Upload
duongnhu
View
222
Download
4
Embed Size (px)
Citation preview
KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG TOÀN CẦU LẦN THỨ HAI
VỀ BẢO TỒN TÀI NGUYÊN DI TRUYỀN THỰC VẬT
PHỤC VỤ MỤC TIÊU LƯƠNG THỰC VÀ NÔNG NGHIỆP
ÚY BAN TÀI NGUYÊN
DI TRUYỀN VỀ LƯƠNG THỰC
VÀ NÔNG NGHIỆP
KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG TOÀN CẦU LẦN THỨ HAI
VỀ BẢO TỒN TÀI NGUYÊN DI TRUYỀN THỰC VẬT
PHỤC VỤ MỤC TIÊU LƯƠNG THỰC VÀ NÔNG NGHIỆP
ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG FAO THÔNG QUA
ROME, Ý, NGÀY 29 THÁNG 10 NĂM 2011
Ủy ban Tài nguyên Di truyền về Lương thực và Nông nghiệp
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp Quốc
FAO, 2011
Các chỉ định sử dụng và việc trình bày
các tài liệu trong ấn phẩm thông tin này
không có hàm ý diễn đạt bất cứ ý kiến nào
của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp
của Liên hợp Quốc liên quan đến pháp lý
hoặc tình trạng phát triển của bất kỳ quốc
gia, vùng lãnh thổ, thành phố, khu vực tự trị
hoặc liên quan đến việc phân định ranh giới
hay biên giới. Việc đề cập các vấn đề cụ thể
của công ty hoặc sản phẩm của nhà máy,
mặc dù có thể chưa hoặc đã được cấp bằng
sáng chế nhưng đều không ngụ ý các vấn đề
này đã được xác nhận hoặc khuyến cáo bởi
FAO trong việc ưu tiên hơn các vấn đề có
tính chất tương tự mà không được đề cập
đến trong cuốn sách này. Quan điểm thể
hiện trong ấn phẩm thông tin này là của
các tác giả và không phản ánh quan điểm
của FAO.
ISBN 978-92-5-107163-2
Tất cả đều mang bản quyền. FAO khuyến
khích sự sao chép và phổ biến nguồn thông
tin trong cuốn sách này. Việc sử dụng với
mục đích phi thương mại được miễn phí theo
yêu cầu. Hành vi sao chép để bán lại hay sử
dụng với mục đích khác bao gồm cả mục
đích giáo dục có thể phải trả phí. Các yêu
cầu cho sao chép hoặc phổ biến tài liệu có
bản quyền của FAO và mọi yêu cầu liên
quan đến bản quyền hay giấy phép khuyến
khích bằng việc gửi email đến:
[email protected] or to the Chief,
Publishing Policy and Support Branch,
Office of Knowledge Exchange, Research
and Extension, FAO,
Viale delle Terme di Caracalla, 00153
Rome, Italy.
© FAO 2012
LỜI NÓI ĐẦU
Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai về tài nguyên di truyền thực vật phục vụ mục tiêu
lương thực và nông nghiệp được chuẩn bị dưới sự bảo hộ của Ủy ban Tài nguyên Di truyền về
Lương thực và Nông nghiệp và được Hội đồng FAO thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2011.
Bản kế hoạch này cập nhật Kế hoạch Hành động Toàn cầu về Bảo tồn và Sử dụng bền vững
Tài nguyên Di truyền Thực vật phục vụ mục tiêu Lương thực và Nông nghiệp đã được thông
qua năm 1996 tại Hội nghị Kỹ thuật về Tài nguyên Di truyền Thực vật Quốc tế lần thứ 4.
Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai phản ánh nhu cầu và ưu tiên được xác định trong
Báo cáo lần thứ hai về Hiện trạng Tài nguyên Di truyền Thực vật Thế giới phục vụ mục tiêu
Lương thực và Nông nghiệp, báo cáo đánh giá toàn cầu đã được FAO xuất bản năm 2010. Kế
hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai được rất nhiều chuyên gia tư vấn cấp khu vực chuẩn
bị, với sự tham gia của 131 quốc gia và đại diện của các cộng đồng nghiên cứu quốc tế, tư
nhân và các tổ chức xã hội.
Nhu cầu bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng tài nguyên thực vật thế giới là cần thiết hơn
bao giờ hết. Tài nguyên di truyền thực vật là cơ sở cho an ninh lương thực trong thế giới đang
đối mặt với rất nhiều thách thức. Hơn một tỷ người đang trong tình trạng đói thường xuyên và
suy dinh dưỡng, trong khi đó, dân số thế giới dự đoán sẽ đạt đến 9,2 tỷ người vào năm 2050.
Để nuôi sống thế giới, sản lượng nông nghiệp cần phải tăng 60%. Tuy nhiên cùng thời điểm
này, cơ sở nguồn tài nguyên bị đe doạ bởi sự ấm lên toàn cầu và biến đổi khí hậu, giảm dần
tài nguyên đất và nước, suy thoái môi trường. Vấn đề tiếp tục mất mát đa dạng di truyền thực
vật cho lương thực và nông nghiệp đang làm giảm đáng kể sự lựa chọn của chúng ta hiện nay
và của các thế hệ mai sau, đang làm mất đi đa dạng di truyền thích ứng với biến đổi khí hậu
và đảm bảo an ninh lương thực, phát triển kinh tế và hòa bình thế giới.
Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai đưa ra hàng loạt kế hoạch ưu tiên và hành động
vừa để bảo vệ nguồn tài nguyên di truyền đa dạng và giàu có vừa đảm bảo sử dụng bền vững
các giống cải tiến thông qua việc sử dụng các đặc tính có lợi nhằm tạo ra nguồn lương thực
chất lượng cao hơn, số lượng lớn hơn đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Chỉ
bằng cách này chúng ta mới giải quyết được an ninh lương thực và đói nghèo. Do đó, hợp tác
quốc tế trở nên cấp thiết hơn nhiều so với các thập niên trước đây. Vì vậy, việc cấp bách hiện
nay là chúng ta phải cùng nhau phát triển cả về bề rộng và chiều sâu các nỗ lực bảo tồn và sử
dụng bền vững đa dạng tài nguyên thực vật.
Việc thông qua Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai phản ánh sự đồng lòng quốc tế,
chứng tỏ sự quyết tâm chính trị nhằm xác định và thực hiện các ưu tiên để đạt được mục tiêu
đề ra. Kế hoạch Hành động Toàn cầu đóng vai trò quan trọng trong khuôn khổ chính sách
quốc tế về an ninh lương thực thế giới, như là một thành phần hỗ trợ của Hiệp ước Quốc tế về
Tài nguyên Di truyền Thực vật phục vụ mục tiêu Lương thực và Nông nghiệp; là một đóng
góp quan trọng để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và thực hiện Kế hoạch
Chiến lược về Đa dạng Sinh học 2011-2020.
Đứng trước khó khăn về kinh tế toàn cầu hiện nay, chúng ta không thể tiếp tục và tăng đầu tư
ở cấp quốc gia và quốc tế cho các chương trình và ưu tiên mà các Chính phủ thông qua trong
Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai. Do đó cần tăng cường các hoạt động hiện tại của
các quốc gia và xúc tiến sự tham gia của các tổ chức quốc tế, khu vực, nhà tài trợ, nhà khoa
học, nông dân, cộng đồng bản địa và địa phương, khu vực tư nhân và công cộng, các hội, viện
nghiên cứu và giáo dục. Thực hiện đầy đủ Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai đòi hỏi
có sự hợp tác giữa các quốc gia, khu vực và cần có sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngành nông
nghiệp, môi trường và lương thực.
Đây không phải là những việc mà chúng ta có thể trì hoãn hay chỉ thực hiện một phần vì môi
trường thế giới đang bị đe dọa, đặc biệt sự gia tăng của biến đổi khí hậu và áp lực với tương
lai con cháu chúng ta. Những tiến bộ đã đạt được, đặc biệt từ khi Kế hoạch Hành động Toàn
cầu lần thứ nhất được thông qua, chứng minh rằng các chiến lược đúng đắn có thể vượt qua
nhiều khó khăn hiện tại khi được các nhà chính trị hậu thuẫn và nguồn tài chính phù hợp. Tài
nguyên di truyền thực vật là mối quan tâm chung của nhân loại, phản ánh tính cấp thiết cả về
phương diện quản lý kinh tế và cả về mặt đạo đức nhằm bảo tồn nguồn tài nguyên đã được
tiến hóa hàng triệu năm và hàng nghìn thế hệ người nông dân trên toàn thế giới trao cho
chúng ta, việc sử dụng tài nguyên di truyền thực vật một cách bền vững, hữu ích, để đảm bảo
rằng chúng ta có thể nuôi sống các thế hệ mai sau.
FAO cam kết thực hiện Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai. Tôi kêu gọi tất cả các
quốc gia, hãy cùng nhau nắm lấy cơ hội hiện tại và tăng cường đầu tư trên cương vị quản lý di
sản thế giới về tài nguyên di truyền thực vật, hãy thực hiện Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần
thứ hai với tinh thần hiện thực, quyết tâm và cam kết.
José Graziano da Silva
Tổng Giám đốc
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp Quốc
TÓM TẮT
1. Tài nguyên di truyền thực vật phục vụ mục tiêu lương thực và nông nghiệp (PGRFA)
cung cấp cơ sở sinh học cho sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực thế giới. PGRFA là
nguồn vật liệu thô quan trọng nhất cho nông dân (người bảo vệ PGRFA) và cho các nhà chọn
tạo giống. Đa dạng di truyền PGRFA cho phép các giống và cây trồng thích ứng với điều kiện
thay đổi và vượt qua trở ngại do sâu, bệnh và sức ép phi sinh học gây ra. PGRFA là vật liệu
thiết yếu cho sản xuất nông nghiệp bền vững. Không có sự không tương thích giữa bảo tồn và
sử dụng nguồn tài nguyên. Trên thực tế, điều tối quan trọng là đảm bảo cho cả hai hoạt động
này bổ sung hoàn toàn cho nhau. Việc bảo tồn, sử dụng bền vững, chia sẻ công bằng, bình
đẳng lợi ích từ việc sử dụng tài nguyên là mối quan tâm và trách nhiệm quốc tế. Đây chính là
những mục tiêu của Hiệp ước Quốc tế về PGRFA và phù hợp với Công ước Đa dạng Sinh học
(CBD). Trong bối cảnh chủ quyền của các quốc gia về đa dạng tài nguyên và sự phụ thuộc lẫn
nhau về PGRFA, Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai về Tài nguyên Di truyền thực vật
phục vụ mục tiêu Lương thực và Nông nghiệp là sự thể hiện đúng đắn về trách nhiệm và mối
quan tâm liên tục của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực này.
2. Trong suốt 15 năm qua, Kế hoạch Hành động Toàn cầu là văn bản chính thức cho các
quốc gia, khu vực và những nỗ lực toàn cầu nhằm bảo tồn và sử dụng bền vững PGRFA và
chia sẻ công bằng những lợi ích thu được từ việc này. Bảo tồn và sử dụng bền vững PGRFA
là một phần của hệ thống FAO toàn cầu, Kế hoạch Hành động Toàn cầu là yếu tố chính được
FAO sử dụng để thực hiện trách nhiệm đối với PGRFA. Kế hoạch Hành động Toàn cầu cũng
được dùng như là văn bản quan trọng cho các lĩnh vực tài nguyên di truyền khác. Kế hoạch
Hành động Toàn cầu hỗ trợ các chính phủ trong xây dựng các chiến lược và chính sách quốc
gia về PGRFA. Kế hoạch này cũng được cộng đồng thế giới sử dụng trong việc xác định các
vấn đề ưu tiên ở cấp độ quốc tế, để nâng cao nỗ lực hợp tác và để hợp tác giữa các bên tham
gia bảo tồn tài nguyên di truyền. Kế hoạch Hành động Toàn cầu được xem là một công cụ
giúp định hướng lại và xác định ưu tiên đối với các hoạt động liên quan đến PGRFA trong các
chương trình nghiên cứu và phát triển của các tổ chức quốc tế .
3. Việc thông qua Kế hoạch Hành động Toàn cầu của 150 quốc gia tại hội nghị Leipzig
năm 1996 là một cột mốc quan trọng trong việc xây dựng hệ thống quản lý quốc tế về
PGRFA. Việc thông qua này đã đánh dấu sự kết thúc thắng lợi quá trình đàm phán của Hiệp
ước Quốc tế về PGRFA thuộc Ủy ban Tài nguyên Di truyền về Lương thực và Nông nghiệp.
4. Từ khi Kế hoạch Hành động Toàn cầu được thông qua, công tác bảo tồn và sử dụng
PGRFA đã có những phát triển đáng kể, điều này đòi hỏi phải cập nhật Kế hoạch Hành động
Toàn cầu. Báo cáo lần thứ hai xuất bản gần đây về Hiện trạng Tài nguyên Di truyền Thực vật
Thế giới phục vụ mục tiêu Lương thực và Nông nghiệp đã cung cấp nền tảng cơ bản cho quá
trình cập nhật này. Thế giới đang phải đối mặt với vấn đề an ninh lương thực, đặc biệt giá
lương thực cao và không ổn định, không kể đến các vấn đề khác. Do biến đổi khí hậu, đô thị
hóa tăng nên sản xuất nông nghiệp bền vững càng cần thiết hơn, đồng thời cần phải giữ gìn đa
dạng tài nguyên thực vật và giảm thiểu xói mòn tài nguyên; để thực hiện được các vấn đề trên
cần có sự quan tâm hơn nữa đối với bảo tồn và sử dụng PGRFA. Cùng thời điểm này, có
nhiều cơ hội mới quan trọng cho việc tăng cường quản lý PGRFA, bao gồm việc phát triển
mạng mẽ và rộng rãi của công nghệ thông tin, truyền thông, cũng như những tiến bộ trong
công nghệ sinh học và phát triển các sản phẩm sinh học nông nghiệp. Hơn nữa, môi trường
chính sách đã thay đổi đáng kể trong vòng 15 năm qua, đặc biệt từ khi Hiệp ước Quốc tế về
PGRFA có hiệu lực, trong số các chính sách đó có Nghị định thư Cartagena về An toàn Sinh
học, Kế hoạch Chiến lược Đa dạng sinh học giai đoạn 2011-2020 và Nghị định thư Nagoya về
Tiếp cận nguồn gen và Chia sẻ Công bằng Lợi ích phát sinh từ việc sử dụng nguồn gen. Thế
giới đã thừa nhận cần có một cam kết mới đối với các hoạt động nghiên cứu và phát triển
nông nghiệp. Kế hoạch Hành động Toàn cầu được cập nhật nhằm đáp ứng và phản ánh quá
trình phát triển đó.
5. Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai nhấn mạnh những cơ hội và thách thức mới
thông qua 18 hoạt động ưu tiên. Báo cáo lần thứ hai về hiện trạng PGRFA, hàng loạt hội nghị
tư vấn cũng như ý kiến của các chuyên gia toàn thế giới, đã cung cấp yêu cầu cần thiết để xây
dựng Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai và hướng tới viễn cảnh và ưu tiên ở mức
quốc tế, khu vực và mức quốc gia. Việc cập nhật và tăng cường vai trò của Kế hoạch Hành
động Toàn cầu lần thứ hai như là một nhân tố hỗ trợ cho Hiệp ước Quốc tế về PGRFA.
6. Các yếu tố yêu cầu được liệt kê ở trên là cơ sở để sắp xếp số lượng các hoạt động ưu
tiên, giảm số lượng từ 20 trong Kế hoạch Hành động Toàn cầu ban đầu xuống còn 18. Điều
này thực hiện thông qua hợp nhất hoạt động ưu tiên số 5 và 8 (Duy trì ổn định các tập đoàn
bảo quản ngoại vi và mở rộng các hoạt động bảo tồn nội vi) thành hoạt động ưu tiên mới số 6
– Duy trì và mở rộng bảo tồn ngoại vi nguồn gen. Sát nhập hai hoạt động tư tiên số 12 (Tăng
cường phát triển và thương mại hóa cây trồng, giống ít được sử dụng) và số 14 (Phát triển thị
trường mới cho các giống địa phương và sản phảm có tính "đa dạng cao") thành hoạt động ưu
tiên mới số 11 – Xúc tiến phát triển và thương mại hóa tất cả các giống, chủ yếu là giống của
nông dân/giống bản địa và cây trồng ít được sử dụng.
7. Ngoài ra, trọng tâm của một số hoạt động ưu tiên khác được điều chỉnh để phù hợp
với các hoạt động ưu tiên mới. Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai nhấn mạnh tầm
quan trọng và đưa ra tầm nhìn xa hơn đối với công tác chọn tạo giống thực vật, điều này được
thể hiện trong hoạt động ưu tiên số 9 – Hỗ trợ chọn tạo giống thực vật, các nỗ lực tăng cường
tiềm năng di truyền và mở rộng nền di truyền. Bên cạnh đó, một nỗ lực khác cũng được đề
cập dựa trên tham vấn khu vực để đơn giản hóa và làm rõ các văn kiện.
NỘI DUNG
Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai về
tài nguyên di truyền thực vật phục vụ mục tiêu lương thực và nông nghiệp
Đoạn
Giới thiệu 1–23
Nhu cầu liên tục về tài nguyên di truyền thực vật phục vụ mục tiêu lương thực và
nông nghiệp, bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên di truyền thực vật
Lịch sử Kế hoạch Hành động Toàn cầu
Thực hiện Kế hoạch Hành động Toàn cầu
Cơ sở hình thành Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai
Mục tiêu và chiến lược của Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai
Cấu trúc và tổ chức của Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai
Các hoạt động ưu tiên
Quản lý và bảo tồn tại chỗ (in situ) 24–89
1. Điều tra và kiểm kê tài nguyên di truyền thực vật phục vụ mục tiêu lương thực
và nông nghiệp
2. Hỗ trợ quản lý và cải tiến bảo tồn nông trại (on farm) tài nguyên di truyền thực
vật phục vụ mục tiêu lương thực và nông nghiệp
3. Hỗ trợ nông dân trong các tình huống thảm họa và khôi phục lại hệ thống cây
trồng
4. Xúc tiến quản lý in situ các loài cây trồng bán hoang dại và loài thực vật hoang
dại sử dụng làm lương thực.
Bảo tồn chuyển chỗ (Ex situ) 90–141
5. Hỗ trợ thu thập có mục tiêu tài nguyên di truyền thực vật phục vụ mục tiêu
lương thực và nông nghiệp
6. Duy trì và mở rộng bảo tồn chuyển chỗ nguồn gen
7. Phục hồi và nhân giống nguồn gen bảo tồn chuyển chỗ
Sử dụng bền vững 142–212
8. Mở rộng mô tả, đánh giá và phát triển các tập đoàn nhỏ đặc thù để tạo thuận
lợi cho sử dụng
9. Hỗ trợ chọn tạo giống thực vật và các nỗ lực tăng cường tiềm năng di truyền
và mở rộng nền di truyền
10. Thúc đẩy đa dạng hóa sản phẩm cây trồng và mở rộng đa dạng cây trồng cho
nền nông nghiệp bền vững
11. Xúc tiến phát triển và thương mại hóa tất cả các giống, chủ yếu là giống của
nông dân/giống địa phương và cây trồng ít được sử dụng.
12. Hỗ trợ sản xuất và phân phối hạt giống
Xây dựng năng lực thể chế và nhân lực bền vững 213–312
13. Xây dựng và tăng cường các chương trình quốc gia
14. Thúc đẩy và tăng cường mạng lưới tài nguyên di truyền thực vật phục vụ mục
tiêu lương thực và nông nghiệp
15. Xây dựng và tăng cường hệ thống thông tin toàn diện về tài nguyên di truyền
thực vật phục vụ mục tiêu lương thực và nông nghiệp
16. Phát triển và tăng cường hệ thống giám sát, bảo vệ đa dạng di truyền và giảm
thiểu xói mòn di truyền của tài nguyên di truyền thực vật phục vụ mục tiêu lương
thực và nông nghiệp
17. Xây dựng và tăng cường năng lực nguồn nhân lực
18. Thúc đẩy và tăng cường nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của Tài
nguyên di truyền thực vật phục vụ mục tiêu lương thực và nông nghiệp
Thực hiện và tài trợ cho Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai
313–322
Danh sách các ký hiệu và các từ viết tắt
Giới thiệu
Nhu cầu liên tục về tài nguyên di truyền thực vật phục vụ mục tiêu lương thực và nông
nghiệp, bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên di truyền thực vật
1. Trong thế kỷ 21, nền nông nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức mới. Sản xuất lương
thực và sợi sẽ tăng đáng kể nhằm đáp ứng nhu cầu dân số ngày càng tăng và hiện đại hóa với
chỉ một tỷ lệ nhỏ lực lượng lao động ở nông thôn. Thay đổi trong khẩu phần ăn và thói quen
ăn uống sẽ thúc đẩy thay đổi trong hệ thống sản xuất cây trồng và vật nuôi. Đối mặt với an
ninh lương thực, năng lượng của thế giới và nhu cầu phát triển bền vững, các nước sẽ phải
giải quyết những thách thức và cơ hội gây ra do sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học. Ở
nhiều nơi trên thế giới, tác động của biến đổi khí hậu dẫn đến thay đổi khả năng thích nghi
của nhiều loại cây trồng và cây thức ăn gia súc, gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc
gia về PGRFA. Biến đổi khí hậu cũng sẽ dẫn đến thay đổi diện tích sản xuất, thực hành sản
xuất cũng như xuất hiện của sâu bệnh trên cây trồng và vật nuôi. Nền nông nghiệp cần tiếp
tục giảm thiểu các tác động tiêu cực cho môi trường, cho đa dạng sinh học và áp dụng thực
hành sản xuất bền vững và hiệu quả hơn. Thay đổi trong việc sử dụng đất sẽ hạn chế diện tích
đất cho nông nghiệp và tăng áp lực lên các quần thể CWR và cây hoang dại làm lương thực.
2. PGRFA hỗ trợ khả năng của nông nghiệp ứng phó với thay đổi của môi trường hay kinh tế
xã hội. Do đó, nông nghiệp sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc đảm bảo cải thiện
năng suất và sản xuất nông nghiệp, không chỉ cung cấp các gen cho cải tiến giống cây
trồng mà còn đóng góp một cách hiệu quả trong chức năng hệ sinh thái nông nghiệp và phát
triển sản phẩm sinh học. Ở nhiều khu vực nông thôn trên thế giới, PGRFA là một thành phần
thiết yếu của chiến lược sinh kế của cộng đồng bản xứ và địa phương.
Lịch sử Kế hoạch Hành động Toàn cầu
3. Kế hoạch Hành động Toàn cầu (GPA) về Bảo tồn và Sử dụng Bền vững PGRFA được đại
diện của 150 quốc gia chính thức thông qua tại Hội nghị Kỹ thuật Quốc tế lần thứ tư về Tài
nguyên Di truyền Thực vật vào năm 1996 ở Leipzig, Đức. Hội nghị cũng thông qua Tuyên
bố Leipzig, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của PGRFA đối với an ninh lương thực thế
giới và các nước cam kết thực hiện GPA. Hơn 150 quốc gia, các khu vực công cộng
và tư nhân đã tham gia tích cực trong việc chuẩn bị GPA. FAO cam kết tạo điều kiện thuận
lợi và giám sát việc thực hiện GPA dưới sự hướng dẫn của Ủy ban Liên chính phủ về Tài
nguyên Di truyền cho Lương thực và Nông nghiệp, Ủy ban này là một phần của FAO trực
thuộc Hệ thống Toàn cầu về Bảo tồn và Sử dụng Tài nguyên Di truyền Thực vật.
4. Tại Kỳ họp thường kỳ lần thứ tám, năm 1999, Ủy ban tái khẳng định rằng FAO sẽ định
kỳ đánh giá hiện trạng PGRFA thế giới để tạo điều kiện phân tích các tồn tại và nhu cầu thay
đổi nhằm góp phần vào quá trình cập nhật GPA. Tại Kỳ họp thường kỳ lần thứ 10 năm 2004,
Ủy ban đã đồng ý áp dụng phương pháp mới để giám sát thực hiện GPA dựa trên bộ chỉ thị
quốc tế đã thống nhất, từ đó dẫn đến thành lập Cơ chế Chia sẻ thông tin Quốc gia (NISMs).
Tại Kỳ họp Thường kỳ thứ mười hai năm 2009, Ủy ban đã thông qua Báo cáo lần thứ hai về
hiện trạng PGRFA thế giới (Báo cáo lần thứ hai), báo cáo này xem như một đánh giá có thẩm
quyền về lĩnh vực và yêu cầu FAO cập nhật GPA dựa trên Báo cáo lần thứ hai, đặc biệt là dựa
trên những tồn tại và nhu cầu đã xác định, dựa trên đóng góp của các chính phủ cũng như kết
quả từ các hội nghị khu vực và tham vấn. Ủy ban quyết định GPA cần được xem xét tại Kỳ
họp Thường kỳ lần thứ mười ba.
5. Năm 2001, Hội nghị FAO đã thông qua Hiệp ước Quốc tế về PGRFA (Hiệp ước Quốc
tế), Điều 14 của Hiệp ước công nhận GPA là một hợp phần hỗ trợ. Năm 2006, Ban điều hành
về Hiệp ước Quốc tế quyết định rằng các hoạt động ưu tiên của GPA cũng chính là các ưu
tiên của Chiến lược Tài trợ của Hiệp ước Quốc tế. Năm 2009, Ban Điều hành ghi nhận sự cần
thiết phải hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa Ban Điều hành và Ủy ban đối với GPA và mời Ủy
ban tham gia xem xét lại GPA, bao gồm cả các vấn đề cụ thể liên quan đến Hiệp ước Quốc tế
và phản ánh đầy đủ các quy định của Hiệp ước Quốc tế trong GPA lần thứ hai.
Thực hiện Kế hoạch Hành động Toàn cầu
6. Kể từ khi GPA lần đầu tiên được xây dựng, phần lớn dựa trên các thông tin thu được trong
quá trình chuẩn bị Báo cáo lần thứ nhất về Hiện trạng Tài nguyên di truyền thực vật Thế giới
cho lương thực và nông nghiệp trong những năm đầu của thập kỷ 90, nhiều tiến bộ lớn đã đạt
được trong việc thực hiện GPA trên toàn thế giới. So với năm 1996, số lượng mẫu giống được
bảo tồn trong các ngân hàng gen trên toàn thế giới tăng hơn gần 20% và năm 2010, số lượng
mẫu giống đạt tới 7,4 triệu. Đã có trên 240.000 mẫu giống mới thu thập được bổ sung vào các
tập đoàn bảo quản ex situ. Năm 2010, có 1750 ngân hàng gen so với con số 1450 ngân hàng
gen năm 1996. Số lượng vườn thực vật cũng tăng từ 1500 năm 1996 lên 2500 năm 2010. Số
lượng các chương trình quốc gia PGRFA cũng tăng với sự tham gia rộng rãi của các đơn vị
tham gia bảo tồn. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đã thông qua hoặc điều chỉnh luật pháp quốc
gia liên quan đến PGRFA và hệ thống sản xuất hạt giống. Nông dân tham gia ngày càng nhiều
vào các chương trình chọn tạo giống, bảo tồn, sử dụng CWR và giống địa phương đã được cải
tiến. Vai trò quan trọng của thông tin trong việc bảo tồn, sử dụng PGRFA và các tiến bộ công
nghệ trong lĩnh vực này được phản ánh trong công tác quản lý thông tin ở cấp quốc gia, khu
vực và quốc tế.
7. Nhìn chung, hoạt động quốc tế trong bảo tồn và sử dụng bền vững PGRFA đã tăng lên.
Hiệp ước Quốc tế đã thiết lập Chiến lược Tài trợ cho các hoạt động ưu tiên của GPA hiện tại.
Nhiều mạng lưới khu vực, mạng lưới cây trồng và chương trình mới đã được thiết lập, phần
lớn đáp ứng cho các hoạt động ưu tiên của GPA. Các mạng lưới vẫn đóng vai trò quan trọng
trong việc xúc tiến hợp tác, chia sẻ kiến thức, thông tin, ý tưởng, trao đổi nguồn gen và thực
hiện các nghiên cứu chung và các hoạt động khác. Các sáng kiến, điển hình như Quỹ Tín thác
Đa dạng Cây trồng (Quỹ Tín thác) thúc đẩy và hỗ trợ cho bảo tồn ex situ, đặc biệt cho các loại
cây trồng đề cập trong Hệ thống Tiếp cận Đa phương và Chia sẻ lợi ích (Hệ thống đa phương)
nằm trong Hiệp ước Quốc tế (ví dụ ở Phụ lục I, cây trồng) được xây dựng theo hình thức này
của mạng lưới. Mạng lưới bảo quản ex situ các tập đoàn quốc tế của các loại cây trồng chính
giữ một vai trò quan trọng trong việc đàm phán của Hiệp ước Quốc tế. Các tập đoàn nguồn
gen tiếp tục tạo nên xương sống của Hệ thống toàn cầu thuộc FAO về bảo tồn và sử dụng bền
vững PGRFA. Hiện nay, Kho hạt giống toàn cầu Svalbard (Svalbard Global Seed Vault) cung
cấp mức độ an toàn bổ sung cho các tập đoàn nguồn gen bảo tồn ex situ hiện có. Ngoài ra,
việc thiết lập NISMs tại hơn 65 quốc gia tạo điều kiện cho việc tiếp cận thông tin liên quan,
giám sát thực hiện GPA, thúc đẩy quá trình hoạch định chính sách quốc gia cũng như hợp tác
giữa các bên tham gia. Chương trình hợp tác toàn cầu về xây dựng năng lực cho chọn tạo
giống cây trồng thể hiện các nỗ lực nỗ lực thu hẹp khoảng cách trong các chương trình cấp
quốc gia thông qua liên kết giữa bảo tồn PGRFA và sử dụng trong cải tiến giống cây trồng.
Ngoài ra, Cơ chế Tạo thuận lợi Toàn cầu - GPA xác định và phổ biến thông tin về cơ hội tài
trợ cho tất cả các hoạt động ưu tiên.
Cơ sở hình thành Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai
8. Kể từ khi GPA được xây dựng và thông qua, nhiều thay đổi đáng kể đã diễn ra liên quan
đến bảo tồn và sử dụng PGRFA dẫn đến những thách thức và cơ hội mới. Quá trình phát triển
đã được nhấn mạnh trong Báo cáo lần thứ hai và được làm rõ trong các cuộc thảo luận tại hội
nghị khu vực và accs hội nghị tư vấn, quá trình phát triển này đã cung cấp minh chứng và cơ
sở cho việc cập nhật GPA.
9. Các dự đoán về phát triển và xu hướng trong nông nghiệp dưới đây sẽ có tác động đáng kể
trong việc bảo tồn và sử dụng PGRFA:
a) Phần lớn lương thực trong hầu hết các nước phát triển do hệ thống sản xuất công
nghiệp cung cấp và được thúc đẩy do nhu cầu tiêu dùng mạnh mẽ đối với lương thực giá rẻ,
chất lượng đồng nhất và có thể đoán trước. Giống cây trồng được tạo ra để đáp ứng yêu cầu
của các hệ thống và tiêu chuẩn thị trường nghiêm ngặt, giống cây trồng thường được sản xuất
ở dưới dạng hệ thống sản xuất độc canh và chuyên canh, tuy nhiên cũng chú trọng đến vấn đề
kháng sinh học, chất lượng dinh dưỡng và ổn định năng suất. Quá trình này đã làm tăng xu
hướng mất mát đa dạng di truyền, đa dạng loài trên đồng ruộng của nông dân.
b) Tuy nhiên, trong thế giới các nước đang phát triển vẫn có một tỷ lệ đáng kể lương
thực được sản xuất mà không sử dụng hóa chất và lượng lương thực dư thừa từ nền nông
nghiệp tự cung tự cấp hoặc vườn gia đình được bán tại địa phương. Nhiều người trong số
hàng triệu nông dân quy mô nhỏ trên toàn thế giới phụ thuộc vào PGRFA sẵn có ở địa
phương để phục vụ cho sinh kế và hạnh phúc của họ.
c) Quá trình đô thị hóa tiếp tục tăng mạnh, dự kiến hơn 70% dân số thế giới sẽ sống ở
các thành phố vào năm 2050 so với con số khoảng 50% dân số sống ở đô thị hiện nay. Mức
thu nhập dự kiến sẽ tăng đều đặn nhiều lần so với mức hiện tại. Tuy nhiên, sự chênh lệch thu
nhập giữa người giàu và người nghèo sẽ vẫn duy trì ở mức cao.
d) Thương mại hạt giống quốc tế đã gia tăng đáng kể, chủ yếu do các công ty hạt
giống đa quốc gia lớn và nhỏ chi phối.
e) Sản xuất và tiếp thị các giống biến đổi di truyền gia tăng chưa từng có về số lượng
cây trồng liên quan chặt chẽ đến các vấn đề đã đề cập và như vậy cần gia tăng nhu cầu giám
sát chặt chẽ của cộng đồng nguồn tài nguyên di truyền.
f) Theo các chính sách và nhu cầu quốc gia, đang có sự gia tăng thực hiện Điều 9 của
Hiệp ước Quốc tế về quyền của nông dân và cần sự công nhận lớn hơn về vai trò quan trọng
của nông dân trong việc bảo tồn và sử dụng bền vững PGRFA.
10. Biến đổi khí hậu là một mối đe dọa trước mắt và khó dự đoán đối với sinh kế, an ninh
lương thực và có thể là một rào cản lớn để đạt được mục tiêu tăng 70% sản lượng lương thực
toàn thế giới vào năm 2050. Các yếu tố chiến lược dưới đây cần thiết để bảo vệ và sử dụng
PGRFA một cách tối ưu giúp đối phó với biến đổi khí hậu:
Tập trung mạnh vào bảo tồn in situ các quần thể đa dạng di truyền, đặc biệt là CWR,
cho phép tiếp tục tiến hóa và do đó cho phép các thế hệ tiếp theo có các tính trạng
thích nghi;
Chương trình bảo tồn ex situ quan trọng, đặc biệt là bảo tồn CWR, đảm bảo duy trì đa
dạng loài, quần thể và giống, bao gồm cả những loài đã thích nghi với điều kiện khắc
nghiệt và những loài từ các khu vực dự kiến sẽ bị ảnh hưởng lớn do biến đổi khí hậu;
Nghiên cứu tăng cường và sẵn có các thông tin về mô tả các vật liệu bảo quản ex situ,
các vật liệu này sẽ hữu ích với điều kiện khí hậu mới;
Hỗ trợ việc tiếp cận và di chuyển PGRFA cần được tăng cường để đáp ứng sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trước những điều kiện môi trường mới;
Hỗ trợ hơn nữa công tác xây dựng năng lực về chọn tạo giống thực vật, quản lý hệ
thống hạt giống và tạo điều kiện cho sử dụng PGRFA hiệu quả và bền vững;
Sự tham gia có mục tiêu của nông dân và cộng đồng nông nghiệp trong các hoạt động
cải tiến cây trồng ở cấp độ quốc qia và địa phương, bao gồm hỗ trợ chọn tạo giống và
nghiên cứu có sự tham gia của cộng đồng.
11. Trong suốt 15 năm qua, lượng lớn các thông tin về mức độ, bản chất của xói mòn và tổn
thất di truyền của PGRFA đã được công bố. Xói mòn di truyền ghi nhận đã xảy ra ở rất nhiều
khu vực trên thế giới và sự tổn thất di truyền của cây trồng tiếp tục tăng nhanh. Nguyên nhân
chủ yếu của xói mòn là do việc thay thế các giống của nông dân/giống địa phương, khai
hoang đất, khai thác quá mức, giảm nguồn cung cấp nước, áp lực dân số, thay đổi thói quen
ăn uống, suy thoái môi trường, thay đổi hệ thống nông nghiệp, chăn thả quá mức, pháp luật và
chính sách, sâu, bệnh và cỏ dại. Thay đổi trong lĩnh vực hạt giống và phương pháp sản xuất
có ảnh hưởng đến tổn thất di truyền cây trồng. Sự tổn thất này tác động cụ thể đến cây trồng ít
được quan tâm sử dụng và làm tăng nguy cơ lãng quên của nông dân, đối tượng cây trồng ít
được quan tâm sử dụng này thường không được nghiên cứu, chọn tạo giống thực vật, phát
triển/tiếp thị. Tuy nhiên, các loài cây trồng này lại có tiềm năng lớn trong bối cảnh biến đổi
khí hậu, nông nghiệp sinh thái, chế độ ăn uống đa dạng và tính bền vững của hệ thống sản
xuất nông nghiệp.
12. Nhiều tiến bộ trong lĩnh vực chính của khoa học và công nghệ đã đạt được trong vòng 15
năm qua có liên quan đến bảo tồn và sử dụng PGRFA. Việc nhanh chóng phát triển công nghệ
thông tin và truyền thông (ICT) là mấu chốt của những tiến bộ này, trong đó bao gồm điện
thoại di động, Internet, quản lý, phân tích, thông tin và phát triển lĩnh vực sinh học phân tử.
a. Quản lý thông tin và trao đổi công nghệ có rất nhiều tiến bộ trong suốt 15 năm qua.
Việc tiếp cận thông tin cũng như tăng cường năng lực phân tích hiện có của cán bộ
bảo tồn nguồn tài nguyên di truyền đã có những bước tiến đáng kể. Ngoài ra, hệ thống
thông tin địa lý (GIS), phương pháp dựa trên vệ tinh như hệ thống định vị toàn cầu
(GPS) và cảm biến từ xa đã cho phép dữ liệu PGRFA được kết hợp với một loạt các
dữ liệu khác để định vị các khu vực đa dạng đặc thù hoặc xác định vật liệu từ nơi sinh
sống cụ thể.
b. Các tiến bộ gần đây trong kỹ thuật phân tử và di truyền đã có tác động sâu sắc trong
các lĩnh vực quan trọng của việc thực hiện GPA. Các kỹ thuật này cho phép bổ sung
thông tin chi tiết về phạm vi và sự phân bố đa dạng di truyền và có thể dùng trong quá
trình phát triển chiến lược về bảo tồn và sử dụng PGRFA. Ngoài ra, công nghệ tiên
tiến sử dụng trong việc xác định và chuyển gen giữa các loài có quan hệ gần
và thậm chí giữa các loại không có quan hệ với nhau đã mở ra chân trời mới cho việc
khai thác đa dạng di truyền.
c. Trong thập niên qua, không có nhiều phát triển lớn liên quan đến các phương pháp và
thực hành bảo tồn ex situ, hệ thống thông tin mới và công cụ sinh học phân tử có khả
năng giúp việc bảo tồn và sử dụng PGRFA hiệu quả và kinh tế hơn. Ngoài ra, rất nhiều
hoạt động được thực hiện trong lĩnh vực bảo tồn in situ áp dụng cho cả CWR, cây
hoang dại làm lương thực và bảo tồn nông trại. Từ kinh nghiệm và kiến thức thu được
dẫn tới sự công nhận tầm quan trọng của phương pháp đa ngành, phối hợp mà trong
đó nông dân, cộng đồng bản xứ, địa phương đóng vai trò hàng đầu, trong đó sinh kế và
triển vọng về thịnh vượng của người được phản ánh đầy đủ.
13. Việc phát triển chính sách liên quan đến bảo tồn và sử dụng GRFA là một bước tiến đáng
kể. Điển hình như việc thông qua Chương trình Công tác Đa dạng Sinh học Nông nghiệp của
Hội nghị các Bên tham gia Công ước Đa dạng sinh học (CBD) năm 2000, việc thông qua các
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ năm 2000, xây dựng Chiến lược Toàn cầu về Bảo
tồn Thực vật năm 2002, thành lập Quỹ tín thác Đa dạng Cây trồng Toàn cầu năm 2004 và
việc thông qua Chương trình Công tác Nhiều năm của Ủy ban (MYPOW), trong đó bao bao
gồm cả các nội dung quan trọng về PGRFA năm 2007.
14. Không còn nghi ngờ gì nữa, sự phát triển quan trọng nhất là Hiệp ước Quốc tế đã có hiệu
lực trong năm 2004. Điều 14 của Hiệp ước công nhận tầm quan trọng của GPA hiện có và
cam kết Các bên tham gia Ký kết Hiệp ước thúc đẩy thực hiện có hiệu quả GPA, kể cả thông
qua hành động quốc gia, hợp tác quốc tế để cung cấp khuôn khổ chặt chẽ, cho công tác
chuyển giao công nghệ, xây dựng năng lực và trao đổi thông tin, có tính đến các quy định chia
sẻ lợi ích trong Hệ thống Đa phương. Các bên Ký kết cũng công nhận khả năng thực hiện các
hoạt động ưu tiên, kế hoạch và chương trình PGRFA của các quốc gia – đặc biệt là các nước
đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi, kể cả việc thực hiện GPA, sẽ phụ
thuộc chủ yếu vào việc thực hiện hiệu quả Điều 6 (sử dụng bền vững PGRFA) và Điều
13 (chia sẻ lợi ích trong Hệ thống Đa phương) và Chiến lược Tài trợ như đã quy định tại Điều
18. Cơ quan Điều hành Hiệp ước cũng đưa khung công tác GPA vào việc thiết lập các ưu tiên
trong Quỹ Chia sẻ lợi ích cho phép sử dụng chiến lược của mình trong xúc tác sử dụng bền
vững và bảo tồn PGRFA. GPA lần thứ hai sẽ là nguồn quan trọng xác định các ưu tiên tương
lai.
15.Tại cuộc họp lần thứ 10 năm 2010, Hội nghị các Bên tham gia Công ước Đa dạng Sinh học
thông qua Kế hoạch Chiến lược Đa dạng Sinh học giai đoạn 2011-2020 với 20 mục tiêu. Mục
tiêu thứ 13 của "Mục tiêu Đa dạng Sinh học Aichi" là mục tiêu chính liên quan đến đa dạng di
truyền: "Đến năm 2020, đa dạng di truyền của cây trồng, vật nuôi, động vật thuần hóa và gần
gũi hoang dã, bao gồm cả các loài có giá trị kinh tế xã hội cũng như văn hóa sẽ được duy trì
và chiến lược cho sự duy trì này đã được phát triển và thực hiện để giảm thiểu xói mòn di
truyền và bảo vệ đa dạng di truyền". Nhiều mục tiêu khác của Kế hoạch Chiến lược giai đoạn
2011-2020 cũng liên quan đến bảo tồn và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên di truyền
thực vật. Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai nhằm đóng góp có hiệu quả để đạt được
các mục tiêu này. Công việc đã được bắt đầu bằng việc xây dựng các chỉ thị quốc tế liên quan
đến các mục tiêu này. Nghị định thư Nagoya về Tiếp cận Nguồn Di truyền và Chia sẻ Công
bằng Lợi ích Phát sinh từ việc Sử dụng, được thông năm 2010 và có thể khi có hiệu lực, cũng
có ý nghĩa trong việc tấp cận và sử dụng nguồn tài nguyên di truyền thực vật.
16. GPA ủy quyền cho Ủy ban phát triển phương pháp để rà soát lại GPA. Việc rà soát nên
tiến hành từ cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế trong việc thực hiện, thảo luận và điều chỉnh
GPA phù hợp, và như vậy tạo ra kế hoạch "đang vận hành" như đã đề cập trong Chương trình
nghị sự 21.
Mục tiêu và chiến lược của Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai
17. Tại Kỳ họp thường kỳ lần thứ 12 năm 2009, Ủy ban đề nghị GPA lần thứ hai tập chung
giải quyết các ưu tiên, bao gồm xác định ưu tiên cho Kế hoạch Tài trợ của Hiệp ước Quốc tế.
GPA lần thứ hai dựa trên mục tiêu và nguyên tắc ngắn gọn, rõ ràng và bao gồm cả chiến lược
và thông tin cho từng hoạt động ưu tiên.
18. Mục tiêu chính của GPA lần thứ hai đã được Ủy ban đồng ý tại Kỳ họp thường kỳ lần thứ
13 và đã được Hội đồng FAO thông qua tại Kỳ họp lần thứ 143 năm 2011, là:
a) Tăng cường thực hiện Hiệp ước Quốc tế;
b) Đảm bảo việc bảo tồn PGRFA là cơ sở cho an ninh lương thực, nông nghiệp bền vững và
xóa đói giảm nghèo bằng cách cung cấp một nền tảng cơ bản cho việc sử dụng hiện tại và
tương lai;
c) Xúc tiến sử dụng bền vững PGRFA để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và giảm đói nghèo,
đặc biệt là ở các nước đang phát triển, cung cấp nhiều lựa chọn cho việc thích ứng và
giảm nhẹ biến đổi khí hậu, nhấn mạnh thay đổi toàn cầu khác và đáp ứng nhu cầu về
lương thực, thức ăn chăn nuôi và các nhu cầu khác;
d) Xúc tiến việc trao đổi PGRFA, chia sẻ công bằng và bình đẳng các lợi ích phát sinh từ
việc sử dụng của tài nguyên;
e) Hỗ trợ các nước, các khu vực, khi thích hợp, phù hợp với luật pháp quốc gia, tiến hành
các biện pháp bảo vệ và thúc đẩy Quyền của người nông dân theo quy định tại Điều 9 của
Hiệp ước Quốc tế;
f) Giúp đỡ các quốc gia, các vùng, cơ quan điều hành Hiệp ước Quốc tế và các tổ chức khác
chịu trách nhiệm bảo tồn và sử dụng PGRFA để xác định các ưu tiên cho hành động;
g) Xây dựng và tăng cường các chương trình quốc gia, tăng cường hợp tác khu vực và quốc
tế, bao gồm nghiên cứu, giáo dục và đào tạo về bảo tồn và sử dụng PGRFA và tăng
cường năng lực tổ chức;
h) Xúc tiến chia sẻ thông tin về PGRFA giữa và trong khu vực, các quốc gia;
i) Xây dựng cơ sở khái niệm cho sự phát triển và thông qua chính sách và pháp luật quốc
gia, khi thích hợp, cho sự bảo tồn và sử dụng bền vững PGRFA;
j) Giảm trùng lặp ngoài ý muốn và không cần thiết nhằm tăng hiệu quả công việc và hiệu
quả chi phí của các nỗ lực toàn cầu về bảo tồn và sử dụng bền vững PGRFA.
19. GPA dựa trên thực tế các quốc gia phụ thuộc lẫn nhau về PGRFA, sự hợp tác quan trọng
trong khu vực và quốc tế vì vậy là rất cần thiết để đạt được mục tiêu một cách đầy đủ và hiệu
quả. Trong bối cảnh này, GPA đã phát triển một khung chiến lược rộng lớn bao gồm 7 khía
cạnh cơ bản và liên quan với nhau:
a) Một lượng lớn PGRFA thiết yếu cho an ninh lương thực toàn cầu đang được bảo tồn ex
situ. Trong khi đó, việc duy trì nguồn tài nguyên di truyền trong các ngân hàng
gen và các mạng lưới là một phương pháp thông thường ở hầu hết các quốc gia, rất nhiều
tập đoàn hiện có cần phải được phát triển và củng cố hơn nữa. Yếu tố chiến lược chính
của GPA là đảm bảo đầy đủ điều kiện kho lưu giữ vật liệu di truyền đã được thu
thập, cung cấp cho nhân giống và lưu giữ kép an toàn. Nói chung, cần phải lập quy trình
hoạt động tiêu chuẩn cho tất cả các hoạt động của ngân hàng gen.
b) Liên kết giữa bảo tồn với việc sử dụng và xác định, khắc phục trở ngại giúp tăng cường
việc sử dụng PGRFA đang bảo tồn là cần thiết để đạt được lợi ích tối đa từ các nỗ
lực bảo tồn. Quản lý thông tin hiệu quả, bao gồm chia sẻ rộng rãi thông tin có liên quan
với người sử dụng bằng công nghệ thông tin tiên tiến, hiện đại là điều kiện tiên quyết
quan trọng để đạt được mục tiêu. Mục tiêu này bao gồm cả tăng cường các thông tin về
phân tử và hệ gen, do đó cần phải liên kết, phân tích, cùng với dữ liệu mô tả, đánh giá các
tính trạng hình thái, nông học được quản lý trong cơ sở dữ liệu ngân hàng gen.
c) Tăng cường năng lực ở tất cả các cấp là chiến lược then chốt để hỗ trợ các hoạt động cụ
thể của GPA. Kế hoạch Hành động Toàn cầu tìm cách thúc đẩy việc sử dụng thực tế và
hiệu quả, phát triển các cơ quan, hợp tác nguồn nhân lực, cơ chế tài chính giữa các bên
bằng cách nâng cao tính linh hoạt của nguồn nhân lực và tài chính như là một đóng góp
cho việc thành lập hệ thống toàn cầu thực sự về PGRFA. Hơn nữa, cần phải tăng cường
mối liên kết giữa đổi mới khoa học, công nghệ và ứng dụng của nó trong việc bảo tồn và
sử dụng PGRFA.
d) Tăng cường nỗ lực và quan hệ giữa các nhà chọn giống khu vực công cộng và tư nhân
trong việc bảo tồn và sử dụng PGRFA là nhiệm vụ chủ yếu. Ngoài ra, việc tạo và chọn
giống cũng như nghiên cứu có sự tham gia của cộng đồng và nông dân nói chung cần
được tăng cường và công nhận rộng rãi hơn nữa như là cách thích hợp để đạt được mục
tiêu bảo tồn và sử dụng bền vững, lâu dài PGRFA.
e) Bảo tồn in situ và phát triển PGRFA dựa trên hai hình thức: trên đồng ruộng và trong tự
nhiên. Nông dân, cộng đồng bản xứ và địa phương đóng một vai trò quan trọng trong cả
hai phương thức bảo tồn. Nâng cao năng lực của nông dân thông qua mối liên kết với cơ
quan khuyến nông, khu vực công cộng và tư nhân, các tổ chức phi chính phủ và hội nông
dân cũng như việc cung cấp ưu đãi cho bảo tồn in situ sẽ giúp thúc đẩy an ninh lương
thực, khả năng thích ứng và khả năng phục hồi nhanh, đặc biệt là trong cộng đồng dân cư
sống trong các khu vực có tiềm năng nông nghiệp thấp.
f) Xem xét tầm quan trọng của CWR trong cải tiến cây trồng và thực tế cho thấy rằng nông
dân đã không được quan tâm đầy đủ, hoạt động quản lý và bảo tồn đặc thù phải được
thực hiện như là sự bảo vệ tốt hơn thông qua thực hành sử dụng đất cải tiến, bảo tồn thiên
nhiên và tăng cường sự tham gia của các cộng đồng bản xứ và địa phương.
g) Chiến lược bảo tồn và sử dụng tại cộng đồng, quốc gia, khu vực và quốc tế sẽ hiệu quả
nhất nếu được bổ sung và điều phối tốt. Bảo tồn in situ, ex situ và sử dụng bền vững cần
phải được hợp nhất đầy đủ ở tất cả các cấp.
20. Để huy động nguồn lực cho phép thực hiện kịp thời và đầy đủ các phần chính của chiến
lược đã đề cập ở trên đòi hỏi sự quan tâm và nỗ lực ở tất cả các cấp, bao gồm sự phối hợp của
biện pháp trong phạm vi quốc gia, khu vực và trên toàn cầu (CBD, Công ước khung của Liên
hợp quốc về biến đổi khí hậu, vv.)
Cấu trúc và tổ chức của Kế hoạch Hành động Toàn cầu
21. Kế hoạch Hành động Toàn cầu gồm 18 hoạt động ưu tiên. Căn cứ vào những mục đích
thực tiễn và hình thức trình bày, kế hoạch được phân thành bốn nhóm chính. Nhóm thứ nhất
tập trung vào Quản lý và Bảo tồn in situ; nhóm thứ hai về Bảo tồn ex situ, nhóm
thứ ba về Sử dụng Bền vững và nhóm thứ tư về Xây dựng Thể chế và Nguồn Nhân lực
Bền vững. GPA là một tập hợp các hoạt động hợp nhất và đan xen do vậy việc sắp đặt các
hoạt động trong bốn nhóm nhằm làm đơn giản hóa trật tự trình bày và hướng dẫn độc giả tập
trung vào lĩnh vực quan tâm cụ thể. Rất nhiều hoạt động ưu tiên có quan hệ và liên quan đến
các nhóm khác.
22. Đối với mỗi hoạt động ưu tiên đều có các tiêu đề hoặc các phần, dự định trình bày trong
lĩnh vực đề xuất. Trong một vài trường hợp, khuyến cáo được tìm thấy dưới một tiêu đề có
thể chỉ là một cách đề xuất thích hợp bên dưới một gợi ý khác. Trong khi không có
định nghĩa chính xác cho các phần, một vài lưu ý có thể hữu ích:
a) Phần Bối cảnh cung cấp cơ sở về các hoạt động ưu tiên và tóm tắt thành tựu đạt được từ
năm 1996, các phần này chủ yếu là dựa vào kết quả báo cáo trong Báo cáo Lần thứ hai.
b) Phần mục tiên xác định mục tiêu cuối cùng và trung gian được thực hiện theo các hoạt
động ưu tiên. Sự kết hợp chính xác của các mục tiêu có thể hỗ trợ cộng đồng quốc tế
trong việc đánh giá mức độ thực hiện các hoạt động ưu tiên qua thời gian.
c) Phần Chính sách/chiến lược đưa ra chính sách quốc gia, quốc tế và phương pháp tiếp cận
chiến lược để thực hiện các mục tiêu của hoạt động ưu tiên. Trong một vài trường hợp,
khuyến cáo về chính sách mang tính quốc tế mới được đưa ra; trong một số trường hợp
khác, có các đề xuất thay đổi về phương pháp, các ưu tiên và tầm nhìn.
d) Phần năng lực chỉ ra khả năng về nhân lực và thể chế nên được phát triển hoặc được cung
cấp trong quá trình thực hiện các hoạt động ưu tiên.
e) Phần nghiên cứu/công nghệ, bao gồm phát triển và chuyển giao công nghệ, xác định các
lĩnh vực nghiên cứu khoa học, phương pháp, công nghệ, hoặc hoạt động liên quan đến
việc thực hiện các hoạt động ưu tiên.
f) Phần điều phối/quản trị nhấn mạnh cách các vấn đề có thể tiếp cận như hoạt động ưu tiên
được lên kế hoạch và được thực hiện như thế nào. Trọng tâm của phần này chủ yếu giới
hạn ở mức quốc gia để tránh tình trạng lặp lại, cần tiếp tục tăng cường hợp tác với các tổ
chức quốc tế liên quan và với các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp và đẩy mạnh
chia sẻ thông tin giữa tất cả các tổ chức và các bên tham gia trong tất cả các hoạt động ưu
tiên. Hợp tác quốc tế là nhân tố quan trọng để đạt được lợi ích tối đa trong khuôn khổ các
công cụ pháp luật và chính sách, ví dụ như Công ước Đa dạng Sinh học và Hiệp
ước Quốc tế và đáp ứng các nghĩa vụ liên quan.
23. Nhân dịp này, các tổ chức hoặc các nhà tạo lập được xác định vào cấu trúc của từng hoạt
động ưu tiên cụ thể. Điều này không có nghĩa là loại trừ họ khỏi các hoạt động mà họ không
được đề cập. Nguồn tham khảo này được sử dụng để làm nổi bật vai trò đặc biệt quan trọng
hoặc nếu không có thể được bỏ sót, hoặc cả hai.
Quản lý và bảo tồn in situ
1. Điều tra và kiểm kê tài nguyên di truyền thực vật phục vụ mục tiêu lương thực và
nông nghiệp
24. Bối cảnh: Bảo tồn hợp lý tài nguyên di truyền thực vật (in situ và ex situ) bắt đầu bằng
việc điều tra kiểm kê, như đã nhấn mạnh tại Điều 15 của Hiệp ước Quốc tế. Để soạn thảo
những chính sách và chiến lược cho bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên di truyền thực
vật, các chương trình quốc gia cần nắm rõ nguồn tài nguyên hiện có ở đất nước đó, sự phân
bố và quy mô mà nguồn tài nguyên đã được bảo tồn. Các quốc gia đã phê chuẩn CBD thừa
nhận trách nhiệm đặc biệt về vấn đề này (ví dụ trong Chương trình Công tác về Đa dạng Sinh
học Nông nghiệp). Khả năng tiếp cận rộng hơn với các công cụ địa lý đã tạo điều kiện cho
việc điều tra. Việc phát triển và ứng dụng các kỹ thuật sinh học phân tử hiện đại đã hỗ trợ
đánh giá mức độ đa dạng di truyền, trong một số trường hợp, đánh giá xói mòn di truyền.
Trong thập niên vừa qua, hầu hết các điều tra chỉ giới hạn đối với các cây trồng cụ thể hoặc
các khu vực hạn chế, mặc dù có một số tiến bộ trong kiểm kê CWR và thiết lập những điểm
cụ thể cho bảo tồn in situ. Ngoài ra, những nỗ lực thực hiện trong các khu bảo tồn nhằm điều
tra, kiểm kê và bảo tồn tài nguyên di truyền thực vật vẫn bị hạn chế so với những nỗ lực được
thực hiện đối với các thành phần khác của đa dạng sinh học. Một số tổ chức quốc tế đã góp
phần giám sát hiện trạng bảo tồn CWR liên quan đến nông nghiệp ở cấp khu vực và toàn cầu,
nhưng cần tiếp tục xây dựng quan hệ đối tác mạnh hơn với các tổ chức trong lĩnh vực môi
trường, đặc biệt ở cấp quốc gia.
25. Mục tiêu: Tạo điều kiện phát triển, thực hiện và giám sát những chiến lược bảo tồn bổ
sung và các chính sách quốc gia liên quan tới bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên di
truyền thực vật. Đẩy mạnh liên kết giữa Bộ nông nghiệp và Bộ môi trường để thúc đẩy việc
giám sát hiện trạng và xu hướng của tài nguyên di truyền thực vật và từ đó đảm bảo việc bảo
tồn hợp lý.
26. Phát triển và ứng dụng phương pháp vào việc điều tra và kiểm kê tài nguyên di truyền
thực vật bảo tồn in situ và bảo tồn ex situ, bao gồm GIS, phương pháp dựa trên vệ tinh (như
GPS và cảm ứng từ xa) và chỉ thị phân tử. Xác định, định vị, kiểm kê và đánh giá mối đe dọa
tới tài nguyên di truyền thực vật, đặc biệt từ việc sử dụng đất và biến đổi khí hậu.
27. Chính sách/Chiến lược: Khả năng định danh loài là nhân tố chính cho hoạt động ưu tiên
này. Việc điều tra và kiểm kê tài nguyên di truyền thực vật, khi cần thiết, nên được xem là
bước đầu tiên trong quá trình bảo tồn và giảm thiểu tốc độ mất mát đa dạng sinh học. Tuy
nhiên, không có năng lực bảo tồn và/hoặc sử dụng đa dạng sinh học, các hoạt động này có thể
khó được sử dụng. Do vậy, điều tra và kiểm kê nên được liên kết với mục tiêu cụ thể và với
kế hoạch bảo tồn in situ, thu thập, bảo tồn ex situ và sử dụng. Các phương pháp và định nghĩa
tiêu chuẩn cần được thúc đẩy để đánh giá trực tiếp tổn thất di truyền cũng như xói mòn di
truyền. Đồng thời, cần cấp thiết phát triển những chỉ thị cải tiến, bao gồm chỉ thị đại diện cho
đa dạng di truyền, xói mòn di truyền và khả năng tổn thất di truyền. Các chỉ thị này có thể
được sử dụng để thiết lập ranh giới cơ bản cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu. Những chỉ thị
này nên phải khách quan, cân bằng trong hệ thống sử dụng ở cấp quốc gia. Những chỉ thị này
không nên thiết lập các biện pháp trừng phạt và cũng không ảnh hưởng tới chủ quyền quốc
gia đối với tài nguyên di truyền, không áp đặt các hệ thống thông tin đặc thù. Thỏa thuận
chung cần được tiếp tục theo đuổi về thiết kế và sử dụng các chỉ thị như vậy.
28. Kiến thức địa phương và bản địa nên được công nhận là thành phần quan trọng của điều
tra kiểm kê và nên xem xét cẩn thận và được tư liệu hóa nếu thích hợp với sự đồng ý trước
của cộng đồng bản địa và địa phương.
29. Năng lực: Các quốc gia nên cung cấp và có thể được hưởng lợi từ việc hỗ trợ tài chính, kỹ
thuật cho điều tra kiểm kê tài nguyên di truyền thực vật. Có rất nhiều nhiều trở ngại nảy sinh
đối với điều tra kiểm kê tài nguyên di truyền thực vật như thiếu đội ngũ nhân viên được đào
tạo đầy đủ. Đào tạo và xây dựng năng lực nên được tiến hành ở một số lĩnh vực nghiên cứu,
gồm định danh thực vật, sinh học quần thể, thực vật học dân tộc, sử dụng GIS và GPS, và các
công cụ phân tử. Khả năng đánh giá ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và sự thích nghi cũng
liên quan ngày càng tăng, đặc biệt trong trường hợp bảo tồn in situ đa dạng di truyền được
duy trì ổn định trong thời gian dài.
30. Nghiên cứu/Công nghệ: Nên đưa ra sự hỗ trợ đầy đủ để xây dựng các phương pháp tốt
hơn cho điều tra và đánh giá đa dạng giữa và trong loài trong các hệ thống sinh thái nông
nghiệp. Đồng thời cần cấp thiết phát triển những chỉ thị có cơ sở khoa học dễ thực hiện dùng
cho việc giám sát hiện trạng và xu hướng của tài nguyên di truyền thực vật, đặc biệt ở mức độ
di truyền.
31. Những nghiên cứu cụ thể liên quan tới bảo tồn in situ tài nguyên di truyền thực vật là cần
thiết. Kiểm kê đầy đủ hơn là việc làm cần thiết để giúp cho thực hiện tốt hơn các mục tiêu
hoạt động bảo tồn in situ. Nếu công tác kiểm kê này được kết hợp với những dữ liệu thực tế
hoặc dự đoán về những tính trạng đặc biệt quan tâm, thì việc kiểm kê đó sẽ có giá trị hơn và
cung cấp một liên kết hữu ích tới bảo tồn ex situ và sử dụng. Nguồn thông tin hiện có nên
được sử dụng để xác định phạm vi tồn tại của cây hoang dại gần gũi với cây trồng hiện đang
tồn tại trong các khu bảo tồn.
32. Phát triển các chỉ thị là lĩnh vực nghiên cứu đặc biệt quan trọng để giám sát những thay
đổi phạm vi phân bố đa dạng ở các quy mô khác nhau và để tập hợp thông tin về những loài
và quần thể riêng biệt. Nghiên cứu này sẽ đẩy mạnh đáng kể việc lập kế hoạch và hoạch định
chính sách bảo tồn quốc gia.
33. Điều phối/Quản trị: Công việc điều phối phải được tiến hành trong nước giữa các bộ liên
quan đến nông nghiệp, môi trường, nghiên cứu, khoa học và công nghệ, và khu vực do các
loài phân bố xuyên biên giới quốc gia. Điều phối ở cấp độ khu vực và toàn cầu cần thiết để
tăng cường liên kết giữa các nỗ lực bảo tồn ex situ và in situ hiện có.
34. Mối liên kết chặt chẽ cần được thiết lập giữa mạng lưới quốc gia, khu vực, cây trồng với
những người sử dụng tài nguyên di truyền thực vật (nhà chọn tạo giống, nhà nghiên cứu và
nông dân) để thông báo, chỉ đạo và xác định ưu tiên toàn bộ quá trình bảo tồn. Các quốc gia
nên cộng tác trong các hoạt động điều tra kiểm kê để xây dựng năng lực.
2. Hỗ trợ quản lý bảo tồn nông trại và cải tiến tài nguyên di truyền thực vật phục vụ
mục tiêu lương thực và nông nghiệp
35. Bối cảnh: Chọn tạo giống cây trồng giúp nâng cao năng suất cây trồng, cải thiện tính
kháng với sâu và bệnh, tăng cường đa dạng, chất lượng nông nghiệp và nông sản, đặc biệt
trong môi trường thuận lợi. Người nông dân lựa chọn trồng những giống cải tiến do nhiều
nguyên nhân như điều kiện thị trường, an ninh lương thực gia đình và sự ổn định môi trường.
Mặc dù những lựa chọn này thường dẫn tới xói mòn di truyền một cách đáng kể, nhưng
những bằng chứng trong hai thập niên gần đây cho thấy vẫn có nhiều nông dân ở các nước
đang phát triển, thậm chí ở cả các nước phát triển, tiếp tục duy trì đa dạng di truyền cây trồng
quan trọng trên đồng ruộng của họ. Sự đa dạng này hình thành nên yếu tố quan trọng trong
chiến lược sinh kế của người nông dân vì khả năng thích nghi với môi trường khó trồng trọt
hoặc không đồng nhất. Đa dạng cây trồng cũng được duy trì để đáp ứng với những thay đổi về
nhu cầu thị trường, lao động sẵn có và các yếu tố kinh tế-xã hội khác, cũng như những lý do
về văn hóa và tôn giáo.
36. Một loạt sáng kiến và thực hành đã thành hiện thực giúp cộng đồng nông nghiệp tiếp tục
thu lợi từ việc duy trì và sử dụng đa dạng di truyền cây trồng địa phương trong các hệ thống
sản xuất của họ. Xây dựng năng lực và năng lực lãnh đạo trong các cộng đồng và tổ chức địa
phương là tiền đề cho việc thực hiện những sáng kiến dựa vào cộng đồng. Thúc đẩy và hỗ trợ
quản lý trên đồng ruộng về tài nguyên di truyền đang trở thành hợp phần quan trọng trong
chiến lược bảo tồn cây trồng. Dó đó quản lý đồng ruộng tài nguyên di truyền thực vật là một
trong ba ưu tiên hàng đầu của Quỹ Chia sẻ Lợi ích của Hiệp ước Quốc tế.
37. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề quan trọng về phương pháp và
kỹ thuật. Cụ thể vẫn còn nhiều cơ hội để cải thiện việc điều phối quản lý đồng ruộng với việc
sử dụng và bảo tồn ex situ. Để nhận biết được toàn bộ tiềm năng của việc cải thiện bảo tồn
nông trại, những hoạt động thực tiễn này cần hợp nhất hoàn toàn với các chính sách phát triển
nông thôn.
38. Mối lo ngại về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới nông nghiệp đang tăng nhanh trong
suốt thập niên vừa qua. Người nông dân không có khả năng hơn nữa trồng các giống cây
trồng truyền thống, giống địa phương của họ trong bối cảnh biến đổi khí hậu, và do vậy họ sẽ
cần tiếp cận nguồn gen mới. Hơn nữa, nông nghiệp vừa là nguồn tạo ra vừa là bồn chứa các-
bon khí quyển. Tài nguyên di truyền thực vật ngày càng được công nhận có tầm quan trọng
đặc biệt tới phát triển hệ thống nông nghiệp, có khả năng phục hồi nhanh với biến đổi khí hậu,
lưu giữ nhiều các-bon hơn và thải ra ít khí nhà kính hơn. Tài nguyên di truyền thực vật sẽ làm
nền móng cho việc tạo nhiều giống cây trồng thích nghi mới giúp cho nông nghiệp đối phó
với những điều kiện môi trường tương lai. Mối liên hệ giữa hệ thống hạt giống địa phương,
các ngân hàng gen và mạng lưới cần được tăng cường hơn nữa để đảo bảo nguồn gen mới
thích nghi được với biến đổi khí hậu.
39. Mục tiêu: Để sử dụng kiến thức tạo ra trong hai thập niên gần đây nhằm thúc đẩy và cải
thiện tính hiệu quả của bảo tồn nông trại, quản lý, cải thiện và sử dụng tài nguyên di truyền
thực vật. Để đạt được sự cân bằng và phối hợp hơn nữa giữa bảo tồn ex situ và in situ. Để
thừa nhận Quyền của nông dân như được thể hiện chi tiết tại Điều 9 Hiệp ước Quốc tế ở cấp
quốc gia, khu vực và phù hợp với luật pháp cũng như ưu tiên quốc gia. Để thúc đẩy sự chia sẻ
công bằng lợi ích gia tăng từ việc sử dụng tài nguyên di truyền thực vật như được kêu gọi
trong Điều 13 Hiệp ước Quốc tế. Để khuyến khích sự xuất hiện các công ty hạt giống quốc
doanh và tư nhân và hợp tác doanh nghiệp trong tương lai nhằm phản ánh nhu cầu địa phương
như là kết quả thành công của sự chọn lọc và chọn tạo giống trên đồng ruộng. Để duy trì trao
đổi hạt giống và các hệ thống cung cấp truyền thống, bao gồm cả các ngân hàng gen cộng
đồng, đẩy mạnh thị trường sản phẩm của địa phương đặc biệt cho quy mô nhỏ, sinh kế của
nông dân ở những nước đang phát triển và đồng thời ghi nhận ràng buộc về kiểm dịch thực
vật. Để ghi nhận vai trò của người phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp ở nhiều quốc gia đang
phát triển, đặc biệt liên quan đến quản lý tài nguyên di truyền thực vật trên đồng ruộng. Để
khuyến khích chọn lọc và tạo giống thành công, đặc biệt lưu ý đến biến đổi khí hậu.
40. Để nhấn mạnh khoảng cách giữa kiến thức về tính năng động, phương pháp, tác động,
tiềm năng của bảo tồn đồng ruộng với cải tiến cây trồng. Để thiết lập hoặc tăng cường các
chương trình, mạng lưới quản lý bảo tồn nông trại các giống của người nông dân/giống địa
phương, CWR, cây hoang dại dùng làm lương thực, mở rộng sử dụng tài nguyên di truyền và
thống nhất công việc trong các chính sách và hoạt động phát triển nông thôn. Để mở rộng vai
trò của các ngân hàng gen quốc gia, khu vực, quốc tế và mạng lưới trong việc hỗ trợ, cung cấp
vật liệu cho các chương trình bảo tồn nông trại cải thiện theo hướng tổng hợp hơn. Để xây
dựng các chương trình bảo tồn nông trại dựa trên hệ thống kiến thức địa phương và truyền
thống, dựa trên tổ chức và quản lý để đảm bảo có sự tham gia của người nông dân trong việc
lập kế hoạch, quản lý và đánh giá. Để tập trung chú ý của khoa học và công chúng vào vai trò
đa dạng mà trong đó giới tính và độ tuổi đóng vai trò trong sản xuất và quản lý tài nguyên tại
những hộ nông dân nghèo.
41. Chính sách/Chiến lược: Mặc dù những hoạt động quản lý bảo tồn nông trại hiện đang
dịch chuyển vượt ra ngoài phạm vi nghiên cứu quy mô nhỏ thông qua các dự án về phương
pháp luận, những hoạt động quản lý này vẫn cần được hợp nhất vào chiến lược phát triển và
bảo tồn rộng lớn hơn/hoặc những kế hoạch hành động. Hoạt động bảo tồn nông trại bổ sung
cho sự phát triển chính thức giống cây trồng và củng cố các hệ thống cung cấp hạt giống. Các
cơ quan nghiên cứu cần kết hợp với các cộng đồng nông dân thật linh động. Chiến lược cụ thể
cần được hình thành để bảo tồn in situ tài nguyên di truyền thực vật và để quản lý đa dạng cây
trồng bảo tồn nông trại và ở những khu vực bảo tồn. Chiến lược bảo tồn CWR ở những trung
tâm khởi nguyên, trung tâm đa dạng, các điểm nóng đa dạng sinh học cần được quan tâm chú
ý. Thực hành tốt phải được truyền bá vào bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên di truyền
thực vật để hỗ trợ, duy trì các giá trị xã hội, kinh tế và văn hóa của các cộng đồng địa phương,
bản địa và cải thiện chất lượng cuộc sống. Điều này có thể đạt được bằng cách kết hợp các
cộng đồng tham gia vào tất cả các khía cạnh quản lý và cải tiến bảo tồn nông trại tài nguyên di
truyền thực vật.
42. Chính phủ nên xem xét cách sản xuất, khuyến khích kinh tế, chính sách khác, dịch vụ
khuyến nông và nghiên cứu nông nghiệp để tạo điều kiện và khuyến khích việc quản lý bảo
tồn nông trại, cải thiện tài nguyên di truyền thực vật. Giá trị của bảo tồn ngày càng tăng cần
được chứng minh dưới dạng cung cấp liên tục các dịch vụ hệ sinh thái. Tầm quan trọng của
tài nguyên di truyền thực vật là một trong những dịch vụ chỉ mới bắt đầu được nhận thức đầy
đủ, nỗ lực để tư liệu hóa giá trị của CWR và đa dạng giống cây trồng cần được tiếp tục và
tăng cường.
43. Nhu cầu đặc biệt nhằm kết hợp bảo tồn CWR và cây trồng địa phương trong chiến lược
hiện có để đảm bảo rằng đa dạng sinh học nông nghiệp và đa dạng sinh học nhìn chung không
được nhấn mạnh như những thực thể riêng lẻ. Để đạt được nhu cầu này, bảo tồn đa dạng sinh
học nông nghiệp phải trở thành mục tiêu chính của chương trình bảo tồn đa dạng mở rộng ở
cấp quốc gia, khu vực và quốc tế.
44. Các chính sách quốc gia tập trung vào tăng cường năng lực các cộng đồng bản địa và địa
phương để tham gia nỗ lực cải thiện cây trồng khi thích hợp. Các phương pháp phi tập trung,
phương pháp có sự tham gia, phương pháp giới tính về cải tiến cây trồng cần được tăng cường
để tạo ra các giống thích nghi đặc biệt với môi trường bất lợi về kinh tế-xã hội. Điều này cần
những chính sách và luật pháp mới, gồm sự bảo hộ thích hợp, phát triển giống và quy trình
chứng nhận hạt giống cho những giống được chọn tạo thông qua chương trình chọn tạo giống
có sự tham gia của cộng đồng – để thúc đẩy và tăng cường việc sử dụng hạt giống cũng như
đảm bảo những giống đó nằm trong các chiến lược phát triển nông nghiệp quốc gia.
45. Bảo tồn nông trại và sử dụng các loại cây trồng ít được sử dụng cần được quan tâm nhiều
vì chúng có đóng góp to lớn trong việc cải thiện chế độ ăn uống và thu nhập. Để theo kịp các
giá trị thị trường tiềm năng của cây trồng, cần phải hợp tác nhiều hơn ở các giai đoạn khác
nhau trong chuỗi sản xuất, từ phát triển và thử nghiệm các giống mới, thông qua các hoạt
động giá trị gia tăng và việc mở ra các thị trường mới.
46. Năng lực: Nên hỗ trợ đầy đủ các tổ chức cộng đồng và nhóm người sử dụng tham gia hỗ
trợ hoạt động thực tiễn cho bảo tồn nông trại và công việc cải tiến. Khả năng của nông dân,
cộng đồng bản địa và địa phương, tổ chức của họ, cán bộ khuyến nông và các bên tham gia
khác trong việc quản lý đa dạng sinh học nông nghiệp một cách bền vững trên đồng ruộng
nông dân cần được tăng cường.
47. Để hỗ trợ các hoạt động cải tiến giống trên đồng ruộng, ngân hàng gen, mạng lưới và các
tổ chức quốc gia và quốc tế, nên xem xét việc xác định giống cây trồng của nông dân/giống
địa phương phù hợp phục vu cho việc nhân giống và/hoặc cho việc phát triển những quần thể
giống mới nhằm đưa các tính trạng đặc biệt vào vật liệu địa phương đã thích nghi.
48. Các chương trình đào tạo liên ngành nên được triển khai cho cán bộ khuyến nông, các tổ
chức phi chính phủ và những thành viên khác để tạo điều kiện, xúc tác cho các hoạt động bảo
tồn nông trại, cụ thể như kỹ thuật chọn lọc và tạo giống thích hợp nhằm bổ sung và cải thiện
những giống đã được người nông dân sử dụng.
49. Trọng tâm của các chương trình đào tạo là giúp người nông dân thu được kiến thức và
công nghệ mới, khám phá thị trường mới cho các sản phẩm của họ cũng như giúp nhà nghiên
cứu trở thành người có khả năng, người hỗ trợ tốt hơn cho nông dân. Đào tạo nên nhằm vào 4
nhóm khác nhau: các nhà khoa học (gồm các nhà chọn tạo giống, nhà nghiên cứu và nhà kinh
tế nông nghiệp), nhân viên hỗ trợ kỹ thuật, các cơ quan khuyến nông (gồm các tổ chức phi
chính phủ) và người nông dân. Hỗ trợ công việc ở mức độ cao nên bao gồm đào tạo tương
ứng trong lĩnh vực khoa học xã hội và sinh học. Đào tạo các cơ quan khuyến nông nhằm tăng
kỹ năng của họ trong lĩnh vực thực vật học dân tộc, chọn lọc và tạo giống với sự tham gia của
cộng đồng, duy trì hạt giống và sử dụng các công cụ ICT.
50. Đào tạo người nông dân nên được tiến hành trong bối cảnh của toàn bộ chuỗi sản xuất và
tập trung chủ yếu vào xác định các tính trạng cây, chọn lọc/tạo giống, sử dụng và duy trì các
cây trồng địa phương, thúc đẩy bán sản phẩm. Phát triển các kỹ năng của người nông dân về
chọn lọc những cây trồng ở giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng và không chỉ sau thu hoạch, là
quan trọng.
51. Các chương trình đào tạo cần được thiết kế trong khuôn khổ hợp tác chặt chẽ với Hệ
thống Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc gia (NARS), nông dân, hội nông dân và các bên tham
gia khác, các chương trình này cũng nên dựa trên nhu cầu do những đối tác này đưa ra.
Chương trình đó không nên bỏ qua vai trò trung tâm của người phụ nữ trong việc ảnh hưởng
và định hướng tiến hóa cây trồng. Các chương trình đào tạo nên xem xét mục đích sử dụng
khác nhau về nguồn tài nguyên sinh vật giữa phụ nữ và nam giới, bao gồm mối quan tâm của
phụ nữ về sử dụng đa mục đích và các yêu cầu chế biến đối với cây trồng.
52. Nghiên cứu/Công nghệ: Tám dạng nghiên cứu khoa học nghiêm ngặt và đa ngành cần:
a) Nghiên cứu thực vật học dân tộc, kinh tế-xã hội/văn hóa xã hội để hiểu và phân tích
kiến thức của người nông dân, chọn lọc/tạo giống, sử dụng và quản lý tài nguyên di truyền
thực vật, phù hợp với sự sự chấp thuận của người nông dân liên quan và với những yêu
cầu thích hợp nhằm bảo vệ kiến thức và công nghệ của họ;
b) Quần thể và sinh học bảo tồn nhằm tìm hiểu cấu trúc và tính năng động của đa dạng di
truyền trong các giống của nông dân/giống địa phương, gồm phân biệt quần thể, dòng
chảy gen (gồm thâm nhập gen), mức độ giao phối cận huyết và áp lực chọn lọc;
c) Nghiên cứu cải tiến cây trồng, bao gồm cả tạo giống với sự tham gia chọn giống của
cộng đồng như là phương tiện để tăng năng suất cây trồng và độ tin cậy mà không làm
mất đi đa dạng sinh học địa phương;
d) Nghiên cứu và khuyến nông đối với cây trồng ít được sử dụng, bao gồm việc sản xuất,
thị trường, phân phối hạt giống và vật liệu sinh sản vô tính;
e) Nghiên cứu cách thức hiệu quả nhất để hợp nhất giữa bảo tồn nông trại và bảo tồn ex
situ, xem xét việc bổ sung hệ thống hạt giống khác nhau;
f) Nghiên cứu về mức độ và bản chất của các mối đe dọa đến đa dạng hiện có trong trên
đồng ruộng và bảo tồn in situ, đặc biệt trong sự biến đổi khí hậu và thay đổi sử dụng đất,
ảnh hưởng của các yếu tố này đến tác nhân thụ phấn;
g) Phân tích không gian xác định những giống có tính trạng thích nghi được với khí hậu
để hỗ trợ công tác chọn tạo giống;
h) Nghiên cứu để định lượng xói mòn di truyền.
53. Nếu thích hợp, nghiên cứu khoa học nên được kết hợp với các hoạt động bảo tồn nông trại
để bối cảnh và mục đích của nghiên cứu có thể được đánh giá đầy đủ. Các kỹ thuật kiểu hình
có thể được sử dụng để mô tả các giống của người nông dân/giống địa phương liên quan tới
các tính trạng đặc trưng và khả năng thích nghi với các điều kiện đồng ruộng khác nhau.
Nghiên cứu nên hỗ trợ việc giám sát, đánh giá và cải thiện các hoạt động bảo tồn nông trại.
Nghiên cứu nên được tiến hành theo cách thức tham gia và cộng tác để khuyến khích sự
tương tác và hợp tác giữa các thành viên, gồm người nông dân, nhà chọn tạo giống và đội ngũ
nhân viên của các cơ quan quốc gia. Những cơ quan khác nên tham gia một cách thích hợp
nếu cần.
54. Các phương pháp nên được phát triển và hỗ trợ cho việc kết hợp quản lý, bảo tồn in situ,
bảo tồn nông trại tài nguyên di truyền thực vật với ngân hàng gen/mạng lưới quốc gia, khu
vực và các viện nghiên cứu
55. Điều phối/Quản trị: Các nỗ lực điều phối trong lĩnh vực này nhằm khuyến khích các
sáng kiến ở cấp cộng đồng để hỗ trợ việc quản lý và cải thiện tài nguyên di truyền thực vật
bảo tồn nông trại. Cần ưu tiên kinh phí và các dịch vụ hỗ trợ cho những dự án cơ sở và nhỏ.
Quyền ưu tiên nên dành cho các dự án kỹ thuật xúc tiến đa dạng cây trồng và hợp tác giữa
cộng đồng nông dân với các cơ quan nghiên cứu. Thời hạn của những dự án này nên đủ dài
trong giai đoạn 10 năm hoặc hơn nữa để đảm bảo kết quả có ý nghĩa.
56. Mối liên kết giữa các tổ chức đầu tiên quan tâm đến bảo tồn tài nguyên di truyền thực vật
với các tổ chức quan tâm đến sử dụng tài nguyên di truyền thực vật thường yếu kém hoặc
không có ở nhiều quốc gia, và nên được tăng cường những mối liên hệ này.
3. Hỗ trợ nông dân trong các tình huống thảm họa và khôi phục lại hệ thống cây trồng
57. Bối cảnh: Thảm họa tự nhiên và xung đột dân sự thường là trở ngại cho việc phục hồi
nhanh hệ thống nông nghiệp; điều này tác động tới nông dân sản xuất nhỏ, ảnh hưởng đến sự
tồn tại của người dân sống ở các nước đang phát triển. An ninh hạt giống là thành phần chính
của khả năng phục hồi nhanh. Trong khi hỗ trợ ngay hạt giống giúp người nông dân bị tác
động bởi thảm họa khốc liệt, phương pháp tiếp cận hệ thống để tái thiết lập an ninh hạt giống
và hệ thống cây trồng là cần thiết nhất trong trường hợp các áp lực xảy ra thường xuyên. Về
một khía cạnh nào đó, sự công nhận ngày càng tăng về những mối đe dọa do biến đổi khí hậu
tới an ninh lương thực, hạt giống và vai trò tiềm năng mà tài nguyên di truyền thực vật có thể
giúp nông nghiệp duy trì năng suất và mạnh mẽ dưới những điều kiện thay đổi. Khi các giống
cây trồng bị mất đi trên đồng ruộng của người nông dân, họ có thể đưa vào trồng lại từ những
vùng lân cận và với một số hỗ trợ thông qua các thị trường địa phương và trao đổi giữa những
người nông dân. Tuy nhiên, người nông dân cũng có thể trồng lại cây trồng đã mất từ nguồn
ngân hàng gen, mạng lưới quốc gia, khu vực và quốc tế. Tuy nhiên các ngân hàng gen đôi khi
cũng bị tổn thương bởi thảm họa tự nhiên hay do con người gây ra, trong trường hợp này thì
khả năng hỗ trợ phục hồi hệ thống cây trồng sẽ phụ thuộc vào năng lực của họ khi tiếp cận với
vật liệu được lưu giữ trong các ngân hàng gen khác. Điều 12 của Hiệp ước Quốc tế đưa ra nền
tảng đúng đắn cho cải thiện và tạo điều kiện cho việc tiếp cận này. Hệ thống thông tin quốc
gia, khu vực và toàn cầu cần thiết hỗ trợ các hoạt động khôi phục cây trồng.
58. Hạt nhập khẩu như lương thực viện trợ thường được sử dụng làm hạt giống và thường
thích nghi kém với điều kiện địa phương. Điều này có thể dẫn tới suy giảm năng suất sau
nhiều năm. Hạt giống nhập khẩu có khả năng thích nghi kém có tác động tương tự. Trong thời
gian dài, thực tiễn sử dụng lương thực và hạt giống hỗ trợ không phù hợp có thể làm trầm
trọng thêm nạn đói, làm suy yếu an ninh lương thực, bóp méo các hệ thống hạt giống địa
phương và gia tăng chi phí hỗ trợ viện trợ. Công nhận rằng, sự thay đổi cơ bản trong suy nghĩ
hơn thập niên qua đã dẫn tới khuôn khổ cho an ninh hạt giống. Mục tiêu của khuôn khổ này là
điều tra chức năng của hệ thống hạt giống, mô tả tình huống, xét về mặt sẵn có, tiếp cận và
chất lượng hạt giống. Sau thảm họa, người nông dân thường gặp khó khăn khi tiếp cận hạt
giống của những giống thích nghi địa phương, thậm chí những giống này là sẵn có, bởi vì họ
mất hết tiền bạc và những tài sản khác. Lối suy nghĩ mới dẫn tới sự hợp tác tốt hơn giữa các
cơ quan và sự can thiệp hạt giống để cấp phát trực tiếp hạt giống và nhu cầu khác cho người
nông dân. Sự can thiệp này bao gồm cách tiếp cận dựa trên thị trường như hóa đơn hạt giống,
hội chợ thương mại cho đầu vào, sáng kiến nhân giống cộng đồng cho cả giống của nông dân
và giống cải tiến.
59. Mục tiêu: Phục hồi hệ thống cây trồng bị ảnh hưởng bằng cách sử dụng tài nguyên di
truyền thực vật đã thích nghi ở địa phương, bao gồm khôi phục nguồn gen thích hợp, hỗ trợ
sinh kế của cộng đồng nông nghiệp và nông nghiệp bền vững.
60. Phát triển năng lực đánh giá và thiết lập an ninh hạt giống, giúp người nông dân tiếp cận
tài nguyên di truyền thực vật đã thích nghi với điều kiện địa phương.
61. Thiết lập trách nhiệm và cơ chế thể chế trong việc xác định, thu nhận, nhân giống và cấp
phát tài nguyên di truyền thực vật phù hợp.
62. Tăng cường năng lực của các cộng đồng nông thôn liên quan và nông dân nhằm xác định
và tiếp cận tài nguyên di truyền thực vật liên quan đang được lưu giữ ex situ.
63. Đảm bảo các giống cây trồng được cấp phát tới các cộng đồng bị áp lực là các giống đã
thích nghi với điều kiện địa phương.
64. Chính sách/Chiến lược: Chính phủ thông qua sự hợp tác của các tổ chức và cộng đồng
nông dân liên quan, tổ chức Liên Hợp Quốc, tổ chức khu vực, liên chính phủ và phi chính phủ
cần xây dựng các chính sách ở tất cả các cấp độ nhằm cho phép việc thực hiện các hoạt động
an ninh hạt giống ứng phó với thảm họa, bao gồm cả biến đổi khí hậu.
65. Chính phủ nên phát triển các chính sách và chiến lược cho việc lên kế hoạch và ứng phó
với nguy cơ thảm họa, xem xét kỹ lưỡng vấn đề an toàn hạt giống, yêu cầu địa điểm đặc thù
cho can thiệp an toàn hạt giống. Điều này sẽ gồm việc thúc đẩy đánh giá an ninh hạt giống,
phát triển các hướng dẫn thực hành tốt về can thiệp hạt giống
66. Các nỗ lực cần thiết bảo tồn giống của nông dân/giống địa phương và CWR trước khi
chúng bị mất đi do biến đổi khí hậu và những mối đe dọa khác. Nỗ lực đặc biệt cần thiết để
định danh loài, quần thể có nguy cơ cao và mang các tính trạng tiềm năng quan trọng.
67. Các quốc gia cần thiết lập hoặc tăng cường hệ thống giám sát xói mòn di truyền, bao gồm
các chỉ thị dễ sử dụng. Hỗ trợ thu thập các giống của nông dân/giống địa phương, đặc biệt ở
những khu vực dễ bị tổn thương hoặc bị đe dọa mà chưa được lưu giữ ex situ. Do đó nguồn tài
nguyên di truyền này có thể được nhân ngay phục vụ mục tiêu sử dụng trước mắt hoặc cho
tương lai. Các tập đoàn trong ngân hàng gen quốc gia nên được lưu giữ kép bên ngoài quốc
gia, ví dụ như trong ngân hàng gen của các quốc gia láng giềng, và/hoặc trong các ngân hàng
gen khu vực hoặc quốc tế. Để tránh việc trùng lặp, cần thiết phải đánh giá toàn cầu một cách
hệ thống trên những tập đoàn đang lưu giữ.
68. Các ngân hàng gen và mạng lưới cần đưa ra thông tin mô tả và đánh giá sẵn có để hỗ trợ
xác định nguồn gen hữu ích cho phục hồi hệ thống cây trồng, tôn trọng thỏa thuận tiếp cận
nguồn gen và chia sẻ lợi ích. Hệ thống Đa phương của Hiệp ước Quốc tế cần tạo điều kiện
cho quá trình này.
69. Năng lực: Các cơ quan nghiên cứu nông nghiệp quốc gia và quốc tế cần hợp tác với FAO
và cơ quan phù hợp khác nhằm thiết lập các cơ chế thu nhận, nhân giống, cung cấp tài nguyên
di truyền thực vật cho các quốc gia có nhu cầu. Các cơ quan này cần đảm bảo rằng họ có đủ
năng lực để thực hiện nhiệm vụ này. Hợp tác giữa các tổ chức công cộng, tư nhân và phi
chính phủ là sự đóng góp quan trọng cho nỗ lực cấp phát nguồn gen thích nghi với điều kiện
địa phương cho các khu vực đang phục hồi từ thảm họa.
70. Hệ thống thông tin phải được thiết lập để xác định, hỗ trợ việc thu nhận nguồn gen thích
hợp cho việc phục hồi hoặc tái sử dụng.
71. Chính phủ và cơ quan hỗ trợ khẩn cấp quốc tế cần xem xét đưa ra nguồn tài chính đầy đủ
sẵn sàng để nhân nhanh hạt giống thích nghi tại địa phương để ứng phó với nhu cầu khẩn cấp
sau thảm họa.
72. Can thiệp ứng phó cần được bổ sung trong các sáng kiến phòng ngừa cấp quốc gia và các
chương trình nhân giống dựa vào cộng đồng; chính phủ cần tăng cường năng lực ứng phó với
các thảm họa và hỗ trợ thành lập các mạng lưới cung cấp hạt giống địa phương cũng như hệ
thống cây trồng. Vai trò của người nông dân trong việc bảo tồn các nguồn gen/giống địa
phương cần được công nhận như là một nguồn quan trọng để phục hồi đa dạng di truyền.
73. Nghiên cứu/Công nghệ: Nghiên cứu về mức độ và bản chất của thảm họa đối với đa dạng
trong bảo tồn nông trại và bảo tồn in situ cần được tiến hành. Kinh nghiệm trước đây cần
được rà soát và phát triển các lựa chọn để tăng tính chuẩn bị sẵn sàng của ngân hàng gen
nhằm cứu các tập đoàn bảo tồn ex situ, để thu thập hạt giống trong bối cảnh khẩn cấp như là
xung đột dân sự, tai nạn công nghiệp và thảm họa tự nhiên. Những nỗ lực này sẽ thu được lợi
ích từ sự cộng tác chặt chẽ giữa chính phủ của các quốc gia bị tác động, các nhà tài trợ, các tổ
chức phi chính phủ, tổ chức tư nhân, các viện nghiên cứu nông nghiệp quốc gia, khu vực và
quốc tế, các mạng lưới tài nguyên di truyền thực vật khu vực và các cơ quan liên chính phủ có
liên quan. Nghiên cứu về việc các cộng đồng nông thôn xác định, thu nhận và sử dụng
PGRFA bảo quản ex situ như thế nào cũng cần thiết.
74. Cần có nghiên cứu về sản xuất hạt giống trước thảm họa, hệ thống cấp phát, kể cả hệ sinh
thái nông nghiệp, lịch trồng trọt, dòng chảy hạt giống ở địa phương, thị trường hạt giống và
kho hạt giống. Thông tin cần để hỗ trợ các nhà lập kế hoạch trong việc giảm thiểu và ứng phó
với thảm họa hiện đang thiếu, đặc biệt đối với ảnh hưởng dự kiến của biến đổi khí hậu.
75. Điều phối/Quản trị: Ở cấp quốc gia, cần điều phối hoạt động giữa bộ nông nghiệp và bộ
môi trường và các cơ quan liên quan đến chuẩn bị và ứng phó thảm họa. Tổ chức phi chính
phủ sẽ đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nỗ lực về nhận thức cộng đồng cần tiến hành để
khiến cho cộng đồng tài trợ, các tổ chức phi chính phủ thấy được tầm quan trọng của tài
nguyên di truyền thực vật đã thích nghi trong việc giảm nhẹ thảm họa và phục hồi nhanh sản
xuất. Nỗ lực này cũng cần thiết làm tăng nhận thức về nhu cầu lưu giữ kép an toàn các tập
đoàn ex situ ở các quốc gia khác.
4. Thúc đẩy quản lý và bảo tồn tại chỗ cây hoang dại gần gũi với cây trồng (CWR) và
cây hoang dại dùng làm lương thực
76. Bối cảnh: Hệ sinh thái tự nhiên bao gồm PGRFA quan trọng như nguồn gen hiếm, đặc
hữu, CWR có nguy cơ đe dọa và cây hoang dại dùng làm lương thực. Những loài này đang
ngày càng quan trọng như nguồn tài nguyên cung cấp các tính trạng mới cho chọn tạo giống.
Về lý thuyết, CWR và cây hoang dại được bảo tồn in situ ở những nơi mà tại đó chúng có thể
tiến hóa dưới điều kiện tự nhiên. Các quần thể duy nhất và đa dạng đặc biệt phải được bảo tồn
in situ khi bị đe dọa. Tuy nhiên, hầu hết vườn quốc gia và các khu vực bảo tồn khác được
thành lập không quan tâm nhiều đến bảo tồn đa dạng di truyền thực vật, đặc biệt CWR và cây
hoang dại dùng làm lương thực. Kế hoạch quản lý các khu vực bảo tồn thường không nhấn
mạnh đa dạng di truyền của những loài này, nhưng ở dưới dạng bổ sung cho các phương pháp
khác. Đã có tranh luận rằng bảo tồn có hiệu quả đa dạng di truyền CWR trong mạng lưới các
khu bảo tồn sẽ cải thiện đáng kể sự hiểu biết về giá trị của dịch vụ hệ sinh thái, do đó sẽ củng
cố sự an toàn dài hạn của chính những khu vực bảo tồn đó.
77. Rất nhiều khu vực được bảo tồn đang bị đe dọa bởi sự thoái hóa và sự phá hủy. Biến đổi
khí hậu là đặc trưng cho mối đe dọa nghiêm trọng bổ sung. Do vậy cần thiết tăng cường bảo
tồn bổ sung ở khu vực cấm với các biện pháp thích hợp nhằm bảo tồn đa dạng di truyền bên
ngoài các khu vực đó, thông qua bảo tồn ex situ phù hợp. Bảo tồn in situ bao hàm việc lên kế
hoạch chi tiết, trong đó chú ý đến nhu cầu xung đột thường xuyên của bảo vệ môi trường, sản
xuất lương thực và bảo tồn tài nguyên di truyền.
78. Mục tiêu: Sử dụng tài nguyên di truyền CWR và cây hoang dại dùng làm lương thực một
cách bền vững, bảo tồn các loài này trong cả khu bảo tồn và trên vùng đất không được liệt kê
vào khu bảo tồn.
79. Thúc đẩy việc lập kế hoạch và thực hành quản lý trong khu vực bảo tồn in situ quan trọng
của CWR và cây hoang dại dùng làm lương thực. Đánh giá những mối đe dọa, hiện trạng bảo
tồn, CWR ưu tiên, kế hoạch quản lý phát triển các loài này nhằm bảo vệ in situ. Nâng cao
kiến thức sử dụng các cây hoang dại như nguồn thu nhập và lương thực, đặc biệt cho người
phụ nữ.
80. Nâng cao hơn sự hiểu biết về đóng góp của CWR và cây hoang dại dùng làm lương thực
tới kinh tế địa phương, an ninh lương thực và sức khỏe môi trường. Cải thiện việc quản lý, lập
kế hoạch và thúc đẩy sự bổ sung giữa bảo tồn và sử dụng bền vững trong các công viên và
khu vực bảo tồn, bằng cách tăng cường sự tham gia của cộng đồng bản địa và địa phương
trong việc đảm bảo bảo tồn chủ động đa dạng di truyền CWR và cây hoang dại dùng làm
lương thực.
81. Thiết lập sự liên lạc và điều phối tốt hơn giữa các cơ quan tham gia bảo tồn in situ và quản
lý sử dụng đất cấp quốc gia và khu vực, đặc biệt giữa các lĩnh vực nông nghiệp và môi
trường.
82. Chính sách/Chiến lược: Chính phủ, phù hợp theo theo luật pháp quốc gia, cộng tác với
các bên tham gia, các tổ chức phi chính phủ dựa trên quan điểm của nông dân, cộng đồng bản
địa và địa phương, nên:
a. Trong số các mục đích và ưu tiên của vườn quốc gia, khu bảo tồn, khi thích hợp,
bao gồm cả bảo tồn PGRFA, đặc biệt đối với các loài cây thức ăn chăn nuôi, CWR và cây
hoang dại dùng làm lương thực, thức ăn thu được từ khu hoang dã, các điểm nóng đa dạng
sinh học và các khu dự trữ di truyền.
b. Xem xét kết hợp bảo tồn và quản lý PGRFA, đặc biệt là CWR và cây hoang dại
dùng làm lương thực, kế hoạch sử dụng đất ở các trung tâm khởi nguyên, trung tâm đa dạng
sinh học và các điểm nóng đa dạng sinh học. Các trung tâm đa dạng chủ yếu ở các quốc gia
đang phát triển, nơi mà các nguồn có thể bị giới hạn, việc xây dựng năng lực và chuyển giao
công nghệ cần được yêu cầu đáp ứng. Các chiến lược bảo tồn in situ nên bổ sung cho chiến
lược bảo tồn ex situ;
c. Hỗ trợ thiết lập các mục tiêu quốc gia và địa phương cho quản lý khu vực bảo tồn
thông qua sự tham gia rộng rãi của cộng đồng, liên quan đến các nhóm người phụ thuộc chủ
yếu vào cây hoang dại cho lương thực.
d. Hỗ trợ tổ tạo lập các tổ chức tư vấn nhằm hướng dẫn quản lý khu bảo tồn. Khi thích
hợp, nên gồm cả nông dân, cộng đồng bản địa và địa phương, các nhà khoa học về PGRFA,
quan chức địa phương từ nhiều bộ ngành, các nhà lãnh đạo cộng đồng, phù hợp với luật pháp
quốc gia;
e. Ghi nhận mối quan hệ giữa tài nguyên di truyền và kiến thức truyền thống, bản chất
không thể tách rời của chúng đối với các cộng đồng bản địa và địa phương, tầm quan trọng
của kiến thức bản địa đối với PGRFA, với sinh kế bền vững của các cộng đồng này, đặc biệt ở
những khu vực bảo tồn, phù hợp với luật pháp quốc gia;
f. Công nhận phụ nữ là nguồn thông tin có giá trị về thực hành quản lý và bảo tồn in
situ;
g. Thông qua biện pháp cải tiến để chống lại mối đe dọa từ những loài ngoại lai xâm
nhập, loài này có thể tác động tiêu cực đến bảo tồn in situ CWR và cây hoang dại dùng làm
lương thực;
h. Hỗ trợ cộng đồng bản địa và địa phương trong nỗ lực quản lý CWR và cây hoang
dại dùng làm lương thực trong các khu vực bảo tồn;
i. Rà soát lại các yêu cầu hiện có đối với các báo cáo ảnh hưởng môi trường, bao gồm
việc đánh giá khả năng ảnh hưởng của hoạt động đã đề xuất đến đa dạng sinh học địa phương
phục vụ mục tiêu lương thực và nông nghiệp, đặc biệt với CWR;
j. Phối hợp mục tiêu bảo tồn di truyền với quản lý bền vững CWR và cây hoang dại
dùng làm lương thực trong những khu bảo tồn và các vùng khác có nguồn tài nguyên được
quản lý;
k. Đối chiếu thông tin về CWR và cây hoang dại dùng làm lương thực, đưa các thông
tin sẵn có thông qua NISMs và các hệ thống thông tin toàn cầu chuyên dụng.
83. Cần tìm kiếm sự hợp tác giữa chính phủ với cơ quan Liên Hợp Quốc liên quan, tổ chức
khu vực, tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ, cộng đồng nông nghiệp, bản địa và địa
phương sinh sống ngoài khu bảo tồn, khi có thể và thích hợp, để:
a. Phát triển chiến lược quốc gia về quản lý CWR, chú ý đến bảo tồn in situ, ex situ và
sử dụng bền vững;
b. Hành động để bảo tồn đa dạng CWR và cây hoang dại dùng làm lương thực như
một hợp phần của kế hoạch sử dụng đất;
c. Khuyến khích các cộng đồng bản địa và địa phương bảo tồn, quản lý CWR và cây
hoang dại dùng làm lương thực, giúp các thành viên tham gia trong những quyết định liên
quan tới quản lý và bảo tồn ở địa phương.
84. Khi thích hợp và khả thi, các chính sách về khu bảo tồn nên được thúc đẩy và duy trì hơn
là hạn chế, hoạt động của con người nhằm duy trì và tăng cường đa dạng di truyền giữa và
trong các loài cây trồng. Phương pháp quản lý có sự tham gia của cộng đồng đối với các khu
vực bảo tồn và khu vực liên quan cũng cần được khuyến khích để dung hòa các mục tiêu đôi
khi xung đột giữa công tác bảo tồn và an ninh sinh kế của người dân địa phương.
85. Song song với chương trình tiếp cận quốc gia, cần thiết phải có một quan điểm toàn cầu
bổ sung tập trung đảm bảo an toàn cho bảo tồn in situ của các loài CWR quan trọng nhất của
thế giới thông qua việc thiết lập mạng lưới dự trữ di truyền toàn cầu. Trong khi việc công
nhận địa điểm chính bảo tồn in situ đa dạng CWR ở những khu vực bảo tồn hiện có, vì các
khu vực này được thiết lập cùng với việc bảo tồn hệ sinh thái, cần đánh giá khả năng bảo tồn
in situ CWR bên ngoài khu bảo tồn.
86. FAO cần thúc đẩy việc thông qua và thực hiện chiến lược toàn cầu về quản lý CWR như
là một hướng dẫn cho hành động của chính phủ; công nhận yêu cầu hành động ở cả cấp quốc
gia và toàn cầu.
87. Năng lực: Chính phủ, bất cứ khi nào thấy thích hợp và phù hơp, nên:
a. Phát triển kế hoạch ưu tiên, đặc biệt cho những hệ sinh thái với mức độ đa dạng di
truyền cao của CWR và cây hoang dại dùng làm lương thực, tiến hành rà soát lại ở cấp quốc
gia để xác định thực hành quản lý cần thiết để bảo vệ mức độ đa dạng di truyền mong muốn
của CWR và cây hoang dại dùng làm lương thực;
b. Hỗ trợ các cộng đồng bản địa và địa phương trong những nỗ lực xác định, lập danh
mục và quản lý CWR và cây hoang dại dùng làm lương thực;
c. Giám sát việc lưu giữ, phân bố và đa dạng di truyền CWR và cây hoang dại dùng
làm lương thực, tổng hợp và liên kết dữ liệu, thông tin từ các chương trình bảo tồn in situ và
ex situ, khuyến khích các tổ chức tư nhân và phi chính phủ làm những công việc tương tự như
vậy.
88. Nghiên cứu/Công nghệ: Nghiên cứu liên quan đến quản lý in situ CWR và cây hoang dại
dùng làm lương thực là cần thiết, bao gồm:
a. Nghiên cứu về sinh học sinh sản và yêu cầu sinh thái;
b. Phân loại loài, định danh loài và thực vật học dân tộc;
c. Mô tả nguồn gen, điều tra quần thể, sử dụng các công cụ phân tử cũng như mô hình
về sự di trú của các quần thể CWR có thể bị đe dọa trong môi trường sống tự nhiên của
chúng;
d. Hiểu biết về giá trị của bảo tồn in situ CWR và vai trò của chúng trong các dịch vụ
hệ sinh thái.
89. Điều phối/Quản trị: Khi thích hợp, các chính phủ nên:
a. Liên kết lập kế hoạch và quản lý khu bảo tồn với các tổ chức chịu trách nhiệm bảo
tồn và sử dụng bền vững CWR và cây hoang dại dùng làm lương thực, ví dụ như các trung
tâm tài nguyên di truyền cây trồng, các đầu mối tài nguyên di truyền thực vật quốc gia, các
nhà quản lý mạng lưới khu bảo tồn, hội những người làm vườn, các tổ chức liên quan tới lĩnh
vực môi trường;
b. Chỉ định các đầu mối, nếu thích hợp, để xúc tác việc điều phối các chương trình bảo
tồn in situ và giữ liên lạc với các quốc gia khác trong khu vực;
c. Thiết lập cơ chế rà soát định kỳ và sửa đổi các kế hoạch bảo tồn;
d. Đưa thông tin về cây trồng hoang dại trong các hệ thống thông tin toàn cầu chuyên
dụng để hỗ trợ trao đổi và phổ biến thông tin.
Bảo tồn chuyển chỗ (ex situ)
5. Hỗ trợ thu thập có mục tiêu tài nguyên di truyền thực vật phục vụ mục tiêu lương
thực và nông nghiệp
90. Bối cảnh: Áp lực chủ yếu cho hầu hết công tác thu thập là lấp chỗ trống, nguy cơ mất mát
tài nguyên sắp xảy ra và cơ hội cho việc sử dụng. Nguồn gen hiện được bảo tồn trong các
ngân hàng gen không đại diện cho biến động tổng thể của PGRFA. Rất nhiều cây trồng chính
nói chung đã được thu thập. Các tập đoàn cây trồng phụ, cây trồng ít sử dụng ở phần lớn các
vùng vẫn chưa được thu thập đầy đủ. CWR, đôi khi cả cây trồng chính có tiềm năng quan
trọng cho chọn giống vẫn chưa được quan tâm nhiều. Chiến lược cây trồng toàn cầu do Quỹ
Tín thác hỗ trợ đã có nhiều nỗ lực xác định thiếu hụt trong tập đoàn toàn cầu của một số cây
lương thực chính. Tuy nhiên, do việc thiếu những phân tích toàn diện về đa dạng di truyền đại
diện trong các ngân hàng gen trên thế giới nên những kết luận này vẫn chỉ mang tính thăm dò.
Thêm vào đó, các đợt thu thập được tiến hành với phương pháp không phù hợp cũng có thể
làm cho mẫu thu thập không hoàn toàn đa dạng. Cũng vậy, phạm vi và sự phân bố đa dạng
trong quần thể hoang dại, trong các giống của nông dân/giống địa phương, đặc biệt đối với
cây hàng năm, biến đổi theo thời gian. Những điều kiện không tối ưu trong các ngân hàng gen
cũng dẫn tới việc mất mát vật liệu thu thập.
91. Các mối đe dọa toàn cầu tới bảo tồn in situ và bảo tồn nông trại PGRFA đã tăng lên trong
20 năm gần đây do kết quả của việc tăng cường các hoạt động của con người. Mối đe dọa
chính tới bảo tồn giống địa phương và CWR có liên quan tới thiếu nguồn tài chính và ảnh
hưởng lâu dài của các chính sách nông nghiệp, cũng như việc thay thế bằng những giống cây
trồng mới, biến đổi khí hậu, sự xâm nhập các loài ngoại lai và thay đổi trong sử dụng đất, bao
gồm cả đô thị hóa. Đánh giá gần đây chỉ ra rằng có đến 20% các loài thực vật bị đe dọa tuyệt
chủng trên toàn cầu. Con số này có thể thấp hơn đối với CWR. Nhu cầu khẩn cấp về sức đề
kháng với sức ép sinh học và phi sinh học, cũng như nhu cầu về các tính trạng dinh dưỡng và
các tính trạng khác, sẽ đảm bảo cho việc thu thập sau này.
92. Mục tiêu: Thu thập, bảo tồn đa dạng PGRFA và các thông tin liên quan nên tập trung vào
các giống đang bị mất đi từ các tập đoàn ex situ, các giống đang bị đe dọa, hoặc các giống có
các tính trạng hữu ích đã được biết.
93. Xác định ưu tiên cho việc thu thập mục tiêu với đa dạng đang bị mất, có tiềm năng sử
dụng và môi trường bị đe dọa.
94. Chính sách/Chiến lược: Các nhà hoạch định chính sách cần nhận thức được sự cần thiết
liên tục nhằm cải thiện phạm vi đa dạng trong các tập đoàn bảo tồn ex situ, bao gồm CWR,
giống của nông dân/giống địa phương, cây hoang dại dùng làm lương thực và cây thức ăn
chăn nuôi. Thực tiễn tốt nhất nên được tư liệu hóa liên quan đến các mục tiêu và nghĩa vụ đã
đưa ra trong Công ước Đa dạng Sinh học (CBD), Điều 15 và 12.3 của Hiệp ước Quốc tế; ví
dụ như quyền của các bên tham gia trong CBD yêu cầu được thông báo trước khi cho phép
tiếp cận tài nguyên di truyền và nghĩa vụ của họ phải phù hợp với luật pháp quốc gia, phải tôn
trọng kiến thức cộng đồng bản địa và địa phương liên quan tới bảo tồn và sử dụng bền vững
đa dạng sinh học.
95. Năng lực: Vật liệu đã thu thập cần được lưu giữ trong các kho bảo quản có khả năng quản
lý, tại quốc gia khởi nguyên và ở nơi khác để phục vụ việc lưu giữ kép an toàn mà được sự
đồng ý của quốc gia khởi nguyên trước khi thực hiện nhiệm vụ thu thập. Nếu ở quốc gia khởi
nguyên không có đầy đủ phương tiện lưu giữ thì, khi phù hợp, cần phát triển các phương tiện
đó, trong khi chờ đợi, các vật liệu có thể được quản lý ở những quốc gia khác nếu có sự đồng
ý của quốc gia khởi nguyên trước khi tiến hành thu thập.
96. Cần xem xét năng lực đầy đủ để bảo tồn vật liệu đã thu thập một cách hiệu quả và bền
vững trước khi bắt đầu thu thập.
97. Đào tạo về phương pháp thu thập PGRFA khoa học cần được tiến hành, đặc biệt kết nối
với việc sử dụng các công cụ và phương pháp nhằm tăng cường hiệu quả thu thập và hiệu quả
kinh tế, như GPS, chương trình tạo mô hình không gian và khảo sát hệ sinh thái địa lý.
98. Nghiên cứu/Công nghệ: Cần nghiên cứu xác định sự thiếu hụt trong tập đoàn lưu giữ ex
situ hiện có để đảm bảo rằng toàn bộ quỹ gen chứa đầy đủ đại diện; nghiên cứu này yêu cầu
tiếp cận và sẵn có các dữ liệu lai lịch chính xác và các dữ liệu khác. Việc sử dụng GIS và các
công nghệ phân tử cũng có thể xác định sự thiếu hụt và tạo điều kiện cho lập kế hoạch thu
thập. Trong trường hợp một số cây hoang dại gần gũi với cây trồng, cần nghiên cứu phân loại
thực vật và thực vật học của các loài mục tiêu.
99. Điều phối/Quản trị: Điều phối trong nước có liên quan, khi thích hợp, nên có sự tham gia
của ngân hàng gen, phòng mẫu vật và các viện khác với chuyên môn phân loại. Điều phối cấp
khu vực và quốc tế có thể cần để cung cấp mối liên kết với các tập đoàn ex situ nhất định và
những nỗ lực khắc phục tồn tại và nỗ lực nhân giống. Việc điều phối trên cần chú ý xác định
nhu cầu toàn cầu hoặc nhu cầu cụ thể của quốc gia có thể đươc đáp bằng PGRFA ở quốc gia
khác.
100. Mối liên kết chặt chẽ giữa mạng lưới khu vực và mạng lưới cây trồng với những người
sử dụng PGRFA (nhà chọn tạo giống, nhà nghiên cứu và nông dân) cần được thiết lập để
thông báo, chỉ đạo và ưu tiên toàn bộ quá trình bảo tồn, bao gồm điều tra, kiểm kê và thu thập.
101. Cơ chế về tình trạng thu thập khẩn cấp PGRFA cần được xây dựng ở tất cả các cấp, đặc
biệt đối với cây trồng bán hoang dại nguy hiểm. Cơ chế này nên được sử dụng hết, và do vậy
cần được gắn kết chặt chẽ với các hệ thống thông tin và hệ thống cảnh báo sớm.
102. Các chính phủ cần chỉ định đầu mối trong các chương trình PGRFA của họ để quản lý
yêu cầu thu thập.
6. Duy trì và mở rộng bảo tồn ex situ nguồn gen
103. Bối cảnh: Hiện nay có khoảng 7,4 triệu mẫu giống đang được bảo quản trong các ngân
hàng gen hạt, đồng ruộng và in vitro, khoảng một phần tư trong đó được đánh giá là những
mẫu khác biệt đang lưu giữ kép tại một số tập đoàn khác. Ngoài ra, có thêm khoảng trên 2500
vườn thực vật trên toàn thế giới đang trồng hơn 1/3 tổng số các loài thực vật đã biết và duy trì
phòng tiêu bản quan trọng, và các tập đoàn quả và hạt. Do nhu cầu về đa dạng hóa cao, nên
mối quan tâm về thu thập và duy trì tập đoàn cây trồng ít được sử dụng, cây hoang dại làm
lương thực, cây thức ăn chăn nuôi và CWR ngày càng tăng; Tuy nhiên, những loài này có xu
hướng khó bảo tồn ex situ hơn những cây lương thực chính hoặc cây làm thức ăn chăn nuôi.
Nhiều loài cây trồng quan trọng không có hạt có thể được bảo quản dưới điều kiện nhiệt độ và
độ ẩm thấp, do đó bảo tồn loài cây trồng này cũng như cây có hạt không vỏ cứng (recalcitrant
seeds), cây sinh sản vô tính vẫn chưa được quan tâm đầy đủ.
104. Trên phạm vi toàn cầu, các chính phủ và tổ chức tài trợ cần đầu tư nhiều hơn vào cơ sở
hạ tầng cho bảo tồn, đặc biệt cho những loài cây trồng không thể bảo tồn trong ngân hàng gen
hạt và cần lượng kinh phí đáng kể để duy trì trong thời gian dài. Điều này sẽ làm suy thoái rất
nhiều các phương tiện bảo quản và tăng cường khả năng thực hiện các chức năng bảo tồn cơ
bản. Mối đe dọa khốc liệt trong các tập đoàn ex situ được thể hiện qua tỷ lệ phần trăm cao
lượng nguồn gen cần được nhân giống lại tại các báo cáo quốc gia1, cũng như trong danh sách
các vấn đề về kỹ thuật và quản lý liên quan tới duy trì các hoạt động ngân hàng gen. Mục tiêu
của Quỹ Tín thác nhằm hỗ trợ việc lập kế hoạch tốt hơn, điều phối và hợp tác hơn nữa để hạn
chế tình trạng dư thừa và thúc đẩy sự hợp lý hóa ở phạm vi toàn cầu. Mục đích là giảm tổng
chi phí bảo tồn và đưa ngân hàng gen vận hành trong điều kiện cơ bản mang tính khoa học và
ổn định về tài chính. Nên khai thác hơn nữa những lựa chọn để việc bảo tồn được hợp lý hơn
đồng thời chi phí cũng hiệu quả hơn.
105. Hợp tác khu vực về bảo tồn ex situ cần được tăng cường.
106. Kho Hạt giống Toàn cầu Svalbard được khánh thành năm 2008, đại diện cho một sáng
kiến lớn quốc tế nhằm cải tiến mức độ an toàn cho tập đoàn hiện có của hạt giống có vỏ cứng
(orthodox seeds). Những nỗ lực tương tự chưa được xây dựng cho những loài cây có hạt
không vỏ cứng và loài cây sinh sản vô tính.
107. Mục tiêu: Phát triển hệ thống bảo tồn ex situ và sử dụng hợp lý, hiệu quả, có định
hướng, hiệu quả kinh tế và bền vững các loài sinh sản bằng hạt và sinh sản vô tính.
108. Phát triển và đẩy mạnh mạng lưới quốc gia, khu vực và quốc tế, bao gồm Hệ thống Đa
phương hiện có của Hiệp ước Quốc tế. Phát triển năng lực đầy đủ nhằm cung cấp lựa chọn
cho quốc gia nhằm lưu giữ tự nguyện vật liệu di truyền hữu ích và các phiên bản lưu giữ kép
của chúng. Phát triển chiến lược quản lý cho công tác bảo tồn ex situ loài cây sinh sản vô tính,
cây có hạt không vỏ cứng (non-orthodox), cũng như cho các loài, bộ gen và vật liệu di truyền
không được quan tâm trong các hoạt động bảo tồn hiện nay. Thúc đẩy sự phát triển và chuyển
giao công nghệ thích hợp để bảo tồn những loài cây này và để khuyến khích, tăng cường sự
tham gia của vườn thực vật trong bảo tồn PGRFA. Thúc đẩy sự trao đổi thông tin về PGRFA
trong các ngân hàng gen. Thiết lập những ưu tiên cho việc bảo tồn, sử dụng dữ liệu mô tả và
đánh giá hoàn thiện hơn.
109. Giảm sự dư thừa không cần thiết các mẫu giống trong chương trình bảo tồn hiện tại, sử
dụng hiệu quả không gian kho bảo quản có sẵn và thúc đẩy trao đổi thông tin về PGRFA phù
hợp với ưu tiên và luật pháp quốc gia, thỏa thuận khu vực và quốc tế liên quan như Hiệp ước
Quốc tế. Cung cấp cho việc nhân giống theo kế hoạch và bảo quản an toàn các vật liệu hiện
chưa được lưu giữ kép.
110. Chính sách/Chiến lược: Cộng đồng quốc tế quan tâm và có trách nhiệm đối với bảo tồn
ex situ PGRFA. Nhận thức này cung cấp nền tảng cho kế hoạch toàn cầu hiệu quả, tổng hợp
và hợp lý để đảm bảo an toàn cho những tập đoàn hiện có. Các nước gia có chủ quyền quốc
gia và trách nhiệm với PGRFA mà họ bảo tồn; tuy nhiên, cần hợp lý hóa hơn nữa hệ thống
toàn cầu của các tập đoàn bảo tồn ex situ.
111. Chính phủ, trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và các
cơ quan tài trợ nên cung cấp hỗ trợ đầy đủ, thích hợp và cân bằng cho việc bảo tồn cây sinh
sản vô tính, cây có hạt không vỏ cứng cùng với những hỗ trợ cho bảo tồn hạt có vỏ cứng. Liên
quan đến vấn đề này, vườn thực vật và các ngân hàng gen đồng ruộng nên được đầu tư năng
lực cho bảo tồn những loài cây trồng ít được quan tâm sử dụng.
112. Các kho bảo quản hiện có cần được sử dụng triệt để, kể cả các trung tâm quốc gia, khu
vực và quốc tế. Vật liệu bảo tồn cần được nhân giống và bảo quản trong kho dài hạn đủ tiêu
chuẩn quốc tế, phù hợp với những hiệp định quốc tế thích hợp. Các trùng lặp ngoài ý muốn,
không cần thiết trong các tập đoàn cần được giảm đi để thức đẩy chi phí hợp lý và hiệu quả
trong các nỗ lực bảo tồn toàn cầu. Các quốc gia có thể được hỗ trợ để xác định tài nguyên di
truyền đã được bảo quản và lưu giữ kép trong các kho bảo quản dài hạn.
113. Trong khuôn khổ hợp tác với các quốc gia và các cơ quan liên quan, FAO cần tạo điều
kiện chính thức hóa các thỏa thuận để bảo vệ đa dạng trong các tập đoàn ex situ tuân theo các
hiệp định khu vực hoặc quốc tế thích hợp, bao gồm Hiệp ước Quốc tế. Điều này cho phép
những quốc gia tự nguyện đưa những tập đoàn nguồn gen vào kho bảo quản an toàn bên ngoài
lãnh thổ quốc gia.
114. Năng lực: Các cá nhân liên quan cần được đào tạo ở tất cả các cấp độ để thực hiện và
giám sát chính sách và hiệp định được đề cập ở trên. Viện nghiên cứu quốc gia cần đánh giá
thực hành quản lý ngân hàng gen hiện tại với mục tiêu tạo ra các hệ thống bảo tồn ex situ hợp
lý, hiệu quả và định hướng sử dụng. Các kho bảo quản thích hợp, nguồn nhân lực và thiết bị
nên được trang bị sẵn cho các chương trình PGRFA quốc gia.
115. Các tập đoàn PGRFA hiện có cần được đảm bảo an toàn. Phải đặc biệt quan tâm bảo vệ
mẫu giống gốc trong các tập đoàn bị đe dọa.
116. Cần hỗ trợ đào tạo các kỹ thuật in vitro, các công nghệ mới và phù hợp khác. Trong
khuôn khổ các nhu cầu và ưu tiên của quốc gia, vùng và tiểu vùng, cần hỗ trợ xây dựng năng
lực sử dụng những công nghệ đó.
117. Sự hỗ trợ được thực hiện để chi trả những chi phí do tổ chức cung cấp kho lạnh bảo quản
và các dịch vụ liên quan đến công tác bảo quản, nghiên cứu/tư liệu hóa cho các quốc gia khác.
Sự hỗ trợ này có thể giúp đảm bảo rằng tất cả các vật liệu duy nhất đã được xác định, lưu giữ
kép một cách phù hợp, được bảo quản an toàn, được mô tả, nhân lại, đánh giá và tư liệu hóa.
Sự hỗ trợ này bao gồm việc xác định rõ cả những vật liệu được lưu giữ kép chưa đủ hay quá
thừa. Các vật liệu chưa được lưu giữ kép nên được nhân giống và bảo quản trong kho dự
phòng, phù hợp với những hiệp định quốc tế tương ứng và luật pháp quốc gia. Lưu giữ kép ex
situ bổ sung các giống cây trồng sẽ được duy trì theo yêu cầu của các quốc gia. Việc mở rộng
các kho lưu giữ hiện có hay xây dựng các kho lưu giữ mới có thể là mong muốn của một số
quốc gia.
118. Nghiên cứu/công nghệ: Việc nghiên cứu nhằm để phát triển những phương pháp bảo
quản cải tiến, bao gồm bảo quản in vitro, bảo quản siêu lạnh và đặc biệt là các kỹ thuật có chi
phí thấp phù hợp với những điều kiện của địa phương. Những công nghệ và phương pháp bảo
quản được chuyển giao từ các nước có điều kiện khí hậu ôn đới có thể không thích hợp với
điều kiện ở những nước nhiệt đới và ngược lại.
119. Nghiên cứu dựa trên việc tư liệu hóa cải tiến được đưa ra trong GPA nên được tiến hành
để hỗ trợ việc quyết định về phát triển một hệ thống hiệu quả và hợp lý. Những nghiên cứu
như vậy có thể gồm việc xác định nguồn gen ưu tiên và những nguồn gen trùng lặp, xây dựng
phương pháp xác định nguồn gen trùng lặp và kiểm tra sức sống của các giống, mở rộng các
phương pháp bảo quản hợp lý và lưu giữ kép các loài sinh sản vô tính, tạo ra những công
nghệ và phương thức bảo tồn các gen, kiểu gen và phức hợp gen.
120. Nghiên cứu cần được tiến hành trong những điều kiện bảo quản tốt nhất đối với hạt
giống có vỏ cứng, hạt giống không vỏ cứng và vật liệu sinh sản vô tính. Những nghiên cứu
kiểu gen và kiểu hình nên được tiến hành để có liên kết tốt hơn giữa số liệu nghiên cứu phân
tử với số liệu mô tả kiểu hình. Cần có các quy trình bảo tồn in vitro và những công nghệ bảo
tồn khác cho các cây trồng sinh sản vô tính và cây trồng có hạt không vỏ cứng. Việc đánh giá
nhu cầu bảo tồn các loài thực vật dùng cho mục tiêu lương thực và nông nghiệp chưa được
quan tâm bảo tồn cũng cần được tiến hành.
121. Điều phối/Quản trị: Việc điều phối trong nước về các hoạt động ưu tiên này liên quan
đến tất cả các thành viên tham gia bảo tồn PGRFA, bao gồm Ngân hàng gen quốc gia, tập
đoàn giống cây trồng quốc gia, các nhà chọn tạo giống, nhà nghiên cứu, nông dân và các tổ
chức phi chính phủ. Những mối liên kết bền vững cần được thiết lập với mạng lưới vùng và
các trung tâm quốc tế.
122. Báo cáo kỹ thuật và báo cáo quản lý định kỳ nên được khuyến khích để đánh giá tính
hiệu quả của bất kỳ sáng kiến nào dưới hoạt động ưu tiên này. Tùy thuộc vào báo cáo định kỳ
cũng như vào những điều khoản chi tiết trong các hợp đồng tương ứng, việc hỗ trợ tài chính
nên được tăng cường an toàn lâu dài và cho phép lập kế hoạch hiệu quả.
123. Hệ thống Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc gia (NARS), các mạng lưới cây trồng, mạng
lưới khu vực và các tổ chức vườn thực vật quốc tế, với sự hỗ trợ của các trung tâm nghiên cứu
nông nghiệp quốc tế và tổ chức khu vực nên thường xuyên đánh giá hiện trạng bảo tồn cây
sinh sản vô tính và cây có hạt không vỏ cứng để đưa ra những khuyến cáo cũng như có các
hành động nếu cần.
124. Hội những người làm vườn nên được khuyến khích tham gia tích cực vào các hoạt động
của các tổ chức quốc tế. Mối liên hệ nên được tăng cường giữa các tổ chức như Hội làm vườn
Quốc tế và Tổ chức Quốc tế Bảo tồn vườn thực vật và các tổ chức chịu trách nhiệm bảo tồn
PGRFA (ví dụ như tổ chức FAO, Viện Đa dạng Sinh học Quốc tế và các trung tâm nghiên
cứu nông nghiệp Quốc tế khác). Những mối liên kết tương tự nên được thiết lập giữa các tổ
chức, bao gồm cả những tổ chức ở khu vực tư nhân (ví dụ như thương mại vườn ươm) ở cấp
quốc gia. Sự hợp tác thực tiễn nên được khuyến khích như là vấn đề ưu tiên.
7. Phục hồi và nhân giống bảo quản ex situ
125. Bối cảnh: Khi các mẫu giống được bảo quản ex situ suy giảm sức sống, cả gen và kiểu
gen sẽ bị mất. Thậm chí dưới những điều kiện bảo quản ex situ tối ưu, cuối cùng thì tất cả
những giống này vẫn cần được phục hồi. Khả năng phục hồi thường không được xem xét khi
thu thập các tập đoàn và cấp phát nguồn gen, với hậu quả không mong đợi là nguồn vật liệu
thu thập trước đây không được duy trì đầy đủ ở hiện tại. Kết quả là, một lượng lớn vật liệu ùn
đống cần được phục hồi. Khối lượng giống ban đầu nhỏ, sức sống thấp và nhu cầu thường
xuyên về giống từ kho bảo quản dài hạn có thể rút ngắn chu kỳ phục hồi/nhân giống. Nhưng
vì các điều kiện bảo quản dài hạn đúng cách nên đã tránh được việc cần phục hồi trong nhiều
thập niên, bình thường, theo yêu cầu phục hồi hàng năm (hơn là nhu cầu nhân giống) một
lượng ít hơn 10% các giống được bảo tồn. Tuy nhiên, 55% các quốc gia đã báo cáo về việc
phục hồi tới Cơ chế Chia sẻ Thông tin Thế giới về thực hiện GPA (WISM) cho biết rằng năng
lực phục hồi giống giảm đi 20% ở các ngân hàng gen quốc gia và điều này dẫn đến sự ùn
đống đáng kể các nguồn gen cần được phục hồi. Các chiến lược cây trồng toàn cầu được hỗ
trợ bởi Quỹ Tín thác chỉ ra rằng sự ùn đống những cây trồng cần được phục hồi xảy ra ở tất cả
các cây trồng và ở tất cả các khu vực. Tuy nhiên, những tiến bộ quan trọng đã được tạo ra,
bao gồm ở mức độ toàn cầu như việc tài trợ cho Nhóm Tư vấn về Nghiên cứu Nông nghiệp
Quốc tế (CGIAR), cho các dự án “Hàng hóa Công cộng Toàn cầu” và ở cấp độ quốc gia, được
coi là kết quả của việc tài trợ từ Quỹ Tín thác. Quỹ tín thác Đa dạng cây trồng cũng hỗ trợ
việc phát triển những hướng dẫn phục hồi cho một số cây trồng ở Phụ lục 1. Tư liệu hóa
không đầy đủ về các giống cây trồng tiếp tục là trở ngại đối với các phương pháp phục hồi
giống cây trồng toàn cầu, mặc dù thông tin điện tử ngày càng tăng. Nhiều quốc gia nêu lên
việc thiếu điều kiện để nhân giống, phục hồi các loài cây thụ phấn chéo, thiếu tài chính và
nguồn nhân lực là những vấn đề chính. Việc điều phối và lập kế hoạch tốt sẽ giảm đến mức
tối thiểu lượng vật liệu cần được phục hồi, nhưng cần can thiệp liên tục để duy trì sức sống
của PGRFA được bảo quản.
126. Mục tiêu: Phục hồi và nhân giống cây trồng bảo quản ex situ nhằm đáp ứng nhu cầu bảo
tồn, cấp phát nguồn gen và lưu giữ kép an toàn.
127. Thiết lập các quy trình, sự cộng tác và năng lực cần để phục hồi và nhân giống cây trồng
bảo quản ex situ nhằm đáp ứng nhu cầu bảo tồn, cấp phát nguồn gen và lưu giữ kép an toàn.
128. Chính sách/Chiến lược: Sự ưu tiên nên dành cho:
a. Phục hồi các mẫu giống hiện đang lưu giữ trong kho dài hạn hoặc dự định lưu giữ
dài hạn mà những giống này đang mất dần sức sống;
b. Phục hồi những mẫu giống đáp ứng tiêu chí là những giống duy nhất trên toàn cầu,
bị đe dọa và có tiềm năng duy trì tính đa dạng của giống gốc.
129. Việc chọn lọc và xác định các nguồn gen ưu tiên để phục hồi và nhân giống cần được tìm
kiếm từ các cây trồng và mạng lưới khu vực.
130. Việc xác định những mẫu giống cụ thể để phục hồi và nhân giống nên được phối hợp
giữa các nhà tạo giống và người phụ trách kho lưu giữ, những người thường có những kiến
thức sâu và chi tiết về các tập đoàn và về sự phổ biến của các giống tương tự từ các điểm bảo
tồn in situ.
131. Việc phục hồi và nhân giống nên cố gắng duy trì sự đa dạng alen, đa dạng kiểu gen và
những phức hợp các mẫu giống gốc đã thích nghi. Giảm thiểu tần suất phục hồi là mục tiêu
quan trọng và là kết quả của các hoạt động khác trong GPA.
132. Các chính phủ, tư nhân, các tổ chức quốc tế, đặc biệt là CGIAR và những tổ chức phi
chính phủ nên:
a. Hợp tác để sử dụng hiệu quả năng lực hiện có và đảm bảo việc phục hồi và nhân giống có
thể tiến hành tại các địa điểm có điều kiện tương đồng với nơi giống được thu thập nếu khả
thi về mặt khoa học, kỹ thuật và quản lý.
b. Thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận với PGRFA được lưu giữ ex situ để giảm thiểu
tối đa nhu cầu lưu giữ những mẫu giống tương tự ở nhiều địa điểm và nhu cầu phục hồi các
mẫu giống đó.
133. Nên tiến hành kết hợp mô tả đặc điểm giống với phục hồi giống nhưng không làm ảnh
hưởng đến hiệu quả hay những mục tiêu khoa học của việc phục hồi. Việc mô tả, đánh giá đặc
điểm giống nên được thực hiện theo các tiêu chuẩn quốc tế đã được chấp nhận.
134. Năng lực: Cơ sở vật chất phù hợp, nguồn nhân lực đầy đủ, công nghệ thích hợp và thiết
bị cần thiết nên đầy đủ cho các chương trình quốc gia và các tổ chức quốc tế liên quan đến các
hoạt động phục hồi và nhân giống được thực hiện như một phần của GPA. Việc thiết lập và
tăng cường năng lực để khôi phục và nhân giống các loài cây trồng thụ phấn chéo, các loài
sinh sản vô tính và loài cây có hạt không vỏ cứng nên được quan tâm đặc biệt, bao gồm việc
xây dựng năng lực bảo quản kép an toàn. Nên quan tâm, xem xét khối tư nhân, nông dân và
các tổ chức phi chính phủ liên quan đến các hoạt động này.
135. Các ngân hàng gen nên đảm bảo hệ thống giám sát luôn sẵn sàng và có khả năng đánh
giá được hiện trạng các mẫu giống trong những ngân hàng gen này và ưu tiên cho các giống
cần phục hồi và nhân giống.
136. Các chương trình đào tạo nên đề cập đến sự khác biệt trong yêu cầu phục hồi và nhân
giống giữa các loài.
137. Nghiên cứu/công nghệ: Tài liệu hướng dẫn phục hồi và nhân giống, bao gồm những tiêu
chuẩn và kỹ thuật cụ thể, nên tiếp tục được phát triển, đặc biệt là với những loài thụ phấn
chéo, sinh sản vô tính và cây có hạt không vỏ cứng.
138. Đẩy mạnh nghiên cứu để cải tiến các kỹ thuật bảo tồn trong các lĩnh vực chính: kéo dài
khoảng cách giữa các chu kỳ phục hồi (các cây có hạt cứng), cơ chế sinh lý liên quan đến khả
năng chịu nhiệt độ thấp và mất nước (hạt không có vỏ cứng) và các kỹ thuật bảo tồn in vitro.
139. Nghiên cứu nên được thực hiện để tăng hiệu quả phục hồi giống, gồm có các phương
pháp để giảm thiểu trôi dạt di truyền, để xác định những chỉ thị liên kết với tuổi thọ hạt giống
để hỗ trợ việc xây dựng chiến lược phục hồi giống, để biết về nguyên nhân gây đột biến trong
nguồn gen được bảo tồn và để loại bỏ loài gây hại trong hạt giống. Những vấn đề quan trọng
đặt ra liên quan đến các hệ thống tạo giống, sinh học sinh sản, cơ chế ngủ nghỉ và các vấn đề
kỹ thuật liên quan đến thực tiễn phục hồi giống.
140. Điều phối/Quản trị: Sự tham gia tích cực của các mạng lưới cây trồng và mạng lưới khu
vực góp phần quan trọng trong các nỗ lực phục hồi và nhân giống, đặc biệt là trong việc xác
định và ưu tiên nguồn gen cần phục hồi và nhân giống. Các kế hoạch quốc gia về phục hồi
giống nên được xây dựng với sự hỗ trợ của các mạng lưới và nằm trong kế hoạch ưu tiên quốc
gia, đặc biệt đối với PGRFA.
141. Nhu cầu phục hồi và nhân giống cần được theo dõi liên tục, bao gồm xem xét sự cần
thiết phải lưu giữ kép, hành vi của loài trong quá trình lưu giữ, hoạt động lưu giữ của các loài,
điều kiện kho lưu giữ và sức sống của từng mẫu giống.
Sử dụng bền vững
8. Mở rộng việc mô tả, đánh giá và phát triển hơn nữa các tập đoàn nhỏ, đặc trưng để
tạo điều kiện thuận lợi cho sử dụng
142. Bối cảnh: Những tập đoàn lưu giữ trong ngân hàng gen nhằm giúp người sử dụng phản
ứng với những thách thức và cơ hội mới để cải thiện năng suất cây trồng, tăng cường tính bền
vững và phản ứng lại với những biến đổi – đặc biệt là biến đổi khí hậu và kháng côn trùng –
và đáp ứng nhu cầu của con người liên quan đến PGRFA. Ngày nay, các tập đoàn nguồn gen
của những cây trồng chính với sự đa dạng cao là cần thiết để đáp ứng những thách thức này.
Để các nhà chọn tạo giống, nhà nghiên cứu và những người sử dụng PGRFA sử dụng hiệu
quả nhất tập đoàn cây trồng, họ cần nhanh chóng xác định được số lượng của các kiểu gen với
nhiều tính trạng khác nhau cần thiết trong các chương trình nghiên cứu và chọn tạo giống.
Công tác mô tả và đánh giá được cải thiện có thể khuyến khích và sử dụng hiệu quả hơn nữa
các tập đoàn cây trồng. Việc hiểu biết sự biến đổi và biểu hiện di truyền cũng quan trọng cho
việc tăng cường sử dụng tài nguyên di truyền thực vật. Việc xây dựng các tập đoàn hạn chế
của vật liệu di truyền – dựa trên nền tảng toàn bộ đa dạng chứa trong một số lượng nhỏ các
mẫu giống hoặc sự biến động của các tính trạng cụ thể – được phát hiện để xúc tiến việc sử
dụng các tập đoàn cây trồng. Những nỗ lực này đòi hỏi sự cộng tác chặt chẽ giữa những người
quản lý nguồn gen và nhà chọn tạo giống trong việc tạo lập, quản lý các tập đoàn nhỏ. Công
tác mô tả và đánh giá nguồn gen cũng có thể giúp việc xác định được các nguồn gen có tiềm
năng phục vụ công tác chọn tạo giống của các nhà tạo giống và người nông dân, cũng như cho
người dân sử dụng trực tiếp phục vụ sản xuất và thương mại.
143. Trong thập niên vừa qua, nhiều tiến bộ quan trọng đã đạt được trong công tác mô tả và
đánh giá các tập đoàn nguồn gen cây trồng. Nhiều quốc gia đã có khả năng sử dụng các kỹ
thuật phân tử trong việc mô tả, đánh giá nguồn gen, sự phát triển dẫn đến việc tạo ra cơ sở dữ
liệu toàn diện và tin cậy hơn. Những nỗ lực này sẽ phải tiếp tục trong việc phát triển khả năng
đó ở những nơi cần thiết. Những bước tiến quan trọng cũng được tạo ra trong việc phát triển
cơ sở hạ tầng nghiên cứu và các kỹ thuật kiểu hình hiệu năng cao. Để mô tả và đánh giá một
cách hiệu quả các nguồn gen cây trồng và các vật liệu tạo giống đối với các tính trạng liên
quan đến tính thích nghi, giảm nhẹ, hiệu ứng của của biến đổi khí hậu và đáp ứng yâu cầu của
người tiêu dùng, vì vậy việc tiếp tục phát triển khả năng đánh giá kiểu hình là rất quan trọng.
144. Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ nói chung, vẫn còn những tồn tại lớn về dữ liệu nguồn
gen và nhiều dữ liệu đang tồn tại không dễ dàng tiếp cận. Việc thiếu những số liệu mô tả,
đánh giá tương ứng và khả năng tạo lập, quản lý cơ sở dữ liệu vẫn đang là trở ngại lớn cho
việc sử dụng các tập đoàn nguồn gen, đặc biệt là những tập đoàn các loài cây trồng ít sử dụng
và CWR. Với sự tiếp cận các kỹ thuật sinh học phân tử và sinh tin học, công nghệ thông tin và
Hệ thống Thông tin Địa lý (GIS), việc sử dụng các tập đoàn nguồn gen có thể được tăng
cường mạnh mẽ thông qua việc tăng các dạng dữ liệu và khối lượng dữ liệu nguồn gen sẵn có.
Nên dành những nỗ lực ngang nhau trong việc phát triển các biểu mẫu mô tả, đánh giá tiêu
chuẩn và đồng nhất các phương pháp mô tả, đánh giá cho nhiều loài và nhiều cây trồng hơn
nữa. Việc tài trợ kinh phí và nâng cao hơn nữa năng lực sẽ nâng cao chất lượng đánh giá
nguồn gen cả về bề rộng, lẫn độ sâu, giúp cho việc việc khai thác các tính trạng mong muốn
của giống cây trồng ở ngân hàng gen được dễ dàng hơn.
145. Mục tiêu: Tăng cường việc sử dụng và quản lý tài nguyên di truyền thực vật trong các
ngân hàng gen. Xác định giá trị tiềm năng của nguồn gen cho việc nghiên cứu, cải tiến cây
trồng và sử dụng trực tiếp trong việc phục hồi những hệ sinh thái bị thoái hóa và những dạng
khác của việc sử dụng trực tiếp trong hệ sinh thái nông nghiệp.
146. Phát triển các hoạt động đổi mới, các hoạt động mô tả, đánh giá cây trồng đặc thù, bằng
phương pháp chọn giống thích hợp có sự tham gia của cộng đồng, bao gồm cả loài cây trồng
ít sử dụng, xác định các gen và các giống tiềm năng hữu ích để cải thiện năng suất, phát triển
bền vững, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
147. Nâng cao hiệu quả quá trình đánh giá bằng cách phát triển và thích ứng các phương pháp
đánh giá tổng hợp hiệu suất cao để xác định những giống có các tính trạng quý. Phương pháp
này gồm có những thí nghiệm nhanh trên máy tính về đa dạng di truyền và lượng trao đổi
chất, phân tích hóa sinh mới và các phương pháp xác định nhanh biến động hình thái và cấu
trúc ở trên đồng ruộng thông qua các thiết bị cầm tay.
148. Xây dựng các tập đoàn vật liệu nhỏ, bao gồm tập đoàn có các tính trạng đặc trưng cho
những cây trồng có tầm quan trọng toàn cầu.
149. Cải thiện và tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi và tiếp cận dữ liệu mô tả hình thái
số lượng và dữ liệu đánh giá chi tiết nguồn gen của các tập toàn trong ngân hàng gen, thông
qua hệ thống thông tin quốc gia, khu vực và toàn cầu.
150. Chính sách/Chiến lược: Các chính phủ, với sự hợp tác của các cơ quan liên quan của
Liên hợp quốc và khu vực, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, các trung tâm nghiên cứu
nông nghiệp quốc tế, mạng lưới khu vực, tư nhân, cần xem xét những quan điểm của cộng
đồng khoa học, hội nông dân và hội giống cây trồng và cộng đồng, nên:
a. Thiết lập dữ liệu mô tả, đánh giá cơ bản, định rõ những ưu tiên và định kỳ đánh giá
tiến độ trong công tác đánh giá chi tiết nguồn gen liên quan đến các nhu cầu khác nhau của
những người sử dụng PGRFA, nhấn mạnh vào việc xác định các tính trạng còn hạn chế trong
sản xuất cây trồng chính, cây trồng có tầm quan trọng với nền kinh tế quốc gia, cũng như cây
trồng ít sử dụng và cây liên quan đến chế độ ăn uống;
b. Hỗ trợ hợp tác và bổ sung giữa các nhà tạo giống, nhà nghiên cứu, khuyến nông,
nông dân và các ngân hàng gen;
c. Khuyến khích việc trao đổi thông tin mô tả và đánh giá, thông qua việc thiết lập
mạng lưới cơ sở dữ liệu ngân hàng gen trong và giữa các quốc gia;
d. Lưu ý rằng việc tiếp cận PGRFA phải tuân thủ các thỏa thuận quốc tế và khu vực đã
được áp dụng như Hiệp ước Quốc tế về tài nguyên di truyền thực vật. Để tuân thủ các thỏa
thuận này, người sử dụng PGRFA được khuyến khích chấp nhận các điều khoản về chia sẻ dữ
liệu đánh giá do các viện nguồn đưa ra đối với người sử dụng vì mục đích thương mại nhằm
tạo sự tin cậy thích hợp;
e. Sử dụng những dữ liệu mô tả và đánh giá để giúp cải thiện công tác quản lý bảo tồn
in situ các giống địa phương, CWR, các cây hoang dại sử dụng làm lương thực và cây thức ăn
chăn nuôi;
f. Cung cấp hỗ trợ tài chính thích hợp cho các chương trình mô tả và đánh giá các loài
cây trồng có tầm quan trọng hàng đầu với an ninh lương thực, với tầm quan trọng của việc
cung cấp tài chính trung và dài hạn và thúc đẩy sự hiệp trợ với các cơ chế tài trợ hiện có (ví
dụ Quỹ chia sẻ Lợi ích của Hiệp ước Quốc tế).
151. Các mạng lưới cây trồng và các ngân hàng gen nên được khuyến khích để xác định các
tính trạng hữu ích và xây dựng các tính trạng đặc thù và các tập đoàn mà người sử dụng quan
tâm với trọng tâm là sự thích nghi với biến đổi khí hậu, bền vững và an ninh lương thực. Mô
tả và đánh giá nên được tăng cường và chuẩn hóa và dữ liệu tạo ra dễ tiếp cận hơn thông qua
các hệ thống thông tin cải tiến.
152. Năng lực: Nên dành sự hỗ trợ cho các chương trình mục tiêu về mô tả và đánh giá các
nguồn gen ưu tiên. Quá trình mô tả và đánh giá bắt đầu với sự đánh giá thông tin hiện thời và
nỗ lực để thu thập, đối chiếu, lưu trữ trong máy tính và tạo ra thông tin sẵn có dưới dạng ghi
chú, báo cáo, thẻ dập, v.v. Nhiều hoạt động đánh giá cần được tiến hành theo định hướng sử
dụng và theo đặc thù địa điểm.
153. Các chính phủ và những tổ chức thích hợp nên xác định những cơ quan và cá nhân có
năng lực và chuyên môn để mô tả và đánh giá nguồn gen có tính chống chịu đặc thù và phát
triển danh sách quốc gia về trình độ chuyên môn, bao gồm các nhà chọn tạo giống và nông
dân ở những khu vực có điều kiện bất lợi cao của môi trường, những người có thể thực hiện
việc đánh giá sơ bộ để xác định những tập đoàn nhỏ các giống có tiềm năng phục vụ việc
đánh giá sâu hơn trong điều kiện thí nghiệm nghiêm ngặt. Hiệu quả chi phí của các hợp đồng
đánh giá cũng nên được xem xét tính khả thi của các chương trình hợp tác liên quan đến
chương trình quốc gia và khu vực tư nhân.
154. Đội ngũ nhân viên chương trình quốc gia cần được đào tạo về các kỹ thuật mô tả và đánh
giá nguồn gen trên cơ sở cây trồng đặc thù. Chương trình đào tạo như vậy nên bắt đầu với
những cây trồng có tầm quan trọng quốc gia và cho những cây trồng hiện đang hoặc trong kế
hoạch của các các chương trình chọn tạo giống. Xây dựng năng lực nên hướng tới đa số nhân
viên then chốt có kỹ năng trong việc sử dụng các phương pháp mô tả tiêu chuẩn, bao gồm cả
các kỹ thuật sinh học phân tử và quản lý dữ liệu sử dụng nền tảng thông tin hiện đại.
155. Nên hỗ trợ đào tạo các nhà chọn tạo giống và nông dân tham gia các chương trình đánh
giá PGRFA trên đồng ruộng. Cần tập trung vào những kiến thức thâm canh mà người phụ nữ
có được về việc sử dụng và ích lợi của cây trồng, vì họ thường có trách nhiệm từ khâu nhân
giống, sản xuất, thu hoạch cho đến việc chế biến, lưu giữ và nấu ăn.
156. Học sinh ở mọi cấp nên được đào tạo những chủ đề cơ bản liên quan đến mô tả, đánh giá
và sử dụng PGRFA.
157. Nghiên cứu/công nghệ: Các nghiên cứu phải được tiến hành trong nỗ lực đạt được việc
sử dụng có hiệu quả chi phí cho các tập đoàn giống cây trồng hiện tại. Sử dụng những kỹ
thuật tiên tiến nhất, với sự hỗ trợ của công tác chọn tạo giống và các nghiên cứu nhằm:
a. Cải thiện việc sử dụng các phương pháp phân tử trong mô tả và đánh giá để xác
định những gen hữu ích và hiểu được sự biểu hiện cũng như biến động các gen;
b. Cải thiện các phương pháp mô tả và đánh giá nguồn gen bằng cách sử dụng các
phân tích hóa sinh và phân tích kiểu hình tổng hợp hiệu suất cao, đặc biệt là tính thích nghi và
làm giảm nhẹ biến đổi khí hậu và tăng giá trị dinh dưỡng;
c. Cải tiến trao đổi dữ liệu thông qua sự phát triển và hài hòa các tiêu chuẩn dữ liệu
mô tả và đánh giá.
158. Nghiên cứu cũng cần thiết để xây dựng các tập đoàn vật liệu nhỏ có ích, bao gồm tập
đoàn hạt nhân, tập đoàn hạt nhân nhỏ và siêu nhỏ, các tập đoàn có các tính trạng đặc thù. Điều
này sẽ yêu cầu phát triển có hệ thống và thử nghiệm các quy trình lấy mẫu khác nhau cũng
như tăng cường sự sẵn có các dữ liệu mô tả và đánh giá thông qua các hệ thống tư liệu hóa cải
tiến. Công việc tiếp theo là tối ưu hóa cách thức để các nhà tạo giống sử dụng tập đoàn con dễ
dàng tiếp cận những vật liệu ưu việt nhất của toàn bộ tập đoàn.
159. Điều phối/Quản trị: Công tác mô tả và đánh giá cần được lên kế hoạch với sự tham gia
tích cực của các chương trình quốc gia, các nhà chọn tạo giống cây trồng, mạng lưới cây trồng
và mạng lưới khu vực. Các hội giống, hội nông dân, các công ty tư nhân và quốc doanh, các
bên tham gia và các hội liên quan khác cũng nên được tham gia với mức độ thích hợp.
160. Những tập đoàn hạn chế, thân thiện với người sử dụng như các tập đoàn tính trạng đặc
biệt, các tập đoàn hạt nhân và tập đoàn hạt nhân siêu nhỏ cũng nên được xây dựng với sự
tham gia tích cực của các nhà chọn tạo giống và những người sử dụng khác cũng như mạng
lưới cây trồng liên quan. Nghiên cứu trên những tập đoàn như vậy phải được hợp tác chặt chẽ
trong nỗ lực chung để cải thiện việc sử dụng.
161. Hợp tác và trao đổi thông tin là cần thiết, đặc biệt các ngân hàng gen của các nước đang
phát triển nơi quản lý các tập đoàn rất đa dạng nhưng không có nhân viên với chuyên môn về
tất cả các loài mà họ lưu giữ.
9. Hỗ trợ chọn tạo cây trồng, tăng cường và mở rộng nền di truyền
162. Bối cảnh: có thể sử dụng các tập đoàn nguồn gen để xác định những alen đặc trưng hữu
ích để tạo các giống mới thích nghi với nhu cầu và điều kiện mới cũng như để mở rộng nền di
truyền phục vụ các chương trình chọn tạo giống. Trong khi một số vật liệu được các nhà tạo
giống sử dụng trực tiếp cho mục đích tạo giống thì tăng cường và mở rộng nền di truyền
thường cần thiết để tạo ra vật liệu có thể dễ dàng sử dụng bởi các chương trình chọn tạo
giống. Các giống mới tạo ra là một phương tiện để đưa PGRFA tới người dân.
163. Thách thức của việc sử dụng PGRFA còn gặp khó khăn hơn do khả năng chọn tạo giống
đang bị co lại hoặc trì trệ ở nhiều quốc gia. Sự thiếu hụt nghiêm trọng các nhà chọn tạo giống
ở cả các khu vực quốc doanh và tư nhân và sự tham gia ngày càng giảm trong các chương
trình chọn tạo giống truyền thống ở các trường và các viện nông nghiệp so với những ngành
được xem là khoa học hiện đại như sinh học phân tử. Cần có các biện pháp mạnh mẽ để khắc
phục tình trạng này vì vai trò của chọn tạo truyền thống là không thể thay thế.
164. Hiện nay, thách thức toàn cầu, đặc biệt là biến đổi khí hậu, làm cho nhu cầu về chọn tạo
giống ngày càng tăng và do vậy các chương trình chọn tạo giống chắc chắn phải được tăng
cường. Nhân lực và cơ sở hạ tầng được tăng cường là cần thiết cho các chương trình chọn tạo
giống nhằm phổ biến các giống có khả năng chống chịu được với sức ép sinh học và phi sinh
học để thích ứng với biến đổi khí hậu cũng như đa dạng hóa và an ninh lương thực. Tăng
cường năng lực phải đi cùng với việc xem xét lại các chiến lược. Chọn tạo giống phải là nhu
cầu dựa trên việc xây dựng các ưu tiên, việc xác định các mục tiêu và cùng với sự hội nhập
các viễn cảnh của người dân và người sử dụng. Hiệu quả của các hoạt động chọn tạo giống
truyền thống phải được tăng cường thông qua việc phối hợp với công nghệ sinh học và các
chiến lược phân tích kiểu hình.
165. Tăng cường tiền chọn giống và mở rộng nền di truyền phải được khuyến khích, bao gồm
việc hòa đồng nguồn gen của người quản lý ngân hàng gen và của các nhà chọn tạo giống, để
các nguồn gen có thể được xác định và được sử dụng nhằm phục vụ các mục tiêu đã định.
Nên chú ý cải tiến các cây trồng ít được nghiên cứu, vì đó là những cây lương thực chính ở
nhiều vùng trên thế giới. CWR phải được sử dụng một cách có hệ thống hơn để xác định
những gen cần cho việc tạo ra những giống cây trồng có khả năng phục hồi nhanh để bảo đảm
an ninh lương thực khi đối phó với những điều kiện khí hậu thay đổi.
166. Nâng cao tính bền vững, khả năng phục hồi nhanh và tính thích nghi của sản xuất cây
trồng đòi hỏi sử dụng và phát triển mạnh đa dạng của cả các loại và các giống cây trồng cho
nông dân. Chiến lược mở rộng nền di truyền có thể đóng góp quan trọng cho việc tăng cường
đa dạng di truyền trong các chương trình chọn tạo giống cây trồng và ở các sản phẩm của
những chương trình này.
167. Một ví dụ về nỗ lực đa phương nhằm tăng cường năng lực trong chọn tạo giống là FAO-
triệu tập hội nghị Sáng kiến Quan hệ đối tác Toàn cầu về Xây dựng Năng lực chọn tạo giống
(GIPB). Đối tác đa phương gồm các thành viên khu vực nhà nước và tư nhân từ các quốc gia
phát triển và đang phát triển được thành lập theo Điều 6 của Hiệp ước Quốc tế về tài nguyên
di truyền thực vật. GIPB nhằm mục tiêu tăng cường năng lực chọn tạo giống và hệ thống phân
phối hạt giống ở các nước đang phát triển và nhằm cải thiện sản xuất nông nghiệp thông qua
sử dụng bền vững PGRFA. Chương trình Thách thức Thế hệ (GCP), là sáng kiến của CGIAR
nhằm tạo ra những cây trồng cải tiến cho nông dân sản xuất nhỏ thông qua quan hệ đối tác
giữa các tổ chức nghiên cứu, là một ví dụ khác của sáng kiến đa phương nhằm xúc tiến sử
dụng PGRFA trong cải tiến giống cây trồng. GCP tập trung vào việc sử dụng các công cụ
công nghệ sinh học mới, gồm có nghiên cứu gen học, chọn tạo giống dựa trên phân tử và tin
sinh học, để tăng hiệu quả trong việc phát triển giống cây trồng.
168. Mục tiêu: Đóng góp vào an ninh lương thực và cải thiện sinh kế của nông dân thông qua
triển khai các cây trồng đã thích nghi và thông qua phát triển các giống cây trồng nhanh phục
hồi nhằm đảm bảo năng suất cao dưới những điều kiện môi trường khắc nghiệt và những hệ
thống nông nghiệp đầu tư thấp. Gia tăng việc sử dụng tài nguyên di truyền và do vậy cung cấp
những phương thức xác thực hơn để bảo tồn những tài nguyên này.
169. Giảm thiểu thu hẹp di truyền bằng cách tăng đa dạng di truyền trong các hệ thống sản
xuất cũng như trong các chương trình chọn tạo giống cây trồng thông qua việc sử dụng CWR,
các giống của người dân/giống địa phương, các giống cải tiến và giống nhập nội một cách
thích hợp. Tăng tính bền vững của các hệ thống nông nghiệp và khả năng thích nghi với sự
thay đổi môi trường và các nhu cầu mới xuất hiện. Tăng cường năng lực các chương trình tạo
giống quốc gia và các khu vực khác khi cần, và khuyến khích chọn giống cộng đồng. Cung
cấp các phương tiện và tài nguyên cần để tăng đa dạng di truyền cả những cây trồng chính và
cây trồng phụ do cácchương trình chọn tạo giống sử dụng, thông qua các phương pháp mở
rộng tăng cường nền di truyền thích hợp.
170. Chính sách/Chiến lược: Các chính phủ, các tổ chức quốc tế và phi chính phủ và các
nguồn đầu tư nên:
a. Công nhận tầm quan trọng của việc tài trợ dài hạn và hỗ trợ vật tư cho nghiên cứu
và chọn tạo giống, tiền chọn giống, các hoạt động tăng cường đa dạng và mở rộng nền di
truyền;
b. Công nhận tầm quan trọng việc hỗ trợ tương ứng cho ứng dụng các công cụ công
nghệ sinh học mới, sinh học có sử dụng vi tính và công nghệ thông tin trong việc quản lý
PRGFA, đặc biệt là trong công tác mô tả nguồn gen và tạo điều kiện thuận lợi cho việc
chuyển các tính trạng mong muốn vào các vật liệu chọn tạo giống;
c. Khuyến khích sự phát triến mối quan hệ giữa khu vực công-tư nhân và các đối tác
khác để đẩy mạnh phương pháp chọn giống có sự tham gia của cộng đồng để thiết lập và thực
hiện các ưu tiên và mục tiêu của công tác chọn tạo giống cây trồng;
d. Phát triển các chính sách và pháp luật để hỗ trợ chọn tạo giống cộng đồng, gồm các
quy định khung phù hợp cho các giống cây trồng được phát triển từ các chương trình tạo
giống có sự tham gia của cộng đồng;
e. Khuyến khích thể chế hóa các phương pháp chọn giống có tham gia của cộng đồng,
giới tính, thanh niên như một phần chiến lược PGRFA quốc gia để tạo điều kiện thuận lợi cho
việc chấp nhận giống cây trồng mới;
f. Giúp các nhà chọn tạo giống cây trồng tiếp cận tối đa có thể tới đa dạng di truyền để
xác định những tính trạng cần thiết cho việc phát triển các giống cây trồng thích nghi với
những điều kiện khí hậu mới; và
g. Khi đặt ra các chiến lược quốc gia và xúc tiến hợp tác phải nhận thức đầy đủ các
điều khoản về Hệ thống Đa phương của Hiệp ước Quốc tế về tài nguyên di truyền thực vật,
theo đó vật liệu có thể được tiếp cận “vì mục đích sử dụng và bảo tồn phục vụ nghiên cứu,
chọn tạo giống, đào tạo cho mục tiêu lương thực và nông nghiệp”.
171. Năng lực: Hỗ trợ cho hệ thống tài nguyên di truyền thực vật quốc gia, mạng lưới khu
vực, các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các trường đại
học, các chương trình chọn tạo giống và các tổ chức khác có liên quan để tiến hành chọn tạo
giống cây trồng, bao gồm tăng tiềm năng di truyền và mở rộng nền di truyền. Nên dành ưu
tiên để giải quyết vấn đề được mạng lưới khu vực, mạng lưới cây trồng và các diễn đàn
nghiên cứu, phát triển, các tổ chức khoa học quốc tế, các viện nghiên cứu, các hội giống cây
trồng, hội nông dân xác định. Các nỗ lực nên mở rộng ra ngoài các cây trồng có tính cấp bách
nhất ở Phụ lục 1 của Hiệp ước Quốc tế về tài nguyên di truyền thực vật nhằm bao gồm cả các
cây trồng hỗ trợ an ninh lương thực địa phương trên phạm vi toàn thế giới.
172. Xây dựng năng lực theo hoạt động đã nêu nên ưu tiên đào tạo kỹ năng cán bộ về các kỹ
thuật tạo giống cải tiến cũng như tạo giống truyền thống. Hơn nữa, cần tăng cường năng lực
trong công tác đánh giá cả trên đồng ruộng và trong phòng thí nghiệm. Xây dựng năng lực
nên đi đôi với việc khích lệ tương ứng - như các cơ hội nghề nghiệp được cơ cấu – để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thu hút và giữ được đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm. Sự hợp tác
quốc tế lớn hơn – ví dụ, với những trung tâm xuất sắc khu vực – có thể giúp cắt giảm các chi
phí đào tạo quốc gia và giảm đầu tư chồng chéo không cần thiết.
173. Nghiên cứu/công nghệ: Các tổ chức cần phát triển, thích ứng và sử dụng hiệu quả hơn
nữa công nghệ sinh học tiên tiến và những công cụ phụ trợ cho việc tăng cường tiềm năng di
truyền. Các tổ chức này nên mở rộng các hoạt động nghiên cứu và phát triển để gia tăng các
nỗ lực thuần hóa và tối ưu hóa việc sử dụng CWR trong các chương trình chọn tạo giống.
CWR chứa đựng các gen quan trọng chống chịu được với sức ép sinh học và phi sinh học, các
gen có năng suất cải tiến và CWR được xem là nguồn quan trọng cho việc mở rộng nền di
truyền. Các phương pháp xác định gen và chuyển gen hữu ích cần phải được cải tiến.
174. Nghiên cứu cần phát triển các quy trình chọn lọc và các phương pháp tạo giống để hỗ trợ
cho việc mở rộng nền di truyền và tăng sự bền vững cùng với năng suất. Điều đó chắc chắn
bao gồm cả các nghiên cứu về chọn lọc vật liệu cơ bản thích hợp cho các chương trình chọn
tạo giống và các quy trình chọn giống quần thể.
175. Hợp tác/Quản trị: Các hoạt động nên được lập kế hoạch và thực hiện với sự hợp tác
chặt chẽ của các chương trình quốc gia, các mạng lưới cây trồng và khu vực, các tổ chức khoa
học, các viện nghiên cứu và các tổ chức chọn tạo giống và nông dân. Sự liên lạc chặt chẽ giữa
các nhà quản lý ngân hàng gen, các nhà tạo giống và các nhà khoa học khác ở cả khu vực nhà
nước và tư nhân nên được khuyến khích. Kết nối mạng lưới giữa các cộng đồng sản xuất cho
các nhà chọn tạo giống nên được thúc đẩy như là phương tiện tư vấn và trao đổi ý tưởng. Sự
hợp tác giữa các bên tham gia trong việc phát triển các chuỗi giá trị cây trồng ở cấp quốc gia
là con đường hiệu quả khác để phối hợp các hoạt động và các nỗ lực để đảm bảo cho sự phát
triển bền vững các hoạt động ưu tiên này.
10. Đẩy mạnh đa dạng hóa sản xuất cây trồng và mở rộng đa dạng cây trồng vì nền nông
nghiệp bền vững
176. Bối cảnh: Các tiến bộ trong đa dạng hóa sản xuất cây trồng, trong các hệ thống sản xuất
cây trồng ngày càng chi phối các hệ thống nông nghiệp, nhưng vẫn có thể dẫn đến giảm năng
suất do sâu bệnh và điều kiện bất thuận phi sinh học, cũng như do thiếu sự ổn định và khả
năng phục hồi nhanh. Một số thách thức mới đã được thừa nhận trong thập niên vừa qua, đòi
hỏi cần phải tăng cường đa dạng hóa. Những thách thức đó gồm nhu cầu bền vững lâu dài
trong thực hành nông nghiệp, những thách thức và cơ hội được tạo ra do sản xuất và sử dụng
năng lượng sinh học, an ninh lương thực và dinh dưỡng, phát triển nông thôn và biến đổi khí
hậu.
177. Để đối phó với những thách thức này, hàng loạt các giống và loài cây trồng cần đưa vào
các hệ thống nông nghiệp. Các loài và giống cây trồng, bao gồm cây trồng dùng để sản xuất
nguyên liệu thô cho công nghiệp và năng lượng, cây trồng ít sử dụng, cây hoang dại dùng làm
lương thực và cây thức ăn chăn nuôi. Tương tự, các nhà tạo giống cần tạo ra sự đa dạng nhiều
hơn nữa trong các chương trình tạo giống. Công tác đánh giá, chọn lọc cộng đồng và cải tiến
giống cây trồng địa phương của nông dân và các cây đầu dòng là những biện pháp mang đến
mức độ đa dạng, tính thích nghi và sự bền vững cao hơn cho cây trồng. Đa dạng hóa ở mức
độ loài và giống nên được kết hợp với đa dạng hóa các hệ thống sản xuất. Hệ thống sản xuất
đa dạng cung cấp các dịch vụ sinh thái tăng cường và có khả năng thu lợi từ các dịch vụ do
phong cảnh xung quanh mang lại. Cùng với những giải pháp như luân canh, hỗn giống và đa
dòng, những thực tiễn này sẽ giúp cải thiện khả năng phục hồi nhanh và ổn định các hệ thống
nông nghiệp và do vậy đảm bảo an ninh lương thực, dinh dưỡng và thu nhập. Giống cây trồng
do các nhà chọn giống địa phương phát triển đã thích nghi với những thay đổi của môi trường,
đáp ứng nhu cầu của người dân và cộng đồng. Tuy vậy, nhu cầu về giống cần được điều chỉnh
phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và địa phương nhằm chuyển nhanh hơn các giống từ phát
triển đến thương mại.
178. Mục tiêu: Đẩy mạnh nền nông nghiệp bền vững thông qua đa dạng hóa giữa các cây
trồng và trong phạm vi từng cây trồng.
179. Xem xét định kỳ tổn thất di truyền trong các cây trồng và khuyến khích các nhà tạo
giống và các tổ chức liên quan khác để có những hành động cần thiết làm giảm nhẹ tổn thất di
truyền ở mức độ quốc gia, khu vực và quốc tế.
180. Phát triển những mô hình sản xuất đa dạng phù hợp với năng suất cao và ổn định cũng
như đáp ứng sở thích người tiêu dùng.
181. Chính sách/Chiến lược: Các chính phủ và các tổ chức liên chính phủ có liên quan, hợp
tác với các mạng lưới cây trồng, các viện nghiên cứu, các cơ quan khuyến nông, khu vực tư
nhân, các tổ chức nông dân và các tổ chức phi chính phủ, nên:
a. Thường xuyên theo dõi đa dạng di truyền và đánh giá tổn thất di truyền cây trồng;
b. Thúc đẩy các chính sách nhằm hỗ trợ các chương trình đa dạng hóa, kể cả việc đưa
các loài mới vào trong các hệ thống sản xuất;
c. Gia tăng đa dạng hóa bằng cách trồng hỗn hợp các giống và các loài đã thích nghi ở
nơi phù hợp;
d. Thúc đẩy nhận thức giữa những nhà hoạch định chính sách, nhà tài trợ và công
chúng về giá trị của các hệ thống sản xuất đa dạng;
e. Khuyến khích các quốc gia thông qua các chiến lược, chính sách, khung pháp lý và
quy định phù hợp và hiệu quả thúc đẩy hệ thống sản xuất đa dạng;
f. Hỗ trợ các nhà chọn tạo giống và người dân quản lý đa dạng;
g. Tăng đầu tư trong cải tiến cây trồng ít được sử dụng, phát triển và sử dụng các tính
trạng ở các cây trồng chính có liên quan đến sức khỏe con người, môi trường và ảnh hưởng
của biến đổi khí hậu.
182. Các tổ chức tài trợ được khuyến khích tiếp tục hỗ trợ các cộng đồng bản địa và địa
phương, các hệ thống nghiên cứu nông nghiệp quốc gia, các trung tâm nông nghiệp quốc tế,
các chương trình chọn tạo giống, các tổ chức nghiên cứu khác và các tổ chức phi chính phủ
nhằm tăng cường mức độ đa dạng trong các hệ thống nông nghiệp.
183. Năng lực: Các chính phủ và các hệ thống nghiên cứu nông nghiệp quốc gia được các
trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế, các tổ chức nghiên cứu khác và các tổ chức
khuyến nông tài trợ, nên:
a. Tăng cường năng lực để phát triển và sử dụng giống đa dòng, giống trộn và giống
tổng hợp;
b. Tăng cường năng lực để thích nghi với các chiến lược quản lý dịch hại tổng hợp
khác nhau cho các hệ thống sản xuất;
c. Phát triển các chiến lược gieo trồng và sử dụng nhiều giống cây trồng;
d. Khảo sát, và trong những hoàn cảnh thích hợp, sử dụng các chiến lược tạo giống phi
tập trung và chọn tạo giống với sự tham gia của cộng đồng để phát triển các giống cây trồng
thích nghi đặc thù với môi trường địa phương;
e. Sử dụng các kỹ thuật công nghệ sinh học để tạo điều kiện mở rộng nền di truyền của
cây trồng; và
f. Tăng cường năng lực người nông dân, cộng đồng bản địa và địa phương và các tổ
chức của họ, cũng như cán bộ khuyến nông và những người tham gia khác, để quản lý bền
vững đa dạng sinh học nông nghiệp và các dịch vụ hệ sinh thái.
184. Nghiên cứu/công nghệ: Hỗ trợ những nỗ lực để xác định các hoạt động chọn tạo giống
và thực hành nông học nhằm đẩy mạnh đa dạng hóa sản xuất cây trồng. Điều này có thể bao
gồm cả việc rà soát hồ sơ theo dõi các công việc thực hành khác nhau.
185. Nghiên cứu cần cho việc thuần hóa các loài hoang dại, tăng cường sử dụng các cây trồng
ít được sử dụng để phát triển các giống nhiều dinh dưỡng đã thích nghi, và phát triển cây
trồng và giống thích nghi với biến đổi khí hậu.
186. Điều quan trọng cần phải phát triển các công cụ cải tiến và phương pháp đánh giá tổn
thất di truyền cây trồng, cung cấp các dịch vụ từ các hệ sinh thái nông nghiệp, bao gồm thụ
phấn và ứng dụng các phương pháp tiếp cận hệ sinh thái cho nền nông nghiệp bền vững.
187. Điều phối/Quản trị: Cần sự hợp tác chặt chẽ giữa các bộ nông nghiệp và bộ môi trường
trong việc phát triển và thực hiện những chính sách và chiến lược đa dạng hóa sản xuất cây
trồng cho nền nông nghiệp bền vững. Những chính sách này nên được điều phối ở mức độ
khu vực để tạo hiệu quả thật sự.
11. Tăng cường phát triển và thương mại hóa tất cả các giống của nông dân/giống địa
phương và các loài ít được sử dụng
188. Bối cảnh: Việc sản xuất thương mại ngày càng chi phối các hệ thống nông nghiệp.
Trong các hệ thống sản xuất thương mại, một số cây trồng chính cung cấp thị phần lớn các
nhu cầu trên toàn cầu. Tuy nhiên, rất nhiều loài cây trồng, gồm những giống của nông
dân/giống địa phương của cả những cây trồng chính và cây trồng phụ, được người nông dân
và những cộng đồng bản địa và địa phương sử dụng để đáp ứng những nhu cầu tại chỗ về
lương thực, sợi và thuốc. Kiến thức liên quan đến việc sử dụng và quản lý những giống và
loài này thường được địa phương hóa và chuyên biệt hóa. Sự đa dạng ở cả mức độ loài và
giống đang được thay thế bằng sự đồng nhất của các giống được tạo ra trong thị trường nông
nghiệp để đáp ứng nhu cầu sản xuất, chế biến công nghiệp và tiêu chuẩn thị trường.
189. Những loài ít được sử dụng, những giống của nông dân/giống địa phương và những
giống cây trồng khác không được sử dụng phổ biến trong các hệ thống sản xuất nông nghiệp
đang bị mất dần đi cùng với những kiến thức có liên quan. Mặc dù nỗ lực bảo tồn ex situ các
loài này ngày càng tăng, nhưng nói chung, đa dạng của chúng chưa đại diện đầy đủ trong các
tập đoàn. Nhiều cây trồng ít sử dụng ghi trong Phụ lục I của Hiệp ước Quốc tế về tài nguyên
di truyền thực cũng trong tình trạng như vậy. Tuy nhiên, nhiều loài và nhiều giống cây trồng
này có tiềm năng sử dụng rộng rãi hơn, đặc biệt trong chọn tạo giống và có thể góp phần quan
trọng trong ổn định sinh kế thông qua an ninh lương thực và dinh dưỡng, tạo thu nhập và
giảm rủi ro.
190. Tuy nhiên, sự công nhận toàn cầu về giá trị các giống cây trồng của nông dân/giống địa
phương và các loài cây trồng ít được sử dụng ngày càng tăng trong bối cảnh khí hậu bất ổn,
suy dinh dưỡng và đói nghèo ở nông thôn. Ví dụ, là việc gia tăng nhận thức cộng đồng và các
nhà hoạch định chính sách về tầm quan trọng của các loại rau quả truyền thống và của những
cây trồng mới có tiềm năng năng lượng. Những “thị trường hẹp” hay “thị trường giá trị cao”
đang được mở rộng khi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn cho lương thực có chất
lượng tốt, lương thực mới hoặc đặc sản có nguồn gốc mà họ biết và tin tưởng. Cơ chế pháp lý
mới tạo điều kiện cho nông dân bán giống cây trồng của họ, và luật pháp hỗ trợ tiếp thị các
sản phẩm có chỉ dẫn địa lý đang ngày càng phát triển, cung cấp cách thức cho người nông dân
bảo tồn và sử dụng đa dạng di truyền cây trồng địa phương.
191. Để nắm được giá trị thị trường tiềm năng giống cây trồng của người nông dân/giống địa
phương và của các loài cây trồng ít sử dụng, cần có sự hợp nhất tốt hơn các nỗ lực đóng góp
của cá nhân và cơ quan trong các giai đoạn khác nhau của chuỗi sản xuất. Đặc biệt, sự tham
gia của các cộng đồng bản địa và địa phương là cần thiết và phải tính đến hệ thống kiến thức
và kinh nghiệm thực tiễn truyền thống.
192. Tổ chức Cây trồng Tương lai4, một tổ chức mới được thành lập gần đây nhằm thúc đẩy
việc sử dụng và bảo tồn những loài cây trồng ít được sử dụng.
193. Mục tiêu: Góp phần ổn định sinh kế, bao gồm an ninh lương thực và dinh dưỡng,
tạo ra thu nhập và giảm thiểu rủi ro, thông qua quản lý bền vững tất cả các giống cây
trồng mà chủ yếu tập trung vào các giống cây trồng của nông dân/giống địa phương và
các loài ít được sử dụng.
194. Kích thích nhu cầu mạnh mẽ hơn nữa và thị trường tin cậy cho tất cả các giống cây
trồng, trước hết là các giống của người nông dân/giống địa phương, các loài ít được sử dụng
và các sản phẩm của họ. Xúc tiến chế biến tại chỗ, thương mại hóa và phân phối sản phẩm
của các giống địa phương và các loài ít được sử dụng. Tăng nhận thức cộng đồng về giá trị
của những giống cây trồng đó.
195. Chính sách/Chiến lược: Các chính phủ và các hệ thống nghiên cứu nông nghiệp quốc
gia, với sự hỗ trợ của các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế và các tổ chức phi chính
phủ, và xem xét ý kiến của các tổ chức nhà chọn tạo giống và người nông dân, nhà sản xuất
hạt giống, các cộng đồng bản địa và địa phương và các khu vực sản xuất giống tư nhân, được
khuyến khích:
a. Thúc đẩy các chính sách phù hợp với việc quản lý, phát triển và sử dụng bền vững
các loài cây trồng ít được sử dụng, được xác định là có tiềm năng để đóng góp cho kinh tế địa
phương và an ninh lương thực;
b. Phát triển và thông qua các chính sách về khuyến nông, đào tạo, giá cả, phân phối
đầu vào, phát triển cơ sở hạ tầng, tín dụng và thuế là các vấn đề được xem như khuyến khích
cho đa dạng hóa cây trồng và tạo ra thị trường cho sản phẩm lương thực đa dạng;
c. Tạo môi trường cho phép quản lý, giám sát đa dạng tại chỗ và phát triển các thị
trường nội địa và xuất khẩu cho nhiều loại sản phẩm truyền thống và sản phẩm mới có nguồn
gốc thực vật, trước tiên là các giống của nông dân/giống địa phương và các loài ít được sử
dụng;
d. Thức đẩy quan hệ đối tác giữa công - tư và xây dựng quy định pháp luật xúc tiến
chia sẻ lợi ích hướng tới người nông dân và những người gìn giữ truyền thống.
196. Năng lực: Nên đào tạo, xây dựng năng lực cho các nhà khoa học, nhà chọn tạo
giống và các chuyên gia khuyến nông, các nhà sản xuất hạt giống, nông dân, cộng đồng
bản địa và địa phương (đặc biệt là phụ nữ) về các vấn đề thành lập, điều hành và tư vấn
các doanh nghiệp địa phương quy mô nhỏ về thương mại hóa tất cả các giống, trước hết
là các giống của nông dân/các giống địa phương và các loài ít được sử dụng. Đào tạo
nên gồm những bài sau:
a. Xác định tất cả các giống, trước hết là các giống của nông dân/các giống địa
phương và các loài ít được sử dụng, có tiềm năng thương mại và sử dụng bền vững;
b. Phát triển và triển khai thực hành quản lý bền vững cho các loài ít được sử
dụng có tầm quan trọng với lương thực và nông nghiệp;
c. Phát triển hoặc thích ứng các phương pháp chế biến sau thu hoạch cho những
giống và loài cây trồng đó;
d. Phát triển các phương pháp tiếp thị cho tất cả các giống, trước hết là các giống
của người nông dân/giống địa phương và các loài ít được sử dụng; và
e. Tư liệu hóa những kiến thức truyền thống và bản địa về các giống của người
nông dân/giống địa phương và các loài ít được sử dụng.
197. Các tổ chức thích hợp, gồm các tổ chức phi chính phủ, nên đẩy mạnh nhận thức công
cộng về giá trị của tất cả các giống cây trồng, trước hết là các giống của người nông
dân/giống địa phương và các loài ít được sử dụng, trên nhiều phương tiện truyền thông và
thông qua các cơ chế bổ sung như hội chợ đường phố và sáng kiến học đường.
198. Các tổ chức thích hợp nên thúc đẩy nhận thức của các nhà hoạch định chính sách và
doanh nhân về giá trị của các loài và giống đó.
199. Nghiên cứu/Công nghệ: Nghiên cứu nên tiến hành để:
a. Phát triển thực hành quản lý bền vững tất cả các giống, trước hết là các giống của
người nông dân/giống địa phương và các loài ít được sử dụng, có tầm quan trọng cho
lương thực và nông nghiệp;
b. Mô tả và đánh giá các giống của người nông dân/giống địa phương và các loài
ít được sử dụng;
c. Tư liệu hóa các thông tin thực vật dân tộc về các giống của người nông dân/giống
địa phương và các loài ít được sử dụng;
d. Phát triển chế biến sau thu hoạch và các phương pháp khác để cải tiến khả năng tiếp
thị của tất cả các giống, trước hết là các giống của người nông dân/giống địa phương và
các loài ít được sử dụng;
e. Phát triển các chiến lược tiếp thị và phát triển thương hiệu tất cả các giống, trước hết
là các giống của người nông dân/giống địa phương và các loài ít được sử dụng.
200. Quá trình thương mại hóa và các hoạt động có hoặc có thể có tác động bất lợi đối tới bảo
tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp nên cần được xác định và giám sát.
201. Điều phối/Quản trị: Điều phối cần được tăng cường giữa các ngân hàng gen, các nhà
chọn tạo giống, người nông dân và cộng đồng bản địa và địa phương để xác định vật liệu có
giá trị tiềm năng. Các mạng lưới khu vực, cùng với các chương trình quốc gia, hợp tác với các
trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức có liên
quan khác, nên thường xuyên xem xét lại hiện trạng của tất cả các giống, trước hết là các
giống của người nông dân/giống địa phương và các loài ít được sử dụng trong khu vực,
để:
a. Xác định khả năng thương mại hóa;
b. Xác định nhu cầu nghiên cứu và phát triển chung; và
c. Tạo điều kiện thuận lợi, nếu thích hợp, điều phối yêu cầu hỗ trợ về tài chính và kỹ
thuật
12. Hỗ trợ sản xuất và cấp phát hạt giống5
202. Bối cảnh: Các hệ thống hạt giống hiệu quả phải được thực hiện nhằm đảm bảo cho người
nông dân tiếp cận với các vật liệu thực vật đủ về số lượng và chất lượng một cách kịp thời và
với chi phí hợp lý. Chỉ bằng cách này, người nông dân sẽ hưởng lợi từ tiềm năng của cả giống
địa phương và giống cải tiến để tăng sản xuất lương thực và thích nghi với biến đổi khí hậu.
Hơn 20 năm trước, khu vực nông nghiệp tư nhân đã tăng đáng kể ở những nước phát triển và
đang phát triển; tuy nhiên, mục tiêu chính của khối này là các sản phẩm giá trị cao như ngô,
lúa mì, gạo, cây lấy dầu, cây đậu đỗ và cây rau. Mở rộng thương mại hạt giống cây trồng
trong hơn thập niên trước đã được tiến hành cùng với sự thúc đẩy hài hòa các quy định ở cấp
độ khu vực và tiểu khu vực. Đầu tư do khu vực công thực hiện trong sản xuất hạt giống đều
thấp ở hầu hết các nước phát triển trong năm 1996, và cũng giảm đáng kể ở nhiều quốc gia
đang phát triển, nơi tiếp cận những giống cải tiến và giống chất lượng còn hạn chế. Ở nhiều
nước đang phát triển, hệ thống hạt giống của người nông dân vẫn là nguồn cung cấp chính cho
địa phương và trong một số trường hợp, thậm chí là những giống cải tiến. Các hệ thống cung
cấp hạt giống khác nhau thường vận hành song song với mức độ thành công khác nhau phụ
thuộc vào loại cây trồng, vùng sinh thái nông nghiệp và các cơ hội thị trường. Do đó, nhu cầu
để phát triển những phương pháp hợp nhất nhằm đẩy mạnh hệ thống cung cấp hạt giống và
kết nối giữa các phương pháp để đảm bảo việc sản xuất và cấp phát hạt giống là rất có ích cho
các hệ thống nông nghiệp đa dạng và phát triển.
203. Mục tiêu: Gia tăng sẵn có hạt giống chất lượng cao của nhiều loại giống cây trồng, gồm
các giống cải tiến và các giống của nông dân/giống địa phương.
204. Góp phần tối đa hóa cả đa dạng sinh học nông nghiệp và năng suất.
205. Kết hợp hài hòa giữa sản xuất hạt giống và phân phối hạt giống trong các khu vực công
và tư cũng như giữa các hệ thống sản xuất hạt giống khác nhau.
206. Phát triển và mở rộng sản xuất hạt giống ở địa phương và các hệ thống phân phối giống
và cây trồng có ý nghĩa quan trọng với nông dân, bao gồm cả người sản xuất nhỏ.
207. Tạo ra nhiều giống mới sẵn sàng cho người nông dân và nguồn gen phù hợp được lưu giữ
ex situ sẵn có cho công tác nhân giống và cấp phát tới người nông dân để đáp ứng nhu cầu của
họ về sản xuất bền vững.
208. Phát triển/xem xét các khung pháp lý về hạt giống để tạo điều kiện phát triển các hệ
thống hạt giống và hài hòa ở mức khu vực, có tính đến tính đặc thù của các hệ thống hạt giống
khác nhau.
209. Chính sách/chiến lược: Các chính phủ, NARS và các nhà sản xuất hạt giống phải tuân
thủ luật pháp và quy định tương ứng của quốc gia, với sự hỗ trợ của các trung tâm nghiên cứu
nông nghiệp quốc tế, các chương trình hợp tác song phương và khu vực, các tổ chức phi chính
phủ, có tính đến quan điểm của khu vực tư nhân, các hội nông dân, cộng đồng người bản địa
và địa phương, nên:
a. Phát triển những chính sách phù hợp nhằm cung cấp môi trường thuận lợi cho việc
phát triển các hệ thống hạt giống khác nhau, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hạt giống
quy mô nhỏ. Các nỗ lực của chính phủ nên tập trung cụ thể vào những cây trồng và giống cây
trồng cần cho nông dân nghèo, đặc biệt là phụ nữ. Các chính sách nhằm tạo điều kiện phát
triển các công ty thương mại về hạt giống để đáp ứng những nhu cầu của người nông dân sản
xuất quy mô lớn hơn nhằm mục đích thương mại cũng nên thực hiện bằng cách này. Các
chính phủ nên ưu tiên các cây trồng chính và cây trồng phụ một cách phù hợp ở những nơi mà
khu vực tư nhân chưa quan tâm đầy đủ. Những chính sách này nên được hợp nhất với những
chính sách nông nghiệp tổng thể;
b. Tăng cường liên kết giữa các ngân hàng gen, các mạng lưới, các tổ chức chọn tạo
giống cây trồng, nhà sản xuất hạt giống và các doanh nghiệp sản xuất và phân phối hạt giống
quy mô nhỏ để đảm bảo sử dụng rộng rãi nguồn gen sẵn có;
c. Xem xét các phương án kiểm soát chất lượng hạt giống, đặc biệt là phương án thích
hợp với các doanh nghiệp nhỏ và tạo điều kiện cho họ đáp ứng các yêu cầu về sức khỏe cây
trồng;
d. Thông qua các biện pháp pháp luật nhằm tạo điều kiện tương ứng cho triển khai tất
cả các giống, trước hết là các giống của người nông dân/giống địa phương và các loài ít
được sử dụng, trong những hệ thống sản xuất hạt giống khác nhau, xem xét tính đặc trưng
của chúng; và
e. Phát triển các thỏa thuận khu vực/tiểu khu vực về kiểm soát chất lượng hạt giống,
chứng chỉ hạt giống, các yêu cầu kiểm dịch thực vật và các tiêu chuẩn khác để tạo thuận lợi
cho phát triển thương mại hạt giống xuyên quốc gia.
210. Năng lực: Các chính phủ, theo luật pháp khu vực, pháp luật quốc gia, các quy định và
chính sách, nếu phù hợp, kết hợp với cơ quan viện trợ quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và
các doanh nghiệp sản xuất hiện có, nên:
a. Xây dựng/tăng cường các hệ thống sản xuất hạt giống, dựa trên đối tác công-tư, để
đảm bảo duy trì các chương trình chọn tạo giống cho những cây trồng quan trọng và nhân hạt
giống thế hệ đầu;
b. Khuyến khích các hệ thống sản xuất hạt giống hiện có, đặc biệt là các doanh nghiệp
hạt giống, để tăng bộ giống tạo ra, bằng cách tăng cường liên kết với các ngân hàng gen, các
mạng lưới và các viện nghiên cứu nông nghiệp;
c. Tăng năng lực thực hiện các hệ thống chất lượng hạt giống một cách hiệu quả;
d. Cung cấp các phương thức thích hợp để tạo điều kiện cho sự xuất hiện của các
doanh nghiệp sản xuất hạt giống phù hợp, trong mỗi quốc gia cần chú ý đến nhu cầu của khu
vực sản xuất nông nghiệp nhỏ, phụ nữ và những nhóm dễ bị tổn thương hay những nhóm bị
thiệt thòi khác;
e. Cung cấp hỗ trợ cơ sở hạ tầng và đào tạo cho các doanh nghiệp sản xuất giống quy
mô nhỏ trong lĩnh vực công nghệ hạt giống và quản trị kinh doanh để tạo điều kiện thiết lập hệ
thống cung cấp hạt giống chất lượng cao bền vững;
f. Cải thiện mối liên kết giữa tổ chức của các nhà chọn tạo giống và hội nông dân và
các nhà sản xuất hạt giống (công và tư) để người nông dân, đặc biệt phụ nữ và những nhóm dễ
bị tổn thương hay những nhóm bị thiệt thòi khác có thể tiếp cận hạt giống chất lượng cao của
những giống họ cần; và
g. Cung cấp đào tạo và hỗ trợ cơ sở hạ tầng cho nông dân về công nghệ và bảo tồn hạt
giống để cải thiện chất lượng vật lý và chất lượng di truyền của hạt giống.
211. Nghiên cứu/công nghệ: Các chính phủ nên:
a. Đánh giá các ưu đãi và không ưu đãi hiện tại cũng như các nhu cầu của các hệ thống
sản xuất và phân phối hạt giống để hỗ trợ, gồm các nỗ lực của nông dân, doanh nghiệp quy
mô nhỏ; và
b. Phát triển phương thức hỗ trợ việc phân phối hạt giống ở mức nông dân, quy mô
nhỏ, rút kinh nghiệm từ cộng đồng và doanh nghiệp sản xuất hạt giống quy mô nhỏ đã có ở
một số quốc gia.
212. Điều phối/Quản trị: Các chính phủ nên thường xuyên theo dõi mức độ mà người nông
dân có thể có được hạt giống thích hợp. Việc điều phối là cần thiết trong lĩnh vực hạt giống
giữa các khu vực công và khu vực tư nhân, nông dân để đảm bảo nông dân có thể sử dụng hạt
giống chất lượng cao của những giống mà họ cần để đối phó với các thách thức về nhu cầu
lương thực ngày càng tăng.
Xây dựng thể chế và nhân lực bền vững
13. Xây dựng và tăng cường các chương trình quốc gia
213. Bối cảnh: Các chương trình PGRFA quốc gia là nền tảng của các nỗ lực PGRFA khu
vực và toàn cầu, đóng góp vào mục tiêu của các văn kiện quốc tế như GPA, CBD và Hiệp ước
Quốc tế về tài nguyên di truyền thực vật. Đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu, các chương
trình quốc gia là chìa khóa để tối đa đóng góp của PGRFA tới an ninh lương thực, phát triển
nông thôn, giảm đói nghèo và phát triển bền vững. Các chương trình quốc gia mạnh sẽ đóng
góp đầy đủ và tạo ra những ưu thế cho hợp tác quốc tế để tiếp cận PGRFA cũng như chia sẻ
công bằng và hợp lý những lợi nhuận gia tăng từ việc sử dụng tài nguyên di truyền thực vật.
Các chương trình quốc gia hiệu quả có các chính sách thực hiện, hỗ trợ các chiến lược và các
kế hoạch hành động cụ thể cần thiết cho việc xây dựng các mục tiêu và ưu tiên đã xác định,
cấp phát tài nguyên cây trồng, đóng góp vai trò và trách nhiệm, xác định và tăng cường mối
liên kết giữa tất cả các thành viên tham gia. Một chương trình quốc gia thành công đòi hỏi sự
cam kết của chính phủ cung cấp tài chính và có chính sách, khung pháp lý và tổ chức hỗ trợ.
214. Các hoạt động PGRFA được tiến hành bởi các tổ chức nhà nước, các công ty tư nhân,
các tổ chức phi chính phủ, hội những người làm vườn, nông dân, cộng đồng bản địa và địa
phương và các cá nhân trong các lĩnh vực nông nghiệp, môi trường, nghiên cứu và phát triển.
Sự hòa hợp của những người làm công tác PGRFA trong khuôn khổ chương trình quốc gia
thống nhất chặt chẽ tạo cơ hội gia tăng giá trị của các nỗ lực đa dạng nhằm làm cho nỗ lực
tổng thể cao hơn tổng số của từng nỗ lực riêng rẽ.
215. Trong những thập niên vừa qua, nhiều tiến bộ đã đạt được trong việc xây dựng các
chương trình PGRFA quốc gia và sự tham gia của các thành viên mạng lưới trong các chiến
lược quốc gia và các kế hoạch hành động, đặc biệt là khu vực tư nhân, các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức tạo giống và nông dân, các cơ quan nghiên cứu và giáo dục. Thực tế cho thấy
rằng nhiều thỏa thuận quốc tế quan trọng về PGRFA đã được đàm phán, thông qua hoặc đang
xem xét trong suốt quá trình này, bao gồm Hiệp ước Quốc tế về tài nguyên di truyền thực vật,
Công ước quốc tế về bảo vệ thực vật, Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học, Nghị định
thư Nagoya về tiếp cận tài nguyên di truyền thực vật và chia sẻ lợi ích gia tăng một các công
bằng, hợp lý từ việc sử dụng nguồn tài nguyên. Các văn bản pháp luật cũng được ban hành ở
nhiều nước về kiểm dịch thực vật, an toàn sinh học, quy định sản xuất và phân phối hạt giống,
quyền của người tạo giống, của người nông dân như đã được quy định ở điều 9 của Hiệp ước
Quốc tế về tài nguyên di truyền thực vật và luật pháp quốc gia.
216. Tuy vậy, nhiều nước vẫn thiếu những chính sách, chiến lược phù hợp/hoặc những kế
hoạch hành động về PGRFA. Nhiều chương trình quốc gia hiện chưa được đầu tư đầy đủ,
tương xứng và biệt lập với các hoạt động liên quan của Kế hoạch Hành động Toàn cầu. Nhiều
lĩnh vực đòi hỏi sự chú ý đặc biệt gồm thiết lập sự ưu tiên, tăng cường hợp tác giữa khu vực
công và khu vực tư, giữa quốc gia và quốc tế, tăng cường liên kết giữa bảo tồn và sử dụng
PGRFA, phát triển hệ thống thông tin và dữ liệu có thể truy cập công cộng (ví dụ NISMs
trong việc thực hiện GPA), xác định khoảng cách trong bảo tồn và sử dụng PGRFA (bao gồm
cả cây hoang dại có họ hàng với cây trồng), tăng nhận thức cộng đồng và thực hiện các chính
sách và luật pháp quốc gia, các hiệp ước và công ước quốc tế.
217. Thông thường, các nước không có chương trình quốc gia mạnh và các phương tiện bảo
tồn dài hạn tương ứng thì có những vấn đề về an ninh lương thực, mặc dù họ có nguồn
PGRFA giàu có. Các chương trình quốc gia yếu thường hạn chế việc quản lý PGRFA hiệu
quả.
218. Các tập đoàn nguồn gen quốc gia bảo quản ex situ là một phần không thể thiếu của các
chương trình PGRFA quốc gia. Các ngân hàng gen làm việc tốt nhất được xem như các trung
tâm động, hợp nhất công tác bảo tồn, tư liệu hóa và sử dụng. Quá nhấn mạnh vào bảo tồn có
thể làm giảm giá trị việc sử dụng bền vững, trong khi sử dụng bền vững có thể hỗ trợ tiến bộ
nông nghiệp cùng với bảo tồn PGRFA. Tác động của biến đổi khí hậu ngày càng tăng khiến
việc hỗ trợ các hoạt động quốc gia liên quan tới tính thích nghi của cây trồng càng cần thiết,
bao gồm nghiên cứu di truyền, hệ gen và chọn tạo giống. Thật vậy, năng lực tạo ra tính thích
ứng cây trồng là cần thiết để quản lý hiệu quả PGRFA. Từ 1996, các mối quan hệ đối tác công
- tư trong nghiên cứu và phát triển đã gia tăng ở hầu hết các quốc gia, đặc biệt trong lĩnh vực
chọn tạo giống cây trồng và công nghệ sinh học. Tuy nhiên, ở những quốc gia đang phát triển,
các tổ chức nhà nước thường quản lý công tác bảo tồn và chọn tạo giống cây trồng, có thể dẫn
tới hiệu quả thấp, giảm lợi nhuận và mất nhiều cơ hội.
219. Mục tiêu: Đáp ứng nhu cầu quốc gia về bảo tồn và sử dụng PGRFA bền vững thông qua
các phương pháp hợp lý, hiệu quả, được điều phối vì lợi ích của các thế hệ hiện tại và tương
lai.
220. Duy trì năng lực quốc gia đúng mức về tất cả phương diện kỹ thuật và chính trị của công
tác bảo tồn, tiếp cận và sử dụng PGRFA, cũng như việc chia sẻ công bằng và hợp lý các lợi
ích gia tăng từ việc sử dụng PGRFA.
221. Thiết lập và tăng cường các yếu tố cần thiết cho chương trình quốc gia hợp nhất: (i) Hiện
trạng quốc gia được thừa nhận; (ii) Chính sách, khung pháp lý và thể chế phù hợp, bao gồm
cơ chế lập kế hoạch điều phối và cơ chế hành động; (iii) Chương trình chiến lược, bao gồm
các mục tiêu được xác định tốt, các ưu tiên rõ ràng, đầu tư bền vững và đầy đủ; (iv) Sự tham
gia đầy đủ của các thành viên phối hợp; và (v) Cơ sở vật chất cho bảo tồn hiệu quả và sử dụng
ở cấp quốc gia và/hoặc cấp khu vực, nơi thích hợp.
222. Cải thiện mối liên kết tổ chức và liên kết ngành, tăng cường hiệp trợ giữa tất cả các thành
viên liên quan tới bảo tồn, phát triển và sử dụng PGRFA, gồm các hệ thống hạt giống và tăng
cường hợp nhất các nỗ lực cộng đồng và tổ chức.
223. Phát triển, tăng cường và cập nhật thường xuyên năng lực quốc gia trong các lĩnh vực kỹ
thuật, quản lý, luật và chính sách.
224. Chính sách/Chiến lược: Các chương trình quốc gia nên nhận biết hiện trạng chính thức
và luôn được ưu tiên cao trong chương trình nghị sự phát triển quốc gia. Sự đóng góp của các
chương trình quốc gia cho các mục tiêu của các văn kiện quốc tế nên được nhấn mạnh, bao
gồm GPA, CBD và Hiệp ước Quốc tế. Giá trị xã hội và văn hóa, kinh tế, sinh thái của
PGRFA, bao gồm tầm quan trọng của việc cải tiến cây trồng cho việc gia tăng an ninh lương
thực, giảm nhẹ ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và đáp ứng những thách thức toàn cầu khác,
nên được công nhận trong kế hoạch và chính sách quốc gia, trong việc ưu tiên, thực hiện
nguồn tài chính trung hạn và đặc biệt là dài hạn, các nguồn khác. Các nguồn khác có thể gồm
hỗ trợ tài chính cho đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ có chuyên môn, cho nông dân duy trì
và tạo ra những giống địa phương, cho các nhà chọn tạo giống cây trồng. Cấp kinh phí đặc thù
cho các chương trình PGRFA trong quá trình phân bổ ngân sách chính phủ. Về vấn đề này,
nhận thức về các giá trị của PGRFA tới sự phát triển quốc gia của các nhà hoạch định chính
sách, các nhà tài trợ cần được nâng cao.
225. Cam kết của chính phủ về đầu tư đầy đủ và bền vững cho các chương trình và dự án
quốc gia là cần thiết; tuy nhiên, sự hỗ trợ khu vực và quốc tế là bổ sung cần thiết cho các
nguồn trong nước.
226. Các chương trình quốc gia nên đưa ra mục tiêu và định hướng ưu tiên rõ ràng, bao gồm
các ưu tiên cho việc hỗ trợ từ các chương trình phát triển nông nghiệp khu vực và quốc tế.
Những chương trình quốc gia cần có khả năng đánh giá và xác định loại PGRFA nào được
yêu cầu để đáp ứng những nhu cầu bảo tồn và phát triển cấp quốc gia và những nghĩa vụ quốc
tế liên quan. Các chương trình đó nên có những chính sách và chiến lược hỗ trợ cho việc bảo
tồn, tiếp cận và sử dụng PGRFA, cũng như cho việc chia sẻ công bằng và hợp lý những lợi
ích gia tăng từ sử dụng PGRFA. Các chương trình quốc gia nên cung cấp điều chỉnh định kỳ
các chính sách và chiến lược khi cần thiết. Các chương trình quốc gia nên xây dựng tập đoàn
đại diện PGRFA rộng nhất có thể và luôn sẵn có, một cách phù hợp, để đáp ứng những nhu
cầu của nông dân, nhà chọn tạo giống và những người sử dụng khác về cải tiến giống cây
trồng, bao gồm giống của người nông dân/giống địa phương. Các chính phủ, hợp tác với các
cơ quan quốc gia, khu vực và quốc tế, nên theo dõi việc phát triển các công nghệ mới liên
quan đến công tác bảo tồn, mô tả và sử dụng bền vững PGRFA. Ngoài ra, việc thông qua và
thực hiện pháp luật quốc gia phù hợp, không xung đột và bổ sung liên quan tới bảo tồn, trao
đổi và sử dụng bền vững của PGRFA nên được đẩy mạnh, có tính đến nhu cầu và mối quan
tâm của tất cả các thành viên tham gia bảo tồn PGRFA.
227. Các chương trình quốc gia nên thiết lập hoặc tăng cường điều phối và liên kết giữa các
cá nhân và tổ chức có liên quan tham gia vào công tác bảo tồn, cải tiến cây trồng, sản xuất và
phân phối hạt giống. Các chương trình quốc gia nên liên kết với các hoạt động khu vực và
quốc tế khi có thể, để tìm kiếm hiệp trợ và khả năng phân công lao động. Các chiến lược quốc
gia bao gồm việc bảo tồn, phát triển và sử dụng PGRFA, gồm cả hệ thống sản xuất hạt giống
và nên phối hợp với các tổ chức trong lĩnh vực môi trường và nông nghiệp. Các ủy ban quốc
gia dựa trên cơ sở đa ngành sẽ giúp việc tổ chức và điều phối ở hầu hết các nước.
228. Cấu trúc và tổ chức của chương trình quốc gia phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và năng lực
sẵn có trong nước. Việc quyết định chính sách sẽ xác định chiến lược và phương thức hoạt
động, đặc biệt đối với hợp tác khu vực và quốc tế. Ở các quốc gia có năng lực hạn chế, chiến
lược có thể gồm việc sử dụng cơ sở vật chất và chuyên môn ở ngoài nước.
229. Các chương trình hiện tại nên xem xét thiết lập và tăng cường quan hệ đối tác với các
doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức phi chính phủ, cộng đồng nông thôn, bản địa và địa
phương, các tổ chức tạo giống và nông dân, tổ chức nghiên cứu và giáo dục. Liên kết ngành
nên được các cơ quan tham gia xây dựng kế hoạch quốc gia và xây dựng các chương trình
liên quan tới nông nghiệp, cải cách đất đai và bảo vệ môi trường đưa lên hàng đầu.
230. Việc tạo ra hoặc tăng cường các liên kết nên được thúc đẩy tương xứng giữa các cơ quan
quốc gia và các tổ chức chuyên về chuyển giao công nghệ, hỗ trợ các cơ quan quốc gia đàm
phán để mua được các công nghệ cần để bảo tồn, mô tả và sử dụng PGRFA và thông tin liên
quan, phù hợp với Hiệp ước Quốc tế, Công ước Đa dạng sinh học (CBD) và quyền sở hữu trí
tuệ (IPR).
231. Năng lực: Sự hỗ trợ của các tổ chức khu vực và quốc tế được cung cấp theo yêu cầu
nhằm tạo điều kiện cho công tác xây dựng kế hoạch quốc gia thường xuyên, thiết lập ưu tiên
và tăng đầu tư. Ưu tiên cao cho việc đánh giá và cải thiện thực hành quản lý trong các ngân
hàng gen và các trạm nghiên cứu. Năng lực của người nông dân, cộng đồng bản địa và địa
phương, các nhà chọn tạo giống, cán bộ khuyến nông và những thành viên tham gia khác, bao
gồm các doanh nhân, các doanh nghiệp nhỏ, về quản lý và sử dụng PGRFA bền vững nên
được tăng cường.
232. Nghiên cứu/công nghệ: Các chương trinh quốc gia cần tiến hành nghiên cứu quản lý
bảo tồn nông trại in situ và bảo tồn ex situ, tạo giống, gồm chọn tạo giống có sự tham gia của
cộng đồng và cải tiến giống cây trồng. Các nghiên cứu cũng cần tiến hành trong lĩnh vực quản
lý các chương trình PGRFA quốc gia, gồm thử nghiệm các cơ cấu tổ chức, đánh giá nhu cầu
sử dụng, quản lý dữ liệu, hiệu quả kinh tế của các phương pháp khác nhau tới bảo tồn và sử
dụng, tới giá trị của PGRFA, tăng cường hệ thống thông tin thị trường nông nghiệp, phát triển
các phương pháp chính xác và đáng tin cậy, các tiêu chuẩn, chỉ thị, cơ sở dữ liệu nhằm theo
dõi và đánh giá vai trò đặc biệt của PGRFA trong an ninh lương thực và sản xuất nông nghiệp
bền vững.
233. Chính sách đặc biệt, các vấn đề pháp lý và thể chế cũng như những vấn đề liên quan tới
sở hữu, quyền sở hữu trí tuệ IPR, gồm quyền của nhà chọn tạo giống, tiếp cận và chia sẻ lợi
ích, quyền của người nông dân, phù hợp với nhu cầu và ưu tiên quốc gia, kiến thức truyền
thống, trao đổi, chuyển giao, an toàn sinh học, thương mại và nâng cao nhận thức, hệ thống
sản xuất hạt giống, quan trọng với các chương trình quốc gia. Hỗ trợ phát triển chính sách,
chiến lược, pháp luật, quy định và các biện pháp thực tế trong các lĩnh vực trên là cần thiết
với các tổ chức như FAO và Hiệp ước Quốc tế. Hoạt động điều phối cần thiết để cung cấp cho
các chương trình quốc gia các thông tin về những vấn đề đã nêu nhằm đánh giá tác động của
phát triển quốc tế trong công tác bảo tồn và trao đổi PGRFA, và nhằm đưa các nghiên cứu
mới vào các hệ thống và thực tiễn quốc gia.
234. Điều phối/Quản trị: Cơ chế điều phối quốc gia nên được thiết lập ưu tiên về sử dụng
kinh phí và các nguồn khác. Nên thiết lập liên kết mạnh giữa tất cả các thành viên tham gia
trong nước có liên quan đến bảo tồn, phát triển và sử dụng PGRFA, bao gồm các hệ thống sản
xuất hạt giống cũng như giữa lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, nhằm đảm bảo sự hiệp trợ
trong phát triển và thực hiện các chính sách, chiến lược, luật pháp, quy định và hành động để
nhận thức tiềm năng lớn của PGRFA. Các chính phủ nên định kỳ xem xét các chính sách để
đánh giá hiệu quả và điều chỉnh các chính sách đó. Các hoạt động điều phối và hoạt động ưu
tiên ở mức độ quốc gia nên được tiến hành tương tự như điều phối và ưu tiên của hệ thống
quốc tế. Các tổ chức quốc tế liên quan đến bảo tồn và sử dụng PGRFA, sản xuất nông nghiệp,
an ninh lương thực và bền vững, cũng như liên quan đến các lĩnh vực như môi trường và sức
khỏe, nên điều phối các nỗ lực và hành động. Hợp tác quốc tế là cần thiết trong một thế giới
mà các quốc gia phụ thuộc lẫn nhau và là nơi cần thiết xây dựng các phương tiện kinh tế, thực
tiễn để bảo tồn PGRFA, tăng cường sử dụng, khuyến khích tiếp cận và chia sẻ lợi ích. Mạng
lưới PGRFA và các diễn đàn khu vực và quốc tế đưa ra các cơ chế hữu ích mà thông qua đó,
các quốc gia có thể phối hợp hành động và đồng ý các chính sách chung, tương ứng.
14. Thúc đẩy và tăng cường mạng lưới tài nguyên di truyền thực vật cho lương thực và
nông nghiệp
235. Bối cảnh: Mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia có nhu cầu tiếp cận PGRFA và
thông tin và các quốc gia nắm giữ PGRFA là quan trọng hơn bao giờ hết, vì thế giới đang
phải đối mặt với nhu cầu về lương thực ngày càng tăng, với các điều kiện môi trường mới, các
loài sâu bệnh sinh ra do biến đổi khí hậu. Mạng lưới không chỉ tạo điều kiện trao đổi PGRFA
mà còn cung cấp diễn đàn thảo luận khoa học, chia sẻ thông tin, chuyển giao công nghệ và
hợp tác nghiên cứu. Các chiến lược cây trồng khu vực và toàn cầu đã phát triển với sự hỗ trợ
của Quỹ tín thác nhằm nhấn mạnh giá trị của các hệ thống mạng lưới trong việc xác định và
chia sẻ trách nhiệm cho các hoạt động như thu thập, bảo tồn, cấp phát, đánh giá, tăng cường di
truyền, tư liệu hóa, lưu giữ kép an toàn và cải thiện cây trồng. Ngoài ra, các mạng lưới có thể
giúp thiết lập các ưu tiên cho hành động, phát triển chính sách và cung cấp các phương tiện
truyền đạt quan điểm cây trồng đặc thù và khu vực tới các tổ chức và các cơ quan khác nhau.
Mạng lưới PGRFA quốc tế được công nhận là thành phần hỗ trợ của Hiệp ước Quốc tế theo
Điều 16.
236. Nhiều mạng lưới khu vực, cây trồng đặc thù và chuyên đề hiện đang hoạt động, một số
mới được thành lập hoặc được tăng cường đáng kể trong hơn thập niên qua. Mỗi mạng lưới
có vai trò quan trọng để hỗ trợ điều phối các nỗ lực và thúc đẩy hiệu quả bảo tồn và sử dụng
bền vững PGRFA. Mối quan hệ hiệp trợ giữa các chương trình quốc gia và các mạng lưới này
là chìa khóa để duy trì bền vững cả hai: mạng lưới hỗ trợ cho chương trình quốc gia và
chương trình quốc gia hỗ trợ mạng lưới. Như vậy, các mạng lưới đặc biệt quan trọng ở nơi có
năng lực quốc gia về PGRFA bị hạn chế (ví dụ, nhiều nước kém phát triển nhất và những
quốc đảo nhỏ) vì các mạng lưới cung cấp việc tiếp cận dễ dàng với thông tin, công nghệ, vật
liệu và điều quan trọng là có tiếng nói mạnh hơn trong việc phát triển các chính sách và hành
động toàn cầu. Các mạng lưới cây trồng đặc thù có vai trò quan trọng trong việc đưa công tác
bảo tồn và sử dụng gần nhau hơn. Các mạng lưới chuyên đề là những phương tiện hiệu quả
đưa các nhà chuyên gia, các bên quan tâm tới các chủ đề chung đến với nhau, do vậy sẽ thúc
đẩy điều phối và tránh được các nỗ lực chồng chéo. Tuy nhiên, một trong những thách thức
mà tất cả các mạng lưới gặp phải là nguồn dài hạn để giữ họ tiếp tục các công việc. Các quốc
gia cũng nên chuẩn bị góp phần hỗ trợ các mạng lưới theo cách thức bền vững.
237. Mục tiêu: Thúc đẩy quan hệ đối tác và hiệp trợ giữa các quốc gia để phát triển hệ thống
toàn cầu hợp lý và hiệu quả hơn cho công tác bảo tồn và sử dụng PGRFA.
238. Đảm bảo sự bền vững của các mạng lưới bằng cách phân tích và xác định những lợi ích
của việc tham gia, nhấn mạnh sự đóng góp mà các mạng lưới tạo ra để đạt được công tác bảo
tồn và sử dụng bền vững của PGRFA ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu.
239. Tạo điều kiện thiết lập các mục tiêu khu vực sinh thái, khu vực và chủ đề hợp nhất và các
ưu tiên cho công tác bảo tồn và sử dụng bền vững PGRFA.
240. Thúc đẩy việc tham gia của tất cả các thành viên trong mạng lưới, đặc biệt là phụ nữ và
các nhà chọn giống địa phương, và đảm bảo sự tham gia của quan hệ đối tác công - tư.
241. Chính sách/Chiến lược: Các chính phủ nên, như là một nội dung trong chính sách, hỗ
trợ sự tham gia tích cực của các cơ quan nhà nước và tư nhân trong các mạng lưới khu vực,
mạng lưới cây trồng và mạng lưới chuyên đề. Sự tham gia nên được xem như việc tạo ra lợi
ích quốc gia và cung cấp phương tiện cho các quốc gia với những thách thức tương tự để cùng
chung nỗ lực và chia sẻ lợi ích. Những trở ngại tài chính mà các mạng lưới gặp phải đòi hỏi
phải có các giải pháp bền vững và sáng tạo, các giải pháp quan tâm đến thường trừu tượng,
mặc dù không kém phần quan trọng về lợi ích của mạng lưới. Ở các quốc gia khi yêu cầu, các
nghiên cứu nên được triển khai và các thông tin nên được thu thập nhằm làm nỗi bật những
lợi ích và các lợi ích này sẽ thúc đẩy hỗ trợ của chính phủ và giúp tiếp cận nguồn tài chính.
Củng cố chiến lược đầu tư, tăng cường nỗ lực nâng cao nhận thức cho các nhà hoạch định
chính sách và cộng đồng về giá trị của PGRFA, về sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia đối
với PGRFA và tầm quan trọng của việc hỗ trợ hợp tác quốc tế. Những đóng góp của các chính
phủ cả bằng tiền và hiện vật cho các mạng lưới nên được xem xét như một ưu tiên.
242. Các mạng lưới cung cấp phương thức để xác định khoảng cách, phát triển hệ thống hợp
tác và thúc đẩy các sáng kiến mới. Trao đổi nguồn gen quốc tế cần được xem là động cơ thúc
đẩy nhiều mạng lưới, cần lưu ý, để thúc đẩy việc triển khai hiệu quả Hiệp ước Quốc tế, đặc
biệt là Hệ thống Đa phương, và để phát triển sắp xếp cho các loại cây trồng không đề cập
trong Hệ thống Đa phương nhưng nằm trong phạm vi tổng thể của Hiệp ước Quốc tế.
243. Năng lực: Xây dựng các mạng lưới không chỉ cần đến chuyên môn kỹ thuật, mà còn cần
đến các kỹ năng điều phối, giao tiếp và kỹ năng tổ chức. Các nguồn và năng lực nên luôn có
sẵn cho các hoạt động như lập kế hoạch, trao đổi thông tin, đi lại, hội họp, các ấn phẩm mạng
lưới như bản tin, báo cáo hội nghị và tăng cường mạng lưới, bao gồm sự chuẩn bị dự án để
trình các nhà tài trợ.
244. Trong bối cảnh khu vực, ưu tiên nên dành cho việc tăng cường các mạng lưới khu vực
hiện có. Hợp tác giữa các mạng lưới cũng cần xúc tiến và sẽ có tác động đáng kể đến xây
dựng năng lực và chuyển giao công nghệ. Các giá trị gia tăng từ mức độ hợp tác này sẽ làm
nổi bật tầm quan trọng của các mạng lưới và minh họa cách thức sử dụng như thế nào để hiệu
quả hơn. Các quốc gia với cơ sở vật chất và chương trình PGRFA tiến bộ hơn được khuyến
khích hỗ trợ các hoạt động mạng lưới thông qua việc chia sẻ chuyên môn và cung cấp các cơ
hội phát triển năng lực cao hơn.
245. Nghiên cứu/Công nghệ: Các mạng lưới cung cấp phương tiện cho hợp tác nghiên cứu
trong các lĩnh vực ưu tiên đã được thông qua. Kinh phí thu được thông qua các dự án nghiên
cứu tạo cơ sở từ đó các mạng lưới có thể tiếp tục củng cố quan hệ và phát triển hơn nữa. Việc
nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao công nghệ về PGRFA nên được lập kế hoạch và/hoặc tiến
hành hợp tác với các mạng lưới nếu thích hợp và khả thi. Dễ dàng lập kế hoạch và thực hiện
bằng cách sử dụng nền tảng mạng lưới là dẫn chứng cụ thể khi các mạng lưới khu vực còn rời
rạc nhưng cùng lúc có những thách thức chung.
246. Điều phối/Quản trị: Nguồn nên luôn có sẵn để tiếp tục phục vụ các mạng lưới hiện có,
khi thích hợp, và để tổ chức và tạo điều kiện cho việc phát triển mạng lưới khu vực mới,
mạng lưới cây trồng và mạng lưới chuyên đề thích hợp. Việc sử dụng hiệu quả nguồn là cần
thiết và như vậy, sự điều phối không chỉ được yêu cầu trong phạm vi mạng lưới mà còn giữa
các mạng lưới để đảm bảo những nỗ lực không bị chồng chéo và nguồn được sử dụng hiệu
quả.
15. Xây dựng và tăng cường hệ thống thông tin toàn diện về tài nguyên di truyền thực
vật cho lương thực và nông nghiệp
247. Bối cảnh: Việc quyết định minh bạch và hợp lý trong bảo tồn và sử dụng bền vững
PGRFA phải dựa trên thông tin tin cậy. Những cải tiến quan trọng trong việc sẵn sàng và khả
năng tiếp cận thông tin PGRFA đi cùng với cuộc cách mạng của hệ thống quản lý thông tin
liên lạc trong hơn 15 năm qua. Một số quyết định gần đây của Ủy ban nhằm tăng tính sẵn có
và khả năng tiếp cận thông tin PGRFA, bao gồm sự phát triển WIEWS, việc thông qua các
chỉ thị và định dạng báo cáo để giám sát việc thực hiện GPA, thiết lập NISMs và chuẩn bị của
Báo cáo lần thứ hai. Trao đổi thông tin được ưu tiên cao thông qua Hiệp ước Quốc tế. Đặc
biệt, trao đổi thông tin được công nhận là một trong những thành phần hỗ trợ của Hiệp ước
Quốc tế tại Điều 17, Hệ thống Thông tin Toàn cầu, và là một trong những cơ chế chính cho
việc chia sẻ công bằng và hợp lý các lợi ích tạo ra từ việc sử dụng PGRFA đề cập trong Hệ
thống Đa phương.
248. Những phát triển gần đây nhằm hỗ trợ tư liệu hóa và trao đổi thông tin ngân hàng gen
bao gồm ban hành phần mềm GRIN-toàn cầu, một hệ thống thông tin quản lý ngân hàng gen
với tính năng mạng, và phần mềm GENESYS, cổng tài nguyên di truyền thực vật nhằm cung
cấp cho các nhà chọn tạo giống và các nhà nghiên cứu điểm truy cập thông tin đơn lẻ về
khoảng một phần ba các mẫu giống của ngân hàng gen thế giới, gồm những giống được lưu
giữ trong tập đoàn quốc tế do CGIAR quản lý, Hệ thống Nguồn gen Cây trồng Quốc gia của
Ban Nông nghiệp Hoa Kỳ và Danh mục Tra cứu Internet châu Âu (EURISCO).
249. Mặc dù với bước tiến này, khoảng cách đáng kể trong chia sẻ tư liệu và thông tin về
PGRFA vẫn tiếp tục tồn tại và cần được giải quyết, vì những khoảng cách này là trở ngại lớn
đối với việc lập kế hoạch hiệu quả và việc sử dụng PGRFA ngày càng tăng trong nghiên cứu
và cải tiến cây trồng. Nhiều số liệu hiện có vẫn chưa có khả năng tiếp cận bằng điện tử và việc
tư liệu hóa nguồn tài nguyên di truyền bảo quản đồng ruộng và CWR là chưa đầy đủ. Sự thiếu
cân bằng đáng kể tồn tại giữa các khu vực và ngay cả giữa các quốc gia trong khu vực liên
quan tới khả năng tiếp cận, quản lý và phổ biến thông tin. Nhiều quốc gia vẫn thiếu những
chiến lược và/hoặc kế hoạch hành động quốc gia về quản lý PGRFA, hoặc những chiến lược
này không được thực hiện đầy đủ, và như vậy, những nước này không duy trì hệ thống thông
tin quốc gia hợp nhất về PGRFA. Tình trạng này càng nghiêm trọng bởi thực tế rằng, ở cấp độ
quốc gia và tổ chức, các hoạt động quản lý dữ liệu và tư liệu hóa thường có mức độ ưu tiên
thấp, đầu tư không tương ứng.
250. Mục tiêu: Tạo điều kiện quản lý và sử dụng tốt hơn PGRFA thông qua cải tiến truy cập
và trao đổi thông tin chất lượng cao, cập nhật.
251. Phát triển và tăng cường hệ thống thông tin quốc gia, bao gồm, nhưng không hạn chế, hệ
thống thông tin về mẫu giống, để quản lý tốt hơn dữ liệu PGRFA và để hỗ trợ sự tham gia của
các quốc gia trong các hệ thống thông tin toàn cầu.
252. Tăng cường sử dụng các hệ thống thông tin khu vực và toàn cầu thông qua cải thiện liên
tục toàn bộ chức năng và hiệu suất tương tác giữa người sử dụng và ngân hàng gen.
253. Tăng cường trao đổi, sử dụng thông tin và sự bền vững của các hệ thống thông tin hiện
nay, bằng cách thúc đẩy khả năng tương thích và khả năng sử dụng giữa các bộ dữ liệu thông
qua việc xây dựng và chấp nhận các biểu mẫu mô tả chung.
254. Theo dõi hiệu quả của các hệ thống thông tin và đảm bảo những khác biệt giữa các hệ
thống được giải quyết để tạo thuận lợi cho khả năng tương tác và thúc đẩy sử dụng.
255. Chính sách/Chiến lược: Ưu tiên cao nên dành cho tất cả mức độ để phát triển, bố trí cán
bộ nhân viên và duy trì các hệ thống thông tin và hệ thống dữ liệu thân thiện với người sử
dụng về PGRFA dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế. Các hệ thống như vậy có khả năng góp phần
quyết định, không chỉ trong bảo tồn và sử dụng PGRFA, mà còn đóng vai trò đặc biệt vì
PGRFA phục vụ các vấn đề rộng lớn hơn trong phát triển nông nghiệp và an ninh lương thực.
Cần nỗ lực để phát triển các tiêu chuẩn và chỉ thị chính xác, tin cậy hơn và để thu thập dữ liệu
cơ bản phát triển cho bền vững và an ninh lương thực, điều này cho phép giám sát và đánh giá
tốt hơn những tiến bộ đạt được trong lĩnh vực phát triển bền vững và an ninh lương thực và
đóng góp của PGRFA trong tiến bộ đó.
256. Quản lý hiệu quả các tập đoàn và gia tăng sử dụng nguồn gen đòi hỏi tăng cường và hài
hòa công tác tư liệu hóa, mô tả và đánh giá, dựa trên chấp thuận sử dụng các tiêu chuẩn chung
về trao đổi dữ liệu. Tiêu chuẩn hóa tốt hơn các hệ thống quản lý dữ liệu và thông tin là cần
thiết, không chỉ để tạo thuận lợi truy cập, mà còn hỗ trợ chuyển giao công nghệ và đánh giá
PGRFA ở mức độ toàn cầu, khu vực và quốc gia.
257. Thông tin về PGRFA sẽ thu nhận và phổ biến phù hợp với quy định tại Điều 8(j) của
CBD, liên quan tới kiến thức, đổi mới và thực tiễn gắn liền với bảo tồn in situ do các cộng
đồng bản địa và địa phương thực hiện, biểu hiện lối sống truyền thống liên quan với bảo tồn
và sử dụng bền vững đa dạng sinh học, và tại Điều 17 Hiệp ước Quốc tế.
258. Năng lực: Hỗ trợ nên cấp cho các chương trình quốc gia, nơi thích hợp, cho các chương
trình khu vực, để khuyến khích sự phát triển của các chiến lược hợp lý và tương thích cho
việc quản lý và chia sẻ thông tin. Những chiến lược này phải thúc đẩy việc áp dụng các tiêu
chuẩn cho khả năng vận hành tương tác và trao đổi giữa các hệ thống.
259. Mặc dù có nhiều tiến bộ, dữ liệu và thông tin vẫn tồn tại trong các hệ thống bị tổn
thương và không thể truy cập. Những dữ liệu này cần được thẩm tra và biên soạn vào các biểu
mẫu dễ sử dụng và tiếp cận.
260. Nên tạo điều kiện thuận lợi để các chương trình quốc gia tiếp cận với thông tin khoa học
cơ bản, nghiên cứu và thư mục.
261. Các ngân hàng gen/mạng lưới quốc gia và khu vực nên có nguồn nhân lực đầy đủ để
quản lý thông tin, từ đó cải thiện khả năng tiếp cận của người sử dụng và đảm bảo tham gia
vào các hệ thống thông tin toàn cầu. Đào tạo phù hợp về quản lý dữ liệu và các hệ thống
thông tin nên được hỗ trợ như là nhân tố cần thiết để hợp lý hóa các hoạt động tài nguyên di
truyền ở cấp độ khu vực và toàn cầu.
262. Tự đào tạo và/hoặc học qua mạng điện tử (internet) thích hợp nên được phát triển nếu
cần. Sự hỗ trợ kỹ thuật nên được cung cấp trên nền tảng liên tục để cải thiện việc quản lý dữ
liệu, thông tin và để hỗ trợ áp dụng những công nghệ mới.
263. Nghiên cứu/Công nghệ: Nghiên cứu nên được hỗ trợ để:
a. Phát triển các phương pháp và công nghệ thích hợp, chi phí thấp cho việc biên soạn
và trao đổi dữ liệu;
b. Phát triển các phương pháp để thích ứng với các công nghệ này ở cấp địa phương,
khi thích hợp;
c. Tạo điều kiện dễ dàng truy cập và sử dụng dữ liệu bằng các phương tiện điện tử và
thông qua internet;
d. Phát triển các phương tiện và phương pháp để làm cho thông tin hữu ích dễ hiểu và
dễ sử dụng với những người không chuyên cũng như các thành viên tham gia, bao gồm các tổ
chức phi chính phủ, các tổ chức của nhà chọn tạo giống, hội nông dân và cộng đồng bản địa
và địa phương;
e. Phát triển biểu mẫu mô tả dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế cho những cây trồng mới,
cây trồng ít được sử dụng và CWR.
264. Điều phối/Quản trị: Với sự phát triển của các hệ thống thông tin mới ở cấp quốc gia,
khu vực và toàn cầu, điều phối và hợp tác là cần thiết để đảm bảo các hệ thống này tương
thích và hữu ích. Hài hòa các biểu mẫu mô tả, cũng như mở rộng cho các cây trồng mới vẫn
còn rất quan trọng.
265. Đánh giá ở mức độ toàn cầu và khu vực, giám sát, lập kế hoạch và điều phối là cần thiết
để thúc đẩy hiệu quả chi phí và hiệu quả công việc.
16. Phát triển và thúc đẩy các hệ thống giám sát và bảo vệ đa dạng di truyền và giảm
thiểu xói mòn di truyền của nguồn tài nguyên di truyền thực vật cho lương thực và nông
nghiệp
266. Bối cảnh: Xói mòn PGRFA xảy ra trong các tập đoàn bảo quản ex situ, trên đồng ruộng
của người nông dân và trong tự nhiên. Với kỹ thuật di truyền phân tử hiện đại, trong thập niên
vừa qua có khả năng để tạo ra một số dữ liệu về mức độ và bản chất của xói mòn di truyền đối
với các cây trồng cụ thể trong các vùng đặc biệt. Bối cảnh xuất hiện khá phức tạp và không có
khả năng để đưa ra các kết luận rõ ràng về tầm quan trọng của những tác động này. Tuy
nhiên, ở nhiều quốc gia vẫn còn mối lo ngại về mức độ xói mòn di truyền và nhu cầu phát
triển đa dạng hơn. Các kỹ thuật và chỉ thị tốt hơn cần thiết cho việc giám sát đa dạng di
truyền, thiết lập ranh giới cơ bản và giám sát xu hướng. Đối tác Chỉ thị Đa dạng sinh học bao
gồm nhiều tổ chức quốc tế cùng nhau xây dựng bộ chỉ thị liên quan tới mục tiêu năm đa dạng
sinh học 2010 của CBD, bao gồm cả việc giám sát xu hướng đa dạng di truyền cây trồng. Tuy
nhiên, cho tới nay, chưa có bộ chỉ thị thực tế nào hay bộ chỉ thị được chấp nhận quốc tế về xói
mòn di truyền và đa dạng di truyền được phát triển; phát triển bộ chỉ thị đó nên được ưu tiên.
267. Các yếu tố khác nhau, cả hiện tượng tự nhiên và kết quả từ hành vi con người – bao gồm
đô thị hóa, phát triển nông nghiệp, xung đột dân sự và chiến tranh – được coi là những nguyên
nhân của xói mòn PGRFA. Mất mát nguồn tài nguyên di truyền thực vật xảy ra chủ yếu là kết
quả của việc áp dụng giống cây trồng mới, dẫn đến việc loại bỏ các giống truyền thống mà
không có các biện pháp bảo tồn thích hợp. Gần đây hơn, biến đổi khí hậu và sở thích ăn uống
hiện đại cũng được xem là mối đe dọa. Ở một số quốc gia, mối đe dọa từ những loài ngoại lai
xâm lấn cũng được xem là nguyên nhân gây nên xói mòn di truyền. Mất mát PGRFA xảy ra
khác nhau bên trong các quốc gia và khác nhau giữa quốc gia này với quốc gia khác. Hỗ trợ
nên được cung cấp nhằm thiết lập cơ chế giám sát ở tất cả các cấp độ.
268. Theo báo cáo năm 1997, ứng dụng WIEWS cho tìm kiếm từ xa, cập nhật và báo cáo về
xói mòn di truyền, được công bố trên internet. Gần đây, phạm vi thông tin do WIEWS bao
phủ được mở rộng để chứa NISMs cái mà cũng giải quyết các vấn đề liên quan tới xói mòn di
truyền.
269. Mục tiêu: Giám sát hiệu quả đa dạng di truyền và nguyên nhân của xói mòn di truyền và
tiến hành các hoạt động khắc phục và ngăn ngừa cần thiết.
270. Thiết lập và thực hiện cơ chế giám sát đảm bảo chuyển giao kịp thời thông tin cho các
điểm liên lạc được dùng để phân tích, điều phối và hành động. Mở rộng việc sử dụng các
công nghệ tiên tiến cho việc giám sát suy thoái đa dạng bị đe dọa nhất trong cây trồng, CWR
và những loài cây hoang dại dùng làm lương thực.
271. Chính sách/Chiến lược: Các chính phủ nên định kỳ xem xét và báo cáo về hiện trạng
của PGRFA, cử điều phối viên quốc gia để chuyển thông tin này cho FAO, và, khi thích hợp,
cho Cơ quan điều hành của Hiệp ước Quốc tế, Ban Hội nghị của các bên tham gia CBD và
các cơ quan liên quan khác. Điều 5 của Hiệp ước Quốc tế đòi hỏi Các bên ký kết giám sát
PGRFA, đánh giá các mối đe dọa và giảm thiểu hoặc, khi có thể, loại bỏ những đe dọa này.
Cần những nỗ lực đặc biệt để xác định những loài và quần thể đang ở trong tình trạng nguy
hiểm nhất và chắc chắn có các tính trạng quan trọng cho tương lai; điều này đặc biệt quan
trọng với những giống của người nông dân/giống địa phương và CWR. Việc cải thiện mối
liên kết giữa chiến lược bảo tồn in situ và bảo tồn ex situ sẽ giảm rủi ro mất mát vô ý các
thông tin sinh học và văn hóa.
272. Các chỉ thị và phương pháp đánh giá đa dạng di truyền qua thời gian và giảm tối đa xói
mòn di truyền và nguyên nhân của xói mòn di truyền đòi hỏi phải thiết lập điều tra cơ bản
quốc gia, khu vực và toàn cầu phục vụ việc giám sát đa dạng và phát triển những hệ thống
cảnh báo sớm một cách hiệu quả. Các nỗ lực nên tạo ra nhằm đảm bảo các thông tin liên quan
được cung cấp bởi những dịch vụ khuyến nông, các tổ chức phi chính phủ địa phương, khu
vực sản xuất hạt giống và cộng đồng nông nghiệp có thể được kết nối tới những hệ thống
cảnh báo sớm ở cấp độ quốc gia và cao hơn. Những công cụ ICT mới, gồm điện thoại di
động, có thể tạo điều kiện hơn để báo cáo và điều phối thông tin từ những nguồn khác loại
như vậy.
273. Năng lực: Yêu cầu năng lực cao hơn để thu và giải thích thông tin về PGRFA – đặc biệt
là việc xác định CWR – và để tiến hành điều tra, kiểm kê sử dụng các công cụ phân tử, ICT
mới và các công cụ phân tích không gian đa dạng. Đào tạo về giám sát cho các nhà tạo giống,
nông dân, cộng đồng bản địa và địa phương. Các tài liệu đào tạo bao gồm công cụ tự dạy, nên
tạo ra bằng tiếng địa phương, khi cần.
274. Nhận thấy tầm quan trọng của việc giám sát và cảnh báo sớm toàn cầu về mất mát
PGRFA, tính hiệu quả, mục đích và giá trị của WIEWS nên được đánh giá lại, xem xét vai trò
tiềm năng mà WIEWS như là một phần của Hệ thống Thông tin Toàn cầu về Tài nguyên Di
truyền Thực vật như được nêu ra trong Điều 17 của Hiệp ước Quốc tế.
275. Nghiên cứu/Công nghệ: Nghiên cứu được yêu cầu tiến hành nhằm cải thiện các phương
pháp điều tra PGRFA, đây là công việc hữu ích cho hệ thống giám sát và phát triển. Cần thiết
tiến hành nghiên cứu liên tục về phát triển các chỉ thị thông tin và chỉ thị thực tiễn về xói mòn
di truyền hoặc đa dạng di truyền.
276. Các chuyên gia kỹ thuật và những người đại diện chương trình quốc gia, Chương trình
Môi trường Liên hợp quốc, CGIAR và các cơ quan quốc tế khác liên quan đến bảo tồn
PGRFA, Liên minh Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên, các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư
nhân nên được FAO mời tham gia tiếp tục thảo luận về phát triển hệ thống giám sát đa dạng
di truyền thực vật và giảm thiểu xói mòn di truyền.
277. Nghiên cứu về sử dụng công nghệ GIS cần được tiến hành bổ sung để giám sát đa dạng
di truyền, dự đoán, giảm thiểu xói mòn di truyền và về kết hợp các thông tin thu được vào hệ
thống thông tin toàn diện. Nghiên cứu bổ sung được yêu cầu để nắm được bản chất và phạm
vi các mối đe dọa tiềm tàng tới sự đa dạng hiện có trên đồng ruộng và ở các điểm bảo tồn in
situ.
278. Điều phối/Quản trị: Hợp tác và điều phối đa ngành cần được tăng cường ở cấp quốc
gia, đặc biệt giữa các lĩnh vực nông nghiệp, môi trường và phát triển. Các chương trình quốc
gia nên xem xét cảnh báo các mạng lưới khu vực và quốc tế về thời gian và địa điểm mà nguy
cơ xói mòn di truyền sắp xảy ra.
17. Xây dựng và tăng cường năng lực nguồn nhân lực
279. Bối cảnh: Cải tiến trong bảo tồn và sử dụng PGRFA phụ thuộc vào năng lực nguồn nhân
lực và sự phát triển liên tục của nguồn nhân lực. Tài trợ cho xây dựng năng lực đã gia tăng
trong hơn 15 năm qua đã đưa đến sự hợp tác mạnh mẽ hơn trong công tác đào tạo giữa các tổ
chức quốc gia, khu vực và quốc tế. Các khóa đào tạo thường xuyên hơn và các tài liệu, thiết bị
đào tạo mới đã được phát triển. Khả năng đào tạo cao hơn cũng được mở rộng và hiện nay
nhiều trường đại học đưa ra nhiều khóa học trong các lĩnh vực liên quan tới PGRFA, đặc biệt
liên quan tới ứng dụng công nghệ sinh học để bảo tồn và cải tiến giống cây trồng.
280. Mặc dù nhiều nỗ lực đã đạt được, năng lực nguồn nhân lực vẫn chưa đủ ở hầu hết các
cấp độ và ở tất cả các lĩnh vực liên quan đến việc bảo tồn và sử dụng PGRFA. Ở nhiều quốc
gia, nhân viên ngân hàng gen quá ít và không được đào tạo đầy đủ để thu thập, phân loại, bảo
tồn, phục hồi, mô tả, tư liệu và cấp phát PGRFA. Thiếu năng lực đang đe dọa nghiêm trọng
việc thiết lập và quản lý các tập đoàn PGRFA có giá trị. Năng lực hạn chế về tạo giống, tiền
chọn tạo giống, phân loại thực vật ở hầu hết các quốc gia đang phát triển đã hạn chế nghiêm
trọng việc sử dụng hiệu quả và bền vững PGRFA. Trong bối cảnh bảo tồn nông trại, khuyến
nông và các tổ chức phi chính phủ thường thiếu cán bộ chuyên môn để tiến hành công tác đào
tạo thích hợp tới cộng đồng nông nghiệp. Cán bộ chuyên môn liên quan tới sản xuất hạt giống
và công nghệ hạt giống cũng thiếu hụt.
281. Mục tiêu: Đảm bảo đầy đủ năng lực nguồn nhân lực sẵn có ở tất cả các lĩnh vực của
công tác bảo tồn và sử dụng PGRFA, bao gồm các phương diện quản lý, luật pháp và chính
sách.
282. Phát triển khả năng quốc gia và khu vực tiến hành công tác đào tạo về PGRFA ở tất cả
các cấp độ và xây dựng các thỏa thuận hợp tác hiệu quả giữa các tổ chức ở các nước phát triển
và đang phát triển nhằm đẩy mạnh và nâng cấp thường xuyên năng lực của tất cả các thành
viên tham gia bảo tồn PGRFA. Duy trì năng lực quốc gia một cách đầy đủ trong các lĩnh vực
quan trọng và ngăn chặn mất mát nguồn nhân lực được đào tạo ở các nước đang phát triển.
283. Phát triển những khóa đào tạo chất lượng và tài liệu giáo dục cho cấp tiểu học và trung
học ở các môn ưu tiên ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu. Khuyến khích các viện đào tạo
cấp dưới đại học và sau đại học đưa lĩnh vực PGRFA vào trong các chương trình và khóa học,
thông qua việc sử dụng học điện tử và giáo dục từ xa.
284. Tạo điều kiện tiếp cận tới đào tạo nước ngoài cho những nước thiếu năng lực quốc gia.
Khuyến khích các cơ quan tiên tiến đang quản lý PGRFA trao các cơ hội phát triển năng lực.
285. Phát triển chương trình nghị sự hợp lý để tạo cầu nối khoảng cách giữa khoa học PGRFA
với ứng dụng của nó vào quản lý, hoạt động ngân hàng gen và sử dụng bền vững PGRFA, bao
gồm chọn tạo cây trồng và công nghệ hạt giống.
286. Mở rộng các cơ hội cho việc nghiên cứu thực hành, truyền bá kinh nghiệm và đào tạo
lãnh đạo trong các lĩnh vực nghiên cứu, phát triển và chính sách tại các tổ chức nghiên cứu và
chính sách ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế.
287. Chính sách/Chiến lược: Các chính phủ nên công nhận tầm quan trọng của việc đưa
PGRFA vào trong cấp giáo dục tiểu học, trung học và cao hơn. Các chính phủ hợp tác với các
tổ chức liên quan, nên cam kết cung cấp các cơ hội đào tạo và giáo dục ở bậc cao cho các nhà
nghiên cứu trẻ, các kỹ thuật viên và công nhân, cũng như thường xuyên đào tạo lại để cập
nhật kiến thức và kỹ năng cho đội ngũ nhân viên hiện có. Các cơ hội đào tạo và các chương
trình đào tạo cao nên bao gồm các phương diện kỹ thuật và khoa học của bảo tồn, trao đổi và
sử dụng PGRFA trong chương trình giảng dạy về sinh học, nông nghiệp, môi trường, kinh tế
và sức khỏe. Nên nhấn mạnh đặc biệt vào việc cung cấp đào tạo trong bảo tồn sinh học, đặc
biệt với đa dạng sinh học nông nghiệp.
288. Nên đánh giá thường xuyên năng lực nguồn nhân lực và nhu cầu cần thiết; kết quả nên
hỗ trợ các quốc gia để phát triển giáo dục và những chiến lược đào tạo ở cấp quốc gia, khu
vực và quốc tế.
289. Năng lực: Hỗ trợ nên tạo điều kiện để các tổ chức quốc gia và khu vực, các chương trình
cập nhật chương trình giảng dạy, cung cấp giáo dục tiên tiến và tăng cường năng lực nghiên
cứu và kỹ thuật ở tất cả các lĩnh vực có liên quan đến bảo tồn và sử dụng PGRFA. Cũng nên
hỗ trợ cho các sinh viên ở các chương trình dưới đại học và trên đại học và cho việc đào tạo
chuyên nghiệp liên tục. Nên khuyến khích hợp tác giữa các viện hàn lâm ở các nước phát triển
và đang phát triển, gồm cả khu vực tư nhân, trao đổi thực tập sinh và nhân viên nên được thúc
đẩy. Tiếp cận internet sẽ đặc biệt quan trọng để thúc đẩy việc học trực tuyến, giao tiếp, trao
đổi dữ liệu và thông tin.
290. Khi các tổ chức quốc gia và khu vực được tăng cường, năng lực hiện có ở các quốc gia
phát triển nên được sử dụng và hỗ trợ, đặc biệt khi thích hợp với các nhu cầu năng lực ở các
quốc gia đang phát triển.
291. Ngoài các nỗ lực hiện có, các khóa đào tạo chuyên môn, gồm các chương trình đào tạo
thực tiễn và chương trình phù đạo, nên được phát triển và thường xuyên tổ chức ở tất cả các
khu vực. Các chủ đề kỹ thuật, gồm mối liên hệ giữa bảo tồn và sử dụng, quản lý, luật, chính
sách và nhận thức cộng đồng, nên được nhấn mạnh để cải thiện hiểu biết về các thỏa thuận và
hiệp ước quốc tế.
292. Chuyên môn về chuyển giao công nghệ liên quan tới bảo tồn, mô tả, trao đổi và sử dụng
bền vững PGRFA nên được tăng cường. Các tổ chức quốc gia ở các nước đang phát triển và
phát triển và các tổ chức quốc tế nên đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện nâng
cao kiến thức chuyên môn, đặc biệt thông qua trao đổi nhân viên.
293. Xem xét để chuẩn bị các tài liệu giáo dục có thể áp dụng rộng rãi cho các khu vực khác
nhau nhưng vẫn duy trì đặc thù khác biệt của khu vực. Khi khả thi, các khóa học nên được
trình bày bằng thứ tiếng phù hợp nhất cho khu vực.
294. Cần xem xét đặc biệt đến sự hợp nhất giới, đặc biệt là đào tạo tại chỗ cho phụ nữ nông
thôn, vì họ, nhưng đôi khi chưa quan tâm thích đáng, đóng vai trò quan trọng trong việc duy
trì và phát triển PGRFA, kiến thức và truyền thống kết hợp.
295. Năng lực tạo ra tài liệu đào tạo và tổ chức hoặc điều phối các khóa đào tạo nên được tăng
cường ở cấp quốc tế.
296. Nghiên cứu/công nghệ: Nếu có thể, đào tạo nên được liên kết với các nghiên cứu đang
tiến hành và phát triển trong các tổ chức giáo dục và chuyên nghiệp và các chương trình quốc
gia. Nên tạo ra nỗ lực để liên kết sinh viên đại học với nhân viên chuyên nghiệp trong các
hoạt động trên đồng ruộng và các hoạt động nghiên cứu.
297. Điều phối/Quản trị: Các khóa đào tạo nên được phát triển và đưa ra trong sự cộng tác
chặt chẽ với các mạng lưới quốc tế, khu vực và các chương trình quốc gia. Thêm vào đó, các
chương trình nâng cao nên được chuẩn bị điều phối với các tổ chức hàn lâm quốc tế và khu
vực có liên quan hoặc sự kết hợp theo nhu cầu quốc gia.
18. Thúc đẩy và tăng cường nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của tài nguyên di
truyền thực vật cho lương thực và nông nghiệp
298. Bối cảnh: Nhận thức cộng đồng là chìa khóa để huy động ý kiến công chúng, tạo ra và
duy trì hành động chính trị thích hợp ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế. Giao tiếp hiệu quả
về những lợi ích mà PGRFA có thể mang lại cho an ninh lương thực và sinh kế bền vững là
quan trọng với thành công của bất kỳ chương trình bảo tồn nào. Những năm gần đây đã chứng
kiến sự hiểu biết ngày càng tăng về tầm quan trọng của PGRFA trong việc giải quyết những
thách thức do biến đổi khí hậu tạo ra. Mối quan tâm về những loài ít được sử dụng ngày càng
tăng trong việc nhận biết tiềm năng năng suất của những loài này dưới viễn cảnh khí hậu khác
nhau và tạo cơ hội cho các sản phẩm thị trường giá trị cao. Các nhà khoa học ngày càng nhận
ra tiềm năng của CWR đóng góp cho việc tăng cường tính bền vững của sản xuất, nhưng điều
này chưa đến được với độc giả rộng hơn. Mối lo lắng về sự gia tăng toàn cầu những bệnh liên
quan tới lối sống đã dẫn đến sự quan tâm ngày càng tăng về ích lợi dinh dưỡng có thể thu
được từ thăm dò và khai thác PGRFA. Nhiều quốc gia nhắm tới việc giảm chi phí nhập khẩu
lương thực bằng việc tái sản xuất lương thực nội địa, và thường có cả các giá trị văn hóa. Các
công cụ mạng lưới xã hội cung cấp phương thức hiệu quả để thu được thông điệp của một số
lượng lớn người tham gia, đặc biệt là thế hệ trẻ. Tuy nhiên, nâng cao nhận thức cho các nhà
hoạch định chính sách, các nhà tài trợ và cộng đồng về giá trị của PGRFA tiếp tục là một
thách thức.
299. Một chương trình nhận thức cộng đồng mục tiêu có thể thúc đẩy sự phát triển mối liên
kết quốc tế và cơ chế hợp tác như các mạng lưới, liên quan đến các lĩnh vực khác nhau, các cơ
quan và các thành viên tham gia. Trong phạm vi các quốc gia, nhận thức cộng đồng có thể hỗ
trợ những nỗ lực tham gia của khu vực tư nhân, các cộng đồng bản địa và địa phương, các tổ
chức phi chính phủ và địa phương trong các hoạt động tài nguyên di truyền quốc gia, do vậy
đảm bảo cho một cở sở rộng lớn về bảo tồn và sử dụng bền vững PGRFA. Làm việc với các
phương tiện truyền thông ở các mức địa phương và quốc gia là khía cạnh quan trọng của việc
nâng cao nhận thức. Việc tạo ra các mối liên hệ chặt chẽ giữa các chiến dịch nhận thức công
cộng do các tổ chức quốc tế, các chương trình quốc gia và các tổ chức có thể gia tăng hiệu
quả và giảm chi phí. Các chương trình nâng cao nhận thức thành công có thể mang tới phần
thưởng tài chính, như có thể thấy trong trường hợp của Quỹ tín thác, được thành lập năm
2004 như là quỹ đặc biệt để hỗ trợ sự bảo tồn PGRFA và thúc đẩy sử dụng PGRFA toàn cầu.
300. Mục tiêu: Đảm bảo việc hỗ trợ liên tục cho bảo tồn và sử dụng PGRFA từ các nhà hoạch
định chính sách và khu vực công.
301. Hỗ trợ và thúc đẩy những cơ chế, đặc biệt ở những nước đang phát triển, cho các hoạt
động điều phối nâng cao nhận thức cộng cộng và nhắm tới tất cả các thành viên tham gia.
Hợp nhất đầy đủ nhận thức cộng đồng vào hoạt động của tất cả các chương trình quốc gia,
khu vực và quốc tế.
302. Chính sách/Chiến lược: Cần hỗ trợ nhiều hơn để ước tính giá trị đầy đủ của PGRFA, để
đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng và đưa thông tin này đến sự chú ý của các nhà hoạch
định chính sách và công chúng. Nhận thức công cộng và vai trò của các độc giả mục tiêu nên
được xem xét khi phát triển bất kỳ hoạt động nào về PGRFA.
303. Các chiến lược quốc gia nên công nhận vai trò mà tất cả các thành viên tham gia bảo tồn
PGRFA đóng góp vào phát triển các hoạt động nhận thức công cộng. Các chính phủ nên công
nhận và khuyến khích công việc của các tổ chức phi chính phủ trong việc nâng cao nhận thức
công cộng, và những nỗ lực nên được khuyến khích để đẩy mạnh phát triển đối tác công - tư
trong các chiến dịch nâng cao nhận thức công cộng. Vai trò quan trọng của cộng đồng bản địa
và địa phương trong bất cứ việc bảo tồn in situ hoặc nỗ lực quản lý đồng ruộng và các hệ
thống kiến thức và thực tiễn truyền thống của họ nên được xem xét một cách đầy đủ.
304. Các tài liệu nâng cao nhận thức công cộng nên được tạo ra bằng các ngôn ngữ thích hợp
để tạo điều kiện sử dụng rộng rãi trong các quốc gia và nên khai thác tất cả các lựa chọn ICT
sẵn có.
305. Nâng cao nhận thức công cộng cần được hỗ trợ về cả nguồn nhân lực và tài chính nhằm
tạo hiệu quả và đảm bảo đúng tầm.
306. Năng lực: Các chương trình PGRFA quốc gia nên có một điều phối viên được đào tạo về
nhận thức công cộng làm việc cùng với các nhà quản lý chương trình và phát triển các công
cụ thích hợp. Nếu không có, tất cả nhân viên của chương trình PGRFA nên phát triển ít nhất
một số khả năng đáp lại tầm quan trọng của các mục tiêu và hoạt động của chương trình trong
bối cảnh phát triển và nông nghiệp bền vững. Đội ngũ nhân viên nên có khả năng truyền đạt
các thông điệp đến tất cả các thành viên bằng các công cụ thích hợp và theo kịp các phương
pháp mới để nâng cao nhận thức cộng đồng.
307. Các chương trình PGRFA quốc gia nên làm việc với những người nổi tiếng và có tầm
ảnh hưởng để tăng tiếp cận với các phương tiện truyền thông và thu hút sự chú ý. Cần nỗ lực
phát triển và tăng cường quan hệ với các phương tiện truyền thông địa phương và khuyến
khích phát sóng các vấn đề PGRFA trên cơ sở thường xuyên, mời họ tham dự các hội thảo và
hội nghị truyền thông để đạt được sự hiểu biết hơn trong lĩnh vực tài nguyên di truyền thực
vật.
308. Các chương trình PGRFA quốc gia nên dùng các công cụ và công nghệ nhận thức cộng
đồng ở cấp khu vực và quốc tế để sử dụng trong các nỗ lực giao tiếp. Những công cụ này – và
những thông điệp họ truyền đạt – có thể phải thích ứng để phản ánh những ưu tiên và thực
trạng quốc gia. Tuy nhiên, nhiều thông điệp trong các công cụ trên sẽ hữu ích cho việc hỗ trợ
chiến lược và các hoạt quốc gia về nhận thức cộng đồng. Thích ứng các công cụ sẽ giảm đáng
kể chi phí cho các chương trình quốc gia. Tuy nhiên, điều này không làm giảm giá trị nhu cầu
tăng năng lực về tạo ra tài liệu nhận thức công cộng ở cấp quốc gia.
309. Nhận thức về giá trị PGRFA và về vai trò của các nhà khoa học, các nhà chọn tạo giống,
nông dân và các cộng đồng bản địa và địa phương trong việc duy trì và cải thiện nguồn tài
nguyên có giá trị này nên được thúc đẩy ở tất cả các cấp giáo dục cũng như ở các cơ quan
chuyên nghiên cứu nông nghiệp. Điều này liên quan tới biên soạn và tạo ra các tài liệu giáo
dục và đào tạo dựa trên các nghiên cứu tình huống. Điều này sẽ đòi hỏi mối liên hệ cộng tác
với các cơ quan giáo dục quốc gia. Các vườn thực vật có vai trò quan trọng trong việc tạo
nhận thức cũng nên được tính đến và nên được cộng đồng PGRFA thúc đẩy.
310. Các vườn thực vật chi phí thấp, vườn ươm và các ngân hàng gen đồng ruộng kết hợp với
các trường đại học, trường học và các cơ quan khác nên được tăng cường và khuyến khích
thúc đẩy giáo dục và nhận thức cộng đồng.
311. Nghiên cứu/Công nghệ: Nghiên cứu về những nhu cầu thông tin của các độc giả mục
tiêu nên được tiến hành trước khi đưa ra bất cứ sáng kiến lớn nào về nhận thức cộng đồng.
Các nhà hoạch định chính sách chắc chắn là độc giả mục tiêu quan trọng cho bất cứ chiến
dịch nhận thức nào, và nghiên cứu được yêu cầu để củng cố việc đẩy mạnh các chính sách
thích hợp cho bảo tồn và sử dụng đa dạng di truyền, gồm giá trị kinh tế của PGRFA. Ở cấp
quốc tế, nên tiến hành nghiên cứu việc sử dụng các công cụ ICT để đáp ứng những nhu cầu
nhận thức cộng đồng. Ảnh hưởng của các tài liệu quảng bá không nên phỏng đoán; cần phân
tích ảnh hưởng của các sản phẩm nhận thức để với nguồn hạn chế có thể được sử dụng cho
ảnh hưởng lớn nhất.
312. Điều phối/Quản trị: Cần điều phối và tạo điều kiện ở tất cả các mức độ để hợp lý hóa và
mang lại hiệu quả chi phí tới công tác nhận thức cộng đồng. Các chương trình quốc gia và các
chương trình khác có thể sử dụng ưu thế của các tài liệu được phát triển ở cấp khu vực và
quốc tế. Mối liên kết giữa các tổ chức khu vực và quốc tế, các khu vực sản xuất hạt giống tư
nhân, các tổ chức phi chính phủ sẽ tạo điều kiện xác định cơ hội cho các hoạt động hợp tác.
Phương pháp điều phối đa lĩnh vực, đa cơ quan sẽ tăng cường sức mạnh của thông điệp.
Thực hiện và tài trợ Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai
313. GPA lần thứ hai cung cấp khung thống nhất quốc tế quan trọng về bảo tồn và sử dụng
bền vững PGRFA. GPA lần thứ hai là thành phần hỗ trợ của Hiệp ước Quốc tế như điều 14 và
việc thực hiện GPA lần thứ hai sẽ là đóng góp phần quan trọng để đạt được những mục tiêu
của Hiệp ước Quốc tế. Điều đó cũng sẽ tạo điều kiện thực hiện CBD trong lĩnh vực đa dạng
sinh học nông nghiệp và giúp đạt được những mục tiêu của Kế hoạch Chiến lược đa dạng sinh
học 2011-2020.
314. Những quá trình tiếp theo kêu gọi hành động ở các cấp địa phương, quốc gia, khu vực và
quốc tế và nên có sự tham gia của tất cả các thành viên liên quan: chính phủ, nhà chức trách
địa phương và khu vực, các tổ chức khu vực và quốc tế, các tổ chức liên chính phủ và phi
chính phủ, cộng đồng khoa học, khu vực tư nhân, các cộng đồng bản địa và địa phương, các
nhà chọn tạo giống, nông dân, những người sản xuất nông nghiệp khác và các hội.
315. Tiến độ chung về thực hiện GPA lần thứ hai và những quá trình tiếp theo có liên quan sẽ
được các chính phủ và các thành viên FAO thông qua các Ủy ban sẽ giám sát và hướng dẫn.
Để hoàn thành chức năng này, Ủy ban sẽ lập kế hoạch đánh giá việc thực hiện GPA lần thứ
hai cũng như báo cáo đánh giá của chính GPA lần thứ hai trong Chương trình công tác nhiều
năm, với sự hợp tác chặt chẽ của cơ quan điều hành Hiệp ước Quốc tế. Báo cáo đánh giá nên
đề cập đến tiến độ ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế trong việc thực hiện, soạn thảo và điều
chỉnh, nếu thích hợp, của GPA lần thứ hai. Báo cáo đánh giá đầu tiên của việc thực hiện GPA
lần thứ hai nên được Ủy ban tiến hành ở Kỳ họp thường kỳ lần thứ 15, gồm sự đánh giá thành
tựu của GPA cũng như khoảng cách và nhu cầu tài chính và những nhu cầu khác cho việc
thực hiện, theo Nghị quyết 1/2011 của Ủy ban.
316. Để đạt được điều này, Ủy ban, ở Kỳ họp thường kỳ thứ 14, sẽ tán thành về định dạng báo
cáo tiến độ cũng như về các tiêu chuẩn và chỉ thị cho giám sát việc thực hiện GPA lần thứ hai,
do Ủy ban đã thực hiện trước đây để phát triển các chỉ thị và định dạng báo cáo. Các kết luận
của Ủy ban nên tạo được sự chú ý của các chính phủ và các cơ quan quốc tế liên quan để lấp
khoảng cách, điều chỉnh sự mất cân bằng hoặc thiếu sự điều phối và xem xét những sáng kiến
hoặc những hoạt động mới. Bất cứ kết luận nào của ủy ban có liên quan tới chính sách chính
sẽ thu hút sự chú ý của Hội đồng FAO và Hội nghị FAO, Cơ quan Điều hành của Hiệp ước
Quốc tế và Hội nghị các Bên của Công ước Đa dạng sinh học CBD và/hoặc Ủy ban về Phát
triển Bền vững về hành động, cam kết hoặc thông tin, nếu thích hợp.
317. Việc thực hiện đầy đủ GPA lần thứ hai đòi hỏi sự gia tăng đáng kể các hoạt động
PGRFA hiện đang diễn ra. GPA lần thứ hai sẽ được thực hiện dần và nguồn tài chính tương
ứng được huy động phù hợp với mục tiêu của GPA lần thứ hai. Mỗi quốc gia nên xác định
những ưu tiên riêng căn cứ vào các hoạt động ưu tiên được thống nhất trong GPA lần thứ hai
và trong khung chương trình của nhu cầu phát triển nông nghiệp và lương thực.
318. Cho đến nay, việc tài trợ quan trọng nhất cho PGRFA ở đa số các khu vực đều do các
chính phủ và các nguồn kinh phí nội địa khác trợ cấp. Các nguồn kinh phí quan trọng cho
PGRFA cũng bao gồm các nguồn song phương, khu vực và các tổ chức đa phương.
319. Với tầm quan trọng đóng góp của các nguồn nội địa, bao gồm cả khu vực công và tư
nhân, mỗi quốc gia nên cố gắng hết sức, phù hợp với khả năng, để cung cấp hỗ trợ tài chính
cho các hoạt động quốc gia nhằm đạt được các mục tiêu của GPA lần thứ hai, đi đôi với các
kế hoạch, các ưu tiên và chương trình quốc gia.
320. Hợp tác quốc tế về bảo tồn và sử dụng bền vững PGRFA nên được tăng cường, đặc biệt
để hỗ trợ và bổ sung các nỗ lực của các quốc gia đang phát triển và các quốc gia với nền kinh
tế chuyển tiếp. Cơ quan Điều hành Hiệp ước Quốc tế sẽ đóng vai trò then chốt trong vấn đề
này. Phạm vi mà các quốc gia đang phát triển và các quốc gia với nền kinh tế chuyển tiếp sẽ
đáp ứng các cam kết của GPA lần thứ hai sẽ phụ thuộc lớn vào việc thực hiện hiệu quả Hiệp
ước Quốc tế và chiến lược đầu tư tài chính. Hai yếu tố liên quan của chiến lược tài trợ sẽ hỗ
trợ việc thực hiện của GPA lần thứ hai là Quỹ chia sẻ lợi ích và Quỹ Tín thác. Nguồn tài
chính trong Quỹ chia sẻ lợi ích đạt được dưới sự kiểm soát Cơ quan Điều hành và do Cơ quan
Điều hành sử dụng để xúc tiến hợp tác quốc tế trong lĩnh vực PGRFA, có tính đến GPA đang
vận hành6. Quỹ Tín thác là yếu tố quan trọng của chiến lược tài trợ và thúc đẩy các hoạt động
bảo tồn hiệu quả phù hợp với GPA7. Mọi nỗ lực tìm kiếm các nguồn tài trợ mới, bổ sung
trong chương trình thực hiện GPA lần thứ hai nên được tiến hành.
321. Thông qua việc giám sát chiến lược tài trợ của Hiệp ước Quốc tế, Cơ quan Điều hành sẽ
có khả năng giám sát các nguồn sẵn có cho việc thực hiện GPA lần thứ hai. Ưu tiên hỗ trợ của
chiến lược tài trợ là các hoạt động ưu tiên của GPA đang vận hành. Việc giám sát chiến lược
tài trợ bao gồm các nguồn của Quỹ Chia sẻ Lợi ích cũng như các nguồn không do Cơ quan
Điều hành kiểm soát trực tiếp.
322. Để có được sự tham gia và hỗ trợ rộng rãi nhất cho thực hiện, GPA lần thứ hai nên được
báo cáo tới các cơ quan và diễn đàn quốc tế, khu vực và quốc gia đang giải quyết vấn đề
lương thực, nông nghiệp và đa dạng sinh học, đặc biệt là bao gồm Hội nghị FAO, Hội nghị
của các bên tham gia Công ước Đa dạng sinh học, Ủy ban về Phát triển Bền vững, và các Cơ
quan Điều hành của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc, Quỹ Môi trường Toàn cầu,
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, Quỹ quốc tế cho Phát triển Nông nghiệp, Ngân hàng
Thế giới, Quỹ Hàng hóa Chung, Ngân hàng Phát triển Khu vực, Nhóm Tư vấn về Nghiên cứu
Nông nghiệp Quốc tế (CGIAR) và Quỹ Tín thác, và các thành viên sáng lập của các tổ chức
nên được mời tham gia và xúc tiến, nếu thích hợp, trong việc thực hiện GPA lần thứ hai.
1 FAO. 2009. Làm thế nào để cung cấp lương thực cho thế giới năm 2050.
http://www.fao.org/fileadmin/templates/wsfs/docs/expert_paper/How_to_Feed_the_World_in_2050.p
df
2 Bao gồm Mục tiêu 2 (Đến năm 2020, giá trị đa dạng sinh học ít nhất được tích hợp vào chương trình
phát triển của quốc gia, địa phương; chiến lược xóa đói giảm nghèo và quá trình lập kế hoạch và được
đưa vào kế toán quốc gia, khi thích hợp, đưa vào hệ thống báo cáo), Mục tiêu 5 (Đến năm 2020, tỷ lệ
mất mát của tất cả môi trường sống tự nhiên bao gồm rừng ít nhất sẽ giảm đi một nửa và sự khả thi
mang lại gần như bằng không, đồng thời sự suy thoái, phá vỡ được giảm đáng kể). Mục tiêu 6 (đến
năm 2020 tất cả các loài cá, động vật không xương sống và thực vật thủy sinh được quản lý, thu hoạch
một cách bền vững, hợp pháp và áp dụng dựa trên phương pháp tiếp cận hệ sinh thái để tránh tình
trạng đánh bắt quá mức; các kế hoạch phục hồi và các biện pháp tại chỗ được áp dụng cho tất cả các
loài cạn kiệt, thủy sản không có tác động bất lợi đáng kể đến các loài bị đe dọa và các hệ sinh thái dễ
bị tổn thương; và tác động của thủy sản đến thị trường, các loài và hệ sinh thái được nằm trong giới
hạn an toàn sinh thái), Mục tiêu 7 (đến năm 2020, khu vực nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và lâm
nghiệp được quản lý bền vững, đảm bảo bảo tồn đa dạng sinh học). Mục tiêu 11 (đến năm 2020, ít
nhất 17% thuộc mặt đất và nước nội địa, 10% thuộc khu vực biển và ven biển, đặc biệt là khu vực có
tầm quan trọng cho các dịch vụ đa dạng sinh học và hệ sinh thái được bảo tồn thông qua quản lý hiệu
quả, công bằng, mang đại diện cho vùng và liên kết chặt chẽ với hệ thống các khu bảo tồn và các biện
pháp bảo tồn khu vực khác, đồng thời tích hợp rộng rãi với các khu cảnh quan và sinh biển). Mục tiêu
12 (đến năm 2020, ngăn chặn sự tuyệt chủng của các loài bị đe dọa đã biết và tình trạng bảo tồn (đặc
biệt các loài suy giảm mạnh) được cải tiến và duy trì. Mục tiêu 18 (đến năm 2020, kiến thức bản địa,
cải tiến và thực tế của cộng đồng địa phương, bản địa liên quan đến bảo tồn, sử dụng đa dạng sinh học
đồng thời tập quán sử dụng nguồn tài nguyên sinh học được phản ánh rõ nét phù hợp với luật pháp
quốc gia, nghĩa vụ quốc tế, đồng thời được tích hợp, phản ánh đầy đủ trong Công ước với sự tham gia
đầy đủ và hiệu quả của cộng đồng bản xứ và địa phương, các cấp có liên quan).
3 Được đệ trình cho sự chuẩn bị Báo cáo lần thứ hai.
4 Tổ chức Cây trồng Tương lai được hình thành từ sự liên kết của Trung tâm Quốc tế của Cây trồng ít
được sử dụng và Đơn vị tạo điều kiện thuận lợi toàn cầu cho các loài ít được sử dụng.
5 Trong hoạt động ưu tiên này, từ khóa “hạt giống” dùng để chỉ tất cả các vật liệu thực vật.
6Ba lĩnh vực ưu tiên hiện nay là: 1. Trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và xây dựng năng lực
(phản ánh những hoạt động ưu tiên 15 và 19 của GPA, tương ứng những hoạt động ưu tiên 13 và 17
của GPA lần thứ hai); 2. Quản lý và bảo tồn nguồn tài nguyên di truyền thực vật đồng ruộng (phản ánh
hoạt động ưu tiên 2 của GPA, tương ứng hoạt động ưu tiên 2 của GPA lần thứ hai); và 3. Sử dụng bền
vững tài nguyên di truyền thực vật (phản ánh các hoạt động ưu tiên 9, 10 và 11 của GPA, tương ứng
các hoạt động ưu tiên 8, 9 và 10 của GPA lần thứ hai).
7Mục tiêu của Quỹ Tín thác là đảm bảo bảo tồn dài hạn và sẵn có tài nguyên di truyền thực vật cho
lương thực và nông nghiệp với mục tiêu là an ninh lương thực toàn cầu và nông nghiệp bền vững. Quỹ
Tín thác, phù hợp với hiến chương của Quỹ, không làm tổn hại tới đa số những vấn đề đã đề cập đến,
(a) nỗ lực để bảo vệ những tập đoàn duy nhất và nguồn tài nguyên di truyền thực vật có giá trị phục vụ
lương thực và nông nghiệp được bảo quản ex situ, ưu tiên nguồn tài nguyên di truyền thực vật trong
phụ lục I của Hiệp ước Quốc tế hoặc đề cập trong Điều 15.1(b) Hiệp ước Quốc tế; (b) thúc đẩy hệ
thống toàn cầu bền vững, hiệu quả, định hướng mục tiêu về bảo tồn ex situ phù hợp với Hiệp ước
Quốc tế và Kế hoạch Hành động Toàn cầu về Bảo tồn và Sử dụng bền vững Tài nguyên Di truyền
Thực vật phục vụ mục tiêu Lương thực và Nông nghiệp; (c) thúc đẩy việc phục hồi, mô tả, tư liệu hóa
và đánh giá tài nguyên di truyền thực vật phục vụ lương thực và nông nghiệp và trao đổi các thông tin
liên quan; (d) đẩy mạnh tài nguyên di truyền thực vật sẵn có phục vụ lương thực và nông nghiệp; và
(e) xúc tiến xây dựng năng lực quốc gia và khu vực, gồm đào tạo các cán bộ chủ chốt, như trên.
Danh sách các ký hiệu và các từ viết tắt
CBD Công ước Đa dạng Sinh học
CGIAR Nhóm Tư vấn về Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế
CWR Cây hoang dại gần gũi với cây trông
EURISCO Danh mục tra cứu internet châu Âu
In situ Tại chỗ
Ex situ Chuyển chỗ
FAO Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc
GCP Chương trình Thách thức Thế hệ
GIPB Sáng kiến Đối tác Toàn cầu về Xây dựng Năng lực Chọn tạo
Thực vật
GIS Hệ thống Thông tin Địa lý
GPA Kế hoạch Hành động Toàn cầu
GPS Hệ thống Định vị Toàn cầu
GRIN Mạng lưới Thông tin Tài nguyên Nguồn gen
ICT Công nghệ thông tin và liên lạc
In situ Bảo tồn tại chỗ
IPR Quyền sở hữu trí tuệ
Multilateral System (Hệ
thống Đa phương)
Hệ thống đa phương về Tiếp cận và Chia sẻ lợi ích
MYPOW Chương trình Công tác Nhiều năm của Ủy ban
NARS Hệ thống Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc gia
NISM Cơ chế chia sẻ Thông tin quốc gia về thực hiện GPA
PGRFA Tài nguyên Di truyền Thực vật phục vụ mục tiêu lương thực và
nông nghiệp
Second Report (Báo cáo
lần thứ hai)
Báo cáo lần thứ hai về Hiện trạng Tài nguyên Di truyền Thực vật
Thế giới cho Lương thực và Nông nghiệp
the Commission (Ủy ban) Ủy ban về Tài nguyên di truyền cho lương thực và nông nghiệp
the International Treaty
(Hiệp ước Quốc tế)
Hiệp ước Quốc tế về Tài nguyên di truyền thực vật phục vụ lương
thực và nông nghiệp
the Trust (Quỹ Tín thác) Quỹ Tín thác Đa dạng Cây trồng Toàn cầu
WIEWS Hệ thống Thông tin và Cảnh báo sớm Thế giới về PGRFA
WISM Cơ chế Chia sẻ Thông tin Thế giới về Thực hiện GPA
Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai về tài nguyên di truyền thực vật phục vụ mục tiêu
lương thực và nông nghiệp được hội động FAO thông qua tại Kỳ họp lần thứ 143 năm 2011.
Nó cập nhật Kế hoạch Hành động Toàn cầu về bảo tồn và sử dụng bền vững Tài nguyên di
truyền thực vật, được thông qua ở Hội nghị Kỹ thuật Thế giới lần thứ tư về Tài nguyên di
truyền thực vật tổ chức tại Leipzig năm 1996.
Kế hoạch Hành động Toàn cầu lần thứ hai giải quyết các thách thức mới, như biến đổi khí hậu
và mất an ninh lương thực, cũng như những cơ hội mới, bao gồm thông tin, liên lạc và các
phương pháp phân tử. Kế hoạch này bao gồm 18 hành động ưu tiên được tập hợp trong 4
nhóm chính: Bảo tồn và quản lý in situ; bảo tồn ex situ; sử dụng bền vững; và xây dựng năng
lực tổ chức và nhân lực bền vững.
Để biết thêm thông tin, xin vui lòng liên hệ:
Bộ môn Bảo vệ và Sản xuất thực vật
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc
Viale delle Terme di Caracalla
00153, Rome, Italy
Fax: +3906 570 56347
E-mail: [email protected]
Website: http://www.fao.org/agriculture/crops/agp-home/en
Ban biên dịch:
Trần Danh Sửu
Hoàng Thị Huệ
Ngô Thu Hoài
Trung tâm Tài nguyên thực vật
An Khánh, Hoài Đức, Hà Nội, Việt Nam
Tel. +84 - 4 - 33656601