Upload
luutiendungford
View
10
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
CÂY GAI - KỸ THUẬT
CANH TÁC NĂNG SUẤT CAO
Trung tâm dịch vụ kỹ thuật cây trồng kinh tế
thành phố Nguyên Giang
LỜI NÓI ĐẦU
Cây gai có nguồn gốc từ Trung Quốc, còn được gọi là “cỏ
Trung Quốc”, đến nay đã có hơn 5.000 năm lịch sử trồng trọt, hiện
nat sản lượng cây gai của Trung Quốc chiếm khoảng hơn 90% sản
lượng thế giới, trong đó Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên và Giang Tây
là các tỉnh chính sản xuất cây gai, diện tích gieo trồng của nó
chiếm hơn 80% của cả nước.Bất luận là diện tíchtrồng trọt, năng
suất, sản lượng, hay năng lực gia công thô đều đứng vị trí hàng đầu
tuyệt đốitrên thế giới, tuy nhiên,cùng với khủng hoảng lương thực
và năng lượng tiềm ẩn của thế giới và Trung Quốc, cũng như yêu
cầu đối với môi trường, việc phát triển công nghiệp cây gai của
Trung Quốc phải đối mặt với những khó khăn rất lớn, nhu cầu bức
thiết là phải thay đổi phương pháp trồng trọt truyền thống,từ cánh
đồng phì nhiêu phát triển tới các sườn đồi, nâng cao sản lượng và
chất lượng, nâng cao hiệu quả trồng trọt.Nội dung của cuốn sách
này bao gồm kỹ thuật nhân giống cây gai, quản lý trồng trọt, kiểm
soát sâu bệnh và thu hoạch cơ giới… các kỹ thuật được chọn đều
rất thiết thực trong sản xuất trong những năm gần đây, khả năng
thực hiện cao, đơn giản, dễ hiểu, ngôn ngữ thông tục, dễ dàng
quảng bá ứng dụng, tất cả đều nhằm giúp đỡcho các nông dân
trồng trọt cây gai.
Ngày 10 tháng 12 năm 2011
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: LỰA CHỌN GIỐNG CÂY GAI.................................1
CHƯƠNG II: KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG CÂY GAI...................4
PHẦN 1: NHÂN GIỐNG GIÂM NGỌN NON CÂY GAI..............5
PHẦN 2: NHÂN GIỐNG...............................................................15
CHƯƠNG III: KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY GAI.....................20
PHẦN 1: KỸ THUẬT CANH TÁC THÔNG THƯỜNG..............20
PHẦN 2: KIỂM TRA ĐẤT PHA CHẾ BÓN PHÂN.....................24
PHẦN 3: PHÒNG CHỐNG HẠN HÁN, THOÁT NƯỚC NGẦM
VÀ TRÁNH GIÓ CHO CÂY GAI.................................................26
CHƯƠNG IV: PHÒNG CHỐNG CÁC BỆNH SÂU HẠI.............30
PHẦN 1: CÁC BỆNH THƯỜNG GẶP.........................................30
PHẦN 2: CÁC SÂU HẠI THƯỜNG GẶP....................................36
CHƯƠNG V: MÁY MÓC LÀM GAI..............................................47
CHƯƠNG VI: KỸ THUẬT CẤT TRỮ GAI THÔ........................49
PHẦN 1: ĐIỀU KIỆN CẤT TRỮ CÂY GAI.................................49
PHẦN 2: PHÒNG CHỐNG SÂU HẠI (BỌ CÁNH CỨNG)
TRONG CẤT TRỮ.........................................................................50
CHƯƠNG I: LỰA CHỌN GIỐNG CÂY GAI
Cây gai có nguồn gốc từ Trung Quốc, còn được gọi là “cỏ
Trung Quốc”, đến nay đã có hơn 5.000 năm lịch sử trồng trọt, hiện
nat sản lượng cây gai của Trung Quốc chiếm khoảng hơn 90% sản
lượng thế giới, trong đó Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên và Giang Tây
là các tỉnh chính sản xuất cây gai, diện tích gieo trồng của nó
chiếm hơn 80% của cả nước. Từ khi lập quốc tới nay, Trung Quốc
dựa trên nền tảng thu thập, chỉnh lý, đánh giá các giống địa
phương, sử dụng các giống tốt của địa phương để giám định, dẫn
giống, lựa chọn hệ thống, lai tạo, nhân giống bức xạ…, trước sau
đã tạo ra một loạt các giống cây gai cao sản mới chất lượng Trung
Quốc, Hồ Nam, Hồ Bắc, Hoa Trung, Giang Tây, và Tứ Xuyên.
Hiện nay các giống chính trong sản xuất gồm có: “Gai Trung
Quốc số 1” và “Gai Hồ Nam số 2” do Sở nghiên cứu giống cây gai
Học viện Khoa học và Nông nghiệp Trung Quốc lai tạo, “Gai Hồ
Nam số 3” do Sở nghiên cứu giống cây gai Đại học Nông nghiệp
Hồ Nam lai tạo, “Gai Giang Tây số 3” doSở nghiên cứu Học viện
Khoa học và Nông nghiệp tỉnh Giang Tây lai tạo, “Gai Hoa
Trungsố 4” do Đại học Nông nghiệp Hoa Trunglai tạo, “Gai Tứ
Xuyên số 8”, “Gai Tứ Xuyên số 11” và “Gai Tứ Xuyên số 12” do
1
Sở nghiên cứu Khoa học và Nông nghiệp thành phố Đạt Châu tỉnh
Tứ Xuyên lai tạo.
Từ năm 2000 tới nay, các giống trồng trọt chủ yếu tại khu vực
2
Động Đình Hồlà “Gai Trung Quốc số 1” và “Gai Hồ Nam số 2”,
trong đó diện tích trồng trọt của “Gai Trung Quốc số 1” chiếm hơn
80%. “Gai Trung Quốc số 1” là giống do Sở nghiên cứu giống cây
gai Học viện Khoa học và Nông nghiệp Trung Quốc lai tạo từ “cỏ
lá tròn” và “cỏ lau trúc”, trải qua hơn 10 năm lai tạo đã cho ra
giống gai Trung Quốc sàng lọc kỹ lưỡng, được Hội đồng thẩm
định giống quốc gia thẩm định, từ tháng 2 năm 2004 chính thức
được đặt tên là “Gai Trung Quốc số 1”. Trung bình giống này cao
229 cm, đường kính thân 1,42 cm, vỏ dày 1,12 mm, khóm đơn với
số gốc hiệu quả là 3,04 cây, tỷ lệ vỏ tươi ra gai là 1,27%. Loại
giống này có các ưu điểm sau: 1) Sinh sản sớm. Nảy mầm nhanh,
đầu xuân gieo trồng, trong năm có thể thu hoạch sản lượng cao; 2)
Năng suất cao. Loại giống này chân gai ít, tỷ lệ gốc hiệu quả cao,
thân cây thô, sản lượng mỗi mẫu có thể đạt trên 250kg/năm. 3) Sản
lượng ổn định. Cho năng suất cao trong thời gian dài, sản lượng
hàng năm cao. 4) Chất lượng tốt. Cây gai thô có mày trắng xanh, ít
đốm gỉ, số sợi lên đến trên 2000. 5) Khả năng kháng nghịch mạnh
mẽ. Thân cây thô cứng, rễ sâu, chống ngã đổ, chống hạn hán, chịu
nhiệt cao. 6) Dễ thu hoạch. Vỏ và xương dễ tách, dễ bóc vỏ, thu
hoạch dễ dàng.
3
CHƯƠNG II: KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG CÂY GAI
Gai là loại cây lâu năm, có thể nhân giống bằng hạt, cũng có
thể nhân giống vô tính. Đời sau của cây gai nhân giống bằng hạt có
sự biến đổi lớn, độ dài không đều, không nên áp dụng trong sản
xuất. Nhưng ưu điểm làhạt gai nhỏ, không mang mầm bệnh, dễ
dàng vận chuyển, giá thành thấp, hệ số nhân giống lớn…; thích
hợp hơn đối với những nơi ít nghiên cứu, thiếu hụt nguồn giống
phát triển cây gai. Nhân giống vô tính chủ yếu gồm nhân giống
chia gốc, nhân giống cắt gốc, và nhân giống giâm ngọn non, trong
đó, nhân giống giâmngọn non có các ưu điểm là thao tác đơn giản,
hệ số nhân giống lớn, có thể kiểm soát các bệnh hại truyền qua
đất… đã trở thành phương pháp nhân giống chủ yếu được sử dụng
ở các khu vực sản xuất cây gai chính của Trung Quốc.
4
PHẦN 1: NHÂN GIỐNG GIÂM NGỌN NON CÂY
GAI
I. Lựa chọn cây cái và tỉa ngọn
1.Sử dụng nguồn giống của các nhà lai tạo giống (là hệ thống
cây đơn, hệ nhân giống vô tính), sau khi nhân giống vô tính xác
nhận không mang mầm bệnh, thực vật tăng trưởng đều, ngăn nắp,
nhóm cây ban đầu với hình thái bên ngoài đồng đều trở thành cây
cái. Thông thường mật độ trồng trọt của vườn gai cái khoảng cách
giữa các hàng là 0,7 m, khoảng cách giữa các cây từ 0,3 – 0,4 m.
2.Vườn gaicái cần được tăng cường quản lý nước và phân
bón, bón phân đầy đủ và kịp thời. Khi luống gai phát triển đến trên
50 cm, thì có thể lấy thân chính tiến hành ươm giống. Để đẩy
nhanh tốc độ nhân giống, có thể giâm ngọn, kích thích phân nhánh;
sau khi cắt lấy thân chính phải phân bón nitơ kịp thời, kích thích
phát nhánh.
II. Chuẩn bị vườn ươm
1.Chuẩn bị vật liệu
Phải chuẩn bị đầy đủ các vật liệu nhà nông như: màng nhựa,
thuốc trừ sâu (thuốc tím, carbendazim, thiophanate), kéo, vòm tre
5
(dài x rộng = 200 x 3 cm), vật che râm (màng rơm, túi rơm) và các
vật liệu khác.
2.Chuẩn bị vườn ươm
Địa hình: Từ tháng 4 – 6 nhiệt độ thấp, mưa nhiều, vườn ươm
nên lựa chọn địa hình cao, bằng phẳng, dưới chiều gió, hướng
nắng, điều kiện thoát nước khá tốt để làm vườn ươm; từ tháng 7 –
9 nhiệt độcao, ít mưa, khô hạn nghiêm trọng, nên chọn nơi gần
nguồn nước, tưới tiêu thuận tiện để làm vườn ươm, vào mùa nhiệt
độ cao còn có thể lựa chọn làm vườn ươm dưới bóng râm. Tuy
nhiên,những miếng đất hoặc bóng râm quá ẩm ướt, bị che phủ,
điều kiện thông gió và ánh sáng kém, bất luận là mùa nào cũng
không thể chọn làm vườn ươm.
Đất: Đất mùn hoặc đất thịt pha cát là tốt. Đối với đất có độ
dính cao, có thểtrộn lẫn một phần bùn cát hoặc hoặc phân chuồng
để cải tạo, hoặc sau khi chỉnh lý luống xong, trước khi gieo mạ phủ
một lớp đất mùn khô hoặc cát bùn rồi mới gieo; đối với đất cát bùn
quá nặng phải tăng cường bón phân chuồng để cải tạo; tốt nhất
không nên đất vụ trước trồng gai để làm vườn ươm, vì bệnh thối rễ
tuyến trùng tàn dư ở vườn gai cũ khá nghiêm trọng, luống gai sau
khi gieo trồng có thể mang theo mầm bệnh truyền vào ruộng sản
6
xuất, không chỉ phát tán mầm bệnh, mà còn ảnh hưởng đến sự tăng
trưởng và phát triển của gai.
Vườn ươm: Chọn ngày nắng để xới đất, sau khi phơi đất phun
thuốc diệt khuẩn và thuốc trừ sâu để khử trùng. Cày xới, làm tơi
đất, san bằng làm luống, luống rộng 1,2 – 1,4 m, chiều dài lô
không giới hạn, chiều rộng rãnh mương khoảng 50 cm, sâu khoảng
25 cm. Rạch ngang bề mặt lô một rãnh gieo cây giống, khoảng
cách giữa các rãnh là 15 cm,trong rãnh rải lượng cát mịn thích hợp,
để dễ dàng gieo cây giống.
Bón phân: Thường lựa chọn mảnh đất khá màu mỡ để làm
vườn ươm, vì vậy sau khi làm đất xong, thường không cần phải
bón phân, càng không cần phải dùng phân bón urê hay các phân
bón hóa học khác để làm tăng độ màu mỡ.
Khử trùng: Trước khi gieo giống thường dùng dung dịch kali
permanganat nồng độ 1/40000 (tức trong 40 kg nước cho 1g kali
permanganat) tưới khắp vườn ươm. Trường hợp gieo giống vào
mùa nóng, thì không cần xử lý kali permanganat hoặc giảm nồng
độ sử dụng.
III. Cắt cành lấy cây giống
Chọn ngày nắng sau 9h sáng bắt đầu lấy mầm, tuy nhiên phải
7
tránh lấy mầm khi nhiệt độ cao. Dùng dao lưỡi đơn cắt thân và
nhánh, gọt phần dưới của thân hoặc nhánh ở trong chỗ râm, cắt lấy
nhánh có độ dài từ 8 – 15 cm. Giữ lại 3 – 5 lá nhỏ của ngọn nhánh
gieo, đảm bảo dưới khoảng 1 cm có một mắt. Giảm thiểu các vết
thương của cành giâm. Cho cành giâm gọt xong vào dung dịch khử
trùng (kali permanganat 0,8 ‰hoặc thiophanate500 – 1000 lần,
thuốc diệt khuẩn carbendazim) trong 3 phút, rồi đặt trong bóng
râm chuẩn bị sử dụng.
Khi cắt lấy ngọn non cần phải chú ý: 1) Có thể cắt cây giống
trong ruộng cùng một lúc, tập trung vào chỗ mát để khử trùng, mỗi
lần lấy cây giống không nên lấy quá nhiều, thường mỗi lần lấy 300
– 500 cây giống rồi xử lý một lần. 2) Trời nằng phải mang theo
nước để cắt cây giống, tức phải mang theo thùng chứa nước xuống
ruộng, sau khi cắt ngọn non xuống phải cho vào trong nước để giữ
ẩm, tránh mất nước quá nhiều khó mà sống được. 3) Phải vừa cắt
cành vừa tỉa, vừa xử lý thuốc, vừa giâm.
8
IV. Giâm ngọn
Các bước chính là: Tưới nước –gieo giống – tưới nước– cắm
tre xung quanh –phủ màng nhựa – che mát
Cành giâm sau khi xử lý khử trùng được gieo tập trung vào
rãnh bên trong có cát mịn, độ sâu 2 ~ 3 cm; khoảng cách giữa các
hàng 10 – 12 cm, khoảng cách giữa các cây 6 – 7 cm, mỗi mẫu
vườn ươm gieo khoảng 80 – 100 ngàn cây là thích hợp. Sauk hi
gieo giống phải tưới nước kịp thời, cho tới khi thấm nước khắp
vườn ươm.
Những vấn đề chính cần lưu ý khi gieo giống: 1) Chọn thời
gian gieo giống. Tùy vào những mùa khác nhau mà lựa chọn thời
gian gieo giống khác nhau, tháng 4 – 5 gieo giống lúc nào cũng
Lấy ngọn non
Giâm ngọn
9
được, tháng 6 – 9 phải gieo vào sáng sớm hoặc trước 10h sáng, sau
6h chiều. 2) Làm tốt “5 vừa”, vừa tưới nước, vừa gieo giống, vừa
cắm tre xung quanh, vừa phủ màng, vừa phủ rơm che mát. 3) Chừa
3 – 4 cm rộng hai bên luống, sau khi gieo xong mỗi luống đào đất
mép luống 2 – 3 cm, sau khi phủ màng xong dùng đất của luống
nén chặt màng phủ.
V. Quản lý luống
Việc quản lý vườn ươm chủ yếu là điều tiết ánh sáng, nhiệt
độ và nước, phương pháp quản lý cụ thể như sau:
1. Kiểm soát độ ẩm. Kiểm soát nhiệt độ tương đối trong
màng, then chốt là lúc gieo luống phải được tưới tiêu, sau khi gieo
tưới lại một lần nữa, rồi phủ màng giữ ẩm ngay lập tức, sau khi
nén đất đầm kín thườn thì trong 4 – 5ngày không được dở bỏ
Ươm mạ Cấy ghép
10
màng, như vậyđộ ẩm tương đối trong màng có thể duy trì ở mức
trên 95%, trường hợp sau khi gieo 2 – 3 ngày lá cây non hơi cong,
đây là hiện tượng bình thường.Chỉ cần thường xuyên quan sát
không mócđầu, không cuốn lá nghiêm trọng, thì không cần phải
tháo màng tưới nước, tuy nhiên, phải thường xuyên quan sát những
biếnđổi của độ ẩm bên trong màng. Khi xuất hiện một trong những
tình huống sau, phải tháo màng tưới nước: 1) Độ ẩm tương đối
trong không khí thấp hơn 90%; 2) Sau 7h tối quan sát từ bên ngoài
màng thấy lượng nước đọng lại bên trong màng không đáng kể; 3)
Bề mặt luống xuất hiện các khe nhỏ (bị hở) hoặc nổi màu trắng.
Việc tháo màng tưới nước phải tiến hành vào buổi sáng sớm hoặc
buổi tối. Lượng nước tưới không nên quá nhiều, số lần cũng không
được quá dày đặc, ngược lại, dễ phát bệnh thối rữa. Sau mỗi lần
tháo màng tưới nước vẫn phải phủ màng lại, cho tới khi cây cứng
cáp.
2. Kiểm soát ánh sáng và nhiệt độ. Trên bề mặt màng phủ
thêm màng rơm hoặc vật che chắn khác, chủ yếu là để điều tiết
nhiệt độ và ánh sáng, phải che mát tùy theo từng trường hợp, quá
nhiều hoặc quá ít đều không tốt. Một mặt có thể giảm bớt nhiệt độ
trong màng, tránh làm tổn thương cây non; mặt khác phải cho
luống thời gian chiếu sáng nhất định, thúc đẩy việc phát triển rễ.
Phương pháp che mát là phủ 1 – 2 màng rơm hoặc các vật che mát
khác lên trên màng nhựa.Mỗi ngày sau 5h chiều dỡ bỏ màng che
11
mát, khảng 7h30 sáng hôm sau lại phủ lên. Cũng có thể chọn thời
gian trước 11h sáng phủ ở phía đông luống, sau 5h chiều phủ ở
phía tây luống, từ 11h sáng – trước 5h chiều phủ toàn bộ luống,
như vậy có thể kéo dài thời gian chiếu sáng, thúc đẩy cây gai phát
triển rễ. Trường hợp ngày mưa âm u, có thể cả ngày không cần che
mát. Phải thường xuyên quan sát nhiệt độ bên trong màng, đặc biệt
chú ý nhiệt độ từ 11h – 16h hàng ngày, khi nhiệt độ trong màng
tăng tới 40oC, phải lập tức tưới nước bên ngoài màng hoặc phủ vật
che chắn để giảm nhiệt độ, tuyệt đối không tháo màng thông gió
giảm nhiệt độ.
3. Tháo màng luyện giống. Sau khi cây phát triển rễ trắng 3 –
5 cm, trước tiên mở hai đầu tấm màng luyện giống, rồi dần dần
giảm bớt những vật che chắn. Sau 2 – 3 ngày là có thể dỡ bỏ toàn
bộ vật che chắn, nhưng phải duy trì độ ẩm. Thông thường trồng
vào tháng 4 – 5, khoảng 12 – 15 ngày là có thể luyện giống, trồng
vào tháng 6 – 9, khoảng 10 – 12 ngày là có thể luyện giống. Việc
luyện giống phải tiến hành theo từng giai đoạn, về thời gian trước
ngắn sau dài, tháo màng ở hai đầu trước rồi tới hai bên; tháo màng
thông gió trước rồi dỡ bỏ vật che chắn. Trước tiên là thông gió 1 –
2 giờ đồng hồ mỗi buổi sáng và tối, sau đó thông gió cả ngày, duy
trì màng và vật che phủ, thời gian 1 – 2 ngày. Sau đó tháo màng,
12
ban ngày phủ vật che chắn, ban đêm không phủ, cứ vậy việc luyện
giống lặp đi lặp lại 1 – 2 ngày là có thể dỡ bỏ hoàn toàn những vật
che phủ. Trường hợp luống khô hạn trong giai đoạn luyện giống,
phải kịp thời tưới nước tăngđộ ẩm.
4. Xử lý cây giống bệnh, chết. Mỗi lần tháo màng tưới nước
đều phải xử lý cây giống bệnh và chết, khi phát hiện phải kịp thời
xử lý ra khỏi luống. Với luống bị phát bệnh nghiêm trọng, có thể
dùng mốc khô Thụy Sĩ 800 – 1000 lần, methyl phosphate để khử
trùng.
VI. Di dời cây giống
1. Cây gai con ra khỏi vườn ươm: Cây giống 30 – 40 ngày
tuổi, về cơ bản đã phát triển đầy đủ rễ, lá mới 2 – 3 lá. Ra khỏi
vườn ươm quá sớm, cây gai con non nớt, sau khi chuyển ra ruộng
lớn khó mà sống được, cầy giống nhiều ngày tuổi hơn, có lợi hơn
cho việc chuyển ra ruộng lớn, tuy nhiên thời gian chiếm dụng diện
tích vườn ươm lớn, quay vòng chậm, hiệu suất thấp, khi lấy giống
luống phải tưới đầy đủ nước, sau khi khô đi một chút mới lấy
giống. Lần đầu tiên sau khi cây giống ra khỏi vườn ươm, phải đào
sâu luống và phơi nắng 2 – 3 ngày, sau đó chuẩn bị đất cho việc
ươm giống lần thứ hai.
2.Cấy: Luống rộng khoảng 3,8 mét, rãnh mương khoảng 40
13
cm; khoảng cách giữa các hàng khoảng 60 cm, khoảng cách giữa
các cây khoảng 50 cm, số cây trong mỗi mẫu khoảng 2000 cây.
Gieo trồng vào mùa nóng phải tăng cường quản lý trước và sau khi
cấy cây con, một là phải bảo vệ tốt cây gai con, tránh nhiệt độ cao
làm mất nước, nâng cao tỷ lệ sống; hai là đất phải có đủ lượng
nướcđể giữ ẩm, có hai cách: Một là tưới tiêu trước khi cấy giống.
Tức là tưới nước đầy đủ trước khi cấy, sau khi hơi khô nhân lúc
đấy còn ẩm ướt cấy cây con xuống, sau đó tưới nước thêm một
hoặc nhiều lần để duy trì độ ẩm, đảm bảo khả năng sống của cây
con.
14
PHẦN 2: NHÂN GIỐNG
I. Chuẩn bị vật liệu ươm mạ
Phải chuẩn bị đầy đủ các vật liệu nhà nông như: màng nhựa,
vòm tre (dài x rộng = 200 x 3 cm), vật che râm (màng rơm, túi
rơm) và các vật liệu khác.
II. Ươm mạ
1. Thời gian: Lưu vực sông Trường Giang thời gian gieo
trồng tốt nhất là đầu xuân, gieo trồng từ giữa cuối tháng 2 đến đầu
tháng 3, màng bảo vệ nhiệt độ gieo trồng có thể sớm hơn. Cũng có
thể gieo trồng vào mùa thu khi nhiệt độ thích hợp, cấy sau mùa
đông.
2. Lựa chọn vườn ươm: Lựa chọn đất ruộng tránh chiều gió,
hướng nắng, gần nguồn nước, tưới tiêu thuận tiện, đất tơi xốp, độ
màu mỡ trung bình, ít cỏ dại để làm vườn ươm. Cày bừa đất, sau
khi phơi đất phun thuốc diệt khuẩn và thuốc trừ sâu để khử trùng.
San bằng làm luống, luống rộng 1,2 – 1,4 m, khoảng cách giữa các
luống 0,3 – 0,5 m, bề mặt luống phải san lấp bằng phẳng, nhặt hết
cỏ dại. Dựa theo tỷ lệ hạt giống nảy mầm tăng hoặc giảm lượng
gieo trồng, thông thường mỗi mẫu gieo trồng khoảng 500g.
15
Hạt giống Gieo giống
3. Gieo hạt: Trước khi gieo phơi hạt giống 1 – 2 ngày, để hạt
giống dễ hấp thụ nước, thúc đẩy sự nảy mầm. Đùng tấm gỗ san
bằng bề mặt luống, trải đều một lớp tro cỏ mỏng;trộn đều hạt giống
với tro cỏ theo tỷ lệ khối lượng 1:5-10. Dùng phương pháp gieo
hạt bằng tay hoặc rây mịn gieo hạt qua lại nhiều lần, sau khi gieo
xong rắc một lớp đất mỏng mịn (không nhìn thấy hạt giống là
được), tưới nước đầy đủ trước và sau khi gieo hạt.
4. Che phủ: Phủ màng nông nghiệp sau khi gieo giống, nhiệt
độ trong màng nên được kiểm soát trong khoảng 25 – 28oC, nhiệt
độ quá cao có thể làm hở hai đầu thông gió. Khi nhiệt độ trung
bình hàng ngày ở khoảng 20oC, một tuần là có thể nảy mầm. Đợi
cây con phát triển được 3 – 4lá thì có thể tháo màng luyện cây
giống. Sau 2 – 3ngày luyện cây giống,chọn ngày nhiều mây dỡ bỏ
tấm màng, sau khi dỡ bỏ tấm màng phải kịp thời tưới nước giữ độ
16
ẩm. Giữ lại vòm tre để che nắng ban ngày khi nhiệt độ cao hoặc
che khi dự đoán sắp có bão lớn, để tránh thiệt hại cho cây giống
còn non. Để giảm thiểu chi phí, cũng có thể sử dụng rơm rạ để che
phủ, tốt nhất là phủ cho tới khi không nhìn thấyđất, đợi sau khi ra
cây, lần lượt dỡ bỏ màng rơm.
Khi cây lộ khỏi mặt đất, có thể chọn rơm để che phủ, tốt nhất
là phủ cho tới khi không nhìn thấyđất, phải thường xuyên tưới
nước giữ ẩm luống. Sau khi nảy mầm lần lượt phân lô dỡ bỏ vật
che phủ. Thông thường sau khi nảy mầm đều thì dỡ bỏ 1/3 vật che
phủ, sau khi phát triển 2 lá dỡ bỏ tiếp 1/3, 4 lá dỡ bỏ hết phần còn
lại.Những ngày mưa hoặc thời tiết khắc nghiệt cần chú ý tránh cây
con bị tổn thương.
III. Quản lý vườn ươm sau khi tháo màng
Sau khi tháo màng nếu phát hiện vườn ươm mọc cỏ phải kịp
thời nhổ bỏ. Bắt đầu từ thời kỳ 6 lá, dựa theo hình thái thực vật cây
gai, loại bỏ những cây có hình thái thực vật khác biệt rõ ràng.
Cùng lúc tiến hành tỉa thưa. Phương pháp tỉa thưa là loại bỏ những
cây yếu trước, nếu mật độ vẫn còn lớn, tiếp tục loại bỏ một phần
cây gai con, mật độ tiêu chuẩn là lá của các cây gai không mắc vào
nhau. Việc tỉa thưa thường chia làm 2 – 3lần thực hiện, mỗi lần
17
cách nhau khoảng 07 ngày. Mật độ cuối cùng của mỗi mẫu vườn
ươm không dưới 80.000 cây.
Kết hợp với tỉa thưa, thực hiện bón phân cho cây. Sau mỗi lần
tỉa thưa, tưới phân và nước tiểu pha loãng của người hoặc dung
dịch nước urê ,5% đến 1% (nồng độ tăng dần tùy theo tốc độ tăng
trưởng tuổi cây con). Mỗi lần bón phân không được bón quá nhiều,
tránh làm tổn thương đến cây con.
IV. Di dời cây giống
Sau khi nảy mầm 50 – 60 ngày, khi cây gai con phát triển 8 –
10 lá, là có thể bắt đầu đem cấy. Thời kỳ đem cấy thích hợp nhất là
10 – 12 lá. Với cây gai trồng vào mùa thu, sau khi giữ ấm qua mùa
đông, đầu xuân năm tiếp theo cấy. Khi cấy nên chọn ngày trời
nhiều mây hoặc thực hiện vào buổi chiều ngày nắng. Trước khi lấy
cây giống phải tưới nước vườn ươm. Khi lấy phải lấy các cây lớn
trước. Sau khi lấy xong phải kịp thời bón phân, để thúc các cây con
sinh trưởng. Giảm thiểu tổn thương tới gốc, mang theo đất cấy phù
hợp với số lượng. Trường hợp lá khá nhiều, chiều cao cây hơn 40
cm, nên cắt bỏ một phần lá, để giảm bớt việc thoát hơi nước. Dựa
theo kích thước lớn nhỏ mà cấy vào các mảnh đất khác nhau, sau
khi cấy phải kịp thời tưới đủ nước ổn địnhlượng nước trong gốc.
18
Sau khi trồng nếu trời nắng liên tục, trong vòng 3 – 5ngày mỗi
ngày tưới nước một lần, để đảm bảo sự sống cho cây non, và kịp
thời kiểm tra bổ sung thiếu sót.
V. Các hạng mục chú ý
Khi chuẩn bị đất có thể sử dụng thuốc trừ sâu 666 hoặc các
thuốc trừ sâu khác để diệt sâu bệnh trong đất; phải làm tơi toàn bộ
đất trong luống, dùng bản gỗ đầm chặt một chút, trường hợp hạt
đất lớn lại khó vỡ, có thể rắc một lớp đất mịn, tránh có khe hở giữa
các hạt giống;phải tưới nước đều, tránh các hạt giống bị dội đi; bón
phân phù hợp, tránh bón quá nhiều làm cháy cây; phải quản lý chặt
chẽ, kiểm tra thường xuyên, kiểm soát nhiệt độ bên trong các
màng, không được dỡ bỏ tất cả các màng trong cùng một lúc, tránh
mất nước đột ngột làm chết cây. Trong thời gian luyện cây giống,
ban ngày dỡ bỏ, ban đêm phủ lên, ngày nắng dỡ bỏ, ngày mưa phủ
lên.
19
CHƯƠNG III: KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY
GAI
PHẦN 1: KỸ THUẬT CANH TÁC THÔNG THƯỜNG
I. Bón phân đúng lúc
Thông thường từ khi các cây gai đầu tiên nảy mầmcho tới khi
nảy mầm đều mỗi tháng bón phân 02 lần, lần đầu tiên gọi là “bón
phân đề”, làm tới khi nảy mầm, màu mỡ đất, mỗi mẫu bón 500 –
750 kg phân gia súc, hoặc 4 – 5 kg urê. Lần thứ hai gọi là “bón
phân mạnh cây”, khi cây cao khoảng 33 cm, mỗi mẫu bón 10 – 15
kg urê, hoặc cây trưởng thành bón 50 – 75 kg thêm 7,5 – 10 kg
phân kali, hoặc 25 – 35 kg phân bón tổng hợp 45% . Một tháng sau
bón phân lần thứ ba, lần này gọi là “bón phân phát triển thân”, mỗi
mẫu bón 12 – 15 kg phân urê. Việc bón phân phụ thuộc vào thời
tiết và thời gian, tốt nhất là trước trời mưa hoặc sau trời mưa khi
nước đọng trên lá gai khô đi, việc bón phân khi lá gai đọng nước
có thể làm tổn thương đến cây hoặc lá.
Những vụ gai thứ hai, ba,trừ khi vụ gai đầu chưa sử dụng hết
20
phân bón mùa đông còn lại trong đất, chủ yếu dựa vào việc bón
phân để đạt năng suất cao. Nguyên tắc bón phân là vụđầu tiên
“trước ít sau nhiều”, vụ thứ hai, ba “trước nhiều sau ít”. Trong sản
xuất gai vụ hai, ba cần kết hợp bón phân và chống hạn hán, có thể
nâng cao năng suất gai trên diện rộng, thường có thể tăng khoảng
30 – 50% sản lượng, ngược lại, gặp phải những năm mùa hè mùa
thu hạn hán kéo dài, bón phân cũng không thể phát huy hiệu quả
tăng sản lượng. Kinh nghiệm trồng gai là: “bón phân và chống hạn
hán, sản lượng tăng gấp đôi. Bón phân không chống hạn hán, một
ổ trứng gà góa”.
II. Làm tốt công tác trồng trọt vào mùa đông
Sau khi vào đông, cây gai ngừng phát triển, nhưng rễ và mầm
thai dưới gốc gai vẫn thực hiện các hoạt động sinh lý. Vì vậy, vào
mùa đông tạo một môi trường tốt, đáp ứng nhu cầuvề nước, phân
bón, không khí, nhiệt độ của gốc gai, thúc đẩy các gốc gai phát
triển mập mạp hơn, tăng cường trồng trọt, nắm bắt “ba phải”, là
chìa khóa quan trọng để có được mùa bội thu vào năm sau.
1. Phải cày sâu “muốn bội thu gai, mùa đông đào đất bón
phân cho gốc”. Cây gai thu hoạch ba mùa, là thực vật canh tác
nhiều năm, không thể cày bừa đất hàng năm, dễ dẫn tới đất bị nén
21
chặt, không khí lưu thông không tốt, khả năng giữ nước và phân
bón giảm, cỏ dại phát triển, làm ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của
cây gai dầu. Vì vậy, cày sâu có thể loại bỏ việc đất bị nén chặt,
tăng cường tính thông thấu của đất, thúc đẩy hoạt động của các vi
sinh vật trong đất, đẩy nhanh việc phân giải phân bón, loại bỏ cỏ
dại và các sâu bệnh gây hại... Đồng thời còn có thể cắt đứt các rễ
leo và rễ rữa giữa các hàng, ngăn chặn việc các gốc gai đầy vườn
quá sớm, thúc đẩy tăng trưởng của rễ mới, và kéo dài tuổi thọ của
gốc gai. Thông thường việc xới đất mùa đông thường được thực
hiện sau khi thu hoạch gai. Độ sâu xới đất được quyết định bởi các
điều kiện loại giống, tuổi gai, tính chất đất. Với rễ sâu, đất sét dính,
giữa các hàng phải xới đất sâu, với các gốc rễ cạn, đất cát thì xới
đất cạn; với cây non tuổi mạnh mẽ cần xới đất cạn, cây nhiều tuổi
nên xới đất sâu, nhưng không được làm tổn thương rễ, nguyên tắc
gốc củ cải. Thông thường xới đất sâu 10 – 17 cm.
2. Phải chú trọng bón phân mùa đông “trồng gai không cần
kỹ thuật, chỉ cần mùa đông bón phân đầy đủ”. Cây gaimột năm thu
hoạch ba lần, tiêu thụ chất dinh dưỡng nhiều, phải bón phân bổ
sung đầy đủ. Đồng thời phần bên dưới của cây gaivẫn tiếp tục phát
triển rễ vào mùa đông, cũng cần hấp thụ một phần chất dinh dưỡng
nhất định, vì vậy, phải chú trọng bón phân đầy đủ. Thông thường
22
lượng phân bón vào mùa đông chiếm 40 – 60% lượng phân trong
cả năm. Phân bón mùa đông chủ yếu là phân hữu cơ, ví dụ như
phân lợn, bò, dê, chất thải của con người, phân chuồng, bánhdầu,
bùn sông và ao hồ (mương). Phương pháp bón phân gồm có rải,
điểm, và bón khắp vườn. Thường mỗi mẫu bón 3000 kg chất thải
của con người hoặc phân lợn, bò, hoặc khoảng 100 kg bánh dầu,
tiếp theo bón khoảng 40 – 50 kg phân phốt pho và kali, rải phân
khắp vườn, phần còn lại bón gốc hoặc điểm cây. Yêu cầu phải bón
sâu và phủ đất, nâng cao hiệu quả, có tác dụng chống lạnh và giữ
nhiệt độ.
3. Phải vun thêm đất “đắp đất sâu 1 tấc, bên trên là một lớp
phân”. Mùa đông vun đất dày cho gốc gai có tác dụng giữ ấm,
chống lạnh, thúc đẩy mọc mầm, phát triển rễ, có tác dụng phát
triển cây con, độ dày đất vun thêm khoảng 33 cm là thích hợp, quá
dày vụ gai đầu xuân nảy mầm chậm, tăng trưởng không đều, ảnh
hưởng đến năng suất; quá mỏng thì không đạt tới tác dụng cần
có.Thông thường bón phân sau khi xới đất, sau đó vun đất, tranh
thủ hoàn thành trước mùa đông. Việc vun đất phải đạt tới yêu cầu
màu mỡ, vụn, bằng, đều. Tốt nhất là dùng bùn sông hồ (mương),
đất sét, đất vườn, đất núi già để vun đắp. Lưu ý khi vun đất phải
vun gốc, tránh để lộ gốc, đồng thời kết hợp với mương thoát nước.
23
PHẦN 2: KIỂM TRA ĐẤT PHA CHẾ BÓN PHÂN
I. Giới thiệu công tác kiểm tra đất pha chế phân bón
Việc pha chế phân bón được dựa trên cơ sở là các thử nghiệm
giữa đất và ruộng phânbón, dựa trên quy luật cây trồng cần phân
bón, đất cung cấp tính năng màu mỡ và hiệu ứng phân bón, trên cơ
sở sử dụng hợp lý các phân bón hữu cơ, để đưa ra liều lượng sử
dụng phân nitơ, phốt pho, kali và các nguyên tố vi lượng, thời gian
bón phân và cách bón.
Tận dụng việc kiểm tra đất và pha chế phân bón có nhiều ưu
điểm, về mặt chi phí, có thể giảm bớt chi phí sản xuất, nâng cao
hiệu quả sử dụng phân bón. Về mặt sản lượng, giúp tăng năng suất
cây trồng, nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp, tăng thu
nhập cho nông dân. Về mặt bảo vệ môi trường, tỷ lệ hợp lý, giảm
thiểu ô nhiễm do phân bón dư thừa; về mặt cải thiện độ màu mỡ,
bón phân hợp lý, cân đối, giúp nâng cao chất lượng đất canh tác.
Về mặt kỹ thuật bón phân, việc tận dụng công thức khoa học để
pha chế, kết hợp với kỹ thuật và thời gian hợp lý, giúp nâng cao
trình độ bón phân khoa học.
Kiểm tra đất pha chế phân bón chủ yếu gồm các 05 bước
chính: “Kiểm tra đất, công thức, pha chế phân bón, cung cấp, bón
24
phân theo hướng dẫn”
II. Hướng dẫn bón phân khu vực Động Đình Hồ
Theo “Tiêu chuẩn kỹ thuật kiểm tra đất pha chế phân bón”
của Bộ Nông nghiệp và các kết quả nghiên cứu liên quan, tham
khảo việc kiểm tra đất và pha chế phân bón ở khu vực Động Đình
Hồ ba mùa gai cao sản (ba mùa 200 kg) như bảng bên dưới. Có
nghĩa là, muốn đạt được năng suất cao, vụ gai đầu phải bón 8 – 10
kg phân nitơ, 3,1 – 4,5 kg phân phốt pho, 4,3 – 5,7 kg phân kali.
Vụ thứ hai và ba lần lượt thực hiện theo bảng bên dưới.
Tham số kỹ thuật thị phạm cây gai ba vụ (Đơn vị: kg/mẫu)
V
ụ
Phân nitơ Phân phốt pho Phân kali
N:P:K
Bình
quân
sản
lượng
Bình
quânPhạm vi
Bình
quânPhạm vi
Bình
quân
Phạm
vi
1 8,7 8,0–10,0 3,5 3,1–4,5 5,10 4,3–5,7 1:0,40:0,59 75,80
2 5,5 4,5–7,0 3,0 2,5–3,5 4,30 3,8–4,5 1:0,55:0,78 66,76
3 5,1 4,5–6,7 1,5 1,0–2,2 6,00 5,1–6,8 1:0,29:1,18 59,27
25
26
PHẦN 3: PHÒNG CHỐNG HẠN HÁN, THOÁT NƯỚC NGẦM VÀ TRÁNH GIÓ CHO CÂY GAI
I. Phòng chống hạn hán
Cây gai tuy là cây trồng đất hạn, nhưng do hệ thống rễ lớn,
thân lá tươi tốt, tốc độ tăng trưởng nhanh, nên nhu cầu lượng nước
rất cao. Khu vực Động Đình Hồ phía bắc Hồ Nam, mặc dù lượng
mưa dồi dào, nhưng phân bố không đều. Thông thường vụ đầu
lượng mưa nhiều, vụ hai và ba lượng mưa ít, thường gặp hạn hán
cuối hè và thu, sản lượng ba vụ gai không đồng đều. Vào mùa khô
hạn ít mưa, tưới tiêu chống hạn hợp lý là cách để đảm bảo tăng sản
lượng thu hoạch gai.
Biểu hiện khi cây gai cần nước là: 1) Hàng ngày từ 10h sáng
đến 5h chiều, khi bắt đầy xuất hiện trạng thái héo, ngọn cây cong,
rủ lá, tăng trưởng chậm. 2) Đầu lá hướng về mặt trời, đầu lá không
thể xoay chuyển linh hoạt theo vị trí của mặt trời, lá không sáng
bóng, phẳng và yếu, không có sức sống, lá nhỏ hẹp, và xuất hiện
màu xanh tối. 3) Lấy đất ở độ sâu 15 cm dùng tay vo thành cục,
buông ra liền vỡ vụn. Chính là hiện tượng thiếu nước, cần phải
tưới nước chống hạn. Cách tưới nước, chống hạn cho cây gai chủ
yếu gồm có:
1. Tưới tiêu: Giải pháp trực tiếp nhất khi thiếu nước là tưới
tiêu. Buổi sáng tốt nhất là từ 5h – 10h, buổi chiều tốt nhất từ 5h –
27
8h. Tưới tiêu phải đạt tới 03 tiêu chí “sớm, thấu, liên tục”. “Sớm”
nghĩa là nhân lúc gai đâm chồi xanh non hiệu quả tưới tiêu mới
cao, tưới quá trễ hoặc khi ra vỏ đen thì tác dụng không lớn. “Thấu”
nghĩa là dựa theo nghiên cứu thông thường mỗi mẫu tưới 30 – 40
khối nước là thích hợp, lượng nước có thể thấm vào trong đất cày 3
– 4 tấc, đạt tới trạng thái bão hòa, đảm bảo đủ nước cho thân trên
và rễ dưới, thúc đẩy sự phát triển bình thường của cây gai;“liên
tục” nghĩa là sau khi tưới một đến hai lần, thời tiết vẫn khô hạn
không mưa, thì phải tưới liên tục nhiều lần.
2. Biện pháp tổng hợp: Tăng cường lượng phân bón canxi,
đạm, lân, kali để cải thiện khả năng chịu hạn của cây trồng. Ở vùng
đồi núi phía bắc của Hồ Nam, mùa đông làm tốt công tác vun đất
(mỗi mẫu 30 kg phân tổng hợp), vụ đầu thu hoạch sớm (cuối tháng
5), vụ hai và ba xới đất sâu giữa các hàng (lần lượt bón mỗi mẫu
15 kg phân tổng hợp, 15 kg phân urê, 10 kgcalcium phosphate, 15
kg kali clorua, 268 kg bã rau), đồng thời phủ bằng rơm (236
kg/mẫu), dùng chất chống hạn hán (3g/mẫu, pha loãng với nước tỷ
lệ 1:10000 rồi phun lên lá) kết hợp sử dụng các biện pháp tổng
hợp, hiệu quả chống hạn tăng năng suất mang lại kết quả tốt nhất.
3. Các biện pháp đơn giản: Các biện pháp được nêu trên đều
khá phức tạp, chi phí cũng khá cao. Nghiện cứu cũng cho thấy,
dưới điều kiện không bón phân, chỉ sử dụng 3g chất chống hạn hán
cho mỗi mẫu, dùng nước pha loãng 10000 lần rồi phun, kết hợp
28
với phun trên lá 30ml/mẫu, dùng nước pha loãng 1000 lần rồi phun
lên lá, hiệu quả chống hạn cũng rất tốt, hơn nữa chi phí khá thấp,
dưới tình hình khó tuyển lao động, chi phí nhân công cao, thì đây
là biện pháp dễ thực hiện.
II. Tránh thoát nước ngầm
Khi hàm lượng nước trong đất vườn ươm lớn hơn 28%, cũng
không có lợi cho cây gai sinh trưởng. Khu vực đồng bằng của
Động Đình Hồ, các vườn gai vài năm cho đến 10 mấy năm đã xảy
ra hiện tượng bại gốc, nguyên nhân của nó cũng liên quan tới hệ
thống thoát nước kém. Vì vậy, trồng gai ở mặt đất phải có rãnh sâu,
trồng gai ở khu vực hồ còn phải khai thông đường mương thoát
nước, trồng gai khu vực đồi núi, thung lũng cũng phải thực hiện tốt
các mương rãnh xung quanh núi. Ngoài ra, phải thường xuyên duy
trì mặt luống bằng phẳng, mùa mưa dọn dẹp mương rãnh, giúp
thoát nước dễ dàng.
Lưu ý: Trồng gai phải lựa chọn nơi có hệ thống thoát nước và
tưới tiêu thuận tiện, đồng thời phải ở xung quanh đất trồng, bên
trong làm tốt công tác mương rãnh. Có lợi cho việc chống hạn,
chống ngập úng, cũng là biện pháp cơ bản nhất.
III. Tránh gió
Cây gai cao, thân nhỏ, dễ bị nguy hại bởi gió lớn, dẫn tới bị
tổn thương lá, nghiêm trọng có thể bị gãy hoặc ngã đổ. Đặc biệt là
29
trồng gai ở khu vực bờ hồ, sức uy hiếp của gió bão càng lớn. Cây
gai bị gió làm ngã đổ, tổn thương và gãy, ảnh hưởng đến sản lượng
và chất lượng sợi. Các phương pháp tránh gió chủ yếu gồm có:
1. Khi xây dựng vườn ươm phải chọn nơi tránh gió, hướng
nắng, khi trồng phải dựa vào các điều kiện địa phương, căn cứ vào
thời tiết khắc nghiệt của địa phương, nương theo hướng gió, có thể
giảm thiểu các tác hại của gió.
2. Trồng giống có sức kháng gió, ví dụ như: “Gai Trung Quốc
số 1”, “Gai Hồ Nam số 2”, “Gai Giang Tây số 3”, “Gai Tứ Xuyên
số 8”…
3. Trồng rừng chắn gió, xung quanh vườn ươm bao quanh bởi
các cây trồng cao chắn gió; biện pháp hiệu quả nhất là trồng hai ba
hàng cây xung quanh, nên chọn loại cây sinh trưởng nhanh, xanh
tốt, mọc thẳng và nhanh, ít che ánh sáng như: thủy lạp, trinh nữ,
bạch dương… hoặc cam, quýt, tì bà, và cây ăn quả khác. Với vườn
ươm nhỏ, hoặc rừng cây chắn gió chưa trưởng thành, tận dụng các
đám lau sậy, cỏ tre mỏng dệt thành tường chắn gió, cũng có tác
dụng tránh gió nhất định.
Ngoài ra, mật độ cây trồng phù hợp và tăng cường vun đất
dày vào mùa đông; bón phân kali tăng cường sức đề kháng, thu
hoạch sớm, kịp thời, giảm thiểu tổn thất.
30
31
CHƯƠNG IV: PHÒNG CHỐNG CÁC BỆNH
SÂU HẠI
PHẦN 1: CÁC BỆNH THƯỜNG GẶP
I. Thối rễ do tuyến trùng
1. Triệu chứng và nhận biết
Thối rễ do tuyến trùng chủ yếu nguy hại đến thân rễ dưới đất,
rễ củ cải, đốm bệnh thời kỳ đầu là những đốm nhỏ màu nâu đen
không quy luật, hơi lõm; sau đó dần mở rộng thành các đốm lớn
màu nâu đen, thời kỳ cuối xuất hiện các mảng nâu đen lớn bị thối
rữa. Các cây trên mặt đất của gốc gai bị hại dần ít đi, cây thấp nhỏ,
yếu ớt, lá vàng, lúc khô hạn dễ rụng lá.
2. Phòng ngừa và chữa trị
1) Nên lựa chọn giống tốt có khả năng kháng bệnh thích nghi
với điều kiện địa phương (ví dụ như “Gai Trung Quốc số 1”, “Gai
Hồ Nam số 5”, “Gai Tứ Xuyên số 12”…)
2) Các vườn gai cũ có điều kiện thực hiện luân canh lúa.
Trường hợp không đủ điều kiện luân canh lúa, có thể luân canh
32
mía, bắp, cao lương và các ngũ cốc khác; hoặc xới sâu phơi đất
vào mùa khô, giảm thiểu số lượng tuyến trùng.
3) Khai thông mương thoát nước, hạ thấp mực nước ngầm,
xới đất, làm cỏ kịp thời.
4) Khi trồng tiến hành xử lý thuốc đối với các gốc gai. Khi
trồng dùng nước ấm 45 – 46oC hoặc dithiocyanomethane thành
phần hoạt chất 1:6000 lần ngâm gốc gai từ 15 – 20 phút.
5) Dung dịch thuốc phòng ngừa và chữa trị. Vào đầu và giữa
tháng 4 hàng năm, hoặc khi nhiệt độ đất ổn định ở khoảng 15oC,
dùng chất diệt tuyến trùng cadusafosthành phần hoạt tính
200g/mẫu, hoặc hạt fosthiazate thành phần hoạt tính 200g/mẫu,
hoặc hạt carbosulfan thành phần hoạt tính 300g/mẫu. Trước khi
bón trộn lẫn từng loại thuốc với cát mịn hoặc tro bùn với tỉ lệ 1:25,
rồi rải vào trong đất, sau khi rải thuốc dùng cáo hoặc cuốc xới bề
mặt đất, thúc đẩy thuốc trộn lẫn vào trong đất. Mỗi năm rải thuốc
một lần.
II. Bệnh nhiệt than
1. Triệu chứng và nhận biết
Chủ yếu thiệt hại về là, cuống lá và thân cây. Xung quanh các
33
lá bị nhiễm bệnh xuất hiện các đốm nâu hình tròn hoặc bầu dục, ở
giữa là các đốm bệnh màu xám, kích thước 1 – 3 mm, có khi trên
một lá có tới 10 mấy đốm bệnh. Cuống lá, thân cây bị nhiễm bệnh
xuất hiện các đốm xám lõm, cạnh mày nâu xanh, nặng thì phần
thân bị các đốm bệnh xâm nhập vào da, dẫn tới trên sợi xuất hiện
các đốm mày xám đỏ.
2. Phòng ngừa và chữa trị
1) Nên lựa chọn giống tốt có khả năng kháng bệnh thích nghi
với điều kiện địa phương (ví dụ như “Cỏ lá tròn”, “Gai Hồ Nam số
5”, “Gai Tứ Xuyên số 8”, “Gai Hoa Trung số 4”…).
2) Chọn mảnh đất trồng có hệ thống thoát nước tốt, khai
thông mương thoát nước. Kịp thời loại bỏ các mầm bệnh.
3) Thời kỳ đầu phát bệnh phải phun thuốc chữa trị.
Hoạt chất Prochloraz 12 – 18 g/mẫu, hoặc hoạt chất phân tán
Difenoconazole 2,7 – 4g/mẫu, hoặc hoạt chất methyl thiophanate
20 – 30g/mẫu, hoặc hoạt chất propiconazole 6,7 – 10g/mẫu,pha với
40 – 60 kg nước rồi phun, hoặc phun mỗi mẫu với hỗn hợp 40 – 60
kg dung dịch Bordeaux tỷ lệ 1:1:200, thời tiết mưa nhiều cách 07
ngày phun lại một lần.
34
III. Bệnh đốm lá
1. Triệu chứng và nhận biết:
Những cây gai nhiễm bệnh phát triển kém, phần trên, những
là non bắt đầu mất màu, tiếp đến xuất hiện các đốm màu vàng
xanh, nghiêm trọng hơn xuất hiện các đốm mụn nước. Hoặc với
những lá ở giữa cây xuất hiện vết nhăn biến dạng, lá trở nên nhỏ
hẹp, lá xanh cong lên, xuất hiện những đốm nhỏ màu vàng và đốm
mụn nước màu xanh không có quy tắc. Đôi khicó thểthấy gân lá
của nhửng lá non trên ngọn bị uốn cong và ngả màu vàng dọc theo
gân lá, thậm chí là cả lá ngả vàng, nghiêm trọng hơn là chết lá.
2. Phương pháp phòng ngừa và chữa trị:
1) Lựa chọn các giống kháng bệnh, tăng cường quản lý trồng
trọt, bón phân hợp lý.
2) Chọn các gốc, chồi non, nhánh không mang bệnh để nhân
giống, hoặc sử dụng phương pháp nhân giống bằng hạt để mở rộng
sản xuất gai.
3) Sử dụng thuốc diệt sâu bệnh, từ tháng 3 – 8 sử dụng
Sumicidin 40% (dung dịch 400 lần), hoặc leafhoppers35% (dung
dịch 500 lần), mỗi 20 ngày phun thuốc một lần, loại bỏ ấu trùng
35
trên lá.
IV. Bệnh lông sọc trắng
1. Triệu chứng và nhận biết:
Bệnh này chủ yếu nguy hại đến gốc cây gai, thời kỳ đầu phát
bệnh gần bề mặt gốc xuất hiện nấm trắng, sau đó dần xâm nhập
vào trong thân rễ dưới đất, làm cho lớp vỏ bị đen, phần thịt biến
đỏ, làm thối rữa bên trong. Khiến cây gai tăng trưởng yếu, giảm
thiểu cây nhánh, màu sắc lá bất thường, nghiêm trọng là khô héo.
2. Phương pháp phòng ngừa và chữa trị:
1) Chọn các gốc gai khỏe mạnh không mang bệnh đề làm rễ
trồng. Nghiêm khắc loại bỏ các rễ mang bệnh, rễ bị sâu làm tổn
thương, tiến hành khử trùng rễ trồng. Dùng nước vôi 20% ngâm
trong 1h, hoặc dùng dung dịchđồng sunfat pha loãng 100 lần, hoặc
formalin2% ngâm trong 10 phút.
2) Quản lý trồng trọt: Bón phân đầy đủ, tưới tiêu hợp lý,
phòng và chữa trị kịp thời các loại sâu hại dưới đất.
3) Xử lý các bệnh về đất: Mỗi mẫu đất dùng0,5 kg
iprodione(procymidone) 50% pha với 500 kg nước để tưới gốc.
4) Giai đoạn đầu khi phát bệnh dùng formalin 2% tưới gốc
cây, đào lấy các cây bị nặng và thiêu hủy, rắc vôi khử trùng vùng
bệnh. Xung quanh khu vực phát bệnh đào rãnh cách ly 0,5 – 1m,
36
để tránh vi khuẩn gây bệnh lây lan.
37
PHẦN 2: CÁC SÂU HẠI THƯỜNG GẶP
I. Bọ hung
Ở khu vực Động Đình Hồ, bọ hung gây hại cho cây gai chủ
yếu là bọ hung cánh cứng màu xanh đồng (Pseudomonas), bọ cánh
cứng màu đen lớn, tiếp đến là bọ rầynhung đen, bọ hung bốn vằn
thẳng…
1. Nhận biết sâu hại:
Chủ yếu là ấu trùng bọ hung (tên khoa học là ấu trùng bọ
dừa), tên thường gọi là tằm đất trắng, côn trùng óc chó, làm hại rễ
gai, ăn thân và rễ dinh dưỡng dưới đất của cây gai, làm hình thành
các vết khắc không quy tắc, đôi khi cắn gãy, làm cho khả năng chịu
hạn và hấp thu phân bón suy yếu đáng kể, phần trên mặt đất cũng
xuất hiện tình trạng khô héo, thậm chí là chết khô.
38
2. Phương pháp phòng ngừa và chữa trị:
1) Xử lý đất: Với đất có bọ hung, trước khi trồng cây gai, trộn
đều hoạt chất trichlorfon 25 – 37,5g/mẫu với cát mịn theo tỉ lệ
1:1000, hoặc trộn đều hoạt chất chlorazol photpho 60 –
180g/mẫuvới cát mịn theo tỉ lệ 1:750, hoặc trộn đều hoạt chất
phoxim 18 – 24g/mẫuvới cát mịn theo tỉ lệ 1:1000, hoặc trộn đều
hoạt chất diazinon 50g/mẫuvới cát mịn theo tỉ lệ 1:750, trộn đều
rồi rải lên bề mặt đất, sau đó lần lượt đến cày sâu 10 – 15 cm, diệt
trừ các ấu trùng.
Trái: Sâu trưởng thành, Phải: Ấu trùng
39
2) Khi phát hiện cây gai bị bệnh hại, trước tiên cày xới đất,
tiếp đó dùng hoạt chất trichlorfon 54g/mẫu, hoặc hoạt chất
chlorpyrifos 29g/mẫu, pha với 60 – 75 kg nước rồi tưới gốc.
3) Phòng và chữa trị bằng vật lý: Thời kỳ sâu trưởng thành
phát triển mạnh, buổi tới dùng ánh đèn hoặc lửa để đốt. Hoặc lấy
nhánh cây du, bạch dương, cây hòe kèm theo lá dài 20 – 30 cm,
ngâm vào trongchlorpyrifos hoặc trichlorfon, nồng độ dung dịch từ
30 – 50 lần, sau 10 giờ lấy nhánh cây ra, làm thành bó để thu hút
sâu đến giết. Hoặc pha chế dung dịch dụ bắt theo công thức
đường:dấm:rượu:nước = 6:3:1:10, hoặc đường:dấm:nước = 4:2:1,
hoặc đường tán:dấm:rượu:nước = 3:6:1:9, thêm vào trong dung
dịch dụ bắt trichlorfon hòa tan 0,3 – 0,5% để bắt dễ dàng hơn.
4) Phòng ngừa và chữa trị bằng dung dịch thuốc: Phun thuốc
vào thời kỳ cao điểm của sâu trưởng thành.
Pha hoạt chất Trichlorfon 36 – 54g/mẫu, hoặc hoạt chất
dichlorvos 20 – 30g/mẫu hoặc hoạt chất cyanuric•chlorpyrifos 21 –
31,5g/mẫu, hoặc hoạt chất avermectin 0,4 – 0,54g/mẫu, hoặc hoạt
chất diflubenzuron số 3 7,5 – 10g/mẫu, với 40 – 60 kg rồi phun.
II. Bướm cú
40
1. Nhận biết sâu hại:
Chủ yếu là ấu trùng gây hại cây gai. Ấu trùng có các
tên thường gọi là sâu sọ đỏ, sâu lắc đầu. Ấu trùng ăn lá hặc
đục lỗ, nghiêm trọng hơn là chỉ còn gân lá, tạo thành dạng
lưới. Các cây bị hại sinh trưởng chậm hoặc đình trệ, cây thấp
nhỏ, vỏ mỏng, chất lượng sợi thấp.
2. Phương pháp phòng ngừa và chữa trị:
1) Loại bỏ các khối trứng và cụm ấu trùng. Từ cuối tháng 4
đến cuối tháng 8, chăm kiểm tra vườn gai, kịp thời loại bỏ các khối
1. Bướm trưởng thành, 2. Trứng, 3. Ấu trùng, 4. Nhộng
41
trứng và các lá tập trung ấu trùng, tập trung thiêu hủy hoặc chôn
lấp.
2) Cày xới đất, tiêu diệt nhộng côn trùng. Đầu tháng sáu sau
khi thu hoạch, kịp thời xới đất, có thể tiêu diệt bộ phận nhộng côn
trùng.
3) Phòng ngừa và chữa trị bằng dung dịch thuốc: Phun trước
thời kỳ cụm nguy hại ấu trùng phát triển.
Pha hoạt chất dichlorvos 21 – 32g/mẫu, hoặc dung dịch giết
côn trùng Bisultap 50g/mẫu, hoặc hoạt chất phân tán trong nước
Fipronil 2g/mẫu, hoặc thành phần hoạt chất cypermethrin
1,8g/mẫu, hoặc hoạt tính Emamectin benzoate 0,2g/mẫu, hoặc
Bacillus thuringiensis16000 IU/mg 80 – 120g/mẫu, pha với 40 –
60 kg nước rồi phun.
III. Bọ sừng dài
1. Nhận biết sâu hại:
Bọ trưởng thành và ấu trùng nguy hại nghiêm trọng đối
với cây gai. Bọ trưởng thành ăn lá, chồi non, dẫn tới một
phần cây xuất hiện các đốm màu nâu vàng hoặc bị cắn gãy.
Trong suốt thời kỳ sinh trưởng ấu trùng ăn cây hoặc phần
42
thân dưới đất, làm hỏng cơ cấu tổ chức, ảnh hưởng tới việc
vận chuyển nước và chất dinh dưỡng, dẫn tới các cây bị nguy
hại trở nên đen hoặc khô héo.
Chiều dài cơ thể bọ trưởng thành từ 11 – 17 mm, sừng
dài bằng hoặc hơn chiều dài cơ thể. Trên lưng có màu xanh lá
nhạt, bên trên có hai đốm tròn đen song song hai. Cánh có
màu xanh lá nhạt và đốm màu đen, chiều dài ấu trùng là 25
mm, nhũ màu trắng, đầu màu nâu đỏ, ngực, nửa trước của
lưng sáng bóng, có lông màu nâu vàng, nửa sau có hoa văn
lồi do các đốm màu nâu tạo thành.
43
2、Phương pháp phòng ngừa và chữa trị:phương pháp kiểm
soát
1) Làm cỏ xung quanh vườn, giảm thiểu nguồn gốc sâu bọ.
2) Khi trồng vụ gai mới, cần chọn các gốc giống không mang
sâu bọ. Để tránh bọ sừng dài lây lan theo gốc, cắt gốc xong ngâm
qua đêm trong nước lạnh, để khô rồi mới trồng.
3) Thu hoạch vụ gai đầu kịp thời, vào thời kỳ bọ sừng dài đẻ
trứng nhiều, thu hoạch kịp thời vụ gai đầu,cắt cây và tước vỏ kịp
thời.
4) Sau khi thu hoạch vụ gai đầu, kết hợp diệt cỏ và diệt ấu
trùng.
Mỗi mẫu trộn đều hoạt chất Trichlorfon 25 – 37,5g với đất cát
mịn theo tỷ lệ 1:1000, hoặc hoạt chất chlorazol phốt pho 60 – 80g
với đất cát mịn theo tỷ lệ 1:750, hoặc hoạt chất phoxim1,8 – 2,4g
với đất cát mịn theo tỷ lệ 1:1000, hoặc hoạt chất diazinon 50g với
đất cát mịn theo tỷ lệ 1:750, rải đều trên bề mặt đất, diệt trừ ấu
trùng.
1. Bướm trưởng thành, 2. Trứng, 3. Ấu trùng, 4. Trạng thái ấu trùng gây hại
44
5) Diệt trừ bọ trưởng thành. Đầu và giữa tháng 5, sau khi bọ
trưởng thành phát triển mạnh khoảng 1 tuần, phun thuốc chữa trị
trước khi chưa đẻ trứng, lưu ý phun thuốc vào buổi sáng, trước tiên
là phun xung quanh, sau đó phun vào chính giữa, sau 07 ngày phun
lại một lần.
Với mỗi mẫu pha hoạt chất Trichlorfon 36 – 54g, hoặc
Dichlorvos 20 – 30g, hoặc cyanuric • chlorpyrifos 21 – 31,5g, hoặc
avermectin 0,4 – 0,54g, hoặc diflubenzuron số 7,5 – 10g với 40 –
60 kg nước rồi phun.
IV. Bướm đỏ
1. Nhận biết sâu hại:
Ấu trùng trưởng thành có chiều dài khoảng 36 mm, tuyến
dưới có màu vàng. Phần lưng màu đen, phần bụng màu nâu vàng,
giữa và sau ngực lần lượt có 4 nhánh, phần bụng trên đốt thứ 1 – 8
lần lượt có 7 nhánh, đốt thứ 9 và 10 của phần bụng có hai nhánh.
Bướm trưởng thành có màu đỏ đen, một nửa cánh ngoài có vài
đốm nhỏ màu trắng, được sắp xếp gần giống hình bán nguyệt, phía
trước thường có màu cam nhạt. Cánh sau có màu nâu sẫm, gần
mép ngoài phần xanh lá, đỏ, cam có 4 đốm màu nâu đen, bên trong
có 4 đốm đen không theo quy tắc khá lớn, xếp thành một dãy.
45
2. Phương pháp phòng ngừa và chữa trị:
1) Loại bỏ ấu trùng và nhộng trong cuống lá bằng tay hoặc bản
gỗ.
2) Phòng ngừa và chữa trị bằng dung dịch thuốc. Khi ấy trùng
ra khỏi kén, phun dung dịch trichlorfon 90% 1000 lần hoặc
cyhalothrin 2,5%1000 – 1500 lần hoặc dầu nhũ nông nghiệp
52,25%1000 – 1500 lần lên diện tích đất trồng.
V. Bướm vàng
1. Bướm trưởng thành, 2. Trứng, 3. Ấu trùng, 4. Nhộng, 5. Trạng thái gây hại
mối nguy như
46
1. Nhận biết sâu hại:
Ấu trùng trưởng thành có chiều dài từ 30 – 35 mm. Phần đầu
có màu vàng đỏ, có các tuyến màu vàng kim hình số “8”,mắt đơn
và miệng màu nâu đen. Phần ngực, bụng và lưng có nhiều gai, gai
có màu vàng sáp, còn lại là màu đen tím. Trên mỗi gai có 12 sợi
lông gai nhỏ. Bướm trưởng thành có màu vàng cam, bên ngoài
cánh trước và sau có hoa văn màu đen, lần lượt có 8 – 9 đốm vàng
hình tam giác. Phần đầu màu nâu vàng, trán sáng bóng. Đỉnh đầu
có nhiều lông.
2. Phương pháp phòng ngừa và chữa trị:
1. Bướm trưởng thành, 2. Trứng, 3. Ấu trùng, 4. Nhộng
47
1) Làm các bẫy cỏ. Lợi dụng thói quen ấu trùng tập trung ở
chỗ ấm áp vào mùa đông, trong vòng 2 – 3 ngày sau khi thu hoạch
vụ gai thứ ba, cắm 50 – 60 bó cỏ trên mỗi mẫu (phần đầu bó buộc
chặt, phần dưới để tưa ra, giống như chiếc dù mở một nửa). Có thể
thu hút tập trung hơn 90% ấu trùng, trước đầu tháng 3 năm sau
trước thu thập bó cỏ thiêu đốt.
2) Thực hiện “3 sáng” trên đất trồng gai. Mùa đông và mùa
xuân kết hợp làm sạch đất trồng, cày xới, dọn dẹp nhánh lá khô,
diệt trừ cỏ dại. Đạt tới bề mặt luống sáng, mương rãnh sáng, mặt
đất sáng. Loại bỏ ấu trùng mùa đông.
3) Bắt thủ công. Khi mật độ côn trùng không lớn, dựa theo
thói quen bướm trưởng thành tập trung đẻ trứng và thời kỳ đầu ấu
trùng tập trung gây hại, ngắt nhộng, lá trứng, bắt và giết bướm
trưởng thành.
4) Phòng ngừa và chữa trị bằng dung dịch thuốc. Vào thời kỳ
ấu trùng nở cao điểm, dùng dung dịch trichlorfon 90% 1000 lần
hoặc cyhalothrin 2,5%1000 – 1500 lần hoặc dầu nhũ nông nghiệp
52,25%1000 – 1500 lần lên diện tích đất trồng.
48
CHƯƠNG V: MÁY MÓC THU HOẠCH GAI
Gai là loại cây trồng lâu năm cho sợi, phải được thu hoạch
bằng thủ công hoặc máy móc mới có thể có được sợi gai thô. Việc
thu hoạch gia công tác nghiệp gai, với kỹ thuật thu hoạch hiện nay
chiếm hơn 60% toàn bộ quá trình sản xuất, thu hoạch theo mùa, và
cường độ lao động lớn, yêu cầu kỹ thuật cao, là chìa khỏa trong
sản xuất nguyên liệu gai.
Việc thu hoạch gai truyền thống và tước gai sử dụng rộng rãi
trên các ruộng gai bằng thủ công cho hiệu suất thấp, chỉ có thể đáp
ứng nhu cầu của diện tích cây trồng nhỏ. Không thích hợp để thu
hoạch trên diện tích lớn, đồng thời cùng với tình trạng thiếu hụt lao
động nông thôn và tiền công tăng cao, càng cần đầu tư máy móc
thu hoạch và tước gai nhiều hơn.
Bảng giới thiệu các loại mát móc thu hoạch gai thường dùng
Mã số Xuất xứ Mã số Xuất xứ
6BZ-400
Nguyên Giang
Hồ Nam 6BL-24 Gia Ngư Hồ Bắc
6BZ-350
Nguyên Giang
Hồ Nam
6BM-
206D
Nguyên Giang
Hồ Nam
FL-235 Bồi Lăng Trùng 6BM- Nguyên Giang
49
Khánh 350 Hồ Nam
Long Thái
Lang
CD-2
Đại Trúc Tứ
Xuyên 6BX-40
Ích Dương Hồ
Nam
JM-100 Vũ Hán Hồ Bắc
4BM-
260
Trường Sa Hồ
Nam
Từ những năm 1980,Trung Quốc bắt đầu thúc đẩy nghiên cứu
và phát triển máy thu hoạch gai (như bảng nêu trên), trong đó các
mã máy 6BZ-400,6BZ-350,6BM-350 do Sở nghiên cứu giống cây
gai Học viện Khoa học và Nông nghiệp Trung Quốc chế tạo được
sử dụng khá nhiều trên toàn quốc, và còn xuất khẩu ra nước ngoài;
mã FL-235 được sử dụng nhiều ở Tứ Xuyên, Trùng Khánh; mã
6BM-206D, 4BM-260,6BL-24 là những máy có hiệu quả tước gai
khá hiệu quả; mã 6BX-40 là loại máy mới chế tạo với nguyên lý
hoạt động mới công trình.Trong những năm gần đây, những loại
máy được sử dụng chủ yếu ở khu vực Động Đình Hồ là 6BM-180
thương hiệu Động Đình Hồ, 6BM-206Dvà 4BM-260 thương hiệu
Thái Nguyên.
50
CHƯƠNG VI: KỸ THUẬT CẤT TRỮ GAI THÔ
PHẦN 1: ĐIỀU KIỆN CẤT TRỮ CÂY GAI
Cây gaisau khi được tước bằng tay hoặc bằng máy, sau khi
phơi khô sẽ thu được sợi gai, gọi là gai thô. Gai thô cần được lưu
trữ ở nơi khô ráo, thoáng mát, thông gió, tránh nấm mốc làm ảnh
hưởng đến chất lượng. Cây gaiđược sản xuất nhiều ở khu vực phía
Nam sông Trường Giang của Trung Quốc, khí hậu ẩm ướt, đặc biệt
là vào mùa đông, lạnh và ẩm ướt, không dễ dàng để cất trữ gai thô.
Khi thời tiết nắng tốt, phải thường xuyên mở để phơi khô. Ngăn
chặn chồng chất, ép chặt khiến cho không thể thông gió, ẩm ướt,
gây ra nấm mốc.
51
PHẦN 2: PHÒNG CHỐNG SÂU HẠI (BỌ CÁNH CỨNG) TRONG CẤT TRỮ
Bọ cánh cứng, còn có các tên gọi là Ptilinus, Anobiids,
Batocera anobiids… là các côn trùng gây hại chủ yếu trong quá
trình cất trữ gai. Những côn trùng này còn gây hại cho gai đỏ, gỗ,
thuốc lá, sách… Thiệt hại chủ yếu là do ấu trùng cắn gai thô. Ấu
trùng sau khi trưởng nhả tơ nhiều kết thành nhộng kén dày.
I. Những nguy hại và cách nhận biết
Gaithô bị các côn trùng này phá hoại, thường xuất hiện các
mắt thũng, vết lõm và bị đứt sợi, dẫn tới sợi không đồng đều, giảm
chất lượng; nghiêm trọng hơn là bị ăn tới lên bột xỉ, làm mất giá trị
sử dụng. Ngoài ra, do ấu trùng tập trung ăn bên trong các bó
gai,chất thải từ cơ thể của chúng trộn lẫn với bột xỉ, gây ra nấm
mốc, làm giảm chất lượng gai thô. Gai cất trữ từ 2 – 3 năm luôn bị
thiệt hại nặng. Đồng thời kho bị hại ở các vị trí các tầng gai giữa
và dưới ở xung quanh tường, gần cửa sổ, nơi có khe hở bị thiệt hại
nhiều hơn, côn trùng trưởng thành thường thích đục lỗ ở nơi được
bó chặt, và đẻ trứng ở trong lỗ. Trường hợp nguy hại nghiêm trọng,
trong một bó gai có hàng ngàn con thậm chí là hơn 20 ngàn con ấu
trùng.
52
Bọ cánh cứng trưởng thành có màu nâu sẫm, có lông màu
vàng hơi bẩn. Chiều dài cơ thể 3,5 – 5,5 mm, loại bọ này lớn hơn
bọ hung. Râu môi dưới, râu cằm, và sừng đều có màu nâu đỏ.
Trứng hình bầu dục dài màu trắng, dài khoảng 0,3 mm. Nhũ ấu
trùng màu trắng, chân bụng thoái hóa, hình dạngấu trùng sọ dừa,
lông cơ thể ngắn và thưa thớt, dài khoảng 6 – 7 mm. Ngực trước và
lưng xuất hiện các vết lõm.
二、Phương pháp phòng ngừa và chữa trị:
1. Bọ trưởng thành, 2. Nhộng, 3. Ấu trùng, 4. Trứng
53
1. Phòng ngừa và chữa trị bằng dung dịch thuốc
Khi phát hiện sâu bọ gây nguy hại, phải đóng cửa kho cất trữ,
hoặc di chuyển đay tới không gian kín. Mở các bó gai, phun dung
dịch dichlorvos 80% 200 – 400 lần, đồng thời phun các góc trong
phòng, các bức tường, và sau đó niêm phong. Cách 07 ngày phun
một lần, tổng cộng phun 4 – 5 lần, mở ra kiểm tra, cho đến khi
không còn côn trùng sống sót. Ngoài ra, thời kỳ bọ trưởng thành
xuất hiện, sử dụng bình phun khử trùng trong 24 giờ, cũng có thể
giết chết phần lớn bọ trưởng thành.
Sử dụng phương pháp khử trùng hóa học, ví dụ như nhôm
phosphide 10g/m3 phong kín07 ngày, hoặc hun khói 40g/m3phong
kín05 ngày, hoặc methyl bromide 30g/m3phong kín 03 ngày, có thể
giết chết bọ cánh cứng trong kho. Mặc dù hiệu quả diệt trừ của các
dung dịch thuốc này tốt, nhưng đồng thời độc tính gây hại cho
người và động vật cũng khá lớn, khi sử dụng cần chú ý phong kín
kho gai, tránh xa con người, sau khi phun thuốc, khi mở kho phải
sơ tán khí độc. Đối với nhà máy và kho lưu trữ quy mô lớn, có thể
sử dụngnhững phương pháp này để diệt côn trùng. Với nhà nông
lượng gai cất trữ ít, kiến nghị nên sử dụng thuốc trừ sâu
dichlorvos.
54
LỜI CẢM ƠN
Chân thành cảm ơncác hệ thống công nghệ gieo trồng, nhân giống cây gai, kiểm soát sâu hại, máy móc thu gai của nhà nước và tập thể trạm thí nghiệm cây gai Nguyên Giangđã cung cấp rất nhiều thông tin và hướng dẫn trong quá trình thực hiện tài liệu này!
Trung tâm dịch vụ kỹ thuật cây trồng kinh tế thành
phố Nguyên Giang
Ngày 10 tháng 12 năm 2011
55
56