187
LUẬN GIẢI KINH SA MÔN QUẢ TẬP 1 Tỳ khưu Chánh Minh 1

Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

LUẬN GIẢI

KINH SA MÔN QUẢ

TẬP 1

Tỳ khưu Chánh Minh

1

Page 2: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Lời nói đầu-0-0-0-

Tuy được thuyết giảng khá muộn so với các bài kinh khác, nhưng các vị Trưởng lão trong những lần Kết tập Phật Ngôn, đã xếp kinh Sa-môn quả là bài kinh thứ hai sau kinh Phạm võng (Brahmajālasuttanta).

Điều này đã nói lên tầm quan trọng của kinh Sa-môn quả.Nếu kinh Phạm võng có mục đích “chấn chỉnh tri kiến” đối với 62 loại

“kiến thức sai lệch” với chân lý, thì kinh Sa-môn quả cũng nằm trong phạm trù này, nhưng với khía cạnh khác.

Kinh Sa-môn quả trình bày những sai lệch của 6 chủ thuyết đương thời (thời Đức Phật) của 6 vị tôn chủ dị giáo.

Chủ thuyết của 6 vị tôn chủ dị giáo mang “dáng dấp” của sự “chấp thường” hay “chấp đoạn” và “chủ nghĩa hoài nghi”.

Những tư tưởng ấy vẫn còn lưu hành trong thời hiện tại với “chiếc áo khoác” khác.

Thứ đến kinh Sa-môn quả nêu lên những pháp môn căn bản “tuần tự nhi tiến” cùng với những thành tựu pháp thượng nhân của đời sống xuất gia.

Đó là con đường ngắn nhất, cũng là con đường duy nhất mà “những ai muốn thoát ra khỏi sinh tử luân hồi” không thể không thực hành.

Trong bản luận giải này chúng tôi phân thành 3 chương:- Chương I: Giải thích duyên khởi.- Chương II: Giải thích những sai lệch sáu chủ thuyết của 6 vị tôn chủ dị

giáo.- Chương III: Giải thích những “kết quả” của bậc xuất gia.Chúng tôi nương theo bản Anh ngữ “Giải kinh Sa-môn quả” của Đại

trưởng lão Bodhi dịch từ Pāli ngữ sang. Đồng thời chúng tôi đối chiếu với bản Sớ giải (Aṭṭhakathā) bằng Pāli ngữ của Ngài Buddhaghosa (Giác âm). Đồng thời có bổ túc thêm những tư liệu có được, để làm sáng tỏ ý nghĩa của kinh văn.

Để tiện cho độc giả theo dõi, chúng tôi trích nguyên văn những đoạn kinh Pāli cần thiết và trích bản dịch kinh Sa-môn quả của Hòa Thượng Thích Minh Châu đính kèm.

Với những từ vựng Pāli cần giải thích rõ qua bản Sớ giải, chúng tôi trích dẫn Pāli ngữ đính kèm, với những đoạn Pāli giải thích rộng, chúng tôi chỉ dịch mà không trích dẫn Pāli.

Riêng về “Hậu sớ giải” (Ṭīkā) và “Tiếp theo Hậu sớ giải” (Anuṭkā), chúng tôi chỉ dịch mà không trích dẫn Pāli vì e rườm rà, mong các bậc cao minh và độc giả hoan hỷ.

Chúng tôi chỉ hy vọng “bản luận giải này “giúp không nhiều thì ít cho sự chấn chỉnh tri kiến” của chư Phật tử. Đồng thời chỉ là “đóng góp” chút ít vào “kho tàng tri kiến” của Phật giáo.

2

Page 3: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Chúng tôi cũng ghi nhận sự đóng góp vào thiện sự này của Giáo sư Trần Ngọc Lợi cùng Phật tử Tathāpañña, đã giúp chúng tôi dịch “những danh từ riêng trong Phật giáo” qua bản bằng Anh ngữ.

Với khả năng và trình độ hạn hẹp, hẳn bản Luận giải không thể tránh khỏi những thiếu sót. Mong các bậc hiền trí cao minh từ bi mĩm cười tha thứ.

Lành thay – lành thay.Tỳ-khưu Chánh Minh cẩn bạch.

3

Page 4: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Những chữ viết tắt.Theo mẫu tự Pāli

A. Aṅguttara Nikāya (Tăng Chi bộ).At Aṭṭhakathā (Sớ giải)It. Itivuttaka ( kinh Phật thuyết như vậy).Ud. Udāna (kinh Phật Tự thuyết).UdA Udāna Aṭṭhakathā (Sớ giải kinh Phật tự thuyết)J Jātaka (Bổn sanh kinh)

JA. Jākata – aṭṭhakathā (Sớ giải kinh Bổn sanh). ThagA Theragathā Aṭṭhakathā (Sớ giải kệ Trưởng lão Tăng). Thera. Theragathā (Trưởng lão tăng kệ).

Therī. Therīgāthā (Trưởng lão ni kệ).D. Dīgha Nikāya (Kinh Trường bộ). DA. Dīgha Nikāya – aṭṭhakathā (Sớ giải Trường bộ kinh).Dhp. Dhammapāda (kinh Pháp cú).DhpA. Dhammapāda – aṭṭhakathā (Sớ giải kinh Pháp cú).

PA Petavatthu Aṭṭhakathā (Sớ giải Ngạ quỷ sự).Ps. Paṭisambhidāmagga (Vô ngại giải đạo).M Majjhima Nikāya (Kinh Trung bộ).MA Majjhima Nikāya Atṭṭhakathā (Sớ giải kinh Trung bộ).Miln. Milindapañhā (Mi-Tiên vấn đáp).Mhv Mahāvagga (Đại phẫm).Vin. Vinaya Pitaka (Luật tạng).Vsm. Visuddhimagga (Thanh tịnh đạo).S. Saṃyutta Nikāya (Kinh Tương ưng bộ).S.A Saṃyutta Aṭṭhakāthā ( Chú giải Tương Ưng Bộ Kinh).Sn. Sutta nipāta (kinh Tập).

Mục lục

4

Page 5: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

CHƯƠNG I. Vua Ajātasattu (A-xà-thế) yết kiến Đức Thế Tôn. Phần 1. Duyên khởiGiải đoạn 150.- Như vầy tôi nghe.- Một thời.-Đức Thế Tôn.- Rājagaha ( Vương xá).- Lương y Jīvaka komārabhacca.- Vương tử Abhaya.- Vua Ajātasattu (A-xà-thế).- Vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà).- Vua Bimbisāra (Bình-sa).- Hoàng hậu Vedehi.Phần 2.Giải từ đoạn 151 – 156. Sáu vị tôn chủ dị giáo.- Tôn chủ Pūraṇa kassapa.- Tôn chủ Makkhali gosāla.- Tôn chủ Ajita kesakambala.- Tôn chủ Pakudha kaccāyana.- Tôn chủ Sañjaya belaṭṭhaputta.- Tôn chủ Nigantha nātaputta.Đức Phật với 6 vị tôn chủ.Phần 3.- Giải đoạn 157.- Giải đoạn 158.- Lương y Jīvaka chuẩn bị kiệu voi.- Giải đoạn 159.Vua Ajātasattu sợ hãi.CHƯƠNG II. Câu hỏi Sa-môn quả.Phần 1.- Giải đoạn 160.- Giải đoạn 161.- Giải đoạn 162.

5

Page 6: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

- Giải đoạn 163.Phần 2.Chủ thuyết của 6 vị tôn chủ dị giáo.- Giải đoạn 165.Chủ thuyết của tôn chủ Pūraṇa kassapa.- Giải đoạn 167.Chủ thuyết của tôn chủ Makkhali gosāla.- Giải đoạn 171.Chủ thuyết của tôn chủ Ajitabelaṭṭhaputta.Khái quát về 3 chủ thuyết.Phụ lục.- Giải đoạn 174.Chủ thuyết của Pakudha kaccāyana- Giải đoạn 177..Chủ thuyết của Nigantha nātaputta.- Giải đoạn 180.Chủ thuyết của Sañjaya belaṭṭhaputta.CHƯƠNG III.Phần 1.Quả Sa-môn thông thường.- Giải đoạn 182.Quả thiết thực đầu tiên.-Giải đoạn 186.Quả thiết thực thứ 2.Phần 2. Các quả thiết thực vi diệu.- Giải đoạn 189.Tốt đẹp (sādhukaṃ).Hãy suy nghiệm kỹ.- Giải đoạn 190.Ở đây (idha).Như lai xuất hiện trên thế gian.- Giải đoạn 191.

6

Page 7: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Luận giải KINH SA MÔN QUẢ.(Sāmaññaphalasuttaṃ).

Chương I.Vua Ājātasattu (A-xà-thế) yết kiến Đức Thế Tôn.

Phần 1: Duyên khởi.Chánh kinh.150. "Evaṃ me sutaṃ. Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Rājagahe viharati

Jīvakassa komārabhaccassa Ambavane, mahatābhikkhu saṅghena saddhiṃ aḍḍhatelasehi bhikkhu satehi.

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Rājagaha (Vương xá) nơi vườn xoài (1) của Jīvaka (Kỳ-bà) komārabhacca, cùng với đại chúng Tỳ-khưu một nghìn hai trăm năm mươi vị.

"Tena kho pana samayena rāja Māgadho Ajātasattu Vedehiputto tadahu'posathe pannarase Komudiyā cātumāsiniyā puṇṇāya puṇṇamāya rattiyā rājamacca parivuto uparipāsādavaragato nisinno hoti.

Lúc bấy giờ Ajātasattu (A-xà-thế) con bà Vehehi, vua xứ Magadha (Ma-Kiệt-Đà) nhân lễ bố-tát (uposatha) vào ngày rằm tháng tư(2) Komudi (cây súng) đang ngồi trên lầu cao an tịnh, chung quanh có nhiều đại thần hầu hạ.

Attha kho rāja Māgadho Ajātasattu, Videhiputto tadahu' posathe udānaṃ udānesī: "Ramaṇīyā vata bho dosinā ratti, abhirūpā vata bho dosinā ratti, dassanīyā vata bho dosinā ratti, pāsādikā vata bho dosinā ratti, lakkhaññā vata bho dosinā ratti.

Kaṃ nu kh'ajja samaṇaṃ vā payirupāseyyāma, yaṃ no payirupāsato cittaṃ pasīdeyyāti?".

Lúc bấy giờ Ajātasattu (A-xà-thế) con bà Vedehi, vua xứ Magadha (Ma-kiệt-đà), nhân ngày bố-tát cảm hứng nói rằng: "Thật khả ái thay, đêm sáng trăng! Thật diễm lệ thay, đêm sáng trăng! Thật mỹ miều thay, đêm rằm sáng trăng! Thật êm dịu thay, đêm rằm sáng trăng! Thật điềm lành thay, đêm rằm sáng trăng!

Nay chúng ta nên đến chiêm bái vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, nhờ sự chiêm bái này tâm chúng ta được tịnh tín?".

Giải:1(?)- Chữ Vana, nguyên nghĩa là "khu rừng", nhưng ở đây là khu rừng nhỏ, trong khu rừng này, phần lớn là xoài nên có tên là Ambavana. Ambavana xem ra "không hẳn là rừng, cũng không hẳn là vườn", vì đây là khoảnh đất rất rộng mà người ta trồng toàn là xoài, không phải là loại "rừng tự nhiên" , mà là "khu rừng nhân tạo".Bà Ambapālī cũng có một khu "rừng" tương tự như thế và bà cũng cúng dường đến Đức Phật khi Ngài được 79 tuổi – Xem kinh Mahā parinibbānasuttaṃ (Kinh Đại viên tịch) trong Trường bộ kinh (D.iii).2(?)- Theo bản Sớ giải do Ngài Ñāṇamoli soạn thì: Đó là vào Tháng Kattika (tháng 10-11). Đêm trăng tròn tháng này được gọi là Komudī vì người ta cho rằng đó là lúc huệ trắng dưới nước (kumuda) nở hoa.

7

Page 8: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

* “Như vầy tôi nghe” (evaṃ me sutaṃ).Từ ngữ “Như vầy” (eva), có rất nhiều nghĩa.- Có nghĩa là “so sánh”, như:“Yathā’pi puppharāsimhā; kayirā mālāguṇe bahūEvaṃ jātena maccena; kattabbaṃ kusalaṃ bahuṃ.“Như từ một đống hoa; nhiều tràng hoa được làm.Cũng vậy, thân sinh tử; làm được nhiều thiện sự”(1).- Có nghĩa là “chấp nhận”, như:Evaṃ bhante’ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosum”.Thưa vâng, Bạch Thế Tôn. Chư Tỳ-khưu vâng đáp lời Thế Tôn(2).- Có nghĩa “chỉ rõ ra”, như:“Evaṃ jaccā te bhagavanto ahesuṃ itipi, evaṃnāmā evaṃgottā

evaṃsīlā evaṃdhammā evaṃpaññā evaṃvihārī evaṃvimuttā te bhagavanto ahesuṃ itipī’ti”.

“Các bậc Thế Tôn ấy, sinh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy”(sđd).

- Có nghĩa là “xác nhận”, như:“Evametaṃ, kandaraka, evametaṃ, kandaraka…“Thật sự là như vậy, này Kandaraka; thât sự là như vậy, này

Kandaraka…”(3).- Có nghĩa là “truyền đạt”, như:“Evaṃ kho, āvuso, visākha, sakkāyadiṭṭhi hotī’ti”“Như vậy, này hiền giả Visakha, là thân kiến”(4).- Có nghĩa là “chỉ trích, mắng nhiếc”, như:“Evamevaṃ panāyaṃ vasalī yasmiṃ vā tasmiṃ vā tassa muṇḍakassa

samaṇassa vaṇṇaṃ bhāsati”.“Trong mọi thời, mọi dịp, kẻ hạ tiện này nói lời tán thán vị Sa-môn trọc

đầu ấy như vậy” (5).- Có nghĩa là “mang đến”, như:“Evaṃ mahato anatthāya saṃvattati yathayidaṃ, bhikkhave, pamādo”.“Này các Tỳ-khưu,về phương diện nội phần, Ta không thấy một pháp nào

mang đến bất lợi như vậy, này các Tỳ-khưu như phóng dật”(6).1(?)- HT. Thich Minh Châu (d). Dhp. Câu số 53. 2(?)- HT. TMC (d). D.iii, Kinh Đại Bổn (Mahāpadānasuttanta).3(?) M.ii, kinh Kandaraka (Kandarakasuttaṃ). 4(?)- M.i, Kinh cūḷavedallasuttam (Kinh Tiểu Phương quảng). 5(?) HT. TMC (d). S.i, 160, Chương 7, Tương ưng Bà-la-môn (brahmaṇasaṃyuttaṃ), kinh Dhananjāni. 6(?)- A.i, 16. Phẩm Phi pháp (Pamādādivaggo).

8

Page 9: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

* “Tôi” (me), chỉ cho Đức Ānanda.“Tôi” là một danh từ thông dụng dùng để truyền đạt, đó là “hiệp thành

chế định” hay “ngũ uẩn chế định”. Như “chiếc xe” là từ chỉ cho “các bộ phận của chiếc xe” được “liên kết vào nhau”, cũng vậy “tôi” là từ chỉ cho “danh sắc” hay “5 uẩn” liên kết vào nhau(1).

Từ “tôi” này không mang ý nghĩa “có một bản ngã”.Đức Ānanda nghe từ đâu? Ngài nghe từ nơi Đức Thế Tôn, tức là bài

kinh này Đức Ānanda xác nhận là “do chính Đức Thế Tôn tuyên thuyết”.Có lần một người chăn bò tên là Moggallāna (Mục-kiên liên) có hỏi Đức

Ānanda: “Bạch Đại Đức, Đức Thế Tôn dạy bao nhiêu pháp uẩn?”, Đức Ānanda trả lời rằng:

“Ta nhận từ Đức Phật; tám mươi hai ngàn pháp.Còn nhận từ Tỳ-khưu, thêm hai ngàn pháp nữa.”(2)

“Như vầy tôi nghe”. Là lời tuyên bố của Đức Ānanda, nêu lên với các ý nghĩa:

- Xác nhận “đây là lời dạy của chính Đức Thế Tôn”.- Chấp nhận học tập theo lời dạy của Đức Thế Tôn.- Truyền đạt lời dạy của Đức Thế Tôn đến Tăng chúng trong kỳ kết tập

Phật ngôn lần thứ I.- Mang đến lợi ích cho tất cả nhân thiên.* “Nghe” (sutaṃ).Là nghe với sự chú ý, nghe với sự ghi nhớ không sai sót từ ngữ, không bỏ

sót từ ngữ.Đức Ānanda là người có trí nhớ tuyệt vời, khi nghe một bài kinh từ Đức

Phật hay từ các vị Đại trưởng lão, Đức Ānanda nhớ không hề sai sót một từ ngữ nào.

Đức Phật có tuyên bố: Đức Ānanda là vị đệ nhất trong hàng đệ tử Tỳ-khưu về 5 hạnh:

- Hạnh “nghe nhiều” (bahussutānaṃ).- Hạnh “trí nhớ tốt đẹp (satimantānaṃ).- Hạnh “cử chỉ khả ái” (gatimantānaṃ).- Hạnh “kiên trì” (dhitimantānaṃ).- Là vị thị giả tối thắng (upaṭṭhākānaṃ) (3).Đức Ānanda là vị thị giả sau cùng của Đức Thế Tôn, Ngài theo hầu Phật

suốt 25 năm cuối trong cuộc đời của Đức Phật, tức là Đức Ānanda chính thức là thị giả của Đức Phật khi Đức Thế Tôn được 55 tuổi thọ.

* “Một thời” (ekaṃ samayaṃ). 1(?)- Đại trưởng lão Giới Nghiêm (d) – Milindapañhā (Mi-tiên vấn đáp). Năm 1962, tr. 70. 2(?)- Thag, Trương lão Ānanda, kệ ngôn số 1025. 3(?)- A.i, 24. Chương một pháp, phẫm Người tối thắng (ekapuggalavaggo).

9

Page 10: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Thời (samaya) là một từ chỉ cho "khái niệm về thời gian". Có hai từ chỉ thời gian là samaya và kāla.Samaya (thời), chỉ cho "thời gian bất định", vì không xác định rõ "vào lúc

nào", chỉ đề cập một cách chung chung, samaya có thể dịch là "dịp".Còn kāla (thời gian), chỉ cho “thời gian được xác định”.… Kālena bījāni patiṭṭhāpetvā samayena udakaṃ abhinetipi

apanetipi…" Cho gieo hạt giống đúng thời xong, người ấy (chỉ người làm ruộng – Ns)

cho nước chảy vô chảy ra hợp thời …"(1).Quan sát đoạn kinh văn trên, chúng ta thấy hai từ kālena và samayena.Kāla chỉ cho thời gian xác định (đúng thời vụ), còn samaya là chỉ cho thời

gian bất định (khi hợp thời).Các loại khái niệm về thời gian.- "Khái niệm thời gian liên quan đến "chuỗi chuyển động".Điểm chuẩn của chuỗi chuyển động này là "cái đang có" và được định

danh là "hiện tại"; trước hiện tại là quá khứ, sau hiện tại là vị lai. Tức là” “Quá khứ” là “đã sinh, đã có, đã tồn tại, đã hiện khởi”.“Vị lại” là “ chưa sinh, chua có, , chưa hiện khởi”.“Hiện tại” là “đang có, đang sinh, đang tồn tại”(2).Để xác định samaya thuộc thời hiện tại, pāli thường diễn đạt là

"tasmiṃ samaye (trong khi ấy)", như:"Katamaṃ tasmiṃ samaye saddhindriyaṃ hoti?Thế nào là tín quyền (saddhidriya) trong khi ấy? (3).Thời gian có 3 như trên, theo lý duyên khởi "không biết quá khứ, không

biết hiện tại, không biết vị lai” xem như đồng nghĩa với “vô minh".Trong nghĩa ẩn dụ thì: "Không biết quá khứ là không biết nhân; không

biết vị lai là không biết quả; không biết hiện tại là không biết cả nhân lẫn quả".

- Khái niệm thời gian liên quan đến thời tiết. Như "vào mùa lạnh, vào mùa nóng, vào mùa mưa"… hay: "buổi tối, buổi

sáng, buổi trưa"…- Khái niệm thời gian liên quan đến sự kiện. Như:"Cattarome, bhikkhave, kālā. Katame cattāro?Này chư Tỳ-khưu, có bốn thời gian. Thế nào là bốn?

1(?)- HT. Thích Minh Châu (d). A.i, 229. Pháp ba chi. Kinh ruộng (Khettasuttaṃ). 2(?)- Đại trưởng lão Tịnh Sự (d), bộ Phân tích I, Uẩn phân tích (1992). Thành hội Thành phố Hồ Chí Minh. 3(?)- Đại trưởng lão Tịnh Sự (d). Dhs. Chương tâm sanh (Cittuppādakaṇdaṃ).

10

Page 11: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

-"Kālena dhammassavana, kālena dhammasākaccā, kālena sammasanā, kālena vipassanā:

"Thời giảng pháp, thời đàm luận, thời tu tập (thiền) chỉ, thời tu tập (thiền) quán…"(1).

Và “thời” ở đây được dùng theo nghĩa xác định.Như trong ngày, Đức thế Tôn có 5 việc làm:- Buổi sáng Ngài đi khất thực (pubbaṇhe piṇḍapātaṃ).- Xế chiều thuyết pháp đến hàng cư sĩ (sāyaṇhe dhammadesanaṃ).- Chiều tối giáo giới chư Tỳ-khưu (padose bikkhu ovādaṃ).- Vào nửa đêm trả lới những câu hỏi của chư thiên (aṭṭharatte

devapañhānaṃ).- Gần sáng, Ngài quán xét thế gian tìm kẻ hữu duyên nên tế độ

(paccūseva gote kāle bhabb’ābhabbe)(2).Cũng vậy, chư Tỳ-khưu có thời khóa biểu trong ngày để: Giảng pháp,

đàm luận pháp. Tu tập thiền chỉ, tu tập thiền quán.- Khái niệm liên hệ đến thực trạng..

Như: "Thời gian an trú trong định (như 7 ngày nhập diệt thọ tưởng định, nhập định 2 giờ …", "thời gian tịnh cư (như Đức Thế Tôn tịnh cư ba tháng) …".

Hay "tâm đang sinh khởi", "tâm diệt đi" (thời gian ở đây chỉ cho thời sátna - khaṇakāla) …

- Khái niệm thời gian liên hệ đến việc làm.

Như "thời gian cày bừa, thời gian gieo hạt, thời gian bón phân nước…"- Khái niệm thời gian liên hệ đến sinh lý.Như "thời gian tắm rửa, thời gian ăn uống, thời gian nghĩ ngơi"…- Khái niệm thời gian liên hệ đến hoạt động. Như "thời gian đi, thời gian ngồi…""Asappāyakiriyā ārogyassa paripantho"."Hành động không thích ứng (asappāyakiriyā) là chướng ngại cho vô

bịnh"(3).Ý nghĩa của Phật ngôn này là: Thời gian đi, đứng, nằm, ngồi phải cân

bằng nhau, thời gian hoạt động thích ứng theo việc làm hợp lý sẽ giúp cho cơ thể ngăn trừ được bịnh.

- Khái niệm thời gian liên hệ đến giải thoát. (4)

1(?)-HT. Thích Minh Châu (d). A.ii,140, pháp bốn chi, kinh Thời gian (kālāsuttaṃ). 2(?)- Đức Bửu Chơn (s). Kho tàng pháp bảo, pháp 5 chi. 3(?)- A.v, 135, pháp 10 chi. HT. Thích Minh châu (d), kinh pháp vui thích (Iṭṭhadhammasuttaṃ) 4(?)- Chỉ cho người có khả năng chứng Đạo quả, Nípbàn.

11

Page 12: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Là thời có thể chứng đạt Đạo quả - Nípbàn. Thời này là thời nào?Là thời có Đức Chánh giác xuất hiện trong thế gian, khi Giáo pháp của

Ngài được khai mở.Đối với bậc Thánh Thinh văn A-la-hán có hai loại thời gian liên hệ đến sự

giải thoát (là chứng Nípbàn): Không đúng thời và hợp thời.a-"Không đúng lúc, không đúng thời” (akkhaṇa asamayā) có 8 loại

là:Khi Đức Như Lai xuất hiện ở đời, thì vị ấy:- Bị sinh vào địa ngục.- Bị sinh vào loài thú.- Bị sinh vào cõi ma đói (peta- ngạ quỷ).- Bị sinh vào cõi Vô sắc.- Sinh làm người, nhưng bên ngoài “vùng có giáo pháp của Đức Phật”, do

đó không được nghe Phật pháp.- Sinh trong vùng có Phật pháp được thuyết giảng, nhưng là người điên

loạn.- Sinh làm người không điên loạn trong vùng có Phật pháp giảng thuyết,

nhưng là người không có trí bẩm sinh(1). - Sinh làm người có trí bẩm sinh, trong vùng có Phật pháp giảng dạy,

nhưng là người có “khuynh hướng tà kiến”(2).b-"Đúng lúc, đúng thời” (khaṇa samaya) có một loại.Là hội đủ bốn điều:- Là người có trí bẩm sinh (tức là người tục sibnh bởi tâm quả có 3 nhân:

Vô tham, vô sân và vô si).- Được thấy, được gặp bậc chân nhân.- Nghe được diệu pháp- Thực hành pháp.Có câu hỏi rằng: "Thời giác ngộ của Đức Chánh giác và Phật Độc giác là

thời nào?Đó là thời kỳ nhân loại có tuổi thọ không dưới trăm tuổi và không cao hơn

100 ngàn tuổi.Và sự xuất hiện của Đức Chánh giác hay Độc giác cũng là samaya (thời

bất định).Hỏi: Đức Thế Tôn thuyết bài kinh Sa-môn quả vào thời điểm nào?Đáp: Tuy không xác định chính xác thời điểm xuất hiện bài kinh "Sa-môn

quả", nhưng chúng ta có thể ước lượng "vào khoảng" Đức Thế Tôn được tối thiểu là gần tròn 73 tuổi.

1(?)- Tức là người sinh ra bởi tâm Tục sinh có 3 nhân: Vô tham, vô sân và vô si. 2(?)-HT. Thích Minh Châu (d). A.iv, 225, Pháp 8 chi. Kinh Không phải thời (Akkhaṇasuttaṃ).

12

Page 13: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Vì rằng: "Vua Bimbisāra (Bình-sa) lên ngôi năm 15 tuổi, chứng quả Dự lưu lúc 31 tuổi, ngồi ngai vua được 52 năm, vua Bimbisāra kém Đức Phật 5 tuổi.

Đức vua mạng chung lúc 67 tuổi, khi ấy Đức Thế Tôn được 72 tuổi thọ.Devadatta (Đềbàđạtđa) đã xúi giục Thái tử Ajātasattu (A-xà-thế) giết cha

cướp ngôi. Sau khi lên ngôi, vua Ajātasattu trợ giúp Devadadatta (Đề-bà-đạt-đa) tiến hành những phương cách sát hại Phật, từ mờ ám đến công khai.

- Mờ ám: Như sai người ám sát Đức Phật hay chính tự thân Devadatta dùng sợi dây kéo tảng đá lớn lăn từ trên cao xuống khi Đức Phật đi kinh hành bên dưới ở núi Linh Thứu (Gijjhakūṭa)(1).

- Công khai là thả voi Nālāgiri uống rượu say để chà chết Đức Phật.Nhưng tất cả đều bất thành.Khi bị mất thanh danh và lợi lộc thì Devadatta yêu cầu Đức Phật chấp

nhận 5 lời đề nghị của mình(2).Đức Phật không đồng ý và Devadatta nghĩ “sẽ dùng 5 điều này để thuyết

phục mọi người”.Và Devadatta đã chia rẽ được tăng chúng, nhưng Ngài Sāriputta (Xá-lợi-

phất) cùng Đức Moggallāna (Mục-kiền-liên) đã đến nơi Devadatta cư ngụ, thuyết pháp thoại giúp 250 vị Tỳ-khưu chứng quả Dự lưu. Rồi Đức Moggallāna dùng thần thông đưa chư Tăng trở về.

Khi biết được, Devadatta đã tức tối đến nổi mửa máu tươi.Trong chín tháng, Devadatta nằm liệt giường, tâm tư đầy ăn năn hối

hận. Devadatta hỏi: "Hiện giờ Đức Thế Tôn đang ở đâu?".Khi biết rằng Đức Phật đang ngụ tại tịnh xá Jetavana, Devadatta nói:- Hãy đem ta đến diện kiến Đức Phật.Nhưng do nghiệp đã tạo ngăn cản, không cho Devadatta được diện kiến

Đức Thế Tôn, Devadatta bị đất rút ngay cạnh hồ sen trong Tịnh xá Jetavanavihāra (Kỳ-viên tịnh xá), tái sinh vào địa ngục Avīci (Vô gián) cho hết kiếp trái đất này.

Khi Devadatta bị đất rút ở cạnh bờ hồ nơi Jetavanavihāra (Kỳ-viên tinh xá), bấy giờ vua Ajātasattu (A-xà-thế) kinh hoàng và ông nảy ra ý muốn đến sám hối với Đức Thế Tôn.

Một vài bộ Sớ giải cho rằng: "Vua Ajātasattu tịnh tín nơi Tam bảo, vào 8 năm sau cùng của Đức Phật".

Như vậy thời điểm xuất hiện bài kinh này là vào lúc Đức Phật được 73 tuổi, hoặc ít nhất là Ngài gần tròn 73 tuổi.

* “Đức Thế Tôn” (Bhagavā).

1(?)- DhpA, câu số 17. 2(?)- Năm điều đó là : Vị Tỳ-khưu phải sống trong rừng trọn đời, vị Tỳ-khưu phải mặy y cũ rách trọn đời, vị Tỳ-khưu phải ở dưới cội cây trọn đời, vị Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu phải đi bát trọn đời và vị Tỳ-khưu không được ăn thịt cá trọn đời.

13

Page 14: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Đức Thế Tôn là một danh từ có tính kính trọng và tôn sùng, danh từ này chỉ Đức Phật. Các bậc Cổ đức có kệ ngôn rằng:

Bhagavāti vacanaṃ seṭṭhaṃ; bhagavāti vacanamuttamaṃ.Garugāravayutto so; bhagavā tena vuccati(1).“Thế Tôn là từ cao quý; Thế Tôn là từ cao thượng.Ngài là bậc đáng kính phục hơn cả; do đó danh từ Thế Tôn chỉ cho Ngài”.Ngài Buddhaghosa trong bộ Visuddhi Magga (Thanh Tịnh Đạo) có trình

bày chi tiêt về Hồng danh “Thế Tôn” (xin độc giả xem sách Thanh Tịnh Đạo)(2). Xin tóm lược như sau:

Có 4 loại tên: Tên chỉ cho giai đoạn một cuộc đời (āvatthikaṃ) như: “Bò tơ” (vaccha), “trâu chưa thuần” (damma), “bò kéo cày” (balivadha) …

- Tên chỉ cho một đặc điểm (liṅgika) như: Người mang gậy (daṇdī), người che dù (chattī), người búi tóc (sikhī)…

- Tên chỉ cho sự thành tựu đặc biệt (nemittikaṃ) như: Bậc Tam minh (tevijjā), bậc Lục thông (chalabhiññā)…

- Tên khởi lên do tình cờ (vacanaṭṭhaṃ) như: Người tăng sáng chói (sirivaddhaka), người tăng tài sản (dhanavaddhaka) …

Hồng danh “Đức Thế Tôn” là tên chỉ cho “sự thành tựu đặc biệt”.Đức Sāriputta (Xá-lợi-phất) có dạy: “Hồng danh Thế Tôn xuất phát từ sự

giải thoát rốt ráo của Đấng giác ngộ”(3).Và Hồng danh này không do Hoàng hậu Māyā định đặt, không do vua

Suddhodana (Tịnh Phạn) định đặt, không do 80 ngàn quyến thuộc định đặt, không do các vị Trời, Phạm thiên định đặt.

Hồng danh này xuất phát từ sự chứng ngộ quả Vô thượng chánh giác dưới cội Bồ-đề.

Gọi là Đức Thế Tôn” vì Ngài:- Là bậc hạnh phúc (bhāgyavā).- Là bậc có sự từ bỏ (bhaggavā).- Là bậc liên hệ đến hạnh phúc (yutto bhagehi).- Là bậc sở hữu những gì được phân tích (vibhattavā)- Là bậc năng lui tới (bhattavā).- Là bậc từ bỏ những sinh hữu (vantagamano bhāvesu).Có Pāli như sau:Bhāgayā bhaggavā yutto bhagehi ca vibhattavā;Bhattavā vantagamano bhavesu bhagavā tatoti (4).“Bậc hạnh phúc, từ bỏ, liên hệ hạnh phúc và chủ phân tích.

1(?) - Vsm- 142.2(?)- Vsm I. Chương VII, về sáu tùy niệm (anusati); từ 142 – 145. 3(?)- Ps.i, 174. 4(?)- Vsm, 144.

14

Page 15: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Thường lui tới, từ bỏ các sinh hữu, gọi là Đức Thế Tôn”.- “Ngài là bậc hạnh phúc”. Vì có được 32 đại nhân tướng nơi thân, được

người trời kính trong, là bậc có danh tiếng lan rộng…Là bậc làm chủ thế gian pháp lẫn Siêu thế gian pháp.- “Ngài là bậc từ bỏ”. Ngài đã từ bỏ các ác pháp, từ bỏ các ác tà kiến, từ

bỏ được 1500 phiền não, từ bỏ các bất thiện pháp như: Bốn điên đảo (vipallāsa), 4 ô nhiễm (āsava), 5 chướng ngại (nīvāraṇa), …. từ bỏ tham, sân, si.

Có kệ ngôn Pāli như sau:Bhaggarāgo bhaggadoso, bhaggamoho anāsavo.Bhaggassa pāpakā dhammā, bhagavā tena vuccati. (sđd).“Từ bỏ khát ái, từ bỏ sân; từ bỏ si, không ô nhiễm.Từ bỏ mọi ác pháp, nên được gọi là “Đức Thế Tôn”.-“Ngài là bậc liên hệ đến hạnh phúc”. Ngoài những hạnh phúc thế gian

như danh tiếng, lợi đắc .. Ngài còn đầy đủ sự tinh tấn, các pháp thần thông, các minh, các hạnh …

Mặt khác, những ai có liên hệ đến Ngài thường nhận được những hạnh phúc giải thoát từ nơi Ngài, như vua Suddhodana (Tịnh phạn), Hoàng Hậu Gotamī (Kiều-đàm), Hoàng hậu Yasodharā (Da-du-đà-la), Thái tử Rāhula (La-hầu-la), cùng với vô số người - trời khác.

- “Ngài là chủ những pháp được phân tích”. Như Ngài phân tích và giảng dạy các pháp thành 3 nhóm: Pháp thiện, pháp bất thiện, pháp vô ký.

Hoặc phân tích các pháp thành 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, 4 sự thật, 22 quyền, 12 duyên khởi …

- “Ngài là bậc năng lui tới”. Là Ngài thường an trú tâm trong thiền hiệp thế, trong Diệt thọ tưởng định, trong thiền Siêu thế.

Hay: Ngài thường lui tới các trú xứ để tế độ những người hữu duyên … - “Ngài là bậc từ bỏ các sinh hữu”. Đối với 3 hữu là: Dục hữu, sắc hữu, Vô

sắc hữu Ngài không còn phải sinh lại trong các hữu này.(Âm Bha từ chữ bhava (hữu), âm ga từ chữ gamana (đi đến), âm va từ

chữ vanta và va được biến cách thành vā).* Trú ở Rājagaha (Vương xá)” (Rājagahe viharati).“Trú ở”. Ngoài ý nghĩa thông thường là “những nơi được dâng cho” như

Trúc Lâm Tịnh xá, Kỳ-viên Tịnh xá… Hay những vùng vô chủ như rừng, núi, cội cây…

Ngoài ra “trú ở” còn mang ý nghĩa “nương vào 4 oai nghi” (avisesena iriyāpatha), là an trú tâm vào 4 oai nghi “đi, đứng, nằm, ngồi”(1).

Hay “trú ở” là an trú tâm vào 4 phạm trú (dibbabrahma – ariya vihāresu).Hay “trú ở” là an trú tâm vào các đề mục thiền tịnh …

1(?)- Xem M.i, Kinh Niệm xứ (satipaṭṭhānasuttaṃ).

15

Page 16: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

* “Vương xá” (Rājagaha).Đây là tên kinh đô của vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) vùng Trung Ấn,

Magadha là một trong bốn đại cường quốc trong thời Đức Phật.Trong thời Đức Phật, Ấn độ cổ có 16 quốc độ(1), trong đó có bốn quốc độ

hùng mạnh nhất, đó là:- Xứ Kosala (Kiều-tất-la), có kinh đô là Sāvatthi (Xá-vệ), vị lãnh tụ quân

trong thời Đức Phật còn tại tiền là vua Pasenadi (Ba-tư-nặc).- Xứ Vaṅsa (còn gọi là Vaccha), có kinh đô là Kiêu-thưởng-di (Kosambi), vị

lãnh tự quân là vua Udena.- Xứ Avaṅti, có kinh đô là Ujjenī, vị lãnh tụ quân là vua Caṇḍapajjota.- Xứ Magadha (Ma-kiệt-đà), có kinh đô là Vương-xá (Rājagaha), vị lãnh tụ

quân là vua Bimbisāra (Bình-sa). Rāja từ ngữ căn raj là "chiếu sáng".Theo nghĩa đen Rājagaha là "nơi hội hợp chói sáng", hay “nơi hội hợp các

vị vua”; nghĩa bóng là "nơi ngụ của những người đại phước" như vua Mandhātu, Bà-la-môn Mahā Govinda ...

Trong thời Bà-la-môn Govinda là vị cố vấn Đại thần cho vua Renu, Bà-la-môn Govinda đã vận động 6 vị Đại vương đến kinh thành của vua Renu, rồi Bà-la-môn Mahā Govinda theo lịnh vua Renu cắt đất phân chia 7 phần cho 7 vị Đại vương.

Do nhân đó, kinh thành vua Renu từ đó có tên là Rājagaha (Vương-xá)(2).Trong thời Đức Phật, thành Vương xá là nơi có 5 vị trưởng giả giàu nhất

Ấn độ, đứng đầu là Ngài Jotika, lần lượt đến Jātila, Mendaka, Puṇṇaka và Kākavalliya(3), đến nỗi vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) phải xin vua Bimbisāra (Bình-sa) một vị trưởng giả về cư ngụ nơi xứ Kosala (Kiều-tất-la) của mình, và ông Dhanañjaya (cha của bà Visākhā) được vua Bình-sa cử sang xứ Kosala. Và ông Dhanañjaya đã thành lập một thị trấn trù phú là Sāketa (sđd).

Vùng đất thành Vương-xá (Rājagaha) chỉ là kinh đô khi có vua Chuyển luân hay Đức Chánh giác xuất hiện.

Sau khi Đức Phật Nípbàn được ba năm thì thành Vương-xá không còn là kinh đô xứ Magadha, kinh đô xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) được dời về Pātaliputta (Hoa thị thành).

Về sau thành Vương-xá trở nên hoang vu (suñña) và trở thành khu rừng do Dạ-xoa (yakkha) bảo vệ.

* “Vườn xoài của lương y Jīvaka komārabhacca”..* “Lương y Jīvaka komārabhacca".- Cụm từ komārabhacca. Nghĩa đen là "người được xem như Hoàng tử",

hay "người được Hoàng tử nuôi dưỡng".1(?)- A. 1, 205. Pháp 3 chi, kinh Các lễ Uposatha.2(?)- Xem D.iii, kinh Đại Điển Tôn ( Mahā Govinda suttaṃ). 3(?)- DhpA. Câu số 53 (Đại Trưởng lão Pháp Minh dịch).

16

Page 17: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Trong Luật Đại phẩm (Vin. i. 268-80) có mô tả rất nhiều về lương y Jīvaka, Ngài là con của cô kỹ nữ Sīlavatī (Tịnh giới) ở trong thành Vương-xá.

Nàng có tên là Sīlavatī, vì khi “nhận tiền của người nào rồi”, thì sẽ “không nhận tiền người khác”, bao giờ “làm xong phận sự” với chủ nhân, bấy giờ nàng mới nhận tiền người khác.

Kỹ nữ Sīlavatī khi sinh ra đứa bé trai, cho người mang đứa bé trai ném vào đống rác.

Vương tử Abhaya (Vô Úy), trên đường đi đến Hoàng cung để chầu vua, thấy đàn quạ bu quanh chiếc giỏ có đứa bé, Vương tử hỏi:

- Này các người, vật gì bị bầy quạ bu quanh vậy?- Thưa chủ, là một đứa bé trai.- Nó còn sống không?- Thưa chủ, còn sống.Vương tử Abhaya (Vô-úy) cho mang đứa bé về nuôi dưỡng và đặt tên là

Jīvaka (người còn sống)(1).Khi trưởng thành, Jīvaka (Kỳ-bà) tự mình tìm đến thành Takkasilā (hòn đá

biết lý luận) học nghề thầy thuốc 7 năm, khi đã thành tài, Jīvaka trở về kinh thành Vương-xá.

Trên đường về, đến thị trấn Sāketa (Hoàng hôn) thì hết tiền, nơi đây có người vợ của một đại trưởng giả mang chứng bịnh nhức đầu đã 7 năm, các lương y đương thời đã thúc thủ.

Jīvaka đã trị dứt bịnh nhức đầu của bà và được thưởng 16 ngàn đồng tiền vàng, một tôi trai, một tớ gái cùng một cổ xe ngựa.

Khi trở về thành Rājagaha (Vương-xá), Jīvaka dâng toàn bộ số tiền kiếm được cho cha là Vương tử Abhaya (Vô-úy), nhưng Vương tử Abhaya không nhận và khuyên Jīvaka nên xây một biệt thự riêng trong tư dinh, Jīvaka đã làm theo lời khuyên của cha nuôi.

Tại nơi đây, lương y Jīvaka trị chứng bịnh rò rỉ (bhagandalābādha) cho vua Bimbisāra (Bình-sa), khi dứt bịnh vua Bimbisāra ban thưởng cho Jīvaka tất cả vật trang điểm của 500 cung nữ, nhưng Jīvaka không nhận, chỉ xin được một chức vụ.

Đức vua Bimbisāra ban cho Jīvaka chức ngự y, chuyên trị bịnh cho Đức vua, Hoàng tộc và các cung phi.

Lương y Jīvaka trị bịnh cho một đại phú gia trong thành Rājagaha (Vương xá) bị đau đầu 7 năm, ông tiến hành phẩu thuật não, lấy ra hai con sâu trong đầu của vị đại phú này.

Lương y Jīvaka trị bịnh cho con trai của nhà đại phú ở Bārāṇasī (Ba-la-nại) bị xoắn ruột, ông tiến hành phẩu thuật vùng bụng, đặt đường ruột ngay thẳng trở lại.

1(?)- Có giả thuyết cho rằng: "Jīvaka komārabhacca là con tư sinh giữa ông hoàng Abhaya và nàng kỹ nữ SīlavAtī.

17

Page 18: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Lương y Jīvaka còn trị bịnh cho vua Caṇḍa Pajjota xứ Ujjenī, khi dứt bịnh vua Caṇḍa Pajjota ban thưởng cho Jīvaka xấp vải đôi xứ Sivi(1).

Có lần, thân Đức Thế Tôn toát ra mùi khó chịu, lương y Jīvaka đã làm thuốc cho Đức Thế Tôn xổ 30 lần, Đức Thế Tôn dứt bịnh.

Khi Đức Thế Tôn tắm nước nóng để xổ lần thứ 30, lương y Jīvaka dâng lên Đức Thế Tôn xấp vải đôi rất quý sản xuất tại xứ Sivi, và thỉnh cầu Đức Thế Tôn ban cho hàng tại gia cư sĩ được phép dâng y đến chư Tăng.

Nhân đó, Đức Thế Tôn giảng lên pháp thoại thích hợp và Ngài Jīvaka đã chứng quả Dự lưu, từ đó Ngài Jīvaka là vị lương y riêng cho Đức Phật và chư Tăng.

Ngay sau đó, lương y Jīvaka suy nghĩ: "Ta nên đến thăm bệnh cho Đức Thế Tôn, mỗi ngày hai hay ba lần, nhưng Rừng tre (Veḷuvana) quá xa, khu vườn xoài gần hơn, ta nên dựng Hương thất tại đó cho Đức Thế Tôn.”

Ngài Jīvaka cho xây bức tường rào màu đỏ cao 18 khuỷu tay (khoảng 9m) bao quanh khu vườn xoài, bên trong là liêu cốc, chỗ trú ban ngày, chỗ trú ban đêm cùng những hồ nước, hoa viên…

Nơi này chứa được 1.250 vị Tỳ-khưu cư ngụ thoải mái.Ngài Jīvaka đã cúng dường vườn xoài này đến chư Tăng, có Đức Phật là vị

Thượng thủ.Sau khi vua Bimbisāra (Bình-sa) mệnh chung, lương y Jīvaka tiếp tục

phục vụ dưới triều đại của vua Ajātasattu (A-xà-thế).Lương y Jīvaka được Đức Thế Tôn ban cho địa vị “được dân chúng kính

mến nhất trong hàng cận sự nam”:"Trong các vị nam cư sĩ của Ta, được dân chúng kính mến, tối thắng là

Jīvaka komārabhacca."(2)

Nàng kỹ nữ Sirimā là em gái của lương y Jīvaka, nhờ nàng Uttarā tiếp dẫn nên nàng Sirimā cũng chứng được Sơ quả (3).

Vương tử Abhaya (Vô úy).Thường được gọi là Abhayarājakumāra. Ngài là con của Vua Bimbisāra

(Bình-sa) và nàng Padumavatī, một hoa khôi của xứ Ujjeni.Vua Bình-sa giao du thân mật với vua Caṇḍapajjota, khi đến thăm vua

Caṇḍapajjota ở thành Ujjenī, từ đó có cuộc lương duyên này.Lúc bảy tuổi, Vương tử Abhaya (Vô-úy) được mẹ gởi vào Hoàng cung của

vua Bimbisāra (Bình-sa).Trước khi gặp Đức Phật, Vương tử Abhaya là môn đệ của giáo chủ

Nigaṇṭha Nātaputta.Nigaṇṭha Nātaputta dạy Vương tử Abhaya một câu đố để luận chiến với

“Sa-môn Gotama.”Khi thấy Phật ung dung trả lời, Vương tử Abhaya đã nhận ra sự thất bại

của Nigaṇṭha Nātaputta và sự giác ngộ Tối thắng của Đức Thiện Thệ.1(?)- Xem Luật Đại Phẩm II. Chương VIII. 2(?)- HT. TMC (d). A. i, 24. Pháp một chi, phẩm người tối thắng. 3(?)- DhpA. Kệ ngôn số 223.

18

Page 19: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Sau khi nghe pháp từ Đức Thế Tôn, Vương tử Abhaya quy y Tam Bảo và nhận Đức Phật lả bậc đạo sư của mình.

Khi ấy, Vương tử có được cậu công tử mà ông rất thương yêu(1).Về sau, khi vua Bimbisaara băng hà, tâm bị giao động mạnh Vương tử

Abhaya xuất gia trong Giáo pháp của Đức Phật.Trong dịp Phật thuyết kinh Tālacchiggalūpama Sutta (1), ông đắc quả Dự

lưu, và sau đó đắc quả A-la-hán (2). Trong Tương ưng kinh (Saṃyutta Nikāya)(2) có gi nhận: Vương tử Abhaya

có đến yết kiến Đức Phật ở núi Gijjhakūṭa (Linh-thứu) và hỏi Đức Phật về chủ thuyết của giáo chủ Pūraṇa Kassapa, nhân đó Đức Phật giảng cho Vương tử Abhaya về Thất bồ đề phần.

Trong Tạng luật, bộ Đại phẩm ghi nhận: Vương tử Vô-úy tìm thấy Jīvaka Komārabhacca nằm trên đống rác (do mẹ là kỹ nữ Sīlavatī quăng ở đó) và đem về nuôi.

Bản Sớ giải kinh Tăng chi (Aṅguttara) lại nói rằng: “Vương tử Abhaya là cha ruột của Jīvaka”.

Vương tử Abhaya có công dẹp loạn ngoài biên thùy nên được cha là vua Bimbisāra ban thưởng cho một vũ nữ tuyệt sắc.

Trong suốt bảy hôm liền ông chỉ vui thú với nàng vũ nữ, nhưng sang ngày thứ bảy nàng vũ nữ bất ngờ bị gió độc làm chết.

Buồn rầu, ông tìm đến Phật và được Phật xoa dịu nổi u buồn(3).Apadāna có ghi lại chuyện của ông trong nhiều kiếp trước.Ông từng là một Bà-la-môn làu thông kinh Vệ-đà ở Haṃsavatī . Khi nghe

Phật Padumuttara (Liên hoa) thuyết pháp, ông từ bỏ tín ngưỡng Bà-la-môn, gia nhập Tăng đoàn và dành nhiều thời gian niệm tưởng ân đức Phật.

* “Một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ-khưu” (aḍḍhatelasehi bhikkhusatehi).

“Một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ- khưu”. Chỉ cho số lượng Tăng hội (sāvakānaṃ sannipāto) của Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn Gotama có một Tăng hội là 1.250 vị(4).Vào ngày trăng tròn tháng Megha (tháng giêng theo lịch Việt Nam), có

1.250 vị Thánh A-la-hán cùng nhau tụ hội tại Trúc Lâm tịnh xá (Veḷuvanavihāra).

Sự hội hợp này có 3 đặc điểm:- Không mời, nhưng cùng nhau tự đến.- Là những bậc A-la-hán Lục thông.- Là những vị xuất gia theo cách “Ehibhikkhu” (hãy đến đây này Tỳ-

khưu).Và ngày đó chính là ngày thành lập Tăng đoàn. 1.250 vị Thánh A-la-hán ấy là: 1.000 Thánh A-la-hán có Ngài Uruvela

kassapa là trưởng + 250 vị Thánh A-la-hán (là 250 vị tùy tùng của Ngài Sāriputta và Moggallāna khi chưa tìm đến yết kiến Đức Phật).

Nhưng số lượng 1.250 vị Tỳ-khưu trong kinh này không ám chỉ “tất cả là bậc A-la-hán), chỉ nêu lên số lượng Tăng hội của Đức Thế Tôn5.1(?)- M. iii, kinh Vương tử Abhaya ( Abhayarājakumāra Sutta)2(?)- S.v, 126-8. 3(?)-DhpA, câu số 171. 4(?)- D.iii, kinh Đại Bổn (Mahapadāna suttanta). 5(?)- D.iii, kinh Đại duyên (Mahāniddanasuttanta).

19

Page 20: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

* “Vua Ajātasattu (A-xà-thế) xứ Magadha” (rājā māgadho ajātasattu).

* “Vua” (rājjā).Rājāti ādīsu rājati attano issariyasampattiyā catūhi saṅgahavatthūhi

mahājanaṃ rañjeti vaḍḍhetīti rājā (At)(1):“Người chói sáng, đầy đủ quyền lực, gom ruộng đất từ 4 phương, người

được đại chúng hoan hỷ nuôi dưỡng, gọi là vua”.Theo kinh Khởi thế nhân bổn (Aggaññasuttanta): “Khi ác pháp tăng thịnh,

các hữu tình đi đến một hữu tình có sắc đẹp nhất, có gương mặt dễ nhìn nhất và được yêu mến nhất” . Đây là ý nghĩa “chói sáng”.

Đại chúng trao quyền “tức giận khi đáng tức giận, khiển trách khi đáng khiển trách, tẩn xuất khi đáng tẩn xuất”. Đây là ý nghĩa “đầy đủ quyền lực”.

Đại chúng chia cho vị ấy một phần lúa. Đây là ý nghĩa “được nuôi dưỡng”.

Và: “Này Vāsettha “vị chủ của nhiều ruộng vườn”, tức là khattiyā. Làm cho đại chúng (mahājana – sammato) hoan hỷ bởi pháp. Vị ấy là rāja (vua)”.

* “Ajātasattu” (A-xà-thế).Chữ Ajātasattu nghĩa là "có quyền lực khi chưa sinh".Ngài Buddhaghosa trong bản Sớ giải Kinh Sa-môn quả có giải thích: Các

nhà chiêm tinh đã tiên đoán: "Ajātoyeva rañño sattu: Ngay cả khi chưa sinh ra (ātaja) đã có dấu hiệu quyền lực (sattu)".

Ajātasattu là: "Người có quyền lực bẩm sinh".Ngoài ra, Ajātasattu cũng có nghĩa là "kẻ thù chưa sinh ra".Tương truyền rằng: Khi Hoàng hậu Vedehi mang thai Hoàng tử Ajātasattu

(A-xà-thế), bà rất thèm được uống máu ở cánh tay phải của vua Bimbisāra.Hoàng hậu cân nhắc: "Cơn thèm này thật khủng khiếp, ta không nên để

cho ai biết".Do phải chịu đựng với cơn thèm khát này Hoàng hậu trở nên gầy gò,

xanh xao, ngạc nhiên Đức vua hỏi:- Này Hoàng hậu, vì sao nàng gầy gò, xanh xao như vậy?.Khi biết được sự thật, nhà vua đã nói: "Tại sao nàng lại cho điều này là

khủng khiếp?".Rồi đức vua truyền ngự y đến, dùng dao vàng rạch lên cánh tay phải của

mình, nhỏ máu vào bình vàng hòa chung với nước rồi đưa cho hoàng hậu uống.

Khi biết được điều này, các nhà chiêm tinh đã tuyên bố: "Đứa trẻ còn trong bụng mẹ này sẽ giết chết vua cha và lên ngôi."

1(?)- At: Atthakathā (Sớ giải), chúng tôi dùng ký hiêu At chỉ cho bản Sớ giải kinh Sa môn quả, khi giải thích từ ngữ Pāli của Chánh kinh.

20

Page 21: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Hoàng hậu nghe được, muốn phá bỏ thai nhi, bà ra vườn Thượng Uyển đè bụng xuống đất, bà thử đi thử lại nhiều lần, nhưng không phá được thai bào.

Đức vua thấy lạ, nên hỏi:- "Vì sao nàng thường ra vườn Thượng Uyển?".Biết được lý do, Đức vua nói:- "Này Hoàng hậu, chúng ta vẫn chưa biết nàng đang mang thai hoàng tử

hay công chúa.Nếu hại chết đứa trẻ chúng ta chưa biết mặt, đồng thời là con của chúng

ta, điều này thật khủng khiếp trong vương quốc Magadha. Hoàng hậu đừng làm vậy".

Rồi Đức vua cho người canh chừng Hoàng hậu, khi hoàng tử ra đời Hoàng hậu nghĩ: "Ta sẽ giết chết đứa trẻ này" . Nhưng quân hộ vệ đã đem hoàng tử đi.

Một thời gian sau, khi hoàng tử đã lớn thì Hoàng hậu mới thấy mặt hoàng tử, khi nhìn thấy hoàng tử, tình thương con của người mẹ đã trỗi dậy và Hoàng hậu không thể giết hoàng tử.

Cuối cùng, nhà vua đã phong cho hoàng tử Ajātasattu (A-xà-thế) làm phó vương.

Có lần, Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) trong khi tịnh cư khởi lên suy nghĩ: "Tôn giả Sāriputta (Xá-lợi-phất) có hội chúng, Tôn giả Moggallāna (Mục-kiền-liên) có hội chúng, Tôn giả Mahākassapa cũng có hội chúng.

Như vậy, những tôn giả này đều có hội chúng riêng. Ta cũng phải có hội chúng riêng."

Sau đó, bằng năng lực thần thông, Devadatta đã chiếm được lòng tin của hoàng tử Ajātasattu.

Mỗi ngày, hoàng tử Ajātasattu cúng dường đến Devadatta 500 cổ xe vật thực vào buổi sáng, 500 cổ xe nước giải khát vào buổi chiều.

Đồng thời cho xây dựng một tịnh xá ở Gayasisa cúng dường đến Devadatta.

Một hôm, Devadatta tìm gặp hoàng tử Ajaatasattu nói rằng:- "Thưa hoàng tử, trong quá khứ mọi người có thọ mạng dài, nhưng hiện

nay mạng sống trở nên ngắn ngủi.Do vậy hoàng tử nên cướp ngôi để lên làm vua, còn ta sẽ giết Sa-môn

Gotama để lãnh đạo tăng chúng". Và Devadatta xúi giục Hoàng tử Ajātasattu (A-xà-thế) giết cha để đoạt

ngôi.Hoàng tử suy nghĩ: "Ngài Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) có năng lực thần

thông, không có việc gì mà Ngài không biết".Vào một buổi trưa, Ajātasattu dấu con dao vào đùi, đi vào nội cung để

ám sát vua cha, nhưng do quá sợ hãi và lo lắng hoàng tử đã không thực hiện được ý định.

21

Page 22: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Các đại thần bắt được hoàng tử, khi hạch hỏi hoàng tử thú nhận "toan giết cha để soán ngôi".

Các đại thần tranh cãi về việc: "Nên hay không nên giết hoàng tử và Devadatta cùng các Tỳ-khưu là đồ chúng của Devadatta".

Một nhóm Đại thần chủ trương giết, nhóm khác chủ trương "không nên giết".

Cuối cùng họ đưa sự việc lên vua Bimbisāra xử lý.Nhà vua đã giáng chức tất cả những quan đại thần muốn giết hoàng tử

và Devadatta và tăng chức cho những ai chủ trương “không nên giết”. Nhà vua hỏi hoàng tử:- "Tại sao con lại muốn giết cha?"– "Vì con muốn có vương quốc của cha". Nghe vậy, vua Bimbisāra truyền ngôi cho Ajātasattu.Khi vua Ajātasattu thuật lại cho Devadatta biết “ý nguyện đã được thành

tựu” thì Devadatta lại nói:- Như một người nhốt con giả can trong cái bọc trống bằng da, Đại vương

nghĩ rằng mình đã hoàn thành xong công việc sao?. Sau vài ngày, khi nghĩ lại, chính Đức vua sẽ lại làm vua.

- Thưa Ngài, vậy ta phải làm sao?.- Hãy nhổ cỏ tận rễ, hãy giết vua Bimbisāra đi.- Nhưng thưa Ngài, không nên dùng vũ khí sát hại vua cha.- Vậy thì hãy bỏ đói Đức vua.Vua Ajātasattu (A-xà-thế )cho giam cha mình vào trong ngục, bỏ đói Đức

vua không cho ai gặp mặt, ngoại trừ Hoàng hậu Vedehi được phép vào thăm vua Bimbisāra mà thôi.

Hoàng hậu để thức ăn vào trong bình vàng, mang bên hông vào thăm nhà vua. Nhà vua ăn cơm và tiếp tục sống.

Vua Ajātasattu hỏi: "Thưa cha, làm sao mà cha có thể sống được?".Khi biết được sự thật, vua Ajātasattu ra lệnh: "Không được cho mẹ ta

mang bất kỳ vật gì bên hông vào trong ngục".Hoàng hậu để bình vàng trên búi tóc, biết được điều này, vua A-xà-thế ra

lệnh: "Không được cho mẹ ta vào ngục với bất cứ vật gì trên búi tóc."Hoàng hậu đặt thức ăn vào trong đôi giày vàng đi vào ngục, bằng cách

đó, nhà vua vẫn tiếp tục sống. Một lần nữa, vua Ajātasattu lại hỏi nhà vua làm cách nào có thể vẫn còn

sống. Và khi biết được nguồn cơn, ông ra lệnh: "Không cho mẹ ta đi giày vào ngục".

Hoàng hậu tắm nước thơm, thoa lên người bốn chất ngọt (sữa, mật ong, bơ lỏng và mật). Nhà vua tiếp tục sống bằng cách liếm lên cơ thể của Hoàng hậu.

22

Page 23: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Một lần nữa Ajjātasattu lại hỏi và khi biết được, đã ra lệnh: "Từ giờ trở đi không cho mẹ ta vào ngục thăm vua cha".

Nghe lịnh này, Hoàng hậu đứng trước cửa ngục được đóng kín, khóc rằng:

- Ôi, Đại vương! Đại vương đã không cho giết đứa con đó khi còn trong bào thai, chính Ngài đã bảo vệ nó, Ngài đã bảo vệ kẻ thù của Ngài .

-Thiếp đến thăm Ngài lần này là lần cuối, từ nay trở đi thiếp không còn gặp được Ngài nữa rồi.

-Thưa Đại vương, Ngài là người hộ trì của thiếp, thiếp là người nữ tỳ của Ngài, những tội lỗi lớn hay nhỏ do thiếp đã gây ra cho Ngài. Kính mong Ngài mở lòng bi mẫn, hãy tha những tội lỗi ấy cho thiếp.

- Đây là lần cuối cùng thiếp được đảnh lễ dưới chân Đại vương. Kể từ hôm nay chỉ còn là sự chia ly, không mong gì được diện kiến Đại vương nữa rồi.

- Thưa Đại vương, hoàng tử đã vô ân, trăm ngàn dã man tàn ác, dứt khoát không cho thiếp vào thăm Ngài, hết cách rồi. Cái chết sẽ đến với Đại vương, nỗi đau buồn này của thiếp hơn trăm ngàn nỗi đau buồn khi đến ngục thất này.

- Ôi Đại vương! Người như cây lọng ngọc che chở cho thiếp, Ngài đã quan tâm nhiều đến thiếp, một sự lãnh đạm dù nhỏ cũng không hề có. Thiếp hy vọng mình sẽ là đôi hài vàng dưới chân Đại vương cho đến lúc lâm chung.

Than ôi ! Ước vọng này, không thành sự thật rồi.- Thưa bậc có bi đức với chúng dân, Ngài là bóng mát của chúng dân,

Ngài giải trừ sự đói khổ của chúng dân, Ngài mang lại thịnh vượng, an lạc cho vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) này. Có đáng chăng ? Ngài phải chịu nổi thống khổ như thế.

- Trước đây Ngài ngự trên đỉnh cao sang, chung quanh có cung phi mỹ nữ hầu cận. Giờ đây chỉ còn là ngục thất với người giữ ngục chỉ biết lạnh lùng làm theo mệnh lịnh.

- Trước đây Ngài ngủ trên giường vàng ấm cúng, giờ đây Ngài nằm trên nền đất không vật lót. Thật quá thương tâm.

- Trước đây Ngài thưởng thức những thực phẩm thượng vị, giờ đây ngay cả những vật trét lên thân của thiếp, Ngài cũng không còn nữa rồi.

-Trước đây Ngài từng tắm gội bằng hương liệu đặc biệt, có mùi thơm ngào ngạt.

Kể từ khi Ngài bị giam vào đây, mỗi ngày Ngài chỉ còn được tắm với mồ hôi của mình, thân thể cao quý của Ngài phải mang khối hổn độn đáng kinh tỡm hòa với mồ hôi cáu bẩn.

- Trước đây Ngài từng dùng những loại vải, tơ, lụa sai biệt, giờ đây chỉ còn bộ y phục tang thương đầy nhớp nhúa.

Hỡi ơi! Thưa Đại vương cao quý, Ngài hãy bỏ mặc những nỗi thống khổ ấy đi, thiếp không còn cách gì giúp được Ngài nữa rồi.

23

Page 24: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Giờ đây chỉ còn ân đức Phật, Pháp, Tăng là nơi nương tựa của Ngài, xin Ngài đừng quên điều ấy.

- Thưa Đại vương, thiếp là người bất hạnh, vô phước, xin đê đầu đảnh lễ Ngài lần cuối cùng.

Hoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn tiếp

tục sống nhờ đi kinh hành trong hỷ lạc của Sơ quả(1). Cơ thể của nhà vua trở nên cực kỳ chói sáng, Ajātasattu lại hỏi: "Thưa

cha, làm sao cha có thể sống được?".Khi biết vua cha sống được là nhờ đi kinh hành và thấy rằng cơ thể của

vua cha cực kỳ chói sáng, Ajātasattu nghĩ: "Ta sẽ không cho vua cha đi kinh hành".

Vua Ajātasattu (A-xà-thế) ra lệnh cho những người gác ngục: "Hãy dùng dao cạo cắt bàn chân của nhà vua, xát muối và dầu rồi hơ lên than khói từ gỗ của cây xiêm gai".

Khi những người gác ngục đến, nhà vua nghĩ: "Phải chăng con ta hồi tâm, nên cho người đến cạo râu tóc cho ta".

Nhà vua hỏi: "Vì sao các ngươi đến đây?".- Thưa Ngài, đến để làm theo lịnh của Đức vua.- Vậy các ngươi hãy làm những gì Đức vua ra lệnh.Họ yêu cầu vua ngồi xuống, cúi lạy nhà vua và nói:- Thưa Đại vương, chúng thần chỉ làm theo lệnh của Đức vua. Xin Ngài

đừng phẫn nộ với chúng thần.Họ dùng tay trái chộp lấy mắt cá chân của nhà vua, tay phải lấy dao cạo

cắt bàn chân, xát muối và dầu rồi hơ lên than khói từ gỗ của cây xiêm gai.Do bị tra tấn như vậy, vốn đã kiệt sức thân thể Đức vua rũ xuống như

vòng hoa treo trên bảo tháp rũ xuống.Trong lúc ấy, Đức vua tưởng niệm đến ân đức Phật, mệnh chung tái sinh

vào cõi Tứ Đại Vương, là đại thần Dạ-xoa (yakkha) đầy quyền lực của vua Vessavaṇa (Đa văn thiên vương), có tên gọi là Janavasabha (2).

Được nghe rằng: "Vua Bimbisāra bị gọt chân mệnh chung", đây là quả của nghiệp kiếp trước.

Trong một kiếp, tiền thân vua Bimbisāra cũng là một vị vua, Đức vua đi vào chánh điện với đôi giày dưới chân, do nghiệp ấy nên kiếp này vua Bimbisāra bị gọt chân.

Cũng trong ngày đó thì Hoàng hậu của A-xà-thế hạ sinh một hoàng nam(3).

1(?) - Nhà vua đã đắc Tu Đà Hườn sau khi nghe bài pháp đầu tiên Đức Phật giảng khi Đức Phật ngự đến kinh thành Vương-xá.2(?) - Chúa dạ xoa, có vương quốc nằm về phía bắc trên cõi Tứ Đại Thiên Vương.

24

Page 25: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Hai tin đến cùng lúc, một là hoàng nam vừa được hạ sinh, một là cái chết của Bình-sa.

Các quan cận thần nghĩ: "Ta nên cho Đại vương biết tin về hoàng tử trước".

Khi nhận được tin hoàng nam vừa sinh ra, tình thương con nảy sinh đã làm cho vua kinh cảm đến tận xương tủy.

Ngay lúc ấy, vua Ajātasattu hiểu được "tâm trạng người cha" và nhận ra rằng:

- Khi ta được sinh ra, hẳn cha ta cũng có tình thương con, như ta thương con ta như vậy.

Rồi vua Ajātasattu tìm đến bà Vedehi hỏi rằng:- Thưa mẹ! Khi con sinh ra, cha con có thương con không?- Này đứa con ngu si kia, con đang hỏi gì vậy? Khi còn nhỏ, con bị một

mụn nhọt trên ngón tay, con cứ khóc liên hồi và không ai có thể dỗ được.Các nhũ mẫu đã đem con đến chỗ vua cha khi đó đang lâm triều. Cha

con ngậm ngón tay con, cho con đở đau nhức, bất ngờ mụt nhọt vỡ ra, e ngại con bị đau nhức nên cha con đã nuốt cả máu mủ.

Tình thương của cha con đối với con là như thế.Nghe được việc này, vua Ajātasattu bàng hoàng, liền ra lịnh thả vua cha,

nhưng các quan cận thần nói:-Làm sao chúng thần có thể thả được, thưa Đại vương. Vì Đức vua đã

chết.Và họ đưa tờ tấu trình thứ hai ra.Vua Ajātasattu than khóc và cho an táng vua cha.Về sau, khi được yết kiến Đức Thế Tôn qua sự tiến dẫn của lương y

Jīvaka, vua Ajātasattu trở thành một phật tử rất tịnh tín nơi Đức Phật.Nhưng có điều lạ là: "Sau lần ấy, ông không hề đến hầu Đức Phật cũng

không thân cận hay tìm gặp vị trưởng lão nào để hỏi Pháp và đó cũng là lần hội kiến duy nhất với Đức Thế Tôn".

Vua Ajātasattu (A-xà-thế) thương kính Đức Phật cho đến nỗi khi nghe "Upaka con của Maṇḍika (Upaka Maṇḍikaputta) có lời khiếm nhả với Đức Phật, Đức vua đã phẫn nộ và đuổi Upaka ra khỏi quốc độ của mình"(1).

Theo bản Sớ giải thì Upaka là người ủng hộ Đề-bà-đạt-đa.Khi nghe Đức Thế Tôn viên tịch vua A-xà-thế đã ngất xỉu mấy lần.Kinh điển cùng Sớ giải hệ Pāli có đề cập đến nhiều sự kiện liên quan đến

triều đại vua Ajātasattu.

3(?)- Mẹ của Hoàng tử Udāyibhadda không thể là Vajirā, công chúa con vua Pasenadi, được gả cho vua A-xà-thế.1(?)- Xem A.ii,181, Pháp 4 chi, kinh Upaka (Upakasuttaṃ).

25

Page 26: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Vua Bimbisāra cưới em của vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) là công chúa Vedehi con vua Mahā Kosala, khi vua Bimbisāra chết, không bao lâu sau bà cũng chết theo vì sầu muộn.

Vùng đất Kāsi là của hồi môn của bà Vedehi, lợi tức làng Kāsi thuộc về vương quốc Ma-kiệt-đà, nhưng khi vua Bimbisāra bị giết, thì vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) lấy làng Kāsi trở lại. Do sự kiện này, vua Ajātasattu tuyên chiến với cậu mình là vua Pasenadi (Ba-tư-nặc).

Trước đó, xem ra cậu cháu rất thân tình, có lần vua Ajātasattu (A-xà-thế) gởi đến vua Pasenadi sấp vải ngoại kỳ diệu, dài 16 hắc tay, rộng 8 hắc tay.

Sấp vải này, vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) dâng đến Đức Ānanda(1).Vua Ajātasattu (A-xà-thế) chiến thắng ba lần, lần thứ tư nhờ nghe theo lời

bố trí binh lược của Trưởng lão Dhanuggaha Tissa(2), vua Ajātasattu bị bắt làm tù binh cùng với quân đội của vị ấy.

Nhưng rồi vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) chọn phương án không bạo lực, nên thả A-xà-thế ra đồng thời gã con gái mình là công chúa Vajirā cho vua A-xà-thế, ngôi làng Kāsi là của hồi môn cho công chúa Vajirā.

Hai người giao hảo thân thiện như xưa.Khi vuaPasenadi (Ba-tư-nặc) được 80 tuổi, do sự mưu phản của viên đại

thần Dīgha Kārāyana là cháu trai của Thống soái Bandhula.Nhân khi vua Pasenadi viếng thăm Đức Phật, ông trộm hết ấn tín trở về

phò tá con vua Pasenadi là Vidūḍabha (Lưu ly) lên ngôi, chỉ chừa lại cho vua Pasenadi người cung nữ già(3), đây là lần cuối cùng Đức vua Pasenadi gặp Đức Phật.

Theo bản Sớ giải kinh Trung bộ, sở dĩ Dīgha Kārāyana đột ngột mưu phản, vì ông nhớ lại “khi trước Đức vua cũng vào hầu Đức Phật với các vương hiệu bỏ bên ngoài, sau đó thì chú ta là Bandhula bị giết chết.

Lần này cũng vậy, phải chăng Đức vua muốn giết ta, vậy ta phải ra tay trước”.

Phẫn uất, vua Pasenadi cùng người cung nữ già đi đến thành Vương-xá với ý định mượn quân của A-xà-thế trở về phục nghiệp, nhưng đến nơi thì cổng thành đã đóng, vua Pasenadi phải nghỉ trong chòi lá ngoài thành.

Tuổi già sức yếu lại phải vượt khoảng đường dài, nên trong đêm vua Pasenadi mệnh chung.

Vua Ajātasattu chuẩn bị hỏi tội vua Viḍūḍabha thì vua Viḍūḍabha sau khi tru diệt dòng Thích-ca (Sakya), kéo quân về nghỉ ở cạnh bờ sông, bất ngờ nước sông dâng cao cuốn trôi tất cả(4), và vương quốc Kosala được sát nhập vào vương quốc Magadha.

Khoảng một năm trước khi Đức Phật viên tịch, vua Ajātasattu cho vị đại thần tâm phúc là Bà-la-môn Vassakāra đến hỏi Đức Phật về ý định quyết

1(?)- M.ii, kinh số 88. Kinh Bāhitika.2(?)- JA. Câu truyện số 283. 3(?)-M.ii, số 89. Kinh Pháp trang nghiêm (Dhammacetiyasuttaṃ) 4(?)-DhpA. Câu 287.

26

Page 27: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

đánh dân xứ Vajjī (Bạt-kỳ) có thành công không? Đức Phật dạy "bao giờ dân xứ Vajjī còn duy trì 7 pháp bất thối, thì vẫn còn hùng mạnh"(1).

Nghe vậy. vua A-xà-thế ngưng đánh xứ Vajjī, cho xây dựng thành Pātaliputta (Hoa-thị-thành) ngăn chận dân xứ Vajjī.

Sau khi Đức Phật viên tịch được 3 năm, do trúng kế ly gián của Bà-la-môn Vassakāra, dân xứ Vajjī không còn đoàn kết, vua A-xà-thế thôn tính được xứ Vajjī một cách dễ dàng, và di đô về kinh thành Pātaliputta.

Một câu chuyện khác kể về vua Ajātasattu khi còn là hoàng tử, nhân dịp theo cha viếng thăm lâu đài của trưởng giả Jotika, Ajātasattu khởi tâm muốn chiếm đoạt. Khi lên ngôi, ông thực hiện ý định này nhưng bất thành(2).

Có tin đồn vua Caṇḍa Pajjota chuẩn bị cuộc chiến với vua Ajātasattu để trả thù cho người bạn thân là vua Bimbisāra, nên vua Ajātasattu cho xây dựng thành Rājagaha thêm kiên cố (3), dường như chỉ là tin đồn vì không thấy đề cập đến cuộc chiến.

Vua Ajātasattu là vị hộ pháp cho cuộc kết tập Phật ngôn lần I.Vua Ajātasattu bị các môn đệ Nigantha căm ghét. Theo Sớ giải kinh Pháp

cú thì nhóm ngoại đạo này thuê côn đồ sát hại Đức Mục-kiền-liên (Moggallāna)(4), Đức vua cho thám tử điều tra, bắt được những thủ phạm giết chết Đức Moggallāna.

Những tên côn đồ khi bị bắt đã khai "do nhóm Nigantha thuê"; vua Ajātasattu đã cho chôn 500 Nigantha cùng 500 côn đồ, ló đầu khỏi hố chôn, rồi cho xe cày trên những hố ấy.

Vua Ajātasattu (A-xà-thế) cai trị quốc độ được 32 năm, ông bị con mình là Hoàng tử Udayibhadda giết soán ngôi, dù ông đã lo sợ điều này khi đến viếng Đức Phật lần đầu tiên.

Theo Sớ giải Trường bộ kinh (Sumaṅgalavilāsinī) thì vua Ajātasattu mệnh chung, rơi vào Lohakumbhiya niraya (địa ngục đồng sôi) chịu khổ 60 ngàn năm tính theo nhân loại.

Sau 2 A-tăng-kỳ (asaṅkheyya) sẽ là vị Phật Độc giác có tên là Viditavisesa.

Con vua Udayibhadda là Anuruddha lại giết cha cướp ngôi, con vua Anuruddha là Mahā Muṇda cũng giết cha cướp ngôi, hai vị này mỗi vị trị vì được bốn năm.

Và con của Muṇda là Nāgadāsa lại giết cha cướp ngôi, trị vì được 24 năm.Dân chúng thấy giòng họ này có truyền thống "giết cha soán ngôi" nên

nổi dậy lật đổ vương triều Magadha, giết chết vua Nāgadāsa, rồi lập ông hoàng dòng Licchavī là Susūnāya lên làm vua(5).

* Vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà).1(?)-D.iii. kinh Đại bát Nípbàn (Mahāparinibbānasuttaṃ). 2(?)-DhpA. Câu kệ số 416.3(?)- M.iii, kinh số 108. Kinh Gopaka Moggallana. 4(?)- DhpA. Câu kệ số 137 – 140. 5(?)- Đại Đức Giác Nguyên (d), Phật Giáo Sử (kn).

27

Page 28: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Ngài Buddhaghosa cho rằng: chữ Magadha có nhiều cách giải thích huyền thoại (bahudhā papañcanti).

Đó là có lần vua Cetiya sắp bị đất rút đã bị những người đứng quanh đó khiển trách: “Mā gadhaṃ pavisa” (đừng xiết chặc).

Lại có câu chuyện khác là: Có nhóm đào đất hìn thấy vua Cetiya bị đất rút và vua Cetiya đã nói với họ “Mā gadhaṃ karotha” (đừng làm trói buộc).

Cách giải thích được Ngài Buddhaghosa chấp nhận là: Dường như đó là nơi cư trú của “những chủ ruộng” (khattiyā), nên được gọi là Magadha (1).

Vào thời vua Bimbisāra, Aṅga là nước chư hầu của Magadha (Ma-kiệt-đà). Trước đó là 2 quốc độ riêng biệt, thường có chiến tranh với nhau (2), nhưng về sau vua Bimbisāra thôn tính được xứ Aṅga (thủ đô xứ Aṅga là Campā).

Và vua Bimbisāra xem như vua của Aṅga-Magadha.Magadha (bao gồm cả Aṅga) có 80 làng và chu vi khoảng 300 do tuần

(yojana)(3), có kinh đô là Rājagaha (Vương xá).Đến đời vua Ajātasattu, kinh đô xứ Magadha là Pātaliputta (Hoa-thị-

thành), đến đời Vua Asoka (A-dục), Pātaliputta trở thành kinh đô của Ấn Độ.Một vài vị vua của xứ Magadha được nêu tên trong Bổn sanh là

Arindama và Duyyodhana(4). Vào thời vua Ajātasattu, vương quốc Magadha được nới rộng khi sát nhập

được nước Kosala và thôn tính được xứ Vajjī (Bạt-kỳ).Vào thời Đức Phật, phía đông Magadha là con sông Campā (sông này

nằm giữa 2 vương quốc Aṅga và Magadha)(5), phía nam là các dãy núi Vindhyā, phía tây là sông Soṇa và phía bắc là sông Hằng (Gaṅgā).

Sông Hằng là ranh giới giữa Magadha và nước cộng hòa Licchavī, cả Magadha và Licchavi đều có quyền như nhau đối với sông Hằng.

Khi Đức Phật đến kinh thành Vesāli, vua Bimbisāra tạo một con đường dài năm do-tuần từ thành Rājagaha (Vương xá) đến dòng sông và trang hoàng con đường cùng bến sông. Từ bờ kia sông Hằng đến thành Vesāli dài 3 do-tuần, Vua xứ Licchavī cũng làm tương tự như thế (6).

Magadha là một địa bàn quan trọng của Phật giáo, là một căn cứ địa ban đầu của Phật giáo (Trúc lâm tịnh xá), từ đó lan rộng ra các quốc độ đương thời, địa bàn quan trọng này được duy trì cho đến kỳ Kết tập Phật ngộn lần thứ III (vào thời vua A-dục).

Các cánh đồng tại Magadha rất phì nhiêu, mỗi cánh đồng rộng khoảng 1 gāvuta (3km). Đức Ānanda mô phỏng theo những cánh đồng để làm thành tấm y có hình dạng “cánh đồng” cho chư Tỳ-khưu(7).

1(?)- SA. i. 135 f.2(?)- J. iv. 454 f3(?)- Mhv. ii, Chương V - Da thú (Cammakkhandhaṃ), 1. (Đại đức Nguyệt Thiên dịch)4(?)- J. vi. 272.5(?)- J. iv. 454.6(?)- DhA, kệ ngôn số 29o.7(?)- Mhv.ii, chương VII - Yphục (cīvarakkhandhakaṃ), 149. ĐĐ. Nguyệt Thiên (d).

28

Page 29: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Phương ngữ Magadha (Magadhabhāsā) được xem như là “ngôn ngữ bậc Thánh” (Āriya)(1)

Nếu trẻ con lớn lên mà không được dạy bất kỳ ngôn ngữ nào thì chúng sẽ tự nhiên dùng ngôn ngữ Magadha.

Ngôn ngữ này lan rộng khắp “đia ngục, cả súc sanh, ngạ quỷ, người và chư thiên”(2).

Người Aṅga và Magadha có thói quen tổ chức đại tế đàn hàng năm đến Đại Phạm Thiên, tại buổi lễ đó, một đống lửa với 60 xe củi được sắp xếp.

Đại chúng cho rằng “bất kỳ thứ gì được ném vào ngọn lửa tế thần thì sẽ được nhận lại gấp ngàn lần” (3). Magadha nay là bang Behar ở Nam Ấn.

* “Vua Bimbisāra” (Bình-sa).Theo tư liệu nguồn Thibetan, cha của vua Bimbisāra có tên gọi là Bhāti(4),

mẹ là Bimbī, tên của Bimbisāra đựơc gọi từ tên người mẹ (nghĩa là “hương chất quý của bà Bimbī”), vị ấy còn đựơc gọi là Mahāpaduma (hoa sen quý lớn), ngoài ra còn một lý do khác là:“Gương mặt nhà vua thanh tú, rạng rở như mặt trời buổi sáng”, nên gọi là Bimbisāra.

Một ý nghĩa khác của tên gọi Bimbisāra là “lõi bằng vàng” (bimbī nghĩa là vàng)

Vua Bimbisāra cai trị quốc độ Magadha (Ma-kiệt-đà) và là người hộ pháp của Đức Phật.

Đức vua Bimbisāra kém hơn Đức Thế Tôn 5 tuổi, vua lên ngôi lúc 15 tuổi, ở ngôi vua 52 năm, chứng đắc quả Dự lưu vào năm 30 tuổi.

Tương truyền(5) hai vị là bạn thời trẻ khi cha của họ là bạn bè với nhau(6). Nhưng theo bài kinh Pabbajā Sutta (7), khi Bồ-tát xuất gia được 8 ngày,

Ngài ngự đi khất thực trong thành Vương xá (Rājagaha), bấy giờ vua Bimbisāra đứng trên lầu cao nhìn thấy Đức Bồ-tát đi ngang qua cửa sổ thành, nhà vua đã cho người đi theo, sau đó diễn ra cuộc gặp đầu tiên giữa Đức Phật và vua Bimbisāra ở núi Pandava ngoài thành Rājagaha.

Bản Sớ giải có ghi nhận: “Trong cuộc gặp gỡ lần đầu này Đức vua Bimbisāra (Bình-sa) muốn nhường nửa quốc độ của mình cho Bồ-tát, nhưng Đức Bồ-tát từ chối.

Bản Sớ giải nói thêm rằng vua Bimbisāra mong Bồ-tát được thành tựu đạo giải thoát và thỉnh Ngài đến thăm Rājagaha khi giác ngộ.

1(?)- Sp. i. 255.2(?)- VbhA. 387. 3(?)- SA.i, 269 nhưng điều kỳ lạ là trong Vedic, các thời kỳ Brāhmaṇavà Sūtra, Magadha được cho là ở ngoài văn hóa Ariyan và Brahman và do vậy các giáo sĩ Bà-la-môn xem thường. Nhưng đó là vùng đất thánh của Phật giáo. Xem VT. Ii. 207; Thomas; op. cit., 13, 96.4(?)- MT.137, Dpv.iii,52.5(?)- Mhvs. ii. 25 ff.; Dpv. iii. 50 ff. 6(?)- SN. Vs. 405 ff; cũng J. i. 66 và DhA. i. 85; cũng Rockhill, tr. 27. 7(?)- Sn. 72 (kinh xuất gia).

29

Page 30: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Sau khi tế độ 3 vị đạo sỉ bện tóc cùng 1000 đệ tử đang cư ngụ tại núi Uruvela là: Uruvelakassapa, Nadīkassapa và Gayākassapa (đạo sĩ Uruvelakassapa 500 môn đệ, đạo sĩ Nadīkassapa có 300 môn đệ) chứng đắc Thánh quả A-la-hán.

Đức Thế Tôn thực hiện lời hứa với vua Bimbisāra, Ngài đi đến thành Vương xá với 1000 vị Thánh A-la-hán(1) có Đức Uruvelakassapa là vị lãnh đạo trước đó.

Đức Thế Tôn ngụ tại điện thờ Supatiṭṭha trong rừng Laṭṭhi. Vua Bimbisāra cùng với 120 ngàn gia chủ đồng hành đã đến đảnh lễ Ngài.

Đức Phật thuyết pháp tế độ vua Bình-sa cùng 110 ngàn gia chủ chứng quả Dự lưu, 10 ngàn gia chủ còn lại xin nương nhờ nơi Tam bảo(2).

(Theo BuA. tr. 18 f. Đức vua đã trở thành bậc Dự Lưu sau khi nghe bổn sanh Mahā Nārada Jātaka).

Khi chứng đạt quả Dự Lưu, vua Bimbisāra đã trình lên Đức Thế Tôn 5 ước nguyện của mình đã thành tựu là:

- Được làm vua.- Được Bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác ngự đến vương quốc.- Được tỏ lòng tôn kính đến Đức Thế Tôn.- Đước nghe pháp từ Đức Thế Tôn.- Được thông hiểu pháp của Đức Thế Tôn (sđd, số 59).Vào hôm sau, Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu ngự vào thành Vương xá, đến

Hoàng cung thọ thực theo lời thỉnh cầu của vua Bình-sa.Dưới hình dáng một thanh niên tuấn tú, Vua trời Đế-thích (Sakka) dẫn

đầu đi đến cung điện và hát những bài hát ca ngợi Đức Phật.Sau khi Đức Thế Tôn cùng chư Tỳ-khưu thọ thực xong rồi, vua Bimbisāra

dâng Rừng trúc (Veḷuvana) để Đức Phật và chư Tăng sử dụng.Sự cúng dường Rừng trúc của vua Bimbisāra là “hình mẫu” cho sự cúng

dường Mahāmeghavana (rừng Mưa lớn) của vua Devānampiyatissa (vua Asoka – A-dục) đến Ngài Mahinda sau này(3). Và cũng là một trong những bức điêu khắc trong phòng di vật của Mahā Thūpa(4).

Vào thời Đức Phật Phussa, khi ba người anh em cùng cha khác mẹ của Đức Phật, là 3 vị Hoàng tử con vua Jayasena (nay là 3 vị Uruvela Kassapa) xin vua cha cho các vị cúng dường đến Đức Phật Phussa và chư Tăng trọn ba tháng.

Ba vị Tử hoàng an cư mùa mưa nơi Đức Phật Phussa và chư Tăng đang an cư mùa mưa trong ba tháng, giao tài sản của mình đến quan chưởng khố (tiền thân vua Bình-sa) để cúng dường vật thực đến Đức Phật và chư Tăng. 1(?)- Đúng ra là 1.003 vị, nhưng trong Luật Đại phẩm (Mahāvagga I) ghi là 1.000 vị, nên chúng tôi ghi số lượng 1.000 vị theo tạng Luật. 2(?)- Đại Đức Nguyệt Thiên (d), Mhv I, 57.3(?)- Mhvs. xv. 17 4(?)- Mhvs. xxx. 80

30

Page 31: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Những người phục vụ chư Tăng trong thời ấy, đã tự mình dùng trước vật thực dành cúng dường chư Tăng, hoặc cho con mình dùng trước loại vật thực ấy, mệnh chung họ tái sinh làm ma đói (peta).

Khi vua Bimbisāra cúng dường đến Đức Phật Gotama cùng chư tăng, nhóm ma đói ấy báo mộng cho vua Bimbisāra. Theo lời dạy của Đức Phật, vua Bình-sa làm phước rồi hồi hướng đến nhóm ma đói ấy, thọ hưởng phước ấy nhóm ma đói tái sinh về thiên giới(1).

Được biết Đức vua có biệt tài tiên đoán tình trạng người khác qua âm thanh của người ấy, điển hình là Đức vua tiên đoán Kubhaghosaka là “người có đại tài sản”(2).

Trong thời gian 37 năm còn lại (Đức vua mệnh chung lúc 67 tuổi), vua Bimbisāra đã dùng quyền lực của mình để giúp đỡ tôn giáo mới và làm cho tôn giáo này lớn mạnh hơn.

Đức vua Bimbisāra làm gương cho thần dân của mình, nhà vua là tấm gương cho các thần dân của mình về việc tu tập giới, Ngài giữ giới Bát quan (uposatha) sáu ngày hàng tháng(3).

Hoàng hậu của vua Bimbisāra là Vedehī con gái của vua Mahākosala và là em của vuaPasenadi (Ba-tư-nặc).

Hồi môn của Hoàng hậu Vedehī là ngôi làng Kāsi, lợi tức ngôi làng này chỉ là “tiền tắm rữa” cho Hoàng hậu, con trai bà là hoàng tử Ajātasattu (A-xà-thế). Vua Bimbisāra cũng có những Hoàng hậu khác như bà Khemā.

Bà Hoàng Khemā không muốn đến diện kiến Đức Phật để nghe pháp, khi bị mê hoặc bởi những lời mô tả về vẽ đẹp của khu Rừng trúc (Veḷuvana) của các nhạc sĩ, thi sĩ của vua Bimbisāra (Đức vua muốn tế độ Hoàng hậu Khemā nên lập ra mưu chước này).

Bà Hoàng Khemā đi đến Tịnh xá Trúc Lâm (Veḷuvanavihāra), sau khi nghe pháp của Đức Phật bà chứng quả A-la-hán, vua Bimbisāra hoan hỷ cho bà được xuất gia trong giáo pháp của Đức Thế Tôn.

Bà là vị Thánh nữ A-la-hán tối thắng về trí tuệ trong chư Tỳ-khưu ni.Vua Bimbisāra có một người con với nàng kỹ nữ Padumavatī (mẹ của ông

Hoàng Abhaya) người xứ Ujjenī, khi Abhaya được 7 tuổi được đưa về kinh thành Vương xá với sự giúp đỡ của Dạ-xoa.

Về sau bà Padumavatī nghe Ngài Abhaya xuất gia, bà cũng xuất gia trong giáo pháp này, bà nghe pháp từ Ngài Abhaya, phát triển tuệ quán chứng quả A-la-hán(4).

Vua Bimbisāra có một người con khác với nàng Ambapālī có tên là Vimala Koṇḍañña và hai người con khác với những cung phi khác là Sīvalā và Jayasenā.

1(?)- Sớ giải Ngạ quỷ sự (Petavatthu – Atthakathā). Chương I, kinhTirokuḍḍa 2(?)- DhpA. Câu số 24. 3(?)- J. iii. 121. 4(?)- Therī. 127. Mẹ Abhayā.

31

Page 32: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Kinh điển không đề cập đến bất kỳ bài pháp đặc biệt nào mà Đức Phật thuyết cho vua Bình-sa, cũng như không có câu hỏi nào nhà vua bạch hỏi Đức Phật.

Có lẽ, giống như trưởng giả Cấp Cô Độc (Anāthapiṇḍika), do sùng tín nơi Đức Phật nên tự kiềm chế không để có vấn đề nào với Đức Phật, hay hay có lẽ do công việc triều chính (quốc độ Ma-kiệt-đà có đến 80 ngàn làng, chu vi quốc độ là 300 do tuần), không cho phép nhà vua có đủ thời gian để đến gặp Đức Phật thường xuyên.

Có lần vua Bimbisāra thỉnh 4 vị trưởng lão là Godhika Subāhu, Valliya và Uttiya an cư mùa mưa tại thành Vương xá.

Đức vua dâng đến mỗi vị một am thất, nhưng quên không lợp mái, kết quả là chư thiên không cho làm mưa, Đức vua nhớ lại điều bỏ sót đó, cho làm mái che và trời mưa xuống(1).

Đức vua Bimbisāra cũng quên lời hứa với Trương lão Pilindavaccha, Đức vua hứa cung cấp cho Trưởng lão một người giúp việc tự viện, nếu được Đức Phật cho phép.

Trưởng lão Pilindavaccha trình lên Đức Thế Tôn và được Đức Thế Tôn cho phép.

Trưởng lão thông báo đến vua Bimbisāra nhưng vua lại quên. Sau 500 đêm, Đức vua chợt nhớ lại lời hứa của mình, Đức vua ban cho 500 người giúp việc với một ngôi làng riêng biệt để họ cư ngụ, ngôi làng có tên là Ārāmikagāma (làng của những người giúp tự viện) hay Pilindavacchagāma (làng của Ngài Pilindavaccha)(2).

Niềm kính mến của vua Bimbisāra đối với Đức Phật là vô hạn, khi kinh thành Vesāli (Quảng Nghiêm) bị ba tai nạn: Sự đói, sự chết và phi nhân.

Vua xứ Licchavī cử Mahāli cùng đoàn tùy tùng, đến thỉnh cầu Đức Phật ngự đến thành Vesāli để giải trừ 3 tai họa của dân xứ này, Đức Phật nhận lời.

Nghe tin này, vua Bimbisāra đã sửa chữa toàn bộ con đường từ thành Vương xá đến bờ sống Hằng (Gaṇgā) dài 5 do-tuần, cuối mỗi do tuần nhà vua cho xây dựng một ngôi nhà nghỉ và trải hoa năm màu đến tận đầu gối dọc tòan bộ con đường.

Hai cái lọng trắng đựơc chuẩn bị cho Đức Phật và mỗi cái cho mỗi vị Tỳ -khưu.

Chính nhà vua đã tháp tùng cùng Đức Phật để chăm sóc Ngài, dâng hoa, nước thơm và tất cả tứ vật dụng suốt đường đi kéo dài năm ngày.

Khi đến bờ sông, nhà vua cho đóng hai con thuyền cùng với nhau, trải hoa ngập đến đầu gối và đi theo con thuyền chở Đức Phật cho đến khi nước ngập đến ngực.

Khi Đức Phật đi rồi, nhà vua cắm trại tại bờ sông và chờ cho đến khi Đức Phật quay trở lại. Khi đó nhà vua lại hộ tống Đức Phật về lại thành Vương xá cũng với lễ hội và sự tráng lệ tương tự.1(?)- Thera. Phẩm 6. 8. 2(?)- Luật Phân tích Tỳ-khưu II, số 138.

32

Page 33: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Có sự thân mật lớn giữa vua Bimbisāra và vua Pasenadi (Ba-tư-nặc). Họ cùng liên quan đến nhau qua hôn nhân, mỗi vị cưới em gái của vị kia.

Có lần, vua Pasenadi đến thăm vua Bimbisāra để xin một đại trưởng giả (amitabhoga) về quốc độ của mình.

Vua Bimbisāra có năm đại trưởng giả là Jotika, Jātila, Meṇḍaka, Puṇṇaka và Kākavaliya. Trong số 5 đại trưởng giả, có vị còn giàu hơn cả vua Bimbisāra như Jotika, người có ngôi nhà đựơc xây hoàn toàn bằng 7 ngọc quý, trong khi cung điện của Đức vua Bình-sa đựơc xây bằng gỗ; nhưng nhà vua không hề tỏ ra ghen tỵ (1).

Lời yêu cầu của vua Pasenadi đựơc chấp thuận, con trai của đại trưởng giả Meṇḍaka là ông Dhanañjaya (cha của bà Visākhā) đựơc cử đến xứ Kosala và ông Dhanañjaya thành lập thủ phủ Sāketa(2).

Vua Bimbisāra cũng có mối quan hệ giao hảo với những vị vua khác như vua Pukkasāti thành Takkasilā, vua Caṇḍdapajjota thành Ujjenī.

Vua Bimbisāra đã cử lương y Jīvaka đến để chữa bệnh cho vua Caṇḍapajjota(3), và vua Rudrāyaṇa thành Roruka.

Trong số những vị cận thần và người giúp việc của vua Bình-sa được kinh điển và Sớ giải đề cập đến là Soṇa Koḷivisa4, người thợ hoa Sumana (người cung cấp cho Đức vua tám vòng hoa mỗi ngày)(5), cận thần Koliya(6)

(là Ngài Kakudha, thị giả của Đức Moggallāna), Kumbhaghosaka (người quản lý ngân khố)(7) và lương y Jīvaka.

Khi bà Dhammadinnā muốn xuất gia, theo yêu cầu của người chồng, vua Bimbisāra đã ban cho bà chiếc kiệu vàng và cho phép bà đựơc rước đi trong thành Vương xá (8).

Danh hiệu Seniya được gắn liền với Bimbisāra (Seniya Bimbisāra), Bản Sớ giải (9) giải thích nghĩa của Seniya là “có nhiều người ủng hộ” hay “thụôc về Seniyagotta (giòng họ lãnh đạo)”.

Loại tiền Kahāpana (đồng vàng) sử dụng tại thành Rājagaha trong thời vua Bimbisāra, là lọai tiền đựơc Đức Phật thừa nhận khi hình thành các điều luật có liên quan đến tiền.

Vua Bimbisāra có một ngọn cờ trắng và Paṇḍavaketu là một trong những tên gọi chỉ cho Đức vua Bimbisāra.

Cũng theo lời thỉnh cầu của vua Bimbisāra, Đức Phật đã ban hành tục lệ tập hợp chư Tỳ -khưu lại vào các ngày 8, 14 và 15 mỗi nửa tháng (10).

1(?)- DhpA. Câu số 416. 2(?)- DhpA. Câu số 53.3(?)- Mhv II, chương VIII (chương y phục - cīvarakkhandhakaṃ), 136. 4(?)- Thera, 65. (HT. Thích Minh Châu dịch). 5(?)- DhpA. Câu số 68.6(?)- UdA.ii, 8. 7(?)- DhpA. Câu số 24. 8(?)- MA.i (Sớ giải kinh Cūlavedallasuttaṃ -Kinh Tiểu phương quảng).9(?)- ThagA. i. 14710(?)- Mhv.i. Chương II: Lễ UposAtha (UposAthakkhandhakaṃ), số 147.

33

Page 34: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Khi biết rằng Đức Phật ngăn cấm không cho đệ tử mình “phô diễn thần thông”, nhóm ngoại giáo tuyên bố “sẽ thi triển thần thông đấu với Sa-môn Gotama”, Đức vua Bimbisāra lo lắng đi đến Tịnh xá Trúc Lâm bạch hỏi Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn giải tỏa sự lo lắng cùng nghi hoặc của vua Bimbisāra(1).Trong kinh Janavasabha(2) có ghi nhận: “Sau khi mệnh chung, vua

Bimbisāra tái sinh làm một Dạ-xoa có đại uy lực tên là Janabhasabha, vị ấy mong muốn được trở thành Sakadāgāmī (Nhất Lai) và mong muốn này được thành tựu trong kiếp ấy.

Hoàng hậu Vedehi.Vedehi là tiếng dùng để chỉ cho "người sáng suốt", không phải là tên thật

của Hoàng hậu.Tên Ajātasattu thường gắn liền Vedehiputto (A-xà-thế con bà Vedehi).Theo tài liệu Tây Tạng thì tên thật của bà Vedehi là Vasavi, nhưng bà

được gọi là Vedehi vì là người xứ Videha, cách giải thích này không thuyết phục lắm, vì bà là con của vua Mahā Kosala, em gái của vua Pasenadi (Ba-tư-nặc).

Vedehiputtoti ayaṃ kosalarañño dhītāya putto, na videharañño (At). "Con của Vedehi", là con của người nữ có lợi tức xứ Kosala, không phải

người xứ Videha."Và “Vedehīti pana paṇḍitādhivacanametaṃ (At):Lại nữa, Vedehi là "lời dịu ngọt của người khôn ngoan". Như:-"Vedehika gahapatāni: Nữ gia chủ Vedehi (khôn ngoan)"(3).-"Ayyo Ānando vedehamunīti: Đức Ānanda là bậc an tịnh khôn ngoan".(4)

* Nhân ngày lễ "bố-tát" (uposatha).Chữ uposatha thường được dịch là “trai giới”, tức là ngày “giới được trong

sạch”.Uposatha = upa + osatha.Uposatha (bố - tát) nghĩa đen là "gần với thuốc trị bịnh".Cái gì bịnh? Tâm bịnh. Ngày uposatha là ngày "trị bịnh cho tâm".Ngài Buddhaghosa có giải thích: "Upavasanti etthāti uposatho,

upavasantīti sīlena vā anasanena vā upetā hutvā vasantīti attho"."Nơi gần với sự tốt đẹp, là uposatha (bốtát)", hay với ý nghĩa "đang gần

với sự tốt đẹp", hay "không có tổn hại vì ở gần với sự tốt đẹp của giới".Mỗi tháng có 6 ngày lễ Bố-tát là ngày 8, 14 và 15 mỗi nửa tháng. Như

kinh văn:Cātuddasiṃ pañcadasiṃ - Ngày mười bốn, ngày rằm.

1(?)- DhpA. Câu 181. 2(?)- D.iii. 3(?)- HT. Thích Minh Châu (d). M.i, kinh số 21, Kinh Ví dụ cái cưa (Kakacūpamasuttaṃ). 4(?)- S.ii, 217, Tương Ưng Kassapa (Kassapasaṃyuttaṃ), Kinh Y Áo (cīvarasuttaṃ).

34

Page 35: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Yā ca pakkhassa aṭṭthamī - Ngày 8 trong nửa tháng.Pāṭihāriyapakkhañ ca - Và cả phần đặc biệt. Aṭṭhaṅgasusamāgataṃ - Khéo đầy đủ cả tám.Uposathaṃ upavaseyya - Theo làm lễ Bố-tát.Yopissa mādiso naro’ti.- Vị ấy giống như ta (1).Phần đặc biệt (pāṭihāriyapakkhaṃ). Chỉ cho sự tu tập bằng cách niệm

tưởng Ân đức Phật, ân đức Pháp, ân đức Tăng, ân đức giới, ân đức thí, ân đức thiên(2). Hoặc tu tập thiền an tịnh, thiền quán ….

Sáu ngày lễ Uposatha này có lâu đời ở xứ Ấn, sau khi Đức Phật viên tịch về sau các vị Giáo thọ su tiền bối chế định thêm 2 ngày, là ngày 5 trong mỗi nữa tháng. Từ đó hàng phật tử thọ trì giới Bát quan mỗi tháng có 8 ngày.

Bản kinh xác định ngày lễ Uposatha này là ngày rằm tháng tư âm lịch; theo lịch cổ của Ấn độ là Kattika (tháng 10-11). Đêm trăng tròn được gọi là Komudī, vvì người ta cvho rằng,: Đó là lúc hoa huệ trắng dưới nước nở hoa.

* Vua Ajātasattu ngồi trên lầu cao an tịnh (cātumāsiniyā)."Cātumānisiyā" = cātu + mā +nisiyā.Nghĩa đen là "nơi ngồi không có ngã tư", chỉ cho “lầu cao”. Ngài Budhaghosa giải thích:"Cātumāsiyāti cātumāsiyā, sā hi catunnaṃ

māsānaṃ pariyosānabhūtāti cātumāsī (At):Catumāsiyā là “ngồi nơi an toàn trện lầu cao, nơi thông thoáng không có

giao lộ.”Nghĩa là “Đức vua ngồi nơi cao nhất trên lầu, nơi an toàn và thông

thoáng để Đức vua thưởng ngoạn những cảnh đẹp ở bên dưới lẫn chung quanh”(3).

Bản Sớ giải có nêu ra câu hỏi: Vì sao vuaAjātasattu lại ngồi ở đó? Đáp rằng: Để tránh không phải ngủ.

Từ ngày sát hại vua cha, bất cứ khi nào vào giường ngủ, ngay khi nhắm mắt lại thì vua Ajātasattu (A-xà-thế) thấy như bị hàng trăm cây giáo đâm vào người, thế là vua thức dậy và khóc. Khi được hỏi đang lo lắng điều gì thì nhà vua trả lời "không có gì".

Từ đó, đối với nhà vua đi ngủ là điều kinh hoàng và nhà vua ngồi đó là để không phải ngủ.

Và vua Ajātasattu có ý muốn đi đến yết kiến Đức Phật, để trấn an nỗi khổ của mình.

* Vua Ajātasattu cảm hứng thốt lên.

1(?)- A.i, 143, chương 3 pháp, kinh Bốn đại vương 2 (Dutiyacatamahārājasuttaṃ).2(?)- A.i, 205. Chương 3 pháp, kinh Các lễ Uposatha.3(?) – Có thể hiểu là là ngôi lầu cao để Đức vua “ngắm trăng” - Ns.

35

Page 36: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

"Lời cảm hứng" (udāna). Như dầu không thể chứa hết trong thùng phải trào ra, như sông không thể chứa hết nước, phải tràn trên mặt đất thành lũ lụt.

Cũng vậy, khi trái tim không thể chứa đựng hết những cảm xúc, phải phát thành lời, lời ấy gọi là "lời cảm hứng”.

* ”Đêm nay chúng ta nên đến chiêm bái vị Sa-môn hay Bàlamôn nào?”

Bản Sớ giải giải thích: Câu này là câu hỏi trống, không chỉ định hỏi ai cả, chỉ là câu hỏi chung cho các đại thần, nhưng lại là câu nói có chủ ý.

Chủ yếu câu hỏi này vua Ajātasattu hướng về lương y Jīvaka.- Vì sao vua Ajātasattu (A-xà-thế) lại hướng về lương y Jīvaka? Vì Đức vua

mong được diện kiến Đức Thế Tôn.- Nhà vua không thể tự mình đến gặp Đức Thế Tôn sao? Không, không

thể được.- Vì sao vậy? Vì vua Ajātasattu đã nghe theo lời Devadatta (Đề-bà-đạt-

đa), gây ra nhiều trọng tội.Vua Ajātasattu đã giết cha mình là vua Bimbisāra, vua Bimbisāra là một

vị Thánh đệ tử, là cận sự nam của Đức Thế Tôn.Sau đó, vua Ajātasattu giúp Devadatta nhiều lần làm hại Đức Thế Tôn.Lần thứ nhất, vua Ajātasattu cung cấp cho Devadatta những cung thủ đi

ám sát Đức Thế Tôn, nhưng tất cả các cung thủ được Đức Thế Tôn cảm hóa và an trú vào quả Dự lưu (1).

Lần thứ 2, trợ giúp Devadatta bằng cách thả voi Nālāgiri đang say men rượu, để sát hại Đức Thế Tôn, nhưng không thành.

Do những trọng tội đó, vua Ajātasattu không thể tự mình đến gặp Đức Thế Tôn.

Vì thế, vua Ajātasattu đã nói bóng gió với Jīvaka, một cận sự nam thân tín của Đức Phật.

Đức vua nghĩ rằng: "Ta sẽ nhờ Jīvaka tiến dẫn Ta diện kiến Đức Thế Tôn, ta sẽ theo sau Jīvaka như cái bóng của Jīvaka".

Bản Hậu sớ giải (Ṭīkā) có giải thích thêm: Vì sao vua Ajātasattu hỏi bóng gió với Jīvaka để được diện kiến Đức Thế Tôn, không tìm đến hỏi pháp nơi các giáo chủ dị giáo khác?

Vua Ajātasattu có tìm đến 6 vị Giáo chủ đương thời (ngoại trừ Đức Thế Tôn) để hỏi pháp, nhưng Đức vua đã thất vọng khi nghe những chủ thuyết của những vị này.

Đồng thời vua Ajātasattu muốn đến yết kiến Đức Thế Tôn để sám hối tội lỗi: "Tội giết cha và tội đã giúp Devadatta làm hại Đức Thế Tôn".

Từ khi Devadatta mệnh chung, vua Ajātasattu nhận ra rằng "mình đã giao du với kẻ ác", nên tâm ông ray rứt không yên về điều này.

1(?)- DhpA. Câu số 17.

36

Page 37: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Đồng thời dân chúng kháo nhau rằng "đức vua giao du với kẻ ác, trợ giúp kẻ ác, xa lánh bậc hiền thiện", tiếng xấu đã lan truyền khắp lãnh thổ đến tận ranh giới của vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà).

Hình ảnh Devadatta bị đất rút, gây nên nổi kinh hoàng cho Đức vua, Đức vua suy nghĩ : "Nếu ta không tìm cơ hội đến xin sám hối nơi Đức Thế Tôn, là bậc Đạo sư tối thượng của chư thiên và nhân loại, có thể ta sẽ bị đất rút như Devadatta".

Càng suy nghĩ, đức vua càng kinh sợ cho tội lỗi mà mình đã tạo. Trong lúc ngủ, vua Ajātasattu thấy xuất hiện Diêm chúa cùng nhóm quỷ sứ cầm gươm giáo đâm vào người hằng trăm, hằng ngàn ngọn, khiến vua vô cùng sợ hãi.

Vua Ajātasattu không thấy ai có thể là chỗ nương nhờ, ngoại trừ Đức Chánh giác.

Với những lý do trên, từ lâu nhà vua muốn đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn để sám hối tội giết cha, giải trừ tiếng xấu, đồng thời hỏi về quả của pháp an tịnh (samaññaphaladhamma).

Nên sau khi nghe lương y Jīvaka tán thán ân đức của Đức Thế Tôn, tâm mong muốn đến đảnh lễ Đức Thế Tôn của nhà vua càng mãnh liệt, nên nhà vua "quyết định đi trong đêm" ngay lập tức.

Jīvaka có hiểu rằng nhà vua đang hỏi "hướng chủ ý " với mình không? - Có, vị này hiểu.Nhưng vì sao lương y Jīvaka vẫn im lặng?- Để tránh bị cắt ngang.Lương y Jīvaka suy nghĩ: "Trong triều có nhiều người là đồ đệ của sáu tôn

chủ dị giáo. Các vị thầy này không hiểu biết chân lý nên chính bản thân họ cũng không hiểu biết chân lý.

Nếu ta nói về ân đức của Đức Thế Tôn thì họ sẽ đứng dậy, cắt ngang lời ta, nói về ân đức của thầy mình, khi đó ta không thể nói được về những ân đức của Đức Thế Tôn.

Nhưng nghe nói về các vị thầy của họ, Đại vương sẽ không hài lòng với những tài đức của các vị thầy đó và Đại vương sẽ biết rằng cuộc nói chuyện với những vị đó thật vô ích, sau đó Đại vương sẽ hỏi ta.

Khi đó, ta sẽ không bị ngăn cản, ta sẽ tán thán ân đức của Đức Thế Tôn và đưa Đại vương đến diện kiến Đức Thế Tôn".

Do đó, tuy hiểu được ý của nhà vua nhưng Jīvaka vẫn im lặng để tránh bị cắt ngang.

Các vị cận thần nghĩ: "Đại vương muốn qua đêm bằng một trong năm cách(1), Đại vương đang mong được diện kiến một vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào đó, cật vấn và nghe pháp.

Đại vương sẽ vô cùng kính trọng vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào có bài pháp tạo cho Đại vương nhiều cảm xúc.

1(?)- Sớ giải không nêu rõ, 5 cách đó là năm cách nào.

37

Page 38: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Người đề nghị sẽ được Đại vương xem trọng và đó sẽ là sự may mắn cho người ấy".

Với mục đích được vua Ajātasattu xem trọng, nên mỗi vị cận thần đều nghĩ: "Ta sẽ tán dương vị Sa-môn mà ta hộ độ và ta sẽ đưa đại vương đi cùng với ta"

Do đó, từng người bắt đầu tán dương vị Sa-môn mà cá nhân họ hộ độ.Dứt phần 1.

38

Page 39: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Phần 2. Giải từ đoạn 151 đến hết đoạn 156.

Chánh kinh.151. "Evaṃ vutte aññataro rājāmacco rājānaṃ Māgadhaṃ Ajātasattuṃ

Vedehi-puttaṃ etad avoca: "Ayaṃ deva Pūraṇo kassapo saṃghī c'eva gaṇī cagaṇācariyo ca ñāto yassasī titthakaro sādhu sammato bahu janassa rattaññū cira pabbajjito addhagato vayo anupatto.

Khi nghe nói vậy, một đại thần tâu với Ajātasattu, con bà Vedehi vua nước Magadha: "Tâu Ðại vương, có Pūraṇa kassapa (Phú-la Ca-diếp) là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, dồi dào kinh nghiệm lâu ngày, xuất gia đã lâu năm, đã đến tuổi trưởng thượng.

Taṃ devo Pūraṇaṃ kassapaṃ payirupāsatu, app'eva nāma devassa Pūraṇaṃ Kassapaṃ payirupāsato cittaṃ pasīdeyyāti'.

Mong Ðại vương đến chiêm bái Pūraṇa Kassapa này. Chiêm bái Pūraṇa kassapa có thể khiến tâm Ðại vương được tịnh tín".

Evaṃ vutte rājā Māgadho Ajātasattu vedehiputto tuṃhī ahosi.Khi nghe nói vậy Ajātasattu, con bà Vedehi, vua nước Magadha yên lặng

không nói gì. 152. "Aññataro rājāmacco rājānaṃ Māgadhaṃ Ajātasattuṃ Vedehi-

puttaṃ etad avoca: "Ayaṃ deva Makkhali gosālo ….Lại một đại thần khác tâu với Ajātasattu, con bà Videhi, vua nước

Magadha: "Tâu Ðại vương, có Makkhali gosāla (Mặc-già-lê Cù-xá-lợi) …153. "Aññataro rājāmacco rājānaṃ Māgadhaṃ Ajātasattuṃ Vedehi-

puttaṃ etad avoca: "Ayaṃ deva Ajito kesakambalo …Lại một đại thần khác tâu với Ajātasattu, con bà Vedehi, vua nước

Magadha: "Tâu Ðại vương, có Ajita kesakambala (A-kỳ-đa Kỳ-xá-khâm-bà-la) …

154. "Aññataro rājāmacco rājānaṃ Māgadhaṃ Ajātasattuṃ Vedehi-puttaṃ etad avoca: "Ayaṃ deva Pakudho kaccāyano …

Lại một đại thần khác tâu với Ajātasattu, con bà Vedehi, vua nước Magadha: "Tâu Ðại vương, có Pakudha kaccāyana (Bà-phù-đà Ca-chiên-nê)…

155. “Aññataro rājāmacco rājānaṃ Māgadhaṃ Ajātasattuṃ Vedehi-puttaṃ etad avoca: "Ayaṃ deva Sañjayo belaṭṭhiputtaṃ ….

Lại một đại thần khác tâu với Ajātasattu, con bà Vedehi, vua nước Magadha: "Tâu Ðại vương, có Sanjaya belathiputta (Tán-nhã-di Tỳ-la-phê-phất)…

156. "Aññataro rājāmacco rājānaṃ Māgadhaṃ Ajātasattuṃ Vedehi-puttaṃ etad avoca: "Ayaṃ deva Nigaṇṭho nātaputto saṃghī c'eva gaṇī

39

Page 40: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

cagaṇācariyo ca ñāto yassasī titthakaro sādhu sammato bahu janassa rattaññū cira pabbajjito addhagato vayo anupatto.

Lại một đại thần khác tâu với Ajātasattu, con bà Vedehi, vua nước Magadha: "Tâu Ðại vương, có Nigaṇṭha nātaputta (Ni-kiền-tử) là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, dồi dào kinh nghiệm lâu ngày, xuất gia đã lâu năm, đã đến tuổi trưởng thượng.

Taṃ devo Nigaṇṭhaṃ nātaputtaṃ payirupāsatu, app'eva nāma devassa Nigaṇṭhaṃ Nātaputtaṃ payirupāsato cittaṃ pasīdeyyāti'.

Mong Ðại vương đến chiêm bái Nigaṇṭha nātaputta này. Chiêm bái Nigaṇṭha nātaputta có thể khiến tâm Ðại vương được tịnh tín".

Evaṃ vutte rājā Māgadho Ajātasattu vedehiputto tuṃhī ahosi.Khi nghe nói vậy Ajātasattu, con bà Vedehi, vua nước Magadha yên lặng

không nói gì. Giải:Từ đoạn 151 đến hết đoạn 156 là sự giới thiệu sáu vị Tôn chủ trong thời

Đức Phật.Có câu hỏi: Vì sao nghe tên sáu vị tôn chủ đương thời (ngoại trừ Đức Thế

Tôn), trước tiên là Pūraṇa kassapa …. vua Ajātasattu (A-xà-thế) lại im lặng?Đáp rằng: Ví như người muốn ăn trái xoài chín vàng mọng, ngon ngọt,

nhưng có người lại dâng trái kājara đắng.Vua Ajātasattu đang muốn được nghe một bài pháp huyền diệu về những

đức hạnh như thiền (jhāna), thắng trí (abhiññāṇa) hay tam tướng, khi nghe giới thiệu đến Pūraṇa kassapa … Đức vua vô cùng thất vọng, vì Đức vua đã từng gặp và thất vọng với các vị ấy.

Tuy thất vọng nhưng Đức vua vẫn im lặng, vì nghĩ rằng: “Nếu ta phản đối hoặc cho người chộp lấy vai và tẩn xuất vị đại thần này, thì những người khác sẽ sợ bị tương tự và sẽ không ai nói gì cả".

Do Đức vua im lặng đối với Tôn chủ Pūraṇa kassapa, nên các vị cận thần khác nghĩ rằng: "Đức vua không hài lòng vị Tôn chủ ấy, Ta hãy tán dương vị tôn chủ mà chính ta hộ độ".

Sáu tôn chủ dị giáo.1- Tôn chủ Pūraṇa kassapa. Ngài Buddhaghosa có giải thích: Pūraṇa là tên còn Kassapa là họ.Người ta cho rằng vị này được mang tên là Pūraṇa (tròn đủ) vì được sinh

ra trong một gia đình đã có 99 nô lệ, vì làm tròn được con số thịnh vượng (là một trăm), nên vào ngày lễ đặt tên, hài tử ấy mang tên là Pūraṇa.

Được xem là "người nô lệ làm thịnh vượng cho chủ", nên Pūraṇa không hề bị rầy la, không bị ai sai bảo chi cả, mặc cho Pūraṇa muốn làm chi thì làm (dĩ nhiên y vẫn phải ở trong giai cấp nô lệ).

Tuy hưởng được đặc ân như thế, nhưng Pūraṇa suy nghĩ: "Tại sao ta phải ở đây chứ ?" và y bỏ nhà chủ ra đi.

40

Page 41: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Trên đường bỏ trốn, Pūraṇa bị bọn cướp lấy hết quần áo, không tìm được lá hay cỏ che thân, Pūraṇa trần truồng đi vào làng.

Dân làng trông thấy cho rằng: "Vị Sa-môn này là bậc A-la-hán không mong cầu, ít ước muốn, không ai giống như vị này". Họ đến cúng dường vật thực cho y.

Kể từ đó, ngay cả khi được cúng dâng áo choàng, Pūraṇa cũng không nhận, vì nghĩ rằng: "Ta đến đây, do không có quần áo nên được sự cung kỉnh, ta không nên nhận áo choàng."

Pūrana cứ lõa thể như thế mà đi lang thang, trở thành một du sĩ (pabbajjā), có 500 người theo sau là đồ chúng, trong số đó có người sinh thiên là thiên tử Asama.

"Đứng một bên, thiên tử Asama nói lên bài kệ này trước mặt Đức Thế Tôn về Pūraṇa kassapa:

Ở đây nếu có người; chém giết hay hại người.Kassapa không thấy; qua các hành động ấy.Là ác nghiệp cho mình; hay công đức cho mình.Ngài tuyên bố như vậy; làm căn bản đức tin.Ngài thật bậc Đạo sư; đáng được tôn kính, lễ"(1).Bài kệ trên cho thấy, Pūraṇa chủ trương "thyết vô hành –

akiriyavāda" hay thuyết phi nghiệp. Bản Sớ giải có giải thích: "Sở dĩ Asama sinh thiên vì tin vào nghiệp trước

khi theo chủ thuyết phi nghiệp của Pūraṇa".Các Licchavī như Abhaya, Mahāli , du sĩ Vacchagotta(2) thường đến hỏi ý

kiến với Pūraṇa, xem ra Pūraṇa thường xuyên hoạt động trong xứ Licchavī.Trong kinh Sa-môn quả, cũng ghi nhận Pūraṇa kassapa chủ trương

"thuyết vô hành” (akiriyavāda), phủ nhận quả báo của nghiệp thiện lẫn bất thiện.

Ngoài ra, Pūraṇa còn được xem là người truyền bá “thuyết vô nhân” (ahetukavāda), chối bỏ nhân duyên (hetupaccaya).

Bạch Đức Thế Tôn, Pūraṇa kassapa nói như sau: "Không có nhân không có duyên để không biết- không thấy; không biết - không thấy, không có nhân không có duyên. Không có nhân, không có duyên để biết - để thấy …(3).

Một đoạn kinh khác như sau:"Bạch Đức Thế Tôn,Pūraṇa kassapa (Phú-lan-na Ca-diếp), thuyết như sau:

"Không nhân không duyên là sự nhiễm ô của chúng sinh; không nhân không duyên chúng sinh bị nhiễm ô, không nhân không duyên là sự thanh 1(?)- HT. Thích Minh Châu (d). S.i.65 . Tưng ưng thiên tử (devaputtasaṃyuttaṃ), kinh Các ngoại đạo sư (Nānātitthiyasāvakasuttaṃ). 2(?)- S.iv, 398. Tương ưng không thuyết (AsaṅkhAtasaṃyuttaṃ), kinh Luận nghị đường (kutūhalasālāsuttaṃ).3(?)- S.v, 126, HT. Thích Minh Châu (d), Tưng ưng Giác chi (Bojjhaṅgasaṃyuttaṃ), kinh Abhaya (Vô úy) (Abhayasuttaṃ).

41

Page 42: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

tịnh của chúng sinh; không nhân không duyên, chúng sinh được thanh tịnh". (1).

Và Pūraṇa tự xưng mình là bậc toàn trí, như kinh văn có ghi nhận:"Thưa Tôn giả Gotama, Pūraṇa kassapa, bậc toàn tri, toàn kiến, tự nhận

mình là có tri kiến toàn bộ không dư (aparisesanānadassana) nói rằng: "Khi ta đi, ta đứng, ta ngủ, ta thức, tri kiến được an trú thường hằng (satataṃ samitaṃ)"(2).

Trong Sớ giải kinh Pháp cú (3), trước khi Đức Phật thi triển song thông lực, vua trời Sakka (Đế-thích) ra lịnh cho thần Gió nổi gió xô xập lều trại cùng lễ đài của nhóm ngoại đạo, đồng thời phun cát bụi vào chúng.

Trên đường chạy trốn, Pūraṇa gặp một nông dân đệ tử, y lấy cái nồi và sợi dây của đệ tử, chạy đến bờ sông, cột dây và nồi vào cổ rồi nhảy xuông sông chết, Pūraṇa tái sinh vào địa ngục Vô gián (Avīci niraya).

Điều này dường như mâu thuẩn với kinh Sa-môn quả, trong kinh ghi nhận "vua A-xà-thế có đến viếng giáo chủ Pūraṇa kassapa".

Nói cách khác, theo Sớ giải kinh Pháp cú thì ông Pūraṇa kassapa chết khi Đức Thế Tôn được 41 tuổi thọ (vào cuối hạ thứ 6; hạ thứ 7 Đức Thế Tôn an cư tại cung trời Đao lợi, hơn 30 năm sau bài kinh này mới xuất hiện).

Có khả năng, khi còn là vị hoàng tử trẻ, vua Ajaatasatt có đến viếng Pūraṇa kassapa, để rồi hơn 30 năm sau, Đức vua lập lại điều này với Đức Thế Tôn và cũng từ khi ấy, Hoàng tử Ajātasattu không hài lòng với giáo thuyết của Pūraṇa kassapa.

Tuy nhiên, cách lý giải này cũng không ổn, vì rằng: “một vị đại thần đã đề nghị Đức vua đến viếng tôn chủ Pūraṇa kassapa” ngay trong đêm ấy, và cũng chính trong đêm này, bài kinh Sa-môn quả được hiển lộ.

Lẽ nào vị đại thần dám “bạo phổi”, thỉnh Đức vua viếng thăm và đàm luận với “xác chết”?

Một thuyết khác cho rằng: “Sau khi Pūraṇa chết, môn đệ kế nghiệp Giáo chủ Pūraṇa cũng dùng lại danh tự của thầy để tưởng nhớ thầy”, nhưng xem ra lập luận này không vững lắm.

Vì theo Sakuludāyi thì cả 6 vị tôn chủ ngoại đạo không được đệ tử cung kính, tôn trọng, họ bị đệ tử kích bác đến nổi phải giang tay khóc lóc (4).

Có thuyết lại nói rằng “sau 12 năm khổ hạnh, vị ấy nhịn đói đến chết” ở Sāvatthi(5). Nhưng không nói rõ thời điểm tôn chủ Pūraṇa kassapa chết.

Kinh điển của Kỳ-na giáo (jaina) có nhắc đến "một kẻ khổ hạnh ngu si" tên là Pūraṇa có gốc từ Bebhela, chắc hẳn là vị Pūraṇa này.

1(?)- S. iii, 68, HT. Thích Minh Châu (d), Chương I. Tương ưng Uẩn (Khandhasaṃyuttaṃ), kinh Mahāli (Mahālisuttaṃ). 2(?)- A.iv, 428. Pháp chín chi, HT. Thích Minh Châu (d). Đại phẩm, kinh Các Bà-la-môn (LokāyAtikasuttaṃ).3(?)-DhpA. Câu số 181. 4(?)- M.ii, kinh số 77. kinh Mahāsakuludāyi (Mahāsakuludāyisuttaṃ). 5(?)- Nguyên tác: H.W. Schumann, Trần Phương La (d), Đức Phật lịch sử (2000), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr.497.

42

Page 43: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

2- Tôn chủ Makkhali gosāla.Makkhali là tên, họ là Gosāla. Người ta biết rất ít về Makkhali gosāla.Ngài Buddhaghosa giải thích "vì sinh ra trong chuồng bò nên gọi là

Gosāla", còn tên Makkhali phát sinh từ sự kiện như sau: Gosāla là một nô lệ, trong khi mang bình dầu đi dọc theo con đường lầy

lội, chủ của Gosāla có nhắc nhở "coi chừng té" (mā khali), nhưng Gosāla do bất cẩn đã té, làm bể bình dầu, ông liền bỏ chạy trốn, người chủ rượt theo, tóm được góc chiếc áo choàng, Gosāla cởi áo để trần truồng chạy đi.

Phần còn lại giống như câu chuyện giáo chủ Pūraṇa kassapa; từ đó ông có tên là Makkhali Gosāla.

Ban đầu ông xuất gia trong phái Ājīvika(1), sau đó từ bỏ phái này để thành lập giáo phái riêng.

Về sau phái Ājīvika lẫn môn đệ của Makkhali gosāla đều sáp nhập vào đạo Jaina (Kỳ-na).

Đương thời Makkhali gosāla nói rằng: "Bậc xuất gia phải làm sao cho tín đồ triệt để tuân hành những định luật đã an bài", lý thuyết này được Bà-la-môn Kautilya áp dụng, làm hưng thịnh triều đại Moriya trong thời vua Candragupta trị vì (Candragupta là ông nội của vua A-dục).

Theo tài liệu ghi lại của Đạo Kỳ-na (Jaina)(2) thì Makkhali gosāla là người làng Saravana gần thành Sāvatthi, có tên là Maṅkhaliputta (con của Maṅkhali).

Cha của Makkhali gosāla là một người buôn tranh ảnh (mankha) có tên là Maṅkhali, mẹ của ông Makkhali gosāla tên là Bhaddā (3).

Và Gosāla nối nghiệp cha cho đến khi trở thành vị Sa-môn, nên có tên Makkhali Gosāla.

Tên thật của vị này dường như là Maskarin, dạng Jaina - Prakit là Maṅkhali, dạng Pāli là Makkhali.

Theo tác phẩm The historical Buddha (Đức Phật lịch sử) - nguyên tác của H.W. Schumann, bản dịch Việt ngữ của Trần Phương Lan thì vị này là "con trai người hát dạo (mankha)(4).

"Maskarin" được Paṇinī (5) giải thích là "người mang gậy tre (maskara)".Theo giải thích của Patañjali thì, "Maskarin" không phải chỉ cho các du

sĩ trên tay cầm gậy tre, mà đó là tên một trường phái "chối bỏ khả năng của lý trí".

1(?)- Ājīvika hay ājīvaka là tên gọi chỉ cho những tu sĩ ngoài Phật giáo. Nghĩa đen của ājīva là "sự nuôi sống", nghĩa bóng là "sự tồn tại", ājīvaka là "người theo thuyết Định mệnh (niyāmavāda). 2(?)- Xem E.g, uvāsaga – dasā, tr. 1 .(3)- Trần Phương Lan (d), Đức Phật lịch sử (2000), Nxb Tp Hồ Chí Minh, tr.499. (4)- Vin.i. 154, (5)- Mahābhāṣya iii. 96.345

43

Page 44: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Dạng du sĩ này không nhiều lắm, những du sĩ Maskarin là người theo “thuyết luân hồi tịnh hóa (saṃsārasuddhi)" hay “thuyết định mệnh”.

Môn đệ của Makkhali gosāla được gọi là những vị Ājīvaka (lõa thể).Nhà khảo cổ H.W. Schumann có ghi nhận (xem sđd, tr. 501 – 504): Theo

bản kinh Bhagavatīsūtra của Kỳ-na giáo thì Makkhali gosāla là môn đệ của Nigaṇṭha Nātaputta, tóm lược như sau.

Lần thứ nhất, vào năm 524 trước Tây lịch (tTl), Makkhali gặp Nātaputta đang thực hành khổ hạnh, khi ấy Nātaputta được 33 tuổi, xuất gia được 3 năm đồng thời thực hành khổ hạnh được ba năm.

Bị cuốn hút theo cách khổ hạnh của Nigantha nātaputta, Makkhali xin Nigantha nātaputta nhận mình là đệ tử, nhưng Nigantha nātaputta im lặng bỏ đi.

Thời gian sau, Makkhali gosāla lõa thể như Nātaputta, Makkhali gosāla gặp lại Nātaputta ở Paniyabhūmi gần Nālandā, Makkhali lại thỉnh cầu lần nữa và Nātaputta nhận lời.

Cả hai sống đời du sĩ bên nhau suốt sáu năm, chính trong thời gian này Makkhali chứng kiến những lời tiên đoán của thầy mình đều trở thành hiện thực, nên Makkhali phát triển niềm tin về "thuyết định mệnh".

Như có lần Nātaputta tiên đoán "vào một ngày nhất định nào đó, Makkhali sẽ được cho một đồng tiền giả, dù Makkhali cố gắng ngăn cản nhưng nó vẫn xảy ra như lời tiên đoán"; vì thế Makkhali kết luận "việc gì phải xảy ra thì sẽ phải xảy ra như vậy, chứ không thể khác được".

Về sau, do một cuộc thử tài tiên đoán thầy mà Makkhali bị Nātaputta đuổi đi.

Câu chuyện như sau:Trên đường qua Magadha (Ma-kiệt-đà), Makkhali chỉ một cây mè, hỏi thầy "cây này có cho quả gì không?", Nātaputta đáp "nhiều lắm".

Rồi hai người tiếp tục du hành, Makkhali lén quay trở lại nhổ cây mè lên.Thời gian sau cả hai quay trở lại, cây mè tuy bị nhổ lên nhưng có một

trận mưa rơi xuống đã làm cho nó bén rễ trở lại và cho rất nhiều quả.Tuy Makkhali thán phục tài tiên tri của thầy, nhưng trò đùa tinh nghịch

này cũng đủ Nātaputta trục xuất người đệ tử kỳ quặc tinh quái.Makkhali mất vào năm 501 tTl, khi ấy Đức Phật được 62 tuổi (tính năm

Bồ-tát Siddhatta – Sĩ-đạt-ta đản sinh là 563 tTl).Từ điểm này cho thấy "có khả năng khi Ajātasattu còn là Hoàng tử có đến

viếng Makkhali gosāla để hỏi về quả báo Sa-môn”, nhưng trong bản kinh ghi nhận “một vị đại thần đề nghị vua Ajātasattu viếng thăm tôn chủ Makkhali gosāla trong đêm ấy” ???.

Đồng thời lý giải: Vì sao Makkhali chủ trương "thuyết luân hồi tịnh hóa" hay “thuyết định mệnh".

Quan điểm của Makkhali gosāla được nêu trong trong kinh Sa-môn quả rất khó hiểu, chính các Luận giải sư cho rằng "tìm hiểu về các quan điểm của Makkhali gosāla là điều vô vọng".

44

Page 45: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Ngoài những con số mà ông nêu ra trong kinh Sa-môn quả, dường như Makkhali tin vào "định số (niyati)".

Như cuộn chỉ được ném ra, cuộn chỉ cứ lăn mãi đến một thời điểm nào đó chỉ trong cuộn chỉ sẽ hết, cũng vậy, sau 84.000 đại kiếp (mahākappa) thì người ác hay hiền đều giải thoát.

Nếu chưa hết thời kỳ thì dù có hành thiện như thế nào cũng không thể giải thoát.

“Thuyết định mệnh” của Makkhali gosāla tương đồng với "thuyết chối bỏ nhân duyên".

Mặt khác, Makkhali gosāla có quan điểm rõ ràng về số lượng: Loại chúng sinh, nghiệp, địa ngục, giấc mộng lớn, giấc mộng nhỏ …

Dường như Makkhali gosāla quan niệm thế gian là một hệ thống, trong đó các bộ phận không hề thay đổi, tất cả đều có nơi và có phận sự riêng.

Trong sáu chủ thuyết của 6 tôn chủ dị giáo, Đức Thế Tôn nghiêm khắc phê bình chủ thuyết của Makkhali gosāla “là tệ hại nhất”.

Ví như, này các Tỳ-khưu, tại cửa sông có đặt một cái nơm bẫy cá (khippaṃ), đem lại bất hạnh đau khổ, tổn thương, tổn hại cho nhiều cá.

Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, kẻ ngu si Makkhali xuất hiện ở đời, Ta nghĩ rằng như là một cái nơm bẫy cá cho loài người, đưa đến bất hạnh, bất lạc, bất lợi, đau khổ, tổn thương, tổn hại cho nhiều loại hữu tình".(1)

Và:Mền bằng tóc, này các Tỳ-khưu, khi trời lạnh thời lạnh, khi trời nóng thời

nóng, xấu xí, có mùi hôi, xúc chạm khó chịu.Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, trong các chủ thuyết của các Sa-môn ngoại

đạo tuyên bố, chủ thuyết của Makkhali được xem là hèn hạ nhất(2).Ngài Buddhaghosa (Giác Âm) có đưa ra sự nhận định về ba chủ thuyết

của Pūraṇa kassapa, Makkhali gosāla và, Ajita kesakambala như sau:“Pūrana phủ nhận nghiệp, Ajita phủ nhận quả của nghiệp, còn

Makkhali phủ nhận cả nghiệp lẫn quả”.Môn đệ của Makkhali gosālacũng có người sinh thiên, như thiên tử Sahāli

(3).3- Tôn chủ Ajita kesakambala. Ajita là tên và vị này mặc y dệt bằng tóc (kesakambala), nên được gọi là

Ajita kesakambala.Y được dệt bằng tóc là tấm y được bện bằng tóc người, không có loại y

nào ghê tởm hơn, như đoạn kinh văn đã dẫn ở trên.

1(?)- HT. Thích Minh Châu (d). A.i, 33. Pháp một chi. Chương XVI: Gìn giữ một pháp (Ekadhammapāli), Phẫm III, số 4 (311): Kinh Makkhali. 2(?)- HT. Thích Minh Châu (d). A.i, 286. Pháp ba chi. kinh Mền bằng tóc (Kesakambalasuttaṃ). 3(?)- HT. Thích Minh Châu (d). S.i, 65. , kinh Các ngoại đạo sư (Nānātitthiyasāvakasuttaṃ)

45

Page 46: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Áo bằng loại này được mô tả là "tấm áo khốn khổ" nhất, vào mùa lạnh thì rất lạnh, vào mùa nóng thì rất nóng đồng thời tỏa ra mùi hôi không thể chịu nổi.

Là một trong sáu vị tôn chủ ngoại đạo đương thời với Đức Phật, Ajita kesakambala được mô tả là người lãnh đạo một số đông đồ chúng, nhưng dường như chỉ là tại gia mà thôi.

Ajta kesakambala chủ trương “thuyết hư vô” (natthikavāda) hay “thuyết đoạn diệt” (ucchedavāda).

Theo Ajta kesakambala thì: Trong cõi mênh mông này có bốn thành phần: Đất - nước - lửa - gió (gọi là tứ đại).

Mỗi thành phần của tứ đại có đặc tính "tự tồn, tự tụ, tự tan rã".Con người chẳng qua là do tứ đại hợp thành, khi tứ đại tan rã thì "đất trở

về với đất, nước trở về với nước, lửa trở về với lửa và gió trở về với gió".Như vậy, "sống" hay "chết" chỉ là sự tụ hội hay tan rã của tứ đại mà thôi,

khi tứ đại tan rã cái gọi là "hiểu biết, tư tưởng" thành phần năng động của tâm linh cũng tan rã trở về với hư không.

Nói gọn lại, ông Ajta kesakambala cho rằng "chết là hết", người hiền hay ngu, thiện hay ác, khi chết đều mất tất cả, không còn cái gì gọi là hiền – ngu hay thiện – ác cả.

Cái gọi là "kiếp trước - kiếp sau" chỉ là hư ngụy, là sai lầm, là lừa mị người khác.

Chủ trương "đoạn diệt" của Ajta Kesakambala có mục đích "triệt để chống lại giáo thuyết Bà-la-môn", và chủ trương của phái này là "thụ hưởng khoái lạc".

Trong Mahābodhi jātaka(1), tiền thân của Ajita Kesakambala là một trong năm vị thầy, đã bị Bồ-tát bác bỏ giáo thuyết.

Tuy chủ trương "hưởng lạc, phủ nhận giá trị của khổ hạnh", nhưng không hiểu vì sao Ajita kesakambala lại chọn y bằng tóc bện, một bộ y "mùa đông lạnh, mùa hè nóng và hôi hám”, một loại vải được xem là tồi tệ nhất (xem dẫn chứng ở trên).

4- Tôn chủ Pakudha kaccāyana.Pakudha là tên, Kaccāyana là họ, một chi tộc của dòng Bà-la-

môn(brahmagotta).Ngài Buddhaghosa nói rằng: Pakudha không dùng nước lạnh, ngay cả khi

đi đại tiện, Pakudha rửa trôn bằng nước ấm hay dầu.Nếu không có nước nóng thì Pakudha kaccāyana không tắm.Trên đường, nếu phải lội qua sông hay đi qua vũng nước thì Pakudha cho

rằng "Ta đã phạm tội", Pakudha kaccāyana sám hối tội lỗi bằng cách đấp một ụ đất rồi ra đi.

1(?)-JA. Truyện số 528.

46

Page 47: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Đây là sự khổ hạnh trong học thuyết của ông, nó chỉ là hành động bên ngoài mà thôi, còn bên trong thì Pakudha theo thuyết bất hạnh (nissirīkaladdhika).

Học thuyết của Pakudha kaccayana là "thuyết phi nghiệp” (akiriyavāda) hay “thuyết vô hành".

Theo Pakudha kaccayana thì : Con người do bảy yếu tố (thành phần) hội tụ lại, đó là: Tứ đại, khổ, vui và jīva (linh hồn hay sự sống), bảy yếu tố này có tứ đại là hữu hình, còn khổ, vui, sự sống là vô hình.

Bảy yếu tố này cũng có tính: Tự tụ, tự tan, không có một quyền năng nào có thể hủy diệt cũng như điều khiển, sai sử chúng.

Từ quan điểm này, ông Pakudha đi thêm một bước nữa là "không có cái chi gọi là nghiệp thiện hay nghiệp ác cả".

Ông cho rằng: "Khi một người với cây gươm bén, chẻ cái đầu làm hai cũng chẳng có chi gọi là ác nghiệp, chẳng qua cây gươm bén đi qua khoảng trống của bảy thành phần ấy thôi, chẳng có người giết cũng chẳng có người bị giết".

Ông Pakudha Kaccāyana chủ trương như vậy, nhưng nếu có người bảo ông đứng yên để y chém vào đầu ông, ông chắc gì chấp nhận nhỉ?

Người ta nói rằng: "Đệ tử Pakudha kaccāyana không tôn kính ông lắm, trái lại rất thành kính đối với Đức Phật".

Pakudha kaccāyana cùng môn đệ của ông thường tỏ ra tức giận khi bị thẩm vấn.

Tuy nhiên, ở vài nơi ông rất được dân chúng sùng mộ, là một tôn chủ có danh tiếng, có nhiều đồ chúng. Pakudha đôi khi cũng được xem là một Ājīvaka.

Ông không nói đến sự giác ngộ hoàn toàn, có lẽ do chủ trương "phi nghiệp" nên vấn đề giác ngộ, ông không dám đề cập đến.

5- Tôn chủ Sañjaya belaṭṭhaputta.Vị ấy là con trai củaBelaṭṭha, có tên là Sañjaya, nên được gọi là Sañjaya

belaṭṭhaputta.Ông này theo thuyết "Bất khả tri" còn gọi là thuyết "hoài nghi". Ông

chủ trương không trả lời trực tiếp vào các vấn đề trừu tượng.Như có người hỏi: "Có kiếp sau không?", Sañjaya trả lời: “Nếu tôi tin có

kiếp sau, tôi sẽ trả lời là có”, nhưng tôi chưa hề có ý nghĩ đó. Tôi cũng chưa hề nghĩ là “không có kiếp sau”, cả đến ý nghĩ "có lẽ có"

hay "có lẽ không có", tôi cũng không nghĩ đến.Hoặc có người hỏi: "Có quả báo không?". "Có phải làm lành gặp lành,

làm ác gặp ác không?".Ông cũng trả lời tương tự rằng: - Nếu tôi tin luật quả báo, tôi sẽ trả lời là có, nhưng tôi chưa hề có ý nghĩ

đó, cũng chưa hề có ý nghĩ là “không có quả báo”. Ngay cả ý nghĩ "có lẽ có quả báo" hoặc "có lẽ không có quả báo", tôi cũng chưa nghĩ đến.

47

Page 48: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Nói chung, trước những vấn đề trừu tượng thì Sañjaya belatthaputta luôn luôn lẫn tránh, ông khuyên môn đệ hãy biết nhìn những gì ngay trong thực tại, còn những vấn đề siêu hình, trừu tượng, không thể biết chính xác (bất khả tri).

Ông lý luận rằng: "Vấn đề siêu hình biến hóa vô cùng, thoạt có, thoạt không, nó không có mẫu mực nhất định, nên không thể biết rõ một cách chính xác được.

Ngay cả con lươn hữu hình kia, nắm được nó rồi, nó còn trườn thoát ra, nói gì đến vấn đề vô hình chứ".

Sañjaya belatthiputta sở trường "không xác định rõ vấn đề" là có hay không, ông tạo ra cho người hỏi hoặc môn đệ “có sự hoài nghi” rằng: “có lẽ đúng, có lẽ sai” hoặc “có lẽ có, có lẽ không”, nên chủ thuyết của ông được gọi là "Hoài nghi thuyết".

Chính vì ví dụ "con lươn trườn uốn" nên chủ thuyết của Sañjaya belaṭṭhaputta còn được gọi là "chủ thuyết trườn uốn như con lươn".

Sañjaya đình chỉ sự phê phán đối với những câu hỏi, câu trả lời của ông luôn luôn để lại một nghi vấn cho vấn đề đang đề cập.

Có thể ông muốn gây cho môn đệ mình một ấn tượng để suy nghĩ, cũng có thể ông muốn đánh lạc hướng, tránh né sự tranh luận.

Câu trả lời "uốn lượn quanh co" của ông, khiến cho vấn đề được đặt ra bị buông bỏ, hoặc đi vào một "ngã rẽ" khác.

Ngài Buddhaghosa không cho chúng ta biết những nét đặc biệt về tiểu sử của Sañjaya Belatthaputta, ngoài sự kiện "ông là con của Belaṭṭha".

Kinh Tạng Saṅckrit gọi ông là Sañjayi Vairattiputta.Trong Sớ giải kinh Pháp cú có ghi nhận, trước khi gặp được Giáo pháp

này, vị thầy đầu tiên của Ngài Sāriputta (Xá-lợi-phất) và Ngài Moggallāna (Mục-kiền-liên), là tôn chủ Sañjaya belaṭṭhaputta sống gần thành Rājagaha (Vương xá).

Hai Ngài chứng quả Dự lưu khi nghe được kệ ngôn tóm gọn Tứ diệu đế của Ngài Assaji là:

Ye dhammā hetuppabhavā; tesaṃ hetuṃ Tathāgato.Āha tesañ ca yo nirodho; evaṃ vādī mahā samano."Các pháp sinh lên do có nhân; nhân ấy đấng Như Lai chỉ rõ.Ngài cũng chỉ rõ cách diệt nhân; đó là lời dạy của vị Đại Sa-môn."

Đức Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên có yêu cầu Sañjaya đến gặp Đức Thế` Tôn, nhưng Sañjaya từ chối.

Khi hai vị này bỏ Sañjaya tìm đến thọ giáo nơi Đức Phật ở Trúc Lâm Tinh xá (Veḷuvana vihāra) cùng 250 môn đệ tùy tùng, ông Sañjaya té xỉu, máu tươi trào ra khỏi miệng (1).

Du sĩ Suppiya(2) cũng là môn đệ của Sañjaya.1(?)- DhpA. Kệ ngôn số 11-12. 2(?)- D.i, kinh Phạm võng (Brahmajālasuttaṃ).

48

Page 49: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

6- Tôn chủ Nigaṇṭha nāṭaputta.Vị ấy được gọi là Nigaṇṭha vì cha mẹ của vị ấy theo giáo phái Nigaṇṭha,

và vị ấy cũng gia nhập giáo phái này khi chưa xuất gia.Tương truyền, vị sáng lập giáo phái Nigaṇṭha là đạo sư Pārsva vào thế kỷ

thứ VIII tTl, người xứ Benares (Bāraṇasī).Nigaṇṭha nghĩa là "không bị trói buộc", giáo phái này không mặc y phục

nên còn gọi là "đạo lõa thể" ngày nay vẫn còn ở Ấn Độ.

Với y phục bằng không khí (lõa thể), tu sĩ Nigaṇṭha tuyên bố rằng:"Chúng ta không có ô nhiễm, không có sự ràng buộc của các ô nhiễm; chúng ta thoát khỏi những trói buộc của các ô nhiễm".

Được gọi là Nātaputta, vì là con trai của Nāta.Nigaṇṭha nātaputta là vị Sơ tổ của đạo Jaina (Kỳ-na), đồng thời cũng là

một trong sáu vị tôn chủ ngoại giáo đương thời với Đức Phật.Sau thời Đức Phật, môn đệ của năm vị giáo chủ kia hoặc là từ bỏ phái cũ

hoặc là sáp nhập vào đạoJaina.Riêng Jaina vẫn chuyển mình song song phát triển cùng với Phật giáo và

tồn tại đến ngày hôm nay.Trước khi Phật giáo vươn mình đứng dậy, Bà-la-môn giáo cùng Kỳ-na giáo

là hai tôn giáo mạnh nhất thời ấy.Trong thời gian Phật giáo suy tàn ở Ấn Độ, Ấn giáo (Tân Bà-la-môn giáo)

là chúa tế vùng Tây Ấn, còn đạo Jaina là bá chủ miền Đông Ấn, cả hai hệ thống giáo điển này cùng chia nhau "lãnh đạo tinh thần"dân Ấn.

Theo kinh điển đạo Jaina (Kỳ-na), người đương thời gọi Nigaṇṭha nātaputta là Vardhamana họ là Nāta hay (nāya) người xứ Vesāli, cha ông là Siddhattha thuộc dòng Sát-đế-lỵ (khattiya) của vương tộc Jnāta (sk là Jñata), mẹ là Trisālā.

Ông sinh ra tại một lâu đài của Vương tộc Jnāta, ở Bắc thị trấn Vesāli (Vệ-xá) (1).

Thầy Thích Mãn Giác, tác giả quyển "Lịch sử triết học Ấn -Độ ", có ghi nhận Nātaputta sinh vào năm 444 trước kỷ nguyên, mất vào năm 372 trước kỷ nguyên (tr. 141).

Có khả năng đây là sự nhầm lẫn do khâu in ấn, vì Nātaputta sinh trước Bồ-tát Siddhattha (Sĩđạtta); tuy niên đại của Bồ-tát Siddhattha chưa nhất quán.

Theo truyền thống Phật giáo thì Bồ-tát Siddhttha sinh vào năm 623 tTl, theo các nhà học giả thì Bồ-tát Siddhattha sinh vào năm 563 tTl(2), nhưng dù theo niên đại nào thì Nātaputta không thể sinh vào năm 444 tTl.

Theo nhà khảo cổ H.W. Schumann thì: Nātaputta sinh vào năm 557 tTl tại Kundagrāma (nay là Basukund) gần Vesāli, mất vào năm 485 tTl ở tuổi

1(?)- Thích Mãn Giác, Lịch sử triết học Ấn-Độ (1967), Nxb Viện Đại Học Vạn Hạnh, tr.140. 2(?)-H.W. Sschumann; Trần Phương Lan (d), Đức Phật lịch sử (2000); Nxb Tp Hồ Chí Minh, tr.47.

49

Page 50: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

72 tại Pāvā (nay làPāvapurī) (ông Schumann dùng năm sinh của Bồ-tát Siddhattha là 563 tTl)(1).

Nhưng cả hai cách ghi nhận này không thuyết phục lắm; vì Đức Phật được xem như "vị Tôn sư trẻ tuổi nhất so với 6 vị Tôn sư đương thời", mà Bồ-tát Siddhattha sinh vào năm 563 tTl.

Vào những năm đầu, khi được diện kiến Đức Thế Tôn, vị lãnh tụ xứ Kosala (Kiều-tất-la) là vua Pasenadi (Batưnặc).

Khi nghe Đức Thế Tôn xác nhận “Ngài chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác”, đức vua đã có nhận định: So với sáu vị Tôn chủ đương thời thì “Tôn giả Gotama trẻ tuổi, sinh sau, đẻ muộn …”.

Đức vua Pasenadi có liệt kê danh tự sáu vị Tôn chủ dị giáo đương thời, điều này chứng tỏ “Đức vua biết danh tiếng sáu vị Tôn chủ, riêng Đức Phật thì danh tiếng mới vừa nổi lên”.

Nhân đó, Đức Thế Tôn thuyết lên bài kinh Daharasuttaṃ - kinh Tuổi trẻ”, với nội dung “đừng khinh thường vị Sát-đế-lỵ trẻ, không nên khinh thường con rắn nhỏ, không nên khinh thường ngọn lửa nhỏ và không nên khinh thường vị Sa-môn trẻ”. Nghe xong, Đức vua Pasenadi xin quy ngưỡng Tam Bảo (2).

Lại nữa, theo kinh Tạng Pāli thì Nigantha nātaputta mất trước Đức Phật. Nhưng theo nhà khảo cổ H.W. Schumann thì Mahāvira mất sau Đức Phật

(xem ở trên).Ngay khi Nigaṇṭha nātaputta mệnh chung ở Pāva, môn đệ của Nigaṇṭha

Nātaputta chia thành hai phái, tranh luận đả kích nhau về giáo thuyết của họ, do không có hệ thống hóa giáo thuyết.

Đức Ānanda đã trình bạch điều này lên Đức Thế Tôn(3), để ngăn ngừa sự kiện này xảy ra sau khi Đức Phật viên tịch, Trưởng lão Sārīputta thành lập hệ thống pháp môn tinh yếu căn bản trong giáo lý của Đức Phật và bài kinh Phúng tụng ra đời (4).

Theo nhà khảo cổ H.W. Schumann, Nigaṇṭha nātaputta không theo phong tục "đa thê" của bản quốc Jnāta, ông chỉ có một vợ, đến năm 30 tuổi thì xuất gia theo phái Nigaṇṭha, nhưng ông tự vạch ra cho mình cách tu tập khổ hạnh riêng.

Khi trở thành giáo chủ, ông đổi tên là Mahāvira (Đại Hùng).Sau 30 năm chuyên tu khổ hạnh, ông tuyên bố mình "đạt đến địa vị Jina".Theo truyền thống Đạo Jaina, Mahāvira được tôn xưng là vị Cứu thế (sk –

jirthamkara) thứ 24.Theo gương cha mẹ, Mahāvira nhịn đói cho đến chết ở tuổi 72 tại xứ

Pāvā, điều này cũng khác với kinh điển Pāli.

1(?)- Trần Phương Lan (d), Đức Phật lịch sử (2000); Nxb Tp Hồ Chí Minh, tr.512 – 515..2(?)- S.i, 68. Tương ưng Kosala, kinh Tuổi trẻ (daharasuttaṃ). 3(?) - M.iii, kinh số 104. kinh làng Sāma (sāmagāmasuttaṃ) 4(?)-D.iv, Saṅgītisuttantā.

50

Page 51: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Theo kinh kinh điển Pāli, khi trưởng giả Upāli quy ngưỡng Đức Phật, đã quay ngược lại với Nigantha nātaputta, khiến Nigantha nātaputta tức tối đến nổi phải mửa máu tươi. Ông được đệ tử cáng về xứ Pāvā và chết ở đấy (1).

Khi Mahāvira nắm ngôi giáo chủ, ông đã cách tân giáo lý cổ điển và đổi thành đạo Jaina (Kỳ-na) hay Jina.

Chữ Jina nghĩa đen là "chiến thắng", nghĩa bóng là "bậc ẩn sĩ đạt đến chổ thù thắng".

Trong Sớ giải kinh Pháp cú cũng có ghi lại "chư Tỳ-khưu ghi nhận những du sĩ Nigaṇṭha tốt hơn các du sĩ lõa thể (acelaka), vì các đạo sĩ Nigaṇṭha có mảnh vải che thân.

Nhưng các du sĩ Nigaṇṭha lại giải thích "không phải vì họ sợ xấu hổ, mà vì trong đất có chúng sinh, họ sợ rơi vào vật thực của họ"(2).

Thật ra, trong phái Nigaṇṭha cũng chia thành hai nhóm: Nhóm bạch y và nhóm lõa thể.

Đương thời của Đức Phật là sự phát triển cực độ của "phong trào tự do tư tưởng", luôn luôn có sự đối lập giữa tông phái với tông phái, giữa các du sĩ với du sĩ, thậm chí còn đưa đến khẩu chiến.

Vùng Trung –Đông Ấn thời ấy thường có những Luận nghị đường để các du sĩ bàn luận, vấn đáp lẫn nhau…

"Ngồi xuống một bên, du sĩ Vacchagotta thưa với Thế Tôn: "Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngọi đạo ngồi tụ tập, tụ hội tại Luận nghị đường, và câu chuyện sau đây được khởi lên…"(3).

Và :"Những ai muốn tranh luận. Sau khi vào hội chúng.Chúng công kích (mithu) lẫn nhau. Chúng gọi nhau là ngu.Chúng đi đến người khác. Và khởi lên tranh luận (thojjaṃ)Chúng muốn được tán thán. Chúng gọi chúng thiện xảo.(4)

Trước những trận khẩu chiến ấy, Mahāvira thường phê bình "sự vật thế gian hiện ra với "muôn hình vạn trạng", nếu không xét đến nguyên lý tạo thành sự kiện, nếu chỉ luận về một khía cạnh, một trạng thái của sự kiện thì dù có biện luận suốt đời cũng không đi đến chân lý".

Nghĩa là Mahāvira cho rằng "không nên tìm hiểu hình thức của sự vật hãy tìm đến nguồn gốc của sự vật".

Ông thường nói "đừng lấy mắt mà hạn chế tầm suy luận, mắt chỉ thấy một điểm ở gần, ở một hướng; nhưng sự vật là vô số điểm, có những điểm ở xa tít, ở nhiều hướng khác nhau.1(?)- M.ii, kinh Upali (số 56). 2(?)- DhpA. Câu số 317. 3(?)- HT. Thích Minh Châu (d). S.iv, 398, Tương ưng không thuyế (AsaṅkhAtasaṃyuttaṃ) , kinh Luận nghị đường (Kutūhalasālāsuttaṃ) 4(?)- HT. Thích Minh Châu (d). Sn.161, kinh Pasūra (825) (Pasūrasuttaṃ - 831).

51

Page 52: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Ngay chính "mắt thấy một điểm" cũng bao gồm: thực thể, hình thức, trạng thái, công dụng, đồng thời chính điểm ấy cũng thay đổi thường xuyên "nay vầy mai khác".

Nhìn một điểm của sự vật rồi luận bàn sự vật đã là sai, nhìn một khía cạnh của điểm mà luận bàn cả sự vật lại càng sai lầm tệ hại.

Theo Mahāvira "sự vật chỉ là tương đối, không là tuyệt đối độc tôn", do đó, người ta cho rằng "đạo Kỳ-na chủ trương “thuyết tương đối” (anekantavāda) hay “thuyết bất định” (ayadvāda)”(1).

Một du sĩ Nigantha thường tuân thủ bốn sự chế ngự (catuttha saṃvara) là:

- Chế ngự đối với các loại nước (sabbavārivārito).- Chế ngự đối với mọi ác pháp(sabbavāriyutto).- Chế ngự (để) tẩy sạch tất cả ác pháp (sabbavāridhuto).- Chế ngự với ý chí gìn giữ đối với tất cả ác pháp (sabbaphuto)(2). Chính do bốn sự thu thúc này nên vị ấy được gọi là gatatta (vị đã đến

mục đích), yatatta (vị đã điều phục được tâm), thitatta (vị đã an trú được tâm).

Bốn sự chế ngự này không được rõ ràng lắm, nhưng điều luật nổi tiếng của đạo Jaina là "không uống nước lạnh", vì họ cho " trong nước lạnh có sinh vật còn sống".

Ngoài bốn sự chế ngự này, Nigaṇṭha nātaputta còn chủ trương ahiṃsa (vô hại).

Nigaṇṭha không chủ trương về nghiệp mà chủ trương về tội (daṇḍa), trong đó thân tội (kāyadaṇḍa) là quan trọng nhất.

Một môn đệ của Nāṭaputta là Dīghatapassi đến gặp Đức Thế Tôn, sau những lời thăm hỏi thân hữu, Đức Thế Tôn có hỏi:

- "Này Tapassi, Nigantha nātaputta chủ trương có bao nhiêu nghiệp để tác thành ác nghiệp, diễn tiến ác nghiệp?".

- "Hiền giả Gotama! Nigantha nātaputta không chủ trương nghiệp, diễn tiến của nghiệp, Nigaṇṭha nātaputta chủ trương tội (daṇḍa), diễn tiến của tội".

"- Này Tapassi, Nigantha nāṭaputta chủ trương có bao nhiêu loại tội, để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp?".

"Này hiền giả Gotama, Nigantha nāṭaputta chủ trương có ba loại tội để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, tức là thân tội, ngữ tội và ý tội".

Và chính Dīghatapassi ba lần xác nhận với Đức Thế Tôn "thân tội là tối trọng"(3).

1(?)- Thích Mãn Giác. Lịch sử triết học Ấn Độ (1967), Nxb Viện Đại học Vạn Hạnh, tr. 143. 2(?)- D.i, kinh Sa-môn quả (sāmaññaphalasuttaṃ). 3(?)- M.ii, số 56, kinh Upali (Upalisuttaṃ).

52

Page 53: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Nāṭaputta tự xác nhận mình là Đấng Toàn tri, biết và thấy tất cả, ông nói:

"Dầu ta có đi, có đứng, có ngủ và có, tri kiến luôn tồn tại liên tục ở nơi ta".(1)

Nāṭaputta tỏ ra không do dự, khi tuyên bố những cảnh cảnh giới tái sinh của môn đệ sau khi người này chết(2).

Nhưng Sakuludāyi lại nói rằng: "Khi bị hỏi về câu hỏi quá khứ, thì ông Nātaputta trườn uốn từ vấn đề này sang vấn đề khác để rồi tỏ ra phẩn nộ, khó chịu và gạt bỏ câu hỏi" (3).

Lý thuyết của Nigantha là "phàm có cảm thọ lạc, khổ hay xả là do nhân các nghiệp quá khứ.

Nếu diệt nghiệp quá khứ bằng sự khổ hạnh đồng thời không tạo nghiệp mới, thì nghiệp chấm dứt, nghiệp chấm dứt dẫn đến thọ chấm dứt, thọ chấm dứt đồng nghĩa là "giải thoát khỏi luân hồi".

"Do không có diễn tiến đến tương lai, nghiệp được đoạn diệt."Do nghiệp đoạn diệt, khổ được đoạn diệt."Do khổ đoạn diệt, cảm thọ được đoạn diệt.Do cảm thọ được đoạn diệt, tất cả khổ sẽ được diệt tận"(sđd).Trong Trung bộ kinh, bài kinh Thiên tý (Devadahasuttaṃ), Đức Phật phân

tích rõ về lý thuyết "khổ hạnh" này, và kết luận Nāṭaputta có 10 khuyết điểm trong lý thuyết "khổ hạnh" của mình.

1 -"Này các Tỳ-khưu, nếu các hữu tình do nhân các nghiệp quá khứ, lãnh thọ lạc khổ.

Này các Tỳ-khưu, các Nigantha thật sự đã làm những ác hạnh trong thời quá khứ, nên nay chúng phải lãnh thọ những cảm giác đau đớn, cực khổ, thống khổ như vậy".

2- Này các Tỳ-khưu, nếu các hữu tình do nhân một vị Tạo hóa tạo ra, lãnh thọ những lạc khổ.

Này các Tỳ-khưu, các Nigantha thật sự được tạo ra bởi một vị Tạo hóa ác độc, vì rằng nay chúng thọ lãnh những cảm giác đau đớn, cực khổ, thống khổ như vậy.

3- Này các Tỳ-khưu, nếu các hữu tình do nhân kết hợp các điều kiện (saṅgātibhāva) thọ lãnh lạc khổ.

Này các Tỳ-khưu, các Nigantha thật sự bị ác kết hợp , vì rằng nay chúng lãnh thọ những cảm giác đau đớn, cực khổ, thống khổ như vậy.

4- Này các Tỳ-khưu, nếu các loài hữu tình do nhân sinh loại (abijāti), lãnh thọ lạc khổ.

1(?)- M.iii, số 101, kinh Thiên tý (devadahasuttaṃ).

2(?)- S.iv, 398. Chương 10. Tương ưng không thuyết (AsaṅkhAtasaṃyuttaṃ), kinh Luận nghị đường (Kutūhalasālāsuttaṃ).3(?)- M.ii, số 78. kinh Cūlasakuludāyi.

53

Page 54: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Này các Tỳ-khưu, các Nigantha thật sự bị ác sinh loại, vì rằng nay chúng lãnh thọ những cảm giác đau đớn, cực khổ, thống khổ như vậy.

5- Này các Tỳ-khưu, nếu các hữu tình do nhân tinh tấn hiện tại, thọ lãnh lạc khổ.

Này các Tỳ-khưu, các Nigandha thật sự đã tạo ác tinh tấn hiện tại, vì rằng nay chúng lãnh thọ những cảm giác đau đớn, cực khổ, thống khổ như vậy (vì là tà tinh tấn, sự tinh tấn không có kết quả lợi ích – Ns).

6- Nếu các hữu tình không do nhân nghiệp quá khứ, thọ lãnh lạc khổ, các Nigantha đáng bị chỉ trích (vì nói sai pháp – Ns).

7- Nếu các loài hữu tình không do nhân được một vị Tạo hóa tạo ra, thọ lãnh lạc khổ, các Niganthā đáng bị chỉ trích.

8- Này các Tỳ-khưu, nếu các loài hữu tình không do nhân kết hợp với các điều kiện, thọ lãnh khổ lạc, các Nigantha đáng bị chỉ trích.

9- Này các Tỳ-khưu, nếu các loài hữu tình không do nhân sinh loại, lãnh thọ lạc khổ, các Nigantha đáng bị chỉ trích.

10- Này các Tỳ-khưu, nếu các hữu tình không do nhân tinh tấn hiện tại, thọ lãnh lạc khổ, các Niganthā đáng bị chỉ trích.

Tức là: Nếu khổ, lạc được lãnh thọ trong hiện tại do 5 nguyên nhân ở quá khứ trong chủ thuyết “khổ hạnh” của Nātaputta, thì Nātaputta đáng bị chỉ trích như đã nêu ở trên; nếu như không phải từ năm nguyên nhân này để thọ lãnh khổ lạc thì Nātaputta cũng bị chỉ trích vì “nói sai sự thật”.

Nātāputta có cuộc thảo luận với trưởng giả Citta (vị Thánh A-na-hàm, đệ tử của Đức Phật) ở Macchika Sanda.

Khi bắt đầu tranh luận, ông khen ngợi Ngài Citta, đưa Ngài làm gương cho đồ chúng của mình, đồng ý với Ngài Citta là: Trí tuệ thù thắng hơn đức tin.

Nhưng khi Ngài Citta xác định trí tuệ trong thiền chứng thì Nātaputta phẩn nộ, cho rằng trưởng giả Citta là kẻ hư ngụy.

Do đó, Trưởng giả Citta hỏi Nātaputta mười câu hỏi, Nātaputta im lặng cả mười câu, Ngài Citta bỏ ra về (1).

Nātaputta tự cho mình có thần thông, nhưng trong chú giải kinh Pháp Cú ghi nhận Nātaputta "không có thần thông".

Câu chuyện là: Một Trưởng giả ở Rājagaha có vớt được một khúc trầm, gọt đẽo thành cái bát treo trên cao, rồi tuyên bố: "Ai có thần thông hãy bay lên lấy bát".

Nātaputta cố gắng lấy bát bằng một mưu mẹo là: Giả vờ nhún mình bay lên lấy bát, một đệ tử ôm ông lại khuyên can rằng:

- Thưa Thầy! Thầy đừng vì một cái bát nhỏ nhoi này mà khoe pháp Thượng nhân.

1(?)- S.iv, 297, Chương 7. Tương ưng Tâm (cittasaṃyuttaṃ), kinh Ni Kiền Tử (NigAthasuttaṃ) .

54

Page 55: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Rồi Nātaputta giả vờ nghe lời khuyên, ông bảo vị Trưởng giả dâng bát "trầm hương" cho ông, nhưng vị Trưởng giả không mắc mưu (2).

Môn đệ của Nātaputta rất đông, trong đó có những người có danh tiếng như: Niṇka (chú của Bồ-tát Siddhatha)(2), Vappa dòng Thích Ca(3) (cậu của Bồ-tát Siddhattha), Đại tướng Sīha(4), vương tử Abhaya(5), trưởng giả Upāli(6)

….Nhưng mỗi khi những môn đệ của Nātaputta tìm đến vấn đạo nơi Đức

Thế Tôn, hầu như đều trở thành đệ tử của Đức Thế Tôn (ngoại trừ Dighā Tapassī).

Tướng quân Sīha là đệ tử cũng là người hộ độ của Nigaṇṭha nātaputta, nghe tiếng đồn tốt đẹp về Đức Gotama, Sīha muốn đến yết kiến Đức Thế Tôn, Nātaputta ra sức ngăn cản Sīha đừng đi đến gặp Đức Phật.

Một lần nọ, tướng quân Sīha cùng nhóm Licchavī đi đến gặp Đức Phật, sau cuộc hỏi đạo, Sīha trở thành đệ tử Phật.

Ngày hôm sau, tướng quân Sīha tổ chức đại lễ trai tăng cúng dường đến Đức Phật và chư Tăng, Nigantha cùng môn đệ đã bêu rếu khắp kinh thành Vesāli rằng: "Sa-môn Gotama biết người khác sát sanh để làm vật thực dâng đến mình, nhưng vẫn thọ dụng vật thực ấy. Sa-môn Gotama khuyến khích sát sanh"(7).

Nghe được điều này, Đức Phật dạy về "tam tịnh nhục", đồng thời nhắc lại Bổn sự (Jātaka) Telovada(8) là: Trong quá khứ, tiền thân của Nātaputta cũng đã bêu xấu Ngài tương tự như hiện tại.

Trong câu chuyện Bāveru Jātaka(9), tiền thân của Nātaputta là con quạ bị mất danh tiếng do sự xuất hiện của con công (là tiền thân của Đức Phật).

Nhưng có lẽ một "quả đấm mạnh nhất", giáng xuống cho Nātaputta là "sự quay ngược của Trưởng giả Upāli".

Trưởng giả Upāli nghe cuộc đàm luận giữa Đức Phật với Dighā Tapassi; Đức Phật chủ trương nghiệp (kamma) và ý nghiệp là quan trọng nhất.

Trưởng giả Upāli xin Nātaputta cho mình đến luận chiến cùng Đức Phật, Dighā Tapassi khuyên Nātaputta đừng cho Trưởng giả Upāli đi vì Sa-môn Gotama có "huyền thuật", e rằng Upāli sẽ trở thành đệ tử của Đức Phật.

Nhưng Nātaputta vẫn cho Trưởng giả Upāli đi luận chiến cùng Đức Phật, vì ông tin tưởng Trưởng giả Upāli với biện tài sẽ chiến thắng Đức Phật.

Kết quả thì … đúng như dự đoán của Dighā Tapassi; trưởng giả Upāli trở thành đệ tử Đức Phật và không còn cung kính, tôn trọng Nātaputta như xưa.2(?)- DhpA. Kệ ngôn số 181. 2(?)- S.i, 68. Chương III. Tương ưng Kosala (Kosalasaṃyuttaṃ), kinh Tuổi trẻ (Daharasuttaṃ).3(?)-A.ii, 196. Pháp bốn chi, kinh Vappa (Vappasuttaṃ).4(?)- A.iii, 38. Pháp năm chi, kinh Đại Tướng Sīha (SīhasenāpAtisuttaṃ).5(?)- M.ii, kinh số 58. Kinh Vô Úy vương tử kinh (Abhayarājakuāarasuttaṃ). 6(?)- M.ii, kinh số 56. Kinh Upāli ( Upālisuttaṃ). 7(?)- A.iv, 179. Pháp tám chi, Phẩm lớn (Mahāvaggo), Kinh Tướng quân Sīha (Sīhasuttaṃ).8(?)- JA. truyện số 246. 9(?)- JA. truyện số 339.

55

Page 56: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Nghe du sĩ Dīgha Tapassi cho biết trưởng giả Upāli trở thành đệ tử Phật, Nātaputta không tin, tự mình đi đến trưởng giả Upāli để xác minh và ông đã tức tối mữa máu tươi khi sự thật là như thế.

Đệ tử phải cõng ông từ Balaka (nơi ông đang sống) đến Pāvā, ông từ trần ở đó(1).

Đức Phật và sáu vị tôn chủ.1- Về sáu vị tôn chủ.Đức Thế Tôn được xem là vị Tôn sư trẻ tuổi nhất so với 6 vị giáo chủ dị

giáo, và Ngài xác nhận “Ngài là bậc Chánh đẳng giác” (sđd ở trên) .Mặt khác, đoạn kinh trên cho thấy, Đức Thế Tôn tự cho mình là bậc

Chánh đẳng giác trước tiên so với 6 vị Giáo chủ, có lẽ vì thế về sau Pūraṇa kassapa và Nigaṇṭha cũng tự xưng mình có "toàn tri, toàn kiến".

Không thấy kinh điển Pāli ghi nhận "sự hội kiến giữa Đức Phật và sáu tôn chủ ngoại giáo".

Với sáu tôn chủ ngoại giáo, có ba lý do khiến các vị ấy không đến hội kiến với Đức Thế Tôn:

a- E ngại sẽ thất bại khi luận chiến với Đức Thế Tôn.Đức Thế Tôn được xem như "một nhân vật đáng kinh sợ”, khó có thể

thắng được bằng “luận chiến”.Chính một du sĩ nổi tiếng đương thời là Nigaṇṭha Saccaka đã từng luận

chiến với 6 vị tôn chủ, và đã làm cho 6 vị tôn chủ này phải phẫn nộ, tức tối(2).

Nhưng chính Saccaka đã bị Đức Thế Tôn nhiếp phục, đến nỗi Saccaka phải tuyên bố:

"Thưa Tôn giả Gotama, có thể có sự an toàn cho một người chiến đấu với con voi điên, nhưng không có sự an toàn cho một người chống lại Tôn giả Gotama.

"Thưa Tôn giả Gotama, có thể có sự an toàn cho một người chiến đấu chống đám lửa rừng, nhưng không có sự an toàn cho một người chống lại Tôn giả Gotama.

"Thưa Tôn giả Gotama, có thể có sự an toàn cho một người chiến đấu với con rắn độc dữ tợn, nhưng không có sự an toàn cho một người chống lại Tôn giả Gotama" (3).

Hay du sĩ Sabhiya học được những câu hỏi từ vị thiên nhân, Sabhiya mang hỏi 6 vị tôn chủ dị giáo, chẳng những không trả lời được họ còn biểu lộ sự phẫn nộ.

Du sĩ Sabhiya mang những câu hỏi ấy đến hỏi Đức Phật, Ngài giải đáp rõ ràng và Sabhiya trở thành vị Tỳ-khưu A-la-hán trong Pháp luật này(4).

1(?)- M.ii, số 56, kinh Upāli. 2(?)- M.i, kinh số 36. Đại kinh Saccaka (Mahāsaccakasuttaṃ). 3(?)- M.i, kinh số 35. HT. Thích Minh Châu (d), Tiểu kinh Saccaka (Cūḷasaccakasuttaṃ). 4(?)- Sn. 91; kinh Sabhiya.

56

Page 57: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Những kỳ thoại ấy hẳn được lan rộng và đến tai 6 vị tôn chủ dị giáo. b- Do hội chúng cản ngăn.Đối với những nhân vật có danh tiếng, có hội chúng lớn, khi tìm đến hội

kiến người khác sẽ làm giảm danh tiếng. Danh tiếng giảm thì lợi lộc bị giảm.

Do đó, cho dù 6 vị tôn chủ có ý muốn đến hội kiến Đức Thế Tôn, sẽ bị hội chúng cản trở, như Bà-la-môn Soṇadaṇḍa muốn đi đến yết kiến Đức Thế Tôn, đã bị nhiều Bà-la-môn khác ngăn cản(1), tương tự như thế đối với Bà-la-môn danh tiếng Kūṭadanta(2).

Hay Salukudāyi sau khi nghe Pháp thoại từ Đức Thế Tôn, có ý định xuất gia, nhưng bị chính đồ chúng của mình cản trở(3).

Theo bản Sớ giải Trung bộ kinh(4): Salukudāyi tái sinh trở lại vào thời vua A-dục, là vị trưởng lão có tên là Assagutta, rất nổi tiếng về hạnh từ tâm.

Trong sáu vị tôn chủ, chống đối Đức Phật nhiều nhất là Nigaṇṭha nātaputta, giai đoạn đầu là những du sĩ Ājīvaka, trong thập niên cuối cùng của Đức Phật chỉ còn lại phái Nigaṇṭha nātaputta.

Và trưởng giả Upāli xem như người cuối cùng mà Nātaputta chứng kiến "môn đệ của mình quy ngưỡng Đức Phật".

Tuy không hội kiến Đức Phật, nhưng Nigaṇṭha Nātaputta thường dạy những đệ tử của mình những câu hỏi “móc câu” để vấn nạn Đức Thế Tôn, như kinh Vương tử Abhaya(5), hay phẩm Tương ưng thôn trưởng trong Tương ưng Bộ kinh, nhưng rồi những đệ tử ấy lại quy phục Đức Thế Tôn, trở thành đệ tử Đức Phật.

c- E ngại tổn thất lợi đắc.Với những người có danh tiếng như 6 vị tôn chủ đương thời, nếu đi đến

hội kiến Đức Thế Tôn “luận chiến”, hoặc “tìm hiểu pháp”.Khi luận chiến bị thất bại, đại chúng sẽ không còn tôn kính như trước,

và do đó sẽ dẫn đến tổn thất lợi đắc.Còn nếu “tìm hiểu pháp”, hội chúng cũng không còn tôn sùng vị ấy,

đồng thời sẽ tôn sùng Đức Thế Tôn, sẽ từ bỏ vị ấy. Và lợi đắc cũng tổn giảm với vị ấy.

Bà-la-môn Sonadaṇḍa có trình bày với Đức Thế Tôn rằng:“Ai bị hội chúng này phỉ báng, thời danh tiếng bị tổn giảm và ai danh

tiếng bị tổn giảm, thì thâu nhận cúng dường bị giảm thiểu”(6).2- Về Đức Phật.Tôn chỉ của Đấng Như lai là "không tranh luận với thế gian".

1(?)- D.ii, Kinh Soṇadaṇḍa (Soṇadaṇḍasuttaṃ). 2(?)- D.ii, kinh Kūṭadanta (Kūṭadantasuttam.). 3(?)- M.ii. kinh số 79, Cūḷasakuludāyisuttaṃ. 4(?)- MA.iii. 275. 5(?)- M.ii, (kinh số 58) - Abhayarājakumārasuttaṃ. 6(?)- D.ii, kinh Snodaṇḍa (Sonaḍanḍasutta).

57

Page 58: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

- “Này Hiền giả, theo lời dạy của Ta, trong thế giới với chư Thiên, Mara và Phạm thiên, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, không có tranh luận một ai ở đời…. Này Hiền giả, như vậy là quan điểm của Ta, như vậy là lời Ta giảng dạy”(1).

Ngài cảm thán rằng:“Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với

Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời”(2).

Mục đích của Đức Phật chỉ tế độ chúng sinh bằng pháp, đưa chúng sinh thoát ra khổ nạn luân hồi.

Với những chúng sinh ôm chặt tà kiến thì Đức Thế Tôn đành chịu, điển hình như Tỳ-khưu Sunakkhatta(3), thì còn nói gì đến 6 vị tôn chủ.

Làm sao sáu vị ấy có thể từ bỏ chủ thuyết sai lệch của mình một cách dễ dàng trong khi lơi lộc cùng danh vọng đang có cho những vị ấy.

Với người có duyên lành đạo quả hay có cận y duyên cho đạo quả sau này, trước khi đi cuộc “luận pháp”, Đức Phật thường yêu cầu “đàm luận y cứ trên sự thật”, như với trưởng giả Upāli, du sĩ Saccaka …

Với một trí tuệ linh hoạt mẫn tiệp, Đức Phật thừa khả năng phản bác các chủ thuyết dị giáo một cách dễ dàng, bằng cách nào?

Bằng cách nêu ra sự mâu thuẩn, sự sai lầm trong chủ thuyết của; họ như trong kinh Upāli là điển hình, hoặc phân tích những ưu - nhược trong chủ thuyết của người đối diện, như du sĩ Dīghanakha (Trường trảo) nêu lên quan điểm của mình là “Tất cả đều không làm tôi thích thú”.

Đức Phật buộc du sĩ Dīghanakha phải thừa nhận rằng “Ông cũng không thích thú chính quan điểm của mình vừa nêu”, rồi Đức Phật nêu ra ba quan điểm:

-“Tất cả đều làm tôi thích thú”.- “Tất cả đều không làm tôi thích thú”.- “Một phần làm tôi thích thú, một phần không làm tôi thích thú”.Ưu điểm của quan điểm 1 là không bị tham dục chi phối, khiến du sĩ

Dīghanakha hoan hỷ, cho rằng “Đức Thế Tôn tán đồng quan điểm của ông”; nhưng khi phát biểu như thế, du sĩ Dīghanakha đã lộ ra sơ hở, vì “ông đã thích thú trước sự tán đồng của Đức Phật, “sự tán đồng quan điểm khác cũng chính là một quan điểm” (du sĩ Dīghanakkha đã tự mâu thuẩn).

Tiếp theo, Đức Phật nêu ra nhược điểm củacác quan điểm là: Nếu nắm giữ quan điểm này sẽ chống lại hai quan điểm kia, thế là sẽ có tranh luận, có chống đối, có sự đã kích … dẫn đến phẫn nộ, khó chịu.

Tốt nhất là từ bỏ tất cả quan điểm(4).1(?)- M.i (kinh số 18) – Kinh Mật hoàn (Madhupindikasuttaṃ).2(?)- S.iii, 113. Chương I, Tương ưng Uẩn (khandhavaggo ), kinh Bông Hoa (Pupphasuttaṃ). 3(?)-D.iv, kinh Pātika (kinh Balê) (kinh số 21). 4(?)- M.ii, (kinh số 74) – kinh Trường trảo (Dīghanakhasuttaṃ).

58

Page 59: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Trong phẩm Tương ưng thôn trưởng (Tương ưng bộ kinh)(1), thôn trưởng Asibandhakaputta có trình bày lời dạy của Nātaputta với các đệ tử như sau:

“Phàm ai sống tối đa với chiều hướng sát sinh, tất cả phải sinh vào địa ngục, phải sinh vào cảnh giới ma đói (peta - ngạ quỷ).

“Phàm ai sống tối đa với chiều hướng trộm cắp … “Phàm ai sống tối đa với chiều hướng tà hạnh trong dục …”.Đức Thế Tôn chỉ ra quan điểm sai lầm ấy như sau: “Nếu thật sự là như

vậy, thì không một ai rơi vào địa ngục, không một ai rơi vào cảnh giới ngạ quỷ”.

Vì rằng: “Thời sát sinh ít hơn thời không sát sinh, thời trộm cắp ít hơn thời không trộm cắp …”

Lại nữa, có lần, Đức Thế Tôn cùng với chư Tỳ-khưu du hành đến xứ Nālanda, ngụ trong rừng Pāvarikamba.

Bấy giờ, xứ Nālanda đang bị nạn đói kém; khi ấy Nātaputta cũng sống ở Nālanda cùng với đại chúng Nigaṇṭha.

Nātaputta đã chỉ cho đệ tử mình là thôn trưởng Asibandhakaputta câu hỏi móc câu như sau:

-“Bạch Thế Tôn, có phải Thế Tôn dùng nhiều phương tiện tán thán thương kính các gia đình, tán thán bảo vệ các gia đình, tán thán từ mẫn với các gia đình?”.

Này thôn trưởng, được hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời: “Đúng như vậy, này thôn trưởng, Như lai dùng nhiều phương tiện tán thán thương kính gia đình…. Tán thán từ mẫn với các gia đình”.

Thời ngươi hỏi Sa-môn Gotama: “Vậy vì sao, bạch Đức Thế Tôn, Thế Tôn cùng đại chúng Tỳ-khưu du hành tại xứ Nālanda đang bị nạn đói kém.

Như Vậy Đức Thế Tôn thực hành tàn phá gia đình, thực hành sự bất hạnh cho các gia đình, thực hành sự tổn hại cho các gia đình”.

Như vậy, này thôn trưởng, bị ngươi hỏi với câu hỏi móc câu, Sa-môn Gotama không thể nhổ ra, cũng không thể nuốt xuống”.

Và Đức Thế Tôn đã giải thích: “Sự tổn hại các gia đình do tám nguyên nhân:

- Do vua quan, do trộm cướp, do nước, do lửa, do không nhớ nơi chôn dấu tài sản, do biếng nhác bỏ bê công việc, do người thừa tự phá hoại và do vô thường.

Nghĩa là, Đức Thế Tôn chỉ ra 8 nhân làm tổn hại tài sản là như thế, “chứ chẳng phải do nhân cúng dường hay bố thí”.

Trước đó Ngài cũng dạy thôn trưởng Asibandhakaputta rằng:“Này thôn trưởng, Ta nhớ từ 91 kiếp(2) về trước, Ta không hề biết đã có

làm hại một gia đình cho đến một bữa cơm cúng dường. 1(?)- Xem S.iv, 317. 2(?)- Chỉ cho kiếp trái đất – Ns.

59

Page 60: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Các gia đình ấy đều rất giàu, tiền của nhiều, tài sản nhiều, vàng bạc nhiều…

Tất cả tài sản ấy được thâu hoạch do bố thí, được thâu hoạch một cách chân thật, được thâu hoạch một cách tự chế”.

Hàm ý Đức thế Tôn nói rằng “Này thôn trưởng, Như lai du hành đến Nālanda, không phải làm tổn hại gia đình mà làm cho tài sản các gia đình được phát sinh và tăng trưởng qua pháp bố thí”.(1)

Và đoạn kinh văn trên cho thấy giáo chủ Nātaputta đã có mặt tại xứ Nālanda, nhưng ông không dám trực tiếp vấn nạn Đức Thế Tôn, ông chỉ “gián tiếp”.

Đấy là cách khôn ngoan của Nātaputta, nếu thắng thì hội chúng của ông sẽ rao truyền rộng rải: “Đệ tử của Giáo chủ Nātaputta khi luận chiến còn thắng được Sa-môn Gotama, thì còn nói gì đến giáo chủ Nātaputta chứ”.

Nếu thất bại thì “đó chỉ là đệ tử thôn trưởng chứ phải đâu là giáo chủ Nātaputta”.

Tuy nhiên, ông Nātaputta cũng chịu tổn hại, vì vị thôn trưởng đã quy ngưỡng Đức Thế Tôn.

Dứt phần 2.Phần 3.

Giải từ đoạn 157 đến hết đoạn 159.Chánh kinh.

Komārabhaccajīvakakathā.(Lời trình của Komārabhaccajīvaka).

157. Tena kho pana samayena Jīvako komārabhacca rañño Māgadhassa Ajātasattussa Vedehiputtassa avidūre tuṇhībhūto nisinno hoti.

Lúc bấy giờ Jīvaka komārabhacca ngồi yên lặng cách Ajātasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha không xa bao nhiêu.

Atha kho rāja māgadho Ajātasattu Vedehiputto Jīvakaṃ komārabhaccaṃ etad avoca:

Khi ấy Ajātasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha, nói với Jīvaka komārabhacca:

"Tvaṃ pana samma Jīvaka kiṃ tuṇhī ti?".- Này Jīvaka thân(2), sao ngươi lại yên lặng như vậy?"Ayaṃ deva Bhagavā arahaṃ sammā- sambuddho amhākaṃ Ambavane

viharati, mahatā bhikkhu saṅghena saddhiṃ aḍḍha- telasehi bhikkhu – satehi.

1(?)-S.iv, 322. 2(?)- Samma là cách gọi thân thiện.

60

Page 61: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

- Tâu Ðại vương, chính tại vườn xoài này của chúng con, có Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác, hiện đang trú ngụ với đại chúng Tỳ-khưu một nghìn hai trăm năm mươi vị.

"Taṃ kho pana Bhagavantaṃ Gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kitti-saddo abbhuggato: "Itipiso Bhagavā arahaṃ sammā-sammbhuddho vijjācaranasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasaaratthi, satthā devamanussānaṃ buddho bhagavāti".

"Thế Tôn Gotama có tiếng đồn tốt đẹp sau đây lan rộng: "Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".

"Taṃ devo Bhagavantaṃ pariyupāsatu, app'eva nāma devassa Bhagavataṃ payirupāsato cittaṃ pasīdeyyati".

“Đại vương hãy đến chiêm bái Đức Thế Tôn này. Rất có thể nhờ chiêm bái Đức Thế Tôn, tâm của Đại vương được khoan khoái thoải mái.

Giải:* “Lời hỏi của vua Ajātasattu với lương y Jīvaka komārabhacca”.Bản Sớ giải có giải thích:Sau khi nghe những lời tâu của các Đại thần, vua Ajātasattu (A-xà-thế)

ngẫm nghĩ: "Ta không mong nghe những lời giảng của những vị ấy. Ta muốn được nghe lời thuyết giảng của người an tịnh như chim Kim-xí -điểu (supaṇṇa) trên vùng trú ẩn của loài rồng (nāga). Chủ thuyết của sáu vị tôn chủ ấy không giúp ích được gì cho ta".

(Theo truyền thuyết: Loài Kim-xí điểu thường bắt rồng để ăn thịt, khi thấy bóng dáng Kim-xí-điểu, loài rồng trốn mất, nơi đó trở nên yên tịnh).

Khi ấy, ý nghĩ sau đây phát sanh đến nhà vua: "Lương y Jīvaka là người hộ độ cho Đức Phật là bậc an tịnh, chính Jīvaka cũng an tịnh như vị Tỳ-khưu phát nguyện “im lặng”.

Lương y Jīvaka chỉ nói khi được ta hỏi, như chân con voi chúa chỉ bị tóm lấy khi con voi đang dẫm đạp lên bẫy".

Do suy nghĩ như vậy, nên vua Ajātasattu đã hỏi:“Này Jīvaka, sao ngươi lại yên lặng như vậy"?Nghĩa là vua Ajātasattu hỏi với ẩn ý như một cái bẩy:"Này Jīvaka, trong khi các vị đại thần tán dương vị Sa-môn mà họ hộ độ,

vì sao ngươi im lặng?Chẳng lẽ ngươi không hộ độ cho vị Sa-môn nào như họ đã làm sao?Ngươi có nghèo khổ chăng? Cha ngươi không cho ngươi bổng lộc sao?Hay ngươi không có niềm tin vào ai?".Nhưng câu hỏi này mang tính "mong đợi" hơn là "đem đến gánh nặng"

cho người bị hỏi".

61

Page 62: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

"Tass'attho "puccha yadi ākaṅkhāsi, na me pañhavissajjane bhāro atthi" (At):

"Câu hỏi này với ý mong được gặp Đức Thế Tôn (ākankhasi), không phải câu hỏi đem đến gánh nặng".

Nghĩa là: (Đức vua) như ngầm nói với lương y Jīvaka rằng: “Này Jīvaka, hãy tán thán ân đức của Đức Thế Tôn đi, Ta sẽ nhân cơ hội này, tán thành ý kiến của ngươi và ta được yết kiến Đức Thế Tôn”.

* “Lời đáp của lương y Jīvaka”.Khi đó Jīvaka nghĩ: "Đức vua muốn ta nói về giới hạnh của vị Sa-môn mà

ta hộ độ, đây không phải thời ta giữ im lặng.Ta nên nói về giới hạnh của Bậc Đạo Sư như các vị đại thần nói về giới

hạnh của những vị Sa-môn mà họ sùng bái.Nhưng làm theo cách thức của các đại thần này thì không thích hợp".(Tức là, họ đảnh lễ vua Ajātasattu trước, rồi ngồi xuống trình bày ân đức

của vị Sa-môn mà họ hộ độ sau).Do đó, lương y Jīvaka đứng lên khỏi chỗ ngồi, gập người xuống đất cúi

lạy về hướng nơi Đức Thế Tôn đang ngụ bằng tư thế "năm chi chạm đất" (1), đặt đôi bàn tay lên đầu với sự tôn kính rồi nói:

- "Thưa đại vương, mong Ngài đừng nghĩ "sẽ có kẻ chê trách Ngài đi tìm vị Sa-môn không cao thượng".

Vì rằng Bậc Đạo sư của thần thật sự là vị Sa-môn cao thượng . Khi Đấng Đạo sư nhập thai bào, khi Ngài ra khỏi thai bào, khi Ngài xuất

gia, khi Ngài giác ngộ, khi Ngài vận chuyển bánh xe Pháp, cả 10 ngàn thế giới đều chấn động.

Khi Ngài thể hiện Song thông (yamakapāṭihāriya), khi Ngài rời khỏi cõi Trời Ba mươi Ba (sau khi thuyết giảng tạng Thắng pháp – Abhidhamma), trở về nhân giới thì 10 ngàn thế giới chấn động.

Thưa Đại vương, xin Ngài hãy để tâm thanh tịnh mà lắng nghe: "Đức Đạo sư có tiếng đồn tốt đẹp truyền đi khắp mọi phương như sau: "Đây là Đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác…".

Khi giải thích xong ý nghĩa của từng từ, lương y Jīvaka nói tiếp:"Ðại vương hãy đến chiêm bái Đức Thế Tôn. Rất có thể, nhờ chiêm bái

Đức Thế Tôn, tâm của Ðại vương được tịnh tín".Có lời giải rộng về câu nói của lương y Jīvaka là:Khi nói vậy, vị ấy ngầm nói: "Thưa đại vương, cho dù một trăm, một ngàn

hay trăm ngàn người như đại vương đến hỏi, Đấng Đạo Sư vẫn có khả năng trả lời trong giây lát tất cả những câu hỏi, Đại vương nên tự tin tiếp xúc với Ngài và hỏi pháp".

Khi nghe về những ân đức của Đức Thế Tôn, toàn thân nhà vua phát sinh năm loại phỉ lạc (2) khắp châu thân.

1(?) – Là 2 khuỷu tay, hai đầu gối và đầu chạm xuống đất (ngũ thể đầu địa).

62

Page 63: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Ngay khi đó, Đức vua mong mỏi được đến gặp Đức Thế Tôn và nghĩ rằng:"Nếu ta đến chỗ Đức Phật vào lúc này thì không ai ngoài Jīvaka có thể chuẩn bị xe nhanh hơn".

Nên vua Ajātasattu ra lịnh:"Vậy này Jīvaka, hãy cho thắng kiệu voi".Chánh kinh.158."Tenahi samma Jīvaka hatthiyānāni kappāpehīti". "Vậy Jīvaka thân, hãy cho thắng kiệu voi". "Evaṃ devāti" kho Jīvako komārabhacco rañño

MāgadhassaAjātasattussa Vedehiputtassa paṭissutvā,Vâng, thưa Ðại vương. Jīvaka komārabhacca vâng theo lời dạy của

Ajātasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha,pañcamattāni hatthinikāsatāni kappāpetvā, rañño ca ārohanīyaṃ

nāgaṃ, rañño Māgadhassa Ajātasattussa Vedehiputtassa paṭivedesi: sai người thắng năm trăm con voi cái, và con vương tượng vua thường

cởi, rồi thưa với Ajātasattu con bà Videhi, vua nước Magadha:"Kappitāni kho te deva hatthiyānāni yassa dāni kālaṃ maññasīti". "Thưa Ðại vương, các kiệu voi đã sẵn sàng. Ngài hãy làm những gì Ngài

xem là phải thời".Giải.Có câu hỏi rằng: "Vì sao vua Ajātasattu (A-xà-thế) chọn phương tiện là

"kiệu voi"?Đáp rằng: Vì Đức vua suy nghĩ:1- Trong số các loại phương tiện di chuyển, kiệu voi là phương tiện sang

trọng và tốt nhất (vào thời ấy).Đến viếng bậc cao quý nhất là Đức Thế Tôn, nên dùng phương tiện di

chuyển tốt nhất để tăng vẻ tôn quý cho đối tượng đến thăm viếng.2- Đức Thế Tôn là bậc an tịnh, xe ngựa (assayāna) hay các loại xe khác

(rathayāna) như xe đẩy … thì gây ồn ào, âm thanh của chúng có thể nghe được từ xa, còn voi thì bước từng bước do vậy không phát ra âm thanh nào.

Đến viếng bậc an tịnh như Đức Thế Tôn, không nên gây huyên náo.Do nghĩ như vậy, nên Đức vua chọn phương tiện di chuyển là "kiệu voi".* “Lương y Jīvaka chuẩn bị kiệu voi”. Có câu hỏi rằng: Vì sao Lương y Jīvaka chuẩn bị các thứ theo cách đã mô

tả trong kinh, dù không có lịnh của vua A-xà-thế ? Và vì sao lại chọn 500 con voi cái?.

Đáp rằng: Do sự cẩn thận của lương y Jīvaka.Lương y Jīvaka là người thông minh, suy nghĩ rằng: "Đức vua có nhiều kẻ

thù, lại đi vào giờ này.

2(?) pīti. Đó là: (trang 62) (Vism. IV. 94-99, tr. 149-50). Ngài Ñāṇamoli diễn đạt từ pīti như là lạc mà được dịch là sukha.

63

Page 64: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Đức vua chỉ ngự đi với con Vương tượng, nếu có nguy hiễm xảy ra trên đường, mọi người sẽ buộc tội ta “đưa Đức vua ra ngoài lúc phi thời”, hoặc họ sẽ có cớ chỉ trích Đức Thế Tôn: “Ngài giảng pháp phi thời”, gây ra tai hại cho Đức vua.

Do vậy, ta nên chuẩn bị bảo vệ cho đức vua để cho không ai buộc tội được ta hay Đức Thế Tôn. Với số lượng 500 con voi thì kẻ nghịch cũng phải e dè.

Hơn nữa, khi được các cung phi theo hầu thì Đức vua không sợ hãi, vì sự tai hại có đến cho Đức vua không phải từ những người nữ này, đồng thời Đức vua cảm thấy hạnh phúc khi được các cung phi vây quanh.

Nên lương y Jīvaka cho sắp xếp 500 con voi cái.Vị ấy cho 500 cung phi giả trai như những hộ vệ quân ngồi trên lưng voi,

tay gầm gươm giáo hộ vệ Đức vua.Lương y Jīvaka còn suy nghĩ: "Đức vua không có nhân duyên để đạt được

đạo quả trong kiếp hiện tại này. Chư Phật thường giảng Pháp khi thấy có nhân duyên đạo quả trong hội

chúng, ta nên cho đại chúng tháp tùng theo Đức vua.Khi nhìn thấy nhân duyên Đạo quả của người nào trong hội chúng, khi ấy

Đức Đạo sư giảng pháp sẽ mang lợi ích đến cho phần đông ".Lương y Jīvaka cho đánh trống truyền ra khắp kinh thành Rājagaha rằng:

"Trong đêm nay Đức vua sẽ đến diện kiến Đức Thế Tôn tại vườn xoài. Mọi người hãy bảo vệ Đức vua theo cách của mình".

Cư dân thành Rājagaha nghe được tin truyền này, suy nghĩ: "Đêm nay Đức vua đến yết kiến Đức Thế Tôn, Đức thế Tôn sẽ giảng thời pháp như thế nào nhỉ?

Đêm nay chúng ta không cần vui chơi lễ hội vô ích, chúng ta sẽ đến nghe Pháp từ Đức Thế Tôn, sự nghe pháp sẽ mang lại nhiều lợi ích".

Và những cư dân ấy tay cầm hương hoa … đến chờ nơi Hoàng cung để tháp tùng theo Đức vua.

Lương y Jīvaka sắp xếp: Vây quanh vua là 500 con voi cái có 500 cung nữ giả trai làm hộ vệ quân, sau đàn voi là lính hộ vệ quân, tiếp theo là các quan đại thần hộ tống, sau các quan đại thần là nhóm Bà-la-môn, sau nhóm Bà-la-môn là đoàn vũ - nhạc công, sau cùng là 18 đội bộ binh bảo vệ.

Như vậy, một mũi tên bắn lén từ phía sau, khó có thể trúng vua Ajātasattu.

Sau khi sắp xếp đoàn tùy tùng cho nhà vua xong rồi, chính lương y Jīvaka đi sát bên cạnh nhà vua và nghĩ: "Nếu có nguy hiểm xảy ra, ta sẽ là người đầu tiên hy sinh thân mạng để bảo vệ cho nhà vua".

Bản Sớ giải có nêu ra con số của đoàn người đến yết kiến Đức Thế Tôn lên đến 16 ngàn người, những chấm đèn tròn được thấp lên có đến hàng vạn.

Chánh kinh.

64

Page 65: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

159."Attha kho rājā Magadho Ajātasattu Vedehiputto pañcasu hatthinikāsatesu paccekā itthiyo āropetvā ārohaṇīyaṃ nāgaṃ abhirūhitvā, ukkāsu dhāriyāmānāsu Rājagahamhā niyyās mahacca rājānubhāvena, yena Jīvakassa komārabhaccass' Ambavanaṃ tena pāyāsi".

"Khi bấy giờ Ajātasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha biểu các cung phi leo lên năm trăm con voi cái mỗi người một con, còn mình thì leo lên vương tượng vua thường cởi, xuất hành ra khỏi Ràjagaha, dưới ánh sáng của các ngọn đuốc được cầm cao, với oai nghi của bậc đại vương, thẳng tiến đến vườn xoài của Jīvaka komārabhacca".

"Atha kho rañño Māgadhassa Ajātasattussa Vedehiputtassa avidūre Ambavanassa ali ud'eva bhayaṃ, ahi chambitattaṃ, ahu lomahaṃso.

Khi Ajātasattu, con bà Vedehi, vua nước Magadha đi đến không xa vườn xoài, Ngài bỗng sợ hãi, kinh hoàng, tóc dựng lên.

Atha kho rāja Māgadhassa Ajātasatu Vedehiputto bhīto saṃviggo lomahatṭṭhajto Jīvakaṃ komārabhaccaṃ etad avoca:

Lúc bấy giờ Ajātasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha sợ hãi, kinh hoàng, tóc dựng lên, nói với Jīvaka komārabhacca:

"Kacci maṃ sammā jīvaka na vañcesi? Kacci maṃ samma Jīvaka na palambhesi? Kacci maṃ samma Jīvaka na paccatthikānaṃ desi.

Này Jīvaka thân, ngươi phản ta chăng? Này Jīvaka thân, ngươi lường gạt ta chăng? Này Jīvaka thân, ngươi nạp ta cho kẻ thù chăng?

Kathaṃ hi nāma tāva mahato bhikkhu saṅghassa aḍḍhateḷasānaṃ bhikkhu satānaṃ ṅeva khipitasaddo bhavissati na ukkhāsitasaddo na nigghoso ti?"

Tại sao trong một đại chúng lớn như thế này gần một nghìn hai trăm năm mươi vị, mà không có một tiếng đằng hắng, không có một tiếng ho, không một tiếng ồn?

"Mā bhāyi mahārājā. Na taṃ deva vañcemi, na taṃ deva palambhāmi, na taṃ deva paccatthikānaṃ demi.

- Thưa Ðại vương, Ngài chớ sợ. Tôi không phản Ngài, tôi không lường gạt Ngài, tôi không nạp Ngài cho kẻ thù.

Abhikkama mahārāj. Abhikkama mahārāja.Thưa Ðại Vương, hãy đi thẳng tới. Thưa Ðại vương hãy đi thẳng tới.Ete maṇḍalamāḷe dīpā jhāyantītl".Tại chỗ kia trong căn nhà tròn chỗ có những ngọn đèn đang thắp sáng".Giải.* “Vua Ajātasattu (A-xà-thế) sợ hãi.Bản Sớ giải giải thích: Có bốn loại sợ hãi:- Sợ hãi sinh lên do tâm lo sợ (citt’utrāsabhaya).- Sợ hãi sinh lên do tuệ (ñāṇabhaya).- Sợ hãi sinh lên do cảnh (ārammaṇabhaya).

65

Page 66: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

- Sợ hãi sinh lên do "ghê sợ tội lỗi" (ottappabhaya). Gọi là "sợ hãi sinh lên do tâm lo sợ", như người sắp nệnh chung, trong

tâm phát sinh nỗi kinh hoàng, sự sợ hãi này do tham ái làm duyên.Hay người tạo ác nghiệp thường kinh hoàng khi nghĩ đến ác quả phải

nhận lãnh, hoặc khi tâm không định tỉnh thường phát sinh sự sợ hãi…. Gọi là "sợ hãi sinh lên do tuệ". Như "khi nghe Đức Phật giảng về vô

thường, khổ, vô ngã, các thiên nhân có tuổi thọ dài, hiểu rõ ý nghĩa này, phát sinh lo sợ".

"Này các Tỳ-khưu, có những chư thiên nào, tuổi thọ dài, có mỹ sắc, hưởng lạc nhiều, đã sống lâu trong các lâu đài to lớn.

Các chư thiên này, sau khi nghe Như lai thuyết pháp, phần lớn chúng trở thành sợ hãi, run sợ, khiếp đảm (saṃvega) …"(1).

Hoặc khi nghe Đức Thế Tôn thuyết giảng về sự vô thường của các uẩn, hiểu được điều này, tâm sinh khởi kinh cảm, nhàm chán (nibbinda) đối với các uẩn (2).

Gọi là "sợ hãi sinh lên do cảnh". Như những cảnh hoang vắng, cảnh kinh hoàng, cảnh âm u … làm phát sinh lo sợ.(3)

Gọi là "sợ hãi sinh lên do tâm lo lắng", là khi nghĩ đến ác quả do tội lỗi tạo ra, nên kinh sợ đối với tội lỗi.

Trong bốn điều sợ đó, sự kinh sợ phát sinh đến vua Ajātasattu là “sợ hãi phát sinh do cảnh” và “sợ hãi sinh lên do tâm lo sợ”.

Bản Hậu sớ giải (Ṭīkā) có giải thích thêm là:- Tâm lo sợ tự nó là sự sợ hãi.- "Sợ hãi sinh do tuệ" chỉ là nghĩa bóng, thật sự không phải là trạng thái

sợ hãi. Nghĩa là khi thấy cảnh tượng biến diệt nhanh chóng của năm uẩn, hành giả này suy nghĩ "điều này thật đáng sợ".

Nên nói "tuệ xuất hiện như là sợ hãi, nhưng không phải là "sợ hãi thật sự".

Vì đơn giản chỉ là sự "suy gẫm" về những hành quá khứ đã diệt mất, liên tưởng đến hành trong hiện tại lẫn hành trong tương lai, tất cả đều bị diệt".

-"Sợ hãi sinh lên do cảnh". Bất cứ cảnh nào làm tâm sinh khởi lo sợ, gọi là "sợ hãi sinh lên do cảnh".

- "Sợ hãi do ghê sợ tội lỗi". Sợ hãi này cũng chẳng phải là "thật sự sợ", chỉ vì nghĩ đến hậu quả của tội lỗi, nên "ghê sợ tội lỗi". Tức là "sợ làm điều ác".

* “Vì sao vua Ajātasattu lại sợ hãi”?Vì cảnh quá yên tịnh vượt ngoài dự kiến của vua Ajātasattu (A-xà-thế),

đồng thời nhà vua phát sinh nghi ngờ đối với lương y Jīvaka.

1(?)- HT. Thích Minh Châu (d). S.iii. 85. Kinh Sư tử (Sīhasuttaṃ). 2(?)- S.iii, 22, 78. 3(?)- M.i, kinh Sợ hãi khiếp đảm (bhayabheravasuttaṃ).

66

Page 67: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Trong số các vương tử con vua Bimbisāra, Ajātasattu úy kỵ nhất là vương tử Abhaya (Vô Úy), người anh cùng cha khác mẹ với mình.

Lương y Jīvaka lại là con của vương tử Abhaya, nên nhà vua đột nhiên cảm thấy sợ hãi.

Khi còn ở trên lầu cao trong cung, lương y Jīvaka có thông báo cho vua Ajātasattu rằng:

- " Thưa Đại vương, Đức Thế Tôn thích yên lặng. Đại Vương nên yên lặng đến gần”.

Do vậy, vua Ajātasattu cấm không cho chơi nhạc mà chỉ đem nhạc khí, họ không nói lớn tiếng, thậm chí nghe được tiếng chân voi di chuyển.

Trong khu vườn xoài thậm chí không nghe tiếng hắt hơi, nhưng phần nhiều các vị vua lại thích âm thanh như tiếng ca hát, tiếng những nhạc cụ ….

Do sự yên tịnh này vua Ajātasattu thấy không được thoải mái, và sự nghi ngờ lương y Jīvaka sinh lên trong tâm vua Ajātasattu :

"Jīvaka nói với ta rằng có 1.250 vị Tỳ-khưu trong vườn xoài nhưng ta không hề nghe thấy tiếng hắt hơi, hắn nói dối ta.

Muốn chiếm đoạt ngai vàng nên hắn lừa ta, đưa ta ra khỏi thành, sắp đặt mai phục phía trước và sắp bắt ta.

Hắn có sức mạnh bằng năm con voi, lại đi gần bên cạnh ta. Ta không có người bảo vệ, thậm chí vũ khí hộ thân cũng không có. Thật là nguy hiểm!".

Khi lo sợ như vậy, vua Ajātasattu không thể kềm chế được nên đã thốt ra lời như vậy đối với lương y Jīvaka.

Lương y Jīvaka suy nghĩ: "Đức vua không biết ta, không biết rằng Jīvaka giờ đây không hề có ý nghĩ giết ai cả. Nếu ta không trấn an thì nhà vua sẽ giết ta".

Do vậy, Jīvaka nói lời trấn an vua Ajātasattu :- Thưa Ðại vương, Ngài chớ sợ. tôi không phản Ngài, tôi không lường gạt

Ngài, tôi không nạp Ngài cho kẻ thù.Sau lời trấn an, lương y Jīvaka nói tiếp hai lần:"Thưa Ðại Vương, hãy đi thẳng tới. Thưa Ðại vương hãy đi thẳng tới.Vì sao lương y Jīvaka phải nói hai lần? Vì nói một lần thì điều này

không có tính khẳng định. “Tại chỗ kia trong căn nhà tròn chỗ có những ngọn đèn đang

thắp sáng".Lương y Jīvaka chỉ những ngọn đèn đang cháy trong nhà tròn, như hàm ý

rằng "Thưa Đại vương, kẻ gian không ở nơi có ánh sáng, Ngài hãy an tâm khi đi về phía đó".

Lời nói của lương y Jīvaka đã trấn an vua Ajātasattu.Dứt phần 3 .Dứt chương I.

67

Page 68: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

-0-0-0-0-

68

Page 69: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

CHƯƠNG II.Phần 1.

Giải từ đoạn 160 đến hết đoạn 163.Chánh kinh.

Sāmaññaphalapucchā.(Câu hỏi Sa-môn quả).

160. "Atha kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto yāvatikā nāgassa bhūmi nāgena gantvā, nāgā paccorohitvā pattiko va yena maṇḍalamālassa dvāraṃ.

Lúc bấy giờ, Ajātasattu, con bà Vedehi, vua nước Magadha đi cho đến chỗ voi có thể đi được, rồi xuống voi đi đến cửa căn nhà tròn.

Teṅupasaṃkami, upasaṃkamitvā Jīvakaṃ komārabhaccaṃ etad'avoca: Khi đến nơi liền nói với Jīvaka komārabhacca:"Kahaṃ pana samma Jīvaka Bhagavāti?". "Này Jīvaka thân, Thế Tôn đang ở đâu?""Eso mahārāja Bhagavā."Thưa Ðại vương, vị ấy là Thế Tôn. Eso mahārāja Bhagavā majjhimaṃ thaṃbhaṃ nissayā puratthābhimukho

nissino purakkhato bhikkhusaṅghassāti".Thưa Ðại vương, Thế Tôn ngồi giữa như cột trụ thẳng đứng, mặt hướng

phía Đông, trước mặt chúng Tỳ-khưu. Giải.* “Đất của voi” (nāgassa bhūmi). “Nāgassa bhūmīti” yattha sakkā

hatthiṃ abhirūḷhena gantuṃ, ayaṃ nāgassa bhūmi nāma (At):Nơi voi có thể đi đến cuối cùng (abhirūḷhena), nơi ấy gọi là “đất của

voi”.* “Nơi xuống voi” (nāgā paccorohitvā). “Nāgā pācrohitvāti” vihārassa

bahidvārakoṭṭhske hatthito orohitvā (At):“Nơi xuống voi” là đang ở ngoài cổng chính. Ngay cả khi rời lưng tượng, đặt chân xuống đất ở ngoài cổng chính và

suy nghĩ đến sự tôn nghiêm của Đức Thế Tôn.Chính điều này lại làm cho vua Ajātasattu phát sinh sự sợ hãi.Toàn thân nhà vua toát mồ hôi, y phục đang mặc trên mình gây khó chịu

đến nỗi nhà vua muốn cởi bỏ đi.Đức vua nhớ lại tội lỗi của mình và sự sợ hãi khủng khiếp đã trải qua.Đức vua không thể đi thẳng đến chỗ Đức Thế Tôn mà nắm lấy tay Jīvaka

và đi vòng quanh như thể đang đi thăm tịnh xá để trấn an tâm và nói:

69

Page 70: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

- Này Jīvaka thân, ngươi xây dựng nơi này rất tốt. ngươi xây dựng nơi này rất tốt.

Tán dương tịnh xá cũng là cách trấn an tâm của Đức vua.Tán dương tịnh xá vừa xong, vua Ajātasattu cũng vừa đến cửa căn nhà

tròn.* "Này Jīvaka thân, Thế Tôn ở tại đâu?".Tại sao vua Ajātasattu lại hỏi: "Đức Thế Tôn đang ở đâu?".Có người cho rằng "vì Đức vua không biết mặt Đức Thế Tôn". Họ nói rằng

khi còn trẻ, nhà vua cùng với vua cha đến yết kiến Đức Thế Tôn, nhưng sau đó do kết thân với Devadatta, nên đã giết cha, cho người ám sát Đức Thế Tôn như: Sai cung thủ ám sát Đức Thế Tôn, thả voi Dhanapāla (Hộ tài) (1)

rượt Đức Phật nên không được diện kiến Đức Thế Tôn, vì vậy, nhà vua không nhận ra Đức Thế Tôn.

Thật ra, không phải như vậy, vì Đức Thế Tôn đang ngồi giữa căn nhà tròn với chúng Tỳ-khưu, như vầng trăng tròn với các vì sao.

Với những đại nhân tướng hoàn hảo, Đức Thế Tôn rọi sáng toàn bộ căn nhà tròn với vầng hào quang sáu màu. Ai mà không nhận ra Đức Thế Tôn?

Vua Ajātasattu hỏi điều này theo thói quen kiểu cách, cầu kỳ của “người có quyền lực” (issariyalīlā).

Người thuộc dòng Sát-đế-lỵ, có tính cách cầu kỳ là:"Tuy biết nhưng vẫn hỏi như thể họ không biết". Tại sao?

Để chứng tỏ có uy quyền, có ai dám không trả lời khi Đức vua hỏi đâu.Nghe Đức vua hỏi, lương y Jīvaka nghĩ: "Đức vua đang đứng trước mặt

Đức Thế Tôn mà còn hỏi: "Đức Thế Tôn đang ở đâu?".Ví như người đang đứng trên mặt đất mà còn hỏi "đất ở đâu?", hay như

người đang nhìn lên trời lại hỏi “mặt trăng và mặt trời ở đâu?”, hay như một người đang đứng dưới chân núi Tudi (Sineru) lại hỏi “núi Tu-di ở đâu?”.Ta sẽ chỉ cho nhà vua.

Sau khi đảnh lễ Đức Thế Tôn thật tôn kính, Jīvaka nói với vua Ajaatasattu"vị ấy là Đức Thế Tôn, thưa Đại vương …”.

* “Trước mặt” (purakkhato).Purakkhatoti parivāretvā nisinnassa purato nisinno (At):Trước mặt là “ngồi trước, (chư Tỳ-khưu) ngồi theo sau”.Chánh kinh.161. Atha kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto yena Bhagavā

ten'upasaṅkami. Ajātasattu, con bà Vedehi, vua nước Magadha liền tiến đến chỗ Thế

Tôn, khi đến rồi, vua đứng một bên.

1(?)- Một tên khác của voi Nāḷāgiri.

70

Page 71: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi, ekamantaṃ ṭhito kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto tuṇhībhūtaṃ tuṇhībhūtaṃ bhikkhusaṅghaṃ anuviloketvā rahadam iva vippasanaṃ.

Sau đi đứng một bên, Ajātasattu, con bà Vedehi, vua nước Magadha nhìn khắp chúng Tỳ-khưu đang yên lặng an tịnh như một hồ nước trong

Udānaṃ udānesi: "Iminā me upasamena Udayibhaddo kumāro samannāgato hotu, ye'etarahi upasamena bhikkhusaṅgho samannāgatoti".

Cảm hứng nói rằng:"Mong hoàng tử Udāyibhadda (Ưu-đà-di-bạt-đà) cũng được sự trầm lặng như sự trầm lặng của các vị Tỳ-khưu này vậy".

"Agamā kho tvaṃ mahārāja yathā pemanti?"- "Ðại vương, hình như tâm trí của Ðại vương nặng nhiều về tình thương

thì phải?". "Piyo me bhante Udāyibhaddo kumāro.- "Bạch Thế Tôn, con thương hoàng tử Udāyibhadda rất nhiều. Iminā me bhante upasamena Udāyibhaddo kumāro samanāgato hotu,

yen'etarahi upasamena bhikkhusaṅgho samannāgatoti". Bạch Đức Thế Tôn, con mong rằng hoàng tử Udāyibhadda cũng được sự

trầm lặng như sự trầm lặng của chúng Tỳ-khưu này vậy". Giải:* “Đến chỗ Thế Tôn, khi đến rồi vua đứng một bên (yena Bhagavā

ten'upasaṅkami).Yena Bhagavā ten'upasaṅkamīti yattha Bhagavā tattha gato,

Bhagavato saṅtikaṃ upagatoti attho (At):Nghĩa là “Đức Thế Tôn (ngồi) nơi nào thì đến nơi ấy, đi đến nơi gần Đức

Thế Tôn, nơi thấy rõ mặt (saṅtike) Đức Thế Tôn”.Tức là nơi “không quá gần”, cũng “không quá xa” để thấy rõ mặt Đức

Thế Tôn, đồng thời không là “nơi trực diện với Đức Thế Tôn”.Vì sao không đứng trực diện với Đức Thế Tôn?Khi đứng trực diện là tỏ ra có sự đối kháng, Đức vua đứng một bên là tỏ

thành ý “mong cầu được yết kiến”, đồng thời “biểu lộ ý cung kỉnh Đức Thế Tôn”.

Lại nữa, vào ban đêm có rất nhiều thiên nhân trên hư không đến chiêm ngưỡng Đức Như Lai, khi đứng trước mặt Đức Như Lai sẽ che tầm nhìn của những vị thiên nhân đang chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, các vị ấy phẫn nộ sẽ có nhiều tai hại.

Như vào đêm Đức Thế Tôn sắp viên tịch. Đại Đức Upavāna (vị thị giả trước đây của Đức Thế Tôn) đứng trước mặt Đức Thế Tôn và quạt hầu Ngài. Đức Thế Tôn đã rầy Đại Đức Upavāna(1).

* “Đang yên lặng - đang yên tịnh” (tuṇhībhūtaṃ tuṇhībhūtaṃ).

1(?)-Xem D.iii, kinh Đại viên tịch (Mahāparinibbānasuttanta).

71

Page 72: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

“Tuṇhībhūtaṃ tuṇhībhūtanti yato yato anuviloketi, tato tato tuṇhībhūtamevāti attho (At):

Nghĩa là “nhìn nơi nào, ở đâu cũng đều yên lặng như vậy”.Vua Ajātasattu nhìn chung quanh, thấy chư Tỳ-khưu đang ngồi hoàn toàn

yên lặng, không vị nào cựa quậy tay chân hoặc ho.Tuy có nhà vua, hoàng tộc, 500 cung phi xinh đẹp trên người đầy vật

trang điểm, cùng đông đảo hội chúng đang đứng trước mặt Đức Thế Tôn, nhưng không vị nào nhìn lên. Tất cả chư Tỳ-khưu ngồi yên lặng hướng về Đức Thế Tôn, không hướng về Đức vua, không hướng về hội chúng của Đức vua.

Mặt khác, khi hội chúng của Đức vua thấy Đức vua đi đến gần bên Đức Thế Tôn, tất cả đều đứng yên lặng, không một tiếng ho. Và trong ngôi nhà tròn cũng như bên ngoài “đều yên tịnh”.

Một lần nữa, vua Ajātasattu cảm nhận được sự an tịnh; Đức vua nhìn thấy chư Tỳ-khưu ngồi yên lặng như hồ nước trong không vẩn đục, an tịnh như hồ nước trong không gợn sóng.

Vua Ajātasattu cảm hứng thốt lên:* “Mong hoàng tử Udāyibhadda (Ưu-đà-di-bạt-đà) cũng được sự

trầm lặng như sự trầm lặng của các vị Tỳ-khưu này vậy".Có nghĩa là: "Mong cho hoàng tử cũng có được thân, khẩu, ý thanh tịnh

và có cách an tịnh như các vị Tỳ-khưu này !"Vua Ajātasattu nói như thế không có nghĩa là: "Mong cho hoàng tử xuất

gia Tỳ-khưu và trở nên an tịnh như các vị Tỳ-khưu này".Sở dĩ Đức vua thốt lên như vậy vì: “Khi thấy chúng Tỳ-khưu an tịnh”, Đức

vua chợt nhớ đến Hoàng tử Udayibhadda Đây là đặc điểm tâm lý thường tình của con người, khi thấy được điều gì

tốt đẹp thì nghĩ ngay đến người “mình thương yêu” nhất và mong cho người ấy có được hạnh phúc hay điều tốt đẹp ấy.

Vì sao Đức vua mong cho hoàng tử Udāyibhadda có được sự an tịnh?Đức vua Ajātasattu nói như vậy vì lo sợ.Nhà vua sợ điều gì?Đức vua lo sợ Hoàng tử tạo nên tội đại nghịch như Đức vua là "sẽ giết

cha".Vua Ajātasattu suy nghĩ: "Hoàng tử sẽ hỏi ta "vua cha vẫn còn trẻ, thế thì

Thái Hoàng ở đâu?".Nếu nghe được "Vua cha đã giết Thái Hoàng" thì hoàng tử sẽ nghĩ "vậy ta

cũng sẽ giết vua cha và lên nắm quyền".Do lo sợ như thế, nên Đức vua mong hoàng tử Udāyibhadda “có được sự

an tịnh như chư Tỳ-khưu này vậy”.Cho dù có lo sợ như thế, thực tế về sau hoàng tử Udāyibhadda cũng sát

hại vua Ajātasattu.

72

Page 73: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Trong hoàng tộc này, tội giết vua cha đã lặp lại đến năm đời: Ajātasattu giết vua Bimbīsara, Udāyi giết Ajātasattu, Udāyi bị chính hoàng tử Mahāmuṇḍika sát hại; Mahāmuṇḍika bị hoàng tử Anuruddha giết và Anuruddha bị hoàng tử Nāgadāsa sát hại.

* “Đại vương, hình như tâm trí Đại vương nặng nhiều về tình thương thì phải?”

Bản sớ giải có nêu ra câu hỏi: Tại sao Đức Thế Tôn hỏi trước như vậy?Đáp rằng: Trước khi vua Ajātasattu thốt lên lời cảm hứng thì Đức Thế

Tôn đã biết "Vua Ajātasattu đã đến và đứng im lặng".Ngài quán xét "vua Ajātasattu đang nghĩ gì?".Biết được ý nghĩ của vua Ajātasattu, Đức Thế Tôn suy nghĩ "nhà vua rất

khó mở miệng trước với Như Lai vì đang mang mặc cảm phạm tội, nhà vua nhìn quanh chúng Tỳ-khưu và nhớ tới hoàng tử. Ta sẽ nói trước để tạo duyên cho nhà vua vậy".

Nếu Đức Thế Tôn không lên tiếng trước thì vua Ajātasattu cũng không có cách nào để tác bạch với Đức Thế Tôn.

Do đó, ngay khi vua Ajātasattu thốt lên lời cảm hứng thì Đức Thế Tôn đã hỏi như trên.

Điều này có nghĩa: "Này Đại vương, như nước từ cao nguyên chảy xuống đồng bằng, cũng vậy khi nhìn thấy chúng Tỳ-khưu an tịnh thì tình thương của Đại vương hình như hướng về con mình".

Ngay sau đó vua Ajātasattu vô cùng xúc động, nghĩ rằng: “Ôi, tuyệt vời làm sao ân đức của Đức Thế Tôn! Không ai tạo những tội ác như ta đã làm với Đức Thế Tôn.

Ta đã sát hại vị đại thí chủ (vua Bimbīsara) của Ngài; ta đã chấp nhận yêu cầu của Devadatta, cho người đi sát hại Ngài; ta đã thả voi Nāḷāgiri rượt đuổi Ngài.

Đức Thế Tôn không hề nói về một tội ác nào của ta, ngay khi Ngài có thể làm thế, giọng nói của Ngài thật êm dịu, không pha ý hiềm hận nào cả.

Ôi, Đức Thế Tôn có đầy đủ năm đặc tướng của vị Thánh A-la-hán(1). Ta không nên từ bỏ vị thầy như thế này, không nên tìm vị thầy nào khác".

Ngập tràn hoan hỷ với Đức Thế Tôn, vua Ajātasattu nói: "Bạch Thế Tôn, con thương hoàng tử Udāyibhadda rất nhiều …".

Chánh kinh.

1(?) - Hậu sớ giải có nêu ra một đoạn dài của Mahāniddesa (Đại xiển minh) nói về năm đặc tướng an tịnh của vị Thánh A-la-hán. Tóm gọn như sau:- Vị Thánh A-la-hán an tịnh vì Ngài đã quân bình tâm trước cảnh trần.- Vị Thánh A-la-hán an tịnh vì tâm của Ngài thoát khỏi những ô nhiễm.- Vị Thánh A-la-hán an tịnh vì Ngài đã thoát khỏi sinh tử luân hồi.- Vị Thánh A-la-hán an tịnh vì Ngài đã chứng ngộ lý Tứ đế.- Vị Thánh A-la-hán an tịnh vì Ngài đã thành tựu tất cả giới hạnh.

73

Page 74: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

162. "Atha kho rāja Māgadho Ajātasattu Vedehiputto Bhagavantaṃ abhivādetvā bhikkhusaṅghassa añjaliṃ paṇāmetvā ekaṃ antaṃ nisīdi.

"Lúc bấy giờ Ajātasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha, đảnh lễ Thế Tôn, chấp tay vái chào chúng Tỳ-khưu, và ngồi xuống một bên.

Ekaṃ antaṃ nisinno kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto Bhagavantaṃ etad'avoca:

Sau khi ngồi xuống một bên, Ajātasattu, con bà Vedehi, vua nước Magadha bạch Thế Tôn:

"Puccheyyām'ahaṃ bhante Bhagavantaṃ kañcid'eva desaṃ, sace me Bhagavā okāsaṃ karoti pañhassa veyyākaraṇāyāti.

- Bạch Thế Tôn, con muốn hỏi Thế Tôn một vấn đề này, nếu Ngài cho phép con hỏi.

"Puccha mahārāja yad'ākaṅkhasīti".- Ðại vương cứ hỏi tùy theo ý muốn của Ðại vương".Giải.* “Chấp tay vái chào chúng Tỳ-khưu” (bhikkhusaṅghassa añjaliṃ

paṇāmetvā) .Bhikkhusaṅghassa añjaliṃ paṇāmetvāti evaṃ kirassa ahosi

Bhagavantaṃ vanditvā itocito ca gantvā bhikkhusaṅghaṃ vandantena ca bhagavā piṭṭhito kātabbo hoti, garukāropi cesa nahoti (At):

Khi đã “cúi mình” (itocito) đảnh lễ Đức Thế Tôn đúng cách, (vị ấy) hướng đến đảnh lể chư Tỳ-khưu phía sau lưng Đức Thế Tôn, đó là việc cần làm, là việc đáng làm.

Đảnh lễ có 6 cách:1- Chấp tay quỳ một chân như Phạm thiên (abhivāda). 2- Chấp tay quỳ 2 chân (vandanākāra).3- Cúi đầu (nipaccanākāra).4- Chấp tay lại (añjalikamma)5- Chấp tay lại xá xuống (namakāra).6- Quỳ mọp xuống đảnh lễ (namasakāra)(1).Trong cách “quỳ mọp xuống” lại có 2 cách:- Năm chi chạm đất: Là đầu, 2 khuỷu tay và 2 đầu gối chạm đất.- Không đủ 5 chi chạm đất.Đức vua Ajātasattu đảnh lễ Đức Thế Tôn bằng cách “cúi mình xuống”

(abhivādeti), đối với chư Tỳ-khưu chỉ chấp tay lại (añjali).Vì sao vậy?Đức vua hành động như vậy vì nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn xuất thân từ

dòng Sát-đế-lỵ, Ngài là trưởng thượng, là bậc an tinh”.

1(?)- Đức Bưu Chơn (s) – Kho tàng pháp bảo, pháp 6 chi.

74

Page 75: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Hiện tại, hội chúng của ta đang đứng, nếu ta quỳ xuống thì hội chúng của ta cũng quỳ xuống, nhưng vậy sẽ làm kinh động sự an tịnh. Vậy ta hãy cúi mình đảnh lễ Đức Thế Tôn để bày tỏ sự tôn kính đối với Ngài, đồng tthời duy trì được sự an tịnh”.

Do đó, Đức vua chỉ “cúi mình” đảnh lễ Đức Thế Tôn.Đối với chư Tỳ- khưu, Đức vua suy nghĩ “các Ngài là đệ tử của Đức Thế

Tôn, ta không thể đảnh lễ các Ngài như đảnh lễ Đức Thế Tôn, nhưng ta cũng bày tỏ sự cung kính các Ngài qua sự an tịnh mà các Ngài đạt được, bằng cách “chấp tay hướng về các Ngài”.

Đức Thế Tôn biết vua Ajātasattu muốn tìm hiểu pháp an tinh, khi Đức vua ngỏ ý muốn hỏi, Đức Thế Tôn dạy:

* “Đại vương cứ hỏi tùy theo ý muốn” (puccha mahārāja yad'ākaṅkhasi).

“Hỏi tùy theo ý muốn”. Nghĩa là “trả lời câu hỏi không phải là gánh nặng đối với Như Lai”.

Hay: “Như lai sẽ trả lời mọi câu hỏi của Đại vương”.Lại nữa, câu nói "cứ hỏi tùy theo ý muốn". Lời nói này không phổ biến

ngay cả với các vị Phật Độc Giác, các vị Thượng thủ thinh văn hay các vị Thánh Đại đệ tử.

Các vị ấy sẽ nói: "Cứ hỏi tùy theo ý muốn, khi nghe xong ta sẽ (cố gắng) trả lời".

Chỉ có Đức Chánh giác mới nói "cứ hỏi tùy theo ý muốn". Vì sao?Vì Đức Thế Tôn biết tất cả các pháp, biết rõ quyền nào mạnh, quyền nào

yếu, phiền não nào nặng, phiền não nào nhẹ của đối tượng đang hỏi.Phật Độc giác, Thánh thượng thủ thinh văn hay các vị Thánh Đại đệ tử

không có trí này.Lại nữa, "cứ hỏi tùy theo ý muốn " là câu nói "không hạn chế".Tức là ngay cả đại chúng, vua chúa, chư thiên, Sa-môn, Bà-la-môn tháp

tùng với Đức vua đều có thể đặt câu hỏi với bậc Giác ngộ thông qua vua Ajātasattu.

Chánh kinh.163. "Yathā nu kho imāni bhante puthusippāyatanāni seyyathīdaṃ

hatthīrohā assārohā ratthikā dhanuggahā celakā calakā piṇḍadāvikā uggā rājaputtā pakkhandino mahānāgā sūrā cammayodhino dāsakaputtā āḷārikā kappakā nahāpakā sudā mālākārā rajakā pesakāra naḷakārā kumbhakārā gaṇakā muddikā yāni vā pan'aññāni pi evaṃ gatāni puthusippāyatanāni – te diṭṭh' eva dhamme sandiṭṭhikaṃ sippaphalaṃ upajīvanti.

Bạch Đức Thế Tôn, cũng như các công nghệ chức nghiệp này, như điều tượng sư, điều mã sư, xa thuật sư, quân thuật sư, quân kỳ binh, nguyên súy, chiến sĩ, thượng sĩ quan, thám tử, dõng sĩ can đảm như voi chúa, anh hùng, trang giáp binh, nô lệ xuất thân, hỏa đầu quân, thợ hớt tóc, người hầu tắm, thợ làm bánh, nhà làm vòng hoa, thợ giặt, thợ dệt, nhà làm thúng rổ, thợ đồ gốm, nhà toán số, nhà ấn bản và các công nghệ chức nghiệp

75

Page 76: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

khác, chúng hưởng được kết quả thiết thực hiện tại từ công nghiệp chức nghiệp của chúng.

Te, tena attānaṃ sukhenti pīneṇti.Chúng giúp cho tự thân được sống an lạc, hạnh phúc. Mātāpitaro sukhenti pīṇenti.Chúng giúp cho cha mẹ được sống an lạc, hạnh phúc.Puttadāraṃ sukhenti pīṇenti.Chúng giúp cho vợ con được sống an lạc hạnh phúc.Mittāmacce sukhenti pīṇenti. Chúng giúp cho bạn bè được sống an lạc hạnh phúc.Samaṇabrahmaṇesu uddhaggikaṃ dakkhiṇaṃ patiṭṭhāpenti sovaggikaṃ

sukhavipākaṃ saggasamvattanikaṃ.Chúng dâng các vật cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, sự cúng dường

này có ảnh hưởng đến đời sau, liên hệ đến thiên giới, thọ hưởng phước báo an lạc, thác sanh lên cõi trời.

Sakkā nu kho bhante evaṃ evaṃ diṭṭh'eva dhamme sandiṭṭikaṃ sāmaññaphalaṃ paññāpetum ti?".

Bạch Thế Tôn, Ngài có thể chỉ cho rõ ràng kết quả thiết thực, hiện tại của hạnh Sa-môn chăng?

Giải: Được Đức Thế Tôn khuyến khích đặt câu hỏi với bậc Giác Ngộ, vua

Ajātasattu hỏi về quả báo của Sa-môn hạnh.Mục đích trong câu hỏi của vua Ajātasattu là: "Bạch Thế Tôn, Ngài có thể

chỉ ra được bất kỳ quả thiết thực của hạnh Sa-môn giống như quả thiết thực của nhiều nghề thiện xảo trên thế gian mà một số người có được?".

Do đó khi nói về những người sống bằng những nghề thiện xảo này, vua Ajātasattu đề cập đến nhiều nghề khác nhau.

Ngoại trừ hai cách hỏi có tính "dẫn nhập" như trên, có 5 cách hỏi khác là:a- Hỏi để thấy, để biết điều mình chưa hiễu, chưa thấy (adiṭṭhajotanā

pucchā).b- Hỏi điều mình đã biết, cho càng thêm rõ (diṭṭhasandanā pucchā).c- Hỏi để dứt bỏ hoài nghi (vimaticchedanā pucchā).d- Hỏi để người trả lời xác nhận ý kiến mình (anumati pucchā).e- Hỏi với ý nghĩ "nếu người không biết thì mình trả lời" (kathetukamyatā

pucchā) (1).Câu hỏi của vua Ajātasattu là "hỏi để biết điều chưa biết".* "Quả của Sa-môn hạnh” (samaññaphala).

1(?)- Đại Đức Bửu Chơn (s). Kho tàng pháp bảo.

76

Page 77: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Là quả báo thiết thực của sự an tịnh tâm, đây là mục đích mà vua Ajātasattu muốn biết, vì Đức vua luôn lo sợ.

Lại nữa, Đức vua băn khoăn vì sao Devadatta là vị Sa-môn lại chống đối với Đức Phật? Như vậy, gọi là Sa-môn hạnh thì phải như thế nào?

Sau khi nghe Đức Thế Tôn giảng về quả thiết thực của hạnh Sa-môn, đức vua đã hoan hỷ.

Sau khi sám hối tội lỗi để an tịnh tâm, đức vua không còn lo sợ, “giấc ngủ” không còn là “nỗi kinh hoàng".

Vị có được sự an tịnh, vị ấy gọi là "bậc Sa-môn" hay "bậc xuất gia".Trong ý nghĩa mở rộng, thì Sa-môn hạnh là "con đường trung đạo" và

quả Sa-môn chính là bốn Thánh quả: Dự lưu, Nhất lai, Bất lai và A-la-hán.“Này các Tỳ-khưu, Ta sẽ giảng cho các ngươi về Sa-môn hạnh và quả Sa-

môn hạnh. Hãy lắng nghe.Và này các Tỳ-khưu, thế nào là Sa-môn hạnh?. Chính là Thánh đạo tám

ngành này. Tức là chánh kiến…. chánh định. Này các Tỳ-khưu, đây gọi là Sa-môn hạnh.

Và này các Tỳ-khưu, thế nào là quả Sa-môn hạnh? Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả, A-la-hán quả. Này các Tỳ-khưu, đây gọi là quả Sa-môn hạnh".(1)

Mục đích Sa-môn hạnh là gì?"Này các Tỳ-khưu, thế nào là mục đích Sa-môn hạnh? Này các Tỳ-khưu,

đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si. Đây gọi là mục đích Sa-môn hạnh (sāmannattho)"(sđd).

Vì vua Ajātasattu không biết những điều này. Do vậy, vua Ajātasattu đưa ra những quả thiết thực của người hành các loại nghề.

“Những quả thiết thực của các ngành nghề là gì”?Là sống được an lạc, giúp cho cha mẹ, vợ con, bằng hữu có được sự an

lạc, cúng dường đến các Sa-môn, Bà-la-môn để tạo phước lành trong tương lai.

Thế nào là “sự an lạc” ?Đó chính là thọ hưởng bốn món vật dụng: Vật thực, y phục, trú xứ và

dược phẩm một cách đầy đủ.“Tự mình an lạc” là “thọ dụng bốn món vật dụng đầy đủ”. Ngoài ra,

còn phải tránh xa “cửa vào bại vong”. “Người đắm say nữ nhân. Đắm say rượu cờ bạc.Hoang phí mọi lợi đắc. Chính cửa vào bại vong”.(2)

Người sống an lạc theo phương thức trên sẽ làm tăng trưởng sự sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh, tuệ và tài sản.

Và điều này cũng được xem là “quả Sa-môn thứ nhất”.1(?)- S.v, 25. 2(?)- Sn.18. HT. Thích Minh Châu (d), kinh Bại vong (Parābhavasuttaṃ) –kệ số 106.

77

Page 78: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Việc phụng dưỡng cha mẹ sống được an lạc, cũng không ngoài bốn món vật dụng kể trên, phát sinh từ những nghiệp nghệ đã nêu trên.

Ngay trong hiện tại, người phụng dưỡng mẹ cha nhận được quả an lành với nhiều hình thức như: Được khen là bậc hiếu hạnh, làm cho mẹ cha hài lòng và chính người ấy cũng tự hoan hỷ …. Như thế nào?

- Người ấy nghĩ rằng: “Mẹ cha đã khó nhọc nuôi dưỡng ta khôn lớn bằng tấm lòng từ bi, không ai có ân đức với ta như mẹ cha. Khi ta phụng dưỡng mẹ cha, khiến các vị ấy cũng hân hoan rằng: “Chúng ta có được người con tốt, hiếu hạnh…”.

- Nếu cha mẹ có tài sản để lại, cũng hài lòng vì “ta xứng đáng thừa hưởng di sản ấy”; nếu không có di sản, các vị cũng hài lòng tán dương đến ta là “người con hiếu thảo”…

Người phụng dưỡng cha mẹ được an lạc là “người tri ân và báo ân (kataññūkatavedī)”. Người hiếu hạnh thường bình an trước những hiểm họa.

Trong Maṅgaladīpanī (Sớ giải kinh Hạnh phúc) có ghi:Người phụng dưỡng cha mẹ có được quả an vui là:- Bình an trong hiểm nạn.Cho dù bị tên tẩm độc bắn phải cũng vô sự, như Đức Bồ-tát Suvaṇṇa.Gặp dạ xoa cũng vô sự, như thanh niên SotaAn toàn trong vòng vây của kẻ nghịch, hay rơi vào cạm bẩy cũng thoát

ra được, như nai chúa Nandiya (nadiyamigarāja). Dù cho có mắc bẫy lưới cũng an toàn, như Kên kên chúa hay vẹt chúa

mắc bẫy thợ săn.Dù bị xiềng xích cũng thoát ra được, như voi chúa Chaddanta … Các mẫu truyện trên có ghi trong Jātaka Atthakathā (câu chuyện Tiền

thân) hay trong Maṅgaladīpanī - Được bậc trí khen ngợi.- An vui trong hiện tại.Người phụng dưỡng mẹ cha, được an vui trong đời này.- Chư thiên hằng hộ trì người ấy.Nhân loại và chư thiên thường chăm nom người hiếu hạnh trong những

lúc ốm đau. Nhưng người đời ít biết đến điều này, họ chỉ nghĩ “ta lành bịnh là nhờ thầy thuốc và thuốc”, còn do năng lực chư thiên giúp đở thì không biết, vì có ai thấy đâu.

Chỉ có bậc trí khi suy xét lý nhân quả cùng công hạnh “phụng dưỡng mẹ cha” mới hiểu được điều này.

Gặp được thầy giỏi, tìm được thuốc hay đúng với chứng bịnh cần phải điều trị, đó là do quả lành của phước báu, là quả lành của việc “phụng dưỡng mẹ, cha” hay từ quả lành của những phước thiện khác, nào phải là “ngẫu nhiên”.

78

Page 79: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

- Sau khi mệnh chung sinh về thiên giới.Có Phật ngôn :Ānanda ca pamodo ca sadā hasitakīḷitaṃ:Hân hoan, vui thích, an lạc hằng có đến người “phụng dưỡng mẹ cha”.Người không phụng dưỡng mẹ cha là kẻ bất hiếu, là kẻ vô ân.Người ấy mệnh chung hẳn phải rơi vào địa ngục, đọa xứ.Trong hiện tại thì: Tài sản đang có bị tiêu hoại.Ngoài ra còn gặt hái nhiều tai họa khác.* “Giúp vợ, con, và bằng hữu sống được an lạc”. Về vật chất được an lạc, cũng chính là bốn món vật dụng như trên.Khi những người ấy sống được an lạc, thì mình cũng được an lạc.Vì những người này sẽ giúp ích mình trong một vài phương diện nào đó

(khi mình gặp khó khăn, gặp phải một vài vấn đề mà chính mình không thể giải quyết được).

* “Cúng dường đến các Sa-môn, Bà-la-môn”. Là chôn của để dành qua bốn món vật dụng.

Ngoài ra, nhờ đó các vị Sa-môn, Bà-la-môn không phải vất vả tìm kiếm những nhu cầu tối thiểu cho đời sống, các Ngài có thời gian trau dồi việc học tập, nghiên cứu Phật ngôn, thực hành những pháp trợ đạo, các Ngài sẽ làm tăng trưởng đời sống thiện hạnh, chánh hạnh.

Qua các Ngài, lời dạy thâm sâu, ý nghĩa vi diệu của các Đấng Như lai sẽ được lan rộng, mang đến vô số lợi ích cho những ai đang có niềm tin, làm sinh khởi niềm tin cho những ai chưa có niềm tin.

Dứt phần 1.Phần 2.

Chủ thuyết của sáu vị tôn chủ dị giáo.Giải từ đoạn 164 đến hết đoạn 181.

Chánh kinh.164. "Abhijānāsi no tvaṃ mahārāja imaṃ pañhaṃ aññe

samaṇabrahmaṇe pucchitthoti? Này Ðại vương, Ðại vương có nhớ đã hỏi câu hỏi ấy với các vị Sa-môn,

Bà-la-môn nào khác chăng?"Abhijānām'ahaṃ bhante imaṃ pañhaṃ aññe samaṇa Brahmaṇe

pucchitā ti'.- Bạch Thế Tôn, con nhớ đã hỏi câu hỏi ấy với Sa-môn, Bà-la-môn khác."Yathā kataṃ pana te mahārāja vyākaṃsu, sace te agaru bhāsassūti. - Này Ðại vương, hãy nói lại cho nghe, các vị ấy đã trả lời với Ðại vương

như thế nào, nếu Ðại vương không thấy gì trở ngại. "Na kho me bhante garu yatth'assa Bhagavā nisinno Bhagavantaruupā

vā ti".

79

Page 80: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

- Bạch Thế Tôn, con không thấy gì trở ngại đối với Đức Thế Tôn và các bậc như Đức Thế Tôn.

Tenahi, mahārāja, bhāsassūti- Vậy Ðại vương hãy nói đi.Giải:Vì sao Đức Thế Tôn không trả lời ngay câu hỏi của vua Ajātasattu, mà

Ngài lại hỏi:* "Này đại vương, đại vương có nhớ đã hỏi câu hỏi ấy với các vị

Sa-môn, Bàlamôn nào khác chăng?".Bản Sớ giải có giải thích: Đức Thế Tôn không trả lời ngay câu hỏi vì Ngài

nghĩ: "Những đại thần đến đây, có các đồ đệ của các giáo chủ ngoại giáo.Nếu Ta nói về quả báo của Sa-môn hạnh, họ sẽ chen vào tán thán ân đức

của thầy mình, cắt ngang lời giảng của Như lai.Lại nữa, khi Như lai chỉ ra những tư tưởng sai lầm của các giáo thuyết

đương thời, thì họ sẽ phản đối: "Đại vương của chúng ta đến đây với tâm mong nghe được quả báo thiết thực của hạnh Sa-môn, thế mà Sa-môn Gotama chỉ nói về sự khác biệt giữa các chủ thuyết".

Khi đó họ sẽ không chú tâm lắng nghe, vì không chú tâm lắng nghe họ sẽ không nhận thức rõ quan kiến sai lầm của các giáo thuyết dị giáo, đồng thời họ sẽ cho rằng: "Sa-môn Gotama công kích chúng ta".

Nhưng nếu vua Ajātasattu nói thì họ không thể phản đối, vì đó là vị lãnh đạo của họ, họ phải nghe vua Ajātasattu nói, như người phải đi theo vị lãnh đạo của mình.

Vậy thì ta sẽ để cho vua Ajātasattu giải thích về những chủ thuyết của 6 tôn chủ dị giáo".

Để chuyển việc này cho vua Ajātasattu, Đức Thế Tôn hỏi:"Này đại vương, đại vương có nhớ đã hỏi câu hỏi ấy với các vị Sa-môn,

Bà-la-môn nào khác chăng?".* "Không có gì trở ngại cho con, bạch Đức Thế Tôn"."Không có gì trở ngại cho con". Hàm ý của vua Ajātasattu trong câu này là:- Sự trở ngại chỉ có, khi sự kiện không đúng với sự thật (nhưng sự kiện

đúng sự thật như lời con trình bày, nên không có gì trở ngại với con).- Sự trở ngại chỉ có với người không uyên bác, người không uyên bác có

thể phát biểu không đúng theo từng chữ, từng lời. Người ấy có thể mắc phải sai lầm khi phát biểu. (nhưng con là người uyên bác, nên điều này không trở ngại đối với con).

- Sự trở ngại chỉ có, khi phát biểu trước những người không uyên bác, họ có thể hiểu sai qua từng chữ, từng lời, nhưng sẽ không trở ngại trước những người uyên bác.

80

Page 81: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Bậc thông thái chân thật sẽ hiểu rõ từng chữ, từng lời, sẽ tán dương những lời nói đúng chân lý và khi có vấn đề được nói sai, hiểu sai chân lý thì vị ấy sẽ sửa chữa lại. Không có ai thông thái chân thật sánh bằng Đức Thế Tôn".

* "Vậy Đại vương hãy nói đi" (tenahi, mahārāja, bhāsassūti).Vì sao Đức Thế Tôn khuyến khích vua Ajātasattu?Vì rằng, trước khi viếng thăm Đức Thế Tôn, các vị đại thần (trừ lương y

Jīvaka có tán thán vị giáo chủ của mình đang hộ độ và có đề nghị vua Ajātasattu đến viếng thăm, nhưng vua Ajātasattu bỏ qua, chỉ chấp nhận lời của lương y Jīvaka.

Do đó, trong nhóm các đại thần tùy tùng, tuy phải đi theo Đức vua vì mệnh lệnh, nhưng lòng "không vui", cho rằng Đức vua thiên vị.

Nay nghe Đức vua trình bày "đã có viếng thăm các vị giáo chủ ấy", và nhà vua đã thất vọng vì "câu hỏi một đàng, lời đáp nẻo khác".

Khi "Đức vua chấp nhận lời của lương y Jīvaka" họ sẽ hiểu rằng "không phải Đức vua thiên vị lương y Jīvaka mà điều này là hợp lý",

Đồng thời, khi nghe nhà vua trình bày chủ thuyết của sáu vị tôn chủ, những người có trí sẽ nhận ra tà kiến trong các chủ thuyết ấy, đó là nền tảng dẫn đến "sự chú tâm nghe pháp của Đức Như Lai", và khả năng chứng đạt đạo quả sẽ có đến hội chúng ấy.

Những đoạn kinh văn tiếp theo, vua Ajātasattu có tường thuật "đã đến hỏi quả báo thiết thực của Sa-môn hạnh nơi 6 tôn chủ dị giáo".

Chánh kinh.Pūraṇa kassapa vādo.

(Chủ thuyết của Pūraṇa kassapa).165. "Ekamidāhaṃ, bhante, samayaṃ yena Pūraṇo kassapo

tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā Pūraṇena kassapena saddhiṃ sammodiṃ. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃ.

"Bạch Thế Tôn, một thời con đến Pūrana kassapa, khi đến nơi, con nói lên những lời đón chào, chúc tụng thân hữu và xã giao với Pūrana kassapa và ngồi xuống một bên.

Ekamantaṃ nisinno kho ahaṃ, bhante, Pūraṇaṃ kassapaṃ etadavocaṃ: Yathā nu kho imāni, bho kassapa, puthusippāyatanāni, seyyathidam-hatthārohā assārohā rathikā dhanuggahā celakā calakā piṇḍadāyakā uggā rājaputtā pakkhandino mahānāgā sūrā cammayodhino dāsikaputtā āḷārikā kappakā nhāpakā sūdā mālākārā rajakā pesakārā naḷakārā kumbhakārā gaṇakā muddikā, yāni vā panaññānipi evaṃgatāni puthusippāyatanāni-te diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sippaphalaṃ upajīvanti.

Te tena attānaṃ sukhenti pīṇenti, mātāpitaro sukhenti pīṇenti, puttadāraṃ sukhenti pīṇenti, mittāmacce sukhenti pīṇenti, samaṇabrāhmaṇesu uddhaggikaṃ dakkhiṇaṃ patiṭṭhapenti sovaggikaṃ sukhavipākaṃ saggasaṃvattanikaṃ.

81

Page 82: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Sau khi ngồi xuống một bên, con nói với Pūraṇa kassapa: "Cũng như các công nghệ chức nghiệp này, như điều tượng sư, điều mã sư… (giống đoạn 14)… ; chúng dâng các vật cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, sự cúng dường này có ảnh hưởng đến đời sau, liên hệ đến thiên giới, thọ hưởng phước báo an lạc, thác sanh lên cõi trời

Sakkā nu kho, bho Kassapa, evameva diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññapetun 'ti?"

Bạch Ngài Kassapa, Ngài có thể cho biết kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn chăng?"

166. "Evaṃ vutte, bhante, Pūraṇo kassapo maṃ etadavoca:Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, Pūraṇa kassapa đã nói với con:Karoto kho, mahārāja, kārayato, chindato chedāpayato. Này Ðại vương, tự làm hay khiến người làm, chém giết hay khiến người

chém giết.Pacato pācāpayato, socayato, socāpayato. Đốt nấu hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây

phiền muộn. Kilamato kilamāpayato, phandato phandāpayato.Gây áo não hay khiến người gây áo não, tự mình gây sợ hãi hay khiến

người gây sợ hãi.Pāṇamatipātāpayato, adinnaṃ ādiyato, sandhiṃ chindato,

nillopaṃharato, ekāgārikaṃ karoto, paripanthe tiṭṭhato, paradāraṃ gacchato, musā bhaṇato, karoto na karīyati pāpaṃ.

Sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người, nói láo, hành động như vậy không có tội ác gì.

Khurapariyantena cepi cakkena yo imissā pathaviyā pāṇe ekaṃ maṃsakhalaṃ ekaṃ maṃsapuñjaṃ kareyya, natthi tatonidānaṃ pāpaṃ, natthi pāpassa āgamo.

Nếu lấy một bánh xe sắc bén giết hại tất cả chúng sanh trên cõi đất thành một đống thịt, thành một chồng chịt, cũng không vì vậy mà có tội ác, mà gây ra tội ác.

Dakkhiṇaṃ cepi gaṅgāya tīraṃ gaccheyya hananto ghātento chindanto chedāpento pacanto pācāpento, natthi tatonidānaṃ pāpaṃ, natthi pāpassa āgamo.

Nếu có người đi trên bờ phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu, cũng không vì vậy mà có tội ác, mà gây ra tội ác.

Uttarañcepi gaṅgāya tīraṃ gaccheyya dadanto dāpento yajanto yajāpento, natthi tatonidānaṃ puññaṃ, natthi puññassa āgamo. Dānena damena saṃyamena saccavajjena natthi puññaṃ, natthi puññassa āgamo'ti.

82

Page 83: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ, cũng không vì vậy mà có phước báo".

Itthaṃ kho me, bhante, Pūraṇo kassapo sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno akiriyaṃ byākāsi.

Bạch Thế Tôn, khi được hỏi về kết quả hiện tại thiết thực của hạnh Sa-môn, Pūraṇa kassapa đã trả lời với thuyết vô nghiệp.

Seyyathāpi, bhante, ambaṃ vā puṭṭho labujaṃ byākareyya, labujaṃ vā puṭṭho ambaṃ byākareyya, evameva kho me, bhante, Pūraṇo kassapo sandiṭṭhikaṃ sāmañÑaphalaṃ puṭṭho samāno akiriyaṃ byākāsi.

Bạch Thế Tôn, cũng như hỏi về trái xoài lại trả lời về trái mít, hoặc hỏi về trái mít lại trả lời về trái xoài; cũng vậy, Bạch Thế Tôn, khi được hỏi về kết quả hiện tại thiết thực của hạnh Sa-môn, Puraṇa kassapa đã trả lời với thuyết vô nghiệp.

Tassa mayhaṃ, bhante etadahosi- kathañhi nāma mādiso samanaṃ vā brāhmanṃ vā vijite vasantaṃ apasādetabbaṃ maññeyā'ti.

Bạch Thế Tôn, con nghĩ: "Làm sao một người như con lại có thể làm một vị Sa-môn hay Bà-la-môn ở trong nước con không được vui lòng?".

So kho ahaṃ, bhante, Pūraṇassa kassapassa bhāsitaṃ neva abhinandiṃ nappaṭikkosiṃ.

Vì vậy bạch Thế Tôn, con không tán thán, cũng không cật nạn lời nói của Pūrana kassapa.

Anabhinanditvā appaṭikositvā anatta mano, anattamanavācaṃ anicchāretvā, tameva vācaṃ anuggaṇhanto anikkujjanto uṭṭhāyā sanā pakkamiṃ".

Không tán thán, không cật nạn, dầu không mãn nguyện cũng không thốt ra lời bất mãn, không công nhận cũng như không bác bỏ, con từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.(1)

Giải. Lời giảng của Pūraṇa kassapa có thể tóm gọn là thuyết phi nghiệp

(akiriyavāda).Theo lời giảng của Pūraṇa kassapa trong Chánh kinh thì "tất cả mọi hành

động gọi là tội ác, thật ra không có tội chi cả (n'atthi pāpassa āgamo).Những hành động gọi là phước", thật ra chẳng có phước chi cả (n'atthi

puññassa āgamo)".Theo bản Sớ giải thì:Pūraṇa kassapa giải thích "ngay cả khi một người làm việc gì đó với ý

nghĩ: "Ta đang làm điều ác", thì tội ác không có. Vì "cái tội ác đó", đơn giản chỉ là ý nghĩ mà thôi.

1(?)- Vua A-xà-thế tường thuật với Đức Thế Tôn về sự viếng thăm 6 Giáo chủ dị giáo, đoạn đầu và đoạn cuối tương tự nhau, chỉ thay đổi chút ít chi tiết. Nên chúng tôi chỉ nêu dẫn phần này là tiêu biểu, những phần sau như Makkhali Gosāla, Ajita Kesakambala… chỉ trình dẫn lời giảng của vị ấy mà thôi. Đọc giả có thể tham khảo bản kinh do Hòa thượng Thích Minh Châu đã dịch.

83

Page 84: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Hậu sớ giải có giải thích thêm: Với ý nghĩ "ta đang làm điều ác", theo đó Pūraṇa kassapa cho rằng "đó chỉ là sự hiện diện của ý thức", nó chẳng liên quan gì đến "hành động".

Rõ ràng "người có ý nghĩ sát sanh, ý nghĩ này không thể làm việc sát sanh", hành động sát sanh là khác, ý nghĩ sát sanh là khác.

Pūraṇa kassapa còn nêu ra "thậm chí khi làm ác mà không có ý nghĩ "ta đang làm ác" (tức là không có sự hiện diện của ý thức) thì cũng "không có tội chi".

Sau khi "làm ác", có ý nghĩ "ta đã làm ác" thì sự đã làm ác cũng vô tội, bởi vì không thể khuấy động lại những gì mà trước đó đã diệt mất.

Các đối thủ chống đối lại học thuyết của Pūraṇa kassapa và đưa ra câu hỏi: “Nếu không có tội ác, thì vì sao gọi chúng sinnh làm ác?

Pūraṇa kassapa trả lời: "Đơn giản, đó chỉ là ý nghĩ mà thôi, mà ý nghĩ thì không thể tạo tội ác".

Hậu sớ giải có giải thích: Theo “thuyết phi nghiệp” của Pūraṇa kassapa, thì điều này có nghĩa là: "Gây hại và làm tổn thương chúng sinh khác không ảnh hưởng đến tự ngã vì tự ngã là trường tồn và bất biến”.

Một cơ thể không có ý thức cũng giống như một khúc gỗ vì vậy mà ngay cả khi nó bị hủy diệt thì tội ác cũng không xảy ra".

Tức là, Pūraṇa kassapa phân tích chúng sinh có 2 phần: Vật chất và tinh thần.

Tinh thần không thể tạo tội, sự tạo tội chỉ có do thân hay ngữ; thân hay ngữ là sắc pháp (vật chất), mà vật chất như khúc gỗ vì có tính vô tri.

Vật chất này chạm vào loại vật chất khác hủy hoại vật chất kia hay bị vật chất kia hủy hoại, tất cả đều "không phải tội ác".

Ví như dao chém vào gỗ, dao bị gẫy hay gỗ bị hư, đều "không phải là tội ác".

Tương tự như vậy, loại vật chất này giúp cho vật chất kia tăng trưởng, không phải là phước, ví như nước tưới rau làm cho rau xinh tốt.

Xét cho cùng "loại tà kiến mà theo chủ thuyết củaPūraṇa kassapa" chính là thường kiến, cho rằng "tự ngã bất khả hư hoại".

*Không có tội ác; không có phước"(n'atthi pāpassa āgamo; n' atthi puññassa āgamo).

Chữ Āgama là xảy ra, khởi lên.Hậu sớ giải có giải thích: Khi một điều gì diễn tiến thì trong chuỗi tâm của

người đó có một tác nhân khởi lên (là tâm sở Tư – Ns) để tạo ra kết quả, đó là āgama.

Do tuyên bố học thuyết "phi nghiệp", đã không có nghiệp thì làm sao có quả?

Nên Pūraṇa kassapa tuyên bố "không có tội ác, không có phước báu".Đã không có "quả" thì làm sao Pūraṇa kassapa có thể giải thích "quả Sa-

môn hạnh" theo câu hỏi của vua Ajātasattu.

84

Page 85: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Nên Pūraṇa kassapa trả lời với ý rằng “Thưa Đại vương, không hề có quả Sa-môn hạnh”.

Điều này đã cho thấy Pūraṇa kassapa phản đối nghiệp đồng nghĩa phản đối cả quả.

Và những ai cho rằng "có một tự ngã thường hằng", xem như phản đối cả nghiệp lẫn quả của nghiệp.

Vua Ajātasattu đã nêu ra những quả thiết thực được thấy trước mắt, nhưng Pūraṇa kassapa lại giải thích "không có quả", nên đức vua nói "hỏi về trái xoài lại trả lời về trái mít, hoặc hỏi về trái mít lại trả lời về trái xoài".

Chánh kinh .Makkhali gosāla vādo.

(Chủ thuyết của Makkhali gosāla)167. “"Ekamidāhaṃ, bhante, samayaṃ yena Makkhali gosālo

tenupasaṅkamiṃ, upasaṅkamitvā Makkhalinā gosālena saddhiṃ sammodiṃ. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃ.

"Bạch Thế Tôn, một thời con đến Makkhali gosāla, khi đến nơi, con nói lên những lời đón chào, chúc tụng thân hữu và xã giao với Makkhali gosāla và ngồi xuống một bên.

Ekamantaṃ nisinno kho ahaṃ, bhante, Makkhaliṃ gosālaṃ etadavocaṃ:Sau khi ngồi xuống một bên, con nói với Makkhali gosāla: Yathā nu kho imāni, bho Gosāla, puthusippāyatanāni … pe… sakkā nu

kho, bho gosāla, evameva diṭṭhenva dhamme sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññapetu’nti?

"Cũng như các công nghệ chức nghiệp này, như điều tượng sư, điều mã sư… (giống đoạn trên) … ; chúng dâng các vật cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, sự cúng dường này có ảnh hưởng đến đời sau, liên hệ đến thiên giới, thọ hưởng phước báo an lạc, thác sanh lên cõi trời

168. "Evaṃ vutte, bhante, Makkhali gosālo maṃ etadavoca:- Bạch Thế Tôn, khi nghe hỏi vậy, Makkhali gosāla đã nói với con:Natthi mahārāja hetu natthi paccayo sattānaṃ saṃkilesāya, ahetū

apaccayā sattā saṃkilissanti. Này Ðại vương, không có nhân, không có duyên, các loài hữu tình bị

nhiễm ô; vô nhân, vô duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô.Natthi hetu, natthi paccayo sattānaṃ visuddhiyā, ahetū apaccayā sattā

visujjhanti. Không có nhân, không có duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh; vô

nhân, vô duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh.Natthi attakāre, natthi parakāre, natthi purisakāre, natthi balaṃ, natthi

vīriyaṃ, natthi purisathāmo, natthi purisaparakkamo.

85

Page 86: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Không có tự mình làm, không có người khác trợ giúp, không có người làm, không có lực, không có tinh tấn, không có nhân lực, không có sự cố gắng của người.

Sabbe sattā sabbe pāṇā sabbe bhūtā sabbe jīvā avasā abalā avīriyā.Tất cả loài hữu tình, tất cả sinh vật, tất cả sinh loại, tất cả sinh mạng đều

không tự tại, không lực, không tinh tấn.Niyatisaṅgatibhāvapariṇatā chasve vābhijātīsu sukhadukkhaṃ

paṭisaṃvedenti. Chúng bị dắt dẫn, chi phối bởi định mệnh, bởi điều kiện bộ loại của

chúng, bởi thực tính của chúng; chúng hưởng thọ khổ lạc, y theo sáu loại thác sanh của chúng.

Cuddasa kho panimāni yonipamukhasatasahassāni saṭṭhiñ ca satāni cha ca.

Có một triệu bốn trăm ngàn chủng loại, có một trăm ngàn loại thai sanh chủ yếu, và có sáu ngàn sáu trăm loại khác.

Satāni pañca ca kammuno satāni pañca ca kammāni tīṇi ca kammāni kamme ca aḍḍhakamme ca.

Có năm trăm loại nghiệp và có năm nghiệp (theo năm căn), lại có ba nghiệp (về thân, khẩu, ý) lại có toàn nghiệp (thân và khẩu) và bán nghiệp (ý),

Dvaṭṭhipaṭipadā dvaṭṭhantarakappā chaḷābhijātiyo.Có sáu mươi hai đạo, sáu mươi hai trung kiếp, sáu giai cấp.Aṭṭha purisabhūmiyo ekūnapaññāsa ājīvakasate ekūnapaññāsa paribbāja

kasate ekūnapaññāsa nāgā vāsasate.Tám nhân địa, bốn ngàn chín trăm sanh nghiệp, bốn ngàn chín trăm kẻ

du hành, bốn ngàn chín trăm chỗ ở của loài nāga(1).

Vīse indriyasate tiṃse nirayasate chattiṃsa rajodhātuyo satta saññīgabbhā satta asaññīgabbhā satta nigaṇṭhigabbhā satta devā satta mānussā satta pisācā satta sarā satta pavuṭā satta pavuṭasatāni satta papātā satta papātasatāni satta supinā satta pavuṭasatāni satta papātā satta papātasatāni satta supinā satta supinasatāni .

Hai nghìn căn, ba nghìn cảnh địa ngục, ba mươi sáu trần giới, bảy tưởng thai, bảy vô tưởng thai, bảy tiết thai (sanh từ đốt), bảy loài thiên, bảy loài người, bảy loài quỷ, bảy hồ nước, bảy pavutas (rừng hay hồ nhỏ) bảy trăm pavutas bảy vực thẳm, bảy trăm papatas (vực thẳm), bảy mộng, bảy trăm mộng

Cullāsīti mahā kappino satasahassāni, yāni bāle ca paṇḍite ca sandhāvitvā saṃsaritvā dukkhassantaṃ karissanti.

Có tám trăm bốn mươi vạn đại kiếp, trong thời gian ấy kẻ ngu và người hiền sau khi lưu chuyển luân hồi sẽ trừ tận khổ đau.

1 (?) - Nāga: loại chúng sanh giống như rồng trong thần thoại Ấn Độ, cho là ngụ dưới biển và trên đất.

86

Page 87: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Tattha natthi 'imināhaṃ sīlena vā vatena vā tappena vā brahmacariyena vā apari pakkaṃ vā kammaṃ paripācessāmi, paripakkaṃ vā kammaṃ phussa phussa byantiṃ karissāmi' ti hevaṃ.

Không có lời nguyện: với giới hạnh này, với kỷ luật này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh này, tôi sẽ làm cho chín muồi những nghiệp chưa được thuần thục, hoặc trừ diệt những nghiệp đã thuần thục bởi những nhẫn thọ liên tục.

Natthi doṇamite sukhadukkhe pariyantakate saṃsāre, natthi hāyanavaḍḍhane, natthi ukkaṃsāvakaṃse.

Không thể đo lường khổ và lạc với những vật đo lường, trong khi luân hồi không có giảm tăng, không có thặng dư, thiếu thốn.

Seyyathāpi nāma suttaguḷe khitte nibbeṭhiya mānameva paleti, evameva bāle ca paṇḍete ca sandhāvitvā saṃsaritvā dukkhassantam. Karissantī'ti".

Ví như một cuộn chỉ được tung ra sẽ được kéo dài đến mức độ nào đó. Cũng như vậy, kẻ ngu và người hiền sau khi lưu chuyển luân hồi sẽ trừ tận khổ đau".

169. "Itthaṃ kho me, bhante, Makkhali gosālo sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno saṃsārasuddhiṃ byākāsi …..

- Bạch Thế Tôn, khi được con hỏi kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, Makkhali gosāla đã trả lời với thuyết luân hồi tịnh hóa ...

Giải.* Không có nhân, không có duyên" (natthi hetu, natthi paccaya).Makkhali gosāliđã bác bỏ sự thật. Vì rằng chúng sinh thanh tịnh do có

nhân có duyên, chúng sinh bị nhiễm ô cũng do có nhân, có duyên, đó là điều thực tế.

Sở dĩ Makkhali gosāla bác bỏ nhân duyên vì ông tin vào “thuyết luân hồi tịnh hóa”.

“Thuyết luân hồi tịnh hóa” của Makkhali gosāla chủ trương là “sự vận hành tự nhiên” , không do ai sắp xếp cả. Vì thế ông cho rằng:

* Không có tự mình làm" (natthi attakāra).Trong thực tế, bất kỳ ai cũng nhận thấy “chính ta tạo ra những dụng cụ

hữu ích trong nông nghiệp cũng như công nghiệp”, những dụng cụ ấy không thể “tự nhiên có”.

Chúng sinh tự tạo nghiệp ác, phải rơi vào khổ cảnh, chúng sinh tự tạo nghiệp lành được sinh làm chư thiên, Ma vương, Phạm thiên.

Cũng nhờ những hạnh lành nên chúng sinh ấy được giác ngộ, trở thành Phật Toàn giác, Phật Độc Giác hay Thánh thinh văn.

Nhưng Makkhali gosāla phản đối điều này, ông cho rằng chẳng có ai tạo nghiệp cả, đã không ai tạo nghiệp thì chẳng có ai thọ lãnh quả chi cả, “hạnh phúc hay đau khổ “là sự vận hành tự nhiên”, như nước chảy ngang qua vùng nóng thì nước nóng, chảy qua vùng lạnh thì lạnh.

* Không có người khác trợ giúp (nathi parakāra).

87

Page 88: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

“Người khác trợ giúp”; là do tác động của người khác mà có.Như chư Thánh thinh văn nhờ nghe pháp, rồi thực hành theo pháp dẫn

đến giải thoát mọi ô nhiễm. Hoặc phàm nhân nhờ nghe pháp, thực hành pháp tuy chưa được giải

thoát nhưng nhờ đó mà sinh thiên, sinh lên nhàn cảnh … "Người khác trợ giúp” xem như là duyên trợ giúp cho “tự mình làm".* Do người khác trợ giúp (atthi parakāra). Điều này có cho tất cả mọi người, chỉ trừ Bồ-tát Chánh giác và Bồ-tát Độc

giác khi chứng ngộ pháp siêu thế .Vì hai bậc này "không thầy chỉ dạy.Hậu sớ giải có giải thích: "Bồ-tát Chánh giác và Bồ-tát Độc giác không có

người khác trợ giúp", là nói đến sự chứng đạt pháp Siêu thế của các Ngài.Nhưng ở các pháp thế tục thì các Ngài vẫn có “người trợ giúp”, như Bồ-

tát Siddhattha (Sĩ-đạt-ta) đắc ngũ thông cùng các tầng thiền hiệp thế như Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ là do học tập từ hai vị thầy Alāra kālāma và Uddaka rāmaputta(1).

Makkkhali gosāla bác bỏ "người khác làm hay người khác trợ giúp", xem như Makkhali gosāla bác bỏ sự chứng đạt đạo quả Siêu thế của các Thánh thinh văn, nhất là phản đối bài kinh Chuyển pháp luân của Đức Phật.

"Kinh Chuyển pháp luân" là một bài pháp Đức Phật giải thích về sự tương quan của nghiệp và quả; đồng thời đưa ra con đường diệt nghiệp tham ái để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.

* “Không có người làm" (natthi purisakāra). Makkhali gosāla bác bỏ "người làm", nghĩa là ông cho rằng "chúng sinh

không thể giải thoát được, như sợi chỉ không thể thoát ra cuộn chỉ khi chưa hết chỉ.

Cũng vậy, khi chưa đến thời kỳ thì chẳng một ai có thể giải thoát được.* Không có lực (natthi balanṃ), không có tinh tấn (natthi viriyaṃ),

không có nhân lực (natthi purisathāmo), không có sự cố gắng của người ( natthi purisaparakkamo).

Makkhali gosāla cho rằng "chúng sinh không thể tự tạo sức mạnh cho chính mình", "không thể có tinh tấn để dẫn đến thành công".

Các khái niệm “không có lực”, “không có tinh tấn”, “không có nhân lực”, “không có người tinh tấn” đồng nghĩa với “không có người làm” (natthi puggalakāra).

Những khái niệm này được kể riêng lẻ để bác bỏ luận điểm "điều này có được là do có sức mạnh, do có tinh tấn, do người có sức mạnh, do người có sự tinh tấn".

* " Tất cả loài hữu tình” (sabbe sattā).Sabbesattāti oṭṭhagoṇagadrabhādayo anavasese pariggaṇhāti (At):

1(?)- M.i, kinh số 26. kinh Thánh cầu (ariyapariyesanasuttaṃ).

88

Page 89: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

(Theo Makkhali gosāla): “Tất cả hữu tình” là gồm tất cả chúng sinh có tình cảm, không loại trừ chúng sinh nào, như Lạc đà, bò, lừa …

* “Tất cả sinh vật” (sabbe pānā).Sabbepāṇāti ekindriyo pāṇo, dvindriyo pāṇoti (At).(Theo Makkhali) “tất cả sinh vật” là đề cập đến chúng sinh có một quyền,

chúng sinh có hai quyền(1). * “Tất cả sinh loại" (sabbe bhūtā). Sabbebhūtāti aṇḍakosavatthikosesu bhūte sandhāya vadatisabbe jīvā

avasā abalā avīriyā (At).Tất cả sinh loại là đề cập đến những chúng sinh hình thành trong trứng

hay trong thai bào. * “Tất cả sinh mạng” (sabbe jīvā).Sabbe jīvati sāliyavagodhumādayo sandhāya vadati. Tesu hi so

virūhanabhāvena jīvasaññī (At).“Tất cả sinh mạng” là đề cập đến lúa, lúa mạch, lúa mì … vì chúng

mọc từ dưới đất. Makkhali cho rằng chúng có linh hồn (jīvasaññī).* “Chúng bị dẫn dắt, chi phối bởi định mệnh (niyati), bởi điều

kiện bộ loại (saṅgati)của chúng, bởi cá tánh (bhāva) của chúng”. Bộ Anuṭīkā (Tiếptheo Hậu sớ giải), có giải thích:Niyati (định mệnh) là sự tiền định (niyamanā), sự cố định của việc tái

sinh và nơi tái sinh, của các tầng lớp xã hội: nô lệ hay chủ nhân … Theo Makkhali gosāla: Định mệnh được xác định bởi chuỗi trật tự cần

thiết của các sự kiện, giống như những hạt ngọc xỏ xâu trên sợi dây, sợ dây này không thể đứt nên các viên ngọc luôn cố định theo trật tự của chúng.

Nghĩa là, “định mệnh là chủ nhân”, tất phải là chủ nhân, không thể thay đổi; “định mệnh là nô lệ”, tất phải là nô lệ, không thể thay đổi được.

Và định mệnh này luôn mãi mãi là như vậy, tức là kiếp này là chủ nhân thì những kiếp kế kế vẫn là chủ nhân, kiếp này là nô lệ thì những kiếp kế kế vẫn là nô lệ, như cây mè dù trải qua bao nhiêu đời vẫn là cây mè, không thể chuyển thành cây bắp được …

* "Bộ loại" (saṅgati).Saṅgatīti chananaṃ abhijātīnaṃ tattha tattha gamanaṃ (At).Ở đây chỉ cho sáu sinh loại, gọi là bộ loại ".* "Thực tính” (bhāva). "Bhāvoti sabhāvoyena (At).Thực tính là có bản chất (2).

1(?)- Một quyền: Có lẽ là danh mạng quyền hoặc sắc mạng quyền. Hai quyền: là có cả danh - sắc mạng quyền - Ns. 2(?)- Tuy Makkhali không giải thích rõ ràng về ba yếu tố: niyati, saṅgati và bhāva trong giáo thuyết của mình, nhưng chúng ta có thể ước đoán rằng: Nếu niyati là định mệnh thì saṅgati là các hoàn cảnh bên ngoài, còn bhāva là thực tính bên trong. "Định mệnh (niyati)" theo đó kiểm soát vận mệnh của một chúng sinh.

89

Page 90: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Hậu sớ giải có giải thích: Makkhali gosāla cho rằng "toàn bộ thế giới vận hành tự nhiên theo nhiều cách. Nó vận hành theo thực tính riêng của nó.

Do vậy “không có nhân, không có duyên” chi cả.Như sự sắc bén của gai, sự tròn của táo và các hình dạng khác nhau của

loài thú, chim chóc …. .Bản Sớ giải nêu ra: Với bộ ba “định mệnh” (niyati), “bộ loại" (saṅgati),

“thực tính” (bhāvo), Makkhali gosāla “gỉải thích": Các loài có sự sai khác nhau, có vận hành khác nhau là do tùy thuộc vào bộ ba ấy.

Và “cái gì tồn tại thì tồn tại, cái gì không tồn tại sẽ không tồn tại”.* “Có một triệu bốn trăm ngàn chủng loại, có một trăm ngàn loại

thai sanh chủ yếu, và có sáu ngàn sáu trăm loại khác”.Đoạn kinh văn trên được, bản Sớ giải có giải thích như sau:Trong các chủng loại, thì thai sinh là chủ yếu, thai sinh có 100.000 chủng

loại, trong số 100.000 chủng loại thai sinh thì nhân loại là cao cấp nhất, kế đến là các loài thai sinh khác như: Cọp, beo, bò, lừa …

Ngoài 100. 000 chủng loại thai sinh, có 1.400.000 loại khác, lại có thêm 6.600 chủng loại pha tạp.

* "Năm trăm loại nghiệp": Theo bản Sớ giải: Makkhali gosāla đưa ra con số 500 loại nghiệp, nhưng đó chỉ là "do nghĩ ra".

Tương tự như vậy với 5 loại nghiệp, ba loại nghiệp.Nhưng một số người nói rằng: “Makkhali gosāla nói về năm loại nghiệp là

y cứ theo năm giác quan, 3 loại nghiệp là nói về thân, ngữ, ý".* "Toàn nghiệp và bán nghiệp": Theo chủ thuyết của Makkhali gosāla

"thân nghiệp, khẩu nghiệp " là toàn nghiệp”, ý nghiệp là “bán nghiệp”.Sở dĩ Makkhali gosāla cho thân nghiệp, ngữ nghiệp là toàn nghiệp, vì là

rõ ràng. Còn ý nghiệp là bán nghiệp, vì có tính mơ hồ, không rõ rệt(1).* "Sáu mươi hai đạo". Không biết rõ nguồn gốc.* "Sáu mươi hai trung kiếp (antarakappā)": Một đại kiếp (mahākappa)

có 64 trung kiếp, nhưng Makkhali gosāla bỏ đi 2 trung kiếp.“ Sáu hạng người” (cha abhijātiyo).Makkhali gosāla tuyên bố có sáu hạng người: Đen, xanh, đỏ, vàng, trắng

và rất trắng(2).1- Hạng đen (kaṇdābhijāti). Là đồ tể, thợ săn, ngư dân, kẻ cướp, đao phủ,

kẻ gác ngục và những người làm việc ác khác.2- Hạng xanh (nīlābhijāti). Là các vị Tỳ-khưu."Tỳkhưu", ở đây chỉ cho các Tỳ-khưu trong Phật giáo.

1(?)- Theo Hậu sớ giải (Ṭīkā).2(?)- Ngài Buddhaghosa giải thích "sáu hạng người" theo chủ thuyết của Makkhali, tương tự như trong Tăng chi kinh (A,iii, 383 – 384). Nhưng bài kinh này nói "Đây là chủ thuyết của Pūraṇa kassapa.

90

Page 91: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Makkhali gosāla nói: "Họ ăn những gai nhọn ném vào trong tứ vật dụng", vì Makkhali cho rằng các Tỳ-khưu thọ tứ vật dụng với sự mong cầu.

Vì sao Makkhali gosāla lại nói như vậy? Vì Makkhali gosāla thấy các vị Tỳ-khưu thọ các vật dụng tốt nhất.

Theo quan điểm của Makkhali gosāla "đó là lợi dưỡng", nên khi các vị Tỳ-khưu thọ các vật dụng có được một cách chân chánh thì Makkhali gosāla nói: "họ ăn những gai nhọn ném vào trong các vật dụng", vì điều này trái ngược với tín ngưỡng của “phái lõa thể”(Ājīvaka).

3- Hạng đỏ (lohitābhijāti). Là các Nigaṇṭha nhất y (Jaina), vì các vị ấy trong sạch hơn hai hạng trước.

Họ trong sạch vì họ hành theo các việc như ăn kiêng, không tắm ...4- Hạng vàng (haliddābhijāti). Là tín đồ gia chủ của những tu sĩ lõa thể,

Makkhali gosāla cho những những tín đồ này thậm chí còn cao hơn các Nigaṇṭha nhất y.

5- Hạng trắng (sukkābhījati). Gồm những du sĩ lõa thể (ājīvaka) cả nam lẫn nữ, Makkhali gosāla cho rằng họ trong sạch hơn bốn hạng trước.

6-Hạng cực trắng (paramasukkābhijāti). Là Nanda Vaccha, Kisa Saṅkicca và Makkhali gosāla vì họ trong sạch hơn tất cả.

(Nanda vaccha, Kisa saṅkicca và Makkhali gosāla được xem như là những vị tổ sư của giáo phái Ājīvaka).

* "Tám nhân địa (aṭṭha purisabhūmiyo)".Chữ bhūmi xuất phát từ căn bhū nghĩa là nổi lên, bhūmiyo ở đây chỉ cho

"thời nổi bật".Makkhali gosāla tuyên bố rằng có tám thời kỳ (bhūmi) trong cuộc sống

của con người. Bản Sớ giải nêu ra như vầy:(Theo Makkhali gosāla), "tám thời kỳ của con người " là: Thời ngu tối,

thời vui chơi, thời tập đi, thời đứng thẳng, thời học tập, thời Sa-môn, thời chinh phục, thời lụn tàn.

1- Thời ngu tối (mandabhūmi). Giai đoạn này diễn ra trong 7 ngày kể cả ngày sinh ra. Sau khi ra khỏi bụng mẹ, chúng sinh này còn mê tối, ngu muội.

Bản Sớ giải có ghi:"Tattha jātidivasato paṭṭhāya sattadiva se sambhādhaṭṭhānato

nikkhantattā sattā mandā honti momūhā, ayaṃ mandabhūmīti:"Kể từ sinh ra đến ngày thứ 7 (1), bị chướng ngại do chỗ trú vì ra ngoài (là

chưa hòa nhập trọn vẹn với môi trường mới – Ns), chúng sinh này "đần độn (manda), mê tối (momūhā)", đây là thời kỳ "ngu tối".

2- Thời vui chơi (khiḍḍābhūmi). Những chúng sinh từ khổ cảnh sinh trở lại thường hay khóc, la hét. Chúng sinh từ cảnh giới an vui tái sinh trở lại thường vui cười.

1(?)- Ngày sinh ra được kể là một – Ns.

91

Page 92: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

3- Thời tập đi (padavīmaṃsabhūmi). Đây là giai đoạn đứa bé nắm tay hay chân cha mẹ, hoặc giường, ghế… để tập đi.

4- Thời đứng thẳng (ujugatabhūmi). Đây là giai đoạn có thể đi được bằng chính đôi chân của mình.

5- Thời học tập (sekkhabhūmi). Đây là giai đoạn học tập nghiệp nghệ. 6- Thời Sa-môn (samaṇabhūmi). Đây là thời gian rời gia đình, thọ giới để

tu tập, như một du sĩ. Sớ giải nêu dẫn:7-Thời chinh phục (jinabhūmi). Là thời kỳ trí tuệ sung mãn, cùng cộng tác

với thầy.8- Thời lụn tàn (pannabhūmi). Là thời cuối cuộc đời, thời kỳ không còn hy

vọng gì được nữa. Bản Sớ giải có giải thích:"Bhikkhu ca pannako jino na kiñci āhāti evaṃ alābhiṃ samaṇaṃ

panabhūmīti vadati:"Tỳ-khưu (là) người rớt xuống (pannako), là người chinh phục (jino) không

còn mang lại bất cứ điều gì (na kñnci), như vị Sa-môn tổn hại, đây là "thời lụn tàn".

Hậu sớ giải giải thích: Những từ "Tỳ-khưu", "người lụn tàn (pannako)" được dùng trong chủ thuyết của Makkhali Gosāla là:

"Tỳ-khưu" là người đi lang thang để khất thực."Người lụn tàn" là người cố chống lại "lụn tàn (paṭipannaka)".Ngoài ra, "người chinh phục ngã gục” (pannako jino). Là người chinh

phuc (jino) đã già nua (jiṇṇa), không còn sức sống vì tuổi tác, hay là người bị chướng ngại trong pháp hành của họ.

Người ta cho rằng "người như vậy thì không thể nói gì về học thuyết cũng như phương pháp thực hành của mình". Vì vậy, vị ấy "im lặng".

Người khác lại giải thích thêm "người gục ngã” (pannako) là người im lặng, ngay cả khi họ bị lăng nhục, bị gọi là lạc đà ... vẫn không đáp trả, chỉ nhẫn nại chịu đựng.

"Sa-môn tổn hại". Là vị ấy "không thành tựu” (alābhi) ước nguyện qua sự thực hành khổ hạnh, là hạng người tự làm khổ mình như sống lõa thể, không nhận vật thực mang đến …(1). Do đó, bị kiệt sức bởi đói khát, trở nên yếu đuối, cuối cùng gục ngã.

Đây được gọi là "người lụn tàn” (pannako).* “Ba mươi sáu trần giới" (chattiṃsa rajodhātuyo)."Rajodhātuyo: Nơi thải ra bụi". Bản Sớ giải giải thích:"Rajodhātuyoti raja-okiraṇaṭṭhānāni, hatthapiṭṭhipādapiṭṭhādīni sandhāya

vadati:"Nơi thải ra bụi, những nơi như lưng tay, lưng chân cùng những nơi liên

hệ với bụi. Đây là "trần giới (rajodhātuyo)"(2).* "Bảy tưởng thai” (satta saññīgabbhā).

1(?)- Xem M.ii, kinh số 51. kinh Kandaraka.

92

Page 93: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Makkhali gosāla đề cập đến: Lạc đà, bò, lừa, dê, ngựa, hưu và trâu.* "Bảy vô tưởng thai (satta asaññīgabbhā).Makkhali gosāla đề cập đến lúa gạo, lúa mạch, lúa mỳ, kê, đậu và những

gì liên hệ đến bột (kudrūsaka).Đó là những gì sinh ra từ đất, có thể tán nhuyễn thành bột để làm thực

phẩm.* "Bảy tiết thai” (satta nigaṇṭhigabbhā).Makkhali gosāla đề cập đến cây sinh ra từ đốt hay những loại cây có đốt

như: mía, tre, sậy... Bản Sớ giải có ghi:"Nigaṇṭhigabbhāti gaṇṭhimhi jāta gabbhā, ucchuveḷunaḷādayo sandhāya

vadati.* "Bảy loài thiên".Có nhiều loại chư thiên nhưng Makkhali gosāla nói có bảy. Cũng vậy, loài

người có nhiều (1) nhưng vị ấy nói có bảy. "Bảy loài quỷ (pisācā)". Có nhiều loại quỷ nhưng vị ấy nói có bảy."Bảy hồ nước". Makkhali gosāla đề cập đến hồ Kaṇṇamuṇḍa, hồ

Rathakāra, hồ Anotatta, hồ Sīhappapāta, hồ Chaddanta, hồ Mandākiṇī và hồ Kuṇāladaha.

* "Tám trăm bốn mươi vạn đại kiếp (84 x 10o x 1ooo = 8.400.000)".

Bản Sớ giải giải thích: Makkhali gosāla mô tả khoảng thời gian của một đại kiếp như thời gian làm cạn hồ nước lớn bằng 7 đại hồ ở trên.

Cứ một trăm năm, người ta dùng một cọng cỏ kusa nhúng vào hồ nước một lần, rồi rảy đi, khi nước trong hồ cạn hết, đó là một đại kiếp (mahākapā).

Makkhali gosāla còn quả quyết: Khi trải qua 8.400.000 đại kiếp, kẻ ngu hay người hiền sẽ tận khổ đau.

Người hiền không thể tự trong sạch trước quãng thời gian này và kẻ ngu không còn kiếp sau, khi trải qua 8.400.000 đại kiếp.

Hậu sớ giải có giải thích thêm. Theo Makkhali gosāla, đó là quãng thời gian hạn định để lưu chuyển trong luân hồi (saṃsāra) của con người, thì tại sao người ngu không thể giải thoát được. Ví như cuộn chỉ đã hết chỉ.

* “Với giới hạnh này” (sīlenā). Bản Sớ giải giải thích."Sīlenati acelakasīlena vā aññena vā yena kenaci:Là giới của tu sĩ lõa thể, hay những giới khác hoặc những điều (tập tục)

khác.* "Lời nguyện". Cũng hiểu như "giới hạnh".

2(?)- Basham cho rằng “các trần giới” (rajodhātu) có thể là “các yếu tố không trong sạch” hay những cảm xúc bị bó buộc trong tâm (tr. 248).1(?)- Chỉ cho 12 hạng người- Ns.

93

Page 94: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

* "Với kỷ luật này” (vatenā).Vatenāti tādiseneva vatena (At):Là không được thực hành vượt qua điều đã thọ trì .* “Với khổ hạnh này” (tapenā)."Tapenāti tapokammena (At): Là thực hành khổ hạnh".Bản Sớ giải có giải thích: "Với lời nguyện này, với giới hạnh này, với kỷ

luật này, với khổ hạnh này", đó là “người thánh thiện".Trước tiên người này làm "trong sạch tâm" bằng những điều nêu trên, để

"làm chín muồi những nghiệp chưa được thuần thục" hay "trừ diệt những nghiệp đã thuần thục khi nó đến".

Nhưng Makkhali gosāla bác bỏ sự kiện ấy, ông nói "không thể có như vậy", tức là dù cho có giữ giới … cũng không trừ diệt các nghiệp để "thanh tịnh hóa tâm".

Makkhali gosāla cho rằng "không thể đo lường khổ và lạc với những vật đo lường". Vì khổ lạc là vô hình nên không thể đo lường được.

* “Trong khi luân hồi không có giảm tăng, không có thặng dư, thiếu thốn".

Là thời gian luân hồi không có giảm cho người "gọi là hiền ", cũng không tăng cho người "gọi là ngu".

Vì thời gian luân hồi vừa đủ, không dư cũng không thiếu, ví như sợi chỉ có độ dài nhất định.

Chánh kinh.Ajita kesakampala vādo.

(Chủ thuyết của Ajita kesakambala).170 …. 171. Evaṃ vutte, bhante, Ajito kesakambalo maṃ etadavoca:… Bạch Thế Tôn, khi được hỏi vậy, Ajita kesakambala đã nói với con:N'atthi mahārāja dinnaṃ, n'atthi yiṭṭhaṃ, n'atthi hutaṃ, n'atthi

sukatadukkatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko.Này Ðại vương, không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự,

không có quả dị thục các nghiệp thiện ác.N'atthi ayaṃ loko, n'atthi paro loko, n'atthi mātā, n'atthi pitā, n'athi sattā

opapātikā.Không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không

có chúng sinh hóa sanh.N'atthi loke samaṇabrāhmaṇā sammaggatā sammāpaṭipannā, ye imañca

lokaṃ parañca lokaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti katvā pavedenti.

Ở đời không có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng tri giác ngộ đời này đời khác và truyền dạy lại.

94

Page 95: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Cātumahābhūtiko ayaṃ puriso, yadā kālaṅkaroti, pathavī pathāvikāyaṃ anupeti anupagacchati.

Con người này do bốn đại hợp thành, khi mệnh chung, địa đại trở về trả lại cho địa giới,

āpo āpokāyaṃ anupeti anupagacchati, thủy đại trở về trả lại cho thủy giới,

tejo tejokāyaṃ anupeti anupagacchati, hỏa đại trở về trả lại cho hỏa giới, vāyo vāyokāyaṃ anupeti anupagacchati, phong đại trở về trả lại cho

phong giới, ākāsaṃ indriyāni saṅkamanti, các quyền nhập vào hư không.Āsandipañcamā purisā mataṃ adāya gacchanti, yāva āḷāhanā padāni

paññāyanti, kāpotakāni aṭṭhīni bhavanti, bhassantā āhutiyo.Bốn người gánh quan tài với người nằm trong quan tài là năm, gánh

người chết mang đến nghĩa trang, thốt ra những lời tán tụng, các xương trắng như màu bồ câu và những vật cúng dường trở thành tro bụi.

Dattupaññattaṃ yadidaṃ dānaṃ. Tesaṃ tucchaṃ musā vilāpo ye keci atthikavādaṃ vadanti.

Chỉ có người ngu mới tán dương sự bố thí. Lời nói của chúng trống không, giả dối, khi chúng chấp thuyết có sự sống.

Bāle ca paṇḍite ca kāyassa bhedā ucchijjanti vinassanti, na honti paraṃ maraṇā'ti".

Kẻ ngu cũng như người hiền, sau khi thân hoại mạng chung sẽ đoạn diệt, tiêu thất, không còn tồn tại sau khi chết".

172. "Itthaṃ kho me, bhante, Ajito kesakambalo sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno ucchedaṃ byākāsi…

Bạch Thế Tôn, khi được con hỏi kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, Ajita kesakambāli đã trả lời với thuyết đoạn diệt ….

Giải:* "Không có bố thí” (natthi dinnan).“Natthi dinnanti dinnaphalābhavaṃ sadhāya vadati” (At):“Không có bố thí”là nói rằng “không có quả liên hệ đến bố thí”.Ajita kesakambala cho rằng “không có (abhāva) quả của hành động bố

thí, liên hệ đến bố thí” , nên “không có bố thí”.* "Không có lễ hy sinh” (natthi yiṭṭhaṃ)."Yiṭṭhaṃ vuccati mahāyāgo (At):Sự hy sinh lớn, gọi là "đại tế đàn”.“Không có lễ hy sinh” là không có đại tế đàn, trong đó phải hy sinh nhiều

sinh vật. * "Không có tế tự” (natthi hutaṃ)"Hutanti paheṇakasakkāro adhippeto (At):

95

Page 96: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Ước muốn làm tôn vinh cho người nào bằng lễ vật, gọi là "tế tự".Ajita kesakambalavới chủ trương "không có kết quả", vì thế với những đại

tế đàn, những lễ tế tự không hề mang lại kết quả chi cả, nên cho rằng "không có tế đàn, không có tế tự".

* "Không có đời này” (natthi ayaṃ loko)."Natthi ayaṃ lokoti paraloke ṭhitassa ayaṃ loko natthi (At):Không có đời này là "đời trước đứng yên, ( nên) không có đời này". Ajita kesakambala cho rằng: "Người đời trước có thì chính đời này người

ấy không có".Nghĩa là “đời trước chết là hết”.* "Không có đời khác” (natthi paro loko)."Natthi para lokoti idha loke ṭhitassāpi paro loko natthi, sabbe tattha

tattheva ucchijjantīti dasseti (At):"Không có đời khác” là "đời này bất động, nên không có đời sau", tất

cả thấy hoại diệt tại chính chỗ ở của chúng".Ajita kesakambala cho rằng “người đang có trong đời này, sau khi chết là

hết, nên không có đời sau. Tất cả đều thấy diệt mất chính nơi chúng ở”.Hậu sớ giải giải thích: "Với người sống đời trước, sau khi chết là hết. Với

người đang sống, sau khi chết là hết”.Tức là Ajita kesamabala phủ nhận sự tồn tại của chúng sinh do nghiệp".* "Tất cả thấy diệt mất tại chính nơi chúng ở". Bất kỳ ở hình thức tồn tại nào, mà chúng đang có thì chúng bị hủy diệt

tại chính hình thức ấy.Như là người thì chính hình thức người bị hủy diệt, nếu là voi, ngựa … thì

bị hủy diệt với hình thức voi, ngựa …* "Không có mẹ, không có cha” (natthi mātā natthi pitā).Vì chủ trương đoạn diệt nên Ajita kesakambala cho rằng "sự cúng dường,

cung kỉnh, phục vụ … đến cha mẹ không mang lại quả phúc.Sự bất hiếu, hành xử bất kính… với cha mẹ cũng không quả khổ".Xét cho cùng cũng như "không có mẹ, không có cha".* "Không có chúng sinh hóa sanh” (n'atthi sattā opapātikā)."N 'atthi sattā opapātikāti cavitvā upapajjanakā sattā nāma natthīti

vadati (At): "Chúng sinh chết rồi xuất hiện trở lại, điều này không có, gọi là "không

có chúng sinh hóa sinh".Ajita kesakambala cho rằng "không có ai chết rồi xuất hiện trở lại (bằng

cách hoá sanh)".Hậu sớ giải giải thích: Ajita kesakambala cho rằng: Sự tăng trưởng (số

lượng) nhân loại là do chúng sinh khác từ cõi khác tái sinh lại, điều này là hão huyền.

96

Page 97: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Những chúng sinh ấy không tái sinh về cõi người sau khi vừa chết đi.* "Đất trở về với đất".Là những thành phần thuộc về đất như xương, thịt, gân, da… trở về với

đất ở bên ngoài.Các yếu tố khác là: Nước, gió, lửa cũng tương tự.Nước trong thân như: Mật, đàm, mủ, máu… Gió trong thân như gió thổi từ dưới lên, gió thổi từ trên xuống … Lửa trong thân như: Lửa làm chín vật thực, lửa làm nóng sốt, lửa làm ấm

cơ thể…Hậu sớ giải giải thích: Ajita cho rằng: Đất trong thân là thành phần của

đất bên ngoài, như đất chứa trong bình.Khi chiếc bình bể thì chất đất trong bình tuôn ra, hòa nhập vào đất bên

ngoài, không còn phân biệt được "đây là đất trong bình, đây là đất ngoài bình", nên gọi “đất trở về với đất”.

"Các yếu tố khác tương tự". Như nước lấy từ đại dương rộng lớn lên đám mây. Khi trở thành mưa thì trở về với đại dương.

Như ánh chớp (lửa) rực rỡ là từ ánh sáng mặt trời mà có, ánh chớp ấy cũng trở về với thái dương.

Như cơn gió mạnh tách ra khỏi tầng khí quyển, rồi cũng phải trở về với khí quyển.

Nước, lửa, gió trong thân cũng như vậy, con người sau khi chết chúng lại trở về nguồn cội của chúng.

Đây là "nguồn gốc" của chủ thuyết Ajita kesakambala.* "Các quyền nhập vào hư không” (ākāsaṃ indriyāni saṅkamanti)."Indriyānīti manacchaṭṭhāni indriyāni ākāsaṃ pakkhandanti (At):Quyền là sáu quyền(1) gồm có cả ý, những quyền này nhập vào hư

không".* “Những vật cúng dường trở thành tro bụi"Nghĩa là: "Những vật thí, vật tế lễ… đều trở thành tro bụi. Vì chúng

không còn tồn tại để cho quả".* " Chỉ có kẻ ngu mới tán tụng sự thí"."Idaṃ vuttaṃ hoti bālehi abuddhīhi paññattamidaṃ dānaṃ, na

paṇḍitehi. Bālā denti, paṇḍitā gaṇhantī'ti dasseti" (At): "Vị ấy nói "chỉ có kẻ ngu, không hiểu biết mới tán thán bố thí, không phải

là người trí. Kẻ ngu bố thí, người trí nhận vật thí".Ngài Buddhaghosa trong bản Sớ giải Kinh Sa-môn quả có ghi nhận "khái

quát về ba học thuyết của Pūraṇa kassapa, Ajita kesakambala và Makkhali gosāla như sau:

Khái quát về ba học thuyết.1(?)- Là nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân và ý – Ns.

97

Page 98: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

- Thuyết "không có tội phước gì cả" của Pūraṇa kassapa là bác bỏ nghiệp, là thuyết phi nghiệp.

- Thuyết "sau khi chết là hết"của Ajita kesakambala là bác bỏ quả của nghiệp, là thuyết đoạn diệt.

- Thuyết "không có nhân, không có duyên" của Makkhali gosāla là bác bỏ cả hai: Nghiệp lẫn quả của nghiệp.

Khi bác bỏ nhân duyên do tuyên bố "không có nhân, không có duyên các loài hữu tình được trong sạch; không có nhân, không có duyên các loài hữu tình bị nhiễm ô".

Xem như Makkhali gosāla bác bỏ nghiệp lẫn quả của nghiệp.Ajita kesakambala với quan điểm "chết là hết" nên bác bỏ quả của

nghiệp trong kiếp sau; nhưng quả của nghiệp trong hiện tại thì như thế nào? Không thấy bản Sớ giải đề cập đến.

Có lẽ ông cũng bác bỏ quả trong hiện tại, vì nếu chấp nhận "có quả của nghiệp trong hiện tại" thì chủ thuyết "vô quả" của ông không đứng vững.

Xét về thuyết của Pūraṇa kassapa và Ajita kesakambala, tuy có nét khác biệt: Một chối bỏ nghiệp, một chối bỏ quả của nghiệp.

Nhưng bản Sớ giải có giải thích: "Bác bỏ nghiệp, đồng nghĩa bác bỏ quả của nghiệp"; "bác bỏ quả của nghiệp, đồng nghĩa bác bỏ nghiệp".

Xét ra, cả ba Pūraṇa kassapa, Makkhali gosāla và Ajita kesakambala đều có chung một quan điểm, là thuyết hư vô (natthivāda), hay "đoạn kiến”(ucchedadiṭṭhi).

Người chấp nhận một trong ba chủ thuyết này, sẽ nhận đủ cả ba tà kiến: "Không có nghiệp", "không có quả" và "không có nhân quả" theo từng thời điểm, để rồi tâm dần dần trở nên cứng rắn.

Khi các tâm đổng lực (javanacitta) hòa hợp với tà kiến (diṭṭhisampayuttaṃ), diễn tiến trong lộ trình tâm, thông thường chúng có 7sátna.

Bản Sớ giải cho rằng: Tại sátna thứ nhất đến sátna thứ 6, những người này còn có thể chữa khỏi để thoát ra khổ cảnh trong kiếp sau, nhưng ở sátna thứ bảy thì không thể thoát khỏi khổ cảnh trong kiếp sau.

Cho dù là Đức Phật cũng không thể giúp họ khi sátna thứ 7 này cho quả (vì sátna thứ bảy là Sanh báo nghiệp, sẽ cho quả ngay kiếp sau đó).

Trong ba loại tà kiến này, một số người chấp nhận một, số khác chấp nhận hai và số khác chấp nhận cả ba.

Nhưng dù tán thành với một, hai hay cả ba thì người vẫn phải nhận hậu quả nhất định (niyāma), người đó đã bị ngăn đường lên nhàn cảnh (được tái sinh làm người hay chư thiên), còn nói gì đến con đường giải thoát khỏi luân hồi không bị chặn đứng?.

98

Page 99: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Chúng sinh này được xem là "mọc rễ trong luân hồi (vaṭṭakhāṇu)", là người "gìn giữ đất (pathavigopaka)"(1).

Nói gọn, người như vậy thì không thể giải thoát khỏi luân hồi.Bản Sớ giải có kệ Pāli như sau:"Tasmā akayāṇajanaṃ, āsīvisamivoragaṃĀrakā parivajjeyya, bhūtikāmo vicakkhaṇo 'ti."Người sáng suốt

Có ước nguyện tăng trưởngNên tránh xa những người nguy hại đóNhư tránh xa con rắn độc".

Và có Phật ngôn sau:"Đối với người có tà kiến(2), này các Tỳ-khưu, phàm mọi thân hành hoàn

toàn được thực hiện, được chấp nhận theo tà kiến, phàm mọi khẩu hành…. phàm mọi ý hành hoàn toàn được thực hiện, được chấp nhận theo tà kiến, phàm có tư tâm sở nào, phàm có trú xứ nào (patthānā), phàm có ước nguyện nào và phàm có các hành nào, tất cả pháp ấy đưa đến không khả lạc, không khả hỷ, không khả ý. Đưa đến bất hạnh, đau khổ…."(3).

Hậu sớ giải có giải thích thêm:Gọi là "tà niệm sinh lên (micchā santiṭṭhati)", là tâm sở Tham

(lobhacetasika) đồng sinh với tâm sở tà kiến (diṭṭhicetasika) khi nhận một trong ba chủ thuyết trên làm cảnh (ārammaṇa).

Gọi là "tà định (micchāsamādhi)". Là tâm vững trú trong cảnh "sái quấy" ấy.

Như trường hợp người bắn cung thiện xảo, tập trung chú ý vào con mồi, để sát hại con mồi.

"Các luồng đổng lực chạy trong lộ trình tâm (javanāni javanti)". Từ sátna thứ nhất đến sátna thứ sáu, còn có thể chữa khỏi để thoát ra

khổ cảnh. Điều này chỉ đơn giản là "nói đến bản chất chưa chín muồi dẫn đi tục sinh" mà thôi.

Vì vào thời khắc đó không ai có thể chữa trị cho họ thoát khỏi khổ cảnh được.

Theo Anuṭīkā (Tiếp theo Hậu sớ giải) thì cho rằng: "Họ không thể được chữa khỏi", vì khi dòng đổng lực sinh lên, không thể ngăn cản "không cho sátna thứ 7 sinh lên".

Mặt khác, sự sinh diệt trong lộ trình tâm quá nhanh, không thể chữa trị cho họ vào thời điểm tà kiến sinh lên.

1(?)- Các cụm từ: "mọc rễ trong luân hồi (vaṭakhāṇu) và "người gìn giữ đất (pathavigopaka)", ngụ ý là bị cản trở, thậm chí tìm được con đường "để giải thoát tà kiến cho người đó" cũng bị trở ngại.2(?)- Chỉ cho thường kiến hay đoạn kiến. – Ns.3(?)-A.i, 30, pháp một chi.HT. Thích Minh Châu (d), Phẩm một pháp (Ekadhammapāḷi), phần hai (dutiyavaggo) , Phẩm chủng tử (bījavaggo), kinh tà kiến (micchādiṭṭhisuttaṃ).

99

Page 100: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Các Sớ giải sư nói: "Ngay cả Đức Phật cũng không thể chữa khỏi cho họ vào thời điểm đó".

Nhưng vào thời điểm vắng mặt tà kiến, do nghe được Diệu pháp người này thoát hẳn khỏi tà kiến ấy, như du sĩ Vacchagotta chẳng hạn, sau khi nghe pháp thoại từ Đức Phật, du sĩ Vacchagotta đã quy ngưỡng Tam Bảo (1).

Hậu sớ giải có giải thích thêm là:- "Một số người chấp nhận một tà kiến". Câu này có ý nghĩa là: "chỉ

chấp nhận một trong ba tà kiến". Diễn tiến như thế nào?Trước tiến, với cách truyền khẩu người ấy hiểu ý nghĩa của một trong ba

chủ thuyết trên một cách khái quát.Sau đó, người này cân nhắc, xem xét ý nghĩa đó với nhiều khía cạnh, rồi

chấp nhận loại tà kiến ấy.Bấy giờ "chủ thuyết này" xuất hiện trong tâm như trụ đá vững chắc.Khi trở nên thân cận với chủ thuyết ấy trong một thời gian dài, người đó

chấp nhận "đây là sự thật". Và người này hiểu sự vật có bản chất như chủ thuyết nêu ra, một bản

chất mà chúng "không hề có ". Nên Đức Phật có dạy:"Có hai duyên, này các Tỳ-khưu, khiến tà kiến sinh khởi. Thế nào là hai?

Tiếng nói người khác (parato ghoso) và tác ý không khéo (ayoni so mamasikāra) …" (2).

"Tâm trở nên cứng rắn". Là bằng vào những điều kiện riêng, như suy nghĩ, thấy, nhớ lại (3)... tâm bám vào "chủ thuyết" một cách vững chắc, nó chối bỏ sự thật mà theo nó (ám chỉ tà kiến) "đó là sai lệch".

Nói cách khác: Khi tâm bất thiện chỉ chấp nhận tà kiến, thì các tà kiến khác không thể sinh lên trong tâm bất thiện này.

Ví như người tu tập đề mục "đất", thì chỉ có "ấn tướng đất xuất hiện trong tâm thiện của người ấy"; cũng vậy, người chấp nhận "đoạn kiến" thì "đối tượng thường kiến" không thể xuất hiện trong tâm bất thiện", chấp nhận "vô nghiệp" thì "đối tượng vô quả" không thể xuất hiện trong tâm loại tâm tham hợp với tà kiến.

Đây gọi là người chấp nhận "một tà kiến", đồng thời loại tà kiến này có tên gọi là "tà kiến nhất định (micchattaniyāma)".

-"Một số người chấp nhận hai tà kiến". Là trong tâm bất thiện hợp tà kiến của người này, chỉ có hai loại cảnh của tà kiến tùy theo tác ý.

Như người tu thiền, có thể tu tập hai đề mục như "đất" hay “lửa”; cảnh thiền tướng xuất hiện trong tâm, có khi là "ấn tướng đất", có khi là "ấn tướng lửa" tùy theo tác ý. Đây gọi là "người chấp nhận hai tà kiến".

1(?)- M.ii, kinh Aggivacchagotta. 2(?)- A.i, 86, pháp một chi. HT. Thích Minh Châu (d), Phẩm hy vọng trừ khử (āsāduppajahavaggo).3(?)- Như các Sa-môn, Bà-la-môn có thắng trí Sinh tử thông, hay túc mạng thông trong kinh Phạm võng – Ns.

100

Page 101: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Tương tự như vậy với "người chấp nhận ba tà kiến". Tức là trong tâm bất thiện hợp với tà kiến, có ba loại cảnh của ba loại tà kiến trên tùy theo tác ý.

Ví như người tu tập ba đề mục : Đất, lửa, gió. Đây gọi là "người chấp nhận ba tà kiến".

Điểm cần nêu rõ là: Khi tâm bất thiện hợp với tà kiến chỉ có một cảnh của tà kiến, loại tà kiến này gọi là “tà kiến nhất định”.

Với người chấp nhận hai tà kiến hay chấp nhận ba tà kiến, thì loại tà kiến ban đầu là "tà kiến nhất định".

Vì từ đó nó dẫn đến kết hợp với một hay hai loại tà kiến còn lại.Như người "trước tiên chấp nhận không có nghiệp", sẽ dẫn đến "chấp

nhận không có quả", rồi dẫn đến "chấp nhận “không có nhân duyên".Và loại tà kiến "không có nghiệp" được xem là tà kiến nhất định.Các Sớ giải Sư cho rằng: "Ba loại tà kiến này đều có sức mạnh và cho quả

như nhau là: Ngăn chận đường sinh lên nhàn cảnh, ngăn chận con đường dẫn đến giải thoát.

Có Phật ngôn như sau:"Này Vaccha, dầu cho Ta có nhớ đến 91 kiếp, Ta không biết một tà mạng

ngoại đạo nào đã sinh Thiên trừ một người, người này đã thuyết về nghiệp và thuyết về tác dụng của nghiệp"(1).

Du sĩ Vacchagotta thuộc phái Thuận thế ngoại đạo (lokāyata), và phái Ājīvaka còn được xem là "chủ thuyết khoái lạc".

Cho dù người chỉ chấp nhận "một tà kiến ", khi loại tà kiến này cho quả thì hai loại kia cũng góp sức mạnh vào.

Có câu hỏi rằng: "Chấp nhận một trong ba tà kiến này, con đường sinh lên thiên giới bị chặn. Vì sao đệ tử của Makkhali gosāla là thiên tử Sahali, đệ tử của Pūraṇa kassapa là thiên tử Asama?"... (những người này được sinh thiên)(2).

Đáp rằng: "Những vị ấy, trước khi là môn đệ của những vị giáo chủ này, họ tin vào nghiệp. Khi sắp mệnh chung, tư tưởng này xuất hiện nên họ sinh thiên.

Đức Phật có giảng rõ điều này trong Trung bộ kinh, bài kinh Đại nghiệp phân biệt kinh".

"Mọc rễ trong luân hồi (vaṭṭakhāṇu)".Đây là một "ẩn dụ nghĩa" không phải là "thông dụng nghĩa (nītattha),

nên cần làm sáng tỏ (neyyattha) ý nghĩa này.Ý nghĩa "mọc rễ trong luân hồi" chỉ xác định cho kiếp sau mà thôi(3), tức

là tái sinh vào khổ cảnh trong kiếp kế tiếp.Trong Papañcasūdanī (Sớ giải Trung bộ kinh) có ghi:

1(?)- M.ii, HT. Thích Minh Châu (d), kinh Tevijja vacchagotta. 2(?)- Xem S.i, phẩm Tương ưng Thiên tử.. 3(?)-Đây ám chỉ cho loại tà kiến nhất định, không thay đổi vào lúc cận tử, hay do tà kiến nhất định này dẫn đến 5 tội đại nghịch là : giết cha, giết mẹ… - Ns.

101

Page 102: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Hỏi: "Tương lai của người đó (do quả của tà kiến) được định sẵn với kiếp kế tiếp, hay cũng liên quan đến các kiếp sau sau?".

Đáp rằng: "Chỉ kiếp kế tiếp thôi, nhưng do đắm chìm trong tà kiến người đó lại chấp nhận tà kiến này trong những kiếp sau sau khi gặp lại chúng"(1).

Vì sao? Vì do ảnh hưởng của tâm sở Si (mohacetasika) và tâm sở Phóng dật (uddhacca cetasika) nên không có sức mạnh như tính thiện, để không bị hấp lực của loại tà kiến đã chấp nhận trong kiếp này.

Ví như người yếu sức không thể chống lại sức mạnh của dòng nước, phải trôi xuôi theo dòng nước. Hay ví như "ngựa quen đường cũ".

Nên ghi nhận rằng: Chánh kiến nhất định (sammattaniyāma) không hề thay đổi, thì loại tà kiến nhất định này cũng không hề thay đổi, nghĩa là nó ngăn chận tái sinh vào nhàn cảnh và sự giải thoát khỏi luân hồi.

Chánh kiến nhất định (sammattaniyāma) là ám chỉ "chánh kiến của bậc Thánh", tuy loại chánh kiến này vẫn bị định luật vô thường chi phối, nhưng khi sinh lên vẫn như chánh kiến trước đó, cho dù trải qua nhiều kiếp tái sinh.

Đây là ý nghĩa của cụm từ "không hề thay đổi".Riêng phàm nhân tu tập pháp quán (vipassanā), tỏ ngộ được một trong

ba tướng "vô thường, khổ, vô ngã", cũng được xem là "chánh kiến nhất định", nhưng loại chánh kiến nhất định này chỉ có tạm thời có trong kiếp sống ấy mà thôi, loại chánh kiến này có thể bị thay đổi, bị cắt đứt trong những kiếp sau sau.

Riêng về tà kiến nhất định, gọi là "không thể thay đổi" là ám chỉ "ngăn chặn tái sinh về nhàn cảnh và ngăn chận giải thoát khỏi luân hồi", ngoài tính vô thường ra, nó vẫn có thể bị "hủy diệt". Như Phật ngôn:

"Do đoạn tận kiến kiết sử, Phạm hạnh được sống"(2).Hỏi: Ý nghĩa "mọc rễ trong luân hồi", hiểu theo nghĩa mở rộng thì như

thế nào?Đáp: Nên hiểu theo ý nghĩa Phật ngôn sau:"Ở đây, này các Tỳ-khưu, có hạng người lặn một lần rồi chìm luôn"."Ở đây, này các Tỳ-khưu, có hạng người sau khi nổi lên, lại chìm

xuống"(3). Tức là, "người chỉ chìm vào tà kiến một lần rồi chìm trong đó mãi mãi".Hay "tuy có lần thoát ra khỏi tà kiến, rồi trở lại chìm vào tà kiến".Một khi chìm vào tà kiến (bất kể là loại tà kiến nào: Thường kiến hay

đoạn kiến) thì không thể thoát ra khỏi luân hồi. Người ấy được ví như "mọc rễ trong luân hồi".Chánh kinh.

1(?)- MA. 3. 85). 2(?)- HT. Thích Minh Châu (d). A.iv, 7. Pháp 7 chi. kinh Đoạn tận (Pahānasuttaṃ). 3(?)- HT. Thích Minh Châu (d). A.iv, 11. Pháp 7 chi. kinh Ví dụ nước (Udakūpamāsuttaṃ).

102

Page 103: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Pakudha kaccāyana vādo.(Chủ thuyết của Pakudha kaccāyana).

173 … 174. "Evaṃ vutte, bhante, Pakuddho kaccāyano maṃ etadavoca:- Bạch Thế Tôn, khi được hỏi vậy, Pakudha kaccāyana nói với con:"Sattime mahārāja kāyā akaṭa, akaṭavidhā animmitā animmātā vañjhā

kūṭaṭṭhā esikaṭṭhāyiṭṭhitā."Này Ðại vương, có bảy nhóm không bị làm ra, không làm ra, không bị

sáng tạo, không sáng tạo, không sanh sản, thường tại như đỉnh núi, đứng thẳng như trụ đá.

Tena iñjanti, na vipariṇamanti, na aññamaññaṃ byābāthenti, nālaṃ aññamaññassa sukhāya vā dukkhāya vā sukhadukkhāya vā.

Chúng bất động không chuyển biến, không xâm lăng nhau, chúng không ảnh hưởng đến lạc hay khổ với nhau hoặc cả khổ và lạc.

Katame satta? Pathavīkāyo, āpokāyo, tejokāyo, vāyokāyo, sukhe, dukkhe, jīve sattame.

Bảy nhóm ấy là gì? Nhóm đất, nhóm nước, nhóm lửa, nhóm gió, khổ, lạc và thứ bảy là mạng.

Ime satta kāyā akaṭā akaṭavidhā animmitā animmātā vañjhā kūṭaṭṭhā esikaṭṭhāyiṭṭhitā.

Bảy nhóm này khômg bị làm ra, không làm ra, không bị sáng tạo, không sáng tạo, không sinh lợi, thường tại như đỉnh núi, đứng thẳng như trụ đá.

Te na iñjanti, na vi na vipariṇamanti, na aññamaññaṃ byābāthenti, nālaṃ aññamaññassa sukhāya vā dukkhāya vā sukhadukkhāya vā.

Chúng bất động không chuyển biến, không xâm lăng, chúng không ảnh hưởng đến lạc hay khổ với nhau, hoặc cả khổ và lạc.

Tattha natthi hantā vā ghātetā vā, sotā vā sāvetā vā, viññātā vā viññā petā vā. Yopi tiṇhena satthena sīsaṃ chindati, na koci kiñci jīvitā voropeti; sattannaṃ tveva kāyā namantarena satthaṃ vivaramanupatatī'ti".

Ở đây không có người giết hại, hoặc có người bị giết hại, người nghe hoặc người nói, người biết hoặc người khiến cho biết. Khi một ai dùng lưởi kiếm sắc bén chém đầu, thời không có ai tước đoạt sanh mạng của ai cả, lưỡi kiếm chỉ rơi vào giữa bảy thân mà thôi".

175. "Itthaṃ kho me, bhante, Pakudho kaccāyano sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno aññena aññaṃ byākāsi…

Bạch Thế Tôn, khi được con hỏi về kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, Pakudha kaccāyana đả trả lời một việc khác với một quan điểm khác….

Giải:* “Không bị làm ra” (akaṭa). Là không bị tạo ra.Bản Sớ giải giải thích: “Không bị làm ra”, nghĩa là chúng không bị ai

hướng dẫn, sai sử, điều khiển để chúng được tạo ra.

103

Page 104: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

“Không bị làm ra” nghĩa là không có năng lực siêu nhiên nào tạo ra chúng.

Hậu sớ giải giải thích: “Không bị làm ra”, nghĩa là chúng không được tạo ra từ bất cứ nguyên nhân nào, cho dù chúng có bản chất giống hay khác nhau.

Như đất chẳng hạn, chúng chẳng do ai tạo cho dù đó là Thượng đế … tuy bản chất của chúng có khác nhau như đá quý khác với cát bụi …

Lại nữa, "không bị làm ra" là chúng không bị làm ra bởi năng lực siêu nhiên của các vị chư thiên sinh ra bằng ý chấp trước, hoặc chúng không bị làm ra do năng lực thần thông, hay do Đấng Sáng tạo chủ (Issara) tạo ra.

* “Không làm ra” (akata). Là không tạo ra.Evaṃ karohīti kenaci kārāpitāpi na hontīti attho (At):Có nghĩa là "chúng không bị tạo ra, chúng cũng không tạo ra chất khác".Qua hai thuật ngữ " không bị tạo ", "không tạo ra", chủ thuyết của

Pakudha kaccāyana có vẻ như "tự nhiên có". Và ông đã bác bỏ "nhân duyên".

Tiếp theo, Pakudha kacāyana đi thêm bước nữa, ông cho rằng 7 nhóm (1): Đất, nước, gió, lửa, khổ, lạc và sự sống (jīva) không sáng tạo cũng không bị sáng tạo.

* “Không sáng tạo” (animmitā). Animmitāti iddhiyā na nimmitā(At):“Không tạo ra năng lực siêu nhiên, gọi là "không sáng tạo". Và:Animmātāti animmāpitā, keci animmāpetabbāti padaṃ vadanti (At):"Không bị sáng tạo" là không có mẹ tạo, không có cha tạo , không

(được) tạo ra từ bất cứ nền tảng nào".Hai thuật ngữ "không bị tạo ra, không tạo ra", là nói theo cách thông

thường.Còn "không bị sáng tạo, không sáng tạo", nói với ý nghĩa đặc biệt.Là "bị tạo ra do năng lực thần thông" gọi là “bị sáng tạo”nhưng "năng lực

thần thông không thể tạo ra chúng", nên gọi là “không bị sáng tạo”.“Năng lực thần thông” không thể tạo ra được vật gì khác, nên gọi là

“không sáng tạo”.* "Không sinh sản” (vañjhā). Vañjhādipadattayam, vuttattha meva (At):Điều này ám chỉ: Chúng không sinh sản như loài động vật.Nghĩa là: Chúng không sinh sản như động hay thực vật, chúng không như

cây cho hoa, trái… chúng không sinh sản ra bất kỳ thứ gì khác.Qua tuyên bố này, Pakudha kaccāyana cho rằng đất, nước, lửa, gió, khổ,

lạc và sự sống (jīva) không tạo ra những loại vật chất hữu hình khác.1(?)- Kāya ở đây, nên hiểu là nhóm - Ns.

104

Page 105: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Vì trong học thuyết của Pakudha kaccāyana, các dạng hữu hình, như âm thanh, màu sắc... xuất hiện độc lập với bảy nhóm (satta kāya).

* "Đứng như đỉnh núi” (kūṭaṭthā).Kuṭaṭṭhāna = kūṭa + ṭhāna.Hậu sớ giải có giải thích: "Đứng như đỉnh núi (kūṭaṭṭhā)" nghĩa là chúng

khôngbị tạo cũng không tạo ra bất kỳ cái gì.Ví như nơi đỉnh (chót) núi không có cây cỏ, không có thú sinh sống. * "Đứng thẳng như trụ đá” (esikaṭṭhāyiṭṭhitā).Hậu sớ giải giải thích: Ông Pakudha kaccāyana cho rằng: Khi người ta nói

rằng "mầm cây được sinh ra từ hạt giống".Mầm cây ấy vừa tồn tại vừa không tồn tại, vì chúng được sinh ra từ một

cái khác, cái ấy ngoài bảy nhóm: Đất, nước, gió, lửa, khổ , lạc và sự sống.Nghĩa là Pakudha kaccāyana cho rằng, sinh vật, thực vật sinh ra là do

nhân khác, không phải sinh ra từ một hay cả 7 nhóm: Đất, nước, gió, lửa, khổ, lạc và sự sống.

Chủ thuyết của ông Pakudha kaccāyana không rõ ràng, theo quan điểm của ông, 7 nhóm: Đất, nước, lửa, gió. khổ, lạc và sinh mạng "tự nhiên có", đồng thời chúng không tạo ra chất khác.

Chủ thuyết của ông, dường như "ngẫu nhiên", cũng vừa "thường hằng" cũng vừa "phi nghiệp", cũng vừa "phi quả", cũng vừa "phi nhân duyên".

Bản Sớ giải giải thích:Na iñjantīti esikatthambho viya ṭhitattā na calanti (At):Trụ vững không chuyển động như ngọn núi vững chắc, gọi là "bất

động".Na vipariṇamantīti pakatiṃ na jahanti (At):Thường hằng, không bị biến đổi, gọi là "không chuyển biến".Bất động nghĩa là"không bị vô thường"; “không chuyển biến” là không từ

bỏ bản chất thật của chúng.* "Không xâm phạm nhau” (na aññamaññaṃ byābādhenti). Na aññamaññaṃ byābādhentīti na aññamaññaṃ upahananti (At):Gọi là “không xâm phạm nhau” là “không làm tổn hại lẫn nhau”.Nālanti na samatthā (At):Không có khả năng, gọi là “không ảnh hưởng”.Ông Pakudha kaccāyana cho rằng: Do bản chất của 7 nhóm này không

thay đổi, nên chúng không xâm phạm nhau.Nếu chúng chịu sự biến đổi, thì chúng mới xâm phạm nhau, như nước có

thể trở thành đất, gió có thể trở thành lửa ….Cũng vậy, do không thể chuyển thành khác, nên chúng không giúp đỡ

nhau, vì thế chúng “không ảnh hưởng nhau”.

105

Page 106: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Để chỉ ra điều này, Pakudha kaccāyana nói: "Chúng không thể làm cho người khác lạc hay khổ"...

* “Không có người giết hại". Giống như người dùng gươm đâm vào đống đậu, thanh gươm đi vào giữa các hạt đậu, cũng vậy hành động giết người chỉ là thanh gươm xuyên qua kẻ hở của 7 nhóm (vì 7 nhóm không hề hư hoại, biến thành khác).

Bản Sớ giải giải thích: Với những từ ngữ “không chuyển biến”, “không xâm phạm nhau”, “không ảnh hưởng nhau”.

Ông Pakudha kaccāyana cho rằng: (Khi một người nghĩ) "Ta đang nắm giữ sự sống của mình", đó chỉ đơn thuần là ý tưởng, vì "sự sống" vốn không hư hoại, biến thành khác.

Phụ lục. Có thể xem bốn chủ thuyết của Pūraṇa kassapa, Ajita kesakambala,

Makkhali gosāla và Pakudha kaccāyān thuộc trường phái duy vật cổ sơ, có tên gọi là Lokayata (Thuận thế (Kinh tạng Pāli gọi phái có chủ thuyết “đoạn kiến” là Thuận thế phái (Lokāyata) hay "Duy vật cổ sơ – cārvāka, sanskrit là charvaka).

Sau đây là mẫu đối thoại của một Bà-la-môn Thuận thế phái với Đức Thế Tôn. Khi Đức Phật trú ngụ trong thành tại thành Sāvatthī, vị Bà-la-môn này đến viếng Đức Phật và bạch hỏi.

- Thưa Tôn giả Gotama! Có phải tất cả đều có?- Này Bà-la-môn! "tất cả đều có" là chấp kiến thứ nhất của thế gian (ám

chỉ thường kiến).- Thưa Tôn giả Gotama! Có phải tất cả đều không có?-"Tất cả đều không có "này Bà-la-môn! Là chấp kiến thứ hai của thế gian.- Thưa Tôn giả Gotama! Có phải tất cả đều là một?- "Tất cả đều là một" là chấp kiến thứ ba của thế gian.- Thưa Tôn giả Gotama! Có phải tất cả đều là nhiều?- Này Bà-la-môn! "tất cả đều là nhiều" là chấp kiến thứ tư của thế gian.

Này Bà-la-môn! Từ bỏ hai cực đoan, Như Lai thuyết về Trung đạo.Sau khi dứt thời kinh về Lý nhân duyên (Thập nhị duyên khởi). Vị Bà-la-

môn ấy xin quy ngưỡng Đức Phật đến trọn đời (1).Chánh kinh.

Nigantha nātaputta vādo.(Chủ thuyết của Nigantha nātaputta).

176. … 177. "Evaṃ vutte, bhante, Nigaṇṭho nātaputto maṃ etadavoca:- Bạch Thế Tôn, khi được hỏi vậy, Nigantha nātaputta nói với con:Idha, mahārāja Nigaṇṭho cātu yāmasaṃvarasaṃvuto hoti.

1(?)- S.ii, 77. Kinh Thuận Thế phái (LokāyAtikasuttaṃ)

106

Page 107: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

"Này Ðại vương, một người Nigantha (Nikiềntử) sống chế ngự bởi bốn loại cấm giới.

Kathañca, mahārāja, Nigaṇṭho cātu yāmasaṃvarasaṃvuto hoti?Này Ðại vương, thế nào là một người Nigantha sống chế ngự bởi bốn loại

cấm giới?Idha, mahārāja, Nigaṇṭho sabbavārivārito ca hoti, sabbavāriyutto ca,

sabbavāridhuto ca, sabbavāriphuṭo ca.Này Ðại vương, một Nigantha sống gìn giữ đối với tất cả loại nước, gìn

giữ đối với mọi ác pháp, sống tẩy sạch tất cả ác pháp và sống với ý chí gìn giữ đối với tất cả ác pháp.

Evaṃ kho, mahārāja, Nigaṇṭho cātuyāmasaṃvarasaṃvuto hoti.Này Ðại vương, như vậy một Nigantha sống chế ngự bởi bốn loại cấm

giới.Yato kho, mahārāja, Nigaṇṭho evaṃ cātuyāmasaṃvarasaṃvuto hoti;

ayaṃ vuccati, mahārāja, Nigaṇṭho gatatto ca yatatto ca ṭhitatto cā'ti".Này Ðại vương, vì một Nigantha sống chế ngự bởi bốn loại cấm giới, nên

vị ấy được gọi là Gatatto (một vị đã đi đến đích), Yatatto (một vị đã điều phục tự tâm) và Thitatto (một vị đã an trú được tự tâm)".

178. "Itthaṃ kho me, bhante, Nigaṇṭho nātaputto sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno cātuyāmasaṃvaraṃ byākāsi….

- Bạch Thế Tôn, khi được con hỏi đến kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, Nigaṇṭha nātaputta đã trả lời với sự chế ngự bởi bốn loại cấm giới….

Giải.* "Sống chế ngự với tất cả các loại nước” (sabbavārivārito). Bản Sớ giải có giải thích: Môn đệ Nigaṇṭha từ chối sử dụng tất cả các loại

nước lạnh.Người ta nói rằng Nigantha thấy được các chúng sinh hữu tình trong nước

lạnh và vì vậy mà không dùng nước lạnh.* “Sống gìn giữ với mọi ác pháp” (sabbavāriyutto).Hậu sớ giải giài thích:Nigaṇṭha chủ trương lánh xa mọi ác pháp. Và:* “Sống tẩy sạch tất cả ác pháp” (sabbavāridhuto).Nigaṇṭha chủ trương tẩy sạch tất cả các ác pháp. * "Sống với ý chí gìn giữ đối với tất cả ác pháp” (sabbavāriphuṭo).Nigantha sống với ý chí gìn giữ đối với tất cả ác pháp, hủy diệt nghiệp

nhờ sự thành tựu giải thoát bằng cách phá hủy tám loại nghiệp(1).* "Vị đã đi đến đích" (gatatto).Gatattoti koṭippattacitto (At):

1(?)- Không thấy bản Hậu sớ giải nêu ra 8 loại nghiệp nào? - Ns.

107

Page 108: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Vị đã đi đến đích là “ tâm đạt đến đỉnh cao”.Hậu sớ giải giải thích “vị đến đích”. Nghĩa là “tâm của vị ấy đạt đến mức

độ cao nhất nhờ thành tựu giải thoát”.* “Vị đã điều phục tâm” (yatatto). Yatattoti saṃyatacitto (At):Tâm được chế ngự, gọi là "vị đã điều phục tâm". Hậu sớ giải giải thích: Nhờ không vi phạm vào thân tội (kāyadaṇḍa), nên

gọi là “vị đã điều phục tâm”(1).* “Vị đã an trú được tâm" (ṭhitatto). Ṭhitattoti suppatiṭṭhitacitto (At):Thành lập được tâm một cách chắn chắn, gọi là"vị đã an trú được

tâm". Trong học thuyết của Nigantha có một số điều theo lời dạy của Đức Phật,

nhưng do học thuyết của vị ấy không trong sạch, lại nữa có nhiều tà kiến sinh khởi.

Một số điều như lời dạy của Đức Phật là "gìn giữ với ác pháp".Gọi là “học thuyết không trong sạch” là Nigaṇṭha nātaputta chỉ quan

trọng thân tội.“Có tà kiến sinh khởi” là Nigaṇṭha nāṭaputta khẳng định "có một linh

hồn, nó có thể thường hằng, có thể không thường hằng".Hậu sớ giải giải thích: “Có tà kiến” là: Tất cả các điểm vị ấy có được nhờ

quán xét về nghiệp, nhưng sự thực chứng không có, nên có sự lệch lạc, từ đó sinh khởi tà kiến.

Như vị ấy cho rằng "khổ, lạc trong hiện tại là do quả của nghiệp quá khứ(2)….

Chánh kinh.Sañjaya belaṭṭhaputta vādo.

(Chủ thuyết của Sañjaya belaṭṭhaputta).179. … . 180. "Evaṃ vutte, bhante, Sañcayo belaṭṭhaputto maṃ

etadavoca:Bạch Thế Tôn, khi được hỏi vậy, Sañjaya belatthiputta đã trả lời với con:Atthi paro lokoti iti ce taṃ pucchasi, "atthi paro lokoti iti ce me assa,

atthi paro lokoti iti te naṃ vyākareyyaṃ.- "Nếu anh hỏi:"Có một thế giới khác hay không?" Nếu tôi nghĩ "Có một

thế giới khác", tôi có thể trả lời với anh: "Có một thế giới khác". Evantipi me no. Tathātipi me no. Aññathātipi me no. Notipi me no,

1(?)- Xem M.ii, kinh Upāli. 2(?)- Xem M.ii, kinh Thiên tý ( Devadahasuttaṃ).

108

Page 109: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế.

Natthi paro loko …pe… Nếu anh hỏi tôi: "Không có một thế giới khác phải không?…

Atthi ca natthi ca paro loko … pe… Có và không có một thế giới khác phải không?…

Nevatthi na natthi paro loko …pe… Không có và cũng không không có một thế giới khác phải không?…

(xin xem tiếp bản kinh đã được Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch).181. "Itthaṃ kho me, bhante, Sañcayo belaṭṭhaputto sandiṭṭhikaṃ

sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno vikkhepaṃ byākāsi….- Bạch Thế Tôn, khi được con hỏi kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-

môn, Sañjaya belatthaputta đã trả lời với Ngụy biện luận….GiảiTheo bản Sớ giải: Học thuyết của Sañjaya belatthaputta được giải thích

theo cách ghi trong phần về "những học thuyết lập lờ không có kết thúc (amarāvikkhepavāda)", như trong Sớ giải bài kinh Brahmajāla Sutta (1).

Dứt phần 2.Dứt chương II.

-0-0-0-Chương III.

Phần 1.Quả Sa-môn theo thông thường.( từ đoạn 182 đến hết đoạn 185).

Sau khi trình bày 6 lời giảng của 6 tôn chủ dị giáo đương thời, vua Ajātasattu bày tỏ sự "không thỏa mãn, không hài lòng" về các vị ấy với Đức Thế Tôn.

Rồi Đức vua bạch rằng:Chánh kinh.

Pathamasandit.ṭhikasāmaññaphalaṃ. (Quả thiết thực đầu tiên của hạnh Sa-môn).

182. So'haṃ bhante Bhagavantaṃ pi pucchāmi:Vậy nên Bạch Đức Thế Tôn, con cũng hỏi Ngài".

1(?)- Xem “Sự liên quan mật thiết của các quan điểm” (The all-embracing net of views), các trang 173, 78.

109

Page 110: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Nghĩa là: "Như một người không thể lấy dầu bằng cách nghiền đá, cũng vậy, con không thấy bất kỳ yếu tố cần thiết nào từ những học thuyết của sáu vị thầy đó. Do vậy, con xin hỏi Đức Thế Tôn" (At).

Tiếp theo, vuaAjātasattu lập lại lời dẫn nhập (như đoạn 163) rồi hỏi:"Sakkā nu kho me bhante evam eva diṭṭh'eva dhame sandiṭṭhikaṃ

sāmaññaphalaṃ paññāpetun ti?"Bạch Thế Tôn, Ngài có thể cho biết kết quả thiết thực của hạnh Sa-môn

chăng?183."Sakkā nu kho mahārāja. Tena hi mahārāja taṃ

yev'etthapaṭipucchissāmi, yathā te khameyya tathā naṃ vyākareyyāsi."Đại vương, có thể được. Này Đại vương, Ta sẽ hỏi Đại vương về vấn đề

này, Đại vương hãy trả lời tùy theo ý muốn của Đại vương"."Taṃ kiṃ maññasi mahā rāja? Ðại vương hiểu như thế nào?Idha te assa puriso dāso kammakāro pubbuṭṭhāyi pacchānipāti kiṃ

kārapaṭissāvī manāpacārī piyavādī mukhullokako.Ở đây, Ðại vương nghĩ sao? có một người nô bộc, dậy sớm, thức khuya,

thi hành mọi mệnh lệnh của chủ, làm đẹp lòng mọi người, lời nói kính ái, chú ý từng nét mặt (của Ðại vương).

Tassa evaṃ assa: "Acchariyaṃ vatabho abbhutaṃ vata bho puññānaṃ gati puññānaṃ vipāko.

Người ấy nghĩ: "Thật hy hữu thay! Thật kỳ diệu thay quả vị thác sinh của các công đức, quả dị thục của các công đức.

Ayaṃ hi rāja Magadho Ajātasattu Vedehiputto manusso , ahaṃ pi manusso.

Ðức vua Ajātasattu, con của bà Videhi của nước Magadha, là người, tôi đây là người.

Ayaṃ hi rāja Magadho Ajātasattu Vedehiputto pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgibhūto paricāreti devo maññe

Vị vua Ajātasattu con bà Videhi, của nước Magadha, sống tận hưởng đầy đủ năm món dục lạc, tôi nghĩ không khác gì vị thiên thần.

Ahaṃ pan'amhi 'assa dāso kammakaro pubbuṭṭhāyi pacchānipāti kiṃ kārapaṭissāvī manāpacārī piyavādī mukhullokako.

Còn ta là người nô bộc, làm mọi công việc, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi mệnh lệnh của chủ, làm đẹp lòng mọi người, lời nói kính ái, chú ý từng nét mặt (của vua).

So vat'assāhaṃ puññāni kareyyaṃ. Vậy ta hãy tạo các công đức như đức vua.Yaṃ nūnāhaṃ kesa-massuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā

agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyyanti".Ta hãy cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, từ bỏ gia đình xuất gia hành đạo".

110

Page 111: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

So aparena samayena kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchadetvā agārasmā anāgāriyaṃ pabbajeyya.

Và người nô lệ ấy, một thời khác, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia tu tập.

So evaṃ pabbajito samāno kāyena saṃvuto vihareyya vācāya saṃvuto vihareyya manasā saṃvuto vihareyya ghāsacchādanaparamatāya santuṭṭho abhirato paviveke.

Sau khi xuất gia như vậy, người ấy sống chế ngự thân, sống chế ngự lời nói, sống chế ngự ý nghĩ, biết đủ với nhu cầu được cho cao nhất, tốt nhất, hoan hỉ sống an tịnh.

Taṃ ce te purisā evam āroceyyuṃ: "Yagghe deva jāneyyāsi yo te puriso dāso kammakaro pubbuṭṭhāyi pacchānipāti kiṃ kārapaṭissāvī manāpacārī piyavādī mukhullokako, so deva kesa-massuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agāramā anāgāriyaṃ pabbajito. So evaṃ pabbajito samāno kāyena saṃvuto vihareyya ghāsacchādanaparamatāya santuṭṭho abhirato paviveketi".

Ðại vương có biết chăng? "Có người nô bộc của Ðại vương, làm mọi công việc, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi mệnh lệnh của chủ, làm đẹp lòng mọi người, lời nói kính ái, chú ý từng nét mặt (của Ðại vương). Tâu Ðại vương, người ấy đã cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia tu đạo. Sau khi xuất gia như vậy, người ấy sống chế ngự thân, sống chế ngự lời nói, sống chế ngự ý nghĩ, biết đủ với nhu cầu được cho cao nhất, hoan hỉ sống an tịnh".

Api nu tvaṃ evaṃ vadeyyāsi: "Etu me bho so puriso, punad eva hotu dāso kammakāro pubbuṭṭhāyi pacchānipāti kiṃ kārapaṭissāvī manāpacārī piyavādī mukhullokakoti".

Này Ðại vương, Ðại vương có nói như sau chăng?: "Người ấy hãy lại với ta, hãy làm lại người nô bộc, làm mọi công việc, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi mệnh lệnh của chủ, làm đẹp lòng mọi người, lời nói kính ái chú ý từng nét mặt?"

184. No h'etam, bhante. Atha kho naṃ mayaṃ eva abhivādeyyāma pi paccuttheyyāma pi āsanena pi nimanteyyāma abhinimateyyaama pi naṃ cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilāna-paccaya-bhesajja-patikkhārehi dhammikam pi 'ssa rakkhā-varaṇa-guttiṃ saṃvidaheyyāmāti".

Bạch Thế Tôn, không như vậy. Trái lại chúng con kính lễ người ấy, đứng dậy trước người ấy, mời người ấy ngồi xuống ghế, cúng dường người ấy các dụng cụ như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, thuốc men trị bệnh và chúng con sẽ ra lệnh để bảo vệ, che chở người ấy đúng theo luật pháp.

185. Taṃ kiṃ maññāsi, mahārāja? Yadi evam, sante hoti vā sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ, no vāti?

Này Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Đó là sự an tịnh hay đó có phải là kết quả thiết thực hiện tại hạnh Sa-môn chăng.?

Addhā kho bhante "evaṃ sante hoti sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ".

111

Page 112: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Bạch Thế Tôn, "như vậy là an tịnh, là kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn".

Idaṃ kho mahārāja mayā paṭhamaṃ diṭṭh'eva dhamme sandiṭṭhikaṃ samaññaphalaṃ paññattanti".

Này Ðại vương đó là kết quả thiết thực hiện tại thứ nhất của hạnh Sa-môn mà Ta đã trình bày.

Giải.Vì sao Đức Thế Tôn không giải thích ngay về quả thiết thực của hạnh Sa-

môn, Ngài lại hỏi vua Ajātasattu (A-xà-thế) và dạy "hãy trả lời theo ý muốn của Đại vương"?

Đáp rằng: Trước tiên, đây là câu hỏi theo cách thứ tư, tức là "hỏi để người đáp xác nhận ý kiến của mình".

Thứ đến, nếu Đức Thế Tôn chỉ giảng "quả thiết thực của hạnh Sa-môn" theo cách thông thường, bấy giờ các vị Đại thần là môn đệ của sáu vị tôn chủ dị giáo sẽ cắt ngang để phản đối, nhưng nếu vua Ajaatasattu (xác nhận ý kiến của Đức Thế Tôn) thì họ phải im lặng.

Lại nữa, vua Ajātasattu là người có địa vị cao nhất trong hội chúng tùy tùng đang có mặt, Đức vua lại có tâm tìm hiểu "quả thiết thực của hạnh Sa-môn", nên vua Ajātasattu không thể trả lời "sai thực tế".

Hạnh Sa-môn có hai phần: Hình thức và nội dung.Hình thức Sa-môn hạnh là phẩm mạo xuất gia, còn nội dung Sa-môn

hạnh là tu tập những pháp của bậc chân nhân (sappurisa) và thành tựu được pháp thượng nhân.

Trước tiên, Đức Phật nêu lên quả thiết thực của hình thức Sa-môn hạnh, là quả của phẩm mạo xuất gia.

* "Người nô bộc (dāso)". Có bốn loại nô bộc (hay nô lệ) rõ ràng, một số không rõ ràng lắm.

"Dāsoti antojāta dhanakkītaka marānītasāmaṃ dāsabyopagatānaṃ aññataro (At):

"Nô bộc là “người sanh trong nhà, người đã trao đổi bằng tài sản, người sự chết tạm ngưng (tù binh), người tự nguyện là nô bộc, cùng những loại nô bộc không rõ ràng (khác)” .

Bốn loại nô bộc rõ ràng là :- Nô bộc sinh ra trong nhà. Là con của người nô bộc, đứa trẻ sinh ra từ cha mẹ là nô bộc của một

nhà quyền quý, giàu sang nào đó, đứa bé ấy trở thành nô bộc cho gia đình người chủ.

- Nô bộc được mua bằng tiền.- Nô bộc do bị bắt làm tù binh.- Nô bộc do tự nguyện.

112

Page 113: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Loại rõ ràng. Là hạng nô bộc làm việc cho chủ, không được đòi hỏi thù lao.

Loại không rõ ràng. Là làm việc cho chủ có thù lao, như người làm thuê…

* "Làm mọi công việc" (kammakāro). Kammakāroti analaso kammakaraṇasīloyeva (At):“Làm mọi công việc” là làm những công việc bình thường (analaso),

những việc không có tội lỗi.Ở đây, Đức Phật chỉ đề cập đến những việc làm vô tội của người nô bộc,

không đề cập đến những việc có tính tội lỗi mà người chủ bắt buộc người nô bộc phải làm".

* "Dậy trước"(pubbuṭṭhāyi). Dūrato disvā paṭhamameva uṭṭhahatīti pubbuṭṭhhāyiti (At): "Thấy từ xa (đứnglên) trước, thức dậy trước (chủ), là "dậy trước".Câu Pāli này có hai ý nghĩa:- Khi thấy chủ từ xa đi đến thì đứng lên chờ sai bảo.- Khi chủ chưa thức giấc, thì thức giấc rồi.* "Thức khuya (pacchānipāti)". Cũng mang hai ý tương tự như trên. Tức

là: - Khi chủ đứng dậy thì dọn dẹp chỗ ngồi, dùng nước lau sạch chỗ ngồi … - Khi chủ đi ngủ, dọn dẹp xong mọi công việc rồi mới đi ngủ.* "Thi hành mọi mệnh lệnh của chủ” (kiṃ kārapaṭissāvī).Evaṃ kiṃkārameva paṭisunanto vicaratīti kiṃ kārapaṭissāvī (At):“Thi hành mọi mệnh lệnh của chủ” là “quanh quẩn bên chủ và làm

hài lòng chủ”.Câu Pāli này có hai ý:- Quanh quẩn (vicarati) gần bên chủ để chờ sai bảo.- Khi chủ bảo làm việc gì, người ấy thực hiện đúng theo ý chủ, làm chủ

hài lòng (sunanto). * "Làm đẹp lòng mọi người” ( manāpacārī). Manāpameva kiriyaṃ karotīti manāpacārī (At): Thực hiện những điều làm vui thích người khác, gọi là "làm đẹp lòng

mọi người".Có thể hiểu "làm đẹp lòng mọi người" là giúp đở người khác trong công

việc của họ … * "Lời nói kính ái” (piyavādī). Piyameva vadatīti piyavādī (At):Nói dịu ngọt, gọi là "lời nói kính ái".

113

Page 114: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Tức là không nói với giọng khó chịu, hằn học.* "Chú ý từng nét mặt (của chủ)” (mukhullokako).Sāmino tuṭṭhapahaṭṭhaṃ mukhaṃ ullokayamāno vacaratīti

mukhullokako (At).Câu Pāli này có hai ý:- Quanh quẩn bên chủ để kịp thời làm hải lòng chủ.- Nhìn vào chủ để nhận biết ý trên gương mặt, làm chủ vui thích hài lòng.Tức là "làm điều mà chủ đang cần, nhưng không cần chủ phải sai bảo,

chỉ biết ý trên gương mặt là thực hiện ngay".* “Như thiên thần”(devo maññe).“Devo maññeti devo viya (At):“Như thiên thần” là ví như vị chư thiên.Chư thiên có 3 hạng:- Giả định chư thiên (sammuti deva): Như vua, quan, Hoàng hậu, công

chúa …- Chư thiên do phước sinh (upapatti deva): Là các vị chư thiên trên các

cõi trời.- Chư thiên thanh tịnh (visuddhi deva): Là các vị Thánh, cao tột là Thánh

A-la-hán(1).“Như thiên thần” ở đây, là chỉ cho “chư thiên giả định”. * “Ta hãy tạo các công đức như Đức vua” (so vat'assāhaṃ puññāni

kareyyaṃ).So vatassāhaṃ puññāni kareyyanti so vata ahaṃ evarūpo assaṃ,

yadi puññāni kareyyanti attho (At): “Ta hãy tạo các công đức như Đức vua”, nghĩa là “nếu tạo phước

báu, ta chắc chắn được như vị ấy”. * "Ta hãy cạo bỏ râu tóc” (yaṃ nūnāhaṃ kesa-massuṃ). Đức Thế Tôn nêu ra ước vọng được xuất gia của người nô bộc với suy

nghĩ như sau: "Nếu ta có bố thí cả đời cũng không bằng 1/100 những gì Đức Vua bố thí chỉ trong một ngày. Vậy ta nên xuất gia".

* “Xuất gia” (pabbajito).Có 7 hạng xuất gia:1- Vì sống ở tại gia không được, do Đức vua bắt đi lao dịch … Vì khi xây dựng một công trình nào của Hoàng cung, Đức vua thường huy

động người dân tạp dịch, ngoài ra còn một số công việc chung khác, Đức vua cũng huy động người dan tạp dịch.

2- Đi xuất gia để được thân thiện với Đức vua.3- Để có được quyền chức lớn.

1(?)- Đức Bửu Chơn (s). Kho tàng Pháp bảo, pháp ba chi.

114

Page 115: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

4- Để nuôi mạng sống dễ dàng.5- Xuất gia vì sợ kẻ nghịch làm hại. 6- Xuất gia vì sợ Đức vua bắt tội.7- Xuất gia mong thoát ra khổ sinh tử luân hồi(1).Xuất gia ở đây là “chánh xuất gia” (sammapabbajita). Tức là hạng thứ 7.Hỏi: Vì sao người nô bộc “muốn tạo công đức” để thành tựu được như

vua Ajātasattu (A-xà-thế), lại xuất gia?Đáp. Người nô bộc suy nghĩ rằng “ta không thể bố thí bằng Đức vua, vậy

ta phải thực hành pháp, tức là hành phạm hạnh”.Hành phạm hạnh là “không quan hệ tình dục với nữ nhân”, muốn thế

phải “lìa bỏ gia đình, sống đời sống không gia đình”.Trong các hạnh, thực hành phạm hạnh và hành chánh pháp, là 2 hạnh

cao nhất.“Pháp hạnh và Phạm hạnh; được gọi tối thượng hạnh (vasuttamaṃ)(2).Lại nữa, thành tựu được địa vị “vua” trong hiện tại, phải là vị xuất gia

trong quá khứ.Vì đức vua là người có nhiều quyền lực, có quyền lực nhiều là do có đức

lớn (mahāguṇa).Đời sống tại gia không thể thành tựu được ân đức lớn, chỉ có đời sống

xuất gia mới thực hiện được.Trong bộ Milindapañhā (Milinda vấn), Ngài Nāgasena có giải thích “ân

đức lớn có được là do “ở trong lãnh vực pháp” (bhūmidhamma), có 20 điều là:

1- Ở trong địa vị cao quý (seṭṭha bhūmisayo). Vì có giới là ân đức (sīlaguṇa) cao thượng.

2- Thực hành pháp (cāro), có ân đức giới là nền tảng.3- An trú tâm trong 4 phạm trú (brahmavihāro). Là tu tập từ tâm giải

thoát, bi tâm giải thoát, hỷ tâm giải thoát và xả tâm giải thoát.4- Thu thúc trong giới bổn (saññamo).5- Phòng hộ các môn quyền (saṃvaro).6- Nhẫn nại (khanti).7- Có sự nhu thuận (soracca).8- Vui thích với “con đường tối thắng duy nhất” (ekantābhirati). Đó là bát

chánh đạo.9- Thực hành pháp (có mục đích) duy nhất (ekantācariyā).Là thực hành pháp với mục đích thoát ra “khổ luân hồi”.10- Có sự an tịnh thân tâm (patisallī).

1(?)- Đức Giới Nghiêm (d). Mi-tiên vấn đáp I (Milindapañhā), câu thứ 5 (pabbajjā). 2(?)- HT. TMC (d). Sn 49, kinh Hành chánh pháp.

115

Page 116: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

11- Là người “hổ thẹn tội lỗi” (hirikā).12- Là người “ghê sợ tội lỗi” (ottappikā).13- Có sự tinh tấn (viriyaṃ). Là nổ lực diệt trừ những phiền não, những ô

nhiễm.14- Là người không có “sơ suất” (appamādo). Là luôn có sự ghi nhớ biết

mình.15- Học tập Pháp luật (sikkhāpadānaṃ) do Đức Phật hay các vị Thánh

thuyết giảng.16- Sống an lạc trong giới (sīladi abhirati).17- Không có sự luyến tiếc (nirālayatā).18- Thỏa thích thực hành trọn vẹn điều học (sikkhāpada paripūrati).19- Đạt điều cao tột (aggo). Là thành tựu những pháp thượng nhân như

Thiền, Đạo, quả, Níp-bàn.20- Có sự vững chắc (niyāmo).Ngoài 20 điều trên, bậc xuất gia có 5 điều gọi là “vô lượng đức”

(atuliyaguṇa).1- Có lãnh vực sát hại (hanta bhūmi bhāva).Là bậc xuất gia chỉ sát trừ phiền não, ngoài ra không sát hại bất kỳ

chúng sinh nào.2- Có sự trong sạch trọn vẹn (parisuddha bhāva).3- Có sự thu thúc (saṃvara bhāva).4- Có sự “xa lánh kẻ ác” (pāpavigata bhāva).Tức là “xa lánh các ác - bất thiện pháp”.5- Chứng đắc pháp phân tích (dhammavisesa bhāva).Tức là chứng đạt “tuệ phân tích”.Do bậc xuất gia có những phẩm chất tốt đẹp như trên, nên người nô bộc

suy nghĩ “Ta hãy tạo công đức như Đức vua”, bằng cách “cạo bỏ râu, tóc”.Lại nữa, khi xuất gia rồi, người từng “sát sinh” có thể từ bỏ sát sinh,

người từng “lấy của không cho” có thể từ bỏ “lấy của không cho”, người từng “tà hạnh trong dục lạc” … người từng “nói dối”… người từng uống rượu men, rượu nấu có thể từ bỏ uống rượu.

Tóm lại, sự xuất gia khiến người xấu trở thành tốt, người lương thiện lại càng tốt đẹp hơn.

Đồng thời, xuất gia là con đường rèn luyện, giúp người ấy chống lại hay diệt trừ các phiền não các ô nhiễm.

Ví như quân trường là nơi rèn luyện người lính biết cách tiêu diệt giặc, người chưa từng là lính, tuy có tốt giỏi hơn người lính trên phương diện nào đó, nhưng không thể giỏi hơn người lính trên phương diện “diệt giặc thù”.

116

Page 117: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Cũng vậy, người chưa từng xuất gia trong giáo pháp này, tuy có “hạnh kiểm tốt” nhưng không thể “sát trừ kẻ thù là phiền não” như người xuất gia trong giáo pháp này.

* "Chế ngự thân” (kāyena saṃvuto).Kāyena saṃvutoti kāyena pihitop hutvā akusalassa pavesanadvāraṃ

thaketvāti attho (At):Nghĩa là thân môn đã đóng lại với bất thiện pháp đang có, không cho

chúng xâm nhập qua cửa ấy, gọi là "chế ngự thân".“Cửa – dvāra”. Chỉ cho mắt, tai, mũi, lưỡi và thân.* “Chế ngự lời” (vācāya saṃvuto).Là từ bỏ nói dối, nói hai lời, nói hung dữ và nói nhãm nhí.Ngoài ra, chế ngự lời là thực hành lời nói của bậc cao quý.“Này các Tỳ-khưu, có tám lời của bậc cao quý này. Thế nào là tám?Không thấy nói không thấy, không nghe nói không nghe, không nghĩ nói

không nghĩ, không biết nói không biết.Thấy nói thấy, nghe nói nghe, nghĩ nói nghĩ, biết nói biết” (1).Ngoài ra, “Chế ngự lời” là nói những lời chân thật có liên hệ đến lợi ích.Đức Phật có dạy Vương tử Abhaya (Vô Úy):- Lời chân thật có liên hệ đến mục đích, người nghe không hoan hỷ, Như

Lai tùy thời nói.- Lời chân thật có liên hệ đến mục đích, người nghe hoan hỷ, Như Lai nói.Ngoài ra: “Lời chân thật, không có mục đích”, Như Lai không nói (2).* “Lời chân thật, liên hệ đến mục đích, là lời như thế nào?”Đó là “nói về giới, nói về định, nói vê tuệ, nói về giải thoát và nói về giải

thoát tri kiến”(3).* “Chế ngự ý” (manasā saṃvuto).Là gìn giữ tâm không cho rơi vào tham dục, sân hận và tà kiến, như Phật

ngôn:“Ở đây, này các Tỳ-khưu, người có tâm không tham, người có tâm không

sân, có chánh kiến. Này các Tỳ- khưu, đây gọi là ý thanh tịnh.”(4)

Lại nữa, chế ngự ý là vị Tỳ-khưu luôn quán sát tâm, biết rõ nội tâm của mình, như Phật ngôn:

“Ở đây, này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu, nếu nội tâm có tham dục (kāmacchanda), vị ấy rõ biết: “Nội tâm ta có tham dục”.

Nếu nội tâm không có tham dục, vị ấy rõ biết: “Nội tâm ta không có tham dục”.1(?)- A.iv, 307; Pháp 8 chi; kinh Lời cao quý (Ariyavohārasuttaṃ). 2(?)- M.ii, kinh Vương tử Vô Úy (Abhayarājakumārasutta). 3(?)- M.i, kinh Trạm xe (RAtthavivūtasutta). 4(?)- A.i, 271; Pháp ba chi, kinh Thanh tịnh (PAthamasoceyyasuttaṃ).

117

Page 118: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Tham dục chưa sinh khởi, sinh khởi như thế nào, vị ấy rõ biết.Tham dục đã sinh khởi, được đoạn trừ như thế nào, vị ấy rõ biết. Và tham dục đã đoạn trừ, tương lai không sinh khởi như thế nào, vị ấy rõ

biết như vậy”(1).Tương tự như vậy với các trói buộc (nīvaraṇa) còn lại là: sân, hôn trầm

thụy miên, trạo hối và nghi. * “Biết đủ với nhu cầu được cho cao nhất”

(ghāsacchādanaparamatāya santuṭṭho).Ghāsacchādanaparamatāyāti ghāsacchādanena paramatāya

uttamatāya (At):“Nhu cầu được cho cao nhất” là “nhu cầu” có được cao nhất, tốt nhất.Nhu cầu ở đây chỉ cho “ăn, mặc”, tức là vật thực và y phục. “Được cho cao nhấ”t. Là người khác cho với số lượng như thế nào thì

nhận như thế, và “xem đó là cao nhất”.Cho dù người có nhiều, nhưng cho ít cũng không đòi hỏi hơn. “Được cho tốt nhất”. Là người cho vật thực hay y phục loại nào thì

nhận loại ấy.Cho dù người cho có “vật thực thượng vị”, nhưng cho loại “vật thực thô

xấu” cũng nhận mà không đòi hỏi hơn. Hoặc người cho có y phục tốt, nhưng cho y phục thô xấu, cũng không đòi

hỏi.“Cao nhất, tốt nhất” ở đây chỉ cho “người cho”, không chỉ cho “người

nhận”.Nghĩa là “người cho với số lượng nào”, người nhận sẽ nghĩ rằng “đây là

khả năng cho cao nhất của người cho”. “Vật cho có phẩm chất như thế nào”, người nhận nghĩ rằng “đây là loiạ tốt nhất mà người cho có khả năng cho được”.

Hậu sớ giải có giải thích: Vị ấy không mong cầu bất cứ nhu cầu vật chất nào khác ngoài hai điều này.

Lại nữa, vị ấy bằng lòng với chỗ trú ngụ trong điều kiện có được.Ngoài ra, “tốt nhất” là có được bốn món vật dụng đúng theo pháp,

nghĩa là các Ngài từ bỏ những điều nuôi mạng sái quấy (tà mạng – micchā jiva).

* “Biết đủ” (santuṭṭho). Là bằng lòng với “những gì có được”.Etadatthampi anesanaṃ pahāya aggasallekhena santuṭṭhoti attho (At):"Từ bỏ khổ hạnh khốc liệt, từ bỏ mọi điều nuôi mạng sái quấy cao nhất",

đó là ý nghĩa “biết đủ”.“Biết đủ” là từ bỏ 2 cực đoan: Lợi dưỡng và khổ hạnh.

1(?)- A.i, 272. Pháp ba chi, kinh Thanh tịnh (Dutiyasoceyyasuttaṃ).

118

Page 119: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

“Biết đủ” là thực hành “con đường trung đạo”, cân bằng các pháp quyền như”tín quyền, tấn quyền …”

* “Hoan hỷ sống an tịnh” (vihareyya abhirato paviveke).Bản Sớ giải giải thích: Vị ấy hài lòng (abhirato) với 3 sự an tịnh (paviveka)

là: Thân an tịnh (kāyaviveka), tâm an tịnh (cittaviveka), tái sinh an tịnh (upadhiviveka)(1).

-Thân an tịnh. Là độc cư, lánh xa chỗ náo nhiệt, chỗ đông người.Thân an tịnh là trú nơi thanh vắng như “núi, rừng, cội cây, nơi trống nhà,

đống rơm…”“Ai ngồi, nằm một mình. Độc hành không buồn chán.Tự điều phục một mình. Sống thoải mái từng sâu”(2) (HT. TMC dịch).- Tâm an tịnh. Là hoan hỷ với đời sống xuất gia (nekkhammābhiratā) và

với những ai đạt được thiền chứng hiệp thế, cao nhất là tầng thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

- Tái sinh an tịnh. Là thoát khỏi sinh hữu và loại trừ các hành (ám chỉ vị Thánh A-la-hán nhập diệt thọ tưởng định).

Tái sinh an tịnh. Là chứng đạt Thánh quả hay Níp-bàn.Nói cách khác: Thân yên tịnh là sống độc cư, từ bỏ chỗ náo nhiệt.Tâm yên tịnh là vị chứng đạt thiền hiệp thế.Tái sinh yên tịnh là vị chứng được Thánh Đạo và Thánh quả.Hay đang an trú trong định Siêu thế (nhập thiền quả Siêu thế), hoặc vị

Thánh A-la-hán hoặc A-na-hàm an trú vào định Diệt thọ tưởng (At).Dứt quả thiết thực thứ nhất của hạnh Sa-môn.

Chánh kinh. Dutiya sandiṭṭhikasāmaññaphalaṃ

(Quả thiết thực thứ hai của hạnh sa-môn).186. “Sakkā pana bhante aññaṃ pi evaṃ eva diṭṭh’eva dhamme

sandiṭṭhikaṃ sāmañña-phalaṃ paññāpetun ti?Bạch Thế Tôn, có thể cho biết một kết quả thiết thực hiện tại khác hơn

nữa của hạnh Sa-môn?Sakkā mahārāja. Tena hi mahārāja taṃ yev’ettha paṭipucchissāmi, yathā

te khameyya tathā naṃ vyākareyyāsi.Này Ðại vương, có thể được. Này Ðại vương; Ta sẽ hỏi Ðại vương về vấn

đề này. Ðại vương hãy trả lời tùy theo ý muốn của Ðại vương.Taṃ kiṃ maññasi mahārāja? Idha te assa puriso kassako gahapatiko

kara-kārako rāsi-vaḍḍhako.Ðại vương nghĩ sao? Nếu Ðại vương có một người nông phu, gia chủ, nạp

thuế má, làm giàu công khố.1(?)- Xem M.i, (kinh số 3) - kinh Thừa tự pháp (Dhammadāyādasutta). 2(?)- Dhp. Câu 305.

119

Page 120: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Tassa evaṃ assa: “Acchariyaṃ vata bho abbhutaṃ vata bho. Người ấy nghĩ: "Thật hy hữu thay! Thật kỳ diệu thay quả vị thác sanh

của các công đức, quả vị thục của các công đức.Ayaṃ hi rājā Māgadho Ajātasattu Vedehi-putto manusso, ahaṃ pi

manusso. Ayaṃ hi rājā Māgadho Ajātasattu Vedehi-putto pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgi-bhūto paricāreti devo maññe,

Vị vua Ajātasattu, con của bà Videhi, nước Magadha, là người, tôi cũng là người. Vị vua Ajātasattu, con bà Videhi nước Magadha, sống tận hưởng đầy đủ năm món dục lạc, tôi nghĩ không khác gì vị thiên thần.

Ahaṃ pan’amhi’ssa kassako gahapatiko kāra-kārako rāsi-vaḍḍhako. So v’assāhaṃ puññāni kareyyaṃ.

Còn tôi là người nông phu, gia chủ, nạp thuế má, làm giàu công khố. Vậy ta hãy làm các công đức như Đức vua.

Yan nunāhaṃ kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agarasmā anagāriyaṃ pabbajeyyan ti”.

Ta hãy cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia tu tập"…. .(phần còn lại tương tự như đoạn kinh số 184 - 185, chỉ thay đổi từ nô bộc bằng từ “người nông phu, gia chủ”).

Giải:Hỏi. Vì sao vua Ajaatasattu bạch hỏi Đức Thế Tôn về quả thiết thực khác

của hạnh Sa-môn?Đáp.Vì Đức vua muốn tìm hiểu nhiều quả thiết thực của hạnh Sa-môn

hay tìm hiểu quả Sa-môn qua nhiều hình ảnh, nhiều khía cạnh.”* “Người làm ruộng” (kassaka).Kasatīti kassako: (Làm việc) cày, bừa là “người làm ruộng”(At).* “Người gia chủ”(gehapatika).Gehassa pati, ekagehamatte jeṭṭhakoti, gehapatiko (At):Chủ nhân ngôi nhà, người có quyền cao nhất trong một gia tộc, là “gia

chủ”.* “Người đóng thuế”(karakāraka).Balisaṅkhātaṃ karaṃ karotīti karakārako (At):Thực hành thuế theo thỏa thuận, gọi là “người đóng thuế”.* “Làm giàu công khố” (rāsivaddhaka).Dhaññarāsiṃ dhanarāsiñca vaḍḍhetīti rāsivaḍḍhako (At):Tài sản thành khối được tăng thêm, gọi là “người làm giàu công khố”.Hỏi.Vì sao Đức Thế Tôn đề cập đến người nông phu, người gia chủ sau

khi đề cập đến người nô bộc trước đó?Đáp. Đối với người nô bộc, là người không có tài sản, họ không giúp cho

công khố tăng trưởng hay đóng thuế cho Đức vua.Đức vua có thể không lưu tâm khi người nô bộc xuất gia.

120

Page 121: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Trái lại người làm tăng lợi tức cho hoàng gia như người nông dân phải đóng thuế lúa, người gia chủ phải đóng nhiều loại thuế khác khác, nếu họ xuất gia có thể Đức vua sẽ không hài lòng.

Do đó, khi đề cập đến người nô bộc, Đức Thế Tôn không đề cập đến tài sản.

Trái lại, khi đề cập đến người nông dân, người gia chủ Đức Thế Tôn nêu lên “tài sản” bằng cách “đóng thuế, làm giàu công khố” (At).

Lại nữa, người không có tài sản dễ dàng xuất gia, trái lại người có tài sản dù chút ít cũng không muốn xa lìa để sống đời sống không gia đình.

Tài sản của người làm ruộng thì nhỏ, còn tài sản của người gia chủ thì nhiều.

Hỏi. Sự thụ hưởng dục lạc sẽ có đối với người có tài sản. Nhưng vì sao, người ấy lại từ bỏ những dục lạc đang hưởng thụ ra đi xuất gia, bằng lòng với những gì được cho, sống biết vừa đủ (saṇtuttha) với những nhu cầu tối thiểu ?.

Đáp.Vì đây là bậc trí, thấy rõ quả đáng hài lòng của phước báu qua hình ảnh vua Ajātasattu.

Bậc có trí hằng suy xét về nghiệp và quả của nghiệp; cho dù có bố thí cúng dường suốt cả đời cũng không bằng 1 phần trăm của vua Ajātasattu làm trong một ngày.

Chỉ có chánh xuất gia mới có được tài sản như vua Ajātasattu, hoặc hơn những loại tài sản mà vua Ajātasattu đang có, nên người này “bỏ lợi nhỏ hưởng lợi lớn”. Như Phật ngôn:

Nhờ từ bỏ lạc nhỏ. Thấy được lạc lớn hơn.Bậc trí bỏ lạc nhỏ. Thấy được lạc lớn hơn.”(1)

Dứt phần 1.Phần 2.

Paṇītatarasāmaññaphalaṃ. (Các quả thiết thực VIDIỆU của hạnh Sa-môn).

(từ đoạn 189 đến hết đoạn 193). Chánh kinh.189. “Sakkā pana bhante aññaṃ pi evaṃ eva diṭṭh’eva dhamme

sandiṭṭhikaṃ sāmañña-phalaṃ paññāpetuṃ imehi sandiṭṭhikehi sāmaññā-phalehi abhikantatarañ ca paṇītatarañcāti?

Bạch Thế Tôn, có thể cho biết một kết quả thiết thực hiện tại khác hơn nữa của hạnh Sa-môn, vi diệu hơn, thù thắng hơn những kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn vừa kể trên?

Sakkā mahārāja. Tena hi mahārāja suṇohi sādhukaṃ manasikarohi bhāsissāmīti.

1(?)- HT. Thích Minh Châu (d); kinh Pháp cú câu 290.

121

Page 122: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Này Ðại vương có thể được. Này Ðại vương, hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

Evaṃ bhante’ti kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto Bhagavato paccassosi.

Thưa vâng, Bạch Thế Tôn. Vua Ajātasattu con bà Videhi vua xứ Magadha trả lời Thế Tôn.

Giải.Sau khi nghe Đức Thế Tôn chỉ ra hai kết quả thiết thực của hạnh Sa-môn,

Đức vua Ajātasattu biết rằng: “Đức Thế Tôn có thể thuyết suốt ngày đêm về quả báo của hạnh Sa-môn với một ý nghĩa qua nhiều hình thức theo thông thường”, nên Đức vua không bạch hỏi “quả thiết thực Sa-môn theo thông thường nữa”.

Đức vua muốn hiểu biết quả Sa-môn thiết thực theo cách thâm sâu hơn, nên bạch hỏi Đức Thế Tôn về quả Sa-môn vi diệu hơn, thù thắng hơn những kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn vừa kể trên.

* “Có thể hơn nữa, bạch Thế Tôn (sakkā pana, bhante)”.Là Đức vua muốn hiểu thêm nhiều quả Sa-môn hơn nữa và hỏi Đức Thế

Tôn: “Ngài có thể giảng thêm những quả Sa-môn thù diệu hơn nữa không?”.

Lại nữa, chữ “có thể” (sakkā) được vua A-xà-thế dùng với 3 ý nghĩa:- Bày tỏ sự cầu khẩn của Đức vua. Đức vua mong được nghe quả Sa-môn

từ Đức Thế Tôn giảng thuyết.- Đức vua có thể hỏi ‘tóm tắt” hay hỏi “rộng rải” về quả Sa-môn thù

thắng.- Để Đức Thế Tôn xác nhận “sự hiểu biết tận tường về tất cả quả Sa-môn

thù thắng” và Ngài sẽ giải đáp mọi câu hỏi tóm tắt hay rộng rải của Đức vua về “sự vi diệu, thù thắng của Sa-môn quả”.

* “Vi diệu hơn” (abhikkantataran)(1).Tattha abhikantataranti abhimanāpataraṃ atiseṭṭhataranti attho (At):Nghĩa là điều xuyên qua sự cao quý nhất (atiseṭṭha), đáng hài lòng nhất

(abhimanā), đáng vui thích nhất (taranti). * “Thù thắng hơn” (paṇītatarañcāti). Paṇītataranti uttamataraṃ: Là xuyên qua điều cao nhất (At).* “Này Đại vương, có thể được” (sakkā mahārāja).Đức Thế Tôn xác nhận “Ngài có thể giảng những quả Sa-môn thù thắng

hơn thế nữa”.Nhưng vì sao Đức Thế Tôn dùng từ “có thể” (sakkā)?Đáp. Đức Thế Tôn đáp “này Đại vương, có thể được” với 2 ý nghĩa:

1(?)- Nghĩa đen của abhikkantataran là “xuyên qua điều thích thú nhất”- Ns.

122

Page 123: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

- Đức Thế Tôn xác nhận “Ngài hiểu thấu đáo tất cả quả Sa-môn thù thắng”.

- Đức vua hỏi tóm tắt về quả Sa-môn, Ngài sẽ giảng tóm tắt, Đức vua hỏi rộng rải và chi tiết về quả Sa-môn, Đức Thế Tôn sẽ giảng rộng rải và chi tiết.

* “Hãy lắng nghe” (sunohi).Sunohīti abhikkantarañca panītatarañca samaññaphala sunāti (At):“Hãy lắng nghe” là nghe về quả Sa-môn thù thắng và vi diệu”.“Tốt đẹp” (sādhukaṃ).Bản Sớ giải có giải thích: Sādhukaṃ (tốt thay) mang nhiều ẩn nghĩa:- Sự tốt đẹp từ âm thanh (do nghe) (sādhu saddo).- Sự tốt đẹp từ sự van nài (āyācana), như:“Sadhu me, bhante, bhagavā saṅkhittena dhammaṃ desetu...“Lành thay, bạch Thế Tôn, xin Ngài thuyết pháp vắn tắt cho con …(1).- Sự tốt đẹp do thọ lãnh (sampaṭicchana), như:“Sadhu, bhanteti, kho so bhikkhu bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā

anumoditvā.-“Lành thay, bạch Đức Thế Tôn, vị Tỳ-khưu ấy sau khi hoan hỷ, tín thọ lời

dạy của Đức Thế Tôn”(2).- Sự tốt đẹp có tính khen ngợi (sampahaṃsana), như:“Sādhu sādhu, Sāriputta …“Lành thay, lành thay, này Xá-lợi-phất.”(3).- Sự tốt đẹp vì tính chất tốt đẹp (sundare), như,“Sadhu dassanaṃ ariyānaṃ … lành thay, thấy Thánh nhân.”(4)

- Sự tốt đẹp mang tính thức tỉnh (nhắc nhở), như“Tena hi,brāhmaṇa, suṇohi sādhukaṃ manasikarohi”.“Vậy này Bà-la-môn, lành thay (sādhukaṃ) hãy nghe và khéo tác ý , Ta

sẽ giảng.”(5)

- Sự tốt đẹp do mang tính tu tập (bhāveti), như:“Cakkhunā saṃvaro sādhu. Sādhu sotena saṃvaro… “Lành thay phòng hộ mắt. Lành thay phìng hộ tai…”(6). Lời dạy “lành thay” (sādhukaṃ) ở đây lmang ý nghĩa “nhắc nhở”.

1(?)- S.iv. Kinh Mālukyaputtasuttaṃ.2(?)-M.iii, Mahāpuṇṇamasuttaṃ (Mãn nguyệt đại kinh). 3(?)- D.iii, (số 86). 4(?)- Dhp. Câu số 206. 5(?)- A.iii, 223. Kinh Bà-la-môn Doṇa. 6(?)-Dhp, câu số 360.

123

Page 124: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Lại nữa “sự tốt đẹp”(sādhukaṃ) ở đây được dùng chung cho cả hai từ “hãy lắng nghe (sunoti)” và “suy nghiệm kỹ (manasikarohi)”.

Tức là Đức Thế Tôn nhắc nhở Đức vua Ajātasattu “hãy lắng nghe cho tốt đẹp”, “hãy suy nghiệm cho tốt đẹp”.

* “Hãy suy nghiệm kỹ” (sādhukaṃ manasikarohi).“Suy nghiệm” (manasikarohi). Manasikarohīti āvajja, samannāharāti attho (At):Tìm điều rực sáng, điều đáng hài lòng, là “suy nghiệm”(At).“Hãy suy nghiệm kỹ”.Sādhukaṃ manasikarohīti ettha pana sādhukaṃ sādhūti

ekatthametaṃ:Ở đây chỉ cho sự chú ý hoàn toàn; lại nữa, đó là sự kết hợp đầy đủ những

điều lợi ích(At).* “Hãy lắng nghe, hãy suy nghiệm kỹ”. Avikkhitta citto hutvā nisāmeti, cittekarohīti adhippāyo (At):“Lắng nghe với tâm an tịnh, hay chú ý đến”.Api cettha suṇohīti sotindriyavikkhepanivāraṇa etaṃ (At):Đó là nghe với tai không bị chướng ngại”.Bản Sớ giải giải thích:“Hãy lắng nghe, hãy suy nghiệm kỹ”. Đó là lời “cảnh tỉnh”, là “lời

thành lập sự vững chắc” (daḷhikamma), là “lịnh truyền” (āṇattikamma), là “lời làm cho tốt đẹp” (sundarakamma)”.

Nghĩa là: “Này Đại vương, hãy nghe pháp này cho rõ ràng (cảnh tỉnh), tức là ghi nhận pháp này cho kỹ (chắc chắn).

- Hãy thực hành pháp này như lời Như lai dạy (lịnh truyền).- Hãy hiểu biết pháp này cho thấu đáo (tốt đẹp)”.Lại nữa: Cụm từ “hãy lắng nghe”, Đức Thế Tôn “cảnh tỉnh” tâm đang

miên man, mù mờ về quả thiết thực hạnh Sa-môn trong tâm của vua Ajātasattu.

Cụm từ “hãy suy nghiệm kỹ” là lời “cảnh tỉnh” đến vua Ajātasattu rằng: Này Đại vương, lời dạy của các Đấng Như Lai rất thâm sâu, thù thắng và tốt đẹp về nghĩa (attho) lẫn sự thành đạt (paṭivedha).

Vậy Đại vương “hãy suy nghiệm (cho) kỹ”.Đây là ý nghĩa “lời cảnh tỉnh”. - Là “lời ra lịnh”.Cụm từ “hãy lắng nghe” là “lời ra lịnh” để tránh không bị xao lãng khi

nghe Như lai giảng.Cụm từ “hãy suy nghiệm kỹ” là “lời ra lịnh” để tránh tâm bị loạn động khi

nghe Đức Như Lai giảng.

124

Page 125: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Đây là ý nghĩa “lời ra lịnh” phải thực hành.- Là “lời chắc chắn”.Từ “hãy lắng nghe” là tránh bỏ sót từ ngữ, tránh hiểu sai từ ngữ và câu

văn (sabyañjamo).Từ “hãy suy nghiệm kỹ” là tránh hiểu sai ý nghĩa (attho) lời giảng của

Đấng Như Lai.Đây là ý nghĩa “lời chắc chắn”. - Là “lời nắm giữ pháp trong tâm”.Câu “nắm giữ pháp trong tâm” nghĩa là loại trừ được sự loạn động

tâm (uddhacca – phóng dật) và hướng tâm đến mục tiêu muốn đến.Từ “hãy lắng nghe”, Đức Phật làm cho người nghe chú tâm nghe pháp.Từ “hãy suy nghiệm kỹ”, Đức Phật làm cho người nghe “nắm giữ pháp

trong tâm, đồng thời có sự suy xét pháp.Tức là, “hãy lắng nghe”, là Đức Phật hướng dẫn tai chú ý nghe pháp.Từ “hãy suy nghiệm kỹ”, Đức Phật hướng dẫn tâm “nắm giữ pháp”.- Là “lời làm cho thấu đáo (sādhukaṃ)”.Từ “hãy lắng nghe”, Đức Thế Tôn chỉ ra “pháp này có lời, có câu văn súc

tích”.Từ “hãy suy nghiệm kỹ”, Đức Phật chỉ ra “pháp này có ý nghĩa thâm sâu,

vi diệu, thù thắng”. Đây ý nghĩa “làm cho thấu đáo” cả văn lẫn nghĩa.Một cách nữa, từ sādhukaṃ được dùng cho cả hai câu “hãy lắng nghe”,

“hãy suy nghiệm kỹ”, như vầy:-Pháp này thậm thâm vi diệu trong Giáo pháp của các Đấng Như lai, được

Đấng Như Lai thuyết giảng, do vậy “hãy lắng nghe” cho thấu đáo (sādhukaṃ).

-Pháp này thậm thâm vi diệu về ý nghĩa lẫn sự thành đạt, do vậy “hãy suy nghiệm kỹ” cho thấu đáo.

* “Ta sẽ giảng” (bhāsissāmīti).Bhāsissāmīti sakkā mahārājāti evaṃ paṭiññātaṃ

sāmaññaphaladesanam, vitthārato bhāsissāmi (At):Như vậy, này Đại vương, có thể được, Ta giảng tóm tắt (desana) về quả

Sa-môn, hay giảng rộng rãi và chi tiết.Cả hai từ bhāsissāmi (lược thuyết) và desissāmi (rộng thuyết) đều chỉ

cho sự thuyết giảng.Nhưng desissāmi chỉ cho sự thuyết giảng tóm tắt; còn bhāsissāmi là

thuyết giảng rộng rãi, chi tiết. Như:Desissāmīti hi saṅkkhitādīpanaṃ: Lược thuyết là giải thích tóm tắt.Bhāsissāmītl vitthāradīpanaṃ: Rộng thuyết là giải thích chi tiết (At).

125

Page 126: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Đức Vaṅgīsa có nói lên kệ ngôn tán thán Đức Sāriputta (Xá-lợi-phất) rằng:

“Ngài giảng cách tóm tắt; Ngài cũng thuyết rộng rãi (1).Như âm thanh vi diệu; của loài chim Sàli”(2).Còn hai từ desanā và bhāsanā cũng có ý nghĩa tương tự; tức là desanā là

thuyết tóm gọn; còn bhasanā là thuyết rộng.“Ta sẽ giảng”. Là lời Đức Thế Tôn báo trước đến vua Ajātasattu.“ Thưa vâng, bạch Thế Tôn” (evaṃ bhante’ti).“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Là vua A-xà-thế tỏ bày “bằng lòng

(paccassosi) thọ lãnh lời dạy Đức Thế Tôn”, “hoan hỷ với lời dạy của Đức Thế Tôn”, “bằng lòng thực hành theo lời dạy của Đức Thế Tôn”(At).

Chánh kinh. 190. Bhagavā etad’avoca. Idha mahārāja Tathāgato loke upajjati,

arahaṃ sammāsambuddho vijjācaranasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasāratthi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā

Thế Tôn nói: Ở đây, này Ðại vương, Như Lai xuất hiện ở đời, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

So imaṃ lokaṃ sadevakaṃ samārakaṃ sabrahmakaṃ sassamaṇabrāhmaniṃ pajaṃ sadevamanussaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti.

Như Lai sau khi tự chứng ngộ với thượng trí thế giới này luôn cả thiên giới, ma giới, phạm thiên giới, bao gồm cả thế gian này với Sa-môn Bà-la-môn truyền thống, luôn cả chư thiên nhân loại, Ngài tuyên thuyết điều an tinh đã thành tựu với thắng trí..

So dhammaṃ deseti ādi- kalyānaṃ majjhe kalyyanaṃ pariyosāna kalyānaṃ satthaṃ savyañjanaṃ, kevala paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyam pakāseti.

Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh(3).

Giải:* “Ở đây, này Đại vương”(idha mahārāja).Idha mahārāja’ti - ādiṃ sakalaṃ suttaṃ avocāti attho (At):“Ở đây, này Đại vương”, là lời mở đầu của bài pháp trọn vẹn không bị

gián đoạn.* “Ở đây” (idha).

1(?)- HT. TMC (d). S.i, 189. Tương ưng Vaṅgīsa. 2(?)- Sālikā, thường dịch là chim Calăngtầngià. Một loài chim huyền thoại – Ns. 3 (?) - Trong phần dịch này, cụm từ “hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh” có được do đi với cụm từ “đời sống phạm hạnh”. Trong khi chú giải (xem ở dưới) cho cụm từ “hoàn tòam thanh tinh” đi với cụm từ “pháp (dhamma)”. Phần dịch đầu dường như có được từ phần 191.

126

Page 127: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Idhāti desāpadese nipāto, svāyaṃ katthaci lokaṃ upādāya vuccati (At):Gọi “ở đây” là “ở nơi gắn liền sự tốt đẹp cho đời, không phải ở nơi khác”.Ở đây ám chỉ nơi có các bậc Thánh nhân đang trú ngụ, như Phật ngôn:“Làng mạc hay rừng núi; thung lũng hay đồi cao.La - hán trú chỗ nào; đất ấy thật khả ái” (1).Bậc Thánh nhân có thể là bậc Toàn giác, bậc Độc giác, vị Thánh A-la-hán.Ở đây, là nơi có Đấng Như lai xuất hiện, là nơi có Giáo pháp được thuyết

giảng, là nơi có Thánh đệ tử cư ngụ” (At).* “Như Lai xuất hiện ở thế gian” (Tathāgato loke upajjati).“Như lai” (Tathāgato).Có bốn nguyên nhân mà Đức Phật tự xưng là Như Lai:- Này Cunda, đối với các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, Như Lai là vị nói

phải thời nói chơn chánh, nói như thật, nói có lợi ích, nói đúng Pháp, nói đúng Luật. Do vậy mới gọi là Như Lai.

- Này Cunda, trong thế giới này với chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, với chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, những gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được phân biệt, được đạt đến, được tìm cầu, được suy đạt với ý, tất cả đều được Như Lai biết rõ. Do vậy mới gọi là Như Lai.

- Này Cunda, trong thời gian giữa đêm Như Lai chứng ngộ Vô thượng Chánh Ðẳng Giác và đêm Như Lai nhập Vô dư y Niết-bàn giới, trong thời gian ấy, những gì Như Lai nói trong khi thuyết giảng, nói chuyện hay trình bày, tất cả là như vậy, chớ không gì khác. Do vậy mới gọi là Như Lai.

- Này Cunda, Như Lai nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy. Nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy nên được gọi là Như Lai.(2)

* “ Thế gian” (loka). Có ba loại thế gian (loka) là:- Hư không thế gian (okāsaloka).- Chúng sinh thế gian (sattaloka).- Pháp hành thế gian (saṅkhāraloka).Bản Sớ giải giải thích: Các Đấng Như lai chỉ xuất hiện trong “chúng sinh

thế gian”. Nhưng trong cõi nào? Các Đấng Như Lai chỉ xuất hiện trong cõi người,

không xuất hiện trong cõi chư thiện, không xuất hiện trong cõi Phạm thiên.Các Đấng Như lai xuất hiện ở cõi người, nhưng ở vùng nào? Các Đấng Như lai chỉ xuất hiện ở vùng trung tâm, tức là ở giữa vùng

Trung Ấn.Ở vùng này, không những chỉ có Đấng Như lai xuất hiện, mà các vị Độc

giác, các vị Thượng thủ Thinh Văn, 80 vị Đại đệ tử, các vị Thánh thinh văn 1(?)- Dhp. Câu 98. (HT. Thích Minh Châu dịch).2(?)- D. iv, Kinh Thanh Tịnh (Pāsādikasutta). HT. TMC dịch

127

Page 128: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

khác, cha mẹ các vị Bồ-tát, các vị vua Chuyển luân (cakkavālarāja), những vị Bà-la-môn, gia chủ xuất chúng cũng xuất hiện nơi vùng đất này.

* “Xuất hiện”(upajjati).Từ lúc Bồ-tát Sumedha (Thiện Tuệ) được Đức Phật Dipaṅkara (Nhiên

Đăng) xác nhận “sẽ là vị Chánh giác trong tương lai”cho đến khi chứng Đạo A-la-hán, Như Lai được xem như “đang xuất hiện”.

Kể từ khi chứng quả A-la-hán cho đến khi viên tịch là “đã xuất hiện”Hay là: Từ lúc nơi cung trời Tusita (Đâusuất) , Bồ-tát giáng sinh vào thai

bào của Hoàng Hậu Māyā cho đến khi Ngài chứng Đạo A-la-hán, được xem là “đang xuất hiện”.

Kể từ khi chứng quả A-la-hán đến khi viên tịch là “đã xuất hiện”.Hoặc là: Từ lúc được nàng Sujātā dâng cơm sữa trộn mật ong cho đến khi

Ngài sắp chứng Đạo A-la-hán, gọi là “đang xuất hiện”. Kể từ khi chứng quả A-la-hán đến khi Ngài viên tịch, là “đã xuất hiện”.Chữ “xuất hiện”ở đây chỉ cho “từ lúc nhận cơm sữa của nàng Sujātā

cho đến khi viên tịch”.Vì sao? Vì nhờ thọ dụng món cơm sữa ấy mà Ngài thành tựu quả vị Vô

thượng Chánh giác, bữa cơm sữa ấy có phước báu vô lượng vô biên.Lại nữa, chính trong đêm ấy Ngài thành tựu quả Vô thượng Chánh giác.* “Tự chứng ngộ với thượng trí” (sayaṃ abhiññā saccikatvā

pavedeti).* “Tự mình” (sayaṃ).Sayanti sāmaṃ aparaneyyo hutvā (At):“Tự mình” là đang có chính nơi mình, không do người khác mang đến.* “Thượng trí” (abhiññā).Abhiññāti abhiññāya adhikena ñāṇena ñatvā attho (At):“Thượng trí”nghĩa là “đã hiểu, đang hiểu tận tường cao tột”.* “Tự chứng ngộ với thượng trí”.Là trí thực chứng cao tột, trí ấy không phải do nghe, không phải do suy

luận.Hậu sớ giải có giải thích: “Ở đây, trí do nghe hay trí do suy luận bị bác

bỏ, vì các Bậc Chánh Giác có một nguồn trí là “Vô chướng ngại trí” (anāvaranañāṇa).

Chính từ nguồn trí này, Đức Chánh giác thông đạt tất cả các pháp một cách cao tột và tận tường.

Trí vô chướng ngại chỉ có cho bậc Chánh giác, các Bậc Độc Giác, Thánh Thượng thủ Thinh văn … không thể có.

Các bậc Độc giác tuy tự mình thành tựu thượng trí giác ngộ, nhưng không thể biết rõ tận tường các pháp như bậc Chánh giác.

128

Page 129: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Còn thượng trí của bậc Thánh Thinh Văn phải “do nghe” mới thành tựu được.

* Thế gian này” (so imaṃ lokaṃ).So imaṃ lokanti so Bhagavā imaṃ lokaṃ idāni vattabbaṃ nidasseti (At): “Thế gian này” là chỉ rõ Đức Thế Tôn trong hiện tại”(At).Tức là “không phải Đức Chánh giác quá khứ, cũng không phải Đức Chánh

giác vị lai”, mà là “Đức Chánh giác hiện tại”.* “Luôn cả Thiên giới” (sadevakaṃ)(1). Là chỉ cho 5 cõi trời Dục là: Cõi

Tứ Đại vương (Cattuttha Mahārājā), cõi Ba mươi ba (Tāvatiṃsa), cõi Dạma (Yāma), cõi Đẩusuất (Tusita) và cõi Hóa lạc thiên (nimmānaratī).

* “Luôn cả Ma giới” (samārakaṃ). Chỉ cho cõi trời dục thứ sáu là cõi Tha hóa tự tại (paranimmitavasavatī).

Hỏi. Vì sao Đức Thế Tôn không gom cả “Ma giới” vào “thiên giới”?Đáp. Với cụm từ “luôn cả thiên giới”, Đức Phật nói lên sự nhận biết của

Ngài về 6 cõi trời Dục, vì trong cõi Dục thì cõi chư thiên thù thắng nhất.Nhưng trong hội chúng có người nghĩ rằng: “Ma vương là vị chúa tể cõi

Dục, chẳng biết Đức Thế Tôn có biết vị chúa tể chúa cõi Dục này không nhỉ?”.

Để xua tan ý nghĩ hoài nghi ấy, Đức Thế Tôn thuyết tiếp “luôn cả Ma giới”.

Māra, chỉ cho “sự trói buộc, sự cản trở, kẻ ác xấu”. Có 5 loại māra:- Uẩn ma (khandha māra). Chỉ cho các nhóm của danh - sắc là: Sắc uẩn,

thọ uẩn, hành uẩn, tưởng uẩn và thức uẩn. Là những “nhóm trói buộc” chúng sinh trong luân hồi.

- Phiền não ma (kilesa māra). Chỉ cho những pháp ác xấu, trói buộc chúng sinh trong luân hồi, cản trở chúng sinh giải thoát.

- Pháp hành ma (abhisaṅkhāra). Chỉ cho các bất thiện pháp lẫn thiện pháp, tất cả đều là “sự trói buộc” chúng sinh vào luân hồi.

- Thiên ma (devaputta māra). Chỉ cho những thiên nhân “gây chướng ngại”, “cám dỗ” chúng sinh, không cho chúng sinh này “thực hành phương pháp” dẫn ra luân hồi.

Ngoài ra còn chỉ cho chúa cõi Tha hóa tự tại là Vasavati, cũng là vị chư thiên cao nhất trong cõi Dục.

- Tử thần ma ( maccu māra). Sự chết cũng là nguyên nhân “cản trở”, khiến chúng sinh không thể chứng đắc Đạo quả.

Như người có khả năng chúng quả Hữu học lú 7 tuổi, nhưng người này chết lúc 6 tuổi. Sự yểu tử này là một chướng ngại cho Đạo - quả Siêu thế ….

1(?)- Sa là từ thu ngắn của saha (luôn cả).

129

Page 130: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

“Luôn cả Ma giới”. Nghĩa là Ngài ngầm trả lời “Như Lai biết rõ chúa cõi Dục chính là Ma vương, Như Lai biết rõ luôn cả cảnh giới của Ma vương”.

Tức là, Như lai biết rõ những “thiên nhân tùy tùng của Ma vương”, biết rõ “những trói buộc”, “những chướng ngại” của chúng sinh và biết rõ “những kẻ ác xấu cùng những pháp cám dỗ, gây chướng ngại cho chúng sinh đang tầm cầu pháp giải thoát”.

* “Luôn cả Phạm thiên giới” (sabrahmakaṃ). Chỉ cho các vị Đại Phạm thiên và các chư Phạm thiên tùy tùng

Trong hội chúng có những Bà-la-môn nghĩ rằng: “Vị Phạm thiên đầy oai lực, với 10 ngón tay vị ấy có thể chiếu sáng 10 ngàn thế giới, Đức Thế Tôn có nhận biết vị Phạm thiên như vậy không nhỉ?”.

Đức Thế Tôn có biết “pháp dẫn đến cõi Phạm tthiên không nhỉ?”.Nên Đức Thế Tôn thuyết tiếp cụm từ “luôn cả Phạm thiên giới”.Tức là Ngài dạy rằng “Như Lai biết rõ tất cả các Phạm thiên và con đường

dẫn đến Phạm thiên giới”. * “Luôn cả thế gian này”. Chỉ cho “cõi Vô sắc (arūpabhūmi)”.Ở trên Đức Thế Tôn dùng cụm từ “Như lai xuất hiện trong thế gian”, chữ

“thế gian (loka)” này bao gồm 3 loại: Cõi Ngũ uẩn, cõi nhất uẩn (1) và cõi Vô sắc.

Cụm từ “luôn cả thế gian này”, chỉ nói đến cõi Vô sắc. Vì sao?Khi Đức Thế Tôn thuyết cụm từ “luôn cả Phạm thiên giới”, Ngài không

thuyết “luôn cả thế gian này” sẽ có người hoài nghi: “Đức Thế Tôn chỉ hiểu biết các cõi Hữu sắc, còn các cõi Vô sắc Ngài có thông đạt không nhỉ”.

Lại nữa, trong hội chúng có những Sa-môn, Bà-la-môn thành đạt được tầng thiền Vô sắc, có ý nghĩ “có lẽ Ngài chỉ thành đạt thiền hữu sắc, còn thiền Vô sắc chẳng biết Ngài thành đạt chưa?”.

Nên Đức Thế Tôn thuyết tiếp “luôn cả thế gian này” để giải trừ nghi hoặc của những người ấy.

Nghĩa là Ngài cho hội chúng biết rằng “chẳng những Như Lai thành đạt tất cả “các tầng thiền Vô sắc”, cả cảnh giới chúng sinh cõi Vô sắc Như Lai đều biết rõ”.

Các Giáo thọ sư cổ sơ dạy rằng:- “Thế giới này luôn cả thiên giới”. Là chỉ ra toàn bộ thế gian này “với

những pháp thiện”.- “Thế giới này luôn cả ma giới”. Là chỉ ra thế gian này “với những pháp

bất thiện”.- “Thế giới này luôn cả phạm thiên giới”. Là chỉ ra thế gian này “với pháp

vô lượng” (là tứ vô lượng tâm).Với ba cụm từ “thiên giới, ma giới, phạm thiên giới”, Đức Thế Tôn đã chỉ

ra thế gian với những khía cạnh sai biệt.

1(?)- Chỉ cho cõi Vô tưởng (Asaññībhūmi).

130

Page 131: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Nghĩa là “trong thế gian này “các pháp thiện” (chư thiên), “các pháp bất thiện” (ma giới), “các pháp phạm trú” (phạm thiên giới) Như Lai đều thông suốt.

Lại nữa: Với ba cụm từ “thiên giới, ma giới, phạm thiên giới”, Đức Thế Tôn nêu ra “thế gian hữu sắc cao cấp và Ngài phân định rõ lãnh vực: Lãnh vực chư thiên, lãnh vực Ma vương và lãnh vực Phạm thiên hữu sắc”.

Hay là:- Với cụm từ “thiên giới”, Đức Phật chỉ cho “các tầng thiền hữu sắc”.- Với cụm từ “Phạm thiên giới”, Đức Phật chỉ cho “bốn phạm trú là: Từ, bi,

hỷ, xả”.Đức Thế Tôn có giảng cho các Bà-la-môn ở làng Venāgapura về 3 loại

giường lớn mà Ngài có được không mệt nhọc, không khó khăn, không phí sức, đó là:

Giường chư thiên: Chỉ cho 4 tầng thiền hữu sắc.Giường Phạm thiên: Chỉ cho bốn Phạm trú (từ- bi- hỷ- xả) được làm cho

sung mãn, rải đến tất cả chúng sinh ở mọi phương.Giường cao - giường lớn của bậc Thánh: Chỉ cho sự tận diệt tham – sân –

si (1). - Với cụm từ “luôn cả thế gian này”, Đức Thế Tôn chỉ ra bốn tầng thiền

Vô sắc. Như thế, với ba cụm từ “thiên giới - phạm thiên giới – luôn cả thế gian

này”, Đức Thế Tôn dẫn ra toàn bộ thế gian, trọn vẹn cả ba giới: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, cùng với các tầng thiền hữu sắc và các tầng thiền Vô sắc.

* “Với các Sa-môn Bà-la-môn truyền thống” (sassamaṇabrāhmaniṃ pajaṃ).

* “Truyền thống” (pajaṃ).“Pajātattā pajā, taṃ pajaṃ: Dòng giống nối tiếp, đó là truyền thống

(At). * “Sa-môn, Bà-la-môn truyền thống”. Chỉ cho các Sa-môn, Bà-la-môn cổ sơ giủ bỏ các ác bất thiện pháp, đồng

thời các từ ngữ, ý nghĩa về “pháp truyền thống” của Sa-môn và Bà-la-môn. Trong hội chúng, một số người có ý nghĩ rằng “có những Sa-môn, Bà-la-

môn có thắng trí thời xưa, Đức Thế Tôn có biết những bậc ấy chăng nhỉ?”.Do đó, để giải nghi cho những người này, Đức Thế Tôn thuyết tiếp “với

Sa-môn, Bà-la-môn truyền thống”(2).Đức Phật có giảng cho Bà-la-môn Dona về các ẩn sĩ Bà-la-môn thời xưa là

Aṭṭhaka, Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmitta, Yamadaggi, Aṅgīrasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, Bhagu. Và 5 hạng Bà-la-môn:1(?)- A.i, 180, pháp 3 chi. Kinh Venāga (63). 2(?)- Samitapapa, bahitapapa . Là các ngữ - nghĩa học truyền thống của các từ Samaṇa và brahmaṇa.

131

Page 132: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

- Bà lamôn đồng đẳng với Phạm thiên. Là Bà-la-môn có huyết thống thanh tịnh đến 7 đời tổ phụ. Vị ấy sống 48 năm phạm hạnh đồng trinh, sau đó giao “phận sự tế lễ đàn” cho đệ tử, vị ấy xuất gia tu tập “tứ vô lượng tâm”.

- Bà-la-môn đồng đẳng với chư thiên. Là vị Bà-la-môn có huyết thống thanh tịnh đến 7 đời tổ phụ. Sau 48 năm sống phạm hạnh đồng trinh, vị ấy giao “phận sự tế lễ đàn” cho đệ tử, vị ấy đi tìm vợ đúng pháp “với mục đích duy trì nòi giống”, vị ấy chi đi đến nữ Bà-la-môn trong thời có thể thụ thai.

Sau khi có con, vị ấy xuất gia tu tập chứng đạt Tứ thiền.- Bà-la-môn có giới hạn. Tương tự như Bà-la-môn chư thiên, nhưng không

xuất gia.- Bà-la-môn vượt qua giới hạn. Là hạng Bà-la-môn đi đến các nữ Bà-la-

môn trong thời không thể thụ thai.- Bà-la-môn vứt bỏ. Là hạng Bà-la-môn đi đến các nữ Sát-đế-lỵ, nữ Vệ-xá,

nữ nô lệ … (1)

Theo kinh Khởi thế nhân bổn (Aggañña suttanta)(2) thì từ Brahmana (Bà-la-môn) xuất hiện trước từ Samaṇa (Sa-môn).

Trong bài kinh này Đức Phật giảng cho Vāseṭṭha và Bhāradvaja về các ngữ - nghĩa xuất hiện theo tuần tự.

Tức là Ngài dạy rằng “Như Lai biết rõ các bậc Sa-môn, Bà-la-môn cổ sơ có thắng trí ấy, đó là các Sa-môn, Bà-la-môn tịnh hạnh”, luôn cả các truyền thống cổ sơ cùng ngữ nghĩa của các Sa-môn, Bà-la-môn.

Vì sao Đức Thế Tôn nêu từ Sa-môn trước Bà-la-môn, trong khi từ Bà-la-môn xuất hiện trước từ Sa-môn?

Tuy từ Bà-la-môn xuất hiện trước từ Sa-môn, nhưng Sa-môn mang ý nghĩa là “an tịnh”, với ba sự an tịnh: Thân an tịnh, tâm an tịnh, tái sinh an tịnh thì cao quý hơn Bà-la-môn do giòng dõi.

Lại nữa, những Bà-la- môn truyền thống sẽ trở thành bậc xuất gia như đã giải trên, tuy Sa-môn xuất hiện sau nhưng cao quý hơn, nên các Bà-la-môn truyền thống cũng phải hòa nhập vào “giòng Sa-môn”.

“Sa-môn” là từ dành cho tất cả “4 giai cấp”, còn Bà-la-môn chỉ cho một giai cấp. Đức Thế Tôn đi từ tổng thể đến chi tiết.

Lại nữa, từ Sa-môn tuy xuất hiện sau, nhưng có thể thành tựu những năng lực kỳ diệu mà Bà-la-môn tại gia không thể thành tựu.

Trong kinh Abaṭṭha(3), mô tả thanh niên Abaṭṭha 3 lần mạ lỵ dòng Thích ca là đê tiện, Đức Thế Tôn chỉ ra tổ phụ giòng Bà-lamôn Kaṇhāyana của thanh niên Abaṭṭha là “con của nữ tỳ giòng Thích ca” và con người nữ tỳ này vì sao có tên làKaṇhā.

Vì khi mới sinh ra, đứa bé nói “Này mẹ hãy rửa cho con”, “này mẹ hãy tắm cho con”, “này mẹ hãy gội sạch cho con”, người ta cho rằng “đứa bé 1(?)- A. iii, 223. Pháp 5 chi, kinh Bà-la-môn Doṇa (Doṇabrahmaṇasuttaṃ). 2(?)- D. iv. 3(?)- D. i. Bài kinh số 3.

132

Page 133: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

mới sinh ra đã biết nói, hẳn là ác quỷ” nên đặt tên đứa bé là “Kaṇha (quỷ ám)”.

Khi trưởng thành Kaṇha bỏ Hoàng cung giòng Thích Ca, xuất gia thành vị đạo sĩ (isi) đi về phương nam, học các chú thuật Phạm thiên, sau đó trở về yết kiến vua Okkāka (tổ phụ dòng Thích ca), yêu cầu vua Okkāka gả công chúa Khuddarūpi cho mình và với chú thuật Phạm thiên, đạo sĩ Kaṇhā được thành tựu ý nguyện.

Và Kaṇhā trở thành tổ phụ giòng Bà-la-môn Kaṇhāyana.Những đoạn kinh trên minh chứng “Đức Thế Tôn thông hiểu các truyền

thống Bà-la-môn lẫn ngữ nghĩa”.Đồng thời, tuy ở giai cấp thấp kém (con người nữ tỳ), nhưng khi xuất gia

(từ isi cũng chỉ cho bậc xuất gia), đã chuyển đổi giòng thấp kém trở thành tổ phụ một dòng Bà-la-môn.

Nghĩa là “có một số dòng Bà-la-môn lại xuất phát từ Sa-môn hạnh”.D0 đó, Đức Thế Tôn nêu từ “Sa-môn” trước từ “Bà-la-môn”.* “Luôn cả chư thiên nhân loại” (sadevamanussaṃ).“Chư thiên” (deva). Chư thiên có ba hạng:- Giả định chư thiên (sammuttideva). Như Đức vua, Hoàng hậu, quan đại

thần …- Chư thiên do sinh ra (upapatti deva). Là những chư thiên do phước sinh

lên.- Chư thiên thanh tịnh (visuddhi deva). Là những chư thiên trong sạch,

như các bậc A-la-hán chẳng hạn.“Chư thiên” ở đây chỉ cho “giả định chư thiên”, là những người “có quyền

lực”.* “Nhân loại". Là những gì thuộc về nhân loại, luôn cả “con đường dẫn

đến cõi người”. “Luôn cả chư thiên và nhân loại". Đức thế Tôn chỉ ra “những người có quyền lực như Vua, quan ...” và

những người không có quyền lực.Đoạn kinh văn “thế gian này với Sa-môn, Bà-la-môn truyền thống, luôn

cả chư thiên nhân loại". Một lần nữa, Đức Thế Tôn chỉ ra toàn bộ thế gian này với những gì còn

sót lại.Do vậy, với 5 cụm từ “thế gian này, với Sa-môn, Bà-la-môn, thiên, nhân”,

tam giới được thể hiện với nhiều khía cạnh khác nhau. * “Ngài tuyên thuết điều an tinh đã thành tựu với thắng trí”

(sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti). Sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedetīti ettha pana sayanti sāmaṃ

aparaneyyo hutvā (At):

133

Page 134: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

“Tuyên bố điều an tịnh đã thành tựu với thắng trí” là: Điều an tịnh ở đây ngược với các hiểu biết khác (aparaneyya) đang có.

Một số Sa-môn cho rằng “sự an tịnh nhờ giới” (giới cấm), “sự an tịnh nhờ hạnh” (khổ hạnh) ….

Sự an tịnh mà Đức Thế Tôn tuyên bố là “sự an tịnh thành tựu do thắng trí”, sự an tịnh này Ngài đã thành tựu, không phải do nghe, do suy luận.

“Sự an tịnh” được Đức Thế Tôn “tuyên thuyết” là “tái sinh an tịnh”.Điều an tịnh này không một Sa-môn, Bả-la-môn nào có thể tự biết.Trong ba sự an tịnh: Thân an tịnh, tâm an tịnh và tái sinh an tịnh.Các Sa-môn, Bà-la-môn có thể có 2 sự an tịnh là “thân an tịnh” và “tâm

an tịnh”; riêng về “tái sinh an tịnh” chỉ hiện khởi khi có Đấng Chánh giác xuất hiện trên thế gian.

Các vị Độc giác Phật (Paccekabuddha) tuy thành tựu được “an tịnh tái sinh”, nhưng không thể làm hiển lộ “con đường dẫn đến an tịnh tái sinh” (tức là Bát chánh đạo), nên các vị ấy “không thể tuyên thuyết điều an tịnh đã thành tựu”.

Đức Phật có dạy du sĩ Subhadda rằng:“Trong Pháp luật nào không có Bát Thánh Đạo, thời ở đấy không có 4 bậc

Sa-môn”(1)

Và Bát Thánh đạo là “con đường duy nhất” dẫn đến “tái sinh an tịnh”, con đường này chỉ có bậc Chánh giác tìm thấy và giảng thuyết cho chúng sinh hiểu biết.

* “Tuyên thuyết”. Pavedetīti bodheti viññāpeti pakāseti (At):“Tuyên thuyết” là làm cho sự hiểu biết (về) “giác ngộ” được hiển lộ .* “Ngài thuyết pháp tốt đẹp ở đoạn đầu, tốt đẹp ở đoạn giữa, tốt

đẹp ở đoạn cuối” (so dhammaṃ deseti ādi- kalyānaṃ majjhe kalyyanaṃ pariyosāna kalyānaṃ).

Bản Sớ giải giải thích: Đức Thế Tôn với lòng thương xót chúng sinh, Ngài từ bỏ “hạnh phúc viễn ly cao tột” (anuttaraṃ vivekasukhaṃ) để giảng pháp tế độ chúng sinh.

“Hạnh phúc viễn ly cao tột” ở đây chỉ cho “sự viên tịch” (parinibbāna).Đức Thế Tôn dù thuyết vắn tắt như kệ ngôn có 4 câu hay chi tiết (bài

kinh dài), thì đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối đều hoàn hảo.Là kệ ngôn 4 câu thì: Câu đầu là “mở đầu”, câu 2 -3 là “đoạn giữa”, câu

cuối là “kết thúc”.Trong bài pháp chi tiết cũng có 3 phần như vậy và có câu chuyển tiếp

(anusandhi) với “mở đầu” và “đoạn giữa”, với “đoạn giữa” và “đoạn cuối” (phần giữa có thể có nhiều đoạn), câu kết thúc ở đoạn cuối.

1(?)- HT. TMC (d). D.iii, kinh Đại bát Níp-bàn (Mahāparinibbānasuttanta).

134

Page 135: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Trong một bài pháp (desanā), đều có sự thứ lớp (sāsana) mạch lạc: Phần giới thiệu xuất xứ là “mở đầu”, “Đức Thế Tôn thuyết như vậy” là câu kết thúc thuộc phần cuối, còn lại giữa 2 phần là “đoạn giữa”.

Lại nữa, về sự thứ lớp trong bài kinh: Giới – đinh - tuệ là mở đầu (sāsanassa pana sīlasamādhivipassanā ādi nāma – At). Như Phật ngôn :

“Ko cādi kusalānaṃ dhammānaṃ? Đâu là thiện pháp trước tiên?Sīlañca suvisuddhaṃ diṭṭhi cā ujukā”ti: Là giới - sự an tịnh tốt đẹp và

chánh kiến(1).Và: “Này các Tỳ-khưu, có con đường giữa, được Đấng Như Lai giác

ngộ”(2). Hay: Giới là “mở đầu”, Thánh đạo (ariyamagga) là “đoạn giữa”, quả Siêu

thế - Nípbàn là “đoạn cuối”. Quả Siêu thế là cuối cùng, như:“Này Bà-la-môn, ở đây có nghĩa là Phạm hạnh, là cốt lỏi, là tận cùng”(3). “Nípbàn” là cuối cùng, như :“Này hiền giả Visākha, đời sống Phạm hạnh dẫn đến Nípbàn, Nípbàn là

cuối cùng của đời sống phạm hạnh”(4).Như vậy, ngay cả kệ ngôn có 4 câu. Câu đầu là giới, câu 2 – 3 là định và

tuệ, câu 4 là quả Siêu thế hay Nípbàn.Trong kinh Sa-môn quả này, Đức Thế Tôn thuyết “chặng đầu là giới”,

chặng giữa là Thánh đạo”, “chặng cuối là Nípbàn”.* “Đầy đủ văn – nghĩa” (satthaṃ savyañjanaṃ).Bản Sớ giải giải thích: Giải thích “vật thực, người nam, người nữ…”. là

“giảng không đủ nghĩa”.Đức Thế Tôn bỏ qua cách giải thích như vậy, Ngài giải thích có liên quan

đến Tứ niệm xứ, tứ Chánh cần … Bát chánh đạo, liên hệ đến “dứt bỏ” (pahāya), gọi là “giảng đầy đủ nghĩa”.

Giảng với ít từ vựng, đồng thời phát âm không rõ ràng, phát âm với giọng ê a, là “không đầy đủ văn”.

Đức Thế Tôn giảng với nhiều từ vựng, phát âm rõ ràng, với 10 âm tiết: Sithila (đều đều), dhanita (vang xa), dīgha (giọng dài), rassa ( giọng ngắn), lahu ( giọng nhẹ), garu (giọng nhấn mạnh), niggahita (giọng mũi), sambandha (nối tiếp), vivatthita (dừng lại), vimutta (giọng thanh thoát). Gọi là “đầy đủ văn”.

* “Ngài truyền dạy phạm hạnh” (brahmacariyaṃ pakāseti).Brahmacariyam pakāsetīti ettha panāyaṃ brahmacariya – saddo dāne

veyyāvacce pañcasikkhāpadaṃsīle appamañnāsu medhunaviratiyaṃ

1(?)- S.v, 369. 2(?)- S.v. 421. Tương ưng sự thật.3(?)- M.i, 324. 4(?)- M.i, 324.

135

Page 136: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

sadārasantose vīriye uposathaṅgesu ariyamagge sāsaneti imesvatthesu dissati (At).

* “Phạm hạnh” (brahmacariya). Có 10 điều là:- Bố thí (dāna), phục vụ (veyyāvacca), giữ năm giới (pañca

sikkhāpadasīla), 4 tâm vô lượng (appamaññā), ngăn ngừa dâm dục (methunavirati), biết đủ với vợ nhà (sadāra santosa), tinh cần (viriya), thọ 8 giới (uposatha sīla), thực hành Thánh đạo (ariyamagga), và giảng pháp (sāsana).

Bản Sớ giải dẫn ra các bài kinh trong Bổn sanh (jātaka) để minh chứng cho 10 điều này.

Phạm hạnh ở kinh này được giảng với ý nghĩa “cảnh giới phạm hạnh cao quý nhất” (seṭṭhaṭṭhena brahmabhūtaṃ cariyaṃ - At).

Phạm hạnh cao quý nhất, đứng đầu là Phật hạnh.* “Ngài truền dạy phạm hạnh”.Đức Thế Tôn chỉ ra 2 loại phạm hạnh: Phạm hạnh của tại gia và phạm

hạnh xuất gia .Phạm hạnh tại gia là 10 điều đã nêu trên, phạm hạnh xuất gia là bát

Thánh đạo.“Này các Tỳ-khưu, thế nào là Phạm hạnh? Chính là Thánh đạo tám ngành

này. Tức là: Chánh kiến … chánh định. Đây gọi là phạm hạnh(1)

* “(Phạm hạnh) hoàn toàn đầy đủ” (kevala paripuṇṇaṃ).“Hoàn toàn đầy đủ”. Kevala paripuṇṇanti ettha kevalanti sakalādhivacanaṃ (At): “Hoàn toàn đầy đủ” là lời nói nêu ra “trọn vẹn sự cao tột”.Bản Sớ giải có giải thích: “Hoàn toan đầy đủ” vì nêu lên “những lợi ích

cao thượng” không thiếu sót cũng không dư thừa, không phải thêm vào cũng không bỏ bớt đi.

“Này các Tỳ-khưu, thế nào là quả Phạm hạnh? Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả, A-la-hán quả. Này các Tỳ-khưu, đây là quả Phạm hạnh” (sđd)”.

“ (Phạm hạnh) thanh tịnh trọn ven” (parisuddhaṃ).Parisuddhanti nirupakkilesaṃ (At):Thoát ra khỏi phiền não, gọi là “thanh tịnh trọn vẹn”. Vị giảng sư khi giảng pháp, chú ý đến lợi lộc, danh vọng, là “không thanh

tịnh trọn vẹn”.Đức Thế Tôn giảng pháp, Ngài không quan tâm đến lợi đắc thế gian. Ngài

giảng pháp với tâm bi mẫn, tế độ chúng sinh thoát ra các ô nhiễm, thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi. Gọi là “thanh tịnh trọn ven”.

* “Thanh tịnh trọn vẹn” là diệt trừ được tham, sân, si.

1(?)- HT. TMC (d). S.v, 25. Tương ưng đạo (magga saṃyutta), kinh Phạm hạnh (brahmacariyasuttaṃ).

136

Page 137: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

“Này các Tỳ-khưu, diệt tận tham, diệt tận sân, diệt tận si. Đây gọi là mục đích Phạm hạnh”(sđd).

“Đời sống phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ”. Là thành tựu giới - định - tuệ được liên tục cho đến khi viên tịch.

“Đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh”. Là diệt trừ tham, sân, si được thành tựu, kéo dài cho đến khi viên tịch.

Chánh kinh.191. -“Taṃ dhammaṃ suṇāti gahapati vā gahapati putto vā

aññatarasmiṃ vā kule paccājāto.Nghe pháp này, người gia trưởng hay con người gia trưởng, hay người

nào khác hoặc dòng dõi sau đó.So taṃ dhammaṃ sutvā Tathāgate saddhaṃ paṭilabhati.Sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tín ngưỡng Như Lai.So tena saddhāpaṭilābhena samannāgato iti paṭisañcikkhati:

“Sambādhogharāvāso rajo patho abbhokāso pabbajjā.Khi có lòng tín ngưỡng ấy, vị này suy nghĩ: "Ðời sống gia đình chật hẹp,

con đường đầy bụi, đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không.Nayidaṃ sukaraṃ agāraṃ ajjhāvasatā ekanta paripuṇṇaṃ ekanta

parisuddhaṃ saṃkha likhitaṃ brahmacariyaṃ carituṃ.Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo phạm hạnh

hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng sạch như tù- và bằng vỏ ốc.Yan nunāhaṃ kesa massuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā

agārasmā anagāriyaṃ pabbajjeyyan ti”.Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình.Giải.“Pháp này” (taṃ dhammaṃ).Taṃ dhammanti taṃ vuttappakārasampadaṃ (At):“Pháp này” là điều đã được thuyết giảng trọn vẹn.“Pháp này” chỉ cho “Bát Thánh đạo”. Đó là con đường dẫn ra khỏi luân

hồi trọn vẹn, chấm dứt các sinh hữu.“Người gia chủ nghe pháp này” (suṇāti gahapati). Bản Sớ giải có giải thích: Vì sao Đức Thế Tôn đề cập đến “người gia chủ”

trước?. Vì họ nhiều ngạo mạn (nihatamānatta) và “tự mãn về cái ta” (ussannattā).

“Người gia chủ” ở đây chỉ cho người xuất thân từ giòng Sát-đế-lỵ (khattiya), hay giòng Bà-la-môn, hay những người làm chủ một tài sản.

Phần nhiều người xuất thân từ dòng Sát-đế-lỵ, khi xuất gia thường tự hào về dòng dõi (yebhuyyyena hi khattiyakusalo pabbajitā jātiṃ nissāya mānaṃ karonti –At).

137

Page 138: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Người sinh trong dòng Bà-la-môn, khi xuất gia thường tự hào về chú thuật của mình (Brāhmaṇakulā pabbajitā jmante nissāya mānaṃ karonte –At).

Với người thuộc dòng dõi thấp kém (hīnajaccakulā), khi xuất gia họ không có những tự hào về dòng dõi. Những vị này sẽ cố gắng học pháp – hành pháp.

Tiếp theo, Đức Thế Tôn đề cập đến “con người gia trưởng” (gahapati putto) hay “những người khác” (aññatarasmiṃ).

* “Nào khác” (aññatarasmiṃ).Aññatarasmiṃ vāti itaresaṃ vā kulānaṃ aññatarasmiṃ (At):“Nào khác” là “những người khác hay giòng dõi khác”.“Những người khác” (aññatarasmiṃ). Như người nông dân, người làm

vườn, người cuốc đất, người thương buôn ... Với những người này mùi hôi bốc ra từ 2 nách, mồ hôi đẩm ướt trên lưng,

những người này ít kiêu mạn, nên họ tinh cần học pháp từ Đức Thế Tôn, nổ lực hành pháp.

Với 3 cụm từ “người gia trưởng”, “con người gia trưởng”, “những người khác”. Đức Thế Tôn nêu ra “sự tự hào, sự kiêu hãnh” từ nhiều đến ít.

“Con người gia trưởng” ít ngạo mạn so với người gia trưởng và “người sinh vào dòng dõi khác” hay “người không phải gia chủ hay con người gia chủ” lại ít ngã mạn hơn so với 2 hạng người trên.

“Sự tự hào” (ngã mạn) là một chướng ngại cho bậc xuất gia, vì họ sẽ trở nên “khó dạy”, không “kỉnh trọng các bậc trưởng thượng” lại “lắm lời”.

Đức Phật có dạy: “Này các Tỳ-khưu, hãy từ bỏ một pháp, Ta bảo đảm cho các ngươi không đi đến tái sinh. Thế nào là một pháp?

Mạn (māna), là một pháp các ngươi hãy từ bỏ, Ta bảo đảm cho các ngươi không đi đến tái sinh.”(1)

Và: “Người bị mạn chi phối; do bị mạn trói buộc.Nên hoan hỷ sinh hữu; do không liễu tri mạn.Nên đi đến tái sinh…”(2) Lại nữa, “người gia trưởng” và “con người gia trưởng” thường

hưởng thụ năm dục lạc, tâm dính mắc vào tài sản, đất đai, ruộng, vườn, tôi trai, tớ gái …

Những người này “khó lìa bỏ” những điều trên, nhưng khi nghe được “pháp thanh tịnh”, những vị ấy có sự suy gẫm về “sự an tịnh tuyệt đối”, nên “xuất gia, từ bỏ gia đình sống đời sống không gia đình”.

Trái lại, “người khác” ít có sự dính mắc tài sản, khi nghe pháp này dễ dàng xuất gia hơn.

1(?)- HT. TMC (d). It, 3. Chương một pháp (Ek. I, 6). 2(?)- HT. TMC (d). It, 4. Chương một pháp (Ek. I, 8).

138

Page 139: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Do đó sự xuất gia của “người gia trưởng” nổi trội hơn “con người gia trưởng”, sự xuất ga của “con người gia trưởng “lại nổi trội hơn “người khác”.

Do tính “nổi trội” cả 2 mặt: “Tự hào” và “dứt bỏ” ấy, nên Đức Thế Tôn đề cập đến “người gia trưởng” trước, rồi đến “con người gia trưởng”, tiếp đến “những người khác”.

Mặt khác, với từ “nào khác” (aññatararasmiṃ).Đức Thế Tôn chỉ ra 2 giai cấp còn lại là: Giai cấp thương buôn (Vessa) và

giai cấp bình dân (sudā).Đức Thế Tôn ngầm dạy rằng “pháp thanh tịnh này” không phân biệt gai

cấp, không phân biệt hạng người”.Ví như biển lớn dung nạp tất cả nước mọi con sông, cũng vậy Giáo pháp

của Đấng Như Lai dung nạp tất cả mọi hạng người.“Này Pahārāda, có 4 giai cấp này: Sát-đế-lỵ (khattiya), Bà-la-môn

(brahmaṇa), Phệxá (vessa), Thủđà (suda), sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong Pháp và Luât được Như Lai tuyên bố này”(1).

“Vị ấy suy nghĩ” (iti paṭisaṃcikkhati). Iti paṭisañcikkhatīti evaṃ paccavekkhati (At):Quán xét như vậy, gọi là “vị ấy suy nghĩ”. "Ðời sống gia đình chật hẹp” (sambādho gharāvāso).Bản Sớ giải giải thích: “Đời sống gia đình chật hep” là cho dù ngôi nhà

rộng 60 hắc tay (30 m) trên vùng đất rộng cả dotuần (16km), chỉ có 2 người “vẫn chật hẹp”.

“Chật hẹp” ở đây chỉ cho “tham, sân, mạn …” đối với ruộng đất, tài sản…“Con đường đầy bụi” (rajo patho).Rajo pathoti rāgarajādīnaṃ uṭṭhānaṭṭhānanti (At):“Nơi dấy lên (bụi), trước tiên là “bụi tham ái”, gọi là “con đường đầy

bụi”.Uṭṭthānanti mahā - aṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ (At):“Nơi dấy bụi” (đã nói), được giải thích là “tài sản lớn, lợi tức nhiều”. Tức là, “đời sống gia đình là nơi dấy lên phiền não, trước mắt là “tham

ái”, vì đó là nơi “có tài sản lớn hay tài sản nhỏ” .Mặt khác, “nơi dấy bụi” là thân bằng quyến thuộc, là bậc trưởng thượng

trong gia tộc hay người nhỏ tuổi hơn. “Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không”(abbhokāso

pabbajjā).Alagganaṭṭhena abbhokāso viyāti abbhokāso (At):Nghĩa là “không dính mắc”, ví như “hư không không sở hữu”, gọi là

“phóng khoáng như hư không”.1(?)- HT. TMC (d). A. iv, 197. Pháp 8 chi, kinh Atula Pahārāda.

139

Page 140: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

“Phóng khoáng như hư không”, theo Bản Sớ giải “đó là ẩn dụ nghĩa”.Trong hư không có nhiều loại gió:“Giống như giữa hư không, gió nhiều loại thổi lên.Từ phương Đông, phương Tây; từ phương Nam, phương Bắc.Gió có bụi, không bụi; có gió lạnh, gió nóng.Có gió lớn, gió nhỏ, gió nhiều loại, thổi lên.(1)

Những ngọn gió không bị trói buộc, di chuyển tùy ý trong hư không.Cũng vậy, đời sống xuất gia không bị trói buộc, không dính mắc như “gió

trong hư không”.Bản Sớ giải có giải thích: “Thậm chí vị xuất gia đang sống trong ngôi nhà

nóc nhọn bằng ngọc báu tinh anh như thiên cung (kūtāgāraratanapāsādadevavimānā dīsu), với các cửa đóng kính, có mái che kín đáo.

Vị ấy không hề dinh mắc (neva laggati), không nắm giữ (na sajjhati), không bị trói buộc (na bajjhati), như gió trong hư không không dính mắc, không bị trói buộc.

“Như tù - và vỏ ốc sạch trắng” (saṅkha likhitaṃ).Saṅkha – likhitanti likkhitasaṅkha sadisaṃ dhota saṅkhasappaṭbhāgaṃ

caritabbaṃ (At):Nạo vét sạch bên trong vỏ ốc dùng làm tù – và, được rửa sạch sẽ cả

trong lẫn ngoài gọi là như tù và bằng vỏ ốc trắng sạch.Tù và bằng vỏ ốc là một thành ngữ có từ lâu của dân Ấn cổ, đó là “hiệu

lịnh của vị Phạm thiên”, để làm “phát sinh” (saṅkhata) một cái gì khác.Theo quan niệm Bà-la-môn, vị Phạm thiên là “Sáng tạo chủ”, thường

dùng tù-và bằng vỏ ốc, khi thổi lên các vị thần linh đều quy tụ lại để nghe lịnh truyền của vị Phạm thiên.

Vua trời Đế thích (Sakka) cũng có chiếc tù-và là “càng cua”, khi vua trời Đế thích thổi tù-và, tiếng tù-và lan rộng khắp kinh thành Sudassana (Thiện kiến) rộng 10 ngàn do tuần ở cõi Ba mươi Ba (Tāvatiṃsa) và chư thiên nghe tiếng tù-và, cùng nhau hội tụ lại Thiện pháp đường (Sudhamma) để nghe pháp(2).

“Tù-và” có nghĩa là “lịnh truyền ra”. “Tù và bằng vỏ ốc” chỉ cho bốn phạm trú “Từ, bi, hỷ, xả”(3).Trắng sạch. Là tu tập, làm biến mãn các phương với “từ tâm giải thoát”,

sẽ làm “tăng trưởng các thiện pháp trọn vẹn”, “hủy diệt các ác - bất thiện pháp” trọn vẹn.

1(?)- HT. TMC (d). S.iv, 218. Tương ưng thọ (vedanāsaṃyuttaṃ), kinh Hư không (okāsasuttaṃ). 2(?)- D.A. Kinh Javanasabha. 3(?)- S.vi, 317. Tương ưng thôn trưởng, kinh Vỏ ốc.

140

Page 141: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Tu tập, làm biến mảnvới các phương với “bi tâm giải thoát”… “với hỷ tâm giải thoát”… “với xả tâm giải thoát”, sẽ làm sẽ làm “tăng trưởng các thiện pháp trọn vẹn”, “hủy diệt các ác - bất thiện pháp” trọn vẹn (sđd).

Chánh kinh.192. So aparena samayena appaṃ vā bhoga-kkhandhaṃ pahāya

mahantaṃ vā bhoga-kkhandhaṃ pahāya, appaṃ vā ñāti parivaṭṭaṃ pahāya mahantaṃ vā ñāti-parivaṭṭaṃ pahāya, kesa-massuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajjeyya’nti”.

Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ hay tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, và xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

193. So evaṃ pabbajito samāno pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati,Khi đã xuất gia Sa-môn như vậy, vị ấy sống chế ngự với sự chế ngự của

giới bổn Pàtimokkha,(1)

ācāragocārasampanno aṇumattesuvajjesu bhayadassāvī samādāya sikkhati sikkhāpadesu,

đầy đủ phẩm hạnh hành xứ, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và chấp nhận học tập trong giới học,

kāyakammavacīkammena samannāgato kusalena parisuddhājīvo,nhờ thân nghiệp, ngữ nghiệp thành tựu từ thiện, sự sống trong sạch,sīlasampanno indriyesu guttadvāro satisampajaññena samannāgato

santuṭṭho.giới hạnh tròn đủ, gìn giữ các cửa trong các quyền thành tựu từ niệm tỉnh

giác, biết đủ.Giải.“Bỏ tài sản nhỏ hay tài sản lớn”.“Appaṃ vāti sahassato heṭṭhā bhogakhandho appo nāma hoti,

sahassato paṭṭhāya mahā :“Tài sản dưới 100.000 (1.000x 100) đồng, gọi là “tài sản nhỏ”, từ 100

ngàn đồng (trở lên) gọi là “tài sản lớn” (At).“Từ bỏ quyến thuộc”. Là không liên hệ với quyến thuộc của mình và

những người thân chung quanh.“Quyến thuộc nhỏ hay quyến thuộc lớn”. “Sopi vīsatiyā heṭṭhā appo nāma hoti, vīsatiyā paṭṭhāya mahā”:“Dưới 20 người gọi là “quyến thuộc nhỏ”, từ 20 người (trở lên) là

“quyến thuộc lớn” (At). “Sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pātimokkha”

(pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati).

1 (?) - Điều luật căn bản cho chư Tỳ-khưu, có 227 điều học về Giới.

141

Page 142: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

“Giới bổn” (pātimokkha). Nghĩa đen của chữ Pātimokkha là “chủ giải thoát”.

Gọi là “chủ nhân”(pati), vì người định ra các điều học này là Đức Phật, Ngài là vị chủ nhân của Tam giới, ngoài Đức Phật Chánh giác không một ai có khả năng “chế định những học giới với mục đích dẫn đến giải thoát ra khỏi luân hồi”.

Có lần chư Tăng trong thành Xá-vệ (Sāvatthī) quy định rằng: “Này chư hiền, Đức Thế Tôn đang tịnh cư trong ba tháng, ngoại trừ người mang vật thực đến Đức Thế Tôn; không ai được gặp Đức Thế Tôn.Vị nào đi đến gặp Đức Thế Tôn, vị ấy phạm Ưng- đối- trị (pācittiya), phải sám hối.”

Thế rồi, Đức Upasena (em Ngài Xá-lợi-phất), khi mãn mùa an cư đi đến yết kiến Đức Thế Tôn, nghe Đức Thế Tôn lập lại sự quy định của chư Tăng thành Sāvatthī (Xá-vệ), Ngài Upasena bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn, chúng con không quy định điều chưa được quy định, sẽ không hủy bỏ điều đã được quy định”.

Đức Thế Tôn khen ngợi rằng:“Lành thay, lành thay. Không nên quy định điều chưa được quy định,

không nên hủy bỏ điều đã được quy định” (1).Lại nữa, gọi là “chủ nhân”, vì chỉ có Đức Phật Chánh giác mới có khả

năng “khai mở đạo lộ giải thoát này”. Vì rằng “Sự chế định Tạng Luật cho chư Tỳ-khưu, mang lại 10 điều lợi

ích” là:- Để Tăng chúng được cực thiện (saṅgha sutthutāya).- Để Tăng chúng được an vui (saṅgha phāsukatāya).-Để răn đe, chận đứng các người khó dạy (dummaṅkūnaṃ puggaāanaṃ

niggahāya).- Để các thiện Tỳ-khưu sống an vui (pesalānaṃ bhikkhūnaṃ

phāsukavihārāya).-Để chế ngự các ô nhiễm trong hiện tại (diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ

saṃvarāya).-Để ngăn ngừa các ô nhiễm trong tương lai (saṃparāyikānaṃ āsavānaṃ

patighātāya).- Để mang lại niềm tin cho người chưa có niềm tin (appasannānaṃ

palādāya).- Để tăng trưởng niềm tin đến người có niềm tin (pasannānaṃ

bhiyyobhāvāya).-Để Diệu pháp được tồn tại lâu dài (saddhammaṃ maṭṭhitiyā).- Để Tạng Luật hiển lộ (vinayānuggahāya)(2).Cách giải tự khác của từ “pātimokkha” (Giới bổn) là:

1(?)- Đại Đức Nguyệt Thiên (d). Luật phân tích Tỳ-khưu II, chương Ưng-xả-đối-trị (nisaggiya), điều học thứ 15.2(?)- HT. TMC (d). A.v. 70. Chương 10 pháp, kinh Upāli và giới bổn.

142

Page 143: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Pāti + mokkha = pātimokkha:Gìn giữ sự giải thoát là Giới bổn. “Pātimokkhanti sikkhāpadasīlaṃ”: Giới là điều học, gọi là “giới bổn”(1).Nghĩa là từ Giới (dẫn đến giải thoát), Đức Thế Tôn chế định thành điều

học cho chư Tỳ-khưu.Giới dẫn đến giải thoát chính là “Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh

mạng”.Giới này giúp cho người gìn giữ (pāti) giới thoát ra (mokkheti) hay thoát

khỏi (mocayati) các khổ cảnh như Địa ngục, ngạ quỷ, A-tu- la …Hay thoát ra khỏi sinh tử luân hồi, nên gọi là “Giới đưa đến giải thoát”

(pātimokkha). Trong kinh văn có ghi nhận: “bản tụng đọc này, gồm hơn 150 học giới”

và “tất cả được thu nhiếp trong 3 học giới: Tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học và tăng thượng tuệ học”(2).

Lời dạy trên cho thấy trong Giới bổn chẳng phải chỉ thuần là Giới mà bao gồm cả Định và Tuệ.

Ví như Quân đội có Quân luật, các người lính phải tuân thủ theo luật quân đội. Hay các công sở có nội quy, các công nhân phải tuân thủ nội quy ở nơi làm việc của mình.

Cũng vậy, Giới bổn là những “quy định” được Đức Thế Tôn định đặt cho chư Tỳ-khưu, chư Tỳ-khưu ni. Bao giờ còn là Tỳ-khưu (hay Tỳ-khưu ni), vị ấy phải “khép mình” vào Giới bổn.

Các vị Giáo thọ sư có dạy: Vị trì luật có khả năng chứng đạt quả vị A-la-hán Tam minh và “Giữ được một điều học là thoát ra một tội”.

Mặt khác, đoạn kinh văn trên cho thấy “hơn 150 học giới” là trọng giới, là “những học pháp căn bản Phạm hạnh, tương xứng với Phạm hạnh”.

Có thể hiểu “hơn 150 học giới ấy” là: 4 điều triệt khai (pārājikasīla), 13 giới Tăng-tàng (saṅghadisesasīla), 30 Ưng -xả đối trị (nissaggiyasīla), 92 Ưng-đối trị (pācittiyasīla), 4 Ưng phát lộ (pāṭidesaniyasīla), 7 điều diệt tranh sự và một số học giới trong 75 Ưng học pháp (sekhiyasīla).

Đức Thế Tôn dạy: “Vị Tỳ-khưu nghiêm trì giới luật toàn phần, định một phần, tuệ một phần. Vị ấy có vi phạm học pháp nhỏ nhặt nào (tức là ngoài 150 học giới căn bản nói trên –Ns), vị ấy được xem là Thanh tịnh” (sđd).

Ngoài ra, vị ấy có khả năng chứng đạt quả Dự lưu hay quả Nhất Lai.“Với vị nghiêm trì Giới luật toàn phần, định toàn phần và tuệ một phần.

Vị ấy có khả năng chứng đạt quả Bất Lai”.“Với vị nghiêm trì Giới luật toàn phần, định toàn phần và tuệ toàn phần.

Vị ấy có khả năng chứng đạt quả vị A-la-hán”(sđd).Đây là ý nghĩa “giải thoát” của giới bổn.

1(?)- Vsm. Chương I. Phần Giới, 14. 2(?)- HT. TMC (d). A.i, 231. Pháp 3 chi, kinh Hữu học (sekkhasuttaṃ).

143

Page 144: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

“Chế ngự với sự chế ngự của giới bổn” (pātimokkhasaṃvarasaṃvuto).

“Pātimokkhasaṃvarasaṃvutoti pātimokkhasaṃvarena samannāgato:“Chế ngự với sự chế ngự của giới bổn” là “khép mình” trong các

điều được ban hành” (At).Nghĩa là: Vị Tỳ-khưu nương vào giới bổn để chế ngự thân - ngữ, không

cho thân - ngữ rơi vào tội lỗi.Để sự chế ngự trong giới bổn được hoàn hảo, vị Tỳ -khưu còn phải thọ trì

một loại giới trong sạch khác, đó là “giới chế ngự các quyền” (indriyasaṃvarasīla).

Vì rằng: Giới bổn chỉ ngăn ngừa thân - ngữ, không cho thận -ngữ rơi vào tội lỗi, nhưng còn ý thì sao?

Ý sinh diệt cực nhanh, nếu không “chế ngự ý”, ý sẽ rơi vào bất thiện ngay. Như Phật ngôn:

“Khó nắm giữ, khinh động; theo các dục quay cuồng.Lành thay, điều phục tâm; tâm điều, an lạc đến”(1)

Các quyền (indriyā). Là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữa tướng chung, không nắm giữ

tướng riêng. Do những nguyên nhân nào khiến nhãn quyền không được chế ngự, khiến cho tham ái, ưu bi, các bất thiện pháp khởi lên. Vị ấy chế ngự những nguyên nhân ấy. Gọi là “gìn giữ nhãn quyền”.

Tương tự như vậy: Khi tai nghe tiếng …. Khi mũi ngửi mùi … Khi lưỡi nếm vị … Khi thâm dụng chạm … khi ý nhận biết các pháp…(2)

Nhờ “gìn giữ các quyền” như thế, ý không rơi vào tham – ưu. Đây gọi là “Giới gìn giữ các quyền”.

“Như mái nhà khéo lợp; mưa không thể lọt vào.Cũng vậy, tâm khéo tu; tham dục không xâm nhập”(3).Đồng thời vị Tỳ-khưu phải nương theo 2 loại giới khác để trợ duyên cho

“chế ngự trong chế ngự giới bổn”. Đó là:- Giới nuôi mạng trong sạch (ājīvaparīsuddhisīla). Tức là lánh xa những

điều nuôi mạng sái quấy, cách nuôi mạng chân chánh tốt nhất là “đi khất thực”.

Trong Giới bổn (pātimokkhasīla) có 6 học giới liên quan đến nuôi mạng là(4):

1- Do nhân nuôi mạng sống, vị Tỳ-khưu khoe pháp của bậc cao nhân mà mình không thực có. Phạm giới trục xuất (pārājika).

2- Do nhân nuôi mạng sống, vị Tỳ-khưu làm mai dong, phạm tội Tăng tàng (saṅghadisesa).1(?)- HT. TMC (d). Dhp, câu 35. 2(?)- M.i, 180. 3(?)- HT. TMC (d). Dhp, câu 14. 4(?)- Vsm. Chương I, 16. Giải về giới nuôi mạng trong sạch (ājīvapārisuddhisīlaṃ).

144

Page 145: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

3- Do nhân nuôi mạng sống, vị Tỳ-khưu nói bóng gió rằng “ vị nào sống trong Tịnh xá của ngươi, vị ấy là bậc A-la-hán”. Sau đó, vị ấy nói sai sự thật, phạm trọng tội (thullaccaya).

4- Do nhân nuôi mạng sống, vị Tỳ-khưu vô bịnh xin vật thực quý, thượng vị để thọ dụng. Phạm Ưng đối trị (pācittiya).

5- Do nhân nuôi mạng sống, vị Tỳ khưu vô bịnh ngỏ lời xin cơm – canh có nhiều chất bổ dưỡng cho mình, phạm tác ác (dukkata)(1).

6- Do nhân nuôi mạng sống, vị Tỳ-khưu ni vô bịnh, xin vật thực quý, thượng vị để thọ dụng. Phạm Ưng phát lộ.

Có lần Đức Sāriputta (Xá-lợi -phất), sau khi đi bát khất thực theo từng nhà trong thành Vương xá, Ngài ngồi dựa vào một bức tường để thọ thực.

Một nữ du sĩ ngoại giáo là Sucimukhī đi đến Đức Sāriputta và hỏi Ngài:-Này Sa-môn, có phải người ăn cúi mặt xuống?- Này chị, tôi ăn không cúi mặt xuống.-Này Sa-môn, có phải người ăn ngưỡng mặt lên?- Này chị, tôi ăn không ngưỡng mặt lên.-Này Sa-môn, có phải người ăn, mặt hướng về bốn hướng chính?- Này chị, tôi ăn không có hướng về bốn hướng chính.Và Đức Sāriputta giải thích:“Khi ăn, mặt cúi xuống là “nuôi mạng bằng nghề xem địa lý và những

nghề hèn hạ khác như: Xem tướng súc vật, bói toán …”“Khi ăn ngưỡng mặt lên, là nuôi mạng bằng nghề xem thiên văn hay

những nghề hèn hạ khác”.“Khi ăn, mặt hướng về bốn hướng chính, là nuôi mạng bằng cách đưa tin

tức, làm mai dong, môi giới, trung gian…”(2)

Những cách nuôi mạng trên, được xem là “nuôi mạng không chân chánh”, ngoài ra còn “những cách nuôi mạng sái quấy” được Đức Buddhaghosa trình bày trong tác phẩm Thanh Tịnh Đạo.

- Giới liên hệ đến vật dụng (paccayasannissitasīla). Là khi thọ dụng 4 món vật dụng : Vật thực, y phục, sàng tọa và thuốc trị

bịnh, vị Tỳ-khưu cần phải quán xét: Trước khi thọ dụng, trong khi thọ dụng và sau khi thọ dụng.

Có 4 cách thọ dụng bốn món vật dụng:- Dùng như kẻ trộm (theyyaparibhogo). Là người không gìn giữ giới luật, là người ác giới, làm hoại giới; người ấy

dù có ngồi chung trong hàng với Tăng chúng, khi dùng bốn món vật dụng này vẫn được xem là “dùng như kẻ trộm”.

1(?)- Tạng Luật. Bộ Tiểu tụng (Parivāra). 2(?)- HT. TMC (d). S.iii, 238. Tương ưng Sāriputta, kinh Sucimukhī (Sucimukhī suttaṃ).

145

Page 146: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

-Dùng như người mang nợ (iṇaparibhogo). Là người có giới, nhưng khi dùng bốn món vật dụng, không có sự quán tưởng.

-Dùng như người thừa tự (dāvajjaparibhogo).Bảy bậc Thánh Hữu học khi thọ dụng bốn món vật dụng, là “dùng như

người thừa tự”. Vì các Ngài là “con của Đấng Như Lai”.-Dùng như người chủ (sāmiparibho go). Là bậc Thánh A-lahán 1.Chi pháp của Giới bổn (pātimokkha) là tâm sở Tín (saddhācetasika).Chi pháp của “giới thu thúc các quyền” là tâm sở Niệm (saticetasika).Chi pháp của “giới nuôi mạng trong sạch” là tâm sở Tinh tấn

(viriyacetasika).Chi pháp của “giới liên hệ vật dụng” là tâm sở Trí (paññācetaika).“Sống” (viharati).“Viharatīti iriyati: Sống là oai nghi (At).“Sống chế ngự” là sự thực hành.“Sự chế ngự trong giới bổn”. Là “chế ngự” của Giáo thuyết.“Sống chế ngự với sự chế ngự trong giới bổn” là thực hành những điều

được Đức Thế Tôn chế định cho chư Tỳ-khưu.“Đầy đủ phẩm hạnh, hành xứ ” (ācāragocara sampanno).“Về hành xứ”(gocara).Vị Tỳ -khưu không nên đến 6 chỗ:1- Không nên đến khu vực của những kỹ nữ (lầu xanh) (vesiyāgocara).2- Không nên thường lui tới nhà góa phụ (vidhavāgocara).3- Không nên thường lui tới nhà phụ nữ lở thời (gái già) (thūlāgocara).4- Không nên đến chỗ ở của Tỳ-khưu ni (bhikkhuniyāgocara).5- Không nên đến nhà hoạn quan hay người lại cái (bóng)

(paṇḍakāgocara).6- Không nên thường đến quán rượu (pānāgārāgocara).(2)

Ngoài ra, không nên sống lẫn lộn với vua, quan, các Tôn chủ dị giáo hoặc đệ tử các tôn chủ dị giáo, giao thiệp với người bị luật pháp truy nả, hoặc với những gia đình không có đức tin nơi Tam bảo, thường phỉ báng Tam bảo(3).

Vị Tỳ-khưu nên thân cận với những gia đình có đức tin Tam bảo như “giếng nước trong”, thân cận với các bậc Thiện trí thức, bậc trì giới, bậc đa văn...

Nếu không có việc khẩn cấp, vị Tỳ-khưu không nên đi trong đêm, vì có 6 tai hại cho người thường đi trong đêm là:

1(?)- Vsm. Chương I, 19. 2(?)- A. iii, 128. Pháp 5 chi, kinh Đáng nghi ngờ.Và: Đức Bửu Chơn (s.d). Kho tàng pháp bảo; pháp 6 chi. 3(?)- Vsm. Chương I, 14.

146

Page 147: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

1- Là người không tự bảo vệ được mình (attāpissa agutto arakkhito hoti).2- Là người không bảo vệ (gìn giữ) được vợ con (puttadāropissa agutto

arakkhito hoti).3- Là người không gìn giữ được tài sản (sāpateyyaṃ pissa agutto

arakkhito hoti).4- Làm người khác nghi hoặc (saṅkiyo ca hoti).5- Bị người khác phao vu (abhūtavacanañca tasmiṃ ruhati).6- Gặp nhiều bất hạnnh và đau khổ (bahunnañca dukkhadhammānaṃ)

(sđd).Lại nữa, có loại hành xứ nên nương tựa (upanissayagocara), có loại hành

xứ nên gìn giữ (ārakkhagocara), có loại hành xứ nên buộc tâm (upanibandhagocara).

- Hành xứ nên thân cận. Là thân cận các thiện hữu (kalyāṇamitto) nói về 10 điều lợi ích

(dasakathāvatthuguṇa). Đó là nói về: Ít ham muốn, biết đủ, sống nơi thanh vắng, sống một mình, tinh tấn, giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến(1).

Khi thân cận “người bạn lành” này sẽ được “nghe những điều chưa nghe”, “điều đã nghe được hiểu rõ ràng”,”dứt bỏ hoài nghi”, “làm tri kiến trở nên đúng đắn”, “làm tâm trở nên trong sạch”. Đây là “hành xứ nên nương tựa”.

Hoặc do thân cận người bạn lành này sẽ làn tăng trưởng đức tin (saddhāya vaḍḍhati), giới hạnh (sīlena), đa văn (sutena), dứt bỏ (cāgena) và trí tuệ (paññāya).

- Hành xứ nên gìn giữ. Là vị Tỳ-khưu khi đi vào trong xóm, mắt nhìn xa độ một hắc tay, không

nhìn tượng binh, không nhìn kỵ binh, không nhìn bộ binh, không nhìn nữ nhân, không nhìn nam nhân, không ngước mắt nhìn lên, không nhìn cúi xuống, không nhìn hướng chính hướng phụ. Đây gọi là “hành xứ nên gìn giữ”.

Sách Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi magga) có dẫn ra câu chuyên Trưởng lão Cittagutta (Nhiếp Tâm) trong sự “gìn giữ con mắt” như sau:

Trưởng lão Cittagutta.Tương truyền Trưởng lão Cittagutta (Nhiếp Tâm) sống trong hang động

Kuruṇḍaka tại Coramahāvihāra.Trong hang động phía trên nóc có khắc 7 bức phù điêu, mô tả sự xuất gia

vĩ đại của 7 vị Phật, những bức phù điêu ấy rất xinh đẹp và sinh động.Nhiều vị Tỳ-khưu đến viếng thăm thạch động Kuruṇḍaka, thấy 7 bức phù

điêu ấy, hỏi Trưởng lão rằng:- Bạch Ngài, 7 bức phù điêu này có xinh đẹp không?

1(?)- M.i, 145.

147

Page 148: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

- Này chư hiền, tôi sống trong thạch động này đã 60 năm, không biết có phù điêu ? Nay chư hiền hỏi, tôi mới biết là có 7 bức phù điêu.

Tuy Trưởng lão sống trong hang động, nhưng không bao giờ ngước mắt nhìn lên. Trước cửa thạch động có cây đại tho nở hoa vàng, trưởng lão cũng không bao giờ ngước mắt nhìn lên. Khi hoa trụng rơi trên đất, Trưởng lão mới biết là cây nở hoa.

Đức vua nghe Trưởng lão là người có sự thu mắt mắt như thế, là người thành tựu được ân đức cao thượng. Đức vua muốn đảnh lễ Trưởng lão, ba lần phái người đến thỉnh Trưởng lão vào cung, Trưởng lão từ chối.

Đức vua ra lịnh niêm phong ngực của những bà mẹ có con nhỏ, đóng dấu ấn teên ấy và ra lịnh rằng: “Bao giờ Trưởng lão chưa vào cung, bấy giờ những hài tử này sẽ không có sữa bú”.

Vì lòng bi mẫn đối với các hài nhi, Trưởng lão đành phải đến Hoàng cung. Nghe Trưởng lão đến, Đức vua ra lịnh cho vị quan Đại thần:

- Hãy thỉnh Trưởng lão vào cung, Ta muốn thọ quy - giới nơi Ngài.Sau khi Trưởng lão vào cung nội, Đức vua đảnh lễ Trưởng lão rồi cúng

dường vật thực đến Ngài, sau đó Đức vua bạch rằng:-Thưa Ngài, hôm nay chưa đủ điều kiên, mai Trẩm sẽ thọ trì giới.Hôm sau, Đức vua cùng Hoàng hậu và những người trong Hoàng tộc đi

đến đảnh lễ Trưởng lão, thọ trì quy - giới.Khi Đức vua hay Hoàng Hậu đảnh lễ Ngài, Ngài đều cầu chú “Mong Đại

vương hãy an lạc” (vì Ngài không nhìn lên cũng không nhìn quá xa, Ngài chỉ thấy bóng người đảnh lễ mà thôi, nên Ngai chúc như vậy).

Khi Chư Tỳ khưu hỏi:- Vì sao mà Ngài chúc như vậy.- Thưa chư hiền, vì tôi không xác định được đó là Đức vua hay Hoàng

hậu.Sau 7 ngày ở Hoàng cung, Đức vua thấy “với nghiêm hạnh của Ngài như

thế, sồng ở nơi đây vất vả cho Ngài quá”. Nên Đức vua cung thỉnh Ngài trở về thạch động Kuruṇḍaka.

Khi về trú xứ, trong đêm ấy Ngài đi kinh hành. Vị thọ thần nơi cây đại thọ hoan hỷ với hạnh “nhiếp phục mắt” của Ngài, hoan hỷ cầm đèn soi rọi con đường kinh hành của Ngài.

Sau 7 ngày ở Hoàng cung, nay trở về trú xứ cũ, tâm của Ngài như “voi chúa về rừng”, sự bẩn chật tâm khi ở Hoàng cung tiêu tán. Với tâm hân hoan, Ngài phát triển nghệp xứ thiền quán, khoảng canh giữa Ngài chứng quả A-la-hán, khi ấy quả đất rung động, sấm nổ vang rền khắp đồi núi (đây là báo “Ngài hoàn thành phận sự Sa-môn”).

Do đó, ngườimuốn đạt lợi ích:“Mắt không nên phóng túng; như khỉ nhãy trong rừng.Như nai cứ lang thang; như trẻ nằm vùng vẩy. Đôi mắt hãy nhìn xuống; thấy khoảng một hắc tay.

148

Page 149: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Tâm đổi như khỉ rừng; chớ rơi vào quyền lực nó”.Tương tự như thế với,tai, mũi, lưỡi và thân.- Hành xứ cột tâm.Bốn niệm xứ (catuttha satipaṭṭhāna) là hành xứ cột tâm. Như Đức Phật

dạy:“Này các Tỳ-khưu, chỗ nào là hành xứ của Tỳ-khưu? Chính là bốn niệm

xứ”(1)

Về phẩm hạnh” (ācara).Không vi phạm học giới bằng thân, không vi phạm học giới bằng lời nói,

không vi phạm học giới bằng thân lẫn lời nói, gọi là “phẩm hạnh”.Thu thúc trong các giới như “quyền thu thúc giới” là phẩm hạnh.Nuôi mạng chân chánh là phẩm hạnh. - Phẩm hạnh tốt đẹp về thân. Như khi đi vào trong xóm hay ngồi trong xóm, phải đấp y vén khéo,

không để hở mình (là không đấp y chừa hở vai), không chống nạnh, không trùm kín đầu khi đi vào trong xóm, không đi nhón gót.

Khi đi khất thực trong xóm không nhìn chỗ này chỗ nọ, chỉ nhìn phía trước khoảng 2 mét … Hoặc khi thọ thực phải nghiêm trang…(2).

Không đứng - ngồi trước các vị trưởng lão, không chen lấn trước các vị trưởng lão…

Có sự cung kính các bậc Trưởng lão, có sự tôn trọng các bậc đồng phạm hạnh, có hổ thẹn tội lỗi, có ghê sợ tội lỗi, có đầy đủ oai nghi tề hạnh… Có sự “biết đủ”, có sự ghi nhớ (niệm) …

-Phẩm hạnh tốt đẹp về ngữ. Như “không cười vang khi đi vào trong xóm”, không nói lời thô tục, tỏ lời chào hỏi các vị Trưởng lão, hỏi pháp hoặc trả lời pháp …

Câu nói “sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn” là nói đến “điều thực hành”.

Câu nói “đầy đủ phẩm hạnh, hành xứ” là nói đến “người” và “cách thực hành” để thành tựu Giới.

Như nói “bảy pháp thanh tinh là: Giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh…” là “điều thanh tịnh”.

Hành giả (người) thực hành phương pháp (cách) nào, để thành tựu được 7 pháp thanh tịnh.

“Đầy đủ phẩm hạnh, hành xứ”. Bản Sớ giải giải thích “ phẩm hạnh, hành xứ đó là đời sống Phạm hạnh”, “đời sống phạm hạnh được đầy đủ (sampanna) khi Giới - định - tuệ đầy đủ.

“Giới - định - tuệ đầy đủ” trong ba cách:

1(?)- S.v, 146. Tương ưng Niêm xứ, kinh Con chim Ưng (sakunagghisuttaṃ). 2(?)- Xem Luật phân tích Tỳ-khưu, phần Ưng học pháp.

149

Page 150: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

- Được diễn tiến đến sát-na (khaṇa) cuối cùng trong lộ tâm Đắc đạo A-la-hán.

- Được diễn tiến đến sát-na cuối cùng trong lộ nhập thiền quả A-la-hán (thậm chí cả ngày, 2 ngày…).

- Được diễn tiến đến sát-na viên tịch (trong lộ viên tịch). “Trong những lỗi nhỏ nhất”(aṇumattesuvajjesu).“Aṇumattesūti appamattakesu:“Nhỏ nhất” là “không có giá trị”(At).”“Vajjesūti akusaladhammesu”;“Trong tội lỗi là trong bất thiện pháp” (At).“Thấy tội lỗi nhỏ nhất” là “nhận ra được bất thiện pháp ở trong thân -

ngữ không tốt đẹp”.Bất thiện pháp ấy là gì? Là sự phóng dật hay không thận trọng

(pamatta).“Thấy nguy hại trong những lỗi nhỏ nhất”(bhayadassāvī). Tuy phóng dật ở nơi thân hay lời nói, không mang lại kết quả tai hại nào

đáng kể, nhưng vị Tỳ-khưu thường quán xét để ngăn ngừa chúng. Vì sao? Vì khi chúng tích lũy lại sẽ tạo ra những chướng ngại trong sự thực hành pháp.

Ví như một hạt bụi không là gì cả, nhưng khi chúng tích lũy sẽ trở thành khối cát lớn và khối cát này sẽ là một trở ngại cho người đi đường.

Trong Sớ giải kinh Pháp cú có ghi nhận câu chuyện:Có vị Tỳ-khưu khi sử dụng giường, mền, chiếu của chư Tăng. Vị ấy mang

ra ngoài rồi không mang vào, khiến những vật dụng ấy bị hư hoại. Chư Tỳ-khưu nhắc nhở:

-Này Hiền giả, vật dụng sau khi dùng xong, Hiền giả nên mang vào cất cho đàng hoàng.

Vị ấy cải rằng:- Này chư hiền, việc tôi làm ấy thật nhỏ nhoi, vì những vật dụng ấy không

có tâm.Chư Tăng mang câu chuyên trình lện Đức Phật. Sau khi khiển trách vị Tỳ-

khưu phạm lỗi, Đức Đạo sư dạy rằng:“Chớ khinh thường ác nhỏ; cho rằng chưa đến mình.Như nước nhỏ từng giọt; rồi bình cũng đầy tràn.Người ngu chứa đầy ác; do chất chứa dần dần”(1).Tuy bản thân Phóng dật (uddhacca) không gây ra kết quả tai hại đáng

kể, nhưng vị Tỳ-khưu có trí nhận thức được rằng: “Chúng tạo điều kiện cho tham – sân - mạn - kiến – nghi…” sinh khởi. Riêng chính chúng lại là một

1(?)- HT. TMC (d). Dhp. Câu 121.

150

Page 151: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

chướng ngại trong thiền quán lẫn thiền chỉ, vì phận sự của chúng là “làm cho tâm loạn động”..

Muốn chứng đạt thiền chỉ tịnh, hành giả phải vượt qua chướng ngại là “phóng dật”, khi ấy tâm mới an tịnh, khi tâm an thịnh mới có thể thâm nhập vào ấn tướng (sau khi vượt qua chướng ngại tham dục) để chứng đắc Sơ định.Ví như người muốn xỏ sợi chỉ qua trôn kim, nhưng tay cứ rung rung, sợi chỉ sẽkhông thể đi ngay vào trôn kim; cũng vậy do Phóng dật tâm không thể an tịnh để thâm nhập vào “cảnh thiền”.

Muốn chứng đạt thiền tướng (jhānalakkhaṇa), tâm hành giả phải ở trong trạng thái an tịnh, nhưng Phóng dật sẽ quấy rối tâm, khiến tâm không thể an tịnh.

Một khi tâm không yên tịnh, trí quán sẽ không nhận thức được tam tướng rõ nét, ví như người cứ di động bức tranh, khiến người có mắt không thể nhận thức trọn ven những nét vẽ bức tranh.

Một khi Tam tướng không hiển lộ thì không thể phát triển tuệ quán đển chứng đạt Níp-bàn (Nibbāna).

Do nhận thức được điều này, nên “vị Tỳ-khưu thấy nguy hại trong những lỗi nhỏ nhất”.

Đức Phật có dạy:“Không phóng dật, đường sống; phóng dật là đường chết.Không phóng dật, không chết; phóng dật như chết rồi.”(1).Lại nữa, “thấy nguy hại trong những tội nhỏ nhất”, là các tội khác với tội

vô ý phạm vào giới Ưng học pháp, hay những lỗi nhỏ nhất làm sinh khởi những bất thiện pháp.

Do “thấy được nguy hại trong những lỗi nhỏ nhất”, nên vị Tỳ-khưu trong Giáo pháp này “không dám vượt qua những học giới được Đức Thế Tôn chế định”.

“Này Pahārāda, khi các học pháp được Ta chế định cho các đệ tử, các đệ tử của Ta, dầu cho vì nhân sinh mạng, cũng không vượt qua”(2).

Sách Thanh Tịnh đạo có dẫn ra 2 câu chuyện để minh chứng cho lời dạy của Đức Phật ở trên.

Có vị Trưởng lão trú trong rừng Mahāvattani, có bọn cướp sau khi chúng cướp đoạt tìai sản người đi đường, cùng nhau lẫn trốn vào rừng. Chúng trông thấy Trưởng lão, suy nghĩ rằng: “Đừng cho vị Sa-môn này ra khỏi nơi này, nếu không chúng ta sẽ bị lộ”. Chúng liền trói vị Trưởng lão bằng loại dây leo đen, rồi bỏ đi.

Vị Trưởng lão không dám làm đứt dây leo, vì nghĩ đến giới Ưng đối trị. Trong 7 ngày nằm nơi ấy, Ngài phát triển thiền quán chứng quả A-na-hàm. Mệnh chung sinh về Phạm thiên giới.

Có một câu chuyện khác như sau:

1(?)- HT. TMC (d). Dhp, câu 21. 2(?)- HT. TMC (d). A.iv, 197. Pháp 8 chi, kinh A Tu La Pahārāda.

151

Page 152: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Trên đảo Tampaṇṇi ở Tích Lan, một vị trưởng lão cũng bị bọn cướp bắt trói bằng sợi dây leo trong rừng.

Khu rừng phát hỏa, nhưng dây leo chưa bị cắt nên Ngài không dám vi phạm giới Ưng đối trị, nằm phát triển tuệ quán chứng đắc quả A-la-hán và viên tịch.

Trưởng lão Abhaya (Vô Úy), Giáo thọ sư Trường bộ kinh cùng với 500 vị Tỳ-khưu, chứng kiến vị Trưởng lão “thà chết chứ không vi phạm giới” ấy. Khi lửa rừng đã dứt, Trưởng lão Abhaya cùng 500 vị Tỳ-khưu hỏa táng nhục thân của vị Trưởng lão ấy, rồi lập tháp thờ Xa-lợi của Ngài ngay chính tại chỗ ấy.

“Thọ trì”(samādāya).“Samādāyati sammā ādiyitvā”: Thọ trì là đã nhận lãnh đúng đắn (At). “Học tập trong giới học”(sikkhati sikkhāpadesu).Sikkhati sikkhāpadesūti sikkhāpadesu taṃ taṃ sikkhāpadaṃ

samādiyitvā sikkhati (At):“Học tập trong học giới” là điều học trong học giới nào đã học tập và

thọ trì.Mỗi học giới có nhiều chi phần kết hợp, học tập học giới là “học tất cả

những chi phần của học giới” ấy.Nói cách khác, có bao học giới vị ấy học tập và thọ trì tất cả một cách

đúng đắn (sammā ādāya).“Nhờ thân nghiệp, ngữ nghiệp thành tựu từ thiện, sự sống trong

sạch” (kāyakammavacīkammena samannāgato kusalena parisuddhājīvo).Bản Sớ giải giải thích: “Phẩm hạnh, hành xứ” được viên mãn do nương

vào thân - ngữ nghiệp không xa lìa thiện pháp.Điều “nuôi mạng trong sạch (parisuddhājīva)” để hổ trợ cho “phẩm hạnh,

hành xứ viên mãn”. Điều này không sinh khởi từ hư không hay sinh khởi từ ngọn cây, mà sinh khởi từ thân nghiệp thiện, ngữ nghiệp thiện.

Tức là “từ thân nghiệp thiện, ngữ nghiệp thiện dẫn đến “nuôi mạng trong sạch”.

Đức Phật có dạy:“Katame ca, thapati, kusalā sīlā? Và này người thợ mộc, thế nào là những

thiện giới?“Kusalaṃ kāyakammaṃ, kusalaṃ vacīkammaṃ, parisuddhaṃ ājīvampi

kho ahaṃ thapati sīlasmiṃ vadāmi:“Thân nghiệp thiện, ngữ nghiệp thiện, sự sống trong sạch. Như vậy, này

thợ mộc, Ta gọi là Giới”(1).Và câu nói “thân nghiệp, ngữ nghiệp thành tựu từ thiện, mạng sống

trong sạch”. Đức Thế Tôn chỉ ra “gốc rễ” của “phẩm hạnh, hành xứ đầy đủ”.

1(?) M.ii, 260.

152

Page 153: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

“Giới hạnh đầy đủ” (sīlasampanno): Là nêu ra từ 3 điều (tividhena): Thân làm thiện, ngữ nói thiện và “nuôi mạng trong sạch”.

* Thân làm thiện. Là thân nương vào giới bổn để thực hành, ngoài ra còn dùng thân để tao những thiện pháp khác như Phục vụ… lánh xa thân tà vạy”.

* Ngữ nói thiện. Là ngữ nương vào giới bổn để thực hành, ngoài ra còn dùng lời để tạo những thiện hạnh như: Nói đúng thời, nói chân thật, nói có lợi ích, nói mềm dịu và nói với tâm từ (1).

“Đóng cửa trong các quyền”(indriyesu guttadvāro).Indriyesu guttadvāroti manacaṭṭhena indriyesu pihitadvāro hoti (At):“Đóng cửa trong các quyền” là “ý thứ sáu trong các quyền, được đóng

lại”.Là khi tham, sân sinh khởi trong nội tâm, vị Tỳ-khưu lập tức diệt trừ ngay

chính tai nơi ấy. Bằng pháp nào? Bằng pháp “ghi nhận - niệm (sati)”.Hay những nguyên nhân nào dẫn đến sinh khởi tham -sân, vị ấy ngăn

chận những nguyên nhân ấy, không cho xâm nhập vào tâm. Đây gọi là “đóng cửa ý quyền”.

Những nhân nào khiến sinh khởi tham –ưu ?Đức Thế Tôn có giảng cho Bà-la-môn Jānussoni: Có 16 nguyên nhân

khiến phát sinh tham - ưu là: Thân nghiệp không trong sạch, ngữ nghiệp không trong sạch, ý nghiệp không trong sạch, nuôi mạng không trong sạch, có nhiều tham dục, có ác ý, hôn trầm, tâm dao động, hoài nghi, khen mình chê người, sợ hãi, nhiều ham muốn, lười biếng, thất niệm, tâm tán loạn, và si ám.(2)

Trong Tương ưng kinh, phẩm Tương ưng Vaṅgisa có nêu ra những trường hợp Tôn giả Vaṅgisa “tự đóng cửa ý quyền”.

Tôn giả Vaṅgisa khi mới xuất gia, trú tại ngôi đền Aggālava trong xứ Ālavi, cùng với thầy mình là Tôn giả Nigrodha Kappa.

Vì mới xuất gia nên Tôn giả Vaṅgisa được để lại trông coi ngôi tịnh xá.Bấy giờ có các nữ nhân trang điểm xinh đẹp, đi vào tịnh xá để viếng

cảnh. Tham dục sinh khởi trong tâm của Tôn giả Vaṅgisa, Tôn giả Vaṅgisa tự khiển trách mình rồi cố gắng diệt trừ những tư tưởng dục nhiễm ấy.

“Thành tựu từ niệm tỉnh giác” (satisampajaññena samannāgato).“Satisampajaññena samannāgatoti abhikkante paṭikkanteti ādīsu

sattasu ṭhānesu satiyā ceva sampajaññe ca samannāgato hoti (At):“Thành tựu từ niệm tỉnh giác” trước tiên là “thích thú hướng về 7 nơi

đặt niệm” và với hiểu biết trọn vẹn một cách đúng đắn, đó là thành tựu”.Bảy nơi đặt niệm đó là gì? Ở đây đang nói về thân - ngữ. Về thân, đặt niệm theo sáu nơi như Kinh Tứ niệm xứ phần niệm thân

trên thân, là: Hơi thở, đại oai nghi, tiểu oai nghi, thể trược, tứ đại và tử thi.1(?)- Mi, kinh Ví dụ cái cưa (Kakacūpaman sutta). 2(?)- M.i, kinh Sợ hãi và khiếp đảm (Bhayabheravasutta).

153

Page 154: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Về ngữ có 1, bao gồm nói, cười.Nghĩa là “đóng cửa ý quyền được thành tựu từ niệm tỉnh giác”. “Biết đủ” (santuṭṭho).Santuṭṭhoti catūsu paccayesu tividhena santosena santuṭṭho hoti (At):“Hài lòng 3 lần với 4 món vật dụng, gọi là biết đủ”.Tức là quán tưởng trước khi thọ dụng, trong khi thọ dụng và sau khi thọ

dụng. Dứt phần 2.Dứt tập I.

154

Page 155: Giải Kinh SAMONQUA · Web viewHoàng hậu trở về cung trong nước mắt và tiếng than van. Từ đó vua Bimbisāra không còn được cung cấp thức ăn nhưng vẫn

Sách tham khảo.

- Kinh Trường bộ (1, 2, 3, 4). Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch.- Kinh Trung bộ (1, 2, 3). - nt-.- Kinh Tăng chi (1, 2, 4, 5). –nt-. - Kinh Tương Ưng (1, 2, 3, 4, 5). –nt-.- Kinh Tập (syttanipāta). HT Thích Minh Châu dịch.- Kinh Phật tự thuyết (Udāna). –nt-.- Kinh Pháp cú (Dhammapāda). –nt.- Vô ngại giải đạo (Paṭisambhidāmagga).- Kinh Bổn sanh (Jātaka).- Luật Đại Phẩm (1,2) (Mahāvagga).. Đại Đức Nguyệt Thiên dịch- Sớ giải kinh Pháp cú (Dhamapāda Atṭṭhakathā). Đại trưởng lão Pháp

Minh dịch- Sớ giải kinh Tương Ưng (saṃyutta nikāya - Aṭṭhakathā).- Sớ giải kinh Phật tự thuyết (Udāna Aṭṭhakathaa).- Sớ giải Kinh Trung Bộ (Majjhima nikaaya Aṭṭakathā).- Kho tàng pháp bảo. Đại trưởng lão Bưu Chơn soạn dịch.- Mi-tiên vấn đáp (milindapañhā). Đại trưởng lão Giới Nghiêm dịch.- Đức Phật lịch sử. Trần Phương Lan dịch- Lịch sử Triết học Ấn Độ. HT. Thích Mãn Giác soạn.

Tạng Diệu pháp.- Bộ Pháp Tụ (Dhammasaṅgani). Đại Trưởng lão Tịnh Sự dịch- Bộ Phân tích (vibhaṅga). – Nt-.- Chú giải Bộ Phân Tích.

155