Upload
others
View
15
Download
5
Embed Size (px)
Citation preview
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Về bản chất, đó chính là Nhà nước luôn tôn trọng và đề
cao các quyền dân chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện nền dân chủ
XHCN. Giữa thực hiện dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có
mối liên hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ, tác động qua lại và bổ sung cho nhau.
Dân chủ và thực hiện dân chủ là một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà
nước pháp quyền; là một trong những điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa,
xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN. “Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước” [21, tr. 47]. Ngược lại, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN là sự bảo đảm có tính chất nền tảng cho việc thực hiện dân chủ; bởi lẽ,
chức năng của Nhà nước pháp quyền là phục vụ nhân dân, giữ mối liên hệ
mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân,
tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
Hơn nữa, chỉ Nhà nước pháp quyền XHCN mới có cơ chế, các biện pháp
kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vô trách
nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Có thể khẳng định
rằng, một nền dân chủ thực sự với việc phát huy đầy đủ các quyền dân chủ
của nhân dân chỉ có thể có được trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN.
Nền dân chủ XHCN và việc đảm bảo thực hiện dân chủ ở nước ta hiện
nay không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng, mà
còn được thể chế hóa và đảm bảo thực hiện thông qua Hiến pháp và hệ thống
pháp luật của Nhà nước. Sau khi Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số
03-CT/TW, ngày 18/02/1998 về Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở và các văn bản liên quan khác, Nhà nước đã xây dựng, ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật (QPPL) để triển khai quan điểm chỉ đạo của Đảng về
2
vấn đề này, như Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, ngày 11/5/1998 ban hành Quy
chế thực hiện dân chủ ở xã; Nghị định số 79/2003/NĐ-CP, ngày 07/7/2003
ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã và hiện nay là Pháp lệnh Thực hiên
dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã triển khai thực hiện nhiều
giải pháp nhằm không ngừng phát huy dân chủ; đưa dân chủ ở cấp xã, thực sự
đi vào các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội ở các xã, phường, thị trấn
trên phạm vi cả nước. Quá trình thực hiện pháp luật (THPL) về dân chủ ở cấp
xã đã và đang làm chuyển biến đáng kể nhận thức của các cấp ủy đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội về
vai trò, tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ, phát huy, mạnh mẽ quyền
dân chủ của các tầng lớp nhân dân; góp phần tích cực, hiệu quả vào công tác
xây dựng Đảng, chính quyền các cấp, nhất là cấp xã trong sạch, vững mạnh,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC), xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Bên cạnh những thành tựu, kết quả đã đạt được, việc THPL về dân chủ
ở cấp xã trên phạm vi cả nước nói chung, ở từng địa phương nói riêng còn
bộc lộ những hạn chế, nhược điểm nhất định do những nguyên nhân khác
nhau. “Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn
bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi
dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến
trật tự, an toàn xã hội” [21, tr. 171]. Có nơi, có lúc quyền làm chủ của nhân
dân chưa thực sự được tôn trọng và phát huy tối đa. Một bộ phận CBCC các
cấp, trong đó có cấp xã, bị thoái hóa, biến chất trước những cám dỗ vật chất,
quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu người dân. Ở một số địa phương, cấp ủy,
chính quyền, MTTQ, các đoàn thể nhân dân và đội ngũ CBCC cấp xã chưa
thực sự làm tròn vai trò, trách nhiệm của mình trong tổ chức THPL về dân
chủ ở cấp xã. Đây là một trong những nguyên nhân phát sinh tình trạng người
dân khiếu kiện, tố cáo vượt cấp kéo dài khi quyền, lợi ích hợp pháp của họ
chưa được giải quyết thỏa đáng, dứt điểm ngay từ cấp xã.
3
Thực trạng trên đây đã và đang gây ra những khó khăn cho việc tiếp tục
triển khai thực hiện có hiệu quả pháp luật về dân chủ ở cấp xã; tác động tiêu
cực tới tiến trình cải cách hành chính, xây dựng chính quyền cấp xã trong
sạch, vững mạnh; làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy hành chính nhà nước; từ đó, cản trở việc thực hiện dân chủ,
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Từ những lý do trên cho thấy, việc củng cố, phát triển các vấn đề lý luận
về THPL về dân chủ ở cấp xã, đánh giá thực trạng, nguyên nhân để từ đó, đề ra
các giải pháp bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một vấn đề có tầm quan trọng và mang
tính cấp thiết. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề “Thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” làm đề tài luận án Tiến sỹ luật học.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Mục đích của luận án là trên cơ sở nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và đánh giá thực trạng THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, luận án đề xuất các quan điểm
và giải pháp bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
- Để thực hiện mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ sau:
Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc THPL về dân chủ
ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, bao gồm: khái
niệm, đặc trưng, hình thức, nội dung, các điều kiện bảo đảm THPL theo yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; những yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền XHCN đối với THPL về dân chủ ở cấp xã.
Hai là, nghiên cứu, khảo sát, điều tra xã hội học (ĐTXHH) về THPL về
dân chủ ở cấp xã trên địa bàn 19 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong
cả nước; từ đó làm sáng tỏ, đánh giá những kết quả đạt dược, hạn chế và
nguyên nhân của thực trạng THPL về dân chủ ở cấp xã ở Việt Nam trong
những năm qua.
4
Ba là, đề xuất, luận giải quan điểm và giải pháp bảo đảm THPL về dân
chủ ở cấp xã đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực
tiễn về THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam dưới góc độ khoa học Lý luận và Lịch sử nhà nước
và pháp luật.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án:
+ Về không gian: Luận án nghiên cứu, đánh giá thực trạng THPL về
dân chủ ở cấp xã trên địa bàn 19 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở cả ba
miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam, bao gồm các tỉnh: Lai Châu, Điện Biên,
Quảng Ninh, Phú Thọ, Hưng Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Quảng Bình,
Quảng Nam, Bình Định, Đắl Lắk, Đắk Nông, Đồng Nai, Sóc Trăng, Bạc
Liêu, Cà Mau; các thành phố: Hải Phòng, Hồ Chí Minh và Cần Thơ.
+ Về thời gian: Luận án nghiên cứu pháp luật và đánh giá thực trạng
THPL về dân chủ ở cấp xã từ năm 1998 đến nay (2014).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
- Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
nhà nước và pháp luật, về vai trò của quần chúng nhân dân, về dân chủ nói
chung; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về dân chủ và thực hiện dân
chủ ở cấp xã nói riêng. Bên cạnh đó, luận án cũng kế thừa và tiếp thu quan
điểm, kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền
XHCN và THPL về dân chủ ở cấp xã của các nhà nghiên cứu đi trước.
- Phương pháp nghiên cứu của luận án: Để thực hiện mục đích và
nhiệm vụ nghiên cứu, luận án đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phân
tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể, logic, thống kê - so sánh và ĐTXHH. Các
phương pháp nghiên cứu nói trên được sử dụng cụ thể trong các chương của
luận án như sau:
5
+ Để nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án, luận án đã sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ
thể, phương pháp logic để chỉ ra được những vấn đề lý luận, thực tiễn đã được
nghiên cứu liên quan đến nội dung luận án; đồng thời xác định được những
vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu của luận án.
+ Chương 2 của luận án đã sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp,
lịch sử - cụ thể, phương pháp logic và so sánh để nghiên cứu và làm sáng tỏ
cơ sở lý luận của luận án; nghiên cứu vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã ở một
số địa phương của Việt Nam và kinh nghiệm một số nước trên thế giới, từ đó
chỉ ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
+ Chương 3 của luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học kết
hợp với phương pháp so sánh - thống kê, phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể
để phân tích, đánh giá lịch sử hình thành, phát triển của pháp luật dân chủ ở
cấp xã ở Việt Nam; đồng thời, đánh giá, phân tích những kết quả, hạn chế và
nguyên nhân của thực trạng THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam từ năm 1998 đến nay.
+ Chương 4 của luận án sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp,
lịch sử - cụ thể, logic, để phân tích và làm sáng tỏ các quan điểm và giải pháp
nhằm đảm bảo THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
5. Đóng góp khoa học mới của luận án
- Luận án đã đưa ra được khái niệm và xác định được đặc điểm của chủ
thể, nội dung, các hình thức THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Phân tích và chỉ ra được nội dung của mối quan hệ giữa THPL về dân
chủ ở cấp xã và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đối với
THPL về dân chủ ở cấp xã ở Việt Nam.
- Trên cơ sở kết quả ĐTXHH về tình hình THPL về dân chủ ở cấp xã
trên địa bàn 19 tỉnh, thành phố trong cả nước, luận án đã chỉ ra và luận giải có
sức thuyết phục những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng THPL
6
về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam từ năm 1998 đến nay.
- Luận án đề xuất được sáu quan điểm và bốn nhóm giải pháp toàn
diện, có tính khả thi nhằm bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về phương diện lý luận, kết quả và đóng góp mới của luận án góp
phần làm sáng tỏ và phong phú thêm những vấn đề lý luận về THPL nói
chung, về THPH trên một lĩnh vực cụ thể nói riêng, về THPL về dân chủ ở
cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Về phương diện thực tiễn, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy môn Lý luận Nhà nước
và pháp luật trong phạm vi các vấn đề có liên quan. Các kết quả nghiên cứu
của luận án có thể được các cơ quan hữu quan của các tỉnh, thành phố sử
dụng làm luận cứ khoa học, tài liệu tham khảo phục vụ việc xây dựng các giải
pháp, biện pháp cụ thể để bảo đảm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả THPL về
dân chủ ở cấp xã đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án được kết cấu thành 4 chương, 12 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Dân chủ là một chủ đề rất lớn trong đời sống chính trị, đời sống nhà
nước và xã hội tại hầu khắp các nước khác nhau trên thế giới. Trong phần này
tác giả không đề cập, phân tích nội dung của những công trình nghiên cứu về
dân chủ nói chung, mà chỉ tập trung khái quát những nội dung cơ bản của một
số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về thực hiện pháp luật và
về dân chủ ở cơ sở/địa phương.
1.1.1.1. Về thực hiện pháp luật
THPL là một trong những nội dung quan trọng của lý luận về nhà nước
và pháp luật; do đó, trong các công trình có tính chất giáo khoa lưu hành tại
các cơ sở đào tạo luật ở ngoài nước luôn dành sự quan tâm cho chủ đề này.
Có thể điểm qua một số công trình tiêu biểu:
- Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp Liên Xô, Lý luận về nhà
nước và pháp luật (tái bản lần thứ hai có sửa chữa, bổ sung), Nxb. Sách pháp
lý, Mátxcơva, 1974 (tiếng Nga) [122]. Trong cuốn giáo trình này, các tác giả
đã dành chương XIII- Áp dụng quy phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa [122, tr.
558 - tr. 568] để đề cập, phân tích nội dung các hình thức THPL; theo đó, các
hình thức THPL thực chất là những hành vi pháp luật được các chủ thể pháp
luật thực hiện, bao gồm các hình thức: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp
luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Áp dụng pháp luật là hình thức
THPL đặc biệt, là giai đoạn đặc biệt của THPL. Ngoài ra, cuốn sách còn đưa
ra những yêu cầu đối với văn bản áp dụng pháp luật, trong văn bản phải chỉ
rõ: cơ quan, thời gian ban hành, đối tượng thực hiện, quyết định giải quyết
vấn đề gì, căn cứ thực tế và căn cứ pháp lý để ra quyết định, người ký văn
bản; các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật...
8
- Lý luận nhà nước và pháp luật (tái bản lần thứ hai có sửa chữa, bổ
sung), Nxb. Pháp lý, Mátxcơva, 2001 (tiếng Nga) [123]. Cuốn sách đã dành
chuyên đề 20 để bàn về áp dụng pháp luật [123, tr. 453 - tr. 477], trong đó có
nội dung khái quát về THPL. Theo quan niệm của các tác giả, THPL là việc
hiện thực hóa những yêu cầu của pháp luật bằng những hành động thực tế của
các chủ thể pháp luật (cơ quan, tổ chức, cá nhân). THPL luôn gắn với hành vi
pháp luật của con người, được phân loại theo nhiều căn cứ khác nhau: theo
tính chất tác động của các chủ thể, mức độ tính tích cực và định hướng của
chủ thể; THPL được chia thành bốn hình thức: tuân thủ pháp luật, chấp hành
pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Như vậy, trong các công trình nghiên cứu nói trên, các tác giả đã tập
trung giải quyết những vấn đề lý luận cơ bản về THPL và các hình thức
THPL. Tuy được trình bày, diễn đạt theo cách khác nhau, nhưng những triết
lý căn bản về THPL và áp dụng pháp luật là khá tương đồng, như đều cho
rằng có bốn hình thức THPL là tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử
dụng pháp luật và áp dụng pháp luật... Những nội dung này có giá trị tham
khảo cho tác giả khi viết luận án ở chừng mực vấn đề có liên quan.
1.1.1.2. Về dân chủ ở địa phương, dân chủ ở cơ sở
Vấn đề dân chủ được các học giả nước ngoài nghiên cứu khá nhiều,
song vấn đề dân chủ ở địa phương, dân chủ ở cơ sở ở một số quốc gia mà tác
giả tham khảo lại ít được quan tâm nghiên cứu. Nguyên nhân của tình trạng
này là do trình độ nhận thức về dân chủ, sự phát triển của nền dân chủ, do
truyền thống lịch sử, quy định của pháp luật, do nhu cầu thực tiễn đặt ra đối
với mỗi quốc gia qua từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong phạm
vi những tài liệu gắn với chủ đề của luận án cần phải kể đến các công trình
nghiên cứu sau đây:
- Viện Hàn lâm Khoa học xã hội (thuộc Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Liên Xô), Xây dựng nhà nước xôviết và pháp luật, Nxb. Tư
tưởng, Mátxcơva, 1984 (tiếng Nga) [118]. Nội dung cuốn sách, bên cạnh việc
luận bàn về nhà nước, tổ chức quyền lực nhà nước, hình thức chính thể, hình
9
thức cấu trúc, chế độ chính trị...; các tác giả đã dành chương IX- Nhà nước và
cá nhân [118, tr. 174 - tr. 200] để trình bày khái quát về các quyền tự do, dân
chủ của công dân được quy định trong Hiến pháp Liên Xô năm 1977, chia các
quyền công dân thành các nhóm: quyền kinh tế - xã hội, các quyền và tự do
chính trị, các quyền và tự do cá nhân. Nhóm những quyền và tự do chính trị
gồm có: quyền tham gia của công dân vào quản lý nhà nước và xã hội, thảo
luận và ban hành luật và các quyết định có ý nghĩa nhà nước và địa phương;
quyền bầu cử và ứng cử; tham gia vào các tổ chức xã hội, quyền gửi các kiến
nghị, phê bình các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội; tự do ngôn luận, tự do
báo chí, hội họp, mít tinh, tuần hành và biểu tình [118, tr. 189]. Đồng thời,
các tác giả coi dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước; dân chủ XHCN thể hiện mối quan hệ có tính quy luật giữa nhân dân và
quyền lực nhà nước. Nguyên tắc dân chủ trước hết thể hiện ở nội dung: tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm sự tham gia rộng rãi, tích cực
và thực tế của tất cả quần chúng nhân dân lao động vào quản lý các công việc
nhà nước và xã hội. Việc thực hiện này thông qua dân chủ gián tiếp (Xôviết
đại biểu nhân dân) và trực tiếp thông qua việc nhân dân trực tiếp thảo luận các
vấn đề thuộc đời sống nhà nước, thông qua trưng cầu ý dân, hoạt động của
các tổ chức xã hội, tập thể lao động, sử dụng dư luận xã hội [118, tr. 233].
- Luật Hành chính Xôviết, Nxb. Sách pháp lý, Mátxcơva, 1977 [126].
Cuốn sách tuy không trực tiếp bàn về vấn đề dân chủ hay dân chủ ở cơ sở,
nhưng khi viết về pháp chế và kỷ luật trong hoạt động quản lý nhà nước, về
các hình thức, phương pháp bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà
nước, các tác giả đã coi việc kiểm tra đảng, giám sát hoạt động của các cơ
quan quyền lực nhà nước từ phía các tổ chức, đoàn thể xã hội là những
phương thức bảo đảm pháp chế, kỷ luật trong quản lý nhà nước và bảo đảm
các quyền, tự do dân chủ của công dân; là sự thể hiện của vấn đề thực hiện
dân chủ trong đời sống xã hội; đồng thời, các tác giả cuốn sách cũng phân tích
khá kỹ về nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra nhân dân, đặc biệt là những tổ
chức thanh tra nhân dân được thành lập ở các cấp hành chính, đơn vị sự
10
nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, trang trại... Thanh tra nhân dân là cơ quan của tổ
chức xã hội, do nhân dân trực tiếp bầu nên, thay mặt nhân dân kiểm tra hoạt
động của chính quyền các cấp, hoạt động của lãnh đạo các cơ quan, đơn vị sự
nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, trang trại [126, tr. 272 - tr. 275].
- O. E. Kutaphin, K.Ph. Seremet, Thẩm quyền của Xôviết địa phương,
Nxb. Sách pháp lý, Mátxcơva, 1986 (tiếng Nga) [122]. Công trình này tuy
không có những nội dung chuyên biệt về dân chủ ở địa phương hay dân chủ
cơ sở, nhưng khi nghiên cứu về thẩm quyền của Xôviết đại biểu nhân dân địa
phương trên từng lĩnh vực, các tác giả đều đề cập tới quyền tự quyết của từng
cấp chính quyền Xôviết (tỉnh, vùng, huyện, xã, thôn), trong đó có những nội
dung đề cập tới quyền tham gia, hình thức tham gia của công dân (nông trang
viên) vào việc đưa ra các quyết định của nông trường, của các Xôviết đại biểu
nhân dân địa phương ở cấp xã, thôn. Khi liệt kê thẩm quyền của Xôviết đại
biểu nhân dân có quy định chung rằng mọi quyết định của chính quyền đều
phải được phổ biến tới nhân dân địa phương, báo cáo của chính quyền trước
nhân dân thông qua việc phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức
và hoạt động của Xôviết đại biểu nhân dân [122, tr. 8].
- B. P. Cerebrennikov, Quản lý địa phương và tự quản ở Pháp, Nxb.
Cao đẳng, Minxk, 1981 (tiếng Nga) [127]. Cuốn sách tập trung nghiên cứu
khái niệm, các đặc trưng của quản lý địa phương và tự quản ở Pháp trong sự
so sánh với tự quản ở một số quốc gia khác (Mỹ, Anh, Canada...); sự điều
chỉnh của Hiến pháp về tự quản địa phương; quản lý công xã và tự quản; địa
vị pháp lý của công xã và một số vấn đề khác có liên quan tới tự quản địa
phương. So sánh với chế độ tự quản của các quốc gia khác như Anh, Mỹ,
Italia thì chế độ tự quản của Pháp còn nhiều hạn chế bởi những quy định của
chính quyền trung ương về các quyền tự quyết của cộng đồng lãnh thổ địa
phương. Theo tác giả, ở Pháp, việc thiết lập một nền hành pháp mạnh, tổ chức
quyền lực theo truyền thống tập trung nên quyền tự quản, tự quyết của các
cộng đồng địa phương còn nhiều hạn chế.
11
- Olivier Vidal (Nguyễn Hoàng Anh dịch), Nước Cộng hòa Pháp và
các cộng đồng lãnh thổ địa phương: sự trở lại của nhóm Girondins?, bài viết
in trong cuốn sách “Phân cấp quản lý nhà nước” của Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011 [75]. Trong bài viết
tác giả bàn về sự hình thành của tư tưởng phân quyền theo chiều dọc, nghĩa là
phân quyền cho các đơn vị hành chính lãnh thổ địa phương. Thực chất phân
quyền là sự thể hiện của mô hình quản lý phi tập trung, là sự biểu hiện của
dân chủ, nếu không có dân chủ thì không có phân quyền theo chiều dọc. Theo
tác giả, việc thừa nhận sự tự quản của cộng đồng lãnh thổ địa phương ở nước
Pháp trải qua một qua trình rất lâu dài, phức tạp, là kết quả của sự đấu tranh
giữa phái ủng hộ chế độ tập quyền và phái ủng hộ chế độ phân quyền; đồng
thời, tác giả đề cập tới hình thức thực hiện hoạt động tự quản địa phương
thông qua hình thức trưng cầu ý dân hay “dân chủ ở cơ sở” - đỉnh cao của chế
độ phân quyền [75, tr. 292].
- Virginia Beramandi, Andrew Elis và các tác giả khác, Dân chủ trực
tiếp: Sổ tay IDEA Quốc tế (Chủ biên bản dịch tiếng Việt: GS.TSKH. Đào Trí
Úc - TS. Vũ Công Giao), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014 [116].
Cuốn sách này được biên dịch và xuất bản bằng tiếng Việt bởi Viện Chính
sách công và Pháp luật trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật
Việt Nam với sự cho phép của IDEA Quốc tế, sự hỗ trợ của Đại sử quán Na
Uy tại Hà Nội và sự cộng tác của Bộ môn Luật Hiến pháp - Hành chính thuộc
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nội dung cuốn sách cung cấp các
khuyến nghị và bài học thực tiễn về việc vận dụng dân chủ trực tiếp ở tất cả
các vùng trên thế giới; đánh giá điển hình ở 06 quốc gia, gồm Hungary, Thụy
Sĩ, Hoa Kỳ (bang Oregan), Uruguay và Venezuela với các hoạt động trưng
cầu dân ý, sáng kiến của công dân, sáng kiến chương trình nghị sự và bãi
miễn... [116].
- Robert Alan, Dalh, Democracy and its Critics (Dân chủ và sự phê
phán), New Haven: Yale University Press. USA, 1991 [128]. Trong cuốn
sách này, từ cách tiếp cận chính trị học, tác giả khẳng định quyền lực mà nhà
12
nước có được là xuất phát từ quyền lực gốc của nhân dân; bởi vậy, để thực thi
một nền dân chủ đòi hỏi phải có sự chế ước lẫn nhau giữa các chủ thể trong
xã hội, phải được cụ thể hóa và bảo đảm thực thi bằng pháp luật. Tuy nhiên,
mỗi một chế độ dân chủ được duy trì, thực thi như thế nào còn phụ thuộc vào
các điều kiện về kinh tế, truyền thống văn hóa dân tộc của mỗi quốc gia khác
nhau. Khi làm rõ khái niệm dân chủ, tác giả khẳng định rằng, cho đến nay,
chưa có quốc gia nào đáp ứng đầy đủ các lý tưởng dân chủ. Để đạt tới một
nền dân chủ lý tưởng, theo tác giả cuốn sách, phải đáp ứng năm tiêu chí sau:
1) Sự tham gia hiệu quả: mọi công dân phải có cơ hội đầy đủ và bình đẳng để
thể hiện nguyện vọng của mình và đặt câu hỏi trong các chương trình công
cộng, thể hiện các lý do cho một kết quả tốt đẹp hơn; 2) Các công dân phải
được bình đẳng, công bằng trong bầu cử ở giai đoạn quyết định; 3) Sự hiểu
biết sâu sắc: các công dân phải được hưởng những cơ hội phong phú và bình
đẳng cho những phát hiện và lựa chọn tốt nhất phục vụ cho lợi ích của họ; 4)
Kiểm soát các chương trình nghị sự: các công dân phải có cơ hội quyết định
những vấn đề chính trị thực sự toàn diện; 5) Tính toàn diện: tính bình đẳng
phải được mở rộng đến tất cả các công dân. Mọi người đều phải có cổ phần
hợp pháp trong quá trình chính trị.
- Adam Przeworski, Michael Alvarez, Jose Antonio Chebub and
Fernando Limongi, What makes Democracies Endure? (Điều gì tạo nên các
nền dân chủ bền vững?), Journal of Democracy 7/January, pag. 39-55 [129].
Trong bài viết, thông qua việc khảo sát thực chứng về dân chủ tại 135 nước
trên thế giới, các tác giả đã chỉ ra được với mức độ thu nhập bình quân đầu
người ở mức nào thì dân chủ xuất hiện, ở mức nào thì dân chủ bền vững. Các
tác giả cho rằng, các cuộc khủng hoảng kinh tế là một trong những mối đe
dọa phổ biến nhất đối với sự ổn định, phát triển nền dân chủ. Ngược lại, tăng
trưởng kinh tế sẽ luôn có lợi cho sự sống còn của nền dân chủ. Trên thực tế,
nhiều nền kinh tế phát triển đã góp phần giúp cho nền dân chủ có thể tồn tại,
phát triển bền vững hơn so với các nước có nền kinh tế phát triển kém.
13
- Harold Hongju Koh, The right to Democracy, Towards a community
of democracy (Quyền dân chủ, Hướng tới một cộng đồng dân chủ), Issue of
Democracy, May, 2000, p. 9 [130]. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả
đã đề cập tới nhiều tiêu chuẩn của dân chủ, cho thấy dân chủ bao trùm lên tất
cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Mục tiêu của việc
xây dựng dân chủ không chỉ dừng lại ở cách hành xử về chính trị, mà còn làm
cho dân chủ trở thành yếu tố định hướng hành vi của con người.
- Sorensen Georg, Democracy and democractization processes and
prospects in changing world (Dân chủ và quá trình dân chủ hóa và triển vọng
trong một thế giới chuyển đổi), Westview press. 2007 [131]. Từ cách tiếp cận
lịch sử về dân chủ, tác giả xem xét, đánh giá triển vọng dân chủ trong thế giới
ngày nay, làm rõ khái niệm dân chủ và cho thấy tiềm năng tích cực trong xu
hướng dân chủ hóa, sự phát triển dân chủ trong những điều kiện khác nhau ở
các nước có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau.
Ngoài ra, có thể kể thêm một số tài liệu, công trình nghiên cứu của các
tác giả khác, như: A. B. Agapốp, Luật Hành chính (tái bản lần thứ sáu), Nxb.
Iurait, 2009 (tiếng Nga) [117]; Bộ Giáo dục Liên bang Nga, Đ.N. Bakhrac,
Luật Hành chính Nga (tái bản lần thứ năm), Nxb. Exkimô, Mátxcơva, 2010
(tiếng Nga) [120]; G.V. Atamanchuc, Lý thuyết quản lý nhà nước, Nxb.
Omega, Mátxcơva, 2004 (tiếng Nga) [119]; Matinne Lombard và Gille
Dumont, Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
2007 [57]... Các công trình trên chủ yếu tập trung giải quyết những vấn đề lý
luận về quản lý nhà nước, dân chủ được xem xét như là một trong những nhân
tố bảo đảm sự thành công của hoạt động quản lý nhà nước và phương thức
quản lý nhà nước, đề cập tới các hình thức dân chủ: dân chủ đại diện và dân
chủ trực tiếp, đặc biệt là dân chủ ở những cộng đồng lãnh thổ địa phương ở
Liên bang Nga và ở Cộng hòa Pháp.
Tóm lại, trong các cuốn sách, công trình nghiên cứu nói trên, các tác
giả nước ngoài đã luận bàn, đề cập tương đối đa dạng vấn đề dân chủ, dân chủ
trực tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ cơ sở, dân chủ ở địa phương..., trong đó
14
nổi lên sự khẳng định quyền lực nhà nước là quyền lực gốc của nhân dân, một
nền dân chủ phải có sự chế ước lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội và phải
được bảo đảm thực thi bằng pháp luật. Một số công trình bàn sâu về các tiêu
chí của một nền dân chủ, về tác động của tăng trưởng kinh tế đối với việc
thực thi dân chủ, đánh giá về triển vọng của một nền dân chủ trong thế giới
ngày nay. Những công trình nghiên cứu nói trên của các tác giả nước ngoài là
nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để tác giả luận án có thể tham khảo, so
sánh về mặt lý luận vấn đề thực hiện pháp luật khi triển khai viết luận án.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Chủ đề THPL, dân chủ và dân chủ ở cấp xã, vấn đề THPL về dân chủ ở
cấp xã, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là những chủ
đề/vấn đề được bàn luận sôi nổi trong nhiều công trình khoa học, cuốn sách,
bài báo khoa học từ những phương diện, góc độ khác nhau. Căn cứ vào tên đề
tài luận án, có thể khái quát tình hình nghiên cứu theo các nhóm vấn đề sau:
1.1.2.1. Vấn đề thực hiện pháp luật nói chung
Chủ đề THPL là một trong những nội dung quan trọng của khoa học Lý
luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật, được đề cập, bàn luận chủ yếu trong
các cuốn sách, giáo trình của các cơ sở đào tạo luật ở nước ta, tiêu biểu như:
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp
luật (tái bản lần thứ 3 có sửa đổi), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2013
[105]. Các tác giả cuốn giáo trình này đã dành chương X- Thực hiện pháp
luật, áp dụng pháp luật và giải thích pháp luật [105, tr. 181 - tr. 204] để luận
bàn về THPL và áp dụng pháp luật. Theo các tác giả, THPL là hoạt động có
mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định pháp luật. THPL là hành vi thực tế
hợp pháp, có mục đích của các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy
định pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống [105, tr. 183]. Các tác giả
khẳng định có 04 hình thức THPL, gồm tuân thủ pháp luật, thi hành (chấp
hành) pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Do áp dụng pháp
luật là hình thức THPL đặc biệt nên các tác giả dành nhiều trang sách để viết
về vấn đề này [105, tr. 184 - 200].
15
- Cùng chung tính chất giáo trình luận bàn về vấn đề THPL còn có thể
kể ra một số cuốn sách, tài liệu khác, như: Trần Ngọc Đường (chủ biên), Lý
luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999
[26]; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tài liệu học tập, nghiên cứu
môn Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, 2 tập, Hà Nội, 2004 [40]...
Trong các cuốn giáo trình kể trên, tuy cách trình bày, diễn đạt có thể khác
nhau, song các tác giả cũng đều tập trung chủ yếu vào việc trình bày khái
niệm THPL, các hình thức THPL (tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử
dụng pháp luật, áp dụng pháp luật); phân tích sâu hơn về áp dụng pháp luật,
các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật... Đây là những cơ sở lý luận
quan trọng, mang tính giáo khoa cho việc triển khai nghiên cứu vấn đề THPL
trong quá trình viết luận án của tác giả.
- Nguyễn Minh Đoan, Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010 [25]. Đây là cuốn sách tham khảo
chuyên bàn về THPL và áp dụng pháp luật, gồm 05 chương. Chương 1- Thực
hiện pháp luật được tác giả dành để luận bàn về khái niệm, mục đích, ý nghĩa
của việc THPL, về các hình thức THPL. THPL có thể được tiến hành thông
qua các hình thức: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và
áp dụng pháp luật. Chương 2- Áp dụng pháp luật luận bàn về những trường
hợp cần áp dụng pháp luật, đặc điểm của áp dụng pháp luật, các nguyên tắc cơ
bản của áp dụng pháp luật và quyết định áp dụng pháp luật. Chương 3- Quy
trình thực hiện và áp dụng pháp luật; theo đó, quy trình THPL gồm hai giai
đoạn là chuẩn bị đưa văn bản pháp luật hay quy định pháp luật vào thực hiện
và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật trên thực tế. Chương 4- Những
bảo đảm thực hiện pháp luật được dành để phân tích một số yếu tố và điều
kiện cơ bản bảo đảm THPL. Chương 7- Hiệu quả thực hiện pháp luật ở Việt
Nam luận bàn về các tiêu chí đánh giá hiệu quả THPL, thực trạng và một số
giải pháp nâng cao hiệu quả THPL ở Việt Nam. Cuốn sách là tài liệu tham
khảo hữu ích cho tác giả luận án khi viết phần cơ sở lý luận về THPL và
THPL về dân chủ ở cấp xã.
16
- Vấn đề THPL cũng được đề cập và phân tích tương đối sâu dưới góc
độ xã hội học pháp luật, như: TS. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật, Nxb.
Tư pháp, Hà Nội, 2010 (352 trang) [70]; TS. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp
luật (Tái bản lần thứ nhất, có chỉnh sửa, bổ sung), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội,
2012 (408 trang) [71]. Trong cuốn sách này, tác giả đã dành 02 chương để
bàn về vấn đề THPL và áp dụng pháp luật dưới góc độ xã hội học pháp luật
(Chương VII- Các khía cạnh xã hội của hoạt động thực hiện pháp luật và
Chương VIII- Các khía cạnh xã hội của hoạt động áp dụng pháp luật). Trong
hai chương này, tác giả trình bày khái quát về hoạt động THPL và áp dụng
pháp luật; phân tích nội dung nghiên cứu các khía cạnh xã hội của hoạt động
THPL và áp dụng pháp luật. Tác giả cũng dành nhiều trang viết để phân tích,
luận giải những biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động THPL và áp dụng
pháp luật ở nước ta hiện nay. Nhìn trên phương diện cách tiếp cận liên ngành
khoa học, những nội dung của cuốn sách có giá trị tham khảo đối với việc
khảo sát thực tiễn phục vụ việc viết luận án ở những vấn đề có liên quan.
1.1.2.2. Vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ ở cấp xã đặt trong mối
quan hệ với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Vấn đề dân chủ là vấn đề từ lâu đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
các nhà khoa học, những người làm công tác lý luận cũng như thực tiễn và
được tiếp cận dưới nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Có thể đề cập đến một
số công trình, bài viết tiêu biểu sau đây:
- Viện Chính sách công và Pháp luật - Viện Nhà nước và pháp luật
(Đồng chủ biên: GS.TSKH. Đào Trí Úc - PGS.TS. Trịnh Đức Thảo - TS. Vũ
Công Giao - TS. Trương Hồ Hải, 2014), Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về
dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam (Kỷ yếu Hội
thảo), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội [115]. Cuốn sách gồm tập hợp những
bài tham luận tại cuộc Hội thảo “Dân chủ trực tiếp, Dân chủ cơ sở trên thế
giới và ở Việt Nam”, trong đó, các tác giả đã chia sẻ kiến thức, thông tin về
một loạt vấn đề lý luận, thực tiễn và các mô hình tổ chức thực hiện dân chủ
trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam; đồng thời, đề xuất những
17
quan điểm, giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và các cơ chế bảo đảm
thực hiện dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở ở nước ta trong thời gian tới.
- Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo, Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991 [73]. Nội dung cuốn sách tập trung làm rõ các
vấn đề lý luận về dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa; coi dân chủ tư sản
là thành quả của cuộc cách mạng tư sản, là kết quả việc nhà nước tư sản sử
dụng phương pháp tự do chủ nghĩa để thực hiện chuyên chính tư sản; chỉ ra
những đặc trưng cơ bản của dân chủ tư sản. Dân chủ XHCN là nền dân chủ
gắn với bản chất của chế độ Nhà nước XHCN; là hình thức chính quyền mà
đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và
thừa nhận quyền tự do bình đẳng của công dân. Trong tương quan với quyền
lực nhân dân, dân chủ được coi là công cụ, là hình thức chủ yếu thực hiện
quyền lực nhân dân...
Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình khác, như: Nguyễn Tiến Phồn,
Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực tiễn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2001 [77]; Hoàng Chí Bảo, Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện
dân chủ: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu, Tạp chí Thông tin
lý luận, số 9/1992, Hà Nội [3]; Nguyễn Minh Đoan, Dân chủ với pháp luật,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10/2007 [24]... Các công trình, bài viết nói
trên tập trung làm rõ khái niệm dân chủ, các đặc trưng của dân chủ xã hội chủ
nghĩa; mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật; đưa ra các đánh giá khách quan
về những thành quả, tiến bộ mà chủ nghĩa tư bản có được cũng như chỉ ra
những hạn chế trong quan niệm về dân chủ do bản chất giai cấp của nền dân
chủ tư sản quy định; đề cao nguyên tắc tập trung dân chủ; chỉ ra các cơ chế
thực hiện dân chủ... Đó là những tài liệu tham khảo hữu ích đối với tác giả
khi đề cập và luận bàn về nội hàm, bản chất của vấn đề dân chủ.
Vấn đề dân chủ đặt trong mối liên hệ với xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN được một số tác giả đề cập, phân tích, như:
- Nguyễn Văn Mạnh, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam: lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010 [56].
18
Đây là cuốn sách chuyên khảo gồm hai phần: Phần thứ nhất- Cơ sở lý luận về
Nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó tác giả tập trung phân tích và làm rõ
cơ sở hình thành quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền XHCN,
những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Phần
thứ hai- Thành tựu, hạn chế và các giải pháp đẩy mạnh xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay; trong đó tập trung đánh giá những
thành tựu cũng như những hạn chế, tồn tại trong thực tiễn xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN ở Việt Nam trong những năm qua cũng như nguyên nhân
của chúng. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số giải pháp tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay; trong đó, phát
huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nhà nước
và quản lý xã hội [56, tr. 162-165] là một trong những giải pháp căn bản.
- Hoàng Văn Hảo, Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng
thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 2/2003 [34]. Trên cơ sở bàn luận về bản chất của dân chủ như
một giá trị xã hội phổ quát, điểm qua những đặc trưng cơ bản của mô hình
Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng, tác giả khẳng định
rằng: thực hiện và phát huy dân chủ là nhân tố không thể thiếu trong mô hình
tổng thể Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
- Đặng Hữu Toàn, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
vấn đề thực thi quyền làm chủ của nhân dân, Tạp chí Khoa học xã hội, số
9/2005 [102]. Tác giả cho rằng, một trong những nội dung cốt lõi của việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là phải bảo đảm thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân, cũng có nghĩa là phải thực hành nền dân chủ; giữa xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và thực thi quyền làm chủ của nhân dân
có mối liên hệ mật thiết với nhau.
- Nguyễn Trọng Thóc, Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 6(169)/2005 [98]. Trong bài viết, tác giả
nhấn mạnh rằng, xây dựng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ XHCN là
19
các biện pháp chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; trong đó, sự
lãnh đạo của Đảng là yếu tố đặc biệt quan trọng.
- Lương Đình Hải, Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ
hóa xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 1(176)/2006 [32]. Trong
bài viết, tác giả khẳng định rằng, thực hiện dân chủ là một nội dung cơ bản
của nhà nước pháp quyền, đặc biệt là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân. Không có nhà nước pháp quyền thực sự thì không có nền dân
chủ xã hội rộng rãi và bền vững. Đối với nước ta, dân chủ hóa xã hội vừa là
điều kiện tiên quyết để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN,
vừa là biện pháp căn bản để đẩy nhanh sự phát triển của đất nước.
- Ngọ Văn Nhân, Một số điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua văn kiện Đại hội XI của Đảng, Tạp chí Triết
học, số 3 (237)/2011, Hà Nội [72]. Khẳng định bước phát triển mới trong
quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
qua văn kiện Đại hội XI, tác giả đã phân tích những điểm mới đó trên các
phương diện: các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN; thực
tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHXN ở nước ta trong những năm đổi
mới; những giải pháp cụ thể cần triển khai nhằm đẩy mạnh công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Một trong những điểm mới, theo tác giả,
là Đảng ta đã nhấn mạnh chức năng của Nhà nước là phục vụ nhân dân;
khẳng định mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Nhà nước với nhân dân, thực
hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của
nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
- Trần Ngọc Đường, Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với
việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2012 [27]. Nói về vị trí, vai trò của quyền lực nhân dân, tác giả cho rằng,
quyền lực nhân dân là quyền lực tối cao trong các xã hội có tính dân chủ,
đồng nghĩa với việc dân chủ là toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Quyền
lực nhân dân là quyền lực gốc để từ đó hình thành nên các quyền lực khác
trong xã hội như quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị. Vai trò của quyền
20
lực nhân dân được thể hiện ở các khía cạnh sau: 1) Tự quản, tự chủ những vấn
đề thuộc về đời sống cá nhân và đời sống xã hội không có sự can thiệp của
Nhà nước; 2) Quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia theo quy định
của pháp luật, như trưng cầu ý dân, các hình thức dân chủ trực tiếp khác; 3)
Xây dựng Nhà nước, các thiết chế xã hội thông qua các cơ chế như bầu cử,
khiếu nại, tố cáo hoặc gây ảnh hưởng, phản biện đối với các chính sách pháp
luật; 4) Tuân thủ, ủng hộ và bảo vệ quyền lực nhà nước thông qua việc chấp
hành đúng pháp luật, chính sách của Nhà nước, đấu tranh chống lại những thế
lực đi ngược lại các chuẩn mực xã hội, luật pháp; 5) Kiểm soát, giám sát nhà
nước và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội [27, tr. 41 - 42].
Những công trình nghiên cứu trên đây là tài liệu tham khảo có giá trị
đối với tác giả luận án khi bàn về mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ với xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Vấn đề thực hiện dân chủ ở cấp xã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập,
phân tích trong các công trình, bài báo khoa học, nhất là sau khi Chính phủ
ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP Về việc ban hành Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã. Có thể kể ra đây một số công trình nghiên cứu, bài viết trong
những năm gần đây về lĩnh vực này:
- Ngọ Văn Nhân, Về đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 5 (204)/2008
[69]. Tác giả bài viết khẳng định rằng, phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm của Đảng, Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển
đất nước hiện nay. Phát huy dân chủ là điều kiện tiên quyết để xây dựng bộ
máy nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cơ chế
vận hành của Nhà nước pháp quyền dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Dưới chế độ ta, nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước thông qua hai hình thức cơ bản là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Tác giả nhấn mạnh rằng, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đều là hình
thức của chế độ dân chủ, có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau [69, tr. 63 - 69].
21
- Nguyễn Thọ Khang, Thực hiện dân chủ ở cấp xã và vấn đề đặt ra đối
với báo chí ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số
tháng 6/2013 [47]. Trong bài viết này, từ sự nhấn mạnh vai trò của việc thực
hiện dân chủ ở cấp xã trong phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân
dân ở xã, phường, thị trấn, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn
của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường
đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ,
chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh; tác giả cho rằng các
loại hình báo chí có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phổ biến, tuyên
truyền Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Tác giả bài viết
đưa ra các giải pháp: báo chí nên có các chuyên trang, chuyên mục về thực
hiện dân chủ ở cấp xã; nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền của báo chí
về thực hiện dân chủ ở cấp xã; bám sát, phản ánh kịp thời những hoạt động
thực hiện dân chủ ở cấp xã [47, tr. 39 - tr. 41].
- Đỗ Văn Dương, Những giải pháp phát huy vai trò hệ thống chính trị
cơ sở nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn
các tỉnh Tây Nguyên, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số tháng
7/2013 [28]. Theo tác giả bài viết, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở xã,
phường, thị trấn ngày càng đổi mới và hoàn thiện được coi là cơ chế vận hành
của nền dân chủ nhằm bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, là khâu then
chốt của toàn bộ quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị - xã hội ở cơ sở,
giúp giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và công dân, qua đó
quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được bảo đảm đầy đủ hơn trên thực
tế. Nhìn trên phương diện đó, những hạn chế, bất cập của hệ thống chính trị
cơ sở đối với việc lãnh đạo, triển khai thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn
các tỉnh Tây Nguyên vẫn còn rất lớn. Chính vì vậy, tác giả khẳng định cần
phải có những giải pháp toàn diện nhằm phát huy vai trò của hệ thống chính
trị cơ sở nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở cấp xã ở Tây Nguyên, như tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng bộ cơ sở; nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo,
quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ cấp xã ở Tây Nguyên... [28, tr. 39-41].
22
- Nguyễn Thị Thu Hà, Thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính
trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8(273)/2013
[31]. Nội dung bài viết tập trung làm rõ hai phương diện của hoạt động thực
hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện
nay là những kết quả bước đầu và một số hạn chế và nguyên nhân. Về kết
quả, tác giả cho rằng, thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính trị cơ
sở nông thôn đã tác động tích cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội, trực tiếp
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và củng cố chính quyền cơ
sở... Về hạn chế, theo tác giả, hạn chế điển hình là bệnh dân chủ hình thức
trong thực hiện quy chế dân chủ. Việc phát huy dân chủ còn yếu kém là
nguyên nhân căn bản làm nảy sinh các tệ quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu
nhân dân, tham nhũng trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, làm cho không ít
các chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước bị biến dạng trong vận hành ở
nhiều cấp, nhiều ngành, đặc biệt là cấp cơ sở xã, phường, thị trấn.
Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình nghiên cứu khác về thực
hiện dân chủ ở cơ sở, như: Dương Xuân Ngọc, Quy chế thực hiện dân chủ ở
cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000 [74]; Lương Gia Ban, Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 [4]; Trần Bạch Đằng, Dân chủ ở cơ
sở - một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số
35, tháng 12/2003, Hà Nội [23]; Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn Thông (chủ
biên), Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta
hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 [87]... Trong các công trình
khoa học kể trên, các tác giả tập trung phân tích nội hàm khái niệm dân chủ ở
cơ sở; các khía cạnh lý luận và thực tiễn của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ
sở; coi dân chủ ở cơ sở như một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam,
có cội nguồn từ trong truyền thống dân chủ làng xã và rất cần phát huy sức
mạnh của nó phục vụ tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam, vấn đề đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên địa bàn
cơ sở ở nước ta hiện nay, mối quan hệ giữa vấn đề dân chủ và cải cách bộ máy
23
chính quyền địa phương. Các tác giả cũng nhấn mạnh rằng, Quy chế dân chủ ở
cơ sở càng được thực hiện nghiêm túc bao nhiêu thì càng có tác dụng củng cố,
xây dựng chính quyền cấp cơ sở trong sạch, vững mạnh bấy nhiêu; góp phần
quan trọng thúc đẩy sự phát triển nông thôn Việt Nam. Những công trình, bài
viết về thực hiện dân chủ ở cấp xã là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho tác
giả khi bàn luận về vấn đề này.
1.1.2.3. Vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Vấn đề này đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập và phân tích trong các
bài viết đăng trên các báo, tạp chí khoa học khác nhau, như:
- Đặng Đình Tân - Đặng Minh Tuấn, Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế
dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 7/2002 [91]. Trong bài viết
này, các tác giả đã đưa ra những nhận xét, đánh giá bước đầu về các kết quả
đạt được trong công tác thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, như sự phấn khởi
đón nhận Quy chế dân chủ ở cơ sở từ phía nhân dân ở xã, phường, thị trấn; sự
hăng hái vào cuộc của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân nhằm
động viên các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình trên các
mặt hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở... Các tác giả cũng chỉ ra một
số hạn chế trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, như công tác tuyên
truyền và việc tổ chức thực hiện Quy chế còn mang tính hình thức, chưa chú
trọng chất lượng và hiệu quả. Để có thể tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ
ở cơ sở, theo các tác giả, cần triển khai nhiều giải pháp, trong đó, tăng cường
vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng và huy động sự vào cuộc của các đoàn
thể nhân dân là những biện pháp quan trọng hàng đầu [91, tr. 39 - 43].
- Phạm Ngọc Quang, Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi
mới - thành tựu, vấn đề và giải pháp, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 3/2004
[79]. Theo tác giả bài viết, sự ra đời của Quy chế dân chủ ở cơ sở là một dấu
mốc quan trọng của quá trình đổi mới ở nước ta, thể hiện quyết tâm chính trị
của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình dân chủ hóa xã hội. Sau khi điểm
qua những thành tựu nổi bật của hoạt động thực hiện dân chủ ở cơ sở, tác giả
xác định những vấn đề đang đặt ra trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở ở
24
nước ta, như nhận thức của người dân về việc thực hiện các quyền dân chủ
vẫn còn hạn chế; các yếu tố bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả dân chủ ở
cơ sở chưa được đáp ứng đầy đủ, kịp thời... Từ thực tế đó, tác giả nêu lên và
phân tích những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ sở đáp
ứng yêu cầu, đòi hỏi của tiến trình đổi mới đất nước [79, tr. 3 - 7].
Ngoài các bài viết kể trên, có thể nêu thêm một số bài viết khác, như:
Lê Quang Minh, Để thực hiện dân chủ sở cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 11,
tháng 4/2003, Hà Nội [58]; Nguyễn Kim Thanh, Một vài suy nghĩ về kết quả
10 năm xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Dân vận, số
7/2009, Hà Nội [94]; Hoàng Trọng Chính, Nâng cao hiệu quả hoạt động quy
chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 358/2006, Hà Nội
[11]; Quách Sĩ Hùng, Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ cơ sở
ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 6/2009 [41];... Các công
trình khoa học, bài viết nêu trên ở những mức độ khác nhau đã góp phần làm
rõ thêm các đặc điểm của quá trình THPL về dân chủ cơ sở ở nước ta trong
những năm qua; bước đầu tổng kết, nêu rõ thành công, hạn chế và những vấn
đề đặt ra trong xây dựng và THPL về dân chủ ở cơ sở, các nguyên nhân dẫn
tới những hạn chế và các giải pháp khắc phục.
Chủ đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã gắn với từng địa bàn,
địa phương cụ thể đã trở thành đề tài của nhiều luận văn thạc sĩ, luận án tiến
sĩ... Có thể kể ra đây một số công trình luận văn, luận án, như:
- Lê Xuân Huy, Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở
nông thôn nước ta hiện nay (qua thực tế một số tỉnh phía Bắc), Luận văn
Thạc sĩ Triết học, 2005, Hà Nội [43]. Trong luận văn này, từ phương diện tiếp
cận triết học, tác giả đã tập trung phân tích khái niệm, đặc trưng của ý thức
pháp luật, khái niệm, đặc điểm của việc thực hiện dân chủ ở nông thôn; khẳng
định vai trò đặc biệt quan trọng của ý thức pháp luật đối với quá trình thực
hiện dân chủ ở nông thôn. Thông qua việc khảo sát thực tế tình hình thực hiện
dân chủ ở nông thôn tại một số tỉnh phía Bắc nước ta, tác giả đã nêu lên
những kết quả bước đầu của việc thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện
25
nay, những hạn chế và nguyên nhân; từ đó, tác giả đã đề xuất và luận chứng
tính khả thi của một số giải pháp nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân
nông thôn phục vụ việc triển khai có hiệu quả công tác thực hiện dân chủ trên
địa bàn nông thôn nước ta hiện nay.
- Ngô Thị Hòa, Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cấp
xã trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2005, Hà Nội
[39]. Mục đích nghiên cứu của luận văn này được tác giả xác định là: trên cơ
sở tìm hiểu và đánh giá đúng tình hình thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã trong giai đoạn hiện
nay. Thành công đáng kể, làm nên giá trị tham khảo về mặt khoa học của luận
văn này là tác giả đã đưa ra được khái niệm chất lượng thực hiện Quy chế dân
chủ ở cấp xã, xác định được những tiêu chí đánh giá chất lượng và những yếu
tố ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã.
- Vương Ngọc Thịnh, Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2010 [96].
Theo tác giả, tìm hiểu việc THPL về dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng
trong việc đề ra những giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao ý thức
của người dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Từ ý nghĩa đó, luận văn đi sâu
vào phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về dân chủ ở cơ sở và
các hình thức THPL về dân chủ ở cơ sở; vai trò của việc THPL về dân chủ ở
xã, phường, thị trấn, đánh giá thực trạng THPL về dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn huyện Hoài Đức và đề xuất phương hướng, luận giải một số giải pháp bảo
đảm THPL về dân chủ ở cơ sở tại huyện Hoài Đức, Hà Nội.
Những công trình kể trên đã tập trung phân tích cơ sở lý luận về THPL
về dân chủ ở cấp xã; chỉ ra những thành tựu đã đạt được và các hạn chế, bất
cập của quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã, phân tích nguyên nhân; nêu lên
những quan điểm chỉ đạo và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả THPL
về dân chủ ở cấp xã đặt trong đặc thù của từng địa phương.
26
- Đỗ Văn Dương, Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị
trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội,
2014 [29]. Trong luận án này, tác giả tập trung phân tích khái niệm, đặc điểm,
hình thức THPL về dân chủ ở xã, phường, thị trấn; vai trò và các điều kiện
bảo đảm THPL về dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Trên cơ sở đánh giá thực
trạng về nội dung và hình thức THPL về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên
địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, phân tích các yếu tố đặc thù ở Tây Nguyên tác
động tới việc THPL về dân chủ ở xã, phường, thị trấn và nguyên nhân, tác giả
đã phân tích các quan điểm và đề xuất hệ thống các giải pháp bảo đảm THPL
về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên hiện nay.
- Nguyễn Hồng Chuyên, Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục
vụ xây dựng nông thôn mới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2013, 376 trang [13]. Nội
dung cuốn sách được tác giả chia thành 5 chương. Chương 1 đề cập và phân
tích một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới; đánh giá vai trò của
công cuộc xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay. Nội dung của chương
2 được tác giả dành để phân tích chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước ta về thực hiện dân chủ ở cấp xã và xây dựng nông
thôn mới. Chương 3 tập trung luận bàn, phân tích lý luận vấn đề THPL về dân
chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới. Từ các vấn đề lý luận, chương
4 đánh giá thực trạng công tác THPL về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng
nông thôn mới qua kết quả điều tra xã hội học trên địa bàn tỉnh Thái Bình; từ
đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm. Chương 5 dành để luận giải, phân tích
các giải pháp bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã phục vụ công cuộc xây
dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay. Tác giả đã xâu chuỗi, gắn kết và lồng
ghép hài hòa, hợp lý công tác THPL về dân chủ ở cấp xã phục vụ công cuộc
xây dựng nông thôn mới đang diễn ra mạnh mẽ ở nước ta hiện nay.
1.1.2.4. Vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Như đã đề cập ở các phần trên, vấn đề dân chủ đặt trong mối liên hệ
với xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đã được một số tác giả đề cập và
27
phân tích. Song, nếu nhìn vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thì đây lại là vấn đề mới, hầu
như chưa được nghiên cứu. Cho đến nay, mới chỉ có: Nguyễn Hồng Chuyên,
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ thực tiễn của tỉnh Thái Bình), Nxb.
Tư pháp, Hà Nội, 2011, 312 trang [12]. Nội dung cuốn sách gồm 04 chương,
tập trung phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn THPL về dân chủ ở cấp xã
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Trong cuốn sách này, do sự hạn chế về thời gian và phạm vi nghiên cứu
nên trong phần đánh giá thực trạng công tác THPL về dân chủ ở cấp xã, tác giả
mới chỉ dừng lại ở việc khảo sát, điều tra xã hội học về tình hình THPL về dân
chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Thái Bình, mà chưa có điều kiện khảo sát vấn đề
nghiên cứu trên phạm vi toàn quốc với nhiều tỉnh, thành phố khác. Hơn nữa,
nhiều vấn đề lý luận, như yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
đối với việc THPL về dân chủ ở cấp xã, mối quan hệ giữa THPL về dân chủ ở
cấp xã và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam... còn chưa được
đào sâu, làm rõ. Ngoài ra, vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã mới chỉ đặt
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, chứ không
phải theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về dân chủ, dân chủ ở cơ
sở, dân chủ ở cấp xã với phạm vi nghiên cứu, mức độ khác nhau đã làm rõ
bản chất, nội dung, tính chất, cơ chế thực hiện dân chủ và vai trò của việc mở
rộng quyền làm chủ của nhân dân đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội. Tuy nhiên, nhiều nội dung nghiên cứu về lý luận và thực tiễn công tác
THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam thì vẫn còn để ngỏ; đặt ra đòi hỏi cấp thiết phải tiếp tục
nghiên cứu, làm rõ cả trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
1.1.2.5. Một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Việt
Nam về dân chủ, dân chủ cơ sở ở các nước
28
Bên cạnh việc nghiên cứu về dân chủ, dân chủ ở cơ sở tại Việt Nam,
một số tác giả, nhà khoa học Việt Nam còn chủ trọng nghiên cứu vấn đề dân
chủ, dân chủ cơ sở ở nước ngoài. Có thể kể ra đây một số công trình tiêu biểu:
- PGS.TS. Vũ Văn Hiền (chủ biên), Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm ở
Thụy Điển và Trung Quốc (Sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2004 [38]. Cuốn sách tập hợp các bài viết của các nhà khoa học nghiên
cứu về vấn đề bảo đảm quyền dân chủ của người dân ở cơ sở trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội qua kinh nghiệm thực hành dân chủ ở Thụy Điển
và Trung Quốc. Đây là tài liệu tham khảo có giá trị đối với tác giả luận án khi
nghiên cứu về thực hiện dân chủ ở cơ sở.
- Lê Tịnh, Thể chế dân chủ cơ sở ở Trung Quốc - Thôn tự trị, Tạp chí
Nghiên cứu Trung Quốc, số 3/2002, Hà Nội [97]. Bài viết phân tích thể chế
dân chủ tự trị của Trung Quốc và việc thực hiện dân chủ ở cơ sở dưới hình
thức “thôn tự trị”. Luật Tổ chức Ủy ban thôn là cơ sở pháp lý để xác lập
quyền tự trị của cộng đồng dân thôn, điều chỉnh các quan hệ lợi ích ở nông
thôn Trung Quốc. Tác giả bài viết đã chỉ ra thành công, hạn chế và kinh
nghiệm thực hiện dân chủ tự trị của cộng đồng dân thôn ở Trung Quốc.
- TS. Đỗ Tiến Sâm, Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung
Quốc, Viện nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005 [85]. Trong công trình này, tác giả
nghiên cứu hệ thống chính quyền cơ sở, tổ chức tự quản ở nông thôn Trung
Quốc và vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc. Trên cơ sở
đánh giá những thành tựu, hạn chế, các vấn đề đặt ra và phương hướng giải
quyết, tác giả rút ra những bài học kinh nghiệm có thể tham khảo trong thực
hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã tại Việt Nam.
- Nguyễn Anh Hùng, Những xu hướng dân chủ ở các nước Mỹ Latinh
ngày nay, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 10/2009, Hà Nội [42]. Tác giả nhận
định các nước thuộc khu vực Mỹ Latinh ngày càng mở rộng quyền dân chủ và
sự tham gia của nhân dân trong quản lý nhà nước và xã hội. Pháp luật các
29
nước đều bổ sung các quy định về dân chủ, mở rộng các quyền dân chủ tiềm
năng và dân chủ thích ứng của nhân dân.
Những công trình nghiên cứu về dân chủ, dân chủ ở cơ sở tại các nước
nêu trên, đặc biệt là ở Trung Quốc - nước có nhiều điểm tương đồng với Việt
Nam - là những tài liệu tham khảo có giá trị đối với tác giả luận án khi nghiên
cứu vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã của Việt Nam.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy đã có
nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án. Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu đã công bố mới chỉ đề cập riêng rẽ từng nội dung:
THPL về dân chủ ở cấp xã; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hoặc là
nghiên cứu việc THPL về dân chủ ở cấp xã gắn với từng địa phương cụ thể;
vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền gắn với việc bảo đảm thực hiện dân
chủ nói chung.v.v. Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện, có hệ thống vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trên quy mô toàn quốc, có tính chất
tổng kết về mặt lý luận và thực tiễn. Căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ nghiên
cứu của đề tài, luận án cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề sau đây:
1.2.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc THPL về dân chủ ở cấp xã theo
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trong đó tập trung hệ
thống hóa, khái quát, phân tích, làm sảng tỏ các vấn đề lý luận sau:
- Khái niệm, chủ thể, nội dung, hình thức THPL về dân chủ ở cấp xã;
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với yêu cầu THPL về dân chủ ở
cấp xã; mối quan hệ giữa xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với
THPL về dân chủ ở cấp xã;
- Các điều kiện bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
1.2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật và THPL về dân chủ ở cấp xã theo
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Phần này tập trung
giải quyết các vấn đề sau đây:
30
- Quá trình hình thành, phát triển pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp
xã, đánh giá các thành tựu, ưu điểm và chỉ ra những tồn tại, hạn chế;
- Thực trạng THPL về dân chủ ở cấp xã ở Việt Nam theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN (các thành tựu, kết quả đạt được, những
tồn tại, bất cập và nguyên nhân qua phân tích kết quả điều tra xã hội học tại
19 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam).
1.2.3. Đề xuất quan điểm và các giải pháp bảo đảm THPL về dân chủ ở
cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, tập trung
giải quyết các vấn đề sau:
- Đề xuất, phân tích, luận chứng các quan điểm có tính chất nguyên tắc
phương pháp luận chỉ đạo quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Những giải pháp này phải bám sát yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, có tính khả thi, có giá trị
tham khảo cho các địa phương trong THPL về dân chủ ở cấp xã; góp phần xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở
nước ta hiện nay.
Kết luận chương 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy, các tác giả, học
giả nước ngoài đã có nhiều cuốn giáo trình, sách chuyên khảo, bài viết luận
bàn về vấn đề THPL nói chung, đề cập tương đối đa dạng vấn đề dân chủ, dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ ở địa phương..., trong đó nổi lên sự
khẳng định quyền lực nhà nước là quyền lực gốc của nhân dân, một nền dân
chủ phải có sự chế ước lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội và phải được
bảo đảm thực thi bằng pháp luật. Một số công trình bàn sâu về các tiêu chí
của một nền dân chủ, về tác động của tăng trưởng kinh tế đối với việc thực thi
dân chủ, đánh giá về triển vọng của một nền dân chủ trong thế giới ngày nay.
Sự tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước cho thấy, từng vấn đề
riêng lẻ như vấn đề THPL, dân chủ, dân chủ ở cấp xã, THPL về dân chủ ở cấp
31
xã, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam... đều
đã được các nhà nghiên cứu, các tác giả đề cập, luận bàn tương đối đầy đủ.
Song, nếu đặt các vần đề đó một cách lôgíc, hệ thống trong một tên đề tài
khoa học “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, thì có thể nhận thấy
rằng, các công trình nghiên cứu về dân chủ ở cơ sở phần nhiều mang tính lý
luận; các công trình nghiên cứu vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã mới chủ
yếu dừng lại ở cấp độ luận văn thạc sĩ và gắn với một địa bàn cụ thể là một
huyện, một tỉnh hay một nhóm các tỉnh có nhiều đặc điểm tương đồng; chưa
có một công trình nào nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn vấn đề THPL
về dân chủ ở cấp xã ở cấp độ luận án tiến sĩ trên phạm vi quốc gia. Hơn thế
nữa, THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam thì lại càng là vấn đề mới, chưa được triển khai nghiên cứu
một cách thấu đáo, toàn diện và hệ thống.
Từ đó, có thể khẳng định rằng, cho đến nay vẫn chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống cả về mặt lý luận cũng như
khảo sát thực tiễn vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề
“Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học.
32
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN
CHỦ Ở CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM2.1. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VỚI
YÊU CẦU THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ
2.1.1. Khái niệm, các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
2.1.1.1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Nhà nước pháp quyền là một hình thức (phương thức) tổ chức và vận
hành quyền lực - mà quyền lực đó thuộc về nhân dân, dựa trên các nguyên tắc
phục tùng tính tối cao của pháp luật, phân công quyền lực, dân chủ, công
bằng; nhằm mục đích bảo vệ tối đa chủ quyền của nhân dân.
Nhà nước pháp quyền không phải là đặc trưng riêng có của xã hội tư
sản, mà là một nhu cầu tất yếu, khách quan và phổ biến của bất kỳ một xã hội
nào khi đã phát triển đến trình độ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau làm phương thức
tồn tại. Mỗi nhà nước lại có cách thức xây dựng mô hình nhà nước pháp
quyền khác nhau phụ thuộc vào các điều kiện đặc thù về lịch sử, văn hóa,
truyền thống, kinh tế hay chính trị của nó. Do đó, nhà nước pháp quyền không
phải là sản phẩm của riêng xã hội tư bản chủ nghĩa (TBCN), mà nó hoàn toàn
có thể được xây dựng trong xã hội XHCN. Về nguyên lý, có Nhà nước pháp
quyền TBCN và Nhà nước pháp quyền XHCN. Hai nhà nước này khác nhau
ở mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ và được quy định bởi cơ sở kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội và truyền thống dân chủ của mỗi chế độ. Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam có những đặc trưng cơ bản riêng.
Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên nói đến
nhà nước pháp quyền. Năm 1919, trong bản “Yêu sách của nhân dân An
Nam” gửi đến Hội nghị Vécxây, Người đã từng đưa ra yêu cầu phải thay thế
chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Yêu sách thứ bảy được đề
ra là pháp quyền. Sau này, yêu sách đó được Hồ Chí Minh chuyển thành lời
33
ca: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn đề cao vai trò của chế độ pháp quyền. Sau khi
giành được chính quyền, xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Người cũng luôn yêu cầu Nhà nước ta phải là Nhà nước có bộ máy hành
chính mạnh, có hiệu lực, điều hành bằng pháp luật; mọi quyền dân chủ phải
được thể chế hóa trong Hiến pháp, trong các bộ luật, đạo luật và đòi hỏi công
dân phải tuân theo, không trừ một ai.
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước; quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân và gắn liền với việc nhà nước phải làm tất cả để
đem lại một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ, đó là do tính chất Nhà nước
ta là Nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới
động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên.
Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân
xây dựng chủ nghĩa xã hội [61, tr. 592].
Nhân dân sử dụng Nhà nước như một công cụ để thực hiện lợi ích của
mình. Đối với nhân dân, công cụ của Nhà nước dân chủ mới (Chính phủ,
quân đội, pháp luật...) đều là để phục vụ cho quyền và lợi ích của nhân dân.
Có thể có nhiều quan niệm về Nhà nước pháp quyền XHCN. Ở đây, tác
giả sử dụng khái niệm Nhà nước pháp quyền được nêu trong bài viết của đồng
chí Trần Đức Lương - nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam:
Nhà nước pháp quyền, nói một cách khái quát, là hệ thống các tư
tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động
của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền
là nhà nước quản lý theo pháp luật và đề cao quyền của con người,
quyền của công dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, đảm bảo mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đó
là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý
nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện các quyền
34
tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn ngừa mọi sự tùy
tiện, lạm dụng quyền từ phía Nhà nước và các cán bộ viên chức nhà
nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan vô kỉ luật, kỉ cương,
đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước. Đó là Nhà nước mà tất cả
các cơ quan nhà nước, các tổ chức, kể cả các tổ chức đảng đều phải
hoạt động theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt
động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và
pháp luật, phải sống và làm việc theo pháp luật [xem: 51, tr. 5].
2.1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức ngày
càng đầy đủ yêu cầu, nội dung, đặc trựng của Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng
01/1994), Đảng ta đã sử dụng khái niệm Nhà nước pháp quyền XHCN, đã
khẳng định sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước pháp quyền như là một điều
kiện không thể thiếu để phát triển nền dân chủ thực sự vì nhân dân. Tiếp theo,
trong văn kiện Đại hội VIII, Đại hội IX, Đại hội X, Đại hội XI và Hiến pháp
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (sửa đổi năm 2013) đều tiếp tục khẳng định
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN.
Từ thực tiễn nhận thức lý luận, tiếp thu có chọn lọc các giá trị có tính
phổ quát của Nhà nước pháp quyền nói chung cũng như từ thực tiễn xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta, có thể khái quát những đặc trưng cơ
bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo quan điểm của Đảng,
Nhà nước ta như sau:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc
về nhân dân. Với đặc trưng này, Đảng ta khẳng định tầm quan trọng của việc
xây dựng xã hội công dân trên con đường xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN; bởi vì, chỉ khi xuất phát từ góc độ xã hội công dân thì mới có thể hiểu
thấu đáo mệnh đề “nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”.
35
Nếu “phiên dịch” mệnh đề trên theo “ngôn ngữ” của xã hội công dân thì nó có
nghĩa là: quyền lực nhà nước là do nhân dân ủy thác, do nhân dân đóng góp
chủ quyền tuyệt đối của mình mà thành (của nhân dân); nhân dân áp đặt ý chí
chung của mình lên Nhà nước và Nhà nước, bất luận thế nào, cũng phải luôn
luôn thuận theo ý chí của nhân dân (do nhân dân - đồng nghĩa với một nền
dân chủ); và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cùng với hệ thống pháp
luật của mình, không có mục tiêu nào khác hơn, cao hơn ngoài việc bảo vệ và
tạo mọi điều kiện có thể cho sự phát triển tối đa mọi giá trị nhân văn của các
cá nhân và cộng đồng xã hội (vì nhân dân).
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền XHCN được tổ chức và hoạt động trên
cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho Hiến pháp, các đạo luật luôn giữ
vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của
Đảng và thể hiện trực tiếp lợi ích của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam đặt ra nhiệm vụ phải xây dựng, ban hành
và ngày càng hoàn thiện một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các
quan hệ xã hội, tạo cơ sở cho sự duy trì một trật tự pháp luật và kỷ cương xã
hội. Pháp luật thể chế hóa các nguyên tắc, yêu cầu của hoạt động quản lý xã
hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu, tổ chức xã hội và các thiết chế nhà
nước. Sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là đỉnh cao của lối sống
theo pháp luật, là một giá trị của văn hóa pháp luật. Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam xây dựng, ban hành pháp luật; song, chính Nhà nước với hệ
thống các cơ quan, tổ chức, thiết chế, bộ máy của nó cũng phải tự đặt mình
trong sự ràng buộc về thẩm quyền mà pháp luật trao cho và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về những hoạt động của mình; hoạt động trong khuôn khổ các
nguyên tắc, quy định của pháp luật. Phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và
lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của sự nghiệp xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là quyết tâm đổi mới tư duy lập
pháp, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như thực thi pháp luật
một cách công bằng, nghiêm minh.
36
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền XHCN tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và
công dân; thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định:
Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực
hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý
kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và
biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân
chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi
hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân [21, tr.
85-86].
Điều đó cũng có nghĩa Đảng ta nhấn mạnh rằng, chức năng của Nhà
nước là phục vụ nhân dân; khẳng định mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa
Nhà nước với nhân dân, thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân,
tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
Hơn nữa, Nhà nước còn phải có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và
trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm
phạm quyền dân chủ của công dân. Đặc trưng này của Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam khẳng định bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta.
Thứ tư, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch,
phối hợp chặt chẽ và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trước hết, quyền lực nhà nước là thống nhất
ở mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Về
mặt tổ chức, quyền lực nhà nước tập trung vào những cơ quan đại diện cho
nhân dân, do tuyệt đại đa số cử tri bầu ra, do đó, là quyền lực của nhân dân
giao phó cho các đại diện của mình. Ở nước ta, các đại diện đó là Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp. Bên cạnh đó, quyền lực nhà nước thống nhất trên
cơ sở phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và có sự kiểm soát giữa các
cơ quan trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
37
Sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để
đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước. Đó là sự phân công và phối
hợp trên cơ sở tổ chức lao động khoa học để tránh sự trùng lặp, chồng chéo,
mâu thuẫn trong việc thực hiện ba quyền với những chức năng, nhiệm vụ cụ
thể của từng cơ quan, bảo đảm sự vận hành nhịp nhàng, đồng bộ của bộ máy
nhà nước trong quá trình thực thi quyền lực mà nhân dân trao cho. Sự kiểm
soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp là
nhằm ngăn ngừa nguy cơ lạm quyền, lộng quyền, phòng chống sự tha hóa
quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước thống nhất ở nhân dân chứ không
phải thống nhất ở các cơ quan nhà nước.
Nếu các cơ quan nhà nước thống nhất nhưng nhân dân bất bình không
yên vì quyền lực nhà nước của mình bị lạm quyền, lộng quyền, mất
quyền thì sự thống nhất quyền lực ở các cơ quan nhà nước có lẽ sẽ
không có ích gì. Vì vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước là nhằm mục
đích chủ yếu là phòng chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước mà
không phải chỉ là để thống nhất quyền lực nhà nước. Điều đó đòi hỏi
phải thay đổi cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước [27, tr. 147-148].
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và các tổ chức thành
viên của Mặt trận. Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác ngoài
việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng là nhằm
đảm bảo cho chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam được triển khai trên thực tế và đi vào thực tiễn cuộc
sống. Đảng ta chủ trương: “Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và
việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ” [20, tr.135].
MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên có vai trò to lớn trong việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực
38
hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đảng và Nhà nước đã và đang xây dựng,
hoàn thiện các quy chế để MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia phát triển kinh tế - xã
hội, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trên cơ sở thực hiện
tốt Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; qua đó tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố sự đồng thuận, nhất trí về chính trị và tinh
thần trong xã hội.
Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền XHN Việt Nam là Nhà nước thực hiện
đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bình đẳng và phát triển với
nhân dân các dân tộc và các nhà nước trên thế giới, đồng thời tôn trọng và
cam kết thực hiện các công ước, hiệp ước quốc tế đã tham gia, ký kết, phê
chuẩn. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng, Việt Nam thực hiện đường lối đối
ngoại nêu trên theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và
cùng có lợi. Mặt khác, tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, hiệp ước
quốc tế nhưng vẫn có quyền bảo lưu những điều không thích hợp với thực
tiễn Việt Nam.
2.1.2. Những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đối với việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân đang đặt ra cho công tác THPL về dân chủ ở
cấp xã những yêu cầu sau đây:
2.1.2.1. Trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phải khẳng
định bản chất dân chủ của Nhà nước ta - Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân
Ngay sau khi giành được độc lập cho nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ”. Từ bản Hiến pháp đầu
tiên (năm 1946) cho đến bản Hiến pháp hiện hành (sửa đổi năm 2013) Nhà
nước ta đều khẳng định nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân”. Tại Điều 2 Hiến pháp (sửa đổi năm 2013) khẳng định: “1. Nhà nước
39
Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. 2. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân làm
chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” [37, Điều 2]. Như vậy, bản
chất dân chủ của chế độ nhà nước ta hiện nay đã được khẳng định ngay từ khi
được khai sinh ra và được thể hiện trong Quốc hiệu “Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa”. Trong giai đoạn hiện nay, việc THPL về dân chủ ở cấp xã, trên
thực tế, chỉ là sự tiếp tục khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước ta - Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Dân chủ XHCN là mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta luôn
hướng tới, quyết tâm biến nó thành hiện thực. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của
Đảng tại Đại hội XI đã khẳng định mục tiêu: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ...” [21, tr. 70]. Trong khẳng định trên
có hai điểm mới quan trọng: Một là, Đảng ta đã đưa cụm từ dân chủ lên trước
cụm từ công bằng, văn minh; cho thấy Đảng ta đã xác định rõ ràng hơn vị trí,
vai trò của việc thực hiện dân chủ trong quá trình phát triển xã hội. Để có thể
xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN thì trước hết phải bảo đảm trong xã hội có nền dân chủ XHCN và nhất
thiết phải thực hiện dân chủ XHCN vì đó là điều kiện tiên quyết, thiết yếu để
xây dựng xã hội công bằng, văn minh. Nếu chưa coi trọng dân chủ và thực
hành dân chủ thì khó có thể nói đến một xã hội công bằng, văn minh. Hai là,
Đảng ta khẳng định một đặc trưng quan trọng của Nhà nước pháp quyền
XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng là Nhà nước do nhân dân làm chủ.
Dân chủ XHCN còn là động lực của sự phát triển đất nước, là nhân tố
thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; bởi lẽ, khi nhân dân đã
nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ và thực sự phát
huy quyền dân chủ thì đó sẽ là nguồn sức mạnh to lớn cho sự phát triển đất
nước. Mở rộng dân chủ là một trong những quan điểm phát triển được Đảng
ta nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2015 [21, tr. 100].
40
Ở nước ta từ trước đến nay, xã, phường, thị trấn là nơi tập trung các
hoạt động sống, lao động, sinh hoạt của tuyệt đại đa số các tầng lớp nhân dân
nên chỉ có xã, phường, thị trấn mới là nơi nhân dân thực hiện và phát huy trực
tiếp nhất, đầy đủ nhất các quyền dân chủ. Chính vì vậy, THPL về dân chủ ở
cấp xã là sự khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước ta - Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây cũng là yêu cầu mà công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đặt ra đối với hoạt động THPL
về dân chủ ở cấp xã.
2.1.2.2. Trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phải luôn
luôn bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật
Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN là
được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho
Hiến pháp, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo nguyên tắc đó, Nhà nước xây
dựng và ban hành hệ thống pháp luật là để điều chỉnh các quan hệ xã hội, thực
hiện quản lý nhà nước và quản lý xã hội bằng pháp luật một cách thống nhất.
Trong Nhà nước pháp quyền XHCN, Hiến pháp là đạo luật nền tảng, có hiệu
lực pháp lý cao nhất; các bộ luật và các văn bản QPPL khác phải phù hợp với
các nguyên tắc, quy định của Hiến pháp. Không một cá nhân, cơ quan hay tổ
chức nào có thể đứng ngoài hay đứng trên pháp luật. Bất kể là ai, dù đang giữ
cương vị gì trong bộ máy quyền lực nhà nước, nếu vi phạm pháp luật thì đều
phải bị xử lý theo luật định. Đó chính là nguyên tắc tính tối cao của pháp luật
trong Nhà nước pháp quyền XHCN.
Trong THPL về dân chủ ở cấp xã, việc chính quyền, đội ngũ CBCC cấp
xã, tuân thủ, chấp hành pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là phục tùng
vô điều kiện ý chí và lợi ích của nhân dân. Về phía các tầng lớp nhân dân ở xã,
phường, thị trấn, việc chủ động, tích cực thực hiện, pháp huy các quyền dân
chủ chính là phục tùng tính tối cao của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp
xã. Nhận thức sâu sắc nguyên tắc tính tối cao của pháp luật chính là nền tảng
để chính quyền, đội ngũ CBCC cấp xã và các tầng lớp nhân dân nâng cao ý
41
thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, đề cao các nguyên tắc, quy định của pháp
luật trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã, đáp ứng yêu cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
2.1.2.3. Trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phải luôn
quán triệt nguyên tắc thực hành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Theo nguyên tắc dân chủ XHCN, cơ quan quyền lực nhà nước các cấp
được thiết lập, hoạt động không phải để cai trị nhân dân, mà là nhằm thực
hiện và thừa hành ý chí của nhân dân; thông qua đó, nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình. Theo đúng nghĩa của khái niệm dân chủ (dân là chủ
và dân làm chủ) thì nhân dân mới có quyền nói, bày tỏ ý kiến, nguyện vọng
của mình, còn các cơ quan nhà nước và đội ngũ CBCC của nó chỉ là người
tập hợp, thể hiện và thực hiện đúng ý nguyện của nhân dân. Dân chủ là người
dân có quyền được nói, quyền được bày tỏ chính kiến, đề xuất những biện
pháp giải quyết các vấn đề hệ trọng liên quan đến sự phát triển của đất nước,
của địa phương một cách có tổ chức.
Tuy nhiên, vấn đề không dừng lại ở nguyên tắc dân chủ và nhận thức
về vai trò của dân chủ; mà nguyên tắc quan trọng hơn là thực hành nền dân
chủ XHCN, nghĩa là phải tạo được bước chuyển căn bản từ nhận thức đến
hành động. Để đạt được mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ, Đảng ta xác định
rõ: “Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các
lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá
bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm” [21, tr. 85]. Nhà nước pháp quyền
XHCN đòi hỏi việc thực hành dân chủ phải trong khuôn khổ của Hiến pháp
và pháp luật, đi đôi với trật tự, kỷ cương; quyền đi đôi với nghĩa vụ; kiên
quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ, vi phạm Hiến pháp, pháp luật,
xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích của tập thể, quyền tự do dân chủ và lợi
ích hợp pháp của công dân. Phương thức thực hiện dân chủ là: “Nhân dân
thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống
chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện” [21, tr. 85].
42
Trong thực hiện dân chủ XHCN, Nhà nước phải tạo ra những điều kiện
thuận lợi nhằm bảo đảm cho nhân dân tham gia xây dựng nhà nước, quản lý
các công việc của nhà nước, quyết định các công việc trọng đại của đất nước;
đồng thời, có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, tổ chức và cá nhân
khác được trao những quyền hạn nhất định để quản lý một số công việc của
Nhà nước. Những nội dung đó được thể hiện rõ nét trong pháp luật về thực
hiện dân chủ ở cấp xã.
2.1.2.4. Phải luôn bảo đảm các cơ chế, chính sách và biện pháp
nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân
Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã trao cho nhân
dân các quyền dân chủ trực tiếp, bao gồm quyền được biết, quyền được bàn
và quyết định, quyền tham gia ý kiến, quyền giám sát; song, để có thể hiện
thực hóa các quyền dân chủ đó của nhân dân một cách triệt để thì Nhà nước
phải có các cơ chế, chính sách và biện pháp bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền
dân chủ trực tiếp đó.
Thứ nhất, cần “nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng
lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân” [21, tr. 239]. Muốn vậy
phải thực hiện tốt công tác vận động, tuyền truyền để nâng cao nhận thức về
quyền và nghĩa vụ công dân; trong đó, tuyên truyền sâu rộng pháp luật về
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là biện pháp có tầm quan trọng hàng
đầu. Đồng thời, các cấp chính quyền, đội ngũ CBCC cần chú trọng công tác
tổ chức cho người dân thực hiện quyền dân chủ của mình.
Thứ hai, “có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền
làm chủ trực tiếp” [21, tr. 239]. Quyền làm chủ trực tiếp (dân chủ trực tiếp) là
hình thức mọi công dân trực tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình một
cách bình đẳng, không phân biệt giới tính, lứa tuổi, thành phần xuất thân, địa
vị xã hội... Đây là hình thức hữu hiệu tạo cho nhân dân, với tính cách là chủ
thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, khả năng tham gia một cách
tích cực và chủ động vào các hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực kinh
43
tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Cơ chế thực hành dân chủ ở nước ta từ trước đến
nay là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Cơ chế này đã được cụ thể
hóa thành các quyền dân chủ của nhân dân quy định trong Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Thứ ba, “phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ
cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức” [21, tr.
239]. Phát huy dân chủ phải gắn với việc đề cao trách nhiệm công dân và bảo
đảm giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội. “Nhân dân không được tụ tập đông
người khiếu kiện vượt cấp, gây mất trật tự an ninh và chống đối người thi
hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được xem xét, giải quyết theo quy
định của pháp luật” [10, Điều 14]. Cá nhân nào có hành vi lợi dụng dân chủ
để gây mất an ninh, trật tự thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
“Điều 258. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” [7, tr. 193].
2.1.2.5. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phải bảo đảm quyền
con người theo quy định của Hiến pháp
Từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP Về ban hành
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đến nay, qua hơn mười lăm năm, việc THPL
về dân chủ ở cấp xã trên địa bàn cả nước đã đạt được những kết quả tích cực,
góp phần tạo động lực thúc đẩy và phát huy các quyền dân chủ của nhân dân,
thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; tham gia kiểm tra,
giám sát các hoạt động của Nhà nước, khắc phục một phần tệ quan liêu, tham
nhũng, mất dân chủ, xa rời quần chúng của một bộ phận CBCC; đóng góp
tích cực vào việc cải cách hành chính; tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân. Nhờ đó, trong những năm qua, các thành tựu,
kết quả đạt được về thực hiện dân chủ, quyền con người ở Việt Nam đã được
Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc đánh giá cao, đồng thời được dư
luận tiến bộ trên thế giới hoan nghênh và ủng hộ.
44
Những thành tựu trong THPL về dân chủ ở cấp xã là bằng chứng hùng
hồn đập tan những luận điệu vu cáo, bôi nhọ, xuyên tạc sự thật của các thế
lực phản động, thù địch về vấn đề dân chủ, quyền con người ở Việt Nam. Xây
dựng và THPL về dân chủ ở cấp xã là quá trình thể chế hóa và bảo đảm thực
hiện trên thực tế các quyền tự do dân chủ của nhân dân, phù hợp với nội dung
quyền con người trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà Nhà
nước ta đã tham gia.
2.2. KHÁI NIỆM, CHỦ THỂ, NỘI DUNG, HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
2.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
2.2.1.1. Khái niệm dân chủ, dân chủ ở cấp xã
a) Khái niệm dân chủ
Dân chủ (democracy) là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp; trong
đó, demos có nghĩa là dân, kratos có nghĩa là quyền uy, sự cai trị. Như vậy,
theo nghĩa gốc của thuật ngữ, dân chủ có nghĩa là quyền uy của dân; là trạng
thái tổ chức xã hội, trong đó, quyền lực thuộc về dân. Dân chủ là hình thức tổ
chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn
gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng
được vận dụng vào các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế
xã hội nhất định.
Theo ý nghĩa ban đầu, khái niệm dân chủ trước hết và chủ yếu được
xem xét về mặt chính trị và pháp luật; dần dần, khái niệm này mang ý nghĩa
rộng hơn, vì dân chủ không chỉ giới hạn trong lĩnh vực chính trị hay pháp
luật, mà nó còn thể hiện ở các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, từ kinh
tế, văn hóa, tư tưởng, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá
nhân với cộng đồng, giữa công dân với nhà nước, giữa các tổ chức, thiết chế
xã hội với nhau cho đến quan hệ giữa các nhà nước với nhau trên trường quốc
tế. Như vậy, dân chủ là một khái niệm có nội hàm rất rộng, trong đó “toàn bộ
quyền lực thuộc về nhân dân” là nội dung cốt lõi. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
45
dân chủ hiểu một cách chung nhất là quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Ở
nước ta, chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ; do đó, “Nhân dân
là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành
chính quyền ấy. Thế là dân chủ” [60, tr. 218-219]. Các cơ quan quyền lực nhà
nước được sinh ra không phải để cai trị nhân dân; mà phải là nơi thực hiện và
thừa hành ý chí chung của nhân dân, giúp nhân dân thực hiện quyền làm chủ.
Dân chủ là khát vọng được làm chủ, là quyền tự nhiên của con người,
trong đó có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của người làm
chủ và quyền làm chủ đó. Dân chủ với tư cách là một hình thức cai trị và quản
lý xã hội đã xuất hiện từ thời kỳ Cổ đại, thể hiện rõ nét nhất ở các đô thị Hy
Lạp Cổ đại. Khi đó, do số dân không đông, ở các đô thị Hy Lạp đã hình thành
các Đại hội nhân dân với sự tham gia của tất cả các công dân, đối lập với hình
thức quyền lực tập trung vào tay giới quý tộc.
Vào thời kỳ Trung cổ, ở một số nước Tây Âu, như Italia, cũng xuất
hiện hình thức “dân chủ đô thị”, nhưng “dân” chỉ bao gồm những thị dân giàu
có nhất. Các trào lưu nhân văn và khai sáng từ thời Phục hưng cho đến thế kỷ
XVIII mới dần chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự ra đời các chế độ dân
chủ ở các nước Tây Âu, nhất là sau cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789. Từ
đây, dân chủ mới trở thành một phương thức tổ chức xã hội về mặt chính trị,
trong đó, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. “Lịch sử nhân loại đã chứng
minh một thực tiễn mang tính chân lý: dân chủ là khát vọng lớn lao, là đòi hỏi
bức xúc của con người, là một nhu cầu đặc biệt quan trọng mà con người
mong muốn vươn tới; đồng thời, dân chủ cũng là một động lực quan trọng
thúc đẩy xã hội phát triển. Sự phát triển của dân chủ đánh dấu những nấc
thang tiến bộ của xã hội loài người” [16].
Dân chủ là một quá trình vận động không ngừng với những thay đổi
quan trọng về nội dung; từ lĩnh vực chính trị, dân chủ ngày càng bao trùm lên
các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Trong thời đại ngày nay, dựa vào bản chất của
chế độ chính trị - xã hội, dân chủ được phân chia thành hai loại điển hình: dân
chủ tư sản và dân chủ XHCN; ngoài ra có thể có những chế độ dân chủ khác.
46
Dân chủ tư sản là kết quả việc nhà nước tư sản sử dụng phương pháp tự
do chủ nghĩa để thực hiện chuyên chính tư sản. Đó là phương pháp “dùng
những biện pháp theo hướng mở rộng các quyền chính trị, theo hướng thi
hành những cuộc cải cách, những nhượng bộ.v.v.” [49, tr. 80]. Chế độ dân
chủ tư sản được coi là chế độ chính trị tiến bộ nhất của nhà nước tư sản. Nó
có các đặc trưng cơ bản sau đây: khả năng của nhân dân sử dụng các quyền tự
do dân chủ; sự tồn tại công khai của các đảng cầm quyền và các đảng đối lập
cũng như các tổ chức xã hội, tổ chức của quần chúng; sự tồn tại của hệ thống
các cơ quan đại diện được bầu theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu; sự thừa
nhận về hình thức quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật; việc thực
hiện nguyên tắc pháp chế tư sản [xem: 104, tr. 157 - 158].
Dân chủ XHCN là nền dân chủ gắn với bản chất của chế độ Nhà nước
XHCN. “Dân chủ xã hội chủ nghĩa được coi là hình thức chính quyền mà đặc
trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và thừa
nhận quyền tự do bình đẳng của công dân. Trong tương quan với quyền lực
nhân dân, dân chủ được coi là công cụ, là hình thức chủ yếu thực hiện quyền
lực nhân dân” [104, tr. 302]. Chế độ dân chủ XHCN là toàn bộ những thiết
chế thể hiện và đảm bảo quyền lực xã hội thuộc về giai cấp công nhân và
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nền dân chủ XHCN
ra đời trên cơ sở kế thừa các giá trị dân chủ của các xã hội trước đó, là nền
dân chủ rộng rãi, mang tính toàn diện, được thực hiện thông qua hệ thống
chính trị XHCN, trước hết là Nhà nước pháp quyền XHCN không ngừng mở
rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, thu hút nhân dân lao
động tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội và bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân lao động cả về mặt pháp lý cũng như trên thực tế.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định của dân chủ nên
Đảng, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân chủ và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, coi đó là một vấn đề hệ trọng, có ý nghĩa chiến
lược sâu sắc đối với sự phát triển của đất nước. Ngay sau khi giành được độc
lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ quan điểm về dân chủ:
47
NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên [59, tr. 698].
Từ bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) cho đến các bản Hiến pháp sau
này, Nhà nước ta đều khẳng định nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân”. Ngay tại Điều 1 Hiến pháp năm 1946, chúng ta đã trịnh
trọng tuyên bố: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” [36,
tr. 8]. Hiến pháp (sửa đổi năm 2013) khẳng định: “Nước Cộng hòa XHXN
Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức” [37, khoản 2 Điều 2]. Hiến pháp và pháp luật đều xác nhận
quyền của công dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo
luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với các cơ quan
Nhà nước. Công dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được đảm bảo mọi
quyền tự do cơ bản trong đó có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
quyền khiếu nại, tố cáo. Các quyền tự do đó là cơ sở để nhân dân kiểm tra
hoạt động của Nhà nước và là một trong những phương thức quan trọng để
thực hiện dân chủ; đồng thời, còn thiết lập cơ chế bảo đảm sao cho việc thực
thi quyền lực nhà nước phục vụ cho lợi ích của nhân dân và luôn nằm dưới sự
kiểm soát của nhân dân. Nhà nước của chúng ta do nhân dân lập ra và được
nhân dân nuôi dưỡng.
Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ
của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ.
Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của
nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo
48
đúng kỷ luật của Chính phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để
Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó cho” [60, tr. 368].
Bởi vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn thực sự do dân, Nhà nước
phải dựa vào dân để sửa chính sách, sửa bộ máy, sửa cán bộ của mình. Muốn
dựa vào dân thì phải tin vào sức mạnh của dân. Điều đó giải thích vì sao
Người luôn đòi hỏi việc gì cũng phải hỏi ý kiến nhân dân, cùng dân chúng
bàn bạc. “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm
của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương,
rồi động viên, tổ chức toàn dân ra thi hành” [59, tr. 698 - 699].
Để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của việc xây dựng nhà nước trong
thời kỳ mới thì một trong những yêu cầu cơ bản được Đảng ta xác định là
phải “tiếp tục phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân qua các hình
thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và
bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt
động của cán bộ, công chức nhà nước” [17, tr. 41]. Dân chủ trực tiếp là hình
thức mọi công dân trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình một cách
bình đẳng, không phân biệt giới tính, lứa tuổi, thành phần xuất thân, địa vị xã
hội... Đây là hình thức hữu hiệu tạo cho nhân dân khả năng tham gia tích cực,
chủ động vào các hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa... Dân chủ đại diện là hình thức nhân dân thực hiện quyền dân chủ
thông qua các cơ quan đại diện của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội,
tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, đại diện cho nhân dân.
Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đều là hình thức của chế độ dân
chủ, có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau.
Dân chủ trực tiếp cho phép phát huy tối đa sự tham gia của nhân dân
vào các công việc chung của đất nước, của địa phương, nhưng lại phụ
thuộc vào năng lực nhận thức về dân chủ của mỗi người dân. Nếu
người dân nhận thức không đầy đủ về dân chủ thì có thể bị kích động,
lôi kéo, phản ánh sai lệch nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Dân
chủ đại diện đảm bảo sự tập trung cao trong việc hiện thực hóa quyền
49
làm chủ của nhân dân, nhưng lại phụ thuộc vào khả năng thực thi chức
năng, nhiệm vụ của người đại diện và cơ quan đại diện” [69, tr. 65].
b) Khái niệm dân chủ ở cấp xã
Cấp xã thường được gọi chung là “cấp cơ sở” hay “địa bàn cơ sở”. Xã,
phường, thị trấn là “nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống” [19,
tr.89]. Có thể nói, mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội..., dù ở
phạm vi rộng hay hẹp, đều chủ yếu diễn ra trên địa bàn xã, phường, trị trấn;
bởi lẽ, ngay cả các cơ quan trung ương, tỉnh hay huyện cũng đóng trên địa
bàn một xã, phường nhất định; đội ngũ CBCC, viên chức, sau những giờ làm
việc ở công sở, đều trở về nhà riêng của mình tại một xã, phường, thị trấn nào
đó. Tại đây, cùng với nhân dân, CBCC, viên chức “trở thành” công dân của
một đơn vị hành chính cấp xã với đầy đủ ý nghĩa của thuật ngữ này.
Trên địa bàn xã, phường, thị trấn, đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa,
pháp luật... luôn diễn ra sôi động và không kém phần phức tạp; trực tiếp hoặc
gián tiếp liên quan đến lợi ích của Nhà nước, tập thể và người dân. Chính
quyền cấp xã là khâu cuối cùng tiếp nhận và triển khai thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của chính
quyền cấp trên; là “cổng giao tiếp” giữa Nhà nước và nhân dân trong chừng
mực các vấn đề có liên quan tới lợi ích của các bên. Việc xây dựng bộ máy
chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh chỉ có thể trở thành hiện thực khi
chúng ta thiết lập và thực hành nền dân chủ ở xã, phường, thị trấn; bảo đảm
các điều kiện và sự tham gia thực tế của nhân dân vào các sinh hoạt chính trị -
xã hội của địa phương. Đó cũng là lý do Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng và
nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng và thực hành dân chủ ở cấp xã.
Dân chủ ở cấp xã, trước hết, vẫn phải là sự đảm bảo nguyên tắc “toàn
bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; song, đặt trong một phạm vi
không gian xã hội cụ thể, trực tiếp là địa bàn xã, phường, thị trấn - nơi cư trú
và sinh hoạt của tuyệt đại bộ phận các tầng lớp nhân dân. Chính họ là chủ thể
của quyền lực nhà nước, có các quyền dân chủ và trực tiếp thực hiện các
quyền dân chủ của mình. Điều đó nói lên rằng, dân chủ ở cấp xã luôn gắn liền
50
với địa chỉ cụ thể và với chủ thể trực tiếp thực hiện quyền dân chủ, gắn liền
với những nội dung cụ thể có liên quan tới đời sống kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội của người dân ở cơ sở. Đó là: quyền được biết các nội dung liên
quan đến đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân ở cơ sở; quyền được bàn và
quyết định, quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền
quyết định và quyền giám sát đối với tất cả những nội dung dân biết, dân bàn,
dân quyết định hoặc tham gia ý kiến. Về thực chất, nội dung của dân chủ ở
cấp xã là sự cụ thể hóa khía cạnh “nhân dân làm chủ” trong phương châm
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Để nhân dân có thể thực hiện trên thực tế các quyền dân chủ của mình
thì dân chủ ở cấp xã còn phải bao gồm các hình thức thực hiện các quyền dân
chủ của nhân dân; nghĩa là phải “có cơ chế để nhân dân thực hiện trên thực tế
quyền làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ thông qua các cơ quan đại diện của
mình” [21, tr. 48]. Các hình thức đó có thể là: công khai thông tin bằng cách
niêm yết tại trụ sở HĐND, UBND xã, phổ biến, tuyên truyền thông tin trên hệ
thống loa truyền thanh của xã, phường, thị trân, thông qua Trưởng thôn/Tổ
trưởng dân phố (đối với quyền được biết); biểu quyết trong các cuộc họp thôn,
thông qua phiếu lấy ý kiến cử tri... (đối với quyền được bàn và quyết định);
thông qua các cuộc họp thôn, phiếu lấy ý kiến cử tri, hòm thư góp ý... (đối với
quyền tham gia ý kiến). Mở rộng việc thực hành và phát huy dân chủ ở cấp xã
là điều kiện hết sức quan trọng để người dân tham gia ngày càng sâu rộng hơn
vào các hoạt động quản lý nhà nước và quản lý xã hội tại các xã, phường, thị
trấn. Tuy nhiên, việc thực hiện dân chủ ở cấp xã phải dựa trên các nguyên
tắc, quy định của pháp luật.
Từ những điểm phân tích trên, có thể định nghĩa: Dân chủ ở cấp xã là
biểu hiện cụ thể của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là sự đảm bảo nguyên tắc
toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân tại địa bàn xã, phường, thị
trấn trên cơ sở thực hiện quyền được biết, quyền được bàn và quyết định,
quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và
quyền giám sát đối với những nội dung có liên quan tới đời sống kinh tế,
51
chính trị, văn hóa, xã hội của người dân ở xã, phường, thị trấn bằng những
hình thức nhất định, phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật.
2.2.1.2. Khái niệm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã
Các giá trị dân chủ và quy tắc thực hành dân chủ phải được Nhà nước
thể chế hóa thành pháp luật, quy định cụ thể các quyền tự do dân chủ của
công dân. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục khẳng định
việc mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục
tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc đổi mới đất
nước. Thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng, ban hành và
hoàn thiện dần hệ thống văn bản QPPL về thực hiện dân chủ.
Pháp luật về thực hiện dân chủ là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà
nước xây dựng, ban hành, hướng tới điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa
Nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế...
và công dân nhằm bảo đảm cho công dân thực hiện, phát huy quyền làm chủ
trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Với ý nghĩa nêu trên, pháp luật về thực hiện dân chủ có nội dung và
phạm vi điều chỉnh rất rộng; trong đó, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp
xã là một bộ phận của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở (gồm dân chủ ở
cơ quan hành chính sự nghiệp; dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước; dân chủ
trong công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần).
Pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã bao gồm: Nghị định số
29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 Về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ
ở xã; Chỉ thị số 22/1998/CT-TTg ngày 15/5/1998 Về việc triển khai thực hiện
Quy chế dân chủ ở xã; Thông tư số 03/1998/TT-TCCP ngày 06/7/1998
Hướng dẫn áp dụng “Quy chế thực hiện dân chủ ở xã” đối với phường và thị
trấn; Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 về ban hành Quy chế thực
hiện dân chủ ở xã; Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Nghị
quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQ VN ngày 17/4/2008 Về
hướng dẫn thi hành các Điều 11, Điều 14, Điều 16, Điều 22 và Điều 26 của
Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
52
Pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là tổng thể các quy định về
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; bao gồm các văn bản quy phạm
pháp luật của Quốc hội, Chính phủ, Nghị quyết liên tịch của Chính phủ và Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các văn bản pháp quy của chính
quyền địa phương nhằm cụ thể hóa các quy định về thực hiện dân chủ ở cấp
xã sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể ở từng địa phương.
2.2.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Dưới góc độ luật học, THPL là hành vi phù hợp với các quy tắc, yêu
cầu, đòi hỏi của pháp luật, mang lại và đáp ứng lợi ích của Nhà nước, của xã
hội và của mỗi công dân. Hành vi đó có thể được thực hiện phụ thuộc vào ý
chí của mỗi cá nhân, nhưng cũng có thể chỉ phụ thuộc vào ý chí của Nhà
nước. Nó có thể được thực hiện xuất phát từ sự nhận thức sâu sắc và tự giác
của chủ thể về sự cần thiết phải xử sự như vậy. có thể do cách xử sự của
những người xung quanh tác động tới chủ thể khiến cho chủ thể thực hiện
theo; cũng có thể do kết quả của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà
nước hoặc tâm lý sự bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế mà chủ thể phải thực
hiện pháp luật. Như vậy, THPL là một quá trình hoạt động có mục đích nhằm
làm cho các nguyên tắc, quy định của pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống,
trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Pháp luật về dân chủ ở cấp xã là một lĩnh vực pháp luật cụ thể - Quy
chế thực hiện dân chủ ở xã (trước đây) và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn hiện hành, trong đó:
Quy định những nội dung phải công khai để nhân dân biết; những nội
dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý
kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân
dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã), của cán bộ thôn, làng, ấp, bản,
phum, sóc (gọi chung là thôn), tổ dân phố, khu phố, khối phố (gọi
chung là tổ dân phố), của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của
nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã [112, Điều 1].
53
THPL về dân chủ ở cấp xã là quá trình triển khai những quy định nói
trên vào thực tiễn đời sống xã hội ở cấp xã; chuyển từ sự nhận thức về các
quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở thành hành vi pháp luật thực tế hợp pháp
của các chủ thể pháp luật (chính quyền, CBCC cấp xã; cán bộ thôn, tổ dân
phố; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và nhân dân ở cơ sở).
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã là quá trình triển khai các
hoạt động đưa các quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn đi vào thực tiễn đời sống xã hội ở cơ sở, trở thành hành vi pháp luật
thực tế hợp pháp của chính quyền, cán bộ, công chức cấp xã, cán bộ thôn, tổ
dân phố, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và nhân dân địa phương
nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thu hút nhân dân tham gia quản
lý nhà nước, quản lý xã hội; kiểm tra, giám sát các hoạt động của chính
quyền cấp xã; góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội trên địa bàn
xã, phường, thị trấn.
2.2.2. Chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Trong các lĩnh vực hoạt động xã hội, chủ thể là những tổ chức, cơ
quan, đơn vị, cá nhân gián tiếp hoặc trực tiếp tham gia vào và thực hiện hoạt
động đó. Chủ thể là nhân tố giữ vai trò quyết định đối với sự thành công của
bất kỳ một lĩnh vực hoạt động xã hội nào. Với ý nghĩa này, chủ thể của hoạt
động THPL về dân chủ ở cấp xã là cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, tổ
chức, cộng đồng dân cư, cá nhân tham gia vào quá trình THPL về dân chủ ở
cấp xã ở nước ta hiện nay. Căn cứ vào Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, có thể phân chia chủ thể THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước
ta hiện nay thành 03 nhóm: 1) Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo THPL về dân chủ ở
cấp xã; 2) Chủ thể tổ chức THPL về dân chủ ở cấp xã; 3) Chủ thể trực tiếp
THPL về dân chủ ở cấp xã. Sự phân chia này cũng chỉ mang tính chất tương
đối vì trên thực tế, nhiều khi vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể nói
trên có thể có sự đan xen, lồng ghép vào nhau trong quá trình thực hiện.
2.2.2.1. Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo công tác thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cấp xã
54
Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo công tác THPL về dân chủ ở cấp xã là Đảng
bộ các cấp tỉnh đến xã; chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện; Uỷ ban MTTQ
Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cấp tỉnh và cấp huyện.
2.2.2.2. Chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Chủ thể tổ chức THPL về dân chủ ở cấp xã là những cơ quan, tổ chức,
cá nhân có vai trò, trách nhiệm tổ chức thực hiện những nội dung phải công
khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những
nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết
định và những nội dung nhân dân giám sát.
Về phía cơ quan, tổ chức, Điều 3 Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở cấp xã
quy định trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã thuộc về HĐND,
UBND cấp xã và Uỷ ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt
trận cấp xã. Đối với cấp huyện, UBND cấp huyện ra quyết định công nhận đối
với hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố sau khi nhận được hồ sơ đề nghị
của UBND cấp xã [xem: 112, khoản 1 Điều 15].
Về phía cá nhân, trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo thực hiện các nội dung
phát huy các quyền dân chủ của nhân dân thuộc về Chủ tịch UBND cấp xã;
Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố; những CBCC cấp xã được Chủ tịch
UBND cấp xã giao nhiệm vụ hướng dẫn nhân dân thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Trong việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND
và Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã thì “thành phần tham gia lấy phiếu
tín nhiệm gồm các thành viên Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên
Ban thường vụ của các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã, Trưởng ban thanh tra
nhân dân, Trưởng ban giám sát đầu tư của cộng đồng (nếu có), Bí thư chi bộ,
Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng ban công tác mặt trận thôn, tổ
dân phố [112, khoản 2 Điều 26].
2.2.2.3. Chủ thể trực tiếp thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Chủ thể trực tiếp THPL về dân chủ ở cấp xã chính là các tầng lớp nhân
dân trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
55
- Nhân dân có trách nhiệm tham gia bàn và quyết định các công việc
của thôn, tổ dân phố và của cấp xã theo quy định của pháp luật; chấp hành và
thực hiện các quyết định đã có giá trị thi hành [112, khoản 2 Điều 12].
- Nhân dân bàn và biểu quyết những nội dung: 1) Hương ước, quy ước
của thôn, tổ dân phố; 2) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng
tổ dân phố; 3) Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám
sát đầu tư của cộng đồng.
- Nhân dân tham gia ý kiến đối với những nội dung trước khi cơ quan
có thẩm quyền quyết định.
- Nhân dân giám sát việc thực hiện các nội dung quy định tại các Điều
5, 10, 13 và 19 của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
2.2.3. Nội dung thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
2.2.3.1. Thực hiện quyền được biết các nội dung liên quan đến đời
sống kinh tế - xã hội của nhân dân ở xã, phường, thị trấn
Quyền được biết các nội dung liên quan đến đời sống kinh tế - xã hộicủa nhân dân ở xã, phường, thị trấn thể hiện ở chương II-Những nội dungcông khai để nhân dân biết của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường,thị trấn, trong đó liệt kê 11 nội dung cần phải công khai cho dân biết, như: kếhoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dựtoán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã; Dự án, công trình đầu tư vàthứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặtbằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khudân cư trên địa bàn cấp xã; Nhiệm vụ, quyền hạn của CBCC cấp xã trực tiếpgiải quyết các công việc của nhân dân; Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ,khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã... [112, Điều 5].
Những nội dung trên đây đều là những nội dung có liên quan trực tiếp,thiết thực đến đời sống của người dân ở cơ sở. Xây dựng Nhà nước phápquyền XHCN đòi hỏi phải đẩy mạnh thực hành dân chủ thì việc công khainhững nội dung trên chính là tạo điều kiện để nhân dân nắm vững và chủđộng sử dụng quyền được biết của mình trong thực hiện dân chủ ở cấp xã.
56
Các hình thức công khai những nội dung người dân được quyền biết
cũng được Pháp lệnh quy định rất rõ ràng: “a) Niêm yết công khai tại trụ sở
HĐND, UBND cấp xã; b) Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã; c)
Công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến
nhân dân” [112, Điều 6]. Ngoài ra, chính quyền cấp xã có thể áp dụng đồng
thời nhiều hình thức công khai nêu trên cũng như thực hiện việc cung cấp
thông tin theo quy định tại Điều 32 Luật Phòng, chống tham nhũng.
2.2.3.2. Thực hiện quyền được bàn và quyết định
Quyền của nhân dân được bàn và quyết định được quy định tại chương
III của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và thể hiện trên hai
phương diện: nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; nội dung nhân
dân bàn và biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định.
Những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp bao gồm: “chủ
trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công
cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ
hoặc một phần kinh phí và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư
phù hợp với quy định của pháp luật” [112, Điều 10]. Những nội dung này
được dân bàn và quyết định trực tiếp được thực hiện bằng một trong hai hình
thức: tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn
từng thôn, tổ dân phố hoặc phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện
hộ gia đình [112, Điều 11]. Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp
có giá trị thi hành nếu có trên 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia
đình trong thôn, tổ dân phố hoặc trong toàn cấp xã tán thành. Đối với những
cử tri, hộ gia đình chưa tán thành trong việc thực hiện những quyết định đã có
giá trị thi hành thì chính quyền cấp xã phối hợp với Uỷ ban MTTQ Việt Nam
và các tổ chức thành viên của Mặt trận cùng cấp tổ chức tuyên truyền, vận
động, thuyết phục đề họ thực hiện [112, Điều 12].
Những nội dung nhân dân bàn và biểu quyết gồm có: “1. Hương ước,
quy ước của thôn, tổ dân phố; 2. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn,
Tổ trưởng tổ dân phố; 3. Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban Thanh tra nhân dân,
57
Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng” [112, Điều 13]. Hình thức thực hiện
những nội dung này cũng bằng một trong hai cách: tổ chức cuộc họp cử tri
hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố hoặc phát
phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình [112, Điều 14].
2.2.3.3. Thực hiện quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có
thẩm quyền quyết định
Quyền này được quy định tại chương IV của Pháp lệnh thực hiện dânchủ ở xã, phường, thị trấn. Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến gồm:
1. Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương ánchuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư,vùng kinh tế mới và phương án phát triển ngành nghề của cấp xã; 2. Dựthảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh;việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã; 3. Dự thảo kế hoạch triển
khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã; chủ trương, phươngán đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái địnhcư; phương án quy hoạch khu dân cư; 4. Dự thảo đề án thành lập mới,nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan
trực tiếp đến cấp xã; 5. Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhândân theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước cóthẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết [112, Điều 19].Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định
bằng các hình thức: họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn
từng thôn, tổ dân phố; phát phiếu lấy ý kiến cử tri hoặc cử tri đại diện hộ giađình; thông qua hòm thư góp ý [112, Điều 20].
Trách nhiệm tổ chức thực hiện những nội dung nhân dân tham gia ý
kiến thuộc về chính quyền cấp xã [112, Điều 21]. Về phía cơ quan có thẩm
quyền cấp trên, cơ quan này có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến nhân dân trước
khi quyết định về những việc liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của
công dân trên địa bàn cấp xã; chỉ đạo UBND cấp xã tổ chức lấy ý kiến nhân
dân trên địa bàn cấp xã. Để bảo đảm cho nhân dân có thể tham gia ý kiến một
cách chủ động, khách quan, cơ quan có thẩm quyền cấp trên cần cung cấp các
58
tài liệu cần thiết cho việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân. Sau khi đã tổ chức lấy
ý kiến nhân dân, cần tiếp thu ý kiến nhân dân về những nội dung đã đưa ra lấy
ý kiến. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khác với ý kiến của
đa số nhân dân thì phải nêu rõ lý do và chịu trách nhiệm về quyết định của
mình [112, Điều 22].
2.2.3.4. Thực hiện quyền giám sát
Quyền giám sát của nhân dân được quy định tại chương V của Pháp
lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; theo đó, nhân dân được quyền
giám sát đối với tất cả các nội dung mà họ được công khai để biết [112, Điều
5], được bàn và quyết định trực tiếp [112, Điều 10], được bàn và biểu quyết
[108, Điều 13] và được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền
quyết định [112, Điều 19]. Nhân dân thực hiện việc giám sát những nội dung
đó theo các hình thức: thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban
Giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc trực tiếp thực hiện việc giám sát thông
qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
hoặc kiến nghị thông qua Ủy ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên
của Mặt trận cấp xã, Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng
đồng. Trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của nhân dân phải được
thực hiện theo quy định của pháp luật [112, Điều 24].
Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện giám
sát của nhân dân quy định tại Điều 25:
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, tổ chức, cá
nhân có các trách nhiệm sau đây: 1. Cung cấp đầy đủ, kịp thời các
thông tin, tài liệu cần thiết cho Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát
đầu tư của cộng đồng; 2. Xem xét, giải quyết và trả lời kịp thời các
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, kiến nghị của Ban Thanh tra
nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng, của Ủy ban MTTQ Việt
Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận cấp xã hoặc báo cáo với cơ
quan có thẩm quyền về những vấn đề không thuộc thẩm quyền giải
quyết của mình; 3. Xử lý người có hành vi cản trở hoạt động của Ban
59
Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc người có
hành vi trả thù, trù dập công dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị theo quy
định của pháp luật [112, Điều 25].
2.2.4. Các hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Cũng như trong THPL nói chung, THPL về dân chủ ở cấp xã có các
hình thức cơ bản là: tuân theo (tuân thủ) pháp luật, thi hành (chấp hành) pháp
luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
2.2.4.1. Tuân theo pháp luật
Tuân theo pháp luật trong THPL về dân chủ ở cấp xã là hình thức
THPL, trong đó, các chủ thể pháp luật tự kiềm chế để không thực hiện những
hành vi, hoạt động mà pháp luật về dân chủ ở cấp xã nghiêm cấm, không cho
phép thực hiện. Cụ thể, đó là những hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Điều
4 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn:
1. Không thực hiện hoặc làm trái các quy định về thực hiện dân chủ ở
cấp xã; 2. Trù dập người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị có liên quan đến
việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; 3. Bao che, cản trở hoặc thiếu trách
nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị có liên quan
đến việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; 4. Lợi dụng việc thực hiện dân
chủ ở cấp xã để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân [112, Điều 4].
Việc quy định các hành vi bị nghiêm cấm trên đây là nhằm đảm bảo
cho pháp luật về dân chủ ở cấp xã được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm
túc; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá
nhân. Nếu cá nhân nào đó thực hiện các hành vi bị nghiêm cấm nói trên,
nghĩa là không tuân thủ pháp luật về dân chủ ở cấp xã, thì có thể bị xử lý theo
luật định; chẳng hạn, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo “Điều 132.
Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo” [7, tr. 88] hoặc “Điều 258. Tội lợi
dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân” [7, tr. 193].
60
Hình thức tuân theo pháp luật về dân chủ ở cấp xã có thể biểu hiện cách
xử sự thụ động của các chủ thể; song, cũng có thể biểu hiện sự tự giác, chủ
động và nghiêm chỉnh THPL về dân chủ ở cấp xã. Tuân theo pháp luật về dân
chủ ở cấp xã chưa làm phát sinh quan hệ pháp luật.
2.2.4.2. Thi hành pháp luật
Thi hành pháp luật trong THPL về dân chủ ở cấp xã là một hình thức
THPL, trong đó, các chủ thể pháp luật thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ pháp
lý của mình bằng các hành động tích cực theo quy định pháp luật về thực hiện
dân chủ ở cấp xã. Hình thức thi hành pháp luật được thực hiện đối với những
điều luật quy định về nguyên tắc và trách nhiệm thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Trước hết, các chủ thể pháp luật phải chấp hành các nguyên tắc thực
hiện dân chủ ở cấp xã: “1. Bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật; 2. Bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý kiến,
quyết định, thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; 3. Bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; 4.
Công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã; 5. Bảo đảm
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước” [112, Điều 3]. Việc chấp
hành các nguyên tắc trên đây là nhằm quán triệt và phát huy tối đa tính hiệu
lực, hiệu quả của việc THPL về dân chủ ở cấp xã, nâng cao chất lượng các
sinh hoạt chính trị - xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Bên cạnh đó, hình thức chấp hành pháp luật còn được thực hiện đối với
các điều luật quy định về trách nhiệm của các chủ thể trong việc tổ chức thực
hiện dân chủ ở cấp xã [112, Điều 3, Điều 9, Điều 17, Điều 18...]. Trách nhiệm
chung thuộc về HĐND, UBND cấp xã phối hợp với MTTQ Việt Nam và các
tổ chức thành viên cùng cấp. Trách nhiệm đối với những công việc cụ thể,
như công khai thông tin, tổ chức họp thôn, họp tổ dân phố..., thuộc về UBND
cấp xã, Chủ tịch UBND cấp xã, Trưởng thôn, Tổ trưởng Tổ dân phố.
2.2.4.3. Sử dụng pháp luật
Sử dụng pháp luật trong THPL về dân chủ ở cấp xã là một hình thức
THPL, trong đó, các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình,
61
nghĩa là thực hiện những hành vi mà pháp luật về dân chủ ở cấp xã cho phép.
Đây là hình thức phổ biến trong việc thực hiện các QPPL quy định về các
quyền tự do dân chủ của công dân. Chủ thể của hình thức sử dụng pháp luật
là đông đảo các tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã, phường, thị trấn; bởi lẽ,
Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trao cho họ các quyền
được biết, quyền được quyết định, quyền được tham gia ý kiến và quyền giám
sát đối với tất cả các nội dung mà họ được công khai để biết [112, Điều 5],
được bàn và quyết định trực tiếp [112, Điều 10], được bàn và biểu quyết [112,
Điều 13] và được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết
định [112, Điều 19].
Hình thức sử dụng pháp luật khác với các hình thức nêu trên ở chỗ, chủ
thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện các quyền được pháp luật
trao cho theo ý chí của mình, chứ không bị bắt buộc phải thực hiện.
2.2.4.4. Áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực
nhà nước, được thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
nhà chức trách hoặc các tổ chức được nhà nước trao quyền nhằm cá biệt hóa
các QPPL vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
Trong THPL về dân chủ ở cấp xã, hình thức áp dụng pháp luật được
thực hiện đối với những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm
quyền quyết định. Ở đây, việc pháp luật quy định cấp có thẩm quyền áp dụng
pháp luật bằng cách ra quyết định công nhận đối với những nội dung cụ thể
do nhân dân bàn, biểu quyết là nhằm đảm bảo giá trị thi hành đối với những
việc nhân dân bàn và biểu quyết. Căn cứ vào nội dung, hình thức nhân dân ở
cơ sở bàn, biểu quyết, kết quả nhân dân biểu quyết, cấp có thẩm quyền hoặc
tổ chức xã hội được trao quyền ban hành văn bản áp dụng pháp luật dưới hình
thức quyết định công nhận việc nhân dân bàn, biểu quyết. Cụ thể:
- Đối với hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố, sau khi nhân dân
bàn, biểu quyết (bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín), nếu có trên 50%
tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố tán thành
62
thì có giá trị thi hành sau khi UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
ra quyết định công nhận [112, khoản 1 Điều 15]. Trong trường hợp này,
UBND cấp huyện là cấp có thẩm quyền thực hiện hình thức áp dụng pháp luật
trong THPL về dân chủ ở cấp xã.
- Đối với việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ
dân phố, sau khi nhân dân ở xã, phường, thị trấn bàn, biểu quyết (bằng hình
thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín), nếu có trên 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại
diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố tán thành thì có giá trị thi hành sau khi
UBND cấp xã ra quyết định công nhận [112, khoản 2 Đ. 15]. Trong trường
hợp này, UBND cấp xã là cấp có thẩm quyền thực hiện hình thức áp dụng
pháp luật trong THPL về dân chủ ở cấp xã.
- Đối với việc bầu, bãi nhiệm thành viên Ban Thanh tra nhân dân, Ban
Giám sát đầu tư của cộng đồng (giơ tay hoặc bỏ phiếu kín), nếu có trên 50%
tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình tán thành thì có giá trị thi hành
sau khi được Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã công nhận [112, khoản 3 Điều
15]. Trong trường hợp này, Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã là tổ chức được
Nhà nước trao quyền thực hiện hình thức áp dụng pháp luật.
Để việc áp dụng pháp luật về dân chủ ở cấp xã liên quan đến những nội
dung trên được kịp thời, đúng đắn, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân ở cơ
sở, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng quy định rõ ràng,
cụ thể thời hạn UBND cấp huyện, UBND cấp xã, Ủy ban MTTQ Việt Nam
cấp xã phải xem xét, ra quyết định công nhận; trường hợp không công nhận
thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do [112, điểm c, khoản 1; điểm b,
khoản 2; điểm b, khoản 3, Điều 15].
2.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP
XÃ VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Giữa THPL về dân chủ ở cấp xã và xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với nhau; đồng
thời, tác động lẫn nhau trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước Việt
63
Nam theo định hướng XHCN. Sự hiện diện của nền dân chủ là một trong
những tiêu chí, đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN. Không
thể coi là xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nếu
không xây dựng nền dân chủ XHCN và thực hành dân chủ, đặc biệt là THPL
về dân chủ ở cấp xã; bởi vậy, THPL về dân chủ ở cấp xã là đòi hỏi tất yếu,
khách quan của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam,
là sự thể hiện sinh động bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta. Ngược
lại, việc thiết lập nền dân chủ XHCN nói chung, xây dựng, ban hành pháp luật
về thực hiện dân chủ ở cấp xã nói riêng chỉ có thể được triển khai và bảo đảm
thực hiện bởi Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Mối quan hê giữa
THPL về dân chủ ở cấp xã và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thể
hiện trên hai phương diện sau:
2.3.1. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã là đòi hỏi tất yếu, khách
quan của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Tính tất yếu, khách quan của việc THPL về dân chủ ở cấp xã trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN biểu hiện ở những khía cạnh sau:
2.3.1.1. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã góp phần đảm bảo
trên thực tế các quyền dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân ở xã,
phường, thị trấn
Mở rộng dân chủ, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân
là một nhiệm vụ, đồng thời là mục tiêu của tiến trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam. Đảng ta đã nhấn mạnh rằng, chức năng của
Nhà nước là phục vụ nhân dân; khẳng định mối quan hệ gắn bó mật thiết
giữa Nhà nước với nhân dân, thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân
dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân
dân. Để hiện thực hóa điều này thì nhất thiết phải thực hiện có hiệu quả pháp
luật về dân chủ ở cấp xã; qua đó, góp phần đảm bảo quyền dân chủ và lợi ích
hợp pháp của nhân dân ở xã, phường, thị trấn, thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, THPL về dân chủ ở cấp xã giúp nhân dân nhận thức đúng
đắn, đầy đủ hơn các quyền tự do dân chủ của mình. Về nguyên tắc, muốn
64
thực hiện quyền làm chủ thì trước tiên nhân dân phải nhận thức đúng đắn,
hiểu biết đầy đủ về các quyền tự do dân chủ của mình. Hiến pháp và pháp luật
nước ta đã xác nhận các quyền của công dân trong việc tham gia quản lý nhà
nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung, trọng đại của cả
nước, của từng địa phương, nêu các đề xuất, kiến nghị với các cơ quan nhà
nước. Công dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được đảm bảo mọi quyền
tự do dân chủ cơ bản, trong đó có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
quyền khiếu nại, tố cáo; biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân...
Các quyền tự do dân chủ đó là nền tảng, cơ sở để nhân dân kiểm tra hoạt động
của Nhà nước và là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện
dân chủ nói chung, dân chủ ở cấp xã nói riêng.
Thông qua việc THPL về dân chủ ở cấp xã, người dân có điều kiện
thuận lợi để biết các quyền dân chủ của mình, các nguyên tắc, hình thức thực
hiện các quyền đó và các hành vi bị nghiêm cấm. Nếu không triển khai THPL
về dân chủ ở cấp xã thì có lẽ nhiều người dân sẽ không biết đến các quyền
dân chủ mà pháp luật trao cho họ. Nhìn trên phương diện này, để nội dung
của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đến được với các
tầng lớp nhân dân ở xã, phường, thị trấn thì việc tăng cường công tác phổ
biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là nhân
tố giữ vai trò quyết định.
Thứ hai, THPL về dân chủ ở cấp xã giúp nhân dân hiểu rõ bản chất,
tầm quan trọng của việc thực hành và phát huy dân chủ ở cấp xã. Nhận thức
đúng đắn, hiểu biết đầy đủ về các quyền tự do dân chủ theo quy định của pháp
luật rồi; song, chưa hẳn người dân ở xã, phường, thị trấn đã chủ động, tích
cực thực hiện các quyền đó, nếu họ chưa hiểu rõ bản chất, tầm quan trọng của
việc thực hành và phát huy dân chủ ở cấp xã. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng
ta tiếp tục nhấn mạnh:
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của
65
nhân dân... Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền
làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ thông qua các cơ quan đại diện của
mình [21, tr. 47-48].
Cần giải thích cho nhân dân hiểu rằng, THPL về dân chủ ở cấp xã là sự
hiện thực hóa nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Đảng,
Nhà nước nói chung, chính quyền cấp xã nói riêng luôn tôn trọng và lắng
nghe ý kiến của nhân dân; giúp người dân thực sự phát huy quyền làm chủ
của mình, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở địa phương; góp phần
xây dựng chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, giữ gìn trật tự, kỷ
cương, an toàn xã hội trên địa bàn cơ sở... Việc giúp cho nhân dân hiểu rõ bản
chất của việc thực hiện dân chủ ở cấp xã thuộc về trách nhiệm của đội ngũ
CBCC cấp xã trong quá trình triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã.
Thứ ba, từ sự nhận thức, hiểu biết đó, nhân dân sẽ chủ động, tích cực
hơn trong việc THPL về dân chủ ở cấp xã để bảo vệ các lợi ích của Nhà
nước, cộng đồng và các quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi người dân. Đi từ
nhận thức đến hành động thực tiễn, chuyển từ “pháp luật trên giấy tờ” thành
“pháp luật trong hành động” là lôgíc của quá trình THPL nói chung, THPL
về dân chủ ở cấp xã nói riêng. Bên cạnh các hình thức khác, sử dụng pháp
luật là hình thức chủ yếu trong THPL về dân chủ ở cấp xã, thể hiện sự chủ
động, tự giác và tích cực của nhân dân. Người dân có tích cực sử dụng quyền
được biết thì chính quyền cấp xã mới không thể “bưng bít” thông tin, mà phải
công khai thông tin theo quy định của pháp luật. Người dân có chủ động sử
dụng quyền được bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp
xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng do nhân dân đóng
góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí thì các công trình đó mới nhanh chóng
được triển khai thi công có chất lượng và đưa vào phục vụ quốc kế, dân sinh.
Người dân có tự giác sử dụng quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan
có thẩm quyền quyết định thì mới tránh được tình trạng thắc mắc, khiếu nại
khi các quyết định đó được triển khai vào đời sống xã hội ở xã, phường, thị
trấn... Chỉ khi nào người dân biết sử dụng và phát huy các quyền dân chủ theo
66
quy định của pháp luật về dân chủ ở cấp xã thì các lợi ích của Nhà nước, cộng
đồng, các quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người dân ở cơ sở mới có thể
được đảm bảo. Đây cũng là tiêu chí quan trọng nhất để đảnh giá tính hiệu
quả của hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã.
2.3.1.2. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã là nền tảng để xây
dựng các cấp ủy Đảng, bộ máy chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh
Một là, THPL về dân chủ ở cấp xã đặt ra yêu cầu đổi mới phương thức
hoạt động của các cấp ủy Đảng theo hướng dân chủ hóa, không ngừng nâng
cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng ở cơ sở, dựa vào dân, chịu
sự giám sát của dân để xây dựng Đảng. Đảng ta là Đảng cầm quyền, lãnh đạo
toàn diện các mặt hoạt động kinh tế, xã hội, pháp luật... Theo tinh thần đó, các
cấp ủy Đảng ở cơ sở có vai lãnh đạo công tác THPL về dân chủ ở cấp xã.
Muốn thực hiện tốt vai trò đó, trước hết, các cấp ủy Đảng ở cơ sở cũng phải
thực hiện dân chủ trong hoạt động, đổi mới phương thức hoạt động theo
hướng dân chủ hóa, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của mình. Đảng ta đã
nhấn mạnh: “Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng, trước hết ở các tổ chức cơ sở đảng còn yếu kém.
Phát huy dân chủ, nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong sinh
hoạt của các cấp ủy, tổ chức đảng” [21, tr. 58]. Các cấp ủy, tổ chức cơ sở
đảng phải tự khắc phục những hạn chế, yếu kém trong hoạt động của mình,
phải đổi mới phương thức hoạt động theo hướng “gắn bó mật thiết với nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật” [21, tr. 56]. Có thể nói, việc lãnh đạo quá trình THPL về dân chủ ở
cấp xã vừa đặt ra yêu cầu đổi mới phương thức hoạt động của các cấp ủy
Đảng theo hướng dân chủ hóa, không ngừng nâng cao năng lực và sức chiến
đấu của tổ chức Đảng ở cơ sở, dựa vào dân, chịu sự giám sát của dân để xây
dựng Đảng; lại vừa là nơi gặp gỡ giữa “ý Đảng” và “lòng dân”. Đó chính là
“hiệu quả kép” của việc THPL về dân chủ ở cấp xã.
Hai là, THPL dân chủ ở cấp xã đòi hỏi phải đổi mới hoạt động của bộ
máy chính quyền cấp xã theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, chú trọng
67
đến chất lượng và hiệu quả giải quyết công việc. Chính quyền cấp xã là chủ
thể chịu trách nhiệm chính trong việc đưa pháp luật về dân chủ ở cấp xã đi
vào đời sống xã hội ở cơ sở. Trong quá trình đó, bộ máy chính quyền cấp xã
cũng buộc phải đổi mới hoạt động để thích ứng với yêu cầu ngày càng cao
của đời sống dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Trong THPL về dân chủ ở cấp xã, trước hết, chính quyền cấp xã phải
công khai, minh bạch chương trình hoạt động, nội dung, hình thức thực hiện
công việc của mình tới đông đảo các tầng lớp nhân dân nhằm đáp ứng “quyền
được biết” của người dân; bởi vì, “công khai là điều kiện để thực hiện quyền
làm chủ của người dân” [64, tr. 48]. Có những việc liên quan trực tiếp đến
quyền lợi của nhân dân, chính quyền cấp xã không thể tùy tiện quyết định, mà
phải tổ chức họp dân để dân bàn, quyết định trực tiếp hoặc dân biểu quyết với
đa số tán thành thì chính quyền mới được ra quyết định và triển khai thực
hiện... Khi thực hiện lại phải hết sức chủ trọng đến chất lượng, hiệu quả công
việc chứ không thể làm qua loa, đại khái, vì người dân có quyền kiểm tra,
giám sát đối với hoạt động của chính quyền cấp xã. Rõ ràng, việc THPL về
dân chủ ở cấp xã có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của bộ máy chính
quyền cấp xã, đưa đến đòi hỏi tất yếu là phải đổi mới hoạt động theo hướng
công khai, minh bạch, dân chủ, chú trọng nhiều hơn đến chất lượng và hiệu
quả giải quyết công việc của Nhà nước và nhân dân.
Ba là, THPL về dân chủ ở cấp xã là nền tảng để sửa đổi lề lối làm việc
của đội ngũ CBCC cấp xã theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại. Đội ngũ
CBCC cấp xã là những người trực tiếp giải quyết các công việc có liên quan
tới lợi ích của Nhà nước và nhân dân; đồng thời, cũng là chủ thể tham gia
THPL về dân chủ ở cấp xã. Chất lượng, hiệu quả của công tác này phụ thuộc
rất lớn vào ý thức, thái độ phục vụ nhân dân và năng lực chuyên môn, hiểu
biết pháp luật của đội ngũ này. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ nhà nước
là “đày tớ”, là “công bộc” của dân. Cán bộ nhà nước phải làm sao để nhân
dân yêu quý, khi sắp tới dân mong, khi đi dân nhớ. Muốn thế, trước hết cán
bộ phải yêu quý nhân dân, phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, phải kính
68
trọng nhân dân, tôn trọng nhân cách của họ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy,
nhiều lúc, nhiều nơi, CBCC nhà nước nói chung, cấp cơ sở nói riêng, còn có
biểu hiện quan cách, hách dịch, nhũng nhiễu nhân dân; giải quyết công việc
của dân còn quan liêu, tùy tiện, khiến cho người dân nản lòng mỗi khi có
công việc cần đến cơ quan công quyền. Đó cũng là một trong những lý do
quan trọng đưa đến đòi hỏi phải triển khai mạnh mẽ việc THPL về dân chủ ở
cấp xã, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
THPL về dân chủ ở cấp xã là nền tảng để sửa đổi lề lối làm việc của đội
ngũ CBCC cấp xã. Trước hết, đội ngũ này phải thay đổi triệt để về ý thức,
thái độ phục vụ nhân dân: niềm nở, lịch sự trong giao tiếp với người dân; tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của người dân để tìm ra cách giải quyết công việc của
dân sao cho “thấu tình, đạt lý”; kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện quan liêu,
tắc trách, hách dịch, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Thực tiễn chứng minh rằng, ở nơi nào pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã
được triển khai thực hiện nghiêm túc thì ở đó CBCC cấp xã được người dân
tín nhiệm, tin yêu vì họ biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người dân.
Bên cạnh đó, thực tiễn THPL về dân chủ ở cấp xã cũng đặt ra yêu cầu
phải nâng cao năng lực chuyên môn và trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật
của đội ngũ CBCC cấp xã. Việc nâng cao trình độ chuyên môn là để giúp
CBCC cấp xã giải quyết nhanh chóng, hiệu quả các công việc chuyên môn
thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao. Còn yêu cầu nâng cao trình độ
kiến thức, hiểu biết pháp luật, trong đó có pháp luật về dân chủ ở cấp xã, là để
giúp họ giải quyết công việc đúng nguyên tắc, quy định của pháp luật, tránh
tùy tiện, cảm tính. Ý thức, tinh thần cao trong phục vụ nhân dân cùng với việc
nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật là nền tảng để CBCC cấp
xã thực hành công vụ một cách chuyên nghiệp, hiện đại.
Bốn là, THPL về dân chủ ở cấp xã góp phần xây dựng bộ máy chính
quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của tiến trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Việc đổi mới hoạt động của bộ
máy chính quyền cấp xã theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, chú trọng
69
đến chất lượng và hiệu quả giải quyết công việc, sửa đổi lề lối làm việc của
đội ngũ CBCC cấp xã theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại là kết quả của
việc THPL về dân chủ ở cấp xã; hướng tới xây dựng bộ máy chính quyền cấp
xã trong sạch, vững mạnh. Đây cũng là một trong những mắt khâu quan trọng
và là yêu cầu cấp thiết của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam. THPL về dân chủ ở cấp xã có vai trò hết sức quan trọng trong việc
đáp ứng yêu cầu này.
2.3.1.3. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với bản chất là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân chính là nhân tố không thể thiếu trong
việc đảm bảo sự ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội. Việc Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam tạo các điều kiện thuận lợi cho người dân thực hành các quyền tự do dân
chủ không nhằm mục đích nào hơn ngoài hướng tới xây dựng một đất nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo
định hướng XHCN. Đó đồng thời cũng là những phẩm chất đảm bảo cho xã
hội phát triển theo hướng dân chủ, hài hòa và bền vững. Đến lượt mình, thực
hành dân chủ nói chung, THPL về dân chủ ở cấp xã nói riêng lại góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội ở xã, phường, thị trấn. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa
THPL về dân chủ ở cấp xã và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn theo
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Trong những năm qua, việc THPL về dân chủ ở cấp xã đã thực sự trở
thành động lực mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình phát triển tất cả các mặt kinh tế,
văn hóa, xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn. Với mục đích khai thác,
phát huy trí tuệ, kinh nghiệm, nhân lực và vật lực của các tầng lớp nhân dân,
tại nhiều địa phương, chính quyền cấp xã đã tổ chức cho nhân dân tham gia ý
70
kiến về dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư, vùng
kinh tế mới và phương án phát triển ngành nghề của cấp xã. Nhân dân đã thảo
luận, trao đổi, bàn bạc để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt
động sản xuất, phát triển kinh tế; tập trung chuyển đổi cơ cấu ngành nghề phù
hợp với điều kiện địa lý của địa phương; áp dụng các thành tựu, tiến bộ khoa
học - kỹ thuật vào sản xuất nhằm giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải
thiện mức sống cho nhân dân các xã, phường, thị trấn. Kết quả THPL về dân
chủ ở cấp xã cho thấy, tại nhiều địa phương, số hộ giàu ngày càng tăng, số hộ
nghèo ngày càng giảm; các tầng lớp nhân dân đã tự giác đóng góp hàng nghìn
tỉ đồng, hàng triệu ngày công lao động để xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn,
đô thị, tạo nên diện mạo mới cho nhiều địa phương.
THPL về dân chủ ở cấp xã cũng tạo ra những tác động tích cực trong
việc xây dựng đời sống văn hóa - xã hội ở xã, phường, thị trấn. Nhờ được phổ
biến, tuyên truyền, người dân đã có sự hiểu biết pháp luật cao hơn, chủ động,
tích cực phát huy quyền làm chủ của mình trong xây dựng đời sống văn hóa,
xã hội tại cơ sở. Các tầng lớp nhân dân là chủ thể tham gia xây dựng hương
ước, quy ước với những nội dung mới theo hướng văn minh, tiến bộ, loại bỏ
những hủ tục lạc hậu, lỗi thời, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống, các tập quán, lễ hội tốt đẹp tại cộng đồng dân cư; xây dựng môi trường
văn hóa, xã hội lành mạnh; góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
THPL về dân chủ ở cấp xã cũng góp phần hết sức quan trọng trong việc
giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội trên địa
bàn cơ sở. Pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã có chức năng duy trì trật
tự xã hội ở xã, phường, thị trấn; nêu lên các hành vi bị nghiêm cấm nhằm bảo
vệ các quyền dân chủ của công dân. Đảng ta chủ trương:
Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách
nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và
nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những
71
hành vi lợi dụng dân chủ làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, gây
mất trật tự, an ninh, an toàn xã hội [21, tr. 47-48].
Trong quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã, nhân dân được bàn bạc,
tham gia ý kiến về các vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự, tổ chức các hoạt
động tự quản trong thôn xóm, tổ dân phố... Thực tế chứng minh rằng, những
địa phương nào triển khai thực hiện tốt pháp luật về dân chủ ở cấp xã thì ở đó
tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội luôn được giữ vững.
Có thể thấy rằng, khi dân chủ ở cấp xã được mở rộng, các quyền và lợi
ích hợp pháp của nhân dân được đảm bảo, việc THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ
góp phần quan trọng tạo sự đồng thuận xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội và giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa
phương. Đây được coi là kết quả của hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã.
Sự đồng thuận xã hội ở cơ sở chỉ có thể được tạo ra khi nhân dân cùng được
biết, cùng tham gia bàn bạc, biểu quyết, quyết định hoặc cùng tham gia ý kiến
đối với những vấn đề quan trọng của địa phương, liên quan đến lợi ích của
mỗi người. Đến lượt mình, đồng thuận xã hội là cơ sở, động lực thúc đẩy
người dân hăng hái tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương.
Kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển lại là nền tảng để giữ vững an ninh chính
trị cơ sở, duy trì trật tự, an toàn xã hội ở địa phương.
2.3.2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhân tố bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
2.3.2.1. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam xây dựng, ban hành
và ngày càng hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Pháp luật là phương tiện để nhân dân thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của mình; là nhân tố bảo đảm thực hiện nền dân chủ XHCN, phát
huy quyền lực mà nhân dân trao cho Nhà nước, thực hiện công lý và công
bằng xã hội.
Dân chủ và thực hành dân chủ là một trong những thuộc tính, đặc trưng
cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Chính vì vậy, việc tăng
72
cường hiệu lực và phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý mọi mặt của
đời sống xã hội luôn luôn gắn liền với quá trình thực hiện và mở rộng nền dân
chủ. Các giá trị dân chủ và quy tắc thực hành dân chủ phải được Nhà nước
pháp quyền thể chế hóa thành pháp luật, trong đó quy định cụ thể các quyền
tự do dân chủ của công dân.
Trong Nhà nước pháp quyền, vấn đề bảo đảm thực hiện và bảo vệ
quyền tự do dân chủ của công dân, xây dựng chế độ dân chủ vừa là
mục đích, vừa là động lực của nhà nước, là khát vọng của nhân dân,
phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội. Muốn thực hiện những điều
đó, Nhà nước phải sử dụng pháp luật, thể chế hóa quyền tự do dân chủ
của nhân dân, quy định ngay trong pháp luật những thiết chế bảo đảm
thực hiện và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Ở đây, pháp
luật không chỉ là công cụ, phương tiện của nhà nước. pháp luật phải trở
thành phương tiện, công cụ, là vũ khí của nhân dân và của nhà nước để
thực hiện được mục đích và yêu cầu dân chủ đó” [56, tr. 71].
Có thể khẳng định rằng, một nền dân chủ thực sự với việc phát huy đầy
đủ các quyền dân chủ của nhân dân chỉ có thể có được khi gắn liền với việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Thực hành dân chủ ở cấp xã là một
khâu hết sức quan trọng trong hệ thống cơ chế dân chủ, liên quan đến tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo tinh thần đó, trong những năm qua, hệ
thống pháp luật về dân chủ ở cấp xã đã từng bước được Nhà nước ta xây
dựng, ban hành và hoàn thiện dần, qua đó, khẳng định bản chất dân chủ thực
sự của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Trong các văn bản QPPL về thực hiện dân chủ ở cấp
xã, một mặt, Nhà nước pháp quyền đã quy định các cơ chế, biện pháp, chế tài
nhằm bảo đảm cho công dân có thể phát huy quyền làm chủ, thực hiện các
quyền dân chủ trong khuôn khổ các nguyên tắc, quy định của pháp luật; mặt
khác, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cũng đã quy định cụ thể trách
nhiệm, nghĩa vụ mà công dân phải tuân thủ, thực hiện nhằm bảo đảm giữ gìn
trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội.
73
2.3.2.2. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tạo các điều kiện cần
thiết, bảo đảm cho việc THPL về dân chủ ở cấp xã đạt hiệu quả cao
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là sự bảo đảm có
tính chất nền tảng, bền vững cho việc thực hiện nền dân chủ nói chung, THPL
về dân chủ ở cấp xã nói riêng; bởi lẽ, chức năng của Nhà nước pháp quyền
XHCN là phục vụ nhân dân, giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, thực hiện
đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân
dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Hơn nữa, chỉ có thông qua xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thì mới bảo đảm được cơ chế, chính
sách, các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, xâm phạm
quyền tự do dân chủ của công dân. Bên cạnh đó, nếu không có các điều kiện
về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội thì không thể THPL được. Điều đó cũng
có nghĩa rằng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng chính
tạo các điều kiện cần thiết về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội bảo đảm cho
việc THPL về dân chủ ở cấp xã đạt được chất lượng, hiệu quả cao.
2.4. NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN
CHỦ Ở CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
2.4.1. Điều kiện về kinh tế
Điều kiện kinh tế có ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới công tác THPL về dân
chủ ở cấp xã thông qua việc tác động đến thái độ, nhận thức của các chủ thể
pháp luật về vai trò, tầm quan trọng của pháp luật về dân chủ ở cấp xã; từ đó,
tác động đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động THPL. Khi nền kinh tế
phát triển, đời sống vật chất của các tầng lớp nhân dân nói chung, của đội ngũ
CBCC cấp xã nói riêng được đảm bảo thì họ sẽ phấn khởi, tin tưởng vào
đường lối phát triển kinh tế, chính sách pháp luật, vào sự lãnh đạo của Đảng
và hoạt động quản lý, điều hành của Nhà nước. Điều đó có tác dụng củng cố
vững chắc niềm tin của nhân dân vào hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính
quyền cấp xã; tạo điều kiện để đội ngũ CBCC cấp xã yên tâm công tác, làm
tốt chuyên môn trên tinh thần cống hiến, phục vụ nhân dân địa phương.
74
Khi kinh tế phát triển, mức sống được cải thiện và nâng cao, nhân dân
mới có điều kiện để tham gia các hoạt động xã hội, trong đó có thực hiện các
nội dung dân chủ trong pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã. Còn khi kinh
tế chậm phát triển, đời sống vật chất gặp nhiều khó khăn thì tư tưởng của
người dân, CBCC cấp xã sẽ diễn biến phức tạp; ý thức chủ động, tích cực
tham gia THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ bị suy giảm. Đây chính là mảnh đất lý
tưởng cho sự nảy sinh tệ quan liêu, độc đoán, cửa quyền, phát sinh các loại
hành vi tiêu cực như quan liêu, nhận hối lộ, sách nhiễu nhân dân... trong đội
ngũ CBCC nói chung, CBCC cấp xã nói riêng.
Kinh tế phát triển, nguồn thu ngân sách nhà nước dồi dào cũng là động
lực rất quan trọng thúc đẩy hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã diễn ra với
chất lượng và hiệu quả cao hơn. Với nguồn lực kinh tế đủ mạnh, Nhà nước có
điều kiện tốt hơn để đầu tư cho việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục
vụ quốc kế, dân sinh trên địa bàn xã, phường, thị trấn, tạo niềm tin tưởng,
phấn khởi trong CBCC cấp xã và nhân dân ở cơ sở; làm cho nhân dân thấy
được hiệu quả thực tế của việc tích cực THPL về dân chủ ở cấp xã. Chính
sách đãi ngộ thỏa đáng hơn đối với đội ngũ CBCC cấp xã cũng giúp họ yên
tâm gắn bó lâu dài công tác chuyên môn, tích cực và chủ động hơn trong việc
THPL, trong đó có pháp luật về dân chủ ở cấp xã. Ngược lại, nếu điều kiện
kinh tế không cho phép, nguồn chi ngân sách cho công tác THPL về dân chủ
ở cấp xã, còn khó khăn, eo hẹp thì hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã khó
mà đạt được kết quả như mong muốn.
Như vậy, bảo đảm các điều kiện kinh tế là sự bảo đảm có tính chất nền
tảng, là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện tốt pháp luật về thực hiện dân
chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
2.4.2. Điều kiện về chính trị
Điều kiện chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ tới chủ thể THPL về dân
chủ ở cấp xã.
Môi trường chính trị - xã hội của đất nước nói chung, của địa phương
nói riêng ổn định, phát triển bền vững là điều kiện thuận lợi cho việc THPL
75
nói chung và THPL về dân chủ ở cấp xã nói riêng, vì nó tạo cơ sở củng cố lập
trường chính trị cho CBCC cấp xã. Đây cũng là tiền đề để họ nhận thức, hiểu
biết đầy đủ về vai trò, tầm quan trọng của việc THPL về dân chủ ở cấp xã,
chủ động triển khai công tác này trong đời sống xã hội cơ sở nhằm tiếp tục
giữ vững ổn định chính trị. Ngược lại, môi trường chính trị ở xã, phường, thị
trấn bất ổn, các thiết chế chính trị không phát huy được vai trò điều tiết, điều
chỉnh các quan hệ chính trị, các quyền dân chủ của người dân không được
thực hiện đầy đủ thường là nguyên nhân gây tâm lý bất an trong các tầng lớp
nhân dân, làm suy giảm niềm tin chính trị trong đội ngũ CBCC cấp xã. Khi
đó, việc THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ gặp nhiều khó khăn.
Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng cũng ảnh hưởng rất quan
trọng tới hoạt động THPL pháp luật. Trong cương lĩnh, đường lối chính trị
của mình, Đảng ta luôn khẳng định mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ, tất cả
vì hạnh phúc của nhân dân. Chắc chắn điều đó có tác động tích cực tới hoạt
động THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta hiện nay.
Ý thức chính trị của các chủ thể THPL về dân chủ ở cấp xã cũng có ảnh
hưởng nhất định tới hiệu quả của hoạt động này, đặc biệt là ý thức chính trị
của lãnh đạo Đảng ủy, chính quyền cấp xã và của đảng viên, CBCC cấp xã.
Thực tế cho thấy, nếu lãnh đạo Đảng ủy, chính quyền cấp xã có ý thức chính
trị cao, thấm nhuần nhiệm vụ chính trị, quan tâm và chỉ đạo sâu sát công tác
THPL về dân chủ ở cấp xã; mỗi đảng viên, CBCC cấp xã biết cách tổ chức
THPL về dân chủ ở cấp xã bằng những phương pháp, hình thức phù hợp, coi
đó là trách nhiệm chính trị thường xuyên của mình; thì chất lượng, hiệu quả
hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ được nâng cao.
Về phía các tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã, phường, thị trấn, nếu ý
thức được đầy đủ rằng, việc chủ động, tích cực tham gia vào quá trình THPL
về dân chủ ở cấp xã không chỉ để có kiến thức, hiểu biết pháp luật, nắm được
các quyền dân chủ của mình, mà còn để phát huy quyền làm chủ, tham gia
quản lý nhà nước trên địa bàn, giám sát hoạt động của chính quyền cấp xã,
76
nghĩa là người dân cũng có ý thức chính trị tích cực, thì chắc chắn là công tác
THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ đạt chất lượng và hiệu quả cao hơn.
Trình độ phát triển của nền dân chủ cũng có tác động quan trọng tới
hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã. Trong điều kiện xã hội có nền dân chủ
thực sự rộng rãi, thông tin đa dạng, phong phú, đa chiều, quyền làm chủ của
nhân dân ở xã, phường, thị trấn được phát huy đầy đủ... chính là điều kiện
thuận lợi để người dân ở cơ sở có thể cởi mở, thẳng thắn, công khai bày tỏ
tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của mình, đưa ra những đòi hỏi về quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của họ. Khi đó, bản thân mỗi người dân sẽ chủ
động, tích cực tham gia THPL về dân chủ ở cấp xã với ý thức, trách nhiệm
thực sự của họ. Còn trong điều kiện xã hội thiếu dân chủ thì bầu không khí xã
hội ở xã, phường, thị trấn sẽ ngột ngạt, người dân sẽ không dám nói thật suy
nghĩ của lòng mình vì e ngại “phạm húy”, bị đánh giá về lập trường chính trị,
thậm chí bị trù dập. Khi đó, người dân sẽ không tham gia, hoặc tham gia
THPL về dân chủ ở cấp xã một cách miễn cưỡng, đối phó. Như vậy, để THPL
về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam thì phải bảo đảm các điều kiện về chính trị cho hoạt động này.
2.4.3. Điều kiện về văn hóa - xã hội
Điều kiện về văn hóa - xã hội có ảnh hưởng quan trọng đối với việc
THPL về dân chủ ở cấp xã, thể hiện trên các điểm chính sau đây:
Các giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống là tổng thể những giá trị vật
chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá
trình dựng nước và giữ nước. Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh kiên
cường, nhân dân ta đã xây đắp nên một nền văn hoá kết tinh sức mạnh và in
đậm dấu ấn bản sắc dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự trường tồn
của dân tộc Việt Nam. Nhờ nền tảng sức mạnh văn hoá ấy mà dù có nhiều
thời kỳ bị đô hộ, dân tộc ta vẫn giữ vững bản sắc văn hóa của mình, chẳng
những không bị đồng hoá, mà còn quật cường đứng dậy giành lại độc lập cho
dân tộc. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, sự đoàn kết,
tính cộng đồng... Những yếu tố văn hóa này hiện diện ngay trên địa bàn xã,
77
phường, thị trấn trong toàn quốc, nếu biết cách khơi gợi, khích lệ hợp lý sẽ có
tác dụng tích cực đối với công tác THPL về dân chủ ở cấp xã.
Lối sống - một thành tố của văn hóa - cũng có ảnh hưởng quan trọng
tới THPL về dân chủ ở cấp xã. Căn cứ vào cách thức tổ chức cư trú, lao động,
sinh hoạt của cư dân, lối sống được phân chia thành lối sống đô thị và lối
sống nông thôn với những nét đặc trưng riêng.
Lối sống đô thị gắn liền với hoạt động sống, lao động, sinh hoạt của
cộng đồng dân cư trên địa bàn các phường, thị trấn thuộc khu vực đô thị.
Đặc trưng nổi bật của lối sống đô thị là tính tích cực chính trị - xã hội ở đô thị
tương đối cao. Người dân đô thị có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc
tiếp xúc với các thông tin chính trị - xã hội và tích cực tham gia vào các hoạt
động xã hội lớn mà phần nhiều được tổ chức tại các đô thị. Tại các thành phố,
thị xã, phạm vi giao tiếp xã hội tương đối rộng, cường độ giao tiếp cao. Đây
là điều kiện thuận lợi đối với việc triển khai THPL về dân chủ ở xã, phường,
thị trấn. Điều này cũng giúp giải thích tại sao trình độ dân trí về pháp luật nói
chung, kiến thức, hiểu biết pháp luật của cộng động dân cư đô thị và hoạt
động THPL về dân chủ ở đô thị thường diễn ra thuận lợi hơn so với các xã ở
khu vực nông thôn.
Lối sống nông thôn gắn liền với hoạt động sống, lao động, sinh hoạt
của cộng đồng dân cư trên địa bàn các xã thuộc khu vực nông thôn. Đặc
trưng cơ bản của lối sống nông thôn là tính cộng đồng và chủ nghĩa tập thể.
Tính cộng đồng chính là một điều kiện thuận lợi đối với công tác thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cấp xã. Ý thức cộng đồng giúp cho chính quyền cấp xã
dễ dàng hơn trong việc phổ biến, tuyên truyền chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đưa pháp luật về dân chủ ở cấp xã
đến với người dân nông thôn. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết giúp gắn kết,
tạo dựng sự đồng thuận xã hội giữa chính quyền cấp xã với nhân dân trong
việc bàn bạc, thống nhất các nội dung THPL về dân chủ ở cấp xã. Khi truyền
thống dân chủ làng xã được phát huy, mỗi CBCC cấp xã phải luôn tự ý thức
về trách nhiệm trước nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn.
78
Các phong tục, tập quán trong cộng đồng xã hội có ảnh hưởng nhất
định tới việc THPL về dân chủ ở cấp xã, thể hiện rõ nét nhất ở khu vực nông
thôn. Bên cạnh những thói quen rất căn bản của người dân nông thôn, như giữ
gìn và phát huy những thuần phong mỹ tục, cần cù trong lao động, tiết kiệm
trong tiêu dùng, tương thân tương ái...; các phong tục tập quán ở khu vực làng
xã cũng đang bộc lộ những nhược điểm, như việc tổ chức hội hè, ma chay,
cưới hỏi, giỗ chạp... nhiều lúc, nhiều nơi còn tốn kém và lãng phí; những hủ
tục lạc hậu, lỗi thời còn tồn tại ở nhiều làng xã, nhất là ở các vùng sâu ,vùng
xa, vùng dân tộc thiểu số; thói hư, tật xấu và tệ nạn xã hội ở nông thôn có xu
hướng gia tăng; tính tích cực chính trị - xã hội của người dân làng xã còn hạn
chế... Những vấn đề trên đều ít nhiều có liên quan đến các quy định pháp luật
về dân chủ ở cấp xã, do đó, đã và đang gây khó khăn cho việc THPL về dân
chủ ở cấp xã; đồng thời, là những hành vi vi phạm pháp luật, coi thường kỷ
cương phép nước, cần phải có biện pháp xử lý nghiêm minh, thích đáng.
2.4.4. Điều kiện về pháp luật
Điều kiện pháp luật là tổng thể những nhân tố tạo nên đời sống pháp
luật của xã hội ở từng giai đoạn phát triển nhất định. THPL về dân chủ ở cấp
xã trước hết đòi hỏi pháp luật về dân chủ ở cấp xã phải được hoàn thiện. Đó là
căn cứ để các chủ thể pháp luật THPL. Song, ý thức pháp luật, các yếu tố
thuộc hệ thống tổ chức, quản lý xã hội truyền thống cũng có ảnh hưởng nhất
định đến việc THPL về dân chủ ở cấp xã.
Ý thức pháp luật của các chủ thể pháp luật, nhất là ý thức pháp luật của
đội ngũ CBCC cấp xã, là yếu tố có ảnh hưởng rất quan trọng tới việc THPL
về dân chủ ở cấp xã. Khi họ có ý thức pháp luật ở một trình độ nhất định, có
năng lực nhận thức các QPPL về dân chủ ở cấp xã, nắm vững các hình thức
THPL về dân chủ ở cấp xã thì ý thức pháp luật trở thành động lực thúc đẩy họ
tích cực THPL ở lĩnh vực này trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Đây chính là điều kiện thuận lợi cho việc triển khai hoạt động THPL về dân
chủ ở cấp xã đạt hiệu quả cao. Còn nếu ý thức pháp luật của CBCC cấp xã ở
trình độ thấp thì việc THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ gặp khó khăn nhất định.
79
Các yếu tố thuộc hệ thống tổ chức, quản lý xã hội truyền thống cũng có
tác động không nhỏ tới việc THPL về dân chủ ở cấp xã trong giai đoạn hiện
tại. Quá trình tổ chức và duy trì các hoạt động sống, lao động và sinh hoạt của
xã hội nông thôn truyền thống đã làm nảy sinh một nét đặc trưng trong hoạt
động quản lý làng xã trước đây - tính tự quản. Trong các làng xã truyền thống
xưa kia thường tồn tại song song hai hệ thống quản lý: hệ thống quản lý do
nhà nước thiết lập trên cơ sở pháp luật và hệ thống tự quản trong cộng đồng.
Trong quá trình phát triển của làng xã, pháp luật thừa nhận làng có lệ riêng
của mình, miễn là không trái với các quy định của pháp luật. Nếu như hoạt
động quản lý nhà nước trước đây được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế,
thì hệ thống tự quản lại chủ yếu dựa vào sức mạnh của dư luận xã hội, uy tín
của các vị chức sắc trong làng (tôn giáo, tín ngưỡng, già làng, trưởng tộc...)
và đặc biệt phải kể tới vai trò của lệ làng (hương ước).
Trên địa bàn các xã, phường, thị trấn hiện nay, sự quản lý bằng pháp
luật của Nhà nước và lệ làng vẫn đang là những yếu tố tác động, ảnh hưởng
trực tiếp tới hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã của các chủ thể, nhất là
người dân ở các làng xã. Vấn đề là ở chỗ, mỗi chủ thể (chính quyền xã,
CBCC cấp xã và người dân) nhìn nhận như thế nào về vị trí, vai trò và sự ảnh
hưởng của mỗi yếu tố. Trên thực tế, cả sự quản lý nhà nước bằng pháp luật,
cả tính tự quản đều quan trọng và cần thiết, chúng có vai trò khác nhau trong
quản lý xã hội nông thôn. Nhà nước coi việc xây dựng hương ước, quy ước
của thôn, tổ dân phố là một trong những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết để
cấp có thẩm quyền quyết định trong THPL về dân chủ ở cấp xã.
2.5. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở ĐỊA PHƯƠNG TẠI MỘT
SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM
Trong thời đại ngày nay, bằng cách này hay cách khác, mức độ ít hay
nhiều, tính chất rộng rãi hay hạn hẹp, các quốc gia khác nhau trên thế giới đều
hướng tới một xây dựng, thực hiện nền dân chủ nhất định tùy thuộc vào trình
độ nhận thức về dân chủ, sự phát triển của nền dân chủ, truyền thống lịch sử,
quy định của pháp luật, nhu cầu thực tiễn đặt ra đối với mỗi quốc gia qua từng
80
giai đoạn lịch sử. Hầu như các nhà nước khác nhau trên thế giới không ban
hành một đạo luật riêng về thực hiện dân chủ ở cơ sở, nhưng những quy định
pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở, ở địa phương thì có được đề cập trong
Hiến pháp và những đạo luật khác. Tác giả chọn khảo sát vấn đề này tại Pháp,
Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc vì đây là những nước có ảnh hưởng
trong lịch sử hoặc gần gũi về mặt địa lý với Việt Nam; từ thực tiễn của mỗi
nước tavs giả rút ra bài học kinh nghiệm, tham khảo cho Việt Nam.
2.5.1. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở địa phương tại Cộng hòa Pháp
Theo phân cấp quản lý hành chính, chính quyền cấp cơ sở ở Pháp là
cấp xã (công xã), hình thành từ năm 1789. Tại Cộng hòa Pháp, thuật ngữ dân
chủ ở địa phương được sử dụng lần đầu tiên trong Luật vào năm 1992 quy
định về quản lý hành chính lãnh thổ của nhà nước Cộng hòa Pháp và được cụ
thể hóa trong Luật ngày 27/02/2002 về dân chủ ở địa phương và được nêu
trong Luật sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2003; trong đó chủ yếu đề cập tới
quyền được thông tin và tính minh bạch trong hoạt động quản lý hành chính ở
địa phương. Dân chủ ở địa phương được thể hiện dưới hình thức tham khảo,
lấy ý kiến của nhân dân địa phương trước khi chính quyền đưa ra các quyết
định; ngoài ra, dân chủ ở địa phương còn được thực hiện thông qua hình thức
trưng cầu ý dân, nhân dân trực tiếp thông qua các quyết định thuộc thẩm
quyền ban hành của chính quyền xã. Dân chủ ở địa phương tại Pháp là dân
chủ gắn với quyền lực nhân dân, gắn với việc tham gia, quyết định của nhân
dân đối với các vấn đề thuộc cộng đồng lãnh thổ địa phương; gắn với sự công
khai các quyết định của chính quyền địa phương để nhân dân biết; quyền
được thông tin của người dân là một yêu cầu mà chính quyền địa phương cần
đáp ứng [xem: 59, tr. 269-279]...
Bài học kinh nghiệm, tham khảo cho Việt Nam: Đối với Việt Nam,
chính quyền cấp xã là cấp gần dân nhất, nắm bắt nhu cầu và lợi ích của nhân
dân, trực tiếp phát huy quyền làm chủ của nhân dân; do vậy phải phân cấp,
giao quyền tự quản nhiều hơn đồng thời với tăng cường sự kiểm tra, giám sát
chặt chẽ của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương là việc
81
làm cần thiết nhằm phát huy có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, hướng tới phục vụ nhân dân ngày càng
tốt hơn, hiệu quả hơn.
Để khắc phục tình trạng nguồn thu ngân sách của chính quyền địa
phương thường không đủ chi cho sự vận hành của bộ máy chính quyền địa
phương cũng như các nhu cầu về dịch vụ, xã hội của người dân, Chính phủ
các nước thường có nhiều chính sách hỗ trợ thiết thực về vật chất, kỹ thuật và
con người cho chính quyền địa phương. Bài học tham khảo cho Việt Nam ở
đây là muốn giảm hỗ trợ ngân sách của nhà nước trung ương cho địa phương
thì phải tăng quyền tự quyết cho chính quyền địa phương nhằm kích thích
quyền tự chủ, tự quản theo xu thế hiện nay của Cộng hòa Pháp và Chính phủ
nhiều nước trên thế giới.
2.5.2. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở tại Liên bang Nga
Tại Liên bang Nga hiện nay, vấn đề thực hiện các quyền tự do dân chủ
của nhân dân cũng rất được nhà nước chú trọng, coi đó là một trong những
phương thức, nhân tố bảo đảm sự thành công của hoạt động quản lý nhà nước,
xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là trong
tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện các chính sách và pháp luật. Các
hình thức thực hiện dân chủ chủ yếu là dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp,
đặc biệt là dân chủ ở những cộng đồng lãnh thổ địa phương.
Dân chủ trực tiếp là hình thức tham gia của nhân dân vào hoạt động
quản lý nhà nước, giải quyết các vấn đề của nhà nước, của địa phương. Nhằm
bảo đảm cho nhân dân ở các địa phương có thể ra các quyết định độc lập về
những vấn đề của địa phương không phụ thuộc vào chính quyền trung ương,
đảm bảo cho họ có thể giải quyết tốt nhất các công việc của mình, nhà nước
Liên bang Nga đã đưa ra các quy định về tổ chức chính quyền địa phương tự
quản. Điều 131 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 quy định chính quyền
địa phương tự quản được tổ chức tại các thành phố, các khu vực ở nông thôn
có tính đến các điều kiện về lịch sử, văn hóa; cấu trúc của các cơ quan chính
quyền địa phương do nhân dân địa phương quyết định một cách độc lập. Ranh
82
giới lãnh thổ ở những nơi thành lập chính quyền địa phương tự quản chỉ có
thể thay đổi nếu được cộng đồng dân cư địa phương đồng ý.
Chính quyền địa phương tự quản được thực hiện bởi các công dân
thông qua trưng cầu dân ý, bầu cử và các hình thức thể hiện ý chí của họ, như
thông qua các cơ quan đại diện cho họ hoặc các cơ quan khác do chính quyền
địa phương tự quản bầu lên. Chính quyền tự quản có thể quản lý một cách độc
lập sở hữu công xã; hình thức, cách thức thông qua và cách thức thực hiện
ngân sách địa phương; việc thu các loại thuế ở địa phương; triển khai các biện
pháp thực hiện Luật và mệnh lệnh của các cơ quan nhà nước cấp trên và giải
quyết các vấn đề khác của địa phương. Các cơ quan chính quyền địa phương
tự quản có thể được chuyển giao theo quy định của Luật một số quyền lực nhà
nước cùng với chuyển giao các nguồn tài chính và vật chất cần thiết để thực
hiện quyền lực đó. Việc thực hiện các quyền lực nhà nước được chuyển giao
sẽ được giám sát bởi nhà nước [xem: 95, tr. 249 - 250].
Như vậy, hoạt động tự quản địa phương là một loại hình quản lý mà ở
đó rất nhiều vấn đề thuộc thẩm quyền của chính quyền do người dân trực tiếp
thảo luận, thông qua và nhiều vấn đề thuộc đời sống cộng đồng do nhân dân
tự quyết, như đảm bảo vệ sinh, an ninh trật tự... Với mô hình này, nhà nước
Liên bang Nga đã tạo điều kiện để người dân địa phương có thể thực hiện các
quyền dân chủ của mình - một hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Bài học kinh nghiệm, tham khảo cho Việt Nam: Ở Liên bang Nga,
ranh giới lãnh thổ ở những nơi thành lập chính quyền địa phương tự quản chỉ
có thể thay đổi nếu nhận được sự đồng ý của cộng đồng dân cư địa phương. Ở
nước ta không có mô hình chính quyền địa phương tự quản, nhưng Nhà nước
trung ương có thể trao cho chính quyền địa phương quyền tổ chức trưng cầu
ý kiến nhân dân trước khi thực hiện việc sáp nhập hoặc chia tách ranh giới
lãnh thổ các địa phương. Đó cũng là cách thức mở rộng, phát huy quyền dân
chủ của nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
2.5.3. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở địa phương tại Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa
83
Nhà nước Trung Hoa không ban hành một đạo luật riêng về thực hiện
dân chủ ở cơ sở; song trong các giải pháp xây dựng nông thôn mới hiện đại,
việc phát huy các quyền dân chủ của nhân dân thông qua bầu cử trực tiếp
chính quyền cấp cơ sở với những bước đi, cách làm phù hợp, luôn đổi mới là
khía cạnh đáng chú ý trong quá trình đi tới nền chính trị dân chủ ở cấp cơ sở,
đặc biệt là nông thôn. Báo cáo Chính trị tại Đại hội XVII Đảng Cộng sản
Trung Quốc đã chỉ rõ: “Nhân dân làm chủ là bản chất và cốt lõi của nền chính
trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cần kiện toàn chế độ dân chủ, làm phong phú
hình thức dân chủ. Trên con đường mở rộng dân chủ, việc thực hiện bầu cử là
một quyết sách quan trọng” [dẫn theo: 81].
Ở Trung Quốc, việc bầu cử trực tiếp người đứng đầu thị tứ, hương trấn
đã được thí điểm ở một số địa phương. Kết quả cho thấy, các cán bộ do người
dân lựa chọn trực tiếp được tôn trọng hơn, thực hiện chức trách, nhiệm vụ
hiệu quả hơn. Bầu cử trực tiếp Ủy ban thôn, chính quyền hương trấn là sự
sáng tạo trong công cuộc xây dựng nền chính trị dân chủ cơ sở ở nông thôn
Trung Quốc từ khi cải cách, mở cửa đến nay. Theo quy định pháp luật hiện
hành, bầu cử trực tiếp ở nông thôn bao gồm hai nội dung chính: một là, các
công dân từ 18 tuổi trở lên có quyền bầu chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, các ủy
viên ủy ban thôn; hai là, theo các khu vực bầu cử, các công dân trong thôn từ
18 tuổi trở lên có quyền bầu cử các đại biểu của Đại hội đại biểu nhân dân
hương trấn (tương đương HĐND cấp xã ở Việt Nam). Hiện nay, một số địa
phương ở Trung Quốc vẫn đang tích cực tìm tòi những cách bầu cử dân chủ
nhằm phát huy dân chủ của nhân dân nông thôn; bầu cử dân chủ được thực
hiện ở cả cấp thôn, gồm cả bầu cử ở chi bộ cấp thôn và bầu cử ủy ban thôn.
Đối với việc bầu ủy ban thôn, quy trình bầu cử được thực hiện qua ba
bước: Bước 1, hợp nhất hai khâu đề cử danh sách với chính thức bỏ phiếu làm
một, thực hành bầu cử không có người đề cử. Sau bầu cử lần một, những
người được số phiếu quá bán sẽ bước vào vòng bầu cử thứ hai. Bước 2, từ
những người chọn ra qua bước 1, cử tri thôn bầu người đề cử vào tổ chức ủy
ban, sau đó tiến hành các hình thức hoạt động tranh cử. Bước 3, tiến hành bỏ
84
phiếu để chọn ra những người trúng cử ủy ban thôn. Yêu cầu đặt ra là mỗi
người dân trong thôn phải tự mình đi bỏ phiếu, hết sức hạn chế hoặc xóa bỏ
việc bỏ phiếu hộ; những người đi làm ăn, buôn bán ở xa có thể bỏ phiếu theo
đường thư tín. Đa số người dân các vùng nông thôn Trung Quốc đều coi bầu
cử vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của mình. Đồng thời, hầu hết các thôn
đều có chế định nhất định để xử lý những trường hợp thiếu ý thức, không
tham gia bầu cử [xem: 81].
Bài học kinh nghiệm, tham khảo cho Việt Nam: Ở Trung Quốc, việc
bầu cử trực tiếp người đứng đầu thị tứ, hương trấn đã được thực hiện thí điểm
ở một số địa phương và đang được nhân rộng trên phạm vi toàn quốc. Người
đứng đầu thị tứ, hương trấn ở Trung Quốc tương ứng với chức danh Chủ tịch
UBND cấp xã ở Việt Nam, mặc dù dân số của thị tứ Trung Quốc thường lớn
hơn dân số tại các xã của Việt Nam. Chúng ta có thể cho phép thí điểm nhân
dân địa phương trực tiếp bầu chọn chức danh Chủ tịch UBND cấp xã trên cơ
sở tham khảo mô hình “hai lần bỏ phiếu”, mở rộng quyền của nhân dân trong
đề cử ứng viên theo “chế độ ba phiếu” mà Trung Quốc đang thực hiện.
2.5.4. Thực hiện pháp luật dân chủ ở địa phương tại Nhật Bản
Thiết chế chính quyền địa phương với tư cách là kênh thực hiện các
quyền dân chủ của người dân Nhật Bản là một trong những vấn đề quan trọng
được quy định và bảo đảm trong Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 - bản Hiến
pháp được xây dựng dưới sự bảo trợ của Mỹ nên chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi
các giá trị dân chủ của phương Tây. Hiến pháp trao nhiều quyền tự trị cho địa
phương, bởi lẽ, dân chúng ở đâu cũng thế, đều muốn tự cai quản xóm làng
của mình, nên để cho nhân dân các địa phương tự bầu ra người lãnh đạo của
địa phương mình, đối trọng lại chính quyền trung ương. Theo Hiến định,
chính quyền địa phương được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, là hình thức tự quản của dân cư địa phương trên cơ sở
nhân dân được quyền tự quyết định vận mệnh của chính mình.
Điều 92 Hiến pháp Nhật Bản quy định việc tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương được thực hiện theo nguyên tắc phối hợp sự tự quản
85
của các tổ chức và của cộng đồng cư dân địa phương. Tự quản của tổ chức có
nghĩa là mối quan hệ giữa chính quyền địa phương tại Nhật Bản và nhà nước
trung ương không phải quan hệ theo hình thức giám sát, mà là mối quan hệ tự
chủ và bình đẳng. Chính quyền địa phương có tư cách pháp nhân và độc lập
với nhà nước trung ương trong quản lý các công việc chung. Điều 94 của
Hiến pháp nước này quy định các tổ chức công quyền địa phương được trao
quyền hạn rộng rãi trong các vấn đề quản lý, tài chính, “có quyền quản lý tài
sản, công việc của mình và ban hành các quy định riêng trong khuôn khổ
pháp luật quy định”. Trong khi đó, tự quản của cộng đồng dân cư địa phương
có nghĩa là đòi hỏi việc tổ chức, hoạt động của một cơ quan chính quyền địa
phương phải phản ánh và đáp ứng đầy đủ nguyện vọng của nhân dân. Bản
Hiến pháp 1946 của Nhật Bản là một bước tiến lớn trên con đường dân chủ
hoá nước Nhật. Quá trình thực thi Hiến pháp ở Nhật Bản theo mô hình
phương Tây đã đem lại nhiều thay đổi cơ bản trong thang giá trị của xã hội
Nhật Bản, trước hết là các khía cạnh quyền dân chủ, tự do, bình đẳng, phân
quyền, đặc biệt là chủ nghĩa hoà bình. Nhờ vậy, nước Nhật từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai đến nay là một quốc gia ổn định, dân chủ, văn minh, đi theo
chủ nghĩa hoà bình và đạt trình độ phát triển thần kỳ.
Các cải cách chính quyền địa phương của Nhật Bản gần đây được thực
hiện gắn với chương trình phi tập trung hóa, dựa trên hai nguyên tắc: Một là,
nguyên tắc “từ trung ương về địa phương”, đồng nghĩa với việc chuyển giao
cho chính quyền địa phương những công việc và doanh nghiệp do trung ương
quản lý. Hai là, nguyên tắc “từ quan chức về người dân”, tức là phi điều tiết
các công việc hành chính và quản lý doanh nghiệp. Quá trình này đã thúc đẩy
mạnh mẽ sự phân công chức năng, nhiệm vụ giữa chính quyền trung ương và
chính quyền địa phương. Luật Chính quyền địa phương quy định: Cơ quan
chính quyền địa phương có vai trò, trách nhiệm thực hiện các chức năng quản
lý ở địa phương trên cơ sở độc lập hoặc cùng phối hợp với nhà nước trung
ương. Vai trò của nhà nước trung ương sẽ chỉ giới hạn trong các công việc có
liên quan đến sự tồn vong quốc gia, trong mối quan hệ với cộng đồng quốc tế.
86
Cuộc cải cách theo hướng phi tập trung hóa rất chú trọng đến việc mở rộng
quyền tự quản của tổ chức và cộng đồng dân cư địa phương, giảm bớt sự can
thiệp của chính phủ vào các công việc của chính quyền và cộng đồng dân cư
địa phương. Ở Nhật Bản, việc kiểm tra hành chính chung đối với các cơ quan
địa phương do Chính phủ trung ương thực hiện thông qua Bộ Về các vấn đề
tự quản địa phương [xem: 35].
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: Trước xu thế toàn cầu hoá và hội
nhập quốc tế, chính quyền địa phương ở Nhật Bản đã chủ động cải cách tổ
chức, hoạt động, nâng cao năng lực quản lý, điều hành, biết dựa vào sức dân
để giải quyết tốt hơn nhu cầu đời sống ngày càng cao của chính người dân.
Yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay là
phải xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh, vì nhân dân phục
vụ. Cách làm của Nhật Bản là bài học tham khảo cho Việt Nam trong vấn đề
dựa vào sức dân để khắc phục khó khăn, chủ động, sáng tạo trong quản lý,
điều hành để tạo điều kiện cho người dân tự nâng cao thu nhập, mức sống, cải
thiện cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống, sinh hoạt của cộng đồng dân cư, tránh
được sự ỷ lại và trông chờ vào trợ cấp từ Chính phủ. Việc chính quyền trung
ương tăng cường phân cấp, giao nhiều quyền tự chủ cho chính quyền và nhân
dân địa phương luôn song hành với sự kiểm tra, giám sát hoạt động của chính
quyền địa phương. Chính quyền địa phương phải tuân thủ mệnh lệnh, chỉ thị
và hoàn thành các công việc trực tiếp do chính quyền cấp trên giao.
2.5.5. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở địa phương tại Hàn Quốc
Hàn Quốc cũng là một quốc gia có một truyền thống lịch sử lâu đời về
tự quản địa phương, đặc trưng bởi các tổ chức tự nguyện không chính thức.
Trong Hiến pháp hiện nay có nhiều điều quy định về chính quyền địa phương;
Luật Tự quản địa phương là cơ sở đầu tiên cho hoạt động của chính quyền địa
phương và tự quản địa phương. Cơ chế tự quản của địa phương được thực
hiện thông qua các hội đồng do nhân dân địa phương trực tiếp bầu theo
phương thức phổ thông đầu phiếu. Tự quản địa phương chỉ có khi do nhân
87
dân bầu ra, cũng là cách thức để nhân dân địa phương có thể thực hiện quyền
dân chủ mà Hiến pháp, pháp luật trao cho họ.
Theo Luật Tự quản địa phương, Chính phủ có quyền can thiệp vào
công việc hàng ngày của chính quyền địa phương các cấp. Luật này cũng quy
định Chính phủ giám sát chính quyền địa phương cấp cao (thành phố trực
thuộc trung ương); chính quyền địa phương cấp tỉnh giám sát chính quyền đô
thị cấp cơ sở (thành phố thuộc tỉnh). Cũng theo Luật Tự quản địa phương, hệ
thống chính quyền địa phương ở Hàn Quốc chia thành hai cấp: cấp trên và
cấp dưới. Hiện có nay có 16 đơn vị chính quyền địa phương cấp trên (7 thành
phố trực thuộc trung ương và 9 tỉnh) và 232 chính quyền địa phương cấp
dưới, trong đó có 98 hạt, 66 thành phố và 68 quận [xem: 35]. Việc giám sát
của chính quyền trung ương về hành chính là nội dung quan trọng và thường
đạt hiệu quả cao. Chính quyền địa phương phải tuân thủ các quyết định, chỉ
đạo của chính quyền cấp trên thông qua các biện pháp cưỡng chế về hành
chính, như chỉ thị, thanh tra, kiểm soát... Khi có công việc trực tiếp mang tính
chất quốc gia thì chính quyền trung ương sẽ hỗ trợ cho chính quyền địa
phương tài chính, kỹ thuật. Ngoài ra, chính quyền trung ương còn giải quyết
các mâu thuẫn về lợi ích giữa các chính quyền địa phương.
Ngày nay, Chính phủ Hàn Quốc đang tiến hành cải cách mạnh mẽ tổ
chức và hoạt động của chính quyền địa phương nhằm đáp ứng một cách tốt
nhất nhu cầu của người dân, như chuyển dần từ mô hình nhà nước là đơn vị
sản xuất cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho người dân sang mô hình đưa người
dân vào tự sản xuất hàng hoá và dịch vụ công nhằm giảm giá thành, nâng cao
chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ; chính quyền trung ương mạnh dạn
trao quyền cho chính quyền địa phương tự quyết định những vấn đề cơ bản
liên quan đến đời sống của người dân địa phương,. tạo nhiều cơ hội để họ tự
nâng cao chất lượng đời sống của bản thân và cộng đồng [xem: 8].
Bài học kinh nghiệm, tham khảo cho Việt Nam: Tổ chức đơn vị hành
chính của chính quyền địa phương ở Hàn Quốc ít thay đổi qua các thời kỳ lịch
sử. Các đơn vị hành chính địa phương ở Hàn Quốc thường được mở rộng về
88
diện tích khi có đủ điều kiện về dân số, sự phát triển về công nghiệp, dịch vụ.
Từ kinh nghiệm đó, Việt Nam chúng ta có thể tham khảo, nghiên cứu mô
hình này của Hàn Quốc, không nên chia nhỏ các đơn vị hành chính, mà tùy
thuộc tình hình thực tế có thể mở rộng, sáp nhập các đơn vị hành chính lại
với nhau để thuận tiện cho quản lý và có điều kiện phục vụ các nhu cầu của
nhân dân tốt hơn trên cơ sở tôn trọng ý kiến của nhân dân địa phương. Điều
này phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 110 Hiến pháp năm 2013, theo đó,
“Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính
phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định”.
Chính quyền địa phương ở Hàn Quốc đã chủ động cải cách tổ chức,
hoạt động, nâng cao năng lực quản lý, điều hành, biết dựa vào sức dân để giải
quyết tốt hơn nhu cầu đời sống ngày càng cao của chính người dân. Cách làm
của Hàn Quốc là bài học tham khảo cho Việt Nam trong vấn đề dựa vào sức
dân để khắc phục khó khăn, chủ động, sáng tạo trong quản lý, điều hành để
tạo điều kiện cho người dân tự nâng cao thu nhập, mức sống, cải thiện cơ sở
hạ tầng phục vụ đời sống, sinh hoạt của cộng đồng dân cư, tránh được sự ỷ lại
và trông chờ vào trợ cấp từ Chính phủ.
Kết luận chương 2
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một hình thức/phương thức
tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam đang đặt ra cho hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã
các yêu cầu: khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước ta; bảo đảm tính tối
cao của pháp luật; nguyên tắc thực hành nền dân chủ XHCN; bảo đảm các cơ
chế, chính sách và biện pháp nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân
dân; bảo đảm thực hiện quyền con người.
Dân chủ ở cấp xã là biểu hiện cụ thể của nền dân chủ XHCN, là sự
đảm bảo nguyên tắc toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân tại địa bàn
xã, phường, thị trấn trên cơ sở thực hiện quyền được biết, quyền được bàn và
quyết định, quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền
quyết định và quyền giám sát đối với những nội dung có liên quan tới đời
89
sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của người dân ở xã, phường, thị trấn
bằng những hình thức nhất định, phù hợp với các nguyên tắc, quy định của
pháp luật. Pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là hệ thống các quy định về
những nội dung dân chủ ở cấp xã nói trên.
THPL về dân chủ ở cấp xã là quá trình triển khai các hoạt động của
nhiều chủ thể bảo đảm nội dung thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đi
vào thực tiễn đời sống xã hội cơ sở, trở thành những hành vi pháp luật thực tế
hợp pháp của chính quyền, cán bộ, công chức cấp xã, cán bộ thôn, tổ dân phố,
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và nhân dân địa phương nhằm phát
huy quyền làm chủ của nhân dân; thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà
nước, quản lý xã hội; kiểm tra, giám sát các hoạt động của chính quyền cấp cơ
sở; góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội trên địa bàn xã, phường,
thị trấn, thông qua các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử
dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Giữa THPL về dân chủ ở cấp xã và xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với nhau; tác động
lẫn nhau trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam theo định
hướng XHCN. THPL về dân chủ ở cấp xã là đòi hỏi tất yếu, khách quan của
tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, là sự thể hiện
sinh động bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta. Ngược lại, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhân tố bảo đảm cho việc THPL
về dân chủ ở cấp xã thông qua việc Nhà nước xây dựng, ban hành và ngày
càng hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã và tạo các điều kiện
cần thiết về kinh tế, chính trị, văn hóa và pháp luật cho hoạt động này.
Việc THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam đòi hỏi phải bảo đảm các điều kiện về kinh tế, chính
trị, văn hóa - xã hội và pháp luật. Từ sự khảo sát vấn đề THPL về dân chủ ở
địa phương, dân chủ cơ sở tại một số nước trên thế giới, gồm Cộng hòa Pháp,
Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản và Hàn Quốc, luận
án đã rút ra được những bài học có giá trị tham khảo cho Việt Nam.
90
Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN
CHỦ Ở CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TỪ NĂM 1998 ĐẾN NAY3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ
3.1.1. Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về thực hiện dân
chủ ở cấp xã
3.1.1.1. Bối cảnh ra đời các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện
dân chủ ở cấp xã
Ở Việt Nam, ngay từ những năm đất nước còn nằm dưới ách thống trị
của thực dân, phong kiến và cho đến ngày nay, vấn đề dân chủ và thực hiện
dân chủ vẫn luôn luôn là những chủ đề thường xuyên được nhắc đến, một
mặt, như là mục tiêu của cuộc đấu tranh giải phóng, giành lại độc lập cho dân
tộc Việt Nam, đem lại tự do, hạnh phúc cho con người; mặt khác, trở thành
một trong những giá trị và đặc trưng của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà ở đó, xã hội
ta từng bước phát triển từ việc đảm bảo cho mọi người “ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành” tiến tới thực hiện mục tiêu cao cả hơn là xây
dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh” trong một Nhà nước pháp quyền XHCN.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta đã thông qua
đường lối đổi mới. Đến Đại hội lần thứ VII (1991), Đảng ra Nghị quyết về
đẩy mạnh tiến trình đổi mới và đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới về
chính trị. Trong những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, do những hạn chế,
bất cập của cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp trước đây, chưa thích
ứng kịp với thời kỳ đổi mới cùng với những yếu kém trong nhận thức của đội
ngũ CBCC về vai trò của dân chủ và thực hành dân chủ trong đời sống xã hội
nên tình trạng mất dân chủ ở cơ sở đã diễn ra nghiêm trọng ở nhiều nơi, làm
suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, gây mất an ninh và
trật tự xã hội ở nhiều địa phương. Chẳng hạn, tỉnh Thái Bình thời kỳ đó đã trở
91
thành một “điểm nóng” về trật tự xã hội, bất ổn về chính trị. Tháng 5/1997, ở
Thái Bình đã xảy ra tình trạng khiếu kiện đông người, gây mất ổn định chính
trị và trật tự an toàn xã hội. Sau sự kiện trên, Đảng, Nhà nước cùng với các
cấp ủy, chính quyền địa phương đã tổ chức các cuộc họp rút kinh nghiệm, tìm
ra nguyên nhân, đề ra các giải pháp sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm,
thiếu sót trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cả hệ thống chính trị.
Một trong những kết luận quan trọng được rút ra là: muốn giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo trật tự kỷ cương, an toàn xã hội trên địa bàn xã, phường,
thị trấn thì cần phải nhanh chóng xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện
nghiêm túc pháp luật về dân chủ ở cấp xã.
Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CT-TW về việc xây
dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị 30/CT-TW được ban
hành trong bối cảnh “quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi,
trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách
nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta
vẫn chưa đẩy lùi, ngăn chặn được. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” chưa được cụ thể hóa và thể chế hóa thành pháp luật”. Chính vì
vậy, nội dung cốt lõi được nhấn mạnh trong Chỉ thị là:
Để giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta phải
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản
lý Nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát Nhà nước, khắc phục tình
trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Khâu quan
trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở
cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở, là
nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực
tiếp và rộng rãi nhất [6, tr. 4].
Để luật hóa nội dung chỉ đạo tại Chỉ thị 30/CT-TW, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ra Nghị quyết số 45-1998/NQ-
UBTVQH10 ngày 26/2/1998 về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở
92
xã, phường, thị trấn (Nghị quyết 45). Nghị quyết 45 trước hết nhắc lại và
khẳng định phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, lấy đó
làm cơ sở để “giao Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn”. Theo tinh thần Nghị quyết 45, Quy chế phải đảm bảo tăng
cường sự tham gia của nhân dân (lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, những
vấn đề được đưa ra để nhân dân thảo luận và quyết định, nhân dân giám sát
và kiểm tra); quyền tiếp cận thông tin của nhân dân và trách nhiệm giải trình
của cơ quan chính quyền địa phương (báo cáo các quyết định để nhân dân
biết và thực hiện, thông tin cho nhân dân biết chủ trương, chính sách của Nhà
nước, báo cáo thu chi ngân sách và quyết toán, tiếp dân và báo cáo kết quả
giải quyết...).
Ngay sau khi Nghị quyết 45 được ban hành, Chính phủ đã nhanh chóng
thể chế hóa thành các Nghị định của Chính phủ. Đầu tiên là Nghị định số
29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ Về việc ban hành Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã (Nghị định 29). Sau 5 năm thực hiện Nghị định 29
cũng như quán triệt ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng tại Chỉ
thị số 10/CT-TW ngày 28/3/2002 Về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (Chỉ thị 10), Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã.
Năm 2007 đánh dấu một mốc quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý
về thực hiện dân chủ ở cấp xã với việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông
qua Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Cùng với các Nghị định, Pháp lệnh, các cơ quan hữu quan cũng đã ban
hành các quyết định và thông tư hướng dẫn về việc thực hiện dân chủ ở cấp
xã. Như vậy, cho đến nay, khung pháp lý ở tầm vĩ mô điều chỉnh hoạt động
thực hiện dân chủ ở cấp xã ở nước ta đã và đang từng bước được hoàn thiện.
3.1.1.2. Nội dung chính của các văn bản quy phạm pháp luật về thực
hiện dân chủ ở cấp xã
a) Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Ban hành kèm theo Nghị định số29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ)
93
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Quy chế năm 1998), quy định vềnhững việc chính quyền địa phương phải thông tin và công khai để dân biết,những việc dân bàn và quyết định trực tiếp, những việc dân tham gia ý kiếntrước khi cơ quan Nhà nước quyết định, những việc dân giám sát, kiểm tra và
các hình thức thực hiện quy chế dân chủ, các quy tắc xây dựng cộng đồng dâncư thôn, làng, ấp, bản. Sau Lời nói đầu, Quy chế năm 1998 gồm 7 chương, 25điều; trong đó, chương I- Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 3);
Chương II-Những việc cần thông báo để nhân dân biết (Điều 4 và Điều 5);
Chương III-Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp (từ Điều 6 đến
Điều 8); Chương IV-Những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân xã quyết định (Điều 9 và Điều 10); Chương V-
Những việc nhân dân giám sát, kiểm tra (Điều 11 và Điều 12); Chương VI-Xây dựng cộng đồng dân cư thôn, làng, ấp, bản (từ Điều 13 đến Điều 17) và
Chương VII-Điều khoản thi hành (từ Điều 18 đến Điều 25). Mục đích của
Quy chế năm 1998 được thể hiện rõ ràng ngay tại Điều 1:
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã nhằm phát huy quyền làm chủ, sứcsáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần tolớn của nông dân và nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị,xã hội, tăng cường đoàn kết nông thôn, cải thiện dân sinh, nâng cao dântrí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch,vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu,
tham nhũng, góp phần vào sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội côngbằng, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa [9, Điều 1].b) Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Ban hành kèm theo Nghị định số
79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính phủ)
Quy chế năm 2003 vẫn gồm 7 chương, 25 điều; song, về mặt kỹ thuật
lập quy, đã có sự chỉnh sửa, bổ sung theo hướng cụ thể, rõ ràng hơn nhằm
tăng cường vai trò, trách nhiệm của bộ máy chính quyền cấp cơ sở trong việc
thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Cụ thể, Quy chế năm 2003 đã
bổ sung thêm Điều 1 vào chương I-Những quy định chung; trong đó nêu rõ:
Quy chế này quy định cụ thể những việc Hội đồng nhân dân và Uỷ bannhân dân xã phải thông tin kịp thời và công khai để dân biết; những
94
việc dân bàn và quyết định trực tiếp; những việc dân tham gia ý kiếntrước khi cơ quan nhà nước quyết định; những việc dân giám sát, kiểmtra và các hình thức thực hiện Quy chế dân chủ ở xã [10, Điều 1].So với Quy chế năm 1998, Quy chế năm 2003 bổ sung thêm Điều 14
quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân đối với việc giámsát và kiểm tra của nhân dân. Điều 14 cũng quy định rõ: “Nhân dân khôngđược tụ tập đông người khiếu kiện vượt cấp, gây mất trận tự an ninh và chốngđối người thi hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được xem xét, giảiquyết theo quy định của pháp luật”.
c) Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 gồm 6
chương, 28 điều với những nội dung chính: Chương I. Những quy định chung
gồm 4 điều (từ Điều 1 đến Điều 4), trong đó quy định phạm vi điều chỉnh;
nguyên tắc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã);
trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã; các hành vi bị nghiêm cấm.
Chương II. Những nội dung công khai để nhân dân biết gồm 5 điều (từ Điều 5
đến Điều 9) quy định những nội dung công khai; hình thức công khai; việc
công khai bằng hình thức niêm yết; việc công khai trên hệ thống truyền thanh
và thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân;
trách nhiệm tổ chức thực hiện các nội dung công khai. Chương III. Những nội
dung nhân dân bàn và quyết định. Nội dung chương này chia thành 3 mục,
gồm 9 điều (từ Điều 10 đến Điều 18), quy định những nội dung nhân dân bàn
và quyết định trực tiếp; hình thức nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; giá trị
thi hành đối với những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; những nội
dung nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định; hình thức
nhân dân bàn, biểu quyết; giá trị thi hành đối với những việc nhân dân bàn,
biểu quyết; việc công nhận những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết; trách
nhiệm của UBND cấp xã, Chủ tịch UBND cấp xã; trách nhiệm của Trưởng
thôn, Tổ trưởng tổ dân phố trong việc thực hiện những nội dung nhân dân bàn
và quyết định. Chương IV. Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước
95
khi cơ quan có thẩm quyền quyết định gồm 4 điều (từ Điều 19 đến Điều 22),
trong đó quy định những nội dung nhân dân tham gia ý kiến; hình thức để
nhân dân tham gia ý kiến; trách nhiệm của chính quyền cấp xã về tổ chức
thực hiện những nội dung nhân dân tham gia ý kiến; trách nhiệm của cơ quan
có thẩm quyền cấp trên về tổ chức thực hiện những nội dung nhân dân cấp xã
tham gia ý kiến. Chương V. Những nội dung nhân dân giám sát gồm 4 điều
(từ Điều 23 đến Điều 26) quy định những nội dung nhân dân giám sát; hình
thức giám sát; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện
giám sát của nhân dân; lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch
HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã. Chương VI. Điều khoản thi
hành gồm 2 điều (Điều 27 và Điều 28) quy định hiệu lực thi hành và hướng
dẫn thi hành Pháp lệnh.
3.1.2. Những thành tựu, ưu điểm và tồn tại, hạn chế của pháp luật về dân
chủ ở cấp xã ở Việt Nam nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3.1.2.1. Những thành tựu, ưu điểm
Việc đánh giá những thành tựu, ưu điểm và cả những tồn tại, hạn chế
của hệ thống các văn bản QPPL về thực hiện dân chủ ở cấp xã ở nước ta hiện
nay cần phải xuất phát từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam. Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN là
tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ, đồng thời
tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Bởi vậy, để khẳng định bản chất dân chủ thực
sự của Nhà nước ta thì cần “quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự
phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam ký kết” [21, tr. 239]. Trong Nhà nước pháp quyền
XHCN, việc thực hiện dân chủ một cách thực chất sẽ đồng nghĩa với sự đảm
bảo tối đa các quyền con người được tôn trọng và bảo vệ; ngược lại, việc thực
hiện trên thực tế quyền con người sẽ xác lập và tạo dựng được một nền dân
96
chủ bền vững. Như vậy, tạo dựng, thực hành dân chủ, bảo vệ quyền con
người là một yêu cầu, đòi hỏi tất yếu của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam.
Nhìn từ góc độ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, có
thể nói, việc Nhà nước ta xây dựng, ban hành các văn bản QPPL về thực hiện
dân chủ ở cấp xã là một phát kiến lớn, một phương thức hay, hữu hiệu nhằm
phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở một cách thực chất nhất. Với sự
ra đời của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (ban hành kèm theo Nghị định số
29/1998/NĐ-CP), lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, lập quy Nhà nước ta đã
tạo ra một công cụ pháp lý về thực hiện dân chủ, trao cho các tầng lớp nhân
dân ở xã, phường, thị trấn những quyền dân chủ thực sự. Đó là: 1) Quyền
được biết các nội dung liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân ở
cơ sở; 2) Quyền được bàn và quyết định trực tiếp, bàn và biểu quyết để cấp có
thẩm quyền quyết định đối với những vấn đề quan trọng của địa phương; 3)
Quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; 4)
Quyền giám sát đối với tất cả các nội dung mà nhân dân được công khai để
biết; được bàn và quyết định trực tiếp, được bàn và biểu quyết; được tham gia
ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định. Có thể nói, việc Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã được ban hành và đi vào thực tiễn cuộc sống là một
chủ trương đúng đắn, kịp thời, hợp “ý Đảng, lòng dân”, đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nên đã tạo ra được bầu không khí dân chủ
thực sự, niềm tin tưởng trong nhân dân, được đông đảo các tầng lớp nhân dân
đồng tình và hưởng ứng nhiệt liệt.
Ngày 07/7/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2003/NĐ-CP về
việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (thay thế Nghị định số
29/1998/NĐ-CP). Về cơ bản, bản Quy chế này vẫn giữ nguyên những nội
dung cốt lõi về các quyền dân chủ của nhân dân đã được quy định trong Nghị
định 29/1998/NĐ-CP, chỉ có một số sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đi vào
thực chất hơn, cụ thể hơn cả về nội dung, hình thức, việc làm và đối tượng
thực hiện theo hướng tăng cường vai trò, trách nhiệm của bộ máy chính
97
quyền cấp xã trong việc thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Trên thực
tế, Nghị định 79/2003/NĐ-CP là bước chuyển và chuẩn bị tiếp theo để nâng
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã thành Pháp lệnh hoặc Luật theo chỉ đạo của
Ban Bí thư Trung ương Đảng nêu trong Chỉ thị số 10/CT-TW. Có thể coi đây
là ưu điểm, bước phát triển mới trong hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ
ở cấp xã, khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng và nỗ lực của Nhà nước ta
trong việc thúc đẩy nhân dân phát huy quyền làm chủ.
Ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh
Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2007. Pháp lệnh là bước phát triển tiếp theo, hoàn thiện hơn pháp luật về
thực hiện dân chủ ở cấp xã. So với Quy chế thực hiện dân chủ ở xã trước đây,
Pháp lệnh có những điểm mới, cũng là những ưu điểm sau đây:
- Pháp lệnh tập trung nhiều hơn vào những nội dung quan trọng, thiết
thực đối với người dân ở cơ sở, không còn những nội dung như Nghị quyết
của HĐND xã, sơ kết, tổng kết hoạt động của HĐND, UBND xã.
- Pháp lệnh quy định chi tiết và cụ thể hơn nhiều về các hình thức thực
hiện dân chủ ở cấp xã cũng như vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và cá
nhân trong hệ thống cơ quan công quyền cấp xã.
- Pháp lệnh quy định rõ ràng, cụ thể về “Giá trị thi hành” của những
quyết định, biểu quyết của người dân - điều không có trong Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã năm 1998 và Quy chế thực hiện dân chủ ở xã năm 2003.
Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là một công cụ
pháp lý mạnh để đảm bảo tính dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động
của bộ máy chính quyền cấp xã, phát huy các quyền dân chủ của nhân dân,
thúc đẩy sự tham gia chủ động, tích cực hơn của người dân vào đời sống
chính trị - xã hội ở cơ sở, bảo vệ các quyền con người. Đây là những giá trị
mà các tổ chức xã hội dân sự thường hay đề cao và vận động thực hiện; đồng
thời, là một trong những tiêu chí cốt lõi của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Bản chất của thực hiện dân chủ chính là bảo vệ quyền con người; việc thực
hiện quyền con người lại là minh chứng khẳng định sự tồn tại của dân chủ và
98
nó chỉ có thể được đảm bảo trong một xã hội dân chủ. Những kết quả tích cực
của việc thực hiện dân chủ ở cấp xã ở nước ta trong thời gian qua cho thấy
việc đảm bảo quyền con người ở nước ta ngày càng tiến bộ. Có được những
thành tựu đó là do Đảng ta đã có sự lãnh đạo, định hướng đúng đắn, Nhà nước
ta đã kịp thời xây dựng, ban hành và ngày càng hoàn thiện hệ thống văn bản
QPPL về thực hiện dân chủ ở cấp xã, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN.
3.1.2.2. Những tồn tại, hạn chế
Nhìn từ góc độ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam,
Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng đang bộc lộ những
tồn tại, hạn chế nhất định, như:
- Pháp lệnh không quy định thẩm quyền, chức năng của các cấp cao
hơn trong việc theo dõi, kiểm tra và đánh giá việc chính quyền cấp xã triển
khai THPL về dân chủ ở cấp xã như thế nào, có đúng quy định pháp luật
không. Hạn chế này có thể dẫn đến hai trạng thái đối lập nhau trong hoạt động
kiểm tra, đánh giá: hoặc là chính quyền cấp xã được nhiều cơ quan cấp trên
“thăm hỏi” thường xuyên bởi họ tự cho mình cái quyền kiểm tra, đánh giá;
hoặc là hoạt động kiểm tra, đánh giá việc chính quyền cấp xã triển khai THPL
về dân chủ ở cấp xã bị “rơi vào quên lãng” vì cơ quan cấp trên nào cũng nghĩ
“không thuộc trách nhiệm của mình”. Bất luận thế nào thì điều đó cũng ảnh
hưởng tiêu cực đến hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã.
- Ngoài MTTQ và các tổ chức thành viên, Pháp lệnh không đề cập đến
sự giám sát độc lập việc thực hiện dân chủ ở cấp xã bởi các tổ chức xã hội
dân sự khác. Hạn chế này có thể làm phát sinh tình trạng dung túng, bao che
lẫn nhau giữa các cơ quan, tổ chức đó mà không bị phát hiện, xử lý kịp thời.
- Pháp lệnh không đề cập đến tính chịu trách nhiệm của các chủ thể cụ
thể liên quan đến hệ quả của việc tuân thủ hoặc không tuân thủ pháp luật về
thực hiện dân chủ ở cấp xã; không quy định các biện pháp cụ thể có thể áp
dụng để xử lý các vi phạm pháp luật liên quan đến công tác thực hiện dân chủ
ở cấp xã. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc phát hiện và xử lý các hành
99
vi vi phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã còn chậm trễ, bị động,
chưa nghiêm minh và thiếu sự răn đe cần thiết. Trong khi đó, tình trạng vi
phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã vẫn diễn ra, như các quyền dân
chủ của nhân dân có lúc. có nơi vẫn bị vi phạm; còn có hiện tượng né tránh,
không thực hiện hoặc làm trái các quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã;
còn có hiện tượng đe dọa, trù dập người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị có liên
quan đến việc thực hiện dân chủ ở cấp xã...
- Nguồn kinh phí chi cho hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã vẫn là
một vấn đề còn để ngỏ, chưa được đề cập cụ thể trong Pháp lệnh Thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Trong khi đó, nếu điều kiện kinh tế không cho
phép, nguồn chi ngân sách nhà nước cho công tác THPL, gồm cả THPL về
dân chủ ở cấp xã, còn khó khăn, eo hẹp hoặc không được cấp thì hoạt động
THPL về dân chủ ở cấp xã khó mà đạt được kết quả như mong muốn.
- Pháp lệnh cũng không đề cập đến việc nâng cao nhận thức, tập huấn
các chuyên đề pháp luật hoặc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ
năng nghiệp vụ thực thi pháp luật cho đội ngũ CBCC cấp xã, Trưởng thôn, Tổ
trương Tổ dân phố - những chủ thể đóng vai trò quyết định trong việc thực
hiện có hiệu quả Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, như Chủ
tịch UBND xã, người đứng đầu các tổ chức, đoàn thể nhân dân.v.v. Nguồn
nhân lực chất lượng thấp sẽ là lực cản, trở ngại lớn đối với việc triển khai có
hiệu quả hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã. Việc thực hiện theo kiểu hình
thức, đối phó khó mà tránh được.
Cũng từ những tồn tại, hạn chế trong các văn bản QPPL về thực hiện
dân chủ ở cấp xã nên những hạn chế, bất cập trong công tác THPL về dân chủ
ở cấp xã trong những năm qua cũng không phải là nhỏ; vẫn còn tình trạng vi
phạm các quyền dân chủ của nhân dân. Có một thực tế là ở nhiều nơi việc
THPL về dân chủ ở cấp xã còn mang tính hình thức; nhận thức của các cấp ủy
Đảng, chính quyền và các CBCC cấp xã còn hạn chế và thụ động, vai trò tiên
phong gương mẫu của một số CBCC, đảng viên trong THPL về dân chủ ở cấp
xã chưa cao.
100
3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ
THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở NƯỚC TA TỪ NĂM 1998 ĐẾN NAY
Việc đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của một vấn đề, sự
kiện, hiện tượng xã hội nhất định, trong đó có vấn đề THPL về dân chủ ở cấp
xã, luôn đòi hỏi, bên cạnh cơ sở lý luận, phải có những luận cứ thực tiễn.
Luận cứ thực tiễn sẽ giúp cho việc phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên
nhân của vấn đề mang tính đúng đắn, khách quan và khoa học, tránh được sự
suy diễn chủ quan, duy ý chí. Theo nguyên tắc đó, để tìm kiếm luận cứ thực
tiễn cho việc đánh giá đúng thực trạng THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta
trong những năm qua, tác giả luận án đã sử dụng phương pháp ĐTXHH thông
qua việc tiến hành xây dựng, phát ra, thu về và xử lý số liệu các Phiếu thu
thập ý kiến: Mẫu phiếu dành cho cán bộ, công chức cấp xã (phát ra 1000
phiếu, thu về 967 phiếu) và Mẫu phiếu dành cho nhân dân ở xã, phường, thị
trấn (phát ra 1500 phiếu, thu về 1389 phiếu) tại 102 xã, phường, thị trấn ở 53
quận, huyện, thành phố, thị xã thuộc 19 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
với các câu hỏi liên quan tới các khía cạnh khác nhau của hoạt động THPL
về dân chủ ở cấp xã. Sở dĩ cần tới hai mẫu phiếu với hai đối tượng khảo sát
khác nhau là để tác giả có thể so sánh, đối chiếu ý kiến của hai đối tượng này
trước cùng một vấn đề., qua đó khẳng định độ tin cậy của kết quả thu được.
Cuộc ĐTXHH có mục đích phục vụ trực tiếp cho việc viết luận án, bởi vậy,
các bảng số liệu và từng số liệu cụ thể được sử dụng trong luận án này, nếu
không có sự dẫn nguồn cụ thể, thì có nghĩa đó là các bảng số liệu và số liệu
được khai thác từ cuộc ĐTXHH do chính tác giả luận án thực hiện. Các mẫu
phiếu thu thập ý kiến và kết quả xử lý phiếu được trình bày ở phần Phụ lục.
Dưới góc độ khoa học Lý luận nhà nước và pháp luật, THPL nói chung,
THPL về dân chủ ở cấp xã nói riêng có bốn hình thức cơ bản là: tuân theo
pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Do đó,
việc đánh giá những thành tựu, kết quả đạt được trong THPL về dân chủ ở
cấp xã, về nguyên tắc, nhất thiết phải dựa trên các hình thức cơ bản đó.
101
Trong bốn hình thức THPL nêu trên, tuân theo pháp luật trong THPLvề dân chủ ở cấp xã là hình thức THPL, trong đó, các chủ thể pháp luật tựkiềm chế để không thực hiện những hành vi, hoạt động mà pháp luật về dânchủ ở cấp xã nghiêm cấm, không cho phép thực hiện. Đó là những hành vi bịnghiêm cấm quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn. Việc quy định các hành vi bị nghiêm cấm là nhằm đảm bảocho pháp luật về dân chủ ở cấp xã được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm
túc; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của các cánhân. Nếu cá nhân nào đó thực hiện các hành vi bị nghiêm cấm nói trên,
nghĩa là không tuân thủ pháp luật về dân chủ ở cấp xã, thì có thể bị xử lý theoluật định. Tuân theo pháp luật về dân chủ ở cấp xã chưa làm phát sinh quanhệ pháp luật.
Nhìn chung, tất cả các chủ thể có liên quan đến hoạt động THPL về dânchủ ở cấp xã đều có ý thức cao trong việc tôn trọng, tuân thủ pháp luật vềthực hiện dân chủ ở cấp xã. Trong báo cáo về tình hình thực hiện dân chủ ởxã, phường, thị trấn của các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương cũng nhưtrong Kết luận của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW củaBộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở đềukhông ghi nhận trường hợp nào bị xử lý hành chính hay xử lý trách nhiệmhình sự về những hành vi có liên quan đến THPL về dân chủ ở cấp xã. Vì
vậy, luận án chỉ tập trung đánh giá thực trạng THPL ở nước ta trên ba
phương diện: chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.3.2.1. Những thành tựu, kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cấp xã ở nước ta
3.2.1.1. Trên phương diện thi hành pháp luật
Trong hình thức thi hành pháp luật, các chủ thể pháp luật thực hiện
trách nhiệm, nghĩa vụ pháp lý của mình bằng những hành động tích cực được
quy định trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Hình thức
này được thực hiện đối với những điều luật quy định về nguyên tắc và trách
nhiệm thực hiện dân chủ ở cấp xã, như Điều 3, Điều 9, Điều 17, Điều 18...
Trách nhiệm chung thuộc về HĐND, UBND cấp xã phối hợp với MTTQ Việt
102
Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp. Trách nhiệm cụ thể đối với những
công việc cụ thể, như công khai thông tin, tổ chức họp thôn, họp tổ dân phố...
thuộc về UBND cấp xã, Chủ tịch UBND cấp xã. Nhìn trên phương diện thi
hành pháp luật, công tác THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta trong những
năm qua đã đạt được những thành tựu, kết quả sau đây:
a) Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện dân chủ ởcấp xã: Một trong những công việc đầu tiên mà chính quyền cấp xã có trách
nhiệm thực hiện trong chấp hành pháp luật là triển khai tuyên truyền, phổbiến pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã. Nhìn chung, chính quyền cấp xã
trên phạm vi cả nước đều đã nhanh chóng triển khai công tác phổ biến, tuyên
truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho các tầng lớp nhân dân trên
địa bàn xã, phường, thị trấn. Điều này đã được 96.28% CBCC cấp xã và
92.51% người dân tham gia cuộc ĐTXHH khẳng định [xem: Phụ lục 3 và 5].
Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấpxã cho các tầng lớp nhân dân được chính quyền xã thực hiện bằng các hình
thức chủ yếu: niêm yết văn bản luật tại các Nhà văn hóa thôn, trụ sở UBND
xã (61.53% CBCC cấp xã và 55.36% người dân tham gia trả lời bảng hỏi ghinhận hình thức này); phổ biến, tuyên truyền qua hệ thống truyền thanh củaxã, phường, thị trấn (68.77% và 66.52%); tổ chức các cuộc họp dân theothôn, tổ dân phố để phổ biến, tuyên truyền (73.94% và 67.96%). Như vậy, các
hình thức phổ biến, tuyên truyền nêu trên đều được CBCC cấp xã và ngườidân tham gia cuộc khảo sát ghi nhận với tỷ lệ tương đối cao, từ 55.36% trởlên; cao nhất là 73.94%. Chiếm tỷ lệ thấp nhất là hình thức phát miễn phí tài
liệu pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho từng gia đình với 28.95%
CBCC cấp xã và 25.05% người dân ghi nhận hình thức này [xem Phụ lục 3 và
5]. Chẳng hạn, trên địa bàn thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa:
Việc phổ biến, quán triệt, học tập nội dung Chỉ thị, Nghị định, Pháplệnh từ thành phố đến các đơn vị, cơ sở được thực hiện bằng nhiều hình
thức, như mở các lớp tập huấn cho báo cáo viên, tuyên truyền viên,
tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh, trực tiếp bằng văn bản và
thông qua các hội nghị để triển khai. Kết quả có 37/37 phường, xã và
103
418/418 phố, thôn triển khai thực hiện Pháp lệnh với trên 85% hộ dânvà trên 90% cán bộ, đảng viên được tiếp thu [xem: 15].
b) Về nhận thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã: Kết
quả triển khai công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ
ở cấp xã đã giúp nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của đội ngũ
CBCC cấp xã; ý thức pháp luật của nhân dân cũng được nâng lên ở những
mức độ nhất định. Nhận thức của đội ngũ CBCC cấp xã và nhân dân các xã,
phường, thị trấn về vai trò của việc THPL về lĩnh vực này đã có sự chuyển
biến mạnh mẽ và từng bước được nâng cao. Theo kết quả ĐTXHH của tác giả,
đại đa số CBCC cấp xã (827/967 người, chiếm 90.18%) được hỏi trả lời rằng,
họ đã được tham dự các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên đề pháp luật về thực
hiện dân chủ ở cấp xã mỗi khi có văn bản QPPL về lĩnh vực này được ban
hành; từ đó, họ đều đánh giá rằng, việc THPL về dân chủ ở cấp xã có vai trò
rất quan trọng (77.56%) và quan trọng (21.61%) đối với việc phát huy quyền
làm chủ của nhân dân địa phương (tổng cộng là 99.17%). Về phía nhân dân ở
xã, phường, thị trấn cũng có tới 1242/1389 người được hỏi (chiếm 89.42%)
trả lời là họ có được biết đến các văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ ở
cấp xã mỗi khi có văn bản QPPL về lĩnh vực này được ban hành. Người dân
cũng cho rằng, việc THPL về dân chủ ở cấp xã có vai trò rất quan trọng
(72.42%) và quan trọng (24.05%) đối với việc phát huy quyền làm chủ của
nhân dân địa phương (tổng cộng là 96.47%) [xem: Phụ lục 3 và 5]. Như vậy,
kết quả trả lời của CBCC cấp xã và nhân dân có sự đồng thuận tương đối cao,
cho thấy độ tin cậy cao của thông tin thu được.
Tầm quan trọng của việc THPL về dân chủ ở cấp xã được đại đa số
CBCC cấp xã và nhân dân tham gia cuộc khảo sát nhìn nhận trên các phương
diện: Góp phần mở rộng dân chủ, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân (CBCC cấp xã: 82.21% và nhân dân: 75.88%); Thúc đẩy tiến trình
đổi mới hoạt động của cấp ủy đảng, chính quyền cấp xã (55.33% và 64.15%);
Thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn cơ sở (64.22% và 80.27%); Góp phần đấu tranh
104
phòng chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, các hiện tượng tiêu cực khác,
xây dựng bộ máy chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh (71.96% và
65.37%); Đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
(79.63% và 77.39%) [xem: Phụ lục 3 và 5].
Theo kết quả ĐTXHH, việc chính quyền cấp xã chủ động, tích cực
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã đã góp phần
nâng cao hiểu biết pháp luật của nhân dân về lĩnh vực này. Trả lời câu hỏi
đánh giá về mức độ hiểu biết của nhân dân đối với các nội dung của pháp luật
về thực hiện dân chủ ở cấp xã, 26.37% người dân cho rằng họ nắm bắt được
phần lớn nội dung của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã; 34.56% người
dân nói họ nắm bắt được những nội dung chính của pháp luật về thực hiện
dân chủ ở cấp xã; 27.50% khẳng định là chỉ nắm bắt được một số nội dung mà
nhân dân được bàn và quyết định, tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm
quyền quyết định hoặc được giám sát; 13.54% chỉ nắm được một số ít nội
dung mà nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp; còn lại, chỉ có 03.38%
người dân được hỏi hầu như không nắm được nội dung của pháp luật về thực
hiện dân chủ ở cấp xã [xem: Phụ lục 3 và 5].
c) Chính quyền cấp xã còn có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc niêm
yết, thông báo những nội dung công khai để nhân dân biết. Kết quả ĐTXHH
cho thấy đại đa số CBCC cấp xã (88.00%) và người dân (83.73%) khẳng định
rằng, chính quyền cấp xã đã thực hiện việc niêm yết, thông báo những nội
dung công khai để nhân dân biết ở mức độ tốt và khá [xem Phụ lục 3 và 5].
Một cán bộ xã giải thích về việc này: “UBND xã đã gắn việc THPL về dân
chủ ở cấp xã với công tác cải cách thủ tục hành chính, đã niêm yết công khai,
kịp thời, đầy đủ các thủ tục hành chính, nhiều công việc của dân đã được giải
quyết nhanh gọn, được đa số nhân dân đồng tình”. Về phía nhân dân: “Những
nội dung công khai để dân biết được chính quyền để đúng nơi quy định, dễ
đọc, dễ nhìn, hình thức công khai được lồng ghép nhiều qua các cuộc họp
dân, những thắc mắc của dân đều được cán bộ giải thích rõ”. Minh chứng cho
điều này, có thể tham khảo thêm Kết luận của Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế
105
dân chủ tỉnh Bắc Ninh: “Những nội dung công khai cho nhân dân biết đã
được chính quyền cấp xã thực hiện nghiêm túc, nhân dân đã được biết những
chủ trương, chính sách, chương trình, dự án triển khai ở địa phương” [5].
3.2.1.2. Trên phương diện sử dụng pháp luật
Sử dụng pháp luật là hình thức phổ biến trong thực hiện các quy phạm
pháp luật quy định về các quyền tự do dân chủ của công dân. Chủ thể của
hình thức sử dụng pháp luật là đông đảo các tầng lớp nhân dân trên địa bàn
xã, phường, thị trấn. Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trao
cho nhân dân thực hiện các quyền được biết, quyền được quyết định, quyền
được tham gia ý kiến và quyền giám sát đối với tất cả các nội dung mà họ
được công khai để biết. Nhìn trên phương diện sử dụng pháp luật, hoạt động
THPL về dân chủ ở cấp xã tại các địa phương ở nước ta đã đạt được những
kết quả cụ thể sau đây:
- Do chính quyền cấp xã thực hiện tốt trách nhiệm thông báo, niêm yết
những nội dung công khai để nhân dân biết theo quy định của pháp luật nên
nhìn chung các tầng lớp nhân dân đã sử dụng tương đối tốt quyền được biết
những vấn đề, nội dung liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Chính quyền cấp xã đã niêm yết công khai các loại văn bản, thông tin về các
nguồn thu, các khoản đóng góp của dân, thủ tục hành chính... tại các Nhà văn
hóa thôn và trụ sở UBND xã, tổ chức các cuộc họp dân theo thôn, tổ dân phố
để người dân dễ dàng, thuận tiện trong việc tiếp cận thông tin.
Khi đã được công khai thông tin, có những kiến thức về pháp luật thực
hiện dân chủ ở cấp xã, phần lớn người dân xã, phường, thị trấn đã có ý thức
cao, tích cực hưởng ứng, nhiệt tình tham gia thực hiện pháp luật về dân chủ ở
cấp xã. Kết quả ĐTXHH cho thấy, có 35.71% người dân được hỏi cho rằng
đại đa số (trên 80%) người dân có ý thức cao, nhiệt tình; 40.39% nhận định là
phần lớn (trên 50% đến dưới 80%) người dân có ý thức cao, nhiệt tình tham
gia THPL về dân chủ ở cấp xã; tổng cộng là 76.10% [xem: Phụ lục 3 và 5].
- Đối với việc sử dụng quyền được bàn và quyết định theo quy định của
pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã, nhân dân các địa phương ở nước ta
106
đã thực hiện khá tốt; thể hiện ở chỗ, có 88.01% CBCC cấp xã và 81.07%
người dân tham gia trả lời phiếu thu thập ý kiến đã khẳng định mức độ “tốt”
và “khá” [xem: Phụ lục 3 và 5]. Trên địa bàn xã, phường, thị trấn, những việc
nhân dân bàn và quyết định trực tiếp gồm có: mức đóng góp xây dựng cơ sở
hạ tầng, lập và thu chi các loại quỹ, quy ước, hương ước làng xã văn hóa, dồn
điền đổi thửa đất nông nghiệp, thành lập Ban Giám sát công trình do dân tự
nguyện đóng góp và bảo vệ sản xuất... Các hình thức thực hiện những nội
dung công việc nêu trên đã được thực hiện nghiêm túc bằng cách người dân
tham dự họp thôn, làng, tổ dân phố hoặc trả lời phiếu lấy ý kiến các hộ gia
đình; tạo được sự thống nhất cao và thực hiện có kết quả trên thực tế.
Sở dĩ nhân dân thực hiện tương đối tốt quyền được bàn và quyết định
được đại đa số CBCC và nhân dân tham gia cuộc điều tra đánh giá ở mức độ
khá tốt là vì, như lời giải thích của một công chức cấp xã: “Các cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương luôn tôn trọng quyền dân chủ của nhân dân, công
việc có liên quan đến quyền và lợi ích của nhân dân đều được đưa ra để dân
bàn và quyết định”. Chia sẻ với ý kiến của công chức xã, một người dân có ý
kiến: “Đối với nội dung nhân dân bàn và quyết định thì UBND xã đã tổ chức
họp dân, đưa ra để nhân dân tham gia ý kiến và quyết định, như việc thu các
khoản đóng góp của dân, kế hoạch xây dựng giao thông nông thôn”. Trên
thực tế, nhiều địa phương cũng đã thực hiện tốt những nội dung nhân dân bàn
và quyết định, như ở thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa:
Nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng
góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng ở
phường, xã, phố, thôn như: nâng cấp hệ thống điện, đường, trường,
trạm, xây dựng nhà văn hoá, đóng góp các loại quỹ, tham gia xây dựng
quy ước, hương ước phố, làng văn hoá, xây dựng nếp sống văn minh
trong việc cưới, tang và lễ hội, phòng chống tệ nạn xã hội và các công
việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư [xem: 15].
- Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm
quyền quyết định cũng đã được đa số nhân dân ở xã, phường, thị trấn quan
107
tâm và thực hiện khá tốt. Điều này được 84.28% CBCC cấp xã và 78.18%
người dân trả lời phiếu điều tra xác nhận [xem: Phụ lục 3 và 5]. Các nội dung
nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định bao
gồm: dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của xã; phương án chuyển
đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; phương án phát triển ngành nghề; dự thảo
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh; việc quản
lý, sử dụng quỹ đất của xã; chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng
mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng... Hình thức thực hiện các nội dung nhân
dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định đã được
chính quyền cấp xã triển khai chủ yếu bằng cách: họp đại diện hộ gia đình
theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; phát phiếu lấy ý kiến và sử dụng hòm thư
góp ý. Chẳng hạn, ở các tỉnh khu vực Tây Nguyên:
Những nội dung dân bàn, tham gia ý kiến để cấp có thẩm quyền quyết
định chủ yếu bao gồm: xây dựng quy ước, hương ước, bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm trưởng thôn, bản, tổ trưởng dân phố, thành viên ban
thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư cộng đồng; dự thảo kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch kế hoạch sử dụng đất, phương án
đền bù hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng khu tái định cư... đều
được cán bộ thôn, buôn, tổ dân phố phối hợp với chính quyền thực hiện
qua các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND các cấp, họp thôn bản,
tổ dân phố hoặc qua hòm thư góp ý một cách hiệu quả [xem: 28].
Về cơ bản, chính quyền địa phương tôn trọng ý kiến của người dân ở
cơ sở, lấy ý kiến đóng góp của đa số, thảo luận qua nhiều lần mới đi đến
quyết định. Nhân dân các địa phương tích cực đóng góp ý kiến về những vấn
đề quan trọng của địa phương, tạo cơ sở để cấp có thẩm quyền đưa ra quyết
định đúng, hợp lòng dân. Những việc có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của
người dân, đến đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương đều được đưa ra để dân
bàn bạc nhằm tạo sự đồng thuận trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định.
- Đối với việc sử dụng quyền giám sát, phần lớn nhân dân ở các địa
phương đã thực hiện quyền giám sát theo quy định của pháp luật về dân chủ ở
108
cấp xã ở mức độ “tốt” và “khá”. Điều này được ghi nhận bởi 79.63% CBCC
cấp xã và 71.49% người dân tham gia trả lời phiếu thu thập ý kiến [xem: Phụ
lục 3 và 5]. Nhân dân thực hiện việc giám sát những nội dung đó theo các
hình thức: thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát
đầu tư của cộng đồng hoặc trực tiếp thực hiện việc giám sát thông qua quyền
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc kiến
nghị thông qua Ủy ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận
cấp xã, Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Như ở
thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa:
Nhân dân được tham gia giám sát việc quản lý quy hoạch sử dụng đất
đai, về triển khai các dự án, chế độ chính sách đền bù giải phóng mặt
bằng, chế độ quản lý tài chính, quyết toán thu chi ngân sách, các khoản
đóng góp của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của địa phương...
Nhờ đó quyền dân chủ được phát huy, ý thức trách nhiệm và tinh thần
làm chủ của nhân dân được nâng lên, việc huy động sức dân để đầu tư
phát triển kinh tế xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị được triển
khai thuận lợi... [xem: 15].
Theo ghi nhận và phản ánh của đội ngũ CBCC cấp xã và những người
dân tham gia cuộc ĐTXHH, nhân dân tham gia giám sát ở hầu hết các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội tại địa phương. Việc thực hiện quyền giám
sát của nhân dân được triển khai thực hiện nghiêm túc, như giám sát việc xây
dựng cơ sở hạ tầng, đường giao thông, chợ, nhà văn hóa thôn... Thông qua
hoạt động giám sát, nếu phát hiện có những trường hợp sai phạm như xây nhà
trái phép, gây ô nhiễm môi trường..., nhân dân đều làm đơn phản ánh hoặc
trực tiếp báo cáo ngay với UBND xã, phường, thị trấn. Những phản ánh, kiến
nghị của người dân đã được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
3.2.1.3. Trên phương diện áp dụng pháp luật
- Sau khi Quy chế thực hiện dân chủ ở xã và Pháp lệnh Thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn được ban hành và có hiệu lực thi hành, Tỉnh ủy,
UBND, HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên cả nước đều
109
nhận thức đúng đắn vai trò, tầm quan trọng của việc THPL về dân chủ ở cấp
xã, đã xây dựng, ban hành nhiều loại văn bản (nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch,
quyết định) để triển khai thực hiện có hiệu quả pháp luật về dân chủ ở cấp xã.
Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở các cấp từ Trung ương cho
đến cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã trên phạm vi cả nước đã được thành lập,
gồm các thành viên đại diện cho các cơ quan, ban, ngành có liên quan, MTTQ
và các đoàn thể nhân dân. Ban Chỉ đạo các cấp đã thường xuyên đôn đốc,
kiểm tra việc THPL về dân chủ ở cấp xã một cách sâu sát, cụ thể và bằng
những biện pháp hữu hiệu; nhờ đó, hoạt động THPL về dân chủ ở xã, phường,
thị trấn trên phạm vi cả nước nói chung, từng địa phương nói riêng đã đạt
được những thành tựu, kết quả quan trọng trên nhiều phương diện.
- Trong THPL về dân chủ ở cấp xã, hình thức áp dụng pháp luật được
thực hiện đối với những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm
quyền quyết định. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật theo quy định của
Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn gồm UBND cấp huyện,
UBND cấp xã, Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã. Nhìn trên phương diện này,
việc áp dụng pháp luật cũng đạt được những kết quả quan trọng:
+ Các UBND cấp huyện trên cả nước, theo thẩm quyền, đã ra quyết
định công nhận hương ước, quy ước của thôn, buôn, tổ dân phố sau khi được
nhân dân địa phương bàn, biểu quyết và được trên 50% tổng số cử tri hoặc cử
tri đại diện hộ gia đình trong thôn, buôn, tổ dân phố tán thành. Nội dung các
hương ước, quy ước tập trung vào việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của địa phương, đề cao tinh thần đoàn kết, tương thân
tương ái, bảo vệ môi trường và tài sản công, đề ra các biện pháp bảo vệ trật tự
kỷ cương xã hội, phát triển sản xuất, khuyến học... Việc xây dựng, ban hành
hương ước, quy ước thôn, buôn được thực hiện chặt chẽ, đúng quy trình.
Chẳng hạn, “Từ năm 1998 đến nay, UBND cấp huyện trên địa bàn các tỉnh
Tây Nguyên đã phê chuẩn được hơn 5.133/7.334 quy ước thôn, buôn đúng
quy trình (riêng tỉnh Gia Lai có 1/989/2.132 bản hương ước, quy ước, chiếm
93%; Đắk Nông có 735/742 bản quy ước đã được xây dựng)” [29, tr. 123].
110
+ UBND cấp huyện trên cả nước cũng đã triển khai hướng dẫn thực
hiện Thông tư số 04/2012/TT-BNV ngày 31/8/2012 của Bộ Nội vụ Hướng
dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố đến các xã, phường, thị trấn;
chỉ đạo chính quyền cấp xã trong việc lựa chọn nhân sự, thực hiện quy trình
bầu Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố bảo đảm công khai, dân chủ, đúng
pháp luật. UBND cấp xã đã kịp thời ra quyết định công nhận đối với việc bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố sau khi nhân dân
địa phương bàn, biểu quyết và được trên 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại
diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố tán thành.
+ Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã, theo quy định của pháp luật, đã kịp
thời ra quyết định công nhận đối với việc bầu, bãi nhiệm thành viên Ban
Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Đến nay, tại hầu
khắp các thôn, buôn, tổ dân phố trên cả nước đã có Ban Thanh tra nhân dân,
Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng.
- Hiệu ứng tích cực của việc thực hiện khá tốt những nội dung pháp luật
về thực hiện dân chủ ở cấp xã đã được lan tỏa. Dưới tác động của việc triển
khai THPL về dân chủ ở cấp xã, hoạt động của các cấp ủy Đảng, chính
quyền, MTTQ, đoàn thể nhân dân các địa phương và lề lối làm việc của đội
ngũ CBCC cấp xã trên địa bàn cả nước đã dần đi vào nề nếp, ổn định và tuân
theo các quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Các xã, phường, thị trấn đã căn
cứ vào pháp luật cũng như tình hình, điều kiện thực tế của từng địa phương
tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới các quy chế, quy định
liên quan đến việc thực hiện dân chủ ở cấp xã theo từng lĩnh vực cụ thể; tập
trung vào các hoạt động chính ở cơ sở, như Quy chế làm việc của Đảng ủy,
HĐND, UBND, MTTQ cấp xã; Quy chế quản lý, sử dụng đất đai, tài chính,
xây dựng cơ bản; Quy chế giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ môi trường, quản lý
giao thông, sử dụng điện ở các xã thôn; Quy chế tiếp dân và giải quyết đơn
thư khiếu nại, tố cáo của công dân; Quy chế thực hiện “cơ chế một cửa” về
giải tỏa mặt bằng làm đường giao thông; xây dựng hương ước, quy ước làng
văn hóa; Quy định về việc cưới, việc tang... Như ở tỉnh Thái Bình:
111
Hiện nay, trên 60% số xã, phường, thị trấn có từ 11 đến 15 bản quy
chế, quy định, gần 40% có trên 15 văn bản, cá biệt có nơi xây dựng trên
20 quy chế, quy định. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo các ban,
ngành, đoàn thể của tỉnh ban hành quy chế mẫu hướng dẫn cơ sở cụ thể
hóa thành các quy chế, quy định cụ thể tại địa phương trong toàn tỉnh
[78, tr. 82].
3.2.1.4. Nguyên nhân của những thành tựu, kết quả đạt được
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước đã đưa ra được đường lối, chính sách
pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã đúng đắn, kịp thời, hợp lòng dân.
Đưa ra để thăm dò ý kiến của CBCC cấp xã và các tầng lớp nhân dân ở xã,
phường, thị trấn tại 19 tỉnh/thành phố ở nước ta, nguyên nhân này nhận được
sự đồng tình của 80.35% CBCC cấp xã và 76.02% người dân [xem: Phụ lục 3
và 5]. Đảng ta đã chỉ rõ: muốn phát huy sức mạnh to lớn và sự sáng tạo của
quần chúng nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì nhất
thiết phải tạo ra được những thể chế, chủ trương, chính sách phù hợp để phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi
quyền làm chủ của người dân được tôn trọng và bảo đảm thì sẽ tạo nên nền
tảng vững chắc để các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước được thực hiện có hiệu quả trong thực tế. Muốn thực hiện
được điều đó, việc dân chủ hóa mọi hoạt động của Đảng, của cả hệ thống
chính trị nhằm tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia quản lý các
công việc của nhà nước và xã hội, đóng góp trí tuệ và vật chất để xây dựng,
bảo vệ đất nước là một quan điểm hết sức đúng đắn, sáng suốt. Phương châm
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được thể hiện trong nhiều văn
kiện, nghị quyết của Đảng và được Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật.
Việc ban hành Chỉ thị của Đảng, các Nghị định, Pháp lệnh của Nhà
nước chính là để tiếp tục mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước; thực hiện tốt phương
châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” nhằm phát huy
quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý, kiểm soát nhà
112
nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham
nhũng đang xảy ra ở nhiều nơi trên đất nước ta; qua đó, xây dựng bộ máy
chính quyền cấp xã ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả; góp phần to lớn vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam. Việc Đảng, Nhà nước ta đưa ra được đường lối, chính sách pháp
luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã đúng đắn, kịp thời, hợp lòng dân đã tạo ra
bầu không khí dân chủ trong xã hội, được đông đảo các tầng lớp nhân dân
đồng tình, ủng hộ; nhờ đó, đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả quan trọng.
Thứ hai, sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt của các cấp ủy Đảng,
chính quyền các cấp. Nguyên nhân này được 59.88% CBCC cấp xã và
69.62% người dân tham gia cuộc ĐTXHH ghi nhận [xem: Phụ lục 3 và 5].
Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về thực hiện Quy chế dân
chủ, cho đến nay, 100% đơn vị hành chính từ cấp tỉnh, cấp huyện cho đến cấp
xã trên toàn quốc đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở;
thường xuyên bổ sung, kiện toàn thành viên và phân công nhiệm vụ cụ thể
cho từng thành viên phù hợp với sự biến động, thay đổi nhân sự của địa
phương. Phần lớn Đảng bộ, chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện trên toàn quốc
đã quán triệt đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa, vai trò của việc THPL về dân chủ ở cấp
xã và lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, sát sao quá trình THPL; thể chế hóa kịp
thời, đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về thực hiện
dân chủ ở cấp xã. Như ở tỉnh Quảng Nam:
Sau khi tiếp thu Chỉ thị 30/CT-TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị
về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Quảng Nam đã ban hành Quyết định số 350-QĐ/TU ngày
14/9/1998 về thành lập Ban Chỉ đạo triển khai thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở, theo đó ở các huyện, thành phố, các cơ quan, đơn vị đều
thành lập Ban Chỉ đạo do đồng chí cấp uỷ hoặc lãnh đạo chủ chốt chính
quyền làm trưởng ban, có sự tham gia của Mặt trận, các đoàn thể; đồng
thời xây dựng kế hoạch thực hiện quy chế dân chủ ở địa phương, đơn
vị; nội dung, hình thức, biện pháp được cụ thể hoá sát hợp với tình hình
113
thực tế, tạo ra sự đồng thuận trong cán bộ và nhân dân để triển khai
thực hiện [xem: 65].
Bên cạnh đó, cấp ủy Đảng, chính quyền cấp xã ở nhiều nơi đã nhận
thức sâu sắc vai trò của hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã đối với việc
phát huy các quyền dân chủ của nhân dân nên đã triển khai và thực hiện
nghiêm túc, tích cực sự chỉ đạo của cấp trên.
Thứ ba, sự vào cuộc mạnh mẽ, tâm huyết của đội ngũ CBCC cấp xã. Ở
cấp xã, đội ngũ CBCC là lực lượng nòng cốt, đi tiên phong trong công tác
tuyên truyền, tổ chức, hướng dẫn, vận động các tầng lớp nhân dân THPL nói
chung, pháp luật về dân chủ ở cấp xã nói riêng. CBCC có nhiệm vụ tổ chức,
tham gia thực hiện phải là người gương mẫu, đi đầu THPL để làm gương cho
nhân dân, cho người lao động. Bởi vậy, những kết quả đạt được trong THPL
về dân chủ ở cấp xã không thể tách rời vai trò tiên phong, gương mẫu của
CBCC, đảng viên ở cấp xã. Theo kết quả ĐTXHH, có 50.05% CBCC cấp xã
và 61.34% người dân coi sự vào cuộc mạnh mẽ, tâm huyết của đội ngũ CBCC
cấp xã là một nguyên nhân đưa tới những thành tựu, kết quả đạt được [xem:
Phụ lục 3 và 5].
Ở một số địa phương, ngoài vai trò của đội ngũ CBCC cấp xã còn phát
huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ cán bộ tự quản như trưởng thôn, tổ trưởng
dân phố trong công tác THPL về dân chủ ở cấp xã. Chẳng hạn, ở các tỉnh
thuộc khu vực Tây Nguyên, đội ngũ cán bộ tự quản thôn, buôn, tổ dân phố có
khoảng 31.973 người. Trong quá trình triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã,
việc bảo đảm vai trò của đội ngũ cán bộ thôn, buôn, tổ dân phố luôn được
Tỉnh uỷ, HĐND, UBND các cấp và MTTQ Việt Nam các tỉnh vùng Tây
Nguyên đặc biệt chú trọng. Nhiều thôn, buôn, tổ dân phố trên toàn vùng, đặc
biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng có đông đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống, đội ngũ cán bộ tự quản thôn, buôn, tổ dân phố đã
góp phần phát huy quyền làm chủ, tinh thần trách nhiệm của nhân dân trong
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và những quy định của địa phương... [xem: 28].
114
Thứ tư, sự đồng thuận, ủng hộ và tham gia chủ động, tích cực của các
tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã, phường, thị trấn. Pháp luật và THPL về
dân chủ ở cấp xã đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống sinh hoạt chính
trị, xã hội ở các địa phương, nâng cao nhận thức về quyền làm chủ của nhân
dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, giám sát hoạt động của
chính quyền, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ, tham
nhũng tại xã, phường, thị trấn. Chính vì vậy, việc triển khai THPL về dân chủ
ở cấp xã đã nhận được sự đồng thuận, ủng hộ và tham gia chủ động, tích cực
của các tầng lớp nhân dân, mang lại những thành tựu, kết quả tích cực.
Nguyên nhân này được 64.01% CBCC cấp xã và 73.72% người dân khẳng
định [xem: Phụ lục 3 và 5]. Khi nhân dân đã thông suốt về tư tưởng, đồng
thuận cao với chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước thì việc THPL về
dân chủ ở cấp xã sẽ trở nên thuận lợi, dễ dàng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn đề cao vai trò quyết định của nhân dân đối với vận mệnh của đất
nước, bởi dân là gốc của nước, của cách mạng; bởi lẽ: “Dễ mười lần không
dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong” [62, tr. 212].
3.2.2. Những hạn chế, bất cập trong THPL về dân chủ ở cấp xã
Bên cạnh những thành tựu, kết quả đã đạt được, việc THPL về dân chủ
ở cấp xã ở nước ta cũng còn bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định:
3.2.2.1. Những hạn chế, bất cập trong thi hành pháp luật
Thứ nhất, công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân
chủ ở cấp xã tuy đã được các cấp chính quyền triển khai và đạt được nhiều
kết quả quan trọng; song, vẫn chưa đáp ứng được sự mong đợi của đội ngũ
CBCC cấp xã và các tầng lớp nhân dân. Theo kết quả ĐTXHH, vẫn còn
09.82% CBCC cấp xã khẳng định không được tham dự các lớp bồi dưỡng,
tập huấn chuyên đề pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã mỗi khi có văn
bản QPPL về lĩnh vực này được ban hành. Về phía nhân dân, có 10.58%
người dân trả lời rằng họ không được biết đến các văn bản QPPL về thực hiện
dân chủ ở cấp xã; 07.49% người dân cho rằng chính quyền cấp xã không triển
khai công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã
115
cho các tầng lớp nhân dân [xem: Phụ lục 3 và 5]. Mặt khác, việc phổ biến,
tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã nhiều khi còn mang
nặng tính hình thức, thiếu thiết thực, hiệu quả về phương pháp, hình thức
tuyên truyền. Hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật tại các cuộc họp dân
ở các thôn, tổ dân phố thường gặp bất lợi ở chỗ người dân ít đi họp nên không
nắm được nội dung pháp luật. Điểm hạn chế nay cũng đã được ghi nhận trong
các báo cáo sơ kết, tổng kết của nhiều địa phương; như: Ở tỉnh Bắc Ninh,
“công tác triển khai, quán triệt, tuyên truyền thực hiện Pháp lệnh ở một số cơ
sở chưa thường xuyên, còn hình thức, hiệu quả chưa cao” [xem: 5]; hoặc như
ở thành phố Hải Phòng, “công tác quán triệt, phổ biến nội dung các văn bản
về thực hiện dân chủ chưa được thường xuyên” [14, tr. 24].
Thứ hai, hệ quả kéo theo của hạn chế nêu trên là kiến thức, hiểu biết
của một bộ phận nhân dân các địa phương về các nội dung của pháp luật về
thực hiện dân chủ ở cấp xã còn thấp. Kết quả khảo sát cho thấy, bên cạnh
55.58% người dân trả lời rằng họ “nắm bắt được phần lớn nội dung của pháp
luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở” và “nắm bắt được những nội dung chính
của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở”, thì vẫn còn tới 27.50% người
dân nói họ “chỉ nắm bắt được một số nội dung mà nhân dân được bàn và
quyết định, tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định hoặc
được giám sát”; 13.54% “chỉ nắm được một số ít nội dung mà nhân dân được
bàn và quyết định trực tiếp” và 03.38% “hầu như không nắm được nội dung
của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở”; tổng cộng là 44.42% [xem: Phụ
lục 3 và 5]. Ngay cả một bộ phận CBCC cấp xã cũng thiếu hiểu biết pháp luật
về thực hiện dân chủ ở cấp xã. Như ở tỉnh Quảng Nam:
Nhận thức của một bộ phận CBCC cũng như lãnh đạo các đơn vị về
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở còn hạn chế, nên chưa nêu cao vai
trò trách nhiệm trong việc xây dựng cơ quan, đơn vị, địa phương. Một
số cán bộ, đảng viên còn ngại tiếp xúc với dân, không trực tiếp đối
thoại, không công khai hoá các hoạt động sợ ảnh hưởng đến quyền lợi
vật chất [xem: 113].
116
Thứ ba, ở một số địa phương, việc thông báo, niêm yết những nội dung
công khai để nhân dân biết mới chỉ đạt kết quả ở mức độ trung bình hoặc
kém. Khi được hỏi, 12.00% CBCC cấp xã cho rằng, chính quyền địa phương
đã THPL về dân chủ ở cấp xã ở mức độ trung bình (10.75%) và kém
(01.25%) đối với những nội dung công khai để nhân dân biết và các hình
thức công khai. Về phía nhân dân xã, phường, thị trấn, tỷ lệ tương ứng là
16.27% (14.76% đánh giá mức độ trung bình và 01.51% đánh giá mức độ
kém) [xem: Phụ lục 3 và 5]. Giải thích về sự dánh giá này, một người dân có ý
kiến: “Vì những nội dung công khai chưa thực sự đến được với mọi người
dân, người dân đi làm cả ngày nên chưa tiếp xúc nhiều với các nội dung công
khai, còn hình thức công khai chủ yếu là qua loa truyền thanh; mà phương
tiện phát thanh chỉ phát thanh trong khoảng thời gian ngắn nên hiệu quả còn
thấp”. Báo cáo của một số địa phương ở nước ta cũng ghi nhận thực trạng
này, như ở tỉnh Quảng Nam:
Trên thực tế có việc chưa được tổ chức thực hiện hoặc thực hiện chưa
đạt yêu cầu, như quy định công khai dự toán và quyết toán ngân sách
xã hằng năm chưa được minh bạch nên nhân dân chưa thông suốt, sinh
ra hoài nghi. Việc chính quyền địa phương phải thông tin về quyết toán
thu - chi các quỹ, dự án, các khoản đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng ở
thôn, tổ dân phố có một số nơi triển khai chưa chu đáo, thiếu công khai
cụ thể cho dân biết” [xem: 65].
3.2.2.2. Những hạn chế, bất cập trong sử dụng pháp luật
- Đối với những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp, vẫn
còn 11.99% CBCC cấp xã được hỏi ý kiến cho rằng nhân dân chỉ thực hiện
được ở mức trung bình (11.37%) và kém (00.62%). Tỷ lệ tương ứng bên phía
người dân trả lời là 18.93% ((15.84% đánh giá mức độ trung bình và 03.09%
đánh giá mức độ kém). Dĩ nhiên, con số đó là không nhiều; song, nó cho thấy
vẫn có những bất cập, hạn chế của nhân dân trong việc bàn và quyết định.
Một CBCC cấp xã nhận xét: “Đôi lúc chính quyền địa phương tự quyết định
những nội dung mà lẽ ra phải do dân bàn và quyết định, dẫn đến vi phạm
117
quyền dân chủ của nhân dân địa phương”. Một người dân có ý kiến: “Tuy
chính quyền xã tiếp thu ý kiến của người dân nhưng quyền quyết định của
nhân dân vẫn còn rất hạn chế” [xem: Phụ lục 3 và 5].
- Xung quanh việc thực hiện những nội dung nhân dân tham gia ý kiến
trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định cũng còn những hạn chế, bất cập;
vì vậy, còn có 13.72% CBCC cấp xã tham gia cuộc ĐTXHH đánh giá rằng,
chính quyền cấp xã thực hiện những nội dung đó chỉ ở mức trung bình
(14.06%) và kém (01.66%). Kết quả trả lời bên phía người dân là 22.82%
(trung bình 17.72% và kém 04.10%). Khi thực hiện việc lấy ý kiến đóng góp
của nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn; do nhận thức pháp luật của nhân
dân còn thấp nên các nội dung nhân dân tham gia ý kiến còn ít và hạn chế. Số
lượng người dân tham gia đóng góp ý kiến trực tiếp hoặc đại diện còn hạn
chế, chất lượng các ý kiến còn thấp; đôi khi không có đủ thời gian để nhân
dân nghiên cứu, nêu các đề xuất, kiến nghị. Một cán bộ xã đánh giá: “Phần
lớn người dân chưa nhận thức đầy đủ về quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong
việc tham gia ý kiến để cấp có thẩm quyền phê duyệt, trình độ dân trí còn hạn
chế”. Một người dân ghi nhận: “Do nhận thức pháp luật của nhiều người dân
còn hạn chế nên họ chưa chủ động phát biểu ý kiến, chưa bày tỏ được quan
điểm của mình đối với những nội dung do các cơ quan có thẩm quyền quyết
định” [xem: Phụ lục 3 và 5]. Hạn chế, bất cập nêu trên cũng được xác nhận tại
một số địa phương, như ở thành phố Hải Phòng: “Việc lấy ý kiến đóng góp
của nhân dân nhất là vào các công trình dự án, quy hoạch, quản lý và sử dụng
đất đai và các chế độ chính sách có liên quan đến nhân dân chưa được triển
khai có nề nếp, thậm chí còn biểu hiện rất hình thức...” [14, tr. 25].
- Việc nhân dân thực hiện quyền giám sát theo quy định pháp luật về
thực hiện dân chủ ở cấp xã cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Theo
đánh giá của đội ngũ CBCC cấp xã tham gia trả lời bảng hỏi thì có 18.30%
cho rằng nhân dân địa phương đã thực hiện quyền giám sát theo quy định của
pháp luật về dân chủ ở cấp xã ở mức độ trung bình; 02.07% đánh giá ở mức
độ kém; tỷ lệ tương ứng bên phía người dân tự thừa nhận là 23.40% và
118
05.11%. Nếu so sánh với việc thực hiện các nội dung khác thì việc thực hiện
nội dung kiểm tra, giám sát là khâu yếu hơn cả. Một cán bộ xã cho rằng, “Hầu
hết mọi công việc được giám sát thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân
dân và Ban Giám sát cộng đồng, nhân dân chỉ tham gia được một phần nhỏ”.
Một người dân nhận xét: “Đại bộ phận người dân chưa thực sự thể hiện hết
quyền công dân của mình, đặc biệt là quyền giám sát; chưa thấy hết được
quyền hạn của người dân trong việc tham gia giám sát” [xem: Phụ lục 3 và 5].
Những hạn chế nói trên cũng được ghi nhận ở tỉnh Quảng Nam:
Những việc nhân dân giám sát, kiểm tra thực hiện còn nhiều yếu kém.
Một số công trình phục vụ dân sinh như: nhà sinh hoạt, đường giao
thông nông thôn, nhân dân có giám sát, nhưng một số công trình khác
có quy mô lớn do cấp trên làm chủ đầu tư thì chức năng giám sát của
nhân dân chưa được coi trọng” [xem: 65].
3.2.2.3. Những hạn chế, bất cập trong áp dụng pháp luật
- Theo phản ánh của nhân dân tại một số địa phương, việc tổ chức cho
nhân dân họp bàn và biểu quyết nội dung hương ước, quy ước thôn, tổ dân
phố còn chưa có sự chuẩn bị chu đáo từ phía chính quyền và CBCC cấp xã.
Việc xây dựng Dự thảo hương ước, quy ước còn phó mặc cho Trưởng thôn và
một số ít cán bộ hưu trí. Một số nội dung hương ước, quy ước chưa có sự
thống nhất cao trong nhân dân vẫn được thông qua. Khi biểu quyết thông qua
thì thực hiện biểu quyết toàn văn mà không biểu quyết theo từng nội dung.
- Ở một số địa phương có số lượng cử tri đi làm ăn xa chiếm tỷ lệ cao
nên số lượng người dân dự các cuộc họp thôn không đảm bảo theo quy định;
dẫn đến tình trạng hương ước, quy ước đã được cấp có thẩm quyết ra quyết
định công nhận nhưng nhiều người không biết đến bản hương ước của làng.
Cá biệt có những trường hợp phải tổ chức họp đi họp lại vài lần vẫn chưa thể
thông qua hương ước, quy ước.
- Việc bầu cử Trưởng thôn, Tổ trưởng dân phố tại một số địa phương
chưa thực sự bảo đảm tính dân chủ, khách quan, công bằng; gây hoài nghi,
thắc mắc trong nhân dân.
119
- Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định rõ ràng,
cụ thể thời hạn UBND cấp huyện, UBND cấp xã, Ủy ban MTTQ Việt Nam
cấp xã phải xem xét, ra quyết định công nhận. Tuy nhiên, có lúc, có nơi các
chủ thể có thẩm quyền nói trên còn chưa kịp thời, nhanh chóng ra quyết định
công nhận kết quả biểu quyết hương ước, bầu Trưởng thôn...
- Kết quả ĐTXHH cũng ghi nhận còn có hiện tượng né tránh, không
thực hiện hoặc làm trái các quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã; có hiện
tượng đe dọa, trù dập người khiếu nại, tố cáo hoặc hiện tượng dung túng, bao
che, cản trở hoặc thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị có liên quan đến việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã.
3.2.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập trong công tác
THPL về dân chủ ở cấp xã trên phạm vi cả nước, song kết quả ĐTXHH tập
trung và chỉ ra ba nguyên nhân cơ bản sau:
a) Một số cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở còn xem nhẹ vai trò của việc
THPL về dân chủ ở cấp xã nên công tác lãnh đạo chưa sâu sát, sự chỉ đạo
còn mang tính hình thức, đối phó. Nguyên nhân này được 09.10% CBCC cấp
xã và 18.65% người dân tham gia cuộc ĐTXHH thừa nhận, là tỷ lệ thấp nhất
trong số các nguyên nhân được nêu [xem: Phụ lục 3 và 5]. Trong THPL về
dân chủ ở cấp xã, các cấp ủy Đảng, chính quyền cấp xã giữ vai trò là chủ thể
giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, quản lý. Nếu chủ thể nhận thức đầy đủ
vai trò của mình, có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt thì hoạt động
THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ đạt được chất lượng, hiệu quả cao; ngược lại,
chủ thể xem nhẹ vai trò của việc THPL về dân chủ ở cấp xã, công tác lãnh
đạo chưa sâu sát, sự chỉ đạo còn mang tính hình thức, đối phó thì chất lượng,
hiệu quả thấp là điều chắc chắn sẽ xảy ra. Thực tiễn THPL về dân chủ ở cấp
xã ở nước ta cũng đã chứng minh điều này. Chẳng hạn, ở tỉnh Bắc Ninh:
Việc kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, trách nhiệm tổ chức thực
hiện của chính quyền, nhất là ở cơ sở chưa thường xuyên, hiệu quả
chưa cao. Hoạt động của một số Ban Chỉ đạo xây dựng và thực hiện
120
Quy chế dân chủ ở cấp xã chưa hiệu quả, trách nhiệm của các thành
viên chưa được phát huy [xem: 5].
Một số cấp uỷ, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ, thiếu chủ động,
sáng tạo trong chỉ đạo thực hiện; Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở
một số cơ quan, địa phương, đơn vị chưa được bổ sung, kiện toàn kịp thời,
hiệu quả hoạt động chưa cao. Sự phối hợp của chính quyền với các ban,
ngành, đoàn thể chưa chặt chẽ, nhiều nơi còn thể hiện rất hình thức; công tác
kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện dân chủ ở cơ sở chưa thường xuyên.
Một bộ phận cấp ủy, chính quyền, đoàn thể nhân dân; nhất là một số
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chưa nhận thức và phát huy đầy đủ các quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo của Trung ương, thành phố. Phương thức lãnh
đạo của một bộ phận cấp ủy đảng cơ sở còn hạn chế; chưa gắn vai trò,
trách nhiệm cá nhân trong chỉ đạo, triển khai thực hiện; thiếu kiểm tra,
đôn đốc việc thực hiện Quy chế dân chủ” [14, tr. 26].
b) Một bộ phận trong đội ngũ CBCC, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ
vai trò, trách nhiệm của mình trong việc triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã
nên chưa tận lực, tận tâm. Qua ĐTXHH, nguyên nhân này được xác nhận bởi
13.86% CBCC cấp xã và 24.19% người dân tham gia trả lời bảng hỏi [xem:
Phụ lục 3 và 5]. Đội ngũ CBCC, đảng viên ở cấp xã có vai trò tiên phong, là
chủ thể trực tiếp tổ chức, hướng dẫn nhân dân phát huy các quyền dân chủ ở
địa phương. Khi bản thân họ còn chưa nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm
của mình trong triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã thì khó có thể tận lực,
tận tâm với công việc; từ đó, ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng, hiệu quả của
hoạt động này. “Đội ngũ CBCC, viên chức nhìn chung trình độ, kiến thức và
trách nhiệm tuy đã được nâng lên, song một bộ phận không nhỏ, nhất là đội
ngũ CBCC cấp xã, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới” [14, tr. 26].
c) Một bộ phận nhân dân thiếu hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ
ở cấp xã nên chưa chủ động, tích cực tham gia vào quá trình này. Về nguyên
tắc, kiến thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là nền tảng
quan trọng hàng đầu để nhân dân thực hiện, phát huy các quyền dân chủ ở cấp
121
xã. Tuy nhiên, trên thực tế, nhận thức pháp luật về dân chủ của người dân còn
hạn chế, không đồng đều. Đối với việc thực hiện những nội dung nhân dân
bàn và quyết định trực tiếp, tuy dân được bàn bạc, đóng góp ý kiến và quyết
định, nhưng do hiểu biết pháp luật hạn chế nên nhiều ý kiến đưa ra còn cảm
tính, thiếu thuyết phục. Dân chủ là một vấn đề chính trị do trình độ phát triển
kinh tế quy định. Trình độ phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay chưa thể coi là
điều kiện tốt nhất cho sự phát triển đầy đủ của dân chủ xã hội. Do nhu cầu
cuộc sống, công ăn việc làm chiếm nhiều thời gian, công sức cùng với ý thức
pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế nên họ chưa tham gia được
nhiều vào việc phát huy quyền dân chủ. “Còn một bộ phận đáng kể nhân dân
chưa có ý thức cao và năng lực thực hành dân chủ, chưa có một nền văn hóa
dân chủ ở mức cần thiết, chưa có thói quen tuân thủ pháp luật nên cũng chưa
có cơ sở tốt để phát huy dân chủ một cách đúng đắn và đầy đủ” [14, tr. 26].
3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
3.3.1. Đánh giá chung về tình hình thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp
xã ở nước ta từ năm 1998 đến nay
Để có cơ sở đánh giá chung về tình hình THPL về dân chủ ở cấp xã ở
nước ta, ngoài việc tham khảo các bài viết, báo cáo tình hình THPL về dân
chủ ở cấp xã của các địa phương, trong Phiếu thu thập ý kiến tác giả đưa ra
câu hỏi “Nhìn chung, Ông (Bà) đánh giá như thế nào về kết quả thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cấp xã từ phía chính quyền và nhân dân địa phương?”.
Kết quả thể hiện trong bảng tổng hợp số liệu dưới đây:
Cán bộ, công chức Nhân dânM·sè
Ph¬ng ¸n tr¶ lêi(chỉ chọn 1 phương án trả lời) Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
1 Đạt kết quả rất cao 150 15.51 204 14.692 Đạt kết quả cao 649 67.11 821 59.113 Đạt kết quả trung bình 143 14.79 308 22.174 Kết quả đạt được còn thấp 25 02.59 56 04.03
Tổng cộng 967 100.00 1389 100.00
122
3.3.1.1. Đánh giá chung về thành tựu, kết quả đạt được
Nhìn vào các số liệu trong bảng tổng hợp trên, có thể thấy, đại đa số
CBCC cấp xã và người dân tham gia trả lời bảng hỏi đánh giá cao kết quả đạt
được trong công tác THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta trong những năm
qua. Cụ thể: có 15.51% CBCC cấp xã đánh giá kết quả đạt được “rất cao” và
67.11% đánh giá “cao”, tổng cộng có 82.62% đánh giá “rất cao” và “cao”;
các tỷ lệ tương ứng bên phía nhân dân đánh giá là 14.69%, 59.11% và tổng
cộng là 73.80%. Sự đánh giá trên đây của CBCC cấp xã và nhân dân ở xã,
phường, thị trấn được dựa trên những kết quả cụ thể mà họ ghi nhận được
trong quá trình triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã tại địa phương, gồm: 1)
Tạo được niềm phấn khởi, tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của cấp ủy
Đảng, sự quản lý của chính quyền địa phương; 2) Phát huy tốt quyền làm chủ
của nhân dân; 3) Đảm bảo tối đa các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân; 4) Tăng cường được mối liên hệ giữa Đảng, chính quyền và
quần chúng nhân dân; 5) Giúp cho hoạt động điều hành, quản lý của chính
quyền cấp cơ sở thuận lợi, thông suốt từ tư tưởng đến hành động; 6) Giúp
chính quyền cơ sở nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng, thắc mắc, khiếu nại
của người dân; 7) Góp phần củng cố, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, sự
đồng thuận xã hội trên địa bàn cơ sở. Các số liệu ĐTXHH cho thấy những kết
quả cụ thể trên đều được CBCC cấp xã và người dân thừa nhận với tỷ lệ thấp
nhất là 51.60% và cao nhất là 80.76%.
Tựu trung, những kết quả đạt được trong THPL về dân chủ ở cấp xã
phù hợp với đánh giá chung được nêu trong Kết luận của Ban Bí thư về tiếp
tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng
và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở:
Sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ cơ sở, cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể
các các cấp đã có nhiều biện pháp chỉ đạo, triển khai sâu rộng, làm
chuyển biến tích cực về nhận thức, quan điểm, chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước đối với việc xây dựng và thực hiện Quy chế
123
dân chủ cơ sở... Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp
phần đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản
lý, điều hành của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
của mặt trận, các đoàn thể nhân dân; phát huy tính tiền phong, gương
mẫu, chấn chỉnh phong cách, lề lối làm việc của CBCC theo hướng sát
dân, trọng dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân; góp phần quan
trọng trong phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng quan liêu, tham nhũng,
lãng phí; tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố mối quan hệ
máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; chống lại các âm mưu lợi
dụng dân chủ, dân tộc, tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân
tộc” [xem: 2].
3.3.1.2. Đánh giá chung về hạn chế, khuyết điểm
Bên cạnh những kết quả quan trọng đã được Đảng, Nhà nước, đội ngũ
CBCC cấp xã và nhân dân ở xã, phường, thị trấn ghi nhận, vẫn còn tồn tại
những hạn chế, khuyết điểm nhất định khiến cho một bộ phận đáng kể người
dân (26.20%) đánh giá kết quả đạt được còn ở mức trung bình (22.17%) và
thấp (04.03%). Về phía đội ngũ CBCC cấp xã tham gia cuộc khảo sát, có
14.79% đánh giá kết quả đạt được ở mức trung bình và 02.59% đánh giá chỉ
đạt ở mức thấp; tổng cộng là 17.38% [xem: Phụ lục 3 và 5]. Những biểu hiện
cụ thể khiến họ đánh giá kết quả đạt được là “trung bình” hoặc “còn thấp”
gồm: thứ nhất, một bộ phận người dân còn chưa tin tưởng vào sự lãnh đạo
của cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền địa phương; thứ hai,
các quyền dân chủ của nhân dân có lúc, có nơi vẫn bị vi phạm; thứ ba, còn có
hiện tượng né tránh, không thực hiện hoặc làm trái các quy định về thực hiện
dân chủ ở cấp xã; thứ tư, chưa đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân; thứ năm, còn có hiện tượng đe dọa, trù dập người
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị có liên quan đến việc thực hiện dân chủ ở cấp xã;
thứ sáu, còn có hiện tượng dung túng, bao che, cản trở hoặc thiếu trách nhiệm
trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị có liên quan đến việc thực
124
hiện dân chủ ở cấp xã; thứ bảy, chưa tạo dựng được khối đoàn kết toàn dân,
sự đồng thuận xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Đánh giá chung sau 10 năm triển khai thực hiện Quy chế thực hiện dân
chủ ở xã (1998 - 2008), cơ quan chức năng đưa ra kết luận rằng:
Kết quả chỉ dừng lại ở một số việc cụ thể, tình hình chung là lắng
xuống. Dân tỏ ra thờ ơ và ít tác dụng tới bản thân. Phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” còn dừng lại ở khẩu hiệu, tệ nạn
quan liêu, trù dập, ức hiếp quần chúng, mất dân chủ, coi thường kỷ
cương phép nước... giảm không đáng kể. Cán bộ thì đùn đẩy, né tránh,
người đứng đầu cơ quan, đơn vị không bị ràng buộc trách nhiệm gì cả,
nghiêng về phương thức thực hiện quyền dân chủ của nhân dân thông
qua các tổ chức đại diện, đại biểu dân cử cho nên quyền của nhân dân
làm chủ trực tiếp bị hạn chế, lúng túng trong việc phân rõ quyền lực
chính trị, quyền lực nhà nước, quyền lực nhân dân. Nhân dân chưa
được tham gia góp ý, bàn bạc việc xây dựng các chủ trương, chính
sách, pháp luật cũng như các kế hoạch, chương trình các dự án tại địa
phương,.. [dẫn theo: 67].
Kết luận: Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện Nghị quyết Đại hội XI
của Đảng, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam. Với đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN là
sự hiện diện của một nền dân chủ thực chất thì việc tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ XHCN, thực hành và phát huy dân chủ đã và đang là yêu
cầu cấp thiết đặt ra, trong đó có việc “Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ
sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn” [21, tr. 238]. Công
tác THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta trong những năm qua tuy đã đạt
được nhiều thành tựu, kết quả quan trọng; song vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế,
khuyết điểm, nhất là còn tản mạn, chưa có được sự kết nối chặt chẽ với yêu
cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Điều đó
cũng có nghĩa là việc THPL về dân chủ ở cấp xã chưa thực sự đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
125
3.3.2. Một số bài học kinh nghiệm trong THPL về dân chủ ở cấp xã
Từ thực tiễn THPL về dân chủ ở cấp xã, nhìn từ góc độ yêu cầu của
công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, có thể rút ra
một số bài học kinh nghiệm sau đây:
3.3.2.1. Sự quan tâm, lãnh đạo sâu sát của Đảng từ Trung ương đến
xã, phường, thị trấn là nhân tố có tính chất nền tảng, bảo đảm cho thành
công của công tác THPL về dân chủ ở cấp xã
Thực tế chứng minh rằng, việc THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta từ
trước đến nay không thể tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam nói chung, các cấp ủy Đảng, tổ chức cơ sở đảng ở từng địa phương nói
riêng. Ở nơi nào mà các cấp ủy Đảng từ tỉnh đến cơ sở xã, phường, thị trấn
quán triệt sâu sắc, lãnh đạo sát sao, vào cuộc quyết liệt từ khâu đầu (chuẩn bị,
xây dựng văn bản chỉ đạo, tổ chức hội nghị quán triệt...) đến khâu cuối (đôn
đốc, nhắc nhở việc triển khai thực hiện từng nội dung và hình thức cụ thể), thì
ở đó pháp luật về dân chủ ở cấp xã được thực hiện chu đáo, nghiêm túc và đạt
kết quả cao, tạo được niềm phấn khởi, tin tưởng trong nhân dân. Đây là biểu
hiện sâu sắc của việc hiện thức hóa phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”; trong đó, “Đảng lãnh đạo” phải được coi là
khâu đầu tiên, có tính chất đột phá, mở đường để các cấp chính quyền, các
ban, ngành, đoàn thể triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Tại khắp các địa phương trên cả nước, sau khi có Chỉ thị số 30-CT/TW
và Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, Ban Chấp hành Đảng bộ các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương đã ban hành các chỉ thị, nghị quyết, xây dựng những
giải pháp đồng bộ, xác định rõ những nội dung, biện pháp thực hiện dân chủ ở
cơ sở nhằm phát huy trí tuệ, sức lực của Đảng bộ, chính quyền các cấp và
toàn thể nhân dân địa phương nhằm ổn định tình hình chính trị - xã hội, củng
cố hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn, giải quyết khiếu nại, tố cáo của
người dân. Các tỉnh/thành phố đã tổ chức hội nghị cán bộ lãnh đạo chủ chốt
các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở xã, phường, thị trấn nhằm quán triệt đầy
126
đủ các văn bản QPPL của Nhà nước, văn bản pháp quy của địa phương liên
quan đến pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã tới toàn thể CBCC, đảng
viên; triển khai tuyên truyền, phổ biến pháp luật về dân chủ ở cấp xã cho nhân
dân ở xã, phường, thị trấn.
Các cấp ủy Đảng từ tỉnh/thành phố đến xã, phường, thị trấn cần tập
trung lãnh đạo việc triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã, phải coi đó là nhiệm
vụ quan trọng và phải làm thường xuyên, chủ động, tích cực, có hiệu quả
nhằm đảm bảo vững chắc sự ổn định chính trị ở cơ sở, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Sự lãnh đạo không chỉ bằng việc đề
ra các chỉ thị, nghị quyết..., mà còn phải thường xuyên kiện toàn Ban chỉ đạo,
có chương trình làm việc; xây dựng quy chế phối hợp hoạt động đồng bộ,
thống nhất giữa Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân.
3.3.2.2. Sự chỉ đạo, quản lý, điều hành quyết liệt của Nhà nước, các
cấp chính quyền địa phương là khâu then chốt, bảo đảm sự vận hành có
hiệu quả hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã
Vai trò chỉ đạo, tổ chức THPL về dân chủ ở cấp xã của Nhà nước, các
cấp chính quyền từ tỉnh đến xã cũng là nhân tố hết sức quan trọng, thể hiện
khía cạnh “Nhà nước quản lý” trong phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đây được coi là khâu then chốt của quá
trình THPL về dân chủ ở cấp xã. Chính vì vậy, sự chỉ đạo, quản lý, điều hành
quyết liệt của Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương là khâu then chốt,
bảo đảm sự vận hành có hiệu quả hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã là
một bài học kinh nghiệm được rút ra.
Nhà nước đã xây dựng, ban hành các văn bản QPPL về thực hiện dân
chủ ở cấp xã. Các bộ, ngành ở Trung ương thường xuyên chỉ đạo tổ chức thực
hiện; ban hành các văn bản pháp quy để quy định và hướng dẫn việc xây dựng
và THPL về dân chủ ở cấp xã, thường xuyên kiểm tra, sơ kết, tổng kết, chỉ
đạo kịp thời. Hệ thống chính sách, pháp luật và chức năng, nhiệm vụ của các
cơ quan Đảng, Nhà nước tiếp tục được rà soát, bổ sung, hoàn thiện; tạo hành
lang pháp lý thuận lợi cho việc THPL về dân chủ ở cấp xã.
127
Về phía các cấp chính quyền địa phương, UBND các cấp đã tích cực
chỉ đạo xây dựng, ban hành các văn bản pháp quy liên quan đến việc thực
hiện dân chủ ở cấp xã nhằm thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện dân chủ ở cơ sở; nâng
cao trách nhiệm của các cấp chính quyền, nhất là người đứng đầu; tiếp tục tổ
chức rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc điều chỉnh các quy chế, quy ước
đã ban hành cho phù hợp với Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn; thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở; chỉ đạo các
thôn, ấp, bản, làng, tổ dân phố xây dựng hương ước, quy ước thực hiện dân
chủ trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chính quyền từ tỉnh đến xã cần triển khai quán triệt, phổ biến, tuyên
truyền các nguyên tắc, quy định của pháp luật về dân chủ ở cấp xã một cách
sâu rộng tới cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; giúp họ thông suốt về
tư tưởng, chuyển biến về nhận thức và hiện thức hóa bằng hành vi pháp luật
hợp pháp, thực hành và phát huy các quyền dân chủ của nhân dân. Chính
quyền cần trực tiếp tố chức thực hiện và tạo các điều kiện thuận lợi về kinh
phí, cơ sở vật chất, thời gian... cho Ban chỉ đạo hoạt động có hiệu quả.
Nơi nào chính quyền địa phương đặt vấn đề chỉ đạo thực hiện một cách
đúng mức, thường xuyên, tăng cường kiểm tra, đôn đốc, có sơ kết, tổng kết,
đánh giá ưu, khuyết điểm và kiểm điểm nghiêm túc, rút kinh nghiệm kịp thời
công tác chỉ đạo điều hành; xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức
và thành viên thì nơi đó pháp luật về dân chủ ở cấp xã được thực hiện có nề
nếp, bảo đảm các nội dung quy định và đem lại hiệu quả thiết thực: an dân,
kinh tế - xã hội phát triển, giảm tình trạng khiếu nại, tố cáo.
3.3.2.3. Phát huy vai trò, huy động sự tham gia của cả hệ thống
chính trị từ Trung ương đến xã, phường, thị trấn nhằm tạo nên sức mạnh
tổng hợp cho công tác THPL về dân chủ ở cấp xã
Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo và tổ chức
thực hiện của Nhà nước, chính quyền từ cấp tỉnh tới cấp xã, hoạt động THPL
về dân chủ ở cấp xã còn phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của
128
cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến xã, phường, thị trấn, gồm các cơ
quan, ban, ngành, MTTQ và các tổ chức thành viên, đoàn thể nhân dân các
cấp. Các cơ quan, ban, ngành, theo chức năng, nhiệm vụ của mình, cần làm
tốt công tác tham mưu, tư vấn, hướng dẫn cấp xã trong việc phổ biến, tuyên
truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã, xây dựng chương trình, kế
hoạch hoạt động, các quy chế, quy định phù hợp với tình hình thực tiễn tại xã,
phường, thị trấn; đề cao vai trò vận động, thuyết phục, giám sát, phản biện xã
hội của MTTQ và các đoàn thể nhân dân. MTTQ, các tổ chức thành viên và
các đoàn thể nhân dân cần tích cực tuyên truyền, giáo dục, vận động quần
chúng nhân dân THPL về dân chủ ở cấp xã. Thường xuyên kiện toàn, nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo xây dựng và thực hiện
Quy chế dân chủ ở các cấp, Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư
cộng đồng. Các đoàn thể nhân dân cần chủ động tạo ra môi trường dân chủ,
tạo các điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện, phát huy các quyền dân chủ
của nhân dân; tạo các diễn đàn phù hợp để mỗi người dân có thể phát biểu ý
kiến, bày tỏ quan điểm, chính kiến, nguyện vọng của mình.
3.3.2.4. Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ CBCC
cấp xã là yếu tố mở đường, lôi cuốn sự hăng hái, nhiệt tình của các tầng
lớp nhân dân địa phương tham gia THPL về dân chủ ở cấp xã
Trong hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã, CBCC, đảng viên là hạt
nhân nòng cốt, có “vai trò kép”: họ vừa là người trực tiếp tổ chức, triển khai
thực hiện dân chủ ở cấp xã; lại vừa có nhiệm vụ giải thích cho nhân dân hiểu
và hướng dẫn người dân THPL về dân chủ ở cấp xã. Công tác cán bộ giữ vai
trò quyết định đến chất lượng, hiệu quả của việc THPL về dân chủ ở cấp xã.
Thực tiễn cho thấy, ở những địa phương nào đội ngũ CBCC cấp xã có trình
độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, thực sự trọng
dân, thân dân và vì dân thì ở nơi đó pháp luật về dân chủ ở cấp xã được thực
hiện một cách tự giác, nghiêm túc, đạt hiệu quả cao. Ngược lại, ở xã, phường,
thị trấn nào đội ngũ CBCC yếu kém về phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực,
trình độ không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, mất đoàn kết nội bộ, xa rời dân thì
129
ở đó việc triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã kém hiệu quả hoặc thực hiện
một cách hình thức, đối phó. Khẩu hiệu “cán bộ đi trước, làng nước theo sau”
hoàn toàn đúng đắn và phù hợp trong THPL về dân chủ ở cấp xã.
3.3.2.5. Muốn cho việc THPL về dân chủ ở cấp xã đạt kết quả cao thì
nhất thiết phải làm tốt công tác tư tưởng, chú trọng công tác vận động,
tuyên truyền nhân dân
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chăm lo đến công tác tư tưởng, bởi
theo Người: “Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ
nhiệm vụ mới thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động
mới thống nhất” [60, tr. 319]. Công tác tư tưởng tự bản thân nó đã hàm chứa
những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, đa chiều, liên quan đến tâm tư nguyện
vọng của cán bộ, công chức, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; liên quan
đến sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Người nói: “Phải đánh thông tư
tưởng và động viên sáng kiến và lực lượng của toàn Đảng, toàn dân. Mọi
người quyết tâm làm cho được và tin tưởng làm nhất định được” [61, tr. 246].
Thiết nghĩ, lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, ý nghĩa
thiết thực đối với công tác THPL về dân chủ ở cấp xã.
Các tầng lớp nhân dân cần thông suốt về tư tưởng, có nhận thức đúng
đắn, đầy đủ về thực hành dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở
cơ sở. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã trong thời
gian tới thì cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục một cách
sâu rộng các nội dung của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
đến các tầng lớp nhân dân. Không ngừng nâng cao trình độ dân trí trong nhân
dân, xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, vì dân trí thấp thì khó có thể thực
hành dân chủ và thực hiện quyền làm chủ cao. Trình độ dân trí càng cao thì
càng thuận lợi cho việc mở rộng dân chủ, thuận lợi cho đưa các giá trị dân
chủ vào đời sống xã hội và nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân. Có ý
thức pháp luật, hình thành thói quen sống và làm việc theo pháp luật là nền
tảng để nhân dân có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của người làm chủ và tích
cực tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước. Phát huy quyền làm chủ của
130
nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường khối đại
đoàn kết, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh là những giá trị to lớn
có thể đạt được khi nhân dân thông suốt về tư tưởng.
3.3.2.6. THPL về dân chủ ở cấp xã cần sự linh hoạt, sáng tạo xuất
phát từ đặc điểm, tình hình thực tế ở từng địa phương, đáp ứng nhu cầu,
nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân
Về nguyên tắc, không có một “công thức” hay “khuôn mẫu” THPL về
dân chủ ở cấp xã nào có thể áp dụng chung cho tất cả các xã, phường, thị trấn;
bởi lẽ, mỗi địa phương đều có các đặc điểm riêng về văn hóa, lối sống, phong
tục tập quán, tín ngưỡng, lễ nghi, sinh hoạt cộng đồng... theo nghĩa “đất có lề,
quê có thói”. Bản thân pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cũng có sự đa
dạng về nội dung thực hiện các quyền dân chủ của công dân và sự phong phú
về hình thức thực hiện các quyền đó. Hơn nữa, các ý kiến, quan điểm, nhu
cầu, nguyện vọng của mỗi người dân, mỗi hộ gia đình cũng khác nhau. Các
quyền dân chủ được pháp luật trao cho, nhưng việc sử dụng các quyền dân
chủ đó lại phụ thuộc vào ý chí của mỗi cá nhân người dân. Mọi sự tùy tiện,
chủ quan, duy ý chí, áp đặt, xa rời thực tiễn trong THPL về dân chủ ở cấp xã
đều là khiên cưỡng, đi ngược lại tinh thần và bản chất dân chủ của chế độ ta,
trái với nguyên tắc thực hành dân chủ trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam. Chính vì vậy, việc THPL về dân chủ ở cấp xã phải xuất
phát từ các đặc điểm, tình hình thực tế của từng địa phương.
Hoạt động sống, lao động, sinh hoạt của cộng đồng dân cư khu vực đô
thị (phường, thị trấn) có nhiều điểm khác biệt với hoạt động sống, lao động,
sinh hoạt của cộng đồng dân cư nông thôn (làng, xã) nên việc triển khai
THPL về dân chủ ở cấp xã tại mỗi khu vực cũng phải có sự định hướng, điều
tiết sao cho phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội. Ở đây
đòi hỏi sự năng động, linh hoạt và sáng tạo của các chủ thể THPL về dân chủ
ở cấp xã sao cho đạt mục tiêu cao nhất là phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân trên
131
địa bàn. Gắn THPL về dân chủ ở cấp xã với việc thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, quan tâm phát triển cơ sở hạ tầng, tăng
trưởng kinh tế là đúng, nhưng nó phải đi liền với việc chăm lo đời sống văn
hoá tinh thần của nhân dân, chăm lo an sinh xã hội; không vì thành tích mà áp
đặt nhiều khoản đóng góp không hợp lý đối với người dân. Có như vậy, việc
THPL về dân chủ ở cấp xã mới có ý nghĩa thiết thực, thực sự là động lực thúc
đẩy xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
3.3.2.7. Tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát, khen thưởng kịp
thời đối với các đơn vị, cá nhân có thành tích tốt và xử lý nghiêm minh đối
với những sai phạm trong THPL về dân chủ ở cấp xã
Hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải
gắn chặt chẽ với việc đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra, giám sát quá trình thực
hiện. Các cấp chính quyền địa phương phải đưa kế hoạch kiểm tra, giám sát
vào chương trình công tác, tiến hành kiểm tra thường xuyên hoặc đột xuất
việc THPL về dân chủ ở cấp xã; qua đó, kịp thời chấn chỉnh, khắc phục
những thiếu sót, khuyết điểm trong việc thực hiện dân chủ. Tăng cường và đổi
mới công tác kiểm tra, giám sát cũng phải được coi là một nhiệm vụ thường
xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhất là cấp xã; phải gắn liền với các
sinh hoạt chính trị nội bộ trong Đảng, với trách nhiệm của CBCC, đảng viên
trước nhân dân; đi đôi với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tệ
quan liêu, cửa quyền, mất đoàn kết nội bộ; xây dựng bộ máy chính quyền
trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Việc tăng cường khâu kiểm tra, giám sát cho phép phát hiện và xử lý
kịp thời những khó khăn, vướng mắc nảy sinh, rút kinh nghiệm kịp thời cho
công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành. Chế tài áp dụng cũng phải
rõ ràng, phân minh: nơi nào, cá nhân nào thực hiện tốt, có thành tích cao thì
phải được ghi nhận, động viên, khen thưởng kịp thời; nơi nào, cá nhân nào
mắc khuyết điểm, vi phạm pháp luật trong THPL về dân chủ ở cấp xã thì phải
xử lý nghiêm minh, dứt điểm. Điều đó có tác dụng khích lệ tinh thần, tạo sự
phấn khởi của CBCC và nhân dân trong THPL về dân chủ ở cấp xã.
132
Kết luận chương 3
Thứ nhất, nhìn từ góc độ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam, có thể nói, việc Nhà nước ta xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là một phát kiến lớn, một phương
thức hay, hữu hiệu nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở một
cách thực chất nhất. Với sự ra đời của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Nghị
định số 29/1998/NĐ-CP, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP) và Pháp lệnh Thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, lập
quy Nhà nước ta đã tạo ra một công cụ pháp lý về thực hiện dân chủ, trao
cho các tầng lớp nhân dân ở cơ sở những quyền dân chủ thực sự: quyền được
biết; quyền được bàn và quyết định trực tiếp, bàn và biểu quyết để cấp có
thẩm quyền quyết định; quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có
thẩm quyền quyết định; quyền giám sát. Mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung và
thay thế, song pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã hiện hành, mà cụ thể là
Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cũng đang bộc lộ những
tồn tại, hạn chế nhất định.
Thứ hai, hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã trên phạm vi cả nước
nói chung, ở từng địa phương nói riêng đã đạt được những thành tựu, kết quả
quan trọng, từ tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức,
hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho đến những kết quả quan
trọng trong thực hiện các nội dung cụ thể về quyền dân chủ của nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc THPL về dân chủ ở cấp
xã ở nước ta cũng còn bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định, như nhận
thức, trách nhiệm về thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong một bộ phận CBCC, đảng viên và nhân dân chưa đầy đủ; một số nội
dung cụ thể THPL về dân chủ ở cấp xã mới chỉ đạt kết quả ở mức độ trung
bình hoặc kém. Điều đó có nghĩa là việc THPL về dân chủ ở cấp xã chưa thực
sự đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
133
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM4.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở
CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
4.1.1. Quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng và thực hiện
nghiêm túc các quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của thực hành dân chủ nói chung và
thực hiện dân chủ ở cấp xã nói riêng, xuất phát từ tình hình thực tế xã hội ở
xã, phường, thị trấn trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã sớm có chủ trương về
xây dựng, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị số 30/CT-TW của Bộ
Chính trị đã nêu rõ nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở; bởi đó là nơi trực tiếp thực hiện mọi
chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, là nơi
thực hiện các quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất;
gắn liền với những lợi ích thiết thực của các tầng lớp nhân dân. Trong Kết
luận gần đây, Ban Bí thư Trung ương Đảng khẳng định cần “tiếp tục đẩy
mạnh và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa
VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở” [2]. Để phát huy dân
chủ XHCN, tại Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân” [21, tr. 238-239].
Nền dân chủ XHCN mà Đảng ta hướng tới xây dựng và hoàn thiện là
nền dân chủ rộng rãi, mang tính toàn diện, được thực hiện thông qua hệ thống
chính trị XHCN, trước hết là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam không
ngừng mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, thu hút
nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm phục vụ
134
cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động và bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân lao động cả về mặt pháp lý cũng như trên thực tế. Việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là phương hướng, cách thức cơ bản
để phát huy dân chủ và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, vì Nhà nước
đó sẽ bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Việc nâng cao hiệu quả công tác THPL về dân chủ ở cấp xã cũng phải
dựa trên sự quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp
luật về lĩnh vực này. Chính phủ đã ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã;
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn. Các Quy chế và Pháp lệnh ra đời đánh dấu bước tiến bộ xã
hội lớn ở nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực sự phát huy
quyền làm chủ của mình, tham gia quản lý các công việc ở địa phương, kiểm
soát và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ ở các cơ quan
công quyền, các biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật. Pháp luật
về thực hiện dân chủ ở cấp xã là một biểu hiện sinh động sự cụ thể hoá
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của Đảng ta. Đến
nay, công tác THPL về dân chủ ở cấp xã đã thực sự phát huy quyền làm chủ,
sức sáng tạo của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn
của các tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội ở các địa
phương, tác động tích cực tới công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền,
phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể nhân dân.
Việc quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng và thực hiện
nghiêm túc các quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là quan điểm
chỉ đạo có ý nghĩa tiên quyết trong THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
4.1.2. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều
hành của Nhà nước, chính quyền các cấp ở địa phương
Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về thực hiện dân chủ ở cấp xã có hiệu lực và tác động trên phạm vi cả nước;
song, khi triển khai thực hiện trong thực tiễn ở xã, phường, thị trấn thì hiệu
135
quả của nó lại phụ thuộc rất nhiều vào các đặc điểm, tình hình kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán... của từng địa phương, từng địa bàn
xã, phường, thị trấn cụ thể. Những đặc điểm, tình hình cụ thể đó chỉ có các
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương mới nắm bắt được một cách trực tiếp,
cụ thể nhất thông qua hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên của
mình. Quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam phải luôn được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo
sâu sát của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến xã, phường, thị trấn.
Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng nhằm xây dựng các giải pháp bảo đảm
hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã.
Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần phải xác định việc
lãnh đạo, chỉ đạo công tác THPL về dân chủ ở cấp xã là nhiệm vụ chính trị có
tầm quan trọng hàng đầu. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà ở “một số nơi nội
bộ lãnh đạo cấp ủy, chính quyền mất đoàn kết; tình trạng quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn kịp thời; tình hình khiếu kiện
của nông dân, đình công, bãi công của công nhân diễn biến phức tạp, ảnh
hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền” [2,
tr. 5]; thì sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng và các cấp chính
quyền đối với việc THPL về dân chủ ở cấp xã lại càng phải được đề cao.
4.1.3. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phải gắn với yêu cầu xây
dựng chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã phải
luôn gắn với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Một
trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN là tính tối cao
của pháp luật; xây dựng bộ máy chính quyền các cấp, trong đó có cấp xã,
trong sạch, vững mạnh. CBCC là “đầy tớ”, “công bộc” của dân nên phải
gương mẫu, đi đầu trong việc THPL và hướng dẫn nhân dân THPL. Như vậy,
nâng cao hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã phải được coi là một yêu cầu
không thể thiếu nhằm phục vụ thiết thực cho việc củng cố, xây dựng chính
136
quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền XHCN luôn tôn trọng và đề cao các quyền cơ
bản của con người, hướng tới xây dựng xã hội công dân, xây dựng, thực hành
và phát huy dân chủ nói chung và dân chủ ở cấp xã nói riêng. “Nói tới dân
chủ, người ta thường nói tới nhiều yếu tố, nhưng trước hết phải kể tới ý thức
dân chủ, trình độ dân chủ, năng lực thực hiện dân chủ, phương thức thực hiện
dân chủ và các quan hệ dân chủ. Tất cả các yếu tố đó chỉ có thể thể hiện rõ
nhất trong Nhà nước pháp quyền như là môi trường thuận lợi cho dân chủ”
[108, tr. 3-4]. Bởi vậy, quan điểm có tính chất chỉ đạo đối với quá trình THPL
về dân chủ ở cấp xã trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam là phải cải cách các thủ tục hành chính ở cấp xã; chuyển hoàn toàn
từ nền hành chính cai trị sang nền hành chính vì dân, phục vụ nhân dân; xây
dựng được bộ máy chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh. Để làm được
điều đó thì việc THPL về dân chủ ở cấp xã phải được triển khai mạnh mẽ,
nghiêm túc và thực sự hiệu quả hơn nữa. Sự quán triệt quan điểm chỉ đạo này
sẽ giúp công tác THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta hiện nay đi đúng định
hướng, mục tiêu, không bị quan liêu hóa, xa rời thực tiễn.
4.1.4. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị
Hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải
phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các bên hữu quan thì mới có thể nâng
cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động này. Công tác này đòi hỏi sự nỗ lực,
phấn đấu của các cấp ủy Đảng, chính quyền, MTTQ và các tổ chức thành viên
cũng như của toàn thể nhân dân ở xã, phường, thị trấn trên phạm vi cả nước;
trong đó, bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng có tầm quan trọng hàng
đầu, sự chỉ đạo thực hiện của chính quyền các cấp là khâu then chốt và sự
phát huy vai trò của các cơ quan, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể nhân dân từ
Trung ương cho đến cấp xã và của nhân dân là yếu tố không thể thiếu. Trên
cơ sở sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát của các cấp chính
137
quyền, cần huy động sự tham gia tích cực của MTTQ, các ban, ngành, tổ chức
chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân, như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông
dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh... các cấp
vào hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã. Thực hiện quan điểm chỉ đạo này
vừa có tác dụng lôi cuốn, tạo sự đồng thuận xã hội cao; vừa tạo được sức
mạnh tổng hợp nhằm THPL về dân chủ ở cấp xã đạt được hiệu quả cao.
4.1.5. Triển khai đồng bộ nhiều giải pháp linh hoạt, sáng tạo và phù hợp
với đặc điểm, tình hình của từng địa phương
Thực tế cho thấy, bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, việc
thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã tại một số địa phương vẫn còn nhiều hạn
chế, bất cập. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện dân chủ ở
cấp xã ở một số nới còn mang tính phong trào; nội dung tuyên truyền pháp
luật còn hời hợt, phương pháp tuyên truyền còn khô cứng, hình thức tuyên
truyền còn đơn điệu, nghèo nàn, chưa đi vào chiều sâu và thực chất. Việc thực
hiện các nội dung cần công khai để nhân dân biết ở nhiều xã, phường, thị trấn
hiện còn khó khăn do trụ sở làm việc của chính quyền cấp xã chật hẹp, xuống
cấp. Các văn bản niêm yết những nội dung công khai cho nhân dân biết quá
nhỏ nên khó theo dõi; nhiều thôn, làng, tổ dân phố chưa có hội trường để tổ
chức các cuộc họp dân... Trong quá trình triển khai THPL về dân chủ ở cấp
xã, nhiều CBCC cấp xã còn bị động, lúng túng, thiếu sự linh hoạt, sáng tạo
cần thiết để làm việc hiệu quả. Ý thức tham gia THPL về dân chủ ở cấp xã
của một bộ phận đáng kể người dân chưa cao, tỷ lệ đại diện hộ gia đình tham
gia họp thôn, tổ dân phố ở nhiều nơi còn thấp, chỉ đạt dưới 50%, không bảo
đảm được giá trị thi hành... Chính vì vậy, THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước
ta hiện nay đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ cả về phương pháp, hình thức thực
hiện theo phương châm linh hoạt, sáng tạo, đi vào chiều sâu và thực chất.
4.1.6. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã trên phạm vi toàn quốc
phải gắn với phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa - xã hội cơ sở
Khi pháp luật về dân chủ ở cấp xã được ban hành và triển khai thực
hiện mạnh mẽ trong đời sống xã hội ở xã, phường, thị trấn thì bầu không khí
138
dân chủ, cởi mở trong xã hội đã được tạo ra, quyền làm chủ của nhân dân
được mở rộng, lòng tin của nhân dân vào chế độ ngày càng được củng cố, từ
đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng ở các
địa phương trên cả nước; biểu hiện rõ nhất là trong phát triển kinh tế, xây
dựng nếp sống văn hoá ở xã, phường, thị trấn. Nhờ đổi mới toàn diện và phát
huy dân chủ ở cấp xã một cách mạnh mẽ, đất nước ta đã đạt những thành tựu
to lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội và các mặt khác. Điều đó chứng minh rõ
ràng mối quan hệ khăng khít giữa THPL về dân chủ ở cấp xã với phát triển
kinh tế, văn hóa: thực hiện dân chủ ở cấp xã tạo ra những tiền đề, điều kiện
cần thiết cho kinh tế phát triển; ngược lại, sự phát triển về kinh tế và đời sống
văn hóa tinh thần ở cơ sở phong phú lại là nền tảng cơ bản, động lực không
thể thiếu cho việc xây dựng một nền dân chủ tiến bộ, một xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh. Đây là mối quan hệ tác động qua lại, bổ sung cho nhau.
THPL về dân chủ ở cấp xã trên phạm vi cả nước mang lại hiệu quả thiết thực
trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đời sống văn hóa và bảo đảm trật tự
an toàn xã hội ở cấp cơ sở, tạo được sự đồng thuận xã hội.
4.2. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ
Ở CẤP XÃ THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THPL về dân chủ ở cấp xã, về bản chất, là sự thống nhất hữu cơ giữa
việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã, tăng cường
vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền địa phương, phát huy
vai trò nòng cốt của đội ngũ CBCC, đảng viên, sự tham gia chủ động, tích
cực hơn nữa của người dân vào hoạt động này và gắn liền với sự đảm bảo
các điều kiện cần thiết về kinh tế, chính trị, văn hóa và pháp luật. Do đó, để
nâng cao hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam thì cần thực hiện các giải pháp sau:
4.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã
Hệ thống pháp luật và mức độ hoàn thiện của nó có tác động mạnh mẽ
tới chất lượng, hiệu quả của hoạt động THPL. Hệ thống pháp luật càng hoàn
139
thiện bao nhiêu thì càng tạo ra môi trường pháp luật ổn định bấy nhiêu, tạo
điều kiện cho hoạt động THPL diễn ra được thuận lợi và hiệu quả. Hệ thống
pháp luật hoàn thiện có nghĩa là các bộ luật, đạo luật được ban hành phải đảm
bảo tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp dựa trên nền tảng trình độ kỹ thuật lập
pháp cao; các văn bản QPPL điều chỉnh hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã
phải bám sát thực tiễn, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi khách quan của đời sống
xã hội ở cơ sở. Khi đó, việc THPL về dân chủ ở cấp xã sẽ có được sự ổn định,
thống nhất, dễ dàng và thuận lợi hơn. Ngược lại, tính cục bộ, thiển cận, chậm
trễ, duy ý chí, xa rời thực tiễn, thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung của các
văn bản QPPL là nguyên nhân khiến cho việc THPL thiếu thích ứng, mất ổn
định; việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật về dân chủ ở cấp xã phải lặp đi,
lặp lại nhiều lần, gây lãng phí, tốn kém về thời gian, công sức và tiền của mà
hiệu quả vẫn ít được cải thiện. Như vậy, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
thực hiện dân chủ ở cấp xã là một trong những yêu cầu khách quan để nâng
cao hơn nữa hiệu quả THPL về lĩnh vực này.
Ở nước ta, kể từ khi Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998
được ban hành đến nay, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã đã qua hai
lần được sửa đổi, ban hành mới theo hướng ngày càng bám sát thực tiễn đời
sống xã hội ở cơ sở hơn; trình độ kỹ thuật lập pháp, lập quy và giá trị pháp lý
cũng dần được nâng cao hơn. Sau 5 năm đi vào thực tiễn đời sống xã hội ở xã,
phường, thị trấn, bên cạnh việc tạo ra những chuyển biến tích cực trong nhận
thức cũng như hành động của các cấp chính quyền và nhân dân các địa
phương trên cả nước, Nghị định 29/1998/NĐ-CP đã bộc lộ những hạn chế, bất
cập nhất định; bởi vậy, nó đã được Chính phủ thay thế bằng Nghị định số
79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003. Dù đã mở rộng thêm phạm vi nội dung các
quyền dân chủ của nhân dân ở các xã, phường, thị trấn cũng như các hình
thức thực hiện những nội dung đó; song, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP vẫn
chỉ dừng lại ở cấp độ giá trị pháp lý của một Nghị định mà thôi.
Nhằm khắc phục những hạn chế của Nghị định số 79/2003/NĐ-CP,
ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thực
140
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007.
Được nâng cao giá trị pháp lý so với các Nghị định trước đây, Pháp lệnh là
một văn bản pháp lý quan trọng, đánh dấu một bước phát triển mới trong việc
thể chế hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của
Đảng ta, thể hiện một giá trị pháp lý cao hơn trong trình tự lập pháp, lập quy
của Nhà nước ta nhằm ngày càng phát huy thực chất quyền làm chủ trực tiếp
của nhân dân ngay từ cơ sở. Việc THPL về dân chủ ở cấp xã tại nhiều địa
phương trên phạm vi cả nước đã trở thành phương thức quan trọng để phát
huy sức mạnh cộng đồng, đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần xây dựng
chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, là động lực để thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của các địa phương.
Tuy nhiên, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng
đang bộc lộ những điểm hạn chế, như không quy định thẩm quyền, chức năng
của các cấp cao hơn trong việc theo dõi, kiểm tra và đánh giá việc chính
quyền cấp xã triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã như thế nào; không đề cập
đến sự giám sát độc lập việc thực hiện dân chủ ở cấp xã bởi các tổ chức xã
hội dân sự khác với MTTQ và các tổ chức thành viên; không thấy nhắc đến
tính chịu trách nhiệm của các chủ thể liên quan đến hệ quả của việc tuân thủ
hoặc không tuân thủ pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã; nguồn lực để
THPL về dân chủ ở cấp xã vẫn còn để ngỏ; không đề cập đến việc nâng cao
nhận thức pháp luật hoặc bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ CBCC cấp xã, như
Chủ tịch UBND xã, người đứng đầu các tổ chức, đoàn thể.v.v.
Từ thực tế đó, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về thực hiện dân chủ ở cấp xã theo hướng xây dựng, ban hành Luật Thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV. Nội
dung Luật Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn phải:
- Kế thừa, tiếp thu được những QPPL phù hợp, đã được thực tiễn kiểm
nghiệm trong quá trình thực hiện những năm qua;
- Mở rộng hơn nữa nội dung các quyền dân chủ của nhân dân, trao cho
nhân dân địa phương quyền được bàn và quyết định trực tiếp nhiều hơn các
141
vấn đề, nội dung liên quan thiết thực đến các vấn đề kinh tế - xã hội và lợi ích
chung của cộng đồng theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, dân quyết định”;
- Bổ sung thêm các hình thức công khai những nội dung nhân dân phải
được biết, như hình thức phát miễn phí tài liệu tới từng hộ gia đình để người
dân có thời gian đọc, nắm bắt kỹ hơn nội dung thông tin...;
- Tăng thêm các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân ở
xã, phường, thị trấn, như nhân dân được tham gia bỏ phiếu tín nhiệm đối với
Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND và Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã;
- Quy định cụ thể, rõ ràng thẩm quyền, chức năng của các cấp cao hơn,
như cấp tỉnh, cấp huyện, trong việc theo dõi, kiểm tra và đánh giá việc chính
quyền cấp xã triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã;
- Ngoài quy định Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên
của Mặt trận ở cấp xã có trách nhiệm giám sát việc thực hiện và tham gia
tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện dân chủ ở cấp xã, phải quy định
thêm vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong giám sát độc lập việc thực
hiện dân chủ ở cấp xã. Cần xây dựng được cơ chế kiểm tra, giám sát đồng bộ
việc thực hiện dân chủ ở cấp xã từ Trung ương tới địa phương nhằm xử lý kịp
thời những sai phạm xảy ra;
- Quy định cụ thể trách nhiệm cá nhân của những cán bộ lãnh đạo chủ
chốt, ít nhất là các chức danh Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch
UBND cấp xã trong tổ chức thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã. Những
nơi không thực hiện hoặc thực hiện mang tính hình thức, đối phó, không hiệu
quả, để xảy ra các vụ việc sai phạm... thì những chức danh trên phải chịu
trách nhiệm cá nhân trước nhân dân địa phương, trước pháp luật;
- Quy định cụ thể về khen thưởng, kỷ luật, các biện pháp chế tài áp
dụng trong THPL về dân chủ ở cấp xã:
+ Đối với khen thưởng: Quy định những thành tích cụ thể nào đạt được
trong THPL về dân chủ ở cấp xã thì được đề nghị khen thưởng, cần lượng hóa
thành tích bằng những tiêu chí càng cụ thể càng tốt nhằm đảm bảo sự công
142
bằng, khách quan, tạo thuận tiện cho việc đánh giá, xét duyệt; Quy định các
hình thức khen thưởng cụ thể cả về mặt tinh thần và vật chất kèm theo nhằm
động viên, khích lệ kịp thời CBCC cấp xã và nhân dân trong thực hiện có hiệu
quả pháp luật về dân chủ ở cấp xã.
+ Đối với xử lý kỷ luật: Quy định cụ thể các loại hành vi vi phạm trong
THPL về dân chủ ở cấp xã phải bị xử lý kỷ luật, như tính chất, mức độ của
lỗi, hậu quả xảy ra, ảnh hưởng của hành vi vi phạm trong cán bộ và nhân dân
địa phương; Quy định cụ thể hình thức xử lý kỷ luật đối với từng loại hành vi
vi phạm cụ thể, đảm bảo tính giáo dục đối với bản thân người vi phạm và tính
ngăn ngừa, răn đe đối với những người khác. Trường hợp hành vi vi phạm
pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã mà hội đủ các yếu tố cấu thành tội
phạm của một tội nào đó được quy định trong Bộ luật Hình sự thì phải bị truy
cứu trách nhiệm hình sự.
- Chú trọng đúng mức sự đầu tư nguồn lực cho công tác triển khai
THPL về dân chủ ở cấp xã, đặc biệt là công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng
đội ngũ CBCC cấp xã.
4.2.2. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự
chỉ đạo, điều hành của Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương trong
việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Lịch sử Việt Nam kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến
nay đã chứng minh rằng, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam không thể
tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng. Ngay từ khi ra đời, Đảng và Nhà nước ta
đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, coi đó là một vấn đề đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa chiến lược sâu sắc
đối với sự phát triển của đất nước. Khi nhận thấy các quyền dân chủ của nhân
dân, nhất là ở xã, phường, thị trấn bị xâm phạm, có lúc, có nơi nghiêm trọng,
Đảng ta đã kịp thời đề ra chủ trương, đường lối xây dựng, ban hành và thực
hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ ở cơ sở. Nhà nước ta đã nhanh chóng thể
chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật. Vấn đề đặt ra là,
pháp luật về dân chủ ở cấp xã có được triển khai thực hiện sâu rộng ở các xã,
143
phường, thị trấn và đạt được hiệu quả cao hay không phụ thuộc phần nhiều
vào sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng ở các địa phương từ tỉnh đến xã,
phường, thị trấn trên phạm vi cả nước. Vì vậy, việc đẩy mạnh THPL về dân
chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự
chỉ đạo, điều hành của Nhà nước, các cấp chính quyền từ tỉnh đến xã trên
phạm vi cả nước nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả của công tác này. Đây cũng
là yêu cầu của Đảng ta về tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị
số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) trong giai đoạn hiện nay: “Tăng
cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng; trách nhiệm của chính quyền,
của người đứng đầu về thực hiện quy chế dân chủ” [2, tr. 7].
Thứ nhất, các cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương từ tỉnh đến
xã, phường, thị trấn cần quán triệt sâu sắc và nâng cao hơn nữa nhận thức vềdân chủ và thực hiện dân chủ ở cấp xã. Nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò,
tầm quan trọng của thực hành dân chủ và dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nền tảng để triển khai thực
hiện tốt pháp luật về dân chủ ở cấp xã. Mặc dù phần lớn Tỉnh ủy, Ủy ban
nhân dân các tỉnh trên phạm vi cả nước đã làm khá tốt công việc này; song,
như Kết luận của Ban Bí thư đã chỉ rõ: “Nhận thức về dân chủ và trách nhiệm
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ,
công chức chưa đầy đủ, phong cách làm việc quan liêu, mất dân chủ, thiếu tôn
trọng dân còn khá phổ biến trong cán bộ các cấp, các ngành” [2, tr. 5]. Điều
đó chứng tỏ rằng, vẫn còn tình trạng vi phạm các quyền dân chủ ở nơi này
hay nơi khác, lúc này hay lúc khác trong THPL về dân chủ ở cấp xã, mà
nguyên nhân xuất phát từ vấn đề nhận thức. Chính vì vậy, cần “tiếp tục quán
triệt, không ngừng nâng cao nhận thức; xác định rõ trách nhiệm của các cấp
ủy đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị- xã hội; của cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân về những quan
điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát huy quyền làm
chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở” [2 tr. 7].
144
Thứ hai, các cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương phải đề ra
phương hướng, chương trình, mục tiêu cụ thể của công tác THPL về dân chủ
ở cấp xã cho từng giai đoạn. Sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng cần được thể
hiện bằng các chỉ thị, nghị quyết cụ thể và sâu sắc về công tác THPL về dân
chủ ở cấp xã; đồng thời, phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việcthực hiện các chỉ thị, nghị quyết đó từ phía chính quyền các cấp, nhất là cấp
xã. Tuyệt đối tránh tình trạng chính quyền cấp xã sử dụng các chỉ thị, nghị
quyết của cấp ủy Đảng thay thế cho các văn bản pháp quy. Ngoài ra, không
dừng lại ở chỉ thị, nghị quyết, các cấp ủy Đảng, chính quyền các xã, phường,
thị trấn trên phạm vi cả nước cũng cần chú trọng đẩy mạnh việc thực hiện dân
chủ trong sinh hoạt của các chi bộ Đảng và trong đội ngũ CBCC, đảng viên
đang công tác, sinh hoạt ở địa phương; bồi dưỡng, nâng cao trình độ kiến thức
pháp luật cho CBCC, đảng viên, củng cố ý thức tôn trọng, chấp hành pháp
luật trong quá trình làm công tác Đảng và công tác chính quyền.
Thứ ba, với vai trò là nòng cốt, hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính
trị địa phương, các cấp ủy Đảng cần có cơ chế động viên, lôi cuốn cả hệ thống
chính trị, đặc biệt là hệ thống chính trị ở cấp xã, tham gia vào công tác THPL
về dân chủ ở cấp xã. Cần xác định rõ ràng rằng, hoạt động THPL nói chung,
THPL về dân chủ ở cấp xã nói riêng không phải chỉ là trách nhiệm của riêng
các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, mà nó đòi hỏi huy động sự nỗ lựctham gia của cả hệ thống chính trị. Với tư cách là liên minh các thiết chế
chính trị, chính trị - xã hội được thành lập, hoạt động hợp pháp trong mối liên
hệ chặt chẽ với nhau, cả hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của nó, với
tính chủ động, sáng tạo, sẽ phát huy mạnh mẽ vai trò của mình trong THPL
về dân chủ ở cấp xã. MTTQ, Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội
Cựu chiến binh, Hội Nông dân... cấp xã là những thành tố quan trọng đó.
Thứ tư, từ các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các văn bản QPPL của
Nhà nước về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho đến việc triển khai thực hiện,
đưa chúng vào thực tiễn đời sống xã hội tại các xã, phường, thị trấn là cả một
quá trình. Vấn đề đặt ra ở đây là sự nghiêm túc, kịp thời trong việc triển khai
thực hiện các văn bản QPPL về thực hiện dân chủ ở cấp xã từ phía các cấp ủy
145
Đảng, chính quyền cấp xã. Thực tiễn chứng minh rằng, chỉ thị dù có đúng,
chính sách dù có hay, phù hợp, nhưng việc tổ chức thực hiện không được
quán triệt, thông suốt từ tư tưởng đến hành động thì chỉ thị, chính sách đó
cũng khó lòng đi vào cuộc sống. Chính vì vậy, sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát,
kịp thời từ phía cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương với tư cách chủ thể
trong việc triển khai thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng, văn bản QPPL
của Nhà nước về thực hiện dân chủ ở cấp xã có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền cấp xã phải coi đây là nhiệm vụ chính trị
thường xuyên, có sự chỉ đạo nghiêm túc, đôn đốc, nhắc nhở kịp thời nhằm
thực hiện có hiệu quả pháp luật về dân chủ ở cấp xã.
Thứ năm, quán triệt sâu sắc phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ” trong hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã. Mục
tiêu của hoạt động này, suy cho cùng, là nhằm phát huy cao nhất các quyền
dân chủ của nhân dân, thu hút nhân dân chủ động, tích cực tham gia thực sự
vào hoạt động quản lý nhà nước và xã hội, đảm bảo nguyên tắc “toàn bộ
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”, cũng có nghĩa là “nhân dân làm
chủ”. Các cấp ủy Đảng giữ vai trò lãnh đạo hoạt động THPL về dân chủ ở cấp
xã bằng các chỉ thị, nghị quyết; đôn đốc, kiểm tra quá trình hoạt động này;
nhưng không làm thay các cấp chính quyền địa phương. Các cấp chính quyền
địa phương giữ vai trò chỉ đạo, điều hành, tổ chức triển khai THPL về dân chủ
ở cấp xã thông qua đội ngũ CBCC của mình. Tuyệt đối tránh tình trạng cấp
ủy Đảng phó thác cho chính quyền cấp xã triển khai THPL về dân chủ ở cấp
xã, còn chính quyền xã lại cho rằng đó là nhiệm vụ của cấp ủy Đảng. Phải có
sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa hai vế “Đảng lãnh đạo” và “Nhà nước
quản lý” thì mới đạt được mục tiêu “nhân dân làm chủ”.
4.2.3. Nâng cao chất lượng, phát huy vai trò nòng cốt của đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong quá trình thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Nhân tố con người, mà cụ thể và trực tiếp là đội ngũ CBCC cấp xã là
khâu có ý nghĩa quyết định trong THPL nói chung, pháp luật về dân chủ ở
146
cấp xã nói riêng. CBCC cấp xã là những người đã và đang hàng ngày thay
mặt chính quyền địa phương trực tiếp thụ lý, giải quyết các công việc liên
quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhà nước và nhân dân trên
địa bàn xã, phường, thị trấn; trực tiếp tổ chức, triển khai thực hiện và hướng
dẫn nhân dân THPL về dân chủ ở cấp xã nhằm chuyển các nguyên tắc, quy
định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã thành hành vi pháp luật hợp
pháp của công dân. Hiệu quả của hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã cao
hay thấp, có thực sự phát huy được quyền làm chủ của nhân dân hay không
phụ thuộc chủ yếu vào sự thực thi chức năng, nhiệm vụ được giao của đội ngũ
này. Chính vì vậy, nâng cao trình độ kiến thức pháp luật, phát huy vai trò
nòng cốt của đội ngũ CBCC cấp xã, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong quá
trình THPL về dân chủ ở cấp xã là một giải pháp rất quan trọng. Đối với giải
pháp này, cần tập trung làm tốt các nội dung sau:
4.2.3.1. Tăng cường tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng kiến thức pháp
luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
Một trong những tiêu chuẩn của đội ngũ CBCC, trong đó có CBCC cấp
xã, là phải có trình độ, kiến thức, hiểu biết pháp luật; nhất là phải có sự hiểu
biết chuyên sâu về các văn bản QPPL đang điều chỉnh lĩnh vực chuyên môn,
nghiệp vụ mà họ đang được phân công đảm trách; biết phân tích các QPPL để
vận dụng đúng đắn pháp luật nhằm giải quyết tốt công việc được giao. Tuy
nhiên, tỷ lệ CBCC cấp xã chưa đạt chuẩn còn cao; nhiều CBCC cấp xã chưa
được đào tạo cơ bản. Ở một số địa phương vẫn còn tình trạng CBCC cấp xã
giải quyết công việc trong tình trạng thiếu kiến thức, hiểu biết pháp luật,
không quan tâm cập nhật chính sách, văn bản pháp luật mới, trong đó có pháp
luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã. THPL về dân chủ ở cấp xã mà thiếu kiến
thức, hiểu biết về lĩnh vực pháp luật này thì không thể có được kết quả như
mong muốn, không thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Pháp luật nói chung, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã nói riêng
không tự đến được với đội ngũ CBCC cấp xã, mà phải thông qua những cách
thức chuyển tải khác nhau. Tập huấn chuyên đề pháp luật, bồi dưỡng kiến
147
thức pháp luật sẽ là những hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với
đội ngũ CBCC cấp xã, đáp ứng yêu cầu nói trên.
Tăng cường công tác tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng kiến thức pháp
luật cho đội ngũ CBCC cấp xã nhằm mục tiêu cung cấp, trang bị cho họ
những tri thức, hiểu biết về các vấn đề pháp luật nói chung, các vấn đề pháp
luật cụ thể liên quan đến hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã nói riêng;
trang bị cho họ các kỹ năng THPL, kỹ năng vận động, tuyên truyền nhân dân
phát huy các quyền dân chủ; làm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm
pháp luật và hành vi pháp luật phù hợp với các yêu cầu của hệ thống pháp luật
hiện hành cũng như những đòi hỏi đặc thù của lĩnh vực THPL về dân chủ ở
cấp xã. Để bảo đảm chất lượng, hiệu quả của công tác tập huấn chuyên đề, bồi
dưỡng kiến thức pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho đội ngũ CBCC
cấp xã, các chủ thể giáo dục pháp luật và đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp
luật cần thực hiện tốt các việc sau:
Về phía chủ thể, Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp huyện
và các cơ quan hữu quan, theo chức năng, nhiệm vụ được giao trong công tác
tập huấn, bồi dưỡng pháp luật nói chung, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp
xã nói riêng cho đội ngũ CBCC cấp xã, cần có sự chuẩn bị chu đáo, nghiêm
túc, khoa học nội dung các chuyên đề pháp luật cần bồi dưỡng, chuẩn bị đầy
đủ các tài liệu pháp luật để phát cho người học. Nội dung tập huấn, bồi dưỡng
pháp luật cho CBCC cấp xã cần tập trung vào các văn bản QPPL mới của
Nhà nước và các văn bản hướng dẫn của các cấp chính quyền địa phương; các
văn bản phục vụ nhiệm vụ chính trị ở từng địa phương, các quy định của pháp
luật liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước, tập trung vào các lĩnh vực
pháp luật như: đất đai, dân sự, khiếu nại, tố cáo, môi trường, văn hoá, phòng
chống tội phạm, tệ nạn xã hội, giao thông, quy chế tiếp công dân, thực hiện
quy chế dân chủ ở cấp xã, chế độ chính sách đối với người có công, xử lý vi
phạm hành chính, phí, lệ phí, thi hành án dân sự, giải quyết khiếu nại tố cáo,
quản lý hộ tịch, hộ khẩu và trật tự an toàn xã hội... Các chủ thể cũng cần lựa
chọn giảng viên/báo cáo viên pháp luật đứng lớp là những chuyên gia pháp
148
luật có trình độ cao, hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực pháp luật cần tập huấn, bồi
dưỡng cho CBCC cấp xã, am hiểu tình hình thực tế địa phương, có kỹ năng
truyền đạt, phương pháp sư phạm giỏi...
Trong quá trình tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề pháp luật, giảng viên
cần kết hợp hài hòa giữa phương pháp thuyết trình truyền thống với phương
pháp nêu vấn đề, kết hợp giữa giảng lý thuyết với việc nêu ra các tình huống
thực tiễn và các bài tập trắc nghiệm phù hợp với nội dung, mục tiêu bồi
dưỡng; hạn chế sử dụng phương pháp thuyết trình theo lối độc thoại một
chiều; tăng cường các phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm theo các chủ
đề pháp luật, phương pháp nêu tình huống, sự kiện pháp lý để lôi cuốn người
nghe vào sự tranh luận, thảo luận, tìm ra hướng giải quyết hợp lý nhất... Một
nội dung bồi dưỡng rất quan trọng là phải rèn luyện cho đội ngũ CBCC cấp
xã các kỹ năng tuyên truyền, vận động nhân dân, hướng dẫn thực hiện, áp
dụng pháp luật vào thực tiễn THPL về dân chủ ở cấp xã.
Về phía đối tượng tiếp nhận, đội ngũ CBCC cấp xã cần có tinh thần, ý
thức trách nhiệm cao khi tham gia các lớp tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng
kiến thức pháp luật, phải xuất phát từ nhu cầu của bản thân mong muốn nâng
cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật thực sự chứ không phải tham gia
theo kiểu đối phó, mà là vì lợi ích của mình; tham dự tập huấn, bồi dưỡng
pháp luật để cập nhật, tích lũy kiến thức, hiểu biết pháp luật, nâng cao ý thức
pháp luật cá nhân và để làm công tác chuyên môn tốt hơn; hiểu biết sâu hơn
pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã để tổ chức triển khai có hiệu quả và
hướng dẫn nhân dân THPL cho đúng. Trên cơ sở đó, CBCC cấp xã phải thực
sự có thái độ nghiêm túc, cầu thị trong quá trình tham gia các lớp tập huấn,
bồi dưỡng chuyên đề pháp luật. Mặt khác, bản thân mỗi người cần thường
xuyên tự cập nhật thông tin về các chính sách, văn bản pháp luật mới, nhất là
những văn bản liên quan trực tiếp đến lĩnh vực chuyên môn đang đảm trách
và liên quan đến việc triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã.
Về phía chính quyền cấp xã - nơi quản lý trực tiếp đội ngũ CBCC cấp
xã - cũng cần có sự quan tâm, tạo điều kiện cho CBCC của mình được tham
149
gia tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng kiến thức pháp luật đầy đủ; có chính sách
khuyến khích CBCC học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ
năng nghiệp vụ, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật; có cơ chế,
chính sách khen thưởng kịp thời và xử lý kỷ luật nghiêm minh nhằm đảm bảo
chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã. Khi đã cử CBCC cấp xã tham gia các lớp
tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp
xã thì chính quyền các địa phương phải tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho họ,
giám sát và kiểm tra kết quả học tập của CBCC được cử đi học. Mọi sự qua
loa, đại khái, hình thức trong việc chuẩn bị nhân sự đều có thể ảnh hưởng tiêu
cực tới chất lượng, hiệu quả của hoạt động này.
Thông qua việc tăng cường công tác tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng
kiến thức pháp luật cho đội ngũ CBCC cấp xã, chất lượng chuyên môn, kỹ
năng nghiệp vụ của đội ngũ này chắc chắn sẽ được nâng lên, đáp ứng tốt hơn
nhiệm vụ THPL về dân chủ ở cấp xã.
4.2.3.2. Phát huy vai trò nòng cốt, tính tích cực chính trị - xã hội của
mỗi CBCC cấp xã trong quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã
Trong hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã, đội ngũ CBCC cấp xã giữ
vai trò “kép”: vừa trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện các quy định của pháp
luật về dân chủ ở cấp xã, vừa tuyên truyền, hướng dẫn các tầng lớp nhân dân
ở cơ sở thực hiện các quyền dân chủ mà pháp luật trao cho họ. Dân chủ ở cấp
xã chỉ có thể được phát huy khi đội ngũ CBCC cấp xã tôn trọng và tận tụy
phục vụ nhân dân. Vai trò nòng cốt, tính tích cực chính trị - xã hội của đội
ngũ CBCC cấp xã trong quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã thể hiện ở bản
lĩnh chính trị vững vàng; có lối sống lành mạnh, đạo đức trong sáng, gương
mẫu, đi đầu trong THPL; tác phong làm việc chuyên nghiệp và hiện đại; có ý
thức cao trong đấu tranh tự phê bình và phê bình, phòng chống các hành vi
tiêu cực, vi phạm pháp luật. Nhằm tiếp tục phát huy nền dân chủ XHCN, đẩy
mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đảng ta đòi hỏi “cán bộ, công
chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân,
tận tụy phục vụ nhân dân” [21, tr. 239].
150
- Thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân và thực hiện dân chủ ở cấp xã đòi hỏi đội ngũ
CBCC cấp xã không chỉ cần giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, mà còn phải có
bản lĩnh chính trị vững vàng; nghĩa là đội ngũ CBCC cấp xã phải vừa “hồng”,
vừa “chuyên”. Mỗi CBCC, đảng viên phải quán triệt sâu sắc cương lĩnh chính
trị của Đảng, lý tưởng XHCN; học tập, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ lý
luận chính trị, rèn luyện bản lĩnh chính trị, kiên định lập trường cách mạng
trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và biết vận
dụng, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào thực tiễn đời sống xã hội ở xã,
phường, thị trấn. Đây là bài học kinh nghiệm quý báu mà Đảng ta đã tổng kết:
“Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”
[20, tr. 70]. Bản lĩnh chính trị vững vàng cũng là cơ sở, nền tảng để đội ngũ
CBCC, đảng viên ở cơ sở “chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực thù địch kích động, chống đối, chia rẽ khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội” [2, tr. 8]; hướng dẫn
nhân dân THPL về dân chủ ở cấp xã đạt chất lượng, hiệu quả cao.
- Để phát huy tính tích cực chính trị - xã hội trong THPL về dân chủ ở
cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đòi hỏi
mỗi CBCC cấp xã phải có lối sống lành mạnh, trong sáng. “Người cán bộ cơ
sở cần luôn thể hiện sự gương mẫu trong cuộc sống, sinh hoạt, giao tiếp và
trong công việc hàng ngày, tránh xa các biểu hiện tiêu cực như chủ nghĩa cá
nhân, ích kỷ, thực dụng, quan liêu, vụ lợi, tệ nạn xã hội. Trong giải quyết
công việc cần năng động, sáng tạo và tự tin, phải có thái độ ân cần, niềm nở
khi tiếp dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân để tìm ra hướng giải
quyết đúng đắn. Tránh mọi biểu hiện trịch thượng, độc đoán, cửa quyền, xa
rời quần chúng” [100, tr. 159]. Xây dựng và củng cố vững chắc lối sống theo
pháp luật là một yêu cầu bắt buộc đối với CBCC cấp xã.
- Đội ngũ CBCC cấp xã còn phải có đạo đức trong sáng, rèn luyện và
nâng cao phẩm chất đạo đức, ý thức đạo đức nghề nghiệp; có ý thức rõ ràng
151
về thiện - ác, tốt - xấu, lương tâm - vô lương tâm... nhằm điều chỉnh hành vi
đạo đức của mình sao cho phù hợp với các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực
đạo đức trong xã hội, trong cộng đồng. Việc tự giác rèn luyện phẩm chất đạo
đức nghề nghiệp cũng giúp cho mỗi CBCC tránh xa các thói hư, tật xấu,
không dính líu vào các hành vi tiêu cực, tệ nạn xã hội; trở thành tấm gương
đạo đức để nhân dân nhìn vào và thêm tin yêu đội ngũ cán bộ của mình.
CBCC cấp xã có gương mẫu, đi đầu trong THPL thì mới có thể động viên, lôi
cuốn các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình. CBCC cấp xã
khi làm việc, tiếp dân cần đeo phù hiệu để người dân được biết, thuận tiện
trong liên hệ công việc và phản ánh đúng địa chỉ, đúng người trong trường
hợp có những biểu hiện tiêu cực. Đó cũng là tác phong làm việc chuyên
nghiệp và hiện đại mà mỗi CBCC cấp xã cần phải hướng tới và đạt được.
- Tự bản thân mỗi CBCC cấp xã, tùy theo phạm vi hoạt động chuyên
môn, chức năng, nhiệm vụ của mình, cần luôn luôn đề cao ý thức, tinh thần
đấu tranh tự phê bình và phê bình trong nội bộ tổ chức, cơ quan. Tự phê bình
và phê bình có nghĩa là mỗi CBCC phải tự ý thức được vai trò, trách nhiệm,
bổn phận của bản thân mình khi làm công tác chuyên môn, khi triển khai thực
hiện pháp luật nói chung, pháp luật về dân chủ ở cấp xã nói riêng; phải tự có
trách nhiệm và tự chịu trách nhiệm đối với chính bản thân mình; tự tu dưỡng,
rèn luyện, phấn đấu để nâng cao ý thức tự phòng chống các hành vi tiêu cực
cho bản thân và cho cả những CBCC khác trong bộ máy chính quyền cấp xã
không bị dính líu vào các hành vi đó, như hách dịch, sách nhiễu dân, tham
nhũng, dính líu vào các loại tệ nạn xã hội, tha hóa về đạo đức, vi phạm pháp
luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã.
4.2.3.3. Bảo đảm thực thi chế tài khen thưởng - kỷ luật công bằng,
nghiêm minh trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Chấy lượng, hiệu quả của hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước
ta hiện nay phụ thuộc chủ yếu vào sự thực thi vai trò, trách nhiệm của một
trong những chủ thể quan trọng - đội ngũ CBCC cấp xã. Tuy nhiên, tính chịu
trách nhiệm được quy định như thế nào? Ai làm tốt chức trách thì được động
152
viên, khen thưởng ra sao? Ai có hành vi vi phạm, lợi dụng việc thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cấp xã để mưu đồ lợi ích cá nhân thì phải bị xử lý cụ
thể như thế nào? Nếu không quy định cụ thể, rõ ràng các vấn đề nêu trên thì
sẽ đặt đội ngũ CBCC cấp xã vào tình thế “hòa cả làng”, người làm tốt cũng
như không hoàn thành nhiệm vụ; không tạo được động lực thúc đẩy họ hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao trong THPL về dân chủ ở cấp xã. Một trong
những nguyên nhân làm giảm sút hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã là do
thiếu chế tài khen thưởng - kỷ luật hoặc thực thi chưa nghiêm minh chế tài
khen thưởng - kỷ luật trong THPL về dân chủ ở cấp xã.
Các bản Quy chế thực hiện dân chủ ở xã từ trước đến nay đều có
chương cuối đề cập đến “Điều khoản thi hành”, trong đó quy định: “Trong
quá trình thực hiện Quy chế, các tổ chức, cá nhân có thành tích sẽ được khen
thưởng; các tổ chức, cá nhân vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật
hiện hành” [9, Điều 25]; hoặc “Những nơi không tổ chức triển khai thực hiện
Quy chế hoặc triển khai hình thức, kém hiệu quả thì Chủ tịch UBND xã phải
chịu trách nhiệm và bị xử lý kỷ luật tùy theo mức độ sai phạm. Hình thức kỷ
luật đối với Chủ tịch UBND cấp xã do Chủ tịch UBND cấp huyện xem xét,
quyết định” [10, Điều 25]. Còn trong Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, trách nhiệm của chính quyền, tổ chức, đoàn thể, CBCC và
nhân dân đã được quy định theo từng nội dung cụ thể ở từng chương; chẳng
hạn, “Xử lý người có hành vi cản trở hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân,
Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc người có hành vi trả thù, trù dập
công dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị theo quy định của pháp luật” [112, Điều
25]. Tuy nhiên, những quy định về khen thưởng và kỷ luật như đã nêu trong
các bản Quy chế thực hiện dân chủ ở xã năm 1998 và năm 2003 thì đã bị loại
bỏ, không còn hiện diện trong Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn. Và dù có hay không thì bất kỳ ai cũng dễ dàng nhận thấy rằng, đó là
những quy định còn rất chung chung.
Khen thưởng kịp thời, đúng người, đúng việc sẽ tạo động lực khuyến
khích, thúc đẩy CBCC cấp xã và nhân dân chủ động, tích cực tham gia THPL
153
về dân chủ ở cấp xã. Kỷ luật nghiêm minh, đúng đối tượng, đúng lỗi vi phạm
vừa trực tiếp xử lý người có hành vi vi phạm, vừa góp phần ngăn chặn, phòng
ngừa các hành vi vi phạm dân chủ có thể xảy ra.
Việc thực thi các chế tài khen thưởng - kỷ luật trong THPL về dân chủ
ở cấp xã phải kịp thời, công bằng, nghiêm minh, đúng đối tượng, bảo đảm
tính hiệu lực, hiệu quả của việc khen thưởng, kỷ luật; có như vậy mới khích lệ
được sự hăng hái, nhiệt tình của các chủ thể THPL về dân chủ ở cấp xã.
4.2.4. Nâng cao nhận thức pháp luật, sự tham gia chủ động, tích cực hơn
nữa của các tầng lớp nhân dân vào công tác THPL về dân chủ ở cấp xã
Vai trò nòng cốt của đội ngũ CBCC cấp xã chỉ có thể thực sự được phát
huy khi nó “giao thoa” với sự tham gia chủ động, tự giác và tích cực của các
tầng lớp nhân dân vào hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã dựa trên nền tảng
một trình độ hiểu biết pháp luật nhất định. “Miền giao thoa” càng lớn thì hiệu
quả THPL về dân chủ ở cấp xã càng cao và ngược lại. Do đó, nâng cao nhận
thức pháp luật, sự tham gia chủ động, tự giác, tích cực hơn nữa của nhân dân
vào việc THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN là giải pháp rất quan trọng và phải được triển khai đồng bộ
cùng các giải pháp khác. Nội dung giải pháp này bao gồm:
4.2.4.1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật
về thực hiện dân chủ ở cấp xã trong các tầng lớp nhân dân
Một trong số các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục phát huy dân
chủ XHCN được Đảng ta xác định là: “Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ
công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân” [21, tr.
239]. Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả
của việc THPL về dân chủ ở cấp xã là do người dân chưa ý thức đầy đủ về
các quyền và nghĩa vụ của mình, thiếu năng lực làm chủ và chưa chủ động,
tích cực tham gia quản lý xã hội. “Còn một bộ phận đáng kể nhân dân chưa có
ý thức cao và năng lực thực hành dân chủ, chưa có một nền văn hóa dân chủ ở
mức cần thiết, chưa có thói quen tuân thủ pháp luật nên cũng chưa có cơ sở
tốt để phát huy dân chủ một cách đúng đắn và đầy đủ” [14, tr. 27]. Muốn thực
154
sự phát huy tính tự chủ, tự giác của nhân dân thi công tác tuyên truyền sâu
rộng pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có tầm quan trọng
hàng đầu. Kiến thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là tiền
đề, nền tảng để nhân dân phát huy các quyền dân chủ của mình theo luật định.
Tại các xã, phường, thị trấn ở nước ta hiện nay, việc tiếp tục đẩy mạnh công
tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã một cách
sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân là để củng cố vững chắc nền tảng đó.
Mục đích của công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện
dân chủ ở cấp xã là nhằm cung cấp, trang bị cho mỗi người dân những kiến
thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã, bao gồm các quyền
dân chủ của nhân dân, trách nhiệm của chính quyền, CBCC cấp xã, cán bộ
thôn, tổ dân phố, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của nhân dân
trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; từ đó, làm hình thành trong nhân dân ở
cơ sở thái độ, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật, tạo dựng thói quen, lối
sống, hành vi xử sự tích cực theo các quy định của pháp luật về thực hiện dân
chủ ở cấp xã, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Để đạt được mục
đích đó cần triển khai các nội dung:
Về chủ thể, ngoài các chuyên gia pháp luật, chủ thể chính làm công tác
phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho các tầng
lớp nhân dân là đội ngũ CBCC cấp xã. Việc thực hiện vai trò, chức năng này
của họ có tác động rất lớn đến sự hiểu biết, nhận thức, thái độ, tình cảm của
nhân dân đối với pháp luật và THPL về dân chủ ở cấp xã. Dù đã được tham
dự các lớp tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng pháp luật về thực hiện dân chủ ở
cấp xã; song, khi đảm nhiệm vai trò chủ thể phổ biến, tuyên truyền pháp luật
về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho nhân dân, mỗi CBCC được giao nhiệm vụ
cần chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo, nghiêm túc các nội dung pháp luật cần phổ
biến, tuyên truyền; dự liệu các câu hỏi, tình huống thực tế mà nhân dân có thể
đặt ra để có sự giải đáp thỏa đáng.
Về phương pháp, CBCC làm nhiệm vụ phổ biến, tuyên truyền pháp
luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cần quán triệt phương pháp “lấy người dân
155
làm trung tâm” bằng cách đưa ra các ví dụ thực tiễn sinh động gắn liền với
THPL về dân chủ ở địa phương, nêu các câu hỏi có tính chất gây tranh luận
nhằm tạo sự thảo luận sôi nổi...; biến nhân dân thành “người trong cuộc”
trong các cuộc họp phổ biến pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Về nội dung, trong giai đoạn hiện nay, nội dung phổ biến, tuyên truyền
pháp luật cho các tầng lớp nhân dân ở xã, phường, thị trấn cần tập trung vào
các văn bản pháp luật gần gũi, liên quan nhiều đến đời sống xã hội trên địa
bàn cơ sở, như Bộ Luật dân sự, Luật đất đai, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo,
pháp luật về an toàn giao thông, phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội,
các chế độ chính sách... Đối với pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã, cần
tập trung phổ biến, tuyên truyền nội dung các quyền dân chủ của nhân dân ở
xã, phường, thị trấn: quyền được biết; quyền được bàn và quyết định; quyền
được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và quyền
giám sát. Việc nhân dân hiểu biết, thực hiện tốt những quyền dân chủ nói trên
sẽ đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Về hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật, đối với nhân dân ở xã,
phường, thị trấn, những hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực
hiện dân chủ ở cấp xã hiệu quả nhất bao gồm:
- Tổ chức các cuộc họp thôn, hội nghị nhân dân để báo cáo viên pháp
luật trực tiếp phổ biến, tuyên truyền bằng các phương pháp sinh động, hấp
dẫn và nội dung gần gũi, thiết thực với nhân dân.
- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã
bằng cả hai hình thức viết và nói (có thể sân khấu hóa thông qua các hoạt
cảnh, tiểu phẩm vui, thi tuyên truyền viên pháp luật giỏi...).
- Tăng cường hoạt động phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện
dân chủ ở cấp xã trên mạng lưới Đài Truyền thanh cấp xã; trong đó, cần đặc
biệt chú ý đến tần suất, khung giờ phát thanh sao cho phù hợp với nếp sống,
tập quán sản xuất của nhân dân địa phương nhằm đảm bảo hiệu quả thông tin.
- Phát miễn phí các tài liệu pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho
các hộ gia đình để nhân dân có thời gian nghiên cứu, hiểu biết sâu hơn.
156
- Lồng ghép các nội dung phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện
dân chủ ở cấp xã vào các cuộc họp, hội nghị, sinh hoạt của Đảng, chính
quyền, đoàn thể cấp xã và các sinh hoạt tại khu dân cư, tổ dân phố.
- Quốc hội đã ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012,
trong đó quy định ngày 9/11 hàng năm là Ngày Pháp luật nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam “nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức
thượng tôn pháp luật cho mọi người trong xã hội” [82, Điều 8]. UBND nhiều
tỉnh/thành phố đã xây dựng và phê duyệt Kế hoạch thực hiện “Ngày pháp
luật” tất cả các cơ quan, đơn vị, địa phương... và đã tổ chức triển khai thực
hiện tốt “Ngày pháp luật” tại các xã, phường, thị trấn, trong đó có lồng ghép
tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã. Đây là một sáng kiến
hay cần được triển khai nhân rộng trên địa bàn xã, phường, thị trấn cả nước và
cũng là một hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật rất hiệu quả.
4.2.4.2. Đổi mới cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
trên địa bàn xã, phường, thị trấn
Cơ chế thực hành dân chủ ở nước ta từ trước đến nay là “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đã được cụ thể hóa thành các quyền dân chủ của
nhân dân quy định trong Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn,
bao gồm quyền được biết; quyền được bàn và quyết định; quyền được tham
gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và quyền giám sát của
nhân dân. Về bản chất, cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là
xương sống, là trụ cột của quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã.
Muốn “dân biết” thì điều cốt yếu đầu tiên là phải cung cấp thông tin
cho nhân dân; thông tin phải chân thực, kịp thời và công khai. Có công khai
thì mới có dân chủ vì công khai là một trong những điều kiện tiên quyết để
thực hiện dân chủ. Trong Nhà nước pháp quyền XHCN, công khai là một đòi
hỏi tất yếu, là một biểu hiện quan trọng của nền dân chủ XHCN. Yếu tố công
khai đòi hỏi chính quyền các cấp phải thông báo cho nhân dân một cách cụ
thể, rõ ràng về các mục tiêu, kế hoạch, chương trình hành động, các đường
lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi
157
của nhân dân đối với các vấn đề này. Người dân có quyền được cung cấp
thông tin để họ đánh giá tình hình, biểu thị thái độ, ý kiến của mình. Những
vấn đề chung của đất nước, địa phương có liên quan đến lợi ích của người
dân, không gây phương hại đến lợi ích Nhà nước hay bí mật quốc gia thì nhân
dân phải được biết. Các nội dung cần công khai cho nhân dân biết đã được
quy định trong pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã. Yêu cầu đặt ra là
phải mở rộng hơn nữa phạm vi các vấn đề, nội dung cần công khai. “Mọi
biểu hiện “nói một đường, làm một nẻo”, cung cấp thông tin sai lệch, cắt xén,
không đúng lúc, đúng chỗ đều có thể làm mất niềm tin của quần chúng, kìm
hãm việc thực hiện các mục tiêu chung” [68, tr. 12 - 13].
“Dân bàn” là xu hướng tất yếu khi người dân đã được cung cấp thông
tin. Nhân dân có quyền tham gia bàn bạc, thảo luận các vấn đề chung của đất
nước và địa phương; biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Với
tinh thần “lấy dân làm gốc”, các cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp,
nhất là cấp xã, phải biết lắng nghe các ý kiến của nhân dân, nắm bắt dư luận
xã hội một cách nghiêm túc, phân tích nội dung các ý kiến của dân, dư luận
xã hội một cách khoa học để nắm bắt chính xác, kịp thời tâm trạng, tình cảm,
nguyện vọng của nhân dân. Có thể nói, nội dung “dân bàn” là một trong
những sự phản biện xã hội tốt nhất đối với các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giúp cho các đường lối, chính
sách, pháp luật phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đời sống trên địa bàn cơ sở.
“Dân làm” là sự hiện thực hóa “tư tưởng đã thông suốt” thành những
hành động, việc làm cụ thể. Từ chỗ được cung cấp thông tin một cách công
khai, trung thực, kịp thời, qua bàn bạc, trao đổi ý kiến để tìm ra tiếng nói
chung, có được sự đồng thuận giữa chính quyền và nhân dân, người dân sẽ tự
giác tuân thủ, thực hiện các quy định của pháp luật, hăng hái, nhiệt tình trong
lao động sản xuất với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn
giản, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ
mãi không ra” [59, tr. 295].
158
“Kiểm tra” là dạng hoạt động tất yếu của một xã hội có tổ chức, có kỷ
cương. Trong hoạt động kiểm tra ở cấp xã, vai trò của thanh tra nhân dân
được tổ chức dưới hình thức Ban thanh tra nhân dân có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Ban thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn do Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn hướng dẫn tổ chức, chỉ
đạo hoạt động. Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 thì nhiệm vụ của
Ban thanh tra nhân dân cấp xã là “giám sát việc thực hiện chính sách, pháp
luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở
cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn...”
(Điều 66). Hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn góp
phần tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền cấp xã, củng cố
hiệu lực của pháp luật, tăng cường hiệu quả thực hiện pháp luật nói chung,
pháp luật về dân chủ ở cấp xã nói riêng, bảo vệ các thuần phong, mỹ tục, lối
sống lành mạnh, tiến bộ trong đời sống xã hội cơ sở.
Việc đổi mới cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trên
địa bàn xã, phường, thị trấn hiện nay cần tập trung vào các nội dung sau:
Một là, tiếp tục tạo các điều kiện thuận lợi (phương tiện, diễn đàn, cơ
chế...) để người dân ở các xã, phường, thị trấn được nói lên suy nghĩ thật của
mình, được bày tỏ quan điểm, chính kiến về những vấn đề mà cả cộng đồng
đang quan tâm, vì lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ. Làm thế nào để khi
nói ra một điều gì đó, người dân không cần phải suy nghĩ nhiều xem ý kiến họ
đưa ra có “phạm húy” hay “không hợp khẩu vị” của ai đó không. Nhìn thẳng
vào sự thật, nói đúng sự thật là nguyên tắc quan trọng nhất trong giao tiếp,
trao đổi ý kiến giữa người dân và chính quyền, CBCC cấp xã.
Hai là, tiếp tục tạo các điều kiện bảo đảm cần thiết về kinh tế, chính trị,
văn hóa, pháp luật để các tầng lớp nhân dân chủ động, tích cực tham gia thực
hiện các quyền dân chủ; thảo luận, đóng góp ý kiến, đề xuất các kiến nghị,
giải pháp cụ thể nhằm giải quyết những vấn đề quan trọng, cấp bách có liên
quan trực tiếp, thiết thực tới đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của cả
nước cũng như của từng địa phương.
159
Ba là, tiếp tục xây dựng, thực thi các chính sách, cơ chế phù hợp để
nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền cấp
xã ở tất cả các địa phương, của đội ngũ CBCC cấp xã theo quy định của pháp
luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã; chất vấn những CBCC có thẩm quyền về
những vấn đề người dân quan tâm và quyền nghe trả lời những chất vấn đó;
đặc biệt là những vấn đề về đất đai, xây dựng, quy hoạch và quản lý đô thị,
nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây
dựng cơ sở hạ tầng đô thị, nông thôn.v.v.
Bốn là, trong quá trình thực hiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” sẽ khó tránh khỏi những sai sót, khiếm khuyết, dẫn đến những
thắc mắc, khiếu nại của người dân. Chính quyền các địa phương, đội ngũ
CBCC cấp xã cần sớm dự liệu khả năng này và chủ động chuẩn bị các
phương án để làm tốt công tác tiếp dân, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của
dân. “Kinh nghiệm thực tế cho thấy, nơi nào chính quyền cấp cơ sở làm tốt
công tác tiếp dân sẽ hạn chế được tình trạng khiếu nại, tố cáo đông người, kéo
dài và vượt cấp, tránh được tình trạng đơn thư gửi vòng vo” [68, tr. 16].
Năm là, phát huy dân chủ đòi hỏi phải đi liền với việc đề cao trách
nhiệm công dân và bảo đảm giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội. “Nhân dân
không được tụ tập đông người khiếu kiện vượt cấp, gây mất trận tự an ninh và
chống đối người thi hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được xem xét,
giải quyết theo quy định của pháp luật” [10, Điều 14]. Ai có hành vi vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân, lợi dụng dân chủ để gây mất an ninh, trật tự, an
toàn xã hội thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo “Điều 258. Tội lợi
dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân” của Bộ luật Hình sự năm 1999 [7, tr. 193].
Sáu là, không ai có thể phủ nhận giá trị, ý nghĩa của cơ chế thực hiện
dân chủ “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở nước ta. Cơ chế này đã
được cụ thể hóa thành các quyền dân chủ của nhân dân, quy định trong Pháp
lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, trong đó có quyền được bàn và
quyết định trực tiếp một số nội dung. Tuy nhiên, quyền được quyết định của
160
nhân dân còn rất hạn hẹp, chủ yếu là “chủ trương và mức đóng góp xây dựng
cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn,
tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các công
việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật”
[108, Điều 10]. Trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam hiện nay cũng như thực hiện các quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013
(có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014), đã đến lúc chúng ta cần bổ sung,
phát triển cơ chế thực hiện dân chủ nói trên cho phù hợp hơn với tình hình
mới. Cụ thể, cần bổ sung thêm cụm từ “dân quyết định” vào cơ chế trên thành
cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân quyết định”; đồng
thời, mở rộng thêm những nội dung nhân dân được quyền quyết định trong
thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Làm tốt những nội dung trên đây là góp phần nâng cao tính tích cực
chính trị - xã hội của nhân dân địa phương, giúp họ chủ động, tự giác thực
hiện các quyền dân chủ, phát huy vai trò làm chủ trong mọi hoạt động của
chính quyền cấp xã - mục tiêu của THPL về dân chủ ở cấp xã.
4.2.5. Bảo đảm các điều kiện cần thiết về kinh tế, chính trị, văn hóa cho
việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
4.2.5.1. Bảo đảm các điều kiện về kinh tế
Bất kỳ lĩnh vực nào, chính trị hay pháp quyền, nghệ thuật hay đạo đức,
tôn giáo hay khoa học... đều hình thành, biến đổi và phát triển trên cơ sở, nền
tảng của đời sống sản xuất vật chất và hoạt động kinh tế. Ph. Ăngghen đã
viết: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật.v.v. đều dựa trên sự phát triển kinh tế” [52, tr. 271]. Luận điểm trên cho
thấy, việc nâng cao hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta hiện nay
không thể tách rời sự đảm bảo các điều kiện về kinh tế - xã hội.
Thứ nhất, các cơ quan chức năng của Nhà nước từ Trung ương đến
địa phương cần quan tâm hơn nữa, dành sự đầu tư kinh phí thỏa đáng cho
hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã
161
Trong những năm qua, việc THPL về dân chủ ở cấp xã đã nhận được
sự quan tâm, đầu tư kinh phí nhất định từ phía các cơ quan chức năng; song,
đó là sự đầu tư chủ yếu cho hoạt động THPL nói chung, chứ chưa có sự phân
hóa đầu tư riêng cho lĩnh vực THPL về dân chủ ở cấp xã. Mặt khác, so với
yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả THPL nói chung, THPL về dân chủ ở
cấp xã nói riêng thì sự đầu tư đó còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm và
chưa đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động này. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân làm suy giảm hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã
tại nhiều địa phương trên phạm vi cả nước trong thời gian qua. Chính vì vậy,
các cơ quan chức năng của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương cần quan
tâm hơn nữa, dành sự đầu tư kinh phí thỏa đáng cho hoạt động THPL về dân
chủ ở cấp xã; cần xây dựng cơ chế bố trí ngân sách dành riêng cho công tác
này; tăng cường việc huy động kinh phí từ các dự án, đề án, chương trình,
mục tiêu phát triển và các nguồn kinh phí khác nhằm bảo đảm nguồn lực tài
chính - kinh tế cho công tác THPL về dân chủ ở cấp xã.
Nguồn kinh phí được đầu tư đầy đủ, đúng hướng sẽ giúp chính quyền
cấp xã, trước hết, thực hiện tốt hơn công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật
về thực hiện dân chủ ở cấp xã nhằm nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết
pháp luật cho đội ngũ CBCC cấp xã và cho đông đảo quần chúng nhân dân;
thực hiện tốt hơn công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về dân chủ
ở cấp xã cho đội ngũ CBCC cấp xã; đảm bảo chính sách đãi ngộ đối với các
chuyên gia pháp luật và các CBCC quản lý, trực tiếp tham gia triển khai
THPL về dân chủ ở cấp xã, như chế độ tiền lương, phụ cấp trách nhiệm, chi
trả thù lao cho cán bộ tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Nguồn kinh phí được Nhà nước cấp cũng là điều kiện quan trọng để
chính quyền cấp xã đầu tư mua sắm trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ việc
đa dạng hóa các hình thức, phương pháp phổ biến, tuyên truyền pháp luật về
dân chủ ở cấp xã. Chẳng hạn, mua sắm trang thiết bị phát thanh loại tốt phục
vụ hình thức “công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã”; phát miễn
phí các tài liệu, văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho từng hộ
162
gia đình. Hiện nay, hình thức này còn ít được sử dụng do không có kinh phí
để mua tài liệu pháp luật.
Thứ hai, Nhà nước và chính quyền các cấp cần có cơ chế, chính sách
quan tâm cải thiện và nâng cao hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần cho đội
ngũ CBCC xã. Đối với CBCC cấp xã, Đảng ta đã chủ trương: “Có chế độ đào
tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn” [18, tr. 135]. Như
vậy, muốn nâng cao hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã thì một trong những
biện pháp quan trọng là phải Nhà nước, chính quyền các cấp phải có cơ chế,
chính sách nhằm cải thiện và nâng cao hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần
cho đội ngũ CBCC cấp xã; tạo nền tảng vững chắc để họ yên tâm công tác,
cống hiến khi không còn phải lo “cơm áo, gạo tiền” hàng ngày.
Để hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã đạt được chất lượng, hiệu quả
thực sự lâu dài, bền vững thì một vấn đề cốt lõi, có tính chất nền tảng cần phải
giải quyết là cải thiện và từng bước nâng cao đời sống vật chất cho CBCC
cấp xã. Đây là điều kiện tiên quyết để đội ngũ này yên tâm gắn bó lâu dài với
công tác chuyên môn, trau dồi nghiệp vụ, học hỏi, nghiên cứu để nâng cao
kiến thức, hiểu biết pháp luật; và như vậy, hoạt động THPL về dân chủ ở cấp
xã mà họ là những người trực tiếp tổ chức triển khai mới có thể đạt kết quả
cao. Bởi vì, chỉ khi thu nhập được nâng lên, mức sống của gia đình được cải
thiện thì CBCC cấp xã mới có thể toàn tâm, toàn ý tập trung vào công tác
chuyên môn, chấp hành kỷ cương, cống hiến tài năng và tâm huyết cho sự
nghiệp xây dựng quê hương, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc; làm tốt
công tác THPL về dân chủ ở cấp xã.
Đời sống vật chất của đội ngũ CBCC cấp xã chỉ có thể được cải thiện
và nâng cao khi các chế độ, chính sách đãi ngộ của Nhà nước, của các cấp
chính quyền địa phương bảo đảm được sự ổn định cuộc sống của họ. Chẳng
hạn, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về cải cách chế độ tiền lương, điều chỉnh mức phụ cấp, chính sách ưu đãi đối
với CBCC tổ chức THPL về dân chủ ở cấp xã... đều là những vấn đề có liên
quan đến lợi ích vật chất của CBCC cấp xã. Nếu những chính sách, pháp luật
163
đó được xây dựng, ban hành và đi vào thực tiễn cuộc sống thì chắc chắn sẽ có
tác động rất tích cực tới hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã.
Đời sống tinh thần của đội ngũ CBCC cấp xã cũng có ý nghĩa rất quan
trọng đối với hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, rèn luyện bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của họ và đối với việc tham gia tổ chức
THPL nói chung, pháp luật về dân chủ ở cấp xã nói riêng. Nhà nước và các
cấp chính quyền cũng cần quan tâm, đầu tư nhiều hơn cho việc cải thiện,
nâng cao đời sống tinh thần của đội ngũ CBCC xã. Để làm được điều đó, cần
thực hiện các việc sau: cung cấp miễn phí các loại báo chí của Trung ương và
địa phương cho CBCC cấp xã để giúp họ nắm bắt kịp thời các thông tin kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên cả nước
cũng như ở địa phương, làm phong phú thêm tri thức, hiểu biết xã hội; tổ
chức các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục thể thao; giao lưu, học hỏi
kinh nghiệm giữa CBCC các xã, phường, thị trấn trong huyện, trong tỉnh...
Những hoạt động đó góp phần làm phong phú đời sống tinh thần, giảm thiểu
stress, tạo tâm lý hưng phấn, thoải mái cho CBCC cấp xã hoàn thành tốt
nhiệm vụ chuyên môn cũng như tích cực tham gia THPL về dân chủ ở cấp xã.
Thứ ba, chăm lo phát triển kinh tế hộ gia đình, cải thiện thu nhập,
nâng cao mức sống cho các tầng lớp nhân dân ở xã, phường, thị trấn
Các tầng lớp nhân dân địa phương đang sinh sống trên địa bàn các xã,
phường, thị trấn trên phạm vi cả nước chỉ có thể hăng hái, tích cực, nhiệt tình
tham gia THPL về dân chủ ở cấp xã, thực sự phát huy các quyền dân chủ của
mình khi được đảm bảo đời sống vật chất với mức thu nhập cao, ổn định cũng
như một đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú. Thực tế cho thấy, do tập
trung chăm lo cho kinh tế gia đình khi đời sống vật chất vẫn còn nhiều khó
khăn, thiếu thốn nên đa số người dân chủ yếu mải mê lo làm ăn, kiếm sống, ít
quan tâm đến các quyền dân chủ của họ. Nhu cầu phát triển kinh tế gia đình
khiến cho một bộ phận đáng kể lực lượng lao động trẻ phải xa quê đi làm ăn;
vào các thời điểm nông nhàn khó tìm thấy các lao động chính, chủ hộ gia đình
ở nơi làng xóm nông thôn vì họ đều đã đổ xô ra các thành phố lớn, các khu
164
vực đô thị, khu công nghiệp để làm thêm theo mùa vụ... Tình trạng này đang
gây khó khăn không nhỏ và tác động tiêu cực đến việc THPL về dân chủ ở
cấp xã trên địa bàn nhiều xã thuộc khu vực nông thôn, đặc biệt là đối với hình
thức họp thôn, họp nhân dân toàn xã. Chẳng hạn, việc Pháp lệnh quy định
cuộc họp cử tri tại các thôn, xóm chỉ có giá trị khi có trên 1/2 số cử tri nhất
trí là rất khó thực hiện do nhiều cử tri đi lao động ở tỉnh ngoài.
Từ thực tế đó, Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương cần quan
tâm, chăm lo nhiều hon cho sự phát triển kinh tế của các hộ gia đình, cải thiện
thu nhập, nâng cao mức sống cho các tầng lớp nhân dân ở xã, phường, thị trấn
theo hướng tạo nhiều việc làm tại địa phương để thu hút lao động nông nhàn;
chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ theo hướng giảm số hộ thuần nông, gia
tăng số hộ kiêm nông và phi nông. Thực hiện phương châm đó cũng chính là
một trong những sự bảo đảm các điều kiện về kinh tế cho việc nâng cao hiệu
quả THPL về dân chủ ở cấp xã ở nước ta hiện nay.
4.2.5.2. Bảo đảm các điều kiện về chính trị
Giữa việc bảo đảm các điều kiện về chính trị với hoạt động THPL về
dân chủ ở cấp xã có mối quan hệ khăng khít, gắn bó mật thiết với nhau. Bảo
đảm các điều kiện cần thiết, thuận lợi về chính trị là nền tảng vững chắc thúc
đẩy THPL về dân chủ ở cấp xã; ngược lại, THPL về dân chủ ở cấp xã góp
phần giữ gìn sự ổn định môi trường chính trị và tạo lập bầu không khí dân chủ
xã hội tại các xã, phường, thị trấn trên phạm vi cả nước. Biện pháp bảo đảm
các điều kiện cần thiết về chính trị tập trung vào các nội dung sau:
a) Đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công
tác THPL về dân chủ ở cấp xã
Công tác THPL về dân chủ ở cấp xã trên địa bàn từng xã, phường, thị
trấn có đạt được chất lượng, hiệu quả cao hay không phụ thuộc chủ yếu vào
sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, Chi bộ thôn/tổ dân phố. Ngoài ra, cũng vẫn là
sự lãnh đạo, song phương thức lãnh đạo khác nhau thì dẫn đến kết quả THPL
về dân chủ ở cấp xã cũng khác nhau. Bởi vậy, đổi mới phương thức lãnh đạo
của các cấp ủy Đảng đối với công tác THPL về dân chủ ở cấp xã là sự bảo
165
đảm về chính trị để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác này. Theo quan
điểm của tác giả, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối
với công tác THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cần tập tập trung vào
các nội dung sau:
- Về nguyên tắc, Đảng lãnh đạo bằng việc xây dựng, ban hành các chỉ
thị, nghị quyết, chương trình hành động có tính chất chuyên đề. Các cấp ủy
Đảng địa phương phải tiến hành rà soát lại các chỉ thị, nghị quyết đã ban hành
để trên cơ sở đó, xây dựng, ban hành một nghị quyết riêng về lãnh đạo công
tác THPL về dân chủ ở cấp xã. Trong nghị quyết phải đề ra được phương
hướng, chương trình, mục tiêu cụ thể của công tác THPL về dân chủ ở cấp xã
của địa phương cho từng giai đoạn; đề ra được các giải pháp, biện pháp nhằm
đạt được các mục tiêu và thực hiện thắng lợi nghị quyết.
- Tổ chức cho toàn thể đảng viên, CBCC cấp xã, Trưởng thôn/Tổ
trưởng Tổ dân phố học tập, quán triệt tinh thần, nội dung của nghị quyết và
triển khai thực hiện bằng những chương trình hành động cụ thể, thiết thực;
tuyên truyền, phổ biến rộng rãi nội dung của nghị quyết tới đông đảo các tầng
lớp nhân dân địa phương bằng những hình thức phù hợp, hiệu quả.
- Thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở và làm tốt công tác kiểm tra, giám
sát việc thực hiện nghị quyết từ phía các Chi bộ trực thuộc, chính quyền và
đội ngũ CBCC cấp xã. Ngoài ra, cấp ủy Đảng, chính quyền cấp xã trên phạm
vi cả nước cũng cần chú trọng đẩy mạnh việc thực hiện dân chủ trong sinh
hoạt của các Chi bộ và trong đội ngũ CBCC, đảng viên đang công tác, sinh
hoạt ở địa phương; bồi dưỡng, nâng cao trình độ kiến thức pháp luật cho
CBCC, đảng viên, củng cố ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật trong quá
trình làm công tác Đảng và công tác chính quyền.
- Định kỳ tổ chức sơ kết, đánh giá, chỉ ra những mặt được và chưa được
trong quá trình thực hiện nghị quyết; biểu dương, khen thưởng đối với những
tập thể, cá nhân làm tốt, nhắc nhở, phê bình, rút kinh nghiệm kịp thời đối với
những hạn chế, yếu kém.
166
b) Tiếp tục giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn xã,
phường, thị trấn
Trước khi triển khai thực hiện Chỉ thị 30-CT/TƯ ngày 18/2/1998 của
Bộ Chính trị về Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và Nghị định
số 29/1998/NĐ-CP của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Thực hiện dân
chủ ở xã, tình hình chính trị - xã hội, an ninh trật tự tại một số xã, phường, thị
trấn trên địa bàn cả nước có những diễn biến phức tạp; có lúc, có nơi mất ổn
định trên diện rộng, nhất là ở khu vực nông thôn. Hệ thống chính trị ở một số
xã, phường, thị trấn, như ở tỉnh Thái Bình vào giữa những năm 90 của thế kỷ
XX, bị tê liệt, vô hiệu hóa; chính quyền cơ sở ở nhiều xã không điều hành
được; nhiều hoạt động bị ngừng trệ đến độ: một bộ phận không nhỏ CBCC,
đảng viên băn khoăn, lo ngại rằng, nếu triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở
cấp xã sẽ làm cho tình hình thêm phức tạp. Song, nếu không quyết tâm đưa
pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã vào thực tiễn nhằm phát huy quyền
làm chủ, sức sáng tạo, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần của nhân dân
để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể
trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan
liêu, tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên... thì tình hình chính trị xã hội
tại các xã, phường, thị trấn sẽ còn tồi tệ hơn.
Triển khai thực hiện tốt các nội dung của pháp luật về thực hiện dân
chủ ở cấp xã là điều kiện tiên quyết để ổn định chính trị, duy trì trật tự, kỷ
cương xã hội ở các xã, phường, thị trấn. Đến lượt mình, sự ổn định chính trị ở
các xã, phường, thị trấn lại tạo đà vững chắc cho việc thực hiện có hiệu quả
cao pháp luật về dân chủ ở cấp xã trên địa bàn cả nước. Để củng cố vững
chắc sự ổn định chính trị ở xã, phường, thị trấn, các cấp ủy Đảng phải trực
tiếp, quyết liệt trong lãnh đạo việc THPL về dân chủ ở cấp xã, tập trung giải
quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc, khiếu nại, tố cáo nảy sinh ngay từ
cơ sở. Chính quyền các cấp, nhất là cấp xã, phải trực tiếp chỉ đạo, tổ chức
THPL về dân chủ ở cấp xã và tạo các điều kiện thuận lợi cho Ban Chỉ đạo
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở hoạt động, phối hợp chặt chẽ với MTTQ,
167
các tổ chức, đoàn thể nhân dân thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã; có như
vậy mới thực sự phát huy tác dụng của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và
giữ gìn sự ổn định chính trị ở địa phương.
c) Nâng cao ý thức chính trị, tinh thần trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị trong việc tham gia thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Về nguyên tắc, không thể xem việc tổ chức, triển khai công tác THPL
nói chung, THPL về dân chủ ở cấp xã nói riêng chỉ là trách nhiệm của riêng
CBCC, đảng viên, bộ máy chính quyền cấp xã, mà phải được coi là trách
nhiệm chung của toàn bộ hệ thống chính trị, đặc biệt là ở xã, phường, thị trấn;
nghĩa là nó đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu của các cấp ủy Đảng, các cấp chính
quyền, MTTQ và các tổ chức thành viên và của toàn thể nhân dân ở các xã,
phường, thị trấn trên phạm vi cả nước; trong đó, bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng, các cấp ủy Đảng có tầm quan trọng hàng đầu, sự chỉ đạo thực hiện của
Nhà nước, chính quyền các cấp là khâu then chốt và sự phát huy vai trò của
các cơ quan, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể nhân dân từ Trung ương cho đến
cấp xã và của đông đảo người dân là yếu tố không thể thiếu. Điều đó có nghĩa
là cần phải nâng cao ý thức chính trị, tinh thần trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị trong việc tham gia THPL về dân chủ ở cấp xã.
Trên cơ sở sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát
của Nhà nước, các cấp chính quyền, cần thu hút sự tham gia chủ động, tích
cực của các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội, như MTTQ, Hội
Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh... vào hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã. Mặt trận Tổ
quốc các cấp cần làm tốt vai trò giám sát, kiểm tra việc thực hiện các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn các xã, phường, thị trấn, đảm bảo
tính hiệu quả của chúng, góp phần nâng cao thu nhập, mức sống cho người
dân địa phương; giám sát quá trình thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
theo quy định của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Hội
Liên hiệp Phụ nữ các cấp phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan thực
hiện tốt việc động viên, khích lệ phụ nữ phát huy các quyền dân chủ, lồng
168
ghép các nội dung kiến thức pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã vào các
hội nghị, cuộc họp, sinh hoạt của phụ nữ xã, thôn, tổ dân phố. Hội Nông dân
các cấp, nhất là cấp xã, cần làm tốt công tác động viên, hướng dẫn các hội viên
nông dân thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế hộ gia đình, duy trì hoạt
động có hiệu quả các mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản; đẩy mạnh
phong trào sản xuất, xây dựng những cánh đồng đạt giá trị sản xuất cao và các
hộ gia đình có thu nhập cao; lồng ghép các nội dung thực hiện phát luật về
dân chủ ở cấp xã trong hoạt động của Hội, vận động nông dân phát huy quyền
làm chủ trong xây dựng nông thôn mới. Hội Cựu chiến binh cấp xã, chi hội ở
các thôn tiếp tục phát huy phẩm chất tốt đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ trong xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục các giá trị truyền thống cho thế hệ
trẻ, quán triệt cho hội viên nâng cao nhận thức pháp luật về thực hiện dân chủ ở
cấp xã, tích cực tham gia vào Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư
cộng đồng nhằm đảm bảo hiệu quả cao của hoạt động THPL về dân chủ ở cấp
xã. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh triển khai lồng ghép các nội dung
THPL về dân chủ ở cấp xã vào trong các buổi sinh hoạt Đoàn, tổ chức tốt các
hoạt động lao động sản xuất, vui chơi, giải trí, văn hóa văn nghệ, thể dục thể
thao nhằm tạo không khí phấn khởi cho các đoàn viên thanh niên - những chủ
thể có vai trò xung kích, hăng hái, nhiệt tình trong THPL về dân chủ ở cấp xã.
Sự đảm bảo các điều kiện về chính trị - xã hội trong THPL về dân chủ
ở cấp xã sẽ góp phần tạo lập bầu không khí chính trị - xã hội thực sự dân chủ,
sự đồng thuận xã hội cao trên địa bàn các xã, phường, thị trấn của cả nước.
Từ đó, cán bộ, nhân dân sẽ phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
các cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, các cấp chính quyền
địa phương; chủ động, tích cực hơn trong THPL về dân chủ ở cấp xã.
4.2.5.3. Bảo đảm các điều kiện về văn hóa
Hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã luôn diễn ra trong và gắn liền với
không gian văn hóa - xã hội tại các xã, phường, thị trấn và chịu ảnh hưởng bởi
các yếu tố văn hóa - lối sống; do đó, bảo đảm các điều kiện cần thiết về văn
hóa cũng là một trong những biện pháp quan trọng nhằm nâng cao tính hiệu
169
quả của hoạt động này. Sự bảo đảm các điều kiện về văn hóa cho hoạt động
THPL về dân chủ ở cấp xã thể hiện ở các nội dung sau:
a) Chủ động phát huy các giá trị văn hóa truyền thống phục vụ hoạt
động thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng và phát triển nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 2011 - 2020, Đảng ta khẳng định: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh
vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn
hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” [21, tr. 126]. Văn hóa phản ánh và
thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt trong đời sống của con
người, của các cộng đồng xã hội trong quá khứ và hiện tại, tạo nên một hệ
thống các giá trị văn hóa truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó,
từng dân tộc khắng định bản sắc riêng của mình. Những giá trị văn hóa đó là
chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập, tự chủ,
tự cường, truyền thống dân chủ, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung,
tôn trọng nghĩa tình... Những giá trị này được củng cố, giữ gìn và lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác, phản ánh bản sắc riêng của dân tộc trong từng
lĩnh vực hoạt động. Chúng vẫn đang phát huy vai trò trong đời sống xã hội
hiện đại. Nếu biết cách khai thác, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống thì
chắc chắn chúng sẽ giúp ích nhiều trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác THPL về dân chủ ở cấp xã:
- Truyền thống đoàn kết, ý thức tự lực, tự cường là cơ sở để các cấp ủy
Đảng, chính quyền địa phương và nhân dân các xã, phường, thị trấn xây dựng
khối đoàn kết, thống nhất trong nhận thức, quan điểm và hành động thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cấp xã; từ cán bộ lãnh đạo cho tới đội ngũ công chức
và toàn thể nhân dân cùng phấn đấu vì mục tiêu phát huy dân chủ ở cấp xã;
vượt qua khó khăn, cùng quyết tâm THPL về dân chủ cấp xã với chất lượng,
170
hiệu quả cao nhất, góp phần xây dựng quê hương giàu đẹp, dân chủ, công
bằng, văn minh.
- Truyền thống dân chủ làng xã, lòng khoan dung, thái độ tôn trọng lẫn
nhau là cơ sở để các chủ thể tổ chức THPL về dân chủ ở cấp xã (chính quyền
các cấp, CBCC cấp xã) tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, thấu hiểu
tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của mỗi người dân. Các chủ thể THPL sẽ cùng
dân chủ bàn bạc, tìm ra tiếng nói chung, cùng hướng tới nâng cao hiệu quả
công tác THPL về dân chủ ở cấp xã, thực sự phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong mọi lĩnh vực hoạt động ở xã, phường, thị trấn.
- Các giá trị văn hóa truyền thống - vốn biểu hiện một cách sinh động
nơi làng xã nông thôn Việt Nam - là nền tảng tinh thần, khơi dậy lòng tự hào
về quê hương, đất nước, giúp đội ngũ CBCC cấp xã và nhân dân ở các xã,
phường, thị trấn phát huy truyền thống tương trợ lẫn nhau, phấn đấu vươn lên
thực hiện tốt các quyền dân chủ của nhân dân.
b) Khắc phục các hủ tục lạc hậu, lỗi thời đang tác động tiêu cực đến
hoạt động thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Việt Nam là một quốc gia phương Đông - nơi thường đề cao, coi trọng
các giá trị, chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán, lễ nghi, niềm tin tâm
linh... trong việc điều chỉnh các hành vi xã hội của con người. Do vậy, sự phát
triển ưu trội hơn của các quan hệ đạo đức, luật tục so với các quan hệ chính
trị, pháp luật là một thực tế gần như hiển nhiên, nhất là tại khu vực nông thôn,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đa phần dân cư nước ta làm nghề nông, sống
khép kín trong cộng đồng làng xã, thôn buôn... Tại các làng xã nông thôn
thường có sự hiện diện của những thói quen, nếp sống rất căn bản của người
dân nông thôn, như thức khuya, dậy sớm, cần cù lao động, tác phong giản dị,
tiết kiệm trong tiêu dùng, coi trọng tình làng nghĩa xóm, tương trợ nhau trong
sản xuất và đời sống... Song, bên cạnh đó, mặt trái của tính quần cư đang thể
hiện sự nổi lên của tính cục bộ địa phương, sự ích kỷ, hẹp hòi cá nhân, sự đề
cao gia đình, dòng tộc... Nếp sống nông thôn hiện nay cũng đang bộc lộ
những hạn chế, nhược điểm, như việc tổ chức hội hè, đình đám, ma chay,
171
cưới xin, giỗ chạp nhiều lúc, nhiều nơi còn tốn kém và lãng phí; các hủ tục lạc
hậu, lỗi thời, mê tín dị đoan đang có xu hướng trở lại; trình độ dân trí nói
chung, dân trí về pháp luật nói riêng còn thấp; những thói hư, tật xấu và tệ nạn
xã hội phát sinh, như ma túy, cờ bạc, số đề... Những thói hư, tật xấu, hủ tục đó
đã và đang tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội,
trong đó có hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã.
Nguyên nhân của tình trạng trên đây là do “việc xây dựng nếp sống văn
hóa chưa được chú trọng đúng mức. Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo
đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại... Quản lý
nhà nước về văn hóa còn nhiều sơ hở, yếu kém” [20, tr. 173]. Bên cạnh đó,
ảnh hưởng của cơ chế quản lý cũ cũng còn khá lớn. Với thời gian đổi mới
chưa lâu, chúng ta chưa thể xoá hẳn được tư duy của cơ chế kinh tế kế hoạch
hoá tập trung, bao cấp, chưa tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong xây dựng
pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó có pháp luật về thực hiện
dân chủ ở cấp xã cho đội ngũ CBCC và các tầng lớp nhân dân.
Từ thực tế trên đây, việc xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa
đang là yêu cầu cấp thiết, được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo. Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/3/1998; sau đó
là Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25/11/2005 về việc ban hành Quy
chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Khôi
phục những thuần phong, mỹ tục; phát huy tính tích cực chính trị - xã hội của
CBCC và các tầng lớp nhân dân; phấn đấu vì sự công bằng xã hội; phát huy
các quyền dân chủ; bài trừ mạnh mẽ các thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội... đã,
đang là những biện pháp quan trọng trước mắt và lâu dài nhằm thúc đẩy kinh
tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở phát triển hài hòa, bền vững.
Trên cơ sở Chỉ thị, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, xuất phát từ
nhận thức sâu sắc rằng, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa là
trách nhiệm của mọi công dân, là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các tổ
chức chính trị - xã hội, nhằm xây dựng con người mới, nền văn hóa mới, thực
hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh,
172
nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng, ban hành các
Quyết định, Hướng dẫn... nhằm cụ thể hóa việc xây dựng nếp sống văn minh,
gia đình văn hóa sao cho phù hợp với tình hình thực tế của mỗi địa phương.
4.2.5.4. Bảo đảm các điều kiện về pháp luật
Một trong những yếu tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc
THPL về dân chủ ở cấp xã là các điều kiện về pháp luật; bởi lẽ, THPL về dân
chủ ở cấp xã là hoạt động có mục đích của các chủ thể pháp luật nhằm đưa
các nguyên tắc, quy định của lĩnh vực pháp luật này đến được với đông đảo
các tầng lớp nhân dân ở xã, phường, thị trấn trên phạm vi cả nước, phát huy
quyền làm chủ, thực hành các quyền dân chủ của người dân một cách thực sự
hiệu quả. Chính vì vậy, muốn cho hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã thực
sự đạt được hiệu quả cao thì còn phải đảm bảo các điều kiện về pháp luật.
a) Về phía Nhà nước, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật về
thực hiện dân chủ ở cấp xã (như đã trình bày ở mục 4.2.1.) nhằm tạo đầy đủ
hành lang pháp lý cho việc THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
b) Về phía các cấp chính quyền địa phương, cần tiến hành rà soát, điều
chỉnh, ban hành mới các chính sách, văn bản QPPL dưới luật và cơ chế pháp
lý liên quan đến hướng dẫn và triển khai THPL về dân chủ ở cấp xã
Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có giá trị và hiệu
lực thực thi trên phạm vi toàn quốc; song, việc triển khai THPL về dân chủ ở
cấp xã lại phụ thuộc vào những nét đặc trưng riêng xuất phát từ tình hình kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi địa phương cũng như truyền thống văn
hóa, tín ngưỡng, lễ nghi, lối sống, phong tục, tập quán... của nhân dân ở mỗi
vùng, miền. Chính vì vậy, hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã, ngoài việc
tuân thủ các nguyên tắc, quy định của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, còn cần có sự quan tâm chỉ đạo bằng các văn bản QPPL
dưới luật của các cấp chính quyền địa phương ở từng tỉnh, thành phố.
Sau khi có Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị định số
29/1998/NĐ-CP của Chính phủ, thực hiện vai trò lãnh đạo của mình, Ban
173
Chấp hành Đảng bộ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều đã ban
hành Nghị quyết nhằm quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn việc thực
hiện Quy chế dân chủ cơ sở; thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ
cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; triển khai nhiều biện pháp mạnh mẽ nhằm
nhanh chóng đưa Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở đi vào thực tiễn cuộc sống.
Tiếp đó, thực hiện Thông báo số 159-TB/TW ngày 15/11/2004 thông báo Kết
luận của Ban Bí thư về kết quả 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ
Chính trị (khóa VIII) và tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân
chủ cơ sở; đặc biệt là sau khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp
lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, UBND các tỉnh, thành phố
tiếp tục xây dựng, ban hành các Chỉ thị, Kế hoạch, Hướng dẫn nhằm tổ chức
quán triệt và triển khai thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn, triển khai thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở tại các cơ quan hành
chính, doanh nghiệp nhà nước... Tuy nhiên, Kết luận của Ban Bí thư Trung
ương Đảng đã chỉ rõ: “Việc rà soát, ban hành, bổ sung chính sách, cơ chế
chưa đồng bộ, chưa kịp thời đáp ứng yêu cầu cuộc sống đặt ra, nhất là những
chính sách có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân như: giá
đền bù đất khi giải phóng mặt bằng, tái định cư, tiền lương, bảo hiểm xã hội,
nhà ở của công nhân các khu công nghiệp... Một số văn bản pháp quy quy
định về quy chế dân chủ cho một số loại hình, một số lĩnh vực còn thiếu, chưa
kịp thời, chưa sát với thực tế, chậm được rà soát, bổ sung” [xem: 2]. Chính vì
vậy, các cấp chính quyền địa phương cần tiến hành rà soát, điều chỉnh, ban
hành mới các chính sách, văn bản QPPL dưới luật và cơ chế pháp lý liên
quan đến hướng dẫn THPL về dân chủ ở cấp xã theo hướng: loại bỏ những
quy định đã lạc hậu, lỗi thời; xây dựng thành quy định, nguyên tắc, quy trình
thực hiện dân chủ trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể của địa phương, nhất là
các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của nhân dân. Đây cũng
là sự bảo đảm quan trọng về mặt pháp luật cho việc THPL về dân chủ ở cấp
xã đạt được hiệu quả cao, thực sự phát huy các quyền dân chủ của nhân dân.
174
c) Xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về thực
hiện dân chủ ở cấp xã. Có thể thấy, việc THPL về dân chủ ở cấp xã phụ thuộc
nhiều vào nhiều yếu tố, như nhận thức, kiến thức của người dân về những quy
định của pháp luật, thái độ và năng lực của đội ngũ cán bộ cấp xã, thôn... Một
trong những điểm hạn chế của Pháp lệnh là không đề cập đến tính chịu trách
nhiệm của chủ thể cụ thể liên quan đến hệ quả của việc tuân thủ hoặc không
tuân thủ pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã, các biện pháp cụ thể có thể
áp dụng để xử lý các vi phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã. Đây
cũng là nguyên nhân dẫn đến việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã còn chậm trễ, bị động, chưa nghiêm
minh và thiếu sự răn đe cần thiết.
Thực tế cũng cho thấy vẫn còn những biểu hiện cụ thể của tình trạng vi
phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã, như các quyền dân chủ của
nhân dân có lúc. có nơi vẫn bị vi phạm; còn có hiện tượng né tránh, không
thực hiện hoặc làm trái các quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã; còn có
hiện tượng đe dọa, trù dập người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị có liên quan đến
việc thực hiện dân chủ ở cấp xã... Những biểu hiện này đã và đang làm suy
giảm niềm tin của người dân vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật
về thực hiện dân chủ ở cấp xã, tác động tiêu cực đến việc phát huy quyền dân
chủ của nhân dân. Chính vì vậy, các cấp chính quyền địa phương trên phạm vi
toàn quốc cần xây dựng, ban hành các quy định cụ thể các loại hành vi vi
phạm trong THPL về dân chủ ở cấp xã phải bị xử lý, như tính chất, mức độ
của lỗi, hậu quả xảy ra, ảnh hưởng của hành vi vi phạm trong cán bộ và nhân
dân địa phương; quy định cụ thể hình thức xử lý kỷ luật đối với từng loại
hành vi vi phạm cụ thể, đảm bảo tính giáo dục đối với bản thân người vi phạm
và tính ngăn ngừa, răn đe đối với những người khác; đồng thời, xử lý nghiêm
minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. “Phát huy dân chủ, đề cao trách
nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành
vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để
làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội” [21, tr. 239].
175
Kết luận chương 4
Việc nâng cao hiệu quả hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần dựa trên các quan
điểm có tính chất chỉ đạo sau đây: 1) Quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối
của Đảng và thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về thực hiện dân
chủ ở cấp xã; 2) Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự quản lý,
điều hành của Nhà nước, chính quyền các cấp ở địa phương; 3) THPL về dân
chủ ở cấp xã phải gắn với yêu cầu xây dựng chính quyền cấp xã trong sạch,
vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam; 4) THPL về dân chủ ở cấp xã là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị;
5) Triển khai đồng bộ nhiều giải pháp linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với tình
hình của từng địa phương; 6) THPL về dân chủ ở cấp xã trên phạm vi toàn
quốc phải gắn với phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Để bảo đảm nâng cao hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần triển khai thực
hiện các giải pháp sau: Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về thực hiện dân chủ ở cấp xã; trong đó, xây dựng, ban hành Luật Thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn đang là một đòi hỏi khách quan. Thứ hai, tăng
cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo, điều hành
của Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương trong việc THPL về dân chủ
ở cấp xã. Thứ ba, nâng cao chất lượng, phát huy vai trò nòng cốt của đội ngũ
CBCC cấp xã, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong quá trình THPL về dân chủ ở
cấp xã; trong đó cần chú trọng nâng cao kiến thức pháp luật về thực hiện dân
chủ ở cấp xã cho đội ngũ CBCC cấp xã. Thứ tư, nâng cao nhận thức pháp
luật, sự tham gia chủ động, tích cực hơn nữa của các tầng lớp nhân dân vào
hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã, tập trung vào việc tiếp tục đẩy mạnh
công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã cho
nhân dân và đổi mới cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở xã,
phường, thị trấn. Thứ năm, bảo đảm các điều kiện cần thiết về kinh tế, chính
trị, văn hóa cho việc THPL về dân chủ ở cấp xã.
176
KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của luận án cho phép rút ra
một số kết luận sau đây:
Thứ nhất, dựa trên hệ thống các khái niệm, phạm trù khoa học Lý luận
về nhà nước và pháp luật, luận án đã xây dựng, phân tích được cơ sở lý luận
của việc THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam, như: khái niệm, các đặc trưng cơ bản của Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam; những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam đối với việc THPL về dân chủ ở cấp xã; khái niệm, chủ thể,
nội dung, hình thức THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam; từ đó, phân tích mối quan hệ giữa THPL
về dân chủ ở cấp xã và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Luận án cũng đã tập trung phân tích những điều kiện bảo đảm THPL về dân
chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;
tìm hiểu vấn đề THPL về dân chủ ở địa phương tại một số nước trên thế giới
và những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
Thứ hai, từ cơ sở lý luận, luận án đã đi sâu phân tích, đánh giá một
cách toàn diện thực trạng hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã từ
năm 1998 đến nay, chỉ ra được quá trình hình thành, phát triển, đánh giá
những thành tựu, ưu điểm và tồn tại, hạn chế của pháp luật về dân chủ ở cấp
xã ở Việt Nam nhìn từ góc độ Nhà nước pháp quyền XHCN. Đồng thời, luận
án cũng tập trung phân tích, đánh giá được thực trạng THPL về dân chủ ở cấp
xã ở nước ta từ năm 1998 đến nay trên cả hai phương diện: những thành tựu,
kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập trong THPL về dân chủ ở cấp xã,
chỉ ra nguyên nhân của thực trạng dựa trên kết quả ĐTXHH do chính tác giả
thực hiện. Việc đánh giá thực trạng được thực hiện theo các hình thức THPL:
chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đánh
giá thực trạng THPL, luận án đã rút ra 07 bài học kinh nghiệm THPL về dân
chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
177
Thứ ba, để nâng cao hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, luận án đề xuất 06 quan
điểm có tính chỉ đạo: 1) Quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng và
thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã; 2)
Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành của
Nhà nước, chính quyền các cấp ở địa phương; 3) THPL về dân chủ ở cấp xã
là một nội dung của xây dựng chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; 4) THPL về
dân chủ ở cấp xã là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; 5) Triển khai đồng
bộ nhiều giải pháp linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với đặc điểm, tình hình của
từng địa phương; 6) THPL về dân chủ ở cấp xã phải gắn với phát triển kinh
tế, xây dựng đời sống văn hóa - xã hội cơ sở.
Thứ tư, để bảo đảm nâng cao hiệu quả THPL về dân chủ ở cấp xã theo
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, luận án đưa ra và
luận giải tính khả thi của 05 giải pháp cơ bản: Một là, tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã; Hai là, tăng cường hơn
nữa sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo, điều hành của Nhà
nước, các cấp chính quyền địa phương trong việc THPL về dân chủ ở cấp xã.
Ba là, nâng cao chất lượng, phát huy vai trò nòng cốt của đội ngũ CBCC cấp
xã, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã. Bốn
là, nâng cao nhận thức pháp luật, sự tham gia chủ động, tích cực hơn nữa của
các tầng lớp nhân dân vào hoạt động THPL về dân chủ ở cấp xã. Năm là, bảo
đảm các điều kiện cần thiết về kinh tế, chính trị, văn hóa cho việc THPL về
dân chủ ở cấp xã.
178
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Giáo dục pháp luật ở Thái Bình - thực trạng và giải pháp, Tạp chí Dân chủ
và Pháp luật, số tháng 9/2010, Hà Nội, 2010.
2. Thực hiện quy chế, pháp lệnh dân chủ trong các xã, phường, thị trấn ở
Thái Bình - thực trạng và giải pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng
11/2010, Hà Nội, 2010.
3. Vai trò của thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp
chí Luật học, số 6/2011, Hà Nội, 2011.
4. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ thực tiễn của tỉnh Thái Bình),
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2011.
5. Vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ qua Văn kiện Đại hội XI của Đảng,
Tạp chí Triết học, số 9(244)/2011, Hà Nội, 2011.
6. Đổi mới cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cấp xã ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật, số tháng 3 (252)/2013, Hà Nội, 2013.
7. Vai trò của cán bộ, công chức cấp xã trong thực hiện pháp luật về dân chủ
ở xã, phường, thị trấn, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 208 (5/2013), Hà Nội,
2013.
8. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2013.
9. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật, số tháng 7 (256)/2013, Hà Nội, 2013.
10. Vai trò của việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí Pháp luật và
Phát triển, số 03/2014, Hà Nội, 2014.
179
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. Vũ Hồng Anh (2003), Vai trò của Hiến pháp đối với việc phát huy dân
chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Tạp chí Luật học, số
3(52).
2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2010), Kết luận của Ban Bí thư về tiếp tục
thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng
và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, Hà Nội.
3. Hoàng Chí Bảo (1992), Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân
chủ: Quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu, Tạp chí Thông tin lý
luận, số 9/1992, Hà Nội.
4. Lương Gia Ban (2003), Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ tỉnh Bắc Ninh, Kết luận về thực
hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực
hiện Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 13/12/2013. Thông tin
có tại: http://www.bacninh.gov.vn, truy cập ngày 19/3/2014.
6. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18/2/1998 Về việc xây
dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, Hà Nội.
7. Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000),
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Trần Thị Minh Châu, Về tổ chức chính quyền địa phương của Hàn Quốc,
bài viết có tại: http://isos.gov.vn, truy cập ngày 22/2/2014.
9. Chính phủ (1998), Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 về việc
ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Hà Nội
10. Chính phủ (2003), Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 ban
hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Hà Nội.
11. Hoàng Trọng Chính (2006) Nâng cao hiệu quả hoạt động quy chế dân
chủ ở cơ sở, Tạp chí Lao động và công đoàn, số 358/2006, Hà Nội.
180
12. Nguyễn Hồng Chuyên (2011), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(từ thực tiễn của tỉnh Thái Bình), Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
13. Nguyễn Hồng Chuyên (2013), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
phục vụ xây dựng nông thôn mới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
14. Đinh Thành Công (2010), Kinh nghiệm của Hải Phòng trong việc triển
khai và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số
01/2010.
15. Cao Thiện Cường, Kết quả bước đầu trong thực hiện dân chủ ở xã,
phường trên địa bàn thành phố Thanh Hóa, Tạp chí Thanh tra số 4/2013;
bài viết có tại: http://thanhtravietnam.vn, truy cập ngày 18/3/2014.
16. Huỳnh Đảm, Nhìn lại 10 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường,
thị trấn, Tạp chí Cộng sản điện tử, bài viết có tại http://www.tapchicong
san.org.vn, truy cập ngày 15/01/2011.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính Trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Đặng Viết Đạt (2010), Pháp luật và dân chủ trong nhà nước pháp quyền,
Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số tháng 9/2010, Hà Nội.
23. Trần Bạch Đằng (2003), Dân chủ ở cơ sở - một sức mạnh truyền thống
của dân tộc Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 35, tháng 12/2003, Hà Nội.
24. Nguyễn Minh Đoan (2007), Dân chủ với pháp luật, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 10/2007, Hà Nội.
181
25. Nguyễn Minh Đoan (2010), Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Trần Ngọc Đường (chủ biên, 1999), Lý luận chung về nhà nước và pháp
luật, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Trần Ngọc Đường (2012), Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực
với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
28. Đỗ Văn Dương (2013), Những giải pháp phát huy vai trò hệ thống chính
trị cơ sở nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa
bàn các tỉnh Tây Nguyên, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số
tháng 7/2013, Hà Nội.
29. Đỗ Văn Dương (2014), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị
trấn trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
30. Vũ Công Giao, Về thực hành dân chủ trực tiếp ở nước ta hiện nay, Tạp
chí Cộng sản điện tử; bài viết có tại: http://www.tapchicongsan.org.vn,
truy cập ngày 24/3/2014.
31. Nguyễn Thị Thu Hà (2013), Thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống
chính trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lịch sử Đảng, số
8(273)/2013, Hà Nội.
32. Lương Đình Hải (2006), Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân
chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 1 (176), Hà Nội.
33. Hoàng Văn Hảo (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2003, Hà Nội.
34. Hoàng Văn Hảo (2003), Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình
tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 2/2003, Hà Nội.
35. Đỗ Thị Thu Hằng, Tự quản địa phương và cơ chế kiểm soát của Chính
phủ Trung ương - kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, bài viết có
tại: http://isos.gov.vn, truy cập ngày 22/2/2014.
182
36. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992), Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2002.
37. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và tìm
hiểu Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ (2013), Nxb. Hồng Đức, HN.
38. Vũ Văn Hiền (chủ biên, 2004), Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm ở Thụy
Điển và Trung Quốc (Sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Ngô Thị Hòa (2005), Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở
cấp xã trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.
40. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tài liệu học tập, nghiên cứu
môn Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, 2 tập, Hà Nội, 2004.
41. Quách Sĩ Hùng (2009), Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ
cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 6/2009, Hà Nội
42. Nguyễn Anh Hùng (2009), Những xu hướng dân chủ ở các nước Mỹ
Latinh ngày nay, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 10/2009, Hà Nội.
43. Lê Xuân Huy (2005), Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở
nông thôn nước ta hiện nay (Qua thực tế một số tỉnh phía Bắc), Luận văn
Thạc sĩ Triết học, Hà Nội.
44. Trần Quốc Huy (2005), Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở
Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật, Hà Nội.
45. Nguyễn Thị Việt Hương (2009), Truyền thống chính trị - pháp lý làng xã
và khả năng thích ứng trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/2009, Hà Nội.
46. Hoàng Mai Hương (2005), Quy chế dân chủ ở cấp xã với việc đảm bảo
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của phụ nữ, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, số 6/2005, Hà Nội.
47. Nguyễn Thọ Khang (2013), Thực hiện dân chủ ở cấp xã và vấn đề đặt ra
đối với báo chí ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền
thông, số tháng 6/2013, Hà Nội.
183
48. Lại Quốc Khánh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ dân chủ nhân
dân, Tạp chí Triết học, số 7 (170), Hà Nội.
49. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 20, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
50. L.J. Li (1999), Hệ thống hai phiếu ở tỉnh Shanxi: đưa bí thư Đảng uỷ làng
ra trước lá phiếu của cư dân, Tạp chí Trung Quốc, số 42/1999, HN.
51. Trần Đức Lương (2002), Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân ngày càng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng
thường xuyên của Đảng, nhà nước và nhân dân ta, Tạp chí Cộng sản số
1/2002, Hà Nội.
52. C. Mác và Ph. Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 39, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
53. Nguyễn Khắc Mai (1997), Dân chủ - di sản văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb. Sự
thật, Hà Nội.
54. Nguyễn Văn Mạnh (2004), Vận dụng tư tưởng pháp quyền của Các Mác
trong xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở nước ta
hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10/2004, Hà Nội.
55. Nguyễn Văn Mạnh (2008), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong
quan hệ với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội dân
sự, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9/2008, Hà Nội.
56. Nguyễn Văn Mạnh (2010), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam: lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Matinne Lombard và Gille Dumont, Pháp luật hành chính của Cộng hòa
Pháp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007.
58. Lê Quang Minh (2003), Để thực hiện dân chủ sở cơ sở, Tạp chí Cộng sản,
số 11, tháng 4/2003, Hà Nội.
59. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
60. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
61. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
62. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. S.L. Montesqieu, Tinh thần pháp luật, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1996.
184
64. Mai Quỳnh Nam (2003), Công khai để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, Tạp chí Cộng sản, số 20(683)/2003, Hà Nội.
65. Một số kinh nghiệm về thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Quảng Nam,
bài viết có tại: http://xaydungdang.quangnam.gov.vn, truy cập ngày
20/3/2014.
66. Phạm Thị Việt Nga (2008), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường
trên địa bàn thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Luận văn Thạc sĩ luật
học, Hà Nội.
67. Chu Nga (2011), Quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân còn gặp không ít
khó khăn. Bài viết đăng trên báo Đại đoàn kết điện tử, có tại địa chỉ http://
www.baomoi.com (truy cập ngày 30/9/2013).
68. Ngọ Văn Nhân (2007), Phát huy dân chủ cơ sở - điều kiện quan trọng để
hình thành và phát triển dư luận xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Phát
triển nhân lực, số 2 (2)/2007, Thành phố Hồ Chí Minh.
69. Ngọ Văn Nhân (2008), Về đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ
đại diện trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số
5(204), Hà Nội.
70. Ngọ Văn Nhân (2010), Xã hội học pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
71. Ngọ Văn Nhân (2012), Xã hội học pháp luật (tái bản lần thứ nhất, có
chỉnh sửa, bổ sung), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
72. Ngọ Văn Nhân (2011), Một số điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua văn kiện Đại hội XI của Đảng, Tạp
chí Triết học, số 3 (237)/2011, Hà Nội.
73. Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
74. Dương Xuân Ngọc (2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
75. Olivier Vidal (Nguyễn Hoàng Anh dịch), Nước Cộng hòa Pháp và các
cộng đồng lãnh thổ địa phương: sự trở lại của nhóm Girondins?, bài viết
185
in trong cuốn sách “Phân cấp quản lý nhà nước” của Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011.
76. Nguyễn Văn Niên (1996), Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam - một
số vấn đề lý luận thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
77. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực
tiễn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
78. Nguyễn Hạnh Phúc (2007), Thực hiện Quy chế dân chủ ở Thái Bình - thành
tựu và kinh nghiệm, Tạp chí Cộng sản, số 775, tháng 5/2997, Hà Nội.
79. Phạm Ngọc Quang (2004), Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi
mới - thành tựu, vấn đề và giải pháp, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 3/2004.
80. Jean - Jacques Rousseau (Hoàng Thanh Đạm dịch thuật, chú thích và bình
giải, 2004), Bàn về khế ước xã hội, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
81. Trần Quang (2008), Bầu cử trực tiếp ở nông thôn Trung Quốc, Tạp chí
Cộng sản, số tháng 4/2008, Hà Nội.
82. Quốc hội (2012), Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Hà Nội.
83. Nguyễn Duy Quý (2004), Về dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 4,
tháng 2/2004, Hà Nội.
84. Nguyễn Duy Quý và Nguyễn Tất Viễn (chủ biên, 2008), Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân - lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
85. Đỗ Tiến Sâm (2005), Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung
Quốc, Viện nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Khoa học xã hội Việt
Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
86. Nguyễn Văn Sáu (2002), Quan hệ giữa thực thi Quy chế dân chủ ở cơ sở
với xây dựng chính quyền ở nông thôn, Tạp chí Lý luận Chính trị, số
11/2002.
87. Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn Thông (2003), Thực hiện quy chế dân chủ và
xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
186
88. Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (chủ biên, 2005), Thể chế dân chủ và
phát triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, H N.
89. Nguyễn Quốc Sửu (2011), Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công
chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
90. Phan Xuân Sơn (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Tạp chí Lý
luận chính trị và Truyền thông, số tháng 9/2010, Hà Nội, tr. 3-6.
91. Đặng Đình Tân và Đặng Minh Tuấn (2002), Tiếp tục thực hiện tốt Quy
chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 7/2002, Hà Nội.
92. Phạm Hồng Thái (2005), Xu hướng chuyển dịch quyền lực trong bộ máy
hành chính và vấn đề dân chủ, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2005.
93. Nguyễn Văn Thảo (chủ biên, 1997), Về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
94. Nguyễn Kim Thanh (2009), Một vài suy nghĩ về kết quả 10 năm xây dựng
và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Dân vận, số 7/2009, Hà Nội
95. Thái Vĩnh Thắng (2010), Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại - lý
luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
96. Vương Ngọc Thịnh (2010) Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên
địa bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.
97. Lê Tịnh (2002), Thể chế dân chủ cơ sở ở Trung Quốc - Thôn tự trị, Tạp
chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 3/2002, Hà Nội.
98. Nguyễn Trọng Thóc (2005), Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
việc xây dựng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 6(169)/2005, Hà Nội.
99. Đỗ Lai Thúy (1996), Sự phát triển của ý thức cá nhân qua các mẫu người
văn hóa, trong sách “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện
nay”, tập 2, Hà Nội.
100. Trần Thị Hồng Thúy, Ngọ Văn Nhân (đồng chủ biên, 2004), Tác động
của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
187
101. Đào Duy Thường (2003), Công tác thanh tra nhân dân xã, phường, thị
trấn, Tạp chí Cộng sản số 20 (683)/2003, Hà Nội.
102. Đặng Hữu Toàn (2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và vấn đề thực thi quyền làm chủ của nhân dân, Tạp chí Khoa học
xã hội, số 9/2005, Hà Nội.
103. Nguyễn Minh Tuấn (2005), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân
chủ ở xã, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.
104. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lý luận Nhà nước và
Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
105. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Lý luận nhà nước và
pháp luật (tái bản lần thứ 3 có sửa đổi), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
106. Chu Thị Trang Vân (2009), Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực
thi Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 5/2009, Hà Nội.
107. Nguyễn Khắc Viện (chủ biên, 1994), Từ điển xã hội học, Nxb. Thế
giới, Hà Nội.
108. Nguyễn Tất Viễn (2011), Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
quyền con người và công lý nhìn từ góc độ xây dựng Nhà nước pháp
quyền, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề tháng 1/2011, Hà Nội.
109. Nam Việt, Những đòi hỏi phi lý và trịch thượng!, Bài viết đăng trên
Nhân dân điện tử, truy cập: http://www.nhandan.com.vn ngày 18/2/2014.
110. Võ Khánh Vinh (2003), Mối quan hệ giữa xã hội - cá nhân - nhà nước
trong Nhà nước pháp quyền và vai trò của nó trong việc xác định mô hình
tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 2/2003, Hà Nội.
111. Đào Trí Úc (2007), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
112. Ủy ban thường vụ Quốc hội (20/4/2007), Pháp lệnh Thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn, Hà Nội.
188
113. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2012), Báo cáo số 118/BC-UBND
ngày 17/8/2012 Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày
12/10/2009 của Tỉnh ủy Quảng Nam về công tác dân vận trong tình hình
mới và 5 năm thực hiện Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày
20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn,
114. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2011), Kế hoạch thực hiện “Ngày
pháp luật” tại các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh Thái Bình
(Ban hành kèm theo Quyết định số 172/2011/QĐ-UBND ngày 28/01/2011
của UBND tỉnh), Thái Bình.
115. Viện Chính sách công và Pháp luật - Viện Nhà nước và pháp luật
(Đồng chủ biên: GS.TSKH. Đào Trí Úc - PGS.TS. Trịnh Đức Thảo - TS.
Vũ Công Giao - TS. Trương Hồ Hải, 2014), Một số vấn đề lý luận, thực
tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội.
116. Virginia Beramandi, Andrew Elis và các tác giả khác, Dân chủ trực
tiếp: Sổ tay IDEA Quốc tế (Chủ biên bản dịch tiếng Việt: GS.TSKH. Đào
Trí Úc - TS. Vũ Công Giao, 2014), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
II. Tiếng nước ngoài
1. Tài liệu tiếng Nga
117. Агaпoв A.Б., Администрaтивнoe правo, изд. Юрaйт, Москва, 2009.
118. Академия oбщественных наук при ЦK KПCC, Kaфедра coветcкого
государствeнного стрoительствa и правa, Coветcкоe государствeнноe
стрoительствo и правo, изд. “Mысль”, Москва, 1984.
119. Атaмaчнук Г. B., Теория государствeнного управления, изд. Oмега,
Москва, 2004.
120. Баxрax Д.Н., Администрaтивнoe правo Рoccии, изд. Экcмo,
Москва, 2010.
121. Краткий словарь по социологии /Под. Общ. Редакцией Д. М.
Гвишиани/ изд. Полит. Литература, Москва, 1989.
189
122. Кутафин O.E., Шepeмeт K.Ф., Koмпeтенция мecтных coветoв,
изд. Юрид. Литература, Москва, 1986.
123. Кудрявцев В.Н., Никитинcкий B. И., Эффективность правовых
норм, изд. Юрид. Литература, Москва, 1980.
124. Теория государствa и правa /Под. pедакцией Aлeкcaндpoв Н. Г./,
изд. Юрид. Литература, Москва, 1974.
125. Теория государствa и правa /Под. pедакцией Maтyзoвa Н. И.,
Maлыко A.B./, изд. Юристь, Москва, 2001.
126. Coветcкоe aдминистрaтивнoe правo, изд. Полит. Литература,
Москва, 1977.
127. Шepeпремникoв Б. П., Mecтнoe управлениe и cамoуправлениe в
Франции, изд. Вузoв, Минск, 1981.
2. Tài liệu tiếng Anh
128. Robert Alan, Dalh, Democracy and its Critics (Dân chủ và sự phê
phán), New Haven: Yale University Press. USA, 1991.
129. Adam Przeworski, Michael Alvarez, Jose Antonio Chebub and
Fernando Limongi, What makes Democracies Endure? (Điều gì tạo nên
các nền dân chủ bền vững?), Journal of Democracy 7/January, pag. 39-55.
130. Harold Hongju Koh, The right to Democracy, Towards a community of
democracy (Quyền dân chủ, Hướng tới một cộng đồng dân chủ), Issue of
Democracy, May, 2000, p. 9.
131. Sorensen Georg, Democracy and democractization processes and
prospects in changing world (Dân chủ và quá trình dân chủ hóa và triển
vọng trong một thế giới chuyển đổi), Westview press. 2007.