Upload
lecong
View
217
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
KỸ NĂNG GIAO TIẾP VÀ THƯƠNG LƯỢNG TRONG KINH DOANH
KỸ NĂNG GIAO TIẾP VÀ THƯƠNG LƯỢNG TRONG KINH DOANH
Tác giả: TS. Thái Trí Dũng
LỜI NÓI ĐẦU
Giao tiếp là một hoạt động và là một nhu cầu không thể thiếu được ở
con người Quản trị kinh doanh thực chất là một hoạt động giao tiếp hết sức
phức tạp. Hiệu quả của nhà quản trị phụ thuộc rất nhiều đến khả năng tác
động và ảnh hưởng đến nhân viên dưới quyền. Hơn nữa bất kỳ một dự án
kinh doanh hấp dẫn nào, bất kỳ một cơ hội kinh doanh đầy triển vọng vào
cũng phải trải qua những cuộc thương lượng giữa các bên để biến thành hiện
thực. Vì vậy nhà kinh doanh cũng cần có những kỹ năng giao tiếp hoàn hảo
như một nhà ngoại giao.
Giao tiếp và thương lượng nói chung và trong lĩnh vực kinh doanh nói
riêng là một nghệ thuật lâu đời trong dân gian, nhưng là một khoa học khá
mới mẻ đối với chúng ta.
Để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của sinh viên và giúp nâng
cao kỹ năng gia tiếp và thương lượng của những người đang làm việc, chúng
tôi biên soạn và giới thiệu cùng bạn dọc cuốn “Kỹ năng giao tiếp và thương
lượng trong kinh doanh? Cuốn sách được biên soạn dựa trên những tài liệu
trong nước và quốc tế được phổ biến trong thời gian gần đây.
Chúng tôi hy vọng cuốn sách sẽ giúp ích cho các bạn đối với việc rèn
luyện kỹ năng giao tiếp và thương lượng trong cuộc sống hàng ngày cũng
như trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, cuốn sách sẽ không tránh khỏi
những khiếm khuyết, sai sót nhất định, rất mong có bạn góp ý chân thành.
Tác giả
Thái Trí Dũng(Giảng viên trường ĐH Kinh tế TP Hồ Chí Minh)
Phần 1: GIAO TIẾP
“Chỉ có người biết cách giao tiếp tốt thì mó làm kinh doanh tốt” (M. Kay. Dupont)
“Người nào không có tiền trong túi thì cần sẵn mật ngọt ở mồm” (Ngạn ngữ ý)
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO TIẾP
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAO TIẾP 1. Khái niệm
Ngạn ngữ La tinh có câu rằng “Người nào sống được một mình thì
hoặc là Thánh nhân, hoặc là Quỉ sứ". Phàm đã là người thì ai cũng phải sống
trong một xã hội nhất định, sinh hoạt trong những nhóm người, tập thể và
những cộng đồng người khác nhau. Trong quá trình sống và làm việc chung
với mọi người con người có rất nhiều nhu cầu cần phải được thỏa mãn. Đó là
nhu cầu trao đổi thông tin, trao đổi những kinh nghiệm giữa mình với người
khác; nhu cầu thổ lộ những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ và mong muốn được
người khác cùng chia sẽ những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống; trong
hoạt động của mình chúng ta còn muốn được người khác hợp tác và giúp đỡ
và ai cũng muốn khẳng định những tài năng và đức hạnh của mình trước
người khác. Tất cả những nhu cầu tâm lý xã hội đó của chúng ta chỉ có thể
được thỏa mãn thông qua hoạt động giao tiếp.
Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các mối quan hệ xã hội giữa
người và người, hoặc giữa người và các yếu tố xã hội nhằm thỏa mãn những
nhu cầu nhất định.
Giao tiếp bao hàm hàng loạt yếu tố, như trao đổi thông tin, xây dựng
chiến lược hoạt động phối hợp, tri giác và tìm hiểu người khác. Tương ứng
với các yếu tố trên thì giao tiếp có ba khía cạnh chính: giao lưu, tác động qua
lại và tri giác.
Khía cạnh giao lưu của giao tiếp gắn liền với việc tìm hiểu những đặc
điểm đặc thù của quá trình trao đổi thông tin giữa hai bên giao tiếp với nhau
có tính đến cả mục đích, tâm thế và ý định của nhau. Quá trình giao lưu sẽ
làm giàu thêm về kiến thức, kinh nghiệm của những người tham gia giao tiếp.
Một khía cạnh quan trọng khác của giao tiếp đó là tác động qua lại giữa
hai bên. Trong trường hợp này, ngôn ngữ thống nhất và cùng hiểu biết về tình
huống, hoàn cảnh giao tiếp là điều kiện cần thiết bảo đảm sự tác động qua lại
đạt hiệu quả. Có nhiều kiểu tác động lẫn nhau giữa những người với nhau,
trước hết đó là sự hợp tác và sự cạnh tranh, tương ứng với chúng là sự đồng
tình hay sự xung đột.
Khía cạnh tri giác của giao tiếp bao hàm quá trình hình thành hình ảnh
về người khác, xác định được các phẩm chất tâm lý và đặc điểm hành vi của
người đó (thông qua các biểu hiện bên ngoài). Trong khi tri giác người khác
cần chú ý tới các hiện tượng như: ấn tượng ban đầu, hiệu ứng cái mới, sự
điển hình hóa v.v…
Hoạt động quản trị kinh doanh về thực chất cũng là hoạt động giao tiếp.
Trong hoạt động của mình, nhà quản trị phải giao tiếp với nhân viên để truyền
đạt nhiệm vụ, động viên, khuyến khích họ thực hiện tốt các nhiệm vụ đó.
Nhiều khi nhà quản trị cần phải xử lý những tình huống giao tiếp tế nhị như:
khiển trách, phê bình, giải quyết các xung đột. Nhà quản trị cũng cần thiết lập
các mối quan hệ với những cơ quan, đoàn thể, các tổ chức chính quyền
nhằm tạo điều kiện cho hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả. Nhà kinh
doanh phải giao tiếp với khách hàng, bạn hàng, với các đối tác khác nhau
dưới nhiều hình thức khác nhau: thuyết phục người ta mua, bán hàng,
thương lượng một vài điều khoản nào đó trong hợp đồng… Chính vì vậy một
trong những phẩm chất hết sức cần thiết của nhà doanh nghiệp đó là khả
năng giao tiếp hoàn hảo.
2. Đặc tính của giao tiếp trong kinh doanh
Trong hoạt động quản trị kinh doanh cũng như các hoạt động khác
ngoài xã hội, những đặc tính này xen kẽ vào nhau và cần được vận đụng một
cách khéo léo, sáng tạo và tế nhị.
a. Hoạt động kinh doanh là một hoạt động giao tiếp hết sức phức tạp.
Bởi vì nhà kinh doanh thường phải tiếp xúc với đủ các loại người khác
nhau, với những người có nhu cầu, thị hiếu khác nhau, với những động cơ
giao tiếp khác nhau. Cũng có người đến với nhà kinh doanh với động cơ hợp
tác chân chính, nhưng cũng có kẻ đến với ta với động cơ lừa đảo, lợi đụng. Vì
vậy nhà kinh doanh cần phải có kỹ năng giao tiếp tốt trong mọi trường hợp,
với mọi đối tác.
b. Giao tiếp trong kinh doanh luôn gấp rút về mặt thời gian.
Vâng, thời gian là tiền là bạc. Khi giao tiếp làm ăn không có thời gian để
gây ấn tượng, mọi cuộc gặp gỡ đều được diễn ra một cách chóng vánh. Có
thể bạn sẽ gặp một khách hàng nào đó mỗi tháng một lần, mỗi lần nửa giờ,
gặp vị phó giám đối mỗi ngày 20 phút, gặp người thư ký mỗi ngày tám lần,
mỗi lần năm phút, hoặc bác bảo vệ lúc đi vào đi ra. Chính vì sự ngắn ngủi này
mà yêu cầu bạn phải cố gắng tận dụng thời gian hiệu quả hơn nữa để tiếp
xúc, gây ấn tượng và tạo mối quan hệ tốt đẹp với mọi người.
c. Kinh doanh là hoạt động thường có thể gặp những rủi ro
Vì vậy trong giao tiếp kinh doanh cũng đòi hỏi nhà doanh nghiệp phải
dám chấp nhận rủi ro, dám mạo hiểm, phải có “gan". Đứng trước những cơ
hội kinh doanh, nếu bạn quá tính toán, quá cân nhắc thì cơ hội sẽ qua đi. Cần
nhớ rằng “mức độ rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn". Tuy nhiên, trong
kinh doanh bạn không được liều!
d. Giao tiếp kinh doanh yêu cầu phải đảm bảo hai bên cùng có lợi
Giao tiếp kinh doanh không đơn thuần là sự theo đuổi nhu cầu, lợi ích
của bản thân, mà là quá trình trong đó hai bên thảo luận, bàn bạc, nhượng bộ
để đi đến sự hợp tác hai bên cùng có lợi. Giao tiếp kinh doanh phải là một
cuộc chơi trong đó hai bên đều “Thắng".
e. Giao tiếp kinh doanh vừa là một khoa học, nhưng vừa là một nghệ thuật
Muốn giao tiếp có hiệu quả, nhà kinh doanh cần phải nắm được các
nguyên tắc giao tiếp hiểu được các quy luật tâm lý con người để đưa ra
phương án và chiến thuật giao tiếp hợp lý. Giao tiếp trong kinh doanh cũng
yêu cầu bạn phải am hiểu các nguyên tắc về pháp lý trong giao địch thương
mại, trong soạn thảo các văn bản, hợp đồng… Tất cả những điều đó nói lên
tính khoa học của giao tiếp kinh doanh. Tuy nhiên, giao tiếp vừa là một hoạt
động hết sức tinh tế đòi hỏi bạn phải có nghệ thuật vận dụng các nguyên tắc
một cách linh hoạt. Đặc biệt bạn phải có khiếu trong ăn nói, phải có sự nhạy
bén trong phán đoán tình hình để đưa ra những cách ứng xứ vừa chính xác
vừa mang tính thẩm mỹ. Hãy nhớ lời của nhà ngoại giao nổi tiếng người Pháp
Jean Serres. “Giao tiếp là một khoa học, phải học các nguyên tắc và là một
nghệ thuật, phải nắm bắt cho được các bí quyết".
3. Các nguyên tắc giao tiếp trong kinh doanh
a. Hãy hợp tác hai bên đều có lợi
Trong giao tiếp kinh doanh cần phải quan tâm tới lợi ích của cả hai bên,
biết điều hòa các quyền lợi cá nhân, tập thể, xã hội sao cho tương xứng,
đúng với lẽ phải và đạo lý làm người. Kinh doanh là trao đổi theo nguyên tắc
thuận mua, vừa bán trong quan hệ đôi bên cùng có lợi, bình đẳng và ngang
giá. Nếu bạn chỉ nghĩ tới lợi ích của mình mà ép người ta thì họ đâu dễ chấp
nhận lợi ích thua thiệt, vì vậy mà cuộc giao tiếp khó mà đạt tới thỏa thuận,
đồng thời quan hệ giữa hai bên trở nên căng thẳng. Chớ nên vơ vét hết lợi
lộc về cho mình. Bí quyết thành công trong kinh doanh là hãy cho người khác
được hưởng lợi lộc, bởi vì nhường họ cái này thì họ sẽ nhường cho bạn cái
khác.
b. Hãy tôn trọng đối tác giao tiếp như tôn trọng chính bản thân mình
Trong kinh doanh cũng như trong cuộc sống, bạn hãy nhớ rằng “ngàn
người bạn còn ít, một kẻ thù đã nhiều. Để tạo bạn và không gây thù thì trong
giao tiếp hãy tôn trọng phẩm giá của đối tác. Đừng xúc phạm cấp dưới, đừng
nói xấu cấp trên, đừng tọc mạch chuyện riêng tư của đồng nghiệp, đừng bao
giờ phân biệt đối xử với khách giàu, nghèo, sang, hèn, dân tộc, giai cấp.
c. Hãy lắng nghe và nói với nhau hết lời
Khi nói thì hãy nói cho hết ý, diễn tả rõ ràng tâm tư nguyện vọng, còn
người nghe cũng phải nghe cho hết, từ đầu tới cuối, chớ ngắt lời, bỏ giữa
chừng. Trong giao tiếp việc trao đổi thông tin phải được diễn ra theo hai
chiều. Bạn cần nhớ rằng:
* Trong kinh doanh phải nói với nhau một cách chân thật, ôn tồn, mộc
mạc giản dị, văn minh lịch sự. Chớ nói năng thô tục, xỉ vả lẫn nhau mà biến
bạn thành thù. Nên nghe hết rồi hãy nói.
* Trong kinh doanh phải biết lắng nghe để nắm bắt được tâm tư nguyện
vọng của đối tác, nắm bắt được lý lẽ, quan điểm của đối tượng. Bạn có hiểu
được đối tác thì bạn mới nói ra được những thông tin chính xác để khuyên
bảo họ, để thuyết phục họ.
d. Hãy thảo luận, bàn bạc một cách dân chủ để tìm những quan điểm chung, lợi ích chung, để hai bên hiểu biết lẫn nhau
Bạn nhớ rằng bàn bạc, thảo luận chứ không phải là cãi vã. Bàn bạc có
tranh luận. Nhưng mỗi bên nên nhường nhịn nhau để cùng thỏa hiệp. Nhiều
khi thỏa hiệp đó mang lại lợi ích cho cả hai bên. Thông thường khi bàn bạc,
mỗi bên đều có lập luận riêng để bảo vệ quyền lợi riêng. Ví dụ giữa chủ và
thợ, giữa người mua và người bán cần bàn bạc để đi đến nhất trí về giá cả,
về hàng hóa, về tiền lương để tránh mâu thuẫn, hai bên phải công khai hóa
mọi vấn đề mới mong đi đến thỏa thuận. Chẳng hạn, chủ phải công khai tiền
vốn, tiền lãi, tiền thuế, tiền trả cổ phần, tiền tích lũy để tái sản xuất mở rộng,
tiền khấu hao, tiền chia hoa lợi, đâu là chủ được hưởng, đâu là để trả tiền
lương cho công nhân viên. Để họ góp ý và tự nhận có nên tăng lương vào lúc
kinh tế đang khó khăn không. Sự bàn bạc công khai hóa như trên chắc chắn
sẽ tạo ra sự hiểu biết lẫn nhau và sự hợp tác lâu dài giữa chủ và thợ.
e. Hãy thông cảm với nhau về hoàn cảnh, khả năng và quyền lợi của mỗi bên trong giao tiếp
Muốn vậy trong giao tiếp mỗi bên cần phải tự đặt mình vào vị trí của đối
tác mà suy xét. Chẳng hạn, người bán tự đặt mình vào vị trí người mua và
ngược lại. Tương tự, nhà quản lý phải tự đặt mình vào vị trí của nhân viên
mới thấy hết nỗi vất vả của họ mà trả lương cho họ một cách hợp lý. Ngược
lại công nhân tự đặt mình ở vị trí người chủ để thấy được sự khó khăn trong
việc điều hành. Nhờ có sự thông cảm, mà hai bên bàn bạc với nhau để tìm ra
được thỏa thuận tốt nhất.
f. Hãy kiên nhẫn, biết chờ đợi lẫn nhau
Trong giao tiếp bàn bạc đòi hỏi phải có thời gian để hai bên suy nghĩ
mới đi đến thống nhất ý kiến. Vì vậy mà mỗi bên phải có sự chờ đợi nhau với
thái độ thân thiện, thông cảm. Ví dụ, khi khách hàng nóng nảy, người bán
hàng phải chờ cho hết cơn giận hãy giải thích mới có kết quả. Còn cứ nói
ngay chẳng khác đổ dầu vào lửa hoặc nước đổ lá khoai. Chờ đợi tức là biết
kiên nhẫn thì chỉ có lợi trong giao tiếp.
g. Hãy biết chấp nhận trong giao tiếp
Trong giao tiếp không phải bao giờ mọi sự cũng diễn ra như ý. Bạn cần
biết chấp nhận rủi ro, chấp nhận những qui định của pháp luật chấp nhận
những khách hàng nóng tính, chấp nhận thua về lợi ích để đổi lấy quan hệ,
chấp nhận những nhược điểm của cấp dưới để bố trí họ đúng việc.
Khi bạn biết chấp nhận đối tác, chấp nhận hoàn cảnh trong giao tiếp thì
tự nhiên bạn sẽ có cách đối xử tốt hơn với mọi người, tìm được cách vượt
qua được những trở ngại trong giao tiếp.
II. CHỨC NĂNG CỦA GIAO TIẾPTrong tâm lý học người ta chia các chức năng của giao tiếp ra thành 2
nhóm. Thứ nhất, chức năng thuần túy xã hội và thứ hai là chức năng tâm lý
xã hội.
1. Các chức năng thuần tuý xã hội
Là các chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu xã hội hay của một
nhóm người, bao gồm:
a. Chức năng thông tin, tổ chức
Trong hoạt động chung, người này giao tiếp với người kia để thông báo
cho nhau những thông tin giúp cho hoạt động của tổ chức được thực hiện
một cách có hiệu quả. Ví dụ, thủ trưởng truyền đạt mệnh lệnh cho nhân viên,
nhân viên báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ của mình cho thủ trưởng.
b. Chức năng điều khiển
Chức năng này được thể hiện trong khía cạnh tác động lẫn nhau của
giao tiếp. Trong giao tiếp, người ta dùng những phương pháp tác động lẫn
nhau như: ám thị, thuyết phục, áp lực nhóm… để điều khiển người khác.
Chức năng này cực kỳ quan trọng trong hoạt động quản trị và kinh doanh.
Bằng các hình thức giao tiếp khác nhau như ra lệnh, thuyết phục, tạo dư luận,
mà nhà quản trị hướng hoạt động của nhân viên vào thực hiện mục đích
chung của doanh nghiệp. Cũng thông qua các hình thức tác động lẫn nhau
trong giao tiếp mà nhà kinh doanh có thể thỏa thuận được với các đối tác về
những hợp đồng thương mại có lợi.
c. Chức năng phối hợp hành động
Trong một tổ chức thường có nhiều bộ phận với các chức năng, nhiệm
vụ khác nhau. Tuy nhiên để cho một tổ chức hoạt động một cách thống nhất,
đồng bộ, thì các bộ phận, các thành viên trong tổ chức cần phải giao tiếp với
nhau để phối hợp hành động cho có hiệu quả. Trong khi kéo pháo các chiến
sỹ “hò dô”, là một ví dụ về chức phối hợp hành động.
d. Chức năng động viên, kích thích
Chức năng này có liên quan đến lĩnh vực cảm xúc của con người.
Trong quá trình giao tiếp con người không chỉ truyền thông tin cho nhau hay
tác động điều khiển lẫn nhau mà còn tạo ra những cảm xúc kích thích hành
động của họ. Trong hoạt động của mình nhà quản trị có khi dùng những hình
thức giao tiếp với nhân viên như khen ngợi, động viên, có những lời nói và
việc làm thể hiện sự quan tâm đến gia đình họ, bản thân họ sẽ làm cho cấp
dưới cảm động, hài lòng từ đó kích thích họ làm việc tốt hơn.
2. Các chức năng tâm lý xã hội
Là các chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu của từng thành viên
của xã hội, bao gồm:
a. Chức năng tạo mối quan hệ
Đối với con người, trạng thái cô đơn, cô lập, cô lập đối với những người
xung quanh là một trong những trạng thái đáng sợ nhất. Giao tiếp giúp cho
con người tạo ra những mối quan hệ với mọi người.
b. Chức năng cân bằng cảm xúc
Mỗi chúng ta đôi khi có những cảm xúc cần được bộc lộ. Sung sướng
hay đau khổ, hy vọng hay thất vọng, niềm vui hay nỗi buồn đều muốn được
người khác cùng chia sẻ. Chỉ có trong giao tiếp chúng ta mới tìm được sự
đồng cảm, cảm thông và giải tỏa được cảm xúc của mình.
c. Chức năng phát triển nhân cách
Trong giao tiếp con người lĩnh hội được kinh nghiệm xã hội, tâm hồn
của con người trở nên phong phú, tri thức sâu sắc, tình cảm và thế giới quan
được hình thành, củng cố và phát triển. Thông qua giao tiếp những tiêu chuẩn
đạo đức, cũng như tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ, tính nguyên tắc, tính vị
tha, tính trung thực… không chỉ được thể hiện mà còn được hình thành ở
chúng ta. Cũng thông qua giao tiếp con người học hỏi được cách đánh giá
hành vi và thái độ, nhận biết được chính mình để rồi hoàn thiện các phẩm
chất nhân cách của bản thân.
III. CÁC LOẠI HÌNH GIAO TIẾP CƠ BẢN Có nhiều cách phân loại giao tiếp theo những tiêu chuẩn khác nhau:
1. Dựa vào nội dung tâm lý của giao tiếp
Người ta phân ra:
- Giao tiếp nhằm thông báo những thông tin mới.
- Giao tiếp nhằm thay đổi hệ thống động cơ và giá trị.
- Giao tiếp nhằm kích thích, động viên hành động.
2. Dựa vào đối tượng hoạt động giao tiếp
Người ta chia ra:
- Giao tiếp liên nhân cách (giữa 2-3 người với nhau).
- Giao tiếp xã hội - là giao tiếp giữa một người với một nhóm người
(như lớp học, hội nghị…).
- Giao tiếp nhóm - đây là loại hình giao tiếp đặc trưng cho một tập thể
nhớ liên kết với nhau bởi hoạt động chung và nó phục vụ cho hoạt động này.
3. Dựa vào tính chất tiếp xúc
Ta có thể chia ra làm hai loại:
- Giao tiếp trực tiếp là loại hình giao tiếp thông dụng nhất trong mọi hoạt
động của con người, trong đó các đối tượng của giao tiếp trực tiếp gặp gỡ
nhau và thường dùng ngôn ngữ nói và biểu cảm để truyền cho nhau những ý
nghĩ và tình cảm của mình. Đây là loại hình giao tiếp có hiệu quả nhất, bởi vì
trong các tình huống mặt đối mặt nhờ có những thông tin không bằng lời đi
kèm mà mọi sự hiểu lầm, thông tin thiếu chính xác sẽ được điều chỉnh kịp
thời trong quá trình giao tiếp. Điển hình của loại hình giao tiếp này là các cuộc
phỏng vấn, đàm thoại trực tiếp, các cuộc hội đàm song phương, các cuộc hội
nghị ở qui mô nhóm nhỏ…
- Giao tiếp gián tiếp là giao tiếp thông qua một phương tiện trung gian
khác như thư từ, sách báo, điện thoại, vô tuyến truyền hình, fax v.v… Đây là
hình thức giao tiếp kém hiệu quả hơn vì sự phản hồi thông tin rất chậm, nhất
là hình thức giao tiếp bằng văn bản. Hơn nữa loại giao tiếp này rất ít được hỗ
trợ bởi các phương tiện phi ngôn ngữ, vì vậy các đối tác có thể không hiểu
hết những khía cạnh tế nhị của thông tin.
Tất nhiên là giao tiếp trong kinh doanh không phải bao giờ cũng được
tiến hành bằng hình thức hiệu quả nhất (trực tiếp). Đôi khi vì những lý do về
thời gian, không gian, tài chính… mà các nhà kinh doanh phải giao tiếp gián
tiếp với nhau. Hơn nữa, việc kết hợp các hình thức giao tiếp khác nhau để
giải quyết vấn đề thường lại đem đến hiệu quả chung tốt hơn. Chẳng hạn,
gặp những vấn đề phức tạp, chúng ta nên tiến hành trao đổi thông tin dưới
dạng văn bản trước, sau đó mới tiến hành thảo luận trực tiếp. Như vậy cả hai
bên đều có cơ hội, thời gian để nghiên cứu các vấn đề và chuẩn bị tốt cho
cuộc gặp gỡ trực tiếp. Hoặc là, sau khi đã thỏa thuận với nhau về một vấn đề
nào đó trong cuộc gặp gỡ mặt đối mặt, chúng ta có thể khẳng định lại điều đó
bằng một văn bản. Bởi vì giao tiếp bằng văn bản thường có tính pháp lý cao
hơn ("giấy trắng, mực đen"), và cũng tiện cho việc lưu trữ hồ sơ, tài liệu.
4. Dựa vào hình thức của giao tiếp
- Giao tiếp chính thức là giao tiếp có sự ấn định theo pháp luật, theo
một qui trình được các tổ chức thừa nhận như hội họp, mít tinh, đàm phán,
v.v... Loại hình này trong công tác quản trị chiếm một tỷ lệ khá cao, nó ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của tập thể.
- Giao tiếp không chính thức là giao tiếp không theo sự quy định nào
cả, mang nặng tính cá nhân. Ví dụ, giao tiếp giữa bạn bè với nhau, thủ trưởng
trò chuyện riêng tư với nhân viên, v.v… Loại giao tiếp này, trong công tác
quản trị, cũng hay được sử dụng, nó có tác dụng tạo ra bầu không khí đầm
ấm, vui tươi, thân mật hiểu biết lẫn nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho giao tiếp
chính thức thực hiện có hiệu quả. Vì vậy không phải ngẫu nhiên mà trong thời
gian dự hội nghị, đàm phán, ký kết hợp đồng, nhiều cơ quan tổ chức cho
khách đi tham quan, xem văn nghệ, dự tiệc tất cả những điều đó cốt tạo thuận
lợi cho giao tiếp chính thức được tiến hành thuận lợi.
5. Dựa vào thế tâm lý giữa hai bên trong giao tiếp
+ Giao tiếp ở thế mạnh.
+ Giao tiếp ở thế yếu.
+ Giao tiếp ở thế cân bằng.
Thế tâm lý tức là vị thế tâm lý giữa hai người trong quan hệ giao tiếp,
nó nói lên ai mạnh hơn ai về mặt tâm lý (ví dụ: ai cần ai, ai không cần ai, ai sợ
ai, ai không sợ ai…). Thế tâm lý của một người đối với một người khác chi
phối những hành vi trong giao tiếp của họ. Chẳng hạn, khi chúng ta giao tiếp
với bạn bè trong lớp (là ở thế cân bằng) sẽ có những hành vi, cử chỉ, tư thế
khác so với khi chúng ta giao tiếp với một người giám đốc trong cuộc phỏng
vấn xin việc làm (khi mà chúng ta ở thế yếu). Chính vì vậy để có những hành
vi giao tiếp cho hợp lý, chúng ta cần phải xác định thế tâm lý của ta so với đối
tượng, tức là xem ai mạnh hơn ai về mặt tâm lý trong cuộc giao tiếp đó. Khi
đánh giá thế tâm lý của nhau, chúng ta cần chú ý so sánh nhiều khía cạnh
khác nhau, chớ chủ quan, phiến diện mà dẫn đến sai lầm. Bởi vì giữa ta với
đối tượng giao tiếp có thể có rất nhiều mối quan hệ ràng buộc, cũng có khi
chúng ta mạnh hơn họ trong mối quan hệ này, nhưng họ lại mạnh hơn ta
trong mối quan hệ khác. Trong giao tiếp chúng ta còn phải chú ý điều chỉnh
thế tâm lý của mình cho phù hợp với từng tình huống cụ thể.
6. Dựa vào thái độ và sách lược giao tiếp
+ Giao tiếp kiểu Thắng- Thắng: trong giao tiếp kiểu này mọi người luôn
mong muốn tìm kiếm lợi ích chung, làm cho các bên tham gia giao tiếp đều
thỏa mãn nhu cầu của mình. Những người ưa kiểu giao tiếp này thường nhìn
cuộc sống là một sự hợp tác, chứ không phải là cạnh tranh. Giao tiếp kiểu
Thắng-thắng dựa trên nguyên lý rằng “Có đầy đủ cho mọi người, thành công
của một người không ảnh hưởng hoặc loại trừ thành công của người khác".
Kiểu giao tiếp này thường được áp dụng trong các cuộc thương lượng, khi
mà hai bên muốn hợp tác với nhau nhằm tìm kiếm những lợi ích chung.
+ Giao tiếp kiểu Thắng - Thua: là kiểu ngược với kiểu Thắng - Thắng.
Mục đích chủ yếu của cuộc giao tiếp này là làm sao cố gắng dè bẹp đối
phương bằng mọi cách. Ở đây người ta chỉ nghĩ rằng “Nếu tôi Thắng thì anh
phải Thua", đây là cuộc chơi có tổng bằng không: Nhà quán trị nào thường áp
dụng kiểu giao tiếp này là người độc đoán, ưa sử dụng sức mạnh quyền lực
để áp đặt những mệnh lệnh, chỉ thị của mình đối với người khác. Nếu nhà
kinh doanh thường áp đụng kiểu giao tiếp này sẽ khó giữ được chữ tín, khó
giữ được các mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng, với bạn hàng. Trong kinh
doanh họ thường thực hiện những cuộc cạnh tranh không lành mạnh. Nói
chung kiểu giao tiếp này thường không thích hợp với sự hợp tác.
+ Giao tiếp kiểu Thua - Thắng: với kiểu giao tiếp này người ta vội vàng
làm hài lòng hoặc nhân nhượng vô nguyên tắc miễn sao giữ được mối quan
hệ tốt đẹp. Trong giao tiếp kiểu này người ta không có các tiêu chuẩn, không
có yêu cầu, không có chính kiến, không có dự định, không có ước mơ. Họ tìm
sức mạnh ở sự ưa thích của quần chúng hoặc sự chấp nhận. Bước vào các
cuộc giao tiếp kiểu này, người ta thường nghĩ: “Tôi thua, bạn thắng"; “Tôi là
người thua cuộc, tôi luôn là người thua cuộc"; “Tôi là người muốn hòa giải.
Tôi làm tất cả để giữ được bình yên"… Nếu trong kinh doanh, bạn luôn áp
đụng kiểu này thì sẽ bị người ta lợi dụng và sẽ nhận phải sự thua thiệt, nhất là
khi gặp phải đối tác chuyên áp dụng kiểu Thắng- Thua.
+ Giao tiếp kiểu Thua- Thua: khi hai bên đều cố tình chọn kiểu Thắng-
Thua để giao tiếp với nhau, tức là cả hai kiên quyết giữ vững lập trường của
mình một cách ương bướng, thì kết quả sẽ là Thua- Thua. Cả hai đều thua, vì
mối quan hệ giữa hai bên đã trở nên căng thẳng và kết quả của cuộc giao tiếp
không thành.
+ Giao tiếp kiểu Thắng- Thắng hoặc Không hợp đồng: là kiểu giao tiếp
mà trong đó nếu hai bên không đưa ra được giải pháp có lợi cho cả hai thì thà
là không hợp tác, bởi như thế còn tốt hơn là thực hiện một giải pháp chỉ có lợi
cho một bên. Khi chọn kiểu giao tiếp Thắng- Thắng hoặc Không hợp đồng,
thường các đối tác cảm thấy thoải mái hơn về mặt tâm lý và tự do hơn trong
hoạt động của mình.
Câu hỏi ôn tập1.1. Anh chị hiểu thế nào là giao tiếp? Nêu các đặc điểm của hoạt động
giao tiếp trong kinh doanh? Từ đó anh chị có suy nghĩ như thế trong việc rèn
luyện bản thân?
1.2. Anh chị hãy phân tích các chức năng của hoạt động giao tiếp?
1.3. Trong các kiểu giao tiếp theo cách phân loại dựa vào sách lược và
thái độ, thì bạn thường áp dụng kiểu nào nhất? Tại sao?
Câu hỏi thảo luận
1.a) Có người cho rằng kỹ năng giao tiếp không quan trọng trong môi
trường chuyên môn. Đúng hay sai? Vì sao?
1.b) “Giao tiếp tốt trong công việc sẽ giúp ta trở thành chủ tịch công ty
và đảm bảo cho ta một chân trong hội đồng quản trị". Câu này đúng hay sai?
Tại sao?
Chương 2 : CẤU TRÚC CỦA HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP Trong hoạt động giao tiếp chúng ta đồng thời tiến hành 3 quá trình có
liên quan chặt chẽ với nhau, đó là: trao đổi thông tin, nhận thức và tác động
qua lại lẫn nhau. Dưới đây chúng ta sẽ tiến hành phân tích từng quá trình.
I. TRUYỀN THÔNG TRONG GIAO TIẾPGiao tiếp trước hết là một quá trình truyền và nhận thông tin giữa
những chủ thể giao tiếp với nhau. Tuy nhiên trong giao tiếp kinh doanh quá
trình truyền thông cần được phân tích trên các cấp độ khác nhau: truyền
thông qua lại giữa các cá nhân và truyền thông trong tổ chức.
1. Quá trình truyền thông giữa các cá nhân
a. Mô hình truyền thông
Về phương diện nào đó, giao tiếp có thể được coi như quá trình phát
và nhận thông tin giữa những người giao tiếp với nhau. Giao tiếp là một quá
trình thông tin hai chiều, có nghĩa là không có sự phân cực giữa một bên là
người phát và một bên là người nhận thông tin, mà cả hai đều là chủ thể tích
cực, luôn đổi vai cho nhau. Nội dung thông tin có thể là các quan điểm, ý kiến,
sở thích, nhu cầu, tâm trạng, tình cảm… Quá trình trao đổi thông tin trong
giao tiếp diễn ra có hiệu quả hay không phụ thuộc vào người phát, người
nhận thông tin và nhiều yếu tố khác trong quá trình truyền thông. Quá trình
truyền thông trong giao tiếp được minh họa bằng sơ đồ như ở hình 1:
Hình 1. Sơ đồ quá trình truyền thông.
Sơ đồ trên cho ta thấy rằng một người muốn chuyển một ý nghĩ trừu
tượng cho một người khác thì phải bắt đầu từ mã hóa ý nghĩ đó. Mã hóa là
quá trình chuyển từ ý nghĩ sang lời nói, chữ viết hay các dấu hiệu ký hiệu và
các phương tiện phi ngôn ngữ khác nhau. Sau đó thông điệp, tức là những ý
nghĩ đã được mã hóa, được phát đi bằng các kênh truyền thông (như lời nói,
thông báo, điện thoại, thư từ, fax…). Người nghe nhận được thông điệp bằng
Nhieu
Phan hoi
Nguoi nhan
Tiep nhan -> Giai ma Thong diep
KenhNguoi phat
Y nghi -> Ma hoa
một số hoặc tất cả các giác quan của mình và giải mã. Giải mã không phải là
một quá trình đơn giản. Sự thông tin chính xác chỉ có thể xảy ra khi cả hai
người phát và nhận gán cho các ký hiệu lập thành thông điệp cùng một ý
nghĩa hoặc ít ra là những ý nghĩa tương tự. Ví dụ, một thông điệp được mã
hóa sang tiếng Anh đòi hỏi người nhận cũng phải hiểu tiếng Anh. Sau khi giải
mã, khâu cuối cùng kết thúc mạch truyền thông là thông qua phản hồi. Người
nhận tín hiệu cho người phát biết rằng thông điệp đã nhận được và tính chất
của sự trả lời thường cho thấy một phần chất lượng của sự thông hiểu.
Quá trình truyền thông là một quá trình tương hỗ và tuần hoàn, và sự
phản hồi tạo cơ hội để sửa hoặc định hình lại thông điệp ban đầu. Người gửi
có thể thêm hoặc thay đổi thông điệp ban đầu để làm sáng tỏ hơn và người
nhận có thể thử lại việc giải mã để đảm báo rằng thông điệp đã được ghi
đúng là thông điệp mà người gửi có ý định muốn truyền.
Có thể minh họa quá trình trên bằng ví dụ về người đói bụng đến một
quán ăn. ông ta đã mã hóa suy nghĩ của mình bằng câu. “Làm ơn cho tôi một
phần cơm". Vì quá quan tâm đến chuyện ăn, nên người đó chỉ tỏ ý muốn có
một phần cơm, không cung cấp thêm thông tin nào khác. Người chủ quán
không có khó khăn ban đầu vì khách hàng liên tục đến quán để ăn cơm, và
người ta chỉ yêu cầu khách hàng nhắc lại nếu người khách yêu cầu một bộ
quần áo. Tuy nhiên, có nhiều món ăn, do đó để làm sáng tỏ thông điệp ban
đầu người chủ quán đưa ra nhiều câu hỏi, như: “ông dùng món gì? ông dùng
đồ uống gì không?..". Mỗi câu hỏi đó sẽ dẫn đến việc người bán hàng hoàn
tất khâu phản hồi và chuẩn bị phần ăn.
Hiệu quả của quá trình truyền thông có thể bị ảnh hưởng bởi “nhiễu".
Là những yếu tố nằm ở người phát, ở việc truyền đạt, hay ở người nhận mà
chúng cản trở tới việc thông tin. Ví dụ, đó là:
- Một môi trường ồn ào ảnh hường tới việc phát triển ý ở người phát và
tiếp nhận thông tin ở người nhận.
- Việc mã hóa có thể bị lỗi do việc sử dụng các ký hiệu không rõ ràng,
hoặc hai bên không sử dụng chung một mã ngôn ngữ, không cùng trình độ…
- Các kênh truyền thông hoạt động kém hiệu quả, như bưu điện bị ách
tắc thư từ, điện thoại bị trục trặc…
- Sự không tập trung chú ý trong quá trình tiếp nhận thông tin.
- Sự nhận định vội vã, tức là khi một người mới nghe một phần thông
điệp đã vội rút ra kết luận mà không chịu nghe tiếp.
- Các định kiến, thành kiến có thể gây cản trở sự hiểu biết thông tin…
b. Hoàn thiện quá trình truyền thông giữa các cá nhân
Truyền thông có hiệu quả phụ thuộc vào chất lượng của các khâu
trong quá trình truyền thông. Muốn thông tin được truyền và nhận có hiệu
quả, trước hết cần hoàn thiện ở các khâu phát và nhận:
1) Yêu cầu đối với người phát:
Muốn truyền thông có hiệu quả, trước hết người phát phải nhằm vào
các vấn đề nằm trong những chữ huyền diệu sau đây:
- Cái gì (What)?
- Tại sao (why)?
- Với ai (Who)?
- Bao giờ (When)?
- Tại đâu (Where)?
- Bằng cách nào?, như thế nào (How)?
Chúng ta truyền những cái gì và tại sao phải truyền thông tin đó. Đối
tượng giao tiếp với mình là ai (về trình độ hiểu biết, văn hóa, tuổi tác, địa
vị…): Lúc nào thì bắt đầu truyền tin. Truyền thông đến những nơi nào, tại đâu
và truyền thông được hình thức nào, bằng cách nào cho hiệu quả Nếu những
vấn đề trên chưa được xác định rõ ràng và đầy đủ thì việc truyền thông sẽ
không hiệu quả, đối tượng sẽ không nhận được đúng ý.
Khi truyền thông cần phải tìm hiểu kỹ về nhu cầu quyền lợi trình độ của
người nhận. Không nghiên cứu kỹ 3 yếu tố này, việc truyền thông sẽ không
cần thiết, không thỏa mãn đối tượng và đối tượng sẽ không hiểu rõ những
điều ta muốn truyền cho họ.
Ngoài ra thông tin truyền đi phải rõ ràng, dứt khoát, dễ hiểu. Phải tạo
được trạng thái tâm lý thoải mái, hào hứng ở đối tượng nhận tin. Lặp lại thông
tin đã truyền bằng các cách khác nhau.
Song song với việc truyền tin, người phát cũng phải lượng giá được sự
truyền thông bằng cách theo dõi những phản hồi từ đối tượng. Nếu truyền
thông trực tiếp thì phản hồi được thể hiện qua lời nói, ánh mắt, cử chỉ, sắc
diện. Nếu truyền thông gián tiếp thì phản hồi được thu thập qua các cấp trung
gian, những thư phúc đáp, khiếu nại, những sự chấp hành của họ.
2) Yêu cầu đối với người nhận:
Trong giao tiếp điều quan trọng là biết nghe hơn là biết nói, phải biết
tiếp nhận những gì đối tác đang nói để phản ứng cho đúng đắn.
Khi nhận tin chúng ta cũng nên áp dụng những vấn đề trong 6 chữ
huyền diệu:
- Cái gì (What) (họ đang nói cái gì? vấn đề gì?).
- Tại sao họ nói (Why) (vì những nhu cầu, quyền lợi, động cơ thúc đẩy
nào?).
- Ai, người nào (Who) (đối tượng giao tiếp là ai, thành phần, giai cấp,
địa vị…).
- Bao giờ, lúc nào (When) (họ nêu ý kiến, khiếu nại, phản đối, xây dựng
ngay khi nhận tin hay sau đó bao lâu, để đo lường mức độ quan trọng của
phản ứng).
- Nơi nào, ở đâu (Where) (Phản ứng của họ phát xuất ở đâu họ nói ở
đâu?)
- Bằng cách nào (How) (họ phản ứng bằng cách nào, hình thức nào,
phương cách nào?).
Trong tiếp nhận thông tin cũng phải tìm hiểu kỹ thái độ tình cảm của đối
tượng. Phải đặt mình vào vị trí của họ để tìm hiểu xem họ nói với thái độ như
thế nào, xây dựng hay đả phá; tình cảm của họ ra sao, có tha thiết với vấn đề
hay không, hay chỉ nêu ra như là “câu chuyện làm quà".
Ngoài ra cần phải gạt bỏ những mặc cảm, thành kiến, cố tìm những lẽ
phải của đối tượng. Muốn thế khi nghe cũng cần phải làm chủ và kiềm chế
cảm xúc của mình, vì cảm xúc thường làm cho ta tiếp nhận sai lệch thông tin.
Ngoài những yêu cầu đối với người phát và người nhận ra, thì muốn
thông tin có hiệu quả cũng cần chú ý tới chất lượng các kênh truyền thông và
khử các yếu tố gây nhiễu.
2. Truyền thông trong tổ chức
a. Khái niệm về tổ chức
Trong cuộc sống xã hội để đạt tới bất kỳ một mục đích lớn nhỏ não con
người thường phải liên kết nhau thành một tổ chức Tổ chức là những hệ
thống phức: hợp phối hợp hành động của các bộ phận phụ thuộc để đạt
những mục tiêu nhất định. Trong một tổ chức các bộ phận luôn tác động ảnh
hường lẫn nhau và tạo ra một thể thống nhất. Mỗi bộ phận của tổ chức thực
hiện những chức năng, nhiệm vụ nhất định giúp tổ chức đạt tới mục tiêu của
mình.
Để đạt tới mục tiêu của mình tổ chức thực hiện sự phân công nhiệm vụ
và chức năng cho các thành viên dưới sự lãnh đạo bởi một cơ cấu phân cấp
quyền hạn và trách nhiệm.
Trong tổ chức thường có hai loại cơ cấu: cơ cấu chính thức và cơ cấu
không chính thức. Cơ cấu chính thức tập hợp tất cả các mối quan hệ chính
thức, được xã hội và tổ chức công nhận và tuân theo bằng các văn bản chính
thức, bao gồm: hệ thống tổ chức (có bao nhiêu phòng ban, bao nhiêu bộ
phận), bộ máy quản lý, các thối quan hệ giữa các phòng ban: Sự phối hợp
giữa các phòng ban để đạt tới mục tiêu của tổ chức đòi hỏi truyền thông có
hiệu quả.
Cơ cấu không chính thức tập hợp tất cả các mối quan hệ không chính
thức, tức là những mối quan hệ có tính chất riêng tư, tâm lý tình cảm với nhau
giữa các thành viên. Những biểu hiện của cơ cấu không chính thức đó là: sự
hình thành các nhóm nhỏ không chính thức, sự hình thành thủ lĩnh, hình
thành các lực lượng… Các cơ cấu không chính thức không có quyền hạn
chính thức, nhưng cũng có thể có ảnh hưởng và sức mạnh rất lớn trong tổ
chức xuất phát từ sự công nhận của người xung quanh về năng lực, nhân
cách, hay xuất phát từ mạng lưới giao tiếp rộng rãi.
b. Mạng thông tin
Các nghiên cứu về mạng truyền thông được bắt đầu từ giữa những
năm 1940 từ những nghiên cứu về các nhóm nhỏ. Các mạng lưới truyền
thông mô tả cấu trúc của nhóm. Có năm loại mạng khác nhau được nghiên
cứu nhiều nhất là:
Hình 2. Mạng truyền thông
- Mạng hình sao: Một người đóng vai trò trưởng nhóm và giao tiếp với
tất cả các thành viên còn lại, nhưng các thành viên khác không thể giao tiếp
với nhau và chỉ giao tiếp với trưởng nhóm.
Mang phan nhomMang dan cheo
Mang day chuyenMang vong tronMang hinh sao
- Mạng lưới vòng tròn: Mỗi thành viên có thể giao tiếp với hai người gần
mình.
- Mạng dây chuyền: Trưởng nhóm chỉ có thể giao tiếp với một người
gần mình nhất.
- Mạng đan chéo: Tất cả các thành viên đều giao tiếp được với nhau.
- Mạng phân nhóm: các thành viên trong nhóm phân chia bè phái làm
cho sức mạnh của nhóm giảm xuống.
Vậy mạng nào tốt nhất? và trong điều kiện nào?
* Xét về tốc độ truyền thông và khả năng quản lý thì hình sao là tốt
nhất, vì người giữ vị trí trung tâm trở thành người lãnh đạo có nhiệm vụ thu
thập các thông tin từ những thành viên khác, giải quyết vấn đề, và thông báo
cho các thành viên về giải pháp. Và nó cũng hiệu quả trong trường hợp thực
hiện những công việc ngắn hạn và thu thập những thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau. Tuy nhiên mức độ thỏa mãn công việc không cao ở các thành
viên, và không đáp ứng nhu cầu về hiểu biết nhau trong nhóm. Với mạng
vòng tròn thông tin được truyền đi chậm nhất và dễ bị sai lệch nhất vì thông
điệp được truyền qua nhiều đối tượng.
* Mạng đan chéo phù hợp cho các cuộc thảo luận nhóm và các công
việc có tính chất tập thể, phức tạp lâu dài. Tuy nhiên sự phân tán trong lãnh
đạo trở nên cao hơn.
* Mạng nào tạo ra nhiều mối quan hệ sẽ đưa lại sự thỏa mãn cao hơn ở
các thành viên.
c. Luồng thông tin
Luồng thông tin xác định ai giao tiếp, thông tin với ai? Trong một tổ
chức có những quy định về việc truyền thông. Những ai không nắm được
những quy định về hệ thống truyền thông trong nội bộ tổ chức sẽ có thể gặp
những rắc rối. Ví dụ, bạn muốn trình một đơn khiếu nại lên giám đốc mà
không thông qua cấp trên trực tiếp. Không những đơn này sẽ không được
xem xét mà bạn có thể bị ông trưởng phòng cho là bạn đã “qua mặt” và sẽ
gây phiền hà cho bạn.
+ Truyền thông từ trên xuống: Là thông tin từ cấp trên tới cấp dưới. Ví
dụ: các mệnh lệnh, các chỉ dẫn thực hiện nhiệm vụ, ban hành các thủ tục làm
việc, giải thích các mục tiêu của tổ chức, sự phản hồi về việc thực hiện nhiệm
vụ của cấp dưới. Thông tin từ trên xuống không đi thằng từ cấp lãnh đạo cao
nhất tới cấp thấp nhất mà qua các thứ bậc trung gian. Các nghiên cứu chỉ ra
rằng đến gần 80% thông tin bị rơi rớt hay sai lệch trong quá trình chuyển qua
5 cấp của tổ chức.
+ Truyền thông từ dưới lên: Là những phản hồi về các hoạt động của tổ
chức được thực hiện như thế nào. Thường là các bản báo cáo, thư góp ý,
họp nhóm và những lời kêu ca phàn nàn. Thông tin từ dưới lên cũng phải
thông qua cấp lãnh đạo trực tiếp rồi mới tới cấp lãnh đạo cao hơn. Loại thông
tin này cũng có thể bị bóp méo bởi những cấp lãnh đạo trung gian, do họ có
thể lược bớt những chi tiết không có lợi cho họ.
+ Thông tin theo chiều ngang: là thông tin giữa những người cùng cấp,
giữa các đồng sự trong cùng một phòng ban hay xuyên qua phòng ban trong
tổ chức. Thông tin theo chiều ngang tạo ra những mối quan hệ giữa những
người thuộc cấp các bộ phận rất cần thiết cho hoạt động của tổ chức. Trong
quá trình hoạt động mọi người giao tiếp với nhau làm cho sự hiểu biết lẫn
nhau tăng lên, có sự gắn bó về mặt tình cảm tạo động lực cho tổ chức đạt tới
mục tiêu của mình.
Đại đa số thông tin theo chiều ngang là thông tin không chính thức, tức
là thông tin được hình thành từ những quan hệ không chính thức. Thông tin
không chính thức có những đặc điểm sau:
- Thông tin phi chính thức là tất yếu trong tổ chức và không thể loại trừ
thông tin phi chính thức.
- Thông tin được truyền thông qua kênh không chính thức có tốc độ
nhanh hơn được truyền qua kênh chính thức.
- Trong những tình huống thông tin bị kiểm duyệt và bị lọc thông tin phi
chính thức trở nên có sức thuyết phục hơn thông tin chính thức bởi tính tự
nhiên của nó.
- Thông tin phi chính thức thường dễ bị bóp méo, thêm thắt, thuộc kiểu
“gửi quà thì bớt, gửi lời thì thêm” làm nhiễu thông tin chính thức.
Các kênh giao tiếp không chính thức góp phần tạo nên các nhóm
không chính thức và giúp phát hiện ra các thủ lĩnh mà chúng ta không thể
phát hiện qua sơ đồ tổ chức chính thức: Trong hoạt động của mình, các nhà
quản trị cũng thường sử dụng những kênh truyền thông không chính thức để
bổ sung, hỗ trợ cho thông tin chính thức.
d. Hoàn thiện truyền thông trong tổ chức
Truyền thông được coi là mạch máu của một tổ chức, nó gắn những bộ
phận phụ thuộc của tổ chức lại với nhau thành một thể thống nhất. Truyền
thông có hiệu quả trong cơ cấu chính thức lẫn cơ cấu không chính thức, ở
mọi cấp sẽ làm tăng năng suất và tạo sự thỏa mãn cho mọi thành viên. Để
hoàn thiện quá trình truyền thông thì mỗi cá nhân cần tuân theo những
nguyên tắc đã được đề ra ở phần trên.
Tuy nhiên, đứng về phương diện của một tổ chức, để sau đảm bảo
hiệu quả truyền thông cần chú ý tới các nguyên tắc
+ Mô tả công việc rõ ràng
Trong một tổ chức thường những rắc rối xảy ra khi thiếu rõ ràng trong
việc giao nhiệm vụ, có khi công việc của hai hay nhiều người trùng lặp nhau.
Có khi cấp trên đòi hỏi quá nhiều hoặc có người phải lãnh đủ thứ tạp vụ. Vì
thế để giao tiếp trong tổ chức được trôi chảy cần phải có văn bản mô tả công
việc, trong đó nêu rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ của các thành viên, của các bộ
phận. Bản mô tả công việc này có thể được điều chỉnh theo nhu cầu công tác
nhưng nhất thiết phải có văn bản, tránh việc chỉ thỏa thuận miệng với nhau.
+ Kết hợp nhiều kênh truyền thông
Để giảm bớt tình trạng “tam sao, thất bổn", khi truyền thông trong tổ
chức nên kết hợp các kênh khác nhau. Trong những trường hợp khẩn cấp có
thể áp dụng các kênh như, nhắn miệng, điện thoại, nhắn tin. Tuy nhiên, sau
đó cũng có thể phải truyền tiếp bằng văn bản để nhắc lại và để tiện việc lưu
giữ, truy cứu lúc cần.
+ Tránh sự quá tải thông tin
Khi người nhận được gửi quá nhiều thông tin vượt quá khả năng kiểm
soát họ sẽ cảm thấy quá tải thông tin. Nhà quản trị cần nhớ rằng, quá nhiều
thông tin gây bảo hòa và như thế có thể có những thông tin quan trọng không
được tiếp nhận và xử lý kịp thời. Nhà quản trị nên biết sắp xếp thông tin theo
thứ tự ưu tiên, thông tin nào nên truyền đi ở thời điểm nào. Trong một thông
báo không nên chứa đựng quá nhiều nội dung, và nội dung không nên quá
phức tạp làm cho nhân viên khó hiểu. Có khi phải chia ra thành từng phần và
thông tin trong nhiều lần khác nhau.
+ Cần có sự bình đẳng trong thông tin
Trong một tổ chức cần có sự cởi mở về thông tin. Trừ những bí mật
kinh tế, bí quyết kinh doanh, hay một tin tức mà khi tiết lộ sẽ gây tác hại lớn
cho tổ chức, càng thông tin rộng rãi càng tốt. Mỗi khi nhân viên biết tối đa thì
họ mới gắn bó tối đa với cơ quan, với tổ chức. Giấu thông tin khi không cần
thiết hay xem thông tin như một đặc ân, hoặc để củng cố quyền lực sẽ không
có lợi, vì điều này càng gây thêm sự tò mò, bàn tán, thêm thắt, có khi biến
thành những tin đồn gây tác hại cho tổ chức. Hơn nữa trong thời buổi bùng
nổ thông tin này khó lòng mà giữ kín thông tin, có khi nhân viên họ biết được
những điều mà cấp trên dấu diếm thông qua các phương tiện truyền thông
đại chúng.
Các nhà quản trị cần khuyến khích nhiều thông tin từ dưới lên càng tốt,
vì qua đó nắm được những nhu cầu, nguyện vọng, tâm tư và cả những khó
khăn trong công việc của cấp dưới để kịp thời đáp ứng và giải quyết. Muốn
vậy cần phải biết lắng nghe và có thái độ chấp nhận sự phản hồi như việc
bình thường. Nhà quản trị cần có cơ chế tạo điều kiện cho thông tin từ dưới
lên được lưu thông, như tổ chức các buổi góp ý, hộp thư…
Nói chung, truyền thông trong tổ chức cảng hiệu quả thì hoạt động của
cơ quan xí nghiệp càng thuận lợi. Thông tin càng rộng rãi, càng cởi mở, thuộc
cấp càng thỏa mãn, hài lòng thúc đẩy hoạt động của tổ chức mau chóng đạt
mục tiêu của mình.
3. Các phương tiện giao tiếp
Trong quá trình giao tiếp chúng ta phái sử đụng những phương tiện
giao tiếp. Phương tiện giao tiếp là tất cả những yếu tố mà chúng ta dùng để
thể hiện thái độ, tình cảm, mối quan hệ và những tâm lý khác của mình trong
một cuộc giao tiếp.
Phương tiện giao tiếp hết sức phong phú và đa dạng, nhưng chúng ta
có thể chia chúng ra thành hai nhóm chính: ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Giao
tiếp ngôn ngữ và giao tiếp phi ngôn ngữ ít khi tách rời nhau, mà thường bổ
sung cho nhau. Trong các mối quan hệ tương đối gần gũi, thân thiết, giao tiếp
phi ngôn ngữ chiếm ưu thế hơn, còn trong các mối quan hệ ít nhiều có tính
chất xã giao thì nó làm nền cho giao tiếp ngôn ngữ.
a. Phương tiện giao tiếp ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Bằng ngôn
ngữ, con người có thể truyền đi bất cứ một loại thông tin nào, như diễn tả tình
cảm, ám chỉ, miêu tả sự vật ở phương tiện này, sự giao tiếp thường dựa vào
những yếu tố sau đây:
+ Nội dung ngôn ngữ:
Tức ý nghĩa của lời nói, của từ. Ở đây chúng ta cần lưu ý đến vai trò
của ý cá nhân của ngôn ngữ trong giao tiếp. Một từ hay một tập hợp từ đều
có một hay vài ý nghĩa nhất định. ý nghĩa của ngôn ngữ có hai hình thức tồn
tại: khách quan và chủ quan. Khách quan bởi nó không phụ thuộc vào sở
thích, ý muốn của một cá nhân nào. Chẳng hạn, không ai dùng từ “cái tủ” để
chỉ “cái cây” và ngược lại. Tính chủ quan thể hiện ở chỗ, có những từ vô
thưởng vô phạt, nhưng trong quá trình sử dụng gây ra những phản ứng,
những cảm xúc tích cực hay tiêu cực nào đó. Đây chính là ý cá nhân của
ngôn ngữ. Ví dụ: từ “ma túy” đối với người nghiện hút không gợi lên cảm giác
tiêu cực như ở những người chay tịnh, ngăn nắp.
Ngay trong một nhóm người, đôi khi cũng có những quy định ý nghĩa
riêng cho một số tập hợp từ. Tiếng “lóng” là một ví dụ. Mỗi cá nhân, mỗi nhóm
người từ cộng đồng địa phương đến đẳng cấp dân tộc đều có những sắc thái
riêng trong cách sử dụng ngôn ngữ. Hiểu được ý cá nhân là cơ sở tạo nên sự
đồng điệu trong giao tiếp, còn được gọi là khả năng đồng cảm.
+ Tính chất của ngôn ngữ:
Trong giao tiếp những tính chất của ngôn ngữ như nhịp điệu, âm điệu,
ngữ điệu… cũng đóng vai trò rất quan trọng. Có người mới trông vào “cái gì
coi cũng được", nhưng khi họ thốt ra những tiếng chát chúa hay the thé làm
cho ta “cụt hứng” ngay. Cũng có người nhờ tiếng nói ấm áp, dịu dàng, quyến
rũ làm cho người nghe cảm tình ngay, mặc dù dung mạo không lấy gì làm khả
ái.
Trong khi nói, chúng ta cần chú ý tới giọng điệu, ngữ điệu. Lời nói có
được rõ ràng, khúc chiết hay không, phụ thuộc nhiều vào cách nhấn giọng.
Nhờ cách nhấn giọng người nói có thể làm cho người nghe chú ý đến những
lời nói của mình. Muốn nhấn giọng cho đúng phải hiểu rõ mình nói những gì
và suy nghĩ, đắn đo từng lời một Biết nhấn mạnh những lời quan trọng và để
những lời nói phụ lướt nhẹ đi.
Hai yếu tố khác có thể thay đổi ý nghĩa của lời nói là cách uốn giọng và
ngữ điệu. Trong lúc nói phải có lúc lên giọng, xuống giọng, lúc nhặt, lúc
khoan, lúc nói nhẹ, lúc gằn từng tiếng thì lời nói mới nổi bật lên. Trước và sau
khi nói ra những lời quan trọng phải ngừng một lúc, để cho người nghe chú ý.
+ Điệu bộ khi nói:
Điệu bộ là những cử chỉ của tay chân và vẻ mặt. Có khi vừa nói vừa
chỉ, vừa nói vừa nhìn chằm chằm, vừa nói vừa liếc, vừa vuốt ve, âu yếm…
Thường điệu bộ phụ họa theo lời nói để giúp thêm ý nghĩa cho nó. Tuy nhiên
việc sử dụng điệu bộ khi nói cũng phải phù hợp với phong tục, tập quán, nền
văn hóa. Những cử chỉ, điệu bộ tự nhiên là đáng yêu nhất, đừng gò ép mình
bằng cách bắt chước điệu bộ của người này hay người khác.
b. Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ
Trong giao tiếp chỉ một tỷ lệ những điều hiểu nhau mà chúng ta có
được là nhờ nghe qua lời nói. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, trong giao tiếp
tác động của từ ngữ chỉ chiếm từ 30-40 phần trăm, phần còn lại là do cách
diễn đạt bằng cơ thể, hoặc là giao tiếp không lời qua vẻ mặt, động tác dáng
điệu và các tín hiệu khác. Việc nghiên cứu phương tiện phi ngôn ngữ là hết
sức quan trọng, giúp chúng ta trở nên nhạy cảm hơn trong giao tiếp.
+ Nét mặt:
Trong giao tiếp nét mặt biểu lộ thái độ, cảm xúc của con người. Các
công trình nghiên cứu thống nhất rằng nét mặt của con người biểu lộ sáu cảm
xúc: Vui mừng, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, tức giận và ghê tởm. Ngoài tính
biểu cảm, nét mặt còn cho ta biết ít nhiều về cá tính con người. Người có nét
mặt căng thẳng thường là người dứt khoát trực tính; người có nét mặt mềm
mại ở vùng miệng thì hòa nhã, thân mật, biết vui đùa và dễ thích nghi trong
giao tiếp.
Nhướng mày thường là dấu hiệu cho biết người ta không hiểu và muốn
lặp lại thông tin: Đôi khi nó chỉ sự không tin tường mấy. Nhăn trán, cau mày là
dấu hiệu phổ biến của sự lúng túng và sự lo lắng, và đôi khi là biểu hiện của
sự giận dữ.
+ Nụ cười:
Trong giao tiếp người ta có thể dùng nụ cười để biểu lộ tình cảm, thái
độ của mình. Con người có bao nhiêu kiểu cười thì có bấy nhiêu cá tính. Có
cái cười tươi tắn, hồn nhiên, đôn hậu, có cái cười chua chát, miễn cưỡng,
đanh ác, có cái cười đồng tình, thông cảm, nhưng cũng có cái cười chế giễu,
cười khinh bỉ v.v… Mỗi điệu cười đều biểu hiện một thái độ nào đó, cho nên
trong giao tiếp, chúng ta phải tinh nhạy quan sát nụ cười của đối tượng giao
tiếp để biết được lòng dạ của họ.
+ Ánh mắt:
Dân gian có câu đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, bởi lẽ cặp mắt là điểm khởi
đầu cho tất cả mọi nghiên cứu, quan sát tìm hiểu, qua ánh mắt con người có
thể nói lên rất nhiều thứ ánh mắt phản ánh trạng thái cảm xúc, bộc lộ tình
cảm, tâm trạng và ước nguyện của con người ra bên ngoài.
Trong giao tiếp ánh mắt còn đóng vai trò “đồng bộ hóa” câu chuyện,
biểu hiện sự chú ý, tôn trọng, sự đồng tình hay là phản đối. Ánh mắt trong
giao tiếp cũng phụ thuộc vào vị trí xã hội của mỗi bên. Người có địa vị xã hội
cao hơn (hay tự cho mình là có vai trò cao hơn) thường nhìn vào mắt của
người kia nhiều hơn, kể cả khi nói lẫn khi nghe.
Ánh mắt của một người còn phản ánh cá tính của người đó: Người có
óc thực tế thường có cái nhìn lạnh lùng, người ngay thẳng nhân hậu có cái
nhìn thẳng và trực diện, người nham hiểm đa nghi có cái nhìn xoi mói, lục
lọi…
+ Các cử chỉ:
Các cử chỉ gồm các chuyển động của đầu (gật đầu, lắc đầu,…), của
bàn tay (vẫy, chào, khua tay), của cánh tay… Vận động của chúng có ý nghĩa
nhất định trong giao tiếp. Thật vậy, chuyển động của đầu có thể là “đồng ý”
hay “không đồng ý", của bàn tay là lời mời, sự từ chối, chống đối hay van xin,
…
Người ta cũng có thể dùng cử chỉ để điều khiển cuộc giao tiếp chẳng
hạn như một số vận động của tay và đầu có ý nhắc người đối thoại nói nhanh,
chậm, dừng lại hay giải thích thêm.
Mũi cũng là phương tiện truyền thông, bởi vì khi nhìn người khác với
cái vẻ coi khinh người ta thường nhìn xuống mũi của mình. Khi động tác này
đi kèm theo một cái hít vào khinh khỉnh thì thái độ phủ nhận lại cũng được gia
tăng.
Ngoài cái cử chỉ le lưỡi thiếu tôn kính ra, lưỡi cũng được dùng trong
truyền thông không chủ định. Chúng ta liếm môi khi chúng ta căng thẳng hoặc
đứng trước một điều gì kích động, và chúng ta lúng búng lưỡi trong miệng khi
chúng ta nói một điều gì mà chúng ta không thực sự muốn nói hoặc không tin
tưởng cho lắm.
Một cái cằm hích lên thường biểu hiện thái độ gây gổ. Khi buồn chán
người ta thường chống cằm bằng cả bàn tay. Việc vuốt cầm thường cho thấy
rằng người ta đang suy nghĩ cân nhắc gì đó và đang chuẩn bị đưa ra một
quyết định.
Thường thường cử chỉ của bàn tay cũng nói lên nhiều điều. Các ngón
tay chúm lại thành hình tháp chuông chống dưới cắm chứng tỏ sự nghi ngờ.
Đưa bàn tay lên mũi biểu lộ sự sợ hãi. Đưa bàn tay lên môi chứng tỏ có sự
xấu hổ.Khi ngồi mà hai bàn tay để mở lủng lẳng giữa hai chân chứng tỏ đang
thất vọng.
Vị trí của đôi bàn chân khi đứng hay khi ngồi nói chuyện sẽ cho chúng
ta biết đối tượng đang có thái độ, trạng thái như thế nào. Nếu hai đôi bàn
chân hướng vào nhau, tức là hai người không muốn sự tham gia của người
thứ ba. Khi đôi bàn chân đặt chếch nhau, hoặc hay hơn nữa, có một bàn chân
hướng về phía bạn, thì bạn hãy tự tin rằng mình đã được chấp nhận tham gia
câu chuyện. Trong một đám đông nói chuyện với nhau, thường chúng ta
hướng bàn chân tới người mà mình có cảm tình hơn. Khi đang đứng nói
chuyện với bạn mà hai bàn chân của đối tượng quay về phía cửa, thì chứng
tỏ anh ta đang rất vội muốn đi.
+ Tư thế:
Tư thế cũng là một trong các phương tiện giao tiếp. Nó có liên quan
mật thiết với vai trò, vị trí xã hội của cá nhân. Thường thường, một cách vô
thức nó bộc lộ cương vị xã hội mà cá nhân đang đảm nhận. Ví dụ, tư thế ngồi
thoải mái, đầu hơi ngả ra phía sau là tư thế của bề trên, của lãnh đạo. Tư thế
ngồi hơi cúi đầu về phía trước tựa hồ lắng nghe là tư thế của cấp dưới.
Tư thế có vai trò biểu cảm, có thể nhìn thấy qua tư thế trạng thái tinh
thần thoải mái hay căng thẳng. Những tư thế để “mở” tay và chân tựa như tạo
điều kiện để tiếp cận, gần gũi cho người đối thoại, phản ánh một thái độ cởi
mở, hòa hợp.
+ Diện mạo:
Là những đặc điểm tự nhiên, ít thay đổi được như tạng người (cao hay
thấp, mập hay ốm, mặt vuông hay dài, môi mỏng hay môi dày…), sắc da
(trắng hay đen, xanh xao, vàng vọt hay “ngăm ngăm"…), và những đặc điểm
thay đổi được như tóc, râu, trang điểm, trang sức, trang phục v.v.
Diện mạo có thể gây ấn tượng rất mạnh, nhất là lần đầu tiên. Ví dụ, đàn
ông cao ráo, có vẻ mạnh khỏe, sẽ gây ấn tượng tốt hơn là người thấp bé hay
gầy đét; một người “tốt tướng” thường được mọi người tôn trọng từ cái nhìn
đầu tiên.
Cách trang sức cũng nói lên nhiều cá tính, văn hóa, nghề nghiệp của
một cá nhân. Cách ăn mặc cũng giúp chúng ta đoán được trạng thái tình cảm
và các phẩm chất tâm lý của một người. Người mặc quần áo rực rỡ thường
có tâm trạng vui vẻ, sảng khoái. Người luôn mặc quần áo sáng màu là những
người thích giao du, hướng ngoại.
Cách ăn mặc cũng phản ánh nghề nghiệp, địa vị, lứa tuổi. Các nghề có
đồng phục đặc biệt biểu hiện quyền lực, vị trí xã hội: Ví dụ, đồng phục không
quân, hải quân thường gây ấn tượng mạnh đối với giới trẻ. Trên doanh
trường, vet-tông, cà-vạt là mẫu mực.
+ Không gian giao tiếp:
Không gian giao tiếp cũng là một phương tiện để bộc lộ mối quan hệ,
tình cảm giữa các bạn với nhau. Về cơ bản chúng ta thường xích lại gần
những người mà chúng ta thích và tin tưởng, nhưng lại tránh xa những người
chúng ta sợ hoặc không có cảm tình.
Thông thường người ta chia ra thành 4 vùng xung quanh mỗi cá nhân:
* Vùng mật thiết (0 - 0,5 mét): Vùng này chỉ tồn tại khi có mối quan hệ
thân tình với người khác hoặc khi hai người đang đánh nhau. Lúc này xúc
giác và khứu giác là phương tiện truyền thông quan trọng. Lời nói có thể chỉ
thì thầm.
* Vùng riêng tư (0,5 - 1,5 mét): Hai người phải rất quen nhau đến mức
thấy thoải mái, mặc dù họ chưa đến mức mật thiết.
* Vùng xã giao (1,5 - 3,5 mét): Đây là vùng tiến hành phần lớn các hoạt
động kinh doanh, vì nó hợp với mối quan hệ phi riêng tư, ví dụ giao tiếp giữa
người bán hàng với khách hàng. Thông thường các sếp cũng giữ khoảng
cách này khi nói chuyện với nhân viên.
* Vùng công cộng (>3,5 mét): Là phạm vi tiếp xúc với những người xa
lạ vì mục đích công việc, là phạm vi được các chính khách nhà nước ưa
thích.
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi chúng ta đều cảm nhận và tuân theo
những khoảng cách nói trên với đối tượng giao tiếp một cách chính xác theo
bản năng. Người xin việc thận trọng và hay e ngại khi phải gặp người xét
tuyển chọn mình, thậm chí có thể bất giác kéo ghế hơi lùi về phía sau trước
khi ngồi xuống. Nếu buổi tiếp xúc và cách thức tiếp xúc gây được niềm tin, thì
xu thế sẽ là nhích dần về phía người phỏng vấn. Người phỏng vấn nếu tinh ý
sẽ không đưa ra những câu hỏi có vẻ đe dọa cho đến khi ứng viên bắt đầu
đưa ra được vài tín hiệu nhỏ chứng tỏ đã có sự tin cậy và sự giải bày tâm sự,
như là: các kiểu tư thế xích gần về phía người phỏng vấn chứ không phải là
lùi lại của ứng viên.
Việc sắp xếp chỗ ngồi cũng phản ánh mối quan hệ, tương tác giữa hai
bên. Nếu có một cái bàn và chỉ có hai người thì có nhiều cách để họ ngồi với
nhau, như những hình vẽ sau đây (hình 3.).
Vị trí góc (hình A): Cách ngồi thế này rất thuận lợi cho những cuộc nói
chuyện tế nhị và lịch sự, cho phép hai người có thể nhìn vào mặt nhau và
cũng có thể không nhìn vào mặt nhau nếu cần. Góc bàn có tác dụng như một
chướng ngại vật cho mỗi bên, nhưng cũng có thể có ích khiến cho đối tượng
yên tâm không dè dặt khi. nói chuyện. Cách ngồi này phù hợp cho những
cuộc gặp riêng để tư vấn, khuyên bảo về các vấn đề tế nhị. Một sắp xếp hợp
tác hơn có thể được hình thành nếu một trong hai người di chuyển vị trí.
Hình 3. Vị trí xung quanh bàn
Vị trí hợp tác (hình B): - Vị trí ngồi bên cạnh nhau nhưng không nhìn
thẳng mặt nhau không cho phép quan sát tất cả những dấu hiệu phi ngôn ngữ
(hình B1). Khi đối tượng đã quyết định ngồi bên tay trái bạn tức là họ đã ít
nhiều có lòng tin nơi bạn. Bạn và đối tượng này đã thống nhất ý kiến với
nhau.Ở những điểm cơ bản, chỉ cần trao đổi thêm về các chi tiết của sự hợp
tác. Có điều bạn cần chú ý, đừng có nài ép người ta quá, đối tượng sẽ cảm
thấy bị lép vế, vào khi bạn không ngờ nhất sẽ trở mặt chống lại bạn.
- Hai ghế hơi quay về phía nhau, cách sắp xếp này thì không đúng
nghi thức lắm (hình B2).
Hinh DHinh C
Hinh B3Hinh B2
Hinh B1Hinh A
- Vị trí hoàn toàn hợp tác. Bàn chỉ có tác dụng như một chỗ thuận tiện
để đặt giấy tờ. Cách sắp sếp này cho thấy cư xử sự “trực diện” (hình B3).
Vị trí cạnh tranh (hình C): Đây là một vị trí khi chơi cờ có tính cạnh
tranh thường thấy trong phòng khách. Chiếc bàn có tác dụng như một
chướng ngại phòng thủ. Kiểu sắp sếp “bên ta, bên họ” này phù hợp với
những cuộc thương lượng giữa ban giám đốc với đại diện của công nhân.
Vị trí độc lập (hình D): Một sắp xếp không để đối thoại, khi chọn vị trí
này là đối tượng không muốn nói chuyện với bạn, thường là người ta không
ưa gì bạn. Bố trí chỗ ngồi kiểu này thường phù hợp với những công việc độc
lập như trong thư viện hay phòng biên tập.
+ Những hành vi giao tiếp đặc biệt
Đó là động tác ôm hôn, vỗ vai, xoa đầu, khoác tay, bắt tay… Những
phương tiện này gọi là đặc biệt vì trong những mối quan hệ đặc biệt ta mới sử
đụng chúng. Chẳng hạn, không phải gặp ai ta cũng có thể ôm hôn được; hoặc
ở ta, người lớn xoa đầu trẻ con chứ không được phép ngược lại.
Những cái bắt tay cũng nói lên cá tính và thái độ của hai người đối với
nhau: cái bắt tay mạnh mẽ, khô ráo chứng tỏ con người có cá tính mạnh và
nhân cách đáng tin; còn cái bắt tay ẻo lả, ướt át thuộc về con người yếu đuối
và đáng ngờ. Trong khi bắt tay, nếu đối phương kéo tay bạn vào sát người họ
chứng tỏ đó là người thiếu tự tin. Nếu khi bắt tay, đối phương đưa tay kia
nắm vai bạn lúc đó có hai trường hợp xảy ra: nếu đối phương hơi kéo bạn về
phía mình thì chứng tỏ bạn đã chiếm được cảm tình của anh ta, còn nếu anh
ta giữa bạn ở cách xa anh ta một khoảng nhất định thì có nghĩa là một việc sẽ
hết sức tốt đẹp nếu anh nghe lời tôi.
+ Đồ vật
Khi giao tiếp, người ta cũng hay dùng những đồ vật nhất định như: bưu
ảnh, bưu thiếp, hình, tặng hoa, tặng quà, đồ lưu niệm v.v… Tất cả những cái
đó cũng đều có ý nghĩa trong việc thiết lập mối quan hệ, biểu hiện tình cảm,
thái độ giữa những người giao tiếp với nhau.
Để gây tình cảm và những ấn tượng tốt đẹp ở nhân viên, công ty cũng
cần tặng quà cho nhân viên và gia đình họ vào những dịp lễ, tết. Cũng cần
phải tặng quả, gửi bưu thiếp chúc mừng những đối tác làm ăn với mình,
những nơi mà mình có các quan hệ khác, vào những dịp cần thiết, và thường
là tặng những sản phẩm của công ty mình để kết hợp mục đích quảng cáo,
giới thiệu sản phẩm.
Ở trên chúng ta đã tìm hiểu một số phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ.
Cần chú ý rằng phấn lớn việc sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ chịu
ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố văn hóa, đặc điểm dân tộc, phong tục, tập
quán. Chẳng hạn, đối với người Bungary và Thổ Nhĩ Kỳ lắc đầu là tỏ vẻ đồng
ý, còn ở Việt Nam thì ngược lại. Những người A rập, Mỹ latinh, Nam âu
thường đứng gần nhau và dừng ánh mắt nhiều hơn khi nói chuyện. Nhưng
ngược lại, những người Ân Độ, Pakixtan, Nhật Bản, Bắc Âu, thường đứng
cách nhau xa hơn và ít đụng chạm, ít nhìn thẳng vào mắt nhau hơn khi nói
chuyện.
II. GIAO TIẾP LÀ QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC LẪN NHAUTrong giao tiếp các bên không chỉ truyền thông tin cho nhau, mà còn
nhận thức, tìm hiểu lẫn nhau. Nhận thức là cơ sở làm nảy sinh ra tình cảm,
sự gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau. Nhận thức có đúng đắn, sâu sắc thì tình
cảm mới ổn định và bền vững. Đối tượng nhận thức trong giao tiếp có thể là
người khác, có thể là bản thân mình.
1. Nhận thức người khác
Trong giao tiếp trước hết là các chủ thể tri giác lẫn nhau. Tri giác là quá
trình nhận thức đối tượng giao tiếp bằng con đường cảm tính thông qua các
giác quan (thị giác, thính giác,…): quan sát tướng mạo, vẻ mặt, đáng điệu, tư
thế tác phong, cách ăn mặc, trang điểm, ánh mắt, nụ cười, lời nói, và các
hành vi khác nhau… Và sự tri giác đó được diễn ra trong suốt quá trình giao
tiếp. Trên cơ sở những tài liệu tri giác đem lại tư duy giúp ta phán quyết về
bán chất bên trong của đối tượng như đạo đức, năng lực và các phẩm chất
nhân cách khác. Như vậy nhận thức người khác là bao gồm tri giác những
đặc điểm bên ngoài và sự phán quyết về bản chất bên trong.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng và đôi khi bóp méo nhận thức của chúng ta
về người khác. Các yếu tố này có thể xuất phát từ chủ thể nhận thức, đối
tượng nhận thức và tình huống trong đó nhận thức diễn ra.
Chủ thể nhận thức
Hình ảnh về một đối tượng nào đó được tạo ra trong ta phụ thuộc rất
nhiều vào đời sống tâm lý của ta (quy luật tổng giác). Cùng một anh A, nhưng
có thể tôi nhìn nhận anh ấy rất tốt, nhưng có thể anh B nhìn thấy rất xấu.
Những yếu tố của đời sống tâm lý ảnh hưởng rất mạnh đến nhận thức là nhu
cầu, ấn tượng, tâm trạng, tình cảm, hứng thú, những định kiến, định khuôn…
Trước hết sự nhận thức của chúng ta về người khác bị chi phối bởi tính
lựa chọn. Bởi vì con người không thể thấy hết được tất cả các đặc tính của
đối tượng, mà chỉ thấy những gì mình muốn thấy. Chẳng hạn, khi chúng ta có
ác cảm với một người nào đó, thì mặc dù họ có rất nhiều nét tính cách khác
nhau nhưng nhiều khi chúng ta chỉ chú ý tới những nét xấu mà thôi. Nhận
thức có lựa chọn cho phép chúng ta hiểu nhanh về đối tượng nhưng có thể
gặp nhiều sai sót. Do chúng ta chú nhìn thấy những đặc điểm mình muốn
thấy mà chúng ta có thể sẽ rút ra những kết luận không được đảm bảo từ
những tình huống phức tạp.
Ấn tượng cũng là một yếu tố chủ quan ảnh hưởng tới cách nhìn nhận
của chúng ta về người khác. Khi chúng ta có ấn tượng tốt về họ thì sẽ đánh
giá theo chiều hướng tốt. Ngược lại khi có ấn tượng xấu thì có thể chúng ta
cũng chỉ nhìn thấy những điểm xấu mà thôi. Đã có lần chúng tôi lặp lại thí
nghiệm của V.Davưdov như sau: cho các em học sinh phổ thông trung học
xem một bức chân dung có 18x24 chụp một người đàn ông không quen biết
rồi giới thiệu “Đây là bức chân dung của một anh hùng, dũng cảm, thông
minh, giàu nghị lực. Các em hãy xem kỹ bức chân dung và hãy tả lại bức
chân dung đó". Sau đó chúng ta bí mật đưa bức chân dung này sang lớp bên
cạnh và giới thiệu với học sinh rằng “Đây là bức hình của một tên tội phạm
hình sự nguy hiểm, gian xảo, giết người không gớm tay. Các em hãy xem kỹ
tấm hình và hãy mô tả nó". Sau khi phân tích kết quả tả chân dung của hai
lớp chúng tôi thấy rằng đại đa số học sinh của lớp thứ nhất mô tả rất tốt bức
chân dung này. Thậm chí, có em còn viết rằng “Nhìn vào bức chân dung này
biết ngay là một người anh hùng: mắt sáng, mũi thẳng, trán cao, cằm
vuông…". Còn rất nhiều học sinh của lớp thứ hai lại mô tả rất xấu về bức hình
này. Tại sao vậy? Bởi vì ấn tượng về bức hình này được tạo ra ở hai lớp là
khác nhau.
Tình cảm của chúng ta đối với một người cũng có thể làm cho ta đánh
giá, nhìn nhận sai lệnh đi: “Yêu nên tốt, ghét nên xấu, hay “Yêu nhau củ ấu
cũng tròn,ghét nhau thì quả bồ hòn cũng méo".
Sự nhận thức của một người cũng bị chi phối bởi tâm trạng của người
đó. Nguyễn Du đã từng nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", khi chúng
ta vui thì nhìn cảnh vật xung quanh cũng vui, ngược lại khi ta buồn thì nhìn
thấy cảnh vật cũng buồn theo. Đánh giá con người cũng vậy, khi vui người ta
đánh giá khác và khi buồn thì đánh giá khác.
Ngoài ra, khi nhận thức người khác chúng ta còn bị cơ chế stereotype
(định khuôn) chi phối. Xưa nay văn học dân gian, tâm lý xã hội đã đúc rút,
quan sát rồi khái quát hóa tạo nên những khuôn mẫu trong tâm lý con người
về các vai trò, các nghề, các kiểu người với các tính cách diễn hình. Đó là
những chiếc nhãn, danh thiếp để nhận dạng. Chẳng hạn, nghề nào xã hội
đánh giá cao thì khi anh tự giới thiệu hoặc được giới thiệu với người khác,
người ta có cảm tình với anh ngay mà chưa cần tìm hiểu sâu thêm gì. Vì vậy
anh bộ đội, kể cả khi không mặc quân phục, xuất hiện giữa những người
không quen biết thì được cảm tình ngay vì mẫu người bộ đội vốn gắn liền với
những đức tỉnh quý báu như hy sinh vì nước, vì dân, giản dị, chịu đựng gian
khổ, tháo vát, trong sáng… Mặt khác, nó cũng có thể gây nên những định
kiến nào đó nếu nghề ấy quần chúng có ác cảm. Việc nhận thức con người
theo “khuôn” ấy không chỉ liên quan đến nghề nghiệp, mà còn liên quan đến
những người thuộc các tộc họ, dân tộc khác nhau. Ví như, nói tới người
Gabrôvô là người ta nghĩ ngay tới tính hà tiện và óc khôi hài của họ.
Đối tượng nhận thức
Có những đặc điểm ở đối tượng thường gây ra ảo ảnh ở chúng ta về
họ, ví dụ: sự hào nhoáng bên ngoài, bằng cấp của họ, cách ăn mặc…. Chẳng
hạn, khi mới bắt đầu quan hệ, dù thuộc lĩnh vực tình cảm hay kinh doanh, dân
gian đều xem xét đối tượng theo phương ngôn “quen bụng dạ, lạ áo quần".
Những hình ảnh ban đầu về diện mạo bên ngoài, cách ăn mặc để lại nhiều
ảnh hưởng trong giao tiếp sau này. Tuy nhiên cũng cần thận trọng, bởi vì đó
thới chỉ là những thông tin cảm tính mà thôi.
Hơn nữa, bất kỳ đặc tính nào làm cho đối tượng nổi bật sẽ làm tăng
khả năng nó được nhận thức. Chẳng hạn, một người hay ồn ào dường như
được chú ý hơn là những người khác. Những cử chỉ, dáng dấp, giọng nói, và
những đặc điểm khác của đối tượng sẽ tạo nên cách mà chúng ta thấy nó.
Trong khi nhận thức người khác chúng ta có xu hướng nhóm những đối
tượng giống nhau hoặc tương tự nhau về một vài đặc điểm nổi bật nào đó
thành một nhóm. Vì thế mà nhiều khi chúng ta đánh giá như nhau về hai
người khác nhau chỉ vì họ có một đặc điểm nào đó giống nhau. Chẳng hạn,
nếu trong doanh nghiệp có hai người đột nhiên xin chuyển công tác, chúng ta
có xu hướng nhìn họ là có những đặc điểm giống nhau trong khi thực chất là
họ rất khác nhau.
Khi nhận thức người khác chúng ta cũng bị ảnh hưởng bởi “hiệu ứng
so sánh". Ví dụ, một người mập đi bên cạnh một người ốm tong teo sẽ được
nhìn nhận là càng mập hơn, một người cao đi cạnh người thấp thường được
coi là càng cao hơn. Chính vì thế trong phỏng vấn tuyển chọn, thứ tự phỏng
vấn. cũng ảnh hưởng đến sự đánh giá. Chẳng hạn sau khi phỏng vấn một
loạt ứng viên kém thì một ứng viên nào đó có khá hơn chút ít cũng có thể
được đánh giá là tốt hơn so với thực tế.
Bối cảnh giao tiếp
Sự nhìn nhận của chúng ta về người khác cũng phụ thuộc rất nhiều vào
tình huống mà trong đó diễn ra sự giao tiếp. Chúng ta cảm thấy rất bình
thường khi gặp một thanh niên mặc quần đùi ngồi đọc sách ngoài bãi biển,
nhưng sẽ rất khó chịu nếu chúng ta gặp anh ta cũng ăn mặc như vậy đọc
sách trong thu viện. Trong trường hợp này chủ thể và đối tượng nhận thức là
như nhau, chỉ khác nhau về bối cảnh, vì thế sự nhận thức cũng là rất khác
nhau.
2. Sự nhận thức về bản thân
Trong giao tiếp, không những chúng ta nhận thức người khác mà còn
nhận thức, khám phá bản thân mình. Chỉ khi giao tiếp với người khác thì
chúng ta mới hiểu được chính mình. Khả năng nhận thức người khác và sự
tự nhận thức có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tự nhận thức bản thân càng
chính xác, phong phú bao nhiêu thì việc nhận thức người khác càng phong
phú và chính xác bấy nhiêu và ngược lại, nhận thức người khác càng đầy đủ,
càng sâu sắc, thì tự nhận thức sẽ trở nên càng đầy đủ hơn.
Tự nhận thức là quá trình trong đó mỗi chúng ta xây dựng cho mình
một khái niệm hay hình ảnh về bản thân (HABT). Việc tạo ra HABT là rất quan
trọng vì nó có một ảnh hưởng quyết định đến hành vi của mỗi chúng ta trong
giao tiếp. Chúng ta có những xử sự như thế nào là tùy vào chúng ta tự đánh
giá mình như thế nào. Chắc đã có lần bạn nghĩ như thế này “bực mình với
thằng cha này chết đi được, đáng ra mình phái trị cho nó một trận cho biết
tay, nhưng mà thôi dầu sao mình cũng là có ăn học, là một người lãnh đạo
không nên đối xử thô bạo làm mất uy tín". Khi bạn nghĩ như thế tức là bạn đã
tạo ra trong đầu mình một HABT và HABT đó chi phối hành vi của bạn.
HABT là cách mà chúng ta hình dung về mình như thế nào. Nó biểu
hiện bản chất cũng như các việc làm của chúng ta. HABT là thứ khung qui
chiếu mà chúng ta soi theo đó để hành động.
HABT được hình thành như thế nào? HABT không phải được sinh ra
mà được hình thành cùng với sự hình thành và phát triển của nhân cách. Đó
là một quá trình lớn dần lên. Ban đầu đứa trẻ nhận biết được cái gì là cái
“TÔI” và cái gì là “KHÔNG PHẢI TÔI". Từ sự nhận biết ngón tay ngón chân là
một bộ phận của “TÔI” đến sự hình dung cái “TÔI” trong hành động của mình.
Quá trình hình thành HABT được diễn ra trong sự giao tiếp với người khác,
tùy thuộc vào người khác đánh giá và đối xử với mình như thế nào. Qua sự
tương tác với họ, mà chúng ta biết mình như thế nào, được công nhận hay bị
từ chối, được tôn trọng hay bị coi thường, có năng lực hay không có năng
lực.
Tóm lại, giữa giao tiếp và sự hình thành HABT có mối quan hệ với nhau
rất chặt chẽ. Thông qua giao tiếp mà chúng ta hình thành khái niệm về bản
thân và ngược lại ý nghĩ, cách tự đánh giá về mình sẽ ảnh hưởng tới lời nói,
việc làm và mối quan hệ của chúng ta.
3. Cửa sổ Johari và mối quan hệ giữa nhận thức và tự nhận thức
Cửa sổ Johari là một khái niệm do hai tác giả Joseph Luft và Harry
Ingham (Johary là ghép những từ đầu tên hai tác giả) xây dựng để mô tả mối
quan hệ giữa nhận thức, tự nhận thức và tính cởi mở, sự phản hồi trong giao
tiếp. Cửa sổ này có 4 ô phụ thuộc vào mức độ những gì mà mình tự biết về
mình và những gì mà người khác biết về ta.
Tự nhận biết Không nhận biếtNgười khác
nhận biết đượcI.
CHUNGII.
MÙ
Người khác khôngnhận biết được
III.RIÊNG
IV.KHÔNG NHẬN
BIẾT ĐƯỢC
Hình 4. Cửa sổ Johary
+ Khu vực I - khu vực CHUNG hay còn gọi là khu vực mở tương ứng
với những gì mà chúng ta biết về mình và người khác cũng biết về chúng ta.
+ Khu vực II - khu vực MÙ tương ứng với những gì mà chúng ta
không biết được về mình, nhưng người khác lại biết về chúng ta. Có những
cái mà chúng ta không biết về mình vì người khác không tự nguyện chia sẻ
thông tin phản hồi hoặc không giao tiếp với ta, hoặc “có thể là ở đó có những
thông tin về hành vi thành lời hoặc không thành lời nhưng chúng ta không thể
hoặc không thèm đếm xỉa đến chúng.
+ Khu vực III - khu vực RIÊNG tương ứng với những gì -mà chỉ chúng
ta biết về mình còn người khác không biết. Nó có thể được coi là riêng vì
trong giao tiếp chúng ta không cởi mở để bộc lộ với người khác.
+ Khu vực IV - khu vực KHÔNG NHẬN BIẾT tương ứng với những gì
mà cả chúng ta lẫn người khác không hề biết, thông thường bao gồm lĩnh vực
vô thức và tiềm thức. Mỗi một khu vực có thể được mở rộng hay bị thu hẹp
phụ thuộc chủ yếu vào hai yếu tố trong giao tiếp, đó là sự phản hồi và tính cởi
mở của chúng ta.
Sự phản hồi. Là xu hướng mà người khác sẵn sàng chia sẻ những suy
nghĩ, những đánh giá của họ về chúng ta. Đó là thiện ý cởi mở và nỗ lực của
người khác trong việc phản hồi thích đáng cho chúng ta. Tuy nhiên, đây cũng
là xu hướng mà chúng ta cố gắng lắng nghe người khác nhận xét, đánh giá
về mình thông qua những thông tin bằng lời và những thông tin không bằng
lời. Sự phản hồi làm cho khu vực “chung” được mở rộng và làm cho khu vực
“mù” thu hẹp. Trong giao tiếp cần phải biết cách khuyến khích đối tượng chia
sẻ cảm tưởng, suy nghĩ với mình để tăng thêm sự phản hồi, chứ không nên
cắt ngang và lấn át ý kiến phản hồi của họ. Chẳng hạn, hai mẹ con nhà nọ đi
qua cửa hàng bách hóa và em bé gái chú ý tới chiếc cặp sách trưng bày trong
tủ kính. Em nói “Con thấy chiếc cặp này đẹp ghê mẹ ạ”. Bà mẹ đáng lẽ phải
cảm nhận tình cảm của con mình, lại mắng luôn “Con quá lắm, mẹ vừa mới
mua cho con một chiếc nhân ngày khai trường rồi còn gì, con là chúa hay
vòi". Cô bé đã rút ra được điều gì từ chuyện này? Có lẽ cô sẽ nghĩ rằng, mình
sẽ không bao giờ nói với mẹ điều gì nữa. Và nếu chuyện này liên tục được
lặp lại có lẽ bà mẹ chẳng bao giờ có cơ hội nhận được phản hồi từ con mình.
Trong trường hợp này bà mẹ phải làm gì? Trước hết bà mẹ phải công nhận
mong muốn của con mình và đáp lại bằng cách “ừ, mẹ cũng thấy là chiếc cặp
này rất đẹp và con rất thích nó phải không?". Và cô bé sẽ trả lời đồng ý ngay
lập tức. Khi đó bà mẹ sẽ đưa ra một câu hỏi tiếp “Nhưng tại sao con nghĩ là
con sẽ không mua chiếc cặp đó?". Cô bé sẽ hiểu ra và có lẽ sẽ nói “Bởi vì mẹ
đã mua cho con một chiếc nhân ngày khai trường rồi". Bà mẹ có thể kết thúc
cuộc đàm thoại bằng một một câu có hàm ý ủng hộ như “Nếu năm nay con
học giỏi thì sang năm mẹ sẽ mua cho con chiếc cặp mới". Bằng cách trao đổi
như vậy, đứa bé sẽ sẵn sàng chia sẻ cảm xúc của mình với mẹ ở những lần
giao tiếp sau.
Những tình huống như vậy cũng thường xảy ra trong giao tiếp giữa nhà
quản trị với nhân viên. Có lần một nhân viên nói với sếp mình “Những cuộc
họp nhân viên vào sáng thứ hai kéo dài quá lâu, theo tôi là lãng phí thời gian".
Thay vì ông sếp cần phải lắng nghe ý kiến của nhân viên và tìm hiểu nguyên
nhân vì sao anh ta cảm thấy như thế thì lại phản ứng vội vàng và gay gắt: “Ý
anh định nói gì về những cuộc họp đó là lãng phí thời gian? Tôi nghĩ là những
cuộc họp đó rất cần thiết, chúng ta đã duy trì chúng từ lâu. Anh không cần
phải bình luận gì thêm về vấn đề này, thế thôi”. Liệu nhân viên này có còn
muốn cung cấp cho nhà quản trị những thông tin phản hồi nữa không? Chắc
chắn là không. Nếu nhà quán trị không chịu lắng nghe để có những thông tin
phản hồi từ những người khác thì khu vực “mù” của mình sẽ tăng lên và cuối
cùng sẽ làm giảm hiệu quả trong hoạt động.
Sự cởi mở. Là xu hướng mở trong đó chúng ta sẵn sàng chia sẻ
những suy nghĩ những tình cảm, ước muốn, niềm tin và những phẩm chất
tâm lý khác của mình với người khác. Cởi mở là tự vén bức màn bí ẩn của
thế giới tâm hồn mình làm cho người khác có thể hiểu được mình. Nếu trong
giao tiếp mọi người đều cởi mở với nhau thì khu vực “chung” của mỗi người
sẽ được mở rộng, lấn át khu vực “riêng", làm cho họ hiểu biết nhau nhiều hơn
và xích lại gần nhau hơn.
Cởi mở cũng là một nhu cầu. Khi bạn vui hay buồn, khi bạn có nỗi ấm
ức trong lòng hay có những thắc mắc nào đó bạn tìm ngay đến người thân
thiết để phân trần, chia sẻ. Một khi ai đó thân thiết tìm đến bạn để thổ lộ, tâm
tình thì bạn cũng vui sướng cảm thấy mình được tin tưởng, yêu thương.
Tuy nhiên muốn cởi mở cũng không phải là đơn giản. Có thể do mặc
cảm, sợ bị chê cười, sợ bị coi là dốt là ngớ ngẩn mà đôi khi người ta không
dám bộc lộ cái “Tôi", tránh né đối thoại. Họ tự che dấu mình bằng các cơ chế
tự vệ, như giao tiếp sáo rỗng với mọi người, cố tỏ ra luôn luôn bận bịu… Ví
dụ, khi giáo viên đặt ra cho sinh viên một câu hỏi, có người giả vờ bận đọc
sách, bận ghi chép để khỏi trả lời câu hỏi của thầy. Để có thể cởi mở với nhau
trong giao tiếp, mỗi chúng ta cần phải hiểu biết về mình và biết chấp nhận bản
thân. Khi đã chấp nhận bản thân bạn sẽ không còn mặc cảm, không cố che
giấu về mình nữa.
Hơn nữa người ta chỉ có nhu cầu thổ lộ những suy nghĩ, những tình
cảm của mình với những người mà họ tin tưởng. Vì vậy để người khác cởi
mở hơn trong giao tiếp chúng ta cần phải tạo dựng được niềm tin của họ vào
ta.
Tóm lại, trong giao tiếp các bên tham gia phải nhận thức về nhau, nhận
thức có đúng thì mới có những tình cảm đúng. Tuy nhiên, do những yếu tố
chủ quan cũng như các yếu tố khách quan mà có khi làm cho chúng ta đánh
giá sai lầm về nhau. Trong giao tiếp mỗi chúng ta vừa là chủ thể nhưng cũng
vừa là khách thể của quá trình nhận thức. Chúng ta không chỉ nhận thức
người khác, mà còn nhận biết cả chính mình. Trong giao tiếp các bên muốn
nhận thức rõ về nhau và nhận biết chính xác về bản thân mình, thì cần phải
có sự cởi mở và phản hồi nhất định. Muốn vậy các bên cần xây đựng được
bầu không khí thoải mái, tin tưởng ở nhau.
III. GIAO TIẾP LÀ QUÁ TRÌNH TÁC ĐỘNG QUA LẠI, ẢNH HƯỞNG LẪN NHAU
Giao tiếp không chỉ là trao đổi thông tin, nhận thức, đánh giá về nhau,
mà còn là sự tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Trong quá trình đó chúng
ta tác động tới những người khác, và ngược lại, người khác lại tác động ảnh
hưởng tới chúng ta. Bằng cách đó, mà tâm lý cá nhân biến thành tâm lý xã
hội và ngược lại. Sự ảnh hưởng đó có thể tốt hay xấu, có thể tích cực, có thể
tiêu cực đối với nhau “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng". Tuy nhiên sự tác
động giữa người này tới người khác diễn ra hết sức phức tạp, chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố. Mỗi chúng ta lĩnh hội sự tác động từ xã hội không
phải một cách thụ động, mà thông qua một cơ chế chọn lọc “đề kháng” nhất
định. Có nghĩa là không phải cứ “gần mực, thì đen” mà hễ “gần đèn, thì sáng”.
Đen hay không, sáng hay tối còn phụ thuộc vào ý chí, trí tuệ và tính tích cực
của mỗi cá nhân. Nếu có trí tuệ cao, ý chí mạnh thì chúng ta cũng có thể “gần
bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Quá trình tác động, ảnh hưởng lẫn nhau
trong giao tiếp được diễn ra dưới nhiều hình thức, như: lây lan, ám thị, bắt
chước, thuyết phục, áp lực nhóm…
1. Sự lây lan tâm lý
Một trong những cơ chế ảnh hưởng đặc biệt trong giao tiếp giữa cá
nhân và xã hội đó là sự lây lan tâm lý. Lây lan là hiện tượng phổ biến, dễ
nhận biết và được nghiên cứu từ lâu. Từ buổi sơ khai của lịch sử loài người,
lây lan đã có những biểu hiện đa dạng và phong phú: từ cơn bốc trên sàn
nhảy đến trạng thái phấn khích tôn giáo của các tín đồ, từ sự cuồng nhiệt của
các cổ động viên thể thao trên khán đài cho đến trạng thái hoảng loạn của
đám đông…
Ở dạng tổng quát nhất, lây lan tâm lý là quá trình chuyển toả trạng thái
cảm xúc từ cá thể này sang cá thể khác ở cấp độ tâm sinh lý nằm ngoài sự
tác động của ý thức. Nói cách khác, lây lan là quá trình mà trong đó một
người tự đưa mình vào trạng thái tâm lý của người khác một cách vô thức.
Trong giao tiếp, tâm lý của người này ảnh hưởng tới tâm lý của người
khác. Một người vui vẻ có thể làm cho người khác vui theo, một người buồn
có thể làm cho người khác buồn theo. Chính nhờ có sự lây lan tâm lý mà
người ta có được sự đồng cảm trong giao tiếp.
Trong một tập thể tâm lý của thành viên này có thể lan truyền sang
thành viên khác. Ví dụ, khi tập thể mình làm một công việc gì đó, chỉ cần một
người chán nản, nói ngang hoặc ngáp vặt là có thể gây cho những người
khác chán nản theo; trong một nhóm công tác, nếu một người có tâm trạng
xấu có thể làm cho những người khác cũng có tâm trạng xấu theo, v.v. Lực
lây lan tâm lý được truyền đi theo nguyên tắc cộng hưởng, tỷ lệ thuận với số
lượng của tập thể và cường độ cảm xúc được truyền.
Sự lây lan tâm lý có thể diễn ra theo hai cơ chế:
- Cơ chế dao động từ từ: tâm lý của người này lan sang người khác
một cách từ từ. Chẳng hạn, sự thay đổi mốt mới: lả hiện tượng lan truyền tâm
lý từ từ.
- Cơ chế bùng nổ: là sự lan truyền rất nhanh, đột ngột, thường xảy ra
khi con người lâm vào trạng thái căng thẳng cao độ. Ví dụ, sự hoảng loạn tập
thể; cơn bốc trên sàn nhảy, trên sân banh…
Nhà quản trị cần nhận thức được hiện tượng lây lan tâm lý và biết cách
điều khiển nó để có lợi cho tập thể. Cần tránh sự lây lan tâm trạng xấu từ
người này sang người khác, điều đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc của
tập thể. Trong tập thể nên có những người luôn luôn vui vẻ, lạc quan có thể
tạo ra không khí vui vẻ, phấn khởi, thu hút được mọi người nhằm nâng cao
tâm trạng chung.
2. Ám thị trong giao tiếp
Ám thị là dùng lời nói, việc làm, hành vi cứ chỉ tác động vào tâm lý của
một cá nhân hoặc một nhóm người nhằm làm cho họ tiếp thu thông tin mà
không có sự phê phán.
Có thể tiến hành ám thị lúc con người tỉnh táo hoặc trong trạng thái thôi
miên.
Ám thị thường đi kèm với quá trình giao tiếp. Nó có thể mang tính chất
trực tiếp hoặc gián tiếp, tích cực hay tiêu cực, trọn vẹn hay không trọn vẹn ám
thị trực tiếp là tác động trong đó người này thông báo cho người kia dưới hình
thức mệnh lệnh thực hành những ý nghĩ nhất định, khiến người kia phải tiếp
nhận và thực hiện không bàn cãi. Ám thị gián tiếp thì phải đi theo đường vòng
để đạt mục đích trên (chẳng hạn, thủ thuật “noi gương” trong nghệ thuật bán
hàng là một ví dụ).
Trong kinh doanh, ám thị thường được sử dụng qua tác động của
quảng cáo (lặp đi lặp lại một câu nói hay một hình ảnh, dựa vào thời trang,
vào uy tín của đơn vị sản xuất, v.v.). Khi đưa cho khách món hàng được gói
bọc cẩn thận kèm theo những lời lẽ thịnh tình như: “Thật cứ như hàng may đo
ấy “Món quà tặng tuyệt vời” thì thực ra là người bán hàng đang tạo cho khách
hàng niềm tin là mình đã quyết định đúng.
Tính bị ám thị (hay còn gọi là tính nhẹ dạ cả tin) phụ thuộc vào từng
người, từng lứa tuổi, giới tính và từng hoàn cảnh. Theo kết quả nghiên cứu
của các nhà chuyên môn thì tính bị ám thị của con người tăng lên khi người ta
đang hoang mang dao động, dang trông chờ, đang đi tìm một lối thoát, khi họ
đang bị chi phối bởi một nhu cầu mãnh liệt nào đó. Thực tế cũng cho thấy
rằng, tuổi càng cao, kinh nghiệm càng nhiều thì tính bị ám thị cũng giảm đi, và
phụ nữ thường dễ bị ám thị hơn nam giới. Uy tín của nhà lãnh đạo cũng có
sức ám thị mạnh tới nhân viên. Nếu nhà lãnh đạo có uy tín tuyệt đối đối với
nhân viên thì mọi chỉ thị, mệnh lệnh đều được nhân viên tiếp thu, thực hiện
một cách tự giác.
3. Hiện tượng áp lực nhóm
Trong giao tiếp tập thể, phản ứng của một thành viên thường bị chi phối
bởi phản ứng của số đông. Khi đại đa số các thành viên của nhóm đã thống
nhất với nhau về một phản ứng tâm lý nào đó, thì thành viên còn lại cũng có
xu hướng chấp nhận theo phản ứng đó. Tức là phản ứng của đa số tạo nên
sự áp lực đối với phản ứng của một số ít người. Biểu hiện đặc biệt của áp lực
nhóm tới cá nhân là tính a dua (hay “theo đuôi"). Chính bản thân từ “a dua” đã
biểu hiện nghĩa thích ứng. Đối lập với tính a dua là sự độc lập, vững vàng của
cá nhân so với áp lực nhóm.
Tính a dua được nhận thấy khi biểu hiện xung đột giữa ý kiến của cá
nhân và ý kiến của nhóm, khắc phục xung đột này dẫn đến có lợi cho nhóm.
Có thể chia ra làm 2 loại a dua: a dua bên ngoài hay a dua hình thức và a dua
bên trong hay a dua thực tâm. A dua bên ngoài là a dua khi cá nhân tiếp thu ý
kiến của nhóm mang tính hình thức, còn trên thực tế anh ta chống lại ý kiến
của nhóm. A dua bên trong là a dua khi mà cá nhân hoàn toàn bị ý kiến của
đa số thu phục. Loại a dua này là kết quả khắc phục xung đột của cá nhân với
nhóm và kết thúc bằng sự có lợi cho nhóm.
Theo Fischer, nhà tâm lý học Pháp, trong sự áp lực nhóm nổi lên ba
yếu tố khác nhau: sự tồn tại của những căng thẳng giữa lập trường trước đây
của cá nhân và sự thúc ép với mức độ khác nhau từ phía nhóm mà cá nhân
phải chịu; sự tán thành của cá nhân đối với điều anh ta được đề nghị; cuối
cùng là kết quả của sự thay đổi ứng xử, bao hàm một mặt là phủ định một số
khía cạnh ứng xử trước đây và mặt khác là khẳng định bản thân mình bằng
việc có những ứng xử mới.
Tính áp lực nhóm phụ thuộc những yếu tố sau:
- Những đặc trưng của cá nhân phải chịu áp lực nhóm như: ý chí bản
lĩnh và lập trường của cá nhân, giới tính, lứa tuổi trí tuệ…
- Những đặc trưng của nhóm là chủ thể tạo ra áp lực: quy mô, sự thống
nhất của các thành viên của nhóm.
- Mối quan hệ giữa cá nhân với nhóm: vị trí của cá nhân trong nhóm sự
trung thành của cá nhân với nhóm, mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các cá
nhân trong nhóm…
- Hoàn cảnh: nội dung nhiệm vụ, mức độ quan tâm của cá nhân với
nhiệm vụ đó, sự am hiểu của người đó.
4. Bắt chước
Trong giao tiếp hàng ngày, tâm lý của nhóm cũng như tâm lý của mỗi
cá nhân đều thường xuyên tác động, ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau. Mỗi cá
nhân ảnh hưởng đến các thành viên khác của nhóm trước hết bằng sự hiện
diện của chính bản thân mình và cũng chịu sự chi phối, ảnh hưởng của các
thành viên khác trong nhóm. Một trong những cơ chế ảnh hưởng và tác động
qua lại rất phổ biến đó là sự bắt chước.
Bắt chước là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại các hành động, hành vi, tâm
trạng, cách thức suy nghĩ, ứng xử của một người hay nhóm người nào đó.
Trong thực tiễn đời sống hàng ngày chúng ta thường gặp những biểu
hiện đa dạng của bắt chước: trẻ em bắt chước cách xử thế nhất định của
người lớn, xử sự như cha chúng, phản ứng đối với những tình huống nhất
định như mẹ chúng; thợ học việc trong xường hành động theo cách của thợ
cả; học sinh bắt chước cách ứng xử của thầy giáo; sự a dua của lớp trẻ trong
việc lựa chọn nghề nghiệp, cách thức ăn mặc, tiêu xài theo mốt….
Bắt chước là cơ chế quan trọng để hình thành nên chuẩn mực và giá trị
của nhóm, của xã hội. Thông qua bắt chước mà mỗi cá nhân xây dựng nên
cách xử sự của mình phù hợp với chuẩn mực của xã hội.
Có nhiều hình thức bắt chước:
- Bắt chước vô thức và bắt chước có ý thức.
- Bắt chước hình thức và bắt chước bản chất.
- Bắt chước nhất thời (mốt, thời trang, tâm trạng xã hội…) và bắt chước
lâu dài (tập quán, phong tục, tín ngưỡng…).
- Bắt chước lẫn nhau trong phạm vi một giai cấp, một thế hệ và sự mô
phỏng, lặp lại giữa các giai cấp, giữa các thế hệ.
Bắt chước thường được diễn ra theo qui luật nhất định: bắt chước
được thực hiện từ bản chất đến hình thức, nghĩa là các hình mẫu bản chất
hấp dẫn sự bắt chước sớm hơn các hình mẫu bề ngoài. Người ta thường bắt
chước các tinh thần tôn giáo trước rồi mới bắt chước các nghi lễ, nghi thức
sau. Bắt chước được thực hiện từ dưới lên trên theo bậc thang xã hội, nghĩa
là tầng lớp hạ lưu có xu hướng bắt chước giới thượng lưu, trẻ em bắt chước
người lớn, các vùng phụ cận bắt chước trung tâm…
5. Thuyết phục
Là một phương pháp tác động ảnh hưởng có mục đích nhằm thay đổi
các quan điểm, thái độ của người khác, hoặc xây dựng quan điểm mới.
Sự thuyết phục và ám thị có những điểm khác nhau nhất định. Ám thị là
tạo ra trạng thái tâm lý chấp nhận một cách trực tiếp mà không cần phải có sự
lập luận, chứng minh và tính logic. Ngược lại, sự thuyết phục được xây dựng
trên cơ sở tính logic, tính chặt chẽ, xác đáng của các lập luận để làm cho đối
tượng hiểu được các lý lẽ và đồng thời đồng tình với các lý lẽ đó.
Hiệu quả của sự thuyết phục phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: uy tín
của người thuyết phục, tính chặt chẽ, tính logic của các lý lẽ đưa ra, một số
đặc điểm tâm lý cá nhân (tính cách, tính khí, ý chí, tâm thế…), hoàn cảnh
trong đó diễn ra sự thuyết phục, cách thức thuyết phục…
Để thuyết phục có hiệu quả thì phải tạo ra một bầu không khí bình
đẳng. Lời nói của bạn sẽ không có hiệu quả nếu bạn nói với giọng kẻ cả với
người dưới quyền: “Tôi sẽ chứng minh cho anh thấy là anh sai". Vì nói như
vậy khác gì báo rằng: “Tôi là người thông minh, còn anh là thằng đần". Lúc đó
bạn sẽ gặp ngay một một sức tự vệ tâm lý từ đối tượng.
Một sai lầm hay mắc phải khi thuyết phục là quan niệm cho rằng thuyết
phục là dùng sức mạnh để bẻ gãy ý chí của người khác, từ đó dẫn đến tranh
cãi quyết liệt, nói năng mạnh mẽ, cao giọng hoặc có thái độ bảo thủ không
cho phép ai chống đối lại mình. Những phương pháp đó sẽ không đem lại
hiệu quả vì tư tưởng không phải được thấm nhuần bằng cách tống đại chúng
vào đầu. Muốn nắm bắt một tư tưởng thì tự ta phải có ý muốn từ bên trong.
Có nghĩa là một người trước tiên phải có ý muốn chịu tiếp thu tư tưởng rồi
mới tiếp xúc với tư tưởng đó.
Làm cách nào để đối tượng có ý muốn tiếp thu tư tưởng của bạn? Bạn
cần phải biết cách khai thác. Thường thì khi một người đã chắc chắn về một
điều gì đó thì họ không muốn tiếp thu ý kiến người khác. Vậy thì hãy để cho
anh ta có cơ hội trình bày quan điểm của mình, đến một lúc nào đó sẽ xuất
hiện chỗ hở trong quan điểm của anh ta vì hiểu chưa thấu đáo. Lúc này anh
ta sẽ tự cảm thấy chưa chắc lắm về quan điểm của mình và muốn biết thêm
thông tin. Đến thời điểm này thì anh ta chịu tiếp thu ý kiến của bạn và sẵn
sàng thấm nhuần tư tưởng của bạn. Và bây giờ bạn nên trình bày lý lẽ của
mình.
Khi trình bày quan điểm của mình bạn nên chú ý dành thời gian để cho
đối tượng động não, đánh giá, so sánh quan điểm của bạn. Và cũng cần thiết
tạo điều kiện cho đối tượng bộc lộ cảm xúc, vì cảm xúc luôn phải được giải
thoát khi gieo cấy một tư tưởng nào đó.
Khi thuyết phục hoặc tranh luận bạn cần chú ý thêm những điểm sau:
- Phải tôn trọng ý kiến của người khác (dù ý kiến đó có khác thậm chí
trái ngược với ý kiến của mình) bằng cách bình tĩnh lắng nghe, không cắt
ngang, không phát biểu ý kiến phản bác, chê bai.
- Phải bình tĩnh, điềm đạm, ôn tồn chứng minh lẽ phải của mình, không
nên nổi nóng, lên giọng, múa tay, đập bàn…
- Cần đánh giá một cách khách quan những điểm có lý trong ý kiến của
đối tượng và thừa nhận một cách công khai và thừa nhận cái sai trong ý kiến
của mình mà đối tượng đã vạch ra.
Tóm lại, trên đây chúng ta nghiên cứu ba khía cạnh của hoạt động giao
tiếp, đó là truyền đạt thông tin, nhận thức và tác động lẫn nhau. Ba quá trình
này thống nhất trong một hoạt động giao tiếp, chúng tác động qua lại, phụ
thuộc lẫn nhau. Thông tin có được truyền đạt và tiếp nhận một cách đầy đủ,
chính xác thì các bên giao tiếp mới hiểu được về nhau và đồng thời đưa ra
các phương pháp tác động có hiệu quả. Đến lượt mình, sự hiểu biết thấu đáo
về nhau làm cho quá trình truyền tin diễn ra một cách nhanh chóng và hiệu
quả hơn.
Câu hỏi ôn tập2.1. Trình bày sơ đồ quá trình truyền thông giữa các cá nhân. Chú giải
các yếu tố của nó.
2.2. Những yếu tố nào cản trở sự truyền thông giữa các cá nhân? Từ
đó anh chị nên rèn luyện những phẩm chất gì để truyền thông có hiệu quả?
2.3. Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông trong tổ
chức? Từ đó anh chị cần có những biện pháp nào để hoàn thiện nó?
2.4. Phân tích các phương tiện giao tiếp. Việc sử dụng đúng phương
tiện giao tiếp có lợi như thế nào việc tạo ra mối quan hệ?
2.5. Phân tích các nguyên nhân làm cho người ta nhìn nhận, đánh giá
sai lầm về nhau trong giao tiếp? Từ đó anh chị cần chú ý gì khi nhìn nhận,
đánh giá nhân viên mình?
2.6. Anh, chị hãy trình bày cửa sổ Johary, muốn mở rộng khu vực
“chung", thì cần chú ý tới những cơ chế gì trong giao tiếp?
2.7. Anh, chị hãy phân tích một số cơ chế tác động lẫn nhau mà anh,
chị biết? Từ đó rút ra những lưu ý gì trong hoạt động quản trị?
2.8. Muốn thuyết phục một người, anh chị cần chú ý những gì?
Câu hỏi thảo luận
2.a. Cô Hoa năm nay 30 tuổi là một luật sư. Mỗi sáng khi bước xuống
ôtô buýt, cô thường gặp một đồng nghiệp lớn tuổi cùng công ty. Người đàn
ông này thường đưa tay cho cô ta nắm khi băng qua đường.
Ông ta đúng hay sai? Tại sao?
2.b. Hoàng và người thư ký của anh ta đang đi thang máy lên văn
phòng ở lầu 10. Như thường lệ, thang máy luôn đông người. Khi thang máy
dừng lại, Hoàng đi ra trước và đợi cô thư ký ra sau. Cô thư ký tỏ ra không hài
lòng và cho rằng Hoàng là người không lịch sự.
Hoàng đúng hay sai? Tại sao?
Tình huống 2.1
Ông Nam thành lập một xưởng sản xuất xe đạp vào những năm 1960.
Từ sự sản xuất nhỏ này, sau này nó trở thành một công ty lớn nhất nước.
Vào những năm 1990 doanh số của nó lên tới hàng tỷ đồng, với 1500 nhân
viên và 10 địa điểm sản xuất. Trong suốt quá trình của nó, ông Nam đã duy trì
sức mạnh chủ động, sáng tạo và động lực của công ty Trong những ngày
đầu, khi xưởng SX đang bé, mỗi người quản lý và công nhân đều biết ông ta,
và ông ta có thể gọi tên tất cả các thành viên trong xưởng. Nên khi công ty
phát triển lên, người cũng cảm thấy rằng họ vẫn biết người sáng lập và người
lãnh đạo chính.
Tuy nhiên khi công ty làm ăn phát đạt, ông Nam lo lắng là nó sẽ mất đi
tinh thần gia đình của nó. Ông ta cảm thấy rằng những mối quan hệ giao tiếp,
liên lạc trong công ty đang bị suy giảm, rằng những chính sách, chủ trương
của ông không còn được hiểu trong công ty, ông đã mất đi sự tiếp xúc với mọi
người.
Để giải quyết vấn đề truyền thông trong giao tiếp, ông đã thuê một giám
đốc phụ trách truyền thông đặt dưới quyền của mình. Họ quyết định đưa vào
sử dụng mọi kênh truyền thông mà các công ty khác đang sử dụng: các bảng
thông báo, một tờ báo của công ty chứa đựng những thông tin cần thiết;
những bức thư về việc phân phối lợi nhuận; những khóa dạy về truyền thông;
những cuộc họp kéo dài hàng ngày thảo luận các vấn đề của công ty. Sau rất
nhiều cố gắng và tốn nhiều chi phí, ông Nam đã thất vọng nhận ra rằng các
vấn đề về thông tin, và tinh thần gia đình của ông ta vẫn chưa được giải
quyết, và rằng các chương trình của ông ta có vẻ chẳng có ý nghĩa gì.
Câu hỏi
1) Ông Nam có nên thất vọng hay không?
2) Anh, chị cho rằng cái gì là vấn đề truyền thông thật sự của công ty?
3) Anh, chị có đề xuất gì về việc cải tiến truyền thông trong công ty
này?
Chương 3: CƠ SỞ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA HÀNH VI GIAO TIẾP Đã bao giờ bạn dành một phút để tự hỏi rằng tại sao trong cùng một
hoàn cảnh, một tình huống như nhau mà những người khác nhau lại có
những cách ứng xử khác nhau? Thậm chí cũng trong những tình huống như
nhau, mà chính bạn cũng lại có thể đưa ra những cách ứng xứ khác nhau, tại
sao vậy? Thưa rằng, một hành vi giao tiếp nào đó của chúng ta bị chi phối bởi
một hệ thống các yếu tố hết sức phức tạp.
Có thể kể tới 3 nhóm chính sau đây:
- Các yếu tố tâm lý (Psychologcal factors).
- Các yếu tố văn hóa (Cultural flactors)
- Các yếu tố xã hội (Social factors).
I. CÁC YẾU TỐ TÂM LÝ 1. Động cơ hành động
a. Khái niệm về động cơ và nhu cầu
Tại sao bạn thực hiện hành vi này? Tại sao bạn thực hiện hành động
kia? Bởi vì mỗi một hành vi của con người đều được thúc đẩy bởi một hay
nhiều động cơ nào đó. Ồ, nhiều khi tôi thực hiện hành vi đó một cách vô tư,
chứ có màng tới sự đền đáp gì đâu! Nhưng không bạn ơi, có nhiều động cơ
thúc đẩy mà bạn không ý thức được. Không phải bao giờ chúng ta cũng có
thể giải thích được tại sao mình xử sự như vậy Bạn hãy hình dung rằng hệ
thống động cơ của con người như một tảng băng trôi dưới nước, phần chìm
lại nhiều hơn phần nổi. Nói chung, con người không bao giờ hành động một
cách vô cớ, mà là do những động cơ nào đó thúc đẩy, nhưng trong số đó
cũng có nhiều động cơ không được ý thức.
Động cơ có thể được mô tả như là một lực lượng bên trong thúc đẩy
hành vi của chúng ta. Động cơ được tạo bởi những nhu cầu chưa được thỏa
mãn khi chúng trở nên căng thẳng. Có nghĩa là, trong mỗi một thời điểm nào
đó ở chúng ta có thể tồn tại nhiều nhu cầu, nhưng nhu cầu nào mạnh nhất (có
thể ý thức hay không được ý thức) sẽ đóng vai trò động cơ thúc đẩy.
Ví dụ. Trong thời điểm này, nếu ăn là nhu cầu mạnh nhất ở bạn, thì nó
sẽ thúc đẩy bạn đi tìm chỗ ăn, và nếu bây giờ ngủ là nhu cầu mạnh nhất thì
nó sẽ khiến bạn đi ngủ. Thế nhưng bạn có thể thắc mắc, “khi ngồi trong lớp
học tôi cực kỳ đói bụng, thế nhưng tại sao tôi lại không bỏ đi ăn?". Thưa với
bạn rằng, mỗi khi bạn đang ngồi trong lớp, thì có nghĩa là nhu cầu ăn của bạn
chưa phải là mạnh nhất, mà là có một nhu cầu khác mạnh hơn khiến bạn ngồi
lại trong lớp. Bạn thử nghĩ xem nhu cầu nào mạnh nhất trong trường hợp
này?
Như vậy cái tạo ra động lực thúc đẩy hành động chính là nhu cầu. Nhu
cầu là cái tất yếu, tự nhiên, là thuộc tính tâm lý của con người, là những đòi
hỏi cần phải được thỏa mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu thường xuất
hiện trong ý thức của con người ở 3 cấp độ khác nhau, đó là ý hướng, ý
muốn và khát vọng. Khi nhu cầu đã đạt tới khát vọng, thì nó biến thành động
cơ thúc đẩy hành động.
Tuy nhiên việc khám phá động cơ của hành động là rất phức tạp. Bởi vì
mỗi một hành động, hành vi nào đó có thể có nhiều động cơ. Có động cơ sinh
lý (do những nhu cầu tự nhiên tạo nên), có động cơ tâm lý (do nhu cầu xã hội,
nhu cầu tâm lý sinh ra). Có động cơ phụ, động cơ chính, những động cơ này
sắp xếp theo thứ hạng cái trên, cái dưới, tùy theo ý nghĩa của nó đối với cá
nhân cụ thể, tình huống cụ thể. Thậm chí cũng có khi ở chúng ta cả hai hay
nhiều động cơ đều mạnh như nhau, buộc chúng ta phải đấu tranh tư tưởng
để thực hiện hành động này và hy sinh hành động khác Trong những lúc như
vậy ý chí và sự nhận thức của con người sẽ quyết định phần thắng sẽ
nghiêng về động cơ nào.
b. Các lý thuyết về động cơ
Có rất nhiều lý thuyết về động cơ, tuy nhiên ở đây chúng ta chỉ làm
quen với các lý thuyết sau đây.
+ Thuyết nhu cầu 5 bậc của Maslow
Hành động của con người được thúc đẩy bởi nhu cầu và các nhu cầu
được sắp xếp từ thấp đến cao theo 5 bậc sau đây:
- Nhu cầu sinh lý: Là nhóm nhu cầu bậc thấp nhất, bao gồm: nhu cầu
ăn, uống, thở, ngủ, nhà ở, thỏa mãn về tình dục… Đây là nhu cầu cơ bản mà
mỗi cá nhân cần phấn đấu đạt được trước khi tính tới nhu cầu bậc thứ hai,
cao hơn. Maslow cho rằng khi những nhu cầu này chưa được thỏa mãn tới
một mức độ cần thiết để duy vì cuộc sống thì những nhu - cầu khác sẽ không
thúc đẩy được con người.
- Nhu cầu an toàn: Là nhu cầu cảm nhận được an toàn, không bị đe
dọa về vật chất và tinh thần, làm cản trở các hoạt động hàng ngày, ví dụ, sự
đe dọa mất việc.
- Nhu cầu xã hội: Nhu cầu giao tiếp, giao lưu; nhu cầu được hòa nhập
vào một nhóm xã hội…
- Nhu cầu được tôn trọng: Muốn được người khác tôn trọng mình, coi
mình là quan trọng. Những nhu cầu loại này dẫn tôi những thỏa mãn như
quyền lực, uy tín, địa vị, và lòng tự tin.
- Nhu cầu tự thể hiện: Là nhu cầu bậc cao nhất, một khi bốn nhu cầu
bậc thấp đã được thỏa mãn, thì con người tìm cách vươn tới nhằm thể hiện
mình. Ở mức cao nhất, phát huy hết tiềm năng của con người.
Đầu tiên là các nhu cầu bậc thấp trở nên căng thẳng đòi hỏi con người
phải thỏa mãn, khi chúng đã thỏa mãn một phần thì các nhu cầu bậc cao hơn
lại xuất hiện. Trong quá trình giao tiếp chúng ta cần có một khả năng nhận
diện và khơi dậy ở người khác những nhu cầu cần được thỏa mãn. Khi các
nhu cầu được thỏa mãn càng cao, thì năng suất lao động và hiệu quả làm
việc của con người càng tăng.
+ Học thuyết hai nhân tố của Frederick Herzberg
Con người có hai nhóm nhu cầu, về cơ bản, độc lập với nhau và ảnh
hưởng tới hành vi theo những cách khác nhau: các nhân tố duy trì (nhân tố vệ
sinh tinh thần) và các nhân tố động viên.
* Đối với các nhân tố động viên, nếu giải quyết tốt thì sẽ tạo ra sự thỏa
mãn và thúc đầy nhân viên làm việc tích cực hơn. Nhưng nếu giải quyết
không tốt thì tạo ra tình trạng không thoả mãn chứ chưa chắc đã bất mãn.
* Đối với các yếu tố duy trì, nếu giải quyết không tốt thì tạo ra trạng thái
bất mãn ở người lao động. Nhưng nếu giải quyết tốt thì tạo ra sự không bất
mãn chứ chưa chắc đã thỏa mãn.
Các nhân tố được Herzberg liệt kê như sau:
* Các nhân tố duy trì:
- Phương pháp giám sát - Hệ thống phân phối thu nhập
- Điều kiện làm việc - Quan hệ liên nhân cách
- Cuộc sống cá nhân - Địa vị
* Các nhân tố động viên:
- Sự thách thức của công việc - Sự thừa nhận thành tích
- Các cơ hội thăng tiến - Ý nghĩa của các trách nhiệm
- Ý nghĩa của các thành tựu…
Từ thuyết này, nhà quản lý cần lưu ý:
- Những nhân tố làm thỏa mãn người lao động là khác với các nhân tố
làm bất mãn. Vì vậy chúng ta không thể mong đợi sự thỏa mãn của họ bằng
cách đơn giản là xoa đi những yếu tố gây sự bất mãn.
- Việc động viên nhân viên đòi hỏi phải chú ý tới cả hai nhóm duy trì và
động viên, chứ không thể chỉ chú trọng một nhóm nào.
+ Học thuyết của David Mc. Clelland
Con người có ba nhu cầu cơ bản: nhu cầu thành tựu, nhu cầu liên minh
và nhu cầu quyền lực.
- Nhu cầu thành tựu: là nhu cầu giải quyết công việc một cách tốt hơn,
muốn vượt qua các trở ngại, khó khăn bằng chính sức của mình…
Để động viên những người có nhu cầu thành tựu cao, thì người quản lý
cần:
* Giao cho họ những công việc mang trách nhiệm cá nhân.
* Đặt mục tiêu công việc cao hơn một chút so với yêu cầu.
* Phản hồi nhanh chóng về kết quả làm việc của họ.
* Để cho họ tự do vạch kế hoạch làm việc.
- Nhu cầu liên minh: giống nhu cầu xã hội trong mô hình Maslow. Người
có nhu cầu này cao sẽ làm việc tốt hơn ở những loại công việc tiếp xúc với
con người và tạo ra nhiều mối quan hệ.
- Nhu cầu quyền lực: là mong muốn ảnh hưởng và kiểm soát người
khác.
Thường thì người có nhu cầu thành tựu cao và nhu cầu quyền lực
mạnh có xu hướng trở thành nhà quản trị.
+ Học thuyết của Clayton Anderfer
Con người theo đuổi ba nhu cầu cơ bản: nhu cầu tồn tại (giống nhóm
nhu cầu sinh lý), nhu cầu quan hệ (giống nhóm nhu cầu xã hội) và nhu cầu
phát triển (giống một phần nhóm nhu cầu tôn trọng và tự thể hiện trong mô
hình của Maslow).
Con người đồng thời theo đuổi cả ba nhu cầu đó và nếu một nhu cầu
nào đó bị cản trở thì người ta dồn nỗ lực vào để thỏa mãn những nhu cầu
khác..
Tức là nếu nhu cầu tồn tại bị đe dọa thì người ta tập trung theo đuổi
nhu cầu quan hệ và nhu cầu phát triển, vì thế khi một nhóm bị đe dọa bởi
nhóm khác thì các thành viên trong nhóm trở nên đoàn kết hơn là vậy.
+ Thuyết mong đợi của Victor Vroom
Con người sẽ được thúc đẩy trong việc thực hiện những công việc để
đạt tới một mục tiêu nếu họ tin vào giá trị của mục tiêu đó và họ có thể thấy
được rằng những công việc họ làm sẽ giúp cho họ đạt được mục tiêu. Nói
cách khác, động cơ thúc đẩy là kết quả của giá trị mong đợi mà con người đặt
vào mục tiêu và những cơ hội mà họ thấy sẽ hoàn thành được những mục
tiêu đó.
Thuyết của Vroom có thể biểu diễn bằng công thức như sau:
Sức mạnh động cơ = Mức độ ham muốn x Hy vọng
Trong đó sức mạnh động cơ là cường độ thúc đẩy con người hành
động; mức độ ham muốn là cường độ ưu ái của một người dành cho kết quả;
còn hy vọng là xác suất hoàn thành công việc mong muốn.
Từ đây nhà quản lý muốn động viên người lao động cần phải:
- Tạo ra các phần thưởng mà người lao động mong muốn.
- Bảo đảm mức độ thực hiện mong muốn là có thể đạt được
- Bảo đảm phần thưởng là đủ sức hấp dẫn cần thiết.
- Bảo đảm là hệ thống phân phối là công bằng (công bằng cá nhân và
công bằng xã hội).
Tóm lại, hầu như mọi lý thuyết về động cơ đều cố gắng đưa ra những
nhu cầu quan trọng nhất của con người và tìm cách thỏa mãn chúng đồng
thời hướng sự thỏa mãn đó tới việc hoàn thành tốt nhiệm vụ của tổ chức. Vì
vậy chúng ta có thể hoàn toàn nhất trí với lời dạy của D. Carnegie, “Muốn dẫn
dụ ai làm việc gì theo ý ta, chỉ có cách là làm cho người ấy phát khởi cái ý
muốn làm việc đó”.
2. Vô thức và các cơ chế tự vệ
Các hành vi giao tiếp của con người còn chịu tác động của vô thức và
các cơ chế tự vệ.
a. Vô thức
Vô thức là những hiện tượng tâm lý không có sự tham gia của ý thức
và chúng xảy ra ngoài sự kiểm soát của con người. Vô thức được nhà phân
tâm học Z.Freud phát hiện và nêu lên trong luận thuyết về “sự vô thức trong
động cơ thúc đẩy"
Như trên chúng ta đã biết là hành vi ứng xử của con người thường xuất
phát từ động cơ thúc đẩy nhằm đạt tới một mục tiêu nhất định. Động cơ đó,
mục đích đó thường được chúng ta ý thức và kiểm soát. Nhưng Vẫn có
những hành vi, cử chỉ, câu nói được chúng ta thực hiện theo vô thức, tức là
không nhận biết được động cơ và mục đích của hành động.
Vô thức có thể được hình thành xuất phát từ bản năng, những nhu cầu
tự nhiên; nhưng cũng có khi đó lại là một hành động vốn là có ý thức, nhưng
được lặp đi lặp lại nhiều lần mà trở nên vô thức (còn gọi là tiềm thức). Nói
chung các thói quen và kỹ xảo giao tiếp của chúng ta đều ở dạng tiềm thức,
tức là chúng ta thực hiện chúng một cách tự động. Và những lời quảng cáo
lặp đi lặp lại nhằm tạo ra trong đầu khách hàng những tiềm thức về nhãn hiệu
của hàng hóa, để khi cần đến mặt hàng nào thì khách hàng nhớ ngay tới
nhãn hiệu đó.
Vô thức thường được thể hiện ở những cơ chế tự vệ tâm lý.
b. Các cơ chế tự vệ
Khi con người gặp những sức ép của sự đe dọa, một va chạm, một sự
lo âu, thì các cơ chế tự vệ xuất hiện nhằm giúp người ta tránh những phiền
phức, giữ được sự cân bằng tâm lý. Các cơ chế tự vệ thường là ở dạng vô
thức.
+ Cơ chế đè nén:
Đó là sự chối bỏ thực tế. Gạt ra khỏi ý thức những ý tưởng, cảm xúc,
kinh nghiệm tiêu cực. Chúng ta né tránh những thực tế không vui lòng bằng
cách né tránh nó đi. Chúng ta ngoảnh đi trước những cảnh tượng đau buồn,
tránh không đề cập tới những vấn đề khó giải quyết. Chẳng hạn, nhiều khi
chúng ta tự an ủi “ừ nó cũng có những mặt tốt đấy chứ, khi chúng ta thấy đứa
bạn bị hư hỏng.
+ Cơ chế đền bù:
Là một cố gắng che đậy những khuyết điểm cá nhân bằng cách phát
triển những nét tích cực trong nhân cách. Ví dụ, một người bị khuyết tật về
thể chất cố học thật giỏi, một học sinh học kém cố chơi thể thao thật giỏi.
+ Cơ chế qui chụp:
Là gán cho người khác những ý nghĩ, lỗi lầm hay ước muốn của ta.
Chúng ta đổ lỗi cho người khác khi chúng ta phạm lỗi. Thường chúng ta hay
đổ lỗi cho số phận, sự hên xui. Ví dụ, mình không thích anh A nhưng lại chụp
cho A là không thích mình, hoặc mình thi rớt lại đổ lỗi là “học tài thi phận".
+ Cơ chế viện lý giả tạo:
Là đưa ra những lý lẽ không đúng sự thực để giải thích cho hành động
của mình. Ví dụ, dùng câu nói “có ghen thì mới yêu” để lý giải cho sự ghen
tuông mù quáng của mình.
+ Cơ chế di chuyển:
Tức là di chuyển một cảm xúc, một phản ứng đối với đối tượng này
sang đối tượng khác. Ví dụ, một hôm nào đó bực mình với sếp người ta có
thể về cáu gắt vợ con một cách vô cớ.
+ Cơ chế thoái bộ:
Tức là dùng những hành vi của trẻ con để trốn tránh trách nhiệm, ngại
thử thách. Ví dụ, một người có thể dậm chân, dậm cẳng, khóc òa khi tức giận
hay đau buồn. Hoặc một phụ nữ có chồng lại chạy về nhà mẹ đẻ để mách là
ông chồng đánh mình. Hay người lớn khi nằm viện hay nhõng nhẽo để được
chăm sóc.
Trên đây là một số cơ chế tự vệ tiêu biểu ảnh hưởng tới hành vi, ứng
xử của con người trong giao tiếp. Nhận biết được chúng, bạn có thể giải thích
được những hành vi “vô cớ” của mình cũng như của đối tượng giao tiếp.
3. Thế giới quan
Là hệ thống quan điểm của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân,
xác định phương châm hành động của người đó. Thế giới quan quyết định
thái độ của con người đối với thế giới xung quanh, quyết định những phẩm
chất và phương hướng phát triển của nhân cách. Thế giới quan đóng vai trò
định hướng hành vi của chúng ta. Thường thì người ta quan niệm như thế
nào, sẽ hành động như vậy.
Một trong những dạng đặc biệt của thế giới quan là niềm tin. Niềm tin là
một hệ thống quan niệm mà con người nhận thức được qua hiện thực để xem
xét cuộc đời, để định hướng hành động, hành vi của mình. Con người có
nhiều loại niềm tin: niềm tin khoa học, niềm tin vào cha mẹ, vào vợ chồng,
vào pháp luật, vào chính trị, vào tôn giáo, vào số phận… Nhờ đó mới làm cho
con người có cái thế cân bằng, tương tự như những vị thuốc trong một thang
thuốc, mỗi vị tức là một niềm tin cố tác dụng một mặt, song cái chung là giúp
con người khỏe mạnh về tâm hồn để sống và làm việc.
Niềm tin giữ vai trò là kim chỉ nam cho cuộc sống của con người. Khi
con người tin vào ai, tin vào cái gì, thì họ phục vụ, phụng sự hết lòng vì người
đó, vì điều đó. Vì vậy nhà quản trị phải chú ý gây được niềm tin của mọi
người vào mình, đặc biệt là phải tạo chữ tín trong kinh doanh.
4. Cảm xúc - tình cảm
Cảm xúc là những rung cảm của con người đối với những sự vật và
hiện tượng có liên quan đến việc thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu. Nếu
một sự vật hiện tượng thỏa mãn nhu cầu của chúng ta thì nảy sinh ra cảm
xúc tích cực, như hài lòng, thú vị, sung sướng. Nhưng nếu nó không thỏa
mãn nhu cầu của chúng ta thì sẽ nảy sinh ra cảm xúc tiêu cực, như khó chịu,
bực mình, đau khổ… Cảm xúc thường là những rung cảm ngắn, nhất thời,
không ổn định hay thay đổi. Trong quá trình giao tiếp với nhau những cảm
xúc này tích lũy dần dần sẽ biến thành những tình cảm tương ứng. Tình cảm
là những rung cảm đã trở nên ổn định, bền vững và kéo dài. Tình cảm và xúc
cảm là hai cấp độ khác nhau của đời sống tình cảm con người.
Trong giao tiếp, nếu những cảm xúc cùng loại được lặp đi lặp lại qua
những lần tiếp xúc thì sẽ dần dần hình thành nên tình cảm tương ứng. Mặt
khác trên cơ sở những tình cảm đã có từ trước với nhau, mỗi lần giao tiếp
giữa hai người lại nảy sinh những cảm xúc như sự rung động thể nghiệm
những tình cảm đó. Những tình cảm tích cực như yêu thương, quý trọng và
những cảm xúc dễ chịu nảy sinh trên cơ sở những tình cảm đó làm cho hai
người lại có nhu cầu gặp gỡ giao tiếp với nhau. Ngược lại, những tình cảm
tiêu cực như sự căm thù, khinh bỉ, và những cảm xúc khó chịu nảy sinh làm
cho hai người xa lánh nhau, ngại giao tiếp với nhau.
Trong giao tiếp, tình cảm, xúc cảm chi phối lại cách nhận thức của
chúng ta về đối tượng. Chúng có thể làm cho chúng ta nhận thức sai lệch đi,
méo mó đi “Yêu nên tốt, ghét nên xấu” hay “Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét
nhau thì quả bồ hòn cũng méo". Hơn nữa tình cảm, xúc cảm cũng chi phối rất
mạnh tới hành vi của con người trong giao tiếp. Chúng có thể tạo nên sự
hưng phấn, sáng suốt, hoạt bát, sự tươi trẻ, nhưng cũng có thể làm cho con
người trở nên mụ mẫm, chán nản, rũ rượi, mất hết sinh khí. Đặc biệt trong
giao tiếp nếu xảy ra những cơn xúc động mạnh thì chúng có thể làm cho ta
mất hết sáng suốt, không ý thức được hành vi không lường trước được hậu
quả, dẫn đến sai lầm trong hành vi và quyết định.
Từ đó ta thấy rằng tình cảm, xúc cảm là chỗ mạnh nhất nhưng cũng là
chỗ yếu nhất của con người. Vì vậy để giao tiếp có hiệu quả chúng ta cần
kiềm chế và làm chủ được tình cảm, xúc cảm của mình. Mặt khác trong lãnh
đạo, nhà quản trị cần phải tác động đến tình cảm của cấp dưới, dùng tình
cảm để chinh phục, cảm hóa cấp dưới. Nhà quản trị cần thấy rõ vai trò của
cảm xúc, tình cảm trong việc thúc đẩy hành vi. Những cộng việc, nhiệm vụ
nào gây được sự hứng thú ở nhân viên sẽ được họ thực hiện một cách thoải
mái và có hiệu quả. Sự thành công, những lời đánh giá tốt trong công việc
thường gây nên ở họ một cảm xúc tự hào, vui sướng, cảm xúc đó là một kích
thích tích cực cho sự nỗ lực tiếp theo trong công việc. Ngược lại sự thất bại,
sự quở trách thường tạo ra ở nhân viên một cảm xúc khó chịu, không thoải
mái và thường dẫn đến hành vi tiêu cực.
5. Tính cách
Sống và hoạt động trong xã hội mỗi cá nhân đều có những phản ứng
riêng của mình đối với những tác động ngoại cảnh. Khi những phản ứng đó
trở nên ổn định trong những hoàn cảnh khác nhau thì chúng trở thành thuộc
tính tâm lý, tạo nên tính cách con người. Với tính cách của mình, con người
thể hiện thái độ đối với thế giới xung quanh, với mọi người, với công việc và
với chính bản thân mình.
“Tính cách là sự kết hợp độc đáo các đặc điểm tâm lý ổn định của con
người, những đặc điểm này quy định phương thức hành vi điển hình của
người đó trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, thể hiện thái độ của họ
đối với thế giới xung quanh và bản thân” (Phạm Minh Hạc-1988).
Những phẩm chất như: trung thành hay phản bội, thực thà hay giả dối,
siêng năng hay lười biếng, kiêu ngạo hay khiêm tốn, dũng cảm hay hèn
nhát…thường được gọi là những nét tính cách của con người. Trong thực tế
hiếm có những người chỉ gồm toàn những nét tính cách tốt hoặc toàn những
nét tính cách xấu. Ở một cá nhân thường lẫn lộn những tính cách tốt và
những tính cách xấu. Vì vậy khi đánh giá một con người xấu hay tốt không chỉ
căn cứ vào một vài nét tính cách nào đó mà phải xem xét một cách tổng thể
trong mối tương quan công việc, lĩnh vực hoạt động hay tính trầm trọng và
mức độ ảnh hưởng của những nét tính cách đó tới xã hội và những người
xung quanh như thế nào.
Tính cách ảnh hưởng rất lớn đến hành vi giao tiếp. Những phẩm chất
của tính cách sau đây giúp con người dễ dàng giao tiếp và giao tiếp có hiệu
quả: bình tĩnh, cởi mở, hiền hậu, khiêm tốn, lịch sự, thẳng thắng. Còn ngược
lại, những nét tính cách xấu như: đanh đá, cộc cằn, gian xảo, hung hãn, nhỏ
nhen, thô lỗ… thường cản trở sự giao tiếp có hiệu quả của con người.
Thường mỗi nét tính cách được biểu hiện qua những hành vi giao tiếp
tương ứng, nhưng giữa tính cách và hành vi không phải luôn luôn ăn nhập
với nhau. Chắc bạn cũng đã từng gặp những trường hợp mà “khẩu xà nhưng
tâm Phật", hay có khi “ngoài thì xơn xớt nói cười, còn trong nguy hiểm giết
người không dao". Vì vậy khi đánh giá tính cách con người thông qua hành vi,
bạn nên thận trọng, mà có thể phải dùng những tình huống để kiểm tra được
cái “Tâm” bên trong mới chắc ăn.
Tùy theo tính chất công việc mà sự giao tiếp cần có những nét tính
cách này nhiều hơn những nét tính cách khác. Trong giao tiếp kinh doanh thì
những nét tính cách như lịch sự, chu đáo, thật thà, chín chắn, thận trọng bao
giờ cũng làm vui lòng các “Thượng đế”. Còn ngược lại, những nét tính cách
xấu như giả dối, cộc cằn, lười biếng, thờ ơ, cửa quyền… thường làm cho
khách hàng mất lòng.
6. Khí chất (hay tính khí)
Khí chất là sự biểu hiện về mặt cường độ, tốc độ và nhịp độ của các
hoạt động tâm lý trong những hành vi, cử chỉ, lời nói của con người. Bằng
thực nghiệm, I.P. Paplov giải thích rằng khí chất phụ thuộc vào kiểu hoạt động
thần kinh cao cấp của con người, được tạo bởi các quá trình thần kinh cơ bản
là hưng phấn và ức chế cùng với các tính chất của những quá trình đó là
cường độ, tính linh hoạt và sự cân bằng.
Khí chất biểu thị một số đặc điểm bề ngoài của hành vi, cử chỉ như sự
năng nổ, hoạt bát, vội vàng, nóng nảy, trầm tĩnh hay sôi động…Nó không
quyết định những nét tính cách, năng lực, trình độ cũng như giá trị đạo đức
của con người. Tuy nhiên khí chất con người cũng có liên quan mật thiết với
tính cách, xu hướng, năng lực. Nó có thể góp phần tạo nên những thuộc tính
tâm lý. Đặc biệt khí chất ảnh hưởng nhiều đến sự cư xử của con người đến
hiệu quả của hành động.
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu những kiểu khí chất cơ bản của cá nhân:
- Khí chất linh hoạt: Những người có khí chất này thường nhận thức
nhanh, nhưng hời hợt, chủ quan. Họ và những người hoạt bát, vui vẻ, dễ tiếp
xúc, giao tiếp rộng, dễ thích nghi với mọi điều kiện, giàu sáng kiến, nhiều mưu
mẹo. Họ nhiệt tình, tích cực trong mọi công tác, nhưng thiếu kiên trì, chóng
chán. Cảm xúc của họ bộc lộ phong phú, sôi động, nhưng tình cảm không
bền vững, hay đổi thay. Những người có khí chất linh hoạt thích hợp với
những công việc có tính chất đổi mới, có nội dung hoạt động sôi nổi, linh hoạt.
Còn đối với những công việc đơn điệu, kém thú vị thì họ sẽ mau chóng chán
nản.
- Khí chất điềm tĩnh: Những người này thường tỏ ra ung dung, bình
thản: Họ có thể kiềm chế được cảm xúc và những cơn xúc động. Trong quan
hệ thường đúng mực, hơi kín đáo và tỏ ra thờ ơ, thiếu nhiệt tình với những
người xung quanh. Họ thường nhận thức hơi chậm, nhưng sâu sắc, chín
chắn. Trong hoạt động có sự đều đặn, cân bằng, và có tính kế hoạch, tính
nguyên tắc, không thích mạo hiểm. Trong quản trị, những người này thường
thích hợp với công tác kế hoạch, tổ chức, nhân sự, những công việc đòi hỏi
tính cẩn thận và tính nguyên tắc.
- Khí chất nóng: là người tỏ ra có sức sống dồi dào, các hoạt động tâm
lý bộc lộ mạnh mẽ. Họ thường vội vàng, hấp tấp, làm việc sôi động, phung phí
sức lực. Trong quan hệ họ thường nóng nảy, thậm chí đôi khi tỏ ra cọc cằn,
thô bạo, họ dễ bị kích động, dễ cáu bẳn, nhưng không để bụng lâu. Họ
thường nhanh chóng say sưa với công việc, nhưng cũng nhanh xẹp. Họ ít có
khả năng làm chủ bản thân trong các trường hợp bất thường, ít có khả năng
đánh giá hành động của người khác một cách khách quan. Trong công việc,
nếu được kích động, động viên thì họ sẵn sàng xông lên không nề khó khăn
nguy hiểm. Nhưng khi họ phạm một vài thất bại, sai lầm thì họ cũng nhanh
chóng mất hứng thú với công việc trở nên khó tính, cáu gắt, dễ có hành động
thô bạo. Trong hoạt động quản trị, những người này không thích hợp với
công việc mang tính tổ chức, nhân sự, không hợp với những công việc đòi hỏi
tính tỷ mỉ, mang tính “tầm thường". Tuy nhiên họ có thể đảm nhận tốt những
công việc đòi hỏi sự dũng cảm, xông xáo. Trong quan hệ nên đối xử tế nhị,
nhẹ nhàng với họ, tránh phê bình trực diện.
- Khí chất ưu tư: những người này trông có vẻ ủy mị, yếu đuối, chậm
chạp. Họ dễ sinh lo lắng, mặc cảm, dễ xúc động thường sống trầm lặng, kín
đáo, ngại va chạm, ngại giao thiệp: Họ nhận thức hơi chậm, nhưng sâu sắc,
tinh tế. Họ thường đắn đo, suy nghĩ chi tiết, thận trọng trong mọi việc sắp làm,
nên lường trước được những hậu quả. Họ có tính kiên trì, chịu khó trong
những công việc đơn điệu, tầm thường. Trong quan hệ với mọi người, tuy họ
ít cởi mở nhưng tình cảm sâu sắc, bền vững và tế nhị. Nói chung họ thường
là những người tốt, có tinh thần trách nhiệm cao, có ý thức tổ chức, kỷ luật
cao. Trong hoạt động họ cần có sự khuyến khích, động viên, tin tưởng giao
việc cho họ và không nên phê bình, trách phạt một cách trực tiếp.
Trên đây là 4 loại khí chất cơ bản của con người. Trong thực tế ít có
người nào có đơn thuần một kiểu khí chất, mà là thường có sự pha trộn
những khí chất với nhau. Khi ta đánh giá khí chất của một nguời là căn cứ
vào loại khí chất nào nổi bật nhất ở họ. Không có loại khí chất nào tốt hoặc
xấu hoàn toàn, mỗi khí chất có những ưu điểm và nhược điểm của mình. Vấn
đề là nhà quản trị phải hiểu rõ khí chất của mỗi người, và những ưu
điểm,nhược điểm của loại khí chất đó để phân công công việc và đối xử cho
hợp lý, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của họ.
II. CÁC YẾU TỐ VĂN HOÁ Những yếu tố văn hóa có ảnh hưởng to lớn và sâu sắc nhất đến hành
vi giao tiếp của con người. Chúng ta sẽ xem xét nền văn hóa và nhánh văn
hóa ảnh hưởng tới hành vi giao tiếp như thế nào.
1. Nền văn hóa
Văn hóa là nguyên nhân đầu tiên, sâu xa và cơ bản quyết định nhu cầu
và hành vi của con người. Cách thức hành vi, ứng xử của con người được
tiếp thu chủ yếu từ bên ngoài. Mỗi một con người sinh ra và lớn lên đều được
tiếp thu những điều cơ bản về giá trị, sự cảm thụ, sự ưa thích, tác phong và
hành vi đặc trưng cho gia đình của mình và những thể chế cơ bản của xã hội.
Từ đó trong giao tiếp con người cũng có những cách thức ứng xử đặc trưng
với nền văn hóa mà anh ta đã được tiếp thu.
Ví dụ. Một đứa trẻ lớn lên ở Mỹ sẽ được tiếp thu những quan niệm giá
trị như sau: làm việc và thành công, tính tích cực, khả năng làm việc và tính
thực tế, tiến lên phía trước, tiện nghi vật chất, chủ nghĩa cá nhân, tự do tính
trẻ trung… Còn ở châu Á trẻ em sinh ra được thừa hường các giá trị như
quan hệ gia đình và cá nhân, sự vâng lời, trung thực, tôn trọng người lớn,…
Người Việt Nam chúng ta sinh ra được tiếp thu những đặc trưng văn
hóa giao tiếp như: thích thăm viếng, tính hiếu khách, trọng tình cảm, trọng
danh dự, ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận. Những đặc trưng văn hóa
này chi phối rất mạnh cách thức ứng xử của người Việt Nam.
2. Nhánh văn hóa
Bất kỳ nền văn hóa nào cũng bao gồm những bộ phận cấu thành nhỏ
hơn hay nhánh văn hóa đem lại cho các thành viên của mình khả năng hòa
đồng và giao tiếp cụ thể hơn với những người giống mình.
Trong những cộng đồng rộng lớn thường tồn tại những nhóm người
cùng sắc tộc, ví dụ như người Ailen, người Ba lan, người Ý, người
Puectorico. Những nhóm người này có những ham mê và mối quan tâm
mang rõ tính dân tộc của mình. Những nhánh văn hóa riêng với những sở
thích và điều cấm kỵ đặc thù là những nhóm tôn giáo như nhóm tín đồ Thiên
chúa giáo, nhóm tín đồ Hồi giáo, đạo Hin đu. Trong cách thức giao tiếp những
người thuộc các nhánh văn hoá khác nhau cũng không giống nhau.
Ví dụ. Người Ấn Độ chào nhau bằng cách chắp tay ở trước ngực hay
ngang trán để thể hiện sự tôn kính. Đối với người đẳng cấp Balamôn không
bao giờ được tặng đồ da (giày da, thắt lưng đa…). Còn khi chụp hình với
người Hồi giáo thì không được hoan nghênh.
III. CÁC YẾU TỐ XÃ HỘIHành vi giao tiếp của con người cũng được qui định bởi những yếu tố
mang tính xã hội như những nhóm xã hội, gia đình, giai cấp, vai trò và địa vị
xã hội, các chuẩn mực quy chế xã hội…
1. Các nhóm xã hội
Hành vi, thái độ của một người chịu ảnh hưởng của nhiều nhóm xã hội
khác nhau. Nhóm thành viên là những nhóm có ảnh hưởng trực tiếp (tức là
khi tiếp xúc trực tiếp) hay gián tiếp đến thái độ và cách cư xử của một người.
Những nhóm có ảnh hưởng trực tiếp tới con người được gọi là những nhóm
nhỏ. Đó là những nhóm mà cá nhân nằm trong đó và có tác động qua lại một
cách trực tiếp và thường xuyên. Ví dụ như, nhóm bạn bè, gia đình, nhóm
đồng nghiệp cùng phân xưởng. Để nói tới ảnh hưởng của nhóm nhỏ tới hành
vi của cá nhân dân gian có những câu như: “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi nới
ma mặc áo giấy. Ngoài ra cách cư xử của con người còn chịu ảnh hưởng của
những nhóm lớn, mà trong đó anh ta là thành viên. Trong những nhóm này
các thành viên không tác động và ảnh hường trực tiếp lên nhau. Đó là nhóm
tôn giáo, giai cấp, đảng phái, nghiệp đoàn…
Hành vi của cá nhân cũng chịu ảnh hưởng của cả những nhóm mà nó
không phải là thành viên, nhưng nó lại chấp nhận và chia sẻ những chuẩn
mực hành vi của nhóm đó. Những nhóm như vậy được gọi là nhóm tham
chiếu. Ví dụ, có những người không phải là nghệ sĩ nhưng lại thích có những
hành vi, ứng xử như “dân nghệ sĩ". Hoặc có những thiếu niên choai choai
muốn cảm thấy là “người lớn” trong mắt người khác thường thích dùng những
hành vi của người lớn, như hút thuốc, uống rượu… Một số người lớn tuổi lại
thích dùng những thời trang đành cho thanh niên để cảm thấy mình như trẻ
ra.
2. Gia đình
Gia đình là nơi mà con người học hỏi được những cách thức, hành vi
đầu tiên. Sự định hướng của gia đình gồm các bậc cha mẹ. Từ cha mẹ, cá
nhân có được sự định hướng về tôn giáo, chính trị, định hướng giá trị, tham
vọng cá nhân và tình cảm.
Cách thức ứng xử trong gia đình giữa cha mẹ, ông bà, anh em tạo dấu
ấn đầu tiên lên cách ứng xử của mỗi cá nhân. Cho dù sau này cá nhân không
còn sinh hoạt với gia đình nữa, thì ảnh hưởng của cha mẹ một cách vô thức
lên hành vi của anh ta có thể vẫn có một ý nghĩa đáng kể.
3. Vai trò, vị trí xã hội
Mỗi một chúng ta tham gia vào nhiều nhóm xã hội khác nhau: gia đình,
câu lạc bộ, công ty, lớp học... Bất kỳ một nhóm xã hội nào cũng bao gồm một
số vai trò. Ví dụ, trong gia đình có vai trò người cha, vai trò người mẹ, vai trò
người con; trong công ty có vai trò giám đốc, vai trò trưởng phòng… Vai trò là
tập hợp các chuẩn mực hành vi, các quyền lợi và nghĩa vụ mà những người
xung quanh mong đợi ở người giữ vai trò đó. Chẳng hạn, vai trò người mẹ là
chăm sóc, nuôi dạy con cái. Mỗi một vai trò thường tương ứng với một vị trí
xã hội nhất định. Vị trí xã hội là chỗ đứng của mỗi người trong không gian xã
hội, nó cho biết mỗi người là ai (là người cha, người mẹ, là giám đốc…).
Mỗi một cá nhân có thể đóng nhiều vai trò khác nhau tùy vào số đoàn
thể mà anh ta tham gia. Tuy nhiên trong các vai trò đó có vai trò then chốt mà
cá nhân thường đồng hóa mình. Mà thường thì vai trò gắn với vị trí nghề
nghiệp được coi là then chốt. Ví dụ, bạn có thể vừa là người con trong gia
đình, vừa là người bạn trong nhóm bạn bè, vừa là thành viên câu lạc bộ tiếng
Anh, Vừa là sinh viên đại học. Nhưng khi một người hỏi: “Bạn là ai?”, thì
thường xuyên nhất bạn sẽ đáp là: “Tôi là sinh viên”. Như vậy ở đây sinh viên
là vai trò then chốt.
Trong giao tiếp, mỗi một hành vi ứng xử của con người luôn muốn đáp
ứng lại những kỳ vọng của người khác. Kỳ vọng là những mong đợi, những
đòi hỏi mà xã hội đã xác định khi cá nhân đứng vào một vị trí nhất định.
Chẳng hạn, với tư cách là người lính, người ta mong đợi anh ta thực hiện
những hành vi dũng cảm; với tư cách người vợ, người ta mong đợi vào sự
chung thủy, đảm đang. Khi bạn đóng một vai trò nào đó, bạn sẽ có những
hành vi ứng xử phù hợp với vai trò đó.
Nếu trong giao tiếp, bạn không đáp ứng những kỳ vọng thì bạn sẽ bị
sự chế tài của xã hội. Chế tài là những hành vi thưởng phạt. Một trong những
hình thức chế tài ảnh hưởng mạnh đến hành vi giao tiếp của con người trong
xã hội, mặc dù nó không mang tính chính thức, đó là dư luận xã hội. Và thậm
chí có những hình thức chế tài rất nặng mang tính pháp lý đó là phạt vi cảnh,
phạt tù…
4. Hệ giá trị, chuẩn mực hành vi
Hành vi của con người trong xã hội được điều tiết bởi các giá trị và
chuẩn mực hành vi. Giá trị là điều mà một xã hội cho là phải, là đúng, là đẹp,
là nên làm, và là cơ sở để dựa vào đó để phán đoán, đánh giá và ứng xử.
Trong một xã hội các giá trị thường kết hợp với nhau tạo thành một hệ giá trị.
Mỗi một xã hội khác nhau thường đề cao những hệ giá trị khác nhau. Chẳng
hạn, người Mỹ đề cao cá nhân chủ nghĩa, người Mêhicô coi trọng gia đình
chủ nghĩa, người Nhật lại tôn thờ tinh thần tập thể. Mỗi một thời đại khác
nhau cũng có nhưng hệ giá trị khác nhau, và ngay trong một xã hội một thời
đại giá trị của các nhóm hay của các tầng lớp xã hội cũng khác nhau.
Giá trị được cụ thể hóa ở những chuẩn mực hành vi. Chuẩn mực là
những qui tắc sống và ứng xử, qui định cách cư xử của con người là tốt hay
là xấu, là thích hợp hay không thích hóp. Mỗi một nền văn hóa, một xã hội có
các hệ thông chuẩn mực tạo thành hệ thống kiểm soát của xã hội và điều tiết
các hành vi, cách ứng xử của cá nhân trong nền văn hóa đó.
Tóm lại, hành vi ứng xử của con người trong giao tiếp bị chi phối bởi
một hệ thống hết sức phức tạp bao gồm nhiều yếu tố khác nhau. Đó là những
yếu tố thuộc về đời sống tâm lý của cá nhân, những yếu tố đặc trưng từ nền
văn hóa và tác động từ những nhóm xã hội, những chuẩn mực hành vi,
những giá trị mà xã hội đề cao. Ngoài những yếu tố được phân tích ở trên,
hành vi của cá nhân còn bị chi phối bởi những yếu tố cá nhân như tuổi tác,
giới tính, nghề nghiệp, tình trạng kinh tế và cả lối sống nữa.
Câu hỏi ôn tập3.1. Bạn hãy phân tích một số yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hành vi
giao tiếp?
3.2. Bạn hãy so sánh lý thuyết của Maslow với lý thuyết của Herzberg.
Bạn có lưu ý gì khi tác động tới nhân viên nếu dựa vào những lý thuyết đó?
3.3. Văn hóa có ảnh hưởng như thế nào tới giao tiếp? Khi giao tiếp với
người nước ngoài bạn chú ý những gì?
3.4. Hành vi giao tiếp của bạn chịu sự chi phối những yếu tố xã hội
nào? Phân tích ngắn gọn những yếu tố đó.
3.5. Tại sao khi giao tiếp, bạn cần tìm hiểu khí chất của đối tượng? Cho
ví dụ minh họa cụ thể?
Câu hỏi thảo luận
3.a) Bạn có nhận xét gì vế lý thuyết của Maslow. Đúng chỗ nào? Không
đúng chỗ nào?
3.b) Tiền bạc, vật chất có phải luôn luôn là động cơ thúc đẩy hay
không? Tại sao?
Chương 4: CÁC KỸ NĂNG GIAO TIẾP
I. KỸ NĂNG LẮNG NGHENhư trên chúng ta đã biết rằng quá trình truyền thông là một tiến trình
tương hỗ và tuần hoàn, trong đó có kẻ nói người nghe và ngược lại. Tuy
nhiên, không phải ai cũng chú ý lắng nghe và biết lắng nghe. “Bất hạnh thay,
rất ít người biết chú ý lắng nghe. Các nhà nghiên cứu cho rằng ngay ở mức
thông tin thuần túy, 75% các thông báo miệng không được chú ý đến, bị hiểu
sai, hoặc bị lãng quên nhanh chóng. Khả năng lắng nghe và nắm bắt những ý
nghĩa sâu sắc trong lời nói của người khác thì lại càng hiếm".
Lắng nghe là một trong những kỹ năng rất quan trọng trong giao tiếp.
Trong giao tiếp người ta thường dùng 42% thời gian cho việc nghe, còn lại
58% thời gian dành cho việc nói, đọc và viết. Như vậy gần một nửa thời gian
giao tiếp dành cho lắng nghe. Thế nhưng người ta lại dành thời gian rất ít cho
việc rèn luyện kỹ năng lắng nghe.
1. Tại sao lại phải lắng nghe?
Trong giao tiếp thông thường, lắng nghe có mấy lợi ích sau đây:
- Thỏa mãn nhu cầu của đối tượng. Không có gì chán bằng khi mình
nói mà không ai thèm nghe. Vì vậy khi bạn lắng nghe người ta nói, chứng tỏ
bạn biết tôn trọng người khác và có thể thỏa mãn nhu cầu tự trọng của anh
ta.
- Thu thập được nhiều thông tin hơn. Bằng cách khuyến khích người ta
nói bạn sẽ có được thêm các thông tin, từ đó có cơ sở mà quyết định. Bạn
càng có được nhiều thông tin thì quyết định của bạn cũng chính xác.
- Tạo ra mối quan hệ tốt đẹp với người khác. Khi một người tìm được
một người có cảm tình lắng nghe thì sẽ nảy sinh một mối quan hệ tốt đẹp.
Lắng nghe giúp tình bằng hữu tăng trưởng và kết quả sẽ là sự hợp tác trong
hoạt động.
- Tìm hiểu được người khác một cách tốt hơn. Lắng nghe giúp bạn nắm
bắt được tính cách, tính nết và quan điểm của họ, vì họ sẽ bộc lộ con người
của họ trong khi nói.
- Giúp người khác có được một sự lắng nghe có hiệu quả. Bằng cách
tạo dựng một không khí lắng nghe tốt, bạn sẽ thấy rằng những người nói
chuyện với bạn trở thành những người lắng nghe có hiệu quả.
- Lắng nghe giúp chúng ta giải quyết được nhiều vấn đề. Có nhiều vấn
đề, nhiều sự mâu thuẫn không giải quyết được chỉ vì hai bên không chịu lắng
nghe để hiểu nhau. Bằng sự cởi mở của mình và bằng cách khuyến khích
người ta nói, hai bên sẽ phát hiện ra những nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn
và cùng nhau đưa ra các giải pháp để thoát ra sự xung đột đó.
Trong giao tiếp quản trị kinh doanh, lắng nghe sẽ đưa lại những lợi ích
sau đây:
- Mệnh lệnh chỉ thị từ trên xuống và những ý kiến đóng góp từ dưới lên
được tiếp thu một cách đầy đủ và chính xác, giúp nhà quản trị và nhân viên
hoàn thành tốt công việc của mình hơn do hạn chế được những lỗi hoặc do
những thông tin bị bỏ sót.
- Cải thiện mối quan hệ giữa nhà quản trị và nhân viên, hạn chế được
những xung đột không cần thiết. Mọi người cảm thấy hài lòng, phấn khởi, nếu
như ý kiến của họ được thủ trưởng lắng nghe và hiểu họ. Hơn nữa trong quá
trình lãnh đạo, nhà quản trị biết lắng nghe sẽ thu thập được những phản hồi
từ dưới lên, giúp nhà quan trị nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của nhân
viên để kịp thời đáp ứng tạo động cơ tích cực giúp họ làm việc tốt hơn.
- Dựa vào những thông tin phản hồi của quần chúng, nhà quản trị
lượng giá được mức độ chính xác và hợp lý của những quyết định mà mình
đã đưa ra.
- Các ý tưởng sáng tạo ở nhân viên sẽ này sinh nhiều hơn từ những
cuộc giao tiếp với nhà quản trị biết lắng nghe. Ngược lại, khi lắng nghe nhân
viên góp kiến, ở nhà quản trị sẽ nảy sinh ra những ý tưởng mới giúp giải
quyết vấn đề một cách tốt hơn.
- Biết lắng nghe sẽ hạn chế được những yếu tố “nhiễu” do tin đồn tạo
nên.
- Nhận thức của nhân viên cũng được nâng cao hơn qua việc biết lắng
nghe.
2. Những trở ngại nào ngăn cản việc lắng nghe có hiệu quả
Sự lắng nghe tập trung không phải là đơn giản, vì nó thường bị nhiều
yếu tố cản trở. Cụ thể là:
a. Tốc độ suy nghĩ
Mọi người cứ tưởng rằng khi người ta nói mình nghe rất chăm chú,
nhưng thực tế tốc độ tư duy của chúng ta cao hơn nhiều so với tốc độ người
ta nói, nên rất dễ bị phân tán tư tưởng, vì thời gian dư ra thường được dùng
để suy nghĩ về một cái gì khác. Một sự quan tâm đến những vấn đề khác cần
thiết hơn sẽ không tập trung được tư duy và là lý do của những thói quen
nghe kém.
b. Sự phức tạp của vấn đề
Chúng ta thường dễ nghe người mà chúng ta thích và những vấn đề
mà mình quan tâm hơn. Khi có sự khó khăn trong sự theo dõi một vấn đề,
người ta thường chọn con đường dễ nhất là bỏ đi, không thèm để ý tới nó
nữa.
c. Do không được tập luyện
Đa số người ta nghe không có hiệu quả vì không bao giờ được dạy về
cách lắng nghe. Từ nhỏ cho tới lúc trường thành, thường thì người ta dành
nhiều thời gian cho việc tập nói, tập viết, tập đọc, chứ còn tập lắng nghe thì
không. Đó là một nghịch lý, vì như chúng ta đã biết là trong giao tiếp thì thời
gian để nghe lại là rất nhiều.
d. Thiếu sự quan tâm và sự kiên nhẫn
Thiếu sự quan tâm và sự kiên nhẫn đối với ý nghĩ của người khác,
hoặc không hợp với họ, làm cho nhiều người trở thành nghe kém. Với tình
cảm như vậy thì các từ sẽ đi từ tai này sang tai kia và bay luôn ra ngoài.
e. Thiếu sự quan sát bằng mắt
Khi nghe cần phải nắm bắt được cả những thông tin không bằng lời,
như ánh mắt, nét mặt, dáng điệu, cử chỉ…, để biết thêm về thái độ và cảm
nghĩ của đối tượng.
f. Những thành kiến tiêu cực
Thường người ta có khuynh hướng lắng nghe một cách chủ quan, nên
những thành kiến tiêu cực khiến người ta không chú ý lắng nghe nữa. Những
thành kiến đó có thể xuất phát từ cách ăn mặc, tóc tai, dáng vẻ bên ngoài,
giọng nói, cách sử dụng từ ngữ… của đối tượng. Chủng tộc và giới tính đôi
khi cũng cản trở tới việc lắng nghe. Khi đã có những thành kiến tiêu cực thì
người ta thường dùng thì giờ để tìm những lý lẽ để bác bỏ và những câu hỏi
để gây cản trở cho người nói. Những việc làm đó đều làm ngăn cản sự lắng
nghe.
g. Uy tín của người nói
Thường uy tín làm tăng sức ám thị, nên khi chúng ta nghe một người
có uy tín nói về những vấn đề mà mình quan tâm, thì chúng ta dễ bị mất tính
phê phán và nghe một cách mù quáng.
h. Do những thói quen xấu khi lắng nghe
Thường chúng ta mắc phải một vài thói quen xấu sau đây:
- Giả bộ chú ý. Nhiều khi chúng ta vẫn nhìn rất chăm chú vào người đối
thoại, đáp lại anh ta bằng cứ chỉ và lời nói, nhưng thực ra chúng ta đang nghĩ
về một điều gì khác. Chúng ta cố gắng tỏ ra chú ý lắng nghe để an ủi họ đồng
thời để che mắt người khác việc chúng ta đang mơ màng.
- Hay cắt ngang. Khi tiếp chuyện, chưa kịp hiểu người kia trọn vẹn thì ta
đã giải thích, an ủi, khuyên lơn, đưa ra giải pháp. Trong một cuộc họp, khi
người khác đang phát biểu thì ta cướp lời, rọ rạy ngồi không yên vì ấm ức
muốn phản ứng hay giơ tay xin phát biểu. Điều này khá dễ hiểu vì xu hướng
tự nhiên là luôn luôn nghĩ về mình, hướng về mình.
- Đoán trước thông điệp. Khi nghe bạn nghĩ rằng bạn có thể đoán trước
được điều mà đối tượng sắp nói cũng có thể làm lạc hướng và cản trở việc
lắng nghe thật sự.
- Nghe một cách máy móc. Có khi bạn nghe rất rõ mọi chi tiết của câu
chuyện, nhưng bạn lại không nắm được vấn đề chỉ vì bạn nghe chúng một
cách máy móc mà không biết khát quát vấn đề.
- Buông trôi sự chú ý. Lắng nghe là phải tập trung chú ý cao độ, tuy
nhiên hầu hết chúng ta chỉ có thể tập trung sự chú ý đến một giới hạn nào đó.
Khi sự chú ý đạt tới mức bão hòa. chúng ta có xu hướng tự nhiên muốn
buông trôi, không muốn nghe nữa: Khi đó chỉ cần một tiếng riêng nhỏ hay là
một bông người đi ngoài hành lang đều có thể làm cho chúng ta đi chuyển sự
chú ý sang những đối tượng mới đó.
3. Lắng nghe có hiệu quả
Thế nào là “lắng nghe"? Tiếng Việt chúng ta rất tinh tế vì “lắng” đi đôi
với “nghe”, có nghĩa,là tập trung đến một âm thanh thôi, các âm thanh khác
thì bỏ ngoài tai. Tâm hồn người nghe phải lắng đọng thì mới nghe tốt.
Biết bao lần chúng ta cảm thấy bực mình vì không được người khác
lắng nghe. Hãy quan sát một lớp học, giảng viên thường nhìn về một phía,
phía đó học sinh chăm chú nhìn và lắng nghe. Nghe không phải là một thế thụ
động mà là một thái độ tích cực. Nó có chức năng làm cho người kia muốn
nói, muốn giải bày tâm sự. Có cởi mở trong giao tiếp thì mới có sự hiểu nhau.
Muốn thế lắng nghe không phải chỉ là im lặng, mà có thái độ cần thiết để
khuyến khích và khơi dậy sự tự cởi mở. Đó là thái độ tôn trọng và chấp nhận
người khác.
Khi người ta nói chúng ta thường “nghe” với 4 mức độ khác nhau. Thứ
nhất là chúng ta có thể lờ người khác, thực sự là không nghe gì cả. Thứ hai là
chúng ta có thể giả vờ nghe để làm cho người khác an tâm bằng cách lặp đi
lặp lại một cách máy móc và đôi khi không đúng chỗ những từ như: “ơ đúng,
đúng..” Thứ ba là chúng ta có thể nghe có chọn lọc tức là chỉ nghe một phần
lúc nói chuyện. Và thứ tư là chúng ta có thể chăm chú nghe, tập trung chú ý
và sức lực vào những lời mình nghe được. Còn rất ít người thực hiện mức độ
nghe thứ năm, hình thức nghe cao nhất, nghe thấu cảm.
Thế nào là nghe thấu cảm? Nghe thấu cảm là tự đặt mình vào vị trí,
tình cảnh của người khác để hiểu được họ có cảm nghĩ như thế nào. Khi
nghe thấu cảm bạn sẽ đi sâu vào ý kiến của người khác, qua đó bạn phát
hiện, bạn nhìn cuộc đời theo cách nhìn của người khác, bạn hiểu được tâm
tư tình cảm của họ.
Cần phân biệt thấu cảm với sự thông cảm. Thông cảm là một hình thể
thỏa thuận, một hình thức của phê phán. Đôi khi nó là sự xúc cảm và sự đáp
ứng thích đáng hơn. Nhưng người ta lại thường sống dựa vào sự thông cảm.
Nó làm cho người ta trở nên phụ thuộc. Bản chất của nghe thấu cám không
phải là thông cảm với một người nào đó. Mà nó là sự hiểu biết đầy đủ sâu sắc
của bạn về một con người, về mặt tình cảm cũng như lý trí.
Nghe thấu cảm không phải đơn thuần chỉ là hiểu từng lời nói của người
khác. Trên thực tế, những chuyên gia về giao tiếp cho rằng chỉ khoảng mươi
phần trăm thông tin được thể hiện thông qua lời nói, ba mươi phần trăm được
thể hiện thông qua âm thanh còn hơn một nửa thông tin còn lại được thể hiện
thông qua ngôn ngữ cơ thể. Trong nghe thấu cảm, chúng ta không những
nghe bằng tai, mà quan trọng hơn là nghe bằng mắt, bằng cả trái tim. Lắng
nghe không chỉ điều người ta nói nên lời, mà cả những gì không nói lên được
những gì bộc lộ qua ngôn ngữ không lời: ánh mắt, nụ cười nét mặt, tư thế,
điệu bộ… Lắng nghe những cảm xúc, nhu cầu của người kia. Lắng nghe cả
chính những phút giây im lặng.
Nghe thấu cảm có một uy lực rất lớn bởi vì nó cung cấp cho chúng ta
những tư liệu đúng đắn để hành động. Thay vì đưa vào những cảm giác,
động cơ, những giả định, suy nghĩ của mình, chúng ta làm việc với thực tế
bằng suy nghĩ và tình cảm của người khác. Chúng ta nghe để hiểu, đề tiếp
nhận những thông tin sâu kín nhất trong tâm hồn của con người.
Nghe thấu cảm cũng giúp bạn tạo dựng được tình cảm tốt đẹp với
người đối thoại. Bởi vì khi giao tiếp với bạn, người khác được thỏa mãn một
nhu cầu rất lớn, đó là nhu cầu tồn tại về tâm lý, muốn được hiểu, được khẳng
định, dược đánh giá cao, được cảm thấy có ích. Khi bạn nghe thấu cảm
người khác, bạn đã làm cho họ thỏa mãn về mặt tâm lý. Và sau khi đã đáp
ứng nhu cầu chủ yếu đó, bạn có thể tập trung phát huy sự ảnh hưởng và giải
quyết vấn đề.
Một số kỹ năng cần thiết trong lắng nghe thấu cảm.
a. Kỹ năng biểu lộ sự quan tâm
Để thể hiện sự quan tâm của mình đến câu chuyện của người đối thoại,
bạn phải chú ý tới tư thế, dáng điệu, cách dùng ánh mắt… Sau đây là một số
kỹ năng cơ bản:
- Tạo ra bầu không khí bình đẳng bằng một tư thế “dấn thân” (không xa
cách, ngang tầm, đối diện…).
- Cách biểu lộ sự quan tâm tốt nhất là chăm chú lắng nghe. Muốn thế
thì khi nghe người kia nói, bạn hãy nghiêng người về phía trước và mắt nhìn
thẳng vào họ, với tư thế cởi mơ. Khoanh tay lại có thể gây ngăn cách, tạo ra
sự ức chế.
Tiếp xúc bằng mắt là rất quan trọng trong lắng nghe, nhưng đó là một
nghệ thuật hết sức tế nhị. “Tiếp xúc một cách hiệu quả bằng mắt thể hiện mối
quan tâm và lòng mong muốn lắng nghe. Tiếp xúc bằng mắt nghĩa là tập
trung nhìn người nói một cách nhẹ nhàng và thỉnh thoảng chuyển cái nhìn từ
mặt của người đó sang các bộ phận khác của cơ thể, ví dụ, nhìn bàn tay
đang làm điệu bộ rồi sau đó lại nhìn vào mắt và tiếp xúc bằng mắt. Có tình
trạng tiếp xúc bằng mắt kém khi người nghe liên tiếp nhìn ra phía khác, hoặc
nhìn trừng trừng vào người nói nhưng khi người nói nhìn mình thì lại nhìn
sang chỗ khác ngay".
- Sự quan tâm cũng được thể hiện qua những cứ chỉ đáp ứng về cơ
thể. Trước hết cần tránh cản trở sự tập trung tư tưởng của đối tượng bằng
những cử chỉ không liên quan tới những điều đang được nói, ví dụ, mân mê
một cái bút, hoặc chăm chú nhìn móng tay của mình, phủi bụi trên ve áo. Đó
là những cử chỉ điển hình chứng tỏ bạn không chú ý lắng nghe. Những người
có kỹ năng lắng nghe cần tránh những cử chỉ đó, và cần xây dựng những cử
chỉ nhỏ và những tư thế có tính đáp ứng trực tiếp vào những điều đối tượng
đang nói.
b. Kỹ năng gợi mở
Khi nghe bạn cũng cần phải có cách khuyến khích để cho đối tượng trút
bầu tâm sự, bằng các cách sau:
- Khuyến khích người nói tiếp tục câu chuyện bằng cách tỏ ra rằng bạn
hiểu vấn đề, thông cảm với họ có thể bằng một cái gật đầu, một nụ cười, một
ánh mắt…
- Hãy cẩn thận lắng nghe và sẵn sàng phản hồi bằng lời lẫn không
bằng lời. Ví dụ, “Ừ, thế à", “Rồi sao nữa”, “Cho tôi biết thêm nữa đi"… và kèm
theo một nụ cười và cái gật đầu. Nếu bạn muốn thành công bạn nên gác sang
một bên những quan điểm riêng tư và những cảm nghĩ của bạn bằng cách
lắng nghe. một cách khách quan. Tuy nhiên để làm việc đó không phải là dễ
vì đa số chúng ta muốn diễn tả ý kiến của mình hơn là lắng nghe ý kiến của
người khác. Mỗi chúng ta cần phải có sự kiên nhẫn, dùng sức mạnh cá nhân
và sự tự chủ để duy trì một hoàn cảnh thuận lợi cho sự lắng nghe.
- Thỉnh thoảng đặt câu hỏi để hiểu rõ hơn và để chứng tỏ bạn đang chú
ý lắng nghe. Ví dụ, khi người đối thoại nói: “Tôi thật sự không ưa gì anh
chàng thư ký đó". Bạn có thể hỏi thêm: “Anh ta có thật là một người không
đàng hoàng không?". Lúc đó người đối thoại mới bổ sung thêm: “ồ, không
phải là anh ta không đàng hoàng, mà anh ta làm việc quá chậm và hơi cứng
nhắc". Như vậy, câu hỏi của bạn đã khiến người đối thoại bộc lộ ra những
nguyên nhân sâu xa của vấn đề. Tuy nhiên trong khi đàm thoại không nên hỏi
quá nhiều, hỏi theo kiểu chất vấn hay bắt chẹt.
- Khi nghe bạn có thể vừa tỏ ra trung lập vừa quan tâm bằng cách dùng
những từ hoặc câu vô thưởng vô phạt với một giọng tích cực như: “Tôi hiểu ý
đó", “Ừ hứ” Phản hồi như thế sẽ khuyến khích người nói tiếp tục câu chuyện.
- Giữ một sự thinh lặng đầy quan tâm cũng là cách làm cho đối tượng
phải lấp đầy khoảng trống bằng những lời bổ sung, giải thích… Tuy nhiên,
việc xác định thời gian im lặng bao nhiêu cho hợp lý là vấn đề nhạy cảm, tùy
thuộc vào các dấu hiệu nhận được và bản thân mình cảm thấy tình hình như
thế nào. Quy luật chung là khoảng 30 giây là vừa. Nếu quá thời gian đó, thì
mọi người có thề quên các điều sẽ xảy ra và làm cho những người tham gia
xa rời trọng tâm hoặc chủ đề.
c. Kỹ năng phản ánh
Phản ánh tức là người nghe sắp xếp lại và nêu lại nội dung những điều
người kia vừa nói nhằm làm cho đối tượng biết là mình đã hiểu họ như thế
nào.
Phương pháp phản ánh chuẩn mực là diễn đạt lại, tức là bạn hãy nêu
lại thực chất những điều mà đối tượng đã nói. Diễn đạt lại một cách ngắn gọn
để đối tượng có cơ hội kiểm điểm những điều mà mình đã nói. Ví dụ, khi một
nhân viên nào đó phàn nàn với bạn: “Trong công ty chúng ta tài năng không
được coi trọng đúng mức". Bạn có thể phản ánh lại: “Theo tôi hiểu thì anh
cảm thấy rằng đã không có sự đền đáp đủ mức đối với sự hoàn thành tốt
công việc?". Còn chuyện gì xảy ra nếu như bạn nói với anh ta rằng: tranh có
vẻ như là một người bị bỏ qua không được đề bạt, hoặc “ồ, tôi không biết
điều đó". Chắc hẳn sau những câu như vậy anh ta sẽ chọn cho mình lối
phòng thủ, chờ đợi một sự biện minh cho điều đã được nói. Tệ hại hơn nữa
nếu bạn nói thêm rằng: “ở công ty ta tài năng vẫn được trọng dụng đấy chứ",
vì nó sẽ bóp nghẹt ý kiến trước khi nó được trình bày đầy đủ.
II. KỸ NĂNG ĐẶT CÂU HỎITrong giao tiếp mặt đối mặt, câu hỏi chiếm một phần đáng kể. Nhưng
có nhiều loại câu hỏi phù hợp với các mục đích khác nhau. Nhà quản trị cần
phải biết để tìm cách sử dụng chúng cho thích hợp với từng tình huống.
1. Dùng câu hỏi để thu thập thông tin
Thu thập thông tin từ người khác là một kỹ năng ích quan trọng trong
giao tiếp. Có nhiều thông tin chúng ta có được chứa đựng trong não bộ của
người khác. Có lúc chính họ tự nguyện tự giác cho ta tin tức, nhưng đa số
trường hợp chúng ta phải khai thác nó bằng các câu hỏi khác nhau. Muốn
khai thác thông tin có hiệu quả chúng ta phải thực hiện nó một cách có bài
bản.
a. Hãy làm cho việc cung cấp tin trở thành niềm vì đối với người khác
Muốn khuyến khích việc cung cấp tin, bạn phải làm sao cho việc ấy trở
thành niềm vui thú đối với người khác. Họ tỏ ra biết ơn người ấy về những gì
anh ta cung cấp để anh ta cảm thấy vui vì đã làm được việc thiện. Hãy áp
dụng thuật lắng nghe đã trình bày ở trên để tạo hứng thú ở đối tượng khi
cung cấp tin.
b. Hãy bắt đầu bằng một câu hỏi dễ trả lời
Khi muốn khai thác thông tin, bạn hãy bắt đầu bằn một câu hỏi dễ.
Thông thường mọi người thích trả lời đúng. Những câu hỏi dễ sẽ giúp người
khác có cơ hội trả lời đúng một cách dễ dàng. Chúng làm cho đối tượng cảm
thấy thoải thái bớt căng thẳng và tự tin hơn. Nói chung trước hết bạn cần phải
làm nóng cuộc nói chuyện một chút để khi người khác vừa kịp thấy có sức
cuốn hút thì anh ta sẽ vui say trúc bầu tâm sự.
c. Các loại câu hỏi
Sau khi đã làm cho người khác cảm thấy thoải mái, bạn cần biết đặt
những câu hỏi để có được những tin tức đầy đủ và chính xác.
Dựa vào cấu trúc của câu hỏi người ta có thể chia ra làm hai loại:
Loại l: Câu hỏi có cấu trúc chặt chẽ, kết cấu cao.
Nghĩa là cấu trúc ý tưởng được phát triển đầy đủ trong câu hỏi này.
Người trả lời không cần phải động não nhiều lắm. Anh ta chỉ cần trả lời thẳng
vào vấn đề bằng một sự kiện đặc biệt.
Câu hỏi có cấu trúc cao bao gồm:
- Câu hỏi hẹp: Đó là những câu hỏi nhằm thu hẹp vấn đề để tranh thủ
những thông tin chính xác, ngắn gọn. Ví dụ: “Ai thực hiện việc này?”, “Tên
anh ta là gì?”. Những câu hỏi hẹp có ích khi bạn cần những dữ kiện rõ ràng,
thẳng thắng. Hầu hết các cuộc gặp gỡ đều có những câu hỏi hẹp ở một thời
điểm nào đó.
- Câu hỏi trực tiếp: Tức là hỏi thẳng về vấn đề mà mình cần tìm hiểu.
Loại này có ưu điểm là thu thập thông tin một cách nhanh chóng và thường
tạo ra yếu tố bất ngờ ở đối tượng làm cho họ phải bật ra câu trả lời trung
thực. Tuy nhiên nó cũng tỏ ra khá nhiều nhược điểm. Hỏi trực tiếp thường để
lộ mục đích tìm hiểu, làm cho đối tượng không được tự nhiên. Trong một số
trường hợp, hỏi trực tiếp sẽ không lịch sự không tế nhị, hoặc gây ra bầu
không khí căng thẳng, nặng nề (Ví dụ: tuổi tác, hôn nhân, quan điểm chính trị,
quan điểm tôn giáo…).
- Câu hỏi gián tiếp: Tức là hỏi về một vấn đề này để suy ra vấn đề mình
cần tìm hiểu. Loại câu hỏi này thường dùng để khai thác những vấn đề tế nhị
mà không thể hỏi trực tiếp.
Ví dụ: Nếu trong phỏng vấn bạn hỏi thẳng ứng viên “Anh có thích công
việc đó không?", bạn sẽ làm cho anh ta nghi ngờ rằng bạn cho là anh ta
không thích công việc đó. Nếu đặt câu hỏi gián tiếp: “Trong công việc đó có
điều gì làm cho anh thích thú nhất?” thì sẽ hay hơn vì tập trung hỏi về công
việc chứ không phải con người. Hoặc “Các đồng nghiệp của anh ở chỗ đó
như thế nào?” là một câu hỏi hay hơn là câu “Anh có hòa hợp được với các
thành viên trong bộ phận không?”.
- Câu hỏi chặn đầu: Tức là đưa ra một câu hỏi nhưng thực chất là giăng
ra một cái bẫy để đối tượng phải thừa nhận một vấn đề mà mình cần tìm hiểu.
Ví dụ, chúng ta muốn biết công ty A có làm ăn với công ty X hay không,
chúng ta có thể hỏi một cách rất tự tin: “Các anh góp vốn như thế nào với X?".
Ở đây mặc dù chúng ta chưa biết họ có làm ăn với X hay không, nhưng
chúng ta coi như biết rồi để hỏi về vấn đề phụ là góp vốn bao nhiêu phần
trăm. Khi đối tượng trả lời vấn đề phụ thì nghiễm nhiên chúng ta biết được
vấn đề chính như thế nào.
Loại 2: Câu hỏi có cấu trúc thấp, lỏng lẻo.
Loại câu hỏi này nhằm khuyến khích người khác nói về một lĩnh vực
đặc biệt nào đó. Người hỏi không nhất thiết phái có ý tưởng hình dung câu
chuyện sẽ dẫn tới đâu. Nói chung, kết cấu nằm trong câu trả lời nhiều hơn là
trong câu hỏi.
Để khai thác thông tin có hiệu quả người ta thường dùng câu hỏi có
cấu trúc thấp. Bởi vì nó đòi hỏi đối tượng nói về một đề tài cụ thể chứ không
phải chỉ cung cấp một sự kiện đặc biệt. Nó bắt người khác phát động não dữ
dội, và làm cho anh ta cung cấp thông tin nhiều hơn là anh ta muốn. Câu hỏi
càng không có cấu trúc thì bạn càng nắm được nhiều thông tin. Trong trò
chuyện, bạn hỏi được nhiều câu hỏi không cấu trúc, người đối diện thích nói
chuyện nhất. Và điều này được xem như là điều kiện cần và đủ để bạn khai
thác thông tin.
Câu hỏi có cấu trúc thấp bao gồm:
- Câu hỏi cởi mở: Là bạn chỉ giới thiệu một chút về đề tài chứ không hề
gợi ý nội dung câu trả lời. Chẳng hạn, “bạn nghĩ gì về vấn đề này?, “bạn có
cảm tưởng gì về việc có những thay đổi đó?".
Câu hỏi gợi mở thường được nêu ở phần đầu cuộc gặp gỡ nhằm xây
đựng mối quan hệ hài hòa. Loại câu hỏi này làm dễ đàng cho người đối thoại,
anh ta được phép tự quyết định nên nói gì. Mục đích chủ yếu của câu hỏi gợi
mở là thu thập một loại thông tin sâu hơn mà câu hỏi hẹp không làm được vì
chúng ta không ấn định trước hình dạng của câu trả lời.
- Câu hỏi chuyển tiếp: Tức là câu hỏi bắt đầu với chữ “thế còn” để
chuyển sang đề tài khác. Ví dụ: “Thế còn vấn đề điều kiện làm việc thì sao?",
“Thế còn vấn đề lương bổng thì sao?".
- Câu hỏi yêu cầu làm rõ thêm vấn đề: Ở đây đơn thuần bạn chỉ lặp lại
những từ cuối cùng của câu trả lời của đối tượng để biết rõ hơn vấn đề. Ví
dụ: Khi bạn hỏi người đối diện xem anh ta có cảm tưởng gì về công việc mới
đây của anh ấy và anh ta trả lời là rất thích nhưng vì có chuyện phiền phức
với ông chủ, bạn phải hỏi tiếp “có chuyện phiền toái với ông chủ à?".
- Câu hỏi tóm lược ý: Sau khi nghe xong những câu trả lời của đối
tượng, bạn tóm tắt ý bạn hiểu về những điều anh ta muốn nói. Câu hỏi có
dạng: “Theo tôi hiểu thì anh muốn nói là…….. phải không? Nếu đối tượng
đồng ý thì trả lời “vâng". Còn nếu anh ta phủ nhận thì sẽ giải thích những gì
anh ta muốn nói. Thông thường đối tượng sẽ bổ sung những thông tin mới.
2. Dùng câu hỏi nhằm những mục đích khác
Đôi khi trong giao tiếp người ta cũng có thể đưa ra những câu hỏi
nhưng không phải để thu thập thông tin, mà nhằm những thục đích khác
nhau.
- Câu hỏi tiếp xúc: Tức là hỏi về những vấn đề phụ trước nhằm tạo ra
bầu không khí thoải mái, tin tưởng, cởi mở với nhau, để sau đó hỏi về những
vấn đề cần tìm hiểu.
Loại câu hỏi như thế này chúng ta gặp hàng ngày ở cổng cơ quan hay
trước khi bắt đầu một cuộc gặp gỡ nào đó:
- Chào anh! sức khỏe thế nào?
- Dạo này ở Hà Nội có ra không?
- Hôm qua thằng Lào đá hay quá nhỉ, anh có xem không…
- Câu hỏi có tính đề nghị: Tức là nêu câu hỏi để đề nghị một ý kiến.
Loại câu hỏi này được sử dụng để thăm dò cách thoát ra khỏi sự bế tắc, và
được sử dụng trong đàm phán, hội nghị và các tình huống khác mà khó đạt
được nhất trí giữa những người tham dự.
Đây cũng là một thủ thuật thăm dò để đạt tới nhất từ mà không tỏ ra
nghiêng về một ý kiến nào đó để không phải tự bào chữa nếu không đạt được
nhất trí. Ví dụ: Bạn có thể hỏi “bây giờ chúng ta đã có bản báo cáo của
chuyên gia, vậy chúng ta có thể chấp nhận gợi ý trước đây của kỹ sư A hay
không?". Bạn có thể dùng câu hỏi này, khi bạn muốn thúc ép các thành viên
khác đồng ý với mình.
- Câu hỏi hãm thắng: Tức là dùng những câu hỏi hẹp để hãm tốc độ nói
của đối tượng khi anh ta thao thao bất tuyệt. Nếu ta xen vào những câu hỏi
hẹp để làm sáng tỏ một số điểm thì có thể hạn chế được dòng phát biểu của
đối tượng. Dùng câu hỏi để kết thúc vấn đề. Khi cần kết thúc câu chuyện mà
không muốn cắt đứt với người đối thoại, bạn có thể đưa câu hỏi để chuẩn bị
như: “Bây giờ tôi nghĩ là chúng ta đã bàn xong công việc rồi, có phải không?”.
III. KỸ NĂNG DIỄN THUYẾT VÀ BÁO CÁO MIỆNG
A. DIỄN THUYẾT Tài ăn nói là một trong những yếu tố giúp nhiều người đạt tới uy quyền
và ảnh hưởng tới người khác, một phần do tầm quan trọng của thông điệp họ
đưa ra và một phần do sức mạnh truyền cảm của cách họ thông đạt. Nó cũng
đã từng là một sự khẳng định quyền lãnh đạo và một biểu tượng của quyền
uy.
Khả năng nói chuyện trước công chúng của cựu tổng thống Mỹ Ronald
Reagan đã thực sự giúp ông giữ vững chiếc ghế tổng thống trong nhiều năm
liền. Những bài phát biểu hùng hồn, thực sự đi sâu vào lòng người đã làm
cho chủ tịch Phidel Castro được dân chúng trên thế giới mến mộ. Nhà tỷ phú
Charlie Miller đã dùng tài ăn nói của mình làm cho các đối thủ cạnh tranh phải
góp vốn với mình lập nên một tập đoàn công nghiệp khổng lồ. Tài thuyết phục
mọi người bằng lời nói của mình là một vũ khí lợi hại mà đa số nhà chính trị
và kinh doanh đều ao ước. Cho dù sau này không phải tất cả chúng ta đều
trở thành những nhà diễn giả nổi tiếng, nhưng ít ra việc nắm vững những kỹ
năng nói chuyện cũng giúp cho bạn gặt hái những thành công nhất định trong
hoạt động quản trị kinh doanh của mình.
1. Sơ đồ về các bước tổ chức buổi nói chuyện
Các bước triển khai bài nói chuyện
Chuẩn bị
Hãy biết mình
Hãy tìm hiểu đối tượng.
* Trình độ, tuổi tác, nghề nghiệp…
* Động cơ, sự quan tâm
Chương trình nội dung
* Xác định mục đích, mục tiêu cụ thể.
* Phần đầu
+ Quy luật của sự chú ý
+ Dẫn nhập trực tiếp
+ Dẫn nhập tương phản
+ Dẫn nhập từ từ
+ Những cạm bẫy
* Phần nội dung
+ Những ý mấu chốt
+ Những số liệu, ví dụ
+ Bản ghi sẵn
* Phần kết
+ Tóm tắt
+ Lời chúc, kêu gọi, khẩu hiệu
Địa điểm
Tinh thần
Tiếp xúc
Chú ý ngoại hình
Tư thế
Tiếp xúc bằng mắt
Triển khai
Trình bày rõ ràng có minh họa
Tiếp xúc bằng mắt
Giọng nói to rõ
Tránh các thói quen xấu
Kết thúc
Đúng lúc, không rộng dài
Tóm tắt các điểm chính
Nêu câu hỏi kiểm tra
Cảm ơn cử tọa
2. Nội dung các bước
a. Chuẩn bị
Bạn hay run sợ khi đứng nói chuyện trước đám đông? Tôi cũng vậy và
các nhà diễn thuyết chuyên nghiệp khác cũng vậy. Thậm chí khi có một chút
căng thẳng nhất định lại làm cho người ta có thêm tính sáng tạo. Tuy nhiên
nếu quá lo sợ thì lại làm hỏng bài phát biểu. Bạn có thể làm giảm bớt sự căng
thẳng bằng sự chuẩn bị.
Hãy biết mình
Nếu được mời nói chuyện về đề tài nào đó bạn nên tự biết mình có
nắm vững nội dung, có đủ tư liệu để trình bày không, hay nhận đại để nói
loanh quanh làm mất thời gian người nghe. Con người, cương vị, thành phần
xã hội của ta có dễ được người nghe chấp nhận hay không? Mình có phù
hợp với đề tài đó hay không?
Thường cử tọa chỉ lắng nghe, nếu người thuyết trình có uy tín. Vì vậy,
cái quyết định người thuyết trình có phù hợp để truyền đạt một thông điệp hay
không là sự tin tưởng của cử tọa đối với lập trường và trình độ thành thạo của
người thuyết trình.
Hơn nữa, nếu tầm quan trọng của yến đề không ngang tầm người
thuyết trình thì sẽ nảy sinh sự mất tin tưởng. Ở đây chúng ta có hai ví dụ,
Tổng giám đốc tập hợp các nhân viên lại chỉ để thông báo là phòng vệ sinh đã
được sơn trắng, các nhân viên sau khi giải tán sẽ phân vân hỏi nhau ông ta
thực sự muốn nói cái gì. Hoặc một nhân viên nào đó tuyên bố nhà máy đã bị
đóng cửa, người nghe sẽ không tin anh ta và đòi hỏi chứng cớ.
Nếu chúng ta có trách nhiệm tổ chức một cuộc họp, một buổi nói
chuyện, chọn lựa báo cáo viên thật phù hợp với đề tài là vấn đề hàng đầu.
Hãy tìm hiểu đối tượng
Khi được mời nói chuyện bạn cần phải biết cử tọa là ai. Họ có những
đặc điểm gì (giới tính, tuổi tác, học vấn, nghề nghiệp, xu hướng chính trị
v.v…), họ có nhu cầu thông tin gì? Động cơ nào khiến họ đến nghe báo cáo:
vì thiết tha muốn học hỏi hay vì bắt buộc phải đi nghe? Một người biết về tâm
lý truyền thông luôn luôn tìm hiểu đối tượng trước khi bắt đầu nói chuyện.
Việc này có thể được tiến hành bằng: nhiều cách. Ví dụ như xem danh sách
(trích ngang) của khách mời, tới dự buổi sinh hoạt trước nếu đây là sinh hoạt
thường kỳ, tiếp xúc với vài cá nhân trong cử tọa khi chờ đợi. Cuộc tìm hiểu
đối tượng không ngừng ở khâu chuẩn bị mà còn tiếp tục trong lúc nói chuyện
bằng cách quan sát, nắm bắt sự phản hồi của họ để tiếp tục điều chỉnh nội
dung và phương pháp truyền đạt.
Để đạt được sự đồng điệu giữa người nghe và người thuyết trình thì
bài phát biểu cần phải được xây dựng xoay quanh người nghe, lấy người
nghe làm trung tâm.
Chuẩn bị nội dung
Trước khi xác định nội dung, bạn cần phải biết là mình muốn đạt được
mục đích gì. Bạn muốn nói để thông tin, để thuyết phục hay là để góp vui?
Ngoài mục đích tổng quát (này, bạn cần xác định những mục tiêu cụ thể rõ
ràng. Ví dụ, mục đích tổng quát là thông tin, mục tiêu cụ thể có thể là giúp cho
nhân viên nắm được những thay đổi mới nhất trong luật lao động; mục đích
tổng quát là thuyết phục, thì mục tiêu cụ thể có thể là làm cho người lao động
ủng hộ mình trong cuộc bầu cử sắp tới.
Mục đích cuối cùng của bài nói chuyện là một sự thay đổi nơi người
nghe, nếu không đạt được kết quả này thì việc làm của bạn coi như là vô ích.
Tốt nhất là bạn phải đặt những mục tiêu cụ thể mà có thể kiểm tra được sau
buổi thuyết trình.
Ví dụ: Sau buổi giới thiệu sản phẩm bạn hy vọng: 30% người nghe ký
kết hợp đồng, 40% xin tới nhà máy thảo luận tiếp. Sau buổi nói chuyện với
nhân viên về vấn đề kỷ luật lao động, bạn hy vọng ý thức kỷ luật được nâng
cao, số vụ vi phạm kỷ luật sẽ giảm xuống.
NÓI GÌ tùy thuộc vào việc bạn biết rõ mình MUỐN GÌ? Và đối với AI?
(đã nói ở trên). Để thuyết trình có hiệu quả, bạn không nên ôm đồm quá nhiều
mục tiêu.
Sau khi đã xác định mục tiêu, bạn tiến hành soạn thảo nội dung. Một
bài thuyết trình thường được chia ra làm ba phần: mở đầu, nội dung chính và
kết luận.
Trong phần mở đầu, người thuyết trình thiết lập mối quan hệ với người
nghe và có thể phác qua nét lớn nội dung sẽ trình bày, để mọi người chuẩn bị
theo dõi được sẵn sàng hơn.
Ở đây bạn phải nắm được quy luật của sự chú ý là: Sự tập trung chú ý
cao nhất của người nghe được diễn ra chỉ trong vòng 30 giây đầu tiên và 30
giây cuối cùng của bài phát biểu: Ban đầu người ta tập trung chú ý để xem bài
diễn thuyết nói về cái gì và vào lúc sắp kết thúc người ta tập trung để dẫu sao
cũng không bỏ qua ý chính của buổi nói chuyện, mặc dù trước đó có thể
chẳng nghe gì cả. Còn giữa hai cao điểm đó thì nói chung người ta chú ý
tương đối kém, thỉnh thoảng có những đợt sóng nhô cao tùy vào khả năng
gây chú ý của bài phát biểu. Chính vì thế chúng ta cần phải lợi dụng vào
những thời điểm gia tăng sự chú ý của cử tọa. Những câu nói đầu tiên cần
phải lôi cuốn được họ, làm cho họ quan tâm và thích thú. Những lời nói đầu
tiên không chỉ đơn thuần là nhập đề mà còn phải gây được sự quan tâm và
chiếm được sự cảm tình của cử tọa.
Phần nội dung chứa đựng những một số tư tưởng hay ý kiến then
chốt. Đó là những điều mà bạn muốn tìm cách ấn sâu vào trí óc người nghe.
Để lôi cuốn được người nghe, những ý tưởng phải được xây dựng một cách
logic. Bài phát biểu phải được phát triển dưới dạng một chuỗi các luận điểm
và luận cứ, một luận điểm này xuất phát từ một điểm khác, một ý này xuyên
sang một ý khác với một logic chặt chẽ. Sự chuyển tiếp từ ý này sang ý khác
cần phải thực hiện một cách cẩn thận để khỏi mất sự mạch lạc của câu
chuyện.
Để duy trì được sự chú ý của người nghe, bạn cần triển khai nội dung
sao cho người nghe như phải tự hỏi: “A rồi sao nữa?", “Vì sao vậy?"… Những
lời giải thích của bạn cho những câu hỏi này sẽ được người nghe tiếp nhận
một cách tích cực.
Muốn trình bày một luật điểm nào đó một cách thuyết phục bạn cần
chuẩn bị những ví dụ, những số liệu để minh chứng cho nó. Ý kiến cho rằng
các nước phát triển quan tâm đến việc quảng cáo rất lớn phải được minh họa
bằng những con số cụ thể: năm 1993 Mỹ chi ra 120 tỷ USD cho quảng cáo,
Pháp chi 60 tỷ Fr, Nhật bản chi hết 4000 tỷ yên. Nếu có nhiều số liệu, bạn cần
phải có bảng biểu, có sơ đồ minh họa.
Để nội dung bài phát biểu ăn sâu vào trí óc của người nghe, bạn cần
chuẩn bị thêm những trích dẫn của các nhân vật nổi tiếng để minh họa,
những giai thoại về một nhân vật nào đó. Ví dụ, khi nói về vai trò của ý chí
trong việc hình thành tài năng con người, bạn có thể kể về Edison – “Ông ta
làm việc 18 tiếng đồng hồ mỗi ngày, làm việc như vậy cho tới tận 50 tuổi mới
tự cho mình xả láng một chút bằng cách giảm giờ làm 30 phút mỗi ngày và
Edison làm việc như vậy cho tới tận 80 tuổi mới chết, để lại cho nhân loại hơn
một ngàn bằng phát minh sáng chế”. Các câu chuyện rút ra từ thực tế của
bản thân bạn về những vấn đề mà bạn đang trình bày sẽ rất có giá trị thuyết
phục.
Tuỳ vào nội dung, vào đối tượng của buổi thuyết trình mà bạn có thể
chuẩn bị thêm những câu chuyện khôi hài, những câu nói đùa dí dỏm giúp
cho bầu không khí đỡ căng thẳng trong những thời điểm nhất định. Tuy nhiên,
mọi cái phải đúng liều, đủ lượng. Tiếng cười là phản ứng làm mê hoặc nhất
của con người, nhưng xét về hiệu quả trình bày thì quá nhiều tiếng cười lại
còn nguy hiểm hơn là quá nhiều sự kiện. Người nghe nhớ cái gì? - câu pha
trò, hoặc câu pha trò để minh họa điều gì? Khôi hài gắng gượng cũng nguy
hiểm đối với người thuyết trình.
Trong phần kết bạn nhắc lại những điểm then chốt của nội dung đã
được trình bày. Tùy vào tính chất của bài phát biểu mà phần cuối có thể chứa
dựng lời chúc mừng, những nhiệm vụ cho tương lai, những vấn đề nêu ra để
người nghe giải quyết, lời kêu gọi và những khẩu hiệu… Và dĩ nhiên bạn cần
dành thời gian để giải đáp các thắc mắc từ người nghe.
Sau khi đã xác định nói cái gì, bạn tiến hành chuẩn bị các bản ghi sẵn.
Rất ít người thuyết trình có hiệu quả mà không còn có bản ghi sẵn. Nếu chỉ ỷ
lại trí nhớ, bạn có thể gặp tai họa do bỏ sót các sự kiện hoặc buộc phải im
lặng. Bản ghi sẵn làm cho bạn tự tin hơn và đặt mình vào kỷ luật đồng thời
hạn chế việc nói lan man, rông dài.
Có hai dạng bản ghi nhớ: bản ghi các tiêu đề và bản thảo ghi toàn văn.
Tuy nhiên, bản ghi đầu đề là, phổ biến hơn cả, với những điểm chính được
gạch chân và các số liệu được liệt kê bên dưới. Bạn cũng có thể ghi chú bên
lề về một giai thoại hoặc một ví dụ minh họa nào đó. Kiểu ghi sẵn này cho
phép bạn trình bày một cách uyển chuyển và có thể tùy cơ ứng biến dựa vào
phản ứng của người nghe: Bạn nên nhớ rằng, chính những câu nói sinh
động. chứ không phải là những câu khô cứng, đúc sẵn, mới làm cho thính giả
cảm động để tiếp nhận ý kiến của mình.
Bản thảo toàn văn lại có hai cách sử dụng. Hoặc bạn học thuộc lòng bài
nói chuyện. Đây là kiểu thuyết trình hạn chế nhất, bởi vì bạn hầu như không
thể xoay chuyển được theo ý kiến phản hồi của người nghe. Hơn nữa, khi
bạn quên mất một đoạn nào đó thì có thể bài phát biểu sẽ bị hỏng. Bạn có thể
sử dụng bản ghi sẵn toàn văn để đọc trước cử tọa. Cách này thường áp dụng
đối với những bài phát biểu với những số liệu phức tạp đòi hỏi phải chính xác,
hoặc trong trường hợp thời gian bị hạn chế một cách chặt chẽ. Tuy nhiên,
kiểu thuyết trình này tạo ra sự xa cách giữa diễn giả và cử tọa do không có sự
tiếp xúc bằng mắt.
Rèn luyện giọng nói
Trong nghệ thuật diễn thuyết giọng nói đóng vai trò hết sức quan trọng.
Một giọng nói tất phải có ba điều kiện. Thể nhất là nhiều cường độ: tiếng nói
càng to, càng mạnh thì càng dễ làm rung chuyển người nghe; để tiếng nói
được to thì bạn cần tập thở và khi nói phải biết lấy hơi ở ngực hoặc ở bụng
chứ đừng lấy hơn ở cuống họng mà tạo ra giọng nói khó nghe. Thứ hai là âm
vực phải rộng, tức là có thể phát ra từ những giọng thật trầm đến những
giọng thật bổng. Người có âm vực rộng thì mới có đủ phương tiện để diễn tả
tình cảm: giọng trầm và ngập ngừng mô tả sự sợ sệt, giọng trầm và đều đều
tả sự buồn bã chán nản, giọng thật bổng vừa nhanh, vừa dục giặc tả sự giận
dữ,v.v… Để luyện giọng, bạn có thể ngậm miệng và ngân nga từ giọng thật
trầm đến giọng thật bổng. Thứ ba là có nhiều âm sắc: âm sắc là đặc tính riêng
biệt của mỗi giọng nói, có giọng thì trong trẻo, có giọng thì the thé, chính âm
sắc mà làm cho giọng nói dễ thương hay dễ ghét. Người nói bằng giọng óc có
thể sửa giọng bằng cách đưa lưỡi tới trước lúc nói. Người có giọng the thé có
thể làm cho giọng trong trẻo bằng cách hít hơi vào nhiều và lúc nói tống mạnh
hơi ra, hoặc lúc nói đưa hàm hạ ra trước.
Ngoài việc chú ý tới việc luyện giọng ra, bạn cần tập cách nhấn giọng
cho đúng, cách dùng ngữ điệu, uốn giọng cho phù hợp với ý nghĩa của câu
nói.
Địa điểm nói chuyện
Một phòng thuyết trình được sắp xếp tốt sẽ nâng cao hiệu quả buổi nói
chuyện. Khoảng cách giữa người thuyết trình và cử tọa thường là khoảng
cách của vùng công cộng (xem chương 2). Người thuyết trình sẽ tiếp xúc
bằng mắt với người nghe như là phương tiện kiểm tra và điều này sẽ khó
khăn nếu ai đó ngồi quá gần.
- Bạn cần phải chọn một không gian chứa vừa đủ lượng khán giả.
Đừng quá chật, nhưng cũng đừng quá rộng làm loãng không gian buổi nói
chuyện. Cử tọa cần phải tạo thành một khối thống nhất chứ không phải chỉ là
một tập hợp các cá nhân rời rạc.
- Cần phải có chỗ để các bản ghi chép, có đủ chỗ để đèn chiếu và các
thiết bị nghe nhìn khác (nếu cần thiết).
- Hệ thống âm thanh như thế nào? Sử dụng nó ra làm sao?
- Để người nghe không bị phân tán chú ý thì nên dẹp bỏ những thứ
không cần thiết sau người thuyết trình như: những bảng biểu, tranh ảnh
không liên quan, xóa đi những gì không cần thiết đã được viết trên bảng… Sẽ
sai lầm nếu như trong phòng học dùng cho những buổi học về quản lý đào
tạo mà trên tường, bên cạnh người thuyết trình có treo một bảng hệ thống
tuấn hoàng các nguyên tố hóa học. Trong khi học, ai cũng mất một khoảng
thời gian để quan sát bảng này, nhà hóa học thì để chắc chắn rằng mình còn
nhớ, người không trong ngành thì cố gắng suy nghĩ để hiểu bảng này, kết quả
là chẳng ai chú ý tới người thuyết trình cả.
Chuẩn bị tinh thần
Nếu bạn quá run sợ trước khi thuyết trình thì khó có thể đạt được kết
quả mong muốn. Cần phải tự tin để khiến cho cử tọa lắng nghe. Tính thiếu tự
tin có thể được hạn chế nhờ chủ động thư giãn, có ý thức cử động chậm hơn
và tập trung giảm tiêu phí sức lực một cách có cân nhắc.
Bạn hãy thư giãn để có được một vài hơi thở dài và sâu hít đầy lồng
ngực và kích thích cơ hoành làm việc. Một phương pháp lấy tinh thần khá
đơn giản là thở vào ba lần đều đặn và thở ra tới chín lần đều đặn; thở vào
bốn lần và thở ra mười hai lần, vân vân. Trước khi bước ra bục nói chuyện,
bạn nên mỉm cười nhiều lần tới mức có thể được vì điều này sẽ xóa bỏ
những dấu vết tư lự lo âu và làm dịu nét mặt của bạn.
b. Tạo mối quan hệ
Bây giờ bạn đã đứng trước mặt cử tọa. Bạn cần phải tạo được mối
quan hệ và sự tiếp xúc thuận lợi cho buổi nói chuyện. Để tạo được ấn tượng
ban đầu tốt, bạn cần lưu ý những điểm sau:
- Trước hết người nghe chú ý tới ngoại hình của bạn. Cách ăn mặc thể
hiện thái độ của bạn đối với mọi người. Hãy ăn mặc cẩn thận và phù hợp với
nội dung buổi thuyết trình. Tuy nhiên ngoại hình cũng có thể làm phân tán tư
tưởng người nghe. Những tiếng xì xào như: “Ồ ông ta có chiếc cà vạt sặc sỡ
thế”, “Chắc chiếc lắc bà ta mang có khi tới vài cây”… sẽ không có lợi cho sự
tập trung chú ý.
- Tư thế là sự thể hiện uy quyền. Phong thái tự tin của bạn có thể khiến
cho cử tọa tin rằng tất cả những gì sắp nói là có ý nghĩa.. Bạn cần đứng thẳng
người với tư thế tự nhiên, không bỏ tày vào túi quần. Một tư thế còng còng,
đầu nghẹo nghiêng thể hiện sự mệt mỏi. Tay chân lúi búi, đầu gối run run là
dấu hiệu của sự lo lắng. Hãy xuất hiện trước cử tọa một cách tự tin và tỏ ra
hào hứng với buổi nói chuyện.
- Hãy nhìn thẳng vào khán giả với ánh mắt tôn trọng và quan tâm.
- Bạn hãy tự giới thiệu về mình (thường thì người chủ tọa sẽ giới thiệu
bạn với khán giả) và đề tài buổi nói chuyện. Tuỳ vào từng buổi nói chuyện mà
bạn giới thiệu mình cùng với những vai trò gì, chức danh gì. Phần giới thiệu
thường không nên qua hai phút, trừ những trường hợp đặc biệt.
Có rất nhiều cách mở đầu bài nói chuyện, tùy vào nội dung mà bạn có
thể chọn một trong những cách sau đây:
+ Dẫn nhập trực tiếp:
Bạn nhắc lại tên đề tài, nói rõ mục đích và những vấn đề chính của bài
nói chuyện. Ví dụ, “Kính thưa các quí vị, đề tài của chúng ta hôm nay là -
Phương pháp chiết khấu thương phiếu. Tôi sẽ trình bày bốn điểm chính sau
đây:
- Nguyên tắc tổng quát.
- Rủi ro của chiết khấu.
- Các đảm báo của tín dụng chiết khấu.
- Tái chiết khấu.
Bây giờ tôi bắt đầu vấn đề đầu tiên: Nguyên tắc tổng quát…”
+ Dẫn nhập theo lối tương phản:
Bài diễn thuyết bắt đầu bằng việc nhấn mạnh sự mâu thuẫn, để gây
chú ý. Ví dụ: “Thưa các đồng chí, tình hình hiện nay của chúng ta cực kỳ đầy
mâu thuẫn được thể hiện ở: thứ nhất là chúng ta chưa bao giờ tiến gần với
cuộc cách mạng vô sản quốc tế như bây giờ, thứ hai là chúng ta cũng chưa
bao giờ lâm vào tình cảnh nguy kịch như hiện nay…"(Lê nin toàn tập, tập 37).
+ Dẫn nhập từ từ theo lối kể chuyện:
Ví dụ, “Vào đêm giáng sinh năm 1642 ở nước Anh, trong một gia đình
nghèo đã xảy ra một cảnh nhốn nháo thực sự. Đó là sự ra đời của một cậu
bé, nó nhỏ đến mức có thể cho tắm được trong chiếc ly uống bia". Sau đó có
thể kể thêm vài lời về cuộc đời và sự nghiệp của cậu bé đó, và cuối cùng nêu
tên cậu bé đó là Niutơn. Tiếp tục, bạn tiến hành trình bày về học thuyết vạn
vật hấp dẫn.
+ Dẫn nhập bằng cách đặt câu hỏi:
Bằng cách này bạn có thể làm cho cử tọa phải chú ý và suy nghĩ cùng
bạn. Ngay cả một người buồn ngủ nhất cũng phải ngồi thẳng lên khi gặp câu
hỏi. Ví dụ, một diễn giả mở đầu bài nói chuyện về Thiên văn học bằng câu
hỏi: “Có bao giờ bạn nhìn lên bầu trời đầy sao và tự hỏi không biết tất cả
những cái này có ý nghĩa gì? Các bạn hãy suy nghĩ trong giây lát. Có bao giờ
các bạn làm như thế chưa?”.
+ Dẫn nhập bằng cách trích dẫn:
Một câu trích dẫn thích hợp có thể là một mở đầu thú vị.
Ví dụ: Khi mở đầu bài nói chuyện về tệ nạn quan liêu, bạn có thể nói:
“William Pitt viết, “Khi nào pháp luật cáo chung, lúc đó độc tài xuất hiện".
Chúng ta có luật, nhưng chúng ta cũng có những nhà độc tài. Pitt tỏ ra không
khoan nhượng với bọn độc tài đó, bởi vì tệ quan liêu đã trở thành một cái dịch
trong mười năm trở lại đây".
Để mở đầu bài nói chuyện về vai trò của giáo dục, bạn có thể trích dẫn:
“Bác Hồ đã từng nói rằng “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm
trồng người",….".
+ Dẫn nhập gây chấn động:
Khi cử tọa thờ ơ với đề tài hoặc khi họ đã mệt mỏi khó tập trung chú ý,
bạn có thể bắt đầu bằng một lời nói hoàn toàn ngược lại với sự mong đợi của
cử tọa. Để bắt đầu về đề tài giáo dục trong gia đình, bạn có thể nói: “Giáo dục
là một việc làm vô ích, và là hoang phí tiền bạc - trừ phi nó được hậu thuẫn
bởi một loại giáo dục đúng đắn trong gia đình".
Khi vào đề bạn cần tránh những cạm bẫy sau đây:
- Vào đề quá dài có thể làm ảnh hưởng xấu tới bài phát biểu.
- Vào đề không ăn nhập với nội dung bài nói chuyện.
- Vào đề thiếu tự tin bằng những lời biện hộ. Ví dụ, “Vì thời gian quá
gấp, nên tôi chưa chuẩn bị tốt, có gì sai sót các quí vị thông cảm", hay “Tôi
nắm không chắc vấn đề này lắm, vậy có lẽ tôi chỉ chia sẻ với các quí vị một
vài ý kiến sau đây"
- Vào đề với lời xin lỗi: “Thưa các bạn, tôi biết các bạn đang rất mệt mỏi
và muốn ra về. Tôi chỉ xin các bạn ít phút để trình bày vấn đề sau đây” hoặc
“Xin lỗi các anh chị, rất tiếc là hôm nay chuyên gia A không thể đến được, vậy
tôi xin trình bày thế đồng chí ấy".
c. Triển khai
Sau khi đã tạo được bầu không khí tiếp xúc xong, bạn chuyển sang
triển khai nội dung. Hình thức triển khai được quyết định bởi sự chuẩn bị từ
trước: mã số các tư tưởng, các sự kiện thích hợp, các số liệu minh họa, các
câu chuyện hài hước…
Trong khi diễn thuyết, bạn cần chú ý những điều sau đây:
- Sự chú ý và quan tâm của cử tọa phải được duy trì trong suốt trong
buổi nói chuyện bằng việc sử dụng tư liệu hoặc các ví dụ thật sự lý thú cộng
với đôi chút khôi hài nhẹ nhàng.
- Khi trình bày, bạn cố gắng đưa mắt về phía người nghe. Để dễ dàng,
bạn nên chọn ra khoảng 6 người trong số cử tọa để quan tâm và nói chuyện
với họ. Tốt nhất nên chọn 1 người ngồi giữa hàng ghế đầu, 2 người ngồi ở
hai biên ngoài của hàng ghế đầu, 1 người ngồi ở trung tâm của hội trường và
2 người ngồi ở hai góc đằng cuối. Khi bạn hướng về những vị trí này, dường
như toàn bộ cử tọa sẽ được ánh mắt của bạn quan tâm tới.
- Hãy sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ (ánh mắt, điệu bộ, cử
chỉ…) một cách tự nhiên, và không nên quá lạm dụng.
- Bạn có thể đi lại khi nói chuyện, tuy nhiên nên hạn chế trong vòng bán
kính khoảng một mét. Nếu bạn đi lại quá xa sẽ làm xao nhãng sự chú ý của
cử tọa.
- Bạn phải nói to và rõ đủ cho những người ở cuối phòng đều nghe.
Điều này bạn có thể kiểm tra bằng việc nắm bắt những tín hiệu từ những
người ngồi ở đó. Khi họ nghiêng về phía trước, khum tay ở một tai hoặc lắc
đầu sang một bên, thì bạn cần phải tăng thêm âm lượng.
- Giọng nói cần phải được thay đổi, khi trầm khi bổng, khi lên khi xuống,
khi gán từng tiếng khi thì lướt qua tùy vào nội dung của từng đoạn. Nếu bạn
nói với giọng trầm trầm, đều đều thì có nguy cơ bạn sẽ ru ngủ những người
nghe.
- Tránh những thói quen dùng những từ vô nghĩa trong câu nói. Ví dụ:
thực tế là, hiểu không, các bạn biết không, phải không…
d. Kết thúc
Bạn cần phải biết kết thúc đúng lúc, đừng rông dài. Khi bạn đã dùng
câu nói “cuối cùng là…” thì bạn chỉ còn vài phút nữa thôi. Nếu bạn tiếp leo lời
nói này bằng “để kết thúc…", và sau đó lại “đây thực sự là lời cuối cùng…",
thì chắc hắn phản ứng tiêu cực của cử tọa sẽ tăng lên đến cực điểm.
Khi kết thúc bạn tóm tắt ngắn gọn những điểm chính trong bài phát biểu
và yêu cầu người nghe hành động hoặc xem xét vấn đề theo một quan điểm
mới. Tuy nhiên, bạn không nên làm điều đó một cách quá rõ ràng: “Bây giờ tôi
tổng hợp những gì tôi đã nói…”
Bạn có thể kết thúc bằng cách kể một câu chuyện kèm theo và minh
họa những điểm đã được đưa ra. Có thể nêu ra những câu hỏi kiểm tra mà
lúc này người nghe có thể tìm thấy câu trả lời cho chúng mà lúc đầu họ không
trúc thấy được hoặc đưa ra một số câu tóm tắt làm sáng tỏ được mối quan hệ
nội tại của các điểm đã đưa ra trong bài phát biểu. Và cuối cùng, bạn không
quên cảm ơn cử tọa đã chú ý lắng nghe.
B. KỸ NĂNG BÁO CÁO MIỆNG VÀ PHÁT BIỂU TÙY HỨNG1. Báo cáo miệng:
Nói chung việc chuẩn bị một bài thuyết trình và một bản báo cáo miệng,
về cơ bản, là giống nhau. Tuy nhiên, bạn cần chú ý tới một số khác biệt sau:
- Thuyết trình thường mang tính “công chúng", còn báo cáo miệng
thường mang tính nội bộ. Khi thuyết trình, bạn phải nói trước nhiều người,
thậm chí có nhiều người không quen biết. Còn khi báo cáo miệng, bạn trình
bày vấn đề trước những người quen biết, trước các đồng nghiệp, trước lãnh
đạo cấp trên, trong một bầu không khí thân mật hơn. Đó có thể là một bài báo
cáo về tình hình tài chính, tình hình nhân sự, một phương pháp, biện pháp
tăng năng suất…
- Mục đích của thuyết trình thường là góp vui, thuyết phục và thông tin.
Còn mục đích chủ yếu của báo cáo miệng là thông tin và phân tích thông tin.
- Thời gian dành cho báo cáo miệng thường là ngắn hơn thuyết trình.
Vì thế, bạn cần chuẩn bị một dàn ý thật cẩn thận và súc tích.
- Đối với thuyết trình, bạn chủ yếu là giao tiếp một chiều. Còn trong khi
trình bày báo cáo miệng, có thể bạn phải trả lời khá nhiều câu hỏi từ phía
người nghe. Nếu bạn không lường trước những câu hỏi của người nghe, thì
các câu hỏi của họ có thể làm “cháy giáo án” của bạn. Tuy nhiên, nhờ các câu
hỏi và câu trả lời trong quá trình báo cáo mà làm cho các vấn đề được sáng
tỏ và cuộc báo cáo có hiệu quả hơn.
Từ những điểm khác biệt trên, khi trình bày báo cáo miệng bạn cũng
cần lưu ý những vấn đề sau:
- Trình bày phần mở đầu: Bạn nên chọn cách dẫn nhập trực tiếp bằng
cách giới thiệu chủ đề, mục đích và những yến đề chính cần bác cáo: Ví dụ,
“Thưa các anh, các chị. Hôm nay tôi xin được báo cáo trước các anh, các chị
về vấn đề triển khai chiến lược khuyến mãi sản phẩm trong dịp tết Nguyên
đán sắp tới…”
- Phần nội dung: Trong phần này, bạn trình bày các ý chính với sự hỗ
trợ bởi các thông tin xác thực. Ở đây, bạn có thể sử dụng các số liệu thông
kê, bảng biểu, mô hình để minh họa cho những lời mình nói.
- Phần kết: Bạn đưa ra các kết luận của bản báo cáo và minh họa bằng
những bàng chứng nổi bật nhất. Chẳng hạn, bạn có thể kết thúc bàng cách,
“Tóm lại, theo tôi thì chúng ta có thể áp dụng những biện pháp khuyến mãi
như…, bởi vì…”
2. Phát biểu tùy hứng
Trong nhiều trường hợp, bạn phải phát biểu tùy hứng: lời mở màn cuộc
họp, lời chào hàng, tranh luận trong hội nghị, phát biểu trên bàn đàm phán…
Muốn phát biểu tùy hứng một cách có hiệu quả, bạn nên nắm vững một số
điểm chính sau đây:
- Chuẩn bị sẵn dàn ý trong đầu. Bạn định phát biểu những gì? Dẫn
chứng bằng những số liệu và sự kiện gì? Trích dẫn lời hay, ý đẹp của ai?…
Các ý phải được sắp xếp một cách logic, rõ ràng, mạch lạc.
- Phát triển ý tại chỗ. Vì không có sự chuẩn bị kỹ càng, nên trong phát
biểu tùy hứng việc phát triển ý tứ tại chỗ rất quan trọng. Sau khi đã có sẵn
dàn ý trong đầu rồi, bạn nên quan sát hội trường và cử tọa, chộp lấy những
người và cảnh có liên quan đến chủ đề để tức cảnh ví von so sánh. Nếu bạn
luyện được kỹ năng tương đối khó này thì lời phát biểu của bạn càng thêm
sinh động.
- Tùy cơ ứng biến. Tính chất của lời phát biểu tùy hứng yêu cầu bạn
phải có khả năng đối phó nhanh nhạy. Vì không được chuẩn bị, nên khi vào
cuộc bạn có thể đột nhiên quên ý tứ. Gặp những trường hợp như vậy, bạn
nên cần bình tĩnh ứng phó linh hoạt để xoay chuyển tình thế.
IV. KỸ NĂNG GIAO DỊCH BẰNG THƯ TÍN1. Một số vấn đề chung
Ngày nay đất nước ta mở rộng cửa đón nhận quan hệ kinh tế, văn hóa
với nước ngoài: Nhà kinh doanh không phải chỉ làm ăn với các doanh nghiệp
trong nước, mà còn có mối quan hệ với các doanh nghiệp ở ngoài nước.
Chính vì thế nhu cầu trao đổi thư tín càng trở nên cấp bách. Ngoài kỹ năng
nói và nghe, nhà quản trị cũng cần phải rèn luyện cả kỹ năng viết nữa.
Muốn viết một lá thư trong giao dịch thương mại, chúng ta cần am hiểu
một số quy tắc cơ bản và kết cấu của một lá thư.
a. Cấu trúc của thư thương mại
Tiêu đề: Tên Công ty, Xí nghiệp, địa chỉ, fax, điện thoại, thư số.
Ngày tháng: Ghi rõ địa danh, ngày … tháng … năm.
Tên và địa chỉ trong thư: Ghi tên và địa chỉ người nhận thư ngay đầu lá
thư.
Lời chào mở đầu: Lời chào mở đầu trong thư thương mại thường là:
Thưa Ông, hoặc Thưa Bà.
Nội dung: Phần chính quan trọng của một lá thư. Trước khi đặt bút viết,
bạn hãy tự đặt những câu hỏi:
- Mục đích của lá thư là gì?
- Hy vọng đạt được gì qua lá thư này?
- Cách hay nhất để đạt được mục đích là gì?
Lời chào kết thúc: Giống như lời chào mở đầu, có tính phong tục và thể
hiện lịch sự để chấm dứt một lá thư. Lời chào phù hợp với từng hoàn cảnh và
phải tương xứng với lời chào mở đầu.
Ký tên và ghi chức vụ: Phải luôn ký tên bằng bút tự của mình và bằng
bút mực. Không nên ký bằng dấu đề tên mình. Vì nó biểu hiện người nhận
thư không đáng quan trọng để người viết thư phải quan tâm, đích thân ký vào
thư. Trình tự của ký tên và ghi chức vụ:
- Chức vụ.
- Ký tên.
- Họ và tên.
b. Một số quy tắc cần tuân theo khi viết một lá thư
- Ý tứ phải rõ ràng, làm cho người nhận hiểu được thông tin và có thể
giải quyết công việc với thông tin ấy.
- Thư nên đi thẳng vào vấn đề, nêu bật các nét chính của vấn đề định
thảo luận, nêu vấn đề cần sự trả lời hoặc cần hành động nhanh chóng đáp
ứng các điều yêu cầu mong đợi của mình.
- Thư phải viết đúng, chính xác các sự việc nhất là đối với các chi tiết
như ngày và giờ hội họp: giao hàng theo đơn đặt hàng, bảng giá. Phải kiểm
tra thật kỹ các điểm này trước khi phát hành.
- Thư viết phải hoàn chình, có nghĩa là phải có đầy đủ những điều kiện
cần thiết. Nếu thư không đạt được điều này thì thường phải trả giá vì đã gây
ra những bực dọc không cần thiết.
- Các ý trong thư phải nhất quán với nhau.
- Thư viết phải lịch sự, nhã nhặn vì hoạt động kinh doanh đem lại lợi
nhuận cho các bên tham gia. Cho nên nó chỉ có thể có kết quả tốt đẹp trong
bầu không khí tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau: Kể cả những xung đột gay gắt
cũng được thể hiện bằng lời lẽ ôn tồn, tế nhị.
- Thư viết phải thận trọng, không được viết những điều mà bản thân
không nắm được chắc chắn.
Ngoài 7 điểm có tính nguyên tắc ở trên, khi viết thư cần lưu ý mấy điểm
sau đây:
- Xác định cho được những nội dung cần viết và sắp xếp trong đầu các
điểm cần viết theo một mối liên hệ tốt nhất.
- Viết một cách tự nhiên và viết với giọng văn phù hợp với từng hoàn
cảnh.
- Dùng từ ngữ đơn giản, dễ hiểu, quen thuộc.
- Lập đề cương nếu muốn viết thư dài.
* Mẫu thư giao dịch trong thương mại.
Tên công ty Địa danh, ngày…tháng…năm
Địa chỉ: Kính gởi: ………
Điện thoại, telex, fax (Địa chỉ người nhận thư)
Thư số:
Thưa Ông,
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
Lời cuối thư
Chức vụ
Chữ ký
Họ và tên
Khổ giấy A4: 21x30cm.
2. Phân loại thư từ giao dịch và kết cấu của chúng
Trước khi viết lá thư, bạn cần xác định được 3 điều sau:
- Viết lá thư này nhằm đạt được những yêu cầu gì?
- Những ý chính và các ý phụ của bức thư là gì?
- Cần phải sắp xếp ý tứ theo một cấu trúc như thế nào cho hợp lý?
Để giải quyết 3 vấn đề đó, bạn phải luôn luôn ý thức rõ về một điều rất
quan trọng là người đọc thư sẽ phản ứng như thế nào? Chính ý thức rõ ràng
về điểm này sẽ giúp trả lời câu hỏi: nên tổ chức sắp xếp lá thư như thế nào?
Bạn thử đặt mình vào vị trí người nhận lá thư. Nếu lá thư liên quan một
tin tốt lành, thì mình thấy vui; trái lại mình sẽ khó chịu khi nhận được một tin
xấu. Suy ra, thái độ người nhận thư sẽ tương tự. Hình dung được điều này:
để đảm bảo quan hệ tình người qua thư từ giao dịch, bạn sẽ có cách viết thư
thích hợp.
Hầu hết các lá thư giao dịch thường ngày có thể được nhận thư một
trong 3 loại sau đây, xét theo tâm lý người nhận thư:
- Vui vẻ hoặc tỏ ra quan tâm, tuy không có phản ứng tâm lý vui hay
buồn.
- Gay cấn.
- Không quan tâm.
a. Viết thư loại vui vẻ
Đối với loại thư vui vẻ hay loại tỏ ra quan tâm, ta nên sắp xếp ý tứ theo
kiểu suy diễn, tức là ý chính đưa lên đầu rồi thuyết minh bằng các chi tiết.
Kiểu sắp xếp như vậy có mấy cái lợi:
- Ta viết ngay được câu đầu mà không phải do dự gì, tiếp đó ta chuyển
qua các chi tiết cũng dễ dàng.
- Ý chính mở đầu có tác dụng cuốn hút người đọc.
- Đối với thư báo tin vui, ngay câu đầu ta đã tạo được tâm lý vui vẻ
thoải mái nơi người đọc, làm họ dễ chấp nhận đoạn giải thích tiếp theo.
- Hơn nữa, người nhận thư sau khi đã nắm ý chính ở ngay câu đầu có
thể đọc lướt, đọc giải thích tiếp theo, tiết kiệm được thời gian.
Bố cục ý tứ kiểu này được vận đụng tương tự cho các:
- Thư từ khiếu nại.
- Thư đặt hàng.
- Thư mua trả góp.
- Và một số trường hợp khác.
1) Thư khiếu nại
+ Viết thư khiếu nại.
Ví dụ, một đội thợ xây đã không lắp đúng thùng điện nấu nước tắm loại
20 lít, như đã ghi trong hợp đồng, mà lại lắp loại 10 lít, không tiện cho gia đình
đông người.
Bạn viết thư khiếu nại cho người thầu theo kiểu suy diễn, bố cục ý tứ
như sau:
Ngay câu đầu nêu bật đòi hỏi: “Xin Ông vui lòng cho thay các thùng
điện nấu nước tắm loại 10 lít vừa lắp sáng qua bằng loại 20 lít".
- Sau đó mới viện ra các lý đo: “Vì gia đình chúng tôi đông người, nên
hợp đồng đã ghi rõ cần lắp loại 20 lít cho mỗi phòng".
- Kết thúc bằng một lời khen và cảm ơn: “Tiến độ thi công có vẻ vượt kế
hoạch; rất cám ơn sự khẩn trương đó của ông và toàn kíp thợ xây".
+ Trả lời thư khiếu nại.
Nhà kinh doanh thường đáp ứng khẩn trương các thư khiếu nại đúng
qui định, vì điều đó tạo nên uy tín cho chính họ. Cũng vẫn theo kiểu suy diễn:
- Ngay câu đầu, khẳng định điều khiếu nại đang được đáp ứng khẩn
trương.
- Tiếp đó, giải thích các hoàn cảnh dẫn đến thực hiện sai lệch hợp đồng
(do nhân viên văn phòng ghi sai…)
- Cuối thư, rất cảm ơn đã kịp thời nêu vấn đề.
2) Thư đặt hàng
Thư đặt hàng tạo ra một nửa phần của một hợp đồng. Nửa phần còn
lại của hợp đồng do người bán thể hiện sự chấp nhận, khi chuyển hàng
xuống tàu.
+ Thư đặt hàng cũng được sắp sếp ý tứ theo kiểu suy diễn, để thể hiện
sự nghiêm túc:
- Ngay câu mở đầu dùng các từ rõ ý: xin gửi ngay…
- Rồi ghi rõ chi tiết các hạng mục, bao gồm mã hiệu catalô, giá tiền,
màu sắc, kích cỡ.
- Thông báo kế hoạch thanh toán.
- Cuối thư bày tỏ hy vọng sớm nhận được hàng.
Nhiều doanh nghiệp cung cấp mẫu thư đặt hàng in sẵn, người mua
hàng chỉ việc điền vào, sao cho đầy đủ các chi tiết.
Ví dụ về thư đặt hàng.
Thưa Ông,
Xin gởi cho chúng tôi các mặt hàng sau đây với khoản chiết khấu
thường lệ 10% trên giá xuất bán:
Số lượng Tên hàng Chất lượng Giá bán
120T XX YY 10.000
100T ZZ BB 20.000
Mong được cung cấp ngay
Trân trọng
+ Thư xác nhận đơn đặt hàng
Sau khi nhận được đơn đặt hàng, bạn có thể gửi thư phúc đáp gồm các
ý chính sau:
- Bày tỏ sự hân hoan nhận được thư đặt hàng.
- Giới thiệu tóm tắt thêm vài lời về những thuận lợi của mặt hàng được
chọn đặt.
- Lời cam kết quan tâm ngay và chu đáo đến hàng hóa được đặt
- Hy vọng có thêm đơn đặt hàng khác.
Ví dụ:
Thưa Bà,
Chúng tôi hân hạnh nhận được đơn đặt 1àng số 555 để mua thép và vì
mặt hàng này có sẵn nên gởi tới Bà ngay hôm nay bằng tàu thủy. Cước phí
do Bà chịu.
Chúng tôi hy vọng số hàng này sẽ tới kịp thời và hân hạnh nhận được
các đơn đặt hàng trong tương lai.
Trân trọng.
3) Các loại thư từ vui vẻ khác
- Các thư đề nghị cung cấp thông tin, ví dụ: thông tin về sản phẩm, giá
cả, dịch vụ, nhân vật… thường được tiếp nhận một cách vui vẻ, với hy vọng
có thêm dịp làm ăn. Tuy vậy, cũng có khi họ cân nhắc lời lẽ trong thư để xác
định thái độ. Vì vậy, viết thư hỏi thông tin phải nghiêm túc và đặt ý chính ở
ngay câu đầu.
- Các thư mời đến nói chuyện và thư đáp lại cũng được sắp xếp theo
kiểu suy diễn.
- Các doanh nghiệp tiếp xúc với đông đảo khách hàng dùng mẫu in sẵn
để thực hiện nhanh chóng các thư từ “vui vẻ".
b. Viết thư từ loại gay cấn
Thư từ gay cấn là loại thư đem đến tin không vui, thường kèm theo lời
từ chối. Viết thư gay cấn khó hơn là viết thư vui vẻ. Cái khó không phải là ở
chỗ viết sao cho rõ ý mà ở chỗ làm sao nuôi dưỡng tình người, nuôi dưỡng
quan hệ làm ăn.
Thư từ gay cấn phải quan tâm nhất tới các lý lẽ làm rõ vì sao mình từ
chối. Cho nên trước hết phải làm cho người đọc hiểu ra vì sao bị từ chối, rồi
mới nói đến tin không vui… Nếu đưa ngay cái tin không vui lên đầu, nó sẽ làm
người đọc dội lại, không thèm chú ý đến các lý lẽ kèm theo.
Xét về người viết, các chi tiết lý lẽ cũng rất quan trọng, phải viết sao
cho đối tác hiểu được mình. Cho nên, phải tìm cách viết có phần cường điệu
các lý lẽ. Vì vậy, cách sắp xếp ý tứ trong thừ từ loại gay cấn, không thể theo
kiểu suy diễn mà phải theo kiểu qui nạp, không đặt ý chính ở đầu, mà ở một
đoạn thích hợp, sau khi nói lý lẽ.
Thư từ gay cấn là những loại thư sau:
1) Thư từ chối một thư khiếu nại.
Khi do hiểu nhầm như thế nào đó mà một người mua hàng đòi trả lại
tiền dã đóng cho người bán, ví dụ, tiền thuê nhập khẩu, cho là tính sai, người
bán buộc phải có thư trả lời “không".
Sắp xếp ý tứ nên theo kiểu quy nạp:
- Mở đầu bằng một câu nêu chủ đề của bức thư, nhưng chưa đụng đến
ý chính là “không", ví dụ: “Tôi thật sự vui thừng khi biết chuyến hàng ông đặt,
về các thùng điện nấu nước tắm đã đến tay ông sớm hơn dự định 10 ngày".
- Sau đó trình bày các lý lẽ, các lời giải thích hướng tới ý chính là
“không".
- Rồi mới “không", nhưng không được nhấn mạnh ý “không” đó.
- Và kết thúc bằng một câu nói về quan hệ làm ăn tiếp diễn mà không
đả động gì nữa đến sự từ chối.
Cần nhớ lại một nguyên tắc viết thư từ giao dịch thương mại là nhấn
mạnh các ý chính tích cực và không nhấn mạnh các ý chính tiêu cực.
2) Thư từ chối một thư đặt hàng
Vì lý do nào đó mà doanh nghiệp không đáp ứng một đơn đặt hàng, ví
dụ: doanh nghiệp này không bán lẻ, hoặc đang thay đổi một bộ phận phụ tùng
để có mẫu hàng tốt hơn.
Nên sắp xếp ý tứ trong thư trả lời theo kiểu quy nạp:
- Xác nhận đã nhận được thư đặt hàng, “khen” khách hàng đã chọn
một mẫu mã loại tốt nhất.
- Nhưng thông báo cho khách hàng là doanh nghiệp áp dụng lối bán
hàng qua đại lý và nêu lý lẽ vì sao, và nhất là nói cái tiện lợi hơn cho khách
hàng khi mua qua đại lý.
- Rồi giới thiệu địa chỉ cửa hàng đại lý.
- Và kết thúc bằng một câu mang ý nghĩa tích cực.
Ví dụ về thư từ chối đơn đặt hàng.
Thưa Ông,
Chúng tôi hơn hạnh nhận được thư đặt hàng của ông đề ngày 3 tháng
5 để mua 10 máy điều hòa nhiệt độ hiệu National. Nhưng vì ông nêu điều kiện
giao hàng quá gấp nên chúng tôi rất tiếc không thể thỏa mãn yêu cầu này
như vẫn thương làm trong những năm trước đây.
Các nhà sản xuất đang không đáp ứng kịp nhu cầu về loại náy nổi tiếng
này. Chính chúng tôi trong tháng trước cũng đã đặt mua 20 máy, nhưng cũng
được báo là phải chở theo thứ tự ưu tiên.
Tôi đề nghị ông thử liên lạc với cửa hàng mua bán kim khí điện lạnh
“Minh Phương” số… đường… quận… Họ thường xuyên có khối lượng hàng
tồn kho lớn và có thể giúp ông.
Trân trọng
3) Còn một số loại thư từ khác
Khi cần trả lời “không” đều áp dụng kiểu sắp xếp quy nạp. Ví dụ, thư
yêu cầu cấp tín đụng, thư yêu cầu một vài sự chiếu cố, ân huệ…
Viết theo kiểu qui nạp có mấy cái lợi:
- Cho phép người đọc tiếp tục đọc hết lá thư, hiệu hơn nội dung và lý lẽ
của bức thư mà không bị dội lại ngay sau câu đầu.
- Lá thư có ý nhấn mạnh các lời giải thích, các lý lẽ, do chỗ trình bày
các lý lẽ trước rồi mới đến lời từ chối.
- Do lời từ chối đặt ở gần cuối lá thư, sau khi các lời giải thích mở
đường dần dần cho lời từ chối đó nên nó không gây nên cú sốc.
- Và kết thúc lá thư bằng một câu tỏ thân thiện ý tiếp tục hợp tác với
nhau.
c. Viết thư từ loại thuyết phục
Có nhiều loại thư từ thuyết phục người đọc. Trước hết là các thư bán
hàng.
1) Các thư bán hàng
Sắp xếp ý tứ bức thư theo kiểu qui nạp, gồm bốn bước:
- Thu hút sự chú ý vào món hàng. Ví dụ, đặt câu hỏi: vì sao sản phẩm
của chúng tôi được khách hàng ưa thích? nếu một khách hàng đã gửi thư hỏi
về sản phẩm ấy thì không cần mở đầu này.
- Giới thiệu sản phẩm và thu hút sự quan tâm tới sản phẩm đó.
- Nêu lên những lý do đủ sức thuyết phục, do chỗ chúng đáp ứng
những nhu cầu của người đọc.
- Thúc đẩy hành động.
Trong bốn bước này thì bước thứ ba là trọng điểm, được diễn đạt qua
một số đoạn, chứ không phải chỉ một hai câu. Trong các đoạn này cần nêu
bật và nhấn mạnh các điểm mấu chốt một cách nhất quán. Ví dụ, khi nhấn
mạnh tính tiện dụng của chiếc xe hơi, chớ có nói tới trước hết vẻ bên ngoài
của nó. Điều quan trọng nữa là phải nêu các điểm thuyết phục một cách
khách quan. Không được biết điều gì gây sự nghi ngờ, thắc mắc; ví dụ, dùng
từ so sánh quá đáng, như là “tốt nhất", các từ tô điểm vụng về, các điều
khẳng định không được chứng minh. Đôi chỗ cũng cần phải dùng lời lẽ để
giải thích. Có chỗ thì dùng lời so sánh một cách có hình ảnh.
Cũng cần nói đến giá cả, thời gian bảo hành và địa chỉ bảo hành.
Để thúc đẩy hành động, tức là để đạt đến kết quả mong muốn, thì toàn
lá thư phải tuần tự, rõ ý, nhất quán, cuốn hút, đồng thời ở đoạn cuối này phải
giúp cho người mua hành động một cách dễ dàng, ví dụ: gọi điện thoại tới số
mấy, hay điền vào mẫu kèm theo, và nói cái lợi nhất khi có hành động ngay,
ví dụ: mua ngay khi còn bán theo giá chào hàng…
2) Các loại thư yêu cầu và thư đòi tiền
- Đối với những thư yêu cầu cần điều chỉnh một cách hợp lý (thư yêu
cầu điều chỉnh là thư thể hiện sự phàn nàn, không hài lòng về hàng hóa được
đặt nhưng không thỏa mãn yêu cầu đặt ra), các doanh nghiệp hiện đại đều ra
sức giải quyết một cách thỏa đáng. Mặc dù vậy, gắng dùng lời lẽ gay gắt
trong thư yêu cầu điều chỉnh, mà phải coi trọng thái độ của người nhận sao
cho người đó thấy vui vẻ khi đọc thư.
Ví dụ: Thư khiếu nại về hàng hóa kém phẩm chất.
Thưa quí Ông,
Gần đây chúng tôi nhận được một số phàn nàn của khách hàng về bút
bi của quí ông. Hiển nhiên là bút bi đã không thỏa mãn khách và trong một số
trường hợp chúng tôi đã phải hoàn tiền lại cho khách.
Loại bút khách phàn nàn nàn trong lô hàng 1000 chiếc cung cấp theo
đơn đặt hàng số 340. Đơn đặt hàng thực hiện theo mẫu do người đại diện của
chúng tôi đặt tại công ty. Chính chúng tôi so sánh mẫu bút đặt hàng với số bút
giao hàng và thấy nhiều cây do khách phàn nàn đã không đúng chất lượng
yêu cầu. Một số bị chảy mực, một số khác viết không ra mực. Những phàn
nàn chỉ liên quan tới lô bút đã nêu. Các đợt bút trước rất thỏa đáng: Do đó
chúng tôi viết thư này yêu cầu được trả lại số bút còn chưa bán được, tổng
cộng là 800 cây và yêu cầu được thay thế bằng loại bút có phẩm chất tôi mà
chúng tôi vẫn quen biết trước đây.
Trân trọng.
- Đối với thư yêu cầu một sự đáp ứng thuận lợi, ví dụ, mời một chuyên
gia đến nói chuyện tại cuộc hội thảo cuối năm. Cách sắp xếp ý tứ nên theo
kiểu qui nạp, đi đần từng bước tới chủ điểm, thà không nên dùng lối suy diễn
thường ít có hiệu quả. Ví dụ, nên mở đầu bằng câu: “Lớp bồi dưỡng tại công
ty chúng tôi rất muốn học về…” và cứ vậy đi tới lời yêu cầu một cách tự
nhiên, không cần quá nhấn mạnh.
- Các thư đòi nợ phải đạt được hai yêu cầu: đòi được nợ và giữ được
quan hệ tốt.
Cho nên cũng như các loại thư thuyết phục khác, loại thư này phải theo
các sắp xếp quy nạp.
Lẽ dễ hiểu là khi nhận được thư, người mắc nợ biết thư đề cập vấn đề
gì rồi. Cho nên thư nền viết ngắn, không cần dẫn nhập, không cần lời thanh
minh, viết dài làm hỏng vấn đề, có khi người nhận không đọc hết.
Biết rằng người mắc nợ dài ngày chưa trả không dễ thanh toán ngay,
nên phải tính tới một qui trình gồm nhiều thư đòi nợ, nếu như thư thứ nhất
không được đáp ứng thì gửi thư thứ hai, thứ ba…
Viết dãy thư đòi nợ kế tục nhau phải tuân theo bốn nguyên tắc:
- Nêu thời hạn chót.
- Nhịp thư đều đặn.
- Sự thông cảm.
- Lời lẽ cứng rắn dần lên.
Thời hạn chót nên viết vào một thời gian hợp lý, không kéo dài. Để thời
gian này càng dài, con nợ càng dây dưa.
Nhịp thư đều đặn buộc con nợ phải thường xuyên tính tới việc trả nợ.
Thời gian của nhịp thư như thế nào là hợp lý phải đi từ kinh nghiệm thực tế
qua các lần đòi nợ.
Sự thông cảm đòi hỏi sự sâu sát điều kiện của con nợ, thể hiện tình
người. Có nhiều con nợ có đủ lý do chưa thể thanh toán được đúng hạn.
Chính sự thông cảm cụ thể tác động đến nhịp thư. Phải dành đủ thời gian cho
con nợ chạy đủ tiền trả nợ.
Lời lẽ cứng rắn dần lên thể hiện sự nghiêm trọng của vấn đề nêu để
kéo dài khoản nợ. Cứng rắn dần lên phái được hiệu cụ thể theo từng đối
tượng về chính sách đói xử của công ty. Thường thì nên lần lượt trải qua 5
bước sau đây:
- Nhắc nhở.
- Yêu cầu trả nợ sớm.
- Kêu gọi lần ba.
- Khẩn cấp.
- Tối hậu thư (trước khi nhờ đến pháp luật).
Ví dụ về thư yêu cầu thanh toán.
Thưa Ông,
Chúng tôi băn khoăn không hiểu tại sao lại không nhận được thư tín gì
của ông liên quan đến bức điện đề ngày 3 tháng 10 về số tiền 50 triệu đồng
mà quí công ty nợ chúng tôi theo bảng kê ngày 10 tháng 6 vừa qua.
Chúng tôi mong rằng Ông giải thích cho chúng tôi rõ tại sao số tiền trên
lại chưa được thanh toán.
Chắc ông cũng đồng ý là chúng tôi đã hết sức nhẫn nại với quí công ty.
Nhưng chúng tôi hiện nay không còn cách nào khác hơn là phải áp dụng các
biện pháp cần thiết để thu hồi số nợ thiếu nói trên.
Chúng tôi mong sẽ tránh làm việc gì xét ra có hại đến thanh danh và uy
tín đến quí công ty. Ở thời điểm này, chúng tôi vẫn sẵn lòng cho quí công ty
mọi sự dễ dãi để thanh toán số tiền trên. Với quan điểm đó chúng tôi dành
cho ông thêm một tháng nữa để ông có điều kiện thu xếp thanh toán nợ nần.
Trân trọng
Thư gây áp lực để yêu cầu thanh toán (lần hai)
Thưa Ông,
Hóa đơn của chúng tôi đề ngày l0 tháng 5 đã quá hạn thanh toán đến
hơn 3 tháng nay và mặc dù chúng tôi đã nhắc nhở trong thư đề ngày 1 tháng
9, chúng tôi vẫn chưa nhận được thư hồi âm của ông.
Chúng tôi rất tiếc là phải thông báo cáo ông rõ do sự làm ăn thiếu tín
nhiệm này, chúng tôi phải ấn định một thời hạn chót là 20 ngày kể từ hôm nay
để ông lo thanh toán số nợ cho chúng tôi.
Trong thời gian này, nếu ông không thanh toán số nợ thì phải buộc lòng
chúng tôi nhờ đến pháp luật phân xử.
Chúng tôi tin rằng ông cũng muốn tránh những phiền hà cũng như
những chi phí do sự tranh tụng gây ra.
Thành thật kính chào.
3. Các loại thư từ xã giao
Nhiều doanh nghiệp thỉnh thoảng đứng trước những hoàn cảnh phải
viết những thư từ loại xã giao và coi đây là cơ hội biểu lộ sự quan tâm, thiện ý
và tình cảm.
a. Thư chúc mừng
- Khi hay tin về đồng nghiệp trúng cử, thăng cấp hay nhân dịp sinh
nhật, đám cưới, khai trương cửa hàng mới, đáng chúc mừng lắm chứ! Nhưng
bạn bận công việc không thể đến chúc mừng được, viết thư chúc mừng cũng
có thể nói lên tình cảm của mình, làm cho bạn bè hài lòng. Trang trọng hơn là
hình thức một lá thư viết tay.
Thư chúc mừng cần ngắn gọn, tràn đầy tình cảm, không uốn éo, giả
tạo. Nội dung thư phải sát thực tế, đánh giá phải đúng mức, biểu thị quyết tâm
phải thiết thực khả thi.
Nội dung thư bao gồm:
- Nhân danh ai?
- Chúc mừng ai? Nhân dịp gì?
- Chúc gì cho họ?
- Ngược lại người nhận thư liền viết thư đáp lại, có thể dùng hình thức
thư đánh máy. Nội dung là cám ơn sự quan tâm, cảm ơn sự chúc mừng.
Ví dụ thư chúc mừng năm mới gửi cho một đơn vị bạn.
Thưa ông…
Năm 1997 đã qua đánh dấu một bước phát triển tốt đẹp trong quan hệ
hợp tác giữa hai đơn vị chúng ta. Với sự hỗ trợ của Ông, công ty chúng tôi đã
thu được nhiều kết quả trong sản xuất kinh doanh. Nhân đây, cho tôi được
thay mặt ban lãnh đạo công ty này tỏ lòng biết ơn đối với Ông và quí cộng sự.
Nhân dịp xuân mới, xin gửi tới Ông bà gia đình lời chúng sức khỏe, anh
khang, hạnh phúc. Chúc Ông cùng cộng sự vững bước tiến lên và đạt nhiều
thành công mỹ mãn.
Thân chào.
b. Thư mời
Là thư bày tỏ lòng mong muốn ai đến dự tiệc do cơ quan, đơn vị tổ
chức nhân dịp gì? Thư thời dự tiệc cần ngắn gọn, chân tình.
Cũng như mọi thư xã giao khác, cách sắp xếp ý tứ nên theo kiểu diễn
dịch.
Dù là thư mời hay thư đáp lại lời mời đều phải khẩn trương.
Nội dung:
- Kính mời ai đến dự lễ tiệc nhân dịp gì?
- Lễ tiệc được tổ chức tại đâu? Thời gian?
- Mong sự có mặt (sự hiện diện) của ai / (Sự hiện diện của quý ông/bà
là một sự khích lệ to lớn đối với chúng tôi).
c. Thư cám ơn
Khi nhận được một món quà, phải viết thư cảm ơn, viết ngắn gọn, chân
tình. Tốt nhất là thư viết tay. Trước tiên, thư phải chính xác, viết rõ người và
sự kiện mình cảm ơn để họ còn nhớ ra. Bạn có thể bình luận đánh giá ý
nghĩa sâu xa của sự việc với tình cảm nồng thắm và tỏ lời cảm ơn.
d. Thư chia buồn
Nên khẩn trương ngay khi biết tin: Có thể dùng hình thức thiếp chia
buồn cũng được. Tốt nhất là thư viết tay.
Thư chia buồn nên ngắn gọn, tình cảm, chân thành.
Nội dung bao gồm:
- Nhân danh ai, chia buồn với ai khi nhận được tin buồn gì?
- Biểu cảm của mình khi nhận được tin buồn đó.
- Mong cho người đó, cơ quan đó điều gì?
Ví dụ: Thư chia buồn tới ông tổng giám đốc khi nghe tin bà vợ của ông
qua đời.
Kính gởi: Ông tổng giám đốc.
Thưa ông,
Cho phép tôi thay mặt các bạn đồng nghiệp bày tỏ những lời chia buồn
sâu sắc nhất đối với sự mất mát to lớn xảy đến đối với ông.
Tất cả những ai đã từng làm việc lâu năm trên cạnh ông đều nhận thấy
bà nhà có đặc tính của người vợ hiền hiếm thấy. Nên việc mất đi đột ngột của
bà đã gây cho anh em chúng tôi một sự xúc động, thương cảm.
Toàn thể anh em công nhân chúng tôi xin ông nhận nơi đây tấm lòng
thành kính thiết tha.
Thay mặt tập thể công nhân XN
Thành thật chia buồn
e. Thư thăm hỏi
Là thư bày tỏ sự cảm thông, sự thương cảm đối với cơ quan, đơn vị
hoặc cá nhân khi nhận được tin họ gặp những tai nạn do thiên tai, hỏa hoạn
hoặc những sự cố bất ngờ xảy ra.
Thư thăm hỏi cần ngắn gọn, tình cảm và thể hiện hành động thiết thực.
Nội dung thư thăm hỏi:
- Biểu cảm của mình (cơ quan, đơn vị hoặc cá nhân) khi nhận được tin
không vui gì.
- Lời thăm hỏi chân thành đối với những người bị nạn và hành động cụ
thể của mình giúp người bị nạn vượt qua khó khăn mất mát, tổn thất nặng nề.
- Hy vọng người bị nạn (cơ quan, xí nghiệp, cá nhân) sớm khắc phục
khó khăn, trở ngại đưa cuộc sống, sinh hoạt trở lại bình thường.
Ví dụ: Thư thăm hỏi đồng bào tỉnh X bị lũ lụt hết sức nặng nề.
Kính gởi: ông chủ tịch tỉnh X.
Thưa Ông,
Chúng tôi xin gửi tới ông cùng đồng bào Tỉnh nhà lời thăm hỏi và cảm
thông sâu sắc nhất khi nhận được tin địa phương nhà bị lũ lụt kéo dài, mùa
màng thất bát làm cho đời sống sinh hoạt của đồng bào gặp nhiều khó khăn
trở ngại nhất là trẻ em trong những ngày bước nào năm học mới.
Để góp phần khôi phục lại những gì đã mất mát do thiên tai gây ra, với
khả năng hiện có của mình, chúng tôi xin gởi tới đồng bào Tỉnh nhà và các
em học sinh số tiền 50 triệu đồng cùng một số học cụ, tập vở để góp phần tái
thiết lại môi trường học tập.
Chúng tôi hy vọng rằng với sự giúp đỡ của cả nước cùng với sự nỗ lực
của đồng bào Tỉnh nhà, nhất định chúng ta sẽ nhanh chóng khắc phục hậu
quả của lũ lụt, đưa cuộc sống của đồng bào trở lại bình thường.
Trân trọng kính chào.
V. CÁC KỸ NĂNG XÃ GIAO THÔNG THƯỜNG 1. Những nguyên tắc chung của giao tiếp xã giao
Xã giao hàng ngày, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh cần tuân theo
những nguyên tắc sau đây:
a. Phải kết hợp tính khoa học với tính nghệ thuật
Tính khoa học của phép xã giao cho phép bạn sử dụng những hành vi
giao tiếp đúng với nội dung, hình thức, mục đích và tính chất của cuộc giao
tiếp. Tuy nhiên, khi áp dụng những hành vi đó, bạn cần phải linh hoạt, tùy cơ
ứng biến chứ không nên cứng nhắc. Hơn nữa, những hành vi giao tiếp cần
phải được thực hiện một cách khéo léo nhất để thành ra cái đẹp cái duyên.
b. Kết hợp tính dân tộc và tính quốc tế
Khi giao dịch với khách nước ngoài bạn cần phải tuân thủ những thông
lệ quốc tế, nhưng không nên đánh mất bản sắc dân tộc trong phép xã giao.
Tính dân tộc thể hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc với nhau và nêu cao
lòng tự hào dân tộc của người giao tiếp. Tính quốc tế không được làm tổn
thương tính dân tộc, mà còn phải bổ sung cho tính dân tộc trong xã giao.
c. Kết hợp tính truyền thống và tính hiện đại
Trong giao tiếp, tính truyền thống không đối lập với tính hiện đại.
Ngược lại, có những truyền thống được hiện đại hóa bằng cách cải tiến, đổi
mới, và có những cái mới hiện đại không có nguồn gốc trong truyền thống
nhưng bổ sung cho cái truyền thống. Ngày xưa, “miếng trầu là đầu câu
chuyện", nhưng ngày nay thì cốc bia, ly rượu lại đóng vai trò mở đầu cho một
cuộc bàn chuyện làm ăn.
2. Các phép xã giao thông thường
a. Giao dịch bằng danh thiếp
Trong quan hệ chính thức hoặc không chính thức tấm danh thiếp cần
được trao trực tiếp. Theo thông lệ của Pháp, việc chủ động trao danh thiếp
thuộc về người khách. Còn ở Anh thì ngược lại, người chủ trao danh thiếp
trước cho khách. Còn ở Việt Nam mới bắt đầu sử dụng danh thiếp làm
phương tiện giao dịch nên chưa có những thông lệ rõ ràng. Tuy nhiên khi
dùng danh thiếp chúng ta cũng nên dựa vào thông lệ chung và những chuẩn
mực của phép xã giao mang bản sắc văn hóa dân tộc là “kính trên, nhường
dưới” và tính hiếu khách. Từ những nguyên tắc trên khi dùng danh thiếp như
một phương tiện giao tiếp của người Việt Nam cần chú ý:
- Nếu gặp gỡ lần đầu tiên, việc trao danh thiếp trước thuộc về người
chủ.
- Người có vị trí thấp hơn trao danh thiếp trước cho người có vị trí cao
hơn.
- Khi gặp gỡ người nước ngoài thì cần chú ý tới thông lệ dùng danh
thiếp của dân tộc họ.
Ngoài việc trao trực tiếp khi gặp gỡ, danh thiếp còn được sử dụng trong
những trường hợp sau:
- Khi tặng quà cho người quen, kèm theo danh thiếp vào đó.
- Lần đầu tiên liên hệ công tác với một cơ quan nào đó, đưa danh thiếp
vào trước cho người thư ký để xem người ta có đồng ý tiếp mình hay không.
- Khi đến thăm người quen mà không gặp, bạn có thể gửi danh thiếp
lại và ghi mấy chữ báo cho họ biết là mình có đến.
- Trong các trường hợp: chúc mừng ngày lễ, chúc mừng các sự kiện
khác, chia buồn…
b.Giao tiếp bằng điện thoại
Ấn tượng nổi bật nhất mà bất kỳ một công ty nào cũng muốn tạo nên
nơi khách hàng là hiệu quả và chất lượng dịch vụ.Thông thường tiếp xúc đầu
tiên về một chuyện làm ăn là qua điện thoại. Những người gọi có khuynh
hướng nhận định, đánh giá công ty dựa vào trình độ giao thiệp của người trả
lời điện thoại.
Nếu bạn muốn làm lợi tối đa cho công ty của bạn, thì bạn hãy tuân thủ
những qui tắc sau đây về việc sử dụng điện thoại một cách cẩn thận:
Trả lời điện thoại
- Hãy trả lời ngay: Nếu không quá bận, bạn nên nhấc máy lên trước hồi
chuông thứ ba và có thể nói ngay: “Đây là Tổng Công ty Vinamoi” nếu bạn trả
lời từ máy cá nhân thì có thể nói: “Trần Tòe nghe đây". Điều quan trọng là bạn
phải tỏ ra nồng nhiệt và quan tâm.
- Nếu có một người khách đến cùng lúc bạn đang có một cuộc hẹn qua
điện thoại thì có thể nói với người gọi đến chờ một chốc hoặc nói rằng lát nữa
bạn sẽ gọi lại, và sau đó tiếp người khách đến hết câu chuyện. Nếu cuộc điện
thoại hết sức quan trọng thì bạn hãy xin lỗi người khách hãy đợi một lát để
bạn trả lời xong điện thoại.
- Trong trường hợp bạn cần phải rời máy điện thoại để trả lời một cú
điện thoại khác, thì hãy xin lỗi người gọi đầu tiên, và nói với anh ta là bạn sẽ
quay lại ngay: “Xin lỗi ông một lát, tôi có một cú điện thoại khác mà tôi phải trả
lời, tôi sẽ quay lại ngay”, và bảo với người gọi thứ hai ngay rằng bạn đang
điện thoại và sẽ cố gắng quay lại ngay, hoặc tốt nhất là bảo anh ta là bạn sẽ
gọi lại sau.
- Cái đẹp của bạn, quần áo của bạn, đầu tóc của bạn đâu có thể diễn
đạt qua điện thoại được, mà cái đẹp ở đây là cách cư xử được đánh giá bởi
người nghe thông qua thái độ và giọng nói của bạn. Vì vậy bạn phải lịch sự
nhã nhặn, thân thiện nhiệt tình. Phải hình dung bạn đang đứng nói chuyện
trước mặt họ, chứ không phải là chỗ không người.
- Hãy phát âm rõ ràng, cẩn thận, hãy mở miệng ra và đừng lầm bầm
lúng búng trong miệng. Không nên vừa nói vừa hút thuốc hoặc ăn uống.
Gọi điện thoại
- Không nên gọi điện thoại vào đầu giờ làm việc hoặc sắp hết giờ làm
việc, không nên gọi điện quá muộn hoặc quá sớm đến nhà riêng (trừ trường
hợp cấp bách) bởi vì người được gọi không mấy nhiệt tình tiếp chuyện bạn
đâu.
- Trước khi định gọi cho ai, bạn cần kiểm tra số cho đúng. Nếu không
bạn sẽ làm phiền cho họ. Nếu vô ý nhầm số thì cần xin lỗi ngay và nhẹ nhàng
cúp máy.
- Sau khi quay xong, bạn hãy kiên nhẫn chờ một khoảng thời gian cho
người ta kịp trả lời. Bạn hãy tường tưởng họ đang ở xa máy điện thoại. Sau
khi nghe bên kia nhấc máy, bạn nhớ xưng danh và tên công ty ngay và đề
nghị được nói chuyện với người mình cần gặp. Ví dụ: “Tôi là Trần Tòe, trợ lý
của Giám đốc Văn Tèo, Tổng Công Ty Vinamoi, xin vui lòng được nói chuyện
với ông Giám đốc Phan Tham”. Nếu người mà bạn cần gặp không có mặt thì
có thể nói: “Xin ông (bà) vui lòng nhắn lại là” hoặc “Xin cảm ơn, tôi sẽ gọi lại
sau”.
c. Chào hỏi, bắt tay giới thiệu
Lễ nghi bắt tay. Bắt tay biểu đạt sự hòa bình, hữu hảo, thông cảm, cam
kết, kính trọng, xin lỗi… Khi bắt tay cần chú ý:
- Trước sau: Thông thường chủ nhà, cấp trên, phụ nữ chủ động đưa
tay ra trước.
- Nhanh chậm: Kịp thời đón nhận khi người ta đưa tay bắt là biểu thị sự
nhiệt tình, tình cảm chân thật và hữu hảo. Nếu đối tượng đã giơ tay mà ta
phản ứng chậm, hoặc thờ ơ thì biểu thị sự kém cỏi, ngạo mạn, khinh miệt.
- Lâu ngắn: Tùy vào trường hợp cụ thể mà biểu hiện. Thông thường
thời gian cầm tay nhau tương đương với thời gian chào hỏi.
- Cách thức: Khi bắt tay người hơi nghiêng về phía trước nhìn vào mắt
đối tượng, cười hồn nhiên vừa bắt tay vừa chào hỏi sẽ gây cho đối tượng
cảm giác tôn trọng, nhiệt thành.
Khi giới thiệu bạn cần chú ý những điểm sau:
- Cần giới thiệu người ít tuổi với người cao tuổi, người chức nhỏ với
người chức to, người nam với người nữ, một cô gái với một người đàn bà.
- Giới thiệu nhân viên dưới quyền cho khách. Giữa hai người có cùng
địa vị, cùng tuổi tác, thì giới thiệu người đến sau với người đến trước.
- Trong những dịp gặp gỡ long trọng, bạn nên giới thiệu một cách lịch
sự bằng những câu nói mang tính xã giao như: “Cho phép tôi được hân hạnh
giới thiệu cô Ngọc Lan, kỹ sư nông nghiệp". Tiếp đó có thể nói vài lời về
người được giới thiệu: “Cô Ngọc Lan vừa đi thực tập ở Thái Lan về".
- Khi giới thiệu, bạn đứng thật nghiêm chỉnh và đưa tay phải về phía
người cần được giới thiệu rồi nói với người kia. Ví dụ: “Thưa bà, đây là Minh,
bạn cùng công ty với con". Hoặc, “Thưa ngài Ivan Ivanovic đây là anh Vinh,
phóng viên báo Tuổi trẻ” và đưa tay chỉ người kia, bạn nói: “Còn đây là ông
Ivanov, Giám đốc công ty”.
- Khi được giới thiệu, hai bên khẽ cúi chào và bắt tay nhau. Người trên
hoặc phụ nữ đưa tay ra thì người kia mới bắt. Đồng thời, hai người có thể nói
thêm: “Rất hân hạnh được biết ông/ bà".
3. Kỹ năng gây thiện cảm trong giao tiếp
Ngoài việc dùng những phép xã giao như trình bày ô trên, bạn cũng
cần phải để ý tới cách tiếp chuyện thông thường. Qua cách nói chuyện, người
khác đánh giá trình độ hiểu biết, tính có giáo dục và văn hóa của bạn. Bạn
muốn gây ấn tượng ở người khác thì đặc biệt chú ý tới cách nói chuyện, chứ
không phải chỉ là chú ý tới cách ăn mặc, dáng vẻ bên ngoài không thôi.
Tốt nhất là bạn nên tham khảo những lời khuyên sau đây của Da le
Carnegie (Đọc “Đắc nhân tâm"- Nguyễn Hiến Lê dịch):
a. Làm sao để gây thiện cảm với người khác?
- Hãy thành thật chú ý tới người khác. Nếu các bạn sốt sắng thành thật
quan tâm tới người khác thì chỉ trong vòng hai tháng sẽ có nhiều bạn thân
hơn là hai năm gắng công bắt người khác quan tâm tới các bạn.
- Hãy giữ nụ cười trên môi. Một nụ cười không làm nghèo người phát
nó nhưng làm giàu người nhận nó. Trong kinh doanh hãy nhớ rằng “Người
nào không biết mỉm cười, đừng nên mở tiệm".
- Hãy nhớ tên người đối thoại. Người ta cho cái tên của mình là một âm
thanh êm đềm nhất, quan trọng nhất trong các âm thanh.
- Hãy biết lắng nghe người khác nói và khuyến khích họ nói về họ.
Muốn được người khác chú ý tới, trước hết phải biết chú ý tới người. Hãy đặt
những câu hỏi mà người ta thích thú trả lời.
- Thành thật làm cho họ thấy sự quan trọng của họ. Luôn luôn phải làm
cho người khác cảm thấy sự quan trọng của họ.
b. Làm sao cho người khác nghe mình?
- Đừng ham tranh luận. Hãy để khách hàng, bạn bè, người yêu, bạn
trăm năm của ta thắng ta trong những cuộc tranh luận nho nhỏ mà không thể
tránh được.
- Hãy trọng ý kiến người khác, đừng bao giờ bảo họ lầm. Muốn thuyết
phục người khác, phải lập luận một cách khi đảo đừng cho người ta nhận
thấy chủ ý của bạn, phải khéo léo lắm, tế nhị lắm. đừng cho người ta đoán
được bạn muốn chứng minh bạn đúng còn họ thì sai.
- Nếu bạn lầm lỗi, hãy nhận lỗi ngay. Nếu phản kháng lại thì có được
cũng không bõ vào đâu. Còn cứ nhịn đi thì được nhiều hơn cái mình muôn
có.
- Hãy ôn tồn, ngọt ngào, không nên xẵng. Muốn cho một người theo ý
ta, thì trước hết ta phải làm cho người đó tin rằng ta là một người bạn thành
thật của họ. Và lời nói ngọt ngào sẽ chiếm được trái tim của họ và do trái tim,
ta sẽ chiến thắng được lý trí của họ.
- Hãy bắt đầu từ câu hỏi để. Hãy dẫn dụ cho đối tượng đáp “phải” ngay
từ đầu câu chuyện.
- Hãy để cho người ta nói cho thỏa thích. Phải để cho người ta trút bầu
tâm sự của họ ra, đừng ngọt lời họ mà hãy khuyến khích cho họ bày tỏ hết tư
tưởng sâu kín của họ ra, sau đó họ mới chịu nghe bạn.
- Hãy để họ tin rằng họ hành động hoàn toàn theo sáng kiến của họ.
Roosevelt luôn hỏi ý kiến những người cộng sự và tôn trọng ý kiến của họ.
Mỗi lần ông định bổ nhiệm một người vào địa vị quan trọng, ông để cho thủ
lĩnh các đảng phái tưởng rằng chính họ đã lựa người đó.
- Hãy thành thật xem xét quan điểm của người khác. Hãy tự đặt mình
vào địa vị để suy xét quan điểm của họ.
- Hãy tỏ ra bạn có nhiều thiện cảm với những ý tưởng cùng ước vọng
của họ. Câu thần chú để ngưng các cuộc cãi lộn, làm tan bất bình, gây thiện
cảm là “Tôi không trách ông một chút nào hết. Nếu ở địa vị ông, chắc chắn tôi
cũng làm như vậy”.
- Hãy thách đố họ, khêu gợi tức khí của họ. Muốn có kết quả bạn phải
khuyến khích lòng ganh đua, không phải là lòng ganh đua tự tiện để kiếm tiền,
mà là lòng ganh đua cao thượng hơn, lòng muôn mỗi ngày mỗi tiến, chẳng
những thắng người mà thắng cả chính mình nữa.
c. Làm sao để sửa tính người mà không làm cho họ giận dữ, phật ý?
- Trước khi phê hãy tặng cho họ vài lời khen. Hãy nhớ rằng trước khi
cạo râu cần thoa một lớp xà bông cho đỡ rát.
- Trước khi chỉ trích ai, bạn hãy tự thú nhận những khuyết điểm của
mình. Nếu ta khiêm tốn nhận trước rằng ta cũng chẳng hoàn hảo gì rồi mới
trách kẻ khác, thì kẻ đó không thấy khó chịu lắm.
- Đừng ra lệnh, mà hãy dùng câu hỏi để khuyên bảo người khác.
- Khi phê bình hãy giữ thể diện cho người ta.
- Hãy thành thật công nhận những tiến bộ của họ, khen ngợi những tiến
bộ nhỏ nhất của họ để khuyến khích họ trở thành tốt hơn.
- Bạn hãy gây cho người ấy một thanh danh rồi họ sẽ gắng sức để
được xứng thanh danh đó. Nếu bạn muốn cho ai phát triển một đức tính nào
đó, bạn nên hành động như đức tính đó đã là một đặc sắc rõ ràng nhất của
người đó, từ đó họ sẽ gắng sức phi thường để xứng đáng với lời khen của
bạn.
Câu hỏi ôn tập4.1. Tại sao bạn cần phải lắng nghe trong giao tiếp?
4.2. Bạn hãy kể ra những thói quen xấu mà bạn mắc phải khi lắng nghe
người khác? Làm sao mà khắc phục?
4.3. Thế nào là lắng nghe thấu cảm? Để nghe thấu cảm, bạn cần rèn
luyện những kỹ năng gì?
4.4. Để thu thập thông tin có hiệu quả, bạn cần sử dụng những loại câu
hỏi nào? Phân tích ưu, nhược điểm của các loại câu hỏi? Qua đó cho biết khi
nào thì áp dụng loại nào?
4.5. Hãy nêu ưu nhược điểm của các kiểu bản ghi sẵn trong thuyết
trình? Khi nào nên áp dụng loại nào?
4.6. Giữa thuyết trình trước công chúng và báo cáo miệng khác nhau
chỗ nào?
4.7. Bạn hãy phân tích những nguyên tắc khi áp dụng những phép xã
giao trong giao tiếp?
Tình huống thảo luận
4.a. Ông Hà một mình phụ trách một văn phòng luật. Một ngày kia, một
phụ nữ gọi điện đến nhờ cố vấn cho một vụ kiện lớn. ông Hà đồng ý gặp cô ta
vào lúc 14h00. Khi cô ta đến ông Hà đang nói chuyện điện thoại. Ông ta
không đứng dậy mà vẫy cô ấy vào và chỉ cho cô ta chỗ ngồi. Ông ta để cô ấy
chờ khoảng 10 phút cho đến khi gọi xong. Khách hàng của ông Hà có vẻ bực
mình, nhưng ông Hà không hiểu tại sao. Bạn cho rằng ông Hà đúng hay sai?
tại sao?
4.b. Danh là quản đốc của một nhà máy thực phẩm chế biến. Một hôm
vào cuối tuần, anh ta đi ăn trưa về và thấy cô thư ký ngồi khóc ở hành lang.
Anh hỏi han có chuyện gì đó xảy ra phải không. Cô ta lắc đầu và tiếp tục
khóc. Danh bối rối bước vào phòng và đóng cửa lại. Danh đúng hay sai? Tại
sao?
Bài tập thực hành
1. Bạn hãy chuẩn bị một bài nói chuyện dài khoảng 10 phút về một đề
tài nhảo mà bạn thích để trình bày trước lớp.
2. Bạn hãy nghiên cứu một chương nào đó trong giáo trình này, sau đó
dựa vào phương pháp báo cáo miệng hãy trình bày trước lớp kết quả nghiên
cứu.
3. Bạn hãy cắt từ một tờ báo 1 mẫu quáng cáo về một sản phẩm nào
đó. Bạn hãy viết một bức thư bán hàng về sản phẩm đó. Đính kèm mẫu
quảng cáo vào thư.
4. Hãy tìm một lá thư bán hàng nào đó. Bạn hãy liệt kê những nguyên
tắc đã được sử đụng và không được sử dụng trong bức thư. Hãy viết lại lá
thư đó.
5. Ông Tèo đã mua 1 chiếc đàn dương cầm. Sau khi thanh toán trước
một lần, ông ta phải tiếp tục thanh toán số tiền còn lại trong 20 tháng, mỗi
tháng 150 USD, lần tham toán thứ 3 trễ hạn vài ngày. Đến nay đã gần tới
ngày thăm toán đợt thứ 5, nhưng số tiền thanh toán đợt 4 bạn vẫn chưa nhận
được. Là một giám đốc tín dụng
a. Bạn hãy viết một lá thư nhắc nhở.
b. Bạn hãy viết một lá thư yêu cầu thanh toán, tiếp theo thư trên (đã
không thấy hồi âm).
c. Bạn hãy viết một lá thứ gây áp lực thanh toán.
6. Một vị giám đốc nhân sự đã được mời đến lớp bạn nói về một số vấn
đề cần lưu ý khi trả lời phỏng vấn xin việc. Vận dụng những kiến thức đó mà
bạn đã trả lời rất tự một cuộc phỏng vấn và bạn đã được tuyển vào một công
ty khác. Hãy viết một lá thư cảm ơn vị giám đốc nhân sự đó.
Chương 5: GIAO TIẾP TRONG MÔI TRƯỜNG CÔNG TY
I. GIAO TIẾP NỘI BỘ1. Tổ chức các cuộc họp
Trong hoạt động quản trị, họp hành đóng một vai trò hết sức quan
trọng. Qua họp hành, nhà quản trị có thể thu được nhiều thông tin cần thiết,
hiểu biết, tiếp xúc để đánh giá được thái độ, việc làm của cấp dưới, truyền đạt
được các yêu cầu của mình cho những người thừa hành. Đối với nhân viên
dưới quyền, họp hành cũng rất cần thiết, qua đó mới nắm được chủ trương,
chính sách, mục đích của công ty, hiểu rõ những nhiệm vụ của mình. Đồng
thời qua họp hành nhân viên có thể đề đạt những ý nghĩ, nguyện vọng, sáng
kiến của mình góp phần vào việc ra quyết định quản trị có hiệu quả.
Tuy nhiên họp thế nào cho có hiệu quả? Về vấn đề này, hai nhà bác
học người Mỹ là Doyle và Strans đã tiến hành nghiên cứu thí nghiệm trong
hàng nghìn cuộc họp với số lượng người tham dự từ 3 đến 30 người theo
phương pháp mới có tên gọi là “Họp tích cực” hay là “Họp dân chủ công
khai". Đây là phương pháp họp mới, phát huy được tính tự do tư tưởng, mọi
người được tự do phát biểu, bàn bạc một cách thoải mái. Sau nhiều năm
nghiên cứu, hai ông đã rút ra được 6 nguyên tắc họp có kết quả:
1) Khéo léo điều khiển cuộc họp với một chủ đề chung.
2) Vạch ra một chủ đề họp chung, thống nhất và có kế hoạch tỉ mỉ..
3) Phải có một người chịu trách nhiệm duy trì cuộc họp sao cho ý kiến
phát biểu công khai và cân bằng.
4) Bảo vệ những người tham gia ý kiến, ngăn chặn sự tấn công cá
nhân (không công kích, phê phán lẫn nhau).
5) Mỗi người tham gia cuộc họp cần phải hiểu rõ mục đích cuộc họp và
trách nhiệm của họ trong cuộc họp.
6) Chủ tọa cuộc họp không nên là thủ trưởng hay thủ phó đơn vị để
tránh hiện tượng áp đặt ý kiến bằng phương pháp ám thị, áp chế.
Phương pháp tác động tương hỗ này do hai ông đề ra dựa trên sự hợp
tác của 4 “nhân vật” chính trong cuộc họp: Chủ tọa cuộc họp (do hội nghị bầu
ra), thư ký ghi chép biên bản và toàn bộ ý kiến, thủ trưởng và toàn bộ những
người tham gia khác. Tất cả mọi nhân vật trên đều có vị trí quan trọng như
nhau. Mỗi người phải có trách nhiệm hoàn thành tốt chức năng của mình.
* Chủ tọa: Chủ tọa cuộc họp bao giờ cũng phải giữ vai trò trung lập.
Nhiệm vụ chính của chủ tọa là lôi kéo, giúp đỡ mọi người tập trung phát biểu
ý kiến vào mục đích của cuộc họp. Để làm tốt điều đó, chủ tọa cần áp dụng
một số thủ thuật như:
- Gợi ý để mọi người phát biểu ý kiến, mời mọc bằng thái độ khuyến
khích và đảm bảo an toàn cho người rụt rè (làm sao cho họ không sợ bị chê
cười, bị phản ứng mạnh).
- Khơi mào bằng cách chính mình hay nhờ một nhân viên nêu vấn đề
vừa đủ kích thích sự suy nghĩ, đặt nhiều câu hỏi.
- Khéo léo ngăn chặn bớt những người nói nhiều, có khuynh hướng lấn
át người khác. Quan tâm đến việc thông đạt của người khác (để tránh tình
trạng “ông nói gà, bà nói vịt”).
- Hỏi lại, làm sáng tỏ các phát biểu cho rõ ràng, đảm bảo tất cả đều
hiểu rõ một nội dung giống nhau. Thỉnh thoảng lập lại, tóm lược để làm rõ. Nối
kết các ý kiến rời rạc thành hệ thống.
- Phải chú ý lắng nghe, không cúi viết hoài, mà theo dõi quan sát phản
ứng của từng người, ngăn chặn kịp thời nhưng ý kiến có tính chất công kích,
phê phán cá nhân để tránh gây ra bầu không khí căng thẳng, mất đoàn kết.
Với những người cá biệt như nóng nảy thâm thúy hoặc thờ ơ, chủ tọa nên
ngọt ngào, nhẹ nhàng khéo léo để họ tham gia ý kiến cho đúng mức.
* Thư ký: Là người được giao trọng trách ghi chép toàn bộ những ý
kiến của cuộc họp. Thư ký cần phải ghi hết những ý kiến một cách trung
thành, chính xác, không sai sót không lệch lạc. Thư ký cũng phải giữ vai trò
trung lập, viết trước mặt mọi người, không can thiệp một cách công khai vào
công việc của chủ tọa, không ghi lời nhận xét hay bình luận theo quan điểm
chủ quan của mình, nếu như không phát biểu trước cuộc họp. Cuối buổi họp
phải đọc lại biên bản cho mọi người nghe Và kiểm tra. Việc thư ký chú ý ghi
chép tốt sẽ tạo cho mọi người tích cực tham gia ý kiến, có sự tin tưởng lẫn
nhau, giúp cho chủ tọa tổng kết cuộc họp không sai sót hoặc thiên vị.
* Thủ trưởng và các cấp lãnh đạo cấp trên cần phải:
- Luôn tôn trọng mọi thành viên trong cuộc họp, tôn trọng ý kiến của họ.
- Bình tĩnh trước những ý kiến trái ngược với những quan điểm của bản
thân.
- Không bao giờ được can thiệp trực tiếp, công khai vào sự điều khiển
của chủ tọa, thư ký. Mà nên có sự hội ý trước, kín đáo, và phải dự kiến trước
những khả năng xảy ra trong cuộc họp.
* Những người tham gia khác: Trách nhiệm chính của họ là: Trong cuộc
họp Phải tham gia ý kiến đóng góp vào việc ra quyết định, sau cuộc họp có
trách nhiệm thực thi chính những quyết định đã được thông qua trong cuộc
họp đó. Muốn vậy, những người dự họp cần thực hiện những nguyên tắc sau
đây:
- Nói ngắn gọn với giọng ôn tồn, lịch sự.
- Trước khi nói phải có sự suy nghĩ kỹ càng, nên có sự chuẩn bị, ghi
tóm tắt gạch đầu dòng những gì cần nói.
- Muốn phát biểu phải giơ tay, tuyệt đối không chen ngang người khác,
đả kích phê phán cá nhân, luôn cố ý thức xây dựng.
- Đi họp đúng giờ, theo dõi cuộc họp từ đầu đến cuối, theo dõi cả việc
ghi chép của thư ký. Hãy chăm chú nghe mọi ý kiến rồi thới phát biểu tranh
luận với giọng êm dịu, tư duy khúc chiết, logic.
- Sáng suốt, dũng cảm bảo vệ ý kiến của mình nếu tự tin là đúng đắn,
không. nên lung lay trước sự phê phán của moi người. Nhưng khi thấy ý kiến
của mình sai thì nên dũng cảm xin rút lui ý kiến, chớ nên bảo thủ, hậm hực.
Để cuộc họp thành công tốt đẹp, chúng ta cần chú ý tạo bầu không khí
thuận lợi: đó là không khí thoải mái, thân tình, cởi mở; tránh bầu không khí
gượng gạo đo hình thức long trọng của hội nghị, những lời lẽ vào đầu văn
hoa, bóng bảy, khách sáo; có sự bình đẳng và chấp nhận lẫn nhau của những
người tham gia.
2. Giao tiếp với cấp dưới
a. Mục đích và cách thức tiến hành
Ngoài những cuộc họp ra, nhà quản trị còn phải tiếp xúc với nhân viên
nhằm:
- Kiểm tra sự thực hiện quyết định quản trị.
- Đánh giá tiến độ công việc trong đơn vị để kịp thời uốn nắn những sai
sót và động viên kịp thời những người tốt việc tốt.
- Đánh giá các cán bộ cấp dưới về năng lực làm việc, phẩm chất đạo
đức, năng lực chuyên môn, khả năng tổ chức công việc.
- Nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của từng người để có biện pháp giáo
dục, nâng đỡ họ.
Để đạt được các mục đích đó, nhà quản trị cần có nghệ thuật tiếp xúc
với con người, tạo ra bầu không khí thân tình, tin tưởng ở nhân viên,.chú ý
xây dựng mối quan hệ tốt, đúng mực, cư xử lịch thiệp, tế nhị, tôn trọng nhân
viên, phải biết chú ý lắng nghe ý kiến của họ, không nên ép buộc họ bằng
cường quyền, uy lực, uy vũ hay uy danh mà bằng uy tín thật sự.
Thông thường cuộc tọa đàm với cấp dưới được tiến hành như sau:
Khởi đầu là giao tiếp xã giao. Ngay từ phút ban đầu nhi quản trị phải
gây được thiện cảm thân mật bằng cách: chào hỏi lịch thiệp, nhã nhặn, lịch
sự, mời ngồi, trà nước. Có thể đưa ra vài ba câu hỏi thăm sức khỏe, tình hình
gia đình những hứng thú của họ. Sau đó khéo léo chuyển sang nội dung
chính, nêu vấn đề và giải quyết vấn đề. Trong qui trình giao tiếp, nhà quản trị
nên khuyến khích nhân viết nói lên những ý kiến của mình và tập trung chú ý
lắng nghe không nên cắt lời họ. Nếu đối tượng đi ra xa nội dung thì cần khéo
léo lái câu chuyện đi đúng trọng tâm.
b. Các nguyên tắc giao tiếp với cấp dưới
1) Hãy tin và tín nhiệm nhân tài
Tuyển chọn người tài đã khó, nhưng sử dụng họ lại còn khó hơn. Sử
dụng con người trước tiên phải tin và tôn trọng họ. Nếu họ được tôn trọng và
trọng dụng, họ sẽ làm việc hết mình, không nề khó khăn. Tin vào nhân tài và
trao quyền đầy đủ cũng là phương pháp đưa doanh nghiệp đến thành công.
Giám đốc chỉ đạt sản xuất kinh doanh, quyết định mọi vấn đề, nhưng không
có nghĩa là độc đoán, chuyên quyền. Đối với các vấn đề quan trọng nên trưng
cầu ý kiến của cán bộ cấp dưới. Một khi để thành nghị quyết thì giao cho các
bộ phận chức năng thực hiện, đồng thời tôn trọng quyền lợi của họ. Như thế
họ mới tích cực phát huy tài năng của mình, dám nghĩ dám làm, hết lòng
phụng sự cho doanh nghiệp.
2) Hãy dùng người như dùng mộc
Nhà quản trị cao nhìn thấy được năng lực, sở trường của nhân viên và
phải lượng tài sử dụng, tài lớn thì làm việc lớn, tài nhỏ thì làm việc nhỏ. Và
cũng cần phải biết rằng, trên đời này hiếm có ai được vẹn toàn vẹn mỹ, mà
mỗi người có những ưu, nhược điểm của mình. Vì vậy sử dụng nhân tài là
phải nắm được đặc điểm của họ, khai thác tài năng và đánh bỏ khuyết tật của
họ.
Nếu vì lý do nào đó mà làm cho một số tài năng mai một đi, sau đấy
mới phát hiện thì nên vượt qua những định kiến, mạnh dạn mời họ ra làm
việc và giao phó công việc phù hợp cho họ.
3) Hết sức quan tâm đào tạo bồi dưỡng nhân tài
Tài năng của con người không phải được sinh ra, mà là được hình
thành và phát triển trong hoạt động và học tập. Vì vậy sử dụng con người cần
nhấn mạnh công tác đào tạo, cần hết sức quan tâm bồi dưỡng nhân tài. Đối
với các doanh nghiệp, cần phải có kế hoạch bồi dưỡng đào tạo cán bộ quản
lý và cán bộ kỹ thuật, để lớp lớp nhân tài kế thừa nhau. Đối với đội ngũ cán
bộ hiện hữu cũng nên tổ chức cho họ dự các khóa đào tạo, nhằm đổi mới
kiến thức, bắt kịp tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Chỉ khi nào doanh nghiệp
có đội ngũ cán bộ giỏi thì mới có cơ may đứng vững trên thị trường cạnh
tranh ngày càng khốc liệt.
4) Hãy lắng nghe ý kiến cấp dưới
Bởi vì việc nắm bắt ý kiến cấp dưới có rất nhiều cái lợi như: thứ nhất là
biết được tình hình hoạt động của tập thể có gì khó khăn có gì thuận lợi; thứ
hai là biết được tâm tư nguyện vọng của quần chúng để kịp thời thỏa mãn;
thứ ba là biết được mức độ chính xác và hợp lý của những quyết định, chính
sách mà mình đã đưa ra; thứ tư là lợi dụng được sức mạnh trí tuệ của tập
thể; thứ năm là khuyến khích tính tích cực sáng tạo của họ.
5) Hãy tôn trọng và quan tâm cấp dưới
Con người luôn muốn được người khác tôn trọng. Nếu bạn biết tôn
trọng và quan tâm đến cấp dưới, lắng nghe ý kiến đúng đắn của họ, thì họ sẽ
phấn khởi, làm việc hăng say và có hiệu quả. Bạn không những cần quan tâm
tới bản thân họ, mà còn phải quan tâm đến đời sống, sức khỏe và gia đình
họ. Thử nói rằng, nếu cấp dưới gặp khó khăn lớn, hoặc người thân ốm nặng,
con cái họ xây dựng gia đình, bạn đến cùng chia vui buồn với họ, họ sẽ biết
ơn và sau này giám đốc giao việc họ cũng sẽ cố gắng thực hiện hết mình.
6) Hãy đến với nhân viên bằng tấm lòng và trái tim
Trong một doanh nghiệp, quan hệ giữa nhà quản trị và nhà viên là mối
quan hệ giữa con người và con người khá quan trọng. Nhà quản trị có giành
được sự đồng tình, ủng hộ, tín nhiệm của nhân viên hay không, sẽ liên quan
đến sự thành bại của doanh nghiệp. Nhưng làm thế nào để dành được cảm
tình của họ? Hãy thực hiện lời khuyên của Da le Carnegie “Thành thực quan
tâm tới mọi người. Nếu chúng ta sốt sắng thành thật quan tâm tới người khác
thì chỉ trong hai tháng sẽ có nhiều bạn thân hơn la hai năm gắng công bắt
người khác quan tâm tới mình. Hãy biết quên mình và thương người". Trong
quản lý, không nên chỉ biết dùng mệnh lệnh chỉ thị để giao tiếp với nhân viên,
mà còn phải biết tăng cường những mối quan hệ tâm lý, tình cảm nữa. Chính
vì thế mà các nhà doanh nghiệp giỏi chủ trương quản lý doanh nghiệp bằng
nhân đức. Họ biết rằng, không những phải trả lương xứng đáng cho nhân
viên, mà còn chú ý cải thiện phúc lợi như nghỉ phép, tặng quà, tham dự lễ
sinh nhật của nhân viên, tham dự đám cưới của con cái họ… Không những
thế mà còn quan tâm đến những việc nhỏ nhặt như con cái họ vào mẫu giáo,
lên cấp học, ngày lễ, tết thăm hỏi… làm các công nhân thấy ấp áp tình người,
thêm gắn bó với doanh nghiệp.
7) Đừng bao giờ quên lời hứa
Mỗi khi đã hứa với nhân viên điều gì thì cần phải cố sức thực hiện.
Trong quá trình thực hiện gặp khó khăn thì tìm cách giải quyết, hoàn thành
đến nơi đến chốn để lấy lòng tin của nhân viên. Có một giám đốc nọ bốc đồng
nói với công nhân rằng: hiện nay công ty đang gặp khó khăn, nên tạm ngưng
tăng lương và cải thiện phúc lợi. Khi nào lợi nhuận tăng lên công ty sẽ tăng
lương và phúc lợi". Sau này lợi nhuận của công ty tăng trưởng một cách
nhanh chóng, nhưng vì lý do tập trung vốn để mở rộng thêm qui mô sản xuất,
nên giám đốc không thực hiện được lời hứa làm cho mọi người thất vọng. Từ
đó công nhân làm việc chểnh mảng, doanh nghiệp trở nên ly tán nhân tâm,
xuất hiện những hiện tượng tiêu cực có nguy cơ dẫn đến phá sản.
8) Khen, chê kịp thời
Có thể nói rằng bất kỳ cán bộ to hay nhỏ, người công nhân làm việc lâu
năm cho đến người mới được tuyển mộ đều thích được khen và không muốn
bị chê. Quả là như vậy, nhưng khen, chê như thế nào thì có tác đụng tốt hoặc
ngược lại?
Khen như thế nào? Khen thường bất cứ với hình thức nào, cá nhân
hay tập thể đều có tác dụng kích thích rất lớn. Mỗi con người đều có cố gắng
làm cho mọi người trong tập thể thừa nhận nhân cách của mình. Cho nên đối
với nhân viên, bất cứ sự khen thưởng nào cũng đều là phương tiện để khẳng
định mình trước những người xung quanh. Thực tiễn cho thấy rằng, đối với
những người có thành tích thì thích được đánh giá và khen trực diện và công
khai trước mọi người. Ngày nay có những ý kiến cho rằng không cần phải thi
đua, khen thưởng gì hết, chỉ cần trả lương cao cho nhân viên thì khắc họ sẽ
làm việc tốt hơn. Điều đó mới chỉ đáp ứng một mặt ("yếu tố vệ sinh tinh thần”
trong mô hình của Herzberg) mà thôi, chứ chưa có “yếu tố động viên". ông
cha ta đã có câu “một nén tiền công không bằng một đồng tiền thưởng” quả
đúng vậy. Thực tế cho thấy rằng tiền thưởng không đáng là bao, nhưng nó
kích thích rất lớn, làm cả người được khen thưởng phấn chấn trong công tác
hơn, tự hào và hãnh diện hơn nhiều.
Nhà quản trị chớ nên quên rằng khen thưởng chỉ có tác dụng tích cực
thật sự nếu khen một cách khách quan, đúng lúc với từng đối tượng và sự
cống hiến của họ. Nếu chúng ta đánh giá cao công lao của người này, mà lại
hạ thấp thành tích của người khác thì sẽ mất tác dụng động viên. Người được
khen quá mức sẽ tự mãn, dễ dãi với bản thân, còn người có cố gắng, có
thành tích mà không được biểu dương kịp thời thì sẽ sinh chán nản, tính tích
cực và ý chí phấn đấu sẽ giảm sút.
Chê như thế nào? Chê trách, phê phán là cả một nghệ thuật của nhà
quản trị. Làm sao cho người dưới quyền có khuyết điểm nhận ra lỗi và thiếu
sót của mình, không tự ái, không tức tối, không đau khổ là những việc không
dễ đàng. Cho nên sự phê bình của nhà quản trị phải luôn luôn xuất phát từ sự
chân tình, thân ái với động cơ trong sáng, với mục đích là làm cho người có
khuyết điểm tiếp thu được ý kiến phê bình một cách thoải mái, để trong công
tác và việc làm tốt hơn, tiến bộ hơn.
Nhà quản trị cần nhớ rằng, đối với những người có sai lầm, có khuyết
điểm thì không nên phê bình họ trước một người thứ ba. Vì như vậy họ sẽ dễ
mặc cảm bị hạ thấp. Cho nên tốt nhất là nên gặp gỡ và trao đổi góp ý riêng,
thật đúng lúc, đúng chỗ thích hợp với tâm trạng của người góp ý và người bị
góp ý. Không bao giờ được tỏ thái độ thô bạo, lăng nhục và xúc phạm với
người có khuyết điểm hoặc thiếu sót. Việc chê trách hay phê bình một người
chỉ có hiệu quả nếu nhà quản trị biết bắt đầu bằng việc chỉ ra những ưu điểm
của người đó, tiếp sau đó là những sai lầm đã mắc phải và cuối cùng là hãy
động viên bày tỏ sự tin tường của mình vào việc khắc phục và sửa chữa thiếu
sót của họ.
3. Giao tiếp với cấp trên
Khi giao tiếp với cấp trên, bạn cần chú ý những điểm sau:
- Hãy tuân thủ trật tự đẳng cấp. Mỗi một tổ chức đều được tổ chức theo
cấp bậc và yêu cầu mọi người cần phải tuân theo. Có thể bạn không hợp với
cấp trên trực tiếp của mình, và bạn cho rằng ông ta là người kém cỏi không
có khả năng giải quyết vấn đề, nhưng nếu bạn mà “qua mặt” ông ta để trình
lên cấp cao hơn thì sẽ gặp rắc rối đấy. Nên nhớ là không được vượt cấp
trong hệ thống đẳng cấp.
- Cần phải phản hồi thường xuyên về việc thực hiện công việc của
mình.
- Hãy tiếp nhận những lời phê bình một cách vô tư.
- Hãy quí trọng thời gian của họ. Khi cần báo cáo, bàn việc với họ, bạn
nên trình bày ngắn gọn, rõ ràng, cụ thể.
- Hãy cư xử một cách khéo léo, không nói xấu họ, không chê bai họ sau
lưng.
- Hãy học hỏi những phong cách và kinh nghiệm tốt của họ.
4. Giao tiếp với đồng nghiệp
Giữa đồng nghiệp với nhau cần có mối quan hệ tốt. Mọi người trong
công ty có tinh thần hỗ trợ lẫn nhau thì mới phục vụ khách hàng tốt nhất. Tuy
nhiên để giữa mối quan hệ tốt với đồng nghiệp cần tuân theo các nguyên tắc
sau:
- Dùng hành vi của mình làm cho đồng nghiệp thấy rằng, giao tiếp với
mình là an toàn: Không nên tò mò về đời tư của người khác, không bình luận
người khác sau lưng, không lật lọng, không cố chấp với những sai lầm của
đồng nghiệp.
- Cần có đi có lại với đồng nghiệp, tuy nhiên không nên trao đổi một
cách thực dụng.
- Cần có những cuộc giao tiếp trực tiếp với nhau nhưng giữ một tần số
hợp lý.
- Cạnh tranh một cách lành mạnh vì mục đích chung.
- Đối xử với đồng nghiệp một cách chân thành, khen ngợi những ưu
điểm của đồng nghiệp một cách tự nhiên.
- Phân biệt rõ việc công, việc tư.
II. GIAO TIẾP VỚI BÊN NGOÀI1. Giao tiếp với khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường, sự thành bại của một doanh nghiệp phụ
thuộc rất nhiều vào khách hàng. Chính khách hàng lâu người trả lương cho
doanh nghiệp. Vì thế mọi quyết định của bạn đều phải nhắm vào nhu cầu và
quyền lợi của khách hàng. Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần phải có
những kế hoạch tĩ mỉ trong giao tiếp với khách hàng. Kế hoạch đó phải nhằm
đạt được những mục đích như: tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng
để kịp thời thỏa mãn; thông qua dư luận của khách hàng mà cải tiến sản
phẩm, phương thức bán hàng, giao hàng hợp lý; thông tin cho khách hàng về
những sản phẩm mới nhằm khơi dậy những nhu cầu tiềm ẩn ở họ.
Có nhiều hình thức giao tiếp với khách hàng: thứ nhất là tiếp xúc trực
tiếp của nhân viên bán hàng với khách hàng; thứ hai là giao tiếp của ban
quản trị với khách hàng trong những hội nghị khách hàng, hội chợ, triển
lãm…; thứ ba là tổ chức những cuộc tham quan của khách hàng tại doanh
nghiệp; thứ tư là sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng, như các
phóng sự truyền thanh truyền hình, chương trình giới thiệu sản phẩm; thứ
năm là tổ chức các cuộc triển lãm, giới thiệu sản phẩm…
Khi giao dịch với khách hàng, bạn cần nhớ đặt tinh thần phục vụ lên
hàng đầu. Và cần tuân theo một số nguyên tắc sau: Thứ nhất là hãy có trách
nhiệm với khách hàng, đáp ứng kịp thời các hợp đồng các nhu cầu của họ,
không để chậm trễ khi đã hứa; thứ hai là hãy thông tin cho khách hàng một
cách kịp thời nếu có chuyện chậm trễ về sản xuất và giao hàng; thứ ba là hãy
tôn trọng họ, không can thiệp vào những công việc liên quan đến nội bộ
doanh nghiệp của họ, trừ khi người ta yêu cầu bạn cho lời khuyên; thứ tư là
không nên tỏ ra quá thân thiện, vì điều này khiến cho họ có ý tưởng muốn
được những ưu đãi đặc biệt, mà bạn nên giữ một khoảng cách hợp lý; thứ
năm là hãy nhớ rằng mọi khách hàng đều là quan trọng, cho dù họ chỉ đến để
tham quan doanh nghiệp của bạn mà thôi; và thứ sáu là hãy khuyến khích
khách hàng phản hồi thông tin về sản phẩm, dịch vụ của bạn.
2. Giao tiếp với nhà cung cấp
Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả, bạn không chỉ phải tạo ra mối
quan hệ tốt đẹp với khách hàng, mà còn phải biết duy trì mối quan hệ tương
tự với các nhà cung cấp. Chính họ là người đảm bảo đầu vào cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh của bạn được trôi chảy.
Khi quan hệ với các nhà cung cấp, bạn cần lưu ý nhận điều cơ bản sau
đây (Nguyên Tố 1997): thứ nhất là đừng bị họ phải chờ đợi, đối với họ thời
gian cũng quí như vàng; thứ hai là đừng đối xử kém ưu tiên với các nhà cung
cấp so với khách hàng; thứ ba là hãy báo ngay cho họ về bất cứ sự thay đổi
nào về ngân sách, hợp đồng, kế hoạch sản xuất kinh doanh, để họ có những
kế hoạch của họ; thứ tư là hãy nêu ra những yêu cầu của mình bằng văn bản,
giấy tờ càng chi tiết càng tốt; thứ năm là hãy thanh toán đúng hạn và thể hiện
sự hài lòng của bạn đối với những hợp đồng hoàn thành tốt; thứ sáu là hãy
cẩn thận về những bí mật kinh doanh của mình, vì các nhà cung còn giao dịch
với các đối thủ khác, và cũng đừng dò hỏi về những bí mật về đối thủ làm cho
họ trở nên khó xử; thứ bảy là hãy mạnh dạn yêu cầu họ cho lời khuyên và
những tin tức về tình hình trong ngành.
3. Giao tiếp với cơ quan chính quyền
Bất cứ một cơ sở sản xuất kinh doanh nào cũng phải liên hệ với các cơ
quan chính quyền, kể từ khi nộp đơn xin phép thành lập cho đến khi được
phép hoạt động, đóng thuế… Các doanh nghiệp cần phải có những dịch vụ về
an ninh, trật tự và các chính sách tài trợ của chính phủ.
Có nhiều hình thức giao tiếp với cơ quan chính quyền. Hoặc là bạn có
thể trực tiếp giao tiếp với họ. Chẳng hạn trực tiếp tiếp xúc với các cấp chỉ huy
các ngành lập pháp hành pháp để tham khảo ý kiến, thảo luận hoặc trình bày
mục tiêu, quan điểm của doanh nghiệp; tổ chức các buổi tiệc tiếp tân tại cơ
sở kinh doanh để mời các đại diện chính quyền đến tham dự, đây là dịp tốt để
nhờ chính quyền lưu tâm đến công ty, hiểu rõ thực trạng của công ty nhằm áp
dụng những chính sách thuế khóa hợp lý; có thể tổ chức các cuộc viếng thăm
của các cấp lãnh đạo chính quyền tại công ty bạn. Hoặc là bạn có thể giao
tiếp gián tiếp với chính quyền bằng các bản báo cáo định kỳ, phỏng vấn bằng
thư tín để thu thập ý kiến và quan điểm của giới lập pháp và hành pháp về
các vấn đề kinh tế, thời sự, chính sách…
Khi đến các cơ quan chính quyền để giải quyết công việc bạn cần lưu
ý: thứ nhất là ăn mặc nghiêm túc, đừng sặc sỡ hay lòe loẹt quá dễ làm cho
người ta có ác cảm, và nếu bạn được hẹn thì hãy đến đúng giờ; thứ hai là
mỗi một cơ quan có những qui định riêng của nó, vì vậy bạn có bất bình vì nó
vô lý thì cũng đừng phản đối kẻo lại gây khó khăn cho việc giải quyết công
việc, sau đó bạn có thể góp ý bằng hộp thư; thứ ba là hãy tôn trọng người đại
diện chính quyền, nhưng không có nghĩa là bạn phải quỵ lụy, khúm núm làm
mất thể diện, cần giữ phong thái đúng mực, ăn nói hòa nhã, trình bày ngắn
gọn, và yêu cầu họ giải quyết theo đúng chức trách của họ; Thứ tư là hãy nhớ
rằng ai cũng muốn người khác coi mình là quan trọng, vì vậy nếu người đại
diện chính quyền có làm ra vẻ quan trọng thì bạn cũng thông cảm, cái chính
là bạn giải quyết xong công việc.
4. Giao tiếp với báo chí
Trong hoạt động của mình, đôi khi bạn cũng có dịp gặp gỡ với báo chí.
Kỹ năng tiếp xúc với báo chí là một trong những tiền đề của nhà kinh doanh
ngày nay. Tạo mối quan hệ tốt với báo chí có thể tiết kiệm cho bạn hàng ngàn
đôla tiền quảng cáo. Ngược lại, quan hệ không tốt với báo chí có khi bạn phải
gặp tình trạng xấu nhất là đi đến phá sản.
Khi tiếp xúc với các nhà báo, bao giờ bạn cũng phải tỏ ra cởi mở và lịch
sự. Không nên tỏ ra khó chịu và có thái độ lãng tránh. Hãy cung cấp ngay cho
họ những thông tin cần thiết nếu đó không phải là bí mật của công ty. Bạn
phải có tác phong nhanh nhẹn khi xuất hiện trước báo chí và gọi điện phúc
đáp họ, nếu họ cần đến bạn. Bởi vì các nhà báo bao giờ cũng cần những
thông tin nóng hổi, nhất là phóng viên của các báo ngày, và nếu bạn không
kịp thời cung cấp thông tin cho họ thì người ta sẽ tìm cách thu thập thông tin
từ nguồn tin khác, do đó mà bạn có thể đánh mất một cơ hội nào đó.
Bạn nên quan tâm đến việc tiếp xúc với báo chí, và hãy tỏ ra thành thạo
trong những cuộc phỏng vấn. Khi các nhà báo đã có cảm tình và quen làm
việc với bạn rồi thì họ sẽ thường xuyên gặp gỡ và có cơ hội họ sẽ tán dương
bạn và doanh nghiệp của bạn. Khi được phỏng vấn, bạn cần chú ý tới cách
dùng ngôn từ, không được dùng những lời lẽ thô thiển và cẩn thận về cú
pháp và văn phạm. Đặc biệt khi trả lời phỏng vấn cho đài truyền hình hay đài
phát thanh thì những gì bạn nói, kể cả những từ ấp a ấp úng của bạn cũng
được phát nguyên vẹn. Tốt nhất là trước khi trả lời phỏng vấn, bạn nên chuẩn
bị kỹ về các phương án trả lời và tập dợt trước. Khi xuất hiện trước ống kính
truyền hình, bạn cần ăn mặc nghiêm chỉnh, lịch sự, tư thế đàng hoàng, nhìn
thẳng vào ống kính và nói một cách tự nhiên, đừng tỏ ra quá điệu bộ, uốn éo.
Khi tiếp xúc với báo chí, bạn nên chuẩn bị những gì nên nói, những gì
nên không, chứ đừng để xảy ra tình trạng là sau một hồi phỏng vấn rồi bạn
mới nói với nhà báo là: “những chuyện này xin đừng viết lên báo. Những
chuyện như vậy bao giờ cũng làm cho các phóng viên khó chịu vì mất thời
gian, vô ích. Đối với những thông tin mà bạn chưa chắc chắn lắm, thì bạn có
thể nói trước với phóng viên đó là những tin tức chưa được thẩm định, chỉ để
tham khảo mà thôi. Trong khi phỏng vấn, bạn không nên tỏ ra nghi ngờ và sợ
phóng viên trích dẫn sai lời nói của bạn, vì điều đó dễ làm xúc phạm đến tính
nghề nghiệp của họ.
Khi bạn muốn đăng báo một tin tức gì về công ty mình, cần biên tập
một cách cẩn thận: Hãy xem xét những điểm mấu chốt trong bài báo, điều gì
làm cho bạn đọc quan tâm, có điều gì mới trong bài báo của bạn hay không?
Và hãy đặt tên bài báo thật ấn tượng để gây được sự quan tâm. Không nên
gửi đăng những tin tức vô bổ, nhàm chán, vì biên tập viên báo chí liên tục
nhận những bài như thế dần dần họ không thèm chú ý tới những bài báo của
công ty bạn nữa. Và đừng bao giờ yêu cầu được xem lại bài báo trước khi
người ta in, vì điều đó cũng có thể cho họ bị xúc phạm.
III. PHỎNG VẤN TUYỂN CHỌN1. Các hình thức phỏng vấn
a. Phỏng vấn theo mô thức:
Là người phỏng vấn dựa vào bản câu hỏi đã được soạn một cách kỹ
lưỡng để hỏi ứng viên. Các câu hỏi bao trùm lên những điều cần tìm hiểu về
ứng viên như: kỹ năng, động cơ, khả năng giải quyết vấn đề, tính linh hoạt
sáng tạo trong công việc, tham vọng và các đặc điểm cá nhân khác. Phương
pháp này tỏ ra hữu dụng khi cần tuyển nhiều ứng viên cho cùng một chức vụ,
và khi chúng ta không có nhiều thời gian để phỏng vấn sâu.
b. Phỏng vấn không chỉ dẫn:
Là cuộc phỏng vấn được tiến hành như một cuộc đối thoại, không có
bản câu hỏi kèm theo. Thường là câu hỏi sau được đặt ra dựa vào câu trả lời
trước đó của ứng viên. Loại phỏng vấn này tỏ ra linh hoạt, uyển chuyển, giúp
người phỏng vấn tìm hiểu được những vấn đề tế nhị về đối tượng. Nhưng nó
đòi hỏi tốn nhiều thời gian và kết quả phỏng vấn phụ thuộc nhiều vào trình độ
của phỏng vấn viên. Loại này thường dùng để phỏng vấn những ứng viên vào
những chức vụ cao mà thôi.
c. Phỏng vấn nhóm:
Một nhóm hay hội đồng phỏng vấn cùng đặt câu hỏi cho một ứng viên.
Loại phỏng vấn này có mức độ khách quan và độ tin cậy cao, nhưng tốn kém
thời gian và thường tạo ra sự căng thẳng thái quá cho ứng viên. Để khắc
phục nhược điểm đó, thì có thể cùng một lúc hội đồng phỏng vấn nhiều ứng
viên để phát hiện ra người nổi trội hơn cả.
d. Phỏng vấn căng thẳng:
Người phỏng vấn cố tình tăng thêm sự lo ngại vốn có của người xin
việc, qua đó đánh giá khả năng giải quyết vấn đề trong điều kiện căng thẳng
thần kinh. Nó chỉ được áp dụng để lựa chọn nhân viên vào quân đội, cảnh
sát, ngành luật…
e. Phỏng vấn tình huống:
Đưa ra những tình huống giống như trong thực tế mà ứng viên sẽ phải
đương đầu giải quyết, thông qua đó có thể đánh giá được khả năng giải quyết
vấn đề, thái độ và quan điểm của ứng viên.
f. Phỏng vấn liên tục:
Là làm cho ứng viên không biết mình bị phỏng vấn để kiểm tra, đánh
giá ứng viên một cách trung thực nhất.
2. Tiến trình phỏng vấn
a. Chuẩn bị
- Nghiên cứu kỹ bản mô tả và bản tiêu chuẩn công việc, xem xét kỹ hồ
sơ xin việc, vạch ra những điểm mạnh, điểm yếu và những điều còn nghi vấn
cần phải làm sáng tỏ về ứng viên.
- Thông báo về cuộc phỏng vấn ít nhất trước 1 tuần. Nếu 1 phỏng vấn
nhiều ứng viên trong một buổi hay một ngày, thì cần thiết phải xây dựng thời
gian biểu cho hợp lý. Không nên mời tất cả ứng viên đến dụng một lúc làm
cho họ phải chờ đợi, tạo ra sự căng thẳng tâm lý không cần thiết. Thời gian
biểu tốt nhất là làm cho những ứng viên đến vào những thời điểm khác nhau,
và sau mỗi đợt phỏng vấn cần có ít phút để xem lại các giấy tờ và chấn chỉnh
những điều mà mình đã ghi.
- Cần bố trí bối cảnh phỏng vấn một hợp lý, vừa nghiêm trang, nhưng
cũng vừa tạo cảm giác thoải mái cho ứng viên. Phòng phỏng vấn phải phù
hợp với một cuộc nói chuyện thân tình, không bị quấy rầy và đứt đoạn. Chỗ
ngồi của ứng viên phải rõ ràng, cần bố trí ghế của ứng viên và của người
phỏng vấn cao ngang bằng nhau và để họ có thể trông thấy nhau một cách dễ
dàng. Cần dẹp bỏ bớt những gì xung quanh có thể gây cản trở cho việc trả lời
của ứng viên.
b. Tạo bầu không khí tiếp xúc
Người phỏng vấn cần chủ động tạo nên bầu không khí thoải mái cho
cuộc nói chuyện và duy trì bầu không khí để trong suốt cuộc phỏng vấn. Để
làm cho ứng viên cảm thấy thoải mái có thể sử dụng các phương pháp sau:
- Dùng những cử chỉ hữu nghị, thoải mái như bắt tay thân tình, kéo ghế
mời ngồi…
- Hỏi chuyện vặt: tức là hỏi đối tượng về những chuyện không có nội
dung quan trọng, thông thường nhất là hỏi về thời tiết, thể thao, những vấn đề
vô thưởng vô phạt để tạo cảm giác tin tưởng, thoải mái trong quan hệ.
- Tỏ ra bình tĩnh, không vội vàng: Người phỏng vấn cần tạo ra một
không khí thong thả sẽ tạo được cuộc tiếp xúc nhanh hơn so với việc tạo ra
sự vội vàng, bận bịu.
- Giải thích về thủ tục: thông thường ứng viên hay trở nên hồi hộp vì
không biết mình sẽ phải làm những gì trong cuộc phỏng vấn. Vì vậy việc nêu
rõ thủ tục phỏng vấn sẽ cung cấp cho ứng viên một bức tranh để bước vào
cuộc một cách thoải mái. Họ cần hiểu rõ đây là cuộc phỏng vấn loại gì sẽ kéo
dài bao lâu, liệu sau đó còn có cuộc phỏng vấn nào nữa không và bao giờ
người ta sẽ quyết định và quyết định.
Việc tạo ra mối quan hệ hài hòa không nên kéo dài quá, nếu không sẽ
mất tự nhiên. Sau một vài phút, cuộc phỏng vấn cần chuyển qua giai đoạn
thực chất.
c. Giai đoạn thực chất
Nhiệm vụ của người phỏng vấn trong gia đoạn này là duy trì bầu không
khí thoải mái và thu thập được những thông tin về đối tượng một cách hữu
hiệu. Muốn làm được điều đó có thể áp dụng những phương pháp sau:
- Vừa nghe vừa quan sát: thông tin về đối tượng không chỉ được thu
thập thông qua lời nói, mà còn thông qua diện thạo trang phục, những hành
vi, cử chỉ, ánh mắt, nét mặt… Chính thông qua những đặc điểm đó mà người
phỏng vấn có thể biết thêm những vấn đề quan trọng mà có khi không tìm
thấy trong lời nói.
- Chú ý lắng nghe và phản hồi: phỏng vấn tuyển chọn là nhằm thu thập
những thông tin về ứng viên, để thông qua đó phỏng vấn viên đánh giá về họ.
Bởi vậy trong quá trình phỏng vấn, người phỏng vấn cần hạn chế khẩu khí
của mình, đồng thời quan tâm và chú ý tới những điều ứng viên nói để
khuyến khích họ trả lời.
- Việc đưa ra các câu hỏi là phần trọng tâm của phỏng vấn (kỹ năng đặt
câu hỏi đã trình bày ở chương trước). Về nội dung câu hỏi thì cực kỳ đa
dạng, tùy vào tính chất của cuộc phỏng vấn, nhưng hầu hết trong các cuộc
phỏng vấn người ta thường đưa ra các câu hỏi về động cơ xin việc, về kiến
thức hiểu biết, quan điểm sở thích, về khả năng giao tiếp, năng lực làm việc,
về tính trung thực và tham vọng… Khi đặt câu hỏi cần lưu ý:
- Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng. Không nên dùng những biệt ngữ khó
hiểu.
- Câu hỏi không mang sự gợi ý trả lời hoặc lộ rõ quan điểm, ý định.
- Không nên đặt những câu hỏi để ứng viên trả lời có hoặc không.
- Không nên đặt những câu hỏi về đời tư, có tính khiêu khích, nhạo
báng ứng viên.
- Không tra hỏi ứng viên như hỏi cung.
d. Đánh giá, lựa chọn
Sau các cuộc phỏng vấn, phỏng vấn viên hoặc các thành viên của tiểu
ban sẽ quyết định nên lựa chọn ai. Sự đánh giá lựa chọn tiến hành bằng cách
đối chiếu bản tiêu chuẩn công việc và qui định nhân sự với những thông tin về
phẩm chất của những người xin việc và quyết định trường hợp nào là ăn
khớp nhất. Không nên quyết định ngay trong các cuộc phỏng vấn và cũng
không quyết định về từng người giữa các cuộc phỏng vần, vì làm thế là gạt bỏ
các cuộc phỏng vấn sắp tới.
Khi đánh giá về các ứng viên, cần tránh những sai lầm sau đây:
- Đánh giá một cách vội vàng, chỉ dựa vào hồ sơ, bằng cấp và hình
thức bên ngoài.
- Đánh giá dựa trên những định kiến cá nhân về ứng viên. Phỏng vấn
viên chỉ chú tâm tới những chứng cớ bất lợi cho ứng viên.
- Ảnh hưởng từ thứ tự phỏng vấn (thường người đầu tiên bị đánh giá
khắt khe hơn những người sau).
- Phỏng vấn viên không hiểu rõ về công việc.
e. Thông báo cho những người bị loại
Việc thông báo cho những người bị loại là cần thiết. Việc làm này
không những tốt cho người xin việc mà còn tránh khỏi mang tiếng xấu trong
thị trường lao động.
3. Một số chỉ dẫn cho ứng viên trước khi dự phỏng vấn
Muốn được trúng tuyển, ngoài trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ,
người xin việc phải có những tố chất như: lòng nhiệt tình, sự chủ động sáng
tạo, ý thức trách nhiệm cao và có tính quyết đoán. Đó là những tính cách rất
hấp dẫn người phỏng vấn. Nếu bạn có đầy đủ các phẩm chất trên thì cũng có
thể được chấp nhận dù các kỹ năng khác của bạn còn hạn chế. Vì vậy trong
suốt cuộc phỏng vấn bạn phải thể hiện được những phẩm chất đó ra bên
ngoài.
a. Chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn
Chuẩn bị hồ sơ: Bộ hồ sơ của bạn sẽ gây ấn tượng đầu tiên cho người
phỏng vấn. Vì vậy hồ sơ phải được chuẩn bị một cách hoàn hảo. Đừng gửi
những tờ giấy được viết bằng tay với nét chữ ngoệch ngoạc, rách nát, dơ bẩn
hoặc vấy mực.
Lý lịch trình bày rõ ràng, bao gồm những nét chính: trình độ học vấn,
trình độ ngoại ngữ, kinh nghiệm làm việc, các kiến thức bổ sung. Kèm theo
các bản sao văn bằng tốt nghiệp, các chứng chỉ ngoại ngữ, vi tính…
Cách ăn mặc: Một khi bạn đã có cái hẹn để phỏng vấn, điều đặc biệt là
người ta sẽ đánh giá vẻ bên ngoài của bạn. Cách nhanh nhất để làm mất uy
tín trong lĩnh vực kinh doanh là trước một người phỏng vấn mà áo quần bạn
xộc xếch không chỉnh tề. Những nhà nghiên cứu chứng minh rằng hầu hết
những nhà giám đốc kinh doanh hình thành trong tư tưởng của họ về người
xin việc trong vòng 30 giây. Dù bạn là người được tuyển dụng thì mối quan hệ
giữa bạn và người phỏng vấn sẽ bị ảnh hưởng bởi ấn tượng đầu tiên cho cả
về sau này. Vì vậy khi tới phỏng vấn bạn nên ăn mặc chỉnh tề, tóc tai gọn
gàng sạch sẽ (nam nên thắt cavat, di giày; nữ đi giày dép có quai…), không
nên ăn mặc quá model, quá lòe loẹt, quá cầu kỳ, nữ không nên trang điểm
quá đậm. Để quyết định nên mặc như thế nào khi được phỏng vấn, bạn nên
cố gắng thăm công ty và xem giám đốc và các nhân viên khác ăn mặc thế
nào.
Thời gian: Bạn phải có mặt trước lúc phỏng vấn 10 phút (đừng nên
sớm quá). Điều này sẽ đem lại cho bạn những phút thoải mái và an lòng
trước một cuộc thi. Nếu bạn mất bình tĩnh, hãy thở sâu vào lồng ngực mấy
cái, chịu khó suy nghĩ và tự tin hơn vào bản thân. Trong khi chờ đợi đến lượt
mình, bạn không đi lại quá nhiều, không nói chuyện ồn ào với người khác gây
mất trật tự. Điều đó sẽ tạo ấn tượng không tốt về tính kỷ luật của bạn.
Chuẩn bị những phương án trả lời cho những câu hỏi sau: Bạn nên sẵn
sàng nghĩ về những câu hỏi mà hầu hết trong các cuộc phỏng vấn đều gặp.
Chẳng hạn như:
Hãy kể cho tôi về bản thân bạn? Bạn nên kể một cách ngắn gọn,
đừng kể lể về toàn bộ lịch sử đời tư của bạn. Hãy kể về những nét chính yếu
để làm nổi bật những ít điểm của mình lên, nhưng với thái độ khiêm tốn và
trung thực. Nếu người phỏng vấn quay qua hỏi về những điểm yếu của bạn,
thì hãy miêu tả chúng một cách mà chứng tỏ bạn đang khắc phục những điểm
yếu một cách tốt đẹp.
Tại sao bạn muốn xin làm việc cho công ty chúng tôi? Bạn chú ý
nhấn mạnh sự phù hợp công việc với năng lực sở trường, trả lời với sự quan
tâm, hứng thú.
Bạn đã biết những gì về công ty chúng tôi? Muốn trả lời tốt câu hỏi
này, bạn phải tự đặt mình vào đội ngũ của công ty, hãy tìm hiểu kỹ về công ty
đó và khi trả lời thường xuyên đề cập đến vấn đề đó. Có thể nói “Vâng, tôi
biết dự án đó, vấn đề đó, tôi đã đọc các mục nói về công ty của ông trong tạp
chí/ báo…” Nếu bạn không biết về những điều đó thì bạn đừng ngại ngùng
đặt câu hỏi về công ty, về công việc mà bạn đang đệ đơn trong lúc phỏng
vấn. Tuy nhiên đừng hỏi quá nhiều, chỉ hỏi vừa đủ để nâng cao sự hiểu biết
của mình và chứng tỏ bạn là người quan tâm đến công ty. Khi gặp câu hỏi
này tuyệt đối không bao giờ được trả lời kiểu như: “Tôi không biết gì về công
ty của ông” Hay “Từ trước tới nay tôi không quan tâm đến công ty này”…
Bạn có kế hoạch gì cho tương lai? Bạn muốn gì từ vị trí này? Nếu
bạn có nguyện vọng làm việc tại các cơ quan nước ngoài, bạn phải có những
suy nghĩ rõ ràng về những lí tưởng trong tương lai. Sẽ rất khó cho bạn nếu
bạn chẳng có ý niệm gì về tương lai, tỏ ra không có sự say mê và phát triển
theo cách nào cũng được.
Bạn có thể làm được những việc gì trong công ty chúng tôi? Nếu
bạn là sinh viên vừa tốt nghiệp thì hãy trả lời một cách tự tin là bạn có thể
đảm nhận những công việc như bạn đã được học (ví dụ: bạn tốt nghiệp
ngành kinh tế ngoại thương, thì bạn có thể mạnh đạn trả lời là bạn có thể làm
ở phòng xuất nhập khẩu, ở khâu thanh toán quốc tế…) phù hợp với công việc
của công ty, chứ đừng quá khiêm tốn, quá “thật thà” mà trả lời rằng “Tôi mới
ra trường, chưa có kinh nghiệm, nên không biết liệu có làm được việc gì
không, bởi vì học ở trường là một chuyện nhưng ngoài thực tế nó khác”. Nếu
bạn đã có nhiều năm kinh nghiệm thì nên nhấn mạnh những công việc của
bạn đã đạt được kết quả tốt.
Bạn có điều gì muốn hỏi tôi nữa không? Nếu có thì hãy hỏi về công
ty, về công việc, ở lần phỏng vấn đầu tiên bạn chưa nên hỏi về lương bổng
hay chế độ nghỉ phép… (trừ khi người phỏng vấn chủ động đặt câu hỏi). Vấn
đề lương bổng là hết sức tế nhị, trước khi đi phỏng bạn nên tìm hiểu xem
mức lương của những người đang làm ở công ty đó là bao nhiêu để nếu
người phỏng vấn có hỏi: Anh (chị) mong muốn được mức lương bao nhiêu?,
thì có cơ sở để trả lời. Nếu trả lời thấp quá thì sau này vào làm việc người ta
sẽ trả thấp lại ân hận, còn nếu trả lời cao quá thì người ta sẽ ngán.
b. Cư xử trong lúc phỏng vấn
Những yếu tố phi ngôn ngữ:
Giữ sự giao tiếp bằng mắt, đừng nhìn chằm chằm, đừng nhìn quá lâu
xuống sân nhà hoặc lên trần. Nếu bạn tìm câu trả lời ở đâu đó thì hãy tìm trên
khuôn mặt của người phỏng vấn.
Ngồi thẳng không dựa ngửa vào ghế và hơi nghiêng về phía trước.
Đầu và mặt của bạn phải diễn đạt theo lời nói, nét mặt phải luôn vui vẻ,
không quá căng thẳng, đừng coi cuộc phỏng vấn là một sự đày ải. Nếu bạn
trông dường như bạn thích thú cuộc phỏng vấn, thì người phỏng vấn bạn sẽ
có một nhận thức trong tiềm thức của họ rằng bạn sẽ thích thú công việc.
Tốc độ nói và âm lượng vừa phải, giọng phải tự tin.
Đừng nắm chặt tay lại với nhau hay bẻ ngón tay, tư thế không phải
khúm núm
Đừng bắt chéo hai chân…
Thái độ: Trong cuộc phỏng vấn bạn phải luôn chăm chỉ lắng nghe
người phỏng vấn, nếu bạn không hiểu bạn có thể đề nghị xin được nhắc lại.
Người phỏng vấn ưa sự thẳng thắng và đánh giá cao cách tiếp cận trực tiếp,
có suy nghĩ của bạn, và họ cũng mong đợi ở bạn khả năng sẵn sàng học họ
và tiếp cận những cái mới mẻ để làm việc có đặc tính, phẩm chất cao hơn.
Phải nhớ tên người phỏng vấn: Trước khi phỏng vấn người phỏng vấn
thường trao cho bạn tấm danh thiếp. Bạn hãy đọc kỹ tên của họ và nhớ lấy,
có thể hỏi họ nên gọi họ thế nào (gọi theo họ hay theo tên - nếu là người
nước ngoài). Hãy gọi tên của họ nhiều lần trong cuộc phỏng vấn (nhưng
không nên nhiều quá), bởi vì bạn nên biết rằng, ai ai cũng cho tên mình là đẹp
nhất và âm thanh đó là êm ái nhất. Hãy gọi tên của người phỏng vấn một lần
nữa khi bạn rời khỏi bàn phỏng vấn: “Ông Daviđ, rất thú vị được gặp ông”.
c. Kết thúc phỏng vấn:
Khi kết thúc cuộc phông vấn chớ quên nói “cám ơn” và chào ra về.
Câu hỏi ôn tập5.1. Bạn hãy phân tích các nguyên tắc của “Họp hành tích cực"?
5.2. Bạn hãy phân tích vai trò của những người tham gia cuộc họp?
5.3. Bạn hãy trình bày mục đích và cách thức giao tiếp với nhân viên
dưới quyền?
5.4. Để dùng người có hiệu quả, bạn cần chú ý tới những nguyên tắc
nào?
5.5. Khi khen, chê cấp dưới, bạn lưu ý những điểm gì?
5.6. Khi giao tiếp với khách hàng, bạn cần tuân theo những nguyên tắc
nào?
5.7. Có những hình thức giao tiếp nào với các cơ quan chính quyền?
5.8. Khi giao tiếp với báo chí, bạn cần chú ý những điều gì?
Bài tập thực hành
Mỗi nhóm hãy viết một bản thông báo tuyển nhân viên.
Mỗi nhóm hãy chọn ra hội đồng phỏng vấn và tiến hành phỏng vấn
những thành viên còn lại trong nhóm để tuyển vào vị trí mà đã thông báo ở
trên (mỗi cuộc phỏng vấn tiến hành trong 10 phút).
Phần 2: KỸ NĂNG THƯƠNG LƯỢNG
“Thương lượng không phải là một ván cờ, không nên yêu cầu một thắng, một thua cũng không phải là một trận chiến phải tiêu diệt hoặc
đặt đối phương vào thế chết, mà thương lượng vẫn là một cuộc hợp tác đôi bên cùng có lợi”
(I. Nierenberg).
Chương 6: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƯƠNG LƯỢNG
I. KHÁI NIỆM VỀ THƯƠNG LƯỢNGKhi sống trong xã hội, dù muốn hay không bạn cũng là một nhà thương
lượng. Đàm phán, thương lượng là thực tế của cuộc sống. Bạn thỏa thuận
với người yêu nên đi đâu chơi vào chủ nhật tới. Bạn thương lượng với người
khác để mua căn nhà. Bạn thảo luận với sếp về chuyện tăng lương. Công ty
bạn bàn với công ty nước ngoài thành lập một liên doanh khai thác và chế
biến hải sản, cho đến chuyện Tổng thống Mỹ và Tổng thống Nga gặp gỡ để
thỏa thuận về việc giải trừ quân bị… Tất cả đều là những cuộc thương lượng
và đàm phán. Thế giới là một cái bàn đàm phán khổng lồ.
Khi mà đời sống chính trị và kinh tế ngày càng trở nên bình đẳng và
dân chủ, mọi người đều muốn tham gia vào các quyết định ảnh hường đến
bản thân mình. Khi mà càng ít người chấp nhận các quyết định độc đoán của
người khác, thì đàm phán trở thành phương tiện cơ bản để giúp chúng ta đạt
được những điều mà chúng ta mong muốn từ người khác. Dù trong chính trị,
kinh doanh hay cuộc sống gia đình hầu hết các quyết định đạt được đều
thông qua đàm phán và thương lượng. Là một nghệ thuật lâu đời, thương
lượng, đàm phán đã phát triển thành một phương thức chủ yếu để đưa ra các
quyết định trong mọi mặt của đời sống có tổ chức.
Trong hoạt động quản trị kinh doanh, thương lượng là một phương tiện
dùng để giải quyết mâu thuẫn giữa giới chủ và công nhân. Trong việc thuê
mướn công nhân, thương lượng tập thể là một cách điều hòa quan hệ thuê
mướn giữa chủ và những người lao động có tổ chức. Trong nền kinh tế thị
trường, khi mà mọi quan hệ giữa người mua và người bán đều dựa trên lợi
ích, thì những đặc trưng tinh vi hơn của hoạt động kinh doanh đều liên quan
mạnh mẽ đến thương lượng.
Vậy thương lượng là gì? Theo cách hiểu thông thường nhất, thương
lượng là hành vi và quá trình mà người ta muốn điều hòa quan hệ giữa hai
bên, thông qua hiệp thương mà đi đến ý kiến thống nhất.
Thế tại sao lại phải thương lượng? Nguyên nhân trực tiếp của thương
lượng là bởi các bên đàm phán đều có nhu cầu của mình, mà sự thỏa mãn
nhu cầu của một bên sẽ có thể làm phương hại đến sự thỏa mãn nhu cầu của
bên kia, bất kỳ bên nào đều không thể không nhìn nhận nhu cầu bên kia. Vì
thế mục đích chủ yếu của việc đôi bên thương lượng không thể chỉ lấy nhu
cầu mà mình đeo đuổi làm xuất phát điểm, mà nên thông qua trao đổi quan
điểm tiến hành bàn bạc, cùng tìm phương án khiến cho đôi bên đều có thể
chấp nhận được. Cuộc thương lượng nào cũng đều nảy sinh do hai bên có
những lợi ích chung và những lợi ích mâu thuẫn nhau. Nếu người Mỹ và
người Nga không có ít nhất một lợi ích chung (muốn giảm nguy cơ hủy diệt
bằng chiến tranh hạt nhân) thì sẽ không có những cuộc đàm phán giữa hai
bên để đạt thỏa thuận về giải trừ quân bị, nhưng nếu như giữa hai nước lại
không có những lợi ích mâu thuẫn thì họ cũng chẳng ngồi thương lượng với
nhau làm gì. Trong những cuộc thương lượng nhằm dàn xếp một cuộc đình
công, một trong những lợi ích chung của chủ và người lao động là làm cho
hoạt động sản xuất tiếp tục diễn ra, nhưng giữa họ,có nhiều lợi ích mâu
thuẫn, và hai bên thương lượng để đưa ra một giải pháp mà cả hai bên đều
thỏa mãn. Bởi vì cố gắng của một bên để áp đặt cho bên kia một giải pháp sẽ
thất bại do sức mạnh của bên kia hoặc do giải pháp đó không được thực hiện
nếu không có sự tuân thủ tự nguyện của bên kia.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA THƯƠNG LƯỢNG TRONG KINH DOANHTrong đời sống xã hội có nhiều chủng loại đàm phán, thương lượng: có
thương lượng về ngoại giao, có thương lượng về vấn đề quân sự, có thương
lượng chính trị, có thương lượng về vấn đề kinh tế. Mỗi một cuộc thương
lượng trên có những đặc điểm khác nhau. Ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu những
đặc điểm của thương lượng trong kinh doanh, là một loại hình của thương
lượng kinh tế. Từ khái niệm về thương lượng trình bày ở trên, chúng ta thấy
rằng thương lượng có những đặc điểm sau đây:
1. Đặc điểm thứ nhất
Thương lượng không đơn thuần là quá trình theo đuổi nhu cầu lợi ích
của bản thân, mà là quá trình đôi bên thông qua việc không ngừng điều chỉnh
nhu cầu của mỗi bên mà tiếp cận với nhau, cuối cùng đạt tới ý kiến nhất trí.
Có nghĩa thương lượng là một quá trình đề ra yêu cầu, chịu nhượng bộ, cuối
cùng đạt thành nhất trí. Thương lượng cần có thời gian, vấn đế càng phức
tạp thì thời gian dành cho thương lượng càng nhiều. Tuy nhiên quá trình
thương lượng dài, ngắn phụ thuộc vào sự nhận thức đối với sự xung đột về
lợi ích của đôi bên, và trình độ đàm phán của hai bên.
2. Đặc điểm thứ hai
Thương lượng không là sự lựa chọn đơn nhất “hợp tác” hoặc xung đột,
mà là sự thống nhất mâu thuẫn giữa “hợp tác” và “xung đột”. Thỏa thuận đạt
được thông qua thương lượng nên có lợi cho cả hai bên. Một mặt, thông qua
thương lượng hai bên mong muốn đạt được những lợi ích chung, đó là mặt
mang tính hợp tác của thương lượng. Mặt khác trong thương lượng cả hai
bên đều mong muốn đạt được tối đa lợi ích cho mình thông qua thương
lượng, đó là mặt xung đột.
Hiểu rõ và nhận thức thương lượng là một sự thống nhất giữa hai mặt
đối lập hợp tác và xung đột là hết sức quan trọng trong việc chia ra các sách
lược trong thương lượng. Nếu chi nhấn mạnh đến tính hợp tác của thương
lượng mà sợ gây nên xung đột với đối tác thì có thể bạn sẽ dễ dàng chấp
nhận những điều khoản bất hợp lý gây thiệt hại cho bạn. Nhưng nếu bạn quá
nhấn mạnh khía cạnh xung đột, coi thương lượng là một cuộc chiến một mất
một còn, kiên trì giữ vững lập trường của mình không chịu lùi nửa bước thì có
nguy cơ cuộc thương lượng sẽ bị đổ vỡ. Cả hai thái cực này không thể chấp
nhận được đối với những cuộc thương lượng trong kinh doanh.
3. Đặc điểm thứ ba
Thương lượng không phải là sự thoả mãn lợi ích của mình một cách
không hạn chế, mà là có giới hạn lợi ích nhất định. Người đàm phán cần bảo
vệ lợi ích của mình trong phạm vi có thể tìm kiếm được càng nhiều lợi ích.
Nhưng bất kỳ nhà thương thuyết nào cũng phải thỏa mãn nhu cầu thấp nhất
của đối tác, nếu không nhìn nhận nhu cầu thấp nhất của họ, bức bách họ một
cách không hạn chế làm cho họ rút lui mà mất hết quyền lợi đã đến tay mình.
Cần phải nhớ rằng “thương lượng không phải là một ván cờ, không nên yêu
cầu một thắng, một thua cũng không phải là một trận chiến phải tiêu diệt hoặc
đặt đối phương vào thế chết, mà thương lượng vẫn là một cuộc hợp tác đôi
bên cùng có lợi” (Niernberg).
4. Đặc điểm thứ tư
Việc đánh giá một cuộc thương lượng thành công hay thất bại không
phải là lấy việc thực hiện mục tiêu dự định của một bên nào đó làm tiêu chuẩn
duy nhất, mà có một loạt các tiêu chuẩn đánh giá tổng hợp. Xuất phát từ việc
đàm phán là một sự hợp tác cùng có lợi nên có thể đánh giá sự thành công
của nó dựa trên 3 tiêu chuẩn chủ yếu sau:
- Tiêu chuẩn thực hiên mục tiêu: tức là kết quả cuối cùng của thương
lượng có đạt được mục tiêu dự định hay không? Đó là tiêu chuẩn đầu tiên.
- Tiêu chuẩn ưu hóa giá thành: một cuộc thương lượng thành công phải
có chi phí thấp nhất. Thế chi phí cho một cuộc thương lượng là những gì?
Thông thường có 3 loại: Một là sự nhượng bộ để đạt thành nhất trí, cũng là
cự ly giữa lợi ích thực tế đạt được và lợi ích dự định. Hai là các nguồn đầu tư
hao tốn cho đàm phán như: nhân lực, vật lực, trí lực, thời gian. Ba là chi phí
cơ hội, tức là thay vì chúng ta lo đàm phán thương vụ này mà có thể bỏ lỡ
một thương vụ khác lợi hơn. Khi thương lượng cần chú ý tới cả ba loại chi phí
đó.
- Tiêu chuẩn quan hệ giữa hai bên: thương lượng là một hoạt động
giao tiếp giữa người và người, cho nên kết quả của thương lượng không chỉ
thể hiện trên mối quan hệ giá cả cao thấp của hợp đồng cuối cùng, lợi nhuận
phân phối nhiều hay ít mà nó còn phải thể hiện trên mối quan hệ người và
người, tức là phải xem đàm phán có xúc tiến và tăng cường mối quan hệ hợp
tác tốt đẹp giữa hai bên hay là vì thế mà làm suy giảm mối quan hệ đó.
Đối với thương lượng trong kinh doanh thì việc đạt được lợi ích kinh tế
là mục đích cơ bản nhất. Nhà kinh doanh coi trọng hơn đến giá thành của
thương lượng, đến hiệu suất và hiệu quả. Vì vậy để đánh giá kết quả của
cuộc thương lượng trong kinh doanh là thành công hay thất bại, người ta chú
ý nhiều hơn đến hiệu quả kinh tế của nó.
Ngoài những đặc điểm trên, thương lượng trong môi trường kinh doanh
quốc tế còn có thêm một số đặc điểm sau đây:
5. Đặc điểm thứ năm
Thương lượng kinh doanh quốc tế vừa là hoạt động giao lưu quốc tế, vì
thế nó phụ thuộc rất nhiều vào quan hệ chính trị và quan hệ ngoại giao giữa
hai nước. Khi thương lượng, làm ăn với công ty nước ngoài, bạn cần quán
triệt chấp hành chính sách, phương châm và đường lối ngoại giao liên quan
đến quốc gia. Ngoài ra, bạn cần tìm hiểu và chấp hành cả những chính sách
riêng biệt của từng nước, tuân thủ hệ thống luật pháp và chế độ quy định của
hoạt động xuất nhập khẩu.
6. Đặc điểm thứ sáu
Thương lượng kinh doanh quốc tế phải lấy thương pháp quốc tế làm
chuẩn và lấy quán lệ quốc tế làm cơ sở. Vì thế nhà thương lượng cần phải
nắm rõ các thứ quán lệ quốc tế, thông thạo điều khoản luật pháp của nước sở
tại của đối tác, hiểu thấu đáo những thứ qui định của các tổ chức kinh doanh
quốc tế và luật pháp quốc tế.
Hơn nữa thương lượng quốc tế cần phải kiên trì theo đuổi nguyên tắc
bình đẳng, hai bên cùng có lợi. Cho dù là làm ăn với nước nghèo hay nước
giàu đi nữa, chỉ cần hai bên có thành ý hợp tác với nhau thì phải coi như
nhau, không phân biệt. Nếu bạn đã không dùng sức mạnh lấn át người ta, thì
cũng đừng bao giờ chịu chấp nhận những điều khoản bất hợp lý về mình.
Hãy dùng những tiêu chuẩn khách quan mà đấu tranh.
7. Đặc điểm thứ bảy
Thương lượng vừa là một khoa học nhưng cũng vừa là một nghệ thuật.
Muốn thương lượng tốt, chúng ta cần phải nắm được những qui luật, qui tắc
nhất định để đưa ra phương án và chiến thuật đàm phán hợp lý, đó là khía
cạnh khoa học. Tuy nhiên thương lượng lại là một loại hoạt động hết sức
phức tạp, đòi hỏi chúng ta cần có nghệ thuật ứng xử một cách linh hoạt. Cũng
có khi với nội dung đàm phán như nhau, hoàn cảnh và điều kiện như nhau,
nhưng những người đi đàm phán khác nhau thì kết quả cuối cùng lại khác
nhau. Điều đó phụ thuộc vào tính linh hoạt, sự nhạy cảm và cái “khiếu” ăn nói
của nhà thương lượng. Cái đó phản ánh tính nghệ thuật của thương lượng.
Hai yếu tố khoa học và nghệ thuật tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau, tính
khoa học giúp người thương lượng làm việc chính xác hơn, còn tính nghệ
thuật làm cho họ tiến hành thương lượng được tốt hơn.
III. MỘT SỐ VÍ DỤ KINH ĐIỂN VỀ THƯƠNG LƯỢNG1. Làm sao chia một chiếc bánh?
Hai anh em nhà nọ vì chia nhau một chiếc bánh mà cãi nhau, ai cũng
muốn được phần lớn hơn. Người cha thấy vậy mới ra điều đình: các con
đừng cãi nhau, ba có ý kiến, đứa nào cắt chiếc bánh thì để đứa kia chọn
trước, chia như vậy có hay hơn không? Điều này nghe có vẻ công bằng đối
với cả hai đứa, hai anh em lập tức ngừng cãi nhau, mà trở lại nhường nhịn
nhau, bởi vì mỗi đứa đều cảm thấy mình đã nhận được phân chia công bằng.
2. Chuyện về bán đảo Sinai
Năm 1967, sau chiến tranh Trung đông, Israel chiếm lĩnh bán đảo Sinai
của Ai Cập. Đối với vấn đề này Ai Cập vẫn canh cánh lo âu, hơn mười năm
qua, thông qua các thứ thủ đoạn muốn thu phục đất đã mất, nhưng trước sau
vẫn không thành công. Năm 1978 Ai Cập lấy nước thứ ba làm trọng tài, cùng
ngồi tiến hành thương lượng vế vấn đế bán đảo Sinai. Khi bắt đầu đàm phán,
đôi bên phát hiện lập trường của họ hoàn toàn đối lập: Isarael đồng ý trả lại
bán đảo Sinai, nhưng cần giữ lại một phần nào đó trong bán đảo, nếu không
sẽ không chịu ký hòa ước; còn Ai Cập thì kiên quyết đòi lại toàn bộ bán đảo vì
đó là đất của họ, vấn đề lãnh thổ là không thể thỏa hiệp.
Lập trường hai bên ở vào thế đối lập nghiêm trọng. Nếu hai bên cứ chỉ
nhìn vào lập trường của mình thì không thể nào thoả thuận được. Tuy nhiên,
chúng ta thử phân tích lợi ích của hai bên để tìm ra giải pháp. Israel muốn giữ
lấy một phần bán đảo vì họ không muốn xe tăng, pháo của Ai Cập bố trí ở
gần biên giới đe dọa về an toàn quốc gia, như vậy lợi ích của họ là về mặt an
toàn. Mà Ai Cập muốn đòi lại bán đảo vì bán đảo Sinai từ thời vương triều
Franlao vẫn là của Ai Cập, sau đó bị Hy lạp, La mã, Thổ, Pháp và Anh chiếm
vài thế kỷ, mãi sau này mới đòi lại được, lợi ích của họ là ở mặt chủ quyền,
họ tuyệt đối không thể nhường một phần lãnh thổ cho kẻ ngoại bang. Trải qua
đảm phán, đôi bên nhận rõ lợi ích thực sự của nhau, cho nên Tổng thống Ai
Cập Sađat và Thủ tướng Israel Beiking đã đi đến một thỏa thuận rằng: Isarael
trả lại toàn bộ bán đảo Sinai cho Ai Cập, những phía Ai Cập phải phi quân sự
hóa, không được bố trí vũ khí hạng nặng ở khu biên giới giữa hai nước để
đảm bảo an toàn cho lsrael. Như vậy quốc kỳ của Ai Cập có thể tung bay
khắp chốn trên Sinai thỏa mãn lợi ích chủ quyền, nhưng không có xe tăng và
pháo hoạt động thỏa mãn lợi ích an toàn. Một thỏa thuận có lợi cho cả hai
bên.
3. Chuyện về chiếc cửa sổ
Trong thư viện vắng vẻ, mà hai độc giả ngồi cạnh nhau lại vì một việc
nhỏ mà xảy ra tranh chấp. Một người muốn mở cửa sổ cho thoáng mát, giữ
đầu óc cho tỉnh táo; còn người kia muốn đóng cửa sổ không cho tiếng ồn từ
ngoài phố vào, giữ sự yên tĩnh. Hai người không ai chịu ai. Lúc đó, một nhân
viên quản lý đi qua, hỏi một độc giả trong số đó, tại sao muốn mở cửa sổ, trả
lời “muốn cho thoáng mát”. Ông ta lại hỏi độc giả khác, vì sao muốn đóng cửa
sổ, trả lời “vì muốn tránh tiếng ồn". Ông quản lý nghĩ một lát, tiếp đó mở cửa
sổ ở một bên khác nhìn ra vườn hoa, vừa để cho thoáng mát, lại không có
tiếng ồn, đồng thời thỏa mãn lợi ích của hai bên.
IV. CÁC KIỂU THƯƠNG LƯỢNGDựa vào thái độ, phương pháp và mục đích của người đàm phán mà
người ta chia thương lượng ra thành ba kiểu: thương lượng kiểu mềm,
thương lượng kiểu cứng và thương lượng kiểu nguyên tắc.
1. Thương lượng kiểu mềm
Thương lượng kiểu mềm là thương lượng kiểu hữu nghị. Người đàm
phán hết sức tránh xung đột, dễ dàng chịu nhượng bộ để giữ gìn mối quan hệ
tốt đẹp giữa hai bên. Họ nhấn mạnh đến mối quan hệ chứ không đặt nặng về
lợi ích kinh tế. Vì vậy, trong đàm phán kiểu mềm cách thức thông thường là:
đề ra kiến nghị, tin cậy đối tác, chịu nhượng bộ, giữ gìn mối quan hệ thân
thiện, và vì tránh đối lập mà chịu nhượng bộ.
Nếu hai bên đều dùng đàm phán kiểu này thì khả năng đạt thành hiệp
nghị rất lớn, tốc độ đàm phán nhanh, giá thành hạ, quan hệ giữa đôi bên cũng
sẽ tăng cường. Tuy nhiên nếu người chọn đàm phán kiểu mềm mà gặp đối
thủ cứng rắn thì vô cùng bất lợi.
Trong thực tế, người ta ít dùng loại này, thông thường chỉ giới hạn
trong phạm vi sự hợp tác giữa hai bên hết sức tốt đẹp và hoàn toàn tin cậy ở
nhau. Chẳng hạn, trong gia đình, giữa bạn hữu, các cuộc thương lượng
thường diễn ra kiểu này.
2. Thương lượng kiểu cứng
Thương lượng kiểu cứng còn được gọi là thương lượng kiểu lập
trường, trong đó người đàm phán đưa ra một lại trường hết sức cứng rắn, lo
sao đè bẹp được đối phương.
Thương lượng theo kiểu này thường dẫn đến thỏa thuận không sáng
suốt. Bởi vì khi bạn mặc cả lập trường, bạn sẽ tự trói mình vào lập trường đó.
Bạn càng ra sức chứng minh rằng lập trường ban đầu của bạn là không đổi
thì bạn lại càng khi thay đổi nó. Cái “tôi” của bạn trở nên đồng nhất với lập
trường của bạn, vì vậy bạn lại phải lo bảo vệ thể diện của mình. Và tất cả
những hành động trong tương lai của bạn đều hướng tới việc giữ lập trường
ban đầu. Nếu trong cuộc thương lượng về bán đảo Sinai, cả hai bên cố giữ
lập trường ban đầu của mình mà không chịu nhìn nhận ra lợi ích chung thì
không thể nào mà dẫn đến thỏa thuận được.
Thương lượng kiểu lập trường thường tiêu tốn nhiều thời gian. Bởi vì
trong khi mặc cả lập trường bạn sẽ cố làm các bất cứ một thỏa thuận nào đều
có lợi cho bạn bằng cách bắt đầu từ những lập trường cực đoan, ngoan cố
bám chặt lấy nó, nhượng bộ từng chút một cốt giữ cho cuộc thương lượng
không lâm vào bế tắc. Và tất nhiên nếu đối thủ của bạn cũng làm như vậy thì
cuộc thương lượng sẽ bị kéo rất dài, tiêu tốn nhiều thời gian và sức lực, thậm
chí có khi không đi đến thỏa thuận nào.
Mặc cả lập trường thường làm phương hại đến quan hệ giữa hai bên.
Bởi vì đấy thực sự là một cuộc tranh đấu về ý chí để đạt được thỏa thuận có
lợi chỉ cho một phía. Cảm xúc bất bình, tức giận vì bị thua thiệt thường làm
cho mỗi bên cảm thấy đang phải tuân theo ý chí cứng rắn của phía bên kia
trong khi các quyền lợi chính đáng của mình lại không được chú ý tới. Từ đó
bên bị thiệt sẽ nghĩ tới cách phản lại bên thắng trong khi thực hiện thỏa thuận,
và cứ như vậy mối quan hệ giữa hai bên sẽ trở nên căng thẳng. Thương
lượng kiểu lập trường thường làm cho các công ty đang làm ăn với nhau có
thể cắt đứt mối quan hệ anh em, bạn bè lánh mặt nhau.
Trong những cuộc thương lượng tập thể, như thương lượng giữa lao
động. Với giới chủ thì mặc cả lập trường càng trở nên nguy hiểm. Trong
những cuộc thương lượng như vậy có nhiều bên tham gia, mỗi bên đều có
những thành viên của mình. Có thể gần như tất cả đều thống nhất ý kiến với
nhau, nhưng chỉ một vài bên không tán thành. Thế thì nên nhượng bộ ai đây?
Vì thế các nhượng bộ qua lại càng khó thực hiện. Cho dù có chục vụ dàn xếp
song phương cũng khó mà tạo ra được một thỏa thuận đa phương. Trong các
tình huống như vậy thương lượng lập trường thường dẫn đến việc hình thành
các liên minh trong đó các lợi ích chung của các bên mang tính chất tượng
trưng hơn là thực chất.
Qua phân tích hai kiểu thương lượng trên, bạn có thể đặt câu hỏi là nên
chọn kiểu nào hơn? Câu trả lời là không chọn kiểu nào, mà là chọn kiểu thứ
ba sau đây.
3. Thương lượng kiểu nguyên tắc
Kiểu thương lượng này do trung tâm kế hoạch nghiên cứu thương
lượng đại học Harvard đề ra cho nên còn gọi là “thuật thương lượng
Harvard". Loại thương lượng này có 4 đặc điểm:
a. Thương lượng kiểu nguyên tắc chủ trương tách con người ra khỏi vấn đề
Trong khi thương lượng, ở mỗi chúng ta bao giờ cũng nảy sinh những
cảm xúc tình cảm khác nhau, và chính những cảm xúc này có thể làm cho
mỗi bên nhìn nhận về nhau một cách méo mó, từ đó nhận thức vấn đề cũng
sai lệch đi. Chính điều này có thể làm cho mỗi bên bám lấy lập trường của
mình mà không chịu nhượng bộ. Vì vậy trong khi thượng lượng hai bên cần
phải tách con người ra khỏi vấn đề để sát cánh bên nhau tấn công vào vấn đề
phải giải quyết chứ không phải tấn công nhau.
b. Trong thương lượng kiểu nguyên tắc hai bên cần tập trung vào lợi ích chứ không cố giữ lấy lập trường
Các chuyên gia thương lượng cần phải tránh việc tập trung chú ý vào
lập trường các bên đưa ra trong khi mục đích của cuộc đàm phán là thỏa mãn
các lợi ích của họ nằm sau các lập trường đó. Nếu bạn cứ bám vào lập
trường thì bạn sẽ không nhìn thấy lợi ích thực sự của bạn.
c. Trong thương lượng bạn cần đưa ra các phương án khác nhau để lựa chọn thay thế
Khi thương lượng thường bạn dễ bị sức ép tâm lý làm cho bạn căn
thẳng mà mất sáng suốt, vì thế việc đưa ra phương án tối ưu sẽ trở nên hết
sức khó khăn. Bạn có thể thoát khỏi trạng thái căng thẳng bằng cách dành
một khoảng thời gian tìm tòi những giải pháp có thể thỏa mãn những lợi ích
chung, hòa hợp một cách sáng tạo các lợi ích khác biệt.
d. Kết quả của sự hỏa thuận trong thương lượng kiểu nguyên tắc cần dựa trên những tiêu chuẩn khách quan nào đó
Nếu trong một cuộc thương lượng không cân sức, đối phương có thể
bắt ép bạn phải thực hiện những thỏa thuận có lợi cho họ. Tuy nhiên bạn có
thể chống trả lại sức ép của họ bằng cách đòi hỏi người ta đưa ra những tiêu
chuẩn khách quan. Bởi vì bất cứ thỏa thuận nào cũng phải phản ánh một tiêu
chuẩn công bằng nào đó độc lập với ý muốn chủ quan của cả hai bên. Ví dụ,
như trong việc chia chiếc bánh ở trên, tiêu chuẩn khách quan là “đứa này cắt
thì đứa kia chọn". Bằng cách thương lượng về các tiêu chuẩn khách quan
hơn là về điều mà các bên muốn hay không muốn, sẽ không có bên nào chịu
thua thiệt.
Mỗi đặc điểm trên giải quyết một thành phần cơ bản của cách thương
lượng và trả lời bạn nên làm gì đối với nó.
Như vậy khác với đàm phán kiểu mềm, đàm phán kiểu nguyên tắc yêu
cầu đôi bên phải tôn trọng nhu cầu cơ bản của nhau, tìm điểm dung hòa về
lợi ích hai bên.
Khác với đàm phán kiểu cứng đàm phán nguyên tắc nhấn mạnh tới lợi
ích hai bên, nhưng không phải đưa ra lập trường cứng nhắc, mà có các
phương án thay thế nếu gặp phải thế găng. Ví dụ: chuyện Ai Cập và Israel về
bán đảo Sinai của Ai Cập.
Bảng so sánh giữa 3 kiểu thương lượng
Thương lượng kiểu mềm
Thương lượng kiểu cứng
Thương lượng kiểu nguyên tắc
Đối tácCoi đối tác như bạn
bè
Coi đối tác như địch
thủ
Coi đối tác như
những cộng sự
Mục tiêuĐạt thoả thuận,
giữa mối quan hệ
Giành được thắng
lợi bằng mọi giá
Giải quyết vấn đề
hiệu quả và thân
thiện
Xuất phát điểm
Nhượng bộ để giữ
quan hệ
Bắt ép đối tác
nhượng bộ
Tách con người khỏi
vấn đề
Chủ trương
Với việc và người
đều ôn hoà
Với việc và người
đều cứng rắn
Đối với người thì ôn
hoà, với việc thì
cứng
Lập trường
Dễ thay đổi Kiên trì giữ lập
trường
Chú ý tới lợi ích chứ
không phải lập
trường
Phương pháp
Đề xuất kiến nghị Uy hiếp đối tác Cùng tìm kiếm lợi
ích chung
Phương án
Tìm phương án đối
tác có thể tiếp thu
được
Tìm phương án có
lợi cho mình
Tìm nhiều phương
án để hai bên lựa
chọn
Biểu hiệnRất tránh xung đột Tranh đua sức mạnh
ý chí
Căn cứ tiêu chuẩn
khách quan để đạt
thoả thuận
Kết quảKhuất phục sức ép
của đối tác
Tăng sức ép khiến
đối tác khuất phục
Khuất phục nguyên
tắc chứ không khuất
phục trước sức ép
Câu hỏi ôn tập6.1. Thương lượng là gì? Tại sao người ta lại phải thương lượng với
nhau?
6.2. Phân tích các đặc điểm của thương lượng trong kinh doanh?
6.3. Thương lượng kiểu mềm và thương lượng kiểu cứng có những tác
hại như thế nào?
6.4. Phân tích các đặc điểm của thương lượng kiểu nguyên tắc? Nó
khác với hai loại thương lượng trên ở nhưng điểm cơ bản nào?
Bài tập
Bạn hãy đọc một tờ báo hoặc xem chương trình thời sự trên ti vi, và
đưa 5 ví dụ về những cuộc thương lượng. Những cuộc thương lượng đó đã
đi đến thỏa thuận như thế nào? Những người thương lượng đã áp dụng kiểu
đàm phán nào?
Tình huống thảo luận “chiếc xe ông Tèo".
Chiếc xe hơi Hon da 89 hơn của ông Tèo bị một cây to đổ và phá hỏng
tan tành, khi ông đỗ ở bãi để xe. Chiếc xe được bảo hiểm ở Bảo Việt, nhưng
số tiền bao nhiêu, thì ông Tèo phải thương lượng với Bảo Việt. Bạn hãy theo
dõi cuộc thương lượng giữa ông Tèo và Bảo Việt.
- Nhân viên Bảo Việt: Chúng tôi đã xem xét vụ của ông và quyết định
bồi thường cho ông. Ông có quyền được thanh toán 250 triệu.
- Ông Tèo: Tôi hiểu. Nhưng các ông tính thế nào ra con số ấy?
- Nhân viên Bảo Việt: Đánh giá giá trị chiếc xe theo quyết định của
chúng tôi.
- Ông Tèo: Tôi hiểu, nhưng các ông dùng tiêu chuẩn nào để xác định
giá như vậy? Các ông có biết chỗ nào có thể mua được chiếc xe như vậy với
giá đó hay không?
- Nhân viên Bảo Việt: Thế ông muốn bao nhiêu?
- Ông Tèo: Tôi chỉ muốn nhận được đúng mức thà tôi có thể được bảo
hiểm. Tôi biết rằng có một chiếc xe secondhand giống như xe tôi, người ta ra
giá 300 triệu cộng với thuế trước bạ và chi phí khác giá lên đến 320 triệu.
- Nhân viên Bảo Việt: Những 320 triệu cơ à, thế là quá nhiều.
- Ông Tèo: Tôi không muốn đòi 320 triệu, hay 200 triệu hay 400 triệu
mà chỉ là một khoản bồi thường xứng đáng thôi. Tôi phải được đền bù số tiền
đủ để mua được chiếc xe như của tôi chứ, các ông có nghĩ thế không?
- NVBH: Thôi được, tôi sẽ thanh toán cho ông 300 triệu. Đấy là mức
cao nhất đấy.
- Ông Tèo: Các ông cho số tiền như vậy là thế nào?
- Nhân viên Bảo Việt: Đấy là mức tiền cao nhất mà ông được lãnh, lãnh
hay không là tùy ông. Đó là quyết định của công ty.
- Ông Tèo: Tôi cũng chẳng biết là 300 triệu là có hợp lý hay không.
Nhưng nếu ông không đưa ra các tiêu chuẩn khách quan để giải thích tại sao
tôi được lãnh số tiền đó, thì chắc tôi phải đưa vấn đề này hỏi ở toà án. Tại
sao chúng ta không xem xét lại vấn đề một lần nữa rồi hãy thương lượng.
Tám giờ sáng ngày thứ hai chúng ta lại gặp nhau lần nữa, có tiện cho ông
không?
Thứ hai, hai bên gặp nhau.
- Nhân viên Bảo Việt: Này ông Tèo, chúng tôi có tờ quảng cáo bán
chiếc xe Honda 89 như của ông với giá 320 triệu đây.
- Ông Tèo: Quảng cáo nói xe đã chạy bao nhiêu?
- Nhân viên Bảo Việt: 50 ngàn cây số.
- Ông Tèo: Xe tôi mới chạy có 25 ngàn cây số thôi. Thế theo sách của
các ông thì xe của tôi tăng thêm bao nhiêu?
- Nhân viên Bảo Việt: Để tính xem nào,…. tăng thêm 5 triệu.
- Ông Tèo: Như vậy, nếu lấy giá 320 triệu làm cơ sở thì xe tôi sẽ có giá
là 325 triệu. Thế chiếc xe nói trong quảng cáo có radio casette không?
- Nhân viên Bảo Việt: Không.
- Ông Tèo: Thế nếu có radio casette thì được bao nhiêu nữa thưa ông?
- Nhân viên Bảo Việt: 1,5 triệu.
- Ông Tèo: Thế tất cả là bao nhiêu thưa ông?
- Nhân viên Bảo Việt: 326,5 triệu.
Và sau đó ông Tèo ra về với số tiền là 326,5 triệu.
Câu hỏi
Bạn hãy phân tích xem người nào áp dụng kiểu thương lượng nào? Tại
sao ông Tèo lại thắng trong cuộc thương lượng này?
Chương 7: TIẾN TRÌNH THƯƠNG LƯỢNG
I. GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊMuốn thương lượng được tốt thì cần phải chuẩn bị thật kỹ, chuẩn bị
càng chu đáo càng đầy đủ thì cơ hội nắm được thế chủ động trên trường đàm
phán càng nhiều. Bạn cần phải tìm hiểu tường tận về hoàn cảnh của bản thân
cũng như của đối tác và có sự phân tích cụ thể về những hoàn cảnh đó, từ đó
xác định phương pháp thương lượng. Bạn cần phải lường trước những tình
huống có thể xảy ra, từ đó bạn sẽ chủ động trong đàm phán, khiến phần lớn
các mối mâu thuẫn và xung đột được hóa giải trong lúc chuẩn bị.
1. Tìm hiểu bản thân
Trước hết bạn cần tìm hiểu những ưu, nhược điểm, những mặt mạnh,
mặt yếu của mình. Có biết người biết ta thì trăm trận mới trăm thắng được.
Bạn cũng cần tự nhận biết những đặc điểm tâm lý của mình để khắc phục
trong cuộc đàm phán. Nếu bạn là người dễ bị kích động, bạn sẽ rất dễ bị lừa
vào một tình thế khó khăn chỉ vì trạng thái cảm xúc của bạn. Những người ở
trạng thái bị kích động không còn muốn suy xét, và họ dễ bị lung lạc bởi một
đối thủ khôn khéo. Người nóng giận không dễ thay đổi một chiều hướng kịp
thời, dù cho người đó có nhận ra được sai lầm của mình và rất dễ bị xỏ mũi
bởi một nhà thương thuyết điềm tĩnh. Chính vì những điều trên mà một sự
chuẩn bị cho cuộc đàm phán phải được bắt đầu bằng hình thức tự đánh giá
mình. Nó bao gồm việc xét duyệt chân thật năng khiếu phán đoán, triết lý
sống của bạn. Về phương diện nào đó nó đồng nghĩa với việc kiểm điểm lại
cơ bản trí thức và cảm tính của bạn.
Trong khi chuẩn bị, bạn cũng cần tập luyện một số kỹ năng cần thiết
cho đàm phán. Bạn cần có sự kiên nhẫn và óc chính xác của một nhà khoa
học trong việc tìm tòi những dữ kiện. Cần kết hợp tính khoa học với óc nhạy
bén của một thám tử trong việc tìm hiểu những gì liên quan đến đối tác. Bạn
cần phải tập kiềm chế cảm xúc, tập tính nhạy cảm để có thể tiên đoán những
gì đối tác của bạn sẽ làm. Một trong những kỹ năng quan trọng nhất là nghệ
thuật lắng nghe.
2. Tìm hiểu đối tác
Trong khi chuẩn bị, bạn cần tìm hiểu về đối tác những mặt sau:
Thứ nhất là thực lực của họ: bao gồm lịch sử của công ty ảnh hưởng,
xã hội, tình hình tài chính, mức độ trang bị kỹ thuật, các loại phẩm chất, chất
lượng, số lượng của sản phẩm.
Thứ hai là nhu cầu và ý định của đối tác: đối tác muốn hợp tác với ta có
ý đồ gì? Mục đích hợp tác của họ là gì? Nguyện vọng hợp tác có chân thành
không? Mức độ bức thiết của sự hợp tác này của họ như thế nào? Họ có lựa
chọn nhiều bạn hàng hợp tác nào nữa hay không?…
Thứ ba là tìm hiểu nhân viên đàm phán của họ: tức là đoàn đàm phán
của họ gồm những ai? Địa vị, tính cách, sở thích, kinh nghiệm đàm phán của
mỗi người? Ai là người có tính chất quyết định trong số họ? năng lực, tính
từng trải, sở trường và những nhược điểm?:.. Đối với những cuộc thương
lượng phức tạp, thậm chí còn phải dùng tình báo để tìm hiểu đối phương
như: cách nghĩ và tính toán của mỗi người đàm phán,quan hệ giữa họ ra
sao? có tồn tại mâu thuẫn hay không? có người thao túng ở phía sau hay
không?
3. Tổ chức đội ngũ thương lượng
Tùy thuộc vào nội dung thương lượng mà bạn nên lựa chọn một đội
ngũ đàm phán thích hợp. Trong đàm phán thương mại, sự lựa chọn mỗi
thành viên trong tổ thương lượng, kể cả phiên dịch viên đều phải hết sức thận
trong. Họ không chỉ cần phù hợp với yêu cầu về những phẩm chất nhất định,
và còn phải hình thành được kết cấu bổ sung cho nhau về các mặt.
Thông thường tổ thương lượng được tổ chức,theo ba chức năng: chức
năng thương lượng, chức năng phân tích và chức năng quan sát. Các thành
viên sẽ được phân công theo những chức năng như vậy tùy vào sở trường
của họ. Người đóng vai trò chủ yếu là trường đoàn thương lượng. Anh ta sẽ
trình bày ý kiến của tổ về từng điểm, xem xét ý kiến đối tác và có một loạt xét
đoán tại chỗ về việc khi nào nên đưa ra tài liệu mới, thay đổi cách xử trí tất cả
những quyết định khác để định hình chất lượng và phương hướng của cuộc
gặp gỡ. Chuyên viên thương lượng là người không có vai trôi quyết định toàn
bộ vấn đề, nhưng có chức năng phân tích và xử lý từng điểm riêng biệt thuộc
lĩnh vực mà anh ta am hiểu. Chẳng hạn, khi thương lượng về vấn đề lương
bổng, chuyên viên về tiền lương sẽ đứng ra giải thích, phân tích những vấn
đề liên quan. Có thể có nhiều chuyên viên hoặc mỗi chuyên viên phụ trách
mỗi công đoạn khác nhau trong thương lượng.
Trong tổ thương lượng cần có những quan sát viên. Những quan sát
viên chỉ có nhiệm vụ là quan sát và phát hiện ra vấn đề. Những người này
thường có ưu thế hơn so với các thành viên khác vì họ không phải tham gia
vào các cuộc tranh cãi, nên họ không phải chịu đựng mức độ xúc động và
thương tổn về tinh thần. Hơn nữa, họ không phái đối phó với công việc chuẩn
bị phát biểu và đi vào đối thoại, nên họ rảnh rang để quan sát. Chính họ là
người có cơ hội phát hiện ra nhiều vấn đề mà nhiều khi trưởng đoàn hay các
chuyên viên không nhìn thấy, và trong các cuộc thảo luận nửa chừng chính
nó là những người khởi xướng để tìm ra những chiến lược và xem xét các
chiến thuật mới. Những quan sát viên thường là những người có tư duy tổng
hợp và phân tích đều tốt, có tầm quan sát rộng nhạy bén trong việc phát hiện
vấn đề.
Trưởng đoàn thương lượng phải có tinh thần trách nhiệm cao, có ý
thức và lập trường kiên định, tri thức quảng bác, tinh thông thương vụ và các
nghiệp vụ liên quan, kinh nghiệm phong phú, có kỹ năng sách lược thông
thạo, tư duy nhạy bén, giỏi tùy cơ ứng biến, giỏi tập hợp được sức mạnh của
tập thể.
Khi chọn nhân viên thương lượng cần chú ý tới những phẩm chất sau
đây:
Thứ nhất là vế kiến thức và năng lực: Chuyên viên thương lượng cần
có kiến thức và khả năng gần như toàn diện. Anh ta trước hết là một nhà kinh
doanh, vừa là một luật gia, một nhà ngoại giao, vừa là nhà tâm lý học, chính
trị học, vừa am hiểu thương pháp quốc tế, văn hóa phong tục tập quán…
Thứ hai là về phẩm chất tâm lý: Chuyên gia thương lượng cần có tư
duy nhạy bén, giỏi cả suy nghĩ giỗi cả hành động; phải có nghị lực và sự nhẫn
nại, không nóng vội, hấp tấp; biết kiềm chế cảm xúc. Phải không tự ti, không
kiêu căng, có lý lẽ có khí tiết. Có khả năng sáng tạo dồi dào.
Thứ ba là về kỹ năng thương lượng: Chuyên viên thương lượng cần có
khả năng ngôn ngữ tốt: giỏi diễn đạt ý kiến của mình, trình bày vấn đề sáng
tỏ, dùng từ chuẩn xác rõ ràng. Cần có khả năng thuyết phục đối tác tiếp thụ
quan điểm của mình, giỏi thông qua lý lẽ để bác bỏ lập trường của đối
phương vừa bảo vệ lợi ích cho mình. Kỹ năng quan sát cũng rất cần thiết: từ
quan sát diện mạo bên ngoài, những hành vi cử chỉ, lời nói của đối tác, nhà
thương lượng cần nắm bắt được những thay đổi về mặt tâm lý, những thông
tin tiềm ẩn nhưng hết sức quan trọng để kịp thời điều chỉnh sách lược một
cách nhanh chóng.
Nếu bạn thương lượng với nước ngoài, bạn cần quan tâm đến lựa
chọn phiên dịch viên - là cây cầu cộng thông giữa hai bên. Người phiên dịch
cần có một vốn từ vựng rất đa dạng, không những từ ngữ về chuyên môn, mà
còn phải am hiểu từ ngữ thuộc các lĩnh vực khác nữa. Khi phiên dịch, cần
phải lấy trung thực làm tiêu chuẩn đầu tiên: anh ta phải phiên dịch đúng ý của
nhân viên thương lượng, phiên dịch đúng nguyên văn, không tự ý thêm bớt
bình luận linh tinh. Cần có cử chỉ văn nhã, lời lẽ lịch sự, giỏi xã giao, am hiểu
phong tục tập quán, đặc điểm văn hóa của đối tác. Phiên dịch viên cũng cần
có sức khỏe dồi dào để đáp ứng những cuộc thương lượng căng thẳng kéo
dài.
Nói tóm lại là tổ thương lượng phải bao gồm những thành viên có năng
lực và kiến thức đa dạng, am hiểu chuyên môn, thành thạo nghiệp vụ thương
lượng và cơ bản là kết hợp với nhau một cách chặt chẽ đảm báo nội bộ làm
việc thống nhất.
4. Lập mục tiêu, sách lược, kế hoạch thương lượng
Khi lập mục tiêu cần chú ý là mục tiêu cần có tính co giãn, nếu trong
thương lượng thiếu chỗ để quay lại thì sẽ gặp phân rẽ khiến cho đàm phán bị
“đẻ non". Vì thế thông thường thục tiêu của một cuộc thương lượng có thể
được chia ra làm ba cấp: mục tiêu cao nhất là mục tiêu ở cảnh giới lý tưởng,
khi cần thiết có thể bỏ qua; mục tiêu trung gian là mục tiêu kỳ vọng cố sức
tranh thủ thực hiện được, chỉ trong tình huống bất đắc dĩ mới có thể bỏ; mục
tiêu thấp nhất là mục tiêu kỳ vọng thấp nhất để đạt thành giao dịch, nếu không
chẳng thà là không thương lượng.
Việc xác định mục tiêu chính xác là hết sức phức tạp, trước hết cần
phân tích điểm yếu, điểm mạnh của mình và đối tác tiếp đến là cần xét xem từ
nay về sau có còn giữ mối quan hệ làm ăn với nhau nữa hay không, ngoài ra
còn phụ thuộc vào tính quan trọng của cuộc đàm phán, hạn chế về thời gian
thương lượng.
Cần chú ý rằng, mục tiêu thương lượng không phải cứ càng cụ thể
càng tốt, mà còn phụ thuộc vào hoàn cảnh, đặc biệt là khi thương lượng về
những vấn đề đang còn xa lạ, chưa có kinh nghiệm thì nên đặt mục tiêu hơn
lỏng một chút để có chỗ quày khá lớn. Khi trong đàm phán có sự phân rẽ, thì
có thể có lợi cho ta giữ được tính linh hoạt. Mỗi khi mục tiêu đã được vạch ra,
thì tiến hành đưa ra những kế hoạch cụ thể để thực hiện cụ thể: có bao nhiêu
giai đoạn và thời gian cho mỗi giai đoạn là bao nhiêu? mục tiêu tổng thể có
thể chia ra làm bao nhiêu mục tiêu con và giai đoạn nào phải đạt được mục
tiêu nào? Đưa ra sách lược cho mỗi giai đoạn, đánh giá đầy đủ các phản ứng
của đối tác, lường trước những tình huống có thể xảy ra và có cách giải
quyết.
5. Thương lượng thử
Mặc dù bạn đã lập kế hoạch một cách tỷ mỉ chi tiết, nhưng những điều
đó cũng chưa chắc đảm bảo cho sự thành công của thương lượng. Bởi vì kế
hoạch dù lập kỹ thế nào cũng khó mà hoàn thiện hoàn mỹ, phía sau nó vẫn
còn che dấu nhiều vấn đề chưa thể biết trước được. Để có thể nhìn thấy
trước những tình huống trong thương lượng, đối với những cuộc đàm phán
lớn, phức tạp, bạn cần tiến hành thương lượng thử ở nhà với nhau.
Thương lượng thử là chia tổ thương lượng ra làm hai nhóm, một bộ
phận đóng vai đối tác, và mang lập trường, quan điểm, lợi ích của đối tác; còn
một bên đóng vai trò phía mình, diễn trước quá trình thương lượng. Sự tập
đợt này có thể làm cho bạn phát hiện ra những trục trặc, sơ sót mà trước đây
chưa từng lường trước được. Hơn nữa nó cũng tạo cơ hội để cho bạn đứng
trên quan điểm của đối tác mà suy xét vấn đề.
Tuy nhiên, muốn thử nghiệm có kết quả, thì các thành viên trong tổ
thương lượng phải đi sâu vào vai mình đóng, bàn bạc, tranh luận y như thật.
Có thế thì sự chuẩn bị mới có thể tin cậy được và có giá trị.
II. GIAI ĐOẠN TIẾP XÚCSau khi đã chuẩn bị xong, hai bên chính thức bắt đầu cuộc đàm phán
bằng cách thực hiện giai đoạn tiếp xúc. Ở giai đoạn này hai bên cần phải tạo
ra những điều kiện để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, đồng thời vừa tìm hiểu
rõ đặc điểm ý đồ và thái độ của nhau để sửa đổi sách lược thương lượng cho
hợp lý.
1. Tạo không khí tiếp xúc
Mỗi cuộc thương lượng đều có một không khí riêng: có cuộc thì sôi nổi,
tích cực, hữu hảo, có cuộc thì lạnh lẽo, căng thẳng, đối lập… Tuy nói không
khí thương lượng có thể tùy theo từng giai đoạn mà chuyển đổi, nhưng trong
tình huống thông thường đều có một bầu không khí chủ đạo và quán triệt từ
đầu đến cuối trong đàm phán.
Thế nên tạo bầu không khí thương lượng như thế nào? Để thương
lượng có kết quả thì việc tạo ra bầu không khí cởi mở, tin cậy lẫn nhau, thành
thật hợp tác là vô cùng cần thiết. Trước khi bước vào đàm phán đôi bên cần
để ra một ít thời gian nói về những vấn đề không liên quan gì đến đàm phán,
khiến đôi bên cảm thấy hứng thú như: về thời tiết, về thể thao, phim ảnh, tin
tức trong ngày… điều đó có thể làm cho đôi bên hình thành không khí thoải
mái, hài hòa.
Để xây dựng mối quan hệ tin cậy giữa hai bên nên chú ý tới ba điều
sau đây:
a. Cần phải làm cho đối tác tin cậy mình:
Chu đáo, tận tình đối với những công việc của đối tác và cả những
quan hệ cá nhân đều khiến cho họ tin cậy mình. Nhiều khi chỉ vì một câu nói
không đúng chỗ, một động tác không hợp lễ nghi, một lần sắp đặt không suy
tính chu đáo, đều có ảnh hưởng đến niềm tin của họ với mình. Điều đó càng
phải coi trọng đối với những đối tác mà mình mới có quan hệ làm ăn lần đầu
tiên.
b. Cần phải tìm cách thể hiện những thành ý của mình:
Khi đàm phán với những đối tác mới, việc tỏ rõ thành ý của mình đối
với họ là việc làm hết sức cần thiết. Để thể hiện thành ý của mình, có thể lợi
dụng những trường hợp không chính thức nào đó, kể cho họ nghe thí dụ về
sự lấy lòng thành đãi người trong những cuộc giao dịch cùng loại trước đây.
Cũng có thể trước khi đàm phán bắt đầu, cần phải sắp xếp một số hoạt động
có lợi cho việc xây dựng tình cảm tin cậy giữa đôi bên, khiến đối tác nhận
thấy mình có thành ý.
c. Cần chú ý làm cho đối tác tin cậy mình là ở hành động, chứ không phải ở lời nói:
Nên thực hiện những việc đã hứa, đến đúng thời gian như giao ước,
không tùy tiện đến trễ, nhiều khi chỉ cần một lần thất hứa thì sự tin cậy giữa
hai bên cũng bị giảm bớt khó lòng mà lấy lại. Khi đối tác hỏi phải kịp thời trả
lời, không kể là trả lời khẳng định hay phủ định, nhưng cần nói cho họ biết.
Đối với những việc mà mình không thể làm được nên thành tâm thành ý giải
thích thêm, để từ đó đối tác thông cảm và chấp nhận.
2. Thăm dò đối tác
Ở giai đoạn chuẩn bị, bạn chỉ tìm hiểu đối tác một cách gián tiếp thôi.
Còn bây giờ khi trực tiếp tiếp xúc với họ, bạn cần phải thăm dò lại xem đối tác
có đáng tin cậy hay không, có tuân thủ lời hứa hay không, họ có thành ý hợp
tác đến mức nào. Phải đánh giá về kinh nghiệm thương lượng, tác phong của
đối tác, những điểm yếu, điểm mạnh của họ. Phải thăm dò nguyên tắc mà đối
tác phải tuân theo và trên vấn đề nào có thể nhượng bộ. Muốn thực hiện việc
thăm dò có hiệu quả, bạn có thể quan sát qua hành vi, cử chỉ, lời nói của đối
tác. Tuy nhiên, bạn phải thực hiện việc đó một cách thận trọng và tế nhị.
3. Sửa đổi kế hoạch thương lượng
Sau khi đã thăm dò xong, bạn sẽ có những thông tin chính xác hơn về
đối tác. Bạn nên tiến hành phân tích kỹ lưỡng về những thông tin đó, chính
xác hóa những nhận định ban đầu, thẩm tra lại những vấn đề nào đó mà
trước đây chưa rõ. Từ đó bạn có thể phải thay đổi kế hoạch thương lượng
sao cho phù hợp với tình hình mới, cái đó không phải chỉ để tranh thủ quyền
chủ động trong thương lượng, bảo đảm lợi ích của mình, mà cũng là để thúc
đẩy tiến trình hợp tác giữa hai bên. Tuy nhiên, bạn đừng quá sớm hình thành
cách nhìn cố định về ý đồ của đối tác ngay từ đầu, mà trong suốt quá trình
thương lượng bạn cũng cần phải tiếp tục tìm hiểu, phân tích kỹ hơn nữa về
chúng để có thể điều chỉnh kịp thời sách lượng thương lượng của bạn.
III. GIAI ĐOẠN THỰC CHẤTSau khi các bên thương lượng đã trải qua giai đoạn chuẩn bị kỹ lưỡng,
đã tạo ra bầu không khí tiếp xúc với nhau và hình thành nên phương án
thương lượng, đàm phán tự nhiên đi vào giai đoạn thực chất. Quá trình
chuyển đổi từ giai đoạn tiếp xúc sang giai đoạn thực chất tùy thuộc vào tính
chất của vấn đề thương lượng, vào mối quan hệ giữa các đối tác và phụ
thuộc vào đặc điểm cá nhân của đối tác.
1. Đưa ra yêu cầu chính xác
Trước hết hai bên đưa ra yêu cầu của mình. Việc đưa ra yêu cầu chính
xác là hết sức quan trọng. Lấy ví dụ về thương lượng mua bán, việc đưa ra
giá cả thích đáng là rất cần thiết, đặc biệt là giá do bên bán đề ra lúc đầu. Vì
cuộc thương lượng sẽ được tiến hành xoay quanh giá đó, và thoả thuận đạt
được cũng chỉ nằm trong giới hạn đó mà thôi.
Thế nên báo giá trước hay để cho đối tác đưa ra giá trước? Nói chung
điều đó không phải là quan trọng lắm. Việc ra giá trước có ưu điểm là làm cho
bạn chủ động, sẽ có tác dụng gây ảnh hưởng tiếp nối mãi toàn bộ cuộc
thương lượng, nhưng cũng có bất lợi là đối tác sau khi biết báo giá của bạn
có thể tự điều chỉnh cách suy nghĩ của họ mà khiến cho bạn mất điều kiện có
được điều kiện giao dịch ưu việt hơn.
Việc đưa ra yêu cầu phải hợp tình hợp lý, nếu không sẽ làm cho đối tác
đánh giá là bạn không có thành ý, có cảm giác không tin tưởng. Báo giá cao
hay thấp chỉ là tương đối, nó phụ thuộc vào bối cảnh hợp tác, vào ý nguyện
hợp tác và vào không khí thương lượng.
Giá cả thế nào là hợp lý? Cần dựa vào những tiêu chuẩn sau đây:
- Giá cả hợp lý là giá cả thể hiện lợi ích chung của cả hai bên.
- Giá cả hợp lý là giá cả có thể thỏa mãn yêu cầu hợp tác lâu dài của
đôi bên.
- Giá cả hợp lý là giá cả lợi ích cục bộ phục tùng lợi ích toàn cục.
- Giá cả hợp lý là giá cả thống nhất giữa yêu cầu kĩ thuật và yêu cầu
kinh tế.
Việc báo giá cần phải được chuẩn bị kỹ càng.
2. Điều chình yêu cầu
Sau khi hai bên đã đưa ra yêu cầu, ắt sẽ có sự sai lệch về yêu cầu mà
đôi bên đề ra. Ở đây hai bên cần phải bàn đi bàn lại để điều chỉnh lợi ích cho
hợp lý. Thông thường hai bên đều muốn giữ lập trường của mình.
Nhà thương lượng muốn duy trì lợi ích của mình một cách hữu hiệu,
trước tiên cần phải hiểu đầy đủ yêu cầu của đối tác căn cứ vào đâu, để cho
họ nói rõ kết cấu của yêu cầu và tính hợp lý của mỗi bộ phận cấu thành và
sau đó đối chiếu với yêu cầu của mình để xem giữa mình và đối tác đang còn
có khoảng cách ở chỗ nào và tại sao lại có khoảng cách đó.
* Nếu yêu cầu của hai bên đều hợp lý, vì thế khoảng cách hiện còn
cũng hợp lý, thì chúng ta có thể chỉ ra cho đối tác tình huống thực tế này,
tranh thủ mỗi bên đều có sự nhượng bộ tương ứng để có được sự nhất trí.
* Nếu yêu cầu của đối phương hợp lý, mà chúng ta lại đưa ra yêu cầu
hơi cao thì ta nên cân nhắc xem có cần giữ nguyên lập trường của mình hay
không, đặc biệt là khi đối phương đã phát hiện ra chỗ bất hợp lý của ta, đề ra
câu hỏi, phía ta nên chủ động có sự nhượng bộ.
Khi bạn cần nhượng bộ, bạn nên tuân theo những điều sau đây:
Thứ nhất, bạn cần để đối tác cảm thấy bạn chịu nhượng bộ một bước
quan trọng. Khi nhượng bộ bạn không thể làm cho đối tác hiểu là bạn sợ áp
lực của họ, và cũng không nên làm cho họ nghĩ là sự nhượng bộ của bạn là
do hấp tấp vội vàng. Mà bạn cần làm cho họ hiểu là sự thỏa hiệp của bạn là
biểu thị một sự thành ý muốn hợp tác. Nếu đối tác hiểu được điều đó thì có
thể họ cũng sẽ có một sự nhượng bộ tương ứng.
Thứ hai, bạn hãy lấy phương án thay thế mà giá trị ngang nhau đổi lấy
sự thay đổi lập trường của đối tác. Có nghĩa là bạn có thể bằng lòng bỏ lợi ích
về một mặt nào đó làm cái giá phải trả để đổi lấy lợi ích ở một mặt khác mà
giá trị ngang nhau. Ví dụ, hai chị em giành nhau quả quít, chị chỉ muốn ăn múi
quít, còn em thì chỉ muốn lấy vỏ quít dể cắt thành đồng tiền mà nó thích,
nhưng hai bên tranh chấp lại là ai được toàn thể quả quít, thế thì tại sao chị lại
không thể bỏ một phần vỏ quít để đổi lấy toàn bộ múi quít.
Thứ ba, lấy nhượng bộ để đổi lấy nhượng bộ, chứ không nên nhượng
bộ đơn phương. Nếu sau khi bạn đã chịu nhượng bộ một bước quan trọng
mà không thấy đối tác có sự nhượng bộ đáp lại, thì thông thường bạn không
thể lại nhượng bộ tiếp bởi vì thương lượng là một sự hợp tác giữa hai bên.
* Nếu yêu cầu của đối tác có chỗ bất hợp lý hơn phía ta, thì bạn nên chỉ
ra rõ ràng cho họ biết chỗ bất hợp lý là ở đâu với đầy đủ chứng cớ. Tất nhiên
để làm chuyện đó cần phải có kỹ năng thuyết phục.
Để thuyết phục đối tác nhìn nhận đúng yêu cầu của mình, bạn cần tuân
theo những điểm sau đây:
Thứ nhất, bạn cần giữ bầu không khí chan hòa, gạt bỏ những cảm xúc
tiêu cực.
Thứ hai, bạn cần chú ý lắng nghe ý kiến của họ, đừng cướp lời họ,
đừng vội vàng đưa ra ý kiến nhận xét. Bạn cần hiểu thấu đáo ý kiến của họ
trong từng lời nói, từng hành vi cử chỉ, hiểu được động cơ đích thực chứa
đựng đằng sau những lời nói của họ.
Thứ ba, tóm tắt lại ý của đối tác để xem mình đã hiểu hết ý của họ
chưa, chẳng hạn có thể nói: theo tôi hiểu, ý ông muốn nói là….., có phải thế
không ạ?". Chỉ sau khi đối tác trả lời “đúng thì bạn mới thực hiện bước tiếp
theo.
Thứ tư diễn đạt chính xác ý kiến của bạn, làm cho lời nói có sức thuyết
phục. Khi trình bày, bạn nên dùng ngôn ngữ giản dị, rõ ràng, kết hợp với
những yếu tố phi ngôn ngữ để biểu lộ tình cảm, cảm xúc và thành ý của mình.
Muốn lời nói của bạn có trọng lượng hơn, bạn cần phải đưa ra các con số,
những bằng chứng cụ thể, chứ không chỉ bằng lời nói trừu tượng.
Thứ năm, bạn cần lường trước những câu hỏi mà đối tác đặt ra cho
bạn và sẵn sàng trả lời những câu hỏi đó. Muốn thế trước khi thương lượng,
bạn cần phải chuẩn bị một cách kỹ lưỡng. Khi trả lời những câu hỏi, bạn cần
tự tin, dứt khoát.
Thứ sáu, đừng để đối phương mất thể diện. Trong đàm phán vừa làm
cho đối phương nhượng bộ từng bước, vừa phải bảo đảm thể diện cho họ.
Cần chuẩn bị những nấc thang để họ nhượng bộ trong danh dự và thoải mái
tinh thầm.
* Còn khi tồn tại khoảng cách giữa lợi ích mà hai bên cứ kiên trì lập
trường của mình thì đàm phán sẽ đi vào thế găng. Cách đột phá thế găng sẽ
được trình bày ở chương sau.
3. Đạt thành thỏa thuận và ký hợp đồng
Trước khi hai bên khởi thảo hợp đồng cho toàn bộ quá trình thương
lượng, nên tiến hành kiểm tra lại nội dung đàm phán một lượt để cuối cùng
xác nhận đôi bên ở phương diện nào đạt thành thỏa thuận. Đối với những
vấn đề nào chưa được thống nhất, có cần thiết phải tiến hành bàn bạc và
thỏa hiệp cuối cùng hay không. Khi tất cả không còn nghi ngờ gì nữa thì có
thể phát tín hiệu kết thúc thương lượng cho nhau.
Sau khi đã thỏa thuận xong mọi thứ, hai bên tiến hành ký kết hợp đồng.
Tuy nhiên, nếu bạn làm ăn với đối tác nước ngoài thì bạn nên giành lấy quyền
khởi thảo hợp đồng. Điều đó có mấy cái lợi sau: thứ nhất là bạn thông thạo
pháp quy liên quan đến kinh tế của Việt Nam, nên khi dùng Anh văn khởi thảo
có thể làm cho hiệp nghị phù hợp với pháp quy của Việt Nam; thứ hai là nếu
sau này có rắc rối, khi cần dẫn chứng các điều trong pháp qui, bạn sẽ chủ
động hơn; thứ ba là lấy phía ta làm chủ khởi thảo có thể khiến cho mình càng
thêm, khiến thương lượng càng thêm thuận lợi, tránh khỏi việc vì quá nhiều
sửa đổi mà khiến cho thương lượng kéo dài và khó khăn; thứ tư là có thể
tránh việc đối tác lợi dụng cơ hội thảo hợp đồng để lại những chỗ “phục bút”
khiến bạn bị lừa gạt; thứ năm là do chúng ta khởi thảo hợp đồng vì thế khi đối
tác đề xuất ý kiến sửa đổi, có lợi cho việc tăng cường quả cân thương lượng
của phía ta.
Khi thảo hợp đồng cần lưu ý:
- Câu viết phải sáng tỏ, dùng từ phải chuẩn xác để hết sức tránh hiểu
nhầm.
- Khi dùng đến ngoại ngữ để thảo hợp đồng, hai bên nên cùng nhau
xác nhận về hàm nghĩa, khiến mỗi từ có thể biểu đạt chuẩn xác ý nguyện của
đôi bên.
- Điều khoản hợp đồng dùng từ phải nhất trí. Có nghĩa là cùng một sự
kiện thì chỉ nên dùng một thuật ngữ đồng nhất, để tránh những rắc rối khi thi
hành hợp đồng sau này.
- Khi trình bày những điều khoản có quan hệ với nhau hoặc những qui
định được nhiều lần nhắc đến, thì cần phải đảm bảo tính thống nhất.
- Những qui định trong hợp đồng cần phải cụ thể, chi tiết không nên
viết chung chung.
Khi hợp đồng đã được thảo xong, hai bên kiểm tra lại các chi tiết, sửa
đổi, bổ sung về trách nhiệm, quyền lợi… Sau đó, khi không còn nghi ngờ gì
nữa, đại diện đứng đầu hai bên có thể cầm bút ký hợp đồng một cách trang
trọng giữa đám hoa tươi và tiếng vỗ tay vui mừng.
Câu hỏi ôn tập7.1. Khi tìm hiểu về đối tác, bạn cần tìm hiểu những gì?
7.2. Bạn hãy phân tích vai trò của các thành viên trong tổ thương
lượng. Họ cần có những phẩm chất như thế nào?
7.3. Có phải đặt mục tiêu cho thương lượng càng chặt càng tốt hay
không? Tại sao?
7.4. Khi cần phải nhượng bộ, bạn cần chú ý những gì?
7.5. Khi thuyết phục đối tác bạn cần tiến hành như thế nào?
7.6. Tại sao bạn nên dành quyền soạn thảo hợp đồng, điều đó có lợi
gì?
Chương 8: PHÂN TÍCH GIÁ CẢ TRONG THƯƠNG LƯỢNG
I. CÁC YẾU TỐ ẢNH HUỞNG ĐẾN GIÁ CẢ Thương lượng giá cả là một bộ phận nhạy bén nhất, then chốt nhất
trong toàn bộ cuộc đàm phán thương mại. Thương lượng thành công hay thất
bại thường được quyết định ở chỗ giá cả có thể được đôi bên cùng tiếp thu
hay không. Giá cả của một mặt hàng nào đó lại phụ thuộc rất nhiều yếu tố
khác nhau, các yếu tố này tác động một cách hết sức phức tạp. Có một số
chuyên gia thương lượng chỉ chú ý tới số ngạch cao, thấp của giá, mà coi nhẹ
việc phân tích toàn diện nhân tố ảnh hưởng đến giá cả, kết quả là bị sa vào
từng vòng đặt giá trả giá, thương lượng rất vất vả mà hiệu quả thu được
không lớn. Dưới đây chúng ta phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới giá cả.
1. Yêu cầu kỹ thuật
Bạn cần lưu ý rằng, có khi sản phẩm giống như nhau, nhưng do chỉ tiêu
nào đó đề ra yêu cầu quá cao mà giá cả tăng lên rất nhiều. Nếu bạn cố theo
đuổi một chỉ tiêu kỹ thuật quá cao, xem ra không cần thiết cho hiện tại mà là
để tạo cơ sở cho phát triển kỹ thuật sau này, kết quả là giá chỉ tăng vọt lên.
Chẳng hạn, cũng là chiếc máy vi tính, nhưng nếu là loại 486 thì giá khác, mà
loại 586 thì giá lại khác. Hoặc nếu bạn yêu cầu gắn thêm bộ phận dùng đĩa
CD thì giá sẽ vọt lên cao, khi đó bạn tỏ ra không hài lòng mà cho rằng người
bán cố ý nâng giá lên. Nhưng kỳ thực là tình huống đó hoàn toàn do bạn tạo
nên. Do bạn đề ra yêu cầu kỹ thuật đặc thù, người bán phải nâng cao giá cả
tương ứng, điều đó là hoàn toàn hợp lý.
Trong thương lượng bạn cũng cần nhớ rằng, không nên thay đổi
phương án kỹ thuật mà đôi bên đã thỏa thuận, bởi vì mỗi khi có xảy ra sự
thay đổi, đối tác sẽ tốn không ít thời gian và sức lực để tính toán, thiết kế,
phải triệu tập các cuộc họp bàn bạc… những cái đó đều làm tăng chi phí, cuối
cùng sẽ ảnh hưởng tới giá cả. Tất nhiên trong những trường hợp cần thiết thì
cũng phải đòi hỏi có những thay đổi cho phù hợp với yêu cầu. Tuy nhiên, bạn
cũng cần phải có một ý thức rằng, khi có những thay đổi đó nhất định là phải
tốn tiền, mỗi một yêu cầu, mỗi một cải biến của chúng ta đều có thể làm tăng
giá cả.
2. Thời hạn giao hàng
Khi thương lượng giá cả, thời hạn giao hàng nhanh hay chậm cũng cần
phải chú ý. Chẳng hạn, bạn đi rửa hình ở một tiệm photo nào đó, thông
thường người chủ tiệm sẽ hỏi bạn có cần gấp hay không rồi mới nói giá cả.
Nếu bạn rửa hình với thời hạn bình thường thì giá thấp, còn bạn yêu cầu phải
có hình gấp thì giá sẽ cao gấp bội, bởi vì họ phải dẹp đi tất cả mọi thứ để tập
trung hoàn thành yêu cầu cho bạn hà tất chi phí phải tăng lên. Trong thương
lượng kinh doanh cũng vậy, nếu bạn đòi hàng gấp, thì giá sẽ cao hơn, bởi vì
người sản xuất căn cứ vào đơn đặt hàng đã định để sắp xếp kế hoạch sản
xuất, muốn chen một đơn đặt hàng mới vào thì phải điều chỉnh lại kế hoạch,
thay đổi quy trình sản xuất, điều đó tất nhiên phải tốn phí và dẫn đến giá tăng
lên.
Cũng có khi do bạn không có kinh nghiệm, mà trong thương lượng chỉ
chú ý tới mức giá cao thấp và không suy xét về thời hạn giao hàng dài hay
ngắn có thể dẫn đến sự thua thiệt. Ví dụ, Công ty cơ khí nọ thương lượng với
một công ty nước ngoài mua một chiếc máy tiện cũ để về sản xuất công ty
nước ngoài báo giá 5000 USD, công ty cơ khí này yêu cầu họ hạ giá xuống
3000 USD, và công ty nước ngoài cuối cùng cũng đồng ý với giá đó, nhưng
đề ra yêu cầu là được giao máy trong thời hạn 2 tháng. Các nhà thương
lượng của công ty cơ khí cho là họ đã mua được giá rẻ, rất vui mừng và đồng
ý ngay. Tuy nhiên, trong thời gian 2 tháng đó công ty nước ngoài tập trung sử
dụng máy đó để sản xuất và doanh thu kiếm được có khi lại nhiều hơn 2000
USD. Rõ ràng trong trường hợp này công ty cơ khí do không chú ý tới thời
hạn giao hàng mà chịu thua thiệt.
3. Kênh phân phối
Khi bạn quyết định mua một mặt hàng nào đó, bạn cần phải lựa chọn
kênh mua vào, nên mua trực tiếp nơi người sản xuất hay là mua qua kênh
trung gian. Câu trả lời cho vấn đề nên mua qua kênh nào là tùy, vì mỗi kênh
có những ưu điểm của chúng.
Nếu bạn mua trực tiếp ở người sản xuất sẽ có những điểm lợi sau: thứ
nhất là do họ trực tiếp sản xuất nên họ có sự hiểu biết hơn về tính năng kỹ
thuật và công năng của sản phẩm; thứ hai là do nhu cầu kinh doanh lâu dài
của nhà chế tạo và do không phải chi phí qua trung gian nên có thể họ sẽ chủ
động nhượng giá; thứ ba là họ trực tiếp sản xuất nên vấn đề phục vụ kỹ thuật
sẽ tiện lợi và bảo đảm hơn.
Tuy nhiên, nếu bạn mua qua trung gian thì cũng sẽ có những điểm lợi:
thứ nhất là nguồn thông tin của nhà cung cấp trung gian thường thông suốt
hơn giúp cho sự lựa chọn hàng hóa tốt hơn; thứ hai là thương lượng với bên
trung gian thương nhanh chóng đi đến giao dịch hơn, trong một số tình huống
nhất định thì thời gian lại là quyết định; thứ ba là thông thường giữa bên trung
gian, bên bán và bên mua có mối quan hệ hợp tác tốt đẹp nên có thể tìm ra
những phương án tối ưu trong thương lượng; và thứ tư là nếu bạn kẹt vốn
bạn có thể mua bằng phương thức trả chậm với bên trung gian, điều mà khó
thực hiện với nhà sản xuất.
Qua sự phân tích ở trên ta thấy rằng chọn mỗi hình thức cung cấp có
những ưu điểm khác nhau, vì vậy bạn cần phải linh hoạt tùy vào điều kiện,
hoàn cảnh mà sử dụng kênh cung cấp cho mình lợi nhất.
4. Phương thức vận chuyển và bảo hiểm
Tùy vào việc bạn chọn hình thức vận chuyển nào mà giá cả khác nhau.
Nếu chọn vận chuyển đường thủy với số lượng lớn thì sẽ rẻ hơn, nhưng nếu
chọn phương thức vận chuyển hàng không số lượng ít thì giá sẽ cao hơn.
Trong thương lượng về giá cả, bạn cũng cần để ý cả hình thức bảo
hiểm, nhất là làm ăn với các công ty nước ngoài. Bạn phải xem xét kỹ là bảo
hiểm ở hình thức nào, do công ty nào bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm là những
gì. Tất cả những thứ đó đều phải tính đến khi xem xét giá cả.
5. Mức độ mới cũ của sản phẩm
Khi bạn quyết định mua máy móc, thiết bị, bạn cũng cần phải cân nhắc
là nên mua mới hay mua đồ cũ. Tất nhiên là máy móc, thiết bị mới thì sẽ dễ
sử dụng, trang bị tiện lợi hơn, có ít trục trặc hơn trong sản xuất và dĩ nhiên giá
cũng phải cao hơn so với mua máy cũ. Tuy nhiên, bạn cũng cần để ý rằng có
những loại máy móc dạng secondhand của các nước tiên tiến vẫn đang rất
“hiện đại” so với các thiết bị cùng loại ở nước ta, nhưng giá lại rất hấp dẫn.
Nhưng bạn cần lưu ý là trước khi quyết định mua máy móc loại secondhand,
bạn cần kiểm tra kỹ lưỡng về chất lượng, mức độ hiện đại của chúng kẻo lại
biến công ty bạn thành “bãi rác công nghệ” của các nước phát triển.
6. Quan hệ giữa sản phẩm chủ yếu và các sản phẩm phụ trợ
Khi bạn mua máy móc thiết bị, bạn không thể chỉ quan tâm đến giá cả
của sản phẩm chính, mà còn phải chú ý tới giá cả của những sản phẩm phụ
trợ là cao hay thấp. Có khi người bán dùng phương thức định giá tổng hợp,
tức là đối với sản phẩm chính thì đặt giá thấp cho hấp dẫn người mua, nhưng
với những linh kiện, sản phẩm phụ trợ thì lại đặt giá cao, mong muốn thu
được lợi nhiều do bán số lượng lớn các sản phẩm phụ trợ đó. Chẳng hạn,
người ta có thể bán máy ảnh chụp ra hình ngay với giá rẻ, nhưng với loại
phim và giấy dùng cho loại máy ảnh này thì lại rất đắt. Vì vậy khi thương
lượng, bạn không chỉ cố thỏa thuận được giá hợp lý với máy ảnh, mà còn
phải chú ý tới giá cả của phim và giấy nữa.
7. Phương thức chi trả
Trong thanh toán có nhiều phương thức khác nhau như: thanh toán
bằng tiền mặt, bằng chuyển khoản, bằng chi phiếu, hối phiếu, thư tín tín dụng,
ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu… Mỗi hình thức thanh toán lại liên quan tới thời
hạn thanh toán. Đối với những hình thức thanh toán ngay (như băng séc, ủy
nhiệm chi tiền mặt, thư tín dụng, ủy nhiệm thu…), thì sự thanh toán có hiệu
lực chi trả tức thời và dứt khoát. Còn với các công cụ thanh toán hoãn hiệu
(như hối phiếu, lịnh phiếu, ký hóa phiếu…), thì sự thanh toán chi trả không có
hiệu lực chấp hành tức thời và dứt khoát, thà chỉ có hiệu lực sau một thời
gian thỏa thuận giữa người chủ nợ và người mắc nợ. Nói chung với những
khoản phải thu, thì thu được tiền càng sớm thì càng có lợi, vì “một đồng bạc
hôm nay có giá hơn một đồng ngày mai". Trái lại, nếu bạn là người trả nợ thì
càng phải trả càng chậm càng tốt, trong thực hiện hợp đồng bạn càng chủ
động. Vì vậy trong khi thương lượng về giá cả, hai bên đều phải tính đến cả
phương thức thanh toán.
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐẶT GIÁ1. Định giá bằng cách cộng chi phí hoặc theo lợi nhuận mục tiêu
Định giá cộng chi phí là phương pháp đơn giản nhất, bằng cách cộng
thêm một phần lợi nhuận tiêu chuẩn vào chi phí sản phẩm. Phần lợi nhuận
này thay đổi tùy theo từng loại sản phẩm. Nói chung phương pháp định giá
này không hợp lý lắm vì nó bỏ qua yếu tố cầu và cạnh tranh trên thị trường.
Tuy nhiên phương pháp này lại được nhiều nhà kinh doanh ưa dùng vì nhiều
lý do: thứ nhất là nhà sản xuất nắm vững chi phí sản xuất hơn là cầu trên thị
trường; thứ hai là nếu các công ty trên thị trường đều áp dụng phương pháp
này thì vấn đề cạnh tranh giá cả không còn gay gắt nữa; thứ ba là có vẻ có
tính công bằng cho cả nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Định giá theo lợi nhuận mục tiêu là dựa vào phân tích điểm hòa vốn,
tức là nhà sản xuất phải xem xét các mức giá khác nhau và ước đoán sản
lượng hoà vốn, khả năng về lượng cầu, và lợi nhuận đơn vị để xác định tính
khả thi của lợi nhuận mục tiêu.
2. Đặt giá theo tập quán tiêu dùng
Một trong những phương pháp đặt giá thông dụng nhất là dựa vào giá
thành sản phẩm, song có nhiều mặt hàng có giá tương đối ổn định trong quá
trình lưu thông trên thị trường trong một thời gian khá dài, người tiêu dùng đã
quen với giá đó gọi là giá theo tập quán. Đặt giá theo cách này có những
thuận lợi nhất định, vì người thường có tâm lý coi giá theo tập quán là thước
đo giá lên hay xuống, chất lượng hàng tốt hay xấu. Các đặt giá này thường
áp dụng với những mặt hàng tiêu dùng thông thường, những mặt hàng thiết
yếu hàng ngày. Đối với những mặt hàng này nếu tăng giá sẽ làm cho người
mua bất mãn, có phản ứng tiêu cực, nhưng nếu giảm giá thì sẽ tạo nên cảm
giác ở họ về sự giảm sút về chất lượng. Nếu có những mặt hàng nào đó cần
thiết phải nâng giá thì bạn cần phải có biện pháp nâng cao chất lượng hay
thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, sau đó đặt giá mới rồi dấn dần hình thành giá tập
quán.
3. Định giá dựa vào cạnh tranh
Cách định giá này hoàn toàn dựa vào giá của đối thủ cạnh tranh và ít
chú ý tới chi phí cũng như cầu trên thị trường. Bạn có thể đặt giá bằng, cao
hơn hay thấp hơn một chút so với đối thủ cạnh tranh tùy vào tình huống.
Phương pháp này cũng thường được áp dụng, nhất là đối với những thị
trường mà độ co giãn giá rất phức tạp. Trong những cuộc thương lượng
nhiều bên, như đấu thấu chẳng hạn, thì bạn cũng dùng phương pháp này, tức
là bạn sẽ đặt giá dựa vào dự tính việc định giá của đối thủ cạnh tranh.
4. Đặt giá sản phẩm mới
Thường khi thương lượng về những sản phẩm mới, bạn có thể chọn
một trong hai cách đặt giá sau đây:
a. Giá “hớt kem"
Là công ty đặt giá cao cho sản phẩm mới, cao đến mức chỉ có một số
phân khúc chấp nhận được để nhanh chóng thu về những lợi ích kinh tế, tạo
cho người tiêu dùng cảm tưởng hàng hóa có chất lượng tốt. Đến khi sản
phẩm đã tiêu thụ chậm lại, công ty mới hạ giá sản phẩm để thu hút khách
hàng. Tuy nhiên cách đặt giá này chỉ áp dụng trong những điều kiện sau: thứ
nhất là chất lượng và ấn tượng sản phẩm phải hỗ trợ được cho giá cao; thứ
hai là có đủ lượng khách hàng chấp nhận giá cao; thứ ba là chi phí sản xuất
với qui mô nhỏ không cao lắm, và cuối cùng là đối thủ cạnh tranh khó khăn
trong việc tham gia thị trường.
b. Giá xâm nhập thị trường
Là công ty đặt giá thấp với hy vọng hấp dẫn người mua, mong chiếm
lấy một tỉ lệ thị phần lớn. Áp đụng cách đặt giá này với các điều kiện sau: thứ
nhất là thị trường rất nhạy cảm với giá, giá thấp sẽ mở rộng được thị trường;
thứ hai là chi phí sản xuất tĩ lệ nghịch với sản lượng; thứ ba là giá thấp không
kích thích đối thủ cạnh tranh.
5. Đặt giá phân biệt
Bạn có thể đặt giá thay đổi tùy thuộc vào đối tượng khách hàng, từng
loại sản phẩm và khu vực tiêu thụ. Có nhiều dạng phân biệt:
a. Đặt giá theo các phân khúc khác nhau
Đối với những nhóm khách hàng khác nhau có những giá khác nhau.
b. Đặt giá theo dạng sản phẩm
Công ty đưa ra nhiều dạng sản phẩm khác nhau với các mức giá khác
nhau. Ví dụ như với sản phẩm giác hơn không dùng lửa đựng trong hộp giấy
thì giá thấp hơn là đựng trong hộp nhựa.
c. Đặt giá theo khu vực
Những khu vực khác nhau sẽ có mức giá khác nhau.
d. Định giá theo thời gian
Tùy vào khoảng thời gian nào mà giá khác nhau. Ví dụ, hát karaokê
vào ban ngày thì giá rẻ hơn là buổi tối.
Muốn áp dụng thành công cách đặt giá này thì cần có những điều kiện
sau đây: thứ nhất là hợp pháp, bởi có những nước cấm dùng kiểu đặt giá này
nếu không chứng minh được chi phí khác nhau; thứ hai là khách hàng ở khu
vực ở giá thấp không mua đi bán lại; thứ ba là đối thủ cạnh tranh không tấn
công bằng giá ở những khu vực giá cao; và cuối cùng là khách hàng chấp
nhận được.
6. Đặt giá tâm lý
Khi đặt giá một mặt hàng, bạn cũng cần rành về tâm lý khách hàng.
Thông thường mặt hàng nào càng hiếm thì nhu cầu mua bất thường càng
lớn, nhiều người tiêu dùng sẽ mua để dự trữ. Hàng hóa cá giá trị bằng nhau
nhưng được trưng trong những quầy hàng sang trọng thường cảm giác mắc
tiền hơn, còn để trong các quầy bình dân thì người tiêu dùng sẽ cho là rẻ và
chấp nhận mua. Nếu bạn biết nắm bắt những đặc điểm tâm lý khách hàng thì
sẽ có cách đặt giá có lợi cho bạn. Có những phương pháp đặt giá tâm lý sau
đây:
a. Đặt giá lẻ
Dựa vào đặc tính tâm lý là người mua thường thỏa mãn với giá sau số
0, một chiếc bút giá 0,99 đồng thường bán chạy hơn giá 1,00 đồng. Các nhà
tâm lý kinh doanh của Mỹ đã chỉ ra rằng hàng bán lẻ đặt giá 0,49 đoạt bán
chạy hơn đặt giá 0,5 đoạt, vì về tâm lý mà nói thì số lẻ có ảnh hưởng lớn hơn
số chẵn. Vì vậy việc đặt giá lẻ sau số 0 sẽ tạo thông tin tâm lý cho người tiêu
dùng là hàng ấy giá thấp, đặt giá chính xác hợp lý, đáng tin cậy.
b. Đặt giá chẵn
Thông thường khách hàng cho rằng “tiền nào của ấy", giá cả thể hiện
chất lượng. Vì vậy đặt giá chẵn làm cho người mua có tâm lý cho rằng đó là
hàng tốt, nhất là đối với những hàng cao cấp. Hơn nữa giá chẵn còn giúp
người tiêu dùng nhớ giá một cách dễ dàng.
c. Đặt giá theo nhận thức của người mua
Tức là dựa vào sự đánh giá chủ quan của người mua chứ không dựa
vào chi phí. Công ty sử dụng các biến khác nhau trong marketing hỗn hợp
xây dựng giá trị trong tâm trí người tiêu dùng. Công ty phải khám phá việc
nhận thức giá trị của người mua đối với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
Chẳng hạn, một người tiêu dùng phải trả 1500 đồng cho một ly đá chanh ở
quán “bụi” dọc đường; 5000 đồng trong một nhà hàng và 15000 trong một
khách sạn sang trọng vì môi trường mỗi nơi cho họ những giá trị khác nhau.
III. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH GIÁSau khi đã định giá một thời gian, bạn cũng cỏ thể phải điều chỉnh lại
giá cả. Việc điều chỉnh giá cả hàng hóa, dù tăng hay giảm đều phải tuân theo
các nguyên tắc sau: Thứ nhất là điều chỉnh giá phải dựa vào lượng cầu của
thị trường; Thứ hai là tùy thuộc vào độ co giãn về cầu của mặt hàng, thường
đối với những mặt hàng có độ co giãn về cầu nhỏ thì tăng giá có thể làm tăng
lợi nhuận, nhưng với những mặt hàng có co giãn về cầu lớn thì việc tăng giá
có thể làm giảm sức mua của thị trường; Thứ ba là dựa vào giá thành của
sản phẩm, nếu nguyên vật liệu tăng giá thì có thể phải tăng giá và ngược lại;
và thứ tư là dựa vào chính sách giá cả của nhà nước.
1. Giảm giá
Việc giảm giá thường để đối phó với những việc như:
- Nhà máy còn công suất hoạt động, giảm giá để tiêu thụ được nhiều
sản phẩm.
- Giảm giá để đối phó với những đối thủ cạnh tranh nhằm dành thêm thị
phân.
- Do thị phần bị giảm sút vì khả năng tiêu thụ chậm.
- Có sự chiến tranh về giá cả.
- Để tiêu thụ một lượng hàng tồn kho nhất định.
Tuy nhiên, khi giảm giá để tiêu thụ hàng tồn kho, ngoài những nguyên
tắc được trình bày ở trên, bạn cũng cần biết các kỹ xảo sau đây:
Thứ nhất là phải nắm vững thời cơ giảm giá, nếu bạn hành động không
đúng thời cơ thì có thể gặp thất bại. Việc giảm giá hàng hóa tốt nhất là tiến
hành vào thời điểm đang có nhu cầu nhiều về hàng giảm giá hoặc trước thời
điểm hàng hóa cạnh tranh bước vào lúc tiêu thụ nhiều, như vậy hàng ế mới
có khả năng bán được.
Thứ hai là phải lưu ý tới tâm lý của người mua đến hàng giảm giá.
Hàng giảm giá có thể thu hút khách hàng mua sắm, cũng có thể gây nên tâm
lý nghi ngờ chất lượng hàng hóa, đặc biệt với những hàng hóa không thể biết
được chất lượng trong ruột của nó như thế nào. Vì thế cần phải thoả mãn tâm
lý người tiêu dùng như sau:
- Để người tiêu dùng biết mức độ giảm giá bằng cách giảm một lượng
lớn hơn ngưỡng phân biệt (tức là tới một mức nhất định để người ta có thể
phần biệt rõ giả mới thấp hơn giá cũ), nhất là đối với những hàng đã quá thời,
hết mốt.
- Phải khống chế mức độ giảm giá cho thỏa đáng, vì người tiêu dùng
mặc dù thích rẻ, nhưng về mặt tâm lý thì không phải cái gì rẻ cũng là tốt. Vì
đối với nhiều người thì giá cả là tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng.
- Nên giữ cho giá cả có sự ổn định tương đối, vì đối với những hàng
giảm giá đã bị nghi ngờ sẵn rồi, nếu cứ giảm liên tục thì làm cho khách hàng
không sốt sắng đến việc mua hàng.
Thứ ba là phải tạo ra ảo ảnh cho khách hàng. Thông thường bảng giá
viết bằng giấy màu vàng thường làm cho khách cám thấy rẻ hơn. Vì thường
nhắc tới màu vàng là làm cho người ta có cảm giác không hay: “sách vàng",
“nhạc vàng"… Quyển sách in bằng giấy màu vàng cũng tạo cho người đọc
tâm lý đó là loại sách rẻ tiền. Ngoài ra lấy bút mực đỏ gạch chéo vào giá cũ và
viết giá mới bên cạnh khiến cho người mua cảm thấy hàng đó rất rẻ. Cùng
một giá, nhưng người mua sẽ nghĩ là bảng giá bằng chữ in đắt hơn bảng giá
viết tay, vì chữ in làm cho người ta liên tưởng tới một cái gì đó hình thức và
quyền hành.
2. Tăng giá
Đôi khi việc tăng gia có thể ảnh hường tiêu cực tới việc tiêu thụ sản
phẩm, nhưng việc tăng giá thành công có thể gia tăng lợi nhuận một cách
đáng kể. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc bạn cần tăng giá một mặt hàng:
thứ nhất là do lượng cầu quá lớn; thứ hai là do chi phí đầu vào tăng; thứ ba là
do tốc độ lạm phát quá nhanh…
Bạn cần chú ý là sự tăng giá phải có ảnh hưởng tốt tới lợi nhuận. Hơn
nữa khi tăng giá, bạn cần tuân thủ qui luật ngưỡng phân biệt, tức là tăng một
cách từ từ hơn là tăng một cách đột ngột một lần để tránh gây ấn tượng
không tốt đối với người mua.
Bạn có thể tham khảo một số cách tăng giá khéo léo sau đây:
- Giảm bớt trọng lượng, kích thước sản phẩm.
- Giảm bớt tính năng sản phẩm.
- Loại bỏ những dịch vụ sản phẩm như giao hàng, bảo hành…
- Sử dụng bao bì rẻ tiền hơn.
- Tạo những sản phẩm mới tiết kiệm hơn….
IV. PHÂN TÍCH CÁC MỐI QUAN HỆ GIÁ CẢSau khi dã tiến hành phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới giá cả, bạn
cần phải giải quyết chính xác các mối quan hệ giữa những loại giá cả trong
khi thương lượng.
1. Giá cả tích cực và giá cả tiêu cực
Giá cả của một mặt hàng cao hay thấp thường phụ thuộc vào cách nhìn
nhận chủ quan của người thương lượng. Cùng một giá, nhưng nếu điều kiện
của bạn càng có thể thỏa mãn yêu cầu nguyện vọng của đối tác, thì họ sẽ
thấy giá của bạn đưa ra là hấp dẫn, là hợp lý và vui vẻ tiếp nhận. Ngược lại,
nếu đối tác cho rằng điều kiện của bạn đưa ra so với yêu cầu của mình có
một chênh lệch quá xa, thì giá cả của bạn trong tâm trí của họ nhất định là
quá cao và khó chấp nhận. Tại sao vậy? ở đây có liên quan tới giá cả tích cực
và giá cả tiêu cực
Bạn có thể phát hiện ra rằng, có người không chịu bỏ ra 20 triệu để
mua một chiếc xe mới, đành tốn 10 triệu sửa lại một chiếc xe cũ; một sinh
viên cho rằng chiếc áo sơ mi giá 20 ngàn là quá mắc nhưng lại bỏ ra 30 ngàn
mua một cuốn sách lại cho là bình thường; lại có người không chịu bỏ ra 20
ngàn để đi một cuốc tắc xi, nhưng lại vui vẻ bỏ ra hàng trăm ngàn để chiêu
đãi bạn bè. Trong những ví dụ trên, cảm giá phía trước là phản ánh của “giá
cả tiêu cực", hành động phía sau là phản ánh của “giá cả tích cực". Khi
thương lượng, bạn nên chú ý rằng cái mà đối tác cần một cách bức thiết, giá
cả của nó thường thuộc loại “giá cả tích cực", mà cái họ không thích, giá cả
của nó thuộc loại “giá tiêu cực".
Trong thương lượng bạn cần chuyển hóa giá cả tiêu cực sang giá tích
cực để thuyết phục đối tác. Ở ví dụ trên, nếu chủ tiệm xe máy chứng minh và
khách hàng xe mới so với xe cũ sau khi sửa chữa càng có giá trị hơn, lại tiết
kiệm cho họ một lượng thời gian và chi phí cho những sự cố lặt vặt, thế thì
khách hàng sẽ hết nghi ngại, vui vẻ mua xe mới. Nếu chủ tiệm quần áo thuyết
phục cho chàng sinh viên kia rằng mặc một chiếc áo sơmi chững chạc sẽ
tăng thêm dáng vẻ của anh ta, làm anh ta cảm thấy tự tin hơn trong giao tiếp,
dành được những gì mà trong sách không nói tới, thì anh ta sẽ quan tâm.
Như vậy những lời thuyết phục của người chủ tiệm xe máy, người bán quần
áo đã chuyển hóa giá cả tiêu cực thành giá tích cực.
Trong thương lượng cũng có những tình huống là nếu đối tác cần gấp
loại sản phẩm nào đó thì họ sẽ đặt vấn đề giá ở vị trí thứ yếu, mà chú ý nhiều
hơn ở thời hạn giao hàng, chất lượng tốt hay xấu. Cho nên trong thương
lượng, không nên vì giá cả thấp hay cao mà nghiêng ngả, cái quan trọng là
xem giá cả đó thuộc loại giá tích cực hay tiêu cực, dùng cách thuyết phục
khéo léo mà chuyển hoá giá tiêu cực sang giá tích cực, tiến hành thương
lượng giá cả chính xác để đạt thành thỏa thuận giá cả khiến hai bên hài lòng.
2. Giá cả thực tế và giá cả tương đối
Trong thương lượng bạn cũng cần chú ý tới mối quan hệ giữa giá cả
thực tế và giá tương đối. Giá thực tế là lấy giá thành cộng với phần tăng thêm
cần thiết. Còn giá tương đối là giá có tương quan với tính hữu dụng của sản
phẩm.
Khi đàm phán bạn nên cố gắng không để đối tác quá chú ý tới giá thực
tế, mà phải thu hút sức chú ý của họ tới giá cả tương đối. Có nghĩa là hai bên
không đơn thuần thảo luận về vấn đề giá cả, mà nên nhấn mạnh cái mà đối
tác mua có giá trị nào đó thỏa mãn nhu cầu của họ. Việc nhấn mạnh sản
phẩm sẽ mang lại cái có ích cho người thương lượng và điều hay về kinh tế
sẽ làm cho cuộc thương lượng trở nên dễ dàng hơn. Vì thế khi ra giá một mặt
hàng nào đó bạn đừng vội đưa những con số ra trước, mà phải giải thích
những ích lợi và ưu điểm của mặt hàng trước.
Ví dụ, khi khách hàng hỏi: “quyển sách này giá bao nhiêu?", bạn đừng
vội vàng đáp ngay: “Dạ, 50 ngàn", vì số 50 ngàn đập ngay vào tâm trí của
khách làm cho họ coi là quan trọng; mà bạn phải nói là: “Đây là tác phẩm nổi
tiếng của nhà văn lỗi lại Xô Viết Lev Tônstôi đã được dịch ra nhiều thứ tiếng,
lần đầu tiên được dịch ra tiếng Việt, giá chỉ 50 ngàn, chắc ông đã từng đọc
những tác phẩm rất hay của tác giả này như cuốn “Chiến tranh và hòa bình”
chẳng hạn, đã bán được trên 5000 bản. Như vậy con số 50 ngàn bị chìm đi
trong những ích lợi của cuốn sách.
Nếu là bạn là bên mua, thì vận dụng giá cả tương đối cũng rất có lợi.
Khi nghe giá của đối tác, bạn cần so sánh giá thực tế với giá tương đối, và
trên cơ sở giá thực tế của sản phẩm mà bạn có thể đề xuất với đối tác là có
chấp nhận giá này, nhưng hy vọng họ sẽ bổ sung thêm một số khoản phụ,
như lắp đặt, chạy thử, duy tu, phục vụ kỹ thuật… để làm tăng thêm giá tương
đối, mang thêm lợi ích cho mình.
3. Giá cả cố định và giá cả trôi nổi
Trong những cuộc thương lượng lớn, chẳng hạn thương lượng về việc
xây dựng những công trình lớn dài ngày, bạn cần phân tích chính xác mối
quan hệ giá cả cố định và giá cả trôi nổi. Thông thường người ta chỉ dựa vào
giá cả cố định để tính toán cho một hạng mục đầu tư nào đó, bởi vì nó tiện lợi
đơn giản. Tuy nhiên điều đó không thật chính xác đối với những công trình
lớn. Đối với những hạng mục này thường phải kéo dài thời gian, có một số
thiết bị rất muộn mới cần được cung cấp, cho nên khi công trình được bắt đầu
mà tính toán giá cả cố định cho những thiết bị đó là không thích đáng lắm, vì
sau một thời gian nào đó, những nhân tố ảnh hưởng tới giá cả như giá
nguyên vật liệu, lãi suất, lạm phát… thay đổi thì giá cả của những thiết bị đó
cũng thay đổi theo. Chẳng hạn, nếu các chủ thầu xây dựng khi lập dự toán
công trình mà lấy giá cả cố định để tính giá công trình, thì khi có cơn sốt xi
măng như năm 1995 sẽ làm cho họ gặp những rủi ro rất lớn.
Trong thương lượng những công trình lớn kéo dài ngày, bạn cần phân
biệt rõ ràng những thiết bị nào có thể tính toán bằng giá cố định, những thiết
bị nào cần phải tính bằng giá trôi nổi, để tránh những rủi ro cho cả hai bên.
Tuy nhiên xác định giá cả trôi nổi là hết sức phức tạp, phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như giá nguyên vật liệu, lãi suất, hối suất, tiền công… Thương lượng
giá cả trôi nổi, chủ yếu là thảo luận về việc chọn dùng công thức như thế nào
và xác định các hệ số có liên quan.
4. Giả cả tổng hợp và giá cả đơn hạng
Đôi khi trong thương lượng xuất hiện tình huống là nhìn vào toàn thể
hạng mục thì thấy giá cả khó chấp nhận, nhưng khi phân tích từng yếu tố cấu
thành thì thấy rằng giá cả là hợp lý. Vì vậy khi bạn ra giá của một hạng mục
nào đó mà đối tác cho rằng giá đó là quá cao, thì bạn không bàn về giá cả
tổng hợp, mà cùng đối tác phân tích từng yếu tố một, chỉ ra những gì là giá cả
hợp lý, những gì là không hợp lý, từ đó mà đạt tới sự hợp lý hóa giá cả tổng
hợp. Sách lược thương lượng này nhiều khi tỏ ra rất hiệu quả.
Ví dụ, một công ty cơ khí X thương lượng với công ty nước ngoài Y để
thua một giàn máy sản xuất ốc vít. Công ty Y xa giá 10 ngàn đôla, còn công ty
X cảm thấy giá như thế quá cao và không chấp nhận được. Trải qua vài vòng
thương lượng, không bên nào chịu nhượng bộ và đàm phán sa vào thế găng.
Mà trong tình huống này các nhà thương lượng của X không tìm ra đâu các
đối tác khác để tạo sự cạnh tranh, và cuối cùng họ quyết định sách lược phân
tích giá đơn hạng. Trước hết họ xem giàn máy này bao gồm những bộ phận,
những linh kiện nào cấu thành. Tiểu tổ thương lượng công ty X tìm hiểu giá
bán mỗi bộ phận mỗi lính kiện rồi đem so sánh với báo giá của đối tác, phát
hiện trong đó bộ phận nào đó tương ứng với báo giá thì chấp nhận được. Rồi
họ tổng hợp giá cả của những bộ phận lại, nhận thấy rằng giá tổng hợp của
giàn máy này cùng lắm là 5 ngàn đôla. Ở vòng thương lượng kế tiếp, công ty
X đứng ra phân tích tỉ mỉ giá cả những bộ phận và cộng với tỷ lệ lợi nhuận
cần thiết, cuối cùng chỉ cho đối tác là giá cả tổng hợp của giàn máy là 5 ngàn
chứ không phải là 10 ngàn. Điều này làm cho các nhà thương lượng công ty
Y hết sức sợ hãi, vội vàng tỏ ý xem xét lại giá cả. Sau khi hội ý xong bên công
ty Y quả nhiên hạ giá xuống còn 6 ngàn và xin lỗi là đã tính nhầm giá.
Tóm lại là trong thương lượng mối quan hệ giữa các loại giá cả hết sức
là phức tạp. Cần phải có đủ sự linh hoạt để xử lý tốt những mối quan hệ đó
làm cho cuộc thương lượng trở nên thông suốt và có hiệu quả.
Câu hỏi ôn tập8.1. Bạn hãy phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả trong thương
lượng?
8.2. Bạn hiểu thế nào là giá cả hợp lý?
8.3. Bạn hãy trình bày các chiến lược đặt giá cho sản phẩm mới. Khi
nào thì áp dụng chiến lược nào?
8.4. Bạn hãy tìm 5 ví dụ về đặt giá tâm lý. Cách đặt giá này khác với
cách đặt giá dựa vào giá cạnh thanh như thế nào?
8.5. Khi giảm giá, bạn cần chú ý những điều gì?
Bài tập
8.a. Bạn hãy tìm hai ví dụ về thương lượng trong đó có vận dụng mối
quan hệ giữa giá tích cực và giá tiêu cực hoặc giữa giá thực tế và giá tương
đối.
8.b. Cũng với yêu cầu tương tự nhưng đối với giá cả ổn định và giá cả
trôi nổi; giá cả tổng hợp và giá cả đơn hạng.
Tình huống
Công ty cơ khí Nam Phong có kế hoạch đưa vào một dây chuyền công
nghệ của công ty nước ngoài Y. Công ty Y do chỗ tha thiết muốn xâm nhập
thị trường Việt Nam nên đề xuất giá cả hết sức hợp lý là 8 ngàn đôla. Do
nhiều nguyên nhân, trước đây công ty cơ khí mua dây chuyền sản xuất bằng
ngoại tệ chỉ có 6 ngàn đôla. Công ty cơ khí trước hết mời giám đốc công ty Y
là ông Peter sang thăm Tp. HCM, tiến hành hội đàm thương vụ cụ thể. Sau
khi ông Peter đến Thành phố, công ty cơ khí bố trí cho ông ta đi thăm các nơi
sử dụng có liên quan, phát ra với ông ta tín hiệu thành ý trong việc mua. Đồng
thời công ty Nam Phong cũng giới thiệu địa vị của mình trong số những công
ty cùng ngành nghề ở Việt Nam, những cái đó làm cho đối tác hấp dẫn. Nhân
tiện công ty Nam Phong đề xuất nếu vụ làm ăn này tiến hành thuận lợi, sẽ
giúp đỡ công ty Y tổ chức triển lãm ở Thành phố và phụ trách việc mời những
công ty có liên quan đến tham quan. Do chỗ sản phẩm của công ty Y đã có
mặt trên khắp thế giới, nhưng chưa xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Lời
đề nghị của Nam Phong rất làm cho ông Peter quan tâm. Sau khi hỏi ý với
các thành viên khác trong đoàn, ông Peter hứa rằng ông sẽ nhượng lại cho
Nam Phong dây chuyền chỉ với giá 7 ngàn đôla, ngang giá thành. Nhưng
Nam Phong lại tiến một bước nữa, nói với Peter rằng họ sẽ giới thiệu miễn
phí cho ông một vài công ty khác đến mua hàng của Y, và nói rõ giá cả như
thế này sẽ được giữ bí mật nghiêm ngặt. Qua một vòng thương lượng nữa
ông Peter quyết định thỏa thuận với Nam Phong với giá 6 ngàn đôla, giá mà
Nam Phong mong muốn.
Câu hỏi
Công ty Nam Phong đã áp dụng mối quan hệ giá cả nào trong cuộc
thương lượng này? Hãy phân tích nó.
Chương 9: KỸ THUẬT ĐỘT PHÁ THẾ GĂNG TRONG THƯƠNG LƯỢNG
Trong thương lượng thường gặp những tình huống là đàm phán đến
một giai đoạn nào đó, hai bên đều có cảm giác là không thể nhượng bộ tiếp
được nữa, cuộc thương lượng đã sa vào thế găng. Nói cách khác, thế găng
là trong đó lập trường của hai bên có một sai lệch nhất định và không bên nào
chịu tiến một bước để nhượng bộ. Thế găng có thể nảy sinh ra trong bất kỳ
giai đoạn nào của quá trình thương lượng. Ở giai đoạn tiếp xúc cũng có thể
hình thành thế găng, thường là do hai bên hiểu lầm xuất phát từ việc chuẩn bị
không chu đáo, mà làm tổn thương tình cảm của nhau. Ở giai đoạn thực chất,
khi mà hai bên tiến hành thảo luận, hiệp thương về kỹ thuật, về giá cả, điều
khoản hợp đồng…, lúc đó có thể nảy sinh sự sai biệt về lợi ích của mỗi bên
ẩn chứa trong điều kiện hợp tác, có thể khiến thương lượng đi vào thế găng.
Ở giai đoạn cuối, trước khi ký hợp đồng cũng có thể nảy sinh thế găng, lúc
này những lợi ích cơ bản đã được thỏa thuận, nhưng còn vấn đề quyền lợi,
trách nhiệm và một số vấn đề khác cũng có thể có sự phân định.
Thông thường thì đã ngồi thương lượng với nhau thì cả hai bên đều
muốn đột phá thế găng để đi đến nhất trí. Để đột phá thế găng, trước hết là
phải hiểu nguyên nhân sinh ra nó, xem lập trường hai bên khác nhau chỗ
nào, phía sau lập trường khác nhau đó có những lợi ích chung nào không?
Nguyên nhân của hình thành thế găng là rất đa dạng, nhưng cũng có thể nêu
lên một số nguyên nhân chính sau
I. NGUYÊN NHÂN HÌNH THÀNH THẾ GĂNG 1. Tranh chấp lập trường
Hai bên chỉ cố bảo vệ lập trường của mình mà không thấy được lợi ích
thực chất của mỗi bên, vì thế không thể đạt thành hiệp nghị. Như trong ví dụ
về “chiếc cửa sổ", đó là một trường hợp điển hình về tranh chấp lập trường.
Hai độc giả chỉ vì mở cửa sổ va đóng cửa sổ, kiên trì chủ trương của mình,
không ai chịu nhượng bộ. Trong cuộc tranh chấp đó, khi đối phương càng
ngoan cố, bạn lại càng giữ chặt lập trường của mình không thay đổi. Lợi ích
đích thực của hai bên bị lập trường che lấp, và vì sĩ diện không những không
khoan nhượng mà còn cố dùng ý chí để bắt ép đối phưng thay đổi lập trường.
Do đó, thương lượng biến thành cuộc đọ sức về ý chí không khoan nhượng.
Trong thương lượng, tranh chấp về lập trường là sai lầm thường gặp
nhất, và thế găng do đó mà cũng thường thấy nhất.
2. Một bên dùng thế mạnh cưỡng bức bên kia
Một bên cậy vào thế mạnh để bắt ép bên kia chấp nhận những điều
khoản vô lý. Trong làm ăn cũng có khi vì độc quyền một mặt hàng nào đó mà
một bên bắt ép bên kia phải chấp nhận những điều không công bằng. Cái đó
đi ngược với nguyên tắc “bình đẳng trong thương lượng", ngược với tư tưởng
“thành công của thương lượng là cuối cùng tạo nên hai kẻ thắng". Đặc biệt là
khi làm ăn với một số công ty nước ngoài, do cậy thế mình có kỹ thuật hiện
đại, vốn luyến dồi dào mà bắt ép công ty chúng ta phải chấp nhận những
khoản thua thiệt. Tuy nhiên trong thương lượng kinh doanh, bất kỳ một bên
nào cậy mạnh uy hiếp, bức bách đối phương sẽ mang lại nguy hiểm. Khi một
bên nhận thức ra rằng quyền lợi và trách nhiệm giữa hai bên được phân chia
không công bằng, rằng là mình bị người kia bức bách, mà càng cảm thấy bị
bức bách thì lại càng không chịu nhượng bộ, và thế găng sẽ hình thành.
3. Do không hiểu nhau
Thương lượng cũng là một quá trình giao tiếp, mà trong đó quá trình
truyền thông đóng vai trò hết sức quan trọng. Hai bên có nắm rõ thông tin về
nhau, nắm rõ những gì mà bên kia muốn nói thì mới hiểu hết lập trường, lợi
ích của nhau, và từ đó thông qua thảo luận đi đến ý kiến thống nhất. Nhưng
bất hạnh thay là trong quá trình thương lượng lại có nhiều yếu tố cản trở làm
cho hai bên không hiểu nhau, và từ đó mà hình thành thế găng.
Cản trở thứ nhất là do một bên diễn đạt tin tức không rõ ràng, dùng
nhiều biệt ngữ, cung cấp thông tin quá nén chặt, không có những lời giải thích
bổ sung.
Cản trở thứ hai là do một bên giải mã sai nội dung tin tức của bên kia
cung cấp. Có khi do tính nghề nghiệp, do trình độ hiểu biết, do thành kiến..,
mà tiếp thụ tin tức một cách chủ quan, phiến diện, thậm chí hoàn toàn trái
ngược với nội dung của thông tin.
Cản trở thứ ba là do người ta không biết lắng nghe, hoặc không chú ý
lắng nghe nhau.
Khi làm ăn với nước ngoài còn có thể gặp con trở nữa là do bối cảnh
văn hóa đôi bên khác nhau, một số lời tường thuật đặc biệt nào đó trong ngôn
ngữ của một bên, khó có thể dùng một thứ ngôn ngữ khác để trình bày mà
tạo ra hiểu nhằm. Ngoài ra còn có thể gặp vấn đề liên quan đến phiên dịch.
Trong quá trình truyền thông của hai bên đều bị chuyển đổi thêm một lần nữa,
sự chuyển đổi ấy tất nhiên phải chịu sự chi phối của các nhân tố như trình độ
ngoại ngữ, tri thức chuyên môn, năng lực diễn đạt của nhân viên phiên dịch.
Thông tin mất tính chân thật trong truyền thông sẽ làm cho đôi bên hiểu lầm
mà xảy ra tranh chấp và làm nảy sinh thế găng.
4. Tố chất nhân viên đàm phán
Bất cứ một cuộc thương lượng nào cũng do con người thực hiện, vì
vậy nó ắt phải phụ thuộc vào bản thân những người ngồi bên bàn thương
lượng. Và tất cả những nguyên nhân đã phân tích ở trên như: tranh chấp lập
trường, bức bách đối thủ, hiểu nhầm nhau, suy cho cùng thì cũng xuất phát từ
tố chất kém cỏi của nhân viên thương lượng. Những nét tính cách như: sợ
gánh trách nhiệm, tự ái vặt, thích biểu hiện mình, nóng nảy,… thường ảnh
hường xấu tới sự thông suốt của thương lượng. Những nhân viên thương
lượng mà không có khả năng diễn đạt, thiếu kiến thức về lĩnh vực thương
lượng, thiếu kinh nghiệm trong đàm phán, cũng là nguyên nhân dẫn đến thế
găng.
5. Khoảng cách giữa lợi ích mà hai bên đề ra quá lớn
Trong nhiều cuộc thương lượng, dù hai bên đã biểu hiện thái độ hết
sức tốt đẹp, có thành ý hợp tác với nhau, nhưng vì lợi ích của họ mong muốn
đạt được thì lại có sự chênh lệch nhau quá lớn, mỗi bên không thể tiến thêm
bước nữa để đi đến thỏa thuận, và cuộc thương lượng đành phải gác lại. Thế
găng do nguyên nhân này tạo ra là khó giải quyết nhất. Ví dụ, khi bạn đi mua
chiếc xe máy, bạn thấy chiếc Spacy màu nho rất đẹp, bạn rất muốn mua,
nhưng trong tay bạn chỉ có 3000 đôla thôi, trong khi đó chủ tiệm ra giá là 4000
đôla. Bạn dùng hết khả năng ăn nói để thuyết phục với chủ tiệm là bạn rất
muốn mua, và cái giá bạn trả là hết sức hợp lý. Và khả năng ăn nói của bạn
cũng chỉ đạt đến một kết quả giới hạn khi chủ tiệm đồng ý giảm giá xuống
3800 đôla và đó là mức giá cuối cùng không thể bớt thêm được nữa. Và lúc
này thế găng được hình thành vì lợi ích mong muốn hợp lý của bạn và của
chủ tiệm cách nhau quá xa, không thể nào mà ăn khớp với nhau được.
II. KỸ XẢO ĐỘT PHÁ THẾ GĂNG1. Tập trung vào lợi ích chứ không tập trung vào lập trường
Chúng ta hãy quay trở lại với “câu chuyện về chiếc cửa sổ. Trong
trường hợp này, để đột phá thế găng ông quản lý thư viện tìm hiểu xem lợi
ích của hai độc giả là gì, chứ không tập trung vào lập trường của hai người,
và cuối cùng ông quyết định mở cửa sổ nhìn ra vườn hoa để thoả mãn lợi ích
của cả hai phía. Tình huống này đặc trưng cho nhiều cuộc thương lượng. Vì
thông thường các nhà thương lượng tưởng là mâu thuẫn với nhau về lập
trường và đặt mục tiêu là phải làm sao thông nhất lập trường, nên họ có xu
hướng tự nhiên là suy nghĩ và thảo luận về các lập trường và quá trình đó
thường đi đến bế tắc. Trong trường hợp trên, người quản lý thư viện không
thể hòa giải được hai người nếu chỉ tập trung vào lập trường muốn mở hay
muốn đóng cửa sổ. Mà muốn đột phá thế găng, người quản lý đã nhìn vào lợi
ích của họ là muốn thoáng mát và không bị ồn ào.
Để đột phá thế găng bằng kỹ thuật này, bạn cần nhận thức và tiến hành
những bước sau:
a. Cần nhận thức rằng lợi ích xác định lập trường
Mỗi một hành động của con người đều được thúc đẩy bởi những lợi
ích, nhu cầu nhất định. Lợi ích là cái thúc đẩy con người hành động, nó
thường là những tác nhân im lặng ẩn chứa sau những lập trường huyên náo,
ồn ào. Chị vợ kiên quyết không chịu đi chơi Đầm sen (đó là lập trường), chỉ vì
cô ta muốn ở nhà để xem tiếp phim Bao Công (đây là lợi ích). Thường thì lập
trường của bạn là điều bạn đã quyết định, còn lợi ích là cái buộc bạn quyết
định như vậy. Việc phân biệt lợi ích và lập trường là cần thiết trong đột phá
thế găng.
b. Đằng sau những lập trường xung khắc có thể tồn tại những lợi ích chung
Điều hòa lợi ích chứ không phải lập trường là có thể thực hiện được.
Thứ nhất là do đối với mỗi lợi ích thường tồn tại một số lập trường có thể thỏa
mãn. Việc tạo ra thế găng trong cuộc thương lượng về bán đảo Sinai là do hai
bên đưa ra những lập trường thái quá, chẳng hạn như Israel kiên quyết tuyên
bố chiếm giữ bán đảo. Nhưng sau khi xem xét lợi ích của hai bên đứng sau
lập trường đó thì có thể đưa ra được phương án mà cả hai bên đấu thỏa
mãn. Thứ hai là do đằng sau những lập trường đối nghịch nhau có rất nhiều
lợi ích khác nữa, chứ không chỉ có lợi ích đối kháng. Vì vậy khi gặp thế găng,
hai bên nên tỉnh táo phân tích xem giữa mình với họ có những lợi ích chung
vào và có những lợi ích đối lập nào. Khi đã nhận thức tất điều đó thì lợi ích
đối lập dường như dễ dàng giải quyết hơn.
c. Xác định lợi ích của nhau
Thường trong thương lượng người ta chỉ thấy rõ ràng lập trường của
nhau, vì cái đó lộ liễu ra bên ngoài, còn lợi ích tiềm ẩn đằng sau chúng thì lại
rất khó phát hiện. Muốn nhận biết lợi ích của đối tác, bạn cần phải đặt mình
vào vị trí của họ để xem xét lập trường của họ và tự hỏi “Tại sao họ lại đưa ra
lập trường đó?". Chẳng hạn, có thể hỏi tại sao chị vợ lại không muốn đi chơi
Đầm sen. Và câu trả lời có thể là để ở nhà dọn dẹp nhà cửa. Đây cũng là một
trong những lợi ích của cô ta. Trong nhiều trường hợp, bạn cũng có thể hỏi
chính đối tác xem tại sao anh ta đưa ra lập trường đó, ví như “Tại sao em
không muốn đi chơi?".
Để xác định lợi ích của đối tác, bạn cũng có thể phải ghi chép những lợi
ích đó mỗi khi nó nảy sinh ra trong đầu bạn. Điều này không chỉ giúp bạn nhớ
đến chúng mà còn làm cho bạn có thể đánh giá tốt hơn khi bạn có thông tin
mới và có thể sắp xếp danh sách các lợi ích đó theo thứ tự tầm quan trọng
của chúng. Từ đó có thể làm nảy sinh các ý tường để đáp ứng những lợi ích
đó.
Không những bạn cần tìm hiểu lợi ích của đối tác, mà còn phải xác định
lợi ích của mình. Muốn thế bạn cần liệt kê ra các câu trả lời cho những câu
hỏi “Tại sao mình lại đưa ra lập trường đó?", “Nếu mình đồng ý với lập trường
của đối tác thì mình sẽ được lợi gì? Nếu không thì sao?". Sau đó bạn lập
được danh sách những lợi ích và bất lợi nếu bạn chấp nhận hay không chấp
nhận lập trường của đối tác.
d. Trao đổi về lợi ích
Trong thương lượng có khi hai bên không nhận biết lợi ích của nhau,
mà cố bám vào lập trường cứng nhắc. Bạn cần thảo luận với họ về những lợi
ích của cuộc thương lượng, bạn cần giảng giải cho họ biết lợi ích của bạn là
gì.
Muốn làm cho họ chấp nhận lợi ích của bạn, cũng cần chú ý tới một số
điểm. Thứ nhất, bạn cần làm cho lợi ích của bạn trở nên cụ thể và sống động.
Nếu bạn muốn cho nhà hàng xóm hiểu là họ đào móng xây nhà ảnh hưởng
tới nhà mình như thế nào, thì cần cụ thể: “Khi các anh đào móng, nhà tôi bị
rung chuyển, làm cho bát đĩa kêu leng keng, mấy đứa con không sao ngủ
được", và bạn có thể đưa họ vào tình huống của bạn. “ông sẽ nghĩ sao nếu
như ngôi nhà của ông đang bị đe dọa bởi chân móng bị mất chỗ dựa?". Thứ
hai là hãy công nhận lợi ích của đối tác như là một phần của vấn đề. Bởi vì
khi họ có cảm giác là bạn hiểu họ, thì họ sẽ bắt đầu lắng nghe bạn. Do đó
trước khi đề cập lợi ích của mình, bạn hãy chứng tỏ là bạn hiểu họ, bằng
cách nói: theo tôi hiểu thì trong vấn đề này ông muốn là…., có phải thế không
ạ? Ngoài ra các ông còn có lợi ích nào khác không?". Thứ ba là trước khi nói
lời đề nghị với đối tác, bạn hãy trình bày các lợi ích và lý lẽ trước, có thế họ
mới chịu nghe hết lời của bạn. Thứ tư là bạn phải cứng rắn với vấn đề nêu ra
nhưng mềm mỏng với con người. Trong thương lượng, bạn cần kiên quyết
khi nói về lợi ích, đó là chỗ để cho bạn sử dụng năng lực tấn công. Hai bên
đều nỗ lực để đạt tới lợi ích, thì họ càng chịu khó nghĩ ra những phương án
sáng tạo để giải quyết vấn đề có lợi cho cả hai bên. Tuy nhiên khi cương
quyết với vấn đề bạn cần có thái độ ủng hộ bên kia, giúp họ nhìn nhận ra lợi
ích của mình. Vừa kiên quyết đấu tranh vừa ủng hộ là một thái độ khôn ngoan
trong thương lượng.
e. Gắn các lợi ích khác nhau lại với nhau
Trong thương lượng không phải bao giờ lợi ích của hai bên cũng ăn
khớp với nhau, mà cũng có khi giữa hai bên có lợi ích khác biệt, và những
thỏa thuận đôi khi lại đạt được chính nhờ sự khác nhau về lợi ích đó. Loại
khác biệt tốt nhất để có thể gắn với nhau là những khác biệt về niềm tin,
những giá trị theo thời điểm khác nhau, những dự tính và khả năng chịu mạo
hiểm khác nhau, và những khác biệt về lợi ích nhưng có sự bù trừ nhau.
Nếu bạn tin là bạn đúng và đối phương cũng tin là họ đúng, thì bạn hãy
lợi dụng sự khác nhau này trong đức tin, bằng cách mời một người làm trọng
tài không thiên vị đứng ra giải quyết. Nếu hai đội bóng không thỏa thuận được
về việc đội nào sẽ chọn sân trước, thì sẽ giải quyết bằng việc trọng tài tung
đồng xu.
Nếu bạn quan tâm hơn về lợi ích hiện tại, còn đối tác quan tâm hơn về
lợi ích trong tương lai, thì bạn có thể thỏa thuận với họ về phương thức mua
trả góp, trả chậm.
Những sự khác biệt về lợi ích nhưng có sự bù trừ qua lại, đó là một bên
quan tâm đến hình thức, bên kia quan tâm đến nội dung; một bên quan tâm
đến mặt kinh tế, một bên cân nhắc về chuyện chính trị; một bên quan tâm đến
tương lai, bên kia quan tâm tới lợi ích trước mắt, v.v…
2. Tạo ra các phương án để cùng đạt được mục đích
Để đột phá thế găng, nhiều khi cần phải tìm ra những phương án thay
thế có lợi cho cả hai bên. Bên nào có thể đề xuất một cách sáng tạo các
phương án lựa chọn thì bên đó thường nắm quyền chủ động trong đàm phán.
Ví dụ về bán đảo Sinai cũng làm sáng tỏ vấn đề cơ hội đạt thỏa thuận bằng
các phương án thay thế. Một phương án sáng tạo như việc phi quân sự hóa
Sinai có thể làm cho thế găng được giải quyết. Các chuyên gia thương lượng
cho rằng nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thành công trong đàm phán là khả
năng sáng tạo ra các phương án có lợi cho cả hai bên. Kỹ năng sáng tạo ra
những phương án là một trong những phẩm chất hết sức cần thiết của nhà
thương lượng.
Để thực hiện phương pháp này, bạn nên tiến hành như sau:
a. Trước hết hãy sáng tạo ra các phương án
Trong thương lượng, để đưa ra các phương án, bạn có thể phải thảo
luận với những cộng sự của mình. Để thảo luận có hiệu quả cần tuân theo
mấy nguyên tắc của phương pháp “não công” trong sáng tạo sau đây. Thứ
nhất là tạo ra bầu không khí thoải mái. Thứ hai là bố trí mọi người ngồi cạnh
nhau cùng đối mặt với vấn đề, để kích thích sự phát biểu. Thứ ba là tách sáng
tạo ra khỏi việc đánh giá phương án. Trước hết nhóm hãy đưa ra càng nhiều
ý tưởng càng tốt, không được có bất kỳ một điều chỉ trích, phê phán nào
được đưa ra, mặc dù những ý tưởng đó có ngớ ngẩn đi chăng nữa. Thứ tư là
lập một danh sánh dài những ý tưởng đã được đưa ra và ghi chúng lên bảng
để cho cả nhóm nhận biết được thành tựu của tập thể, và từ đó kích thích
thêm những ý tưởng.
b. Đánh giá các phương án
Sau khi đã đưa ra các ý tưởng khác nhau, nhóm mới tiến hành phân
tích, so sánh các phương án với nhau. Nêu bật những ý tưởng hứa hẹn nhất
và tìm cách cải tiến cho nó tốt hơn và có tính thực tế hơn, cũng như tìm cách
thực hiện ý tưởng đó. Ở giai đoạn này bạn cần làm cho ý tưởng trở nên hấp
dẫn tối đa, bằng cách gợi mở sự nhận xét, phê bình có tính xây dựng của các
thành viên. Cuối cùng nhóm lên một danh sách những phương án đã được
chọn và quyết định nên chọn phương án nào đưa ra trong cuộc thương lượng
và bằng cách nào.
c. Thảo luận sáng tạo với đối tác
Sau khi tiến hành thảo luận trong nội bộ, hai nhóm tiến hành thảo luận
với nhau. Việc thảo luận sáng tạo giữa hai nhóm có thể gặp những bất lợi, vì
bạn có thể vô tình tiết lộ những thông tin bí mật hoặc làm cho đối tác hiểu
nhầm coi phương án mà bạn đề xuất là một đề nghị. Nhưng nó lại có những
ưu điểm lớn để tạo nên những ý tưởng có tính đến lợi ích của tất cả các bên
liên quan, để tạo ra bầu không khí hợp tác và bộc lộ những quan tâm của
nhau. Cuộc thảo luận này cũng phải tuân theo những nguyên tắc như trong
thảo luận nội bộ đã được nói ở trên.
d. Hai bên đi đến kết luận chọn phương án tối ưu
Sau khi đã thảo luận, hai bên đưa ra một số phương án tốt nhất mà hai
bên đã lựa chọn. Tiến hành cải tiến, mở rộng lợi ích chung trước khi quyết
định chọn phương án tối ưu.
3. Hãy đưa ra những tiêu chuẩn khách quan
Khi một bên cậy thế mạnh chèn ép bên yếu, hoặc một bên cố áp đặt ý
chí của mình chống lại bên kia thì sẽ phải trả một giá đắt. Mà trong thương
lượng hai bên cần thảo luận với nhau dựa trên một cơ sở nào đó độc lập với
ý chí mỗi bên, tức là trên cơ sở tiêu chuẩn khách quan. Trong câu chuyện
anh em chia nhau chiếc bánh, sở dĩ anh và em có thể hài lòng về phần chia
của mình, chỉ vì người cha đưa ra được tiêu chuẩn khách quan là “ai cắt
miếng bánh, thì để người kia chọn”.
Thế thì tạo lập những nguyên tắc khách quan như thế nào? Và sử dụng
chúng như thế nào trong thương lượng?. Trong một số trường hợp, những
tiêu chuẩn khách quan có sẵn có thể dùng để làm cơ sở cho thương lượng.
Ví dụ xe máy của bạn bị hỏng nát và bạn thương lượng với công ty bảo hiểm
mong cuộc thương lượng này, để tính giá trị của chiếc xe, bạn có thể dùng
những tiêu chuẩn khách quan như: giá gốc trừ đi khoản khấu hao do sử dụng;
giá của thị trường của chiếc xe cùng loại, cùng chất lượng; chi phí cho việc
thay một chiếc xe đó bằng một chiếc xe khác tương đương; tòa án sẽ định giá
bao nhiêu. v.v… Trong một số trường hợp khác, tùy thuộc vào vấn đề, bạn có
thể phải thỏa thuận với đối tác nên chọn tiêu chuẩn khách quan nào. Ví dụ
như dựa vào giá thị trường, cách đánh giá khoa học, tiêu chuẩn ngành, tòa án
quyết định thế nào, các qui phạm kỹ thuật, quán lệ, v.v… Một tiêu chuẩn
khách quan lý tưởng là tiêu chuẩn không chỉ độc lập với ý chí của một bên
nào đó, mà còn phải chính đáng và thực tế để đảm bảo sự thỏa thuận sáng
suốt.
Ngoài tiêu chuẩn khách quan, bạn có thể tìm kiếm các thủ tục khách
quan để giải quyết vấn đề, khi gặp những lợi ích xung đột. Trong ví dụ về
cách chia chiếc bánh, thì “một người cắt, người kia chọn” là thủ tục khách
quan. Các thủ tục khách quan có thể là: bốc thăm, tung đồng xu, dùng trọng
tài, dùng những chuyên gia để làm người trung gian…
Sau khi đã đưa ra các tiêu chuẩn thủ tục khách quan, bạn tiến hành
thảo luận với đối tác để thống nhất các tiêu chuẩn tốt nhất. Khi thương lược
về những tiêu chuẩn khách quan, bạn cần tuân thủ ba nguyên tắc sau đây:
- Hãy coi mỗi cuộc thương lượng là một cuộc tìm kiếm chung các tiêu
chuẩn khách quan: Nếu bạn đang ngả giá để mua chiếc xe máy, bạn có thể
bắt đầu bằng cách: “ông thấy đấy ông thì muốn giá cao, tôi thì muốn giá thấp.
Bây giờ chúng ta cùng nhau tìm kiếm một cái giá công bằng: Những tiêu
chuẩn nào là khách quan nhất?". Và sau đó bạn đưa ra những tiêu chuẩn
khách quan mà bạn đã chuẩn bị, tiếp đến yêu cầu chủ tiệm xe đưa ra ý kiến
và tiêu chuẩn của họ.
- Hãy lập luận và lắng nghe lập luận của đối tác để xem tiêu chuẩn nào
là phù hợp nhất. Khi mỗi bên đưa ra những tiêu chuẩn khác nhau, hãy tìm
một cơ sở khách quan để xem xét các tiêu chuẩn đó. Tuy nhiên sau khi đã
thảo luận kỹ về các tiêu chuẩn, mà bạn không thể đồng ý tiêu chuẩn mà đối
tác đưa ra, thì bạn có thể yêu cầu kiểm tra những tiêu chuẩn đó. Làm điều đó
bằng cách cùng nhau chọn một người trung gian và trao cho họ danh sách
các tiêu chuẩn được đề nghị, và yêu cầu ông ta xem xét tiêu chuẩn nào là
công bằng nhất trong tình huống thương lượng đó.
- Đừng bao giờ lùi bước trước sức ép, mà chỉ lùi bước trước nguyên
tắc. Khi một bên dùng sức ép để thương lượng, thì bạn cần phải yêu cầu họ
nêu lên lập luận của họ, đề xuất các tiêu chuẩn khách quan theo bạn có thể
áp dụng được, cũng có thể từ chối cuộc thương lượng nếu như đối tác không
đưa ra được những tiêu chuẩn khách quan. Tuy nhiên trước khi rút lui, bạn
cần kiểm tra lại xem mình có bỏ qua tiêu chuẩn khách quan nào đó để có thể
coi lời đề nghị của đối tác là công bằng. Và nếu bạn tìm thấy một tiêu chuẩn
nào như vậy và bạn muốn đạt được thỏa thuận dựa trên tiêu chuẩn đó hơn là
bỏ cuộc thì hãy thực hiện thỏa thuận đó. Việc phát hiện ra tiêu chuẩn hợp lý
như vậy tránh cho bạn chấp nhận một thỏa thuận bất lợi.
4. Áp dụng thuật nhu đạo
Trong một số trường hợp, đối tác cứ giữ khư khư lập trường của mình,
thậm chí lại còn chỉ trích và công kích đề nghị của bạn, bạn phải làm gì? Hay
là bạn chỉ trích lại, công kích lại lập trường của đối tác? Hay bạn cứ bảo vệ và
bám chặt lấy lập trường của mình? Câu trả lời là không nên phản ứng lại như
vậy. Làm như thế, bạn sẽ rơi vào thế mặc cả lập trường, điều mà như đã nói
ở trên là không nên.
Ở đây bạn nên áp đụng thuật nhu đạo, giống như một môn võ phương
Đông. Nếu họ công kích bạn, đừng cố bảo vệ chúng; nếu họ khẳng định lập
trường của họ, thì đừng bác bỏ chúng. Thay vì phản công lại đối tác, bạn hãy
tránh đòn công kích của họ và hướng nó vào việc phục vụ mục đích của
mình. Thay vì chống lại lực của họ, bạn hãy tìm cách chuyển nó vào vào việc
thăm dò các lợi ích, tạo ra những phản ứng để cùng đạt được mục đích và
tìm kiếm các tiêu chuẩn khách quan.
Thuật nhu đạo được áp dụng cụ thể như sau:
Thứ nhất, không công kích lập trường của đối tác mà hãy phát hiện
những lợi ích đằng sau nó. Khi đối tác đưa ra lập trường của họ, thì bạn cũng
đừng bác bỏ, cũng đừng công nhận nó, mà hãy coi đó là một trong những
phương án. Tìm hiểu những lợi ích đằng sau đó, tìm ra các nguyên tắc phản
ánh trong lập trường đó và tìm cách thay đổi nó như thế nào. Chẳng hạn, bạn
có thể hỏi thẳng họ là tại sao họ lại đưa ra lập trường đó. Để hướng chú ý của
đối tác vào việc cải tiến các phương án đã có, bạn hãy thảo luận với họ về
những gì có thể xảy ra nếu một trong những lập trường của họ được chấp
nhận.
Thứ hai là đừng bảo vệ lập trường của bạn, mà hãy đề nghị đối tác góp
ý và khuyên nhủ, và sau đó hỏi họ xem sẽ làm gì nếu ở vào địa vị của bạn.
Thứ ba là hướng sự công kích nhằm vào bạn sang việc đạt tới mục
đích chung. Khi họ công kích ý kiến của bạn, hãy kiềm chế sự mong muốn
bảo vệ nó hoặc tấn công lại họ. Thay vì làm việc đó, bạn hãy im lặng nghe họ
nói, chứng tỏ bạn hiểu họ, giúp họ giải tỏa những cảm xúc. Sau khi họ trút hết
cảm xúc, bạn hãy đặt lại vấn đế, coi sự công kích của họ nhằm vào bạn là
cuộc tấn công vào vấn đề, bằng cách nói: “Theo tôi hiểu thì ông cho rằng….,
và tôi cũng muốn các ông hiểu là chúng tôi cũng…., thế làm sao để đạt được
thỏa thuận càng nhanh càng tốt?".
Thứ tư là hãy đặt câu hỏi và giữ im lặng một lát. Các nhà thương lượng
thường sử đụng câu hỏi thay cho câu khẳng định, vì câu khẳng định hay làm
cho đối tác kháng cự còn câu hỏi đem lại câu trả lời. Câu hỏi đưa đối tác đối
diện với vấn đề. Câu hỏi không tạo nên mục tiêu cho họ tấn công, nó không
nhằm chỉ trích ai, mà chỉ làm sáng tỏ vấn đề. Tuy nhiên im lặng cũng là một
sách lược người ta hay dùng. Nếu đối tác đưa ra một đề nghị vô lý, không
căn cứ, thì tốt nhất là bạn im lặng. Im lặng tạo ra cảm giác bế tắc, buộc đối
tác phải phá vỡ bằng cách giải thích thêm về lời đề nghị của mình hoặc đưa
ra đề xuất mới. Từ đó bạn hiểu thêm được họ và có thêm những phương án
gần với phương án cần tìm.
5. Thay thế nhân viên thương lượng
Nếu thế găng tạo ra do nhân viên đàm phán kém cỏi, như tùy tiện hứa
hẹn, thích tự biểu hiện mình, thiếu nhận thức đối với vấn đề chuyên thôn, thì
cần phải thay thế họ để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình và giữ gìn mối
quan hệ tốt đẹp
Nhưng cũng có khi cần thay đổi nhân viên đàm phán không phải vì họ
kém mà là một sách lược tự phủ định mình, nhằm có ý xin lỗi đối tác và phát
tín hiệu cho đối tác biết là mình sẵn sàng bắt tay hợp tác.
Khi thay đổi nhân viên thương lượng, bạn cần chú ý hai điều: thứ nhất
là nên thuyết minh cho đối tác hiểu tại sao mình có sự thay đổi, và làm cho
hiểu thành ý của bạn; thứ hai là không nên tùy tiện thay đổi người, dù có phải
thay đổi đi nữa thì cũng không nên làm cho nhân viên mất thể diện.
6. Đánh vào điểm chủ chốt và nhân vật chủ chốt
Trong khi đột phá thế găng, cần phải nắm được bản chất của cuộc
xung đột là ở chỗ nào, nắm lấy chỗ chính yếu đó mà tiến hành đột phá; nếu
ngược lại, không ngừng tranh chấp với đối phương về bề ngoài vấn đề, vừa
làm tổn thương quan hệ hai bên, vừa khiến vấn đề trở nên phức tạp. Ví dụ:
một lần trên đường từ trường về bằng xe máy, bỗng nhiên một chiếc xe khác
ở đằng sau vượt lên trước và đâm vào xe tôi làm cho cả hai đều té. Chủ chiếc
xe kia gân cổ lên cãi ầm ĩ, bắt tôi bồi thường, còn tôi không nói gì, chờ cho
đến khi anh cảnh sát hỏi tôi, tôi chỉ nói với anh ta một câu: “anh ta vượt tôi
phía bên phải". Nghe xong cảnh sát hiểu tất cả. Kết quả là tôi được người kia
bồi thường.
Trong thương lượng cũng cần để ý người nào của phía đối tác là nhân
vật đóng vai trò quyết định, và người nào còn chưa đồng ý với ý kiến của bạn:
Từ đó bạn tập trung sức lực mà thuyết phục họ, thì mới mong thu được kết
quả.
7. Dưới búa lượm củi
Đây là sách lược khá nguy hiểm, nó chỉ áp dụng khi quá cần thiết. Khi
lâm vào thế găng khó giải quyết, bạn có thể chứng minh cho đối tác thấy rằng
mình không còn con đường thoái lui, hy vọng đối tác có thể nhượng bộ, nếu
không thì tình nguyện tiếp thụ sự tan vỡ của cuộc làm ăn. Tuy nhiên, sách
lược này chỉ có thể áp dụng khi khoảng cách giữa yêu cầu lợi ích của hai bên
không vượt quá giới hạn hợp lý. Hơn nữa nếu áp dụng phương pháp này một
cách mù quáng, thì sẽ làm cho tất cả các đối tác rút lui, kết quả lá không thu
được lợi ích nào.
Sau đây là ví dụ áp dụng sách lược này. Một lần bạn tôi quyết định xây
nhà, anh ta mới chọn hai nhà thầu xây dựng làm đối tác để thương lượng.
Căn cứ vào bản báo thầu của hai người, và tin tức thu lượm được, chúng tôi
thấy rằng nhà thầu X có tiếng tăm hơn, và chất lượng thiết bị, nội thất cũng tốt
hơn, và báo giá cũng cao hơn 200 triệu. Còn nhà thầu Y không tiếng tăm
bằng bên X, và nội thất, thiết bị, cũng tương đương, giá lại rẻ hơn có 180
triệu. Dựa vào các mặt khác nhau, chúng tôi chọn nhà thầu Y làm đối tác
thương lượng đầu tiên, và vấn đề chủ yếu là thỏa thuận về giá cả, vì giá 180
triệu vẫn còn cao. Qua vài vòng thương lượng, nhà thầu Y cuối cùng báo giá
là 167 triệu, nhưng theo như tính toán sơ bộ thì chúng tôi thấy rằng với giá đó
thì bên Y vần rất có lời, vì vậy giá đó vẫn đang còn cao. Vì thế chúng tôi đồng
thời tiến hành thương lượng với Y, nhưng vẫn duy trì mối quan hệ với X để
tạo nên áp lực với nhà thầu Y. Ở vòng thương lượng tiếp, chúng tôi sử dụng
sách lược “dưới búa lượm củi” với Y, bằng cách nói rằng: “Mặc dù các ông đã
có sự nhượng bộ rất lớn, nhưng vì giá cao quá, mà anh bạn tôi chỉ xoay được
có 160 triệu thôi. Chúng tôi hi vọng quí các ông báo giá lại một lần cuối cùng,
nếu không tuy chúng tôi rất muốn hợp tác với các ông nhưng chúng tôi đành
phải thuê nhà thầu khác vậy, mong các ông thông cảm". Nhà thầu Y nhận
thấy rằng miếng ăn đã sắp cho vào miệng mà lại có nguy cơ bị mất, nên cuối
cùng đi đến nhất trí với giá 160 triệu.
Trong trường hợp này, bạn dùng nhà thầu X làm áp lực cạnh tranh,
nhưng nhất thiết không được sử dụng thủ thuật dùng giá bên X để ép bên Y.
Bởi vì cạnh tranh là đòi hỏi phải sòng phẳng, công chính. Hơn nữa nếu làm
không khéo, mà hai nhà thầu hợp tác với nhau để đối phó với bạn thì bạn sẽ
vô cùng bị động.
Câu hỏi ôn tập9.1. Thế găng là gì? Phân tích những nguyên nhân hình thành thế găng
trong thương lượng.
9.2. Trình bày các bước đột phá thế găng bằng cách tập trung vào lợi
ích? Muốn cho đối tác chấp nhận lợi ích của mình, bạn cần chú ý điều gì?
9.3. Để sáng tạo ra những phương án trong thương lượng, bạn cần
thực hiện những điều gì?
9.4. Thế nào là một tiêu chuẩn khách quan lý tưởng? Bạn hãy nêu một
tình huống thương lượng, trong đó bạn sẽ chọn những tiêu chuẩn khách quan
nào?
9.5. Tại sao cần phải thay thế nhân viên thương lượng? Trong những
tình huống nào thì cần thực hiện sự thay thế Và khi thay thế cần chú ý những
gì?
9.6. Khi nào thì bạn áp dung sách lược “dưới búa lượm củi”? Tại sao?
9.7. Thương lượng kiểu nhu đạo là gì? Tiến hành nó như thế nào?
Tình huống
9.a. Trong một cuộc thương lượng về luật biển. Có một vấn đề hết sức
lả phức tạp là làm sao phân chia các địa điểm khai thác đáy biển giữa một
bên là Company (bao gồm các công ty tư nhân của các nước giàu có) và một
bên là Enterprise (là tổ chức khai thác mỏ thuộc Liên hợp quốc, chủ yếu bao
gồm các công ty khai thác của các nước nghèo). Ban đầu các công ty tư nhân
đưa ra một phương án có vẻ hợp lý là một nửa số địa điểm dành cho các
công ty tư nhân, còn một nửa số điểm khác dành cho Enterprise. Tuy nhiên
các nước nghèo sợ rằng các công ty tư nhân của các nước giàu có dùng
những phương tiện hiện đại phát hiện những điểm tốt và chọn cho mình, còn
Enterprise do kém về kỹ thuật hơn nên sẽ bị thua thiệt.
Yêu cầu:
Bạn hãy vận dụng sách lược dùng tiêu chuẩn khách quan để đưa ra
một phương án công bằng cho cả hai bên, vừa lại lợi dụng được kỹ thuật của
Company.
9.b. Anh Bình thuê một phòng của ông Minh để ăn học.
Thời gian thuê bắt đầu từ tháng tám với giá 120 ngàn đồng/tháng. Đến
tháng mười hai khi anh cùng với bạn cùng phòng muốn chuyển đi nơi khác,
Bình mới biết rằng căn phòng đó bị kiểm soát về giá cho thuê. Theo qui định
của nhà nước thì căn phòng đó chỉ có giá cho thuê tối đa là 100 ngàn
đồng/tháng mà thôi, tức là ít hơn 20 ngàn mà anh đã trả.
Tức giận vì phải trả giá quá cao, Bình mới tìm gặp bà Thanh vợ ông
Minh để thảo luận về vấn đế này. Mới đầu bà Thanh tỏ thái độ lạnh nhạt và
bất bình. Bà cho là mình đúng và cho là Bình vô ơn và định tống tiền bà ta.
Nhưng sau vài vòng thương lượng, bà Thanh đồng ý hoàn trả lại tiền cho
Bình và anh bạn cùng phòng. Cuối cùng bà Thanh cũng tỏ ra thân thiện và có
vẻ hối lỗi.
Yêu cầu:
Bình tiến hành cuộc thương lượng này như thế nào mà lại đạt được tốt
đẹp vậy? Bạn và một bạn nữa hãy diễn lại cuộc thương lượng giữa Bình và
bà Thanh.
9.c. Công ty cổ phần Bình Hưng có kế hoạch xây dựng ở ngoại ô một
nhà máy dệt, chọn địa điểm đất thuộc ấp Mỹ Tây sở hữu. Công ty bằng lòng
bỏ ra 500 triệu để mua quyền sử dụng, mà ấp Mỹ Tây lại kiên trì đòi 600 triệu.
Qua mấy vòng đàm phán, giá công ty Bình Hưng ra lên tới 520 triệu, còn giữ
ấp mỹ Tây chịu hạ xuống 580 triệu. Hai bên cũng lại không thể nhượng bộ
nữa, đàm phán sa vào thế găng ấp Mỹ Tây kiên trì lập trường bảo vệ lợi ích
cho nông dân, bởi vì nông dân lấy ruộng đất làm gốc, mất đi quyền sử dụng
mảnh đất canh tác, họ không có quá nhiều lựa chọn, chỉ muốn bán nhiều tiền
hơn một chút để tổ chức một xưởng cơ khí hay một cơ sở sản xuất gì đó để
nông dân có công ăn việc làm. Mà công ty Bình Hưng đứng trên lập trường
của mình, nhượng bộ đến 520 triệu là cùng, họ muốn trong chuyện mua bán
đất, tiết kiệm được một ít tiền, dùng để tuyển mộ thêm công nhân, mở rộng
quy mô thương trường.
Yêu cầu:
Bạn hãy phân tích lập trường của hai bên? Lợi ích của hai bên là gì?
Bạn hãy đưa ra phương án mà có thể làm cho hai bên hài lòng để đột phá thế
găng.
Chương 10: BÁN HÀNG LẺ - NHỮNG CUỘC THƯƠNG LƯỢNG NHỎ
I. ĐIỀU KIỆN HOÁ TÂM LÝ KHÁCH HÀNG Đối với tâm lý khách hàng, những điều kiện vật chất, kỹ thuật của địa
điểm bán hàng cũng có sức tác động lôi cuốn rất lớn. Địa điểm bán hàng hay
còn gọi là cửa hàng là nơi giao tiếp giữa người bán và người mua, nơi thực
hiện quá trình mua bán hàng. Nếu cửa hàng tạo cho khách cảm giác thuận
lợi, an toàn, vui vẻ, cửa hàng trang bị tiện nghi đầy đủ phục vụ chu đáo, thì
khách sẽ thường xuyên lui tới và cơ hội bán được hàng sẽ nhiều hơn. Vì vậy
khi chuẩn bị địa điểm bán hàng cần chú ý tới những điều sau đây:
1. Vị trí và môi trường kinh doanh
+ Phải chọn nơi sầm uất: Các nhà kinh doanh đều coi nơi buôn bán
sầm uất là “mảnh đất vàng” và không tiếc tiền để mua được một ô vuông ở
nơi đó. Bởi vì ở đó khách hàng đông đúc hơn, sức mua của thị trường lớn,
giao thông thuận lợi gần bến xe, bến cảng, sân ga, rạp hát…
+ Trước cửa hàng cần có khoảng đất rộng rãi, có bãi đậu xe càng rộng
càng tốt, và nên giữ xe miễn phí cho khách, bởi vì ngay khi một bước tới cửa
hàng khách đã cảm thấy được một món lợi.
2. Tạo sự hấp dẫn của cửa hàng
Bộ mặt của cửa hàng cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc tác
động đến tâm lý khách hàng. Cùng loại hàng hóa, đặt ở cửa hàng được trang
hoàng đẹp đẽ và có tủ kiếng lộng lẫy, khách có cảm giác như hàng ở đó tốt
hơn. Nguyên tắc chung để thiết kế cửa hàng là “dễ dâng, vững chắc, kinh tế
và đẹp đẽ. Ngoài ra còn phải xem xét địa hình kiến trúc xung quanh, làm cho
thiết kế cửa hàng hòa nhập vào cảnh sắc chung về ngoại hình, kích thước,
đường nét và màu sắc, đồng thời tạo ra phong thái riêng của mình. Ngoài cửa
hàng, có thể tạo ra những hình tượng biểu trưng để khách hàng chưa bước
vào cửa hàng đã có thể hình dung cửa hàng kinh doanh những mặt hàng gì.
Mỗi cửa hàng cần có bảng hiệu, nó là biểu tượng để khách dễ năng phân biệt
tính chất và đặc điểm kinh doanh của cửa hàng, đảm bảo uy tín của cửa hàng
và thu hút khách hàng. Chữ viết trên bảng hiệu phải đẹp dễ đọc, tên cửa hàng
phải dễ nhớ gây được sự liên tưởng tích cực.
3. Tạo sự hấp dẫn của hàng hóa
Nếu chúng ta bước vào một cửa hàng như một khách hàng, hàng hoá
làm ta say mê hay không, điều này phụ thuộc vào cách sắp xếp và chào hàng
nữa. Cách sắp xếp hàng hóa phải có sức hấp dẫn khách, phải thuận lợi cho
khách. Có thể dùng hình mẫu ánh sáng và màu sắc tôn thêm vẻ đẹp lộng lẫy
của cửa hàng.
Việc trưng bày hàng hóa phải đạt được các mục đích sau đây:
- Biểu thị sự văn minh của không khí bán hàng.
- Cung cấp dễ dàng các thông tin cho khách hàng.
- Hướng dẫn luồng khách hàng.
- Hướng dẫn nhu cầu.
Khi sắp xếp bố trí gian hàng cần liên tường đến mỗi hành vi, cử chỉ của
khách hàng trong cửa hàng. Mối liên hệ đó như sau:
- Khách đi trong cửa hàng - Sự sắp xếp hàng hóa phải thông thoáng
cho sự đi lại, giúp tránh bụi bặm, khe hẹp.
- Khách hành xem, nhìn - Sắp xếp hàng hóa sao cho khách có thể nhìn
một cách tổng thể toàn bộ gian hàng một cách nhanh nhất. Cần phải viết giá
hàng đúng, chính xác, rõ ràng.
- Khách hàng muốn sờ mó - Hàng hóa phải tiện cho khách lấy xem, bày
hàng quá cao không có lợi, vì khách sợ khi với sẽ làm rơi. Những sản phẩm
có vỏ đựng trong hộp có trang trí hình vẽ đẹp cũng cần bày mẫu ra ngoài.
- Khách hàng muốn hỏi về giá cả, tính chất hàng hóa. Người bán hàng
phải nhanh chóng, kịp thời trả lời cho khách, không nên để hàng hóa quá xa
người bán làm cho khách ngại không dám hỏi.
Khi sắp xếp, bài trí hàng hóa, có thể áp dụng 3 phương pháp: nghệ
thuật, liên kết và tương phản.
- Phương pháp nghệ thuật
Căn cứ đặc tính hàng hóa như đẹp về dáng, đẹp về màu sắc hoặc đẹp
về cảm tính để dùng những thủ pháp nghệ thuật khác nhau. Có thể trưng bày
theo kiểu đường thẳng, đường cong, đường xiên, hình tháp, hình chéo, đối
xứng, cân bằng… Căn cứ vào hàng hóa kinh doanh mà ta chọn thủ pháp nào
cho hợp lý. Như dùng thủ pháp đối xứng sẽ tạo ra cảm giác vững vàng trang
trọng, dùng cho các loại hàng cao cấp, nhưng có những mặt hàng cần gợi
cảm giác nhẹ nhàng, dịu mát, mềm mại thì nên phá bỏ một ít đối xứng ở hai
cánh. Có một số mặt hàng, nên tạo cho khách cảm giác đẹp và cảm giác chất
liệu như cảm giác lung linh trong suốt của đồ pha lê, cảm giác bóng láng của
đồ dùng bằng thép, cảm giác bền chắc của dụng cụ gia đình. Có những hàng
hóa cần phải thể hiện toàn cảnh để khách nhìn rõ đỡ phải hỏi, như một chiếc
áo sơ mi nữ cần thể hiện rõ là cổ tròn hay cổ vuông, trên ngực thêu hoa hay
in hoa, áo dài tay hay ngắn tay, có túi hay không túi…
- Phương pháp liên hết
Sắp xếp hàng hóa có cùng một hình thể ở một chỗ có thể tạo ra cảm
giác đẹp. Có loại hàng hóa khác hình thể nhưng liên kết với nhau như kem,
bàn chải và cốc đánh răng. Có thể dùng những cách dưới đây để bảo đảm
tính liên kết của hàng hóa: phân loại hàng hóa trước rồi trưng bày theo mẫu
mã, quy cách chất lượng; phân loại đối tượng sử dụng rồi mới trưng bày theo
mẫu mã, chất lượng.
- Phương pháp tương phản
Nếu muốn nhấn mạnh sự mềm mại của mặt hàng, có thể xếp chúng
bên cạnh hàng cứng rắn, muốn nhấn mạnh màu trắng tinh của tấm vải, có thể
đặt nó bên cạnh tấm vải đen v.v…
II. QUÁ TRÌNH BÁN HÀNG VÀ TÁC ĐỘNG TÂM LÝKhi mua hàng, người tiêu dùng thường trái qua 4 giai đoạn phát triển
tâm lý sau đây: CHÚ Ý tới món hàng - xuất hiện HỨNG THÚ - HAM MUỐN
mua hàng – QUYẾT ĐỊNH mua. Thứ tự ngược lại là không thể xảy ra. Trong
thực tế về mặt thời gian của các giai đoạn có sự khác nhau. Cũng có thể
ngắn vài phút, thậm chí vài giây. nhưng cũng có những trường hợp nó kéo
dài hàng tuần, hàng tháng, thậm chí hàng năm ở cả những thứ hàng hóa
không đòi hỏi thật nhiều tiền. Có nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, vật
chất và tinh thần, kinh tế và tâm lý tác động đồng thời lên quá trình trên. Nghệ
thuật của người bán hàng là nắm vững tâm lý của khách hàng trong từng giai
đoạn và biết tác động một cách đúng đắn nhằm đưa khách hàng đến bước
cuối cùng quyết định mua hàng.
Sau đây chúng ta sẽ xem xét từng giai đoạn của quá trình mua bán và
những thủ thuật tác động vào tâm lý khách hàng mà người bán hàng phải chú
ý.
1. Đánh thức sự chú ý của khách hàng
Một cửa hàng cho dù trang hoàng rực rỡ, hàng hóa chất đầy, xếp đẹp,
nhưng nếu khách hàng không để ý tới thì cửa hàng đó sẽ sớm bị đóng cửa.
Muốn bán được hàng trước hết phải gây được sự chú ý của khách hàng.
Người bán hàng phải biết “gợi” và “nuôi” sự chú ý của khách cho đến khi đạt
được mục đích cuối cùng là khách rút bóp trả tiền. Chú ý của khách hàng là
sự tập trung ý thức của anh ta đối với một đối tượng nào đó. Nó có thể được
đánh thức bằng nhiều phương tiện và phương pháp.
Việc đánh thức chú ý của khách hàng được bắt đầu từ việc quảng cáo
và công bố rộng rãi công khai bằng nhiều cách khác nhau: quảng cáo qua ti
vi, qua đài phát thanh, qua báo chí, quảng cáo qua bưu điện qua phim ảnh,
quảng cáo ở những nơi công cộng bằng các biển quảng cáo, quảng cáo tại
nơi bán hàng, trên bao bì sản phẩm v.v…
Gây sự chú ý của khách hàng cũng có thể thực hiện bằng cách chào
hàng, giới thiệu hàng hóa một cách trực tiếp. Còn ở cửa hàng, việc sắp xếp,
bố trí hàng hóa sao cho chúng nổi bật lên, khác biệt với bối cảnh xung quanh
cũng có tác dụng gây sự chú ý của khách hàng.
Có nhiều cách gợi chú ý của khách hàng, nhưng nói chung chúng đều
dựa trên những yếu tố gây nên sự chú ý sau đây:
- Cường độ kích thích mạnh sẽ gợi sự chú ý (âm thanh to, Panô sặc
sỡ, màu sắc rực rỡ).
- Tính tương phản cũng gây ra sự chú ý (tương phản về màu sắc, về
âm thanh, tương phản về kích thước, về hình dáng…).
- Con người thường chú ý đến sự mới lạ, điều bất thường.
- Tính sinh động của đối tượng, chẳng hạn quảng cáo bằng hàng chữ
chuyển động, quảng cáo bằng đèn nhấp nháy…
- Những kích thích nào liên quan đến nhu cầu và thỏa mãn nhu cầu, lợi
ích của con người đều gây chú ý mạnh.
2. Đánh thức sự hứng thú của khách hàng
Khi khách hàng đã chú ý tới món hàng, chúng ta cần làm cho họ hứng
thú với chúng. Có nhiều yếu tố có thể làm cho khách hàng thích thú với món
hàng, đó có thể là chữ viết trên các giá hàng, những hướng dẫn viết trên vỏ,
thông qua những lời giải thích cách sử dụng dễ đọc, thông qua lượng cung
cấp hàng hóa lớn, thông qua hàng mẫu và đặc biệt là qua lời giới thiệu, cách
trình diện món hàng của người bán hàng.
Một món hàng được trình diễn khéo kể như đã bán được một nửa. Để
gây được hứng thú thực sự của khách hàng thì không thể chỉ đặt hàng trước
mắt họ và chờ đợi đến khi người khách quyết định. Cần phải giải thích, biểu
diễn cách dùng để cho khách thích mua. Trong khi biểu diễn cần làm cho
khách nhìn thấy sự tiện dụng và đơn giản khi dùng, nhất là những đặc điểm
phù hợp với nhu cầu, mong muốn, niềm tin của khách. Người bán hàng phải
chủ động lôi kéo khách vào quá trình mua bán, và anh ta cần tìm hiểu những
ưu điểm của món hàng và có thể so sánh được với ý thích của mình. Ở đây
người bán hàng không chỉ nhằm vào hàng hóa và tính chất của nó mà còn
thông qua hàng hóa và các tính chất tác động lên tâm lý, suy nghĩ, cám giác,
nhu cầu, mốt, và sự quan tâm hứng thú của khách. Người bán một mặt phải
làm cho nhu cầu đã hình thành của khách mạnh thêm lên, mặt khác đánh
thức những nhu cầu chưa rõ ràng hoặc có từng phần hoàn toàn mới của
khách.
Khi trình diễn món hàng cho khách, để đánh thức hứng thú của khách,
người bán cần chú ý:
- Trình diễn món hàng được vẻ như tươi vui xinh đẹp nhất của nó. Một
món hàng dù nhỏ mọn đến đâu cũng cần khéo trình diện như thế: Chẳng hạn,
muốn đưa cho khách xem một chiếc áo sơmi, chúng ta cũng phải biết lựa
chiếc nào đã ủi thẳng nếp, bọc trong bao bóng kiếng, không dính bụi bặm.
- Trình diễn món hàng thật nhiều, thật đa dạng. Khi thấy người bán đưa
ra thật nhiều hàng, khách sẽ có cảm tưởng là cửa hàng thịnh vượng, có nhiều
kiểu hàng, luôn luôn có đủ số dự trữ, không sợ phải mua nhầm hàng thừa, đồ
cặn.
- Phải biết trình diện món hàng một cách trịnh trọng. Một món hàng dù
có giá trị thực sự đến đâu, người bán hàng cũng phải trịnh trọng, nâng niu khi
đưa cho khách xem, tránh vụng về, cẩu thả làm cho khách coi rẻ món hàng.
Phải biết dàn cảnh bằng điệu bộ, cử chỉ để làm tăng giá trị cho món hàng.
- Trình diện món hàng một cách sống động, trực quan. Tức là làm nổi
bật những chỗ tốt, điểm hay của nó, những tiện nghi của nó một cách cụ thể,
một cách trực quan. Chẳng hạn, người bán hàng sành nghề, khi trình điện đôi
giày cho khách, miệng thì tán “giày này làm bằng da đặc biệt vừa nhẹ vừa
mềm", nhưng đồng thời tay cầm chiếc dày bẻ bóp nó lại làm cho khách tin và
nhận thấy ngay sự mềm dẻo của loại da ấy.
Người bán hàng cần nhớ: làm cho khách nhìn thấy, khách mau hiểu
hơn, mau chú ý hơn và cũng dễ in sâu vào trí nhớ hơn. - “trăm nghe không
bằng một thấy” là vậy.
- Đừng tiếc công sức và thì giờ với khách. Phải để cho khách có thì giờ
nhìn xem, sờ mó, cầm thử món hàng mà họ định mua. Nhiều người khách có
tính do dự khi được sờ tận tay, xem tận mắt, biết những ưu điểm đặc sắc của
món hàng sẽ nhất định mua.
Ở giai đoạn này cũng đặc biệt chú ý tới cách nói giá cho khách hàng.
Nguyên tắc trả lời giá là phải làm cho khách thấy món hàng to hơn giá bán.
Để thực hiện nguyên tắc đó có nhiều cách: thứ nhất là đừng đưa ra con số
trước mà hãy kéo sự chú ý của khách vào sự ích lợi của món hàng, rồi sau
đó giữa câu chuyện nói xen cái giá muốn bán cho khách biết; thứ hai là làm
nhỏ bớt con số bằng cách ngắt nó từng đoạn, bộ phận này bao nhiêu, chi tiết
này bao nhiêu…; thứ ba là hãy đưa ra ba kiểu hàng với giá cao, trung và
thấp, nhờ đó mà khách hàng nào cũng tìm được cái giá mà mình muốn.
3. Gây ham muốn mua hàng
Khi đã có hứng thú với món hàng, trong tâm lý khách hàng vẫn còn tác
động nhiều suy nghĩ, cảm giác, nhận định khác nhau. Chẳng hạn như anh ta
cân nhắc, nếu anh ta thỏa mãn nhu cầu bằng cách mua một loại hàng hóa
nhất định thì phải loại trừ nhu cầu khác. Có thể anh ta có nguyện vọng mua
một chiếc đồng hồ đã lâu, nhưng hôm nay anh ta chú ý tới chiếc nồi cơm
điện, cái đó sẽ làm giảm công việc nội trợ cho gia đình. Cả hai đều quan
trọng, nhưng tài chính chỉ cho phép chọn một trong hai thứ. Ở anh ta xuất
hiện sự mâu thuẫn về chuẩn mực, nguyện vọng và bắt đấu có sự đấu tranh
giữa các động cơ để quyết định nên mua cái gì.
Chính trong những tình huống như vậy, khi phát hiện khách ở trong
trạng thái do dự, người bán phải đến giúp họ với vai trò cố vấn hay giúp đỡ
giải quyết một cách đúng đắn. Ở đây đòi hỏi người bán hàng phải cỏ khả
năng thuyết phục, biết cách viện lý lẽ để tác động vào khách hàng dẫn họ đến
quyết định mua.
Khi đưa ra những lý lẽ để tạp sự ham muốn của khách, người bán cần
nhớ rằng, khi mua hàng khách ít dùng đến những bản chất thuộc về lý tính
(như tưởng tượng, tư duy, suy xét). Những bản chất này ít tham dự vào quyết
định mua hàng. Người khách thường hành động theo cảm tính hơn là lý trí
“Túi tiền của khách hàng nằm gần trái tim hơn là khối óc". Cho nên người bán
hàng khỏi cần viện lý nọ lẽ kia cho khách nhận ra là phải lẽ, là hợp lý. Khách
có thể nhận thấy món hàng đáng mua, là cần thiết, nhưng họ vẫn không mua
vì họ không hứng, không ham. Trái lại khi cảm hứng họ bị kích thích, khi
người bán biết gợi sự ham muốn, làm cho họ ham thích thì chắc chắn họ sẽ
mua hàng. Tuy nhiên các cảm hứng không làm mất đi tính hợp lý, nếu như
người ta nói và nhấn mạnh cái nguyên nhân mua và sử dụng theo sở thích
với các lý đo hợp lý.
Khách hàng phải có niềm vui thú khi mua hàng và không chỉ vui vì thứ
mà họ mua, vì vậy mà người bán hàng phải hiểu để bằng nhiều cách gợi sự
ham muốn mua hàng của họ, kể cả niềm vui khi mua. Để dẫn đến nguyện
vọng mua, người bán hàng phải có trách nhiệm tạo cho khách cùng nhu cầu
của họ mọi khả năng thuận lợi nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách thông qua
việc mua hàng, bởi vì bán hàng là làm thỏa mãn nhu cầu của khách.
4. Dẫn khách hàng đến hành động mua hàng
Đây là giai đoạn quyết định của quá trình mua bán, bởi vì mặc dù đã
làm cho khách chú ý tới món hàng, làm cho họ ham thích, nhưng nếu khách
chưa mua hàng thì người bán vẫn chưa đạt đến mục đích cuối cùng của việc
bán hàng. Dẫn dụ khách hàng đến hành động mua hàng là cả một nghệ thuật
tinh tế.
Việc thực hiện đợt “tấn công” cuối cùng dẫn khách đến hành động mua
hàng cũng phải thực hiện đúng lúc, nếu sớm quá người khách sẽ “sợ” mà rút
lui, nếu muộn quá khách sẽ hết hứng thú và hết ham muốn. Người bán hàng
nhạy cảm sẽ đoán được khi nào cơ hội đã chín muồi để “tấn công” ngay.
Nếu sau khi đã trình diễn món hàng xong, đã nói giá xong, mà khách
hỏi những câu kiểu như: Món hàng này dùng có bền không? Lớp sơn này có
dễ bong không nhỉ? Chị bán chắc giá chứ? Có thể bớt cho tôi chút ít không?
Cũng có khi khách tỏ dấu hiệu bằng các cử chỉ, động tác như. Họ gãi
đầu để tìm một quyết định, họ lui vào bước ra để ngắm nhìn lại món hàng, họ
cạo thử lớp sơn hoặc bẻ cong món hàng, họ cảm món hàng lên xem kỹ như
muốn đoán sự chắc bền của nó…
Tất cả những câu hỏi, cử chỉ, động tác kể trên của khách hàng đều có
thể coi là dấu hiệu cho biết anh ta đã rất muốn mua. Muốn mua nhưng có thể
anh ta vẫn chưa mua, vì có thể anh ta còn ngờ vực, suy tính. Chính vì vậy khi
nhìn thấy những dấu hiệu ưng mua của khách người bán hàng phải tạo cho
khách hàng một sự tập trung chú ý nhằm vun đắp thêm vào sự quyết định
mua của anh ta.Ở đây người bán hàng có thể sử dụng nhiều thủ thuật để kết
thúc việc bán hàng có hiệu quả, chẳng hạn có thể tham khảo mấy thủ thuật
sau đây:
- Thủ thuật ra câu hỏi “chặn đầu": Khi đã thấy khách muốn mua chiếc
áo sơ mi, chúng ta không nên hỏi “ông có mua chiếc áo này không?", mà chỉ
nên đưa ra câu hỏi “chặn đầu” hết sức tự tin: “ông ưng chiếc màu xanh hay
màu xám? “
- Thủ thuật “noi gương": Tức là người bán hàng khéo léo lấy một ví dụ
hết sức tự nhiên, trong đó khách sẽ nhận thân họ có lợi để noi gương nhân
vật trong chuyện. Chẳng hạn, khi bán dầu gội diệt chí, cô bán hàng rất “hồn
nhiên” kể với khách: “Tôi có cô bạn, mấy tuần trước rất nhiều chí, ngứa không
chịu nổi, thế mà gội dầu này cho có ba lần thôi mà bây giờ trên đầu không
còn một con".
- Thủ thuật dùng chất “kích thích". Bởi vì con người ai cũng muốn được
một cái gì đó mà không mất tiền mua, nên người bán hàng phải biết làm cho
khách thấy rằng anh ta được hưởng một khoản gì “đặc biệt” để kích thích
hành động mua hàng. Khoản “đặc biệt” đó có thể chẳng đáng giá là bao,
nhưng nó tác động đến tâm lý khách hàng rất lớn: Ví dụ, khi bán chiếc máy vi
tính, có thể tặng cho khách vài chiếc đĩa trắng; hay khi bán bộ com lê, có thể
biếu không chiếc cà vạt; hãng dầu nhớt Mobil tặng cho khách một chiếc nón
Mobil, nếu khách mua 1 hộp, tặng một chiếc áo thun Mobil, nếu khách mua 4
hộp… Tất cả những quà tặng đó đều là chất kích thích đối với khách hàng.
- Thủ thuật dùng “thuốc an thần". Có nhiều khách hàng hay lưỡng lự,
đắn đo; mặc dù đã muốn mua nhưng vẫn còn băn khoăn về chất lượng, giá
cả… Khi đó người bán hàng cần phải làm cho khách an tâm bằng cách đưa
ra những lời quả quyết như: “ông không thể chọn đâu được một màu phù hợp
và đẹp như thế này” hay “ông yên tâm, chúng tôi “bao” giá cho ông đấy"…
III. TÂM LÝ KHÁCH HÀNG1. Một số đặc điểm tâm lý chung của khách hàng
Qua quan sát thực tế mua hàng, qua việc nghiên cứu, tìm hiểu, các
chuyên gia, nói chung, thống nhất đưa ra mốt số đặc điểm tâm lý của khách
hàng như sau:
- Khách hàng muốn được mua hàng tốt, chất lượng cao
- Thích mua rẻ hơn người khác, nếu hai món hàng như nhau, chỗ nào
bán rẻ hơn thường là đông khách hơn.
- Khi mua hàng, khách thích được tôn trọng, được giúp đỡ để xem và
tìm hiểu mọi khía cạnh của món hàng, thích được thử, được chọn, được có
người khuyên nhủ tin cậy, thích được khen ngợi, tán tụng.
- Khách hàng thích mua được nhanh, thuận tiện, an toàn trong việc
mua bán, trong chuyên chở, thanh toán.
- Khách thích mua hàng có bảo hành, bảo đảm, nếu không ưng có thể
trả lại.
- Khách muốn mua hàng ở những nơi quen biết đáng tin cậy.
- Khách hàng muốn mua ở những nơi có người bán hàng dễ thương,
có duyên, lịch sự, tận tình hướng dẫn và tạo được sự tin cậy.
- Khách hàng hay bị chi phối bởi hiện tượng áp lực nhóm: thấy nhiều
người mua, mình cũng mua.
2. Tâm lý của một số khách hàng thường gặp
Các nhà kinh doanh thường phân khách hàng ra làm nhiều loại theo
những tiêu chuẩn khác nhau như: phân loại theo lứa tuổi, theo giới tính; phân
loại theo nghề nghiệp, theo trình độ văn hóa; phân loại theo mục đích mua
hàng: phân loại theo thu nhập v.v. Mỗi loại khách hàng đều có những đặc
điểm tâm lý, nhu cầu, thị hiếu riêng của mình, vì vậy người bán hàng phải
hiểu được từng loại khách hàng để tác động, thu hút khách có hiệu quả.
Sau đây là tâm lý của một số loại khách hàng mà người bán hàng
thường gặp.
a. Khách hàng là phụ nữ
- Nói chung phụ nữ hiểu biết về hàng hóa tốt hơn nam giới,ngoại trừ
những hàng hóa như hàng điện, kim khí, máy móc.
- Phụ nữ tính toán tiền nong giỏi hơn, nhanh hơn.
- Phụ nữ chú ý nhiều hơn tới mốt và lựa chọn kỹ về mặt này.
- Phụ nữ thường có thị hiếu phát triển hơn nam giới.
- Phụ nữ thường thích mua hàng giảm giá, hạ giá hơn nam giới.
- Phụ nữ chịu ảnh hường mạnh của các điều kiện mua hàng, lựa chọn
lâu hơn bởi vì họ cân nhắc kỹ hơn nhiều yếu tố mà nam giới ít khi để ý.
- Phụ nữ quan tâm nhiều hơn tới các quầy trưng bày mẫu hàng, quảng
cáo hàng.
- Phụ nữ thường đề ra những yêu cầu cao hơn đối với người bán hàng.
b. Khách hàng là nam giới
- Do thiếu kinh nghiệm mua hàng, thiếu hiểu biết về món hàng, nên
nam giới thường muốn được người bán khuyên nhủ, cố vấn trong khi mua
hàng và tiếp thu những lời khuyên nhanh hơn phụ nữ.
- Khi mua hàng nam giới thường quyết định nhanh hơn phụ nữ.
- Nam giới ít thích mua hàng giảm: giá, hạ giá vì thường họ cho rằng đã
mua thì phải mua đồ tốt, đồ “xịn".
- Khi đã vào cửa hàng, họ thường có ý định rõ ràng, cương quyết hơn.
- Nam giới thường để ý tới chất lượng hàng hóa hơn là giá cả.
c. Khách hàng là người cao tuổi
- Người già thường dựa nhiều vào kinh nghiệm đã có trước đây. Họ
thường ưa thích những hàng hóa mà họ biết từ ngày xưa. Họ ít có khả năng
so sánh một cách khách quan những hàng hóa đó với hàng hóa và giá cả
hiện nay.
- Với những hàng hóa hiện đại, họ khó nhớ rõ một cách cụ thể, họ
chóng quên những chỉ dẫn của người bán hàng.
- Họ thường khó thích nghi với những thay đổi về cách thức bán hàng,
cách trưng bày, địa điểm bán hàng. Họ cần có sự giúp đỡ kịp thời của người
bán hàng để tìm những hàng hóa cần mua.
- Người già thường đánh giá ưu thế của món hàng nghiêng về giá trị
thực tế của nó, như bền, tiện dụng, hơn là hình thức như màu sắc, hình dáng,
mốt.
d. Khách hàng là trẻ em
- Trẻ em chú ý và có ấn tượng về người bán hàng mạnh mẽ hơn so với
người lớn, vì vậy trong cư xử với chúng cần giữ đúng chuẩn mực đạo đức mà
trẻ em vẫn coi trọng ở người lớn.
- Trẻ em thích được người bán hàng quan tâm, niềm nở, đối xử với nó
như là người lớn.
- Người bán hàng không nên nôn nóng, vội vàng khi trẻ chưa nói ngay
được ý muốn, có thể vì tính rụt rè, e thẹn, chưa quen với việc mua bán.
- Trẻ em thường có tính bị ám thị cao, nên rất dễ nghe theo lời khuyên
nhủ của người bán hàng.
- Trẻ em rất thích được khen là biết mua hàng, biết chọn hàng, là đảm
đang, là ngoan ngoãn…
e. Khách hàng là người bệnh tật đau ốm
- Họ rất nhạy cảm, dễ hưng phấn và bực bội, khó chịu với mọi điều.
Người bán hàng không nên quá để tâm về những điều đó.
- Họ muốn được phục vụ một cách nhanh chóng và chu đáo.
- Những người đau ốm lâu ngày hay bị khuyết tật thân thể thường có
thái độ mặc cảm với mọi người, vì vậy người bán hàng không nên chú ý quá
lộ liễu tới những khuyết tật của họ, mà cần giúp đỡ họ một cách tế nhị và
khéo léo trong công việc mua bán, bao gói, vận chuyển hàng hóa. Tránh
những hành vi có thể gợi nên tâm lý mặc cảm ở họ.
- Trong khi trình diện món hàng cho một người bị khuyết tật một giác
quan nào đó, cần chú ý tạo điều kiện để khách sử dụng các giác quan lành
còn lại, không nên nôn nóng, tỏ vẻ khó chịu khi phục vụ họ.
IV. NHỮNG YÊU CẦU CẦN THIẾT ĐỐI VỚI NGƯỜI BÁN HÀNG1. Yêu cầu về thể chất
- Sắc đẹp: Không cần thiết phải đẹp lắm, nhưng phải có duyên.
- Sức khỏe: Cần có đủ sức khỏe để phục vụ khách, giúp khách lấy
hàng, thử hàng, gói hàng…
- Dáng điệu, cử chỉ: Phái có dáng điệu tự tin, nhanh nhẹn, đi đứng, cử
chỉ hài hoà, lịch sự.
- Đầu tóc: Phải hợp với khuôn mặt, gọn gàng không cản trở đến công
việc.
- Vệ sinh thân thể: Phải sạch sẽ, đặc biệt là đối với người bán hàng
thực phẩm, ăn uống, quần áo, mỹ phẩm cần chú ý tới đặc điểm này.
- Trang phục: Phải gọn gàng, sạch sẽ, đứng đắn, hợp với dáng người,
không quá sặc sỡ hay diêm dúa, lòe loẹt.
- Giọng nói: Nhẹ nhàng, dễ nghe, không chát chúa hoặc the thé.
2. Yêu cầu về khả năng nghề nghiệp
- Phải nắm được kỹ thuật và nghệ thuật bán hàng.
- Phải có tài ăn nói, để giới thiệu, quảng cáo hàng, có tài đối đáp để
thuyết phục dẫn dụ khách.
- Phải có đầu óc nhạy cảm, tinh tế để tiếp chuyện với khách, để hiểu
khách. một cách nhanh chóng và đưa ra những lý lẽ để đối đáp kịp thời.
- Phải biết rõ về món hàng mình bán: Đó là, biết rõ vế chất liệu sản xuất
ra hàng hóa, tính năng kỹ thuật, thành phần cấu tạo, công dụng của hàng
hóa. Phải biết xuất xứ của hàng hóa, những ưu điểm, nhược điểm, cách bảo
quản, sử dụng chúng…
- Phải có óc thẩm mỹ, để bài trí gian hàng, bày trí món hàng, gói
hàng…
- Phải nắm rõ thị trường, về nhu cầu, thị hiếu, về số lượng hàng hoá,
giá cả… Phải biết rõ đối thủ cạnh tranh, để biết vế cách thức mua bán, về giá
cả, về những ưu nhược điểm món hàng mà họ bán, biết những thứ hàng nào
họ còn, thứ hàng nào họ hết…
3. Yêu cầu về phẩm chất cá nhân
- Phải điềm đạm, tự chủ, tự tin, biết cách kiềm chế cảm xúc.
- Phải kiên trì, nhẫn nại, đồng thời phải có sáng kiến, năng động, linh
hoạt.
- Phải mềm dẻo, lễ độ, nhã nhặn, niềm nở, biết cách cư xử lịch thiệp
với mọi người.
- Phải liêm khiết, trung thực, đảm bảo chữ tín đối với khách.
- Phục vụ khách nhiệt tình, ân cần, chu đáo..
Câu hỏi ôn tập10.1. Hãy trình bày các phương pháp sắp xếp hàng hóa trong cửa hàng
sao cho hấp dẫn.
10.2. Muốn gây sự chú ý của khách, cần phải làm những gì?
10.3. Khi trình diễn món hàng, bạn cần lưu ý những gì?
10.4. Muốn thuyết phục khách hàng, bạn cần chú ý tới nguyên tắc gì?
10.5. Bạn hãy lấy 5 ví dụ về việc áp dụng những thủ thuật tâm lý để dẫn
khách hàng đến quyết định mua mà bạn đã từng gặp.
10.6. Phân tích những phẩm chất của người bán hàng.
Phụ lục 1. GIAO TIẾP BẤT CỨ NƠI ĐÂU1. Người Anh
Người Anh thường lạnh lùng, trầm lặng, thực tế, thích ngắn gọn. Trong
quan hệ họ hay đè dặt, giữ ý, giữ thái độ nghiêm nghị trong chuyện trò;
thường đứng cách người đối thoại khoảng một cánh tay (50cm). Khi tán
thưởng một cái gì đó ít khi họ vỗ tay nhiệt liệt.
Ngón tay trỏ gõ lên cánh mũi có nghĩa họ muốn nói: “Hãy giữ bí mật".
Ngón tay trỏ vuốt mi mắt và kéo dài thấp xuống có nghĩa là: “Anh đừng bịp
tôi".
Ngày 14 tháng 2 hàng năm là ngày hội tình yêu ở nước Anh thường
tặng nhau hoa hồng và sôcôla. Người Anh rất yêu quí mèo, rất thích hoa tươi,
kỵ con số 13. Không nên tặng người Anh khăn tay, dao kéo.
Người Anh thích ăn các món gà quay, cá rán, thịt đúc, dê nướng, các
món chế biến từ ốc, cua, ba ba, rùa rắn. Điểm tâm của họ thường có nhiều
món, nhưng phải có trà, sữa, cà phê, họ rất thích uống trà có pha thêm một ít
sữa. Cách dọn thức ăn là bày ra sẵn tất cả các món. Khi ăn người Anh cầm
nỉa úp xuống, và họ thường chừa lại một ít thức ăn ở mỗi món để tỏ vẻ lịch
sự.
Người Anh thường kỵ 3 thứ:
- Kỵ thắt cà vạt kẻ sọc. Vì loại này thường là hàng hỏng theo trang
phục quân đội hoặc nhà trường.
- Kỵ lấy chuyện Hoàng tộc ra chế giễu.
- Kỵ bảo người Anh là người Anh vì gốc người Anh chỉ là người
Scôtlen, mà người nói chuyện với bạn có thể là người Scôtlen, người Ailen,
Bắc Ailen hoặc người Wales, nói “Britơn” sẽ làm hài lòng tất cả người Anh.
Đề tài nói chuyện hấp dẫn nhất là thời tiết. Trong làm ăn họ thích đi
thẳng vào vấn đế, không vòng vo lãng phí thời gian. Họ thích đàm phán,
thương lượng tay đôi, mặt đối mặt với tư cách cá nhân, đồng thời họ coi trọng
những người có tư duy độc lập, sáng tạo, độc đáo. Người Anh đạt kỷ lục về
giao hàng trễ. Vì thế bạn cần đưa ra các khoản phạt vì trễ hẹn trong hợp
đồng.
2. Người Pháp
Người Pháp thường thông minh, lịch sự, khéo léo trong giao tiếp. Trong
hình thức, cầu kỳ trong chuyện ăn, chuyện mặc, rất hài hước và châm biếm
trước cái gì thái quá.
Người Pháp kỵ hoa cúc và không thích hoa cẩm chướng. Nếu tặng hoa
hay đồ trang sức cho phụ nữ Pháp có thể bị hiểu lầm là quá thân thiết hoặc
có “mưu đồ mờ ám".
Người Pháp không thích đề cập đến chuyện riêng tư trong gia đình và
những bí mật trong kinh doanh. Họ rất quan tâm đến quá khứ và thường lập
kế hoạch làm ăn lâu dài dựa vào những điều đã xảy ra trước đó.
Với người Pháp, ngón tay trỏ chỉ vào thái dương xoay đi xoay lại ý nói
người khác làm điều gì đó không bình thường. Họ rất thích bắt tay và bắt tay
rất nhiều.
Nếu bạn thương lượng với người Pháp, hầu như chắc chắn những
cuộc thương lượng sẽ diễn ra bằng tiếng Pháp, dù cho họ có biết tiếng Anh
hoàn hảo, họ ít khi chịu nhượng bộ chuyện này trừ khi họ ở nước ngoài hoặc
họ rất cần làm ăn với bạn. Người Pháp không ân hận gì trong việc chơi gác
bạn trong một cuộc thương lượng nếu họ có đòn bẩy kinh tế để làm chuyện
đó. Họ sẽ trói chặt bạn vào vụ giao dịch và không gì ngoài vụ giao dịch khi
nào nó còn phù hợp với họ. Nếu không họ sẽ phá vở hoặc thách bạn ngăn họ
được. Vì thế bạn phải xem xét hợp đồng một cách cẩn thận.
3. Người Đức
Người Đức thông minh, tư duy chặt chẽ, nhanh nhạy tiếp thu mọi điều
cũng nhanh và dứt khoát. Người Đức có phong cách giao tiếp rõ ràng, rành
mạch, sòng phẳng, họ có kế hoạch chi tiêu rất cụ thể và tiết kiệm. Người Đức
có tài tổ chức, ý chí cao và làm việc luôn theo một kế hoạch cụ thể.
Khi giao tiếp người Đức thường đứng cách đối tượng trên 50cm. Họ rất
hay bắt tay khi gặp nhau.
Người Đức hay để ý tới hình thức, đặc biệt là người Bắc Đức Họ thích
nhắc tới học hàm, học vị trong giao tiếp.
Họ thích ăn món thịt hun khói. Trong nấu ăn, họ sử dụng nhiều bơ,
thích ăn các món có sốt, đặt biệt là sốt trắng có sữa, kem tươi. Họ hay ăn thịt
bò, các món chế biến từ cá và khoai tây. Thích các loại bánh ngọt đậm, uống
cà phê. Khi ăn uống không nói chuyện ồn ào, không có tiếng va chạm mạnh.
4. Người Ý
Người Ý nói nhiều, lạc quan, say mê âm nhạc, coi trọng sự gọn gàng,
kiểu cách và trang trọng, hào phóng. Người Ý rất đúng hẹn, nhưng trước khi
bàn tới chuyện làm ăn nên có câu chuyện mào đầu. Muốn thiết lập mối quan
hệ lâu dài với người Ý hãy mời anh ta và vợ anh ta đi ăn tối tại một nhà hàng
trên mức trung bình. Trong cuộc gặp gỡ này chỉ nên đề cập tới những vấn đề
xã hội, đừng đụng chạm gì đến chuyện làm ăn, trừ khi họ chủ động đưa ra.
Nếu trong cuộc thảo luận về vấn đế kinh doanh giữa bạn và họ gặp tình
huống gay cấn, bạn nên hẹn dùng cơm trưa, lúc đó bạn có thể tiếp tục thảo
luận về những điểm đó trong bầu không khí thân mật. Chú ý không được
uống rượu say dù chỉ hơi ngà ngà, trong khi ăn không hút thuốc.
Tặng hoa và quà cho họ thì tránh tặng hoa cúc và tránh các số lẻ.
5. Người Thụy Sĩ
Người Thụy Sĩ lịch sự, chính xác, kiên trì và thận trọng, thích sự yên
tĩnh trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Người Thụy Sĩ thường có học vấn
cao, có thể sử dụng ba thứ tiếng Anh, Pháp, Đức. Ấn tượng ban đầu đối với
họ là rất quan trọng.
Gặp và làm việc lần đầu tiên với họ hãy trao danh thiếp cho họ trước.
Danh thiếp nên in cả năm thành lập công ty, bởi vì họ rất thích những công ty
có thâm niên. Thư tín kinh doanh nên gửi cho công ty, đừng gửi cho nhân
viên vì nếu người nhận đi vắng thì thư đó không bao giờ được bóc ra đọc.
Khi đến thăm họ nên mang theo một chai Whisky scotlen và một bó
hoa. Khi nói chuyện tránh đề cập tới chuyện gia đình, đời tư, tôn giáo, tuổi
tác, mà chi nên nói về quan hệ quốc tế, thể thao, du lịch và những gì ta yêu
thích ở đất nước họ.
6. Người Mỹ
Người Mỹ năng động, ham mê hoạt động, phiêu lưu, thực dụng, thích
giao tiếp, quan hệ rộng, không câu nệ hình thứ thoải mái tự nhiên. Do vậy làm
quen với họ thì rất nhanh nhưng kết bạn lâu bền thì khó.
Người Mỹ trong giao dịch kinh doanh không cần bắt ta quá nhiều, có
thể đi thẳng vào chuyện làm ăn, thậm chí có thể đàm phán ngay trong lúc ăn
sáng. Cũng như người Anh người Mỹ cho rằng mọi quan hệ cá nhân đều dựa
trên quan hệ thị trường, trao đổi buôn bán nên rất chú trọng đã những khía
cạnh pháp lý của đàm phán, thương lượng. Người Mỹ đề cao chủ nghĩa cá
nhân, tính tự do, độc lập, cho nên trong đàm phán cũng thường chỉ một cá
nhân nào đó đứng ra chịu trách nhiệm là chính.
Người Mỹ có thói quen ngồi bỏ chân lên bàn, tay chắp sau gáy, quần
áo có nhiều túi. Họ rất tin vào sức mạnh thần bí, họ rất kỵ con số 13 (nhà
không có số 13, tầng phòng không đánh số 13…). Món ăn truyền thống là
sườn rán, bánh cua và sandwich, thích ăn mặn, lẫn vị ngọt đặc biệt là món
táo nấu với thịt ngỗng. Khi họ tạm dừng ăn thì đặt dao, nỉa song song bên
phải của đĩa ăn: mũi nhọn của nỉa quay xuống dưới. Nếu cũng như vậy mà
mũi nhọn của nỉa quay bên trái tức là không ăn nữa.
7. Người Phần Lan
Ở Phần Lan bất kỳ mùa nào cũng không nên ăn mặc trang phục phổ
thông. Người Phần Lan thích xưng hô chức năng của họ trong đàm phán.
Nếu không biết xưng hô thế nào thì cứ xưng hô là giám đốc, người Phần Lan
nào cũng hài lòng, mặc dù họ không phải là giám đốc. Thương gia Phần Lan
tương đối bảo thủ, một khi họ đã quyết định bắt tay rồi thì sẽ có hiệu lực như
đã ký hợp đồng. Đàm phán thường được tiến hành ở văn phòng chứ không
phải ở bữa tiệc. Thông thường giao dịch xong mới chúc mừng, dự tiệc và mời
đi tắm hơi. Nếu từ chối đi tắm hơi thì phái suy xét thật kỹ, vì lời mời này là một
nghi lễ quan trọng.
Nếu họ mời đến nhà riêng, nhớ đến đúng giờ và mang hoa tặng bà chủ
(số lẻ, 5 hoặc 7). Trước khi chủ nhà mời rượu, không nên nếm thức ăn. Khi
nói chuyện tốt nhất không nói chuyện chính trị.
Lễ nghi ở các nước Bắc Âu giống như ở Phần Lan. Thụy Điển còn cầu
kỳ hơn.
8. Các nước Hồi giáo
Với họ nên thận trọng từng lời nói cử chỉ. Quán cà phê thường là nơi
gặp gỡ. Giao dịch mua bán phải chuẩn bị ít nhất hai tách cà phê, nước trà
hoặc nước giải khát khác. Ở các nước hồi giáo tốt nhất là cai rượu và bỏ
thuốc. Khi chụp hình không được hoan nghênh. Được mời đến nhà chơi nên
nhớ mang theo quà. Bà chủ không có mặt tại bữa tiệc, việc tiếp đón do đàn
ông đảm nhiệm, không nên hỏi han sức khỏe bà chủ. Nếu đi đường ngẫu
nhiên gặp phụ nữ không nên tiếp xúc quá lâu. Ở Ả Rập không nên đề cập
đến chính trị Trung Đông và chính sách dầu lửa quốc tế.
9. Người Úc
Phần lớn giao dịch làm ăn trong các quán rượu nhỏ. Cần nhớ rõ bữa
ăn nào do ai trả tiền, không nên trả tiền sốt sắng hoặc quên trả tiền.
10. Người Nam Mỹ
Dù thời tiết nóng bức như thế nào cũng nên chọn trang phục màu sẫm.
Dự tiệc phải đúng giờ, phưng đối tác có đến trễ cũng đừng lấy làm lạ. Khi
đàm phán cần tỏ ra thân mật, ngồi gần nhau, có thể ghé sát mồm vào tai đối
phương để nói, nhưng không được sỗ sàng làm mất tư thế. Người Nam Mỹ
đắn đo trong chuyện làm ăn hơi lâu, và thường không dám làm lớn.
11. Với người Nhật
Người Nhật yêu thiên nhiên, tình cảm, thẩm mỹ phát triển cao, trung
thành với truyền thống. Họ thích những gì cụ thể, có hình khối rõ ràng. Họ có
tính kỷ luật cao, trung thành với nhân vật có uy quyền, chu toàn bổn phận với
nhóm. Người Nhật thường có tính tự chủ cao, điềm tĩnh, ôn hòa. Nụ cười của
họ có nhiều ý nghĩa, họ cười không chỉ trong hoàn cảnh vui vẻ, thanh thản mà
kể cả trong hoàn cảnh nặng nề, đau đớn. Người Nhật sợ nhất khi bị “mất mặt,
mất thể diện, tai tiếng".
Dùng danh thiếp để giới thiệu làm quen trong lần đầu gặp gỡ với người
Nhật càng cúi đầu thấp bao nhiêu càng thể hiện sự tôn trọng và bái phục bấy
nhiêu. Người Nhật rất thích hoa anh đào, đây là nét thẩm mỹ rất tự hào đối
với họ. Hoa cúc cũng được ưu mến, vì nó là biểu tượng cho tình cảm thắm
thiết, tri kỷ và tôn trọng. Trà đạo (chado) cũng là một nét văn hóa truyền thống
đáng trân trọng.
Khi tặng quà cho người Nhật cần chú ý mấy chi tiết:
- Trang trí gói quà: giấy gói phải phù hợp: màu trắng, đỏ thắm cho gặp
mặt thông thường; màu vàng bạc cho đám cưới; màu đen, xám cho tang lễ.
- Không bóc quà trước mặt người tặng với người Nhật đã trở thành
nguyên tắc.
- Người Nhật kỵ số 4, vì tiếng Nhật Shi có nghĩa là 4 nhưng cũng có
nghĩa là chết. Người Nhật thích số lẻ: 3, 5, 7, chọn buồng lẻ, phòng số lẻ,
tặng hoa, quà số lẻ.
Người Nhật trong giao tiếp thích vòng vo, bóng gió. Họ ít khi đả động
đến chuyện làm ăn, buôn bán trong lần tiếp xúc đầu tiên, vì với họ mục đích
của buổi gặp ban đầu là tìm hiểu và thiết lập sự tin cậy lẫn nhau. Người Nhật
bao giờ cũng thương lượng với sự tham gia của một nhóm người, họ ưu tiên
cách làm việc tập thể do coi trọng lợi ích cộng đồng hơn là lợi ích cá nhân
(điều này ngược với người Mỹ).
12. Các nước Đông Nam Á
Khi giao dịch không nên ngồi vắt chân chữ ngũ, không nên lắc chân và
hướng mũi giày vào đối phương. Ở đây có tập quán vái (chắp hai tay), còn
bắt tay, ôm hôn chưa phổ biến.
+ Người Inđônêxia. Ở Inđônêxia, nếu ai mời món ăn gì thì phải nhận,
dù chỉ là nhấm nháp chút đỉnh. Từ chối bị xem là bất lịch sự. Khi được mời
dùng bữa, phải chú ý nhìn chủ nhà, chủ phải mời khách mới được phép ăn và
nếu khách ăn trước chủ thì sẽ được hiểu là còn đói. Người Inđônêxia thường
dùng muỗng, nỉa, đũa và ngón tay để ăn, nhưng điều tối kỵ là không ăn bằng
tay trái vì bị coi là dơ bẩn. Không bao giờ được yêu cầu món thịt heo vì người
Hồi giáo cữ món này. Xin thêm muối tiêu, nước chấm cũng là diều tối kỵ vì
như vậy chẳng khác nào nói chủ nhà không biết nêm nếm. Nên tránh nói
chuyện khi ăn và khi xỉa răng phải nhớ che miệng, vì họ cho rằng chỉ có loài
cầm thú thì mới nhe răng.
Ở Inđônêxia, thời gian tốt nhất cho thăm viếng là từ 4 giờ đến 6 giờ
chiều (trước giờ cầu nguyện). Họ dùng cả hai tay để bắt rồi chạm vào ngực
để chỉ sự chân thành. Nếu bạn cũng làm vậy thì họ sẽ rất hài lòng. Nên bắt
tay với tất cả mọi người, kể cả phụ nữ và trẻ em, và nếu dùng một tay thì nhớ
dùng tay mặt để bắt. Chớ bao giờ chạm lên đầu ai vì hành động này bị xem là
khinh bỉ, coi thường họ.
+ Người Brunây. Khách cần bỏ giày ra khi vào các điện thờ hoặc nhà
riêng. Nói chung ăn mặc phải hết sức cẩn thận: không mặc quần đùi, áo thun.
Không đi ngang qua trước mặt một người đang cầu nguyện, không sờ mó
vào sách Kinh Kỏan ở các điện thờ.Nắm bàn tay phải trong lòng bàn tay trái
và dùng ngón trỏ để chỉ trỏ là những hành động bị xem là khiếm nhã. Bạn chỉ
có thể dùng ngón tay cái để chỉ. Nếu gọi ai lại gần mình thì phải ngoắc cả hai
tay, lòng bàn tay úp xuống dưới. Người khác phái không được bắt tay nhau.
Vào tháng chay tịnh Ramadan, ăn uống trước mặt người Brunây giữa khoảng
thời gian từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn là điều tối kỵ. Vào thời gian
này bạn phải ăn uống thật kín đáo, thậm chí rút vào phòng riêng của mình.
13. Người Ấn Độ
Phong tục tập quán Ấn Độ gắn liền với đắng cấp và lễ nghi tôn giáo.
Mỗi cử chỉ hành vi của con người được qui định một cách tỉ mỉ, chặt chẽ. Ở
Ấn Độ hai người có đẳng cấp khác nhau không bao giờ cùng làm một việc,
cùng chung một bàn.
Người Ấn Độ thường chào bằng cách chắp tay ở trước ngực hay
ngang trán để thể hiện sự tôn trọng đối với bề trên. Thông thường, người
quen biết ngang hàng chào nhau bằng cách mỉm cười và lúc lắc đầu. Ở giới
thượng lưu cũng học cách bắt tay, tuy nhiên chào bằng cách bắt tay với phụ
nữ Ấn là hết sức tránh.
Khi tiễn khách ra về chủ nhà bao giờ cũng nhường cho khách đi trước
và tránh quay lưng về phía khách, khi nói chuyện cũng tránh nhìn vào mắt họ.
Những người thuộc đẳng cấp cao nhất (Balamôn) rất sợ chạm phải đồ
da (giày da, thắt lưng da…) vì đó là da động vật bị giết.
Người Ấn chủ yếu là ăn bốc, chỉ và chỉ bốc bằng tay phải, còn tay trái
dùng cầm cốc, uống nước rót thẳng từ cốc vào miệng chứ không ngậm lấy
cốc. Bốc thức ăn phải thật gọn, nếu rơi thức ăn xuống đĩa thì coi như đĩa đó
là bỏ đi. Món ăn phải thật cay và nhiều gia vị, dậy mùi, bánh kẹo thật ngọt
uống với trà đen có pha thêm một chút sã và một ít gừng. Họ kỵ các số 41,
141, còn thích các số 11, 21, 31, 51, 101, 121, 131, 151.
14. Người Nga
Người Nga thật thà, thẳng thắng, dứt khoát, dễ thỏa thuận, dễ gần, ít lễ
nghi, cởi mở, dễ hòa mình và thích nghi với môi trường chung quanh, rộng
lượng, chân thành trong mọi quan hệ.
Khi đón tiếp khách quí thường có lễ mời bánh mì và muối để tỏ tình
cảm chân thành, chớ nên từ chối, hãy bẻ một mầu bánh mì, chấm vào muối
và nhấm nháp. Họ thích ăn các món quay, các món nấu nhừ, các loại thịt băm
viên bỏ lò hay om có sốt. Trước khi ăn các món chính họ ăn súp (súp có lẫn
thịt và rau, đôi khi có cả gạo ở trên có rưới một ít váng sữa). Dưa chuột, cà
chua muối, cá hun khói là món ăn khá phổ biến của họ. Sau khi ăn xuống họ
hay uống trà đen có lát chanh có pha đường và uống vào cốc to, hoặc uống
nước hoa quả, ca phê, ca cao. Đồ uống của họ là Voska, Cognac, và Lúa mới
cũng được ưa chuộng.
Phụ lục 2: MỘT SỐ KINH NGHIỆM NHÌN NGƯỜI THÔNG QUA NHỮNG ĐẶC ĐIỂM ỔN ĐỊNH(Chỉ để phán đoán và định hướng về đối tượng chứ không nên tuyệt đối hóa)
1. Nhìn mặt mà bắt hình dong
MẶT
- Mặt tròn: nhiệt tình, nhạy cảm, vui vẻ, dễ xúc động, đa tình, thiếu
cương quyết, dễ bị ảnh hưởng và chiều theo ý người khác. Gặp khách hàng
loại này, người bán phải khai thác tính rộng rãi, nông nổi, thiếu suy nghĩ trước
khi quyết định.
- Khuôn mặt trái xoan: hấp dẫn người khác, giàu cảm xúc hay mơ
mộng, thiếu kiên trì.
- Khuôn mặt hình lục lăng, (nhiều góc cạnh): không thích và không bị
người khác kích động, làm việc theo ngẫu hứng, hơi nhát, tận tâm với công
việc, dễ thay lòng đổi dạ.
- Khuôn mặt chữ điền: tự tin, ý chí, có nghị lực, tin cậy, khi họ đã quyết
điều gì thì khó mà thay đổi được, họ không quanh co, lừa lọc, không dối trá,
dấu giếm. Đối với khách này; người bán không nên giới thiệu hàng xấu mà
bảo tốt sẽ gây bất bình đáng lo ngại vì họ là lớp người có đầu óc thực tế, có lý
trí, ngoan cố, khá cứng rắn, rất ghét kẻ lợi dụng, nhưng cũng có khi rộng
lượng.
- Mặt chữ nhật: Thơ mộng, giàu trí tưởng tượng, nhạy cảm, nhưng ích
kỷ và hay lo lắng.
- Mặt hình tam giác: nhanh nhẹn, ham hiểu biết, nghị lực phi thường,
quả quyết nhưng gian ngoan, thủ đoạn, hay tự ái và nổi cáu.
TRÁN
- Trán vuông: chứa đựng một trí óc tổng hợp, quả quyết, thông minh,
sáng suốt. Có sự hiểu biết rộng, trí nhớ lâu dài chính xác. Họ là người thực tế
không mơ mộng, ảo tưởng xa vời. Nếu trán vuông mà hất về phía sau thì đây
là một nhà hùng biện, có năng khiếu thuyết phục và dìu dắt quần chúng, tiêu
biểu cho những nhà có biệt tài. Gặp khách hàng loại này, người bán phải tỏ ra
khiêm tốn, sẵn sàng nhận lãnh sự chỉ giáo:của họ, phục vụ họ trong mọi yêu
cầu.
- Trán cao: người có trán này một khi đã quyết điều gì là kèm theo một
niềm tin sắt đá, bảo vệ điều đó với tất cả lương tri và sự hãnh diện theo quan
điểm của họ. Là người có tính sáng tạo, có óc trừu tượng, xa thực tế. Người
bán ngoài nhiệm vụ hướng dẫn phục vụ họ, còn phải biết tranh thủ sự giúp đỡ
của họ, tôn họ là bậc thầy, họ sẽ vui vẻ mua hàng, giúp đỡ lâu dài.
- Trán hẹp: là người có óc phân tích, mổ xẻ một cách vô trật tự, thiếu
khoa học, dè dặt và chậm chạp. Là người thiếu tính quyết đoán. Người bán
khó thuyết phục họ bởi đầu óc họ luôn mang sẵn một thiên kiến tiền chế và do
dự, thiếu quyết đoán. Nếu họ đi chung với vợ thì vợ sẽ quyết lấy tất cả.
- Trán thấp: là người có óc thực tế, họ nhìn sự vật một cách trung thực
và không quan tâm tới lĩnh vực tư tưởng ý chí rõ ràng, cương quyết.
- Trán hình thang: là trán rất rộng về phía trên cả cho chúng ta cảm
tưởng họ rất thông minh, loại trán của nhà nghệ thuật, những tài tử. Khi bán
hàng cho loại này thì cần phải khai thác giá trị văn hóa, nghệ thuật, giá trị
thẩm mỹ của mặt hàng, dẫn dụ họ và cũng chứng tỏ mình cũng am hiểu lĩnh
vực này, đứng về phía khách hàng, ta làm cho họ yêu thích món hàng.
- Trán hình nón: là trán có chiều ngang hẹp ở trên và chiều ngang ở
dưới rộng. Là người nhớ lâu, nhớ kỹ những gì rất thực tế, cụ thể. Họ có khiếu
quan sát. Là người thực tế, ít viễn vông. Thấy loại người này, người bán hàng
phải hướng dẫn đến những mặt hàng giúp họ học hỏi về kỹ thuật, về máy
móc, về khoa toán lý, về nghệ thuật.
CẶP MẮT
- Khoảng cách giữa hai mắt: cặp mắt thường cách nhau 30 ly. Nếu tính
rộng hơn 30 ly thì họ là người có óc thực tế, chăm chỉ, lạc quan. Nếu hẹp hơn
30 ly là người hay buồn, thích nghỉ ngơi, thích giải trí, hay lơ đãng, thiếu chăm
chỉ.
- Mắt chim sẻ (đen và sáng): chân thật, hòa thuận.
- Mắt ếch (sáng và lồi): khéo léo, biết chìu người.
- Mắt rùa (nhỏ và tròn khi nhìn thì phải hơi rướn lên): tính nhút nhát,
trách nhiệm không cao, sống lâu.
- Mắt phượng: thông minh, lanh lợi, có nhiều tài năng.
- Mắt hổ (to, lòng trắng nhiều): độc đoán, táo bạo, ham thành đạt.
- Mắt khỉ (đen láy và tinh ranh): khôi hài, thông minh, luộm thuộm.
- Mắt bồ câu (tròn, đẹp): thùy mị, nết na, quyến rũ.
- Mắt chó sói (nhìn hay cau mày và cúi xuống): dịu dàng, chăm chỉ và
đơn giản.
- Mắt rồng (đẹp như ngọc, trong như suối): cao thowngj, quyền uy.
- Mắt dê (vừa đen và vàng): hám danh, dâm dục.
Đó mới chỉ là nói về hình dạng đôi mắt, ngoài ra chúng ta còn nhận biết
tính cách thông qua cái nhìn của họ nữa.
- Người có óc thực tế có cái nhìn lạnh lùng, người ngay thẳng, nhân
hậu có cái nhìn thẳng và trực tiếp.
- Người nham hiểm, đa nghi có cái nhìn xoi mói, lục lọi. Hai mắt nhìn
xuống: không an toàn, chạy trốn, bỏ cuộc.
- Hai mắt nhìn trân trân đối phương: một sự uy hiếp, sự công kích.
- Người nói dối thường hay lãng nhìn đi nơi khác.
- Người hay liếc ngang tỏ sự không tin tưởng, hay nghi ngờ.
CHÂN MÀY
- Chân mày thưa thớt, nhợt nhạt: là người có tính thờ ơ lãnh dạm, ít
cảm xúc trước những đau khổ của mình và người khác. Là người không ưa
hoạt động.
- Chân mày rậm rạp, tua tủa: là người ham thích hoạt động, bồng bột
và cuồng nhiệt: là người dễ nóng giận, nhưng cũng dễ nguội.
- Chân mày ngắn: tính tình hay thay đổi thất thường, dễ hứng thú
nhưng cũng dễ chán nản.
- Chân mày gần chạm nhau: là người rất nhạy cảm, hay ghen tuông và
tính tình rất đam mê.
- Chân thày hình bán nguyệt đều đặn: là người dễ mến, tế nhị.
- Chân mày xa mắt nhiều: là người thiếu ý chí, tính tình thụ động.
- Chân mày mọc gần mắt: là người có nhiều thiện chí.
- Đuôi chân mày cụp xuống: là người kín đáo.
- Đuôi chân mày xếch lên là người ưa hoạt động, bạo, dạn, hay gây sự,
khiêu khích, khinh người, giả dối.
MŨI
- Mũi hếch lên: là người bền chí, ngoan cố, cương quyết. Đôi khi dữ
tợn.
- Mũi tẹt: là người hơi vụng về, sự ngay thẳng quá mức có thể trở thành
thô kệch, cộc cằn. Thường có tính thành thật, chất phác, tình cảm có vẻ nặng
nề.
- Mũi quặp xuống: là người lạnh lùng, che dấu những mu mô. Tính tình
tham lam, câu nệ.
- Mũi ngắn: là người rất bình tĩnh, ít nói. Lầm lì, đôi khi bồng bột, cuồng
nhiệt với công việc.
- Mũi nhọn: loại người này có tính tò mò, lục lọi, lắm chuyện, lôi thôi, có
tính hiếu kỳ, khó thỏa mãn. Cũng là người nhanh nhẹn, linh hoạt, sắc sáo.
- Mũi dày: nhạy cảm, đời sống nội tâm dồi dào, hay cân nhắc, đắn đo.
Họ hay lý sự, ham thích những thú vui tinh thần, hay tự phụ kiêu căng.
- Mũi to: thường thiên về thú vui vật chất, là người lạc quan tốt bụng,
nhưng không khéo léo.
- Mũi tròn: là người ưa thích cãi bướng, hay gây chuyện.
ĐÔI MÁ
- Gò má đầy thịt và tròn là người thích ăn nhậu, thích thổ lộ tâm tình.
- Gò má ốm, hóp, không thịt là người dễ nổi nóng, dễ xúc động, giàu
tường tượng, bình dị và đôi khi tỏ ra khắc khổ.
- Má lúm đồng tiền: là người có duyên, ăn nói hấp dẫn, có tính nhạy
cảm, nhưng cũng hay thay đổi.
CẰM
- Cằm vuông: là người khá thực tế, rất tự tin vào bản thân, là người có
nghị lực và sức hoạt động cao. Nếu là cằm vuông nhưng lắm góc cạnh là
người cứng rắn, thô kệch. Cằm vuông hơi bầu là người dịu dàng, dễ thông
cảm:
- Cằm vểnh: Là người giàu nghị lực, có những tính như cắm vuông.
Tuy vậy loại người này dễ phí phạm sức lực và thời gian vào những cuộc cãi
cọ, tranh luận tầm phào. Là người hay cãi lý. Họ không chịu được sự khích
bác, chống đối là người khó bị thuyết phục.
- Cằm nhỏ: là người sống nhiều về tinh thần, luôn luôn cầu tiến, có
trách nhiệm và đáng tin cậy.
- Cằm thẳng: là cằm của những người rất ngoan cố, vững lập trường,
khó thay lòng đổi dạ, trung thành với bạn bè.
- Cằm lẹm: là người ưa trốn tránh khó khăn, sợ những chuyện rầy rà,
phiền phức. Luôn biện bạch để trốn tránh công việc.
2. Dáng đi
- Người đi mà ngửa mặt lên: thông minh, sáng suốt.
- Người đi mà giật cục: có uẩn khúc trong lòng.
- Người đi ung dung, bệ vệ: cởi mở, Vô tư, nhàn hạ.
- Dáng đi lật đật, hay tay như bơi: vất vả, lận đận.
- Dáng đi lao đầu về phía trước: là người hấp tấp, vội vàng.
- Dáng đi nặng nề: vụng về, tối trí.
- Dáng đi như chim chích: tháo vát, năng nổ.
- Dáng đi nhanh, vững: tự tin.
- Dáng đi có vẻ lập cập: hay thay lòng đổi dạ.
- Bước đi chậm mà dài: rất quả quyết.
- Bước đi chậm mà ngắn: rất tỉ mỉ, đắn đo thận trọng.
- Đi mà ngoáy mông, quét chân: đa tình, thích việc tình ái.
3. Màu sắc thể hiện tính cách con người
1. Người ưa màu trắng: tính tình dễ chịu, thoải mái.
2. Người ưa thích màu đen (trường hợp không là mốt) thường nhìn
cuộc sống bi quan, ít tin tưởng và không được hạnh phúc lắm. Người thích
màu này khó có thể đạt được ước mơ của mình trong cuộc đời.
3. Người thích màu xám là những người dũng cảm nhưng hay nghi
ngờ, cân nhắc lâu trong khi quyết định, ngại bộc lộ tình cảm của mình đối với
người khác. Màu xám là màu gợi về sức mạnh. Người nhẹ dạ cả tin ghét màu
xám.
4. Người ưa mâu đỏ là người nhẹ dạ, xông xáo nhưng nóng tính và hay
cáu, thường ổn định trong quan hệ tình cảm với người khác.
5. Người ưa màu da cam thường biểu hiện người có khả năng về linh
cảm hay mơ mộng, loại người này có tính giả nhân giả nghĩa. Màu da cam
làm cho ai đó có sức mạnh, hấp dẫn về mặt trí tuệ và những người ưa thích
màu này thường có những thành công bất ngờ về mặt tiền bạc.
6. Người ưa thích màu nâu có vẻ đứng đắn nghiêm chỉnh, dễ làm cho
người khác tin cậy mục đích tốt đẹp của mình, là người rất thực tế, biết kính
trọng truyền thống gia phong. Người tự mãn tự kiêu thì ghét màu nâu.
7. Màu vàng là màu sáng tạo và tham vọng cho ai muốn thành công và
giàu có về mặt nghệ thuật. Người yêu màu này thường xã giao tốt. Có tính tò
mò cao, bạo dạn và dễ thích nghi với môi trường, có sức hấp dẫn mọi người
đến với mình.
8. Màu đậu cô ve: người thích màu này thường hách dịch hay tìm cách
buộc người khác phải theo ý mình, sợ bàn bạc trao đổi trước khó khăn của
một việc hay một vấn đề nào đó.
9. Màu hồng: người yêu màu hồng thường là người rất nhạy cảm,
nhưng để bùng nổ từ những lý do nhỏ nhặt nhất. Người thực dụng thường
ghét màu hồng.
10. Những người thích màu tím thường có cảm xúc mạnh, tính tình nhẹ
nhàng, phát triển hài hòa. Những người thực tế và thiên về bổn phận thì ghét
màu này.
11. Người ưa màu xanh nước biển là người sạch sẽ, ngăn nắp trật tự,
có tâm hồn cao thượng, thích sự giản dị, nhưng đa sầu đa cảm. Loại người
này rất dễ mỏi mệt.Tin yêu và quí mến sự hảo tâm của người khác. Người
thích màu này thường là người nhẹ dạ, cả tin đặc biệt trong lĩnh vực thể hiện
tình cảm.
12. Màu xanh lá cây là màu của tự nhiên, của bản thân cuộc sống, màu
của tiền bạc. Người thích màu này thường xuyên mặc màu này rất gặp may
và giàu có, loại người này thường tích cực tìm kiếm lối sống riêng cho mình,
không thích phụ thuộc và chịu ảnh hướng từ người khác, độc lập là điều họ
quí nhất. Người ghét màu này là những người rất sợ những vấn đề khó khăn
ngày thường, hoặc sự thay đổi trong cuộc đời họ.
4. Thông qua nét chữ
- Người nào khi viết ấn mạnh nét chữ thì chứng tỏ người đó sung sức,
thể lực tốt và mức độ ham muốn tình dục cao. Nếu khi viết nét chữ không
đều, hay lên xuống biểu hiện thiếu tự tin, không kiên quyết.
- Nếu nét chữ rời rạc, đứt đoạn thì hay mơ mộng.
- Nếu nét chữ nghiêng đổ chứng tỏ dấu hiệu không kiên định.
- Nét chữ thẳng: chứng tỏ kín đáo, kiềm chế tốt.
- Nét chữ to: giàu nghị lực, giao thiệp rộng thoải mái và ham thành dạt.
- Ở cuối chữ mà các chữ cái viết to ra thì người cả tin, giàu tình cảm và
chân thực.
- Ở cuối chữ thà nhỏ tí thì người đó hay đa nghi, cẩn thận và khôn
ngoan.
- Khi phấn chấn thì chữ viết có xu hướng nhảy lên, khi buồn bực thì
chữ viết có xu hướng đâm xuống.
Phụ lục 3 : TRẮC NGHIỆM XÁC ĐỊNH KIỂU TÂM LÝ VÀ KHÍ CHẤTBạn có muốn biết mình thuộc người hướng nội, hay hướng ngoại?
Mình thuộc lại tính khí gì? Bạn hãy đọc kỹ 57 câu hỏi dưới đây. Nếu thấy câu
nào đúng với bản thân bạn thì ghi dấu “+” ở trước số thứ tự của câu hỏi đó,
còn nếu điều nào không đúng với bản thân thì ghi dấu “-” ở trước số thứ tự
của câu hỏi tương ứng. Hãy trả lời một cách trung thực, không bỏ quãng. Gặp
những câu không quen thuộc hãy cứ trả lời theo ý của bạn. Hãy trả lời theo
những ý nghĩ nảy sinh trong đầu trước tiên. Ở đây không có câu trả lời nào là
tốt là xấu hãy trả lời tất cả các câu hỏi theo như bạn nghĩ tới nó đầu tiên.
1. Bạn có thường xuyên bị lôi cuốn vào những cảm tưởng, những ấn
tượng mới mẻ hoặc đi tìm nguồn cảm xúc mạnh mẽ để giải buồn và làm mình
phấn chấn lên không?
2. Bạn có thường xuyên cảm thấy cần có những người tâm đầu ý hợp
để động viên và an ủi mình không?
3. Bạn là người vô tư, không bận tâm đến điều gì phải không?
4. Bạn cảm thấy rất khó khăn khi phải từ bỏ những ý định của mình
hoặc phải trả lời người khác chữ “không” phải không?
5. Bạn có hay cân nhắc, suy nghĩ trước khi hành động không?
6. Khi đã hứa làm việc gì, bạn có luôn luôn giữ lời hứa không? (bất kể
lời hứa đó có thuận lợi cho bạn hay không).
7. Bạn thường hay thay đổi tâm trạng: lúc vui, lúc buồn phải không?
8. Bạn có hay nói năng, hành động một cách bộc phác, vội vàng không
suy nghĩ không?
9. Có khi nào bạn cảm thấy mình là người bất hạnh mà không có
nguyên nhân rõ ràng không?
10. Bạn có thể xếp mình vào loại người không bao giờ phải lúng túng,
ấp úng, mà luôn sẵn sàng đối đáp với mọi nhận xét hoặc bất chấp tất cả để
tranh cãi đến cùng hay không?
11. Bạn có cảm thấy rụt rè, ngượng ngùng khi muống chuyện với một
bạn khác giới dễ mến chưa quen biết hay không?
12. Thỉnh thoảng bạn có nổi nóng, tức giận phải không?
13. Bạn có hành động một cách bồng bột, nông nổi hay không?
14. Bạn có hay ân hận với những lời nói hay việc làm mà đáng lẽ không
nên nói hay làm như vậy không?
15. Bạn thích đọc sách hơn 1à trò chuyện với người khác phải không?
16. Bạn có dễ phật ý không?
17. Bạn có thích thường xuyên có mặt trong nhóm, hội của mình
không?
18. Bạn hay có những ý nghĩ mà bạn muốn giấu giếm không cho người
khác biết phải không?
19. Có đúng đôi khi bạn là người đầy nhiệt tình với mọi công việc,
nhưng cũng có khi hoàn toàn chán chường, uể oải phải không?
20. Bạn có thích thà rằng có ít bạn nhưng là bạn thân phải không?
21. Bạn có hay mơ mộng không?
22. Lúc người ta quát tháo bạn, thì bạn cũng nổi nóng lại phải không?
23. Bạn có thấy mình day dứt mỗi khi có sai lầm không?
24. Tất cả mọi thói quen của bạn đều tốt và hợp với mong muốn của
bạn phải không?
25. Bạn có khả năng làm chủ được tình cảm của mình và hoàn toàn vui
vẻ trong các buổi họp phải không?
26. Bạn có cho mình là người nhạy cảm, dễ hưng phấn không?
27. Người ta có cho bạn là người hoạt bát, vui vẻ không?
28. Sau khi làm xong một công việc quan trọng nào đó, bạn có thường
hay cảm thấy mình có thể làm được việc đó tốt hơn không?
29. Trong đám đông bạn thường im lặng phải không?
30. Đôi khi bạn cũng hay thêu dệt chuyện phải không?
31. Bạn thường không ngủ được vì có nhiều ý nghĩ lộn xộn trong đầu
phải không?
32. Nếu bạn muốn biết một điều gì đó thì bạn tự tìm lấy trong sách báo
chứ không đi hỏi người khác phải không?
33. Có bao giờ bạn hồi hộp không?
34. Bạn có thích những công việc đòi hỏi sự chú ý thường xuyên
không?
35. Bạn có hay run sợ không?
36. Nếu không bị kiểm tra thì bạn có chịu mua vé tàu hay vé xe không?
37. Bạn có khó chịu khi sống trong một tập thể mà mọi người hay giễu
cợt nhau không?
38. Bạn có hay bực tức không?
39. Bạn có thích những công việc phải làm gấp không?
40. Bạn có hồi hộp trước một sự việc không hoặc có thể xảy ra không?
41. Bạn đi đứng ung dung, thong thả phải không?
42. Có khi nào bạn đến chỗ hẹn, hoặc đi làm, đi học muộn hay không?
43. Bạn có hay thấy những cơn ác mộng nay không?
44. Có đúng là bạn thích nói chuyện đến mức không bao giờ bỏ lỡ cơ
hội nói chuyện cả với những người không quen biết không?
45. Có nỗi đau nào đó làm cho bạn lo lắng không?
46. Bạn có cảm thấy mình rất bất hạnh nếu như trong một thời gian dài
không được tiếp xúc rộng rãi với mọi người không?
47. Bạn có thể gọi mình là người dễ xúc động, dễ phản ứng không?
48. Trong số những người quen, có người nào mà bạn không ưa thích
một cách công khai không?
49. Bạn có cho mình là người hoàn toàn tự tin không?
50. Bạn có dễ phật ý khi mọi người chỉ ra những lỗi lầm của mình trong
công tác hay các thiếu sót riêng tư của mình hay không?
51. Bạn cho rằng khó có thể có được niềm vui thật sự trong buổi liên
hoan phải không?
52. Cảm giác thấp kém hơn người khác có làm cho bạn khó chịu
không?
53. Bạn có dễ dàng làm cho nhóm bạn của mình đang buồn chán trở
nên sôi nổi, vui vẻ được không?
54. Bạn có thường hay nói về những điều mà bạn chưa hiểu kĩ không?
55. Bạn có lo lắng về sức khỏe của mình không?
56. Bạn có thích trêu chọc người khác không?
57. Bạn có hay bị mất ngủ không?
Cách chấm điểm:
a. Cho mỗi câu 1 điểm, nếu những câu sau đây trả lời có (+): 1, 3, 8,
10, 13, 17, 22, 25, 27, 39, 44, 49, 53, 56. Cho mỗi câu 1 điểm, nếu những câu
sau đây trả lời không (-): 5, 15, 20, 29, 32, 34, 37, 41, 51.
b. Cho mỗi câu 1 điểm, nếu trả lời là có (+); không cho điểm nào nếu trá
lời là không (-): 2, 4, 7, 9, 11, 14, 16, 19, 21, 23, 26, 28, 31, 33, 35, 38, 40, 43,
45, 47, 50, 52, 55, 57.
c. cho mỗi câu 1 điểm, nếu các câu sau đây trả lời là có (+): 6, 24, 36.
Cho mỗi câu 1 điểm, nếu các câu sau trả lời là không (-): 12, 18, 30, 42, 48,
54.
Cách đánh giá:
Để tìm hiểu tính khí, thì chỉ cần sử dụng các điểm số thuộc mục a và b
thôi.
Các số điểm thuộc mục c có chức năng kiểm tra tính trung thực của các
câu trả lời. Nếu tổng số điểm của mục c lớn hơn 4 thì có nghĩa là bạn trả lời
không hoàn toàn trung thực với bản thân mình, và tờ phiếu trả lời coi như
không có giá trị.
Số điểm của mục a nói lên mức độ hướng ngoại và hướng nội của bạn.
Nếu tổng số điểm mục này lớn hơn 12 thì bạn là người hướng ngoại, còn nhỏ
hơn 12 bạn là người hướng nội.
Để tìm hiểu khí chất thì lấy tổng số điểm của mục a, rồi xác định vị trí
của nó trên trục “hướng nội - hướng ngoại ở hình dưới.
Lấy tổng số điểm mục b, rồi xác định vị trí của nó trên trục “ổn định -
không ổn định” trong hình vẽ. Tìm tọa độ của hai điểm trên, xem nó rơi vào
gốc vuông nào thì khi chất đặc trưng của bạn là vậy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Thái Trí Dũng - Tâm lý học trong quản trị kinh doanh. Nhà XB Thống kê
1994.
2. Thái Trí Dũng - Tâm lý và nghệ thuật giao tiếp trong kinh doanh. Đại học
Văn Lang: Trung tâm Centesu. 1996.
3. Thái Trí Dũng - Tâm lý học. ĐH Kinh tế TP.HCM, 1994.
4. Phan Quang Định và Nguyễn Văn Phúc - Nghệ thuật nói trước đám đông.
Nhà XB Trẻ 1997.
5. Nguyễn Văn Đính - Tâm lý và nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh. Hà nội
1995.
6. Làm giàu, bách khoa xã giao - Báo thương mại Hà Nội. 1992.
7. Elena Jankovic (Nguyên Tố dịch) - Cung cách ứng xử. Nhà XB Thống kê.
1997.
8. Phong Sơn - Giao tế nhân sự trong doanh nghiệp. Nhà XB Tp.HCM. 1990.
9. Vũ Thị Phượng, Dương Quang Huy - Giao tiếp trong kinh doanh. Nhà XB
Thống kê. 1997.
10. Bí quyết thành công trong kinh doanh và dịch vụ. Tp.HCM
1989.
11. J.Nirenberg - Bạn có hấp dẫn không? - Nhà XB Trẻ. 1994.
12. Phan Quang Định và Nguyễn Văn Phúc - Nghệ thuật
thương lượng. Nhà XB Thống kê. 1996.
13. Trương Tường - Nghệ thuật đàm phán thương vụ quốc tế.
Nhà XB Trẻ. 1996.
14. Torrington. D - Tiếp xúc mặt đối mặt trong quản lý. Nhà XB
KH và KT. 1991.
15. Nguyễn Thành Thống - Truyền thông kỹ năng và phương
tiện. Nhà XB Trẻ. 1996
16. Phạm hưng - Kỹ thuật soạn thảo văn bản. Nhả XB CI quốc
gia 1996.
17. Philip Kottler -Marketing căn bản. Nhà XB Thống kê. 1995.
18. Tâm lý học xã hội. Nhà XB khoa học xã hội. Hà nội 1996.
19. Nguyễn Thị Oanh - Tâm lý truyền thông và giao tiếp. ĐH
Mở - bán công 1994.
20. Trần Tuấn Lộ - Tâm lý học giao tiếp. ĐH Mở - Bán công
1994.
21. Đỗ Quyên (dịch) - Đọc Tam quốc bàn kinh doanh. Nhà XB
VHTT. 1994.
22. Trần Kim Dung - Quản trị nguồn nhân lực - Nhà XB giáo
dục 1997.
23. Những vấn đề cốt yếu trong quản lý. Nhà XB KH và KT.
24. Nguyễn Hữu Lam - Hành vi tổ chức. Nhà XB giáo dục
1997.
25. Ga vin Kennedy - Thương lượng bất cứ nơi đâu. Nhà XB
VH dân tộc 1990.
26. Các phương pháp giao tiếp ứng dụng (tiếng Nga) -
Leningrade 1990.
27. Stephen R.Covey (Nguyễn Văn Cừ dịch) - Bảy thói quen
của những người thành đạt. Nhà XB Thống kê 1996.
28. Trần Văn Thọ - Marrketing tiếp thị. 1997.
29. William C. Himstreet - Business Communications. South
Western Publishing Co.Ohio. USA. 1995.
30. Đắc nhân tâm - Nguyễn Hiến Lê địch. To.HCM 1994.
31. Nghệ thuật bán hàng - Licosaxuba.Hà nội 1994.
32. Hoàng Phương - Phép xã giao. Đồng Nai 1996.
33. Phạm Minh Hạc - Tâm lý học. Hà nội 1988.
MỤC LỤCLời Nói Đầu
Phần I. GIAO TIẾP
Chương I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO TIẾP
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAO TIẾP
II. CHỨC NĂNG CỦA GIAO TIẾP
III. CÁC LOẠI HÌNH GIAO TIẾP CƠ BẢN
Chương II. CẤU TRÚC CỦA HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP
I. TRUYỀN THÔNG TRONG GIAO TIẾP
II. GIAO TIẾP LÀ QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC LẪN NHAU
III. GIAO TIẾP LÀ QUÁ TRÌNH TÁC ĐỘNG QUA LẠI ẢNH
HƯỞNG LẪN NHAU
Chương III. CƠ SỞ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA HÀNH VI GIAO TIẾP
I. CÁC YẾU TỐ TÂM LÝ
II. CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI
Chương IV. CÁC KỸ NĂNG GIAO TIẾP
I. KỸ NĂNG LẮNG NGHE
II. KỸ NĂNG ĐẶT CÂU HỎI
III. KỸ NĂNG DIỄN THUYẾT VÀ BÁO CÁO MIỆNG
IV. KỸ NĂNG GIAO DỊCH BẰNG THƯ TÍN
V. CÁC KỸ NĂNG XÃ GIAO THÔNG THƯỜNG
Chương V. GIAO TIẾP TRONG MÔI TRƯỜNG CÔNG TY
I. GIAO TIẾP NỘI BỘ
II. GIAO TIẾP VỚI BÊN NGOÀI
III. PHỎNG VẤN TUYỂN CHỌN
Phần II. KỸ NĂNG THƯƠNG LƯỢNG
Chương VI. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƯƠNG LƯỢNG
I. KHÁI NIỆM VỀ THƯƠNG LƯỢNG
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA THƯƠNG LƯỢNG TRONG KINH DOANH
III. MỘT SỐ VÍ DỤ KINH ĐIỂN VỀ THƯƠNG LƯỢNG
IV. CÁC KIỂU THƯƠNG LƯỢNG
Chương VII. TIẾN TRÌNH THƯƠNG LƯỢNG
I. GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ
II. GIAI ĐOẠN TIẾP XÚC
III. GIAI ĐOẠN THỰC CHẤT
Chương VIII. PHÂN TÍCH GIÁ CẢ TRONG THƯƠNG LƯỢNG
I. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ CẢ
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐẶT GIÁ
III. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH GIÁ
IV. PHÂN TÍCH CÁC MỐI QUAN HỆ GIÁ CẢ
Chương IX. KỸ THUẬT ĐỘT PHÁ THẾ GĂNG TRONG THƯƠNG LƯỢNG
I. NGUYÊN NHÂN HÌNH THÀNH THẾ GĂNG
II. KỸ XẢO ĐỘT PHÁ THẾ GĂNG
Chương X. BÁN HÀNG LẺ - NHỮNG CUỘC THƯƠNG LƯỢNG NHỎ
I. ĐIỀU KIỆN HOÁ TÂM LÝ KHÁCH HÀNG
II. QUÁ TRÌNH BÁN HÀNG VÀ TÁC ĐỘNG TÂM LÝ
III. TÂM LÝ KHÁCH HÀNG
IV. NHỮNG YÊU CẦU CẦN THIẾT ĐỐI VỚI NGƯỜI BÁN HÀNG
Phụ lục 1: GIAO TIẾP BẤT CỨ NƠI ĐÂU
Phụ lục 2: MỘT SỐ KNH NGHIỆM NHÌN NGƯỜI THÔNG QUA
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM ỔN ĐỊNH
Phụ lục 3: TRẮC NGHIỆM XÁC ĐỊNH KIỂU TÂM LÝ VÀ KHÍ CHẤT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
--//--
KỸ NĂNG
GIAO TIẾP VÀ THƯƠNG LƯỢNG TRONG KINH DOANH
Tác giả:
TS. Thái Trí Dũng
Nhà Xuất bản Thống Kê
Chịu trách nhiệm xuất bản: CÁT VĂN THÀNH
Chịu trách nhiệm bản thảo: TS. THÁI TRÍ DŨNG
Thiết kế bìa: HOÀNG LỘC
Mã số: 33-335/TK2003 258-205-2003
In 3000 cuốn, khổ 14,3 x 20,3cm. Tại XN in số 6, TP.HCM.
Số đăng ký KHXB 205/XB-QLXB của cục xuất bản cấp ngày 03/3/2003.
In xong và nộp lưu chiểu tháng 10/2003