189
1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Về bản chất, đó chính là Nhà nước luôn tôn trọng và đề cao các quyền dân chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện nền dân chủ XHCN. Giữa thực hiện dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có mối liên hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ, tác động qua lại và bổ sung cho nhau. Dân chủ và thực hiện dân chủ là một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền; là một trong những điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN. “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước” [21, tr. 47]. Ngược lại, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là sự bảo đảm có tính chất nền tảng cho việc thực hiện dân chủ; bởi lẽ, chức năng của Nhà nước pháp quyền là phục vụ nhân dân, giữ mối liên hmật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Hơn nữa, chỉ Nhà nước pháp quyền XHCN mới có cơ chế, các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Có thể khẳng định rằng, một nền dân chủ thực sự với việc phát huy đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân chỉ có thể có được trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Nền dân chủ XHCN và việc đảm bảo thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng, mà còn được thể chế hóa và đảm bảo thực hiện thông qua Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Sau khi Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 18/02/1998 về Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ svà các văn bản liên quan khác, Nhà nước đã xây dựng, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) để triển khai quan điểm chỉ đạo của Đảng về

hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

  • Upload
    others

  • View
    15

  • Download
    5

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam mà Đảng,

Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng là Nhà nước của nhân dân, do nhân

dân và vì nhân dân. Về bản chất, đó chính là Nhà nước luôn tôn trọng và đề

cao các quyền dân chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện nền dân chủ

XHCN. Giữa thực hiện dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có

mối liên hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ, tác động qua lại và bổ sung cho nhau.

Dân chủ và thực hiện dân chủ là một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà

nước pháp quyền; là một trong những điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa,

xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN. “Dân chủ xã hội chủ

nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát

triển đất nước” [21, tr. 47]. Ngược lại, xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN là sự bảo đảm có tính chất nền tảng cho việc thực hiện dân chủ; bởi lẽ,

chức năng của Nhà nước pháp quyền là phục vụ nhân dân, giữ mối liên hệ

mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân,

tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.

Hơn nữa, chỉ Nhà nước pháp quyền XHCN mới có cơ chế, các biện pháp

kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vô trách

nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Có thể khẳng định

rằng, một nền dân chủ thực sự với việc phát huy đầy đủ các quyền dân chủ

của nhân dân chỉ có thể có được trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN.

Nền dân chủ XHCN và việc đảm bảo thực hiện dân chủ ở nước ta hiện

nay không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng, mà

còn được thể chế hóa và đảm bảo thực hiện thông qua Hiến pháp và hệ thống

pháp luật của Nhà nước. Sau khi Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số

03-CT/TW, ngày 18/02/1998 về Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ

sở và các văn bản liên quan khác, Nhà nước đã xây dựng, ban hành nhiều văn

bản quy phạm pháp luật (QPPL) để triển khai quan điểm chỉ đạo của Đảng về

Page 2: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

2

vấn đề này, như Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, ngày 11/5/1998 ban hành Quy

chế thực hiện dân chủ ở xã; Nghị định số 79/2003/NĐ-CP, ngày 07/7/2003

ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã và hiện nay là Pháp lệnh Thực hiên

dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã triển khai thực hiện nhiều

giải pháp nhằm không ngừng phát huy dân chủ; đưa dân chủ ở cấp xã, thực sự

đi vào các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội ở các xã, phường, thị trấn

trên phạm vi cả nước. Quá trình thực hiện pháp luật (THPL) về dân chủ ở cấp

xã đã và đang làm chuyển biến đáng kể nhận thức của các cấp ủy đảng, chính

quyền, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội về

vai trò, tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ, phát huy, mạnh mẽ quyền

dân chủ của các tầng lớp nhân dân; góp phần tích cực, hiệu quả vào công tác

xây dựng Đảng, chính quyền các cấp, nhất là cấp xã trong sạch, vững mạnh,

nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC), xây dựng khối đại

đoàn kết toàn dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

Bên cạnh những thành tựu, kết quả đã đạt được, việc THPL về dân chủ

ở cấp xã trên phạm vi cả nước nói chung, ở từng địa phương nói riêng còn

bộc lộ những hạn chế, nhược điểm nhất định do những nguyên nhân khác

nhau. “Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn

bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi

dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến

trật tự, an toàn xã hội” [21, tr. 171]. Có nơi, có lúc quyền làm chủ của nhân

dân chưa thực sự được tôn trọng và phát huy tối đa. Một bộ phận CBCC các

cấp, trong đó có cấp xã, bị thoái hóa, biến chất trước những cám dỗ vật chất,

quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu người dân. Ở một số địa phương, cấp ủy,

chính quyền, MTTQ, các đoàn thể nhân dân và đội ngũ CBCC cấp xã chưa

thực sự làm tròn vai trò, trách nhiệm của mình trong tổ chức THPL về dân

chủ ở cấp xã. Đây là một trong những nguyên nhân phát sinh tình trạng người

dân khiếu kiện, tố cáo vượt cấp kéo dài khi quyền, lợi ích hợp pháp của họ

chưa được giải quyết thỏa đáng, dứt điểm ngay từ cấp xã.

Page 3: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

3

Thực trạng trên đây đã và đang gây ra những khó khăn cho việc tiếp tục

triển khai thực hiện có hiệu quả pháp luật về dân chủ ở cấp xã; tác động tiêu

cực tới tiến trình cải cách hành chính, xây dựng chính quyền cấp xã trong

sạch, vững mạnh; làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với hiệu lực, hiệu

quả của bộ máy hành chính nhà nước; từ đó, cản trở việc thực hiện dân chủ,

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Từ những lý do trên cho thấy, việc củng cố, phát triển các vấn đề lý luận

về THPL về dân chủ ở cấp xã, đánh giá thực trạng, nguyên nhân để từ đó, đề ra

các giải pháp bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một vấn đề có tầm quan trọng và mang

tính cấp thiết. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề “Thực hiện pháp luật về

dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam” làm đề tài luận án Tiến sỹ luật học.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

- Mục đích của luận án là trên cơ sở nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn

đề lý luận và đánh giá thực trạng THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, luận án đề xuất các quan điểm

và giải pháp bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.

- Để thực hiện mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ sau:

Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc THPL về dân chủ

ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, bao gồm: khái

niệm, đặc trưng, hình thức, nội dung, các điều kiện bảo đảm THPL theo yêu

cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; những yêu cầu của

Nhà nước pháp quyền XHCN đối với THPL về dân chủ ở cấp xã.

Hai là, nghiên cứu, khảo sát, điều tra xã hội học (ĐTXHH) về THPL về

dân chủ ở cấp xã trên địa bàn 19 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong

cả nước; từ đó làm sáng tỏ, đánh giá những kết quả đạt dược, hạn chế và

nguyên nhân của thực trạng THPL về dân chủ ở cấp xã ở Việt Nam trong

những năm qua.

Page 4: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

4

Ba là, đề xuất, luận giải quan điểm và giải pháp bảo đảm THPL về dân

chủ ở cấp xã đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

- Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực

tiễn về THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam dưới góc độ khoa học Lý luận và Lịch sử nhà nước

và pháp luật.

- Phạm vi nghiên cứu của luận án:

+ Về không gian: Luận án nghiên cứu, đánh giá thực trạng THPL về

dân chủ ở cấp xã trên địa bàn 19 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở cả ba

miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam, bao gồm các tỉnh: Lai Châu, Điện Biên,

Quảng Ninh, Phú Thọ, Hưng Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Quảng Bình,

Quảng Nam, Bình Định, Đắl Lắk, Đắk Nông, Đồng Nai, Sóc Trăng, Bạc

Liêu, Cà Mau; các thành phố: Hải Phòng, Hồ Chí Minh và Cần Thơ.

+ Về thời gian: Luận án nghiên cứu pháp luật và đánh giá thực trạng

THPL về dân chủ ở cấp xã từ năm 1998 đến nay (2014).

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

- Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về

nhà nước và pháp luật, về vai trò của quần chúng nhân dân, về dân chủ nói

chung; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về dân chủ và thực hiện dân

chủ ở cấp xã nói riêng. Bên cạnh đó, luận án cũng kế thừa và tiếp thu quan

điểm, kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền

XHCN và THPL về dân chủ ở cấp xã của các nhà nghiên cứu đi trước.

- Phương pháp nghiên cứu của luận án: Để thực hiện mục đích và

nhiệm vụ nghiên cứu, luận án đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phân

tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể, logic, thống kê - so sánh và ĐTXHH. Các

phương pháp nghiên cứu nói trên được sử dụng cụ thể trong các chương của

luận án như sau:

Page 5: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

5

+ Để nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

luận án, luận án đã sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ

thể, phương pháp logic để chỉ ra được những vấn đề lý luận, thực tiễn đã được

nghiên cứu liên quan đến nội dung luận án; đồng thời xác định được những

vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu của luận án.

+ Chương 2 của luận án đã sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp,

lịch sử - cụ thể, phương pháp logic và so sánh để nghiên cứu và làm sáng tỏ

cơ sở lý luận của luận án; nghiên cứu vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã ở một

số địa phương của Việt Nam và kinh nghiệm một số nước trên thế giới, từ đó

chỉ ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.

+ Chương 3 của luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học kết

hợp với phương pháp so sánh - thống kê, phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể

để phân tích, đánh giá lịch sử hình thành, phát triển của pháp luật dân chủ ở

cấp xã ở Việt Nam; đồng thời, đánh giá, phân tích những kết quả, hạn chế và

nguyên nhân của thực trạng THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam từ năm 1998 đến nay.

+ Chương 4 của luận án sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp,

lịch sử - cụ thể, logic, để phân tích và làm sáng tỏ các quan điểm và giải pháp

nhằm đảm bảo THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.

5. Đóng góp khoa học mới của luận án

- Luận án đã đưa ra được khái niệm và xác định được đặc điểm của chủ

thể, nội dung, các hình thức THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Phân tích và chỉ ra được nội dung của mối quan hệ giữa THPL về dân

chủ ở cấp xã và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đối với

THPL về dân chủ ở cấp xã ở Việt Nam.

- Trên cơ sở kết quả ĐTXHH về tình hình THPL về dân chủ ở cấp xã

trên địa bàn 19 tỉnh, thành phố trong cả nước, luận án đã chỉ ra và luận giải có

sức thuyết phục những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng THPL

Page 6: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

6

về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam từ năm 1998 đến nay.

- Luận án đề xuất được sáu quan điểm và bốn nhóm giải pháp toàn

diện, có tính khả thi nhằm bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Về phương diện lý luận, kết quả và đóng góp mới của luận án góp

phần làm sáng tỏ và phong phú thêm những vấn đề lý luận về THPL nói

chung, về THPH trên một lĩnh vực cụ thể nói riêng, về THPL về dân chủ ở

cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Về phương diện thực tiễn, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham

khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy môn Lý luận Nhà nước

và pháp luật trong phạm vi các vấn đề có liên quan. Các kết quả nghiên cứu

của luận án có thể được các cơ quan hữu quan của các tỉnh, thành phố sử

dụng làm luận cứ khoa học, tài liệu tham khảo phục vụ việc xây dựng các giải

pháp, biện pháp cụ thể để bảo đảm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả THPL về

dân chủ ở cấp xã đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

Việt Nam.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận án được kết cấu thành 4 chương, 12 tiết.

Page 7: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

LUẬN ÁN

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Dân chủ là một chủ đề rất lớn trong đời sống chính trị, đời sống nhà

nước và xã hội tại hầu khắp các nước khác nhau trên thế giới. Trong phần này

tác giả không đề cập, phân tích nội dung của những công trình nghiên cứu về

dân chủ nói chung, mà chỉ tập trung khái quát những nội dung cơ bản của một

số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về thực hiện pháp luật và

về dân chủ ở cơ sở/địa phương.

1.1.1.1. Về thực hiện pháp luật

THPL là một trong những nội dung quan trọng của lý luận về nhà nước

và pháp luật; do đó, trong các công trình có tính chất giáo khoa lưu hành tại

các cơ sở đào tạo luật ở ngoài nước luôn dành sự quan tâm cho chủ đề này.

Có thể điểm qua một số công trình tiêu biểu:

- Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp Liên Xô, Lý luận về nhà

nước và pháp luật (tái bản lần thứ hai có sửa chữa, bổ sung), Nxb. Sách pháp

lý, Mátxcơva, 1974 (tiếng Nga) [122]. Trong cuốn giáo trình này, các tác giả

đã dành chương XIII- Áp dụng quy phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa [122, tr.

558 - tr. 568] để đề cập, phân tích nội dung các hình thức THPL; theo đó, các

hình thức THPL thực chất là những hành vi pháp luật được các chủ thể pháp

luật thực hiện, bao gồm các hình thức: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp

luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Áp dụng pháp luật là hình thức

THPL đặc biệt, là giai đoạn đặc biệt của THPL. Ngoài ra, cuốn sách còn đưa

ra những yêu cầu đối với văn bản áp dụng pháp luật, trong văn bản phải chỉ

rõ: cơ quan, thời gian ban hành, đối tượng thực hiện, quyết định giải quyết

vấn đề gì, căn cứ thực tế và căn cứ pháp lý để ra quyết định, người ký văn

bản; các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật...

Page 8: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

8

- Lý luận nhà nước và pháp luật (tái bản lần thứ hai có sửa chữa, bổ

sung), Nxb. Pháp lý, Mátxcơva, 2001 (tiếng Nga) [123]. Cuốn sách đã dành

chuyên đề 20 để bàn về áp dụng pháp luật [123, tr. 453 - tr. 477], trong đó có

nội dung khái quát về THPL. Theo quan niệm của các tác giả, THPL là việc

hiện thực hóa những yêu cầu của pháp luật bằng những hành động thực tế của

các chủ thể pháp luật (cơ quan, tổ chức, cá nhân). THPL luôn gắn với hành vi

pháp luật của con người, được phân loại theo nhiều căn cứ khác nhau: theo

tính chất tác động của các chủ thể, mức độ tính tích cực và định hướng của

chủ thể; THPL được chia thành bốn hình thức: tuân thủ pháp luật, chấp hành

pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.

Như vậy, trong các công trình nghiên cứu nói trên, các tác giả đã tập

trung giải quyết những vấn đề lý luận cơ bản về THPL và các hình thức

THPL. Tuy được trình bày, diễn đạt theo cách khác nhau, nhưng những triết

lý căn bản về THPL và áp dụng pháp luật là khá tương đồng, như đều cho

rằng có bốn hình thức THPL là tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử

dụng pháp luật và áp dụng pháp luật... Những nội dung này có giá trị tham

khảo cho tác giả khi viết luận án ở chừng mực vấn đề có liên quan.

1.1.1.2. Về dân chủ ở địa phương, dân chủ ở cơ sở

Vấn đề dân chủ được các học giả nước ngoài nghiên cứu khá nhiều,

song vấn đề dân chủ ở địa phương, dân chủ ở cơ sở ở một số quốc gia mà tác

giả tham khảo lại ít được quan tâm nghiên cứu. Nguyên nhân của tình trạng

này là do trình độ nhận thức về dân chủ, sự phát triển của nền dân chủ, do

truyền thống lịch sử, quy định của pháp luật, do nhu cầu thực tiễn đặt ra đối

với mỗi quốc gia qua từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong phạm

vi những tài liệu gắn với chủ đề của luận án cần phải kể đến các công trình

nghiên cứu sau đây:

- Viện Hàn lâm Khoa học xã hội (thuộc Ban Chấp hành Trung ương

Đảng Cộng sản Liên Xô), Xây dựng nhà nước xôviết và pháp luật, Nxb. Tư

tưởng, Mátxcơva, 1984 (tiếng Nga) [118]. Nội dung cuốn sách, bên cạnh việc

luận bàn về nhà nước, tổ chức quyền lực nhà nước, hình thức chính thể, hình

Page 9: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

9

thức cấu trúc, chế độ chính trị...; các tác giả đã dành chương IX- Nhà nước và

cá nhân [118, tr. 174 - tr. 200] để trình bày khái quát về các quyền tự do, dân

chủ của công dân được quy định trong Hiến pháp Liên Xô năm 1977, chia các

quyền công dân thành các nhóm: quyền kinh tế - xã hội, các quyền và tự do

chính trị, các quyền và tự do cá nhân. Nhóm những quyền và tự do chính trị

gồm có: quyền tham gia của công dân vào quản lý nhà nước và xã hội, thảo

luận và ban hành luật và các quyết định có ý nghĩa nhà nước và địa phương;

quyền bầu cử và ứng cử; tham gia vào các tổ chức xã hội, quyền gửi các kiến

nghị, phê bình các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội; tự do ngôn luận, tự do

báo chí, hội họp, mít tinh, tuần hành và biểu tình [118, tr. 189]. Đồng thời,

các tác giả coi dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà

nước; dân chủ XHCN thể hiện mối quan hệ có tính quy luật giữa nhân dân và

quyền lực nhà nước. Nguyên tắc dân chủ trước hết thể hiện ở nội dung: tất cả

quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm sự tham gia rộng rãi, tích cực

và thực tế của tất cả quần chúng nhân dân lao động vào quản lý các công việc

nhà nước và xã hội. Việc thực hiện này thông qua dân chủ gián tiếp (Xôviết

đại biểu nhân dân) và trực tiếp thông qua việc nhân dân trực tiếp thảo luận các

vấn đề thuộc đời sống nhà nước, thông qua trưng cầu ý dân, hoạt động của

các tổ chức xã hội, tập thể lao động, sử dụng dư luận xã hội [118, tr. 233].

- Luật Hành chính Xôviết, Nxb. Sách pháp lý, Mátxcơva, 1977 [126].

Cuốn sách tuy không trực tiếp bàn về vấn đề dân chủ hay dân chủ ở cơ sở,

nhưng khi viết về pháp chế và kỷ luật trong hoạt động quản lý nhà nước, về

các hình thức, phương pháp bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà

nước, các tác giả đã coi việc kiểm tra đảng, giám sát hoạt động của các cơ

quan quyền lực nhà nước từ phía các tổ chức, đoàn thể xã hội là những

phương thức bảo đảm pháp chế, kỷ luật trong quản lý nhà nước và bảo đảm

các quyền, tự do dân chủ của công dân; là sự thể hiện của vấn đề thực hiện

dân chủ trong đời sống xã hội; đồng thời, các tác giả cuốn sách cũng phân tích

khá kỹ về nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra nhân dân, đặc biệt là những tổ

chức thanh tra nhân dân được thành lập ở các cấp hành chính, đơn vị sự

Page 10: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

10

nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, trang trại... Thanh tra nhân dân là cơ quan của tổ

chức xã hội, do nhân dân trực tiếp bầu nên, thay mặt nhân dân kiểm tra hoạt

động của chính quyền các cấp, hoạt động của lãnh đạo các cơ quan, đơn vị sự

nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, trang trại [126, tr. 272 - tr. 275].

- O. E. Kutaphin, K.Ph. Seremet, Thẩm quyền của Xôviết địa phương,

Nxb. Sách pháp lý, Mátxcơva, 1986 (tiếng Nga) [122]. Công trình này tuy

không có những nội dung chuyên biệt về dân chủ ở địa phương hay dân chủ

cơ sở, nhưng khi nghiên cứu về thẩm quyền của Xôviết đại biểu nhân dân địa

phương trên từng lĩnh vực, các tác giả đều đề cập tới quyền tự quyết của từng

cấp chính quyền Xôviết (tỉnh, vùng, huyện, xã, thôn), trong đó có những nội

dung đề cập tới quyền tham gia, hình thức tham gia của công dân (nông trang

viên) vào việc đưa ra các quyết định của nông trường, của các Xôviết đại biểu

nhân dân địa phương ở cấp xã, thôn. Khi liệt kê thẩm quyền của Xôviết đại

biểu nhân dân có quy định chung rằng mọi quyết định của chính quyền đều

phải được phổ biến tới nhân dân địa phương, báo cáo của chính quyền trước

nhân dân thông qua việc phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức

và hoạt động của Xôviết đại biểu nhân dân [122, tr. 8].

- B. P. Cerebrennikov, Quản lý địa phương và tự quản ở Pháp, Nxb.

Cao đẳng, Minxk, 1981 (tiếng Nga) [127]. Cuốn sách tập trung nghiên cứu

khái niệm, các đặc trưng của quản lý địa phương và tự quản ở Pháp trong sự

so sánh với tự quản ở một số quốc gia khác (Mỹ, Anh, Canada...); sự điều

chỉnh của Hiến pháp về tự quản địa phương; quản lý công xã và tự quản; địa

vị pháp lý của công xã và một số vấn đề khác có liên quan tới tự quản địa

phương. So sánh với chế độ tự quản của các quốc gia khác như Anh, Mỹ,

Italia thì chế độ tự quản của Pháp còn nhiều hạn chế bởi những quy định của

chính quyền trung ương về các quyền tự quyết của cộng đồng lãnh thổ địa

phương. Theo tác giả, ở Pháp, việc thiết lập một nền hành pháp mạnh, tổ chức

quyền lực theo truyền thống tập trung nên quyền tự quản, tự quyết của các

cộng đồng địa phương còn nhiều hạn chế.

Page 11: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

11

- Olivier Vidal (Nguyễn Hoàng Anh dịch), Nước Cộng hòa Pháp và

các cộng đồng lãnh thổ địa phương: sự trở lại của nhóm Girondins?, bài viết

in trong cuốn sách “Phân cấp quản lý nhà nước” của Khoa Luật, Đại học

Quốc gia Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011 [75]. Trong bài viết

tác giả bàn về sự hình thành của tư tưởng phân quyền theo chiều dọc, nghĩa là

phân quyền cho các đơn vị hành chính lãnh thổ địa phương. Thực chất phân

quyền là sự thể hiện của mô hình quản lý phi tập trung, là sự biểu hiện của

dân chủ, nếu không có dân chủ thì không có phân quyền theo chiều dọc. Theo

tác giả, việc thừa nhận sự tự quản của cộng đồng lãnh thổ địa phương ở nước

Pháp trải qua một qua trình rất lâu dài, phức tạp, là kết quả của sự đấu tranh

giữa phái ủng hộ chế độ tập quyền và phái ủng hộ chế độ phân quyền; đồng

thời, tác giả đề cập tới hình thức thực hiện hoạt động tự quản địa phương

thông qua hình thức trưng cầu ý dân hay “dân chủ ở cơ sở” - đỉnh cao của chế

độ phân quyền [75, tr. 292].

- Virginia Beramandi, Andrew Elis và các tác giả khác, Dân chủ trực

tiếp: Sổ tay IDEA Quốc tế (Chủ biên bản dịch tiếng Việt: GS.TSKH. Đào Trí

Úc - TS. Vũ Công Giao), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014 [116].

Cuốn sách này được biên dịch và xuất bản bằng tiếng Việt bởi Viện Chính

sách công và Pháp luật trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật

Việt Nam với sự cho phép của IDEA Quốc tế, sự hỗ trợ của Đại sử quán Na

Uy tại Hà Nội và sự cộng tác của Bộ môn Luật Hiến pháp - Hành chính thuộc

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nội dung cuốn sách cung cấp các

khuyến nghị và bài học thực tiễn về việc vận dụng dân chủ trực tiếp ở tất cả

các vùng trên thế giới; đánh giá điển hình ở 06 quốc gia, gồm Hungary, Thụy

Sĩ, Hoa Kỳ (bang Oregan), Uruguay và Venezuela với các hoạt động trưng

cầu dân ý, sáng kiến của công dân, sáng kiến chương trình nghị sự và bãi

miễn... [116].

- Robert Alan, Dalh, Democracy and its Critics (Dân chủ và sự phê

phán), New Haven: Yale University Press. USA, 1991 [128]. Trong cuốn

sách này, từ cách tiếp cận chính trị học, tác giả khẳng định quyền lực mà nhà

Page 12: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

12

nước có được là xuất phát từ quyền lực gốc của nhân dân; bởi vậy, để thực thi

một nền dân chủ đòi hỏi phải có sự chế ước lẫn nhau giữa các chủ thể trong

xã hội, phải được cụ thể hóa và bảo đảm thực thi bằng pháp luật. Tuy nhiên,

mỗi một chế độ dân chủ được duy trì, thực thi như thế nào còn phụ thuộc vào

các điều kiện về kinh tế, truyền thống văn hóa dân tộc của mỗi quốc gia khác

nhau. Khi làm rõ khái niệm dân chủ, tác giả khẳng định rằng, cho đến nay,

chưa có quốc gia nào đáp ứng đầy đủ các lý tưởng dân chủ. Để đạt tới một

nền dân chủ lý tưởng, theo tác giả cuốn sách, phải đáp ứng năm tiêu chí sau:

1) Sự tham gia hiệu quả: mọi công dân phải có cơ hội đầy đủ và bình đẳng để

thể hiện nguyện vọng của mình và đặt câu hỏi trong các chương trình công

cộng, thể hiện các lý do cho một kết quả tốt đẹp hơn; 2) Các công dân phải

được bình đẳng, công bằng trong bầu cử ở giai đoạn quyết định; 3) Sự hiểu

biết sâu sắc: các công dân phải được hưởng những cơ hội phong phú và bình

đẳng cho những phát hiện và lựa chọn tốt nhất phục vụ cho lợi ích của họ; 4)

Kiểm soát các chương trình nghị sự: các công dân phải có cơ hội quyết định

những vấn đề chính trị thực sự toàn diện; 5) Tính toàn diện: tính bình đẳng

phải được mở rộng đến tất cả các công dân. Mọi người đều phải có cổ phần

hợp pháp trong quá trình chính trị.

- Adam Przeworski, Michael Alvarez, Jose Antonio Chebub and

Fernando Limongi, What makes Democracies Endure? (Điều gì tạo nên các

nền dân chủ bền vững?), Journal of Democracy 7/January, pag. 39-55 [129].

Trong bài viết, thông qua việc khảo sát thực chứng về dân chủ tại 135 nước

trên thế giới, các tác giả đã chỉ ra được với mức độ thu nhập bình quân đầu

người ở mức nào thì dân chủ xuất hiện, ở mức nào thì dân chủ bền vững. Các

tác giả cho rằng, các cuộc khủng hoảng kinh tế là một trong những mối đe

dọa phổ biến nhất đối với sự ổn định, phát triển nền dân chủ. Ngược lại, tăng

trưởng kinh tế sẽ luôn có lợi cho sự sống còn của nền dân chủ. Trên thực tế,

nhiều nền kinh tế phát triển đã góp phần giúp cho nền dân chủ có thể tồn tại,

phát triển bền vững hơn so với các nước có nền kinh tế phát triển kém.

Page 13: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

13

- Harold Hongju Koh, The right to Democracy, Towards a community

of democracy (Quyền dân chủ, Hướng tới một cộng đồng dân chủ), Issue of

Democracy, May, 2000, p. 9 [130]. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả

đã đề cập tới nhiều tiêu chuẩn của dân chủ, cho thấy dân chủ bao trùm lên tất

cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Mục tiêu của việc

xây dựng dân chủ không chỉ dừng lại ở cách hành xử về chính trị, mà còn làm

cho dân chủ trở thành yếu tố định hướng hành vi của con người.

- Sorensen Georg, Democracy and democractization processes and

prospects in changing world (Dân chủ và quá trình dân chủ hóa và triển vọng

trong một thế giới chuyển đổi), Westview press. 2007 [131]. Từ cách tiếp cận

lịch sử về dân chủ, tác giả xem xét, đánh giá triển vọng dân chủ trong thế giới

ngày nay, làm rõ khái niệm dân chủ và cho thấy tiềm năng tích cực trong xu

hướng dân chủ hóa, sự phát triển dân chủ trong những điều kiện khác nhau ở

các nước có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau.

Ngoài ra, có thể kể thêm một số tài liệu, công trình nghiên cứu của các

tác giả khác, như: A. B. Agapốp, Luật Hành chính (tái bản lần thứ sáu), Nxb.

Iurait, 2009 (tiếng Nga) [117]; Bộ Giáo dục Liên bang Nga, Đ.N. Bakhrac,

Luật Hành chính Nga (tái bản lần thứ năm), Nxb. Exkimô, Mátxcơva, 2010

(tiếng Nga) [120]; G.V. Atamanchuc, Lý thuyết quản lý nhà nước, Nxb.

Omega, Mátxcơva, 2004 (tiếng Nga) [119]; Matinne Lombard và Gille

Dumont, Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,

2007 [57]... Các công trình trên chủ yếu tập trung giải quyết những vấn đề lý

luận về quản lý nhà nước, dân chủ được xem xét như là một trong những nhân

tố bảo đảm sự thành công của hoạt động quản lý nhà nước và phương thức

quản lý nhà nước, đề cập tới các hình thức dân chủ: dân chủ đại diện và dân

chủ trực tiếp, đặc biệt là dân chủ ở những cộng đồng lãnh thổ địa phương ở

Liên bang Nga và ở Cộng hòa Pháp.

Tóm lại, trong các cuốn sách, công trình nghiên cứu nói trên, các tác

giả nước ngoài đã luận bàn, đề cập tương đối đa dạng vấn đề dân chủ, dân chủ

trực tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ cơ sở, dân chủ ở địa phương..., trong đó

Page 14: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

14

nổi lên sự khẳng định quyền lực nhà nước là quyền lực gốc của nhân dân, một

nền dân chủ phải có sự chế ước lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội và phải

được bảo đảm thực thi bằng pháp luật. Một số công trình bàn sâu về các tiêu

chí của một nền dân chủ, về tác động của tăng trưởng kinh tế đối với việc

thực thi dân chủ, đánh giá về triển vọng của một nền dân chủ trong thế giới

ngày nay. Những công trình nghiên cứu nói trên của các tác giả nước ngoài là

nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để tác giả luận án có thể tham khảo, so

sánh về mặt lý luận vấn đề thực hiện pháp luật khi triển khai viết luận án.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Chủ đề THPL, dân chủ và dân chủ ở cấp xã, vấn đề THPL về dân chủ ở

cấp xã, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là những chủ

đề/vấn đề được bàn luận sôi nổi trong nhiều công trình khoa học, cuốn sách,

bài báo khoa học từ những phương diện, góc độ khác nhau. Căn cứ vào tên đề

tài luận án, có thể khái quát tình hình nghiên cứu theo các nhóm vấn đề sau:

1.1.2.1. Vấn đề thực hiện pháp luật nói chung

Chủ đề THPL là một trong những nội dung quan trọng của khoa học Lý

luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật, được đề cập, bàn luận chủ yếu trong

các cuốn sách, giáo trình của các cơ sở đào tạo luật ở nước ta, tiêu biểu như:

- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp

luật (tái bản lần thứ 3 có sửa đổi), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2013

[105]. Các tác giả cuốn giáo trình này đã dành chương X- Thực hiện pháp

luật, áp dụng pháp luật và giải thích pháp luật [105, tr. 181 - tr. 204] để luận

bàn về THPL và áp dụng pháp luật. Theo các tác giả, THPL là hoạt động có

mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định pháp luật. THPL là hành vi thực tế

hợp pháp, có mục đích của các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy

định pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống [105, tr. 183]. Các tác giả

khẳng định có 04 hình thức THPL, gồm tuân thủ pháp luật, thi hành (chấp

hành) pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Do áp dụng pháp

luật là hình thức THPL đặc biệt nên các tác giả dành nhiều trang sách để viết

về vấn đề này [105, tr. 184 - 200].

Page 15: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

15

- Cùng chung tính chất giáo trình luận bàn về vấn đề THPL còn có thể

kể ra một số cuốn sách, tài liệu khác, như: Trần Ngọc Đường (chủ biên), Lý

luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999

[26]; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tài liệu học tập, nghiên cứu

môn Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, 2 tập, Hà Nội, 2004 [40]...

Trong các cuốn giáo trình kể trên, tuy cách trình bày, diễn đạt có thể khác

nhau, song các tác giả cũng đều tập trung chủ yếu vào việc trình bày khái

niệm THPL, các hình thức THPL (tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử

dụng pháp luật, áp dụng pháp luật); phân tích sâu hơn về áp dụng pháp luật,

các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật... Đây là những cơ sở lý luận

quan trọng, mang tính giáo khoa cho việc triển khai nghiên cứu vấn đề THPL

trong quá trình viết luận án của tác giả.

- Nguyễn Minh Đoan, Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010 [25]. Đây là cuốn sách tham khảo

chuyên bàn về THPL và áp dụng pháp luật, gồm 05 chương. Chương 1- Thực

hiện pháp luật được tác giả dành để luận bàn về khái niệm, mục đích, ý nghĩa

của việc THPL, về các hình thức THPL. THPL có thể được tiến hành thông

qua các hình thức: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và

áp dụng pháp luật. Chương 2- Áp dụng pháp luật luận bàn về những trường

hợp cần áp dụng pháp luật, đặc điểm của áp dụng pháp luật, các nguyên tắc cơ

bản của áp dụng pháp luật và quyết định áp dụng pháp luật. Chương 3- Quy

trình thực hiện và áp dụng pháp luật; theo đó, quy trình THPL gồm hai giai

đoạn là chuẩn bị đưa văn bản pháp luật hay quy định pháp luật vào thực hiện

và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật trên thực tế. Chương 4- Những

bảo đảm thực hiện pháp luật được dành để phân tích một số yếu tố và điều

kiện cơ bản bảo đảm THPL. Chương 7- Hiệu quả thực hiện pháp luật ở Việt

Nam luận bàn về các tiêu chí đánh giá hiệu quả THPL, thực trạng và một số

giải pháp nâng cao hiệu quả THPL ở Việt Nam. Cuốn sách là tài liệu tham

khảo hữu ích cho tác giả luận án khi viết phần cơ sở lý luận về THPL và

THPL về dân chủ ở cấp xã.

Page 16: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

16

- Vấn đề THPL cũng được đề cập và phân tích tương đối sâu dưới góc

độ xã hội học pháp luật, như: TS. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật, Nxb.

Tư pháp, Hà Nội, 2010 (352 trang) [70]; TS. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp

luật (Tái bản lần thứ nhất, có chỉnh sửa, bổ sung), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội,

2012 (408 trang) [71]. Trong cuốn sách này, tác giả đã dành 02 chương để

bàn về vấn đề THPL và áp dụng pháp luật dưới góc độ xã hội học pháp luật

(Chương VII- Các khía cạnh xã hội của hoạt động thực hiện pháp luật và

Chương VIII- Các khía cạnh xã hội của hoạt động áp dụng pháp luật). Trong

hai chương này, tác giả trình bày khái quát về hoạt động THPL và áp dụng

pháp luật; phân tích nội dung nghiên cứu các khía cạnh xã hội của hoạt động

THPL và áp dụng pháp luật. Tác giả cũng dành nhiều trang viết để phân tích,

luận giải những biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động THPL và áp dụng

pháp luật ở nước ta hiện nay. Nhìn trên phương diện cách tiếp cận liên ngành

khoa học, những nội dung của cuốn sách có giá trị tham khảo đối với việc

khảo sát thực tiễn phục vụ việc viết luận án ở những vấn đề có liên quan.

1.1.2.2. Vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ ở cấp xã đặt trong mối

quan hệ với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Vấn đề dân chủ là vấn đề từ lâu đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của

các nhà khoa học, những người làm công tác lý luận cũng như thực tiễn và

được tiếp cận dưới nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Có thể đề cập đến một

số công trình, bài viết tiêu biểu sau đây:

- Viện Chính sách công và Pháp luật - Viện Nhà nước và pháp luật

(Đồng chủ biên: GS.TSKH. Đào Trí Úc - PGS.TS. Trịnh Đức Thảo - TS. Vũ

Công Giao - TS. Trương Hồ Hải, 2014), Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về

dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam (Kỷ yếu Hội

thảo), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội [115]. Cuốn sách gồm tập hợp những

bài tham luận tại cuộc Hội thảo “Dân chủ trực tiếp, Dân chủ cơ sở trên thế

giới và ở Việt Nam”, trong đó, các tác giả đã chia sẻ kiến thức, thông tin về

một loạt vấn đề lý luận, thực tiễn và các mô hình tổ chức thực hiện dân chủ

trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam; đồng thời, đề xuất những

Page 17: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

17

quan điểm, giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và các cơ chế bảo đảm

thực hiện dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở ở nước ta trong thời gian tới.

- Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo, Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ

nghĩa, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991 [73]. Nội dung cuốn sách tập trung làm rõ các

vấn đề lý luận về dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa; coi dân chủ tư sản

là thành quả của cuộc cách mạng tư sản, là kết quả việc nhà nước tư sản sử

dụng phương pháp tự do chủ nghĩa để thực hiện chuyên chính tư sản; chỉ ra

những đặc trưng cơ bản của dân chủ tư sản. Dân chủ XHCN là nền dân chủ

gắn với bản chất của chế độ Nhà nước XHCN; là hình thức chính quyền mà

đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và

thừa nhận quyền tự do bình đẳng của công dân. Trong tương quan với quyền

lực nhân dân, dân chủ được coi là công cụ, là hình thức chủ yếu thực hiện

quyền lực nhân dân...

Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình khác, như: Nguyễn Tiến Phồn,

Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực tiễn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà

Nội, 2001 [77]; Hoàng Chí Bảo, Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện

dân chủ: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu, Tạp chí Thông tin

lý luận, số 9/1992, Hà Nội [3]; Nguyễn Minh Đoan, Dân chủ với pháp luật,

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10/2007 [24]... Các công trình, bài viết nói

trên tập trung làm rõ khái niệm dân chủ, các đặc trưng của dân chủ xã hội chủ

nghĩa; mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật; đưa ra các đánh giá khách quan

về những thành quả, tiến bộ mà chủ nghĩa tư bản có được cũng như chỉ ra

những hạn chế trong quan niệm về dân chủ do bản chất giai cấp của nền dân

chủ tư sản quy định; đề cao nguyên tắc tập trung dân chủ; chỉ ra các cơ chế

thực hiện dân chủ... Đó là những tài liệu tham khảo hữu ích đối với tác giả

khi đề cập và luận bàn về nội hàm, bản chất của vấn đề dân chủ.

Vấn đề dân chủ đặt trong mối liên hệ với xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN được một số tác giả đề cập, phân tích, như:

- Nguyễn Văn Mạnh, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam: lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010 [56].

Page 18: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

18

Đây là cuốn sách chuyên khảo gồm hai phần: Phần thứ nhất- Cơ sở lý luận về

Nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó tác giả tập trung phân tích và làm rõ

cơ sở hình thành quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền XHCN,

những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Phần

thứ hai- Thành tựu, hạn chế và các giải pháp đẩy mạnh xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay; trong đó tập trung đánh giá những

thành tựu cũng như những hạn chế, tồn tại trong thực tiễn xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN ở Việt Nam trong những năm qua cũng như nguyên nhân

của chúng. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số giải pháp tiếp tục xây dựng và

hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay; trong đó, phát

huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nhà nước

và quản lý xã hội [56, tr. 162-165] là một trong những giải pháp căn bản.

- Hoàng Văn Hảo, Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng

thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật, số 2/2003 [34]. Trên cơ sở bàn luận về bản chất của dân chủ như

một giá trị xã hội phổ quát, điểm qua những đặc trưng cơ bản của mô hình

Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng, tác giả khẳng định

rằng: thực hiện và phát huy dân chủ là nhân tố không thể thiếu trong mô hình

tổng thể Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.

- Đặng Hữu Toàn, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và

vấn đề thực thi quyền làm chủ của nhân dân, Tạp chí Khoa học xã hội, số

9/2005 [102]. Tác giả cho rằng, một trong những nội dung cốt lõi của việc

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là phải bảo đảm thực hiện quyền làm

chủ của nhân dân, cũng có nghĩa là phải thực hành nền dân chủ; giữa xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và thực thi quyền làm chủ của nhân dân

có mối liên hệ mật thiết với nhau.

- Nguyễn Trọng Thóc, Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với

việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước

ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 6(169)/2005 [98]. Trong bài viết, tác giả

nhấn mạnh rằng, xây dựng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ XHCN là

Page 19: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

19

các biện pháp chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; trong đó, sự

lãnh đạo của Đảng là yếu tố đặc biệt quan trọng.

- Lương Đình Hải, Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ

hóa xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 1(176)/2006 [32]. Trong

bài viết, tác giả khẳng định rằng, thực hiện dân chủ là một nội dung cơ bản

của nhà nước pháp quyền, đặc biệt là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,

do dân, vì dân. Không có nhà nước pháp quyền thực sự thì không có nền dân

chủ xã hội rộng rãi và bền vững. Đối với nước ta, dân chủ hóa xã hội vừa là

điều kiện tiên quyết để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN,

vừa là biện pháp căn bản để đẩy nhanh sự phát triển của đất nước.

- Ngọ Văn Nhân, Một số điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua văn kiện Đại hội XI của Đảng, Tạp chí Triết

học, số 3 (237)/2011, Hà Nội [72]. Khẳng định bước phát triển mới trong

quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

qua văn kiện Đại hội XI, tác giả đã phân tích những điểm mới đó trên các

phương diện: các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN; thực

tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHXN ở nước ta trong những năm đổi

mới; những giải pháp cụ thể cần triển khai nhằm đẩy mạnh công cuộc xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Một trong những điểm mới, theo tác giả,

là Đảng ta đã nhấn mạnh chức năng của Nhà nước là phục vụ nhân dân;

khẳng định mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Nhà nước với nhân dân, thực

hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của

nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.

- Trần Ngọc Đường, Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với

việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,

2012 [27]. Nói về vị trí, vai trò của quyền lực nhân dân, tác giả cho rằng,

quyền lực nhân dân là quyền lực tối cao trong các xã hội có tính dân chủ,

đồng nghĩa với việc dân chủ là toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Quyền

lực nhân dân là quyền lực gốc để từ đó hình thành nên các quyền lực khác

trong xã hội như quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị. Vai trò của quyền

Page 20: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

20

lực nhân dân được thể hiện ở các khía cạnh sau: 1) Tự quản, tự chủ những vấn

đề thuộc về đời sống cá nhân và đời sống xã hội không có sự can thiệp của

Nhà nước; 2) Quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia theo quy định

của pháp luật, như trưng cầu ý dân, các hình thức dân chủ trực tiếp khác; 3)

Xây dựng Nhà nước, các thiết chế xã hội thông qua các cơ chế như bầu cử,

khiếu nại, tố cáo hoặc gây ảnh hưởng, phản biện đối với các chính sách pháp

luật; 4) Tuân thủ, ủng hộ và bảo vệ quyền lực nhà nước thông qua việc chấp

hành đúng pháp luật, chính sách của Nhà nước, đấu tranh chống lại những thế

lực đi ngược lại các chuẩn mực xã hội, luật pháp; 5) Kiểm soát, giám sát nhà

nước và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội [27, tr. 41 - 42].

Những công trình nghiên cứu trên đây là tài liệu tham khảo có giá trị

đối với tác giả luận án khi bàn về mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ với xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

Vấn đề thực hiện dân chủ ở cấp xã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập,

phân tích trong các công trình, bài báo khoa học, nhất là sau khi Chính phủ

ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP Về việc ban hành Quy chế thực hiện

dân chủ ở xã. Có thể kể ra đây một số công trình nghiên cứu, bài viết trong

những năm gần đây về lĩnh vực này:

- Ngọ Văn Nhân, Về đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại

diện trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 5 (204)/2008

[69]. Tác giả bài viết khẳng định rằng, phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và

hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là một trong những nhiệm vụ trọng

tâm của Đảng, Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển

đất nước hiện nay. Phát huy dân chủ là điều kiện tiên quyết để xây dựng bộ

máy nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cơ chế

vận hành của Nhà nước pháp quyền dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà

nước thuộc về nhân dân. Dưới chế độ ta, nhân dân thực hiện quyền lực nhà

nước thông qua hai hình thức cơ bản là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.

Tác giả nhấn mạnh rằng, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đều là hình

thức của chế độ dân chủ, có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau [69, tr. 63 - 69].

Page 21: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

21

- Nguyễn Thọ Khang, Thực hiện dân chủ ở cấp xã và vấn đề đặt ra đối

với báo chí ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số

tháng 6/2013 [47]. Trong bài viết này, từ sự nhấn mạnh vai trò của việc thực

hiện dân chủ ở cấp xã trong phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân

dân ở xã, phường, thị trấn, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn

của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường

đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ,

chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh; tác giả cho rằng các

loại hình báo chí có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phổ biến, tuyên

truyền Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Tác giả bài viết

đưa ra các giải pháp: báo chí nên có các chuyên trang, chuyên mục về thực

hiện dân chủ ở cấp xã; nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền của báo chí

về thực hiện dân chủ ở cấp xã; bám sát, phản ánh kịp thời những hoạt động

thực hiện dân chủ ở cấp xã [47, tr. 39 - tr. 41].

- Đỗ Văn Dương, Những giải pháp phát huy vai trò hệ thống chính trị

cơ sở nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn

các tỉnh Tây Nguyên, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số tháng

7/2013 [28]. Theo tác giả bài viết, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở xã,

phường, thị trấn ngày càng đổi mới và hoàn thiện được coi là cơ chế vận hành

của nền dân chủ nhằm bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, là khâu then

chốt của toàn bộ quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị - xã hội ở cơ sở,

giúp giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và công dân, qua đó

quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được bảo đảm đầy đủ hơn trên thực

tế. Nhìn trên phương diện đó, những hạn chế, bất cập của hệ thống chính trị

cơ sở đối với việc lãnh đạo, triển khai thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn

các tỉnh Tây Nguyên vẫn còn rất lớn. Chính vì vậy, tác giả khẳng định cần

phải có những giải pháp toàn diện nhằm phát huy vai trò của hệ thống chính

trị cơ sở nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở cấp xã ở Tây Nguyên, như tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng bộ cơ sở; nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo,

quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ cấp xã ở Tây Nguyên... [28, tr. 39-41].

Page 22: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

22

- Nguyễn Thị Thu Hà, Thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính

trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8(273)/2013

[31]. Nội dung bài viết tập trung làm rõ hai phương diện của hoạt động thực

hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện

nay là những kết quả bước đầu và một số hạn chế và nguyên nhân. Về kết

quả, tác giả cho rằng, thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính trị cơ

sở nông thôn đã tác động tích cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội, trực tiếp

thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và củng cố chính quyền cơ

sở... Về hạn chế, theo tác giả, hạn chế điển hình là bệnh dân chủ hình thức

trong thực hiện quy chế dân chủ. Việc phát huy dân chủ còn yếu kém là

nguyên nhân căn bản làm nảy sinh các tệ quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu

nhân dân, tham nhũng trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, làm cho không ít

các chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước bị biến dạng trong vận hành ở

nhiều cấp, nhiều ngành, đặc biệt là cấp cơ sở xã, phường, thị trấn.

Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình nghiên cứu khác về thực

hiện dân chủ ở cơ sở, như: Dương Xuân Ngọc, Quy chế thực hiện dân chủ ở

cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

2000 [74]; Lương Gia Ban, Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ

sở, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 [4]; Trần Bạch Đằng, Dân chủ ở cơ

sở - một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số

35, tháng 12/2003, Hà Nội [23]; Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn Thông (chủ

biên), Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta

hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 [87]... Trong các công trình

khoa học kể trên, các tác giả tập trung phân tích nội hàm khái niệm dân chủ ở

cơ sở; các khía cạnh lý luận và thực tiễn của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ

sở; coi dân chủ ở cơ sở như một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam,

có cội nguồn từ trong truyền thống dân chủ làng xã và rất cần phát huy sức

mạnh của nó phục vụ tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam, vấn đề đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên địa bàn

cơ sở ở nước ta hiện nay, mối quan hệ giữa vấn đề dân chủ và cải cách bộ máy

Page 23: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

23

chính quyền địa phương. Các tác giả cũng nhấn mạnh rằng, Quy chế dân chủ ở

cơ sở càng được thực hiện nghiêm túc bao nhiêu thì càng có tác dụng củng cố,

xây dựng chính quyền cấp cơ sở trong sạch, vững mạnh bấy nhiêu; góp phần

quan trọng thúc đẩy sự phát triển nông thôn Việt Nam. Những công trình, bài

viết về thực hiện dân chủ ở cấp xã là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho tác

giả khi bàn luận về vấn đề này.

1.1.2.3. Vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

Vấn đề này đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập và phân tích trong các

bài viết đăng trên các báo, tạp chí khoa học khác nhau, như:

- Đặng Đình Tân - Đặng Minh Tuấn, Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế

dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 7/2002 [91]. Trong bài viết

này, các tác giả đã đưa ra những nhận xét, đánh giá bước đầu về các kết quả

đạt được trong công tác thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, như sự phấn khởi

đón nhận Quy chế dân chủ ở cơ sở từ phía nhân dân ở xã, phường, thị trấn; sự

hăng hái vào cuộc của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân nhằm

động viên các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình trên các

mặt hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở... Các tác giả cũng chỉ ra một

số hạn chế trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, như công tác tuyên

truyền và việc tổ chức thực hiện Quy chế còn mang tính hình thức, chưa chú

trọng chất lượng và hiệu quả. Để có thể tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ

ở cơ sở, theo các tác giả, cần triển khai nhiều giải pháp, trong đó, tăng cường

vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng và huy động sự vào cuộc của các đoàn

thể nhân dân là những biện pháp quan trọng hàng đầu [91, tr. 39 - 43].

- Phạm Ngọc Quang, Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi

mới - thành tựu, vấn đề và giải pháp, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 3/2004

[79]. Theo tác giả bài viết, sự ra đời của Quy chế dân chủ ở cơ sở là một dấu

mốc quan trọng của quá trình đổi mới ở nước ta, thể hiện quyết tâm chính trị

của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình dân chủ hóa xã hội. Sau khi điểm

qua những thành tựu nổi bật của hoạt động thực hiện dân chủ ở cơ sở, tác giả

xác định những vấn đề đang đặt ra trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở ở

Page 24: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

24

nước ta, như nhận thức của người dân về việc thực hiện các quyền dân chủ

vẫn còn hạn chế; các yếu tố bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả dân chủ ở

cơ sở chưa được đáp ứng đầy đủ, kịp thời... Từ thực tế đó, tác giả nêu lên và

phân tích những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ sở đáp

ứng yêu cầu, đòi hỏi của tiến trình đổi mới đất nước [79, tr. 3 - 7].

Ngoài các bài viết kể trên, có thể nêu thêm một số bài viết khác, như:

Lê Quang Minh, Để thực hiện dân chủ sở cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 11,

tháng 4/2003, Hà Nội [58]; Nguyễn Kim Thanh, Một vài suy nghĩ về kết quả

10 năm xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Dân vận, số

7/2009, Hà Nội [94]; Hoàng Trọng Chính, Nâng cao hiệu quả hoạt động quy

chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 358/2006, Hà Nội

[11]; Quách Sĩ Hùng, Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ cơ sở

ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 6/2009 [41];... Các công

trình khoa học, bài viết nêu trên ở những mức độ khác nhau đã góp phần làm

rõ thêm các đặc điểm của quá trình THPL về dân chủ cơ sở ở nước ta trong

những năm qua; bước đầu tổng kết, nêu rõ thành công, hạn chế và những vấn

đề đặt ra trong xây dựng và THPL về dân chủ ở cơ sở, các nguyên nhân dẫn

tới những hạn chế và các giải pháp khắc phục.

Chủ đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã gắn với từng địa bàn,

địa phương cụ thể đã trở thành đề tài của nhiều luận văn thạc sĩ, luận án tiến

sĩ... Có thể kể ra đây một số công trình luận văn, luận án, như:

- Lê Xuân Huy, Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở

nông thôn nước ta hiện nay (qua thực tế một số tỉnh phía Bắc), Luận văn

Thạc sĩ Triết học, 2005, Hà Nội [43]. Trong luận văn này, từ phương diện tiếp

cận triết học, tác giả đã tập trung phân tích khái niệm, đặc trưng của ý thức

pháp luật, khái niệm, đặc điểm của việc thực hiện dân chủ ở nông thôn; khẳng

định vai trò đặc biệt quan trọng của ý thức pháp luật đối với quá trình thực

hiện dân chủ ở nông thôn. Thông qua việc khảo sát thực tế tình hình thực hiện

dân chủ ở nông thôn tại một số tỉnh phía Bắc nước ta, tác giả đã nêu lên

những kết quả bước đầu của việc thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện

Page 25: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

25

nay, những hạn chế và nguyên nhân; từ đó, tác giả đã đề xuất và luận chứng

tính khả thi của một số giải pháp nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân

nông thôn phục vụ việc triển khai có hiệu quả công tác thực hiện dân chủ trên

địa bàn nông thôn nước ta hiện nay.

- Ngô Thị Hòa, Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cấp

xã trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2005, Hà Nội

[39]. Mục đích nghiên cứu của luận văn này được tác giả xác định là: trên cơ

sở tìm hiểu và đánh giá đúng tình hình thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã

trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm

nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã trong giai đoạn hiện

nay. Thành công đáng kể, làm nên giá trị tham khảo về mặt khoa học của luận

văn này là tác giả đã đưa ra được khái niệm chất lượng thực hiện Quy chế dân

chủ ở cấp xã, xác định được những tiêu chí đánh giá chất lượng và những yếu

tố ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã.

- Vương Ngọc Thịnh, Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa

bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2010 [96].

Theo tác giả, tìm hiểu việc THPL về dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng

trong việc đề ra những giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao ý thức

của người dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Từ ý nghĩa đó, luận văn đi sâu

vào phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về dân chủ ở cơ sở và

các hình thức THPL về dân chủ ở cơ sở; vai trò của việc THPL về dân chủ ở

xã, phường, thị trấn, đánh giá thực trạng THPL về dân chủ ở cơ sở trên địa

bàn huyện Hoài Đức và đề xuất phương hướng, luận giải một số giải pháp bảo

đảm THPL về dân chủ ở cơ sở tại huyện Hoài Đức, Hà Nội.

Những công trình kể trên đã tập trung phân tích cơ sở lý luận về THPL

về dân chủ ở cấp xã; chỉ ra những thành tựu đã đạt được và các hạn chế, bất

cập của quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã, phân tích nguyên nhân; nêu lên

những quan điểm chỉ đạo và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả THPL

về dân chủ ở cấp xã đặt trong đặc thù của từng địa phương.

Page 26: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

26

- Đỗ Văn Dương, Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị

trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội,

2014 [29]. Trong luận án này, tác giả tập trung phân tích khái niệm, đặc điểm,

hình thức THPL về dân chủ ở xã, phường, thị trấn; vai trò và các điều kiện

bảo đảm THPL về dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Trên cơ sở đánh giá thực

trạng về nội dung và hình thức THPL về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên

địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, phân tích các yếu tố đặc thù ở Tây Nguyên tác

động tới việc THPL về dân chủ ở xã, phường, thị trấn và nguyên nhân, tác giả

đã phân tích các quan điểm và đề xuất hệ thống các giải pháp bảo đảm THPL

về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên hiện nay.

- Nguyễn Hồng Chuyên, Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục

vụ xây dựng nông thôn mới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2013, 376 trang [13]. Nội

dung cuốn sách được tác giả chia thành 5 chương. Chương 1 đề cập và phân

tích một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới; đánh giá vai trò của

công cuộc xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay. Nội dung của chương

2 được tác giả dành để phân tích chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước ta về thực hiện dân chủ ở cấp xã và xây dựng nông

thôn mới. Chương 3 tập trung luận bàn, phân tích lý luận vấn đề THPL về dân

chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới. Từ các vấn đề lý luận, chương

4 đánh giá thực trạng công tác THPL về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng

nông thôn mới qua kết quả điều tra xã hội học trên địa bàn tỉnh Thái Bình; từ

đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm. Chương 5 dành để luận giải, phân tích

các giải pháp bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã phục vụ công cuộc xây

dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay. Tác giả đã xâu chuỗi, gắn kết và lồng

ghép hài hòa, hợp lý công tác THPL về dân chủ ở cấp xã phục vụ công cuộc

xây dựng nông thôn mới đang diễn ra mạnh mẽ ở nước ta hiện nay.

1.1.2.4. Vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Như đã đề cập ở các phần trên, vấn đề dân chủ đặt trong mối liên hệ

với xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đã được một số tác giả đề cập và

Page 27: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

27

phân tích. Song, nếu nhìn vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thì đây lại là vấn đề mới, hầu

như chưa được nghiên cứu. Cho đến nay, mới chỉ có: Nguyễn Hồng Chuyên,

Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã trong điều kiện xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ thực tiễn của tỉnh Thái Bình), Nxb.

Tư pháp, Hà Nội, 2011, 312 trang [12]. Nội dung cuốn sách gồm 04 chương,

tập trung phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn THPL về dân chủ ở cấp xã

trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Trong cuốn sách này, do sự hạn chế về thời gian và phạm vi nghiên cứu

nên trong phần đánh giá thực trạng công tác THPL về dân chủ ở cấp xã, tác giả

mới chỉ dừng lại ở việc khảo sát, điều tra xã hội học về tình hình THPL về dân

chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Thái Bình, mà chưa có điều kiện khảo sát vấn đề

nghiên cứu trên phạm vi toàn quốc với nhiều tỉnh, thành phố khác. Hơn nữa,

nhiều vấn đề lý luận, như yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

đối với việc THPL về dân chủ ở cấp xã, mối quan hệ giữa THPL về dân chủ ở

cấp xã và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam... còn chưa được

đào sâu, làm rõ. Ngoài ra, vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã mới chỉ đặt

trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, chứ không

phải theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về dân chủ, dân chủ ở cơ

sở, dân chủ ở cấp xã với phạm vi nghiên cứu, mức độ khác nhau đã làm rõ

bản chất, nội dung, tính chất, cơ chế thực hiện dân chủ và vai trò của việc mở

rộng quyền làm chủ của nhân dân đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã

hội. Tuy nhiên, nhiều nội dung nghiên cứu về lý luận và thực tiễn công tác

THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam thì vẫn còn để ngỏ; đặt ra đòi hỏi cấp thiết phải tiếp tục

nghiên cứu, làm rõ cả trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn.

1.1.2.5. Một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Việt

Nam về dân chủ, dân chủ cơ sở ở các nước

Page 28: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

28

Bên cạnh việc nghiên cứu về dân chủ, dân chủ ở cơ sở tại Việt Nam,

một số tác giả, nhà khoa học Việt Nam còn chủ trọng nghiên cứu vấn đề dân

chủ, dân chủ cơ sở ở nước ngoài. Có thể kể ra đây một số công trình tiêu biểu:

- PGS.TS. Vũ Văn Hiền (chủ biên), Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm ở

Thụy Điển và Trung Quốc (Sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 2004 [38]. Cuốn sách tập hợp các bài viết của các nhà khoa học nghiên

cứu về vấn đề bảo đảm quyền dân chủ của người dân ở cơ sở trên tất cả các

lĩnh vực của đời sống xã hội qua kinh nghiệm thực hành dân chủ ở Thụy Điển

và Trung Quốc. Đây là tài liệu tham khảo có giá trị đối với tác giả luận án khi

nghiên cứu về thực hiện dân chủ ở cơ sở.

- Lê Tịnh, Thể chế dân chủ cơ sở ở Trung Quốc - Thôn tự trị, Tạp chí

Nghiên cứu Trung Quốc, số 3/2002, Hà Nội [97]. Bài viết phân tích thể chế

dân chủ tự trị của Trung Quốc và việc thực hiện dân chủ ở cơ sở dưới hình

thức “thôn tự trị”. Luật Tổ chức Ủy ban thôn là cơ sở pháp lý để xác lập

quyền tự trị của cộng đồng dân thôn, điều chỉnh các quan hệ lợi ích ở nông

thôn Trung Quốc. Tác giả bài viết đã chỉ ra thành công, hạn chế và kinh

nghiệm thực hiện dân chủ tự trị của cộng đồng dân thôn ở Trung Quốc.

- TS. Đỗ Tiến Sâm, Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung

Quốc, Viện nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam,

Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005 [85]. Trong công trình này, tác giả

nghiên cứu hệ thống chính quyền cơ sở, tổ chức tự quản ở nông thôn Trung

Quốc và vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc. Trên cơ sở

đánh giá những thành tựu, hạn chế, các vấn đề đặt ra và phương hướng giải

quyết, tác giả rút ra những bài học kinh nghiệm có thể tham khảo trong thực

hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã tại Việt Nam.

- Nguyễn Anh Hùng, Những xu hướng dân chủ ở các nước Mỹ Latinh

ngày nay, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 10/2009, Hà Nội [42]. Tác giả nhận

định các nước thuộc khu vực Mỹ Latinh ngày càng mở rộng quyền dân chủ và

sự tham gia của nhân dân trong quản lý nhà nước và xã hội. Pháp luật các

Page 29: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

29

nước đều bổ sung các quy định về dân chủ, mở rộng các quyền dân chủ tiềm

năng và dân chủ thích ứng của nhân dân.

Những công trình nghiên cứu về dân chủ, dân chủ ở cơ sở tại các nước

nêu trên, đặc biệt là ở Trung Quốc - nước có nhiều điểm tương đồng với Việt

Nam - là những tài liệu tham khảo có giá trị đối với tác giả luận án khi nghiên

cứu vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã của Việt Nam.

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy đã có

nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án. Tuy nhiên, các

công trình nghiên cứu đã công bố mới chỉ đề cập riêng rẽ từng nội dung:

THPL về dân chủ ở cấp xã; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hoặc là

nghiên cứu việc THPL về dân chủ ở cấp xã gắn với từng địa phương cụ thể;

vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền gắn với việc bảo đảm thực hiện dân

chủ nói chung.v.v. Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn

diện, có hệ thống vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trên quy mô toàn quốc, có tính chất

tổng kết về mặt lý luận và thực tiễn. Căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ nghiên

cứu của đề tài, luận án cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề sau đây:

1.2.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc THPL về dân chủ ở cấp xã theo

yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trong đó tập trung hệ

thống hóa, khái quát, phân tích, làm sảng tỏ các vấn đề lý luận sau:

- Khái niệm, chủ thể, nội dung, hình thức THPL về dân chủ ở cấp xã;

- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với yêu cầu THPL về dân chủ ở

cấp xã; mối quan hệ giữa xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với

THPL về dân chủ ở cấp xã;

- Các điều kiện bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

1.2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật và THPL về dân chủ ở cấp xã theo

yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Phần này tập trung

giải quyết các vấn đề sau đây:

Page 30: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

30

- Quá trình hình thành, phát triển pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp

xã, đánh giá các thành tựu, ưu điểm và chỉ ra những tồn tại, hạn chế;

- Thực trạng THPL về dân chủ ở cấp xã ở Việt Nam theo yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN (các thành tựu, kết quả đạt được, những

tồn tại, bất cập và nguyên nhân qua phân tích kết quả điều tra xã hội học tại

19 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam).

1.2.3. Đề xuất quan điểm và các giải pháp bảo đảm THPL về dân chủ ở

cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, tập trung

giải quyết các vấn đề sau:

- Đề xuất, phân tích, luận chứng các quan điểm có tính chất nguyên tắc

phương pháp luận chỉ đạo quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;

- Đề xuất các giải pháp bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Những giải pháp này phải bám sát yêu

cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, có tính khả thi, có giá trị

tham khảo cho các địa phương trong THPL về dân chủ ở cấp xã; góp phần xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở

nước ta hiện nay.

Kết luận chương 1

Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy, các tác giả, học

giả nước ngoài đã có nhiều cuốn giáo trình, sách chuyên khảo, bài viết luận

bàn về vấn đề THPL nói chung, đề cập tương đối đa dạng vấn đề dân chủ, dân

chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ ở địa phương..., trong đó nổi lên sự

khẳng định quyền lực nhà nước là quyền lực gốc của nhân dân, một nền dân

chủ phải có sự chế ước lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội và phải được

bảo đảm thực thi bằng pháp luật. Một số công trình bàn sâu về các tiêu chí

của một nền dân chủ, về tác động của tăng trưởng kinh tế đối với việc thực thi

dân chủ, đánh giá về triển vọng của một nền dân chủ trong thế giới ngày nay.

Sự tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước cho thấy, từng vấn đề

riêng lẻ như vấn đề THPL, dân chủ, dân chủ ở cấp xã, THPL về dân chủ ở cấp

Page 31: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

31

xã, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam... đều

đã được các nhà nghiên cứu, các tác giả đề cập, luận bàn tương đối đầy đủ.

Song, nếu đặt các vần đề đó một cách lôgíc, hệ thống trong một tên đề tài

khoa học “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, thì có thể nhận thấy

rằng, các công trình nghiên cứu về dân chủ ở cơ sở phần nhiều mang tính lý

luận; các công trình nghiên cứu vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã mới chủ

yếu dừng lại ở cấp độ luận văn thạc sĩ và gắn với một địa bàn cụ thể là một

huyện, một tỉnh hay một nhóm các tỉnh có nhiều đặc điểm tương đồng; chưa

có một công trình nào nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn vấn đề THPL

về dân chủ ở cấp xã ở cấp độ luận án tiến sĩ trên phạm vi quốc gia. Hơn thế

nữa, THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam thì lại càng là vấn đề mới, chưa được triển khai nghiên cứu

một cách thấu đáo, toàn diện và hệ thống.

Từ đó, có thể khẳng định rằng, cho đến nay vẫn chưa có một công trình

nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống cả về mặt lý luận cũng như

khảo sát thực tiễn vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề

“Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học.

Page 32: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

32

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN

CHỦ Ở CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP

QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM2.1. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VỚI

YÊU CẦU THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ

2.1.1. Khái niệm, các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam

2.1.1.1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Nhà nước pháp quyền là một hình thức (phương thức) tổ chức và vận

hành quyền lực - mà quyền lực đó thuộc về nhân dân, dựa trên các nguyên tắc

phục tùng tính tối cao của pháp luật, phân công quyền lực, dân chủ, công

bằng; nhằm mục đích bảo vệ tối đa chủ quyền của nhân dân.

Nhà nước pháp quyền không phải là đặc trưng riêng có của xã hội tư

sản, mà là một nhu cầu tất yếu, khách quan và phổ biến của bất kỳ một xã hội

nào khi đã phát triển đến trình độ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau làm phương thức

tồn tại. Mỗi nhà nước lại có cách thức xây dựng mô hình nhà nước pháp

quyền khác nhau phụ thuộc vào các điều kiện đặc thù về lịch sử, văn hóa,

truyền thống, kinh tế hay chính trị của nó. Do đó, nhà nước pháp quyền không

phải là sản phẩm của riêng xã hội tư bản chủ nghĩa (TBCN), mà nó hoàn toàn

có thể được xây dựng trong xã hội XHCN. Về nguyên lý, có Nhà nước pháp

quyền TBCN và Nhà nước pháp quyền XHCN. Hai nhà nước này khác nhau

ở mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ và được quy định bởi cơ sở kinh tế, chính

trị, văn hoá, xã hội và truyền thống dân chủ của mỗi chế độ. Nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam có những đặc trưng cơ bản riêng.

Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên nói đến

nhà nước pháp quyền. Năm 1919, trong bản “Yêu sách của nhân dân An

Nam” gửi đến Hội nghị Vécxây, Người đã từng đưa ra yêu cầu phải thay thế

chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Yêu sách thứ bảy được đề

ra là pháp quyền. Sau này, yêu sách đó được Hồ Chí Minh chuyển thành lời

Page 33: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

33

ca: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn đề cao vai trò của chế độ pháp quyền. Sau khi

giành được chính quyền, xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,

Người cũng luôn yêu cầu Nhà nước ta phải là Nhà nước có bộ máy hành

chính mạnh, có hiệu lực, điều hành bằng pháp luật; mọi quyền dân chủ phải

được thể chế hóa trong Hiến pháp, trong các bộ luật, đạo luật và đòi hỏi công

dân phải tuân theo, không trừ một ai.

Theo Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước; quyền lực

nhà nước thuộc về nhân dân và gắn liền với việc nhà nước phải làm tất cả để

đem lại một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ, đó là do tính chất Nhà nước

ta là Nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới

động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên.

Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân

xây dựng chủ nghĩa xã hội [61, tr. 592].

Nhân dân sử dụng Nhà nước như một công cụ để thực hiện lợi ích của

mình. Đối với nhân dân, công cụ của Nhà nước dân chủ mới (Chính phủ,

quân đội, pháp luật...) đều là để phục vụ cho quyền và lợi ích của nhân dân.

Có thể có nhiều quan niệm về Nhà nước pháp quyền XHCN. Ở đây, tác

giả sử dụng khái niệm Nhà nước pháp quyền được nêu trong bài viết của đồng

chí Trần Đức Lương - nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam:

Nhà nước pháp quyền, nói một cách khái quát, là hệ thống các tư

tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động

của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền

là nhà nước quản lý theo pháp luật và đề cao quyền của con người,

quyền của công dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ

của nhân dân, đảm bảo mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đó

là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý

nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện các quyền

Page 34: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

34

tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn ngừa mọi sự tùy

tiện, lạm dụng quyền từ phía Nhà nước và các cán bộ viên chức nhà

nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan vô kỉ luật, kỉ cương,

đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước. Đó là Nhà nước mà tất cả

các cơ quan nhà nước, các tổ chức, kể cả các tổ chức đảng đều phải

hoạt động theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt

động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và

pháp luật, phải sống và làm việc theo pháp luật [xem: 51, tr. 5].

2.1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam

Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức ngày

càng đầy đủ yêu cầu, nội dung, đặc trựng của Nhà nước pháp quyền XHCN

Việt Nam. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng

01/1994), Đảng ta đã sử dụng khái niệm Nhà nước pháp quyền XHCN, đã

khẳng định sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước pháp quyền như là một điều

kiện không thể thiếu để phát triển nền dân chủ thực sự vì nhân dân. Tiếp theo,

trong văn kiện Đại hội VIII, Đại hội IX, Đại hội X, Đại hội XI và Hiến pháp

nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (sửa đổi năm 2013) đều tiếp tục khẳng định

Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN.

Từ thực tiễn nhận thức lý luận, tiếp thu có chọn lọc các giá trị có tính

phổ quát của Nhà nước pháp quyền nói chung cũng như từ thực tiễn xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta, có thể khái quát những đặc trưng cơ

bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo quan điểm của Đảng,

Nhà nước ta như sau:

Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của

nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc

về nhân dân. Với đặc trưng này, Đảng ta khẳng định tầm quan trọng của việc

xây dựng xã hội công dân trên con đường xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN; bởi vì, chỉ khi xuất phát từ góc độ xã hội công dân thì mới có thể hiểu

thấu đáo mệnh đề “nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”.

Page 35: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

35

Nếu “phiên dịch” mệnh đề trên theo “ngôn ngữ” của xã hội công dân thì nó có

nghĩa là: quyền lực nhà nước là do nhân dân ủy thác, do nhân dân đóng góp

chủ quyền tuyệt đối của mình mà thành (của nhân dân); nhân dân áp đặt ý chí

chung của mình lên Nhà nước và Nhà nước, bất luận thế nào, cũng phải luôn

luôn thuận theo ý chí của nhân dân (do nhân dân - đồng nghĩa với một nền

dân chủ); và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cùng với hệ thống pháp

luật của mình, không có mục tiêu nào khác hơn, cao hơn ngoài việc bảo vệ và

tạo mọi điều kiện có thể cho sự phát triển tối đa mọi giá trị nhân văn của các

cá nhân và cộng đồng xã hội (vì nhân dân).

Thứ hai, Nhà nước pháp quyền XHCN được tổ chức và hoạt động trên

cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho Hiến pháp, các đạo luật luôn giữ

vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời

sống xã hội. Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của

Đảng và thể hiện trực tiếp lợi ích của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam đặt ra nhiệm vụ phải xây dựng, ban hành

và ngày càng hoàn thiện một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các

quan hệ xã hội, tạo cơ sở cho sự duy trì một trật tự pháp luật và kỷ cương xã

hội. Pháp luật thể chế hóa các nguyên tắc, yêu cầu của hoạt động quản lý xã

hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu, tổ chức xã hội và các thiết chế nhà

nước. Sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là đỉnh cao của lối sống

theo pháp luật, là một giá trị của văn hóa pháp luật. Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam xây dựng, ban hành pháp luật; song, chính Nhà nước với hệ

thống các cơ quan, tổ chức, thiết chế, bộ máy của nó cũng phải tự đặt mình

trong sự ràng buộc về thẩm quyền mà pháp luật trao cho và chịu trách nhiệm

trước pháp luật về những hoạt động của mình; hoạt động trong khuôn khổ các

nguyên tắc, quy định của pháp luật. Phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và

lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của sự nghiệp xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là quyết tâm đổi mới tư duy lập

pháp, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như thực thi pháp luật

một cách công bằng, nghiêm minh.

Page 36: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

36

Thứ ba, Nhà nước pháp quyền XHCN tôn trọng và bảo đảm quyền con

người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và

công dân; thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Đảng

Cộng sản Việt Nam khẳng định:

Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực

hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý

kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và

biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham

nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân

chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi

hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân [21, tr.

85-86].

Điều đó cũng có nghĩa Đảng ta nhấn mạnh rằng, chức năng của Nhà

nước là phục vụ nhân dân; khẳng định mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa

Nhà nước với nhân dân, thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân,

tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.

Hơn nữa, Nhà nước còn phải có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và

trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm

phạm quyền dân chủ của công dân. Đặc trưng này của Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam khẳng định bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta.

Thứ tư, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch,

phối hợp chặt chẽ và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền

lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trước hết, quyền lực nhà nước là thống nhất

ở mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Về

mặt tổ chức, quyền lực nhà nước tập trung vào những cơ quan đại diện cho

nhân dân, do tuyệt đại đa số cử tri bầu ra, do đó, là quyền lực của nhân dân

giao phó cho các đại diện của mình. Ở nước ta, các đại diện đó là Quốc hội và

Hội đồng nhân dân các cấp. Bên cạnh đó, quyền lực nhà nước thống nhất trên

cơ sở phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và có sự kiểm soát giữa các

cơ quan trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Page 37: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

37

Sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để

đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước. Đó là sự phân công và phối

hợp trên cơ sở tổ chức lao động khoa học để tránh sự trùng lặp, chồng chéo,

mâu thuẫn trong việc thực hiện ba quyền với những chức năng, nhiệm vụ cụ

thể của từng cơ quan, bảo đảm sự vận hành nhịp nhàng, đồng bộ của bộ máy

nhà nước trong quá trình thực thi quyền lực mà nhân dân trao cho. Sự kiểm

soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp là

nhằm ngăn ngừa nguy cơ lạm quyền, lộng quyền, phòng chống sự tha hóa

quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước thống nhất ở nhân dân chứ không

phải thống nhất ở các cơ quan nhà nước.

Nếu các cơ quan nhà nước thống nhất nhưng nhân dân bất bình không

yên vì quyền lực nhà nước của mình bị lạm quyền, lộng quyền, mất

quyền thì sự thống nhất quyền lực ở các cơ quan nhà nước có lẽ sẽ

không có ích gì. Vì vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước là nhằm mục

đích chủ yếu là phòng chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước mà

không phải chỉ là để thống nhất quyền lực nhà nước. Điều đó đòi hỏi

phải thay đổi cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước [27, tr. 147-148].

Thứ năm, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản

Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản

biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và các tổ chức thành

viên của Mặt trận. Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác ngoài

việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng là nhằm

đảm bảo cho chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam được triển khai trên thực tế và đi vào thực tiễn cuộc

sống. Đảng ta chủ trương: “Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội

của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc

hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và

việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ” [20, tr.135].

MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên có vai trò to lớn trong việc

xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực

Page 38: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

38

hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đảng và Nhà nước đã và đang xây dựng,

hoàn thiện các quy chế để MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên phát

huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia phát triển kinh tế - xã

hội, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trên cơ sở thực hiện

tốt Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; qua đó tăng cường

khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố sự đồng thuận, nhất trí về chính trị và tinh

thần trong xã hội.

Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền XHN Việt Nam là Nhà nước thực hiện

đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bình đẳng và phát triển với

nhân dân các dân tộc và các nhà nước trên thế giới, đồng thời tôn trọng và

cam kết thực hiện các công ước, hiệp ước quốc tế đã tham gia, ký kết, phê

chuẩn. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng, Việt Nam thực hiện đường lối đối

ngoại nêu trên theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn

vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và

cùng có lợi. Mặt khác, tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, hiệp ước

quốc tế nhưng vẫn có quyền bảo lưu những điều không thích hợp với thực

tiễn Việt Nam.

2.1.2. Những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam đối với việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân

dân, do nhân dân và vì nhân dân đang đặt ra cho công tác THPL về dân chủ ở

cấp xã những yêu cầu sau đây:

2.1.2.1. Trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phải khẳng

định bản chất dân chủ của Nhà nước ta - Nhà nước của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân

Ngay sau khi giành được độc lập cho nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã khẳng định “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ”. Từ bản Hiến pháp đầu

tiên (năm 1946) cho đến bản Hiến pháp hiện hành (sửa đổi năm 2013) Nhà

nước ta đều khẳng định nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân

dân”. Tại Điều 2 Hiến pháp (sửa đổi năm 2013) khẳng định: “1. Nhà nước

Page 39: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

39

Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân. 2. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân làm

chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” [37, Điều 2]. Như vậy, bản

chất dân chủ của chế độ nhà nước ta hiện nay đã được khẳng định ngay từ khi

được khai sinh ra và được thể hiện trong Quốc hiệu “Nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa”. Trong giai đoạn hiện nay, việc THPL về dân chủ ở cấp xã, trên

thực tế, chỉ là sự tiếp tục khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước ta - Nhà

nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Dân chủ XHCN là mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta luôn

hướng tới, quyết tâm biến nó thành hiện thực. Cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của

Đảng tại Đại hội XI đã khẳng định mục tiêu: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà

nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công

bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ...” [21, tr. 70]. Trong khẳng định trên

có hai điểm mới quan trọng: Một là, Đảng ta đã đưa cụm từ dân chủ lên trước

cụm từ công bằng, văn minh; cho thấy Đảng ta đã xác định rõ ràng hơn vị trí,

vai trò của việc thực hiện dân chủ trong quá trình phát triển xã hội. Để có thể

xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN thì trước hết phải bảo đảm trong xã hội có nền dân chủ XHCN và nhất

thiết phải thực hiện dân chủ XHCN vì đó là điều kiện tiên quyết, thiết yếu để

xây dựng xã hội công bằng, văn minh. Nếu chưa coi trọng dân chủ và thực

hành dân chủ thì khó có thể nói đến một xã hội công bằng, văn minh. Hai là,

Đảng ta khẳng định một đặc trưng quan trọng của Nhà nước pháp quyền

XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng là Nhà nước do nhân dân làm chủ.

Dân chủ XHCN còn là động lực của sự phát triển đất nước, là nhân tố

thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; bởi lẽ, khi nhân dân đã

nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ và thực sự phát

huy quyền dân chủ thì đó sẽ là nguồn sức mạnh to lớn cho sự phát triển đất

nước. Mở rộng dân chủ là một trong những quan điểm phát triển được Đảng

ta nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2015 [21, tr. 100].

Page 40: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

40

Ở nước ta từ trước đến nay, xã, phường, thị trấn là nơi tập trung các

hoạt động sống, lao động, sinh hoạt của tuyệt đại đa số các tầng lớp nhân dân

nên chỉ có xã, phường, thị trấn mới là nơi nhân dân thực hiện và phát huy trực

tiếp nhất, đầy đủ nhất các quyền dân chủ. Chính vì vậy, THPL về dân chủ ở

cấp xã là sự khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước ta - Nhà nước của

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây cũng là yêu cầu mà công cuộc xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đặt ra đối với hoạt động THPL

về dân chủ ở cấp xã.

2.1.2.2. Trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phải luôn

luôn bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật

Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN là

được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho

Hiến pháp, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc

tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo nguyên tắc đó, Nhà nước xây

dựng và ban hành hệ thống pháp luật là để điều chỉnh các quan hệ xã hội, thực

hiện quản lý nhà nước và quản lý xã hội bằng pháp luật một cách thống nhất.

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN, Hiến pháp là đạo luật nền tảng, có hiệu

lực pháp lý cao nhất; các bộ luật và các văn bản QPPL khác phải phù hợp với

các nguyên tắc, quy định của Hiến pháp. Không một cá nhân, cơ quan hay tổ

chức nào có thể đứng ngoài hay đứng trên pháp luật. Bất kể là ai, dù đang giữ

cương vị gì trong bộ máy quyền lực nhà nước, nếu vi phạm pháp luật thì đều

phải bị xử lý theo luật định. Đó chính là nguyên tắc tính tối cao của pháp luật

trong Nhà nước pháp quyền XHCN.

Trong THPL về dân chủ ở cấp xã, việc chính quyền, đội ngũ CBCC cấp

xã, tuân thủ, chấp hành pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là phục tùng

vô điều kiện ý chí và lợi ích của nhân dân. Về phía các tầng lớp nhân dân ở xã,

phường, thị trấn, việc chủ động, tích cực thực hiện, pháp huy các quyền dân

chủ chính là phục tùng tính tối cao của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp

xã. Nhận thức sâu sắc nguyên tắc tính tối cao của pháp luật chính là nền tảng

để chính quyền, đội ngũ CBCC cấp xã và các tầng lớp nhân dân nâng cao ý

Page 41: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

41

thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, đề cao các nguyên tắc, quy định của pháp

luật trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã, đáp ứng yêu cầu xây dựng

nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

2.1.2.3. Trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phải luôn

quán triệt nguyên tắc thực hành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Theo nguyên tắc dân chủ XHCN, cơ quan quyền lực nhà nước các cấp

được thiết lập, hoạt động không phải để cai trị nhân dân, mà là nhằm thực

hiện và thừa hành ý chí của nhân dân; thông qua đó, nhân dân thực hiện

quyền làm chủ của mình. Theo đúng nghĩa của khái niệm dân chủ (dân là chủ

và dân làm chủ) thì nhân dân mới có quyền nói, bày tỏ ý kiến, nguyện vọng

của mình, còn các cơ quan nhà nước và đội ngũ CBCC của nó chỉ là người

tập hợp, thể hiện và thực hiện đúng ý nguyện của nhân dân. Dân chủ là người

dân có quyền được nói, quyền được bày tỏ chính kiến, đề xuất những biện

pháp giải quyết các vấn đề hệ trọng liên quan đến sự phát triển của đất nước,

của địa phương một cách có tổ chức.

Tuy nhiên, vấn đề không dừng lại ở nguyên tắc dân chủ và nhận thức

về vai trò của dân chủ; mà nguyên tắc quan trọng hơn là thực hành nền dân

chủ XHCN, nghĩa là phải tạo được bước chuyển căn bản từ nhận thức đến

hành động. Để đạt được mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ, Đảng ta xác định

rõ: “Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo

đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các

lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá

bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm” [21, tr. 85]. Nhà nước pháp quyền

XHCN đòi hỏi việc thực hành dân chủ phải trong khuôn khổ của Hiến pháp

và pháp luật, đi đôi với trật tự, kỷ cương; quyền đi đôi với nghĩa vụ; kiên

quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ, vi phạm Hiến pháp, pháp luật,

xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích của tập thể, quyền tự do dân chủ và lợi

ích hợp pháp của công dân. Phương thức thực hiện dân chủ là: “Nhân dân

thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống

chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện” [21, tr. 85].

Page 42: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

42

Trong thực hiện dân chủ XHCN, Nhà nước phải tạo ra những điều kiện

thuận lợi nhằm bảo đảm cho nhân dân tham gia xây dựng nhà nước, quản lý

các công việc của nhà nước, quyết định các công việc trọng đại của đất nước;

đồng thời, có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát

hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, tổ chức và cá nhân

khác được trao những quyền hạn nhất định để quản lý một số công việc của

Nhà nước. Những nội dung đó được thể hiện rõ nét trong pháp luật về thực

hiện dân chủ ở cấp xã.

2.1.2.4. Phải luôn bảo đảm các cơ chế, chính sách và biện pháp

nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân

Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã trao cho nhân

dân các quyền dân chủ trực tiếp, bao gồm quyền được biết, quyền được bàn

và quyết định, quyền tham gia ý kiến, quyền giám sát; song, để có thể hiện

thực hóa các quyền dân chủ đó của nhân dân một cách triệt để thì Nhà nước

phải có các cơ chế, chính sách và biện pháp bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền

dân chủ trực tiếp đó.

Thứ nhất, cần “nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng

lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân” [21, tr. 239]. Muốn vậy

phải thực hiện tốt công tác vận động, tuyền truyền để nâng cao nhận thức về

quyền và nghĩa vụ công dân; trong đó, tuyên truyền sâu rộng pháp luật về

thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là biện pháp có tầm quan trọng hàng

đầu. Đồng thời, các cấp chính quyền, đội ngũ CBCC cần chú trọng công tác

tổ chức cho người dân thực hiện quyền dân chủ của mình.

Thứ hai, “có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền

làm chủ trực tiếp” [21, tr. 239]. Quyền làm chủ trực tiếp (dân chủ trực tiếp) là

hình thức mọi công dân trực tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình một

cách bình đẳng, không phân biệt giới tính, lứa tuổi, thành phần xuất thân, địa

vị xã hội... Đây là hình thức hữu hiệu tạo cho nhân dân, với tính cách là chủ

thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, khả năng tham gia một cách

tích cực và chủ động vào các hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực kinh

Page 43: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

43

tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Cơ chế thực hành dân chủ ở nước ta từ trước đến

nay là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Cơ chế này đã được cụ thể

hóa thành các quyền dân chủ của nhân dân quy định trong Pháp lệnh thực

hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Thứ ba, “phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ

cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ

của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an

toàn xã hội, chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức” [21, tr.

239]. Phát huy dân chủ phải gắn với việc đề cao trách nhiệm công dân và bảo

đảm giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội. “Nhân dân không được tụ tập đông

người khiếu kiện vượt cấp, gây mất trật tự an ninh và chống đối người thi

hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được xem xét, giải quyết theo quy

định của pháp luật” [10, Điều 14]. Cá nhân nào có hành vi lợi dụng dân chủ

để gây mất an ninh, trật tự thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo

“Điều 258. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà

nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” [7, tr. 193].

2.1.2.5. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phải bảo đảm quyền

con người theo quy định của Hiến pháp

Từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP Về ban hành

Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đến nay, qua hơn mười lăm năm, việc THPL

về dân chủ ở cấp xã trên địa bàn cả nước đã đạt được những kết quả tích cực,

góp phần tạo động lực thúc đẩy và phát huy các quyền dân chủ của nhân dân,

thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; tham gia kiểm tra,

giám sát các hoạt động của Nhà nước, khắc phục một phần tệ quan liêu, tham

nhũng, mất dân chủ, xa rời quần chúng của một bộ phận CBCC; đóng góp

tích cực vào việc cải cách hành chính; tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa

Đảng, Nhà nước với nhân dân. Nhờ đó, trong những năm qua, các thành tựu,

kết quả đạt được về thực hiện dân chủ, quyền con người ở Việt Nam đã được

Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc đánh giá cao, đồng thời được dư

luận tiến bộ trên thế giới hoan nghênh và ủng hộ.

Page 44: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

44

Những thành tựu trong THPL về dân chủ ở cấp xã là bằng chứng hùng

hồn đập tan những luận điệu vu cáo, bôi nhọ, xuyên tạc sự thật của các thế

lực phản động, thù địch về vấn đề dân chủ, quyền con người ở Việt Nam. Xây

dựng và THPL về dân chủ ở cấp xã là quá trình thể chế hóa và bảo đảm thực

hiện trên thực tế các quyền tự do dân chủ của nhân dân, phù hợp với nội dung

quyền con người trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà Nhà

nước ta đã tham gia.

2.2. KHÁI NIỆM, CHỦ THỂ, NỘI DUNG, HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC

PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

2.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

2.2.1.1. Khái niệm dân chủ, dân chủ ở cấp xã

a) Khái niệm dân chủ

Dân chủ (democracy) là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp; trong

đó, demos có nghĩa là dân, kratos có nghĩa là quyền uy, sự cai trị. Như vậy,

theo nghĩa gốc của thuật ngữ, dân chủ có nghĩa là quyền uy của dân; là trạng

thái tổ chức xã hội, trong đó, quyền lực thuộc về dân. Dân chủ là hình thức tổ

chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn

gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng

được vận dụng vào các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế

xã hội nhất định.

Theo ý nghĩa ban đầu, khái niệm dân chủ trước hết và chủ yếu được

xem xét về mặt chính trị và pháp luật; dần dần, khái niệm này mang ý nghĩa

rộng hơn, vì dân chủ không chỉ giới hạn trong lĩnh vực chính trị hay pháp

luật, mà nó còn thể hiện ở các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, từ kinh

tế, văn hóa, tư tưởng, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá

nhân với cộng đồng, giữa công dân với nhà nước, giữa các tổ chức, thiết chế

xã hội với nhau cho đến quan hệ giữa các nhà nước với nhau trên trường quốc

tế. Như vậy, dân chủ là một khái niệm có nội hàm rất rộng, trong đó “toàn bộ

quyền lực thuộc về nhân dân” là nội dung cốt lõi. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,

Page 45: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

45

dân chủ hiểu một cách chung nhất là quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Ở

nước ta, chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ; do đó, “Nhân dân

là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành

chính quyền ấy. Thế là dân chủ” [60, tr. 218-219]. Các cơ quan quyền lực nhà

nước được sinh ra không phải để cai trị nhân dân; mà phải là nơi thực hiện và

thừa hành ý chí chung của nhân dân, giúp nhân dân thực hiện quyền làm chủ.

Dân chủ là khát vọng được làm chủ, là quyền tự nhiên của con người,

trong đó có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của người làm

chủ và quyền làm chủ đó. Dân chủ với tư cách là một hình thức cai trị và quản

lý xã hội đã xuất hiện từ thời kỳ Cổ đại, thể hiện rõ nét nhất ở các đô thị Hy

Lạp Cổ đại. Khi đó, do số dân không đông, ở các đô thị Hy Lạp đã hình thành

các Đại hội nhân dân với sự tham gia của tất cả các công dân, đối lập với hình

thức quyền lực tập trung vào tay giới quý tộc.

Vào thời kỳ Trung cổ, ở một số nước Tây Âu, như Italia, cũng xuất

hiện hình thức “dân chủ đô thị”, nhưng “dân” chỉ bao gồm những thị dân giàu

có nhất. Các trào lưu nhân văn và khai sáng từ thời Phục hưng cho đến thế kỷ

XVIII mới dần chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự ra đời các chế độ dân

chủ ở các nước Tây Âu, nhất là sau cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789. Từ

đây, dân chủ mới trở thành một phương thức tổ chức xã hội về mặt chính trị,

trong đó, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. “Lịch sử nhân loại đã chứng

minh một thực tiễn mang tính chân lý: dân chủ là khát vọng lớn lao, là đòi hỏi

bức xúc của con người, là một nhu cầu đặc biệt quan trọng mà con người

mong muốn vươn tới; đồng thời, dân chủ cũng là một động lực quan trọng

thúc đẩy xã hội phát triển. Sự phát triển của dân chủ đánh dấu những nấc

thang tiến bộ của xã hội loài người” [16].

Dân chủ là một quá trình vận động không ngừng với những thay đổi

quan trọng về nội dung; từ lĩnh vực chính trị, dân chủ ngày càng bao trùm lên

các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Trong thời đại ngày nay, dựa vào bản chất của

chế độ chính trị - xã hội, dân chủ được phân chia thành hai loại điển hình: dân

chủ tư sản và dân chủ XHCN; ngoài ra có thể có những chế độ dân chủ khác.

Page 46: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

46

Dân chủ tư sản là kết quả việc nhà nước tư sản sử dụng phương pháp tự

do chủ nghĩa để thực hiện chuyên chính tư sản. Đó là phương pháp “dùng

những biện pháp theo hướng mở rộng các quyền chính trị, theo hướng thi

hành những cuộc cải cách, những nhượng bộ.v.v.” [49, tr. 80]. Chế độ dân

chủ tư sản được coi là chế độ chính trị tiến bộ nhất của nhà nước tư sản. Nó

có các đặc trưng cơ bản sau đây: khả năng của nhân dân sử dụng các quyền tự

do dân chủ; sự tồn tại công khai của các đảng cầm quyền và các đảng đối lập

cũng như các tổ chức xã hội, tổ chức của quần chúng; sự tồn tại của hệ thống

các cơ quan đại diện được bầu theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu; sự thừa

nhận về hình thức quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật; việc thực

hiện nguyên tắc pháp chế tư sản [xem: 104, tr. 157 - 158].

Dân chủ XHCN là nền dân chủ gắn với bản chất của chế độ Nhà nước

XHCN. “Dân chủ xã hội chủ nghĩa được coi là hình thức chính quyền mà đặc

trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và thừa

nhận quyền tự do bình đẳng của công dân. Trong tương quan với quyền lực

nhân dân, dân chủ được coi là công cụ, là hình thức chủ yếu thực hiện quyền

lực nhân dân” [104, tr. 302]. Chế độ dân chủ XHCN là toàn bộ những thiết

chế thể hiện và đảm bảo quyền lực xã hội thuộc về giai cấp công nhân và

nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nền dân chủ XHCN

ra đời trên cơ sở kế thừa các giá trị dân chủ của các xã hội trước đó, là nền

dân chủ rộng rãi, mang tính toàn diện, được thực hiện thông qua hệ thống

chính trị XHCN, trước hết là Nhà nước pháp quyền XHCN không ngừng mở

rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, thu hút nhân dân lao

động tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội và bảo đảm quyền làm chủ

của nhân dân lao động cả về mặt pháp lý cũng như trên thực tế.

Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định của dân chủ nên

Đảng, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân chủ và phát huy

quyền làm chủ của nhân dân, coi đó là một vấn đề hệ trọng, có ý nghĩa chiến

lược sâu sắc đối với sự phát triển của đất nước. Ngay sau khi giành được độc

lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ quan điểm về dân chủ:

Page 47: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

47

NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.

Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên [59, tr. 698].

Từ bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) cho đến các bản Hiến pháp sau

này, Nhà nước ta đều khẳng định nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước

thuộc về nhân dân”. Ngay tại Điều 1 Hiến pháp năm 1946, chúng ta đã trịnh

trọng tuyên bố: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt

Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” [36,

tr. 8]. Hiến pháp (sửa đổi năm 2013) khẳng định: “Nước Cộng hòa XHXN

Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân

mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội

ngũ trí thức” [37, khoản 2 Điều 2]. Hiến pháp và pháp luật đều xác nhận

quyền của công dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo

luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với các cơ quan

Nhà nước. Công dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được đảm bảo mọi

quyền tự do cơ bản trong đó có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,

quyền khiếu nại, tố cáo. Các quyền tự do đó là cơ sở để nhân dân kiểm tra

hoạt động của Nhà nước và là một trong những phương thức quan trọng để

thực hiện dân chủ; đồng thời, còn thiết lập cơ chế bảo đảm sao cho việc thực

thi quyền lực nhà nước phục vụ cho lợi ích của nhân dân và luôn nằm dưới sự

kiểm soát của nhân dân. Nhà nước của chúng ta do nhân dân lập ra và được

nhân dân nuôi dưỡng.

Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ

của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ.

Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của

nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo

Page 48: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

48

đúng kỷ luật của Chính phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để

Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó cho” [60, tr. 368].

Bởi vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn thực sự do dân, Nhà nước

phải dựa vào dân để sửa chính sách, sửa bộ máy, sửa cán bộ của mình. Muốn

dựa vào dân thì phải tin vào sức mạnh của dân. Điều đó giải thích vì sao

Người luôn đòi hỏi việc gì cũng phải hỏi ý kiến nhân dân, cùng dân chúng

bàn bạc. “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm

của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương,

rồi động viên, tổ chức toàn dân ra thi hành” [59, tr. 698 - 699].

Để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của việc xây dựng nhà nước trong

thời kỳ mới thì một trong những yêu cầu cơ bản được Đảng ta xác định là

phải “tiếp tục phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân qua các hình

thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và

bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt

động của cán bộ, công chức nhà nước” [17, tr. 41]. Dân chủ trực tiếp là hình

thức mọi công dân trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình một cách

bình đẳng, không phân biệt giới tính, lứa tuổi, thành phần xuất thân, địa vị xã

hội... Đây là hình thức hữu hiệu tạo cho nhân dân khả năng tham gia tích cực,

chủ động vào các hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,

văn hóa... Dân chủ đại diện là hình thức nhân dân thực hiện quyền dân chủ

thông qua các cơ quan đại diện của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội,

tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, đại diện cho nhân dân.

Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đều là hình thức của chế độ dân

chủ, có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau.

Dân chủ trực tiếp cho phép phát huy tối đa sự tham gia của nhân dân

vào các công việc chung của đất nước, của địa phương, nhưng lại phụ

thuộc vào năng lực nhận thức về dân chủ của mỗi người dân. Nếu

người dân nhận thức không đầy đủ về dân chủ thì có thể bị kích động,

lôi kéo, phản ánh sai lệch nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Dân

chủ đại diện đảm bảo sự tập trung cao trong việc hiện thực hóa quyền

Page 49: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

49

làm chủ của nhân dân, nhưng lại phụ thuộc vào khả năng thực thi chức

năng, nhiệm vụ của người đại diện và cơ quan đại diện” [69, tr. 65].

b) Khái niệm dân chủ ở cấp xã

Cấp xã thường được gọi chung là “cấp cơ sở” hay “địa bàn cơ sở”. Xã,

phường, thị trấn là “nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống” [19,

tr.89]. Có thể nói, mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội..., dù ở

phạm vi rộng hay hẹp, đều chủ yếu diễn ra trên địa bàn xã, phường, trị trấn;

bởi lẽ, ngay cả các cơ quan trung ương, tỉnh hay huyện cũng đóng trên địa

bàn một xã, phường nhất định; đội ngũ CBCC, viên chức, sau những giờ làm

việc ở công sở, đều trở về nhà riêng của mình tại một xã, phường, thị trấn nào

đó. Tại đây, cùng với nhân dân, CBCC, viên chức “trở thành” công dân của

một đơn vị hành chính cấp xã với đầy đủ ý nghĩa của thuật ngữ này.

Trên địa bàn xã, phường, thị trấn, đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa,

pháp luật... luôn diễn ra sôi động và không kém phần phức tạp; trực tiếp hoặc

gián tiếp liên quan đến lợi ích của Nhà nước, tập thể và người dân. Chính

quyền cấp xã là khâu cuối cùng tiếp nhận và triển khai thực hiện các chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của chính

quyền cấp trên; là “cổng giao tiếp” giữa Nhà nước và nhân dân trong chừng

mực các vấn đề có liên quan tới lợi ích của các bên. Việc xây dựng bộ máy

chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh chỉ có thể trở thành hiện thực khi

chúng ta thiết lập và thực hành nền dân chủ ở xã, phường, thị trấn; bảo đảm

các điều kiện và sự tham gia thực tế của nhân dân vào các sinh hoạt chính trị -

xã hội của địa phương. Đó cũng là lý do Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng và

nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng và thực hành dân chủ ở cấp xã.

Dân chủ ở cấp xã, trước hết, vẫn phải là sự đảm bảo nguyên tắc “toàn

bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; song, đặt trong một phạm vi

không gian xã hội cụ thể, trực tiếp là địa bàn xã, phường, thị trấn - nơi cư trú

và sinh hoạt của tuyệt đại bộ phận các tầng lớp nhân dân. Chính họ là chủ thể

của quyền lực nhà nước, có các quyền dân chủ và trực tiếp thực hiện các

quyền dân chủ của mình. Điều đó nói lên rằng, dân chủ ở cấp xã luôn gắn liền

Page 50: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

50

với địa chỉ cụ thể và với chủ thể trực tiếp thực hiện quyền dân chủ, gắn liền

với những nội dung cụ thể có liên quan tới đời sống kinh tế, chính trị, văn

hóa, xã hội của người dân ở cơ sở. Đó là: quyền được biết các nội dung liên

quan đến đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân ở cơ sở; quyền được bàn và

quyết định, quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền

quyết định và quyền giám sát đối với tất cả những nội dung dân biết, dân bàn,

dân quyết định hoặc tham gia ý kiến. Về thực chất, nội dung của dân chủ ở

cấp xã là sự cụ thể hóa khía cạnh “nhân dân làm chủ” trong phương châm

“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Để nhân dân có thể thực hiện trên thực tế các quyền dân chủ của mình

thì dân chủ ở cấp xã còn phải bao gồm các hình thức thực hiện các quyền dân

chủ của nhân dân; nghĩa là phải “có cơ chế để nhân dân thực hiện trên thực tế

quyền làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ thông qua các cơ quan đại diện của

mình” [21, tr. 48]. Các hình thức đó có thể là: công khai thông tin bằng cách

niêm yết tại trụ sở HĐND, UBND xã, phổ biến, tuyên truyền thông tin trên hệ

thống loa truyền thanh của xã, phường, thị trân, thông qua Trưởng thôn/Tổ

trưởng dân phố (đối với quyền được biết); biểu quyết trong các cuộc họp thôn,

thông qua phiếu lấy ý kiến cử tri... (đối với quyền được bàn và quyết định);

thông qua các cuộc họp thôn, phiếu lấy ý kiến cử tri, hòm thư góp ý... (đối với

quyền tham gia ý kiến). Mở rộng việc thực hành và phát huy dân chủ ở cấp xã

là điều kiện hết sức quan trọng để người dân tham gia ngày càng sâu rộng hơn

vào các hoạt động quản lý nhà nước và quản lý xã hội tại các xã, phường, thị

trấn. Tuy nhiên, việc thực hiện dân chủ ở cấp xã phải dựa trên các nguyên

tắc, quy định của pháp luật.

Từ những điểm phân tích trên, có thể định nghĩa: Dân chủ ở cấp xã là

biểu hiện cụ thể của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là sự đảm bảo nguyên tắc

toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân tại địa bàn xã, phường, thị

trấn trên cơ sở thực hiện quyền được biết, quyền được bàn và quyết định,

quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và

quyền giám sát đối với những nội dung có liên quan tới đời sống kinh tế,

Page 51: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

51

chính trị, văn hóa, xã hội của người dân ở xã, phường, thị trấn bằng những

hình thức nhất định, phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật.

2.2.1.2. Khái niệm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã

Các giá trị dân chủ và quy tắc thực hành dân chủ phải được Nhà nước

thể chế hóa thành pháp luật, quy định cụ thể các quyền tự do dân chủ của

công dân. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục khẳng định

việc mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục

tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc đổi mới đất

nước. Thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng, ban hành và

hoàn thiện dần hệ thống văn bản QPPL về thực hiện dân chủ.

Pháp luật về thực hiện dân chủ là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà

nước xây dựng, ban hành, hướng tới điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa

Nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế...

và công dân nhằm bảo đảm cho công dân thực hiện, phát huy quyền làm chủ

trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Với ý nghĩa nêu trên, pháp luật về thực hiện dân chủ có nội dung và

phạm vi điều chỉnh rất rộng; trong đó, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp

xã là một bộ phận của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở (gồm dân chủ ở

cơ quan hành chính sự nghiệp; dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước; dân chủ

trong công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần).

Pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã bao gồm: Nghị định số

29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 Về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ

ở xã; Chỉ thị số 22/1998/CT-TTg ngày 15/5/1998 Về việc triển khai thực hiện

Quy chế dân chủ ở xã; Thông tư số 03/1998/TT-TCCP ngày 06/7/1998

Hướng dẫn áp dụng “Quy chế thực hiện dân chủ ở xã” đối với phường và thị

trấn; Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 về ban hành Quy chế thực

hiện dân chủ ở xã; Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Nghị

quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQ VN ngày 17/4/2008 Về

hướng dẫn thi hành các Điều 11, Điều 14, Điều 16, Điều 22 và Điều 26 của

Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Page 52: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

52

Pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là tổng thể các quy định về

thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; bao gồm các văn bản quy phạm

pháp luật của Quốc hội, Chính phủ, Nghị quyết liên tịch của Chính phủ và Ủy

ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các văn bản pháp quy của chính

quyền địa phương nhằm cụ thể hóa các quy định về thực hiện dân chủ ở cấp

xã sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể ở từng địa phương.

2.2.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

Dưới góc độ luật học, THPL là hành vi phù hợp với các quy tắc, yêu

cầu, đòi hỏi của pháp luật, mang lại và đáp ứng lợi ích của Nhà nước, của xã

hội và của mỗi công dân. Hành vi đó có thể được thực hiện phụ thuộc vào ý

chí của mỗi cá nhân, nhưng cũng có thể chỉ phụ thuộc vào ý chí của Nhà

nước. Nó có thể được thực hiện xuất phát từ sự nhận thức sâu sắc và tự giác

của chủ thể về sự cần thiết phải xử sự như vậy. có thể do cách xử sự của

những người xung quanh tác động tới chủ thể khiến cho chủ thể thực hiện

theo; cũng có thể do kết quả của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà

nước hoặc tâm lý sự bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế mà chủ thể phải thực

hiện pháp luật. Như vậy, THPL là một quá trình hoạt động có mục đích nhằm

làm cho các nguyên tắc, quy định của pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống,

trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.

Pháp luật về dân chủ ở cấp xã là một lĩnh vực pháp luật cụ thể - Quy

chế thực hiện dân chủ ở xã (trước đây) và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn hiện hành, trong đó:

Quy định những nội dung phải công khai để nhân dân biết; những nội

dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý

kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân

dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã,

phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã), của cán bộ thôn, làng, ấp, bản,

phum, sóc (gọi chung là thôn), tổ dân phố, khu phố, khối phố (gọi

chung là tổ dân phố), của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của

nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã [112, Điều 1].

Page 53: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

53

THPL về dân chủ ở cấp xã là quá trình triển khai những quy định nói

trên vào thực tiễn đời sống xã hội ở cấp xã; chuyển từ sự nhận thức về các

quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở thành hành vi pháp luật thực tế hợp pháp

của các chủ thể pháp luật (chính quyền, CBCC cấp xã; cán bộ thôn, tổ dân

phố; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và nhân dân ở cơ sở).

Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã là quá trình triển khai các

hoạt động đưa các quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường,

thị trấn đi vào thực tiễn đời sống xã hội ở cơ sở, trở thành hành vi pháp luật

thực tế hợp pháp của chính quyền, cán bộ, công chức cấp xã, cán bộ thôn, tổ

dân phố, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và nhân dân địa phương

nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thu hút nhân dân tham gia quản

lý nhà nước, quản lý xã hội; kiểm tra, giám sát các hoạt động của chính

quyền cấp xã; góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội trên địa bàn

xã, phường, thị trấn.

2.2.2. Chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

Trong các lĩnh vực hoạt động xã hội, chủ thể là những tổ chức, cơ

quan, đơn vị, cá nhân gián tiếp hoặc trực tiếp tham gia vào và thực hiện hoạt

động đó. Chủ thể là nhân tố giữ vai trò quyết định đối với sự thành công của

bất kỳ một lĩnh vực hoạt động xã hội nào. Với ý nghĩa này, chủ thể của hoạt

động THPL về dân chủ ở cấp xã là cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, tổ

chức, cộng đồng dân cư, cá nhân tham gia vào quá trình THPL về dân chủ ở

cấp xã ở nước ta hiện nay. Căn cứ vào Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn, có thể phân chia chủ thể THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước

ta hiện nay thành 03 nhóm: 1) Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo THPL về dân chủ ở

cấp xã; 2) Chủ thể tổ chức THPL về dân chủ ở cấp xã; 3) Chủ thể trực tiếp

THPL về dân chủ ở cấp xã. Sự phân chia này cũng chỉ mang tính chất tương

đối vì trên thực tế, nhiều khi vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể nói

trên có thể có sự đan xen, lồng ghép vào nhau trong quá trình thực hiện.

2.2.2.1. Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo công tác thực hiện pháp luật về

dân chủ ở cấp xã

Page 54: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

54

Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo công tác THPL về dân chủ ở cấp xã là Đảng

bộ các cấp tỉnh đến xã; chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện; Uỷ ban MTTQ

Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cấp tỉnh và cấp huyện.

2.2.2.2. Chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

Chủ thể tổ chức THPL về dân chủ ở cấp xã là những cơ quan, tổ chức,

cá nhân có vai trò, trách nhiệm tổ chức thực hiện những nội dung phải công

khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những

nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết

định và những nội dung nhân dân giám sát.

Về phía cơ quan, tổ chức, Điều 3 Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở cấp xã

quy định trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã thuộc về HĐND,

UBND cấp xã và Uỷ ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt

trận cấp xã. Đối với cấp huyện, UBND cấp huyện ra quyết định công nhận đối

với hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố sau khi nhận được hồ sơ đề nghị

của UBND cấp xã [xem: 112, khoản 1 Điều 15].

Về phía cá nhân, trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo thực hiện các nội dung

phát huy các quyền dân chủ của nhân dân thuộc về Chủ tịch UBND cấp xã;

Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố; những CBCC cấp xã được Chủ tịch

UBND cấp xã giao nhiệm vụ hướng dẫn nhân dân thực hiện dân chủ ở cấp xã.

Trong việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND

và Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã thì “thành phần tham gia lấy phiếu

tín nhiệm gồm các thành viên Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên

Ban thường vụ của các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã, Trưởng ban thanh tra

nhân dân, Trưởng ban giám sát đầu tư của cộng đồng (nếu có), Bí thư chi bộ,

Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng ban công tác mặt trận thôn, tổ

dân phố [112, khoản 2 Điều 26].

2.2.2.3. Chủ thể trực tiếp thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

Chủ thể trực tiếp THPL về dân chủ ở cấp xã chính là các tầng lớp nhân

dân trên địa bàn xã, phường, thị trấn.

Page 55: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

55

- Nhân dân có trách nhiệm tham gia bàn và quyết định các công việc

của thôn, tổ dân phố và của cấp xã theo quy định của pháp luật; chấp hành và

thực hiện các quyết định đã có giá trị thi hành [112, khoản 2 Điều 12].

- Nhân dân bàn và biểu quyết những nội dung: 1) Hương ước, quy ước

của thôn, tổ dân phố; 2) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng

tổ dân phố; 3) Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám

sát đầu tư của cộng đồng.

- Nhân dân tham gia ý kiến đối với những nội dung trước khi cơ quan

có thẩm quyền quyết định.

- Nhân dân giám sát việc thực hiện các nội dung quy định tại các Điều

5, 10, 13 và 19 của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

2.2.3. Nội dung thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

2.2.3.1. Thực hiện quyền được biết các nội dung liên quan đến đời

sống kinh tế - xã hội của nhân dân ở xã, phường, thị trấn

Quyền được biết các nội dung liên quan đến đời sống kinh tế - xã hộicủa nhân dân ở xã, phường, thị trấn thể hiện ở chương II-Những nội dungcông khai để nhân dân biết của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường,thị trấn, trong đó liệt kê 11 nội dung cần phải công khai cho dân biết, như: kếhoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dựtoán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã; Dự án, công trình đầu tư vàthứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặtbằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy

hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khudân cư trên địa bàn cấp xã; Nhiệm vụ, quyền hạn của CBCC cấp xã trực tiếpgiải quyết các công việc của nhân dân; Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ,khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã... [112, Điều 5].

Những nội dung trên đây đều là những nội dung có liên quan trực tiếp,thiết thực đến đời sống của người dân ở cơ sở. Xây dựng Nhà nước phápquyền XHCN đòi hỏi phải đẩy mạnh thực hành dân chủ thì việc công khainhững nội dung trên chính là tạo điều kiện để nhân dân nắm vững và chủđộng sử dụng quyền được biết của mình trong thực hiện dân chủ ở cấp xã.

Page 56: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

56

Các hình thức công khai những nội dung người dân được quyền biết

cũng được Pháp lệnh quy định rất rõ ràng: “a) Niêm yết công khai tại trụ sở

HĐND, UBND cấp xã; b) Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã; c)

Công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến

nhân dân” [112, Điều 6]. Ngoài ra, chính quyền cấp xã có thể áp dụng đồng

thời nhiều hình thức công khai nêu trên cũng như thực hiện việc cung cấp

thông tin theo quy định tại Điều 32 Luật Phòng, chống tham nhũng.

2.2.3.2. Thực hiện quyền được bàn và quyết định

Quyền của nhân dân được bàn và quyết định được quy định tại chương

III của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và thể hiện trên hai

phương diện: nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; nội dung nhân

dân bàn và biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định.

Những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp bao gồm: “chủ

trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công

cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ

hoặc một phần kinh phí và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư

phù hợp với quy định của pháp luật” [112, Điều 10]. Những nội dung này

được dân bàn và quyết định trực tiếp được thực hiện bằng một trong hai hình

thức: tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn

từng thôn, tổ dân phố hoặc phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện

hộ gia đình [112, Điều 11]. Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp

có giá trị thi hành nếu có trên 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia

đình trong thôn, tổ dân phố hoặc trong toàn cấp xã tán thành. Đối với những

cử tri, hộ gia đình chưa tán thành trong việc thực hiện những quyết định đã có

giá trị thi hành thì chính quyền cấp xã phối hợp với Uỷ ban MTTQ Việt Nam

và các tổ chức thành viên của Mặt trận cùng cấp tổ chức tuyên truyền, vận

động, thuyết phục đề họ thực hiện [112, Điều 12].

Những nội dung nhân dân bàn và biểu quyết gồm có: “1. Hương ước,

quy ước của thôn, tổ dân phố; 2. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn,

Tổ trưởng tổ dân phố; 3. Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban Thanh tra nhân dân,

Page 57: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

57

Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng” [112, Điều 13]. Hình thức thực hiện

những nội dung này cũng bằng một trong hai cách: tổ chức cuộc họp cử tri

hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố hoặc phát

phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình [112, Điều 14].

2.2.3.3. Thực hiện quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có

thẩm quyền quyết định

Quyền này được quy định tại chương IV của Pháp lệnh thực hiện dânchủ ở xã, phường, thị trấn. Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến gồm:

1. Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương ánchuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư,vùng kinh tế mới và phương án phát triển ngành nghề của cấp xã; 2. Dựthảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh;việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã; 3. Dự thảo kế hoạch triển

khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã; chủ trương, phươngán đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái địnhcư; phương án quy hoạch khu dân cư; 4. Dự thảo đề án thành lập mới,nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan

trực tiếp đến cấp xã; 5. Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhândân theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước cóthẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết [112, Điều 19].Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định

bằng các hình thức: họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn

từng thôn, tổ dân phố; phát phiếu lấy ý kiến cử tri hoặc cử tri đại diện hộ giađình; thông qua hòm thư góp ý [112, Điều 20].

Trách nhiệm tổ chức thực hiện những nội dung nhân dân tham gia ý

kiến thuộc về chính quyền cấp xã [112, Điều 21]. Về phía cơ quan có thẩm

quyền cấp trên, cơ quan này có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến nhân dân trước

khi quyết định về những việc liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của

công dân trên địa bàn cấp xã; chỉ đạo UBND cấp xã tổ chức lấy ý kiến nhân

dân trên địa bàn cấp xã. Để bảo đảm cho nhân dân có thể tham gia ý kiến một

cách chủ động, khách quan, cơ quan có thẩm quyền cấp trên cần cung cấp các

Page 58: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

58

tài liệu cần thiết cho việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân. Sau khi đã tổ chức lấy

ý kiến nhân dân, cần tiếp thu ý kiến nhân dân về những nội dung đã đưa ra lấy

ý kiến. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khác với ý kiến của

đa số nhân dân thì phải nêu rõ lý do và chịu trách nhiệm về quyết định của

mình [112, Điều 22].

2.2.3.4. Thực hiện quyền giám sát

Quyền giám sát của nhân dân được quy định tại chương V của Pháp

lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; theo đó, nhân dân được quyền

giám sát đối với tất cả các nội dung mà họ được công khai để biết [112, Điều

5], được bàn và quyết định trực tiếp [112, Điều 10], được bàn và biểu quyết

[108, Điều 13] và được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền

quyết định [112, Điều 19]. Nhân dân thực hiện việc giám sát những nội dung

đó theo các hình thức: thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban

Giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc trực tiếp thực hiện việc giám sát thông

qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

hoặc kiến nghị thông qua Ủy ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên

của Mặt trận cấp xã, Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng

đồng. Trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của nhân dân phải được

thực hiện theo quy định của pháp luật [112, Điều 24].

Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện giám

sát của nhân dân quy định tại Điều 25:

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, tổ chức, cá

nhân có các trách nhiệm sau đây: 1. Cung cấp đầy đủ, kịp thời các

thông tin, tài liệu cần thiết cho Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát

đầu tư của cộng đồng; 2. Xem xét, giải quyết và trả lời kịp thời các

khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, kiến nghị của Ban Thanh tra

nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng, của Ủy ban MTTQ Việt

Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận cấp xã hoặc báo cáo với cơ

quan có thẩm quyền về những vấn đề không thuộc thẩm quyền giải

quyết của mình; 3. Xử lý người có hành vi cản trở hoạt động của Ban

Page 59: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

59

Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc người có

hành vi trả thù, trù dập công dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị theo quy

định của pháp luật [112, Điều 25].

2.2.4. Các hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

Cũng như trong THPL nói chung, THPL về dân chủ ở cấp xã có các

hình thức cơ bản là: tuân theo (tuân thủ) pháp luật, thi hành (chấp hành) pháp

luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.

2.2.4.1. Tuân theo pháp luật

Tuân theo pháp luật trong THPL về dân chủ ở cấp xã là hình thức

THPL, trong đó, các chủ thể pháp luật tự kiềm chế để không thực hiện những

hành vi, hoạt động mà pháp luật về dân chủ ở cấp xã nghiêm cấm, không cho

phép thực hiện. Cụ thể, đó là những hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Điều

4 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn:

1. Không thực hiện hoặc làm trái các quy định về thực hiện dân chủ ở

cấp xã; 2. Trù dập người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị có liên quan đến

việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; 3. Bao che, cản trở hoặc thiếu trách

nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị có liên quan

đến việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; 4. Lợi dụng việc thực hiện dân

chủ ở cấp xã để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;

xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân [112, Điều 4].

Việc quy định các hành vi bị nghiêm cấm trên đây là nhằm đảm bảo

cho pháp luật về dân chủ ở cấp xã được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm

túc; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá

nhân. Nếu cá nhân nào đó thực hiện các hành vi bị nghiêm cấm nói trên,

nghĩa là không tuân thủ pháp luật về dân chủ ở cấp xã, thì có thể bị xử lý theo

luật định; chẳng hạn, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo “Điều 132.

Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo” [7, tr. 88] hoặc “Điều 258. Tội lợi

dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích

hợp pháp của tổ chức, công dân” [7, tr. 193].

Page 60: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

60

Hình thức tuân theo pháp luật về dân chủ ở cấp xã có thể biểu hiện cách

xử sự thụ động của các chủ thể; song, cũng có thể biểu hiện sự tự giác, chủ

động và nghiêm chỉnh THPL về dân chủ ở cấp xã. Tuân theo pháp luật về dân

chủ ở cấp xã chưa làm phát sinh quan hệ pháp luật.

2.2.4.2. Thi hành pháp luật

Thi hành pháp luật trong THPL về dân chủ ở cấp xã là một hình thức

THPL, trong đó, các chủ thể pháp luật thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ pháp

lý của mình bằng các hành động tích cực theo quy định pháp luật về thực hiện

dân chủ ở cấp xã. Hình thức thi hành pháp luật được thực hiện đối với những

điều luật quy định về nguyên tắc và trách nhiệm thực hiện dân chủ ở cấp xã.

Trước hết, các chủ thể pháp luật phải chấp hành các nguyên tắc thực

hiện dân chủ ở cấp xã: “1. Bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ Hiến

pháp và pháp luật; 2. Bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý kiến,

quyết định, thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; 3. Bảo vệ

lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; 4.

Công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã; 5. Bảo đảm

sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước” [112, Điều 3]. Việc chấp

hành các nguyên tắc trên đây là nhằm quán triệt và phát huy tối đa tính hiệu

lực, hiệu quả của việc THPL về dân chủ ở cấp xã, nâng cao chất lượng các

sinh hoạt chính trị - xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn.

Bên cạnh đó, hình thức chấp hành pháp luật còn được thực hiện đối với

các điều luật quy định về trách nhiệm của các chủ thể trong việc tổ chức thực

hiện dân chủ ở cấp xã [112, Điều 3, Điều 9, Điều 17, Điều 18...]. Trách nhiệm

chung thuộc về HĐND, UBND cấp xã phối hợp với MTTQ Việt Nam và các

tổ chức thành viên cùng cấp. Trách nhiệm đối với những công việc cụ thể,

như công khai thông tin, tổ chức họp thôn, họp tổ dân phố..., thuộc về UBND

cấp xã, Chủ tịch UBND cấp xã, Trưởng thôn, Tổ trưởng Tổ dân phố.

2.2.4.3. Sử dụng pháp luật

Sử dụng pháp luật trong THPL về dân chủ ở cấp xã là một hình thức

THPL, trong đó, các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình,

Page 61: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

61

nghĩa là thực hiện những hành vi mà pháp luật về dân chủ ở cấp xã cho phép.

Đây là hình thức phổ biến trong việc thực hiện các QPPL quy định về các

quyền tự do dân chủ của công dân. Chủ thể của hình thức sử dụng pháp luật

là đông đảo các tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã, phường, thị trấn; bởi lẽ,

Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trao cho họ các quyền

được biết, quyền được quyết định, quyền được tham gia ý kiến và quyền giám

sát đối với tất cả các nội dung mà họ được công khai để biết [112, Điều 5],

được bàn và quyết định trực tiếp [112, Điều 10], được bàn và biểu quyết [112,

Điều 13] và được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết

định [112, Điều 19].

Hình thức sử dụng pháp luật khác với các hình thức nêu trên ở chỗ, chủ

thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện các quyền được pháp luật

trao cho theo ý chí của mình, chứ không bị bắt buộc phải thực hiện.

2.2.4.4. Áp dụng pháp luật

Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực

nhà nước, được thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,

nhà chức trách hoặc các tổ chức được nhà nước trao quyền nhằm cá biệt hóa

các QPPL vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.

Trong THPL về dân chủ ở cấp xã, hình thức áp dụng pháp luật được

thực hiện đối với những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm

quyền quyết định. Ở đây, việc pháp luật quy định cấp có thẩm quyền áp dụng

pháp luật bằng cách ra quyết định công nhận đối với những nội dung cụ thể

do nhân dân bàn, biểu quyết là nhằm đảm bảo giá trị thi hành đối với những

việc nhân dân bàn và biểu quyết. Căn cứ vào nội dung, hình thức nhân dân ở

cơ sở bàn, biểu quyết, kết quả nhân dân biểu quyết, cấp có thẩm quyền hoặc

tổ chức xã hội được trao quyền ban hành văn bản áp dụng pháp luật dưới hình

thức quyết định công nhận việc nhân dân bàn, biểu quyết. Cụ thể:

- Đối với hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố, sau khi nhân dân

bàn, biểu quyết (bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín), nếu có trên 50%

tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố tán thành

Page 62: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

62

thì có giá trị thi hành sau khi UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

ra quyết định công nhận [112, khoản 1 Điều 15]. Trong trường hợp này,

UBND cấp huyện là cấp có thẩm quyền thực hiện hình thức áp dụng pháp luật

trong THPL về dân chủ ở cấp xã.

- Đối với việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ

dân phố, sau khi nhân dân ở xã, phường, thị trấn bàn, biểu quyết (bằng hình

thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín), nếu có trên 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại

diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố tán thành thì có giá trị thi hành sau khi

UBND cấp xã ra quyết định công nhận [112, khoản 2 Đ. 15]. Trong trường

hợp này, UBND cấp xã là cấp có thẩm quyền thực hiện hình thức áp dụng

pháp luật trong THPL về dân chủ ở cấp xã.

- Đối với việc bầu, bãi nhiệm thành viên Ban Thanh tra nhân dân, Ban

Giám sát đầu tư của cộng đồng (giơ tay hoặc bỏ phiếu kín), nếu có trên 50%

tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình tán thành thì có giá trị thi hành

sau khi được Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã công nhận [112, khoản 3 Điều

15]. Trong trường hợp này, Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã là tổ chức được

Nhà nước trao quyền thực hiện hình thức áp dụng pháp luật.

Để việc áp dụng pháp luật về dân chủ ở cấp xã liên quan đến những nội

dung trên được kịp thời, đúng đắn, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân ở cơ

sở, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng quy định rõ ràng,

cụ thể thời hạn UBND cấp huyện, UBND cấp xã, Ủy ban MTTQ Việt Nam

cấp xã phải xem xét, ra quyết định công nhận; trường hợp không công nhận

thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do [112, điểm c, khoản 1; điểm b,

khoản 2; điểm b, khoản 3, Điều 15].

2.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP

XÃ VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

VIỆT NAM

Giữa THPL về dân chủ ở cấp xã và xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với nhau; đồng

thời, tác động lẫn nhau trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước Việt

Page 63: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

63

Nam theo định hướng XHCN. Sự hiện diện của nền dân chủ là một trong

những tiêu chí, đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN. Không

thể coi là xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nếu

không xây dựng nền dân chủ XHCN và thực hành dân chủ, đặc biệt là THPL

về dân chủ ở cấp xã; bởi vậy, THPL về dân chủ ở cấp xã là đòi hỏi tất yếu,

khách quan của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam,

là sự thể hiện sinh động bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta. Ngược

lại, việc thiết lập nền dân chủ XHCN nói chung, xây dựng, ban hành pháp luật

về thực hiện dân chủ ở cấp xã nói riêng chỉ có thể được triển khai và bảo đảm

thực hiện bởi Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Mối quan hê giữa

THPL về dân chủ ở cấp xã và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thể

hiện trên hai phương diện sau:

2.3.1. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã là đòi hỏi tất yếu, khách

quan của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Tính tất yếu, khách quan của việc THPL về dân chủ ở cấp xã trong xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN biểu hiện ở những khía cạnh sau:

2.3.1.1. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã góp phần đảm bảo

trên thực tế các quyền dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân ở xã,

phường, thị trấn

Mở rộng dân chủ, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân

là một nhiệm vụ, đồng thời là mục tiêu của tiến trình xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam. Đảng ta đã nhấn mạnh rằng, chức năng của

Nhà nước là phục vụ nhân dân; khẳng định mối quan hệ gắn bó mật thiết

giữa Nhà nước với nhân dân, thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân

dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân

dân. Để hiện thực hóa điều này thì nhất thiết phải thực hiện có hiệu quả pháp

luật về dân chủ ở cấp xã; qua đó, góp phần đảm bảo quyền dân chủ và lợi ích

hợp pháp của nhân dân ở xã, phường, thị trấn, thể hiện trên các khía cạnh sau:

Thứ nhất, THPL về dân chủ ở cấp xã giúp nhân dân nhận thức đúng

đắn, đầy đủ hơn các quyền tự do dân chủ của mình. Về nguyên tắc, muốn

Page 64: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

64

thực hiện quyền làm chủ thì trước tiên nhân dân phải nhận thức đúng đắn,

hiểu biết đầy đủ về các quyền tự do dân chủ của mình. Hiến pháp và pháp luật

nước ta đã xác nhận các quyền của công dân trong việc tham gia quản lý nhà

nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung, trọng đại của cả

nước, của từng địa phương, nêu các đề xuất, kiến nghị với các cơ quan nhà

nước. Công dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được đảm bảo mọi quyền

tự do dân chủ cơ bản, trong đó có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,

quyền khiếu nại, tố cáo; biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân...

Các quyền tự do dân chủ đó là nền tảng, cơ sở để nhân dân kiểm tra hoạt động

của Nhà nước và là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện

dân chủ nói chung, dân chủ ở cấp xã nói riêng.

Thông qua việc THPL về dân chủ ở cấp xã, người dân có điều kiện

thuận lợi để biết các quyền dân chủ của mình, các nguyên tắc, hình thức thực

hiện các quyền đó và các hành vi bị nghiêm cấm. Nếu không triển khai THPL

về dân chủ ở cấp xã thì có lẽ nhiều người dân sẽ không biết đến các quyền

dân chủ mà pháp luật trao cho họ. Nhìn trên phương diện này, để nội dung

của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đến được với các

tầng lớp nhân dân ở xã, phường, thị trấn thì việc tăng cường công tác phổ

biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là nhân

tố giữ vai trò quyết định.

Thứ hai, THPL về dân chủ ở cấp xã giúp nhân dân hiểu rõ bản chất,

tầm quan trọng của việc thực hành và phát huy dân chủ ở cấp xã. Nhận thức

đúng đắn, hiểu biết đầy đủ về các quyền tự do dân chủ theo quy định của pháp

luật rồi; song, chưa hẳn người dân ở xã, phường, thị trấn đã chủ động, tích

cực thực hiện các quyền đó, nếu họ chưa hiểu rõ bản chất, tầm quan trọng của

việc thực hành và phát huy dân chủ ở cấp xã. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng

ta tiếp tục nhấn mạnh:

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo

đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của

Page 65: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

65

nhân dân... Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền

làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ thông qua các cơ quan đại diện của

mình [21, tr. 47-48].

Cần giải thích cho nhân dân hiểu rằng, THPL về dân chủ ở cấp xã là sự

hiện thực hóa nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Đảng,

Nhà nước nói chung, chính quyền cấp xã nói riêng luôn tôn trọng và lắng

nghe ý kiến của nhân dân; giúp người dân thực sự phát huy quyền làm chủ

của mình, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở địa phương; góp phần

xây dựng chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, giữ gìn trật tự, kỷ

cương, an toàn xã hội trên địa bàn cơ sở... Việc giúp cho nhân dân hiểu rõ bản

chất của việc thực hiện dân chủ ở cấp xã thuộc về trách nhiệm của đội ngũ

CBCC cấp xã trong quá trình triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã.

Thứ ba, từ sự nhận thức, hiểu biết đó, nhân dân sẽ chủ động, tích cực

hơn trong việc THPL về dân chủ ở cấp xã để bảo vệ các lợi ích của Nhà

nước, cộng đồng và các quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi người dân. Đi từ

nhận thức đến hành động thực tiễn, chuyển từ “pháp luật trên giấy tờ” thành

“pháp luật trong hành động” là lôgíc của quá trình THPL nói chung, THPL

về dân chủ ở cấp xã nói riêng. Bên cạnh các hình thức khác, sử dụng pháp

luật là hình thức chủ yếu trong THPL về dân chủ ở cấp xã, thể hiện sự chủ

động, tự giác và tích cực của nhân dân. Người dân có tích cực sử dụng quyền

được biết thì chính quyền cấp xã mới không thể “bưng bít” thông tin, mà phải

công khai thông tin theo quy định của pháp luật. Người dân có chủ động sử

dụng quyền được bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp

xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng do nhân dân đóng

góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí thì các công trình đó mới nhanh chóng

được triển khai thi công có chất lượng và đưa vào phục vụ quốc kế, dân sinh.

Người dân có tự giác sử dụng quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan

có thẩm quyền quyết định thì mới tránh được tình trạng thắc mắc, khiếu nại

khi các quyết định đó được triển khai vào đời sống xã hội ở xã, phường, thị

trấn... Chỉ khi nào người dân biết sử dụng và phát huy các quyền dân chủ theo

Page 66: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

66

quy định của pháp luật về dân chủ ở cấp xã thì các lợi ích của Nhà nước, cộng

đồng, các quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người dân ở cơ sở mới có thể

được đảm bảo. Đây cũng là tiêu chí quan trọng nhất để đảnh giá tính hiệu

quả của hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã.

2.3.1.2. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã là nền tảng để xây

dựng các cấp ủy Đảng, bộ máy chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh

Một là, THPL về dân chủ ở cấp xã đặt ra yêu cầu đổi mới phương thức

hoạt động của các cấp ủy Đảng theo hướng dân chủ hóa, không ngừng nâng

cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng ở cơ sở, dựa vào dân, chịu

sự giám sát của dân để xây dựng Đảng. Đảng ta là Đảng cầm quyền, lãnh đạo

toàn diện các mặt hoạt động kinh tế, xã hội, pháp luật... Theo tinh thần đó, các

cấp ủy Đảng ở cơ sở có vai lãnh đạo công tác THPL về dân chủ ở cấp xã.

Muốn thực hiện tốt vai trò đó, trước hết, các cấp ủy Đảng ở cơ sở cũng phải

thực hiện dân chủ trong hoạt động, đổi mới phương thức hoạt động theo

hướng dân chủ hóa, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của mình. Đảng ta đã

nhấn mạnh: “Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu

của các tổ chức cơ sở đảng, trước hết ở các tổ chức cơ sở đảng còn yếu kém.

Phát huy dân chủ, nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong sinh

hoạt của các cấp ủy, tổ chức đảng” [21, tr. 58]. Các cấp ủy, tổ chức cơ sở

đảng phải tự khắc phục những hạn chế, yếu kém trong hoạt động của mình,

phải đổi mới phương thức hoạt động theo hướng “gắn bó mật thiết với nhân

dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và

pháp luật” [21, tr. 56]. Có thể nói, việc lãnh đạo quá trình THPL về dân chủ ở

cấp xã vừa đặt ra yêu cầu đổi mới phương thức hoạt động của các cấp ủy

Đảng theo hướng dân chủ hóa, không ngừng nâng cao năng lực và sức chiến

đấu của tổ chức Đảng ở cơ sở, dựa vào dân, chịu sự giám sát của dân để xây

dựng Đảng; lại vừa là nơi gặp gỡ giữa “ý Đảng” và “lòng dân”. Đó chính là

“hiệu quả kép” của việc THPL về dân chủ ở cấp xã.

Hai là, THPL dân chủ ở cấp xã đòi hỏi phải đổi mới hoạt động của bộ

máy chính quyền cấp xã theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, chú trọng

Page 67: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

67

đến chất lượng và hiệu quả giải quyết công việc. Chính quyền cấp xã là chủ

thể chịu trách nhiệm chính trong việc đưa pháp luật về dân chủ ở cấp xã đi

vào đời sống xã hội ở cơ sở. Trong quá trình đó, bộ máy chính quyền cấp xã

cũng buộc phải đổi mới hoạt động để thích ứng với yêu cầu ngày càng cao

của đời sống dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Trong THPL về dân chủ ở cấp xã, trước hết, chính quyền cấp xã phải

công khai, minh bạch chương trình hoạt động, nội dung, hình thức thực hiện

công việc của mình tới đông đảo các tầng lớp nhân dân nhằm đáp ứng “quyền

được biết” của người dân; bởi vì, “công khai là điều kiện để thực hiện quyền

làm chủ của người dân” [64, tr. 48]. Có những việc liên quan trực tiếp đến

quyền lợi của nhân dân, chính quyền cấp xã không thể tùy tiện quyết định, mà

phải tổ chức họp dân để dân bàn, quyết định trực tiếp hoặc dân biểu quyết với

đa số tán thành thì chính quyền mới được ra quyết định và triển khai thực

hiện... Khi thực hiện lại phải hết sức chủ trọng đến chất lượng, hiệu quả công

việc chứ không thể làm qua loa, đại khái, vì người dân có quyền kiểm tra,

giám sát đối với hoạt động của chính quyền cấp xã. Rõ ràng, việc THPL về

dân chủ ở cấp xã có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của bộ máy chính

quyền cấp xã, đưa đến đòi hỏi tất yếu là phải đổi mới hoạt động theo hướng

công khai, minh bạch, dân chủ, chú trọng nhiều hơn đến chất lượng và hiệu

quả giải quyết công việc của Nhà nước và nhân dân.

Ba là, THPL về dân chủ ở cấp xã là nền tảng để sửa đổi lề lối làm việc

của đội ngũ CBCC cấp xã theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại. Đội ngũ

CBCC cấp xã là những người trực tiếp giải quyết các công việc có liên quan

tới lợi ích của Nhà nước và nhân dân; đồng thời, cũng là chủ thể tham gia

THPL về dân chủ ở cấp xã. Chất lượng, hiệu quả của công tác này phụ thuộc

rất lớn vào ý thức, thái độ phục vụ nhân dân và năng lực chuyên môn, hiểu

biết pháp luật của đội ngũ này. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ nhà nước

là “đày tớ”, là “công bộc” của dân. Cán bộ nhà nước phải làm sao để nhân

dân yêu quý, khi sắp tới dân mong, khi đi dân nhớ. Muốn thế, trước hết cán

bộ phải yêu quý nhân dân, phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, phải kính

Page 68: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

68

trọng nhân dân, tôn trọng nhân cách của họ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy,

nhiều lúc, nhiều nơi, CBCC nhà nước nói chung, cấp cơ sở nói riêng, còn có

biểu hiện quan cách, hách dịch, nhũng nhiễu nhân dân; giải quyết công việc

của dân còn quan liêu, tùy tiện, khiến cho người dân nản lòng mỗi khi có

công việc cần đến cơ quan công quyền. Đó cũng là một trong những lý do

quan trọng đưa đến đòi hỏi phải triển khai mạnh mẽ việc THPL về dân chủ ở

cấp xã, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

THPL về dân chủ ở cấp xã là nền tảng để sửa đổi lề lối làm việc của đội

ngũ CBCC cấp xã. Trước hết, đội ngũ này phải thay đổi triệt để về ý thức,

thái độ phục vụ nhân dân: niềm nở, lịch sự trong giao tiếp với người dân; tôn

trọng, lắng nghe ý kiến của người dân để tìm ra cách giải quyết công việc của

dân sao cho “thấu tình, đạt lý”; kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện quan liêu,

tắc trách, hách dịch, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để mưu cầu lợi ích cá nhân.

Thực tiễn chứng minh rằng, ở nơi nào pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã

được triển khai thực hiện nghiêm túc thì ở đó CBCC cấp xã được người dân

tín nhiệm, tin yêu vì họ biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người dân.

Bên cạnh đó, thực tiễn THPL về dân chủ ở cấp xã cũng đặt ra yêu cầu

phải nâng cao năng lực chuyên môn và trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật

của đội ngũ CBCC cấp xã. Việc nâng cao trình độ chuyên môn là để giúp

CBCC cấp xã giải quyết nhanh chóng, hiệu quả các công việc chuyên môn

thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao. Còn yêu cầu nâng cao trình độ

kiến thức, hiểu biết pháp luật, trong đó có pháp luật về dân chủ ở cấp xã, là để

giúp họ giải quyết công việc đúng nguyên tắc, quy định của pháp luật, tránh

tùy tiện, cảm tính. Ý thức, tinh thần cao trong phục vụ nhân dân cùng với việc

nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật là nền tảng để CBCC cấp

xã thực hành công vụ một cách chuyên nghiệp, hiện đại.

Bốn là, THPL về dân chủ ở cấp xã góp phần xây dựng bộ máy chính

quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của tiến trình xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Việc đổi mới hoạt động của bộ

máy chính quyền cấp xã theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, chú trọng

Page 69: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

69

đến chất lượng và hiệu quả giải quyết công việc, sửa đổi lề lối làm việc của

đội ngũ CBCC cấp xã theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại là kết quả của

việc THPL về dân chủ ở cấp xã; hướng tới xây dựng bộ máy chính quyền cấp

xã trong sạch, vững mạnh. Đây cũng là một trong những mắt khâu quan trọng

và là yêu cầu cấp thiết của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

Việt Nam. THPL về dân chủ ở cấp xã có vai trò hết sức quan trọng trong việc

đáp ứng yêu cầu này.

2.3.1.3. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã góp phần thúc đẩy

phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với bản chất là Nhà nước của

nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân chính là nhân tố không thể thiếu trong

việc đảm bảo sự ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,

giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội. Việc Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam tạo các điều kiện thuận lợi cho người dân thực hành các quyền tự do dân

chủ không nhằm mục đích nào hơn ngoài hướng tới xây dựng một đất nước

Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo

định hướng XHCN. Đó đồng thời cũng là những phẩm chất đảm bảo cho xã

hội phát triển theo hướng dân chủ, hài hòa và bền vững. Đến lượt mình, thực

hành dân chủ nói chung, THPL về dân chủ ở cấp xã nói riêng lại góp phần

thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự

an toàn xã hội ở xã, phường, thị trấn. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa

THPL về dân chủ ở cấp xã và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn theo

yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Trong những năm qua, việc THPL về dân chủ ở cấp xã đã thực sự trở

thành động lực mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình phát triển tất cả các mặt kinh tế,

văn hóa, xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn. Với mục đích khai thác,

phát huy trí tuệ, kinh nghiệm, nhân lực và vật lực của các tầng lớp nhân dân,

tại nhiều địa phương, chính quyền cấp xã đã tổ chức cho nhân dân tham gia ý

Page 70: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

70

kiến về dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án

chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư, vùng

kinh tế mới và phương án phát triển ngành nghề của cấp xã. Nhân dân đã thảo

luận, trao đổi, bàn bạc để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt

động sản xuất, phát triển kinh tế; tập trung chuyển đổi cơ cấu ngành nghề phù

hợp với điều kiện địa lý của địa phương; áp dụng các thành tựu, tiến bộ khoa

học - kỹ thuật vào sản xuất nhằm giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải

thiện mức sống cho nhân dân các xã, phường, thị trấn. Kết quả THPL về dân

chủ ở cấp xã cho thấy, tại nhiều địa phương, số hộ giàu ngày càng tăng, số hộ

nghèo ngày càng giảm; các tầng lớp nhân dân đã tự giác đóng góp hàng nghìn

tỉ đồng, hàng triệu ngày công lao động để xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn,

đô thị, tạo nên diện mạo mới cho nhiều địa phương.

THPL về dân chủ ở cấp xã cũng tạo ra những tác động tích cực trong

việc xây dựng đời sống văn hóa - xã hội ở xã, phường, thị trấn. Nhờ được phổ

biến, tuyên truyền, người dân đã có sự hiểu biết pháp luật cao hơn, chủ động,

tích cực phát huy quyền làm chủ của mình trong xây dựng đời sống văn hóa,

xã hội tại cơ sở. Các tầng lớp nhân dân là chủ thể tham gia xây dựng hương

ước, quy ước với những nội dung mới theo hướng văn minh, tiến bộ, loại bỏ

những hủ tục lạc hậu, lỗi thời, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền

thống, các tập quán, lễ hội tốt đẹp tại cộng đồng dân cư; xây dựng môi trường

văn hóa, xã hội lành mạnh; góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền văn

hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

THPL về dân chủ ở cấp xã cũng góp phần hết sức quan trọng trong việc

giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội trên địa

bàn cơ sở. Pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã có chức năng duy trì trật

tự xã hội ở xã, phường, thị trấn; nêu lên các hành vi bị nghiêm cấm nhằm bảo

vệ các quyền dân chủ của công dân. Đảng ta chủ trương:

Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách

nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và

nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những

Page 71: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

71

hành vi lợi dụng dân chủ làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, gây

mất trật tự, an ninh, an toàn xã hội [21, tr. 47-48].

Trong quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã, nhân dân được bàn bạc,

tham gia ý kiến về các vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự, tổ chức các hoạt

động tự quản trong thôn xóm, tổ dân phố... Thực tế chứng minh rằng, những

địa phương nào triển khai thực hiện tốt pháp luật về dân chủ ở cấp xã thì ở đó

tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội luôn được giữ vững.

Có thể thấy rằng, khi dân chủ ở cấp xã được mở rộng, các quyền và lợi

ích hợp pháp của nhân dân được đảm bảo, việc THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ

góp phần quan trọng tạo sự đồng thuận xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế,

văn hóa, xã hội và giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa

phương. Đây được coi là kết quả của hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã.

Sự đồng thuận xã hội ở cơ sở chỉ có thể được tạo ra khi nhân dân cùng được

biết, cùng tham gia bàn bạc, biểu quyết, quyết định hoặc cùng tham gia ý kiến

đối với những vấn đề quan trọng của địa phương, liên quan đến lợi ích của

mỗi người. Đến lượt mình, đồng thuận xã hội là cơ sở, động lực thúc đẩy

người dân hăng hái tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương.

Kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển lại là nền tảng để giữ vững an ninh chính

trị cơ sở, duy trì trật tự, an toàn xã hội ở địa phương.

2.3.2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là

nhân tố bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

2.3.2.1. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam xây dựng, ban hành

và ngày càng hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã

Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân

dân và vì nhân dân. Pháp luật là phương tiện để nhân dân thực hiện các quyền

và nghĩa vụ của mình; là nhân tố bảo đảm thực hiện nền dân chủ XHCN, phát

huy quyền lực mà nhân dân trao cho Nhà nước, thực hiện công lý và công

bằng xã hội.

Dân chủ và thực hành dân chủ là một trong những thuộc tính, đặc trưng

cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Chính vì vậy, việc tăng

Page 72: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

72

cường hiệu lực và phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý mọi mặt của

đời sống xã hội luôn luôn gắn liền với quá trình thực hiện và mở rộng nền dân

chủ. Các giá trị dân chủ và quy tắc thực hành dân chủ phải được Nhà nước

pháp quyền thể chế hóa thành pháp luật, trong đó quy định cụ thể các quyền

tự do dân chủ của công dân.

Trong Nhà nước pháp quyền, vấn đề bảo đảm thực hiện và bảo vệ

quyền tự do dân chủ của công dân, xây dựng chế độ dân chủ vừa là

mục đích, vừa là động lực của nhà nước, là khát vọng của nhân dân,

phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội. Muốn thực hiện những điều

đó, Nhà nước phải sử dụng pháp luật, thể chế hóa quyền tự do dân chủ

của nhân dân, quy định ngay trong pháp luật những thiết chế bảo đảm

thực hiện và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Ở đây, pháp

luật không chỉ là công cụ, phương tiện của nhà nước. pháp luật phải trở

thành phương tiện, công cụ, là vũ khí của nhân dân và của nhà nước để

thực hiện được mục đích và yêu cầu dân chủ đó” [56, tr. 71].

Có thể khẳng định rằng, một nền dân chủ thực sự với việc phát huy đầy

đủ các quyền dân chủ của nhân dân chỉ có thể có được khi gắn liền với việc

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Thực hành dân chủ ở cấp xã là một

khâu hết sức quan trọng trong hệ thống cơ chế dân chủ, liên quan đến tất cả

các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo tinh thần đó, trong những năm qua, hệ

thống pháp luật về dân chủ ở cấp xã đã từng bước được Nhà nước ta xây

dựng, ban hành và hoàn thiện dần, qua đó, khẳng định bản chất dân chủ thực

sự của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do

nhân dân và vì nhân dân. Trong các văn bản QPPL về thực hiện dân chủ ở cấp

xã, một mặt, Nhà nước pháp quyền đã quy định các cơ chế, biện pháp, chế tài

nhằm bảo đảm cho công dân có thể phát huy quyền làm chủ, thực hiện các

quyền dân chủ trong khuôn khổ các nguyên tắc, quy định của pháp luật; mặt

khác, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cũng đã quy định cụ thể trách

nhiệm, nghĩa vụ mà công dân phải tuân thủ, thực hiện nhằm bảo đảm giữ gìn

trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội.

Page 73: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

73

2.3.2.2. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tạo các điều kiện cần

thiết, bảo đảm cho việc THPL về dân chủ ở cấp xã đạt hiệu quả cao

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là sự bảo đảm có

tính chất nền tảng, bền vững cho việc thực hiện nền dân chủ nói chung, THPL

về dân chủ ở cấp xã nói riêng; bởi lẽ, chức năng của Nhà nước pháp quyền

XHCN là phục vụ nhân dân, giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, thực hiện

đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân

dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Hơn nữa, chỉ có thông qua xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thì mới bảo đảm được cơ chế, chính

sách, các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, xâm phạm

quyền tự do dân chủ của công dân. Bên cạnh đó, nếu không có các điều kiện

về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội thì không thể THPL được. Điều đó cũng

có nghĩa rằng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng chính

tạo các điều kiện cần thiết về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội bảo đảm cho

việc THPL về dân chủ ở cấp xã đạt được chất lượng, hiệu quả cao.

2.4. NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN

CHỦ Ở CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

2.4.1. Điều kiện về kinh tế

Điều kiện kinh tế có ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới công tác THPL về dân

chủ ở cấp xã thông qua việc tác động đến thái độ, nhận thức của các chủ thể

pháp luật về vai trò, tầm quan trọng của pháp luật về dân chủ ở cấp xã; từ đó,

tác động đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động THPL. Khi nền kinh tế

phát triển, đời sống vật chất của các tầng lớp nhân dân nói chung, của đội ngũ

CBCC cấp xã nói riêng được đảm bảo thì họ sẽ phấn khởi, tin tưởng vào

đường lối phát triển kinh tế, chính sách pháp luật, vào sự lãnh đạo của Đảng

và hoạt động quản lý, điều hành của Nhà nước. Điều đó có tác dụng củng cố

vững chắc niềm tin của nhân dân vào hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính

quyền cấp xã; tạo điều kiện để đội ngũ CBCC cấp xã yên tâm công tác, làm

tốt chuyên môn trên tinh thần cống hiến, phục vụ nhân dân địa phương.

Page 74: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

74

Khi kinh tế phát triển, mức sống được cải thiện và nâng cao, nhân dân

mới có điều kiện để tham gia các hoạt động xã hội, trong đó có thực hiện các

nội dung dân chủ trong pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã. Còn khi kinh

tế chậm phát triển, đời sống vật chất gặp nhiều khó khăn thì tư tưởng của

người dân, CBCC cấp xã sẽ diễn biến phức tạp; ý thức chủ động, tích cực

tham gia THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ bị suy giảm. Đây chính là mảnh đất lý

tưởng cho sự nảy sinh tệ quan liêu, độc đoán, cửa quyền, phát sinh các loại

hành vi tiêu cực như quan liêu, nhận hối lộ, sách nhiễu nhân dân... trong đội

ngũ CBCC nói chung, CBCC cấp xã nói riêng.

Kinh tế phát triển, nguồn thu ngân sách nhà nước dồi dào cũng là động

lực rất quan trọng thúc đẩy hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã diễn ra với

chất lượng và hiệu quả cao hơn. Với nguồn lực kinh tế đủ mạnh, Nhà nước có

điều kiện tốt hơn để đầu tư cho việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục

vụ quốc kế, dân sinh trên địa bàn xã, phường, thị trấn, tạo niềm tin tưởng,

phấn khởi trong CBCC cấp xã và nhân dân ở cơ sở; làm cho nhân dân thấy

được hiệu quả thực tế của việc tích cực THPL về dân chủ ở cấp xã. Chính

sách đãi ngộ thỏa đáng hơn đối với đội ngũ CBCC cấp xã cũng giúp họ yên

tâm gắn bó lâu dài công tác chuyên môn, tích cực và chủ động hơn trong việc

THPL, trong đó có pháp luật về dân chủ ở cấp xã. Ngược lại, nếu điều kiện

kinh tế không cho phép, nguồn chi ngân sách cho công tác THPL về dân chủ

ở cấp xã, còn khó khăn, eo hẹp thì hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã khó

mà đạt được kết quả như mong muốn.

Như vậy, bảo đảm các điều kiện kinh tế là sự bảo đảm có tính chất nền

tảng, là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện tốt pháp luật về thực hiện dân

chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

2.4.2. Điều kiện về chính trị

Điều kiện chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ tới chủ thể THPL về dân

chủ ở cấp xã.

Môi trường chính trị - xã hội của đất nước nói chung, của địa phương

nói riêng ổn định, phát triển bền vững là điều kiện thuận lợi cho việc THPL

Page 75: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

75

nói chung và THPL về dân chủ ở cấp xã nói riêng, vì nó tạo cơ sở củng cố lập

trường chính trị cho CBCC cấp xã. Đây cũng là tiền đề để họ nhận thức, hiểu

biết đầy đủ về vai trò, tầm quan trọng của việc THPL về dân chủ ở cấp xã,

chủ động triển khai công tác này trong đời sống xã hội cơ sở nhằm tiếp tục

giữ vững ổn định chính trị. Ngược lại, môi trường chính trị ở xã, phường, thị

trấn bất ổn, các thiết chế chính trị không phát huy được vai trò điều tiết, điều

chỉnh các quan hệ chính trị, các quyền dân chủ của người dân không được

thực hiện đầy đủ thường là nguyên nhân gây tâm lý bất an trong các tầng lớp

nhân dân, làm suy giảm niềm tin chính trị trong đội ngũ CBCC cấp xã. Khi

đó, việc THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ gặp nhiều khó khăn.

Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng cũng ảnh hưởng rất quan

trọng tới hoạt động THPL pháp luật. Trong cương lĩnh, đường lối chính trị

của mình, Đảng ta luôn khẳng định mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ, tất cả

vì hạnh phúc của nhân dân. Chắc chắn điều đó có tác động tích cực tới hoạt

động THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN ở nước ta hiện nay.

Ý thức chính trị của các chủ thể THPL về dân chủ ở cấp xã cũng có ảnh

hưởng nhất định tới hiệu quả của hoạt động này, đặc biệt là ý thức chính trị

của lãnh đạo Đảng ủy, chính quyền cấp xã và của đảng viên, CBCC cấp xã.

Thực tế cho thấy, nếu lãnh đạo Đảng ủy, chính quyền cấp xã có ý thức chính

trị cao, thấm nhuần nhiệm vụ chính trị, quan tâm và chỉ đạo sâu sát công tác

THPL về dân chủ ở cấp xã; mỗi đảng viên, CBCC cấp xã biết cách tổ chức

THPL về dân chủ ở cấp xã bằng những phương pháp, hình thức phù hợp, coi

đó là trách nhiệm chính trị thường xuyên của mình; thì chất lượng, hiệu quả

hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ được nâng cao.

Về phía các tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã, phường, thị trấn, nếu ý

thức được đầy đủ rằng, việc chủ động, tích cực tham gia vào quá trình THPL

về dân chủ ở cấp xã không chỉ để có kiến thức, hiểu biết pháp luật, nắm được

các quyền dân chủ của mình, mà còn để phát huy quyền làm chủ, tham gia

quản lý nhà nước trên địa bàn, giám sát hoạt động của chính quyền cấp xã,

Page 76: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

76

nghĩa là người dân cũng có ý thức chính trị tích cực, thì chắc chắn là công tác

THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ đạt chất lượng và hiệu quả cao hơn.

Trình độ phát triển của nền dân chủ cũng có tác động quan trọng tới

hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã. Trong điều kiện xã hội có nền dân chủ

thực sự rộng rãi, thông tin đa dạng, phong phú, đa chiều, quyền làm chủ của

nhân dân ở xã, phường, thị trấn được phát huy đầy đủ... chính là điều kiện

thuận lợi để người dân ở cơ sở có thể cởi mở, thẳng thắn, công khai bày tỏ

tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của mình, đưa ra những đòi hỏi về quyền, lợi

ích hợp pháp, chính đáng của họ. Khi đó, bản thân mỗi người dân sẽ chủ

động, tích cực tham gia THPL về dân chủ ở cấp xã với ý thức, trách nhiệm

thực sự của họ. Còn trong điều kiện xã hội thiếu dân chủ thì bầu không khí xã

hội ở xã, phường, thị trấn sẽ ngột ngạt, người dân sẽ không dám nói thật suy

nghĩ của lòng mình vì e ngại “phạm húy”, bị đánh giá về lập trường chính trị,

thậm chí bị trù dập. Khi đó, người dân sẽ không tham gia, hoặc tham gia

THPL về dân chủ ở cấp xã một cách miễn cưỡng, đối phó. Như vậy, để THPL

về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam thì phải bảo đảm các điều kiện về chính trị cho hoạt động này.

2.4.3. Điều kiện về văn hóa - xã hội

Điều kiện về văn hóa - xã hội có ảnh hưởng quan trọng đối với việc

THPL về dân chủ ở cấp xã, thể hiện trên các điểm chính sau đây:

Các giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống là tổng thể những giá trị vật

chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá

trình dựng nước và giữ nước. Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh kiên

cường, nhân dân ta đã xây đắp nên một nền văn hoá kết tinh sức mạnh và in

đậm dấu ấn bản sắc dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự trường tồn

của dân tộc Việt Nam. Nhờ nền tảng sức mạnh văn hoá ấy mà dù có nhiều

thời kỳ bị đô hộ, dân tộc ta vẫn giữ vững bản sắc văn hóa của mình, chẳng

những không bị đồng hoá, mà còn quật cường đứng dậy giành lại độc lập cho

dân tộc. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, sự đoàn kết,

tính cộng đồng... Những yếu tố văn hóa này hiện diện ngay trên địa bàn xã,

Page 77: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

77

phường, thị trấn trong toàn quốc, nếu biết cách khơi gợi, khích lệ hợp lý sẽ có

tác dụng tích cực đối với công tác THPL về dân chủ ở cấp xã.

Lối sống - một thành tố của văn hóa - cũng có ảnh hưởng quan trọng

tới THPL về dân chủ ở cấp xã. Căn cứ vào cách thức tổ chức cư trú, lao động,

sinh hoạt của cư dân, lối sống được phân chia thành lối sống đô thị và lối

sống nông thôn với những nét đặc trưng riêng.

Lối sống đô thị gắn liền với hoạt động sống, lao động, sinh hoạt của

cộng đồng dân cư trên địa bàn các phường, thị trấn thuộc khu vực đô thị.

Đặc trưng nổi bật của lối sống đô thị là tính tích cực chính trị - xã hội ở đô thị

tương đối cao. Người dân đô thị có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc

tiếp xúc với các thông tin chính trị - xã hội và tích cực tham gia vào các hoạt

động xã hội lớn mà phần nhiều được tổ chức tại các đô thị. Tại các thành phố,

thị xã, phạm vi giao tiếp xã hội tương đối rộng, cường độ giao tiếp cao. Đây

là điều kiện thuận lợi đối với việc triển khai THPL về dân chủ ở xã, phường,

thị trấn. Điều này cũng giúp giải thích tại sao trình độ dân trí về pháp luật nói

chung, kiến thức, hiểu biết pháp luật của cộng động dân cư đô thị và hoạt

động THPL về dân chủ ở đô thị thường diễn ra thuận lợi hơn so với các xã ở

khu vực nông thôn.

Lối sống nông thôn gắn liền với hoạt động sống, lao động, sinh hoạt

của cộng đồng dân cư trên địa bàn các xã thuộc khu vực nông thôn. Đặc

trưng cơ bản của lối sống nông thôn là tính cộng đồng và chủ nghĩa tập thể.

Tính cộng đồng chính là một điều kiện thuận lợi đối với công tác thực hiện

pháp luật về dân chủ ở cấp xã. Ý thức cộng đồng giúp cho chính quyền cấp xã

dễ dàng hơn trong việc phổ biến, tuyên truyền chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đưa pháp luật về dân chủ ở cấp xã

đến với người dân nông thôn. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết giúp gắn kết,

tạo dựng sự đồng thuận xã hội giữa chính quyền cấp xã với nhân dân trong

việc bàn bạc, thống nhất các nội dung THPL về dân chủ ở cấp xã. Khi truyền

thống dân chủ làng xã được phát huy, mỗi CBCC cấp xã phải luôn tự ý thức

về trách nhiệm trước nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn.

Page 78: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

78

Các phong tục, tập quán trong cộng đồng xã hội có ảnh hưởng nhất

định tới việc THPL về dân chủ ở cấp xã, thể hiện rõ nét nhất ở khu vực nông

thôn. Bên cạnh những thói quen rất căn bản của người dân nông thôn, như giữ

gìn và phát huy những thuần phong mỹ tục, cần cù trong lao động, tiết kiệm

trong tiêu dùng, tương thân tương ái...; các phong tục tập quán ở khu vực làng

xã cũng đang bộc lộ những nhược điểm, như việc tổ chức hội hè, ma chay,

cưới hỏi, giỗ chạp... nhiều lúc, nhiều nơi còn tốn kém và lãng phí; những hủ

tục lạc hậu, lỗi thời còn tồn tại ở nhiều làng xã, nhất là ở các vùng sâu ,vùng

xa, vùng dân tộc thiểu số; thói hư, tật xấu và tệ nạn xã hội ở nông thôn có xu

hướng gia tăng; tính tích cực chính trị - xã hội của người dân làng xã còn hạn

chế... Những vấn đề trên đều ít nhiều có liên quan đến các quy định pháp luật

về dân chủ ở cấp xã, do đó, đã và đang gây khó khăn cho việc THPL về dân

chủ ở cấp xã; đồng thời, là những hành vi vi phạm pháp luật, coi thường kỷ

cương phép nước, cần phải có biện pháp xử lý nghiêm minh, thích đáng.

2.4.4. Điều kiện về pháp luật

Điều kiện pháp luật là tổng thể những nhân tố tạo nên đời sống pháp

luật của xã hội ở từng giai đoạn phát triển nhất định. THPL về dân chủ ở cấp

xã trước hết đòi hỏi pháp luật về dân chủ ở cấp xã phải được hoàn thiện. Đó là

căn cứ để các chủ thể pháp luật THPL. Song, ý thức pháp luật, các yếu tố

thuộc hệ thống tổ chức, quản lý xã hội truyền thống cũng có ảnh hưởng nhất

định đến việc THPL về dân chủ ở cấp xã.

Ý thức pháp luật của các chủ thể pháp luật, nhất là ý thức pháp luật của

đội ngũ CBCC cấp xã, là yếu tố có ảnh hưởng rất quan trọng tới việc THPL

về dân chủ ở cấp xã. Khi họ có ý thức pháp luật ở một trình độ nhất định, có

năng lực nhận thức các QPPL về dân chủ ở cấp xã, nắm vững các hình thức

THPL về dân chủ ở cấp xã thì ý thức pháp luật trở thành động lực thúc đẩy họ

tích cực THPL ở lĩnh vực này trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Đây chính là điều kiện thuận lợi cho việc triển khai hoạt động THPL về dân

chủ ở cấp xã đạt hiệu quả cao. Còn nếu ý thức pháp luật của CBCC cấp xã ở

trình độ thấp thì việc THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ gặp khó khăn nhất định.

Page 79: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

79

Các yếu tố thuộc hệ thống tổ chức, quản lý xã hội truyền thống cũng có

tác động không nhỏ tới việc THPL về dân chủ ở cấp xã trong giai đoạn hiện

tại. Quá trình tổ chức và duy trì các hoạt động sống, lao động và sinh hoạt của

xã hội nông thôn truyền thống đã làm nảy sinh một nét đặc trưng trong hoạt

động quản lý làng xã trước đây - tính tự quản. Trong các làng xã truyền thống

xưa kia thường tồn tại song song hai hệ thống quản lý: hệ thống quản lý do

nhà nước thiết lập trên cơ sở pháp luật và hệ thống tự quản trong cộng đồng.

Trong quá trình phát triển của làng xã, pháp luật thừa nhận làng có lệ riêng

của mình, miễn là không trái với các quy định của pháp luật. Nếu như hoạt

động quản lý nhà nước trước đây được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế,

thì hệ thống tự quản lại chủ yếu dựa vào sức mạnh của dư luận xã hội, uy tín

của các vị chức sắc trong làng (tôn giáo, tín ngưỡng, già làng, trưởng tộc...)

và đặc biệt phải kể tới vai trò của lệ làng (hương ước).

Trên địa bàn các xã, phường, thị trấn hiện nay, sự quản lý bằng pháp

luật của Nhà nước và lệ làng vẫn đang là những yếu tố tác động, ảnh hưởng

trực tiếp tới hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã của các chủ thể, nhất là

người dân ở các làng xã. Vấn đề là ở chỗ, mỗi chủ thể (chính quyền xã,

CBCC cấp xã và người dân) nhìn nhận như thế nào về vị trí, vai trò và sự ảnh

hưởng của mỗi yếu tố. Trên thực tế, cả sự quản lý nhà nước bằng pháp luật,

cả tính tự quản đều quan trọng và cần thiết, chúng có vai trò khác nhau trong

quản lý xã hội nông thôn. Nhà nước coi việc xây dựng hương ước, quy ước

của thôn, tổ dân phố là một trong những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết để

cấp có thẩm quyền quyết định trong THPL về dân chủ ở cấp xã.

2.5. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở ĐỊA PHƯƠNG TẠI MỘT

SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM

Trong thời đại ngày nay, bằng cách này hay cách khác, mức độ ít hay

nhiều, tính chất rộng rãi hay hạn hẹp, các quốc gia khác nhau trên thế giới đều

hướng tới một xây dựng, thực hiện nền dân chủ nhất định tùy thuộc vào trình

độ nhận thức về dân chủ, sự phát triển của nền dân chủ, truyền thống lịch sử,

quy định của pháp luật, nhu cầu thực tiễn đặt ra đối với mỗi quốc gia qua từng

Page 80: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

80

giai đoạn lịch sử. Hầu như các nhà nước khác nhau trên thế giới không ban

hành một đạo luật riêng về thực hiện dân chủ ở cơ sở, nhưng những quy định

pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở, ở địa phương thì có được đề cập trong

Hiến pháp và những đạo luật khác. Tác giả chọn khảo sát vấn đề này tại Pháp,

Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc vì đây là những nước có ảnh hưởng

trong lịch sử hoặc gần gũi về mặt địa lý với Việt Nam; từ thực tiễn của mỗi

nước tavs giả rút ra bài học kinh nghiệm, tham khảo cho Việt Nam.

2.5.1. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở địa phương tại Cộng hòa Pháp

Theo phân cấp quản lý hành chính, chính quyền cấp cơ sở ở Pháp là

cấp xã (công xã), hình thành từ năm 1789. Tại Cộng hòa Pháp, thuật ngữ dân

chủ ở địa phương được sử dụng lần đầu tiên trong Luật vào năm 1992 quy

định về quản lý hành chính lãnh thổ của nhà nước Cộng hòa Pháp và được cụ

thể hóa trong Luật ngày 27/02/2002 về dân chủ ở địa phương và được nêu

trong Luật sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2003; trong đó chủ yếu đề cập tới

quyền được thông tin và tính minh bạch trong hoạt động quản lý hành chính ở

địa phương. Dân chủ ở địa phương được thể hiện dưới hình thức tham khảo,

lấy ý kiến của nhân dân địa phương trước khi chính quyền đưa ra các quyết

định; ngoài ra, dân chủ ở địa phương còn được thực hiện thông qua hình thức

trưng cầu ý dân, nhân dân trực tiếp thông qua các quyết định thuộc thẩm

quyền ban hành của chính quyền xã. Dân chủ ở địa phương tại Pháp là dân

chủ gắn với quyền lực nhân dân, gắn với việc tham gia, quyết định của nhân

dân đối với các vấn đề thuộc cộng đồng lãnh thổ địa phương; gắn với sự công

khai các quyết định của chính quyền địa phương để nhân dân biết; quyền

được thông tin của người dân là một yêu cầu mà chính quyền địa phương cần

đáp ứng [xem: 59, tr. 269-279]...

Bài học kinh nghiệm, tham khảo cho Việt Nam: Đối với Việt Nam,

chính quyền cấp xã là cấp gần dân nhất, nắm bắt nhu cầu và lợi ích của nhân

dân, trực tiếp phát huy quyền làm chủ của nhân dân; do vậy phải phân cấp,

giao quyền tự quản nhiều hơn đồng thời với tăng cường sự kiểm tra, giám sát

chặt chẽ của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương là việc

Page 81: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

81

làm cần thiết nhằm phát huy có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước, hướng tới phục vụ nhân dân ngày càng

tốt hơn, hiệu quả hơn.

Để khắc phục tình trạng nguồn thu ngân sách của chính quyền địa

phương thường không đủ chi cho sự vận hành của bộ máy chính quyền địa

phương cũng như các nhu cầu về dịch vụ, xã hội của người dân, Chính phủ

các nước thường có nhiều chính sách hỗ trợ thiết thực về vật chất, kỹ thuật và

con người cho chính quyền địa phương. Bài học tham khảo cho Việt Nam ở

đây là muốn giảm hỗ trợ ngân sách của nhà nước trung ương cho địa phương

thì phải tăng quyền tự quyết cho chính quyền địa phương nhằm kích thích

quyền tự chủ, tự quản theo xu thế hiện nay của Cộng hòa Pháp và Chính phủ

nhiều nước trên thế giới.

2.5.2. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở tại Liên bang Nga

Tại Liên bang Nga hiện nay, vấn đề thực hiện các quyền tự do dân chủ

của nhân dân cũng rất được nhà nước chú trọng, coi đó là một trong những

phương thức, nhân tố bảo đảm sự thành công của hoạt động quản lý nhà nước,

xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là trong

tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện các chính sách và pháp luật. Các

hình thức thực hiện dân chủ chủ yếu là dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp,

đặc biệt là dân chủ ở những cộng đồng lãnh thổ địa phương.

Dân chủ trực tiếp là hình thức tham gia của nhân dân vào hoạt động

quản lý nhà nước, giải quyết các vấn đề của nhà nước, của địa phương. Nhằm

bảo đảm cho nhân dân ở các địa phương có thể ra các quyết định độc lập về

những vấn đề của địa phương không phụ thuộc vào chính quyền trung ương,

đảm bảo cho họ có thể giải quyết tốt nhất các công việc của mình, nhà nước

Liên bang Nga đã đưa ra các quy định về tổ chức chính quyền địa phương tự

quản. Điều 131 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 quy định chính quyền

địa phương tự quản được tổ chức tại các thành phố, các khu vực ở nông thôn

có tính đến các điều kiện về lịch sử, văn hóa; cấu trúc của các cơ quan chính

quyền địa phương do nhân dân địa phương quyết định một cách độc lập. Ranh

Page 82: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

82

giới lãnh thổ ở những nơi thành lập chính quyền địa phương tự quản chỉ có

thể thay đổi nếu được cộng đồng dân cư địa phương đồng ý.

Chính quyền địa phương tự quản được thực hiện bởi các công dân

thông qua trưng cầu dân ý, bầu cử và các hình thức thể hiện ý chí của họ, như

thông qua các cơ quan đại diện cho họ hoặc các cơ quan khác do chính quyền

địa phương tự quản bầu lên. Chính quyền tự quản có thể quản lý một cách độc

lập sở hữu công xã; hình thức, cách thức thông qua và cách thức thực hiện

ngân sách địa phương; việc thu các loại thuế ở địa phương; triển khai các biện

pháp thực hiện Luật và mệnh lệnh của các cơ quan nhà nước cấp trên và giải

quyết các vấn đề khác của địa phương. Các cơ quan chính quyền địa phương

tự quản có thể được chuyển giao theo quy định của Luật một số quyền lực nhà

nước cùng với chuyển giao các nguồn tài chính và vật chất cần thiết để thực

hiện quyền lực đó. Việc thực hiện các quyền lực nhà nước được chuyển giao

sẽ được giám sát bởi nhà nước [xem: 95, tr. 249 - 250].

Như vậy, hoạt động tự quản địa phương là một loại hình quản lý mà ở

đó rất nhiều vấn đề thuộc thẩm quyền của chính quyền do người dân trực tiếp

thảo luận, thông qua và nhiều vấn đề thuộc đời sống cộng đồng do nhân dân

tự quyết, như đảm bảo vệ sinh, an ninh trật tự... Với mô hình này, nhà nước

Liên bang Nga đã tạo điều kiện để người dân địa phương có thể thực hiện các

quyền dân chủ của mình - một hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Bài học kinh nghiệm, tham khảo cho Việt Nam: Ở Liên bang Nga,

ranh giới lãnh thổ ở những nơi thành lập chính quyền địa phương tự quản chỉ

có thể thay đổi nếu nhận được sự đồng ý của cộng đồng dân cư địa phương. Ở

nước ta không có mô hình chính quyền địa phương tự quản, nhưng Nhà nước

trung ương có thể trao cho chính quyền địa phương quyền tổ chức trưng cầu

ý kiến nhân dân trước khi thực hiện việc sáp nhập hoặc chia tách ranh giới

lãnh thổ các địa phương. Đó cũng là cách thức mở rộng, phát huy quyền dân

chủ của nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

2.5.3. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở địa phương tại Cộng hòa nhân

dân Trung Hoa

Page 83: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

83

Nhà nước Trung Hoa không ban hành một đạo luật riêng về thực hiện

dân chủ ở cơ sở; song trong các giải pháp xây dựng nông thôn mới hiện đại,

việc phát huy các quyền dân chủ của nhân dân thông qua bầu cử trực tiếp

chính quyền cấp cơ sở với những bước đi, cách làm phù hợp, luôn đổi mới là

khía cạnh đáng chú ý trong quá trình đi tới nền chính trị dân chủ ở cấp cơ sở,

đặc biệt là nông thôn. Báo cáo Chính trị tại Đại hội XVII Đảng Cộng sản

Trung Quốc đã chỉ rõ: “Nhân dân làm chủ là bản chất và cốt lõi của nền chính

trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cần kiện toàn chế độ dân chủ, làm phong phú

hình thức dân chủ. Trên con đường mở rộng dân chủ, việc thực hiện bầu cử là

một quyết sách quan trọng” [dẫn theo: 81].

Ở Trung Quốc, việc bầu cử trực tiếp người đứng đầu thị tứ, hương trấn

đã được thí điểm ở một số địa phương. Kết quả cho thấy, các cán bộ do người

dân lựa chọn trực tiếp được tôn trọng hơn, thực hiện chức trách, nhiệm vụ

hiệu quả hơn. Bầu cử trực tiếp Ủy ban thôn, chính quyền hương trấn là sự

sáng tạo trong công cuộc xây dựng nền chính trị dân chủ cơ sở ở nông thôn

Trung Quốc từ khi cải cách, mở cửa đến nay. Theo quy định pháp luật hiện

hành, bầu cử trực tiếp ở nông thôn bao gồm hai nội dung chính: một là, các

công dân từ 18 tuổi trở lên có quyền bầu chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, các ủy

viên ủy ban thôn; hai là, theo các khu vực bầu cử, các công dân trong thôn từ

18 tuổi trở lên có quyền bầu cử các đại biểu của Đại hội đại biểu nhân dân

hương trấn (tương đương HĐND cấp xã ở Việt Nam). Hiện nay, một số địa

phương ở Trung Quốc vẫn đang tích cực tìm tòi những cách bầu cử dân chủ

nhằm phát huy dân chủ của nhân dân nông thôn; bầu cử dân chủ được thực

hiện ở cả cấp thôn, gồm cả bầu cử ở chi bộ cấp thôn và bầu cử ủy ban thôn.

Đối với việc bầu ủy ban thôn, quy trình bầu cử được thực hiện qua ba

bước: Bước 1, hợp nhất hai khâu đề cử danh sách với chính thức bỏ phiếu làm

một, thực hành bầu cử không có người đề cử. Sau bầu cử lần một, những

người được số phiếu quá bán sẽ bước vào vòng bầu cử thứ hai. Bước 2, từ

những người chọn ra qua bước 1, cử tri thôn bầu người đề cử vào tổ chức ủy

ban, sau đó tiến hành các hình thức hoạt động tranh cử. Bước 3, tiến hành bỏ

Page 84: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

84

phiếu để chọn ra những người trúng cử ủy ban thôn. Yêu cầu đặt ra là mỗi

người dân trong thôn phải tự mình đi bỏ phiếu, hết sức hạn chế hoặc xóa bỏ

việc bỏ phiếu hộ; những người đi làm ăn, buôn bán ở xa có thể bỏ phiếu theo

đường thư tín. Đa số người dân các vùng nông thôn Trung Quốc đều coi bầu

cử vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của mình. Đồng thời, hầu hết các thôn

đều có chế định nhất định để xử lý những trường hợp thiếu ý thức, không

tham gia bầu cử [xem: 81].

Bài học kinh nghiệm, tham khảo cho Việt Nam: Ở Trung Quốc, việc

bầu cử trực tiếp người đứng đầu thị tứ, hương trấn đã được thực hiện thí điểm

ở một số địa phương và đang được nhân rộng trên phạm vi toàn quốc. Người

đứng đầu thị tứ, hương trấn ở Trung Quốc tương ứng với chức danh Chủ tịch

UBND cấp xã ở Việt Nam, mặc dù dân số của thị tứ Trung Quốc thường lớn

hơn dân số tại các xã của Việt Nam. Chúng ta có thể cho phép thí điểm nhân

dân địa phương trực tiếp bầu chọn chức danh Chủ tịch UBND cấp xã trên cơ

sở tham khảo mô hình “hai lần bỏ phiếu”, mở rộng quyền của nhân dân trong

đề cử ứng viên theo “chế độ ba phiếu” mà Trung Quốc đang thực hiện.

2.5.4. Thực hiện pháp luật dân chủ ở địa phương tại Nhật Bản

Thiết chế chính quyền địa phương với tư cách là kênh thực hiện các

quyền dân chủ của người dân Nhật Bản là một trong những vấn đề quan trọng

được quy định và bảo đảm trong Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 - bản Hiến

pháp được xây dựng dưới sự bảo trợ của Mỹ nên chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi

các giá trị dân chủ của phương Tây. Hiến pháp trao nhiều quyền tự trị cho địa

phương, bởi lẽ, dân chúng ở đâu cũng thế, đều muốn tự cai quản xóm làng

của mình, nên để cho nhân dân các địa phương tự bầu ra người lãnh đạo của

địa phương mình, đối trọng lại chính quyền trung ương. Theo Hiến định,

chính quyền địa phương được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước

thuộc về nhân dân, là hình thức tự quản của dân cư địa phương trên cơ sở

nhân dân được quyền tự quyết định vận mệnh của chính mình.

Điều 92 Hiến pháp Nhật Bản quy định việc tổ chức và hoạt động của

chính quyền địa phương được thực hiện theo nguyên tắc phối hợp sự tự quản

Page 85: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

85

của các tổ chức và của cộng đồng cư dân địa phương. Tự quản của tổ chức có

nghĩa là mối quan hệ giữa chính quyền địa phương tại Nhật Bản và nhà nước

trung ương không phải quan hệ theo hình thức giám sát, mà là mối quan hệ tự

chủ và bình đẳng. Chính quyền địa phương có tư cách pháp nhân và độc lập

với nhà nước trung ương trong quản lý các công việc chung. Điều 94 của

Hiến pháp nước này quy định các tổ chức công quyền địa phương được trao

quyền hạn rộng rãi trong các vấn đề quản lý, tài chính, “có quyền quản lý tài

sản, công việc của mình và ban hành các quy định riêng trong khuôn khổ

pháp luật quy định”. Trong khi đó, tự quản của cộng đồng dân cư địa phương

có nghĩa là đòi hỏi việc tổ chức, hoạt động của một cơ quan chính quyền địa

phương phải phản ánh và đáp ứng đầy đủ nguyện vọng của nhân dân. Bản

Hiến pháp 1946 của Nhật Bản là một bước tiến lớn trên con đường dân chủ

hoá nước Nhật. Quá trình thực thi Hiến pháp ở Nhật Bản theo mô hình

phương Tây đã đem lại nhiều thay đổi cơ bản trong thang giá trị của xã hội

Nhật Bản, trước hết là các khía cạnh quyền dân chủ, tự do, bình đẳng, phân

quyền, đặc biệt là chủ nghĩa hoà bình. Nhờ vậy, nước Nhật từ sau chiến tranh

thế giới thứ hai đến nay là một quốc gia ổn định, dân chủ, văn minh, đi theo

chủ nghĩa hoà bình và đạt trình độ phát triển thần kỳ.

Các cải cách chính quyền địa phương của Nhật Bản gần đây được thực

hiện gắn với chương trình phi tập trung hóa, dựa trên hai nguyên tắc: Một là,

nguyên tắc “từ trung ương về địa phương”, đồng nghĩa với việc chuyển giao

cho chính quyền địa phương những công việc và doanh nghiệp do trung ương

quản lý. Hai là, nguyên tắc “từ quan chức về người dân”, tức là phi điều tiết

các công việc hành chính và quản lý doanh nghiệp. Quá trình này đã thúc đẩy

mạnh mẽ sự phân công chức năng, nhiệm vụ giữa chính quyền trung ương và

chính quyền địa phương. Luật Chính quyền địa phương quy định: Cơ quan

chính quyền địa phương có vai trò, trách nhiệm thực hiện các chức năng quản

lý ở địa phương trên cơ sở độc lập hoặc cùng phối hợp với nhà nước trung

ương. Vai trò của nhà nước trung ương sẽ chỉ giới hạn trong các công việc có

liên quan đến sự tồn vong quốc gia, trong mối quan hệ với cộng đồng quốc tế.

Page 86: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

86

Cuộc cải cách theo hướng phi tập trung hóa rất chú trọng đến việc mở rộng

quyền tự quản của tổ chức và cộng đồng dân cư địa phương, giảm bớt sự can

thiệp của chính phủ vào các công việc của chính quyền và cộng đồng dân cư

địa phương. Ở Nhật Bản, việc kiểm tra hành chính chung đối với các cơ quan

địa phương do Chính phủ trung ương thực hiện thông qua Bộ Về các vấn đề

tự quản địa phương [xem: 35].

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: Trước xu thế toàn cầu hoá và hội

nhập quốc tế, chính quyền địa phương ở Nhật Bản đã chủ động cải cách tổ

chức, hoạt động, nâng cao năng lực quản lý, điều hành, biết dựa vào sức dân

để giải quyết tốt hơn nhu cầu đời sống ngày càng cao của chính người dân.

Yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay là

phải xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh, vì nhân dân phục

vụ. Cách làm của Nhật Bản là bài học tham khảo cho Việt Nam trong vấn đề

dựa vào sức dân để khắc phục khó khăn, chủ động, sáng tạo trong quản lý,

điều hành để tạo điều kiện cho người dân tự nâng cao thu nhập, mức sống, cải

thiện cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống, sinh hoạt của cộng đồng dân cư, tránh

được sự ỷ lại và trông chờ vào trợ cấp từ Chính phủ. Việc chính quyền trung

ương tăng cường phân cấp, giao nhiều quyền tự chủ cho chính quyền và nhân

dân địa phương luôn song hành với sự kiểm tra, giám sát hoạt động của chính

quyền địa phương. Chính quyền địa phương phải tuân thủ mệnh lệnh, chỉ thị

và hoàn thành các công việc trực tiếp do chính quyền cấp trên giao.

2.5.5. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở địa phương tại Hàn Quốc

Hàn Quốc cũng là một quốc gia có một truyền thống lịch sử lâu đời về

tự quản địa phương, đặc trưng bởi các tổ chức tự nguyện không chính thức.

Trong Hiến pháp hiện nay có nhiều điều quy định về chính quyền địa phương;

Luật Tự quản địa phương là cơ sở đầu tiên cho hoạt động của chính quyền địa

phương và tự quản địa phương. Cơ chế tự quản của địa phương được thực

hiện thông qua các hội đồng do nhân dân địa phương trực tiếp bầu theo

phương thức phổ thông đầu phiếu. Tự quản địa phương chỉ có khi do nhân

Page 87: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

87

dân bầu ra, cũng là cách thức để nhân dân địa phương có thể thực hiện quyền

dân chủ mà Hiến pháp, pháp luật trao cho họ.

Theo Luật Tự quản địa phương, Chính phủ có quyền can thiệp vào

công việc hàng ngày của chính quyền địa phương các cấp. Luật này cũng quy

định Chính phủ giám sát chính quyền địa phương cấp cao (thành phố trực

thuộc trung ương); chính quyền địa phương cấp tỉnh giám sát chính quyền đô

thị cấp cơ sở (thành phố thuộc tỉnh). Cũng theo Luật Tự quản địa phương, hệ

thống chính quyền địa phương ở Hàn Quốc chia thành hai cấp: cấp trên và

cấp dưới. Hiện có nay có 16 đơn vị chính quyền địa phương cấp trên (7 thành

phố trực thuộc trung ương và 9 tỉnh) và 232 chính quyền địa phương cấp

dưới, trong đó có 98 hạt, 66 thành phố và 68 quận [xem: 35]. Việc giám sát

của chính quyền trung ương về hành chính là nội dung quan trọng và thường

đạt hiệu quả cao. Chính quyền địa phương phải tuân thủ các quyết định, chỉ

đạo của chính quyền cấp trên thông qua các biện pháp cưỡng chế về hành

chính, như chỉ thị, thanh tra, kiểm soát... Khi có công việc trực tiếp mang tính

chất quốc gia thì chính quyền trung ương sẽ hỗ trợ cho chính quyền địa

phương tài chính, kỹ thuật. Ngoài ra, chính quyền trung ương còn giải quyết

các mâu thuẫn về lợi ích giữa các chính quyền địa phương.

Ngày nay, Chính phủ Hàn Quốc đang tiến hành cải cách mạnh mẽ tổ

chức và hoạt động của chính quyền địa phương nhằm đáp ứng một cách tốt

nhất nhu cầu của người dân, như chuyển dần từ mô hình nhà nước là đơn vị

sản xuất cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho người dân sang mô hình đưa người

dân vào tự sản xuất hàng hoá và dịch vụ công nhằm giảm giá thành, nâng cao

chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ; chính quyền trung ương mạnh dạn

trao quyền cho chính quyền địa phương tự quyết định những vấn đề cơ bản

liên quan đến đời sống của người dân địa phương,. tạo nhiều cơ hội để họ tự

nâng cao chất lượng đời sống của bản thân và cộng đồng [xem: 8].

Bài học kinh nghiệm, tham khảo cho Việt Nam: Tổ chức đơn vị hành

chính của chính quyền địa phương ở Hàn Quốc ít thay đổi qua các thời kỳ lịch

sử. Các đơn vị hành chính địa phương ở Hàn Quốc thường được mở rộng về

Page 88: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

88

diện tích khi có đủ điều kiện về dân số, sự phát triển về công nghiệp, dịch vụ.

Từ kinh nghiệm đó, Việt Nam chúng ta có thể tham khảo, nghiên cứu mô

hình này của Hàn Quốc, không nên chia nhỏ các đơn vị hành chính, mà tùy

thuộc tình hình thực tế có thể mở rộng, sáp nhập các đơn vị hành chính lại

với nhau để thuận tiện cho quản lý và có điều kiện phục vụ các nhu cầu của

nhân dân tốt hơn trên cơ sở tôn trọng ý kiến của nhân dân địa phương. Điều

này phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 110 Hiến pháp năm 2013, theo đó,

“Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính

phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định”.

Chính quyền địa phương ở Hàn Quốc đã chủ động cải cách tổ chức,

hoạt động, nâng cao năng lực quản lý, điều hành, biết dựa vào sức dân để giải

quyết tốt hơn nhu cầu đời sống ngày càng cao của chính người dân. Cách làm

của Hàn Quốc là bài học tham khảo cho Việt Nam trong vấn đề dựa vào sức

dân để khắc phục khó khăn, chủ động, sáng tạo trong quản lý, điều hành để

tạo điều kiện cho người dân tự nâng cao thu nhập, mức sống, cải thiện cơ sở

hạ tầng phục vụ đời sống, sinh hoạt của cộng đồng dân cư, tránh được sự ỷ lại

và trông chờ vào trợ cấp từ Chính phủ.

Kết luận chương 2

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một hình thức/phương thức

tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam đang đặt ra cho hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã

các yêu cầu: khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước ta; bảo đảm tính tối

cao của pháp luật; nguyên tắc thực hành nền dân chủ XHCN; bảo đảm các cơ

chế, chính sách và biện pháp nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân

dân; bảo đảm thực hiện quyền con người.

Dân chủ ở cấp xã là biểu hiện cụ thể của nền dân chủ XHCN, là sự

đảm bảo nguyên tắc toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân tại địa bàn

xã, phường, thị trấn trên cơ sở thực hiện quyền được biết, quyền được bàn và

quyết định, quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền

quyết định và quyền giám sát đối với những nội dung có liên quan tới đời

Page 89: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

89

sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của người dân ở xã, phường, thị trấn

bằng những hình thức nhất định, phù hợp với các nguyên tắc, quy định của

pháp luật. Pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là hệ thống các quy định về

những nội dung dân chủ ở cấp xã nói trên.

THPL về dân chủ ở cấp xã là quá trình triển khai các hoạt động của

nhiều chủ thể bảo đảm nội dung thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đi

vào thực tiễn đời sống xã hội cơ sở, trở thành những hành vi pháp luật thực tế

hợp pháp của chính quyền, cán bộ, công chức cấp xã, cán bộ thôn, tổ dân phố,

cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và nhân dân địa phương nhằm phát

huy quyền làm chủ của nhân dân; thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà

nước, quản lý xã hội; kiểm tra, giám sát các hoạt động của chính quyền cấp cơ

sở; góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội trên địa bàn xã, phường,

thị trấn, thông qua các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử

dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.

Giữa THPL về dân chủ ở cấp xã và xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với nhau; tác động

lẫn nhau trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam theo định

hướng XHCN. THPL về dân chủ ở cấp xã là đòi hỏi tất yếu, khách quan của

tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, là sự thể hiện

sinh động bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta. Ngược lại, xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhân tố bảo đảm cho việc THPL

về dân chủ ở cấp xã thông qua việc Nhà nước xây dựng, ban hành và ngày

càng hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã và tạo các điều kiện

cần thiết về kinh tế, chính trị, văn hóa và pháp luật cho hoạt động này.

Việc THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam đòi hỏi phải bảo đảm các điều kiện về kinh tế, chính

trị, văn hóa - xã hội và pháp luật. Từ sự khảo sát vấn đề THPL về dân chủ ở

địa phương, dân chủ cơ sở tại một số nước trên thế giới, gồm Cộng hòa Pháp,

Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản và Hàn Quốc, luận

án đã rút ra được những bài học có giá trị tham khảo cho Việt Nam.

Page 90: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

90

Chương 3

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN

CHỦ Ở CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP

QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TỪ NĂM 1998 ĐẾN NAY3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ

3.1.1. Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về thực hiện dân

chủ ở cấp xã

3.1.1.1. Bối cảnh ra đời các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện

dân chủ ở cấp xã

Ở Việt Nam, ngay từ những năm đất nước còn nằm dưới ách thống trị

của thực dân, phong kiến và cho đến ngày nay, vấn đề dân chủ và thực hiện

dân chủ vẫn luôn luôn là những chủ đề thường xuyên được nhắc đến, một

mặt, như là mục tiêu của cuộc đấu tranh giải phóng, giành lại độc lập cho dân

tộc Việt Nam, đem lại tự do, hạnh phúc cho con người; mặt khác, trở thành

một trong những giá trị và đặc trưng của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà ở đó, xã hội

ta từng bước phát triển từ việc đảm bảo cho mọi người “ai cũng có cơm ăn, áo

mặc, ai cũng được học hành” tiến tới thực hiện mục tiêu cao cả hơn là xây

dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,

văn minh” trong một Nhà nước pháp quyền XHCN.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta đã thông qua

đường lối đổi mới. Đến Đại hội lần thứ VII (1991), Đảng ra Nghị quyết về

đẩy mạnh tiến trình đổi mới và đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới về

chính trị. Trong những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, do những hạn chế,

bất cập của cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp trước đây, chưa thích

ứng kịp với thời kỳ đổi mới cùng với những yếu kém trong nhận thức của đội

ngũ CBCC về vai trò của dân chủ và thực hành dân chủ trong đời sống xã hội

nên tình trạng mất dân chủ ở cơ sở đã diễn ra nghiêm trọng ở nhiều nơi, làm

suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, gây mất an ninh và

trật tự xã hội ở nhiều địa phương. Chẳng hạn, tỉnh Thái Bình thời kỳ đó đã trở

Page 91: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

91

thành một “điểm nóng” về trật tự xã hội, bất ổn về chính trị. Tháng 5/1997, ở

Thái Bình đã xảy ra tình trạng khiếu kiện đông người, gây mất ổn định chính

trị và trật tự an toàn xã hội. Sau sự kiện trên, Đảng, Nhà nước cùng với các

cấp ủy, chính quyền địa phương đã tổ chức các cuộc họp rút kinh nghiệm, tìm

ra nguyên nhân, đề ra các giải pháp sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm,

thiếu sót trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cả hệ thống chính trị.

Một trong những kết luận quan trọng được rút ra là: muốn giữ vững ổn định

chính trị, đảm bảo trật tự kỷ cương, an toàn xã hội trên địa bàn xã, phường,

thị trấn thì cần phải nhanh chóng xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện

nghiêm túc pháp luật về dân chủ ở cấp xã.

Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CT-TW về việc xây

dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị 30/CT-TW được ban

hành trong bối cảnh “quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi,

trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách

nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta

vẫn chưa đẩy lùi, ngăn chặn được. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,

dân kiểm tra” chưa được cụ thể hóa và thể chế hóa thành pháp luật”. Chính vì

vậy, nội dung cốt lõi được nhấn mạnh trong Chỉ thị là:

Để giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta phải

phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản

lý Nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát Nhà nước, khắc phục tình

trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Khâu quan

trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở

cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở, là

nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực

tiếp và rộng rãi nhất [6, tr. 4].

Để luật hóa nội dung chỉ đạo tại Chỉ thị 30/CT-TW, Ủy ban Thường vụ

Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ra Nghị quyết số 45-1998/NQ-

UBTVQH10 ngày 26/2/1998 về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở

Page 92: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

92

xã, phường, thị trấn (Nghị quyết 45). Nghị quyết 45 trước hết nhắc lại và

khẳng định phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, lấy đó

làm cơ sở để “giao Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn”. Theo tinh thần Nghị quyết 45, Quy chế phải đảm bảo tăng

cường sự tham gia của nhân dân (lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, những

vấn đề được đưa ra để nhân dân thảo luận và quyết định, nhân dân giám sát

và kiểm tra); quyền tiếp cận thông tin của nhân dân và trách nhiệm giải trình

của cơ quan chính quyền địa phương (báo cáo các quyết định để nhân dân

biết và thực hiện, thông tin cho nhân dân biết chủ trương, chính sách của Nhà

nước, báo cáo thu chi ngân sách và quyết toán, tiếp dân và báo cáo kết quả

giải quyết...).

Ngay sau khi Nghị quyết 45 được ban hành, Chính phủ đã nhanh chóng

thể chế hóa thành các Nghị định của Chính phủ. Đầu tiên là Nghị định số

29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ Về việc ban hành Quy chế

thực hiện dân chủ ở xã (Nghị định 29). Sau 5 năm thực hiện Nghị định 29

cũng như quán triệt ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng tại Chỉ

thị số 10/CT-TW ngày 28/3/2002 Về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực

hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (Chỉ thị 10), Chính phủ đã ban hành Nghị định

số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã.

Năm 2007 đánh dấu một mốc quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý

về thực hiện dân chủ ở cấp xã với việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông

qua Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Cùng với các Nghị định, Pháp lệnh, các cơ quan hữu quan cũng đã ban

hành các quyết định và thông tư hướng dẫn về việc thực hiện dân chủ ở cấp

xã. Như vậy, cho đến nay, khung pháp lý ở tầm vĩ mô điều chỉnh hoạt động

thực hiện dân chủ ở cấp xã ở nước ta đã và đang từng bước được hoàn thiện.

3.1.1.2. Nội dung chính của các văn bản quy phạm pháp luật về thực

hiện dân chủ ở cấp xã

a) Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Ban hành kèm theo Nghị định số29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ)

Page 93: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

93

Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Quy chế năm 1998), quy định vềnhững việc chính quyền địa phương phải thông tin và công khai để dân biết,những việc dân bàn và quyết định trực tiếp, những việc dân tham gia ý kiếntrước khi cơ quan Nhà nước quyết định, những việc dân giám sát, kiểm tra và

các hình thức thực hiện quy chế dân chủ, các quy tắc xây dựng cộng đồng dâncư thôn, làng, ấp, bản. Sau Lời nói đầu, Quy chế năm 1998 gồm 7 chương, 25điều; trong đó, chương I- Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 3);

Chương II-Những việc cần thông báo để nhân dân biết (Điều 4 và Điều 5);

Chương III-Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp (từ Điều 6 đến

Điều 8); Chương IV-Những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, Hội đồng

nhân dân, Ủy ban nhân dân xã quyết định (Điều 9 và Điều 10); Chương V-

Những việc nhân dân giám sát, kiểm tra (Điều 11 và Điều 12); Chương VI-Xây dựng cộng đồng dân cư thôn, làng, ấp, bản (từ Điều 13 đến Điều 17) và

Chương VII-Điều khoản thi hành (từ Điều 18 đến Điều 25). Mục đích của

Quy chế năm 1998 được thể hiện rõ ràng ngay tại Điều 1:

Quy chế thực hiện dân chủ ở xã nhằm phát huy quyền làm chủ, sứcsáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần tolớn của nông dân và nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị,xã hội, tăng cường đoàn kết nông thôn, cải thiện dân sinh, nâng cao dântrí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch,vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu,

tham nhũng, góp phần vào sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội côngbằng, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa [9, Điều 1].b) Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Ban hành kèm theo Nghị định số

79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính phủ)

Quy chế năm 2003 vẫn gồm 7 chương, 25 điều; song, về mặt kỹ thuật

lập quy, đã có sự chỉnh sửa, bổ sung theo hướng cụ thể, rõ ràng hơn nhằm

tăng cường vai trò, trách nhiệm của bộ máy chính quyền cấp cơ sở trong việc

thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Cụ thể, Quy chế năm 2003 đã

bổ sung thêm Điều 1 vào chương I-Những quy định chung; trong đó nêu rõ:

Quy chế này quy định cụ thể những việc Hội đồng nhân dân và Uỷ bannhân dân xã phải thông tin kịp thời và công khai để dân biết; những

Page 94: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

94

việc dân bàn và quyết định trực tiếp; những việc dân tham gia ý kiếntrước khi cơ quan nhà nước quyết định; những việc dân giám sát, kiểmtra và các hình thức thực hiện Quy chế dân chủ ở xã [10, Điều 1].So với Quy chế năm 1998, Quy chế năm 2003 bổ sung thêm Điều 14

quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân đối với việc giámsát và kiểm tra của nhân dân. Điều 14 cũng quy định rõ: “Nhân dân khôngđược tụ tập đông người khiếu kiện vượt cấp, gây mất trận tự an ninh và chốngđối người thi hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được xem xét, giảiquyết theo quy định của pháp luật”.

c) Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 gồm 6

chương, 28 điều với những nội dung chính: Chương I. Những quy định chung

gồm 4 điều (từ Điều 1 đến Điều 4), trong đó quy định phạm vi điều chỉnh;

nguyên tắc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã);

trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã; các hành vi bị nghiêm cấm.

Chương II. Những nội dung công khai để nhân dân biết gồm 5 điều (từ Điều 5

đến Điều 9) quy định những nội dung công khai; hình thức công khai; việc

công khai bằng hình thức niêm yết; việc công khai trên hệ thống truyền thanh

và thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân;

trách nhiệm tổ chức thực hiện các nội dung công khai. Chương III. Những nội

dung nhân dân bàn và quyết định. Nội dung chương này chia thành 3 mục,

gồm 9 điều (từ Điều 10 đến Điều 18), quy định những nội dung nhân dân bàn

và quyết định trực tiếp; hình thức nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; giá trị

thi hành đối với những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; những nội

dung nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định; hình thức

nhân dân bàn, biểu quyết; giá trị thi hành đối với những việc nhân dân bàn,

biểu quyết; việc công nhận những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết; trách

nhiệm của UBND cấp xã, Chủ tịch UBND cấp xã; trách nhiệm của Trưởng

thôn, Tổ trưởng tổ dân phố trong việc thực hiện những nội dung nhân dân bàn

và quyết định. Chương IV. Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước

Page 95: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

95

khi cơ quan có thẩm quyền quyết định gồm 4 điều (từ Điều 19 đến Điều 22),

trong đó quy định những nội dung nhân dân tham gia ý kiến; hình thức để

nhân dân tham gia ý kiến; trách nhiệm của chính quyền cấp xã về tổ chức

thực hiện những nội dung nhân dân tham gia ý kiến; trách nhiệm của cơ quan

có thẩm quyền cấp trên về tổ chức thực hiện những nội dung nhân dân cấp xã

tham gia ý kiến. Chương V. Những nội dung nhân dân giám sát gồm 4 điều

(từ Điều 23 đến Điều 26) quy định những nội dung nhân dân giám sát; hình

thức giám sát; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện

giám sát của nhân dân; lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch

HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã. Chương VI. Điều khoản thi

hành gồm 2 điều (Điều 27 và Điều 28) quy định hiệu lực thi hành và hướng

dẫn thi hành Pháp lệnh.

3.1.2. Những thành tựu, ưu điểm và tồn tại, hạn chế của pháp luật về dân

chủ ở cấp xã ở Việt Nam nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam

3.1.2.1. Những thành tựu, ưu điểm

Việc đánh giá những thành tựu, ưu điểm và cả những tồn tại, hạn chế

của hệ thống các văn bản QPPL về thực hiện dân chủ ở cấp xã ở nước ta hiện

nay cần phải xuất phát từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam. Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN là

tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách

nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ, đồng thời

tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Bởi vậy, để khẳng định bản chất dân chủ thực

sự của Nhà nước ta thì cần “quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự

phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con

người mà Việt Nam ký kết” [21, tr. 239]. Trong Nhà nước pháp quyền

XHCN, việc thực hiện dân chủ một cách thực chất sẽ đồng nghĩa với sự đảm

bảo tối đa các quyền con người được tôn trọng và bảo vệ; ngược lại, việc thực

hiện trên thực tế quyền con người sẽ xác lập và tạo dựng được một nền dân

Page 96: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

96

chủ bền vững. Như vậy, tạo dựng, thực hành dân chủ, bảo vệ quyền con

người là một yêu cầu, đòi hỏi tất yếu của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam.

Nhìn từ góc độ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, có

thể nói, việc Nhà nước ta xây dựng, ban hành các văn bản QPPL về thực hiện

dân chủ ở cấp xã là một phát kiến lớn, một phương thức hay, hữu hiệu nhằm

phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở một cách thực chất nhất. Với sự

ra đời của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (ban hành kèm theo Nghị định số

29/1998/NĐ-CP), lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, lập quy Nhà nước ta đã

tạo ra một công cụ pháp lý về thực hiện dân chủ, trao cho các tầng lớp nhân

dân ở xã, phường, thị trấn những quyền dân chủ thực sự. Đó là: 1) Quyền

được biết các nội dung liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân ở

cơ sở; 2) Quyền được bàn và quyết định trực tiếp, bàn và biểu quyết để cấp có

thẩm quyền quyết định đối với những vấn đề quan trọng của địa phương; 3)

Quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; 4)

Quyền giám sát đối với tất cả các nội dung mà nhân dân được công khai để

biết; được bàn và quyết định trực tiếp, được bàn và biểu quyết; được tham gia

ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định. Có thể nói, việc Quy chế

thực hiện dân chủ ở xã được ban hành và đi vào thực tiễn cuộc sống là một

chủ trương đúng đắn, kịp thời, hợp “ý Đảng, lòng dân”, đáp ứng yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nên đã tạo ra được bầu không khí dân chủ

thực sự, niềm tin tưởng trong nhân dân, được đông đảo các tầng lớp nhân dân

đồng tình và hưởng ứng nhiệt liệt.

Ngày 07/7/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2003/NĐ-CP về

việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (thay thế Nghị định số

29/1998/NĐ-CP). Về cơ bản, bản Quy chế này vẫn giữ nguyên những nội

dung cốt lõi về các quyền dân chủ của nhân dân đã được quy định trong Nghị

định 29/1998/NĐ-CP, chỉ có một số sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đi vào

thực chất hơn, cụ thể hơn cả về nội dung, hình thức, việc làm và đối tượng

thực hiện theo hướng tăng cường vai trò, trách nhiệm của bộ máy chính

Page 97: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

97

quyền cấp xã trong việc thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Trên thực

tế, Nghị định 79/2003/NĐ-CP là bước chuyển và chuẩn bị tiếp theo để nâng

Quy chế thực hiện dân chủ ở xã thành Pháp lệnh hoặc Luật theo chỉ đạo của

Ban Bí thư Trung ương Đảng nêu trong Chỉ thị số 10/CT-TW. Có thể coi đây

là ưu điểm, bước phát triển mới trong hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ

ở cấp xã, khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng và nỗ lực của Nhà nước ta

trong việc thúc đẩy nhân dân phát huy quyền làm chủ.

Ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh

Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, có hiệu lực thi hành từ ngày

01/7/2007. Pháp lệnh là bước phát triển tiếp theo, hoàn thiện hơn pháp luật về

thực hiện dân chủ ở cấp xã. So với Quy chế thực hiện dân chủ ở xã trước đây,

Pháp lệnh có những điểm mới, cũng là những ưu điểm sau đây:

- Pháp lệnh tập trung nhiều hơn vào những nội dung quan trọng, thiết

thực đối với người dân ở cơ sở, không còn những nội dung như Nghị quyết

của HĐND xã, sơ kết, tổng kết hoạt động của HĐND, UBND xã.

- Pháp lệnh quy định chi tiết và cụ thể hơn nhiều về các hình thức thực

hiện dân chủ ở cấp xã cũng như vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và cá

nhân trong hệ thống cơ quan công quyền cấp xã.

- Pháp lệnh quy định rõ ràng, cụ thể về “Giá trị thi hành” của những

quyết định, biểu quyết của người dân - điều không có trong Quy chế thực hiện

dân chủ ở xã năm 1998 và Quy chế thực hiện dân chủ ở xã năm 2003.

Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là một công cụ

pháp lý mạnh để đảm bảo tính dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động

của bộ máy chính quyền cấp xã, phát huy các quyền dân chủ của nhân dân,

thúc đẩy sự tham gia chủ động, tích cực hơn của người dân vào đời sống

chính trị - xã hội ở cơ sở, bảo vệ các quyền con người. Đây là những giá trị

mà các tổ chức xã hội dân sự thường hay đề cao và vận động thực hiện; đồng

thời, là một trong những tiêu chí cốt lõi của Nhà nước pháp quyền XHCN.

Bản chất của thực hiện dân chủ chính là bảo vệ quyền con người; việc thực

hiện quyền con người lại là minh chứng khẳng định sự tồn tại của dân chủ và

Page 98: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

98

nó chỉ có thể được đảm bảo trong một xã hội dân chủ. Những kết quả tích cực

của việc thực hiện dân chủ ở cấp xã ở nước ta trong thời gian qua cho thấy

việc đảm bảo quyền con người ở nước ta ngày càng tiến bộ. Có được những

thành tựu đó là do Đảng ta đã có sự lãnh đạo, định hướng đúng đắn, Nhà nước

ta đã kịp thời xây dựng, ban hành và ngày càng hoàn thiện hệ thống văn bản

QPPL về thực hiện dân chủ ở cấp xã, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN.

3.1.2.2. Những tồn tại, hạn chế

Nhìn từ góc độ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam,

Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng đang bộc lộ những

tồn tại, hạn chế nhất định, như:

- Pháp lệnh không quy định thẩm quyền, chức năng của các cấp cao

hơn trong việc theo dõi, kiểm tra và đánh giá việc chính quyền cấp xã triển

khai THPL về dân chủ ở cấp xã như thế nào, có đúng quy định pháp luật

không. Hạn chế này có thể dẫn đến hai trạng thái đối lập nhau trong hoạt động

kiểm tra, đánh giá: hoặc là chính quyền cấp xã được nhiều cơ quan cấp trên

“thăm hỏi” thường xuyên bởi họ tự cho mình cái quyền kiểm tra, đánh giá;

hoặc là hoạt động kiểm tra, đánh giá việc chính quyền cấp xã triển khai THPL

về dân chủ ở cấp xã bị “rơi vào quên lãng” vì cơ quan cấp trên nào cũng nghĩ

“không thuộc trách nhiệm của mình”. Bất luận thế nào thì điều đó cũng ảnh

hưởng tiêu cực đến hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã.

- Ngoài MTTQ và các tổ chức thành viên, Pháp lệnh không đề cập đến

sự giám sát độc lập việc thực hiện dân chủ ở cấp xã bởi các tổ chức xã hội

dân sự khác. Hạn chế này có thể làm phát sinh tình trạng dung túng, bao che

lẫn nhau giữa các cơ quan, tổ chức đó mà không bị phát hiện, xử lý kịp thời.

- Pháp lệnh không đề cập đến tính chịu trách nhiệm của các chủ thể cụ

thể liên quan đến hệ quả của việc tuân thủ hoặc không tuân thủ pháp luật về

thực hiện dân chủ ở cấp xã; không quy định các biện pháp cụ thể có thể áp

dụng để xử lý các vi phạm pháp luật liên quan đến công tác thực hiện dân chủ

ở cấp xã. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc phát hiện và xử lý các hành

Page 99: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

99

vi vi phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã còn chậm trễ, bị động,

chưa nghiêm minh và thiếu sự răn đe cần thiết. Trong khi đó, tình trạng vi

phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã vẫn diễn ra, như các quyền dân

chủ của nhân dân có lúc. có nơi vẫn bị vi phạm; còn có hiện tượng né tránh,

không thực hiện hoặc làm trái các quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã;

còn có hiện tượng đe dọa, trù dập người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị có liên

quan đến việc thực hiện dân chủ ở cấp xã...

- Nguồn kinh phí chi cho hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã vẫn là

một vấn đề còn để ngỏ, chưa được đề cập cụ thể trong Pháp lệnh Thực hiện

dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Trong khi đó, nếu điều kiện kinh tế không cho

phép, nguồn chi ngân sách nhà nước cho công tác THPL, gồm cả THPL về

dân chủ ở cấp xã, còn khó khăn, eo hẹp hoặc không được cấp thì hoạt động

THPL về dân chủ ở cấp xã khó mà đạt được kết quả như mong muốn.

- Pháp lệnh cũng không đề cập đến việc nâng cao nhận thức, tập huấn

các chuyên đề pháp luật hoặc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ

năng nghiệp vụ thực thi pháp luật cho đội ngũ CBCC cấp xã, Trưởng thôn, Tổ

trương Tổ dân phố - những chủ thể đóng vai trò quyết định trong việc thực

hiện có hiệu quả Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, như Chủ

tịch UBND xã, người đứng đầu các tổ chức, đoàn thể nhân dân.v.v. Nguồn

nhân lực chất lượng thấp sẽ là lực cản, trở ngại lớn đối với việc triển khai có

hiệu quả hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã. Việc thực hiện theo kiểu hình

thức, đối phó khó mà tránh được.

Cũng từ những tồn tại, hạn chế trong các văn bản QPPL về thực hiện

dân chủ ở cấp xã nên những hạn chế, bất cập trong công tác THPL về dân chủ

ở cấp xã trong những năm qua cũng không phải là nhỏ; vẫn còn tình trạng vi

phạm các quyền dân chủ của nhân dân. Có một thực tế là ở nhiều nơi việc

THPL về dân chủ ở cấp xã còn mang tính hình thức; nhận thức của các cấp ủy

Đảng, chính quyền và các CBCC cấp xã còn hạn chế và thụ động, vai trò tiên

phong gương mẫu của một số CBCC, đảng viên trong THPL về dân chủ ở cấp

xã chưa cao.

Page 100: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

100

3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ

THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ

NGHĨA Ở NƯỚC TA TỪ NĂM 1998 ĐẾN NAY

Việc đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của một vấn đề, sự

kiện, hiện tượng xã hội nhất định, trong đó có vấn đề THPL về dân chủ ở cấp

xã, luôn đòi hỏi, bên cạnh cơ sở lý luận, phải có những luận cứ thực tiễn.

Luận cứ thực tiễn sẽ giúp cho việc phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên

nhân của vấn đề mang tính đúng đắn, khách quan và khoa học, tránh được sự

suy diễn chủ quan, duy ý chí. Theo nguyên tắc đó, để tìm kiếm luận cứ thực

tiễn cho việc đánh giá đúng thực trạng THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta

trong những năm qua, tác giả luận án đã sử dụng phương pháp ĐTXHH thông

qua việc tiến hành xây dựng, phát ra, thu về và xử lý số liệu các Phiếu thu

thập ý kiến: Mẫu phiếu dành cho cán bộ, công chức cấp xã (phát ra 1000

phiếu, thu về 967 phiếu) và Mẫu phiếu dành cho nhân dân ở xã, phường, thị

trấn (phát ra 1500 phiếu, thu về 1389 phiếu) tại 102 xã, phường, thị trấn ở 53

quận, huyện, thành phố, thị xã thuộc 19 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

với các câu hỏi liên quan tới các khía cạnh khác nhau của hoạt động THPL

về dân chủ ở cấp xã. Sở dĩ cần tới hai mẫu phiếu với hai đối tượng khảo sát

khác nhau là để tác giả có thể so sánh, đối chiếu ý kiến của hai đối tượng này

trước cùng một vấn đề., qua đó khẳng định độ tin cậy của kết quả thu được.

Cuộc ĐTXHH có mục đích phục vụ trực tiếp cho việc viết luận án, bởi vậy,

các bảng số liệu và từng số liệu cụ thể được sử dụng trong luận án này, nếu

không có sự dẫn nguồn cụ thể, thì có nghĩa đó là các bảng số liệu và số liệu

được khai thác từ cuộc ĐTXHH do chính tác giả luận án thực hiện. Các mẫu

phiếu thu thập ý kiến và kết quả xử lý phiếu được trình bày ở phần Phụ lục.

Dưới góc độ khoa học Lý luận nhà nước và pháp luật, THPL nói chung,

THPL về dân chủ ở cấp xã nói riêng có bốn hình thức cơ bản là: tuân theo

pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Do đó,

việc đánh giá những thành tựu, kết quả đạt được trong THPL về dân chủ ở

cấp xã, về nguyên tắc, nhất thiết phải dựa trên các hình thức cơ bản đó.

Page 101: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

101

Trong bốn hình thức THPL nêu trên, tuân theo pháp luật trong THPLvề dân chủ ở cấp xã là hình thức THPL, trong đó, các chủ thể pháp luật tựkiềm chế để không thực hiện những hành vi, hoạt động mà pháp luật về dânchủ ở cấp xã nghiêm cấm, không cho phép thực hiện. Đó là những hành vi bịnghiêm cấm quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn. Việc quy định các hành vi bị nghiêm cấm là nhằm đảm bảocho pháp luật về dân chủ ở cấp xã được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm

túc; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của các cánhân. Nếu cá nhân nào đó thực hiện các hành vi bị nghiêm cấm nói trên,

nghĩa là không tuân thủ pháp luật về dân chủ ở cấp xã, thì có thể bị xử lý theoluật định. Tuân theo pháp luật về dân chủ ở cấp xã chưa làm phát sinh quanhệ pháp luật.

Nhìn chung, tất cả các chủ thể có liên quan đến hoạt động THPL về dânchủ ở cấp xã đều có ý thức cao trong việc tôn trọng, tuân thủ pháp luật vềthực hiện dân chủ ở cấp xã. Trong báo cáo về tình hình thực hiện dân chủ ởxã, phường, thị trấn của các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương cũng nhưtrong Kết luận của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW củaBộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở đềukhông ghi nhận trường hợp nào bị xử lý hành chính hay xử lý trách nhiệmhình sự về những hành vi có liên quan đến THPL về dân chủ ở cấp xã. Vì

vậy, luận án chỉ tập trung đánh giá thực trạng THPL ở nước ta trên ba

phương diện: chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.3.2.1. Những thành tựu, kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về

dân chủ ở cấp xã ở nước ta

3.2.1.1. Trên phương diện thi hành pháp luật

Trong hình thức thi hành pháp luật, các chủ thể pháp luật thực hiện

trách nhiệm, nghĩa vụ pháp lý của mình bằng những hành động tích cực được

quy định trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Hình thức

này được thực hiện đối với những điều luật quy định về nguyên tắc và trách

nhiệm thực hiện dân chủ ở cấp xã, như Điều 3, Điều 9, Điều 17, Điều 18...

Trách nhiệm chung thuộc về HĐND, UBND cấp xã phối hợp với MTTQ Việt

Page 102: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

102

Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp. Trách nhiệm cụ thể đối với những

công việc cụ thể, như công khai thông tin, tổ chức họp thôn, họp tổ dân phố...

thuộc về UBND cấp xã, Chủ tịch UBND cấp xã. Nhìn trên phương diện thi

hành pháp luật, công tác THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta trong những

năm qua đã đạt được những thành tựu, kết quả sau đây:

a) Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện dân chủ ởcấp xã: Một trong những công việc đầu tiên mà chính quyền cấp xã có trách

nhiệm thực hiện trong chấp hành pháp luật là triển khai tuyên truyền, phổbiến pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã. Nhìn chung, chính quyền cấp xã

trên phạm vi cả nước đều đã nhanh chóng triển khai công tác phổ biến, tuyên

truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho các tầng lớp nhân dân trên

địa bàn xã, phường, thị trấn. Điều này đã được 96.28% CBCC cấp xã và

92.51% người dân tham gia cuộc ĐTXHH khẳng định [xem: Phụ lục 3 và 5].

Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấpxã cho các tầng lớp nhân dân được chính quyền xã thực hiện bằng các hình

thức chủ yếu: niêm yết văn bản luật tại các Nhà văn hóa thôn, trụ sở UBND

xã (61.53% CBCC cấp xã và 55.36% người dân tham gia trả lời bảng hỏi ghinhận hình thức này); phổ biến, tuyên truyền qua hệ thống truyền thanh củaxã, phường, thị trấn (68.77% và 66.52%); tổ chức các cuộc họp dân theothôn, tổ dân phố để phổ biến, tuyên truyền (73.94% và 67.96%). Như vậy, các

hình thức phổ biến, tuyên truyền nêu trên đều được CBCC cấp xã và ngườidân tham gia cuộc khảo sát ghi nhận với tỷ lệ tương đối cao, từ 55.36% trởlên; cao nhất là 73.94%. Chiếm tỷ lệ thấp nhất là hình thức phát miễn phí tài

liệu pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho từng gia đình với 28.95%

CBCC cấp xã và 25.05% người dân ghi nhận hình thức này [xem Phụ lục 3 và

5]. Chẳng hạn, trên địa bàn thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa:

Việc phổ biến, quán triệt, học tập nội dung Chỉ thị, Nghị định, Pháplệnh từ thành phố đến các đơn vị, cơ sở được thực hiện bằng nhiều hình

thức, như mở các lớp tập huấn cho báo cáo viên, tuyên truyền viên,

tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh, trực tiếp bằng văn bản và

thông qua các hội nghị để triển khai. Kết quả có 37/37 phường, xã và

Page 103: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

103

418/418 phố, thôn triển khai thực hiện Pháp lệnh với trên 85% hộ dânvà trên 90% cán bộ, đảng viên được tiếp thu [xem: 15].

b) Về nhận thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã: Kết

quả triển khai công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ

ở cấp xã đã giúp nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của đội ngũ

CBCC cấp xã; ý thức pháp luật của nhân dân cũng được nâng lên ở những

mức độ nhất định. Nhận thức của đội ngũ CBCC cấp xã và nhân dân các xã,

phường, thị trấn về vai trò của việc THPL về lĩnh vực này đã có sự chuyển

biến mạnh mẽ và từng bước được nâng cao. Theo kết quả ĐTXHH của tác giả,

đại đa số CBCC cấp xã (827/967 người, chiếm 90.18%) được hỏi trả lời rằng,

họ đã được tham dự các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên đề pháp luật về thực

hiện dân chủ ở cấp xã mỗi khi có văn bản QPPL về lĩnh vực này được ban

hành; từ đó, họ đều đánh giá rằng, việc THPL về dân chủ ở cấp xã có vai trò

rất quan trọng (77.56%) và quan trọng (21.61%) đối với việc phát huy quyền

làm chủ của nhân dân địa phương (tổng cộng là 99.17%). Về phía nhân dân ở

xã, phường, thị trấn cũng có tới 1242/1389 người được hỏi (chiếm 89.42%)

trả lời là họ có được biết đến các văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ ở

cấp xã mỗi khi có văn bản QPPL về lĩnh vực này được ban hành. Người dân

cũng cho rằng, việc THPL về dân chủ ở cấp xã có vai trò rất quan trọng

(72.42%) và quan trọng (24.05%) đối với việc phát huy quyền làm chủ của

nhân dân địa phương (tổng cộng là 96.47%) [xem: Phụ lục 3 và 5]. Như vậy,

kết quả trả lời của CBCC cấp xã và nhân dân có sự đồng thuận tương đối cao,

cho thấy độ tin cậy cao của thông tin thu được.

Tầm quan trọng của việc THPL về dân chủ ở cấp xã được đại đa số

CBCC cấp xã và nhân dân tham gia cuộc khảo sát nhìn nhận trên các phương

diện: Góp phần mở rộng dân chủ, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của

nhân dân (CBCC cấp xã: 82.21% và nhân dân: 75.88%); Thúc đẩy tiến trình

đổi mới hoạt động của cấp ủy đảng, chính quyền cấp xã (55.33% và 64.15%);

Thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự

an toàn xã hội trên địa bàn cơ sở (64.22% và 80.27%); Góp phần đấu tranh

Page 104: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

104

phòng chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, các hiện tượng tiêu cực khác,

xây dựng bộ máy chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh (71.96% và

65.37%); Đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

(79.63% và 77.39%) [xem: Phụ lục 3 và 5].

Theo kết quả ĐTXHH, việc chính quyền cấp xã chủ động, tích cực

tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã đã góp phần

nâng cao hiểu biết pháp luật của nhân dân về lĩnh vực này. Trả lời câu hỏi

đánh giá về mức độ hiểu biết của nhân dân đối với các nội dung của pháp luật

về thực hiện dân chủ ở cấp xã, 26.37% người dân cho rằng họ nắm bắt được

phần lớn nội dung của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã; 34.56% người

dân nói họ nắm bắt được những nội dung chính của pháp luật về thực hiện

dân chủ ở cấp xã; 27.50% khẳng định là chỉ nắm bắt được một số nội dung mà

nhân dân được bàn và quyết định, tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm

quyền quyết định hoặc được giám sát; 13.54% chỉ nắm được một số ít nội

dung mà nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp; còn lại, chỉ có 03.38%

người dân được hỏi hầu như không nắm được nội dung của pháp luật về thực

hiện dân chủ ở cấp xã [xem: Phụ lục 3 và 5].

c) Chính quyền cấp xã còn có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc niêm

yết, thông báo những nội dung công khai để nhân dân biết. Kết quả ĐTXHH

cho thấy đại đa số CBCC cấp xã (88.00%) và người dân (83.73%) khẳng định

rằng, chính quyền cấp xã đã thực hiện việc niêm yết, thông báo những nội

dung công khai để nhân dân biết ở mức độ tốt và khá [xem Phụ lục 3 và 5].

Một cán bộ xã giải thích về việc này: “UBND xã đã gắn việc THPL về dân

chủ ở cấp xã với công tác cải cách thủ tục hành chính, đã niêm yết công khai,

kịp thời, đầy đủ các thủ tục hành chính, nhiều công việc của dân đã được giải

quyết nhanh gọn, được đa số nhân dân đồng tình”. Về phía nhân dân: “Những

nội dung công khai để dân biết được chính quyền để đúng nơi quy định, dễ

đọc, dễ nhìn, hình thức công khai được lồng ghép nhiều qua các cuộc họp

dân, những thắc mắc của dân đều được cán bộ giải thích rõ”. Minh chứng cho

điều này, có thể tham khảo thêm Kết luận của Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế

Page 105: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

105

dân chủ tỉnh Bắc Ninh: “Những nội dung công khai cho nhân dân biết đã

được chính quyền cấp xã thực hiện nghiêm túc, nhân dân đã được biết những

chủ trương, chính sách, chương trình, dự án triển khai ở địa phương” [5].

3.2.1.2. Trên phương diện sử dụng pháp luật

Sử dụng pháp luật là hình thức phổ biến trong thực hiện các quy phạm

pháp luật quy định về các quyền tự do dân chủ của công dân. Chủ thể của

hình thức sử dụng pháp luật là đông đảo các tầng lớp nhân dân trên địa bàn

xã, phường, thị trấn. Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trao

cho nhân dân thực hiện các quyền được biết, quyền được quyết định, quyền

được tham gia ý kiến và quyền giám sát đối với tất cả các nội dung mà họ

được công khai để biết. Nhìn trên phương diện sử dụng pháp luật, hoạt động

THPL về dân chủ ở cấp xã tại các địa phương ở nước ta đã đạt được những

kết quả cụ thể sau đây:

- Do chính quyền cấp xã thực hiện tốt trách nhiệm thông báo, niêm yết

những nội dung công khai để nhân dân biết theo quy định của pháp luật nên

nhìn chung các tầng lớp nhân dân đã sử dụng tương đối tốt quyền được biết

những vấn đề, nội dung liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân.

Chính quyền cấp xã đã niêm yết công khai các loại văn bản, thông tin về các

nguồn thu, các khoản đóng góp của dân, thủ tục hành chính... tại các Nhà văn

hóa thôn và trụ sở UBND xã, tổ chức các cuộc họp dân theo thôn, tổ dân phố

để người dân dễ dàng, thuận tiện trong việc tiếp cận thông tin.

Khi đã được công khai thông tin, có những kiến thức về pháp luật thực

hiện dân chủ ở cấp xã, phần lớn người dân xã, phường, thị trấn đã có ý thức

cao, tích cực hưởng ứng, nhiệt tình tham gia thực hiện pháp luật về dân chủ ở

cấp xã. Kết quả ĐTXHH cho thấy, có 35.71% người dân được hỏi cho rằng

đại đa số (trên 80%) người dân có ý thức cao, nhiệt tình; 40.39% nhận định là

phần lớn (trên 50% đến dưới 80%) người dân có ý thức cao, nhiệt tình tham

gia THPL về dân chủ ở cấp xã; tổng cộng là 76.10% [xem: Phụ lục 3 và 5].

- Đối với việc sử dụng quyền được bàn và quyết định theo quy định của

pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã, nhân dân các địa phương ở nước ta

Page 106: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

106

đã thực hiện khá tốt; thể hiện ở chỗ, có 88.01% CBCC cấp xã và 81.07%

người dân tham gia trả lời phiếu thu thập ý kiến đã khẳng định mức độ “tốt”

và “khá” [xem: Phụ lục 3 và 5]. Trên địa bàn xã, phường, thị trấn, những việc

nhân dân bàn và quyết định trực tiếp gồm có: mức đóng góp xây dựng cơ sở

hạ tầng, lập và thu chi các loại quỹ, quy ước, hương ước làng xã văn hóa, dồn

điền đổi thửa đất nông nghiệp, thành lập Ban Giám sát công trình do dân tự

nguyện đóng góp và bảo vệ sản xuất... Các hình thức thực hiện những nội

dung công việc nêu trên đã được thực hiện nghiêm túc bằng cách người dân

tham dự họp thôn, làng, tổ dân phố hoặc trả lời phiếu lấy ý kiến các hộ gia

đình; tạo được sự thống nhất cao và thực hiện có kết quả trên thực tế.

Sở dĩ nhân dân thực hiện tương đối tốt quyền được bàn và quyết định

được đại đa số CBCC và nhân dân tham gia cuộc điều tra đánh giá ở mức độ

khá tốt là vì, như lời giải thích của một công chức cấp xã: “Các cấp ủy Đảng,

chính quyền địa phương luôn tôn trọng quyền dân chủ của nhân dân, công

việc có liên quan đến quyền và lợi ích của nhân dân đều được đưa ra để dân

bàn và quyết định”. Chia sẻ với ý kiến của công chức xã, một người dân có ý

kiến: “Đối với nội dung nhân dân bàn và quyết định thì UBND xã đã tổ chức

họp dân, đưa ra để nhân dân tham gia ý kiến và quyết định, như việc thu các

khoản đóng góp của dân, kế hoạch xây dựng giao thông nông thôn”. Trên

thực tế, nhiều địa phương cũng đã thực hiện tốt những nội dung nhân dân bàn

và quyết định, như ở thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa:

Nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng

góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng ở

phường, xã, phố, thôn như: nâng cấp hệ thống điện, đường, trường,

trạm, xây dựng nhà văn hoá, đóng góp các loại quỹ, tham gia xây dựng

quy ước, hương ước phố, làng văn hoá, xây dựng nếp sống văn minh

trong việc cưới, tang và lễ hội, phòng chống tệ nạn xã hội và các công

việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư [xem: 15].

- Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm

quyền quyết định cũng đã được đa số nhân dân ở xã, phường, thị trấn quan

Page 107: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

107

tâm và thực hiện khá tốt. Điều này được 84.28% CBCC cấp xã và 78.18%

người dân trả lời phiếu điều tra xác nhận [xem: Phụ lục 3 và 5]. Các nội dung

nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định bao

gồm: dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của xã; phương án chuyển

đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; phương án phát triển ngành nghề; dự thảo

quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh; việc quản

lý, sử dụng quỹ đất của xã; chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng

mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng... Hình thức thực hiện các nội dung nhân

dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định đã được

chính quyền cấp xã triển khai chủ yếu bằng cách: họp đại diện hộ gia đình

theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; phát phiếu lấy ý kiến và sử dụng hòm thư

góp ý. Chẳng hạn, ở các tỉnh khu vực Tây Nguyên:

Những nội dung dân bàn, tham gia ý kiến để cấp có thẩm quyền quyết

định chủ yếu bao gồm: xây dựng quy ước, hương ước, bầu, miễn

nhiệm, bãi nhiệm trưởng thôn, bản, tổ trưởng dân phố, thành viên ban

thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư cộng đồng; dự thảo kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch kế hoạch sử dụng đất, phương án

đền bù hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng khu tái định cư... đều

được cán bộ thôn, buôn, tổ dân phố phối hợp với chính quyền thực hiện

qua các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND các cấp, họp thôn bản,

tổ dân phố hoặc qua hòm thư góp ý một cách hiệu quả [xem: 28].

Về cơ bản, chính quyền địa phương tôn trọng ý kiến của người dân ở

cơ sở, lấy ý kiến đóng góp của đa số, thảo luận qua nhiều lần mới đi đến

quyết định. Nhân dân các địa phương tích cực đóng góp ý kiến về những vấn

đề quan trọng của địa phương, tạo cơ sở để cấp có thẩm quyền đưa ra quyết

định đúng, hợp lòng dân. Những việc có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của

người dân, đến đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương đều được đưa ra để dân

bàn bạc nhằm tạo sự đồng thuận trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định.

- Đối với việc sử dụng quyền giám sát, phần lớn nhân dân ở các địa

phương đã thực hiện quyền giám sát theo quy định của pháp luật về dân chủ ở

Page 108: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

108

cấp xã ở mức độ “tốt” và “khá”. Điều này được ghi nhận bởi 79.63% CBCC

cấp xã và 71.49% người dân tham gia trả lời phiếu thu thập ý kiến [xem: Phụ

lục 3 và 5]. Nhân dân thực hiện việc giám sát những nội dung đó theo các

hình thức: thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát

đầu tư của cộng đồng hoặc trực tiếp thực hiện việc giám sát thông qua quyền

khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc kiến

nghị thông qua Ủy ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận

cấp xã, Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Như ở

thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa:

Nhân dân được tham gia giám sát việc quản lý quy hoạch sử dụng đất

đai, về triển khai các dự án, chế độ chính sách đền bù giải phóng mặt

bằng, chế độ quản lý tài chính, quyết toán thu chi ngân sách, các khoản

đóng góp của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của địa phương...

Nhờ đó quyền dân chủ được phát huy, ý thức trách nhiệm và tinh thần

làm chủ của nhân dân được nâng lên, việc huy động sức dân để đầu tư

phát triển kinh tế xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị được triển

khai thuận lợi... [xem: 15].

Theo ghi nhận và phản ánh của đội ngũ CBCC cấp xã và những người

dân tham gia cuộc ĐTXHH, nhân dân tham gia giám sát ở hầu hết các lĩnh

vực của đời sống kinh tế - xã hội tại địa phương. Việc thực hiện quyền giám

sát của nhân dân được triển khai thực hiện nghiêm túc, như giám sát việc xây

dựng cơ sở hạ tầng, đường giao thông, chợ, nhà văn hóa thôn... Thông qua

hoạt động giám sát, nếu phát hiện có những trường hợp sai phạm như xây nhà

trái phép, gây ô nhiễm môi trường..., nhân dân đều làm đơn phản ánh hoặc

trực tiếp báo cáo ngay với UBND xã, phường, thị trấn. Những phản ánh, kiến

nghị của người dân đã được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết.

3.2.1.3. Trên phương diện áp dụng pháp luật

- Sau khi Quy chế thực hiện dân chủ ở xã và Pháp lệnh Thực hiện dân

chủ ở xã, phường, thị trấn được ban hành và có hiệu lực thi hành, Tỉnh ủy,

UBND, HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên cả nước đều

Page 109: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

109

nhận thức đúng đắn vai trò, tầm quan trọng của việc THPL về dân chủ ở cấp

xã, đã xây dựng, ban hành nhiều loại văn bản (nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch,

quyết định) để triển khai thực hiện có hiệu quả pháp luật về dân chủ ở cấp xã.

Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở các cấp từ Trung ương cho

đến cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã trên phạm vi cả nước đã được thành lập,

gồm các thành viên đại diện cho các cơ quan, ban, ngành có liên quan, MTTQ

và các đoàn thể nhân dân. Ban Chỉ đạo các cấp đã thường xuyên đôn đốc,

kiểm tra việc THPL về dân chủ ở cấp xã một cách sâu sát, cụ thể và bằng

những biện pháp hữu hiệu; nhờ đó, hoạt động THPL về dân chủ ở xã, phường,

thị trấn trên phạm vi cả nước nói chung, từng địa phương nói riêng đã đạt

được những thành tựu, kết quả quan trọng trên nhiều phương diện.

- Trong THPL về dân chủ ở cấp xã, hình thức áp dụng pháp luật được

thực hiện đối với những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm

quyền quyết định. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật theo quy định của

Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn gồm UBND cấp huyện,

UBND cấp xã, Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã. Nhìn trên phương diện này,

việc áp dụng pháp luật cũng đạt được những kết quả quan trọng:

+ Các UBND cấp huyện trên cả nước, theo thẩm quyền, đã ra quyết

định công nhận hương ước, quy ước của thôn, buôn, tổ dân phố sau khi được

nhân dân địa phương bàn, biểu quyết và được trên 50% tổng số cử tri hoặc cử

tri đại diện hộ gia đình trong thôn, buôn, tổ dân phố tán thành. Nội dung các

hương ước, quy ước tập trung vào việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa

truyền thống tốt đẹp của địa phương, đề cao tinh thần đoàn kết, tương thân

tương ái, bảo vệ môi trường và tài sản công, đề ra các biện pháp bảo vệ trật tự

kỷ cương xã hội, phát triển sản xuất, khuyến học... Việc xây dựng, ban hành

hương ước, quy ước thôn, buôn được thực hiện chặt chẽ, đúng quy trình.

Chẳng hạn, “Từ năm 1998 đến nay, UBND cấp huyện trên địa bàn các tỉnh

Tây Nguyên đã phê chuẩn được hơn 5.133/7.334 quy ước thôn, buôn đúng

quy trình (riêng tỉnh Gia Lai có 1/989/2.132 bản hương ước, quy ước, chiếm

93%; Đắk Nông có 735/742 bản quy ước đã được xây dựng)” [29, tr. 123].

Page 110: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

110

+ UBND cấp huyện trên cả nước cũng đã triển khai hướng dẫn thực

hiện Thông tư số 04/2012/TT-BNV ngày 31/8/2012 của Bộ Nội vụ Hướng

dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố đến các xã, phường, thị trấn;

chỉ đạo chính quyền cấp xã trong việc lựa chọn nhân sự, thực hiện quy trình

bầu Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố bảo đảm công khai, dân chủ, đúng

pháp luật. UBND cấp xã đã kịp thời ra quyết định công nhận đối với việc bầu,

miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố sau khi nhân dân

địa phương bàn, biểu quyết và được trên 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại

diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố tán thành.

+ Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã, theo quy định của pháp luật, đã kịp

thời ra quyết định công nhận đối với việc bầu, bãi nhiệm thành viên Ban

Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Đến nay, tại hầu

khắp các thôn, buôn, tổ dân phố trên cả nước đã có Ban Thanh tra nhân dân,

Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng.

- Hiệu ứng tích cực của việc thực hiện khá tốt những nội dung pháp luật

về thực hiện dân chủ ở cấp xã đã được lan tỏa. Dưới tác động của việc triển

khai THPL về dân chủ ở cấp xã, hoạt động của các cấp ủy Đảng, chính

quyền, MTTQ, đoàn thể nhân dân các địa phương và lề lối làm việc của đội

ngũ CBCC cấp xã trên địa bàn cả nước đã dần đi vào nề nếp, ổn định và tuân

theo các quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Các xã, phường, thị trấn đã căn

cứ vào pháp luật cũng như tình hình, điều kiện thực tế của từng địa phương

tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới các quy chế, quy định

liên quan đến việc thực hiện dân chủ ở cấp xã theo từng lĩnh vực cụ thể; tập

trung vào các hoạt động chính ở cơ sở, như Quy chế làm việc của Đảng ủy,

HĐND, UBND, MTTQ cấp xã; Quy chế quản lý, sử dụng đất đai, tài chính,

xây dựng cơ bản; Quy chế giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ môi trường, quản lý

giao thông, sử dụng điện ở các xã thôn; Quy chế tiếp dân và giải quyết đơn

thư khiếu nại, tố cáo của công dân; Quy chế thực hiện “cơ chế một cửa” về

giải tỏa mặt bằng làm đường giao thông; xây dựng hương ước, quy ước làng

văn hóa; Quy định về việc cưới, việc tang... Như ở tỉnh Thái Bình:

Page 111: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

111

Hiện nay, trên 60% số xã, phường, thị trấn có từ 11 đến 15 bản quy

chế, quy định, gần 40% có trên 15 văn bản, cá biệt có nơi xây dựng trên

20 quy chế, quy định. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo các ban,

ngành, đoàn thể của tỉnh ban hành quy chế mẫu hướng dẫn cơ sở cụ thể

hóa thành các quy chế, quy định cụ thể tại địa phương trong toàn tỉnh

[78, tr. 82].

3.2.1.4. Nguyên nhân của những thành tựu, kết quả đạt được

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước đã đưa ra được đường lối, chính sách

pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã đúng đắn, kịp thời, hợp lòng dân.

Đưa ra để thăm dò ý kiến của CBCC cấp xã và các tầng lớp nhân dân ở xã,

phường, thị trấn tại 19 tỉnh/thành phố ở nước ta, nguyên nhân này nhận được

sự đồng tình của 80.35% CBCC cấp xã và 76.02% người dân [xem: Phụ lục 3

và 5]. Đảng ta đã chỉ rõ: muốn phát huy sức mạnh to lớn và sự sáng tạo của

quần chúng nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì nhất

thiết phải tạo ra được những thể chế, chủ trương, chính sách phù hợp để phát

huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi

quyền làm chủ của người dân được tôn trọng và bảo đảm thì sẽ tạo nên nền

tảng vững chắc để các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp

luật của Nhà nước được thực hiện có hiệu quả trong thực tế. Muốn thực hiện

được điều đó, việc dân chủ hóa mọi hoạt động của Đảng, của cả hệ thống

chính trị nhằm tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia quản lý các

công việc của nhà nước và xã hội, đóng góp trí tuệ và vật chất để xây dựng,

bảo vệ đất nước là một quan điểm hết sức đúng đắn, sáng suốt. Phương châm

“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được thể hiện trong nhiều văn

kiện, nghị quyết của Đảng và được Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật.

Việc ban hành Chỉ thị của Đảng, các Nghị định, Pháp lệnh của Nhà

nước chính là để tiếp tục mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ

của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước; thực hiện tốt phương

châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” nhằm phát huy

quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý, kiểm soát nhà

Page 112: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

112

nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham

nhũng đang xảy ra ở nhiều nơi trên đất nước ta; qua đó, xây dựng bộ máy

chính quyền cấp xã ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực,

hiệu quả; góp phần to lớn vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

Việt Nam. Việc Đảng, Nhà nước ta đưa ra được đường lối, chính sách pháp

luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã đúng đắn, kịp thời, hợp lòng dân đã tạo ra

bầu không khí dân chủ trong xã hội, được đông đảo các tầng lớp nhân dân

đồng tình, ủng hộ; nhờ đó, đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả quan trọng.

Thứ hai, sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt của các cấp ủy Đảng,

chính quyền các cấp. Nguyên nhân này được 59.88% CBCC cấp xã và

69.62% người dân tham gia cuộc ĐTXHH ghi nhận [xem: Phụ lục 3 và 5].

Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về thực hiện Quy chế dân

chủ, cho đến nay, 100% đơn vị hành chính từ cấp tỉnh, cấp huyện cho đến cấp

xã trên toàn quốc đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở;

thường xuyên bổ sung, kiện toàn thành viên và phân công nhiệm vụ cụ thể

cho từng thành viên phù hợp với sự biến động, thay đổi nhân sự của địa

phương. Phần lớn Đảng bộ, chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện trên toàn quốc

đã quán triệt đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa, vai trò của việc THPL về dân chủ ở cấp

xã và lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, sát sao quá trình THPL; thể chế hóa kịp

thời, đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về thực hiện

dân chủ ở cấp xã. Như ở tỉnh Quảng Nam:

Sau khi tiếp thu Chỉ thị 30/CT-TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị

về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Ban Thường vụ

Tỉnh ủy Quảng Nam đã ban hành Quyết định số 350-QĐ/TU ngày

14/9/1998 về thành lập Ban Chỉ đạo triển khai thực hiện Quy chế dân

chủ ở cơ sở, theo đó ở các huyện, thành phố, các cơ quan, đơn vị đều

thành lập Ban Chỉ đạo do đồng chí cấp uỷ hoặc lãnh đạo chủ chốt chính

quyền làm trưởng ban, có sự tham gia của Mặt trận, các đoàn thể; đồng

thời xây dựng kế hoạch thực hiện quy chế dân chủ ở địa phương, đơn

vị; nội dung, hình thức, biện pháp được cụ thể hoá sát hợp với tình hình

Page 113: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

113

thực tế, tạo ra sự đồng thuận trong cán bộ và nhân dân để triển khai

thực hiện [xem: 65].

Bên cạnh đó, cấp ủy Đảng, chính quyền cấp xã ở nhiều nơi đã nhận

thức sâu sắc vai trò của hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã đối với việc

phát huy các quyền dân chủ của nhân dân nên đã triển khai và thực hiện

nghiêm túc, tích cực sự chỉ đạo của cấp trên.

Thứ ba, sự vào cuộc mạnh mẽ, tâm huyết của đội ngũ CBCC cấp xã. Ở

cấp xã, đội ngũ CBCC là lực lượng nòng cốt, đi tiên phong trong công tác

tuyên truyền, tổ chức, hướng dẫn, vận động các tầng lớp nhân dân THPL nói

chung, pháp luật về dân chủ ở cấp xã nói riêng. CBCC có nhiệm vụ tổ chức,

tham gia thực hiện phải là người gương mẫu, đi đầu THPL để làm gương cho

nhân dân, cho người lao động. Bởi vậy, những kết quả đạt được trong THPL

về dân chủ ở cấp xã không thể tách rời vai trò tiên phong, gương mẫu của

CBCC, đảng viên ở cấp xã. Theo kết quả ĐTXHH, có 50.05% CBCC cấp xã

và 61.34% người dân coi sự vào cuộc mạnh mẽ, tâm huyết của đội ngũ CBCC

cấp xã là một nguyên nhân đưa tới những thành tựu, kết quả đạt được [xem:

Phụ lục 3 và 5].

Ở một số địa phương, ngoài vai trò của đội ngũ CBCC cấp xã còn phát

huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ cán bộ tự quản như trưởng thôn, tổ trưởng

dân phố trong công tác THPL về dân chủ ở cấp xã. Chẳng hạn, ở các tỉnh

thuộc khu vực Tây Nguyên, đội ngũ cán bộ tự quản thôn, buôn, tổ dân phố có

khoảng 31.973 người. Trong quá trình triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã,

việc bảo đảm vai trò của đội ngũ cán bộ thôn, buôn, tổ dân phố luôn được

Tỉnh uỷ, HĐND, UBND các cấp và MTTQ Việt Nam các tỉnh vùng Tây

Nguyên đặc biệt chú trọng. Nhiều thôn, buôn, tổ dân phố trên toàn vùng, đặc

biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng có đông đồng bào

dân tộc thiểu số sinh sống, đội ngũ cán bộ tự quản thôn, buôn, tổ dân phố đã

góp phần phát huy quyền làm chủ, tinh thần trách nhiệm của nhân dân trong

thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước và những quy định của địa phương... [xem: 28].

Page 114: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

114

Thứ tư, sự đồng thuận, ủng hộ và tham gia chủ động, tích cực của các

tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã, phường, thị trấn. Pháp luật và THPL về

dân chủ ở cấp xã đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống sinh hoạt chính

trị, xã hội ở các địa phương, nâng cao nhận thức về quyền làm chủ của nhân

dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, giám sát hoạt động của

chính quyền, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ, tham

nhũng tại xã, phường, thị trấn. Chính vì vậy, việc triển khai THPL về dân chủ

ở cấp xã đã nhận được sự đồng thuận, ủng hộ và tham gia chủ động, tích cực

của các tầng lớp nhân dân, mang lại những thành tựu, kết quả tích cực.

Nguyên nhân này được 64.01% CBCC cấp xã và 73.72% người dân khẳng

định [xem: Phụ lục 3 và 5]. Khi nhân dân đã thông suốt về tư tưởng, đồng

thuận cao với chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước thì việc THPL về

dân chủ ở cấp xã sẽ trở nên thuận lợi, dễ dàng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí

Minh luôn đề cao vai trò quyết định của nhân dân đối với vận mệnh của đất

nước, bởi dân là gốc của nước, của cách mạng; bởi lẽ: “Dễ mười lần không

dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong” [62, tr. 212].

3.2.2. Những hạn chế, bất cập trong THPL về dân chủ ở cấp xã

Bên cạnh những thành tựu, kết quả đã đạt được, việc THPL về dân chủ

ở cấp xã ở nước ta cũng còn bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định:

3.2.2.1. Những hạn chế, bất cập trong thi hành pháp luật

Thứ nhất, công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân

chủ ở cấp xã tuy đã được các cấp chính quyền triển khai và đạt được nhiều

kết quả quan trọng; song, vẫn chưa đáp ứng được sự mong đợi của đội ngũ

CBCC cấp xã và các tầng lớp nhân dân. Theo kết quả ĐTXHH, vẫn còn

09.82% CBCC cấp xã khẳng định không được tham dự các lớp bồi dưỡng,

tập huấn chuyên đề pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã mỗi khi có văn

bản QPPL về lĩnh vực này được ban hành. Về phía nhân dân, có 10.58%

người dân trả lời rằng họ không được biết đến các văn bản QPPL về thực hiện

dân chủ ở cấp xã; 07.49% người dân cho rằng chính quyền cấp xã không triển

khai công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã

Page 115: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

115

cho các tầng lớp nhân dân [xem: Phụ lục 3 và 5]. Mặt khác, việc phổ biến,

tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã nhiều khi còn mang

nặng tính hình thức, thiếu thiết thực, hiệu quả về phương pháp, hình thức

tuyên truyền. Hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật tại các cuộc họp dân

ở các thôn, tổ dân phố thường gặp bất lợi ở chỗ người dân ít đi họp nên không

nắm được nội dung pháp luật. Điểm hạn chế nay cũng đã được ghi nhận trong

các báo cáo sơ kết, tổng kết của nhiều địa phương; như: Ở tỉnh Bắc Ninh,

“công tác triển khai, quán triệt, tuyên truyền thực hiện Pháp lệnh ở một số cơ

sở chưa thường xuyên, còn hình thức, hiệu quả chưa cao” [xem: 5]; hoặc như

ở thành phố Hải Phòng, “công tác quán triệt, phổ biến nội dung các văn bản

về thực hiện dân chủ chưa được thường xuyên” [14, tr. 24].

Thứ hai, hệ quả kéo theo của hạn chế nêu trên là kiến thức, hiểu biết

của một bộ phận nhân dân các địa phương về các nội dung của pháp luật về

thực hiện dân chủ ở cấp xã còn thấp. Kết quả khảo sát cho thấy, bên cạnh

55.58% người dân trả lời rằng họ “nắm bắt được phần lớn nội dung của pháp

luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở” và “nắm bắt được những nội dung chính

của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở”, thì vẫn còn tới 27.50% người

dân nói họ “chỉ nắm bắt được một số nội dung mà nhân dân được bàn và

quyết định, tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định hoặc

được giám sát”; 13.54% “chỉ nắm được một số ít nội dung mà nhân dân được

bàn và quyết định trực tiếp” và 03.38% “hầu như không nắm được nội dung

của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở”; tổng cộng là 44.42% [xem: Phụ

lục 3 và 5]. Ngay cả một bộ phận CBCC cấp xã cũng thiếu hiểu biết pháp luật

về thực hiện dân chủ ở cấp xã. Như ở tỉnh Quảng Nam:

Nhận thức của một bộ phận CBCC cũng như lãnh đạo các đơn vị về

thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở còn hạn chế, nên chưa nêu cao vai

trò trách nhiệm trong việc xây dựng cơ quan, đơn vị, địa phương. Một

số cán bộ, đảng viên còn ngại tiếp xúc với dân, không trực tiếp đối

thoại, không công khai hoá các hoạt động sợ ảnh hưởng đến quyền lợi

vật chất [xem: 113].

Page 116: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

116

Thứ ba, ở một số địa phương, việc thông báo, niêm yết những nội dung

công khai để nhân dân biết mới chỉ đạt kết quả ở mức độ trung bình hoặc

kém. Khi được hỏi, 12.00% CBCC cấp xã cho rằng, chính quyền địa phương

đã THPL về dân chủ ở cấp xã ở mức độ trung bình (10.75%) và kém

(01.25%) đối với những nội dung công khai để nhân dân biết và các hình

thức công khai. Về phía nhân dân xã, phường, thị trấn, tỷ lệ tương ứng là

16.27% (14.76% đánh giá mức độ trung bình và 01.51% đánh giá mức độ

kém) [xem: Phụ lục 3 và 5]. Giải thích về sự dánh giá này, một người dân có ý

kiến: “Vì những nội dung công khai chưa thực sự đến được với mọi người

dân, người dân đi làm cả ngày nên chưa tiếp xúc nhiều với các nội dung công

khai, còn hình thức công khai chủ yếu là qua loa truyền thanh; mà phương

tiện phát thanh chỉ phát thanh trong khoảng thời gian ngắn nên hiệu quả còn

thấp”. Báo cáo của một số địa phương ở nước ta cũng ghi nhận thực trạng

này, như ở tỉnh Quảng Nam:

Trên thực tế có việc chưa được tổ chức thực hiện hoặc thực hiện chưa

đạt yêu cầu, như quy định công khai dự toán và quyết toán ngân sách

xã hằng năm chưa được minh bạch nên nhân dân chưa thông suốt, sinh

ra hoài nghi. Việc chính quyền địa phương phải thông tin về quyết toán

thu - chi các quỹ, dự án, các khoản đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng ở

thôn, tổ dân phố có một số nơi triển khai chưa chu đáo, thiếu công khai

cụ thể cho dân biết” [xem: 65].

3.2.2.2. Những hạn chế, bất cập trong sử dụng pháp luật

- Đối với những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp, vẫn

còn 11.99% CBCC cấp xã được hỏi ý kiến cho rằng nhân dân chỉ thực hiện

được ở mức trung bình (11.37%) và kém (00.62%). Tỷ lệ tương ứng bên phía

người dân trả lời là 18.93% ((15.84% đánh giá mức độ trung bình và 03.09%

đánh giá mức độ kém). Dĩ nhiên, con số đó là không nhiều; song, nó cho thấy

vẫn có những bất cập, hạn chế của nhân dân trong việc bàn và quyết định.

Một CBCC cấp xã nhận xét: “Đôi lúc chính quyền địa phương tự quyết định

những nội dung mà lẽ ra phải do dân bàn và quyết định, dẫn đến vi phạm

Page 117: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

117

quyền dân chủ của nhân dân địa phương”. Một người dân có ý kiến: “Tuy

chính quyền xã tiếp thu ý kiến của người dân nhưng quyền quyết định của

nhân dân vẫn còn rất hạn chế” [xem: Phụ lục 3 và 5].

- Xung quanh việc thực hiện những nội dung nhân dân tham gia ý kiến

trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định cũng còn những hạn chế, bất cập;

vì vậy, còn có 13.72% CBCC cấp xã tham gia cuộc ĐTXHH đánh giá rằng,

chính quyền cấp xã thực hiện những nội dung đó chỉ ở mức trung bình

(14.06%) và kém (01.66%). Kết quả trả lời bên phía người dân là 22.82%

(trung bình 17.72% và kém 04.10%). Khi thực hiện việc lấy ý kiến đóng góp

của nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn; do nhận thức pháp luật của nhân

dân còn thấp nên các nội dung nhân dân tham gia ý kiến còn ít và hạn chế. Số

lượng người dân tham gia đóng góp ý kiến trực tiếp hoặc đại diện còn hạn

chế, chất lượng các ý kiến còn thấp; đôi khi không có đủ thời gian để nhân

dân nghiên cứu, nêu các đề xuất, kiến nghị. Một cán bộ xã đánh giá: “Phần

lớn người dân chưa nhận thức đầy đủ về quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong

việc tham gia ý kiến để cấp có thẩm quyền phê duyệt, trình độ dân trí còn hạn

chế”. Một người dân ghi nhận: “Do nhận thức pháp luật của nhiều người dân

còn hạn chế nên họ chưa chủ động phát biểu ý kiến, chưa bày tỏ được quan

điểm của mình đối với những nội dung do các cơ quan có thẩm quyền quyết

định” [xem: Phụ lục 3 và 5]. Hạn chế, bất cập nêu trên cũng được xác nhận tại

một số địa phương, như ở thành phố Hải Phòng: “Việc lấy ý kiến đóng góp

của nhân dân nhất là vào các công trình dự án, quy hoạch, quản lý và sử dụng

đất đai và các chế độ chính sách có liên quan đến nhân dân chưa được triển

khai có nề nếp, thậm chí còn biểu hiện rất hình thức...” [14, tr. 25].

- Việc nhân dân thực hiện quyền giám sát theo quy định pháp luật về

thực hiện dân chủ ở cấp xã cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Theo

đánh giá của đội ngũ CBCC cấp xã tham gia trả lời bảng hỏi thì có 18.30%

cho rằng nhân dân địa phương đã thực hiện quyền giám sát theo quy định của

pháp luật về dân chủ ở cấp xã ở mức độ trung bình; 02.07% đánh giá ở mức

độ kém; tỷ lệ tương ứng bên phía người dân tự thừa nhận là 23.40% và

Page 118: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

118

05.11%. Nếu so sánh với việc thực hiện các nội dung khác thì việc thực hiện

nội dung kiểm tra, giám sát là khâu yếu hơn cả. Một cán bộ xã cho rằng, “Hầu

hết mọi công việc được giám sát thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân

dân và Ban Giám sát cộng đồng, nhân dân chỉ tham gia được một phần nhỏ”.

Một người dân nhận xét: “Đại bộ phận người dân chưa thực sự thể hiện hết

quyền công dân của mình, đặc biệt là quyền giám sát; chưa thấy hết được

quyền hạn của người dân trong việc tham gia giám sát” [xem: Phụ lục 3 và 5].

Những hạn chế nói trên cũng được ghi nhận ở tỉnh Quảng Nam:

Những việc nhân dân giám sát, kiểm tra thực hiện còn nhiều yếu kém.

Một số công trình phục vụ dân sinh như: nhà sinh hoạt, đường giao

thông nông thôn, nhân dân có giám sát, nhưng một số công trình khác

có quy mô lớn do cấp trên làm chủ đầu tư thì chức năng giám sát của

nhân dân chưa được coi trọng” [xem: 65].

3.2.2.3. Những hạn chế, bất cập trong áp dụng pháp luật

- Theo phản ánh của nhân dân tại một số địa phương, việc tổ chức cho

nhân dân họp bàn và biểu quyết nội dung hương ước, quy ước thôn, tổ dân

phố còn chưa có sự chuẩn bị chu đáo từ phía chính quyền và CBCC cấp xã.

Việc xây dựng Dự thảo hương ước, quy ước còn phó mặc cho Trưởng thôn và

một số ít cán bộ hưu trí. Một số nội dung hương ước, quy ước chưa có sự

thống nhất cao trong nhân dân vẫn được thông qua. Khi biểu quyết thông qua

thì thực hiện biểu quyết toàn văn mà không biểu quyết theo từng nội dung.

- Ở một số địa phương có số lượng cử tri đi làm ăn xa chiếm tỷ lệ cao

nên số lượng người dân dự các cuộc họp thôn không đảm bảo theo quy định;

dẫn đến tình trạng hương ước, quy ước đã được cấp có thẩm quyết ra quyết

định công nhận nhưng nhiều người không biết đến bản hương ước của làng.

Cá biệt có những trường hợp phải tổ chức họp đi họp lại vài lần vẫn chưa thể

thông qua hương ước, quy ước.

- Việc bầu cử Trưởng thôn, Tổ trưởng dân phố tại một số địa phương

chưa thực sự bảo đảm tính dân chủ, khách quan, công bằng; gây hoài nghi,

thắc mắc trong nhân dân.

Page 119: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

119

- Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định rõ ràng,

cụ thể thời hạn UBND cấp huyện, UBND cấp xã, Ủy ban MTTQ Việt Nam

cấp xã phải xem xét, ra quyết định công nhận. Tuy nhiên, có lúc, có nơi các

chủ thể có thẩm quyền nói trên còn chưa kịp thời, nhanh chóng ra quyết định

công nhận kết quả biểu quyết hương ước, bầu Trưởng thôn...

- Kết quả ĐTXHH cũng ghi nhận còn có hiện tượng né tránh, không

thực hiện hoặc làm trái các quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã; có hiện

tượng đe dọa, trù dập người khiếu nại, tố cáo hoặc hiện tượng dung túng, bao

che, cản trở hoặc thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo,

kiến nghị có liên quan đến việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã.

3.2.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập trong công tác

THPL về dân chủ ở cấp xã trên phạm vi cả nước, song kết quả ĐTXHH tập

trung và chỉ ra ba nguyên nhân cơ bản sau:

a) Một số cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở còn xem nhẹ vai trò của việc

THPL về dân chủ ở cấp xã nên công tác lãnh đạo chưa sâu sát, sự chỉ đạo

còn mang tính hình thức, đối phó. Nguyên nhân này được 09.10% CBCC cấp

xã và 18.65% người dân tham gia cuộc ĐTXHH thừa nhận, là tỷ lệ thấp nhất

trong số các nguyên nhân được nêu [xem: Phụ lục 3 và 5]. Trong THPL về

dân chủ ở cấp xã, các cấp ủy Đảng, chính quyền cấp xã giữ vai trò là chủ thể

giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, quản lý. Nếu chủ thể nhận thức đầy đủ

vai trò của mình, có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt thì hoạt động

THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ đạt được chất lượng, hiệu quả cao; ngược lại,

chủ thể xem nhẹ vai trò của việc THPL về dân chủ ở cấp xã, công tác lãnh

đạo chưa sâu sát, sự chỉ đạo còn mang tính hình thức, đối phó thì chất lượng,

hiệu quả thấp là điều chắc chắn sẽ xảy ra. Thực tiễn THPL về dân chủ ở cấp

xã ở nước ta cũng đã chứng minh điều này. Chẳng hạn, ở tỉnh Bắc Ninh:

Việc kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, trách nhiệm tổ chức thực

hiện của chính quyền, nhất là ở cơ sở chưa thường xuyên, hiệu quả

chưa cao. Hoạt động của một số Ban Chỉ đạo xây dựng và thực hiện

Page 120: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

120

Quy chế dân chủ ở cấp xã chưa hiệu quả, trách nhiệm của các thành

viên chưa được phát huy [xem: 5].

Một số cấp uỷ, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ, thiếu chủ động,

sáng tạo trong chỉ đạo thực hiện; Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở

một số cơ quan, địa phương, đơn vị chưa được bổ sung, kiện toàn kịp thời,

hiệu quả hoạt động chưa cao. Sự phối hợp của chính quyền với các ban,

ngành, đoàn thể chưa chặt chẽ, nhiều nơi còn thể hiện rất hình thức; công tác

kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện dân chủ ở cơ sở chưa thường xuyên.

Một bộ phận cấp ủy, chính quyền, đoàn thể nhân dân; nhất là một số

cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chưa nhận thức và phát huy đầy đủ các quan

điểm, tư tưởng chỉ đạo của Trung ương, thành phố. Phương thức lãnh

đạo của một bộ phận cấp ủy đảng cơ sở còn hạn chế; chưa gắn vai trò,

trách nhiệm cá nhân trong chỉ đạo, triển khai thực hiện; thiếu kiểm tra,

đôn đốc việc thực hiện Quy chế dân chủ” [14, tr. 26].

b) Một bộ phận trong đội ngũ CBCC, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ

vai trò, trách nhiệm của mình trong việc triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã

nên chưa tận lực, tận tâm. Qua ĐTXHH, nguyên nhân này được xác nhận bởi

13.86% CBCC cấp xã và 24.19% người dân tham gia trả lời bảng hỏi [xem:

Phụ lục 3 và 5]. Đội ngũ CBCC, đảng viên ở cấp xã có vai trò tiên phong, là

chủ thể trực tiếp tổ chức, hướng dẫn nhân dân phát huy các quyền dân chủ ở

địa phương. Khi bản thân họ còn chưa nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm

của mình trong triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã thì khó có thể tận lực,

tận tâm với công việc; từ đó, ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng, hiệu quả của

hoạt động này. “Đội ngũ CBCC, viên chức nhìn chung trình độ, kiến thức và

trách nhiệm tuy đã được nâng lên, song một bộ phận không nhỏ, nhất là đội

ngũ CBCC cấp xã, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới” [14, tr. 26].

c) Một bộ phận nhân dân thiếu hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ

ở cấp xã nên chưa chủ động, tích cực tham gia vào quá trình này. Về nguyên

tắc, kiến thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là nền tảng

quan trọng hàng đầu để nhân dân thực hiện, phát huy các quyền dân chủ ở cấp

Page 121: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

121

xã. Tuy nhiên, trên thực tế, nhận thức pháp luật về dân chủ của người dân còn

hạn chế, không đồng đều. Đối với việc thực hiện những nội dung nhân dân

bàn và quyết định trực tiếp, tuy dân được bàn bạc, đóng góp ý kiến và quyết

định, nhưng do hiểu biết pháp luật hạn chế nên nhiều ý kiến đưa ra còn cảm

tính, thiếu thuyết phục. Dân chủ là một vấn đề chính trị do trình độ phát triển

kinh tế quy định. Trình độ phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay chưa thể coi là

điều kiện tốt nhất cho sự phát triển đầy đủ của dân chủ xã hội. Do nhu cầu

cuộc sống, công ăn việc làm chiếm nhiều thời gian, công sức cùng với ý thức

pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế nên họ chưa tham gia được

nhiều vào việc phát huy quyền dân chủ. “Còn một bộ phận đáng kể nhân dân

chưa có ý thức cao và năng lực thực hành dân chủ, chưa có một nền văn hóa

dân chủ ở mức cần thiết, chưa có thói quen tuân thủ pháp luật nên cũng chưa

có cơ sở tốt để phát huy dân chủ một cách đúng đắn và đầy đủ” [14, tr. 26].

3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC

PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

3.3.1. Đánh giá chung về tình hình thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp

xã ở nước ta từ năm 1998 đến nay

Để có cơ sở đánh giá chung về tình hình THPL về dân chủ ở cấp xã ở

nước ta, ngoài việc tham khảo các bài viết, báo cáo tình hình THPL về dân

chủ ở cấp xã của các địa phương, trong Phiếu thu thập ý kiến tác giả đưa ra

câu hỏi “Nhìn chung, Ông (Bà) đánh giá như thế nào về kết quả thực hiện

pháp luật về dân chủ ở cấp xã từ phía chính quyền và nhân dân địa phương?”.

Kết quả thể hiện trong bảng tổng hợp số liệu dưới đây:

Cán bộ, công chức Nhân dânM·sè

Ph­¬ng ¸n tr¶ lêi(chỉ chọn 1 phương án trả lời) Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ

1 Đạt kết quả rất cao 150 15.51 204 14.692 Đạt kết quả cao 649 67.11 821 59.113 Đạt kết quả trung bình 143 14.79 308 22.174 Kết quả đạt được còn thấp 25 02.59 56 04.03

Tổng cộng 967 100.00 1389 100.00

Page 122: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

122

3.3.1.1. Đánh giá chung về thành tựu, kết quả đạt được

Nhìn vào các số liệu trong bảng tổng hợp trên, có thể thấy, đại đa số

CBCC cấp xã và người dân tham gia trả lời bảng hỏi đánh giá cao kết quả đạt

được trong công tác THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta trong những năm

qua. Cụ thể: có 15.51% CBCC cấp xã đánh giá kết quả đạt được “rất cao” và

67.11% đánh giá “cao”, tổng cộng có 82.62% đánh giá “rất cao” và “cao”;

các tỷ lệ tương ứng bên phía nhân dân đánh giá là 14.69%, 59.11% và tổng

cộng là 73.80%. Sự đánh giá trên đây của CBCC cấp xã và nhân dân ở xã,

phường, thị trấn được dựa trên những kết quả cụ thể mà họ ghi nhận được

trong quá trình triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã tại địa phương, gồm: 1)

Tạo được niềm phấn khởi, tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của cấp ủy

Đảng, sự quản lý của chính quyền địa phương; 2) Phát huy tốt quyền làm chủ

của nhân dân; 3) Đảm bảo tối đa các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng

của nhân dân; 4) Tăng cường được mối liên hệ giữa Đảng, chính quyền và

quần chúng nhân dân; 5) Giúp cho hoạt động điều hành, quản lý của chính

quyền cấp cơ sở thuận lợi, thông suốt từ tư tưởng đến hành động; 6) Giúp

chính quyền cơ sở nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng, thắc mắc, khiếu nại

của người dân; 7) Góp phần củng cố, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, sự

đồng thuận xã hội trên địa bàn cơ sở. Các số liệu ĐTXHH cho thấy những kết

quả cụ thể trên đều được CBCC cấp xã và người dân thừa nhận với tỷ lệ thấp

nhất là 51.60% và cao nhất là 80.76%.

Tựu trung, những kết quả đạt được trong THPL về dân chủ ở cấp xã

phù hợp với đánh giá chung được nêu trong Kết luận của Ban Bí thư về tiếp

tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng

và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở:

Sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực

hiện Quy chế dân chủ cơ sở, cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể

các các cấp đã có nhiều biện pháp chỉ đạo, triển khai sâu rộng, làm

chuyển biến tích cực về nhận thức, quan điểm, chủ trương của Đảng,

pháp luật của Nhà nước đối với việc xây dựng và thực hiện Quy chế

Page 123: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

123

dân chủ cơ sở... Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp

phần đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản

lý, điều hành của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động

của mặt trận, các đoàn thể nhân dân; phát huy tính tiền phong, gương

mẫu, chấn chỉnh phong cách, lề lối làm việc của CBCC theo hướng sát

dân, trọng dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng

nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân; góp phần quan

trọng trong phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng quan liêu, tham nhũng,

lãng phí; tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố mối quan hệ

máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; chống lại các âm mưu lợi

dụng dân chủ, dân tộc, tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân

tộc” [xem: 2].

3.3.1.2. Đánh giá chung về hạn chế, khuyết điểm

Bên cạnh những kết quả quan trọng đã được Đảng, Nhà nước, đội ngũ

CBCC cấp xã và nhân dân ở xã, phường, thị trấn ghi nhận, vẫn còn tồn tại

những hạn chế, khuyết điểm nhất định khiến cho một bộ phận đáng kể người

dân (26.20%) đánh giá kết quả đạt được còn ở mức trung bình (22.17%) và

thấp (04.03%). Về phía đội ngũ CBCC cấp xã tham gia cuộc khảo sát, có

14.79% đánh giá kết quả đạt được ở mức trung bình và 02.59% đánh giá chỉ

đạt ở mức thấp; tổng cộng là 17.38% [xem: Phụ lục 3 và 5]. Những biểu hiện

cụ thể khiến họ đánh giá kết quả đạt được là “trung bình” hoặc “còn thấp”

gồm: thứ nhất, một bộ phận người dân còn chưa tin tưởng vào sự lãnh đạo

của cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền địa phương; thứ hai,

các quyền dân chủ của nhân dân có lúc, có nơi vẫn bị vi phạm; thứ ba, còn có

hiện tượng né tránh, không thực hiện hoặc làm trái các quy định về thực hiện

dân chủ ở cấp xã; thứ tư, chưa đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp,

chính đáng của nhân dân; thứ năm, còn có hiện tượng đe dọa, trù dập người

khiếu nại, tố cáo, kiến nghị có liên quan đến việc thực hiện dân chủ ở cấp xã;

thứ sáu, còn có hiện tượng dung túng, bao che, cản trở hoặc thiếu trách nhiệm

trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị có liên quan đến việc thực

Page 124: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

124

hiện dân chủ ở cấp xã; thứ bảy, chưa tạo dựng được khối đoàn kết toàn dân,

sự đồng thuận xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn.

Đánh giá chung sau 10 năm triển khai thực hiện Quy chế thực hiện dân

chủ ở xã (1998 - 2008), cơ quan chức năng đưa ra kết luận rằng:

Kết quả chỉ dừng lại ở một số việc cụ thể, tình hình chung là lắng

xuống. Dân tỏ ra thờ ơ và ít tác dụng tới bản thân. Phương châm “dân

biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” còn dừng lại ở khẩu hiệu, tệ nạn

quan liêu, trù dập, ức hiếp quần chúng, mất dân chủ, coi thường kỷ

cương phép nước... giảm không đáng kể. Cán bộ thì đùn đẩy, né tránh,

người đứng đầu cơ quan, đơn vị không bị ràng buộc trách nhiệm gì cả,

nghiêng về phương thức thực hiện quyền dân chủ của nhân dân thông

qua các tổ chức đại diện, đại biểu dân cử cho nên quyền của nhân dân

làm chủ trực tiếp bị hạn chế, lúng túng trong việc phân rõ quyền lực

chính trị, quyền lực nhà nước, quyền lực nhân dân. Nhân dân chưa

được tham gia góp ý, bàn bạc việc xây dựng các chủ trương, chính

sách, pháp luật cũng như các kế hoạch, chương trình các dự án tại địa

phương,.. [dẫn theo: 67].

Kết luận: Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện Nghị quyết Đại hội XI

của Đảng, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam. Với đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN là

sự hiện diện của một nền dân chủ thực chất thì việc tiếp tục xây dựng và hoàn

thiện nền dân chủ XHCN, thực hành và phát huy dân chủ đã và đang là yêu

cầu cấp thiết đặt ra, trong đó có việc “Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ

sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn” [21, tr. 238]. Công

tác THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta trong những năm qua tuy đã đạt

được nhiều thành tựu, kết quả quan trọng; song vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế,

khuyết điểm, nhất là còn tản mạn, chưa có được sự kết nối chặt chẽ với yêu

cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Điều đó

cũng có nghĩa là việc THPL về dân chủ ở cấp xã chưa thực sự đáp ứng yêu

cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Page 125: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

125

3.3.2. Một số bài học kinh nghiệm trong THPL về dân chủ ở cấp xã

Từ thực tiễn THPL về dân chủ ở cấp xã, nhìn từ góc độ yêu cầu của

công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, có thể rút ra

một số bài học kinh nghiệm sau đây:

3.3.2.1. Sự quan tâm, lãnh đạo sâu sát của Đảng từ Trung ương đến

xã, phường, thị trấn là nhân tố có tính chất nền tảng, bảo đảm cho thành

công của công tác THPL về dân chủ ở cấp xã

Thực tế chứng minh rằng, việc THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta từ

trước đến nay không thể tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam nói chung, các cấp ủy Đảng, tổ chức cơ sở đảng ở từng địa phương nói

riêng. Ở nơi nào mà các cấp ủy Đảng từ tỉnh đến cơ sở xã, phường, thị trấn

quán triệt sâu sắc, lãnh đạo sát sao, vào cuộc quyết liệt từ khâu đầu (chuẩn bị,

xây dựng văn bản chỉ đạo, tổ chức hội nghị quán triệt...) đến khâu cuối (đôn

đốc, nhắc nhở việc triển khai thực hiện từng nội dung và hình thức cụ thể), thì

ở đó pháp luật về dân chủ ở cấp xã được thực hiện chu đáo, nghiêm túc và đạt

kết quả cao, tạo được niềm phấn khởi, tin tưởng trong nhân dân. Đây là biểu

hiện sâu sắc của việc hiện thức hóa phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước

quản lý, nhân dân làm chủ”; trong đó, “Đảng lãnh đạo” phải được coi là

khâu đầu tiên, có tính chất đột phá, mở đường để các cấp chính quyền, các

ban, ngành, đoàn thể triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Tại khắp các địa phương trên cả nước, sau khi có Chỉ thị số 30-CT/TW

và Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, Ban Chấp hành Đảng bộ các tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương đã ban hành các chỉ thị, nghị quyết, xây dựng những

giải pháp đồng bộ, xác định rõ những nội dung, biện pháp thực hiện dân chủ ở

cơ sở nhằm phát huy trí tuệ, sức lực của Đảng bộ, chính quyền các cấp và

toàn thể nhân dân địa phương nhằm ổn định tình hình chính trị - xã hội, củng

cố hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn, giải quyết khiếu nại, tố cáo của

người dân. Các tỉnh/thành phố đã tổ chức hội nghị cán bộ lãnh đạo chủ chốt

các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở xã, phường, thị trấn nhằm quán triệt đầy

Page 126: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

126

đủ các văn bản QPPL của Nhà nước, văn bản pháp quy của địa phương liên

quan đến pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã tới toàn thể CBCC, đảng

viên; triển khai tuyên truyền, phổ biến pháp luật về dân chủ ở cấp xã cho nhân

dân ở xã, phường, thị trấn.

Các cấp ủy Đảng từ tỉnh/thành phố đến xã, phường, thị trấn cần tập

trung lãnh đạo việc triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã, phải coi đó là nhiệm

vụ quan trọng và phải làm thường xuyên, chủ động, tích cực, có hiệu quả

nhằm đảm bảo vững chắc sự ổn định chính trị ở cơ sở, thúc đẩy sự phát triển

kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Sự lãnh đạo không chỉ bằng việc đề

ra các chỉ thị, nghị quyết..., mà còn phải thường xuyên kiện toàn Ban chỉ đạo,

có chương trình làm việc; xây dựng quy chế phối hợp hoạt động đồng bộ,

thống nhất giữa Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân.

3.3.2.2. Sự chỉ đạo, quản lý, điều hành quyết liệt của Nhà nước, các

cấp chính quyền địa phương là khâu then chốt, bảo đảm sự vận hành có

hiệu quả hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã

Vai trò chỉ đạo, tổ chức THPL về dân chủ ở cấp xã của Nhà nước, các

cấp chính quyền từ tỉnh đến xã cũng là nhân tố hết sức quan trọng, thể hiện

khía cạnh “Nhà nước quản lý” trong phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà

nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đây được coi là khâu then chốt của quá

trình THPL về dân chủ ở cấp xã. Chính vì vậy, sự chỉ đạo, quản lý, điều hành

quyết liệt của Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương là khâu then chốt,

bảo đảm sự vận hành có hiệu quả hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã là

một bài học kinh nghiệm được rút ra.

Nhà nước đã xây dựng, ban hành các văn bản QPPL về thực hiện dân

chủ ở cấp xã. Các bộ, ngành ở Trung ương thường xuyên chỉ đạo tổ chức thực

hiện; ban hành các văn bản pháp quy để quy định và hướng dẫn việc xây dựng

và THPL về dân chủ ở cấp xã, thường xuyên kiểm tra, sơ kết, tổng kết, chỉ

đạo kịp thời. Hệ thống chính sách, pháp luật và chức năng, nhiệm vụ của các

cơ quan Đảng, Nhà nước tiếp tục được rà soát, bổ sung, hoàn thiện; tạo hành

lang pháp lý thuận lợi cho việc THPL về dân chủ ở cấp xã.

Page 127: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

127

Về phía các cấp chính quyền địa phương, UBND các cấp đã tích cực

chỉ đạo xây dựng, ban hành các văn bản pháp quy liên quan đến việc thực

hiện dân chủ ở cấp xã nhằm thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các quan điểm, chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện dân chủ ở cơ sở; nâng

cao trách nhiệm của các cấp chính quyền, nhất là người đứng đầu; tiếp tục tổ

chức rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc điều chỉnh các quy chế, quy ước

đã ban hành cho phù hợp với Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị

trấn; thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở; chỉ đạo các

thôn, ấp, bản, làng, tổ dân phố xây dựng hương ước, quy ước thực hiện dân

chủ trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

Chính quyền từ tỉnh đến xã cần triển khai quán triệt, phổ biến, tuyên

truyền các nguyên tắc, quy định của pháp luật về dân chủ ở cấp xã một cách

sâu rộng tới cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; giúp họ thông suốt về

tư tưởng, chuyển biến về nhận thức và hiện thức hóa bằng hành vi pháp luật

hợp pháp, thực hành và phát huy các quyền dân chủ của nhân dân. Chính

quyền cần trực tiếp tố chức thực hiện và tạo các điều kiện thuận lợi về kinh

phí, cơ sở vật chất, thời gian... cho Ban chỉ đạo hoạt động có hiệu quả.

Nơi nào chính quyền địa phương đặt vấn đề chỉ đạo thực hiện một cách

đúng mức, thường xuyên, tăng cường kiểm tra, đôn đốc, có sơ kết, tổng kết,

đánh giá ưu, khuyết điểm và kiểm điểm nghiêm túc, rút kinh nghiệm kịp thời

công tác chỉ đạo điều hành; xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức

và thành viên thì nơi đó pháp luật về dân chủ ở cấp xã được thực hiện có nề

nếp, bảo đảm các nội dung quy định và đem lại hiệu quả thiết thực: an dân,

kinh tế - xã hội phát triển, giảm tình trạng khiếu nại, tố cáo.

3.3.2.3. Phát huy vai trò, huy động sự tham gia của cả hệ thống

chính trị từ Trung ương đến xã, phường, thị trấn nhằm tạo nên sức mạnh

tổng hợp cho công tác THPL về dân chủ ở cấp xã

Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo và tổ chức

thực hiện của Nhà nước, chính quyền từ cấp tỉnh tới cấp xã, hoạt động THPL

về dân chủ ở cấp xã còn phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của

Page 128: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

128

cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến xã, phường, thị trấn, gồm các cơ

quan, ban, ngành, MTTQ và các tổ chức thành viên, đoàn thể nhân dân các

cấp. Các cơ quan, ban, ngành, theo chức năng, nhiệm vụ của mình, cần làm

tốt công tác tham mưu, tư vấn, hướng dẫn cấp xã trong việc phổ biến, tuyên

truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã, xây dựng chương trình, kế

hoạch hoạt động, các quy chế, quy định phù hợp với tình hình thực tiễn tại xã,

phường, thị trấn; đề cao vai trò vận động, thuyết phục, giám sát, phản biện xã

hội của MTTQ và các đoàn thể nhân dân. MTTQ, các tổ chức thành viên và

các đoàn thể nhân dân cần tích cực tuyên truyền, giáo dục, vận động quần

chúng nhân dân THPL về dân chủ ở cấp xã. Thường xuyên kiện toàn, nâng

cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo xây dựng và thực hiện

Quy chế dân chủ ở các cấp, Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư

cộng đồng. Các đoàn thể nhân dân cần chủ động tạo ra môi trường dân chủ,

tạo các điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện, phát huy các quyền dân chủ

của nhân dân; tạo các diễn đàn phù hợp để mỗi người dân có thể phát biểu ý

kiến, bày tỏ quan điểm, chính kiến, nguyện vọng của mình.

3.3.2.4. Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ CBCC

cấp xã là yếu tố mở đường, lôi cuốn sự hăng hái, nhiệt tình của các tầng

lớp nhân dân địa phương tham gia THPL về dân chủ ở cấp xã

Trong hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã, CBCC, đảng viên là hạt

nhân nòng cốt, có “vai trò kép”: họ vừa là người trực tiếp tổ chức, triển khai

thực hiện dân chủ ở cấp xã; lại vừa có nhiệm vụ giải thích cho nhân dân hiểu

và hướng dẫn người dân THPL về dân chủ ở cấp xã. Công tác cán bộ giữ vai

trò quyết định đến chất lượng, hiệu quả của việc THPL về dân chủ ở cấp xã.

Thực tiễn cho thấy, ở những địa phương nào đội ngũ CBCC cấp xã có trình

độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, thực sự trọng

dân, thân dân và vì dân thì ở nơi đó pháp luật về dân chủ ở cấp xã được thực

hiện một cách tự giác, nghiêm túc, đạt hiệu quả cao. Ngược lại, ở xã, phường,

thị trấn nào đội ngũ CBCC yếu kém về phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực,

trình độ không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, mất đoàn kết nội bộ, xa rời dân thì

Page 129: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

129

ở đó việc triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã kém hiệu quả hoặc thực hiện

một cách hình thức, đối phó. Khẩu hiệu “cán bộ đi trước, làng nước theo sau”

hoàn toàn đúng đắn và phù hợp trong THPL về dân chủ ở cấp xã.

3.3.2.5. Muốn cho việc THPL về dân chủ ở cấp xã đạt kết quả cao thì

nhất thiết phải làm tốt công tác tư tưởng, chú trọng công tác vận động,

tuyên truyền nhân dân

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chăm lo đến công tác tư tưởng, bởi

theo Người: “Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ

nhiệm vụ mới thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động

mới thống nhất” [60, tr. 319]. Công tác tư tưởng tự bản thân nó đã hàm chứa

những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, đa chiều, liên quan đến tâm tư nguyện

vọng của cán bộ, công chức, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; liên quan

đến sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Người nói: “Phải đánh thông tư

tưởng và động viên sáng kiến và lực lượng của toàn Đảng, toàn dân. Mọi

người quyết tâm làm cho được và tin tưởng làm nhất định được” [61, tr. 246].

Thiết nghĩ, lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, ý nghĩa

thiết thực đối với công tác THPL về dân chủ ở cấp xã.

Các tầng lớp nhân dân cần thông suốt về tư tưởng, có nhận thức đúng

đắn, đầy đủ về thực hành dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở

cơ sở. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã trong thời

gian tới thì cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục một cách

sâu rộng các nội dung của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn

đến các tầng lớp nhân dân. Không ngừng nâng cao trình độ dân trí trong nhân

dân, xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, vì dân trí thấp thì khó có thể thực

hành dân chủ và thực hiện quyền làm chủ cao. Trình độ dân trí càng cao thì

càng thuận lợi cho việc mở rộng dân chủ, thuận lợi cho đưa các giá trị dân

chủ vào đời sống xã hội và nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân. Có ý

thức pháp luật, hình thành thói quen sống và làm việc theo pháp luật là nền

tảng để nhân dân có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của người làm chủ và tích

cực tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước. Phát huy quyền làm chủ của

Page 130: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

130

nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân phục

vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường khối đại

đoàn kết, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh là những giá trị to lớn

có thể đạt được khi nhân dân thông suốt về tư tưởng.

3.3.2.6. THPL về dân chủ ở cấp xã cần sự linh hoạt, sáng tạo xuất

phát từ đặc điểm, tình hình thực tế ở từng địa phương, đáp ứng nhu cầu,

nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân

Về nguyên tắc, không có một “công thức” hay “khuôn mẫu” THPL về

dân chủ ở cấp xã nào có thể áp dụng chung cho tất cả các xã, phường, thị trấn;

bởi lẽ, mỗi địa phương đều có các đặc điểm riêng về văn hóa, lối sống, phong

tục tập quán, tín ngưỡng, lễ nghi, sinh hoạt cộng đồng... theo nghĩa “đất có lề,

quê có thói”. Bản thân pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cũng có sự đa

dạng về nội dung thực hiện các quyền dân chủ của công dân và sự phong phú

về hình thức thực hiện các quyền đó. Hơn nữa, các ý kiến, quan điểm, nhu

cầu, nguyện vọng của mỗi người dân, mỗi hộ gia đình cũng khác nhau. Các

quyền dân chủ được pháp luật trao cho, nhưng việc sử dụng các quyền dân

chủ đó lại phụ thuộc vào ý chí của mỗi cá nhân người dân. Mọi sự tùy tiện,

chủ quan, duy ý chí, áp đặt, xa rời thực tiễn trong THPL về dân chủ ở cấp xã

đều là khiên cưỡng, đi ngược lại tinh thần và bản chất dân chủ của chế độ ta,

trái với nguyên tắc thực hành dân chủ trong xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam. Chính vì vậy, việc THPL về dân chủ ở cấp xã phải xuất

phát từ các đặc điểm, tình hình thực tế của từng địa phương.

Hoạt động sống, lao động, sinh hoạt của cộng đồng dân cư khu vực đô

thị (phường, thị trấn) có nhiều điểm khác biệt với hoạt động sống, lao động,

sinh hoạt của cộng đồng dân cư nông thôn (làng, xã) nên việc triển khai

THPL về dân chủ ở cấp xã tại mỗi khu vực cũng phải có sự định hướng, điều

tiết sao cho phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội. Ở đây

đòi hỏi sự năng động, linh hoạt và sáng tạo của các chủ thể THPL về dân chủ

ở cấp xã sao cho đạt mục tiêu cao nhất là phát huy quyền làm chủ của nhân

dân, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân trên

Page 131: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

131

địa bàn. Gắn THPL về dân chủ ở cấp xã với việc thực hiện nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội của địa phương, quan tâm phát triển cơ sở hạ tầng, tăng

trưởng kinh tế là đúng, nhưng nó phải đi liền với việc chăm lo đời sống văn

hoá tinh thần của nhân dân, chăm lo an sinh xã hội; không vì thành tích mà áp

đặt nhiều khoản đóng góp không hợp lý đối với người dân. Có như vậy, việc

THPL về dân chủ ở cấp xã mới có ý nghĩa thiết thực, thực sự là động lực thúc

đẩy xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

3.3.2.7. Tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát, khen thưởng kịp

thời đối với các đơn vị, cá nhân có thành tích tốt và xử lý nghiêm minh đối

với những sai phạm trong THPL về dân chủ ở cấp xã

Hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải

gắn chặt chẽ với việc đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra, giám sát quá trình thực

hiện. Các cấp chính quyền địa phương phải đưa kế hoạch kiểm tra, giám sát

vào chương trình công tác, tiến hành kiểm tra thường xuyên hoặc đột xuất

việc THPL về dân chủ ở cấp xã; qua đó, kịp thời chấn chỉnh, khắc phục

những thiếu sót, khuyết điểm trong việc thực hiện dân chủ. Tăng cường và đổi

mới công tác kiểm tra, giám sát cũng phải được coi là một nhiệm vụ thường

xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhất là cấp xã; phải gắn liền với các

sinh hoạt chính trị nội bộ trong Đảng, với trách nhiệm của CBCC, đảng viên

trước nhân dân; đi đôi với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tệ

quan liêu, cửa quyền, mất đoàn kết nội bộ; xây dựng bộ máy chính quyền

trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Việc tăng cường khâu kiểm tra, giám sát cho phép phát hiện và xử lý

kịp thời những khó khăn, vướng mắc nảy sinh, rút kinh nghiệm kịp thời cho

công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành. Chế tài áp dụng cũng phải

rõ ràng, phân minh: nơi nào, cá nhân nào thực hiện tốt, có thành tích cao thì

phải được ghi nhận, động viên, khen thưởng kịp thời; nơi nào, cá nhân nào

mắc khuyết điểm, vi phạm pháp luật trong THPL về dân chủ ở cấp xã thì phải

xử lý nghiêm minh, dứt điểm. Điều đó có tác dụng khích lệ tinh thần, tạo sự

phấn khởi của CBCC và nhân dân trong THPL về dân chủ ở cấp xã.

Page 132: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

132

Kết luận chương 3

Thứ nhất, nhìn từ góc độ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam, có thể nói, việc Nhà nước ta xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm

pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là một phát kiến lớn, một phương

thức hay, hữu hiệu nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở một

cách thực chất nhất. Với sự ra đời của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Nghị

định số 29/1998/NĐ-CP, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP) và Pháp lệnh Thực

hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, lập

quy Nhà nước ta đã tạo ra một công cụ pháp lý về thực hiện dân chủ, trao

cho các tầng lớp nhân dân ở cơ sở những quyền dân chủ thực sự: quyền được

biết; quyền được bàn và quyết định trực tiếp, bàn và biểu quyết để cấp có

thẩm quyền quyết định; quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có

thẩm quyền quyết định; quyền giám sát. Mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung và

thay thế, song pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã hiện hành, mà cụ thể là

Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cũng đang bộc lộ những

tồn tại, hạn chế nhất định.

Thứ hai, hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã trên phạm vi cả nước

nói chung, ở từng địa phương nói riêng đã đạt được những thành tựu, kết quả

quan trọng, từ tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức,

hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho đến những kết quả quan

trọng trong thực hiện các nội dung cụ thể về quyền dân chủ của nhân dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc THPL về dân chủ ở cấp

xã ở nước ta cũng còn bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định, như nhận

thức, trách nhiệm về thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân

dân trong một bộ phận CBCC, đảng viên và nhân dân chưa đầy đủ; một số nội

dung cụ thể THPL về dân chủ ở cấp xã mới chỉ đạt kết quả ở mức độ trung

bình hoặc kém. Điều đó có nghĩa là việc THPL về dân chủ ở cấp xã chưa thực

sự đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Page 133: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

133

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC

PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM4.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở

CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ

HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

4.1.1. Quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng và thực hiện

nghiêm túc các quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã

Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của thực hành dân chủ nói chung và

thực hiện dân chủ ở cấp xã nói riêng, xuất phát từ tình hình thực tế xã hội ở

xã, phường, thị trấn trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã sớm có chủ trương về

xây dựng, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị số 30/CT-TW của Bộ

Chính trị đã nêu rõ nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy

quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở; bởi đó là nơi trực tiếp thực hiện mọi

chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, là nơi

thực hiện các quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất;

gắn liền với những lợi ích thiết thực của các tầng lớp nhân dân. Trong Kết

luận gần đây, Ban Bí thư Trung ương Đảng khẳng định cần “tiếp tục đẩy

mạnh và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa

VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở” [2]. Để phát huy dân

chủ XHCN, tại Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn

thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc

về nhân dân, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân” [21, tr. 238-239].

Nền dân chủ XHCN mà Đảng ta hướng tới xây dựng và hoàn thiện là

nền dân chủ rộng rãi, mang tính toàn diện, được thực hiện thông qua hệ thống

chính trị XHCN, trước hết là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam không

ngừng mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, thu hút

nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm phục vụ

Page 134: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

134

cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động và bảo đảm quyền làm chủ của

nhân dân lao động cả về mặt pháp lý cũng như trên thực tế. Việc xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là phương hướng, cách thức cơ bản

để phát huy dân chủ và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, vì Nhà nước

đó sẽ bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Việc nâng cao hiệu quả công tác THPL về dân chủ ở cấp xã cũng phải

dựa trên sự quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp

luật về lĩnh vực này. Chính phủ đã ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã;

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn. Các Quy chế và Pháp lệnh ra đời đánh dấu bước tiến bộ xã

hội lớn ở nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực sự phát huy

quyền làm chủ của mình, tham gia quản lý các công việc ở địa phương, kiểm

soát và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ ở các cơ quan

công quyền, các biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật. Pháp luật

về thực hiện dân chủ ở cấp xã là một biểu hiện sinh động sự cụ thể hoá

phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của Đảng ta. Đến

nay, công tác THPL về dân chủ ở cấp xã đã thực sự phát huy quyền làm chủ,

sức sáng tạo của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn

của các tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội ở các địa

phương, tác động tích cực tới công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền,

phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể nhân dân.

Việc quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng và thực hiện

nghiêm túc các quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là quan điểm

chỉ đạo có ý nghĩa tiên quyết trong THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

4.1.2. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều

hành của Nhà nước, chính quyền các cấp ở địa phương

Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

về thực hiện dân chủ ở cấp xã có hiệu lực và tác động trên phạm vi cả nước;

song, khi triển khai thực hiện trong thực tiễn ở xã, phường, thị trấn thì hiệu

Page 135: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

135

quả của nó lại phụ thuộc rất nhiều vào các đặc điểm, tình hình kinh tế, chính

trị, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán... của từng địa phương, từng địa bàn

xã, phường, thị trấn cụ thể. Những đặc điểm, tình hình cụ thể đó chỉ có các

cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương mới nắm bắt được một cách trực tiếp,

cụ thể nhất thông qua hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên của

mình. Quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam phải luôn được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo

sâu sát của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến xã, phường, thị trấn.

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng nhằm xây dựng các giải pháp bảo đảm

hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã.

Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần phải xác định việc

lãnh đạo, chỉ đạo công tác THPL về dân chủ ở cấp xã là nhiệm vụ chính trị có

tầm quan trọng hàng đầu. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà ở “một số nơi nội

bộ lãnh đạo cấp ủy, chính quyền mất đoàn kết; tình trạng quan liêu, tham

nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn kịp thời; tình hình khiếu kiện

của nông dân, đình công, bãi công của công nhân diễn biến phức tạp, ảnh

hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền” [2,

tr. 5]; thì sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng và các cấp chính

quyền đối với việc THPL về dân chủ ở cấp xã lại càng phải được đề cao.

4.1.3. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phải gắn với yêu cầu xây

dựng chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã phải

luôn gắn với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Một

trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN là tính tối cao

của pháp luật; xây dựng bộ máy chính quyền các cấp, trong đó có cấp xã,

trong sạch, vững mạnh. CBCC là “đầy tớ”, “công bộc” của dân nên phải

gương mẫu, đi đầu trong việc THPL và hướng dẫn nhân dân THPL. Như vậy,

nâng cao hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã phải được coi là một yêu cầu

không thể thiếu nhằm phục vụ thiết thực cho việc củng cố, xây dựng chính

Page 136: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

136

quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam.

Nhà nước pháp quyền XHCN luôn tôn trọng và đề cao các quyền cơ

bản của con người, hướng tới xây dựng xã hội công dân, xây dựng, thực hành

và phát huy dân chủ nói chung và dân chủ ở cấp xã nói riêng. “Nói tới dân

chủ, người ta thường nói tới nhiều yếu tố, nhưng trước hết phải kể tới ý thức

dân chủ, trình độ dân chủ, năng lực thực hiện dân chủ, phương thức thực hiện

dân chủ và các quan hệ dân chủ. Tất cả các yếu tố đó chỉ có thể thể hiện rõ

nhất trong Nhà nước pháp quyền như là môi trường thuận lợi cho dân chủ”

[108, tr. 3-4]. Bởi vậy, quan điểm có tính chất chỉ đạo đối với quá trình THPL

về dân chủ ở cấp xã trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

Việt Nam là phải cải cách các thủ tục hành chính ở cấp xã; chuyển hoàn toàn

từ nền hành chính cai trị sang nền hành chính vì dân, phục vụ nhân dân; xây

dựng được bộ máy chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh. Để làm được

điều đó thì việc THPL về dân chủ ở cấp xã phải được triển khai mạnh mẽ,

nghiêm túc và thực sự hiệu quả hơn nữa. Sự quán triệt quan điểm chỉ đạo này

sẽ giúp công tác THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta hiện nay đi đúng định

hướng, mục tiêu, không bị quan liêu hóa, xa rời thực tiễn.

4.1.4. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã là trách nhiệm của cả hệ

thống chính trị

Hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải

phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các bên hữu quan thì mới có thể nâng

cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động này. Công tác này đòi hỏi sự nỗ lực,

phấn đấu của các cấp ủy Đảng, chính quyền, MTTQ và các tổ chức thành viên

cũng như của toàn thể nhân dân ở xã, phường, thị trấn trên phạm vi cả nước;

trong đó, bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng có tầm quan trọng hàng

đầu, sự chỉ đạo thực hiện của chính quyền các cấp là khâu then chốt và sự

phát huy vai trò của các cơ quan, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể nhân dân từ

Trung ương cho đến cấp xã và của nhân dân là yếu tố không thể thiếu. Trên

cơ sở sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát của các cấp chính

Page 137: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

137

quyền, cần huy động sự tham gia tích cực của MTTQ, các ban, ngành, tổ chức

chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân, như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông

dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh... các cấp

vào hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã. Thực hiện quan điểm chỉ đạo này

vừa có tác dụng lôi cuốn, tạo sự đồng thuận xã hội cao; vừa tạo được sức

mạnh tổng hợp nhằm THPL về dân chủ ở cấp xã đạt được hiệu quả cao.

4.1.5. Triển khai đồng bộ nhiều giải pháp linh hoạt, sáng tạo và phù hợp

với đặc điểm, tình hình của từng địa phương

Thực tế cho thấy, bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, việc

thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã tại một số địa phương vẫn còn nhiều hạn

chế, bất cập. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện dân chủ ở

cấp xã ở một số nới còn mang tính phong trào; nội dung tuyên truyền pháp

luật còn hời hợt, phương pháp tuyên truyền còn khô cứng, hình thức tuyên

truyền còn đơn điệu, nghèo nàn, chưa đi vào chiều sâu và thực chất. Việc thực

hiện các nội dung cần công khai để nhân dân biết ở nhiều xã, phường, thị trấn

hiện còn khó khăn do trụ sở làm việc của chính quyền cấp xã chật hẹp, xuống

cấp. Các văn bản niêm yết những nội dung công khai cho nhân dân biết quá

nhỏ nên khó theo dõi; nhiều thôn, làng, tổ dân phố chưa có hội trường để tổ

chức các cuộc họp dân... Trong quá trình triển khai THPL về dân chủ ở cấp

xã, nhiều CBCC cấp xã còn bị động, lúng túng, thiếu sự linh hoạt, sáng tạo

cần thiết để làm việc hiệu quả. Ý thức tham gia THPL về dân chủ ở cấp xã

của một bộ phận đáng kể người dân chưa cao, tỷ lệ đại diện hộ gia đình tham

gia họp thôn, tổ dân phố ở nhiều nơi còn thấp, chỉ đạt dưới 50%, không bảo

đảm được giá trị thi hành... Chính vì vậy, THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước

ta hiện nay đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ cả về phương pháp, hình thức thực

hiện theo phương châm linh hoạt, sáng tạo, đi vào chiều sâu và thực chất.

4.1.6. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã trên phạm vi toàn quốc

phải gắn với phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa - xã hội cơ sở

Khi pháp luật về dân chủ ở cấp xã được ban hành và triển khai thực

hiện mạnh mẽ trong đời sống xã hội ở xã, phường, thị trấn thì bầu không khí

Page 138: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

138

dân chủ, cởi mở trong xã hội đã được tạo ra, quyền làm chủ của nhân dân

được mở rộng, lòng tin của nhân dân vào chế độ ngày càng được củng cố, từ

đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng ở các

địa phương trên cả nước; biểu hiện rõ nhất là trong phát triển kinh tế, xây

dựng nếp sống văn hoá ở xã, phường, thị trấn. Nhờ đổi mới toàn diện và phát

huy dân chủ ở cấp xã một cách mạnh mẽ, đất nước ta đã đạt những thành tựu

to lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội và các mặt khác. Điều đó chứng minh rõ

ràng mối quan hệ khăng khít giữa THPL về dân chủ ở cấp xã với phát triển

kinh tế, văn hóa: thực hiện dân chủ ở cấp xã tạo ra những tiền đề, điều kiện

cần thiết cho kinh tế phát triển; ngược lại, sự phát triển về kinh tế và đời sống

văn hóa tinh thần ở cơ sở phong phú lại là nền tảng cơ bản, động lực không

thể thiếu cho việc xây dựng một nền dân chủ tiến bộ, một xã hội dân chủ,

công bằng, văn minh. Đây là mối quan hệ tác động qua lại, bổ sung cho nhau.

THPL về dân chủ ở cấp xã trên phạm vi cả nước mang lại hiệu quả thiết thực

trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đời sống văn hóa và bảo đảm trật tự

an toàn xã hội ở cấp cơ sở, tạo được sự đồng thuận xã hội.

4.2. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ

Ở CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ

HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

THPL về dân chủ ở cấp xã, về bản chất, là sự thống nhất hữu cơ giữa

việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã, tăng cường

vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền địa phương, phát huy

vai trò nòng cốt của đội ngũ CBCC, đảng viên, sự tham gia chủ động, tích

cực hơn nữa của người dân vào hoạt động này và gắn liền với sự đảm bảo

các điều kiện cần thiết về kinh tế, chính trị, văn hóa và pháp luật. Do đó, để

nâng cao hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam thì cần thực hiện các giải pháp sau:

4.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã

Hệ thống pháp luật và mức độ hoàn thiện của nó có tác động mạnh mẽ

tới chất lượng, hiệu quả của hoạt động THPL. Hệ thống pháp luật càng hoàn

Page 139: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

139

thiện bao nhiêu thì càng tạo ra môi trường pháp luật ổn định bấy nhiêu, tạo

điều kiện cho hoạt động THPL diễn ra được thuận lợi và hiệu quả. Hệ thống

pháp luật hoàn thiện có nghĩa là các bộ luật, đạo luật được ban hành phải đảm

bảo tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp dựa trên nền tảng trình độ kỹ thuật lập

pháp cao; các văn bản QPPL điều chỉnh hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã

phải bám sát thực tiễn, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi khách quan của đời sống

xã hội ở cơ sở. Khi đó, việc THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ có được sự ổn định,

thống nhất, dễ dàng và thuận lợi hơn. Ngược lại, tính cục bộ, thiển cận, chậm

trễ, duy ý chí, xa rời thực tiễn, thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung của các

văn bản QPPL là nguyên nhân khiến cho việc THPL thiếu thích ứng, mất ổn

định; việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật về dân chủ ở cấp xã phải lặp đi,

lặp lại nhiều lần, gây lãng phí, tốn kém về thời gian, công sức và tiền của mà

hiệu quả vẫn ít được cải thiện. Như vậy, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về

thực hiện dân chủ ở cấp xã là một trong những yêu cầu khách quan để nâng

cao hơn nữa hiệu quả THPL về lĩnh vực này.

Ở nước ta, kể từ khi Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998

được ban hành đến nay, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã đã qua hai

lần được sửa đổi, ban hành mới theo hướng ngày càng bám sát thực tiễn đời

sống xã hội ở cơ sở hơn; trình độ kỹ thuật lập pháp, lập quy và giá trị pháp lý

cũng dần được nâng cao hơn. Sau 5 năm đi vào thực tiễn đời sống xã hội ở xã,

phường, thị trấn, bên cạnh việc tạo ra những chuyển biến tích cực trong nhận

thức cũng như hành động của các cấp chính quyền và nhân dân các địa

phương trên cả nước, Nghị định 29/1998/NĐ-CP đã bộc lộ những hạn chế, bất

cập nhất định; bởi vậy, nó đã được Chính phủ thay thế bằng Nghị định số

79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003. Dù đã mở rộng thêm phạm vi nội dung các

quyền dân chủ của nhân dân ở các xã, phường, thị trấn cũng như các hình

thức thực hiện những nội dung đó; song, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP vẫn

chỉ dừng lại ở cấp độ giá trị pháp lý của một Nghị định mà thôi.

Nhằm khắc phục những hạn chế của Nghị định số 79/2003/NĐ-CP,

ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thực

Page 140: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

140

hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007.

Được nâng cao giá trị pháp lý so với các Nghị định trước đây, Pháp lệnh là

một văn bản pháp lý quan trọng, đánh dấu một bước phát triển mới trong việc

thể chế hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của

Đảng ta, thể hiện một giá trị pháp lý cao hơn trong trình tự lập pháp, lập quy

của Nhà nước ta nhằm ngày càng phát huy thực chất quyền làm chủ trực tiếp

của nhân dân ngay từ cơ sở. Việc THPL về dân chủ ở cấp xã tại nhiều địa

phương trên phạm vi cả nước đã trở thành phương thức quan trọng để phát

huy sức mạnh cộng đồng, đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần xây dựng

chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, là động lực để thúc đẩy phát triển

kinh tế - xã hội của các địa phương.

Tuy nhiên, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng

đang bộc lộ những điểm hạn chế, như không quy định thẩm quyền, chức năng

của các cấp cao hơn trong việc theo dõi, kiểm tra và đánh giá việc chính

quyền cấp xã triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã như thế nào; không đề cập

đến sự giám sát độc lập việc thực hiện dân chủ ở cấp xã bởi các tổ chức xã

hội dân sự khác với MTTQ và các tổ chức thành viên; không thấy nhắc đến

tính chịu trách nhiệm của các chủ thể liên quan đến hệ quả của việc tuân thủ

hoặc không tuân thủ pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã; nguồn lực để

THPL về dân chủ ở cấp xã vẫn còn để ngỏ; không đề cập đến việc nâng cao

nhận thức pháp luật hoặc bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ CBCC cấp xã, như

Chủ tịch UBND xã, người đứng đầu các tổ chức, đoàn thể.v.v.

Từ thực tế đó, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật

về thực hiện dân chủ ở cấp xã theo hướng xây dựng, ban hành Luật Thực

hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV. Nội

dung Luật Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn phải:

- Kế thừa, tiếp thu được những QPPL phù hợp, đã được thực tiễn kiểm

nghiệm trong quá trình thực hiện những năm qua;

- Mở rộng hơn nữa nội dung các quyền dân chủ của nhân dân, trao cho

nhân dân địa phương quyền được bàn và quyết định trực tiếp nhiều hơn các

Page 141: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

141

vấn đề, nội dung liên quan thiết thực đến các vấn đề kinh tế - xã hội và lợi ích

chung của cộng đồng theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra, dân quyết định”;

- Bổ sung thêm các hình thức công khai những nội dung nhân dân phải

được biết, như hình thức phát miễn phí tài liệu tới từng hộ gia đình để người

dân có thời gian đọc, nắm bắt kỹ hơn nội dung thông tin...;

- Tăng thêm các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân ở

xã, phường, thị trấn, như nhân dân được tham gia bỏ phiếu tín nhiệm đối với

Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND và Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã;

- Quy định cụ thể, rõ ràng thẩm quyền, chức năng của các cấp cao hơn,

như cấp tỉnh, cấp huyện, trong việc theo dõi, kiểm tra và đánh giá việc chính

quyền cấp xã triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã;

- Ngoài quy định Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên

của Mặt trận ở cấp xã có trách nhiệm giám sát việc thực hiện và tham gia

tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện dân chủ ở cấp xã, phải quy định

thêm vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong giám sát độc lập việc thực

hiện dân chủ ở cấp xã. Cần xây dựng được cơ chế kiểm tra, giám sát đồng bộ

việc thực hiện dân chủ ở cấp xã từ Trung ương tới địa phương nhằm xử lý kịp

thời những sai phạm xảy ra;

- Quy định cụ thể trách nhiệm cá nhân của những cán bộ lãnh đạo chủ

chốt, ít nhất là các chức danh Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch

UBND cấp xã trong tổ chức thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã. Những

nơi không thực hiện hoặc thực hiện mang tính hình thức, đối phó, không hiệu

quả, để xảy ra các vụ việc sai phạm... thì những chức danh trên phải chịu

trách nhiệm cá nhân trước nhân dân địa phương, trước pháp luật;

- Quy định cụ thể về khen thưởng, kỷ luật, các biện pháp chế tài áp

dụng trong THPL về dân chủ ở cấp xã:

+ Đối với khen thưởng: Quy định những thành tích cụ thể nào đạt được

trong THPL về dân chủ ở cấp xã thì được đề nghị khen thưởng, cần lượng hóa

thành tích bằng những tiêu chí càng cụ thể càng tốt nhằm đảm bảo sự công

Page 142: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

142

bằng, khách quan, tạo thuận tiện cho việc đánh giá, xét duyệt; Quy định các

hình thức khen thưởng cụ thể cả về mặt tinh thần và vật chất kèm theo nhằm

động viên, khích lệ kịp thời CBCC cấp xã và nhân dân trong thực hiện có hiệu

quả pháp luật về dân chủ ở cấp xã.

+ Đối với xử lý kỷ luật: Quy định cụ thể các loại hành vi vi phạm trong

THPL về dân chủ ở cấp xã phải bị xử lý kỷ luật, như tính chất, mức độ của

lỗi, hậu quả xảy ra, ảnh hưởng của hành vi vi phạm trong cán bộ và nhân dân

địa phương; Quy định cụ thể hình thức xử lý kỷ luật đối với từng loại hành vi

vi phạm cụ thể, đảm bảo tính giáo dục đối với bản thân người vi phạm và tính

ngăn ngừa, răn đe đối với những người khác. Trường hợp hành vi vi phạm

pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã mà hội đủ các yếu tố cấu thành tội

phạm của một tội nào đó được quy định trong Bộ luật Hình sự thì phải bị truy

cứu trách nhiệm hình sự.

- Chú trọng đúng mức sự đầu tư nguồn lực cho công tác triển khai

THPL về dân chủ ở cấp xã, đặc biệt là công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng

đội ngũ CBCC cấp xã.

4.2.2. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự

chỉ đạo, điều hành của Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương trong

việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

Lịch sử Việt Nam kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến

nay đã chứng minh rằng, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam không thể

tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng. Ngay từ khi ra đời, Đảng và Nhà nước ta

đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân

dân, coi đó là một vấn đề đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa chiến lược sâu sắc

đối với sự phát triển của đất nước. Khi nhận thấy các quyền dân chủ của nhân

dân, nhất là ở xã, phường, thị trấn bị xâm phạm, có lúc, có nơi nghiêm trọng,

Đảng ta đã kịp thời đề ra chủ trương, đường lối xây dựng, ban hành và thực

hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ ở cơ sở. Nhà nước ta đã nhanh chóng thể

chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật. Vấn đề đặt ra là,

pháp luật về dân chủ ở cấp xã có được triển khai thực hiện sâu rộng ở các xã,

Page 143: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

143

phường, thị trấn và đạt được hiệu quả cao hay không phụ thuộc phần nhiều

vào sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng ở các địa phương từ tỉnh đến xã,

phường, thị trấn trên phạm vi cả nước. Vì vậy, việc đẩy mạnh THPL về dân

chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự

chỉ đạo, điều hành của Nhà nước, các cấp chính quyền từ tỉnh đến xã trên

phạm vi cả nước nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả của công tác này. Đây cũng

là yêu cầu của Đảng ta về tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị

số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) trong giai đoạn hiện nay: “Tăng

cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng; trách nhiệm của chính quyền,

của người đứng đầu về thực hiện quy chế dân chủ” [2, tr. 7].

Thứ nhất, các cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương từ tỉnh đến

xã, phường, thị trấn cần quán triệt sâu sắc và nâng cao hơn nữa nhận thức vềdân chủ và thực hiện dân chủ ở cấp xã. Nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò,

tầm quan trọng của thực hành dân chủ và dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nền tảng để triển khai thực

hiện tốt pháp luật về dân chủ ở cấp xã. Mặc dù phần lớn Tỉnh ủy, Ủy ban

nhân dân các tỉnh trên phạm vi cả nước đã làm khá tốt công việc này; song,

như Kết luận của Ban Bí thư đã chỉ rõ: “Nhận thức về dân chủ và trách nhiệm

thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ,

công chức chưa đầy đủ, phong cách làm việc quan liêu, mất dân chủ, thiếu tôn

trọng dân còn khá phổ biến trong cán bộ các cấp, các ngành” [2, tr. 5]. Điều

đó chứng tỏ rằng, vẫn còn tình trạng vi phạm các quyền dân chủ ở nơi này

hay nơi khác, lúc này hay lúc khác trong THPL về dân chủ ở cấp xã, mà

nguyên nhân xuất phát từ vấn đề nhận thức. Chính vì vậy, cần “tiếp tục quán

triệt, không ngừng nâng cao nhận thức; xác định rõ trách nhiệm của các cấp

ủy đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị- xã hội; của cán bộ,

đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân về những quan

điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát huy quyền làm

chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở” [2 tr. 7].

Page 144: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

144

Thứ hai, các cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương phải đề ra

phương hướng, chương trình, mục tiêu cụ thể của công tác THPL về dân chủ

ở cấp xã cho từng giai đoạn. Sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng cần được thể

hiện bằng các chỉ thị, nghị quyết cụ thể và sâu sắc về công tác THPL về dân

chủ ở cấp xã; đồng thời, phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việcthực hiện các chỉ thị, nghị quyết đó từ phía chính quyền các cấp, nhất là cấp

xã. Tuyệt đối tránh tình trạng chính quyền cấp xã sử dụng các chỉ thị, nghị

quyết của cấp ủy Đảng thay thế cho các văn bản pháp quy. Ngoài ra, không

dừng lại ở chỉ thị, nghị quyết, các cấp ủy Đảng, chính quyền các xã, phường,

thị trấn trên phạm vi cả nước cũng cần chú trọng đẩy mạnh việc thực hiện dân

chủ trong sinh hoạt của các chi bộ Đảng và trong đội ngũ CBCC, đảng viên

đang công tác, sinh hoạt ở địa phương; bồi dưỡng, nâng cao trình độ kiến thức

pháp luật cho CBCC, đảng viên, củng cố ý thức tôn trọng, chấp hành pháp

luật trong quá trình làm công tác Đảng và công tác chính quyền.

Thứ ba, với vai trò là nòng cốt, hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính

trị địa phương, các cấp ủy Đảng cần có cơ chế động viên, lôi cuốn cả hệ thống

chính trị, đặc biệt là hệ thống chính trị ở cấp xã, tham gia vào công tác THPL

về dân chủ ở cấp xã. Cần xác định rõ ràng rằng, hoạt động THPL nói chung,

THPL về dân chủ ở cấp xã nói riêng không phải chỉ là trách nhiệm của riêng

các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, mà nó đòi hỏi huy động sự nỗ lựctham gia của cả hệ thống chính trị. Với tư cách là liên minh các thiết chế

chính trị, chính trị - xã hội được thành lập, hoạt động hợp pháp trong mối liên

hệ chặt chẽ với nhau, cả hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của nó, với

tính chủ động, sáng tạo, sẽ phát huy mạnh mẽ vai trò của mình trong THPL

về dân chủ ở cấp xã. MTTQ, Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội

Cựu chiến binh, Hội Nông dân... cấp xã là những thành tố quan trọng đó.

Thứ tư, từ các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các văn bản QPPL của

Nhà nước về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho đến việc triển khai thực hiện,

đưa chúng vào thực tiễn đời sống xã hội tại các xã, phường, thị trấn là cả một

quá trình. Vấn đề đặt ra ở đây là sự nghiêm túc, kịp thời trong việc triển khai

thực hiện các văn bản QPPL về thực hiện dân chủ ở cấp xã từ phía các cấp ủy

Page 145: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

145

Đảng, chính quyền cấp xã. Thực tiễn chứng minh rằng, chỉ thị dù có đúng,

chính sách dù có hay, phù hợp, nhưng việc tổ chức thực hiện không được

quán triệt, thông suốt từ tư tưởng đến hành động thì chỉ thị, chính sách đó

cũng khó lòng đi vào cuộc sống. Chính vì vậy, sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát,

kịp thời từ phía cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương với tư cách chủ thể

trong việc triển khai thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng, văn bản QPPL

của Nhà nước về thực hiện dân chủ ở cấp xã có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền cấp xã phải coi đây là nhiệm vụ chính trị

thường xuyên, có sự chỉ đạo nghiêm túc, đôn đốc, nhắc nhở kịp thời nhằm

thực hiện có hiệu quả pháp luật về dân chủ ở cấp xã.

Thứ năm, quán triệt sâu sắc phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước

quản lý, nhân dân làm chủ” trong hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã. Mục

tiêu của hoạt động này, suy cho cùng, là nhằm phát huy cao nhất các quyền

dân chủ của nhân dân, thu hút nhân dân chủ động, tích cực tham gia thực sự

vào hoạt động quản lý nhà nước và xã hội, đảm bảo nguyên tắc “toàn bộ

quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”, cũng có nghĩa là “nhân dân làm

chủ”. Các cấp ủy Đảng giữ vai trò lãnh đạo hoạt động THPL về dân chủ ở cấp

xã bằng các chỉ thị, nghị quyết; đôn đốc, kiểm tra quá trình hoạt động này;

nhưng không làm thay các cấp chính quyền địa phương. Các cấp chính quyền

địa phương giữ vai trò chỉ đạo, điều hành, tổ chức triển khai THPL về dân chủ

ở cấp xã thông qua đội ngũ CBCC của mình. Tuyệt đối tránh tình trạng cấp

ủy Đảng phó thác cho chính quyền cấp xã triển khai THPL về dân chủ ở cấp

xã, còn chính quyền xã lại cho rằng đó là nhiệm vụ của cấp ủy Đảng. Phải có

sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa hai vế “Đảng lãnh đạo” và “Nhà nước

quản lý” thì mới đạt được mục tiêu “nhân dân làm chủ”.

4.2.3. Nâng cao chất lượng, phát huy vai trò nòng cốt của đội ngũ cán bộ,

công chức cấp xã, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong quá trình thực hiện

pháp luật về dân chủ ở cấp xã

Nhân tố con người, mà cụ thể và trực tiếp là đội ngũ CBCC cấp xã là

khâu có ý nghĩa quyết định trong THPL nói chung, pháp luật về dân chủ ở

Page 146: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

146

cấp xã nói riêng. CBCC cấp xã là những người đã và đang hàng ngày thay

mặt chính quyền địa phương trực tiếp thụ lý, giải quyết các công việc liên

quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhà nước và nhân dân trên

địa bàn xã, phường, thị trấn; trực tiếp tổ chức, triển khai thực hiện và hướng

dẫn nhân dân THPL về dân chủ ở cấp xã nhằm chuyển các nguyên tắc, quy

định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã thành hành vi pháp luật hợp

pháp của công dân. Hiệu quả của hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã cao

hay thấp, có thực sự phát huy được quyền làm chủ của nhân dân hay không

phụ thuộc chủ yếu vào sự thực thi chức năng, nhiệm vụ được giao của đội ngũ

này. Chính vì vậy, nâng cao trình độ kiến thức pháp luật, phát huy vai trò

nòng cốt của đội ngũ CBCC cấp xã, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong quá

trình THPL về dân chủ ở cấp xã là một giải pháp rất quan trọng. Đối với giải

pháp này, cần tập trung làm tốt các nội dung sau:

4.2.3.1. Tăng cường tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng kiến thức pháp

luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã

Một trong những tiêu chuẩn của đội ngũ CBCC, trong đó có CBCC cấp

xã, là phải có trình độ, kiến thức, hiểu biết pháp luật; nhất là phải có sự hiểu

biết chuyên sâu về các văn bản QPPL đang điều chỉnh lĩnh vực chuyên môn,

nghiệp vụ mà họ đang được phân công đảm trách; biết phân tích các QPPL để

vận dụng đúng đắn pháp luật nhằm giải quyết tốt công việc được giao. Tuy

nhiên, tỷ lệ CBCC cấp xã chưa đạt chuẩn còn cao; nhiều CBCC cấp xã chưa

được đào tạo cơ bản. Ở một số địa phương vẫn còn tình trạng CBCC cấp xã

giải quyết công việc trong tình trạng thiếu kiến thức, hiểu biết pháp luật,

không quan tâm cập nhật chính sách, văn bản pháp luật mới, trong đó có pháp

luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã. THPL về dân chủ ở cấp xã mà thiếu kiến

thức, hiểu biết về lĩnh vực pháp luật này thì không thể có được kết quả như

mong muốn, không thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

Pháp luật nói chung, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã nói riêng

không tự đến được với đội ngũ CBCC cấp xã, mà phải thông qua những cách

thức chuyển tải khác nhau. Tập huấn chuyên đề pháp luật, bồi dưỡng kiến

Page 147: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

147

thức pháp luật sẽ là những hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với

đội ngũ CBCC cấp xã, đáp ứng yêu cầu nói trên.

Tăng cường công tác tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng kiến thức pháp

luật cho đội ngũ CBCC cấp xã nhằm mục tiêu cung cấp, trang bị cho họ

những tri thức, hiểu biết về các vấn đề pháp luật nói chung, các vấn đề pháp

luật cụ thể liên quan đến hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã nói riêng;

trang bị cho họ các kỹ năng THPL, kỹ năng vận động, tuyên truyền nhân dân

phát huy các quyền dân chủ; làm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm

pháp luật và hành vi pháp luật phù hợp với các yêu cầu của hệ thống pháp luật

hiện hành cũng như những đòi hỏi đặc thù của lĩnh vực THPL về dân chủ ở

cấp xã. Để bảo đảm chất lượng, hiệu quả của công tác tập huấn chuyên đề, bồi

dưỡng kiến thức pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho đội ngũ CBCC

cấp xã, các chủ thể giáo dục pháp luật và đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp

luật cần thực hiện tốt các việc sau:

Về phía chủ thể, Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp huyện

và các cơ quan hữu quan, theo chức năng, nhiệm vụ được giao trong công tác

tập huấn, bồi dưỡng pháp luật nói chung, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp

xã nói riêng cho đội ngũ CBCC cấp xã, cần có sự chuẩn bị chu đáo, nghiêm

túc, khoa học nội dung các chuyên đề pháp luật cần bồi dưỡng, chuẩn bị đầy

đủ các tài liệu pháp luật để phát cho người học. Nội dung tập huấn, bồi dưỡng

pháp luật cho CBCC cấp xã cần tập trung vào các văn bản QPPL mới của

Nhà nước và các văn bản hướng dẫn của các cấp chính quyền địa phương; các

văn bản phục vụ nhiệm vụ chính trị ở từng địa phương, các quy định của pháp

luật liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước, tập trung vào các lĩnh vực

pháp luật như: đất đai, dân sự, khiếu nại, tố cáo, môi trường, văn hoá, phòng

chống tội phạm, tệ nạn xã hội, giao thông, quy chế tiếp công dân, thực hiện

quy chế dân chủ ở cấp xã, chế độ chính sách đối với người có công, xử lý vi

phạm hành chính, phí, lệ phí, thi hành án dân sự, giải quyết khiếu nại tố cáo,

quản lý hộ tịch, hộ khẩu và trật tự an toàn xã hội... Các chủ thể cũng cần lựa

chọn giảng viên/báo cáo viên pháp luật đứng lớp là những chuyên gia pháp

Page 148: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

148

luật có trình độ cao, hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực pháp luật cần tập huấn, bồi

dưỡng cho CBCC cấp xã, am hiểu tình hình thực tế địa phương, có kỹ năng

truyền đạt, phương pháp sư phạm giỏi...

Trong quá trình tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề pháp luật, giảng viên

cần kết hợp hài hòa giữa phương pháp thuyết trình truyền thống với phương

pháp nêu vấn đề, kết hợp giữa giảng lý thuyết với việc nêu ra các tình huống

thực tiễn và các bài tập trắc nghiệm phù hợp với nội dung, mục tiêu bồi

dưỡng; hạn chế sử dụng phương pháp thuyết trình theo lối độc thoại một

chiều; tăng cường các phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm theo các chủ

đề pháp luật, phương pháp nêu tình huống, sự kiện pháp lý để lôi cuốn người

nghe vào sự tranh luận, thảo luận, tìm ra hướng giải quyết hợp lý nhất... Một

nội dung bồi dưỡng rất quan trọng là phải rèn luyện cho đội ngũ CBCC cấp

xã các kỹ năng tuyên truyền, vận động nhân dân, hướng dẫn thực hiện, áp

dụng pháp luật vào thực tiễn THPL về dân chủ ở cấp xã.

Về phía đối tượng tiếp nhận, đội ngũ CBCC cấp xã cần có tinh thần, ý

thức trách nhiệm cao khi tham gia các lớp tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng

kiến thức pháp luật, phải xuất phát từ nhu cầu của bản thân mong muốn nâng

cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật thực sự chứ không phải tham gia

theo kiểu đối phó, mà là vì lợi ích của mình; tham dự tập huấn, bồi dưỡng

pháp luật để cập nhật, tích lũy kiến thức, hiểu biết pháp luật, nâng cao ý thức

pháp luật cá nhân và để làm công tác chuyên môn tốt hơn; hiểu biết sâu hơn

pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã để tổ chức triển khai có hiệu quả và

hướng dẫn nhân dân THPL cho đúng. Trên cơ sở đó, CBCC cấp xã phải thực

sự có thái độ nghiêm túc, cầu thị trong quá trình tham gia các lớp tập huấn,

bồi dưỡng chuyên đề pháp luật. Mặt khác, bản thân mỗi người cần thường

xuyên tự cập nhật thông tin về các chính sách, văn bản pháp luật mới, nhất là

những văn bản liên quan trực tiếp đến lĩnh vực chuyên môn đang đảm trách

và liên quan đến việc triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã.

Về phía chính quyền cấp xã - nơi quản lý trực tiếp đội ngũ CBCC cấp

xã - cũng cần có sự quan tâm, tạo điều kiện cho CBCC của mình được tham

Page 149: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

149

gia tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng kiến thức pháp luật đầy đủ; có chính sách

khuyến khích CBCC học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ

năng nghiệp vụ, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật; có cơ chế,

chính sách khen thưởng kịp thời và xử lý kỷ luật nghiêm minh nhằm đảm bảo

chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã. Khi đã cử CBCC cấp xã tham gia các lớp

tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp

xã thì chính quyền các địa phương phải tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho họ,

giám sát và kiểm tra kết quả học tập của CBCC được cử đi học. Mọi sự qua

loa, đại khái, hình thức trong việc chuẩn bị nhân sự đều có thể ảnh hưởng tiêu

cực tới chất lượng, hiệu quả của hoạt động này.

Thông qua việc tăng cường công tác tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng

kiến thức pháp luật cho đội ngũ CBCC cấp xã, chất lượng chuyên môn, kỹ

năng nghiệp vụ của đội ngũ này chắc chắn sẽ được nâng lên, đáp ứng tốt hơn

nhiệm vụ THPL về dân chủ ở cấp xã.

4.2.3.2. Phát huy vai trò nòng cốt, tính tích cực chính trị - xã hội của

mỗi CBCC cấp xã trong quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã

Trong hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã, đội ngũ CBCC cấp xã giữ

vai trò “kép”: vừa trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện các quy định của pháp

luật về dân chủ ở cấp xã, vừa tuyên truyền, hướng dẫn các tầng lớp nhân dân

ở cơ sở thực hiện các quyền dân chủ mà pháp luật trao cho họ. Dân chủ ở cấp

xã chỉ có thể được phát huy khi đội ngũ CBCC cấp xã tôn trọng và tận tụy

phục vụ nhân dân. Vai trò nòng cốt, tính tích cực chính trị - xã hội của đội

ngũ CBCC cấp xã trong quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã thể hiện ở bản

lĩnh chính trị vững vàng; có lối sống lành mạnh, đạo đức trong sáng, gương

mẫu, đi đầu trong THPL; tác phong làm việc chuyên nghiệp và hiện đại; có ý

thức cao trong đấu tranh tự phê bình và phê bình, phòng chống các hành vi

tiêu cực, vi phạm pháp luật. Nhằm tiếp tục phát huy nền dân chủ XHCN, đẩy

mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đảng ta đòi hỏi “cán bộ, công

chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân,

tận tụy phục vụ nhân dân” [21, tr. 239].

Page 150: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

150

- Thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân

dân, do nhân dân, vì nhân dân và thực hiện dân chủ ở cấp xã đòi hỏi đội ngũ

CBCC cấp xã không chỉ cần giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, mà còn phải có

bản lĩnh chính trị vững vàng; nghĩa là đội ngũ CBCC cấp xã phải vừa “hồng”,

vừa “chuyên”. Mỗi CBCC, đảng viên phải quán triệt sâu sắc cương lĩnh chính

trị của Đảng, lý tưởng XHCN; học tập, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ lý

luận chính trị, rèn luyện bản lĩnh chính trị, kiên định lập trường cách mạng

trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và biết vận

dụng, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào thực tiễn đời sống xã hội ở xã,

phường, thị trấn. Đây là bài học kinh nghiệm quý báu mà Đảng ta đã tổng kết:

“Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”

[20, tr. 70]. Bản lĩnh chính trị vững vàng cũng là cơ sở, nền tảng để đội ngũ

CBCC, đảng viên ở cơ sở “chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ

đoạn của các thế lực thù địch kích động, chống đối, chia rẽ khối đại đoàn kết

toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội” [2, tr. 8]; hướng dẫn

nhân dân THPL về dân chủ ở cấp xã đạt chất lượng, hiệu quả cao.

- Để phát huy tính tích cực chính trị - xã hội trong THPL về dân chủ ở

cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đòi hỏi

mỗi CBCC cấp xã phải có lối sống lành mạnh, trong sáng. “Người cán bộ cơ

sở cần luôn thể hiện sự gương mẫu trong cuộc sống, sinh hoạt, giao tiếp và

trong công việc hàng ngày, tránh xa các biểu hiện tiêu cực như chủ nghĩa cá

nhân, ích kỷ, thực dụng, quan liêu, vụ lợi, tệ nạn xã hội. Trong giải quyết

công việc cần năng động, sáng tạo và tự tin, phải có thái độ ân cần, niềm nở

khi tiếp dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân để tìm ra hướng giải

quyết đúng đắn. Tránh mọi biểu hiện trịch thượng, độc đoán, cửa quyền, xa

rời quần chúng” [100, tr. 159]. Xây dựng và củng cố vững chắc lối sống theo

pháp luật là một yêu cầu bắt buộc đối với CBCC cấp xã.

- Đội ngũ CBCC cấp xã còn phải có đạo đức trong sáng, rèn luyện và

nâng cao phẩm chất đạo đức, ý thức đạo đức nghề nghiệp; có ý thức rõ ràng

Page 151: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

151

về thiện - ác, tốt - xấu, lương tâm - vô lương tâm... nhằm điều chỉnh hành vi

đạo đức của mình sao cho phù hợp với các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực

đạo đức trong xã hội, trong cộng đồng. Việc tự giác rèn luyện phẩm chất đạo

đức nghề nghiệp cũng giúp cho mỗi CBCC tránh xa các thói hư, tật xấu,

không dính líu vào các hành vi tiêu cực, tệ nạn xã hội; trở thành tấm gương

đạo đức để nhân dân nhìn vào và thêm tin yêu đội ngũ cán bộ của mình.

CBCC cấp xã có gương mẫu, đi đầu trong THPL thì mới có thể động viên, lôi

cuốn các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình. CBCC cấp xã

khi làm việc, tiếp dân cần đeo phù hiệu để người dân được biết, thuận tiện

trong liên hệ công việc và phản ánh đúng địa chỉ, đúng người trong trường

hợp có những biểu hiện tiêu cực. Đó cũng là tác phong làm việc chuyên

nghiệp và hiện đại mà mỗi CBCC cấp xã cần phải hướng tới và đạt được.

- Tự bản thân mỗi CBCC cấp xã, tùy theo phạm vi hoạt động chuyên

môn, chức năng, nhiệm vụ của mình, cần luôn luôn đề cao ý thức, tinh thần

đấu tranh tự phê bình và phê bình trong nội bộ tổ chức, cơ quan. Tự phê bình

và phê bình có nghĩa là mỗi CBCC phải tự ý thức được vai trò, trách nhiệm,

bổn phận của bản thân mình khi làm công tác chuyên môn, khi triển khai thực

hiện pháp luật nói chung, pháp luật về dân chủ ở cấp xã nói riêng; phải tự có

trách nhiệm và tự chịu trách nhiệm đối với chính bản thân mình; tự tu dưỡng,

rèn luyện, phấn đấu để nâng cao ý thức tự phòng chống các hành vi tiêu cực

cho bản thân và cho cả những CBCC khác trong bộ máy chính quyền cấp xã

không bị dính líu vào các hành vi đó, như hách dịch, sách nhiễu dân, tham

nhũng, dính líu vào các loại tệ nạn xã hội, tha hóa về đạo đức, vi phạm pháp

luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã.

4.2.3.3. Bảo đảm thực thi chế tài khen thưởng - kỷ luật công bằng,

nghiêm minh trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

Chấy lượng, hiệu quả của hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước

ta hiện nay phụ thuộc chủ yếu vào sự thực thi vai trò, trách nhiệm của một

trong những chủ thể quan trọng - đội ngũ CBCC cấp xã. Tuy nhiên, tính chịu

trách nhiệm được quy định như thế nào? Ai làm tốt chức trách thì được động

Page 152: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

152

viên, khen thưởng ra sao? Ai có hành vi vi phạm, lợi dụng việc thực hiện

pháp luật về dân chủ ở cấp xã để mưu đồ lợi ích cá nhân thì phải bị xử lý cụ

thể như thế nào? Nếu không quy định cụ thể, rõ ràng các vấn đề nêu trên thì

sẽ đặt đội ngũ CBCC cấp xã vào tình thế “hòa cả làng”, người làm tốt cũng

như không hoàn thành nhiệm vụ; không tạo được động lực thúc đẩy họ hoàn

thành tốt nhiệm vụ được giao trong THPL về dân chủ ở cấp xã. Một trong

những nguyên nhân làm giảm sút hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã là do

thiếu chế tài khen thưởng - kỷ luật hoặc thực thi chưa nghiêm minh chế tài

khen thưởng - kỷ luật trong THPL về dân chủ ở cấp xã.

Các bản Quy chế thực hiện dân chủ ở xã từ trước đến nay đều có

chương cuối đề cập đến “Điều khoản thi hành”, trong đó quy định: “Trong

quá trình thực hiện Quy chế, các tổ chức, cá nhân có thành tích sẽ được khen

thưởng; các tổ chức, cá nhân vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật

hiện hành” [9, Điều 25]; hoặc “Những nơi không tổ chức triển khai thực hiện

Quy chế hoặc triển khai hình thức, kém hiệu quả thì Chủ tịch UBND xã phải

chịu trách nhiệm và bị xử lý kỷ luật tùy theo mức độ sai phạm. Hình thức kỷ

luật đối với Chủ tịch UBND cấp xã do Chủ tịch UBND cấp huyện xem xét,

quyết định” [10, Điều 25]. Còn trong Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn, trách nhiệm của chính quyền, tổ chức, đoàn thể, CBCC và

nhân dân đã được quy định theo từng nội dung cụ thể ở từng chương; chẳng

hạn, “Xử lý người có hành vi cản trở hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân,

Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc người có hành vi trả thù, trù dập

công dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị theo quy định của pháp luật” [112, Điều

25]. Tuy nhiên, những quy định về khen thưởng và kỷ luật như đã nêu trong

các bản Quy chế thực hiện dân chủ ở xã năm 1998 và năm 2003 thì đã bị loại

bỏ, không còn hiện diện trong Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị

trấn. Và dù có hay không thì bất kỳ ai cũng dễ dàng nhận thấy rằng, đó là

những quy định còn rất chung chung.

Khen thưởng kịp thời, đúng người, đúng việc sẽ tạo động lực khuyến

khích, thúc đẩy CBCC cấp xã và nhân dân chủ động, tích cực tham gia THPL

Page 153: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

153

về dân chủ ở cấp xã. Kỷ luật nghiêm minh, đúng đối tượng, đúng lỗi vi phạm

vừa trực tiếp xử lý người có hành vi vi phạm, vừa góp phần ngăn chặn, phòng

ngừa các hành vi vi phạm dân chủ có thể xảy ra.

Việc thực thi các chế tài khen thưởng - kỷ luật trong THPL về dân chủ

ở cấp xã phải kịp thời, công bằng, nghiêm minh, đúng đối tượng, bảo đảm

tính hiệu lực, hiệu quả của việc khen thưởng, kỷ luật; có như vậy mới khích lệ

được sự hăng hái, nhiệt tình của các chủ thể THPL về dân chủ ở cấp xã.

4.2.4. Nâng cao nhận thức pháp luật, sự tham gia chủ động, tích cực hơn

nữa của các tầng lớp nhân dân vào công tác THPL về dân chủ ở cấp xã

Vai trò nòng cốt của đội ngũ CBCC cấp xã chỉ có thể thực sự được phát

huy khi nó “giao thoa” với sự tham gia chủ động, tự giác và tích cực của các

tầng lớp nhân dân vào hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã dựa trên nền tảng

một trình độ hiểu biết pháp luật nhất định. “Miền giao thoa” càng lớn thì hiệu

quả THPL về dân chủ ở cấp xã càng cao và ngược lại. Do đó, nâng cao nhận

thức pháp luật, sự tham gia chủ động, tự giác, tích cực hơn nữa của nhân dân

vào việc THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN là giải pháp rất quan trọng và phải được triển khai đồng bộ

cùng các giải pháp khác. Nội dung giải pháp này bao gồm:

4.2.4.1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật

về thực hiện dân chủ ở cấp xã trong các tầng lớp nhân dân

Một trong số các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục phát huy dân

chủ XHCN được Đảng ta xác định là: “Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ

công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân” [21, tr.

239]. Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả

của việc THPL về dân chủ ở cấp xã là do người dân chưa ý thức đầy đủ về

các quyền và nghĩa vụ của mình, thiếu năng lực làm chủ và chưa chủ động,

tích cực tham gia quản lý xã hội. “Còn một bộ phận đáng kể nhân dân chưa có

ý thức cao và năng lực thực hành dân chủ, chưa có một nền văn hóa dân chủ ở

mức cần thiết, chưa có thói quen tuân thủ pháp luật nên cũng chưa có cơ sở

tốt để phát huy dân chủ một cách đúng đắn và đầy đủ” [14, tr. 27]. Muốn thực

Page 154: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

154

sự phát huy tính tự chủ, tự giác của nhân dân thi công tác tuyên truyền sâu

rộng pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có tầm quan trọng

hàng đầu. Kiến thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là tiền

đề, nền tảng để nhân dân phát huy các quyền dân chủ của mình theo luật định.

Tại các xã, phường, thị trấn ở nước ta hiện nay, việc tiếp tục đẩy mạnh công

tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã một cách

sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân là để củng cố vững chắc nền tảng đó.

Mục đích của công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện

dân chủ ở cấp xã là nhằm cung cấp, trang bị cho mỗi người dân những kiến

thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã, bao gồm các quyền

dân chủ của nhân dân, trách nhiệm của chính quyền, CBCC cấp xã, cán bộ

thôn, tổ dân phố, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của nhân dân

trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; từ đó, làm hình thành trong nhân dân ở

cơ sở thái độ, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật, tạo dựng thói quen, lối

sống, hành vi xử sự tích cực theo các quy định của pháp luật về thực hiện dân

chủ ở cấp xã, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Để đạt được mục

đích đó cần triển khai các nội dung:

Về chủ thể, ngoài các chuyên gia pháp luật, chủ thể chính làm công tác

phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho các tầng

lớp nhân dân là đội ngũ CBCC cấp xã. Việc thực hiện vai trò, chức năng này

của họ có tác động rất lớn đến sự hiểu biết, nhận thức, thái độ, tình cảm của

nhân dân đối với pháp luật và THPL về dân chủ ở cấp xã. Dù đã được tham

dự các lớp tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng pháp luật về thực hiện dân chủ ở

cấp xã; song, khi đảm nhiệm vai trò chủ thể phổ biến, tuyên truyền pháp luật

về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho nhân dân, mỗi CBCC được giao nhiệm vụ

cần chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo, nghiêm túc các nội dung pháp luật cần phổ

biến, tuyên truyền; dự liệu các câu hỏi, tình huống thực tế mà nhân dân có thể

đặt ra để có sự giải đáp thỏa đáng.

Về phương pháp, CBCC làm nhiệm vụ phổ biến, tuyên truyền pháp

luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cần quán triệt phương pháp “lấy người dân

Page 155: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

155

làm trung tâm” bằng cách đưa ra các ví dụ thực tiễn sinh động gắn liền với

THPL về dân chủ ở địa phương, nêu các câu hỏi có tính chất gây tranh luận

nhằm tạo sự thảo luận sôi nổi...; biến nhân dân thành “người trong cuộc”

trong các cuộc họp phổ biến pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã.

Về nội dung, trong giai đoạn hiện nay, nội dung phổ biến, tuyên truyền

pháp luật cho các tầng lớp nhân dân ở xã, phường, thị trấn cần tập trung vào

các văn bản pháp luật gần gũi, liên quan nhiều đến đời sống xã hội trên địa

bàn cơ sở, như Bộ Luật dân sự, Luật đất đai, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo,

pháp luật về an toàn giao thông, phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội,

các chế độ chính sách... Đối với pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã, cần

tập trung phổ biến, tuyên truyền nội dung các quyền dân chủ của nhân dân ở

xã, phường, thị trấn: quyền được biết; quyền được bàn và quyết định; quyền

được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và quyền

giám sát. Việc nhân dân hiểu biết, thực hiện tốt những quyền dân chủ nói trên

sẽ đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

Về hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật, đối với nhân dân ở xã,

phường, thị trấn, những hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực

hiện dân chủ ở cấp xã hiệu quả nhất bao gồm:

- Tổ chức các cuộc họp thôn, hội nghị nhân dân để báo cáo viên pháp

luật trực tiếp phổ biến, tuyên truyền bằng các phương pháp sinh động, hấp

dẫn và nội dung gần gũi, thiết thực với nhân dân.

- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã

bằng cả hai hình thức viết và nói (có thể sân khấu hóa thông qua các hoạt

cảnh, tiểu phẩm vui, thi tuyên truyền viên pháp luật giỏi...).

- Tăng cường hoạt động phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện

dân chủ ở cấp xã trên mạng lưới Đài Truyền thanh cấp xã; trong đó, cần đặc

biệt chú ý đến tần suất, khung giờ phát thanh sao cho phù hợp với nếp sống,

tập quán sản xuất của nhân dân địa phương nhằm đảm bảo hiệu quả thông tin.

- Phát miễn phí các tài liệu pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho

các hộ gia đình để nhân dân có thời gian nghiên cứu, hiểu biết sâu hơn.

Page 156: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

156

- Lồng ghép các nội dung phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện

dân chủ ở cấp xã vào các cuộc họp, hội nghị, sinh hoạt của Đảng, chính

quyền, đoàn thể cấp xã và các sinh hoạt tại khu dân cư, tổ dân phố.

- Quốc hội đã ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012,

trong đó quy định ngày 9/11 hàng năm là Ngày Pháp luật nước Cộng hòa

XHCN Việt Nam “nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức

thượng tôn pháp luật cho mọi người trong xã hội” [82, Điều 8]. UBND nhiều

tỉnh/thành phố đã xây dựng và phê duyệt Kế hoạch thực hiện “Ngày pháp

luật” tất cả các cơ quan, đơn vị, địa phương... và đã tổ chức triển khai thực

hiện tốt “Ngày pháp luật” tại các xã, phường, thị trấn, trong đó có lồng ghép

tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã. Đây là một sáng kiến

hay cần được triển khai nhân rộng trên địa bàn xã, phường, thị trấn cả nước và

cũng là một hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật rất hiệu quả.

4.2.4.2. Đổi mới cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”

trên địa bàn xã, phường, thị trấn

Cơ chế thực hành dân chủ ở nước ta từ trước đến nay là “dân biết, dân

bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đã được cụ thể hóa thành các quyền dân chủ của

nhân dân quy định trong Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn,

bao gồm quyền được biết; quyền được bàn và quyết định; quyền được tham

gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và quyền giám sát của

nhân dân. Về bản chất, cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là

xương sống, là trụ cột của quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã.

Muốn “dân biết” thì điều cốt yếu đầu tiên là phải cung cấp thông tin

cho nhân dân; thông tin phải chân thực, kịp thời và công khai. Có công khai

thì mới có dân chủ vì công khai là một trong những điều kiện tiên quyết để

thực hiện dân chủ. Trong Nhà nước pháp quyền XHCN, công khai là một đòi

hỏi tất yếu, là một biểu hiện quan trọng của nền dân chủ XHCN. Yếu tố công

khai đòi hỏi chính quyền các cấp phải thông báo cho nhân dân một cách cụ

thể, rõ ràng về các mục tiêu, kế hoạch, chương trình hành động, các đường

lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi

Page 157: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

157

của nhân dân đối với các vấn đề này. Người dân có quyền được cung cấp

thông tin để họ đánh giá tình hình, biểu thị thái độ, ý kiến của mình. Những

vấn đề chung của đất nước, địa phương có liên quan đến lợi ích của người

dân, không gây phương hại đến lợi ích Nhà nước hay bí mật quốc gia thì nhân

dân phải được biết. Các nội dung cần công khai cho nhân dân biết đã được

quy định trong pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã. Yêu cầu đặt ra là

phải mở rộng hơn nữa phạm vi các vấn đề, nội dung cần công khai. “Mọi

biểu hiện “nói một đường, làm một nẻo”, cung cấp thông tin sai lệch, cắt xén,

không đúng lúc, đúng chỗ đều có thể làm mất niềm tin của quần chúng, kìm

hãm việc thực hiện các mục tiêu chung” [68, tr. 12 - 13].

“Dân bàn” là xu hướng tất yếu khi người dân đã được cung cấp thông

tin. Nhân dân có quyền tham gia bàn bạc, thảo luận các vấn đề chung của đất

nước và địa phương; biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Với

tinh thần “lấy dân làm gốc”, các cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp,

nhất là cấp xã, phải biết lắng nghe các ý kiến của nhân dân, nắm bắt dư luận

xã hội một cách nghiêm túc, phân tích nội dung các ý kiến của dân, dư luận

xã hội một cách khoa học để nắm bắt chính xác, kịp thời tâm trạng, tình cảm,

nguyện vọng của nhân dân. Có thể nói, nội dung “dân bàn” là một trong

những sự phản biện xã hội tốt nhất đối với các chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giúp cho các đường lối, chính

sách, pháp luật phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đời sống trên địa bàn cơ sở.

“Dân làm” là sự hiện thực hóa “tư tưởng đã thông suốt” thành những

hành động, việc làm cụ thể. Từ chỗ được cung cấp thông tin một cách công

khai, trung thực, kịp thời, qua bàn bạc, trao đổi ý kiến để tìm ra tiếng nói

chung, có được sự đồng thuận giữa chính quyền và nhân dân, người dân sẽ tự

giác tuân thủ, thực hiện các quy định của pháp luật, hăng hái, nhiệt tình trong

lao động sản xuất với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã khẳng định: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn

giản, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ

mãi không ra” [59, tr. 295].

Page 158: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

158

“Kiểm tra” là dạng hoạt động tất yếu của một xã hội có tổ chức, có kỷ

cương. Trong hoạt động kiểm tra ở cấp xã, vai trò của thanh tra nhân dân

được tổ chức dưới hình thức Ban thanh tra nhân dân có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng. Ban thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn do Ủy

ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn hướng dẫn tổ chức, chỉ

đạo hoạt động. Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 thì nhiệm vụ của

Ban thanh tra nhân dân cấp xã là “giám sát việc thực hiện chính sách, pháp

luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở

cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn...”

(Điều 66). Hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn góp

phần tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền cấp xã, củng cố

hiệu lực của pháp luật, tăng cường hiệu quả thực hiện pháp luật nói chung,

pháp luật về dân chủ ở cấp xã nói riêng, bảo vệ các thuần phong, mỹ tục, lối

sống lành mạnh, tiến bộ trong đời sống xã hội cơ sở.

Việc đổi mới cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trên

địa bàn xã, phường, thị trấn hiện nay cần tập trung vào các nội dung sau:

Một là, tiếp tục tạo các điều kiện thuận lợi (phương tiện, diễn đàn, cơ

chế...) để người dân ở các xã, phường, thị trấn được nói lên suy nghĩ thật của

mình, được bày tỏ quan điểm, chính kiến về những vấn đề mà cả cộng đồng

đang quan tâm, vì lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ. Làm thế nào để khi

nói ra một điều gì đó, người dân không cần phải suy nghĩ nhiều xem ý kiến họ

đưa ra có “phạm húy” hay “không hợp khẩu vị” của ai đó không. Nhìn thẳng

vào sự thật, nói đúng sự thật là nguyên tắc quan trọng nhất trong giao tiếp,

trao đổi ý kiến giữa người dân và chính quyền, CBCC cấp xã.

Hai là, tiếp tục tạo các điều kiện bảo đảm cần thiết về kinh tế, chính trị,

văn hóa, pháp luật để các tầng lớp nhân dân chủ động, tích cực tham gia thực

hiện các quyền dân chủ; thảo luận, đóng góp ý kiến, đề xuất các kiến nghị,

giải pháp cụ thể nhằm giải quyết những vấn đề quan trọng, cấp bách có liên

quan trực tiếp, thiết thực tới đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của cả

nước cũng như của từng địa phương.

Page 159: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

159

Ba là, tiếp tục xây dựng, thực thi các chính sách, cơ chế phù hợp để

nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền cấp

xã ở tất cả các địa phương, của đội ngũ CBCC cấp xã theo quy định của pháp

luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã; chất vấn những CBCC có thẩm quyền về

những vấn đề người dân quan tâm và quyền nghe trả lời những chất vấn đó;

đặc biệt là những vấn đề về đất đai, xây dựng, quy hoạch và quản lý đô thị,

nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây

dựng cơ sở hạ tầng đô thị, nông thôn.v.v.

Bốn là, trong quá trình thực hiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm,

dân kiểm tra” sẽ khó tránh khỏi những sai sót, khiếm khuyết, dẫn đến những

thắc mắc, khiếu nại của người dân. Chính quyền các địa phương, đội ngũ

CBCC cấp xã cần sớm dự liệu khả năng này và chủ động chuẩn bị các

phương án để làm tốt công tác tiếp dân, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của

dân. “Kinh nghiệm thực tế cho thấy, nơi nào chính quyền cấp cơ sở làm tốt

công tác tiếp dân sẽ hạn chế được tình trạng khiếu nại, tố cáo đông người, kéo

dài và vượt cấp, tránh được tình trạng đơn thư gửi vòng vo” [68, tr. 16].

Năm là, phát huy dân chủ đòi hỏi phải đi liền với việc đề cao trách

nhiệm công dân và bảo đảm giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội. “Nhân dân

không được tụ tập đông người khiếu kiện vượt cấp, gây mất trận tự an ninh và

chống đối người thi hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được xem xét,

giải quyết theo quy định của pháp luật” [10, Điều 14]. Ai có hành vi vi phạm

quyền làm chủ của nhân dân, lợi dụng dân chủ để gây mất an ninh, trật tự, an

toàn xã hội thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo “Điều 258. Tội lợi

dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích

hợp pháp của tổ chức, công dân” của Bộ luật Hình sự năm 1999 [7, tr. 193].

Sáu là, không ai có thể phủ nhận giá trị, ý nghĩa của cơ chế thực hiện

dân chủ “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở nước ta. Cơ chế này đã

được cụ thể hóa thành các quyền dân chủ của nhân dân, quy định trong Pháp

lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, trong đó có quyền được bàn và

quyết định trực tiếp một số nội dung. Tuy nhiên, quyền được quyết định của

Page 160: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

160

nhân dân còn rất hạn hẹp, chủ yếu là “chủ trương và mức đóng góp xây dựng

cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn,

tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các công

việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật”

[108, Điều 10]. Trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam hiện nay cũng như thực hiện các quyền con người,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013

(có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014), đã đến lúc chúng ta cần bổ sung,

phát triển cơ chế thực hiện dân chủ nói trên cho phù hợp hơn với tình hình

mới. Cụ thể, cần bổ sung thêm cụm từ “dân quyết định” vào cơ chế trên thành

cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân quyết định”; đồng

thời, mở rộng thêm những nội dung nhân dân được quyền quyết định trong

thực hiện dân chủ ở cấp xã.

Làm tốt những nội dung trên đây là góp phần nâng cao tính tích cực

chính trị - xã hội của nhân dân địa phương, giúp họ chủ động, tự giác thực

hiện các quyền dân chủ, phát huy vai trò làm chủ trong mọi hoạt động của

chính quyền cấp xã - mục tiêu của THPL về dân chủ ở cấp xã.

4.2.5. Bảo đảm các điều kiện cần thiết về kinh tế, chính trị, văn hóa cho

việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

4.2.5.1. Bảo đảm các điều kiện về kinh tế

Bất kỳ lĩnh vực nào, chính trị hay pháp quyền, nghệ thuật hay đạo đức,

tôn giáo hay khoa học... đều hình thành, biến đổi và phát triển trên cơ sở, nền

tảng của đời sống sản xuất vật chất và hoạt động kinh tế. Ph. Ăngghen đã

viết: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ

thuật.v.v. đều dựa trên sự phát triển kinh tế” [52, tr. 271]. Luận điểm trên cho

thấy, việc nâng cao hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta hiện nay

không thể tách rời sự đảm bảo các điều kiện về kinh tế - xã hội.

Thứ nhất, các cơ quan chức năng của Nhà nước từ Trung ương đến

địa phương cần quan tâm hơn nữa, dành sự đầu tư kinh phí thỏa đáng cho

hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã

Page 161: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

161

Trong những năm qua, việc THPL về dân chủ ở cấp xã đã nhận được

sự quan tâm, đầu tư kinh phí nhất định từ phía các cơ quan chức năng; song,

đó là sự đầu tư chủ yếu cho hoạt động THPL nói chung, chứ chưa có sự phân

hóa đầu tư riêng cho lĩnh vực THPL về dân chủ ở cấp xã. Mặt khác, so với

yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả THPL nói chung, THPL về dân chủ ở

cấp xã nói riêng thì sự đầu tư đó còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm và

chưa đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động này. Đây cũng là một

trong những nguyên nhân làm suy giảm hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã

tại nhiều địa phương trên phạm vi cả nước trong thời gian qua. Chính vì vậy,

các cơ quan chức năng của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương cần quan

tâm hơn nữa, dành sự đầu tư kinh phí thỏa đáng cho hoạt động THPL về dân

chủ ở cấp xã; cần xây dựng cơ chế bố trí ngân sách dành riêng cho công tác

này; tăng cường việc huy động kinh phí từ các dự án, đề án, chương trình,

mục tiêu phát triển và các nguồn kinh phí khác nhằm bảo đảm nguồn lực tài

chính - kinh tế cho công tác THPL về dân chủ ở cấp xã.

Nguồn kinh phí được đầu tư đầy đủ, đúng hướng sẽ giúp chính quyền

cấp xã, trước hết, thực hiện tốt hơn công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật

về thực hiện dân chủ ở cấp xã nhằm nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết

pháp luật cho đội ngũ CBCC cấp xã và cho đông đảo quần chúng nhân dân;

thực hiện tốt hơn công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về dân chủ

ở cấp xã cho đội ngũ CBCC cấp xã; đảm bảo chính sách đãi ngộ đối với các

chuyên gia pháp luật và các CBCC quản lý, trực tiếp tham gia triển khai

THPL về dân chủ ở cấp xã, như chế độ tiền lương, phụ cấp trách nhiệm, chi

trả thù lao cho cán bộ tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

Nguồn kinh phí được Nhà nước cấp cũng là điều kiện quan trọng để

chính quyền cấp xã đầu tư mua sắm trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ việc

đa dạng hóa các hình thức, phương pháp phổ biến, tuyên truyền pháp luật về

dân chủ ở cấp xã. Chẳng hạn, mua sắm trang thiết bị phát thanh loại tốt phục

vụ hình thức “công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã”; phát miễn

phí các tài liệu, văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho từng hộ

Page 162: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

162

gia đình. Hiện nay, hình thức này còn ít được sử dụng do không có kinh phí

để mua tài liệu pháp luật.

Thứ hai, Nhà nước và chính quyền các cấp cần có cơ chế, chính sách

quan tâm cải thiện và nâng cao hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần cho đội

ngũ CBCC xã. Đối với CBCC cấp xã, Đảng ta đã chủ trương: “Có chế độ đào

tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn” [18, tr. 135]. Như

vậy, muốn nâng cao hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã thì một trong những

biện pháp quan trọng là phải Nhà nước, chính quyền các cấp phải có cơ chế,

chính sách nhằm cải thiện và nâng cao hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần

cho đội ngũ CBCC cấp xã; tạo nền tảng vững chắc để họ yên tâm công tác,

cống hiến khi không còn phải lo “cơm áo, gạo tiền” hàng ngày.

Để hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã đạt được chất lượng, hiệu quả

thực sự lâu dài, bền vững thì một vấn đề cốt lõi, có tính chất nền tảng cần phải

giải quyết là cải thiện và từng bước nâng cao đời sống vật chất cho CBCC

cấp xã. Đây là điều kiện tiên quyết để đội ngũ này yên tâm gắn bó lâu dài với

công tác chuyên môn, trau dồi nghiệp vụ, học hỏi, nghiên cứu để nâng cao

kiến thức, hiểu biết pháp luật; và như vậy, hoạt động THPL về dân chủ ở cấp

xã mà họ là những người trực tiếp tổ chức triển khai mới có thể đạt kết quả

cao. Bởi vì, chỉ khi thu nhập được nâng lên, mức sống của gia đình được cải

thiện thì CBCC cấp xã mới có thể toàn tâm, toàn ý tập trung vào công tác

chuyên môn, chấp hành kỷ cương, cống hiến tài năng và tâm huyết cho sự

nghiệp xây dựng quê hương, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc; làm tốt

công tác THPL về dân chủ ở cấp xã.

Đời sống vật chất của đội ngũ CBCC cấp xã chỉ có thể được cải thiện

và nâng cao khi các chế độ, chính sách đãi ngộ của Nhà nước, của các cấp

chính quyền địa phương bảo đảm được sự ổn định cuộc sống của họ. Chẳng

hạn, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

về cải cách chế độ tiền lương, điều chỉnh mức phụ cấp, chính sách ưu đãi đối

với CBCC tổ chức THPL về dân chủ ở cấp xã... đều là những vấn đề có liên

quan đến lợi ích vật chất của CBCC cấp xã. Nếu những chính sách, pháp luật

Page 163: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

163

đó được xây dựng, ban hành và đi vào thực tiễn cuộc sống thì chắc chắn sẽ có

tác động rất tích cực tới hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã.

Đời sống tinh thần của đội ngũ CBCC cấp xã cũng có ý nghĩa rất quan

trọng đối với hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, rèn luyện bản lĩnh chính trị,

phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của họ và đối với việc tham gia tổ chức

THPL nói chung, pháp luật về dân chủ ở cấp xã nói riêng. Nhà nước và các

cấp chính quyền cũng cần quan tâm, đầu tư nhiều hơn cho việc cải thiện,

nâng cao đời sống tinh thần của đội ngũ CBCC xã. Để làm được điều đó, cần

thực hiện các việc sau: cung cấp miễn phí các loại báo chí của Trung ương và

địa phương cho CBCC cấp xã để giúp họ nắm bắt kịp thời các thông tin kinh

tế, chính trị, văn hóa, xã hội đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên cả nước

cũng như ở địa phương, làm phong phú thêm tri thức, hiểu biết xã hội; tổ

chức các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục thể thao; giao lưu, học hỏi

kinh nghiệm giữa CBCC các xã, phường, thị trấn trong huyện, trong tỉnh...

Những hoạt động đó góp phần làm phong phú đời sống tinh thần, giảm thiểu

stress, tạo tâm lý hưng phấn, thoải mái cho CBCC cấp xã hoàn thành tốt

nhiệm vụ chuyên môn cũng như tích cực tham gia THPL về dân chủ ở cấp xã.

Thứ ba, chăm lo phát triển kinh tế hộ gia đình, cải thiện thu nhập,

nâng cao mức sống cho các tầng lớp nhân dân ở xã, phường, thị trấn

Các tầng lớp nhân dân địa phương đang sinh sống trên địa bàn các xã,

phường, thị trấn trên phạm vi cả nước chỉ có thể hăng hái, tích cực, nhiệt tình

tham gia THPL về dân chủ ở cấp xã, thực sự phát huy các quyền dân chủ của

mình khi được đảm bảo đời sống vật chất với mức thu nhập cao, ổn định cũng

như một đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú. Thực tế cho thấy, do tập

trung chăm lo cho kinh tế gia đình khi đời sống vật chất vẫn còn nhiều khó

khăn, thiếu thốn nên đa số người dân chủ yếu mải mê lo làm ăn, kiếm sống, ít

quan tâm đến các quyền dân chủ của họ. Nhu cầu phát triển kinh tế gia đình

khiến cho một bộ phận đáng kể lực lượng lao động trẻ phải xa quê đi làm ăn;

vào các thời điểm nông nhàn khó tìm thấy các lao động chính, chủ hộ gia đình

ở nơi làng xóm nông thôn vì họ đều đã đổ xô ra các thành phố lớn, các khu

Page 164: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

164

vực đô thị, khu công nghiệp để làm thêm theo mùa vụ... Tình trạng này đang

gây khó khăn không nhỏ và tác động tiêu cực đến việc THPL về dân chủ ở

cấp xã trên địa bàn nhiều xã thuộc khu vực nông thôn, đặc biệt là đối với hình

thức họp thôn, họp nhân dân toàn xã. Chẳng hạn, việc Pháp lệnh quy định

cuộc họp cử tri tại các thôn, xóm chỉ có giá trị khi có trên 1/2 số cử tri nhất

trí là rất khó thực hiện do nhiều cử tri đi lao động ở tỉnh ngoài.

Từ thực tế đó, Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương cần quan

tâm, chăm lo nhiều hon cho sự phát triển kinh tế của các hộ gia đình, cải thiện

thu nhập, nâng cao mức sống cho các tầng lớp nhân dân ở xã, phường, thị trấn

theo hướng tạo nhiều việc làm tại địa phương để thu hút lao động nông nhàn;

chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ theo hướng giảm số hộ thuần nông, gia

tăng số hộ kiêm nông và phi nông. Thực hiện phương châm đó cũng chính là

một trong những sự bảo đảm các điều kiện về kinh tế cho việc nâng cao hiệu

quả THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta hiện nay.

4.2.5.2. Bảo đảm các điều kiện về chính trị

Giữa việc bảo đảm các điều kiện về chính trị với hoạt động THPL về

dân chủ ở cấp xã có mối quan hệ khăng khít, gắn bó mật thiết với nhau. Bảo

đảm các điều kiện cần thiết, thuận lợi về chính trị là nền tảng vững chắc thúc

đẩy THPL về dân chủ ở cấp xã; ngược lại, THPL về dân chủ ở cấp xã góp

phần giữ gìn sự ổn định môi trường chính trị và tạo lập bầu không khí dân chủ

xã hội tại các xã, phường, thị trấn trên phạm vi cả nước. Biện pháp bảo đảm

các điều kiện cần thiết về chính trị tập trung vào các nội dung sau:

a) Đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công

tác THPL về dân chủ ở cấp xã

Công tác THPL về dân chủ ở cấp xã trên địa bàn từng xã, phường, thị

trấn có đạt được chất lượng, hiệu quả cao hay không phụ thuộc chủ yếu vào

sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, Chi bộ thôn/tổ dân phố. Ngoài ra, cũng vẫn là

sự lãnh đạo, song phương thức lãnh đạo khác nhau thì dẫn đến kết quả THPL

về dân chủ ở cấp xã cũng khác nhau. Bởi vậy, đổi mới phương thức lãnh đạo

của các cấp ủy Đảng đối với công tác THPL về dân chủ ở cấp xã là sự bảo

Page 165: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

165

đảm về chính trị để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác này. Theo quan

điểm của tác giả, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối

với công tác THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cần tập tập trung vào

các nội dung sau:

- Về nguyên tắc, Đảng lãnh đạo bằng việc xây dựng, ban hành các chỉ

thị, nghị quyết, chương trình hành động có tính chất chuyên đề. Các cấp ủy

Đảng địa phương phải tiến hành rà soát lại các chỉ thị, nghị quyết đã ban hành

để trên cơ sở đó, xây dựng, ban hành một nghị quyết riêng về lãnh đạo công

tác THPL về dân chủ ở cấp xã. Trong nghị quyết phải đề ra được phương

hướng, chương trình, mục tiêu cụ thể của công tác THPL về dân chủ ở cấp xã

của địa phương cho từng giai đoạn; đề ra được các giải pháp, biện pháp nhằm

đạt được các mục tiêu và thực hiện thắng lợi nghị quyết.

- Tổ chức cho toàn thể đảng viên, CBCC cấp xã, Trưởng thôn/Tổ

trưởng Tổ dân phố học tập, quán triệt tinh thần, nội dung của nghị quyết và

triển khai thực hiện bằng những chương trình hành động cụ thể, thiết thực;

tuyên truyền, phổ biến rộng rãi nội dung của nghị quyết tới đông đảo các tầng

lớp nhân dân địa phương bằng những hình thức phù hợp, hiệu quả.

- Thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở và làm tốt công tác kiểm tra, giám

sát việc thực hiện nghị quyết từ phía các Chi bộ trực thuộc, chính quyền và

đội ngũ CBCC cấp xã. Ngoài ra, cấp ủy Đảng, chính quyền cấp xã trên phạm

vi cả nước cũng cần chú trọng đẩy mạnh việc thực hiện dân chủ trong sinh

hoạt của các Chi bộ và trong đội ngũ CBCC, đảng viên đang công tác, sinh

hoạt ở địa phương; bồi dưỡng, nâng cao trình độ kiến thức pháp luật cho

CBCC, đảng viên, củng cố ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật trong quá

trình làm công tác Đảng và công tác chính quyền.

- Định kỳ tổ chức sơ kết, đánh giá, chỉ ra những mặt được và chưa được

trong quá trình thực hiện nghị quyết; biểu dương, khen thưởng đối với những

tập thể, cá nhân làm tốt, nhắc nhở, phê bình, rút kinh nghiệm kịp thời đối với

những hạn chế, yếu kém.

Page 166: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

166

b) Tiếp tục giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn xã,

phường, thị trấn

Trước khi triển khai thực hiện Chỉ thị 30-CT/TƯ ngày 18/2/1998 của

Bộ Chính trị về Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và Nghị định

số 29/1998/NĐ-CP của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Thực hiện dân

chủ ở xã, tình hình chính trị - xã hội, an ninh trật tự tại một số xã, phường, thị

trấn trên địa bàn cả nước có những diễn biến phức tạp; có lúc, có nơi mất ổn

định trên diện rộng, nhất là ở khu vực nông thôn. Hệ thống chính trị ở một số

xã, phường, thị trấn, như ở tỉnh Thái Bình vào giữa những năm 90 của thế kỷ

XX, bị tê liệt, vô hiệu hóa; chính quyền cơ sở ở nhiều xã không điều hành

được; nhiều hoạt động bị ngừng trệ đến độ: một bộ phận không nhỏ CBCC,

đảng viên băn khoăn, lo ngại rằng, nếu triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở

cấp xã sẽ làm cho tình hình thêm phức tạp. Song, nếu không quyết tâm đưa

pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã vào thực tiễn nhằm phát huy quyền

làm chủ, sức sáng tạo, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần của nhân dân

để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể

trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan

liêu, tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên... thì tình hình chính trị xã hội

tại các xã, phường, thị trấn sẽ còn tồi tệ hơn.

Triển khai thực hiện tốt các nội dung của pháp luật về thực hiện dân

chủ ở cấp xã là điều kiện tiên quyết để ổn định chính trị, duy trì trật tự, kỷ

cương xã hội ở các xã, phường, thị trấn. Đến lượt mình, sự ổn định chính trị ở

các xã, phường, thị trấn lại tạo đà vững chắc cho việc thực hiện có hiệu quả

cao pháp luật về dân chủ ở cấp xã trên địa bàn cả nước. Để củng cố vững

chắc sự ổn định chính trị ở xã, phường, thị trấn, các cấp ủy Đảng phải trực

tiếp, quyết liệt trong lãnh đạo việc THPL về dân chủ ở cấp xã, tập trung giải

quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc, khiếu nại, tố cáo nảy sinh ngay từ

cơ sở. Chính quyền các cấp, nhất là cấp xã, phải trực tiếp chỉ đạo, tổ chức

THPL về dân chủ ở cấp xã và tạo các điều kiện thuận lợi cho Ban Chỉ đạo

thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở hoạt động, phối hợp chặt chẽ với MTTQ,

Page 167: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

167

các tổ chức, đoàn thể nhân dân thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã; có như

vậy mới thực sự phát huy tác dụng của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và

giữ gìn sự ổn định chính trị ở địa phương.

c) Nâng cao ý thức chính trị, tinh thần trách nhiệm của cả hệ thống

chính trị trong việc tham gia thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

Về nguyên tắc, không thể xem việc tổ chức, triển khai công tác THPL

nói chung, THPL về dân chủ ở cấp xã nói riêng chỉ là trách nhiệm của riêng

CBCC, đảng viên, bộ máy chính quyền cấp xã, mà phải được coi là trách

nhiệm chung của toàn bộ hệ thống chính trị, đặc biệt là ở xã, phường, thị trấn;

nghĩa là nó đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu của các cấp ủy Đảng, các cấp chính

quyền, MTTQ và các tổ chức thành viên và của toàn thể nhân dân ở các xã,

phường, thị trấn trên phạm vi cả nước; trong đó, bảo đảm sự lãnh đạo của

Đảng, các cấp ủy Đảng có tầm quan trọng hàng đầu, sự chỉ đạo thực hiện của

Nhà nước, chính quyền các cấp là khâu then chốt và sự phát huy vai trò của

các cơ quan, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể nhân dân từ Trung ương cho đến

cấp xã và của đông đảo người dân là yếu tố không thể thiếu. Điều đó có nghĩa

là cần phải nâng cao ý thức chính trị, tinh thần trách nhiệm của cả hệ thống

chính trị trong việc tham gia THPL về dân chủ ở cấp xã.

Trên cơ sở sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát

của Nhà nước, các cấp chính quyền, cần thu hút sự tham gia chủ động, tích

cực của các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội, như MTTQ, Hội

Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh... vào hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã. Mặt trận Tổ

quốc các cấp cần làm tốt vai trò giám sát, kiểm tra việc thực hiện các chính

sách phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn các xã, phường, thị trấn, đảm bảo

tính hiệu quả của chúng, góp phần nâng cao thu nhập, mức sống cho người

dân địa phương; giám sát quá trình thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

theo quy định của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Hội

Liên hiệp Phụ nữ các cấp phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan thực

hiện tốt việc động viên, khích lệ phụ nữ phát huy các quyền dân chủ, lồng

Page 168: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

168

ghép các nội dung kiến thức pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã vào các

hội nghị, cuộc họp, sinh hoạt của phụ nữ xã, thôn, tổ dân phố. Hội Nông dân

các cấp, nhất là cấp xã, cần làm tốt công tác động viên, hướng dẫn các hội viên

nông dân thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế hộ gia đình, duy trì hoạt

động có hiệu quả các mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản; đẩy mạnh

phong trào sản xuất, xây dựng những cánh đồng đạt giá trị sản xuất cao và các

hộ gia đình có thu nhập cao; lồng ghép các nội dung thực hiện phát luật về

dân chủ ở cấp xã trong hoạt động của Hội, vận động nông dân phát huy quyền

làm chủ trong xây dựng nông thôn mới. Hội Cựu chiến binh cấp xã, chi hội ở

các thôn tiếp tục phát huy phẩm chất tốt đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ trong xây

dựng và phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục các giá trị truyền thống cho thế hệ

trẻ, quán triệt cho hội viên nâng cao nhận thức pháp luật về thực hiện dân chủ ở

cấp xã, tích cực tham gia vào Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư

cộng đồng nhằm đảm bảo hiệu quả cao của hoạt động THPL về dân chủ ở cấp

xã. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh triển khai lồng ghép các nội dung

THPL về dân chủ ở cấp xã vào trong các buổi sinh hoạt Đoàn, tổ chức tốt các

hoạt động lao động sản xuất, vui chơi, giải trí, văn hóa văn nghệ, thể dục thể

thao nhằm tạo không khí phấn khởi cho các đoàn viên thanh niên - những chủ

thể có vai trò xung kích, hăng hái, nhiệt tình trong THPL về dân chủ ở cấp xã.

Sự đảm bảo các điều kiện về chính trị - xã hội trong THPL về dân chủ

ở cấp xã sẽ góp phần tạo lập bầu không khí chính trị - xã hội thực sự dân chủ,

sự đồng thuận xã hội cao trên địa bàn các xã, phường, thị trấn của cả nước.

Từ đó, cán bộ, nhân dân sẽ phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,

các cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, các cấp chính quyền

địa phương; chủ động, tích cực hơn trong THPL về dân chủ ở cấp xã.

4.2.5.3. Bảo đảm các điều kiện về văn hóa

Hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã luôn diễn ra trong và gắn liền với

không gian văn hóa - xã hội tại các xã, phường, thị trấn và chịu ảnh hưởng bởi

các yếu tố văn hóa - lối sống; do đó, bảo đảm các điều kiện cần thiết về văn

hóa cũng là một trong những biện pháp quan trọng nhằm nâng cao tính hiệu

Page 169: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

169

quả của hoạt động này. Sự bảo đảm các điều kiện về văn hóa cho hoạt động

THPL về dân chủ ở cấp xã thể hiện ở các nội dung sau:

a) Chủ động phát huy các giá trị văn hóa truyền thống phục vụ hoạt

động thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng và phát triển nền

văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực

thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong Chiến lược phát triển kinh tế xã

hội 2011 - 2020, Đảng ta khẳng định: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh

vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu

những tinh hoa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn

hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát

triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” [21, tr. 126]. Văn hóa phản ánh và

thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt trong đời sống của con

người, của các cộng đồng xã hội trong quá khứ và hiện tại, tạo nên một hệ

thống các giá trị văn hóa truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó,

từng dân tộc khắng định bản sắc riêng của mình. Những giá trị văn hóa đó là

chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập, tự chủ,

tự cường, truyền thống dân chủ, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung,

tôn trọng nghĩa tình... Những giá trị này được củng cố, giữ gìn và lưu truyền

từ thế hệ này sang thế hệ khác, phản ánh bản sắc riêng của dân tộc trong từng

lĩnh vực hoạt động. Chúng vẫn đang phát huy vai trò trong đời sống xã hội

hiện đại. Nếu biết cách khai thác, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống thì

chắc chắn chúng sẽ giúp ích nhiều trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả

công tác THPL về dân chủ ở cấp xã:

- Truyền thống đoàn kết, ý thức tự lực, tự cường là cơ sở để các cấp ủy

Đảng, chính quyền địa phương và nhân dân các xã, phường, thị trấn xây dựng

khối đoàn kết, thống nhất trong nhận thức, quan điểm và hành động thực hiện

pháp luật về dân chủ ở cấp xã; từ cán bộ lãnh đạo cho tới đội ngũ công chức

và toàn thể nhân dân cùng phấn đấu vì mục tiêu phát huy dân chủ ở cấp xã;

vượt qua khó khăn, cùng quyết tâm THPL về dân chủ cấp xã với chất lượng,

Page 170: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

170

hiệu quả cao nhất, góp phần xây dựng quê hương giàu đẹp, dân chủ, công

bằng, văn minh.

- Truyền thống dân chủ làng xã, lòng khoan dung, thái độ tôn trọng lẫn

nhau là cơ sở để các chủ thể tổ chức THPL về dân chủ ở cấp xã (chính quyền

các cấp, CBCC cấp xã) tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, thấu hiểu

tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của mỗi người dân. Các chủ thể THPL sẽ cùng

dân chủ bàn bạc, tìm ra tiếng nói chung, cùng hướng tới nâng cao hiệu quả

công tác THPL về dân chủ ở cấp xã, thực sự phát huy quyền làm chủ của

nhân dân trong mọi lĩnh vực hoạt động ở xã, phường, thị trấn.

- Các giá trị văn hóa truyền thống - vốn biểu hiện một cách sinh động

nơi làng xã nông thôn Việt Nam - là nền tảng tinh thần, khơi dậy lòng tự hào

về quê hương, đất nước, giúp đội ngũ CBCC cấp xã và nhân dân ở các xã,

phường, thị trấn phát huy truyền thống tương trợ lẫn nhau, phấn đấu vươn lên

thực hiện tốt các quyền dân chủ của nhân dân.

b) Khắc phục các hủ tục lạc hậu, lỗi thời đang tác động tiêu cực đến

hoạt động thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

Việt Nam là một quốc gia phương Đông - nơi thường đề cao, coi trọng

các giá trị, chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán, lễ nghi, niềm tin tâm

linh... trong việc điều chỉnh các hành vi xã hội của con người. Do vậy, sự phát

triển ưu trội hơn của các quan hệ đạo đức, luật tục so với các quan hệ chính

trị, pháp luật là một thực tế gần như hiển nhiên, nhất là tại khu vực nông thôn,

vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đa phần dân cư nước ta làm nghề nông, sống

khép kín trong cộng đồng làng xã, thôn buôn... Tại các làng xã nông thôn

thường có sự hiện diện của những thói quen, nếp sống rất căn bản của người

dân nông thôn, như thức khuya, dậy sớm, cần cù lao động, tác phong giản dị,

tiết kiệm trong tiêu dùng, coi trọng tình làng nghĩa xóm, tương trợ nhau trong

sản xuất và đời sống... Song, bên cạnh đó, mặt trái của tính quần cư đang thể

hiện sự nổi lên của tính cục bộ địa phương, sự ích kỷ, hẹp hòi cá nhân, sự đề

cao gia đình, dòng tộc... Nếp sống nông thôn hiện nay cũng đang bộc lộ

những hạn chế, nhược điểm, như việc tổ chức hội hè, đình đám, ma chay,

Page 171: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

171

cưới xin, giỗ chạp nhiều lúc, nhiều nơi còn tốn kém và lãng phí; các hủ tục lạc

hậu, lỗi thời, mê tín dị đoan đang có xu hướng trở lại; trình độ dân trí nói

chung, dân trí về pháp luật nói riêng còn thấp; những thói hư, tật xấu và tệ nạn

xã hội phát sinh, như ma túy, cờ bạc, số đề... Những thói hư, tật xấu, hủ tục đó

đã và đang tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội,

trong đó có hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã.

Nguyên nhân của tình trạng trên đây là do “việc xây dựng nếp sống văn

hóa chưa được chú trọng đúng mức. Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo

đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại... Quản lý

nhà nước về văn hóa còn nhiều sơ hở, yếu kém” [20, tr. 173]. Bên cạnh đó,

ảnh hưởng của cơ chế quản lý cũ cũng còn khá lớn. Với thời gian đổi mới

chưa lâu, chúng ta chưa thể xoá hẳn được tư duy của cơ chế kinh tế kế hoạch

hoá tập trung, bao cấp, chưa tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong xây dựng

pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó có pháp luật về thực hiện

dân chủ ở cấp xã cho đội ngũ CBCC và các tầng lớp nhân dân.

Từ thực tế trên đây, việc xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa

đang là yêu cầu cấp thiết, được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo. Thủ

tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/3/1998; sau đó

là Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25/11/2005 về việc ban hành Quy

chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Khôi

phục những thuần phong, mỹ tục; phát huy tính tích cực chính trị - xã hội của

CBCC và các tầng lớp nhân dân; phấn đấu vì sự công bằng xã hội; phát huy

các quyền dân chủ; bài trừ mạnh mẽ các thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội... đã,

đang là những biện pháp quan trọng trước mắt và lâu dài nhằm thúc đẩy kinh

tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở phát triển hài hòa, bền vững.

Trên cơ sở Chỉ thị, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, xuất phát từ

nhận thức sâu sắc rằng, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa là

trách nhiệm của mọi công dân, là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các tổ

chức chính trị - xã hội, nhằm xây dựng con người mới, nền văn hóa mới, thực

hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh,

Page 172: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

172

nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng, ban hành các

Quyết định, Hướng dẫn... nhằm cụ thể hóa việc xây dựng nếp sống văn minh,

gia đình văn hóa sao cho phù hợp với tình hình thực tế của mỗi địa phương.

4.2.5.4. Bảo đảm các điều kiện về pháp luật

Một trong những yếu tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc

THPL về dân chủ ở cấp xã là các điều kiện về pháp luật; bởi lẽ, THPL về dân

chủ ở cấp xã là hoạt động có mục đích của các chủ thể pháp luật nhằm đưa

các nguyên tắc, quy định của lĩnh vực pháp luật này đến được với đông đảo

các tầng lớp nhân dân ở xã, phường, thị trấn trên phạm vi cả nước, phát huy

quyền làm chủ, thực hành các quyền dân chủ của người dân một cách thực sự

hiệu quả. Chính vì vậy, muốn cho hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã thực

sự đạt được hiệu quả cao thì còn phải đảm bảo các điều kiện về pháp luật.

a) Về phía Nhà nước, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật về

thực hiện dân chủ ở cấp xã (như đã trình bày ở mục 4.2.1.) nhằm tạo đầy đủ

hành lang pháp lý cho việc THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

b) Về phía các cấp chính quyền địa phương, cần tiến hành rà soát, điều

chỉnh, ban hành mới các chính sách, văn bản QPPL dưới luật và cơ chế pháp

lý liên quan đến hướng dẫn và triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã

Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có giá trị và hiệu

lực thực thi trên phạm vi toàn quốc; song, việc triển khai THPL về dân chủ ở

cấp xã lại phụ thuộc vào những nét đặc trưng riêng xuất phát từ tình hình kinh

tế, chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi địa phương cũng như truyền thống văn

hóa, tín ngưỡng, lễ nghi, lối sống, phong tục, tập quán... của nhân dân ở mỗi

vùng, miền. Chính vì vậy, hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã, ngoài việc

tuân thủ các nguyên tắc, quy định của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn, còn cần có sự quan tâm chỉ đạo bằng các văn bản QPPL

dưới luật của các cấp chính quyền địa phương ở từng tỉnh, thành phố.

Sau khi có Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị định số

29/1998/NĐ-CP của Chính phủ, thực hiện vai trò lãnh đạo của mình, Ban

Page 173: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

173

Chấp hành Đảng bộ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều đã ban

hành Nghị quyết nhằm quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn việc thực

hiện Quy chế dân chủ cơ sở; thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ

cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; triển khai nhiều biện pháp mạnh mẽ nhằm

nhanh chóng đưa Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở đi vào thực tiễn cuộc sống.

Tiếp đó, thực hiện Thông báo số 159-TB/TW ngày 15/11/2004 thông báo Kết

luận của Ban Bí thư về kết quả 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ

Chính trị (khóa VIII) và tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân

chủ cơ sở; đặc biệt là sau khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp

lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, UBND các tỉnh, thành phố

tiếp tục xây dựng, ban hành các Chỉ thị, Kế hoạch, Hướng dẫn nhằm tổ chức

quán triệt và triển khai thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường,

thị trấn, triển khai thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở tại các cơ quan hành

chính, doanh nghiệp nhà nước... Tuy nhiên, Kết luận của Ban Bí thư Trung

ương Đảng đã chỉ rõ: “Việc rà soát, ban hành, bổ sung chính sách, cơ chế

chưa đồng bộ, chưa kịp thời đáp ứng yêu cầu cuộc sống đặt ra, nhất là những

chính sách có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân như: giá

đền bù đất khi giải phóng mặt bằng, tái định cư, tiền lương, bảo hiểm xã hội,

nhà ở của công nhân các khu công nghiệp... Một số văn bản pháp quy quy

định về quy chế dân chủ cho một số loại hình, một số lĩnh vực còn thiếu, chưa

kịp thời, chưa sát với thực tế, chậm được rà soát, bổ sung” [xem: 2]. Chính vì

vậy, các cấp chính quyền địa phương cần tiến hành rà soát, điều chỉnh, ban

hành mới các chính sách, văn bản QPPL dưới luật và cơ chế pháp lý liên

quan đến hướng dẫn THPL về dân chủ ở cấp xã theo hướng: loại bỏ những

quy định đã lạc hậu, lỗi thời; xây dựng thành quy định, nguyên tắc, quy trình

thực hiện dân chủ trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể của địa phương, nhất là

các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của nhân dân. Đây cũng

là sự bảo đảm quan trọng về mặt pháp luật cho việc THPL về dân chủ ở cấp

xã đạt được hiệu quả cao, thực sự phát huy các quyền dân chủ của nhân dân.

Page 174: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

174

c) Xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về thực

hiện dân chủ ở cấp xã. Có thể thấy, việc THPL về dân chủ ở cấp xã phụ thuộc

nhiều vào nhiều yếu tố, như nhận thức, kiến thức của người dân về những quy

định của pháp luật, thái độ và năng lực của đội ngũ cán bộ cấp xã, thôn... Một

trong những điểm hạn chế của Pháp lệnh là không đề cập đến tính chịu trách

nhiệm của chủ thể cụ thể liên quan đến hệ quả của việc tuân thủ hoặc không

tuân thủ pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã, các biện pháp cụ thể có thể

áp dụng để xử lý các vi phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã. Đây

cũng là nguyên nhân dẫn đến việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm

pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã còn chậm trễ, bị động, chưa nghiêm

minh và thiếu sự răn đe cần thiết.

Thực tế cũng cho thấy vẫn còn những biểu hiện cụ thể của tình trạng vi

phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã, như các quyền dân chủ của

nhân dân có lúc. có nơi vẫn bị vi phạm; còn có hiện tượng né tránh, không

thực hiện hoặc làm trái các quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã; còn có

hiện tượng đe dọa, trù dập người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị có liên quan đến

việc thực hiện dân chủ ở cấp xã... Những biểu hiện này đã và đang làm suy

giảm niềm tin của người dân vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật

về thực hiện dân chủ ở cấp xã, tác động tiêu cực đến việc phát huy quyền dân

chủ của nhân dân. Chính vì vậy, các cấp chính quyền địa phương trên phạm vi

toàn quốc cần xây dựng, ban hành các quy định cụ thể các loại hành vi vi

phạm trong THPL về dân chủ ở cấp xã phải bị xử lý, như tính chất, mức độ

của lỗi, hậu quả xảy ra, ảnh hưởng của hành vi vi phạm trong cán bộ và nhân

dân địa phương; quy định cụ thể hình thức xử lý kỷ luật đối với từng loại

hành vi vi phạm cụ thể, đảm bảo tính giáo dục đối với bản thân người vi phạm

và tính ngăn ngừa, răn đe đối với những người khác; đồng thời, xử lý nghiêm

minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. “Phát huy dân chủ, đề cao trách

nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành

vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để

làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội” [21, tr. 239].

Page 175: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

175

Kết luận chương 4

Việc nâng cao hiệu quả hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu

cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần dựa trên các quan

điểm có tính chất chỉ đạo sau đây: 1) Quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối

của Đảng và thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về thực hiện dân

chủ ở cấp xã; 2) Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự quản lý,

điều hành của Nhà nước, chính quyền các cấp ở địa phương; 3) THPL về dân

chủ ở cấp xã phải gắn với yêu cầu xây dựng chính quyền cấp xã trong sạch,

vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam; 4) THPL về dân chủ ở cấp xã là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị;

5) Triển khai đồng bộ nhiều giải pháp linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với tình

hình của từng địa phương; 6) THPL về dân chủ ở cấp xã trên phạm vi toàn

quốc phải gắn với phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.

Để bảo đảm nâng cao hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã trong điều

kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần triển khai thực

hiện các giải pháp sau: Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật

về thực hiện dân chủ ở cấp xã; trong đó, xây dựng, ban hành Luật Thực hiện

dân chủ ở xã, phường, thị trấn đang là một đòi hỏi khách quan. Thứ hai, tăng

cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo, điều hành

của Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương trong việc THPL về dân chủ

ở cấp xã. Thứ ba, nâng cao chất lượng, phát huy vai trò nòng cốt của đội ngũ

CBCC cấp xã, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong quá trình THPL về dân chủ ở

cấp xã; trong đó cần chú trọng nâng cao kiến thức pháp luật về thực hiện dân

chủ ở cấp xã cho đội ngũ CBCC cấp xã. Thứ tư, nâng cao nhận thức pháp

luật, sự tham gia chủ động, tích cực hơn nữa của các tầng lớp nhân dân vào

hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã, tập trung vào việc tiếp tục đẩy mạnh

công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho

nhân dân và đổi mới cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở xã,

phường, thị trấn. Thứ năm, bảo đảm các điều kiện cần thiết về kinh tế, chính

trị, văn hóa cho việc THPL về dân chủ ở cấp xã.

Page 176: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

176

KẾT LUẬN

Từ kết quả nghiên cứu vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của luận án cho phép rút ra

một số kết luận sau đây:

Thứ nhất, dựa trên hệ thống các khái niệm, phạm trù khoa học Lý luận

về nhà nước và pháp luật, luận án đã xây dựng, phân tích được cơ sở lý luận

của việc THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam, như: khái niệm, các đặc trưng cơ bản của Nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam; những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam đối với việc THPL về dân chủ ở cấp xã; khái niệm, chủ thể,

nội dung, hình thức THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam; từ đó, phân tích mối quan hệ giữa THPL

về dân chủ ở cấp xã và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Luận án cũng đã tập trung phân tích những điều kiện bảo đảm THPL về dân

chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;

tìm hiểu vấn đề THPL về dân chủ ở địa phương tại một số nước trên thế giới

và những giá trị tham khảo cho Việt Nam.

Thứ hai, từ cơ sở lý luận, luận án đã đi sâu phân tích, đánh giá một

cách toàn diện thực trạng hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã từ

năm 1998 đến nay, chỉ ra được quá trình hình thành, phát triển, đánh giá

những thành tựu, ưu điểm và tồn tại, hạn chế của pháp luật về dân chủ ở cấp

xã ở Việt Nam nhìn từ góc độ Nhà nước pháp quyền XHCN. Đồng thời, luận

án cũng tập trung phân tích, đánh giá được thực trạng THPL về dân chủ ở cấp

xã ở nước ta từ năm 1998 đến nay trên cả hai phương diện: những thành tựu,

kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập trong THPL về dân chủ ở cấp xã,

chỉ ra nguyên nhân của thực trạng dựa trên kết quả ĐTXHH do chính tác giả

thực hiện. Việc đánh giá thực trạng được thực hiện theo các hình thức THPL:

chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đánh

giá thực trạng THPL, luận án đã rút ra 07 bài học kinh nghiệm THPL về dân

chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Page 177: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

177

Thứ ba, để nâng cao hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, luận án đề xuất 06 quan

điểm có tính chỉ đạo: 1) Quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng và

thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã; 2)

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành của

Nhà nước, chính quyền các cấp ở địa phương; 3) THPL về dân chủ ở cấp xã

là một nội dung của xây dựng chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, đáp

ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; 4) THPL về

dân chủ ở cấp xã là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; 5) Triển khai đồng

bộ nhiều giải pháp linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với đặc điểm, tình hình của

từng địa phương; 6) THPL về dân chủ ở cấp xã phải gắn với phát triển kinh

tế, xây dựng đời sống văn hóa - xã hội cơ sở.

Thứ tư, để bảo đảm nâng cao hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã theo

yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, luận án đưa ra và

luận giải tính khả thi của 05 giải pháp cơ bản: Một là, tiếp tục xây dựng và

hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã; Hai là, tăng cường hơn

nữa sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo, điều hành của Nhà

nước, các cấp chính quyền địa phương trong việc THPL về dân chủ ở cấp xã.

Ba là, nâng cao chất lượng, phát huy vai trò nòng cốt của đội ngũ CBCC cấp

xã, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã. Bốn

là, nâng cao nhận thức pháp luật, sự tham gia chủ động, tích cực hơn nữa của

các tầng lớp nhân dân vào hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã. Năm là, bảo

đảm các điều kiện cần thiết về kinh tế, chính trị, văn hóa cho việc THPL về

dân chủ ở cấp xã.

Page 178: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

178

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Giáo dục pháp luật ở Thái Bình - thực trạng và giải pháp, Tạp chí Dân chủ

và Pháp luật, số tháng 9/2010, Hà Nội, 2010.

2. Thực hiện quy chế, pháp lệnh dân chủ trong các xã, phường, thị trấn ở

Thái Bình - thực trạng và giải pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng

11/2010, Hà Nội, 2010.

3. Vai trò của thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp

chí Luật học, số 6/2011, Hà Nội, 2011.

4. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã trong điều kiện xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ thực tiễn của tỉnh Thái Bình),

Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2011.

5. Vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ qua Văn kiện Đại hội XI của Đảng,

Tạp chí Triết học, số 9(244)/2011, Hà Nội, 2011.

6. Đổi mới cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong thực hiện

pháp luật về dân chủ ở cấp xã ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp

luật, số tháng 3 (252)/2013, Hà Nội, 2013.

7. Vai trò của cán bộ, công chức cấp xã trong thực hiện pháp luật về dân chủ

ở xã, phường, thị trấn, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 208 (5/2013), Hà Nội,

2013.

8. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới,

Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2013.

9. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng

Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Dân chủ và Pháp

luật, số tháng 7 (256)/2013, Hà Nội, 2013.

10. Vai trò của việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí Pháp luật và

Phát triển, số 03/2014, Hà Nội, 2014.

Page 179: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

179

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt

1. Vũ Hồng Anh (2003), Vai trò của Hiến pháp đối với việc phát huy dân

chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Tạp chí Luật học, số

3(52).

2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2010), Kết luận của Ban Bí thư về tiếp tục

thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng

và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, Hà Nội.

3. Hoàng Chí Bảo (1992), Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân

chủ: Quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu, Tạp chí Thông tin lý

luận, số 9/1992, Hà Nội.

4. Lương Gia Ban (2003), Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở,

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ tỉnh Bắc Ninh, Kết luận về thực

hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực

hiện Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 13/12/2013. Thông tin

có tại: http://www.bacninh.gov.vn, truy cập ngày 19/3/2014.

6. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18/2/1998 Về việc xây

dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, Hà Nội.

7. Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000),

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. Trần Thị Minh Châu, Về tổ chức chính quyền địa phương của Hàn Quốc,

bài viết có tại: http://isos.gov.vn, truy cập ngày 22/2/2014.

9. Chính phủ (1998), Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 về việc

ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Hà Nội

10. Chính phủ (2003), Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 ban

hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Hà Nội.

11. Hoàng Trọng Chính (2006) Nâng cao hiệu quả hoạt động quy chế dân

chủ ở cơ sở, Tạp chí Lao động và công đoàn, số 358/2006, Hà Nội.

Page 180: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

180

12. Nguyễn Hồng Chuyên (2011), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

(từ thực tiễn của tỉnh Thái Bình), Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

13. Nguyễn Hồng Chuyên (2013), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

phục vụ xây dựng nông thôn mới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

14. Đinh Thành Công (2010), Kinh nghiệm của Hải Phòng trong việc triển

khai và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số

01/2010.

15. Cao Thiện Cường, Kết quả bước đầu trong thực hiện dân chủ ở xã,

phường trên địa bàn thành phố Thanh Hóa, Tạp chí Thanh tra số 4/2013;

bài viết có tại: http://thanhtravietnam.vn, truy cập ngày 18/3/2014.

16. Huỳnh Đảm, Nhìn lại 10 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường,

thị trấn, Tạp chí Cộng sản điện tử, bài viết có tại http://www.tapchicong

san.org.vn, truy cập ngày 15/01/2011.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm

Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính Trị Quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Đặng Viết Đạt (2010), Pháp luật và dân chủ trong nhà nước pháp quyền,

Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số tháng 9/2010, Hà Nội.

23. Trần Bạch Đằng (2003), Dân chủ ở cơ sở - một sức mạnh truyền thống

của dân tộc Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 35, tháng 12/2003, Hà Nội.

24. Nguyễn Minh Đoan (2007), Dân chủ với pháp luật, Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật, số 10/2007, Hà Nội.

Page 181: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

181

25. Nguyễn Minh Đoan (2010), Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Trần Ngọc Đường (chủ biên, 1999), Lý luận chung về nhà nước và pháp

luật, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Trần Ngọc Đường (2012), Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực

với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật,

Hà Nội.

28. Đỗ Văn Dương (2013), Những giải pháp phát huy vai trò hệ thống chính

trị cơ sở nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa

bàn các tỉnh Tây Nguyên, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số

tháng 7/2013, Hà Nội.

29. Đỗ Văn Dương (2014), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị

trấn trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.

30. Vũ Công Giao, Về thực hành dân chủ trực tiếp ở nước ta hiện nay, Tạp

chí Cộng sản điện tử; bài viết có tại: http://www.tapchicongsan.org.vn,

truy cập ngày 24/3/2014.

31. Nguyễn Thị Thu Hà (2013), Thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống

chính trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lịch sử Đảng, số

8(273)/2013, Hà Nội.

32. Lương Đình Hải (2006), Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân

chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 1 (176), Hà Nội.

33. Hoàng Văn Hảo (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2003, Hà Nội.

34. Hoàng Văn Hảo (2003), Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình

tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nhà

nước và Pháp luật, số 2/2003, Hà Nội.

35. Đỗ Thị Thu Hằng, Tự quản địa phương và cơ chế kiểm soát của Chính

phủ Trung ương - kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, bài viết có

tại: http://isos.gov.vn, truy cập ngày 22/2/2014.

Page 182: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

182

36. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về việc

sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992), Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, 2002.

37. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và tìm

hiểu Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ (2013), Nxb. Hồng Đức, HN.

38. Vũ Văn Hiền (chủ biên, 2004), Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm ở Thụy

Điển và Trung Quốc (Sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Ngô Thị Hòa (2005), Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở

cấp xã trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.

40. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tài liệu học tập, nghiên cứu

môn Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, 2 tập, Hà Nội, 2004.

41. Quách Sĩ Hùng (2009), Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ

cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 6/2009, Hà Nội

42. Nguyễn Anh Hùng (2009), Những xu hướng dân chủ ở các nước Mỹ

Latinh ngày nay, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 10/2009, Hà Nội.

43. Lê Xuân Huy (2005), Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở

nông thôn nước ta hiện nay (Qua thực tế một số tỉnh phía Bắc), Luận văn

Thạc sĩ Triết học, Hà Nội.

44. Trần Quốc Huy (2005), Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở

Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật, Hà Nội.

45. Nguyễn Thị Việt Hương (2009), Truyền thống chính trị - pháp lý làng xã

và khả năng thích ứng trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước

pháp quyền Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/2009, Hà Nội.

46. Hoàng Mai Hương (2005), Quy chế dân chủ ở cấp xã với việc đảm bảo

quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của phụ nữ, Tạp chí Nhà nước

và Pháp luật, số 6/2005, Hà Nội.

47. Nguyễn Thọ Khang (2013), Thực hiện dân chủ ở cấp xã và vấn đề đặt ra

đối với báo chí ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền

thông, số tháng 6/2013, Hà Nội.

Page 183: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

183

48. Lại Quốc Khánh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ dân chủ nhân

dân, Tạp chí Triết học, số 7 (170), Hà Nội.

49. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 20, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.

50. L.J. Li (1999), Hệ thống hai phiếu ở tỉnh Shanxi: đưa bí thư Đảng uỷ làng

ra trước lá phiếu của cư dân, Tạp chí Trung Quốc, số 42/1999, HN.

51. Trần Đức Lương (2002), Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân,

do dân, vì dân ngày càng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng

thường xuyên của Đảng, nhà nước và nhân dân ta, Tạp chí Cộng sản số

1/2002, Hà Nội.

52. C. Mác và Ph. Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 39, Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

53. Nguyễn Khắc Mai (1997), Dân chủ - di sản văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb. Sự

thật, Hà Nội.

54. Nguyễn Văn Mạnh (2004), Vận dụng tư tưởng pháp quyền của Các Mác

trong xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở nước ta

hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10/2004, Hà Nội.

55. Nguyễn Văn Mạnh (2008), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong

quan hệ với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội dân

sự, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9/2008, Hà Nội.

56. Nguyễn Văn Mạnh (2010), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam: lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Matinne Lombard và Gille Dumont, Pháp luật hành chính của Cộng hòa

Pháp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007.

58. Lê Quang Minh (2003), Để thực hiện dân chủ sở cơ sở, Tạp chí Cộng sản,

số 11, tháng 4/2003, Hà Nội.

59. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

60. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

61. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

62. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. S.L. Montesqieu, Tinh thần pháp luật, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1996.

Page 184: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

184

64. Mai Quỳnh Nam (2003), Công khai để thực hiện quyền làm chủ của nhân

dân, Tạp chí Cộng sản, số 20(683)/2003, Hà Nội.

65. Một số kinh nghiệm về thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Quảng Nam,

bài viết có tại: http://xaydungdang.quangnam.gov.vn, truy cập ngày

20/3/2014.

66. Phạm Thị Việt Nga (2008), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường

trên địa bàn thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Luận văn Thạc sĩ luật

học, Hà Nội.

67. Chu Nga (2011), Quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân còn gặp không ít

khó khăn. Bài viết đăng trên báo Đại đoàn kết điện tử, có tại địa chỉ http://

www.baomoi.com (truy cập ngày 30/9/2013).

68. Ngọ Văn Nhân (2007), Phát huy dân chủ cơ sở - điều kiện quan trọng để

hình thành và phát triển dư luận xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Phát

triển nhân lực, số 2 (2)/2007, Thành phố Hồ Chí Minh.

69. Ngọ Văn Nhân (2008), Về đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ

đại diện trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số

5(204), Hà Nội.

70. Ngọ Văn Nhân (2010), Xã hội học pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

71. Ngọ Văn Nhân (2012), Xã hội học pháp luật (tái bản lần thứ nhất, có

chỉnh sửa, bổ sung), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.

72. Ngọ Văn Nhân (2011), Một số điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua văn kiện Đại hội XI của Đảng, Tạp

chí Triết học, số 3 (237)/2011, Hà Nội.

73. Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ

nghĩa, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

74. Dương Xuân Ngọc (2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số

vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

75. Olivier Vidal (Nguyễn Hoàng Anh dịch), Nước Cộng hòa Pháp và các

cộng đồng lãnh thổ địa phương: sự trở lại của nhóm Girondins?, bài viết

Page 185: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

185

in trong cuốn sách “Phân cấp quản lý nhà nước” của Khoa Luật, Đại học

Quốc gia Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011.

76. Nguyễn Văn Niên (1996), Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam - một

số vấn đề lý luận thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

77. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực

tiễn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

78. Nguyễn Hạnh Phúc (2007), Thực hiện Quy chế dân chủ ở Thái Bình - thành

tựu và kinh nghiệm, Tạp chí Cộng sản, số 775, tháng 5/2997, Hà Nội.

79. Phạm Ngọc Quang (2004), Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi

mới - thành tựu, vấn đề và giải pháp, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 3/2004.

80. Jean - Jacques Rousseau (Hoàng Thanh Đạm dịch thuật, chú thích và bình

giải, 2004), Bàn về khế ước xã hội, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.

81. Trần Quang (2008), Bầu cử trực tiếp ở nông thôn Trung Quốc, Tạp chí

Cộng sản, số tháng 4/2008, Hà Nội.

82. Quốc hội (2012), Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Hà Nội.

83. Nguyễn Duy Quý (2004), Về dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 4,

tháng 2/2004, Hà Nội.

84. Nguyễn Duy Quý và Nguyễn Tất Viễn (chủ biên, 2008), Nhà nước pháp

quyền của dân, do dân, vì dân - lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

85. Đỗ Tiến Sâm (2005), Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung

Quốc, Viện nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Khoa học xã hội Việt

Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

86. Nguyễn Văn Sáu (2002), Quan hệ giữa thực thi Quy chế dân chủ ở cơ sở

với xây dựng chính quyền ở nông thôn, Tạp chí Lý luận Chính trị, số

11/2002.

87. Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn Thông (2003), Thực hiện quy chế dân chủ và

xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

Page 186: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

186

88. Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (chủ biên, 2005), Thể chế dân chủ và

phát triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, H N.

89. Nguyễn Quốc Sửu (2011), Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công

chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

90. Phan Xuân Sơn (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Tạp chí Lý

luận chính trị và Truyền thông, số tháng 9/2010, Hà Nội, tr. 3-6.

91. Đặng Đình Tân và Đặng Minh Tuấn (2002), Tiếp tục thực hiện tốt Quy

chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 7/2002, Hà Nội.

92. Phạm Hồng Thái (2005), Xu hướng chuyển dịch quyền lực trong bộ máy

hành chính và vấn đề dân chủ, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2005.

93. Nguyễn Văn Thảo (chủ biên, 1997), Về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

94. Nguyễn Kim Thanh (2009), Một vài suy nghĩ về kết quả 10 năm xây dựng

và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Dân vận, số 7/2009, Hà Nội

95. Thái Vĩnh Thắng (2010), Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý

luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

96. Vương Ngọc Thịnh (2010) Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên

địa bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.

97. Lê Tịnh (2002), Thể chế dân chủ cơ sở ở Trung Quốc - Thôn tự trị, Tạp

chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 3/2002, Hà Nội.

98. Nguyễn Trọng Thóc (2005), Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với

việc xây dựng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở

nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 6(169)/2005, Hà Nội.

99. Đỗ Lai Thúy (1996), Sự phát triển của ý thức cá nhân qua các mẫu người

văn hóa, trong sách “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện

nay”, tập 2, Hà Nội.

100. Trần Thị Hồng Thúy, Ngọ Văn Nhân (đồng chủ biên, 2004), Tác động

của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở,

Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

Page 187: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

187

101. Đào Duy Thường (2003), Công tác thanh tra nhân dân xã, phường, thị

trấn, Tạp chí Cộng sản số 20 (683)/2003, Hà Nội.

102. Đặng Hữu Toàn (2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa và vấn đề thực thi quyền làm chủ của nhân dân, Tạp chí Khoa học

xã hội, số 9/2005, Hà Nội.

103. Nguyễn Minh Tuấn (2005), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân

chủ ở xã, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.

104. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lý luận Nhà nước và

Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

105. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Lý luận nhà nước và

pháp luật (tái bản lần thứ 3 có sửa đổi), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

106. Chu Thị Trang Vân (2009), Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực

thi Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Tạp chí Nhà nước

và pháp luật, số 5/2009, Hà Nội.

107. Nguyễn Khắc Viện (chủ biên, 1994), Từ điển xã hội học, Nxb. Thế

giới, Hà Nội.

108. Nguyễn Tất Viễn (2011), Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo

quyền con người và công lý nhìn từ góc độ xây dựng Nhà nước pháp

quyền, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề tháng 1/2011, Hà Nội.

109. Nam Việt, Những đòi hỏi phi lý và trịch thượng!, Bài viết đăng trên

Nhân dân điện tử, truy cập: http://www.nhandan.com.vn ngày 18/2/2014.

110. Võ Khánh Vinh (2003), Mối quan hệ giữa xã hội - cá nhân - nhà nước

trong Nhà nước pháp quyền và vai trò của nó trong việc xác định mô hình

tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nhà

nước và Pháp luật, số 2/2003, Hà Nội.

111. Đào Trí Úc (2007), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

112. Ủy ban thường vụ Quốc hội (20/4/2007), Pháp lệnh Thực hiện dân chủ

ở xã, phường, thị trấn, Hà Nội.

Page 188: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

188

113. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2012), Báo cáo số 118/BC-UBND

ngày 17/8/2012 Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày

12/10/2009 của Tỉnh ủy Quảng Nam về công tác dân vận trong tình hình

mới và 5 năm thực hiện Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày

20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn,

114. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2011), Kế hoạch thực hiện “Ngày

pháp luật” tại các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh Thái Bình

(Ban hành kèm theo Quyết định số 172/2011/QĐ-UBND ngày 28/01/2011

của UBND tỉnh), Thái Bình.

115. Viện Chính sách công và Pháp luật - Viện Nhà nước và pháp luật

(Đồng chủ biên: GS.TSKH. Đào Trí Úc - PGS.TS. Trịnh Đức Thảo - TS.

Vũ Công Giao - TS. Trương Hồ Hải, 2014), Một số vấn đề lý luận, thực

tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam, Nxb.

Đại học Quốc gia Hà Nội.

116. Virginia Beramandi, Andrew Elis và các tác giả khác, Dân chủ trực

tiếp: Sổ tay IDEA Quốc tế (Chủ biên bản dịch tiếng Việt: GS.TSKH. Đào

Trí Úc - TS. Vũ Công Giao, 2014), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

II. Tiếng nước ngoài

1. Tài liệu tiếng Nga

117. Агaпoв A.Б., Администрaтивнoe правo, изд. Юрaйт, Москва, 2009.

118. Академия oбщественных наук при ЦK KПCC, Kaфедра coветcкого

государствeнного стрoительствa и правa, Coветcкоe государствeнноe

стрoительствo и правo, изд. “Mысль”, Москва, 1984.

119. Атaмaчнук Г. B., Теория государствeнного управления, изд. Oмега,

Москва, 2004.

120. Баxрax Д.Н., Администрaтивнoe правo Рoccии, изд. Экcмo,

Москва, 2010.

121. Краткий словарь по социологии /Под. Общ. Редакцией Д. М.

Гвишиани/ изд. Полит. Литература, Москва, 1989.

Page 189: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/12/4/nguyen_hong_chuyen_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (X HCN) Việt

189

122. Кутафин O.E., Шepeмeт K.Ф., Koмпeтенция мecтных coветoв,

изд. Юрид. Литература, Москва, 1986.

123. Кудрявцев В.Н., Никитинcкий B. И., Эффективность правовых

норм, изд. Юрид. Литература, Москва, 1980.

124. Теория государствa и правa /Под. pедакцией Aлeкcaндpoв Н. Г./,

изд. Юрид. Литература, Москва, 1974.

125. Теория государствa и правa /Под. pедакцией Maтyзoвa Н. И.,

Maлыко A.B./, изд. Юристь, Москва, 2001.

126. Coветcкоe aдминистрaтивнoe правo, изд. Полит. Литература,

Москва, 1977.

127. Шepeпремникoв Б. П., Mecтнoe управлениe и cамoуправлениe в

Франции, изд. Вузoв, Минск, 1981.

2. Tài liệu tiếng Anh

128. Robert Alan, Dalh, Democracy and its Critics (Dân chủ và sự phê

phán), New Haven: Yale University Press. USA, 1991.

129. Adam Przeworski, Michael Alvarez, Jose Antonio Chebub and

Fernando Limongi, What makes Democracies Endure? (Điều gì tạo nên

các nền dân chủ bền vững?), Journal of Democracy 7/January, pag. 39-55.

130. Harold Hongju Koh, The right to Democracy, Towards a community of

democracy (Quyền dân chủ, Hướng tới một cộng đồng dân chủ), Issue of

Democracy, May, 2000, p. 9.

131. Sorensen Georg, Democracy and democractization processes and

prospects in changing world (Dân chủ và quá trình dân chủ hóa và triển

vọng trong một thế giới chuyển đổi), Westview press. 2007.