Upload
others
View
7
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Hội Ngƣời Việt Richmond 1 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Giai Phẩm
Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Chủ Biên: Đỗ Xuân Quang
˚º ˚
Góp Mặt
Dean B Ngo ∙ Duy Thức
Dƣơng Dinh ∙ Đỗ Ánh Thu ∙ Đỗ Xuân Quang
Hà Nguyên Dũng ∙ Hà Vân Khôi ∙ Hạnh Không ∙ Hoàng Bích
Hoàng Thu Dung ∙ Khiêm Trần ∙ Lãm Thuý ∙ Lê Thƣơng ∙ Lệ Khánh
Lƣơng Hà ∙ Mặc Lâm ∙ Ngô Minh Hằng ∙ Ngô Tằng Giao ∙ Nguyễn Khắp Nơi
Nguyễn Kiến An ∙ Nguyễn Ngọc h nh ∙ Nguyễn Phú Long ∙ Nguyễn Thị Hàm Anh
Nhƣ Nghiêm ∙ Phạm Đỗ Thiên Hƣơng ∙ Quang Lễ ∙ Sa Giang Trần Tuấn Kiệt
Saigon ô Nƣơng ∙ Song Châu Diễm Ngọc Nhân ∙ Sơn Tùng ∙ Tạ Quang Trung
Tâm Hiền ∙ Thụy Khuê ∙ Trần Hữu Hiệp ∙ Trần Quốc ảo
Trịnh Thùy Dƣơng ∙ Trƣơng Đình Trác
Việt Kiều ∙ Vũ Khỹ
˚º ˚
Bìa Trƣớc: Đỗ hinh
Bài Vở: Đỗ Ánh Thu ∙ Đỗ Xuân Quang ∙ Tạ Quang Trung ∙ Trƣơng Tuấn
Quảng Cáo: Dƣơng Dinh ∙ Nguyễn Phú ƣờng
Trình Bày: Đỗ Xuân Quang
Hội Ngƣời Việt Richmond 2 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Lá Thơ Xuân
K nh gửi :
- Qu Vị Lãnh Đạo Tinh Thần ác Tôn Giáo,
- Qu Vị Tôn Trƣởng,
- Qu Vị ao Niên,
- ác ạn Thanh Niên,
Thƣa toàn thể Qu Vị,
Khi tờ Đặc San Xuân Qu Tỵ này đến tay qu vị, thì đất trời đang chuyển mình để chuẩn
bị vào Xuân.Thiên nhiên sau giấc Đông Miên dài sẽ vƣơn mình thức dậy. ỏ cây sau khi
đã t ch tụ đầy nhựa sống sẽ thay mầu áo mới, trổ lá xanh tƣơi rồi đơm bông, kết trái. Đó
là vòng tuần hoàn của trời và đất.
Nhân loại chúng ta cũng thế. Qua cơn bĩ cực tất phải tới tuần thái lai. Nhìn lại năm qua,
thế giới đứng ở cuối thời kỳ kinh tế suy thoái và đang có dấu hiệu hồi phục. Riêng ở Hoa
Kỳ, Quê Hƣơng thứ hai của chúng ta, nơi đã và đang cƣu mang chúng ta, những dấu hiệu
t ch cực còn nhiều hơn nữa : mức thất nghiệp đang giảm dần, số công ăn việc làm tăng
dần. Đó là những tia nắng đầu tiên báo hiệu một bình minh rạng rỡ . húng ta đặt niềm tin
tuyệt đối vào sự phục hồi của nền kinh tế Hoa Kỳ và sự phú cƣờng của Mỹ Quốc, nơi đã
và đang mang lại cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc cho toàn thể chúng ta.
Trong niềm tin mãnh liệt đó, chúng tôi k nh chúc toàn thể Qu Vị một năm mới AN
KHANG, THỊNH VƢỢNG, ĐẠT ĐƢỢ MỌI ĐIỀU NHƢ Ý NGUYỆN.
Trân trọng,
Thay mặt ban chấp hành,
Dương Dinh,
ố Vấn Hội Ngƣời Việt Richmond
Ngày 1 tháng 2 năm 2013
Hội Ngƣời Việt Richmond 3 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Thƣ húc Tết – an Thƣờng Vụ - HĐMV
Hội Ngƣời Việt Richmond 4 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Lời Chúc Đầu Năm
Nam mô Đƣơng Lạc Hạ Sanh Di Lặc Tơn Phật
K nh bạch chƣ tôn Thiền Đức
K nh thƣa qu đồng hƣơng, đồng bào và phật tử xa gần
Xuân Di Lặc. Xuân Qu Tỵ, mùa xuân nơi tâm, đầy niềm hoan hỷ,
an lạc lại trở về với tất cả muôn vạn tấm lòng.
Trƣớc thềm năm mới, tứ chúng chùa Viên Giác k nh dâng lời chúc
nguyện lên chƣ tôn Thiền Đức, một năm mới pháp thể thƣờng lạc, thành
tựu lợi tha, châu viên phật sự.
K nh chúc qu đạo hữu cùng bảo quyến an khang thịnh vƣợng, tròn
đầy phƣớc tr bồ đề tâm tấn phát.
húc quê hƣơng Việt Nam, tự do tƣơi sáng. Quốc gia vẹn toàn, ấm
no hạnh phúc, nhân hậu an hòa mọi loài. húng sanh hoan hỷ phúc lạc.
ƣớc qua năm mới, tứ chúng chùa Viên Giác vẫn ƣớc nguyện sự gia
tâm ủng hộ của chƣ tôn Thiền đức, sự hộ trì của chƣ thiện t n, đồng bào,
đồng hƣơng phật tử xa gần và của bổn tự chùa Viên Giác.
Nam Mô A Di đà Phật
Sư Cô Như Nghiêm
Chùa Viên Giác
Hội Ngƣời Việt Richmond 5 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Phải Có Một
Tấm Lòng * Hội Người Việt Richmond
Nhân chi sơ,
Tính bản thiện,
Tính tương cận,
Tập tương viễn
ốn câu mở đầu của cuốn Tam Tự Kinh
dậy cho ta biết rằng con ngƣời khởi thủy
bản t nh rất tốt lành, thánh thiện. Nhƣng
rồi do phải lo toan, phải tranh dành kiếm
sống, cái bản t nh lành, thiện của con
ngƣời đã dần dần mai một, khiến con
ngƣời trở thành thủ đoạn với nhau, vô
cảm trƣớc nỗi khổ đau của đồng loại.
Truyền thông trên mạng thƣờng chiếu
ảnh một con kên kên ngồi chờ ăn thịt một
đứa trẻ da đen đang hấp hối vì đói ăn, hay
cảnh bé Vƣơng Yến 2 tuổi ở một thị xã
bên Trung Hoa bị 2 chiếc xe tải cán qua,
cán lại, nằm hấp hối hàng giờ trƣớc con
mắt thờ ơ của khách bộ hành. Sau cùng,
bé Vƣơng Yến đƣợc một bà quyét rác
bồng vào nằm trên vệ đƣơng. Ở Việt
Nam cảnh bọn lƣu manh chặt cụt cánh
tay để cƣớp xe, cƣớp tài sản của ngƣời đi
xe gắn máy cũng thƣờng xẩy ra.
Ngoài những cảnh tiêu cực kể trên, ngƣời
ta còn thấy những cảnh hết sức t ch cực ở
tuổi thơ . ách đây nhiều năm, trên TV
có chiếu cảnh một bé trai 5 tuổi nằm sấp
trên một đƣờng tiêu nƣớc để làm cầu cho
đứa em gái 2 tuổi chập chững bƣớc qua.
Năm ngoái có hai ảnh về trẻ nhỏ làm cho
ngƣời lớn phải suy nghĩ : Ảnh thứ nhất
một bé trai 5 tuổi súc phần ăn của nó gồm
lƣng bát đậu cho mẹ nó một ngƣời đàn bà
còn trẻ, cụt cả hai tay ăn. Theo cách ăn
mặc của cả hai mẹ con, họ thuộc vùng
Trung Á. Ảnh thứ hai thằng anh 5 tuổi
ôm chặt đứa em gái 3 tuổi để sƣởi ấm cho
em ở lề đƣờng lúc trời mƣa tuyết, anh em
nó thuộc cƣ dân vùng Đông ắc Á.
Tháng 3 năm 2007 tại Richmond, bé
Tammy, 9 tuổi là nạn nhân của một cuộc
hỏa họan, thân thể của em bị phỏng đến
80% . on ngƣời, nếu cơ thể bị phỏng
đến 60% khó có khả năng sống sót.
Nhƣng Tammy đã sống sót nhờ cuộc vận
động rộng lớn của Hội Ngƣời Việt
Richmond. Do một chuyến máy bay thuê
bao đặc biệt, Tammy đƣợc khẩn cấp đƣa
đến một bệnh viện danh tiếng của Hoa
Kỳ chuyên về trị liệu bệnh phỏng. Em
nằm điều trị ở bệnh viện này 3 năm và
nay hàng năm vẫn đến bệnh viện để đƣợc
theo rõi sức khỏe. Năm nay Tammy 15
tuổi, gần trở thành một thiếu nữ với đầy
đủ những ƣớc vọng và những khả năng
để thành tựu những ƣớc vọng ấy.
Ông Trần Quốc ảo, 83 tuổi, ố Vấn,
một thành viên hoạt động t ch cực của
Hội Ngƣời Việt Richmond, trong đó có
cuộc vân động tài chánh cho Tammy.
Nghe tin ông Trần Quốc ảo ngọa bệnh
bất ngờ, Tammy đã đến thăn ông. Hình
chụp cô cháu 15 tuổi đến thăm ông 83
tuổi đã nói lên tình tƣơng thân tƣơng trợ
của Ngƣời Việt Nam chúng ta.
Hội Ngƣời Việt Richmond 6 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Nhƣ câu ca dao mà chúng ta đã nghe từ
hồi còn nhỏ :
Bầu ơi! thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống,nhưng chung một
giàn
Hội Người Việt Richmond
* Mƣợn tựa đề một bài hát của Nhạc Sĩ Trịnh
ông Sơn
Loài Hoa Quý (tặng một người đi bách bộ ngược chiều)
Chào nhau bằng một nụ cười
Chị dân bản xứ, tôi người tạm cư
Lòng tôi thương tích đau nhừ
Nhà tan nước mất nên chừ tha phương
Chiều nay, gặp chị trên đường
Chào nhau, nghe cõi vô thường chợt vui
Một giây quên nỗi ngậm ngùi
Nỗi buồn của kẻ quê người náu nương
Chào nhau ở giữa chặng đường
Chào xong, hai lối, hai phương, hai đời
Đường nhà, chị bước chân vui
Đường tôi, tôi mượn nên đôi chân sầu
Lạ lùng, giữa nỗi niềm đau
Chị ơi, có nụ nhiệm màu nở hoa
Cánh hoa nhân loại ngọc ngà
Hồn tôi bỗng chốc chan hoà sắc hương
Cám ơn hạnh ngộ con đường
Cám ơn hoa đã thơm hương cho đời
Cám ơn nhân loại tình người
Cám ơn chị nở nụ cười chào nhau...
Ngô Minh Hằng
Em Tháng Giêng
Em - tháng giêng dịu dàng qua cửa
Để nắng tương tư bóng mặn mà
Nắng tương tư một vùng tóc ngọt
Đan áo mùa xuân dáng lụa là
Em tháng giêng mùa xuân trên lá
Lá là anh trăm phiến tình si
Em tháng giêng giọt nắng trên mi
Cho anh yêu mãi nét xuân thì
Tháng giêng ơi lùa vào tay áo
Thả thương nhớ hương xuân về qua
Dậy đi giấc ngủ đông lơ lửng
Vạt áo căng thơm ngát mùa hoa
Mùa mới trên bình nguyên bát ngát
Tháng giêng em biếc cánh đồng xuân
Thuyền ai đầy một khoang tình thắm
Mùa xuân ơi đến tự bao giờ
Ánh Thu
Hội Ngƣời Việt Richmond 7 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Tết Nguyên
Đán Lê Thương
Tết Nguyên Đán là ngày lễ truyền
thống lớn nhất trong năm của Việt Nam.
Ngày Tết không những là ngày thiêng
liêng của ngƣời Việt mà nó còn mang sắc
thái văn hóa đặc thù của dân tộc ta. Trên
bầu trời cao, những cánh én đã về, mùa
Xuân đã trở lại với vạn vật. Những cành
lá trơ trụi của mùa Đông đã chuyển mình
với những mầm non, với lá xanh mơn
mởn. Trong bốn mùa, Xuân là mùa của
ngàn hoa tƣơi thắm, với những cành lộc
non xanh tƣơi vì thế mùa Xuân đƣợc
ngƣời đời ƣa chuộng hơn cả. Trong niềm
rạo rực đón Xuân, Hàn Mạc Tử đã sáng
tác bài “Mùa Xuân h n”, xin hãy nghe:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý – bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây.
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây.
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
―Chị ấy năm nay còn gánh thóc,
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?‖
Sau 37 năm lƣu lạc nơi đất khách quê
ngƣời, cứ mỗi lần Tết đến ngƣời Việt tha
hƣơng khắp năm châu cảm thấy lòng nao
nao nhớ lại những mùa Xuân êm đềm
mang nhiều kỷ niệm nơi cố quốc và cảm
thấy thấm th a qua những vần thơ “Xuân
Tha Hƣơng” của Nguyễn nh:
Bốn biển vẫn chưa yên sóng gió,
Xuân nầy em chị vẫn tha hương.
Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ,
Son sắc say hoài rượu bốn phương.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Em đi non nước xa khơi quá,
Mỗi độ Xuân về bao nhớ thương.
Mỗi độ Xuân về em lại thấy,
Buồn như tên lính ở biên cương.
hữ Tết Nguyên Đán mang các nghĩa:
Tết do chữ Tiết, có nghĩa là ngày lễ;
Nguyên có nghĩa là bắt đầu; Đán có
nghĩa là buổi sớm mai.
Vậy Tết Nguyên Đán là ngày mở đầu
cho một năm mới với nhiều hy vọng và
may mắn mới. Đúng ra phải dùng cả ba
chữ Tết Nguyên Đán, nhƣng ngƣời Việt
ta có t nh giản dị nên chỉ gọi Tết hay
Ngày Tết. hữ Tết đƣợc dùng trong
nhiều thành ngữ nhƣ: Ngày Tƣ Ngày Tết,
Năm Hết Tết Đến, Sống Tết hết Giỗ,
Tết Nhất, hợ Tết, Ăn Tết, húc Tết,
Thiệp Tết, Quà Tết, Lƣơng Tết, Tết
Thầy, Tết Xếp... Ngày Tết mang rất nhiều
phong tục cổ truyền và các phong tục này
đã thấm nhuần trong lòng ngƣời Việt
Nam từ xƣa đến nay.
Hội Ngƣời Việt Richmond 8 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Sửa Soạn Tết
Ngay từ đầu tháng hạp, ở thôn quê
cũng nhƣ thị thành, thiên hạ đã bắt đầu
sửa soạn Tết. Nhà nhà lo mua heo, bò, gà,
vịt để sẵn, rồi còn mua nếp, đậu hầu
chuẩn bị gói bánh chƣng, bánh tét. Ngoài
ra còn muối dƣa, nén hành, may sắm
quần áo mới, sơn phết trang hoàng nhà
cửa, lau chùi bàn thờ, mua tranh, pháo,
câu đối, cùng các loại bánh mứt, trái cây,
trà, rƣợu... òn những ngƣời th ch chơi
cảnh, chơi hoa nhƣ các loại hoa hải
đƣờng, hoa mai, b ch đào, thủy tiên...
phải lo vun trồng, cắt xén để hoa kịp nở
vào đầu Xuân. Đa số ngƣời Việt Nam chỉ
lo ăn Tết có 3 ngày, tuy nhiên nhiều gia
đình, nhất là những gia đình khá giả
chuẩn bị Tết trong nhiều tháng trƣớc.
Chợ Tết
Khoảng trung tuần tháng hạp, phố
xá, chợ búa bắt đầu thêm nhộn nhịp, nhất
là các buổi chợ cuối năm càng tƣng bừng
tấp nập, đông đúc kẻ bán ngƣời mua.
“Đông nhƣ chợ Tết”. Vào những ngày
chợ Tết hàng hóa tràn ngập, nhiều gấp
bội ngày thƣờng, nào gian hàng vải, gian
hàng bánh mứt, hàng hoa, hàng trái cây,
dƣa hấu bày bán la liệt. Thấy dƣa hấu là
thấy Tết. Dƣa hấu lềnh khênh, chất cao
thành đống. Khách mua cố lựa những trái
dƣa khi cắt ra ruột đỏ tƣơi vì ngƣời ta cho
rằng mua dƣa đầu năm lựa đuợc những
trái dƣa ruột đỏ thắm thi suốt năm gặp
toàn những điều may mắn. òn những
ngƣời bán thì trƣng bày những trái dƣa
mẫu ruột đỏ au để chiêu dụ khách hàng.
Đặc biệt là vào những ngày cận Tết, ta
thấy các ông đồ Nho râu tóc bạc phơ gò
mình trên những tờ giấy hoa ở vỉa hè hay
góc chợ, múa bút viết những câu đối với
những nét chữ “Rồng bay, Phƣợng múa”
để bán cho những khách hàng mua về
dán ở nhà hay ở bàn thờ.
Đƣa Ông Táo Về Trời
Một trong những cổ tục của ngày Tết
là đƣa ông Táo về Trời. Ông Táo là cái
bếp nấu cơm trong mọi gia đình. Ngƣời
ta tiễn ông Táo về Trời bằng bánh mứt,
thèo lèo, trà và pháo. Theo truyền thuyết,
cứ mỗi năm vào ngày 23 tháng hạp, ông
Táo cỡi cá chép bay về Trời để “báo cáo”
với Ngọc Hoàng mọi chuyện xảy ra dƣới
trần gian trong suốt năm qua.
Cây Nêu
Nói đến Tết, theo truyền thống, ngƣời
Việt nghĩ ngay đến bốn thứ điển hình là
ây Nêu, Hoa Mai, ánh hƣng với
Tràng Pháo:
Ở thôn quê, thiên hạ bắt đầu dựng cây
nêu vào ngày 27 tháng hạp, trễ lắm là
vào buổi chiều ngày 30 Têt, nếu tháng
thiếu là ngày 29 và hạ nêu vào ngày
mồng 7 tháng Giêng. Nêu là cây tre dài
chặt tới gốc còn đủ ngọn lá, đƣợc dựng ở
trƣớc sân với một cỗ mũ nhỏ và một tảng
vàng buộc ngang thân, có nơi treo trên
ngọn mấy chiếc khánh và bùa chú mà
ngƣời ta tin tƣởng rằng có thể ngăn cản,
xua đuổi tà ma xâm nhập vào nhà để
quấy phá gia chủ trong những ngày Tết.
Riêng ở thành thị vì nhà cửa phố phƣờng
san sát không tiện trồng cây nêu nên ta
thƣờng buộc cành đa, lá dứa ngoài ngõ.
ó nơi thiên hạ rắc vôi ngoài sân, ngoài
Hội Ngƣời Việt Richmond 9 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
cổng với hình bàn cờ, cây cung cùng tên
bắn ra đằng trƣớc và hai bên, ngụ ý trấn
giữ nhà cửa ngăn chận tà ma.
Cu kêu ba tiếng cu kêu,
Trông mau đến Tết dựng nêu ăn chè.
Vật điển hình thứ hai của Tết là hoa
mai. Mai vàng là màu sắc đặc thù của
ngày Tết, thấy mai là thấy Tết và mai
vàng tạo niềm rạo rực, rộn ràng trong
lòng mọi ngƣời. ho nên, dù giàu, dù
nghèo thiên hạ nhà nào cũng tạo cho
đƣợc một cành mai. Giàu có, khá giả
không những tạo một nhành mai mà còn
rƣớc cả một cây mai to lớn đầy hoa về để
trang tr nhà cửa trong những ngày Xuân.
òn nghèo khó không mua nổi một
nhánh mai tƣơi thì cũng phải sắm cho
đƣợc một cành mai giả để cũng có màu
sắc Tết cho gia đình.
Tết không mai không ai biết Tết,
Mai không Tết chẳng thiết khoe vàng.
Vật điển hình thứ ba của Tết là bánh
chƣng. Tùy theo tục lệ từng miền, ngƣời
ta có bánh chƣng hay bánh tét, đó là
hƣơng vị không thể thiếu đƣợc của mọi
gia đình trong những ngày Tết. ánh
chƣng, bánh tét thƣờng đƣợc ăn với thịt
mỡ, dƣa hành hay củ kiệu. Trong lúc nhìn
mai vàng nở trên cành, nghe những tràng
pháo Tết rộn rã mà ăn một lát bánh chƣng
hay một khoanh bánh tét với một cục thịt
mỡ và một miếng dƣa hành là nuốt cả
một mùa Xuân dân tộc vào tâm hồn ta
vậy.
Vật điển hình thứ tƣ của ngày Tết là
pháo. Pháo là âm thanh, âm điệu rạo rực
nhất của ngày Xuân. Nghe pháo nổ là
nghe nhƣ Tết đang reo vang trong lòng
mọi ngƣời. Pháo bắt đầu nổ lác đác từ
chiều 23 tháng hạp, ngày đƣa ông Táo
về Trời. Rồi đến Giao Thừa pháo càng rộ
lên cùng một lúc, xen lẫn trong những
tràng pháo chuột là những tiếng pháo đại
nổ chát chúa, vang rền nhƣ những quả
đạn pháo k ch. Tết đến, từ các cơ sở
thƣơng mại cho đến tƣ gia, nhà nào cũng
đốt một vài phong pháo để đón húa
Xuân. Ngƣời ta đốt pháo từ lễ Giao Thừa
và vào sáng mồng một, mồng hai, mồng
ba. Ngoài ra khi ngƣời bạn quý đến
“xông đất” chủ nhà cũng mang ra một
phong pháo đốt để “nghinh tân” ngƣợc
lai, ngƣời bạn cũng đốt một phong pháo
để “ húc Xuân” gia chủ. òn các cơ sở
thƣơng mại, những nhà giàu có vào ngày
Tết đốt pháo thƣờng có múa lân vì thiên
hạ tin tƣởng rằng lân đến nhà đầu năm sẽ
mang lại thịnh vƣợng.
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ,
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh.
Mâm Ngũ Quả
Mâm ngũ quả thƣờng gồm thơm, đu
đủ, dừa, xoài, trái sung. Phải thừa nhận
rằng đa số nguời Việt Nam, nhất là giới
bình dân mang nhiều sự mê t n, dị đoan
rất dễ thƣơng. Vì thế mâm ngũ quả chƣng
bàn thờ trong những ngày Tết ngƣời ta
thƣờng chọn những loại trái cây có tên
tốt, mang ý nghĩa nhƣ thơm, đu đủ, dừa,
xoài, sung... vì theo họ, những loại hoa
quả nầy tƣợng trƣng cho một năm mới
đầy thơm tho, tiền bạc trong nhà đầy đủ
và cuộc sống sung túc.
Hội Ngƣời Việt Richmond 10 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Tiệc Tất Niên
Ở thành thị, theo thông lệ, cứ đến cuối
năm, thiên hạ thƣờng tổ chức những bữa
tiệc tất niên tại các công, tƣ sở, x nghiệp,
trƣờng học hầu các công tƣ chức, nhân
viên, hoc sinh, sinh viên, thầy cô có dịp
họp mặt vui vẻ, chuyện trò thân mật,
chúc Tết lẫn nhau trƣớc khi chia tay để
về nhà hoặc về quê ăn Tết với gia đình.
Đƣa Rƣớc Ông Bà
Vào ngày Tết ngƣời Việt Nam ta có
tục đƣa rƣớc ông bà. Trƣa hôm 30 Tết
ngƣời ta làm lễ cúng tất niên đồng thời
đón rƣớc ông bà hoặc ngƣời thân quá cố
để vong linh họ về sum họp với gia đình
trong những ngày Xuân. Qua đến ngày
mồng bốn, ta tiễn đƣa vong linh ông bà
về phƣơng cũ.
Giao Thừa Và Lễ Trừ Tịch
Giao Thừa có nghĩa là cũ giao lại cho
mới tiếp nhận. Hết giờ Hợi sang giờ Tý
vào lúc nửa đêm 30 Tết là Giao Thừa,
thiên hạ làm lễ Trừ Tịch tiễn vị thần năm
cũ, đón vị thần năm mới còn đƣợc gọi là
lễ “Tống ựu, Nghinh Tân”. Theo cổ tục,
ngƣời ta tin rằng từ năm Tý đến năm Hợi
là 12 năm thì có 12 vị thần Hành Khiển
luân phiên nhau, mỗi năm một vị lo trông
coi việc nhân gian vì thế mà ta có lễ Trừ
Tịch để tiễn đƣa và đón các vị thần Hành
Khiển của năm cũ và năm mới, đồng thời
cầu cúng cả ản ảnh Thành Hoàng và
Thổ ông Thần Kỳ mà ta có câu tục ngữ
“Đất có Thổ ông, sông có Hà á”.
Lễ Trừ Tịch ở các làng xã còn giữ cổ
tục, ngƣời ta thiết lập hƣơng án ở trong
trung thiên hoặc nơi sân đình, cũng có
khi ở ngã ba làng xã với vàng mã, hƣơng,
đèn, trầu, rƣợu, hoa quả, xôi gà tế lễ rất
trọng thể. Trong khi tế lễ, họ đánh trống,
khua chiêng, đốt pháo vang dậy trong giờ
Giao Thừa. òn các tƣ gia cũng cúng lễ
Giao Thừa trong sân hay trƣớc cửa nhà
với mâm lễ vật đặt trên bàn rồi vái tứ
phƣơng. Khi tới Giao Thừa chuông, trống
ở các Đình, hùa, Giáo Đƣờng khắp nơi
cũng đƣợc đánh lên vang rền kèm theo
tiếng pháo đón Giao Thừa nổ giòn giã.
Tiếng chuông, tiếng trống, tiếng pháo của
giờ Giao Thừa là âm điệu truyền thống
của ngày Tết.
Những kẻ đã từng nghe những âm
điệu nầy trong quá khứ, nay vì hoàn cảnh
bắt buộc họ phải xa lìa đất mẹ thân yêu,
vào đêm Giao Thừa họ thƣờng gục đầu
im lặng để chờ nghe lại âm điệu ngày
xƣa, nhƣng giờ Giao Thừa cứ lặng lẽ trôi
qua và những âm điệu âu yếm kia vẫn
biền biệt, khiến họ hụt hẫng, lòng họ
dâng trào niềm nuối tiếc và uất hận, rồi
lòng họ cảm thấy nghẹn ngào và đôi dòng
lệ tự nhiên tuôn trào thấm ƣớt bờ mi. Vì
ai mà họ đã đánh mất kỷ niệm thân yêu
nầy? Vì ai mà họ phải khóc trong những
đêm Giao Thừa xa cố quận?
Về Giao Thừa, nữ sĩ Hô Xuân Hƣơng
có hai câu đối nhƣ sau:
Hội Ngƣời Việt Richmond 11 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Tối ba mươi khép cánh càn khôn,
Kẻo sợ ma vương đem quỷ tới.
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa,
Để cho thiếu nữ rước Xuân vào.
Tiền Của Vào Nhƣ Nƣớc
Ở thành thị, phố phƣờng ta có tục lệ
sau giờ Giao Thừa, những ngƣời gánh
nƣớc mƣớn tự động gánh nƣớc đến
những nhà trong hàng xóm một vài đôi
nƣớc ngụ ý rằng năm mới gia chủ sẽ làm
ăn phát đạt “tiền của vào nhƣ nƣớc” và
gia chủ vui vẻ thƣởng tiền rất hậu. ũng
có những ngƣời buôn bán, vào những
ngày cận Tết đã ân cần dặn trƣớc những
ngƣời gánh nƣớc thuê đừng quên gánh
nƣớc đổ vào nhà cho mình.
Đi Lễ Chùa, Giáo Đƣờng Và Hái Lộc
Sau khi cúng Giao Thừa xong, thiên
hạ làm lễ Thổ ông rồi sửa soạn đi lễ tại
các Đền, Miếu, Đình, hùa, Giáo Đƣờng
để cầu phúc, cầu may cho năm mới.
Ngoài mục đich đi lễ Phật, lễ húa, lễ
các vị Thần Linh họ còn có dụng ý hái
lộc và xin xăm. Hái lộc là một tục lệ nên
thơ của ngƣời Việt Nam. Ngƣời ta tin
rằng lộc là lộc của Trời vì thế hái lộc đầu
năm sẽ mang lại nhiều may mắn, thịnh
vƣợng cho suốt một năm. Vì lẽ đó mà
vào ngày đầu năm thiên hạ già, trẻ, trai,
gái chen chúc nhau lên hùa để hái lộc.
òn xim xăm, đa số ngƣời Việt rất tin
vào số mệnh nên song song với việc lên
hùa lễ Phật, hái lộc họ còn lên hùa để
xin xăm hầu biết vận mệnh của mình và
gia đình mình trong năm mới. Hình thức
xin xăm là sau khi van vái Trời, Phật với
tất cả lòng thành rồi ngƣời ta rút một thẻ
xăm trong ống (hoăc lắc cho thẻ xăm rơi
ra), đọan mang đến cho ngƣời đoán xăm,
đôi khi là một thầy bói, đôi khi là một
nhà sƣ để giải đoán dùm những ngụ ý
trong quẻ xăm. Hầu hết những ngƣời lên
hùa xin xăm vào dịp đầu năm đều ra về
với vẻ mặt “vui nhƣ ngày Tết” vì những
lá xăm của họ đều hứa hẹn những điều tốt
đep.
Xông Nhà, Xông Đất
Theo cổ tục, vào đầu năm ngƣời đến
nhà ai trƣớc nhất là ngƣời “xông nhà,
xông đất” cho gia chủ và thiên hạ tin rằng
đầu năm mới đƣợc ngƣời vui vẻ, dễ t nh,
tốt nết hoặc những ngƣời có tên nhƣ:
Thƣơng, Mến, Hùng, Dũng, Đẹp, Giàu,
Sang, Phú, Quý, Thịnh, Vƣợng, Tài, áu,
Lợi, Phƣớc, Lộc, Thọ, ó, Tiền, ạc,
Vàng, Triệu, Tỷ, Thơm... đến nhà trƣớc
nhất thì gia chủ sẽ đƣợc mọi chuyện tốt
lành, đẹp đẽ, thịnh vƣợng, phú quý, may
mắn quanh năm. òn ngƣợc lại, gặp
ngƣời khẳn t nh, cộc cằn, độc ác, khờ dại,
ngu ngơ, đần độn hoặc những ngƣời có
tên nhƣ: Nghèo, Khổ, Xấu, Ghét, Ngu,
Hƣ, Thúi, hết, Xụi, Thua, Lỗ, Nợ, Nần,
Túng, Thiếu, Đau, Ốm, ệnh, Ghẻ, hốc,
ại, Xụi, ần, Hàn, Đói, Rách, Gian,
Ác... thì suốt năm gia chủ làm ăn lủng
củng, thất bại hay gặp những chuyện vẩn
vơ, bực mình.... hinh vì vậy mà các cụ
lớn tuổi hoặc những ngƣời còn mang
nặng cổ tục rất kén chọn ngƣời đến xông
nhà, xông đất, thƣờng họ mƣợn ngƣời tốt
nết, tinh tình dễ thƣơng, có tên đẹp đến
xông đất dùm. òn trong gia đình, sau
khi đi lễ hùa, Nhà Thờ về là xông đất
nhà mình và gia đình thƣờng để cho
ngƣời tốt nết nhất vào nhà trƣớc.
Hội Ngƣời Việt Richmond 12 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Theo tục lệ, ngƣời đến xông đất đốt
một phong pháo và chúc gia chủ mọi điều
tốt lành, tùy theo trƣờng hợp, lời chúc có
thể:
- Nếu gia chủ có cha mẹ già thì chúc
“Tăng phúc, tăng thọ”
- Nếu gia chủ là nhà nông thì chúc
“Phong đăng hòa cốc”
- Nếu gia chủ là một nhà công kỹ nghệ
thì chúc “Tốt tài sai lộc”
- Nếu gia chủ là một thƣơng gia thì
chúc “ uôn may, bán đắt, nhất bản
vạn lợi”
- Nếu gia chủ là một quân nhân hay
công chức thì chúc “Mau thăng quan,
tiến chức”
Trong trƣờng hợp chẳng may gặp
ngƣời xấu nết, t nh tình cộc cằn hay xui
hơn nữa bị một lão ăn mày đến viếng đầu
năm thì gia chủ phải lấy gạo, muối ra vãi
tứ ph a và cúng vái gọi là “đốt phong
long” rồi chờ một ngƣời khác khá hơn
đến “tái xông”
Mừng Tuổi Và Chúc Xuân
Một trong những tục lệ đẹp đẽ nhất
của ngƣời Việt Nam là mừng tuổi ông bà,
cha mẹ vào dịp đầu Xuân. Đây là một
hình thức hiếu đạo của con cháu đối với
công ơn dƣỡng dục của các đấng sinh
thành đã nuôi dƣỡng nên mình mà chỉ
Việt Nam mới hãnh diện có cổ tục nầy
trên thế giới ngày nay.
Mừng tuổi là mừng ông bà, cha mẹ
thọ thêm một tuổi. Sáng mồng một Tết,
sau khi ông bà, cha mẹ khăn áo chỉnh tề,
con cháu cũng xúng x nh trong những bộ
quần áo mới, trải chiếu xuống đất lạy 2
lạy đồng thời chúc ông bà, cha mẹ những
lời tốt đẹp, hiếu thảo. Ông bà, cha mẹ
cũng chúc lại con cháu ngoan ngoãn,
thông minh, chóng lớn, học hành mau đỗ
đạt rồi cho con cháu những tờ giấy bạc
mới đựng trong những phong bì màu đỏ
gọi là tiền “lì xì”, có nghĩa là những đồng
tiền may mắn.
Ngoài tục lệ mừng tuổi, vào ngày Tết
thiên hạ còn có lệ chúc Tết lẫn nhau. Nếu
ở xa ngƣời ta gởi thiệp, còn nếu ở gần
bạn bè, họ hàng thăm viếng và chúc Tết
với nhau. Những lời chúc thông dụng là
“Phƣớc, Lộc, Thọ”, “An Khang, Thịnh
Vƣợng”, “Vạn Sự Nhƣ Ý”, “Sống Lâu
Trăm Tuổi”, “Tân Xuân Vạn Hạnh”,
“ on Đàn, háu Lũ”, “Tiền Vào Nhƣ
Nƣớc”, “Tiền Rừng ạc iển”, “Đa Tài,
Đa Lộc”, “Mau Thăng Quan, Tiến
hức”...
Ngoài việc họ hàng, bạn bè thăm
viếng chúc Tết lẫn nhau, các nhân viên
thuộc quyền ở các Ty, Sở, Đơn Vị vào
ngày Tết cũng có lệ đến chúc Tết các xếp
của mình. Kèm theo những lời chúc Tết
đẹp nhất, họ còn có “quà biếu” cho các
xếp họ nữa. Xin hãy nghe bài “ húc Tết”
của nhà thơ trào phúng Trần Tế Xƣơng:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau,
Chúc nhau: Trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen nầy ông quyết đi buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu,
Trăm, nghìn, vạn, mớ để vào đâu.
Phen nầy ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng, đồng rơi lọ phải cầu.
Hội Ngƣời Việt Richmond 13 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang,
Đứa thì mua tước, đứa mua quan.
Phen nầy ông quyết đi buôn lộng,
Vừa bán, vừa la cũng đắt hàng.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc con,
Sinh năm, đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non.
Kiêng Cữ
Đa số ngƣời Việt Nam ta tin rằng việc
gì xảy ra đầu năm thì sẽ liên tục xảy ra
suốt năm vì thế ta có rất nhiều tục kiêng
cữ trong những ngày Tết:
Giông
Giông có nghĩa là xui xẻo, cho nên
vào những ngày cuối năm có mƣợn đồ
vật hoặc nợ nần của ai thì phải lo trả vì
nếu để sang năm mới ngƣời ta đến đòi thì
bị “giông”. Vì thế vào những ngày cuối
năm, các chủ nợ thƣờng đến đòi tiền các
con nợ vì để qua năm mới đến đòi sợ
“giông” ngƣời vay nợ. Ngƣợc lại, các con
nợ Tết đến cũng lo chạy đôn, chạy đáo để
thanh toán tiền nợ của mình vì sợ để leo
qua năm mới sẽ bị xui và sẽ bị mang nợ
suốt cả năm nên ta có câu:
Khôn ngoan đến cửa quan mới biết,
Giàu khó ba mươi Tết mới hay.
Cữ Quét Nhà
Vào ngày Tết ngƣời ta cữ quét nhà
trong suốt ngày mồng một, mồng hai và
mồng ba vì sợ rằng quét nhà sẽ quét hết
tiền bạc, của cải và các điều may mắn ra
ngoài. Nếu nhà có rác, ta chỉ quét sơ và
gom vào một xó để chờ hết Tết rồi mới
đem đi đổ.
Cữ Quần Áo
Trong những ngày Tết, ngƣời Việt ta
cữ ăn mặc quần áo trắng hoặc đội khăn
trắng vì sợ trong năm sẽ có tang.
Cữ Ăn Nói
Vào những ngày đầu năm, ngƣời trong
gia đình phải hết sức thận trọng về “lời
ăn tiếng nói”, chỉ nên dùng những lời lẽ
đẹp và tránh những lời nói không hay
nhƣ khỉ, chết, đau, ốm hay những lời nói
tục tằn, chửi thề... để suốt năm không gặp
những chuyện xui xẻo.
Cữ Đánh Con
Vào ngày Tết cha mẹ phải cữ đánh
con cho dù rằng vào những ngày nầy con
cái “phá nhƣ quỷ” cha mẹ cũng đành dằn
lòng vì nếu đánh con trong những ngày
Tết thì con sẽ bị “huông”, nghĩa là suốt
năm con sẽ bị đòn hoài.
Ngoài các điều trên, thiên hạ còn
kiêng cữ nhiều thứ khác trong ngày Tết
nhƣ kiêng cãi nhau, kiêng đánh lộn, kiêng
gây tiếng động, kiêng làm vỡ chén bát, ly
tách, kiêng tiếng khóc dù là tiếng khóc
của trẻ con đòi bú sữa. Ngoài việc kiêng
cữ những điều “xấu”, ngƣời ta còn phải
làm những điều “tốt”, đó là tục lệ đi mua
muối đầu năm. Muối tƣợng trƣng cho sự
đâm đà, mặn mòi. Nhƣng ngƣợc lại ta cữ
đi mua vôi vì vôi tƣợng trƣng cho sự bạc
bẽo, vong ân, bội nghĩa nhƣ ta thƣờng
nghe câu “ăn ở bạc nhƣ vôi” vì thế dân
gian có câu tục ngữ “Đầu năm mua muối,
cuối năm mua vôi”.
Bói Toán
Hội Ngƣời Việt Richmond 14 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Vào ngày đầu năm ngƣời Việt ta th ch
đi xem bói toán để biết vận mệnh của
mình trong năm mới. ói toán có nhiều
cách, nhƣ bói Kiều, bói sách, bói tuồng,
nhờ thầy bói xem bói dùm... ói Kiều là
lấy cuốn Kiều ra để trên bàn, sau khi thắp
hƣơng đèn và khấn vái Nguyễn Du, Thúy
Kiều, Kim Trọng rồi ngƣời ta lật bất cứ
trang nào của Kiều ra xem, những câu
thơ sau đây đƣợc xem là tốt:
Dưới dòng suối chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
Gương nga chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
Đầu năm mà gặp nƣớc, gặp cầu, gặp
vàng thì không có gì may mắn, hạnh
phƣớc cho bằng. Nƣớc tƣợng trƣng cho
tiền bạc nên ta có câu thành ngữ “tiền vào
nhƣ nƣớc”, còn cây cầu tƣợng trƣng cho
sự thông giao, sự liên lạc, sự đoàn tụ và
vàng tƣợng trƣng cho sự giàu sang, phú
quý.
Ngƣợc lại những câu thơ sau đây đƣợc
xem là điềm xấu:
Hàn huyên chưa kịp giãi giề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước, kẻ tay đao,
Đầu trâu, mặt ngựa ào ào như sôi.
Già giang một lão một trai,
Một dây vô lại buộc hai thâm tình.
Hoặc:
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.
Đầu năm bói Kiều mà gặp cảnh gia
đình tan nát, phân ly hay gặp cảnh “Sầu
đong càng lắc càng đây” nhƣ trên thì
ngƣời ta tin rằng đó là điềm xui xẻo.
ói sách cũng tƣơng tự nhƣ bói Kiều,
còn bói tuồng là ngày Tết ta chọn tuồng
hát để xem, nếu xem nhằm tuồng kết thúc
cốt chuyện bằng sự sum họp, thắng lợi,
hạnh phúc, giàu có là điềm may. òn nếu
tuồng hát kết thúc bằng cảnh gia đình tan
nát, chia ly, chết chóc là điềm không tốt.
Ngoài việc bói Kiều, bói sách, bói tuồng,
thiên hạ còn tìm đến các thầy bói để nhờ
xem dùm vận mệnh, tình duyên, công ăn,
việc làm của mình trong năm mới.
Khai Bút
Vào dịp đầu Xuân, ngƣời Việt Nam ta
có tục lệ tao nhã khác đó là tục lệ Khai
Bút đầu năm. Khai út là năm mới cầm
bút viết lần đâu tiên. Những ngƣời
thƣờng hay viết lách nhƣ các cụ đồ, các
nhà khoa giáp, các văn nhân thi sĩ, các
nhà báo vào dịp đầu Xuân chọn ngày giờ
tốt lấy giấy mực ra làm thơ, viết văn,
ngâm vịnh và thƣởng Xuân.
Khai Quân
Dƣới thời Việt Nam ộng Hòa, các
đơn vị Quân Đội có truyền thống tổ chức
Lễ Khai Quân và Lễ Thƣợng Kỳ Đầu
Năm với mục đ ch phô trƣơng sức mạnh
của Quân Đội cũng nhƣ nâng cao ý ch và
tinh thần của binh sĩ hầu đạt đƣợc nhiều
thắng lợi cho đơn vị trong năm mới.
K nh húc Quý Vị Độc Giả Một Năm
Mới An Khang – Thinh Vƣợng
Lê Thương
Richmond - Virginia
Hội Ngƣời Việt Richmond 15 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Thơ Xuân
(Gởi về Mẹ Việt Nam và Đồng ào Việt
Nam thân mến với tất cả long thƣơng nhớ
và lời cầu chúc thành công trong cuộc
đấu tranh Tự Do Dân hủ của Quê
Hƣơng)
Mẹ ơi lại một mùa xuân đến
Lại một mùa xuân cách núi sông
Mấy chục năm trời xa Mẹ thế
Con buồn ghê lắm. Mẹ buồn không ?
Mẹ buồn, mắt tím màu thương nhớ
Những đứa con đời như nhánh sông
Như cánh lá rơi mùa lốc cuốn
Như chim mất tổ giữa muôn trùng
Thương con, mẹ hẳn chan hoà lệ
Nước mắt từ tim buốt tận lòng !
Tiếng khóc phải buồn như tiếng thở
Của đời chìm đắm cảnh lao lung
Của người ở lại trong hờn tủi
Của kẻ ra đi giữa mịt mùng
Con thấy Mẹ buồn, con khổ lắm
Khổ vì con để mất non sông...
Khổ vì con thấy quê yêu dấu
Quằn quại đau thương giữa bão bùng !
Mẹ ơi, lại một mùa xuân đến
Con phải làm gì cứu núi sông !
Con phải - Mẹ ơi - con phải rửa
Mối hận tan nhà, hận quốc vong !
Mối hận còn chồng thêm nỗi nhục
Tha hương, nhục ấy đắng bên lòng !
Giặc kia còn đó, con còn phải
Rèn tấm can trường, luyện kiếm cung !
Từ buổi mất đi rừng núi cũ
Mùa xuân phục quốc vẫn chờ mong
Tình yêu đất nước, tình dân tộc
Đã thắp trong con ngọn lửa hồng
Mong ngọn lửa kia cùng biển lửa
Soi đời, xoá xạch mọi xiềng gông !
Mẹ ơi, lại một mùa xuân đến
Xuân gợi mơ xưa, giấc mộng lòng
Mộng cưới cô nàng bên xóm Hạ
Mộng thành chiến sĩ giữ non sông
Giang tay ôm trọn vòng quay đất
Bốn biển tung hoành mộng kiếm cung
Nhưng Tháng Tư đen tan vỡ hết
Tháng Tư hoa nụ nát từng bông !
Tháng Tư, ngã xuống đời oan nghiệt
Ai giết đời trai tự vỡ lòng !?
Thôi, đứng dậy cười, lau nước mắt
Rồi đem lòng trải với non sông
Nếu tầm tay với chưa dài đủ
Con cháu mai này sẽ tiếp công
Thà rách mà làm Người Tị Nạn
Cho tình sông núi mãi tình trong
Đấy, lời Mẹ dặn, lời tâm huyết:
"Chớ bán quê hương, phản giống dòng !"
Mẹ ơi, lại một mùa xuân đến
Và mùa xuân đến chẳng chờ mong !
Tri kỷ, chân tình, ai đấy nhỉ
Giữa đời điên đảo đứa thành ông ?
Giữa thời nhân nghĩa là ngu dại
Phá sản lương tâm, khánh kiệt lòng
Lúc bước chân đi con đã biết
Hội Ngƣời Việt Richmond 16 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Xảy đàn, tan nghé, chợ chiều Đông
Nhưng không ngờ được rằng phiên chợ
Buồn đến đau thương, đến não nùng
Phiên chợ khối người rao bán đấy
Nhưng toàn viễn tưởng với hư không!
Cái con cần đó, tìm không thấy
Chỉ thấy nhân gian rất mịt mùng
Chỉ thấy lòng đời là hạn hẹp
Tình đời hữu thủy lại vô chung!
Thấy con, mái tóc màu sương tuyết
Mà nợ giang sơn vẫn chất chồng
Và vẫn từng đêm ngồi đối vách
Từng đêm thao thức với non sông
Từng đêm rồi lại từng đêm thế
Non nước trời ơi vẫn khốn cùng
Non nước khi không còn ác thú
Quốc thù, thưa Mẹ, mới là xong!
Một ngày, con nghĩ, không xa, sẽ
Thấy lại huy hoàng cảnh núi sông
Thấy được nhân tài trong bốn cõi
Góp vào tim óc, góp vào công
Góp hồn xây lại căn nhà Mẹ
Cho nắng mùa xuân lại nắng hồng
Cho lá thư xuân con gởi Mẹ
Xanh tình núi biếc, thắm tình sông
Và vui như pháo đêm trừ tịch
Hiển hách mùa xuân của chiến công
Con sẽ quì hôn dòng quốc sử
Hôn mà nước mắt cứ rưng rưng
Mẹ ơi, con sẽ cầm tay Mẹ
Để hát vang lên khúc nhạc mừng
Tiếng hát quốc ca chào đất nước
Ba miền rộn rã gió bay tung !
Mẹ ơi, lại một mùa xuân đến
Xuân chốn tha hương quá lạnh lùng
Tống cựu nghinh tân ai đó nhỉ
Mà con với một ngọn đèn chong
Xuân con không có mai, đào nở
Nhưng có Quê Hương ngự giữa lòng
Có bóng Cờ Vàng trong bóng Mẹ
Có ngày rực rỡ của non sông
Có con bay giữa đàn chim Việt
Về dựng giang sơn cõi Lạc Hồng!
Ngô Minh Hằng
Giã Từ
Tôi biết yêu em từ độ nào,
Để lòng với dạ cứ nao nao.
Vắng em hạ trở thành đông giá,
Tết đến chiều xuân thiếu bóng đào.
Tôi tưởng tình tôi sẽ mặn nồng,
Nào ngờ hạ đã biến thành đông.
Xuân về vắng bóng hoa đào nở,
Tình tôi ôm trọn mối tình không.
Thôi thế từ nay cách biệt đào,
Giã từ hạ trắng với trời cao.
Để tìm đông giá tìm riêng lẻ.
Tìm chút hương thừa dưới bóng sao.
Hoàng Bích
Hội Ngƣời Việt Richmond 17 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Dưa Hấu Ngày
Tết Nguyễn thị Hàm Anh
Ngày tết Nguyên Đán, trên bàn thờ mỗi
nhà bao giờ cũng bày hƣơng nến trang
nghiêm và các thứ hoa quả tƣơi đẹp nhất.
Mâm ngũ quả theo tục xƣa tƣợng trƣng
cho ngũ cốc, mỗi quả tƣơng ứng với một
loại hạt hàm ý lời cầu ƣớc mong vụ mùa
đƣợc phong đăng hòa cốc, lƣơng thực no
đủ.
Mỗi địa phƣơng có loại quả này, thiếu
quả khác nên mâm ngũ quả cũng có sự
thay đổi cho phù hợp và vì thế ý nghĩa
cũng khác đi. Đó là sự dâng lên tổ tiên
những thứ trái cây của ngon vật lạ và sự
trang tr Tết nhất. ởi vì trong ngày Tết,
sự trang tr tập trung nhiều nhất vào bàn
thờ quan trọng giữa nhà.
Miền ắc thƣờng bày mâm ngũ quả với
nải chuối nằm dƣới, trên là phật thủ,
hồng, lựu… Xuôi xuống miền Nam, ngũ
quả biến thành “cầu dừa đủ xài sung”. ứ
ngắm lên bàn thờ là thấy hiện lên một
năm mới tràn đầy hy vọng.
Nhƣng dù bày hoa quả nào đi nữa thì trên
bàn thờ cổ truyền miền Nam không thể
thiếu dƣa hấu. Một cặp dƣa nằm trên bàn
thờ thật hoành tráng, trang trọng mà khó
có loại trái cây nào khác so sánh nổi.
Vì thế, để tỏ lòng quý trọng ngƣời khách
đến chơi, chủ nhà đãi, không phải cam,
quýt, lê, táo... quá thƣờng bóc ra lúc nào
cũng đƣợc mà là dƣa hấu. Trái dƣa quá to
nên nàng Tây Qua, một tên chữ của dƣa
hấu, ngày tết chỉ đƣợc bƣng ra bổ trƣớc
mặt mời những ngƣời khách đặc biệt.
Thật xứng với mỹ danh ấy khi dƣa xẻ ra,
ruột đỏ nhƣ môi son, răng đen nhƣng
nhức tiêu biểu cho nhan sắc phụ nữ
phƣơng ắc ngày xƣa.
Dƣa hấu thƣờng bày thành cặp. Trƣớc kia
ngƣời ta thƣờng mua thêm tờ giấy chữ
Phúc hay Lộc dán lên mặt nhƣng nay,
hàng bán dƣa nào cũng sẵn xấp chữ ấy, ai
mua dƣa thì kèm tặng luôn.
ó nhiều cách trang tr quả dƣa. Dán giấy
hồng điều xƣa nhất và quen thuộc nhất.
Sau này ngƣời ta cũng dán giấy nhƣng
không nhất thiết chữ Nho nữa mà là chữ
Việt kiểu thƣ pháp ai đọc cũng hiểu hoặc
hình long phụng, mai đào... Đặc biệt nhất
là dƣa chạm trổ. Ngƣời khéo tay dùng
dụng cụ tỉa gia chánh để khắc trên vỏ dƣa
hình hoa lá, chim muông, ông Phúc Lộc
Thọ hay câu chúc tết. Trái dƣa vẫn giữ
nguyên quả, chỉ chạm trên vỏ hoặc nạo
ruột, thắp nến trong đó thành đèn quả
dƣa.
Dù sao khi khắc sâu xuống phần vỏ trắng
nhƣ vậy, dƣa chỉ trƣng bày trong thời
gian ngắn dành cho các cuộc triển lãm
chứ không để lâu quá đƣợc. Vì thế nếu
Hội Ngƣời Việt Richmond 18 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
trƣng bàn thờ hay để dành ăn tết vẫn là
những quả dƣa nguyên vỏ.
Ngày trƣớc, ở dƣới quê, quả dƣa tết còn
mang ý nghĩa bói toán đầu năm. Khi xẻ
ra, ai nấy hồi hộp. Nếu gặp quả dƣa ruột
đỏ xào xạo nhƣ cát, vừa nƣớc, ngọt lịm
thì đó nhƣ điềm hên, mọi việc trong năm
sẽ hanh thông, may mắn. òn gặp quả
vừa nhạt màu, vừa lạt nhách thì e xui xẻo
cả năm. Quả dƣa tốt hay xấu, cả ngƣời
khách cũng chịu ảnh hƣởng.
Thật ra dƣa hấu ngon hay không tùy thổ
nhƣỡng và kỹ thuật chăm sóc. Tục truyền
khi sống lƣu đày ngoài đảo hoang, đến
mùa hái dƣa, An Tiêm thả những quả dƣa
ch n xuống biển trôi đi khắp phƣơng. Tàu
thuyền vớt đƣợc, ăn thử thấy vị ngon
ngọt kỳ lạ, thƣơng lái đua nhau tìm đến
tạo nên cảnh mua bán sầm uất. Không
biết có trái nào từ Nga Sơn trôi dạt đến
Hà Tiên không mà dƣa nơi vùng này nổi
tiếng ngon, vang danh cả sang các nƣớc
láng giềng chung quanh.
Ngày xƣa trồng dƣa chỉ theo những
phƣơng cách cổ truyền, kinh nghiệm
riêng của từng ngƣời với giống má thất
thƣờng. Vì thế nhiều khi cùng một nơi
mà ruộng dƣa này đỏ, ruộng bên cạnh
trắng, năm nay đƣợc mùa, năm sau thất,
ngƣời ta đành giải th ch là do âm đức!
ây giờ trồng dƣa bớt ngại sự may rủi tự
nhiên. Dƣa không còn độc quyền Hà Tiên
nữa mà trồng nhiều ở các tỉnh đồng bằng
miền Nam nhƣ Vĩnh Long, Đồng Tháp,
Tiền Giang... Miền Trung có ình Định,
Phú Yên… Nơi nào cũng đều trồng dƣa
đƣợc nên không cần chuyên chở từ xa
lắm lên thành phố..
Dƣa hấu đƣợc cải tiến rất nhiều. Dƣa hấu
ruột vàng lúc mới xuất hiện thu hút sự
chú ý của mọi ngƣời nhƣng sau này
không đƣợc th ch bằng dƣa đỏ vì màu đỏ
tƣơi rõ ràng rực rỡ, lôi cuốn hơn. Do màu
sắc đặc biệt của nó, loại dƣa này đƣợc đặt
tên rất kêu là dƣa hấu hoàng kim, rất dễ
lộn với quả dƣa hoàng kim trƣớc kia gọi
là dƣa lê với hình thức và nội dung hoàn
toàn khác nhau.
Dƣa không hạt còn gọi là dƣa mặt trời đỏ,
khi ăn khỏi mất công khều hạt bỏ đi, trẻ
con lại không sợ hóc nên bán rất chạy, thị
trƣờng hút hàng không đủ cung cấp. Thế
nhƣng dù tiện lợi đến đâu, chuyện gì
cũng có ý kiến trái chiều, dân bảo thủ kêu
lên dƣa hấu mà mất đi hàng răng hạt
huyền điểm trang ấy thì trơ trụi lắm, còn
gì là duyên. Đừng nghĩ tới một chút bất
tiện của hạt mà quên mất vẻ đẹp tự nhiên.
Nhằn hạt khi ăn trái cây cũng là một thú
tự nhiên đó chứ!
hỉ có giống dƣa hấu mini Pepquino to
bằng đồng xu nhỏ ở Nam Mỹ thì chƣa
thấy bò tới VN.
Dƣa bây giờ không phải quả nào cũng
tròn mà có thứ tròn, thứ dài thuôn thuôn,
quả có màu xanh đen, quả sọc đậm nhạt
xen kẽ. Dƣa hấu vuông ra mắt cách đây
ba năm tại chợ tết ần Thơ. Loại này
không phải giống mới mà chỉ do ép
khuôn nên vẫn giữ các đặc t nh của dƣa
hấu bình thƣờng. Kỹ thuật xem chừng
không khó lắm nên đƣợc đẩy thêm bƣớc
nữa thành dƣa hình thỏi vàng và trên vỏ
có nổi chữ hoặc hình ảnh. Giá khoảng
một triệu một cặp. Để xứng đáng với giá
đó thì quả dƣa đƣợc đặt tên Phú Quý,
Hồng Phúc, Tài Lộc… khiến khách mua
càng thích thú.
Hội Ngƣời Việt Richmond 19 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Mấy năm gần đây, cũng nhƣ mọi loại
nông sản, dƣa hấu cũng bị tiêm thuốc
k ch th ch, thuốc tăng trọng để cây phát
triển nhanh, rút ngắn thời gian chăm sóc.
Vì thế mua dƣa ngày tết dễ bị lầm. Mới
có mấy ngày, ruột dƣa đã bị úng, mau
chảy nƣớc…
Dƣa ngon do phân bón. Trƣớc kia nông
dân bón phân dơi, tôm cá… nên ruột cát
và ngọt. Nay lạm dụng phân hóa học
khiến quả dƣa cũng đỏ, cũng nhiều nƣớc
nhƣng không “đặc” và ngọt sắc nữa.
Thành thử đa số khách mua dƣa đều phải
lựa hàng quen để có gì qua tết còn ra chợ
bắt đền!
Dƣa hấu lúc nào cũng có hai loại. Một
loại bày bàn thờ làm cảnh giống nhƣ
chƣng hoa cho đẹp cần vẻ ngoài to tròn
láng bóng còn cả cuống, thứ này dễ thôi
ngƣời bán dùng keo dán sắt, kéo mấy
cũng không đứt nổi, bên trong nhƣ thế
nào không quan trọng. Loại để ăn thì ruột
bên trong phải ngon, bên ngoài có méo,
nhám, màu lang mốc cũng không sao.
Mấy bà nội trợ bày kinh nghiệm cho
nhau cách chọn dƣa. Vỏ đen bóng lƣỡng,
búng vào trái nghe tiếng kêu chắc nịch thì
không sợ rốp, dây cuống héo khô quăn
chắc chắn ăn vào ngọt ngay. Dƣa nổi rõ
gân là dƣa ch n phải ăn liền trong vòng
vài ba ngày chứ không thể để lâu đƣợc.
hân cuống phẳng, chƣa hũm xuống thì
để đƣợc mƣời ngày…
Nông dân thịnh vƣợng nhờ dƣa tết.
Ngƣời bán cũng sống nhờ đó.
Sau vụ lúa, ngƣời ta tận dụng rơm rạ để
trồng dƣa nhƣ môt cách xen canh. Dƣa
hấu trƣớc kia chỉ trồng vào tháng Tết
nhƣng nay cũng nhƣ một số rau củ khác:
cà chua, quýt, xoài… đƣợc trồng quanh
năm. Lúc nào ra chợ cũng thấy đủ mặt.
Dù sao Tết cũng là vụ ch nh của dƣa hấu
vì lúc này thị trƣờng tiêu thụ số lƣợng
lớn.
Dân thành phố ƣa dƣa Gò ông, Long
An vì ngọt, vỏ mỏng trong khi dƣa Vĩnh
Tịnh, Sóc Xoài (Tây Ninh)… hạt to nhƣ
hạt b . Một số nơi ở ình Thuận và miền
Tây Nam bộ chuyên trồng dƣa chủ yếu
lấy hạt rang lên nhuộm đỏ nhâm nhi ngày
lễ tết hoặc làm nhân bánh dẻo, bánh trung
thu.
ận tết, các xe tải nƣờm nƣợp chở dƣa về
thành phố. Hồi chợ ầu Ông lãnh chƣa bị
giải tỏa, sau 23 trở đi, dƣa đổ xuống đó
nhƣ núi. ác vựa dƣa mọc lên suốt đƣờng
Nguyễn Thái Học góp thêm vẻ rộn rịp
cho chợ tết. Dƣa đổ đầy xuống mặt đất
trải rơm, trên là các tấm ván thƣa bắc
ngang, ngƣời đi lại thoăn thoắt trên đó.
Khi bán, họ lật ván lên, lấy từng quả dƣa
ném chuyền tay nhƣ ném bóng ra xe đậu
bên ngoài. Đó là chợ bán sỉ, chỉ đến tối
30, hàng còn ế lại mới bàn lẻ cho ngƣời
nghèo đi sắm tết phút chót. ây giờ dƣa
bán sỉ chuyển qua Thủ Thừa, Long An và
chợ đầu cầu vƣợt Thủ Đức. Xe tải đổ dƣa
xuống vựa. Từ đó xe ba gác chở tiếp về
các chợ bán lẻ.
Dƣa hấu để dành cho mấy ngày tết không
họp chợ, có khi đến hết mùng, nếu hái
sớm quá thì dƣa héo, bán không có giá.
Vì thế từ 25, cùng với tre nứa, lá dong là
những món hàng xuất hiện cuối cùng,
Hội Ngƣời Việt Richmond 20 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
dƣa nhất loạt đổ bộ xuống các chợ. Nhiều
khi chẳng cần vào chợ, đi trên đƣờng,
ngƣời ta luôn thấy trên vỉa hè đƣờng phố,
đây đó hàng dƣa hấu một mình một cõi
thật hiên ngang, bề thế. Quả dƣa đâu có
nhỏ bé nhƣ vú sữa, nhƣ bƣởi mà quá to,
quá nặng, chia ra, chất cao ngay ngắn
thành mấy đống có ngọn oai vệ. Khi ấy
không còn bị đuổi chỗ nữa, dƣa hấu
mang hơi thở của tết đến gấp gáp, thúc
giục lắm rồi.
Ngƣời buôn bán dƣa hấu cũng nhƣ hoa
cảnh gần nhƣ… đánh bạc vì không thể
tiên đoán thị trƣờng mỗi năm ra sao.
Ngƣời mới buôn phải trả tiền ngay cho
chủ vựa nhƣng mối quen có thể gối đầu,
bán xong mới gom tiền lại trả sau. Nơi
bán sỉ vẫn còn theo t nh đơn vị “già”. Hai
trăm dƣa là hai trăm bốn chục trái, tức là
một chục tƣơng đƣơng mƣời hai trái.
Dƣới quê, càng đi sâu vào vƣờn tức vào
gốc, chục càng tăng lên mƣời bốn, thậm
ch mƣời sáu trái. Mua bán dễ dãi còn giữ
chân khách lần sau nên đã đếm đủ, chủ
vựa còn hào phóng tặng thêm vài trái cho
vui.
Quả dƣa dƣới năm ký nhìn nhỏ x u,
thƣờng cũng phải nặng sáu đến ch n ký
mới trông đƣợc. Giá tại vựa từ sáu đến
tám đồng một ký. Đúng là dƣa tết lời gấp
đôi cho nên chỉ cần một vụ, ngƣời bán đủ
sống vài tháng. Lạ mắt càng có giá nên
dƣa vuông, dƣa thỏi vàng tha hồ hét giá.
Nhà vƣờn còn hứa hẹn sang năm có dƣa
hồ lô, dƣa hình xe hơi… đƣa ra chợ trái
nào hết ngay trái đó.
Một hàng dƣa hấu chịu thuế má nhƣng
chỉ bán trong năm ngày, không đƣợc
phép ế hàng. Đến chiều ba mƣơi, khi
nắng chƣa tắt, ngƣời công nhân quét
đƣờng sạch sẽ, không còn thứ hàng nào
sót lại ngoài xe bong bóng chạy rong chờ
đón giao thừa. Dƣa hấu bán đổ, bán tháo
Không có chỗ cho những quả dƣa ế kềnh
càng choán chỗ, vả qua giao thừa, không
còn ai mua bán gì nữa các thứ thực phẩm,
hoa quả. Thành thử mấy năm nay dƣa
hấu không còn bệ vệ ngồi kiêu hãnh một
chỗ mà phải chịu khó đi tìm khách. Đó là
dịch vụ bán dƣa đến tận nhà. Ngƣời bán
báo giá, khi khách điện thoại thì giao tận
nơi lấy công làm lời, không t nh ph xe
cộ.
Mặc dù dƣa hấu vẫn có mặt khắp nơi
nhƣng trong thực tế tết mấy năm nay, mãi
lực của thứ trái cây này có phần giảm.
Đầu tiên do giống. Quả dƣa dài ăn ngon
nhƣng trƣng không đẹp. Dƣa tròn chƣng
đẹp lại ăn không ngon. Một quả dƣa t nh
ra giá khá cao so với các loại trái cây
khác. Do đó ngƣời ta không thể bỏ ra số
tiền lớn chỉ để mua quả dƣa bày bàn thờ
mấy hôm. a bàn thờ thay vì chƣng sáu
trái dƣa thì nay bớt còn ba, hai trái còn
một. Thế quả bƣởi vào tuy không đẹp
bằng nhƣng cũng để lâu đƣợc, rẻ hơn và
ăn cũng ngon…
Ý th ch của ngƣời ngƣời mua thật khó
đoán. Mặc kệ, đúng hẹn đến tết, dƣa hấu
vẫn lũ lƣợt kéo ra chợ. Không có dƣa hấu
cũng nhƣ không có bánh chƣng, bánh tét,
sao gọi là Tết đƣợc.
Nguyễn thị Hàm Anh
Hội Ngƣời Việt Richmond 21 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Huế Bây Chừ Mời em về thăm Huế quê anh,
Có dòng Hương Giang chảy êm đềm.
Mấy nhịp Trường Tiền bao ước hẹn,
Đông Ba giờ đây lại vui hơn.
Anh sẽ mời em sang thăm phố,
Phố bây chừ nhộn nhịp hơn xưa.
Qua cầu Phú Xuân chiều nắng ngã.
Bao tà áo trắng lại đong đưa.
Em hỡi ! Mời em về thăm Huế,
Gặp nhau chúng mình lại trao tay.
Trao em câu ân tình xứ Huế,
Trao vần thơ anh viết chiều nay !
Hoàng Bích
Thơ Xuân tặng vợ Trong cơn gió chuyển mình
Trong xôn xao lá cỏ
Có con chim nho nhỏ
Thì thầm xuân đến rồi
Mùa đông cũng đi xa
Cây bồi hồi trút lá
Những ưu phiền vất vả
Trả lại tháng ngày qua
Em có thấy mùa xuân
Trong chồi non xanh mượt
Cánh mai vàng tha thướt
Tô điểm góc sân nhà
Em có thấy mùa xuân
Trong khói hương mộ mẹ
Tiếng anh nói như khẽ:
Mẹ ơi con đây nè!
Em có thấy mùa xuân
Trong ngây thơ con trẻ
Xum xoe lụa là mới
Mừng phong bao đỏ hoe
Anh đã thấy mùa xuân
Trong lo âu bề bộn
Trong muôn vàn hao tổn
Quầng sâu đôi mắt em
Xuân về bên phố đông
Ta bên nhau lặng lẽ
Ôn lại thuở ban đầu
Biết mình không còn khoẻ
Vui lên đi em nhé
Xuân này rồi xuân sau
Cùng đồng cam cộng khổ
Miễn là ta bên nhau
Trần Hữu Hiệp
Hội Ngƣời Việt Richmond 22 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Lì Xì Ngày Tết Saigon cô nương
Lì xì từ âm Hán Việt “lợi thị” có nghĩa
lợi lạc, may mắn, tốt đẹp… Nguồn gốc từ
xƣa lợi thị bao gồm tài vật, quà cáp…
Dần dần ngƣời ta nhận thấy phần nhiểu
quà lôi thôi, cồng kềnh lại khó đoán để
tặng đúng ý nên sự việc đƣợc giản dị hóa
bằng tiền đựng trong phong bao vừa lịch
sự, vừa k n đáo.
Trƣớc kia chỉ có ngƣời lớn trong gia
đình: ông bà, cha mẹ lì xì cho con cháu
lấy may nhƣng nay tục lì xì đã đƣợc mở
rộng. Ngƣời ta có thể lì xì vào bất cứ nơi
đâu: văn phòng, ngoài quán, cửa sau…
Bất cứ lúc nào: sáng, trƣa, chiều, tối…
nhƣ một thứ dầu mỡ bôi trơn cho công
việc đƣợc trôi chảy.
Riêng lì xì trong bài này chỉ chỉ với ý
nghĩa mừng tuổi vào dịp Tết Ta.
Phong bao đựng lì xì trƣớc kia màu đỏ,
bên ngoài in hình ba ông Phúc, Lộc, Thọ
hoặc chuỗi tiền đồng. Nếu không thì tiền
cứ đƣa tay cũng đƣợc tuy kém sự trang
trọng của lễ Tết. ây giờ phong bao lì xì
tân tiến nhiều. Nền có thể màu vàng, màu
hồng, màu xanh… hình hoa mai, hoa đào
hoặc những câu chúc mừng năm mới chữ
Việt. Một số phong bao Hongkong cũng
xuất hiện ở Saigon bằng nhung với màu
sắc và hình ảnh bắt mắt. Phong bao cũng
có nhiều k ch cỡ để tờ giấy bạc có thể
nguyên hay gấp đôi chứ không gấp tƣ
quá nhỏ nhƣ xƣa.
Trẻ con ngoài áo mới còn mong lì xì.
Thoạt tiên, từ bậc trên tặng xuống vai
thấp hơn hoặc đặc biệt ngƣời già và trẻ
em. Nhân dịp đầu năm, lộc rải đều không
bỏ quên ai.
Tuy nhiên tục này ngày càng mở rộng. Ai
cũng có thể cho và nhận cả. Ngƣời dƣới
có thể lì xì ngƣợc lên cho ông bà, cha mẹ,
anh chị… chứ không cần đợi đi xuống.
Miễn rủng rỉnh thì rộng tay chứ cứ theo
đúng tục xƣa nhiều khi cũng khó cho
những bậc bề trên không đƣợc dƣ dả.
Đặc biệt lì xì ngày Tết nên là tiền mới
cho nên rục rịch từ đầu tháng hạp, mọi
ngƣời bắt đầu lo đổi tiền. Ai nấy lục lọi
tr óc xem những mối quen biết ở ngân
hàng, kho bạc, quầy tiết kiệm… tức là
những nơi có d nh dáng đến việc phát
hành tiền.
Vắt óc nghĩ để nhờ mỗi ngƣời một t.
Tiền lì xì đẹp nhất là tờ mƣời ngàn cotton
màu đỏ nhƣng loại tiền này không còn
phát hành nữa. Mọi năm còn đổi đƣợc tờ
1.000, 2.000 đồng bằng cotton nhƣng
năm nay khan hiếm chỉ còn đổi đƣợc
10.000, 20.000 polyme. Mặc dù mang
t nh lấy may đầu năm nhƣng nhận lì xì tờ
một hai ngàn đồng thì cũng không… vui
lắm. ởi vì gửi chiếc xe máy quèn Honda
80 ngoài bãi đã phải trả từ ba đến bốn
ngàn thì tờ một, hai ngàn đồng chẳng biết
giữ làm chi. Mƣời hay hai chục ngàn còn
có thể uống ly nƣớc m a hay thêm vào đổ
xăng…
Hội Ngƣời Việt Richmond 23 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Những năm trƣớc, không cần có sổ gửi
tiền tiết kiệm, mọi ngƣời ra ngân hàng có
khi cũng đổi đƣợc tiền mới. Năm nay
mặc dù ngân hàng nhà nƣớc chi nhánh
thành phố dự định tung một ngàn tỷ tiền
mới ra quầy phát tiền của ngân hàng.
Nhƣng thực tế ra đó chỉ nhận đƣợc những
câu trả lời lạnh lùng: “Không có”,
“Không biết chừng nào có”…
Thật khó để các ngân hàng cung cấp tiền
mới vì đa số đổi vài ba triệu nhƣng có
ngƣời đổi một lúc hằng năm, mƣời triệu.
Nếu may mắn quen biết, có thể xin đổi
một t từ ngƣời có nhiều. ao nhiêu cũng
lấy, chịu khó hỏi khắp nơi, đổi mỗi nơi
một chút cuối cùng thế nào cũng đủ.
Miền ắc có dịch vụ đổi tiền ở thị trƣờng
tự do. Tiền lẻ rất hiếm. Tùy theo nhu cầu
mà tỷ lệ đổi 80 ăn 100 thậm ch 60 ăn
100… nghĩa là cứ đổi một trăm ngàn thì
lấy sáu mƣơi ngàn. Thƣờng là tiền lẻ hai
trăm đồng, năm trăm đồng… Năm nay tỷ
lệ đổi ở các khu vực đền miếu ở Hà Nội
đắt gấp hai đến ba lần năm ngoái. Miền
Nam vẫn chƣa thấy có dịch vụ này vì
ngƣời Nam khi vào đình miếu, bỏ tiền cũ
nhƣng mệnh giá cao vào thùng phƣớc
sƣơng cũng đƣợc, chứ không đƣa ra
những tờ tiền mới toanh nhƣng mệnh giá
nhỏ tới mức vƣơng vãi khắp nơi mà
không ai buồn nhặt.
Năm nay do tình hình kinh tế khó khăn
nên ngƣời ta t đổi loại tiền hai chục hay
năm chục ngàn mà chỉ muốn đổi mƣời
ngàn hay giấy năm ngàn. Riêng giấy năm
ngàn giờ rất hiếm nên lì xì mƣời ngàn là
giá chót.
òn không thì đành lì xì bằng tiền cũ
nhƣng rõ ràng đƣa tờ tiền cũ kém vui,
“ngày thƣờng” quá, chẳng có chút gì tết
nhất cả. Từ năm trƣớc, Hongkong đã phải
phát động phong trào lì xì tiền cũ vì mỗi
năm có đến hơn năm nghìn cây bị đốn để
sản xuất ra tiền mới nhằm cung ứng cho
tập tục lì xì ngày Tết.
Đổi tiền mới là một trong công cuộc phải
làm vào những ngày trƣớc Tết, cũng quan
trọng gần bằng việc mua gói bánh chƣng,
bánh tét, cọ rửa nhà cửa, chùi lƣ hƣơng,
giặt rèm cửa… Việc này cũng khá vất vả
vì tìm đƣợc nơi đổi tiền nhƣng lại không
có đủ loại! Tiền nhỏ quá hầu nhƣ không
còn giá trị trong việc mua sắm mà chỉ
dùng phân phát cho số đông hành khất.
ởi lì xì t hay nhiều còn phụ thuộc vào
tuổi tác, giai cấp, vai vế, thân sơ, hoàn
cảnh… chứ đâu phải ai cũng ngang nhau.
Vì thế tiền mới cần phải có đủ mọi mệnh
giá từ cao đến thấp để tùy ngƣời mà rút ra
cho phù hợp!
Đây là một phong tục trong dịp tết
Nguyên đán. Hình ảnh đẹp nhất là cảnh
ông bà ngồi giữa nhà lì xì cho đám con
cháu xúm xít chung quanh cùng câu chúc
học giỏi, ngoan ngoãn, may mắn… rồi
con cháu ngƣời nào đi làm có tiền lì xì lại
chúc thọ cho ông bà, cha mẹ, em út… ứ
lì xì qua lại lung tung thật là vui. uối
cùng t nh lại thì cũng huề!
Ai hầu bao không rủng rỉnh thì tết nằm
nhà, chớ lại những nhà đông con n t mà
méo mặt. Hoặc khi dắt con theo đi chúc
tết, nhận đƣợc phong bao của chủ nhà,
Hội Ngƣời Việt Richmond 24 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
làm sao mau chóng ƣớc lƣợng để trả lại
tƣơng đuơng không thì một bên lại áy
náy nhiều hơn hay t hơn… ho nên biết
điều với nhau thì tết không nên dắt trẻ
con tới nhà ai và ngƣợc lại. Khi có khách
đến chơi, nhiều chủ nhà dặn con cháu rút
lui đằng sau, đừng có ùa ra chào hỏi,
chúc tết làm chi mà… tội nghiệp cho
khách!
ởi vậy có ngƣời cẩn thận bằng cách
nhét các xấp phong bao phồng lên trong
các túi. Túi quần bên phải đựng phong
bao hai ngàn, bên trái năm ngàn, túi áo
trái mƣời ngàn, túi phải hai chục. Riêng
năm chục và tiền trăm thì nằm trong v ở
những ngăn khác nhau. Gặp ngƣời nào cứ
phong bao th ch hợp sẵn rút ra. Tƣởng
cẩn thận đến thế là chắc ăn nào ngờ do
nhiều phong bao, nhiều loại tiền để nhiều
nơi quá nên có lúc đãng tr đƣa nhầm. Về
đến nhà nhớ ra lại tiếc vì đáng lẽ ngƣời
phải lì xì t lại đƣa nhiều, mắc cở vò đầu
bứt tai vì ngƣời cần lì xì nhiều lại đƣa t!
Năm sau “rút kinh nghiệm” bằng cách
phân loại phong bao to, nhỏ, căn cứ hình
vẽ bên ngoài in hình bánh chƣng hay quả
đào hoặc đánh dấu X hay O cho biết tờ
tiền bên trong…
Việc trữ sẵn các loại tiền lì xì rất cần thiết
nếu cần ra ngoài ghé nhà này nhà nọ chúc
tết hoặc gặp những trƣờng hợp đột ngột.
Một ông ngẫu nhiên buộc phải lì xì
nhƣng lục túi mãi lại không sẵn tiền nhỏ,
thế là đành cƣời méo mó rút ra tờ năm
trăm!
Lũ trẻ con lắm khi lếu láo vì có khi vừa
nhận phong bao, chúng h ra xem rồi xì
xầm ngay t nhiều hoặc thân thiết thì
chẳng cần giữ kẽ mà mè nheo ngay khiến
ngƣời lớn lắm khi bối rối
Dù sao thì nay, lì xì đã biến tƣớng là hình
thức trao đổi có đi có lại… Nếu có mang
ơn, mang nghĩa ai thì dịp tết này là dịp trả
ơn bằng tiền lì xì…
Tiền Tết của giáo viên từ nhiều nguồn:
quỹ thành phố, quỹ quận, quỹ trƣờng…
chỉ có năm trăm ngàn nhƣng phải lì xì từ
hiệu trƣởng, hiệu phó, tổ trƣởng, tổ
phó… cho ch ông bảo vệ, cô bảo mẫu
trông lớp bán trú… ù lại, giáo viên nhận
đƣợc phong bì từ phụ huynh học sinh.
ũng do lạm phát gia tăng nên phụ huynh
lì xì tăng gấp đôi so với năm ngoái.
ái phong bao cứ thế bù qua sớt lại cho
nên nhiều phụ huynh buộc con giao tiền
đƣợc lì xì để bù cho khoản phải chi ra.
Đó là một khoản thu chi đáng kể nên
nhiều bà nội trợ tổng kết tiền lì xì có khi
chiếm một phần ba chi ph của tết.
ùng với vàng, đồng đô la lên giá đáng
kể nên mấy năm nay có mốt lì xì bằng
tiền đô. Ngày tết ra ngân hàng cũng có
thể đổi đƣợc t tờ hai đô. T nh ra tiền Việt
chỉ có mấy chục ngàn nhƣng do lạ, nên
khi đƣa ra nhìn thì rất vui mắt.
Rắc rối một chút nhƣng Tết nhất nhờ có
lì xì mà vui hẳn.
Saigon cô nương
Hội Ngƣời Việt Richmond 25 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Biếu quà Tết,
„chuyện nhỏ‟
nhưng „không
nhỏ‟ Nguyễn Thị Hàm Anh
Quà Tết nhiều, nhưng chọn món phù hợp
không phải dễ.
SÀI GÒN – Trong năm có vài dịp để
biếu xén nhau nhƣng Tết âm lịch bao giờ
cũng là dịp trọng đại mà việc biếu quà
gần nhƣ sự bắt buộc.
Ngày 23, thiên hạ bắt đầu đi biếu Tết.
Rất nhiều ngƣời cần phải biếu trong dịp
này. Nào cha mẹ, nội ngoại hai bên, anh
chị em, họ hàng, sếp, ngƣời ân, kẻ nghĩa.
iếu đồng nghiệp, bạn bè. iếu sếp to,
sếp nhỏ. iếu giáo viên chủ nhiệm của
con cái và cả giáo viên của các môn
ch nh… lỡ chúng nghịch ngợm, phá
phách thầy cô châm chƣớc cho hoặc thiếu
điểm còn xin điểm.
Xƣa kia dịp Tết là vụ mùa thu hoạch
ch nh trong năm nên sẵn cây nhà lá vƣờn.
iếu nhau thúng gạo, lồng gà, nải
chuối… ây giờ thì vô số hàng hóa làm
quà biếu.
Các món hàng đƣợc dùng để biếu đều
phải có vẻ ngoài bắt mắt. Vỏ hộp thƣờng
sặc sỡ, nhiều nhất là màu đỏ tƣơi đƣợc
xem tƣợng trƣng cho sự vui vẻ, may mắn.
ắt đầu Tháng hạp, các cửa tiệm to nhỏ
chất hàng nhƣ núi. Tại các cửa hàng lớn
và siêu thị, nhân viên làm việc không
nghỉ tay, quà gói sẵn chất đầy ra tới lề
đƣờng. ác gói quà xếp trong lẵng mây,
thắt nơ lộng lẫy giá từ vài trăm đến mƣời
mấy triệu.
Ðể hấp dẫn ngƣời mua, hàng chục mẫu
quà khác nhau đƣợc đặt tên Xuân An
Khang, Phú Quý Phát Tài, Mùa Xuân
Thịnh Vƣợng… với đặc sản từng miền
ắc, Trung, Nam. Qua lớp giấy bóng
kiếng cho thấy thế nào bên trong cũng có
chai rƣợu, hộp trà, dầu gội đầu… chỉ có
điều tuy trông đồ sộ nhƣng nếu không
phải cửa hàng có uy t n, khi mở ra mới
phát giác kẹo độn giấy chƣa đƣợc phần tƣ
hộp, bánh không có “đát,” trà vụn…
Thứ gì cũng có thể làm quà Tết: từ chai
dầu ăn, nƣớc mắm… đến sâm ao Ly,
Hội Ngƣời Việt Richmond 26 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
nƣớc yến… Thông thƣờng nhất là lạp
xƣởng, cà phê, nho khô… thùng bia hay
nƣớc ngọt vác đi trông rất bề thế.
Hàng Việt Nam có nhiều tiến bộ nhƣng
vẫn bị lép vế trƣớc hàng ngoại quốc tung
hoành. Trái cây Öc, chocolate Mỹ, bia
Pháp… hoặc bánh kẹo của Thái Lan,
Indo, Mã Lai nhƣng áp đảo vẫn là Trung
Quốc từ hàng điện máy, quần áo, thực
phẩm… không thiếu thứ gì. Tuy nhiên
không phải cứ mác ngoại quốc là hàng
tốt. Hoặc hàng giả hoặc hàng quá cũ nên
mở ra có khi bánh ỉu, kẹo ƣớt…
Rƣợu là thứ dễ làm giả nhất, chẳng thà
mua một chai Lúa Mới hay vang Ðà Lạt,
ình Thuận còn bảo đảm hơn mua rƣợu
ngoại bởi ngày nào chẳng nghe ve chai
rao thâu vỏ chai rƣợu ngoại, mang về
bơm rƣợu giả, đóng hộp cẩn thận, dán
tem nhập khẩu. Trừ phi khui ra uống thì
không thể biết giả mạo chỗ nào.
Ðó là quà Tết thông thƣờng. Sau này có
nhiều món giá trị hơn nhƣ vé tour du lịch
ngoại quốc, chiếc TV Sanyo màn hình
siêu phẳng hay dàn DVD karaoke… ao
cấp hơn nữa là những hợp đồng chia
phần trăm, những cổ đông đƣợc chia lãi
mà không cần đóng phần hùn… Quà loại
đó vô biên vô hạn nên ở đây chỉ đề cập
đến quà Tết bình thƣờng.
Quà gói sẵn giá từ vài trăm ngàn đến vài
triệu. Nếu quà chƣa đủ giá trị, nhiều
trƣờng hợp phải gài thêm một chiếc
phong bì cho đủ ký. Quà gói sẵn ngoài
tiệm thƣờng chênh lệch nhau từng vài
chục ngàn đồng cho khách hàng dễ chọn,
Thậm ch các gói quà có ngang giá nhau
thì nội dung vẫn khác để bảo đảm không
đụng hàng, không gói nào giống y gói
nào.
hủ một sạp hàng ở chợ ũ-Hàm Nghi
cho biết cứ qua cách chọn và gói hàng, có
thể đoán khách tặng quà cho loại ngƣời
nào. Ðơn giản bỏ bịch ny lông hay giấy
báo gói lại rồi trả tiền liền không thèm
nhìn là tặng gia đình, họ hàng. Tặng bạn
bè hay đồng nghiệp thì bao giấy hoa đơn
giản. Quà cấp trên đƣơng nhiên màu mè,
đắt tiền, nhìn vào thấy ngay vừa sang vừa
đẹp. iếu Tết là ch nh dịp trả ơn, cầu
cạnh mà không bị sƣợng. ũng có sở ra
thông báo cấm nhân viên đi Tết quà cấp
trên, nhất là cứ công quỹ tr ch ra vô tội
vạ. ó điều không thể khép tội đƣợc khi
Hội Ngƣời Việt Richmond 27 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
mọi ngƣời nhất định tôi đi Tết vì “tình
cảm” chứ không vì lý do nào khác.
Quà cho ngƣời thân rất thực tiễn là tôm
khô, gạo thơm, nƣớc tƣơng… nhƣng quà
xã giao cầu kỳ hơn nhƣ chocolate, mứt
sen trần, hồng khô… Mua cho ngƣời thân
chỉ tay món hàng nào gói cân liền món
đó nhƣng để biếu xén thì ngƣời khách
còn chần chừ lựa chọn, cân nhắc t nh
toán xem giá trị có xứng đáng, phù hợp
với ngƣời biếu không, hình thức có đẹp
đẽ, bắt mắt không… Thành thử cứ nhìn
vào món quà là có thể phần nào biết mối
liên hệ giữa ngƣời tặng và ngƣời nhận.
Mua ngoài mắc quá nên một số bà nội trợ
tự muối hành kiệu, nấu thịt đông… làm
quà biếu vì tiết kiệm lại vệ sinh, và quý
do tự tay làm. ứ đến khoảng 26, 27, họ
làm sẵn mấy chục túi mỗi phần chia đều
hộp giò thủ, hũ dƣa món… cứ thế đƣa
đều các nhà.
Một bà buồn hiu vì sui gia biếu Tết hậu
hĩ quá. Lạp xƣởng, tôm khô, nếp cái…
toàn là quà dƣới quê. Ðó là thực phẩm
nên đỡ đi chợ còn hơn những món xa x
bánh mứt ngọt đƣờng nên kiêng ăn. à
than thở mình đâu có ăn mấy thứ mắc
tiền đó. Ngày thƣờng chỉ mua lạp xƣởng
bán ngoài sạp thịt, tôm khô nhỏ lép nhƣ
con tép… Nhận quà mắc tiền thì cũng
phải t nh sao để “đi‟ lại tƣơng đƣơng thật
méo mặt.
Ngƣời nào có nhiều mối quan hệ thì phải
lật sổ ra coi danh sách. Năm ngoái đã
biếu vịt lạp thì năm nay đổi món khô bò,
năm kia biếu xúc x ch thì năm nay nem
chua, thùng bia hoài cũng nhàm thì thay
bằng chai rƣợu tây…
Thật ra quà Tết biếu nhiều và nhận cũng
nhiều vì thế hàng hóa có sự luân chuyển.
Một giáo viên kể cô lựa trong số quà của
học sinh hộp chocolate ngoại quốc để
biếu hiệu trƣởng, một hộp kem cạo râu
ngoại quốc gửi về không dám dùng dành
cho hiệu phó. Hộp kem nhỏ quá đƣa cũng
kỳ nên kèm thêm gói lạp xƣởng hút chân
không mua trong siêu thị. Lạp xƣởng bán
ngoài chợ không có nhãn hiệu, khách
th ch nhãn hiệu nào, chủ sạp lôi tờ nhãn
ra dán vào nên chỉ để nhà ăn thôi! Phần
bà nội móm mém hộp sữa Ensure và hai
hộp phô-mai. ho cháu chồng hộp kẹo
thắt nơ sặc sỡ cũng của học trò. Ông anh
chồng nhà nghèo đƣa hộp bánh hợp tác
xã to đùng đổi lấy hai đòn bánh tét. Hai
đòn bánh này xách đi xem chừng hơi
lủng lẳng nên cô mang về đàng ngoại,
Hội Ngƣời Việt Richmond 28 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
đồng thời lấy của bà ngoại ký giò lụa
thông gia mới biếu để mang đến cô giáo
của con trai. ơ quan của chồng khá hơn
nên chồng cô phải chung với đồng nghiệp
khiêng đến sếp hai két bia. Anh đi riêng
thêm giò hoa lan. Dĩ nhiên nói dối vợ nửa
giá tiền và kể với sếp đây là giống hoa
mới mới lai tạo của kỹ sƣ em họ. òn bà
trƣởng phòng nhận xấp áo dài gấm vợ
đƣợc tặng hôm khai trƣờng nhờ chạy cho
con ông hàng xóm vào lớp điểm… Tặng
quà cho sếp rất mệt óc vì phải đón
đúng ý thì món quà đó mới coi là
thành công.
Kể nghe giống nhƣ chuyện khôi hài
nhƣng thực sự đó là tình trạng chung của
đa số gia đình. ho nên có nhà tết đến
hàng năm, bảy cây giò ăn tới cuối Tháng
Giêng, ba bốn thùng nƣớc ngọt để tới nửa
năm chƣa uống hết… trong khi nhiều nhà
khác, công nhân khu chế xuất chẳng hạn,
một số ngƣời cuối năm bị quỵt lƣơng
không xoay sở nồi thịt kho, đòn bánh
tét… Siêu thị vào giữa trƣa, khách hàng
kìn kìn đẩy xe đầy bánh mứt, hoa giả…
Riêng một cô chỉ xách giỏ nhẹ tênh vài
hộp sữa. ô cho biết vì làm bên ngành
kiểm toán, khách hàng cho nhiều quà lắm
nên không cần sắm sửa nhiều.
Vào những ngày cận Tết này, góc nhà
chất đầy các loại quà luân phiên đến và đi
một cách mau chóng. ác bà nội trợ kinh
nghiệm đầy mình nên phân loại rất thành
thạo các món quà từ sang đến hèn, từ cầu
kỳ đến đơn giản, từ hình thức đến nội
dung… để giao đi đúng ngƣời, đúng chỗ.
Việc biếu xén cứ thế mỗi ngày càng cận
Tết càng hối hả, xem chừng ngƣời ta biếu
mình cái gì kiếm chỗ sang tay gấp, thiếu
gì mới tất tả đi chợ lo mua thêm.
Tuy nhiên năm nay kinh tế khó khăn.
Hàng bày nhiều nhƣng t ngƣời mua.
Việc biếu xén phiền phức cũng giảm đi
hẳn. Mọi ngƣời lo đến cuộc sống hàng
ngày. Ðiện nƣớc đều tăng giá, không biết
ra Giêng thế nào…
Nguyễn Thị Hàm Anh
Hội Ngƣời Việt Richmond 29 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
THƠ THIỀN và THƠ TÌNH
Lời giới thiệu:
Hạnh Không và Hà Vân Khôi là Pháp Danh
và là bút hiệu một ngƣời, một nhân sĩ ở Richmond, ông là Hội Trƣởng Hội Ái Hữu
và Tƣơng Tế Ngƣời Việt Nam ở Richmond.
Đặc San Xuân Qu Tỵ Hội Ngƣời Việt
Richmond xin giới thiệu hai bài thơ: Thơ Thiền và Thơ Tình của ông trong tập thơ
NHƢ THOÁNG MÂY AY của ông mới
xuất bản.
Định Tịnh Hành Vào định vào chốn lặng yên
Vào tịnh là đến triền miên an lành
Khi tịnh hơi thở lặng tinh
Không mau không chậm không khinh
không trầm
Thảnh thơi an trụ vào tâm
Tâm luôn tĩnh giác hôn trầm không rơi
Tâm giác trải khắp mọi nơi
Đến khi thân xác lìa đời giác viên
Hạnh Không
Tân Mão niên 2011
Tháng Sáu Buồn
Tháng sáu còn mưa bay
Giọt mưa ướt vai gầy
Môi sầu lau nước mắt
Tháng sáu mình chia tay
Anh muốn làm mưa bay
Ôm ấp tóc em dài
Phủ kín lòng thương nhớ
Tang vấn tình chua cay
Tháng sáu nhiều mưa bay
Ngăn cách chim lạc bầy
Tim vỡ hồn rên siết
Ai oán hờn ai đây
Nước mắt buồn theo mây
Lẻ bóng trong đêm dài
Cô đơn lòng quay quắt
Vĩnh biệt kể từ đây
Tháng sáu ngày hôm nay
Mồ chôn trái tim này
Nghìn đời ôi tháng sáu
Tang tóc nào ai hay ?
Hà Vân Khôi
Hội Ngƣời Việt Richmond 30 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Nói Với PNL Thư Anh, nhận từ hồi giáp Tết
Bởi lòng buồn chẳng muốn hồi âm
Từ mất mẹ thấy đời cũng hết
Não nề trong cuộc sống lặng thầm.
Dạo tháng chín có về bên đó
Mẹ hôn mê chẳng biết vui mừng
Ba ngày sau mẹ về thiên cổ
Vậy là đành, lỗi hẹn mùa Xuân.
Trước có hẹn Tết về thăm mẹ
Nào hay đâu đã vội chia lìa
Đời có bao giờ buồn hơn thế
Chở mẹ về trên chuyến phà khuya
Ngày tang lễ cứ mưa tầm tã
Nước sông dâng ngập cả sân nhà
Đến trời đất cũng u buồn lạ
Như chia niềm tang tóc cùng ta.
Ừ! Quả thực đời là bể khổ
Sầu chưa vơi sầu lại chất sầu
Anh có lúc đi vào tuyệt lộ
Chắc thế nào cũng hiểu lòng nhau.
Nghĩ mới thấy định phần khắc nghiệt
Làm sinh ly, thương nhớ một đời
Lại đớn đau trong niềm tử biệt
Tháng năm dài có mấy ngày vui ?
Cứ nghĩ đến khôn cầm giọt lệ
Nói thêm đau, không nói cũng buồn
Mẹ đã bước ra ngoài dâu bể
Ta vũng lầy : Tuyệt vọng , thê lương !
Vốn chẳng phải tha phương cầu thực
Cớ gì đâu bỏ nước, bỏ làng ?
Đã không thể đền công dưỡng dục
Đành phụ rồi ơn mẹ cưu mang !
Nỗi đau xót không người bày tỏ
Tưởng nói ra lòng sẽ nguôi ngoai
Sao nhắc lại dường như lửa đỏ
Cháy trong tim vạn nỗi u hoài !
Ở bên đó mùa Xuân nắng ấm
Mà thư Anh nghe cũng chán chường
Huống gì ta bên này lạnh lắm
Càng não lòng những Tết tha hương.
Lãm Thuý
14-2-2012
Khi ngồi ở quán gió Quán em khách vãng lai hoài
nhìn ai em chẳng thấy ai rõ ràng
tôi như cơn gió tạt ngang
lòng em như quán trống hoang gió lùa
bên tôi còn chiếc ghế thừa
trong tôi còn một chỗ chừa cho em
tôi cầm thìa múc bóng đêm
ghé môi nghe chút hương em dịu lòng
em ngồi bên cửa như mong
cho nên tôi cũng ngồi không muốn về!
Hà Nguyên Dũng
Hội Ngƣời Việt Richmond 31 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Đám Giỗ Xưa
Và Nay Duy Thức
Thành phố tôi ở nhà cửa xây dựng san
sát, ồn ào không có đƣợc một phút yên
tịnh. Vốn đây là trại gia binh của l nh
quốc gia cũ, ngày trƣớc thuộc trại Phòng
vệ Phủ thủ tƣớng.
Một thời gian bị cháy còn phân nửa. Tôi
mua lại căn nhà của nhà thơ Hà Thúc
Sinh trƣớc năm 75 khoảng bảy năm ở cho
đến nay qua nhiều biến cố lịch sử. Tôi
cũng thế. Ngƣời cũ lớp chết, lớp đi nơi
khác, chỉ còn lại vài ba nhà phần nhiều đã
cất lại mới do nguời mới sang lại. Ngƣời
ắc sau 75 vào Nam tràn về ở khá đông.
Xóm này nhiều tôn giáo, chỉ riêng tôi thờ
Trời Đất Tổ tiên Ông à và tự xƣng là
ngƣời theo Thần đạo VN có gốc thời vua
Hùng. Từ chuyện thờ thần Đồng ổ, đến
nay tôi soạn lại bộ Thần Đạo Đại Việt
thành sách và kinh dày khoảng mƣời
ngàn trang, đã xong.
Xóm bề ngang khoảng năm mét cho
đƣờng xe chạy qua, từ lúc tôi ở đến nay
bầu tổ trƣởng thay đổi khoảng năm, bảy
ông bà rồi.
Hôm qua là ngày giỗ ông tổ trƣởng cũ,
ông này chạy từ Nam vang về, t nh hiền
hòa nhƣng từ lúc lên đƣợc tổ trƣởng thì
t ch cực lắm, cũng nhƣ các ông tổ trƣởng
khác, dựa vào nhà nƣớc mà ra oai với
dân. Sau phƣờng bắt làm việc nhiều quá,
ông nổi cáu và dƣờng nhƣ bỏ ngang
không làm để cho ngƣời khác tiếp tục càn
quét, t ch cực làm khổ bà con hơn. Ông
tổ trƣởng gần kế nhà tôi chết khá lâu, con
làm nghề chạy xe ôm. Hôm nay là ngày
kỵ của ông nên mời bạn bè tứ xứ về
nhậu, xe đậu nghẹt cả xóm để vui chơi
mừng ngày giỗ.
Rồi thì lớp ăn nhậu la hét, ca hát karaoke
ồn ào nhƣ vỡ chợ, nói cƣời oang oang to
tiếng điếc cả xóm trên, xóm dƣới.
Một bà già độc thân, già héo đau tim chịu
không nổi kêu lên:
- Ông cha chết mà vui sƣớng gì, la hét ăn
nhậu ồn ào mất dạy nhƣ thế.
Ngƣời khác cũng nói:
- Ngày trƣớc có ca hát vui vẻ thì Lệnh
vua hành quân trống kêu dồn… vừa gõ
bàn vừa hát. òn bây giờ 306, 307 gì đó
micro bắc loa vang dội cả khu phố, điếc
tai loạn xà bì hết. Thật chẳng giống ai,
không biết ông cha nó ở dƣới âm phủ có
nghe đƣợc không.
Xe cộ bà con của ông tổ trƣởng tới càng
đông. Mấy thằng cháu chạy cầu thang
đùng đùng. ha tụi nó đeo đuổi mộng
giang hồ, chứa gái làm phim nghèo đã đi
gỡ lịch trên ba, bốn năm rồi nên ngày giỗ
ông tổ trƣởng không thấy về. húng hát
nhạc mới lẫn lộn Đêm Hỏa hâu hay
on đƣờng trắng ở Huế, cả đĩa nhạc chào
đón Xuân rộn ràng của ca sĩ Ánh Tuyết
thật là rối loạn nhƣ đám giặc chòm.
Hội Ngƣời Việt Richmond 32 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Rƣợu bia loại chai xanh, loại giả bia, loại
rƣợu uống từng can, từng thùng mặc sức
tuôn chảy đầy cổ họng đến tận hai, ba giờ
khuya chƣa yên cho bà con nghỉ ngơi.
huyện ăn giỗ theo kiểu mới này ở khắp
thôn làng thành thị đều giông giống nhau.
Điều này tự nhiên bắt tôi nhớ tới một
đám giỗ ở Tân An ngày xƣa, cách đây
gần năm mƣơi năm còn gì. huyện theo
ông giám đốc trƣờng Tân Thanh đi dự
đám giỗ miệt vƣờn, thật là một ấn tƣợng
thanh nhã khiến lòng dạ tôi đến nay vẫn
còn cảm khái, ngậm ngùi.
Trƣớc đây mỗi lần có đám tang hay đám
giỗ, phần lớn bà con cúng kiếng rộn ràng,
cỗ bàn la liệt. Ngƣời dự đám ở thôn quê,
nhất là đám giỗ của các ông chủ điền chủ
đất ruộng đồng chó chạy cong đuôi, cò
bay mỏi cánh cũng không hết đƣợc.
Khi đó tôi học lớp đệ nhị ở trƣờng Tân
Thanh, ông giám đốc thƣơng vì làm thơ
Đƣờng hay, đối đáp với ngƣời lớn lƣu
loát nên đi đâu ông cũng dắt tôi theo nhƣ
con.
Ông là Thái Sanh Khƣơng, em của Thái
Sanh nh, nhà vô địch cờ tƣớng bấy giờ.
Ông Thái Sanh Khƣơng nhƣ dân Tây, nói
tiếng Tây nhƣ bắp rang với các vị giáo sƣ
nhƣ Tam Ích, Bùi Giáng, Thiên Giang.
Nhất là lúc các ông tranh luận về quan
điểm sống, sống theo thời hay theo cách
mạng, hay tệ hơn là tiền học ph phải trả
của học sinh, tiền giáo sƣ hàng tháng
chƣa có… húng tôi chỉ nghe lõm bõm,
rồi đi chơi chỗ khác hơn là đứng đó dựa
cột mà nghe.
Ngày đó nhà có đám giỗ ông bà dƣới Tân
An, ông Thái Sanh Khƣơng dắt tôi về đó
ăn đám giỗ. Vì lúc đó cách đây gần năm,
sáu mƣơi năm nên tôi quên mất làng nào.
hỉ biết ông đi đâu, tôi đi đấy.
Về đến ngôi nhà ngói lớn đã nghe rập
ràng tiếng hát, tiếng đàn tranh, đàn cò,
đàn nguyệt o èo cộng liu xê xáng l u ú
vang vang. Tôi vốn mê nhạc cổ nhƣng
không ƣa cải lƣơng. Thật ra cha tôi, ông
Hai Điểu gần nhƣ có lập gánh và nhiều
lần có chân trong các gánh cải lƣơng thời
đó, nhất là gánh Mai Hoa.
Tôi không ƣa cải lƣơng mà chỉ th ch
tiếng đàn tranh, đàn nguyệt, đàn tì mà
thôi. Tôi th ch nghe cổ nhạc nhƣng rất
ghét điệu vọng cổ và các tài tử ráng gân
cổ để ca khóc bài vọng cổ nỉ non, yếu
đuối, nhất là các vở cải lƣơng, hễ mở TV
bây giờ mà coi, lúc nào cũng thấy các ca
sĩ, diễn viên nam hay nữ rên la khóc lóc
trông thảm hại làm sao. ứ khóc là có cải
lƣơng rồi.
Trên thế giới có lẽ không có loại ca kịch
nào khóc lóc thê thảm hơn nữa. Đó là
điệu mất nƣớc, cả thời bây giờ cũng vậy
thôi. Nhƣng lạ thay có một hình ảnh nàng
ca kỹ cải lƣơng mà hầu nhƣ từ lúc nghe
cô ca hát, tôi không bao giờ quên. Gia
đình ông Thái Sanh Khƣơng mƣớn đàn
ca tài tử về gây nguồn cảm khái và xôm
tụ cho đám giỗ lớn, cả làng cùng đi dự
kìa.
Đêm đó về quê lội bộ vào đồng không
mông quạnh cả ngày mới đến làng nhà
Hội Ngƣời Việt Richmond 33 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
ông, tôi khá mệt. ỗng tôi thấy xuất hiện
dƣới ánh đèn măng xông sáng rực nhƣ
ban ngày, một ngƣời đàn ông với cây đàn
thùng tròn cẩn ốc xà cừ thật xƣa, thật
đẹp. Tiếng đàn nhƣ có gắn điện ngân xa.
Một cô gái dáng thanh tú, tóc mây xõa
dài xuống hai vai, mặc áo dài xanh nhƣ
trong đêm dạ hội.
Nét mặt, lời ca sao thần tiên kỳ ảo quá.
Tôi có vẻ lãng mạn cứ đứng chen trong
đám dân làng nghe hát, nhƣng thật sự tôi
nhìn cô hát thì phải hơn. hiêm ngƣỡng
cô đứng đấy dịu dàng, diễm tình xiết bao
khiến tôi nhƣ bị thâu mất hồn phách
trong tà áo xanh, mà khi ra về nhớ lại ghi
ra mấy vấn thơ:
Trăng mười sáu tuổi trong hoa
Em mười sáu tuổi trong tà áo xanh
Kể từ đó tôi say mê những nàng ca kỹ.
Sau này tôi có viết lại truyện Nàng a Kỹ
ến Tân Quy đăng ở báo Ngàn Khơi của
Nguyễn Hữu Đông và Trần Dạ Từ-Nhã
a rất ăn khách.
Trần Dạ Từ nói với tôi lúc đăng truyện
ấy:
-Mày viết hay lắm. ố lên mà sống bằng
ngòi bút.
Đại khái nhƣ vậy.
ô Thanh ca hát suốt đêm dài, càng lúc
càng lộng lẫy, càng mơ màng, càng làm
quyến luyến mọi ngƣời, nhất là tôi.
Ông Thái Sanh Khƣơng, giám đốc trƣờng
Tân Thanh là dân công tử thời bấy giờ,
dƣờng nhƣ ông đi Tây học rồi trở về VN,
không biết có đi kháng chiến không mà
bị mất một cánh tay. Lúc dạy Pháp văn,
ông vừa ngậm thuốc, dáng ngƣời cao lớn
quắc thƣớc. Ông uống bia, hút thuốc đều
chỉ dùng một tay. Đàn tranh mƣời sáu
dây rất điệu nghệ cũng chỉ nhấn vuốt,
móc chạy dây cũng chỉ có một tay mà
dồn dập từng cơn âm thanh nhƣ sóng cồn
cửa bể nhấp nhô, ì ầm rộn rã trong đêm
khuya.
ho đến gần sáng tôi ngủ lúc nào không
biết trên bộ ván ngựa, tấm mền ai đắp lúc
nào không hay. Đến sáng bạch, trời lên
cả con sào tôi mới tỉnh dậy. Tôi giật mình
nhìn xung quanh, không kh đám giỗ rộn
rịp tƣng bừng, hằng mấy mƣơi ngƣời
đang bƣng dọn cỗ bàn.
Ông Khƣơng thay vì mặc đồ tây nhƣ mọi
khi ở trƣờng, đã thay bộ khăn đống áo dài
trông bệ vệ nhƣ ngƣời xƣa. Ông đang
thắp hƣơng khấn vái lên bàn thờ gia tiên,
k nh cẩn và uy nghiêm lắm. Từ đó trong
tôi phục ông Khƣơng vô cùng. Ông dân
Tây mà không bỏ lề thói phong lƣu của
dân Nam bộ, ông lại giữ tròn đạo hiếu
nhƣ ngƣời xƣa, cao quý đáng k nh thay.
Tôi đảo mắt nhìn ra ngoài vƣờn, lúc này
mùi cam quýt thơm bát ngát. ây trái
xum xuê ra hoa ra quả. Mảnh đất thiêng
liêng của gia tộc ông Khƣơng có lẽ là nhà
phú hộ bậc nhất làng này.
Tôi đi ra ngoài bờ ao nuôi cá, không thấy
hai ngƣời tài tử hồi đêm khuya đâu cả.
Giống nhƣ trong giấc mơ, họ là tiên hay
hồ ly chỉ hiện một đêm của giấc liêu trai
đó mà thôi.
Hội Ngƣời Việt Richmond 34 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Tôi không dám hỏi ông Khƣơng về cô ca
kỹ đó. Tôi sợ ông cƣời mình đa sầu đa
cảm, ủy mị hay ghê hơn nữa là chƣa chi
đã mê đào cải lƣơng, đồng nghĩa với mê
đắm sắc đẹp…
Tôi vào nhà trong coi đám dân làng đàn
hát ồn ào vui vẻ, chợt thấy một thanh
niên quen quen đã cùng tôi đứng suốt
đêm nghe cô Thanh hát, đúng hơn là ca
tài tử. Tôi hỏi anh ta:
- ái cô hát hồi khuya đâu rồi anh?
Anh ta nhìn tôi nói trỏng:
- ô hát đó hả? Ai mà biết cổ đi đâu.
Hay là cô ta mệt quá nên ngủ trễ hơn
mình. Tôi nghĩ nhƣ thế rồi lại xao xuyến
trong lòng tự hỏi. Ngƣời đàn ông đàn kìm
cho cô ta hát là ai nhỉ? Là anh, là cậu hay
chỉ là nhạc sĩ thôi… hẳng lẽ lại là ngƣời
tình, ngƣời yêu của cô ta. Lòng tôi tự
nhiên không th ch anh ta là chồng hay
ngƣời yêu của cô Thanh. Ý nghĩ thật lạ
lẫm làm sao.
uối cùng lúc đám giỗ đã xong, phải ở
ngôi nhà cổ đó ba ngày, ba đêm rồi ông
Khƣơng mới từ giã bà con để cùng tôi ra
về.
Ông nói :
- Đám giỗ vui quá, bà con không muốn
mình lên Saigon. Họ muốn thầy ở đây
chơi với họ hoài.
Ông Khƣơng không hề nhắc đến cô ca sĩ
và anh nhạc sĩ đàn kìm khiến dọc đƣờng
tôi cứ ngó quanh dáo dác. iết đâu trên
cánh đồng xanh bát ngát này tôi tìm thấy
bóng dáng cô gái mặc áo xanh và ngƣời
đàn tài tử nọ.
Ông Khƣơng thấy tôi thấp thỏm, bỗng
hỏi:
- on có ăn no không ?
Ông biết tôi mồ côi không cha mẹ, ngủ
trộm ở trƣờng bị ông bắt gặp. Tôi nghe
ông hỏi lại nghĩ khác. Giá mà ông kể
chuyện nàng ca kỹ tên Thanh cho mình
biết, nàng ở đâu và có hát trong gánh cải
lƣơng nào không thì tốt hơn. Trƣớc khi
bạo gan hỏi về cô Thanh, tôi bỗng táo
bạo hỏi ông:
- Ông đốc ơi. Tại sao ông lại bị mất một
cánh tay?
- Ờ đó là… thầy bị kẹt cửa xe hơi mà
thôi. Kẹt hồi ở bên Tây lận.
Tôi không dám nói gì nữa cho đến khi về
đến Saigon mới hỏi:
- òn mấy ngƣời đàn ca tài tử đó, họ còn
ở Tân An không?
Ông Khƣơng nói:
- Ai gọi thì họ tới. Họ ca cho các đám
cƣới đám giỗ nhiều hơn đám ma. Họ chơi
tài tử nay đây mai đó để sống cho trọn
kiếp giang hồ của họ thôi. ó lẽ ở xóm
trên cũng có đám giỗ nên họ chỉ ca hát có
một đêm rồi sáng sớm họ đi nơi khác rồi.
Hội Ngƣời Việt Richmond 35 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Tôi ra về lòng buồn buồn, bỗng nhớ tới
câu thơ trong Tỳ à Hành của ạch ƣ
Dị:
Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.
ƣớc trên đƣờng tôi cứ nghĩ mình là Tƣ
Mã để lẩm bẩm:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa khách dừng chèo
Hình ảnh đàn ôm che nửa mặt hoa cứ ám
ảnh tôi. ảnh tình ấy gợi cho tôi nỗi nhớ
nhung nhƣ tƣơng tƣ cô gái tên Thanh đó
mãi đến bây giờ đã gần năm mƣơi năm
rồi. ó lẽ đối với tôi, đó là hình ảnh thơ
đầu tiên của một nàng ca kỹ đất Tân An
thuở nọ.
Đám giỗ tuyệt vời quá khiến tôi không
dám nghĩ tới những đám giỗ đời nay ở
quê hay ở thành phố ăn uống ồn ào thô
tục, đôi khi ca hát thì chỉ có rống lên
Trường Sơn đông Trường Sơn Tây. Cái
gạt nước xua tan đi nỗi nhớ hay lại 306,
307 trong đám giỗ bộn bề xƣơng thịt của
trâu dê gà vịt và rƣợu uống nhƣ ngƣu ẩm.
Và rồi thì đánh đấm chửi mắng nhau liên
miên của cái nền văn hóa ẩm thực ngày
nay.
Duy Thức
Giáng Sinh Trong Y Viện Gần cuối năm Thìn gặp cái eo!
Thình lình đột qu vợ đau theo.
Gia đình xúm lại tình thương lớn.
Bác sĩ tìm ra động mạch teo.
n Mẹ cứu qua tai biến não,
Phúc Trời cho thoát hạn gieo neo.
Giáng Sinh mừng Chúa trong y-viện,
Con cháu kề bên vẫn hát reo.
Trần Qu c Bảo
Trong thời gian an dƣỡng tại bênh viện St.
Mary‟s
Tháng 12-2012
Trở Lại Thuyền Mơ Đã tƣởng ra đi thẳng một lèo!
Ai ngờ số phận rƣợt nà theo.
Mối hờn vong quốc còn chƣa trả,
ái nợ văn chƣơng vẫn phải đeo.
Ừ nhỉ! Giòng đời chƣa tận tuyệt,
Hóa nên thân thế chẳng bay vèo.
Thôi đành trở lại đi cho nốt
iển mộng, thuyền mơ, một mái chèo.
Trần Qu c Bảo
Trong thời gian an dƣỡng tại bênh viện St. Mary‟s
Tháng 11-2009
Hội Ngƣời Việt Richmond 36 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Câu Chuyện Đưa Cay Thúy-Kiều lăn lóc với tình
Bây giờ tưởng chỉ thêm mình nữa thôi
Không dè ông lại giống tôi
Vậy thì đồng bệnh có người có ta!
Uống đi! hãy uống đi mà!
Rượu vào lấy chớn nói ra ngại gì!
Miếng khô cá xặt nhâm nhi
Gật-gù to nhỏ, tiếc chi vài lời...
Tóc xanh, môi thắm tuyệt-vời
Tìm đâu ánh mắt nụ cười xa xưa
Ông ơi, kể-lể là thừa!
Cái thằng Kim-Trọng cũng chưa thể bì.
Mười lăm năm có đáng chi
Với tôi, một khối tình si trọn đời.
Tôi yêu "Người-Chẳng-Yêu-Tôi "
Nỗi-niềm đụng tới bồi-hồi vấn-vương
Cũng buồn, cũng giận, cũng thương
Phải chăng số kiếp nên thường xót-xa
Nào đâu dám trách người ta,
Trách mình khộng nỡ. Trách là trách
thôi!
Thân trai ngõ cụt...thế rồi,
Tôi thành lính trận nổi trôi tháng ngày
Giữa rừng pháo rớt, đạn bay
Quân thù, chiến hữu... dạn-dày trơ trơ!
Hình như ông biết làm thơ!
Để mai ghép vận bây giờ uống thôi
Phù-du tan hợp ông ơi!
Trăm phần trăm nhé...xin mời cạn ly!
Nguyễn-Phú-Long
Khi Rời Bệnh Viện Nhà thương yên lặng như tờ
Cuối tuần thăm viếng ngu-ngơ đầu hè.
Hành lang sáng rực, vắng hoe
Thiếu người phục-vụ xun-xoe nhiệt-tình.
Giã-từ dây-dợ cùng mình
Nhớ cô y-tá rất xinh hôm vào.
Bãi xe lá chạy lao-xao
Chiều nay xuất-viện cũng nao-nao lòng.
Nguyễn-Phú-Long
Thứ bẩy june 11-2011
Hội Ngƣời Việt Richmond 37 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Mở hàng Saigon Cô Nương
Không biết ngoài VN ta, còn quốc gia
nào trên thế giới có tục lệ mở hàng?
Để bắt đầu một năm buôn bán mới, sẽ có
mở hàng đầu năm, ngày này rất quan
trọng vì ngƣời chủ phải mở lịch hoặc coi
thầy để lựa chọn ngày tốt. ửa hàng,
công ty, x ngiệp lớn thƣờng thuê hẳn
đoàn lân tới múa gây không kh tƣng
bừng náo nhiệt. Ngoài ra còn nhờ ngƣời
mau mắn đến xông hàng để việc buôn
bán đƣợc thơm lây mà suôn xẻ, nhặm lẹ
suốt năm.
Mở hàng đầu năm bao giờ cũng có cúng
bái. Ngoài hoa quả hƣơng nến, cửa hàng
to có thể cúng gà luộc hay nguyên con
heo quay, cửa hàng nhỏ mỗi thứ một
miếng tƣợng trƣng „tam sinh‟. Việc cúng
kiếng thật quan trọng vì bên cạnh những
yếu tố cần thiết trong buôn bán nhƣ hàng
hóa dồi dào, giá cả hợp lý... thì bao giờ
cũng cần thêm sự hỗ trợ của sức mạnh vô
hình: thần Tài, ông Địa hay đình miễu xa
gần nơi tỉnh thành này, đỉnh núi nọ. Đầu
năm cúng một lần thời gian cách quãng
lâu quá e thần linh có quên mà xao nhãng
đi chăng, để nhắc ông thần Tài hằng ngày
nhớ đến thì mỗi sáng ngƣời bán hàng đều
đặn cúng mở hàng. Ngƣời trần xơi gì
cúng thần cái nấy, trƣớc cúng sau ăn. ho
nên nhiều khi không phải hoa quả, hƣơng
nến... mà tiện lợi gọn gàng là ly cà phê
đen, ổ bánh mì và điếu thuốc lá châm sẵn
đàng hoàng gài vào tay thần. Ôi, thành
tâm và chân thật đến thế là cùng. ó vị
thần nào nỡ đành lòng ngơ đi.
Trong thói quen buôn bán thì việc mở
hàng rất quan trọng. Ngƣời ta tin tƣởng
ngƣời khách đầu tiên nhẹ v a thì hoạt
động trong ngày sẽ ảnh hƣởng tinh thần
mở hàng nhanh nhảu đó, nghĩa là sẽ đông
khách và khách nào cũng cũng lẹ làng
móc tiền. Sáng sớm muốn khỏi bị mắng
xéo, bị chửi, làm dữ thì ngƣời mua nhắm
chừng có ý định mua món hàng đó hay
không rồi hãy hỏi và trả giá, chứ đừng
hỏi cho biết, xong lại bỏ đi hỏi tiếp...
hàng khác. Tệ lắm nếu không muốn mua
cũng nên trả nhiều giá và trả nhanh liền
liền nhƣ bảy ngàn, bảy ngàn rƣởi, tám
ngàn, tám ngàn rƣởi... hoặc ch n mƣơi
mốt, ch n mƣơi hai, ch n muơi ba ngàn...
để có cớ bỏ đi. Ngƣời bán tỏ vẻ nhanh
nhảu không kém. Giá đó chƣa đủ vốn,
bán không đƣợc, cám ơn cô. ám ơn đây
là cám ơn sự mau mắn. Tuy nhiên có
trƣờng hợp chiếc áo đƣợc kêu hai trăm
ngàn. Sáu chục, bảy chục, tám chục nha...
Tƣởng trả rẻ tới một phần ba để bỏ đi
không ngờ bị n u lại bán ngay, hễ trả giá
là phải mua nên khách đành „ngậm ngùi‟
mở v dù biết bị hớ hoặc món hàng chƣa
th ch lắm. ho nên trả giá thật thấp hay là
suy nghĩ thật ch n trƣớc khi hỏi kẻo dễ bị
bà bán hàng đốt v a lắm, khách còn đứng
đấy bà sấn sổ quẹt ngay que diêm đốt
mảnh giấy cuộn quơ khắp sạp hàng nhƣ
thể dằn mặt, khách hàng lẹ chân bƣớc
khuất ngay kẻo về nhà hồn v a bị hao hụt,
tha hồ ốm lăn ốm lóc...!
Hội Ngƣời Việt Richmond 38 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Vô số chua ngoa, đanh đá quanh việc mở
hàng đƣợc kể lại. huyện miền ắc chắc
là trƣớc thời vua Minh Mạng ban chiếu
cấm quần không đáy, bà nọ vẫn mặc
chiếc xống cổ truyền đi chợ chọn trầu
cau, chẳng hiểu mua bán ra sao, chắc cò
kè trả giá không thuận bỏ đi, bà bị ngƣời
bán đốt v a. Thế nhƣng tỏ rõ là tay cao
thủ không vừa, đâu có chịu lép vế dễ
dàng bị „chơi‟ nhƣ vậy. à xoè váy ngồi
trùm lên đống trầu cau kêu rầm lên „Ối
giời ơi, nó đốt v a tôi rồi, tôi có ch n v a,
nó đốt mất ba rồi, làm sao tôi về nhà
đƣợc...‟. Ngƣời bán t m mặt, chẳng nói
chẳng rằng thu dọn hàng hóa chạy về một
mạch. Thử hỏi chợ đông đúc bao nhiêu
ngƣời chứng kiến cảnh ăn vạ đó còn ai
dám vào mua hàng nữa, tại vì hồi ngày
xửa ngày xƣa đó phụ nữ chỉ mặc độc
chiếc váy thôi, chứ làm gì có cái thứ phụ
tùng mà danh từ thời nay gọi văn vẻ là...
nội y!
àng ngày, kẻ bán càng nhiều hơn ngƣời
mua, cạnh tranh khốc liệt, buôn bán khó
khăn nên dân buôn bán, ch nh xác là chỉ
có dân bán lẻ thôi, không cởi mở dễ dàng
hơn thì chớ lại đặt ra đủ thứ mở hàng tỉ
mỉ. Mở hàng giấc sáng, mở hàng giấc
trƣa hay chiều; mới mở hàng rổ rau
muống nhƣng chƣa mở hàng mớ rau
lang, đống khoai từ; mở hàng phần nạc
dăm nhƣng chƣa có ai hỏi miếng thịt đùi,
tảng mông sấn... Ngƣời bán có thể lời t
một chút để mở hàng lấy may còn không
lỡ gặp bà „chằn ăn trăn quấn‟ nài nỉ
không đƣợc tha hồ giằng co, hàng bán đã
vợi vẫn vin cớ mở hàng để buộc khách
mua cho bằng đƣợc. Gặp những bà nhƣ
thế thật sợ vì chỉ cầm món hàng lên xem,
lỡ dại hỏi giá là bị gài ngay chiêu „Mua
mở hàng‟ bất kể sáng trƣa chiều tối ngay
cả gần đóng cửa dẹp tiệm, ngƣời khách
yếu tay xem chừng không còn đƣờng rút
lui, đành mua một lần xanh mặt, lần sau
kệch, có đi chợ tránh xa cửa hàng đó ra,
hết dám dòm ngó, hỏi han.
hị ch Hậu sống ở anada ba mƣơi hai
năm mới về Hà Nội lần đầu. uổi sáng
lang thang ra chợ hỏi mua quả bƣởi, chƣa
rành tiền Việt nên khi nghe loáng thoáng
tiếng „hai‟, chƣa rõ hai gì, chị bèn hỏi lại
„hai ngàn à?‟. Tƣởng bị trả giá, bà bán
hàng chua ngoa quát đốp ngay một phát
„Hai chục ngàn chứ hai ngàn thì hai năm
nữa hãy hỏi. iến!‟. hị ch Hậu khiếp
quá, vội vàng „biến‟ ngay thật, vừa biến
vừa nhìn quanh xem đi cùng với câu đuổi
khách khủng khiếp ấy, có kèm theo sự đe
dọa là mình sẽ bị hành hung chăng.
Ngƣời bán nêu lý do ha mẹ không
giống, giống ngƣời sớm mai! Khách cứ
cù cƣa khiến „rông‟ cả buổi, ế ƣờn ra đấy
thì mệt lắm. Trời khi nắng khi mƣa, hàng
khi đắt khi ế biết đổ thừa ai đƣợc ngoài
ngƣời đầu tiên chạm đến hàng trong
ngày. ởi vậy nhiều bà chọn ngƣời mở
hàng. Không thể ngày nào cũng mua
hành tỏi nên M.Vân đƣợc một chị ngoài
chợ ình tây nhờ sáng nào cũng ghé qua
đƣa tay đảo xới hộ thúng hành tỏi vài cái.
Muôn sự đều do v a ngƣời mở hàng cả!
Nhờ niềm tin mãnh liệt đó mà hàng bán
chạy mới lạ?! Thành thử nhiều ngƣời
ngại đi chợ sớm quá, cứ đợi muộn một
Hội Ngƣời Việt Richmond 39 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
chút cho chắc ăn, không mua còn rời
chân đƣợc, không bị ngƣời bán hàng mặt
xƣng mày xỉa, háy hó lƣờm nguýt.
Đúng là chuyện mở hàng ngày càng mở
rộng. Hàng mua rồi muốn đổi ráng canh
buổi chiều ngƣời ta sắp dẹp chợ, đừng
đến sáng sớm chƣa mở hàng, chẳng
những bị từ chối không đƣợc đổi mà
nhiều phần còn bị nghe mắng, xua nhƣ
xua tà. Không chỉ có buôn bán lạp xạp
tạp hóa, hàng gánh, hàng sạp, hàng
rong... mới có chuyện mở hàng mà cửa
tiệm lớn, nhà hàng to cũng không chừa;
không phải hàng bán vật dụng quần áo
mà hàng ăn cũng vậy luôn. Nhất là hàng
ăn, múc thức ăn ra là không có lý do đổi
lại. Một tiệm vốn là quán cơm bình dân,
lâu ngày làm ăn phát đạt tiến lên thành
công ty trách nhiệm hữu hạn, gần đây sản
xuất thêm món cá cơm chiên giòn đƣợc
nhiều Việt kiều mua về làm quà. Trời cho
ăn lộc nên quán bán không hở tay, những
cửa hàng kế bên bán ngon nhƣ vậy, bằng
giá hay rẻ hơn nhƣng thiên hạ cứ mua
cho đƣợc thƣơng hiệu này. Tới giờ cơm
trƣa và chiều, xe đậu k n đƣờng. Từ một
mặt hàng nhỏ nay thành hai cửa hàng,
tám gian nguy nga, bề thế đối diện nhau.
uôn bán có phát triển nhƣng công ty to
tát này vẫn giữ nguyên nguồn gốc xa xƣa
của mình là thái độ và cung cách làm ăn
của một quán ăn bình dân lề đƣờng, tức
là rất anh chị! Tuần rồi, vợ chồng tham
tán tòa đại sứ VN vào ăn trƣa, ông kêu
món mực xào, nhƣng khi dọn ra mới
nhận thấy nồng mùi ngũ vị hƣơng, vốn dị
ứng với mùi hƣơng nồng nặc này nên đĩa
thức ăn chƣa chạm tới, ông yêu cầu
ngƣời phục vụ đổi cho món tôm rang bởi
quán cơm không giống nhƣ nhà hàng là
thức ăn đƣợc chiên xào nấu nƣớng một
lần, khi khách gọi cứ thế xúc ra từ... thau
chứ không xào nấu từng đĩa nhƣ nhà
hàng. 11 giờ rồi, đã có nhiều khách hàng
vào ăn trƣa nhƣng riêng món mực ngũ vị
hƣơng này chắc chƣa có khách mở hàng
nên quán ăn dứt khoát không cho đổi, đổi
rồi xui, suốt ngày thực khách sẽ kêu món
mực xào rồi trả lại thì sao. Thế là lời qua
tiếng lại, khi bà tham tán lên tiếng, cả
đám bồi bàn, giữ xe, gia nhân, con chủ,
em chủ, cháu chủ... cùng nhào vô đánh
hội đồng. Ông tham tán thế cô phải van
xin không xong, đến khi thực khách ngồi
quanh đó can ngăn thì hai vợ chồng ông
mới chạy kịp ra ngoài kêu taxi thoát thân.
à vợ bị đánh, tát, thoi, thục, thụi... đến
bay cả đôi bông tai, bầm t m cả phần
ngực và lƣng, vùng cổ tê buốt nằm bệnh
viện bốn ngày vẫn còn choáng, chƣa tự đi
lại đƣợc.
huyện đánh ngƣời dằn mặt này đã mang
sang công an phƣờng, rồi lên quận nhƣng
chƣa có kết quả vì còn đợi điều tra.
Không biết thực sự hai bên đúng sai thế
nào. ó điều quán ăn sừng sỏ tới nỗi chỉ
thực khách muốn đổi một đĩa thức ăn mà
dám a-lát-xô đánh ngƣời dễ dàng nhƣ vậy
chắc chắn cũng có thế lực sau lƣng, đã
thƣờng xuyên „biết điều‟ với ch nh quyền
địa phƣơng. Trƣờng hợp dân thƣờng
chìm xuồng ngay không tăm t ch. Thử
xem kỳ này, chức tham tán hơn hay tiền
hơn? ồi thƣờng t tiền thuốc men, viết
Hội Ngƣời Việt Richmond 40 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
bản kiểm điểm rút kinh nghiệm (... cho
lần đánh lộn sau, nhớ chỉ thoi nhẹ vào
mũi thôi nhé) rồi cũng xong. Thực khách
nhớ tên quán cơm này, lỡ kêu món nào
không dùng đƣợc thì nộp đủ tiền đứng
lên, đừng lắm lời mà có ngày... bể hàm,
tét m mắt, trặc cổ... Mà thôi, nói chung
khi cần bất kỳ một loại giao dịch, dịch vụ
nào, dù mình bỏ tiền ra thì cũng nên nhớ
những luật bất thành văn trên, „Khách
hàng là thƣợng đế‟ là câu khẩu hiệu nhan
nhản khắp nơi, nhƣng giống nhƣ mọi
khẩu hiệu, nó chỉ là... khẩu hiệu, tức là
chỉ nêu lên cho vui, còn khách hàng thì
phải tự biết... thân.
Saigon Cô Nương
Bão Ai Rin (Irene) Trời trong sáng nắng hừng mùa hạ
Mọi người vui picnic ngoài trời
Kẻ lên núi người tuôn ra biển
Ai mà không một phút thảnh thơi .
Ai rin sập đến cây cối đổ
Điện nước tiêu nhà cưả ra ma
Cóc mở miệng nên trời đổ bão
Làm bao người không cưả không nhà .
Những đôi mắt ướt rưng rưng lệ
Ngồi lặng trong đêm nghĩ ngợi gì ?
Đời là bể khổ , ôi bể khổ !
Chẳng mong gì cóc mở miệng ra .
Lương Hà
Bão Sandy Sandy tên gọi thật dễ thương
Ấy thế mà thâm khó khó lường
Gây bao tang tóc khôn hàn gắn
Cho những dân lành ở Đông phương.
Nhà tôi may mắn Nàng không đến
Chỉghé qua ngõ rồi đi luôn
Bằng không tai họa không thể tránh
Cửa nhà,vườn tược cũng tuồng luông.
Lương Hà
Sandy Bão, Sandy Trường (Sandy Hung Đồ, Sandy Nạn Nhân)
Cùng SANDY mà lòng thì khác
Một nạn nhân,một lại hung đồ
Kẻ phá phách,gây bao tai họa
Người nhu mì và rất hiền khô.
Làm sao phân biệt ai hiền dữ?
Để mà lường,kết bạn bắt bồ?
Người ơi,quả là điều rất khó !!
Tên chỉ là tiếng để xưng hô.
Lương Hà
Hội Ngƣời Việt Richmond 41 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hàng Rong Saigon cô nương
Saigon có nhiều đƣờng phố, nhiều ngõ
hẻm và cũng nhiều ngƣời lao động nghèo
không có vốn lớn, không sẵn nhà hay cửa
tiệm để mở cửa hàng. Vì thế xuất hiện vô
số cảnh buôn bán lƣu động, tức là hàng
rong. Lại thêm sau mỗi mùa thiên tai bão
lũ, dân nghèo từ các nơi đổ về thành phố
tạo nên đội ngũ hàng rong ngày càng
đông đúc.
Ngày xƣa nói đến hàng rong là hình ảnh
ngƣời bán với chiếc thúng hay rổ hàng
cắp nách hay đội trên đầu. Đó là thau xôi,
mẹt bánh… ây giờ hàng cắp tay vẫn
còn nhƣng hiếm thấy kiểu hàng hóa đội
trên đầu này nữa. Thau bánh chuối hấp
một bên tay, ngƣời bán phải vẹo hẳn
ngƣời sang một bên để giữ thăng bằng.
Thế đi nghiêng đó rất mỏi nên chốc chốc
họ phải đổi tay để vẹo ngƣời sang ph a
ngƣợc lại. Sau này, ngƣời ta cải tiến cách
bán hàng ở những ngƣời bán tạp hóa:
kiếng mát, ráy tai, tăm bông, đồ chơi trẻ
em, đĩa nhạc lậu… đƣợc đặt vào chiếc
khay gỗ trƣớc ngực móc dây đeo qua cổ.
Nhƣ vậy dáng đi thăng bằng hơn cắp một
bên nách. ù lại khay hàng quá nặng
khiến vai họ trĩu xuống và ngƣời lại phải
ƣỡn ra sau, khong thì bổ nhào ra trƣớc.
Rồi tiến lên đôi quang gánh với hai chiếc
thúng hay mẹt ở hai đầu chứa hàng hóa
thƣờng là món ăn nhƣ gánh chè, gánh
bánh cuốn, gánh tào hũ… Gánh hàng
rong cũng nhƣ thúng mủng mang vác vì
gọn gàng nên có thể theo chủ nhân len lỏi
mọi ngóc ngách hẹp nhất của phố
phƣờng. Ngày xƣa lắm khoảng năm 60,
Saigon thƣờng có ông Tàu già chuyên đi
nhuộm rong. Đó là kiểu gánh của Tàu,
đòn gánh không phải gióng tre nhƣ của
ngƣời Việt mà là khúc gỗ dài tuy hai đầu
cũng nổi lên hai mấu để móc thùng vào
đó. Nhiều ngƣời Tàu lƣu lạc rất giỏi võ
nên trên bƣớc đƣờng lăn lộn mƣu sinh,
đòn gánh cũng ch nh là cây thƣơng, một
thứ vũ kh lợi hại hộ thân khi cần. Ông
già mặc bộ đồ xá xẩu đen, đầu đội chiếc
mũ mây rộng vành chóp nhọn hoắt, trời
mát lật mũ ra sau lƣng. Thứ mũ này bây
giờ chỉ còn thấy trên màn ảnh thôi. Ông
Tàu gánh hai chiếc thùng gỗ ám khói đen
xì, một tay lắc chiếc trống lùng tung nhỏ
thay lời rao giống nhƣ nghe tiếng chuông
leng keng biết ngay hàng cà rem vậy. ó
khách gọi, ông hạ gánh xuống ngay đó,
nhóm củi lửa nấu thùng nƣớc sôi, dùng
cây dầm khuấy đều quần áo trong thùng.
Nhuộm xong, giao bộ quần áo ƣớt cho
chủ nhà phơi lên sào, ông lại gánh đôi
thùng đi, một tay vịn lên đòn gánh, tay
kia lắc trống.
Ông Tàu đó đã bị thời gian đào thải từ
lâu, ngay cả những ngƣời tuổi gần bảy
mƣơi cũng chỉ còn nhớ mang máng.
Vốn cho đôi quang gánh khá thấp. hỉ
cần một chiếc đòn gánh và đôi giỏ hai
đầu không đáng giá bao nhiêu, đủ chỗ
chứa nhiều thứ xếp vào đó, nên vẫn còn
nhiều phụ nữ khốn khó mang sức mình ra
gánh kẽo kẹt. Khi dừng gánh, bà tào phở
lấy ra chiếc xô nhỏ đựng nƣớc rửa chén,
Hội Ngƣời Việt Richmond 42 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
chiếc khay nhựa che lên nhân thể làm nơi
đặt chén tàu hủ mới múc, bà bún riêu
cũng móc từ gánh đó mấy chiếc ghế cho
khách vừa ngồi vừa làm bàn, thêm cả hai
xô nƣớc rửa chén…
Để đỡ mệt cho ngƣời bán rong thì chiếc
xe đẩy ra đời. Xe bằng tôn, nhôm hay gỗ
có bánh xe bơm. Mì gõ, cháo huyết, bánh
mì thịt bò nƣớng có bếp nhỏ nấu than tổ
ong giữ cho thức ăn luôn nóng. Riêng xe
cá viên chiên dùng bếp ga du lịch. Xe ba
gác nhỏ với lòng thùng rộng có thể chứa
hàng hóa số lƣợng nhiều nhƣ xe ve chai,
bắp cải, khoai lang, dƣa hấu… chất có
ngọn.
Gọn nhẹ hơn là xe đạp gắn thêm chiếc
khay gỗ hay thùng nhỏ ràng ph a sau yên
xe hình thành cả một cửa hàng nho nhỏ
gồm vài ký thịt, dăm ký cá, mấy chục
trứng gà trứng vịt, mƣơi bó rau muống,
rau cải… hay một nhà vƣờn khoe sắc các
giỏ và chậu hoa dâm bụt, sống đời, mai
vàng, cúc…, ớt và khế lúc lỉu trái, xe
chuyên bán phong lan, xe chuyên bán
xƣơng rồng nhỏ để gần máy v t nh hút
bớt chất thải… xe cá kiểng rực rỡ cá vàng
trong bao nylon căng phồng, tết đến xe
bán hoa giả đủ màu loè loẹt… Một xe
chiếu nặng đẩy đi xiêu vẹo khiến mọi
ngƣời nhớ tới Öt Trà Ôn với “Tình anh
bán chiếu”. Hàng rong tha đủ thứ hàng
rong ruổi hàng mấy chục cây số mỗi
ngày.
Thành phố mở rộng, xe gắn máy đời mới
sản xuất tại VN , nhiều chiếc xe cũ gần
nhƣ sắp bỏ vào “nghĩa địa” đƣợc đƣa vào
đội xe bán lẻ. Xe cũ, xe cà tàng chở hàng
hóa nặng thì không xót ruột. hạy khắp
hang cùng ngõ cụt là những chiếc xe gắn
máy ràng chiếc giỏ lƣới kẽm rất to đằng
sau bán trái cây theo mùa hay xe nghêu
sò ốc hến, bán rắn sống cắt tiết ngâm
rƣợu ngũ xà tại chỗ.
Hàng rong là cả một cái chợ di động
khổng lồ xê dịch không ngừng khắp nơi
chốn bất cứ lúc nào. Ở trong ngỏ hẻm sâu
ngoằn nghèo cách mấy, hàng rong vẫn tới
tận nơi. ho nên ai nấy có thể ngồi yên
trong nhà, khỏi cần mất công thay quần
áo bƣớc chân ra ngoài đi chợ, vẫn có thể
sờ tận tay, thấy tận mắt đủ mọi thứ hàng
hóa trên đời
Năm giờ sáng cửa nhà còn đóng k n m t
đã nghe tiếng rao đảo qua mấy lần đánh
thức học sinh đang muốn ngủ nƣớng:
ánh mì Saigon hai ngàn một ổ. Nửa
tiếng đồng hồ sau đã lảnh lót: Xôi vò, xôi
đậu phọng… Hửng nắng là thực phẩm
sửa soạn nấu ăn trong ngày. Trên khay và
mẹt, trong giỏ và sọt đủ cả bầu b , rau
muống, rau cải… hàng thịt cá bày mấy
tảng thịt nạc, ba rọi… cá ngân, cá hồng…
tôm bạc, tôm đất… để khách hàng cách
nào cũng tìm thấy đƣợc một vài món mua
đƣợc. Hoặc khách hàng có thể dặn miệng
trƣớc, ngày mai ngƣời bán sẽ mang đến
đúng thứ khách yêu cầu.
uôn có bạn bán có phƣờng. hợ di động
này chủ yếu toàn dân nhập cƣ, nhiều nhất
là ngƣời miền ắc trong khi dân ình
Định thu mua ve chai, Phú Yên bán vé
số, Quảng Ngãi gánh quà vặt… Họ cố
gắng đạp xe qua càng nhiều đƣờng xá
càng tốt vì chỉ khoảng tới mƣời giờ hơn
là biến mất, chậm nhất tới gần trƣa ngang
với giờ chợ tàn, sau đó rau héo, thịt ƣơn
Hội Ngƣời Việt Richmond 43 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
và quá giờ nấu cơm nên không còn khách
mua. Loại hàng này vì t nên đƣợc chủ
hàng chăm chút hình thức tƣơi ngon, bán
đúng giá, thậm ch còn rẻ hơn ngoài chợ
một chút vì các bà nội trợ đều rành giá
cả. Trên lối đi hằng ngày, họ dần dần tạo
khách quen nên cũng khó nói thách đƣợc.
ác xe bán rau củ cũng thế. hỉ riêng xe
bán trái cây trên các con đƣờng lớn và
cổng trƣờng đại học thƣờng cân điêu.
Một xe trái cây trên khu đại học góc An
Dƣơng Vƣơng bán một ký măng cụt thiếu
đến ba trăm gram. Tại toàn đàn ông hoặc
thanh niên ghé mua và mang về. Khách
vãng lai đâu phải ai cũng sẵn cân để cân
lại nên với chiêu hạ giá lôi cuốn khách
ham rẻ, hàng rong tha hồ bán thiếu dài
dài.
Ngay cả chợ cũng có nhiều hàng rong
chiếm lĩnh. Ph a trong nhà lồng và chung
quanh là dãy sạp hàng có môn bài ch nh
thức. Vòng ngoài là các xe đẩy bán rau
quả, thớt gỗ, bắp luộc… cạnh tranh quyết
liệt. Nhiều bà nội trợ ngại lội vào chợ nên
chọn mua hàng ngay từ ph a ngoài đƣờng
nơi những hàng rong này.
Từ trƣa chiều trở đi sau giấc ngủ trƣa là
cơ man hàng rong. Nào là chè đậu xanh
bột báng nƣớc dừa, ch mà phù, hột vịt
lộn hột vịt vữa… à cắp thúng bắp đi
qua, ông đạp xe bánh bao chỉ, bánh bò đi
lại… à già đội mâm bán bánh cam,
bánh vòng từ sáu, bảy năm nay không
còn thấy đâu nữa. ánh rán giống nhƣ
bánh cam nhƣng không có lớp đƣờng kẹo
áo bên ngoài đôi khi còn thấy tại các cửa
hàng bán món ăn ắc, nhƣng bánh cam t
thấy, bánh vòng không có cả chút nhân
đậu bên trong nên lại càng không thu hút
nổi ai ăn.
hỉ có điều các xe thức ăn dãi dầu mƣa
nắng gió bụi phơi ngoài đƣờng cả ngày.
Nhiều vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra có
nguồn gốc từ những hàng quà rong trƣớc
cổng trƣờng. Hàng rong chiếm dụng lề
đƣờng, đi tới đâu xả rác tới đó. Trƣớc cửa
trƣờng học vào đầu và cuối giờ học là cả
một ngôi chợ nhỏ tấp nập đồ chơi, học cụ
và đồ ăn vô cùng phong phú mà căn tin
trƣờng không thể nào đáp ứng bằng.
Trƣớc cửa các công ty và khu chế xuất
nhiều công nhân cũng thế. Những hàng
rong này luôn cung cấp mọi thứ hàng
hóa, dịch vụ cho đúng đối tƣợng khách
hàng. Hàng ăn ở đây tuy có mất vệ sinh
nhƣng mức độ ngộ độc thực phậm còn
lâu mới bằng các bếp ăn tập thể của các
công ty và các bữa tiệc cƣới. Ngoài ra
mọi khách hàng tại chỗ đều khen vừa
ngon vừa rẻ.
Dù sao từng có đề nghị cấm hàng rong.
Đề nghị này đƣa ra nhiều lần mà mãi vẫn
không thực hiện đƣợc vì đụng chạm tới
mấy chục ngàn hàng rong chứ đâu có t.
ao nhiêu hàng là từng ấy con ngƣời,
từng ấy gia đình với đủ mọi hoàn cảnh
khó khăn sống dựa vào đó. Dẹp họ nhƣ
Hội Ngƣời Việt Richmond 44 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
cóc bỏ dĩa. Hàng rong đâu có ngồi yên
một chỗ đợi cảnh sát đến phạt. Đặc t nh
của họ là di chuyển liên tục hết chỗ này
đến chỗ khác nên khó mà rình để chụp.
Thấy bóng dáng cảnh sát, dân phòng từ
xa, dân cƣ vỉa hè đã báo động dây
chuyền, họ mau chóng thu dọn hàng hóa,
khách hàng đang ăn cũng phụ xách ghế,
xách tô dùm. hỉ cần băng qua đƣờng
sang vỉa hè bên kia thuộc địa phận
phƣờng khác hay tạt vào các con hẻm
quanh quẩn đây đó là coi nhƣ thoát thân.
ứ chơi trò cút bắt hoài khiến chuyện
“ruồng bố” này đâm nhàm. Nếu có đợt
càn quét mạnh thì hàng rong trốn. Qua
đợt, họ lại thò ra. Hàng rong là công việc
mƣu sinh kiếm sống cuối cùng nên bằng
mọi cách họ phải giữ lấy. Phạt buôn gánh
bán bƣng là điều không thể vì chỉ tịch thu
mấy cái ghế cóc cũ mèm, bộ quang gánh
sứt sẹo đã khiến họ méo cả mặt rồi thì
làm cách nào moi tiền đóng phạt đƣợc.
Làm gắt quá, hàng rong đành bỏ của chạy
lấy ngƣời vì vốn gánh hàng không bao
nhiêu trong khi giá phạt gấp mƣời mấy
lần. ấp giấy Vệ sinh an toàn thực phẩm
lại càng là điều không tƣởng vì các thứ
giấy má, đơn từ quá sức rắc rối, tốn kém
cộng với những yêu cầu khắt khe nhƣ
nƣớc sạch, nguồn gốc thực phẩm an toàn,
giấy chứng nhận sức khỏe của ngƣới
bán… khiến chúng trở nên hoàn toàn xa
lạ với hàng rong.
Hàng rong không chỉ đủ thực phẩm, các
món ăn uống mà cả “dịch vụ”. Làm
móng dạo kiếm bậc tam cấp mát mẻ ngồi
xuống chuyên sơn sửa móng tay móng
chân, se lông mặt… kiêm luôn nhổ tóc
sâu, làm trắng da, nhuộm tóc… Những
ngƣời đàn ông chạy xe gắn máy giọng
rao khàn khàn “mua băng đĩa cũ”, “mua
ăm li cũ, máy bơm nƣớc, đồng hồ, tủ
lạnh, máy giặt cũ ».
Nhiều nhất đi tới đi lui suốt ngày nhƣ đèn
kéo quân là ve chai và vé số. Hai nghề
này không cần vốn liếng nhiều. Thời buổi
khó khăn vật giá leo thang, ngƣời ta
chẳng còn biết đổi đời bằng cách nào
ngoại trừ mua hy vọng qua mấy tờ vé số.
ởi vậy đội quân vé số nam phụ lão ấu
tràn ngập khắp thành phố.
ho đến tận nửa khuya trong giấc ngủ
vẫn còn tiếng rao rời rạc “bánh chƣng,
bánh giò” và “tẩm quất… đơi” cùng với
tiếng gõ của mì xực tắc.
Hàng rong là cả ngôi chợ khổng lồ. Đủ
mọi hàng hóa cho mọi nhu cầu. Mùa
nóng có xe trái cây ƣớp lạnh, mùa mƣa
có gánh chè đậu xanh nóng, tô mì gõ bốc
khói đƣợc bƣng tới tận cửa nhà. Ăn xong
hồi sau, cậu bé mới quay lại lấy tiền vô
cùng tiện lợi. Ngày rằm mồng một xe bán
hoa bó thành bó, lễ Vu lan có chị đội
lồng chim phóng sinh đi rảo. Việc buôn
bán tận nơi tận tay lại vừa túi tiền với
khách hàng. Ai muốn mua hàng tuyển thì
vào các cửa hàng lớn, vào siêu thị, vào
chợ… òn hàng rong luôn cung cấp các
mặt hàng thiết yếu với giá bình dân…
Hàng rong nào cũng đông khách đủ sống
vì họ luôn nhạy bén trong việc nắm bắt
thị hiếu khách hàng. Mỗi địa điểm và thời
gian có những loại khách hàng nào, cần
thứ hàng hóa nào. Họ cung cấp ch nh xác
tận nơi ngay. Khó mà liệt kê nổi hàng
Hội Ngƣời Việt Richmond 45 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
rong vì ngƣời dân có nhu cầu gì, hàng
rong xuất hiện đáp ứng ngay, thay đổi hết
sức mau chóng, linh hoạt.
Không biết mai mốt đây, theo lối sống
hiện đại, các xóm hẻm biến mất nhƣờng
chỗ cho những khu chung cƣ nhà nào nhà
nấy đóng cửa k n m t, thì không biết lúc
ấy có còn những loại hàng rong này nữa
không? Những ngƣời lao động buôn gánh
bán bƣng này sẽ đi về đâu? Về quê hay
vào làm công nhân hãng xƣởng?
Viễn cảnh ấy chắc chắn còn lâu. òn hiện
giờ, những ngƣời bán hàng rong vẫn rong
ruổi phố phƣờng tạo thành nét sinh hoạt
đặc biệt trên khắp đất nƣớc VN.
Saigon cô nương
Tập làm thơ xuân Ra ngoài hiên vọc ánh xuân
Nối một chùm sợi nắng
Thành một sợi dây câu
(Ai hay sợi nắng khô vàng
Có là một chút bóng ―chàng hư vô‖……)
Dây ném vào hư vô
Trong lòng cầu trời phật
Nam mô… ừ…. nam mô
Dây này con thả chút tình
Lạy trời lạy phật hiển linh lúc này
Cho con câu được ―hao gầy‖!!!!????
Được mưa được nắng, được đầy sắc hoa
Được câu, được chữ gọi là……
Thơ Xuân!
Thơ Xuân cất kỹ đợi mùa xuân
Ủ với trăm hoa đủ…… mấy tuần
Ui chà!
Thời gian có thể không lâu
Thành ra câu chữ ốc trâu một nùi
Thôi đem làm giẻ lau chùi
Dọn nhà rửa cửa
Dọn nhà rửa cửa
Lui cui một mình
Này anh ơi
Anh đi đâu chẳng thấy bóng thấy hình
(anh lên web…..:))
Để em vò võ mùa xuân dọn nhà
Tết chi cho khổ thân ta
Ước chi Xuân cứ xa xa đừng về….
Tâm Hiền
Hội Ngƣời Việt Richmond 46 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Mùa Xuân,
Viếng Các Chùa
ở Richmond
Nguyễn Kiến An
1- CHÙA CHUYỂN PHÁP LUÂN,
MỘT GIỜ VỚI SƢ KIM CANG
Tôi xin đƣợc cái hẹn với Sƣ Kim ang,
Trụ Trì hùa huyển Pháp Luân, và
cũng là một Mạnh Thƣờng Quân của
nhiều công tác xã hội trên Thế Giới,vào
một buổi chiều cuối Thu,có nắng vàng,có
gió nhẹ.
on đƣờng dẫn đến chùa huyển Pháp
Luân vắng xe nên tôi có thể vừa lái xe,
vừa niệm hú Đại i, vừa ngắm cảnh hai
bên đƣờng có rừng cây thƣa thớt, có
những bãi đất trồng hoa mầu, mà vẫn giữ
đƣợc chánh niệm. hùa huyển Pháp
Luân rộng 250 m2, tọa lạc trên một thửa
đất vuông vức có diện t ch 2 mẫu tây.
Trong vƣờn có vài mƣơi cây cổ thụ, có
trúc vàng, có cỏ, có hoa dù rằng cỏ vào
Thu đã vàng và hoa cũng không còn tƣơi
tốt vì cái lạnh, nhƣng chim vẫn hót l u lo.
Với cái tâm rất bình an, tôi tự hỏi õi
ực Lạc có đâu xa ?
Vốn có duyên với nhau, đƣợc quen biết
Sƣ từ lâu, việc tôi đến chùa huyển Pháp
Luân để lễ Phật, để hầu chuyện Sƣ cũng
tự nhiên, cũng than thiết nhƣ trở về nhà
mình, ngôi nhà Tâm Linh, vì Sƣ là ậc
Thiện Tri Thức, Vị Thầy đã giải đáp cho
tôi những thắc mắc, đinh hƣớng đi cho
tôi trong nhiều dịp.
Sƣ Kim ang tiếp tôi trong chánh điện.
Sau khi lạy Phật cầu gia bị, tôi xin Sƣ
giải đáp những câu hỏi để giúp bạn đọc
hiểu rõ nếp sinh hoạt của hùa huyển
Pháp Luân, của Sƣ và của Phật Giáo Đồ
Cambodia.
- Sƣ Kin ang xuất gia năm 1972, làm Sa
Di, ổn Sƣ là Hòa Thƣợng trụ trì hùa
Phƣớng Trà Vinh (Vĩng ình). Năm
1976 Sƣ thọ giới Tì Khƣu, tiếp tục cuộc
sống Du Tăng, tầm sƣ học đạo. Tu theo
Phật Giáo Nguyên Thủy, nhƣng Sƣ cũng
tìm hiểu về Phật Giáo Đại Thừa và các
tôn giáo khác. Sƣ theo học Phân Khoa
Phật Học Viện Đại Học Vạn Hạnh. Sƣ
cũng theo học Đại Học Văn Khoa
Saigon.
Ngoài tiếng mẹ đẻ là ambodia, Sƣ còn
thông thạo nhiều thứ tiếng: Thái Lan,
T ch Lan, Lào, Miến Điện, Việt, Hàn,
Trung Hoa. Ngoài việc Hoàng Dƣơng
Phật Pháp, Sƣ còn tham gia các công tác
xã hội, cứu trợ nạn nhân các thiên tai,
dịch họa. hùa huyển Pháp Luân đã
từng mở rộng tiếp đón nạn nhân từ các
vùng ở Phi hâu, Trung Đông, Trung Á,
và Đông Nam Á. Ngƣòi tị nạn nghe danh
Sƣ tự động tìm đến xin Sƣ giúp đỡ hoặc
do các cơ sở xã hội của các tôn giáo
Thiên húa Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo
nhờ SƢ tiếp tay.
Sƣ Kim ang hiện làm Đại Sứ Hòa ình
của Liên Đòan Hòa ình Thế Giới, nơi
qui tụ toàn thể các Giáo Hội của các tôn
giáo trên Thế Giới.
- Chùa Chuyển Pháp Luân
- Năm 1988 Sƣ Kim ang thành lập Hội
Phật Giáo ambodia.
- Năm 1989 lập hùa huyển Pháp Luân.
Năm đầu chùa không sinh họat, chỉ làm
quen với bốn bên hàng xóm, giao thiệp
và giúp đỡ qua lại.
Hội Ngƣời Việt Richmond 47 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Sau khi đã tranh thủ đƣợc nhân tâm của
tối thiểu 10 gia đình hang xóm, Sƣ nộp
đơn xin phép lập hùa huyển Pháp
Luân theo đúng những luật lệ của
Hanover county. Đƣợc 10 gia đình hàng
xóm nhiệt liệt giới thiệu, ounty xem xét
và cấp cho Sƣ giấy phép mở cửa chùa.
Sƣ Kim ang (giữa), hùa huyển Pháp Luân
T nh theo mức cúng dƣờng hàng tháng
thì Phật Tử thuần thành của chùa huyển
Pháp Luân ƣớc chừng từ 250 đến 300
ngƣời, trong dịp Lễ Dâng Y cho hƣ
Tăng hàng năm. Trong các cuộc vui chơi
lễ hội, số t n đồ tang lê dến 500 ngƣời.
ác khóa lễ thƣờng xuyên ở chùa có ƣớc
chừng từ 50 đến 100 Phật Tử tham dự
nên chƣơng trình Hoàng Pháp của Sƣ
không cố định. Sƣ có thể đến từng nhà để
hành lễ và giảng pháp theo yêu cầu của
gia chủ, Sƣ tụng kinh theo tạng Pali và
giảng Pháp bằng tiếng ambodia. Đối
với giới trẻ hoặc dân tị nạn, Sƣ phải
giảng Pháp bằng Anh ngữ hoặc những
ngôn ngữ địa phƣơng mà Sƣ thông thạo.
- Kết thúc buổi tiếp chuyện, tôi xin Sƣ
ban cho mấy lời Pháp Nhũ nhân dịp Năm
Mới.
SƢ nói: "Ngƣời Việt Nam luôn luôn sinh
hoạt trong tinh thần cộng đồng, tƣơng
thân, tƣơng trợ, nhẫn nhục: một sự nhịn
là ch n sự lành. Sống ở nơi Quê Hƣơng
thứ hai này, nếu không đƣợc nhƣ tinh
thần Lục Hòa của hƣ Tăng, thì cũng xin
ghi nhớ và thực hành những lời dậy dỗ
của Tiền Nhân:
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống,nhưng chung một
giàn,
Hoặc là :
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người chung một nước phải thương nhau
cùng.
Sƣ kết luận : "Phật Giáo là tôn giáo của
Tình Thƣơng và Sự Hiểu iết, Duy Tuệ
Thị Nghiệp. Năm mới, hƣ Phật Tử xin
lấy sự nhẫn nhục, tình thƣơng và hiểu
biết để giải quyết mọi mâu thuẫn, xung
đột thì kết quả bao gìơ cũng tốt đẹp. ầu
xin Hoan Hỉ Di Lặc Phật luôn luôn ở
trong tâm qu vị”.
Sau khi cùng Sƣ hồi hƣớng công đức, tôi
bái biệt Sƣ.
2- CHÙA HUỆ QUANG
Khởi thủy, Phật Tử Việt Nam ở
Richmond không có ngôi chùa để phụng
thờ Tam ảo. Một mùa Vu Lan, do từ
tâm của ha h n (hiện là Sĩ Quan Tuyên
Öy của Hải Quân Hoa Kỳ vùng Thái
ình Dƣơng) thƣơng ngƣời xa xứ, không
phân biệt tôn giáo, nên đã cho các Phật
Tử mƣợn khuôn viên trƣớc Đài Đức Mẹ
Hằng ứu Giúp của nhà thờ ác Thánh
Tử Đạo Việt Nam để tổ chức Lễ Vu Lan.
Phải nói thêm rằng Đức Tổng Giám Mục
ủa Giáo Phận Richmond ngày ấy rất
thƣơng những ngƣời gặp cảnh khốn khó,
trong đó có ngƣời Việt Nam. Thánh Lễ
nhận chức của Ngài đã tổ chức tại công
viên để cho mọi ngƣời không phân biệt
mầu da, tôn giáo ăn uống, ca hát, nên ắt
hẳn việc làm của ha h n đƣợc sự ƣng
thuân của Ngài.
Hội Ngƣời Việt Richmond 48 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Từ lễ Vu Lan ấy, Hội Phật Giáo
Richmond đƣợc thành lập do Đạo Hữu
Võ Thanh Thiệt làm Hội Trƣởng. Ông bà
Võ Thành Thiệt đã góp rất nhiều công
sức để phát triển Hội Phật Giáo và xây
dựng ngôi chùa Huệ Quang. Xin tán thán
công đức của ông bà vì trong các Pháp
ố Th , ố Th Pháp là bậc nhất, ông bà
đã cùng chƣ Phật Tử Richmond kiến tạo
ngôi chùa Huệ Quang để có nơi Hoằng
Dƣơng Đạo Pháp.
Khi chƣa có chùa Huệ Quang,hàng
tuần,Phật Tử Richmond thƣờng xum họp
tại ngôi chùa của ngƣời Nhật ở đƣờng
Grove để lễ Phật. Sau một thời gian vận
động tài ch nh và tìm kiếm đất, Hội Phật
Giáo Richmond đã có đủ tiền đặt cọc để
mua căn nhà số 8535 đƣờng Hungary
glenn Allen VA 23060, thửa đất rộng 5
mẫu tây và căn nhà nhỏ chỉ có sức chứa
25 ngƣời. Dần dần nới rộng nên chùa đã
có nhà thờ linh, nhà bếp và nhà thờ Linh.
ăn nhà này nay dùng làm trƣờng học :
Trung Tâm Việt Ngữ Huệ Quang. TT
Việt Ngữ Huệ Quang cón 8 lớp, từ lớp 1
đến lớp 7 và một lớp cơ bản, gồm 87 học
sinh, học làm 2 ca : ca 1 từ 1 giờ đến 3
giờ, ca 2 từ 3giờ đến 5 giờ chiều hủ
Nhật .Hiệu Trƣởng là cô Kiều Thi và 15
thầy cô. Tất cả đều tình nguyện.
hùa Huệ Quang hiện nay đƣợc xây
dựng trên đỉnh đồi, vị tr do Thiền Sƣ
Th ch Thanh Từ, Tổ hiện nay của Dòng
Thiền Trúc Lâm Yên Tử chọn và đặt viên
đá đầu tiên. hùa rất khang trang,đủ tiên
nghi. hánh Điện có sức chứa 250 ngƣời.
Ph a sau là àn Thờ Tổ, 2 bàn thờ Linh,
2 phòng nghỉ cho Thầy Trụ Trì và khách
Tăng, phòng hội Hội và nhà bếp. Vì số
Phật Tử mỗi ngày mỗi tăng, mà diện t ch
xử dụng lại giới hạn nên thầy Trụ Trì và
an Quản Tri đã có kế hoạch xây một
Hội Trƣờng ở ph a sau có sức chứ 500
ngƣời và các phòng ốc phụ thuộc để
hánh Điện chỉ dành riêng cho việc
phụng thờ, lễ bái và tu học.
Theo thầy Trụ Trì, số Phật Tử thuần
thành tham dự các khóa lễ trƣa ngày hủ
Nhật là 50 ngƣời, số ngƣời này cũng
thƣờng xuyên tham dự các Phật Sự và
các công tác khác của chùa. Hai khóa lễ
sám hối vào ngay 14 và 30 mỗi tháng Âm
Lịch có số Phật Tử tham dự là 30 ngƣời.
ác khóa tụng Kinh Pháp Hoa tối thứ ba
và thƣ năm hàng tuần có số Phật Tử tham
dự là 20 ngƣời.
Thầy Th ch Minh Trì, hùa Huệ Quang
hùa có ban Hộ Niệm cầu siêu cho các
đám tang. Vào các ngày lễ lớn nhƣ lễ v a
hƣ Phật, hƣ ồ Tát v.v. số Phật Tử
tham dự là 500 ngƣời. Riêng ngày Hội
Hoa Xuân và ngày Tết Nguyên Đán, số
Phật Tử tham dự là 1000 từ nhiều đia
phƣơng khác đến.
Gia Đình Phật Tử hùa Huệ Quang là
một tập hợp Thanh Thiếu niên nam nữ
Phật Tử độ tuổi từ 6 đến 17, trên 20 tuổi
là các huynh trƣởng. Tất cả có 50 em,
lãnh đạo bởi ác Đạo Quán, Gia Trƣởng
và các Huyng Trƣởng Tâm Thiên
Nguyện, Quảng Chánh, và các Liên Toán
Trƣởng ... ác em trong Gia Đình Phật
Tử đƣợc hoc Phật Pháp và các sinh hoạt
trong khuôn khổ Giới Định Tuệ của Phật
Giáo và ch nh các em sẽ là ngƣời tiếp nối
Hội Ngƣời Việt Richmond 49 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
mang Ánh Đạo Vàng của hƣ Phật đi soi
sáng thế gian, làm công việc Tề Tà Hiển
hánh theo bƣớc chân của hƣ Tăng.
Trụ trì chùa Huệ Quang hiện nay là thầy
Th ch Minh Trì, xuất thân từ Tổ Đình
Long Phƣớc Thọ Tỉnh Đồng Nai Việt
Nam.
Kết thúc cuộc viếng thăm chùa Huệ
Quang, chúng tôi xin Đại Đức Trụ Trì vài
giòng Pháp Nhũ. Thầy nói : "Quá Khứ đã
đi qua. Tƣơng lai thì chƣa tới. Hãy an trú
trong hiện tại. Sống tron vẹn với hiện tại
trong từng hơi thở. Đây là phƣơng pháp
thiết lập Một Đời Sống An Lạc giữa dòng
đời đau khổ".
3 CHÙA VIÊN GIÁC
Do bất bình về sự chậm chạp trong việc
xây dựng ngôi chùa để thờ phụng Ngôi
Tam ảo, một số Phật Tử chùa Huệ
Quang cùng Thầy Trụ Trì thành lập Hội
Phật Giáo Virginia và tìm mua đƣợc khu
đất số 2208 đƣờng Mountain, Glen Allen
để xây dựng chùa Viên Giác. Khu đất này
rất rộng, khoảng 15 mẫu tây, mặt trƣớc là
đƣờng Mountain, mặt hậu là xa lộ 295,
bên phải là khu Apartment, bên trái là
trƣờng học.
Qua bao sự thăng trầm tranh chấp, nhờ
Hồng Ân Tam ảo, cho đến nay Ngôi
Gìa Lam Viên Giác vẫn tồn tại. Hiện tại
Phật Tử đến chùa để sinh hoạt hàng tuần
là từ 15 đến 25 ngƣời, trong số đó Phật
Tử Thuần Thành là từ 10 đến 12 ngƣời.
òn những dịp lễ lớn hàng năm, số Phật
Tử tề tựu về chùa lên đến hàng trăm
ngƣời nên phải tổ chức ngoài trời. Do đó
sự cúng dƣờng của Phật Tử chỉ đủ để trả
payment hàng tháng để giữ gìn ngôi Tam
ảo, còn nếu có sửa chữa, xây dựng thêm
thì tổ chức quyên góp.
Khi tôi đến viếng hùa Viên Giác, Sƣ ô
đang trông coi việc mở rộng hánh Điện,
nên trong hánh Điện vật liệu còn ngổn
ngang. Tôi xin phép đƣợc hầu chuyện Sƣ
ô. Đây là vị Tăng Sĩ thứ 5 của hùa
Viên Giác. Những vị trƣớc do không có
duyên với chùa nên đã vân tập đi nơi
khác. Sƣ ô Pháp Danh Nhƣ Nghiêm, Tổ
Đình là hùa Dƣợc Sƣ ở dƣờng Lê
Quang Định, Gia Định. Ở Sƣ ô toát lên
sự nhẫn nhịn và từ bi, đem tình thƣơng
đến mọi ngƣời và tạo đƣợc niềm tin vững
chắc cho Phật Tự.
Sƣ ô Nhƣ Nghiêm, Chùa Viên Giác
Trƣớc khi đƣợc hầu chuyện cùng Sƣ ô,
tôi thƣờng đƣợc nghe những dƣ luận
thiếu thành thật của các thế lực vô minh
muốn dành cái danh và cái lợi ở chùa nên
thƣờng có lời nói, hành vi thiếu xây
dựng. Tôi mang những điều đó bạch Sƣ
ô và đƣợc Sƣ ô giải đáp tƣờng tận,
nên tôi đã đảnh lễ Sƣ ô và thú thực tâm
tôi đã đƣợc Sƣ ô an cho. Sƣ ô nhƣ
ngọn đèn chiếu sáng cùng những Phật Tử
thuần thành dẹp tà hiển chánh. hùa Viên
Giác vững bền trong việc hoằng dƣơng
Đạo Pháp.
Trƣớc khi bái biệt, chúng tôi xin Sƣ ô
cho vài hàng Pháp Nhũ. Sƣ ô Nhƣ
Nghiêm nói : Sƣ ô đến chùa Viên Giác
là một nhân duyên. Việc của Sƣ ô là tu
niệm rồi đem những điều hiểu biết và
Hội Ngƣời Việt Richmond 50 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
hành trì truyền đạt cho Phật Tử làm theo,
luôn việc nhắc nhở Phật Tử phải hòa hợp
thƣơng yêu lẫn nhau. Lúc nào cũng phải
phản quang tự kỉ, luôn nhìn vào ch nh
mình nhiều hơn. Đừng phóng tâm ra
ngoài hơn thua không có lợi lạc gì.
Tuy nhiên muốn giữ gìn Ngôi Tam ảo
phải nhờ đến những tấm lòng vàng và
Mạnh Thƣờng Quân. Nếu không có thì sự
duy trì không thể đƣợc, giống nhƣ câu
nói :
Phật Pháp xương minh do Tăng Gìa hòa
hợp,
Thiền Môn hưng thạnh do Đàn Việt tín
tâm.
Tất nhiên câu nói này nói lên sự chung
sức, chung lòng của Tăng Ni và Phật Tử
thì Phật Pháp mới trƣờng tồn đƣợc.
Thƣa qu vị,
húng tôi đƣợc biết hiện nay chùa Huệ
Quang có đồ án xây dựng một Hội
Trƣờng ph a sau để sinh hoạt, và hùa
Viên Giác có kế hoạch xây dựng Đài
Quán Âm để an tr tƣợng Phật à mà
chùa đã thỉnh về từ lâu còn để nằm trong
kho. Ngƣời con Phật nghĩ đến cảnh này
từng rơi nƣớc mắt. Đây là hai dự án kiến
tạo cần đến khoản kinh ph rất lớn nên
cần đến sự đóng góp công sức và tịnh tài
của Đàn Na T n Th . Trong bố th ba la
mật, bố th Pháp là bậc thƣợng. ố th
Pháp gồm có : giảng Pháp, in kinh sách,
xây chùa, dựng tƣợng đúc chuông. Hai
dự án kiến trúc của hùa Huệ Quang và
hùa Viên Giác thuộc về ố Th Pháp, là
hai phƣớc điền rất lớn để chƣ Phật Tử
gieo trồng công đức. Ngƣỡng mong qu
vị phát ồ Đề Tâm cúng dƣờng để Phật
Sự đƣợc viên mãn.
Trân trọng,
Nguyễn Kiến An
Chiều Qua Sông, Nhớ Nhà Giòng Potomac lặng lờ,
Cây đa chẳng có. Con đò cũng không.
Ngẩn ngơ. Những ngóng cùng trông.
Nơi quê người, cứ tưởng mong quê nhà.
Ngược suôi. Ngã bẩy. Ngã ba.
Trông tìm cố quận. Biết là tìm đâu ?
Ngậm ngùi. Cồn cỏ. Bờ lau.
Trong tiềm thức hiện mái đầu tuyết
sương,
Lưng còng chĩu nặng nhớ thương,
Mắt lòa từ độ rõi đường con đi.
Lòng đau từ lúc phân kỳ.
Xót xa từ thủa biệt ly đến giờ.
Giòng Potomac lặng lờ,
Cây đa chẳng có. Con đò cũng không !
Tạ Quang Trung
Hội Ngƣời Việt Richmond 51 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Vài N t Về
Trung Tâm Việt
Ngữ Huệ Quang Trần Khôi
Ở vùng Richmond, Virginia, có lẽ t có
gia đình Việt Nam nào chƣa hề nghe nói
đến Trung Tâm Việt Ngữ Huệ Quang, mà
mọi ngƣời vẫn thƣờng gọi một cách thân
thƣơng là "trƣờng Việt Ngữ".
Trụ sở của trƣờng Việt Ngữ thật
ra chỉ là một ngôi nhà khiêm tốn với bốn
phòng học ch nh, tọa lạc trên đƣờng
Hungary Road, Glen Allen, trong khuôn
viên khá rộng rãi của chùa Huệ Quang.
ên cạnh ngôi trƣờng là một sân cỏ lớn,
có rào kẽm, dùng làm sân chơi cho học
sinh trong giờ giải lao. Mỗi tuần, các em
học sinh chỉ đến trƣờng để học hỏi và
sinh hoạt trong hai giờ mỗi chiều hủ
Nhật. Trƣờng có tám cấp lớp, và với bốn
phòng học, phải chia làm hai buổi, 1 - 3
và 3 - 5 giờ, mỗi buổi bốn lớp.
Về nhân sự, trƣờng có một ban
Giám Hiệu gồm Hiệu Trƣởng và ba Hiệu
Phó về Kỷ Luật, Sinh Hoạt, và Giáo
Khoa. an Giảng Huấn cũng khá hùng
hậu, mỗi lớp học có một giáo viên ch nh
và một hay hai phụ giáo, cùng lo việc dạy
dỗ và các sinh hoạt trong lớp.
ó thể nói Trung Tâm Việt Ngữ
Huệ Quang là một tổ chức từ cộng đồng
mà ra, phục vụ cho cộng đồng, và do
ch nh cộng đồng nuôi dƣỡng. Không t
các phụ huynh, sau khi cho con em đến
học, đã dấn thân phụ giúp trƣờng trong
nhiều kh a cạnh, có khi còn trở thành phụ
giáo hay giáo viên nữa. Tất cả giáo viên
đến với Trung Tâm đều là làm việc thiện
nguyện. Trung Tâm có nhận học ph rất
khiêm nhƣợng chỉ để cung cấp học cụ và
tu bổ phòng ốc cũ kỹ. ó nhiều phụ
huynh tham gia vào Hội Phụ Huynh, góp
công phụ lực cũng nhƣ góp của để tài trợ
cho các sinh hoạt ngoại khóa của trƣờng.
TTVNHQ - Khai Giảng
Những sinh hoạt ngoại khóa của
trƣờng là gì? Mục đ ch của Trung Tâm
không phải chỉ là đào tạo những học sinh
có khả năng nghe, nói, đọc hiểu, và viết
Hội Ngƣời Việt Richmond 52 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
đúng tiếng Việt trong các sinh hoạt hàng
ngày, hiểu đƣợc nhân sinh quan Việt qua
đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời
Việt. Hơn thế, Trung Tâm còn hƣớng dẫn
các em hòa nhập vào dòng văn hóa Việt
qua những hiểu biết cơ bản về đất nƣớc
và con ngƣời Việt Nam. Không chỉ lý
thuyết suông, Trung Tâm luôn tạo điều
kiện cho học sinh làm quen với các sinh
hoạt văn hóa nhƣ tổ chức rƣớc đèn Trung
Thu trong Hội Mùa Thu, tổ chức Văn
Nghệ Mừng Xuân đón Tết Nguyên Đán,
tham gia Hội hợ Á hâu hàng năm, và
cho học sinh trình diễn các màn ca múa
trong lễ hội của các tổ chức của ngƣời
Mỹ để biểu dƣơng văn hóa Việt.
TTVNHQ - Tết
Về mục đ ch ch nh, vấn đề giảng
dạy tiếng Việt, Trung Tâm theo một
đƣờng hƣớng độc đáo, thực tế, kết tinh
của mƣời năm hoạt động và kinh nghiệm
chung của ban Giảng Huấn. Trung Tâm
nhận thức rằng, với các em sinh trƣởng ở
Mỹ, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ thứ hai.
Trƣớc khi đến Trung Tâm để học tiếng
Việt nhƣ một ngôn ngữ thứ hai này, các
em đã biết nói, nghe, và suy nghĩ bằng
tiếng Anh. Vì vậy, Trung Tâm không bắt
đầu từ cách dạy sơ đẳng cho các em học
từng chữ hay tập viết từng nét chữ mà coi
nhƣ các em đã nhận đƣợc dạng và viết
đƣợc thuần thục tất cả các chữ nhƣ a b c
d ... và các số nhƣ 0 1 2 3 …
Theo chiều hƣớng đó, Trung Tâm
đƣợc tổ chức thành tám cấp lớp, từ lớp
Một (bắt đầu, vỡ lòng) đến lớp ảy (hoàn
tất, tốt nghiệp), và một lớp ơ ản. Học
sinh mới vào, nếu đã biết khá nhiều tiếng
Việt, sẽ đƣợc thi xếp lớp để đƣa vào cấp
phù hợp với trình độ. Những học sinh đã
lớn nhƣng chỉ mới bắt đầu tiếp xúc với
tiếng Việt sẽ học riêng một năm trong lớp
ơ ản. Sau năm này, các em sẽ đƣợc
chọn qua học cấp lớp tƣơng đối phù hợp
với trình độ và tƣơng xứng với lứa tuổi.
Quan điểm nền tảng về phƣơng pháp sƣ
phạm của Trung Tâm cũng có vài dị biệt
với những Trung Tâm Việt Ngữ khác ở
Hoa Kỳ, không hoàn toàn theo đƣờng lối
truyền thống. Trung Tâm chủ trƣơng giản
dị hóa các yếu tố ch nh nhƣ cách dạy chữ,
dấu giọng, và đánh vần, nhằm giúp học
sinh dễ tiếp cận với tiếng Việt hơn, và
Hội Ngƣời Việt Richmond 53 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
cũng tránh cho các em những lẫn lộn
không cần thiết.
Tiêu chuẩn cho mỗi cấp lớp là
kiến thức tối thiểu mà các em phải thu đạt
đƣợc trƣớc khi lên cấp cao hơn. Những
tiêu chuẩn cơ bản là chữ, dấu giọng, vần,
và khả năng dùng tiếng Việt trong một số
tình huống quen thuộc. Thêm vào đó, còn
có tiêu chuẩn về các đề tài mà các em sẽ
đƣợc học trong từng cấp lớp, cũng nhƣ
tiêu chuẩn về các sinh hoạt có liên quan
đến văn hóa Việt Nam, nhƣ các truyện
dân gian, các câu ca dao, tục ngữ, các bài
hát thiếu nhi, cùng những kiến thức phổ
thông về lịch sử và địa lý Việt Nam.
uối năm học, thành quả học tập của mỗi
em đƣợc tổng kết dựa trên kết quả học
vấn, gồm bài làm nhà, bài kiểm và bài thi
học kỳ, thành t ch tham gia sinh hoạt văn
hóa, và sự chuyên cần đi học đều đặn mỗi
tuần.
TTVNHQ - Trung Thu
hƣơng trình học vấn của Trung
Tâm nhằm giúp các em có đủ vốn liếng
cơ bản để sau khi hoàn tất chƣơng trình
này, các em có thể tự tìm tòi sách báo,
phim, mạng, nếu muốn tiếp tục học hỏi
để giỏi tiếng Việt hơn nữa. Một số học
sinh, sau khi học xong chƣơng trình Việt
Ngữ ở Trung Tâm, đã xin trở lại để giúp
các thầy cô, dùng cơ hội đó để trau dồi
thêm tiếng Việt.
Một năm học điển hình của Trung
Tâm bắt đầu bằng Lễ Khai Giảng, thƣờng
vào giữa tháng h n, trong đó học sinh và
phụ huynh đƣợc giới thiệu sơ lƣợc về
thầy, cô giáo, về cách thẩm định thành
quả học tập, việc đƣa đón, cùng những
sinh hoạt ngoại khóa. Khoảng cuối tháng
h n là Hội Mùa Thu, thƣờng vào một
chiều thứ ảy, khi các em học sinh và
phụ huynh đến trƣờng để cùng chơi các
trò chơi của thiếu nhi Việt Nam, ăn bánh
kẹo Trung Thu, và tối đến thì ca hát và
rƣớc đèn trong khuôn viên chùa Huệ
Quang. Vào dịp Tết Nguyên Đán, các học
sinh cùng tham dự trình diễn trong
chƣơng trình Văn Nghệ Mừng Xuân với
nhiều tiết mục đặc sắc nhƣ múa, hát, độc
tấu, diễn kịch, Sớ Táo Quân, múa Lân,
vân vân, chơi các trò chơi vui xuân nhƣ
cờ á Ngựa, lắc ầu ua á ọp... Vào
cuối mùa xuân, những tiết mục Văn Nghệ
Hội Ngƣời Việt Richmond 54 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
đặc sắc lại đƣợc chọn đi trình diễn trong
Hội hợ Á hâu, nơi các sắc dân gốc Á
cùng đến để thi thố tài năng nghệ thuật
đồng thời giới thiệu văn hóa của nƣớc
mình. uối cùng, vào tháng Sáu, là Lễ ế
Giảng, khi các học sinh học giỏi, tham
gia nhiều sinh hoạt, và chuyên cần đƣợc
tuyên dƣơng và lãnh phần thƣởng.
Đặc biệt, năm học 2012-2013
đánh dấu mƣời năm hoạt động liên tục
của Trung Tâm Việt Ngữ Huệ Quang.
Một chƣơng trình Văn Nghệ Mừng Xuân
Quý Tỵ vô cùng sôi động và đầy ý nghĩa,
với chủ đề Tiếng Nƣớc Tôi, đƣợc tổ chức
long trọng vào ngày hủ Nhật 3 tháng 2
tại hội trƣờng chùa Huệ Quang để kỷ
niệm thành quả mƣời năm. ũng trong
năm học này, Trung Tâm phát hành đặc
san để kỷ niệm mƣời năm hoạt động, với
nhiều bài vở phong phú của các thầy, cô
giáo, của học sinh, phụ huynh, và thân
hữu, cũng với chủ đề Tiếng Nƣớc Tôi.
Nếu cần liên lạc với Trung Tâm
để tìm hiểu thêm về trƣờng Việt Ngữ,
quý vị có thể gọi điện thoại cho Trung
Tâm ở số (804) 402-7416, hoặc đến trụ
sở Trung Tâm, số 8535 Hungary Road,
Glen Allen, VA 23060 trong giờ mở cửa
(1 - 5 giờ mỗi hủ Nhật.)
Trần Khôi
Lời gọi người tình Sao không đốt ngọn nến thơm
Để tìm hương cũ những ngày bên nhau
Tìm trong khuôn sáp nhạt màu
Mùa thu vàng lá tình đầu mộng mơ
Sao không viết tiếp bài thơ
Ru vân hài ngủ bên bờ suối xanh
Thơ bay dệt giấc mộng lành
Cho yêu thương đó thênh thang một đời
Sao không đàn khúc gọi mời
Đàn chim câu nhỏ ca lời ái ân
Tay buông trên phím tơ ngân
Nhớ thương ngan ngát dầy đan cỏ bồng
Hoa ơi bừng nở đồi hồng
Gọi mùa yêu dấu về đong suối buồn
Hoa ơi gởi gió đưa hương
Nhắn người về mở yêu thương rộn ràng
Xuân về mở lối thiên đàng
Chập chùng xuân ý mơn man cánh hồng
Ánh Thu
Hội Ngƣời Việt Richmond 55 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Thăm Viếng
Tiệm Người Việt
ở Richmond Hoàng Thu Dung
Đây là một điều hết sức khó khăn vì
không nhƣ ngƣời Hoa Kỳ, ngƣời Việt
Nam, về phƣơng diện làm ăn, không một
ai muốn tiết lộ cái b quyết thành công
của mình trên thƣơng trƣờng cho ngƣời
khác biết. Tại sao họ lại e ngại? Họ ngại
đủ thứ, kẻ gian dòm ngó, đặc biệt nhất là
sự cạnh trạnh của các đối thủ trong nghề.
Ngƣời Việt Nam làm ăn, buôn bán ở
Richmond không phải t cho nên đã có
tới ba vị chủ nhân đồng ý gặp chúng tôi
và để cho chúng tôi đƣợc nghe những bí
quyết thành công trong việc làm ăn của
họ.
1- NHÀ HÀNG NANKING,
ạn ở Richmond có đứa con trai muốn
cƣới vợ, có đứa con gái muốn gả chồng,
tổ chức ở đâu ? - Nhà hàng Ông Phát!
ạn ở Richmond có việc làm ăn, buôn
bán muốn tìm nơi hội họp để thảo luận,
tổ chức ở đâu ? - Nhà Hàng Ông Phát!
ạn ở Richmond muốn thết tiệc để chiêu
đãi những ngƣời thân, những bằng hữu từ
phƣơng xa đến, tổ chức ở đâu ? - Nhà
hàng Ông Phát!
ạn ở Richmond có cô bạn gái xinh nhƣ
mộng (bạn gái thôi, vì tôi chƣa thấy bạn
gái mời bạn trai đi ăn dù rằng mời đi ăn
kiểu Mỹ - one eat, one pay) nhân ngày
Valentime muốn hẹn hò để cầm bàn tay,
nói một câu ân tình, xong quì xuống, lấy
chiếc nhẫn đ nh hôn 15 cara đeo vào
ngón tay áp út bàn tay trái của nàng để
xin nàng một bàn tay (nghĩa bóng -
không phải là mang theo con dao bén
chặt cụt tay của nàng - vả chăng nếu bạn
có chiếc nhẫn hột xoàn trên 15 cara ánh
dầu hôi thì bạn sẽ tổ chức lễ đ nh hôn ở
đâu, nếu bạn không mời tôi, tôi hoàn toàn
không biết) ạn tổ chức ở đâu ? - Nhà
hàng Ông Phát!
ạn ở Richmond, đói bụng, trong túi có
tiền, muốn đi ăn, đi ăn ở đâu ? - Nhà
hàng Ông phát!
Nhà hàng ông Phát là tên thƣờng gọi, là
cái nickname thông dụng của nhà hàng
Nanking. hủ nhân nhà hàng Nanking là
ông Phát. Nhà hàng Nanking đã di
chuyển 4 nơi trong địa bàn quận Henrico.
Mỗi lần di chuyển, diện t ch lại rộng ra.
Nhà hàng Nanking hiện nay ở trên đƣờng
road, nếu đi từ hƣớng downtown về
ph a East, nó nằn bên tay phải, từ ngã tƣ
Kmart, qua khỏi một stop light là tới.
Nếu đói bụng, cứ lái xe từ từ đúng tốc độ
45 mile, đừng chậy nhanh, cảnh sát phạt.
Mà vào cuối tháng, để lập thành t ch,
cảnh sát Henrico hay tặng giấy phạt lắm.
Nhà hàng Nanking hiện nay có sức chứa
300 thực khách mà vẫn còn chỗ đi, lại
thoải mái. Nhà hàng có một sân khấu, hệ
Hội Ngƣời Việt Richmond 56 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
thống âm thanh tối tân. àn ghế rất lịch
sự, nếu là đám cƣới, có yêu cầu, ghế
đƣợc phủ bao thêu rồng phƣợng.
Dàn đầu bếp của nhà hàng Nanking gồm
một bếp trƣỏng - chef - và 11 bếp phó -
under chef, chuyên nấu nƣớng một thực
đơn gồm 98 món. Giá mỗi món ăn rẻ
nhất là 6.95 US, đắt nhất là 19.95 US
(Tôi chƣa ăn món này nên không biết nó
gồm những vị gì ? Nấu nƣớng ra sao nên
không diễn tả đƣợc). Phục vụ viên gồm 4
ngƣời, không kể quầy rƣợu và nhân viên
phục vụ). Nhà hàng Nanking mở cửa 7
ngày một tuần từ 11:00AM đến
10:00PM.
Tiếp tôi tại nhà hàng, ngồi quanh cái bàn
tròn là cụ bà thân sinh ra ông Phát, một
bà gìa phúc hậu, theo lời cụ, cụ năm nay
ngoài 80 tuổi.
Ông Phát, ngƣời đàn ông trung niên, tầm
thƣớc, khuôn mặt, con ngƣời toát ra vẻ
thành thực, dễ mến, dễ làm quen. à vợ
ông, một phụ nữ sinh đẹp, mau mắn, cởi
mở đang điều hành một cơ sở kinh doanh
phát đạt khác.
Ông Phát tâm sự : Ông đƣợc gia đình đƣa
đi vƣợt biên năm 1979. Tới Hoa Kỳ
tháng 4 năm 1980. Lúc đầu học lớp kỹ
sƣ. Vừa đi học, vừa đi làm. Sau đƣợc
nâng lên làm manager, bỏ học nên chƣa
tốt nghiệp.
quyết quyến rũ khách hàng của
Nanking là chất lƣợng thực phải tƣơi,
phải hảo hạng thêm đồ gia vị phải tốt,
còn cách nấu nƣơng tùy theo khẩu vị
khách hàng. ó những nơi cung cấp thực
phẩm có chất lƣợng thƣợng phẩm theo sự
đòi hỏi của dàn đầu bếp.
Về giá cả, tùy theo số tiền mà khách đặt
tiệc trả để cung cấp thức ăn. Ông Phát
cho biết: ở vào độ tuổi 30, ông luôn luôn
nghĩ đến việc khuyếch trƣơng việc làm
ăn. Đến tuổi dƣới 50, thấy kinh tế khó
khan nên thu gọn công việc làm ăn trong
tầm tay. Ở VN nếu thành công trong việc
làm ăn là chuyện đáng mừng, nhƣng ở
Hoa Kỳ, sự thành công lại là sự thách
thức lớn, nó đòi hỏi sự kiên nhẫn, sự
chuyên cần, sự làm việc nỗ lực tới nơi,
tới chốn, không đƣợc bỏ cuộc. Khách
hàng luôn luôn là một yếu tố quan trọng
quyết định sự thành công nên phải nhiệt
tình phục vụ khách, coi yêu cầu của
khách nhƣ ch nh yêu cầu của mình nhất
là trong các tiệc cƣới. Và phải luôn luôn
ghi nhớ: KHÁ H HÀNG AO GIỜ
ŨNG ĐÖNG.
Lúc chào từ biệt, ông Phát tiễn tôi bằng
câu chuyện " ó một phóng viên yêu cầu
đƣợc phỏng vấn một doanh gia rất thành
công. Doanh gia từ chối vì còn phải đi
thăm vợ hiện đang nằm ở nhà thƣơng,
Phóng viên nói: "Nhƣng tôi nghe nói bà
vợ ông đã mất tr nhớ rồi mà!" Doanh gia
trả lời: "Nhƣng tôi đâu có mất tr nhớ !".
âu chuyện này cho ta một bài học là
trong mọi việc, nhất là việc làm ăn, lúc
nào cũng phải tỉnh thức. Nhà Phật gọi là
HÁNH NIỆM.
Hội Ngƣời Việt Richmond 57 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
2- VA NAILS
Kể từ khi con ngƣời biết sống hợp quần,
để gây sự chú ý và thu hút phái mạnh
(phái mạnh đây là phƣơng ngữ ám chỉ
đàn ông, con trai ở thế giới loài ngƣời.
òn ở thế giới loài vật, phái mạnh thông
thƣờng là con cái ! Nếu các bạn không
tin, xin cứ nhìn vào loài ếch (không phải
Đồng h X), bạn sẽ thấy con ếch đực bé
nhƣ con chão chàng đang đeo cứng trên
lƣng con ếch cái to bằng vốc tay. Hay
nhƣ trong bể cá puppies, con cá đực long
lanh mầu sắc chỉ to bằng đầu đũa, trong
khi con cái to bằng ngón tay với cái bụng
chang bang). Trở lại vấn đề Nam Nữ,
ngƣời phụ nữ thƣờng chau chuốt thân
hình, đây là một nhu cầu tự nhiên .Và khi
ngƣời đàn ông gặp một ngƣời đàn bà, đôi
mắt ngƣời đàn ông gắn chặt vào bộ phận
nào ở cơ thể ngƣời đàn bà ? Xin thƣa "bá
nhân, bá tánh" không có một qui luật nhất
định, mà có nhiều qui luật cho nhiều
hạng ngƣời. Nếu là Thƣ Sinh mặt trắng
thì chú ý vào cặp má đào :
Khứ niên,kim nhật thử môn trung,
Nhân diện,đào hoa tương ánh hồng,
Nhân diện bất tri hà xứ tại ?
Đào Hoa y cựu tiếu Đông Phong !
Thôi Hội
òn nếu là anh chàng chăn bò (cowboy)
chỉ th ch ƠM NO, Õ ƢỠI thì chỉ
chú ý vào ÁI ÀN TIẾP HẬU SÖNG
ỐI của nàng.
Ở phƣơng Tây, thời Phục Hƣng, trong
giới qu tộc, ngƣời đàn ông thƣờng cầm
bàn tay ngƣời nữ và đặt nụ hôn trêm mu
bàn tay của nàng. hỉ trong giới qu tộc
thôi, còn trong giới bình dân chân lấm,
tay bùn có lẽ không ai có can đảm mà
nghĩ đến, chỉ nghĩ đến thôi, hôn lên mu
bàn tay ngƣời phụ nữ. Ngƣời duy nhất
trong văn học sử thế gìới luôn luôn ao
ƣớc đƣợc hôn tay ngƣời mình yêu là
Đông Ki Hô Tê tức Hiệp Sĩ mặt buồn,
nhà Qu Tộc xứ Mancha Tây an Nha,
ngƣời yêu của ông là Doullicia, một thôn
nữ có thân hình vạm vỡ, mà trong trí
tƣởng tƣợng của nhà Qu Tộc, nàng là
một nƣơng tử ẻo lả, đẹp tuyệt vời.
húng tôi đang bàn về bàn tay ngƣời phụ
nữ và cách làm đẹp bàn tay của ngƣời
phụ nữ. Quan niệm về cái đẹp của ngƣời
phụ nữ thay đổi theo thời gian và không
gian. Ở nƣớc ta thời Phong Kiến và thời
Pháp thuộc, hàm răng đen và cặp môi ăn
trầu cắn chỉ là đẹp, nên việc nhuộm răng
đen là phong tục. Khi tôi có trí khôn, thấy
cảnh nhuộm răng đen của hai bà chị gái
rất là cực khổ. Hai chị đi hái một nắm lá,
tôi quên tên, giã nhỏ, quyết cho d nh, bôi
lên một khúc lá dứa dại, trƣớc khi đi ngủ,
đắp lên hai hàm răng, sáng dậy, bóc bỏ
đi, đến tối đắp tiếp. Phải kiêng ăn, kiêng
uống cực khổ. Sau hai tuần liền nhƣ vậy
là có hàm răng đen bóng.
"Có cô hàng xén răng đen,
Cười như mùa thu tỏa nắng ..."
Bên Kia Sông Đuống - Thơ Hoàng ầm.
Thời gian thay đổi, RĂNG ĐEN HẠT
HUYỀN trở thành RĂNG ĐEN, MÃ
TẤU, một thành ngữ tỏ ý miệt thị. Nhƣng
trong quá khứ, dân tộc ta đã từng nhờ
những bà mẹ răng đen, mã tấu mà dựng
đƣợc nƣớc, mà giữ đƣợc nƣớc : Hai à
Trƣng Nữ Vƣơng "lau phấn son, lo thù
Hội Ngƣời Việt Richmond 58 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
nhà", à Mẹ Do Linh "mẹ già cuốc đất
trồng khoai, nuôi con đánh giặc đên
ngày", và à Mẹ "đào hầm từ lúc tóc còn
xanh, nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc, mẹ
đào hầm dưới tầm đại bác, năm canh dài
thức đủ năm canh ...".
Trở lại chuyện làm đẹp bàn tay, cách nay
trên nửa thế kỷ, trẻ em ở miền ắc Viêt
Nam, nam và nữ cũng đƣợc NHUỘM
MÓNG TAY trong dịp tết ĐOAN NGỌ
mồng 5 tháng 5, ngày tết GIẾT SÂU Ọ,
bôi một chút vôi ăn trầu vào rốn để giết
run, sán. hất nhuộm móng tay là lá cây
đâm nhuyễn bôi và móng tay, lấy vải
quấn chặt lại, qua một đêm và tuỳ theo
loại lá cây đƣợc chọn, mà móng tay có
mầu nhƣ ý muốn, tỉ nhƣ lá cây dành dành
cho mầu vàng.
Ở thành phố, phụ nữ chỉ nhuộm móng tay
những năm về sau này. Ngoài các bà các
cô có tiền và tiệm uốn tóc, làm móng tay,
giới bình dân cũng có nhu cầu làm móng
tay, nên có cảnh ngộ ngĩnh là cái móng
chân cái của bà bán nghêu sò ở đƣờng
Nguyễn Tri Phƣơng bị thối, nó teo lại,
săn seo nhƣ hột bắp, cũng đƣợc sơn lên
một lớp sơn mầu t m than . Thợ làm nail
đa số là phụ nữ, t thấy đàn ông. ơ
nghiệp cho ngƣời làm nail ở chợ chỉ cần
một cái bị đựng đồ nghề, hai cái ghế đẩu
nhỏ, thấp, một cho chủ, một cho khách.
Hoa Kỳ là nơi Đắc Địa của ngƣòi Việt
làm nail, cả đàn ông lẫn đàn bà, đâu đâu
cũng có tiệm nail, theo luật cung cầu, nơi
nào có khách hàng cần làm nail là nơi đó
có tiệm nail. Vào nghề nail chỉ cần học
một khóa học khoảng 3, 4 tháng, tốt
nghiệp, có chứng chỉ hành nghề là có thể
đi làm, so với những nghề nghiệp khác
cần nhiều thời gian học hành mà khi tốt
chƣa chắc đã có việc làm. ó việc làm,
chƣa chắc đã có mức thâu nhập khá. Cho
nên nghề nail phát triển mạnh. Muốn làm
chủ tiêm nail, đầu tiên phải có bằng làm
nail, có kinh nghiệm trong nghề nail, có
tài chánh để thuê mƣớn cơ sở làm nail, có
giấy phép của tiểu bang, sau khi đã đáp
ứng đƣợc những đòi hỏi về vệ sinh môi
trƣờng, an toàn cho sức khỏe của mọi
ngƣời. Hàng năm có những cuộc kiểm tra
định kỳ, nếu qua đƣợc mới đƣợc thiếp tục
hành nghề.
VA NAILS là một tiệm nail ở một khu
buôn bán sầm uất, 12000 West Broad St.
Unit 606 (Towwer center West) khu
Short Pump. hủ nhân là anh ảo Lý,
ngƣời đàn ông trung niên rất dễ mến,thật
thà, hỏi cái gì cũng trả lời, biết đến đâu,
nói đến đó ...
Thời gian đầu tiên tới Hoa Kỳ, anh ảo
theo học ở Đại Học ông Đồng, ngành
Accounting, 3 năm, chƣa tốt nghiệp, bỏ
đi học làm nail rồi làm nail cho một tiệm
của gia đình. Hồi còn ở VN, anh ảo đã
có nghề hớt tóc, gội đầu nên vào nghề
nail có nhiều thuận lợi.
Sau một thời gian làm thợ để trau dồi tay
nghề và học hỏi cách điều hành một tiệm
nail nhƣ nguồn cung cấp trang thiết bị,
nguồn cung cấp nguyên vật liệu, phẩm
chất, giá cả, ảo ra làm chủ một tiệm
nail. Rồi nghề dậy nghề, khi tiệm nail đã
mang lại số thu lớn, ảo sang cho ngƣời
khác và mở một tiệm mới. ứ nhƣ thế,
Hội Ngƣời Việt Richmond 59 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
ảo đã sang 7 tiệm cho ngƣời khác. Hiện
nay ảo có hai tiệm nail, mỗi tiệm 8 ghế.
Khi tôi vào VA NAIL có 3 ngƣời khách
đang làm móng tay, một ngƣời ngồi trên
ghế spa ngâm chân trong nƣớc chờ làm
móng, và một khách ngồi chờ.
VA NAIL có 6 thợ, hƣởng lƣơng khoán
4/6 nghĩa là chủ hƣởng 4 phần, thợ
hƣởng 6 phần trên số thu, hoa hồng thợ
hƣởng hết. Giá làm một bộ nail từ 20 đến
45 dola tùy theo đòi hỏi của khách hàng.
Tôi hỏi ảo khi gặp loại khách cà chớn
chê bai để ăn vòi thì phải làm sao ? ảo
nói : " ho nó t tiền rồi cạch, thông báo
cho nhau biết, không ai tiếp nó nữa."
Vốn để mở một tiệm nail nhƣ tiệm tôi
đang ngồi là 100,000 đô la, chi phí hàng
tháng khoảng 4 đến 5 ngàn.
Vì nghề nail không theo mùa, nên khi đã
tạo đƣợc uy t n với khách hàng, đó là số
khách thƣờng xuyên của tiệm, cứ mỗi 2
tuần đến tiệm một lần, và khách còn rủ
nhau đến. Không gì khoan khoái bằng
vừa ngồi trên một cái ghế hết sức tiện
nghi để thợ phục vụ tới nơi, tới chốn, vừa
nói chuyện trên trời, dƣới đất với bạn bè.
Tâm lý ấy, Tây, Tầu, Mỹ, Việt đều có cả.
Mở đƣợc tiệm, phục vụ tận tình, có nhân
viên tốt, địa điểm khang trang, là có
khách, là có lời. Thế cho nên đã có một
thời tiệm nail bung ra nhƣ nấm sau cơn
mƣa, và đã từng sẩy ra chuyện thi nhau
hạ g a để câu khách. Thế nhƣng ở xứ Mỹ
này, tiền nào của ấy, nên khách đến rồi
khách lại đi, để lại tiếng xấu cho tiệm.
ảo tâm sự: " Rất mong muốn ngƣời làm
nail đƣợc tổ chức thành một nghiệp đoàn
kể cả chủ lẫn thợ để bảo vệ nhau trƣớc
những kẻ phá rào, trƣớc sự tấn công của
ngƣời bản xứ và ngƣời xứ khác. Tấn
công chứ không phải cạnh tranh. Tấn
công nhƣ cho tiền để mƣớn kẻ xấu thƣa
kiện trƣớc tòa nhƣ đã xẩy ra ở vài tiểu
bang ".
Về câu hỏi làm nghề nail do tiếp súc
thƣờng xuyên với hóa chất nên dễ gây hại
cho sức khỏe ? ảo đáp : " ũng có một
phần, nhƣng bộ Y Tế rất khắt khe trong
việc trang bị máy hút kh nên tìng trạng
độc hại đƣợc giảm thiểu tối đa".
Thấy ảo luôn luôn đứng lên ngồi xuống
bận rộn giúp mấy cô thợ sửa chữa những
chỗ khách chƣa hài lòng, việc tìm hiểu
nghề nail đã tạm đủ, tôi cám ơn và chúc
ảo làm ăn phát đạt và từ giã.
ài ký sự này viết theo quan điểm của
một ông chủ tiệm, giá mà đƣợc hỏi han
để biết và viết theo quan điểm của ngƣời
thợ làm nail, thông suốt hai mặt của một
vấn đề để độc gỉa có cái nhìn toàn diện về
nghề làm nail của ngƣời VN đã và đang
phát trìển trên đất Mỹ, đã và đang mang
lại nhà cao, cửa rộng, xe cộ đắt tiền, vàng
đeo đỏ tay cho ngƣời VN thì mới toàn
thiện.
Hoàng Thu Dung
Hội Ngƣời Việt Richmond 60 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Vô Đề
Hong chi chút ngọn tình sầu,
Trăm năm rồi cũng úa mầu ...trăm năm...
Tình đau, dù đã mù tăm,
"Bắc phong" về với dấu lòng bay qua,
Chiều đi ...nắng thấp, hiên nhà ...
Mòn con mắt ...đỏ ...đợi đò qua sông
Khiêm Trần
27-12-12
Nhịn Nhục …
Có những lúc mặt bằng như mặt ghế ...
Để cho đời vơi đi nỗi xanh xao,
Những tiếp nối ...ngỡ ngàng cho thế hệ,
Cùng quẩn quanh, cùng quanh quẩn...lao
đao ...
Đứng cuối dốc ...cùng nghe lời cội rễ ...
Cùng căm gan, cùng câm nín ...bao lâu!!!
Khiêm Trần 12-2012
Tàn Mộng Quay Về Trở về đây ! Như một bóng đêm !
Chờ cơn gió lặng để lên đèn,
Xao động tàng cây,chim thảng thốt !
Đời tàn phai theo ánh que diêm !!!
Trở về đây! như một bóng ma
Đứng lên đời, dâu biển phôi pha,
Gom chút tàn hương bay cuối phố,
Một chút buồn ! Tiếng khóc bay qua ?
Trở về đây như một bóng sao,
Mang ít thời gian với chiêm bao,
Ừ đem nguyệt-tận ! Tìm đâu nữa ??
Tiếng cười nghe như tiếng thương đau !!
Trở về đây ! Nhìn lên bến đò ngang,
Nhìn đá rong rêu phủ nắng vàng,
Vết chân phế tích còn hơ hãi !
Níu kéo hoài - Tiếng hát nhân gian
Khiêm Trần
01-2013
ạt :
Khiêm Trần là một cƣ dân ở Richmond .
Ngoài tài làm thơ, ông còn viết nhạc. Thơ
và nhạc của ông mang nặng cái tâm trạng
của ngƣời vong quốc, nhìn về cố quận
với lòng tiếc nhớ không nguôi. Ông mang
cái hoài mong có một ngày về. Nhƣng
biết về đâu ? ?
Quê Hương khuất bóng hoàng hôn,
Xa trông khói sóng cho buồn lòng ai !
Tản Đà
Ta. Quang Trung
Hội Ngƣời Việt Richmond 61 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Bên Thắng Cuộc
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2012-12-13
“ ên thắng cuộc” là cuốn sách đang gây
sôi nổi cho cƣ dân mạng cả trong và
ngoài nuớc. Quyển sách đƣợc viết bởi
nhà báo Huy Đức, ngƣời nổi tiếng với
trang blog Osin với những bài ch nh luận
độc đáo có số ngƣời đọc rất cao.
Amazon phát hành chính thức
Sau ba năm mài miệt, “ ên thắng cuộc”
ch nh thức ra đời vào ngày 12 tháng 12
vừa qua với hai cách: sách in do ch nh tác
giả xuất bản và sách điện tử do Amazon
phát hành dƣới hình thức Kindle.
ó lẽ đây là lần đầu tiên một nhà văn
Việt Nam có lƣợng sách bán trên hệ
thống Amazon qua hình thức sách điện
tử. Sự đột phá này có ý nghĩa quan trọng
cho những ngòi viết đang bị cho là có vấn
đề tại Việt Nam, từ nay họ có thể lập ra
kế hoạch cho cuốn sách sắp tới phát hành
một cách rộng khắp nhƣng lại không hề
bị lƣỡi kéo kiểm duyệt gây rắc rối. Huy
Đức là nguời đầu tiên và chắc chắn
không phải là cuối cùng tận dụng lợi thế
khoa học kỹ thuật này.
“ ên thắng cuộc” vừa ra đời một ngày đã
tạo tiếng vang lớn khi nhiều tiếng nói uy
t n giới thiệu nó một cách trân trọng,
trong đó có bài viết của Giáo sƣ Trần
Hữu Dũng, hiện giảng dạy tại đại học
Wright thuộc tiểu bang Ohio Hoa Kỳ. GS
Dũng cũng là chủ website Viet-Studies
có luợng ngƣời vào xem rất lớn. hia sẻ
với chúng tôi về cuốn sách ông cho biết:
Hãy xem cuốn sách này như một nguồn tài liệu vì vậy nó rất tốt chứ không phải một cuốn viết về sử theo như cách hàn lâm. GS Trần Hữu Dũng
―Tôi thấy cuốn sách có rất nhiều chi tiết
và thông tin nào cũng hay cả! Nhưng nếu
đưa cho người khác đọc thì có thể họ lại
cho rằng cuốn sách này không phân tích
tổng quan nên những học giả hàn lâm họ
sẽ chê cuốn sách chỗ đó. Đối với tôi thì
chuyện ấy sau này Huy Đức có thể làm
được, viết một cuốn sách riêng để phân
tích những sự kiện nào đáng nhất.
Có nhiều anh em cũng cho rằng Huy Đức
nên viết lại, chia các chi tiết ra thì cuốn
sách sẽ hay hơn. Nhưng muốn làm như
vậy thì phải nhiều năm nữa mà Huy Đức
không có thời gian. Cuốn sách phải ra
liền không thể trễ hơn nữa. Hãy xem
cuốn sách này như một nguồn tài liệu vì
vậy nó rất tốt chứ không phải một cuốn
viết về sử theo như cách hàn lâm.
Có một điều rất hay, đó là tôi hỏi Huy
Đức, khi Huy Đức phỏng vấn những
người trong cuốn sách này thì họ có biết
rằng Huy Đức viết sách hay không? Huy
Đức nói là biết! Thành ra tôi không hiểu
tại sao mà họ tin cẩn Huy Đức để mà nói
những điều như vậy trong khi biết rằng
Huy Đức dùng những lời nói của họ để
viết sách? Huy Đức rất cẩn thận và đức
tính này rất hay.‖
Hội Ngƣời Việt Richmond 62 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Ba muơi tháng tƣ
“ ên thắng cuộc” có thể nói là một cẩm
nang cho những ai muốn biết về các sự
kiện xảy ra tại Việt Nam sau ngày 30
tháng 4 tới nay. Tác giả đã bỏ công hàng
chục năm để phỏng vấn hàng trăm ngƣời
trong cuộc. Tác giả cũng sử dụng tƣ liệu
từ nhiều nguồn trong đó chủ yếu là các
hồi ký của những ngƣời có d nh đến cuộc
chiến tranh Việt Nam hay tham gia vào
guồng máy ch nh trị của chế độ hiện nay.
Điều quan trọng nhất mà Huy Đức có
đƣợc nhƣng nhiều nhà báo khác không có
đó là vào năm 2005-2006 anh đƣợc sang
Mỹ du học tại tiểu bang Maryland và
phỏng vấn hàng trăm ngƣời khác để kết
nối với những điều anh đã thu thập từ
trong nƣớc.
Lƣợng thông tin kếch xù này đƣợc Huy
Đức xử lý một cách khôn ngoan qua bút
pháp chừng mực, dẫn ngƣời đọc tới cánh
cửa b ẩn mà ngƣời ta tin rằng trong thế
giới cộng sản khó có ngƣời thứ hai làm
đƣợc nhƣ anh.
Nhà báo Huy Đức, ảnh chụp trƣớc đây.
Huy Đức không phải là một nhà viết sử
vì vậy “ ên thắng cuộc” không thể là
một cuốn sách lịch sử theo lối hàn lâm.
Mặc dù vậy nó vẫn có thể dùng vào việc
tra cứu sự kiện lịch sử xảy ra trong nhiều
năm nhất là giai đoạn sau ngày 30 tháng
4. Mức độ ch nh xác và khả t n của “ ên
thắng cuộc” có thể làm ngƣời sử dụng nó
yên tâm vì nhân chứng hầu hết đều còn
sống và họ sẵn sàng chịu trách nhiệm
những gì họ cung cấp.
ắt đầu bằng chƣơng 30 tháng 4, Huy
Đức lần luợt mang ra ánh sáng những câu
trả lời về trại cải tạo, đánh tƣ sản, đổi
tiền, rồi vƣợt biên, nạn kiều cũng nhƣ các
cuộc chiến tranh khác sau năm 1975.
Những góc cạnh Huy Đức đƣa ra so với
kinh nghiệm của hàng triệu ngƣời từng
sống và chịu sự dày xéo, sai lầm của chế
độ vẫn còn nguyên những yếu tố hấp dẫn
bởi anh đào sâu chi tiết từng mảng đời,
hoàn cảnh nhƣ một tác phẩm văn chƣơng
để từ đó ngƣời đọc cảm thấy nhƣ đọc lại
chính mình.
ên cạnh các vấn đề kinh tế ch nh trị,
Huy Đức khéo léo lồng vào những mối
tình có thật, bị chà đạp, ngăn trở do ý
thức hệ hay lý lịch khiến “ ên thắng
cuộc” trở nên đa dạng và sống động hơn
rất nhiều so với loại sách khô khan chỉ
viết và bình về các biến cố lịch sử.
Quen biết nhiều quan chức cao cấp của
ch nh phủ qua những lần tác nghiệp cộng
với mối xã giao rất rộng khiến Huy Đức
có cái nhìn bao quát xã hội và anh mang
hơi thở đậm đặc mồ hôi ấy vào tác phẩm
khiến những biến cố lớn đều có chất
ngƣời, chất thời sự báo ch qua từng trang
viết của anh.
Tự sát hay Tuẫn tiết?
Huy Đức tập hợp dữ kiện và phân phối
chúng một cách thông minh khiến ngƣời
đọc không có thời gian bỏ cuốn sách
xuống để làm việc gì khác. ên cạnh đó,
điểm Huy Đức thuyết phục ngƣời đọc
nhất là tâm thức nhân bản của anh.
Hội Ngƣời Việt Richmond 63 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Ngƣời ta không lạ gì các bài viết mang
t nh “lịch sử” lại chỉ kể về những thất bại
của đối phƣơng và xem những ngƣời l nh
ph a bên kia là kẻ thù, kể cả khi họ đã
buông vũ kh để trở về với làng mạc,
đồng lúa Việt Nam. Sự quen thuộc ấy
không đƣợc lập lại trong “ ên thắng
cuộc”, Huy Đức nhìn ngƣời l nh cả hai
bên trƣớc nhất là những con ngƣời, mọi
dị biệt về t nh tình hay cách ứng xử đều
thuộc về cá nhân để từ đó anh thật sự
sống cùng và nghiền ngẫm từng trƣờng
hợp xảy ra để viết.
Nhiều người không biết một cách chắc chắn điều gì đã thực sự xảy ra thậm chí với ngay chính cha mẹ mình. Huy Đức
Trong chƣơng 1, a mƣơi Tháng Tƣ,
Huy Đức đặt một tiểu tựa khiến ngƣời
đọc ngỡ ngàng. Họ ngỡ ngàng vì biết tác
giả là ngƣời trƣởng thành từ bên kia
nhƣng dùng hai chữ Tuẫn Tiết đặt cho
câu chuyện của các tƣớng lãnh bên này tự
kết liễu đời mình trong ngày chế độ sụp
đổ.
ác tƣớng lãnh nhƣ Lê Văn Hƣng,
Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê
Nguyên Vỹ hay Đại tá Đặng Sĩ Vinh lần
lƣợt kết liễu đời mình trƣớc sự chứng
kiến của thuộc hạ hay vợ con dƣới cái
nhìn của Huy Đức là một sự tuẫn tiết.
Những ngƣời chấp nhận kết liễu đời mình
nhƣ thế chỉ có thể dùng hai chữ “tuẫn
tiết” chứ không thể có từ nào hay hơn.
Một điểm quan trọng nữa, Huy Đức viết:
―Nhưng đấy vẫn chưa phải là những phát
súng cuối cùng của cuộc chiến tranh.
Nhiều quân nhân vô danh vẫn tìm đến cái
chết trong những ngày sau đó‖.
Trong “ ên thắng cuộc” ngƣời đọc tại
Việt Nam, nhất là những bạn trẻ sẽ phát
hiện ra nhiều nhân vật đang sống chung
quanh mình đã và đang đi vào lịch sử,
mặc dù không chắc hình ảnh của họ là
sáng hay tối.
Ông Hồ Ngọc Nhuận là một trong những
ngƣời nhƣ thế.
Những khuôn mặt lịch sử
Huy Đức kề lại cuộc trao đổi giữa dân
biểu Hồ Ngọc Nhuận và Đại tƣớng
Dƣơng Văn Minh trƣớc giờ Sài Gòn thất
thủ. âu chuyện có thể do ch nh ông
Nhuận kể lại bởi ông thuộc thành phần
thứ ba, vẫn sống và mới đây xuất hiện tại
Sài gòn lên tiếng trong việc biểu tình
chống Trung Quốc.
“ ên thắng cuộc” phiên bản Kindle bán
trên trang web Amazon. Screen capture.
Hình ảnh ông Hồ Ngọc Nhuận sống động
trên các trang mạng khiến câu chuyện của
Huy Đức kể đậm đặc thêm t nh thời sự.
Nó rất khác với những trang sử cố vẽ lại
sự kiện nhƣng thiếu ngƣời ngồi mẫu. âu
chuyện của Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận,
Đặng Đình Đầu, Huỳnh á Thành cùng
hàng trăm ngƣời khác đã làm cho cuốn
sách có lực hút của một hành tinh.
Một nhân vật khác nổi bật lên trong Đảng
ộng sản Việt Nam là Tổng b thƣ Lê
Hội Ngƣời Việt Richmond 64 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Duẩn. Huy Đức đã lặn lội không biết bao
nhiêu cây số để theo dõi từng bƣớc chân
của ông từ Nam ra ắc cũng nhƣ các
nƣớc cộng sản anh em. Mỗi một sự kiện,
Huy Đức tìm đến một nguồn khả t n để
mang ra công luận những gì chƣa biết
hay chƣa trọn vẹn về nhân vật này.
Theo Huy Đức thì Lê Duẩn rất ghét
Trung Quốc. ác vụ đi đêm với Mỹ đã
khiến ông này nổi giận và trở nên gay gắt
thẳng thừng với hu Ân Lai, trách móc
họ hu đã phản bội Việt Nam. Lê Duẩn
cũng là ngƣời có đôi tai tình báo thính
nhƣ tai thợ săn trong đêm tối. Ông từng
nói với vợ là Hoa Kỳ hứa với Trung
Quốc sẽ không động tĩnh gì nếu ắc
Kinh tấn công Hoàng Sa, khi ấy còn
trong sự kiểm soát của ch nh phủ Sài
Gòn.
Vậy mà Lê Duẩn vẫn không thoát nỗi cái
bẫy mềm mại của Trung Quốc, đó là
những đồng tiền viện trợ đánh Mỹ nhiều
đến nỗi sau khi chiến thắng vẫn còn lại
50 triệu Mỹ kim trong két của 29 và 51
triệu Mỹ kim khác của chiến trƣờng 2
và Khu 5 vẫn chƣa xài tới.
Nếu câu chuyện của Tổng b thƣ Lê Duẩn
là thâm cung b sử thì ông hàm ngoại
giao năm 1958 do Phạm Văn Đồng ký
phải thuộc trách nhiệm của nhiều ngƣời,
trong đó có ông Hồ h Minh và an
thƣ Trung ƣơng Đảng. Trách nhiệm này
không thể quy cho một mình Thủ tƣớng
Đồng khi bên cạnh ông còn quá nhiều
ngƣời có khả năng lũng đoạn một ngƣời
hay một nhóm.
Phƣơng án II
Trong chƣơng Nạn kiều, Huy Đức góp
phần bạch hóa câu chuyện tổ chức cho
Hoa kiều vƣợt biên để gom vàng của nhà
nƣớc. Dẫn lời ông Nguyễn Đăng Trừng,
phó Phòng chống phản động bành trƣớng
bá quyền, Phƣơng án II là tên gọi của tổ
chức cho Hoa Kiều Vƣợt biên nhằm đƣa
“đối tƣợng ra khỏi điểm nóng”. Đối
tƣợng là ngƣời Hoa, điểm nóng là cuộc
chiến tranh biên giới với Trung Quốc gần
kề. iết bao nhiêu thảm cảnh đã xảy ra
trong cái gọi là Phƣơng án II này. Huy
Đức ghi lại hoàn cảnh của các nạn nhân
Hoa lẫn Việt qua các câu chuyện có thực
của ngƣời kể.
Nhưng đấy vẫn chưa phải là những phát súng cuối cùng của cuộc chiến tranh. Nhiều quân nhân vô danh vẫn tìm đến cái chết trong những ngày sau đó. Huy Đức
“ ên thắng cuộc” ghi lại: ―Người di tản
được đóng vàng để công an mua thuyền
hoặc đóng thuyền cho đi mà không sợ bị
bắt hay gây khó khăn. Việc thực hiện
Phương án II chỉ do ba người là bí thư,
chủ tịch và giám đốc công an tỉnh quyết
định. Công an được giao làm nhiệm vụ
đứng ra thu vàng và tổ chức cho người di
tản‖.
Gấp cuốn sách lại là một chƣơng khác
mở ra trong lòng ngƣời đọc: một thời kỳ
biến động của đất nƣớc đã khuấy động sự
trầm lắng mà nhiều ngƣời muốn quên sau
hơn bốn muơi năm nhọc nhằn, thao thức
cùng dân tộc. Huy Đức đã đốt lên ngọn
lửa trong đêm dài để soi rọi những mất
mát thực sự của đất nƣớc, con ngƣời. Đọc
“ ên thắng cuộc” để biết rằng từng có
những mảnh đời nhƣ thế. Họ bị bạc đãi,
bị vùi dập và tâm hồn họ rách rƣới tả tơi
ngay cả khi đƣợc sống và định cƣ ở nƣớc
ngoài.
Trong lời nói đầu, Huy Đức chia sẻ:
―Rất nhiều thế hệ, kể cả con em của
những người đã từng phục vụ trong chế
Hội Ngƣời Việt Richmond 65 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
độ Việt Nam Cộng hòa, sau ngày 30-4-
1975 đã trở thành sản phẩm của nền giáo
dục xã hội chủ nghĩa. Nhiều người không
biết một cách chắc chắn điều gì đã thực
sự xảy ra thậm chí với ngay chính cha mẹ
mình.
Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ kể lại
những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt
Nam sau ngày 30-4: cải tạo, đánh tư sản,
đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về
hai cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970,
một với Khmer Đỏ và một với người
Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói
về làn sóng vượt biên sau năm 1975, và
về sự ―đồng khởi‖ của nông dân, của các
tiểu chủ, tiểu thương để dành lấy cái
quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.
Đây là công trình của một nhà báo mong
mỏi đi tìm sự thật.‖
Vì khao khát tìm kiếm sự thật nên “ ên
thắng cuộc” không thể xuất hiện công
khai tại Việt Nam. Thực tế cho thấy nó
đang lƣu lạc trên khắp thế giới tới nơi
nào có ngƣời anh em của nó. “ ên thắng
cuộc” sẽ mãi mãi đứng ngoài mảnh đất
mà nó yêu thƣơng để mỗi đêm thủ thỉ bên
tai ngƣời đọc những câu chuyện đắng
lòng về một đất nuớc liên tục gặp bi kịch
trong các cuộc chiến mà căn cƣớc kẻ
chiến thắng vẫn rất mù mờ.
ó một điều chắc chắn rằng mặc dù Việt
Nam có rất nhiều giải thƣởng đƣợc cho là
cao quý để trao tặng những cuốn sách
độc đáo, thế nhƣng không giải thuởng
nào đủ giá trị để trao cho “ ên thắng
cuộc”.
Vì nó quá lớn.
Và chứa đầy máu cũng nhƣ nƣớc mắt của
toàn dân tộc.
“Bên Thắng Cuộc”:
Một Nửa Sự Thật
Của Tấn Bi Kịch Lớn Sơn Tùng
Hiếm khi thấy trong cộng đồng ngƣời
Việt hải ngoại có một cuốn sách đƣợc ra
mắt ồn ào và đƣợc nhiều ngƣời chú ý,
bàn tán nhƣ cuốn Bên Thắng Cuộc trong
mấy tuần nay.
Bên Thắng Cuộc là một cuốn biên khảo
bên lề lịch sử của tác giả Huy Đức gồm
hai tập, tập I (Giải Phóng) gồm 11
chƣơng với những câu chuyện về biến cố
30.4.1975 và tiếp theo sau đó qua cái
nhìn của một ngƣời ở “bên thắng cuộc”.
Tâp II chƣa xuất bản.
Theo ch nh lời tác giả thì ông là “một cậu
bé mƣời ba” ở miền ắc khi miền Nam
“đƣợc giải phóng” năm 1975, năm 1983
có một năm huấn luyện ở Sài Gòn trƣớc
khi đƣợc đƣa tới ampuchia làm “chuyên
gia quân sự”, từng là phóng viên của báo
Tuổi Trẻ, hiện đang du học ở oston,
Hoa Kỳ.
Trong “Mấy lời của tác giả”, ông Huy
Đức mở đầu bằng câu: “Không ai có thể
đi tới tƣơng lai một cách vững chắc nếu
Hội Ngƣời Việt Richmond 66 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
không hiểu trung thực về quá khứ, nhất là
một quá khứ mà chúng ta can dự và có
phần cộng đồng trách nhiệm”, và đƣợc
kết luận nhƣ sau: “Đây là công trình của
một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật.
Tuy tác giả có những cơ hội quý giá để
tiếp cận với các nhân chứng và những
thông tin quan trọng, cuốn sách chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót,
và sẽ còn đƣợc bổ sung khi một số tài
liệu đƣợc Hà Nội công bố. Hy vọng bạn
đọc sẽ giúp tôi hoàn thiện nó trong những
lần xuất bản sau. Lịch sử cần đƣợc biết
nhƣ nó đã từng xảy ra, và sự thật là một
con đƣờng đòi hỏi chúng ta không bao
giờ bỏ cuộc.”
Trong Bên Thắng Cuộc, ông Huy Đức đã
viết ra nhiều sự thật, khởi đi từ cột mốc
ngày 30.4.1975. Trừ những sai lầm đang
đƣợc một số ngƣời vạch ra, những điều
tác giả nói đến không có gì mới mẻ, và đã
đƣợc nhiều ngƣời viết trƣớc đây, tuy
nhiên, đúng nhƣ ông Huy Đức viết, “tác
giả có những cơ hội quý giá để tiếp cận
với các nhân chứng và những thông tin
quan trọng” mà những ngƣời khác không
có.
Nhƣng đọc hết cuốn sách, tôi có cảm
tƣởng tác giả đã bỏ qua nhiều sự thật
quan trọng khiến cho ngƣời đọc có thể bị
dẫn dắt đến chỗ “không hiểu trung thực
về quá khứ”, hay là chỉ thấy một phần
của lịch sử, không phải là “lịch sử cần
đƣợc biết nhƣ nó đã từng xảy ra”, nhƣ
ch nh lời của ông Huy Đức.
Ông Huy Đức cũng viết “cuốn sách
không tránh khỏi những thiếu sót”. Vâng,
Bên Thắng Cuộc đã có những thiếu sót
quan trọng, vô tình hay cố ý, khiến cuốn
sách của ông trở thành một tập tài liệu
hợp thức hoá việc Đảng ộng sản Việt
Nam vi phạm Hiệp Định Paris 1973, và
làm giảm nhẹ những tội ác của “bên
thắng cuộc” đối với dân tộc Việt Nam,
đặc biệt là đồng bào của ông ở miền
Nam.
Ông Huy Đức đã lấy “Sáng sớm ngày 30-
4-1975” để khởi đầu cuốn sách của ông.
Đây là thiếu sót lớn nhất. Muốn biết lịch
sử “nhƣ nó đã từng xảy ra”, không thể bắt
đầu vụ “giải phóng” từ “sáng sớm ngày
30-4-1975”. Ít nhất thì nó cũng phải khởi
đầu từ Hiệp Định Paris năm 1973 mà
ch nh phủ Việt Nam Dân hủ ộng Hoà
(hay đúng hơn là Đảng ộng sản VN khi
còn đội lốt là Đảng Lao Động) đã long
trọng ký vào để rồi ngay sau đó đã ra
Nghị quyết số 21, và Trung ƣơng ục
miền Nam cũng ban hành Nghị quyết số
12 đồng thanh tuyên bố dùng bạo lực
cách mạng để thống nhất đất nƣớc.
“ ạo lực cách mạng” đƣợc thực thi với
vụ đánh chiếm tỉnh Phƣớc Long vào cuối
năm 1974 và tiếp theo là hiến dịch 275
và hiến dịch Hồ h Minh tiến tới “giải
phóng” toàn miền Nam.
Đã không thể có “sáng sớm ngày 30-4-
1975” nếu không có Hiệp Định Paris
1973 mà miền ắc ( SVN) cam kết tôn
trọng và đã coi nhƣ tờ giấy lộn ngay khi
vừa khô mực. Từ đó tới “sáng sớm ngày
30-4-1975” đã có rất nhiều sự thật diễn ra
trong hậu trƣờng Đảng SVN mà ngƣời
viết sử chân ch nh, lƣơng thiện không thể
bỏ qua.
Hội Ngƣời Việt Richmond 67 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
ũng không thể bỏ qua vụ đánh chiếm
tỉnh Phƣớc Long và sau đó là cao nguyên
và miền Trung khiến hàng triệu thƣờng
dân đã bỏ nhà cửa, ruộng vƣờn “chạy
giặc” đi theo các đoàn quân miền Nam
“di tản chiến thuật” và đã bị “quân giải
phóng” truy k ch, tàn sát khiến đã diễn ra
bao nhiêu thảm cảnh không bút mực nào
tả xiết.
Những gì đã xảy ra tại miền Nam VN từ
khi có Nghị quyết số 21 của “Đảng Lao
Động VN”, xé bỏ Hiệp Định Paris, xua
toàn lực đánh chiếm miền Nam, không có
gì là vinh quang cho “bên thắng cuộc”.
Đó là những sự thật lịch sử phơi bày bản
chất lƣờng gạt, tráo trở, tàn bạo, phi
nghĩa của Đảng ộng sản VN, cũng nhƣ
mọi đảng cộng sản khác trên thế giới.
Đó không phải là “cách mạng” và cũng
không phải là “giải phóng”.
Để tỏ ra “khách quan” và “can đảm”, ông
Huy Đức đã tr ch dẫn một câu đƣợc coi
nhƣ “danh ngôn” in trang trọng làm tiền
đề ở đầu sách: ―Suy cho cùng trong mỗi
cuộc chiến tranh, bên nào thắng thì nhân
dân đều bại‖.
Sự thật, lịch sử đã chứng minh nhân dân
chỉ bại khi bên thắng là bên không có
ch nh nghĩa. Nổi bật nhất là sau trận Thế
hiến II, Hoa Kỳ và các nƣớc Đồng
Minh là bên thắng, trục Đức-Ý-Nhật là
bên thua. Nhân dân ở các nƣớc thắng
cũng nhƣ bại thuộc “Thế giới Tự do” đều
là những ngƣời đƣợc hƣởng phúc lợi của
việc chấm dứt chiến tranh. Nhật và Tây
Đức (hai nƣớc bại trận) đã phát triển
nhanh và mạnh, trở thành hai cƣờng quốc
kinh tế hàng thứ hai và thứ ba thế giới chỉ
sau không đầy hai thập niên. Trong khi
ấy, Liên-bang Sô-viết và các nƣớc Đông
Âu dƣới sự cai trị của các ch nh quyền
cộng sản đắm chìm trong nghèo khổ và
áp bức.
Việt Nam cũng vậy. Trong khi các nƣớc
khác ở Đông Nam Á, cũng bị ngoại thuộc
nhƣ Việt Nam, đƣợc trao trả độc lập mà
không hao tổn, hay hao tổn rất t xƣơng
máu và đã phát triển nhanh chóng dƣới
các thể chế tự do, Việt Nam đã trải qua
hai cuộc chiến tranh khốc liệt trong 30
năm với biết bao đau thƣơng, tàn phá, chỉ
vì những ngƣời cộng sản Việt Nam đem
chủ nghĩa Mác-Lê gắn liền với “kháng
chiến” để đánh Tây và “chống Mỹ-ngụy”.
uối cùng, “bên thắng cuộc” đã đem đến
cho dân tộc Việt Nam những gì mà ông
Huy Đức đã diễn tả một phần trong cuốn
sách nhỏ của ông.
Nếu bên thắng cuộc không phải là miền
ắc mà là miền Nam thì lịch sử có diễn
ra nhƣ trong cuốn sách của Huy Đức hay
không? Để trả lời, chỉ cần nhìn vào cuộc
di cƣ một chiều từ bắc vào nam năm
1954-55 và cảnh ngƣời dân miền Nam bỏ
nhà cửa ruộng vƣờn chạy giặc khi “giải
phóng” xuất hiện, cùng với làn sóng
ngƣời bỏ nƣớc ra đi cho đến nay chƣa
chấm dứt, bằng cách này hay bằng cách
khác.
Phải chăng ông Huy Đức dẫn chứng câu
“danh ngôn” ở đầu sách chỉ để biện hộ
Hội Ngƣời Việt Richmond 68 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
cho những tội ác của Đảng ộng sản
VN?
Những tội ác ấy không phải là những sai
lầm của một vài kẻ nắm quyền sinh sát
trong Đảng CSVN nhƣ ông Huy Đức đã
viết. Những tội ác ấy cũng đã diễn ra ở
bên Tàu, bên Nga, và các nƣớc khác dƣới
sự cai trị của các chế độ cộng sản, cho
đến khi các chế độ chuyên chế phi nghĩa
ấy sụp đổ.
Cuốn sách của ông Huy Đức đóng góp
vào nỗ lực đang diễn ra tại Việt Nam để
sự sụp đổ của chế độ tội ác mau diễn ra,
hay để kéo dài tiến trình gian khổ ấy?
Những ai mơ tƣởng sự “sửa sai” sẽ giúp
cho chế độ cộng sản mang một bộ mặt
nhân bản để tồn tại đều là những ngƣời
không “hiểu trung thực về quá khứ”,
không thuộc những bài học lịch sử. Nếu
một chế độ cộng sản có thể “đổi mới” để
tồn tại thì Liên-sô và các chƣ hầu Đông
Âu, các bậc thầy và đàn anh của Cộng
sản Việt Nam, đã không sụp đổ. Đúng
nhƣ nhà văn Nga Alexander Solzhenitsyn
đã nói: ―Cộng sản không thể sửa đổi, chỉ
có chết‖.
Và không gì có thể ngăn chặn đƣợc tiến
trình sụp đổ của một chế độ cộng sản.
Chỉ có sớm hay muộn. Đổ máu hay
không đổ máu.
Đọc hết cuốn sách của ông Huy Đức, tôi
bỗng nhớ tới bộ phim The Century của
Peter Jennings năm 2000, một tài liệu
truyền hình lịch sử trên đài ABC về
những biến cố lớn trong Thế kỷ 20, trong
đó có tập The Fall (thời lƣợng một giờ)
nói về ngày 30.4.1975 tại Việt Nam. Để
tỏ ra khách quan và trung thực, khi lập dự
án thực hiện cuốn The Fall, những phụ tá
của Peter Jennings đã thảo ra một danh
sách 29 ngƣời Việt Nam ở hải ngoại để
tiếp xúc và phỏng vấn thu hình nhƣ
những nhân chứng về phiá miền Nam
VN, gồm nhiều sĩ quan các cấp và ngành
nghề khác nhau, từ cựu Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu trở xuống. Ông Thiệu
từ chối phỏng vấn, có lẽ không tin vào sự
trung thực của truyền thông Mỹ, nhƣng
một số ngƣời đã nhận lời hợp tác, trong
đó có Tƣớng Phạm Duy Tất, ngƣời đã chỉ
huy cuộc triệt thoái của Quân đoàn II
khỏi cao nguyên năm 1975 và ông đã uất
ức ứa nƣớc mắt khi thuật lại những gì đã
diễn ra. Nhƣng khi cuốn The Fall đƣợc
chiếu trên ABC, cuộc phỏng vấn này
cũng nhƣ các cuộc phỏng vấn những
nhân vật Nam VN khác đã bị loại bỏ, chỉ
thấy ông Nguyễn Ngọc Ngạn, một sĩ
quan cấp nhỏ vào năm 1975, xuất hiện
với câu chuyện hợp với ý muốn của Peter
Jennings: ngồi chờ không thấy ngƣời Mỹ
tới cứu nên vứt súng xuống giếng và tìm
đƣờng di tản.
Peter Jennings đã chỉ cho khán giả xem
một phần sự thật về lịch sử ngày
30.4.1975 tại Việt Nam, phần hợp với ý
muốn của ông ta.
―Một nửa cái bánh là bánh, nhưng một
nửa sự thật không phải là sự thật.‖
Có lẽ ông Huy Đức cũng biết rõ câu này.
Sơn Tùng Virginia, ngày cuối năm 2012
Hội Ngƣời Việt Richmond 69 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Áo Tiểu Thơ
Làn môi ánh mắt áo tiểu thơ
Là nỗi đam mê tuổi dại khờ
Của ngày thơ thẩn đêm thao thức
Cho một cuộc tình chỉ trong mơ
Mơ áo tiểu thơ dưới nắng trong
Áo mát hồn tôi, nắng ấm lòng
Một thoáng mắt xanh đời dậy sóng
Một chút môi cười thoả ước mong
Mong có một ngày em đến chơi
Cùng tôi tìm đến chốn xa vời
Lãng quên hai mảnh đời ngang trái
Tìm vui trong tiếng hát chơi vơi
Em hát cho tôi bản tình ca
Thay lời tâm sự cuộc tình xa
Tóc ngả môi rung lời say đắm
Như gửi tình qua tiếng ngân nga
Tiếng hát đưa ta đến cuối trời
Nơi loài dã thú sống rong chơi
Sáng vui chân mây chiều đỉnh núi
Đêm ngủ vùi bên tiếng trùng khơi
Ta sẽ thoát ly khỏi đời thường
Băng rừng, lội suối, vượt trùng dương
Ta sẽ đến nơi người chưa đến
Gọi miền hoang dã đất yêu thương
Thế giới tình tôi chẳng có nhiều
Một trời một biển một tình yêu
Em chớ mơ xa và ở lại
Cùng tôi xây giấc mộng hoang liêu
Góc biển chân trời ta bên nhau
Đầy vơi dư vị cuộc tình sau
Hồn nhập hồn trong cơn say ngất
Mình hoà mình trong thú thương đau
...
Em đến không em áo tiểu thơ ?
Hay giết tình tôi trong đợi chờ ?
Ôi đến bao giờ cho tôi hiểu
Em và tất cả chỉ là mơ !
Đỗ Xuân Quang
Hội Ngƣời Việt Richmond 70 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Chào Cô
Dạ Lan Nguyễn Khắp Nơi
LTS. Bài này là bài thứ 3 viết về DẠ LAN của Ký giả Nguyễn Khắp Nơi, đăng trên
Tuần báo Việt Luận ở Sydney, Úc Đại Lợi.
Dạ Lan 1 (Hoàng thị Xuân Lan)
Không phải chỉ mình tôi và riêng anh em
nhà binh ở Öc còn nhớ Dạ Lan, mà là rất
nhiều anh em l nh chiến ở khắp nơi trên
thế giới vẫn còn nhớ cô. Điểm qua làng
báo và websites trên thế giới, từ khi tôi
viết bài đầu tiên về Dạ Lan “Lá thư chưa
viết từ chiến trường — Huyền thoại Dạ
Lan“, đã có nhiều ngƣời nói tới Dạ Lan
và hƣơng trình Dạ Lan, tôi tóm tắt nhƣ
sau:
ha đẻ của chƣơng trình Dạ Lan là Đại
Tá Trần Ngọc Huyến. Đại Tá Huyến di
tản sang Hoa Kỳ năm 1975. Ông qua đời
ngày 15 Tháng Mƣời Một, 2004, tại
Houston Texas, hƣởng thọ 80 tuổi.
Sau năm 1963, ĐT Huyến đảm nhiệm
chức vụ Thứ Trƣởng ộ Thông Tin, kiêm
Giám Đốc Nha hiến Tranh Tâm Lý.
Ông có nhiều sáng kiến về cách thức
tuyên truyền và nâng cao tinh thần binh
sĩ, ông đặt ra những chƣơng trình phát
thanh:
* hƣơng trình Gia inh, nhắm vào gia
đình các chiến binh VN H.
* hƣơng trình Đồng Minh Vận, nhắm
vào các chiến sĩ đồng minh và gia đình
của họ.
* hƣơng trình Dạ Lan, nhằm nâng cao
tinh thần các chiến sĩ. Tên của chƣơng
trình phát thanh cho l nh đƣợc đặt là Dạ
Lan, trƣớc khi tìm đƣợc xƣớng ngôn
viên. Kế tục chức vụ quản đốc Đài Quân
Đội là Thiếu Tá Phạm Hậu, tức nhà thơ
Nhất Tuấn. uối cùng, từ năm 1969 cho
đến khi tan hàng, Quản đốc Đài là Trung
Tá Nguyễn Quang Tuyến tức nhà văn
Văn Quang.
Xƣớng ngôn viên đầu tiên của hƣơng
trình Dạ Lan, do một trùng hợp, có tên là
Lan. Mặc dù giọng đọc của cô là giọng
ắc Kỳ thứ thiệt, nhƣng cô ra đời ở
Quảng Nam. Thời đó, năm 1963, cô Lan
làm xƣớng ngôn viên cho Đài Phát thanh
Quân Đội ở Đông Hà, Quảng Trị, phát về
ph a bên kia vĩ tuyến, đài do Nhất Tuấn
và Hà Huyền hi điều khiển. Nhờ giọng
đọc êm ngọt, do Hà Huyền hi hƣớng
dẫn phát âm, cô Lan đƣợc đƣa từ Đông
Hội Ngƣời Việt Richmond 71 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hà về Sài Gòn để nói trong hƣơng trình
Dạ Lan:
Đây là chương trình Dạ Lan, tiếng nói
của những người em gái Hậu Phương,
gởi những anh trai Tiền Tuyến
Những danh từ “Em Gái Hậu Phương”
và “Anh Trai Tiền Tuyến” từ hƣơng
trình Dạ Lan mà ra. ác nhạc sĩ chuyên
viết Nhạc L nh cũng theo đó mà lồng vào
bài hát của mình những danh từ kể trên.
hƣơng trình Dạ Lan phát thanh buổi tối,
từ 7 giờ tới 9 giờ, mỗi ngày, gồm những
mục tin tức, thời sự, điểm báo, văn nghệ
và thƣ t n.
Phần hấp dẫn nhất của hƣơng trình Dạ
Lan là phần Nhạc và Thƣ t n, do Dạ Lan
giới thiệu từng bản nhạc và trả lời từng
bức thƣ của các anh trai tiền tuyến gởi về.
ho đến bây giờ, những lời nói ngọt ngào
của Dạ Lan hầu nhƣ vẫn còn âm vang
trong tiềm thức của nhiều anh trai tiền
tuyến.
hƣơng trình Dạ Lan đƣợc anh em quân
nhân đón nghe, nhất là những anh trai
nào đóng quân ở những tiền đồn hẻo
lánh. Những ngƣời l nh viết thƣ về cho
Dạ Lan nhiều tới nỗi Đài Quân Đội phải
tuyển thêm một số nữ nhân viên để phụ
trách việc đọc và trả lời thƣ của các “anh
tiền tuyến” hằng đêm. Một số thiệp chúc
Tết, chụp hình cô Xuân Lan đƣợc Nha
hiến Tranh Tâm Lý ấn hành để gởi tặng
các chiến sĩ tiền đồn.
Tuy vậy, nhân vật “Em Gái Hậu Phương
Dạ Lan” chƣa bao giờ xuất hiện trên
truyền hình, báo ch hay ngoài đời, mà
chỉ duy nhất có tiếng nói qua làn sóng
điện. ũng ch nh vì thế mà Dạ Lan trở
thành huyền thoại. Sau iến cố 30 tháng
Tƣ, chƣơng trình Dạ Lan không còn nữa,
đa số nhân viên làm việc cho Đài Phát
thanh Quân Đội đuợc di tản. Trong thời
gian đầu ở đất khách quê ngƣời, ai cũng
phải lo cuộc sống. Đến khi cuộc sống tạm
ổn định, mọi ngƣời mới bắt đầu tìm kiếm
nhau. Kiếm tới kiếm lui mới thấy thiêu
thiếu một cái gì đó.
ái gì đó là cái hƣơng trình Dạ Lan mà
hằng đêm chúng ta vẫn thƣờng nghe, dù
ta ở tiền tuyến hay ở hậu phƣơng. Từ đó,
anh em mới đặt câu hỏi: Dạ Lan đâu?
Sau khi bài viết “Lá thư chưa viết từ
chiến trường — Huyền Thoại Dạ Lan”
của tôi đuợc đăng trên Việt Luận và
Vietluanonline, rất nhiều độc giả tiếp xúc
với tôi để cùng tìm Dạ Lan.
Hội Ngƣời Việt Richmond 72 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Một độc giả tìm ra trong website của nhà
văn Hoàng Hải Thủy một bài đề cập tới
Dạ Lan. Ông HHT cho biết, Dạ Lan quen
biết với gia đình ông từ trƣớc 1975, cho
tới khi gia đình ông qua Mỹ vào năm
1995, vợ ông vẫn thƣờng gọi điện thoại
về Sài Gòn nói chuyện với Dạ Lan. hỉ
sau này, vào khoảng 1998, Dạ Lan vì lý
do gì đó, vắng bóng ở Sài Gòn. Ông nói
sẽ nhờ những bạn hữu ở Sài Gòn tìm Dạ
Lan.
Đầu tháng Muời 2008, ông HHT email
cho tôi, báo tin: đã tìm ra Dạ Lan, có địa
chỉ điện thƣ và số điện thoại của Dạ Lan.
Tôi gởi ngay email cho Dạ Lan, kèm theo
bài viết của tôi về cô và buổi tối hôm đó,
vợ chồng tôi hồi hộp gọi điện thoại về
Việt Nam. Tôi gọi hai, ba lần mà vẫn
không đƣợc. Tôi mới nhớ ở Öc mà gọi
điện thoại ra ngoại quốc, phải bỏ đi số 0
đầu tiên của số điện thoại muốn gọi. Tôi
quay số theo cách này. Sau vài giây chờ
đợi, đầu giây nói bên kia có ngƣời trả lời.
Tôi lên tiếng ngay:
- Tôi là Nguyễn Khắp Nơi, ở bên Úc,
muốn nói chuyện với Cô Dạ Lan.
- Thưa anh . . . Dạ Lan đang nghe đây.
- Chào cô Dạ Lan, cô vẫn . . . mạnh khỏe
chứ?
- Cám ơn anh, Dạ Lan vẫn khỏe. Lan
nhận được meo (email) của anh và của
anh Hoàng Hải Thủy. . .Không ngờ đến
nay vẫn còn người nhớ…
Nói đến đây thì Dạ Lan bật lên tiếng
khóc, nhƣng vẫn cố gắng nói tiếp:
- Đến bây giờ mà vẫn còn có người nhớ
Dạ Lan sao?
- Anh em chúng tôi ở bên này vẫn nhớ
Dạ Lan, ngƣời bạn năm xƣa đã nói
chuyện với chúng tôi hằng đêm.
Lan đã đọc đƣợc bài viết của anh, Lan
cảm động quá . . .
Rồi cô lại nghẹn ngào. Vợ tôi ngồi bên
cũng góp phần nƣớc mắt.
- Hơn bốn mươi năm qua rồi.
- Hơn bốn mươi năm rồi, nhưng giọng
nói của Dạ Lan vẫn không có gì thay đổi,
vẫn trong, vẫn . . . như xưa, không khác
gì cả. Cuộc sống của Dạ Lan hiện tại ra
sao? Lý do nào mà cô vẫn còn ở Sài
Gòn?
Dạ Lan cho tôi biết vắn tắt nhƣ sau:
ô họ Hoàng, làm việc với hƣơng trình
Dạ Lan từ ngày đầu tiên vào năm 1963-
1964. Sau đó, vì lý do gia đình, cô đổi về
làm ở Đài Phát thanh Đà Lạt. Tới năm
1968, cô trở lại Sài Gòn, làm việc trong
Đài Phát thanh Sài Gòn. Ngày 30 Tháng
Tƣ 1975 cô là ngƣời phụ nữ cuối cùng
còn ở trong Đài Phát thanh, để cùng một
số anh em khác đốt bỏ những tài liệu cần
phải hủy bỏ. Trƣớc đó, cô đƣợc mời di
tản, nhƣng không hiểu tại sao, cô không
đi.
Hội Ngƣời Việt Richmond 73 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
uộc sống của những ngƣời ở lại, bạn và
tôi, cũng đều đã trải qua: Ai nấy đều lo
cho mạng sống, lo cho miếng ăn hàng
ngày, lo né tránh bắt bớ, rồi cuối cùng là
tù đầy . . . chẳng ai còn có bụng dạ nào
mà tìm ai, kiếm ai. Sau đó, ngƣời thì bị tù
đầy, ngƣời thì vƣợt biên ra ngoại quốc,
ngƣời thì bôn ba ngƣợc xuôi tìm sống, cố
gắng tìm đƣờng vƣợt biên.
uộc sống của Dạ Lan đầy những điều
mà cô cho là không đƣợc nhƣ mong ƣớc.
ho đến bây giờ, cô vẫn là một ngƣời
đàn bà độc thân. ô có một ngƣời con
gái, nay con cô đã yên bề gia thất ở Pháp,
còn cô thì vẫn độc thân, vẫn một mình
một bóng, không nhà không cửa, không
thân nhân.
Dạ Lan đang ở . . . chùa.
hùa đây có đầy đủ ý nghĩa của nó: ô ở
trong một ngôi chùa ở vùng ngoại ô đèn
vàng. ô làm công việc từ thiện cho
chùa, do đó, cô ăn ở ngay tại đây. . .
không phải trả tiền, tức là . . . ăn ở chùa.
ô không mặc áo cà sa, cô vui với cuộc
sống hiện tại.
Dạ Lan ngày nay nhƣ vậy hay sao?
Ngƣời em gái ngày xƣa đem tiếng nói
của mình để tâm sự, an ủi những anh trai
tiền tuyến, những ngƣời vợ hiền đang chờ
chồng trở về, bây giờ sống một cuộc sống
cô độc nhƣ vậy hay sao? Ngày xƣa, cô an
ủi mọi ngƣời đang ở những chốn cô đơn,
mƣa gió, đạn bay súng nổ. Ngày nay,
ngƣời em gái hậu phƣơng sống cô đơn
hiu quạnh, có ai biết tới cô để an ủi cô
hay không?
húng ta thật sự có còn nhớ đến Dạ Lan
hay không?
Dạ Lan cho biết, cô hàng ngày đi làm
việc thiện nguyện. Nhà chùa quyên đƣợc
cái màn, tấm chăn, ký gạo, manh áo, thì
cô và những ngƣời thiện nguyện khác
chất những món quà này lên xe, lái tới
tận nơi có những ngƣời cần dùng mà phát
cho họ. Rừng nào cô cũng băng, suối nào
cô cũng lội, làng xã xa xôi tới đâu, chiếc
xe từ thiện của cô cũng lăn bánh tới. ô
nói đi nhƣ vậy, tuy cực mà vui, vì mình
đem lại niềm vui cho đồng bào.
Tâm nguyện của Dạ Lan là nhƣ vậy!
Ngày xƣa, cô đem lại niềm vui cho mọi
ngƣời, đối tƣợng của cô lúc đó là những
chàng trai chiến tuyến, nay cô cũng làm
công việc đó, chỉ khác đi cái đối tƣợng
làm việc của cô mà thôi. Đối tƣợng ngày
nay của cô là những ngƣời nghèo đói,
nghèo hơn cô, đói hơn cô. Tƣơng lai của
Dạ Lan ra sao?
Dạ Lan trả lời:
- Lan cũng không biết! Danh sách những
nơi bị hỏa hoạn, lụt, hạn hán . . . còn rất
nhiều, chương trình của nhóm cứu trợ
trên lịch kéo dài cả mấy tháng trời nữa.
Lan chỉ mong có sức khỏe, để giúp đỡ
mọi người. Cũng có thể một ngày nào đó,
Lan sẽ . . . mặc áo tu hành! Biết đâu
được! Cám ơn các anh còn nghĩ đến Dạ
Lan.
Hội Ngƣời Việt Richmond 74 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Nếu tôi ở trong hoàn cảnh của Dạ Lan,
tôi sẽ làm gì? Tôi cũng chẳng biết nữa.
Nếu bạn ở trong hoàn cảnh của Dạ Lan,
bạn sẽ làm gì? ố tìm cho ra ngƣời bạn
quý năm xƣa. Tìm đƣợc bạn rồi, chúng ta
làm gì bây giờ? Tôi cũng chẳng biết tôi
phải làm gì nữa? hỉ biết rằng ngƣời bạn
năm xƣa của chúng ta đang ở tình trạng
cô đơn, đang cần sự an ủi của những
ngƣời mà năm xƣa, cô đã từng an ủi họ.
- Chúng tôi, những người bạn của Dạ
Lan, muốn giúp đỡ Dạ Lan, chúng tôi
phải làm sao bây giờ?
Dạ Lan nói:
- Nhớ tới nhau thì hỏi thăm nhau là được
rồi! Lan cũng nhớ tới các anh lắm, đi
đâu, nhìn thấy những gì còn lại từ năm
xưa, cũng làm cho Lan nhớ lại thời gian
đẹp của những ngày Chương trình Dạ
Lan. Có nhũng lúc buồn tủi, chỉ khóc một
mình. Cuộc sống của Lan bây giờ rất là
đơn giản. Phải nói như thế này: Cần thì
Dạ Lan cần nhiều thứ lắm, nhưng rồi lại
chẳng biết mình cần gì! Muốn nói chuyện
với Lan, thì phải đợi khi nào Lan không
đi cứu trợ, về lại nhà chùa. Lúc trước,
Lan có một cái Laptop, thỉnh thoảng vào
Net liên lạc với bạn, nhưng đi rừng, đi
núi, cái Laptop mất lúc nào, mất ở đâu
không biết, Lan đang dành tiền để mua
cái khác, nhưng chắc còn lâu lắm mới có.
Nay mỗi lần muốn liên lạc Internet, Lan
phải ra phố, vào Internet cafe, nên cũng
khá bất tiện. Thôi thì, nếu ai có muốn liên
lạc với Lan, anh cứ nhận dùm, khi nào
tiện thì chuyển cho Lan.
Tôi có viết Dạ Lan chỉ làm với Đài Phát
thanh Quân Đội tới năm 1966 thôi. Vậy
thì ai tiếp tục mà chúng ta vẫn nghe
hƣơng trình Dạ Lan hằng đêm?
Ngƣời tiếp tục hƣơng trình Dạ Lan,
cũng do một sự tình cờ, có tên thật là
Lan, Hồng Phƣơng Lan, tức Mỹ Linh.
Lúc đó, cô Mỹ Linh đang làm việc cho
Đài Phát thanh Quân Đội, ở hƣơng trình
Nhạc Ngoại Quốc yêu cầu. ô là ngƣời
ắc, vì cô có giọng nói giống hệt nhƣ
giọng cô Xuân Lan, nên cô đƣợc chọn để
tiếp tục hƣơng trình Dạ Lan mà không
ai biết cả, ai cũng tƣởng chỉ có một Dạ
Lan.
Mỹ Linh tiếp tục nói trong hƣơng trình
Dạ Lan tới ngày 29 Tháng Tƣ 1975 thì di
tản sang Hoa Kỳ. ô có tham gia nhiều
chƣơng trình cộng đồng và đã giới thiệu
Nhạc cho băng Nhạc Hoàng Oanh 2
“Thương Người Chiến Sĩ.”
Nguyễn Khắp Nơi
Hội Ngƣời Việt Richmond 75 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Em Là Con Gái
Trời Bắt Xấu LS. Ngô Tằng Giao
Hình nhƣ Đà Lạt là nơi hội tụ của mọi
thƣơng nhớ trong cuộc đời và dang dở
trong cuộc tình, của chia ly và ngăn cách
kể từ lúc tóc hãy còn xanh cho đến khi đã
ngả màu. Kể sao cho hết. hỉ tạm nêu ra
ở đây tâm sự của một cựu nữ sinh ùi
Thị Xuân, đó là LỆ KHÁNH (Dƣơng Thị
Khánh). Đà Lạt một thời ấp ủ những vần
thơ của KHÁNH, cho đến năm 1966 đã
có bảy tập thơ đƣợc in ra, mà năm tập
đầu đều mang tên là “Em là con gái Trời
bắt xấu”.
LỆ KHÁNH yêu và bi lụy vì tình. Trong
bài “Hờn dỗi” những vần thơ của “cô bé
cao nguyên” nghe dễ thƣơng nhƣng thật
buồn:
―Đã ba ngày em đợi thư anh đó
Thứ năm buồn úp mặt khóc biết không?
Em giận anh, tức quá muốn lấy chồng
Cho xong chuyện để đừng thương với
nhớ
Anh kiêu lắm cứ tưởng mình mũ đỏ
Đại úy ―to‖ rồi quên con bé Cao Nguyên
Đang chờ thư anh, viết mãi một tên
Tên anh đó, người chi lười rứa đó‖…
―Em nhất định mai không thèm trông
ngóng
Đại úy... gì lười hơn hủi nữa cơ
Ba ngày rồi con bé chả làm thơ
Tức rứa đó, để bi chừ em lại khóc.‖
Hồn thơ của LỆ KHÁNH đắm chìm
trong sƣơng mù Đà Lạt và dâng tràn
thành kỷ niệm với bài: “Hai mùa Thu Đà
Lạt”:
―Bây giờ trời vào thu
nên em buồn thương nhớ
Đà Lạt sáng sương mù
Mimosa vàng nở.
Thôi anh đừng giận nữa
nhớ về thăm em nhé
lá ngập tràn đại lộ
chờ anh về. Em kể
Hai mùa thu Đà Lạt
trời mưa rưng rưng hoài
ân tình em mất mát
nhưng nào đâu trách ai
Bây giờ trời vào thu
cho em nhiều kỷ niệm
mình quen nhau ngày xưa
chừ xa rồi lưu luyến.‖
LỆ KHÁNH viết “ hiến y làm đẹp phố
phƣờng”, một bài thơ đẹp, gợi nhớ tới
cảnh dạo phố ngày cuối tuần nơi xứ
sƣơng mù:
―Trời hôm nay nắng buồn hong gió thổi
Chiến y về làm đẹp phố cao nguyên
Em lặng nhìn, mang chua xót làm riêng
Rưng rức nhớ... em gượng cười quên cả?
Chiến y đó nhưng chỉ toàn xa lạ
Em cúi đầu nước mắt nhẹ vương mi
Áo cưới ngày nào... bạn cũ vu quy
Nên áo chiến người yêu xa vắng phố
Vui hạnh phúc họ quên em gái nhỏ?
Hội Ngƣời Việt Richmond 76 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hay dỗi hờn, hay khóc giận vu vơ
Tình đơn phương cô bé sớm làm thơ
Và khôn lớn khi tuổi đời chưa lớn
Trời hôm nay bướm buồn bay lởn vởn
Bướm đùa hoa, hoa cợt bướm... vui
chưa?
Em nghĩ mình, em thẹn với hồn thơ
Thơ vẫn đẹp, sao hồn em chẳng đẹp
Áo muôn sắc giữa phố phường khép nép
Chiến y về làm hồng má hây hây
Mắt đa tình gợn suối tóc bay bay
Alpha đỏ đẹp màu môi con gái
Em kỷ niệm với mía đường tình ái
Nên độc hành tìm áo chiến ngày xưa
Để đem về ướp trọn mấy vần thơ
Thơ nhè nhẹ gửi người trai lính chiến
Đêm dừng quân có bao giờ anh biết
Có một người em gái nhỏ thương anh
Luôn nguyện cầu đất nước thôi chiến
tranh
Ngày trở lại, có tình em đón đợi
Hôm nay gió, hoa anh đào phất phới
Có một người ―thi sĩ nhỏ‖ cô đơn
Gọi tên anh... một tiếng gọi rất buồn:
―Người biên ải có thương người hậu
tuyến?‖
Trời Đà Lạt hôm nay nhiều áo chiến
Áo chiến mùa đông pha màu đỏ alpha
Em nhớ anh nên nước mắt em nhòa
Song gạt vội: ―Bụi đường bay ác quá!‖
HÀNG NGỌ HÂN một ngƣời bạn thân
học cùng trƣờng, ghi lại những kỷ niệm
với Lệ Khánh tại Đà Lạt một thời:
“Lệ Khánh hơn tôi hai tuổi và học trên
lớp tôi. Tuy không cùng chung lớp,
nhƣng chúng tôi thành bạn thân vì
thƣờng gặp nhau trong những sinh hoạt
văn nghệ, xã hội của trƣờng. Thuở đó,
Khánh đã có nhiều bài thơ đăng trên các
báo và đƣợc nhiều ngƣời biết tên. Trƣớc
mắt tôi, Khánh mang tầm vóc khác hẳn
bạn bè, dù hàng ngày Khánh vẫn xuất
hiện bên cạnh chúng tôi trong bộ đồng
phục khi xanh, lúc trắng. Nhƣng, tôi cũng
nhƣ các bạn khác đều mang chung cảm
giác thƣơng cảm Khánh vì cái điều mà
Khánh luôn nhắc đến: Khánh không có
dung nhan bình thƣờng nhƣ các bạn. Dù
tất cả chúng tôi đều thấy Khánh có đôi
mắt đẹp tuyệt vời, nhƣng Khánh không
coi đó là một ƣu điểm trong dung nhan
của mình, vì cái hình dạng bất thƣờng
của chiếc mũi. Mặc cảm này về sau đã
đem lại một tai họa khi Khánh quyết định
tới một thẩm mỹ viện sửa mũi. Hy vọng
của Khánh đặt vào bàn tay tài hoa của vị
bác sĩ thẩm mỹ đã không đƣợc đáp ứng
mà còn khiến cái mũi của Khánh trở nên
dị dạng hơn. Nhƣng trƣớc đó, đôi mắt
đẹp tuyệt vời của Khánh luôn nặng trĩu
ánh nhìn u uất, tủi hờn. hất u uất này
cũng thấm đƣợm hơn trong thơ Khánh và
càng làm nặng thêm mặc cảm thua kém
về nhan sắc của Khánh. Một bìa thơ rồi
một tập thơ của Khánh xuất bản đã đƣợc
Khánh đặt cho cái tựa đề: “Em là con gái
trời bắt xấu!”
NGUYỄN THỊ HÀM ANH cũng ghi lại
một số kỷ niệm tại Đà Lạt với Lệ Khánh:
“Lệ Khánh đƣợc số phận ƣu đãi khi bắt
đầu sự nghiệp thơ. ó năng khiếu làm thơ
lƣu loát, từ năm mƣời sáu, mƣời bẩy tuổi,
thơ của chị đã đƣợc đăng trên Văn Nghệ
Tiền Phong rồi sau đó là h nh Luận.
Hội Ngƣời Việt Richmond 77 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Sau khi luật sƣ ùi hánh Thời phụ trách
trang thơ đăng liền một lúc sáu bài thơ
Em Là on Gái Trời ắt Xấu đầu tay thì
Lệ Khánh nổi tiếng ngay lập tức. Ngày
ấy, tên Lệ Khánh đã trở nên quen thuộc
với tôi khi nhỏ bạn học ngồi bên cạnh
nắn nót chép thơ chị vào quyển sổ tay
nhỏ bé xinh xinh hay vào lƣu bút ngày
xanh, vào những tờ giấy pơ-luya màu
xanh nhạt, hồng nhạt, bài nào chép xong
tôi cũng đƣợc đọc qua. Thậm ch trong
một đợt thêu khăn tay, gửi thƣ cho chiến
sĩ ngoài tiền tuyến, nhỏ bạn còn cả gan
chép cả một bài thơ dài của chị nhét vào
giữa xấp thƣ của cả lớp gởi đi…
Thuở ấy cuộc sống của Lệ Khánh thật
hoa mộng, cha coi về cảnh sát đặc biệt
Đà Lạt, chị làm việc ở tòa hành chánh Đà
Lạt rồi hành chánh Gia Định, thơ đăng
khắp báo, danh vọng đến sớm và dễ
dàng, mỗi ngày Lệ Khánh nhận cả trăm
thƣ của độc giả, vũ trƣờng nào cũng đi,
party nào cũng có mặt, quân đoàn nào
cũng mời, chiến trƣờng nào cũng ra. Thế
rồi cuộc tình diễn ra giữa chị với nhạc sĩ
Thục Vũ tức trung tá Vũ Văn Sâm…
uộc tình của Lệ Khánh đẹp bao nhiêu
thì cũng thật chua chát bấy nhiêu:
―Lo yêu người có vợ con
Thì đừng nói chuyện sắt son mà buồn‖
Tình yêu nam nữ đã có từ muôn vạn kiếp
và luôn là một đề tài bất diệt trong vƣờn
hoa văn học nghệ thuật của bất cứ quốc
gia nào. Riêng trong lãnh vực thi ca thì từ
cổ ch kim, từ Đông sang Tây, tình yêu
luôn là nguồn gợi hứng cho các nhà thơ.
Hình nhƣ tình yêu không có tuổi tác,
chừng nào trái tim con ngƣời còn đập thì
con ngƣời còn yêu.
ó ngƣời cho rằng nhà thơ là kẻ vì phạm
tội mà bị “phát vãng” từ thiên cung
xuống dƣới trần thế này. Hơn nữa họ còn
nói rằng: “Thơ trữ tình có thể coi nhƣ
tổng hợp, nhƣ tuyệt đỉnh của thơ, mà
ch nh thơ là tuyệt đỉnh của tiếng nói loài
ngƣời!” Họ còn mạnh miệng nói thêm
nữa: “Thi ca sẽ là tôn giáo cuối cùng trên
mặt địa cầu này khi mà tất cả nhân loại
không còn giữ lại đƣợc cho họ một niềm
tin nào ở nơi tôn giáo mà chúng ta đang
có.”
Thật ra nói thế là quá đáng. Nhà thơ cũng
chỉ là một con ngƣời bình thƣờng và đối
tƣợng của thơ, chất liệu tạo ra thơ ch nh
là cuộc sống trên cõi nhân gian vƣơng
mắc hệ lụy này mà thôi. Tràn đầy tình
cảm, có quên có nhớ, có thƣơng có ghét,
có vui có buồn, có xum họp có chia ly,
đôi khi lại trắc trở đến độ đáng ngậm
ngùi… Thơ Lệ Khánh có lẽ đã nói lên
điều đó.
VŨ HƢƠNG nhắc lại tiểu sử của Thục
Vũ nhƣ sau:
“Nhạc sĩ Thục Vũ, tên thật là Vũ Văn
Sâm, sinh năm 1932 . Tốt nghiệp khóa 4
phụ Đà Lạt năm 1954, đúng vào năm ký
kết hiệp định đình chiến Geneva chia đôi
đất nƣớc. Do đó, Thục Vũ kẹt lại ở miền
Nam VN, bỏ lại ph a bên kia bờ ến Hải
ngƣời vợ chƣa cƣới mà khi anh còn học ở
hu Văn An, anh đã sáng tác bản nhạc
đầu tiên có tên là “Duyên em” để tặng
nàng. Nhƣng may thay năm sau (1955)
ngƣời yêu của thiếu úy Vũ Văn Sâm đã
vào đƣợc miền Nam và lễ cƣới đƣợc cử
hành vào năm 1956”. “ ƣớc đầu của việc
binh nghiệp. ấp bậc cuối cùng của Thục
Vũ là Trung Tá.”…
Hội Ngƣời Việt Richmond 78 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
VŨ HƢƠNG viết tiếp là Thục Vũ: “đã
phải bỏ mình nơi chốn rừng thiêng nƣớc
độc chỉ sau hơn 1 năm cải tạo”… “đến
giữa năm 1976, anh đƣợc đƣa ra Sơn La
và bỏ mình nơi sƣơng lam chƣớng kh
này vào ngày 15/11/1976. Ngày nay, một
tấm mộ bia đơn sơ với đôi hàng nguệch
ngoạc “Vũ Văn Sâm, 1932”, đƣợc anh
em tù cải tạo ghi lại, ngoằn ngoèo nơi
chốn rừng thiêng nƣớc độc Sơn La.”…
“Là nghệ sĩ, vốn giàu cảm lụy, cho nên
cuộc đời tình cảm của nhạc sĩ Thục Vũ
cũng không thoát khỏi vòng “tình ái
giăng tơ” nhƣng với trƣờng hợp của Thục
Vũ, đây mới là chuyện tình thật sự vì nó
đi ra ngoài những cái thông thƣờng.
Ngƣời ta bảo “trai tài gái sắc”, nếu Thục
Vũ yêu một cô gái đẹp, chúng ta chẳng
nói làm chi vì họ mến nhau vì tài, cảm
nhau vì sắc nhƣ trăm ngàn những chuyện
tình tầm thƣờng trên đời. Nhƣng ngƣời
yêu của Thục Vũ lại là “một cô gái trời
bắt xấu”. Nàng là Dƣơng Thị Khánh, tức
thi sĩ Lệ Khánh, tác giả những tập thơ
“Em là gái trời bắt xấu”, một công chức ở
tòa tỉnh trƣởng Đà Lạt. húng ta còn nhớ
những vần thơ diễm tình của Lệ Khánh…
mà Thục Vũ đã phổ nhạc với tựa đề
“Tình ngƣời hậu tuyến”, một bản nhạc đã
làm xôn xao trong giới nhạc một thời.
Tình yêu giữa họ xảy ra khi Lệ Khánh
tròn 20 tuổi cho đến 1975, ngày mà Thục
Vũ phải đi “cải tạo” và bỏ mình hơn 1
năm sau đó. Lệ Khánh đã sanh đƣợc một
đứa con trai mang họ mẹ (Dƣơng) và chữ
lót là tên của mẹ (Khánh) với tên chữ đầu
là Thục. à Thục Vũ, tuy đã biết về mối
tình này, nhƣng tuyệt nhiên không làm to
chuyện mà trái lại ngày con của Lệ
Khánh ra đời bà đã đến chăm nom và
giúp đỡ… Thục Vũ là ngƣời rất hiền
lành, hồn nhiên và vui vẻ với bạn bè, mất
đi, để lại một ngƣời vợ cao thƣợng (với 5
đứa con), một ngƣời tình nhỏ bé, một đứa
con kết hợp qua dòng thơ nhạc và một số
tác phẩm vẫn còn in sâu trong lòng của
những ngƣời mến mộ anh.”
THỤ VŨ (Vũ Văn Sâm, 1932-1976)
phổ nhạc thơ Lệ Khánh. ài thơ “Tình
ngƣời hậu tuyến”. ài thơ và bản nhạc
này đã vang vọng một thời trong tâm hồn
bao ngƣời mến mộ. Hình ảnh thành phố
sƣơng mù Đà Lạt đã làm bối cảnh cho
biết bao cuộc tình, thƣờng là chua xót,
ngang trái và đắng cay:
―Hôm nay trời vào thu,
Đà Lạt lắm sương mù,
Cây khô buồn trút lá,
Gió ven hồ bay xa.
Mây thu lờ lững trôi,
Lồng lộng gió lưng đồi.
Xin anh đừng giận dỗi,
Viết thư về thăm em,
Viết thư về thăm em
Thương anh, thương màu áo hoa rừng,
Và thương con đường đầy gió sương,
Chiến tuyến chiều xuống mưa rừng bay,
Thương anh, thương khung trời hoang
sơ.
Hôm nay dành tặng anh
Vài giọt nắng thơm lành.
Mai kia tàn chinh chiến,
Áo em màu ―Mosa‖
Đón anh về hoan ca.‖
(Trích: “ĐÀ LẠT NGÀY THÁNG CŨ”
Soạn giả: LS. Ngô Tằng Giao)
Hội Ngƣời Việt Richmond 79 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Thơ Lệ Khánh
Đâu Phải Tại Em
Hôm qua nhận thư anh
Với những giòng trách móc
Anh mắng vậy ... sao đành
Chừ âm thầm ... em khóc
Đâu phải em phản bội
Anh hờn mà chi anh
Đâu phải em nói dối
Để dở dang chuyện mình
Nghìn xưa đến nghìn sau
Vẫn thương hoài mũ đỏ
Vẫn còn thương trời cao
Và hoa dù trong gió
Nhưng đừng bắt em yêu
Trai thiên thần áo chiến
Rồi em về quạnh hiu
Mất dần câu âu yếm
Xin anh đừng trách mắng
Đừng giận hờn chi em
Anh ơi ... sao cay đắng
Những giòng thư buốt tim
Đừng hờn em gái nhỏ
Đừng ghét ... người yêu xưa
Tình em chừ theo gió
Không mong hẹn tuổi chờ
Ru Con
Đêm khuya con trở giấc hồng
Tay ôm cổ mẹ môi nồng sữa thơm
Vòng tay mẹ sát thân ôm
Vỗ về tiếng khóc thương con bạc phần
Riềm mi con khép dần dàn
Ầu… ơ …mẹ hát tiếng trầm tiếng cao
Con ơi đời mẹ lao đao
Mới hai mươi tuổi khỏ đau duyên tình
Ầu .. ơ.. tóc mẹ còn xanh
Mẹ đơn chiếc chỉ riêng mình con thôi
Đêm khuya con mẹ ngủ rồi
Mẹ ôm gối chiếc ngậm ngùi thương thân.
Gia định 1969
Hội Ngƣời Việt Richmond 80 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Biết Thế Em Lấy Chồng
Những ngày mưa Đalat
Chờ hoài không thư anh
Chắc lòng anh đổi khác
Tình yêu sao mong manh
Chuyện ngày xưa còn đó
Những vòng tay còn đây
Những phong bì nho nhỏ
Với lời thư mây bay
Em vẫn còn cất đủ
Từ những giòng giận hờn
Trọn đời em sẽ giữ
Dối lòng không cô đơn
Thư anh viết tha thiết
Sao bây giờ anh quên
Còn đâu lời âu-yếm
Ngày xưa dâng cho em
Ôi lòng dạ đàn ông
Mấy ai mà hiểu được
Biết thế em lấy chồng
Không yêu anh từ trước
Bây giờ chuyện lỡ rồi
Mà em thì thủy chung
Cầu xin đến trọn đời
Không còn yêu ai nữa.
Nói Với Người Yêu
Những bài thơ cho anh
Những thư tình đã viết
Sao tàn nhẫn cho đành
Để bạn bè đọc hết?
Nhưng vì em yêu anh
Nên sẵn sàng tha thứ
Bởi vì chuyện chúng mình
Không bao giờ dang dở
Bởi vì anh thú tội
Nên em càng yêu hơn
Bởi vì Vua biết lỗi
Hoàng Hậu chả nên buồn
Sau mấy tháng giận hờn
bây giờ yêu nhau lại
Em không còn cô đơn
Đêm dài thôi tê tái.
Hội Ngƣời Việt Richmond 81 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Tiếng Kinh Chiều
Chiều mùa thu heo may
Gió vàng lên ngọn cỏ
Nắng dài vương chân mây
Riêng mình em đứng đó
Cửa giáo đường còn mở
Một linh hồn bơ vơ
Chúa ơi đời con khổ
Từ vương nghiệp làm thơ
Em quỳ bên tượng chúa
Chắp hai tay nguyện cầu
Từng hồi kinh nho nhỏ
Là những lời thương đau
Chiều Đalat lành lạnh
Như hồn em giá băng
Giáo đường sao vắng lặng
Tình mình sao cách ngăn
Từng hồi kinh nối tiếp
Từng lời xin Chúa ơi
Con yêu chàng tha thiết
Chàng yêu con trọn đời
Vòng tay Chúa hiền từ
Không ôm tròn hai đứa
Nên em còn làm thơ
Khóc tình yêu dang dở
Viển Vông
Những bài thơ tâm sự
Viết hoài cho người yêu
Mai sau mà còn giữ
Chắc mình đỡ quạnh hiu
Bây giờ không duyên nợ
Mình không lấy được nhau
Thôi thì vì duyên số
Không nên nghĩa cau trầu
Những con anh lớn lên
Và con em ... (nếu có)
Mình tác hợp nhân duyên
Nên vợ chồng trẻ nhỏ
Con trai anh đẹp quá
Con gái em ... ngoan hiền
Mình sẽ là sui gia
Vì hai trẻ nên duyên
Hồi môn cho con gái
Là những bài thơ em
Trời ơi ... vì ngang trái
Mới tính chuyện thần tiên
Hội Ngƣời Việt Richmond 82 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Mưa Chiều Đà Lạt
Dalat chiều nay lạnh
Chiều nay… buồn chao ôi
Nghẹn ngào nghe trăn trở
Một mình em đơn côi .
Mưa rơi đường phố vắng
Hoa tàn… lá úa bay
Trong lòng như canh cánh
Tôi .. cúi đầu… mắt cay.
Có bao giờ anh biết
Em về mưa chiều nay
Một mình lê bước nhỏ
Tóc theo làn gió bay
Áo Tím Ngày Xưa
Con đường này… kỷ niệm
Ngày xưa (anh của em)
Vẫn khung trời thương mến
Và nhớ nhung trong tim .
Đó rừng xưa chơ vơ
Đây hồn em cô quạnh
Màu áo tím ngày xưa
Sao giờ nghe buốt lạnh .
Bao năm rồi trở lại
Dalat buồn vắng tanh
Thương thương màu áo tím
Của ngày xưa.. đâu anh?
Con đường hồ Than Thở
Hoang sơ nấm mộ sâu
Người em áo tím nhỏ
Đi tìm anh… anh đâu ?
Em Chẳng Bao Giờ Tin Anh
Anh muốn nói những gì anh muốn nói
Vì hẹn thề là mây khói anh ơi !
Em không tin lời ước hẹn đầu môi
Không dấu tích… trong ân tình chót lưỡi
Hẹn cho lắm rồi một người tức tưởi
Gói chăn buồn đêm lại khóc trong tim
Nức nở cũng chỉ một riêng em
Cay đắng vẫn tặng người bất hạnh
Anh tỏ tình như áo len che lạnh
Cởi ra rồi trời vẫn buốt thế thôi
Nhưng biết rằng lời ước hẹn đầu môi
Em vẫn nhận để dối lòng … yêu đó. ?
Anh muốn nói những gì anh cứ nói
Vì hẹn thề là bọt biển tan nhanh
Chẳng bao giờ em có thể tin anh
Là chung thủy riêng mình cô gái xấu .
Lệ Khánh
8/1966
Hội Ngƣời Việt Richmond 83 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Cảm Thức
Ngày Tuyết Quang Lễ
Tuyết trắng ngủ vùi tít trời xanh
Mai kia rơi rụng xuống dương trần
Tan thành nước lũ, đời trôi cuốn Ly hợp phù du, hóa thành không.
Thành phố tôi ở, mấy hôm nay bỗng
tuyết rơi thật nhiều. Tuyết bay khắp nơi
khắp chốn, thi nhau đổ xuống phủ dày
lên nhà cửa, đƣờng sá, xe cộ và cây cối,
biến trời đất bừng sáng lên một màu trắng
toát tinh khiết đến kỳ lạ nhƣng lại nhuốm
đầy vẻ giá rét và hoang lạnh.
ả vùng đồi thấp với rừng cây khẳng
khiu, nhấp nhô dọc hai bên đƣờng phủ
đầy tuyết trắng. Những cây thông chịu
lạnh xanh um, những cây phong mảnh
mai lá đổi màu theo từng mùa, những bãi
cỏ xanh mƣớt nắng hạ nay đã bạc màu
cũng phủ đầy tuyết. Màu tuyết trắng nhƣ
bao trùm lên khắp vạn vật, nổi bật ra giữa
bầu trời bao la xám nhạt.
Tuyết không những đã làm thay đổi
hết thảy cảnh vật mà còn làm xáo trộn
mọi sinh hoạt thƣờng nhật của con ngƣời
và xã hội. Công sở, trƣờng học đóng cửa,
lƣu thông bị hạn chế, chợ búa vắng vẻ.
♦ ♦ ♦
Ngồi trong nhà nhìn ra màn trời đầy
bông tuyết đang thi nhau rơi xuống nhƣ
bất tận, lòng ngƣời cũng thấy ngẩn ngơ,
bâng khuâng nhƣ có điều gì xao xuyến,
xốn xang trƣớc sự đổi thay đột ngột của
trời đất. ũng giống nhƣ khi nhìn mƣa
rơi, tuyết làm cho ta cảm thấy nhớ quê
hƣơng, bạn bè, ngƣời thân, tuyết đã dẫn
dắt ta về với hoài niệm dĩ vảng nhiều
nhứt nhối. Ta nhƣ thấy lại trong mƣa,
trong tuyết tất cả những điều đã qua - vui
buồn phiền muộn hạnh phúc đau khổ...
những cái dang dở không thành, những
điều bất toàn chƣa trọn vẹn, chẳng đầu
đuôi thứ tự lang lớp; không thuộc về quá
khứ, chẳng phải là hiện tại mà cũng
không ở vị lai; chẳng biết từ đâu đến và
đi đâu, về đâu... v nhƣ tất cả chỉ là mơ
hồ ảo ảnh của một đoạn phim, một khúc
nhạc, một bài thơ buồn lũng đoạn của
một kiếp ngƣời sinh diệt, diệt sinh.
Ðời ngƣời cũng mong manh nhƣ cơn
mƣa, nhƣ nắng sớm, nhƣ bông tuyết nắm
bắt trong tay, bất chợt có rồi tan, thấy đó
mà mất đó, tƣởng nhƣ thật mà hóa là hƣ...
ũng nhƣ chiếc lá đổi thay qua bốn mùa
biến chuyển... cũng sƣơng gió nắng hạn,
cũng dầm mƣa dãi nắng, phải đổi thay
sắc màu để tồn tại với thời gian, làm đẹp
cho đời, cho ngƣời, và rồi sẽ đến lúc héo
úa tàn tạ... chẳng khác chi một kiếp ngƣời
sinh lão bệnh tử, phải chịu lệ thuộc trong
cái quy luật khe khắt vô thƣờng của
thành, trụ, hoại, không (sanh, trụ, di, diệt),
tiếp nối liên tục với nhau từ đời nầy đến
đời khác, từ kiếp trƣớc qua kiếp sau...
liên miên bất biến trong một xâu chuỗi
sinh tử luân hồi dài vô tận.
Thế nhƣng đâu chỉ đơn giản là sinh ra
rồi già, bệnh và chết đâu, con ngƣời
Hội Ngƣời Việt Richmond 84 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
ngoài sự chi phối bởi vòng xoay của bánh
xe luân hồi, còn phải chịu nhiều áp lực
nặng nề dƣới sức cuốn hút nghiệt ngã,
thiên hình vạn trạng của dòng đời thế
gian bởi tài, sắc, danh, thực, thùy, năm
(5) con đƣờng tội lỗi dẫn dắt chúng sanh
vào cõi địa ngục. V nhƣ những cơn bão
tuyết, sóng thần, động đất hay lốc xoáy
hung dữ, bất ngờ xảy ra giữa đại dƣơng
hoặc nơi địa cầu đông đúc để giết hại
sinh linh và tàn phá tất cả những gì do
con ngƣời tạo dựng nên, để rồi sau đó
kéo theo thảm họa dịch bệnh tàn khốc,
tiếp tục tiêu diệt đời sống và sinh mạng
quý giá của con ngƣời.
Nhƣng thiên nhiên mới chỉ là yếu tố
khách quan, sự chết chóc đau khổ của
con ngƣời còn do ch nh con ngƣời tạo ra
khi họ tranh giành nhau quyền lực, quyền
lợi, lãnh thổ, lãnh hải, gây nên chiến
tranh tang tóc trên khắp đại dƣơng, địa
cầu. on ngƣời không ngần ngại ứng
dụng khoa học văn minh vào các loại vũ
kh hủy diệt tinh vi, có khả năng giết
ngƣời hàng loạt nhƣ bom hạt nhân, chất
độc hóa học, vũ kh sinh học, chất phóng
xạ ... Ðồng thời với lòng tham vô tận, con
ngƣời đua nhau dành giật, khai thác bừa
bãi các quặng mỏ khoáng chất trong lòng
biển, lòng đất, nhất là trong kỹ nghệ dầu
lửa, cộng thêm tình trạng tháo đổ một
khối lƣợng chất thải khổng lồ nhƣ hóa
chất, cặn bã phế phẩm công nghiệp, nhất
là sự bốc hơi của khối lƣợng nƣớc vĩ đại
do con ngƣời thải ra khiến vỏ trái quả bị
va chạm, tạo ra sự hâm nóng toàn cầu,
ảnh hƣởng to lớn đến hệ sinh thái và là
nguyên nhân dẫn đến thiên tai, địch họa,
có nguy cơ tiêu diệt sự sống của nhân
loại. Tất cả đều nằm trong vòng luân
chuyển biến thiên vô cùng vô tận của tạo
hóa.
May mắn thay, con ngƣời tuy quá bé
nhỏ trƣớc thiên nhiên vũ trụ nhƣng nhờ
vào ý thức sinh tồn, giàu nghị lực, thông
minh và biết đoàn kết để vƣợt qua mọi
thử thách khó khăn, bất trắc trong mọi
tình huống. Ngoài ra con ngƣời còn có
một sức mạnh thần kỳ khác, đó là niềm
tin tôn giáo. ho nên, dầu thời gian vật
đổi sao dời, dầu kiếp ngƣời có long đong
qua bao nghiệt ngã của dòng đời trôi nỗi,
dầu có trầm luân qua nhiều cảnh giới,
nhƣng trong tự thân của mỗi con ngƣời
hữu tình cũng vẫn tròn đầy tánh giác, vẫn
luôn sống chấp nhận bình yên hay sóng
gió của nghiệp lực xoay chuyển tạo
thành. Ðừng thấy khổ đau mà chạy trốn,
tìm sự bình an dƣới mọi hình thức chạy
trốn giả dối nhƣ cầu đảo, cúng bái,
ngƣỡng vọng ... mà chúng ta cần phải có
một niềm tin tr tuệ nơi Phật pháp, với
Ðức Thế Tôn. Phải ứng dụng và thực
hành chánh pháp với bản thân chơn-nhƣ,
không hƣ vọng. ũng vậy, ẩn thân dƣới
lớp tuyết giá rét, vẫn có những mầm xanh
âm thầm vƣơn lên và hồi sinh mạnh mẽ
nhƣ ch nh bản thân của vạn vật, con
ngƣời và ch nh tự thân mình. húng ta đã
là Phật tử nên phải luôn luôn ý thức vào
con đƣờng tu học, cố gắng rèn luyện bản
thân, trau dồi đạo đức, tự tin rằng có thể
tự mình xoay chuyển đƣợc nghiệp số. Ai
có khả năng tu học tốt, chuyển hóa tốt thì
cuộc đời sẽ thay đổi tốt.
Hội Ngƣời Việt Richmond 85 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
♦ ♦ ♦
Sau trận tuyết, ánh nắng bắt đầu le lói
xuất hiện. Tuyết dần dần tan chảy. Những
ngày buồn, tù túng rồi cũng mau chóng đi
vào quên lãng, chẳng còn ai bận tâm dẫu
rằng những mảng tuyết đọng trên mái
nhà, những đống tuyết nằm lù lù ngoài
đƣờng phố và cây cối ủ rũ xác xơ những
thân cành khẳng khiu trụi lá... vẫn còn
khắp đó đây. on ngƣời đã trở lại với
công việc thƣờng nhật, xã hội tiếp tục
mọi sinh hoạt, và sự sống lại hồi sinh
mạnh mẽ.
Ta gọi nắng về cho tuyết tan,
Cho ngàn cảnh sắc lại mơn man,
Ðể đời dâu bể thêm sức sống,
Ðể biết nhân gian chuyện đá vàng.
on ngƣời từ vô-thỉ đến nay vẫn triền
miên sống say chết ngủ trong trƣờng
danh lợi mộng huyễn, vẫn luân lạc đời
đời với lẽ thƣờng tình của thế gian là chỉ
biết cuộc sống hiện tại và mải mê mƣu
cầu, tìm kiếm tƣơng lai mà không nhớ
hay chẳng hề bận tâm gì đến chuyện quá
khứ. on ngƣời quên rằng hiện tại là
mạch nối dài từ điểm khởi đầu của quá
khứ tiếp diễn dần đến tƣơng lai. Từ cuộc
sống hiện tại nầy (hạnh phúc hay đau khổ)
mà chúng ta có thể biết đƣợc những điều
thiện ác của bản thân đã gây ra trong quá
khứ (tạo nghiệp), và cũng từ những việc
làm ở hiện tại nầy mà chúng ta có thể suy
ra, đoán biết trƣớc đƣợc kết quả của cuộc
sống mai sau ở thời tƣơng lai (nhân quả).
ho nên có thể nói, cuộc đời con ngƣới
nhƣ một vòng xoay của bánh xe, mỗi một
con ngƣời đều có riêng một bánh xe cho
mình (luân hồi). Lành dữ tốt xấu hay hạnh
phúc khổ đau tất cả đều phát xuất từ hiện
tại nầy mà ta có thể biết đƣợc quá khứ đã
làm điều gì và vị lai ta sẽ có đƣợc những
gì.
on ngƣời vốn mãi mê trong bả danh
lợi lạc dục nên không hề biết sợ những
hậu quả do ch nh mình gây ra, chỉ đến
khi nào gặp chuyện khổ đau tuyệt vọng
thì mới tỉnh ngộ. Do vậy muốn thoát khỏi
vòng nghiệp chƣớng khổ não, bắt đầu
ngay từ bây giờ ta phải hƣớng dẫn cuộc
đời của chúng ta thực hành hánh niệm,
phải biết tu tập tự tánh giác ngộ (Tánh
Giác). Phải hiểu rằng cái hơn-nhƣ, cái
Phật-tánh của mình không thể xin ai mà
có, nhờ ai mà giác ngộ, chỉ duy nhất phải
nƣơng tựa vào tự-tánh của mình mà giác
ngộ lấy cho mình mà thôi. Ðạo ở trong
đời. Ðạo và đời nhƣ hai kẻ đồng hành.
on ngƣời không thể xa lánh trần thế tìm
sự an lạc cho riêng bản thân mình mà
phải thực hành Ðạo ngay ch nh trong
cuộc đời muôn trùng phong ba oan nghiệt
nầy thì mới có thể tìm ra đƣợc sự an lạc
đ ch thực cho mình, cho ngƣời. Học đạo,
hành đạo là để cứu mình, giúp đời. Ðó là
mục đ ch cao cả vô thƣợng của Phật pháp
đã xuất hiện trên thế gian nầy để chỉ cho
con ngƣời tìm lại ch nh mình, nhận thức
rõ tri kiến hay tánh Phật có sẳn trong mỗi
con ngƣời và chỉ khi nhận thức đƣợc nhƣ
vậy, chúng ta chấp nhận mình là con Phật
và sẽ thành Phật thì mới sống trọn vẹn
Hội Ngƣời Việt Richmond 86 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
nhân bản, thoát khỏi khổ đau sinh tử luân
hồi.
Biển đời khổ, chập chùng sóng dữ
Kiếp con người, tựa áng phù vân
Sớm quay về, khai thị minh tâm
Thoát tục lụy, tìm nơi an tịnh.
♦ ♦ ♦
Thƣa các bạn! quê hƣơng tôi chƣa
bao giờ có tuyết. Sống nơi xứ xa quê
ngƣời hàng năm tôi vẫn thấy tuyết, bất
chợt một thoáng suy tƣ trƣớc những đổi
thay đột ngột của trời đất vạn vật. Nghĩ
đến kiếp ngƣời thăng trầm đắng cay rồi
suy ngẫm đến thân phận chìm nổi lang
bạt của đời mình, tôi có đôi lời tự bạch
nhƣ một điều chia sẻ, mong mỏi đồng
thời cũng là một lời nguyện ƣớc của một
con ngƣời mới đƣợc soi sáng, khai tâm
đôi điều lẻ tẻ vụn vặt giữa cái mênh
mông vô tận của Phật pháp diệu kỳ. Tôi
hiểu rằng, tôi cần phải học tập nhiều, thật
nhiều, không chỉ ở kiếp nầy mà phải ở
nhiều kiếp khác nữa thì mới mong tìm
thấy giác ngộ giải thoát.
Lời Phật dạy: Sắc tức thị không,
Không tức thị sắc. Muôn loài, muôn vật
do từ duyên khởi hòa hợp mà tạo ra, vốn
không có thật, tất cả đều là không hết
thảy. Do vậy, đôi điều suy nghĩ thô thiển
dàn trải trên đây cũng chỉ là không mà
thôi. Nếu có điều mạo muội, xin từ bi hỷ
xả dung thứ cho kẻ hậu bối phàm phu tục
tử.
Nam Mô A Di Ðà Phật.
Quang Lễ Chesterfield, tháng 9 năm 2010.
Tuyết hồn Tuyết đọng trời cao quên tuổi thọ
Một buổi tàn đông chợt giật mình.
Ngó ngoáy lại bỗng tan thành nước lũ
Từ vô minh hỗn độn xô về.
Tóc tuyết trắng phủ hình hài vạn vật
Bồng bềnh bay khắp chốn phong trần
Không bến bờ, chẳng biết chỗ dung thân
Há chẳng phải u minh là trần thế?
Mỗi kiếp sống, một cõi đời hoang phế
Hợp rồi tan như bóng xế trăng tàn
Sinh rồi tử, luân hồi trong Lục đạo (1)
Sống trầm luân nghiệp chướng vô cùng
Ði đi mãi chẳng biết đâu là bến Giác
Vẫn lang thang một cõi ta bà
Mãi lòng vòng lạc lối mê tha
Hỏi nhân thế biết đâu là Tịnh độ
Hỏi trần gian nơi đâu là bến Ngộ
Kết nhân duyên xin nương tựa tu thân
Chốn thiền môn rũ sạch nợ hồng trần
Không phiền trượt mong cầu xin giải
thoát
Nơi đất Mỹ chút tâm tình với tuyết
Người xa quê từ độ giặc tràn về
Tuổi hoàng hôn bóng xế loạn tâm mê
Ðiều thổ lộ là những lời tâm huyết.
Quang Lễ
Hội Ngƣời Việt Richmond 87 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Món ngon
Sài Gòn Nguyễn Ng c Ch nh
ó nhà văn nào đó cho rằng khi viết về
ẩm thực bụng phải đói mới „lột tả‟ hết cái
ngon của món ăn. Tôi rất tâm đắc với ý
kiến này.
Hồi còn trong trại cải tạo, cái bụng lép
kẹp lúc nào cũng sôi ùng ục, tôi và vài
ngƣời bạn tù có „tâm hồn ăn uống‟ vẫn
thƣờng kể cho nhau nghe những món
khoái khẩu của mình. Ăn „hàm thụ‟ sao
mà ngon thế. Phải nói ngon gấp nghìn lần
ăn… thực thụ!
Thời cải tạo qua đi nhƣng thời điêu linh
lại kéo tới. Vào thời này, cái để „đút vào
mồm‟ chỉ toàn khoai mì „chạy chỉ‟ với
với hột bo bo, còn đƣợc mệnh danh là…
cao lƣơng. Ngồi nhấm nháp cao lƣơng
mà cứ tức anh ách. Ai đó đã khéo chơi
chữ mà đặt tên, mỉa mai không khác gì
cái món „mầm đá‟ của ông vua ngày xƣa!
Nhƣng rồi cũng qua đi cái thời ăn để mà
sống, ngƣời ta bỗng nhớ đến thời… sống
để mà ăn ở Sài Gòn hoa lệ ngày nào. on
đƣờng ngắn nhất để đến trái tim lại là con
đƣờng đi qua… bao tử cho nên mọi hoài
niệm về những gì tốt đẹp nhất cứ phải
„quá giang‟ chuyện ăn uống, dù vẫn
biết… miếng ăn là miếng tồi tàn!
Nhƣng thôi, hãy tạm quên chuyện triết lý
lòng thòng để nói về món ngon Sài Gòn.
Theo tôi, một trong những món ngon đó
phải kể đến phở. Mặc dù phở có xuất xứ
từ miền ắc nhƣng phở Sài Gòn thƣờng
ăn kèm với giá, ngò gai, húng quế vẫn
ngon hơn phở Hà Nội thiếu hẳn các loại
rau thơm mà lại không có giá. (Xin đừng
hiểu lầm, giá đây là mầm đậu xanh chứ
không phải là giá trị. Thế mới biết chữ
nghĩa tiếng Việt quả là rắc rối!).
Hơn nữa, phở trong Nam, hay còn gọi là
„phở- ắc-Kỳ-di-cƣ‟, thƣờng nhỏ sợi,
nƣớc dùng phở lại đậm đà, không dậy
mùi húng lìu và „mì ch nh‟ (bột ngọt) nhƣ
phở „gia truyền‟ ngoài ắc. Thành phần
ch nh của phở là những sợi bánh phở
trắng phau. Nƣớc dùng có mùi thơm và vị
ngọt của xƣơng ống thịt bò, cùng với
hành khô, gừng và thảo quả nƣớng, đƣợc
ninh nhừ từ chiều tối hôm trƣớc. Thịt bò
đƣợc luộc lên, sau đó thái lát mỏng để
trang hoàng cho một bát phở truyền
thống Việt Nam.
Thƣở xa xƣa, ngoài Hà Nội chƣa có hiệu
phở. Khách ăn phở thƣờng gọi những
hàng phở gánh ở đầu phố hoặc đi rong
ngoài đƣờng. Một đầu gánh là chiếc chạn
con đựng bát đũa, gia vị nhƣ tiêu, ớt và
nƣớc mắm, lại thêm cái ngăn kéo đựng
bánh phở, thịt bò. Đầu gánh bên kia là
bếp lò với nồi nƣớc dùng lúc nào cũng
sôi sùng sục đƣợc kèm bên trong một nồi
nƣớc riêng để trụng bánh phở.
phở gánh
Những ngƣời bán phở rong đều là đàn
ông, tuyệt không thấy phụ nữ nào. ó lẽ
nhờ sức dài vai rộng nên mới chịu đƣợc
gánh phở nặng chĩu trên vai. Trên đầu
ông hàng phở thƣờng có cái mũ, trông
Hội Ngƣời Việt Richmond 88 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
tựa nhƣ mũ phớt. Lâu ngày kho từ vựng
tiếng Việt đƣợc bổ xung từ mới: mũ phở!
Hà Nội 36 phố phường của Thạch Lam
khen cái ngon của một hàng phở gánh đỗ
cạnh cây hƣơng trong sân nhà thƣơng
Phủ Doãn, bát phở có cả mấy giọt… cà
cuống. ả thành phố chỉ có một hàng phở
cà cuống ấy. Nguyễn Tuân phê bình:
"Cái nước chè tươi nóng bỏng môi, cái
bánh đậu xanh ngọt xít cổ, lại đến phở cà
cuống, cái sự thích của anh nghiện vừa
buông dộc tẩu xuống, kể cũng đáng viết
cho ra nhẽ".
Nhà văn lão làng Nguyễn ông Hoan,
một trong số những cây đại thụ của làng
văn, đã khẳng định khá ch nh xác cái tuổi
100 của món ăn độc đáo thuộc hàng
„quốc hồn, quốc túy‟ trong nền ẩm thực
Việt. Ông viết: “1913... trọ số 8 Hàng
Hài... thỉnh thoảng, tôi được ăn phở
(hàng phở rong). Mỗi bát 2 xu (có bát 3
xu, 5 xu)”. Mặc nhiên, ch nh Nguyễn
ông Hoan đã là ngƣời xác định tuổi cho
phở trong cuốn tự chuyện về đời mình:
Nhớ và ghi về Hà Nội.
Vào đến Sài Gòn ngày xƣa có con đƣờng
tên Turc (Thổ Nhĩ Kỳ), một đầu là đƣờng
Tự Do ( atinat), đầu kia là đƣờng Hai à
Trƣng (Paul lanchy). Tiệm Phở ắc
đƣợc bán trong khuôn viên nhà thờ Hồi
Giáo này, nên có tên là Phở Turc. ũng
cần nói thêm, vào cuối thập niên 50, tắm
hơi massage đã du nhập Sài Gòn. Thời
ấy, ngƣời Pháp gọi loại tắm hơi nƣớc
nóng này là ain Turc, ngƣời Sài Gòn
gọi theo là anh Tuyếc.
Sài Gòn 1954, lúc ngƣời ắc mới vào
Nam, những tiệm Phở ắc hãy còn đếm
đƣợc trên đầu ngón tay. Đó là mấy tiệm
Phở Thịnh đƣờng Gia Long, Phở Turc
đƣờng Turc, Phở Minh đƣờng Pasteur và
Phở 79 ở đƣờng Frère Louis (sau này đổi
tên thành đƣờng Võ Tánh và đến 1975 lại
đổi thành Nguyễn Trãi thuộc quận 1).
Ngay bên hông rạp asino có một hẻm
nhỏ, đi vào hẻm đó là một dẫy nhà, đa số
là nhà dân ắc Kỳ di cƣ sớm, từ những
năm 1920. Tiệm Phở Minh nằm ở dẫy
nhà đó. Hẻm asino còn có nhiều món
ngon có xuất xứ từ miền ắc nhƣ bún
thang, bún chả, bánh cuốn, bánh tôm…
Tái nạm
Phở Minh có cả phở bò lẫn phở gà nhƣng
đặc biệt hơn cả còn có bài thơ do thi sĩ
Trần Rắc đề tặng. ài thơ đƣợc cắt chữ,
đóng khung k nh, treo trên tƣờng. ài thơ
Đƣờng luật có 4 câu đầu nhƣ sau:
Nổi tiếng gần xa khắp thị thành,
Trần Minh Phở Bắc đã lừng danh.
Chủ đề: tái, chín, nạm, gầu, sụn,
Gia vị: hành, tiêu, ớt, mắm, chanh.
Thi sĩ Trần Rắc ch nh là ông chủ tiệm
giầy Trần Rắc đƣờng Lê Thánh Tôn, gần
Khám Lớn atinat năm xƣa. Tiệm giầy
Trần Rắc, và cả mấy tiệm giầy ở đƣờng
này, đều có cửa sau đi vào hẻm „ẩm thực‟
Casino.
Việt Nam ta đúng là… ra ngõ gặp nhà
thơ, nói theo kiểu văn chƣơng „cách
mạng‟: “Ra ngõ gặp anh hùng”. Đến nhƣ
ông chủ tiệm giầy cũng có thể làm thơ về
Hội Ngƣời Việt Richmond 89 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
phở chứ chƣa dám nói đến Tản Đà là
ngƣời viết nhiều về nghệ thuật ăn uống!
Trên đƣờng Mạc Đĩnh hi (Massiges),
gần bên hông Tòa đại sứ Mỹ, còn có phở
ao Vân, dù tiệm phở này không nằm
trên đƣờng Trần ao Vân (Larclause)
cách đó không xa. Theo tôi, phở ao Vân
(25 Mạc Đĩnh hi) chỉ thuộc loại „thƣờng
thƣờng bậc trung‟ nhƣng đƣợc nhắc tới
cùng với phở Minh vì ao Vân cũng có
một bài thơ ca tụng phở của thi sĩ Tú Mỡ
đƣợc viết bằng sơn ngay trên tƣờng.
Trong các món ăn Quân Tử Vị
Phở là quà đáng quý trên đời
hủ của phở ao Vân ngày nay là một
ông cụ ắc Kỳ hom hem theo năm tháng.
Ông không còn đứng ra nấu phở nhƣng
chiều chiều thƣờng ngồi nhậu lai rai với
các „chiến hữu‟ để hƣởng nhàn!
Lại nói thêm về thơ với phở. Xin hãy đọc
mấy vần thơ „con cóc‟ dƣới đây:
Sáng chở cơm ăn phở
Trưa chở phở ăn cơm
Hóa ra cơm là vợ mà phở là bồ. Nội việc
ăn phở điểm tâm với vợ và ăn cơm trƣa
với ngƣời tình cũng đủ khiến khách hào
hoa mệt nhoài cái bụng và cái v . Ấy thế
mà có vị lại còn thèm… cháo ăn khuya
nữa!
Trên đƣờng Pasteur có Phở Hoà, khá nổi
tiếng. an đầu, lúc khai trƣơng năm
1960, tiệm phở này mang tên Hoà Lộc.
ó lẽ sau này khách ăn cứ gọi tắt là Hòa
nên Hòa Lộc biến thành Hòa theo kiểu
gọi tên một chữ cho dễ nhớ thƣờng thấy
ở các tiệm phở (?).
Phở Hòa (260 Pasteur, quận 3) ngày
nay lúc nào cũng nƣờm nƣợp khách ra
vào. Hòa đã trở thành một „thƣơng hiệu‟
không những nổi tiếng ở Việt Nam mà
nƣớc ngoài nhƣ Nhật ản, Đài Loan, Hàn
Quốc, và dĩ nhiên là cả Hoa Kỳ, đều biết
đến. ó điều, Phở Hòa khẳng định, hoàn
toàn không thành lập chi nhánh nào tại
nƣớc ngoài. Nếu đúng nhƣ vậy thì những
tiệm mang tên Phở Hòa tại Mỹ, Öc và
Pháp đã „mạo nhận‟ hay đây chỉ là một
sự… trùng tên ngoài ý muốn?
Khách ăn Phở Hòa, ngoài ngƣời Việt còn
có cả ngƣời nƣớc ngoài, có lẽ vì vậy mà
giá cả cao vút? (khoảng 45.000 một tô so
với những nơi khác, bình thƣờng tiệm
nào cao lắm cũng chỉ đến 30.000 đồng!).
Phở Hòa chỉ chuyên loại phở bò, nếu vào
đây mà tìm tô phở gà thì không có.
Khách phải chịu khó ra đƣờng Hiền
Vƣơng (bây giờ đổi tên là Võ Thị Sáu),
đến tiệm Hƣơng ình, „chuyên trị‟ phở
gà.
Phở gà
Nói đến phở Sài Gòn tại khu vực trung
tâm, phải nói đến tiệm Phở 79, ngay tại
số nhà 79 trên đƣờng Võ Tánh. Khoảng
năm 1952, tiệm Phở 79 mở cửa, khi đó
nền nhà của tiệm còn thấp hơn mặt
đƣờng. hỉ vài năm sau tiệm phát đạt,
chủ nhân mua hai nhà bên cạnh, mở lớn
thành tiệm Phở 79 khang trang và có thể
nói là một trong những tiệm phở sạch
nhất Sài Gòn thời đó.
Hội Ngƣời Việt Richmond 90 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Trƣờng Sinh ngữ Quân đội có chi nhánh
ở đƣờng Nguyễn Văn Tráng rất gần với
Phở 79 tại khu vực Ngã sáu Sài Gòn. Gần
Phở 79 tôi nhớ còn có nhà mồ của Á
Thánh Matthew Gẫm. Nơi đây, (tiệm Phở
79 chứ không phải nhà mồ!) đám giảng
viên chúng tôi thƣờng xuyên ăn sáng, ăn
trƣa và cả ăn tối mỗi khi „ứng chiến‟ tại
trƣờng.
Phở tại đây đƣợc đánh giá là… „ăn
đƣợc‟. Nếu ai „ăn không đƣợc‟ thì chịu
khó đi thêm vài bƣớc ra Ngã Sáu, nơi đây
có đủ các món ăn chơi thuộc loại bình
dân, từ phở, hủ tiếu cho đến mì và có cả
xe… bánh mì mua về trƣờng nằm gậm
trong những đêm ứng chiến!
Gần ngã tƣ Phú Nhuận có phở Quyền
trên đƣờng Võ Tánh (thuộc quận Phú
Nhuận), cách cổng phụ của Tổng tham
mƣu chừng 100 mét. Tôi thƣờng ghé ăn
nơi đây mỗi khi về trụ sở ch nh của
Trƣờng sinh ngữ trong Tổng tham mƣu.
Nƣớc phở ở đây rất đậm đà, vị ngọt là
của xƣơng ống chứ không phải vì bột
ngọt. Phở Quyền còn có cả món „tái sách
tƣơng gừng‟ đƣợc xếp vào loại… trứ
danh.
on cháu của một số gánh phở nổi tiếng
Hà Nội đã vào Nam lập nghiệp năm
1954, trong cơ hội lịch sử này có phở Tàu
ay. Vốn là quán phở do ông nội mở vào
1950 ở Hà Nội, khi di cƣ vào Nam, ông
chủ quán đƣợc ngƣời bạn thân tặng cho
chiếc mũ bay. Ông thƣờng xuyên đội nó,
khách thấy lạ, gọi ông “Tàu bay” rồi chết
tên thành tên quán.
Phở Tàu ay ở đƣờng Lý Thái Tổ ngày
nay vẫn bán và khách quen ngày nào vẫn
chịu khó mò đến đây để tìm lại hƣơng vị
đặc thù. Phải nói Phở Tàu ay rất… hiếu
khách. Gọi thêm nƣớc béo, nhà phở đem
ra cả tô chứ không bằng chén nhỏ nhƣ
những tiệm khác. Tô đặc biệt của Tàu
ay lại là tô „Xe Lửa‟, bánh và thịt trên
mức hậu hĩnh.
Việt Nam có Phở Tàu ay, có tô Xe lửa
thì bên Mỹ có phở… Xe Tăng (Tank
Noodle)! ạn không tin ƣ? Xin có tấm
hình chụp tại hicago làm bằng chứng:
Phở Xe Tăng tại Chicago
Ở Houston, Texas, còn có Phở Dũng. ái
tên đối với ngƣời Việt chẳng có gì phải
bàn nhƣng khổ nỗi ngƣời Mỹ lại cắc cớ
không quen với việc bỏ dấu trong tiếng
Việt khiến Phở Dũng thành Pho Dung.
Mà „dung‟ thì eo ôi, cái chất thải của con
bò, mất vệ sinh quá. hắc thế nào cũng
có anh Mẽo thắc mắc chui vào quán để
tìm cảm giác lạ. ũng xin đ nh kèm một
tấm ảnh để ngƣời viết khỏi bị mang tiếng
là… ăn không nói có:
Phở Dũng tại Houston
Hội Ngƣời Việt Richmond 91 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
hẳng đâu „kỳ cục‟ bằng xứ cờ hoa. Tô
phở to bằng cái thau và giá có nơi lên đến
$22 (3XL Pho Challenge, 2 pounds of
meat and 2 pounds of noodles)! Không
dám nói ngoa. Tôi đã đƣợc xem một
video clip trên YouTube có cảnh cô gái
„ngụp lặn‟ trong thau phở nhƣng cuối
cùng cũng chỉ ăn đƣợc… nửa thau! Mỹ
“thật” cũng chƣa chắc ăn hết chứ nói gì…
mít!
Thực khách kéo cờ trắng đầu hang trước những ‗thau‘ phở tại Phở Challenge (Mỹ)
♦ ♦ ♦
Theo tôi, phở ngon nhờ… nƣớc phở. Tôi
có thói quen mỗi khi ăn phở là phải dùng
muỗng múc một thìa nƣớc phở, nếm thử
xem có hợp với sở th ch của mình hay
không. Nói không ngoa, với tôi, thìa đầu
tiên đánh giá cả một tô phở.
Tái, ch n, nạm, gầu, sụn, sách thì tiệm
phở nào cũng có nhƣng nƣớc phở là b
quyết riêng của mỗi chủ tiệm. ỏ húng
lìu nhiều quá cũng mất ngon vì nếm thử
đã thấy vị giống nhƣ mùi thuốc bắc. ho
bột ngọt nhiều sẽ át mất vị ngọt tự nhiên
của xƣơng bò. Ăn một tô phở có nhiều
bột ngọt sẽ khiến ngƣời ta phải uống
nhiều nƣớc vài giờ sau đó.
Tƣơng đỏ, tƣơng đen chỉ làm bát phở
thêm màu sắc chứ không thể làm phở
ngon hơn. Ấy là chƣa kể những trƣờng
hợp tiệm phở dùng loại tƣơng rẻ tiền
hoặc tƣơng để lâu ngày có vị chua chua
làm hỏng cả tô phở. Tôi th ch ăn phở phải
cho một chút nƣớc béo mới ngon. Ngày
xƣa, cholesterol hãy còn là một danh từ
xa lạ nên khách cứ thoải mái gọi thêm
một chén nƣớc béo vàng ngậy.
'Phụ tùng' phở
ách ăn phở xem ra cũng cầu kỳ chứ
không đơn giản nhƣ ngƣời ta nghĩ. ác
bà, các cô vốn là „yểu điệu thục nữ‟ nên
thƣờng gắp bánh phở lên muỗng, bỏ một
miếng thịt và chan thêm t nƣớc trƣớc khi
đƣa lên miệng. Ngày nay, kiểu ăn phở
này rất hiếm thấy ở phái nữ. ó lẽ nhịp
sống „hiện đại‟ không cho phép ngƣời ta
„câu giờ‟, kiểu cách… Nhìn kiểu ăn
„hùng hục‟ ngày nay lại chạnh lòng nhớ
tới những tiểu thƣ ngày nào!
Thì ra ăn phở cũng là một nghệ thuật. Ăn
thế nào để ngƣời đối diện chia sẻ đƣợc
cái ngon của phở. Riêng tôi, chỉ tiếc một
điều là bây giờ đã luống tuổi, răng cỏ
lung lay, cái còn cái mất, nên không thể
thƣởng thức những món „tuyệt chiêu‟
nhƣ sụn, sách (nhất là món tái sách tƣơng
gừng) mà chỉ dám nhai trệu trạo tái bằm,
thịt ch n nhừ. Giờ mới thấy rõ, tuổi già
chịu nhiều thua thiệt, mất mát. Khổ một
nỗi là những mất mát này dù có tiền, có
của, có danh vọng cũng không thể nào bù
đắp đƣợc.
Hội Ngƣời Việt Richmond 92 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Tiện đây cũng xin kể lại một chuyện
thuộc loại tiếu lâm nhƣng lại cƣời ra
nƣớc mắt đối với các đấng trƣợng phu
thuộc lứa tuổi „thất thập cổ lai hy‟ và khi
đó thì… „lực bất tòng tâm‟. huyện cũng
đề cập tới „hƣu non‟, một hiện tƣợng
thƣờng thấy trong chế độ xã hội chủ
nghĩa khi cán bộ, vì lỡ tham nhũng, nên
tìm cách „hạ cánh an toàn‟.
Truyện xuất phát từ một buổi họp tổng
kết sau 70 năm hoạt động của… cơ thể
(chứ không phải của… cơ quan). ác bộ
phận trong ngƣời lần lƣợt lên phát biểu.
Ðầu tiên là „đồng ch ‟ não bộ: "Tôi được
sinh ra cùng lúc với con người và đóng
một vai trò quan trọng. Tôi là cơ quan
điều hành mọi hoạt động của con người
và cho đến bây giờ tôi vẫn hoạt động tốt.
Tôi xin được tiếp tục phục vụ cách
mạng".
Kế đến là „đồng ch ‟ tim: "Tôi cũng được
sinh ra cùng lúc với con người, tôi giữ
một nhiệm vụ cũng không kém phần quan
trọng. Tôi giúp việc tuần hoàn máu để
nuôi sống cơ thể và các bộ phận khác.
Ðến nay, tôi vẫn hoạt động tốt, tôi xin
tiếp tục được cống hiến".
Sau khi các bộ phận khác cũng lần lƣợt
lên phát biểu, hội nghị rơi vào yên lặng.
Thế rồi có một giọng nói yếu ớt phát ra từ
ph a bên dƣới: "Xin thưa các đồng chí,
tôi cũng được sinh ra cùng với con người
nhưng tới năm 20 tuổi tôi mới được làm
việc. Công việc của tôi rất là vất vả và
nặng nhọc, phải làm việc trong đường
hầm tăm tối, ẩm ướt và trơn trợt. Cho
nên, bây giờ tôi không còn khả năng để
phục vụ nữa, tôi xin… VỀ HƯU!”.
ác bộ phận khác nghe thế vội phản đối,
có đồng ch đập bàn nói: "Ai? Có ngon
thì ngóc đầu đứng dậy nói ‗nớn‘ xem
‗lào‘? ‗Nàm‘ việc mới có 20 năm mà đã
đòi về hưu? Thế ‗nà‘ thế ‗lào‘?"
Giọng nói yếu ớt ấy lại vang lên: "Xin lỗi
các anh, nếu em có thể ngóc lên được thì
em xin về hưu để làm gì!"
ộ phận này ngày nay còn đƣợc gọi nôm
na là… trên bảo dưới không nghe! (Mạn
phép tr ch dẫn lời cựu Thủ tƣớng Phan
Văn Khải khi ông phê bình nhiều địa
phƣơng không tuân theo sự chỉ đạo của
trung ƣơng).
♦ ♦ ♦
Xin trở lại chuyện món ngon Sài Gòn
xƣa. Kể từ khi ngƣời ắc di cƣ vào Nam,
tiệm phở đánh bạt các tiệm hủ tiếu, vốn
là món „đặc sản‟ của miền Nam. ác tiệm
hủ t u nổi tiếng Sài Gòn phải kể đến hủ
t u Thanh Xuân đƣờng Tôn Thất Thiệp
(gần chùa hà Và), hủ t u Phạm Thị
Trƣớc ở đƣờng Lê Lợi (khúc gần
Pasteur), hủ t u Gà á ở đƣờng Hàm
Nghi gần khu Ngân hàng Quốc gia và hủ
t u Thanh Thế trên đƣờng Nguyễn Trung
Trực...
ó ngƣời đến hủ t u Phạm Thị Trƣớc gọi
thêm bánh pâté chaud ăn kèm, cũng
giống nhƣ hủ t u Gà á. Tuy nhiên, mỗi
tiệm hủ t u đều có hƣơng vị riêng khiến
một khi khách đã „kết‟ thì khó đi ăn nơi
khác. Hủ tiếu Sài Gòn sáng nào cũng
Hội Ngƣời Việt Richmond 93 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
đông ngƣời đến thƣởng thức, không cần
đợi đến những ngày cuối tuần.
Thƣờng thì hủ t u có bánh mềm, chỉ riêng
hủ t u Thanh Xuân hay Mỹ Tho thì thêm
bánh dai, nấu khô hay nƣớc, tùy theo ý
th ch của khách. hỉ nhìn dĩa rau dọn lên
trƣớc thì cũng thấy bắt mắt: giá, hẹ, rau
cần tàu, tần ô và vài cọng sà lách. Thêm
vào đó, mùi nƣớc lèo xông lên nhƣ đập
vào khứu giác thực khách làm cho bụng
cứ gào thét nhƣ… mèo đêm động đực...
Ngƣời bồi bàn bƣng mâm ra để tô hủ t u
trên bàn, mùi nƣớc lèo xông lên mũi, nếm
thử „nghe‟ đƣợc mùi thơm của nƣớc lèo,
thêm chút gia vị vào và cầm đũa ngay.
Hủ t u Thanh Xuân thì phải có rau tần ô,
rau cần tàu, giá sống. Hủ t u Phạm Thị
Trƣớc hay Thanh Thế cũng thế, nhƣng
không có rau tần ô. Riêng hủ t u Gà á
thì chỉ có giá sống.
Tuy nhiên, các thứ hủ t u nếu thiếu vài
miếng tóp mỡ và cải bắc thảo thì hình
nhƣ thiếu mất cái gì đó. Nƣớc lèo vừa
ngọt của xƣơng, vứa béo của chất tủy từ
ống xƣơng, thoang thoảng chút mùi của
con mực, tôm khô, hào khô và củ cải.
Những thứ ấy quyện vào nhau thành một
thứ nƣớc lèo hấp dẫn của tô hủ t u.
Hủ tiếu loại „bình dân‟ thì có những xe
hủ t u bán dạo. Từ mờ sáng cho đến khi
màn đêm buông xuống, nghe tiếng rao...
lòng thấy nao nao! Sau 1975, Sài Gòn
còn có hủ tiếu „gõ‟ là những xe hủ tiếu tại
các khu lao động. Mỗi xe hủ tiếu có vài
cậu bé đi khắp hang cùng ngõ hẻm trên
tay cầm cục sắt và gõ những âm thanh
không khác gì kiểu „xực tắc‟ gõ bằng ống
tre của Sài Gòn xƣa.
Những ngƣời bán hủ tiếu „gõ‟ ngày nay
đều là dân nhập cƣ từ Quảng Nam,
Quảng Ngãi, ình Định. Vào Sài Gòn, họ
sống tập trung thành xóm và cứ mỗi buổi
chiều, tiếng „gõ‟ của họ có mặt khắp các
ngõ hẻm Sài Gòn. Những đứa trẻ tháp
tùng xe hủ tiếu ngày nào cũng phải đi bộ
đến hàng chục cây số nếu t nh khoảng
cách đi „gõ‟ và đi bƣng. òn đâu thì giờ
đến trƣờng nhƣ các bạn đồng trang lứa?
Một ngày làm việc của xe hủ tiếu „gõ‟
chấm dứt vào khoảng 1 giờ sáng. Đẩy xe
hủ tiếu về, dọn dẹp, rửa xong hết mọi
thứ, 3 giờ sáng mới đƣợc „ngả lƣng‟ cho
tới 9 hoặc 10 giờ sáng hôm sau, thức dậy
chuẩn bị cho cữ trƣa đi bán. Rồi lại làm
quần quật cho tới 2 giờ sáng hôm sau mới
đi ngủ. Ngày nào cũng nhƣ ngày nấy,
suốt 7 ngày một tuần…
♦ ♦ ♦
Đối với tôi, một món cũng thuộc loại
„khoái khẩu‟ ở Sài Gòn là… bánh mì thịt
nguội, trong đó có cả jambon, xúc x ch,
patê ăn kèm với sốt mayonaise và đồ
chua! ánh mì thịt nguội ăn sẽ ngon hơn
nếu bạn có thì giờ ngồi nhẩn nha tại tiệm:
các loại thịt bầy trên đĩa trắng tinh kèm
thêm một cục sốt bên cạnh dao, nĩa sạch
bóng. ẻ một miếng bánh mì còn nóng,
trét sốt lên trên rồi một lớp patê, sau đó
cắt một miếng jambon… đƣa vào miệng.
Tuyệt cú mèo!
Một trong những tiệm bán bánh mì thịt
nguội có tiếng ở Sài Gòn từ năm 1954 và
còn tồn tại đến ngày nay là Hòa Mã.
Hội Ngƣời Việt Richmond 94 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Tiệm Hòa Mã nằm trên đƣờng ao
Thắng, gần khu vực àn ờ, nơi có
những địa điểm nổi tiếng nhƣ Kỳ Viên
Tự, Tam Tông Miếu, Trƣờng Aurore, ƣ
Xá Đô Thành, Nhà ảo Sanh Đức h nh,
Xe ánh Mì Tám Lự, Quán ánh tôm,
Miến lƣơn, ánh cuốn ổng xe lửa Phan
Đình Phùng (ngày nay là Nguyễn Đình
hiểu).
Ngày nay, Hòa Mã không khác xƣa là
mấy. Hòa Mã cũ kỹ, bảng hiệu phai màu
theo năm tháng vì đã tồn tại hơn 50 năm
kể từ ngày mở cửa. Nhiều ngƣời nói chủ
nhân Hòa Mã là ngƣời đầu tiên bán
những ổ bánh mì thịt kiểu Sài Gòn. Ngay
đến bà Nguyễn Thị Dậu, chủ nhân hiệu
bánh mì Nhƣ Lan nổi tiếng thời bây giờ,
cũng đã từng tâm sự, ngày xƣa bà rất mê
bánh mì Hoà Mã. Lúc nhỏ, bà Dậu
thƣờng đến mua bánh mì Hòa Mã và ƣớc
ao ngày nào đó mình cũng có một cửa
hàng nhƣ tiệm Hòa Mã.
Năm 1954, vợ chồng ông Lê Minh Ngọc
và bà Nguyễn Thị Tịnh, di cƣ vào Nam.
Trƣớc đó, bà Tịnh làm ở hãng thịt nguội
chuyên cung cấp thực phẩm cho các nhà
hàng Pháp ở Hà Nội. Khi vào Sài Gòn,
hai ông bà đã có sẵn ý định mở cửa hàng
bán bánh mì thịt nguội.
Năm 1958, cửa hàng bánh mì thịt nguội
mang tên Hoà Mã (tên một làng ở ngoại ô
Hà Nội) tọa lạc tại số 511 Phan Đình
Phùng, nay là Nguyễn Đình hiểu, quận
3. Sau đó hai năm, tiệm dời về số 53 ao
Thắng cho đến nay. Hòa Mã nổi tiếng
đến độ tên của quán trở thành tên con
hẻm.
Tiệm Hoà Mã gọi ổ bánh mì thịt của
mình là cát-cút, dùng theo tiếng Pháp
cassecroute, bữa ăn lót dạ, bữa ăn nhẹ.
Những năm 60, giá bán một ổ bánh mì
Hòa Mã là 3 đến 5 đồng, ổ lớn có bơ tƣơi
thì 7 đến 10 đồng.
Ngày nay, bác Ngọc đã qua đời, còn bác
Tịnh vẫn giữ tiệm Hòa Mã y nhƣ cảnh
tiệm trƣớc năm 1975, giống y nhƣ bác:
răng đen, đầu vấn khăn. ác không muốn
sơn phết, sửa sang lại tiệm, dù bác dƣ sức
làm việc đó. ó thể ch nh vì thế mà
những khách quen gắn bó với Hoà Mã
hơn bánh mì Hà Nội.
Tiệm bánh mì Hà Nội nằm trên đƣờng
Nguyễn Thiện Thuật gần đó. So với Hòa
Mã, bánh mì Hà Nội bây giờ hào nhoáng
hơn, lớn hơn, nhƣng không còn cho
khách ngồi ăn tại chỗ, chỉ bán bánh mì
mang đi. Hà Nội ngày nay bán nhiều thứ
chứ không phải chỉ có bán bánh mì thịt
nguội nhƣ trƣớc năm 1975. Trong khi đó
Hoà Mã bé nhỏ, gọn gàng, khiêm
nhƣợng, phong sƣơng với dấu vết thời
gian tiêu điều, già lão vẫn cứ trơ gan
cùng nắng bụi Sài Gòn.
Tiệm bánh mì Hòa Mã
(Ảnh chụp năm 1960)
Hội Ngƣời Việt Richmond 95 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Đặc điểm của Hòa Mã là chỗ ngồi chỉ là
những cái bàn nhỏ kê dọc theo vách
tƣờng ngay trên con hẻm ph a bên hông
tiệm, chỉ độ 6 hay 7 bàn, còn trong tiệm
chỉ khoảng 2 bàn để khách ngồi ăn. ây
giờ thì khách đến Hòa Mã chủ yếu là mua
mang về, chỉ còn lại một số t khách có
thì giờ ngồi nhâm nhi bánh mì thịt nguội
kèm ly cà phê sữa nóng, cà phê đá hoặc
trà đá. Phần thịt nguội cũng đƣợc tăng
cƣờng thêm món giò, chả và cả trứng ốp-
la.
Xe bánh mì Tám Lự gần chợ àn ờ chỉ
bán từ xẩm tối đến đêm khuya. Một ổ
bánh mì Tám Lự dài cỡ 4 tấc, hai gang
tay, tối ăn vào no đến sáng. ánh mì
ngon, ngoài pâté chả lụa, pâté foie, bơ
retel còn thêm dƣa leo, ngò, hành lá,
nƣớc tƣơng, muối tiêu, ớt xắt. Ngày xƣa
khách chỉ cần nói: “ ho một Tàu lặn hay
một Tiềm thuỷ đĩnh đi, anh Tám!” là
khách sẽ có ngay một ổ bánh mì nóng
dòn, thơm phức.
Nếu muốn sang hơn thì lên ánh mì Paté
Tòa đô ch nh trên đƣờng Nguyễn Huệ
hoặc tiệm bánh Hƣơng Lan trên đƣờng
Tự Do hay ngồi Thanh ạch đƣờng Lê
Lợi (gần ệnh viện Sài Gòn). hỉ cần gọi
đĩa bánh mì thịt nguội kèm theo một ly cà
phê sữa đá là đủ no cho đến trƣa. Thanh
ạch vẫn là nơi lý tƣởng để vừa ăn sáng
vừa ngắm cảnh ngƣời Sài Gòn sửa soạn
cho một ngày mới.
ánh mì thịt ngày nay đã chạy sang tận
Hoa Kỳ, nơi có nhiều ngƣời Việt định cƣ
sau năm 1975. ánh mì thịt trở thành một
trong những món ăn „quốc hồn, quốc túy‟
của ngƣời Việt tại hải ngoại. Ngƣời Mỹ
gọi đó là Vietnamese aguette
Sandwiches: sự kết hợp của bánh
baguette có xuất xứ từ Pháp cộng với các
lọai nhân do ngƣời Việt sáng tạo.
Ở những nơi có đông ngƣời Việt định cƣ,
nhƣ tiểu bang alifornia hay Texas, đã
thấy xuất hiện những thƣơng hiệu nhƣ
Bánh mì Ba Lẹ, Bánh mì Sài Gòn...
nhƣng nổi tiếng hơn cả là hệ thống các
cửa hàng mang tên Lee‘s Sandwiches do
một ông chủ họ Lê, đƣợc Mỹ hóa thành
Lee, đứng ra kinh doanh.
Lee‘s Sandwiches tại Mỹ
Ngoài món bánh mì thịt, Lee‟s
Sandwiches còn có bánh mì paté,
jambon, chả, xúch x ch, x u mại, cá mòi...
đi kèm với các thức uống nhƣ cà phê đen,
cà phê đá, cà phê sữa đá và các lọai nƣớc
sinh tố nhƣ xòai, dâu, cam, đu đủ...
Sau hơn 30 năm kinh doanh trên đất Mỹ,
ngày 8/8/2008, vào lúc 8 giờ 8 phút,
Lee‟s Sandwiches đã có mặt tại hợ ũ,
số 80 Hàm Nghi, Quận 1, với bảng hiệu
Lee*s offee. Không phải chỉ ngƣời
Trung Quốc mới biết chọn ngày khai mạc
Thế vận hội với tòan số 8, Lee‟s
Sandwiches cũng biết chọn cho mình một
ngày khai trƣơng tƣng bừng với toàn số
8!
Hội Ngƣời Việt Richmond 96 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Lee*s Coffee tại Sài Gòn
ánh mì Nhƣ Lan ở Melbourne giá 4 đô
Úc một ổ. Quy ra tiền Việt thì quá mắc
(khoảng 60.000 đồng) nhƣng nếu so với
mức lƣơng trung bình của ngƣời lao động
tại Öc, từ 6 đến 8 đô một giờ, thì cái giá
bánh mì 4 đô lại là điều bình thƣờng!
Melbourne còn có hiệu bánh mì a Lẹ,
nhƣng Nhƣ Lan vẫn là hiệu bánh mì số
một tại khu Footscray vốn là trung tâm
sinh hoạt của ngƣời Việt tại Melbourne.
Ngƣời Việt tại Öc có nhiều kiểu bánh mì:
thịt nguội (mixed ham), nem nƣớng
( Q kebab), sƣờn nƣớng ( Q pork),
x u mại (meatballs), gà rôti (chicken +
onion), gà nƣớng ( Q chicken), bì heo
(shredded pork), trứng (scrambled egg)...
kèm theo đầy đủ „đồ phụ tùng‟ nhƣ rau
xà lách, dƣa leo, đồ chua, hành, ngò...
Ngƣời ăn khỏe có thể chọn bánh mì đặc
biệt (special combo) còn ngƣời ăn chay
thì có bánh mì chay (vegetarian) nhân
gồm đậu hũ (tofu) và các loại rau.
♦ ♦ ♦
Sài Gòn xƣa có 2 tiệm Thanh ạch, một
ở đƣờng Lê Lợi, bên rạp xi-nê Vĩnh Lợi.
Tiệm Thanh ạch thứ hai ở đƣờng Phạm
Ngũ Lão, trong dẫy phố trệt dƣới tòa
soạn nhật báo Sàigòn Mới năm xƣa.
Ngoài bánh mì ốp-la, ôm-lết, thịt nguội,
Thanh ạch có bánh mì bò kho, tức
ragout, hủ t u và đặc biệt là món suông.
ún suông dùng xƣơng heo để nấu nƣớc
lèo, và đặc biệt ở đây là dùng tôm tƣơi lột
vỏ, bỏ đầu, bằm nhuyễn sau đó vo lại
thành sợi dài (nhƣ sợi bún). Nƣớc lèo ở
đây rất trong, ăn kèm với rau sống...
Nhà hàng Tài Nam trên đƣờng Ohier
(Tôn Thất Thiệp) nổi tiếng với món
đuông chà là chiên bơ rất ngon nhƣng
cũng rất mắc tiền. Theo nhà văn Sơn
Nam, vua chúa cũng còn thèm „con
đuông chà là‟, tên chữ là „hồ đa tử‟. Hồ
đa là cây dừa rừng, tức cây chà là hoang
thƣờng mọc miền nƣớc mặn Nam bộ,
giống nhƣ cây cau kiểng. ây dừa rừng
có „củ hũ‟, tức đọt non, đến mùa sau Tết
thƣờng xuất hiện con đuông, giống nhƣ
con nhộng. Đuông ăn đọt dừa non nên to,
mập và thƣờng đƣợc bắt trƣớc khi nở
thành bƣớm.
Sơn Nam viết: “Đem đuông nướng trên vỉ
sắt, cho héo, rồi ăn, chấm với nước mắm
nhĩ nguyên chất. Con đuông béo ngậy vì
tăng trưởng, ăn ròng củ hũ cây chà là.
Nay thấy ở vài quán nhậu bày bán với
giá 8.000 đồng/một con!‟. Nhƣ vậy, món
bún suông ở Thanh ạch chỉ là món giả
đuông làm bằng tôm, tƣơng tự nhƣ món
„giả cầy‟ miền ắc nấu bằng giò heo (?).
Tiệm Tri Kỷ có „đặc sản‟ là món rắn nhƣ
cháo rắn nấu với đậu xanh, lòng rắn xào,
thịt rắn xào sả ớt, rắn hầm thuốc ắc, lẩu
rắn… ho đủ bộ sƣu tập rắn phải gọi
rƣợu đế hoặc rƣợu Tây trộn với máu rắn!
Tại Tri Kỷ, chủ quán rất nặng phần trình
diễn, gọi đầu bếp đem rắn ra trƣớc bàn
tiệc, con rắn hổ dài gần 2m. Trong khi
biểu diễn cho đầu con rắn ngóc tới ngóc
lui theo bàn tay điều khiển điêu luyện của
ngƣời đầu bếp thì... phập một cái, lƣỡi
dao bén ngọt đã chém phăng cái đuôi con
rắn.
Hội Ngƣời Việt Richmond 97 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Liền khi đó, một ngƣời khác đƣa rƣợu
vào ngay để kịp hứng tia máu đầu tiên
của con rắn. ứ vậy, máu từ đuôi rắn
tuôn vô bình rƣợu nhuộm thành màu đỏ
cho tới khi con rắn xuội lơ, máu chỉ còn
nhỏ giọt. Nghề „ăn uống‟ thời nay cũng
lắm công phu nhƣng, thật tình mà nói,
cũng quá thô bạo, dã man chẳng kém gì
„trảm mã trà‟ ngày xƣa!
Lƣơn, rùa, ếch, rắn là 4 món hoang dã
trong „văn hóa ẩm thực‟ miền Nam,
ngoài ra còn phải kể đến món chuột đồng
là món luôn luôn hiện diện trong thực
đơn của Tri Kỷ. Loại chuột này chỉ ăn
toàn lúa và cỏ non, nên rất sạch chứ
không nhƣ chuột thành phố sống chui rúc
trong cống rãnh, bạ cái gì cũng ăn, ta gọi
là „ăn tạp‟. huột cũng phục vụ nhiều
món nhƣ nƣớng rơm, đút lò, xào chua
ngọt…
Hồi xƣa có tin đồn những xe bò viên
dùng toàn thịt chuột, mà lại là chuột
cống! à con một dạo đã ngoảnh mặt với
bò viên khiến các xe bò viên phải chế ra
trò „đổ x ngầu ăn bò viên‟. ó lẽ đây là
tiền thân của phƣơng cách tiếp thị thời
nay: bật nút bia trúng… xe hơi Mercedes!
Xe đâu không thấy chỉ thấy lủng túi bợm
nhậu, mà dù có trúng cũng mất hết tình
bạn nhậu vì ai là ngƣời ch nh thức đứng
tên lãnh xe hơi trong đám đệ tử Lƣu
Linh?
Nói đến chuột, tôi nhớ đến thời cải tạo tại
Trảng Lớn. Hồi những ngƣời cải tạo mới
đổ bộ lên căn cứ cũ của Sƣ đoàn 25 ộ
binh tại Tây Ninh, chuột ở đây vẫn còn
nhiều và là nguồn cung cấp thịt „miễn
ph ‟ cho đám cải tạo đói ăn! Dĩ nhiên,
đây không phải là loại chuột đồng vì
chúng sinh trƣởng tại phố thị. Thật tình,
tôi chƣa bao giờ có dịp thƣởng thức món
chuột Trảng Lớn nhƣng theo lời mấy ông
bạn tù, „thịt chuột ở Trảng Lớn không
thua gì món chuột đồng ở Tri Kỷ!‟.
Vùng Thanh Đa ( ình Thạnh) nổi tiếng
khắp Sài Gòn với món cháo vịt, gỏi vịt.
Vào buổi tối ngƣời Sài Gòn hay ra bán
đảo Thanh Đa trƣớc là để đón những
luồng gió mát từ sông Sài Gòn thổi vào
và khi về, ghé mấy quán cháo vịt, gọi
thêm đĩa gỏi vịt ăn kèm. Nếu là „bợm
nhậu‟ thì gọi thêm chai bia on cọp GI
để… đƣa cay. Nếu ngại ra Thanh Đa thì
trên đƣờng Hồng Thập Tự (nay là
Nguyễn Thị Minh Khai) cũng có khu bán
cháo vịt thuộc loại… „ăn đƣợc‟. Thịt vịt
tại đây khá mền, nhai kỹ thấy ngọt và đặc
biệt không thấy nùi hôi vốn có của thịt
vịt. ó thể họ tuyển loại vịt chạy đồng
nên không hôi (?).
Đinh ông Tráng là một con đƣờng nhỏ
gần nhà thờ Tân Định nhƣng cũng đi vào
lịch sử ăn uống của Sài Gòn với món
bánh xèo. quyết của bánh xèo nằm ở
kỹ thuật pha bột, sao cho khi chiên lên,
bánh dòn tan khiến ngƣời ăn có thể cảm
đƣợc cái thú nghe miếng bánh đang đƣợc
nhai dƣới hai hàm răng. Lớp bột gạo pha
chút nghệ khi đổ vào chảo dầu tạo nên
một tiếng „xèo‟ khiến ta hiểu đƣợc tại sao
lại gọi là... bánh xèo!
Bánh xèo
Hội Ngƣời Việt Richmond 98 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Dù trên bàn có đầy đủ muỗng, đũa nhƣng
để ăn bánh xèo đúng điệu là phải dùng
tay. Rau xà lách hoặc cải bẹ xanh thay
cho bánh tráng, thêm vài cọng rau thơm,
chuối non, khế chua... sau đó ngắt một
miếng bánh xèo để cuộn lại thành cuốn.
Trƣớc khi ăn, cuốn đƣợc chấm vào chén
mắm đƣợc pha chế với trái thơm, ngƣời
không ăn đƣợc mắm có thể dùng nƣớc
mắm trộn đồ chua. Sau mỗi miếng bánh
có thể nhắp thêm một ngụm bia có tác
dụng làm tiêu hao lƣợng dầu mỡ để tiếp
tục chiến đấu với miếng kế tiếp. hừng 3
hay 4 lần gói là thấy cả chiếc bánh xèo
vàng ngậy đã biến mất trên đĩa...
Ngày nay đƣờng Đinh ông Tráng trở
thành „đƣờng bánh xèo‟ nhƣng ngƣời
sành ăn thì chọn quán bên tay trái, nếu đi
từ đƣờng Hai à Trƣng vào. Quán không
tên nhƣng ngƣời ăn vẫn nhớ vì nó đã đi
vào „bộ nhớ‟ của ngƣời Sài Gòn từ bao
năm nay. Những quán đối diện bên kia
đƣờng trông có vẻ lịch sự hơn, sạch sẽ
hơn nhƣng vẫn chịu cảnh vắng khách vì
là kẻ… hậu sinh.
Sài Gòn ngày nay còn có nhiều quán
bánh xèo nhƣ Bánh xèo Bà Mười Xiềm đã
từng đem chảo sang tận Mỹ để biểu diễn,
hệ thống bánh xèo Ăn Là Ghiền với mạng
lƣới cửa hàng khắp thành phố, bánh xèo
A Phủ… nhƣng có lẽ không đâu bằng
bánh xèo Đinh ông Tráng.
Khu Dakao có tiệm bánh cuốn Tây Hồ
(127 Đinh Tiên Hòang), gần chợ Đa Kao,
quận 1, đã nổi tiếng từ trƣớc 1975. Tại
đây, mỗi bàn có để sẵn một thẫu nƣớc
mắm và một chồng chén nhỏ để khách
tùy nghi sử dụng, thêm nhiều hay t ớt
bằm theo sở th ch riêng của từng ngƣời.
Tuy nhiên, có khách lại th ch chan luôn
nƣớc mắm vào đĩa để bánh cuốn thấm
nƣớc mắm, đậm đà hơn.
hả quế và giò lụa đƣợc cắt thành miếng
lớn, để riêng trong một đĩa nhỏ. Khách có
thể chỉ ăn bánh cuốn nhân thịt mà không
đụng tới đĩa giò chả, nhƣ vậy ngƣời phục
vụ nhìn vào đĩa chả còn nguyên mà
không t nh tiền. Nếu cần, có thể gọi thêm
đĩa bánh tôm hoặc bánh cuốn không
nhân. Đây cũng là một sáng kiến trong
việc phục vụ khách hàng.
Sài Gòn cũng có bánh cuốn Thanh Trì
kiểu ắc, mỏng nhƣ tờ giấy, ăn với
„ruốc‟ (chà bông) và nƣớc mắm phải kèm
với vài giọt cà cuống mới là „sành điệu‟!
òn bánh ƣớt là kiểu bánh cuốn bình dân
ở Sài Gòn, cũng ăn kèm với bánh tôm
chiên, giò, chả và rau, giá. Những xe
bánh ƣớt đƣợc đẩy đi khắp Sài Gòn, có
cả nồi hấp nên lúc nào bánh cũng nóng
và ngƣời bán bao giờ cũng chan nƣớc
mắm vào đĩa thay vì chấm kiểu „thanh
cảnh‟ nhƣ bánh cuốn Thanh Trì.
Bánh cuốn Thanh Trì
Lại nói thêm, đƣờng Albert (vào thời Đệ
nhất ộng hòa đổi tên thành Đinh Tiên
Hoàng) khá dài nên dọc theo con đƣờng
này có nhiều địa chỉ ẩm thực nổi tiếng.
Tiệm ăn hez Albert (lấy tên theo con
đƣờng), à-phê Hân (đƣợc nói đến trong
Chương 8: Thời điêu linh), Mỳ ây Nhãn
(tên đặt theo cây nhãn hồi đó còn trồng
Hội Ngƣời Việt Richmond 99 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
trƣớc sân), Thạch chè Hiển Khánh (nơi
sƣu tầm rất nhiều thơ ca tụng thạch
chè)… Tôi chắc chắn còn bỏ quên khá
nhiều điểm ăn uống khác nữa trên con
đƣờng này.
Ở góc đƣờng Tôn Thất Ðạm và Hàm
Nghi ngày nay, trƣớc kia vào thập niên
30 có một quán cháo cá nổi tiếng một
thời. uổi chiều cho đến gần khuya,
khách đến ăn rất đông, nhất là gần khuya
khi cải lƣơng, hát bội, hát bóng vãn hát.
Theo Vƣơng Hồng Sển trong Sài Gòn
Tạp Pín Lù, quán cháo cá này của ngƣời
Tàu, gốc Quảng Đông, “cha truyền con
nối suốt bốn năm thế hệ, trót trăm năm
chớ không phải chơi…”. háo tại đây
nấu bằng gạo tấm hầm với cá, xƣơng heo
và thịt tôm hùm để thành một thứ hồ sền
sệt khiến “người đau mới mạnh dùng
không sợ trúng thực, người mệt mỏi ăn
vào cảm thấy nhẹ bụng, mau tiêu. Tô
cháo cá Chợ Cũ quả là một ‗tô thuốc
tráng thần‘…”
háo cá có thể nấu nhiều cách và tùy
theo từng loại cá. Đặc biệt phải có thật
nhiều tiêu để đánh tan mùi tanh của cá.
Ngƣời ta còn gia giảm thêm các loại rau
thơm nhƣ thìa là nếu nấu theo kiểu ắc.
Đôi khi có nơi còn dùng hành phi ngoài
hành lá, ngò và ớt say. Điều quan trọng là
cháo cá phải ăn lúc còn đang nóng để
giảm đi mùi tanh vốn có.
háo nóng hổi bốc hơi nghi nghút. Vừa
thổi vừa húp xì xụp mới thấy đƣợc cái
thú vị của món cháo cá hợ ũ. Thịt cá
giòn, thơm, lẫn lộn hƣơng vị của hành,
tiêu, gừng và có thể ăn với „dầu chá
quẩy‟. Thú thật, tôi là ngƣời th ch thịt
hơn cá nhƣng thỉnh thoảng đƣợc thƣởng
thức món cháo cá vẫn thấy ngon đến toát
mồ hôi!
ó một tiệm cháo giò heo khá nổi tiếng
trong ngõ đƣờng Phan Đình Phùng (ngày
nay là Nguyễn Đình hiểu). Tiệm không
có tên, chuyên bán cháo từ 6 giờ tối tới
một, hai giờ sáng. Khách của tiệm này đa
số là khách chơi đêm, khách đi nhẩy,
khuya về đói bụng đến ăn tô cháo nóng.
háo lòng cũng là món phổ biến trong họ
nhà cháo. Ngôn ngữ Việt Nam cũng có
thêm thuật ngữ „màu cháo lòng‟ để chỉ
một màu trắng nhợt nhạt, đùng đục, trông
hơi bẩn tựa nhƣ… màu của tô cháo lòng!
Nói đến lòng heo tôi lại nhớ đến món
„phá lấu‟ ở góc đƣờng Lê Lợi-Pasteur,
nơi đây còn có xe bò b a và nƣớc m a
Viễn Đông. án phá lấu là một chú Tàu
và „cửa hàng‟ của chú chỉ vỏn vẹn một
cái khay tròn, trên đó bầy đầy đủ nội tạng
heo: lòng, dồi, gan, bao tử, ruột non, ruột
già, tim, phèo, phổi… Trông thật hấp
dẫn, ngửi thơm phức và ăn vào thì dòn
tan. Phá lấu nói chung có vị hơi ngòn
ngọt, gan thì bùi bùi, lòng thì hơi dai dai
nhƣng khi nhai kỹ mới thấy ngon… thấu
trời xanh!
Phá lấu bán tại góc đường Lê Lợi-Pasteur,
cạnh nước mía Viễn Đông
Nghệ thuật làm phá lấu chắc chỉ mấy chú
ba mới đáng hàng „sƣ phụ‟. Phá lấu làm
tại nhà cũng ƣớp húng lìu, ngũ vị hƣơng
nhƣng không thể nào so sánh với phá lấu
góc nƣớc m a Viễn Đông. Từng miếng
phá lấu đƣợc ghim sẵn bằng que tăm,
Hội Ngƣời Việt Richmond 100 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
chấm với tƣơng đỏ trộn tƣơng đen.
Khách ăn xong chú a chỉ nhìn tăm mà
t nh tiền nhƣng tuyệt không bao giờ sai.
Quá bộ vài bƣớc là xe nƣớc m a tƣơi mát
đang chờ… để kết thúc một chuyến ăn
hàng bên lề đƣờng.
Nói đến chuyện ăn ở lề đƣờng phải kể
đến một món nữa là thịt bò khô hay
ngƣời Sài Gòn còn gọi là gỏi đu đủ khô
bò. Vốn là món khoái khẩu từ thời còn đi
học nên thịt bò khô cứ quanh quẩn trong
ký ức của tôi với tiếng „chách chách‟ của
tiếng kéo mỗi khi cắt thịt bò khô hay cắt
gan cháy.
Gần nƣớc m a Viễn Đông có xe thịt bò
khô của ông Năm (theo tên gọi của khách
quen) và sau 75 ông dời về đƣờng Tự
Đức (nay đã đổi tên là đƣờng Nguyễn
Văn Thủ) thuộc khu Dakao.
Một đĩa gỏi khô bò là sự pha trộn màu
sắc thật bắt mắt: màu vàng nhạt của
những sợi đu đủ bào, màu vàng đậm của
những hột đậu phọng, màu xanh của
húng quế cắt nhỏ, màu nâu cánh gián của
thit bò khô, gan cháy lại còn màu đỏ của
tƣơng ớt. Toàn bộ mảng màu đó đƣợc
pha trộn với một „dung dịch‟ hấp dẫn
gồm dấm ngâm tỏi trắng, màu đen của
nƣớc tƣơng, nƣớc mắm khiến ngƣời ăn
chỉ mới nhìn thôi mà nƣớc miếng đã tiết
ra đầy miệng.
Thịt bò khô (gỏi khô bò)
Ngƣời ta thƣờng „nói khôn ăn cái, dại ăn
nƣớc‟ nhƣng trong việc thƣởng thức món
thịt bò khô mà không húp hết nƣớc trong
đĩa là cả một thiếu sót lớn. Nƣớc trộn gỏi
còn trên đĩa là phần kết hợp các vị ngọt
của thịt, gan hòa với các loại gia vị và
nƣớc chấm khác. Đó mới là phần tinh túy
của một đĩa gỏi bò khô.
Dân chơi Sài Gòn thƣờng xếp hạng: “Ăn
quận 5, nằm quận 3, xa hoa quận 1‖ nên
viết về món ngon Sài Gòn mà bỏ qua khu
vực hợ Lớn là cả một thiếu xót lớn. Dọc
đƣờng Trần Hƣng Đạo nối với đƣờng
Marins (Đồng Khánh) thuộc địa phận
quận 5 có những nhà hàng, tửu lầu nổi
tiếng một thời nhƣ Arc-en- iel, Đồng
Khánh, Á Đông, át Đạt.
Nói đến khu này phải nhắc tới casino
„Grand Monde‟, hay còn gọi là Đại Thế
Giới, nơi tập trung „tứ đổ tƣờng‟, đánh
bạc thoải mái từ thời Pháp thuộc. Đại Thế
Giới ngày nay biến thành khu văn hóa
thiếu nhi quận 5 có cả khu vui chơi dƣới
nƣớc cũng mang tên Đại Thế Giới.
Sau 1975, hồi gia đình tôi còn ở đƣờng
Hàm Tử chỉ cách Đại Thế Giới khoảng
vài phút đi bộ, tôi vẫn thƣờng dẫn cháu
ngoại đến đây, không phải để đánh bạc,
mà là để mấy đứa nhỏ chơi thú nhún!
Theo tôi, hợ Lớn nổi tiếng hơn cả là
đƣờng Lacaze mà ngƣời Việt hay gọi trại
là La ai, tức đƣờng Nguyễn Tri Phƣơng
sau này. Khu La ai có mỳ vịt tiềm hầm
thuốc bắc, một trong những món „tủ‟ của
ngƣời Hoa. ên cạnh đó còn có những
tiệm hủ tiếu mang tên Mỹ Tiên, ả ần
và tiệm bánh bao à Năm Sa Đéc.
Đêm đến có các quán sò huyết dọc theo
lề đƣờng. Khách bình dân ngồi ăn nhậu
thoải mái giữa dòng xe cộ ồn ào bên ánh
Hội Ngƣời Việt Richmond 101 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
đèn nê-ông từ các nhà hàng, vũ trƣờng
sang trọng của hợ Lớn „by night‟! Phải
thành thật nhìn nhận, hợ Lớn ngày nay
hiền hòa hơn xƣa về mặt ăn chơi. ó thể
vì số ngƣời Hoa tại đây đã t đi sau đợt
„vƣợt biên bán ch nh thức‟ cuối thập niên
70. Nhiều „xì thẩu‟ đã ra đi nên các mục
ăn chơi cũng giảm đi rất nhiều.
Thôi thì đời ngƣời có lúc hƣng lúc thịnh
cũng nhƣ vận nƣớc có khi thịnh khi suy.
Viết lại món ngon Sài Gòn chỉ để thỏa
mãn kiểu „ăn hàm thụ‟ nhƣ đã nói ở trên.
Giờ có cho ăn „thực thụ‟ chắc cũng chẳng
thấy ngon nhƣ thời còn trai trẻ. Tất cả chỉ
còn là… hoài niệm!
(Tr ch Nguyễn Ngọc h nh - Hồi Ức Một
Đời Người – Chương 4: Thời quân ngũ)
Hương Bồ Kết (*)
Em ngồi hong tóc trong chiều
Hương bồ kết gợi ít nhiều thương mong
Em đi học nhớ mang theo chiếc nón
mùa thu rồi chiều vẫn cứ mưa luôn
nếu bất chợt chiều nay anh đến đón
em không mang theo nón chắc anh buồn
Trời đương nắng bỗng mưa ai nào biết
mưa ướt rồi mái tóc sẽ phai hương
anh thương lắm mùi thơm hương bồ kết
em đi qua thơm suốt cả con đường
Hương bồ kết chính là hương quê mẹ
em giữ giùm trên mái tóc đông phương
trên tóc mẹ - anh nghe từ thuở bé
cái mùi thơm kỳ diệu của quê hương
Rồi anh lớn xa dần vòng tay mẹ
hương tóc người tan lắng tận trong anh
chiều hôm đó theo em về - bước khẽ
nghe hương xưa từ đó chẳng xa đành…
Em nhớ nhé chiều nay em đi học
tóc xõa dài để gió đến đưa hương
trong trí nhớ anh sẽ dành một góc
để tóc em bay cùng với ngàn hương
Hà Nguyên Dũng
(*) Bài thơ này đã được Nhạc Sỹ THANH TRANG phổ nhạc với tên: TÓC VẪN LÀ HƯƠNG CỦA MẸ ca sĩ: Quang Tuấn (CD "Bài Tình Ca Trong Chiều")
Hội Ngƣời Việt Richmond 102 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Oan Gia Của Tôi Việt Kiều
on là nợ, vợ là oan gia
Làm quen với tôi đƣợc một thời gian,
một hôm ngƣời yêu tôi thủ thỉ với
tôi: "Mình làm đám cƣới đi anh. Để lâu
quá sợ có điều gì bất tiện!". Thƣờng thì
tôi hay làm theo ý của nàng. Ngẫm nghĩ:
Việc kiếm ăn của mình cũng nhàn hạ, nay
kiêm thêm cái việc làm chồng chắc cũng
học đƣợc nhiều điều thú vị.
Thế là ngƣời yêu tôi và cả gia đình nhà
nàng t u t t với công việc chuẩn bị đám
cƣới của nàng và cho nàng. Tôi cũng bị
cuốn hút vào việc này, phải bỏ cả tuần lễ
đi theo nàng để giúp nàng ý kiến chọn
vải, chọn mầu, chọn kiểu áo ngắn, áo dài,
quần trong, quần ngoài. Tôi không nói
ngoa vì ngày ấy đàn bà, con gái may
quần áo bằng vải the của Pháp, mỏng
tanh. Quấn hai, ba lớp còn trông thấy
quần lót và áo lót thêu hoa. Rồi lại còn
dầy, dép, túi sách, v cầm tay, khăn
choàng đầu đủ mầu, đủ kiểu. Rồi lại còn
nữ trang cũng đủ mầu, đủ kiểu sao cho
hợp với vóc dáng, quần áo của nàng cũng
mất mấy tuần lễ.
Đám cƣới xong, tôi sa sút thấy rõ, xuống
kí, xuống luôn cả tinh thần, thề với lòng
quyết không dại dột gật đầu ƣng thuận
làm đám cƣới với bất cứ cô gái hay bà
già nào nữa.
Sau khi bắt đƣợc THẰNG NHỎ SAI
VẶT RẤT ƢNG Ý là tôi, vợ tôi mang tôi
đi khoe với các bạn của nàng. Tại nhà cô
Vân, một bạn thân của nàng, vợ tôi giới
thiệu tôi rồi quay ra nói chuyện với bạn.
Đủ thứ chuyện trong nhà, thói quen ăn
uống của tôi, ăn chay của mẹ tôi, đến
chuyện ngoài ngõ, vợ chồng dự định thay
đổi chỗ ở, chuyện thời tiết, giá cả sinh
hoạt ở Đalat, nơi chúng tôi vừa trải qua
một tuần lễ. Hai ngƣời, vợ tôi và cô bạn
nói chuyện say sƣa đến nỗi quên cả sự có
mặt của tôi. Tôi ngồi mệt mỏi chờ hai
ngƣời nói chuyện. Sau cùng để cho qua
thời giờ, tôi nhắm mắt vào thiền. Cô Vân
thấy tôi lủi thủi một mình, mời tôi uống
nƣớc và hút thuốc, nể cô tôi rút một điếu
Ruby, gõ gõ xuống mặt bàn rồi lại nhét
vào bao trở lại. ô Vân lại mời: "Hút đi!"
Vợ tôi phát ngôn rộng rãi: "Mình không
cho hút thì không dám hút đâu!" Cô Vân
nheo mắt nhìn tôi, buột miệng: "Ngoan
quá nhỉ".
ó bà ác vợ ở Vũng Tầu vào nhờ tôi
giải quyết việc gia đình trƣớc ửa Công,
tôi tiếp ác, ghi các chi tiết, trao hồ sơ
cho thƣ ký, dặn dò đánh máy mấy văn
bản cần thiết rồi tôi mời bà ác đi ăn. Ăn
xong đang uống cà phê và móc ống vố
nhồi thuốc hút, một cô gái tiến lại bàn,
chào bà Bác rồi kéo ghế ngồi cạnh tôi,
quay sang hỏi: "Vợ đã cho phép chƣa mà
đã dám hút thuốc?" Tôi sững ngƣời ngạc
nhiên, cô nói: "Vân đây mà" rồi tủm tỉm
cƣời. Tôi giới thiệu cô Vân với bà ác,
trả lời cô: "Thƣa chị, tôi hút ống vố từ
trƣớc khi tôi lấy vợ. Hôm ấy sở dĩ tôi
không hút điếu Ruby chị mời vì hút thuốc
lạ tôi bị ho. Mà ho trƣớc mặt vợ tôi và
chị là một điều vô lễ." "Sao hôm ấy
không đ nh ch nh?" "Tôi sợ làm mất
mặt vợ tôi" "Không sợ tôi cƣời cho à ?"
hị hiểu lầm tôi là chuyện nhỏ. Làm mất
Hội Ngƣời Việt Richmond 103 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
mặt vợ tôi là chuyện lớn. Tôi sống với
vợ, không sống với chị. Hôm ấy tôi chỉ
sợ chị cao hứng khen tôi rồi soa đầu tôi ".
ô Vân tủm tỉm cƣời đứng lên ra quầy
trả tiền, rồi quay lại gọi tôi ra hỏi nhỏ:
" ho tôi cái danh thiếp của anh. Tôi mời
bà ác và anh ăn phở. ó dịp tôi sẽ đến
văn phòng của anh để soa đầu anh!"
ái dịp để cô Vân đến xoa đầu tôi không
bao giờ đến vì sau khi Miền Nam hoàn
toàn giải phóng, Đảng và Nhà Nƣớc ta đã
chuyển tôi về:
Công tác tại gia,
Sáng giặt quần áo, quét nhà,
Trưa nấu cơm, rửa bát,
Buổi tối đi đổ rác,
Vợ tôi thường khen tôi,
Làm tốt việc anh nuôi,
Các con tôi cũng cười,
Bố lao động Tiên Tiến.
Tôi là thằng vô t ch sự, không làm vợ tôi
hài lòng bất cứ việc gì, ngoại trừ việc
mang lại cho nàng ba đứa con trong vòng
Giá Thú.
Nhƣng cũng có một lần tôi đƣợc vợ tôi
khen. Hôm ấy nhờ buôn may, bán đắt, vợ
tôi đƣa tiền cho tôi và dặn: "Anh đạp xe
đến quầy ba chị em con bán vịt quay. Lựa
con nào mập mạp, không có lông thì mua
về."
Tôi hùng hục đạp xe đến quầy ba chị em
cô bán vịt quay mà đứng ngẩn ngơ. Cô
chị, cô em, cô nào cũng mặc quần áo k n
đáo tử tế, hỏi thì vô lễ, không sao mà
chọn đƣợc nhƣ lời vợ tôi đã ân cần nhắn
nhủ. Sau cùng, thấy đứng mãi nhìn các cô
cũng bất tiện, lại sợ các cô kêu Công An
Khu Vực đến thì nguy, đi cải tạo mút
mùa, nên tôi đành chọn con vịt mập nhất,
trả tiền, mang về. Và lần đầu tiên tôi
đƣợc vợ tôi khen: "GIỎI ".
Việt Kiều
Hương Tóc Trưng Vương (tặng những người đẹp một thời áo
trắng Trưng Vương)
Cô bé ạ, lòng anh tha thiết lắm
Bởi em như cánh bướm lúc tan trường
Hồi hộp anh chờ trươ‘c cổng Trưng
Vương
Để nhìn trộm dáng thiên thần áo trắng
Em bước chậm, má hồng lên với nắng
Miệng cười vui đang cùng bạn truyện trò
Mắt nai hiền chưa gợn chút sầu lo
Trong sáng quá dưới làn mi diễm lệ
Lòng rộn rã anh bước sau cô bé
Ngó bâng quơ như thể rất vô tình
Nhưng bé ơi, anh đã thấy lòng mình
Đang âm ỉ những cơn dài địa chấn
Trong gió thoảng, hương tóc em mùi mật
Như ong vàng, anh quấn quýt theo hương
Em cứ ngây thơ thế nhé, Trưng Vương
Để kỳ diệu tình thơm từ hương tóc
Song Châu Diễm Ng c Nhân
Hội Ngƣời Việt Richmond 104 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Ngoài Chân
Mây Tạ Quang Trung
Thời còn trẻ, ngƣời đàn bà ấy đẹp
lắm, đẹp nổi tiếng trong đám nữ sinh
Saigon. ái đẹp mềm nhƣ liễu, mong
manh nhƣ sƣơng khói.
Là một cô gái đẹp thì hẳn phải có lắm
anh mê. Tiếng Anh ở đây chỉ chung đám
đàn ông, con trai theo đuổi nàng. Đàn
ông là những ngƣời trên dƣới ba mƣơi, đã
có sự nghiệp, trong tay đã có đồng ra,
đồng vào. òn con trai là đám sinh viên,
học sinh trên dƣới hai mƣơi, tay trắng, còn
ăn nhờ, ở nhờ bố mẹ hoặc những ngƣời
thân, sự nghiệp còn ở ph a trƣớc, nếu
không muốn nói là chƣa có gì.
Nàng là nữ sinh trƣờng áo trắng. Ở
cổng trƣờng áo trắng, vào giờ tan học,
dài theo con đƣờng có lá me xanh, đứng
hiên ngang trên vỉa hè, hoặc lấp ló sau mấy
gốc me già, là đám đàn ông, con trai. Đám
đàn ông con trai này đứng chờ, đứng
đón, đứng đợi mấy cô nữ sinh ra về.
Trong số hàng trăm đàn ông con trai
đứng ở đây, thì quá nửa là những ngƣời
ái mộ nàng, đợi nàng đi qua để chiêm
ngƣỡng cái nhan sắc chim sa, cá lặn của
nàng.
Tant qu‟il y aura des hommes, il y
aura des mur, khi Thƣợng đế sáng tạo ra
đàn ông, thì ngài lập tức phải xây những
bức tƣờng, cách đây năm mƣơi năm,
cuốn phim Tant qu‟il y aura des hommes
đã có lời mở đầu nhƣ thế. Trƣờng áo
trắng, ở bên kia vƣờn bách thảo, ẩn mình
dƣới những cây me cổ thụ, đƣợc vây
quanh bằng bức tƣờng gạch cao, quét
vội vàng. Ph a trên bờ tƣờng lại gắn
thêm những mảnh trai bể để đề phòng
bọn tiểu tâm bẻ khóa, leo tƣờng. Hai
cánh cổng cao bằng sắt sơn xanh đã
hoen rỉ, luôn luôn khép k n, ngăn cách
ngôi trƣờng với bên ngoài, nhƣ bảo vệ
đám thiên thần khỏi vòng trần tục.
Đứng dƣới đƣờng, chỉ nhìn thấy tòa
ngang, dãy dọc, mái ngói đỏ, quét vôi
vàng. Nhìn kỹ hơn, chỉ thấy thấp thoáng
những mái đầu xanh lấp ló trong khung
cửa sổ.
Nữ sinh của trƣờng này phải mặc
đồng phục áo dài trắng. ái huy hiệu tên
trƣờng may ở nẹp áo, trên ngực, chữ
màu xanh: Nữ trung học Trƣng Vƣơng.
Vào giờ tan học, hai cánh cửa sắt
vốn dĩ lặng câm, mở rộng ra, toang hoác
nhƣ cái miệng của ngƣời khổng lồ. Và từ
cái lỗ hổng khổng lồ ấy ùa ra một đàn
bƣớm trắng, tỏa ra khắp mọi ngả đƣờng.
ác cô nữ sinh, ngƣời đi bộ ôm cặp e ấp
trƣớc ngực, ngƣời đi xe đạp, ngƣời đi xe
Hội Ngƣời Việt Richmond 105 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
solex. Khi các cô phóng xe đi hai vạt áo
dài vờn trong nắng, thêm cái vành nón
nghiêng nghiêng che khuôn mặt nửa e
ấp, nửa thẹn thùng.
Khi nàng phóng xe đi qua, đám đàn
ông phóng mobilette, scooter, học sinh
phóng xe đạp theo nàng nhƣ đàn rồng
rồng bơi theo cá lọc mẹ. Họ chỉ phóng
xe theo nàng thôi vì nếu có kẻ táo gan
dám kè kè cạnh nàng hỏi han, nói
chuyện là có kẻ khác sấn lên gây sự
ngay.
Tôi cũng là một trong những kẻ si
mê nàng thời ấy, nhƣng tôi không có cái
can đảm đứng đón nàng ở cổng trƣờng
nhƣ những gã đàn ông hay những chàng
trai trẻ, và tôi cũng không có nhiều thời
gian để chờ nàng cả buổi mà chỉ đƣợc
nhìn thấy nàng khi nàng phóng xe vụt
qua. Tôi si mê nàng theo cung cách của
tôi. Tôi thƣờng đứng chờ nàng ở đầu
đƣờng Đội Phƣớc, nhà nàng ở cƣ xá Kho
ạc. Nàng đi học qua đây. Những ngày
đầu tháng, trong túi rủng rỉnh vài trăm
bạc, tiền công kèm trẻ em tại tƣ gia, tôi
vào quán cà phê của ông Tàu già, kêu
một ly cà phê đen và bốn điếu Ruby,
ngồi ngoảnh mặt ra đƣờng, chờ nàng đi
qua. Đôi lúc nhớ nhung thôi thúc, tôi
cũng lên xe phóng, đuổi theo nàng.
Nhƣng thƣờng thì chỉ đƣợc mấy chục
thƣớc, chƣa tới quân vụ thị trấn, cái xe
đạp của tôi đã bị tuột x ch. ái xe đạp
già nua mà tôi thƣờng âu yếm gọi là
ngựa già của đại vƣơng, có cái ổ l p đã
mòn răng, nhọn hoắt nhƣ răng cá mập,
cái bê đan cũng mòn răng tƣơng tự, nhọn
hoắt nhƣ răng chó sói, sợi dây x ch thì
đã dãn ra quá cỡ. Nói chung là con ngựa
già đã quá già, chỉ có thể đi từ từ, dƣỡng
sức, còn nếu phóng đi là quị ngay. Mỗi
lần con ngựa già quị xuống, là tôi lại
phải dừng xe lại, ngửng mặt lên h t bụi.
May mà đƣợc nàng ngoảnh lại chiếu cố,
ban cho một nụ cƣời, thì hôm ấy đã mãn
nguyện lắm, còn nếu nhƣ nàng vô tình
phóng xe đi thẳng, chẳng thèm đoái
hoài, thì tôi đành tủi thân mà lắp dây
x ch lại, đạp xe đến trƣờng.
ái quán cà phê của ông Tàu già lúc
nào cũng đông khách. Ông Tàu già có
hai cô con gái xinh đẹp. ô chị tên là
Tiên tuổi chừng mƣời ch n, đôi mƣời,
trắng trẻo, mặn mà, duyên dáng hơn cô
em tên Sò tuổi chừng mƣời bảy, mƣời
tám. ô em cũng xinh đẹp lắm.
Ông Tàu già pha cà phê và đứng thu
tiền. Ông lƣợc cà phê trong một cái túi
vải, mà ngƣời ta gọi là cà phê b tất. à
phê của ông có vị ngon đặc biệt. Khi có
ngƣời kêu cà phê thuốc lá, ông rót cà
phê ra một cái ly sành, lấy bốn điếu
Ruby đặt vào một cái đĩa. Hai cô con
gái, cô Tiên và cô Sò mang ra cho
khách.
Thấy tôi hay lại uống cà phê một
mình, hai cô tƣởng tôi để ý đến các cô,
nên cô chị, cô em thi nhau làm điệu. Hai
cô ăn mặc chải chuốt hơn. Mái tóc thu
vén gọn gàng hơn. Đôi má hồng hơn.
Đôi môi cƣời tƣơi hơn. Đôi mắt long
lanh hơn. Và cử chỉ dịu dàng đoan trang
hơn. ả nửa tá chữ hơn ấy đƣợc chau
chuốt chỉ vì một sự hiểu lầm: tôi yêu hai
Hội Ngƣời Việt Richmond 106 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
cô. ác cô bƣng ly cà phê khe khẽ đặt
xuống bàn, rồi quay vào mang ra cái đĩa
đựng bốn điếu Ruby, thêm cái hộp quẹt
con gà trống. Tôi ngồi ngay cửa ngó ra
đƣờng, uống hết ly cà phê, hút hết hai
điếu Ruby, thì gọi các cô t nh tiền. Ly
cà phê hai đồng, ba đồng bốn điếu Ruby
vị chi là năm đồng. Hút hết điếu thuốc
thứ hai thì nàng phóng xe Solex đi qua.
Tôi mồi điếu thuốc thứ ba, bƣớc ra, leo
lên cái xe đạp phóng theo. Dĩ nhiên sức
ngƣời thì không khỏe và không bền bằng
sức máy. hƣa đến quân vụ thị trấn thì
bị nàng bỏ rơi, chẳng mấy khi tôi tiến
lên thêm đƣợc mƣơi bƣớc. Trồng cây si
trong điều kiện nhƣ vậy rất là tốn tiền và
tốn sức lao động, mà cái đồng lƣơng
kèm trẻ em tại tƣ gia của tôi chỉ cho
phép tôi ngồi ở quán cà phê nhƣ thế một
tháng mấy lần.
Hai chị em cô Sò, cô Tiên khi biết
tôi đến quán cà phê không phải vì hai cô
mà chỉ để chờ nàng đi qua là phóng xe
theo thì đổi hẳn thái độ. ái ly cà phê,
cái đĩa đựng bốn điếu Ruby vốn dĩ đƣợc
hai cô nâng niu nhẹ nhàng bỗng trở
thành nặng hơn cái cối đá. ác cô đặt
đánh phạch xuống bàn, bắn cả cà phê ra
ngoài. Đôi khi gọi cà phê cả nửa ngày
không thấy các cô bê ra, nếu các cô có
bê ra thì cà phê lại thiếu đƣờng hoặc
không có đƣờng, đắng ngắt. Thuốc lá
thì không có hộp quẹt, phải ra lề đƣờng
mồi ở sạp bán thuốc lá lẻ, bị bà bán
thuốc lá hỏi móc: “Sao mua thuốc ở
trong tiệm mà lại ra ngoài đƣờng xin
lửa.” Và không phải lúc nào cũng có
sẵn cái bàn ở ngay cửa để tôi ngồi ngó ra
đƣờng chờ nàng, có thể thấy đƣợc nàng
từ cuối con đƣờng, nhờ có tầm nhìn rộng
rãi.
Thái độ bất thân thiện của cô Tiên
và cô Sò làm tôi bứt rứt, áy náy, nhƣng
chẳng còn có địa điẻm nào để chờ nàng
tốt hơn là cái quán cà phê này.
Những lần cạn tiền túi, mà những
lần hết tiền thì nhiều lắm, kể ra không
hết, tôi đành ghếch xe đạp ở lề đƣờng,
đứng chờ nàng đi qua, nhìn theo cho đỡ
nhớ.
Một lần đang đứng ở đầu đƣờng chờ
nàng nhƣ thế, thì một tiếng gọi quen
thuộc trong quán cà phê của ông Tàu
già vang ra. Tôi nhìn vào và nhận ra một
ngƣời quen đang ngồi trong đó, nhà thi
sĩ tài tử Y Kha. Y Kha là nhân viên quốc
hội, công chức nghèo, yêu nghệ thuật,
th ch làm thơ. Thơ của Y Kha có các
câu đại loại nhƣ: ―Thủy là nước sao
Thủy không lai láng?‖ Thủy là tên cô
chủ quán cà phê ở đƣờng Phạm Ngũ
Lão. Y Kha mê cô, làm thơ tán tỉnh cô.
Vì bài thơ tán gái của Y Kha kết thúc
bằng hai câu lục bát:
Khôn ba năm, dại một giờ
Em ơi đã dại một giờ nào chưa?
nên Y Kha bị cô chủ quán tạt nguyên
một ly cà phê đen, nóng vào mặt. âu
chuyện tình một chiều kết thúc, Y Kha
không trở lại quán cà phê ở đƣờng Phạm
Ngũ Lão nữa.
Thi sĩ Y Kha còn có một cái tên
khác là Y Kha Pipe ổ. hẳng là một
Hội Ngƣời Việt Richmond 107 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
lần Y Kha có đƣợc một mẩu plastic đen,
một đầu tròn be ra, một đầu thu nhỏ lại,
có khia, có đục các lỗ nhỏ, y nhƣ cái
Porte igarette. Y Kha gắn vào đó một
điếu thuốc lá, thản nhiên ngậm cái ống
platic hút. Y Kha khoe với mọi ngƣời
đây là cái porte cigarette cổ, do một vị
dân biểu đi công du mua về tặng Y Kha,
thực ra đó chỉ là một phần cái douce
dùng để rửa ráy bộ phận sinh dục của
đàn bà. Tôi không có thì giờ để tìm hiểu
xem vị dân biểu mua ở đâu hay kiếm ở
đâu đƣợc cái porte cigarette cổ ấy để
tặng Y Kha, và vị ấy muốn chơi sỏ Y
Kha hay vị ấy thực sự dốt, để Y Kha
phải chịu cái tiếng cƣời, mang cái biệt
danh Y Kha Pipe cổ.
Y Kha vẫy tay mời tôi vào quán, kéo
ghế mời tôi ngồi, gọi cà phê và móc bao
thuốc lá aptan. ô Sò mang ly cà phê
ra. Y Kha t nh chụp tay cô. ô hất tay
làm ly cà phê sóng sánh đổ cả ra bàn. Y
Kha hỏi tôi: “Ông thấy có đƣợc không?
Đƣợc quá đi chứ! Hay ông vô cô chị đi,
cô Tiên ấy, còn tôi vô cô em, cô này, cô
Sò. Tôi với ông làm anh em cột chèo.
Nhƣng mà này! ấm chèo qua, chèo lại
nghe!”
Tôi uống hết ly cà phê, hút hết hai
điếu thuốc lá, móc tờ giấy bạc lót bao
thuốc aptan, viết vào đấy một bài thơ
con cóc:
Tôi có một người bạn tên Y Kha,
Mỗi lần tôi gặp anh ta,
Thì anh ta lại mời tôi uống cà phê,
Và hút thuốc lá,
Khiến tôi cảm động quá.
Nên tôi viết bài thơ này,
Để tặng Y Kha.
ài thơ con cóc này, nếu quý vị
niệm tình mà gọi là bài thơ tự do, xin
cảm tạ, nhƣ tôi làm ra nó để tạ ơn Y Kha
đã mời tôi uống cá phê, cho tôi một chỗ
nghỉ chân để chờ nàng. ái cây si trồng
trong điều kiện khó khăn, xuân thu nhị
kỳ nhƣ thế nên nó héo dần rồi chết hẳn.
Hôm nó chết hẳn là lần cuối cùng tôi
phóng xe theo nàng, và nàng thì bớt tay
ga cho tôi có điều kiện tiếp cận. Nàng có
nói với tôi: “ ám ơn anh đã nhiều lần
đƣa em đi mấy quãng đƣờng, hôm nay
em đƣa anh đến trƣờng, em có việc phải
đi qua đấy!” Tôi đạp xe bên nàng, chân
tay run lập cập, con tim đập liên hồi nhƣ
muốn phá vỡ lồng ngực mà nhảy ra. Lần
đầu tiên tôi đƣợc gần nàng, nhìn kỹ dung
nhan của nàng tôi thấy nàng đẹp quá, cái
đẹp tƣơi mát nhƣ đóa hoa lan vừa đƣợc
cơn mƣa sớm rửa sạch bụi trần. Nàng có
khuôn mặt trái xoan nhỏ nhắn. Đôi mắt
đen sâu, long lanh. ái mũi dọc dừa
thanh tú. Đôi môi nhƣ hai cánh hồng lúc
nào cũng hé cƣời. Da nàng trắng mịn,
những ngón tay thon dài nhƣ búp hoa
ngọc lan ẩn sau đôi găng tay đen. Mái
tóc đen nhƣ nhung, mƣợt mà xõa xuống
hai bờ vai, che lấp nửa cái cổ trắng ngần.
Tấm thân óng ả, thon nhẹ, mỏng manh
trong chiếc áo dài soie trắng. Đôi chân
dài, thon, hồng lên trong hai ống quần
soie mỏng. Hai tà áo dài sẻ lên qúa
mạng sƣờn, vờn bay, thấp thoáng làn da
bụng chắc là êm nhƣ nhung. Qua trƣờng
luật nàng chào tôi và nói, nàng đến
trƣờng y khoa gặp ngƣời quen. Nàng đã
có ngƣời yêu.
Hội Ngƣời Việt Richmond 108 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Trong một buổi sinh hoạt văn nghệ
của sinh viên, nàng cùng ngƣời yêu của
nàng đến tham dự. Đêm ấy nàng mặc
chiếc áo dài màu t m hoa sen. Nàng yêu
cầu tôi đệm đàn guitar cho nàng hát bản
“Ngàn thu áo t m.”
Rồi anh ra đi,
Để mãi không về nữa,
Chiều xuống áo tím buồn ngẩn ngơ,
Chết trong chiều tiễn đưa,
Chết trong chiều gió mưa…
Tiếng vỗ tay nồng nhiệt, yêu cầu
nàng hát tiếp. Nàng hát bản thứ hai “Tà
áo t m.” Đến điệp khúc, tôi phụ họa.
Giọng nàng vút lên cao, thật cao:
Rồi chợt nghe tin theo lời gió nhắn,
Rằng áo tím qua cầu
Rằng áo tím phai màu
Cho giòng Hương Giang hờ hững cũng
nao nao.
Hát xong, nàng lên xe Scooter của
một sinh viên quân y, mà trƣớc đây nàng
đã giới thiệu là ngƣời quen của nàng, ra
về.
Một thời gian sau, chàng sinh viên ra
trƣờng, thành bác sĩ quân y, họ thành
hôn với nhau. Tôi cũng nhƣ giòng
Hƣơng Giang hờ hững, nao nao vì tin
nàng đi lấy chồng. Viện Quốc gia thống
kê cũng không làm một bản thống kê
xem việc áo t m qua cầu có làm cho bao
nhiêu trong số đàn ông con trai đứng ở
cổng trƣờng Trƣng Vƣơng chờ nàng
phải lao đao vì thất tình, phải tự vẫn.
♦ ♦ ♦
Trong một chuyến đi về Miền Tây,
chờ xe qua ắc, tôi vào một quán nƣớc
ven sông, ngồi nhâm nhi một ly rƣợu
đậu nành Sa Đéc. Sa Đéc có nhiều đặc
sản, nhƣng tôi ƣng nhất rƣợu đậu nành,
nó thơm và có vị ngọt nhƣ rƣợu nếp,
nồng độ rƣợu nhẹ, nhƣng đậm đà. Cái
say của rƣợu đậu nành Sa Đéc êm ả. Sa
Đéc cũng còn có rƣợu cất bằng đậu
xanh, rƣợu trong veo, nhiều tăm, thơm
và bùi. Rƣợu đậu xanh cũng êm ả nhƣ
rƣợu đậu nành, nhƣng nồng độ rƣợu
mạnh hơn, gần bằng đế Gò Đen, uống
vào là phải nằm. Rƣợu đậu xanh chỉ
uống ở nhà trong bữa cơm tối. Uống
xong đi ngủ.
Ngồi trong quán nhìn ra con sông
Hậu mênh mông, bát ngát, mặt nƣớc
cuồn cuộn, đục ngầu phù sa, lác đác vài
đám lục bình cùng giòng nƣớc trôi suôi.
Trời lâm râm mƣa bụi, những giọt mƣa
phản chiếu các tia nắng long lanh, nhƣ rẻ
quạt. Đúng lúc ấy một ngƣời thiếu phụ
bƣớc vào quán. Ngƣời thiếu phụ mặc cái
áo dài màu vỏ cam, cái quần lãnh Mỹ A
đen, thân hình nảy nở, sung sức, đẹp
mặn mà. Thấy tôi ngồi có một mình,
nàng ghé lại xin ngồi cùng. Tôi nhận ra
nàng và cất tiếng chào. Nàng cũng nhận
ra tôi, chàng sinh viên nghèo, đã có thời
lẽo đẽo đạp chiếc xe đạp cọc cạch theo
nàng. Tôi mời nàng giải khát. Chúng tôi
hàn huyên câu chuyện, những câu
chuyện xƣa, thời chúng tôi còn đi học.
Hội Ngƣời Việt Richmond 109 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Nàng cho biết, sau khi lập gia đình, nàng
ở nhà, nàng đã có hai con, một trai, một
gái. Nàng hỏi tôi đi đâu, tôi đáp có chút
việc phải ghé tòa ần Thơ. Nàng nói
nàng cũng ghé ần Thơ, nơi tổng y viện,
chồng nàng phục vụ. Rồi nàng hỏi tôi
những điều luật liên quan đến gia đình,
qua những câu hỏi này, tôi lờ mờ hiểu
đƣợc rằng: áo t m đã qua cầu, áo t m
đang phai màu.
ùng lúc ấy đứa con chị chủ quán
nằm trên chiếc võng, kẽo kẹt, ru em.
Giọng nó cao, não nùng.
Ầu ơi! Đi đâu cho thiếp theo cùng.
Đói no thiếp chịu, lạnh lùnh thiếp cam.
Dí dầu tình có dở dang,
Xin cho thiếp gọi đò ngang thiếp dìa…
Xúc động vì lời hát ru em bùi ngùi,
nàng lấy khăn k n đáo thấm nƣớc mắt,
rồi thờ dài. Tôi biết điều tôi cảm nhận là
đúng sự thực.
âu chuyện đang dở dang thì chú
h n, tài xế vào báo xe đã đƣợc xuống
phà. Tôi mời nàng đi xe của tôi, đi xe
còn mau hơn đi xe đò. Chú Chín theo
nàng đi lấy hành lý mang về xe . Rồi xe
chúng tôi qua phà. Đến ần Thơ, tôi bảo
chú h n chở tôi xuống tòa án, đƣa nàng
đến tổng y viện, rồi quay lại đón tôi.
♦ ♦ ♦
Từ khi bộ đội ộng Sản chiếm đóng
thủ đô Saigon, tôi phải chờ đợi mƣời
lăm năm để có một giấy xuất cảnh. Đƣa
đƣợc vợ con đến đất Mỹ, tuổi đời đã
chồng chất. Muốn trở lại nghề cũ, thì
phải đi học lại. Nơi cái trƣờng luật mà
tôi liên hệ, ngƣời counselor xem xét các
giấy tờ bằng cấp của tôi, đề nghị miễn
cho tôi một số t n chỉ. Tôi chỉ phải học
một số t n chỉ để đƣợc cấp bằng tiến sĩ
Luật Khoa. Nhƣng điều cần thiết là tôi
phải thông thạo tiếng Anh, ông khuyên
tôi nên đi học tiếng Anh trƣớc đã.
hân ƣớt, chân ráo đến xứ ngƣời,
việc đầu tiên là phải xoay trần ra đi làm
nuôi gia đình, còn thời gian đâu mà đi
học. Và theo nhiều ngƣời đi trƣớc
khuyên nhủ, với cái tuổi của tôi, đậu đạt
rồi cũng khó tìm đƣợc nơi tập sự. Hơn
nữa tiếng Anh lại nói ngọng, có nơi tập
sự rồi cũng chẳng ai mƣớn cãi. òn cái
nạn quan tòa kỳ thị sắc tộc. Đi làm dịch
vụ pháp lý thì mang tiếng cho nghề. Đi
kiếm nghề khác thì chủ nhân nghe nói
mình có cấp bằng tiến sĩ Luật Khoa, nó
ngán, không mƣớn. hi bằng đi kiếm
việc chân tay mà làm, cho đầu óc thảnh
thơi. ó ngƣời quen giới thiệu tôi vào
làm ở một Nursing Home, nơi săn sóc
những ngƣời bệnh hoạn, tuổi tác. Việc
của tôi là quét dọn phòng khách, văn
phòng và lối đi. Hết việc xuống nhà bếp
phụ nhặt rau, múc đồ ăn, và rửa chén.
Trong công việc tôi phải chung đụng
với một số đồng hƣơng và ngƣời bản xứ.
Trong số các đồng nghiệp đồng
hƣơng phải kể đến bà ông. Bà Bông
đƣợc qua Mỹ vì là mẹ của lũ con bà,
những đứa con tóc hung, tóc đen, mắt
xanh, mắt đen, da trắng, da đen. Đồng
đô la của l nh viễn chinh Mỹ chỉ có hai
màu: màu đỏ, màu xanh, và da của
ngƣời l nh viễn chỉ có hai màu: màu
trắng, màu đen, nên bà ông chẳng quan
Hội Ngƣời Việt Richmond 110 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
tâm đến ai là cha những đứa con của bà.
Vì ai có đồng đô la thì đều có quyền là
tác giả của những cái bầu của bà. Khi
Việt ộng kéo quân vào Saigon thì
những đứa con bà ông đã lớn. Đứa thì
sửa xe đạp, đứa thì bán thuốc lá ở bến
xe, đứa thì giúp bà mánh mung. Rồi
ông An đến tận nhà làm hồ sơ để bà đi
Mỹ. ó ông đƣa cho bà số tiền để mẹ
con bà ăn, uống, sắm sửa đƣợc trở thành
chồng của bà và đƣợc qua Mỹ luôn. Kể
sơ lƣợc tiểu sử của bà ông để biết rõ
t nh tình của bà. à ông cũng là nhân
viên nhƣ tôi, bà có nhiệm vụ dọn dẹp
các phòng ngủ của bệnh nhân, khoảng
20 phòng. ách ngoại giao của bà ông
với thƣợng cấp và đồng nghiệp bản xứ,
da màu cũng có nét đặc biệt. Đầu tiên là
thƣờng nấu các món ăn Việt Nam mang
mời mụ Supervisor và bọn Mỹ bản xứ để
gây cảm tình. ọn này đƣợc ăn, quen
mùi, đòi hỏi hơn. à ông vừa tốn công,
vừa tốn của, không đủ cáng đáng. Bà
bèn kêu gọi đồng hƣơng cùng đóng góp,
thế là các bà muốn giựt le, phụ họa, về
hùa với bà ông. Nổi bật là hai bà Du
bớc và Phai cái dóp. à Du boóc tên thật
là Hiếu, công việc của bà cũng là quét
dọn và mở các thùng các tông, xếp nó lại
gọn gàng, vứt nó vào thùng rác để nó
khỏi chiếm chỗ. Theo việc làm của bà,
đúng ra bà Hiếu phải gọi là boxes
opened, nhƣng do học chƣa tới nơi, bà
Hiếu dùng động từ do box, phiên âm
thành đu boóc, là cái nickname của bà.
òn bà Đi phai cái dóp tên thật là Lan,
tự Lan đ a, vì cái miệng bà t a lia. Bà
Lan luôn luôn dọa sẽ đổi dóp, nếu bắt bà
làm nhiều và nếu bà đi phai đƣợc cái
dóp khác. Từ đó Đi phai cái dóp thành
tên của bà Lan. ộ ba tam đa, bà Bông,
bà Hiếu, bà Lan, kẻ xƣớng, ngƣời họa
trong nhiều chuyện, từ khoe khoang
vàng bạc kim cƣơng nhà cửa, xe cộ,
chồng con đến chuyện làng trên, xóm
dƣới.
ũng phải kể thêm hai nhân vật khác
là vợ chồng ông Sấp bờ vai Mai văn
hẳng, ông hẳng cũng là nhân viên
thƣờng, nhiệm vụ của ông là quét dọn
phòng ăn, nhà bếp và mấy cái cầu tiêu.
òn bà Mai văn hẳng tức cô Ròm thì
làm ở trong bếp. Gọi Mai văn hẳng là
sấp bờ vai vì ông tự xƣng với tôi nhƣ thế
và vì dáng dấp của ông. Ông đƣợc qua
Mỹ vì cái thành t ch đã ở trong trại cải
tạo mấy năm. Đƣợc ra trại sớm không
phải vì thời gian ở trong trại cải tạo, Mai
văn hẳng đã lao động tốt và tiếp thu tốt
các bài học, mà ch nh vì đã giác ngộ giai
cấp, hợp tác t ch cực với cách mạng, trấn
áp và vạch mặt những trại viên có tƣ
tƣởng phản động qua lời nói hay việc
làm. Nói trắng ra Mai văn hẳng là tên
chỉ điểm trong trại cải tạo. Lời báo cáo
của ông đã làm hại nhiều trại viên. hỉ
cần không biết điều, không biếu cán bộ
các quà cáp mà ngƣời nhà mang đến
nuôi là trại viên mắc tội, mà tội rất nặng,
tội không góp phần nuôi cán bộ cách
mạng lớn mạng, tội chống phá cách
mạng. Từ Trẩm Á, ngƣời đã có thời gian
ở cùng trại với Mai văn hẳng và hiện
cùng làm với tôi kể lại, anh đƣợc vợ lên
thăm nuôi, tiếp tế mấy thanh đƣờng thẻ,
mấy viên thuốc ki ninh chống sốt rét,
một bánh thuốc lào và một hũ mắm ruốc
xào xả ớt, thịt ba chỉ. án bộ th ch bánh
thuốc lào, Mai văn hẳng th ch hũ mắm
ruốc. Mai văn hẳng truyền đạt ý muốn
của cán bộ và của ch ng ông ta đến Từ
Hội Ngƣời Việt Richmond 111 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Trẩm Á, nhằm giúp anh ta hoàn thành
nhiệm vụ một ngƣời vì một ngƣời.
Ngƣời cải tạo viên không chịu phục
thiện. án bộ bèn hành động. Tình nghi
trong bánh thuốc lào và trong hũ mắm
ruốc có cất dấu các tài liệu phản cách
mạng, sai Mai văn hẳng khám xét.
Mai văn hẳng mƣợn nhà bếp một cái
chậu sành, trƣớc tiên ông ta xé bánh
thuốc lào thành những miếng nhỏ, bỏ
vào cái chậu, rồi ông múc từng thìa mắm
ruốc đổ vào, rồi ông bẻ nát mấy thanh
đƣờng thẻ bỏ vào chậu, rắc thêm mấy
viên thuốc k ninh. Mai văn hẳng lấy
tay quậy đều bốn thứ vào nhau, rồi đứng
nghiêm báo cáo: “Trình lãnh đạo, trong
gói đồ thăm nuôi của trại viên Từ Trẩm
Á không có gì khả nghi!” Lãnh đạo
phán: “Tốt! ho mang vào trại!” Từ
Trẩm Á dở khóc, dở cƣời với cái chậu
sành hổ lốn ấy. Đó là thủ đoạn của Mai
văn hẳng, và đã khiến ông mang họa.
Một buổi tối vừa bƣớc ra khỏi phòng
hội, sau một buổi học tập, trở về trại,
Mai văn hẳng bị trùm bao bố, đánh cho
một trận gần chết. Trận đòn thù ấy khiến
cho Mai văn hẳng bị gẫy một chân và
thành tật, suốt đời đi khập khiễng.
Vào làm ở Nursing Home này, Mai
văn hẳng trên đội Supervisor và đồng
nghiệp da màu, dƣới đạp đồng hƣơng.
Tuy là phu quét dọn, nhƣng khi đi làm
một tay ông luôn luôn cầm tờ báo The
time dispatch, một tay sách cái cặp
Samsonai, trong cặp chứa mấy lát bánh
mì kẹp thịt, một lon coca, một quả táo,
một quận giấy vệ sinh để chùi miệng.
ô Ròm, vợ Mai văn hẳng đeo một
cái túi học trò, trong đó có một hộp đựng
mấy con mắm, một lon cơm và vài thứ
lặt vặt.
Mai văn hẳng tự phong là sấp bờ
vai và làm việc chẳng ai th ch và cũng
chẳng ai nhờ. Phu quét dọn có một cái
kho chung đựng đủ thứ cần dùng. Máy
hút bụi, bao chứa rác, chổi quét nhà, các
hóa chất, giấy vệ sinh, giấy lau tay
v.v…. Mỗi công nhân có một cái chìa
khóa, ai cần thứ gì thì cứ việc mở kho ra
mà lấy. Vợ chồng Mai văn hẳng, trƣớc
giờ làm việc, mở cửa kho, đếm các thứ
mặt hàng trong kho, ghi vào một cuốn
sổ. hiều, hết giờ làm việc, lại lập lại
việc ấy. Hành động bợ đỡ có t nh cách
miệt thị ngƣời khác làm nhiều ngƣời lộn
ruột. Dĩ nhiên bọn công nhân bản xứ
thƣờng lấy các thứ trong kho làm của
riêng, mang về nhà xài, còn ngƣời Việt
Nam thì họa hoằn lắm mới có kẻ gian
tham làm điều tồi bại ấy.
Nhiều ngƣời đã chửi vợ chồng Mai
văn hẳng, ngƣời chửi công khai, ngƣời
chửi gián tiếp. Mặt mũi vợ chồng Mai
văn hẳng vẫn tỉnh bơ.
ô Ròm, vợ Mai văn hẳng còn đƣợc
gọi là bà Ngửa bờ vế, vì đã từng hẹn hò
với bọn bản xứ da màu đi thuê phòng
ngủ. Việc này tiếp diễn mà Mai Văn
hẳng không có phản ứng gì. Thực ra,
khi mới qua đoàn tụ một thời gian, vợ
chồng Mai văn hẳng đã bày trò ly hôn
để hƣởng tiền trợ cấp, nên ngày nay Mai
văn hẳng không còn quyền hành gì đối
với vợ, nhắm mắt cho vợ ngủ với Mỹ
đen.
Hội Ngƣời Việt Richmond 112 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Khi tôi mới vào làm, bà ông bảo tôi:
“Ngày mai ông mang đồ ăn Việt Nam
cho xếp ăn, cuối tuần góp 5 đô mua quà
tặng xếp.”
Khi mỡ kho lấy dụng cụ. Mai văn
hẳng chặn lại, “Anh mới vào làm
không biết, tôi là sấp bờ vai, để tôi kiểm
kê kho đã.” Từ Trẩm Á nóng mặt, gạt
Mai văn hẳng ra, bảo tôi: “Anh cứ lấy
những thứ anh cần rồi đi làm, ở đây
không có thằng sấp bờ vai, con Ngữa bờ
vế kiểm kê kiểm gà gì cả. Và anh cũng
chẳng phải góp tiền mua đồ biếu đứa
xếp nào. Mấy thằng xếp muốn ăn đồ
Việt Nam thì đi kiếm mấy mụ me Mỹ !``
Từ Trầm Á là ngƣời Nam, nhƣng cái đồ
mà anh dung ở đây phải biểu theo nghĩa
của ngƣời ắc, mới thấy cái thâm thúy
của anh.
Làm việc trong bầu không kh căng
thẳng đầy thù nghịch nhƣ thế, công nhân
Việt Nam chia làm hai phe kình chống
nhau. Một phe gồm đa số các bà do bà
ông lãnh đạo, gọi là đảng bà ông.
Trong đảng bà ông có một ông là
Phƣớc mồm thối. Phƣớc là tên, mồm
thối là t nh tình, vì Phƣớc hay đƣa
chuyện và hay bịa chuyện. Vốn trƣớc
đây Phƣớc để ý đến một bà làm cùng sở,
nhƣng bà không ƣa Phƣớc vì cái tật
tham ăn và uống nguồm ngoàm của
Phƣớc. Không đƣợc toại nguyện, từ
thƣơng yêu chuyển sang thù hận, Phƣớc
đặt điều nói xấu bà và bị bà dáng cho
một cái bạt tai, từ đó Phƣớc có thêm cái
biệt danh “mồm thối”. Phƣớc, ở nhà có
bị bạc đãi hay không, không ai biết,
nhƣng Phƣớc mếu máo kể lể nhƣ thế,
khiến bá ông mủi long, nhận Phƣớc là
con nuôi, tuy tuổi tác hai ngƣời bằng
nhau. Hàng ngày Phƣớc đƣợc má nuôi
san sẻ đồ ăn.
Mũi nhọn của đảng à ông là bà Lan
đ a, mắt ti h , ăn mặc rất sexy, rất đanh
đá, ai làm mếch lòng bà là bà sấn cổ
chửi ngay, chƣa hết bà còn dẫn chồng
con đến nhà ngƣời ta chửi tiếp, cho đến
khi cảnh sát can thiệp. à rất hãnh diện
và cho đấy là thành t ch của bà. Ai cũng
sợ và né tránh bà Lan.
Phe thứ hai gồm đa số là các ông, do
Mai văn hẳng lãnh đạo, phe này gồm
toàn những dân chức sắc quan quyền, có
quyền sinh, quyền sát trong tay thời
chƣa mất nƣớc. Ông nào cũng có tài
kimh bang, tế thế xây dựng nền ộng
Hòa cả hai lần, ộng Hòa một và ộng
Hòa hai. Ông nào cũng từng cầm quân
dẹp giặc. Đánh cho Việt ộng trận nào
trận nấy chảy vãi cả cê ra quần, chạy te
tua.
Nếu chuyện thảo luận trong đảng bà
ông là các kiểu thời trang kim cƣơng,
hột xoàn, chuyện chồng con hàng xóm,
thì đảng ông hẳng lại hay thảo luận về
thời sự quốc tế, quốc nội. Đôi khi cả hai
phe cùng trao đổi nhau về tin tức sinh
hoạt trong cộng đồng nhƣ ông nọ cặp
với bà kia vân vân ...
Và cả hai phe cùng hoạt động, mục
đ ch bợ đỡ cấp trên và nhân viên bản xứ,
đàn áp đồng hƣơng lẻ loi, thế cô. Khiến
những ngƣời này bị xếp đì, giao cho
những công việc nặng.
Liên lạc giữa hai phe là ẩn xà cừ, đây
là biệt danh vì ông ta bị ghẻ trốc, ghẻ
Hội Ngƣời Việt Richmond 113 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
trâu đóng vẩy thành sẹo, nên trông mặt,
mũi, chân, tay ông ta nhƣ cẩn xà cừ. ẩn
xà cừ chỉ là một tên háo danh, hiếu sự,
hay đâm bị thóc, chọc bị gạo, đòn sóc
hai đầu, thọc bên này một câu, thọc bên
kia một câu để thủ lợi.
à ông có một lấn chơi nổi, hôm ấy
vào giờ tan sở, trời nắng trang trang, mà
lạnh 23 độ F. ác ông, các bà mặc đồ
lạnh từ chân đến đầu ra mở máy xe cho
tan đá, tan tuyết, rồi vào tụ họp trong
phòng ăn chờ ra về. Bà Bông mặc một
cái áo khoác lông, bà bảo là lông chồn,
theo thời giá, trên bốn ngàn ; bà vén tay
áo, mỡ cái locker nơi bà để đồ đạc, rồi
bà la thất thanh, hô hoán lên: Trong cái
locker, bà có để một hộp nữ trang bằng
vàng y và một hộp nữ trang bằng hột
xoàn. Kẻ gian đã cƣa ống khóa của bà
lấy mất hộp nữ trang bằng hột xoàn trị
giá trên năm chục ngàn đô rồi khóa lại
bằng ống khóa khác.
Mọi ngƣời ai cũng tin, cũng xì xào
bàn tán. Hai thám tử đại tài thuộc loại Sé
Lốc Hôm trổ tài điều tra: Phƣớc mồm
thối và ẩn xà cừ lăng săng hỏi han bà
ông và các bà. à nào, bà nấy đều khai
là đã từng bị kẻ gian lấy cắp vàng bạc
châu báu để trong locker, nhƣng vì sợ tội
một mất mƣời ngờ nên các bà không
dám nói ra. Nay nhờ Phƣớc mồm thối và
ẩn xà cừ điều tra luôn thể. Đƣợc thế
hai thám tử danh tiếng mắt lừ lừ nhìn
đám đàn ông thuộc phe Mai văn hẳng
đòi khám xét. ác bà thì thảo luận ỳ sèo,
đề nghị lên thƣa ban giám đốc mở cuộc
điều tra. Ai cũng có ý kiến, và ai cũng
cho là ý kiến của mình là quan trọng là
ch nh xác, mọi ngƣời phải nghe theo.
Thế là cãi nhau đến nhức đầu.
Từ Trẩm Á thấy thế ngứa mắt phán:
“Các ông, các bà nghe đây. Đây là chỗ
làm việc, và bọn chúng ta làm cái công
việc vệ sinh hốt rác, mà các cụ gọi là cu
li hốt rác. Cái pô-li-ci của sở này đã cấm
các ông các bà mang đồ quý vào nơi làm
vitệc. Nếu mất mát, sở không chịu trách
nhiệm. Nếu bất luân, sẽ bị kỷ luật. Khi
các ông các bà điền đơn xin việc đã cam
kết tôn trọng nội quy và ký tên. Nay các
ông các bà đi thƣa bị mất đồ qúy giá tức
là các ông các bà đã tự tố cáo rằng ch nh
các ông các bà đã vi phạm nội quy, vi
phạm lời cam kết. òn cái việc mất đồ nữ
trang của bà ông có nhiều nghi vấn.
Thứ nhất, món nữ trang trị giá tới năm
chục ngàn đồng làm sao bà có đuợc,
trong khi lƣơng của bà chỉ có 6 đồng một
giờ? Thứ hai, bà có món nữ trang đắt giá
nhƣ thế sao không để ở nhà mà mang đến
đây làm chi? Ngƣời có món nữ trang quý
giá nhƣ thế, để ở nhà cũng không yên
tâm, phải mang gửi trong safety box của
ngân hàng. à ông nói đã có kẻ cƣa ống
khóa của bà, lấy cắp hộp nữ trang rồi tráo
ống khóa khác vào. Nếu đó là sự thực, thì
sao bà ông có cái chìa khóa của cái ống
khóa thứ hai để mà mở cái locker của bà?
Nhƣ thế, hoặc là không có vụ cƣa ống
khóa, lấy đồ, rồi tráo ống khóa. Hoặc là
ch nh bà ông cƣa ống khóa, lấy đồ của
chính bà rồi tráo ống khóa. ái giả thuyết
thứ hai nếu là sự thật, nó cần thì giờ,
dụng cụ và sức mạnh, bà ông không thể
làm đƣợc. ây giờ các ông, các bà những
ai đã từng bị mất đồ cứ đi thƣa, ngƣời ta
sẽ theo đó mà điều tra. Thực, hƣ chƣa
Hội Ngƣời Việt Richmond 114 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
biết, nhƣng những ngƣời vi phạm nội qui
sẽ bị kỷ luật. Thực ra theo tôi nghĩ, đây
chỉ là sự dàn cảnh để khoe khoang, khoe
những điều không có. Sự dàn cảnh hết
sức ấu trĩ, nên lòi cái đuôi gian, ngƣời ta
thấy ngay."
à ông lồng lộn lên sỉa sối vào mặt Từ
Trẩm Á. Phƣớc mồm thối bênh mẹ nuôi
t nh dở trò hành hung. òn bà Lan thì lừ
lừ tới bên Á, sàng cho Á một cái bạt tai.
Các bà khác nhao nhao lên. Đảng của
Mai văn hẳng kẻ hoan hô, ngƣời đả đảo
ầm ĩ. ẩn xà cừ, lẳng lặng bỏ 25 cent vào
máy điện thoại nhấn ba số 911. ảnh sát
đến, F I đến, các bà thi nhau khai. Sau
cuộc điều tra, sự việc đúng nhƣ Từ Trẩm
Á nói: chẳng có đồ quý giá và cũng
chẳng có việc mất đồ quý giá, mà chỉ có
việc tự khoe khoang, tự đề cao qua sự vu
cáo, nói láo và hành hung. ác bà khai đã
mất đồ đều bị cảnh cáo ghi vào hồ sơ, bà
ông bị nghỉ việc không lƣơng ba ngày
vì vi phạm nội qui.
Sau vụ này, đảng của bà ông và đảng
của Mai văn hẳng thi đua hoạt động,
hối lộ mọi cấp, lên cả nhân viên văn
phòng. ả hai đảng bắt đảng viên đóng
góp nhiều hơn. Ai không phục tùng đều
bị chửi rủa: bần tiện và những lời nói
siên, nói xéo tục tằn.
Để tránh những phiền phức trong việc
giao thiệp với hai đảng, Từ Trẩm A rủ tôi
sang khâu landscaping, coi sóc bãi cỏ,
vƣờn hoa bên ngoài. Nhiệm vụ của tôi là
quét rác ở ba cái parking lot, cắt sén, tỉa
mấy bãi cỏ, vun sới mấy khóm hoa, trồng
các loại hoa theo từng mùa, bón phân và
tƣới nƣớc hàng ngày. Đây là việc làm cực
nhọc, ngoài trời, nhƣng t chung đụng,
một mình một việc, không có supervisor
để mắt từng cử chỉ, từng việc làm. hỉ có
điều bực mình là đến giờ ăn phải vào
phòng ăn, phải gặp lại đồng hƣơng, phải
nghe những lời huyênh hoang khoác lác
hay xỏ xiên tiền hậu của hai Đảng. Thông
lệ của sở này, nhân viên có thể dùng các
đồ ăn còn dƣ trong nhà bép, sau khi đã
phân phối cho bệnh nhân, lúc đầu mọi
ngƣời hăm hở ăn, sau ngán đồ ăn Mỹ,
mang cơm theo. Tôi cũng mang cơm
theo, và hàng ngày ngồi ăn ở cái hƣơng
đình ngoài sân cỏ, cuối vƣờn, không vào
nhà ăn để tránh chung đụng.
Một buổi sáng tôi đang quét rác ở cái
parking lot, thì một chiếc xe du lịch chạy
vào, đậu lại. Từ trên xe, một ngƣời con
gái khoảng ngoài hai mƣơi, đẹp mảnh
mai, giản dị trong bộ đầm trắng ngà.
Trong khuôn mặt và vóc dáng của cô, tôi
nhận ra vài nét quen thuộc, nhƣng mơ hồ
vì không biết giống ai ở một thời đã xa.
Ngƣời con gái vòng sang vên kia, mở cửa
xe, dìu một ngƣời đàn bà xuống xe. Tôi
chỉ căn cứ vào y phục mà gọi đây là
ngƣời đàn bà, còn thân hình bà cao lớn
mập mạp, xuông đuột nhƣ một đòn bánh
tét. Khuôn mặt thiết bì nung núc những
thịt. ái cằm bạnh ra, cổ to nhƣ cổ trâu.
Mái tóc cắt ngắn kiểu, đàn ông. Đôi lông
mày sâu róm, mồm rộng toang hoác, đôi
môi tô son đen thẫm, lúc nào cũng cƣời.
Tất cả thân hình và khuông mặt của bà có
thể hình dung nhƣ một quả táo ta đặt trên
quả táo tây. Nhƣng nhƣ thế cũng chƣa
đúng hẳn, vì cái đầu của bà v nhƣ quả
Hội Ngƣời Việt Richmond 115 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
táo ta còn quá nhỏ so với thân hình của
bà. Muốn cho ch nh xác, phải đặt quả táo
Thái Lan loại extra large, trên quả táo tây
cũng extra large. ả cái thân hình đồ sộ
ấy hoàn toàn tƣơng phản với cặp mắt to
trong veo nhƣng vô hồn. Trong cặp mắt
ấy có cái nhìn xa vắng, không vƣớng
mắc. Không có một ngƣời, một vật, một
cảnh tr nào lọt vào trong thị trƣờng. ái
tầm nhìn rất thờ ơ với ngoại cảnh mà chú
mục vào một mục tiêu ở tận đâu đâu, ở
ngoài cuộc sống hiện tại, ở ngoài vòng
chân trời, ở ngoài chân mây, ở một cõi
ngoài. Ở một nơi nội tâm sâu thẳm.
Ngƣời con gái nhắc nhở: "Mẹ, cẩn
thận cái chân." ô gái nói tiếng Việt, mẹ
con cô là ngƣời Việt Nam. Gặp đồng
hƣơng ở đây là một điều rất đáng quý,
đáng mừng, đáng gặp mặt. Tôi ngừng
tay, tiến lại, ngả mũ hỏi ngƣời con gái:
"Tôi là công nhân ở đây, tôi có thể làm
điều gì để giúp bà và cô?" ô gái mừng
rỡ: " ác! ác là ngƣời Việt Nam." "Vâng
thƣa cô, tôi là ngƣời Việt Nam. Tôi có
thể làm điều gì giúp bà và cô?" " ác vui
lòng mang dùm hai cái vali cho mẹ con."
ô gái đáp. Tôi sách hai cái vali từ cốp
xe, theo mẹ con cô gái vào văn phòng rồi
trở ra tiếp tục việc hốt rác.
Từ đấy vào những phiên tôi phải làm
việc cuối tuần, tôi lại gặp cô gái. ô đến
thăm mẹ và ở lại chơi cả ngày. ô dẫn
mẹ ra vƣờng hoa, ngồi trong cái lƣơng
đình, dở thức ăn Việt Nam mà cô nấu
nƣớng rất công phu ra mời mẹ ăn. ô đối
với mẹ rất ân cần. Ân cần nhƣ săn sóc
đứa con nhỏ của cô. Mà ba mẹ cao lớn
mập mạp thì khờ khạo nhƣ đứa nhỏ thật.
ô đút thức ăn cho mẹ, lau chùi những
vết thức ăn trên mồm cho mẹ. Mồm luôn
luôn hỏi han: "Mẹ, mẹ ăn có ngon
không? Mẹ ăn nữa nhé! Món này con biết
mẹ th ch, con nấu cho mẹ ăn." Tay cô săn
sóc mẹ, mồm cô r u r t hỏi han, nhƣ một
bà mẹ nựng nịu đứa con nhỏ.
Đôi khi cô mời tôi ngồi chơi trong
hƣơng đình, mời tôi ăn một miếng, hỏi
han công việc của tôi, đời sống của
những bệnh nhân sống trong nursing
home.
ô là ngƣời Việt Nam, thật thà, kín
đáo, nên tôi nói cho cô hay về cuộc sống
của những ngƣời già yếu trong cái
nursing home này, tôi rào đón nhƣ thế,
bởi vì những điều tôi nói ra, nếu chủ hay
biết, tôi sẽ tức khắc bị đuổi, mất việc.
Ngƣời Mỹ có cái thông tục nuôi con
cho đến lúc nó đủ 18 tuổi, tốt nghiệp high
school, làm bữa tiệc thật lớn ăn mừng rồi
tống đứa con ra khỏi nhà, dây liên hệ gia
đình chỉ còn tiếp tục qua cái máy điện
thoại. Nên, khi cha mẹ về già, con cái
không thấy có cái bổn phận phải phụng
dƣỡng, vả chăng nếu muốn, ngƣời con
cũng không có điều kiện để phụng dƣỡng
cha mẹ vì hàng ngày con cái phải quay
cuồng với những bổn phận làm chủ, làm
Hội Ngƣời Việt Richmond 116 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
nhân viên, làm chồng, làm vợ, làm cha,
làm mẹ. Rồi còn thời giờ để ăn, để ngủ,
để du h . ái thời khóa biểu hàng ngày,
hàng tuần, hàng tháng, hàng năm nó k n
m t, chật cứng, không còn một kẽ hở,
không còn một khoảng trống nhỏ nào để
đề tên cha mẹ, để biểu hiện lòng hiếu
thảo. Đó là nói chuyện những ngƣời Mỹ
có tiền. òn những ngƣời Mỹ không tiền
thì cái thời khóa biểu nó còn k n m t hơn
nữa, k n nhƣ bƣng. Nên cha mẹ già chỉ
còn một nơi duy nhất để đến: nghĩa trang.
Trên đƣờng đến nghĩa trang có một nơi
nghỉ chân: nursing home. Mất tiền, hay
miễn ph , do ch nh phủ trợ cấp.
Tất cả từ chủ nhân đến lũ lao công
chúng tôi, đều sống nhờ vào đồng tiền mà
thân nhân của những bệnh nhân, ngƣời
già yếu chi trả.
Nhƣng những ngƣời bệnh nhân, những
ngƣời già yếu này đƣợc đãi ngộ ra sao?
Muốn cho cô hiểu rõ vấn đề phải kể cho
cô nghe cái nếp sinh hoạt hàng ngày của
ngƣời cƣ ngụ ở đây. uổi sáng, những
ngƣời còn khỏe mạnh tự làm đƣợc vệ
sinh cá nhân, thay quần áo ra phòng ăn
chờ ăn sáng. Những ngƣời già cả, yếu
đuối không tự làm đƣợc, có sự giúp đỡ
của các nữ y tá. ó những cụ già bệnh
tật, không làm đuợc bất cứ điều gì, hoàn
toàn trông cây vào sự giúp đỡ của y tá.
ác nữ y tá cũng đồng thời phải dọn
giƣờng cho bệnh nhân, hàng ngày họ làm
những công việc này, nặng nhọc, nhàm
chán, mà đồng lƣơng đôi khi không đủ
chi trả cho những nhu cầu, khiến họ
phiền muộn. Nỗi phiền muộn ấy, họ trút
lên đầu bệnh nhân bằng cách làm việc tắc
trách, cẩu thả. Đến bữa ăn, nếu có cụ già
nào ăn uống khó khăn, khó t nh trong
việc lựa chọn thức ăn, mà thực ra họ đâu
có quyền lựa chọn, thực đơn do những
ngƣời có thẩm quyền thiết lập, căn cứ
trên 100 gr chất gì cung cấp bao nhiêu
calories, họ t nh sẵn cả. Thức ăn đƣợc
nấu nƣớng, múc ra khay, mang đến
phòng ăn hoặc đến từng phòng bệnh
nhân. Y tá ở các phòng này xúc cho bệnh
nhân ăn, mà không phải chỉ có một bệnh
nhân, một y tá phải săn sóc nhiều bệnh
nhân. Trong việc ăn uống của những cụ
già, những bệnh nhân, có sự rơi vãi, y tá
phải dọn dẹp, lau chùi, càng tăng việc,
càng tăng sự khó chịu của họ, họ càng
cẩu thả hơn. Kết quả bệnh nhân bị bỏ đói,
sống trong điều kiện dơ bẩn. Sở xã hội có
cử thanh ra đến xem xét, nhƣng khi thanh
tra ra về, sự việc lại tiếp diễn. áo ch ,
những tờ tuần báo lớn của Mỹ đã đăng
những bài tố cáo hoạt động của một vài
nursing home, lời than phiền của thân
nhân của họ, họ bị bỏ cho chết đói trong
căn phòng hôi hám dơ bẩn.
Một thời gian khá lâu, vẫn chỉ thấy có
một mình cô con gái đến thăm mẹ vào
dịp cuối tuần. Đƣợc sự đồng ý của ban
giám đốc cô gái gửi gấm bà mẹ cho tôi
những lúc bà thơ thẩn dạo chơi ngoài
vƣờn. ô gái kể cho tôi nghe về gia đình
cô. Mẹ cô, thời còn trẻ, đẹp lắm, đẹp nổi
tiếng trong số nữ sinh Saigon, cái đẹp
mềm nhƣ liễu, mong manh nhƣ sƣơng
khói. ha cô là một bác sĩ quân y, bỏ phế
gia đình, sống chung với một nữ y tá khi
cô còn nhỏ tuổi. Gia đình bên ngoại cô
khá giả, về vật chất không thiếu thốn
nhƣng về tình cảm hoàn toàn trống vắng.
Hội Ngƣời Việt Richmond 117 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
ô lấy hình bà mẹ thời trẻ cho tôi coi, tôi
nhận ra ngay ngƣời đàn bà. Thảo nào, lúc
mới gặp cô, tôi đã nhận ra ngay những
nét quen thuộc, vì cô rất giống mẹ cô. Tôi
đoán rằng sau cái lần đi ần Thơ kiếm
chồng, đời ngƣời đàn bà đã đi vào khúc
rẽ. Nỗi đau khổ vì tình phụ đã làm tâm tr
ngƣời đàn bà bị tổn thƣơng, nỗi uất ức
dồn nén, quá sức chịu đựng đã khiến
ngƣời đàn bà mất tr nhớ, chỉ còn sống
theo bản năng: ăn và ngủ, khiến thân hình
mập phì. Ngƣời đàn bà tuy đang ăn, đang
thở trong hiện tại mà tâm tr còn bám
chặt vào dĩ vãng. à hay lang thang trên
các lối đi trải sỏi, ngồi lặng im hàng giờ
trong cái hƣơng đình. Trên khuôn mặt
đàn ông vô hồn bất động, ánh mắt hoàn
toàn xa vắng. Tôi hái tặng bà mấy bông
cúc dại, đặt cạnh bà hộp nƣớc cam, mấy
cái bánh lạt, nghe bà thì thào mấy tiếng
thank you.
Sự thăm viếng của cô gái mỗi ngày
mỗi thƣa thớt. ó lẽ cô bận chuyện gia
đình. ó lẽ cô đã thay đỗi nơi cƣ ngụ,
theo việc làm. ó lẽ cả hai. Ngƣời đàn bà
mỗi ngày mỗi mập phì, mỗi ngày mỗi
yếu.
Rồi mùa đông đến, lạnh lẽo. Tuyết
phủ trắng bầu trời. Tuyết phủ trắng mọi
vật. Ngƣời đàn bà ở hẳn trong phòng. Cô
con gái không còn đến thăm mẹ. Tôi
không còn nghe những tiếng thank you
vô cảm. Đôi lúc tôi có nghĩ đến bà,
nhƣng luật của viện dƣỡng lão, không
cho phép nam công nhân vào phòng nữ
bệnh nhân. Đành chịu.
Sau đó t lâu, tôi đi kiếm việc khác, trở
lại viện an dƣỡng xin cái giấy chứng
nhận thời gian làm việc nơi đây, tôi hỏi
ngƣời quản trị trƣởng về ngƣời đàn bà.
à lạnh lùng nói một câu: - That fat
woman? She's gone!
Tôi trở ra vƣờn hoa, vào ngồi trong
lƣơng đình, nhồi thuốc lá vào ống vố,
châm lửa, r t một hơi. Tự nhiên tôi nhớ
đến câu hát của một thời đã xa, xa lắm,
và muốn hát lên để tặng ngƣời đàn bà:
....Nhưng thôi
Tan vỡ giấc mộng đẹp rồi
Mộng ngỡ đã thành cuộc đời
Mà đành mây nước trôi
Yêu ai, lời nói lắng chìm vào đời
Còn vướng vất lòng mình hoài
Cho khô héo môi cười....(*)
Richmond, ngày đông ch , 2000
TẠ QUANG TRUNG
(*) Không nhớ tên bản nhạc và tên tác giả
Màu Cờ
Nồi cháo đêm tàn sôi sục sục
Canh gà eo óc gáy te te
Xuân sang hoa nở ngoài hiên lạnh
Chút gió mưa bay nhớ độ hè
Em có về đây ngắm cỏ cây
Ngắm sao Bắc đẩu sáng đêm nay
Sao mắt em sầu đơn độc quá
Lệ tình rơi nhẹ giấc mơ ai
Ngồi buồn câu chuyện đời dang dở
Còn nhớ Xuân Thu chuyện nước non
Nhớ một màu vàng ba sọc đỏ
Màu cờ bất diệt tấm lòng son
Sa Giang Trần Tuấn Kiệt
Hội Ngƣời Việt Richmond 118 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Thơ tặng người vợ khổ hạnh
Sen xanh – Tranh Đinh ƣờng
Trong thơ anh đầy bóng dáng nhân tình
và giọng điệu nghe ra đầy luyến tiếc
trách giếng cạn mà lòng sao tha thiết
nước đổ rồi lại mong hốt đầy ly…
Anh ăn cơm nhà lo những chuyện chi chi
chẳng lợi lộc bao nhiêu cho cuộc sống
Em và anh như đồng-sàng-dị-mộng
Em lo ròm người chuyện mặc ấm ăn no
anh lại nằm vơ vẩn với câu thơ…
Em đã phải bao nhiêu lần nhuộm tóc
không phải làm duyên mà giấu niềm khổ
nhọc
để anh yên lòng đi bắt bóng cầu danh
anh vui buồn với những giấc mơ anh
Em vui buồn chuyện bán buôn ế, đắt
ngày mới cưới em tuy không tuyệt sắc
nhưng phải đâu là cỏ nội hoa hèn
mà giờ đây đã tiều tụy, hom hem
do Em phải làm thân cò lặn lội
chồng và con như lũ tằm ăn rổi
nên trăm dâu trút xuống một đầu tằm
anh làm thơ, như làm ruộng, ăn cơm nằm
Em nuôi chồng con, như nuôi tằm, ăn
cơm đứng
cặp nhẫn, đôi bông gỡ dần lúc túng
đôi ta giờ còn lại chút nhau thôi
và hai con làm của quý để đời !
Trong thơ anh Em mờ mờ tỏ tỏ
ai lo cho anh lúc trái trời trở gió
hẳn không là những bóng dáng tình xưa
ai cùng anh chia sớt muối dưa
hẳn là Em ! mười mấy năm khổ hạnh
mười mấy năm ! Em bụi dâu trơ nhánh,
anh – con tằm không nhả nổi sợi tơ…
Đêm nay thức giấc giữa khuya mờ
cái vắng lạnh làm anh thêm cô quạnh
gió chớm thu mà anh nghe ớn lạnh
có phải anh còn ở phía ngoài Em ?
anh sống lơ mơ những chuyện hão huyền
không biết được gạo trong thùng còn, hết
khi thấy con nghiêng nồi cạy, vét
anh giật mình ngó lại phía đời anh
là mái tóc anh đã không còn xanh !…
Anh là kẻ đã bỏ hình bắt bóng
tưởng hạnh phúc nằm trong danh vọng
hóa ra nằm gọn lõn trong tay Em !
Kỷ niệm ngày cƣới nhau, o8.o8.1999
Hà Nguyên Dũng
Hội Ngƣời Việt Richmond 119 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Màu vàng Vũ Khỹ
ơn mƣa nhỏ đêm qua nhƣ báo trƣớc
mùa mƣa đang hấp hối. Gió mùa đông
bắc nhè nhẹ thổi, không kh se lạnh
những sáng mai. ái lạnh Sài Gòn không
đáng mà những chiếc áo khoác đủ màu
cũng có dịp khoe cùng thiên hạ. Quán
bên đƣờng nhìn ra thấy hoa nở khắp. Một
chiếc áo vàng rực rỡ vút qua, mái tóc dài
nhẹ bay nhƣ n u lại tiếng cƣời vừa rớt
ph a sau. Dòn, trẻ, hạnh phúc. Giọng cƣời
tan loảng giữa trời. Sẽ là một ngày nắng
đẹp. T t trên cao kìa, màu xanh ngắt rộng
vào vô tận. Giọt nắng dại khờ lạc bƣớc,
run rẩy trong chút nƣớc đọng nơi mặt
bàn. on mắt trần gian khép vội, ký ức
màu vàng, mùa lạnh cứ miên man.
Đà lạt những ngày này, hoa dã quỳ nở rộ,
vàng rực những triền đồi. Đồi núi tạo
hình lạ. on đƣờng đất nhỏ uốn cong đƣa
tầm nhìn vào góc khuất. ƣớc hụt hơi,
mong tìm lại riêng khoảng trời, mà đồi lại
tiếp đồi, xa hết tầm nhìn vẫn cứ đồi với
núi. Thông ngút ngàn, gió quật vào nghe
nhƣ có tiếng mƣa rơi. Mƣa rơi ƣớt áo ai
lạnh lắm. Vòng tay vụng về ngày nào ôm
không chắc, không đủ cho ngƣời chút ấm
áp. hiếc dù bé nhƣ mũ nấm vàng, nhƣ
hoa quỳ mƣa gió dập gảy ngang. Ngƣời
đàn ông ấy đứng giữa đồi, gió núi ào ào
thổi tung mớ tóc. ó ánh sáng vừa nhá
lên, vâng, già rồi, tóc bạc rồi. Năm tháng
bƣớc vô tình vội vã, trải ra cuộc đời màu
sắc nào chả phai. Màu sắc tàn phai, nghe
trong lòng chán ngán nợ áo cơm, nghe
cái nhớ một ngày dâng cao nhƣ biển
đứng!
Ông ấy đã bỏ hết mọi thứ trong một
ngày. huyến bay vật vờ, ném vội con
ngƣời đạo mạo này về vùng đất ngày
xƣa. Vâng, cái ngày dại khờ, thằng bé dại
khờ, tình yêu dại khờ, và em rất dại khờ.
Ông đứng chờ ai trên đồi? Mặt trời mỏi
mệt thả mình trôi về ph a chân núi xa,
nắng cuối ngày xoè nhƣ nửa đoá hoa dã
quỳ vàng. Gió vẫn không ngừng thổi,
ngƣời đàn ông cứ đứng cô đơn trong giá
buốt, không hay dƣới chân đồi có ngƣời
phụ nữ nép mình sau cây thông nƣớc mắt
nhƣ mƣa. à nghĩ, khoảng cách khá xa
mà nỗi nhớ cùng hƣớng về, về một cuộc
tình đẹp đã chết hai mƣơi mấy năm trƣớc.
Ngày đó hoa dã quỳ vàng rực làm nhân
chứng. Lễ vật lại là loài dại nhỏ x u, thân
và lá bò sát đất để cho hoa kiêu hãnh
vƣơn cao. Loại hoa dại tầm thƣờng này
có riêng cái nét đáng yêu. úi xuống thật
gần và nhìn đi, những cánh hoa trắng nho
nhỏ, khum khum ôm k n nhụy, nhƣ chút
thẹn thùng, nhƣ chút e lệ mà đậm quyến
rũ. Ngƣời con gái ngày xƣa, dáng cúi thật
hiền để mái tóc dài đổ xuống ph a trƣớc,
không kịp che tia mắt tham lam quét vội
khuôn ngực trắng ngần. Ánh mắt giao
nhau. Hai khuôn mặt cùng đỏ. Đôi tay
bối rối làm rơi đoá hoa, cùng cúi vội để
chạm nhau nhƣ tình cờ. Và lao vào nhau
nhƣ nam châm đối cực, say đắm, mê loạn
và cuồng nhiệt. ái cuồng nhiệt chƣa bao
giờ tắt suốt những năm dài xa nhau. Nhớ
về nhau hay nhớ về ch nh cái cảm giác
đắm đuối của riêng mình. hỉ biết là từ
nơi xa t t, cùng quay về chốn này một
Hội Ngƣời Việt Richmond 120 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
ngày, nhớ trong tiếc nuối... Sao không
gặp nhau nhỉ? Thử một lần xem?
Thử một lần xem, không t lần ngƣời phụ
nữ tự bảo mình, thử một lần xem?? Hai
mƣơi mấy năm, bà chờ cái ngày con
ngƣời ấy quay về, để rồi cứ chần chừ. à
sợ, sợ gì? Sợ không thể kiểm soát ch nh
bản thân mình, sợ rằng sau khi gặp lại,
cái đắm đuối ngày xƣa sẽ nhận chìm bà,
nhận chìm vĩnh viễn, không thể nào ngoi
lên nổi. Nhƣ ngày xƣa nó đã nhận chìm
bà, may mà cuộc đời biết mỉm cƣời đã
vớt bà lên một lần. Lần này có may mắn
nhƣ xƣa không? Khi mà bà biết rằng
ngƣời ấy, nơi xa lắc nào đó đã yên vui
bên vợ con. Không thể, mình không thể,
thôi thì hãy tự an ủi rằng cuối cùng ông
ấy cũng đã quay về. Đã quay về cái nơi
ngày xƣa ông đã ra đi nhƣ chạy trốn. à
cất tiếng thở dài, quay lƣng bƣớc đi.
Ngƣời phụ nữ này vẫn còn đẹp lắm.
Dáng đi vẫn còn rất thẳng, nhẹ. Vùng mắt
sâu, tối thẩm, chƣa có một vết nhăn. ơ
thể vẫn còn hừng hực cái sức sống ch n
muồi. Hoa dã quỳ đã bị phá cho cái nhu
cầu xây dựng của con ngƣời. hỉ còn vài
bụi hoa lác đác nở. Ánh vàng lẻ loi. uồn
đấy!!! ên rào những ngôi biệt thự vừa
xây ngƣời ta trồng bông tỷ muội. Những
bông hoa nho nhỏ, màu đỏ, trắng hay
hồng có mùi thơm nhẹ, dễ chịu. Ai nhƣ
ba cái hoa quỳ dại, vàng choé, mùi nồng
nồng khó chịu, rất khó chịu. Từ dƣới con
đƣờng nhỏ, một đoá hoa tỷ muội hàm
tiếu, vừa chạy vừa nhảy chân sáo. Dáng
nh nhảnh, thật là dễ yêu. Dễ yêu làm sao
cái thời trẻ trung và tƣơi mát. ái thời
của hoa tỷ muội. ô bé đẹp thiệt là đẹp
ấy tung tăng chạy thẳng lên đồi. Lên đồi
ƣ?? Nơi con ngƣời ấy đứng chờ trong
buốt giá??? Phải, cô ta chạy lên đồi,
ngƣời đàn ông đạo mạo ấy dang rộng tay
đón. Gió lạnh đƣa xuống giọng cƣời nhƣ
thuỷ tinh vỡ. Tiếng rất trong, bay đi thiệt
xa: "Anh chờ... lâu lắm hả... Tội nghiệp
cƣng chƣa... lạnh ngắt rồi... Áo... không...
...Tội nghiệp chƣa, hoa dã quỳ vàng
úa!!!!!
Vũ Khỹ
Nỗi tôi Trong niềm cô độc kín mu
tôi y như thể tên tù chung thân
sẽ không có một đặc ân
quyết không khoét vách vượt trần gian
qua
Định cư trong cõi người ta
Tết này là đã sáu ba Tết rồi
đôi chân sắp chạm chân trời
tay chưa cầm được dẫu lời hẹn suông
Tóc giờ đã chẻ ngọn nguồn
tuổi như lũ đĩa hút mòn đời tôi
làm sao có thể thu hồi
ôi em càng vội hơn thời gian kia
Từng đêm úp mặt vào khuya
nghe niềm dâu bể - hợp chia – lở bồi
và thơ tôi – những nỗi tôi
chịu không thấu những nỗi đời rống tru
Trong niềm cô độc kín mu
tôi thu thân với tôi thu nhỏ đời
nằm ôm chặt cứng nỗi tôi
lỏng tay sầu xổng ánh trời xuân se !
Hà Nguyên Dũng
2009
Hội Ngƣời Việt Richmond 121 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Chiếc áo len
hồng Trương Đình Trác
Những tia nắng vàng nõn, nhẹ chao mình
lách qua cánh cửa khép hờ rồi trải mình
trên chiếc phản gỗ mun, đen bóng. Nắng
sớm mai, ngày mùng một tết, đặt những
đồng tiền vàng trên đôi mắt nàng, mừng
tuổi. Dậy đi thôi. Tiếng những con chim
sẻ gọi nhau l ch ch ch bên nhà. him đi
xông nhà mùng một tết. Nàng nhoẻn
miệng cƣời với ý nghĩ ngộ nghĩnh của
mình, dụi mắt, tỉnh hẳn. Trời phảng phất
lạnh, cái lạnh của một ngày đầu năm.
Qua khung cửa nhỏ, những xác pháo đỏ,
còn vƣơng cái vị nồng nồng ấm áp của
thuốc pháo đêm qua, theo cơn gió nhẹ
buổi sớm mai len vào trong nhà, sƣởi ấm
cái không kh lạnh lẽo của một ngày đầu
năm. ăn nhà yên ắng, chỉ có nàng vừa
thức giấc. uổi sáng đầu năm làm lòng
nàng xao xuyến, bâng khuâng về một
điều gì rất mơ hồ. Dƣờng nhƣ trong cái
tĩnh lặng của buổi sáng đầu năm, con
ngƣời có thể nghe đƣợc những hy vọng,
niềm khao khát đến từ những tinh khôi
của đời sống. Nàng nhớ nụ lộc non đêm
ba mƣơi tết ở chùa. ái mầm xanh nhƣ
ngọc, e ấp, hứa hẹn trong bóng đêm đẫm
mình trong nhang trầm của đêm trừ tịch.
Nàng mơ hồ nghe tiếng chuông chùa đêm
cuối năm, êm đềm nhƣ một lạch nƣớc
đầu nguồn. Hôm nay mùng một tết không
mở tiệm, nàng thấy lòng mình giãn ra.
Những tất bật bán buôn nhƣ một lớp bụi
dầy, bổng nhiên trôi tuột đi theo một con
nƣớc nhiệm mầu. Nàng thấy vui vui,
khao khát thèm một điều gì đó nhƣ cơn
mƣa ngày còn nhỏ. Lòng sáng nhƣ
gƣơng, thanh thản, nàng nhìn bóng mình
rơi trên chiếc phản mun đen bóng theo
thời gian, mơ hồ nghe đƣợc những xôn
xao của một thời thanh xuân con gái.
Nàng thấy mình trong chiếc áo len hồng,
mặc lần đầu tiên, cũng trong một buổi
sáng mát lạnh nhƣ buổi sáng hôm nay .
Một ngày mùa Đông. ủa một thời con
gái ...
Nàng ngắm mình trong gƣơng . hiếc
gƣơng cũ sau nhà, căn nhà đã hao hớt
nhiều sau cơn giông bão của một cuộc
đổi đời, hồng lên nhƣ sắc hồng của chiếc
áo mới. Những sợi len hồng, tƣơi thắm
nhƣ đám con gái chạy đùa dƣới nắng,
hồn nhiên rải sắc hƣơng nồng nàn cho cả
một cõi nhân gian. Những đƣờng len ngọt
ngào ôm bờ vai tròn nhỏ, dịu dàng. ờ
vai mà nàng thƣờng dựa vào mảng tƣờng
màu vàng, nơi vách lớp, trên chiếc bàn
nhỏ, nhƣ muốn giữ riêng cho mình một
niềm cô đơn không biết tên. Đôi bờ vai
nhỏ bé đã rƣng rƣng khóc cùng nàng trên
con đƣờng về học, trong một buổi chiều.
Từ ngày cha xa nhà, nàng phụ mẹ bán
Hội Ngƣời Việt Richmond 122 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
buôn, ngày ngày đi học nhƣ giật gấu vá
vai. Giọt nƣớc mắt chiều hôm ấy, lăn dài,
lăn mãi, nƣớc mắt thấm bờ vai nhỏ. Nàng
đã bỏ quên mình. ho đến hôm nay.
Nàng ngắm mình trong gƣơng. hiếc áo
hồng vun đầy, làm tăng nhan sắc bờ ngực
k n đáo dậy thì. Nàng thấy hơi ấm của
ch nh mình ở nơi trái tim, sau làn áo.
Nàng chợt nhớ tới những quà tặng của
đất, của trời. Nhớ tới những con đồi dịu
dàng chập chùng, căng da, rạm hồng nhƣ
ở nơi trái tim nàng. Nàng chợt nhớ nàng
là con gái và đỏ mặt với một niềm kiêu
hãnh mơ hồ thầm k n. Sửa nhẹ cổ áo
trong, nàng nói thầm với ch nh mình
“thôi đi học, kẻo trễ”. ổ áo trắng rơi trên
chiếc áo len hồng, e ấp. Nàng bƣớc vội ra
cửa. on nắng dịu dàng đuổi theo tiếng
guốc của nàng trên đƣờng.
Hắn đã yêu nàng từ những ngày cuối hè
tựu trƣờng. Rồi hè đi, thu tới . Và hắn đã
yêu nàng suốt mùa thu . Hắn yêu lắm,
đến độ xót xa, cái dáng gầy mong manh
của nàng. Nàng cô đơn đứng đó, bóng đổ
dài trên hành lang lớp học . Hắn nghĩ tới
một cánh rừng, cửa đã khép, với bao điều
b ẩn của trần gian. Nàng lặng lẽ đi về,
con đƣờng nhiều cây sao, xanh um trên
cao, trên cao. ả cái khoảng không gian
trên con đƣờng nàng đi về là một khoảng
trời thơ mộng. Nhân gian nhƣ chỉ còn hai
ngƣời. Hắn nghe tiếng chân nàng bƣớc
nhẹ trên bóng nắng, bƣớc chân son con
gái, ngọc ngà, diễm hoặc. Hắn nghe tiếng
tim mình đập mau. ó con chuồn chuồn
sắc đỏ bay giữa hai ngƣời. ó phƣợng vĩ
cƣời khúc kh ch vỡ tung sắc hồng dƣới
bƣớc chân vụng dại. ó những trái dầu
giang hai cánh nhỏ rơi rơi. Tiếng ve nức
nở gọi hè. Hắn ngƣớc nhìn vòm lá xanh
um, ngẩng tìm trên cao trái dầu đẹp nhất,
ƣớc trao cho nàng nhƣ lời tỏ tình đầu
tiên. on chuồn chuồn đỏ vẫn bay giữa
hai ngƣời. Phƣợng vĩ vẫn cƣời khúc
kh ch dƣới bƣớc chân vụng dại. Ve vẫn
hát vô tình. ả cái khoảng không gian
trên con đƣờng nàng đi về đã đầy ắp trái
tim hắn, ngây dại, bồi hồi.
ái lạnh se sắt của những ngày gần tết.
Hôm nay nàng đi học trong chiếc áo len
mới đan. Rực rỡ, ấm áp nhƣ một ngọn
nến hồng. Hắn chợt biết bây giờ là mùa
đông. hiếc áo len hồng, nàng, ngọn nến
kia, nhắc hắn mùa màng đang chuyển
giấc. Nàng đã ngồi đan chiếc áo len từ
những cuộn chỉ hồng từ những ngày
chớm thu, trên chiếc phản gỗ mun đen,
nhìn ra con đƣờng nhỏ trƣớc nhà. Mỗi
ngày, buổi chiều hắn đạp xe qua con
đƣờng nhỏ đó, chỉ để nhìn thấy nàng.
Nàng ngồi đó, bên mâm cơm nhỏ, khói
bốc trắng lựng, bàn tay với những ngón
trắng dài nhƣ hoa ngọc lan, dịu dàng bới
đầy những chén cơm cho anh, cho mẹ,
quây quần bên nàng. Đôi đũa mun đen,
tóc nàng đen tuyền, nhƣ suối dịu dàng, đổ
dài trên làn khói trắng đầm ấm. Lƣng
nàng quay ra đƣờng, bờ lƣng dài óng ả,
dài hơn những tia nắng cuối ngày đổ dài
suốt dọc một con đƣờng. Rồi nàng sẽ
ngồi đó, sau buổi cơm chiều, lặng lẽ đan
áo từ những cuộn chỉ hồng. Nắng buổi
chiều tối hẳn, t m thẩm. hỉ còn chiếc
bóng dịu dàng của nàng sau khung cửa
nhỏ. Nàng đã ngồi đó suốt mùa thu đan
áo. Hôm nay, nàng mặc áo len hồng, đốt
lên ngọn nến hồng, gọi trời đất cựa mình
chuyển đông. ánh rừng mở cửa. Nàng
Hội Ngƣời Việt Richmond 123 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
bớt dáng cô đơn . Nàng ở ngay trong giữa
trái tim của hắn. Hắn chƣa bao giờ yêu
nàng hơn hôm nay. Mùa đông năm đó
còn theo hắn nhiều năm sau nữa... Theo
vào trong cả những giấc mơ ... Ngọn nến
hồng lung linh ... không tắt.
ăn nhà buổi sáng mùng một tết vẫn yên
ả. Lòng nàng sáng nhƣ gƣơng. Sợ đánh
thức con dậy, nàng khe khẻ mở ngăn tủ
nhỏ chất quần áo cũ. Mùi quần áo cũ nhƣ
chắp cánh cho nàng, bay về cả một vùng
trời ngát nồng kỷ niệm. hiếc áo cánh
trắng thời con gái. Mỏnh manh tội
nghiệp. Nhƣ nàng tội nghiệp, những khi
nắng xuyên qua cánh áo, soi ấm cả một
vùng bát ngát mà nàng chỉ muốn giữ cho
riêng mình và dƣờng nhƣ, dƣờng nhƣ rất
mơ hồ, cho cả một mặt trời, mặt trăng
đẹp nhất ... Ở đáy ngăn kéo, chiếc áo len
hồng nằm yên, chờ bàn tay nàng. Những
sợi len hồng ngày xƣa, nay đã héo màu.
Những cây sao ngày xƣa trên đƣờng đến
trƣờng đã bao mùa lá. Và nàng, nàng đã
đi hết môt vùng bát ngát với một mặt trời,
một mặt trăng. ó tiếng cựa mình gọi mẹ
... Mặt trời con thức dậy, gọi nàng. Mặt
trời ngoài kia cũng đã lên cao.
hàng đã đi với nàng suốt một mùa đông.
Đứng nhìn dòng sông sau cơn mƣa đêm
mùa đông ùa qua thành phố. Ngồi với
nàng trong công viên, nghe cái lạnh từ
những căn nhà chọc trời hắt lại, nhìn
những cửa sổ hắt ra ánh đèn vàng đầm
ấm, nghe nhớ thƣơng đầy bàn tay. hàng
đã đi với nàng dài suốt một mùa đông,
kiếm tìm cho đƣợc chiếc áo len hồng của
mùa đông năm xƣa, nhƣ đi tìm một phép
lạ nhiệm mầu. hàng ngắm nhìn nàng,
trong chiếc áo len hồng, vẫn đằm thắm,
dịu dàng . hàng yêu nàng lắm, nhƣ ngọn
nến hồng ba mƣơi năm chƣa kịp tắt ...
Nàng đã đến với chàng, qua tấm ảnh phai
màu trong tập kỷ yếu mà ngƣời bạn
chàng mang tặng. Nhƣ vậy đó, chàng với
nàng nơi ch nh giữa trái tim, đã đi xuyên
suốt một mùa đông, cô đơn nhớ thƣơng
đong đầy bàn tay. . .
Ta đã yêu em từ dạo ấy
Áo len hồng một buổi sáng mùa đông
Mùa thu đã tắt và mùa xuân chưa đến
Chỉ còn em một ngọn nến hồng ...
Trương Đình Trác
Viết Cho Hạc
Đêm nay thật mới thật tinh khôi
Như giọt băng trinh rỏ xuống đời
Phút hiến thần tiên đầy máu lệ
Ánh ngọc trần gian tỏa sáng ngời
Chất ngất hồn say chất ngất sầu
Em ơi thành tựu mộng trân châu
Chập chờn bóng lộn mà hư ảo
Vòm ngực thiên tiên quá nhiệm màu
Thôi em đừng khóc em đừng khóc
Hạnh phúc tơ vàng tựa bảo châu
Đam mê giây phút tình thiên cổ
Thần cũng hoang mang thuở mộng đầu
Người bước qua rồi cầu thệ thủy
Tà huân buồn lắm thế nhân ơi
Trăm năm mới gặp người tri kỷ
Đã thấy già nua giữa cuộc đời
Tay nắm tay nhau dìu dặt sống
Nụ hồng trao nốt buổi đầu tiên
Hồn bước theo hồn thiên cổ lụy
Vạn tuế thiên thu đóa mộng huyền
Sa Giang Trần Tuấn Kiệt
Hội Ngƣời Việt Richmond 124 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Huyền thoại
TTKh và Hai sắc
hoa ty gôn Thụy Khuê
Hai sắc hoa ty gôn, huyền thoại lãng mạn gắn bó
với Thâm Tâm, một trong những nhà thơ tài hoa
mệnh yểu thời tiền chiến. TTKh hay Thâm Tâm
là ngƣời đầu tiên sử dụng hai chữ "người ấy" và
đem hình ảnh "hoa ty gôn" vào trong thơ, nhƣ
một hình tƣợng nghệ thuật mơ hồ và phiếm định
về ngƣời tình và cuộc tình tan vỡ.
Trong những bài thơ tác giả ẩn danh hoặc ký
tên nhƣng không biết rõ ngƣời ấy là ai, Hai sắc hoa ty gôn và TTKh là một huyền thoại
lãng mạn đã gây mối trắc ẩn cho nhiều thế hệ
yêu thơ.
Câu chuyện bắt đầu cách đây 70 năm, ngày 27/9/1937 trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ
Bẩy, số 174 xuất bản tại Hà Nội, có đăng
truyện ngắn Hoa ty gôn của Thanh Châu, nội dung kể lại mối tình tan vỡ của đôi trai gái
ngày trƣớc đã hò hẹn dƣới giàn hoa ty gôn. Ít
lâu sau, có ngƣời đàn bà trẻ, dáng dấp bé
nhỏ, nét mắt u buồn, mang đến tòa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy một phong bì dán kín, gửi
cho ông chủ bút, trong có bài thơ Hai sắc
hoa ty gôn, ký tên TTKh. ài thơ Hai sắc hoa ty gôn đƣợc đăng trên Tiểu Thuyết Thứ
Bẩy số 179, ra ngày 30/10/1937, và sau đó
còn ba bài nữa cũng ký tên TTKh đƣợc gửi
bằng đƣờng bƣu điện đến tòa soạn :
- Bài thơ thứ nhất, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 182 (20/11/1937),
- Đan áo cho chồng, đăng trên Phụ Nữ Thời Đàm,
- Bài thơ cuối cùng, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 217
(23/7/1938).
Bài thơ thứ nhất xuất hiện sau Hai sắc hoa ty gôn gần một tháng, và Bài thơ cuối cùng
đăng tám tháng sau.
Ngay khi Hai sắc hoa ty gôn ra đời, giới văn nghệ sĩ đã xôn xao, thi sĩ J. Leiba, ngƣời
cùng tâm sự với TTKh và là tác giả hai câu
thơ nổi tiếng "Người đẹp vẫn thường hay chết yểu. Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai",
chép lại nguyên văn bài Hai sắc hoa ty gôn
trên Ngọ Báo với lời mở đầu:
Anh chép bài thơ tự trái tim
Của người thiếu phụ lỡ làng duyên
Lời thơ tuyệt vọng ca đau khổ Yên ủi anh và để tặng em.
Nguyễn nh sau khi đọc Bài thơ thứ nhất đã
viết bài Dòng dư lệ để tặng TTKh, in lại trong tập Lỡ bước sang ngang và Thâm Tâm
có ba bài Màu máu ti gôn, Dang dở và Gửi
TTKh, và nhiều thế hệ sau còn có những bài thơ khác sụt sùi thƣơng cảm cho số phận
TTKh. Vậy TTKh là ai ?
Gi t lệ tương tư mới Hai sắc hoa ty gôn mở đƣờng cho một lối
lãng mạn khác với lãng mạn Đông Hồ,
Tƣơng Phố. Có thể nói Hai sắc hoa ty gôn là giọt lệ tương tư mới, nơi TTKh, không phải
là giọt lệ khóc chồng của Tƣơng Phố, khóc
vợ của Đông Hồ, mà là giọt lệ khóc cho tình
yêu; hơn thế nữa, khóc người tình ngoài hôn nhân, một đối tƣợng tự do, phóng khoáng,
vƣợt khỏi khuôn khổ lễ giáo thời bấy giờ. Và
lần đầu tiên hai chữ người ấy đƣợc chính thức đƣa vào thi ca, sau này nó sẽ trở thành
"cổ điển", trở thành ngôn ngữ gối đầu giƣờng
của giới trẻ trong nhiều thế hệ :
Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc, Tôi chờ người đến với yêu đương.
Hội Ngƣời Việt Richmond 125 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng:"Hoa, dáng như tim vỡ, Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!"
Thuở ấy, nào tôi đã hiểu gì Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp:"Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy."
Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá ! - Tôi buồn lắm, Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...
Từ đấy, thu rồi, thu lại thu, Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết, Vẫn giấu trong tim bóng "một người".
Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha !
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi...
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã, Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi !
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không ?
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ Tựa trái tim phai, tựa máu hồng ? (1)
Người ấy
Trong văn xuôi Việt Nam, hai chữ người ấy
đã đƣợc Nguyễn Trọng Quản dùng để chỉ
người tình trong truyện ngắn Thày Lazaro
Phiền từ 1887. Vậy Nguyễn Trọng Quản là ngƣời đầu tiên đƣa danh từ Người ấy vào
trong văn Việt. Và Thanh hâu xƣớng lên
hình ảnh hoa ty gôn trong truyện ngắn đăng trƣớc bài thơ của TTKh một tháng, trên Tiểu
Thuyết Thứ Bẩy.
Nhưng TTKh là người đầu tiên sử dụng hai
chữ "ngƣời ấy" và hình ảnh "hoa ty gôn" vào
thơ, như một hình tượng nghệ thuật mơ hồ và
phiếm định về người tình và cuộc tình tan vỡ. Về mặt tâm lý xã hội, ngƣời đàn bà có chồng
những năm 36 - 37, mấy ai dám nói đến
ngƣời tình một cách công khai ? TTKh đã viết nên những lời tâm sự của bao nhiêu
ngƣời đàn bà cùng cảnh ngộ ngang trái, sống
trong xã hội Khổng Mạnh đầu thế kỷ :
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết, Vẫn giấu trong tim bóng "một người".
Hội Ngƣời Việt Richmond 126 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
TTKh là ai ? Trong Bài thơ thứ nhất, in sau Hai sắc hoa ty
gôn hai tháng, có những yếu tố xác định rõ
hơn về cuộc tình này :
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
và nhất là hai câu cuối :
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
Vườn Thanh và chồng nghiêm là hai yếu tố
gây tranh luận về nơi xẩy ra cuộc tình và tên
ngƣời chồng. Vƣờn Thanh ở đâu? ó phải ở Thanh Hóa không? Và ngƣời chồng của
TTKh tên là gì ? Có phải là Nghiêm không ?
Đến bài thơ thứ ba, bài Đan áo cho chồng,
lời thơ xa xót đầy nƣớc mắt :
Ngoài trời mưa gió xôn xao Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời.
Và Bài thơ cuối cùng có những câu gần nhƣ
khó hiểu:
Trách ai mang cánh ―ti gôn‖ ấy
Mà viết tình em được ích gì ?
Bởi nếu TTKh là ngƣời đem chuyện của
mình ra viết thành thơ, thì tại sao nàng lại
trách ai ? Vậy ai đây là ai ? Nàng trách chính nàng hay nàng trách ngƣời yêu? Nhất là đoạn
sau, lời hờn giận càng thêm gay gắt:
Là giết đời nhau đấy biết không ?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Tất cả những lời trách móc u uẩn này với
nhịp điệu du dƣơng, lời thơ tha thiết, gắn bó, làm cho toàn bộ tác phẩm trở thành huyền
thoại.
Nếu so sánh 4 bài thơ ký tên TTKh và 3 bài
thơ "trả lời" của Thâm Tâm in trên Tiểu
Thuyết Thứ Bẩy sau đó, ngƣời ta có thể mở
đƣợc những nấc cửa đầu tiên vào những bí ẩn này. Bài Gửi TTKH của Thâm Tâm có những
câu sau đây:
... Tiếng xe trong vết bụi hồng
Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ Tiếng xe trong xác pháo xưa,
Nàng đi có bốn bài thơ trở về
Tiếng xe mở lối vu qui Nay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời!
Miệng chồng, Khánh gắn trên môi
Hình anh, mắt Khánh sáng ngời còn mơ.
Từ ngày đàn chia đường tơ Sao tôi không biết hững hờ nàng đan
Kéo dài một chiếc áo len
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối dây. Nàng còn gỡ mãi trên tay,
Thì tơ duyên mới đã thay hẳn màu.
Góp hai thứ tóc đôi đầu, Sao còn đan nối những câu tâm tình?
Khánh ơi còn hỏi gì anh?
Lá rơi đã hết mầu xanh màu vàng."
....
Thâm Tâm nhắc đến ngƣời yêu tên Khánh. Vậy TTKh là gì ? Có phải là những chữ
Hội Ngƣời Việt Richmond 127 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Thâm Tâm - Khánh, viết tắt ? Hay là Tuấn
Trình - Khánh (vì Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Trình). Hay TTKh là Trần Thị
Khánh, ngƣời yêu của Thâm Tâm ?
Có thể nói hầu hết những nhà biên khảo từ Hoài Thanh, Hoài Chân, trong Thi Nhân Việt
Nam (1940), Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam
Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên (1965), Nguyễn Hữu Long, Nguyễn Tấn Trọng trong
Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến (1968) ... và
gần đây trong Tuyển Tập Thơ Mới 1932-1945 Tác Giả và Tác Phẩm do Lại Nguyên Ân và
Ý Nhi tập hợp phát hành năm 1992, tất cả
đều đánh dấu hỏi về TTKh.
Lập luận của Nguyễn Tấn Long và
Nguyễn Hữu Trọng
Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng là hai nhà biên khảo đầu tiên có ý tìm hiểu kỹ
nhất về cái mà hai ông gọi là "Nghi án TTKH
và Thâm Tâm". Trong bộ Việt Nam Thi Nhân
Tiền Chiến, hai ông đƣa ra những nhân chứng và những giả thuyết đã xuất hiện trên
báo ch , văn đàn từ năm 38 đến 68 của các
ông Giang Tử, Thạch Hồ, Y Châu, Nguyễn Bá Thế, Lê ông Tâm, Anh Đào. Ngƣời thì
cho rằng TTKh ch nh là Thâm Tâm. Ngƣời
lại quả quyết TTKh là Trần Thị Khánh,
ngƣời yêu của Thâm Tâm.
Ông Giang Tử thuật lại cuộc gặp gỡ với nhà
thơ Tế Hanh vào tháng 11 năm 1944 trên
chuyến xe đi Quảng Ngãi: "Tế Hanh cho biết TTKh chính là Trần Thị Khánh, ngƣời em
gái đồng tông với mình ở Thanh Hoá và kể
rõ thiên tình hận của nàng và thi sĩ Thâm Tâm. Giả thuyết này không đứng vững vì Tế
Hanh không phải ngƣời Thanh Hoá mà
Quảng Ngãi và vƣờn Thanh trong bài thơ không chắc đã là Thanh Hoá.
Ông Thạch Hồ và ông Y hâu đều cho biết:
TTKh là nhân vật có thật, đã đôi ba lần đến thăm thi sĩ Thâm Tâm ở Khâm Thiên, lúc
ông này ở chung với Nguyễn Bính và Trần
Huyền Trân (giả thuyết này phù hợp với lời tƣờng thuật của Nguyễn Vỹ sau này).
Ông Nguyễn Bá Thế, tức nhà văn Thế Nguyên lại xác định: TTKh ch nh là nhà văn
Thẩm Thệ Hà, có tên thật là Tạ Thành Kỉnh,
TT là Tạ Thành còn K và H là chữ Kỉnh viết
tắt. Việc này bị Thẩm Thệ Hà phủ định hoàn toàn.
Nhƣng có ba giả thuyết đáng chú ý :
- Trên tạp chí Giáo Dục Phổ Thông, số 49,
ra ngày 1/11/1959, tại Sài Gòn, ông Lê Công
Tâm cho biết: TTKh ch nh là thi sĩ Thâm Tâm, ngƣời đã dàn cảnh một thiếu phụ bị ép
duyên, khóc tình dang dở bằng những bài thơ
Hai sắc hoa ty gôn và Bài thơ thứ nhất.
- Báo Sống ra ngày 15/4/1967, ông Nguyễn
Tố, xác định đã sống chung với Thâm Tâm năm 1936, cùng với Trần Huyền Trân, Vũ
Trọng Can. Thâm Tâm có mấy bài thơ ký tên
TTKh nhƣ bài Hai sắc hoa ty gôn. Lúc đó
Khánh là ngƣời mà Thâm Tâm yêu say đắm, lúc Khánh đi lấy chồng, Thâm Tâm đau khổ
gần nhƣ phát điên. Lũ chúng tôi vừa giễu cợt,
vừa khuyên lơn. h nh trong thời gian thất tình, Thâm Tâm viết đƣợc mấy bài thơ ký tên
TTKh.
- Nhƣng trong báo Nhân Loại, bộ mới số 108
ra tháng 7 năm 1958 tại Sàigòn, ông Anh
Hội Ngƣời Việt Richmond 128 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Đào lại đƣa ra một thoại mới mà thoại này,
theo ông, do chính Thâm Tâm kể lại. Ông Anh Đào kể rằng: Năm 1941, trong một đêm
thu lạnh lẽo, ông đƣợc ngồi giữa hai nhà thơ
Nguyễn Bính và Thâm Tâm bên một bàn đèn
thuốc phiện và ch nh ông đƣợc nghe Thâm Tâm tâm sự. Thâm Tâm nói rằng: TTKh. là
tên một thiếu phụ mà trƣớc kia tôi yêu. Và
Thâm Tâm xác định những bài thơ đăng trên báo là của nàng, và ông Anh Đào kết luận
rằng Thâm Tâm xứng đáng là "ngƣời ấy" của
TTKh.
Sau khi đƣa ra các luận chứng và giả thuyết
trên đây, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu
Trọng, tác giả Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, kết luận :
TTKh. không thể là sản phẩm tƣởng tƣợng của Thâm Tâm vì đó là nỗi lòng tha thiết của
một ngƣời, với những vần thơ lâm ly nhƣ thế
thì ngƣời khác không thể viết thay đƣợc. Vậy Thâm Tâm là Thâm Tâm và TTKh là TTKh.
Hai ngƣời có thể là đôi tri kỷ nhƣng không
thể cùng là một ngƣời. Các tác giả Việt Nam
Thi Nhân Tiền Chiến muốn đóng hồ sơ nghi án trên một huyền thoại.
Sự xác định của Nguyễn Vỹ
Nguyễn Vỹ là một trong những nhà thơ tiên
phong trong phong trào Thơ Mới. Năm 1970,
khi Nguyễn Vỹ xuất bản cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến tại Sàigòn, thì ông đã đƣa sự thực
về Thâm Tâm và TTKh ra ánh sáng.
Trang bià quyển Văn Thi Sĩ Tiền Chiến và
bài viết về TTKh của nhà thơ Nguyễn Vỹ
(Nguồn : thinhanquangngai.worldpress.com)
Nhƣ chúng ta đã biết, sau Phan Khôi,
Nguyễn Vỹ cùng với Lƣu Trọng Lƣ, Nguyễn Thị Manh Manh, Thế Lữ là những ngƣời đã
phát triển phong trào Thơ Mới. Nguyễn Vỹ
và Mộng Sơn lập trƣờng phái Bạch Nga, chủ
trƣơng cách tân thơ, chú trọng đến khía cạnh âm nhạc và hình thức xếp chữ trong thơ.
Trƣờng phái Bạch Nga bị Thế Lữ và Hoài
Thanh đả kích kịch liệt, thơ Nguyễn Vỹ không đƣợc tiếp nhận đúng mức. Đánh giá
thơ Nguyễn Vỹ là một vấn đề khác mà chúng
tôi không đề cập đến trong bài này. Nguyễn Vỹ là bạn thân của Lan Khai, Lƣu Trọng Lƣ,
Trƣơng Tửu và trong cuốn Văn Thi Sĩ Tiền
Chiến ông đã vẽ lại chân dung 35 nhà văn,
nhà thơ sinh hoạt trong không kh văn học từ đầu thế kỷ đến 1945. Một tƣ liệu quý cho
những ngƣời nghiên cứu văn học.
Sau hơn 30 năm im lặng, 1970, một năm
trƣớc khi mất, Nguyễn Vỹ đã công bố những
lời tâm sự của Thâm Tâm 22 năm sau khi Thâm Tâm qua đời trong bài viết Thâm Tâm
và sự thât về TTKh. mà chúng tôi xin lƣợc
trình sau đây :
Năm 1936, 37 có xuất hiện ở phố Chợ Hôm,
ngoại ô Hà Nội, một nhóm văn sĩ trẻ với bút
hiệu là Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và một vài ngƣời nữa. Ít ai để ý đến họ. Huyền Trân
và Thâm Tâm đều mới 18, 19 tuổi. Họ có
một tờ tuần báo nhỏ, tên là Bắc Hà ở phố
Chợ Hôm. Chủ động trên tờ báo là Trần Huyền Trân. Báo Bắc Hà bán không chạy
lắm, tuy có vài mục hài hƣớc, vui, nhờ mấy
bức vẽ của Tuấn Trình. Thâm Tâm là bút hiệu của Tuấn Trình. Tuấn Trình vẽ nhiều
hơn viết, thỉnh thoảng đăng một bài thơ, vài
mẩu truyện ngắn. Đôi khi thấy xuất hiện trên mặt báo vài ba bài thơ có t nh cách ca dao, ái
tình của Nguyễn Bính học sinh lớp nhất
trƣờng tiểu học Hà Đông. Nguyễn Bính thi
rớt, nghỉ học luôn.
Tôi - tức là Nguyễn Vỹ - tuy không chơi
thân, nhƣng quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều vì anh ta ở trọ một căn nhà trong ngõ
Khâm Thiên, phía sau chợ. Tôi ở một gác trọ
của đƣờng Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa. Đôi khi Trần Huyền Trân nhờ tôi viết bài cho
tuần báo Bắc Hà "cho vui" vì không có tiền
Hội Ngƣời Việt Richmond 129 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
nhuận bút. Để tỏ tình thông của văn nghệ, tôi
có viết một truyện ngắn khôi hài, và chỉ có một lần.
Trong một số báo đặc biệt Mùa Hè, Tuấn
Trình có vẽ một cặp Bạch Nga bơi trên Hồ
Hoàn Kiếm và ghi ở dƣới "Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn".
Tôi quen biết Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu. Nhà anh ở Chợ Hôm, cách
chợ độ ba, bốn trăm thƣớc. Anh đẹp trai, y
phục lúc nào cũng bảnh bao, ngƣời có phong độ hào hoa, lịch thiệp. Tôi thấy ở Sàigòn có
anh Hoàng Trúc Ly, nhà văn, na ná giống
Tuấn Trình về dáng điệu cũng nhƣ t nh tình,
tƣ cách. Nhiều khi gặp Hoàng Trúc Ly trên đƣờng Bonnard Sàigòn, tôi quên lững, cứ
tƣởng nhƣ gặp Tuấn Trình trên phố Chợ
Hôm Hà Nội.
Một buổi chiều gần tối, Tuấn Trình đi lang
thang gần chợ Khâm Thiên. Tôi từ Hà Nội về nhà, tôi tƣởng anh đến Trần Huyền Trân,
nhƣng anh bảo: Thằng Huyền Trân nó đi đâu,
không có nhà. Tôi rủ anh về gác trọ của tôi ở
cuối phố. Hôm ấy, tôi có vài chục bạc trong túi, có thể làm một tiệc bánh giò chả lụa với
Tuấn Trình. Tôi bảo anh ở lại ngủ với tôi cho
vui. Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say rƣợu Văn Điển, kể chuyện tình của anh
với cô Khánh cho tôi nghe.
Câu chuyện tình
Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp nhất
trƣờng tiểu học Sinh Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội trợ. Nhà cô cũng ở
đƣờng Sinh Từ, ngay cạnh Thanh Giám, nơi
đền thờ Khổng Tử.
Thanh Giám là một thắng cảnh Hà Nội, đã
liệt vào cổ tích Việt Nam, xây cất từ đời nhà
Lý, tu bổ cho tới đời nhà Lê, hình chữ nhật, xung quanh xây tƣờng đá ong, cao độ hai
thƣớc Đền thì ở trong cùng, trƣớc đền có Hồ
Tròn, hai bên hồ có những tấm bia ghi tên các tiến sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh Giám có
cổng tam quan lớn, trƣớc cổng có tấm bia đề
hai chữ Hán "Hạ mã" và hai trụ cao. Trong vƣờn trồng rất nhiều cây cổ thụ và các cây
kiểng, nơi đây rất yên tĩnh và mát mẻ, cũng
là nơi các cặp trai gái hẹn hò tâm sự. Trƣớc kia có một bầy quạ chiều tối bay về đây ngủ,
cho nên ngƣời Pháp cũng gọi là Pagode des
corbeaux. Chùa Quạ, ngoài danh từ lịch sử
Temple de Confucius, Đền Khổng Tử.
Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ
đẹp. Tuấn Trình có một ngƣời cô, nhà ở phố Chợ Cửa Nam, gần Sinh Từ. Anh thƣờng đến
đây thăm cô và trông thấy cô Khánh đi chợ
mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng tháng 2 năm 1936, họa sĩ Tuấn Trình -tên gọi hồi đó-
mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi. Tuấn Trình
mới bắt đầu vẽ và viết chút ít trong tờ tuần báo Bắc Hà của Trần Huyền Trân vừa xuất
hiện.
Sau một vài tháng theo dõi, Tuấn Trình làm quen đƣợc với cô Khánh và gởi báo Bắc Hà
tặng cô. Cô gái 17 tuổi, cảm mến ngƣời nghệ
sĩ tài hoa, tình yêu chớm nở nhƣ cành hoa antigone trắng cũng vừa chớm nở trong tháng
đầu hè trƣớc sân nhà cô.
Antigone là loại hoa của ngƣời Pháp đem qua
hồi đầu thế kỷ, không thơm nhƣng đẹp. Nó là
loại hoa dây, lá giống nhƣ lá nho, cho nên ở
miền Nam nhiều ngƣời gọi là hoa nho. Có hai loại : hoa trắng và hoa hồng. Hoa nở vào
đầu mùa hè thành những chùm rất dễ thƣơng,
nụ hoa giống hình trái tim nho nhỏ. Ở Hà Nội ngƣời ta trồng rất nhiều và bán cũng rất nhiều
ở chợ Đồng Xuân, cũng nhƣ ở Chợ Hoa, bờ
hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để phòng
khách, nó buông ra một vẻ lãng mạn, khả ái
Hội Ngƣời Việt Richmond 130 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
lắm. Ngƣời Bắc gọi tắt là hoa ty gôn. Ở phố
Sinh Từ, antigone mọc rất nhiều, nhƣ trƣớc sân nhà ông Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn
Nhƣợc Pháp. Nhà trọ của Lƣu Trọng Lƣ và
Lê Tràng Kiều ở phố Hàm Long có cả một
giàn hoa trắng và hồng. Nhƣng mùa đông lá rụng, hoa tàn thì không cảnh nào tiêu sơ
quạnh quẽ bằng.
Tình yêu của Tuấn Trình và Trần Thị Khánh
chớm nở ngay lúc những chùm hoa antigone
vừa hé nụ, và chết giữa mùa đông năm đó, trong lúc giàn hoa ty gôn úa tàn, rụng ngập
đầy sân. Thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong
mấy tháng hè, sang hết mùa thu, không đem
lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình.
Hoa ti gôn với hai sắc hồng và trằng (Nguồn : Wikipedia/JM Garg)
Chính lúc này Tuấn Trình lấy bút hiệu là
Thâm Tâm. Một vài bài thơ tình thức đêm
làm tặng cô Khánh. Những bài thơ đầu tiên đăng trên tuần báo Bắc Hà đều ký là Thâm
Tâm, nhƣng các tranh vẽ trong báo vẫn ký
Tuấn Trình. Nhƣng cô gái 17 tuổi, dè dặt, theo lễ giáo của gia đình, chƣa thật bao giờ
đáp ứng đúng với tình yêu tha thiết của Tuấn
Trình Thâm Tâm.
Trong lúc những cặp tình nhân trẻ trung dắt
nhau đi du ngoạn khắp nơi thơ mộng ở Hà
Nội và ngoại ô, thì Trần Thị Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô
thƣờng nói: "Thầy mẹ em nghiêm lắm, gia
đình em nghiêm lắm." Lần nào cô Khánh
cũng lặp lại chữ nghiêm gia giáo ấy để trả lời
kỳ vọng khát khao của ngƣời yêu.
Chỉ đƣợc hai lần Khánh đến nơi hẹn, nhƣng
không đƣợc lâu. Lần thứ nhất, một đêm
trăng, Khánh lẻn băng qua đƣờng vào vƣờn Thanh Giám. Tuấn Trình đã chờ ngƣời yêu
nơi đây, dƣới bóng cổ thụ. Nhƣng cả hai
cũng không nói đƣợc gì, Khánh run sợ. Tuấn Trình bối rối, tất cả những lời lẽ bay bƣớm
đã sắp sẵn, bây giờ quên hết. Cuối cùng lại
trách móc nhau vì những chữ "Thầy mẹ em nghiêm lắm" và rồi Khánh cũng vội vã chạy
về nhà.
Lần thứ hai, vƣờn Thanh Giám đêm ấy cũng ngập ánh trăng thu. Nhiều ngƣời nói Thanh là
Thanh Hóa, là hoàn toàn sai sự thật. Nhƣng
thái độ của Khánh lạ lùng, khó hiểu. Hình nhƣ Khánh muốn nói với Tuấn Trình một
điều gì, nhƣng ngại ngùng không nói. Rồi
nàng buồn bã hỏi: "Anh định bao giờ đến xin thầy mẹ cho chúng mình ?" Chàng họa sĩ bối
rối trƣớc câu hỏi bất ngờ. hàng lơ đễnh bảo:
"Anh chưa nghĩ đến việc ấy, vì..." Câu
chuyện bị bỏ dở nơi đây cho đến khi từ giã.
Hai ngƣời vẫn thƣ từ với nhau cho đến một
hôm... Tuấn Trình nhận đƣợc bức thƣ của ngƣời yêu, không, của ngƣời đã hết yêu, báo
tin nàng sắp lấy chồng. Thƣ viết bằng mực
tím, trên bốn trang giấy học trò, xé trong một
quyển vở Nam Phƣơng Hoàng hậu (loại vở học trò rất thông dụng lúc bấy giờ).
Đại khái trong thƣ Khánh nhắc lại tình yêu "thơ mộng" của cô với "ngƣời nghệ sĩ tài hoa
son trẻ", đó là những chữ cô dùng trong thƣ.
Tình yêu rất đẹp, nhƣng vì thầy mẹ của cô rất "nghiêm" theo lễ giáo, nên dù vị hôn phu của
cô là một ngƣời chỉ mới biết sơ thôi nhƣng
cô vẫn có "bổn phận phải giữ tròn chữ hiếu",
cô than thở đời cô khổ nên tình duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm, v.v... uối thƣ ký tắt
Kh.
Tuy Khánh không viết gì về vị hôn phu và
ngày cƣới, nhƣng sau dọ hỏi, Tuấn Trình
đƣợc biết chồng Khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, đẹp trai, góa
vợ và không có con. (Trong câu thơ bên cạnh
Hội Ngƣời Việt Richmond 131 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
chồng nghiêm luống tuổi rồi là chỉ sự cách
biệt tƣơng đối giữa tuổi 39 của ngƣời chồng và tuổi vị thành niên của Khánh). Tiệc cƣới
rất linh đình, rƣớc dâu bằng 10 chiếc Citroën
mới. ô dâu đeo nữ trang rực rỡ, mặc chiếc
áo màu đỏ tƣơi, lộng lẫy ngồi cạnh ngƣời chồng mặc áo gấm xanh.
Đêm trƣớc hôm cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm tổ chức tại tòa báo Bắc Hà một tiệc thịt
chó, uống Mai quế lộ, mời Trần Huyền Trân,
Nguyễn nh và Vũ Trọng Can tham dự. Họ say sƣa ngâm thơ, làm thơ, cƣời đùa cho đến
khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.
Trái với mọi dự đoán, Khánh rất hạnh phúc với chồng. Ngƣời đau khổ là Tuấn Trình
Thâm Tâm. Vừa nhớ thƣơng đơn phận, vừa
bị mặc cảm của ngƣời nghệ sĩ nghèo bị ngƣời yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn chế
nhạo, đùa bỡn, nhất là Vũ Trọng Can.
Vì một chút tự ái văn nghệ, Tuấn Trình đã
thức suốt đêm, theo lời anh thuật lại, để làm
bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, ký tên TTKh, với
thâm ý cho Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm ra để thƣơng tiếc
mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật,
Tuấn Trình nhờ cô em họ chép lại bài thơ trên, dán k n bao thơ và nhờ cô này mang thƣ
đến tòa báo.
Tất nhiên là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình hoàn toàn khác với lời tâm sự trong
bức thƣ cuối cùng của Khánh báo tin sắp lấy
chồng. Cô Khánh không biết làm thơ. Và theo lời Tuấn Trình, cô ghét những bài thơ
của Thâm Tâm. Sau khi nhận đƣợc bức thƣ
cuối cùng của Khánh, trong thƣ Khánh tỏ ý không bằng lòng Tuấn Trình đã mƣợn tên cô
để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ trên báo,
có thể làm hại đến cuộc đời của cô. Trong lá
thƣ phản đối đó, Khánh xƣng tôi chứ không xƣng em nữa.
Thâm Tâm lấy lại những lời, những chữ trách móc giận dữ của Khánh trong thƣ để làm Bài
thơ cuối cùng ký tên TTKh, với những câu :
Trách ai mang cánh ―ti gôn‖ ấy
Mà viết tình em được ích gì ?
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.
Là giết đời nhau đấy biết không ? Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng. Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Rồi để đáp lại Bài thơ cuối cùng, Thâm Tâm
làm bài Dang dở tặng TTKh, cũng là bài thơ
kết thúc niềm đau của mối tình dang dở :
Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết,
Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ, Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ,
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.
Huyền thoại Hai sắc hoa ti gôn, sở dĩ đƣợc
những tên tuổi nổi tiếng của thi ca đƣơng
thời phụ hoạ và đứng vững lâu dài trong lòng
ngƣời đọc, bởi nó chở những đớn đau chân thực của một ngƣời tình, dù viết dƣới bàn tay
trá hình Thâm Tâm. Và cũng nhờ tài năng
của Thâm Tâm mà chúng ta có đƣợc hai hình tƣợng mới: người ấy và hoa ty gôn. T nh mơ
hồ bóng gió của người ấy và cái chết thảm
khốc của Antigone ẩn trong một chùm hoa
nhỏ, xinh nhƣ mộng, càng làm tăng thêm chất bi đát thầm lặng của tình yêu, liệm thêm
sự bí mật của những chữ TTKH.
Hội Ngƣời Việt Richmond 132 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
* Phụ lục
Bài thơ thứ nhất – TTKh (2)
Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương.
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ.
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
―Cố quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ‖.
Tôi run sợ viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về.
Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
Đan áo cho chồng – TTKh (3)
Chị ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương
Đã xa hẳn quãng đời hương
Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng
Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng như em
Vẫn còn giá lạnh trong tim
Đan đi đan lại áo len cho chồng
Con chim ai nhốt trong lồng
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ
Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
Hay đâu gió đã sang bờ ly tan
Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng
Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao
Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời
Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.
Hội Ngƣời Việt Richmond 133 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Bài thơ cu i cùng – TTKh (4)
Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ ?
Một mùa thu cũ một lòng đau...
Ba năm ví biết anh còn nhớ,
Em đã câm lời có nói đâu!
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly,
Càng khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh ―ti gôn‖ ấy
Mà viết tình em được ích gì?
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ "đan áo" của chồng em
Bài thơ "đan áo" nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem...
Là giết đời nhau đấy biết không ?
...Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh, em viết dòng dư lệ,
Là chút dư hương điệu cuối cùng!
Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng, hừ! đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi...
Buồng nghiêm thờ thẩn hồn eo hẹp
Đi nhớ người không muốn nhớ lời!
Tôi oán hờn anh mỗi phút giây,
Tôi run sợ viết, bởi rồi đây,
Nếu không yên được thì tôi ... chết
Đêm hỡi, làm sao tối thế này ?
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên;
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín
Lại chính là anh? anh của em!
Tôi biết làm sao được hỡi trời?
Giận anh không nỡ nhớ không thôi!
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt...
Sợ quá đi, anh... "có một người"!…
Hội Ngƣời Việt Richmond 134 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Gửi T.T. Kh. – Thâm Tâm (5)
Các anh hãy uống thật say,
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im
Giờ hình như quá nửa đêm ?
Lòng đau đem lại cái tin cuối mùa
Hơi đàn buồn như trời mưa
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi
Giờ hình như ở ngoài trời
Tiếng xe đã nghiến đã rời rã đi.
Hồn tôi lờ mờ sương khuya
Bởi chưng tôi viết bài thơ trả lời
Vâng, tôi biết có một người
Một đêm cố tưởng rằng tôi là chồng
Ðể hôm sau khóc trong lòng
Vâng tôi có biết cánh đồng thời gian
Hôm nay rụng hết lá vàng
Và tôi lỡ chuyến chiều tàn về không.
Tiếng xe trong vết bụi hồng
Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ.
Tiếng xe trong xác pháo xưa,
Nàng đi có bốn bài thơ trở về.
Tiếng xe mở lối vu qui
Nay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời !
Miệng chồng Khánh gắn trên môi
Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ.
Từ ngày đàn chia đường tơ
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan.
Kéo dài một chiếc áo len
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối giây.
Nàng còn gỡ mãi trên tay
Thì tơ duyên mới đã thay hẳn màu.
Góp hai thứ tóc đôi đầu,
Sao còn đan nối những câu tâm tình ?
Từng năm từng đứa con non
Mỉm cười vá kín vết thương lại lành.
Khánh ơi còn hỏi gì anh?
Xưa tình đã vỡ, nay tình lại nguyên
Em về đan mối tơ duyên
Vào tà áo mới, đừng tìm duyên xưa.
Bao nhiêu giọt lệ còn thừa,
Hãy dành mà khóc những giờ vị vong.
Bao nhiêu giọt lệ còn thừa,
Hãy dâng cho trọn nghĩa chồng, hồn cha.
Nhắc làm chi chuyện đôi ta
Cuộc đời anh đã phong ba dập vùi...
Hãy vui lên các anh ơi
Nàng đi, tôi gọi hồn tôi trở về
Tâm hồn lạnh nhạt đêm nghe
Tiếng mùa lá chết đã xê dịch chiều
Giờ hình như gió thổi nhiều
Những loài "hoa máu" đã gieo nốt đời.
Bao nhiêu nghệ sĩ nổi trôi
Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh ?
Sá chi những chuyện tâm tình
Lòng đau đem chứa trong bình rượu cay.
Thụy Khuê 13/04/2009
------------------------------------------------------------
(1) Hai sắc hoa ty gôn - TTKH (Tiểu thuyết thứ
bảy, số 179, 30/10/1937)
(2) Tiểu thuyết thứ bảy, số 182 ra ngày 20-11-
1937) (3) Phụ nữ thời đàm
(4) Tiểu thuyết thứ bảy, số 217, 23/07/1938)
(5) Tiểu thuyết thứ bảy, số 307, 04/05/1940)
Hội Ngƣời Việt Richmond 135 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Ca Dao Trào
Phúng Lê Thương
Đề cập đến văn chƣơng, chúng ta
không thể nào bỏ qua nền thi ca bình dân
mà ca dao là một trong những thể loại
quen thuộc nầy. Từ lâu, ca dao đã đi vào
lòng dân tộc và ca dao trào phúng là ca
dao nói về những nét trào phúng, hài
hƣớc, bông đùa, hóm hinh, d dỏm trong
kho tàng văn chƣơng bình dân của tiếng
Việt ta.
Ngày xƣa, cha mẹ chồng rất hà khắc
với nàng dâu, nhất là mẹ chồng cho nên
các cô gái ngày xƣa rất “ớn” về làm dâu
nhà chồng:
Gió đưa bụi chuối tùm lum,
Mẹ anh như hùm ai dám làm dâu.
Hay:
Bà con có biết hay không?
Bố chồng là lông chim phượng.
Mẹ chồng là tượng mới tô,
Nàng dâu mới về là bồ chịu chửi.
òn các nàng dâu ngày nay đã có các
“Phong Trào Giải Phóng Phụ Nữ” đứng
sau lƣng hay “Đời Mới, Phụ Nữ Mới” vì
thế các nàng thƣờng ngâm nga câu:
Ai ơi chồng dữ thì lo,
Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.
Đó là mẹ chồng dữ, còn cha chồng mà
dữ thì:
Ai ơi chồng dữ thì rầu,
Bố chồng mà dữ mổ trâu ăn mừng.
Trong tình trƣờng, có nhiều cô gái ỷ
mình đẹp, có nhan sắc hay con nhà giảu
nên làm cao:
Anh về chẻ lạt bó tro,
Rán sành ra mỡ em cho làm chồng.
Hoặc:
Duyên em đáng giá ngàn vàng,
Anh về bán cả họ hàng cưới em.
Nhƣng chàng trai đáp:
Anh về bán cái hột xoàn,
Bán thêm cây vàng dư sức cưới em.
Hay:
Thân em như cái chuông vàng,
Để trong thành nội có ngàn lính canh.
hàng trai đáp lại:
Thân anh như cái chày vồ,
Bỏ lăn, bỏ lốc chờ ngày dộng chuông.
Đối với những cặp vợ chồng mà tuổi
tác hay k ch thƣớc chênh lệch thì ca dao
trào phúng có câu:
Hội Ngƣời Việt Richmond 136 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Có phúc lấy phải vợ già,
Sạch cửa, sạch nhà lại ngọt cơm canh.
Vô phúc lấy phải trẻ ranh (bồ nhí),
Nó ăn, nó phá tan tành nó đi.
Hay:
Ai đời chồng thấp, vợ cao,
Rờ vú không tới lấy sào mà quơ.
òn về những phụ nữ nhan sắc tàn
phai, ca dao ta có câu châm biếm:
Mồ cha con bướm khôn ngoan,
Hoa thơm bướm đậu, hoa tàn bướm bay.
Hay:
Còn duyên như tượng tô vàng,
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.
Hoặc:
Còn duyên kẻ đón người đưa.
Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng.
Và:
Còn duyên kẻ đợi người chờ,
Hết duyên vắng ngắt như Chùa Bà Đanh.
Trong tình trƣờng, những kẻ nhiều
kiên nhẫn, “lì” thì đạt đƣợc thành công:
Chuông già đồng điếu chuông kêu,
Anh già lời nói em xiêu tấm lòng.
Nhƣng đối với những phụ nữ nhẹ dạ
thƣờng nghe những lời nỉ non ngon ngọt
ca dao ta khuyên:
Chớ nghe quân tử nỉ non,
Để rồi có lúc ẵm con một mình.
Hay:
Gá duyên với bạn hôm rằm,
Bữa nay bạn bỏ tôi nằm phòng không.
òn những phụ nữ có chồng mê vợ
bé, bỏ bê gia đình thì than:
Gió đưa bụi chuối sau hè,
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.
Con thơ tay ẵm, tay bồng,
Tay nào xách nước, tay nào vo cơm.
ởi thế cho nên ca dao khuyên những
ngƣời đàn ông nhiều vợ rằng:
Trồng trầu thì phải khai mương,
Làm trai nhiều vợ phải thương cho đồng.
Đàn ông là những ngƣời tham lam
cho nên ca dao có câu:
Sông bao nhiêu nước cho vừa,
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng.
Hội Ngƣời Việt Richmond 137 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Đàn ông tham lam, năm, bảy trái tim:
Đàn ông năm, bảy trái tim,
Trái ở cùng vợ, trái toan cùng người.
Hay:
Hai cô đứng lại cho đồng,
Để anh đứng giữa làm chồng hai cô.
Hoặc:
Lựu, lê anh cũng muốn trồng,
Hai em anh cũng thương đồng cả hai.
Và:
Cây lê, cây lựu, cây đào,
Ba cây anh cũng muốn rào cả ba.
a dao ta cũng trách những ngƣời ăn
ở hai lòng:
Trách ai ăn ở hai lòng,
Đang chơi với phượng, thấy rồng bay
theo.
Ở đời có nhiều ngƣời chủ quan, tự
phụ:
Gió thu thổi ngọn phù dung,
Dạ nàng dù sắt anh nung cũng mềm.
Trong tình trƣờng, có ngƣời tán gái
hơi ngộ nghĩnh:
Gái chưa chồng hay đi chợ,
Trai chưa vợ ruột tợ trái chanh.
Ngó lên mây trắng trời xanh,
Thương ai cũng vậy, thương anh cho rồi.
Khi mới quen nhau:
Nàng về ta chẳng cho về,
Níu áo nàng lại ta đề bài thơ
Hay:
Nàng về ta chẳng cho về,
Nắm áo nàng lại ta đề số phone.
Khi yêu nhau, ta nƣơng tựa nhau, ta
dìu dắt nhau:
Đôi ta như rắn liu điu,
Nước chảy mặc nước ta dìu lấy nhau.
Khi yêu nhau, ta thƣơng nhớ nhau,
muốn gần gũi bên nhau nên nàng ƣớc:
Ước gì em hóa ra dơi,
Bay đi bay lại đến nơi anh nằm.
Hay:
Thương anh không tính bạc tiền,
Hôn nhau một cái chết liền cũng vui.
Hoặc:
Anh về em cũng về theo,
Mẹ anh đóng cửa, em leo cột nhà.
Tục ngữ có câu “Nhất gái hơn hai, nhì
trai hơn một” cho nên:
Tuổi nàng đã chẵn hai mươi,
Tuổi anh hăm mốt tốt tươi quá chừng.
Hội Ngƣời Việt Richmond 138 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
“ ua” em để dành:
Cam sành lột vỏ còn chua,
Thấy em còn bé, anh ―cua‖ để dành.
Hay:
Cam đường bóc vỏ còn the,
Thấy em còn bé anh ―ve‖ để dành.
Và:
Cầm chài mà vãi bụi tre,
Con gái mười bảy đi ―ve‖ ông già.
Trong tình trƣờng, khi yêu nhau cƣới
liền để lâu thì mất cho nên ca dao
khuyên:
Ai về nhắn với ông câu,
Cá ăn thời giật, để lâu mất mồi.
Đối với những anh chàng dại gái, ca
dao trào phúng châm biếm:
Tiếc công khổ cực nuôi cu,
Cu ăn, cu lớn, cu gù, cu đi,
Hay:
Công anh xúc tép nuôi lươn,
Nuôi cho nó lớn, nó trườn nó đi.
Hoặc:
Công anh chăn nghé đã lâu,
Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày.
á ăn không giật để lâu mất mồi rồi
than trời, trách đất:
Trách trời sao vội mưa giông,
Trách em sao vội lấy chồng bỏ anh.
òn đối với những anh chàng thất
tình, ca dao trào phúng bông đùa:
Rồi đây có kẻ thất tình,
Dựa mai mai ngã, dựa tùng tùng xiêu.
Hay:
Chiều chiều có kẻ thất tình,
Dựa mai mai úa, dựa đình đình xiêu.
Hoặc:
Thất tình nước mắt như mưa,
Thấu trời, thấu đất nhưng chưa thấu
lòng.
Và:
Châu sa nước mắt ròng ròng,
Thấu thiên, thấu địa, thấu lòng em
chăng?
Trai tơ đòi vợ:
Chuối non chuối ép chát ngầm,
Trai tơ đòi vợ khóc thầm ban đêm.
Khóc rồi mẹ lại đánh thêm,
Vợ đâu mà cưới nửa đêm cho mày.
òn những chàng trai tơ mà lấy gái
nạ dòng, ca dao trào phúng chế giễu:
Trai tơ thì lấy gái tơ,
Đi đâu lật đật mà quơ nạ dòng.
Hội Ngƣời Việt Richmond 139 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Không đƣa hối lộ đếch “ừ”:
Chắp tay lạy cụ tỉnh yêu,
Cho con lấy được nàng Kiều ngày nay.
Cụ nhìn trợn mắt, cau mày,
Không đưa hối lộ thì đây đếch ―ừ‖.
Đi đâu mà chẳng lấy chồng:
Đi đâu mà chẳng lấy chồng,
Người ta lấy hết chổng mông mà gào.
Gào rằng đất hỡi, trời ơi,
Sao không thí bỏ cho tôi chút chồng?
Hay:
Đi chùa lạy Phật cầu chồng,
Hộ Pháp liền bảo đàn ông hết rồi.
Vì không chồng cho nên buồn rầu:
Buồn rầu, buồn rĩ, buồn non,
Buồn vì một nỗi sớm con muộn chồng.
Hết buồn rầu lại đến buồn tình:
Buồn tình nằm ngửa chình ình,
Không ai nằm úp lên mình cho vui.
Và:
Buồn tình hai đứa buồn tình,
Ai về Đồng Tháp cho mình quá giang.
on gái mà chơi với con trai:
Con gái chơi với con trai,
Rồi sau cái vú bằng hai trái dừa.
Má ơi đừng gả con gần:
Má ơi đừng gả con xa,
Chim kêu, vượn hú biết đâu mà lần.
Má ơi đừng gả con gần,
Con qua xúc gạo nhiều lần má la.
họn bạn mà chơi:
Chọn xoài đừng chọn xoài chua,
Chọn bạn đừng để bạn ―cua‖ bồ mình.
Sài Gòn, Nam Vang đi dễ, khó về:
Sài Gòn đi dễ khó về,
Trai đi có vợ, gái về có con.
Hoặc:
Nam Vang đi dễ khó về,
Trai đi có vợ, gái về có con.
Đƣờng cong cong, quèo quẹo:
Đường Sài Gòn cong cong, quèo quẹo,
Gái Sài Gòn không ghẹo mà theo.
Hay:
Đường lục tỉnh cong cong, quèo quẹo,
Gái lục tỉnh không ghẹo mà theo.
Nhiều gái ế chồng:
Bến Tre nhiều gái ế chồng,
Không tin xuống chợ Mỹ Lồng mà coi!
a dao trào phúng của ta cũng không
quên bông đùa, chiâm biếm những phụ
nữ có tánh lẳng lơ, hoa nguyệt:
Hội Ngƣời Việt Richmond 140 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Anh đánh thì em chịu đòn,
Tánh em hoa nguyệt mười con chẳng
chừa.
Hay:
Chỉ đâu mà buộc ngang trời,
Thuốc đâu mà chữa con người lẳng lơ.
Hoặc:
Lẳng lơ đeo nhẫn chẳng chừa,
Nhẫn thì rơi mất, lẳng lơ vẫn còn.
hờ ông láng giềng:
Đêm qua để cửa chờ chồng,
Đêm nay để cửa chờ ông láng giềng.
Và:
Cái giường mà biết nói năng,
Thì ông hàng xóm hàm răng chẳng còn.
Giữa chồng và trai:
Hai tay cầm hai quả hồng,
Quả chát phần chồng, quả ngọt phần
trai.
Hoặc:
Đêm nằm ôm gối thở dài,
Thương chồng thì ít, thương trai thì
nhiều.
Đàn bà ình Định nổi tiếng giỏi võ
nghệ, giỏi côn quyền nên ca dao có câu:
Ai về Bình Định mà coi,
Đàn bà cũng biết đánh roi, đi quyền.
Nhƣng:
Ai về Bình Định mà coi,
Đàn bà Bình Định ra oai đánh chồng.
Ai mua cây si:
Ai mua tôi bán cây si,
Si tôi tốt giống, cành chi chít cành.
Hễ mà gặp được đất lành,
Là si phát triển trở thành ―siđa‖.
a dao trào phúng cũng còn châm
biếm những anh chàng sở khanh:
Yêu em mấy núi cũng trèo,
Khi em có chửa mấy đèo cũng dông
Nếu mà anh phải lấy nàng:
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, xung quanh mây vàng.
Nếu mà anh phải lấy nàng,
Anh thà thắt cổ cho nàng ở không.
Trên đồng cạn, dƣới đồng sâu:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Nhƣng:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy thằng cu ra đời.
Thu đi để lại lá vàng:
Hội Ngƣời Việt Richmond 141 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Thu đi để lại lá vàng,
Anh đi để lại cho nàng thằng cu.
Mùa thu tiềp nối mùa thu,
Thằng cu tiếp nối thằng cu ra đời.
Qua đình ngả nón:
Qua đình ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy
nhiêu.
Nhƣng:
Qua đình ngả nón trông đình
Nhìn anh ăn mặc thùng thình em chê.
Đƣờng về đêm tối:
Đường về đêm tối canh thâu,
Nhìn anh tôi tưởng con trâu đang cười.
Giỡn chơi chút x u:
Gió đưa bụi chuối sau hè,
Giỡn chơi chút xíu ai dè có con.
Trách ngƣời quân tử:
Trách người quân tử bạc tình,
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.
Hay:
Trách người quân tử gian manh,
Chơi hoa rồi lại hái cành kế bên.
hồng đòi “tòm tem”:
Đang khi lửa tắt, cơm sôi,
Lợn la, con khóc, chồng đòi ―tòm tem‖.
Bây giờ lửa đã cháy rồi,
Lợn no, con nín ―tòm tem‖ thì tòm.
Chính chuyên:
Chính chuyên chết cũng ra ma,
Lẳng lơ chết cũng đem ra ngoài đồng.
Hay:
Chính chuyên lấy được chín chồng,
Ba chồng thành Lạng, ba chồng thành
Cao.
Ba chồng để ngọn sông Đào,
Trở về đóng cửa làm cao chưa chồng.
“Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu”:
Thuyền theo lái, gái theo chồng,
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo.
ƣới nàng đƣợc chăng:
Kẹo Mỏ Cày vừa thơm, vừa béo,
Gái Mỏ Cày vừa khéo, vừa ngoan.
Anh đây muốn hỏi thiệt nàng,
Làm trai Thạnh Phú cưới nàng được
chăng?
Trời ở bất công:
Trời sao trời ở bất công,
Người ba bốn vợ, người không vợ nào!
a bà tìm nhà bà tƣ:
Bà cả, bà bé, bà ba,
Ba bà dắt díu tìm nhà bà tư.
“Một vợ nằm giƣờng Lèo, hai vợ nằm
chèo queo, ba vợ ra chuồng heo mà nằm.
Thế còn 5 vợ thì sao? Xin thƣa:
Hội Ngƣời Việt Richmond 142 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Đêm khuya năm vợ ngồi hầu,
Vợ cả pha nước, têm trầu chàng xơi.
Vợ hai trải chiếu chàng ngồi,
Vợ ba coi sóc nhà ngoài, nhà trong.
Vợ tư sửa soạn giăng mùng,
Vợ năm dưới bếp trong lòng xót xa.
Chè thưng, cháo đậu bưng ra,
Chàng xơi một bát kẻo mà hết gân.
Đám cƣới linh đình:
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây
vàng.
Ước gì anh lấy được nàng,
Hà Nội, Thái Bình sửa đàng rước dâu.
Thanh Hóa cũng đốn trầu cau,
Nghệ An thì phải thui trâu, mổ bò.
Phú Thọ quạt nước hỏa lò,
Hải Dương rọc lá làm giò, gói nem.
Tuyên Quang nấu bạc, đúc tiền,
Ninh Bình dao thớt, Quảng Yên đúc nồi.
Kiên Giang gánh đá nung vôi,
Thừa Thiên, Đà Nẳng thổi xôi, nấu chè.
Quảng Bình, Hà Tĩnh thuyền ghe,
Sài Gòn, Gia Định chẻ tre bắc cầu.
Anh mời khắp nước chư hầu,
Nước Tây, nước Tàu anh gởi thư sang.
Nam Tào, Bắc Đẩu dọn đàng,
Thiên Lôi, La Sát hai hàng, hai bên.
Lê Thương
Richmond – Virginia – U S A
Phố xuân Sài Gòn
Sài Gòn nhiều phố cong
Gió vòng qua môi hồng
Vòm xanh cây khép tán
Nắng đan võng chiều trong
Chiều trong đong đầy nắng
Áo mới gói đầy xuân
Gót hồng chân rất nhẹ
Chiều buông bước bâng khuâng
Chợ hoa khoe màu tết
Vui vướng trên nụ hồng
Dáng gầy in lá biếc
Xuân cười giữa hư không
Chiều Sài Gòn phố đông
Chật ken xe hai dòng
Em dừng chân khoảng lặng
Tóc bay gió phiêu bồng
Phiêu bồng trong chiều gió
Mắt biếc ngó trời mây
Mây chiều pha chút hồng
Hồng như má hây hây
Má hồng bên đào thắm
Nghe mát cơn nắng xuân
Dáng gầy trong phố thị
Chợt biết xuân tưng bừng
Xuân tưng bừng em về thay áo trắng
Đón nàng xuân mai nở cánh vàng tươi
Nắng, gió, hoa cả trời hương ghé lại
Mang chiều xuân ôm hết dáng riêng
người
Chiều Sài Gòn mắt quen thành như lạ
Em, mùa xuân, cuối phố rủ nhau cười
Anh ngớ ngẫn một chiều quên giờ hẹn
Đứng nhìn xuân hôn nhẹ tuổi hai mươi
Chiều Sài Gòn mắt quen thành như lạ
Em, mùa xuân, cuối phố rủ nhau cười
Vũ Khỹ
Hội Ngƣời Việt Richmond 143 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
BỆNH MẤT TRÍ NHỚ Ở NGƢỜI GIÀ
Bác sĩ Dean B Ngo
ỆNH ALZHEIMER HOẶ HỨNG HAY QUÊN
ĐÂY LÀ BỆNH GÌ?
- Đây là một bệnh do rối loạn của não bộ, gây ra sự suy giảm chức năng
trí tuệ, ảnh hƣởng đến :
+ Tr nhớ
+ Suy nghĩ
+ Ngôn ngữ
+ Thái độ
- ệnh có thể xảy ra ở ngƣời 40-50 tuổi, nhƣng hầu hết ảnh hƣởng lên
ngƣời trên 65 tuổi. ứ trong khoảng 10 ngƣời trên 65 tuổi thì có 1 ngƣời đƣợc
chẩn đoán là mắc phải chứng mất tr ở ngƣời già và những chứng mất tr khác.
Nguyên nhân thuờng gặp nhất của chứng mất tr là bệnh alzheimer, ảnh hƣởng đến
hơn 4 triệu ngƣời trên khắp nƣớc Mỹ. Ở tuổi 85, ¼ ngƣời sẽ mắc chứng alzheimer.
- Lý do thƣờng nhất để gửi ngƣời già vào viện dƣỡng lão là sự suy giảm
toàn bộ khả năng tr tuệ.
TẠI SAO MẮC BỆNH?
- Nghiên cứu cho thấy có sự thay đổi cấu trúc và hoá học xảy ra ở não
ngƣời mắc bệnh alzheimer. àng lớn tuổi, não phát triển những mảng đặc trƣng
của bệnh alzheimer. Những biến đổi này gây cản trở khả năng xử lý, lƣu trữ, và
tìm kiếm thông tin. Không một ai biết tại sao xảy ra những biến đổi này.
- Trong khoảng 5%-10% ngƣời mắc chứng mất tr ở ngƣời già có tiền sử
gia đình mắc chứng này, và có dấu hiệu của bệnh sớm hơn, trƣớc tuổi 65. Trong
một số nhỏ những gia đình này, ngƣời ta đã kiếm thấy gen gây bệnh, vì vậy gọi là
bệnh gia đình hay di truyền.
BỆNH CÓ NHỮNG TRIỆU CHỨNG GÌ?
- Triệu chứng của bệnh đa dạng và thay đổi khi bệnh trở nặng.
- Triệu chứng đầu tiên là hay quên. Hầu hết mọi ngƣời t nhiều đều có rối
loạn tr nhớ khi lớn tuổi.
Tuy nhiên, ở một ngƣời có biểu hiện rối loạn tr nhớ rõ hơn ở ngƣời khác
cùng độ tuổi, thì ngƣời này có thể đang ở giai đoạn sớm của bệnh Alzheimer.
Hội Ngƣời Việt Richmond 144 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Thƣờng gặp là quên tên ngƣời thân hay quên địa chỉ nhà. Thời gian tập trung chú
ý trở nên ngắn hơn, ngƣời bệnh khó tập trung. Ở giai đoạn này của bệnh, chứng
hay quên cũng ảnh hƣởng đến cuộc sống và công việc.
- Theo thời gian, sự mất tr nhớ trở nên nghiêm trọng hơn. Đồng nghiệp và
bạn bè nhận ra sự mất tr nhớ và ngƣời bệnh có những rối loạn trong nội dung giao
tiếp. Ngƣời bệnh có thể để quên hay làm mất đồ dùng. Khi bệnh trở nặng, ngƣời
bệnh thậm ch quên cả những sự kiện quan trọng mới xảy ra và quên cả bản thân.
Ngƣời bệnh không thể sử dụng đƣợc tiền. Nói chung những ký ức mới gần đây bị
ảnh hƣởng nhiều hơn ký ức dài hạn (có từ trƣớc).
- Vào giai đoạn cuối của bệnh, ngƣời bệnh có thể trở nên mất phƣơng
hƣớng và lú lẫn. Ngƣời bệnh có thể không nhớ đƣợc những sự kiện quan trọng
của bản thân và ngƣời khác. Ngƣời quen biết trở nên không quen. ó thể xảy ra
thay đổi về tình cảm và t nh cách. Ngƣời bệnh có thể có những ảo tƣởng hoặc nhìn
thấy hoặc nghe thấy những điều không có thật (ảo giác). Ngƣời bệnh có thể lo âu,
thƣờng không ngủ mà làm việc ban đêm.
- Một số ngƣời mắc chứng mất tr ở ngƣời già thấy không cần sự chăm sóc
và có thể chống lại sự giúp đỡ. Đầu tiên, họ ăn trong phòng tắm, bất chấp mọi sự
giúp đỡ. Nhƣng vào thời điểm này, chức năng của não suy giảm, và khả năng nói,
di chuyển, hay khả năng tự bảo vệ đã mất.
CÁCH CHẨN ĐOÁN BỆNH
- hỉ có thể chẩn đoán xác định bệnh Alzheimer qua thăm khám mô não
sau khi chết. Tuy nhiên, bệnh Alzheimer có thể đƣợc chẩn đoán nếu hỏi rõ bệnh sử
và thăm khám bệnh kỹ càng.
- Thử tr nhớ có thể có ch trong khi không có một thử nghiệm nào để chẩn
đoán bệnh. Xét nghiệm máu và chụp cắt lớp não ( T S AN hay MRI ) giúp chỉ ra
nếu có những nguyên nhân gây suy giảm chức năng não có thể điều trị đƣợc. Nó
đặc biệt quan trọng để loại bỏ sự suy nhƣợc nghiêm trọng (một tình trạng gây ra
những triệu chứng có thể nhận thấy là giống với bệnh Alzheimer ở những bệnh
nhân lớn tuổi) nhƣng lại có thể điều trị đƣợc. ạn nên hỏi bác sĩ nếu có bất kỳ câu
hỏi nào về tình trạng của ngƣời thân.
ĐIỀU TRỊ BỆNH NHƢ THẾ NÀO?
- ệnh không thể trị khỏi. Mục tiêu của điều trị là giữ gìn những chức năng
tâm lý và sinh lý nhiều và dài đến mức có thể. Mức tốt nhất có thể dƣờng nhƣ là
bao gồm việc kiểm soát những bệnh khác, một chế độ ăn kiêng, thƣờng xuyên tập
thể dục và những hoạt động th ch hợp.
- Dùng thuốc đôi khi cũng có ch. Vài bác sĩ tin rằng uống thuốc có thể có
tác dụng làm chậm sự mất tr nếu dùng sớm. Tƣơng tự, thuốc có thể có ch để điều
Hội Ngƣời Việt Richmond 145 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
trị một vài triệu chứng trùng hợp với bệnh nhƣ lo âu hay k ch động. Nhiều ngƣời
bệnh thấy chán nản, nhất là trong giai đoạn đầu của bệnh. Hầu hết không tỏ ra
buồn phiền đến mức bỏ lỡ các cuộc vui và hƣởng thụ cuộc sống hoặc giảm động
lực và sinh lực. Vào giai đoạn cuối của bệnh, khi trầm cảm xảy ra ngƣời bệnh có
thể có thái độ chống đối và k ch động, và thƣờng từ chối ăn uống. Sự trầm cảm
làm cho chức năng của não càng tệ hơn. Trầm cảm có thể điều trị, và kết quả điều
trị tốt.
- Nguồn lực từ cộng đồng rất quan trọng. Sự giúp đỡ của cộng đồng có thể
phối hợp xuyên suốt với bác sĩ, với những trung tâm y tế ở địa phƣơng, hoặc sự
chăm sóc của các y tá nhƣ :
o Đƣợc xã hội chấp nhận và đƣợc sự giúp đỡ của các tổ chức, bao gồm cả
giúp đỡ về tài ch nh.
o ác chi nhánh về chăm sóc sức khoẻ tại nhà đƣa đến những y tá để giúp
đỡ, những nhà công tác xã hội, và các ác sĩ chuyên khoa. Họ cũng cung cấp dịch
vụ chăm sóc sức khỏe cho cá nhân.
o Ngoài ra, các trung tâm chăm sóc ngƣời già, hỗ trợ tinh thần, cung cấp
cho bệnh nhân và gia đình phƣơng tiện di chuyển và y tá.
TIẾN TRIỂN CỦA BỆNH
- Bệnh tiến triển ngày càng nặng hơn. ó thể làm gì để chăm sóc ngƣời
bệnh ?
- Đầu tiên, bạn nên hỏi ý kiến ác sĩ. ác sĩ không chỉ giúp kiểm soát bệnh
mà còn trang bị kiến thức chăm sóc và nâng đỡ cho các thành viên trong gia đình.
- Khi còn có thể, ngƣời bệnh nên tập trung để giải quyết những vấn đề về
chăm sóc mà họ sẽ cần đến. hìa khóa của vấn đề trong bệnh Alzheimer là ngƣời
bệnh sợ bị bỏ rơi và bối rối làm mất tự chủ. Họ cần sự cam đoan một cách chân
thành và thƣờng xuyên.
- ạn bè, và gia đình cũng nhƣ ngƣời bệnh nên tham gia vào các nhóm giúp
đỡ càng sớm càng tốt ngay sau khi bệnh đƣợc chẩn đoán.
- Ngƣời bệnh vẫn có thể có những quyết định mang tính pháp luật,
Bác sĩ Dean B Ngo
Hội Ngƣời Việt Richmond 146 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Cấy chân răng- Phƣơng pháp thay răng hiện đại
Bác sĩ nha khoa Đỗ Ánh Thu
Ngày nay do sự phát triển của y khoa, tuổi thọ và sức khỏe con ngƣời đƣợc
tăng thêm. Trong khuynh hƣớng đó, các nhà nghiên cứu cũng không ngừng
nổ lực để bổ sung các phƣơng pháp trị liệu cho nha khoa. Nổi bật nhất trong
những năm gần đây là kỹ thuật thay thế răng đã mất bằng phƣơng pháp cấy
răng ( implant).
Khi bị mất răng do bệnh nƣớu răng, sâu răng, chấn thƣơng,…. bạn nên có
răng giả để thay vào những khoảng trống và duy trì nguyên dạng của khuôn
mặt. Ngoài việc răng giả tạo lại nụ cƣời cho bạn, chúng còn ngăn ngừa sự di
chuyển những răng còn lại và giúp chúng ta tự tin, phát âm chuẩn cũng nhƣ
nhai thức ăn dễ dàng hơn.
Răng bị mất có thể thay thế bằng răng giả toàn
hàm hay bán hàm (denture/ partial denture).
Loại điều trị này, răng giả đƣợc dựa trên xƣơng
hàm và những răng khác (nếu còn) để làm sức
chịu và chỉ nên đeo ban ngày. ạn nên lấy ra
ngâm vào nƣớc để cho lợi răng đƣợc thoải mái
vào ban đêm. Ph tổn cho loại răng giả này
không nhiều, tuy nhiên sự ch nh xác khi nhai
không đƣợc kết quả tự nhiên nhƣ răng thật. Khi
nói chuyện, phát âm có thể bị ảnh hƣởng do phải
mang cả hàm răng giả trong miệng. Loại điều trị này, xƣơng hàm chỗ
mất răng vẫn tiếp tục bị thoái hóa (bone loss).
Kế đến là phƣơng pháp thay răng đã mất bằng
cầu răng ( traditional bridge). ách điều trị này,
cầu răng giả đƣợc dán chặt trên hai hoặc ba răng
còn tốt của bạn (retainer). Loại cầu răng này rất
phổ thông vì sự cố định và t nh dễ chịu, tự nhiên
nhƣ răng thật.Tuy nhiên khi dùng phƣơng cách
này, những răng còn tốt của bạn dùng làm chân
cầu cho răng giả sẽ bị mài nhỏ đi. Những răng bị
mài này có thể bị suy yếu, vẫn có thể bị sâu
Retainer
Bridge
Partial
Denture
Hội Ngƣời Việt Richmond 147 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
hoặc bị nƣớu dẫn đến hƣ hỏng của cầu bọc răng . Ngoài ra, sự thoái hóa của
xƣơng chỗ mất răng vẫn tiếp tục.
ấy chân răng ( implant) là phƣơng pháp tân tiến
để thay thế chân răng đã mất bằng chân nhân tạo
. hân răng này đƣợc làm bằng chất Titanium,
một chất kim loai quý và tƣơng sinh với cơ thể
con ngƣời. Mỗi chân cấy có đƣờng k nh từ 3-5
mm và chiều dài từ 10-16 mm. Khi đƣợc đặt
vào vùng xƣơng hàm đã mất răng , chân răng
nhân tạo cần 4- 6 tháng để hòa hợp với xƣơng
hàm . Sau đó chân nhân tạo này đƣợc lắp phần
thân răng (abutment) và sau cùng là bọc răng (
crown) đƣợc gắn trên phần thân răng đó.
ấy răng giúp xƣơng hàm không bị mất xƣơng sau khi nhổ răng. ấy răng
giúp bạn thay thế răng đã mất mà không cần mài những răng tốt để nâng đỡ
nhƣ cầu bọc răng. hức năng nhai của implant tự nhiên nhƣ răng thật, chứ
không cồng kềnh nhƣ răng giả toàn hàm hay bán hàm. ạn chỉ cần bảo quản,
ngăn ngừa bệnh nuớu răng thì implant sẽ rất bền. Tuy nhiên chi ph cho
implant cao hơn các loại răng giả khác do sự đòi hỏi về thời gian cũng nhƣ
kỹ thuật .
Trong những năm gần đây cấy chân răng đã đƣợc xử dụng rộng rãi với
nhiều hết quả hữu hiệu . ên cạnh đó cấy răng giúp bạn duy trì xƣơng sau
khi bị mất răng, giữ đƣợc nét đẹp thẩm mỹ, và phục hồi chức năng nhai tự
nhiên nhƣ dùng răng thật. Implant là phƣơng pháp tối ƣu nhất hiện nay trong
sự thay thế răng đã mất.
Crown
Abutment
Implant
Hội Ngƣời Việt Richmond 148 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
TÌM HIỂU VỀ CÁC TÌNH TRẠNG CỦA MẮT
Bác sĩ nhãn khoa Phạm Đỗ Thiên Hƣơng
ẬN THI = NEARSIGHTED = MYOPIA
Là tình trạng mắt bị mờ khi nhìn XA.
Nguyên do: cầu mắt dài hơn bình thƣờng do bẩm sinh (genetic) , và/hoặc
giác mạc lồi hơn bình thƣờng vì phải điều tiết quá nhiều. Đây là hậu quả của
việc sử dụng mắt quá nhiều nhƣ đọc sách, nhìn màn ảnh computer, làm
nails, may vá,.... ởi vậy nên đa số dân "mọt sách" đều bị đeo k nh dày
nhƣ... đ t chai . K nh cận thị là k nh concave (lõm ở giữa, càng ra ngoaì càng
dày). Những ngƣời đeo k nh cận nặng độ thì mắt hay bị "h p" lại
VIỄN THỊ = FARSIGHTED = HYPEROPIA
Trái ngƣợc với cận thị, mắt nhìn càng GẦN càng mờ.
Nguyên do: cầu mắt ngắn hơn bình thƣờng (bẩm sinh). Hầu hết các bé sơ
sinh (dĩ nhiên các em bị cận thị bẩm sinh là ngoại lệ) đều bị viễn thị một
chút, từ từ khoảng 1-2 năm mới hết độ. Những em có cầu mắt ngắn một cách
bất thuòng thì lớn lên sẽ giảm bớt, nhƣng không hết hẳn. Đây là những
ngƣời thật sự bị viễn thị. K nh viễn thị là k nh convex (lồi ở giữa, mỏng ở
chung quanh). Những ngƣời đeo k nh viễn cao độ thì mắt hay bị trố ra.
LOẠN THỊ = ASTIGMATISM
Thị giác bị lòe nhòe, hình thể bị méo mó, cả khi nhìn xa lẫn khi nhìn gần.
Nguyên do: cầu mắt bị méo (hình quả banh cà na thay vì banh tennis)
Ngƣời loạn thị thƣờng hay nheo mắt, và rất nhạy cảm với ánh sáng
(sensitive to light)
K nh loạn thị hình trụ ( cylindrical lens) chứ không phải hình tròn
(spherical), để bù trừ cho hình dạng không đều đặn của eye ball.
LÃO THỊ = PRESBYOPIA
Mất khả năng điều tiết, không focus đƣợc ở gần.
ắt đầu xảy ra vào khoảng 40 tuổi, và ngày càng tệ hơn.
VÀO 40 NĂM ĐẦU, MẮT HÖNG TA TƢƠNG TỰ NHƢ MỘT MÁY
HỤP HÌNH TỰ ĐỘNG (AUTOFOCUS). Khi chụp hình bằng autofocus
camera, các bạn để ý sẽ thấy ống k nh chạy ra, chạy vào để focus cho hình
chụp đƣợc rõ nét tuỳ theo khoảng cách từ ngƣời chụp hình đến target. Trong
mắt mình cũng có một cái lens nhƣ vậy, nhƣng lens này chỉ co dãn tới lui để
điều tiết cho mình đƣợc khoảng 40 năm thôi, sau đó thì lens mất dần
flexibility, khiến mắt chúng ta trở thành manual camera chứ không còn là
Hội Ngƣời Việt Richmond 149 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
autofocus nữa. Vì vậy mình sẽ thấy bị loè khi nhìn gần, và nếu cố gắng
focus một chút với sự trợ giúp co kéo của các bắp thịt mắt, hoặc đƣa tay ra
xa để target xa hơn thì mình sẽ nhìn đƣợc rõ. Sau một thời gian ngắn, các
bắp thịt sẽ bị mỏi, làm mắt chúng ta cũng thấy mỏi, hoặc có thể bị nhức đầu,
đó là lúc chúng ta bắt buộc phải cần sự trợ giúp của kính lão. Lão thị chỉ ảnh
hƣởng ở GẦN chứ không ảnh hƣởng tầm nhìn xa. K nh lão cũng là loại
convex nhƣ k nh viễn thị, vì vậy rất nhiều ngƣời lầm lẫn LÃO THỊ VÀ
VIỄN THỊ. Nguyên do của lão thị là tuổi già ( functioning problem) chứ
không phải vì cấu trúc của mắt nhƣ viễn thị.
ho nên một ngƣời có thể:
1. hỉ bị lão thị, nhìn xa từ nhỏ đến lớn rất rõ, không cận , không viễn.
Khi ngoài 40 tuổi mới bắt đầu bị loà ở gần.
2. hỉ bị cận thị hoặc bị vừa cận vừa loạn lúc nhỏ, cộng thêm lão khi già.
3. hỉ bị viễn thị hoặc vừa viễn vừa loạn khi nhỏ, cộng thêm lão khi già.
4. Một ngƣời không thể vừa cận vừa viễn đƣợc.
Đây là những trƣờng hợp thay đổi bình thƣờng của những ngƣời bƣớc vào
lứa tuổi “tứ tuần”:
1. Nếu bạn là ngƣời mắt tốt, từ nhỏ đến lớn không hề phải đeo k nh, sau
40 tuổi, tự nhiên nhìn gần ngày càng khó, và dần dần sẽ phải đeo k nh
lão khi nhìn gần. Kính này sẽ rất mờ nếu bạn đeo nó để nhìn xa.
2. Nếu bạn là ngƣời cận thị, từ nhỏ tới lớn phải đeo k nh mới nhìn xa
đƣợc, hoặc bạn đã từng đeo k nh kinh niên, bạn sẽ thấy bây giờ khi
đọc sách qua kính cận, bạn không còn thấy rõ và thoải mái nữa, bạn
phải đƣa sách ra xa hoặc phải bỏ kính ra mới đọc đƣợc. Trƣớc đây, bạn
thật sự cũng không cần đeo k nh cận để đọc sách (trừ khi bạn cận thị
rất nặng), nhƣng vì thói quen, bạn lúc nào cũng đeo k nh trên mặt, khi
đọc, mắt bạn phải điều tiết để bù trừ cho độ kính cận mà bạn đeo thêm
một cách không cần thiết (vì vậy những ngƣời đeo k nh "dƣ" sẽ bị tăng
độ rất nhanh), khi ngoài 40, mắt không còn khả năng điều tiết nữa, bạn
bắt buộc phải bỏ kính cận ra mới đọc đƣợc là vì vậy. Những ngƣời cận
thị coi nhƣ là có sẵn "built-in kính lão trong mắt vậy.
3. Những ngƣời viễn thị từ nhỏ , đến khi gần 40 là bắt đầu bị lão, và triệu
chứng còn thê thảm hơn ngƣời cận nhiều, near vision rất lousy.
Hội Ngƣời Việt Richmond 150 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Những ngƣời cận thị dƣới 2 độ, trên 40 tuổi thì KHÔNG NÊN làm LASIK
để chữa hết độ. Nên nhớ, độ cận này là "built-in" kính lão cho mình, nhờ nó
mà bạn vẫn có thể nhìn gần đƣợc ngon lành. Làm hết độ cận thì bạn sẽ trở
thành ngƣời bình thƣờng bị lão, cầm cái gì gần mắt cũng bị nhòa, phiền
phức, khó chịu hơn là mờ một chút khi nhìn xa lúc bạn còn cận thị nhẹ.
Nếu bạn cận nặng, thì đây là những cách chữa trị:
1. Dùng LASIK hoặc Ortho-K chữa hết độ xa, đeo thêm k nh lão khi đọc
sách hay làm việc gần.
2. Dùng LASIK theo kiểu monovison thì có thể nhìn cả xa lẫn gần mà
không cần đeo k nh, tuy nhiên không phải ai cũng chịu đƣợc vì bị...
mất quân bình giữa hai mắt. Cho dù thoải mái ở cả xa, lẫn gần, bạn
cũng bị mất khả năng ƣớc lƣợng chiều sâu (depth perception) và không
nhìn ra đƣợc không gian 3 chiều (no more 3D movies !) vì hai mắt
không làm việc chung với nhau. Tình trạng lão thị sẽ ngày càng tệ, kết
quả của LASIK có thể không còn chính xác sau 2-3 năm.
3. Ortho-K có thể chữa đƣợc lão thị. Bạn vẫn có thể nhìn rõ cả xa lẫn gần
bằng cả hai mắt, và bạn có thể thay đổi lens hàng năm theo sự thay đổi
của mắt.
4. Nếu bạn là ngƣời làm việc gần cả ngày, không muốn phải đeo k nh lão
khi làm viêc, bạn có thể dùng LASIK hoặc Ortho-K để chữa cho mắt
rõ đủ ở gần, và sẽ phải đeo thêm k nh khi lái xe hoăc phải nhìn thật xa.
(bạn trở thành ngƣời cận thị nhẹ)
5. Bạn có thể tiếp tục đeo k nh hoặc contact lenses. Progressive glasses
hay multifocal contact lenses cho bạn thị giác rất tốt.
Hội Ngƣời Việt Richmond 151 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Tưởng Nhớ
Jonathan Vũ Tháng tƣ năm 2012, cộng đồng Ngƣời
Việt Nam ở Virginia, gia đình, bạn bè và
Hội Ngƣời Việt ở Richmond đã phải chịu
một mất mát lớn…đó là sự ra đi đột ngột
của
Jonathan Vũ
1972-2012
Pháp danh Nhật Đức
ác Sĩ Y Khoa
Phó chủ tịch ngoại vụ Hội Ngƣời Việt Richmond
Để tƣởng nhớ một thành viên hoạt đông
t ch cực của cộng đồng, của HNVR, một
ngƣời con hiếu thảo, một ngƣời chồng
luôn chu toàn nhiệm vụ, một ngƣời cha
hiền trong gia đình họ Vũ, chúng tôi xin
có đôi lời về ác sĩ Vũ.
Jonathan Vũ sinh ngày 15 tháng 2 năm
1972 tại Việt Nam, Jonathan là con của
ông Tommy Dan Lê Vũ và bà Nguyễn
Thị Nhung. Jonathan là chồng của ác
Sĩ Y-Khoa Minny Vũ và là cha của bé
ella Rosa đƣợc 8 tháng tuổi.
Năm 1983 Jonathan Vũ theo gia đình
định cƣ tại Maryland Hoa-kỳ. Năm 1983
anh chuyển về alifornia, và theo học
trung học cũng nhƣ đại học tại nơi đó.
Năm 1990 anh làm chủ tịch Hội Sinh
Viên al State Fullerton, tại đây anh gặp
Minny, ngƣời sau này là ngƣời bạn đời
của anh.
Năm 2002 Jonathan Vũ chuyển về North
orolina. Tháng 6 năm 2010 anh tốt
nghiệp ác Sỹ Y Khoa chuyên về chỉnh
xƣơng và mở phòng mạch ở Richmond,
Virginia.
Trong thời gian sống và làm việc tại
Richmond anh đã t ch cực tham gia công
tác xã hội của Hội Ngƣời Việt và tháng 4
năm 2011 anh đắc cử chức vụ Phó chủ
tịch ngoại vụ HNVR.
Vũ qua đời đột ngột ngày 29 tháng 4 năm
2012 vì suy tim, để lại vợ trẻ và con thơ.
Ngƣời Việt ở Richmond nhớ đến anh qua
các công tác xã hội, anh đã làm, sả thân
bênh vực, giúp đỡ những ngƣời kém may
mắn, và thƣơng tiếc anh đã qua đời trong
độ tuổi năng động, tƣơng lai rực rỡ và mở
rộng trƣớc mắt.
Giờ đây cái tƣơng lai đầy rực rỡ đó đã
khép lại…Toàn thể thành viên Hội Ngƣời
Việt Richmond vô cùng xúc động, chia sẽ
cùng gia đình Jonathan Vũ vì sự mất mát
lớn lao này.
Sau cùng, xin có đôi lời cùng Jonathan
Vũ: Trong niềm tin tôn giáo, Phật tử
Nhật Đức đã từng nghe lời Phật dậy:
“Vạn pháp do duyên hợp, nên thế gian
này là vô thƣờng, thân ngủ uẩn này
không có tự tánh” giác linh Nhật Đức đã
sả báo thân này, hãy nƣơng theo đạo từ bi
và tr tuệ, cao đăng Phật Quốc.
Vô cùng thƣơng tiếc
Trịnh Thùy Dương
Chủ tịch HNVR
Hội Ngƣời Việt Richmond 152 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
HNVR tham dự tang lễ của Jonathan Vũ (Phó chủ tịch HNV nhiệm kỳ 2012-2014)
Lễ Phát Thƣởng Học Sinh Giỏi Năm 2012
Lễ Phát Thƣởng Học Sinh Giỏi Năm 2012
Một Vài Sinh Hoạt
Của HNVR
Uỷ Lạo ao Niên 2012
Uỷ Lạo ao Niên 2012
Ấn Hành Giai Phẩm Xuân 2013
Hội Ngƣời Việt Richmond 153 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Quảng áo
Hội Ngƣời Việt Richmond 154 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
6
Hội Ngƣời Việt Richmond 155 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hội Ngƣời Việt Richmond 156 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hội Ngƣời Việt Richmond 157 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hội Ngƣời Việt Richmond 158 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hội Ngƣời Việt Richmond 159 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hội Ngƣời Việt Richmond 160 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hội Ngƣời Việt Richmond 161 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hội Ngƣời Việt Richmond 162 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hội Ngƣời Việt Richmond 163 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hội Ngƣời Việt Richmond 164 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hội Ngƣời Việt Richmond 165 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hội Ngƣời Việt Richmond 166 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hội Ngƣời Việt Richmond 167 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hội Ngƣời Việt Richmond 168 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Hội Ngƣời Việt Richmond 169 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Góp Mặt .......................................................................................................................... 1
Lá Thơ Xuân – Dƣơng Dinh ........................................................................................... 2
Thƣ húc Tết – Ban Thƣờng Vụ - HĐMV .................................................................... 3
Lời húc Đầu Năm – Sƣ Cô Nhƣ Nghiêm ..................................................................... 4
Phải ó Một Tấm Lòng – Hội Ngƣời Việt Richmond .................................................... 5
Loài Hoa Quý – Ngô Minh Hằng ................................................................................... 6
Em Tháng Giêng – Ánh Thu........................................................................................... 6
Tết Nguyên Đán – Lê Thƣơng ........................................................................................ 7
Thơ Xuân – Ngô Minh Hằng ........................................................................................ 15
Giã Từ – Hoàng Bích.................................................................................................... 16
Dƣa Hấu Ngày Tết – Nguyễn thị Hàm Anh ................................................................. 17
Huế ây hừ – Hoàng Bích ......................................................................................... 21
Thơ Xuân tặng vợ – Trần Hữu Hiệp ............................................................................ 21
Lì Xì Ngày Tết – Saigon cô nƣơng .............................................................................. 22
iếu quà Tết, „chuyện nhỏ‟ nhƣng „không nhỏ‟ – Nguyễn thị Hàm Anh ...................... 25
Định Tịnh Hành – Hạnh Không ................................................................................... 29
Tháng Sáu uồn – Hà Vân Khôi .................................................................................. 29
Nói Với PNL – Lãm Thuý ............................................................................................ 30
Khi ngồi ở quán gió – Hà Nguyên Dũng....................................................................... 30
Đám Giỗ Xƣa Và Nay – Duy Thức ............................................................................... 31
Giáng Sinh Trong Y Viện – Trở Lại Thuyền Mơ – Trần Quốc Bảo .............................. 35
âu huyện Đƣa ay – Khi Rời ệnh Viện – Nguyễn-Phú-Long ................................ 36
Mở hàng – Saigon cô nƣơng ......................................................................................... 37
Bão Ai Rin (Irene) – Bão Sandy – Sandy ão, Sandy Trƣờng – Lƣơng Hà ................... 40
Hàng Rong – Saigon cô nƣơng ..................................................................................... 41
Tập làm thơ xuân – Tâm Hiền ...................................................................................... 45
Mùa Xuân, Viếng ác hùa ở Richmond – Nguyễn Kiến An ....................................... 46
hiều Qua Sông, Nhớ Nhà – Tạ Quang Trung ............................................................ 50
Lời gọi ngƣời tình – Ánh Thu ....................................................................................... 54
Hội Ngƣời Việt Richmond 170 Xuân Tình Thương & Hy Vọng
Thăm Viếng Tiệm Ngƣời Việt ở Richmond – Hoàng Thu Dung .................................. 55
Vô Đề – Nhịn Nhục – Tàn Mộng Quay Về – Khiêm Trần ............................................ 60
ên Thắng uộc – Mặc Lâm ........................................................................................ 61
“ ên Thắng uộc”: Một Nửa Sự Thật ủa Tấn i Kịch Lớn – Sơn Tùng ..................... 65
Áo Tiểu Thơ – Đỗ Xuân Quang ................................................................................... 69
Chào Cô Dạ Lan – Nguyễn Khắp Nơi .......................................................................... 70
Em Là on Gái Trời ắt Xấu – LS. Ngô Tằng Giao ..................................................... 75
Thơ Lệ Khánh – Lệ Khánh ........................................................................................... 79
ảm Thức Ngày Tuyết – Quang Lễ .............................................................................. 83
Món ngon Sài Gòn – Nguyễn Ngọc Chính ................................................................... 87
Hƣơng ồ Kết – Hà Nguyên Dũng ............................................................................. 101
Oan Gia ủa Tôi – Việt Kiều ...................................................................................... 102
Hƣơng Tóc Trƣng Vƣơng – Song Châu Diễm Ngọc Nhân ......................................... 103
Ngoài Chân Mây – Tạ Quang Trung ....................................................................... 104
Màu ờ – Sa Giang Trần Tuấn Kiệt ......................................................................... 117
Thơ tặng ngƣời vợ khổ hạnh – Hà Nguyên Dũng ....................................................... 118
Màu vàng – Vũ Khỹ ................................................................................................... 119
Nỗi tôi – Hà Nguyên Dũng ......................................................................................... 120
hiếc áo len hồng – Trƣơng Đình Trác ..................................................................... 121
Viết ho Hạc – Sa Giang Trần Tuấn Kiệt ................................................................. 123
Huyền thoại TTKh và Hai sắc hoa ty gôn – Thụy Khuê .............................................. 124
Ca Dao Trào Phúng – Lê Thƣơng ............................................................................... 135
Phố xuân Sài Gòn – Vũ Khỹ ....................................................................................... 142
ỆNH MẤT TRÍ NHỚ Ở NGƢỜI GIÀ – Bác sĩ Dean B Ngo .................................... 143
ấy chân răng- Phƣơng pháp thay răng hiện đại – Bác sĩ Đỗ Ánh Thu ....................... 146
TÌM HIỂU VỀ Á TÌNH TRẠNG ỦA MẮT – Bác sĩ Phạm Đỗ Thiên Hƣơng .... 148
Tƣởng Nhớ Jonathan Vũ – Trịnh Thùy Dƣơng .......................................................... 151
Một Vài Sinh Hoạt ủa HNVR – HNVR .................................................................... 152
Quảng áo .................................................................................................................. 153