Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 29/08)
VN - Index 988,17 0,71%
HNX - Index 112,78 0,48%
D.JONES CK Mỹ 26.124,57 0,23%
STOXX CK C.Âu 3.456,13 0,25%
CSI 300 CK TQ 3.386,57 0,40%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 30/08)
SJC Ng.đ/L 36,730 0,03%
Quốc tế USD/Oz 1207,4 0,00%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.683 0,04%
EUR/USD 1,1705 0,15%
Dầu
WTI USD/th 69,65 1,55%
6
Thực tế cho thấy giá trị nợ xấu được xử lý
theo Nghị quyết 42 đã đạt được kết quả tích
cực chỉ sau 1 năm Nghị quyết được ban
hành. Ngoài ra, với các khoản nợ đã bán cho
VAMC chủ yếu đều có tài sản đảm bảo là
BĐS, thì trong tình hình thị trường BĐS đang
tiếp tục phục hồi tốt sẽ càng giúp các ngân
hàng có thể tự mình xử lý nhanh hơn. Đứng
ở góc độ tài chính, việc mua lại nợ xấu từ
VAMC không chỉ giúp các ngân hàng giảm
được áp lực dự phòng rủi ro những năm kế
tiếp, mà còn có cơ hội hoàn nhập dự phòng
đối với các khoản đã trích trước đó khi thu
hồi nợ xấu thành công.
Thứ Năm, ngày 30/08/2018
Tin nổi bật
Tăng trưởng tín dụng thấp nhất 4 năm qua
Lãi suất tăng không hẳn do căng thanh
khoản
Vì sao các NH muốn mua lại nợ xấu đã bán
cho VAMC?
Kinh tế Việt Nam 8 tháng qua các chỉ số
Giá thực phẩm đẩy CPI tháng 8 tăng trở lại
VN xuất siêu 2,8 tỷ USD trong 8th/2018
Sau khi điều chỉnh, kinh tế Mỹ tăng trưởng
4,2% trong Q.II
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Tăng trưởng tín dụng đang thấp
nhất 4 năm qua
Theo báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và
tình hình KT-XH tháng 8 và 8th/2018 Bộ KH&ĐT ngày 29/08, TTTD
8th/2018 ở mức 8,18%. Với mức 8,18% nói trên, TTTD 8th/2018 đang ở
mức thấp nhất trong 4 năm trở lại đây. Thông thường, mức TTTD hàng
tháng trong năm được cập nhật ở các kênh liên quan khác nhau, cũng
như một số thời điểm cụ thể từ NHNN. Việc cập nhật theo con số ước
tính, thường xác định vào thời điểm gần cuối tháng, mà thực tế có thể
thay đổi qua từng ngày theo lượng cho vay mới hoặc mức độ tập trung
đáo hạn các khoản vay, thu hồi nợ… Về tương đối, mức 8,18% của
tín dụng 8th/2018 là thấp nhất so với cùng kỳ các năm từ 2015 đến nay.
Cụ thể, tháng 8/2017, TTTD ước tính theo cập nhật của UBGSTCQG là
11,5% so với cuối năm liền trước. Từ vụ chức năng của NHNN, tương
ứng mức tăng đến 31/08/2016 so với cuối năm liền trước là 9,67%; tính
đến hết tháng 8/2015 TTTD ở mức 10,23% so với cuối năm 2014. Mức
TTTD thấp nhất và gần nhất theo cùng kỳ tháng 8 và 8th được ghi nhận
ở năm 2014, khi con số ghi nhận chỉ 5,82% so với cuối năm 2013. Với
kết quả trên, TTTD tháng 8/2018 tiếp tục thể hiện nhịp thấp với tốc độ
khá đều qua các tháng từ đầu năm đến nay. Còn ở định hướng chung,
với chỉ thị Thống đốc NHNN vừa ban hành, ½ cuối 2018 sẽ không tăng
chỉ tiêu TTTD cho hầu hết các NHTM.
Từ 12/10, được phép dùng CNY
để thanh toán ở biên giới Việt
Nam - Trung Quốc
Ngày 28/08, NHNN đã ban hành Thông tư số 19/2018/TT-NHNN hướng
dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới VN -
TQ. Thông tư sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 12/10/2018. NHNN cho
biết, đối tượng áp dụng của Thông tư là Thương nhân, cư dân biên giới
VN, thương nhân, cư dân biên giới TQ có hoạt động thương mại biên
giới VN - TQ; NHTM, CN NHNNg được phép hoạt động ngoại hối tại VN
(được gọi là NH được phép trong Thông tư); Chi nhánh của NH được phép
đặt tại vùng biên giới, khu KT cửa khẩu VN - TQ (được gọi là chi nhánh
NH biên giới trong Thông tư); Tổ chức KD hàng miễn thuế, tổ chức cung
ứng dịch vụ ở khu cách ly tại các cửa khẩu quốc tế, tổ chức KD kho
ngoại quan tại vùng biên giới, khu KT cửa khẩu VN - TQ và các tổ chức,
Tài chính – Ngân hàng
3
cá nhân khác có liên quan đến hoạt động thanh toán trong thương mại
biên giới VN - TQ. Từ 12/10/2018, các thương nhân, cư dân biên giới
VN, TQ có hoạt động thương mại biên giới có thể dùng ngoại tệ tự do
chuyển đổi, VND hoặc CNY (nhân dân tệ) trong thanh toán hàng hóa,
dịch vụ. Phương thức thanh toán bao gồm thanh toán qua NH, bằng
VND hoặc CNY tiền mặt. Ngoài ra, Thông tư cũng quy định một số hoạt
động ngoại hối khác như hoạt động ủy thác thanh toán bằng đồng CNY,
hoạt động XK, NK CNY tiền mặt và VND tiền mặt; và quy định cụ thể
trách nhiệm của NHNN chi nhánh tỉnh biên giới, NH được phép cũng
như của cá nhân, thương nhân và tổ chức khác nhằm giám sát, quản lý
chặt chẽ, có hiệu quả đối với hoạt động quản lý ngoại hối trong thương
mại biên giới Việt - Trung.
Lãi suất tăng không hẳn do căng
thanh khoản
LS LNH và LS thị trường tăng vọt thời gian gần đây khiến nỗi lo thanh
khoản tăng trở lại. Song theo giới chuyên gia, có vẻ như LS tăng đang
nằm trong mục tiêu của nhà điều hành, vừa để chống đỡ với tỷ giá, vừa
đối phó tình trạng mất cân đối kỳ hạn trầm trọng từ nhiều năm nay. Thời
gian gần đây, hàng loạt NHTM điều chỉnh LS huy động, đặc biệt là kỳ
hạn trung, dài hạn. Bên cạnh đó, LS trên thị trường LNH cũng tăng gấp
4-5 lần trong vòng 2 tháng gần đây, lượng giao dịch tăng vọt. Theo báo
cáo của Công ty CKBảo Việt (BVSC), điều này cho thấy, thanh khoản
của hệ thống đang có dấu hiệu căng thẳng trở lại. Tuy nhiên, lãnh đạo
nhiều NH khẳng định, thanh khoản hệ thống đang rất tốt. NHNN không
nới hạn mức tín dụng cho một số NH như năm ngoái thậm chí còn
khiến tình trạng dư giả này tăng thêm trong những tháng cuối năm. TS.
Cấn Văn Lực cho rằng, nguyên nhân chính để NH tăng LS huy động,
ngoài việc duy trì cạnh tranh trên thị trường huy động, chuẩn bị nguồn
vốn để cho vay cuối năm, còn do NH đang khát vốn trung, dài hạn.
Theo bà Nguyễn Thị Hồng, Phó thống đốc NHNN, dù huy động vốn
trung, dài hạn đã cải thiện nhiều so với 5-6 năm trước (chỉ chiếm chưa
đầy 10% tổng vốn huy động), song áp lực cho vay trung, dài hạn vẫn lớn
và các tổ chức tín dụng phải đối mặt với rủi ro về chênh lệch kỳ hạn. LS
huy động tăng dường như cũng không nằm ngoài ý muốn của NHNN.
Bên cạnh việc khuyến khích NH cơ cấu lại kỳ hạn huy động, NHNN
cũng tỏ ra hết sức cảnh giác với lạm phát và bắt đầu có dấu hiệu siết
chặt tiền tệ. Không chỉ Việt Nam, thời gian gần đây, hàng loạt quốc gia
trên TG cũng bắt đầu thắt chặt CSTT, tăng LS để kiểm soát lạm phát.
4
Liên quan đến vấn đề này, các chuyên gia phân tích Công ty CK HSC
nhận định, LS tăng là yếu tố tích cực đối với thị trường ngoại tệ. Mặc dù
LS huy động tăng, song theo nhận định của nhiều chuyên gia, xu
hướng này sẽ không kéo dài và sẽ tác động không đáng kể đến LS cho
vay do Chính phủ đang quyết tâm ổn định mặt bằng LS cho vay để hỗ
trợ doanh nghiệp. Về phía NHNN, đại diện Vụ CSTT cam kết, thời gian
tới, cơ quan này sẽ điều hành LS, tỷ giá theo hướng đảm bảo giá trị của
tiền đồng, khiến người nắm giữ tiền đồng luôn có lợi nhất so với nắm
giữ các loại ngoại tệ khác.
Vì sao các NH muốn mua lại nợ
xấu đã bán cho VAMC?
Vietcombank là NH đầu tiên xóa sạch nợ tại VAMC vào cuối năm 2016.
Sau Vietcombank, đã có thêm một số NH xử lý sạch phần nợ xấu bán
cho VAMC. Xu hướng này khả năng sẽ còn tiếp tục lan rộng, đặc biệt
tại những NH có lượng nợ xấu đã bán cho VAMC chỉ ở mức tương đối,
hoặc ở những NH có tình hình tài chính tốt và có tỷ lệ nợ xấu hiện tại
thấp, do đó không quá lo ngại đến việc tỷ lệ nợ xấu có thể vượt quy định
khi mua lại nợ xấu từ VAMC. Để xử lý các khoản nợ đã bán cho VAMC,
các NH có thể sớm trích lập dự phòng đầy đủ cho trái phiếu đặc biệt.
Tuy nhiên, giải pháp này đòi hỏi tiềm lực tài chính của NH thật sự mạnh
mẽ, theo đó lợi nhuận phải đảm bảo cao đủ khả năng để trích lập dự
phòng mà không ảnh hưởng quá lớn đến các hệ số sinh lời. Song song
đó, NH có thể phối hợp với VAMC để sớm thu hồi nợ từ khách hàng,
hoặc chọn con đường mua lại nợ đã bán để có thể xóa sạch nợ tại
VAMC. Đáng lưu ý là quyết định mua lại nợ xấu gần đây được nhiều NH
áp dụng, khi các điều kiện hiện nay cho thấy giải pháp này mang lại lợi
ích nhiều hơn. Thực tế cho thấy công cuộc xử lý nợ xấu tại VAMC là
gặp rất nhiều khó khăn và thách thức. Không chỉ vì một thị trường mua
bán nợ, tài sản chưa thật sự hình thành, mà vì quá nhiều khoản nợ
phức tạp trong khi nguồn lực của VAMC có hạn nên cũng không thể xử
lý nợ nhanh và có mức độ ưu tiên như kỳ vọng của các TCTD, dù có
được sự phối hợp tích cực giữa hai bên. Thay vì vậy, việc mua lại nợ
xấu đã bán sẽ giúp các NH có thể chủ động xử lý các khoản nợ xấu này
nhanh hơn, nhất là khi hàng loạt quy định về giải pháp xử lý nợ xấu đột
phá đã được chính thức ban hành qua Nghị quyết 42 của Quốc Hội từ
tháng 7/2017, trong đó cho các TCTD quyền thu giữ TSBĐ trong trường
hợp không có sự hợp tác của con nợ là một giải pháp quan trọng. Thực
tế cho thấy giá trị nợ xấu được xử lý theo Nghị quyết 42 đã đạt được kết
5
quả tích cực chỉ sau 1 năm Nghị quyết được ban hành. Ngoài ra, với
các khoản nợ đã bán cho VAMC chủ yếu đều có tài sản đảm bảo là
BĐS, thì trong tình hình thị trường BĐS đang tiếp tục phục hồi tốt sẽ
càng giúp các NH có thể tự mình xử lý nhanh hơn. Đứng ở góc độ tài
chính, nếu để nợ xấu đã bán tại VAMC thì NH vẫn định kỳ phải trích dự
phòng rủi ro cho trái phiếu đặc biệt theo tỷ lệ 20%/năm, hoặc 10%/năm
đối với những NH có tình hình tài chính khó khăn hơn. Đây là áp lực chi
phí không hề nhỏ. Trong khi đó, việc mua lại nợ xấu từ VAMC không chỉ
giúp các NH giảm được áp lực dự phòng rủi ro những năm kế tiếp, mà
còn có cơ hội hoàn nhập dự phòng đối với các khoản đã trích trước đó
khi thu hồi nợ xấu thành công.
Lo lắng về an toàn mạng ngân
hàng
Ngày 29/08, tại Hà Nội, Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam (VNISA)
phối hợp với Cục Công nghệ thông tin – NHNH và Trung tâm Phân tích,
chia sẻ thông tin, Dịch vụ tài chính (FS-ISAC) Nhật Bản tổ chức hội thảo
"Phân tích dữ liệu và ứng phó với tấn công mạng trong hệ thống NH, tài
chính". Tại hội thảo, TS.Vũ Quốc Khánh, UVBCH VNISA, trình bày kết
quả khảo sát hiện trạng bảo đảm an toàn thông tin của các tổ chức
trong lĩnh vực NH tại VN do VNISA thực hiện. Qua đó, phát hiện nhiều
điểm yếu cần lưu ý. Cụ thể, nhiều TCTD chưa có nhân sự tốt, cán bộ
chuyên trách không đủ theo yêu cầu, thiếu cán bộ kỹ thuật được đào
tạo chuyên sâu về an toàn, an ninh thông tin mạng... Còn khá nhiều
TCTD không triển khai tốt các biện pháp, trang bị công nghệ bảo đảm
an toàn thông tin. Đặc biệt, về mặt thực tiễn, các TCTD cũng thiếu khả
năng phát hiện sớm các cuộc tấn công, các sự cố an toàn thông tin
mạng, không đủ khả năng ứng phó hiệu quả với các sự cố. VNISA cho
rằng việc phát triển an toàn, an ninh thông tin chỉ ở mức trung bình.
Nhóm các TCTD có chỉ số an toàn thông tin mạng hàng đầu trên cả
nước song chất lượng chưa đều, có nhiều khó khăn về nhân lực, một số
đơn vị còn yếu trong khâu quản lý bảo đảm an toàn thông tin mạng.
Hiệu quả hoạt động thực tiễn an toàn, an ninh thông tin mạng là vấn đề
đặc biệt, điểm yếu cần tập trung nâng cấp. Theo ông Trần Nhật Minh,
chuyên gia an ninh của công ty công nghệ phần mềm Check Point, xu
hướng tin tặc (hacker) sử dụng mã độc chuyên tấn công NH, đặc biệt là
mã độc tấn công trên nền tảng mobile (ĐTDĐ). Nguyên nhân do số
lượng điện thoại lớn hơn hẳn máy tính bàn và máy tính xách tay; chứa
nhiều thông tin cá nhân và cả thông tin của công ty, DN. Đồng thời, đây
6
là thiết bị cá nhân nên các biện pháp an ninh khó áp dụng như các biện
pháp áp dụng cho máy tính bàn và máy tính xách tay. Hacker có thể tấn
công dữ liệu qua điện thoại thông minh một cách dễ dàng hoặc có thể
có các mã độc cài sẵn trong điện thoại thông minh giá rẻ. "Nếu điện
thoại bị tấn công tiến hành truy cập máy chủ, hacker có thể tạo kết nối
từ xa, ăn cắp dữ liệu và tấn công hệ thống dữ liệu của NH, DN".
7
Kinh tế Việt Nam 8 tháng qua
các chỉ số
CPI tháng 8 0,45% so với tháng trước. CPI BQ 8th 3,52% so với BQ
cùng kỳ 2017. CPI tháng 8/2018 2,59% so với tháng 12/2017 và
3,98% so với cùng kỳ 2017. 10/11 nhóm hàng hóa và DV có chỉ số
tăng trong tháng 8/2018. Lạm phát cơ bản tháng 8/2018 0,22% so với
tháng 7 và 1,54% so với cùng kỳ 2017. Lạm phát cơ bản BQ 8th/2018
1,38% so với BQ cùng kỳ 2017. Tính chung 8th/2018, chỉ số SX toàn
ngành công nghiệp 11,2% so với cùng kỳ 2017, cao hơn mức 8,2%
của cùng kỳ 2017. 8th, cả nước có 87.448 DN đăng ký thành lập mới với
tổng vốn đăng ký là 878.600 tỷ đồng. Vốn đăng ký BQ/DN thành lập
mới đạt 10 tỷ đồng, 4,3%. Nếu tính cả 1,679 triệu tỷ đồng vốn đăng ký
tăng thêm của các DN thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ
sung thêm vào nền KT trong 8th/2018 là 2,558 triệu tỷ đồng. Trong 8th,
DN ngừng hoạt động là 63.235 DN. Như vậy, trong tháng 8 chỉ có
khoảng >3.000 DN ngừng hoạt động. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài
từ đầu năm đến thời điểm 20/08/2018 thu hút 1.918 dự án cấp phép
mới với số vốn đăng ký đạt 13.481 triệu USD đều tăng so với cùng kỳ
2017. Tính chung tổng vốn đầu tư của VN ra nước ngoài (vốn cấp mới và
tăng thêm) 8th/2018 đạt 313,5 triệu USD. Trong 8th có 29 quốc gia, vùng
lãnh thổ nhận đầu tư của VN, Lào là nước nhận vốn nhiều nhất với 95,2
triệu USD, #30,4% tổng vốn đầu tư; Italy và Slovakia lần lượt 37,8 triệu
USD và 35,9 triệu USD. NSNN 8th/2018 bội chi 6.000 tỷ đồng, giảm so
với tháng 7 (35.900 tỷ đồng). Chủ yếu trong cơ cấu chi ngân sách là chi
thường xuyên với 573.000 tỷ đồng. Chi đầu tư phát triển đạt 166.300 tỷ
đồng và chi trả nợ lãi 71.900 tỷ đồng. Tính chung 8th/2018, kim ngạch
hàng hóa XK ước tính đạt 155,41 tỷ USD, 14,5% so với cùng kỳ 2017.
Kim ngạch hàng hoá NK ước tính đạt 152,66 tỷ USD, 11,6%. Tính
chung 8th, cán cân thương mại hàng hóa vẫn duy trì xuất siêu với 2,8 tỷ
USD. KV KT trong nước nhập siêu 16,7 tỷ USD; KV FDI (kể cả dầu thô)
xuất siêu 19,5 tỷ USD. Trung Quốc vẫn là thị trường NK lớn nhất của
VN với kim ngạch đạt 41,4 tỷ USD, 12,8% so với cùng kỳ 2017, trong
đó kim ngạch NK một số mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn tăng. 8th/2018,
khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 10.403.900 lượt người, 22,8%
Kinh tế Việt Nam
8
so với cùng kỳ 2017. Khách nước ngoài vẫn chủ yếu đến từ châu Á đạt
8,035 triệu lượt người, #77,2% tổng số khách. Trong đó khách đến từ
hầu hết các thị trường chính đều tăng. Khách đến từ châu Âu ước tính
đạt 1,404 triệu lượt người, từ châu Mỹ đạt 636.400 lượt người. Khách
đến từ châu Úc và châu Phi lần lượt ở mức 300.700 lượt người và
27.900 lượt người. Khách đến bằng đường hàng không đạt 8,422 triệu
lượt người, 17,3%. Khách đến bằng đường bộ đạt 1,799 triệu lượt
người, 62,1%. Khách đến bằng đường biển đạt 182.700 lượt người.
Giá thực phẩm đẩy CPI tháng 8
tăng trở lại
Theo Tổng cục Thống kê, CPI tháng 8 0,45% so với tháng trước. CPI
BQ 8th/2018 3,52% so với BQ cùng kỳ 2017. CPI tháng 8/2018
2,59% so với tháng 12/2017 và 3,98% so với cùng kỳ 2017. Cụ thể,
có 10/11 nhóm hàng hóa và DV có chỉ số giá tăng so với tháng trước,
trong đó nhóm hàng ăn và DV ăn uống có mức tăng cao nhất 0,87%,
chủ yếu do nhóm thực phẩm 1,12% khiến CPI chung 0,25%. Nhóm
lương thực 0,1%. Nhóm giáo dục 0,46% do trong tháng có 14 địa
phương thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86 ngày
02/10/2015 của Chính phủ. Nhóm nhà ở VLXD 0,44% (trong đó, giá vật
liệu bảo dưỡng nhà ở 0,42%; giá gas 2,8% do ảnh hưởng của đợt điều
chỉnh giá gas vào thời điểm 01/08/2018). Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch
0,19%; nhóm giao thông 0,13%, nhóm đồ uống và thuốc lá
0,11%. Hai nhóm may mặc, mũ nón, giày dép và thiết bị, đồ dùng gia
đình cùng 0,1%. Nhóm thuốc và DV y tế 0,02%; hàng hóa và DV
khác 0,13%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông 0,07%. Lạm phát cơ
bản tháng 8/2018 0,22% so với tháng trước và 1,54% so với cùng
kỳ 2017. Lạm phát cơ bản BQ 8th/2018 1,38% so với BQ cùng kỳ.
9
Trung bình mỗi ngày có 263
doanh nghiệp tạm ngừng hoạt
động
Báo cáo của Tổng cục Thống kê cho biết, trong tháng 8, cả nước có
11.655 DN thành lập mới với số vốn đăng ký là 107.600 tỷ đồng, 3,5%
về số DN và 11,9% về số vốn đăng ký so với tháng 7. Vốn đăng ký
BQ/DN đạt 9,2 tỷ đồng, 14,9%. Trong tháng, cả nước còn có 2.912
DN quay trở lại hoạt động, thấp hơn 2% so với tháng trước; có 6.216 DN
tạm ngừng hoạt động (1.961 DN đăng ký tạm ngừng KD có thời hạn và
4.255 DN tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể), 22%; có
1.421 DN hoàn tất thủ tục giải thể, 31%. Tính chung 8th, cả nước có
87.448 DN đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 878.600 tỷ
đồng, 2,4% về số DN và 6,9% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ
2017. Vốn đăng ký BQ/DN thành lập mới đạt 10 tỷ đồng, 4,3%. Nếu
tính cả 1.679.600 tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các DN thay đổi
tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung thêm vào nền KT trong
8th/2018 là 2.558.200 tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 20.942 DN quay trở
lại hoạt động, 9,3% so với cùng kỳ 2017, nâng tổng số DN đăng ký
thành lập mới và DN quay trở lại hoạt động trong 8th/2018 lên gần
108.400 DN. Số DN tạm ngừng hoạt động trong 8th/2018 là 63.235 DN,
38,1% so với cùng kỳ 2017, bao gồm 21.575 DN đăng ký tạm ngừng
KD có thời hạn, 25,2% và 41.660 DN tạm ngừng hoạt động không
đăng ký hoặc chờ giải thể, 45,9%. Theo lĩnh vực hoạt động, số DN
đăng ký tạm ngừng KD có thời hạn ở hầu hết các lĩnh vực đều tăng so
với cùng kỳ 2017: Lĩnh vực bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có
8.500 DN #39,2%, 24%; 3.300 DN xây dựng #15,1%, 25,3%; 2.700
DN công nghiệp chế biến, chế tạo #12,5%, 19,8%; 1.200 DN DV lưu
trú và ăn uống #5,4%, 29,7%... Đối với các DN tạm ngừng hoạt động
không đăng ký hoặc chờ giải thể, lĩnh vực bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô
tô, xe máy có 14.800 DN #35,5%, 23,3% so với cùng kỳ 2017; 5.800
DN xây dựng #14%, 49,4%; 5.100 DN công nghiệp chế biến, chế tạo
#12,2%, 57,8%; 2.400 DN DV việc làm, du lịch, cho thuê máy móc
thiết bị, đồ dùng và các DV hỗ trợ khác #5,7%, 71,5%; 2.400 DN DV
lưu trú và ăn uống #5,8%, 79,8%... Số DN hoàn tất thủ tục giải thể
trong 8th/2018 là 9.135 DN, 17,8% so với cùng kỳ, trong đó 8.357 DN
có quy mô vốn <10 tỷ đồng, #91,5% và 16,9%. DN hoàn tất thủ tục
giải thể tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô
tô, xe máy có 3.500 DN, 19,9% so với cùng kỳ; công nghiệp chế biến,
chế tạo có 1.300 DN, 26,7%; xây dựng có 992 DN, 15,1%.
10
Việt Nam xuất siêu 2,8 tỷ USD
trong 8th/2018
Theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa XK tháng 8 ước tính đạt
20,9 tỷ USD, 2,9% so với tháng trước. Một số mặt hàng XK chủ lực
trong tháng 8 có kim ngạch tăng: xăng dầu 41,5%; điện thoại và linh
kiện 13,9%; hóa chất 13,1%; cao su 8,1%. Tính chung 8th/2018,
kim ngạch hàng hóa XK ước tính đạt 155,41 tỷ USD, 14,5% so với
cùng kỳ 2017. Mỹ là thị trường XK lớn nhất của VN với kim ngạch đạt
30,2 tỷ USD, 10,2% so với cùng kỳ 2017. Trung Quốc đứng thứ 2 đạt
23,4 tỷ USD, 25,2%. Thị trường ASEAN đứng thứ 3 đạt 16,5 tỷ USD,
16%. Ở chiều ngược lại, kim ngạch NK của VN trong tháng 8 ước đạt
21 tỷ USD, 0,2% so với tháng trước. Kim ngạch NK một số mặt hàng
tăng so với tháng trước: điện thoại và linh kiện 35,3%; cao su
14,8%; sợi dệt 12,5%; phân bón 11,1%; ô tô 10,3%… Tính
chung 8th, kim ngạch hàng hoá NK ước tính đạt 152,6 tỷ USD, 11,6%
so với cùng kỳ 2017. VN NK hàng hóa từ Trung Quốc nhiều nhất trong
8th/2018 với kim ngạch đạt 41,4 tỷ USD, 12,8% so với cùng kỳ 2017.
Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc với kim ngạch NK đạt 30,8 tỷ USD,
1,9%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện 17%. Thị trường
ASEAN đứng thứ 3 đạt 20,5 tỷ USD, 11,8%. Như vậy, mặc dù trong
tháng 8, VN ước tính nhập siêu 100 triệu USD, nhưng tính chung 8th
cán cân thương mại hàng hóa vẫn duy trì xuất siêu với 2,8 tỷ USD.
Ngân sách Nhà nước bội chi
6.000 tỷ 8th/2018
Theo Tổng cục Thống kê, tổng thu NSNN từ đầu năm đến thời điểm
15/08/2018 ước tính đạt 814.200 tỷ đồng, #61,7% dự toán năm. Trong
đó, thu nội địa đạt 649.000 tỷ đồng, #59%; thu từ dầu thô đạt 37.700 tỷ
đồng, #105,1%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động XNK đạt 125.200
tỷ đồng, #70%. Trong thu nội địa, thu từ KV DN Nhà nước đạt 90.200 tỷ
đồng, #54,2% dự toán năm. Thu từ DN FDI (không kể dầu thô) là
109.600 tỷ đồng, #49,2%. Thu thuế công, thương nghiệp và DV ngoài
Nhà nước 128.200 tỷ đồng, #58,8%. Thu thuế thu nhập cá nhân 59.900
tỷ đồng, #61,9%... Về tổng chi NSNN, tính từ đầu năm đến thời điểm
15/08/2018 ước tính tổng chi đạt 820.200 tỷ đồng, #53,8% dự toán
năm. Trong đó, chi thường xuyên đạt 573.000 tỷ đồng, #60,9%; chi đầu
tư phát triển đạt 166.300 tỷ đồng, #41,6%; chi trả nợ lãi 71.900 tỷ đồng,
#63,9%. Như vậy, 8th/2018 ngân sách bội chi 6.000 tỷ đồng. Vốn đầu tư
thực hiện từ nguồn NSNN tháng 8 ước tính đạt 30.300 tỷ đồng, bao
gồm: Vốn trung ương 5.600 tỷ đồng; vốn địa phương 24.700 tỷ đồng.
Tính chung 8th/2018, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN đạt 183.600
11
tỷ đồng, #55,2% kế hoạch năm và 11,3% so với cùng kỳ 2017. Trong
nguồn vốn đầu tư từ NSNN này, vốn trung ương quản lý đạt 33.800 tỷ
đồng, #51,3% kế hoạch năm và 7,6% so với cùng kỳ 2017. Vốn địa
phương quản lý đạt 149.800 tỷ đồng, #56,1% kế hoạch năm và
16,7% so với cùng kỳ 2017.
Giải pháp nào cho cơ cấu ngân
sách nhà nước trước áp lực lạm
phát?
Một trong những giải pháp đề ra là tích cực thực hiện các biện pháp
giảm chi phí đầu vào cho DN theo chỉ đạo Chính phủ. Đồng thời, thúc
đẩy lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công đã đề ra và cơ cấu lại
NSNN cho các lĩnh vực này. Theo công văn từ Bộ Tài Chính, tăng
trương KT 7 tháng đầu năm cao hơn mục tiêu kế hoạch, KTVM ổn định.
Tuy nhiên, mức tăng có xu hướng chậm lại, áp lực lạm phát gia tăng,
hoạt động SXKD một số ngành vẫn khó khăn, giải ngân vốn đầu tư
công chậm. Từ đó tác động đến thu và điều hành cân đối NSNN nói
chung và địa phương nói riêng. Để giải quyết những vấn đề này, Bộ Tài
chính đề nghị UBND các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương thực
hiện những giải pháp đã đưa ra. (i) Địa phương cần tăng cường công
tác quản lý, chống thất thu, buôn lậu, gian lận thương mại và chuyển
giá, giảm tỷ lệ nợ đọng thuế xuống <5% tổng thu NSNN. Ngoài ra, cần
đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giải quyết kịp thời vướng mắc
phát sinh liên quan đến điều kiện kinh doanh, đất đai, thị trường. (ii)
UBND các cấp quản lý chi NSNN theo đúng chế độ quy định, trong
phạm vi dự toán được giao đảm bảo chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả.
Trong đó, việc chủ động sử dụng các nguồn lực để xử lý cân đối ngân
sách địa phương (NSĐP) theo thứ tự gồm việc tạm giữ 50% dự toán dự
phòng NSĐP (làm giảm dự toán chi NSĐP), sau đó là các nguồn lực tài
chính hợp pháp khác (quỹ dự trữ tài chính, kết dư ngân sách) và cuối cùng
là một phần nguồn cải cách tiền lương còn dư (sau khi thực hiện theo mức
lương cơ sở 1.390.000 đồng/tháng). Ngoài ra, Đề án cơ cấu lại DN nhà
nước giai đoạn 2016-2020 cần được đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, cổ
phần hóa, thoái vốn. Tiếp tục rà soát, thực hiện các biện pháp giảm
mức phí, chi phí đầu vào cho DN theo chỉ đạo Chính phủ. Đồng thời,
thúc đẩy lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công đã đề ra và cơ cấu lại
NSNN cho các lĩnh vực này nhằm mục đích dành nguồn thực hiện cải
cách tiền lương và chi NSNN.
12
Xếp hạng gánh nặng chi phí 8
nhóm thủ tục hành chính
13
Sau khi điều chỉnh, kinh tế Mỹ
tăng trưởng 4,2% trong Q.II
GDP tăng trưởng 4,2% trong Q.II, cao hơn mức 4,1% trong tháng 7 và
là mức tăng trưởng nhanh nhất kể từ Q.III/2014. 6th đầu năm, KT tăng
trưởng 3,2% qua đó tạo điều kiện để chính quyền Tổng thống D.Trump
đạt mục tiêu tăng trưởng hàng năm 3% trong 2018. Tuy nhiên, mức
tăng trưởng mạnh này có thể không bền vững, khi tác động tích cực từ
các gói cắt giảm thuế trị giá 1.500 tỷ USD dần phai nhạt. Nhờ được cắt
giảm thuế, người tiêu dùng có thêm tiền chi tiêu sau Q.I đầy ảm đạm.
Ngoài ra, Mỹ còn tăng cường XK đậu nành sang TQ trước khi các hàng
rào thuế quan từ phía TQ có hiệu lực. Thâm hụt thương mại hàng hóa
6,3% lên 72,2 tỷ USD trong tháng 7 vì kim ngạch XK thực phẩm
6,7% và gây áp lực lên hoạt động XK... Chính sách “Nước Mỹ trước
tiên” của chính quyền D.Trump đang tạo rủi ro cho nền KT Mỹ. Chính
lập trường này đã làm nảy sinh những cuộc xung đột thương mại với
TQ, cũng như sự đáp trả thuế quan qua lại của EU, Canada và Mexico.
Morgan Stanley: Trung Quốc
không ảnh hưởng nhiều từ chiến
tranh thương mại
Theo KT trưởng KV TQ của Morgan Stanley: “Chúng tôi không cho rằng
sẽ có điều chỉnh lớn về tăng trưởng, do tác động tiềm tàng từ thuế NK
sẽ được bù đắp phần nào bằng các chính sách nới lỏng mà giới chức
TQ áp dụng”. Giới quan sát đang theo dõi liệu Mỹ có áp thuế lên 200 tỷ
USD hàng TQ như dự kiến hay không. Nếu đúng, các tác động có thể
“bị phóng đại” do chuỗi cung ứng tại Đông Á liên kết chặt với TQ. Thực
tế, chiến tranh thương mại làm gián đoạn chuỗi cung ứng có thể khiến
tăng trưởng của TQ 0,7%. Việc này sẽ thôi thúc TQ áp dụng nhiều
chính sách nới lỏng như giảm thuế, TTTD và thanh khoản trong hệ
thống tài chính. Thuế NK của Mỹ có vẻ đã tác động đến KT khi đơn
hàng XK tháng 8 chậm lại. Dự báo hoạt động KT sẽ yếu đi trong tháng
8 nhưng TQ sẽ bù đắp tác động này trong tháng 9 và 10 qua các trái
phiếu mới. Đến Q.IV, chi tiêu vào CSHT sẽ xoa dịu tác động từ thuế NK
của Mỹ. Việc nới lỏng lúc này là động thái “tự vệ” và không “có quy mô
lớn” như lần kích thích 2008 trong khủng hoảng tài chính toàn cầu. TQ
cũng có thể không giảm LS hay nới lỏng chính sách BĐS. Dự báo GDP
TQ chỉ 6,4% nửa đầu năm tới, thấp hơn sv 6,8% nửa đầu năm nay.
Kinh tế Quốc tế
14
15
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH http://cafef.vn/tu-12-10-duoc-phep-dung-nhan-dan-te-de-thanh-toan-o-bien-gioi-viet-nam-trung-
quoc-2018082909584795.chn
https://vietstock.vn/2018/08/vi-sao-cac-ngan-hang-muon-mua-lai-no-xau-da-ban-cho-vamc-757-
625993.htm
https://bizlive.vn/tai-chinh/lai-suat-tang-khong-han-do-cang-thanh-khoan-3466976.html
http://cafef.vn/lo-lang-ve-an-toan-mang-ngan-hang-20180830071450446.chn
http://ndh.vn/tang-truong-tin-dung-dang-thap-nhat-bon-nam-qua-2018083007523545p4c149.news
Tin KT vĩ mô http://ndh.vn/kinh-te-viet-nam-8-thang-qua-cac-chi-so-20180829113043860p145c152.news
http://cafef.vn/gia-thuc-pham-day-cpi-thang-8-tang-tro-lai-20180829095136357.chn
http://cafef.vn/trung-binh-moi-ngay-co-263-doanh-nghiep-tam-ngung-hoat-dong-
20180829141655602.chn
https://vietnambiz.vn/viet-nam-xuat-sieu-28-ty-usd-trong-8-thang-dau-nam-78340.html
https://vietnambiz.vn/ngan-sach-nha-nuoc-boi-chi-6000-ty-8-thang-dau-nam-78364.html
https://vietnambiz.vn/giai-phap-nao-cho-co-cau-ngan-sach-nha-nuoc-truoc-ap-luc-lam-phat-
78392.html
https://vietstock.vn/2018/08/xep-hang-ganh-nang-chi-phi-8-nhom-thu-tuc-hanh-chinh-761-
625970.htm
Tin KT Quốc tế https://vietstock.vn/2018/08/sau-khi-dieu-chinh-kinh-te-my-tang-truong-42-trong-quy-22018-775-
626178.htm
https://vietnambiz.vn/morgan-stanley-trung-quoc-khong-anh-huong-nhieu-tu-chien-tranh-thuong-
mai-78712.html
16
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG LS LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên NH LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bất động sản BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD NH NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI NH bán lẻ NHBL
Chính sách tiền tệ CSTT NH Nhà nước NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT NH thương mại cổ phần NHTMCP
DNNN DNNN NH thương mại Nhà nước NHTMNN
DN tư nhân DNTN NH nước ngoài NHNNg
DN vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách Nhà nước NSNN
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Ngân sách trung ương NSTW
Dự án DA Nhập khẩu NK
Dự trữ bắt buộc DTBB Sản xuất KD SXKD
Đăng ký KD ĐKKD Tài sản bảo đảm TSBĐ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổ chức tín dụng TCTD
Giấy chứng nhận GCN Tổng tài sản TTS
Giá trị gia tăng GTGT Tổng SP quốc nội GDP
Hợp đồng tín dụng HĐTD Trung Quốc TQ
Khách hàng DN KHDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Khách hàng cá nhân KHCN Trái phiếu DN TPDN
KT vĩ mô KTVM Thị trường chứng khoán TTCK
Kho bạc Nhà nước KBNN VN VN
KV KV Vốn điều lệ VĐL
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Vốn tự có VTC
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Xã hội XH
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Xuất khẩu XK
NH TG World Bank Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
NH Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Lương thực VN VFA
NH trung ương châu Âu ECB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Hiệp hội Thép VN VSA
KV sử dụng đồng Euro EUROZONE Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
Liên minh châu Âu EU Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM HOSE
Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Tổng cục thống kê GSO