ trang nhân dân. Số công nhân còn lại vừa sản xuất vừa tham gia du kích, dân quân tự vệ. Tại thị trân Lộc Ninh có 655 người (22,2%) gia nhập du kích, dân quân tự vệ xã, ấp. Lực lượng du kích này đã tuần tra và phát hiện nhiều lính ngụy lẩn trốn không ra trình diện Chính quyền cách mạng; truy bắt nhiều toán biệt kích do địch thả xuống để móc nối, tổ chức phá hoại vùng giải phóng.

Tháng 10/1973, bộ đội địa phương của tỉnh được thành lập, lấy phiên hiệu Tiểu đoàn 203 (D203). Nòng cốt của đơn vị này là các đại đội 31,32 Lộc Ninh, đại đội 70 Bình Long, đại đội 16 Bù Đốp, các chiến sĩ đa số là công nhân cao su. Trong 6 tháng đầu năm 1974, Bình Phước đã xây dựng 119 du kích xã, 312 du kích ấp, 165 tự vệ khu phố, 10 tự vệ nhà máy, 24 đội cứu hỏa, cứu thương, 8 đội phòng không.

���

Tổ chức Công đoàn giải phóng được phát triển mạnh ở vùng đồn điền cao su trên cơ sở phong trào nhân dân, công nhân tham gia sản xuất lương thực, bảo vệ vườn cây, nhà máy, bảo vệ thành quả cách mạng. Kết quả đến năm 1973, toàn tỉnh đã xây dựng 4 Ban chấp hành Công đoàn cơ sở, 17 Ban chấp hành Công đoàn bộ phận với 90 ủy viên, 74 tổ Công đoàn với 883 đoàn viên, trong đó có 457 đoàn viên nữ. Công đoàn đã thực sự trở thành tổ chức quần chúng rộng rãi của đội ngũ công nhân cao su vùng giải phóng làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục công nhân quán triệt tình hình nhiệm vụ mới. Đặc biệt sau ngày Hiệp định Pa-ri được ký kết, công đoàn đã tổ chức các lớp học quán triệt tinh thần Hiệp định, đồng thời vạch rõ những âm mưu, thủ đoạn của địch cố tình vi phạm Hiệp định để các tổ chức Công đoàn đấu tranh với địch.

Công nhân cao su của tỉnh còn là lực lượng nòng cốt đóng góp ngày công xây dựng nhà làm việc của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở Lộc Ninh, xây dựng trường lớp cho học sinh học tập, xây dựng trạm xá để khám và điều trị bệnh cho nhân dân vùng giải phóng.

Từ tháng 2 đến tháng 5/1973, quân Ngụy đã 2 lần dội bom vào Lộc Ninh. Trận ném bom ngày 12/5/1973 vào chợ Lộc Ninh đã làm hàng trăm đồng bào chết và bị thương. Ở Bù Đốp, tháng 6/1972 địch đã dùng B52 ném bom rải thảm vào thị trấn Bù Đốp làm chết và bị thương nhiều thường dân vô tội. Ngày 23/5, khi phái đoàn Quốc tế kiểm soát và

137

giám sát việc thi hành Hiệp định Pa-ri đến Lộc Ninh, Công đoàn Lộc Tấn đã vận động hàng trăm công nhân tập trung tố cáo và vạch trần bản chất hiếu chiến của Mỹ-ngụy.

Ngày 27/1/1973, lúc 11 giờ 30 (giờ Pa-ri), tại trung tâm Hội nghị Quốc tế (phố Clê-be, Pa-ri, Pháp) Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được 4 bên dự Hội nghị tại Pa-ri là Nguyễn Duy Trinh đại diện Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Nguyễn Thị Bình đại diện cho Chính phủ cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Wrogers đại diện cho Hoa Kỳ và Trần Văn Lắm đại diện cho Việt Nam cộng hòa đã chính thức ký cùng 4 Nghị định thư liên quan. Hai tháng sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, ngày 29/3/1973 . Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam làm lễ cuốn cờ tại sân bay Tân Sơn Nhất, rút toàn bộ quân viễn chinh Mỹ về nước, sau 115 năm, kể từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược Việt Nam, đây là lần đầu tiên Tổ quốc ta sạch bóng quân xâm lược.

Nhưng, Mỹ-ngụy đã trắng trợn vi phạm Hiệp định, sau Hiệp định địch mở ngay chiến dịch “Tràn ngập lãnh thổ” với những cuộc hành quân, càn quét lấn chiếm các vùng nông thôn và đồn điền do ta làm chủ, thực hiện kế hoạch “Bình định phát triển” lấn chiếm đến đâu, địch đưa bọn tề lưu vong, ác ôn về lập bộ máy kìm kẹp đến đó để khống chế công nhân, quân sự hóa bộ máy hành chánh, cưỡng ép công nhân tham gia Đảng Dân chủ của Thiệu.

Ở mỗi làng, sở, địch lập trạm kiểm soát trên đường ra

138

vào để kiểm soát giao thông và kinh tế, ngăn chặn công nhân không cho mang lương thực hòng cắt đứt việc tiếp tế cho Cách mạng.

Bộ máy chiến tranh tâm lý của địch không ngừng tuyên truyền xuyên tạc, vu khống ta vi phạm Hiệp định. Bọn phượng hoàng, thiên nga, do thám trà trộn trong công nhân để phân hóa gây chia rẽ.

Lúc này bọn chủ đồn điền Pháp lẫn Việt đều rút về Sài Gòn chỉ để lại bọn quản lý điều hành. Bọn chủ đồn điền dựa vào thế lực của ngụy quyền để sa thải công nhân, hạ thấp mức lương, cắt hết những khoản phúc lợi cho công nhân và khai thác cạn kiệt nhựa cao su. Tình cảnh đó làm cho đời sống công nhân cao su ở những đồn địch còn kiểm soát rất cơ cực.

Như vậy, mặc dù địch tiến hành lấn chiếm, bình định các khu vực đồn điền, dùng bom đạn để đánh vào nơi cư trú của công nhân, nhưng trước tình hình quân viễn chinh Mỹ và chư hầu đã rút làm mất chỗ dựa của Ngụy, nên chúng vẫn rất hoang mang, dao động. Mức độ kìm kẹp, đánh phá của địch có nơi lơi lỏng hơn, là điều kiện để các Đảng bộ, chính quyền củng cố lại lực lượng, phát triển sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân và góp phần ủng hộ các lực lượng vũ trang.

Trước tình hình đó. Ban công vận khu miền Đông đã đề ra chủ trương cụ thể.

Đối với vùng đồn điền giải phóng, cần tập hợp giáo dục giác ngộ công nhân, khôi phục và phát triển sản xuất cao su, lương thực, bảo vệ vùng giải phóng, đào tạo cán bộ

139

và chăm lo đời sống nhân dân.Đối với vùng tranh chấp và vùng địch chiếm đóng,

nhiệm vụ trung tâm là phát động phong trào 3 mũi đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định, đấu tranh chống kìm kẹp, bình định, bảo vệ quyền lợi công nhân, vận động công nhân bung ra vùng giải phóng sản xuất.

Từ ngày 3 đến ngày 8/4/1973 Tỉnh ủy Bình Phước triệu tập hội nghị mở rộng trong 6 ngày (ngày 3 đến ngày 8.4.1973) đề ra nhiệm vụ “Động viên toàn Đảng, toàn quân, tàn dân tập trung mọi cố gắng phát huy ưu điểm, nhanh chóng khắc phục nhược điểm thời điểm qua, đẩy mạnh phong trào chính trị binh vận, kết hợp với pháp lý, với lực lượng võ trang làm hậu thuẫn, củng cố và phát huy thế chiến thắng đã giành được liên tục tấn công địch, kiên trì bám, phát động và giữ vững thế lực, nâng cao quyền làm chủ, nhanh chóng phát triển thực lực, hướng dẫn phong trào đấu tranh của quần chúng ở vùng sâu, vùng yếu, khẩn trương xây dựng vùng căn cứ giải phóng về các mặt chính trị, kinh tế, quốc phòng và văn hóa xã hội, khẩn trương xây dựng phát triển thực lực tại chỗ làm thay đổi tương quan có lợi cho ta, từng bước đánh bại âm mưu phá hoại Hiệp định, giữ vững hòa bình, sẵn sàng đánh bại địch nếu chúng liều lĩnh ngoan cố gây chiến tranh trở lại’?

Chủ trương của Ban công vận khu miền Đông và những chỉ đạo của Tỉnh ủy được các Huyện ủy, các Đảng ủy đồn điền triển khai học tập tốt trong cán bộ, đảng viên và công nhân. Qua học tập đã góp phần nâng cao nhận

140

thức về quan điểm bạo lực cách mạng, quan điểm quần chúng và lập trường giai cấp Đảng cho cán bộ chiến sĩ, quần chúng cách mạng trong công nhân cao su. Từ đó đã khắc phục được tư tưởng hoang mang dao động, đẩy mạnh được nhiệm vụ thực hiện tấn công ba mũi đánh phá bình định, giành quyền làm chủ của công nhân.

Đến cuối năm 1974, vùng giải phóng Lộc Ninh, Bù Đốp và một số đồn điền do ta làm chủ xen kẽ với vùng địch kiểm soát được giữ vững, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực đứng chân, nơi nhận hàng hóa, vũ khí... từ hậu phương miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam.

Trong điều kiện thuận lợi của cuộc kháng chiến, từ ngày 30/9 đến 8/10/1974, Bộ chính trị TW Đảng đã họp đánh giá tình hình, thông qua phương án “Giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976”, Bộ chính trị khẳng định quân dân miền Nam có đủ điều kiện và thời cơ để tiến hành đồng loạt, tổng tiến công giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau khi nghiên cứu tình hình ở các chiến trường, Bộ Chính trị đồng ý cho mở chiến dịch Đường 14 - Phước Long ở miền Đông Nam bộ nhằm tạo một hành lang chiến lược, một hậu phương nối thông từ biên giới Campuchia, Nam Trường Sơn vào chiến khu Đ.

Để phối hợp với các lực lượng ở trên, Tỉnh ủy Bình Phước chỉ đạo mỗi cơ quan, đơn vị phải cử người đi tiền phương. Tỉnh ủy thành lập Ban chỉ huy tiền phương do đồng chí Đỗ Văn Nuống (Tư Nguyện) - Bí thư Tỉnh ủy làm Chánh ủy. Ban chỉ huy tiền phương trực tiếp phối hợp

���

với quân chủ lực Miền tiến công theo kế hoạch đã định. Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, các Huyện ủy Lộc

Ninh, Bù Đốp đã huy động hàng ngàn nhân dân, đồng bào dân tộc, công nhân cao su đi chuyển đạn, lương thực phục vụ chiến dịch. Công nhân cao su Bình Phước với tinh thần yêu nước, chí căm thù giặc nên ai cũng thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần vào thắng lợi chiến dịch.

Chiến dịch Đường 14 - Phước Long quy mô cấp quân đoàn, diễn biến qua 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Từ 13 đến 17/12/1974 tiêu diệt chi khu Đức Phong, yếu khu Bù Na. Đội công tác đồn điền Thuận Lợi, Phú Riềng cùng du kích, công nhân tại chỗ đã tham gia làm liên lạc, trinh sát dẫn đường cho lực lượng tấn công; đưa dân ra khỏi vùng chiến sự để tránh tổn thất.

- Giai đoạn 2: Từ ngày 18/12 đến ngày 26/12/1974, ta nổ súng tiến công chi khu quân sự Đồng Xoài. Đồng Xoài bị thất thủ, Phước Long bị bao vây cô lập. Bọn địch đóng ở đồn điền Thuận Lợi bỏ chạy. Các đảng viên Năm Đồng, Út Chờ (đã cùng các đội công tác các đồn điền Thuận Lợi, Phú Riềng phát động công nhân nổi dậy giải phóng và tiếp quản toàn bộ đồn điền.

- Giai đoạn 3: Từ ngày 26/12 đến 6/1/1975. Sau khi giải quyết xong chi khu quân sự Đồng Xoài, quân ta tiếp tục hành quân về Phước Long để bao vây tỉnh lỵ Phước Long và quận lỵ Phước Bình.

Để chuẩn bị chiến trường cho quân chủ lực tiến công tiêu diệt địch, lực lượng vũ trang trước đó đã liên tục nổ

���

súng tiến công diệt dịch. Lúc này công nhân đồn điền Phước Bình đẩy mạnh tuyên truyền, tấn công binh vận, hù dọa khiến toàn bộ địch phải rút chạy, đồn điền Phước Bình được giải phóng.

Rạng sáng ngày 31/12/1974, sau loạt pháo mở đường, lực lượng ta từ các hướng đồng loạt nổ súng tiến công vào các mục tiêu chi khu quân sự Phước Long, quận ly Phước Bình, sân bay Phước Bình, Trung tâm viễn thông Bà Rá. Chiều 3112 ta tiêu diệt các vị trí xung yếu của chi khu Phước Bình.

Sáng ngày 1/1/1975, quân ta tiến công địch tại cầu Suối Dung, Tư Hiền và các ấp chiến lược, xung quanh các đồn bót phòng thủ của địch, lớp vỏ ngoài bảo vệ cho Phước Long đã bị chọc thủng, bọn địch tại tỉnh lỵ Phước Long đã bị bao vây.

Từ ngày 2 đến ngày 6/1/1975 ta tiêu diệt từng mục tiêu còn lại của địch. Được nhân dân và công nhân cao su tiếp tế lương thực, đạn dược, thuốc men, kịp thời, đầy đủ đã động viên tinh thần chiến đấu ngoan cường của chiến sĩ ta.

Đến 17 giờ ngày 6/1/1975 lá cờ chiến thắng của ta tung bay trên nóc Dinh tỉnh Phước Long, báo hiệu sự sụp đổ của địch tại đây. Chiến dịch Đường 14 - Phước Long hoàn toàn thắng lợi.

Trong Hội nghị tổng kết chiến dịch do Bộ Quốc phòng tổ chức vào tháng 8/1975, Đại tướng Hoàng Văn Thái đã đánh giá về chiến dịch Đường 14 - Phước Long: “... là một thực tiễn lớn đánh giá khả năng phản ứng của ngụy và

���

khả năng can thiệp trở lại của Mỹ, góp phần hạ quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam..”.

Chiến dịch Đường 14 - Phước Long là một “đòn trinh sát chiến lược”, giúp ta đánh giá khả năng đối phó của quân ngụy và khả năng can thiệp trở lại của quân Mỹ. Thắng lợi của chiến dịch còn là cơ sở thực tiễn để đánh giá sự trưởng thành về tổ chức, trình độ nghệ thuật chiến dịch và khả năng chiến đấu hợp đồng giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích của ta.

Sau chiến thắng .chính quyền cách mạng được nhanh chóng thành lập ở các đồn điền. Công nhân bung ra sản xuất lương thực để nhanh chóng ổn định đời sống. Hàng trăm công nhân gia nhập bộ đội, du kích bảo vệ đồn điền, truy tìm tàn quân địch còn lẩn trốn chống phá cách mạng.

Tỉnh Phước Long thất thủ làm cho Mỹ-Ngụy rất hoang mang. Thiệu lên Đài Truyền hình kêu gọi “Toàn quốc dành ba ngày cầu nguyện cho Phước Long” và tuyên bố “Kiên quyết tái chiếm Phước Long”. Ngay sau đó, chúng cho 11 tiểu đoàn, dùng máy bay đổ quân xuống Phước Long nhưng bị quân và dân ta diệt gọn. Không phản kích tái chiếm được Phước Long, địch cho máy bay dội bom bừa bãi, giết chết hàng trăm thường dân vô tội.

Ngày 13/1/1975, đoàn đại biểu Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng và Ủy ban Nhân dân cách mạng tỉnh Bình Phước do đồng chí Đỗ Văn Nuống (Tư Nguyện), Bí thư Tỉnh ủy dẫn đầu đã đến thăm hỏi đồng bào Phước Long và dự lễ mừng Phước Long giải phóng.

Tại buổi lễ, đồng chí Đỗ Văn Nuống đã nhiệt liệt biểu

���

dương những chiến công của các lực lượng vũ trang và nhân dân Phước Long làm nên chiến thắng, nồng thời kêu gọi nhândân tích cực tham gia mọi hoạt động nhằm ổn định cuộc sống, tăng gia sản xuất, đóng góp nghĩa vụ cùng quân dân cả nước tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Lời kêu gọi đó đã thúc giục nhân dân Phước Long nói riêng và nhân dân Bình Phước nói chung, ra sức góp công, góp của đưa sự nghiệp cách mạng đến ngày toàn thắng.

Để phục vụ cho chiến trường chung còn tiếp diễn, từ tháng 1/1975 đến tháng 3/1975, Tỉnh ủy Bình Phước tiếp tục phát động phong trào tòng quân diệt giặc. Gần 1.000 thanh niên nam, nữ đã xung phong vào các lực lượng vũ trang, hàng ngàn người từ các làng đồn điền cao su, các buôn sóc hăng hái tham gia vào đoàn dân công hỏa tuyến. Ngày đêm mở đường làm cầu, chuyển vũ khí, lương thực thuốc men... phục vụ chiến trường.

Sau khi ta hoàn toàn giải phóng tỉnh Phước Long (6/1/1975) bọn địch ở An Lộc (Bình Long) ngày đêm cố thủ dưới các chiến hào chờ chi viện nhưng chúng vô vọng bởi vì từ giữa tháng 3/1975, hai sư đoàn ngụy bị cầm chân ở Tây Ninh. Bọn địch ở An Lộc biết chắc sẽ bị lực lượng vũ trang của ta tiêu diệt nên ngày 23/3/1975 địch rút chạy về Chơn Thành kết hợp với bọn ngụy ở đây trấn giữ cửa ngõ phía Tây Bắc Sài Gòn.

Biết được ý đồ của giặc, lực lượng vũ trang Bình Phước từ hướng Bù Đốp, hành quân xuống bao vây tiêu diệt địch ở chi khu An Lộc (Bình Long) để lực lượng ở

���

Bình Long xuống bao vây chi khu Chơn Thành. Trưa ngày 24/3/1975 lực lượng vũ trang của Tỉnh phối hợp với lực lượng Quân đoàn 4 đánh Chơn Thành.

Đầu tiên, ta đánh vào các chốt Bảo an ở ấp Chơn Thành 2, Ngọc Lầu, sau đó tiến vào phía Bắc chi khu. Ở phía Đông, ta bắn kìm chân lực lượng Biệt động quân đóng ở vườn cao su ngã tư Chơn Thành. Các cánh quân của ta tiến công mãnh liệt, song hỏa lực của địch mạnh, lực lượng bố phòng dầy đặc, địch phản kích dữ dội, pháo địch từ Chi Khu liên tiếp bắn vào đội hình của ta, gây cho ta nhiều tổn thất. Trước tình hình khó khăn đó, lực lượng đặc công của tỉnh do đồng chí Lê Tính (út Tính) chỉ huy đã nhanh chóng tìm cách khắc phục những bất lợi về địa hình, tiêu diệt trận địa pháo của Liên đoàn biệt động quân bên cạnh Tòa hành chánh, sau đó phối hợp với cánh quân phía Tây từ Nha Bích lên, phá cổng Chi khu, mở đường cho quân chủ lực và bộ đội tỉnh đánh vào. Ngày 31/3/1975 ta tiếp tục tăng cường thêm lực lượng mở đợt tấn công mới vào chi khu Chơn Thành. Đến sáng ngày 2/4/1975 bị hỏa lực của ta đánh quá mạnh nên địch tháo chạy. Được nhân dân địa phương giúp đỡ, ta tiếp tục truy quét bắt thêm nhiều tên địch và một số tên khác ra đầu thú với cách mạng.

Chiều 2/4/1975 Chơn Thành được giải phóng cũng là ngày Bình Phước được hoàn toàn giải phóng. Đội ngũ công nhân cao su tiếp tục gia nhập các lực lượng vũ trang tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam ngày 30/4/1975.

���

CHƯƠNG VPHONG TRÀO CÔNG NHÂN VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN BÌNH PHƯỚC TRONG THỜI KỲ CẢ NUỚC

THỐNG NHẤT, ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1975 - 1988)

I. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC VÀ LAO ĐỘNG GóP PHẦN KHắC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, KHÔI PHỤC KINH TẾ XÃ HỘI (1975 - 1976)

Ngày 2/4/1975, tỉnh Bình Phước hoàn toàn giải phóng, kết thúc 21 năm chống Mỹ cứu nước, góp phần thúc đẩy sự tan rã và sụp đổ nhanh của chế độ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc, cùng cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội.

Bước vào thời kỳ mới, Đảng bộ, quân và dân tỉnh Bình Phước có những thuận lợi cơ bản nhưng cũng không ít khó khăn. Thuận lợi lớn và cơ bản nhất là đất nước được hoàn toàn giải phóng, nhân dân có điều kiện xây dựng lại quê hương sau nhíều năm chiến tranh bị tàn phá; quần chúng nhân dân rất vui mừng, phấn khởi vì quê hương được giải phóng, đất nước thống nhất một cuộc sống hòa bình đang mở ra. Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh giàu truyền thống cách mạng, đội ngũ cán bộ, đảng viên được tôi luyện trong kháng chiến nay được củng cố và phát triển trong hòa bình. Các dân tộc trong tỉnh có tinh thần đoàn

147

kết gắn bó, tự lực tự cường, cần cù trong lao động. Bình Phước là tỉnh có nhiều lợi thế mạnh về nông-lâm nghiệp, thủy lợi, thủy điện, giao thông... với tổng quỹ đất nông nghiệp trên l77.452ha chiếm gần 26% diện tích toàn tỉnh, chủ yếu là đất đỏ bazan thích hợp với các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Sau giải phóng công nhân lao động trở thành những người làm chủ nhà máy, đồn điền, xí nghiệp. Công nhân viên chức trong cả nước nói chung và Bình Phước nói riêng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng chung tay lao động sản xuất, xây dựng quê hương mới. Đó là những yếu tố thuận lợi để tỉnh nhà phát huy thế mạnh, động viên được sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân vươn lên thực hiện nhiệm vụ trong thời kỳ mới, tạo thế và lực cho bước phát triển giai đoạn sau.

Bên cạnh những thuận lợi, Bình Phước còn phải đối đầu với những khó khăn, thách thức. Đó là hậu quả của 30 năm chiến tranh để lại rất nặng nề, là một tỉnh thuần nông, nhưng sản xuất nông nghiệp chăn nuôi còn phân tản nhỏ lẻ, kỹ thuật lạc hậu...; một số cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chủ yếu là chế biến mủ cao su, chế biến nông lâm sản, quy mô sản xuất nhỏ, manh mún, hoạt động cầm chừng. Các cơ sở thủ công nghiệp phần lớn thuộc sở hữu tư nhân, tiểu chủ.

Điểm xuất phát nền kinh tế của tỉnh cũng như trình độ dân trí còn thấp. Kết cấu hạ tầng nghèo nàn, lạc hậu thiếu thốn, nhân dân các dân tộc trong tỉnh, nhất là vùng sâu vùng xa phần lớn thiếu ăn, thiếu mặc, tỷ lệ phát triển dân số cao. Phối hợp với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh

148

bạn đón nhận từ 100.000 người đi xây dựng vùng kinh tế mới, đón trên 30.000 Việt kiều từ Campuchia trở về nước, hàng ngàn người tha phương sau chiến tranh trở về, hàng chục ngàn ngụy quân, ngụy quyền thiếu công ăn việc làm, nạn thất nghiệp gia tăng, làm cho Bình Phước vốn đã khó khăn nay càng khó khăn hơn.

Trật tự an ninh sau chiến tranh còn nhiều diễn biến phức tạp. Bọn ngụy quân, ngụy quyền ngoan cố, không chịu ra trình diện, lẫn tránh tìm cách chống phá cách mạng... Chúng tuyên truyền xuyên tạc đường lối cách mạng, gây hoang mang lo sợ ở một số người, nhất là gia đình có liên quan đến chế độ cũ. Bọn Fulrô hoạt động trong vùng đồng bào dân tộc chống phá cách mạng, làm mất ổn định ở một số nơi trong tỉnh như Phước Long, Bù Đăng, Đồng Phú, gây ảnh hưởng xấu trong nhân dân.

Cùng với những khó khăn về nhiều mặt, hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể trong đó có Liên Hiệp Công đoàn giải phóng tỉnh mới thành lập chưa được củng cố kiện toàn, đội ngũ từ tỉnh đến cơ sở còn thiếu, năng lực quản lý, điều hành chưa đáp ứng với yêu cầu, chưa thích nghi với yêu cầu nhiệm vụ mới.

Từ khi tỉnh nhà vừa được giải phóng, ta đã nhanh chóng tiếp thu, tiếp quản các cơ sở quân sự, kinh tế, văn hóa, hành chính... thiết lập chính quyền cách mạng lâm thời các cấp, thành lập ủy ban quân quản cấp tỉnh vả huyện, giữ gìn trật tự, an ninh ổn định tình hình địa phương. Đồng thời huy động sức người, sức của, lương thực, xăng dầu... phục vụ

149

cho quân chủ lực tiến vào Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ.Quán triệt các Nghị quyết của Trung ương cục miền

Nam, Tỉnh ủy đã lãnh đạo các ngành, các cấp vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện những nhiệm vụ cấp bách là: Kiên quyết truy quét địch, nhanh chóng thiết lập trị an, ra sức củng cố và xây dựng lực lượng chính trị vũ trang, xây dựng củng cổ chính quyền cách mạng, lấy công - nông chuyên chính làm nền tảng, chính quyền phải thực sự của dân, do dân và vì dân; tranh thủ khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân; từng bước giải quyết những tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại.

Nhằm ổn định đời sống nhân dân, Ủy ban quân quản các cấp đã khẩn trương triển khai một số nhiệm vụ trước mắt, tổ chức cứu thương, cứu đói cho nhân dân; cấp phát hơn 160 tấn gạo cứu đói cho hơn 40.000 đồng bào, tạo điều kiện đưa đồng bào ở Bình Long bị địch gom vào khu tập trung ở Gò Đậu - Thủ Dầu Một trở về quê cũ. Ngay trong ngày 01/5/1975, các địa phương trong tỉnh đã khôi phục hoạt động binh thường cho nhân dân. Tổ chức sửa chữa cầu đường bị chiến tranh phá hoại khôi phục đường giao thông. Trợ cấp một phần vật chất và tiền bạc cho nhân dân hồi cư trở vê quê cũ. Các huyện trong tỉnh tổ chức mít tinh trọng thể mừng chiến thắng.

Thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy và Liên Hiệp Công đoàn miền Nam khắc phục hậu quả sau chiến tranh, ổn định đời sống; với truyền thống cách mạng của giai cấp công nhân, công nhân viên chức trong tỉnh đã kiên

150

trì bền bỉ khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch của Nhà nước, của tỉnh nhà đề ra. Liên Hiệp Công đoàn giải phóng (1) tỉnh đã chỉ đạo các cấp Công đoàn trong tỉnh ra sức thi đua lao động sản xuất, tham gia quản lý kinh tế - xã hội thực hiện tốt kế hoạch đã đề ra. Mặc dù thời kỳ này, vật tư, nguyên liệu, điện... thiếu nghiêm trọng nhưng với tinh thần tự lực tụ cường, khắc phục khó khăn, công nhân viên chức trong tỉnh đã nêu cao ý thức tự giác, nâng cao ngày công, giờ công lao động, chấp hành kỷ luật lao động; các phong trào thi đua lao động, sản xuất trong công nhân viên chức được phát động với khí thế thi đua sôi nổi đều khắp trong các cơ quan, xí nghiệp, đồn điền cao su như: phong trào thi đua hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động, tiết kiệm vật tư, thời gian, nâng cao năng suất lao động được thực hiện khá sôi nổi trong năm 1975 - 1976 như: Cao su Phước Bình (nay thuộc Công ty Cao su Phú Riềng) vượt kế hoạch trước thời gian 30 ngày, cao su Lộc Ninh vượt trước thời gian 20 ngày, Công nghiệp địa phương đạt 116%. Trong phong trào thi đua lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm, công nhân viên chức trong tỉnh đã tích cực phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm vật tư. Năm 1976 có hàng trăm sáng kiến cải tiến có giá trị kinh tế cao, làm lợi hàng chục ngàn đồng, tiêu biểu như Cao su Dầu Tiếng có 32 sáng kiến; cao su Lộc Ninh,

(�) Thời gian này gồm 2 Liên Hiệp Công đoàn giải phóng hai tỉnh Thủ Dầu Một và Bình Phước.

���

cao su Phước Bình mỗi nơi có hơn 10 sáng kiến tiết kiệm hơn 10.000 ngàn đồng, các ngành công nghiệp địa phương có nhiều sáng kiến phục vụ cho sản xuất nông nghiệp kịp thời.

Trong các đơn vị.hành chính sự nghiệp có phong trào 3 cải tiến là: cải tiến lề lối làm việc, cải tiến tổ chức, cải tiến công tác, tăng cường đi sâu sát cơ sở phục vụ cho sản xuất. Tuy tổ chức Công đoàn mới xây dựng nhưng bước đầu có tác dụng động viên giáo dục chính trị, tư tưởng; chăm lo đời sống công nhân viên chức an tâm phấn khởi công tác. Các đơn vị trực tiếp giải quyết, phục vụ nhân dân như: thương nghiệp, y tế, lương thực, giáo dục... đã cải tiến lề lối làm việc, giảm những thủ tục không cần thiết. Trong cơ quan hành chính thực hiện giờ làm việc vàng ngọc và có hiệu suất, đảm bảo phục vụ các mặt công tác ở cơ quan.

Liên Hiệp Công đoàn tỉnh chỉ đạo Công đoàn các huyện thị và Công đoàn các ngành đẩy mạnh công tác tuyên truyền đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của Mặt trận trong công nhân viên chức, ra sức khắc phục khó khăn, đẩy mạnh phong trào thi đua lao động, sản xuất chăm lo đời sống xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán, phát triển tổ chức về lực lượng đoàn viên công đoàn trong các ngành.

Ở khu vực đồn điền cao su, tổ chức Công đoàn các cấp ra đời khá sớm. Ngay sau giải phóng, Đảng và chính quyền chủ trương khôi phục sản xuất, nhanh chóng giải

���

quyết công ăn việc làm cho công nhân, củng cố tổ chức Đảng, bộ máy quản lý sản xuất, tổ chức Công đoàn.

Ở các đồn điền cao su Phước Bình, Thuận Lợi, Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Lộc Ninh, Minh Hòa... nhiều năm chiến tranh ác liệt, vườn cây cao su bị tàn phá, nhà máy chế biến, nhà làm việc hư hỏng. Đảng và cán bộ công đoàn đã tạo mọi điều kiện giúp anh chị em công nhân tại các đồn điền ổn định nơi ăn, chốn ở, tháo gỡ bom mìn, khôi phục sản xuất. Đến cuối năm 1975, phong trào lao động sản xuất, cải thiện đời sống, củng cố bộ máy quản lý và công đoàn của cao su đã đạt được những thành quả lớn. Hàng ngàn hécta cao su đã đưa vào khai thác và những tấn mũ cao su đủ tiêu chuẩn đã thành hiện thực. Riêng quốc doanh cao su Quản Lợi đã hoàn chỉnh xây dựng nhà máy chế biến mủ bún với công xuất 10 tấn/ngày, từ chỗ 250 công nhân đã lên đến 1.217 công nhân, phục hoang được 6.081 ha cao su và đi vào khai thác 2.800 ha. Công nhân cao su khẳng định vai trò tiên phong của mình trong giai đoạn mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Cuối năm l975, Trung ương quyết định thành lập Tổng Công ty quốc doanh cao su Đông Nam Bộ, số lượng công nhân cao su gần 5.000 công nhân với hơn 10 nông trường cao su các tỉnh miền Đông, trong đó có Nông trường Cao su Thuận Lợi, Lộc Ninh, Quản Lợi ... Mỗi Nông trường cao su có một tổ chức công đoàn cấp 2 trực thuộc Công đoàn Tổng công ty, Công đoàn nông trường có hệ thống Công đoàn cơ sở.

���

Sau ngày giải phóng, bên cạnh nhiệm vụ củng cố kiện toàn các cấp công đoàn và phát triển đoàn viên; Công đoàn tỉnh đã phối hợp với các ban, ngành, đoàn thế làm tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ chính quyền; ổn định đời sống sản xuất, giữ gìn trật tự trị an; tổ chức cho công nhân, viên chức tham gia khai hoang phục hóa, tiêu hủy văn hóa phẩm đồi trụy, phản động. Những thành tích trên tuy mới là bước đầu, song đây là thành tích mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng những ngày đầu mới giải phóng.

Nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng CNXH và bảo vệ quốc phòng - an ninh trong chặn đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ cấp Khu, hợp nhất một số tỉnh. Thi hành Nghị quyết của Bộ Chính trị, ngày 2/7/1976, hai tỉnh Thủ Dầu một và Bình Phước hợp nhất thành tỉnh Sông Bé. Tỉnh Sông Bé được thành lập, Trung ương chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời tỉnh Sông Bé, đông chí Đỗ Văn Nuống (Tư Nguyện) giữ chức Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Nguyên Văn Luông (Sáu Phát) Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh. Tỉnh Sông Bé có diện tích tự nhiên là 9.859 km�, là tỉnh có diện tích lớn nhất Đông Nam Bộ và đứng thứ 17 trong số 40 tỉnh, thành trong cả nước (vào thời điểm 1976), trong đó dân số chỉ có 558.018 người (trong đó có 62.461 người đồng bào dân tộc thiểu số) xếp thứ 33/40 tỉnh thành trong cả nước.

Công tác hợp nhất tổ chức Công đoàn hai tỉnh tiến hành nhanh gọn, theo đúng tiến độ và yêu cầu đề ra. Ban

���

Chấp hành lâm thời Liên Hiệp Công đoàn tỉnh Sông Bé gồm 13 đống chí, Ban Thường vụ gồm 4 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Thường Sơn (Ba Sơn) Tỉnh ủy viên giữ chức Thư ký, đồng chí Huỳnh Kim Oanh (út Oanh) giữ chức Phó Thư ký. Từ tháng 11 năm 1976 đồng chí Trần Xuân Minh (Ba Minh) được phân công bổ sung về giữ chức Phó Thư ký.

Về tổ chức Công đoàn có 9 Công đoàn ngành, 7 Công đoàn địa phương, 47 Công đoàn cơ sở, với tổng số đoàn viên là 4.889 người. Đây là hạt nhân nòng cốt, trung tâm đoàn kết lực lượng công nhân viên chức, của toàn tỉnh. Trong số này đã có nhiều người gắn bó với phong trào công nhân viên chúc, hàng chục năm, có những đóng góp nổi bật trong phong trào công nhân viên chức và hoạt động công đoàn.

Hoạt động của tổ chúc Công đoàn đã có nhiều thay đổi sau giải phóng, với tư cách là một thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức của công nhân viên chức được quyền tham gia vào các hoạt động của chính quyền, cơ quan chuyên môn và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngoài ra công đoàn phải tuyên truyền đường lối, chính sách chung của Đảng vì Đảng mình là Đảng của giai cấp vô sản

Xuất phát từ nhiệm vụ mới của giai cấp công nhân, thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ khi thành lập tỉnh Sông Bé, Tỉnh ủy đã chú trọng xây dựng và kiện toàn bộ máy công đoàn của tỉnh, trong đó có Công đoàn các huyện

���

phía Bắc của tỉnh như Bình Long, Phước Long, Đồng Phú, Lộc Ninh (nay thuộc tỉnh Bình Phước) và Công đoàn các công ty cao su... Sau khi tỉnh Sông Bé ra đời, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa và an ninh quốc phòng của tỉnh cơ bản đã được ổn định. Nhưng do chiến tranh kéo dài còn để lại hậu quả về mọi mặt, đặt cho các cấp, các ngành, trong đó có công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn những nhiệm vụ nặng nề.

Như vậy, chỉ trong thời gian ngắn công đoàn đã kịp thời tham gia ổn định đời sống nhân dân, thực hiện các chính sách, giảm bớt khó khăn cho công nhân viên chức, nhanh chóng hình thành bộ máy tổ chức cả hệ thống từ tỉnh đến cơ sở, thu hút lao động ở các công ty cao su, cơ sở công nghiệp, giao thông vận tải... Công đoàn vận động công nhân viên chức tham gia khai hoang phục hóa, phát triển sản xuất, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng và xây dựng cuộc sống mới.

II. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN THAM GIA CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, ĐẨY MẠNH CÁC PHONG TRÀO THI ĐUA, TỪNG BƯỚC CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN (1977-1980)

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV tháng 12 năm 1976 đã xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế - xã hội ở nước ta nhằm đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ nghĩa

���

xã hội. Đại hội đã đề ra kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) cho toàn Đảng, toàn dân ra sức phấn đấu xây dựng cơ sở vật chất, phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước sau chiến tranh.

Trước Đại hội lần thứ IV của Đảng, ngày 25/4/1976 cả nước đã tiến hành bầu cử Quốc hội, tại tỉnh Sông Bé tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu đạt 98,3%, ngày 2/7/1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất họp kỳ thứ nhất, quyết định đặt tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyết định Quốc kỳ, Quốc ca, thủ đô…, thành phố Sài Gòn được chính thức mang tên thành phố Hồ Chí Minh. Cũng vào ngày này, Quốc hội đã chính thức chuẩn y việc sáp nhập tỉnh Bình Phước và tỉnh Thủ Dầu Một thành tỉnh Sông Bé.

Ngày 11/3/1977, Hội đồng Chính phủ (nay là Thủ tướng) có Quyết định 55/CP về việc hợp nhất và điều chỉnh địa giới một số huyện của tỉnh Sông Bé thành 6 huyện và 1 thị xã. Cụ thể một số huyện thuộc địa bàn tỉnh Bình Phước là: hợp nhất huyện Lộc Ninh, Hớn Quản, Chơn Thành thành một huyện lấy tên là Bình Long, hợp nhất huyện Bù Đốp, Phước Bình, Bù Đăng thành một huyện lấy tên là Phước Long, hợp nhất huyện Đồng Xoài vào huyện Phú Giáo thành một huyện lấy tên là huyện Đồng Phú. Tiếp đó Ban cán sự các huyện Đồng Phú, Bình Long, Phước Long và Công đoàn các ngành y tế, giáo dục, công nghiệp được thành lập.

Tháng 6/1977, Hội nghị thống nhất tổ chức Công đoàn

157

cả nước đã tiến hành tại thành phố Hồ Chí Minh lấy tên là Tổng Công đoàn Việt Nam. Một nhiệm vụ quan trọng của công nhân, viên chức, lao động và tổ chức Công đoàn các tỉnh phía Nam nói chung và Sông Bé nói riêng, trong giai đoạn 1977-1980 là hoàn thành cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa. Ngày 13/7/1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết 254/NQ-TW nêu rõ phương pháp cải tạo là: Phải dựa vào giai cấp công nhân và quần chúng cách mạng, đoàn kết đông đảo nhân dân lao động, giáo dục cải tạo những người tư sản, đấu tranh với những kẻ ngoan cố vì quyền lợi ích kỷ làm cản trở công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa; kiên quyết trừng trị những phần tử phản cách mạng phá hoại hiện hành và bọn gian thương đầu cơ tích trữ phá rối thị trường gây thiệt hại đến đời sống nhân dân. Kết hợp và sử dụng một cách linh hoạt các biện pháp giáo dục, phát động quần chúng với kinh tế và hành chính để giành thắng lợi một cách tốt nhất.

Thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ nhất (tháng 11/1976) đã đề ra nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh là: Không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, ra sức xây dựng chính quyền nhân dân các cấp, xác lập và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động nhằm cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tổ chức lại nền kinh tế văn hóa của tỉnh theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn mới. Từ đó đề ra nhiệm vụ

158

cho tổ chức công đoàn; phải chú trọng xây dựng tổ chức Công đoàn, phát huy vai trò công đoàn trong việc tham gia quản lý xí nghiệp, quản lý cơ quan, tổ chức và động viên phong trào thi đua lao động sản xuất, công tác và học tập, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội; cùng với cơ quan nhà nước chăm lo giải quyết tốt các vấn đề đời sống và phúc lợi tập thể…

Tháng 4/1977 công nhân viên chức và tổ chức Công đoàn Sông Bé phấn khởi tiến hành Đại hội Đại biểu Liên Hiệp Công đoàn lần thứ nhất, được tổ chức ở trường Đảng của tỉnh tại thị xã Thủ Dầu Một.

Đại hội đã tập trung phân tích, đánh giá phong trào công nhân, viên chức và hoạt động công đoàn của tỉnh thời gian từ sau ngày tỉnh được hoàn toàn giải phóng (30/4/1975) Trong những năm 1975-1977 công nhân, viên chức đã ra sức lao động, nhanh chóng khôi phục sản xuất, ổn định đời sống, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tích cực tham gia vào chiến dịch xóa bỏ tư sản mại bản và không ngừng tìm tòi, sáng tạo, sáng chế cải tiến kỹ thuật phục vụ sản xuất. Đã xuất hiện một số tấm gương lao động tiêu biểu như Lê Thị Nuôi, chị Duyên… ở nông trường quốc doanh cao su Dầu Tiếng.

Tổ chức Công đoàn từ khi mới được thành lập đã có bước trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Hoạt động công đoàn ngày càng đi vào chiều sâu, cán bộ công đoàn đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo và xây dựng phong trào. Qua 2 năm tổ chức hoạt

159

động, phong trào công nhân, viên chức và công đoàn của tỉnh cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định như, trình độ chính trị và chuyên môn của công nhân, viên chức còn hạn chế. Tổ chức công đoàn từ tỉnh đến cơ sở đã được củng cố một bước, nhưng đội ngũ cán bộ công đoàn còn thiếu và yếu, đặc biệt là công đoàn các huyện mới thành lập.

Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ trong nhiệm kỳ I (1977-1980) với những nội dung cơ bản là: Giáo dục, rèn luyện, nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ công nhân viên chức; thực hiện 3 cuộc cách mạng là cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng văn hóa tư tưởng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; tổ chức và đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng và phát huy quyền làm chủ của tập thể nhân dân lao động; tham gia quản lý nhà nước và bảo vệ an ninh - quốc phòng

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Liên hiệp công đoàn khóa I, nhiệm kỳ 1977-1980 gồm 27 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 7 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Thường Sơn, Tỉnh ủy viên được bầu giữ chức vụ Thư ký, đồng chí Trần Xuân Minh và đồng chí Huỳnh Kim Oanh giữ chức vụ Phó Thư ký, các đồng chí Nguyễn Thành Đồng, Trần Thanh Hùng, Lâm Thế Vũ, Nguyễn Văn Phần giữ chức vụ Ủy viên Ban Thường vụ. Đến cuối năm 1979, đồng chí Ngô Tuấn Đạt (Tư Đạt) được Tỉnh ủy điều động về giữ chức vụ Thư ký Liên hiệp Công đòan tỉnh thay đồng chí Nguyễn Thường

160

Sơn chuyển công tác khác. Đội ngũ cán bộ công đoàn từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục được củng cố và xây dựng nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động công đoàn trong tình hình mới.

Đại hội Liên Hiệp Công đoàn Sông Bé lần thứ nhất là sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu bước trưởng thành về mặt tổ chức cũng như phong trào công nhân, viên chức sau hơn hai năm giải phóng. Trong quá trình chuẩn bị tiến tới đại hội, Liên hiệp Công đoàn tổ chức nhiều phong trào thi đua, tạo điều kiện cho đoàn viên công đoàn tham gia đóng góp ý kiến dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành, làm cho ý thức đoàn viên về tổ chức công đoàn nâng cao, tạo ra khí thế thi đua lao động sản xuất, hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Sau giải phóng, hậu quả chiến tranh đã để lại cho đất nước nói chung vô vàn thử thách, đòi hỏi phải nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống nhân dân. Với truyền thống cách mạng của giai cấp công nhân, công nhân viên chức trong tỉnh đã kiên trì, bền bỉ khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước đề ra. Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã chỉ đạo các cấp Công đoàn trong tỉnh ra sức thi đua lao động sản xuất, tham gia quản lý kinh tế, xã hội, thực hiện tốt kế hoạch nhà nứơc 5 năm lần thứ hai (1976 -1980).

Tiếp đó, tháng 5/1978, Đại hội toàn quốc Tổng Công đoàn lần thứ IV đã đưa ra đường lối chung của phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Việt Nam trong giai

���

đoạn cách mạng mới. Trên cơ sở nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam, đại hội đã đề ra nhiệm vụ cụ thể của Tổng Công đoàn Việt Nam trong những năm tới là:

- Phát động phong trào cách mạng của công nhân, viên chức thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm tăng năng suất lao động, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước.

- Đẩy mạnh phong trào công nhân, viên chức thi đua phục vụ nông nghiệp.

- Tổ chức và từng bước cải thiện đời sống, tham gia xây dựng pháp luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của công nhân, viên chức.

- Vận động công nhân, viên chức tham gia hoàn thành cải tạo quan hệ sản xuất ở miền Nam.

- Tích cực tham gia cải tiến quản lý xí nghiệp, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, nhằm củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

- Đẩy mạnh giáo dục chính trị, văn hóa kỹ thuật và nghiệp vụ cho công nhân, viên chức.

- Tích cực góp phần tăng cường đoàn kết lao động và phong trào công đoàn thế giới, đấu tranh vì quyền lợi của những người lao động, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

- Cải tiến phương pháp công tác, xây dựng công đoàn vững mạnh(�)

(1) Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn Việt Nam. Tập III (1976-2000), trang 62-63

���

Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IV, Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ nhất, Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã đẩy mạnh vận động công nhân, viên chức quyết tâm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ kinh tế - xã hội do Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ đề ra.

Trong lúc này tình hình sản xuất diễn ra không thuận lợi, hàng hóa tiêu dùng khan hiếm, lương thực, thực phẩm thiếu trầm trọng, giá cả biến động, đời sống công nhân, viên chức gặp nhiều khó khăn, đây cũng là lúc toàn Đảng, toàn quân phải đối phó với hai cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Tuy vậy công nhân, viên chức đã thể hiện phẩm chất chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối dưới sự lãnh đạo của Đảng, ra sức thi đua thực hiện các phong trào cách mạng, góp phần cùng toàn thể nhân dân trong tỉnh giành nhiều thắng lợi quan trọng.

Trong nông nghiệp đã tập trung giải quyết vấn đề lương thực thực phẩm; thực hiện tốt hai biện pháp quan trọng là tăng năng suất cây trồng và khai hoang phục hóa mở rộng diện tích canh tác đi đôi với việc phân bố lại lao động, hoàn thành cơ bản tập đoàn sản xuất và hợp tác hóa nông nghiệp. Đến năm 1980 đã đưa năng suất lúa bình quân đạt 2,1 tấn/ha gieo trồng, tổng sản lượng lương thực trên 540.000 tấn, riêng màu 330.000 tấn; coi trọng phát triển cây công nghiệp dài ngày và ngắn ngày như cao su, hồ tiêu, đậu phộng, mía…

���

Đến năm 1979, huyện Phước Long đã tự túc được lương thực với bình quân 654kg/người, cao hơn chỉ tiêu đề ra là 621 kg/người. Huyện Đồng Phú trong hai năm 1977 - 1978. Đã đưa tổng diện tích giao trồng lên 15.993ha, với tổng sản lượng quy thóc là 23.236 tấn lương thực, khai hoang được 4.533 ha. Năm 1978, huyện Bình Long đưa tổng diện tích gieo trồng là 12.387 ha, tăng diện tích gieo trồng lên 11%, toàn huyện hình thành được 150 tập đoàn sản xuất và xây dựng một số hợp tác xã thí điểm. Điển hình là xã Lộc Khánh là xã tổ chức sớm và duy trì được “Tổ đổi công” trở thành tiên tiến và hợp tác toàn tỉnh, hợp tác xã Quyết Thắng trở thành điển hình của tỉnh, đồng chí Lâm Búp, chủ nhiệm hợp tác xã, người dân tộc Khơ-me đã được tuyên dương Anh hùng lao động. Hoạt động lâm nghiệp cũng có những đóng góp đáng kể, nhất là nhờ khai thác gỗ trơn, gỗ xẻ và lâm sản phụ. Tuy có đạt được một số kết quả trong khai thác, chế biến lâm sản nhưng công tác bảo vệ rừng, trồng rừng chưa được chú ý đúng mức, việc khai thác rừng còn thiếu tổ chức chặt chẽ. Với kết quả đạt được, không những giúp cho tỉnh khắc phục tình trạng thiếu hụt về lương thực, đảm bảo yêu cầu tối thiểu về đời sống nhân dân mà còn tạo ra cơ sở vật chất ban đầu để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng một số công trình kinh tế trọng điểm. Công nhân và Công đoàn tăng cường liên kết với nông dân thi đua phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp, công nhân, viên chức trong các nhà máy, xí nghiệp thi đua sản xuất nông cụ, máy móc,

���

phân bón; tổ chức vận chuyển vật tư nông nghiệp về nông thôn, đẩy mạnh cơ giới hóa khâu làm đất khai hoang; khôi phục và xây dựng môt số công trình thủy lợi và hệ thống thủy nông, từng bước đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp để thâm canh tăng năng suất cây trồng, khai hoang phục hóa mở rộng diện tích canh tác. Vào dịp thời vụ, công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp tổ chức các đội sửa chữa linh động về các tập đoàn sản xuất, hợp tác xã nông nghiệp. trong phong trào thi đua hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm vật tư thực hiện khá sôi nổi trong nông nghiệp như: ngành nông nghiệp tỉnh đã tìm ra những giống lúa thích hợp với đất đai, khí hậu của địa phương như giống 3A, 6A,7A có sức kháng rầy, thời gian sinh trưởng nhanh; Sản xuất quốc doanh 2/9 có sáng kiến chống và trị bệnh tiêu chảy cúm heo H; Nông trường Nha Bích (Bình Long) cải tiến bánh xe bò chở hàng ở vùng sình lầy có kết quả tốt; Công ty cơ khí khai hoang có sáng kiến trong khai hoang, giảm được thời gian, tiết kiệm nhiên liệu, giữ được đất màu của đất…

Trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp các Cấp công đoàn phối hợp với chính quyền các cấp vận động cải tạo và sắp xếp lại sản xuất theo hai hình thức hợp doanh và hợp tác xã. Kết quả đã thành lập được xí nghiệp công tư hợp doanh, hợp tác xã và tổ hợp tác sản xuất. Đến năm 1980, toàn tỉnh đã xây dựng được 39 cơ sở công nghiệp quốc doanh, 5 cơ sở công tư hợp doanh, 17 hợp tác xã tiểu

���

thủ công nghiệp và 46 tổ hợp tác xã sản xuất hàng tiểu thủ công nghiệp. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp cuối năm 1976 chỉ có 1.393 cơ sở, đến năm 1980 đã có 2.674 cơ sở, với 18.204 lao động, trong đó lao động trong các cơ sở quốc doanh và tập thể chiếm 41% trong tổng số lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp là thế mạnh của tỉnh như: ngành sành sứ, sơn mài, chế biến gỗ, lâm sản… nhanh chóng phục hồi sản xuất. Ngành sơn mài, điêu khắc, chế biến gỗ và mây tre xuất khẩu đều đã được tổ chức theo hình thức kinh tế tập thể và xã hội chủ nghĩa. Giá trị sản lượng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 33,1 triệu đồng năm 1976 lên 56,249 triệu đồng năm 1978 và lên 56,974 triệu đồng năm 1980. giá trị sản lượng hàng tiểu thủ công nghiệp xuất khẩu năm 1976 chỉ có 0,785 triệu đồng, đến năm 1978 xuất khẩu đạt 7,260 triệu đồng và năm 1980 đạt 7,480 triệu đồng. nhiều cơ sở công quản đã chuyển thành quốc doanh, quản lý theo chế độ hạch toán kinh tế.

Thực hiện quyết định số 21/CP của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/2/1978, ngành giao thông vận tải phối hợp với Liên hiệp Công đoàn phát động công nhân lái xe, chủ xe trong tỉnh học tập chính sách cải tạo. Do được giới chủ và công nhân lao động hưởng ứng, nên công tác cải tạo lực lượng vận tải tư nhân theo phương thức quốc doanh, hợp doanh và hợp tác xã tiến hành thuận lợi. Nhiều chủ xe đã tự nguyện bỏ thêm vốn khôi phục, đưa thêm đầu xe vào hoạt động kinh doanh góp phần phục vụ phát triển kinh tế

���

xã hội của tỉnhThực hiện quyết định 110/CP và Chỉ thị 115/TTg của

Thủ tướng chính phủ về phát triển nhanh lực lượng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, cơ bản hoàn thành cải tạo thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, chuyển tư bản thương nghiệp và đại bộ phận tiểu thương sang sản xuất, tỉnh đã chỉ đạo các địa phương trong tỉnh đồng loạt triển khai chính sách trên. Sau một thời gian tập trung cải tạo, từ tỉnh đến huyện đã tiến hành cải tạo hàng trăm hộ kinh doanh lớn nhỏ. Tổng giá trị hàng hóa trưng mua đến hàng triệu đồng. Liên hiệp Công đoàn đã chỉ đạo các cơ quan đơn vị, nhà máy, xí nghiệp theo khẩu hiệu hưởng ứng chính sách cải tạo; tổ chức công nhân, viên chức; lao động xuống đường biểu dương lực lượng.

Cùng với công tác cải tạo, công tác xây dựng ngoại hối thương nghiệp quốc doanh cũng được tiến hành khẩn trương từ tỉnh xuống huyện. Ở các huyện Bình Long, Phước Long, Lộc Ninh, Đồng Phú đã tổ chức được hàng chục hợp tác xã mua bán, phát triển cửa hàng quốc doanh, tổ chức công ty cấp III ở cấp huyện, cải tiến kinh doanh vươn lên nắm nguồn hàng nông, lâm, công nghiệp địa phương phục vụ đời sống sản xuất. Ở các huyện Bình Long, Lộc Ninh, Phước Long xây dựng và đưa vào sử dụng 3 xưởng chế biến mủ.

Phong trào thi đua tiết kiệm được đẩy mạnh, nhất là trong các ngành y tế, giao thông, thương nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, ý thức tiết kiệm được nâng cao, khắc phục

167

nhiều khó khăn về vật tư nguyên liệu, góp phần đẩy mạnh sản xuất đời sống. đến năm 1980, có 37 đơn vị trong tỉnh tiết kiệm cho nhà nước hơn 3,8 triệu đồng. Tiêu biểu bệnh viện đa khoa tỉnh đã có 64 sáng kiến, 70 đề tài về nghiên cứu ứng dụng khoa học trong công tác điều trị bệnh và phục vụ bệnh nhân, giành lại đời sống cho nhiều người tưởng chừng đã tuyệt vọng. Xí nghiệp quốc doanh chăn nuôi 2/9 sáng kiến cải tiến tổ chức hợp lý hóa sản xuất được nhà nước tặng thưởng huân chương Lao đông hạng II và III và Tổng Công đoàn Việt Nam tặng bằng khen về thành tích lao động sáng tạo.

Những năm đầu sau giải phóng, tình hình sản xuất và đời sống của công nhân các Nông trường quốc doanh cao su ở Hớn Quản, Lộc Ninh, Phú Riềng, Thuận Lợi gặp rất nhiều khó khăn. Tổ chức Công đoàn cùng với Ban lãnh đạo các nông trường quốc doanh cao su đã ra sức tìm mọi biện pháp ổn định đời sống công nhân, đẩy mạnh sản xuất. Năm 1977, Tổng Công đoàn Việt Nam đã phối hợp với Liên Hiệp Công đoàn tỉnh tổ chức khảo sát đời sống công nhân cao su ở Bình Long và một số đơn vị khác đã giúp cho lãnh đạo các đơn vị cao su và tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên, Chi bộ Đảng được kiện toàn, từ đó mọi hoạt động của công ty cao su đi vào ổn định, phong trào công nhân được phục hồi và phát triển. Đến những năm 1980, nhờ sự nỗ lực của toàn thể cán bộ, công nhân cao su, những khó khăn dần đi qua.

Hưởng ứng phong trào thi đua do Đại hội Liên Hiệp

168

Công đoàn tỉnh lần thứ nhất phát động công nhân viên trong toàn tỉnh ra sức phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, nâng cao tinh thần khắc phục khó khăn, thi đua sản xuất tiết kiệm, tình nguyện nhận thêm việc làm, làm thêm giờ, nâng cao tinh thần tự lực, tự cường. Phong trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật được phát triển sâu rộng đến các Công đoàn cơ sở với nhiều hình thức phong phú. Hưởng ứng phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, công nhân viên các nhà máy, xí nghiệp, các nông trường cao su thực hiện khẩu hiệu “Mỗi công nhân có một sáng kiến, mỗi cán bộ khoa học có một đề tài”. Hội nghị tổng kết sáng kiến toàn tỉnh (1976-1980) đã đánh giá cao khả năng sáng tạo to lớn của công nhân, viên chức, đã động viên những tập thể và cá nhân có nhiều đóng góp tích cực cho phong trào phát huy sáng kiến. Có 131 đơn vị của 10 ngành, 8 huyện, thị với 1.342 sáng kiến, làm lợi cho nhà nước hơn 12,5 triệu đồng. Công đoàn phối hợp với chuyên môn trích 97.000 đồng làm tiền thưởng cho 312 sáng kiến, đề nghị Tổng Công đoàn Việt Nam cấp bằng lao động sáng tạo cho những sáng kiến có giá trị cao.

Cùng với việc đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất, chăm lo cải thiện đời sống cho người lao động, Liên hiệp Công đoàn tỉnh còn đặc biệt chú ý đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, hoạt động văn hóa - thể thao trong công nhân, viên chức. phong trào văn hóa - văn nghệ, thể dục, thể thao tổ chức ngày càng đi vào nền nếp sôi động, liên tục. Nhiều đội bóng chuyền, bóng đá công nhân được hình

169

thành và làm nòng cốt cho đội bóng đá tỉnh nhà. Hàng năm Liên hiệp Công đoàn tỉnh tổ chức hội diễn văn nghệ, ca nhạc xung kích từ cơ sở đến tỉnh với sự tham gia của hàng ngàn diễn viên nghiệp dư, tạo không khí vui tươi, lành, mạnh, đáp ứng một phần đời sống văn hóa tinh thần của công nhân viên chức, góp phần tích cực vào việc xây dựng người công nhân xã hội chủ nghĩa. Trong những năm 1977 - 1980, cán bộ công nhân, viên chức Sông Bé đã kiên trì khắc phục khó khăn, quyết tâm phấn đấu thực hiện tốt các mục tiêu và phong trào đề ra. Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, trong những năm đầu sau giải phóng, ta chủ trương và tổ chức thực hiện cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, vận động quần chúng lao động vào hợp tác xã trong điều kiện họ chưa tự giác, tự nguyện nên hiệu quả sản xuất thấp, thợ thuyền và công nhân lao động trong các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống chưa được phát huy, đối tượng vận động của công đoàn bị thu hẹp, chỉ còn công nghân, viên chức khu vực nhà nước.

III. VẬN ĐỘNG CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC THAM GIA CHIẾN ĐẤU VÀ PHỤC VỤ CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ TỔ QUỐC.

Sau hơn 30 năm chiến tranh, đất nước hòa bình, thống nhất, nguyện vọng lớn nhất của nhân dân ta là sớm khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội để mọi người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nhưng công việc tái thiết đất nước sau chiến tranh mới tiến hành trong một thời gian ngắn, giai cấp công nhân và

170

tổ chức Công đoàn cùng với nhân dân cả nước buộc phải đứng lên chiến đấu chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc.

Sau thắng lợi trong chiến tranh chống Mỹ, tập đoàn Pônpôt-Iêngxari-Khiêuxampôn, đại diện cho phái Khơ me Đỏ ở Campuchia, một mặt đã đi ngược lại quyền lợi của nhân dân Campuchia phá hoại cách mạng của Campuchia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, mặt khác đã kích động tinh thần dân tộc hẹp hòi, gây hằn thù với dân tộc láng giềng là Việt Nam - một người bạn chiến đấu thân thiết, thủy chung vừa góp phần xương máu làm nên chiến thắng của nhân dân Campuchia vào ngày 17/4/1975. bọn Pônpôt-Iêngxary đã tiến hành cuộc chiến tranh chống Việt Nam ở biên giới Tây Nam với nhiều hoạt động phá hoại nguy hiểm. Cố vấn quân sự nước ngòai cùng hàng vạn tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh được ồ ạt đổ vào Campuchia nhằm chuẩn bị cho một kế hoạch đánh chiếm Việt Nam lâu dài. Một đội quân đánh thuê đắc lực từ 7 sư đoàn năm 1975 lên 23 sư đoàn cuối năm 1978 đã được quân đội phản động Pônpôt gấp rút xây dựng.

Đến tháng 4/1977, những cuộc xâm lấn, thăm dò vào lãnh thổ Việt Nam ngày càng đựơc tập đoàn Pônpôt tăng cường, từ lẻ tẻ mở rộng thành những cuộc chiến tranh lớn trên toàn biên giới Tây Nam. Với ý đồ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược lâu dài với Việt Nam nhằm tạo cớ để thanh trừng nội bộ, đàn áp những cuộc nổi dậy ở trong nước, thực hiện một chế độ chính trị tàn bạo ở Campuchia, trên suốt tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia, địch đã

171

huy động hàng vạn bộ binh có xe tăng trọng pháo yểm trở cùng những cuộc tấn công có quy mô lớn, có chổ thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam hàng chục Kilômét, gây nên bao đau thương cho đồng bào ta ở tuyến biên giới.

Trên khu vực biên giới thuộc tỉnh Sông Bé, giới cầm quyền nhà nước Campuchia dân chủ (Pônpôt-Iêngxary) đã điều động lực lượng vũ trang áp sát biên giới của tỉnh và liên tiếp hoạt động xâm nhập trinh sát từ Bắc Bù Đốp đến giáp Tống Lê Chân. Từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 5/1977, quân khu 203 Campuchia đã cho lực lượng thăm dò, lấn chiếm một số khu vực trên tuyến biên giới của tỉnh, chỉ trong quý II và quý III 1977, lực lượng vũ trang Campuchia đã thực hiện 58 vụ hoạt động quân sự khiêu khích, nhất là ở những khu vực trọng điểm như Hoa Lư, Tà Nốt, Hoàng Diệu.

Ngay sau khi giới cầm quyền nhà nước Campuchia dân nhủ (do Pônpôt-Iêngxary cầm đầu) gây ra vụ xung đột ở An Giang trong ngày 30/4/1977 và từ tình hình thực tế hoạt động của địch trên tuyến biên giới của tỉnh, ngày 4/5/1977 Tỉnh ủy đã có Chỉ thị số 12-CT/TU về việc tăng cường bảo vệ tuyệt đối an toàn tuyến biên giới. Chỉ thị của Tỉnh ủy nhấn mạnh: “Phải hết sức nâng cao cảnh giác, tăng cường lực lượng, bố phòng nghiêm ngặt, chủ động đối phó có hiệu quả khi có tình hình xấu xảy ra”.

Tiếp theo đó, ngày 12/5/1977, Thường vụ Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 7 đã ra Chỉ thị 21, giao nhiệm vụ cho các lực lượng vũ trang quân khu: “Bất cứ tình

172

huống nào, lực lượng vũ trang quân khu cũng phải sẵn sàng vũ trang chiến đấu, khẩn trương hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, bảo vệ toàn vẹn biên giới trong toàn quân khu, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, các cơ sở sản xuất, các kho hàng ở biên giới, tránh bị tổn thất, thiệt hại cho dân và cho lực lượng vũ trang của ta, không để bị bất ngờ, bị động, đối phó lúng túng”.

Thực hiện Chỉ thị 12, Chỉ thị 21 của Thường vụ Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 7, trung tuần tháng 5/1977, Thường vụ Tỉnh ủy đã chủ trì cuộc họp với huyện Bình Long(�), Phước Long, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Ty Công an và Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn III thuộc Quân khu 7 đứng chân tại Phước Long, thống nhất phương án chiến đấu phối hợp lực lượng, nhằm chủ động đối phó với tình hình xấu xảy ra.

Cùng với nhiệm vụ xây dựng, củng cố chính quyền, đoàn thể quần chúng ở cơ sở, cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, Tỉnh ủy đã chỉ đạo chặt chẽ lực lượng vũ trang, các ngành, các cấp, các đoàn thể của tỉnh thực hiện công tác trọng tâm của từng ngành, từng đoàn thể, địa phương, phát động quần chúng tham gia xây dựng củng cố chính quyền, hăng hái lao động sản xuất, phát động thu mua, phát động gọi thanh niên nhập ngũ, phát động truy quét, từng bước ngăn chặn và phá rã tổ chức Phulrô, các nhen nhóm phản động, bọn lưu manh trộm cướp, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ (1) Huyện Bình Long đến tháng 2/1978 bao gồm cả huyện Lộc Ninh

173

quốc, bảo vệ biên giới Tây Nam trên địa bàn tỉnh.Địch đã huy động một lực lượng lớn vào năm 1978,

bao gồm nhiều trung đoàn, sư đoàn thuộc Quân khu Đông Bắc và lực lượng địa phương của chúng, áp sát xuống biên giới, gây ra tình trạng chiến tranh thực sự trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia. Một mặt địch cho quân đổ bộ tràn qua biên giới lấn chiếm các cao điểm 100, 102, mặt khác chúng liên tục dùng pháo tầm xa bắn phá các buôn sóc của các đồng bào dân tộc. sau đó các đồn biên phòng của Lộc Ninh, Bù Đốp như Hoa Lư, Hoàng Diệu tiếp tục nằm trong các kế hoạch đánh phá tiếp theo của chúng nhằm phát triển theo trục lộ 13, xuống đến làng 7, làng 9 (Lộc Tấn - Lộc Ninh) đe dọa cắt đứt đường ĐT748 trên đoạn cầu Trắng đến ngả ba Công Chánh (Bù Đốp). Đặc biệt đêm 15 rạng ngày 16/3/1976, chúng đã tràn vào Hưng Phước, Thiện Hưng gây ra vụ thảm sát hết sức dã man đối với các đồng bào dân tộc. bọn Pônpốt-Iêngxary đã giết hại 240 đồng bào, thiêu rụi gần 300 nóc nhà, biến nhiều phum, sóc thành tro bụi. Vụ thảm sát ở hai xã Thiện Hưng và Hưng Phước cùng với những trận đánh phá trên vùng biên giới Bình Phước đã bộc lộ bộ mặt phản bội, tàn ác dã man của tập đoàn Pônpôt. Trước những tội ác dã man của chúng, nhân dân Sông Bé cùng cả nước phải chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và tính mạng của mình. Các huyện thuộc địa bàn tỉnh Bình Phước ngày nay trở thành điểm nóng - một trọng điểm của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam.

174

Lúc này công nhân, viên chức, lao động và tổ chức Công đoàn trong tỉnh nói riêng và nhân dân trong tỉnh nói chung đã hăng hái tham gia xây dựng tuyến phòng ngự, tham gia vận chuyển, tiếp tế và chi viện cho tuyến trước, góp phần đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của tập đoàn phản động Pônpốt-Iêngxary. Công nhân viên chức ngành giao thông vận tải tỉnh đã lao động quên mình đảm bảo giao thông thông suốt, phục vụ nhiệm vụ chiến đấu, vận chuyển thiết bị, vũ khí, hàng hóa, thuốc men phục vụ quân dân vùng biên giới và chi viện giúp dân Campuchia tị nạn ổn định cuộc sống. Trong năm 1978, quân dân các huyện Lộc Ninh, Bình Long, Phước Long, các nông - lâm trường sát biên giới Campuchia đã phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương bám trụ chiến đấu, kiên quyết đánh trả các cuộc đột kích của lực lượng Pônpốt, bảo vệ người và tài sản, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu dùng lực lựơng quân sự quy mô lớn tiến công nước chúng ta.

Đến đầu năm 1979, dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, lực lượng ta đã chuyển sang tấn công phối hợp với lực lượng cấp trên tiêu diệt và đánh tan lực lượng địch trên hướng đối diện, quân và dân Sông Bé đã góp phần tích cực giành thắng lợi trọn vẹn cho chiến dịch phản công mùa Xuân năm 1979. Nhằm ổn định tình hình sau cuộc chiến, quân dân Sông Bé đã tiến hành củng cố lại tuyến phòng thủ biên giới, luôn giữ vững thế trận chiến tranh nhân dân và là pháo đài bảo vệ biên giới ở phía Tây Nam của Tổ quốc.

175

Chiến dịch phản công mùa Xuân năm 1979 đã kết thúc thắng lợi. Cuộc chiến đấu oanh liệt bảo vệ vùng biên giới Tổ quốc của quân dân ta. Đây cũng là thắng lợi của tinh thần chiến đấu của quân và dân Sông Bé anh hùng. Thắng lợi này không chỉ xuất phát từ sự vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân của Đảng vào hoàn cảnh của địa phương Sông Bé, tạo ra sức mạnh mới với những biện pháp tổ chức thực hiện cụ thể, thiết thực, có hiệu quả trong chiến tranh, mà còn là thắng lợi của ý chí và quyết tâm của Đảng bộ và quân dân toàn tỉnh, thắng lợi của tình đoàn kết giữa các huyện vùng chiến tuyến với các huyện tuyến sau và với các địa phương bạn trong, ngoài tỉnh.

Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ở biên giới Tây Nam, cán bộ đoàn viên công đoàn và công nhân, viên chức, nhân dân lao động trong tỉnh đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chủ nghĩa yêu nước trong chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, nhiều tập thể cá nhân, những tấm gương hy sinh anh dũng, kiên quyết bám trụ chiến đấu đến cùng. Công đoàn, công nhân viên chức đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi của nhân dân ta, dân tộc ta trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cũng như trong khắc phục hậu quả chiến tranh.

IV. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC TRONG NHỮNG NĂM ĐẢNG TA TÌM ĐƯỜNG ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC (1980-1988).

176

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân trong tỉnh đã nổ lực phấn đấu giành những thắng lợi quan trọng, trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980). Bước sang thập kỷ 80, nhiều vấn đề đang đặt ra gay gắt về kinh tế, xã hội nước ta như đời sống nhân dân vẫn còn khó khăn, tình hình sản xuất kinh doanh không ổn định, thị trường luôn biến động, quản lý còn mang nặng tính bao cấp… đất nứơc trong tình thế vừa có hòa bình, vừa có nguy cơ chiến tranh. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với nhân dân ta lúc này là vừa phải tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa phải sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã tổng kết đúng mức những cố gắng, nổ lực của nhân dân ta trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội của đất nước và tiếp tục đề ra kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985). Quán triệt tình hình nhiệm vụ chung trong thời gian trước mắt và phát huy hơn nữa tinh thần làm chủ, quyết tâm phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ chính trị do Đảng và nhà nước đề ra, công nhân viên chức và tổ chức Công đoàn tỉnh quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lội các chỉ tiêu kinh tế, xã hội của kế hoạch 5 năm lần thứ ba.

Tháng 8/1980 Đại hội Liên hiệp Công đoàn tỉnh Sông Bé lần thứ II nhiệm kỳ (1980 - 1983) được tổ chức tại thị xã Thủ Dầu Một. Thực hiện Nghị quyết đại hội lần thứ IV Công đoàn Việt Nam và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ II (12/1979).

Đại hội đã thông qua báo cáo và kiểm điểm quá trình

177

thực hiện nghị quyết Đại hội I, khẳng định: Thực hiện nghị quyết Đại hội Liên hiệp Công đoàn lần thứ I, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, công nhân, viên chức, lao động trong tỉnh đã phát huy tinh thần cần cù, sáng tạo, ý thức tự lực, tự cường, thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, không ngừng phấn đấu trong lao động sản xuất, nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, góp phần hoàn thành những mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng bộ tỉnh đã đề ra trong nghị quyết Đại hội lần thứ I. Qua quá trình hoạt động, phong trào công nhân, viên chức, lao động và công đoàn cũng còn tồn tại một số hạn chế như: Trình độ lao động còn thấp, phong trào thi đua cải tiến kỹ thuật tuy đạt được những thành tích tốt nhưng chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương, cán bộ công đoàn còn thiếu, đặc biệt là cán bộ chuyên trách; trình độ cán bộ công đoàn các cấp còn nhiều hạn chế nên chất lượng hoạt động của tổ chức Công đoàn ở một số đơn vị chưa thật tốt.

Đại hội xác định phương hướng nhiệm vụ phong trào công nhân, viên chức, lao động và công đoàn trong những năm 1980 - 1983 là: Giáo dục, rèn luyện về mọi mặt đội ngũ công nhân, viên chức, lao động nâng cao vai trò làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; phát huy vai trò của quần chúng công nhân trong việc thực hiện 3 cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa hoc - kỹ thuật, cách mạng văn hóa - tư tưởng, trong đó cách mạng khoa khoa - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất và xây dựng chủ nghĩa xã hội;

178

ổn định và từng bước nâng cao đời sống công nhân, viên chức, lao động; đề cao cảnh giác; sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Liên hiệp Công đoàn tỉnh khóa II, nhiệm kỳ 1980 - 1983 gồm 37 đồng chí. Ban thường vụ gồm 9 đồng chí. Đồng chí Trần Xuân Minh được bầu giữ chức vụ Thư ký, đồng chí Huỳnh Kim Oanh giữ chức vụ Phó Thư ký, các đồng chí Trần Thanh Hùng, Nguyễn Văn Phần, Nguyễn Thành Đồng, Lâm Thế Vũ, Trịnh Trung Thu, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Văn San giữ chức vụ Ủy viên Ban Thường vụ.

Thực hiện nghị quyết của Đảng, những chủ trương chính sách của Nhà nước cùng với tinh thần lao động sáng tạo của lực lượng công nhân, viên chức, lao động toàn tỉnh, nhiều phong trào thi đua do Công đoàn tổ chức được triển khai và đã thu được nhiều thắng lợi trên nhiều lĩnh vực.

Ngày 21/1/1981, Chính phủ ban hành Quyết định 25/CP về “Một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các doanh nghiệp quốc doanh” việc mở rộng hình thức trả lương khoán sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất của nhà nước.

Đây là những chủ trương đổi mới trong sản xuất công nghiệp. Với những quyết định này, cho phép các xí nghiệp có thể tự lo về vật tư, nguyên liệu còn thiếu để sản

179

xuất sản phẩm và các mặt hàng thuộc sản xuất phụ, giải quyết việc làm cho công nhân. Còn về nông nghiệp, ngày 13/11/1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị 100/CT-TW về cải tiến công tác khoán sản phẩm cho người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư đã tạo điều kiện cho người nông dân có quyền chủ động trong sản xuất nông nghiệp, thực sự gắn bó với đồng ruộng. Đặc biệt chỉ thị đã mở ra một giai đoạn mới của quá trình nhận thức và đổi mới về con đường phát triển nông nghiệp nước ta, là mốc quan trong đánh dấu sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu sang hạch toán tự chủ. Chỉ thị 100 đã tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp của tỉnh có bước phát triển mới.

Thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, nghị quyết Chính phủ, Công đoàn tỉnh, các ngành và huyện - thị xã, cùng với chuyên môn chỉ đạo xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật, thực hiện chế độ khoán lương, khoán sản phẩm, đảm bảo hài hòa, lợi ích cho người lao động, nhà nước và tập thể, Liên hiệp Công đoàn tỉnh phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh và các ngành tổ chức tập huấn cho cán bộ chủ chốt các sở, ngành, đoàn thể, càc huyện thị, các doanh nghiệp để chủ động phối hợp thực hiện. Kết quả có hàng trăm đơn vị sản xuất kinh doanh vận dụng quy chế khoán lương, khoán sản phẩm đến người lao động. Nhờ đó đã khắc phục một phần tình trạng mất cân đối về cung ứng vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, nâng cao năng suất lao động, đẩy mạnh sản xuất tăng thu nhập

180

cho người lao động.Về phong trào phục vụ sản xuất nông nghiệp: Thực

hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, Nghị quyết lần thứ II của Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết lần thứ II của Liên hiệp Công đoàn tỉnh về phục vụ sản xuất nông nghiệp, các cấp Công đoàn phát động công nhân, viên chức, lao động ngành nông nghiệp, thủy lợi, các nông trường, trạm, trại ra sức khắc phục khó khăn, áp dụng những sáng kiến kỹ thuật vào phục vụ sản xuất nông nghiệp; các cấp Công đoàn phát động tăng gia sản xuất, thâm canh tăng vụ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; nhiều giống cây, con được áp dụng nuôi trồng phù hợp với đất đai địa phương. Nhiều loại máy móc phục vụ nông nghiệp được áp dụng vào sản xuất như máy cày, bừa, máy kéo, máy bón phân được cải tiến. Các trạm vật tư bảo đảm giống cung cấp cho hợp tác xã, tập đoàn sản xuất. Ngành giao thông vận tải huy động tối đa phương tiện cơ giới và thủ công vận chuyển phân bón, thuốc trừ sâu.

Từ năm 1980 -1988 mặc dù đã chuyển giao cho các Công ty cao su trung ương trên 23.700 lao động nông nghiệp và hàng chục ngàn héc ta đất, nhưng đến năm 1983, các huyện thị thuộc địa bàn tỉnh Bình Phước ngày nay vẫn đảm bảo diện tích gieo trồng. Việc bố trí và ổn định cơ cấu cây trồng theo hướng đi vào thâm canh tăng vụ có trọng điểm, đồng thời mở rộng vùng sản xuất tập trung các loại cây công nghiệp dài ngày, ngắn ngày có thế mạnh của tỉnh, làm nguyên liệu cho công nghiệp đẩy mạnh xuất

181

khẩu đã thu được kết quả và kinh nghiệm bước đầu, năng suất có nơi đạt từ 4-5 tấn/ha một vụ, cây đậu phộng trồng được 15.580 ha đạt mức cao nhất từ sau giải phóng đến năm 1982; cây mía được phục hồi 3.515 ha, cây tiêu, cà phê, điều, đậu nành được chú trọng phát triển ở các huyện phía Bắc như Lộc Ninh, Bình Long, Phước Long, Đồng Phú. Tỉnh bố trí lại sản xuất ở các nông trường, chú trọng phát triển cây mía ở Nông trường Cây Trường, cây sả ở Nông trường Nha Bích, cây lương thực phục vụ chăn nuôi ở Nông trường Phước Sang, khai hoang trong 3 năm đạt 3.879ha. Trong đó hoàn chỉnh đồng ruộng 736 ha, năng lực tưới tiêu tăng thêm 2.000 ha do mở thêm được một số công trình thủy lợi ở các địa phương. Bước vào sản xuất vụ Đông Xuân 1982 -1983, tỉnh đã xây dựng được phương án kinh tế, kỹ thuật thâm canh vùng lúa tăng năng suất cao 3.660 ha. Tuy đi vào thực hiện còn gặp nhiều khó khăn như chưa phát động từ trong nội bộ Đảng ra dân, chưa gắn việc tổ chức lại sản xuất và tăng năng suất; việc giải quyết giống mới, phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu thủy lợi chưa kịp thời và đồng bộ, nhưng qua triển khai thực hiện đã thu được một số kinh nghiệm, thiết thực nâng cao trình độ chỉ đạo thâm canh các vụ sản xuất tiếp theo.

Công nhân, viên chức, lao động trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp thi đua giữ vững và phát triển sản xuất thực hiện phương châm công nghiệp phục vụ nông nghiệp, Xí nghiệp cơ khí Phú Lợi đã tập trung sản xuất các mặt hàng nông cụ phù hợp, cung cấp cho các hợp

182

tác xã nông nghiệp, cho nhân dân phục vụ sản xuất. mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về điện, nhiên liệu, hóa chất, tiêu thụ sản phẩm, nhưng công nhân, viên chức trong đơn vị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, tự chạy vật tư giải quyết việc làm trong đơn vị, nhiều đơn vị đã sản xuất vượt chỉ tiêu, kế hoạch đề ra. Năm 1983, sản phẩm sứ dân dụng của tỉnh đạt 70.212 triệu sản phẩm đạt 104,4% so với kế hoạch, tăng 149,6% so với 1982; gạch đạt 18 triệu viên đạt 139% kế hoạch, so với năm 1982 tăng 5,5 triệu viên… nhiều sáng kiến áp dụng vào sản xuất, góp phần nâng cao chất lượng sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong những năm 1980 -1983 được công nhân viên chức, lao động tích cực hưởng ứng; chỉ riêng năm 1983, tỉnh có 31 cơ sở xét duyệt 183 sáng kiến làm lợi cho nhà nước trên 3 triệu đồng.

Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở các huyện Phước Long, Bình Long, Đồng Phú, Lộc Ninh bước đầu được củng cố và chuyển biến tích cực, phần lớn là các cơ sở nhỏ lẻ nhưng đã được mở rộng thêm để tận dụng nguồn nguyên liệu có tay nghề tại địa phương. Các công ty cao su Phú Riềng, Lộc Ninh, Đồng Phú, Bình Long có nhiều đóng góp tích cực vào giá trị sản lượng cây công nghiệp của tỉnh.

Công nhân, viên chức ngành giao thông vận tải đẩy mạnh sửa chữa, nâng cấp và làm nhiều cầu đường; mở rộng hệ thống giao thông nông thôn, phát triển vận tải thô sơ. Đã

183

sửa chữa vừa và lớn trên 300km đường, 4.000m cầu; cùng với các cơ quan trung ương và tỉnh bạn, quốc lộ 13 và 14 đã được tu sửa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - văn hóa và đi lại của nhân dân.

Cán bộ viên chức ngành giáo dục tổ chức thực hiện tốt phong trào thi đua “Hai tốt” diễn ra sôi nổi. Chất lượng dạy và học trong tỉnh không ngừng được nâng lên theo từng năm học. Đã xuất hiện nhiều điển hình tiêu biểu nhiều năm liền, như Trường trung học cơ sở Lợi Hưng (Bình Long). Tính đến năm 1983 đã thu hút 65% số cháu đến tuổi đi học. Ở các huyện phía Bắc của tỉnh đều có các bậc học, các loại hình đào tạo khác nhau. Phong trào bổ túc văn hóa được duy trì có kết quả tốt ở một số nơi, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, số lượng trường lớp giáo viên, học sinh có sự gia tăng. Phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm, nghiên cứu trong giáo viên đến năm 1985 đã có tổng số 512 sáng kiến kinh nghiệm, được công nhận loại A là 61, loại B là 161 ở các trường sư phạm có hơn 100 đề tài nghiên cứu và sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên.

Trong lĩnh vực y tế, để đáp ứng phục vụ nhân dân với nhu cầu ngày càng cao, công đoàn đã phối hợp với chính quyền chủ trương đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân viên tính đến năm 1985, biên chế ngành y tế toàn tỉnh có 2.105 người. Cán bộ công nhân viên ngành y tế đoàn kết vượt qua khó khăn, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Các phong trào “5 dứt điểm”, phong trào phát huy sáng kiến

184

cải tiến kỹ thuật được cán bộ, công nhân viên ngành y tế thực hiện có hiệu quả cao. Trong hai lần tham dự triển lãm sáng kiến toàn quốc 1981-1983 đã có 262 sáng kiến được công nhận có giá trị. Ngoài ra còn có hàng trăm đề tài nghiên cứu được thực hiện, nhiều tập thể cá nhân có thành tích xuất sắc đã được các cấp khen thưởng.

Cán bộ, công nhân viên ngành Văn hóa - Thông tin ra sức tuyên truyền phổ biến đường lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước sâu rộng trong nhân dân. Nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao được phát động, tổ chức trên địa bàn toàn tỉnh, góp phần xây dựng cuộc sống mới lành mạnh, nâng cao chất lượng cuộc sống, trình độ thưởng thức văn hóa nghệ thuật được nâng lên. Trong những năm 1981-1985 phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao diễn ra sôi nổi trong công nhân, viên chức, lao động, đặc biệt trong các cơ quan, đoàn thể, công nhân trong các công ty cao su. Toàn tỉnh có 6 đội chiếu phim lưu động của công ty cao su, một đội của Sở Văn hóa Thông tin và một đội của Liên hiệp Công đoàn tỉnh. Các đội chiếu phim, thông tin lưu động đã đến các khu vực dân cư, nông trường, xí nghiệp phục vụ cho công nhân, viên chức, lao động và nông dân. Nhiều bộ phim có nội dung tốt, những ca khúc cách mạng đã thúc giục công nhân, viên chức, lao động cố gắng hơn trong công việc hàng ngày. Công đoàn phát động công nhân, viên chức, lao động kiên quyết đấu tranh chống văn hóa đồi trụy, phản động, mê tín dị đoan. Phong trào xây dựng nếp sống văn minh, xây dựng gia

185

đình văn hóa mới được ngành Văn hóa - Thông tin phối hợp thực hiện tốt.

Thời kỳ này công tác vận động nữ công nhân, viên chức, lao động tập trung vào việc xây dựng người phụ nữ mới, qua phong trào, tỷ lệ nữ công nhân, viên chức, lao động đạt danh hiệu người phụ nữ mới ngày càng tăng. Công đoàn các cấp, các ngành luôn coi trọng việc tuyên truyền vận động phụ nữ công nhân, viên chức, lao động thực hiện cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình. Do nhận thức mới, tổ chức Nữ công các cấp cộng tác chặt chẽ với chính quyền đồng cấp giáo dục vận động chị em, nên tỷ lệ sinh đẻ trong nữ công nhân, viên chức lao động giảm. Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã tổ chức Hội nghị phụ nữ tài năng, để biểu dương thành tích xuất sắc của chị em trong công tác, nêu gương sáng điển hình một số chị em. Các chị là những con chim đầu đàn trong phong trào phụ nữ mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở tỉnh nhà. Cũng trong thời gian này, để đáp ứng nguyện vọng của đông đảo công nhân, viên chức, lao động trong tỉnh, Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã được Tổng Công đoàn Việt Nam, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định xây dựng Nhà văn hóa lao động tại đường 30/4 thị xã Thủ Dầu Một. Đây là một công trình có ý nghĩa lớn trong việc tổ chức các sinh hoạt văn hóa tinh thần, không những cho công nhân viên chức mà cả nhân dân trong tỉnh.

Thực hiện Chỉ thị 15 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chỉ thị 26 của Tổng Công đoàn Việt Nam và sự chỉ

186

đạo của Tỉnh ủy, ngày 21/3/1983, Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ III tại thị xã Thủ Dầu Một.

Quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III và sự chỉ đạo của Tổng Công đoàn Việt Nam. Đại hội đã xác định phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu của phong trào công nhân, viên chức, lao động và công đoàn trong nhiệm ký III là: Bồi dưỡng, giáo dục phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn, phát huy quyền làm chủ tập thể của công nhân, viên chức, lao động; đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất, tiết kiệm, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật; tham gia cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp; chăm lo đời công nhân, viên chức, lao động về mọi mặt, tuyên truyền giáo dục xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, ra sức đào tạo bồi dưỡng cán bộ công đoàn, xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh; đề cao cảnh giác, đấu tranh chống địch phá hoại, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc. Đại hội bầu Ban Chấp hành Liên hiệp Công đoàn khóa III gồm 41 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Trần Xuân Minh được bầu giữ chức Thư ký, đồng chí Huỳnh Kim Oanh và đồng chí Nguyễn Văn Minh giữ chức vụ Phó Thư ký, các đồng chí Huỳnh Minh Hoàng, Nguyễn Thanh Lâm, Nguyễn Văn Khương, Nguyễn Thị Ngọc Ánh, Bùi Văn Thành, Nguyễn Văn Phần, Lê Sỹ Toại, Lâm Thế Vũ giữ chức Ủy viên Ban Thường vụ.

Tháng 11/1983, Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ

187

V và đề ra mục tiêu “Động viên, công nhân viên chức lao động thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng: Phát triển nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Đại hội nhất trí lấy ngày 28/7/1929 là Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam.

Sau Đại hội Liên hiệp Công đoàn tỉnh và Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ V, phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn trên địa bàn tỉnh diễn ra trong bối cảnh có nhiều khó khăn với hậu quả sai lầm của cuộc tổng điều chỉnh toàn quốc về “Giá - lương - tiền”, thực hiện đổi tiền đã tác động đến đời sống công nhân, viên chức, lao động; ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống công nhân, viên chức , lao động và nhân dân trong tỉnh. Trước tình hình đó công nhân, viên chức, lao động trong tỉnh đã không thụ động, bi quan, mà trái lại đã vựơt qua khó khăn, giữ vai trò nòng cốt, đi đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Trong quá trình vận động tổ chức các phong trào thi đua, các cấp Công đoàn luôn chú ý đến công tác tuyên truyền giáo dục để nâng cao nhận thức, kịp thời nắm bắt diễn biến tư tưởng của công nhân, viên chức, lao động. Do vậy các nghị quyết của Đảng, của Tổng Liên đoàn và của Tỉnh ủy được thường xuyên phổ biến cho công nhân, viên chức, lao động bằng các hình thức như sinh hoạt chính trị, thông qua báo đài, công tác tuyên truyền miệng, mở những cuộc thi tìm hiểu về Đảng, về Công đoàn và về giai cấp công nhân… để trang bị kiến thức, sự hiểu biết cần

188

thiết của công nhân, viên chức, lao động về chính sách của Đảng và Nhà nước. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao luôn được duy trì, phát triển đến các cơ sở qua các kỳ hội diễn có rất nhiều cá nhân tập thể đạt huy chương vàng, bạc.

Đầu năm 1984, thực hiện liên kết thi đua thực hiện công trình thủy điện Thác Mơ, các cấp Công đoàn đã đẩy mạnh công tác vận động công nhân, viên chức, lao động góp tiền của để tạo điều kiện tốt nhất cho công nhân trực tiếp lao động trên công trường. Qua đợt vận động đã xuất hiện nhiều tập thể tiên tiến đạt thành tích cao.

Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã chỉ đạo Công đoàn các cấp tập trung chăm lo đời sống, tham gia giải quyết việc làm cho công nhân, viên chức, lao động. Những năm 1981-1988 giá thị trường tăng nhanh, đồng lương của cán bộ công nhân viên có tăng nhưng không bù lại được sự chênh lệch quá cao của giá cả. Một số đơn vị sản xuất sản phẩm không tiêu thụ được làm cho hàng trăm công nhân lao động mất việc. Khắc phục tình trạng trên, các cấp Công đoàn đã cùng với chính quyền đồng cấp trong đơn vị sản xuất lo tìm kiếm việc làm, sắp xếp lại lao động, tổ chức lại sản xuất. Kết quả hàng ngàn công nhân được học tập, nâng cao tay nghề và bố trí việc làm. Công đoàn tỉnh và Ủy ban Nhân dân tỉnh đã tích cực giải quyết cấp trả bù cho công nhân viên chức lương thực. Những việc làm đó góp phần tích cực vào chăm lo đời sống của người lao động.

Liên hiệp Công đoàn tỉnh lãnh đạo tốt phong trào thi

189

đua, chăm lo đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng cho công nhân, viên chức, lao động; tuyên truyền xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động phù hợp với tình hình thực tế địa phương, xây dựng tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh. Qua hoạt động phong trào, đội ngũ cán bộ làm công tác công đoàn không ngừng trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ của mình trong giai đoạn mới của đất nước.

Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm qua gần mười năm xây dựng và củng cố tổ chức. Năm 1984, Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã mang những kinh nghiệm của mình truyền đạt, giúp đỡ tỉnh Krachê (Campuchia) xây dựng tổ chức Công đoàn và Đại hội Công đoàn bạn lần thứ nhất, qua đó tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị với tỉnh bạn.

Công đoàn các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, y tế, giáo dục, văn hóa thể thao đã thực hiện tốt vai trò của mình trong công tác tuyên truyền, giáo dục đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động, mở nhiều đợt sinh hoạt chính trị để nghiên cứu, phổ biến các nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước, đảm bảo công nhân, viên chức, lao động trong ngành của mình nắm được tình hình trong nước và thế giới, nhận thức được vai trò, nhiệm vụ của mình trong mỗi địa vị công tác. Công đoàn các ngành phối hợp tốt với các cấp chính quyền giải quyết chế độ cho công nhân, viên chức,

190

lao động, chăm lo và từng bước nâng cao đời sống cán bộ, công nhân, viên chức trong các đơn vị. Qua quá trình hoạt động, công đoàn các ngành đã phát hiện và giới thiệu nhiều đoàn viên ưu tú để Chi bộ cơ sở kết nạp, bổ sung vào hàng ngũ của Đảng.

Công tác bảo hộ lao động, bảo vệ an ninh, bảo vệ sản xuất được tăng cường. Công đoàn đã tiến hành tổng kết phong trào xây dựng đơn vị an toàn lao động theo Thông tư 08 của liên bộ (Bộ Y tế - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội), đôn đốc giúp đỡ các ngành duy trì chế độ kiểm tra chấm điểm ở cơ sở. Công tác an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, bảo đảm người và thiết bị, bảo đảm sản xuất được đẩy mạnh, góp phần giảm tai nạn lao động xuống đáng kể. Song công tác này vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót, như chưa thường xuyên quan tâm giáo dục an toàn vệ sinh lao động cho công nhân, nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh không trang bị dụng cụ bảo hộ lao động để bảo vệ sức khỏe cho người lao động.

Sự nghiệp quản lý bảo hiểm xã hội có tiến bộ về cả mặt quản lý và phục vụ, chi trả kịp thời đúng chế độ chính sách. Công đoàn đã tích cực tuyên truyền và có trọng tâm về chính sách chế độ thai sản trong nữ công nhân lao động, đồng thời chỉ đạo vận động sinh đẻ có kế hoạch trong công nhân viên chức, lao động để giảm chi, dành ngân sách phục vụ tham quan du lịch, tổ chức nghỉ hè, nghỉ dưỡng sức khỏe và nghỉ chữa bệnh.

Với những thành tích tốt trong công tác, tháng 7/1984

191

Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng ba. Đó là sự ghi nhận của nhà nước về sự đóng góp tích cực của toàn thể cán bộ, công nhân viêncông tác trong tổ chức Công đoàn tỉnh, góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của tỉnh nhà.

Trong hơn 10 năm (1975 - 1988), dưới sư lãnh đạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, của Tỉnh Ủy, phong trào công nhân, viên chức, lao động của tỉnh đã có những bước phát triển quan trọng, góp phần vào thắng lợi chung của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Công nhân, viên chức, lao động giữ vững và phát huy bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, đẩy mạnh sản xuất, tích cực xây dựng cơ sở sản xuất, phục vụ hiệu quả cho mặt trận phát triển công thương nghiệp, nông nghiệp, văn hóa xã hội. Nhìn chung công nhân, viên chức, lao động đã tích cực học tập, áp dụng sáng kiến kỹ thuật, sử dụng tốt máy móc phương tiện, lao động có năng suất và hiệu quả cao.

Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, phong trào công nhân, viên chức, lao động và công đoàn từng bước trưởng thành và lớn mạnh, đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật ngày càng được tăng cường về số lượng và chất lượng. Thông qua các phong trào thi đua yêu nước, phong trào đã tổ chức giáo dục, đông viên cán bộ công nhân, viên chức, lao động ra sức sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, luôn có nhiều hình thức biện pháp sinh động, thiết thực, lôi cuốn đông đảo công nhân viên tham gia lao động

192

sản xuất, góp phần tích cực vào việc thực hiện kế hoạch nhà nước. Tuy vậy phong trào công nhân viên chức và hoạt động công đoàn trong bối cảnh tình hình sản xuất chưa thoát khỏ khó khăn, lại bị ràng buộc trong cơ chế quản lý tập trung bao cấp, đồng thời ảnh hưởng cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc nên phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn chưa liên tục và chưa đồng đều, hiệu quả thấp, vai trò tham gia quản lý và giám sát còn yếu.

Từ những kinh nghiệm và sự trưởng thành của phong trào công nhân, hoạt động công đoàn trong hơn 10 năm qua là cơ sở để giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn phấn đấu giành thắng lợi trong công cuộc đổi mới trong giai đoạn tiếp theo.

193

CHƯƠNG VIPHONG TRÀO CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN

TỈNH BÌNH PHƯỚC TRONG THỜI KỲ ĐẤT NƯỚC ĐỔI MỚI (1988-1996)

I. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1988-1993)

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình đất nước và thế giới, nhất là khủng hoảng kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng, yêu cầu cấp thiết sống còn đặt ra đối với Đảng ta là phải đổi mới đất nước.

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12/1986 với tinh thần tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật, Đảng ta đã nghiên cứu, phân tích, đánh giá những thành tích đã đạt được cũng như những khuyết điểm, sai lầm trong 10 năm xây dựng đất nước. Trên cơ sở đó, xây dựng văn kiện, đề ra chủ trương giải pháp đổi mới đất nước trên tất cả các lĩnh vực hoạt động mà cốt lõi là đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, đổi mới phong cách làm việc, đổi mới tổ chức và cán bộ nhằm thực hiện quyết tâm chiến lược xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, chuyển hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Đối với tỉnh Sông Bé, hơn 10 năm hoạt động thực

194

tiễn, mặc dù ngành kinh tế của tỉnh vẫn còn nhiều yếu kém, mất cân đối, đời sống của đại bộ phận nhân dân, nhất là nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở địa bàn các huyện phía Bắc thuộc tỉnh Bình Phước ngày nay còn khó khăn, nhưng nhìn chung tỉnh đã đạt được những thắng lợi to lớn trên nhiều lĩnh vực và tích lũy nhiều kinh nghiệm quý báu. Nhờ làm tốt việc phê bình, tự phê bình và chấn chỉnh, củng cố tổ chức từ cơ sở đến tỉnh, Đảng bộ hiểu rõ về mình hơn và đã đổi mới một bước về tư duy phát triển kinh tế, phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc, từ đó tạo ra một khí thế mới.

Năm 1988, năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ tư, tình hình kinh tế của cả nước vẫn gặp nhiều khó khăn gay gắt do hậu quả của cuộc tổng điều chỉnh giá 1985. Cuộc tổng điều chỉnh giá đã làm bùng nổ lạm phát, đưa chỉ số giá đến đỉnh cao chưa từng có. Cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền không đạt mục tiêu đề ra. Ngược lại, lạm phát càng nặng nề, phân phối lưu thông rối ren, thị trường và giá cả rối loạn hơn. Trong bối cảnh chung đó, tỉnh Sông Bé không thoát khỏi khó khăn phức tạp.

Từ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động của tỉnh có những biến đổi về số lượng, cơ cấu, nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh bị đình đốn, phải sắp xếp lại, năm 1988 có trên 200 cơ sở sản xuất và kinh doanh, đến năm 1992 chỉ còn khoảng 50% số lượng công nhân lao động trong khu vực quốc doanh còn 60 ngàn người so với năm

195

1988 giảm 50%. Đối với các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế khác, lao động tăng lên trên 50 ngàn người, trong đó có 7 dự án liên doanh với nước ngoài với tổng số vốn đầu tư trên 9 triệu USD. Cơ cấu giai cấp công nhân có thay đổi lớn, một bộ phận công nhân thuần túy do không đủ về điều kiện tuổi tác, sức khỏe, về nghỉ chế độ. Thay vào đó là lực lượng học sinh mới ra trường, những người làm nông nghiệp và lao động ở các thành phần kinh tế khác; do đó, về nhận thức và tâm lý có những biến đổi, nhất là nhận thức về giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn còn hạn chế. Tuy vậy, chất lượng đội ngũ công nhân tỉnh nhà có được nâng lên. Ở nhiều đơn vị công nhân đã năng động hơn, thích nghi dần với cơ chế thị trường, quan tâm đến hiệu quả sản xuất và kinh doanh, tự lo cho cuộc sống, không trông chờ ỷ lại như thời bao cấp.

Thực hiện chủ trương đổi mới, mặc dù có rất nhiều khó khăn, nhưng tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh từng bước ổn định và phát triển. Công nhân, viên chức, lao động vẫn giữ vững vị trí là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong việc thực hiện các nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, kiên trì khắc phục mọi khó khăn trong sản xuất và đời sống để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra.

Về sản xuất công nghiệp đã đưa giá trị tổng sản lượng tăng trên 18% so với thời kỳ 1985. Tuy nhiên, trong thời gian qua sản xuất nông nghiệp có sự chuyển hướng, sản xuất cây lương thực, thực phẩm có xu hướng thu hẹp; cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày tăng lên do sự tác

196

động của quy luật giá trị. Từ đó, đã tạo thêm được việc làm, nhất là đối với lao động dôi dư ở các huyện phía Bắc và các Công ty cao su.

Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp từ năm 1986 trở về trước do ảnh hưởng cơ chế bao cấp nên khi chuyển sang cơ chế mới, nhiều xí nghiệp không chuyển hướng kịp theo cơ chế thị trường, làm ăn bị thua lỗ, phải chuyển hình thức sở hữu hoặc chờ đợi giải thể. Qua việc thực hiện Quyết định 315, Chỉ thị 316/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng đã sắp xếp, củng cố và giao vốn cho hơn 90 cơ sở sản xuất kinh doanh của tỉnh, bước đầu đã làm ăn có hiệu quả, sản xuất được khôi phục và phát triển, nhiều đơn vị được giao vốn đã bảo toàn và phát triển. Các cơ sở kinh doanh tư nhân ở Bình Phước được giữ vững sau giải phóng nay có điều kiện hoạt động mở rộng hơn.

Các Công ty cao su công nhân, viên chức, lao động khắc phục khó khăn, ra sức phấn đấu thi đua lao động sản xuất, đã định hình được vùng cây cao su tập trung trên 104 ngàn ha, tăng 1,08 lần so với năm 1985, trong đó hơn 1/3 diện tích trồng mới đã được khai thác. Trong tình hình khó khăn gay gắt về tiền vốn, nhiều công ty đã chủ động đổi mới sắp xếp lại tổ chức quản lý và sản xuất mở ra nhiều mô hình mới làm ăn có hiệu quả như: Bỏ cấp nông trường chỉ giữ cấp đội trực thuộc công ty của Công ty cao su Lộc Ninh, khoán hộ lao động ở Công ty cao su Bình Long, tạo vốn sản xuất bằng nhiều nguồn ở Công ty cao su Phú Riềng… cho nên, nhìn chung hầu hết các công ty đảm bảo

197

hoàn toàn các kế hoạch trồng mới, khai thác, giao nộp sản phẩm hàng năm.

Thực hiện sự chỉ đạo của Tổng Công đoàn Việt Nam và Tỉnh ủy Sông Bé, tháng 9 năm 1988, Đại hội Liên hiệp Công đoàn tỉnh lần thứ IV được tổ chức tại Hội trường Ủy ban Nhân dân tỉnh (thị xã Thủ Dầu Một).

Đại hội diễn ra trong bầu không khí đoàn kết và phấn khởi trước sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đang có chiều hướng thuận lợi theo đường lối mới của Đảng. Với quan điểm nhìn nhận thẳng thắn mọi vấn đề, đại hội xác định tổ chức Công đoàn phải tự chỉnh đốn, đối mới trình độ mọi mặt cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ cách mạng mới.

Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ IV (1988 - 1993) là: Giáo dục, tổ chức, vận động công nhân, viên chức, lao động hoạt động phong trào do Đảng đề ra; thực hiện thắng lợi 3 chương trình kinh tế lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, tham gia công việc của nhà nước, chăm lo và bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của công nhân ,viên chức, lao động; đổi mới về nhận thức; nội dung và phương thức hoạt động, kiện toàn một bước tổ chức Công đoàn.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Liên hiệp Công đoàn khóa IV gồm 39 đồng chí. Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Huỳnh Văn Tấn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy được bầu giữ chức vụ Thư ký, đồng chí Nguyễn Văn Minh và đồng chí Nguyễn Ngọc Ánh giữ chức vụ Phó Thư

198

ký. Các đồng chí Bùi Văn Thành, Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Thanh Lâm, Nguyễn Thị Tuyết, Phạm Thế Hà, Đoàn Thị Năm, Đinh Văn Đâu, Nguyễn Phúc Ký giữ chức vụ Ủy viên Ban Thường vụ.

Đại hội lần thứ IV Liên hiệp Công đoàn tỉnh là sự kiện đánh dấu bước phát triển mới của phong trào công nhân, viên chức, lao động và tổ chức Công đoàn toàn tỉnh, là mốc khẳng định và thúc đẩy phong trào công nhân, công đoàn trong tỉnh phát triển mạnh mẽ dưới ánh sáng đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề ra.

Từ ngày 17 đến 20/10/1988, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Công đoàn Việt Nam được tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Đại hội xác định nhiệm vụ chung của công đoàn trong 5 năm (l988 - l993) là: “...tập hợp, giáo dục, làm cho công nhân, viên chức, lao động hiểu rõ tình hình đất nước, hăng hái đi đầu trong công cuộc đổi mới, góp phần làm chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội; chăm lo đời sống, bảo vệ quyền dân chủ và lợi ích chính đáng công nhân,viên chức, lao động, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh; tích cực tham gia xây dựng Đảng; xây dựng Nhà nước.”

Đại hội quyết định đổi tên Tổng Công đoàn Việt Nam thành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Đổi tên Liên hiệp Công đoàn tỉnh, thành phố, đặc khu, huyện, thị xã là Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, đặc khu, huyện, thị xã thay chức danh Tổng Thư ký bằng chức danh Chủ tịch, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là người

199

đứng đầu Ban Chấp hành và Ban Thư ký Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, thay chức Thư ký Công đoàn các cấp bằng chức danh Chủ tịch. Từ sau đại hội, Liên hiệp Công đoàn tỉnh Sông Bé được đổi thành Liên đoàn Lao động tỉnh Sông Bé.

Tháng 7/1989, đồng chí Huỳnh Văn Tấn được Tỉnh ủy phân công sang giữ chức vụ Bí thư Thị ủy Thủ Dầu Một, đồng chí Nguyễn Văn Minh được bầu giữ chức Chủ tịch, đồng chí Bùi Văn Thành giữ chức vụ Phó Chủ tịch Liên đoàn lao động tỉnh. Cũng trong thời gian này, đông chí Nguyễn Văn Minh đã trúng cử đại biểu Quốc hội khóa IX. Trong những năm chuyển đổi mạnh mẽ từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa (l988 - l991) công đoàn các cấp đã đổi mới về phương thúc hoạt động, động viên công nhân lao động đi đầu trong việc thực hiện cơ chế quản lý mới, từng bước thực hiện mục tiêu: “Việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”. Cơ chế quản lý mới ngày càng được khẳng định, các cơ sở sản xuất thay đổi phương thức quản lý, phương thức kinh doanh, đem lại hiệu quả thiết thực.

Nhiều Công đoàn cơ sở đã cùng với tập thể lao động cùng với giám đốc xí nghiệp tìm mọi biện pháp tháo gỡ khó khăn, xử lý sản phẩm ứ đọng, tạo nguồn vốn, mạnh dạn chuyển hướng sản xuất để giải quyết việc làm và thu nhập cho công nhân. Nhiều Công đoàn cơ sở đã biết phát động và khai thác triệt để trí tuệ của tập thể lao động, làm rõ nguyên nhân bế tắc, đình đốn sản xuất, xóa bỏ bao

200

cấp, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, đề xuất nhiều biện pháp chuyển đổi mặt hàng, đáp ứng yêu cầu thị trường và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhiều cơ sở vận động công nhân, viên chức, lao động góp vốn, góp sức để tổ chức sản xuất phụ, mở cửa hàng dịch vụ, đại lý bán sản phẩm để có thêm việc làm cho số lao động dôi dư. Việc làm này đã khẳng định tinh thần năng động sáng tạo của các Công đoàn cơ sở đã cùng với cấp chính quyền tháo gỡ khó khăn thực hiện cơ chế chính sách mới.

Các Công đoàn cơ sở, thuộc khu vực hành chính sự nghiệp đã tích cực trong việc tập hợp kiến thức của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, đóng góp những đề tài, những công trình thực nghiệm, đưa khoa học kỹ thuật vào đời sống. Hội nghị cán bộ công chức đã xây dựng và thực hiện tốt chương trình công tác, cải tiến lề lối phương pháp làm việc, sắp xếp bộ máy giảm biên chế gián tiếp, bồi dưỡng nâng cao trình độ về hành chính, luật pháp và quản lý kinh tế để đáp ứng với yêu cầu đổi mới. Từ năm 1988 đến 1993 đã có hơn 100 sáng kiến được cấp cơ sở khen, 5 sáng kiến được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khen thưởng, cấp bằng và huy hiệu sáng chế.

Trong quá trình đổi mới, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, đấu tranh chống tiêu cực, giữ gìn trật tự an toàn xã hội càng được công nhân, viên chức, lao động đồng tình hưởng ứng và phát triển mạnh mẽ. Cũng vào thời điểm này, công nhân lao động đã bước đầu tích cực tham gia vào việc cùng lãnh đạo tìm cách tháo gỡ khó

201

khăn trong sản xuất và đời sống thông qua hình thức đại hội công nhân viên chức. Trong đó, nổi lên nhiều vấn đề có quan hệ đến quyền lợi thiết thực như khoán, đơn giá, tiền lương, phương thức phân phối, tổ chức lại sản xuất và sắp xếp lao động, quy chế thưởng phạt...

Thực hiện Nghị quyết của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về việc “Hưởng ứng những việc cần làm ngay”, Công đoàn các cấp đã kiện toàn Ủy ban kiểm tra, đẩy mạnh hoạt động các đội kiểm tra công nhân và thanh tra nhân dân trong các xí nghiệp. Liên đoàn Lao động tỉnh đã tổ chức và hướng dẫn Công đoàn các cấp thực hiện hàng trăm cuộc kiểm tra tài chính Công đoàn của nhà máy, xí nghiệp, quỹ bảo hiểm xã hội. Riêng đợt kiểm tra công đoàn các huyện, thị và của tỉnh từ (1988 - 1993) đã kiểm tra, xử lý hàng trăm vụ, thu lợi cho nhà nước 4,5 tỷ đồng.

Ủy ban kiểm tra của Liên đoàn Lao động tỉnh đã cộng tác với các ngành Lao động, Viện kiểm sát, Thanh tra pháp chế thống nhất quan điểm, giải quyết dứt điểm những vụ tố cáo khiếu nại còn tồn đọng. Do vậy đã góp phần giáo dục, ngăn ngừa và kiến nghị xử lý nhiều vụ việc tiêu cực cũng như một số trường hợp vi phạm quyền, lợi ích chính đáng của người lao động.

Trong phong trào thi đua bảo vệ an toàn cơ quan, xí nghiệp, giữ gìn an ninh trật tự và an toàn xã hội, các cấp Công đoàn phối hợp chặt chẽ với chính quyền, cơ quan chuyên môn, thường xuyên tổ chức giáo dục công nhân, viên chức, lao động nâng cao ý thức cảnh giác, kiên quyết

202

chống lại những âm mưu, thủ đoạn và hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, đồng thời tăng cường hoạt động của các đội tự vệ cơ quan, tổ chức an ninh công nhân, nhất là trong các ngày lễ, tết.

Trong các công ty cao su đóng trên địa bàn tỉnh vấn đề an ninh trật tự khá phức tạp. Công đoàn đã phối hợp với chính quyền các đơn vị tổ chức lực lượng công nhân tự vệ cấp trung đội tập trung ở các nông trường và tiểu đoàn ở công ty, tổ chức tập dượt, thao luyện bài bản, đảm bảo công tác an ninh trật tự ở cơ sở, ngăn chặn tình trạng trộm cắp mủ cao su.

Về công tác nghĩa vụ quân sự, Công đoàn các cấp vận động công nhân, lao động đăng ký, khám tuyển nghĩa vụ quân sự, đảm bảo thực hiện đúng luật nghĩa vụ quân sự.

Vấn đề chăm lo đời sống, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp cho người lao động là một công việc sôi động và nóng bỏng đối với các cấp Công đoàn. Thực hiện chủ trương đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần VI, nhiều chính sách mới được ban hành, như Quyết định 217/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị… đã mở ra hướng làm ăn mới, xóa bỏ cơ chế hành chính, quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Căn cứ vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Liên đoàn Lao động tỉnh đã mở nhiều lớp tập huấn cho cán bộ công đoàn, trên cơ sở đó, tham gia cải tiến và phối hợp chuyên môn đổi mới cơ chế quản lý. Từ năm 1986, hầu hết các cơ sở sản xuất trong tỉnh

203

đều triển khai các hình thức khoán lương đến tận người lao động, mở rộng liên kết, liên doanh để tự cân đối nguyên liệu. Về tổ chức, đã tiến hành rà soát, củng cố bộ máy, xóa bỏ các khâu trung gian, giảm nhẹ phòng, ban, thu hẹp biên chế gián tiếp.

Ngoài ra, các cấp Công đoàn thường xuyên tham gia với chính quyền, nhằm đàm bảo thực hiện đúng, đủ và kịp thời các chính sách, chế độ về tiền lương, tiền thưởng. Trên cơ sở từng bước cải tiến định mức lao động và đơn giá lượng sản phẩm cho hợp lý. Để khắc phục khó khăn trong thu nhập của công nhân, nhiều đơn vị tùy khả năng điều kiện của mình đã hỗ trợ công nhân làm kinh tế gia đình qua việc chia đất, trồng xen canh trong các lô cao su chưa khép tán, giúp một phần cày xới cho công nhân trồng cây lương thực và các cây đặc sản tiêu, điều, cà phê... hàng năm thu được kết quả cao, từng bước tạo được sự ổn định và an tâm công tác cho công nhân lao động.

Thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với công nhân lao động, các cấp công đoàn một mặt đảm bảo giải quyết chi trả đúng đủ, kịp thời các chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động. Mặt khác, phấn đấu bằng nhiều biện pháp phòng ngừa, chủ động và tích cực, thông qua việc chăm lo đời sống, thường xuyên tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho công nhân lao động, làm tốt các phong trào sinh đẻ có kế hoạch, bảo hiểm lao động...

Trong việc sắp xếp lại sản xuất từng đơn vị, Công đoàn đã phối hợp với cơ quan quản lý thực hiện chính sách

204

đối với số lao động dôi ra. Công đoàn cấp trên phối hợp với các ngành chức năng tổ chức kiểm tra kịp thời kiến nghị giải quyết những lệch lạc về chế độ lao động dôi dư. Nhiều nơi Công đoàn đã vận động lập quỹ trợ vốn, nhằm giúp công nhân lao động có vốn tạo việc làm mới. Công đoàn tăng cường hoạt động Ủy ban kiểm tra Công đoàn các cấp và Ban thanh tra nhân dân ở cơ sở giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu tố của công nhân lao động và tham gia giải quyết các vụ việc tranh chấp, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.

Công cuộc đổi mới của Đảng diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn phức tạp. Nhiệm vụ tuyên truyền cho công nhân, viên chức, lao động về chính trị tư tưởng, về trình độ mọi mặt trở nên vô cùng quan trọng và bức xúc. Liên đoàn Lao động tỉnh đã chủ động triển khai công tác tuyên truyền và quán triệt các nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh ủy cho công nhân, viên chức, lao động. Tổ chức các đợt sinh hoạt kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam. Tổ chức thảo luận đóng góp ý kiến vào các văn kiện Đại hội VII của Đảng, dự thảo Luật Công đoàn và Hiến pháp 1992 với nhiều hình thức sinh hoạt phong phú, sinh động, thu hút đông đảo công nhân, viên chức, lao động tham gia. Qua đó góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi người đối với vận mệnh của đất nước.

Kỳ họp thứ VII, Quốc hội thông qua Luật Công đoàn thay thế cho Luật Công đoàn đã công bố năm 1957. Luật

205

Công đoàn năm 1990 là cơ sở pháp lý để phát huy vai trò của công đoàn trong thời kỳ mới, bảo đảm quyền lợi dân chủ và lợi ích của người lao động trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vị trí, vai trò của tổ chức Công đoàn được xác định rõ hơn trong hệ thống chính trị của nước Việt Nam.

Năm 1991, Luật Công đoàn sửa đổi được triển khai thực hiện. Các cấp Công đoàn đã tuyên truyền phổ biến học tập Luật Công đoàn cho công nhân, viên chức, lao động. Đây cũng là dịp các cấp chính quyền hiểu thêm nhiệm vụ, chức năng của tổ chức công đoàn, tạo điều kiện thuận lợi cho Công đoàn hoạt động. Để phát huy và nâng cao vai trò tham gia quản lý của công đoàn các cấp, Liên đoàn Lao động tỉnh đã chủ động dự thảo quy chế phối hợp giữa Ủy ban Nhân dân tỉnh và Liên đoàn Lao động tỉnh về sự chỉ đạo giữa Công đoàn và Chính quyền các cấp. Việc ra đời bản quy chế tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức Công đoàn kết hợp hành động với chuyên môn ngày càng chặt chẽ và hiệu quả.

Lĩnh vực công tác tổ chức luôn được củng cố kiện toàn và phát triển. Tuy về mặt số lượng Công đoàn cơ sở có giảm so với nhiệm kỳ trước. Do yêu cầu sắp xếp tổ chức sản xuất kinh doanh, đến năm 1993, tổng số chỉ còn trên 600 Công đoàn cơ sở so với năm 1988 giảm 20%, số lượng đoàn viên công đoàn cũng giảm. Có trên 55.000 đoàn viên so với năm 1988 giảm gần 40%, tỷ lệ phát triển đoàn viên công đoàn đạt trên 85% so với tổng số công nhân, viên

206

chức, lao động, đã thực hiện được sự phân cấp giao quyền chủ động cho Công đoàn cơ sở. Thực hiện Nghị quyết 7 của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và quán triệt Chỉ thị 17-CT của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ngày 4/3/1989 về xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh, các cấp Công đoàn đã chủ động tích cực xây dựng Công đoàn cơ sở theo thông tư hướng dẫn của Tổng Liên đoàn. Liên đoàn Lao động tỉnh đã có công văn hướng dẫn, cụ thể hóa thành các tiêu chuẩn sát hợp. Liên đoàn Lao động tỉnh đã cử cán bộ xuống các địa phương, cơ sở phối hợp với các ngành và địa phương triển khai chỉ thị về xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh. Do vậy, số Công đoàn cơ sở vững mạnh ngày càng tăng. Tuy nhiên, do tình hình sản xuất kinh doanh của những đơn vị không theo kịp cơ chế mới làm ăn kém hiệu quả. Nhưng việc xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh chưa tạo được sự chuyển biến đáng kể . Đến năm 1993, số Công đoàn cơ sở vững mạnh đạt 48% so với tổng số Công đoàn cơ sở; Công đoàn cơ sở yếu kém 7%. Công đoàn cấp huyện, thị đã thực sự phát huy vai trò của mình trên địa bàn huyện, thị, đã quy tụ lực lượng, tạo sự liên kết các cơ quan, công ty, nông trường, trại, trạm ở huyện thị, tác động hiệu quả phục vụ mặt trận sản xuất nông nghiệp. Các Công đoàn ngành, Công đoàn 4 cấp và cơ sở trực thuộc luôn hoạt động có nề nếp, nhất là những đơn vị mang tính chất nghề nghiệp như: Ngành giáo dục, y tế, bưu điện, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải… Công đoàn đã phát huy

207

được vai trò tham gia quản lý kinh tế. Trong công tác tổ chức, Công đoàn ở các cơ sở thuộc

thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, được Công đoàn tập trung chỉ đạo tổ chức. Song, do tình hình các thành phần kinh tế này phát triển quá nhanh và đa dạng, nên Công đoàn cơ sở chưa thể kịp thời giải quyết được tâm tư nguyện vọng người lao động và chưa có sự đồng bộ trong chỉ đạo thực hiện các thỏa ước lao động. Do đó việc Công đoàn ở cơ sở thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh gặp nhiều khó khăn. Đến năm 1993 mới tổ chức được 13 Công đoàn cơ sở với 330 đoàn viên công đoàn.

Đội ngũ cán bộ công đoàn có trên 160 cán bộ chuyên trách giảm gần 40% so với năm 1988. Cán bộ bán chuyên trách khoảng trên 2800, giảm gần 20% so với năm 1988. Công đoàn thường xuyên tập huấn nên chất lượng cán bộ công đoàn không ngừng được nâng cao .

Hoạt động xã hội được các cấp Công đoàn coi trọng và ngày càng phát triển với nhiều nội dung phong phú, hình thức đa dạng. Hưởng ứng cuộc vận động “Đền ơn đáp nghĩa” các cấp Công đoàn đã vận động cán bộ, công nhân, viên chức, lao động đóng góp xây dựng trên 360 căn nhà tình nghĩa, ủng hộ hơn 400 sổ tiết kiệm cho các gia đình thương binh liệt sỹ; đóng góp ủng hộ đồng bào các tỉnh Lai Châu, Quảng Ngãi, Sơn La và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long bị lũ lụt gần 500 triệu đồng. Đồng thời ủng hộ động viên kịp thời về vật chất và tinh thần các chiến sỹ đang làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Phong trào “Uống

208

nước nhớ nguồn” đã trở thành phong trào hàng năm đối với cán bộ công nhân trong tỉnh, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam.

Nữ công nhân, viên chức, lao động chiếm 50%, trên tổng số công nhân, viên chức, lao động của tỉnh, luôn có những phong trào riêng đặc thù của giới, góp phần không nhỏ vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đất nước. Phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” được phát động và tổng kết sau 10 năm thực hiện (l978 - l988). Qua phong trào có hàng trăm chị đạt danh hiệu người phụ nữ giỏi cấp Trung ương, hàng ngàn chị đạt danh hiệu người phụ nữ giỏi cấp tỉnh và cấp cơ sở, nhiều tổ chức Lao động xã hội chủ nghĩa 100% là nữ nhưng vẫn liên tục giữ vững danh hiệu. Nhiều chị em đã tích cực phấn đấu vươn lên là những tấm gương sáng cho phong trào công nhân viên chức. Từ năm 1989 và những năm tiếp theo, nữ công nhân viên chức lao động tiếp tục tham gia phong trào “Giỏi việc nước, Đảm việc nhà” và thực hiện hai cuộc vận động do Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam phát động “phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “Phụ nữ nuôi dạy con tốt, hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học”. Các Ban nữ công đã tiếp tục chỉ đạo tốt công tác kế hoạch hóa gia đình, xây dựng tập thế văn minh, gia đình văn hóa. Chị em luôn nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, tự lực tự cường, lao động sáng tạo và đóng góp ngày càng nhiều trên mọi lĩnh vực. Nhiều chị em được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ quan trọng trong

209

quản lý kinh tế - xã hội. Qua đó, khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của phụ nữ trong xã hội.

Trong công tác xây dựng Đảng, các cấp Công đoàn đã tích cực chỉ đạo tổ chức cho đoàn viên tham gia đóng góp xây dựng Đảng, trong các đợt sinh hoạt chính trị và đại hội Đảng các cấp, góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh. Để giới thiệu nhiều đoàn viên ưu tú vào Đảng, tăng thêm lực lượng giai cấp công nhân trong Đảng, nhiều cán bộ chủ chốt công đoàn huyện thị các ngành được tín nhiệm vào cấp ủy Đảng và Hội đồng nhân dân.

Qua những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986 - 199l), hoạt động công đoàn của tỉnh có những bước chuyển biến mới, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ vai trò của tổ chức Công đoàn, từng bước thích nghi với việc chuyển đổi cơ chế nền kinh tế. Các cấp Công đoàn đã tích cực tham gia quản lý, tháo gỡ khó khăn tổ chức lại sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm; xây dựng giai cấp công nhân ngày càng vững mạnh. Tổ chức Công đoàn từ tỉnh đến cơ sở không ngừng củng cố. Công đoàn ngoài quốc doanh được thành lập, đáp ứng yêu cầu khuyến khích mở rộng các thành phần kinh tế theo đường lối đổi mới của Đảng. Vai trò, vị trí của tố chức Công đoàn trong hệ thống chính trị ngày càng được khẳng định và phát huy.

II. TIẾP TỤC THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI VÌ MỤC TIÊU DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH, XÃ HỘI CÔNG BẰNG, DÂN CHỦ, VĂN MINH (1993 - 1996)

210

Sau những năm thực hiện đường lối đổi mới tuy tình hình còn khó khăn nhiều mặt, với những thách thức gay gắt, song Đảng ta đã khẳng định ý chí tự lực tự cường, quyết tâm đổi mới, chỉnh đốn Đảng, đoàn kết nội bộ Đảng, không ngừng học tập, rèn luyện để giữ vững và nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng. Để kiểm điểm đánh giá nghiêm túc sự lãnh đạo của Đảng và thực trạng tình hình giai đoạn những năm đầu đổi mới, đồng thời xác định nhiệm vụ, mục tiêu của đất nước trong thời gian tới. Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội với chủ đề: “Trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết”. Đại hội đã tổng kết đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết đại hội VI, thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định và xây dựng kinh tế - xã hội đến năm 2000.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ V được tiến hành họp từ ngày 26-28/12/1991 tại thị xã Thủ Dầu Một. Dự Đại hội có 317 đại biểu chính thức của 15 Đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy, đại diện cho trên 13.000 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội lần thứ V của Đảng bộ là đại hội của “trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết” để tiếp tục củng cố và phát huy những thành quả cách mạng mà Đảng và nhân dân tỉnh Sông Bé đã giành được trong nhiệm kỳ IV. Đặc biệt là sự ổn định về chính trị trong bối cảnh phúc tạp của tình hình thế giới.

���

Đại hội Đảng bộ lần thứ V đã đề ra những mục tiêu chương trình kinh tế xã hội của tỉnh trong giai đoạn mới là:

- Tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân hàng năm 7,8%.- Thu nhập quốc dân tăng hàng năm 5,4%.- Thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 1995

tăng 2 lần so với năm 1990. - Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 19% /năm.- Giá trị sản lượng công nghiệp tăng ~ 30%/năm.- Kim ngạch xuất khẩu năm 1995 đạt trên 100 triệu

USD. - Huy động vào ngân sách từ 18 - 20% tổng thu nhập

quốc dân.- Phấn đấu đến 1995 hạ tỷ lệ tăng dân số còn 1,95%.Trong những năm đầu đổi mới, nền kinh tế nhiều

thành phần phát triển, một số ngành và đơn vị sản xuất kinh doanh đã nhanh chóng thích ứng với cơ chế mới, đã khai thác tiềm năng cơ sở vật chất hiện có, đổi mới công nghệ và thiết bị, sản xuất ra nhiều sản phẩm phù hợp với thị trường. Song bên cạnh đó vẫn còn một số đơn vị làm ăn thua lỗ phải sắp xếp lại trong sản xuất kinh doanh, một số cơ sở đã năng động trong đổi mới công nghệ, tìm ra phương án sản xuất kinh doanh hợp lý, giữ vững nhịp độ ổn định. Nhiều cơ sở khó khăn không có thị trường, thiếu vốn, làm ăn thua lỗ kéo dài phải giải thể theo Quyết định 315/CP của Chính phủ. Cùng với việc sắp xếp lại các

���

doanh nghiệp theo Nghị định 388/CP của Chính phủ, cũng còn nhiều doanh nghiệp không tạo đủ việc làm cho người lao động đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng và đời sống của người lao động.

Những năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng bộ tỉnh, phong trào công nhân và hoạt động công đoàn tỉnh đã được giữ vững nhịp độ và tiếp tục phát triển trên cơ chế thị trường. Tuy nhiên, có sự sàng lọc, sắp xếp lại các cơ sở kinh tế quốc doanh và các cơ quan hành chính sự nghiệp, nên đội ngũ công nhân, viên chức, lao động tiếp tục có những biến động lớn. Tính đến đầu năm 1993, Sông Bé có 60.000 công nhân, viên chức, lao động trong khu vực quốc doanh, so với năm 1988 giảm 50%. Trong khi đó số lượng công nhân làm việc tại các đơn vị kinh tế, dịch vụ thuộc khu vực ngoài quốc doanh tăng nhanh. Đến đầu năm 1996, lực lượng công nhân khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã lên đến 100.000 người. Trong đó có 38.200 lao động làm việc trong các doanh nghiệp vốn trong nước với 908 doanh nghiệp tổng số vốn 1.947.662 triệu đồng; 7.000 công nhân lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với 79 giấy phép đầu tư nước ngoài tổng số vốn 600 triệu USD, trong đó có 35 giấy phép triển khai hoạt động kinh doanh. Số còn lại ở các hộ và các cá nhân đăng ký kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT. Bên cạnh các ngành nghề truyền thống khu vực kinh tế ngoài quốc doanh du nhập một số ngành nghề mới như: Tinh chế

���

nông, lâm sản, công nghiệp giày da, công nghiệp may… và bước đầu phát triển một số ngành công nghiệp kỹ thuật cao như: Công nghiệp hóa chất, công nghiệp điện tử, lắp ráp ô tô… sự biến động đó, ngoài việc làm phong phú thêm kết cấu xã hội của đội ngũ công nhân còn tạo ra động thái năng động của sức lao động khi trở thành hàng hóa trong cơ chế thị trường, tạo ra động lực để phát triển kinh tế. Sự phát triển nhanh của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh làm cho nhiệm vụ phát triển tổ chức Công đoàn thực hiện chức năng đại diện bảo vệ, giáo dục công nhân lao động và làm nhân tố ổn định mối quan hệ lao động ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Những đặc điểm mới của sự biến chuyển cơ chế, đội ngũ đó đã tác động sâu sắc đến phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn. Sau những năm đầu bỡ ngỡ vật lộn với cơ chế mới, đến thời điểm này, hoạt động công đoàn trong tỉnh đã ổn định và hình thành những nét mới trong tổ chức xây dựng và tiến hành những phong trào lao động sản xuất đầy năng động và sáng tạo. Ở hầu hết các đơn vị quốc doanh, công nhân, viên chức đều thể hiện ý thức trách nhiệm, nhiệt tình sáng tạo, quyết tâm nâng cao, chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mặt hàng, cải tiến mẫu mạ, nâng cao số lượng và chất lượng phục vụ, coi trong việc tìm tòi sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Các phong trào lao động, học tập, công tác của công nhân, viên chức đã đi vào chiều sâu, mang nghĩa thiết thực

���

không phô trương hình thức mà gắn chặt với giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động. Thực hiện Chỉ thị 06/CT-TW ngày 21/1/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chỉ thị số 03/CT-TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Nghị quyết 07 của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (khóa VI) về việc tổ chức đại hội Công đoàn các cấp tiến tới đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ VII, từ quý III năm 1992, các cấp Công đoàn đã tổ chức Đại hội ở cơ sở thành công. Trên cơ sở đó, tháng 5/1993, Đại hội Công đoàn tỉnh Sông Bé lần thứ V được tổ chức tại Nhà Văn hóa Lao động thị xã Thủ Dầu Một, với sự tham dự của 252 đại biểu chính thức là những cán bộ, đoàn viên ưu tú trong phong trào công nhân, viên chức, lao động công đoàn đại diện cho hơn 70 ngàn công nhân, viên chức, lao động và công đoàn trong tỉnh. Đại hội còn vinh dự đón tiếp đồng chí Nguyễn Văn Tư, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đồng chí Nguyễn Minh Triết, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy đến dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội đánh giá cao nhủng thành tựu đạt được, chỉ rõ những tồn tại, hạn chế của phong trào công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn trong nhiệm kỳ IV. Trên tinh thần thẳng thắn dân chủ, nhìn thẳng vào sự thật để đánh giá thực trạng phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn trong thời gian qua, tìm ra những nguyên nhân tồn tại và biện pháp khắc phục.

���

Đại hội xác định phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ chung của Công đoàn trong nhiệm kỳ V (l993 - l 998) là phấn đấu vì lợi ích của công nhân, viên chức, lao động, vì sự ổn định và phát triển của đất nước, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn. Nhiệm vụ cụ thể được Đại hội xác định là: “Giải quyết việc làm và chăm lo ổn định đời sống cho công nhân, viên chức, lao động nhằm tăng cường đoàn kết, tương thân, tương ái, làm cho tổ chức Công đoàn gắn bó với đoàn viên và người lao động, thông qua đó góp phần xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức, lao động xây dựng và phát triển tổ chức Công đoàn; đẩy mạnh phát triển các hoạt động xã hội của tổ chức Công đoàn, tổ chức hướng dẫn công nhân, viên chức, lao động tham gia các quỹ tương trợ do công đoàn quản lý, giúp đỡ công nhân, viên chức, lao động làm kinh tế gia đình, bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân, viên chức, lao động; đổi mới hoạt động truyền thống giáo dục của công đoàn, xây dựng và phát triển đội ngũ giai cấp công nhân thống nhất đường lối, chính sách của đảng, nhà nước, kiên trì mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tiếp cận với công nghệ hiện đại, tiếp cận với thị trường năng động, sáng tạo, đi đầu trong công cuộc đổi mới; thường xuyên tổ chức cho công nhân, viên chức, lao động tham gia xây dựng Đảng, đồng thời kịp thời giới thiệu những đoàn viên công đoàn ưu tú cho Đảng bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam; đổi mới công tác tổ chức và cán bộ công đoàn, đáp ứng kịp thời sự phát triển của tổ chức Công

���

đoàn phù hợp với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tăng cường công tác đào tạo và quy hoạch đội ngũ cán bộ công đoàn, đảm bảo tính liên tục và tính kế thừa”.

Để thực hiện, Đại hội đã đề ra 5 chương trình công tác lớn, đó là:

- Chương trình tham gia giải quyết việc làm, chăm lo đời sống công nhân, viên chức, lao động.

- Chương trình đổi mới hoạt động truyền thống giáo dục của công đoàn.

- Chương trình tăng cường tham gia các hoạt động xã hội.

- Chương trình đổi mới công tác tổ chức và cán bộ công đoàn.

- Chương trình đẩy mạnh công tác tài chính công đoàn. Với tinh thần đoàn kết và nhất trí cao, Đại hội bầu Ban

Chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh khóa V gồm 37 đồng chí. Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Minh được bầu giữ chức vụ Chủ tịch, đồng chí Trịnh Thị Kim Liên và đồng chí Nguyễn Thanh Lâm giữ chức vụ Phó Chủ tịch, các đồng chí Nguyễn Văn Khương, Lâm Văn Phúc, Bùi Hữu Phong, Nguyễn Thị Tuyết, Lê Thị Hồng Thu, Nguyễn Tầm Dương, Đoàn Thị Năm, Trần Văn Du giữ chức vụ Ủy viên Ban Thường vụ.

Tháng 11/1993 Đại hội lần thứ VII của Công đoàn Việt Nam được tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Đại hội xác định nhiệm vụ chính của tổ chức Công đoàn trong những năm

217

(1993 - 1998) là: “Động viên công nhân, viên chức, lao động phát huy tính năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất, góp phần phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; vận động công nhân, viên chức, lao động tích cực góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh; bảo vệ Tổ quốc; tham gia xây dựng giám sát kiểm tra thực hiện chính sách, tăng cường các hoạt động xã hội để bảo vệ lợi ích, chăm lo đời sống công nhân, viên chức, lao động; đổi mới công tác tuyên truyền giáo dục góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, tăng cường khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức; tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao năng lực và bản lĩnh đội ngũ cán bộ công đoàn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, tạo thêm nguồn tài chính”.

Có thế nói, từ sau Đại hội Công đoàn tỉnh lần thứ V và Đại hội lần thứ VII của Công đoàn Việt Nam đội ngũ công nhân, viên chức, lao động đã phát triển về số lượng và chất lượng, luôn là lực lượng lao động tiên tiến trong xã hội, có bản chất cách mạng và truyền thống lao động cần cù, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Mặc dù đang ở trong thời kỳ đầu của quá trình hội nhập với cơ chế quản lý mới có những khó khăn, nhất là chất lượng lao động từ cơ chế cũ chuyển sang, đòi hỏi phải bồi dưỡng, đào tạo, đổi mới nhiều hơn nữa nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của đội ngũ công nhân, viên chức, lao động có ý nghĩa quyết định và thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh đề ra.

218

Bộ Luật lao động được nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX thông qua ngày 23/6/1994, đánh dấu một sự kiện quan trọng trong việc phát triển pháp luật lao động của nước ta. Luật quy định về nghĩa vụ của người lao động và của người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động góp phần thúc đẩy sản xuất. Bộ Luật lao động ra đời có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội và trong hệ thống pháp luật quốc gia, là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Công đoàn tỉnh lần thứ V, Công đoàn các cấp với chức năng nhiệm vụ của mình đã tập trung chỉ đạo 5 chương trình hoạt động đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Công đoàn các cấp đã cùng với chính quyền mở Đại hội công nhân viên chức, phát động phong trào thi đua sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, thực thi Luật Lao động và Luật Công đoàn, ký thỏa ước lao động tập thể, trong đó việc mở Đại hội công nhân viên chức hàng năm là nhân tố quan trọng và cơ sở pháp lý để chăm lo bảo vệ lợi ích của công nhân, viên chức, lao động.

Phong trào thi đua diễn ra khá đều trong các ngành và địa phương. Các hình thức và biện pháp tổ chức thi đua khá linh hoạt, đa dạng, thu hút đông đảo công nhân, viên chức, lao động tham gia. Ở khu vực sản xuất kinh doanh có các phong trào thi đua với nội dung chủ yếu như: Nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả kinh doanh, nâng cao

219

đời sống người lao động; đảm bảo việc làm và chăm lo tổ chức tốt điều kiện sống, điều kiện làm việc cho công nhân, lao động. Nhiều ngành, nhiều cơ sở đã năng động sáng tạo tổ chức phong trào thi đua với những tên gọi khác nhau như: Cán bộ, công chức, viên chức các đơn vị hành chính, cơ quan quản lý nhà nước phong trào thực hiện cải cách thủ tục hành chính, cải tiến lê lối làm việc, tích cực nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu công tác trong tình hình mới; ngành giáo dục giữ vững và nâng cao phong trào “ Dạy tốt, học tốt”; ngành y tế đẩy mạnh phong trào thi đua “ Thực hiện 12 điều y đức”; ngành nông nghiệp có phong trào “Thi đua làm nông nghiệp giỏi” và các phong trào khác. Từ năm 1991 đến 1996 có hàng trăm công trình, hàng trăm sản phẩm và đề tài nghiên cứu khoa học đăng ký thi đua với giá trị hàng trăm tỷ đồng.

Nhiều Công đoàn ngành, Liên đoàn Lao động huyện, thị xã đã tổ chức các hội thi với hình thức phong phú như: Phong trào thi luyện tay nghề thợ giỏi của các công ty cao su, ngành công thương nghiệp; phong trào thầy thuốc và cán bộ quản lý giỏi ngành y tế; phong trào thi giáo viên giỏi, đồ dùng dạy học của ngành giáo dục; phong trào thi giỏi nghiệp vụ, duyên dáng, thanh lịch của ngành bưu điện, ngân hàng … các hội thi đã thu hút hàng ngàn người tham gia, động viên đông đảo công nhân, viên chức, lao động tích cực học tập nâng cao tay nghề, trình độ, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương, cơ sở .

220

Cán bộ công nhân viên ngành y tế không ngừng nâng cao tay nghề tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân. Từ năm 1993, toàn thể cán bộ, công nhân viên ngành y tế tham gia hưởng ứng phong trào xóa đói giảm nghèo do Công đoàn đứng ra vận động từ đó phong trào đền ơn đáp nghĩa gắn với công tác xóa đói giảm nghèo được Công đoàn ngành thực hiện thường xuyên. Trong năm 1994, ngành y tế trích 10 triệu đồng từ nhân sách, đầu tư xây dựng Làng Hòa Bình. Năm 1995, Công đoàn ngành y tế vận động mỗi cán bộ, công nhân viên đóng góp một ngày lương để xây dựng nhà tình nghĩa và hoạt động xã hội, công đoàn còn vận động đoàn viên, cán bộ, công nhân viên trong ngành xây dựng các quỹ tại cơ sở như giúp nhau làm kinh tế gia đình, qũy vì người nghèo, quỹ vì trẻ thơ… với số tiền lên tới hàng trăm triệu đồng. Trong những năm (1993 - 1998), đời sống vật, chất tinh thần của cán bộ, công nhân viên ngành y tế được cải thiện và nâng cao. Các phương tiện làm việc được cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi hoàn thành nhiệm vụ. Trong phong trào thi đua lao động sản xuất, năm 1995, cán bộ, nhân viên ngành y tế đạt lao đông giỏi với tỷ lệ 86,5%, 4 tập thể và 33 cá nhân được tặng huy chương vì sức khỏe toàn dân của Bộ Y tế và nhiều tập thể, cá nhân được Ủy ban Nhân dân tỉnh khen thưởng.

Đối với sự nghiệp giáo dục, hệ thống cơ sở trường lớp không ngừng được đầu tư xây dựng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học. Đến năm 1995 - 1996, toàn tỉnh đã xây dựng được 5.955 phòng học, tăng gấp 2 lần so với

���

năm 1986, đáp ứng tạm thời nhu cầu giảng dạy và học tập, chỉ còn 22 lớp học ca 3, 131 phòng mượn, 85 phòng tranh tre, 533 phòng học tạm thời, 181 phòng cấp 4 hư hỏng nặng cần thay thế.

Đội ngũ cán bộ viên chức, thầy cô giáo đã cố gắng khắc phục khó khăn, thực hiện tốt phong trào “Dạy tốt, học tốt”, hoàn thành cơ bản công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học trên địa bàn toàn tỉnh. Số giáo viên dạy giỏi và học sinh giỏi tăng mỗi năm học, phong trào làm đồ dùng dạy học được duy trì và hiệu quả. Tỉnh thường xuyên tổ chức phong trào tự làm đồ dùng dạy học chọn đại diện xuất sắc dự hội thi do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức. Qua 3 lần dự thi tỉnh đạt tổng cộng 31 giải. Cán bộ, giáo viên, công nhân, viên chức Ngành Giáo dục không ngừng học tập nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn, góp phần đưa sự nghiệp giáo dục tỉnh ngày càng phát triển. Riêng năm học 1993 - 1994, Công đoàn ngành giáo dục đã xét công nhận 105 Tổ lao động xã hội chủ nghĩa, 59 trường tiên tiến cấp tỉnh, 7 nhà giáo ưu tú.

Công nhân viên chức lao động ngành văn hóa thông tin làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước sâu rộng tới nhân dân, không ngừng nâng cao chất lượng nghệ thuật, tổ chức những hoạt động văn hóa, văn nghệ phục vụ quảng đại quần chúng nhân dân trong tỉnh.

Thực hiện mối liên hệ công nhân - nông dân - trí thức, anh chị em công nhân viên chức và cán bộ khoa học kỹ

���

thuật làm công tác nghiên cứu phục vụ nông nghiệp hướng dẫn bà con nông dân áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp nhằm tăng sản lượng cây trồng, vật nuôi.

Trọng tâm công tác giáo dục của Công đoàn các cấp là tuyên truyền, giới thiệu và triển khai thực hiện các Nghị quyết Đại hội VII Công đoàn Việt Nam, Nghị quyết Đại hội V của Đảng bộ tỉnh, Nghị quyết Trung ương 7 về xây dựng giai cấp công nhân. Các nghị quyết trên luôn được thể hiện xuyên suốt quá trình chỉ đạo triển khai ở các cấp Công đoàn. Các chính sách pháp luật nhất là Luật Công đoàn, Bộ Luật Lao động và các văn bản pháp quy liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm của công nhân lao động đã được Công đoàn các cấp chú trọng, phổ biến, tổ chức cho công nhân tìm hiểu, học tập. Công tác phòng chống, đấu tranh với các tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội cũng được Công đoàn các cấp tham gia tổ chức thực hiện có hiệu quả.

Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao được Công đoàn các cấp cùng các ngành, địa phương tổ chức với nhiều loại hình hoạt động phong phú, phù hợp với đặc điểm, điều kiện mỗi nơi, thu hút đông đảo công nhân, viên chức, lao động tham gia. Các hình thức nói chuyện chuyên đề, tọa đàm, hội diễn, thi đấu thể thao nội bộ, giao lưu giữa các đơn vị có đông nữ công nhân, viên chức, lao động và đơn vị đông nam công nhân lao động, giữa các nghiệp đoàn ở các huyện, giữa các công

���

đoàn cơ sở với các đơn vị bộ đội… là nét mới trong hoạt động phong trào, làm tăng thêm sự hiểu biết và đoàn kết lẫn nhau, được đông đảo các công nhân, viên chức, lao động hưởng ứng, tham gia. Các hoạt động văn nghệ quần chúng đã tạo nên khí thế sôi nổi trong phong trào thi đua lao động sản xuất, góp phần xây dựng cuộc sống lành mạnh trong công nhân, viên chức, lao động.

Về củng cố và phát triển tổ chức Công đoàn, tính đến cuối năm 1995 toàn tỉnh có 764 Công đoàn cơ sở, 318 Công đoàn bộ phận với 90.170 đoàn viên; tỷ lệ đoàn viên chiếm 72,10% tổng số công nhân, viên chức, lao động, tăng 4.215 đoàn viên so với năm 1994 . Xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh là nôi dung trọng tâm được các cấp công đoàn chú trọng và tập trung đầu tư chỉ đạo, thông qua việc xây dựng, triển khai thực hiện các nội dung thông số về tiêu chuẩn Công đoàn cơ sở vững mạnh, phù hợp từng loại hình Công đoàn cơ sở, hàng năm được đúc kết kinh nghiệm, bổ sung hoàn thiện dần các nội dung tiêu chuẩn. Qua đó nhân rộng các Công đoàn cơ sở điển hình tiên tiến, phân loại được các Công đoàn cơ sở yếu kém để có hướng giúp đỡ, tạo điều kiện hoạt động tốt hơn; các công đoàn cơ sở vững mạnh tăng từ 60,7% ( l994) lên 62,4% (l996); Công đoàn cơ sở yếu kém từ 2,4% (l994) còn lại 1,3% (l996). Năm 1996, Liên đoàn Lao động tỉnh đã công nhận 31 Công đoàn ngành, Công đoàn cơ sở trực thuộc đạt tiêu chuẩn vững mạnh. Ngoài ra, Liên đoàn Lao động tỉnh phân cấp cho Công đoàn các huyện, thị, ngành, Công đoàn

���

4 cấp tổ chức xét và công nhận số Công đoàn trực thuộc đạt tiêu chuẩn vững mạnh.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn từ cơ sở trở lên được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể tạo điều kiện tổ chức và cử cán bộ công đoàn dự các lớp đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ văn hóa, chính trị... từng bước nâng cao nghiệp vụ chuyên môn đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn hóa, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao trong tình hình mới. Để hoàn chỉnh việc quy hoạch cán bộ công đoàn các cấp tính đến năm 2000, Liên đoàn Lao động tỉnh đã cử 7 đồng chí đi học Đại học công đoàn tại chức. Hàng năm, ngoài việc tổ chức tuyên truyền về luật lao động, chế độ, chính sách, quyền lợi, nghĩa vụ công nhân, viên chức, lao động, đoàn viên công đoàn … nhất là ở các đơn vị ngoài quốc doanh, Liên đoàn Lao động tỉnh còn hỗ trợ mở các lớp tập huấn cho các cán bộ công đoàn từ tổ trưởng, tổ phó trở lên, như: Công đoàn các công ty cao su Phước Hòa, Dầu Tiếng, Bình Long, Đồng Phú, các Liên đoàn Lao động huyện, Công đoàn Ngành Giáo dục, Trường Kỹ thuật nghiệp vụ cao su Đồng Phú. Tổng số đã mở được 35 lớp với trên 1.200 lượt người tham dự. Hàng năm Liên đoàn lao động tỉnh mở lớp cho các ủy viên Ban Chấp hành công đoàn thuộc các đơn vị ngoài quốc doanh với số lượng hàng trăm người tham dự. Ngoài ra Liên đoàn Lao động tỉnh còn cử nhiều lượt cán bộ công đoàn dự các lớp tập huấn ngắn ngày do Tổng Liên đoàn Lao động tổ chức, đội ngũ cán bộ công đoàn được trẻ hóa.

���

Đối với công tác nữ công, lực lượng nữ chiếm tỷ lệ 53,3% tổng số công nhân, viên chức, lao động. Ban nữ công Công đoàn các cấp ngày càng được củng cố và phát triển, có trên 80% công đoàn các cấp thành lập được Ban nữ công hoặc phân công người phụ trách. Nhiều loại hình hoạt động đã được tổ chức như họp mặt truyền thống, nói chuyện chuyên đề, nói chuyện thời sự, tổ chức các hội thảo, tọa đàm, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, tổ chức cho chị em tham gia các hội thi với nhiều chủ đề khác nhau, đã tạo không khí tươi vui sinh động phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” đã trở thành phong trào rộng lớn của nữ công nhân, viên chức, lao động trong tỉnh. Có trên 80% Ban nữ công các cấp đã xây dựng và thực hiện chương trình công tác. Hàng ngàn lượt nữ cán bộ nữ công các cấp được bồi dưỡng, tập huấn về nội dung phương pháp hoạt động nữ công cơ sở và nâng cao kiến thức các chuyên đề về công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, Luật hôn nhân gia đình, phòng chống HIV/AIDS. Ban nữ công các cấp đã tích cực tham gia giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách đối với lao động nữ, đề xuất những biện pháp chăm lo cải thiện điều kiện làm việc của chị em, động viên và tạo điệu kiện cho chị em học tập nâng cao nghiệp vụ, tay nghề, trong các hội thi tay nghề, thi thợ giỏi. Ban nữ công Công đoàn các cấp cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc vận động, tạo điều kiện cho nữ công nhân,viên chức, lao động làm kinh tế gia đình, xây dựng nhóm tiết kiệm, quỹ tiết kiệm vì phụ nữ nghèo… nhằm giúp nhau giải quyết khó khăn trong cuộc

���

sống. Qua sơ kết, tổng kết phong trào “Hai giỏi”, Liên đoàn Lao động tỉnh tặng 201 bằng khen và giấy chứng nhận cho 1.387 chị.

Hàng năm, Liên đoàn Lao động tỉnh phối hợp với các ngành chức năng kiểm tra, đánh giá tỷ lệ suy dinh dưỡng các cháu trong nhà trẻ mẫu giáo và phương pháp giáo dục cũng như cơ sở vật chất để giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng. Tổ chức khám và điều trị cho nữ công nhân viên chức lao động để nâng cao trình độ kiến thức cho cán bộ nữ công cơ sở, Liên đoàn Lao động tỉnh đã chỉ đạo cuộc thi cán bộ nữ công giỏi, 22 cơ sở tổ chức cho 300 chị dự thi vòng cơ sở và tuyển 98 chị xuất sắc về dự cấp tỉnh.

Hàng năm, Liên đoàn Lao động tỉnh và Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tổ chức đánh giá công tác phối hợp và đưa ra biện pháp để hoạt động nhằm mang lại kết quả cao hơn.

Trong hoạt động xã hội của Công đoàn các cấp ngày càng được đẩy mạnh và phát triển sâu rộng trong công nhân, viên chức, lao động. Những chương trình hoạt động được các cấp công đoàn và công nhân, viên chức, lao động, gồm có các chương trình: Đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, tổ chức thăm viếng các gia đình chính sách, các đơn vị bộ đội, gia đình nghèo vùng sâu vùng xa; quỹ trợ cấp thiên tai, ủng hộ Cu Ba... riêng chương trình xóa đói giảm nghèo trong công nhân, viên chức, lao động được sự hỗ trợ các ngành, các cấp, các đơn vị trong tỉnh đã được xây dựng tổng số với số tiền hơn 6 tỷ đồng và đã cho 6.083 lượt hộ vay. Ngoài ra, Công đoàn các cấp tín chấp

227

cho công nhân, viên chức, lao động từ ngân hàng Nông nghiệp và Quỹ trợ vốn việc làm với số tiền 20 tỷ đồng… các cấp Công đoàn cùng với chính quyền đã vận động xây dựng được 1.745 căn nhà tình nghĩa, tặng 4.352 sổ tiết kiệm, nhận phụng dưỡng 225 Mẹ Việt Nam anh hùng, hỗ trợ kinh phí cho địa phương xây dựng trường học, nhà trẻ, mẫu giáo… với tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau, Công đoàn các cấp đã ủng hộ đồng bào khó khăn do thiên tai gây ra ở đồng bằng sông Cửu Long, nhân dân Cuba với số tiền là hơn 6 tỷ đồng.

Trong công tác xây dựng Đảng, các cấp Công đoàn đã tích cực chỉ đạo tổ chức cho công đoàn viên tham gia, đóng góp xây dựng Đảng trong các đợt sinh hoạt chính trị và Đại hội đảng bộ các cấp, góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh. Hàng năm, các cấp công đoàn tổ chức lấy ý kiến công nhân, viên chức, lao động giới thiệu đoàn viên ưu tú bồi dưỡng kết nạp Đảng. Trong những năm (l993 - 1996) đã có 5.724 đoàn viên công đoàn ưu tú và công nhân lao động được kết nạp vào Đảng. Tăng thêm lực lượng giai cấp công nhân trong Đảng, nhiều cán bộ chủ chốt của Công đoàn cấp huyện, thị, các Công ty cao su vào cấp ủy Đảng và Hội đồng Nhân dân.

Có thể khẳng định, qua 10 năm (l986 - 1996) thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng trong nền kinh tế thị trường, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức Công đoàn tỉnh đã bám sát cùng với giai cấp nông dân và tầng lớp khác góp phần tích cực đưa nền kinh tế tỉnh phát triển với tốc độ nhanh, phấn đấu đạt và vượt các mục tiêu

228

kinh tế xã hội do Đại hội Đảng bộ lần thứ V đề ra. Riêng trong 5 năm (1991 - 1996), tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm tăng 13,4% tổng sản phẩm quốc nội tăng bình quân hàng năm 15% tăng gấp đồi so với kế hoạch đề ra. Đến đầu năm 1996, bình quân thu nhập đầu người đạt 420 đôla/năm. Tổng thu nhập ngân sách của tỉnh cuối năm 1995 đạt 677 tỷ đồng, gấp 12 lần so với năm 1990. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, đưa nền kinh tế, xã hội của tỉnh đi vào thế ổn định.

Tuy nhiên, phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn còn một số hạn chế nhất định như trình độ của công nhân, viên chức, lao động còn thấp, công tác tuyên truyền giáo dục chủ yếu mới thực hiện ở khu vực doanh nghiệp nhà nước, ít đầu tư, nghiên cứu, triển khai ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Chưa phát huy tốt công tác giáo dục, tuyên truyền công nhân lao động về ý thức và trách nghiệm trong lao động sản xuất; các cấp Công đoàn còn lúng túng trong công tác tổ chức, một số Công đoàn cơ sở chưa chủ động đề xuất việc duy trì hình thức phát huy dân chủ của công nhân, viên chức, lao động theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chủ trương, nghị quyết của Công đoàn các cấp có lúc chưa kịp thời; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa đáp ứng và chưa tiêu chuẩn hóa được cán bộ công đoàn cho phù hợp với tình hình mới.

229

CHƯƠNG VIICÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG VÀ

CÔNG ĐOÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC TRONG SỰ NGHIỆP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HóA,

HIỆN ĐẠI HóA ĐẤT NƯỚC (1997 - 2012)

I. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG VÀ CÔNG ĐOÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU TÁI LẬP TỈNH (1997 - 2003)

Những năm cuối thế kỷ XX, tình hình thế giới với xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, khoa học công nghệ phát triển chưa từng thấy. Công cuộc đổi mới đất nước trải qua hơn 10 năm và thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng về mọi mặt, tạo ra những tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn tiếp theo. Trong bối cảnh tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục vững vàng kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đánh giá thành tựu 10 năm đổi mới (1986 - 1996), đề ra phương hướng, nhiệm vụ đổi mới toàn diện trong giai đoạn tiếp theo. Đại hội khẳng định: “Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

Căn cứ vào yêu cầu khách quan, căn cứ vào nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, ngày 6/11/1996 kỳ

230

họp thứ 10 Quốc hội khóa IX. quyết định điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Trong đó, tỉnh Sông Bé tách thành 2 tỉnh là Bình Phước và Bình Dương. Sau 20 năm hợp nhất, tỉnh Bình Phước được tái lập vào ngày 1/1/1997, tỉnh Bình Phước đi vào hoạt động theo đơn vị hành chính mới.

Sau khi tái lập, tỉnh Bình Phước có diện tích tự nhiên 6.871,543 km�, dân số 653.644(�) người, mật độ dân số 84,89 người/km�, gồm 5 huyện phía Bắc tỉnh Sông Bé: Đồng Phú, Bù Đăng, Phước Long, Bình Long và Lộc Ninh, với 64 xã, thị trấn. Bình Phước là một trong những tỉnh nghèo của cả nước; đời sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh gặp rất nhiều khó khăn, thu nhập GDP bình quân đầu người gần 180 USD/năm; cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, cán bộ các ngành ở tỉnh thiếu trầm trọng, kinh tế chủ yếu là nông - lâm nghiệp chiếm hơn 70%, còn công nghiệp, thương mại dịch vụ quá nhỏ bé; cơ sở hạ tầng thấp kém, chưa đồng bộ; di dân tự do ngày càng đông, đồng bào dân tộc ít người chiếm khoảng 20% với trình độ dân trí còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Tỉnh có 240 km đường biên giới giáp với Campuchia, tình hình diễn biến rất phức tạp.

Bên cạnh những khó khăn, Bình Phước có những thuận lợi nhất định như: Việc tái lập tỉnh đáp ứng nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh, tạo không khí hồ hởi,

(�) Số liệu thống kê niên giám tỉnh Bình Phước năm 2010, trang 29. Năm 1997, dân số Bình Phước là 653.644 người.

���

phấn khởi để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương. Tỉnh nằm trong khu vực kinh tế năng động ở miền Nam, với nhiều tỉnh thành có tốc độ tăng trưởng cao, có lợi thế về vị trí, cơ sở hạ tầng, môi trường đầu tư hấp dẫn như Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh... Đó là lợi thế cho tỉnh có thể hòa nhập, kêu gọi đầu tư. Sự phát triển nhanh của các tỉnh, thành bạn có tác dụng thúc đẩy, kích thích kinh tế - xã hội Bình Phước phát triển nhanh. Ngoài ra, còn có nguồn lao động dồi dào gần 300.000 lao động, Đảng bộ và nhân dân có bề dày lịch sử, trải qua các cuộc kháng chiến, có nhiều kinh nghiệm quý báu trong lãnh đạo chiến đấu và xây dựng.

Khi chia tách tỉnh, về cơ cấu tổ chức, trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Trung ương và sự thống nhất của Tỉnh ủy, Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ra Quyết định số 1561/QĐ-TLĐ ngày 25/12/1996 chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước gồm 19 đồng chí. Ban Thường vụ gồm 5 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Thanh Lâm được chỉ định làm Chủ tịch, Phó chủ tịch là đồng chí Lâm Văn Phúc. Đồng thời, một số đồng chí ở cơ quan Liên đoàn Lao động tỉnh Sông Bé và các ban, ngành cũng được điều động đến nhận công tác tại Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước. Ban Chấp hành lâm thời Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước thành lập

(1) Đó là Ban Tổ chức, Tuyên giáo, Chính sách kinh tế, Nữ công, Văn phòng, Ủy ban kiểm tra vả Tài chính

���

bộ máy cơ quan Liên đoàn Lao động tỉnh gồm 7 ban(�). Về cơ sở, khi bàn giao Liên đoàn Lao động Bình Phước có 5 Liên đoàn Lao động huyện là Đồng Phú, Phước Long, Bù Đăng, Bình Long, Lộc Ninh, 5 Công đoàn cơ sở thuộc ngành cao su. Trong năm 1997, đã thành lập 3 Công đoàn ngành, 52 Công đoàn cơ sở phát triển 3.572 đoàn viên công đoàn, nâng tổng số lên 29.422 đoàn viên công đoàn, chiếm tỷ lệ 99% trên tổng số công nhân, viên chức, lao động của tỉnh. Tập thể Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh đã phát huy tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, trí tuệ trong việc xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết của Ban Chấp hành trên cơ sở bám sát chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy, của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và những chỉ tiêu kinh tế - xã hội do Hội đồng Nhân dân tỉnh đề ra, Liên đoàn Lao động tỉnh đã nhanh chóng kiện toàn tổ chức Công đoàn các cấp, tham gia ổn định bộ máy tổ chức của cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội, tham gia sắp xếp lại một số doanh nghiệp sau khi tái lập, để ổn định sản xuất, đảm bảo việc làm, tăng thu nhập cho công nhân, viên chức, lao động; công đoàn các cấp đã đẩy mạnh các hoạt động xã hội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, viên chức, lao động. Lề lối làm việc của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh được thực hiện đúng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh duy trì nghiêm túc chế độ sinh hoạt theo quy định của

���

Điều lệ Công đoàn Việt Nam.Sau khi tỉnh được tái lập, kinh tế trong tỉnh phát triển

khá. Giá trị sản lượng nông - lâm nghiệp, công nghiệp - xây dựng cơ bản, dịch vụ đều tăng, giao thông, bưu điện, thương mại bảo đảm, y tế, giáo dục có tiến bộ. Đời sống người lao động ổn định, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Tuy nhiên, thời điểm này tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh còn chậm, tỷ trọng nông nghiệp vẫn chiếm 70% GDP, ngân sách thu không đủ chi, hàng năm Trung ương phải hỗ trợ cho hơn 50% ngân sách, đa số các doanh nghiệp ở trong tỉnh có quy mô vừa và nhỏ, trình độ công nghệ, máy móc thiết bị lạc hậu, nên hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp, khả năng cạnh tranh của sản phẩm kém, trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp, hiểu biết pháp luật và kinh tế thị trường của công nhân lao động còn hạn chế, công nhân lao động có trình độ phổ thông trung học trở lên chiếm tỷ lệ thấp. Tình hình kinh tế - xã hội và công nhân lao động của tỉnh đã ảnh hưởng trực tiếp đến phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn trong tỉnh.

Trước những khó khăn, thách thức đó, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động trong tỉnh đã thể hiện bản lĩnh vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ủng hộ việc sắp xếp lại sản xuất, điều chỉnh, sắp xếp số lao động trong các doanh nghiệp và các cơ quan hành chính sự nghiệp, vươn lên tiếp cận với khoa học kỹ thuật, công nghệ mới.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Tổng Liên

���

đoàn Lao động Việt Nam, Ban Chấp hành lâm thời Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước xác định phương hướng hoạt động công đoàn là: Kiện toàn tổ chức, tập hợp đoàn kết đông đảo công nhân, viên chức, lao động trong các thành phần kinh tế. Thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động tham gia quản lý kinh tế - xã hội, quản lý cơ quan, doanh nghiệp, giáo dục động viên công nhân, viên chức, lao động phát huy quyền làm chủ trong lao động, sản xuất và công tác, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân. Trọng tâm hoạt động của các cấp Công đoàn là củng cố, kiện toàn, phát triển tổ chức và đẩy mạnh các hoạt động xã hội của Công đoàn.

Các phong trào thi đua, phong trào đăng ký phấn đấu trở thành tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa... diễn ra nhiều nơi. Phong trào thi đua “Lao động giỏi” đã được các Công đoàn ngành, Liên đoàn Lao động huyện và Công đoàn cơ sở trực thuộc tổ chức phát động với những nội dung thi đua phù hợp với đặc điểm ngành nghề kinh tế, kỹ thuật như: “Phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất thực hành tiết kiệm”; phong trào thi đua “Đảm bảo an toàn vệ sinh lao động”, “Thi đua phục vụ nông nghiệp”. Các cấp Công đoàn trong tỉnh đã gắn phong trào thi đua “Hai giỏi” với các cuộc vận động nữ công nhân, viên chức, lao động thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội... tạo thành phong trào rộng lớn trong công nhân, viên chức, lao động; góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế - xã hội

���

của tỉnh; có hàng ngàn bàn tay vàng, kiện tướng cạo mủ cao su; hàng trăm giáo viên dạy giỏi và y tá điều dưỡng viên giỏi... đã có hàng trăm sáng kiến, hợp lý hóa sản xuất với giá trị làm lợi, tiết kiệm hàng tỉ đồng...

Đặc biệt phong trào “Luyện tay nghề thi thợ giỏi” ở các công ty cao su đã được Công đoàn cùng chuyên môn quan tâm tổ chức hàng năm và trở thành những ngày hội trao đổi kinh nghiệm sản xuất, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho công nhân.

Phát huy quyền làm chủ của công nhân, viên chức, lao động trong sản xuất, công tác, Công đoàn phối hợp cùng chính quyền, chuyên môn trong các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước tổ chức Hội nghị cán bộ công chức, Đại hội công nhân viên chức, thực hiện ký kết thỏa ước lao động tập thể, đạt được yêu cầu hiệu quả thiết thực, tìm ra được nhiều biện pháp thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ kế hoạch, công tác được giao, giải quyết được việc làm, chăm lo đời sống, cải thiện điều kiện làm việc của công nhân, viên chức, lao động. Kết quả có 100% đơn vị thuộc các công ty cao su, ngành giáo dục và trên 80% đơn vị thuộc các huyện Phước Long, Bù Đăng và các ngành y tế, nông nghiệp phát triển nông thôn... tổ chức Hội nghị cán bộ công chức, Đại hội Công nhân viên chức.

Trong công tác bảo hộ lao động, công đoàn tham gia với chuyên môn quan tâm cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động, thực hiện đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với công nhân, viên

���

chức, lao động. Ở các công ty cao su, công đoàn thường xuyên phối hợp với chính quyền chuyên môn tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng về nội quy an toàn lao động, thực hiện đảm bảo quy trình, quy phạm kỹ thuật trong lao động sản xuất, đồng thời thực hiện trang cấp quần áo, dụng cụ phòng hộ lao động kịp thời, đầy đủ cho công nhân lao động đã có tác dụng, góp phần làm hạn chế tai nạn lao động (năm 1997 chỉ có 01 vụ tai nạn lao động chết người xảy ra). Tuy nhiên, vẫn còn một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa quan tâm đến việc bảo đảm an toàn và vệ sinh lao động cho công nhân trong lao động sản xuất, nhất là các ngành khai thác đá, xây dựng và cơ khí nhỏ...

Liên đoàn Lao động tỉnh phối hợp Công an tỉnh tổ chức hướng dẫn các doanh nghiệp và cơ quan trên địa bàn tỉnh, ký kết giao ước thi đua xây dựng doanh nghiệp và cơ quan an toàn; đi đôi với việc thực hiện kiểm tra sơ kết khen thưởng kịp thời. Kết quả hầu hết các cơ quan, đơn vị doanh nghiệp trong tỉnh đảm bảo được an toàn, trật tự, góp phần tích cực vào phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc tại địa phương, đơn vị.

Thực hiện chủ trương “Xóa đói giảm nghèo” của Đảng, Công đoàn các cấp trong tỉnh bàn với chính quyền, chuyên môn xây dựng các quỹ xóa đói giảm nghèo, vốn 120, quỹ tương trợ, quỹ bảo trợ... đã được đông đảo công nhân, viên chức, lao động hưởng ứng tham gia tích cực, bằng sự đóng góp tiền vốn, ngày công tương trợ lẫn nhau, các quỹ xóa đói giảm nghèo, giải quyết cho công nhân,

237

viên chức, lao động vay làm kinh tế gia đình có hiệu quả và trả vốn lãi đúng hạn, góp phần giải quyết công ăn việc làm cải thiện đời sống, tăng cường tình đoàn kết, tương thân, tương ái trong công nhân, viên chức, lao động, năm 1997 qua các quỹ vốn quốc gia giải quyết việc làm, vốn xóa đói giảm nghèo của Trung ương, địa phương phân bổ và của cơ sở xây dựng đã có hơn 1 tỉ 550 triệu đồng, giải quyết cho trên 1.540 hộ công nhân, viên chức, lao động vay làm kinh tế gia đình, kết quả thu được bình quân hơn 2 triệu đồng/hộ/năm.

Thực hiện phương châm “Uống nước nhớ nguồn” nhân dịp các ngày lễ kỷ niệm, ngày Tết, các cấp Công đoàn phối hợp chính quyền, chuyên môn đi thăm và tặng quà cho các “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” do địa phương, đơn vị nhận phụng dưỡng và thăm các gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, các cán bộ công đoàn đã nghỉ hưu. Đặc biệt hưởng ướng cuộc vận động xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, công nhân, viên chức, lao động đã đóng góp với tổng số tiền gần 500 triệu đồng, xây dựng 90 ngôi nhà tình nghĩa và nhận phụng dưỡng 20 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đồng thời công nhân, viên chức, lao động tỉnh đã ủng hộ trên 600 triệu đồng cho đồng bào bị cơn bão số 5 tàn phá, thể hiện tinh thần “Lá lành đùm lá rách”.

Tuyên truyền, giáo dục là mặt công tác có tầm quan trọng đặc biệt đối với hoạt động công đoàn. Ngay từ đầu năm 1997, Liên đoàn Lao động tỉnh đã đề ra kế hoạch chỉ đạo Công đoàn các cấp phối hợp với chính quyền tổ

238

chức quán triệt các nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh ủy. Sôi nổi nhất là đợt vận động, tổ chức đoàn viên đóng góp ý kiến vào dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, dự thảo Báo cáo Đại hội Công đoàn cấp trên. Đây là đợt sinh hoạt chính trị có ý nghĩa thiết thực nhằm nâng cao nhận thức của công nhân, viên chức, lao động về giai cấp, yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà. Đồng thời, Liên đoàn Lao động cũng tổ chức nhiều đợt bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác văn hóa tư tưởng, về bảo hộ lao động cho cán bộ công đoàn các ngành, huyện, thị cơ sở và anh chị em là cộng tác viên của Liên đoàn Lao động tỉnh ở cơ sở về công tác tuyên truyền. Qua đó, đa số công nhân, viên chức, lao động có nhiều cố gắng khắc phục khó khăn, ổn định tư tưởng, an tâm công tác, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.

Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao diễn ra khá sôi nỗi, thu hút đông đảo công nhân, viên chức lao động ở các cơ quan, ban, ngành, các cơ sở sản xuất hăng hái tham gia hưởng ứng, có hơn 100 đội bóng chuyền, 35 đội bóng đá, 40 đội cầu lông, bóng bàn, 20 đội văn nghệ quần chúng trong công nhân, viên chức lao động, đã biểu diễn hơn 50 lượt và thi đấu thể thao hàng trăm lượt, góp phần không khí vui tươi, sôi nỗi và nâng cao thể lực công nhân, viên chức lao động trong sản xuất, công tác, phục vụ đời sống tinh thần lành mạnh.

Xây dựng tổ chức, từng bước kiện toàn đội ngũ cán bộ

239

công đoàn các cấp là nhiệm vụ quan trọng, nhất là trong giai đoạn chia tách tỉnh. Khi mới chuyển về Bình Phước, Liên đoàn Lao động tỉnh đã tuyển dụng, điều động, tiếp nhận một số cán bộ, nhân viên bổ sung cho công đoàn các ngành, huyện và cơ quan Liên đoàn Lao động tỉnh. Nhằm ổn định bộ máy tổ chức, Liên đoàn Lao động tỉnh đã thành lập mới 3 Công đoàn ngành, củng cố 5 Công đoàn cấp huyện. Ngoài ra, còn có 53 Công đoàn cơ sở và trên cơ sở trực thuộc Liên đoàn lao động tỉnh. Đến cuối năm 1997, toàn tỉnh đã có 29.422 đoàn viên công đoàn, chiếm tỷ lệ 91% so với tổng số công nhân, viên chức, lao động.

Về công tác tài chính, Liên đoàn Lao động tỉnh đã tổ chức triển khai công tác dự toán ngân sách công đoàn năm 1997 ở các cấp công đoàn ngành, huyện và cơ sở. Tuy nhiên, xuất phát từ chỗ nguồn thu kinh phí công đoàn còn eo hẹp nên việc chi cho hoạt động công đoàn các cấp còn gặp nhiều khó khăn. Liên đoàn Lao động tỉnh đã có nhiều cố gắng trong việc tận thu, tiết kiệm chi. Nhờ vậy, công tác tài chính nói chung đảm bảo phục vụ hoạt động của công đoàn. Quá trình thu chi đảm bảo nguyên tắc.

Phong trào nữ công nhân, viên chức, lao động được củng cố và phát triển. Phong trào thi đua “Hai giỏi” trong nữ công nhân, viên chức, lao động tiếp tục được đẩy mạnh. Phong trào tạo động lực cho chị em phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao mà còn giúp chị em xây dựng gia đình hạnh phúc. Đồng thời thực hiện chủ trương của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về “Ngày

240

tiết kiệm vì phụ nữ nghèo”, Ban nữ công Liên đoàn Lao động tỉnh đã vận động chị em đóng góp gây quỹ, tổ chức cho nữ công nhân, viên chức, lao động nghèo vay vốn làm kinh tế phụ, cải thiện cuộc sống gia đình. Bên cạnh đó, các Ban nữ công và các tổ nữ công cơ sở có nhiều hình thức vận động chị em đóng góp xây dựng quỹ tình thương, quỹ hỗ trợ, quỹ khuyến học, quỹ vì tuổi thơ... nhằm giúp đỡ chị em nghèo, các cháu mồ côi có hoàn cảnh khó khăn.

Nhìn chung, trong thời gian đầu sau khi tái lập tỉnh, tình hình kinh - tế xã hội nói chung, tình hình việc làm đời sống gặp nhiều khó khăn nhưng với nỗ lực không ngừng, phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn đạt một số kết quả đáng kể. Thông qua các phong trào thi đua lao động, sản xuất, công tác công nhân, viên chức, lao động trong tỉnh đã góp phần hoàn thành kế hoạch Nhà nước. Văn hóa, xã hội có nhiều chuyển biến; an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Công đoàn các cấp nhanh chóng ổn định tổ chức. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, công tác nữ công không ngừng được đẩy mạnh. Công đoàn còn tham gia kiểm tra, giám sát, giải quyết việc làm, chăm lo đời sống cũng như bảo vệ có hiệu quả những quyền lợi hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động. Hoạt động xã hội của các cấp công đoàn đem lại những kết quả thiết thực. Công tác tài chính có nhiều cố gắng bảo đảm các hoạt động bình thường của các cấp công đoàn. Phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao trong công nhân lao

���

động vẫn được duy trì và phát triển.Tuy nhiên, phong trào công nhân, viên chức, lao động

và hoạt động công đoàn thời gian này còn một số tồn tại cần khắc phục. Phong trào thi đua chưa đều khắp, thiếu chiều sâu. Việc sơ kết, rút kinh nghiệm, khen thưởng, nhân điển hình còn chậm. Công tác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân lao động còn nhiều vấn đề cần giải quyết như việc ký kết hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và các chế độ cho người lao động so với yêu cầu chưa đạt. Công đoàn ở một số đơn vị chưa phát huy hết vai trò, vị trí của mình. Mối quan hệ cộng đồng trách nhiệm giữa công đoàn và chính quyền có nơi chưa tốt. Công tác chỉ đạo phong trào ở các cấp Công đoàn còn nặng về hành chính, giấy tờ, chưa dành nhiều thời gian đi sâu, đi sát cơ sở nhằm giúp cơ sở giải quyết những vướng mắc cụ thể phát sinh từ thực tiễn phong trào. Vai trò tham mưu của một số cán bộ cho Ban Thường vụ Công đoàn các cấp còn hạn chế, cần sớm khắc phục.

Thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chỉ thị số 09-CT/TU của Tỉnh ủy Bình Phước về việc chỉ đạo tổ chức Đại hội Công đoàn các cấp, tiến tới Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VIII, từ ngày 02 đến ngày 03 tháng 6 năm 1998, Đại hội đại biểu Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước lần thứ VI nhiệm kỳ 1998-2003 được tổ chức tại Hội trường Trường Kỹ thuật nghiệp vụ cao su (Bình Phước), với tinh thần đổi mới, dân chủ, hiệu quả và tiết kiệm. Đại hội vinh dự được đón

���

tiếp đồng chí Bùi Thanh Phong - Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Hoàng Thị Khánh - Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đồng chí Bùi Huy Thống - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh và 200 đại biểu đại diện cho hơn 31.000 đoàn viên, công nhân, viên chức và lao động trong tỉnh. Đây là Đại hội có tầm quan trọng đặc biệt được tổ chức đầu tiên sau khi tái lập tỉnh. Đại hội đã dành nhiều thời gian phân tích những mặt làm được và chưa làm được trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, Đại hội đề ra những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới.

Về mục tiêu, nhiệm vụ chung, Đại hội nhấn mạnh hoạt động công đoàn các cấp trong tỉnh, trong những năm tới là xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ra sức phát triển đoàn viên công đoàn trong các thành phần kinh tế. Xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nâng cao trình độ cán bộ công đoàn có khả năng tập hợp quần chúng, có kiến thức kinh tế, pháp luật và nghiệp vụ công đoàn, có bản lĩnh đại diện và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động. Tăng cường các hoạt động xã hội của công đoàn, song song với việc tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền giáo dục, góp phần xây dựng đội ngũ công nhân,

���

viên chức, lao động của tỉnh ngày càng lớn mạnh.Về phương hướng, nhiệm vụ cụ thể, Đại hội chỉ rõ

“Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao trình độ về mọi mặt cho công nhân, viên chức, lao động, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, thi đua thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội mà Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ đã đề ra. Chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, viên chức, lao động, nâng cao quyền làm chủ của công nhân, viên chức, lao động, đại diện cho người lao động tham gia quản lý doanh nghiệp và tham gia công việc Nhà nước. Phát triển mạnh mẽ tổ chức công đoàn trong các thành phần kinh tế, tập hợp đông đảo công nhân, viên chức, lao động tham gia vào tổ chức Công đoàn. Đẩy mạnh các hoạt động xã hội, tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ, khắc phục bệnh quan liêu hành chính trong công tác công đoàn. Tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, củng cố quốc phòng, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, phấn đấu vì mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”�.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động nhiệm kỳ VI gồm có 35 đồng chí. Ban Thường vụ gồm có 8 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Thanh Lâm được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch; Phó Chủ tịch là các đồng chí Lâm Văn

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu Liên đoàn lao động tỉnh Bình Phước lần VI (1998-2003), xuất bản 1998, trang 70,71

���

Phúc và Lê Thị Hồng Thu. Các đồng chí Trần Văn Lập, Đoàn Văn Rồi, Võ Thị Hồng, Nguyễn Văn Khỏe, Thượng Văn Hải giữ chức vụ Ủy viên Ban Thường vụ. Sự thành công của Đại hội Công đoàn tỉnh lần thứ VI có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn Bình Phước, thể hiện sự đoàn kết, nhất trí của công nhân, viên chức, lao động tỉnh nhà. Trên cơ sở ấy, phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn Bình Phước sẽ đạt nhiều kết quả, góp phần đắc lực thực hiện thành công những mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội đề ra, tạo tiền đề để công nhân, viên chức, lao động tỉnh nhà cùng công nhân, viên chức, lao động cả nước vững bước tiến vào thế kỷ XXI. (21)

Từ ngày 3 đến ngày 6/11/1998, Đại hội VIII Công đoàn Việt Nam được tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Tại Đại hội, các đại biểu Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước đã đóng góp nhiều ý kiến xây dựng tổ chức Công đoàn cũng như tâm tư nguyện vọng chính đáng của công nhân, viên chức, lao động gửi tới đại hội. Mục tiêu của Đại hội là: “Vì sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh”.

Nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Phước lần thứ VI và Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VIII đề ra, Công đoàn các cấp tỉnh Bình Phước thường xuyên phát động các phong trào thi đua, như phong trào thi đua

���

“Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, phong trào thi đua học tập nâng cao trình độ văn hóa, tay nghề, chuyên môn, nghiệp vụ, phong trào thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí…, góp phần hoàn thành các mục tiêu kinh tế, xã hội của tỉnh. Bảo vệ và chăm lo đời sống người lao động. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của Công đoàn các cấp, tiếp tục xây dựng củng cố, phát huy tổ chức Công đoàn trong tỉnh.

Một trong những trọng tâm cơ bản của hoạt động Công đoàn đó là việc tổ chức phong trào thi đua “ Lao động giỏi, lao động sáng tạo” với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh xác định đây là phong trào thi đua toàn diện, có tầm quan trọng trong công nhân, viên chức, lao động, qua đó tạo động lực để nâng cao hiệu quả và phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập cho người lao động.

Trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, với mục tiêu phấn đấu trở thành người cán bộ, công chức “ Trung thành - sáng tạo - tận tụy - gương mẫu”. Cán bộ, công chức thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phát huy trí tuệ, lao động sáng tạo, nghiên cứu tham mưu, đề xuất xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà, các giải pháp cải tiến lề lối làm việc, cải cách thủ tục hành chính. Từ phong trào này đã xuất hiện nhiều đơn vị tiêu biểu, đó là cán bộ, công chức ngành Kế hoạch - Đầu tư, Tài chính, Kho Bạc Nhà nước, Cục Thuế luôn không ngừng học tập, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ làm việc có chất lượng,

���

hiệu quả cao, cán bộ, nhân viên ngành Ngân hàng đã trả lại tiền thừa cho khách hàng trăm triệu đồng…

Trong các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh, công nhân, viên chức, lao động hăng hái thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, tăng năng suất lao động từ đó không ngừng hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ, đứng vững và mở rộng thị trường, phát triển sản xuất tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động. Trong thực tế sản xuất kinh doanh phong trào thi đua lao động giỏi được phát động dưới nhiều hình thức như: Ở Công ty cao su Bình Long các phong trào thi đua “tập thể, cá nhân về trước kế hoạch năm”, “Tổ, đội, đơn vị hoàn thành nhiệm vụ”, “Luyện tay nghề, thi thợ giỏi”, “Tấn mủ vượt”… đã góp phần cùng đơn vị hoàn thành vượt mức kế hoạch 23 năm liên tục. Trong lao động sản xuất, đã có nhiều sáng kiến, sáng tạo qua đó góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, trong đó có 2 sáng kiến ở Công ty cao su Lộc Ninh và Nhà máy thủy điện Thác Mơ được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng bằng khen và huy hiệu lao động sáng tạo.

Với khẩu hiệu thi đua “Dạy tốt, học tốt”, thực hiện cuộc vận động “Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm” ngành giáo dục đã phát huy quyền làm chủ tập thể của cán bộ, giáo viên phát huy sáng tạo trong hoạt động dạy và học; tham gia xây dựng phương hướng, nhiệm vụ năm học, từ đó đã không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học. Với nội dung “Làm và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm” 5 năm

247

qua đã có 1.267 sáng kiến kinh nghiệm được xếp loại và áp dụng, trong đó có 72 sáng kiến đoạt loại A. Điển hình trong phong trào thi đua là cán bô, giáo viên các trường THPT Bình Long, trường Tiểu học Lộc Thái A huyện Lộc Ninh, trường Mần non Phú Riềng B… với những thành tích đó, toàn ngành đã có 3 giáo viên được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú, 5 giáo viên giỏi toàn quốc, 209 giáo viên giỏi cấp tỉnh…

Với phương châm “Lương y như từ mẫu” mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong ngành y tế không ngừng nâng cao năng lực trình độ chuyên môn, trau dồi nghề nghiệp, chính trị tư tưởng, nhất là phẩm chất đạo đức của người thầy thuốc. Công đoàn ngành đã chủ động phối hợp chuyên môn tổ chức cho cán bộ, công chức, viên chức học tập chuyên môn, nghiệp vụ, thường xuyên cập nhật những tiến bộ khoa học và thông tin mới về y học, tổ chức các hội thi toàn ngành luyện tay nghề cho các y tá, điều dưỡng viên, nữ hộ sinh, để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức. Với những hoạt động đó, chất lượng khám chữa bệnh, tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân ngày càng được nâng cao.

Phong trào thi đua “Liên kết phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn” được các cấp Công đoàn đã phối hợp với cơ quan chức năng tổ chức cho công nhân, viên chức, lao động thi đua phục vụ kịp thời cây, con giống có năng suất, chất lượng cao, tổ chức tập huấn kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp. Đi đôi với việc

248

xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng; đưa điện về nông thôn, cải tạo nâng cấp phát triển hệ thống trường học, trạm xá và đường đi lại, góp phần phát triển nông thôn.

Kết quả của phông trào đã góp phần đưa nền kinh tế tỉnh nhà tăng trưởng khá, GDP tăng bình quân 13,5%. Thu ngân sách đều đạt khá, năm sau cao hơn năm trước, đặc biệt trong năm 2003 thu vượt chỉ tiêu 50%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 27, 13%, mạng lưới giao thông, các công trình phúc lợi xã hội về văn hóa, y tế, giáo dục… được quan tâm phát triển tới vùng sâu, vùng xa của tỉnh nhà.

Về tuyên truyền giáo dục, trong những năm từ 1998 đến 2003. Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước đều có kế hoạch hướng dẫn các cấp Công đoàn tổ chức tuyên truyền những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước với nhiều hình thức đa dạng và thích hợp. Đặc biệt Công đoàn phối hợp với các cấp chính quyền tổ chức tuyên truyền cho công nhân, viên chức, lao động học tập các Nghị quyết Trung ương 5, 6 (Khóa VIII), Nghị quyết Đại hội VIII Công đoàn Việt Nam, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần VI, Nghị quyết Đại hội Công đoàn tỉnh Bình Phước lần VI, các Pháp lệnh về cán bộ công chức, chống tham nhũng, học tập các Bộ luật về khiếu nại tố cáo, về bảo vệ môi trường, về giáo dục, về bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp… Việc triển khai học tập 5 bài học chính trị cơ bản thực hiện có kết quả ở các cấp Công đoàn với hàng chục ngàn công nhân, viên chức, lao động tham gia

249

học tập, qua đó góp phần nâng cao nhận thức chính trị, ý thức trách nhiệm của công nhân, viên chức, lao động giác ngộ giai cấp, truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng của giai cấp công nhân, nêu cao tinh thần cảnh giác nhằm chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Tích cực tham gia phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hôi, thục hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước.

Trong công tác tuyên truyền, giáo dục, nhân những ngày lễ, ngày kỷ niệm, Công đoàn các cấp luôn duy trì phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao với nhiều chủ đề khác nhau như hội diễn văn nghệ quần chúng, tổ chức các giải bóng đá, bong chuyền, cầu lông, hội thi “Công nhân viên chức thanh lịch”, “Gia đình hạnh phúc”, “Cán bộ công đoàn giỏi”, “Cán bộ nữ công giỏi”… tạo ra sân chơi bổ ích, tạo nên đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, thu hút đông đảo cán bộ công đoàn và công nhân, viên chức, lao động tham gia góp phần động viên công nhân, viên chức, lao động hăng hái thi đua lao động sản xuất và công tác. Đặc biệt Liên đoàn Lao động tỉnh ra Tờ tin “Lao động Bình Phước” phát hành hàng tháng; cùng với Chuyên mục “Lao đông & Công đoàn” trên Đài Phát thanh Truyền hình tỉnh đã chuyển tải kịp thời và sâu rộng đến công nhân, viên chức, lao động những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và những hoạt động nổi bật của Công đoàn Bình Phước.

Bên cạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục,

250

phong trào học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt nhằm đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH đất nước được các cấp Công đoàn thường xuyên quan tâm. Công đoàn phối hợp với chính quyền, đoàn thể tạo mọi điều kiện vật chât và tinh thần cho công nhân, viên chức, lao động tham gia học tập nâng cao trình độ văn hóa, tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ. Trong nhiệm kỳ đã tổ chức hàng trăm lớp bổ túc văn hóa cho công nhân lao động tham gia học tập, trình độ văn hóa, trình độ tay nghề chuyên môn tăng theo từng năm.

Lực lượng nữ công nhân, viên chức, lao động chiêm tỉ lệ 52% công nhân, viên chức, lao động toàn tỉnh. Ý thức được tầm quan trọng của lực lượng nữ, hàng năm, Liên đoàn Lao động tỉnh cũng như Công đoàn các cấp thường xuyên phát động các phong trào hàng động cách mạng trong nữ công nhân, viên chức, lao động. Trên cơ sở đó, chị em hăng hái tham gia nhiều hoạt động sôi nổi nhân các ngày lễ lớn, nhất là trong dịp kỷ niệm 8/3, 20/11. Nữ công nhân, viên chức, lao động cũng là những tích cực trong công tác phòng chống HIV/AIDS, dân số kế hoạch hóa gia đình, phòng chống các tệ nạn xã hội, phong trào xây dựng quỹ trợ vốn, quỹ tình thương… Đặc biệt, trong phong trào “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo”, “Quỹ tiết kiệm xoay vòng”, “Quỹ tình nghĩa, tình thương” nữ công nhân, viên chức, lao động đã góp hàng trăm triệu động cho hàng trăm lượt chị vay giải quyết việc làm. Nữ công nhân, viên chức, lao động các ngành y tế, giáo dục, các công ty cao su, ngân

���

hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, các huyện Bù Đăng, Lộc Ninh, Đồng Phú… là những cơ sở thực hiện tốt phong trào phụ nữ “ Hai giỏi”. Qua tổng kết, hàng năm số nữ công nhân, viên chức , lao động đạt danh hiệu “Hai giỏi” các cấp. Nữ công nhân, viên chức, lao động còn tham gia nhiều hoạt động khác như tổ chức biểu diễn văn nghệ, thi đấu thể dục thể thao khá sôi nổi. Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền lợi của chị em, Công đoàn các cấp thường xuyên giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách đối với lao động nữ trong các cơ quan, xí nghiệp.

Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, viên chức, lao động là một trong nhiệm vụ quan trọng của các cấp Công đoàn. Trong những năm 1998 - 2003, Công đoàn đã chủ động phối hợp với các ngành chức năng tổ chức kiểm tra việc thực hiện Bộ Luật Lao động, Luật Công đoàn nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao động, tham gia, giám sát việc thực hiện các chế độ tiền lương, tiền thưởng, BHYT, BHXH của người lao động. Đến cuối năm 2003, đã có 59% người lao động được ký kết hợp đồng lao động, có 58% doanh nghiệp Nhà nước ký thỏa ước lao động tập thể. Trong 6 năm, đã phối hợp kiểm tra hơn 200 lượt đơn vị về thực hiện chế dộ chính sách đối với người lao động, đã kịp thời hướng dẫn, nhắc nhỡ, chấn chỉnh những sai phạm của một số đơn vị.

Công đoàn các cấp đã tăng cường trách nhiệm trong công tác Bảo hộ lao động, tổ chức và tham gia tốt các phong trào “Xanh, sạch, đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao

���

động” trong các cơ quan, xí nghiệp, nông lâm trường… Hàng năm, hoạt động của tuần Lễ Quốc gia về An toàn vệ sinh lao động - Phòng chống cháy nổ đã được nhiều cơ sở hưởng ứng mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiều đơn vị đã đầu tư hàng trăm triệu đồng để cải thiện điều kiện, môi trường làm việc cho người lao động, đồng thời chỉ đạo hoạt động mạng lưới an toàn vệ sinh viên, kiểm tra giám sát việc thực hiện chế độ chính sách về bảo hộ lao động.

Hoạt động xã hội được Công đoàn quan tâm thực hiện, góp phần quan trọng vào việc xóa đói giảm nghèo trong công nhân, viên chức, lao động làm cho người lao động hiểu và gắn bó hơn với tổ chức Công đoàn; 6 năm qua Công đoàn các cấp đã huy động trên 5,2 tỷ đồng, giải quyết 5.159 ngàn lượt hộ công nhân, viên chức, lao động vay, hỗ trợ giải quyết việc làm cho 4.258 lao động. Đặc biệt, ngoài việc hỗ trợ cho công nhân sản xuất kinh tế gia đình, Công đoàn các Công ty cao su đã phát động và vận động các nguồn lực đóng góp xây dựng Quỹ trợ vốn làm nhà trong công nhân, viên chức, lao động. Đến năm 2003, với số tiền 19 tỷ đồng từ quỹ trợ vốn làm nhà và huy động được hơn 5.000 ngày công, Công đoàn các công ty cao su đã hỗ trợ cho 2.638 hộ gia đình công nhân, viên chức, lao động xây dựng nhà ở.

Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, các cấp Công đoàn trong tỉnh đã vận động xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”. Các cơ

���

quan trong tỉnh đã nhận đỡ đầu, phụng dưỡng suốt đời 113 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và cha, mẹ liệt sĩ; nhận giúp đỡ 99 gia đình thương binh nặng, xây dựng 304 căn nhà tình nghĩa, 291 sổ tiết kiệm với giá trị từ 500.000 đồng/sổ trở lên.

Thực hiện chức năng chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, viên chức, lao động trong nhiệm kỳ qua Công đoàn các cấp trong tỉnh đã từng bước góp phần tạo được mối quan hệ lao động ổn định trên địa bàn, tham gia bảo vệ các quyền, lợi ích của công nhân, viên chức, lao động đúng sức lao động và quy định của pháp luật, nâng cao ảnh hưởng của tổ chức Công đoàn trong xã hội, người lao động ngày càng hiểu rõ và gắn bó hơn với Công đoàn. Tuy nhiên, trong công tác tham gia quản lý, kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật lao động vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhiều nơi người lao động chưa được đảm bảo quyền lợi theo quy định của pháp luật.

Trong cuộc vận động công nhân, viên chức, lao động tham gia xây dựng Đảng, Chính quyền, hàng năm Công đoàn các cấp chủ động phối hợp với các cơ quan hữu quan chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kiểm tra xây dựng cơ quan văn hóa, tham gia ý kiến về cải cách thủ tục hành chính, về xây dựng người cán bộ “Trung thành - sáng tạo - tận tụy - gương mẫu” về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh là trách nhiệm của tổ chức Công đoàn, 6 năm Công đoàn các cấp và

���

công nhân, viên chức, lao động tích cực hưởng ứng cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Công đoàn tổ chức cho quần chúng công nhân, viên chức, lao động tham gia góp ý xây dựng Đảng hàng năm; nổi bật là tham gia cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2, Khóa VIII). Tham gia góp ý nội dung văn kiện Đại hội Đảng các cấp. Thông qua các phong trào hành động cách mạng, có nhiều đoàn viên công đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, được các tổ chức đoàn thể giới thiệu sang Chi bộ để bồi dưỡng kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong nhiệm kỳ qua, đã có hơn 2.000 đoàn viên Công đoàn được đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thường xuyên kiến nghị với Đảng tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và phát triển Đảng trong lực lượng công nhân ưu tú, quan tâm hơn nữa tới việc xây dựng giai cấp công nhân, nhất là đối với công nhân người dân tộc thiểu số, xây dựng Đảng trong các thành phần kinh tế…

Liên đoàn Lao động tỉnh và Ủy ban Nhân dân tỉnh đã thực hiện tốt quy chế phối hợp công tác. Qua thực hiện quy chế phối hợp với Ủy ban Nhân dân tỉnh đã tạo điều kiện cho Công đoàn phát huy hết vai trò chức năng; chỉ đạo các sở, ban, ngành ký kết liên tịch với Công đoàn nhằm đưa các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội được thực hiện tốt ở địa phương, cơ sở.

Công đoàn vận động 100% công nhân, viên chức, lao động tham gia cuộc bầu cử Hội đồng Nhân dân các cấp

���

(năm 1999) và cuộc bầu cử Quốc hội khóa XI (năm 2002). Tham gia với chính quyền chuyên môn xây dựng và thực hiện đề án về cải cách thủ tục hành chính, sắp xếp tổ chức, bộ máy cơ quan, đơn vị theo tinh thần Nghị quyết TW7, góp phần nâng cao năng lực quản lý của cơ quan Nhà nước địa phương.

Tuy nhiên, trong công tác tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền của Công đoàn cũng còn hạn chế đối với việc tổ chức thực hiện ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Công tác bồi dưỡng giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng, một số nơi Công đoàn chưa chủ động thực hiện, tỷ lệ phát triển đảng viên mới xuất thân từ công nhân trực tiếp sản xuất chưa cao.

Xây dựng tổ chức Công đoàn là một trong nhiệm vụ quan trọng của các cấp Công đoàn. Năm 1997, năm tái lập tỉnh, Bình Phước mới có 5 Công đoàn cấp huyện. Qua thời gian củng cố, sắp xếp về mọi mặt, đến năm 2003, toàn tỉnh có 8 Liên đoàn Lao động huyện, thị, 3 Công đoàn ngành địa phương, 46 Công đoàn cơ sở khối hành chính sự nghiệp, 22 Công đoàn các doanh nghiệp Trung ương và địa phương, 2 Công đoàn vốn đầu tư nước ngoài.

Hệ thống tổ chức Công đoàn trong tỉnh thường xuyên được kiện toàn, củng cố, sắp xếp bộ máy hợp lý, tinh gọn theo hướng nâng cao năng lực và hiệu quả chỉ đạo, tránh chồng chéo, tạo điều kiện cho Công đoàn cơ sở chủ động hơn trong hoạt động Công đoàn. Hàng năm, Công đoàn các cấp trong tỉnh đã mở nhiều lớp tập huấn bồi dưỡng

���

nghiệp vụ công đoàn, để nâng cao năng lực cho hàng ngàn cán bộ Công đoàn, đồng thời cử hàng trăm cán bộ tham gia các lớp học tại chức chuyên ngành. Tính đến nay, trong hệ thống Công đoàn của tỉnh, cán bộ Công đoàn có trình độ Đại học, cao đẳng chiếm 55%; trung cấp, cao cấp lý luận chính trị 35%; 85% cán bộ Công đoàn cơ sở được học qua các lớp bồi dưỡng, tập huấn về lý luận, nghiệp vụ Công đoàn.

Trong công tác xây dựng và phát triển tổ chức Công đoàn ngoài quốc doanh đã được các cấp Công đoàn quan tâm thực hiện. Đã tỏ chức hàng trăm buổi tuyên truyền miệng, hàng chục ngàn tờ rơi, tờ bướm cho hàng ngàn công nhân lao động khu vực ngoài quốc doanh.

Thực hiện Thông tư số 50 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về việc xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh, Công đoàn các cấp đã coi trọng việc nâng cao chất lượng hoạt động, quan tâm xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh, từng bước được đổi mới về nội dung và biện pháp. Nội dung xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh được cụ thể hóa phù hợp với điều kiện hoạt động của cơ sở, ngành, tạo thành một thể thống nhất thúc đẩy hoạt động phong trào phát triển đồng bộ và có hiệu quả, tỷ lệ Công đoàn cơ sở vững mạnh đạt được hàng năm có cao hơn. Qua phân loại hàng năm có trên 70% công đoàn cơ sở đạt danh hiệu Công đoàn cơ sở vững mạnh. Tiêu biểu năm 2002, trong tổng số 516 Công đoàn cơ sở được phân loại, số cơ sở đạt danh hiệu vững mạnh và vững mạnh

257

xuất sắc là 406 đơn vị, chiếm tỷ lệ 78,7%, số cơ sở đạt trung bình là 14 đơn vị, chiếm tỷ lệ 2,7%, số cơ sở yếu kém là 4 đơn vị, chiếm tỷ lệ 0,8% (�)

Ghi nhận những nỗ lực trong tổ chức hoạt động công đoàn, Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước được đón nhận Huân chương Lao động hạng II. Đây là phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước đối với đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức Công đoàn tỉnh Bình Phước. Trong nhiệm kỳ qua, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tặng 7 cờ thi đua cho các tập thể, 108 bằng khen cho các tập thể và cá nhân. Riêng Liên đoàn Lao động tỉnh được Thủ tướng tặng bằng khen cho 1 tập thể và 2 cá nhân. Liên đoàn Lao động tỉnh tặng bằng khen cho 2.371 tập thể và cá nhân và 30 cờ thi đua cho tập thể.

II. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG VÀ CÔNG ĐOÀN BÌNH PHƯỚC (2003-2008)

Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, từ ngày 21 đến ngày 22/7/2003, Đại hội Đại biểu Công đoàn tỉnh Bình Phước lần thứ VII (nhiệm kỳ 2003 - 2008) được tổ chức tại Hội trường tỉnh. Đại hội vinh dự được đón tiếp đồng chí Nguyễn Hòa Bình - Ủy viên Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đồng chí Nguyễn Việt Cường - Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy, các đồng chí lão thành cách mạng, các vị khách quý và 234 đại biểu, thay mặt cho hơn 42.000 cán bộ, đoàn

258

viên, công nhân, viên chức và lao động trong tỉnh.Tại thời điểm diễn ra Đại hội, số lượng công nhân,

viên chức lao động toàn tỉnh có 42.013 người, tăng 10.406 người so với năm 1998 tăng 38%, tăng nhanh nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (2 lần), trong đó doanh nghiệp nhà nước có 36.258 lao động và 4.264 lao động ở khu vực ngoài quốc doanh, lực lượng lao động nữ chiếm gần 60% trong công nhân, viên chức và lao động toàn tỉnh.

Về chất lượng công nhân, viên chức lao động trong tỉnh tin tưởng và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng khởi xướng và lãnh đạo; có ý chí, tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo vươn lên trong khó khăn, thử thách, nắm bắt được quy luật khắc nghiệt của cơ chế thị trường, xu thế cạnh tranh và hội nhập nền kinh tế, qua đó nỗ lực vươn lên trong sản xuất, công tác, học tập và nghiên cứu khoa học.

Đại hội tập trung đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI Công đoàn tỉnh đề ra, trong đó khẳng định “Trong nhiệm kỳ qua, mặc dù còn khó khăn của một tỉnh mới tái lập, trong điều kiện thế giới và khu vực đang có nhiều diễn biến phức tạp, thời cơ và thách thức đan xen nhau; song dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, sự giúp đỡ tạo điều kiện của các cấp chính quyền và sự phối hợp giữa các ngành, các đoàn thể, Công đoàn các cấp trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu giành được nhiều kết quả đáng phấn khới, góp phần hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội Công đoàn nhiệm kỳ qua. Thành

259

tích nổi bật của phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn trong nhiệm kỳ qua là việc quan tâm bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức lao động và phấn đấu vươn lên làm tốt chức năng là trường học xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân. Thường xuyên quan tâm giáo dục chính trị, tư tưởng cho đoàn viên; phát động sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước, thu hút đông đảo công nhân, viên chức lao động tham gia, tạo ra những động lực to lớn, hướng vào các mục tiêu: năng suất, chất lượng, hiệu quả, việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội; tiêu biểu qua các phong trào “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo”, “Giúp nhau xóa đói giảm nghèo”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Nhân đạo từ thiện”, xây dựng cơ quan, đơn vị “Văn minh - an toàn - sạch đẹp”, “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”... Qua các phong trào thi đua, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức Công đoàn các cấp trong tỉnh có bước trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đại hội đặt mục tiêu hoạt động công đoàn tỉnh trong nhiệm kỳ 2003 - 2008 là “Tích cực góp phần xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn tỉnh Bình Phước lớn mạnh, có bản lĩnh chính trị, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Củng cố và phát triển khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức, nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát động các phong trào hành

260

động cách mạng sôi nổi, rộng khắp, thiết thực và hiệu quả trong công nhân, viên chức lao động, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức lao động; đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức Công đoàn trong các thành phần kinh tế; nâng cao trình độ cán bộ; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức Công đoàn, xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Khẩu hiệu hành động “Vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, tiếp tục đổi mới, sáng tạo trong hoạt động, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Phước”.

Để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trên, Đại hội Công đoàn tỉnh Bình Phước lần thứ VII đã đề ra các nhiệm vụ lớn là: Một là, đổi mới công tác tuyên truyền giáo dục, góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh về mọi mặt, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hai là, tăng cường công tác tham gia quản lý và kiểm tra giám sát có hiệu quả việc thực hiện pháp luật, chế độ chính sách có liên quan trực tiếp đến công nhân, viên chức, lao động; thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở; chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức lao động; tăng cường

���

các hoạt động xã hội của công đoàn. Ba là, phát động các phong trào hành động cách mạng, thi đua yêu nước sôi nỗi và hiệu quả trong công nhân, viên chức và lao động, góp phần hoàn thành thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. Bốn là, tiếp tục đổi mới công tác tổ chức và nâng cao năng lực cán bộ công đoàn, phát triển đoàn viên, xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Năm là, tổ chức quản lý tốt tài sản công đoàn, phấn đấu tiết kiệm chi hành chính, nhằm dành một phần kinh phí mua sắm thêm trang thiết bị phục vụ cho hoạt động công đoàn và từng bước bổ sung tài sản công đoàn, góp phần đáp ứng nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần cho đoàn viên và công nhân, viên chức, lao động.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh khóa VII gồm 35 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 10 đồng chí. Đồng chí Lâm Văn Phúc được bầu lại làm Chủ tịch, các đồng chí Lê Thị Hồng Thu và Đoàn Văn Rồi được bầu làm Phó Chủ tịch. Các đồng chí Đoàn Văn Luận, Bùi văn Hiếu, Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Hải Lý, Phạm Ngọc Thoài, Nguyễn Văn Khỏe, Võ Thành Mộng giữ chức Ủy viên Ban Thường vụ.

Từ ngày 10 đến ngày 13/10/2003, Đại hội lần thứ IX Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã diễn ra tại thủ đô Hà Nội. Đại hội đã xác định mục tiêu, phương hướng, hành động của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam giai đoạn 2003 - 2008, trong đó tập trung “Xây

���

dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động, góp phần tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Sau Đại hội, các cấp Công đoàn trong tỉnh đã tổ chức nhiều lớp học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII, Nghị quyết Đại hội IX Công đoàn Việt Nam và Nghị quyết Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh khóa VII và phát động nhiều phong trào thi đua yêu nước trong cán bộ, công nhân, viên chức và người lao động.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Công đoàn tỉnh Bình Phước lần thứ VII, công nhân, viên chức và lao động Bình Phước tích cực thi đua sản xuất, đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nâng mức tăng trưởng kinh tế bình quân của tỉnh Bình Phước lên 12,33%, đây là mức tăng trưởng cao trong điều kiện thời tiết thường xuyên diễn biến phức tạp bất lợi cho sản xuất nông nghiệp và kinh tế thế giới, trong nước có nhiều biến động suy giảm. Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, đến năm 2010 nông - lâm nghiệp còn 44,73%; công nghiệp tăng lên 28,74%; dịch vụ tăng lên 26,53%.

Công nhân, viên chức, lao động Bình Phước đã tiếp cận dần với nền kinh tế thị trường. Hoạt động xuất, nhập khẩu của tỉnh tuy chưa mạnh, còn nhập siêu nhưng có xu

���

thế tăng và ngày càng thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu với những mặt hàng đa dạng như cao su, hạt điều, hạt tiêu, linh kiện điện tử... công nhân, viên chức, lao động ngày càng giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, các cấp Công đoàn đã phối hợp với chính quyền cùng cấp, phát huy tính chủ động, cụ thể hóa các nhiệm vụ chính trị thành các chương trình hành động; chú trọng kiện toàn tổ chức, bố trí sắp xếp cán bộ phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ công đoàn; từng bước khắc phục bệnh hành chính, quan liêu, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Công đoàn tỉnh luôn bám sát cơ sở để nắm tình hình việc làm, đời sống, tâm tư, nguyện vọng của công nhân, viên chức, lao động. Công đoàn tập trung vào tạo việc làm, nâng cao đời sống công nhân, viên chức, lao động. Công đoàn tỉnh đã chú trọng chỉ đạo các cấp Công đoàn xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm túc Quy chế hoạt động của Ban Chấp hành và Quy chế phối hợp giữa Ban Chấp hành công đoàn với chuyên môn đồng cấp. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo kịp thời, chính xác. Liên đoàn lao động tỉnh đã chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát việc thực hiện Bộ Luật Lao động, Luật Công đoàn và các chế độ chính sách đối với người lao động, kiến nghị các cơ quan chức năng có các giải pháp thiết thực nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động.

���

Ghi nhận thành tích của phong trào công nhân và tổ chức hoạt động công đoàn tỉnh Bình Phước năm 2006, Liên đoàn lao động tỉnh Bình Phước được Đảng và Chính phủ trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất.

Những năm 2003 - 2010, tình hình kinh tế - xã hội trong tỉnh phát triển tương đối nhanh, thu nhập và đời sống của công nhân, viên chức, lao động được ổn định và có phần được cải thiện. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự phát triển doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế ở các khu, cụm công nghiệp đã làm tăng nhanh số lượng công nhân, viên chức, lao động. Cơ cấu đội ngũ công nhân, viên chức, lao động chuyển dịch theo hướng tăng tỷ lệ trong các ngành công nghiệp dịch vụ và trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, giảm tỷ lệ công nhân trong các ngành nông, lâm nghiệp.

Việc làm, đời sống và điều kiện làm việc của công nhân, viên chức, lao động tỉnh Bình Phước tương đối ổn định, số công nhân lao động phải nghỉ việc do thiếu việc làm thường xuyên không lớn.

Công tác tuyên truyền, giáo dục của Công đoàn đã hướng vào các ngày lễ lớn và những sự kiện chính trị trọng đại của đất nước. Các cấp Công đoàn đã bám sát nhiệm vụ ở mỗi cấp, mỗi đơn vị, tập trung tuyên truyền nâng cao nhận thức cho công nhân, viên chức, lao động về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, về vai trò, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức

���

Công đoàn trong giai đoạn cách mạng mới. Phổ biến chính sách, pháp luật về lao động, công đoàn cho công nhân, viên chức, lao động và người sử dụng lao động trong các thành phần kinh tế, tham gia với chuyên môn quan tâm tạo điều kiện và vận động, động viên công nhân, viên chức, lao động tích cực học tập nâng cao trình độ về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ... Hàng vạn lượt công nhân, viên chức, lao động đã được học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Công đoàn, chính sách pháp luật của Nhà nước; học tập những bài chính trị cơ bản; nghiên cứu học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về chính sách pháp luật về Đảng, Công đoàn và giai cấp công nhân. Công tác tuyên truyền, giáo dục của các cấp Công đoàn đã góp phần nâng cao nhận thức tư tưởng cho đa số công nhân, viên chức, lao động, củng cố lòng tin của công nhân viên chức, lao động với Đảng, đồng thời làm cho công nhân, viên chức , lao động thêm gắn bó với tổ chức Công đoàn; góp phần xây dựng Đảng, chính quyền, cơ quan, doanh nghiệp trong sạch vững mạnh.

Các phong trào “Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” và cuộc vận động “Xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh công nghiệp” và công tác phòng, chống HIV/AIDS và tệ nạn ma túy, mại dâm trong công nhân, viên chức, lao động được triển khai thực hiện sâu rộng, đã phần nào nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho người lao động và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phòng chống có hiệu quả các tệ

���

nạn xã hội. Trong những năm 2003 - 2008, hàng năm có trên 98% cơ quan, đơn vị được công nhận“Văn minh - an toàn - sạch đẹp” và 99% công nhân, viên chức, lao động đạt Nếp sống văn minh cá nhân, gia đình văn hóa.

Các bản tin, tập san Lao động Bình Phước, Chuyên mục Lao động & Công đoàn trên Đài Phát thanh Truyền hình tỉnh được duy trì, định kỳ phát hành đến các cấp Công đoàn, đã chuyển tải và kịp thời đến công nhân, viên chức, lao động các chính sách, pháp luật của Nhà nước và các mặt hoạt động của Công đoàn. Các cuộc thi do Công đoàn và chính quyền địa phương tổ chức được công nhân, viên chức, lao động hưởng ứng mạnh mẽ như “Tìm hiểu, lịch sử, văn hóa 1000 năm Thăng Long - Hà Nội” với gần 19.000 công nhân, viên chức, lao động tham gia; cuộc thi tìm hiểu về “Công đoàn Việt Nam, 80 năm - một chặng đường lịch sử” với hơn 30.000 công nhân, viên chức lao động tham gia.

Liên đoàn Lao động tỉnh đã tập trung chỉ đạo các cấp công đoàn tổ chức cho công nhân, viên chức, lao động tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Văn kiện Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, tham gia cải cách hành chính, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân. Từ năm 2003 đến năm 2008 các Công đoàn cơ sở đã giới thiệu đoàn viên ưu tú để Đảng bồi dưỡng và đã có 3.261 người được kết nạp vào Đảng; tham gia giới thiệu cán bộ ưu tú trong phong trào công nhân và hoạt động công đoàn để Đảng bồi dưỡng đào

267

tạo, bố trí vào các vị trí lãnh đạo.Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao quần

chúng trong công nhân, viên chức, lao động diễn ra sôi nỗi, phong phú, đa dạng góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo nghệ thuật, nâng cao thể lực, trí lực, thúc đẩy khí thế thi đua lao động, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong từng đơn vị, địa phương. Các hoạt động này gắn liền với những ngày kỷ niệm, ngày truyền thống của dân tộc, tạo sự chuyển biến tích cực được các cấp Ủy, Chính quyền và Công đoàn cơ sở quan tâm.

Liên đoàn Lao động tỉnh và Sở Văn hóa - Thể thao thường xuyên tổ chức các giải thể thao lớn như tổ chức giải bóng đá công nhân viên chức lao động; giải bóng chuyền, giải cờ tướng; hội thi tiếng hát công nhân viên chức lao động tỉnh…

Hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước, trọng tâm là phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo” trong khu vực sản xuất kinh doanh với mục tiêu “Năng suất, chất lượng, hiệu quả” đã phát huy được nội lực của công nhân viên chức lao động trong cải tiến kỹ thuật, quản lý, tiết kiệm và ứng dụng hiệu quả công nghệ tiên tiến. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, sáng tạo, sáng kiến có giá trị được ứng dụng trực tiếp vào sản xuất và đời sống. Trong những năm 2003 - 2008 đã có 1.554 sáng kiến hoàn thành được sử dụng làm lợi cho Nhà nước, cho các đơn vị hàng tỷ đồng. Điển hình là công trình xây dựng khu nhà ở cho công nhân lao động tại Nông trường Tân Hưng, Công

268

ty cổ phần cao su Đồng Phú, Công trình trạm biến áp 120 KW và nhánh rẽ Phước Long của Công đoàn Điện lực tỉnh; Công ty xây dựng cửa khẩu Quốc tế Hoa Lư; Sáng kiến kỹ thuật của công nhân Lê Văn Thụng, Công ty cao su Bình Long… Phong trào “Luyện tay nghề, thi thợ giỏi”, thi đua nước rút về trước kế hoạch của Công đoàn các công ty cao su được phát triển sâu rộng trong công nhân, viên chứ,c lao động góp phần nâng cao tay nghề, năng suất, chất lượng sản phẩm. Qua các hội thi luyện tay nghề, thi thợ giỏi, số công nhân có tay nghề giỏi ngày càng tăng, đạt trên 80%.

Phong trào “Xanh - sạch - đẹp, bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động”, phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” đã nâng cao ý thức chấp hành nội quy, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động của người lao động và người sử dụng lao động; bảo vệ tài sản, an ninh trật tự của doanh nghiệp. Nhiều đơn vị như Kho Bạc, Ngân hàng Nhà nước, Điện lực, các Công ty cao su, Viễn thông… đã ký kết và triển khai có hiệu quả các quy chế phối hợp bảo vệ an ninh trật tự. Trong những năm qua các cấp Công đoàn đã xây dựng được 316 tổ an ninh công nhân, mạng lưới an toàn vệ sinh với hơn 1.000 người, làm nòng cốt trong công tác bảo hộ lao động và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở.

Trong khu vực hành chính sự nghiệp, phong trào nâng cao hiệu quả công tác cải cách thủ tục hành chính và chất lượng chuyên môn của cán bộ công chức. Điển

269

hình là phong trào “Dạy tốt, học tốt” gắn với phong trào đúc rút sáng kiến kinh nghiệm của cán bộ, giáo viên Công đoàn ngành giáo dục, phong trào đã trở thành biện pháp quan trọng để bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi. Kết quả nổi bật của phong trào là 492 sáng kiến kinh nghiệm được xếp loại cấp tỉnh, 9 nhà giáo được phong tặng danh hiệu “Nhà giáo ưu tú”, 32.762 lượt cán bộ giáo viên đạt danh hiệu lao động giỏi, chiếm tỉ lệ gần 60% tổng số cán bộ, giáo viên toàn ngành. Phong trào thi đua rèn luyện y đức của Công đoàn ngành y tế đã trở thành mục tiêu phấn đấu suốt đời của cán bộ, công nhân viên chức nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Những năm qua đã có nhiều công trình , đề tài khao học cấp tỉnh được ứng dụng, 850 lượt tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua được các cấp, các ngành khen thưởng, 15 cá nhân được nhà nước phong tặng danh hiệu “Thầy thuốc ưu tú”.

Phong trào thi đua “Liên kết phục vụ nông nghiệp phát triển nông thôn” đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp gắn với thị trường tiêu thụ. Về chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, đã xây dựng được 24 câu lạc bộ IBM, 72 câu lạc bộ khuyến nông, 6 câu lạc bộ khuyến ngư; tổ chức được 376 lớp tập huấn về kỹ thuật bảo vệ, chăm sóc cây trồng, vật nuôi; 406 lượt sinh hoạt chuyên đề về nông nghiệp; 239 lớp tập huấn về nông dược và xây dựng được hơn 200 mô hình trình diễn

270

về giống cây trồng vật nuôi. Về thủy lợi đã xây mới 10 công trình thủy lợi tập trung và 26 công trình nước sạch, đảm bảo nước sinh hoạt cho số hộ dân và nước tưới cho 61% số xã trong tỉnh. Qua phong trào, đã có 79 lượt tập thể, 410 cá nhân đạt danh hiệu “ Lao động giỏi”, 206 lượt cá nhân là chiến sỹ thi đua các cấp. Phong trào đã đẩy mạnh tiến độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, thực hiện hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh.

Kết quả của các phong trào đã góp phần đưa phần kinh tế tỉnh và tăng trưởng khá, tốc độ GDP bình quân 2003 - 2008 đạt 13,1%. Thu nhập bình quân đầu người từ 470 USD/năm (2005) đến năm 2008 hơn 1.800 USD/năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân tăng 21% năm, mạng lưới giao thông, các công trình phúc lợi xã hội về văn hóa, y tế, giáo dục… được quan tâm phát triển đến vùng sâu, vùng xa.

Trước những tác động mạnh đến tình hình công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn trong thời gian gần đây, Công đoàn các cấp đã quan tâm nhiều hơn đến công tác tham gia quản lý, chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động, đẩy mạnh các hoạt động xã hội của Công đoàn. Liên đoàn Lao động tỉnh đã tham gia Ban Chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp của tỉnh, chủ động phối hợp với các ngành liên quan, hướng dẫn Công đoàn cơ sở phối hợp với chuyên môn thực hiện các bước sắp xếp đổi mới doanh

271

nghiệp Nhà nước đúng tiến độ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân lao động tại doanh nghiệp, nhất là đối với số lao dộng dôi dư.

Liên đoàn Lao động tỉnh đã phối hợp với Sở Lao đông - Thương binh &Xã hội, Bảo hiểm Xã hội tỉnh luân phiên chủ trì công tác kiểm tra thực hiện Bộ Luật Lao động, Luật Công đoàn và thực hiện các chế độ chính sách đối với công nhân, viên chức, lao động; đã phối hợp với Sở Lao động - Thương binh & Xã hội và Phòng cảnh sát Phòng cháy chữa cháy Công an tỉnh hướng dẫn các cấp Công đoàn phối hợp với chính quyền, chuyên môn thực hiện Tuần lễ Quốc gia về an toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ, kiểm tra việc thực hiện các chế độ chính sách về bảo hộ lao động đối với công nhân lao động. Các cấp Công đoàn đã chủ động tham mưu với người sử dụng lao động huấn luyện công tác bảo hộ lao động. Chỉ đạo xây dựng tổ chức, hoạt động của mạng lưới an toàn vệ sinh viên; tổ chức hội thi “An toàn vệ sinh viên giỏi”, “Lái xe mô tô an toàn”, “Thi tuyên truyền viên giỏi về an toàn giao thông”. Thông qua các hội thi đã tuyển chọn những thí sinh xuất sắc tham gia hội thi do Liên đoàn Lao động tỉnh và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức.

Công đoàn các cấp đã chăm lo giải quyết việc làm cho công nhân, viên chức, lao động thông qua giới thiệu việc làm, đào tạo nghề, cho vay vốn giải quyết việc làm, thực hiện tốt chế độ hỗ trợ cho lao động dôi dư… Các loại quỹ hỗ trợ việc làm do Công đoàn quản lý đã giải quyết vốn

272

vay cho hàng ngàn lượt công nhân, viên chức, lao động khó khăn phát triển kinh tế. Hoạt động xã hội của Công đoàn được duy trì với nhiều nội dung, hình thức đa dạng, phong phú, thể hiện tinh thần “Tương thân, tương ái” của công nhân, viên chức, lao động. Công đoàn các cấp đã vận động công nhân, viên chức, lao động ủng hộ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, hiến máu nhân đạo; mua vé số ủng hộ Quỹ khuyến học, Bảo trợ trẻ em, Đền ơn đáp nghĩa, Vì người nghèo, ủng hộ nạm nhân chất độc Da cam/Dioxin; xây dựng nhà tình nghĩa, thăm hỏi, giúp đỡ các gia đình chính sách, trẻ em nghèo, trẻ em khuyết tật, phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng… với số tiền hàng chục tỷ đồng. Chương trình “Mái ấm Công đoàn” đã giúp hàng trăm công nhân, viên chức, lao động có hoàn cảnh khó khăn xây dựng, sữa chữa nhà ở.

Thực hiện Chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên công đoàn do Đại hội IX Công đoàn Việt Nam đề ra, nhiệm kỳ qua Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước đã tập trung chỉ đạo Công đoàn các cấp thực hiện chương trình phát triển đoàn viên, chú trọng phát triển đoàn viên trong các thành phần kinh tế, đặc biệt là trong doanh nghiệp tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài, đạt 159% kế hoạch. Thành lập mới 138 Công đoàn cơ sở, trong đó có 53 Công đoàn cơ sở doanh nghiệp ngoài nhà nước, chiếm 30% so với tổng doanh nghiệp đủ điều kiện thành lập Công đoàn; kết nạp 8.423 đoàn viên, trong đó đoàn viên công đoàn doanh nghiệp nhà nước là 7.784, chiếm 94%.

273

Đi đôi với phát triển đoàn viên và thành lập Công đoàn cơ sở, các cấp Công đoàn đã chú trọng xây dựng, củng cố tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn; phân công cán bộ đi sâu cơ sở, đi sát công nhân lao động; từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động cho phù hợp với từng loại hình cơ sở, nhất là hoạt động của Công đoàn cấp huyện, thị, Công đoàn ngành và các Công đoàn doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Tổ chưc và hoạt động Công đoàn xã, phường, thị trấn từng bước được ổn định, dần đi vào nề nếp. Kết quả, hàng năm có 81,5% Công đoàn cơ sở đạt vững mạnh, vững mạnh xuất sắc, trong đó khu vực nhà nước đạt 98%, doanh nghiệp tư nhân có vốn đầu tư ngoài đạt 40%. Không có Công đoàn cơ sở xếp loại yếu kém.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn các cấp có chuyển biến tích cực; đổi mới về nội dung, phương pháp giảng dạy giúp cho đội ngũ cán bộ công đoàn tiếp cận được các phương thức hoạt động công đoàn trong tình hình mới. Trong nhiệm kỳ qua, 78% cán bộ công đoàn các cấp được huấn luyện, bồi dưỡng về nghiệp vụ công tác công đoàn.

Trình độ đội ngũ cán bộ công đoàn chuyên trách được nâng lên, nhiều cán bộ được cử đi đào tạo các lớp Đại học tại chức công đoàn và chuyên ngành khác. Đến nay, 69% cán bộ công đoàn chuyên trách có trình độ đại học, 64% có trình độ lý luận chính trị.

Công tác xã hội của Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước có bước phát triển tích cực, với nhiều nội dung,

274

hình thức phong phú. Các cấp công đoàn từ tỉnh đến cơ sở trong những năm 2003 - 2008 đã huy động được hơn 658 tỷ đồng giải quyết cho hơn 30.500 lượt công. Công nhân, viên chức, lao động tỉnh đã tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo, từ thiện để đóng góp hàng tỷ đồng vào các loại quỹ do Tỉnh và Trung ương tổ chức, phat động. Các hoạt động hỗ trợ giải quyết việc làm thông qua vay vốn từ quỹ Quốc gia và thông qua tín chấp vay vốn ngân hàng, xây dựng các loại quỹ như quỹ tương trợ đời sống, quỹ tiết kiệm vì nữ công nhân, viên chức, lao động nghèo, quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm và nhiều hình thức phong phú khác của Công đoàn cơ sở. Các hoạt động trên của Công đoàn đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động, góp phần giảm hộ nghèo trong công nhân, viên chức, lao động và nhân dân tỉnh Bình Phước.

Phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” được Liên đoàn Lao động tỉnh chỉ đạo các cấp công đoàn tiếp tục triển khai thực hiện. Hàng năm có trên 70% nữ công nhân, viên chức, lao động đạt danh hiệu giỏi việc nước đảm việc nhà và 3 tiêu chuẩn phong trào phụ nữ tích cực học tập, lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc. Tổng kết 5 năm phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” (giai đoạn 2005 - 2010), có 107.510 lượt chị đạt danh hiệu lao động giỏi, có 118.388 lượt chị được công nhận danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” các cấp. Triển khai thực hiện kế hoạch tổ chức,

275

hội nghị biểu dương gia đình nữ công nhân, viên chức, lao động tiêu biểu, các cấp Công đoàn đã bình xét hàng ngàn gia đình nữ công nhân, viên chức, lao động tiêu biểu các cấp, trong đó có 232 nữ công nhân, viên chức, lao động tiêu biểu xuất sắc được Thủ tướng Chính phủ, Bộ, Ngành, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khen. Ngoài ra, có 3.302 nữ công nhân, viên chức, lao động được Ủy ban Nhân dân tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh và các cấp Công đoàn khen.

Hoạt động xã hội trong nữ công nhân, viên chức, lao động đã được duy trì, đông đảo nữ công nhân, viên chưc, lao động đã ủng hộ đóng quỹ xây dựng tượng đài Hai Bà Trưng, tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng và hưởng ứng Tháng hành động vì trẻ thơ, nhân Ngày gia đình Việt Nam, Ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6, Tết Trung thu…

Các hoạt động tuyên truyền giáo dục về giới, về truyền thống, dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc bảo vệ bà mẹ và trẻ em… các hoạt động vận động nữ công nhân, viên chức, lao động tích cực học tập, công tác, rèn luyện, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

Hàng năm Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Công đoàn các cấp đã chỉ đạo, hướng dẫn Ủy ban kiểm tra Công đoàn các cấp tổ chức thực hiện chương trình kiểm tra, tổ chức hàng chục lớp với hàng ngàn lượt người tham dự tập huấn về nội dung, nhiệm vụ, quyền hạn và phương pháp hoạt động của Ủy ban kiểm tra công đoàn, đưa hoạt động

276

của Ủy ban kiểm tra công đoàn đi vào nề nếp và hiệu quả thiết thực. Trong những năm 2003 - 2008 đã giúp Ban Chấp hành, Ban Thường vụ tiến hành kiểm tra Điều lệ, kiểm tra tài chính công đoàn và giải quyết khiếu nại, tố cáo được 998 đơn. Thông qua công tác kiểm tra Công đoàn, đã kịp thời phát hiện và kiến nghị với Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Công đoàn các cấp xử lý các vi phạm trong việc chấp hành điều lệ, chỉ thị, nghị quyết và các quy định của Công đoàn, góp phần từng bước đưa hoạt động tài chính Công đoàn vào nề nếp, đảm bảo đúng chế độ của Nhà nước và quy định của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Ủy ban kiểm tra công đoàn các cấp đã giúp Ban Chấp hành, Ban Thường vụ công đoàn tiếp hàng trăm lượt công nhân, viên chức, lao động, đoàn viên công đoàn đến khiếu nại tố cáo, và đã giải quyết, tham gia giải quyết hàng trăm đơn, công đoàn đã bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động, hạn chế tranh chấp lao động xảy ra.

Hoạt động tài chính công đoàn đã có nhiều cố gắng, chi tiêu đúng mục đích, có hiệu quả và tiết kiệm. Các cấp Công đoàn đã tập trung kinh phí cho các hoạt động phong trào, chú trọng hơn việc giành kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đoàn viên, đảm bảo thực hiện tốt dự toán thu, chi ngân sách công đoàn. Liên đoàn Lao động tỉnh đã tiết kiệm, dành một phần kinh phí, tranh thủ sự hỗ trợ của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam để xây dựng trụ sở làm việc, mua sắm thêm máy vi tính để trang bị cho

277

các Liên đoàn Lao động huyện và Công đoàn ngành, tiến hành nối mạng nội bộ cơ quan Liên đoàn Lao động tỉnh và kết nối Internet. Hàng năm Liên đoàn Lao động đã chỉ đạo các cấp Công đoàn thực hiện công khai tài chính theo quy định.

Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chương trình, kế hoạch công tác của các cấp Ủy và cơ quan, đơn vị, phong trào thi đua do Công đoàn phát động, tổ chức đã gắn với các sự kiện chính trị, những ngày lễ lớn của đất nước, gắn với phong trào thi đua yêu nước của toàn dân, đề ra các chỉ tiêu, nội dung phù hợp với ngành, cơ quan, đơn vị, do vậy đã khơi dậy được ý thức trách nhiệm, lòng nhiệt tình và tính sáng tạo của công nhân, viên chức, lao động, góp phần quan trọng vào hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương, đơn vị. Các cấp công đoàn đã tham gia có hiệu quả trong thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Công đoàn đã phát huy vai trò đại diện chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động, chủ động tham gia giải quyết tranh chấp lao động và đình công ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, giúp doanh nghiệp ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội và giữ vững an ninh chính trị. Hoạt động xã hội của công đoàn được đẩy mạnh với nội dung,

278

hình thức phong phú, góp phần xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh. Công tác tổ chức, đào tạo bồi dưỡng cán bộ công đoàn, phát triển đoàn viên, thành lập Công đoàn cơ sở và xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh, được chú trọng chỉ đạo thực hiện. Hoạt động công đoàn tỉnh đã bám sát các chỉ tiêu, nhiệm vụ do Nghị quyết Đại hội IX Công đoàn Việt Nam, Nghị quyết Đại hội VII Công đoàn tỉnh và Nghị quyết Đại hội Công đoàn ở đơn vị, cơ quan đề ra. Nhiều chỉ tiêu do Đại hội VII Công đoàn tỉnh đề ra đã phấn đấu thực hiện vượt mức.

Đạt được những kết quả trên đây, bên cạnh sự nỗ lực của cán bộ, đoàn viên, công nhân, viên chức, lao đông trong toàn tỉnh là có sự quan tâm lãnh đạo của Tỉnh ủy và Đoàn Chủ tịch Tổng Liên Đoàn Lao động Việt Nam; sự phối hợp của các cấp chính quyền và cơ quan chuyên môn, các ban ngành của tỉnh, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Trong điều kiện mới, cán bộ, đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động tỉnh Bình Phước, tiếp tục phấn đấu xây dựng phong trào công nhân, công đoàn của tỉnh vững mạnh hơn, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng tỉnh Bình Phước thành tỉnh giàu mạnh.

Tuy vậy, bên cạnh những thành tích đạt được phong trào công nhân, hoạt động công đoàn trong tỉnh vẫn còn những khiếm khuyết như: Nội dung và hình thức tuyên truyền, giáo dục ở một số Công đoàn cơ sở chưa phong phú, chưa phù hợp với từng loại đối tượng công nhân,

279

viên chức, lao động; công tác tuyên truyền chưa đến được đa số công nhân, lao động trực tiếp sản xuất, nhất là công nhân, lao động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Vai trò đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho người lao động của Công đoàn cơ sở khu vực kinh tế ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiệu quả còn thấp. Số đông cán bộ công đoàn ở khu vực ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa có kinh nghiệm và phương pháp hoạt động công đoàn, chưa mạnh dạn đấu tranh với người sử dụng lao động để bảo vệ quyền và lợi ích của công nhân lao động.

Ở một số doanh nghiệp chất lượng Đại hội công nhân viên chức và Hội nghị cán bộ công chức ở một số cơ quan còn biểu hiện hình thức; hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân chưa đạt hiệu quả thiết thực. Một số Công đoàn ngành, Liên đoàn Lao động huyện và Công đoàn cơ sở công tác thi đua chưa thiết thực, nội dung thi đua còn chung chung nên hiệu quả thi đua thấp. Công tác chỉ đạo thi đua thiếu sâu sát, chưa coi trọng tổng kết rút kinh nghiệm và nhân điển hình tiên tiến.

Công tác phát triển đoàn viên, thành lập Công đoàn cơ sở ở các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa tương xứng với sự phát triển của các doanh nghiệp và sự tăng nhanh của lực lượng lao động ở khu vực này. Đoàn

280

phí công đoàn và kinh phí (2%) ở Công đoàn cơ sở doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn thất thu.

Sự phối hợp giữa Công đoàn ngành với Liên đoàn Lao động huyện, thị trong chỉ đạo công đoàn cơ sở có lúc chưa chặt chẽ. Công tác chỉ đạo của Công đoàn cấp trên trực tiếp của cơ sở ở một số nơi chưa sát thực, hiệu quả chưa cao, công tác đánh giá phân loại chất lượng Công đoàn cơ sở vững mạnh còn manh tính hình thức. Công tác thông tin báo cáo ở một số Công đoàn có lúc thiếu chính xác, không kịp thời.

III. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HóA; HIỆN ĐẠI HóA (2008 - 2012)

Thực hiện chủ trương và sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Tổng Liên đoàn Lao động, từ giữa năm 2007 hệ thống Công đoàn các cấp tổ chức sơ kết, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm kỳ Đại hội cấp cơ sở; tập hợp ý kiến đóng góp của cán bộ, đoàn viên và công đoàn cơ sở với công đoàn cấp trên, đồng thời tiến hành Đại hội cấp Công đoàn huyện, thị và Công đoàn ngành.

Đại hội Công đoàn cơ sở nhất trí cao dự thảo báo cáo và phương hướng, nhiệm vụ do Liên đoàn Lao động tỉnh đề ra cho nhiệm kỳ tới, trong đó tập trung vào những vấn đề bức thiết của cuộc sống: tiếp tục góp phần vào công tác tổ chức lại sản xuất, sắp xếp lại lao động để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh

281

của hàng hóa trong cơ chế thị trường, tăng thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao trình độ văn hóa, tay nghề của người lao động, chống tiêu cực và tệ nạn xã hội, phát huy vai trò tích cực của tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vv…

Đại hội Công đoàn các huyện, thị và các ngành trong tỉnh đã nêu bật được những thành tích của tổ chức Công đoàn ngành, Công đoàn địa phương và nhiều đóng góp to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính trị, an ninh - quốc phòng. Việc tổ chức thành công Đại hội Công đoàn Cơ sở là điều kiện thuận lợi quyết định thắng lợi của Đại hội Công đoàn cấp tỉnh.

Hướng về Đại hội Công đoàn tỉnh lần thứ VIII, bên cạnh công tác chuẩn bị nội dung đại hội, Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh đã phát động phong trào hành động cách mạng, thi đua mạnh mẽ, sôi nổi trong công nhân, viên chức, lao động lập thành tích chào mừng Đại hội Công đoàn các cấp và Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ X.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động, 100% Liên đoàn Lao động huyện thị, Công đoàn ngành trong toàn tỉnh đã nhất loạt tiến hành các hình thức thi đua thiết thực ra sức phát huy nội lực, đoàn kết, khắc phục khó khăn, vượt qua những thách thức, tiếp tục vươn lên trong nhiều lĩnh vực sản xuất, duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Nhiều Công đoàn cơ sở đã tổ chức

282

phong trào thi đua chào mừng Đại hội Công đoàn cấp trên với nhiều nội dung phong phú.

Trên cơ sở hoàn thành Đại hội Công đoàn các cấp, từ ngày 21 đến ngày 22 tháng 5 năm 2008, Đại hội Công đoàn tỉnh Bình Phước lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2008 - 2013 đã được tổ chức tại thị xã Đồng Xoài. Tham dự đại hội có 247 đại biểu chính thức, đại diện cho hơn 60 ngàn công nhân, viên chức, lao động của tỉnh. Các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Tỉnh ủy, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam như đồng chí Nguyễn Tấn Hưng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Nguyễn Văn Ngàng, phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và nhiều đại biểu đại diện cho các sở, ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh đã tới dự và phát biểu nhiều ý kiến đóng góp quan trọng.

Phát biểu tại đại hội, đồng chí Nguyễn Tấn Hưng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh ủy đã nêu rõ vai trò, vị trí của cán bộ, công nhân, viên chức, lao động đối với tình hình phát triển của tỉnh nhà; đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa cán bộ, công nhân, viên chức, lao động ngày càng phát triển về cả số lượng và chất lượng, là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất trong xã hội.

Thay mặt Đoàn Chủ tịch đại hội, đồng chí Lâm Văn Phúc, Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban chấp hành Tổng Liên đoàn Việt Nam, Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh đã trình bày báo cáo chính trị của Liên đoàn Lao động tỉnh khóa

283

VII. Báo cáo đã tổng kết sâu sắc phong trào công nhân và hoạt động công đoàn trong tỉnh nhiệm kỳ qua; nêu bật vai trò, vị trí và những đóng góp to lớn của công nhân, viên chức, lao động trong tỉnh và sự nghiệp xây dựng tỉnh nhà trong công cuộc đổi mới đất nước.

Với tinh thần thẳng thắn, dân chủ, đoàn kết, đại hội nhất trí đánh giá những thành tựu của nhiệm kỳ Đại hội VII Công đoàn tỉnh trên những nội dung cơ bản sau:

Trong 5 năm qua, cán bộ, đoàn viên và công nhân, viên chức, lao động tỉnh Bình Phước đã không ngừng phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thử thách thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội VII Công đoàn tỉnh đề ra và đạt được nhiều kết quả thiết thực. Đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, viên chức, lao động ngày càng được cải thiện, lòng tin của công nhân, viên chức, lao động vào thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng ngày càng nâng cao. Tổ chức Công đoàn không ngừng phát triển, thực sự là người đại diện tin cậy của công nhân, viên chức, lao động, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với công nhân viên, chức, lao động. Quan hệ phối hợp giữa Công đoàn với chính quyền chuyên môn các cấp, các ngành và các đoàn thể chính trị - xã hội trong tỉnh ngày càng chặt chẽ và hiệu quả hơn. Hoạt động Công đoàn đã góp phần vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đồng thời, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX Công đoàn Việt Nam.

284

Bên cạnh thành tích, Đại hội chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm của hoạt động công đoàn trong nhiệm kỳ qua là:

Công tác phát triển đoàn viên và xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước chưa theo kịp được sự phát triển của nền kinh tế, số Công đoàn cơ sở vững mạnh ở khu vực này đạt thấp. Chất lượng hoạt động Công đoàn ở một số đơn vị chưa cao nhất là ở khu vực ngoài nhà nước và Công đoàn xã, phường, thị trấn. Công tác tham gia quản lý, kiểm tra giám sát việc thực thi pháp luật công đoàn đôi khi còn chưa được thực hiện tốt do đó các chế độ chính sách của công nhân lao động chưa được thực hiện triệt để.

Tuy các cấp Công đoàn đã có sự quan tâm để tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ Công đoàn cho các cán bộ công đoàn nhưng do mỗi nhiệm kỳ đội ngũ cán bộ Công đoàn cơ sở có sự thay đổi rất lớn nên công tác tập huấn, bồi dưỡng chưa đạt được 100% cán bộ công đoàn (số mới bổ sung hoặc thay đổi) mà Nghị quyết đại hội VII đã đề ra.

Công tác tuyên truyền giáo dục của Công đoàn còn hạn chế nên nhận thức của công nhân, viên chức, lao động về tổ chức Công đoàn và về quyền lợi, nghĩa vụ trách nhiệm của bản thân chưa thực sự đầy đủ. Phong trào đăng ký thi đua các công trình sản phẩm chào mừng các ngày lễ lớn, các sự kiện trọng đại của địa phương và đất nước chưa được đều khắp.

Đại hội nhất trí thông qua nghị quyết, xác định rõ mục tiêu hoạt động công đoàn tỉnh trong nhiệm kỳ 2008 - 2013

285

là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của Công đoàn các cấp, hướng mạnh về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy công nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận động, thực hiện tốt chức năng tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động. Xây dựng quân hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ; chủ động phối hợp với chính quyền và người sử dụng lao động đào tạo nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp cho công nhân, góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đaị hóa đất nước”(�) .

Khẩu hiệu hành động của tổ chức Công đoàn trong những năm tới là: “Đổi mới, sáng tạo, hoạt động công đoàn vì quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động, vì sự phát triển bền vững của đất nước”.

Để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu trên, Đại hội Công đoàn tỉnh Bình Phước lần thứ VIII đề ra 6 nhiệm vụ lớn là: Một là, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động. Hai là, tuyên truyền, giáo dục công nhân, viên chức, lao động góp phần xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức lao động lớn mạnh. Ba là, tổ chức các phong trào hành động cách mạng và thi đua yêu nước trong công nhân, viên chức, lao động. Bốn là, tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức lao động, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức và đội ngũ

(1) Trích Văn kiện Đại hội Liên đoàn Lao động tỉnh nhiệm kỳ VIII.

286

cán bộ công đoàn. Năm là, tổ chức các hoạt động trong nữ công nhân, viên chức, lao động. Sáu là, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tài chính công đoàn.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước khóa VIII gồm 33 đồng chí, trong đó có 9 đồng chí được bầu vào Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước. Đồng chí Lâm Văn Phúc được bầu lại làm Chủ tịch, các đồng chí Đoàn Văn Rồi, Trần Văn Lập được bầu làm Phó Chủ tịch. Các đồng chí Đoàn Văn Luận, Bùi Văn Hiếu, Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Hải Lý, Nguyễn Thị Hạnh, Lê Văn Mãi giữ chức Ủy viên Ban Thường vụ. Sự thành công của Đại hội Liên đoàn Lao động tỉnh khóa VIII, thể hiện sự đoàn kết, nhất trí của công nhân, viên chức, lao động tỉnh nhà. Trên cơ sở đó, phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn Bình Phước sẽ đạt nhiều hiệu quả, góp phần đắc lực thực hiện thành công những nhiệm vụ, mục tiêu do đại hội đề ra, tạo tiền đề để công nhân, viên chức, lao động tỉnh nhà cùng công nhân, viên chức, lao động cả nước vững bước thực hiện thành công công cuộc đổi mới của Đảng.

Đại hội lần thứ X Tổng Liên Đoàn Lao động Việt Nam họp từ ngày 2 đến ngày 5//11/2008, đề ra khẩu hiệu hành động: “Đổi mới, sáng tạo, bảo vệ quyền lợi của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động, vì sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước”. Đại hội xác định mục tiêu, phương hướng: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Công đoàn các cấp; hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy đoàn viên, công

287

nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận động; chuyển mạnh hoạt động Công đoàn vào việc tổ chức thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước”.

Nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Phước và Đại hội Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước lần thứ VIII đề ra, trong nhiệm kỳ, Công đoàn các cấp thường xuyên phát động các phong trào thi đua như phong trào thi đua “Lao động giỏi’, “Lao động sáng tạo”, “Luyện tay nghề, thi thợ giỏi”, “Xanh - sạch - đẹp”… Trong phong trào thi đua “Lao động giỏi” khu vực sản xuất kinh doanh với mục tiêu “Năng suất, chất lượng, hiệu quả cao” đã phát huy được nội lực của công nhân, viên chức, lao động trong cải tiến kỹ thuật, quản lý, tiết kiệm và ứng dụng hiệu quả công nghệ tiên tiến. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, sáng tạo có giá trị được ứng dụng trực tiếp vào sản xuất và đời sống. Trong 5 năm qua đã có hơn 2.073 sáng kiến kinh nghiệm khoa học, giảng dạy được công nhận và 426 công trình thi đua được thực hiện mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn với sự phối hợp, liên kết và lồng ghép chặt chẽ giữa Liên đoàn Lao động huyện, thị, ngành và cơ sở.

Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết thi đua, tuyên truyền, xây dựng học tập điển hình tiên tiến được các cấp Công đoàn coi trọng. Việc bình bầu các danh hiệu thi đua đi vào thực chất hơn. Hàng năm, số tập thể, cá nhân đạt

288

danh hiệu tiên tiến, lao động giỏi, chiến sĩ thi đua các cấp ngày càng nhiều. Gần một nhiệm kỳ qua có 1.449 lượt tập thể và trên 208.347 cá nhân đạt lao động tiên tiến; gần 22.508 lượt cá nhân đạt chiến sĩ thi đua các cấp. Qua các phong trào thi đua đã xuất hiện nhiều tấm gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến, nhân tố mới, góp phần động viên, giáo dục và xây dựng con người mới.

Phong trào “Luyện tay nghề, thi thợ giỏi”, thi đua nước rút về trước kế hoạch của công nhân các công ty cao su đã cụ thể hóa về nội dung, cải tiến và đổi mới về hình thức, biện pháp chỉ đạo ngày càng phát triển sâu rộng thu hút đông đảo công nhân, viên chức, lao động tham gia góp phần nâng cao tay nghề, năng suất, chất lượng sản phẩm. Qua các hội thi luyện tay nghề, thi thợ giỏi, số công nhân có tay nghề giỏi ngày càng tăng, đạt trên 80%.

Phong trào “Xanh - sạch - đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động” có nhiều chyển biến tích cực, trở thành hành động cụ thể trong công nhân lao động Bình Phước. Công đoàn phối hợp cùng các cơ quan chức năng thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, góp phần cải thiện điều kiện làm việc, môi trường lao đông, hạn chế tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Đồng thời, Công đoàn đã tổ chức nhiều đợt tập huấn về công tác bảo hộ lao động, an toàn vệ sinh lao động, phát động phong trào hưởng hứng cuộc thi tìm hiểu về an toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ, tổ chức hội thi an toàn vệ sinh viên giỏi.

Công tác tuyên truyền, giáo dục của Công đoàn

289

trong những năm qua có nhiều đổi mới về hình thức, nội dung tuyền truyền giáo dục. Các cấp Công đoàn đã bám sát nhiệm vụ và tình hình kinh tế, chính trị, tổ chức tuyên truyền, học tạp phù hợp với thực tế của từng cấp Công đoàn, sát thực tiễn đời sống của đoàn viên, người lao động và yêu cầu hoạt động công đoàn, trong đó tập trung các nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước góp phần nâng cao nhận thức chính trị, trình độ văn hóa, tay nghề, xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức, lao động vững mạnh, giữ vai trò nòng cốt trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Một số nơi đã xây dựng các tổ tự quản công nhân và các tủ sách pháp luật về lao động, về công đoàn tại khu nhà trọ của đoàn viên và người lao động. Tính đến cuối năm 2012, các cấp Công đoàn đã thành lập được 8 tổ tự quản, 147 phòng với 402 công nhân bước đầu hoạt động đạt kết quả tốt, góp phần đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt, các cấp Công đoàn đã có nhiều hình thức, phương pháp tuyên truyền thực hiện chương trình phát triển đoàn viên, trong đó việc biên soạn tờ gấp, sổ tay tuyên truyền pháp luật, với nội dung hỏi - đáp ngắn gọn, dễ hiểu về quyền lợi, nghĩa vụ của đoàn viên, người lao động là một trong những biện pháp tuyên truyền hiệu quả cao.

Việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chi Minh” gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng nếp sống văn hóa trong cơ quan, đơn vị, doanh

290

nghiệp được các cấp công đoàn triển khai sâu rộng, đạt được nhiều kết quả quan trọng về nhận thức và hành động, nhiều hình thức phong phú, có nội dung thiết thực, cụ thể, bám sát thực tế ở từng địa phương, ngành, cơ sở, với sự tham gia của hàng ngàn đoàn viên và người lao động.

Đã có nhiều hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn, các sự kiện trọng đại của đất nước: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và Hội đồng nhân dân các cấp, ngày thành lập Công đoàn Việt Nam 28/7… Việc tổ chức cho đoàn viên, công nhân viên chức lao động học tập Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, IX đạt 100% và nhiều đơn vị đã triển khai thực hiện chương trình hành động với các chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho công nhân, viên chức, lao động. Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, Liên đoàn Lao động huyện, thị đã tổ chức tuyên truyền về công tác bầu cử cho cán bộ công đoàn chủ chốt; tổ chức cho công nhân, viên chức, lao động thực hiện nghĩa vụ bầu cử, đạt kết quả 100% công nhân, viên chức, lao động đi bầu cử.

Nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong công nhân, viên chức, lao động, đặc biệt là công nhân lao động khu kinh tế ngoài nhà nước, công đoàn các cấp đã phổ biến kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật liên quan trực tiếp đến công nhân, viên chức, lao động tổ chức tuyên truyền với 462 cuộc, 1.524 hội nghị, tọa đàm, 271 lớp sinh hoạt và cuộc thi tìm hiểu pháp luật ở các cấp Công đoàn, thu hút hàng ngàn lượt

291

công nhân, viên chức, lao động tham gia, riêng Liên đoàn Lao động tỉnh tổ chức Hội thi Tuyên truyền viên phòng chống tội phạm, ma túy, HIV/AIDS cho hơn 300 cán bộ công chức tham gia; in ấn, phát hành 151.108 tài liệu về Bộ Luật Lao động, Luật Công đoàn, Điều lệ Công đoàn, Luật phòng, chống ma túy, Luật phòng, chống HIV/AIDS, cùng các tờ rơi, pa nô, áp phích… về chế độ, chính sách liên quan đến người lao động. Các cấp Công đoàn đã xây dựng hàng ngàn tủ sách pháp luật để công nhân viên chức, lao động học tập, nghiên cứu; tư vấn pháp luật công đoàn cho 157 lượt; tổ chức được 368 lớp chuyên đề về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, có 48.464 người tham gia, trong đó 548 người được khen thưởng.

Phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở có bước phát triển và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong từng cơ quan, đơn vị. Hàng năm, Liên đoàn Lao động tỉnh ký kết chương trình liên tịch với Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Qua kết quả kiểm tra chấm điểm, hàng năm có trên 98% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp được công nhận đạt chuẩn văn hóa và trên 97% cán bộ công chức đạt Nếp sống văn minh cá nhân.

Các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao được các cấp công đoàn duy trì thường xuyên tạo không khí phấn khởi, sôi nổi cùng với nhiều hội thi được tổ chức quy mô lớn đã tạo ra sân chơi bổ ích, đời sống văn hóa lành mạnh, hấp dẫn thu hút đông đảo cán bộ, đoàn viên,

292

công nhân, viên chức, lao động tham gia góp phần động viên tinh thần hăng hái thi đua lao động sản xuất và công tác, với 311 hội diễn giao lưu văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao thu hút hơn 160.093 lượt diễn viên, vân động viên tham gia dự thi và đông đảo công nhân, viên chức, lao động đến xem, cổ vũ.

Các hoạt động “Tháng Công nhân” tháng 5 hàng năm gắn với kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động (1/5) do Tổng Liên đoàn phát động trong cả nước được Công đoàn các cấp trong tỉnh hưởng ứng tích cực. Hàng năm, Liên đoàn Lao động tỉnh tổ chức Lễ phát động tại KCN Minh Hưng - Hàn Quốc - Chơn Thành đã thu hút gần 1.000 đoàn viên và người lao động tham gia, trao tăng hàng ngàn phần quà của Quỹ Tấm Lòng Vàng Báo Lao Động đã mang lại những hiệu quả cụ thể, thiết thực, tạo dấu ấn quan trọng, bước phát triển trong đổi mới hình thức tập hợp đông đảo đoàn viên và người lao động đang làm việc. Nhiều Công đoàn cơ sở đã có các hoạt động phong phú như chương trình “Cùng công nhân vượt khó”, “Chăm lo đời sống công nhân”, hiến kế tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh, chia sẻ khó khăn với đoàn viên và người lao động bị tai nạn lao động, có hoàn cảnh dặc biệt khó khăn. Đưa các hoạt dộng văn hóa, thể thao đến với đoàn viên và người lao động, lồng ghép các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật diễn ra sôi nổi, giao lưu bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông; tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, tập huấn về kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ, vận động công nhân viên chức, lao động làm vệ sinh môi trường; thăm hỏi và hỗ trợ nhiều

293

phần quà nhằm động viên người lao động có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong cuộc sống… đã thể hiện tinh thần trách nhiệm, tính chủ động trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đoàn viên và người lao động góp phần thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa doanh nghiệp, công đoàn và người lao động; đồng thời khẳng định vai trò, vị trí của tổ chức Công đoàn trong việc tập hợp, vận động, giáo dục đoàn viên và người lao động, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp.

Duy trì thường xuyên, không ngừng nâng cao chất lượng chuyên mục “Lao động & Công đoàn” trên Đài phát thanh Truyền hình Bình Phước và tờ tin “Lao động - Bình Phước” đã chuyển tải kịp thời và sâu rộng đến công nhân, viên chức, lao động các chính sách pháp luật của nhà nước và tình hình hoạt động của công đoàn, từng bước tiếp cận quần chúng lao động. những năm qua, đã phát hành được 165.070 bản tin và thực hiện 250 chương trình trên sóng phát thanh, truyền hình tỉnh, phản ánh kịp thời tình hình công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn, góp phần đưa chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với người lao động.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X và Nghị quyết 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước” và chương trình hành động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Liên

294

đoàn Lao động tỉnh đã tham mưu cho Tỉnh ủy Bình Phước ban hành kế hoạch số 43-KH/TU của tỉnh thực hiện nghị quyết trên. Giao cho Liên đoàn Lao động tỉnh, các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng kế hoạch phối hợp với địa phương mình, đề ra biện pháp tổ chức thực hiện hiệu quả, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong giai cấp công nhân thời kỳ công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.

Qua 3 năm thực hiện nội dung trên, Liên đoàn Lao động tỉnh, các cấp ủy Đảng đã cụ thể hóa, xây dựng kế hoạch chương trình hành động chuyển tải nội dung Nghị quyết Trung ương 6 và Nghị quyết 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị quyết của các cấp Ủy, Đảng, Công đoàn các cấp. Việc quản lý, điều hành của Công đoàn và chính quyền các cấp đã đáp ứng những nguyện vọng chính đáng, lợi ích thiết thực của công nhân, viên chức, lao động. Xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức, lao động tỉnh nhà phát triển nhanh về số lượng, nâng cao về chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Chú trọng việc đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề; khối liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức luôn gắn kết, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, tạo thành sức mạnh trong khối đại đoàn kết dân tộc.

Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn cuộc vận động với xây dựng nếp sống văn hóa trong công nhân, viên chức, lao động được các cấp công đoàn trong tỉnh hưởng ứng thực hiện rộng rãi trong công nhân, viên chức, lao động đạt được

295

nhiều kết quả thiết thực nhằm đảm bảo chăm lo tốt về lợi ích và quyền lợi chính đáng cho người lao động.

Thực hiện chức năng chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân viên chức lao động, trong thời gian qua, công đoàn các cấp đã từng bước góp phần nâng cao ảnh hưởng của tổ chức Công đoàn trong xã hội, người lao động ngày càng hiểu rõ và gắn bó hơn với Công đoàn. Phối hợp với cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật, các chế độ chính sách đối với công nhân viên chức lao động trong các thành phần kinh tế; tham gia xây dựng đề án đổi mới doanh nghiệp nhà nước, giải quyết nhà ở, lao động dôi dư… phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng giải quyết kịp thời các vụ tranh chấp và đơn thư khiếu nại tố cáo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng góp phần ổn định quan hệ lao động hài hòa trên địa bàn.

Nhìn chung, Công đoàn các cấp đã tích cực tham gia giải quyết việc làm và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động; kịp thời nắm bắt tình hình, chủ động kiến nghị với cấp ủy, chính quyền các giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ công nhân viên chức lao động trong bối cảnh kinh tế lạm phát, giá cả tăng cao. Trung tâm dạy nghề công đoàn Bình Phước đã tư vấn tuyển dụng cho 33 doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, tư vấn cho 717 lượt, giới thiệu việc làm cho 252 người lao động. Trung tâm đã tổ chức cho trên 8.600 lượt người học luật Giao thông đường bộ hạng A1, phối hợp với Sở Giao thông vận tải tổ chức thi sát hạch và cấp 8.750 phép lái xe. Nhiều đơn vị đã tổ chức

296

đào tạo và đào tạo lại tay nghề, trong 5 năm qua, các công ty cao su đã tổ chức đào tạo tay nghề cho 3.519 công nhân khai thác mủ. Các loại quỹ khác do Công đoàn các cấp quản lý như Quỹ vì nữ công nhân lao động nghèo, Quỹ tiết kiệm xoay vòng, việc thăm hỏi đoàn viên ốm đau, tai nạn lao động, trợ cấp khó khăn được công đoàn các cấp thường xuyên thực hiện… với số tiền hơn 10 tỷ đồng.

Hoạt động xã hội và chăm lo đời sống của các cấp công đoàn được triển khai thường xuyên và sâu rộng trong mọi đối tượng đoàn viên, người lao động với nhiều nội dung, hình thức đa dạng, phong phú. Cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, lao động luôn là lực lượng nòng cốt, đi đầu, đóng góp chủ yếu trong việc thực hiện các cuộc vận động xã hội, nhân đạo, từ thiện, xây dựng các Qũy “Xã hội từ thiện tấm Lòng Vàng”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng, “Ngày vì người nghèo”… do Mặt trận Tổ quốc và công đoàn các cấp phát động với giá trị hàng trăm tỷ đồng mỗi năm. Chương trình “Mái ấm Công đoàn” được các cấp ủy Đảng hoan nghênh và quan tâm chỉ đạo, chính quyền, công đoàn, doanh nghiệp, nhiều nhà hảo tâm… tích cực hưởng ứng, ủng hộ được 139 căn với tổng giá trị trên 3 tỷ đồng, giúp hàng trăm gia đình đoàn viên và người lao động có hoàn cảnh khó khăn có điều kiện sửa chữa, xây mới nhà ở.

Thực hiện Công văn số 896/TLĐ ngày 25/6/2012 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về Chương trình “Tấm lưới nghĩa tình vì Hoàng Sa, Trường Sa” đã thu hút được sự hưởng ứng đông đảo, mạnh mẽ của hàng ngàn

297

lượt đoàn viên và người lao động, tổ chức, doanh nghiệp và các cấp Công đoàn trong cả tỉnh với số tiền hỗ trợ lên trên 81 tỷ đông, giúp các gia đình ngư dân gặp khó khăn khi hành nghề trên biển, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Hoạt động của Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm và các loại quỹ trợ giúp khác của Công đoàn ngành, địa phương và cơ sở đã góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và xóa đói, giảm nghèo cho hàng trăm đoàn viên và người lao động 5 năm qua, Công đoàn các cấp đã huy động hơn 4,35 tỷ đồng, giải quyết 255 hộ công nhân viên chức lao động vay, hỗ trợ giải quyết việc làm cho 547 lao động.

Công tác củng cố, phát triển và mở rộng tổ chức Công đoàn trên địa bàn được chú trọng, Liên đoàn Lao động tỉnh đã thành lập Công đoàn các khu công nghiệp tỉnh. Các cấp Công đoàn trong tỉnh có nhiều cố gắng trong tuyên tuyền phát triển đoàn viên, tổ chức và hoạt động công đoàn xã, phường, thị trấn từng bước ổn định và đi vào nề nếp, chú trọng phát triển đoàn viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước. 5 năm qua, trên địa bàn tỉnh đã thành lập mới 131 Công đoàn cơ sở, trong đó có 70 công đoàn cơ sở doanh nghiệp ngoài nhà nước, chiếm 30% so với tổng số doanh nghiệp đủ điều kiện thành lập công đoàn; kết nạp 14.012 đoàn viên, trong đó đoàn viên công đoàn doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm hơn 70%.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn các cấp có những bước chuyển biến tích cực; đổi mới về nội dung, phương pháp giảng dạy giúp

298

cho đội ngũ cán bộ công đoàn tiếp cận được các phương thức hoạt động công đoàn trong tình hình mới. Hàng năm, Công đoàn các cấp trong tỉnh đã mở nhiều lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ, nhằm nâng cao trình độ cho hàng ngàn cán bộ công đoàn, đồng thời cử hàng trăm cán bộ tham dự các lớp học tại chức chuyên ngành. Tính đến cuối năm 2012, trong hệ thống công đoàn của tỉnh, cán bộ công đoàn chuyên trách có trình độ đại học, cao đẳng trở lên chiếm trên 87%; trình độ chính trị trung cấp trở lên 86%; được học qua các lớp bồi dưỡng, tập huấn về lý luận, nghiệp vụ công đoàn chiếm 89%.

Đi đôi với phát triển đoàn viên Công đoàn, các cấp Công đoàn đã chú trọng xây dựng củng cố tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn; từng bước đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động cho phù hợp với từng loại hình cơ sở, nhất là hoạt động công đoàn cấp huyện, thị, công đoàn ngành và công đoàn doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Nội dung xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh được cụ thể hóa phù hợp với điều kiện hoạt động của cơ sở, ngành tạo thành một thể thống nhất thúc đẩy hoạt động phong trào phát triển đồng bộ và có hiệu quả. Định kỳ hàng năm kiểm tra, đánh giá, phân loại hoạt động của Công đoàn cơ sở, tỷ lệ công đoàn cơ sở đạt tiêu chuẩn vững mạnh bình quân hàng năm đạt trên 88,7%, trong đó khu vực nhà nước đạt 93%, doanh nghiệp tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài đạt 41,8%. Không có Công đoàn cơ sở xếp loại yếu kém.

Song song với công tác phát triển đoàn viên, xây dựng

299

tổ chức công đoàn vững mạnh, các cấp Công đoàn thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, năng lực, kỹ năng và phương pháp hoạt động cho cán bộ Công đoàn, đặc biệt là ở khu vực ngoài nhà nước, các cấp đã tổ chức 70 lớp tập huấn nghiệp vụ cho trên 8.400 cán bộ công đoàn các cấp. Trong đó Liên đoàn Lao động tỉnh tổ chức 20 lớp về nghiệp vụ công đoàn với 1.500 người tham gia giúp đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở nắm vững phương pháp, nội dung cơ bản trong hoạt động để vận dụng vào hoạt động thực tiễn ở đơn vị.

Liên đoàn lao động tỉnh đã tập trung chỉ đạo các cấp công đoàn tổ chức cho công nhân, viên chức, lao động tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Văn kiện Đại hội các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, tham gia cải cách hành chính, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân. Từ năm 2008 đến năm 2012 đã có 5.092 công đoàn viên ưu tú được kết nạp vào Đảng; tham gia giới thiệu cán bộ ưu tú trong phong trào công nhân và hoạt động công đoàn để Đảng bồi dưỡng đào tạo, bố trí vào các vị trí lãnh đạo.

Phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” được Liên đoàn Lao động tỉnh chỉ đạo các cấp Công đoàn tiếp tục triển khai thực hiện. Hàng năm có trên 70% nữ công nhân, viên chức, lao động đạt danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” và ba tiêu chuẩn phong trào phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc. Tổng kết năm phong trào thi đua

300

“Giỏi việc nước, đảm việc nhà” (giai đoạn 2005-2010), Liên đoàn Lao động tỉnh đã khen thưởng cho 80 tập thể, 153 cá nhân và công nhận danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” cho 3.000 nữ công nhân, viên chức, lao động.

Các hoạt động tuyên truyền giáo dục về giới, về truyền thống, dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc bảo vệ bà mẹ và trẻ em… Các hoạt động vận động nữ công nhân, viên chức, lao động của công đoàn đã góp phần nâng cao nhận thức về giới, bình đẳng giới và góp phần động viên nữ công nhân, viên chức, lao động tích cực học tập, công tác, rèn luyện, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc.

Công tác tài chính công đoàn từng bước được kiện toàn đi vào nề nếp. Việc thu chi, quản lý tài chính hàng năm được thực hiện đúng, đảm bảo nguyên tắc tài chính công đoàn và luật ngân sách nhà nước, đáp ứng được các hoạt động phong trào đối với các cấp Công đoàn trong tỉnh. Phần lớn việc chi ngân sách công đoàn được thực hiện theo quy định của nhà nước và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, ưu tiên kinh phí cho cơ sở. Các mục chi đảm bảo tính cân đối, chi hoạt động phong trào đạt tỷ lệ cao, giảm chi hành chính. Công đoàn các cấp đã có nhiều cố gắng từ khâu lập dự toán đến khâu quyết toán tài chính, nhiều nơi đã cố gắng khai thác nguồn thu, đảm bảo kế hoạch và hoạt động, kinh phí chi đúng mục đích có hiệu quả và tiết kiệm. Kinh phí tập trung cho các phong trào thi đua khen thưởng, các hoạt động xã hội, công tác tuyên

301

truyền giáo dục văn hóa, văn nghệ, thể thao, hội thi, tổ chức xây dựng và phát triển công đoàn ngoài nhà nước và đại hội Công đoàn cơ sở huyện, thị, Công đoàn ngành hết nhiệm kỳ, đáp ứng yêu cầu phục vụ cho các mặt hoạt động công đoàn ngày càng tăng lên trên nhiều lĩnh vực. Hàng năm, Liên đoàn Lao động tỉnh mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tài chính công đoàn và thực hiện công khai tài chính 6 tháng/lần với Ban Chấp hành Liên đoàn lao động tỉnh. Tuy nhiên, kinh phí hoạt động ở các cơ sở vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

Từ năm 2008 đến năm 2012, phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn Bình Phước đạt một số thành tựu đáng kể. Về phong trào thi đua, các cấp Công đoàn đã có nhiều cố gắng trong quá trình tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, phong trào lao động giỏi, lao động sáng tạo... Những phong trào này được duy trì thường xuyên, có nề nếp, góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở đó, đã xuất hiện nhiều tấm gương điển hình trong lao động, học tập và công tác. Về giáo dục chính trị, tư tưởng, công đoàn các cấp có nhiều nỗ lực truyền đạt những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến công nhân, viên chức, lao động. Đặc biệt, trong công tác này, Công đoàn có nhiều hình thức tuyên truyền phong phú, gây không khí sôi nổi như chức liên hoan văn nghệ, thi đấu thể dục thể thao nhân các ngày lễ, ngày kỷ niệm, thu hút đông đảo công nhân, viên chức, lao động tham gia. Công tác chăm lo đời sống, tham gia giải quyết việc làm có nhiều tiến bộ. Hoạt động

302

xã hội, từ thiện của Công đoàn các cấp ngày càng đi vào chiều sâu. Công tác xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh chuyển biến tốt, đạt một số kết quả khả quan.

Tuy nhiên, phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn Bình Phước vẫn còn một số khuyết điểm, tồn tại. Trong phong trào thi đua chưa làm tốt việc nhân điển hình tiên tiến. Hình thức và phương pháp tuyên truyền, giáo dục đôi lúc còn chưa phù hợp với nội dung và đối tượng cần truyền đạt. Một số công đoàn cơ sở và trên cơ sở, nhất là những công đoàn các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh, chưa thật sự quan tâm đúng mức và thiếu các biện pháp đồng bộ trong việc tổ chức, sinh hoạt. Do đó, việc tổ chức học tập 5 bài học chính trị cơ bản triển khai chậm và chưa đạt kế hoạch đề ra. Công tác tham gia, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách có liên quan đến công nhân, viên chức, lao động chưa thật sự hiệu quả ở các cấp công đoàn. Ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, việc tham gia đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế chưa thực hiện đúng theo quy định của Nhà nước. Về công tác tổ chức, việc thực hiện đề án xây dựng, sắp xếp tổ chức bộ máy công đoàn gặp vướng mắc về chỉ tiêu biên chế. Một số đơn vị, cán bộ công đoàn vừa thiếu, vừa yếu, chưa đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ hiện nay. Công tác xây dựng tổ chức Công đoàn và phát triển đoàn viên Công đoàn ngoài quốc doanh còn chậm và lúng túng.

303

KẾT LUẬN

Trong những năm đầu thế kỷ XX, đội ngũ công nhân Bình Phước được hình thành dưới tác động của công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Từ đó, đội ngũ công nhân từng bước phát triển về số lượng và chất lượng gắn liền với quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xây dựng và phát triển quê hương sau ngày giải phóng. Đặc biệt là sau ngày tái lập tỉnh dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, công nhân, viên chức, lao động và tổ chức Công đoàn đã tiếp tục khẳng định vai trò to lớn của mình.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, do đặc điểm tình hình ở Bình Phước là vùng nông nghiệp và vùng căn cứ kháng chiến, nên các nhà tư bản không đầu tư xây dựng các nhà máy công nghiệp mà chủ yếu là lập các đồn điền cao su, do đó công nhân ở đây chủ yếu là công nhân cao su trong đó đa số là những nông dân nghèo từ miền Bắc, miền Trung vào. Họ bị chủ Tây đánh đập, hành hạ tàn nhẫn. Trước những hành động đàn áp tàn nhẫn của bọn chủ tư bản thực dân, người công nhân cao su đấu tranh mạnh mẽ. Tuy nhiên lúc đầu chưa có Đảng ra đời, những cuộc đấu tranh của công nhân còn mang tính tự phát nên phần lớn các cuộc đấu tranh đều không mang lại kết quả.

Giai đoạn 1930 - 1945, thời kỳ thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Đảng đấu tranh giành chính quyền cách mạng, tổ chức Công đoàn có nhiều tên gọi khác nhau: Công Hội, Hội ái hữu, Hội Công nhân cứu quốc đã tích cực tuyên

304

truyền tập hợp, nâng cao giác ngộ cách mạng cho quần chúng nhân dân lao động. Nội dung đấu tranh nhằm bảo vệ quyền lợi, kinh tế, quyền dân sinh dân chủ, hình thức đấu tranh bí mật, hợp pháp, nửa hợp pháp, công khai, nửa công khai, mục tiêu đấu tranh linh hoạt vê kinh tế - chính trị. Quy mô của các cuộc đấu tranh có sự liên kết chặt chẽ giữa công nhân và nông dân; các cuộc đấu tranh tiêu biểu là cuộc đấu tranh 5.000 công nhân cao su Phú Riềng năm 1930. Đỉnh cao là phong trào kháng Nhật cứu nước đến Tổng khởi nghĩa năm 1945, công nhân cao su các đồn điền trong tỉnh cùng đồng bào địa phương đã nổi dậy làm chủ đồn điền, góp phần thắng lợi cách mạng tháng tám.

Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) với 2 nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc, công nhân và tổ chức Công đoàn Bình Phước đã có nhiều hoạt động phong phú đa dạng. Đối với nhiệm vụ kháng chiến, công nhân lao động đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiều thổ kháng chiến, giữ vững vùng tự do, động viên công nhân tham gia bộ đội, tham gia lực lượng dân công phục vụ chiến trường Đông Nam Bộ. Trên chiến trường Bình Phước, thực dân Pháp chủ yếu dựa vào nguồn thu từ cao su, nên các đồn điền cao su được ta chủ trương phá hoại nhằm hạn chế nguồn thu của Pháp, hoạt động này của công nhân cao su gây cho Pháp thiệt hại đáng kể. Đối với nhiệm vụ kiến quốc, công nhân cao su, đã tích cực chống giặc đói, giặc dốt, thi đua sản xuất tiếp tế lương thực, thuốc men cho kháng chiến, góp phần xây dựng căn cứ kháng chiến.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1 975) đứng trước kẻ thù mới của dân tộc, công nhân lao động Bình

305

Phước đã phát huy truyền thống cách mạng, kiên cường bám trụ đánh Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, trực tiếp là Ban Công vận và Liên hiệp Công đoàn giải phóng, phong trào đấu tranh của công nhân cao su diễn ra liên tục, ngày càng đi vào chiều sâu với các hình thức linh hoạt, sáng tạo, bằng bà 3 mũi giáp công, diệt ác phá kiềm, phá ấp chiến lược, hỗ trợ cho phong trào đấu trào đấu tranh trực diện với bọn chủ sở và ngụy quyền địa phương. Trong mọi hoàn cảnh lực lượng công nhân và tổ chức Công đoàn tỉnh luôn nắm vững chủ trương về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sau ngày giải phóng 1975-1985, tổ chức Công đoàn đã từng bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức Công đoàn đã vận động công nhân viên chức vượt qua những khó khăn của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Trong điều kiện sản xuất và đời sống vô cùng khó khăn, Công đoàn đã bám sát các đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, vận dụng thực hiện, tổ chức phong trào thi đua, chăm lo đời sống cho công nhân, viên chức. Khi chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc nổ ra, công nhân, viên chức, lao động Bình Phước sẵn sàng theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc quyết tâm chiến đấu và phục vụ chiến đấu để bảo vệ tổ quốc Việt Nam, xã hội chủ nghĩa.

Từ 1986, công cuộc đổi mới của Đảng khởi xướng và lãnh đạo được tiến hành trong cả nước. Qua thực hiện đường lối xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần định hướng chủ xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân, viên chức, lao động vẫn được giữ vững và phát huy, nổi bật là

306

phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu nhà nước, giỏi việc nước, đảm việc nhà. Vượt qua mọi khó khăn, không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ mọi mặt, từng bước thích nghi với cơ chế thị trường, góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế xã hội do Đảng đề ra.

Những năm 1997-2012 trước nhu cầu phát triển đổi mới công cuộc xây dựng đất nước và nguyện vọng của cán bộ Đảng viên và nhân dân trong tỉnh, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX ra Nghị quyết về chia tách tỉnh Sông Bé làm hai tỉnh Bình Phước và Bình Dương. Sau khi tái lập tỉnh, hoạt động công đoàn đã bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, tăng cường sự chi đạo công tác tư tưởng, tập trung lãnh đạo công nhân, viên chức, lao động, thực hiện nhiệm vụ mới, như kiện toàn và ổn định bộ máy Công đoàn các cấp, tổ chức các phong trào thi đua, phát triển đoàn viên, kiện toàn Công đoàn cơ sở, thành lập công đoàn cơ sở khu vực kinh tế ngoài nhà nước, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Công đoàn, công nhân, viên chức lao động trong tỉnh đã vượt qua mọi khó khăn thử thách, một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tham gia tích cực các phong trào thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm, phong trào lao động giỏi, phong trào xây dựng các công trình chào mừng các sự kiện chính trị của Đảng và của Nhà nước, của Tổng Liên đoàn Lao động và của tỉnh... công nhân, viên chức, lao động và tổ chức Công đoàn góp phần tích cực cùng Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh giành được những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới.

307

Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và tổ chức các hoạt động. Một số Công đoàn cơ sở chưa thể hiện rõ vai trò, vị trí của tổ chức Công đoàn, cá biệt có nơi vai trò tham gia quản lý kinh tế, quản lý nhà nước trong việc thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước còn yếu. Năng lực trình độ của một số cán bộ công đoàn chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, việc tổ chức các phong trào thi đua tuy đã có nhiều đổi mới, song phong trào phát triển còn chưa đồng đều, liên tục, có nơi, có lúc còn mang tính hình thức.

Từ những kết quả và tồn tại của phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn, qua lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chức năng của mình, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:

Một là, phải bám sát đường lối, chủ trương, Nghị quyết của Đảng, của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, các chính sách pháp luật Nhà nước để vận động cho phù hợp với tình hình đặc điểm của từng ngành, địa phương, cơ sở. Biết tranh thủ sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp tạo điều kiện của chính quyền và các đoàn thể để thực hiện nhiệm vụ chức năng của tổ chức Công đoàn.

Hoạt động Công đoàn các cấp phải quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối, Nghị quyết của Đảng, thực hiện nghiêm chỉnh chính sách pháp luật của Nhà nước. Vận động, tổ chức công nhân, viên chức, lao động phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng trong các thời kỳ. Các cấp Công đoàn phải coi phấn đấu thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng là quan trọng hàng đầu; phải phối hợp chặt chẽ với chính quyền và các đoàn thể như Hội

308

phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội Cựu chiến binh… cùng cấp trong tập hợp, giáo dục, rèn luyện đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, tham gia xây dựng và hoàn chỉnh chính sách, pháp luật, nhất là chính sách, pháp luật liên quan đến công nhân, viên chức, lao động và công đoàn.

Hai là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho công nhân, viên. chức, lao động có nhận thức quan điểm đúng đắn, phát huy mạnh mẽ truyền thống cách mạng của giai cấp công nhân, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Công đoàn tuyên truyền nâng cao giác ngộ chính trị cho công nhân, làm cho công nhân thấu suốt tình hình đất nước bị xâm lược, nhân dân nô lệ, giai cấp công nhân bị bóc lột, do đó coi việc giải phóng giai cấp, đồng thời vận động công nhân lao động chống thực dân và tay sài, đòi những quyền lợi thiết thực hàng ngày như: đòi quyền dân sinh, dân chủ, tiền lương, chống cúp phạt, đánh đập, tham gia giải phóng mình, giải phóng dân tộc được công nhân hưởng ứng tham gia tích cực.

Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhiều vấn đề đặt ra liên quan trực tiếp đến quyền lợi, lợi ích của người lao động, đòi hỏi tổ chức Công đoàn phải năng động, sáng tạo, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động cho phù với từng đối tượng đặc thù, từng hoàn cảnh cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng. Công đoàn tham gia với chính quyền, chuyên môn chăm lo đời sống, việc làm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân,

309

viên chức, lao động là điều kiện cốt yếu để phát huy khả năng sở trường, sáng kiến, sáng tạo của người lao động.

Ba là, thường xuyên coi công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức, lao động đội ngũ cán bộ công đoàn có năng lực là vấn đề có tính quyết định hiệu quả của công tác công đoàn.

Vấn đề nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên, môn, kỹ thuật, nghề nghiệp cho công nhân, viên chức, lao động phải được chú trọng thường xuyên. Có chính sách khuyến khích công nhân, viên chức, lao động học tập nâng cao trình độ, năng lực, phát huy sáng tạo để trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đủ sức làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh giành chính quyền cũng như trong phong trào xây dựng kinh tế. Phải bồi dưỡng cán bộ công đoàn bằng nhiều hình thức, biện pháp. Cán bộ công đoàn luôn gắn bó với phong trào quần chúng, có phương pháp và kỹ năng vận động quần chúng được quần chúng tin tưởng, tín nhiệm. Thực tiễn cho thấy nơi nào có cán bộ công đoàn vững vàng về chính trị, có bản lĩnh, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, được trưởng thành về mọi mặt, thì nơi ấy có phong trào công nhân và hoạt động công đoàn phát triển.

Bốn là, Công đoàn phải coi trọng việc sử dụng nhiều hình thức biện pháp hoạt động cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động để phát huy sức mạnh tổng hợp của công nhân, viên chức, lao động vào việc hoàn thành các nhiệm vụ chính trị. Phải đổi mới nội dung phương pháp hoạt động công đoàn cho phù hợp với sự chuyển đổi cơ chế mới, đáp ứng yêu cầu và nguyện

310

vọng của đông đảo công nhân, viên chức, lao động. Đẩy mạnh các hoạt động xã hội chăm lo bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, viên chức, lao động để họ ngày càng gắn bó với tổ chức Công đoàn.

Năm là, Các Cấp công đoàn phải nâng cao nhận thức, hiểu biết cho các chủ doanh nghiệp, công nhân lao động trong mọi thành phần kinh tế về vai trò, vị trí, chức năng của tổ chúc Công đoàn, trên cơ sở thuyết phục, vận động để phát triển công đoàn và đoàn viên tạo sự chuyển biến mới về nhận thức, hành động trong công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn.

Hơn 80 năm qua (1930 - 2012) một chặng đường lịch sử vẻ vang của công nhân, viên chức, lao động tỉnh Bình Phước, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, xứng đáng là lực lượng tiên phong cách mạng của tỉnh nhà. Tổ chức Công đoàn đã phát huy vai trò, vị trí của mình trong việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Công đoàn là sợi dây nối liền giữa tổ chức Đảng với quần chúng cách mạng, là chỗ dựa tin cậy của chính quyền các cấp. Ngày nay, công nhân, viên chức, lao động và tổ chức Công đoàn Bình Phước, đang tiếp nối truyền thống quý báo đó, quyết tâm phấn đấu xây dựng tỉnh Bình Phước ngày càng giàu đẹp, văn minh, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

���

BAN CHẤP HÀNH LIÊN HIỆP CÔNG ĐOÀNTỈNH BÌNH PHƯỚC (30/4/1975 - 2/7/1976)

Stt Họ và Tên Chức danh Ghi chú01 Nguyễn Thường Sơn Thư ký02 Lê Văn Thuyết Phó Thư ký03 Trần Xuân Minh Phó Thư ký04 Nguyễn Văn Phần Ủy viên Ban Thường vụ05 Nguyễn Thành Đồng Ủy viên Ban Thường vụ06 Tư Hướng Ủy viên Ban Thường vụ07 Tô Văn Đại Ủy viên Ban Chấp hành08 Tư Phê Ủy viên Ban Chấp hành09 Tư Đáng Ủy viên Ban Chấp hành

……….

BAN CHẤP HÀNH LÂM THỜILIÊN HIỆP CÔNG ĐOÀN TỈNH SÔNG BÉ

(1976 - 1977)Stt Họ và Tên Chức danh Ghi chú01 Nguyễn Thường Sơn Thư ký02 Huỳnh Kim Oanh Phó Thư ký03 Trần Xuân Minh Phó Thư ký04 Nguyễn Văn Đạo Ủy viên Ban Thường vụ05 Nguyễn Thành Đồng Ủy viên Ban Chấp hành06 Ngô Tuấn Đạt Ủy viên Ban Chấp hành07 Trần Thanh Hùng Ủy viên Ban Chấp hành08 Huỳnh Nga Ủy viên Ban Chấp hành09 Nguyễn Thị Hoa Ủy viên Ban Chấp hành

���

BAN CHẤP HÀNH LIÊN HIỆP CÔNG ĐOÀN TỈNH SÔNG BÉ KHÓA I (1977 - 1980)

Stt Họ và Tên Chức danh Ghi chú

01Nguyễn Thường SơnNgô Tuấn Đạt

Thư kýThư ký

Đến 10/1979Từ 10/1979 đến 3/1980

02

Trần Xuân Minh Phó Thư ký Đến 10/1979được phân

công giữ chức Chủ tịch Hội

Nông dân tỉnh

03 Huỳnh Kim Oanh Phó Thư ký04 Nguyễn Thành Đồng Ủy viên Ban Thường vụ05 Nguyễn Văn Phần Ủy viên Ban Thường vụ06 Trần Thanh Hùng Ủy viên Ban Thường vụ07 Lâm Thế Vũ Ủy viên Ban Thường vụ08 Mai Văn Cờ Ủy viên Ban Chấp hành09 Nguyễn Văn Đạo Ủy viên Ban Chấp hành10 Nguyễn Thị Hoa Ủy viên Ban Chấp hành11 Phạm Đình Sanh Ủy viên Ban Chấp hành12 Trần Văn Thành Ủy viên Ban Chấp hành13 Vương Thị Vui Ủy viên Ban Chấp hành14 Nguyễn Quốc Thái Ủy viên Ban Chấp hành15 Vũ Thị Là Ủy viên Ban Chấp hành16 Nguyễn Thị Ngân Ủy viên Ban Chấp hành17 Lê Duy Khánh Ủy viên Ban Chấp hành18 Nguyễn Văn Cỏ Ủy viên Ban Chấp hành19 Dương Văn Vấn Ủy viên Ban Chấp hành

���

20 Nguyễn Văn Đức Ủy viên Ban Chấp hành21 Đoàn Thị Mia Ủy viên Ban Chấp hành22 Đỗ Văn Huấn Ủy viên Ban Chấp hành23 Nguyễn Văn Thu Ủy viên Ban Chấp hành24 Nguyễn Văn Trí Ủy viên Ban Chấp hành25 Huỳnh Nga Ủy viên Ban Chấp hành26 Nguyễn Văn Ấm Ủy viên Ban Chấp hành27 Nguyễn Văn Quyền Ủy viên Ban Chấp hành

BAN CHẤP HÀNH LIÊN HIỆP CÔNG ĐOÀN TỈNH SÔNG BÉ KHÓA II (1980 - 1983)

Stt Họ và Tên Chức danh Ghi chú

01 Trần Xuân Minh Thư ký

02 Huỳnh Kim Oanh Phó Thư ký

03 Nguyễn Văn Minh Ủy viên Ban Thường vụ

04 Nguyễn Thành Đồng Ủy viên Ban Thường vụ

05 Nguyễn Văn Phần Ủy viên Ban Thường vụ

06 Trần Thanh Hùng Ủy viên Ban Thường vụ

07 Lâm Thế Vũ Ủy viên Ban Thường vụ

08 Nguyễn Văn San Ủy viên Ban Thường vụ

09 Trịnh Trung Thu Ủy viên Ban Thường vụ

10 Nguyễn Văn Thỏa Ủy viên Ban Chấp hành

11 Lê Duy Khánh Ủy viên Ban Chấp hành

���

12 Lê Văn Mai Ủy viên Ban Chấp hành13 Nguyễn Thúc Năng Ủy viên Ban Chấp hành14 Nguyễn Văn Quyền Ủy viên Ban Chấp hành15 Nguyễn Văn Cỏ Ủy viên Ban Chấp hành16 Doãn Viết Châu Ủy viên Ban Chấp hành17 Nguyễn Thanh Sơn Ủy viên Ban Chấp hành18 Võ Thị Hồng Thắm Ủy viên Ban Chấp hành19 Lê Thị Nuôi Ủy viên Ban Chấp hành20 Võ Thị Lý Ủy viên Ban Chấp hành21 Phạm Quyết Thắng Ủy viên Ban Chấp hành22 Dương Văn Vấn Ủy viên Ban Chấp hành23 Nguyễn Văn Đức Ủy viên Ban Chấp hành24 Đoàn Thị Mia Ủy viên Ban Chấp hành25 Đỗ Thanh Huấn Ủy viên Ban Chấp hành26 Nguyễn Thị Phương Lan Ủy viên Ban Chấp hành27 Phạm Thị Nhu Ủy viên Ban Chấp hành28 Bùi Văn Thành Ủy viên Ban Chấp hành29 Đào Văn Sở Ủy viên Ban Chấp hành30 Nguyễn Thanh Lâm Ủy viên Ban Chấp hành31 Nguyễn Thị Tuyết Ủy viên Ban Chấp hành32 Nguyễn Văn Hòa Ủy viên Ban Chấp hành33 Huỳnh Minh Hoàng Ủy viên Ban Chấp hành34 Đỗ Phú Thông Ủy viên Ban Chấp hành35 Nguyễn Văn Thu Ủy viên Ban Chấp hành36 Nguyễn Văn Trí Ủy viên Ban Chấp hành37 Nguyễn Văn Hoàng Ủy viên Ban Chấp hành

���

BAN CHẤP HÀNH LIÊN HIỆP CÔNG ĐOÀN TỈNH SÔNG BÉ KHÓA III (1983 - 1988)

Stt Họ và Tên Chức danh Ghi chú

01

Trần Xuân Minh

Huỳnh Văn Tấn

Thư ký

Thư ký

Đến cuối năm 1986 được phân công giữ chức vụ

Phó Ban Dân vận Tỉnh ủyTừ cuối năm

1986

02 Nguyễn Văn Minh Phó Thư ký03 Huỳnh Kim Oanh Phó Thư ký04 Huỳnh Minh Hoàng Ủy viên Ban Thường vụ05 Nguyễn Thanh Lâm Ủy viên Ban Thường vụ06 Nguyễn Văn Khương Ủy viên Ban Thường vụ07 Nguyễn Thị Ngọc Ánh Ủy viên Ban Thường vụ08 Bùi Văn Thành Ủy viên Ban Thường vụ09 Nguyễn Văn Phần Ủy viên Ban Thường vụ10 Lê Sỹ Toại Ủy viên Ban Thường vụ11 Lâm Thế Vũ Ủy viên Ban Thường vụ12 Nguyễn Thị Tuyết Ủy viên Ban Chấp hành13 Đinh Văn Thêm Ủy viên Ban Chấp hành14 Vương Thị Vui Ủy viên Ban Chấp hành15 Nguyễn THị Hoa Ủy viên Ban Chấp hành16 Trần Văn Hai Ủy viên Ban Chấp hành17 Vũ Tánh Ủy viên Ban Chấp hành18 Phạm Thế Hà Ủy viên Ban Chấp hành

���

19 Nguyễn Văn Hòa Ủy viên Ban Chấp hành

20 Đặng Hải Ủy viên Ban Chấp hành

21 Phan Văn Bé Ủy viên Ban Chấp hành

22 Nguyễn Thanh Sơn Ủy viên Ban Chấp hành

23 Võ Thị Hồng Thắm Ủy viên Ban Chấp hành

24 Trần Văn Đức Ủy viên Ban Chấp hành

25 Phan Hồng Vân Ủy viên Ban Chấp hành

26 Lê Thị Thanh Thuận Ủy viên Ban Chấp hành

27 Lê Thị Nương Ủy viên Ban Chấp hành

28 Nguyễn Thị Tâm Ủy viên Ban Chấp hành

29 Đoàn Thị Mia Ủy viên Ban Chấp hành

30 Dương Thị Vân Ủy viên Ban Chấp hành

31 Ngô Thị Dư Ủy viên Ban Chấp hành

32 Trần Văn Du Ủy viên Ban Chấp hành

33 Lê Minh Phú(Lê Minh Nhu) Ủy viên Ban Chấp hành

34 Nguyễn Thị Ngọc Dung Ủy viên Ban Chấp hành

35 Nguyễn Ngọc Khoa Ủy viên Ban Chấp hành

36 Nguyễn Thị Nhu Ủy viên Ban Chấp hành

37 Nguyễn Văn Nhơn Ủy viên Ban Chấp hành

38 Ngô Quang Hùng Ủy viên Ban Chấp hành

39 Hoàng Ngọc Hà Ủy viên Ban Chấp hành

40 Nguyễn Quang Hiển Ủy viên Ban Chấp hành

41 Dương Văn Quang Ủy viên Ban Chấp hành

317

BAN CHẤP HÀNH LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNGTỈNH SÔNG BÉ KHÓA IV (1988 - 1993)

Stt Họ và Tên Chức danh Ghi chú

01 Huỳnh Văn Tấn Chủ tịch

Đến 7/ 1989 được phân công giữ chức vụ Bí thư Thị ủy Thủ Dầu Một

02 Nguyễn Văn Minh Phó Chủ tịch Chủ tịch từ 7/1989

03 Nguyễn Thị Ngọc Ánh Phó Chủ tịch

Đến năm 1992 được phân công giữ chức vụ Phó trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy

04 Bùi Văn Thành Ủy viên Ban Thường vụPhó Chủ tịch từ tháng 2/1989

05 Nguyễn Thanh Lâm Ủy viên Ban Thường vụPhó Chủ tịch từ tháng 2/1992

06 Nguyễn Văn Khương Ủy viên Ban Thường vụ07 Nguyễn Thị Tuyết Ủy viên Ban Thường vụ08 Phạm Thế Hà Ủy viên Ban Thường vụ09 Đoàn Thị Năm Ủy viên Ban Thường vụ10 Đinh Văn Đâu Ủy viên Ban Thường vụ11 Nguyễn Phúc Ký Ủy viên Ban Thường vụ12 Lê Tấn Cường Ủy viên Ban Chấp hành

318

13 Đỗ Minh Châu Ủy viên Ban Chấp hành14 Trần Ngọc Chánh Ủy viên Ban Chấp hành15 Lê Văn Chiêm Ủy viên Ban Chấp hành16 Nguyễn Văn Chướng Ủy viên Ban Chấp hành17 Trần Văn Du Ủy viên Ban Chấp hành18 Trần Hoàng Dũng Ủy viên Ban Chấp hành19 Nguyễn Tầm Dương Ủy viên Ban Chấp hành20 Thượng Văn Hải Ủy viên Ban Chấp hành21 Cao Trọng Hiệp Ủy viên Ban Chấp hành22 Nguyễn Thị Hòa Ủy viên Ban Chấp hành23 Lê Thị Hiệp Ủy viên Ban Chấp hành24 Nguyễn Thị Hường Ủy viên Ban Chấp hành25 Trịnh Thị Kim Liên Ủy viên Ban Chấp hành26 Trương Thị Loan Ủy viên Ban Chấp hành27 Nguyễn Văn Lời Ủy viên Ban Chấp hành28 Đoàn Thị Mia Ủy viên Ban Chấp hành29 Nguyễn Thị Nhài Ủy viên Ban Chấp hành30 Đỗ Thị Nghĩa Ủy viên Ban Chấp hành31 Bùi Hữu Phong Ủy viên Ban Chấp hành32 Nguyễn Văn Phúc Ủy viên Ban Chấp hành33 Lâm Văn Phúc Ủy viên Ban Chấp hành34 Nguyễn Hoàng Sơn Ủy viên Ban Chấp hành35 Nguyễn Văn Thân Ủy viên Ban Chấp hành36 Lê Văn Thiện Ủy viên Ban Chấp hành37 Nguyễn Thị Hồng Trang Ủy viên Ban Chấp hành38 Phan Hồng Vân Ủy viên Ban Chấp hành39 Dương Văn Vấn Ủy viên Ban Chấp hành

319

BAN CHẤP HÀNH LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNGTỈNH SÔNG BÉ KHÓA V (1993 - 1998)

(Từ 1993 đến khi tách tỉnh 31/12/1996)

Stt Họ và Tên Chức danh Ghi chú

01 Nguyễn Văn Minh Chủ tịch Đến 12/1995

02 Trịnh Thị Kim Liên Phó Chủ tịch Chủ tịch từ 2/1996

03 Nguyễn Thanh Lâm Phó Chủ tịch

04 Nguyễn Văn Khương Ủy viên Ban Thường vụPhó Chủ

tịch từ tháng 2/1996

05 Lâm Văn Phúc Ủy viên Ban Thường vụ06 Nguyễn Thị Tuyết Ủy viên Ban Thường vụ07 Trần Văn Du Ủy viên Ban Thường vụ08 Đoàn Thị Năm Ủy viên Ban Thường vụ09 Bùi Hữu Phong Ủy viên Ban Thường vụ10 Lê Thị Hồng Thu Ủy viên Ban Thường vụ11 Nguyễn Tầm Dương Ủy viên Ban Thường vụ12 Võ Sỹ Lực Ủy viên Ban Chấp hành13 Phạm Thị Xuân Mai Ủy viên Ban Chấp hành14 Nguyễn Văn Lợi Ủy viên Ban Chấp hành15 Trương Văn Quanh Ủy viên Ban Chấp hành16 Nguyễn Minh Được Ủy viên Ban Chấp hành17 Hồ Thị Cúc Ủy viên Ban Chấp hành18 Võ Kim Liên Ủy viên Ban Chấp hành19 Nguyễn Văn Lời Ủy viên Ban Chấp hành

320

20 Lê Văn Thời Ủy viên Ban Chấp hành21 Trần Hiếu Ủy viên Ban Chấp hành22 Phạm Thị Thanh Hiền Ủy viên Ban Chấp hành23 Nguyễn Văn Tâm Ủy viên Ban Chấp hành24 Thượng Văn Hải Ủy viên Ban Chấp hành25 Đinh Quang Cận Ủy viên Ban Chấp hành26 Võ Thị Hồng Ủy viên Ban Chấp hành27 Trần Quyết Thắng Ủy viên Ban Chấp hành28 Phạm Quốc Trị Ủy viên Ban Chấp hành29 Nguyễn Văn Phúc Ủy viên Ban Chấp hành30 Nguyễn Thành Tích Ủy viên Ban Chấp hành31 Xa Văn Thành Ủy viên Ban Chấp hành32 Trần Minh Thạnh Ủy viên Ban Chấp hành33 Nguyễn Huỳnh Đình Ủy viên Ban Chấp hành34 Nguyễn Phúc Ký Ủy viên Ban Chấp hành35 Lê Xuân Giáo Ủy viên Ban Chấp hành36 Nguyễn Văn Phước Ủy viên Ban Chấp hành37 Nguyễn Văn Cương Ủy viên Ban Chấp hành

BAN CHẤP HÀNH LÂM THỜI LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG TỈNH BÌNH PHƯỚC

(Theo quyết định số 1561/QĐ-TLĐ ngày 25/12/1196của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam)

Stt Họ và Tên Chức danh Ghi chú

01 Nguyễn Thanh Lâm Chủ tịch

02 Lâm Văn Phúc Phó Chủ tịch

03 Lê Thị Hồng Thu Ủy viên Ban Thường vụ Phó Chủ tịch từ ngày 1/8/1998

���

04 Trần Văn Lập Ủy viên Ban Thường vụ05 Nguyễn Ngọc Am Ủy viên Ban Thường vụ

06 Võ Thị Hồng Ủy viên Ban Chấp hànhỦy viên Ban Thường vụ từ

ngày 8/5/1997

07 Phạm Quốc Trị Ủy viên Ban Chấp hành08 Nguyễn Phúc Ký Ủy viên Ban Chấp hành09 Thượng Văn Hải Ủy viên Ban Chấp hành10 Lê Văn Thời Ủy viên Ban Chấp hành11 Nguyễn Văn Lợi Ủy viên Ban Chấp hành12 Võ Sỹ Lực Ủy viên Ban Chấp hành

13 Đoàn Văn Rồi Ủy viên Ban Chấp hànhỦy viên Ban Thường vụ từ

ngày 8/5/1997

14 Trần Văn Hội Ủy viên Ban Chấp hành15 Mai Thị Thạnh Ủy viên Ban Chấp hành16 Nguyễn Minh Được Ủy viên Ban Chấp hành17 Trần Văn Khai Ủy viên Ban Chấp hành

18 Lê Thủ Ủy viên Ban Chấp hànhỦy viên Ban Thường vụ từ

ngày 8/5/1997

19 Đặng Đức Lượng Ủy viên Ban Chấp hành

20 Trần Thị Thu Hương Ủy viên Ban Chấp hành Từ ngày 15/1/1997

21 Nguyễn Văn Nhãn Ủy viên Ban Chấp hành Từ ngày 8/5/1997

22 Nguyễn Thị Nhài Ủy viên Ban Chấp hành Từ ngày 8/5/1997

���

BAN CHẤP HÀNH LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNGTỈNH BÌNH PHƯỚC KHÓA VI (1998 - 2003)

Stt Họ và Tên Chức danh Ghi chú

01 Nguyễn Thanh Lâm Chủ tịch Đến tháng 12/2000

02 Lâm Văn Phúc Phó Chủ tịch Chủ tịch từ ngày 6/2/2001

03 Lê Thị Hồng Thu Phó Chủ tịch

04 Trần Văn Lập Ủy viên Ban Thường vụ

05 Đoàn Văn Rồi Ủy viên Ban Thường vụ Phó Chủ tịch từ ngày 6/2/2001

06 Võ Thị Hồng Ủy viên Ban Thường vụ07 Thượng Văn Hải Ủy viên Ban Thường vụ08 Nguyễn Văn Khỏe Ủy viên Ban Thường vụ

09 Nguyễn Thị Mai Ủy viên Ban Chấp hànhỦy viên Ban Thường vụ từ

ngày 6/2/2001

10 Lê Văn Thời Ủy viên Ban Chấp hành11 Trần Văn Điệp Ủy viên Ban Chấp hành12 Võ Sỹ Lực Ủy viên Ban Chấp hành

13 Đoàn Văn Luận Ủy viên Ban Chấp hànhỦy viên Ban Thường vụ từ

ngày 6/2/2001

14 Trần Văn Hội Ủy viên Ban Chấp hành15 Mai Thị Thạnh Ủy viên Ban Chấp hành16 Phạm Quốc Trị Ủy viên Ban Chấp hành17 Trần Văn Khai Ủy viên Ban Chấp hành

���

18 Phạm Mạnh Đỡi Ủy viên Ban Chấp hành

19 Đặng Đức Lượng Ủy viên Ban Chấp hành

20 Trần Phương Nam Ủy viên Ban Chấp hành

21 Nguyễn Văn Nhãn Ủy viên Ban Chấp hành

22 Nguyễn Thị Nhài Ủy viên Ban Chấp hành

23 Nguyễn Hải Lý Ủy viên Ban Chấp hành

24 Nguyễn Bá Quốc Ủy viên Ban Chấp hành

25 Lê Liên Hoàng Ủy viên Ban Chấp hành

26 Hồ Kim Công Ủy viên Ban Chấp hành

27 Nguyễn Đình Ngay Ủy viên Ban Chấp hành

28 Nguyễn Thị Kim Hoa Ủy viên Ban Chấp hành

29 Điểu Nít Ủy viên Ban Chấp hành

30 Huỳnh Anh Minh Ủy viên Ban Chấp hành

31 Võ Văn Mảng Ủy viên Ban Chấp hành

32 Lê Văn Uy Ủy viên Ban Chấp hành

33 Đỗ Phước Hiệp Ủy viên Ban Chấp hành

34 Trịnh Thị Nga Ủy viên Ban Chấp hành

35 Bùi Văn Hiếu Ủy viên Ban Chấp hànhỦy viên Ban Thường vụ từ

ngày 6/2/2001

36 Trần Thị Lan Ủy viên Ban Chấp hành Từ ngày 14/11/2000

37 Châu Anh Kiệt Ủy viên Ban Chấp hành Từ ngày 6/2/2001

���

BAN CHẤP HÀNH LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNGTỈNH BÌNH PHƯỚC KHÓA VII (2003 - 2008)

Stt Họ và Tên Chức danh Ghi chú01 Lâm Văn Phúc Chủ tịch02 Lê Thị Hồng Thu Phó Chủ tịch Đến 1/2/200703 Đoàn Văn Rồi Phó Chủ tịch04 Đoàn Văn Luận Ủy viên Ban Thường vụ05 Bùi Văn Hiếu Ủy viên Ban Thường vụ06 Nguyễn Thị Mai Ủy viên Ban Chấp hành07 Nguyễn Thị Hải Lý Ủy viên Ban Thường vụ

08 Nguyễn Văn Khỏe Ủy viên Ban Thường vụ Đến ngày 15/2/2006

09 Phạm Văn Thoài Ủy viên Ban Thường vụ Đến ngày 15/2/2006

10 Võ Thành Mộng Ủy viên Ban Thường vụ

11 Trần Văn Lập Ủy viên Ban Chấp hành Phó Chủ tịch từ 15/2/2007

12 Mai Thị Thạnh Ủy viên Ban Chấp hành13 Trần Thị Lan Ủy viên Ban Chấp hành14 Trần Thị Tuyết Hồng Ủy viên Ban Chấp hành15 Nguyễn Thị Tình Ủy viên Ban Chấp hành

16 Châu Anh Kiệt Ủy viên Ban Chấp hành Đến ngày 15/2/2006

17 Nguyễn Văn Hồng Ủy viên Ban Chấp hành Đến ngày 15/2/2006

18 Phạm Mạnh Đỡi Ủy viên Ban Chấp hành19 Đặng Đức Lượng Ủy viên Ban Chấp hành20 Khuất Văn Lộc Ủy viên Ban Chấp hành

���

21 Lê Văn Thời Ủy viên Ban Chấp hành22 Võ Sỹ Lực Ủy viên Ban Chấp hành23 Đỗ Thị Hương Ủy viên Ban Chấp hành24 Lương Văn Trương Ủy viên Ban Chấp hành25 Nguyễn Thị Huỳnh Mai Ủy viên Ban Chấp hành26 Trịnh Thị Nga Ủy viên Ban Chấp hành27 Nguyễn Văn Nhãn Ủy viên Ban Chấp hành28 Phan Văn Minh Ủy viên Ban Chấp hành29 Nguyễn Hoàng Thu Ủy viên Ban Chấp hành30 Trần Văn Vân Ủy viên Ban Chấp hành31 Nguyễn Thị Thu Hà Ủy viên Ban Chấp hành32 Nguyễn Đình Sang Ủy viên Ban Chấp hành33 Đỗ Phước Hiệp Ủy viên Ban Chấp hành34 Phạm Thị Thuấn Ủy viên Ban Chấp hành35 Điểu Kim Ủy viên Ban Chấp hành

36 Nguyễn Thị Hạnh Ủy viên Ban Thường vụ Từ ngày 15/2/2006

37 Mai Xuân Thiểm Ủy viên Ban Thường vụ Từ ngày 15/2/2006

38 Nguyễn Thị Tá Ủy viên Ban Chấp hành Từ ngày 15/2/2006

39 Phạm Thị Thanh Lâm Ủy viên Ban Chấp hành Từ ngày 15/2/2006

40 Nguyễn Hoàng Anh Ủy viên Ban Chấp hành Từ ngày 12/7/2007

���

BAN CHẤP HÀNH LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNGTỈNH BÌNH PHƯỚC KHÓA VIII (2008 - 2013)

Stt Họ và Tên Chức danh Ghi chú01 Lâm Văn Phúc Chủ tịch

02 Đoàn Văn Rồi Phó Chủ tịch

03 Trần Văn Lập Phó Chủ tịch

04 Đoàn Văn Luận Ủy viên Ban Thường vụ

05 Bùi Văn Hiếu Ủy viên Ban Thường vụ

06 Nguyễn Thị Mai Ủy viên Ban Chấp hành

07 Nguyễn Hải Lý Ủy viên Ban Thường vụ

08 Nguyễn Thị Hạnh Ủy viên Ban Thường vụ Đến tháng 5/8/2011

09 Lê Văn Mãi Ủy viên Ban Thường vụ

10 Nguyễn Thị Tá Ủy viên Ban Chấp hành

11 Trần Thị Lan Ủy viên Ban Chấp hành Đến tháng 5/8/2011

12 Nguyễn Thị Tình Ủy viên Ban Chấp hành Đến tháng 5/8/2011

13 Nguyễn Hoàng Anh Ủy viên Ban Chấp hành

14 Trần Văn Tuấn Ủy viên Ban Chấp hành

15 Nguyễn Thị Hồng Hải Ủy viên Ban Chấp hành

16 Phạm Thị Thanh Lâm Ủy viên Ban Chấp hành

17 Đặng Đức Lượng Ủy viên Ban Chấp hành

18 Nguyễn Quốc Huấn Ủy viên Ban Chấp hành

327

19 Nguyễn Thị Hồng Cúc Ủy viên Ban Chấp hành

20 Võ Sỹ Lực Ủy viên Ban Chấp hành Đến 5/8/2011

21 Nguyễn Sư Sơn Ủy viên Ban Chấp hành

22 Trần Văn Trung Ủy viên Ban Chấp hành

23 Đặng Văn Hơn Ủy viên Ban Chấp hành

24 Nguyễn Xuân Tuyến Ủy viên Ban Chấp hành

25 Nguyễn Hữu Tuất Ủy viên Ban Chấp hành

26 Điểu Kim Ủy viên Ban Chấp hành

27 Nguyễn Văn Sang Ủy viên Ban Chấp hành

28 Nguyễn Trung Dũng Ủy viên Ban Chấp hành

29 Đỗ Thành Lai Ủy viên Ban Chấp hành

30 Lương Văn Trương Ủy viên Ban Chấp hành

31 Lê Hoàng Lâm Ủy viên Ban Chấp hành Đến tháng 5/8/2011

32 Trần Bình Đức Ủy viên Ban Chấp hành

33 Nguyễn Văn Châu Ủy viên Ban Chấp hành

34 Lê Thị Hằng Ủy viên Ban Chấp hành Từ ngày 5/8/2011

35 Nguyễn Văn Lâm Ủy viên Ban Chấp hành Từ ngày 5/8/2011

36 Trần Ngọc Thuấn Ủy viên Ban Chấp hành Từ ngày 5/8/2011

37 Vũ Văn Tỉnh Ủy viên Ban Chấp hành Từ ngày 5/8/2011

38 Ngô Thị Thanh Chung Ủy viên Ban Chấp hành Từ ngày 5/8/2011

328

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Những sự kiện lịch sử Đảng, tập 1 Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương. NXB Sự Thật, Hà Nội 1976.

- Trần Văn Giàu, Giai cấp công nhân Việt Nam. NXB Sự Thật, Hà Nội 1975.

- Trần Tử Bình, Phú Riềng Đỏ. NXB Lao Động, Hà Nội 1965.

- Mạc Đường, Vấn đề dân tộc ở Sông Bé. Xuất bản 1975.- Lịch sử Đảng bộ Sông Bé, tập I, II. Xuất bản 1995.- Trần Giang, Nam Kỳ Khởi nghĩa. NXB Chính trị Quốc

gia, Hà Nội 1996.- Báo các Sinh hoạt và Thành tích công nhân Nam bộ, lưu

tại Công đoàn cao su Việt Nam.- Lịch sử Đảng bộ Bình Phước (1930 - 1975). Xuất bản

2000.- Nghị quyết Hội nghị Quân sự Nam bộ, lưu tại Ban Tuyên

Tỉnh ủy Bình Phước.- Báo cáo tình hình Khu 10 từ 1954 - 1972, lưu tại Ban

Tuyên Tỉnh ủy Bình Phước.- Lịch sử phong trào Công nhân cao su Việt nam (1906 - 1990).

NXB Trẻ TP. HCM 1993.- Hồi ký của thiếu tướng Phạm Đình Ấm. NXB Quân đội

Nhân dân, Hà Nội 2002.- Đảng bộ miền Đông lãnh đạo hai cuộc kháng chiến

(1945 - 1975), tập I, II - Bản thảo lần III.

329

- Lịch sử Khu 6 Cục Nam Trung bộ - Nam Tây Nguyên (1954 - 1975). NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội 1995.

- Miền Đông Nam bộ khánh chiến (1945 - 1975), tập I, II. NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội 1993.

- Lịch sử Chiến khu Đ. NXB Đồng Nai, NXB Sông Bé 1987.- Lịch sử phong trào công nhân cao su Sông Bé, tài liệu

đánh máy. - Tạp chí Xưa và Nay, số 69B tháng 11/1999, Hội Khoa

học lịch sử Việt Nam- Lịch sử Đảng bộ Phước Long (1960 - 2000). NXB

TP.HCM 2000.- Lịch sử truyền thống Tiểu 368 Bình Long, in tại Xí nghiệp

in Sông Bé 1994.- Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển.

NXB Đồng Nai 1998.- Lịch sử Bình Phước kháng chiến (1945 - 1975). NXB

Chính trị Quốc gia, Hà nội 2002.- Địa chí Sông Bé. NXB Sông Bé 1990.- Lê Duẩn Thư vào Nam. NXB Sự Thật, Hà Nội 1985.- Công đoàn Việt Nam những chặng đường lịch sử. NXB

Lao Động, Hà Nội 1989- Lịch sử phong trào Công nhân và Công đoàn Việt Nam

(1930 - 2000), tập I, II, III. NXB Lao Động, Hà Nội 2003.- Bình Long truyền thống đấu tranh và xây dựng (1930

- 2000). Xuất bản 2000.- Lộc Ninh lịch sử và truyền thống (1930 - 2000). NXB

TP.HCM 2001.

330

- Lịch sử truyền thống cách mạng của Đảng bộ và quân dân Phước Long (1930 - 1975). Xuất bản 1994.

- Lịch sử Biên niên Xứ ủy Nam bộ và Trung ương cục miềm Nam (1954 - 1975). NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002.

- Lịch sử phong trào Công nhân lao động và Công đoàn tỉnh Bình Dương (1975 - 2008). NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009.

- Báo cáo Tổng kết tình hình năm 1974 của huyện Lộc Ninh, tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Phước.

- Báo cáo Đại hội Công nhân Bình Long, tháng 8/1962, tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Phước.

- Đặng Văn Vinh, 100 năm cao su Việt Nam. NXB Nông nghiệp 2000.

- 50 năm lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1945 - 1975). NXB Quân đội, Hà Nội 1995.

- Chiến Thắng Tàu Ô – Bình Long trong chiến dịch Nguyễn Huệ 1972. NXB Quân đội, Hà Nội 2002.

- Các tài liệu đánh máy của Trung ương Đảng.- Niêm giám thống kê của tỉnh Bình Phước, xuất bản từ

1997 - 2011.- Các báo cáo năm, báo cáo chuyên đề của Công đoàn tỉnh

từ 1997 - 2012.- Văn kiện Đại hội Công đoàn tỉnh lần VI, VII, VIII.

���

MỤC LỤCTrang

LỜI NÓI ĐẦU

MỞ ĐẦU

CHươNG I:THựC DâN PHÁP CHIếM ĐÓNG BìNH PHướC Và Sự

RA ĐỜI ĐộI NGũ CôNG NHâN TRướC KHI ĐảNG CSVN THàNH LậP

I. Chính sách khai thác thuộc địa và sự hình thành đội ngũ

công nhân lao động Bình Phước

II. Đời sống cùng cực của công nhân lao động và những

đấu tranh của họ trước khi Đảng CSVN ra đời

CHươNG II:

PHONG TRàO CôNG NHâN LAO ĐộNG BìNH PHướC

TRONG THỜI Kỳ ĐẤU TRANH GIàNH CHíNH QUyềN

(1930-1945)

I. Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Phú Riềng ra đời,

03

06

18

23

���

phong trào đấu tranh của công nhân lao động từ tự phát

sang tự giác

II. Phong trào công nhân lao động Bình Phước

III. Phong trào công nhân lao động Bình Phước trong cuộc

vận động giải phóng dân tộc (1939-1945)

CHươNG IIICôNG NHâN LAO ĐộNG BìNH PHướC TíCH CựC THAM

GIA CHốNG THựC DâN PHÁP (1945-1954)I. Xây dựng cuộc sống mới và tham gia kháng chiến

(1945-1947)

II. Nỗ lực vượt khó khăn, tổ chức phá hoại cơ sở kinh tế địch,

phối hợp đánh địch trên mặt trận quân sự (1947-1952)

III. Giữ vững phong trào, đẩy mạnh đấu tranh trên

các mặt trận, góp phần đưa cuộc kháng chiến

chống Pháp đi đến thắng lợi (1953-1954)

Chương IV: Phong trào đấu tranh của công nhân lao động

Bình Phước trong thời kỳ chống Mỹ (1954-1975)

I. Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơ-Ne-Vơ, đòi cải thiện

34

39

44

50

56

64

68

���

đời sống, đòi tự do Nghiệp đoàn, tiến lên Đồng Khởi

(1954-1960)

II.Tổ chức, xây dựng lực lượng đánh bại quốc sách ấp chiến

lược của Mỹ - Diệm (1961-1964)

III.Tăng cường củng cố lực lượng, đập tan kế sách quân sự

hoá của Mỹ nguỵ tiến lên tổng công kích và nổi dậy Tết

Mậu Thân (1965-1968)

IV. Bám địa bàn, bảo vệ vùng giải phóng, chống địch phản kích

vùng Lộc Ninh, Bù Đốp, tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ

(1969-1972)

V. Tham gia xây dựng, bảo vệ vùng giải phóng, phối hợp

cùng lực lượng vũ trang giải phóng toàn bộ các đồn điền,

góp phần gải phóng hoàn toàn miền Nam (1973-1975).

CHươNG VPHONG TRàO CôNG NHâN, VIÊN CHỨC, LAO ĐộNG Và HOẠT ĐộNG CôNG ĐOàN BìNH PHướC TRONG THỜI Kỳ Cả NướC THốNG NHẤT, ĐI LÊN CHỦ NGHĨA CHỦ XÃ HộI

(1975 - 1986)

23

101

111

121

133

���

I. Phong trào công nhân, viên chức, lao động chức góp phần khắc

phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế (1975 - 1976)

II. Phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động

công đoàn tham gia cải tạo chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh

các phong trào thi đua, từng bước cải thiện đời sống vật

chất và tinh thần (1977 - 1980)

III. Vận động công nhân, viên chức, lao động tham gia chiến

đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc

IV. Phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động

công đoàn Bình Phước trong những năm Đảng ta tìm

đường đổi mới đất nước(1980- 1988)

CHươNG VIPHONG TRàO CôNG NHâN, VIÊN CHỨC, LAO ĐộNG Và

HOẠT ĐộNG CôNG ĐOàN TỈNH BìNH PHướC TRONG THỜI Kỳ ĐẤT NướC ĐỔI MớI (1988 - 1996)

I. Phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt

động công đoàn những năm đầu của công cuộc đổi

mới (1988 - 1993)

23

155

169

175

193

���

II. Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới vì mục đích dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh (1993 - 1996)

CHươNG VIICôNG NHâN, VIÊN CHỨC, LAO ĐộNG Và CôNG ĐOàN

TỈNH BìNH PHướC TRONG Sự NGHIỆP ĐẨy MẠNH CôNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NướC (1997 - 2010)

I. Phong trào công nhân, viên chức, lao động và Công đoàn tỉnh

Bình Phước trong những năm đầu tái lập tỉnh (1997- 2003)

II. Phong trào công nhân, viên chức, lao động và công đoàn

Bình Phước (2003 - 2008)

III. Phong trào công nhân và tổ chức Công đoàn tiếp tục đẩy

mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa (2008 - 2012)

KếT LUậN

PHỤ LỤC BAN CHẤP HàNH

TàI LIỆU THAM KHảO

MỤC LỤC

209

229

257

280

303

311

328

331

���

LỊCH SỬPHONG TRÀO CÔNG NHÂN VIÊN CHỨC

LAO ĐỘNG VÀ CÔNG ĐOÀNTỈNH BÌNH PHƯỚC

(1930 – 2012)

Chịu trách nhiệm xuất bản

BAN THƯỜNG VỤ LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNGTỈNH BÌNH PHƯỚC

In 1.000 cuốn, khổ 14,5cm x 20,5cm, tại Nhà in Báo Bình Phước.Số 05, Nguyễn Văn Linh, P. Tân Phú, TX. Đồng Xoài, T. Bình Phước. ĐT: 0651.3881823. Giấy phép xuất bản số: 02/GP-STTTT do Sở Thông tin Truyền thông Bình Phước cấp ngày 17/01/2013. In xong và nộp lưu chiểu tháng 01 năm 2013.

337

Huân chương Độc lập hạng Ba do Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng

Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước năm 2012.

338

Tư bản thực dân Pháp khai phá rừng để lập đồn điền cao su dọc hai bên quốc lộ 13 (năm 1924).

339

Hàng loạt nông dân Bắc, Trung Kỳ trở thành công nhân “Công tra” cho các đồn điền cao su Pháp.

340

Người công nhân cao su dưới thời Pháp thuộc.

���

Những Cai Xu dưới thời Pháp thuộc.

���

Cảnh công nhân cao su chờ đợi chủ phát lương thực.

���

Bữa ăn của người công nhân cao su.

���

Hai cảnh đời trái ngược của bọn chủ và công nhân đồn điền cao su, dưới thời Pháp thuộc.

���

Dùng người bản xứ đánh người bản xứ. Đó là chính sách vô cùng thâm độc của bọn chủ Tây.

���

Công nhân cáo su Phú Riềng bãi công ngày 3.2.1930.

347

Đồng chí Trần Tử Bình - Bí thư Chi bộ Phú Riềng Đỏ Người lãnh đạo cuộc bãi công của 5.000 công nhân cao su

Phú Riềng, ngày 3.2.1930

348

Nhà máy chế biến mủ cao su Lộc Ninh thời Pháp thuộc.

349

Thợ phu kỹ thuật nhà máy chế biến mủ làm việc dưới sự hướng dẫn của sếp người Pháp.

350

Thực dân Pháp thường xuyên tổ chức các cuộc lùng sục ruồng bố, đàn áp công nhân.

���

Thực dân Pháp trở lại tái chiếm đồn điền, chúng bắt bớ và chém giết hàng trăm đồng bào và những người kháng chiến.

���

Cây cao su bị công nhân “Phá hoại” vạc vỏchặt tiện xung quanh thân cây.

���

Tư bản đồn điền phối hợp với thực dân Pháp tăng cường lực lượng quân sự để bảo vệ hoạt động sản xuất cao su.

���

Nữ công nhân cao su người dân tộc thiểu số tham gia kháng chiến.

���

Công nhân nghe cán bộ Việt Minh diễn thuyết trong rừng cao su.

���

Các Báo liên tục đăng các cuộc đình công của công nhân cao su.

357

Hội nghị đại biểu của Công đoàn cao su Miền Đông lần thứ III.

358

Lễ kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1.5 của công nhân tại căn cứ, năm 1959.

359

360

Lễ tiễn đưa gỗ quí và ngà voi của công nhân và nhân dân tỉnh Bình Phước ra thủ đô Hà Nội, góp phần xây lăng Bác

tháng 6.1974.

���

Công nhân xem triển lãm trong chiến khu.

���

Đồng chí Đỗ Văn Nuống (Tư nguyện) - Bí thư Tỉnh ủy Bình Phước tại lễ xuất quân tiêu duyệt Chi khu Bù Đốp

ngày 11.12.1974.

���

Từ các đồn điền cao su miềm Đông Nam Bộ, Quân giải phóng miềm Nam tiến về Sài Gòn, tham gia chiến dịch

Hồ Chí Minh lịch sử, năm 1975.

���

Đồng chí Nguyễn Văn Luông - Bí thư Tỉnh ủy Sông Bé trò chuyện với các đại biểu dự Hội nghị sáng kiến

lần I (1976 - 1980).

���

Đồng chí Nguyễn Thường Sơn - Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh Bình Phước (1972 - 1976)

Sông Bé (1976 - 1979).

���

Đồng chí Ngô Tuấn Đạt - Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh Sông Bé (1979 - 1980).

367

Công nhân Công ty cao su Bình Long vót chông bố phòng trên tuyến đê bảo vệ biên giới Tây Nam

xã Lộc Thành - Lộc Ninh văm 1979.

368

Đồng chí Trần Xuân Minh - Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh Sông Bé (1980 - 1986).

369

Đồng chí Huỳnh Kim Oanh - Phó Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh Sông Bé phát biểu tại Đại hội Công đoàn

tỉnh lần thứ II.

370

Ban chấp hành Liên hiệp Công đoàn tỉnh Sông Békhóa II (1980 - 1983).

371

Đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Đại hội Công đoàn tỉnh Sông Bé lần thứ II, ngày 27.9.1980.

372

Quang cảnh Đại hội Đại biểu lần thứ III Công đoàn tỉnh Sông Bé, năm 1983.

373

Các cháu thiếu nhi tặng hoa chúc mừng Đại hội Đại biểu lần thứ III Công đoàn tỉnh Sông Bé, năm 1983.

374

Đồng chí Nguyễn Văn Luông - Bí thư Tỉnh ủy phát biểu chỉ đạo tại Đại hội IV Công đoàn tỉnh Sông Bé.

375

Ban Chấp hành Công đoàn tỉnh Sông Békhóa IV (1988 - 1993).

376

Đồng chí Huỳnh Văn Tấn - Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh Sông Bé (1986 - 1989).

377

Đồng chí Nguyễn Văn Minh - Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Sông Bé (1989 - 1995).

378

Quang cảnh Đại hội Đại biểu Công đoàn tỉnh Sông Bé lần thứ V, năm 1993.

379

Đồng chí Trịnh Thị Kim Liên - Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Sông Bé (1996 - 1997).

380

Đồng chí Nguyễn Thanh Lâm - Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước (1997 - 2000).

381

Ban Chấp hành Công đoàn tỉnh Bình Phước khóa VI (1998 - 2003).

382

Đồng chí Nguyễn Hữu Luật - Ủy viên BCH TW Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bình Phước, thừa ủy nhiệm của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam trao tặng huy chương Lao động

hạng II cho Công đoàn tỉnh, ngày 28.7.2001.

383

Đồng chí Võ Đình Tuyến - Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy (nay là Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy) tặng hoa chúc mừng lãnh đạo LĐLĐ tỉnh, Sở VHTT và Sở TDTT tại buổi lễ ký chương trình liên tịch xây dựng đời sống

văn hóa trong CNVCLĐ.

384

Đồng chí Bùi Thanh Phong - Bí thư Tỉnh ủy phát biểu chỉ đạo tại Lễ mít tinh kỷ niệm 70 năm thành lập

Công đoàn Việt Nam, ngày 28.7.1999.

385

Đồng chí Cù Thị Hậu - Ủy viên BCH TW Đảng, Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam cùng với các đồng chí lãnh đạo

tỉnh thăm Nhà máy chế biến mủ cao su Thuận Lợi (Công ty cao su Đồng Phú).

386

Đồng chí Bùi Huy Thống - Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước tặng hoa chúc mừng các Điển hình tại Liên hoan điển hình

tiên tiến trong CNVCLĐ năm 2000.

387

Lễ động thổ khởi công xây dựng trụ sở cơ quan LĐLĐ tỉnh Bình Phước, ngày 08.01.2000.

388

Ban Chấp hành Công đoàn tỉnh Bình Phước khóa VII (2003 - 2008).

389

Đồng chí Nguyễn Việt Cường - Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Bình Phước trao tặng Bức trướng

của BCH Đảng bộ tỉnh cho Đại hội Công đoàn tỉnh lần thứ VII, ngày 22.7.2003.

390

Đồng chí Bùi Thế Thành - UVTV, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy Bình Phước, thừa ủy nhiệm của Chủ tịch nước

CHXHCN Việt Nam trao tặng huy chương Lao động hạng I cho Công đoàn tỉnh, ngày 29.01.2007.

391

Ban chỉ đạo, Ban biên soạn và các nhân chứng tại Hội thảo Lịch sử Phong trào công nhân, viên chức, lao động

và Công đoàn tỉnh Bình Phước.

392

Đoàn Chủ tịch Đại hội Công đoàn tỉnh Bình Phước lần thứ VIII , ngày 21-22.4.2008.

393

Đồng chí Nguyễn Tấn Hưng - Ủy viên BCH TW Đảng Bí thư Tỉnh ủy Bình Phước phát biểu chỉ đạo tại Đại hội

Công đoàn tỉnh lần thứ VIII.

394

Đồng chí Nguyễn Văn Ngàng - PCT Tổng LĐLĐ Việt Nam trao tặng Cờ thi đua xuất sắc 5 năm (2003 - 2008)

cho Công đoàn tỉnh Bình Phước, ngày 22.4.2008.

395

Đồng chí Lâm Văn Phúc - Tỉnh ủy viên, Ủy viên BCH Tổng LĐLĐVN, Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Bình Phước và Đồng chí Giang

Văn Khoa - Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh trao biểu trưng vòng hoa và chụp hình lưu niệm cùng các điển hình tiên tiến

tại Hội nghị điển hình tiên tiến CNVCLĐ lần thứ III năm 2010.

396

CHÂN DUNG CÁC ĐỒNG CHÍ CHỦ TỊCH CÔNG ĐOÀN TỈNH TỈNH QUA CÁC THỜI KỲ

Đồng chí NGUYỄN THƯỜNG SƠN Thư ký Liên hiệp Công đoàn

tỉnh Sông Bé (khóa I)

Đồng chí NGÔ TUẤN ĐẠT Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh Sông Bé

(tháng 10.1979 - 2.1980, khóa I)

Đồng chí TRẦN XUÂN MINH Thư ký Liên hiệp Công đoàn

tỉnh Sông Bé (khóa II - III)

Đồng chí HUỲNH VĂN TẤN Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh Sông Bé (khóa III - IV)

397

Đồng chí NGUYỄN VĂN MINH Chủ tịch Liên đoàn Lao động

tỉnh Sông Bé (khóa IV - V)

Đồng chí TRỊNH THỊ KIM LIÊN Chủ tịch Liên đoàn Lao động

tỉnh Sông Bé (khóa V - VI)

Đồng chí NGUYỄN THANH LÂM Chủ tịch Liên đoàn Lao động

tỉnh Bình Phước (khóa VI)

Đồng chí LÂM VĂN PHÚC Chủ tịch Liên đoàn Lao động

tỉnh Bình Phước (khóa VI - VII - VIII)

CHÂN DUNG CÁC ĐỒNG CHÍ CHỦ TỊCH CÔNG ĐOÀN TỈNH TỈNH QUA CÁC THỜI KỲ

398

CHÂN DUNG CÁC ĐỒNG CHÍ PHÓ CHỦ TỊCH CÔNG ĐOÀN TỈNH QUA CÁC THỜI KỲ

Đồng chí LÊ VĂN THUYẾT Phó Thư ký Liên hiệp Công đoàn

tỉnh Bình Phước (1973 - 1976)

Đồng chí HUỲNH KIM OANH Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh Thủ Dầu Một, Phó Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh

Sông Bé (khóa I - II - III)

Đồng chí NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNHPhó Chủ tịch Liên đoàn Lao động

tỉnh Sông Bé (khóa IV)

Đồng chí BÙI VĂN THÀNH Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động

tỉnh Sông Bé (khóa IV)

399

CHÂN DUNG CÁC ĐỒNG CHÍ PHÓ CHỦ TỊCH CÔNG ĐOÀN TỈNH QUA CÁC THỜI KỲ

Đồng chí NGUYỄN VĂN KHƯƠNG Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động

tỉnh Sông Bé (khóa V)

Đồng chí LÊ THỊ HỒNG THU Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động

tỉnh Bình Phước (khóa VI - VII)

Đồng chí ĐOÀN VĂN RỒI Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động

tỉnh Bình Phước (khóa VI - VII - VIII)

Đồng chí TRẦN VĂN LẬP Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước (khóa VII - VIII)