100
VIỆN ĐÀO TẠO MÔN ĐỒ VIT NAM - -ĐỐC NHÂN LÀ AI? - NGƯỜI THTRI LÀ AI? - MÔN ĐỒ CHÚA LÀ AI? HAǂ Y LAƱ CHIƵNH BẠ N Mười hai hình nh thú vvCơ Đốc Nhân trong Tân Ước. BE WHAT YOU ARE WARREN W. WIERSBE

HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

  • Upload
    others

  • View
    0

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

VIỆN ĐÀO TẠO MÔN ĐỒ VIỆT NAM

- CƠ-ĐỐC NHÂN LÀ AI?

- NGƯỜI THỜ TRỜI LÀ AI?

- MÔN ĐỒ CHÚA LÀ AI?

HAY LA CHINH BAN Mười hai hình ảnh thú vị về Cơ Đốc Nhân trong Tân Ước.

BE WHAT YOU ARE

WARREN W. WIERSBE

Page 2: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

HÃY LÀ CHÍNH BẠN

BE WHAT YOU ARE

Warren W. Wiersbe

Nhà xuất bản Scripture Press

Địa chỉ nhà xuất bản: Amersham-on-the-Hill, Bucks Hp6 6JQ, England

©Bản quyền thuộc về Warren W. Wiersbe năm 1988

Được xuất bản lần đầu vào năm 1989 bởi nhà xuất bản

Tyndale House Publishers, Inc., Wheaton, Illinois, USA.

Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết lòng giúp tôi

trong việc xuất bản sách cho Cơ Đốc Nhân, họ là những người

đã rất kiên nhẫn và khích lệ tôi làm việc hết mình:

Wendell Hawley, Tyndale House

Victor Oliver, Oliver-Nelson Books

Mark Sweeney, Victor Books

Page 3: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

MỤC LỤC

1. Một Người Con Trong Gia Đình Của Chúa

2. Một Con Chiên Trong Bầy Chiên Của Chúa

3. Một Người Hành Hương

4. Một Chi Thể Trong Thân Thể Đấng Christ

5. Một Thầy Tế Lễ Trước Bàn Thờ Của Chúa

6. Một Hòn Đá Trong Nhà Của Chúa

7. Một Người Mắc Nợ

8. Một Người Lính Trong Quân Đội Của Chúa

9. Một Vận Động Viên Đang Trong Cuộc Đua

10. Một Đại Sứ Của Nhà Vua

11. Những Hạt Giống Và Những Ổ Bánh Mì

12. Sự Sáng Tạo Mới

Page 4: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

1

Một Người Con Trong Gia Đình Của Chúa Ambrose Bierce là một người từng phát biểu những lời bi quan: “Sự sinh ra của loài người là “khởi đầu của mọi tai họa.” Có lẽ là những đứa trẻ của nhà hàng xóm đã khiến cho Ambrose viết một định nghĩa bi quan như vậy.

Tuy nhiên, sự sinh ra của loài người đúng là cũng có góp phần trong một “tai họa lớn” bởi vì mỗi chúng ta đều được sinh ra với nguyên tội. Những người mới trở thành cha mẹ sẽ sớm khám phá ra thực tế đáng buồn này về những đứa con bé nhỏ, đáng yêu của họ. “Kìa, tôi sanh ra trong sự gian ác, Mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi.” (Thi Thiên 51:5).

“Tai họa lớn” đã xảy ra khi những cha mẹ đầu tiên của chúng ta bất tuân mạng lệnh của Đức Chúa Trời và làm cho cả nhân loại phải phạm tội. (Sáng Thế Ký 3; Rô-ma 5:12-21). Đức Chúa Trời đã tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Ngài (Sáng Thế Ký 1:27), nhưng chúng ta lại được sinh ra theo hình ảnh của A-đam (Sáng Thế Ký 5:3); và điều này làm cho chúng ta trở thành tội nhân. Câu chuyện trong Thánh Kinh Cựu Ước cho chúng ta thấy rằng chúng ta thực sự mang tội lỗi như thế nào là bởi vì “Đây là sách chép dòng dõi của A-đam” (Sáng Thế Ký 5:1). Khi chúng ta được sinh ra, chúng ta được sinh ra trong “gia đình của A-đam” điều này cũng giống như chúng ta nói rằng, chúng ta được sinh ra với nguyên tội. (Ê-phê-sô 2:1-3).

Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Thánh Kinh Cựu Ước có thể là “sách chép dòng dõi của A-đam” nhưng Thánh Kinh Tân Ước lại bắt đầu với “Gia phổ Đức Chúa Giê-su Christ” (Ma-thi-ơ 1:1). Sau khi những người cha người mẹ đầu tiên của chúng ta nằm xuống, Đức Chúa Trời đã lập nên một gia đình mới trong ân điển của Ngài! Gia đình đó có thể là dành cho bạn và cho tôi –những kẻ kế tự của A-đam tội lỗi –được sinh lại và bắt đầu một cuộc đời hoàn toàn mới! A-đam đầu tiên là người đem tội lỗi và án phạt cho nhân loại, nhưng A-đam sau hết là Chúa Giê-su Christ. (I Cô-rinh-tô 15:45) đem lại sự công chính và cứu chuộc. Tin lành của Phúc Âm là tội nhân được tha thứ và kinh nghiệm được lẽ mầu nhiệm của sự sinh lại trong gia đình Đức Chúa Trời thông qua đức tin của cá nhân người đó trong Chúa Giê-su Christ.

Hãy cùng xem xét ba khía cạnh của lẽ mầu nhiệm về sự sinh ra mới này và khám phá xem người con trong gia đình của Đức Chúa Trời nghĩa là gì.

1. Trở thành thành viên trong gia đình của Chúa (Giăng 3:1-6)

Cách duy nhất để có thể trở thành thành viên của một gia đình của loài người là được sinh ra và cách duy nhất để trở thành thành viên trong gia đình của Chúa cũng như vậy. “Nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời…Các ngươi phải sanh lại.” (Giăng

Page 5: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

3:3,7). Các nhà thần học sử dụng thuật ngữ “sự tái sanh” cho kinh nghiệm này mà nghĩa đơn giản chỉ là “sanh lại”.

Cha mẹ thuộc linh. Trẻ con phải có cha có mẹ; đó là cách duy nhất để được sinh ra trong thế giới này. Con cái của Đức Chúa Trời cũng có cha mẹ thuộc linh là: Thần của Đức Chúa Trời (Giăng 3:5) và Lời của Đức Chúa Trời (I Phi-e-rơ 1:23-25). Lẽ mầu nhiệm của sự sinh ra mới này diễn ra khi Thần của Đức Chúa Trời dùng Lời Chúa tác động lên trí óc và tấm lòng của tội nhân; và Lời của Ngài sinh ra đức tin (Ê-phê-sô 2:8-9). Tội nhân tin vào Đức Chúa Giê-su Christ và nhận được một đời sống mới và được sinh lại trong gia đình của Đức Chúa Trời (Giăng 1:11-13).

Nhưng không phải Chúa Giê-su nói rằng chúng ta được sinh “bởi nước” cũng như là “bởi Thánh Linh” sao? Điều này có nghĩa là báp-têm bằng nước là cần thiết cho sự cứu chuộc? Cụm từ “sinh bởi nước” có lẽ là không liên quan tới báp-têm bằng nước bởi vì trong Kinh Thánh, báp-têm bởi nước thì liên quan đến sự chết chứ không phải là sự sinh ra. “Sinh bởi nước” nghĩa là được sinh ra theo tự nhiên, là điều mà Ni-cô-đem đã nhắc đến trong câu 4. “Sinh bởi nước” là giống với “sinh bởi xác thịt” trong câu 6. Đầu tiên, là được sinh ra tự nhiên; rồi mới đến sự sinh thuộc linh. Bất kỳ ai đã quen với sự sinh nở của loài người đều biết rằng nước có liên quan; đứa bé “được sinh bởi nước.”1

Giăng 1:13 tuyên bố rằng sự sinh lại không phải là kết quả cố gắng của chính chúng ta, cũng không phải là sự ngay thẳng, và tín ngưỡng có thể đem lại. Bạn không thể được sinh lại nhờ vào những liên hệ với gia đình bạn (“huyết”) hay là bởi các hành động tín ngưỡng mà bạn làm (“tình dục”) hay là những việc lành mà người khác có thể làm cho bạn hay là vì bạn (“ý người”). Sự sinh lại thuộc linh tuyệt diệu này chỉ có thể đến từ Đức Chúa Trời. Từ Hy Lạp chuyển ngữ từ “lại” trong câu 3 và câu 7 còn có nghĩa là “từ trên cao” (xem thêm Giăng 3:31 và 19:11). Chẳng có một nghi lễ tôn giáo trên đất nào có thể cho bạn cuộc sống trên thiên đàng. Báp-têm bằng nước đóng vai trò quan trọng như một bằng chứng về những gì mà Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta (Công Vụ 2:41; 10:47), nhưng nó cũng không thể cứu chúng ta khỏi tội lỗi.

Sự đau đẻ thuộc linh. Sự sinh nở của loài người gắn liền với những cơn đau đẻ. Chúng ta cảm ơn Đức Chúa Trời vì chúng ta có tất cả những trang thiết bị khoa học và hiện đại trong phòng sinh của bệnh viện, nhưng người mẹ vẫn phải trải qua cơn đau đẻ nếu đứa trẻ sắp sinh. Một bác sĩ nói với tôi rằng: “Đừng bao giờ quên rằng những người mẹ phải cận kề cái chết thì con họ mới có thể bước vào trong thế giới này.” Đó là một suy nghĩ chín chắn!

Đức Chúa Giê-su của chúng ta đã phải trải qua sự đau đớn đến chết trên thập tự để chúng ta có thể kinh nghiệm được sự sinh lại mới (Ê-sai 53:11; Giăng 3:14-16). Sự tái sinh là bởi ân điển. Miễn phí nhưng không hề rẻ. Đó là một món quà giá trị nhất mà bạn có thể nhận được.

“Các dấu vết” của con cái Chúa. Liệu một người có thực sự biết được rằng anh ấy hay cô ấy là một đứa trẻ trong gia đình của Chúa hay không? Dĩ nhiên rồi! Trong thư tín thứ nhất của Giăng được viết để khẳng định rằng những tín hữu là con cái của Chúa (I Giăng 5:11-13). Sứ đồ Giăng

Page 6: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

dùng cụm từ “sanh bởi Đức Chúa Trời” tới bảy lần trong thư tín này. Nếu như bạn xếp những tuyên bố này cùng nhau, bạn khám phá ra được bốn “dấu vết” của một tín hữu thực:

* Làm theo sự công bình và chẳng phạm tội (2:29; 3:9)

* Yêu mến Đức Chúa Trời và các tín hữu khác (4:7; 5:1)

* Thắng hơn thế gian (5:4)

* Ma quỉ chẳng làm hại người được (5:18)

Sứ đồ Giăng không nói rằng con cái của Chúa chẳng bao giờ phạm tội. Thì của động từ được dùng trong câu 2:29 và 3:9 theo nghĩa đen có nghĩa là “người nào làm theo sự công bình” và “người không thể phạm tội được”. Đức Chúa Trời không muốn con cái Ngài phạm tội nào hết (I Giăng 2:1); nhưng nếu như họ phạm tội, Ngài cũng đã dự phòng để rửa sạch tội lỗi của họ (I Giăng 1:9). Cơ Đốc Nhân không phải là những người vô tội, nhưng là những người phạm tội ít hơn. “Khuynh hướng” của cuộc đời họ là hướng tới sự nên thánh và vâng lời.

Bằng vào “những dấu vết” này, người tín đồ đã có nhân chứng là Lời Chúa (I Giăng 5:9-13) và nhân chứng là Đức Thánh Linh (Rô-ma 8:9, 14-17). Hai nhân chứng này giống như “những giấy chứng sinh thuộc linh” đảm bảo rằng chúng ta là con cái của chính Đức Chúa Trời.

2. Vui sống với gia đình của Đức Chúa Trời

Cha Thiên Thượng của chúng ta “ban mọi vật dư dật cho chúng ta được hưởng” (I Ti-mô-thê 6:17). Hãy xem lại cuộc đời của một vài Cơ Đốc Nhân bạn sẽ chẳng bao giờ nghi ngờ tại sao từ hưởng lại được sử dụng trong Kinh Thánh! Chính là thế; và những con cái Chúa chính là những người thực sự hiểu được tất cả những gì Ngài đã ban cho họ là để bày tỏ niềm vui của Ngài qua đời sống của họ. Vậy những ơn phước nào mà Cha muốn con cái của mình được hưởng?

Một gia đình tự do (Rô-ma 8:12-18). Đoạn Kinh Thánh này miêu tả một mối tương giao đặc biệt với Cha gọi là “sự làm con nuôi.” Đừng nhầm lẫn với việc nhận con nuôi trong thế giới Tây Phương. Trong Thánh Kinh Tân Ước, nhận làm con nuôi là một hành động của Đức Chúa Trời mà qua đó Ngài trao cho mỗi đứa con của Ngài vị thế của người trưởng thành trong gia đình và trong chốc lát anh ấy hay cô ấy được sinh lại. Bạn không trở thành thành viên trong gia đình của Chúa bởi việc làm con nuôi mà là bởi sự tái sinh. Tại sao ư? Đó là bởi vì một đứa con nuôi không thuộc dòng dõi tự nhiên như cha mẹ nuôi của mình. Nhưng con cái Chúa thuộc dòng dõi của chính Đức Chúa Trời là bởi vì họ được sinh bởi Thần của Đức Chúa Trời (II Phi-e-rơ 1:4). Nhận làm con nuôi là cần thiết cho vị thế của chúng ta trong gia đình. Được nhận làm con nuôi đơn giản là Đức Chúa Trời đối xử với chúng ta như những người trưởng thành, không phải như những em bé và ban cho chúng ta những đặc quyền của người trưởng thành.

Ví dụ, một em bé còn nhỏ thậm chí không biết rằng nó chỉ là một em bé, và chắc chắn rằng em bé đó không biết cha mẹ ruột của mình. Cho dù em bé đó biết cha ruột mình, thì cũng không thể

Page 7: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

nói chuyện với ông ấy. Nhưng con cái của Chúa biết rằng họ là con cái của Chúa! Họ không chỉ biết ai là Cha họ mà họ còn có thể nói chuyện với Ngài và gọi Ngài là “A-ba, Cha!” Phần lớn trẻ con sống trong sự lệ thuộc và sợ hãi cho tới khi chúng đủ lớn để có thể tự chăm sóc bản thân nhưng con cái của Chúa thì được tự do không lệ thuộc và không sợ hãi.

Tại sao Đức Chúa Trời lại nhận con nuôi và ban cho họ vị thế của người trưởng thành trong gia đình? Đó là để họ tự do sử dụng tất cả mọi nguồn lực của Ngài để trở thành những người con trai, con gái trưởng thành và hoàn thiện. Chúng ta được tự do bước đi với Ngài và nói chuyện với Ngài, tự do nghe Lời của Ngài và bước đi theo Thánh Linh. Dù chúng ta cần trưởng thành liên tục, chúng ta sẽ lớn lên trong một bầu không khí gia đình đầy tự do và ân điển, chứ không phải là lệ thuộc và luật lệ.

Thức ăn của gia đình. Nếu như một đứa trẻ muốn lớn lên, thì chúng phải có thức ăn; và Đức Chúa Trời cung cấp Lời Ngài như là thức ăn thuộc linh cho chúng ta (Giê-rê-mi 15:16; Gióp 23:12). Lời Chúa là bánh (Ma-thi-ơ 4:4), là sữa (I Phi-e-rơ 2:2), là thịt (Hê-bơ-rơ 5:12-14; I Cô-rinh-tô 3:1-2), và mật ong (Thi Thiên 119:103). Khi chúng ta suy gẫm Lời Chúa, lẽ thật sẽ được “tiêu hóa” trong chúng ta và chúng ta nhận được sức lực (Giô-suê 1:6-9). Khi chúng ta còn là con trẻ, chúng ta nhận Lời Chúa từ những người khác là những người đã “tiêu hóa” Lời Chúa cho chúng ta (I Tê-sa-lô-ni-ca 2:7-8); nhưng khi chúng ta lớn lên về thuộc linh, chúng ta học cách tự ăn và tận hưởng bữa ăn Lời Chúa no đủ. Chúng ta có thể hưởng thụ “thịt” cũng như “sữa”.

Tài sản của gia đình. Khi chúng ta được sinh ra lần đầu tiên (“sanh bởi tình dục”), chúng ta được sinh ra là những nô lệ nghèo khổ; nhưng khi chúng ta được sinh ra lần hai (“sanh bởi Thánh Linh”), chúng ta được sinh ra là những người con trai giàu có. Đó là sự trái ngược giữa hai con trai của Áp-ra-ham là Ích-ma-ên và Y-sác, nô lệ và kẻ kế tự (xem Ga-la-ti 4:21-31). Nếu như chúng ta được đối xử như những em bé trong gia đình của Đức Chúa Trời thì chúng ta có lẽ sẽ không bao giờ được thừa hưởng sự giàu có của chúng ta; nhưng bởi vì Đức Chúa Trời đã ban cho con cái Ngài một vị thế của người trưởng thành, nên chúng ta có thể cầu xin sự giàu có của Chúa và dùng điều đó làm vinh hiển Ngài. Chúng ta là “những kẻ kế tự của Đức Chúa Trời” (Rô-ma 8:15-17).

Vậy Cha chúng ta chia sẻ với chúng ta sự giàu có về điều gì? Chúng ta hãy bắt đầu với “sự giàu có vô hạn của ân điển Ngài” (Ê-phê-sô 2:7), hãy nhớ rằng Cha chúng ta là “Đức Chúa Trời ban mọi ơn” (I Phi-e-rơ 5:10), Kinh Thánh của chúng ta là “lời ơn phước” (Công Vụ 20:32), và Đức Thánh Linh là “Đức Thánh Linh ban ơn” (Hê-bơ-rơ 10:29). Ngôi của Đức Chúa Trời thường là ngôi phán xét con người chúng ta, nhưng bây giờ nó trở thành một “ngôi ơn phước” là nơi chúng ta có thể “tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng” (Hê-bơ-rơ 4:16). “Vả, bởi sự đầy dẫy của Ngài mà chúng ta đều có nhận được, và ơn càng thêm ơn” (Giăng 1:16). Đó là lý do quan trọng giải thích vì sao con cái Chúa phải học Lời Chúa và biết được tất cả các ơn phước đều sẵn có cho mọi người thông qua Chúa Giê-su Christ.

Page 8: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Chúng ta không chỉ chia sẻ sự giàu có về ơn phước của Ngài không thôi, mà chúng ta cũng nhận được sự “giàu lòng thương xót” của Ngài (Ê-phê-sô 2:4). Có sự khác biệt giữa ơn phước và lòng thương xót (nhân từ). Đức Chúa Trời không ban cho chúng ta điều chúng ta đáng được hưởng theo lòng nhân từ của Ngài mà Đức Chúa Trời lại ban cho chúng ta điều mà chúng ta không đáng được hưởng theo ơn phước của Ngài. “Ấy là nhờ sự nhân từ Đức Giê-hô-va mà chúng ta chưa tuyệt. Vì sự thương xót của Ngài chẳng dứt;” (Ca Thương 3:22). Con cái Chúa kinh nghiệm “phước hạnh và sự thương xót” mỗi ngày trong cuộc sống của họ (Thi Thiên 23:6).

Những nhu cầu thuộc linh như “ơn phước” và “sự thương xót” có vẻ như hiếm khi xảy ra với chúng ta, đặc biệt là vào lúc chúng ta phải trả tiền hóa đơn, và vòng quay cuộc sống cứ thế tiếp diễn. Đức Chúa Trời biết nhu cầu mỗi ngày của chúng ta và cung ứng cho chúng ta “theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển”. Lời hứa đó được công bố trong Phi-líp 4:19, “Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Giê-su Christ.” Đức Chúa Trời không hứa thỏa mãn “sự tham lam” của chúng ta nhưng Ngài hứa đáp ứng nhu cầu của chúng ta (Ma-thi-ơ 6:19-34).

“Sự giàu có, khôn ngoan và thông biết” của Ngài luôn sẵn có khi con cái Chúa phải đưa ra quyết định (Rô-ma 11:33). Sự thông biết rất quan trọng, đặc biệt là sự thông biết Lời Chúa; nhưng chúng ta cũng cần sự khôn ngoan để sử dụng sự thông biết đó cho đúng cách. “Ví bằng trong anh em có kẻ kém khôn ngoan, hãy cầu xin Đức Chúa Trời, là Đấng ban cho mọi người cách rộng rãi, không trách móc ai, thì kẻ ấy sẽ được ban cho.” (Gia-cơ 1:5).

Cuối cùng, con cái Chúa sử dụng “sự dư dật của lòng nhân từ, nhịn nhục, khoan dung” (Rô-ma 2:4). “Vì Đức Giê-hô-va là thiện” (Thi Thiên 100:5).

“Sự nhân từ Chúa,

Mà Chúa đã dành cho người kính sợ Chúa,

Và thi hành trước mặt con cái loài người

Cho những kẻ nương náu mình nơi Chúa, thật lớn lao thay!” (Thi Thiên 31:19).

Đức Chúa Trời là nguồn của mọi ân điển tốt lành cùng sự ban cho trọn vẹn (Gia-cơ 1:17), và chúng ta tin tưởng rằng Ngài sẽ ban cho chúng ta điều nào đúng, theo đúng cách và đúng thời điểm.

Dù cho bạn xem điều này như thế nào thì con cái Chúa luôn giàu có, quả thực là thế!

Sự thông công của anh em trong gia đình. Là con cái trong gia đình của Đức Chúa Trời, chúng ta phụ thuộc lẫn nhau và chúng ta cần có nhau. Đức Chúa Trời không muốn các con cái của Ngài sống tách biệt (Hãy xem sách Truyền Đạo 4:9-12). Đây là lý do tại sao Đức Chúa Trời lập Hội Thánh của Ngài trên đất: đó là sự thông công trong Chúa sống động mà ở trong sự thông công đó con cái của Ngài có thể hiệp nhau thờ phượng Ngài, làm chứng về ân điển Ngài, khích lệ lẫn

Page 9: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

nhau về cõi đời đời. Trong ngôn ngữ Hy Lạp, từ “sự thông công anh em” nghĩa là “có điểm chung”; và con cái Chúa có nhiều điểm chung. Họ cùng nhau chia sẻ một cuộc sống, Lời Chúa, tình yêu dành cho Chúa, cũng như cùng mối quan tâm về một thế giới lầm lạc, và cùng ao ước làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời.

Một trong những dấu hiệu đầu tiên về sự suy yếu mối thông công với Cha là sự thiếu quan tâm của tín hữu về sự thông công với các con cái Chúa khác. “Chớ bỏ sự nhóm lại” là một mạng lệnh của Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 10:25), và chúng ta phải tuân lời Ngài. Những Cơ Đốc Nhân đầu tiên là “những người ấy bền lòng giữ lời dạy của các sứ đồ’ sự thông công của anh em, lễ bẻ bánh, và sự cầu nguyện” (Công Vụ 2:42).

Sự thông công anh em nghĩa là chúng ta quan tâm lẫn nhau. Trên thực tế cụm từ “lẫn nhau” được sử dụng gần 50 lần trong Tân Ước để miêu tả các tín hữu chăm sóc lẫn nhau như thế nào. “Các ngươi hãy yêu nhau” được lặp đi lặp lại nhiều lần (Giăng 23:34-35; 15:12; 17; Rô-ma 13:8; I Tê-sa-lô-ni-ca 3:12; 4:9). Nhưng chúng ta cũng được lệnh phải vâng phục nhau (Ê-phê-sô 5:21), yên ủi nhau (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:18), lo tưởng đến nhau (I Cô-rinh-tô 12:25), tha thứ cho nhau (Ê-phê-sô 4:32) và làm gương sáng cho nhau (Rô-ma 14:19; 15:2), đó là mới chỉ kể một số thôi. Sự thông công còn đòi hỏi phải chia sẻ về chính chúng ta với người khác. “Điều cơ bản duy nhất của sự thông công giữa Đức Chúa Trời và con người” Roy Hession đã viết “đó là sống cởi mở với cả hai phía” (The Calvary Road- trích sách Con Đường Thập Tự trang 22).

Thời trang của gia đình. Con cái của Đức Chúa Trời đã cởi bỏ những áo quần bẩn thỉu của tội lỗi và mặc lấy ân điển, sự công bình của Đấng Christ (II Cô-rinh-tô 5:21; Ê-sai 61:10, 64:6). Chúng ta phải “lột bỏ người cũ cùng công việc nó, mà mặc lấy người mới là người đang đổi ra mới theo hình tượng Đấng dựng nên người ấy” (Cô-lô-se 3:9-10). Cô-lô-se3:1-14 miêu tả “thời trang của gia đình” dành riêng cho Cơ Đốc Nhân, quần áo của ân điển là thứ mà con người bề trong chúng ta nên mặc lấy. Giống như Đức Chúa Giê-su đã ra lệnh cởi bỏ quần áo liệm trên người La-xa-rơ (Giăng 11:44), vậy nên chúng ta cũng nên cởi bỏ quần áo liệm của đời sống cũ bởi đức tin.

Tương lai của gia đình. Gia đình của Chúa là gia đình duy nhất có hy vọng tương lai, vì chẳng có hy vọng nào cho những tội nhân xấu xa trong gia đình của A-đam (Ê-phê-sô 2:12). Chúng ta có một hy vọng sống (I Phi-e-rơ 1:4) là bởi vì chúng ta tin nơi một Đấng sống. Ngài đã chuẩn bị nhà trên thiên đàng cho con dân Ngài, và Ngài sẽ trở lại đưa chúng ta đi (Giăng 14:1-6). Một ngày kia chúng ta sẽ gặp Ngài và trở nên giống như Ngài (I Giăng 3:1-3)! Không ai biết khi nào Chúa sẽ trở lại, nhưng khi Ngài trở lại, Ngài sẽ nhóm gia đình của Ngài lại, cả kẻ sống và kẻ chết và đưa họ lên nơi vinh hiển (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:13-18). Đó chính là tương lai!

Khi bạn nghĩ về những sự vui mừng mà con cái Chúa sẽ trải nghiệm –và chúng ta cũng không thể hiểu thấu về những sự vui mừng đó –bạn chỉ phải suy nghĩ đến hai điều mà thôi: tại sao càng ngày càng nhiều Cơ Đốc Nhân chẳng hề thấy vui mừng về địa vị của họ trong gia đình và tại sao càng ngày càng nhiều người chưa được cứu chẳng hề lo lắng về việc làm thế nào có thể bước vào

Page 10: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

gia đình của Chúa và bắt đầu tận hưởng một đời sống sung mãn trong Đấng Christ. Nếu như con cái của Chúa thỏa lòng và mừng rỡ hơn nữa thì những người thế gian có lẽ sẽ muốn đặt lòng tin vào Đấng Christ để được sinh lại. Làm thế nào chúng ta sống như lời làm chứng mà chúng ta đang nói?

3. Mở rộng gia đình của Đức Chúa Trời

Đức Chúa Trời muốn gia đình của Ngài lớn mạnh. Và con cái của Ngài không đợi “trưởng thành” mới bắt đầu làm chứng về Đấng Christ và đưa dẫn người khác đến với Đấng Cứu Thế. Những tân tín hữu có thể chưa sẵn sàng để hầu việc Chúa như là làm giáo viên hay những lãnh đạo thuộc linh trong Hội Thánh (I Ti-mô-thê 3:6), nhưng họ có thể trở thành những chứng nhân trung thành chia sẻ về Phúc Âm (Công Vụ 1:8).

Một chứng nhân chỉ đơn giản là người đó nói về những gì mình thấy hoặc nghe thấy (Công Vụ 4:19-20). Tôi đã được gọi lên làm nhân chứng ở Tòa Án vài lần, nhưng cứ mỗi lần làm nhân chứng thì tôi lại khám phá ra rất nhanh rằng quan tòa chẳng hề quan tâm đến ý kiến của tôi về vụ án. Theo kinh nghiệm của cá nhân tôi thì tất cả những gì ông ấy muốn là tôi kể về những gì tôi thực sự biết. Rất nhiều Cơ Đốc Nhân nghĩ rằng họ là những ủy viên công tố hoặc quan tòa trong khi Đức Chúa Trời muốn kêu gọi tất cả chúng ta trở thành chứng nhân cho Ngài.

Có một phát hiện là con cái của Đức Chúa Trời lại trở thành người cha thuộc linh bằng cách đưa dẫn người khác vào gia đình của Đức Chúa Trời. (I Cô-rinh-tô 4:15). Khi chúng ta chia sẻ Lời Chúa và tin vào Thánh Linh của Đức Chúa Trời, những tội nhân sẽ nhận biết tội lỗi của họ và tiếp nhận Chúa Giê-su Christ cách cá nhân. Không phải lúc nào chúng ta cũng luôn được ơn đưa dẫn tội nhân đến với Đấng Christ, nhưng chúng ta có thể dọn đường cho người khác. Làm chứng cũng giống như là làm nông vậy –đó là một sự hiệp sức. Người cày, kẻ gieo hạt, kẻ tưới nhưng Đức Chúa Trời mới là Đấng cho cây ra hoa kết trái (I Cô-rinh-tô 3:6-9; Giăng 4:31-38).

Rất thú vị khi kiểm tra các thống kê được ghi lại trong sách Công Vụ. Có khoảng 120 người tin Chúa nhóm lại trên phòng cao để cầu nguyện sau khi Chúa chúng ta thăng thiên (Công Vụ 1:15). Ba ngàn người đã được biến đổi vào ngày Lễ Ngũ Tuần (Công Vụ 2:41), và sau đó con số này tăng lên khoảng năm ngàn người (Công Vụ 4:4). Ngày này qua ngày khác, số người tin Chúa đều được thêm lên (Công Vụ 5:14), nhiều đến nỗi các sứ đồ phải lập chức phó tế giúp đỡ họ. (Công Vụ 6:1). “Đạo Đức Chúa Trời càng ngày càng tràn ra, số môn đồ tại thành Giê-ru-sa-lem thêm lên nhiều lắm. Cũng có rất nhiều thầy tế lễ vâng theo đạo nữa.” (6:7).

Nếu như chúng ta muốn có thêm người vào trong gia đình Đức Chúa Trời thông qua công tác chứng đạo, đầu tiên tất cả chúng ta phải biết chắc rằng chúng ta được đầy dẫy Đức Thánh Linh; bởi vì chỉ có năng quyền của Ngài thì việc làm chứng của chúng ta mới tôn vinh hiển danh Đức Chúa Trời và khiến cho tội nhân bị cáo trách tội lỗi thực sự. Đức Chúa Trời luôn muốn chúng ta chia sẻ kinh nghiệm cá nhân về sự cứu rỗi, Ngài có thể sử dụng kinh nghiệm đó chỉ khi nào điều đó liên hệ đến Lời Chúa và ca ngợi Con của Đức Chúa Trời.

Page 11: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Điều thứ hai, chúng ta phải có ao ước chân thành muốn chinh phục linh hồn tội nhân. Làm chứng cho Đấng Christ không phải là thứ mà chúng ta muốn mở lên hoặc tắt đi giống như một cái TV. Mọi tín hữu đều là chứng nhân mọi lúc –kể cả người giỏi hoặc người kém. Gánh nặng ưu tư về những tội nhân sẽ khiến chúng ta luôn cầu hỏi Đức Chúa Trời biến chúng ta trở thành một nhân chứng tốt lành cho Chúa Giê-su Christ. Nếu chúng ta bắt đầu mỗi ngày mới bằng cách tự hạ mình trước Chúa (Rô-ma 12:1-3) và tìm kiếm ơn phước của Chúa, Ngài sẽ sử dụng chúng ta chia sẻ Phúc Âm cho người khác.

Một điều quan trọng cần nhớ đó là chúng ta chỉ là những nhân chứng chứ không phải những ủy viên công tố. Một thành viên của một trong những nhà thờ mà tôi làm Mục sư ở đó thấy rằng bổn phận của anh ấy là phải quở trách những người hút thuốc nơi công cộng, nói với họ rằng hút thuốc là một thói quen bẩn thỉu và gây hại cho người khác. Sau đó anh nói với họ rằng Chúa Giê-su sẽ làm cho họ đắc thắng thói quen hút thuốc đó nếu họ được cứu. Cuối cùng, tôi nhẹ nhàng nhắc nhở anh ấy rằng cho dù những người này có ngừng hút thuốc, thì họ vẫn bị hư mất và họ cần phải tin Đấng Christ. Tôi không phải là một người khuyến khích người khác hút thuốc nhưng bạn tôi đang cố gắng làm người khác nhận ra mình có tội do làm chuyện sai trái.

Từ những điều trên dẫn đến điều thứ ba, là những chứng nhân chúng ta phải luôn giữ được sự thông công liên tục với Chúa để chúng ta có những điều tươi mới mà chia sẻ. Đức Thánh Linh làm chứng cho chúng ta nhờ Lời Chúa vậy nên chúng ta có thể làm chứng cách vui mừng. (Giăng 15:26-27). Nếu như chúng ta sẵn sàng, chúng ta có thể sử dụng những cơ hội này khôn ngoan khi Ngài mở lối.

Không cần phải có một “lời chào hàng được thu băng” sẵn. Đức Thánh Linh có thể cho chúng ta những lời chúng ta cần, nếu như chúng ta cầu nguyện và bước đi theo Thánh Linh. Một tân tín hữu có thể muốn mượn một kế hoạch từng bước cụ thể khi anh ấy hay cô ấy bắt đầu làm chứng nhưng chẳng bao lâu sau tín hữu đó sẽ thông thạo trong việc chia sẻ Đấng Christ nhờ có Thánh Linh soi dẫn. Chúa Giê-su tự tìm lạc điểm khi Ngài làm chứng cho người dân và chúng ta nên noi theo gương Ngài.

Điều thứ tư, chúng ta cần “theo sát” các tân tín hữu và giúp họ trưởng thành trong Chúa. Sau cùng, điều mà mọi gia đình đều hướng tới đó là –được yêu thương, được bảo vệ, và nuôi dưỡng những em bé mới sinh để chúng có thể hoàn toàn trưởng thành. Đặc biệt chức vụ Mục sư giống như “người cha tinh thần”, đôi khi cần phải cảnh báo các con dân Chúa (I Cô-rinh-tô 4:14), dạy dỗ họ (I Cô-rinh-tô 4:17-21), khích lệ họ (I Tê-sa-lô-ni-ca 2:10-12), cho họ ăn (I Cô-rinh-tô 3:1-3), và bảo vệ họ trước những giáo sư giả (II Cô-rinh-tô 11:1-5). Đây không phải là công việc dễ dàng, và mỗi thành viên của gia đình cần phải giúp đỡ Mục sư của mình.

Ba Câu Hỏi

Bạn đã gia nhập gia đình của Đức Chúa Trời, và bạn có đoan chắc rằng bạn là con của Ngài?

Page 12: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Bạn có vui mừng được ở trong nhà của Chúa khi bạn dựa vào những đặc quyền của bạn trong Đấng Christ không?

Bạn có giúp mở rộng gia đình bằng cách làm chứng về Đấng Christ khi Chúa cho bạn cơ hội không?

GHI CHÚ

(1) Nhiều sinh viên mộ đạo nghiên cứu Kinh Thánh không đồng ý về nghĩa của cụm từ “sanh bởi nước.” Một vài người xem nước là một biểu tượng của Lời Chúa (Ê-phê-sô 5:26), nhưng còn có điều nghi ngại là Ni-cô-đem phải hiểu ý nghĩa của hình ảnh đó, và Chúa Giê-su mong ông hiểu (Hãy xem Giăng 3:10). Một vài bản dịch câu “sanh bởi nước", là sanh bởi Thánh Linh và như vậy là chấp nhận được. Tuy nhiên; tôi thích cách giải thích được đưa ra trong phần giải nghĩa nầy hơn.

2

MỘT CON CHIÊN TRONG BẦY CỦA CHÚA

Tôi lớn lên trong một đô thị lớn nơi đó mọi người thường nghĩ về chó và mèo nhiều hơn là họ nghĩ về con chiên (con cừu). Tôi không nhớ là tôi đã thấy một con chiên nào cho tới khi tôi học lớp 3 thì giáo viên của chúng tôi dẫn tôi đi thăm một trang trại. Tôi nhận thấy rằng ngày nay một vài vườn thú quốc gia có trưng bày mô hình trang trại để giúp trẻ con thành thị làm quen với những động vật mà chúng đọc được trong các cuốn sách. Đó là một ý tưởng tuyệt vời!

Nhưng mọi người trong thời của Kinh Thánh chẳng cần một triển lãm đặc biệt nào để dạy họ về con chiên. Nếu như bạn đến thăm Xứ Thánh ngày nay, bạn có thể thấy những bầy chiên và dê trong phạm vi của thành phố. Vợ tôi và tôi đã từng gặp một chàng trai Do Thái ăn nói có duyên ở Giê-ru-sa-lem, anh ấy đang trông nom bầy chiên của mình trong công viên của thành phố! Trong một dịp khác xe buýt du lịch của chúng tôi phải dừng lại trong khi một vài người chăn chiên dẫn bầy đi ngang qua đường cao tốc. Tôi đã từng hỏi rằng điều gì sẽ xảy ra nếu như những chàng trai trẻ đó dẫn bầy chiên này đi ngang qua con đường nhộn nhịp xe cộ ở Chicago? Và tôi kết luận rằng điều đó sẽ dẫn đến việc dư thừa thịt cừu và sườn cừu trong chợ.

“Tôi nghĩ chúng ta phải ngừng sử dụng hình ảnh con chiên khi chúng ta nói về các Cơ Đốc Nhân,” một người bạn của tôi là một người giảng lời Chúa đã nói với tôi như vậy. “Dân cư đô thị ngày nay rất hiện đại và tinh vi có thể sẽ không biết chúng ta đang nói về điều gì!”

Page 13: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Nhưng tôi nghĩ rằng bạn tôi đã sai. Một người không cần phải là nông dân mới biết được con chiên trông như thế nào hay chúng biểu tượng cho cái gì. William J. Lederer chẳng hề e ngại khi gọi cuốn sách nổi tiếng của ông ấy là, “A Nation of Sheep” (Đất Nước Của Con Chiên); và sứ đồ Phao-lô sử dụng hình ảnh bầy chiên khi ông phát biểu trước các lãnh đạo nhà thờ ở thành phố lớn như Ê-phê-sô (Công Vụ 20:28-29). Những trưởng lão này đang sống trong một trung tâm đô thị hiện đại; nhưng Phao-lô vẫn nhắc nhở họ rằng họ đang chăn giữ những con chiên của Chúa. Tôi tin chắc rằng chúng ta cần phải nhấn mạnh hình ảnh này và không được từ bỏ nó; bởi vì nếu chúng ta thực sự hiểu được con chiên trong bầy chiên của Chúa là gì thì chúng ta mới có thể liên hệ được lẫn nhau; với những lãnh đạo Hội Thánh, và với Chúa của chúng ta.

1. Y-sơ-ra-ên, bầy chiên của Đức Chúa Trời

Dân tộc Do Thái tự hào rằng họ là bầy chiên đặc biệt của Chúa. Đức Chúa Trời được gọi là “Đấng chăn giữ Y-sơ-ra-ên” (Thi Thiên 80:1), và dân tộc họ là “dân sự Ngài, là bầy chiên của đồng cỏ Ngài” (Thi Thiên 100:3). Khi Đức Chúa Trời đưa dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô, Ngài dẫn họ đi, “Chúa cậy tay Môi-se và A-rôn mà dẫn dắt dân sự Ngài như một đoàn chiên.” (Thi Thiên 77:20; và xem thêm Thi Thiên 78:52). Khi Đức Chúa Trời kêu gọi Đa-vít trở thành vua của Y-sơ-ra-ên, Ngài chọn một người chăn chiên nhiều kinh nghiệm (Thi Thiên 78: 70-72). Khi đất nước bị suy tàn dưới tay vua A-háp, tiên tri Mi-chê “thấy cả Y-sơ-ra-ên bị tản lạc trên các núi, như bầy chiên không có người chăn” (I Các Vua 22:17 và xem thêm Mác 6:34). Khi suy ngẫm về sự giam cầm của người Ba-by-lon, tiên tri Giê-rê-mi đã khóc than khi ông thấy “bầy của Đức Giê-hô-va bị bắt đi.” (Giê-rê-mi 13:17).

Dân Y-sơ-ra-ên xem Chúa như là Đấng chăn chiên và những lãnh đạo của họ như là, “những người chăn phó,” là những người được Đức Chúa Trời trao cho quyền chăm sóc bầy chiên. Mối bận tâm lớn của Môi-se chính là Đức Chúa Trời chọn một người kế thừa cho ông, một ai đó đáng tin cậy sẽ dẫn dắt bầy chiên (Dân Số Ký 27:15-23). Các thầy tế lễ và các vị vua được xem là những người chăn chiên của Đức Chúa Trời, cho dù là một vài người trong số họ không trung tín trong “công việc của Mục sư.” Tiên tri Giê-rê-mi buộc tội “các Mục sư” (những lãnh đạo tôn giáo và chính trị) là những người đã hủy diệt bầy chiên thay vì phục vụ chúng (Giê-rê-mi 23:1; 25:34-38), và tiên tri Ê-xê-chi-ên cũng gửi một thông điệp tương tự tới “những kẻ chăn chiên giả” trong thời của ông (Ê-xê-chi-ên 34). Ngay cả vua Si-ru, một vị vua Ba Tư ngoại đạo, cũng được gọi là người chăn chiên (Ê-sai 44:28).

Trong các chính phủ không dân chủ ngày nay, thật khó cho chúng ta có thể tin rằng các lãnh đạo chính phủ là những người chăn chiên của Đức Chúa Trời. Có những thời điểm mà những người trong chính phủ này giống như những tay sai hay thậm chí là những kẻ trộm (Giăng 10:1-13). Y-sơ-ra-ên là dân tộc được Đức Chúa Trời chọn lựa. Và không có quốc gia nào ngày nay có thể đòi hỏi những đặc quyền mà đất nước Y-sơ-ra-ên được hưởng, đặc biệt là sự hiện diện của Đức Chúa Trời và những ơn phước mà Ngài đã lập giao ước với họ. Ngày nay những đặc quyền này thuộc về Hội Thánh của Ngài nằm rải rác trên khắp thế giới. Đức Chúa Trời đã lập nên những bậc cầm quyền, và chúng ta phải tôn trọng những người ngồi cầm quyền trong tổ chức này, cho dù chúng

Page 14: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

ta có bất đồng với họ (Rô-ma 13; I Phi-e-rơ 2:11-17). Nhưng nếu Đức Chúa Trời hoàn thành những ý định của Ngài thông qua một kẻ chăn chiên như Si-ru, thì chắc chắn Ngài có thể làm thành công việc của Ngài thông qua những người đàn ông và đàn bà trong văn phòng chính phủ ngày nay. Trách nhiệm của chúng ta là cầu nguyện cho họ (I Ti-mô-thê 2:1-4) và phục tùng dưới sự lãnh đạo của họ thì chúng ta mới có thể giữ được một lương tâm tốt lành hướng tới Đức Chúa Trời (I Phi-e-rơ 2:11-17, 3:8-22).

Y-sơ-ra-ên là một bầy chiên thường xuyên đi lạc và bất tuân mạng lệnh của Chúa. “Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc” (Ê-sai 53:6) được nói về dân Y-sơ-ra-ên trước tiên, mặc dù điều này chắc chắn được áp dụng với mọi tội nhân trong mọi đất nước (I Phi-e-rơ 2:25). Chúa Giê-su thấy dân Do Thái như con chiên lạc mất, và Ngài tìm kiếm chúng với sự thương xót (Ma-thi-ơ 9:36). Thực tế là Ngài đã chết vì chiên. “Bởi sự ức hiếp và xử đoán, nên người đã bị cất lấy” (Ê-sai 53:8). Khi Ngài còn trên đất, Chúa Giê-su đã chăm sóc “những con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên” (Ma-thi-ơ 10:6,15). Ngày nay, dân tộc Y-sơ-ra-ên đã tản lạc khắp thế giới, nhưng một ngày kia Chúa sẽ gom bầy của Ngài lại và ban cho họ một Đấng Chăn Chiên để chăm sóc họ. (Ê-xê-chi-ên 37:15-18; Ma-thi-ơ 2:6, ở đây từ “rule” (cai trị) có nghĩa là “người chăn chiên”).

2. Hội Thánh, bầy chiên của Đức Chúa Trời.

Y-sơ-ra-ên ngày xưa sống trong thời Cựu Ước, còn Hội Thánh ngày nay sống trong thời Tân Ước, “Nhưng anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời.” (I Phi-e-rơ 2:9; và chú ý Ma-thi-ơ 21:43). Đức Chúa Trời chắc chắn chẳng rời bỏ Y-sơ-ra-ên (Rô-ma 11:1), nhưng trong thời đại này, Ngài đang hành động thông qua Hội Thánh Ngài để đem Phúc Âm đến với mọi dân tộc. Hội Thánh là “bầy nhỏ” của Ngài (Lu-ca 12:32) được tạo nên bởi “con chiên bị lạc mất” mà Người Chăn Hiền Lành đã cứu (Ma-thi-ơ 18:10-14).

Tại sao Đức Chúa Trời lại so sánh con dân của Ngài với chiên?

Chiên là loài vật nuôi “sạch” (Lê-vi Ký 11:1-8). Điều này có nghĩa là chúng được Đức Chúa Trời chấp nhận. Dĩ nhiên là không tội nhân nào có thể chấp nhận chính họ; chúng ta chỉ được chấp nhận nhờ ơn của Đấng Cứu Thế tức Chúa Giê-su Christ (II Cô-rinh-tô 5:21; Ê-phê-sô 1:6). Nhưng không như những con chó và con lợn thường được cho là dơ dáy (II Phi-e-rơ 2:20-22), con chiên thích những đồng cỏ xanh tươi và mé nước bình tịnh. Bản tính tự nhiên của một động vật quyết định khao khát của nó, và lẽ tự nhiên là con chiên khao khát đồng cỏ chứ không phải là đống rác. “Phàm người kêu cầu danh Chúa thì phải tránh khỏi sự gian ác.” (II Ti-mô-thê 2:19).

Chiên biết người chăn của chúng. Chúa Giê-su nói: “Ta là người chăn hiền lành, và ta quen chiên ta, và chiên ta quen ta.” (Giăng 10:14). Những người chăn chiên Đông Phương đã có một mối quan hệ mật thiết với con chiên của họ và biết tên chúng (Giăng 10:3,27) và biết tính cách và nhu cầu của chúng. Họ có thể gọi chúng bằng tên theo cách tôi và bạn gọi một đứa trẻ hoặc một con chó cưng. Con chiên quen giọng của người chăn và tuân theo nó, nhưng chúng sẽ không đi theo nếu chúng nghe thấy một giọng khác (Giăng 10:3-4).

Page 15: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Có nhiều giọng nói kêu gọi chúng ta ngày nay, và một vài giọng trong đó nghe có vẻ “ngoan đạo”. Nhưng một đứa con thật của Đức Chúa Trời sẽ không nghe theo khi anh ta nghe thấy giọng của những người lạ (Giăng 10:5). Giọng của Đức Chúa Trời đối với chúng ta ngày nay chính là Lời Chúa, được dạy dỗ bởi Đức Thánh Linh (Khải Huyền 2:7,11,17). Bất kỳ “kẻ chăn chiên” tự xưng nào chối bỏ Lời này đều là kẻ chăn chiên giả, là một tên trộm, một tên cướp; và nguy hiểm đối với bầy chiên. Những tiên tri giả là “sói đội lốt chiên” (Ma-thi-ơ 7:15) là những kẻ sẽ dụ dỗ lôi kéo con chiên của Đấng Christ nếu họ có cơ hội.

Thật đáng khích lệ khi biết rằng Đấng Christ biết tên mỗi con chiên của Ngài. Nhớ tên người luôn là một vấn đề đối với tôi, tôi đúng là chẳng biết làm sao trả lời ai đó khi họ đến gần và nói, “Xin chào! Anh có nhớ tôi không?” Chúa của chúng ta không gặp vấn đề như vậy và chúng ta không phải đeo bảng tên để giúp Ngài nhận ra chúng ta. Chúng ta có thể chỉ là những số liệu thống kê, những con số đối với những chiếc máy tính, nhưng chúng ta là những con người quý giá đối với Đấng Chăn Chiên của chúng ta. Chúa biết chiên của Ngài cách cá nhân.

Chiên rất cần người chăn. Thông thường, chiên là những động vật yếu ớt, hay sợ hãi, và hay đi lạc. Không giống như thú ăn thịt, hay thậm chí là dê, chiên cần ai đó hướng dẫn và bảo vệ chúng nếu không chúng sẽ gặp rắc rối. Không có sự yêu thương chăm sóc của người chăn, bầy chiên sẽ không tự lực được. “Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi biết đường của loài người chẳng do nơi họ, người ta đi, chẳng có quyền dẫn đưa bước của mình” (Giê-rê-mi 10:23). Tại sao lại như vậy? Giê-rê-mi đã cho chúng ta câu trả lời: “Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa: ai có thể biết được?” (Giê-rê-mi 17:9). Nếu chúng ta không theo Người Chăn Chiên của mình, thì chúng ta sẽ đi lạc rất nhanh (I Phi-e-rơ 2:25).

Cũng như người Y-sơ-ra-ên có những người chăn phó để chăm lo những công việc của đất nước, thì Hội Thánh địa phương cũng có các mục sư để chăm lo thuộc linh và bảo vệ bầy chiên (Ê-phê-sô 4:11). Trong ngôn ngữ tiếng Anh từ “Mục sư” (pastor) bắt nguồn từ tiếng La-tinh “người chăn” (shepherd) và nó có nghĩa tương đương với từ “trưởng lão” (elder) và “giám mục” (bishop) hay là “kẻ coi sóc” (overseer) (Công Vụ 20:17, 28). Mục sư của Hội Thánh địa phương chịu trách nhiệm trước mặt Đức Chúa Trời và con dân Ngài, và chức vụ của ông ấy không thể bị xem nhẹ. Đó không phải là một công việc cho người mới vào nghề hay là cho người nào đó không có đủ phẩm chất được miêu tả trong Kinh Thánh (I Ti-mô-thê 3:1-7; Tít 1:5-9). Chỉ cần Mục sư tuân giữ Lời Chúa và theo Chúa thì con chiên sẽ theo ông ấy (I Cô-rinh-tô 11:1; Hê-bơ-rơ 13:7-8, 17).

Chiên là động vật hữu ích. Trong thời của Thánh Kinh, người chăn chiên giữ bầy chiên của mình không phải là để ăn thịt, bởi vì thịt là một thức ăn xa xỉ với người Do Thái. Anh ấy muốn con chiên còn sống vì anh ấy thu lợi từ lông chiên cũng như là những con chiên non. Con chiên được giết thịt trong lễ Vượt Qua và những dịp lễ của gia đình và thỉnh thoảng để dâng tế lễ cho Chúa. Nhưng thông thường, con chiên được bảo vệ như là một tài sản có giá trị của gia đình. Mất một con chiên hay con chiên non là mất đi một thứ quý giá đối với gia đình.

Page 16: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Chắc chắn là Người Chăn Hiền Lành có quyền mong đợi con chiên của Ngài hữu ích với Ngài. “Hay là có ai chăn bầy vật mà không dùng sữa nó để nuôi mình?” (I Cô-rinh-tô 9:7). Để bù lại tất cả những gì Ngài ban và làm cho chúng ta thì chúng ta là con chiên của Đức Chúa Trời chúng ta phải dùng hết khả năng của mình để đền ơn Ngài. Được xén lông hay sinh con là điều tốt cho con chiên. Con chiên của Đấng Christ nên là “những con sinh tế” sẵn sàng làm theo ý muốn của Ngài cho dù cái giá phải trả là gì (Rô-ma 8:36; 12:1-2). Nếu tất cả những gì chúng ta làm là hưởng thụ “đồng cỏ xanh tươi” và “mé nước bình tịnh” (Thi Thiên 23:2), và chẳng làm gì để phục vụ Ngài, thì chúng ta thật là ích kỷ và vô dụng.

Chiên tụ tập lại với nhau. Bản tính tự nhiên của con chiên là muốn ở với bầy, và bản tính tự nhiên của tín hữu là muốn ở cùng người khác. Trong Tân Ước chẳng nói gì về đời sống của một Cơ Đốc Nhân tách biệt. Trong những ngày đó khi một người tin Đấng Christ, anh ấy phải tỏ ra bằng cách xưng nhận mình với những tín hữu khác. Một con chiên đơn độc không chỉ gặp nguy hiểm mà chính nó cũng là mối nguy hiểm vì nó có thể dẫn con chiên khác đi lạc. Một nơi chốn an toàn, đầy đủ và để phục vụ Chúa chính là ở với bầy chiên của Ngài.

3. Đấng Christ, người chăn chiên

Kinh Thánh thuật lại chức vụ chăn bầy của Chúa Giê-su Christ theo ba quan điểm. Là Người Chăn Hiền Lành, Ngài đã chết vì chiên mình (Giăng 10:11, 15, 17-18); là Đấng Chăn Chiên Lớn, Ngài sống vì con chiên để khiến con chiên trở nên trọn vẹn (Hê-bơ-rơ 13:20-21); và là Đấng làm đầu các kẻ chăn chiên, Ngài sẽ trở lại gom bầy chiên của mình và đem chúng lên thiên đàng (I Phi-e-rơ 5:1-4). Cả ba danh xưng của người chăn chiên này mô tả trọn vẹn chức vụ của Chúa cho chúng ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Những sinh viên Thần học đã nhận ra rằng có một sự tương đồng giữa ba danh xưng về người chăn chiên của Chúa và Thi Thiên 22, 23, 24. Thi Thiên 22 miêu tả Người Chăn Hiền Lành là người chết vì chiên mình, Thi Thiên 23 kể cho ta nghe về sự cung ứng và bảo vệ bầy chiên của Đấng Chăn Chiên Lớn, chức vụ của Ngài với chúng ta là “trọn đời.” Thi Thiên 24 là một Thi Thiên đắc thắng loan báo cho mọi người biết một vị Vua quang lâm, Đấng làm đầu các kẻ chăn chiên, người sẽ đánh bại những kẻ thù của Ngài và thưởng cho con dân của Ngài.

Người Chăn Hiền Lành (Giăng 10; Thi Thiên 22). Khi Chúa Giê-su tự gọi mình là một “người chăn chiên”, thì Ngài đã tự nhận mình là một trong những người bị ruồng bỏ trong xã hội thời bấy giờ. Một trong những lời bình luận của người Do Thái về Thi Thiên 23 chép rằng, “Chẳng có địa vị của ai trên thế giới lại thấp kém như người chăn chiên.” Những người chăn chiên bị xếp vào hàng trộm cắp. Người Do Thái sùng đạo chẳng giao dịch với người chăn chiên, và các quan án không yêu cầu người chăn chiên làm chứng trước tòa. Vậy mà Chúa Giê-su lại tự gọi mình là một người chăn. Thực vậy, Ngài là bạn của những người bị xã hội ruồng bỏ (Lu-ca 5:27-32; 15:1-2).

Từ “hiền lành” mang nghĩa của từ “đẹp, cao thượng, vô tội”. Nhiều con người vĩ đại trong Thánh Kinh từng là những chăn chiên –A-bên người đầu tiên chết vì đạo; tổ phụ Đa-vít –nhưng không

Page 17: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

có ai vĩ đại hơn Chúa Giê-su Christ; Con của Đức Chúa Trời. Trong Cựu Ước, con chiên chết cho người chăn; nhưng dưới thời Tân Ước, Người Chăn Chiên chết vì con chiên. Chúa Giê-su không bị giết chết cũng không phải bị hành hình vì đạo. Ngài tự từ bỏ chính mình vì con chiên. Huyết của con chiên chẳng thể nào tương xứng với tội lỗi của con người, nhưng dòng huyết của Đấng Christ làm trọn công cuộc cứu chuộc (Hê-bơ-rơ 10:1-14).

Nhưng nếu chúng ta, con dân của Chúa, là con chiên, liệu có nguy hiểm không nếu chúng ta đi lang thang và bị lạc? Sẽ không như vậy khi Chúa Giê-su Christ là Người Chăn Hiền Lành của chúng ta! Ngay lúc bắt đầu, khi chúng ta tin Ngài, chúng ta nhận lãnh sự sống đời đời; và tự điều đó đã đảm bảo chúng ta được an ninh, an toàn. Sự sống đời đời cũng là một món quà. Món quà đó chẳng phải là thứ mà chúng ta kiếm được bằng những việc làm thiện lành của mình. Nếu chúng ta không thể được cứu bởi làm việc lành, thì làm sao chúng ta có thể bị hư mất bởi làm việc ác? Hơn nữa, Chúa ban cho chúng ta lời hứa của Ngài, “Nó chẳng chết mất bao giờ” (Giăng 10:28-29). Nếu chúng ta đi lạc, chúng ta có thể chắc chắn rằng Ngài sẽ tìm kiếm chúng ta và mang chúng ta trở lại với bầy và chuồng chiên. Sự đảm bảo này không dùng để bào chữa cho tội lỗi và sự bất tuân, nhưng đó là một sự khích lệ khi Sa-tan buộc tội chúng ta và nói với chúng ta rằng chúng ta không có hy vọng bởi vì chúng ta bất tuân Người Chăn.

“Tôi xiêu lạc khác nào con chiên mất:

Xin hãy tìm kiếm kẻ tôi tớ Chúa,

Vì tôi không quên điều răn của Chúa” (Thi Thiên 119:176).

Là Người Chăn Hiền Lành, Chúa Giê-su Christ tự nguyện chết vì chiên một cái chết khủng khiếp được miêu tả trong Thi Thiên 22:1-21 (Câu 22-31 liên quan tới sự Phục Sinh của Ngài; xem thêm Hê-bơ-rơ 2:12). Chúng ta gần như có thể nhìn thấy đám đông nổi loạn tụ tập quanh thập tự, giông như những động vật hoang dã. Và gần như chúng ta có thể nghe thấy những tiếng la hét nhạo báng, khinh miệt của họ. Nhưng Người Chăn Hiền Lành chẳng đáp lại sự sỉ nhục của họ (I Phi-e-rơ 2:18-23). Thay vì thế, Ngài cầu nguyện cho họ và nài xin Cha tha thứ cho họ (Lu-ca 23:34).

Người Chăn Chiên Lớn (Hê-bơ-rơ 13:20-21; Thi Thiên 23). Là Người Chăn Chiên Lớn, Chúa chúng ta làm trọn công cuộc cứu chuộc và trên thập tự Ngài đã mua con dân Ngài (Giăng 17:4; 19:30). Sau đó, Ngài trở về với Cha trên thiên đàng và nhận chức vụ mới trở thành Người Chăn Chiên Lớn, là người làm cho con dân của Ngài được trọn vẹn. Chúa Giê-su đang làm gì trên thiên đàng ngày nay? Ngài đang chăm sóc con dân Ngài và làm Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm của các tín đồ (Hê-bơ-rơ 4:14-16; 8:1-2) và cũng là Đấng Cầu Thay (I Giăng 2:1-2). Ngài ngự trên ngai ân điển, không phải ngai đoán phạt; và Ngài làm việc trong chúng ta và thông qua chúng ta để làm thành ý muốn Ngài.

Cụm từ “khiến anh em nên trọn vẹn” trong sách Hê-bơ-rơ 13:21 là một từ được dịch từ tiếng Hy Lạp katartidzo là một từ xa lạ với hầu hết mọi người ngày nay, nhưng lại rất quen thuộc với

Page 18: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

người nói tiếng Hy Lạp trong Hội Thánh thời xưa. Đối với những người lính nó có nghĩa là “trang bị cho quân đội chuẩn bị chiến đấu,” và đối với các thủy thủ nó mang nghĩa là “trang bị vật dụng cho tàu chuẩn bị đi xa”, trong lãnh vực y khoa nó nghĩa là “xếp lại xương bị gãy” hay là “đặt lại chi”; và với ngư dân nó có nghĩa là “vá lưới” (Ma-thi-ơ 4:21). Những sắc thái tuyệt vời của từ này giúp chúng ta hiểu điều mà Người Chăn Chiên Lớn muốn làm thành trong đời sống của chúng ta.

Trước hết, Ngài muốn trang bị cho chúng ta ra trận và trang bị cho chúng ta bắt đầu hành trình của cuộc đời. Thật sai lầm nếu người lính ra trận mà không có áo giáp, hay thủy thủ ra khơi mà không trang bị vật dụng cho tàu khởi hành! Khi Ngài chăm sóc chúng ta từ trên thiên đàng, Đấng Chăn Chiên Cả của chúng ta muốn “xếp lại những xương bị gãy” trong đời sống thuộc linh của chúng ta và sắp xếp chúng ta trở thành những chi thể trong thân thể của Ngài, tức là Hội Thánh. Ngài tìm cách “vá” chúng ta lại để Ngài có thể sử dụng chúng ta hiệu quả như “những tay đánh lưới người”.

Chúa sử dụng công cụ nào để làm cho chúng ta trở nên trọn vẹn? Chủ yếu là, Ngài dùng Lời Chúa (II Ti-mô-thê 3:16-17) và sự thông công của Hội Thánh địa phương (Ê-phê-sô 4:11-16). Nhưng Ngài cũng dùng sự cầu nguyện (I Tê-sa-lô-ni-ca 3:10) và thậm chí là chịu khổ (I Phi-e-rơ 5:10). Mỗi tín hữu hãy sẵn sàng để Chúa giúp những tín hữu đã phạm tội được trọn vẹn. (Ga-la-ti 6:1). Mục đích của giáo điều trong Hội Thánh là để cải hóa người có tội, không phải là hủy diệt họ. Nó như là xếp lại một cái xương bị gãy trong thân thể của Đấng Christ –và điều này yêu cầu sự kiên nhẫn và mềm mại.

Mục đích của chức vụ làm anh em trọn vẹn này là để hầu việc Ngài. Nếu chúng ta không trưởng thành trong ân điển thì chúng ta làm sao có thể phô bày chúng ra và nhận những lời khen ngợi từ mọi người được. Hãy nhớ rằng; chúng ta là con chiên chứ không phải là những bức tượng. Và chúng ta có bổn phận phải trở nên hữu ích cho Người Chăn Chiên. Ngài muốn làm việc trong lòng chúng ta để qua chúng ta mà Ngài hoàn thành ý muốn của Ngài trên đất. Nếu như sự nên thánh của mỗi cá nhân chẳng đem lại kết quả là phục vụ người khác và dâng vinh hiển cho Đức Chúa Trời thì đó chỉ là ra vẻ ngoan đạo mà thôi.

Thi Thiên 23 thường được đọc tại các lễ tang, chính là bởi lời hứa yên ủi được thấy trong câu 4; nhưng điều mà Thi Thiên này thực sự miêu tả chính là những gì mà Đấng Chăn Chiên Lớn đã làm cho chúng ta “trọn đời tôi [của chúng ta]” (câu 6). Thi Thiên này giải thích rằng chức vụ của Chúa đối với chiên của Ngài là trong hiện tại cũng như trong tương lai, và đó là điều mà Ngài làm trong những ngày chúng ta còn sống cũng như trong giờ chúng ta sắp chết. Thi Thiên mở đầu với một câu khẳng định –“Chúa là đấng chăn giữ tôi” –và sau đó chỉ ra hai sự đảm bảo dựa trên khẳng định này: “Tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì” và “Tôi chẳng sợ tai họa nào.” Bởi vì Chúa là Đấng Chăn Chiên Lớn của chúng ta, chúng ta được cung ứng mọi nhu cầu (câu 1-3) và được Ngài bảo vệ (câu 4-6), được no đủ và an toàn.

Page 19: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Là chiên của Ngài, chúng ta có thể không phải lúc nào cũng hiểu người chăn đang làm gì, nhưng chúng ta biết chúng ta có thể tin Ngài. Cho dù trong đồng cỏ, trên bờ hồ, hay trên đường, Ngài luôn chăm sóc cho chúng ta và đáp ứng mọi nhu cầu. Tại sao lại như thế? “Vì cớ danh Ngài.” (Câu 3). Tất cả những gì mà Ngài làm cho chiên Ngài là để vinh hiển danh Ngài. (Xem Ê-phê-sô 1:6, 12,14). Chúa của chúng ta có nhiều thứ để mất hơn chúng ta nếu như Ngài thất bại. Chúng ta không thấy điều đó ngay lúc này, nhưng một ngày kia ở nơi vinh hiển chúng ta sẽ nhìn lại và xem “những điều phước hạnh và sự thương xót” đã theo chúng ta trọn đời! Đây chính là phiên bản mang tên Đa-vít như trong Rô-ma 8:28.

Người Chăn Hiền Lành chết vì chiên còn Đấng Chăn Chiên Lớn sống vì chiên, để bảo vệ chúng, làm cho chiên trở nên trọn vẹn, và dẫn lối cho chiên Ngài. Người Chăn Hiền Lành hy sinh mạng báu của mình vì chiên, còn Đấng Chăn Chiên Lớn ban sự sống của Ngài cho chiên. Bầy chiên có được sự sống đời đời và dư dật (Giăng 10:10, 28), an toàn và no đủ. Tất cả những gì chiên cần phải làm là ở gần Người Chăn Chiên và theo Ngài, lắng nghe tiếng gọi của Ngài và tuân theo lời Ngài.

Đấng Làm Đầu Những Kẻ Chăn Chiên (I Phi-e-rơ 5:4; Thi Thiên 24). Một ngày kia Đấng Làm Đầu Những Kẻ Chăn Chiên sẽ trở lại, kêu bầy chiên của Ngài lại, và đem chúng lên thiên đàng. Ngài sẽ đến như Vua Vinh Hiển, đánh bại tất cả những kẻ thù của Ngài, và thành lập vương quốc của Ngài. Ngài sẽ thưởng những người chăn chiên phó với mão triều thiên vinh hiển đời đời. Dù cho không phải tất cả các Cơ Đốc Nhân đồng ý về chi tiết của những sự kiện "Chúa tái lâm" được tiên tri, thì họ đều đồng ý về lời hứa Chúa sẽ đến, và họ cầu nguyện cho điều đó và sống với hy vọng đó. Khi chúng ta gặp Chúa Giê-su Christ, chúng ta sẽ được kinh nghiệm đầy trọn về “một bầy và một người chăn” (Giăng 10:16).

Chúng ta vẫn sẽ là những con chiên quý báu trên thiên đàng, vì “Chiên Con ở giữa ngôi sẽ chăn giữ và đưa chúng đến những suối nước sống; Đức Chúa Trời sẽ lau hết nước mắt nơi mắt chúng” (Khải Huyền 7:17). Trong vương quốc công bình của Ngài “Ngài sẽ cai trị họ bằng một cây gậy sắt” (Khải Huyền 19:15). Thi Thiên 24 mô tả Chúa chúng ta như chiến binh đắc thắng và Vua Vinh Hiển, và chúng ta sẽ đồng trị với Ngài.

Trong lúc đó, là chiên của Ngài, được chuộc bởi huyết của Ngài, chúng ta có những trách nhiệm cần phải hoàn thành.

Đầu tiên, chúng ta phải chú ý đến tiếng Người Chăn vì Ngài nói với chúng ta bằng Lời Ngài (Giăng 10:3-5). Chúng ta sẽ không nghe thấy rõ giọng người nói chuyện với chúng ta phải làm gì. Nhưng chúng ta có thể khám phá sự dẫn dắt của Ngài khi chúng ta nghiên cứu Kinh Thánh, suy gẫm Lời Ngài, cầu nguyện, và tuân theo những gì Ngài bày tỏ. Chúng ta phải theo Ngài từng bước và sống vì Ngài mỗi ngày, hãy để Ngài lập kế hoạch cho tương lai và chuẩn bị chúng ta cho kế hoạch đó.

Điều thứ hai, chúng ta phải ở gần Người Chăn, dù cho Ngài dẫn chúng ta đi đâu. Ngài có thể hướng dẫn chúng ta đến đồng cỏ xanh, và mé nước bình tịnh. Hay là Ngài có thể dẫn chúng ta

Page 20: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

tiến thẳng vào thung lũng tối tăm. Chúng ta không được để cho hoàn cảnh làm mình sợ hãi, hoặc dụ dỗ chúng ta không dõi theo Ngài. Một khi chúng ta rời mắt đức tin khỏi Người Chăn Chiên, chúng ta sẽ bắt đầu đi lạc. Ai đó đã nói rằng, “Khó khăn trở ngại là những thứ kinh khủng khi chúng ta rời mắt khỏi Chúa”. Điều đó mới đúng làm sao!

Điều thứ ba, nếu chúng ta đi lạc, chúng ta gào thét xin Chúa giúp đỡ, và tin rằng Ngài sẽ sửa lại. Phi-e-rơ đã chối Chúa 3 lần, nhưng Chúa vẫn tìm ông, tha thứ cho ông, và phục hồi ông (Mác 16:7; Lu-ca 24:34). Trong thực tế, Chúa còn giao cho Phi-e-rơ chức vụ chăn bầy của Ngài (Giăng 21).

Điều thứ tư, chúng ta phải trở thành một phần của bầy chiên Ngài, theo sau sự lãnh đạo thuộc linh của những người chăn mà Ngài đã chọn. Không có bầy chiên nào là hoàn hảo; nhưng mỗi bầy chiên đều quan trọng. Con chiên đơn độc luôn ở trong nguy hiểm; dù cho chúng nghĩ chúng có nhiều kinh nghiệm như thế nào. “Hầu hết mọi người không muốn sống ở nơi không có nhà thờ,” Vance Havner đã viết vậy, “nhưng rất nhiều người trong số họ sống như thể không có nhà thờ vậy.” Đó là bản tính tự nhiên của chiên muốn sống thành bầy với nhau.

Điều cuối cùng, chúng ta phải trở nên có ích với Người Chăn Chiên. Không phải ai cũng được kêu gọi để trở thành Mục sư, nhưng mỗi tín hữu được kêu gọi sử dụng những món quà (ân tứ) thuộc linh mà Chúa ban cho anh ấy (I Phi-e-rơ 4:10). Nếu mỗi cá thể trong bầy chiên trung tín đi theo Ngài, chăm sóc nhau, và phục vụ Ngài, bầy chiên sẽ trở nên mạnh mẽ và sẽ được nhân lên. Khi chúng ta theo Người Chăn Chiên, chúng ta tự nhiên sẽ gần gũi với những người khác cũng là những người theo Ngài. Và điều này đem lại cho ta một tình yêu thương lớn hơn và một chức vụ tốt hơn cho người khác.

Khi Tiến sĩ Handley Moule làm giám mục xứ Durham, ông đã làm một vài điều khác lạ với những giám mục khác trong thời đó: ông ấy lái một chiếc ô tô. Biển số của chiếc xe đó là J1011. Và vị giám mục này “giải nghĩa” biển số đó nghĩa là Giăng 10:11, “Ta là Người Chăn Hiền Lành: Người Chăn Hiền Lành vì chiên mình phó sự sống mình.”

Chúa Giê-su Christ là Người Chăn Hiền Lành và Ngài cũng là Đấng Chăn Chiên Lớn và là Đấng Đứng Đầu Những Kẻ Chăn Chiên.

Còn bạn có phải là một trong những con chiên của Ngài?

3

Một Khách Hành Hương Hai trong số những hình ảnh thú vị về Cơ Đốc Nhân là “Khách hành hương và khách lạ” và “cư dân thiên quốc.” Khái niệm này gắn chặt hai hình ảnh này lại cùng nhau khiến chúng trở nên thú

Page 21: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

vị, đó là những tín hữu được kêu gọi trong danh Chúa Giê-su Christ. Họ là những người đã tin Đấng Christ là Đấng Cứu Thế của họ và họ “được gọi bởi Đức Chúa Giê-su Christ” (Rô-ma 1:6). Họ chẳng khi nào thuộc về thế gian này nữa mà thay vào đó họ là những cư dân thiên quốc và những khách hành hương, những khách lạ trên thế gian.

Sự kêu gọi này có 4 khía cạnh.

1 Các Cơ Đốc Nhân được gọi

Từ tiếng Anh “ecclesiastical” (thuộc giáo hội) bắt nguồn từ một từ Hy Lạp ekklesia, điều này có nghĩa là “một hội được gọi”. Ekklesia là một từ quen thuộc trong Tân Ước, được sử dụng 114 lần và thường được dịch là “Hội Thánh” (church). Hội Thánh là “Hội được Chúa gọi”. Người Hy Lạp sử dụng từ ekklesia cho những hội nhóm ở địa phương sống kinh doanh buôn bán ở những thành phố tự do. Từ ekklesia được tạo ra bởi những công dân đủ khả năng, đủ năng lực, những người này được gọi ra để dùng cho mục đích quản lý công việc của chính quyền.

Đến gần Đức Chúa Trời. Kể từ khi người đầu tiên phạm tội, Đức Chúa Trời đã tìm kiếm những tội nhân bị hư mất, và gọi họ đến nhận sự tha thứ của Ngài (Sáng Thế Ký 3:1-10; Lu-ca 19:10). Đức Chúa Trời không kêu gọi chúng ta vì chúng ta đáng được gọi. Ngài gọi chúng ta trong ân điển là bởi Ngài yêu thương chúng ta và nóng lòng muốn cứu chúng ta. Chúa Giê-su nói, “ta chẳng phải đến gọi người công bình, nhưng gọi kẻ có tội.” (Mác 2:17). Đức Chúa Trời đang tìm kiếm tội nhân là bởi vì tội nhân chắc chắn chẳng tìm Đức Chúa Trời (Rô-ma 3:10-11). Quyền chủ động đó đến từ tấm lòng yêu thương của Đức Chúa Trời chẳng bởi trái tim phản nghịch của loài người.

Làm thế nào mà Đức Chúa Trời lại đi kêu gọi những tội nhân đáng bị hư mất? Phao-lô đã miêu tả sự đến với Chúa diễn ra như sau:

“Hỡi anh em yêu dấu của Chúa, còn như chúng tôi, phải vì anh em tạ ơn Đức Chúa Trời không thôi, vì vừa lúc ban đầu, Ngài đã chọn anh em bởi sự nên thánh của Thánh Linh, và bởi tin lẽ thật, đặng ban sự cứu rỗi cho anh em. Ấy cũng là vì đó mà Ngài đã dùng Tin lành chúng tôi gọi anh em, đặng anh em hưởng được sự vinh hiển của Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta.” (II Tê-sa-lô-ni-ca 2:13-14).

Sự kêu gọi chúng ta bắt đầu trong cõi đời đời khi Đức Chúa Cha chọn chúng ta trong Đấng Christ “từ trước khi sáng thế” (Ê-phê-sô 1:4). Chúng ta chẳng có liên quan gì tới quyết định này. Hành động đó chỉ đơn giản là một hành động đến bởi ân điển của Chúa. Những Cơ Đốc Nhân là “những người được chọn theo sự biết trước của Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (I Phi-e-rơ 1:2). Chúa Giê-su phán, “Ấy chẳng phải các ngươi đã chọn ta bèn là ta đã chọn các ngươi.” (Giăng 15:16). Những tội nhân bị hư mất chẳng biết về sự định trước này, và họ cũng không cần phải biết. Được chọn để cứu là một điều mầu nhiệm thuộc về con dân Đức Chúa Trời, và điều này không nên được tranh luận giữa những người chưa được cứu. Điều mà người chưa được cứu cần nghe là những tin lành của Phúc Âm.

Page 22: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Điều này dẫn chúng ta đến bước thứ hai trong ân điển của Chúa để tiếp cận và cứu tội nhân: Ngài đưa đến những nhân chứng để chia sẻ tin lành về sự cứu rỗi. Chính Đức Chúa Trời đã quyết định mục đích cuối cùng (sự cứu vớt những tội nhân hư mất) thì Ngài cũng ra quyết định về phương tiện để đạt được mục đích cuối cùng (chia sẻ phúc âm). Phao-lô đã viết rằng, “Ngài đã kêu gọi anh em bởi Phúc Âm.” Bất kỳ ai nói rằng “Đức Chúa Trời sẽ cứu anh ấy mà không cần sự giúp đỡ của tôi!” là không hiểu gì cả về Phúc Âm hoặc kế hoạch của Đức Chúa Trời về Tin Lành. “Nhưng họ chưa tin Ngài thì kêu cầu sao được? Chưa nghe nói về Ngài thì làm thể nào mà tin? Nếu chẳng ai rao giảng, thì nghe làm sao?” (Rô-ma 10:14).

Bước thứ ba liên quan đến chức vụ của Đức Thánh Linh, Đấng cáo trách tội nhân và bày tỏ Đấng Cứu Thế. Tội nhân tin vào lẽ thật của Phúc Âm và được cứu. Quyết định của tội nhân quan trọng hơn sự đồng ý của họ về lý trí đối với những vấn đề tín ngưỡng. Đó là một sự gặp gỡ cá nhân với Chúa Giê-su Christ, qua Lời Chúa và thông qua Đức Thánh Linh, một sự gặp như thế sẽ đem lại kết quả trong việc truyền lại sự sống mới với tội nhân. Nhờ có đức tin trong Đấng Christ mà anh ấy mới trở thành con cái của Đức Chúa Trời.

Điểm lại II Tê-sa-lô-ni-ca 2:13-14 chúng ta thấy rằng cả Ba Ngôi trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời đều liên quan đến việc gọi chúng ta. Đức Chúa Cha đã chọn chúng ta, Đức Chúa Con chết vì chúng ta, còn Đức Thánh Linh cáo trách và ấn chứng cho chúng ta về một đời sống mới khi tin Chúa Giê-su. Trước khi tôi được cứu, tôi chẳng biết gì về sự lựa chọn theo thánh ý Chúa. Nhưng sau khi tôi trở thành một Cơ Đốc Nhân và bắt đầu đọc Kinh Thánh, tôi thấy thú vị khi khám phá ra rằng Đức Chúa Trời đã chọn tôi trong ân điển rất lâu trước khi tôi biết về Ngài!

Nguyên Mục sư của Hội Thánh Moody Church ở Chicago, Tiến sĩ Harry Ironside là người được mọi người yêu quý, đã từng minh họa lẽ thật này bằng cách miêu tả một cánh cửa. Tội nhân đang đứng ngoài cửa và đọc dòng chữ trên cánh cửa, “Ai muốn tin, hãy để người đó vào!” Người đó tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời, bước qua cánh cửa và được cứu. Anh ấy sau đó quay lưng lại và đọc phía sau cánh cửa dòng chữ, “Được Đấng Christ lựa chọn, từ trước khi sáng thế.”

Đây là một điều quan trọng để thấy rằng Đức Chúa Trời Ba Ngôi cùng nhau làm việc trong sự cứu chuộc những tội nhân bị hư mất. Đối với Đức Chúa Cha, tôi được cứu khi Ngài chọn tôi trong Đấng Christ kể từ trước khi sáng thế. Nhưng tôi chẳng biết gì về lựa chọn của Ngài. Đối với Đức Chúa Con, tôi được cứu khi Ngài chết vì tôi trên cây thập tự. Nhưng điều mà Ngài làm trên thập tự sẽ chẳng có ảnh hưởng gì tới đời sống của tôi nếu như tôi không đầu phục trước chức vụ của Đức Thánh Linh, và tất cả những điều đó xảy ra cùng một lúc và tôi được sinh lại trong gia đình của Đức Chúa Trời.

Địa vị mới. Những tín hữu được gọi ra khỏi chỗ nào? Chúng ta đã được gọi ra khỏi nơi mà Kinh Thánh gọi là “thế gian”. “Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian.” (Giăng 17:16). Nhưng ý của Ngài là gì khi nói đến “thế gian”? Chắc chắn rằng Chúa không phải nói về thế giới vật lý hay thế giới của con người (Xem I Cô-rinh-tô 5:9-10). Chúng ta có một công việc quan trọng để làm, và chúng ta không thể hoàn thành bằng cách tách biệt chính mình

Page 23: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

với những người khác. Bằng từ “thế gian,” Chúa Giê-su muốn nói đến hệ thống ma quỷ hiện tại đang đứng sau những tội lỗi của thế giới này. “Một xã hội không có Chúa và chống lại Chúa Giê-su Christ” là một cách nói để diễn đạt. “Thế gian” là một trật tự mọi vật hiện tại, được Sa-tan xếp đặt để chống lại công việc của Chúa (I Giăng 2:15-17).

Trong cuộc nói chuyện thường ngày, chúng ta vẫn thường sử dụng từ thế giới để nói đến một hệ thống vô hình gây ra các tác động. Ví dụ, khi chúng ta nói về “giới thể thao,” hay “giới tài chính,” hay là “giới chính trị” thì không ai mơ hồ về những gì chúng ta đang nói tới. Mọi người biết chúng ta đang nói tới một “hệ thống” liên quan đến thể thao, tài chính, chính trị một cách ẩn dụ.

Khi Kinh Thánh cảnh báo các Cơ Đốc Nhân về “thế gian”, thì cụm từ được sử dụng ở đây cũng mang nghĩa tương tự, là để miêu tả một hệ thống vô hình nhưng ảnh hưởng đến những thứ chống lại Đức Chúa Trời.

Quyền công dân cũ của chúng ta là ở trong “thế gian” (Ê-phê-sô 2:1-3) nhưng quyền công dân mới của chúng ta là ở trên “thiên đàng” (Phi-líp 3:20). Đức Chúa Trời đã kêu gọi chúng ta ra khỏi sự chết và đến với sự sống (Giăng 5:24-25), ra khỏi bóng tối và bước vào ánh sáng (I Phi-e-rơ 2:9), ra khỏi nước của Sa-tan và bước vào nước của Con Trời (Cô-lô-se 1:13), thoát khỏi sự xấu hổ và bước vào trong sự vinh hiển tuyệt vời của Ngài (I Phi-e-rơ 5:10). Chúng ta có một vị trí mới trong Chúa Giê-su Christ, và vị trí mới này quyết định tư cách của chúng ta (Cô-lô-se 3:1; Ê-phê-sô 4:1).

Khi điều này xảy ra với thế gian, con cái của Chúa sẽ trở thành “những khách hành hương và khách lạ” (I Phi-e-rơ 1:1; 2:11). Một người khách lạ thì đi xa nhà mình nhưng một người hành hương thì đang trên đường về nhà. Trong thời của Thánh Kinh, một “khách lạ” là một người khách “ở nơi xa lạ” người đó sống với mọi người ở một vùng đất nhưng vẫn không phải là một trong số họ. Là những người hành hương chúng ta giống như Áp-ra-ham và những tổ phụ là những người đã bước đi bởi đức tin và tuân theo tiếng gọi của Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 11:8-16). Cho dù Áp-ra-ham đi đến nơi nào, ông cũng cắm trại và dựng đền thờ ở đó (Sáng Thế Ký 12:7-8; 13:1-4, 18). Áp-ra-ham là một người đàn ông giàu có và có thể sống trong một ngôi nhà sang trọng, nhưng điều này chẳng thể cản trở ông tiếp tục bước đi khi Chúa gọi. Cái trại nhắc nhở ông rằng ông là một người khách lạ và là một khách hành hương; còn bàn thờ nhắc ông rằng ông là một công dân của thiên quốc đang tìm kiếm thành thánh mà Chúa hứa (Hê-bơ-rơ 11:10, 14-16). Cả hai điều này sẽ diễn ra nếu như chúng ta trở nên thành công trong bước đường hành hương của Cơ Đốc Nhân.

Tất cả chúng ta sống trong một cái “lều tạm”, một thân thể loài người tạm bợ (II Cô-rinh-tô 5:1-8). Khi một Cơ Đốc Nhân chết, cái lều tạm đó bị “hạ xuống” và linh hồn ở với Đấng Christ trên thiên đàng (Phi-líp 1:21-24). Nhưng trong khi chúng ta còn đang sống trong thế gian này, chúng ta phải cẩn thận không được sống giống như thế gian hoặc sống vì thế gian. Chúng ta phải cảnh giác chớ yêu những thứ thế gian yêu (I Giăng 2:15-17) và đừng làm theo đời này (Rô-ma 12:2).

Page 24: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Gia-cơ 4:4 cảnh báo rằng “làm bạn với thế gian tức là thù nghịch với Đức Chúa Trời.” Lẽ dĩ nhiên là chúng ta phải thân thiện với những người chưa được cứu; vì nếu không gần họ thì làm sao chúng ta có thể làm chứng cho họ; nhưng chúng ta không được để “bị ô uế” bởi thế gian (Gia-cơ 1:27) hay là “để lụy mình” với thế gian (II Ti-mô-thê 2:3-4). Những người chưa được cứu đang dõi xem chúng ta, và chúng ta phải sống như những người công dân của thiên quốc (I Phi-e-rơ 2:11-12). Chúng ta phải để ánh sáng của đời sống mình chiếu rọi thì những người bị hư mất mới ước muốn tin nơi Đấng Cứu Thế và tham gia với chúng ta vào cuộc hành hương.

2. Cơ Đốc Nhân được gọi cùng nhau

Chúng ta không đừng nghĩ rằng là “những khách lạ và những khách hành hương” thì chúng ta cô đơn giữa thế gian hiện tại của ma quỷ; vì chúng ta không chỉ được gọi ra, mà chúng ta được gọi ra cùng nhau. “Phàm những người tin Chúa đều hiệp lại với nhau” (Công Vụ 2:44). “Chớ bỏ sự nhóm lại” (Hê-bơ-rơ 10:25) là một trong những mạng lệnh của Chúa đối với những khách hành hương. Vì chúng ta cùng chia sẻ một tiếng gọi và đang cùng nhau hướng về thiên đàng định sẵn. Điều này chỉ đúng khi chúng ta gặp nhau và chăm sóc người khác. Tất cả các Cơ Đốc Nhân cần lưu ý lời khuyên răn của Gia-cốp già nua nói với con mình khi họ bắt đầu đến Ê-díp-tô “Xin anh em đừng cãi lẫy nhau dọc đường” (Sáng Thế Ký 45:24, NIV).

Cơ Đốc Nhân “với quyền công dân.” Khi Phao-lô nhắc nhở tín hữu Phi-líp rằng “quyền công dân” của họ là ở trên thiên đàng (3:20), và ông sử dụng một từ của ngôn ngữ Hy Lạp politeuma, có nghĩa trong tiếng Anh là politics (chính trị). (Bạn sẽ thấy một từ giống như thế trong Phi-líp 1:27). Điều này quan trọng là bởi thành phố Phi-líp thực ra là một thuộc địa của người La Mã. Để giúp bảo vệ đế chế của họ, người La Mã đã lập ra một vài quyền dành riêng cho công dân trung thành (thường là những cựu binh) ở những thành phố khác nhau và cai trị những thành phố đó theo cách cai trị thành Rô-ma. Một thuộc địa của La Mã được tổ chức và điều hành bởi luật pháp La Mã, và những công dân của thuộc địa cũng có những đặc quyền như những người sống trên đất nước I-ta-li-a. Đó là một vinh dự lớn cho một thành phố được gọi là thuộc địa, và những người ở đó làm mọi việc họ có thể làm để đem vinh quang về cho thành Rô-ma.

Mỗi một Hội Thánh địa phương là một “thuộc địa của thiên đàng” trên đất, được tạo ra bởi những công dân của thiên đàng vì tên của họ đã được ghi trên thiên đàng (Lu-ca 10:20). Trong thời của Phao-lô một người có được quyền công dân La Mã bằng cách được sinh ra hoặc được mua (Công Vụ 22:28), hoặc bởi nhận nó như là một món quà. Cơ Đốc Nhân là những công dân thiên quốc là bởi vì họ đã sinh lại nhờ đức tin nơi Đấng Christ. Quyền công dân thiên quốc của họ là một món quà, một món quà được mua cho họ bởi huyết của Con Đức Chúa Trời.

Quyền công dân La Mã là một địa vị đáng tự hào vì nó mang đến nhiều quyền lợi, như là nắm giữ một vị trí trong cơ quan nhà nước, tham gia vào các Hội, thừa kế tài sản, được pháp luật bảo vệ, và thậm chí là có đặc quyền kháng án cho chính mình với Hoàng đế. Nhưng hãy nghĩ về những đặc quyền của con dân Chúa đang có bởi quyền công dân thiên quốc của họ. Chúng ta được bảo vệ bởi thiên sứ (Hê-bơ-rơ 1:14; Thi Thiên 34:7). Chúng ta có thể nói chuyện với Vua

Page 25: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

của mình bất kỳ lúc nào. Chúng ta có thể phục vụ Ngài. Chúng ta chia sẻ sự giàu có của Ngài và những uy quyền của Ngài khi chúng ta làm mục vụ trên đất. Và một ngày kia Ngài sẽ gọi chúng ta về nhà của chúng ta trên thiên đàng.

Những người sống ở các thuộc địa La Mã phải nhớ rằng hầu hết những người ngoại quốc sẽ phán xét đế chế La Mã theo cách mà những công dân thuộc địa ăn ở. Điều này rất quan trọng trong thư Phi-líp là một ví dụ, tuân theo luật pháp và khen ngợi Hoàng đế, nếu không họ sẽ mang lại sự sỉ nhục cho đế chế La Mã. Nguyên tắc này cũng được áp dụng với Hội Thánh, “thuộc địa thiên đàng” của Đức Chúa Trời trên đất. Mọi người phán xét Chúa theo cách chúng ta ăn ở, và đó là lý do tại sao chúng ta lại cần phải kiểm soát chính mình thì mới xứng đáng với Tin lành của Chúa Giê-su Christ (Phi-líp 1:27).

Khi các công dân của thiên quốc cùng nhau làm việc gì thì chúng ta nên thờ phượng Chúa, khích lệ người khác, và làm chứng cho người bị hư mất. Thật buồn làm sao nếu như những buổi nhóm trong nhà thờ chỉ như những buổi “hoạt động thường nhật” thay vì được chú ý tới bởi quyền năng và ơn phước thuộc linh! Khi những người chưa được cứu đến thăm những buổi lễ của chúng ta, họ có thể dễ dàng biết chúng ta là những công dân thiên quốc hay Hội Thánh cư xử như người thế gian hay không?

Tôi đề nghị bạn nên nghiên cứu những câu “với nhau” trong Tân Ước và khám phá xem Đức Chúa Trời mong con dân của Ngài làm gì khi họ được gọi cùng nhau. Chúng ta thường có xu hướng coi việc được nhận những đặc ơn và trách nhiệm của sự thông công trong Hội Thánh là hiển nhiên, và điều này làm chúng ta mất tính thú vị và chất phong phú của sự thông công trong các Cơ Đốc Nhân. Chúng ta càng sống giống như những khách hành hương và khách lạ như là những công dân của thiên quốc thì chúng ta càng vui mừng hơn trong mối tương giao với những con người được Chúa chọn. Chúng ta càng gần gũi với thế gian hơn, thì chúng ta càng thấy ít thú vị hơn khi được ở với những con dân của Chúa.

3. Cơ Đốc Nhân được gọi tiến lên phía trước.

Chúng ta được gọi ra khỏi thế gian để Đấng Christ có thể sai chúng ta trở lại thế gian, để nhờ đó chúng ta có thể cứu người khác khỏi thế gian. Đức Chúa Giê-su nói với Cha của Ngài “Như Cha đã sai Con trong thế gian, thì Con cũng sai họ trong thế gian” (Giăng 17:18). Nếu như chúng ta vẫn thuộc về thế gian, chúng ta không thể cứu giúp thế gian. Nhưng nếu chúng ta không thuộc thế gian nữa, chúng ta sẽ được tự do dẫn người khác vào trong sự vui mừng được cứu nhờ đức tin nơi Đấng Christ.

Cuộc sống của Cơ Đốc Nhân là một khách hành hương từ dưới đất tới thiên đàng, và nhiệm vụ của chúng ta là đem được càng nhiều người theo chúng ta lên thiên đàng thì càng tốt bấy nhiêu. Chúng ta sẽ nói với những người ở quanh chúng ta cũng như Môi-se nói với ông gia rằng: “Chúng tôi đi đến xứ mà Đức Giê-hô-va có phán rằng: Ta sẽ ban xứ đó cho các ngươi. Xin anh hãy đi cùng chúng tôi, chúng tôi sẽ đãi anh tử tế; vì Đức Giê-hô-va có hứa ban ơn cho dân Y-sơ-ra-ên.” (Sáng Thế Ký 10:29).

Page 26: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Chúng ta được gọi tiến lên phía trước bởi Chúa đã sắm sẵn nơi mà Ngài dẫn chúng ta đến và chúng ta phải sẵn sàng tuân lệnh. Là những công dân thiên quốc, chúng ta phải theo lệnh Ngài. Và là những người hành hương trên đất, chúng ta phải cẩn thận không để những điều bận bịu giữ chúng ta lại. Bất kỳ điều gì trong đời sống ngăn cản chúng ta nghe tiếng gọi của Chúa và tuân theo lời Ngài, thì điều đó thuộc về thế gian, hãy từ bỏ nó. Chúng ta chẳng bao giờ biết khi nào Chúa sẽ gọi chúng ta. Chính trong một buổi lễ thờ phượng ở An-ti-ốt, Chúa đã kêu gọi Sau-lơ (Phao-lô) và Ba-na-ba rời khỏi quê hương và mang tin lành đến cho dân ngoại. Họ được gọi tiến lên trước bởi Đức Chúa Trời và được sai đi trước bởi Đức Thánh Linh làm việc trong lòng Hội Thánh (Công Vụ 13:1-4) và họ tuân lời Ngài ngay lập tức.

Sự trái ngược giữa cuộc đời của Áp-ra-ham và Lót đã minh họa lẽ thật này (Sáng Thế Ký 12-19). Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời và tuân theo lời Ngài khi Chúa gọi ông rời xứ U-rơ vùng Canh-đê để đến một nơi mà ông không hề biết. Đức Chúa Trời dẫn dắt Áp-ra-ham từng bước, từng ngày, và bất cứ nơi nào Áp-ra-ham đặt chân đến, ông cắm trại (một người hành hương và một khách lạ) và dựng bàn thờ Chúa ở đó (một công dân thiên quốc). Ông sẵn sàng vâng lời Chúa.

Tuy nhiên Lót chẳng hề có tấm lòng của một khách hành hương, mặc dù thế ông vẫn là một người được cứu (II Phi-e-rơ 2:7). Ông ta yêu thích Sô-đôm và đi theo hướng đó (Sáng Thế Ký 13:5-13). Còn Áp-ra-ham thì ở một nơi riêng biệt, nhưng cuối cùng Lót dời đến ở tại Sô-đôm và bị bắt giữ bởi kẻ thù (Sáng Thế Ký 14:12). Áp-ra-ham cứu được cháu mình, nhưng Lót lại quay trở lại Sô-đôm một lần nữa. Khi những thiên sứ đến Sô-đôm, họ tìm thấy Lót đang ngồi trong cổng thành, điều này chỉ ra rằng Lót giờ đã trở thành một vị quan của thành Sô-đôm (Sáng Thế Ký 19:1). Lót đã từ bỏ lều tạm và bàn thờ và mọi thứ là mục đích sống của ông cũng trở thành tro bụi khi Đức Chúa Trời phá hủy Sô-đôm. Ông được cứu “song dường như qua lửa vậy” (I Cô-rinh-tô 3:15).

Trong thời đại hiện nay, Đức Chúa Trời lấy một người ra là vì danh Ngài (Công Vụ 15:14). Ngài sử dụng chúng ta chia sẻ sứ điệp cho những người bị hư mất, và điều quan trọng là chúng ta làm việc mình trung tín, được ban thêm sức bởi Thánh Linh của Chúa (Công Vụ 1:8). Sự thực là mỗi tín hữu có một chức vụ, cho dù tâm nguyện của anh ấy hay cô ấy là gì, thì sự thực là Đức Chúa Trời kêu gọi một vài khách hành hương của Ngài phục vụ theo những cách đặc biệt. Hôm nay tôi đang cầu nguyện cho một bảng phân công nhiệm vụ truyền giáo ở nước ngoài họ đang tìm kiếm 400 tình nguyện viên để phân công họ vào các nhiệm vụ khác nhau. Cũng có cả những vị trí trống cần điền tên họ trong các Hội Thánh địa phương. Là một trong những khách hành hương của Chúa, chúng ta cần phải cầu nguyện xin Chúa sai đi những người làm công là những người sẽ làm tốt công tác Ngài giao (Lu-ca 10:1-2).

4. Các Cơ Đốc Nhân Một Ngày Kia Sẽ Được Cất Lên Thiên Đàng

Các Cơ Đốc Nhân là công dân thiên quốc. Vì thế, nhà trên thiên đàng chính là định mệnh của họ. Đấng Cứu Thế đang chuẩn bị một nơi cho mỗi chúng ta ở trong nhà Cha, và Ngài hứa Ngài sẽ

Page 27: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

trở lại và đem chúng ta lên ngôi nhà tuyệt vời đó (Giăng 14:1-6). Ngày Ngài trở lại, không ai biết và rất nguy hiểm nếu chúng ta định ngày Ngài trở lại (Lu-ca 17:20-37).

Hầu hết các Cơ Đốc Nhân đều tin vào điều được gọi là “sự trở lại của Đấng Christ gần đến.” Từ “imminent” nghĩa là “sắp xảy ra”. Nói cách khác, chẳng có gì đặc biệt xảy ra trước khi Chúa đến. Ngài có thể đến hôm nay, hay Ngài có thể đợi một thế hệ khác. Vì không ai biết trước khi nào Chúa Giê-su Christ trở lại, tất cả các con dân của Ngài phải sẵn sàng mỗi ngày, mỗi giờ để gặp Chúa.

Biết rằng việc chúng ta có thể được “cất lên” bất kỳ lúc nào khiến chúng ta nên tập trung vào việc sống thánh khiết (I Giăng 2:28- 3:3) và hầu việc Ngài trung tín (Ma-thi-ơ 25:14-30). Công việc của mỗi tín hữu sẽ được phán xét tại tòa phán xét của Đấng Christ, và tất cả những ai hầu việc trung tín sẽ được Chúa thưởng (Rô-ma 14:10-12; II Cô-rinh-tô 5:9-10). Những ai không trung tín hầu việc sẽ mất phần thưởng của họ. “Nếu công việc họ bị thiêu hủy, thì mất phần thưởng. Còn về phần người đó, sẽ được cứu, song dường như qua lửa vậy.” (I Cô-rinh-tô 3:15). Đầy tớ nào nói rằng “Chúa ơi xin Ngài đừng đến vội” là người đó đang gặp rắc rối (Lu-ca 12:41-48).

Vì quyền công dân của chúng ta là của nước thiên đàng và nhà chúng ta cũng ở thiên đàng, chúng ta là những khách hành hương về nhà Cha thì chúng ta phải tu dưỡng “để trở nên ngoan đạo” khi chúng ta còn ở trên đất. Chúng ta phải tìm kiếm Đấng Cứu Thế không ngừng (Phi-líp 3:20). Điều này không có nghĩa là chúng ta từ bỏ những trách nhiệm đối với thế gian và cũng như D.L. Moody từng nói rằng, hãy trở nên “ngoan đạo đến mức mà chúng ta chẳng phải là những thứ thuộc thế gian nữa.” Điều trái ngược như thế mà lại đúng. Những cha mẹ, trẻ con, người làm thuê, công dân, bạn bè và đầy tớ Chúa là những người đang tìm kiếm Chúa cần phải trung tín hơn nữa.

Đây là một “hy vọng thánh” đã khích lệ những ông tổ của đức tin như Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp vì họ “chờ đợi một thành… mà Đức Chúa Trời đã xây cất và sáng lập.” (Hê-bơ-rơ 11:10; chú ý câu 13-16). Đôi mắt của những khách hành hương về nhà Cha không được ngó lại đời sống cũ (Lu-ca 9:62), hoặc ngó quanh và bị thế gian lôi kéo. (Sáng Thế Ký 13:10-11). Họ phải suy nghĩ về thiên đàng bằng đức tin và được chọn bởi Chúa Giê-su Christ (Hê-bơ-rơ 12:1-2). Bởi vì chúng ta được cất lên cùng với Đấng Christ, thì chúng ta nên “tìm các sự ở trên trời” (Cô-lô-se 3:1).

Thật không dễ để có thể trở thành một khách hành hương trung tín của Chúa, để sống một cuộc sống tách biệt và sẵn sàng mọi lúc thi hành những mạng lệnh Ngài giao. Nhưng những phần thưởng là xứng đáng lắm. Chúng ta không chỉ vui hưởng sự hiện diện của Ngài và ơn phước trên đất này mà chúng ta còn có một sự đoan chắc về tương lai tuyệt vời trên thiên đàng. Chúng ta biết rằng Đấng Christ hứa sẽ trở lại, và khi Ngài thực hiện lời hứa đó, chúng ta sẽ được “được cất lên …tại nơi không trung mà gặp Chúa, như vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn.” (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:17).

Page 28: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Điều cuối cùng bạn đừng ngại trở thành một khách hành hương và khách lạ của thế gian này khi bạn biết đích đến là thiên đàng.

4

Một Chi Thể Trong Thân Thể Của Đấng Christ Hỡi Sau-lơ, Sau-lơ, sao ngươi bắt bớ ta? Khi Chúa Giê-su Christ cao quý hỏi Sau-lơ câu hỏi này (Công Vụ 9:4, NIV) ông khám phá ra một lẽ thật vĩ đại. Đó là khi ông ra tay với con dân Chúa thì ông cũng ra tay với Con của Đức Chúa Trời. Con dân Ngài đã hiệp một với Ngài như là các chi thể hiệp một trong một thân thể vậy. Chúa Giê-su Christ là “làm đầu Hội Thánh, Hội Thánh là thân thể của Đấng Christ, tức là sự đầy đủ của Đấng gồm tóm mọi sự trong mọi loài.” (Ê-phê-sô 1:22-23) và mỗi Cơ Đốc Nhân là một chi thể trong thân của Đấng Christ.

Nhưng như vậy điều này có nghĩa là gì? Điều khác biệt nào làm cho chúng ta là những tín hữu nghĩ rằng chúng ta là những chi thể trong thân Ngài và cũng là “các phần chi thể của nhau.” (Rô-ma 12:5)? Năm từ khóa giúp ta đưa ra câu trả lời là: sức sống, sự hiệp một, sự khác biệt (đa dạng), sự trưởng thành và chức vụ. Những từ này chỉ những bổn phận của một tín hữu cần phải đạt được để dâng vinh hiển cho Chúa.

1. Sức Sống

Sự hiệp một của tín đồ với Chúa Giê-su Christ là sự hiệp một đang sống. Khi chúng ta tin Chúa Giê-su Christ là Đấng Cứu Thế, thì Thần của Đức Chúa Trời sẽ ban cho chúng ta đời sống thuộc linh và đem chúng ta vào trong thân của Đấng Christ. “Vì chưng chúng ta hoặc người Giu-đa, hoặc người Gờ-réc, hoặc tôi mọi, hoặc tự chủ, đều đã chịu phép báp-têm chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân; và chúng ta đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa.” (I Cô-rinh-tô 12:13). Phải biết rằng không phải tự chúng ta đưa chính chúng ta vào trong thân thể của Ngài mà cũng không có tín hữu nào khác làm điều đó cho chúng ta bằng những phương cách của nghi thức tôn giáo. Công việc này hoàn toàn được Đức Thánh Linh hoàn thành một mình để đáp lại đức tin của chúng ta vào Chúa Giê-su Christ.

Từ “chịu phép báp-têm” trong I Cô-rinh-tô 12:13 làm một vài người lầm lẫn, và điều này có thể thông cảm được là bởi vì chúng ta thường gắn liền từ này với nước. Nhưng trong tiếng Hy Lạp từ baptizo (dìm vào nước) có cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Theo nghĩa đen từ này có nghĩa là:

Page 29: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

“dìm, nhận chìm, nhúng”. Còn về nghĩa bóng thì như Phao-lô đã dùng trong I Cô-rinh-tô 12:13. Đức Thánh Linh đã nhận biết chúng ta thuộc về Đấng Christ và làm cho chúng ta trở thành một phần của thân thể Ngài khi chúng ta tin Đấng Cứu Thế.

Điều quan trọng cần nhớ là chúng ta không tự làm báp-têm cho chính mình được; mà chính Đức Thánh Linh làm điều đó. Mọi tín hữu đều có đã trải qua và điều này xảy ra chỉ một lần, đó là vào thời điểm diễn ra sự biến đổi. Đây chẳng phải là kinh nghiệm được biến đổi thần thánh chỉ dành riêng cho một nhóm những “thánh đồ chí thánh”. Phao-lô đã nói rằng tất cả mọi tín hữu đều được báp-têm, chứ chẳng phải chỉ một số ít người.

Phao-lô chẳng bao giờ yêu cầu những tín hữu phải chịu phép báp-têm bởi Đức Thánh Linh. Ông đưa ra lời khuyên bảo chúng ta phải được đầy rẫy Đức Thánh Linh, vì kinh nghiệm đó phải được nhắc lại khi chúng ta làm chứng và phục vụ Chúa (Ê-phê-sô 5:18; Công Vụ 2:4; 4:8; 31). Lẫn lộn giữa việc báp-têm một lần là đủ cả với việc tiếp tục được đầy dẫy Đức Thánh Linh là lẫn lộn giữa sự cứu chuộc với sự hầu việc và địa vị của chúng ta trong Đấng Christ với sức lực đến từ Đấng Christ.

Sự làm chứng của Đức Thánh Linh trong chúng ta là bằng cớ chứng tỏ chúng ta thực là con cái của Đức Chúa Trời (Rô-ma 8:9, 16). Làm thế nào mà Đức Thánh Linh làm chứng cho chúng ta được? Một điều thôi, Ngài nói chuyện với chúng ta qua Lời Chúa, soi sáng cho chúng ta từng trang và dạy chúng ta những lẽ thật của Lời Chúa. Ngài cũng làm chứng cho chúng ta thông qua sự liên lạc với những con cái Chúa khi chúng ta cầu nguyện và thờ phượng cùng nhau. Ngài ban cho chúng ta cảm giác “gần gũi, thân thiết”. Chúng ta yêu con dân của Đức Chúa Trời và muốn ở cùng họ. Đức Thánh Linh cũng làm chứng thông qua chúng ta và cho chúng ta quyền phép chia sẻ về Đấng Christ với những người bị hư mất (Công Vụ 1:8). Làm chứng chẳng phải là thứ chúng ta có thể tự làm được bằng sức lực của chính mình. Chính Đức Thánh Linh đã giúp chúng ta làm chứng cho họ và chúng ta làm điều đó một cách tự nhiên chứ không phải bắt buộc.

Một Cơ Đốc Nhân không phải là người cố gắng noi gương Chúa Giê-su. Một Cơ Đốc Nhân phải là người được Đấng Christ nhận biết như là một chi thể trong thân thể của Ngài và sức sống của Đấng Christ tuôn chảy trong người đó. Anh ấy sẽ có mối liên kết sống động với Con của Đức Chúa Trời vinh hiển qua sự đầy dẫy Thánh Linh. (Cô-rinh-tô 6:19-20; Ga-la-ti 2:20). Điều này nghĩa là anh ấy có một đời sống thuộc linh đầy sức sống khi anh ấy hút lấy nhựa sống từ Chúa. “Thánh Linh của sự sống đã nhờ Chúa Giê-su Christ” (Rô-ma 8:2) làm anh tuân theo ý muốn của Đức Chúa Trời và sinh bông trái vì sự vinh hiển của Ngài (Ga-la-ti 5:22-23).

Điều này đem chúng ta đến với bổn phận đầu tiên của Cơ Đốc Nhân: phải gìn giữ một mối thông công gần gũi với Chúa thì sự sống và quyền năng của Đấng Christ mới thêm sức cho bạn khi đi đường, làm việc, làm chứng và cả trong cuộc chiến thuộc linh của bạn.

2. Sự Hiệp Một

Page 30: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

“Chỉ có một thân thể” (Ê-phê-sô 4:4). Có nhiều “thân thể Hội Thánh địa phương”, nhưng tất cả các tín hữu thực đều là chi thể của một thân mà Chúa Giê-su Christ làm đầu. Là những Cơ Đốc Nhân chúng ta có thể khoác lên mình nhiều danh tự giáo phái khác nhau, nhưng tất cả chúng ta thuộc về Đấng Christ và thuộc về nhau trong sự hiệp một thuộc linh được lập ra bởi Đức Chúa Trời. Bổn phận của chúng ta là phải nỗ lực “dùng dây hòa bình mà giữ gìn sự hiệp một của Thánh Linh.” (Ê-phê-sô 4:3).

Trong Ê-phê-sô 4:4-6 Phao-lô đã lập danh sách 7 sợi dây giúp con dân Chúa hiệp một:

* Một thân: Hội Thánh

* Một Thánh Linh: Đức Thánh Linh được sai xuống từ Cha

* Một hy vọng: sự trở lại của Chúa Giê-su Christ (Tít 2:13)

* Một Chúa: là Chúa Giê-su Christ của chúng ta (xem thêm I Cô-rinh-tô 12:3)

* Một đức tin: là giáo lý cơ bản cho Cơ Đốc Nhân được truyền đạt bởi các sứ đồ (Giu-đe 3; 1 Ti-mô-thê 6:20-21)

* Một báp-têm: Báp-têm bởi Thánh Linh

* Một Đức Chúa Trời: Cha của mọi người

Từ đây, chúng ta phải cẩn thận phân biệt giữa sự hiệp một và sự đồng đều. Sự hiệp một đến từ sức sống bên trong và là một vật sống, trong khi sự đồng đều là những thứ được sản xuất hàng loạt và máy móc. Một trung đội binh lính đang diễu hành là đồng đều trong những thứ họ mặc và họ làm, nhưng sự đồng đều này không phải là bằng chứng chứng tỏ rằng họ kinh qua sự hiệp một. Họ có thể tức giận với chỉ huy của mình và có thể tức giận lẫn nhau. Bạn có thể tạo ra sự đồng đều dễ dàng không áp lực, nhưng sự hiệp một chỉ có thể đến từ sức mạnh thuộc linh. Các Hội Thánh kinh nghiệm sự hiệp một vì họ cùng chia sẻ sự sống của Đấng Christ, trong khi các tà phái coi trọng sự đồng đều vì họ yêu cầu sự thuận phục.

Hội Thánh không chỉ là một tổ chức của con người. Hội Thánh là một bộ phận, một thân thể sống, được Thánh Linh của Đức Chúa Trời vận hành. Nói như thế không có nghĩa nói rằng tổ chức Hội Thánh là sai vì nếu một bộ phận không được tổ chức, thì nó sẽ chết. Nhưng khi tổ chức trở nên quan trọng hơn mối tương giao thuộc linh với Đấng Christ thì “sự tôn trọng tổ chức” nảy sinh trong Hội Thánh và Hội Thánh bắt đầu tồn tại chỉ vì chính nó. Thật là bi thảm!

Các Hội Thánh địa phương có thể có những điểm khác biệt nhỏ bởi sự giải kinh và tổ chức, nhưng điều quan trọng là họ tỏ với thế gian một nhân chứng hiệp một trong sự yêu thương (Giăng 13:34-35; 17:20-23). Tại sao lại như vậy? Bởi vì Đức Chúa Trời đặt để Hội Thánh trong thế gian để giúp Ngài “hội hiệp muôn vật lại”. Mục đích cuối cùng của Đức Chúa Cha là “hội hiệp muôn vật lại trong Đấng Christ” (Ê-phê-sô 1:10). Nếu Hội Thánh địa phương bị chia rẽ, và

Page 31: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

những sự chia rẽ đó đến từ sự tranh cạnh lẫn nhau, thì Hội Thánh đó đang chống lại kế hoạch từ ban đầu của Đức Chúa Trời.

Khi chúng ta đọc thư tín của Phao-lô gửi cho người Ê-phê-sô, chúng ta thấy sự nhấn mạnh vào câu “hội hiệp muôn vật lại trong Đấng Christ.” Trong Ê-phê-sô 2:11-22, những tín hữu Do Thái và tín hữu dân ngoại hiệp một trong Đấng Christ. Sự hiệp một của toàn thể Hội Thánh được nhấn mạnh trong giáo quy ở đoạn 4:1-16 và trên thực tế ở đoạn 4:17- 5:17. Thư tín kết thúc với sự nhấn mạnh hiệp một giữa những người chồng và những người vợ (5:18-33), cha mẹ và con cái (6:1-4), chủ và tớ (6:5-9). Sự hiệp một trên đất được làm trọn thông qua Hội Thánh mà Đầu của Hội Thánh ở trên thiên đàng. Chúng ta ở trong thế gian này và làm việc theo ý muốn của Đức Chúa Trời để giúp “hội hiệp muôn vật lại trong Đấng Christ.” Chức vụ của chúng ta là “chức vụ giảng hòa” (II Cô-rinh-tô 5:18-21).

Sự hiệp một thuộc linh của con dân Chúa không phải là điều tự chúng ta có thể làm được. Điều này là một thực tế đã hoàn thành. “Chỉ có một thân thể” (Ê-phê-sô 4:4), chẳng phải là “Chỉ nên có một thân thể.” Phao-lô không chỉ nói đến một vài tổ chức, một “Hội Thánh ở thế gian” mà ông nói đến một thân thể thuộc linh được tạo nên bởi những chi thể sống, là những người đã tin Đấng Christ và nhận sự sống mới nhờ có Đức Thánh Linh.

Sau đó là trách nhiệm thứ hai của chúng ta, hãy hăng say gìn giữ và tăng trưởng trong sự hiệp một thuộc linh với con dân của Chúa. Hãy là một sứ giả hòa giải; chứ không phải là một kẻ gây sự; và giúp mọi người hiệp nhất trong thế giới của bạn.

3. Sự đa dạng (khác biệt)

Bạn sẽ chú ý đến cả ba phần quan trọng trong “phần thân thể” ở trong Tân Ước giải quyết với sự hiệp một và sự đa dạng:

Sự Hiệp Một Sự Đa Dạng

Rô-ma 12:1-5 Rô-ma 12:5-8

I Cô-rinh-tô 12:1-13 I Cô-rinh-tô 12:14-31

Ê-phê-sô 4:1-6 Ê-phê-sô 4:7-13

Sự hiệp một và sự đa dạng phải cùng nhau hiệp tác nếu không chúng sẽ phá hủy lẫn nhau. Hiệp một mà không đa dạng chính là đồng đều, đa dạng mà không hiệp một chính là hỗn loạn. Hội Thánh cần cả sự hiệp một và đa dạng để hoạt động đúng chức năng trong thế gian này. Đức Chúa Trời đã ban những sự đa dạng này cho con dân Ngài và sự đa dạng này phải được sử dụng để xây dựng nên thân thể Đấng Christ. Chúng ta khám phá ra sớm khi chúng ta tiếp tục những nghiên cứu của mình về điều duy nhất có thể cân bằng sự hiệp nhất và sự đa dạng chính là trưởng thành. “Trưởng thành (lớn lên)” để trở nên giống với Chúa Giê-su Christ hơn.

Page 32: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Những hình ảnh khác nhau về Hội Thánh được miêu tả trong Ê-phê-sô minh họa sự cân bằng tuyệt vời này giữa sự hiệp một và sự đa dạng. Ở trong Ê-phê-sô 1:22-23 và Ê-phê-sô 2:16, Phao-lô sử dụng thân thể con người như là một ví dụ. Tôi có một thân thể nhưng thân thể đó được tạo nên bởi nhiều bộ phận khác nhau, mỗi bộ phận trong đó chạy những chức năng quan trọng. Trong I Cô-rinh-tô 12:14-31 Phao-lô nhấn mạnh lẽ thật này và chỉ ra rằng trong thân của Đấng Christ, các Cơ Đốc Nhân phụ thuộc lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và cần nhau.

Trong Ê-phê-sô 2:19, Phao-lô sử dụng từ quốc gia và gia đình để minh họa cho sự hiệp một và sự đa dạng. Trong một quốc gia có nhiều loại người nhưng tất cả bọn họ đều là công dân của một “thân thể chính trị” và tất cả đều có phần việc phải làm. Trẻ con trong một gia đình đều khác biệt nhưng chúng vẫn có chung ba mẹ và những nét tự nhiên giống nhau. Bạn sẽ thấy trong một quốc gia và trong gia đình có cả sự hiệp một và sự đa dạng.

Hình ảnh cái nhà (Ê-phê-sô 2:20-22) là một minh họa khác của sự hiệp một (một sơ đồ) trong sự đa dạng (gồm nhiều phần). Hôn nhân (Ê-phê-sô 5:22) cũng minh họa cho sự cân bằng này, vì người chồng và người vợ khác nhau nhưng vẫn liền “một thịt.” Cuối cùng, trong Ê-phê-sô 6:10, Phao-lô đã viết về đội quân và áo giáp thuộc linh. Chỉ có một đội quân nhưng được tạo thành bởi nhiều người lính, đơn vị và những trung đội. Phải có sự hiệp một (lòng trung thành, một chỉ huy, một kẻ thù) và sự đa dạng (lính bộ binh, kỵ binh, do thám…). Trong tất cả những minh họa này thì có lẽ minh họa về thân thể là rõ ràng nhất.

Khi Đức Thánh Linh làm báp-têm, người tin Chúa được biến đổi và đưa vào trong thân thể Đấng Christ, Ngài ban cho tín hữu đó một ân tứ thuộc linh hay những ân tứ thuộc linh. Chi thể trong thân thể đó sử dụng ân tứ (hay những ân tứ) để giúp thân thể trưởng thành và lớn lên. (Ê-phê-sô 4:7-16 và I Cô-rinh-tô 12:12-31). Hội Thánh không lớn mạnh là hậu quả của việc mọi người sử dụng những ta-lâng (tài năng) đặc biệt hay những khả năng bằng sức của chính họ. Hội Thánh chỉ lớn mạnh khi những người được ban ân tứ sử dụng ân tứ của mình trong quyền năng của Thánh Linh.

Sự hiệp một liên quan tới ân tứ của Thánh Linh, còn sự đa dạng liên quan tới những ân tứ của Thánh Linh. Nhưng điều này chưa đủ: chúng ta phải có ân điển của Thánh Linh nếu như chúng ta sử dụng những ân tứ này đúng cách để vinh hiển danh Đức Chúa Trời. Đây chính là điều mà Hội Thánh Cô-rinh-tô đã thất bại. Họ sử dụng những ân tứ như những vũ khí để chiến đấu chứ không phải dùng ân tứ làm công cụ để xây dựng bởi vì họ thiếu sự yêu thương.

Điều này dẫn đến trách nhiệm thứ tư, sự trưởng thành. Nhưng đầu tiên, chúng ta nên nói đến trách nhiệm thứ ba, đó là để khám phá và phát triển những ân tứ thuộc linh và không lo ngại sự đa dạng trong Hội Thánh. Khi Đức Thánh Linh ngự trị, sự đa dạng sẽ làm sức sống của thân thể mạnh mẽ bằng việc kiểm tra sự hiệp một của thân thể.

4. Sự trưởng thành

Page 33: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Mỗi phần “thân thể” đều phải trải qua sự trưởng thành, mà điều này được bày tỏ bằng tình yêu của Cơ Đốc Nhân. Còn bây giờ chúng ta đang đề cập đến ân điển của Đức Thánh Linh. Những phẩm chất tuyệt đẹp mà Đức Thánh Linh gây dựng trong đời sống của chúng ta khi chúng ta hoạt động đúng chức năng. Đây là một biểu đồ hoàn thiện của “phần thân thể”:

Sự Hiệp Một Rô-ma 12:1-5, I Cô-rinh-tô 12:1-13, Ê-phê-sô 4:1-6

Sự Đa Dạng Rô-ma 12:6-8, I Cô-rinh-tô 12:14-31, Ê-phê-sô 4:7-12

Sự Trưởng Thành Rô-ma 12:19-21, I Cô-rinh-tô 13-14, Ê-phê-sô 4:13-16

I Cô-rinh-tô 13 nhấn mạnh tình yêu thương và I Cô-rinh-tô 14 giải thích làm sao tình yêu thương có thể được áp dụng trong các hoạt động thực tế của Hội Thánh. Thật là tệ nếu như chúng ta nghĩ rằng I Cô-rinh-tô 13 chỉ là một bài thơ về tình yêu thương được đọc tại các lễ tang và đám cưới, trong khi thực tế đoạn Kinh Thánh này nên được đọc tại các buổi họp bàn công việc của Hội Thánh. Hội Thánh tại Cô-rinh-tô là một Hội Thánh cần tình yêu thương. Hội Thánh Cô-rinh-tô bị chia rẽ (1:10-12); dâm loạn (5:1); và đáng hổ thẹn (6:1-8). Ở trong những buổi họp công khai, “một vài người có ân tứ” khoe khoang về những ân tứ của họ và gây hỗn loạn (11:17-18; 14:23-26). Những ân tứ càng lạ lùng như nói tiếng lạ thì lại càng bị lạm dụng trong hội đồng.

Bằng cách nào mà Phao-lô lại tìm ra cách sửa ngay lại tình trạng xấu xa này? Bằng việc dạy cho họ lẽ thật về những ân tứ. Mỗi tín đồ có ít nhất một ân tứ, và ân tứ đó phải được sử dụng vì sự tốt đẹp cho toàn thể Hội Thánh. Mục đích của mục vụ là xây dựng thân thể chứ không phải là tôn cao cá nhân tín hữu. Phao-lô sử dụng từ edify (bồi linh). Trong những cuộc họp công khai, luôn phải có sự bồi linh, phải phép, và thứ tự (14:40).

Thân thể trưởng thành được là từ bên trong. Nó phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa bởi các Mục sư (Ê-phê-sô 4:11-12, 16). “Lấy lòng yêu thương mà nói ra lẽ chân thật” là bí quyết của sự trưởng thành (Ê-phê-sô 4:15). Ai đó đã nói rằng lẽ thật mà không có tình yêu thương thì là bạo lực, nhưng chỉ có tình yêu thương mà không có lẽ thật là đạo đức giả. Chúng ta cần cả tình yêu thương và lẽ thật để thân thể trưởng thành và trở nên giống Chúa Giê-su Christ hơn. Mục đích của chức vụ chúng ta là trưởng thành “được tầm thước vóc giạc trọn vẹn của Đấng Christ.” (Ê-phê-sô 4:13). Đức Chúa Trời muốn từng con dân nói riêng, và Hội Thánh nói chung trở nên càng ngày càng giống với Con của Ngài hơn (Rô-ma 8:29).

Dĩ nhiên là, Chúa Giê-su Christ là Đầu vinh hiển của chúng ta, liên tục dạy dỗ thân thể (Hội Thánh) thông qua Thần Của Đức Chúa Trời. Đây là công việc mà Chúa chúng ta đang làm trên thiên đàng. Mỗi chi thể của thân thể phải đầu phục Đấng Christ và cho phép Đức Thánh Linh dạy dỗ, thân thể sẽ trưởng thành và được làm cho mạnh mẽ. Hê-bơ-rơ 13:21 thông báo cho chúng ta biết rằng mong ước của Đấng Christ là “làm anh em nên trọn vẹn trong mọi sự lành, đặng làm thành ý muốn Ngài, và làm ra sự đẹp ý Ngài trong chúng ta”.

Page 34: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Từ khóa ở đây là “equip” (trang bị) một từ được chuyển ngữ từ tiếng Hy Lạp katartizo. Như chúng ta đã biết từ này có nghĩa là “sửa lại, trang bị, chuẩn bị”. Các bác sĩ sử dụng từ này để miêu tả sự xếp đặt lại một cái xương bị gãy. Còn đối với thủy thủ thì nó nghĩa là trang bị đồ nghề cho tàu ra khơi; và đối với những người lính nó có nghĩa là trang bị vũ khí cho một đội quân ra trận. Còn những người đánh cá sử dụng từ này để vá lại lưới của họ (xem Ma-thi-ơ 4:21).

Còn Đức Chúa Giê-su Christ ngày nay đang làm gì cho các chi thể trong thân thể Ngài? Ngài sửa lại và xếp đặt lại “những xương bị gãy” để thân thể được khỏe mạnh và tráng kiện. Ngài “trang bị” cho chúng ta ra khơi và đánh trận các trận chiến đời sống và Ngài “sửa chữa” chúng ta để chúng ta có thể trở thành những công cụ hiệu quả trong tay Ngài.

Nhưng làm sao Ngài làm được điều này? Nếu bạn tra theo từ katartizo và những từ khác có cùng nguồn gốc qua Tân Ước, bạn sẽ thấy rằng Chúa chúng ta sử dụng 4 công cụ đặc biệt trang bị cho chúng ta làm việc với Hội Thánh.

Đầu tiên, Ngài sử dụng Lời Chúa. “Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn [exartizo] (hoàn thành một nhiệm vụ đặc biệt) và sắm sẵn để làm mọi việc lành.” (II Ti-mô-thê 3:16-17). Tín hữu nào đọc, nghiên cứu Kinh Thánh, suy ngẫm và tuân theo lẽ thật trong đó sẽ thấy chính mình lớn lên và trở nên hữu ích cho Đấng Christ và Hội Thánh của Ngài.

Tôi đã xem lại quá trình này trong những năm tôi hầu việc Chúa và chưa bao giờ sự trưởng thành đó làm tôi chán nản. Bạn dẫn dắt mọi người đặt niềm tin vào Đấng Christ và sau đó hướng dẫn họ nghiên cứu Kinh Thánh nghiêm túc. Đầu tiên, những tân tín hữu hơi nhầm lẫn một chút (“Ông nói Sáng Thế Ký là ở đâu?”), nhưng khi mọi thứ bắt đầu đặt vào đúng chỗ. “Những em bé” này bắt đầu lớn và đi cùng với sự trưởng thành là ao ước được hầu việc Chúa. Sau đó bạn tìm ra làm thế nào mà Lời Chúa lại giúp họ khám phá và phát triển những ân tứ thuộc linh để sử dụng những ân tứ này xây dựng Hội Thánh. Điều đó thật phấn khích!

Công cụ thứ hai mà Chúa chúng ta sử dụng là sự thông công của Hội Thánh địa phương. “Ấy chính Ngài đã cho người nầy làm sứ đồ, kẻ kia làm tiên tri, người khác làm thầy giảng Tin lành, kẻ khác nữa làm mục sư và giáo sư, để các thánh đồ được trọn vẹn (katartizo) về công việc của chức dịch và sự gây dựng thân thể Đấng Christ.” (Ê-phê-sô 4:11-12).

Ở đây rất rõ ràng. Đức Chúa Trời cung cấp những lãnh đạo được ơn cho Hội Thánh, và những lãnh đạo này giúp tín hữu khám phá và phát triển những ân tứ thuộc linh của chính họ. Khi mỗi tín hữu dạy dỗ cho Hội Thánh (thân thể), Hội Thánh phát triển và thêm nhiều những lãnh đạo được trưởng thành trong Hội Thánh để giúp thế hệ kế tiếp. Những Cơ Đốc Nhân bỏ qua sự thông công của Hội Thánh địa phương sẽ bị lỡ mất những cơ hội để trưởng thành. Đài phát thanh, truyền hình, những cuốn sách, những cuốn băng và những hội thảo chuyên đề, tất cả đều có vị trí của nó và có thể được Đức Chúa Trời sử dụng. Nhưng chẳng có gì thay thế được cho Hội Thánh

Page 35: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

địa phương khi dùng những thứ này để so sánh với Hội Thánh địa phương về sự phát triển thuộc linh.

Vậy thì tại sao ngày nay lại có vẻ thiếu những lãnh đạo thuộc linh, giáo sư, Mục sư và những người làm công cho Chúa? Đó là bởi có quá nhiều Hội Thánh “thuê” những người được ơn làm những công việc mà những cá nhân cần phải làm thay vì khuyến khích những lãnh đạo này trang bị cho Hội Thánh qua Lời Chúa. Vance Havner đã nói: “Tôi đã thấy những người tốt lành trở thành những đầy tớ và người sai vặt cho Hội Thánh của họ.” Đây chẳng phải là cách mà Đức Chúa Trời mong muốn.

Cuộc khủng hoảng nội bộ đầu tiên trong Hội Thánh lúc ban đầu đã xảy ra là phải có những đặc quyền cho những lãnh đạo thuộc linh (Công Vụ 6:1-7). Nan đề đã được giải quyết khi Hội Thánh đồng ý thay đổi cơ cấu tổ chức và chia sẻ một vài trách nhiệm và thẩm quyền để các sứ đồ có thể chuyên lo “về sự cầu nguyện và chức vụ giảng đạo” (Công Vụ 6:4). Vậy kết quả ra sao? “Đạo Đức Chúa Trời càng ngày càng tràn ra, số môn đồ tại thành Giê-ru-sa-lem thêm lên nhiều lắm. Cũng có rất nhiều thầy tế lễ vâng theo đạo nữa.” (Công Vụ 6:7).

Và tôi lại trích lời của Vance Havner: “Có nhiều người được gọi là một người giảng Tin Lành kiệt sức vì những nhiệm vụ tầm thường tuy không đến mức xấu xa nhưng không đáng để ông bỏ thời gian và công sức. Quan trọng là phải biết điều nào cần ưu tiên nhất.”

Một phần của Hội Thánh địa phương được “trang bị” chức vụ yêu kỷ luật và sửa lại những tín hữu phạm tội. “Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng.” (Ga-la-ti 6:1). Một tín hữu ra khỏi mối thông công với Đức Chúa Trời và Hội Thánh thì giống như một cái xương bị trật khớp hoặc bị gãy. Cái xương đó phải được sửa lại nhẹ nhàng và kiên nhẫn nếu không thì toàn bộ thân thể sẽ bị nhiễm bệnh và yếu mỏn.

“Công cụ” thuộc linh thứ 3 mà Đấng Cứu Thế đã sống lại sử dụng để trang bị cho con dân Ngài là lời cầu nguyện. Phao-lô đã viết rằng: “Điều chúng tôi cầu xin, ấy là cho anh em được nên trọn vẹn.” [katartizo] (II Cô-rinh-tô 13:9). Lời cầu nguyện giải phóng quyền năng của Đức Chúa Trời trong đời sống của chúng ta và trong đời sống của người khác và sự giải phóng này làm tăng trưởng thuộc linh và tinh thần hầu việc mạnh mẽ.

Đó là một ơn phước, và cũng là một trận chiến, đó là phải cầu nguyện cho con dân Chúa và canh phòng cho họ phát triển và hầu việc Chúa Giê-su Christ! Không nghi ngờ gì nữa Phao-lô rùng mình run sợ khi thấy Chúa trang bị cho Ti-mô-thê và Tít vào chức vụ. Thông thường trong công tác của mình Phao-lô phải để lại những Hội Thánh non trẻ đằng sau, và tất cả những gì ông có thể làm là cầu nguyện cho những lãnh đạo và viết những lá thư động viên khích lệ họ. Khi ông đến thăm những Hội Thánh nhiều tháng sau đó, ông vui mừng khi thấy Đức Chúa Trời đã làm họ trưởng thành và trang bị cho con dân Ngài.

Page 36: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Công cụ thứ tư mà Đức Chúa Trời đã dùng để trang bị cho con dân Ngài đó là chịu khổ vì danh Chúa Giê-su Christ. “Đức Chúa Trời ban mọi ơn đã gọi anh em đến sự vinh hiển đời đời của Ngài trong Đấng Christ, thì sau khi anh em tạm chịu khổ, chính Ngài sẽ làm cho anh em trọn vẹn, vững vàng, và thêm sức cho.” (I Phi-e-rơ 5:10).

Trong bức thư đầu tiên, Phi-e-rơ đã rất can đảm khi nói về việc chịu khổ của con dân Chúa. Một vài độc giả của ông bị đè nặng bởi sự thử thách của đời sống (I Phi-e-rơ 1:6-7). Những người khác thì bị tấn công từ nhiều phía, và một vài người khác phải chịu khổ bởi vì họ làm điều tốt, chứ chẳng phải vì làm điều xấu (I Phi-e-rơ 2:18-20; I Phi-e-rơ 3:13-14, 17). Phi-e-rơ đã nói với họ rằng đó là một “lò lửa thử thách” và họ sẽ sớm phải chịu khổ bởi vì danh của Chúa Giê-su Christ (I Phi-e-rơ 4:12-19).

Sa-tan muốn dùng việc chịu khổ là để phá hủy, nhưng Đức Chúa Trời có thể sử dụng việc chịu khổ của chúng ta để phát triển và trang bị cho chúng ta phục vụ hầu việc Ngài tốt hơn. Tuy nhiên, chúng ta hãy giữ vững trong trí mình rằng các thánh đồ không tự trang bị sự chịu khổ. Thật buồn khi phải nói rằng, có những Cơ Đốc Nhân đã trải qua thử luyện và bước ra khỏi lò lửa thử thách mà bị bỏng và đầy cay đắng thay vì được tinh sạch và trọn vẹn. Chỉ khi nào chúng ta dựa vào ân điển của “Đức Chúa Trời ban mọi ơn” thì lò lửa thử thách đó mới làm công việc của nó.

Đây là trách nhiệm thứ tư của chúng ta: Chúng ta phải để Đức Chúa Trời sử dụng những “công cụ” của Ngài để trang bị cho chúng ta và làm chúng ta trưởng thành khi chúng ta tham gia vào các công tác của Hội Thánh địa phương. Chúng ta phải dành thời gian biệt riêng cho việc học Lời Chúa, cầu nguyện, sự thông công của Cơ Đốc Nhân, và thờ phượng, và chúng ta không được e sợ các thử thách. Đấng Christ là Đầu Hội Thánh ở trên thiên đàng biết chính xác điều cần làm để giúp chúng ta trưởng thành thuộc linh.

5. Chức vụ

Chúng ta đã xem xét 4 từ giúp chúng ta hiểu rõ làm thế nào một Cơ Đốc Nhân trở thành chi thể của Đấng Christ: sức lực, sự hiệp một, sự đa dạng, và sự trưởng thành. Một từ còn lại đó là: chức vụ.

Khi Con của Đức Chúa Trời đến thế gian để thi hành chức vụ, Ngài cần có một thân thể vật lý (Hê-bơ-rơ 10:5-7). Khi Ngài trở lại thiên đàng sau khi hoàn thành xong công tác ở thế gian, Ngài để lại thân thể thuộc linh, là Hội Thánh. Sự sinh ra thân thể vật lý của Ngài được ghi lại trong Lu-ca 2 còn sự khai sinh của thân thể thuộc linh được ghi lại ở Công Vụ 2, cả hai điều này được viết bởi bác sĩ Lu-ca.

Tại sao thân thể thuộc linh của Ngài lại ở thế gian? Để tiếp tục công tác của Ngài và chia sẻ sứ điệp của Ngài đến với toàn thế giới. Một thân thể được giao nhiệm vụ rao giảng Tin Lành.

Page 37: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Trong những năm gần đây “sự sống thân thể” đã thu hút nhiều sự quan tâm của nhiều Hội Thánh. Ở một vài nơi sự sống thân thể đã trở thành mốt thịnh hành. Trong thập niên 60 tôi đã nghe người ta hỏi rằng, “Người anh em, ân tứ của anh là gì?”, họ hỏi nhiều đến mức tôi cảm thấy như có một bảng hiệu đeo ở cổ mình viết rằng: “Có lẽ bạn thấy không đúng nhưng tôi nghĩ tôi có ân tứ giảng dạy Lời Chúa và chăn bầy chiên của Ngài”. Tuy nhiên, tôi không thể tìm thấy một thánh đồ có ân tứ vẽ biển quảng cáo!

Khi “sự sống thân thể” thực sự trở thành mốt, Hội Thánh địa phương bắt đầu giảng dạy theo nhiều cái mới lạ và thú vị đôi khi khó lòng theo kịp. Mọi người khám phá ra rằng có nhiều cách để các Cơ Đốc Nhân hầu việc Chúa ngoài việc rao giảng Lời Chúa, giảng dạy, ca hát, quyên góp tiền bạc, thăm viếng những Hội Thánh có triển vọng phát triển, và ngồi họp hội đồng. Những nhiệm vụ trên không phải là không quan trọng; nhưng đây là những nhiệm vụ mà Hội Thánh nào cũng có, vậy nên nhiều người chỉ là những khán giả chứ không phải là những người tham gia.

D. L. Moody từng nói rằng, “Tôi thích để cho mười người làm việc hơn là làm công việc của mười người.” “Sự sống thân thể” chính là như vậy. Nó có nghĩa là trang bị cho con dân Chúa, tuyển chọn họ để hầu việc Chúa, và sau đó khuyến khích họ hoàn thành công việc. Booker T. Washington đã nói rằng, “Không có điều nào giúp ích cho một cá nhân hơn là đặt trách nhiệm lên trên họ để họ biết rằng bạn tin tưởng họ.”

Chúng ta nói về “tư cách thành viên Hội Thánh” mặc dù nó chỉ là vấn đề của việc “tham gia Hội Thánh” và “giúp đỡ” Hội Thánh với tiền bạc, sự tham dự, và phụ việc Hội Thánh. Nhưng “tư cách thành viên” có nghĩa chúng ta là một phần của thân thể sống và có trách nhiệm. Đây là đặc quyền góp phần sức mạnh vào sự phát triển của thân thể đó. Nếu thân thể trưởng thành và phục vụ Chúa, đó phải là “thân thể ràng buộc vững bền bởi những cái lắt léo, khiến các phần giao thông với nhau, tùy lượng sức mạnh của từng phần, làm cho thân thể lớn lên...” (Ê-phê-sô 4:16, NIV).

Bây giờ chúng ta đã sẵn sàng cho trách nhiệm thứ năm: chúng ta phải sử dụng những ân tứ của mình trong chức vụ yêu thương đối với Hội Thánh và qua Hội Thánh đến với một thế gian cần tình yêu thương. Chúng ta phải làm những điều mà Đức Chúa Trời đã kêu gọi chúng ta, và làm điều đó trong quyền năng của Ngài và vì danh của Ngài.

Khi chúng ta dành thời gian xem lại năm từ khóa này và năm trách nhiệm mà chúng ta phải làm vì chúng ta là Cơ Đốc Nhân, chúng ta sẽ vui mừng vì một điều tuyệt vời đó là chúng ta trở thành một thành viên trong thân thể của Đấng Christ!

5

Page 38: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

MỘT THẦY TẾ LỄ TRƯỚC BÀN THỜ CHÚA

Mục đích của Đức Chúa Trời là muốn dân tộc Do Thái trở thành một “một nước thầy tế lễ, cùng một dân tộc thánh cho Chúa” (Xuất Ê-díp-tô ký 19:6) nhưng họ đã làm Chúa buồn lòng và bị mất đi những đặc quyền thuộc linh của họ. Những đặc quyền này Hội Thánh đang được hưởng vì trong Tân Ước đã nói rằng chúng ta “làm chức tế lễ thánh … dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời” và “làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên thầy tế lễ của Đức Chúa Trời” (I Phi-e-rơ 2:5,9; Khải Huyền 1:6).

Trong giao ước cũ, con dân của Chúa có một chi phái làm thầy tế lễ; nhưng trong giao ước mới, mỗi con dân Chúa là một thầy tế lễ.

“Chức thầy tế lễ của tín hữu” là một từ quý giá trong đức tin của Cơ Đốc Nhân, mà sự bảo vệ của thầy tế lễ cứu nhiều người. Điều đó nghĩa là tất cả các tín hữu đều thuận phục trước Chúa và được đến gần Chúa ngang với nhau qua Chúa Giê-su Christ là Thầy Tế Lễ Cả.

“Bởi vậy nên tất cả các Cơ Đốc Nhân đều là thầy tế lễ,” Martin Luther đã nói vậy. Thực ra, Luther, cũng giống như hầu hết những nhà Cải chánh khác không tán thành khi mọi người gọi các Mục sư của Hội Thánh là “những thầy tế lễ”. Ông nói rõ rằng, “Ai phục vụ mọi người với Lời Chúa và các Thánh Lễ không nên và không được gọi là thầy tế lễ…Theo các thư tín [Các thư tín Tân Ước] họ nên được gọi là các Mục sư, chấp sự, giám mục và quản gia.”

Quan điểm của ông đơn giản là tất cả các tín hữu chính là các thầy tế lễ, và không một Cơ Đốc Nhân nào cho phép một Cơ Đốc Nhân khác ở giữa anh ta và Chúa. Tất cả các Cơ Đốc Nhân được ra mắt trước sự hiện diện của Chúa và trình bày những nhu cầu của họ (Hê-bơ-rơ 4:14-16, 10:19-22). Chúa Giê-su Christ ngày nay là Thầy Tế Lễ Cả của chúng ta ở trên thiên đàng và Ngài đại diện cho chúng ta và cầu thay cho chúng ta trước Cha (Hê-bơ-rơ 8:1)

1. Quy Trình: Trở Thành Một Thầy Tế Lễ (Xuất Ê-díp-tô 29).

Làm thế nào mà một người trở thành một thầy tế lễ của Đức Chúa Trời? “Quy trình” này được mô tả trong Cựu Ước về lễ bổ nhiệm của A-rôn và các con trai ông bước vào chức vụ thầy tế lễ. Hãy chú ý những bước liên quan minh họa cho chức vụ thầy tế lễ trong Tân Ước.

Họ được chọn và kêu gọi bởi Chúa (Xuất Ê-díp-tô 29:1-4). Mọi người dân Do Thái trong trại không thể trở thành thầy tế lễ, trừ khi họ được Chúa chọn –đó chính là A-rôn và các con của ông. Để trở thành một thầy tế lễ, người đó phải được sinh ra trong đúng gia đình dòng dõi tễ lễ. Và đó chính là cách mà chúng ta trở thành thầy tế lễ của Tân Ước, bằng cách được sinh ra trong gia đình của Đức Chúa Trời (Giăng 1:12-13; 3:1-16). Đây không phải là vấn đề của giáo dục, khả năng hay là những thành tích. Có lẽ có những người khác trong dân Y-sơ-ra-ên thông minh hơn,

Page 39: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

tài năng hơn, và đẹp đẽ hơn A-rôn và các con ông. Nhưng điều đó chẳng đem lại khác biệt gì. Đức Chúa Trời đã chọn A-rôn và chuyện đó đã được sắp xếp như vậy.

Tất cả các Cơ Đốc Nhân được chọn và được kêu gọi bởi Chúa (Ê-phê-sô 1:4; II Tê-sa-lô-ni-ca 2:13-14; Giăng 15:16). Họ chẳng có gì xứng đáng để nhận được sự cứu chuộc của Chúa. Tất cả là bởi ân điển (Ê-phê-sô 2:8-10). Chẳng có người lạ nào trong trại của dân Y-sơ-ra-ên được cho phép đến gần nơi thầy tế lễ thi hành chức vụ, ai đến gần sẽ bị xử tử “Dân Số Ký 3:10”.

Họ được tắm sạch (Xuất Ê-díp-tô Ký 29:4). Đây là việc tắm rửa toàn thân một người, và điều này tượng trưng cho việc rửa sạch tội lỗi của họ. Các thầy tế lễ chính là đại diện cho mọi người trước mặt Đức Chúa Trời, và điều này nghĩa là họ phải giữ một đời sống thánh khiết (Xa-cha-ri 3). Các thầy tế lễ Cơ Đốc cũng vậy, chúng ta cũng được tắm rửa, và vì thế chúng ta được tinh sạch trước Đức Chúa Trời “Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, và làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên thầy tế lễ của Đức Chúa Trời là Cha Ngài” (Khải Huyền 1:5-6).

Cho dù chúng ta tội lỗi như thế nào chăng nữa, Đức Chúa Trời cũng rửa sạch tội chúng ta khi chúng ta tin nhận Con Một của Ngài là Đấng Cứu Thế của chúng ta (I Cô-rinh-tô 6:9-11). Chúng ta đừng coi việc rửa sạch tội lỗi này như lễ báp-têm bởi vì báp-têm không rửa sạch tội lỗi được (I Phi-e-rơ 3:21). Đây là “sự rửa về sự lại sanh và sự đổi mới của Đức Thánh Linh” đã làm trọn việc rửa sạch một tấm lòng tội lỗi (Tít 3:5). Đức Chúa Trời rửa sạch tấm lòng của chúng ta bởi đức tin (Công Vụ 15:9) không phải bằng các nghi lễ tôn giáo. Báp-têm là một bằng chứng quan trọng của sự cứu rỗi (Công Vụ 10:47-48), nhưng không phải là phương tiện cứu rỗi.

Một điều quan trọng cần chú ý là một con bò thiến và hai con chiên đực đã bị giết làm của tế lễ cho A-rôn và những người con của ông (Xuất Ê-díp-tô ký 29:10-25). Nguyên tắc của Kinh Thánh là “không đổ huyết thì không có sự tha thứ” (Hê-bơ-rơ 9:22; Lê-vi Ký 17:11). Chúng ta đã được tẩy sạch tội lỗi chẳng phải bởi huyết của những động vật được đem hiến tế, mà bởi dòng huyết quý báu của Chúa Giê-su (Hê-bơ-rơ 9:11-15).

Huyết của vật tế đã được bôi lên tai phải, ngón tay cái bên phải, và ngón chân cái bên phải của A-rôn và các con ông (Xuất Ê-díp-tô ký 29:19-20). Đây là một lời nhắc nhở rằng toàn bộ thân thể họ được dâng cho công việc của Chúa (Rô-ma 12:1), hãy lắng nghe lời Ngài, làm việc Ngài và bước theo Ngài.

Họ được thay quần áo (Xuất Ê-díp-tô ký 29:5-9). Đức Chúa Trời phán với Môi-se là phải chuẩn bị những quần áo đặc biệt cho A-rôn và các con trai ông (Xuất Ê-díp-tô ký 28). Họ phải được mặc quần áo thích hợp thì mới được làm việc tế lễ nơi lều tạm. Nếu như họ hầu việc nơi lều tạm mà không mặc quần áo này, thì họ sẽ phải chết. (Xuất đíp-tô Ê- ký 28:43).

Từ khi A-đam và Ê-va phạm tội, sự lõa lồ của loài người trở thành một nan đề với họ. Loài người cố gắng che dấu sự lõa lồ của mình, đầu tiên là tránh mặt Chúa, và sau đó che dấu bằng cách dùng lá cây vả che đi (Sáng Thế Ký 3:10-11). Đức Chúa Trời bày tỏ ân điển của Ngài bằng

Page 40: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

cách làm đổ máu động vật và mặc quần áo cho A-đam và Ê-va (Sáng Thế Ký 3:21), đây là một hình ảnh giống như Chúa Giê-su chết trên thập tự. Chúa Giê-su đã đền tội thay cho chúng ta vậy nên chúng ta có thể mặc áo công bình và nhận “con yêu dấu của Ngài” (II Cô-rinh-tô 5:21; Ê-sai 61:10; Ê-phê-sô 1:6).

Họ được xức dầu (Xuất Ê-díp-tô 29:7). Sự xức dầu này rất đặc biệt bởi vì nó đã được Đức Chúa Trời ban lệnh và chỉ có thể sử dụng cho những mục đích thánh khiết (Ê-díp-tô 30:22-33). Đây là một biểu tượng của Đức Thánh Linh là Đấng đã xức dầu cho mọi tín hữu (II Cô-rinh-tô 1:21; I Giăng 2:27; và chú ý xem Công Vụ 10:38). Cơ Đốc Nhân không cần phải cầu nguyện cho sự xức dầu của Chúa Thánh Linh bởi vì mỗi tín hữu đã được xức dầu. Điều chúng ta cần làm là tin vào Lời Chúa và cho phép Thánh Linh làm việc trong đời sống chúng ta.

Họ được thỏa lòng (Xuất Ê-díp-tô 29:22-37). Môi-se đưa cho các thầy tế lễ một phần “con chiên đực” làm thức ăn. Những thầy tế lễ cũng được chia phần từ những đồ tế lễ như là sự trả công cho việc hầu việc Chúa. Một thầy tế lễ trung tín chăng bao giờ bị đói! (Thực tế là một người trong số họ đã vượt qua cơn đói; xem I Sa-mu-ên 4:18). Bài học thuộc linh rất rõ ràng: khi chúng ta hầu việc Chúa, Ngài cung ứng cho chúng ta mọi nhu cầu và làm chúng ta thỏa lòng.

Là một “thầy tế lễ thánh” (I Phi-e-rơ 2:5), chúng ta được biệt riêng ra để hầu việc Chúa. Là một “thầy tế lễ nhà vua” (I Phi-e-rơ 2:9), chúng ta chia sẻ về uy quyền của Chúa, vì Ngài vừa là Vua vừa là Thầy Tế Lễ. Chúa Giê-su không phải là một thầy tế lễ theo ban của A-rôn bởi vì A-rôn hầu việc trên đất còn Chúa Giê-su hầu việc trên thiên đàng. Theo sách Hê-bơ-rơ 7-9, dòng dõi tế lễ của Chúa chúng ta là “được lập theo ban của Mên-chi-xê-đéc”, người này vừa là Vua vừa là thầy tế lễ (Sáng Thế Ký 14:17-24; Hê-bơ-rơ 7:1-11). Không vị Vua nào trong dân Y-sơ-ra-ên được phép hầu việc Chúa như thầy tế lễ, và cũng không có thầy tế lễ nào trị vì như một vị Vua. Chỉ có một mình Chúa Giê-su Christ đã tập hợp cả ba chức vụ trong Cựu Ước; Ngài là tiên tri, thầy tế lễ và là Vua.

Chúng ta hãy tạm dừng mọi việc để cảm ơn Đức Chúa Trời rằng chúng ta được cứu và được đưa vào trong vương quốc thầy tế lễ. Thực tế, khi chúng ta xem lại những đặc quyền của dòng dõi thầy tế lễ, chúng ta phải ngợi khen Chúa nhiều hơn nữa.

2. Những Đặc Quyền: Khi Hầu Việc Như Một Thầy Tế Lễ

A-rôn và các con trai ông cùng những hậu duệ sau đó được hưởng những đặc quyền mà với những người dân khác thì bị cấm trong đất nước Y-sơ-ra-ên. Mỗi đặc quyền này đều có thể áp dụng theo cách thuộc linh cho những tín hữu Tân Ước trong Hội Thánh ngày nay.

Trông coi nơi Chúa ngự (Dân Số 3). Ba nhà trong chi phái Lê-vi được giao nhiệm vụ trông coi toàn bộ đền tạm, mà mỗi nhà được chỉ định có nhiệm vụ trông coi một khu vực đặc biệt. Nhà Ghẹt-sôn trông coi tấm bong của trại và bức màn của cửa hội mạc. Nhà Kê-hát chịu trách nhiệm về những đồ đạc, bình chậu; còn nhà Mê-ra-ri quản lý kết cấu của đền tạm, gồm các tấm ván của

Page 41: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

đền tạm, cây xà ngang, trụ, lỗ trụ và các trang thiết bị khác. Tất cả đều được sắp xếp cẩn thận vì đây là nơi Chúa ngự, và mọi sự phải được làm cho phải phép và theo thứ tự (I Cô-rinh-tô 14:40).

Vậy nơi Chúa ngự trên thế gian ngày nay là ở đâu? Trong mỗi cá nhân tín hữu (I Cô-rinh-tô 5:19-20), Hội Thánh địa phương (I Cô-rinh-tô 3:16-17 và chú ý đại từ nhân xưng ở số nhiều) và toàn thể Hội Thánh nói chung (Ê-phê-sô 2:20-22). Nói chung, chúng ta có thể nói rằng trong thời điểm hiện tại, Đức Chúa Trời ngự giữa con dân Ngài, và không đơn giản là ở giữa con dân Ngài (Xuất Ê-díp-tô ký 25:8). Trong thời Cựu ước, con dân Chúa đã lập nên một đền thờ cho Ngài. Nhưng trong thời Tân Ước, con dân Chúa chính là đền thờ của Ngài.

Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta là những tín hữu- thầy tế lễ có những đặc quyền tuyệt vời đó là trông coi nơi Chúa ngự. Và hãy bắt đầu việc này với việc chăm sóc cho chính thân thể của chúng ta, đó là đền thờ của Chúa. Một Cơ Đốc Nhân không được làm ô uế thân thể của mình cũng như một người Do Thái không được làm ô uế đền thờ hay đền tạm. Chăm sóc thân thể tốt hơn việc bộc lộ sự thông minh hoặc thậm chí còn tốt hơn cả việc tập luyện để có sức khỏe tốt. Đó là một hoạt động thờ phượng và hầu việc Chúa- Đấng ngự trong chúng ta (Rô-ma 12:1-2).

Những ai tạo ra sự khác biệt trong đời sống của Cơ Đốc Nhân giữa thân thể “thuộc linh” và thân thể “vật lý” là đang tạo ra một sự khác biệt sai lầm. Đức Chúa Trời muốn người đó được nên thánh – cả về tâm thần, linh hồn và thân thể (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23). Bạn có tưởng tượng được một người chồng nói với vợ mình rằng, “Anh sẽ yêu em với cả trí óc và trái tim nhưng điều anh làm với thân thể của mình là chuyện của riêng anh.” Nếu vậy thì cuộc hôn nhân đó sẽ chẳng có tương lai!

Đức Chúa Trời cũng muốn Hội của những tín hữu địa phương trở thành một đền thánh vì sự vinh hiển của Ngài (I Cô-rinh-tô 3:16-17). Thật bi thảm khi thấy một vài người tự xưng mình là Cơ Đốc Nhân làm ô uế Hội Thánh địa phương bằng những hành động và quan điểm đầy tội lỗi. Sau đó họ tức giận và bỏ nhóm và đi nhóm ở một Hội Thánh khác. Không lâu sau đó, họ lại gây chuyện ở đó và vòng quay lại tiếp tục lặp lại. “Ví có ai phá hủy đền thờ của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ phá hủy họ” (I Cô-rinh-tô 3:17). Làm ô uế và phá hủy là những từ được chuyển ngữ từ tiếng Hy Lạp, nó có nghĩa là “làm ô uế, phá hủy, sụp đổ.” Đức Chúa Trời sẽ xử tội những người làm ô uế sự tinh sạch và phá hủy chức vụ của Hội Thánh địa phương. Chúng ta phải trông coi nơi Chúa ngự bởi vì chúng ta là những thầy tế lễ của Ngài.

Giữ lửa cháy (Lê-vi Ký 6:12-13). Khi Môi-se và A-rôn dâng đền tạm, lửa từ Đức Chúa Trời tiêu hủy những của tế lễ trên bàn thờ bằng đồng (Lê-vi Ký 9:22-24). Trách nhiệm của các thầy tế lễ mỗi buổi sáng là phải dọn sạch tro cũ, thay củi mới và giữ cho ngọn lửa cháy. Nếu không có lửa cháy trên bàn thờ, mọi người không thể dâng của lễ cho Đức Chúa Trời.

Tất cả những điều này có một áp dụng thuộc linh cho chúng ta như các tín hữu, vì mỗi người chúng ta có một “nhiệt kế thuộc linh”. Đức Chúa Trời muốn chúng ta có một trái tim nóng cháy (Lu-ca 24:32), nhưng chúng ta thường hâm hẩm (Khải Huyền 3:16) hay thậm chí là nguội lạnh (Ma-thi-ơ 24:12). Phao-lô khuyên Ti-mô-thê là phải “nhen lại ơn của Đức Chúa Trời ban cho”

Page 42: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

(II Ti-mô-thê 1:6), lời khuyên này mang nghĩa đen là “hãy thắp lửa đời sống mình lại”. Bản Kinh Thánh New International Version thì viết là “lấy quạt thổi lửa bùng lên” và bản The Living Bible lại viết, “Hãy nhen lại lửa.”

Trách nhiệm của chúng ta là giữ lửa cháy rực rỡ trong đền thờ tấm lòng của chúng ta. Chúng ta phải loại bỏ những tro tàn cũ của những của lễ và ơn phước đã qua và thêm chất đốt mới mỗi buổi sáng và cầu hỏi Thần của Đức Chúa Trời – Hơi thở của Đức Chúa Trời – thổi bùng lên ngọn lửa và làm ngọn lửa sáng rực như vinh hiển của Chúa. Sự thờ ơ luôn luôn làm cho ngọn lửa bị tổn thương (I Ti-mô-thê 4:14) và khi ngọn lửa sắp tắt, thì chúng ta cũng trở thành những Cơ Đốc Nhân hâm hẩm hay thậm chí là những Cơ Đốc Nhân có lòng nguội lạnh.

Rửa tay, chân trong chậu rửa (Xuất Ê-díp-tô Ký 30:17-21). Khi các thầy tế lễ phục vụ Đức Chúa Trời ở đền tạm hay đền thờ, tay và chân họ bị dính bẩn. Đức Chúa Trời ra lệnh cho họ phải rửa sach tay và chân trong cái chậu rửa bằng đồng trong nơi thánh. Và nếu như họ không rửa, họ sẽ gặp nguy hiểm đến tính mạng. Nguyên tắc này cũng áp dụng với các tín hữu –thầy tế lễ ngày nay: nếu chúng ta muốn thông công với Chúa, chúng ta phải đến với Ngài để được rửa

sạch tội lỗi (Giăng 13:1-11; I Giăng 1:5-2:2). Các thầy tế lễ đã được rửa sạch toàn thân trong lễ phong chức, đây là một hình ảnh tượng trưng cho sự cứu chuộc. Nhưng họ cần được rửa sạch thường xuyên, điều này tượng trưng cho sự nên thánh mỗi ngày.

Xông hương thánh (Xuất Ê-díp-tô Ký 30:7-9). Có hai bàn thờ trong đền thờ của Đức Chúa Trời, một bàn thờ bằng đồng ở cửa được dùng để dâng con sinh tế, và bàn thờ bằng vàng ngay trước bức màn được dùng để xông hương. Bàn thờ vàng tượng trưng cho những lời cầu nguyện dâng lên cho Chúa (Thi Thiên 141:1-3; Lu-ca 1:5-17). Một đặc ân tuyệt vời cho chúng ta đó là dâng lời cầu nguyện lên Cha! Các tín hữu trong thời đại ngày nay thậm chí còn có đặc quyền lớn hơn cả những thầy tế lễ, vì chúng ta được mời bước vào ngay trước sự hiện diện của Chúa và dâng những lời cầu nguyện cho Ngài (Hê-bơ-rơ 10:19-25). Khi Chúa Giê-su chết trên thập tự, bức màn của đền thờ bị xé toạc ra làm hai, vì Ngài đã mở ra một con đường mới và sống cho chúng ta.

Khi thầy tế lễ xông hương vào mỗi buổi sáng và tối, hương thơm sẽ bám vào ông và mọi người sẽ biết rằng ông ấy mới vừa ở chỗ bàn thờ bằng vàng. Khi chúng ta cầu nguyện, sẽ có một hương thơm thuộc linh trong đời sống chúng ta báo cho mọi người biết rằng chúng ta ở với Chúa Giê-su. Martin Luther đã nói rằng: “Tất cả chúng ta đều là thầy tế lễ.” “Và lời cầu nguyện của chúng ta như là hương thơm được xông lên cho Chúa.”

Thắp sáng ngọn đèn (Xuất Ê-díp-tô Ký 30:7-8). Giá đèn bảy nhánh bằng vàng đứng trước bức màn ở bên phải bàn thờ bằng vàng. Trách nhiệm của thầy tế lễ là loại bỏ những bấc đèn mỗi sáng sớm và thắp đèn mỗi buổi tối. Cây đèn này chính là để nói về ánh sáng của Đức Chúa Trời và lẽ thật được chiếu sáng qua dân Y-sơ-ra-ên đến với thế gian tội lỗi và tăm tối. Điều này có thể áp dụng để làm chứng cho Hội Thánh (Khải Huyền 1:9-20) cũng như làm chứng cho cá nhân tín

Page 43: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

hữu (Ma-thi-ơ 5:14-16). Một vài sinh viên tin rằng ngọn đèn này là tượng trưng cho Lời Chúa (Thi Thiên 119:105; II Phi-e-rơ 1:19).

Thầy tế lễ trông coi ngọn đèn có quan hệ tới chức vụ của ông tại bàn thờ xông hương là bởi vì lời cầu nguyện và lời làm chứng đi cùng nhau (Công Vụ 4:31) cũng giống như lời cầu nguyện và Lời Chúa (Công Vụ 6:4).

Ăn bánh (Xuất Ê-díp-tô Ký 25:23-30; Lê-vi Ký 24:5-9). Vào ngày Sa-bát, thầy tế lễ đặt 12 lát bánh mì đặc biệt trên bàn trong nơi thánh và chỉ có các thầy tế lễ mới được phép ăn bánh này. Những lát bánh mì này nhắc nhở các thầy tế lễ rằng đồ ăn (thuộc thể và thuộc linh) đến từ Đức Chúa Trời. Chúa Giê-su Christ là “bánh sự sống” (Giăng 6:33); Ngài giống như mana, được sai xuống từ thiên đàng để đem lại sự sống thuộc linh cho thế gian. Nhưng Ngài cũng là “bánh thánh” trong đền thờ, được ban cho để duy trì sự sống. Chúng ta phải được nuôi lớn bởi Đấng Christ nếu như chúng ta muốn có sức mạnh thuộc linh chúng ta cần cho cuộc hành hương.

Tiến vào trong bức màn (Lê-vi Ký 16). Khi thầy tế lễ tiến đến bức màn chia nơi thánh và nơi chí thánh, ông phải dừng lại. Chỉ một năm một lần, vào Ngày Lễ Chuộc Tội, thầy tế lễ cả được phép đi qua bức màn và ra mắt trước sự hiện diện vinh hiển của Đức Chúa Trời. Nhưng tín

hữu- thầy tế lễ ngày nay có thể bước vào trước sự hiện diện của Chúa bất kỳ lúc nào bởi vì con đường này đã được Chúa Giê-su Christ mở ra (Hê-bơ-rơ 10:19-25). Trên thực tế, tín hữu- thầy tế lễ có đặc quyền sống “bên trong bức màn” mọi lúc.

Điều quan trọng chúng ta thấy sau tất cả mọi việc được diễn ra trong đền tạm. Chúng ta bắt đầu tại bàn thờ bằng đồng, đây là nơi huyết của con sinh tế bị đổ ra để làm sạch tội lỗi chúng ta. Sau đó chúng ta bước vào nơi thánh, đây là nơi chúng ta rửa sạch tay và chân trước khi chúng ta đến bàn thờ bằng vàng cầu nguyện. Chúng ta ăn bánh và châm đèn, nhưng chúng ta vẫn chưa dừng ở đây. Bức màn đã được mở và chúng ta có thể đi thẳng vào bên trong đến nơi chí thánh ngay trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời.

Có gì ở trong nơi chí thánh vậy? Chiếc hòm giao ước nằm ở đây, tượng trưng cho ngai của Đức Chúa Trời (Xuất Ê-díp-tô Ký 25:10-22; Thi Thiên 80:1; 99:1). Nắp thi ân với thiên sứ ở trên hòm giao ước, và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời tràn ngập nơi chí thánh. Đức Chúa Trời trị vì từ “ngai ân điển” này (Hê-bơ-rơ 4:14-16) và nói chuyện thân mật với con dân Ngài. Mỗi năm, vào ngày Lễ Chuộc tội, thầy tế lễ cả tưới huyết lên nắp thi ân để chuộc tội lỗi của Y-sơ-ra-ên. Khi Chúa Giê-su chết, huyết Ngài đã cất tội lỗi của thế gian đi (Giăng 1:29).

Sách Hê-bơ-rơ có ba chủ đề chính đó là: (1) “Chúng ta hãy tấn tới” (trưởng thành thuộc linh, Hê-bơ-rơ 6:1), (2) “Chúng ta hãy bước vào” (sự thông công với Chúa, 10:19) và (3) “Chúng ta hãy ra đi” (xác nhận với Đấng Christ rằng đồng chịu sự sỉ nhục, 13:13). Chúng ta cần cả 3 chủ đề này để có một đời sống cân bằng.

Page 44: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Dâng của lễ thuộc linh (I Phi-e-rơ 2:5). Là những thầy tế lễ của Đức Chúa Trời, chúng ta dâng những của lễ thuộc linh cho Ngài thông qua Chúa Giê-su Christ là “bàn thờ” (Hê-bơ-rơ 13:10). Từ thuộc linh không có nghĩa là “vô hình” bởi vì một vài đồ tế lễ chúng ta dâng hoàn toàn là hữu hình. Nói cho đúng, thuộc linh có nghĩa là “mang tính chất của linh hồn.” Nếu như người chưa được cứu dâng tế lễ này, thì những tế lễ đó không thuộc về linh hồn, và cũng không được Chúa chấp nhận.

Chúng ta đã ghi nhận rằng lời cầu nguyện là một tế lễ mà chúng ta dâng cho Chúa (Thi Thiên 141:1-3), và lời ngợi khen Chúa cũng vậy (Hê-bơ-rơ 13:15). Đức Chúa Trời coi những việc lành của chúng ta như những của lễ thuộc linh (Hê-bơ-rơ 13:16), cũng như tiền bạc mà chúng ta dâng để hầu việc Ngài (Phi-líp 4:14-18; Rô-ma 15:27). Đức Chúa Trời chắc chắn muốn thân thể của chúng ta cũng quy phục Ngài như một của lễ sống, chứ không phải là một của lễ chết (Rô-ma 12:1-2); và Ngài cũng muốn chúng ta dâng cho Ngài tấm lòng của chúng ta. (Thi Thiên 51:17).

Đưa dẫn người về với Đấng Christ cũng là một hành động thờ phượng thuộc linh (Rô-ma 15:16). Từ “minister” (trông coi, hầu việc) và “ministering” (trông coi, hầu việc) bắt nguồn từ một từ gốc Hy Lạp nghĩa là “hầu việc giống thầy tế lễ” và đem lại cho chúng ta một từ tiếng Anh “liturgy” (nghi thức tế lễ). Phao-lô xem những người dân ngoại được biến đổi như một của lễ “dâng lên” cho Chúa (Ê-phê-sô 5:2; Hê-bơ-rơ 10:5, 8). Chúng ta hãy đưa việc truyền bá phúc âm

đi xa nhất nếu có thể, vì khi chúng ta làm chứng cho người khác và đưa dắt họ về với Đấng Christ, là chúng ta đang thực hiện hoạt động thờ phượng Chúa. Làm chứng không phải là một “nghề bán hàng của Cơ Đốc Nhân”. Đây là một hành động thánh khiết của sự thờ phượng đem vinh hiển về cho Chúa.

3. Những Mối Hiểm Nguy: Làm Ô Uế Dòng Dõi Tế Lễ (Ma-la-chi 1:6-2:9)

Bất cứ nơi nào có những đặc quyền thì cũng có cả những hiểm nguy và chẳng có sách nào trong Kinh Thánh lâi chỉ rõ những hiểm nguy cho dòng dõi tế lễ rõ ràng hơn là sách Ma-la-chi (Chú ý 1:6; 2:1, 7). Những thầy tế lễ đã phạm phải những tội nào khi họ thi hành nhiệm vụ ở nơi đền thờ được dựng lại?

Mở đầu, họ làm ô danh Chúa bằng cách làm ô uế danh Ngài (1:6). Bằng cách nào ư? Bằng cách không dâng những của lễ tốt nhất trên bàn thờ. Họ dâng bánh ô uế và những của tế lễ không hoàn hảo và giữ cho mình những đồ tốt nhất. Ma-la-chi dùng những lời châm biếm thánh khiết khi ông nói, “Thử dâng những con vật bị ốm, bị tàn tật cho quan trấn thủ ngươi, thì người há đẹp lòng và vui nhận cho ngươi sao?” Khi chúng ta không muốn dâng những gì tốt nhất của mình cho Chúa, chúng ta đã làm ô uế dòng dõi tế lễ.

Công việc họ làm là vô ích; chẳng có lợi ích thuộc linh nào đến từ sự hầu việc của họ (Ma-la-chi 1:10). Có lẽ tốt hơn là nên đóng cổng đền thờ và dập lửa trên bàn thờ! Tại sao lại như vậy. Bởi vì chẳng có việc lành nào được trọn vẹn bởi sự hầu việc của họ. (Xem Ê-sai 1:10-15) Những thầy tế

Page 45: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

lễ bước đi bơ phờ và than vãn, “Ôi! Việc khó nhọc là dường nào.” (Ma-la-chi 1:13). Tốt hơn hết là các ngươi nên nóng hoặc lạnh chứ đừng hâm hẩm (Khải Huyền 3:16)!

Bi kịch lớn nhất là họ cướp mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời (2:1-2; xem I Phi-e-rơ 2:9). Chức vụ giả hình của họ là một lời làm chứng khủng khiếp cho những quốc gia không thờ phượng Đức Chúa Trời quanh họ, những quốc gia đó cần biết một Đức Chúa Trời sống và có thật biết bao.

Vậy Chúa đã làm gì với những tội lỗi mà họ gây ra? Ngài rủa sả những phước lành của họ. Ngài chỉ đơn giản biến những phước lành trở thành sự rủa sả. Điều gì sẽ đem lại sự vui mừng cho họ và đất nước họ thay cho sự buồn rầu? Sau khi đi lễ ở đền thờ, mọi người trở về nhà trong điều kiện thuộc linh tồi tệ hơn cả lúc họ không tham gia thờ phượng. Thay vì mang theo hương thơm của những phước lành Chúa ban, thì họ lại bốc mùi phân thối (Ma-la-chi 2:3; so sánh với Giăng 12:1-8). Ôi chao ơi, thay vì dẫn dắt mọi người theo đúng đường, thì những thầy tế lễ này lại làm cho họ sảy chân (2:4-9).

Đây không phải một bức tranh đẹp đẽ gì, nhưng không phải là một bức tranh cũ. Ngày nay chúng ta vẫn có những tội lỗi tương tự như vậy. Hãy xem lại những đặc ân mà bạn là một tín hữu- một thầy tế lễ và tự hỏi chính mình một cách thành thật rằng: “Liệu tôi có sử dụng những đặc ân này vì sự vinh hiển của Chúa chưa? Tôi có dâng của lễ tốt nhất lên bàn thờ chưa?” Có lẽ lý do mà Hội Thánh ngày nay ra đi làm chứng yếu ớt là bởi vì chúng ta là những thầy tế lễ đã bị

tước mất những đặc ân, đặc quyền và đang sống dựa vào những người thay thế; và Đức Chúa Trời rủa sả những phước lành của chúng ta.

Vậy có hy vọng nào không? Vâng, luôn luôn có hy vọng. Nếu chúng ta xưng tội mình ra và nói ra những nhu cầu của mình, Thầy Tế Lễ Cả Thượng Phẩm sẽ rửa sạch tội lỗi chúng ta và phục hồi lại những ơn phước thuộc linh cho chúng ta.

“Ngài sẽ ngồi như kẻ luyện bạc và làm cho sạch; Ngài sẽ chùi các con trai Lê-vi, làm cho chúng nó sạch như vàng và bạc; chúng nó sẽ dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va trong sự công bình.” (Ma-la-chi 3:3, NIV).

Lúc thời đại thay đổi, Tiến sĩ G. Campbell Morgan đã giảng một loạt sứ điệp tại Moody’s Northfield Conference về chủ đề các sách Tiểu Tiên Tri. Trong sứ điệp của mình về Ma-la-chi, ông nói rằng, “Một số lớn các nước theo Đạo Thiên Chúa mang đặc điểm chung là chú trọng đến nghi lễ thờ phượng hơn là sống đạo, đến hình thức mà không có năng quyền. Như vậy liệu có giống với thế giới đầy máy móc ngày nay? Liệu một Hội Thánh của Đức Chúa Trời có chứa trong mọi ngóc ngách của nó những máy móc và máy móc, bánh xe và bánh xe, cơ quan và cơ quan? Vậy mà cho dù không có những máy móc này và những hoạt động của nó, thế gian ngu dốt này vẫn bám sát chúng ta rất nhanh.” (Các Tiểu Tiên Tri, Revell, 1960, 156).

Morgan cần phải nhìn thấy Hội Thánh ngày nay!

Page 46: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Đức Chúa Trời đang tìm kiếm những thầy tế lễ thánh khiết là những người dâng hiến những của lễ thuộc linh làm vinh hiển danh Ngài. Liệu bạn có trở thành một trong số họ?

6

Một Hòn Đá Trong Nhà Của Đức Chúa Trời Vì Si-môn (Phi-e-rơ) được Chúa đặt biệt danh là “Sê-pha, nghĩa là đá” (Giăng 1:42), điều này cũng phù hợp vì ông được Đức Thánh Linh chọn lựa để rao truyền cho mọi người về Đấng Christ là hòn đá, và chúng ta là những Cơ Đốc Nhân có liên hệ với Ngài ra sao. Phi-e-rơ viết:

"Hãy đến gần Ngài, là hòn đá sống, bị người ta loại ra, song được chọn và quí trước mặt Đức Chúa Trời, và anh em cũng như đá sống, được xây nên nhà thiêng liêng, làm chức tế lễ thánh, đặng dâng của tế lễ thiêng liêng, nhờ Đức Chúa Giê-su Christ mà đẹp ý Đức Chúa Trời. Vì trong Kinh Thánh có chép rằng: “Nầy, ta đặt tại Si-ôn hòn đá góc nhà đã chọn lựa và quí báu; Ai tin đến đá ấy sẽ không bị xấu hổ.” Vậy nên, cho anh em là kẻ đã tin, thì là đá quí; nhưng cho những kẻ không tin, thì Hòn đá mà bị thợ xây nhà loại ra, Bèn trở nên đá góc nhà, là Đá gây cho vấp váp, là đá lớn làm cho sa ngã; họ bị vấp đá đó, vì không vâng phục Đạo, và điều ấy đã định sẵn cho họ rồi. (I Phi-e-rơ 2:4-8, NIV)

Để nhấn mạnh về Chúa Giê-su Christ, Phi-e-rơ bày tỏ về Ngài bằng 3 hình ảnh. Phi-e-rơ cũng giải thích chúng ta có liên quan đến Ngài như thế nào trong 3 hình ảnh đó.

Khi chúng ta hiểu được chúng ta là những ai ở trong Ngài, điều này có thể đem lại sự khác biệt trong cuộc sống, sự thờ phượng và hầu việc của chúng ta.

1. Chúa Giê-su Christ Là Hòn Đá

Hình ảnh Đức Chúa Trời như “Hòn Đá” chắc chắn là quen thuộc với dân Do Thái. “Công việc của Hòn Đá là trọn vẹn” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 32:4). “Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi kêu cầu Ngài; Hỡi hòn Đá tôi, chớ bịt tai cùng tôi” (Thi Thiên 28:1). “Một mình Ngài là hòn đá tôi, sự cứu rỗi tôi,” (Thi Thiên 62:2, 6). Một hòn đá làm ta liên tưởng tới sự bền vững, an toàn và mạnh mẽ. “Đức Chúa Trời là nơi nương náu và sức lực của chúng tôi, Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn gian truân” (Thi Thiên 46:1). Vậy nên khi Phi-e-rơ gọi Chúa Giê-su Christ là “hòn đá sống”, tức là ông khẳng định một cách rõ ràng rằng Giê-su Christ là Đức Chúa Trời. Đó là lời chứng của Phi-e-rơ bởi đức tin (Ma-thi-ơ 16:16; Giăng 6:66-69).

Page 47: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Vậy Chúa Giê-su Christ là hòn đá gì? Đầu tiên, Ngài là hòn đá sống (I Phi-e-rơ 2:4) bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống. Ngài chết vì chúng ta, và đã sống lại từ kẻ chết, và sẽ sống đời đời để chia sẻ sự sống của Ngài với chúng ta. Đôi khi chúng ta nói rằng “nằm im như hòn đá” (as dead as a rock) hoặc “chết cứng” (stone dead) nhưng bạn không thể nói như vậy về những điều liên quan đến Chúa Giê-su. Bởi vì chúng ta tin tưởng vào một hòn đá sống (2:4) chúng ta được sinh lại và có một hy vọng sống (1:3) qua lời hằng sống của Đức Chúa Trời. (1:22-23). Khi chúng ta là những tội nhân hư mất, “chết cứng” (stone dead) trong hố sâu tội lỗi; nhưng Chúa Giê-su Christ cất nhấc chúng ta lên và ban cho chúng ta sự sống. Chúng ta trở thành những hòn đá sống.

Ngài cũng là hòn đá góc nhà (I Phi-e-rơ 2:6-7). Ngày nay chúng ta thường nghĩ rằng đá góc nhà thường là thứ gì đó để trang trí và không quá quan trọng đến cấu trúc hiện tại. Chúng ta chạm khắc tên của tòa nhà, ngày đặt hòn đá, và bất cứ dữ liệu nào mà ban quản lý tòa nhà cho rằng quan trọng với những thế hệ mai sau. Trong thời đại của Kinh Thánh thì hòn đá góc nhà không phải là vật trang trí. Hòn đá đó có thể là điểm nối giữa hai bức tường vào nhau trong góc nhà; hay là đá đầu tường để hoàn thành tòa nhà, hoặc có thể là đá đỉnh vòm của mái vòm. Trong bất kỳ trường hợp nào, thì hòn đá này cũng cực kỳ quan trọng.

Chúa Giê-su Christ là hòn đá lớn góc nhà hiệp tất cả những công việc Đức Chúa Trời đang làm để đem mọi vật đến cùng nhau trong thế gian này. Ngài là “cầu nối sống” giữa Cựu Ước và Tân Ước (Lu-ca 24:25-27). Ngài kết hợp những Hội Thánh Do Thái và những Hội Thánh dân ngoại với nhau (Ê-phê-sô 2:11-22). Nếu như hòn đá góc nhà bị lệch, thì toàn bộ tòa nhà cũng bị lệch và ý muốn của Đức Chúa Trời sẽ không được làm trọn. Nhưng hòn đá góc nhà là chuẩn mực và sẽ mãi mãi như vậy.

Ngài là hòn đá được chọn (2:4,6). Điều này nghĩa là không chỉ được chọn thôi mà còn “được chọn cách đặc biệt” Chúa Giê-su là độc nhất vô nhị, không ai có thể so sánh với Ngài. Không ai có thể thay thế Ngài. Ngài được chọn bởi Cha; và sự chọn lựa đó là đủ đối với tôi.

Sau khi phát biểu tại một cuộc hội thảo của những người bán sách ở California, khi tôi đang chào hỏi mọi người thì một người phụ nữ trẻ tiến lại gần và cô nói cô có một tin đặc biệt cho tôi: Cô ấy đã gặp Chúa Giê-su Christ ở bờ biển sáng nay! Sau đó cô ấy giới thiệu tôi với một nhân vật trông tiều tụy có mái tóc dài bẩn thỉu cùng bộ râu tương xứng. Tôi tiến tới nắm lấy tay anh ta và nói, “Không có dấu đinh ở đây,” “Cho nên anh không phải Chúa Giê-su Christ. Anh chỉ là một kẻ đóng giả Chúa.” Một kẻ vô công rỗi nghề dám tuyên bố rằng mình là Hòn đá được Đức Chúa Trời chọn lựa!

Đối với Đức Chúa Cha, Hòn Đá là quí báu (2:4,6) “Này là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đàng” (Ma-thi-ơ 3:17). Cũng theo Phi-e-rơ, mọi điều về Chúa Giê-su Christ đều quí báu: huyết báu (1:19), đức tin quí báu (II Phi-e-rơ 1:1), những lời hứa quí báu (II Phi-e-rơ 2:4). Thậm chí cả những thử thách mà chúng ta phải chịu đựng cũng quí báu vì sự vinh hiển của Ngài (I Phi-e-rơ

Page 48: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

1:7). Chúng ta càng biết Ngài rõ hơn, thì Ngài càng trở nên quí báu hơn trong đời sống của chúng ta.

Từ được chuyển ngữ “quí báu” (precious) mang cả nghĩa về danh dự lẫn giá trị. Đối với chúng ta là những người biết và yêu quí Chúa Giê-su, thì Ngài đáng được mọi người tôn quí (Khải Huyền 5:12-14). Những lãnh đạo tôn giáo trong thời Chúa Giê-su đã chối bỏ Ngài, xem Ngài như một kẻ lừa dối và chuyên gây rối. Đối với họ, Ngài chỉ xứng đáng với một điều duy nhất đó là –chết. Khi họ treo Ngài lên thập tự, Ngài trở thành Hòn Đá thiêng liêng cung cấp nước sống cho những tội nhân đang khao khát (Xuất Ê-díp-tô ký 17:1-7; I Cô-rinh-tô 10:4; Giăng 7:37-39). Trong hai thư tín của mình, Phi-e-rơ nói về sự chết của Chúa Giê-su Christ là ích lợi cho chúng ta và điều này đã được làm trọn.

Ngài là hòn đá đáng tin cậy: “Ai tin đến đá ấy sẽ không bị xấu hổ.” (I Phi-e-rơ 2:6, trích dẫn trong Ê-sai 28:16). Trong văn bản Kinh Thánh bằng tiếng Hy Lạp sử dụng 2 lần phủ định: “He shall not, no never, be ashamed” (Ngài sẽ không, không bao giờ bị xấu hổ.) Kenneth Wuest đã dịch rằng: “Ngài chẳng bao giờ bị đánh bại.” Chúng ta có thể tin tưởng Chúa Giê-su; đức tin nơi Ngài sẽ không làm ta thất vọng. Xét cho cùng, đức tin chỉ tốt nếu đi đúng mục đích. Nếu chúng ta tin vào tiền bạc, thì chúng ta có những thứ tiền bạc có thể đem lại. Tin vào chính mình, chúng ta đạt được những gì chúng ta có thể làm. Tin vào Chúa Giê-su Christ, thì chúng ta làm được những gì Đức Chúa Trời có thể làm! Oswald Chambers đã viết rằng; “Tự tin trong thế giới tự nhiên là tự lực.” “Tự tin trong thế giới thuộc linh chính là tin cậy Chúa.”

Đối với Đức Chúa Cha, Chúa Giê-su Christ được chọn và quí báu; và đối với chúng ta là những tín hữu, Ngài quí báu và đáng tin cậy. Nhưng đối với thế gian thì Ngài là ai? Ngài là hòn đá bị loại ra vì hòn đá này gây ra sự vấp váp và rắc rối (2:4, 7-8). “Những thầy thông giáo” trong Y-sơ-ra-ên thậm chí không nhận ra được cả Đấng Mê-si-a của họ và cuối cùng chối bỏ hòn đá quan trọng nhất trong ngôi nhà của Đức Chúa Trời. Sự việc này đã được Đức Chúa Cha hoạch định (Thi Thiên 118:22-23) và được Con của Đức Chúa Trời rao giảng (Ma-thi-ơ 21: 42-46). Qua sứ đồ Phi-e-rơ, Đức Chúa Trời quở trách “những thầy thông giáo” vì sự đui mù của họ (Công Vụ 4:11). Than ôi, ngày nay có quá nhiều các “chuyên gia” tôn giáo cũng đui mù như vậy.

Tại sao “các thầy thông giáo” lại chối bỏ Ngài? Bởi vì họ đã bất tuân Lời Chúa và bị vấp phải hòn đá (xem Ê-sai 8:14-15). Họ đang trông đợi một Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi của nhà Vua Đa-vít, người sẽ đánh bại đế quốc La Mã và lập lại vương quốc vĩ đại của Vua Đa-vít. Thay vào đó, họ lại gặp một người đầy tớ hèn hạ là Đấng đã chịu đau đớn và chịu chết (xem Rô-ma 9:30-33 và I Cô-rinh-tô 1:18-23 để xem sự giải thích của Phao-lô về những người Do Thái cứng lòng). “Họ bị vấp đá đó, vì không vâng phục Đạo.” (I Phi-e-rơ 2:8). Từ disobey (bất tuân lệnh) có nghĩa là “không thể thuyết phục được.” Họ có sự giải nghĩa riêng của họ về Lời Chúa và thậm chí họ không xem xét đến khả năng có thể họ bị nhầm lẫn.

Điều gì sẽ xảy đến với những người đã chối bỏ Hòn Đá được Đức Chúa Trời lựa chọn? Họ sẽ bị phán xét bởi Hòn Đá Thiêng Liêng. Chúa Giê-su phán: “Kẻ nào rơi trên hòn đá ấy sẽ bị giập nát,

Page 49: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

còn kẻ nào bị đá ấy rớt nhằm thì sẽ tan tành như bụi” (Ma-thi-ơ 21:44). Sự trừng phạt này sẽ xảy ra trên mọi người không trừ một ai. Một ngày kia Chúa Giê-su sẽ trở lại với quyền phép, phán xét các quốc gia, và sau đó thành lập vương quốc vinh hiển của chính Ngài trên thế gian (Đa-ni-ên 2:34-35, 44-45).

2. Chúa Giê-su Christ Là Thợ Xây

Khi Chúa chúng ta lớn lên ở thành Na-xa-rét, Ngài làm việc cùng với Giô-sép như một thợ mộc. Trong thời đó, thợ mộc không chỉ làm ra những cái cày, những công cụ và đồ đạc, mà thợ mộc còn giúp xây nhà. Chúa Giê-su là một thợ xây, và Ngài vẫn là một thợ xây. Trên thiên đàng, Ngài xây cho con dân Ngài một ngôi nhà (Giăng 14:1-6) và trên thế gian Ngài đang xây cho chính mình một Hội Thánh (Ma-thi-ơ 16:18). Những người được cứu là “những hòn đá sống” được dùng để xây trong “ngôi nhà thuộc linh” của Đức Chúa Trời. Chúng ta đang được “dự phần vào nhà đó, đặng trở nên nhà ở của Đức Chúa Trời trong Thánh Linh.” (Ê-phê-sô 2:22).

Qua nhiều thời đại, Đức Chúa Trời ở nhiều nơi ở khác nhau. Trong thời đại các tộc trưởng, Đức Chúa Trời đi cùng họ khi con người vâng giữ lời Ngài và tin cậy nơi Ngài. Hê-nốc bước đi cùng Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 5:24), cũng giống như Nô-ê (Sáng Thế Ký 6:9) và Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 17:1; 24:40). Sau khi dân Y-sơ-ra-ên bị đem qua Ê-díp-tô, Đức Chúa Trời đã hướng dẫn Môi-se xây dựng cho Ngài một đền tạm để Ngài ngụ ở đó cùng với hội chúng (Xuất Ê-díp-tô Ký 25:8). Khi Môi-se dâng hiến đền đó, sự vinh hiển của Chúa đầy dẫy đền tạm (Xuất Ê-díp-tô Ký 40:34). Sa-lô-môn xây đền thờ cho Chúa, thì sự vinh hiển của Chúa cũng đầy dẫy đền thánh (I Các Vua 8:10:11). Nhưng khi dân Y-sơ-ra-ên phạm tội thì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đã rời khỏi đền (Ê-xê-chi-ên 8:4; 9:3; 10:4, 22-23). Sau đó Ngài cho phép người Ba-by-lôn phá hủy cả Giê-ru-sa-lem và đền thờ. Thân thể của chúng ta chính là đền thờ cho Chúa ngự. “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài” (Giăng 1:14), Những tội nhân đã kéo thân thể Chúa và đóng đinh lên thập tự, nhưng Chúa Giê-su Christ đã sống lại từ kẻ chết và trở về thiên đàng cùng hưởng sự vinh hiển với Chúa Cha (Giăng 17:5, 24). Ngày nay, Đức Chúa Trời không còn ngự trong những ngôi đền thờ vật lý do con người làm ra (Công Vụ 7:48-50). Đền của Ngài chính là các cá nhân tín hữu (I Cô-rinh-tô 6:19-20), và Hội Thánh địa phương (I Cô-rinh-tô 3:16) và Hội Thánh toàn thế giới (Ê-phê-sô 2:20-22).

Mỗi Cơ Đốc Nhân cũng là một “hòn đá sống” được đặt trong đền thờ ở những nơi Chúa đẹp lòng. Đền thờ này vẫn chưa được hoàn thành; Chúa Giê-su Christ vẫn đang thiết lập Hội Thánh của Ngài. Có lẽ khi Phi-e-rơ viết những lời này ông nhớ tới đền thờ của Sa-lô-môn. “Vua truyền họ lấy đá lớn, đá quí giá mà đẽo đi, đặng dùng làm nền của đền thờ…Khi cất đền, người ta dùng đá đã đẽo sẵn nơi hầm, nên không nghe tiếng búa, rìu hay là khí dụng khác bằng sắt tại nơi đền đương khi cất.” (I Các Vua 5:17; 6:7).

Cách duy nhất để các thợ xây của Sa-lô-môn hoàn thành được ngôi đền là họ phải theo một bản vẽ tổng thể. Đức Chúa Trời đã trao bản vẽ đó cho vua Đa-vít và ông đã truyền bản vẽ đó cho vua

Page 50: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Sa-lô-môn (I Sử Ký 28:11-19). Bởi vì các công nhân tuân theo bản vẽ của Đức Chúa Trời, ngôi đền đã được dựng nên mà không gây ra tiếng ồn và lộn xộn. Mọi hòn đá đều được chuẩn bị và phù hợp với chỗ của nó.

Đức Chúa Trời có một bản vẽ tổng thể cho Hội Thánh của Ngài (Ê-phê-sô 1:4-12). Ngài đẽo những hòn đá lấy từ hố sâu tội lỗi, ban cho chúng sự sống, và lắp đặt chúng vào trong đền thờ của Ngài. Chỉ mình Ngài mới biết toàn bộ thiết kế, và chỉ Ngài mới biết khi nào ngôi đền hoàn thành. Khi đền thờ do vua Sa-lô-môn dựng nên được hoàn thành, Đức Chúa Trời đã ngự trong đền thờ đó. Nhưng khi Hội Thánh đã được trọn vẹn, thì Đức Chúa Trời sẽ đem Hội Thánh đến sự vinh hiển.

Khi tôi nhận ra rằng có một sự khác biệt vô cùng giữa Hội Thánh mà Đức Chúa Trời nhìn thấy với Hội Thánh mà tôi nhìn thấy thì điều này đã khích lệ tôi. Tôi chỉ có thể thấy một phần nhỏ trong bức tranh tổng thể, nhưng Đức Chúa Trời thấy toàn bộ. Tôi tự hỏi tại sao một vài hòn đá được đặt ở nơi đó, nhưng Đức Chúa Trời biết lý do và Ngài không sai lầm bao giờ. Đôi khi tôi nghĩ rằng công tác của Đức Chúa Trời bị chậm lại và cần phải được tăng tốc nhanh hơn thì khi đó tôi nhớ ra rằng 1000 năm trong mắt Chúa chỉ giống như một ngày.

Nhưng điều đó khích lệ tôi khi tôi nhắc nhở mình rằng tôi là một hòn đá sống trong đền thờ của Ngài –một đặc ân tuyệt vời! –và tất cả những gì Ngài yêu cầu ở tôi là tôi phải trung tín hoàn thành chức vụ của mình. Khi một hòn đá xây nhà bị loại bỏ thì hòn đá đó sẽ trở thành vật cản. Một vài Cơ Đốc Nhân tự cho mình hơn người. Họ nghĩ rằng họ đang chống đỡ cho toàn bộ tòa nhà. Nếu như mỗi hòn đá sống chấp nhận sự sắp xếp của Đức Chúa Trời và được đặt vào nơi mà Đức Chúa Trời đã chọn thì đền thờ sẽ tiếp tục mở mang và trở nên tuyệt đẹp trong mắt Chúa.

Một người bạn của tôi động viên tôi cầu nguyện cho một người mà cả hai cùng quen vì người này bắt đầu có những dấu hiệu của sự kiêu ngạo trong chức vụ của ông ấy. “Ông ấy cần sự giúp đỡ của chúng ta.” Bạn tôi nói như thế. “Mỗi ngày một lần bạn tôi gọi vào dịch vụ ‘Dial a Prayer’ - Gọi để nghe lời cầu nguyện (hệ thống điện thoại trả lời tự động chạy những đoạn ghi âm lời cầu nguyện cho bất kỳ ai gọi đến) để xem có tin nhắn nào cho mình không!” Làm vậy là hơi quá, nhưng nó bày tỏ tình cảm của ông ấy cách cụ thể nhất.

Chúa Giê-su Christ không chỉ xây dựng Hội Thánh của Ngài giống như nơi Ngài ngự, mà Ngài xây dựng cả đời sống của con dân Ngài nữa. Khi Anh-rê đem anh mình là Si-môn đến với Chúa Giê-su, ông không hề ngạc nhiên khi nghe Chúa ban cho Si-môn một cái tên mới – là Phi-e-rơ (Tiếng Hy Lạp), hoặc Sê-pha (Tiếng A-ram của vùng Cận Đông ) cả hai đều có nghĩa là “đá” (Giăng 1:42). Vào thời điểm đó trong cuộc đời, Si-môn chẳng là gì mà chỉ như một cục đất sét thôi! Nhưng ba năm sau đó, Chúa Giê-su đã biến cục đất sét được gọi là Si-môn trở thành Phi-e-rơ, hòn đá. Ông cần phải chịu được sức nóng, áp suất nhưng ông đã vượt qua được –và không dừng lại ở đó. Ông được Chúa biến đổi từ một hòn đá thô sơ thành một viên đá quí (Khải Huyền 21:14, 19).

Page 51: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Một Cơ Đốc Nhân hiện đại, thiếu kiên nhẫn thường muốn tăng trưởng thuộc linh ngay lập tức. Xét cho cùng thì chúng ta lấy những món ăn nhanh từ trong lò vi sóng và trong tủ lạnh, dữ liệu tức thời từ các máy vi tính, và những bức ảnh chụp nhanh từ trong máy ảnh của mình. Tại sao chúng ta không trở thành những người yêu mến Đấng Christ ngay lập tức khi tham gia vào các lớp học Kinh Thánh? Bởi vì phải mất thời gian thì mới có thể biến đổi từ đất sét thành đá và từ đá trở thành đá quí. Bạn có thể chế tạo trang sức nhân tạo trong một máy nén cường độ cao, nhưng bạn không thể sản xuất ra các thánh đồ cũng với cách đó. Bạn có thể tăng tốc độ của một máy bay hay ô tô nhưng bạn không thể đẩy nhanh tốc độ phát triển của một cây sồi hay là tốc độ tạo nên một người giống như Chúa Giê-su.

Chúa Giê-su Christ là Thợ Cả. Ngài đang xây dựng Hội Thánh của Ngài và xây dựng đời sống của con cái Ngài. Ngài đang tẩy rửa sạch sẽ và đánh bóng những hòn đá sống để làm chúng trở nên hữu ích hơn và đẹp hơn. Ngài sắp đặt cho chúng ta vào trong chức vụ và hầu việc Ngài từ nay cho đến cõi đời đời vô cùng.

3. Các Tín Hữu Là Thợ Xây

Là những “hòn đá sống” các tín hữu có mối liên hệ với nhau cũng như với Chúa Giê-su Christ. Ngài không chỉ là một Thợ Xây, mà Ngài còn là nền (I Cô-rinh-tô 3:10-11) và là đá góc nhà, đền thờ mà Ngài đang xây dựng là dành cho cõi đời đời (Ê-phê-sô 2:20-22). Ngài đặt mỗi viên đá vào đúng chỗ của nó. Và nếu như viên đá đó rời khỏi chỗ đã đặt, viên đá đó sẽ làm ảnh hưởng đến người khác.

Nhưng hãy nhớ rằng chúng ta là “những hòn đá sống” và chúng ta có ảnh hưởng lên những người khác nữa. Tân Ước sử dụng từ edify (gây dựng) để miêu tả sự ảnh hưởng này. Từ này bắt nguồn từ tiếng La-tinh edifico có nghĩa là “gây dựng, xây dựng”. Khi các Cơ Đốc Nhân gây dựng một người khác, họ sẽ gây dựng một người khác nữa và làm cho Hội Thánh vững mạnh.

Làm sao mà một “hòn đá sống” có thể gây dựng một người khác? Phao-lô đã đưa ra rất nhiều lời khuyên cho nhiều người, ông chính là một thợ xây bậc thầy (I Cô-rinh-tô 3:10) để giúp trả lời câu hỏi đó.

Chúng ta giúp gây dựng người khác khi chúng ta thực hành yêu thương tất cả mọi người như chúng ta vẫn nói và làm. Những tín hữu người Cô-rinh-tô rất tự hào về sự “hiểu biết” của họ về thuộc linh (I Cô-rinh-tô 1:4-5), nhưng họ lợi dụng sự hiểu biết đó để công kích lẫn nhau, chứ chẳng phải để giúp đỡ nhau. Thật đúng như câu Kinh Thánh, “Sự hay biết sanh kiêu căng.” (I Cô-rinh-tô 8:1). Tín hữu nào nghĩ rằng anh ta “biết tuốt” và độc chiếm mọi buổi học thảo luận Kinh Thánh hay những buổi họp hội đồng bồi linh chỉ chứng tỏ rằng anh ta kiêu ngạo và không biết gì về nhu cầu căn bản của chính anh ta là tình yêu thương của Cơ Đốc Nhân.

Tình yêu thương “gây dựng” bởi vì yêu thương thì chấp nhận người khác kể cả khi có những bất đồng. Tình yêu thương là kiên nhẫn và tử tế, tạo ra một bầu không khí mà ở nơi đó mọi người có thể hiểu nhau và giúp đỡ người khác. Tình yêu thương không thể so sánh hay đấu tranh mà có

Page 52: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

được. Tình yêu thương chỉ tìm kiếm những ai giúp nhau gây dựng và dâng vinh hiển về cho Chúa.

Chúng ta gây dựng người khác bằng một tấm gương thánh khiết (Rô-ma 14:1 -15:4). Hội Thánh Rô-ma bị chia rẽ vì tập kiêng ăn theo những ngày được chép trong Luật của Thánh Kinh Cựu Ước của người Do Thái. Những tín đồ yếu đuối, có thể là những người Do Thái đã biến đổi, cảm thấy bị ép buộc và bảo vệ Luật này; nhưng những tín hữu có đức tin mạnh mẽ, những người đã hiểu ân điển của Đức Chúa Trời, muốn thực hành điều đó theo sự tự do của họ trong Đấng Christ. Đây quả là một vấn đề nan giải!

Câu trả lời ư? Đầu tiên Phao-lô đưa ra lời khuyên cho những người có đức tin mạnh mẽ rằng đừng coi thường những người yếu hơn bởi sự tuân thủ luật pháp của họ giúp họ tiến gần đến đời sống của Cơ Đốc Nhân. Sau đó ông cảnh báo những tín đồ yếu hơn không được phán xét những người mạnh bởi vì họ tận hưởng sự tự do trong Đấng Christ. Nhưng sau đó khi ông đã nói chuyện với cả hai nhóm và cảnh cáo họ không được làm bất kỳ điều gì có thể gây vấp phạm cho người khác. Khi đó “hòn đá sống” sẽ không giúp đỡ người khác nữa mà anh ta bắt đầu gây cản trở cho họ bằng gương xấu của mình.

Vậy nên câu hỏi mà chúng ta hỏi về “những điều đáng ngờ” không phải là “Liệu tôi làm thế có an toàn không?” mà là “Nếu làm thế, điều đó có gây hại cho ai không?” Cơ Đốc Nhân trưởng thành có thể chấp nhận bỏ qua một vài quyền lợi của mình từ đó anh ấy bày tỏ tình yêu thương với người khác và giúp họ trưởng thành trong Chúa. Khi bốn đứa con của chúng tôi còn nhỏ, vợ tôi và tôi phải thật cẩn thận về những chỗ chúng tôi để dao và kéo và cả những chỗ chúng tôi đóng lại và khóa lại. Chúng tôi cất cẩn thận những loại sách báo tạp chí tránh khỏi những cặp mắt nhỏ bé.

Hãy nhớ rằng một Cơ Đốc Nhân trưởng thành “cho đi” đầy yêu thương đối với những Cơ Đốc Nhân yếu hơn để những Cơ Đốc Nhân yếu hơn đó được an toàn và được trưởng thành. Chúng ta không cho phép những anh chị em chưa trưởng thành trong Chúa ở cùng với những người khác cũng chưa trưởng thành. Mục đích của những lời khuyên mà Phao-lô đưa ra trong Rô-ma 14-15 là để giúp tín đồ yếu trở thành thánh đồ mạnh mẽ trong đức tin. Những tín đồ yếu thường thích như vậy, giống như những đứa trẻ nhỏ không trưởng thành và không chấp nhận những trách nhiệm mới.

Những tín hữu gây dựng lẫn nhau bằng lời nói của họ (Ê-phê-sô 4:29). Khi Đức Chúa Trời tạo dựng người nam và người nữ đầu tiên, Ngài ban cho họ một món quà tuyệt vời đó là lời nói, một món quà mà chúng ta thường cho đó là hiển nhiên. Phao-lô đã cảnh báo phải chống lại sự “gãy đổ mối thông công” giống như học giả người Hy Lạp Kenneth Wuest đã dịch là “mọi từ ngữ thối rữa, không thích hợp để sử dụng” (The New Testament: An Expanded Translation, Eerdmans, 1961). Những thứ bị thối rữa sẽ lây nhiễm sang những thứ khác, và sự thối rữa bắt đầu lan rộng. Một mẩu chuyện gẫu (ngồi lê đôi mách), một lời nói đùa thô tục, một tuyên bố thiếu yêu thương và thế là Sa-tan đến làm việc của nó.

Page 53: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Cách tốt nhất để giữ những lời nói của chúng ta khỏi bị thối rữa chính là phải “nêm thêm muối” (Cô-lô-se 4:6). Chúng ta không bao giờ nói rằng, “Này hãy nhận lấy một hạt muối!” Chúng ta phải nêm “muối” vào trong mỗi lời nói của mình bằng cách tuân giữ lời Chúa, và nói lẽ thật trong tình yêu thương (Ê-phê-sô 4:15), và chân thành tìm cách nói năng để gây dựng người khác. Chú ý cả Ê-phê-sô 4:29 và Cô-lô-se 4:6 có nhấn mạnh đến ơn nói năng. Chúng ta phải noi theo tấm gương của Chúa Cứu Thế và nhận ân điển Chúa tràn ra môi của mình (Thi Thiên 45:2).

Tôi là một giáo sư dạy Kinh Thánh trên đài phát thanh, và tôi nhận được rất nhiều thư, và tôi phải chấp nhận là một vài lá thư trong đó cần được nêm thêm muối. Mặt khác, những lá thư đó đã gây dựng cho tôi nhiều hơn là thông điệp của tôi trên đài gây dựng cho những thính giả đã viết thư. Đôi khi tôi được những mục sư, những nhà truyền giáo yêu Chúa hết lòng kể cho nghe về việc Đức Chúa Trời ban ơn phước cho họ trong việc nuôi dưỡng con dân Ngài ra sao. Những bức thư này gia thêm ơn cho tôi bởi vì chúng làm vinh hiển danh Chúa Giê-su Christ.

Chúng ta chắc chắn có thể gây dựng cho người khác bằng lời cầu nguyện của mình (Cô-lô-se 4:12). Tôi thích câu này trong bản Kinh Thánh New International Version dịch là: “chiến đấu không thôi trong khi cầu nguyện, để anh em trở nên toàn vẹn và trọn niềm vâng phục mọi ý muốn của Đức Chúa Trời.” Cầu nguyện có thể là một việc nặng nhọc. Đôi khi giống như bạn đang tham gia trong một trận chiến. Khi chúng ta cầu nguyện cho người khác, Thánh Linh của Chúa có thể hành động trong đời sống họ và gây dựng thêm cho đức tin. Họ sẽ biết ý muốn Chúa và vững vàng đi theo ý Ngài. Họ sẽ trưởng thành và có được sự đoan chắc trong mối thông công với Chúa.

Một trong những “công cụ” tốt nhất để gây dựng người khác chính là Lời Chúa (Công Vụ 20:32). Lời Chúa có thể làm chúng ta “khôn ngoan để được cứu” (II Ti-mô-thê 3:15; Gia-cơ 1:21), và khi chúng ta được cứu, Lời Chúa gây dựng cho chúng ta và làm cho chúng ta có sức sống thuộc linh mạnh mẽ. Đối với những tín hữu xem trọng Kinh Thánh và biến nó trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống, họ có một gia sản đang chờ đợi họ.

Vance Havner từng nói rằng “Một ngày kia khi đức tin sống động của những người đã chết trở thành đức tin chết của người đang sống, giống như nước Mỹ cần trở lại với hiến pháp thì Hội Thánh cần trở lại với thập tự và Kinh Thánh.”

Điều cuối cùng, chúng ta gây dựng một người khác bằng cách thực hành các ân tứ thuộc linh (I Cô-rinh-tô 14:12, 26). Một vài tín hữu Cô-rinh-tô nghĩ rằng ân tứ Thánh Linh là những món đồ chơi, vậy nên họ sử dụng chúng theo cách không đem lại sự gây dựng tâm linh và đem đến sự chia rẽ và hổ thẹn cho Hội Thánh. Mỗi tín hữu có ít nhất một ân tứ thuộc linh; và chúng ta là những người quản lý giỏi thì chúng ta phải sử dụng các ân tứ của mình trong quyền năng của Chúa và vì vinh hiển của Chúa (I Phi-e-rơ 4:10-11). “Hãy làm hết thảy cho được gây dựng.” (I Cô-rinh-tô 14:26).

Nếu mỗi thành viên của Hội Thánh địa phương khám phá, dốc sức trau dồi những ân tứ Thánh Linh của mình rồi sử dụng những ân tứ đó để dâng vinh hiển về cho Chúa thì chúng ta sẽ thấy

Page 54: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Hội Thánh của mình phát triển, và kinh nghiệm một sức sống mới. Theo như tôi đoán chỉ có khoảng 15% thành viên tính trung bình trong một Hội Thánh là thực sự sốt sắng hầu việc Chúa. Những người còn lại chỉ là khán giả, những người cổ vũ và những người hay chỉ trích. Đôi khi những người này lại nằm trong hàng ngũ lãnh đạo của Hội Thánh. Một khi đã được sắp xếp như vậy thì không có cơ hội cho người khác tham gia. Những người đó giữ chức vụ (nhưng không làm việc), và những người mới (nếu có bất kỳ ai mới đến với Hội Thánh) thì lại không được cho hầu việc. Cho dù chúng ta không thể thấy toàn bộ kiến trúc ngay lúc này thì Hội Thánh của Chúa Giê-su Christ trong thế gian này là một ngôi đền thờ vinh hiển mà Đức Chúa Trời đang xây. Là “những hòn đá” sống, trách nhiệm của chúng ta là tìm ra một công tác mà Đức Chúa Trời muốn chúng ta hầu việc và trung tín cho công việc đó. Chúng ta cũng có đặc quyền cầu nguyện và khích lệ “những hòn đá” sống khác ở nhiều nơi trên thế gian khi chúng ta cùng nhau gây dựng.

Bất kỳ ai cũng có thể sống hết đời mình và hợp tác với Sa-tan để phá đổ mọi thứ. Còn các Cơ Đốc Nhân đang hợp tác với Chúa Giê-su Christ để giúp Ngài xây dựng Hội Thánh, một Hội Thánh sẽ tồn tại đời đời.

7

Một Người Mắc Nợ Thomas Jefferson đã khuyến cáo đất nước ông rằng nợ công đang là “mối nguy hiểm lớn và đáng sợ nhất”. Ông chống lại nguyên tắc “tiêu tiền để thế hệ tương lai trả nợ” và gọi sự áp dụng đó là “mánh khóe lừa bịp thế hệ tương lai trên diện rộng”. Chúng ta băn khoăn về những gì mà Jefferson sẽ nói ra nếu như ông còn sống đến ngày nay và biết rằng mỗi công dân Mỹ đang nợ trên 10.000 USD bởi vì chính phủ không thể cân đối ngân sách. Và nếu như ông cộng thêm hàng tỷ đô-la liên quan đến các khoản nợ tín dụng chi tiêu cá nhân, thì ông Jefferson sẽ không nghi ngờ gì mà kết luận rằng cả thế hệ tương lai và hiện tại đang “bị lừa đảo” trên diện rộng.

Lẽ dĩ nhiên là bất kỳ ai đang mang nợ luôn phải viện đến câu châm ngôn cổ, “Rơi vào nợ nần không phải quá tệ -mà rơi vào tay chủ nợ nào mới thực sự phiền toái.” Tuy nhiên sau khi tiếng cười dần tắt, chúng ta phải thừa nhận rằng những món nợ luôn có cách để nô lệ hóa người mắc nợ và sau đó rút ruột những đồng tiền xương máu cuối cùng của họ.

Tuy nhiên những món nợ thuộc linh không phải là một gánh nặng, mà là ơn phước. Chúng ta trung tín trả nợ càng nhiều thì tiền lời mà chúng ta nhận được từ Chúa càng lớn. Đây có phải là một điều mâu thuẫn không? Dĩ nhiên rồi! Nhưng một mâu thuẫn thực tế như vậy lại đem đến những sự vui mừng tuyệt vời trong đời sống của một Cơ Đốc Nhân như bạn.

Trước khi chúng ta xem xét sáu món nợ thuộc linh mà mỗi Cơ Đốc Nhân phải trả, thì chúng ta phải nhắc nhở chính mình rằng sự cứu chuộc không phải là một món nợ. Sự cứu chuộc là một

Page 55: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

món quà miễn phí, đến từ Đức Chúa Trời và chỉ cần nhận như một món quà miễn phí mà thôi (Giăng 10:28-29 và 17:3; Rô-ma 5:15-18 và 6:23). Những người đang cố gắng tìm kiếm sự cứu chuộc bằng những việc lành của họ- thậm chí là những việc lành thuộc về tín ngưỡng của họ- không thực sự hiểu được phúc âm về ân điển của Đức Chúa Trời. Chính sự hiểu lầm đó gây cho dân tộc Y-sơ-ra-ên từ chối món quà cứu chuộc mà Đấng Christ ban cho họ (Rô-ma 9:30 -10:13). Sự cứu chuộc đến không phải bởi việc làm mà bởi ân điển, và lầm lẫn giữa hai điều này là cướp đi sự vinh hiển của Đức Chúa Trời và con người đánh mất sự cứu chuộc (Rô-ma 11:6; Ê-phê-sô 2:8-9).

1. Món Nợ Của Chúng Ta Đối Với Thế Gian Hư Mất (Rô-ma 1:13-17)

Một người Do Thái đã hỏi thầy mình rằng: “Tại sao cứ khi nào tôi hỏi một câu thì thầy luôn trả lời bằng một câu hỏi khác”. Thầy đáp rằng “Tại sao ta không được hỏi?”

Ca-in cố gắng đến gần Đức Chúa Trời. “Tôi là người giữ em tôi sao?” là cách trả lời của Ca-in nhằm lảng tránh câu hỏi của Chúa, “A-bên em ngươi ở đâu?” (Sáng Thế Ký 4:9). Cách trả lời như thế này cũng được nhiều người không thành thực ngày nay sử dụng khi họ muốn né tránh trách nhiệm. Lẽ dĩ nhiên, câu trả lời cho câu hỏi của Ca-in là, “Đúng thế, ngươi là người giữ em ngươi; cho đến chừng nào ngươi vẫn đủ sức giúp đỡ em mình”. Thấy người khác cần giúp đỡ mà mình không giúp họ là phạm tội (Gia-cơ 2:14-17; I Giăng 3:14-18).

Trong 3 đoạn đầu tiên của thư tín Rô-ma, Phao-lô đã biện luận đầy sức thuyết phục rằng mọi người đều là tội nhân bị hư mất và phải chịu đoán phạt trước Đức Chúa Trời thánh khiết. Tòa án cuối cùng này bao gồm cả dân ngoại đạo (1:18-32) cũng như là những tín đồ Do Thái giáo (2:1-3:8). Trong thực tế, toàn bộ thế gian đều đã phạm tội trước mặt Đức Chúa Trời (3:9-20). Đằng sau cái vẻ bề ngoài hiện đại được gọi là “nền văn minh” là một trái tim tội lỗi đang hoạt động để tìm cách chống nghịch lại Đức Chúa Trời.

Có một tin lành là Đức Chúa Trời đem sự cứu rỗi tới cho thế gian tội lỗi, và sứ điệp vinh dự này là đủ để khích lệ Hội Thánh của Chúa rao giảng Lời Ngài. Tình yêu thương của Đấng Christ cảm động Phao-lô (II Cô-rinh-tô 5:14) và niềm tin chắc chắn rằng Tin Lành thực sự có quyền phép (Rô-ma 1:16) của Phao-lô đã khích lệ Phao-lô rao giảng sứ điệp về ân điển khắp đế quốc La-mã. Một nhà văn khôi hài không tin Chúa từng nói rằng những nhà truyền giáo là “những người mộ đạo đang bị ngứa nên nhiều chuyện.” Nhưng miêu tả đó là không đúng và cũng chẳng hài hước. Truyền bá Phúc Âm và can thiệp vào đời tư của ai đó không giống nhau, vì nhà truyền giáo nhận được mạng lệnh là phải truyền rao Phúc Âm tới toàn thế giới (Ma-thi-ơ 28:19-20; Mác 16:15).

Chúng ta không thể trả “món nợ thuộc linh” này bằng cách đơn giản là dâng tiền cho công cuộc truyền giáo và cầu nguyện cho những nhà truyền giáo, cho dù là cả hai điều này đều quan trọng và cần thiết. Chúng ta phải tỏ mình ra là của lễ sống và thánh cho Đức Chúa Trời (Rô-ma 12:1-2), và sẵn lòng làm bất kỳ việc gì Ngài muốn chúng ta làm, và hãy bắt đầu điều đó từ ngôi nhà của chính bạn. Những nhà truyền giáo đầu tiên bắt đầu làm chứng ngay tại nhà ở Giê-ru-sa-lem

Page 56: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

và sau đó mở rộng phạm vi truyền giáo “cho đến tận cùng trái đất” (Công Vụ 1:8). Tiến sĩ Orwald J. Smith thường nói rằng “Ánh sáng chiếu đi xa nhất sẽ rực rỡ nhất tại chỗ nó.”

“Có phải con người ngày nay đang sống trong một thế gian bị hư mất?” chẳng còn là một câu hỏi mang tính lý thuyết cho những nhà thần học tranh cãi trong những tháp ngà nữa. Câu hỏi này là trọng tâm trong công cuộc truyền giáo của Hội Thánh và câu trả lời là, “Đúng vậy, tất cả những người không tin vào Đấng Christ đều sẽ bị hư mất.” Và bạn đang làm gì với việc này? Liệu bạn có đang trả món nợ là phải chia sẻ Phúc Âm cho người khác không?

2. Món Nợ Của Chúng Ta Với Chúa Thánh Linh (Rô-ma 8:12)

Những Cơ Đốc Nhân chẳng nợ những gì thuộc về “xác thịt”, vì đó là do bản tính cũ đã gây ra tội lỗi trong đời sống chúng ta (Ga-la-ti 5:19-21; Mác 7:20-23). Vậy xác thịt có làm được điều tốt gì cho chúng ta không? Bất cứ điều gì mà Kinh Thánh nói về xác thịt thường là xấu xa, và chúng ta tốt hơn cả là chấp nhận phán quyết đó. “Vả, tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi đâu, nghĩa là trong xác thịt tôi, bởi tôi có ý muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn.” (Rô-ma 7:18). “Ấy là thần linh làm cho sống, xác thịt chẳng ích chi.” (Giăng 6:63). “Vì chúng ta… không để lòng tin cậy trong xác thịt bao giờ.” (Phi-líp 3:3).

Món nợ của chúng ta là món nợ với Đức Thánh Linh ngự trong chúng ta và biến thân thể chúng ta trở thành đền thờ Ngài (I Cô-rinh-tô 6:19-20). Hãy nghĩ về điều mà Đức Thánh Linh đã làm cho mọi con cái của Đức Chúa Trời! Ngài mang Con Đức Chúa Trời đến thế gian thông qua lòng trinh nữ Ma-ri (Lu-ca 1:34-35; Ê-sai 7:14), ban quyền năng và giúp đỡ Chúa Con trong chức vụ (Lu-ca 4:1,18), thêm sức cho Chúa Con khi Ngài chết trên cây thập tự vì tội nhân (Hê-bơ-rơ 9:14). Đức Thánh Linh cảm động các sứ đồ viết ra Lời Chúa (II Phi-e-rơ 1:21; II Ti-mô-thê 3:16) và sau đó sử dụng Lời Chúa cáo trách tội lỗi chúng ta và bày tỏ Đấng Cứu Thế (Giăng 16:7-11). Khi chúng ta tin vào Đức Chúa Giê-su Christ, Đức Thánh Linh sẽ ngự trong mỗi chúng ta và ban cho chúng ta sự đảm bảo rằng chúng ta là con cái của Chúa (Rô-ma 8:14-16). Ngài dạy Lời Chúa cho chúng ta và làm ta tuân giữ Lời Chúa (Giăng 14:26). Ngài cho chúng ta sự hướng dẫn khi cầu nguyện (Rô-ma 8:26-27), và Ngài thêm sức cho chúng ta làm chứng về Đấng Christ (Công Vụ 1:8).

Ơn của Ngài lớn như vậy thì chúng ta có bổn phận phải làm gì cho Đức Thánh Linh đây! Làm thế nào chúng ta có thể trả món nợ lớn này? Hãy dâng hiến chính mình cho những điều là quan trọng đối với Đức Thánh Linh.

Vì một điều thôi, chúng ta phải tìm kiếm sự vinh hiển của Đấng Christ, bởi vì đó là chức vụ chính của Đức Thánh Linh. Chúa Giê-su nói rằng, “Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh ta.” (Giăng 16:14). Đức Thánh Linh không làm rạng danh của mình mà Ngài luôn hướng về Con Đức Chúa Trời. Bất kỳ công tác tốt đẹp nào của Thánh Linh sẽ luôn luôn mang lại vinh hiển cho Chúa Giê-su Christ.

Page 57: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Vì Thánh Linh ngự trong chúng ta, chúng ta trả món nợ thuộc linh cho Ngài bằng cách chăm sóc tốt thân thể mình tức đền thờ Ngài. Điều này có nghĩa là sống một đời sống lìa xa tội lỗi và đầu phục Đức Chúa Trời (II Cô-rinh-tô 6:14-7:1).

Đức Thánh Linh đã viết Lời Chúa, và chủ đề chính trong Lời Chúa là Chúa Giê-su Christ. Vì thế khi chúng ta dành thời gian đọc Kinh Thánh và suy gẫm về những lẽ thật trong Kinh Thánh là chúng ta đang làm Thánh Linh vui lòng và trả món nợ cho Ngài. Cùng lúc đó, chúng ta để Đức Thánh Linh biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta trở nên giống Chúa Giê-su Christ hơn (II Cô-rinh-tô 3:18).

Thêm sức cho các tín hữu làm chứng cho những tội nhân bị hư mất là một chức vụ quan trọng khác của Thánh Linh (Lu-ca 24:45-49; Công Vụ 1:8). Khi chúng ta đầu phục Đức Thánh Linh và kinh nghiệm về sự đầy dẫy Thánh Linh, chúng ta khám phá ra sức mạnh mà chúng ta cần để chia sẻ Phúc Âm. Nhưng nếu chúng ta từ chối nói về Đấng Christ tức là chúng ta làm buồn lòng Thánh Linh và chúng ta không trả được món nợ thuộc linh.

Chúng ta có thể chẳng bao giờ trả đủ cho Đức Thánh Linh vì tất cả những ơn phước mà Ngài đã mang đến cho đời sống chúng ta và cho Hội Thánh, nhưng chúng ta ít nhất cũng có thể biết được món nợ của mình và làm Ngài vui lòng.

3. Món Nợ Của Chúng Ta Đối Với Chính Quyền (Rô-ma 13:1-6)

Thực tế là chúng ta có quyền công dân thiên quốc nên chúng ta phải là những công dân tốt hơn trên thế gian này, cho dù chúng ta có sống dưới hình thức nhà nước nào chăng nữa. Xét cho cùng, khi Phao-lô viết Rô-ma 13, Nê-rô là hoàng đế La Mã. “Phải trả cho mọi người điều mình đã mắc” (câu 7) có ý rằng chúng ta có một món nợ đối với chính quyền. Sử gia nổi tiếng của nước Anh là Huân tước Acton nói rằng, “Cơ Đốc Giáo không đem đến một hình thức chính phủ mới, mà đem đến một tinh thần mới, tinh thần này biến đổi hoàn toàn những cái cũ.” Martin Luther gọi chính quyền là, “dấu hiệu của ơn phước Chúa.”

Khi Phao-lô nói rằng, “các quyền đều do Đức Chúa Trời chỉ định” không có ý rằng Đức Chúa Trời chịu trách nhiệm về bầu cử hoặc bổ nhiệm mọi quan chức chính phủ. Chắc chắn Chúa là Đấng Tối Cao và có thể làm mọi điều Ngài vừa ý với một đất nước (Đa-ni-ên 4:17; Giăng 19:11; Công Vụ 17:25-28). Cụm từ này có nghĩa là chính phủ cầm quyền đó được lập nên bởi Đức Chúa Trời, vậy nên quan chức chính phủ chính là các “chức việc của Đức Chúa Trời” (Rô-ma 13:4,6). Vì vậy, người ấy đáng được tôn trọng và tuân theo. Chúng ta có thể không tôn trọng người đó nhưng chúng ta phải tôn trọng chức vụ của người đó (Xem I Phi-e-rơ 2:11-17 có một đoạn tương tự.)

Mục đích của chính phủ là để bảo vệ và khen thưởng người tốt và trừng phạt kẻ xấu. Chính phủ nào không tôn trọng quyền con người và bảo vệ tự do của con người thì chắc chắn chống nghịch lại ý muốn của Đức Chúa Trời. Các công dân là Cơ Đốc Nhân phải làm đúng với lương tâm mình, cho dù họ phải chống lại luật pháp (Công Vụ 4:18-20 và 5:29). Có thể bày tỏ sự tôn trọng

Page 58: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

với các bậc cầm quyền cùng lúc với sự bất tuân theo họ là một điều sai trái. Tuy nhiên, chúng ta phải chắc chắn là chúng ta làm đúng theo Lời Chúa chứ không phải chỉ là “theo ý riêng” khi chúng ta chống lại luật pháp.

Cơ Đốc Nhân mắc nợ với chính phủ bởi vì nhà cầm quyền này được Chúa bổ nhiệm và bởi vì các quan chức chính phủ cầm gươm và trừng phạt những ai phá luật (Rô-ma 13:1-4). Chúng ta nên tuân theo lương tâm (Rô-ma 13:5-7) bởi vì một ngày kia chúng ta sẽ phải trả lời Đấng cầm quyền cao hơn. Điều này có nghĩa là các Cơ Đốc Nhân phải đóng thuế và nộp giấy khai thuế thành thật. Điều này cũng có nghĩa là họ vui lòng làm chứng cho Chúa, tuân theo mọi luật lệ và quy định mà những luật này không làm trái lương tâm của một Cơ Đốc Nhân. “Hãy ăn ở như người tự do, nhưng chớ dùng tự do làm cái màn che sự hung ác, song phải coi mình là tôi mọi Đức Chúa Trời. Hãy kính mọi người; yêu anh em; kính sợ Đức Chúa Trời; tôn trọng vua.” (I Phi-e-rơ 2:16-17).

4. Món Nợ Của Chúng Ta Đối Với Hàng Xóm (Rô-ma 13:8-10)

“Đừng mắc nợ ai chi hết, chỉ mắc nợ nhau về sự yêu thương mà thôi.” Câu này không cấm chúng ta mượn tiền để kinh doanh thông thường, cũng như không cấm sử dụng tín dụng một cách trung thực. Chúa Giê-su đã giải thích rõ trong hai thí dụ của Ngài (Ma-thi-ơ 25:14-30; Lu-ca 19:11-27). Phao-lô đang muốn nói rằng, “Món nợ lớn nhất của bạn là nợ yêu thương –đừng thiếu nợ yêu thương!” Nếu như chúng ta trung tín trả nợ yêu thương, thì thế gian sẽ trở nên tốt hơn, Hội Thánh sẽ có một lời làm chứng mạnh mẽ hơn, và Đức Chúa Trời sẽ nhận được nhiều vinh hiển hơn nữa.

Luật pháp là cần thiết, và chính phủ cũng cần thiết để buộc mọi người phải tuân theo luật pháp; nhưng các Cơ Đốc Nhân không phải tuân theo luật vì sợ bị phạt. Chúng ta tuân theo luật vì chúng ta yêu người khác. Cũng theo nghĩa đó, tình yêu thương làm trọn luật pháp. Khi bạn yêu thương mọi người, bạn không muốn nói dối họ, ăn trộm đồ của họ, hay giết chết họ. Ước muốn duy nhất của bạn là làm điều tốt cho họ.

Mạng lệnh đầu tiên đó là bạn phải yêu mến Đức Chúa Trời; thứ hai là bạn phải yêu kẻ lân cận như mình (Mác 12:28-31); và thứ ba là bạn phải tuân giữ cả hai điều trên. “Ví có ai nói rằng: Ta yêu Đức Chúa Trời mà lại ghét anh em mình thì là kẻ nói dối” (I Giăng 4:20). Chúng ta có thể luôn cố gắng né tránh vấn đề theo cách mà thầy dạy luật đã hỏi Chúa Giê-su, “Ai là người lân cận tôi?” (Lu-ca 10:25-37). Đây là một “thủ đoạn tranh luận” cũ bằng cách này bạn thách thức đối thủ đưa ra định nghĩa về thuật ngữ của họ, trong lúc đó bạn cố tìm cách thoát khỏi tình huống. Trong câu chuyện dụ ngôn về Người Sa-ma-ri Nhân Lành, Chúa Giê-su đã dồn thầy dạy luật vào chân tường bằng cách chỉ ra câu hỏi đơn giản chẳng phải là, “Ai là người lân cận tôi?” mà phải là, “Tôi có thể trở thành người lân cận của ai?” Đó là sự khác biệt.

Một vài người sống trong sự ham muốn và làm mọi điều mà họ muốn cho dù điều họ làm gây tổn hại cho người khác. Những người khác sống theo luật pháp và làm theo luật pháp một cách chính xác. Nhưng Cơ Đốc Nhân sống bởi sự yêu thương và tìm kiếm sự vinh hiển về cho Đức

Page 59: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Chúa Trời bằng cách giúp đỡ người khác. Có thể có những trường hợp trong cuộc sống mà ngay cả những đạo luật tốt nhất cũng không bao quát được, nhưng tình yêu thương thì luôn luôn được cập nhật và đưa ra câu trả lời đúng. Chắc chắn là, thực hành tình yêu thương sẽ mất đi vài thứ, và đưa ra những quyết định đúng đắn luôn luôn không dễ. Có những lúc chúng ta thấy an toàn hơn nếu tránh xa những người lân cận và giả vờ như chúng ta không biết nhu cầu của họ; nhưng có những thời điểm mà tình yêu thương phát triển tốt nhất. Không phải tất cả các giải pháp đối với các vấn đề của cuộc sống luôn tinh tế, gọn gàng, nhưng tình yêu thương có thể luôn làm cho những vấn đề đó trở nên dễ dàng hơn và hạnh phúc hơn.

Vậy loại tình yêu thương hy sinh này đến từ đâu?

“Sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta” (Rô-ma 5:5, NIV). “Nhưng bông trái của Thánh Linh ấy là tình yêu thương” (Ga-la-ti 5:17). Tình yêu thương của Cơ Đốc Nhân không phải là cảm xúc mà chúng ta có thể mở và tắt như sóng vô tuyến, mà chỉ có thể khám phá ra nó khi năng lượng ở mức thấp. Tình yêu thương của Cơ Đốc Nhân đơn giản là đối đãi với người khác theo cách Đức Chúa Trời đối đãi với chúng ta, và chúng ta làm điều này nhờ sức của Chúa Thánh Linh. Theo quan điểm đó, chính Chúa Giê-su Christ ở trong chúng ta yêu thương người khác thông qua chúng ta, khi chúng ta đầu phục Ngài.

Tình yêu thương của Cơ Đốc Nhân phải được thực hành; không thể chỉ bằng lời nói mà tình yêu thương cần được thể hiện bằng hành động. Tình yêu thương của Cơ Đốc Nhân phải do đích thân chúng ta làm, chúng ta không thể chăm sóc ai đó nhờ sự ủy thác. Chắc chắn là chúng ta không ở mọi nơi vậy nên chúng ta có thể hỗ trợ những người sống trong sự nghèo túng cùng quẫn của thế gian. Nhưng chúng ta cũng đừng tự lừa dối chính mình rằng sự hiến tặng của chúng ta cho công việc Chúa ở đâu đó có thể thay thế cho sự bày tỏ tình yêu thương nơi chúng ta ở. George MacDonald đã viết, “Bày tỏ tình yêu thương với những người lân cận là cánh cửa duy nhất ra khỏi hầm ngục của chính mình.” Đây là một món nợ mà chúng ta phải trả liên tục và cám ơn Đức Chúa Trời vì đặc ân này.

5. Món Nợ Của Chúng Ta Với Một Cơ Đốc Nhân Yếu Đuối Hơn (Rô-ma 14:1-15:13)

“Vậy chúng ta là kẻ mạnh, phải gánh vác sự yếu đuối cho những kẻ kém sức” (15:1). Đây là một bổn phận trang trọng và rõ ràng, nhưng ai là “kẻ mạnh”, và ai là “kẻ kém sức” và làm thế nào “kẻ mạnh” lại phải đi trả món nợ cho “kẻ kém sức”?

Hội các Cơ Đốc Nhân (Hội Thánh) ở Rô-ma bị chia rẽ vì tuân theo những ngày đặc biệt và tuân theo sự kiêng ăn đặc biệt. Có vẻ như sự chia rẽ này có nguồn gốc từ dân tộc và chủng tộc bởi vì những tín hữu người Do Thái do dự thay đổi phong tục tín ngưỡng của họ. Không giống như dân ngoại, các Cơ Đốc Nhân người Do Thái đã quen với việc giữ ngày Sa-bát, tuân theo luật ăn kiêng, và tổ chức những lễ hội thường niên (Lê-vi Ký 23). Đây là một khó khăn cho dân Do Thái khi họ phải vượt qua cái ách của luật Cựu Ước và bước vào sự tự do trong ân điển của Đức Chúa Trời. Điều này cũng gây ra nan đề trong các Hội Thánh.

Page 60: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Những Cơ Đốc Nhân “mạnh” ở Rô-ma là những người tin vào Lời hứa và nhận được địa vị tuyệt vời của họ trong Chúa Giê-su Christ. Họ vui mừng vì họ không còn ở dưới luật pháp, rằng Chúa Giê-su Christ đã đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu của luật pháp, và bởi đó địa vị của họ trước mặt Đức Chúa Trời là hoàn toàn bởi ân điển. Những người này mạnh mẽ cả về đức tin và lương tâm họ bởi họ tin vào Lời Chúa và làm theo Lời Ngài.

Những Cơ Đốc Nhân “yếu” được cứu là những người gặp khó khăn khi chấp nhận sự tự do trong Đấng Christ. Họ vẫn bị giới hạn trong trí óc và lương tâm mình bởi những truyền thống của tôn giáo cũ. Và bởi vậy nên lương tâm của họ không đủ mạnh mẽ để bước ra khỏi sự an toàn của luật pháp và bước vào sự tự do bởi ân điển.

Không may là một vài thánh đồ “mạnh” lại xem thường những người anh chị em “yếu” của mình vì họ chưa trưởng thành. Họ tranh cãi với những người “yếu” và hy vọng rằng làm vậy với những người này sẽ làm họ trưởng thành hơn trong đời sống của Cơ Đốc Nhân. Những tín hữu “yếu” buộc tội những “kẻ mạnh” vì bỏ luật pháp của Đức Chúa Trời và nêu gương xấu cho người khác, và những tín hữu “mạnh” lại cười những người “yếu” vì theo luật ăn kiêng và kỷ niệm những ngày thánh. Đây là một tình huống tồi tệ và cả hai nhóm đều sai.

Chúng ta cũng có tình huống tương tự ở trong Hội Thánh ngày nay, ngoại trừ những vấn đề hay gây tranh cãi khác với thời đó: thời trang (tóc và quần áo), trò giải trí, các hoạt động vào ngày Chúa Nhật, sự tách biệt khỏi thế gian và ở một vài nơi, thậm chí cả âm nhạc và các bản dịch Kinh Thánh cũng gây tranh cãi. Những Cơ Đốc Nhân mạnh mẽ thì bảo vệ cho sự tự do của họ, còn những người yếu thì cho rằng cái gọi là sự tự do đó chẳng có ý nghĩa gì chỉ đem lại hỗn loạn và bội đạo.

Làm sao bạn giải quyết được vấn đề này? Chắc chắn là không phải bằng cách đưa ra một luật mới và khăng khăng bắt mọi người tuân theo đâu! Không quan trọng bạn bảo vệ phía nào, bạn sẽ chỉ làm cho phía kia xa lánh và làm cho sự chia rẽ trở nên tồi tệ hơn.

Phao-lô đã giải quyết vấn đề này bằng cách nhấn mạnh uy quyền của Chúa Giê-su Christ và mối thông công của tín hữu với Ngài. Nếu thực Chúa Giê-su là Chúa của đời sống bạn, thì chúng ta là những tín hữu riêng rẽ có thể sống hòa thuận cùng nhau bất chấp sự khác biệt.

Phao-lô chia sẻ ba bước đơn giản cho tất cả bọn họ để làm theo: (1) tiếp lẫn nhau bởi vì Đấng Christ đã tiếp nhận anh em 14:1-12 (2) gây dựng lẫn nhau, đừng phá đổ nhau 14:13-23 và (3) tìm cách làm đẹp lòng nhau như bạn làm đẹp lòng Đấng Christ, 15:1-7. Trong đoạn 15:1, Phao-lô nói rõ rằng chính Cơ Đốc Nhân mạnh mẽ phải chịu trách nhiệm lớn hơn. Tín đồ nào mạnh hơn phải tìm cách giúp anh em yếu hơn trưởng thành trong đức tin để người đó trở nên mạnh và có thể làm người khác mạnh mẽ hơn. Sự khác biệt của họ không phải là một bài kiểm tra mối thông công, tư cách thành viên Hội Thánh, hay tâm linh. Đúng hơn, thì những khác biệt riêng của họ phải được xem như là những cơ hội để cho cả hai phía thực hành một tình yêu thương nhẫn nại vì vinh hiển của Đức Chúa Trời.

Page 61: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Giá như con dân của Chúa không coi trọng điều nhỏ thì rất nhiều cuộc tranh cãi vô ích trong nhà thờ đã không xảy ra và sự chia rẽ trong Hội Thánh được ngăn chặn! Chúng ta có một món nợ phải trả cho người khác, tiếp nhận nhau và gánh vác sự yếu đuối cho nhau trong tình yêu thương, bao gồm cả những khác biệt nhỏ để chúng ta có thể suy nghĩ đến đời sống Cơ Đốc Nhân. Thánh Augustine đã nói rất đầy đủ: “Trong lúc cần thiết thì hiệp một; khi không cần thiết, thì tự do; trong mọi sự hãy khoan dung.”

6. Món Nợ Của Chúng Ta Với Dân Do Thái (Rô-ma 15:25-29)

Trong hành trình truyền giáo lần thứ 3 của mình, Phao-lô đã dành nhiều thời gian và công sức đến thăm các Hội Thánh dân ngoại mà ông đã thành lập và khích lệ họ quyên tiền dâng hiến đặc biệt dành cho những thánh đồ là người Do Thái nghèo ở Giê-ru-sa-lem. Số tiền dâng này mang nhiều ý nghĩa hơn là cứu tế cho người Do Thái nghèo túng cho dù việc cứu tế này là tối cần thiết. Số tiền này cũng là bằng chứng của một Hội Thánh hòa hợp –giữa người Do Thái và dân ngoại và là một cơ hội tuyệt vời để cho những Hội Thánh dân ngoại bày tỏ tình yêu thương của họ và lòng biết ơn của họ đối với những anh chị em trong Chúa là người Do Thái. (Xem Công Vụ 24:17; II Cô-rinh-tô 8-9).

Lập luận của Phao-lô rất rõ ràng. Người Do Thái mang đến cho dân ngoại những ơn phước thuộc linh, vậy nên dân ngoại là những kẻ mắc nợ người Do Thái và cách tốt nhất để trả món nợ này là chia sẻ về vật chất. Phao-lô đã sử dụng một ý tưởng giống như vậy trong sách Ga-la-ti 6:6-10 trong đoạn này ông đã thảo luận về việc dâng tặng của cải trong Hội Thánh địa phương.

Chắc chắn là dân ngoại mắc nợ dân Do Thái! Người dân Y-sơ-ra-ên đã đem đến thế gian hay thờ hình tượng này sự hiểu biết về một Đức Chúa Trời có thật. Họ đem đến thế gian đầy mê tín này cuốn Kinh Thánh, Lời Chúa; và dân Do Thái đã đem đến thế gian tội lỗi này một món quà lớn nhất, quý giá nhất đó là Chúa Giê-su Christ là Đấng Cứu Thế. Những Cơ Đốc Nhân đầu tiên chính là người Do Thái, và những nhà truyền giáo đầu tiên cũng chính là người Do Thái. Nếu như không có sứ đồ Phao-lô, một người Do Thái, thì sứ điệp cứu rỗi sẽ chẳng được rao truyền cho dân ngoại ở đế quốc La Mã, và từ đó lan đi khắp thế gian.

Tổng thống Ulysees Grant đã gọi những người Do Thái là một dân tộc “không thể chịu đựng nổi và phiền toái” nhưng tổng thống John Quincy Adams đã nói sự thực khi ông nói rằng, “Dân Hê-bơ-rơ đã làm được nhiều hơn cho nền văn minh của con người hơn bất kỳ quốc gia nào.” Đó là món nợ lớn của chúng ta đối với dân Y-sơ-ra-ên!

Làm thế nào chúng ta trả được món nợ này? Có lẽ bước đầu tiên là gạt bỏ định kiến và chấp nhận rằng dân Do Thái –gồm cả những người được cứu và chưa được cứu –là dân thuộc riêng về Chúa (dân được Chúa yêu quý đặc biệt) (Xuất Ê-díp-tô 19:5). Trong trái tim của mỗi Cơ Đốc Nhân không có chỗ cho tư tưởng bài Do Thái. Nhà văn Mark Twain gọi những người có tư tưởng bài bác Do Thái là những người có trí óc thấp kém và đầy tự cao, đố kỵ. Đây là một định nghĩa tuyệt vời. Chúa Cứu Thế của chúng ta là người Do Thái và cuốn Kinh Thánh của chúng ta là một cuốn

Page 62: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

sách của người Do Thái. Thật mâu thuẫn nếu các Cơ Đốc Nhân tuyên bố mình yêu Đấng Christ và Kinh Thánh trong khi đó lại có định kiến chống lại người Do Thái.

Điều này không có nghĩa là chúng ta phải đồng ý mọi điều dân Do Thái làm và nói. Chúng ta cũng không cần phải quan tâm đến câu “trước là người Giu-đa” (Rô-ma 1:16; 2:6-11; 10:9-13) để làm mất sự cân bằng trong chức vụ. Điều này nghĩa là chúng ta nhận biết dân Do Thái là tuyển dân của Đức Chúa Trời và Ngài sẽ chẳng rời bỏ họ (Rô-ma 11) và Ngài đã chuẩn bị sẵn một tương lai tốt đẹp cho họ.

Điều này cũng có nghĩa là chúng ta phải cầu nguyện cho dân tộc Do Thái và đưa dắt họ đến với Đấng Christ (Rô-ma 10). Ngài sẽ ban phước cho ai chúc phước cho họ (Sáng Thế Ký 12:1-3). “Hãy cầu hòa bình cho Giê-ru-sa-lem; Phàm kẻ nào yêu mến ngươi sẽ được thới thạnh.” (Thi Thiên 122:6).

Những Cơ Đốc Nhân là dân ngoại có thể trả ơn cho dân tộc Y-sơ-ra-ên bằng cách chia sẻ tình yêu thương và tập giúp đỡ những người Do Thái lân cận với họ. Rất nhiều người Do Thái sống trong sợ hãi và họ lầm tưởng các Cơ Đốc Nhân là kẻ thù của họ. Dĩ nhiên là môt vài người Do Thái đánh đồng “Cơ Đốc Nhân” với “dân ngoại” và sự nhầm lẫn tai hại này làm nảy sinh những ác ý không mong muốn. Có nhiều cách để những tín hữu quan tâm chăm sóc những người bạn Do Thái của mình và cùng lúc đó chia sẻ tình yêu thương của Đấng Christ. Không cần thiết phải giảng cho họ nghe mọi lúc hoặc nhận chìm họ trong văn chương Cơ Đốc. Bằng cách bày tỏ tình yêu thương bằng hành động và trở thành “những sứ đồ sống” của Đấng Christ chúng ta có thể giành quyền được lắng nghe hơn là những gì họ đọc được.

Phao-lô xem “số tiền cứu tế” này giống như là một món nợ phải trả (Rô-ma 15:27), và cũng là một của lễ dâng lên cho Chúa. Tiếng Hy Lạp được chuyển ngữ là “minister” trong Rô-ma 15:27 nghĩa là “nghi thức tế lễ.” Trong Tiếng Anh từ này là từ “liturgy” (nghi thức tế lễ). Tiền dâng từ các Hội Thánh dân ngoại chính là một của lễ thuộc linh trên bàn thờ được dâng lên cho Chúa (Phi-líp 4:18).

Số tiền dâng này còn được gọi là “fruit” (quả phước) (15:28), chứ không phải là “của cải”. Các tín hữu dân ngoại không bắt buộc phải dâng hiến. Họ chia sẻ những gì họ có bởi vì sự sống của Đấng Christ ở trong họ. Cơ Đốc Nhân đầy dẫy Đức Thánh Linh ưa thích dâng hiến không phải do bị ép buộc hay để mua chuộc. Dâng hiến là một “quả phước” được sinh ra bởi sự dâng đời sống mình cho Đức Thánh Linh ngự trị.

Những món nợ tài chính có thể hủy hoại chúng ta, nhưng trả những món nợ thuộc linh sẽ làm chúng ta trở nên những Cơ Đốc Nhân tốt hơn và là những công dân hữu ích hơn. Chính bổn phận trả món nợ thuộc linh này đã thôi thúc Phao-lô trong cuộc đời ông và trong chức vụ của ông, và điều này cũng sẽ thôi thúc chúng ta.

“Tôi mắc nợ,” ông đã viết thế. “Tôi sẵn lòng rao Tin Lành. Tôi chẳng hổ thẹn về Tin Lành đâu.”

Page 63: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Liệu bạn sẽ trở thành một trong những con nợ tận tâm rao giảng Tin Lành cho Đức Chúa Trời chăng?

8

Một Người Lính

Trong Đội Quân Của Đức Chúa Trời Mục Sư Dwight L. Moody không muốn trưởng ca đoàn Ira Sankey sử dụng bài hát, “Tinh binh Giê-su tiến lên” trong các buổi truyền giảng Phúc Âm. Sankey có thể cho hội chúng hát bài “Hold the Fort, for I am coming” (Hãy giữ đồn, tôi sẽ viện binh) nhưng không phải là bài, “Tinh binh Giê-su tiến lên” (Onward Christian Soldiers). Tại sao lại như vậy? Ông Moody nghĩ rằng Hội Thánh mà ông biết trong thực tế không giống đội quân gồm các chiến binh của Đấng Christ, có lẽ là ông đúng.

Tuy nhiên, sứ đồ Phao-lô thường xuyên sử dụng hình ảnh quân đội trong các thư tín của mình và nhờ có những quân đoàn La Mã luôn hiện hữu thời đó mà những hình ảnh như thế này trở nên rất có ý nghĩa đối với những người nhận các thư tín của ông. Chắc chắn ngày nay những tín hữu sống trong các quốc gia độc tài chuyên chế là những người có thể hiểu rõ sự liên hệ này hơn là những tín hữu sống trong các quốc gia tự do.

Ông Moody là người có xuất thân từ phái Quakers và những người theo phái Quakers theo truyền thống không tham gia lực lượng vũ trang. Nhưng ngay cả Moody cũng phải chấp nhận rằng đã là một Cơ Đốc Nhân thì chắc chắn tham gia quân đội là điều mà Kinh Thánh đã dạy về Đức Chúa Trời và đời sống của Cơ Đốc Nhân. “Đức Giê-hô-va là một chiến sĩ,” chính Môi-se và dân chúng đã hát như vậy sau khi họ vượt qua Biển Đỏ (Xuất Ê-díp-tô Ký 15:3). Còn Đa-vít thì hát rằng: “Ấy là Đức Giê-hô-va có sức lực và quyền năng” và “Đức Giê-hô-va mạnh dạn trong chiến trận” (Thi Thiên 24:8). Thậm chí Đấng Cứu Thế của chúng ta được mô tả như một vị vua đắc thắng đang cưỡi con ngựa trắng. (Thi Thiên 45:3-7; Khải Huyền 19:11-21).

Lẽ dĩ nhiên chúng ta phải nhớ rằng cuộc chiến của Cơ Đốc Nhân là trong lãnh vực thuộc linh (Ê-phê-sô 6:10-12) và chúng ta nên sử dụng áo giáp và vũ khí thuộc linh trong trận chiến (Ê-phê-sô 6:13-18; II Cô-rinh-tô 10:3-5). Phi-e-rơ cố gắng sử dụng một thanh gươm để bảo vệ Chúa Giê-su, và Chúa Giê-su đã nghiêm khắc quở trách ông (Giăng 18:10-11). Tại lễ Ngũ Tuần, Phi-e-rơ đã sử dụng “gươm Thánh Linh” và biến 3000 quân địch trở thành những người anh em. Đó mới là cách để chúng ta chiến đấu.

Page 64: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Chúng ta sẽ phân tích một vài đề tựa và xem xét xem ngày nay để trở thành một người lính của Đấng Christ nghĩa là thế nào bằng cách sử dụng những lời khuyên của Phao-lô dành cho Ti-mô-thê làm cơ sở cho sự nghiên cứu của chúng ta.

1. Tuyển quân

Cho dù chúng ta có thích hay không, chúng ta đã được gọi nhập ngũ khi chúng ta tin Chúa Giê-su Christ là Đấng Cứu Thế và được sinh lại trong gia đình của Đức Chúa Trời. Mỗi người con của Đức Chúa Trời là một người lính trong đội quân của Đức Chúa Trời, dù cho người đó là lính giỏi hay kém. Trong thực tế, lần đề cập đầu tiên của Hội Thánh trong Tân Ước (Ma-thi-ơ 16:18) đã kể đến hình ảnh xung đột của quân đội: “các cửa âm phủ chẳng thắng được hội đó.” Đó là hình ảnh một đội quân đang công phá vào cổng thành và chinh phục thành phố.

Cổng thành là nơi giải quyết các vấn đề hành chính và là nơi chính quyền thành phố xử lý công việc (Ru-tơ 4:1; Phục truyền luật lệ ký 21:19); vậy nên Chúa Giê-su nói với Phi-e-rơ, “Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta.” (Từ “Hell” trong Tiếng Hy Lạp được dịch trong bản Kinh Thánh King James thành (hades) âm phủ, vùng đất của người chết; xem thêm Gióp 38:17 và Ê-sai 38:10). Là những thành viên trong quân đội của Chúa, chúng ta theo Tổng Tư Lệnh là người có “hết cả quyền phép” (Ma-thi-ơ 28:18) gồm cả quyền phép thắng cả Sa-tan, tội lỗi, sự chết và âm phủ.

Không lâu sau khi dân Y-sơ-ra-ên được đem ra khỏi xứ Ê-díp-tô, họ thấy chính mình đang đánh trận (Xuất Ê-díp-tô Ký 17:8-16). Cho dù họ có muốn hay không, họ đã là những người lính! Nhưng Đức Chúa Trời ban cho họ chiến thắng nhờ những lời cầu nguyện của Môi-se trên núi và sự lãnh đạo của Giô-suê trên chiến trường. Người dân Y-sơ-ra-ên học được một danh mới của Đức Chúa Trời, đó là “Giê-hô-va Ni-si” nghĩa là “Chúa là cờ xí của chúng tôi.” Cũng giống như Môi-se trên núi cầu thay cho dân Y-sơ-ra-ên, ngày nay Chúa Giê-su trên thiên đàng cũng đang cầu thay cho Hội Thánh của Ngài. Nhưng, không giống như Môi-se, Ngài chẳng bao giờ mệt mỏi, và lời cầu thay của Ngài chẳng bao giờ dứt (Hê-bơ-rơ 7:23-28).

Là một người lính của Đấng Christ, chúng ta theo một Tổng Tư Lệnh đã bị thế gian chối bỏ. Theo như những người chưa được cứu thì Giê-su Christ là một kẻ thua cuộc và không đáng cho họ theo. Các Cơ Đốc Nhân khá giống những người theo Đa-vít trong những năm tha hương và bị chối bỏ: “Phàm kẻ nào bị cùng khốn, kẻ nào mắc nợ, và những người có lòng bị sầu khổ cũng đều nhóm họp cùng người, và người làm đầu họ” (I Sa-mu-ên 22:2). Tổng Tư Lệnh của chúng ta đã ban cho chúng ta sự vui mừng trong khốn khó, sự miễn nợ trong khi nợ nần và sự thỏa lòng vô cùng khi chúng ta gặp bất bình; và chúng ta tìm thấy sự trải nghiệm phong phú, thú vị khi hiệp với Ngài.

Đã theo Chúa Giê-su Christ, thì không thể nào đứng trung lập. “Ai không ở với ta, thì nghịch cùng ta; ai không thâu hiệp với ta, thì tan ra” (Ma-thi-ơ 12:30). Tiếng gọi của Môi-se vẫn vang vọng, “Ai thuộc về Đức Giê-hô-va, hãy đến cùng ta đây!” (Xuất Ê-díp-tô 32:26).

Page 65: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

2. Ban Quyền Phép Cho Người Lính

Tự chúng ta không có sức mạnh, vì vậy chúng ta phải “cậy ân điển trong Đức Chúa Giê-su Christ mà làm cho mình mạnh mẽ” (II Ti-mô-thê 2:1). Điều này không có nghĩa là chúng ta lơ là sự luyện tập cơ bản và thao diễn, bởi vì mọi tín hữu đều muốn trở thành người giỏi nhất cho Chúa. Cụm từ “tập tành sự tin kính” (I Ti-mô-thê 4:7) gợi ý rằng người lính phải làm việc của mình nếu như muốn giữ được phong độ. Vấn đề là chúng ta không dựa trên sức mạnh, kinh nghiệm, sự thành thạo của chính mình. Chúng ta dựa vào ân điển của Chúa.

“Vì ngoài ta, các ngươi chẳng làm chi được” (Giăng 15:5). Tuyên bố này giải thích tại sao Tổng Tư Lệnh lại đưa chúng ta vào những “thao trường” khó khăn. Ngài muốn chúng ta khám phá ra chính bản thân chúng ta yếu đuối như thế nào. Ngài luôn biết điều đó nhưng vấn đề là chúng ta lại không biết. Bước đầu tiên hướng tới sự đắc thắng thuộc linh chỉ đơn giản là chấp nhận chính bản thân chúng ta với những gì Chúa đã nói trong Lời Ngài. Một khi chúng ta đã làm được điều đó, chúng ta có thể bắt đầu dựa vào ân điển của Đức Chúa Trời. Hãy nhớ rằng ân điển của Đức Chúa Trời sẽ chẳng hành động mà không cần chúng ta, hay là làm thay cho chúng ta; ân điển của Ngài hành động trong chúng ta và thông qua chúng ta. Chúng ta phải hợp tác bằng cách đầu phục Đức Chúa Trời và tin Ngài.

Đức Chúa Trời của chúng ta là “Đức Chúa Trời ban mọi ơn” (I Phi-e-rơ 5:10) và ngôi của Ngài là ngôi thi ân (Hê-bơ-rơ 4:16). Bởi vì chúng ta thuộc về Ngài, chúng ta có thể đến ngôi thi ân và xin sự giúp đỡ khi chúng ta cần. Oswald Chambers gọi ân điển là “ân huệ tràn đầy của Đức Chúa Trời” và đúng là như vậy. “Ngài lại ban cho ta ơn lớn hơn nữa” (Gia-cơ 4:6) –và Ngài luôn làm vậy!

Kẻ thù của chúng ta là Sa-tan không muốn chúng ta dựa vào ân điển của Đức Chúa Trời bởi vì điều này có nghĩa là hắn bị đánh bại luôn luôn. Sa-tan muốn chúng ta dựa vào nhau và chiến đấu với vũ khí của thế gian. Nhưng vũ khí mạnh mẽ của chúng ta là Lời Chúa và lời cầu nguyện (Công Vụ 6:4; Ê-phê-sô 6:17-18). Khi Sa-tan cám dỗ Chúa Giê-su ở nơi đồng vắng, Đấng Cứu Thế của chúng ta đã đánh bại nó bằng Lời Chúa (Ma-thi-ơ 4:1-11). Sa-tan, kẻ dối trá và lừa gạt; không thể đứng vững trước lẽ thật của Chúa.

Môi-se cố gắng đánh trận mà không dùng tới vũ khí của Chúa và ông thất bại thảm hại (Xuất Ê-díp-tô Ký 2:11-14). Chẳng có gì sai với trí óc của Môi-se (Công Vụ 7:22) hay tấm lòng của ông, nhưng ông đã sử dụng bàn tay mình làm những việc sai lầm nghiêm trọng. Đức Chúa Trời phải đưa ông vào đồng vắng chăn chiên 40 năm, chỉ để dạy ông làm thế nào để tin tưởng vào ân điển của Chúa.

Tín hữu cần ân điển của Đức Chúa Trời để có thể “chịu khổ như một người lính giỏi của Đức Chúa Giê-su Christ” (II Ti-mô-thê 2:3). Người ấy phải cậy quyền phép, không xấu hổ để trở thành một người “cậy quyền phép Đức Chúa Trời mà chịu khổ với Tin lành.” Người nào đào ngũ là chứng tỏ rằng anh ta thực sự chưa từng nhập ngũ; vì tất cả những người lính của Đức Chúa Trời, cho dù họ có thất bại, vẫn là những người đắc thắng (I Giăng 5:1-5).

Page 66: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Khi tôi làm Mục sư quản nhiệm tại Hội Thánh Moody ở Chicago, tôi thường nghe những người lớn tuổi nói về chức vụ của Mục Sư Paul Rader; ông ấy đã làm Mục sư quản nhiệm Hội Thánh từ năm 1915 đến năm 1921 và chứng kiến hàng nghìn người đến với Đấng Christ. Tôi bắt đầu đọc về ông Rader và thu thập những cuốn sách mà ông viết vẫn còn cho tới nay. Ông ấy thực sự là một diễn giả mạnh mẽ với cách bày tỏ lẽ thật Kinh Thánh thực sự đến được với mọi người.

Đây là điều mà ông đã nói về ân diển của Đức Chúa Trời: “Ân điển dư dật có nghĩa là không chỉ có một ân điển mà là có hàng ngàn ân điển sắp đến, cái này sau cái kia. Sự vui mừng mà bạn có sẽ nhân lên nhiều lần với sự vui mừng sắp đến, và sự đắc thắng bạn có trong Đấng Christ nhân lên nhiều lần với những cuộc chinh phục sắp đến.” Nếu như lẽ thật đó không giúp chúng ta trên chiến trường thì chúng ta cần phải tìm lại sức mạnh trong ân điển của Chúa!

“Vả lại, anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng của Ngài” (Ê-phê-sô 6:10).

3. Sự Khai Sáng Của Người Lính

Cẩm nang huấn luyện cho mỗi người lính Cơ Đốc chính là Lời Chúa. “Những điều con đã nghe nơi ta ở trước mặt nhiều người chứng, hãy giao phó cho mấy người trung thành, cũng có tài dạy dỗ kẻ khác” (II Ti-mô-thê 2:2).

Trong cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cu-ba vào tháng 10 năm 1962, Tổng thống Kennedy và nhân viên của ông đã làm hết sức để có thể ngăn chặn một cuộc chiến tranh với Nga. Trong cuộc khủng hoảng đó, bộ trưởng bộ quốc phòng là Robert McNamara đã hỏi một sĩ quan hải quân liệu có bất kỳ ai trên tàu của Mỹ có thể nói tiếng Nga không, phòng trường hợp một trong những con tàu của họ phải tấn công. Người sĩ quan đó rất khó chịu vì bất kỳ ai cũng hỏi về năng lực của hải quân để có thể giải quyết vấn đề trên biển. Ông nhắc McNamara rằng hải quân có một cuốn cẩm nang để hướng dẫn và nói cho họ chính xác cần phải làm gì trong mọi trường hợp khẩn cấp. Câu trả lời của McNamara là, “Tôi không quan tâm con tàu John Paul Jones có thể làm gì! Tôi muốn biết rằng ông dự định làm gì!”

Cẩm nang huấn luyện quân đội có thể trở nên lỗi thời, nhưng Lời Chúa thì không như vậy. “Hỡi Đức Giê-hô-va, lời Ngài được vững lập đời đời trên trời” (Thi Thiên 119:89). Chúng ta cần những bản dịch mới của Lời Chúa bởi vì ngôn ngữ thay đổi, nhưng chúng ta không cần một Lời Chúa mới. Đức Chúa Trời đã phán và lập nên Lời Chúa (Hê-bơ-rơ 1:1-2).

Bạn càng hiểu biết Kinh Thánh hơn, thì bạn càng biết rõ hơn về kẻ thù và mưu chước của nó khi nó tìm cách đánh bại bạn. Từ Sáng Thế Ký 3 cho tới Khải Huyền 20, đặc điểm của Sa-tan và những mưu chước xảo quyệt đã được giải thích rõ ràng, vậy nên không một người lính của Đấng Christ nào có thể lẫn lộn. Kẻ thù chẳng làm gì mới vì nó đã cám dỗ Ê-va; và tất cả những gì nó làm hiện nay cũng chỉ là những việc cũ trong một lớp vỏ bọc mới mà thôi.

Bạn càng hiểu biết Kinh Thánh nhiều hơn, thì bạn sẽ hiểu về chính mình và Đức Chúa Trời muốn làm gì cho bạn. Cũng như vậy, bạn càng biết về Đấng Cứu Thế nhiều hơn và điều mà Ngài

Page 67: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

có thể làm để giúp bạn trở thành một người đi chinh phục. Thánh Kinh là món quà Chúa ban cho bạn (Giăng 17:14) và tiếp đó là món quà của sự sống đời đời, đó là món quà quý nhất mà bạn sở hữu.

“Tôi yêu mến luật pháp Chúa biết bao!

Trọn ngày tôi suy gẫm luật pháp ấy

Các điều răn Chúa làm cho tôi khôn ngoan hơn kẻ thù nghịch tôi

Vì các điều răn ấy ở cùng tôi luôn luôn.” (Thi Thiên 119:97-98)

4. Sự Vướng Mắc Của Người Lính

“Khi một người đi ra trận, thì chẳng còn lấy việc đời lụy mình, làm vậy đặng đẹp lòng kẻ chiêu mộ mình.” (II Ti-mô-thê 2:4). Tôi đã đọc về một người lính trong cuộc Nội Chiến của Hoa Kỳ, người này từng là một thợ đồng hồ và ông kinh doanh ngay trong trại lính của mình, sửa chữa đồng hồ và kiếm thêm tiền. Một ngày kia tiếng kèn cất lên và trung đội của ông được lệnh di chuyển ngay lúc đó.

“Tôi không thể đi!” Người thợ đồng hồ than thở. “Tôi có quá nhiều việc phải làm và tôi không thể để mất khách!”

Trước khi chỉ trích ông ấy, hãy xem xét lại đời sống của chính mình và liệu xem chúng ta ở trong tình trạng nào khi nghe tiếng kèn thổi lên và những người lính của Đức Chúa Trời được gọi tên.

Chúa Giê-su nhấn mạnh toàn bộ trách nhiệm và cảnh báo rằng: “Chẳng ai được làm tôi hai chủ.” (Ma-thi-ơ 6:24). “Ấy là một người phân tâm, phàm làm việc gì đều không định” (Gia-cơ 1:8). Những người đàn ông và những người phụ nữ trong Kinh Thánh tức những người bị Chúa bắt phục chính là những người đã hết mình đối với Chúa, cho dù họ có những sai lầm, thất bại, họ vẫn cố gắng hết sức làm Ngài vui lòng. “Nhưng vì Đức Chúa Trời đã xét chúng tôi là xứng đáng giao cho việc giảng Tin lành, nên chúng tôi cứ nói, không phải để đẹp lòng loài người, nhưng để đẹp lòng Đức Chúa Trời, là Đấng dò xét lòng chúng tôi.” (I Tê-sa-lô-ni-ca 2:4, NIV).

Ý của Phao-lô là gì khi ông dùng cụm từ “việc đời” (những việc của đời này)? Có lẽ ông liên tưởng đến những việc tốt nhưng không quan trọng có thể làm cho người lính bị mất sự chú ý khỏi nhiệm vụ tuân lệnh và làm vui lòng Tổng Tư Lệnh. Trong mắt của Tổng Tư Lệnh, thì những “việc tốt” này kéo người lính đi xa khỏi những điều còn tốt hơn nữa và những điều tốt nhất.

Chính sự hai lòng đã khiến cho dân Y-sơ-ra-ên bị đánh bại tại thành A-hi ngay sau chiến thắng vĩ đại của họ tại Giê-ri-cô (Giô-suê 7). Giô-suê ra chỉ thị cho quân đội dâng toàn bộ chiến lợi phẩm cho Đức Chúa Trời lấy từ thành Giê-ri-cô nhưng A-can bất tuân lệnh. Ông có thấy trong của cướp “một cái áo choàng Si-nê-a tốt đẹp, hai trăm siếc-lơ bạc, và một nén vàng nặng năm mươi

Page 68: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

siếc-lơ” (Giô-suê 7:21), và ông đã lấy chúng, giấu dưới lều mình. Hậu quả là dân Y-sơ-ra-ên thất bại trong lần đầu tấn công thành A-hi và 36 người của họ đã bị giết.

Tiếng Hy Lạp đã chuyển ngữ “entangle” (vướng vào) còn có nghĩa là “bện, tết tóc.” Điều này nhắc chúng ta nhớ tới Sam-sôn, một chiến binh hùng mạnh, cuối cùng ông mất đi sức mạnh của mình vì ông dính vào một phụ nữ tội lỗi, người tết tóc cho ông và từ từ đẩy ông vào sự nhục nhã và bại trận (Các Quan Xét 16:4). Một điều tương tự cũng xảy ra với Lót, cháu của Áp-ra-ham: ông ngước mắt nhìn về phía thành Sô-đôm (Sáng Thế Ký 13:10) sau đó cắm trại hướng về thành Sô-đôm (Sáng Thế Ký 13:12) và cuối cùng chuyển về ở tại thành Sô-đôm (14:12). Từng chút từng chút một, ông bị vướng víu và không còn làm Chúa đẹp lòng; và hậu quả thật thảm khốc (Sáng Thế Ký 19:15-38).

Làm thế nào chúng ta có thể tránh khỏi bị vướng mắc bởi việc đời? Bằng cách làm Chúa Giê-su Christ đẹp lòng trong mọi hoạt động, mọi lời nói và động cơ của chúng ta. Chúng ta có nhiệm vụ phải “ăn, ở cách nào cho đẹp lòng Đức Chúa Trời” (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:1). Khi một người lính đưa ra quyết định, thì câu hỏi lớn đó không phải là “Làm vậy có an toàn không?” hay là “Làm vậy có được nổi tiếng không?” nhưng câu hỏi đó phải là “Làm như vậy đúng chưa? Đây có phải điều mà Tổng Tư Lệnh của chúng ta muốn ta làm hay không?” Nếu chúng ta bởi đức tin mà tuân lời Tổng Tư Lệnh của mình thì kết quả nằm trong tay của Ngài và chúng ta không có gì phải lo lắng cả.

Năm lần trong I Ti-mô-thê, Phao-lô dùng tiếng Hy Lạp parangello có nghĩa là “đưa ra một mệnh lệnh quân đội và mệnh lệnh đó cần phải được tuân thủ.” Trong I Ti-mô-thê 1:3 ông bảo với Ti-mô-thê là “bảo những người kia đừng truyền dạy một đạo giáo khác.” Trong I Ti-mô-thê 4:11, ông khuyên bảo Ti-mô-thê trai trẻ, “Kìa là điều con phải rao truyền và dạy dỗ.” Giống như một lãnh đạo thuộc linh trong Hội Thánh ông mong muốn truyền cho con dân của Chúa, “Lệnh hành quân.” “Hãy nhắc lại những điều đó cho họ, hầu cho họ không chỗ trách được” (I Ti-mô-thê 5:7). Truyền đạt mạng lệnh của Đức Chúa Trời xuống cho những người lính. “Ta khuyên con,” ông nhắc nhở Ti-mô-thê (6:13), và sau đó nói với ông rằng, “Hãy răn bảo kẻ giàu ở thế gian” (6:17).

Nói cách khác, Hội Thánh nên nhận mệnh lệnh của Đức Chúa Trời từ Lời Ngài, đó cũng là cách mà quân đội nhận lệnh từ chỉ huy của họ: với sự tôn trọng, cảnh giác, và sự tuân lệnh. Nếu đàn ông và phụ nữ trong lực lượng vũ trang coi những mệnh lệnh này cách bất cẩn tương tự như các Cơ Đốc Nhân hâm hẩm đối xử với Lời Chúa –tất cả bọn họ có lẽ sẽ bị đưa lên tòa án quân sự!

5. Sự Khích Lệ Người Lính

Cuộc đời của Cơ Đốc Nhân không dễ dàng. Có nhiều trận chiến và kẻ thù cực kỳ mạnh mẽ và xảo quyệt. Đôi khi những người lính tận tụy của Đấng Christ cảm thấy giống như anh ấy hoặc cô ấy đang cô đơn. Thế thì chúng ta có sự khích lệ nào từ Chúa? Sự khích lệ lớn nhất đó là Chúa Giê-su Christ đã thắng trận rồi và chúng ta chỉ cần theo Ngài bằng đức tin. Chúng ta không chiến đấu để giành chiến thắng mà chiến đấu từ chiến thắng. “Song tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài làm cho

Page 69: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

chúng tôi được thắng trong Đấng Christ luôn luôn, và bởi chúng tôi, Ngài rải mùi thơm về sự nhận biết Ngài khắp chốn!” (II Cô-rinh-tô 2:14).

Hình ảnh ở đây là “đoàn diễu hành thắng trận vào thành Rô-ma”, có một phiên bản của người La Mã trong thế giới hiện đại chính là cuộc diễu hành mừng chiến thắng. Bất cứ khi nào một trong những chỉ huy của chúng ta trở về nhà từ chiến trường, ông ấy được chào đón công khai với sự vui mừng nếu ông ấy đạt tiêu chuẩn. Trước tiên, ông ấy phải có một chiến thắng tuyệt đối trên đất ngoại quốc, với ít nhất 5000 binh lính của kẻ thù bị tiêu diệt. Thêm nữa, chiến thắng của ông phải đem lại kết quả là một lãnh thổ mới được kết nạp vào Đế Chế La Mã và một số của cải đáng kể được đem về quê hương.

Đoàn diễu hành theo một con đường truyền thống, người anh hùng cưỡi một xe ngựa đặc biệt, những binh lính và sĩ quan đi gần ông cùng chia sẻ sự vinh quang. Những chiến lợi phẩm sẽ được khoe ra, được khiêng vác bởi nô lệ hoặc bởi những người lính đi xe ngựa. Những thầy tế lễ cũng ở đó với những lư hương trầm thơm ngát. Thêm nữa, những kẻ thù bị bắt cũng ở trong đoàn diễu hành và cuối cùng được đưa vào trong đấu trường nơi họ sẽ mua vui cho những người dự lễ bằng cách chiến đấu với những con sư tử. Đó là một lễ mừng chiến thắng!

Phao-lô kể cho chúng ta rằng Đức Chúa Giê-su đã có một chiến thắng tuyệt đối trên đất và trở lại thiên đàng cùng với đoàn diễu hành mừng chiến thắng (Ê-phê-sô 4:8; Cô-lô-se 2:15). Ngài đã chiến thắng, đoạt được những chiến lợi phẩm, và đang chia sẻ với chúng ta những thứ đó! Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta ngửi được mùi hương của sự sống và thắng lợi. Nhưng thế gian bị hư mất chỉ ngửi được mùi hương thất trận và sự chết (II Cô-rinh-tô 2:15-16). Đối với những kẻ bị bắt trong đoàn diễu hành của La Mã mùi hương trầm đó nghĩa là cái chết; nhưng đối với những người lính đi chinh phục mùi hương đó nghĩa là sự sống và vinh quang.

Chẳng có lý do nào để chúng ta cảm thấy thua trận hay bị đánh bại khi chúng ta đi trên đoàn người của Chúa. “Nhưng, tạ ơn Đức Chúa Trời đã cho chúng ta sự thắng, nhờ Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta.” (I Cô-rinh-tô 15:57).

6. Hành Trang Của Người Lính

Đoạn Kinh Thánh chìa khóa ở đây là Ê-phê-sô 6:10-18, đây là đoạn “mọi khí giới của Đức Chúa Trời” được miêu tả. Mục đích của những khí giới này là làm cho người lính “đứng vững” trước trận chiến (câu 11), “cự địch” trong trận chiến (câu 13), và “đứng vững vàng” sau khi đã giành thắng lợi (câu 14). Đầu tiên là phòng thủ và thứ hai là tấn công, và cả hai điều này đều quan trọng.

Khi chúng ta nghiên cứu những bộ phận khác nhau trong giáp trụ thuộc linh của Cơ Đốc Nhân, chúng ta hãy nhớ rằng mỗi bộ phận này bày tỏ hai điều: (1) nhu cầu chúng ta đang cần trong cuộc sống và (2) mưu chước của Sa-tan sử dụng để tấn công vào nhu cầu đó. Phao-lô đã viết những lời này cho các Cơ Đốc Nhân trong một Hội Thánh địa phương, không phải dành cho những người theo Sa-tan. Ma quỷ và những sứ giả của nó hoạt động ngay trong lòng Hội Thánh

Page 70: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

vì chúng tìm cách tác động lên đời sống của các tín hữu. Ngay cả sứ đồ Phi-e-rơ cũng bị tác động bởi Sa-tan và ông cũng không nhận ra. (Ma-thi-ơ 16:21-23; và chú ý xem thêm II Cô-rinh-tô 11:1-4).

Dây nịt lưng bằng lẽ thật nói đến đời sống của Cơ Đốc Nhân “được kéo cùng lúc” bởi lẽ thật của Chúa. Thay cho sự ăn ở hai lòng bằng sự liêm chính. Dây nịt của người lính La Mã còn hơn cả thắt lưng; dây nịt đó giống như một tạp-dề bằng da giúp che phần dưới của cơ thể và giữ chặt mọi thứ lại với nhau. Chúng ta phải cẩn thận khỏi sự ăn ở hai lòng (Ma-thi-ơ 6:19-21) và phân tâm (Gia-cơ 1:8) và thử phục vụ cả hai chủ (Ma-thi-ơ 6:24). Chúng ta phải yêu Đức Chúa Trời với tất cả những gì chúng ta có và không giữ lại thứ gì (Ma-thi-ơ 12:30).

Giáp ngực bằng sự công bình tượng trưng cho sự công bình của Chúa Giê-su Christ, Ngài đã bị buộc tội thay cho chúng ta bởi vì chúng ta tin Ngài là Đấng Cứu Thế của mình (Rô-ma 3:19-24). Sa-tan là kẻ buộc tội con dân của Đức Chúa Trời (Khải Huyền 12:10; Xa-cha-ri 3); nó muốn nhắc chúng ta nhớ đến quá khứ tội lỗi và làm chúng ta cảm thấy mình đầy tội lỗi. Một khi chúng ta nghe theo nó, chúng ta sẽ không phòng bị, nhưng nếu chúng ta nhớ rằng chúng ta có sự công bình của Đấng Christ cho riêng mình, chúng ta có thể làm nó câm lặng. Người lính cần phải nắm vững kiến thức Kinh Thánh và hiểu được sự cứu rỗi thực sự là gì.

Giày bình an giúp cho người lính của Đấng Christ đứng vững. Những đôi giày sandal tốt thường được đóng đinh lớn ở đế giày rất quan trọng với binh lính La Mã, vì chúng giúp anh ấy có thế đứng vững chắc khi đối mặt với kẻ thù. Còn chúng ta có gì để giữ vững tư thế? Phúc Âm về Chúa Giê-su Christ (Xem I Cô-rinh-tô 15:1-5; Rô-ma 5:1-2; Ga-la-ti 5:1). Bởi vì chúng ta biết chúng ta đứng ở đâu, chúng ta có thể đối mặt với kẻ thù nào và không chạy trốn. Bởi chúng ta được “bình an với Chúa” và chúng ta không ngại tuyên chiến. Sa-tan chắc chắn không phải là sứ giả hòa bình. Mục đích của nó là tạo ra nan đề và phá đổ mọi thứ. Người lính của Đấng Christ mới thực sự là “sứ giả hòa bình” mang sứ điệp hòa bình đến với thế gian đang chống nghịch với Đức Chúa Trời.

Thuẫn bằng đức tin bảo vệ người lính của Đấng Christ khỏi “những tên lửa” của Sa-tan, mà những kẻ xấu nghĩ rằng hắn ném về phía chúng ta. Nó đã ném những tên lửa này vào tôi ngay cả khi tôi đang giảng Lời Chúa. Chúng ta không thể ngăn nó ném tên lửa nhưng chúng ta có thể ngăn những tên lửa đó và dập tắt chúng bằng đức tin dựa trên Lời Chúa –thuẫn của người lính La Mã khá lớn, có lẽ khoảng từ 2 cho tới 4 feet, được làm bằng gỗ và bọc bên ngoài bằng vải dầy hoặc da. Ngày nay khi tín hữu đặt đức tin mình nơi Chúa –vào chính Ngài, lời hứa của Ngài, vào quyền năng của Ngài –thì anh ấy được an toàn trước những tên lửa của kẻ thù.

Mão cứu chuộc bảo vệ vùng đầu của người lính giống như giáp công bình bảo vệ phần ngực. Sa-tan là kẻ chuyên lừa gạt và chúng ta cần phải suy nghĩ như những người đã được cứu và có trí khôn như Đấng Christ (II Cô-rinh-tô 11:1-4). Mão cứu chuộc cũng được gọi là “sự trông cậy về sự cứu rỗi” (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:8), lời hứa về sự trở lại của Đấng Christ. Sa-tan muốn chúng ta quên đi “sự trông cậy được phước đó” bởi vì nó biết rằng lời hứa về sự trở lại của Đấng Christ là

Page 71: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

động lực đem đến sự tinh sạch và sức mạnh. “Hold the fort, for I am coming.” Chúng ta hãy hát để nhớ đến lẽ thật này.

Gươm Thánh Linh lẽ dĩ nhiên là Lời Chúa (Hê-bơ-rơ 4:12) và gươm này được dùng kết hợp với lời cầu nguyện để đánh bại kẻ dữ (xem Công Vụ 6:4). Chúng ta được nhắc lại về lời cầu nguyện của Môi-se trên núi còn Giô-suê và quân đội đang chiến đấu trên chiến trường bằng gươm giáo (Xuất Ê-díp-tô Ký 17:8-16). Những thanh gươm hữu hình chỉ là vật chết và vô tri nhưng gươm Thánh Linh là sống và sắc bén hơn mỗi khi chúng ta sử dụng. Người lính không truyền sức mạnh cho thanh gươm –mà thanh gươm đem lại sức mạnh cho người lính. Một thanh gươm hữu hình đâm vào thân thể bên ngoài nhưng gươm Thánh Linh đâm thấu vào tâm hồn của con người và phơi bày mọi thứ. Thanh gươm hữu hình mang sự chết đến cho người sống, nhưng gươm của Thánh Linh mang sự sống đến cho mọi người là những người chết trong tội lỗi của họ.

Tất cả những điều này thật thú vị nhưng làm thế nào chúng ta có thể làm những điều đó hoạt động trong những trải nghiệm mỗi ngày? Đầu tiên, mỗi ngày chúng ta phải bằng đức tin mặc lấy mọi miếng giáp trụ và chúng ta làm điều này nhờ lời cầu nguyện. Có bài hát hát rằng:

Hãy mặc áo giáp Phúc Âm,

Mặc lấy từng mảnh giáp cùng lời cầu nguyện.

Ê-phê-sô 6:18 viết theo đúng nghĩa đen, “Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin.” Nói cách khác, đó là nhờ lời cầu nguyện bởi đức tin mà chúng ta mặc các phần của bộ giáp và sau đó để mỗi mảnh giáp đó làm việc khi kẻ thù tấn công. Đức Thánh Linh ban cho chúng ta sự sáng suốt và quyền năng để bảo vệ che chở chúng ta và sau đó tấn công Sa-tan, giống khi Đức Thánh Linh giúp Chúa Giê-su đánh bại Sa-tan trong đồng vắng (Ma-thi-ơ 4:1-11).

Những mảnh giáp bảo vệ được cung ứng bởi Đức Chúa Trời không yêu cầu hành động nào của chúng ta ngoại trừ việc chúng ta mặc lên bằng đức tin và tin rằng Đức Chúa Trời sẽ làm cho những mảnh giáp đó hoạt động. Tuy nhiên hai vũ khí dùng để tấn công –là Lời Chúa và sự cầu nguyện –cần sự hợp tác của chúng ta để những vũ khí đó hoạt động hiệu quả. Chúng ta phải đọc lời Chúa và nghiên cứu, suy gẫm, ghi sâu vào trong lòng mình và bởi đức tin công bố Lời Chúa và sử dụng khi kẻ thù tấn công. Đây là lúc cần đến “sự rèn luyện thuộc linh”, bởi vì Đức Chúa Trời sẽ không làm tất cả mọi việc cho chúng ta. Chúng ta phải dành thời gian cầu nguyện, sau đó phải giữ tư thế cầu nguyện suốt cả ngày. Một vài Cơ Đốc Nhân gọi giờ tỉnh nguyện mỗi ngày của họ là “ca trực buổi sáng” nghe có vẻ giống một người lính đang báo cáo về nhiệm vụ của mình.

Làm một người lính của Chúa Giê-su Christ là một việc nghiêm túc, vì chúng ta sẽ đánh những trận đánh của Chúa. Đây cũng là một việc thú vị, vì chúng ta không bao giờ biết chuyện gì sắp xảy ra.

Page 72: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Nhưng có một điều chắc chắn là: khi bạn tuân theo Chúa Giê-su Christ, thì chiến thắng là chắc chắn.

Bernard of Clairvaux được nhớ đến như một con người bí ẩn tận tâm đã viết cùng với bài hát “Jesus, the Very Thought of Thee”. Nhưng Bernard of Clairvaux đã biết ai sẽ đánh trận với kẻ thù, và đây là điều ông viết: “Nếu Đấng Christ ở với chúng ta, ai dám chống lại chúng ta?” Bạn có thể chiến đấu tự tin vì bạn nắm chắc chiến thắng. Có Đấng Christ và vì Đấng Christ, chiến thắng là chắc chắn.

9

Một Vận Động Viên Trong Cuộc Đua Khi tôi còn là một thiếu niên, tôi tham dự những cuộc chạy đua dành cho Những Thanh Thiếu Niên Của Đấng Christ, “Youth for Christ Rallies” và một trong những “anh hùng Cơ Đốc” khi đó là Gil Dodds, “Mục sư nhanh như chớp.” Trong 11 năm, ông giữ kỷ lục về thành tích chạy cự ly 1 dặm trong nhà. Khi làm huấn luyện viên tại Trường Wheaton College ở bang Illinois, đội do ông huấn luyện đã chiến thắng hết lần này đến lần khác. Ông là Eric Liddell, một vận động viên Olympic từ chối không chạy trong ngày Chúa Nhật, sau này làm nhà truyền giáo tại Trung Hoa. Trong thời của tôi, Gil Dodds có thể chạy đua thực sự và ông làm điều này vì vinh hiển danh Chúa.

Tôi nghĩ rằng tôi thích quan tâm tới ông hơn những vẫn động viên Cơ Đốc khác là bởi môn thể thao duy nhất tôi tham gia khi còn là thiếu niên đó là chạy đua. Những anh hùng thanh thiếu niên của Đấng Christ về môn bóng đá còn có Glenn Wagner và Bob Davenport hay là vận động viên nhảy sào như Bob Richards, không thu hút được sự chú ý của tôi. Tôi quá nhỏ con để chơi bóng và không thích bộ môn này. Và với môn nhảy sào cũng như vậy, có lẽ tôi nên cố gắng bay thì hơn. Còn chạy đua, thì tôi có thể làm được điều gì đó.

Thử nghĩ mà xem khi còn trẻ tôi đã rất ngạc nhiên khi khám phá ra rằng sứ đồ Phao-lô thường kể đến những môn thể thao khác nhau, bao gồm cả chạy đua! Lẽ dĩ nhiên, cả người Hy Lạp và người La Mã trong thời của Phao-lô đều nổi bật về các môn thể thao, nên Phao-lô chỉ đơn giản muốn tận dụng sở thích của họ về thể thao. Nếu như Phao-lô còn sống đến ngày nay trên thế gian, có lẽ ông sẽ đọc một số tờ tin tức thể thao hằng ngày và sử dụng những gì ông đọc được trong những bài giảng của mình.

Theo ông J.S. Howson trong cuốn sách The Metaphors of St. Paul (Những ẩn dụ của thánh Phao-lô), “Các phòng tập thể thao, các sân vận động hay là những nơi tập chạy, nằm ở những điểm dễ thấy và hay được mọi người lui tới giữa những tòa kiến trúc làm đẹp thành phố.” Howson chỉ ra rằng những sự kiện thể thao “gần như là một tín ngưỡng của người Hy Lạp,” điều này nghe có vẻ

Page 73: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

rất hiện đại đối với chúng ta. Vậy nên bất cứ giảng dạy ở đâu Phao-lô cũng gặp những người biết về các môn thể thao và ông tận dụng sự hiểu biết đó khi ông rao giảng Lời Chúa.

Người Rô-ma coi những môn thể thao là một sự giải trí lành mạnh, trong khi đó người Hy Lạp lại thấy các sự kiện thể thao như một cách làm cho cuộc sống thêm phong phú. “Một trí óc minh mẫn trong một thân thể khỏe mạnh” chính là một trong những mục tiêu của họ. Mỗi cậu bé Hy Lạp đã được ghi danh từ rất sớm vào các phòng tập thể thao và ao ước được học những lớp cơ bản về chạy bộ, đấu vật, đấm bốc, và bơi lội. Có lẽ một vài người còn học cả chèo thuyền, nâng tạ, và thêm vào là một vài trò chơi với bóng để thêm đa dạng và thách thức.

Một Vài Vận Động Viên Chạy Đua

“Vận động viên Cơ Đốc” đầu tiên chúng ta gặp trong Tân Ước đó chính là Giăng Báp-tít và ngay bản thân Phao-lô như ông nói về chính mình. Trong bài giảng trong nhà hội ở thành An-ti-ốt, Phao-lô nói về Giăng Báp-tít, “Giăng đang lo làm trọn công việc mình” (Công Vụ 13:25). Động từ ở đây “làm trọn” có nghĩa là “kết thúc cuộc chạy đua.” Đức Chúa Trời đã giao cho Giăng một “đường chạy” đặc biệt và ông đã thành công, làm trọn công việc của Đức Chúa Trời giao cho. Đối với những người chưa tin Chúa, Giăng có vẻ là một kẻ thất bại. Thật ra thì, Giăng đã tự cho rằng mình thất bại! Nhưng Chúa Giê-su chỉ rõ rằng Giăng là một người chiến thắng cho dù ai nói gì chăng nữa (Ma-thi-ơ 11:1-15).

Phao-lô đã sử dụng hình ảnh cuộc đua để miêu tả chức vụ của chính ông. Ao ước lớn của ông là kết thúc cuộc chạy đua với sự vui mừng (Công Vụ 20:24; hãy chú ý Ga-la-ti 2:2; Phi-líp 2:16; 3:12-14). Phao-lô đã kết thúc vòng chạy của mình với sự vui mừng và đắc thắng, vì vinh hiển của Đức Chúa Trời (II Ti-mô-thê 4:7-8). Cụm từ “đánh trận tốt lành” chẳng có liên quan gì tới chiến tranh hay môn đấm bốc. Mà cụm từ này để chỉ sự cố gắng nỗ lực của vận động viên khi anh sắp kết thúc cuộc đua và nhìn thấy đích ở phía trước. Nói cách khác, Phao-lô đang nhắc nhở chúng ta rằng chức vụ của một Cơ Đốc Nhân trung tín là không hề dễ dàng. Bạn cần phải có sự can đảm và mạnh mẽ để hoàn thành cuộc đua của Cơ Đốc Nhân cách thành công.

“Tôi ước ao học tiếp tại trường cao đẳng.” Một người bạn đã nói với Samuel Johnson là soạn giả vĩ đại của bộ từ điển tiếng Anh. Khi Johnson yêu cầu bạn mình giải thích, người đó đáp rằng, “Bởi tôi nghĩ rằng tôi sẽ có một cuộc sống dễ dàng hơn bây giờ. Tôi nên trở thành một Mục sư và có một cuộc sống tốt đẹp.”

“Không, thưa ông.” Johnson đáp lại dứt khoát. “Tôi không ghen tỵ với việc sống như những tu sĩ là một cuộc sống dễ dàng, tôi cũng chẳng ghen tỵ với tu sĩ nào có một cuộc sống dễ dàng.”

Phao-lô cũng đồng ý với Samuel Johnson, vì ông thường sử dụng một động từ trong tiếng Hy Lạp agonizomai khi liên quan đến đời sống của Cơ Đốc Nhân. Từ đó có nghĩa là “chiến đấu, gây xung đột, lao động, đấu tranh” và từ này miêu tả một vận động viên đã dùng hết sức mình để hoàn thành cuộc đua. Bạn sẽ tìm thấy từ này thường được dùng để miêu tả chức vụ của sứ đồ Phao-lô trong Phi-líp 1:30, Cô-lô-se 1:29 và 2:1 và I Tê-sa-lô-ni-ca 2:2. Ông gắn liền từ này với

Page 74: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

lời cầu nguyện trong Cô-lô-se 4:12 và Rô-ma 15:30; vì lời cầu nguyện thật sự là một đòi hỏi khắt khe.

Chúa Giê-su Christ chúng ta thực sự là một “vận động viên chạy đua” giỏi nhất. Theo Hê-bơ-rơ 12:1-2, Ngài gạt mọi việc khác sang một bên để chạy cuộc chạy đua đem vinh hiển về cho Đức Chúa Trời (Phi-líp 2:1-11). Ngài chỉ có thể đạt được mục đích bằng cách chết trên cây Thập tự, vậy nên cuộc chạy đua chẳng bao giờ là dễ dàng, Chúa chúng ta đã “quyết định đi đến thành Giê-ru-sa-lem” và Ngài không muốn đi vòng (Lu-ca 9:51; Ê-sai 50:7). Đó là một tấm gương cho chúng ta noi theo.

Những Người Thắng Cuộc

Rất ít vận động viên chiến thắng bằng sự ngẫu nhiên. Chiến thắng là kết quả của sự chăm chỉ làm việc bao gồm hàng giờ tập luyện chăm chỉ và một ý thức rèn luyện nghiêm túc. Hãy cùng nhau lật một vài trang trong cuốn “sổ tay vận động viên Cơ Đốc” của Phao-lô, chúng ta sẽ xem xét một vài điều thiết yếu để chiến thắng trong cuộc đua thuộc linh của Cơ Đốc Nhân.

Trước hết là, với những vận động viên chiến thắng yêu thích trò chơi. Họ có thể không thích tất cả sự chuẩn bị khó khăn mà lao vào cuộc đua, chắc chắn họ không thích bị thua cuộc. Nhưng sự phấn khích với cuộc đua đã ngấm vào trong máu và chẳng gì có thể khiến họ rời bỏ. Phao-lô nhấn mạnh vào thái độ này khi ông nói, “Nhưng tôi chẳng kể sự sống mình làm quí, miễn chạy cho xong việc đua tôi và chức vụ tôi đã lãnh nơi Đức Chúa Giê-su, để mà làm chứng về Tin lành của ơn Đức Chúa Trời.” (Công Vụ 20:24). Chúa Giê-su đã thắng cuộc đua, “Đấng vì sự vui mừng đã đặt trước mặt mình” (Hê-bơ-rơ 12:2). Người nào tham gia cuộc đua thuộc linh mà vui mừng thì đã thắng chính mình rồi.

“Tôi nghĩ là tôi có nhiều cảm xúc hơn các đối thủ khác.” Ngôi sao quần vợt Chris Evert Lloyd đã nói vậy. “Tôi có một động lực, một ao ước cháy bỏng để chiến thắng mỗi khi tôi ra sân quần vợt.” Nếu bạn quyết định rằng bạn sẽ thua, thì bạn sẽ thua cuộc.

Đây là một chỗ bạn cần chú ý rằng, từ amateur (nghiệp dư, không chuyên) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp amator và có nghĩa là “một người yêu.” Một vận động viên nghiệp dư tham gia một môn thể thao là vì anh ấy yêu thích môn thể thao đó, nhưng rất nhiều vận động viên chuyên nghiệp cũng như vậy. Họ có thể được nhận lương cao và sự nổi tiếng, nhưng chính tình yêu với môn thể thao đó giúp họ tiếp tục.

Tình yêu và sự hào hứng thôi chưa đủ để giúp bạn chiến thắng cuộc đua; để chiến thắng bạn cần phải được huấn luyện. Phao-lô cảnh báo Ti-mô-thê, “Những lời hư ngụy phàm tục giống như chuyện bịa các bà già, thì hãy bỏ đi, và tập tành sự tin kính. Vì sự tập tành thân thể ích lợi chẳng bao lăm, còn như sự tin kính là ích cho mọi việc, vì có lời hứa về đời nầy và về đời sau nữa.” (I Ti-mô-thê 4:7-8).

Page 75: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Tiếng Hy Lạp chuyển ngữ dịch thành từ “train” (tập luyện) cho cho chúng ta một từ Tiếng Anh là từ gymnasium (phòng tập thể thao, phòng gym). Phao-lô đang đối chiếu giữa “rèn luyện” thuộc linh và rèn luyện thân thể. Ông không phê phán việc rèn luyện thân thể. Ông chỉ ra rằng rèn luyện thuộc linh đem lại phần thưởng trong đời này và đời sau. Nói cách khác ông đang muốn nói, “Này Ti-mô-thê, đến phòng tập thể thao ở Ê-phê-sô chẳng có gì sai cả và cứ tiến hành mỗi ngày đi. Nhưng hãy nhớ rèn luyện trong đời sống thuộc linh như khi con rèn luyện thân thể. Vì rèn luyện thuộc linh sẽ sinh ra nhiều phần thưởng đời đời còn tốt hơn.”

Vợ tôi và tôi là thành viên của câu lạc bộ sức khỏe, nhưng tôi phải thú nhận rằng bà ấy chăm chỉ hơn tôi về việc tham dự và sử dụng các trang thiết bị. Tôi kể cho các bạn tôi rằng bà ấy đạp xe đạp ba bánh còn tôi ngồi ngay trong thùng xe đó để đọc sách. Thành thật mà nói thì tôi thấy sợ phải đến câu lạc bộ, đặc biệt là khi tôi gặp những người coi “thể dục” là nghề chính của họ. Họ bơi, chạy bộ, nâng tạ, đạp xe, và sau đó tập luyện với các trang thiết bị đặc biệt mà chỉ các chuyên gia mới sử dụng. Khi tôi quan sát họ, tôi tự hỏi chính mình rằng, “Liệu tôi có tập luyện nhiều để gây dựng đời sống của Cơ Đốc Nhân như khi họ tập luyện cho thân thể nảy nở không?”

Tuy nhiên, chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng phần “thân thể” và “linh hồn” có thể tách biệt ra khi bàn đến đời sống của Cơ Đốc Nhân. Những gì một tín hữu làm với thân thể mình cũng giống như với một phần đời sống thuộc linh khi anh cầu nguyện riêng với Chúa hay anh sử dụng tài năng, tiền bạc của mình như thế nào. Sự phân chia mà chúng ta tạo ra giữa “vật lý” và “thuộc linh” chẳng có trong Kinh Thánh. Dâng thân thể mình cho Chúa là một phần của việc “thờ phượng thuộc linh” (Rô-ma 12:1-2), và những gì chúng ta làm với thân thể mình liên quan trực tiếp đến phần thưởng mà Đức Chúa Trời sẽ ban tặng cho chúng ta trong tương lai.

Phao-lô đã viết như thế này, “song tôi đãi thân thể tôi cách nghiêm khắc, bắt nó phải phục, e rằng sau khi tôi đã giảng dạy kẻ khác, mà chính mình phải bị bỏ chăng.” (I Cô-rinh-tô 9:27). Sứ đồ xem ông như một người đưa tin trong kỳ Đại Hội Thể Thao Olympic, kêu gọi những người dự thi tham gia chạy đua cùng ông. Là một Cơ Đốc Nhân, Phao-lô cũng như một vận động viên điền kinh khác; nhưng là một sứ đồ được lựa chọn, ông giống một quan chức trong những cuộc thi đấu. Nỗi sợ hãi của ông là gì? Đó là bằng cách nào đó ông phá vỡ luật lệ và tự đẩy mình ra khỏi cuộc đua. Trong tiếng Hy Lạp adokimos không mang nghĩa là “thú tội” mặc dù Phao-lô sợ rằng sẽ thua và làm mất đi món quà cứu chuộc. Từ adokimos nghĩa là “không đủ tư cách, không được tán thành”. Nghĩa là sự nhục nhã, bị đuổi khỏi cuộc thi đấu và mất phần thưởng.

Một vài tín hữu ngày nay cười cợt về sự rèn luyện thuộc linh của các thánh đồ thời xưa, và có lẽ là một vài sự rèn luyện đó hơi thái quá. Nhưng chẳng gì có thể thay thế cho rèn luyện thân thể, trí óc và thuộc linh. Nếu như bạn muốn trở thành một Cơ Đốc Nhân đắc thắng. Cuối cùng, Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta hướng tới cách trở thành môn đồ của Chúa (Lu-ca 14:25-35); làm môn đồ và rèn luyện thuộc linh luôn đi cùng nhau. “Rèn luyện là linh hồn của quân đội.” George Washington đã viết cho những trung đoàn Virginia vào năm 1759. “Rèn luyện biến một đội quân nhỏ trở nên đáng gờm; đem lại thành công cho kẻ yếu và nhận sự nể phục của mọi người.”

Page 76: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Sam-sôn là một tấm gương cho tín hữu nào không rèn luyện thuộc linh (Xem Các Quan Xét 13-16). Thay vì giữ gìn thân thể mình, Sam-sôn sống theo ý mình và gánh những hậu quả thật thảm thương. Cuộc đời của Sam-sôn đã được sao chép lại không chỉ một lần bởi những người ngây thơ bảo bọc cho tội lỗi của họ và thiếu sự tự chủ vì muốn “hưởng sự tự do trong Đấng Christ.” “Tự do” kiểu đó chỉ là dạng tồi tệ nhất của sự lệ thuộc.

Những vận động viên muốn chiến thắng thì tuân thủ luật chơi. Phao-lô nhắc nhở Ti-mô-thê rằng “Cũng một lẽ đó, người đấu sức trong diễn trường chỉ đấu nhau theo lệ luật thì mới được mão triều thiên.” (II Ti-mô-thê 2:5). Người Hy Lạp không chỉ có luật lệ cho những cuộc thi đấu, mà họ còn có cả luật cho những người dự thi khi họ tập luyện để thi đấu. Nếu một người dự thi chỉ ra ai đó đã phá hỏng việc tập luyện thì người đó ngay lập tức bị loại vì không đủ tư cách.

Năm 1912 vận động viên Jim Thorpe đã thắng cuộc thi mười môn và năm môn phối hợp trong kỳ Thế Vận Hội Olympic ở Stockholm. Nhưng sang năm sau ông buộc phải trả lại các huy chương vàng bởi vì mọi người khám phá ra rằng ông đã chơi bóng chày chuyên nghiệp từ năm 1911. Ông đã thắng cuộc thi đấu nhưng lại phạm luật, nên ông bị mất những phần thưởng của mình. Năm 1984 tại kỳ Thế Vận Hội Olympic tại Los Angeles hội đồng đã trao lại phần thưởng của ông. Nhưng cho dù như vậy cũng không thay đổi được thực tế là Thorpe đã phá luật.

Khi Phao-lô viết cho Ti-mô-thê, “Ta đã giữ đức tin” (II Ti-mô-thê 4:7) thì ý của Phao-lô là: “Ta đã tuân giữ luật lệ.” Khi thi hành chức vụ, mối quan tâm của Phao-lô là đức tin chứ không phải là sự thành công. Vì vấn đề đó, nhiều người không chút nghi ngờ cho rằng Phao-lô đã thất bại, còn trong mắt Chúa, Phao-lô đã thành công.

Chúng ta sống trong một thời đại mà nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo khác nhau “đang làm việc riêng của họ” và một vài người trong đó có vẻ như rất nổi tiếng và thành công. Nhưng thời gian sẽ trả lời bao nhiêu người trong số họ trung tín tuân giữ Lời Chúa và tuân theo luật lệ. Những đám đông, tiền bạc, phương tiện truyền thông, và những số liệu thống kê sẽ chẳng có ý giá trị gì trên thiên đàng nếu như họ không nghe điều này “Được lắm, hỡi người đầy tớ ngay lành, trung tín của ta.”

Những vận động viên dành chiến thắng nghe theo sự kêu gọi và tìm cách làm theo. Họ sẽ nồng nhiệt hưởng ứng câu nói của Phao-lô “nhưng tôi cứ làm một điều” (Phi-líp 3:12-14) bởi vì tập trung và dâng mình cho Chúa sẽ dẫn đến chiến thắng. Trong thời kỳ rèn luyện, vận động viên phải tranh đấu với chính mình thì sau đó anh ấy mới được chuẩn bị để thi thố với những người khác.

“Quên đi mọi sự ở đằng sau” là một phần quan trọng trong khi chạy đua. Bạn không thể chạy hướng về phía trước mà vẫn ngoái lại phía sau. Những thí sinh nào không ngắm tới mục đích thì sắp bị lạc hướng và mất cả động lực. Anh ta không thể bị phân tâm bởi đám đông, hay bởi những lời động viên, hay gièm chê của họ; anh ấy không được để những vận động viên điền kinh khác làm mình phân tâm. Cũng không được nhìn lại phía sau và dựa vào những thành công trong quá

Page 77: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

khứ hay bị những ký ức thất bại trong quá khứ làm nản lòng. Mỗi cuộc đua là độc nhất và yêu cầu phải nỗ lực hết sức.

Đức Chúa Trời có một “đường chạy” cho mỗi con dân của Ngài chạy và một mục đích cho mỗi người hướng đến. Chúng ta không tranh đua với người khác. Chúng ta chiến đấu với chính mình và phấn đấu tốt hơn nữa mỗi khi chúng ta chạy đua. Hãy nhớ rằng, chúng ta không chạy đua để được vào thiên đàng. Chỉ bởi đức tin trong Chúa Giê-su Christ thì tội lỗi của chúng ta mới được tha và chúng ta được đảm bảo về cõi đời đời (Giăng 14:1-6). Trong các cuộc thi đấu của người Hy Lạp và La Mã, những đối thủ phải là công dân của họ, không một nô lệ hay là người nước ngoài nào được phép thi đấu. Trong cuộc đua của Cơ Đốc Nhân, mỗi thí sinh là một công dân của thiên quốc (Phi-líp 3:20) và chạy đua để đem vinh hiển về cho Chúa.

Khi mới bắt đầu chức vụ của mình, tôi cố chạy theo nhiều đường đua. Tôi là một Mục sư, một diễn giả trẻ, một nhà phép thuật của phúc âm (gospel magician), một nhà truyền giáo, một nhà văn, thậm chí là một người làm trò vui trong các bữa tiệc. Sau đó Chúa bắt đầu chỉ cho tôi biết tầm quan trọng của việc “cứ làm một điều.” Tôi đã khám phá ra rằng tôi không có ân tứ truyền giáo, và công việc thời trẻ tuổi đó không phải là chức vụ tốt nhất của tôi. Dần dần tôi từ bỏ cả những phép thuật phúc âm và tấu hài, và tôi bắt đầu tập trung vào việc rao giảng Lời Chúa ở nơi công cộng cũng như thông qua các trang sách báo. Lúc đó Đức Chúa Trời mới thực sự ban phước cho tôi.

Nhiều năm trước khi tôi còn là một thiếu niên, Dr. Torrey M. Johnson một trong những người sáng lập hội Thanh Niên Vì Đấng Christ (Youth For Christ), đã nói với tôi rằng: “Này con trai, hãy tìm một điều mà Đức Chúa Trời ban phước cho con để hầu việc Ngài.” Đó là một lời khuyên khôn ngoan, và tôi bây giờ cũng khuyên bạn nên làm như vậy.

Các vận động viên thắng cuộc nghĩ về mục tiêu và phần thưởng. Một trong những Hội Thánh mà tôi làm Mục Sư quản nhiệm ở đó, có một người trong những thuộc viên tốt nhất là một huấn luyện viên môn bóng đá trong trường cao đẳng địa phương. Ông ấy đã chơi bóng cho Ohio State và đã từng chơi bóng tại sân vận động Rose Bowl. Nên đối với chúng tôi ông ấy là một người hùng của địa phương. Và điều tốt nhất của ông, đó là làm chứng tốt về Chúa.

Trong một mùa giải, đội của ông chơi kém và liên tục nằm ở đáy bảng xếp hạng của trường cao đẳng. Có một lần tôi cố gắng động viên ông bằng cách trích dẫn một câu nói của Grantland Rice “Bạn thắng hay thua không quan trọng, quan trọng là bạn chơi như thế nào.”

“Đó không phải là điều tôi được học.” Ông trả lời dứt khoát. “Điều tôi được học đó là, chiến thắng không phải là tất cả - chiến thắng là điều duy nhất.” Sau đó tôi biết được rằng ông ấy đang diễn giải câu nói của Vince Lombardi: “Chiến thắng không phải là tất cả, mà ý chí chiến thắng mới là tất cả.” Dù bằng cách nào thì chúng ta cũng hiểu vấn đề: Các vận động viên tận tâm tận lực vì họ muốn thắng và sẽ cố gắng hết sức để giành chiến thắng. Nếu anh ấy thua, anh ấy sẽ học hỏi từ thất bại đó và sẵn sàng giành chiến thắng trong lần tới.

Page 78: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Điều này lý giải tại sao Phao-lô lại viết: “Anh em há chẳng biết rằng trong cuộc chạy thi nơi trường đua, hết thảy đều chạy, nhưng chỉ một người được thưởng sao? Vậy, anh em hãy chạy cách nào cho được thưởng.” (I Cô-rinh-tô 9:24). Trong các kỳ Thế Vận Hội Olympic, chỉ có một vài người có thể trở thành người thắng cuộc, nhưng trong cuộc đua thuộc linh của Cơ Đốc Nhân, tất cả chúng ta có thể trở thành người chiến thắng!

Rất nhiều người trong chúng ta thật phấn khích khi thấy Mark Spitz trở thành vận động viên đầu tiên trong lịch sử thắng được 7 huy chương vàng tại một kỳ thế vận hội Olympic (Munich, 1972). Chúng ta không hề ngạc nhiên khi biết rằng Mark và cha của ông đã bỏ nhiều năm để cùng nhau rèn luyện cho sự kiện đó. Ngay khi Mark mới chỉ là một đứa bé, Arnold Spitz đã nhắc đi nhắc lại với con của mình là: “Có bao nhiêu đường bơi trong bể bơi, Mark?”

Mark sẽ đáp rằng “Sáu.”

Sau đó ông Spitz sẽ hỏi tiếp “Có bao nhiêu đường đua giành chiến thắng?”

Cậu bé đáp rằng “Một.”

Đó là một cách rèn luyện rất tốt cho một thí sinh dự thi Olympic, nhưng không phải là dành cho một vận động viên Cơ Đốc đang chạy đua trong cuộc đua thuộc linh, vì trong tất cả các cuộc đua thuộc linh của Cơ Đốc Nhân thì tất cả 6 đường đều có thể là người chiến thắng. Trong các cuộc thi đấu của người Hy Lạp, không giống với các kỳ Thế Vận Hội Olympic hiện đại hiện nay, chỉ có những người đứng đầu mới được tính. Nếu như bạn về thứ hai hoặc thứ ba thì bạn sẽ bị loại. Nhưng đó không phải là cách mà Đức Chúa Trời đối xử với những vận động viên của Ngài. Mỗi Cơ Đốc Nhân đều có thể trở thành người chiến thắng ở vị trí đứng đầu.

Tại sao ư? Bởi vì chúng ta không tranh đua với người khác mà là tranh đua với chính bản thân mình. Đức Chúa Trời sẽ không xét đoán tôi trên cơ sở mà Mục Sư Charles Haddon Spurgeon đã làm được nhưng xét đoán tôi dựa trên cơ sở những gì tôi đã làm được với những cơ hội và ân tứ mà Chúa đã ban cho tôi. Spurgeon có “đường chạy” của riêng ông và mục tiêu của riêng ông. Còn tôi cũng có đường chạy và mục tiêu riêng. Đối với tôi đây chính là một trong những điều khích lệ lớn nhất trong cuộc đua thuộc linh của Cơ Đốc Nhân và điều này đã cứu chúng tôi khỏi nhiều mối nguy.

Phao-lô tiếp tục làm một so sánh đối chiếu khác giữa cuộc đua của người Hy Lạp và cuộc đua đức tin: những người Hy Lạp giành chiến thắng chỉ được nhận một vòng nguyệt quế hay hư nát trong khi Cơ Đốc Nhân nhận được một mão triều thiên vinh hiển còn đến đời đời. “Họ chịu vậy để được mão triều thiên hay hư nát. Nhưng chúng ta chịu vậy để được mão triền thiên không hay hư nát.” (I Cô-rinh-tô 9:25).

Lẽ dĩ nhiên, được tham gia thi đấu trong các cuộc thi đã là một phần thưởng rồi, vì điều đó có nghĩa là vận động viên đã đạt đến một cấp độ thành tích cao. Thông báo chính thức của thế vận hội Olympic là, “Điều quan trọng nhất trong Thế Vận Hội Olympic không phải là để chiến thắng

Page 79: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

mà là để tham gia thi đấu… Điều thiết yếu không phải là chinh phục mà là phải thi đấu tốt.” Khẩu hiệu của các kỳ Olympic đó là: “Nhanh hơn, cao hơn, mạnh hơn!” Thậm chí ngoài các huy chương và sự hoan hô cổ vũ đó là sức khỏe và sự phối hợp cơ thể của các thí sinh.

Đối với Cơ Đốc Nhân, Cha chúng ta không đưa ra bất kỳ phần thưởng nào, chỉ có tăng trưởng trong ân điển và trở nên giống Chúa Giê-su Christ càng hơn. Tuy nhiên, bởi ân điển, Ngài sẽ thưởng cho chúng ta, “ai nấy sẽ bởi Đức Chúa Trời mà lãnh sự khen ngợi mình đáng lãnh” (I Cô-rinh-tô 4:5).

Mỗi người chiến thắng trong những cuộc thi đấu thể thao của người Hy Lạp không chỉ đem về niềm tự hào cho chính mình và cho đội của mình, mà anh còn đem vinh dự tự hào về với thành phố quê hương. Thông thường, thành phố sẽ dựng một cái cổng đặc biệt vinh danh người đó; và khi người hùng trở về quê hương, họ sẽ hộ tống anh ấy đi qua cổng trong nghi thức trang trọng. Phi-e-rơ có lẽ cũng có suy nghĩ này khi ông viết, “anh em sẽ được cho vào cách rộng rãi trong nước đời đời của Đức Chúa Giê-su Christ là Chúa và Cứu Chúa của chúng ta” (II Phi-e-rơ 1:11). Khi một vận động viên Cơ Đốc đang chạy đua phải đối mặt với sự chết, anh ấy sẽ không hề e ngại, vì sự chết đơn giản là một “đường vào rộng” đến trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời, một lời “Chào đón” vinh hiển trên thiên đàng.

Tiến sĩ D. Martyn Lloyd-Jones viết, “Điều cuối cùng để đánh giá một người xưng mình là Cơ Đốc Nhân trung tín chính là cách mà chúng ta đối diện với tuổi già, là cách mà chúng ta đối diện với sự chết. Khi tôi già đi, và khi tôi sắp chết, nếu như tôi thực sự là một Cơ Đốc Nhân, sự chết đối với tôi chỉ là một cổng vào mà thôi, một cái cổng để bước vào sự sống vinh hiển.” (Expository Sermons on II Peter; pp 49-50.)

Dù cho khởi đầu cuộc đua đầy vinh quang nhưng điều quan trọng là cuộc đua đó kết thúc như thế nào. Nguyên Viện trưởng của Viện Thánh Kinh Moody, Tiến sĩ William Culbertson thường cầu nguyện rằng, “Cha ơi, xin cho chúng con kết thúc một cách tốt đẹp.” Một giáo sư dạy Kinh Thánh nổi tiếng người Anh, Tiến sĩ F. B. Meyer và mối quan tâm lớn của ông là “không kết thúc trong một đầm lầy.” Rất nhiều người trong Kinh Thánh khởi đầu đầy vinh quang nhưng lại kết thúc trong bi kịch đó là: Lót, Sam-sôn, Ghê-đê-ôn, vua Sau-lơ, vua Ô-xia, và Đê-ma. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta muốn kết thúc một cách tốt đẹp và nhận phần thưởng của mình, không phải để khoe khoang mà để đem vinh hiển và vinh quang về cho Đấng Cứu Thế của chúng ta.

Điều cuối cùng, những vận động viên chiến thắng phải biết cách tập làm việc theo nhóm. Ngay cả một Cơ Đốc Nhân vĩ đại như Phao-lô cũng không cố gắng dành phần thưởng riêng cho mình. Ông có một số cộng tác viên trong chức vụ của mình, những người làm việc cùng ông khi rao giảng phúc âm. Ba-na-ba và Mác đồng hành cùng ông trong hành trình truyền giáo đầu tiên, và Si-la cùng Ti-mô-thê là những người giúp đỡ ông trong hành trình truyền giáo thứ hai. Bê-rít-xin và A-qui-la giúp ông ở Cô-rinh-tô và Ê-phê-sô, còn Ti-mô-thê và Tít được ông tin tưởng là trợ thủ đắc lực để giao cho nhiệm vụ đặc biệt lúc khẩn cấp. “Phao-lô thu hút những người bạn như thỏi nam châm hút mạt sắt.” Tiến sĩ F. F. Bruce đã viết vậy. “Có khoảng 70 người trong Tân

Page 80: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Ước được liệt kê bằng tên mà những người này chúng ta chưa bao giờ nghe tới nếu như không có sự hợp tác của họ với Phao-lô.” (Trích trong sách The Pauline Circle, Eerdmans, 1985).

Khi Phao-lô thúc giục những Cơ Đốc Nhân ở Phi-líp “đồng tâm chống cự vì đức tin của đạo Tin lành” (Phi-líp 1:27), ông sử dụng một hình ảnh trong thể thao. Từ “strive” (chống cự, đấu tranh) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp athleo, và từ này cho chúng ta một từ trong Tiếng Anh athletic (lực lưỡng). Từ đó có nghĩa là “đấu tranh để giành phần thưởng, thi đấu trong một cuộc thi.” Từ nầy cũng có nghĩa là “cùng nhau” và mang nghĩa “làm việc nhóm.” Phao-lô hình dung Hội Thánh như một đội thể thao, cùng nhau tranh đấu để đạt được mục tiêu của Đức Chúa Trời giao phó.

Từ tương tự được dịch là “làm việc với” trong Phi-líp 4:3. Ê-vô-đi và Syn-ty-cơ cùng nhóm với Phao-lô khi ông mở Hội Thánh ở Phi-líp. Nhưng bây giờ hai người phụ nữ này bất đồng ý kiến với nhau và gây ra nan đề cho cả nhóm (4:2). Có lẽ Phao-lô đã nghĩ về họ khi ông viết: “Chớ làm sự chi vì lòng tranh cạnh hoặc vì hư vinh, nhưng hãy khiêm nhường, coi người khác như tôn trọng hơn mình” (Phi-líp 2:3).

Một đội thành công thì luôn làm việc cùng nhau. Không có chỗ cho “người tìm kiếm hư vinh” tức người làm hết mọi việc và nhận hết vinh quang. Đây là một lời quở trách đối với những thành viên trong Hội Thánh gây chia rẽ Hội Thánh, hay là chia rẽ trong các lớp học Trường Chúa Nhật bởi vì họ không thể làm theo ý họ! Trong khi làm Mục sư quản nhiệm hay truyền giáo lưu động, tôi đã gặp, đã nghe về những người bỏ Hội Thánh bởi vì tên của họ không có trong bảng tin hay bởi họ không được chú ý trên bục hướng dẫn. Một người đàn ông mà tôi biết đã bỏ nhà thờ vì anh ta không được bầu chọn vào một chức vụ nào đó. Vận động viên thắng cuộc nghĩ cho toàn đội chứ không chỉ cho anh ta. Anh ấy biết làm thế nào để làm việc cùng nhau đem lại điều tốt cho toàn đội.

Điều thú vị về “một đội Cơ Đốc Nhân” đó là chúng ta có thể khích lệ lẫn nhau, kể cả sau khi chúng ta đã được gọi để nhận sự vinh hiển. Tôi đang viết những lời này khi ngồi trong thư viện của mình, bị bao quanh bởi hơn 8,000 cuốn sách, rất nhiều sách trong đó được viết bởi những người đã ở trên thiên đàng nhiều năm nay. Vậy mà những người “đồng đội” này vẫn đang khích lệ tôi. Họ giống như những tín hữu được biên vào sổ trong Hê-bơ-rơ 11, “nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây rất lớn,” họ là những người đang chứng kiến Hội Thánh ngày nay là những người có thể chiến thắng cuộc đua thuộc linh. Từ “witnesses” (những người chứng kiến, nhân chứng) trong thơ Hê-bơ-rơ 12:1 không có nghĩa là họ đang quan sát từ trên thiên đàng. Từ đó mang ý nghĩa họ chịu trách nhiệm làm chứng cho chúng ta trong Cựu Ước để chúng ta có thể “lấy lòng nhịn nhục theo đòi cuộc chạy đua” và giành phần thưởng.

Nhưng chúng ta không thể là những vận động viên giỏi nếu chỉ đơn thuần là những khán giả. Nếu chúng ta chỉ là những khán giả, thì những cơ bắp mà chúng ta phát triển sẽ là những cơ bắp của đôi mắt chúng ta mà thôi! (Có thể là phát triển cả dây thanh cuống họng nữa.) Một vài người đã định nghĩa một trận bóng đá là một sự kiện mà ở đó có hàng ngàn người cần rèn luyện trả giá

Page 81: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

cho đặc quyền được cổ vũ 22 người khỏe mạnh không cần rèn luyện. Lẽ dĩ nhiên là dễ trở thành khán giả hơn là trở thành vận động viên thi đấu –trừ khi sự kiện kết thúc và họ phát thưởng.

Vậy nên chúng ta hãy bước ra khỏi những người đang đứng và gia nhập đội.

Vẫn chưa quá muộn để bắt đầu chạy đua đâu.

10

Một Đại Sứ Của Nhà Vua

Vào tháng 12 năm 1814, Felix con trai của William Carey rút lui khỏi công cuộc truyền giáo và trở thành đại sứ ở Calcutta cho nhà vua của Burma. Trong khi hầu hết các bậc cha mẹ sẽ tự hào về sự bổ nhiệm này, thì cha của ông vô cùng đau đớn và viết thư về nhà rằng: “Felix đã chạy trốn khỏi nhiệm vụ truyền giáo để trở thành đại sứ.” Những sự kiện sau đó đã chứng tỏ sự đánh giá này là đúng, vì 7 tháng sau đó, Felix bị triệu hồi vì bị giáng chức và phải bỏ trốn tới Assam vì an toàn.

Chúng ta là những Cơ Đốc Nhân không buộc phải lựa chọn bởi vì mỗi tín hữu được Đấng Christ gọi có thể vừa làm nhà truyền giáo (“người được sai đi”) vừa làm một đại sứ (“người mang theo thông điệp”). Chúa Giê-su nói “Cha đã sai ta thể nào, ta cũng sai các ngươi thể ấy” (Giăng 20:21). Phao-lô đã viết, “Vậy chúng tôi làm chức khâm sai của Đấng Christ” (II Cô-rinh-tô 5:20).

Một vài người hài hước đã định nghĩa một quan khâm sai (đại sứ, sứ thần) là một chính trị gia không được bầu vào cơ quan chính quyền nhưng lại được giao cho một chức vụ với điều kiện là người đó phải rời khỏi đất nước. Trong thời đại của Kinh Thánh, từ ambassador (khâm sai) rất ít liên quan đến chính trị. Đúng hơn là từ này mang theo nghĩa của từ “một người đưa tin cá nhân”, người được sai đi làm một nhiệm vụ đặc biệt (II Sử Ký 35:21; Ê-sai 18:1-2; Lu-ca 14:32). Khâm sai này dưới quyền của một vua chúa hay một quan chức chính phủ. Ông được sai đi để thông báo một thông điệp nhưng không được đàm phán, thương lượng…

Trong thời của Phao-lô, đế quốc La Mã có hai loại tỉnh lỵ về mặt phân bố hành chính, mỗi loại liên quan tới chính phủ La Mã theo những cách khác nhau. Những tỉnh trực thuộc viện nguyên lão bao gồm những người đã quy phục La Mã và tuân giữ luật pháp một cách hòa bình. Những tỉnh còn lại trực thuộc sự cai trị của hoàng đế tuy nhiên những tỉnh này vẫn nổi loạn và có thể gây ra những vấn đề cho đế quốc La Mã. Đế quốc La Mã sẽ sai những quan khâm sai (sứ giả) đến các tỉnh trực thuộc hoàng đế chứ không gửi đến các tỉnh trực thuộc viện nguyên lão.

Page 82: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Các Cơ Đốc Nhân chính là các quan khâm sai của Đức Chúa Trời đến thế gian này bởi vì thế gian đang đánh trận với Đức Chúa Trời (Rô-ma 5:10; 8:5-8). Qua sự chết của Chúa Giê-su Christ trên thập tự, Đức Chúa Trời đã làm hòa với thế gian (II Cô-rinh-tô 5:18-19); nhưng thế gian vẫn không ăn năn, và không muốn làm hòa với Đức Chúa Trời. Chính vì lý do này, Đức Chúa Trời phải giải quyết với thế gian hay nổi loạn giống như đế quốc La Mã giải quyết với các tỉnh trực thuộc hoàng đế. Ngài gửi những sứ giả ra đi với sứ điệp hòa bình. Thực vậy, đây là một hành động bởi ân điển, vì Đức Chúa Trời có mọi quyền sai đội quân thiên sứ trừng phạt thế gian vì tội lỗi của nó. Thay vào đó, Ngài đề nghị những tội nhân món quà hòa bình và tha thứ.

Những đặc điểm của một sứ giả và chúng ta là những sứ giả của Đức Chúa Trời ngày nay có liên hệ như thế nào?

Đầu tiên, một sứ giả phải là công dân của nước mà người đó đại diện. Không khi nào đại sứ của một nước xen vào và đại diện cho một nước khác liên quan tới những vấn đề nhạy cảm (con tin, chiến tranh…), chỉ có đại sứ chính thức của đất nước đó mới có quyền hành động. Ông ấy có thể bàn bạc với các lãnh đạo khác, và thậm chí yêu cầu sự giúp đỡ của họ, nhưng một mình ông ấy phải chịu trách nhiệm cho bất cứ quyết định nào.

Tất cả các đại sứ của Đức Chúa Trời đều từng là công dân trong đất nước của Sa-tan, sống ở ngoài vương quốc của Đức Chúa Trời. Họ không thể tự mình rời khỏi vương quốc của nó, cũng như họ không thể tự mình trở thành công dân trong vương quốc của Đức Chúa Trời bởi nỗ lực của chính họ. Chỉ có Chúa Giê-su Christ mới có thể giải phóng tội nhân và ban cho họ quyền công dân mới. “Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất yêu dấu Ngài, trong Con đó chúng ta có sự cứu chuộc, là sự tha tội.” (Cô-lô-se 1:13-14).

Từ được dịch là giải thoát (“delivered") có nghĩa là “được cứu khỏi sự nguy hiểm” và được sử dụng trong II Phi-e-rơ 2:7 để miêu tả sự giải cứu Lót khỏi thành Sô-đôm. Còn từ “translated” (dời đi, đưa đi) có nguồn gốc từ ngôn ngữ Hy Lạp có nghĩa là “dời những người bại trận từ vùng đất này qua vùng đất khác.” Giống như sự lưu đày các tù nhân chiến tranh. Khi chúng ta tin Chúa Giê-su Christ, chúng ta được dời khỏi đất nước của Sa-tan và vào trong vương quốc đắc thắng của Chúa. Sự di dời ở đây mang ý nghĩa tự do và vinh quang chứ không phải là sự xấu hổ và nô lệ. Bởi vì chúng ta đã được cứu, và được biến đổi, “đặng mở mắt họ, hầu cho họ từ tối tăm mà qua sáng láng, từ quyền lực của quỉ Sa-tan mà đến Đức Chúa Trời” (Công Vụ 26:18).

Là những đại sứ của Đức Chúa Trời, quyền công dân thực của họ và tên của họ được viết trên thiên đàng (Lu-ca 10:20; Phi-líp 4:3). Quyền công dân thiên quốc khiến các tín hữu đủ tư cách trở thành đại sứ của Chúa Cha trên đất. "Nhưng chúng ta là công dân trên trời" (Phi-líp 3:20).

Các đại sứ phải được ủy nhiệm. Đôi lúc các công dân có thể có ảnh hưởng để đối phó với các thế lực nước ngoài, thì đại sứ chính thức là người có quyền hành động. Ông ấy là người được ủy nhiệm bởi chính phủ và ông được tín nhiệm và chấp nhận. “Những đại sứ tự do” thông thường đem lại danh tiếng lớn nhưng tài ngoại giao thì kém.

Page 83: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Mỗi Cơ Đốc Nhân là một “đại sứ vì Đấng Christ” cho dù anh ta biết điều đó hay không hoặc thậm chí không tán thành sự triệu tập đó. Đức Chúa Trời đã trao cho chúng ta “chức vụ giảng hòa” và “đạo giảng hòa” và chúng ta phải thay thế cho Đấng Christ mà bào chữa cho thế gian hay phản nghịch này để thế gian làm hòa lại với Đức Chúa Trời, “Cha đã sai ta thể nào thì ta cũng sai các ngươi như vậy” (Giăng 20:21 và xem Giăng 17:18).

Điều này nghĩa là công việc chính của chúng ta trong thế gian chính là chia sẻ phúc âm và tìm cách đưa dẫn mọi người đặt đức tin nơi Chúa Giê-su Christ. Chúng ta là những đại sứ của hòa bình. Trái nghịch với điều mà hầu hết mọi người nghĩ, Đức Chúa Trời không tuyên chiến với thế gian mà Ngài tuyên bố hòa bình. Giống như dân tộc Y-sơ-ra-ên khi chinh phục miền Đất Hứa, chúng ta tuyên bố đem bình an của Đức Chúa Trời đến với kẻ thù và cho họ cơ hội đầu phục Chúa (Dân Số ký 20:10-12). Chúng ta được ủy nhiệm bởi Vua của Các Vua.

Thứ ba là, một đại sứ đại diện cho người cai trị và dân tộc của mình. Không phải mọi tín hữu đều được kêu gọi hầu việc Chúa trọn thời gian, nhưng mọi tín hữu được kêu gọi sống đời sống Cơ Đốc Nhân trọn thời gian. Cho dù chúng ta ở bất kỳ nơi đâu, chúng ta cũng đại diện cho Chúa Giê-su Christ và cho Hội Thánh của Ngài, và mọi người hình thành những ý nghĩ của họ về Đức Chúa Trời và phúc âm từ những gì họ nhìn thấy và nghe thấy về chúng ta. Không may là khá nhiều Cơ Đốc Nhân hành động như các khách du lịch thay vì hành động giống các đại sứ và đem đến thế gian một hình ảnh xấu về đức tin của Cơ Đốc Nhân.

Hơn một lần, tôi và vợ tôi cảm thấy xấu hổ vì cách cư xử của một vài khách du lịch người Mỹ ở nước ngoài. Chúng tôi thấy một nhóm gần như báng bổ trong tu viện Westminster Abbey bằng cách nói chuyện cười đùa lớn tiếng, và sự vô lễ của họ đối với những vật kỷ niệm ở đó.

Chúng tôi cũng gặp một nhóm bất lịch sự trên xe buýt công cộng và chúng tôi phải nép mình và gần như cố gắng dấu diếm quốc tịch của mình khi họ nói đùa về ngay chính đất nước đang tỏ lòng hiếu khách với họ. Những chương trình truyền hình rẻ tiền và những khách du lịch bất lịch sự đang cố gắng xuất khẩu những hình ảnh xấu xí nhất có thể về người Mỹ.

Đại sứ không có quyền bịa đặt ra thông điệp, vì thông điệp đó phải do người cai trị gửi đến ông; và thông điệp của chúng ta là phúc âm về Chúa Giê-su Christ (I Cô-rinh-tô 15:1-8). Rao giảng bất kỳ một thông điệp nào khác là mời gọi sự đoán phạt của Đức Chúa Trời (Ga-la-ti 1:1-9). “Hãy hòa thuận lại với Đức Chúa Trời” là lời khẩn cầu không dứt của chúng ta khi liên hệ với những tội nhân bị hư mất.

Đại sứ không tự nâng mình lên hay cho phép những sở thích cá nhân cản trở công việc của mình. “Vả, chúng tôi chẳng rao giảng chính mình chúng tôi, nhưng rao giảng Đức Chúa Giê-su Christ, tức là Chúa; và vì tình yêu mến Đức Chúa Giê-su mà chúng tôi xưng mình là tôi tớ của anh em.” (II Cô-rinh-tô 4:5). Khi người truyền tin trở nên quan trọng hơn cả thông điệp, thì bạn đã bắt đầu sùng bái chính bản thân mình; và điều đó luôn rất nguy hiểm. Chúng ta phải ghi nhớ những lời của Oswald Chambers rằng: “Đức Thánh Linh sẽ chỉ là nhân chứng cho một bài làm chứng khi nào Chúa Giê-su Christ được ngợi khen nhiều hơn người làm chứng.”

Page 84: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Chúng ta luôn luôn đại diện cho Vua của mình, và chúng ta phải chắc chắn rằng Ngài vui lòng với những gì chúng ta nói và làm. Trở thành một đại sứ không phải là một công việc từ 8 giờ sáng tới 4 giờ chiều mỗi ngày. Làm đại sứ luôn là một đại sứ và người ấy phải cư xử phù hợp. David Hogg, là hàng xóm của David Livingstone ở Scotland nói với ông rằng: “Chàng trai trẻ, ngay bây giờ hãy để tôn giáo trở thành công việc hằng ngày của cậu chứ không phải là ngắt quãng (gián đoạn).” Chẳng có gì đáng kinh ngạc khi Livingstone trở thành một đại sứ giỏi như vậy.

Đại sứ được cung cấp đầy đủ mọi nhu cầu. Chính điều này đã cung cấp bằng chứng đem lại sự vinh quang và sức mạnh của quốc gia có đại sứ được ủy nhiệm. Nếu như bạn đã từng đến thăm các đại sứ quán khác nhau, thì bạn biết cách làm thế nào đánh giá quốc gia đó bởi những thứ bạn thấy trong đại sứ quán.

“Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Giê-su Christ” (Phi-líp 4:19). Chính Ngài là thuẫn cho chúng ta và là phần thưởng, sự bảo vệ, sự cung ứng của chúng ta (Sáng Thế Ký 15:1). Khi bạn và tôi làm công việc của nhà Vua, và đem sự vinh hiển cho danh Ngài, và làm theo ý muốn Ngài, Ngài sẽ thấy điều đó và chúng ta sẽ được nhận tất cả những gì chúng ta cần. Đại sứ của Ngài không cần phải lo lắng, vì tất cả mọi của cải trên trời và dưới đất đều được tùy ý sử dụng, và chính Ngài sẽ ở với họ bất cứ nơi nào họ đi (Ma-thi-ơ 28:18-20).

Khi trường đại học ở Glasgow vinh danh David Livingstone bằng cách trao ông bằng tiến sĩ Luật, ông nói với hội đồng rằng: “Chúa Giê-su đã hứa, 'Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.' Tôi đặt cược mọi thứ dựa trên những lời đó và Lời Chúa chẳng hề làm tôi nản lòng. Tôi chẳng bao giờ cô đơn!”

Một đại sứ giữ liên lạc với trụ sở. Cuối cùng, anh ấy phải biết người cai trị mình nghĩ gì và đất nước muốn anh ấy làm gì liên quan đến những vấn đề trọng đại của quốc gia. Điều này thực sự đặc biệt khi kẻ thù đang hành động và đất nước gặp nguy hiểm. Mỗi quốc gia có một “chính sách chung” trong đó nhấn mạnh đến vị trí chính thức trong nhiều vấn đề. Cũng có một kế hoạch để áp dụng chính sách này trong mỗi quyết định hằng ngày. Đại sứ phải biết tất cả những điều này.

Có “Những thông báo chính thức” của Đức Chúa Trời được tìm thấy trong Kinh Thánh. Những gì Ngài phán bày tỏ thần tính của Ngài, ý định của Ngài, và phương thức để Ngài giải quyết mọi việc. Khi chúng ta đọc Kinh Thánh và suy gẫm lời Chúa, chúng ta khám phá ra rằng ý muốn của Đức Chúa Trời và kế hoạch của Ngài là vì con dân Ngài trong thế gian này. Khi chúng ta cầu nguyện và chờ đợi trước Chúa trong lúc thờ phượng, Đức Thánh Linh sử dụng Lời Chúa hướng dẫn chúng ta trong những quyết định hằng ngày. Chúng ta không cần phải “tạo ra” bất cứ thứ gì. Kế hoạch này được định sẵn cho chúng ta từ thiên đàng.

Thật thú vị khi kiểm tra lời tuyên bố “go” (hãy đi) được đưa ra bởi Chúa chúng ta. Chúng ta sẽ “về nhà” (Mác 5:19), và “đi mau ra ngoài chợ, và các đường phố” (Lu-ca 14:21) và đi vào “Hãy ra ngoài đường và dọc hàng rào” (Lu-ca 14:23) và “Hãy đi khắp thế gian” (Mác 16:15). Công Vụ

Page 85: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

1:8 vẽ những nét chính về chương trình của Đức Chúa Trời: Chúng ta trở thành những đại sứ tại nhà, và sau đó dần dần tiếp cận với toàn thể thế gian. “Thần của Đấng Christ là Thần của hội truyền giáo” nhà truyền giáo Henry Martin đã nói như vậy “và chúng ta càng đến ngài hơn thì tinh thần truyền giáo của chúng ta càng mạnh mẽ.”

Những đại sứ không liên lạc với trụ sở có nguy cơ gây nguy hiểm đến chính sách ngoại giao của đất nước đó. Dù cho ông ta có vẻ thành công hay nổi tiếng tới đâu, thì những hành động độc lập của ông có thể dẫn tới chiến tranh. Ông ta không những phải làm việc cùng với những lãnh đạo của mình mà còn phải làm việc hòa hợp với những quan chức khác để đảm bảo rằng ông ta đại diện cho quốc gia của mình tốt. Điều này dẫn tới một đặc điểm quan trọng khác của một đại sứ.

Đại sứ phải luôn luôn chuẩn bị bài tường trình. “Bởi vì chúng ta thảy đều phải ứng hầu trước tòa án Đấng Christ, hầu cho mỗi người nhận lãnh tùy theo điều thiện hay điều ác mình đã làm lúc còn trong xác thịt” (II Cô-rinh-tô 5:10). Đây không phải là một câu hỏi về quyền công dân của đại sứ mà là câu hỏi về sự trung tín của ông, liệu ông có trung tín tuân lệnh và đại diện cho quốc gia tốt hay chưa.

Bạn đừng nhầm lẫn tòa án của Đấng Christ với tòa án lớn và trắng được miêu tả trong sách Khải Huyền 20:11-15 vì đó là tòa án dành cho những tội nhân bị hư mất. Tòa án của Đấng Christ là tòa án đánh giá công việc (không phải tội lỗi) của con dân Chúa, và mục đích của tòa án này là quyết định trao phần thưởng ra sao. Mặc dù chúng ta không hầu việc Chúa chỉ để nhận phần thưởng, Ngài sẽ ban phần thưởng cho chúng ta đầy ân điển nếu như chúng ta trung tín hầu việc Ngài.

Từ được dùng “appear” (xuất hiện) nghĩa là “to be revealed” (hiện ra). Từ này được dịch là “xuất hiện” trong câu 11. Chúng ta sẽ thực sự biết rõ về tòa án của Đấng Christ khi tòa án này được mở ra. “Vậy, chớ xét đoán sớm quá, hãy đợi Chúa đến; chính Chúa sẽ tỏ những sự giấu trong nơi tối ra nơi sáng, và bày ra những sự toan định trong lòng người; bấy giờ, ai nấy sẽ bởi Đức Chúa Trời mà lãnh sự khen ngợi mình đáng lãnh” (I Cô-rinh-tô 4:5). Đó là một lời cảnh báo khôn ngoan đáng chú ý!

Công tác của mỗi tín hữu sẽ được phán xét bởi Chúa và những ai làm việc cách trung tín vì sự vinh hiển của Ngài sẽ được thưởng. Cũng giống như các lãnh đạo loài người ban tặng những huy chương, cúp cho những công trạng đáng ngợi khen, thì Cha chúng ta cũng thừa nhận công trạng của những đại sứ trung tín của Ngài. Những phần thưởng này được tìm thấy trong Kinh Thánh như là “mão triều thiên” (I Cô-rinh-tô 9:25; II Ti-mô-thê 4:8; Gia-cơ 1:12; I Phi-e-rơ 5:4; Khải Huyền 2:10 và 3:11). Tuy nhiên, những đại sứ của Đức Chúa Trời sẽ không đòi mão triều thiên cho chính bản thân họ. Đúng hơn là họ sẽ dùng chúng để thờ phượng và tỏ lòng yêu mến với Vua của các Vua (Khải Huyền 4:10).

Sự thật là một ngày kia chúng ta sẽ đứng trước tòa án của Đấng Christ nên chúng ta hãy trung tín. Điều đó cũng khích lệ chúng ta tránh phán xét người khác (Rô-ma 14:10-23). Chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể phán xét cách công bình. Chức vụ mà chúng ta nghĩ là vô cùng tâm linh thì

Page 86: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

có thể trong thực tế rất xác thịt, và một chức vụ mà chúng ta nghĩ là không quan trọng có lẽ là một trong những chức vụ quan trọng nhất trong vương quốc của Đức Chúa Trời. Thật nguy hiểm khi xét đoán họ “trước kỳ hạn”.

Vậy phần thưởng chúng ta muốn là gì? “Cho nên chúng ta dầu ở trong thân thể nầy, dầu ra khỏi, cũng làm hết sức để được đẹp lòng Chúa” (II Cô-rinh-tô 5:9). Từ được chuyển ngữ ở đây là “accepted” (chấp nhận) có nghĩa là “đẹp lòng”. Các tín hữu đã được chấp nhận “trong Con yêu dấu của Ngài!” (Ê-phê-sô 1:6), và điều đó đủ để họ yên tâm về sự cứu rỗi. Nhưng chúng ta muốn sống và hầu việc cách đẹp lòng Chúa. Tất cả chúng ta đều muốn nghe Ngài phán rằng: “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tốt lành và trung tín” (Ma-thi-ơ 25:21). Khi biết rằng chúng ta mang sự vui mừng đến với Cha thì phần thưởng đó là đủ.

Các đại sứ có bổn phận tuân giữ luật lệ của đất nước và thực thi những mệnh lệnh được giao cho họ. Nếu một đại sứ coi thường luật pháp, và bất tuân lệnh, thì ông sẽ bị bãi nhiệm và phải rời khỏi chức vụ của mình. Ông vẫn còn là công dân của đất nước mình, nhưng ông không còn được hưởng đặc quyền và quyền hạn của chức vụ đó nữa. Khi một Cơ Đốc Nhân không vâng lời Đức Chúa Trời, anh ta hay cô ta vẫn thuộc về gia đình và vương quốc của Đức Chúa Trời. Nhưng Cơ Đốc Nhân đó đã bị tước mất đặc ân và sự vui mừng của một đại sứ là Cơ Đốc Nhân.

Giô-na là một tấm gương kinh điển của một đại sứ bất tuân mệnh lệnh. Đức Chúa Trời kêu gọi Giô-na đến thành Ni-ni-ve của dân ngoại và cảnh báo trước cho họ về sự đoán phạt sắp xảy đến. Giô- na là một người thành kiến, ông không muốn thấy những dân ngoại đáng ghét kia ở Ni-ni-ve được tha mạng; vậy nên ông đi ngược hướng và từ chối nghe theo tiếng gọi của Chúa.

Đức Chúa Trời đã làm thế nào với Giô-na? Ngài dạy dỗ ông cho tới khi ông đầu phục Chúa và tuân theo ý muốn của Ngài, ít nhất là vẻ bên ngoài. Giô-na vẫn còn là con cái Chúa khi ông phản nghịch, nhưng ông không còn được hưởng sự ban phước của Đức Chúa Trời, sự bình an của Ngài và là một chứng nhân hiệu quả nữa.

Là đại sứ của Đức Chúa Trời, chúng ta không phải chịu trách nhiệm về việc mọi người đáp lại sứ điệp như thế nào. Nhiệm vụ của chúng ta là tuân theo ý muốn của Đức Chúa Trời và trung tín rao truyền lời Ngài. Nhiệm vụ Ngài giao cho chúng ta đó là sử dụng Lời Chúa để làm trọn những mục đích thiêng liêng (Ê-sai 55:8-11). Khi sứ đồ Phao-lô thi hành chức vụ chỉ có vài người tin theo, số khác thì trì hoãn, và một vài người công khai chống đối sứ điệp. Ông là một đại sứ trung tín và là người đã để Chúa quyết định kết quả.

Những đại sứ thường được gọi về quê hương trước khi tuyên chiến. Chúa Giê-su Christ đã hứa sẽ trở lại đem con cái Ngài về nhà trên thiên đàng (Giăng 14:1-6; I Tê-sa-lô-ni-ca 4:13-18). Trong khi một số sinh viên nghiên cứu Kinh Thánh còn chưa đồng ý về những chi tiết trong lời tiên tri này, thì họ vẫn đồng ý rằng Chúa Giê-su sẽ trở lại và Ngài sẽ đến bất ngờ. Sau khi con cái Chúa được đem đến nơi vinh hiển, Đức Chúa Trời sẽ phán xét thế gian này (Xem I Tê-sa-lô-ni-ca 5:1-11).

Page 87: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Cho dù tôi không làm một bài kiểm tra về sự thông công hay tình trạng thuộc linh. Tôi tin rằng Hội Thánh sẽ theo kịp trước khi Đức Chúa Trời nổi cơn thịnh nộ với thế gian. Chúng ta đã đặt niềm tin nơi Chúa Giê-su “Đấng giải cứu chúng ta khỏi cơn thạnh nộ ngày sau” (I Tê-sa-lô-ni-ca 1:10). “Vì Đức Chúa Trời chẳng định sẵn cho chúng ta bị cơn thạnh nộ, nhưng cho được sự giải cứu bởi Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta,” (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:9).

Khi nào các đại sứ của Đức Chúa Trời còn ở trong thế gian, Đức Chúa Trời vẫn còn đang kêu gọi tội nhân ăn năn và tin vào phúc âm. Chúng ta đến để “công bố bình an” và kêu gọi tội nhân làm hòa lại với Đức Chúa Trời. Nhưng sẽ có một ngày Đức Chúa Trời gọi các đại sứ trở về nhà, Ngài sẽ tuyên chiến với thế gian. Điều này không có nghĩa là những người đó không được cứu trong suốt thời gian chịu sự khốn khổ khủng khiếp đó, nhưng họ sẽ phải trả một giá rất lớn cho sự chứng kiến đó (Khải Huyền 7:9-17).

Thế gian ngược đãi những đại sứ của Đức Chúa Trời. Vì thế gian không nhận ra sự hiện diện của con cái Đức Chúa Trời trong thế gian chính là cơ hội cho sự giải cứu và hy vọng của họ.

Sau khi những đại sứ được rút khỏi thế gian, cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời sẽ đổ xuống; và điều này nghĩa là sự chết và sự phán xét đời đời xảy đến với nhiều người.

Nếu như bạn chưa bao giờ tin Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế của bạn thì ngày hôm nay bạn hãy tin vào Ngài! Vì Ngài “đã nhậm lời ngươi trong thì thuận tiện, Ngài đã phù hộ ngươi trong ngày cứu rỗi.” Bạn không thể nắm chắc tương lai.

Nếu như bạn là một trong những con cái của Ngài, thì bạn cũng là một đại sứ của Chúa Giê-su Christ. Hãy là một đại sứ trung tín! Chia sẻ sứ điệp của Ngài cho thế gian hư mất khi bạn vẫn còn cơ hội. Hãy giúp đỡ người khác rao giảng sứ điệp ở những nơi bạn không thể đến.

“Nước Anh của ông đã biết đến Tin Lành bao lâu rồi?” Một Cơ Đốc Nhân người Trung Quốc hỏi Hudson Taylor.

Thấy hơi ngượng, Taylor nói với ông ấy rằng nước Anh đã biết về phúc âm hàng trăm năm trước.

“Cái gì cơ!” người Trung Quốc la lên. “Hàng trăm năm trước!” Sao ông biết về Chúa Giê-su lâu như thế mà đến giờ ông mới đến nói cho chúng tôi? Cha của tôi đã tìm kiếm lẽ thật hơn 20 năm và đã chết mà không tìm thấy. Ôi sao ông không đến sớm hơn?

Làm thế nào bạn có thể trả lời được câu hỏi đó?

11

NHỮNG HẠT GIỐNG

Page 88: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

VÀ NHỮNG Ổ BÁNH MÌ

Khi chúng ta nghiên cứu Kinh Thánh về các kiểu người và các biểu tượng, chúng ta phải cẩn thận vì một biểu tượng không phải luôn luôn mang ý nghĩa giống nhau. Bài nghiên cứu này của chúng ta là một thí dụ cụ thể. Trong “Thí dụ của Chúa về cỏ lùng” thì những hạt giống tượng trưng cho con cái Chúa và cánh đồng lúa tượng trưng cho thế gian. Nhưng trong “Thí dụ về người gieo giống” thì hạt giống tượng trưng cho Lời Chúa và đất trồng mang hình ảnh nhiều tấm lòng khác nhau của con người. Chúng ta không được nhầm lẫn hai hình ảnh này.

1. Con Dân Của Đức Chúa Trời Là Những Hạt Giống

Tại sao Chúa Giê-su lại so sánh con cái của Chúa là những hạt giống? Vì một điều thôi, những hạt giống chứa đựng sự sống. Chúng ta có thể sản xuất những quả bóng chơi gôn hay thậm chí cả kim cương, nhưng chúng ta không thể sản xuất hạt giống. Hạt giống là sản phẩm của sự sống.

Các Cơ Đốc Nhân sở hữu sự sống đời đời, sự sống của chính Đức Chúa Trời. “Ai tin Con, thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó.” (Giăng 3:36). Con được ban sự sống đời đời cho những kẻ mà Cha đã giao phó cho Con. Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Giê-su Christ, là Đấng Cha đã sai đến (Giăng 17:2-3).

Một trong những bài học chính của thí dụ này là Sa-tan cố gắng bắt chước sự sống này. Bất cứ nơi nào trong thế gian này Đức Chúa Trời gieo những tín hữu thực, thì Sa-tan đến và gieo những kẻ giả mạo. Sa-tan không phải là Đấng khởi đầu, hắn chỉ là một kẻ bắt chước (Xem II Cô-rinh-tô 11:13-16, 26). Chúa Giê-su cảnh báo chúng ta về ngày phán xét nhiều người sẽ ngạc nhiên khi khám phá ra rằng họ chẳng được cứu rỗi thực (Ma-thi-ơ 7:21-23).

Các Cơ Đốc Nhân như những hạt giống, họ nhỏ bé nhưng mạnh mẽ. Hạt giống là thứ khá nhỏ bé và yếu ớt. Nhưng khi chúng ta gieo xuống đất, sức sống của hạt giống sẽ được giải phóng và những cái rễ sẽ đâm xuống trong khi những chồi non thì nhú lên. Một cái cây đang lớn có thể cắm rễ của nó xuống dưới móng nhà và làm nứt móng. Những cái cây đang phát triển nổi tiếng với khả năng vượt qua những chướng ngại vật lớn khi chúng vươn về phía mặt trời.

Có thể chúng ta là những Cơ Đốc Nhân duy nhất trong gia đình mình hoặc trong cơ quan, và chúng ta cảm thấy như vậy là không xứng. Chúng ta cần phải nhớ rằng chúng ta đang chia sẻ quyền năng của chính Đức Chúa Trời và quyền năng của Ngài đang hành động thông qua chúng ta để có thể làm trọn những điều vĩ đại (Ê-phê-sô 1:17-23; 3:20-21). Các tín đồ luôn chỉ là thiểu số nhưng nếu chúng ta gieo đủ hạt giống, chúng ta sẽ có một vụ gặt.

Những hạt giống sản sinh ra trái cây, và trái cây có hạt bên trong nó để sinh thêm trái (Giăng 15:1-8). Đức Chúa Trời mong muốn chúng ta “tự sinh sôi” khi chúng ta giảng dạy trong thế gian

Page 89: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

này. Đức Chúa Trời đang tìm kiếm bông trái của Thánh Linh (Ga-la-ti 5:22-23) khi chúng ta trưởng thành về thuộc linh. Ngài ao ước chúng ta đem những người chưa tin đến với Đấng Cứu Thế (Rô-ma 1:13) và để “nẩy ra đủ các việc lành” (Cô-lô-se 1:10). Đức Chúa Trời đang trông mong một vụ gặt từ mỗi đời sống của chúng ta.

Điều này dẫn tới một lẽ thật quan trọng: những hạt giống phải được gieo xuống trước khi gặt. Chúa Giê-su nói: “Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu hột giống lúa mì kia, chẳng chết sau khi gieo xuống đất, thì cứ ở một mình; nhưng nếu chết đi, thì kết quả được nhiều.” (Giăng 12:24). Đây là một cách nói khác “Nếu ai muốn theo ta, thì phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo ta. Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mà mất sự sống thì sẽ được lại.” (Ma-thi-ơ 16:24-25).

Thật là dễ để từ bỏ mọi thứ, nhưng thật đau đớn khi từ bỏ chính mình. Thực tế thì rất nhiều người trong chúng ta từ bỏ những thứ như để thay thế cho sự hy sinh thực sự mà Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm, đó là từ bỏ chính mình (Rô-ma 12:1-2). Chúa chúng ta đã so sánh chính Ngài với một hạt giống và sự hy sinh của Ngài trên cây thập tự giống như việc gieo một hạt giống vào trong đất. Ngài phải chết trước khi Ngài sanh trái sống lại đời sống mới “cũng sống trong đời mới thể ấy” (Rô-ma 6:4). Nếu một hạt giống có thể nói năng, không nghi ngờ gì nữa nó sẽ phản đối chống lại bóng tối và sự chết của nó trong “mộ” nhưng nếu vậy thì làm sao hạt giống đó sản sinh được một vụ mùa.

Một tín hữu đến thăm một cánh đồng truyền giáo và nói với một trong những nhà truyền giáo tận tụy rằng, “Ôi Chúa ôi, chắc chắn ông sẽ bị chôn vùi ở đây.” Nhà truyền giáo trả lời đơn giản rằng “Chúng tôi sẽ không bị chôn vùi –chúng tôi đang gieo hạt! Chúng tôi đã chôn chính mình rất lâu rồi từ trước khi chúng tôi đến cánh đồng này.”

Những hạt giống bày tỏ sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời và sự đa dạng của con cái Chúa. Có nhiều loại hạt giống khác nhau, và tất cả những hạt giống đó đều có chỗ đứng trong thế giới rộng lớn của Đức Chúa Trời. Một vài hạt giống thì nhỏ bé trong khi những hạt khác lại lớn. Mất 35 triệu hạt giống của phong lan Epiphytic mới được một cây! Một vài loại hạt giống khác thì rất nhẹ và yếu, trong khi những loại hạt khác được bảo vệ bởi một lớp vỏ cứng. Có những hạt giống trôi trên biển, bay theo gió và có những hạt giống có gai và bám vào quần áo của chúng ta. Bằng sự khôn ngoan của Ngài, Đức Chúa Trời đã tạo ra mỗi hạt giống một cách hoàn hảo để chúng có thể làm công việc mà Ngài giao.

Trong Hội Thánh chúng ta thường có xu hướng muốn “sản xuất” những Cơ Đốc Nhân giống hệt nhau. Nhưng Đức Chúa Trời thích sự đa dạng! Sẽ sai lầm khi so sánh hạt hướng dương, có nhiều dầu, với những hạt của cây phong lan nhỏ xíu khó có thể nhìn thấy. Và chúng ta sẽ đặt câu hỏi về sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Vâng, tất cả mọi tín hữu phải trở nên giống như Chúa Giê-su. Nhưng khi chúng ta làm vậy, thì sẽ làm nổi bật cá tính của chính chúng ta rõ hơn. Phi-e-rơ không trở nên giống như Giăng; ông giữ được những tính cách riêng biệt và được Chúa sử dụng trong

Page 90: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

chức vụ đặc biệt của mình. Đức Chúa Trời biết nơi nào phải gieo hạt để những hạt giống đó sẽ làm những điều tốt lành nhất.

Có một điều rõ ràng là, những hạt giống phải được gieo. Chúa Giê-su Christ là Chúa của vụ gặt, và Ngài gieo những hạt giống tùy theo kế hoạch hoàn hảo của Ngài. Đôi lúc Ngài sử dụng sự khủng bố để gieo những tín hữu và đưa phúc âm đến những vùng đất mới. Khi Sau-lơ xứ Tạt-sơ chống đối Hội Thánh, ông nghĩ rằng ông đang tiêu diệt những chứng nhân của Đức Chúa Trời, trong khi thực tế ông lại làm cho họ tản lạc khắp nơi! “Trong lúc đó, Hội Thánh ở thành Giê-ru-sa-lem gặp cơn bắt bớ dữ tợn; trừ ra các sứ đồ, còn hết thảy tín đồ đều phải chạy tan lạc trong các miền Giu-đê và xứ Sa-ma-ri” (Công Vụ 8:1). “Vậy, những kẻ đã bị tan lạc đi từ nơi nầy đến nơi khác, truyền giảng đạo Tin lành” (Công Vụ 8:4).

Tiếng Hy Lạp được chuyển ngữ thành từ “scattered” có nghĩa là “gieo hạt”. Những ngọn gió bắt bớ chỉ để phổ biến sứ điệp ra ngoài rộng rãi hơn và cho phép những hạt giống đâm rễ trong những cánh đồng khác. Thực tế thì một vài hạt giống Cơ Đốc đã tới An-ti-ốt và mở một Hội Thánh mới ở đó (Công Vụ 11:19); và đó chính là Hội Thánh mà sau này giao cho Phao-lô nhiệm vụ giảng sứ điệp cho dân ngoại (Công Vụ 13:1)! Cách thức Đức Chúa Trời làm việc mới tuyệt vời làm sao!

2. Hội Thánh Là Một Ổ Bánh Mì

“Anh em há chẳng biết rằng một chút men làm cho cả đống bột dậy lên sao?” (I Cô-rinh-tô 5:6). “Vì chỉ có một cái bánh, chúng ta dầu nhiều, cũng chỉ một thân thể; bởi chưng chúng ta đều có phần chung trong một cái bánh.” (I Cô-rinh-tô 10:17).

Khi mỗi hạt giống phải được gieo xuống thì những hạt giống cũng phải hiệp với nhau như “một ổ bánh mì” tức là Hội Thánh. Phao-lô đã so sánh Hội Thánh tại Cô-rinh-tô với một ổ bánh mì vì nhiều lý do.

Đầu tiên, đó là bánh mì được làm từ hạt lúa mì. Như chúng ta đã biết, các tín hữu là hạt giống. Nhưng để sản xuất ra một ổ bánh mì, thì chúng ta phải nghiền hạt lúa mì và nướng bánh trong lò. Các Cơ Đốc nhân phải là những người biết rằng như thế nào là “được nghiền” bởi Đức Chúa Trời và được đưa vào lò thử thách. Ổ bánh mì minh họa cho sự thật là các tín hữu phải để Đức Chúa Trời bẻ họ ra và sau đó hợp họ lại.

Phao-lô đã xem ổ bánh mì như là biểu tượng của sự hiệp một. “Vì chỉ có một cái bánh, chúng ta dầu nhiều, cũng chỉ một thân thể; bởi chưng chúng ta đều có phần chung trong một cái bánh.” (I Cô-rinh-tô 10:17). Một cái bình đầy những hạt giống riêng lẻ không phải là hình ảnh của sự hiệp một. Chỉ khi nào những hạt lúa mì đó được nghiền nát và nướng lên thành một ổ bánh mì thì chúng ta mới có một hình ảnh thực về sự hiệp một. Có quá nhiều Hội Thánh chẳng là gì khác ngoài một cái bình chứa hạt lúa mì. Đức Chúa Trời muốn nghiền những hạt lúa mì đó và đưa bột nhào vào trong lò để Ngài có thể làm một ổ bánh mì hiệp một theo sự vinh hiển Ngài.

Page 91: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Mục đích của bánh mì lẽ dĩ nhiên là để nuôi người khác ăn. Bánh mì có tự ăn chính nó được không? Hội Thánh ở trong thế gian là để nuôi những tội nhân đói khát và chia sẻ với họ sự sống đời đời mà chỉ có Chúa Giê-su Christ mới có thể ban cho. Chúng ta giống như bánh mì mà Chúa Giê-su đã ban cho các môn đồ của Ngài để chia sẻ với 5,000 người và 4,000 người. Chúng ta phải bị bẻ ra và phân phát nếu không sẽ chẳng làm được gì. “Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mà mất sự sống thì sẽ được lại” (Ma-thi-ơ 16:25).

Một trong những bài học quan trọng nhất mà chúng ta học được từ ổ bánh mì đó là bột nhào phải tinh sạch. Trong I Cô-rinh-tô 5, Phao-lô đã sử dụng một minh họa quen thuộc với người Do Thái và với nhiều dân ngoại, làm sạch men cũ tại lễ Vượt Qua (xem Xuất Ê-díp-tô Ký 12:15-20). Người Do Thái không được phép bỏ men vào trong bánh mì trong lễ Vượt Qua, cũng như không được để men ở bất kỳ đâu trong nhà của họ. Men thời đó là biểu tượng của sự xấu xa. Dù chỉ một ít men nhưng nó có thể lan rộng ra rất nhanh chóng; nó sẽ ngấm vào bột và làm bột dậy lên (I Cô-rinh-tô 4:6, 18-19; 5:2).

Theo văn cảnh của I Cô-rinh-tô 5, “men” là một thành viên trong Hội Thánh và người đó đang sống trong tội lỗi, và mọi người đã biết điều đó. Bởi vì người đó không ăn năn và từ bỏ tội lỗi đáng xấu hổ của mình, nên Phao-lô nói với họ phải dạy dỗ kẻ nổi loạn và đuổi ra khỏi Hội Thánh. Một tín hữu bất tuân có thể hủy hoại cả Hội Thánh giống như men lan ra và ảnh hưởng đến toàn bộ mẻ bột.

Sự thi hành kỷ luật của Hội Thánh không phải là một hành động phổ biến. Hầu hết các lãnh đạo của nhà thờ đều tránh nói đến. Nhưng điều đó là tốt cho con cái Chúa cũng giống như chúng ta thi hành kỷ luật yêu thương đối với con cái của mình. Phao-lô nói với họ là phải kỷ luật người này vì chính lợi ích của người đó (I Cô-rinh-tô 5:1-5). Để người đó có thể ăn năn và không phải chịu kỷ luật từ cây roi của Đức Chúa Trời. Nhưng Phao-lô cũng nói rằng Hội Thánh phải kỷ luật người đó vì chính lợi ích của Hội Thánh nữa (I Cô-rinh-tô 5:6-8), để điều ác tác động lên người đó sẽ không tiêm nhiễm người khác. Trong các câu 9-13, Phao-lô đã chỉ ra rằng kỷ luật của Hội Thánh cũng là vì lợi ích của thế gian. Làm thế nào mà một Hội Thánh ô uế có thể làm chứng cho một thế gian hư mất? Nếu như mọi người trong Hội Thánh chẳng có gì khác với những người trong thế gian thì thế gian sẽ chẳng chú ý đến sứ điệp của Hội Thánh.

Men cũ không chỉ là một hình ảnh về “gian ác, độc dữ” (I Cô-rinh-tô 5:8), nó cũng là hình ảnh của sự giả hình. “Hãy giữ mình về men của người Pha-ri-si, là sự giả hình.” (Lu-ca 12:1). Từ “hupokrites” có nghĩa là “một diễn viên, một kẻ giả vờ”. Trong kịch Hy Lạp, những diễn viên thường mang mặt nạ thay cho trang điểm để mô tả những người khác trong câu chuyện. Khi một tín hữu cố ý giả vờ tức là người đó đang tập cách giả hình; và anh ta bắt đầu đưa “men cũ” vào trong sự thông công.

Chúa Giê-su cũng sử dụng men để minh họa cho những giáo lý sai lạc “Hãy giữ mình cẩn thận về men của người Pha-ri-si và Sa-đu-sê…Bấy giờ môn đồ mới hiểu rằng Ngài chẳng bảo giữ

Page 92: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

mình về men làm bánh, nhưng về đạo của người Pha-ri-si và Sa-đu-sê.” (Ma-thi-ơ 16:6, 12; cũng xem Ga-la-ti 5:7-9).

Giáo lý sai lạc của người Pha-ri-si là tuân thủ luật pháp tuyệt đối, họ cho rằng bằng cách giữ những tiêu chuẩn nào đó và tuân theo những quy tắc nào đó thì họ mặc nhiên được kể là ngay thẳng trước Đức Chúa Trời (Lu-ca 18:9-14; xem thêm Ma-thi-ơ 23). Người Sa-đu-sê thì không tin vào thiên thần, linh hồn, hay là sự phục sinh (Công Vụ 23:6-8). Họ là những người chống lại những điều siêu nhiên của thời đó và chối bỏ tất cả các sách Kinh Thánh Cựu Ước trừ Ngũ Kinh của Môi-se.

Không mất nhiều thời gian để những giáo lý sai lạc lan rộng như men trong một cộng đồng Hội Thánh địa phương. Trên thực tế, những lời dối trá dường như lan nhanh hơn sự thật. Chúng ta có thể thăm những Hội Thánh và những trường học từng có một đức tin thực, nhưng ngày nay họ đã chối bỏ, và thậm chí cười vào cái “đức tin của môn đồ” mà chính họ đã từng xác quyết.

Tôi đã từng thăm một nhà thờ nổi tiếng ở Luân Đôn, được nghe một diễn giả phúc âm dũng cảm giảng tại đó. “Nếu như phúc âm không được giảng ở bục giảng này nữa,” ông hét lên “thì tôi hy vọng rằng ai đó sẽ viết ‘Ichabod’ trên cánh cửa” (Y-ca-bốt là tiếng Hê-bơ-rơ nghĩa là “thiếu sự vinh hiển” xem I Sa-mu-ên 4:21). Mục sư kế tiếp của Hội Thánh được làm lễ bổ nhiệm ở đây đã giảng một thứ mà ông ta gọi là “thần học mới,” một hình thức hấp dẫn của chủ nghĩa tự do. Men cũ bắt đầu lan rộng và một người đã viết “Ichabod” lên cánh cửa của nhà thờ.

Còn có một loại men trần tục và thỏa hiệp nữa. Chúa Giê-su gọi men này là “men của Hê-rốt” (Mác 8:15; xem thêm Mác 6:17-29). Hê-rốt An-ti-ba một người không có Chúa mà lại muốn được nổi tiếng như một người Giu-đa trung tín. Nhưng lại giết Giăng Báp-tít, một tiên tri vĩ đại nhất trong các tiên tri. Ông ta tìm cách làm vui lòng người dân để giữ sự nổi tiếng, nhưng suốt thời kỳ đó nhân cách của ông bị hư hoại. Khi con dân của Chúa thỏa hiệp với điều dữ và tìm cách mua vui cho thế gian, tức là họ đang đưa men vào trong ổ bánh mì (xem II Cô-rinh-tô 6:14-7:1).

Nếu như Hội Thánh là loại bánh mì thực sự có thể nuôi một thế gian đang đói khát, thì Hội Thánh phải giữ được một giáo lý tinh sạch và sự rèn luyện tinh sạch. Chúng ta phải ghi sâu vào trong lòng những đoạn Kinh Thánh như I Ti-mô-thê 4 và II Ti-mô-thê 3, cả lời cảnh báo của Phao-lô đối với các lãnh đạo của Hội Thánh Ê-phê-sô (Công Vụ 20:28-35). Diễn giả nổi tiếng người Anh là Tiến sĩ G. Campbell Morgan từng nói rằng Hội Thánh làm được nhiều nhất cho thế gian khi Hội Thánh khác với thế gian nhất.

3. Kiểm Tra Cá Nhân

Hình ảnh mà chúng ta vừa nghiên cứu đại diện cho tín hữu là một cá nhân và cũng là một phần của Hội Thánh, như hạt giống và ổ bánh mì. Việc chúng ta áp dụng những lẽ thật này với cá nhân rất quan trọng để chúng ta có thể giúp cả Hội Thánh được trở nên giống như Đức Chúa

Page 93: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Trời mong muốn. Đây là “một vài câu hỏi tự kiểm kê lại” mà chúng ta có thể tự hỏi chính mình thường xuyên.

1. Liệu tôi thực sự có sự sống của Chúa trong tôi chưa? Tôi có phải là “một hạt giống sống” không?

2. Tôi có nhận ra được quyền năng vĩ đại tiềm tàng trong tôi bởi ân điển của Chúa?

3. Liệu tôi có gieo hạt ở nơi Ngài muốn tôi gieo chưa? Tôi có muốn sanh bông trái ngay nơi tôi ở, hay là tôi đang phàn nàn và tìm kiếm một nơi “tốt hơn”?

4. Liệu tôi phải tự bỏ chính mình thì bông trái mới sinh ra?

5. Liệu tôi có phải là một phần trong sự thông công của Hội Thánh địa phương chưa? Liệu Hội Thánh của chúng ta đã thực sự là một “ổ bánh mì” hiệp nhất, mà không phải là một bộ sưu tập các hạt giống?

6. Liệu tôi có cố gắng giữ đời sống của tôi tránh xa men cũ chưa?

7. Liệu tôi có dám mạo hiểm tình yêu mến của mọi người để giữ men cũ tránh xa sự thông công?

8. Liệu tôi có ở dưới thẩm quyền của Hội Thánh tôi và liệu tôi có hỗ trợ trong việc thi hành kỷ luật Hội Thánh theo Kinh Thánh?

9. Liệu Hội Thánh của chúng ta có nuôi người khác hay chỉ tồn tại vì chính nó?

12

Sự Sáng Tạo Mới “Thời đại mới đang đến!”

“Thế giới mới chỉ ngay sau lối rẽ đằng kia!”

“Bạn có sẵn sàng bước vào một xã hội mới chưa?”

Những khẩu hiệu như vậy đang tấn công tới tấp chúng ta trong những năm gần đây, bằng những cuốn sách, những buổi hội nghị, và những đại hội để xúc tiến những khẩu hiệu đó. Người dân là những người tin vào thông điệp “thời đại mới” đang chi tiêu rất nhiều tiền để chuẩn bị. Giá mà thế gian nhận ra rằng “thời đại mới” mà họ nói kia đã ở đây gần 2000 năm và thời đại mới này vẫn rất hấp dẫn giống như khi nó nổ ra trong lịch sử!

Page 94: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

“Thời đại mới” của Đức Chúa Trời đã nổ ra trong quang cảnh Chúa Giê-su Christ đến với thế gian và hoàn thành công tác cứu chuộc. Ngài đã chết vì tội lỗi của thế gian, Ngài sống lại từ kẻ chết và Ngài trở lại thiên đàng và ban Đức Thánh Linh đến với con dân Ngài. Tất cả những ai tin Chúa Giê-su Christ thì “ở trong Ngài” và là một phần trong “thời đại mới” của Chúa. Phao-lô đã viết: “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới.” (II Cô-rinh-tô 5:17).

Không phải “mọi sự phải trở nên mới” mà là “mọi sự đều đã trở nên mới”. “Sự sáng tạo mới” không phải là một giấc mơ cho tương lai; mà đó là một thực tế sống động ngay hôm nay. Nếu bạn là một Cơ Đốc Nhân, thì bạn không chỉ ở trong “sự sáng tạo mới” của Đức Chúa Trời mà chính bạn ở trong một “sự sáng tạo mới!” Để hiểu thấu được lẽ thật này và để lẽ thật đó làm việc trong đời sống của bạn, bạn phải hiểu được ba sự sáng tạo của Đức Chúa Trời.

1. Sự Sáng Tạo Cũ –Minh Họa (Sáng Thế Ký 1)

Phao-lô dùng từ sự sáng tạo là bởi ông muốn chúng ta xem ví dụ về sự cứu rỗi và công cuộc sáng tạo của Đức Chúa Trời được ghi lại trong Sáng Thế Ký 1. Xét cho cùng, thì Cơ Đốc Nhân là “là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Giê-su Christ” (Ê-phê-sô 2:10). Hãy chú ý những so sánh này giúp chúng ta hiểu rõ hơn “sự sáng tạo mới” của Đức Chúa Trời là gì.

Sự sáng tạo khởi nguồn từ Đức Chúa Trời. “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.” (Sáng Thế Ký 1:1). Sự cứu chuộc cũng khởi nguồn từ Đức Chúa Trời, và Ngài đã lập kế hoạch từ lâu trước khi Ngài sáng thế (Ê-phê-sô 1:4; Khải Huyền 13:8). Tiên tri Giô-na đã nói về sự cứu chuộc thật đầy đủ: “Những kẻ chăm sự hư không giả dối, thì lìa bỏ sự thương xót của mình.” (Salvation is of the Lord! –tạm dịch sự cứu rỗi đến từ Chúa. Kinh Thánh Tiếng Việt dịch không rõ nghĩa đen.) (Giô-na 2:9). Khi chúng ta đang suy ngẫm về lẽ thật thì Đức Chúa Trời đã nghĩ đến cõi đời đời của chúng ta trước khi chúng ta được sinh ra, điều này khiến chúng ta cảm kích trước sự tuyệt vời của ân điển Ngài. Lẽ dĩ nhiên, bất cứ công việc nào mà Đức Chúa Trời khởi đầu thì Ngài sẽ làm trọn (Phi-líp 1:6); vậy nên “sự sáng tạo mới” sẽ thành công. Đức Chúa Trời lập kế hoạch cứu rỗi, Đức Chúa Trời dự liệu trước cho kế hoạch đó và trả giá vì nó và Chúa sẽ tiến hành mọi việc cần thiết để làm trọn kế hoạch tuyệt vời của Ngài.

Sự sáng tạo có liên quan đến Đức Thánh Linh. “Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước” (Sáng Thế Ký 1:2). Tội nhân sẽ không được cứu nếu như không có sự thi hành chức vụ của Đức Thánh Linh. Chính Đức Thánh Linh cáo trách tội lỗi của chúng ta (Giăng 16:7-11) và bày tỏ về Đấng Cứu Thế cho chúng ta. Chúng ta được sinh lại là nhờ vào quyền năng của Thần Đức Chúa Trời (Giăng 3:1-8), và cũng chính Đức Thánh Linh làm chứng cho chúng ta và khẳng định chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời (Rô-ma 8:9, 14-17).

Hãy chú ý đến tình trạng của mọi vật trước khi Đức Thánh Linh vận hành: mờ tối, trống không, và vô hình (Sáng Thế Ký 1:2). Đó chính là hình ảnh tượng trưng cho tội nhân bị hư mất! Trong 6 ngày sáng tạo thế giới, Chúa đã tạo dựng và sau đó lấp đầy. Và kết quả giống như thế này:

Page 95: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Đức Thánh Linh tạo dựng Đức Thánh Linh lấp đầy

Ngày thứ nhất: ánh sáng Ngày thứ tư: các loại ánh sáng (mặt trời, mặt trăng)

Ngày thứ hai: bầu trời, nước Ngày thứ năm: các loài chim và cá

Ngày thứ ba: đất, cây cối Ngày thứ sáu: con người và động vật

Khi chúng ta là một phần trong “sự sáng tạo mới” của Chúa, Đức Thánh Linh đang vận hành trong đời sống của chúng ta, để tạo dựng và lấp đầy chúng ta. Hầu hết chúng ta thích được lấp đầy nhưng lại không thích sự tạo dựng! Tuy nhiên, cả hai điều này đều cần thiết nếu như chúng ta muốn trở thành những gì Ngài muốn.

Sự sáng tạo liên quan với Lời Chúa. Chín lần trong câu chuyện về sự sáng thế chúng ta tìm thấy cụm từ “Đức Chúa Trời phán.” Đức Chúa Trời hoàn thành ý muốn của Ngài qua Lời Ngài phán. “Các từng trời được làm nên bởi lời Đức Giê-hô-va…vì Ngài phán, thì việc liền có; Ngài biểu thì vật bèn đứng vững bền” (Thi Thiên 33:6,9). Thần của Đức Chúa Trời sử dụng Lời Chúa để cảm động tội nhân (Công Vụ 2:37), rao giảng đức tin (Rô-ma 10:17), và đem lại sự sống (Giăng 5:24) cho những ai tin vào Đấng Cứu Thế. Chúa cũng sử dụng Lời Ngài để biến đổi đời sống của con dân Chúa và làm cho họ trở nên xứng đáng trước Đấng Christ (Ê-phê-sô 5:26-27).

Sự sáng tạo liên quan đến ánh sáng. “Phải có sự sáng!” (Sáng Thế Ký 1:3) là điều khiến sự sáng thế hoạt động, và Phao-lô đã thấy trong đó hình ảnh về sự cứu chuộc của chúng ta. “Vì Đức Chúa Trời, - là Đấng có phán: Sự sáng phải soi từ trong sự tối tăm! - Đã làm cho sự sáng Ngài chói lòa trong lòng chúng tôi, đặng sự thông biết về vinh hiển Đức Chúa Trời soi sáng nơi mặt Đức Chúa Giê-su Christ” (II Cô-rinh-tô 4:6). Nếu như ánh sáng của sự sống không soi vào tấm lòng của chúng ta, thì chúng ta vẫn đang ở trong bóng tối của tội lỗi và không phải một phần của “sự sáng tạo mới” (Giăng 1:6-13).

Sự sáng tạo cần có một lãnh đạo. Đức Chúa Trời giao cho A-đam và Ê-va quyền cai trị tạo vật (Sáng Thế Ký 1:26-28) và A-đam là lãnh đạo đứng đầu của loài người. Sự sáng tạo cũ được dẫn đầu bởi “A-đam đầu tiên” và diễn ra trên thế gian; còn “sự sáng tạo mới” được dẫn dắt bởi Chúa Giê-su Christ, “A-đam sau rốt” người đến từ thiên đàng (I Cô-rinh-tô 15:45-49). Bởi vì Đức Chúa Trời đã thử và xét đoán cả loài người qua A-đam, sau đó Ngài có thể đem sự cứu rỗi đến với toàn thể nhân loại qua A-đam cuối cùng là Đấng Christ (Rô-ma 5:12-21).

A-đam đầu tiên được thử thách trong một khu vườn hoàn hảo (ngoại trừ sự hiện diện của Sa-tan), và ông đã thất bại. A-đam sau rốt được thử thách trong nơi đồng vắng, và Ngài đã chiến thắng (Ma-thi-ơ 4:1-11). A-đam đầu tiên là một tên trộm bị đuổi khỏi Thiên Đàng. Còn A-đam cuối cùng lại nói với một tên trộm cướp là, “Quả thật, ta nói cùng ngươi, hôm nay ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi.” (Lu-ca 23:43). Khi bạn tin Chúa Giê-su Christ cứu bạn, thì bạn được sinh lại và bước đi dưới sự lãnh đạo của A-đam cuối cùng; và điều này biến bạn trở thành “sự

Page 96: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

sáng tạo mới”. Những người chưa được cứu là “ở trong A-đam.” Còn những người được cứu là “ở trong Đấng Christ.”

Sự sáng tạo là bởi ân điển. Trước khi Đức Chúa Trời tạo ra người nam và người nữ đầu tiên, Ngài đã chuẩn bị sẵn cho họ mọi thứ mà họ cần. Ân điển là vậy đấy! Nhưng có một điều giống như vậy lại đúng theo “sự sáng tạo mới”. Khi chúng ta được sinh lại trong gia đình của Đức Chúa Trời, chúng ta được sinh ra, “Anh em lại nhờ Ngài mà có được đầy dẫy mọi sự.” (Cô-lô-se 2:10). Chúng ta được cứu bởi ân điển (Ê-phê-sô 2:8-9) và chúng ta phải sống bởi ân điển (I Cô-rinh-tô 15:10) nhờ vào sự giàu có của ân điển Ngài (Ê-phê-sô 2:7; Phi-líp 4:19). Khi chúng ta “ở trong Đấng Christ”, chúng ta có tất cả những thứ mà Ngài có và bởi đức tin mọi thứ Ngài có đã dành sẵn cho chúng ta.

Sự sáng tạo đem vinh hiển cho Đức Chúa Trời. “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.” (Thi Thiên 19:1). Tội lỗi chắc chắn đã gây thiệt hại cho sự sáng tạo của Đức Chúa Trời, nhưng chúng ta vẫn có thể nhìn thấy và ngưỡng mộ sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài. Mục đích của “sự sáng tạo mới” đó là Đức Chúa Trời được vinh hiển cho đến đời đời. Điều mà Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta trong Chúa Giê-su Christ là “để khen ngợi sự vinh hiển của ân điển Ngài” (Ê-phê-sô 1:6, 12, 14). Nhiệm vụ của chúng ta là người đang sống trong “sự sáng tạo mới” phải biết là mọi việc chúng ta làm là để dâng sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời (I Cô-rinh-tô 6:19-20; Ma-thi-ơ 5:16).

“Sự sáng tạo cũ” của Đức Chúa Trời là một minh họa tuyệt vời cho “sự sáng tạo mới” của Ngài. Chúng ta nên nhớ trong lần tiếp theo chúng ta ngắm mặt trời lặn hoặc gặp một trận bão bất ngờ. Đức Chúa Trời phán với chúng ta không chỉ thông qua Lời Chúa được chép lại mà còn qua cuốn sách vĩ đại của thiên nhiên, “sự sáng tạo cũ” của Ngài.

2. Sự Sáng Tạo Mới Của Đức Chúa Trời –Sự Áp Dụng (II Cô-rinh-tô 5)

Khi Phao-lô viết II Cô-rinh-tô 5:17, ông không chỉ tạo ra sự so sánh mà ông còn rút ra một kết luận. Hãy chú ý câu bắt đầu với từ “therefore” (vậy thì). Đọc cẩn thận toàn bộ đoạn này sẽ rõ điều mà Phao-lô muốn giải thích. Nếu chúng ta là một phần của “sự sáng tạo mới” thì mọi thứ về chúng ta đều mới. Chúng ta có thể không thấy hay không hiểu và chúng ta có thể không sống như thế; nhưng mọi thứ đều trở nên mới.

Chúng ta sẽ thấy Phao-lô nhấn mạnh lẽ thật này nhiều lần (Ê-phê-sô 4:17; Cô-lô-se 3:1). Trong những đoạn Kinh Thánh này ông viết về “con người cũ” và “con người mới” nhưng sứ điệp là như nhau. Ông không nói chúng ta phải thay đổi cách sống. Con người cũ bị chôn với Đấng Christ. Chúng ta đã sống lại từ kẻ chết và quần áo liệm được bỏ lại phía sau. “Vì mọi sự đều trở nên mới!”

Những người đang ở trong “sự sáng tạo mới” của Đức Chúa Trời nhìn cuộc đời theo cách khác với những ai vẫn thuộc về “sự sáng tạo cũ”. Đây là sứ điệp chính của II Cô-rinh-tô 5.

Page 97: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Đầu tiên, chúng ta hãy xem sự chết và sự đau khổ dưới quan điểm của Đức Chúa Trời (II Cô-rinh-tô 5:1-8). Chúng ta biết rằng sự sống là tạm bợ (Ngài so sánh thân thể con người với một cái lều) và chúng ta càng sống lâu thì chúng ta càng gần với sự chết. Nhưng chúng ta không sợ cái chết bởi vì sự chết là đường đến trước sự hiện diện của Chúa. Điều này không có nghĩa là các Cơ Đốc Nhân chào đón sự chết mà là họ không sợ phải chết.

Chúng ta cũng có một thái độ khác với sự sống và hầu việc Chúa (II Cô-rinh-tô 5:9-11), vì động lực của chúng ta để sống và hầu việc Chúa chính là làm đẹp lòng Chúa. Chúng ta biết rằng một ngày nọ các công việc của chúng ta sẽ được phán xét trước tòa án của Đấng Christ, và điều này sẽ quyết định phần thưởng của chúng ta (I Cô-rinh-tô 3:5-17; Rô-ma 14:10-13). Chúng ta thấy sự sống giống như sự quản trị các ân tứ, khả năng, cơ hội; và chúng ta muốn trở thành những quản gia trung tín (I Cô-rinh-tô 4:2).

Bởi vì chúng ta ở trong “sự sáng tạo mới” chúng ta thấy chính mình trong một con đường mới (II Cô-rinh-tô 5:12-15). Nếu như mọi người nghĩ rằng chúng ta “điên rồ,” điều đó chẳng làm chúng ta buồn bởi vì mối quan tâm chính của chúng ta là làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. (Chú ý Công Vụ 26:24; Mác 3:20-21; Giăng 10:20.) Khi chúng ta thuộc về “sự sáng tạo mới” chúng ta sẽ sớm khám phá ra rằng số đông thuộc về “sự sáng tạo cũ” không hiểu chúng ta. Chúng ta nhận biết rằng Đấng Christ chết vì chúng ta nên chúng ta phải sống cho Ngài. Những người ở trong “sự sáng tạo cũ” sống vì chính họ; còn những người ở trong “sự sáng tạo mới” sống vì Đấng Christ và vì người khác.

Chúng ta không chỉ thấy chính mình trong một con đường mới, nhưng chúng ta cũng thấy Đấng Christ ở trong một con đường mới (II Cô-rinh-tô 5:16). Nhận biết Đấng Christ “theo xác thịt” nghĩa là nhận biết Ngài chỉ như một con người trong lịch sử, chứ không phải là nhận biết Ngài là Đấng Cứu Thế và là Chúa. Chẳng nghi ngờ gì nữa, Phao-lô biết nhiều sự thật về Chúa Giê-su Christ trước khi ông gặp Đấng Cứu Thế cách cá nhân, nhưng thật khác lạ khi Phao-lô nói “Lạy Chúa, Ngài muốn tôi làm gì?” (Công Vụ 9:6).

Nhưng điều này cũng có nghĩa là nhìn xem người khác theo một cách mới (II Cô-rinh-tô 5:18-21). Những ai thuộc về “sự sáng tạo mới” của Chúa đánh giá người khác dựa vào một tiêu chuẩn hoàn toàn mới, một tiêu chuẩn thuộc linh. Vấn đề cơ bản bây giờ không còn là “Dân Giu-đa hay dân ngoại” hoặc “giàu hay nghèo” mà là “được cứu hay bị hư mất?” Cơ Đốc Nhân thấy một thế giới của tội nhân đang bị hư mất cần phải làm hòa lại với Đức Chúa Trời. Nếu như chúng ta là những người của “sự sáng tạo mới”, thì cách chúng ta đọc một tờ báo, xem tin tức, và cách chúng ta làm việc hằng ngày, đều bị ảnh hưởng bởi “chức vụ giảng hòa.” Nhiệm vụ vĩ đại của chúng ta trong cuộc sống là đem tội nhân trở lại với Đức Chúa Trời. “Chúng ta là những đại sứ của Đấng Christ.”

Khi một người của “sự sáng tạo mới” rơi vào tình trạng ở trong “sự sáng tạo cũ”, thì sẽ thường xuyên xảy ra xung đột, bởi vì bóng tối ghét ánh sáng, và sự ích kỷ thì coi thường tình yêu thương. Cho dù đó là Giô-sép ở xứ Ê-díp-tô, hay Môi-se trước triều đình của vua Pha-ra-ôn, hay

Page 98: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Đa-ni-ên ở trong một cung điện của người ngoại, hay Phao-lô và Si-la trong nhà tù La Mã, hay là Chúa Giê-su Christ ở trong đền thờ của dân Do Thái, có những điều đã thay đổi. Tại sao ư? Bởi vì những con người của “sự sáng tạo mới” là những người được biến đổi nhưng không phải những người thỏa hiệp (làm theo đời này) (Rô-ma 12:1-2). Quyền năng của Đức Chúa Trời đang hành động trong đời sống của họ và đời sống của họ sẽ tạo nên sự khác biệt trong tình trạng đó.

Lẽ dĩ nhiên, luôn luôn có nguy cơ là “sự sáng tạo cũ” sẽ chiến thắng nếu “sự sáng tạo mới” không dựa vào những nguồn lực thiêng liêng có từ ân điển của Đấng Christ. Khi điều đó xảy ra thì người được biến đổi sẽ trở thành “làm theo đời này” (Rô-ma 12:2) và người đó bắt đầu sống giống như những người ở trong “sự sáng tạo cũ”. Sự thỏa hiệp dẫn đến sự thích ứng và sự thích ứng dẫn tới bị đánh bại. Chỉ khi nào tín hữu được tách rời khỏi tội lỗi (II Cô-rinh-tô 6:14-7:1) thì người ấy mới trở nên có tác dụng lớn cho Đức Chúa Trời.

3. Sự Sáng Tạo Tương Lai Của Đức Chúa Trời –Sự Phòng Bị.

Đâu là nơi mọi vật kết thúc? Một thiên đàng và thế giới vinh hiển mới sẽ là nhà đời đời hoàn hảo cho những người thuộc về “sự sáng tạo mới” của Chúa. Chúng ta sẽ thấy sự sáng tạo tương lai này được miêu tả trong Khải Huyền 21-22. Thực tế thì chúng ta thấy trong sách Khải Huyền là sự kết thúc đắc thắng cho tất cả mọi việc mà Đức Chúa Trời đã khởi đầu trong sách Sáng Thế Ký.

Sáng Thế Ký Khải Huyền

Trời và đất 1:1 Trời mới và đất mới, 21:1

Mặt trời được tạo ra 1:16 Không cần mặt trời 21:23

Ban đêm được tạo ra 1:5 Không có đêm ở đó 22:5

Những dòng sông trên đất 2:10-14 Một con sông trên thiên đàng 22:1-2

Không được đến gần cây sự sống 3:24 Được đến gần cây sự sống 22:14

Sự rủa sả 3:14-17 Không còn rủa sả 22:3

Sự chết 3:19 Không còn sự chết 21:4

Nỗi buồn 3:17 Không còn nỗi buồn 21:4

Đám cưới của A-đam 2:8-23 Tiệc cưới của Chiên Con 19:1-8

Con rắn lừa dối người khác 3:1 Con rắn bị đoán phạt 20:10

Còn có nhiều sự đối lập nữa, nhưng những điều này mang lại cho bạn ý tưởng về “sự sáng tạo mới” của Đức Chúa Trời trong tương lai.

Page 99: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Bởi sự sa ngã của A-đam, “sự sáng tạo cũ” giờ đang bị xiềng xích, đau đớn và là một sự sáng tạo “lầm bầm”. Nhưng khi Đấng Cứu Thế trở lại trong uy quyền, Ngài sẽ thực hiện lời hứa về sự sáng tạo của Ngài và trở thành sự sáng tạo đầy vinh hiển. (Rô-ma 8:18-25). Cả những tín hữu cũng vậy, cũng sẽ được đem đi và trải nghiệm sự cứu chuộc thân thể (Rô-ma 8:23). Đức Chúa Trời sẽ ban cho con cái của Ngài một thân thể mới hoàn toàn phù hợp với một môi trường mới đầy vinh hiển. Ngày đó sẽ thật tuyệt vời! Điều tốt hơn cả là chúng ta sẽ trở nên giống như Chúa Giê-su Christ (I Giăng 3:1-2) và hầu việc Ngài cho đến đời đời.

Nói chung, ngày nay Đức Chúa Trời không hành động theo “sự cứu chuộc” của sự sáng tạo cũ. Chắc chắn là Ngài có thể chữa lành cơ thể chúng ta nếu điều đó là ý muốn của Ngài. Nhưng sự cứu chuộc cuối cùng của thân thể phải đợi sự trở lại của Đấng Cứu Thế. Đức Chúa Trời có thể hành động thông qua con cái của Ngài để biến thế gian trở thành một nơi an toàn hơn, tốt hơn mà ở đó có thể sống được, nhưng trời mới và đất mới chỉ có thể xảy đến bởi duy bàn tay của Đức Chúa Trời. Chúng ta sẽ không được đưa vào thiên quốc bởi vì chính vị Vua sẽ mang nó đến khi Ngài trở lại (Khải Huyền 11:15-18).

Vậy thì ngày nay Đức Chúa Trời đang làm gì? Ngài sử dụng con cái của “sự sáng tạo mới” để cảm động đời sống của những người thuộc về “sự sáng tạo cũ” và thúc giục họ “làm hòa lại với Đức Chúa Trời” (II Cô-rinh-tô 5:20). Ngài đang biến đổi những người thuộc về “sự sáng tạo mới” để làm họ trở nên càng ngày càng giống Con của Ngài hơn, và trong lúc đó, cũng mang đến sự thay đổi về đạo đức và tình trạng thuộc linh trong thế gian. Ánh sáng xua tan bóng tối và muối ngăn chặn sự hư nát (Ma-thi-ơ 5:13-16).

Vâng “thời đại mới” đã đến! Con dân của Chúa đã sẵn sàng “sống trong nước thiên đàng mau đến” giống như Vance Havner từng nói. Chúng ta đang sống trong thì tương lai bởi vì chúng ta đã quên đi “mọi sự ở đằng sau” và chúng ta đang “hướng tới mọi sự ở đằng trước” (Phi-líp 3:13). Đức Chúa Trời đã ban vinh hiển cho chúng ta rồi (Rô-ma 8:30; Giăng 17:22); chúng ta chỉ đang đợi chờ sự vinh hiển đó được bày tỏ lúc Chúa Giê-su Christ của chúng ta đến (Rô-ma 8:17-19).

Con cái của Đức Chúa Trời là “cộng đồng thuộc về sự sáng tạo mới”.

Đó là một đặc ân!

Đó là trách nhiệm!

Và đó chính là tương lai!

HÃY LÀ CHÍNH BẠN

Mười hai hình ảnh trong Tân Ước chỉ cho chúng ta thấy Cơ Đốc Nhân là ai và một Cơ Đốc Nhân phải làm gì:

Một Đứa Trẻ Trong Gia Đình Của Đức Chúa Trời

Một Con Chiên Trong Bầy Của Ngài

Page 100: HA ÂY LA ± CHI µNH BẠ N - songdaoonline.comsongdaoonline.com/data/vuoneden/pdf/HAY LA CHINH BAN.pdfTôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới 3 người bạn đã hết

Một Khách Hành Hương

Một Chi Thể Trong Thân Thể Đấng Christ

Một Thầy Tế Lễ Trước Bàn Thờ Của Đức Chúa Trời

Một Viên Đá Trong Nhà Chúa

Một Người Mắc Nợ

Một Người Lính Trong Quân Đội Của Chúa

Một Vận Động Viên Trong Cuộc Đua

Một Đại Sứ Của Vua

Những Hạt Giống Và Những Ổ Bánh Mì

Sự Sáng Tạo Mới

‘Một cách tiếp cận tươi mới và thú vị để hiểu đời sống của một Cơ Đốc Nhân, được dạy bởi một trong những giáo sư được nhiều người yêu mến nhất ngày nay.’

Tiến sĩ Warren W. Wiersbe thường dạy trên chương trình phát thanh “Trở Lại Với Thánh Kinh” (Back To The Bible). Ông từng làm mục sư quản nhiệm tại ba Hội Thánh, và gần đây nhất là Hội Thánh Moody, Chicago.

Bản Dịch Edited by:

VIETNAMESE MISSIONARY INSTITUTE