49
John K. Whitmore TỪ HỌC THUẬT KINH ĐIỂN ĐẾN TÍN NGƯỠNG KHỔNG HỌC TẠI VIỆT NAM (Dịch Gỉa: Ngô Bắc) Lời người dịch: Như các học giả nghiên cứu về Việt Nam nhận định, trong vòng quay của lịch sử, xem ra có các chu kỳ Khổng hóa trong dòng sinh mệnh dân tộc Việt, và chu kỳ Khổng hóa này đi liền với ảnh hưởng gia tăng của Trung Hoa trên chính trị và văn hóa Việt Nam. Chúng ta có thể nhận thấy một chu kỳ Khổng hóa cao độ xảy ra dưới thời các vị vua đầu tiên của Nhà Nguyễn, ngay trước khi có cuộc xâm chiếm của người Pháp. Xu hướng Khổng hóa này có thể được xem như phản ứng của Nhà Nguyễn trước trào luu thực dân của Âu Châu phát triển mạnh mẽ lúc bấy giờ, và có thể được nhận thấy qua các chứng cớ hiển nhiên như: - Bộ luật Gia Long là một bản phiên dịch trọn vẹn, ngay đến cả các phần chú thích bộ luật Nhà Thanh, Trung Hoa.

John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

John K. Whitmore

TỪ HỌC THUẬT KINH ĐIỂN ĐẾN TÍN NGƯỠNG KHỔNG HỌC

TẠI VIỆT NAM

(Dịch Gỉa: Ngô Bắc)

Lời người dịch:

Như các học giả nghiên cứu về Việt Nam nhận định, trong vòng quay của lịch sử, xem ra có các chu kỳ Khổng hóa trong dòng sinh mệnh dân tộc Việt, và chu kỳ

Khổng hóa này đi liền với ảnh hưởng gia tăng của Trung Hoa trên chính trị và văn

hóa Việt Nam. Chúng ta có thể nhận thấy

một chu kỳ Khổng hóa cao độ xảy ra dưới thời các vị vua đầu tiên của Nhà Nguyễn, ngay trước khi có cuộc xâm

chiếm của người Pháp. Xu hướng Khổng hóa này có thể được xem như phản ứng của Nhà Nguyễn trước trào luu thực dân của Âu Châu phát triển mạnh mẽ lúc bấy

giờ, và có thể được nhận thấy qua các chứng cớ hiển nhiên như:

- Bộ luật Gia Long là một bản phiên dịch trọn vẹn, ngay đến cả các phần chú thích

bộ luật Nhà Thanh, Trung Hoa.

Page 2: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

- Sự đề cao Khổng học, cùng lúc với sự bài xích và các biện pháp kiểm soát và

hạn chế Phật Giáo, Lão Giáo, chứ không chỉ để bài Thiên Chúa Giáokhông thôi

như hay bị ngộ nhận; chie6`u hướng này trơ nên mạnh mẽ nhất từ thời

Minh Mạng trở đi.

- Sự tham chiếu và rập khuôn cách suy nghĩ, thành lập và quyết định chính sách ngoại giao, như các lời châu phê của vua

Minh Mạng đối với các phái bộ ngoại giao Tây Phương sang tìm cách giao dịch

với Đại Nam.

- Sự áp dụng chế độ thi cử và học trình Khổng học, đề cao và xem tiếng Hoa là

“tiếng nước ta” một cách chính thức, thậm chí gạt bỏ và xem “tiếng Nôm na là cha mách qué”. Khi so sánh với Hàn quốc

trong cùng thời kỳ, tuy Hàn Quốc có phần

bị Khổng hóa và Hán hóa nhiều hơn Đại Nam về mặt chính trị, hành chính, họ vẫn giữ được độc lập về mặt ngôn ngữ nhiều hơn so với Việt Nam dưới thời đầu nhà

Nguyễn. Các vị đại thần gần cận các vua Gia Long, Minh Mạng đều là các người

Minh Hương, như Lề Quang Định, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh v.v, tuy vẫn chống nhà Thanh, nhưng rõ ràng là các

người đã phát huy Khổng học.

- Việt Nam và Hàn Quốc cùng du nhập toàn bộ ý thức hệ Khổng học. Sự áp dụng ý thức hệ Khổng học này tại Hàn Quốc trở

Page 3: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

nên giáo điều hơn, và Khổng học biến thành một thứ tôn giáo chính thức tại đâ. Mặt khác, Hàn Quốc vẫn duy trì một số

tín điều mâu thuẫn với Khổng học, chẳng hạn như sự phân chia giai cấp giữa Văn

Ban và Võ Ban (Yangban và Soban), giữa người miền Bắc và miền Nam, và một vài

nét riêng biệt trong tổ chức gia đình, như mọi quyền thừa kế chỉ dành cho con cháu ngành chính … Trong khi đó, sụ áp dụng

ý thức hệ Khổng học tại Việt Nam có phần lỏng lẻo, sơ sài, gián tiếp hon, xuyên

qua lớp trí thức, quan lại về hưu trở về dạy học tai quê quán, và bị mất dần ảnh

hưởng độc tôn theo nhịp nam tiến của dân Việt

- Nhật Bản, theo truyền thống, luôn luôn đãi lọc và Nhật hóa mọi ý hệ trước khi áp dụng trong đất nước của họ, đối với Phật giáo cũng như Khổng học. Khúc rẽ quan

trọng trong việc du nhập và áp dụng Khổng học của Nhật Bản so với Việt Nam

và Hàn Quốc đã khởi sự với sự áp dụng

thuyết “Tri Hành hợp nhất” của Vương Dương Minh. Từ đó người Nhật vứt bỏ

được lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng

sự thực tập để vun trồng kinh nghiệm. Sự thừa nhận chế độ tướng quân (Shogun) đã làm giảm bớt tính chất chuyên chế của chế

độ quân chủ, cùng lúc dành cho

Page 4: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

các địa phương có tự do hơn trong việc giáo dục. Cơ cấu các “đại gia” (daimyo) cho phép tích lũy tư bản vào một số nhỏ các đại gia tôc. Cùng lúc, chế độ thừa kế

chỉ dành cho con trai trưởng đã đẩy dân số dư thừa ở nông thôn lên thành thị kiếm

sống, tạo thành nguồn nhân lực cho việc

công nghiệp hóa, vứt bỏ tâm lý kinh tế tiểu nông cùng thái độ thủ cựu bám vào

đất đai tổ tiên. Với các sự đãi lọc tinh tế, người Nhật xem ra là dân tộc ngày này giữ lại và thực hành các tinh túy của

Khổng học nhiều nhất, trong số bốn quốc gia Đông Á—Trung Hoa, Việt Nam, Nhật

Bản, Hàn Quốc -- chịu ảnh hưởng của học thuyết này, đến nỗi có tác giả của Tây

Phương đã từng viết một tác phẩm nổi tiếng, ngụ ý sống ở Nhật Bản, bạn sẽ có

“ông Khổng tử” là láng giềng ngay bên cạnh.

- Ngay cả trong cách phục sức, dân gian vẫn truyền tụng lệnh vua Minh Mạng bắt phụ nữ Việt Nam không được mặc váy,

mà phải mang quần, như các phụ nữ Trung Hoa thời nhà Thanh, vốn là dân tộc du mục, chuyên sống trên lưng ngựa, nên

phải thắt tóc bím và mặc quần để thích ứng…

Cuộc xâm chiếm của người Pháp đã đưa đến sự kết thúc chu kỳ Khổng hóa này với sự bãi bỏ các kỳ thi bằng tiếng Hán và sự

Page 5: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

phổ biến tiếng Quốc Ngữ, dùng phương pháp ký âm cho ngôn ngữ thay cho thứ văn tự biểu ý của Trung Hoa. Sự tây

phương hóa Việt ngữ này, theo tác giả Tùng Phong (nhiều phần là bút hiệu của ông Ngô Đình Nhu) trong quyển Chính Đề Việt Nam, bản in lại của Nhà Xuất

Bản Hùng Vương, Los Angeles, Hoa Kỳ, Mùa Thu 1988) đã giúp văn hóa Việt Nam

hoàn toàn không còn lệ thuộc văn hóa Tàu” (trang 482, sách đã dẫn), trong khi

đó “ sự quy phục thuyết Cộng sản sẽ đương nhiên dọn đường cho Dân Tộc Việt

Nam lệ thuộc văn hóa mới của Trung Cộng” (trang 375, sách đã dẫn).

Trong khi Khổng học và chủ nghĩa Cộng sản khác nhau rất nhiều về mặt đạo đức học, tổ chức gia đình, đời sống cá nhân,

cùng như về mặt kinh tế, tài chính (Khổng học hầu như không nói gì về kinh tế, tài

chính, trong khi Tư Bản Luận, kinh điển của Marxism là một tập khảo luận chuyên về kinh tế), Cộng sản Trung Hoa ngày nay

quay lại vận dụng các điểm khả dĩ thích ứng của Khổng học để chống đỡ cho mặt ý thức hệ bị phá sản của họ, đồng thời, để

khoác một tấm áo “dân tộc chủ nghĩa” mới cho Trung Hoa. Tính chất chuyên

chế về mặt chính trị, đề cao kỷ luật và sự trung thành với chế độ, sự khuôn ép mọi người học tập cùng một học thuyết để có

cùng một lối nghĩ, sự thủ cựu trong tư

Page 6: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

tưởng, nghiêm cấm các sự sửa đổi, v.v… là các điểm tương đồng mà Cộng sản Trung Hoa hiện nay đã cố khai dụng

từ Khổng học.

Trong khi Khổng học cũng có một số đóng góp vào tốt đẹp vào việc xây dựng nhân sinh quan lương thiện, đề cao bình đẳng giáo dục và khuyến học, hướng đến một xã hội hòa hài, trung dung, phù hợp

với nền kinh tế tiểu nông, rõ ràng nó không phải là một giải đáp cho một thế giới bước vào một kỷ nguyên phát triển

toàn cầu và phát huy các giá trị nhân bản phổ quát.

*****

Các học giả giờ đây bắt đầu nhìn nhận rằng các tín điều Khổng học không có tính chất nội tại trong bản chất của người Việt Nam và rằng Khổng học như học thuyết chính thống của quốc gia mới chỉ bắt đầu trong thế kỷ thứ mười lăm. Khi đưa ra sự thừa nhận này, chúng ta phải tuân theo sự

phân biệt được đề ra trong các bài viết gần đây của Giáo Sư O. W. Wolters giữa sự sử dụng học thuật kinh điển Trung Hoa và sự tiếp nhận bản thân Khổng học. 1 Nói cách khác, trong các sự giả định tổng quát, hai

đề tài trên không đồng nhất với nhau.

Page 7: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

Chúng có phủ chùm lên nhau, nhưng chúng đã không có cùng một ý nghĩa. Wolters nhìn sự phân biệt này như nằm giữa sự áp dụng “sự học tập về cổ thời”

qua các tiền lệ của nó được đưa ra bởi các văn bản kinh điển của Trung Hoa với sự cam kết thành thật các nguyên lý Khổng

học vào các sự phán đoán đạo đức nội tại trong đó.

Một mặt, đã có sẵn:

Một bộ bách khoa toàn thư về sự thông thái được ghi chép lại mà người Việt Nam có thể tham khảo trong các cung cách xem

ra liên quan đến việc thừa nhận các tình trạng cá biệt … và các biện pháp cá biệt mà các tình trạng đó xem ra đòi hỏi đến.

Một hệ thống ý tưởng mà, trong tổng thể của nó, tạo thành một bản thiết kế cho

trật tự đạo đức của vũ trụ và trật tự xã hội của loài người. 2

Wolters đã khẩn nài các học giả “hãy suy nghĩ hai lần trước khi viện dẫn từ ngữ

“Khổng học” trong lịch sử Việt Nam. 3 “Có một thế giới khác biệt giữa điều trông giống như một kiểu mẫu Trung Hoa nhìn

từ bên ngoài và những khía cạnh nào của

kiểu mẫu được xem là hợp lý cho các mục đích cá biệt trong phạm vi bản thân Việt

Nam. “ Xem là hợp lý” giả định việc lắng nghe theo những gì tương ứng với các nhu

cầu địa phương và các thái độ của tư

Page 8: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

tưởng. 4 Trong cuộc khảo sát này về sự thay đổi từ học thuật kinh điển đến tín

ngưỡng Khổng học tại Việt Nam, tôi sẽ sử dụng tư tưởng phê bình của Wolters để

phác họa các con đường trong đó các tác

phẩm lịch sử và văn chương Việt Nam đã phản ảnh sự thay đổi này. Tôi sẽ đặc biệt

chú tâm vào ba khía cạnh của các tác phẩm này (hình thức, ý thức hệ và nội

dung lịch sử) hầu cung cấp một ý nghìa về các sự thay đổi diễn ra.

Các thế kỷ đầu tiên của sự hiện hữu đối với quốc gia Việt Nam, từ thế kỷ thứ

mười đến thế kỷ thứ mười ba, đã có ít tác phẩm lịch sử, và thi ca Phật Giáo khống

chế mạnh mẽ văn chương thời khoảng đó.

Mặc dù việc học tập kinh điển Trung Hoa đã xuất hiện trong thời nhà Lý (1010-1224), tôi tin rằng việc đó có xảy ra như

thế, như một phần của tín ngưỡng ngoại vi của Triều Đình trong khuôn khổ một kỷ nguyên do Phật Giáo áp đảo. 5 Một bài thơ (kệ) ban đầu của nhà sư vĩ đại Vạn Hạnh tiêu biểu rất xác thực về các mối

quan tâm của các thời điểm này:

Thân như điện ảnh, hữu hoàn vô,

Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. 6; (*a)

Page 9: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

[Người dịch ghi lại phần dịch sang tiếng Anh của cố Giáo Sư Huỳnh Sanh Thông trong nguyên bản và bản dịch sang tiếng

Việt của Ngô Tất Tố để người đọc tiện tham khảo như sau:

A flash – the body is, then is no more,

All plants in springtime thrive, in autumn fade.

Let fortune wheel, dread not its rise and fall –

A dewdrop poised atop a leaf of grass. (Huỳnh Sanh Thông dịch)

Thân như bóng chớp, có rồi không,

Cây cối xuân tươi, thu não nùng.

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi –

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.

(Ngô Tất Tố dịch)]

Các cái nhìn của quá khứ được lưu giữ chính yếu dưới hình thức truyền thuyết,

được truyền qua thời gian bằng lời nói từ miệng và được nối kết với các sự tôn sùng

Page 10: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

thần linh. 7 Chúng ta có thể biểu thị các niềm tin nằm bên dưới sự phát biểu của

các thể kỷ này như hướng đến hiện tại, và, ở một tầm mức nào đó, có tính chất

vô hạn định.

Nhưng với thế kỷ thứ mười ba, các sự thay đổi đã bắt đầu xảy ra., khi mà quá

khứ được tích tụ và khi một nhu cầu lớn hơn về sự kiểm soát chặt chẽ hơn từ nhà nước xuất hiện. Triều đại nhà Trần mới

(1225-1400) bắt đầu tổ chức các kỳ khảo thi không chỉ cho các mục đích tôn giáo

mà còn để tuyển chọn các nhà hành chính cho vương quốc. Trong những năm từ

thập niên 1230 đến 1260, đã khởi sự có sự áp dụng việc học tập kinh điển

Trung Hoa vào hoạt động chính quyền. Các cuộc khảo thí đã mang lại các quan

chức học giả, và các văn nhân trí thức này bắt đầu ảnh hưởng đến hoàng tộc và chế

độ quý tộc (aristocracy). Vào nữa sau của thế kỷ, chúng ta bắt đầu nhìn thấy các

hình thức mới của văn bản biểu lộ các thành tố khác biệt của một phong cách

văn hóa tinh hoa mới. Thay vì các bài kệ

ban đầu về các niềm tin Phật Giáo và sự hư ảo của cuộc sống, đã xuất hiện các tác phẩm với một bản chất khác. Đời sống và

Page 11: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

các xúc động của con người đã mang hình thức cụ thể, và lịch sử bắt đầu được viết

ra. Tại trung tâm của hoạt động này là một nhà vua Việt Nam, được gọi theo miếu

hiệu là Trần Thánh Tông, và các anh em

của ông. Được đào tạo trong các thập niên 1240 và 1250, các hoàng tử này xem ra đã có sự tiếp xúc trực tiếp với giới văn

nhân trí thức và đã chịu ảnh hưởng bởi họ. 8 Trong khi Phật Giáo vẫn còn là hệ

thống tín ngưỡng quan trọng trong thế

giới bao quanh họ và cha của họ, vua Trần Thái Tông, vẫn duy trì một sự lưu

tâm quan trọng theo chiều hướng đó, các hoàng tử đã viết ra các giòng thơ như bài thơ sau đây của vua Thánh Tông:

Yểu điệu hoa đường chú ảnh trường,

Hà hoa suy khởi bắc song lương.

Viên lâm vũ quá lục thành ác,

Tam ngũ thiền thanh náo tịch dương.

[Bài thơ trên có nhan đề Hạ Cảnh, bản dịch sang tiếng Việt của Ngô Tất Tố và

bản dịch sang tiếng Anh trong nguyên bản là của Huỳnh Sanh Thông, chú

của người dịch].

Page 12: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

CẢNH MÙA HÈ

Ngày dài thăm thẳm bóng thềm hoa,

Mát dịu mùi sen thổi trước nhà.

Mưa tạng, trên vườn màn biếc phủ,

Tiếng ve réo rắt dưới trời tà.

Flowers deck the portal in the day’s long shades,

Through the north window wafts sweet lotus scent.

Rain’s stopped – the gardens hung with jasper drapes.

A few cicadas cry and stir the dusk. 9

Cũng chính là nhà vua Thánh Tông là người mà học giả kinh điển Lê Văn Hưu năm 1272 đã đệ trình lên bộ lịch sử Việt Nam sớm nhất còn tồn tại [sic, chỉ tồn tại

một phần chứ không toàn bộ, ND], bộ Đại Việt Sử Ký

(Historical Record of Đại Việt).

Mẫu số chung về mặt hình thức là văn thể được dùng cho các loại khác nhau bởi học

giả kinh điển Trung Hoa. Nhà thơ Việt

Page 13: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

Nam thế kỷ thứ mười ba đã nhận hình thức và các hàm ý tiêu chuẩn được sử

dụng bởi học giả quân tử tại Trung Hoa để tự diễn tả. Trong khi các bài kệ Phật Giáo

trước đây xem ra đã làm theo thể ngũ ngôn, tứ tuyệt (mỗi câu năm chữ, bài thơ

gồm bốn câu) của thời kỳ tiền Đường tại

Trung Hoa, chúng ta bắt đầu nhìn thấy các thể thơ thất ngôn, tứ tuyệt hay đặc biệt

hơn, bát cú, là thể thơ của các đại thi hào

nhà Đường như Lý Bạch (Li Po) và Đỗ Phủ (Tu Fu). 10 Sử gia Việt Nam, tương tự, chấp nhận một văn thể Trung Hoa,

khuôn mẫu theo niên lịch của sử gia nhà

Tống thế kỷ thứ mười một, Tư Mã Quang (Ssu-ma Kuang), cũng như các thông tin của Trung Hoa, để phác họa chân dung quá khứ Việt Nam. 11 Mối tương quan

trong hình thức nằm ở các định nghĩa của

Trung Hoa về học giả và các cách thức khác nhau theo đó nhà học giả diễn tả các quan điểm của mình về thế giới. Ở một

mức độ sâu hơn, vấn đề hình thức hòa lẫn với vấn đề ý thức hệ.

Nội dung ý thức hệ của các tác phẩm này đễ dàng được nhìn thấy về những điều gì nó không chứa đựng. Đặt sang một bên, trong một số trường hợp còn bị bác bỏ

Page 14: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

một cách hung bạo, là các tín ngưỡng xem thế giới là vô nghĩa và một cõi hư không, và các thành tựu thế gian là thoáng chốc mong manh, và rằng các cảm giác mang

tính chất hủy hoại. Thay vào đó, chúng ta gặp gỡ một sự xác quyết về thế giới hữu hình bao quanh cá nhân, một ý nghĩa về các xúc động được cảm thấy bởi các tác giả, và một ý tưởng rằng các thành quả

chính trị thì quan trọng và cần thiết.

Tuy nhiên, trong một nghĩa cụ thể hơn, các văn bản đã không phản anh bất kỳ sự cam kết với Khổng học như một triết lý đạo đức, và cũng không bày tỏ bất kỳ sự quan tâm nào đến các nguồn gốc văn hóa

của dân Việt. Các tác giả có vẻ đã tập trung vào hiện tại của họ, trong một ý nghĩa cụ thể, chứ không siêu hình như

trước đó. Họ đã tự gói mình vào thời đại và kinh nghiệm của chính họ. Như tác giả Wolters nêu ra, 12 sử gia Lê Văn Hưu bận tâm với các vấn đề đặc biệt đối diện với

định chế vương quyền tại Việt Nam.

Ông đã phê bình gay gắt các mô thức trước đó của sự tổ chức chính trị, đặc biệt chế độ đa thê của nhà vua và thủ tục kế ngôi, và sự vắng bóng của một nền độc lập dứt khoát. Trong cái nhìn của ông,

các nhà sáng lập triều đại nhà Lý trước đó

Page 15: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

đã thất bại trong việc cung cấp một “thể loại triều đình” thích hợp cho sự liên tục của quyền lực chính trị độc lập, và, theo

cách nói của Wolters, các kế sách (expedients) thì quan trọng hơn các tiền lệ

đối với ông Hưu. Công việc của sử gia này là trình bày cách thức mà vị chủ nhân

của chính ông đã giải quyết các vấn đề chính trị gai góc, chứ không phải thần

thánh hóa quá khứ hay để phát triển một chủ đề đạo đức cá biệt.

Thi ca cũng không đếm xỉa tới các vấn đề triết lý, nghiêng về việc đối thoại thân mật với thiên nhiên. Chỉ đối với các biến cố chính trị gần cân, nó mới tiếp xúc với bất kỳ loại chủ đề chính trị nào. Giống như

việc viết sử ký mới xuất hiện lần đầu

trong thời gian này, chủ đề kháng chiến chống ngoại xâm cũng đã xuất hiện trong thi ca như thế. Thí dụ, như khi người anh em của vua Trần Thánh Tông, Hoàng Tử Trần Quang Khải đã viết về kinh nghiệm

chiến tranh của chính ông trong cuộc chống trả quân Mông Cổ:

Đoạt sáo Chương Dương độ.

Cầm Hồ Hàm Tử quan.

Thái bình nghi nỗ lực.

Vạn cổ thử giang san.

Page 16: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

[Bài thơ trên nhan đề là Tùng Giá Hoàn Kinh, được dịch sang Việt ngữ bởi Ngô Tất Tố, và sang Anh ngữ trong nguyên bản bởi cố giáo sư Huỳnh Sanh Thông

như sau:]

Bến Chương cướp giáo giặc,

Ải Hàm bắt quân Hồ.

Thì bình nên gắng sức,

Non nước vẫn nghìn thu.

At Chương-dương Ferry, we seized spears.

At Hàm-tử port, we captured Huns.

In peace let’s keep and build our strength.

Forever live these streams and hill.]13

Thế kỷ thứ mười bốn tại Việt Nam chứng kiến một sự liên tục và tăng trưởng của

một loạt các ý thức hệ được tuân hành bởi người Việt Nam, đặc biệt qua ba thập niên đầu tiên. Đạo Phật đã nẩy nở khi các nhà

vua thoái vị, Nhân Tông, Anh Tông và Minh Tông, đảm nhận các vai trò tích cực

Page 17: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

trong sự phát triển văn hóa của nó. Sự thử nghiệm hành chính của nhà Trần trong

thế kỷ trước đó giờ đây bị gạt sang một bên khi các ông hoàng tử, [Trần] Quốc

Tuấn, [Trần] Quang Khải, và các anh em

và thân thuộc của họ, xuất hiện từ các cuộc kháng Mông ở các chức vụ quyền

lực. Song việc học tập kinh điển vẫn tiếp tục tăng cường vai trò của nó trong quốc

gia. Tuy nhiên, giới văn nhân trí thức giờ

đây lệ thuộc vào sự tiếp xúc cá nhân để có chức vụ thay vì sự thăng tiến theo chế độ thư lại. Các cựu chiến binh và các học

giả, các kẻ đỗ đầu trong các cuộc khảo thí và các sĩ tử, bắc cũng như nam, tất cả đều chen chúc nhau tại Triều Đình, tìm kiếm

sự sủng ái của nhà vua, một hoàng tử, hay một nhà quý tộc.

Trong khuôn khổ lỏng lẻo, phi thư lại này của Triều Đình và Kinh Đô Việt Nam,

giới văn nhân trí thức bắt đầu hình thành một cộng đồng. Trong năm 1304, khi lần đầu tiên trong 29 năm Triều Đình tổ chức các cuộc khảo thí, nó đã dành nhiều danh

dự cũng như các chức vụ học thuật và thư

ký tại Kinh Đô cho 44 học giả trúng tuyển. Ngoài ra, 330 học trò ở lại Thăng

Long để tiếp tục sự học tập của họ. 14 Trong hai thập niên kế tiếp, các học giả tài

Page 18: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

năng đã giành được sự sủng ái của nhà vua hay hoàng tử và leo lên chức vụ cao hơn. Trong năm 1323, mười ba người

trong họ được liệt kê là phục vụ trong các chức vụ nổi bật tại Triều Đình, đặc biệt là

chức vụ Hành Khiển [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] hay Cố

Vấn (Counselor), một chức vụ trước đây được nắm giữ bởi các thái giám. 15 Song ảnh hưởng của giới văn nhân trí thức chỉ nằm trong khu vực hành chính và được giữ bên ngoài chính sách ngoại giao và

sinh hoạt Phật Giáo của hoàng tộc.

Sự hiện diện của mười ba học giả kéo dài từ cuối thế kỷ thứ mười ba sang đến phần tư thứ ba của thế kỷ thứ mười bốn. Đây là

các thời khoảng lên men trí thức lớn lao tại Việt Nam, mặc dù các văn bản sống

sót chỉ cung cấp các ngụ ý sơ sài về những

gì đã xẩy ra. Thi ca của giới văn nhân trí thức tiếp tục theo lối thất ngôn tứ tuyệt hay bát cú của thơ Đường. Trong quan

điểm của Wolters, thi ca này phục vụ như một sự biểu tỏ hơn nữa sự độc lập và bình đẳng của Việt Nam. Nhà bách khoa toàn thư đầu thế kỷ thứ mười chín Phan Huy

Chú sẽ phát biểu rằng ông Nguyễn Trung Ngạn đã viết theo kiểu của Wang Ts’ang-ling (?Vương Xương Linh) và Lý Bạch và

Page 19: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

rằng thơ của ông có “đặc tính và bản chất ” của tác phẩm của nhà đại thi hào Đỗ

Phủ. Ông Chú cũng tuyên bố rằng các bài thơ tứ tuyệt của ông Ngạn và vua Minh

Tông không kém gì bài thơ của thời thịnh Đường. Thơ của ông Phạm Sư Mạnh,

trong niềm tin của ông Chú, chắc chắn

hay hơn thi ca của nhà Nguyên đương thời tại Trung Hoa. Các tác giả này cũng viết phú [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của

người dịch], các bài thơ thuật chuyện, theo thể thơ Đường. 16

Giọng văn của giới trí thức tiếp tục chân thực hơn thi ca Phật Giáo, mà theo cách nói của ông Chú “bay lượn như một con

bướm”. 17 Nội dung của thi ca học giả vẫn còn là thiên nhiên và môi trường cụ thể

với các sự ám chỉ tiêu chuẩn đến văn

chương Trung Hoa và sự đề cập ít công khai đến các vấn đề đạo đức Khổng học. Trong một bài thơ điển hình của thời kỳ này, bậc thày của sự học tập kinh điển

Trung Hoa, ông Chu Văn An,

đã viết về Núi Chí Linh như sau [Bản dịch sang tiếng Anh của

Huỳnh Sanh Thông trong nguyên bản]

Page 20: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

A canvas of blue mountains – waves on waves.

The dipping sun still glows for half the stream.

No man along a trail where sprouts green grass.

By fits a magpie cackles at the mists. 18

Dịch nghĩa:

Muôn lớp núi xanh tụ lai như bức bình phong vẽ.

Bóng chiều nhạt rọi tới sáng nửa lòng khe.

Trong lối cỏ biếc, không người đến.

Thỉnh thoảng một tiếng chim thước kêu trong khói mù.

[bài thơ trên nhan đề Linh Sơn Tạp Hứng, nguyên gốc Hán Việt như sau:

Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình

Tà dương đạm mạt bán khê minh.

Thúy la kinh lý vô nhân đáo,

Sơn thước đề yên thời nhất thanh.]

Page 21: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

Và Vua Minh Tông đã mô tả một ngôi chùa Phật Giáo bằng cách từ ngữ nhà thiên nhiên học, chứ không phải siêu

nhiên. Lẫn lộn với các bức tranh thiên nhiên này là các chủ đề lịch sử kháng

chiến gần đó như được thấy trong bài phú

[tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] của Trương Hán Siêu hay và

bài thơ của Minh Tông trình bày các chiến thắng vĩ đại của Việt Nam trong các

năm 938 và 1287 trước quân Trung Hoa trên sông Bạch Đằng. 19

Song mộr sự căng thẳng nào đó được dựng lên trong các năm này giữa khuôn mẫu cổ truyền và sự quan tâm gia tăng

của giới văn nhân trí thức với sự thay đổi xã hội và hành chính. Cùng nhà lãnh đạo, vua Minh Tông, đã phàn nàn về những kẻ

mà ông gọi là “các học giả xanh xao yếu đuối” (pale scholars) mong muốn áp đặt các phương cách phương bắc của Trung Hoa lên trên Việt Nam ở phương nam. Tuyên bố rằng mục đích của Trung Hoa

mà một nền “thái bình” (theo cách phát

âm của tiếng Việt) (“great peace”) đã sẵn hiện hữu tại Việt Nam, Minh Tông đã

nhìn không có nhu cầu cần đặt sang một bên các luật tắc và quy định đã được thiết

Page 22: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

định”. Nếu làm như thế, ông nghĩ, “các sự xáo trộn tức thời” sẽ xẩy ra. 20

Trong khi không có tác phẩm lịch sử theo kiểu Trung Hoa nào hiện diện từ nửa phần đầu của thế kỷ thứ mười bốn, cuộc nghiên cứu của tác giả Wolters về thi ca trí thức cho thấy một sự lưu tâm gia tăng, và địa phương hóa các công thức Trung Hoa về

quá khứ cổ thời, như được nhìn thấy nơi

vương quốc Văn Lang. Nỗ lực này vừa là một sự chứng minh sự độc lập và bình đẳng của Việt Nam, vừa là một sự bình luận trên các vấn đề đương thời. Mặt

khác tác phẩm Việt Nam duy nhất từ thời

kỳ này viết về quá khứ là quyển Việt điện u linh tập (Invisible Powers of the Viet

Realm), biên soạn bởi một người quản thủ kinh sách Phật Giáo, Lý Tế Xuyên. 21 Tác

phẩm này xem ra là đỉnh điểm của cảm

thức hướng về thần linh, vượt thời gian về quá khứ vốn đã hiện hữu trước đó, và sự biên tập quyển sách có thể là một phản ứng trước sự chấp nhận gia tăng khảo

hướng trí thức đối với cuộc sống và lịch sử.

Xuyên qua giữa thế kỷ thứ mười bốn, hai mô thức văn hóa này hiện diện ít nhất

Page 23: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

cách biệt nhau, nếu không phải là thực sự tranh chấp nhau. Chỉ mãi đến phần ba cuối cùng của thế kỷ, các tín ngưỡng

huyền bí bản xứ và khuôn mẫu trí thức mới bắt đầu hòa nhập vào nhau. Hậu cảnh cho diễn tiến trí thức này là cảm thức về

sự khủng hoảng phát sinh nơi người Việt Nam trong sự suy yếu tại Triều Đình vào giữa thế kỷ và các đợt xâm nhập liên tiếp của người Chàm từ thập niên 1360 đến

thập niên 1380. Trong khi trong thập niên

1280, người Việt Nam đã có thể đẩy lui quân Mông Cổ mà không gây thiệt hại lớn lao cho quốc gia, một thế kỷ sau đó người

Chàm đã khiến cho người Việt Nam choáng váng và đã đe dọa phá tan thể chế của họ. Binh đội Chàm, thường được gia

nhập bởi người Việt, đã tùy tiện xâm nhập vùng châu thổ sông Hồng và chiếm đoạt Kinh Đô nhiều lần. Thẩm quyền trung

ương sụp đổ, và Nhà Vua mất quyền kiểm soát trên các nguồn tài nguyên của quốc

gia. Các câu hỏi đã nảy sinh về thẩm quyền của chế độ quân chủ nhà Trần và

truyền thống chính trị của nó. 22

Để đáp ứng với các biến cố này, các tác phẩm của giới văn nhân trí thức mang một giọng điệu trực tiếp. Thi ca của họ nhắm

vào các đề tài của sự quan tâm đương

Page 24: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

thời: Chu Văn An khiển trách nhà vua về sự tham nhũng tại Triều Đình; Trần Nguyên Đán, hậu duệ thuộc dòng dõi

hoàng tử Trần Quang Khải, mô tả các sự xáo trộn và nạn đói. 23 Tiếp tục sử dụng thể thơ Đường thất ngôn tứ tuyệt hay bát

cú, các tác giả, bất luận là học giả hay nhà quý tộc, trở nên rất quan tâm đến số phận của đất nước họ. Như Trần Nguyên Đán

đã ghi nhận trong một bài thơ:

To fly into the sky in broad daylight is easier

Than to find a sage king like Yao or Shun to serve.

After sixty years in this world of dust,

My head spins, I feel confused about the people. 24

[Bản dịch sang tiêng Anh trong nguyên bản là của Giao Sư Hùynh Sanh Thông,

người dịch rât tiệc chưa tìm ra nguyên bản và tạm dịch nghĩa như sau:

Bay vào không gian giữa ban ngày còn dễ Hơn là tìm được một minh quân như vua

Nghiêu, vua Thuấn để phục vụ. Sau sáu mưoi nơi cõi bụi trần này,

Đầu óc tôi quay cuồng, tôi cảm thấy hoang mang về dân tộc tôi]

Page 25: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

Giới tinh hoa Việt Nam bắt đầu đi tìm kiếm minh quân (sage king) kiểu Trung

Hoa để cứu vớt họ, và trong thực tế người hùng đứng lên để cứu nguy quốc gia Việt Nam, Hồ Quý Ly, đã phác họa hình tượng này từ các Kinh Điển Trung Hoa (Chinese Classics) trong nỗ lực để giành đoạt tính

chính thống.

Cùng lúc, nhu cầu của các học giả cho một cảm thức sâu xa hơn về các căn

nguyên văn hóa của mình đã dẫn tới sự kết hợp các khảo hướng huyền bí và trí

thức đối với quá khứ. Vua Nghiêu và vua Thuấn đã không chỉ giúp mang lại tính chính thống cho ngôi vua Việt Nam, họ

còn chiêm giữ các vị trí của họ trong một huyền thoại nguồn gốc hỗn hợp.

Nói theo tác giả Keith Weller Taylor,

“Đây là một thời kỳ khủng hoảng và mất tự tin nơi các viên chức … khi các người học thức đi tìm kiếm một số nguồn mới của sinh lực dân tộc … [cho] một cảm

thức hồi sinh về căn cước của một dân tộc

trôi nổi trong một kỷ nguyên sóng gió”. Mặt khác, mô thức huyền bí cổ xưa tiếp

tục với một cảm thức văn hóa sâu xa hơn trong quyển Lĩnh Nam trích [? chich] quái

(Wonders Gathered from Ling Nan)

Page 26: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

biên soạn bởi một người không nổi tiếng, ông Trần Thế Pháp; 25 mặt khác, các

huyền thoại bắt đầu mang một hình thức Trung Hoa trong quyển Việt Sử Lược

(Short History of Viet) và các tác phẩm của Hồ Tông Thốc. Không may, các tác phẩm của ông Thốc, quyển Việt Nam thế

chí (A Record of the Generations of Yueh Nan) và Việt Sử Cương Mục, chắc chắn

rập khuôn theo Cương Mục (Kang Mu) có tính cách đạo đức của triết gia phái Tân

Khổng Học vĩ đại của Trung Hoa, Chu Hi (Chu His), xem ra đã bị thất lạc ngoại trừ

phần giới thiệu của quyển kể trước. Quan điểm này về quá khứ thích nghi các truyền thống văn hóa bản xứ vào một khuôn khổ triều đại kiểu Trung Hoa đã kéo dài lịch

sử Việt Nam lùi về tới Thần Nông, vị thần nông nghiệp của Trung Hoa, xuyên qua

triều đại Hồng Bàng của mười tám vị vua Hùng và nước Văn Lang. Mục đích của

ông Thốc, như được ghi nhận trong lời nói đầu còn sót lại, là “để nhìn một cách rõ ràng các cội rễ của truyền thống … (và)

các tiêu chuẩn của quá khứ và hiện tại”. 26

Chính vì thế, trong thời khoảng trọng yếu này, các học giả Việt Nam tiếp tục vay mượn các hình thức Trung Hoa về văn

học và biên soạn sử ký để thảo luận về các

Page 27: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

vấn đề của thời đại riêng của họ. Cá biệt, ý thức hệ gắn liền với các hình thức này đã bắt đầu từ đề nghị mình như giải pháp

cho các vấn đề, cho dù người Việt Nam có có thể áp dụng nó một cách hời

hợt đến đâu.

Vấn đề chính trị quan trọng là để tái phát triển thẩm quyền trung ương bị suy yếu và

sự kiểm soát của nó trên các nguồn tài nguyên của vùng nông thôn. Điều này Hồ

Quý Ly đã làm như thế, trước tiên như một đại thần nhiều quyền lực,

sau đó như một vị vua.

Quý Ly và những người ủng họ ông gạt triều đại nhà Trần sang một bên và đã giới hạn số đất đai và nhân lực được kiểm soát

bởi giới quý tộc. Khoác lấy lớp y phục kinh điển Trung Hoa, Quý Ly trước tiên

đảm nhận vai tuồng như của Chu Công và

sau đó vai trò của vị hoàng đế trong thần thoại, vua Thuấn. Ông đã ủng hộ cho sự nghiên cứu kinh điển Trung Hoa và tổ chức các kỳ khảo thí, nhưng ông đã sử

dụng các học giả thành đạt vào các chức vụ học thuật và văn hóa, chứ không phải

các chức vụ hành chính. 27

Từ thời trị vì của Quý Ly vào các năm đầu tiên của thế kỷ thứ mười lăm, nảy sinh ra

Page 28: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

một số học giả nổi tiêng, trong đó người lừng danh nhất là một Nguyễn Trãi vĩ đại. Tuy nhiên, thế hệ này nói chung thụ động hơn thế hệ trước. Nó chấp nhận sự kiến tạo lịch sử mới cho thời quá khứ xa xăm,

và thi ca của nó đi theo một khuynh

hướng khá co rút lại. Ảnh hưởng bởi triết gia Trung Hoa theo đạo Lão, Trang Tử,

các học giả này tự nhìn mình như các ẩn sĩ tìm cách theo đuổi các sự học tập của mình trong lòng thiên nhiên, và không muốn dính líu vào chức vụ hay hành vi

chính trị. Một người trong họ, ông Lý Tử Tấn, đã ghi nhận:

What makes men rush and run all through their lives?

O hurly-burly world of wealth and fame!

The cosmos turns ghost horses loose afield.

Time will outlast a Yellow Millet Dream.

Why try so hard and draw a snake with feet?

Who knows that crabs may strut but want for guts?

Delight in virtue, how to Heaven’s will.

You take whatever happens, gain or loss. 28

Page 29: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

[Người dịch chưa tìm ra bản chính bằng Việt Hán và tạm dịch nghĩa như sau:

Điều gì khiến người ta phải hối hả suốt cuộc đời?

Ôi thế giới rối beng của của cải và danh vọng!

Vũ trụ an hòa thả cương cho các con ngựa ma quỷ chạy hoang.

Thời gian sẽ lâu hơn một Giấc Mộng Kê Vàng.

Tại sao lại phải khổ nhọc đến thế và vẽ thêm chân cho con rẳn?

Ai biết được rằng các con cua có thể đi ngênh ngang nhưng lại thiếu can đảm?

Để làm vừa lòng đích thực theo Ý Trời,

Bạn hãy đón nhận bất kỳ điều gì xảy ra, dù lợi hay hại.

Mục đích của họ là một đời sống giản dị, và họ chấp nhận các trào lưu xã hội, văn hóa, và chính trị chảy quanh họ, không

đáp ứng một cách tích cực với các biến cố của thời đại của họ.

Page 30: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

Và các biến cố này lại thật lớn lao. Cuộc xâm lăng của nhà Minh vào các năm

1406-1407 quét Hồ Quý Ly sang một bên và đập nát cuộc phản kháng của nhà Trần kéo dài bẩy năm kế đó. Trong hai mươi năm, người Trung Hoa đã biến Việt Nam

thành một thuộc địa, 29 nhưng mười năm sau cùng chứng kiến Lê Lợi lãnh đạo một cuộc nổi dậy từ phương nam và đánh đuổi

quân xâm lược lùi về phương bắc. Nhà Lê đã thiết lập một triều đại mới mà tiếp

theo sau sự băng hà của nhà vua sáng lập, đã chứng kiến ba thập niên

của mưu mô và

các cái chết trẻ đột ngột của ba nhà lãnh đạo liên tiếp. Qua các năm trong đời sống của họ, cho đến thập niên 1450, các nhà

học giả của thời khởi đầu thế kỷ thứ mười lăm và các đệ tử của họ đã duy trì một sự

tĩnh lặng bền vững, đã phục vụ các nhà

lãnh đạo của họ, và thấy không có nhu cầu phải mang lại sự thay đổi cho quốc gia. Các chức năng chính của họ trong triều

đại mới là soạn thảo các bài tán tụng thi vị

về tầm vĩ đại của sự chiến thắng của Lê Lợi trước nhà Minh, thường dưới hình

thức các bài phú [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch], và đảm nhận

trách vụ giáo dục tại Triều Đình. 30

Page 31: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

Việc viết sử, giống như thi ca, đã không tìm cách mang lại sự thay đổi, mà nhằm

xác nhận khuôn mẫu đã được thiết lập hồi cuối thế kỷ thứ mười bốn. Sự kiện này

chúng ta có thể nhìn thấy cả trong quyển Dư Địa Chí theo kiểu Trung Hoa biên

soạn bởi Nguyễn Trãi và các đồng sự của ông hồi thập niên 1430 lẫn trong sự biên

soạn sơ khởi của Phan Phu Tiên một bộ sử ký cập nhật của Việt Nam hai mươi năm sau đó. Hai tác phẩm giữ tại huyền thoại về nguồn gốc mới, trở lùi tới Thần Nông

và được đánh dấu bởi một tư tưởng bảo thủ

tìm cách gìn giữ khuôn mẫu văn hóa, giờ đây là truyền thống, cho được y nguyên. Để duy trì nền “thái bình”, Phan Phu Tiên thúc dục, quốc gia đã phải giữ một chính

quyền trung ương mạnh và các khuôn mẫu

truyền thống mà không có sự thay đổi quyết liệt hay các quan chức ồn ào, và ông đã trích dẫn nhận xét của vua Trần Minh Tông từ một thế kỷ trước đó về “các nhà học giả xanh xao yếu đuối” mà chúng ta

đã ghi nhận bên trên. 31

Chỉ có Nguyễn Trãi mới là một ngoại lệ quan trọng đối với tính thụ động nói

chung của thế hệ của ông. Trong khi thi ca và các văn bản lịch sử của ông chia sẻ

Page 32: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

một phần tư tưởng bảo thủ và ước muốn một đời sống giản dị được chủ trương bởi các đồng sự của mình, ông đã tiếp nhận một cách nghiêm chỉnh hơn nhiều phán quyết của Khổng học về việc phục vụ

quốc gia. Trong tư tưởng của các tác giả sau này, ông là kẻ “trung quân” (loyal). 32 Cháu ngoại của một hoàng tử và đại thần,

Trần Nguyên Đán, và con trai của ông Nguyễn

Phi Khanh, một học giả nổi tiếng hồi cuối thế kỷ thứ mười bốn, 33 ông Trãi mạnh mẽ

tin tưởng một vai trò tích cực. Ông là người duy nhất trong thế hệ các học giả

của mình đã đảm nhận chức vụ hành chính dưới thời Hồ Quý Ly, giống như

cha của ông, và sau đó dưới trào các vua

nhà Lê. Các vần thơ của ông phản ảnh rất rõ sự căng thẳng mà ông cảm thấy: ông nên ảnh hưởng đến thời đại như thế hệ

trước đây đã làm, hay ông nên sống một cuộc sống đơn giản của một học giả như

thế hệ của ông đã làm? Tuy nhiên, sau hết sự phục vụ đã là chủ đề nổi bật của ông:

You sit and watch the months and days slip by.

In your duties you’ve failed – at Court, at home.

Page 33: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

A head of scraggly hair bows under shame.

An idle body totters with old age.

Your country seems a thousand miles away.

You grieve you life at night – the drum strikes three.

How will you ever settle long-owed debts?

How to requite your Prince, your Teacher, your Father? 34

[Người dịch chưa tìm được nguyên bản và tạm dịch nghĩa như sau:

Ngươi ngồi yên và ngắm nhìn ngày tháng trôi qua.

Ngươi đã thất bại trong các nhiệm vụ của mình – tại Triều Đình, trong gia

đình.

Một cái đầu với mái tóc lởm chởm gục mặt trong sự xấu hổ.

Một thân xác ù lì nghiêng ngả với tuổi già.

Đất nước ngươi xem ra xa cách nghìn dặm đường.

Page 34: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

Ngươi đau đớn phận mình trong đêm tối – trống điểm canh ba.

Làm cách nào ngươi lại thanh trả được các món nợ từ lâu?

Làm cách nào ngươi có thể đền đáp ông Hoàng của ngươi, bậc Thầy của ngươi,

người cha của ngươi?.

Ông Trãi đã quay lại Triều Đình và ở đó ông đã gặp cái chết giữa các mưu mô của thời đại:.

Lợi dụng các cuộc tranh chấp quyền lực này, một tthế hệ mới các học giả đã xuất

hiện vào giữa thế kỷ thứ mười lăm để thách đố không chỉ các đồng sự già nua

hơn họ và chế độ đại tộc quả đầu

(oligarchy) kiểm soát nhà nước, mà còn cả ý thức hệ và cơ cấu của chính nhà nước.

Giới văn nhân trí thức trẻ hơn này lập luận cho việc đi theo các khuôn mẫu tân tiến của Trung Hoa Nhà Minh đương thời và

chống lại tư tưởng bảo thủ và các hình thức cổ

truyền của các người lớn tuổi hơn họ.

Vào khoảng 1470, họ và nhà vua trẻ Lê

Page 35: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

Thánh Tông đã biến cải quốc gia Việt Nam và đã gắng sức để thay đổi xã hội Việt Nam. Hành chính khoác một hình thức thư lại Trung Hoa, và lần đầu tiên

Học Thuyết Tân Khổng học Trung Hoa đã trở thành ý thức hệ chính thức của nhà

nước. 33 Tác phẩm của thế hệ trí thức

mới này phản ảnh tư tưởng tích cực cùng mục đích đạo lý của họ. Bởi họ đã tố

chức quốc gia, họ đã làm thơ của họ như thế và đã khống chế các chủ đề của nó với

nhiệt tình đạo đức của nhà Tân Khổng học. Lịch sử của họ cũng mang ý kiến

nặng về đạo đức hơn này.

Từ thời điểm mà sự biến cải hành chính và chính trị đã đạt được vào cuối thập niên 1460, [Lê] Thánh Tông và các triều thần của ông khởi sự sự sáng tác tập thể thi ca giáo huấn của họ. Tập thơ đầu tiên, có

nhan đề rất hoa mỹ, Anh Hoa Hiếu Trí

Thi Tập 36 (A Collection of Poetry on the Splendor of Filial Piety (being

Paramount), được biên soạn nhân cuộc du hành về quê cha đất tổ nhà vua. Trong khi di chuyển xuyên qua vùng thôn quê, các

bạn đồng hành họa thơ liên hoàn của nhau, và trên đường quay trở về kinh đô,

đã biên soạn

Page 36: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

chúng thành tập thơ nói trên. Chủ đề hàm chứa là thần dân vâng lời nhà cai trị theo

cùng cung cách mà đứa con phục tùng cha của mình. Ngay trong chiến dịch mang lại

chiến thắng phá tan quân Chiêm trong 1470-1471, [Lê] Thánh Tông đã có thể viết thơ về các ấn tượng ghi khắc trong

ông bởi các quang cảnh mà ông đã chứng kiến. 37

Sau này trong thời trị vì của ông, nhà vua văn chương này cho tập hợp các nhà thơ chính yếu của vương quốc để thành lập Thi Đoàn Tao Đàn (Altar of Literature)

nổi tiếng của ông. Chính ông đã đóng vai trò Nguyên Soái đứng trên “hai mươi tám văn tinh”, các nhà thơ bao quanh ông. 38

Nhóm sẽ bắt đầu với một đề tài được ấn định như vua Thánh Tông đưa ra trong

câu thơ thứ nhất. Sau đó các triều thần sẽ họa thơ theo cùng chủ đề. Cuộc thảo luận

sau đó về thi phong và sự hợp cách của các câu thơ. Hình thức được dùng căn

bản vẫn là thể thơ theo Đường Luật.

Trong một thí dụ, vua Thánh Tông họa câu thơ lịch sử của nhà học giả Khổng học

thời Minh, Ch’ien Tzu-I [?], và các phó soái văn học của nhà vua, Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận, đã đưa ra các lời

bình luân. 39 Một thí dụ nổi tiếng nhất của khảo hướng thi ca này là tập

Page 37: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

Quỳnh Uyển Cửu Ca (Nine Songs of the Ruby Garden (hay

Garden of the Immortals: Vườn của các kẻ bất tử) trong đó vua Thánh Tông mở bước cho các triều thần ở mỗi trong chín đề tài tổng quát. Nhiều trăm bài về các đề tài này bao hàm vũ trụ Tân Khổng học, từ ông Trời xuyên qua nhà lãnh đạo, các

thượng thư tài giỏi, các thần dân tao nhã và thông thái, giới văn nhân trí thức, hòa

bình và trật tự cho đến cái đẹp

của một bông hoa. Mục đích là sự hợp nhất đao đức. Vua Văn và Vua Vũ, các nhà lãnh đạo Trung Hoa đức hạnh của thời ban sơ nhà Chu, gia nhập cùng với các Vua Nghiêu và Vua Thuấn trong

truyền thuyết như các nhân vật quan trọng trong câu thơ. 40 Như một chỉ dẫn cho nội dung, chúng ta hãy trích dẫn bài thơ mở

đầu của Thánh Tông về Quân Đạo [tiếng Việt trong nguyên bản, ND]

(The Way of the Ruler):

Ponder the Ruler’s Way with utmost care.

Feed men on earth, fear Heaven throned above.

Protect the realm – walk in the ancients’ steps.

Page 38: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

Cleanse cravings from the heart – go on no hunt.

Wide choice of talents spread the scholars’ faith.

Weapons in plenty build the soldiers’ pride.

Light your jade torch and see your subjects’ needs.

May we and all our neighbors live at peace. 41

[Người dịch chưa tìm ra bản chính và tạm dịch nghĩa như sau:

Suy tư về Quân Đạo với sự cẩn trọng tối thượng.

Nuôi người trên trái đất, kính sợ Trời ngự trị trên cao.

Bảo vệ vương quốc – đi theo các bước chân của người xưa.

Tẩy sạch các thèm khát ra khỏi con tim – không cần săn đuổi gì nữa.

Tuyển chọn rộng rãi các tài năng để làm tỏa rộng niềm tin của giới học giả.

Vũ khí đầy đủ xây đắp niềm hãng diện của các binh sĩ.

Page 39: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

Thắp sáng ngọn đước ngọc của ngươi và nhìn được các nhu cầu của thần dân

ngươi.

Chúng ta và mọi người lân cận có thể sông trong hòa bình.]

Tác phẩm lịch sử mang cùng ý nghĩa về đạo đức và bổn phận này. Bị gạt sang một bên là tư tưởng bảo thủ và tính thụ động

của thế hệ trước đó, và sự tìm kiếm về các nguồn gốc hồi cuối thế kỷ thứ mười bốn

bị đông cứng trong khuôn khổ của kiểu mẫu, giờ đây được chấp nhận về lịch sử

Việt Nam. Ngoài ra, vấn đề không phải là về các giải pháp chính trị, như nó đã xảy ra đối với ông Lê Văn Hưu hai trăm năm

trước đó, mà là cách thức để cai trị

quốc gia trong cung cách khả dĩ chấp nhận được về mặt đạo đức của vị Hoàng

Đế Tân Khổng học. Trong khi [Lê] Thánh Tông bắt đầu tác phẩm về lịch sử theo phong cách được tổ chức một cách

điển hình, kết quả chung cuộc là nỗ lực riêng tư của nhà học giả Ngô Sĩ Liên. 42

Giữ lại hình thức biên niên giờ đây là tiêu chuẩn, Ngô Sĩ Liên đã xen kẽ vào đó bằng

một hàng rào bao yểm bằng lời bình luận đạo đức.

Page 40: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

Trong khi Lê Văn Hưu lo âu về các vấn đề triều đại và chính trị như sự kế ngôi và Phan Phu Tiên quan tâm đến một chính quyền trung ương yếu kém, Sĩ Liên đả kích các thành tố vô đạo đức của tình

trạng. Đối với ông Hưu, mô thức kết hôn

trong hoàng tộc của các thế kỷ thứ mười và mười một có nghĩa các cuộc đấu tranh

quyền lực trong hệ thống thân thuộc lưỡng hệ [hai bên phụ hệ và mẫu hệ] phổ biến tại Đông Nam Á; đối với [Ngô] Sĩ Liên, kiểu mẫu hôn thú này phá vỡ các quan hệ xã hội thích đáng và đã tạo lập một thí dụ

về một hoàng tộc bất chính nhất và nguy hiểm cho các thế hệ tương lai. Chữ hiếu và hệ thống phụ hệ cấu thành các chủ đề khống chế cho [Ngô] Sĩ Liên, trong khi ông Hưu rõ ràng là ít để ý đến chúng.

Một vấn đề cho [Ngô] Sĩ Liên là thói quen nhất quán của Việt Nam từ thời ban sơ là không đợi một năm sau khi có sự băng hà của một nhà vua trước khi bắt đầu thời trị vị của người kế ngôi. Như ông đã phản

đối, “Một năm không thể có hai

nhà lãnh đạo!”, có nghĩa tổng quát là người con không nên xâm lấn vào sự cai trị của vua cha. Ngay sự phát triển một quyền lực trung ương mạnh không thể

miễn tội cho tính vô đạo đức, và [Ngô] Sĩ

Page 41: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

Liên đã không thể gia nhập cùng ông Phan Phu Tiên trong sự ca ngợi những gì

mà Hồ Quý Ly đã làm cho Việt Nam. Một sự khác biệt khác giữa [Ngô] Sĩ Liên

và các sử gia trước đó nằm ở sự đối xử với người ngoại quốc. Trong tình trạng

khi mà một nhà vua Việt Nam đem gả một

vị công chúa sang xứ Chàm hồi giữa thế kỷ thứ mười hai, ông Hưu đã nghĩ hành vi

này là không khôn ngoan bởi trong tư tưởng của ông, nó biểu lộ cho sự yếu kém của Việt Nam và khuyến khích các cuộc

tấn công của nước ngoài.

Mặt khác, [Ngô] Sĩ Liên cảm thấy rằng bất kỳ sự thương thảo nào như thế với các giống dân mọi rợ không văn minh là sai lầm và phải được chi phối bởi sự “chính

trực” (righteousness) của Khổng học. Trong sự thuần khiết của các tín điều Tân Khổng học của mình, Sĩ Liên còn

nghiêm khác phê phán cả các niềm tin của giới trí thức Việt Nam trước đó. 43

Chính vì thế, cả sử ký của [Ngô] Sĩ Liên lẫn các bài thơ trong Triều Đình đã nhìn nhà lãnh đạo Việt Nam về mặt các nguồn lực đạo đức đã nối kết Trời, Đất, và Con Người với nhau. Bằng việc cai trị khôn ngoan và tuân theo các mệnh lệnh của

Trời, thông điệp minh bạch nói tiếp, nhà

Page 42: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

vua duy trì sự hòa hợp vũ trụ và mang lại hòa bình và thịnh vượng cho quốc gia của

mình. Nội dung đạo đức của văn hóa Khổng Học Trung Hoa, sau hai thế kỷ, đã tiến tới việc khống chế cả các tác phẩm văn chương lẫn lịch sử của Việt Nam.

Trong khi hình thức vẫn tiếp tục giữ

nguyên, nội dung đã nhất thiết biến đổi. Giới trí thức Việt Nam đã dùng các thể

thơ nhà Đường và thể viết sử ký của nhà

Tống trong toàn thể thời kỳ này. Nhưng họ đã bắt đầu trong thế kỷ thứ mười ba

bằng cách hướng tiêu điểm vào các đề tài hữu hình cụ thể cho thi ca của họ và vào

các vấn đề chính trị trực tiếp

trong sử ký của họ. Trong một trăm năm, khuôn mẫu này được tiếp tục và phát triển mà không có các sự thay đổi quan trọng. Rồi thì cuộc khủng hoảng trong hậu bán

thế kỷ thứ mười bốn đã mang các sự quan tâm đương thời đến với thi ca và đã hướng

dẫn tác phẩm lịch sử vào một cuộc tìm kiếm các nguồn gốc văn hóa. Tính chính

thống suy yếu của ngôi

vua Việt Nam đã mở đường cho các chủ đề kinh điển Trung Hoa trở thành một

phần của di sản Việt Nam. Tư tưởng bảo thủ và sự ẩn dật của giới học giả tiếp nối hồi đầu thế kỷ thứ mười lăm, chỉ bị khắc phục bởi tư tưởng tích cực hiện thân nơi

Page 43: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

vua Lê Thánh Tông và Triều Đình của ông sau này trong thế kỷ.

Trong khi hình thức của các tác phẩm tự nguyên thủy chỉ là một trong một số sự vay mượn văn hóa từ Trung Hoa và các nơi khác, các sự thay đổi trong nội dung

của các tác phẩm phản ảnh sự biến đổi lớn lao đã diễn ra tại Việt Nam trong suốt

dòng chảy của ba thế kỷ này. Các chủ đề cùng chia sẻ của hai loại cung cấp bằng

chứng cho nhịp độ của sự thay đổi. Thay vì sự tuyển chọn chiết trung trong số các thành tố văn hóa Trung Hoa và các thành tố văn hóa khác, người Việt Nam sau rốt

đã lựa chọn ngay chính mô hình

Khổng học Trung Hoa và thiết lập nó làm lý tưởng của giới tinh hoa. Trong bốn thế kỷ kế tiếp, nó sẽ vẫn giữ nguyên như thế. Song truyền thống lịch sử Việt Nam bản xứ vẫn còn giá trị và tiếp tục vượt quá sự

hiện diện của mố thức ngoại quốc, mặc dù

đã được phổ thông hóa. Các nguồn gốc văn hóa của người Việt Nam giờ đây đã là

một phần của lịch sử chính thức, và các trận đánh vĩ đại trong quá khứ đã hiện

diện như nội dung văn chương. Nhiệt tình đạo đức của thời đại mới tại Việt Nam sẽ

không xóa bỏ chúng./-

Page 44: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

CHÚ THÍCH:

Ý chính của bài khảo luận này đã được trình bày lần đầu như một tham luận tại

phiên họp của Hội Sử Học Hoa Kỳ (American Historical Association), Hoa

Thịnh Đốn.: Tháng Mười Hai, 1976.

1. O. W. Wolters, “Lê Văn Hưu’s Treatment of Lý Thần Tông’s Reign

(1127-1137)”, trong sách đồng biên tập bởi C. D. Cowan và O. W. Wolters,

Southeast Asian History and Historiography (Ithaca, N. Y., 1976), 203-

226; “Historians and Emperors in Vietnam and China”, trong sách đồng biên

tập bởi A. Reid và D. G. Marr, Perceptions of the Past in Southeast Asia (Singapore, 1979a), 69-89; “Assertions of

Cultural Well-Being in Fourteenth-Century Vietnam, Part I”, Journal of

Southeast Asian Studies (JSEAS), 11, 1

(1980), 74-90; History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives (Singapore, 1982a)); “Phạm Sư Mạnh’s

Poems Written While Patrolling the Vietnamese Northern Border in the Middle of the Fourteenth Century”,

JSEAS, 13, 1 (1982b), 107-119, được ấn hành lại với bản tu chỉnh trong The

Vietnam Forum (TVF), 4 (1984), 45-69;

Page 45: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

“Celebrating the Educated Official: A Reading of Some of Nguyễn Phi Khanh’s Poems”, TVF, 2 (1983), 79-101; và bài khảo luận của ông xuất hiện trong sách biên tập bởi D. G. Marr và A. Milner, Southeast Asia, Ninth to Fourteenth

Centuries (sắp xuất bản).

2. Wolters (1979a), 75-85, 89 (các đoạn trích dẫn, các trang 83-84); (1979b), 437,

447; (1983), 87-88.

3. Thông tin cá nhân (29 Tháng Mười 1984).

4. Thông tin cá nhân (2 Tháng Mười Hai 1984), sự nhấn mạnh là trong nguyên bản.

5. Xem các bài viết của K. W. Taylor và J. K. Whitmore trong sách biên tập bởi Marr

& Milner (sắp xuất bản).

6. Huỳnh Sanh Thông, The Heritage of Vietnamese Poetry (New Haven, Conn.,

1979), 18.

7. Keith Weller Taylor, The Birth of Vietnam (Berkeley, Cal., 1983), 354-355.

8. Émile Gaspardone, “Bibliographie

annamite”, Bulletin de l’École Franҫaise d’Extrême-Orient, 34 (1934), 87-88.

9. Thông (1979), 116.

10. Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, bản dịch (Hà Nội,

1961), IV, 58.

Page 46: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

11. Taylor (1983), 351, 358.

12. Wolters (1976); (1979a).

13. Thông (1979), 2-3.

14. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (TT), VI, 19a-b; bản dịch (Hà Nội, 1971-1973), II,

99; Chú (1961), III, 8, 37.

15. TT, VI, 41b; II, 125-126; Vietnamese Studies (Hà Nội), 21 (1969), 60; Chú

(1961), II, 21, 69; Wolters (1979b), 436; (1980), 85-86, n. 58; (sắp xuất bản).

16. Chú (1961), IV, 65-70; J. R. Hightower, Topics in Chinese Literature (Cambridge, Mass., 1965), 69-70. Cuộc

thảo luận của Wolters về các “nhân chứng” của thế kỷ thứ mười bốn và thi ca của họ [để xét] liệu có giá trị lớn lao ở đây hay không; xem (1979b); (1980); (1982a), 73-82, 105-1-7; (1982b); (1983); (1984).

17. Chú (1961), IV, 73.

18. Thông (1979), 119; Wolters (1982b), 108.

19. Nguyễn Khắc Viện và các tác giả khác, Anthologie de la littérature

vietnamienne (Hà Nội, 1972), I, 106-110; Chú (1961), IV, 69; Thông (1979), 5;

Wolters (1980), 78; (1982a), 78.

20. TT, VII, 21a-b; II, 160-161; Wolters (1979b), 444, 447; (sắp xuất bản).

Page 47: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

21. Muốn xem công trình của Wolters xem chú thích 17 [sic, ?1] bên trên; muốn biết về Việt điện u linh tập, xem Taylor

(1983), 352-354.

22. J. K. Whitmore, Vietnam, Hồ Quý Ly, and the Ming, 1371-1421 (New Haven,

Conn., 1985), các chương 1-2.

23. Viện (1972), 112, 123; Thông (1979), 41, 154; Wolters (1980), 79; cũng xem

Wolters (1983); (sắp xuất bản).

24. Viện (1972), 124; Wolters (1982a), 77.

25. Taylor (1983), 354-357 (trích dẫn, các trang 356-357); Wolters (1980), 80.

26. Việt Sử Lược, bản dịch (Hà Nội, 1960), 13-14; Gaspardone (1934), 50; Chú (1961) IV, 118 (trích sẫn); Taylor (1983),

351-352; Wolters (1980), 76, 81, 86 và cước chú số 59 (sách sắp xuẩt bản). Keith Weller Taylor đã đưa ra một lập luận đáng khâm phục tại phiên họp của Hội Sử Học Hoa Kỳ tại Philadelphia, Pa., Tháng Ba

1985, rằng quyển Việt

Sử Cương Mục của Hồ Tông Thốc trong thực tế đã được tồn trữ tại Trung Hoa, bị tước bỏ phần bình luận tự cao tự đại của

nó, và được đổi tên lại thành Việt Sử Lược. Muốn có thêm các sự thảo luận về

các công trình được kể ở đây, xem bài

Page 48: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

khảo luận của Esta Unger trong sách biên tập bởi Marr & Milner (sắp xuất bản).

27. Whitmore (1985), các chương 3-4; Wloters (1983), 83-85, 88.

28. Thông (1979), 85; cũng xem các trang 12, 48-49, 86, 129, 172-173.

29. Whitmore (1985), các chương 5-6.

30. J. K. Whitmore, Transforming Đại Việt: Politics and Confucianism in the Fifteenth Century (sắp xuất bản), các

chương 2-3.

31. Nguyễn Trãi Toàn Tập, bản dịch (Hà Nội, 1969), 186-187, 191; TT, I, 1a-5b; VII, 21a-b; I, 59-63; II, 160-161; Taylor (1983), 358; Wolters (1980), 88-89; (sắp

xuất bản).

32. Chú (1961), IV, 79; Nguyễn Dữ, Vaste receuil de legends merveilleuses (Truyền Kỳ Mạn Lục), bản dịch (Paris,

1982), 246. 33. Wolters (1983).

34. Tôi xin cám ơn ông Huỳnh Sanh Thông về việc cho phép tôi được dùng bản dịch chưa được ấn hành này. Xem,

Thông (1979), rải rác, để có nhiều bài thơ khác của Nguyễn Trãi.

35.Whitmore (sách sắp xuất bản), chương 5.

36. TT, XII, 48a; III, 222.

Page 49: John K. Whitmore - Việt Nam Classical fileđược lối học từ chương, không tuyển nhân sự làm việc công bằng khảo thí mà bằng sự thực tập để vun

37. Gaspardone (1934), 103-104.

38. Maurice M. Durand & Nguyễn Trần Huân, Introduction à la literature vietnamienne (Paris, 1969), 71.

39. Garpardone (1934), 104-105; Chú (1961), IV, 76; Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên (Saigon,

1961), I, 113-121.

40. Chú (1961), IV, 75; Durand & Huân (1969), 71-72; J. K. Whitmore,

“Vietnamese Historical Sources”, The Journal of Asian Studies, 29, 2 (1970), 385-386; TT, XIII, 71a-b; III, 312-313;

Thiên nam dư hạ tập (A. 334).

41. Thông (1979), 33; Wolters (1980), 89.

42. Taylor (1983), 357-359.

43. J. K. Whitmore, “Note: The Vietnamese Confucian Scholar’s View of His Country’s Early History”, trong sách

đồng biên tập bởi K. R. Hall & J. K. Whitmore, Explorations in Early

Southeast Asian History (Ann Arbor, Mich., 1976), 193-203; (sắp xuất bản),

chương 5./-

NewEditor: Giòng Bách Việt