144
THÍCH HUỆ THÔNG ĐỨC PHẬT CON ĐƯỜNG TUỆ GIÁC NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA SÀI GÒN - 2010

Đức Phật và Con đường giác tuệ

  • Upload
    tam1984

  • View
    3.394

  • Download
    2

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Đức Phật và Con đường giác tuệ

THÍCH HUỆ THÔNG

ĐỨC PHẬTVÀ

CON ĐƯỜNG TUỆ GIÁC

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA SÀI GÒN - 2010

Page 2: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

2

MỤC LỤC

Lời tựaPHẦN1: HOÀN CẢNH CHÍNH TRỊ XÃ HỘI ẤN ĐỘ THỜI ĐỨC PHẬTChương 1: Đôi nét về tư tưởng tôn giáo đã có tại Ấn Độ trước thời Đức Phật. Chương 2: Đôi nét về tư tưởng triết học tại Ấn Độ thời Đức Phật.Chương 3: Hoàn cảnh chính trị xã hội Ấn Độ thời Đức Phật ra đời. PHẦN 2: SƠ LƯỢC LỊCH SỬ ĐỨC PHẬTChương 1: Thái tử Tất Đạt Đa chào đời (Đức Phật đản sanh). Chương 2: Nguồn gốc Thái tử Tất Đạt Đa. Chương 3: Niên đại Đức Phật đản sanh, vấn đề đến nay vẫn chưa thống nhất. Chương 4: Thái tử Tất Đạt Đa – tuổi thơ và thời niên thiếu.Chương 5: Thái tử Tất Đạt Đa trưởng thành và xuất gia. Chương 6: Thái tử Tất Đạt Đa thành Phật. Chương 7: Đức Phật nhập Niết Bàn.PHẦN 3: HOẰNG PHÁP ĐỘ SANHChương 1: Thời thuyết pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển. Chương 2: Giáo lý căn bản và thực tiễn tu hành mà Đức Phật đã dạy. Chương 3: Đức Phật thâu nhận đệ tử và thành lập Giáo hội Tỳ kheo.Chương 4: Thành lập Giáo hội Tỳ kheo ni. Chương 5: Nguồn gốc an cư tịnh nghiệp đạo tràng. Chương 6: Sự hoằng pháp của Đức Phật đối với các vị vua.PHẦN 4: NHÂN CÁCH VĂN HÓA CỦA ĐỨC PHẬTChương 1: Những đặc điểm tâm lý của Đức Phật. Chương 2: Nhân cách văn hóa của Đức Phật.Chương 3: Cách ứng xử của Đức Phật với quốc gia. Chương 4: Cách ứng xử của Đức Phật với những người quyền quý.Chương 5: Cách ứng xử của Đức Phật với những người cùng khổ. Chương 6: Cách ứng xử của Đức Phật với những người phụ nữ. Chương 7: Cách ứng xử của Đức Phật với loài vật.PHẦN 5: NHỮNG ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC ĐẾN ĐỜI SỐNG NHÂN LOẠI TỪ NGUỒN TUỆ GIÁC CỦA ĐỨC PHẬTChương 1: Đạo Phật với nền hòa bình nhân loại.Chương 2: Đạo Phật với môi trường sinh thái.Chương 3: Những lời vàng của Đức Phật.

Page 3: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

3

LỜI TỰA

Tính đến nay, đạo Phật đã tồn tại và phát triển trên hành tinh này trên 2550 năm, dù có lúc thịnh lúc suy, có lúc thăng lúc trầm, nhưng ánh sáng giác ngộ của đạo Phật vẫn không ngừng soi sáng con đường giải thoát khổ đau cho nhân loại. Một điều hiển nhiên nữa, bất cứ nơi nào ánh sáng trí tuệ và suối nguồn yêu thương từ bi vô hạn của đức Phật soi rọi đến, thì nơi đó, bóng đêm si mê ám chướng được xua tan, hận thù ân oán đối với chúng sanh được hóa giải, đời sống tinh thần của từng cá thể được quân bình ổn định, đời sống xã hội thêm phồn vinh hạnh phúc, đời sống nhân loại nhờ đó được hòa bình an lạc.

Cuộc đời của đức Phật đã ghi đậm dấu ấn nhân bản cao thượng và nhân văn sâu đậm trong tâm khảm loài người trên toàn thế giới; giáo pháp của ngài đã ảnh hưởng một cách rộng lớn, thiết thực, lâu dài và vô cùng lợi ích trong đời sống con người. Tinh thần từ bi và trí tuệ của một bậc giác ngộ như đức Phật của chúng ta quả có sức ảnh hưởng sâu sắc đến lợi lích và đời sống của nhân loại.

Mục đích sâu xa và ý nghĩa thiêng liêng về sự ra đời của đức Phật chính là nhằm khai hóa ánh sáng trí tuệ và khơi nguồn yêu thương trong đời sống nhân loại một cách toàn diện và triệt để. Về điều này, chúng tôi cho rằng, chỉ có cách phát triển trí tuệ và tâm từ bi một cách triệt để trong đời sống mỗi con người, đánh động lương tri và phát triển tình yêu thương một cách toàn diện trong đời sống cộng đồng, thì chúng ta mới có thể mang lại an lạc thật sự cho nhân loại, mang lại hòa bình lâu dài bền vững cho thế giới.

Sự thị hiện lòng từ bi giáo hóa chúng sanh của đức Phật rất gần gũi, rất thực tế, rất tự nhiên và giàu cảm xúc, điều này đã tác động sâu xa vào tâm thức con người. Sự thị hiện đó, dù xảy ra cách nay đã trên 2550 rồi, nhưng đến nay chúng ta vẫn thấy giáo pháp của Ngài là rất khoa học và không hề bị lỗi thời.

Nay thông qua giáo pháp, ánh sáng trí tuệ và suối nguồn yêu thương chúng sanh vô hạn của đức Phật đã và đang dần dần truyền sang mỗi chúng ta. Khi chúng ta mở lòng, tiếp nhận nguồn tuệ giác và thọ cảm đại bi tâm từ nơi đức Phật, thì bắt đầu từ trong tiềm thức sâu xa và trong tâm hồn sâu lắng của mỗi chúng ta, dù ít hay nhiều, cũng sẽ hình thành nên một nhân cách sống đạo để chuyen hóa nghiệp lực bản thân. Nhân cách văn hóa đặc thù tâm linh này cũng sẽ góp phần chuyển hóa đời sống còn nhiều khổ đau của nhân loại, mà chúng tôi cho rằng, nó rất cần thiết cho đời sống xã hội trong bối cảnh hiện nay. Đây cũng là nền tảng, là tiền đề để giới Tăng Ni Phật tử nói riêng và toàn xã hội nói chung, cùng nhau chung tay tích cực góp phần xây dựng nên một thế giới an lạc, hòa bình lâu dài và bền vững.

Nhìn lại lịch sử hoằng hóa độ sanh của đức Bổn Sư, chúng ta vô cùng cảm kích trước công đức trí tuệ và lòng từ bi yêu thương chúng sanh của Ngài. Từ lúc hành đạo cho đến thời khắc nhập niết bàn, đức Phật đã tùy căn cơ mà hóa độ chúng sanh không hề ngưng nghỉ. Có thể nói rằng, hết thảy dòng tư tưởng và nguồn minh triết trên thế gian này thảy đều trở nên bại hoại và hư huyễn một khi đối mặt trước trí tuệ siêu phàm và giáo pháp thâm sâu vi diệu của đức Phật.

Điểm nổi bật tràn đầy cảm xúc nơi giáo pháp của Ngài, đó là sự thương tưởng đến chúng sanh, cụ thể là luôn hướng đến nỗi đau bất hạnh của nhân loại, tùy căn cơ trình độ mỗi người, Ngài đã đưa ra những phương pháp giúp họ vượt thoát khổ đau luân hồi sanh tử, như Ngài đã từng dạy: “Nước trong bốn bể chỉ có một vị, đó là vị mặn. Giáo pháp mênh mông của Như Lai cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát”. Mà thật vậy, đối với hàng vua chúa, đức Phật đã dạy họ hãy làm phước thiện, bố thí cúng dường, cách ứng xử đạo nghĩa trong gia đình cũng như quan hệ ngoài xã hội; đối với Phật tử tại gia, Ngài trao truyền Tam quy, Ngũ giới, dạy hành Thập Thiện, tu Bát Chánh Đạo; đối với người xuất gia, ngài giảng về pháp môn Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên; đối với hàng thượng căn thượng trí, Ngài tuyên bày Bát Nhã, trực chỉ Tánh Không. Ngài đã phương tiện từ thấp đến cao, tự cạn đến sâu, tùy căn cơ, tùy nghiệp lực… Ngài đều ban rải từ tâm, giáo hóa đến hơi thở cuối cùng, khiến hằng hà vô lượng chúng sanh được giác ngộ giải thoát.

Đức Phật thị hiện trên cõi đời này dưới hình thức một con người, ngài muốn chứng minh rằng con người có một địa vị tối tôn tối thắng trong thế giới muôn loài và trung tâm của vũ trụ. Tuy nhiên ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy rằng, dù con người có khôn ngoan bao nhiêu đi chăng nữa, dù nhân loại có đạt đến đỉnh cao của nền văn minh như thế nào đi chăng nữa, mà tâm hồn vẫn còn chứa đầy tham, sân, si, ái, ố , hỷ, nộ, vẫn còn nhân, ngã, bỉ, thử… thì nhân loại trên thế giới

Page 4: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

4

này vẫn còn hận thù, vẫn còn bất an đau khổ. Đồng thời đức Phật cũng đã chỉ cho chúng ta biết rằng, con người không những chỉ thông minh uyên bác mà còn có thể đạt đến Tuệ Giác do quá trình tu tập giác ngộ, chứ không phải nhờ vào sự thông minh học hỏi. Trí tuệ từ sở học càng đạt đến đỉnh cao thì cố chấp càng lớn, ngã mạn càng tăng, ngược lại, nhờ Tuệ Giác mà chúng ta có thể loại bỏ thói hư tật xấu, chuyển hóa vô minh, phá trừ ngã chấp… Nhờ có Tuệ Giác mà chúng ta mới thấy được tự tánh của các pháp là vô thường, vô ngã… Chính nhờ Tuệ Giác mà chúng ta thấy rằng, giữa chúng ta và muôn loài luôn có sự liên hệ mật thiết với nhau như ruột thịt, do vậy chúng ta mới biết thương yêu nhau, bảo vệ cho nhau, chung sống với nhau trong ngôi nhà hòa bình trên thế giới. Còn ngược lại thì thế giới mãi là bãi chiến trường đầy dẫy đua tranh, hận thù, bất an, đau khổ…

Đức Phật ở trong tôi cũng là một con người bằng xương bằng thịt, trong lòng cũng tràn đầy cảm xúc, ngài cũng sinh ra và rồi cũng giã từ cõi đời này cũng như bao con người khác trên thế gian, chứ không phải là một siêu nhân hay một đấng thần linh được tô vẽ đươm nhiều màu sắc tín ngưỡng hoang đường và bí ẩn. Nếu có khác chúng ta chăng, thì ngài là một con người viên mãn về đạo đức và trí tuệ, bởi ngài là con người đầu tiên trên thế giới này nhận ra chân tướng của nhân sinh vũ trụ và nơi chân tâm ngài tròn đầy đức hạnh từ bi hỷ xa.

Từ những cảm nhận sâu sắc về thâm ân của đức Phật đối với bản thân tôi cũng như đối với thế giới loài người, hoài bão của tôi là sẽ cố gắng biên soạn một bộ sách khiêm tốn về cuộc đời và giáo pháp của đức Phật. Do để tâm đến việc này nên tôi đã tập hợp lại các bài mà tôi đã thuyết giảng tại các pháp hội suốt mười mấy năm qua và nhất là trước cơ duyên đại lễ Phật Đản LHQ 2008, Ban Trị Sự THPG tỉnh Bình Dương đứng ra tổ chức Hội thảo Khoa học Phật giáo chủ đề “Đạo Phật Với Xã Hội Công Bằng Dân Chủ Và Văn Minh”, trong dịp này, với tư cách là chủ tọa, tôi cũng đã nhiệt tình đóng góp cho hội thảo bản tham luận “Đôi điều về nhân cách văn hóa của đức Phật và những ảnh hưởng tích cực đến đời sống nhân loại từ giáo pháp của Ngài”. Có thể nói nhân duyên này đã tạo thêm nguồn cảm hứng và thôi thúc bản thân tôi hoàn thiện hoài bão mà bấy lâu nay hằng ấp ủ.

Cuốn sách này có tựa đề “Đức Phật và con đường tuệ giác”, cùng với những cảm nghĩ mà chúng tôi trình bày trên đây cũng đã nói lên toàn bộ chủ đích và nội dung của sách. Do đó chúng tôi không bàn đến những truyền thuyết mang tính phi lịch sử bao quanh cuộc đời đức Phật. Mặc khác, từ trước đến nay, đã có rất nhiều sách viết về cuộc đời đức Phật, tuy nhiên phần nhiều chỉ chú trọng đến sử liệu thậm chí khai thác về tính linh thiêng huyền bí của cuộc đời đức Phật, chính vì vậy mà nội dung rất dễ bị khô khan, đồng thời khó phát huy được tính truyền cảm trung thực về cuộc đời đức Phật vốn sinh động và rất gần gũi với đời sống con người. Do vậy, trong cuốn sách này chúng tôi đã kết hợp tính nghiên cứu thông qua các sử liệu đáng tin cậy về lịch sử đức Phật và tính khảo luận thông qua những lợi ích thiết thực mà con đường tuệ giác đã mang lại cho đời sống nhân loại. Trong phần khảo luận, xuất phát từ cảm nhận của cá nhân và quan sát trên đời sống thực tế nên khó tránh khỏi chủ quan sơ xuất, do vậy chúng tôi rất cần sự cảm thông chia sẻ của bạn đọc.

Đối với các loại sách biên soạn về nhân vật lịch sử như về cuộc đời đức Phật chẳng hạn, về sử liệu, đa phần sách soạn sau trùng lặp sách soạn trước, nếu khác chăng là ở phương pháp hệ thống có khoa học hay chưa để giúp cho người đọc dễ dàng tiếp nhận thông tin và điều quan trọng nhất là ở mục đích biên soạn sách.

Như đã trình bày ở trên, mục đích chúng tôi biên soạn sách này là mong muốn được tôn vinh và tán thán đức Phật một cách gần gũi với đời sống con người, bởi đức Phật cũng là một con người bằng xương bằng thịt như tất cả chúng ta, khác chăng ngài là một con người đã giác ngộ. Với lòng từ bi vô hạn, ngài đã đem sự giác ngộ của bản thân để hóa độ những người chưa giác ngộ như chúng ta, điều này có nghĩa, chúng ta sẽ theo học giáo pháp của đức Phật, hành trì theo lời dạy của ngài để được giác ngộ như ngài. Chính những suy nghĩ như vậy, đối với chúng tôi, nhân cách của đức Phật là biểu hiện về một nhân cách sống, một sự sống có ý nghĩa tuyệt vời nhất trong thế giới loài ngưòi, nó hiện hữu nơi một con người bằng xương bằng thịt trên thế gian này cách đây trên 2.550 năm.

Cuốn “Đức Phật và con đường tuệ giác” được chia thành 5 phần. Ba phần đầu ghi nhận lại cuộc đời của đức Phật, suốt quá trình từ đản sanh cho đến thành Phật, hoằng hóa độ sanh và nhập niết bàn. Trong ba phần đầu chủ yếu thiên về sử liệu, tuy nhiên chúng tôi đã cố gắng trình bày một cách uyển chuyển tạo cảm giác dễ gần cho người đọc. Hai phần sau chúng tôi nói về nhân cách văn hóa của đức Phật thông qua cách ứng xử với con người, với thế giới

Page 5: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

5

xung quanh và những ảnh hưởng tích cực từ nguồn tuệ giác của đức Phật đến đời sống nhân loại. Trong hai phần này, chúng tôi cố gắng diễn đạt mối tương quan mật thiết giữa giáo pháp của đức Phật với đời sống thực tế của nhân loại. Vì đây là một cuốn sách viết về lịch sử đức Phật có nguồn gốc xuất xứ từ kinh tạng Pali thuộc hệ Phật giáo Nam Tông, nên có rất nhiều danh từ riêng và thuật ngữ Phật học dùng theo tiếng Pali, để bạn đọc dễ dàng theo dõi nội dung sách, chúng tôi sử dụng các từ ngữ đã phiên âm tiếng Việt, còn tiếng Pali hay Sanskrit chúng tôi chỉ để trong ngoặc đơn và chỉ mở ngoặc một lần đối với danh từ riêng đó. Ví dụ: Lâm tì ni (Lumbini) Câu thi na (Kusinara) hay Ca tỳ la vệ (Kapilavatthu)…

Dù chỉ là công việc nghiên cứu, chắt lọc và hệ thống, nhưng đối với chúng tôi việc thực hiện cuốn sách này quả là một thách thức, một công việc tưởng chừng khó có thể hoàn thành trong hoàn cảnh bản thân còn rất nhiều Phật sự phải gánh vác. Thế nhưng thật hạnh phúc đối với chúng tôi vì cuối cùng ấn phẩm cũng đã hoàn thành.

Riêng đối với chúng tôi, cuốn sách viết về cuộc đời đức Phật và giáo pháp của Ngài, còn là một công trình văn hóa mang ý nghĩa thiêng liêng, bởi đây là ấn phẩm rất đặc biệt nhằm kỷ niệm ngày khánh thành tượng đài đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn dài nhất Việt Nam, đặt tại Trung tâm Phật học Bình Dương vừa mới xây dựng hoàn thành tại chùa Hội Khánh.

Nay cuốn sách “Đức Phật và con đường tuệ giác” được ra mắt bạn đọc xa gần, thiết nghĩ dù còn rất khiêm tốn và không tránh khỏi những mặt hạn chế nhất định, nhưng chúng tôi cho rằng, đây cũng là một viên gạch nhỏ đóng góp thêm vào ngôi nhà văn hóa Phật giáo nước nhà. Hy vọng đây cũng sẽ là một món quà bổ ích và thật sự có ý nghĩa dành cho những ai để tâm nghiên cứu, tìm hiểu về cuộc đời và giáo pháp của đức Phật.

Chùa Hội Khánh, kỷ niệm ngày đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn Rằm tháng 2 năm Canh Dần. PL.2554. DL.2010 Thượng tọa Thích Huệ Thông

Page 6: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

6

PHẦN MỘT

HOÀN CẢNH CHÍNH TRỊ XÃ HỘI ẤN ĐỘ

THỜI ĐỨC PHẬT

CHƯƠNG MỘT

ĐÔI NÉT VỀ TƯ TƯỞNG TÔN GIÁO ĐÃ CÓ TẠI ẤN ĐỘ TRƯỚC THỜI ĐỨC PHẬT

Đối với người Việt Nam chúng ta, nhất là đối với giới Phật tử, khi nói đến đất nước Ấn Độ, chúng ta liên tưởng ngay đó là cái nôi thiêng liêng của đạo Phật, nơi đức Phật đản sinh, hoằng pháp độ sanh và muôn nghìn điều kỳ diệu xoay quanh cuộc đời đức Phật cho đến khi ngài nhập niết bàn. Tuy nhiên ít ai biết Ấn Độ còn là cái nôi rất lớn của các hệ phái tư tưởng siêu nhiên và tôn giáo huyền bí có mặt rất sớm trên thế giới này.

Lịch sử Phật giáo ghi chép, trước thời đức Phật ra đời, so với các nền văn hóa khu vực và vùng phụ cận thì văn hóa Ấn Độ đã phát triển tới một trình độ khá cao. Kết quả này là nhờ tư tưởng sáng tạo và tính năng động thực tiễn của người Arya.

Như chúng ta đã biết, Ấn Độ là một quốc gia bao gồm nhiều sắc tộc và ngôn ngữ nhất trên hành tinh này, dù là một quốc gia có rất nhiều sắc tộc, nhưng mọi sự chi phối liên quan đến đất nước Ấn Độ vào thời đó đều lệ thuộc vào hai sắc tộc chính, đó là sắc tộc bản địa Dravida có nước da nâu, tầm vóc thấp bé, đặc điểm là mũi tẹt di truyền của người châu Á và sắc tộc chiếm cư Arya có nguồn gốc lâu đời từ Đông Âu với nước da trắng, tầm vóc cao lớn, họ có cái mũi rất cao và thẳng, điều này rất dễ phân biệt với người bản địa Dravida.

Khởi nguồn, giống người Arya cư trú tại miền Trung Á, (Trung ương Á Tế Á) họ sống bằng nghề du mục, sau đó họ vượt qua dãy núi Hin đu (Hindukush) rồi thẳng tiến xuống vùng Đông Nam. Một bộ phận người Arya di chuyển về hướng Tây Nam, tức nước Ba Tư (nay là Iran), bộ phận còn lại tiếp tục di chuyển xuống hướng Đông Nam, xâm nhập vào lãnh thổ Ấn Độ ở phía Tây Bắc. Khi đó người Arya đánh đuổi người dân bản địa Dravida để chiếm vùng Parijab, thuộc thượng lưu sông Indus. Từ đó giống người này được gọi là dân tộc Arya Ấn Độ.

Sau khi chiếm được Panjab, chinh phục được người Dravida, người Arya liền bắt tay xây dựng, biến phần lớn đất nước Ấn Độ trở thành một xã hội rất phồn thịnh, kinh tế xã hội lúc bấy giờ rất phát đạt, đặc biệt về mặt văn hóa tư tưởng, dân tộc Arya Ấn Độ này đã sáng chế ra bộ kinh điển Lê Câu Phệ Đà, chúng ta thường gọi là Vệ Đà (Rg Veda) gồm 1208 khúc thánh ca gói gọn trong 40 quyển. Trong hệ thống thư tịch kinh điển nhân loại, có thể nói, bộ kinh Vệ Đà được xem là một trong số rất hiếm nguồn tư tưởng triết học cổ đại xuất hiện khá sớm trên hành tinh này. Đây cũng chính là nguồn tư tưởng văn hóa mang đậm dấu ấn tôn giáo siêu hình đã được hình thành vào thời kỳ đầu tiên của Bà La Môn giáo, ước tính cách nay khoảng 1500 năm trước công nguyên.

Xét về nội dung, kinh điển Vệ Đà, đa phần là những bài tán thán ca ngợi quyền năng của thượng đế và những vị thần linh tràn đầy tính thần thoại huyền hoặc, tuy nhiên trong toàn bộ

Page 7: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

7

kinh Vệ Đà cũng ẩn chứa tư tưởng chiều sâu về nhân sinh và vũ trụ, điều này đã mở đầu cho nền văn minh triết học Ấn Độ, đây cũng là cơ sở để cho người đời sau phát triển trào lưu tư tưởng dưới các hình thái cách tân hay ở một chiều sâu tư duy có nhận thức đúng hướng và lý luận thực tiễn với đời sống con người hơn.

Cũng cần nói thêm, nếu nói hệ thống kinh điển của đạo Phật (cả Nam tông và Bắc tông) được hình thành từ ánh sáng trí tuệ do sự tu hành chứng ngộ thật tướng nhân sinh vũ trụ của đức Phật, thì kinh điển Vệ Đà, dù xuất hiện trước thời đức Phật tại thế trên cả ngàn năm, nhưng đó chỉ là sản phẩm của sự tư duy lẫn ước vọng khát khao được khám phá thế giới siêu hình của những người Arya Ấn Độ. Trong chiều sâu của đời sống nội tâm, những tư tưởng gia, triết học gia thời Ấn Độ cổ đại gần như bị lẩn quẩn xoay quanh trong vòng tâm thức của chính mình, vì thế sự chấp nhận một đấng thượng đế siêu hình thiêng liêng hiện diện trong tâm thức họ để họ tôn thờ xưng tán là điều hiển nhiên không có gì phải nói. Có thể nói đây là một biện pháp để tự trấn an và cũng là để phó thác vận mệnh của mình cho thần linh thượng đế của đại bộ phận loài người khi chưa có ánh sáng giác ngộ soi rọi đến, khi chưa có đường hướng tu tập giải thoát cho bản thân mỗi con người.

Tuy nhiên chính nguồn tư tưởng tôn giáo này cộng thêm sự phấn khích do quá ảo tưởng về những cảnh giới siêu nhiên đã phát khởi nên nguồn tri thức tâm linh sơ khai. Những nhà tư tưởng tôn giáo đã chuyển tải nguồn tri thức ấy vào những bài đạo ca được dàn trải trong kinh Vệ Đà, nhằm tôn vinh tán thán thượng đế và các đấng thần linh với nội dung mang đầy tính huyền hoặc và bí ẩn, đồng thời cũng rất thụ động và lệ thuộc.

Dù sao, cách đây trên 3500 năm, thì tinh thần và nội dung của kinh Vệ Đà cũng đã nói lên được tính chiêm nghiệm cũng như khát khao hướng về những cảnh giới siêu hình và cũng đã bộc phát lên được nguồn tri thức tâm linh cao cả mà con người thời đó đang sở hữu. Chính những điều này đã làm cho kinh Vệ Đà trở thành một thư tịch văn hóa cổ quan trọng của nhân loại nói chung và là một tạng kinh thư tối cổ của Ấn Độ nói riêng. Cho đến nay chúng ta vẫn chưa xác định được một cách chính xác kinh Vệ Đà xuất hiện tại Ấn Độ vào thời đại nào, nhưng theo các tài liệu lưu hành phổ biến thì chúng ta có thể tạm chấp nhận là kinh Vệ Đà xuất hiện tại Ấn Độ cách nay khoảng 1500 năm trước công nguyên.

Ngự trị trong đời sống tinh thần và tâm linh của người Ấn qua gần 5 thế kỷ, tư tưởng Vệ Đà được xem là nguồn tư tưởng tôn giáo thiêng liêng thuộc thời kỳ thứ nhất của Bà La Môn giáo, cũng dần dần lùi bước nhường chỗ cho thời kỳ có tính cách canh tân trong tư tưởng tôn giáo thuộc thời kỳ thứ hai của Bà La Môn giáo ra đời. Đó là thời kỳ tư tưởng Phạm Thư (Bràhmanas) hay còn gọi là thời đại Bà La Môn, xuất hiện cách nay khoảng 1000 năm trước công nguyên.

Đặc điểm xã hội Ấn Độ vào thời kỳ này là sự hùng mạnh của dân tộc Arya Ấn Độ. Sau khi ổn định và phát triển nhiều vùng lãnh thổ, họ tiến về phía Đông, lần lượt đánh chiếm rộng thêm các vùng đồng bằng phì nhiêu dọc theo bờ sông Hằng, nơi dân tộc bản địa Dravida và các dân tộc thiểu số Ấn Độ khác đang sinh sống. Sau khi bình ổn những vùng này, họ nhanh chóng bắt tay vào việc canh tác cấy cày, lấy nông nghiệp làm nền kinh tế chủ lực, các thủ lĩnh dân tộc Arya Ấn Độ chia nhau lãnh địa rồi xưng vương, đặt ra các chức quan lại để trị vì, bắt người thứ dân nghèo khó của các dân tộc khác làm nô lệ. Xã hội Ấn Độ bấy giờ chia làm bốn giai cấp bất bình đẳng. Đứng đầu là giai cấp Bà La Môn chủ trương truyền bá đạo Bà La Môn sâu rộng trong tầng lớp nhân dân và đảm nhận tổ chức thực hiện các nghi lễ thờ cúng tôn giáo. Giai cấp cao quý thứ hai là giai cấp Sát Đế Lợi (Ksatriya) gồm vua quan và hoàng tộc, đây là giai cấp nắm quyền thống trị, điều hành xã hội. Kế đến là giai cấp bình dân Tỳ Xá (Vaisya) gồm những thường dân sống bằng nghề làm nông, tiểu thủ công và buôn bán. Cuối cùng là giai cấp Thủ Đà La (Sùdra) là những người nô lệ, trong đời sống họ không có một quyền hạn nào cả, kể cả quyền được làm người, được xem là giai cấp thấp hèn hạ liệt nhất trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Chính vì chủ trương việc truyền bá đạo Bà La Môn và rất chú trọng công việc tế lễ thờ cúng, nên những nhà tư tưởng Bà La Môn giáo đã sáng chế ra kinh điển Phạm Thư, trong đó họ chú thích và thuyết minh để làm sáng tỏ ý nghĩa kinh điển Vệ Đà.

Nếu nội dung kinh Vệ Đà là những bài ca mang tính thần thoại, trong đó bao hàm tư tưởng về vũ trụ quan và nhân sinh quan, thì nội dung tư tưởng tôn giáo trong kinh sách Phạm Thư toàn bộ lại mang đậm tính chất thần học. Nhìn vào tư tưởng Phạm Thư, chúng ta sẽ thấy trong đó được chia ra làm ba giai đoạn rất trình tự. Giai đoạn đầu lấy Đấng Sáng Tạo (Prajapati) được xem là đấng tạo ra thế giới vạn vật làm trung tâm. Theo tinh thần Phạm Thư

Page 8: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

8

thì cái gốc sinh ra vũ trụ, trời đất, hư không, thần mặt trời, thần gió, thần lửa, con người và vạn vật được gọi chung là Đấng Sáng Tạo, cũng gọi là Thần tối cao hay là Thượng đế tối cao. Qua đó chúng ta có thể xếp giai đoạn đầu thuộc về quan niệm sáng tạo. Giai đoạn thứ hai, tư tưởng Phạm Thư lấy Đại Ngã (Bràhaman) làm trung tâm, ở giai đoạn này Đại Ngã thay thế Đấng Sáng Tạo chi phối các vị thần linh, nó được xác lập trên hai phương diện, vừa duy trì bản chất bất biến bất động của bản thân, vừa hoạt động theo hai yếu tố Danh (Nàma) và Sắc (Rùpa) triển khai hoạt động mọi loài mọi vật đang tồn tại. Giai đoạn thứ ba, lấy Tự Ngã (Àtman) làm trung tâm. Tư tưởng Phạm Thư cho rằng Đại Ngã hay Tự Ngã vốn đồng một thể, nó chỉ khác nhau tên gọi mà thôi. Đại Ngã là nói về vũ trụ còn Tự Ngã là nói về yếu tố tinh thần cũng như tâm lý của con người. Căn cứ vào tư tưởng tôn giáo của kinh sách Phạm Thư thì tâm lý thuộc về linh hồn bất diệt, nghĩa là khi Tự Ngã lìa hẳn thân xác này thì linh hồn con người được trở về với Đại Ngã. Qua đó chúng ta có thể thấy rằng tư tưởng Phạm Thư dù được phát triển trên nền tảng tư tưởng Vệ Đà, dù vẫn còn bế tắc lẫn quẩn trong phạm trù tư tưởng nhưng nó đã phần nào thể hiện ý chí đột phá trong tâm thức của người Ấn Độ thời cổ đại trong xu hướng chiêm nghiệm chân tướng nhân sinh vũ trụ.

Nối tiếp tư tưởng Phạm Thư là tư tưởng Áo Nghĩa Thư (Upanishad) được hình thành trong khoảng 700 năm trước công nguyên. Đây là nguồn tư tưởng thuộc thời kỳ thứ ba của Bà La Môn giáo. Nội dung tư tưởng Áo Nghĩa Thư nói về lý tưởng giải thoát trên nền tảng Phạm Ngã đồng nhất. Trong đó lý tưởng giải thoát cũng được chia ra làm ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất, tư tưởng Áo NghĩaThư nêu lên việc đi tìm lối giải thoát thì phải hướng vào nội tâm chứ không thể hướng ra bên ngoài mà được, tư tưởng này cho rằng tự giác là nhân của giải thoát và bất giác là nhân của luân hồi. Giai đoạn thứ hai, tư tưởng Áo Nghĩa Thư hướng dẫn con người cần phải an trụ vào nội tâm và phát huy phần trí tuệ thì mới có thể đạt đến trạng thái giải thoát của tâm hồn. Giai đoạn thứ ba, Áo Nghĩa Thư chú trọng đến phương pháp tu Du già (Yoga) để an định tâm hồn và phát huy trí tuệ. Theo Áo Nghĩa Thư thì một tín đồ Bà La Môn giáo nếu dựa theo trình tự tu tập như thế này thì chân ngã sẽ hiển bày, nếu tu hành liên tục và rốt ráo thì Tự Ngã sẽ trở thành Đại Ngã, tức là Phạm Ngã đồng nhất thể, khi đó hành giả sẽ chấm dứt kiếp sống luân hồi, đạt được cảnh giới giải thoát của tâm hồn. Đây là nguồn tư tưởng được xem là kết quả của sự chiêm nghiệm có tư duy tương đối đúng hướng của những nhà tư tưởng triết học theo đạo Bà La Môn thời bấy giờ. Dù Áo Nghĩa Thư được hình thành trước thời đức Phật khoảng hai thế kỷ và còn cách xa với chân lý giác ngộ của đức Phật, nhưng qua đó có thể nói rằng, tư tưởng Áo Nghĩa Thư quả là một sự chuyển mình vượt bậc và khá sớm trong tư tưởng giải thoát tìm về đời sống tâm linh của người Ấn Độ cổ đại.

Nói về các nguồn tư tưởng tôn giáo đã có tại Ấn Độ trước thời đức Phật, nhiều nhà nghiên cứu chỉ chú trọng đến hai thời kỳ chính hình thành nên nguồn tư tưởng triết học căn cơ của Bà La Môn giáo. Đó là thời kỳ tư tưởng Vệ Đà và thời kỳ tư tưởng Áo Nghĩa Thư mà thường bỏ qua thời kỳ Phạm Thư, có lẽ họ xét thấy không cần thiết phải đi sâu vào phần chuyển tiếp này vì cho rằng tư tưởng Phạm Thư chẳng qua chỉ là phần chú thích và thuyết minh về kinh điển Vệ Đà. Tuy nhiên theo suy nghĩ của chúng tôi thì tư tưởng Phạm Thư là phần mô tả cụ thể nhất về chủ nghĩa thần học, đây là nền tảng để họ quay về Tự Ngã và cũng là nền tảng để những nhà triết học Bà La Môn tiếp tục cho ra đời tư tưởng Áo Nghĩa Thư có chiều sâu tư duy và chiêm nghiệm dày dặn hơn như chúng tôi đã nói ở trên.

Chúng tôi thiết nghĩ một khi đã đề cập đến các nguồn tư tưởng tôn giáo đã có tại Ấn Độ trước thời đức Phật, thì cũng nên liệt kê sao cho tương đối đầy đủ và hệ thống lại một cách trình tự hơn. Qua tham khảo nhiều nguồn tư liệu đáng tin cậy, thì ngoài kinh Vệ Đà (khoảng 1500 năm trước CN) được xem là tài liệu tối cổ của văn hóa Ấn Độ, thì bên cạnh đó chúng ta còn thấy có các bộ kinh Yajurveda, Sàmaveda và Atharvaveda cũng được xem là các thánh kinh của Bà La Môn giáo. Khoảng 500 năm sau (khoảng 1000 năm trước CN) xuất hiện kinh Phạm Thư (Bràhmana). Sau đó mới xuất hiện các bộ kinh Àranyakas và Áo Nghĩa Thư (khoảng 700 trước CN). Trong suốt chặng đường phát triển nguồn tư tưởng tôn giáo tại Ấn Độ trải dài trên tám trăm năm, nhìn chung chỉ có bộ Áo Nghĩa Thư là toát lên được tinh thần cải cách chiều hướng tâm linh, là nền tảng cho một bộ phận tín đồ Bà La Môn giáo và giới trí thức đương thời hướng đến con đường giải thoát cụ thể hơn. Tại đất nước Ấn Độ, Áo Nghĩa Thư được xem là lá cờ đầu của phong trào đi tìm tự do cho đời sống tâm linh.

Khi nhìn lại khởi đầu sự tu hành của Thái tử Tất Đạt Đa một cách khách quan, chúng ta sẽ nhận thấy, chính đời sống tu hành của các đạo sĩ Bà La Môn đã từng cuốn hút Thái tử Tất

Page 9: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

9

Đạt Đa vào con đường tu hành ép xác khổ hạnh và cũng chính tinh thần Áo Nghĩa Thư đã hấp dẫn Thái tử Tất Đạt Đa vào con đường tu hành thiền định theo lối tu Yoga của Bà La Môn giáo. Quả thật thú vị vì cũng nhờ trải nghiệm qua vô số phương pháp tu hành của Bà La Môn giáo với hệ quả không mấy sáng sủa nên cuối cùng Thái tử Tất Đạt Đa đã quay về với con đường trung đạo, tự tìm hướng đi giải thoát cho bản thân mình.

Lịch sử đức Phật ghi lại rằng, sau khi theo các đạo sĩ Bà La Môn tu hành ép xác và thực hành các pháp thiền định Yoga, dù ngài rất nỗ lực nhưng kết quả vẫn không thành tựu. Cuối cùng Thái tử đã từ bỏ lối tu ép xác và ăn uống trở lại bình thường, nhờ đó sức khỏe dần dần hồi phục. Từ đó Thái tử đã chiêm nghiệm ra rằng, chỉ đi theo con đường trung đạo và thiền định có chánh kiến thì mới có thể đạt được mục tiêu giác ngộ tối thượng.

Sau khi rời bỏ những đạo sĩ Bà La Môn mà ngài đã thọ giáo trước đây, Thái tử đã đến bên bờ sông Ni Liên Thuyền và ngồi xuống dưới cội cây Tất Bà La hay còn gọi là Bồ đề (Bodhi), theo tư thế ngồi kiết già (hoa sen). Khung cảnh ngoạn mục bên bờ sông Ni Liên đã làm cho ngài cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Nơi đây có không gian thoáng đãng đã làm êm dịu giác quan và phấn khích tinh thần ngài rất cao. Trong một không gian trong lành, mát mẻ, yên tỉnh, vắng lặng, nhất là với một sức khỏe đã hồi phục và một ý chí kiên cường bất khuất, Thái tử đã tập trung hết tinh thần, dồn mọi nỗ lực công phu thiền định, nhờ đó ngài đã gột rửa, thanh lọc làm cho tâm trở nên trong sạch vắng lặng tận cùng. Bằng công phu thiền định ngài lần lượt chứng nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền rồi đến tứ thiền. Khi tâm đã thanh tịnh cùng tột, ngài đã vận dụng thiền Minh Sát Tuệ (Vipassanà Bhàvanà) quán sâu vào cảnh giới thanh tịnh của tâm. Ngài đã vận dụng Thiền Minh Sát Tuệ không ngừng nghỉ, trải qua suốt 49 ngày đêm. Cuối cùng ngài đã chứng được thực tướng của vạn pháp, sáng tỏ được nghĩa như của bổn tâm, thấy rõ các pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã (Anicca, Dulclckha, Anattà). Chính nhờ thiền định và thiền quán, ngài đã thấu triệt thật tướng nhân sinh vũ trụ. Vị Thái tử ở nước Ấn Độ ấy, chính là đức Phật, một hiện thân tích cực đã hoàn thiện bước đi tìm lại cội nguồn bản thể của con người.

Ở đây chúng ta nhận thấy, trên bước đường tìm đạo giải thoát khổ đau sinh tử luân hồi, Thái tử Tất Đạt Đa đã thể hiện hai giai đoạn tu tập thiền. Đầu tiên là phương pháp thiền theo cách tu tập Yoga của Bà La Môn giáo, sau đó là phương pháp tu tập thiền định Minh Sát Tuệ để đi đến giải thoát. Với phương pháp sau cùng, ngài đã đạt được kết quả vô cùng mỹ mãn, chứng ngộ bản tâm thanh tịnh của chính mình, thành bậc Đẳng Chánh Giác.

Sở dĩ chúng tôi đề cập đến các nguồn tư tưởng tôn giáo đã có tại Ấn Độ trước thời đức Phật cũng như tư tưởng triết học tại Ấn Độ thời đức Phật trong chương đầu sách này vì nhận thấy các nguồn tư tưởng tôn giáo và triết học có một mối liên hệ rất mật thiết với từng bước đường hành đạo của Thái tử Tất Đạt Đa, cũng qua đó để quý Phật tử có sự so sánh tính ưu việt rốt ráo trong giáo pháp của đức Phật với các nguồn tư tưởng của các đạo giáo tại Ấn Độ.

CHƯƠNG HAIĐÔI NÉT VỀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TẠI ẤN ĐỘ THỜI ĐỨC PHẬT RA ĐỜI

Khi nói đến tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại, chúng ta cần nên hiểu một cách phân minh rằng, nền tư tưởng triết học đó thực chất là nguồn sữa trưởng dưỡng và nuôi lớn đời sống tinh thần của các tín đồ Bà La Môn giáo, cho nên trong khoảng thời gian này chúng ta cũng có thể nói tư tưởng triết học cũng chính là tư tưởng tôn giáo, hay nói một cách chuẩn xác hơn thì đó là những tư tưởng Bà La Môn giáo.

Page 10: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

10

Trong khoảng thời gian dài gần cả một ngàn năm, các tư tưởng Bà La Môn giáo, từ Vệ Đà, Phạm Thư cho đến Áo Nghĩa Thư thực sự đã làm chủ tể và là linh hồn trong mọi hoạt động tín ngưỡng tâm linh của người dân xứ Ấn. Cho đến vào khoảng 600 năm trước công nguyên trở về sau này, khi các thế lực chính thống của Bà La Môn giáo trở nên suy yếu hẳn đi, thì sự chi phối có tính chất độc quyền của tư tưởng Bà La Môn giáo mới chựng lại và nhường chỗ cho nhiều luồng tư tưởng triết học tôn giáo mới ra đời.

Đọc qua triết học Ấn Độ và tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ cùng với một số kinh điển và sử liệu Phật giáo, chúng tôi nhận thấy rằng, đỉnh cao trong hệ tư tưởng của Bà La Môn giáo chính là tư tưởng Áo Nghĩa Thư, ngoại trừ kinh sách Phật giáo ra và nếu làm một phép so sánh với các tư tưởng triết học đã có mặt tại Ấn Độ thời bấy giờ thì Áo Nghĩa Thư quả là một pho sách chứa đựng tư tưởng tâm linh thâm sâu hơn cả. Tuy nhiên, vào thời kỳ này, các đạo sĩ Bà La Môn họ vẫn chưa khai thác triệt để tinh thần Áo Nghĩa Thư vào đời sống tu tập, không những vậy họ còn duy trì và phát triển các truyền thống có tính chất hủ lậu và lỗi thời trong tư tưởng Vệ Đà, họ tiếp tục đào sâu hố ngăn cách giữa tập cấp có đặc quyền và các tập cấp hạ tiện yếm thế. Diễn biến này kéo dài gần hai thế kỷ, cho mãi đến khi đức Phật ra đời, chỉ có một bộ phận nhỏ nhoi đạo sĩ Bà La Môn là thú hướng vào tư tưởng Áo Nghĩa Thư phát triển con đường tu tập, còn phần đông chức sắc và tín đồ Bà La Môn giáo đã chuyển hẳn sang hình thức tế lễ chuyên nghiệp. Trước sự kiêu mạn của các tu sĩ Bà La Môn, cộng thêm với những tốn kém vô tội vạ phục vụ việc cúng tế đã khiến cho tín đồ Bà La Môn và những người thật tâm muốn tìm cầu đời sống giải thoát tâm linh đều trở nên bất mãn. Một điều cũng dễ dàng nhận thấy nữa là, tập cấp Bà La Môn đã luôn tận dụng các buổi thiết lễ tế đàn kéo dài nhiều ngày và các hình thức cúng tế phổ biến trong đời sống làm công cụ chèn ép moi móc tiền tài phẩm vật của quần chúng nhân dân một cách hết sức vô lý. Trong thời kỳ này, những tu sĩ Bà La Môn kiêu mạn trở nên những kẻ sống an nhàn vương giả bởi cuộc sống của họ chỉ biết trục lợi trên sự mê muội và yếm thế của người dân. Chính sự độc quyền của tập cấp Bà La Môn và sự bất mãn tột độ của người dân đã làm cho không khí xã hội lúc bấy giờ trở nên ngột ngạt khó thở, đây là nguyên nhân chính khiến cho nhiều học thuyết mới ra đời nhằm đáp ứng nguyện vọng tìm hướng đi cho đời sống tâm linh của người dân Ấn Độ đang trong tình trạng bế tắc. Và đây cũng là nguyên nhân chủ yếu đã khiến cho các thế lực chính thống của Bà La Môn giáo không còn ở thế đứng thượng phong trong việc độc quyền chân lý, tập cấp Bà La Môn vì vậy mà ngày càng trở nên suy yếu. Trước bối cảnh này, vô số học thuyết tư tưởng triết học tôn giáo đã bừng nở, ngoài những trường phái tư tưởng triết học vẫn còn chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của hệ tư tưởng bà La Môn giáo mà chúng tôi sẽ đề cập đến, thì nổi bật lên có Kỳ Na giáo và Lục Sư Ngoại Đạo phái.

Kỳ Na giáo (Jaina) hay còn gọi là đạo Kỳ Na, do giáo chủ có tên là Đại Hùng (Vardhamana) sáng lập ra. Kỳ Na giáo chủ trương thuyết Vật Hoạt Luận và tư tưởng triết học căn bản của đạo này là Thực thể (Dravaya). Thực thể chia ra làm hai trạng thái: Sinh mệnh (Java) và Phi sinh mệnh (Ajava). Theo học thuyết này, Sinh mệnh bao gồm lý trí và tình cảm còn Phi sinh mệnh được phân chia thành năm thứ: Không (Akasa), Pháp (Dharma), Phi pháp (Adharma), Vật chất (Pudgala) và Thời gian (Kala). Trong đó Không dung chứa hết mọi nơi mọi chốn, Vật chất là nhục thể, Pháp là nguyên lý vận động, Phi pháp là nguyên lý đình chỉ, Thời gian là nguyên lý biến hóa. Tư tưởng Kỳ Na giáo cho rằng yếu tố Sinh mệnh và Phi sinh mệnh gắn kết với nhau nên từ đó sinh ra phiền não. Do có phiền não nên không thoát khỏi vòng luân hồi. Vì mong muốn thoát khỏi vòng luân hồi nên Kỳ Na giáo chủ trương lấy khổ hạnh làm mục đích tôn chỉ để tu hành. Tư tưởng Kỳ Na giáo còn có chủ trương lối sống Bất tổn sanh (Ahimsha) được xem là điểm gần gũi và tương đồng với tinh thần từ bi Bất sát của đạo Phật.

Cũng trên chủ thuyết Vật Hoạt Luận, Kỳ Na giáo quan niệm vũ trụ vốn là một vật thể có cấu trúc rộng lớn không ngằn mé và phụ thuộc vào các chu kỳ vô tận của thời gian. Theo kinh điển của Kỳ Na ghi chép lại rằng, mỗi chu kỳ thời gian sẽ bao gồm một nửa tiến bộ và một nửa thoái bộ. Trong từng nửa chu kỳ sẽ có 24 người chiến thắng xuất hiện làm đại sư để dẫn dắt loài người đi tới con đường giải thoát. Cũng theo kinh này thì người chiến thắng đầu tiên trong nửa chu kỳ đầu là Rashabha, vị này đã tạo ra nền văn minh, dạy nhân loại hướng đến con đường giải thoát và sống đến sáu trăm ngàn năm. Lần lượt đến người chiến thắng thứ 23 là Parshva xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ 9 trước công nguyên, vị này đã có công thiết lập nên các đoàn thể tu hành. Và Đại Hùng là người chiến thắng thứ 24 được môn đồ Kỳ Na giáo xem là

Page 11: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

11

vị giáo chủ sáng lập ra đạo Kỳ Na. Theo truyền thống của đạo Kỳ Na thì các tín đồ có nhiệm vụ thờ phượng 24 vị giáo chủ đã chiến thắng trong nửa chu kỳ qua. Đối với giáo chủ Đại Hùng thì tín đồ Kỳ Na giáo rất thành kính trọng vọng vì ngài là vị chiến thắng gần đây nhất, đồng thời họ xem ngài là vị giáo chủ quyền năng và mẫu mực để họ noi theo.

Nói về Lục sư ngoại đạo, đối với người học Phật, chắc có lẽ chúng ta cũng đã từng một lần nghe nhắc đến danh từ này, nhất là trong những lúc trao đổi chuyện trò với một người ngoại đạo có lý luận càn gở đến nỗi khiến chúng ta phải bực mình, hoặc có khi chúng ta bị bắt bí không trả lời được, khi đó chúng ta thường cho rằng mình gặp phải Lục sư ngoại đạo! Điều này chứng tỏ trong cảm nghĩ chúng ta thường cho rằng Lục sư ngoại đạo vừa rất ngông cuồng, vừa rất tài giỏi trong biện minh lý luận đồng thời cũng rất sở trường các món thần thông biến hóa. Như vậy Lục sư ngoại đạo là ai? Họ có thực sự tài giỏi như vậy không? Có lẽ đây là cơ hội mà chúng ta sẽ được giải đáp một cách thỏa đáng nhất khi để tâm tìm hiểu qua về Lục sư ngoại đạo.

Căn cứ vào kinh điển và sử liệu Phật giáo thì lúc Phật tại thế có sáu nhà ngoại đạo chủ trương sáu lý thuyết khác nhau nên trong kinh điển Phật giáo thường gọi họ là Lục sư ngoại đạo. Đại cương về lý thuyết của sáu phái ngoại đạo này như sau:

1. Phái Phú Nan Đà Ca Diếp (Pùrama Kàssápa): Đây là phái chủ trương thuyết ngẫu nhiên, họ không tin luật nhân quả, cho rằng mọi họa phúc, sướng khổ, vui buồn của con người chỉ là ngẫu nhiên. Chính vì vậy mà họ không biết gieo nhân thánh thiện tránh nhân bất thiện, khi họ gặp may mắn thì sung sướng, gặp chuyện bất trắc thì bất an sầu khổ. Đạo Phật gọi phái này là ngoại đạo “Vát vô nhân quả”.

2. Phái Mạt Già Lê Câu Xá Lợi (Makkhali Gosàla): Phái này chủ trương thuyết tự nhiên, cũng có nghĩa là không tin luật nhân quả, họ cho rằng mọi họa phúc, sướng khổ, vui buồn của con người cũng chỉ là tự nhiên mà sinh, tự nhiên mà diệt, không do ảnh hưởng của bất cứ một nguyên nhân nào cả. Đạo Phật gọi phái này là “Tà mệnh ngoại đạo”.

3. Phái A Di Đa Thúy Xá Khâm Bà La (Ajitakesa Kambali): Phái này chủ trương thuyết duy vật luận, họ cho rằng thân thể con người là do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) kết hợp mà thành, nên khi con người chết đi thì tứ đại trở về tứ đại. Thuyết này không đề cập đến tâm linh hay linh hồn, do vậy họ không chú trọng đến phương diện tinh thần hay đạo đức, chính vì vậy mà mục đích sống của họ là chỉ để hưởng thụ khoái lạc thân xác mà thôi. Họ được gọi là phái “Khoái lạc ngoại đạo”.

4. Phái Bà Phù Đà Ca Chiên Diên (Pakhdha Katyàyana): Phái này chủ trương thuyết sinh mệnh và vật chất đều bất hoại, họ cho rằng tất cả các loài vật trên thế gian này được tạo thành là nương vào sự hòa hợp của bảy yếu tố đất, nước, gió, lửa, vui, khổ, mạng sống. Họ cho rằng sự sinh tử chỉ là một chu kỳ tụ hay tán của bảy yếu tố nêu trên, mà bảy yếu tố đó thì thường trụ bất diệt, nên họ không xem trọng việc sinh tử. Do vậy mà phái này được gọi là phái “Tà kiến ngoại đạo”.

5. Phái Tán Nhạ Gia Tỳ La Lê Tử (Anjaya Belatthiputta): Phái này chủ trương thuyết tu định, họ cho rằng chân lý cũng có thể biến đổi, nên không cần phải tu đạo mà chỉ nên tu tập thiền định. Vì đưa ra học thuyết quái gở này nên họ được xem là phái “Ngụy biện ngoại đạo”.

6. Phái Ni Kiền Đà Nhã Đề tử (Nigantha Nàtaputta): Phái này chủ trương tu khổ hạnh, họ cho rằng mọi họa phúc, sướng khổ, vui buồn của con người đều do tiền nghiệp tiền căn đã định, do vậy muốn thoát ra khỏi tiền nghiệp đó thì cần phải tu hành khổ hạnh mới mong được giải nghiệp. Chính vì vậy mà phái này được gọi là phái “Khổ hạnh ngoại đạo”.

Trên đây chúng tôi đã tóm lược những học thuyết, chủ trương của Kỳ Na giáo và Lục sư ngoại đạo phái. Dù học thuyết của Kỳ Na giáo rất mơ hồ huyền hoặc và chủ trương của Lục Sư Ngoại Đạo phái rất tà kiến ngụy biện, nhưng có một điểm đáng lưu ý ở đây là các chủ trương học thuyết này hoàn toàn độc lập, không hề chịu bất cứ ảnh hưởng nào của tư tưởng Bà La Môn. Đây là dấu ấn đánh dấu sự khởi đầu của trào lưu tư tưởng triết học mang tính tự do đi tìm chân lý của người dân Ấn Độ, thoát hẳn khỏi sự kìm tỏa bởi tư tưởng của Bà La Môn giáo đã có tại Ấn Độ hàng ngàn năm qua.

Như chúng tôi đã nói, khi các thế lực chính thống của Bà La Môn giáo không còn ở thế độc quyền chân lý, tập cấp Bà La Môn ngày càng trở nên suy yếu. Trước bối cảnh này, vô số học thuyết tư tưởng triết học tôn giáo đã bừng nở, ngoài các chủ trương học thuyết mang tínhđộc lập tự phát như Kỳ Na giáo và Lục Sư Ngoại Đạo phái mà chúng tôi đã trình bày, thì còn có sáu trường phái tư tưởng triết học vẫn còn chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của hệ tư

Page 12: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

12

tưởng bà La Môn giáo vừa ra đời. Lược sử và đại cương của sáu trường phái triết học này như sau:

1. Trường phái triết học Chính Lý (Nyàya): Thủy tổ của trường phái triết học Chính Lý là ngài Túc Mục (Aksapàda). Phái triết học này thuộc hệ đa nguyên luận, lấy kinh điển Nyàya Sùtra làm căn bản hành trì. Về quan niệm nhân sinh, học thuyết chủ trương lấy sự giải thoát khổ đau làm phương châm sống ở đời và tu đạo. Trọng tâm của triết học Chính Lý cho rằng, sự khổ tồn tại nơi bản thân nơi mỗi con người trên thế gian này mà nguyên nhân được sinh ra (Janma) là do tác nghiệp (Pravrtti), lại cho rằng tác nghiệp sẽ làm cơ sở phiền não (Dosa) dấy khởi, mà phiền não là căn bản của vô tri (Mithyajnàna), vậy muốn lìa khổ thì phải diệt vô tri, diệt được vô tri thì sẽ được giải thoát (Nihsreyasa) an vui. Mới nhìn qua chúng ta sẽ nhận thấy lý thuyết này có điểm tương đồng lý Thập Nhị Nhân Duyên trong Phật giáo, tuy nhiên chiêm nghiệm kỹ càng chúng ta sẽ thấy nó vẫn chưa rốt ráo và cũng chưa trình bày rõ quan điểm giải thoát và giác ngộ. Chẳng hạn giải thoát cái gì? Giác ngộ cái gì?... Đứng trên phương diện lý luận thì phái Chính Lý có phương pháp lập luận rất chặt chẽ, sâu sắc, có thể nói rằng nó độc đáo hơn cả Tam đoạn luận của Aristote, bởi vì phương pháp lý luận của phái này, ngoài Tôn (Pratijanà), Nhân (Hetu), Dụ (Udàhadana) họ còn có thêm hai chi Hợp (Upanaya) và Kết (Nigamana) tỏ ra rất chắc chắn vững vàng. Chính nhờ sự sâu sắc chặt chẽ trong phương cách lập luận này mà về sau đã được các hai bậc luận sư lỗi lạc cao thâm trong Phật giáo là ngài Thương Yết La Chủ (SanKàra Svamin) và ngài Trần Na (Dìgna) làm cho hoàn chỉnh rốt ráo và đó cũng là cơ sở hình thành nên môn luận lý học sau này. Môn luận lý học này trong Phật giáo gọi là Nhân minh luận.

2. Trường phái triết học Thắng Luận (Vaisésika): Tổ sư khai sáng ra trường phái Thắng Luận là ngài Ca Nan Đà (Kanàda). Tư tưởng của phái triết học này được xây dựng trên quan điểm lập trường tự nhiên luận để giải thích các hiện tượng trong vũ trụ. Có sử liệu ghi chép, phái này chủ trương thuyết “Thanh thường trụ” (ý nói âm thanh thường còn bất biến) và xem đó là khám phá cao siêu thời bấy giờ.

Về phương diện thế giới quan thì phái Thắng Luận thường y cứ nơi kinh Vaisesika Sùtra làm căn bản lý luận. Trong kinh Vaisesika Sùtra nêu ra sáu phạm trù: Thực cú nghĩa (Dravya Padàrtha), Đức cú nghĩa (Guna Padàrtha), Nghiệp cú nghĩa (Karma Padàrtha) , Đồng cú nghĩa (Sàmànya Padàrtha), Dị cú nghĩa (Visésa Padàrtha) và Hòa hợp cú nghĩa (Samavàya Padàrtha). Theo thuyết này, đầu tiên người ta chỉ quan sát vạn vật ở phần cụ thể, tức những gì có thể nắm bắt được, mà bỏ qua những phần trạng thái, tính chất, vận động, sở dĩ như vậy là nhằm đạt tới khái niệm thực thể của vạn hữu. Để thuận theo nguyên lý này thì phải y cứ vào phạm trù thứ nhất là Thực cú nghĩa. Các phạm trù khác trong kinh Vaisesika Sùtra cũng nêu ra những lập luận tương ứng với từng phạm trù tương tự. Tuy nhiên trên căn bản để thuyết minh và lý giải về bản chất cũng như các hiện tượng trong đời sống, học phái này cho rằng, vạn hữu đều do ba nguyên lý “Thực, Đức, Nghiệp” (giống như ba phạm trù Thể, Tướng, Dụng trong Phật giáo) kết hợp lại mà thành. Nếu ba nguyên lý cùng quan hệ mật thiết thì lập thành Đồng cú nghĩa. Nếu ba nguyên lý đó phản đối nhau thì lập thành Dị cú nghĩa, nếu cả năm nguyên lý liên kết với nhau thì lập thành Hòa hợp cú nghĩa.

Về phương diện nhân sinh quan, triết học Thắng Luận cho rằng con người được cấu thành từ bởi tám yếu tố. Trước tiên là yếu tố Tự Ngã (Àtman) với thực thể không sanh không diệt. Yếu tố thứ hai là Ý (Manas) được xem là cơ quan liên lạc giữa Tự ngã với ngũ căn. Năm yếu tố kế tiếp là Ngũ đại, nó bao gồm Đất, Nước, Gió, Lửa, Hư Không. Thuyết này lập luận rằng, ngũ căn là một dạng vật chất do ngũ đại tạo thành. Ví như Nhãn căn là do hỏa đại, Nhĩ căn là do không đại, Tỷ căn là do địa đại, Thiệt căn là do thủy đại, Thân căn là do phong đại tạo nên. Đồng thời đối tượng của ngũ căn là ngũ trần: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc. Trong khi đó Tự Ngã là trung tâm, còn các cơ quan khác đều phụ thuộc để nhận thức và hành động. Cùng với bảy yếu tố kể trên thì yếu tố quan trọng sau cùng là Nghiệp lực (Adrsta). Có thể nói đây là yếu tố quyết định của sự luân hồi đau khổ hay sự giải thoát an lạc của con người. Bởi theo học thuyết của trường phái này thì, do con người gieo tạo tích chứa nghiệp lực nên phải chịu cảnh luân hồi. Muốn giải thoát khỏi luân hồi thì phải tiêu diệt nghiệp. Muốn tiêu diệt nghiệp và chấm dứt nghiệp thì phải nỗ lực siêng tu khổ hạnh. Có kiên trì khổ hạnh thì mới có thể đạt đến cảnh giới giải thoát an lạc của Tự Ngã. Chính quan niệm như vậy mà những người theo trường phái triết học Thắng Luận rất chú trọng đến đời sống khổ hạnh, họ xem khổ hạnh là lối sống cao cả và là mục đích lý tưởng của sự tu hành giải thoát.

Page 13: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

13

3. Trường phái triết học Nhĩ Man Tát (Mimàmsà): Khai sáng ra phái Nhĩ Man Tát là ngài Sà Y Nhĩ Ni (Jaimini), giống như trường phái triết học Thắng Luận, phái này cũng chủ trương thuyết “Thanh thường trụ”, họ căn cứ vào kinh Mimàmsà Sùtra và rất chú trọng phương diện luân lý, đặc biệt phái này thừa hành triệt để các giới cấm (cấm chế) của đạo Bà La Môn như trong kinh Vệ Đà đã ghi chép và họ lấy đó làm phương châm sống đạo. Có thể nói phái Nhĩ Man Tát là sự kế thừa của phái Thắng Luận với sự cải cách đi sâu vào tâm hạnh vị tha hơn là những lý luận khúc chiết từ căn bản của kinh Vaisesika Sùtra. Nói về tư tưởng giải thoát, phái này lý luận rằng, trong đời sống cần phải trải lòng hy sinh chia sẻ thì ngay trong hiện tại và trong cả kiếp vị lai mới có thể đạt được một đời sống sung sướng thoải mái. Học thuyết của phái này dù thừa nhận có luân hồi tái sanh nhưng lại cho rằng không cần phải thoát ra khỏi vòng luân hồi đó, vì họ quan niệm có được hạnh phúc hay không là do sự nỗ lực hy sinh trong đời sống. Xét trên phương diện hành động trong cuộc sống thì chúng ta sẽ thấy họ rất gần gũi với tâm hạnh bồ tát của đạo Phật bởi trong một phần của sự nỗ lực hy sinh đúng mục đích và có ích, nó có thể đem lại điều tốt đẹp cho cộng đồng xã hội. Còn xét trên phương diện tư tưởng thì chắc hẳn là không thể nào sánh với tư tưởng giải thoát và chánh kiến trong Phật giáo được.

4. Trường phái triết học Số Luận (Sàmkhya): Sáng lập ra trường phái Số Luận là triết gia Ca Tỳ La (Kapila). Phái triết học đề xướng thuyết nhị nguyên luận, phân biệt hai yếu tố tâm linh và vật chất rất rành mạch. Yếu tố vật chất là yếu tố tạo nên vạn vật và cũng nhằm để chỉ cho sum la vạn tượng trong đời sống, đối lập với vật chất là linh hồn. Theo thuyết này thì linh hồn hoạt động tự do, khi nó kết hợp với vật chất thì tạo ra sinh vật. Họ cho rằng bản chất của linh hồn thì không thay đổi hay biến động, còn vật chất thì biến hóa vô cùng. Căn bản của sự biến hóa này là lệ thuộc vào ba tính chất Hỷ (Sattva), Ưu (Rajas) và Ám (Tamas) của linh hồn. Ba tính chất này phái Số luận gọi là ba đức (Guna), họ căn cứ vào sự quan hệ của ba đức này mà thuyết minh biện giải các hiện tượng trong thế giới. Cũng cần nói thêm, khi đề cập đến tên của vị khai sáng ra trường phái triết học Số Luận, nhiều nguồn tư liệu cho rằng, Ca Tỳ La chưa hẳn là tên thật của vị Tổ sư này mà là một danh hiệu mang tính chất tôn xưng, vì cho rằng chữ Ca Tỳ La có nghĩa là “Bào thai của vũ trụ” nằm trong một bài tụng trong Svétásvatàra Upanishad, đồng thời trong sách “Phật sở hành tán” (Buddhacarita), ngài Mã Minh (Asvaghosa) một luận sư lỗi lạc của Phật giáo Đại thừa cũng cho rằng Ca Tỳ La có nghĩa là “cha đẻ của thế giới” (Prajapati). Tuy có nhiều nguồn tư liệu khác nhau, nhưng chúng ta vẫn có thể tạm chấp nhận tên của vị khai sáng ra phái Số Luân là Ca Tỳ La, vì đây là tên gọi tương đối phổ biến trong các sử liệu hiện đang lưu hành.

5. Trường phái triết học Phệ Đàn Đa (Vedànta): Vị Tổ khai sáng ra trường phái Phệ Đàn Đa là ngài Bà Đạt La Gia Na (Bàdarayana). Phái này căn cứ vào kinh Vedànta (cũng do ngài Bà Đạt La Gia Na chế tác) để lý luận và làm tôn chỉ tu tập. Về tư tưởng, phái này cho rằng, Đại Ngã là một thực thể siêu việt tối thượng và duy nhất, là tổng nguyên lý của vũ trụ và vạn hữu. Vì quan niệm như vậy, nên họ lập luận rằng, Đại Ngã bao trùm thế gian vạn hữu hay nói một cách khác hơn, khởi đầu hình thành nên thế giới này chính là từ Đại Ngã. Cũng từ Đại Ngã triển khai ra các hiện tượng trong thế giới, theo trình tự nguyên lý vận hành, khởi đầu Đại Ngã sinh ra “hư không”, “gió”, “lửa”, “nước”, “đất”. Sau đó chính sự kết hợp của năm nguyên tố căn bản này đã tạo thành vật chất trên thế gian và toàn bộ thế giới hữu tình. Cũng giống như nguồn tư tưởng lớn trong hai bộ kinh sách Phạm Thư và Áo Nghĩa Thư trong giai đoạn khởi đầu của Bà La Môn giáo, tư tưởng triết học của Phệ Đàn Đa cũng cho rằng Đại Ngã và Tự Ngã đồng nhất thể, tuy nhiên trong triển khai thì phái này có ngôn ngữ lập luận khác hơn, họ cho rằng, khi chưa sinh ra thì Tự Ngã là bào thai của Đại Ngã, khi đã sinh ra rồi thì Tự Ngã (của con người) tách hẳn khỏi Đại Ngã và có một vị trí độc lập. Vì ở trong trạng thái độc lập, nhất là do tính chất đặc thù của Tự Ngã là tư tưởng và hành vi thường tác nghiệp, từ việc tác nghiệp tạo ra vô số nghiệp, nên phải chịu trạng thái luân hồi trong vũ trụ và khổ đau nơi bản thân. Phái Phệ Đàn Đa cho rằng, hữu tình là bộ phận của Đại Ngã nên cũng đầy đủ thể tính thanh tịnh như Đại Ngã, do đó họ chủ trương, muốn giải thoát thì Tự Ngã phải tu tập để quay về Đại Ngã, khi sự tu tập tới đích thì Tự Ngã sẽ hòa nhập vào Đại Ngã, khi đó con người sẽ hết luân hồi đau khổ.

6. Trường phái triết học Du Già (Yoga): Đối với người Việt Nam chúng ta thì khi nói đến Yoga thì chúng ta liên tưởng ngay đến một phương pháp tập luyện có chút hơi hám thiền để dưỡng sinh hay rèn luyện sức khỏe. Thế như khi nghe nói đến Du Già thì có lẽ nhiều người còn mơ hồ lúng túng… Điều này chứng tỏ phương pháp thiền Yoga của Ấn Độ đã thâm nhập

Page 14: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

14

khá sâu vào đời sống các nước trong khu vực. Chính vì vậy mà trong trường phái triết học Du Già này chúng tôi xin được gọi thẳng là phái Yoga để mọi người dễ tiếp nhận.

Triết học Yoga có khởi nguồn sâu xa từ tư tưởng Áo Nghĩa Thư nói về lý tưởng giải thoát trên nền tảng Phạm Ngã đồng nhất thể và chủ trương thiền Yoga để giải thoát. Về sau ngài Bát Tử Xà Lê (Patanjali) đứng ra hệ thống trình tự và hoàn thiện phương pháp thiền Yoga, đồng thời chế tác ra Kinh Yoga (Yoga Sùtra) làm kim chỉ nam cho trường phái này, nên ngài Bát Tử Xà Lê được người đời tôn xưng Tổ sư khai sáng ra phái Yoga. Điều đáng tiếc là mục tiêu tối thượng của phương pháp thiền Yoga nhằm giúp cho con người được giải thoát thì hoàn toàn bất khả thi và cũng không thể nào đạt được.

Nhưng dù sao thì tư tưởng triết học Yoga cũng là một trường phái có sức ảnh hưởng tương đối lớn trong đời sống nhân loại, vì cho đến tận ngày nay, khắp mọi nơi trên thế giới, sự thực hành rất phổ biến các phương pháp Yoga để dưỡng sinh, chữa bệnh hay nhiều mục đích ích lợi khác phục vụ sức khỏe cho con người vẫn tiếp tục phát triển đã nói lên điều đó.

Trong quá trình tu hành, Thái tử Tất Đạt Đa cũng đã từng chịu ảnh hưởng lối tu khổ hạnh của phái Thắng Luận và nhất là phương pháp tu tập thiền của phái Yoga này. Nhân đây chúng tôi xét thấy cũng cần có đôi dòng tìm hiểu qua về thiền Yoga của Bà La Môn giáo.

Phương pháp thực hành thiền Yoga được chia làm tám giai đoạn: 1-Yama: Cấm giới ( Tình yêu thương). 2-Niyama: Khuyến tu ( Tự ức chế tình dục). 3- Asana: Tọa pháp ( Điều phục thân theo vị trí nhất định). 4-Prànàỳama: Điều tức ( Kiểm tra hơi thở). 5- Pratỳakàra: Chế cảm( Điều hành tư duy). 6-Dhàrana: Chấp trì ( Chú ý). 7-Dhỳana: Tĩnh lự ( Thiền định). 8 -Samàdhi: Đẳng trì ( Tập trung tư tưởng). Về cấm giới, thì hành giả phái Yoga phải giữ năm giới cấm sau đây: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không tham lam. Phạm trù này được xếp vào ý thức thụ động. Về khuyến tu thì hành giả phải thực hiện năm việc: Thanh tịnh thân tâm, Ngăn ý, Khổ hạnh, Học tập kinh điển, Định thần. Phạm trù này được xếp vào ý thức tích cực, chủ động. Đối với các giai đoạn còn lại thì, Tọa pháp là để điều hòa thân thể, Điều tức là để điều hòa hô hấp, Chế cảm là để chế ngự ngũ căn, Chấp trì là để tập trung tư tưởng, Tĩnh lự là để lắng tâm làm cho tâm được thanh tịnh, Đẳng trì là để tâm hoàn toàn vắng lặng thanh tịnh sáng suốt. Đến giai đoạn cuối cùng này, hành giả Yoga có thể nói là đã đạt được cảnh giới Tam muội (Sammadhi). Lúc này hành giả được giải thoát tự tại.

Chúng tôi thiết nghĩ, nhân đây cũng cần vắn tắt đôi dòng để phân biệt giữa thiền Yoga của Bà La Môn giáo và thiền Minh Sát Tuệ của Phật giáo.

Nói về thiền Yoga của Bà La Môn giáo, căn cứ vào tám giai đoạn thực hành vừa nêu trên đây và nhất là căn cứ vào Kinh Yoga, thì phương pháp thiền Yoga chính là một phương pháp định tâm, sau đó thì an trú vào cảnh giới thanh tịnh được sinh ra từ trạng thái tâm định, hành giả Yoga công phu an trú vào định càng sâu thì sở đắc càng cao… Còn nói về thiền Minh Sát Tuệ (Vipassanà Bhàvanà) của Phật giáo, căn cứ vào kinh Maha Satipathàna thuộc Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikàya) thì đây là một phương pháp thiền quán, quán sâu vào trí huệ bát nhã, để tường tận thật tướng của các pháp (Vô thường, Khổ, Vô ngã), cũng như trong Bát Nhã Tâm Kinh đã dón gọn: “Hành thâm Bát nhã… Chiếu kiến ngũ uẩn giai không… Độ nhất thiết khổ ách” (Đi sâu vào Trí tuệ Bát Nhã… Nhìn thấy năm ấm đều không thật… Nên vượt qua hết thảy khổ nạn). Như vậy Thiền của Phật giáo hoàn toàn không lấy trạng thái tâm định hay công phu an trú vào sự định tâm để mong đắc quả hay giải thoát được.

Page 15: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

15

CHƯƠNG BAHOÀN CẢNH CHÍNH TRỊ XÃ HỘI

ẤN ĐỘ THỜI ĐỨC PHẬT

Một khi luận bàn về cuộc đời đức Phật và những ảnh hưởng tích cực từ giáo pháp của ngài đến đời sống nhân loại, chúng tôi nghĩ rằng, không thể không bàn đến hoàn cảnh chính trị xã hội Ấn Độ thời đức Phật ra đời, vì đây là những điều kiện khách quan và chủ quan đã hình thành nên nhân cách siêu việt của đấng Đại Giác.

Ấn Độ là một quốc gia rộng lớn có diện tích 3.280.483m2, nằm ở trung tâm khu vực Nam Á, phía Bắc là dãy Hy Mã Lạp Sơn (Hymalaya) trải dài đến phía Nam là Ấn Độ Dương. Bắc Ấn Độ giáp Tây Tạng, Nepan, Bhutan; Đông Bắc giáp Miến Điện, Băng La Đét; Tây Bắc giáp Ápganistan và Pakistan; Tây giáp biển Ả Rập, Đông giáp vịnh Ben Gan và phía Nam giáp Ấn Độ Dương.

Ấn Độ là một quốc gia đa sắc tộc và đa ngôn ngữ. Tuy nhiên, trong sự đa dạng về sắc tộc, nổi bật lên là sắc tộc bản địa Dravida và sắc tộc chiếm cư Arya có nguồn gốc từ Đông Âu.

Theo lịch sử Ấn Độ ghi chép thì người Arya có sức khỏe vượt trội hơn người bản xứ và nhất là kinh nghiệm trong chiến đấu. Điều này chứng tỏ tổ tiên lâu đời của người Arya từ Đông Âu chắc hẳn đã trải qua bao phen chinh chiến và họ luôn chiến thắng đối phương nên mới có thể có mặt ở vùng Trung Á vào trước thời kỳ này. Cũng chính nhờ lợi thế về thể chất và trình độ tác chiến, họ đã dễ dàng chinh phục người dân bản xứ Dravida.

Như chúng tôi đã trình bày, khi đã chinh phục gần như toàn bộ lãnh thổ Ấn Độ, người Arya đã phân chia Ấn Độ thành bốn giai cấp. Đứng đầu là giai cấp Ba La Môn (Brahmin), giai cấp này hầu hết là những tu sĩ Bà La Môn, họ cho mình là được sinh ra từ miệng của Phạm Thiên, nên tự xem mình là cao quý nhất trong xã hội. Do vậy, giai cấp này đã độc quyền trong việc nắm giữ chân lý và điều hành các nghi thức tế lễ thông linh giữa họ với các thần linh. Giai cấp đứng thứ hai là Sát Đế Lợi (Ksatriya) gồm vua chúa và các vương công. Giai cấp thứ ba là Phệ Xá (Vaisya) bao gồm hầu hết giới bình dân làm các ngành nghề trong xã hội. Hạ đẳng nhất là giai cấp Thủ Đà La (Sudra) được xem là giai cấp bần cùng gồm những tiện nhân nô lệ. Bà La Môn giáo quan niệm, tập cấp Thủ Đà La vốn sinh ra là để làm nô lệ, nên họ hoàn toàn vô cảm trước nỗi khổ nhục bi thảm của tầng lớp này. Một điều đáng thương xót nữa là, tệ mạt hơn cả giai cấp Thủ Đà La, xã hội Ấn Độ thời bấy giờ còn có một bộ phận người Paria mà luật Mã Nỗ (Manu) của người Bà La Môn xếp vào hạng thấp hèn và bẩn thỉu nhất trong xã hội, họ phải chịu cảnh sống thập thò lén lút trong vòng tăm tối như những chú chuột sợ bóng dáng con người, chịu đắng cay tủi nhục gấp cả trăm lần so với những người nô lệ Thủ Đà La. Trong đời sống xã hội, nếu những người Thủ Đà La và người Paria mà phạm phải những điều luật của Bà La Môn giáo, như cãi lại lời các tu sĩ Bà La Môn, xung đột với những người thuộc tập cấp trên, lén đọc kinh sách, thậm chí đi không nhường đường hay uống chung nguồn nước giếng với người Bà La Môn chẳng hạn, thì họ phải nhận lãnh những hình phạt vô cùng dã man tàn khốc từ phía những người nắm luật của Bà La Môn giáo.

Giai cấp Bà La Môn đã định chế ra bốn giai cấp trên, rồi tự đặt mình ở địa vị tối cao. Đối với những việc liên quan đến đời sống tâm linh, ba giai cấp còn lại đều phải lệ thuộc. Đặc biệt, giai cấp hạ tiện Thủ Đà La và bộ phận người Paria luôn bị xã hội Ấn Độ đương thời khinh miệt, họ bị cấm không cho dự phần vào tín ngưỡng tôn giáo, họ cũng không được pháp luật bảo hộ.

Trong xã hội đương thời, có thể xếp hai giai cấp Bà La Môn và Sát Đế Lợi là tầng lớp thống trị và hai giai cấp bình dân Phệ Xá và tiện dân Thủ Đà La là tầng lớp bị thống trị. Cả bốn giai cấp này đều theo chế độ thế tập, cha truyền con nối, như trong dân gian ta thường nói “Con vua thì được làm vua – Con sãi nhà chùa thì quét lá đa”. Chính vì vậy mà giai cấp thống

Page 16: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

16

trị thì cứ mãi thống trị, còn giai cấp nô lệ bị trị thì cứ mãi lầm than nô lệ. Điều này đã tạo nên một xã hội luôn mâu thuẫn và bất công triền miên dai dẳng thời bấy giờ.

Vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên, Ấn Độ được hình thành giống như một liên bang bao gồm nhiều tiểu quốc và các bộ tộc. Trong số nhiều tiểu quốc lúc bấy giờ, nổi bật lên có bốn vương quốc thao túng nhiều quyền lực hơn cả. Đo là Vương quốc Kiều Tất La (Kosala) đóng đô tại Xá Vệ (Savatthi), Vương quốc Vamsa đóng đô ở Kiều Thượng Di (Kosambi), Vương quốc Avanti và Vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha) có thành Vương Xá (Rajagrha) nằm ở phía Nam sông Hằng. Bên cạnh những vương quốc rộng lớn và quyền thế này là những tiểu quốc và bộ tộc bé nhỏ, đó là các bộ tộc Anga (Ương Già) có thành Chiêm Ba (Campà), đối diện với nước này có bộ tộc Ly Xá Tỳ (Licchavi) có thành Phệ Xá Ly (Vesalì) nằm ở hướng Đông bắc Ma Kiệt Đà. Ngoài ra còn có các bộ tộc Kathi (Kasi), Bà Ta (Vaccha), Mạt La (Malla)… và bộ tộc Thích Ca nằm cận nhau ở phía Bắc nước Kiều Tất La, thuộc vùng Bắc Trung Ấn.

Có thể nói vào thời bấy giờ Ma Kiệt Đà và Kiều Tất La là hai trung tâm văn hóa lớn đã làm rạng rỡ nền văn minh Ấn Độ. Đặc biệt, hai vương quốc này đã có rất nhiều quan hệ mật thiết với Phật giáo ngay thời Phật còn tại thế.

Dù vùng Trung Á rộng lớn với quần thể vương quốc, tiểu quốc và rất nhiều bộ tộc cộng sinh cộng phát, nhưng có một điều khá thú vị là tại một trong số những bộ tộc bé nhỏ này đã trở thành thánh địa thu hút sự chú ý và hướng về của nhân loại. Đó chính là bộ tộc Thích Ca (Sakya), hay còn gọi là tiểu quốc cộng hòa Thích Ca với kinh đô là Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu). Dù đây chỉ là một bộ tộc nhỏ bé nằm giữa ranh giới Ấn Độ và Nepal và nằm ở phía Bắc vương quốc Kiều Tất La (Kosala) nhưng đã sản sinh ra một nhân vật xuất chúng của nhân loại. Nhân vật trí tuệ kiệt xuất đó là Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhattha), con của tiểu vương Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng hậu Ma Da (Maja).

Về thể chế chính trị, dân tộc chiếm cư Arya cầm quyền tại Ấn Độ thuận theo chính thể cộng hòa. Trong bối cảnh chính trị xã hội đương thời, chính thể quân chủ chuyên chế đã được hình thành và phát triển tại nhiều vương quốc và các bộ tộc, nhưng chế độ cộng hòa vẫn tồn tại và phát triển mạnh ở hai vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha) và Kiều Tất La (Kosala).

Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số bộ tộc nhỏ sống theo chính thể cộng hòa, trong đó có bộ tộc Thích Ca. Chính thể cộng hòa Thích Ca thời bấy giờ dưới quyền cai trị điều hành của hoàng tộc, đứng đầu là vua tịnh Phạn, nên việc truyền ngôi được diễn ra trong hoàng tộc. Chính vì vậy mà vua Tịnh Phạn rất trông cậy vào Thái tử Tất Đạt Đa sẽ thay mình cai quản đất nước sau này.

Thế nhưng điều bất ngờ đối với vua Tịnh Phạn là Thái tử Tất Đạt Đa đã không để tâm đến ngôi vị tương lai mà dốc hết tâm chí vào con đường tu hành giải thoát. Trước tình cảnh này, bắt buộc hội đồng trưởng lão trong hoàng tộc phải nhóm họp lại để bầu ra một vị vua mới theo đúng thông lệ trưng cầu để thống nhất ý kiến cuối cùng. Trình tự thông lệ này là, sau khi có được kết quả, vị chủ tọa phải tuyên bố ba lần câu: “Ai đồng ý với kết quả này, xin giơ tay biểu quyết”. Đây là thông lệ đã tồn tại hàng ngàn năm qua trong các bộ tộc tại Ấn Độ. Cho đến nay, giới sử gia vẫn chưa tìm ra một nguồn tư liệu nào ghi nhận về diễn biến này, tuy nhiên căn cứ vào các cuộc bầu cử thông qua truyền thống lấy ý kiến của những người có uy tín ngay tại chỗ, thường diễn ra trong đời sống nhân gian, cũng đã phần nào khẳng định tính xác thực của thông lệ này.

Sở dĩ chúng tôi bàn chi tiết về trường hợp này là muốn nói đến mối dây liên hệ từ những thông lệ bầu cử, bổ nhiệm, tôn vinh hay phê bình, kỷ luật ai đó của người Ấn thời xưa vẫn còn ảnh hưởng thậm chí còn thấm sâu trong sinh hoạt Tăng đoàn của đức Phật ngày xưa và cả ngày nay.

Phần đông dân chúng tiểu quốc cộng hòa Thích Ca cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng Vệ Đà. Vào thời đức Phật, tư tưởng Vệ Đà cùng với nhiều hệ phái triết học tôn giáo khác, đã làm cho đời sống tâm linh của người dân Ấn Độ trở nên mơ hồ và bị xáo trộn, trong khi họ rất khát khao đi tìm chân lý.

Nói về tiểu quốc cộng hòa Thích Ca, quê hương của đức Phật vốn là một đất nước thuần nông. Tổ chức cơ cấu chính trị theo chế đo cộng hòa, đứng đầu là Tịnh Phạn vương. Vua Tịnh Phạn có một đội ngũ thu thuế rất mạnh đủ để mang lại nguồn ngân sách dự trữ quốc gia. Cộng hòa Thích Ca là chư hầu của đế quốc Kiều Tất La nên vua Tịnh Phạn thường phải đem cống phẩm dâng nạp hằng năm với mục đích duy trì mối giao hòa và cũng có phần nương dựa vào

Page 17: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

17

thế lực của đại quốc này. Tuy nhiên dù chỉ là một nước chư hầu, nhưng cộng hòa Thích Ca vẫn luôn có một đội quân tinh nhuệ làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ đất nước chứ không hoàn toàn phụ thuộc vào nước lớn. Trong kinh điển đã mô tả khá nhiều những cuộcchiến có liên quan đến cộng hòa Thích Ca. Đức Phật đã từng dùng đức độ và tài lý luận đã hóa giải thành công cuộc chiến giữa hai bộ tộc Thích Ca và Câu Ly. Theo suy nghĩ của chúng tôi, có lẽ nhờ vào đại từ bi lực của ngài, nên đức Phật đã cảm hóa được những người đứng đầu hai bộ tộc này biết hồi đầu hướng thiện, biết ăn năn sám hối, nhờ đó đã tránh được sự đổ máu cho vô số người dân của cả hai bộ tộc. Tuy nhiên, đến khi nổ ra cuộc chiến một mất một còn với vương quốc Kiều Tất La thì quân đội của cộng hòa Thích Ca đại bại và cuối cùng bị diệt vong. Vì nghiệp chướng quá sâu dày, hơn nữa họ không hề nhường bước hay hồi đầu hướng thiện, nên kết quả cuộc chiến diễn ra vô cùng thê thảm. Trước tình cảnh này, đức Phật cũng không thể hóa giải được vì nhân duyên nghiệp báo giữa hai dân tộc này đã đến thời trổ quả. Điều này cũng cho chúng ta thấy rằng, khi quả báo đến, nếu bản thân mỗi chúng ta không tha thiết ăn năn sám hối, dẫu là đất nước của đức Phật, phụ vương của đức Phật, thì ngài cũng không thể nào can thiệp được. Đây là triết lý nhân quả rất sâu sắc mà mỗi người con Phật cần phải xác định rõ ràng để trong cuộc sống tránh được những hậu quả thảm khốc khôn lường… Về điều này, trong kinh đức Phật cũng thường nhắc đến những cuộc chiến có liên quan đến tiểu quốc Thích Ca nhỏ bé nơi ngài sinh ra và lớn lên, nhằm dạy cho chúng ta thấm nhuần đạo lý nhân quả báo ứng trong đời sống hằng ngày.

Như chúng ta đã biết xã hội Ấn Độ chia ra làm bốn giai cấp rõ rệt, về điều này chúng tôi không bàn tới nữa, mà chỉ nói thêm đôi dòng về sinh hoạt mang tính quy định bắt buộc trong nội bộ của tập cấp Bà La Môn. Các Tăng lữ Bà La Môn nắm thực quyền xã hội đã nương vào đó mà đưa ra quy định tu hành cho giai cấp mình thành bốn thời kỳ như sau:

1. Thời kỳ Phạm trí (Brahmacàrin): Đối với tín đồ Bà La Môn ở lứa tuổi niên thiếu từ 7 đến 11 tuổi, thì bắt buộc phải xuất gia theo các vị Tăng Bà La Môn để học tập kinh Vệ Đà, sau khi học xong mới được trở về nhà.

2. Thời kỳ Gia cư (Grhastha): Đến độ tuổi thanh niên là thời kỳ lập gia đình. Sau khi có gia đình thì ở nhà trông nom con cái hoặc thực hiện trách nhiệm tế tự của người gia trưởng.

3. Thời kỳ Lâm cư (vànaprastha): Đây là thời kỳ xuất gia trở lại sau khi hoàn thành trách nhiệm với gia đình. Người xuất gia phải vào chốn rừng sâu để tu tập khổ hạnh và thiền định.

4. Thời kỳ Du hành (Parivràjaka): Đây là thời kỳ về già của một tín đồ. Đến thời kỳ này đòi hỏi thân tâm của một tín đồ Bà La Môn giáo phải thật sự thanh tịnh. Đặc biệt là nơi ở của họ không cố định, nên người tu ở thời kỳ này còn được gọi là Hành giả (Yati) hay Khất sĩ (Bhiksu).

Người Bà La Môn giáo rất tự hào về bốn thời kỳ tu tập của đạo mình và xem đó là nếp sinh hoạt tâm linh rất lý tưởng đối với họ. Trong suốt quá trình tu hành, nếu người nào đạt đến cảnh giới giải thoát thanh tịnh thì được xã hội bấy giờ ngưỡng mộ trọng vọng…

Nếu cho rằng bốn thời kỳ tu hành nêu trên là nét đặc thù của đạo Bà La Môn hay nói đúng hơn là của tập cấp Bà La Môn, thì đối với tập cấp Phệ Xá tại tiểu quốc Thích Ca cũng có những điều cần tìm hiểu.

Ngoài bốn ngành nghề chính trong xã hội là Sĩ, Nông, Công, Thương; theo đà phát triển của xã hội thì tập cấp Phệ Xá cũng đã phát sinh ra những ngành nghề thủ công hoặc kỹ thuật khác, nổi bật lên có thể nói đến nghề kiến trúc xây dựng. Sở dĩ nghề kiến thiết xây dựng phát triển mạnh tại tiểu quốc Thích Ca trong thời kỳ này, là vì vua Tịnh Phạn rất chú trong đến công việc xây dựng cũng như trùng tu tái thiết. Những người thợ có sức khỏe và tay nghề cao rất được nhà vua trọng dụng, chính nhờ vậy mà nhiều công trình xây dựng có tầm cỡ quy mô được hình thành trong thời kỳ này. Đáng tiếc là tất cả đã trở thành bình địa khi xảy ra cuộc chiến giữa bộ tộc Thích Ca và đế quốc Ma Kiệt Đà vào những năm tháng về sau. Ngày nay khi chúng tôi đặt chân đến đất nước Ấn Độ, được đi tham quan một số thánh tích ghi lại dấu ấn thời đức Phật tại thế, chúng tôi chợt nhận ra những công trình kiến trúc văn hóa tâm linh đó, dù nó đã được thi công cách đây hàng mấy ngàn năm nhưng vẫn vững chãi trước thời gian và hấp dẫn du khách vô cùng.

Ngoài những người thợ trong ngành nghề kiến trúc xây dựng cũng như một số nghề thủ công truyền thống khác thì xã hội Ấn Độ còn có những du ca tài tử rày đây mai đó, họ kiếm sống bằng cách cất lên tiếng hát ngợi ca những anh hùng bất tử từ những bản trường ca huyền thoại của người dân Ấn Độ. Bên cạnh những nghệ sĩ lãng tử hát rong, xã hội Ấn Độ bấy giờ

Page 18: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

18

còn có những tay thảo khấu sống ngoài vòng pháp luật, đó là nỗi kinh hoàng cho những thương nhân và những người lương thiện. Ngoài thành phần bất lương đầu trộm đuôi cướp ra, còn có cả những kỹ nữ trong chốn kỹ viện hoa lâu hay những cô gái làng chơi hoạt động công khai trên đường phố… Tất cả đã làm cho bức tranh xã hội Ấn Độ đương thời trở nên muôn màu muôn vẻ…

Một đặc điểm nổi bật trong xã hội Ấn Độ nói chung và trong nước cộng hòa Thích Ca lúc bấy giờ là có rất nhiều người dấn thân vào con đường tu hành, đa số đều muốn thoát ly đời sống xã hội, tìm cầu sự giải thoát giác ngộ. Đồng thời, cũng trong bối cảnh đó, xã hội Ấn Độ cũng đã xuất hiện vô số phương pháp tu hành lập dị quái lạ, tất cả đều đượm màu huyền bí và mê tín. Chẳng hạn có người thực hành cách tu đứng một chân, có người ngâm mình dưới sông suốt mùa đông lạnh giá để cầu mong chứng quả, có người ngủ ngồi suốt cả đời để mong được giải thoát, có người bện tóc suốt đời và cũng không hề vệ sinh tắm giặt như hai anh em ông Ma Ha Ca Diếp (Maha Kassapa). Trong vô số cách tu hành lập dị đó, có lẽ quái gở hơn cả là cách tu của những vị tu sĩ chuyên bắt chước theo tập tính của loài bò và loài chó. Với cách tu này, họ tự cột sừng bò lên đầu mình, cũng ăn cỏ như bò, rồi đi lòng vòng giống như lối sống của bò, có khi rống như bò hoặc sủa như chó vậy. Trong kinh Pali cũng đã ghi chép những cuộc gặp gỡ và đối đáp giữa đức Phật với những vị hành giả lập dị có một không hai trên thế gian này...

Như chúng ta đã biết, thời cổ đại, dân tộc Ấn Độ đã xem tư tưởng Vệ Đà là nguồn minh triết để giải thoát đời sống trần tục và sau đó là tư tưởng Áo Nghĩa Thư. Có điều, trải qua 8 thế kỷ chuyển hóa tư tưởng, nhưng tinh thần và tư tưởng Áo Nghĩa Thư vẫn chưa cải thiện hố sâu ngăn cách giữa các tầng lớp giai cấp, trong khi đó giai cấp Ba La Môn vẫn độc quyền trong việc thờ cúng tế lễ và tự cho mình quyền hạn nắm giữ chân lý.

Thời bấy giờ, việc tế lễ chuyên nghiệp của những tu sĩ Ba La Môn đã chiếm hẳn những khoảng trống vô cùng thiêng liêng trong tâm thức của mọi người, mà đáng lý ra, đó là chỗ dành cho tinh thần suy nghiệm triết lý nhân sinh, một nhu cầu tâm linh hướng nội rất cần thiết đối với mọi người dân Ấn Độ. Việc tế lễ chuyên nghiệp đã khiến cho tu sĩ Bà La Môn trở nên kiêu căng và sống trên lợi dưỡng, điều đáng trách là họ đã sống trên quyền hạn do họ tự đặt ra và tồn tại trên sự mê muội của những người dân nô lệ. Trong thời điểm mà đời sống tâm linh có nhiều bức xúc, điều này đã khiến cho vô số tư tưởng và trường phái triết học xuất hiện. Trong đó nổi bật lên là Phật giáo, Kỳ Na giáo, Lục Sư ngoại đạo phái và sáu trường phái triết học chánh thống nối tiếp tư tưởng từ kinh Vệ Đà lần lượt khai sinh.

Chính những đặc điểm tư tưởng tâm linh đa sắc thái và vô cùng phức tạp này, thì sự xuất hiện của đức Phật như là một trung tâm ánh sáng của tinh thần giác ngộ và giải thoát, đã thu hút toàn bộ sự chú ý của cả bốn giai cấp đồng thời quay về quy y dưới chân đức Phật một cách tự giác tự nguyện với tâm trạng hết sức vui mừng phấn khởi.

Ngay từ khi thành lập Tăng đoàn, đức Phật rất quan tâm đến phẩm hạnh đạo đức và trí tuệ chứ không hề quan tâm đến giòng dõi hay sự thông minh tháo vát của con người. Đặc biệt ngài luôn thực hiện nếp sống lục hòa bình đẳng trong Tăng chúng. Do vậy trong Tăng đoàn không hề có ý niệm về giai cấp. Bất cứ ai, dù là thành phần giai cấp nào, khi đến với đức Phật cũng đều được bình đẳng nghe pháp, để được đạt đến sự giải thoát giác ngộ rốt ráo như nhau. Đọc qua kinh điển Phật giáo, chúng ta dễ dàng cảm nhận điều này khi chứng kiến cảnh tượng và tình cảm nồng hậu mà đức Phật đã dành cho trong buổi đón tiếp ngài Ưu Ba Ly (Upàli) khi đó ngài chỉ là một tiện dân. Sau khi được đức Phật cho thế phát xuất gia, ngài Ưu Ba Ly đã nỗ lực tu hành và chứng được đạo quả, trở thành bậc “Trì Luật Đệ Nhất” trong giáo hội và là một trong mười đại đệ tử của đức Phật. Có thể nói, tinh thần bình đẳng tuyệt đối của đức Phật trong hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ đã nói lên một trong những tính cách siêu phàm của đức Phật.

Tóm lại trong hoàn cảnh xã hội Ấn Độ đang bùng nổ các dòng tư tưởng và các tôn giáo chủ trương cải thiện đời sống tâm linh nhưng lại đang rơi vào cảnh bế tắc… thì sự xuất hiện kịp thời của đức Phật như là một vị cứu tinh không chỉ đối với người dân xứ Ấn mà còn đối với cả nhân loại.

Page 19: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

19

PHẦN HAI

SƠ LƯỢC LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT

Page 20: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

20

CHƯƠNG MỘTTHÁI TỬ TẤT ĐẠT ĐA CHÀO ĐỜI

(ĐỨC PHẬT ĐẢN SANH) Đối với một Phật tử, khi nói đến cuộc đời đức Phật, có lẽ chúng ta không thể nào quên

được cuốn truyện “Lịch sử đức Phật Thích Ca” bằng tranh, thời còn nhỏ, tôi đã được mẫu thân mua cho cuốn truyện tranh này. Càng xem, càng hấp dẫn, xem hoài vẫn không thấy chán. Ngay từ thuở bé mà cuộc đời đức Phật đã cuốn hút tôi như vậy.

Khi bước sang tuổi thiếu niên, tôi lại có nhân duyên đọc được cuốn “Ánh Đạo Vàng”, nói về cuộc đời đức Phật, của cố nhà văn Võ Đình Cường. Điều đặc biệt là không chỉ có mình tôi thích đọc “Ánh Đạo Vàng” mà có rất nhiều người cũng thích đọc cuốn này. Theo tôi, có lẽ ngoài tài diễn đạt cảm xúc bằng ngôn ngữ của nhà văn Võ Đình Cường, thì sự thành công của tác phẩm này là tác giả đã khắc họa lên cuộc sống thời đại một đức Phật lịch sử vô cùng tôn nghiêm cao quý nhưng lại rất gần gũi với đời sống con người.

Ngày nay đã có rất nhiều người nghiên cứu và viết về cuộc đời đức Phật nhưng thường quên những chi tiết mang tính lịch sử và truyền thống của đạo Phật. Khi chúng ta viết về lịch sử đức Phật, thiết nghĩ, dù định hướng của chúng ta là viết về một đức Phật bằng xương bằng thịt như bao con người khác trên thế gian, chứ không phải là một siêu nhân hay một đấng thần linh được tô vẽ đươm nhiều màu sắc tín ngưỡng hoang đường hay bí ẩn. Và dù chúng ta có định hướng cho tác phẩm của mình theo chiều hướng tư duy nào đi chăng nữa thì chúng ta cũng cần phải tôn trọng những sử liệu quan trọng vì nó vừa mang một ý nghĩa đặc thù của đạo Phật vốn đã tồn tại lâu đời trong kho tàng lịch sử Phật giáo, lại vừa mang tính lưu bố phổ biến rộng rãi trong sinh hoạt truyền thống của đạo Phật.

Chẳng hạn như khi chúng ta ghi nhận những chi tiết ấn tượng về ngày Thái tử Tất Đạt Đa chào đời (tức lịch sử đức Phật đản sanh), thì tất nhiên chúng ta không thể không nhắc đến hình ảnh Thái tử Tất Đạt Đa, khi vừa mới sinh ra, Ngài đã bước bảy bước trên bảy đóa sen hồng, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất và thốt lên: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Bởi trên thực tế sinh hoạt trong các đại lễ Phật đản diễn ra hằng năm, thì việc hài nhi Tất ĐạtĐa bước bảy bước trên bảy đóa sen hồng, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất… đã trở thành một trong những biểu tượng cao quý thiêng liêng và mang tính truyền thống trong ngày Đại lễ này. Hoặc như khi Thái tử Tất Đạt Đa vừa được sanh ra dưới gốc cây Vô Ưu (Asoka) bên bờ hồ Lâm Tỳ Ni (Lumbini) thì liền được Long Vương phun nước tắm. Trong lần tham quan chiêm bái những thánh tích tại xứ Phật, tôi đã từng đến tại bờ hồ nổi tiếng này. Thế nhưng những chi tiết thú vị này ít được các nhà nghiên cứu Phật học để tâm đến. (kèm ảnh)

Do vậy điều quan trọng là chúng ta phải xử lý những thông tin mang tính đặc thù của đạo Phật đó như thế nào, sao cho vừa phù hợp với quan điểm của mình, vừa không mất đi tính truyền thống của Phật giáo, vì đây là điều mà thế giới đã mặc nhiên công nhận.

Theo sự tích đức Phật Đản Sanh, khi Thái tử Tất Đạt Đa vừa mới chào đời, Thái tử đã bước bảy bước trên bảy đóa sen hồng, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất và thốt lên: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Hay khi Ngài mới được sinh ra liền được Long Vương phun nước tắm… Qua những sự tích này, phải chăng đây là những câu chuyện mang đầy tính huyền sử của một tôn giáo; mầu nhiệm và bí ẩn về một nhân vật siêu phàm? Hay đây là biểu hiện thiêng liêng siêu việt của một thánh nhân xuất thế?

Page 21: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

21

Ở đây chúng tôi chỉ xét về yếu tố lịch sử truyền thống của Phật giáo đã được lưu truyền trên 2550 nay, thì hình ảnh Phật Đản Sanh, đi bảy bước trên bảy đoa sen, với câu nói bất hủ “Trên trời, dưới trời, duy chỉ có ta”. Theo nhận định chủ quan của chúng tôi thì, có thể nói đây là thông điệp đầu tiên mà Thái tử Tất Đạt Đa tự tin truyền đến nhân loại, khẳng định sự ra đời của ngài là sẽ đem lại sự Giác Ngộ và Giải Thoát cho chúng sanh bằng Trí Tuệ siêu việt và lòng Từ Bi vô hạn của ngài. Về điều này, tôi cũng chủ quan cho rằng, duy nhất chỉ có bậc Thánh nhân xuất thế mới có thể khẳng định như vậy. Đồng thời tôi cũng tự tin nhận định, đây chính là biểu hiện khởi đầu về một nhân cách văn hóa vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới loài người.

Thái tử Tất Đạt Đa chào đời:Nước cộng hòa Thích Ca (Sakya) là một tiểu quốc nhỏ bé nằm gọn giữa vùng biên giới

Nepal và Ấn Độ; nếu xứ sở này không mang cái tên “Thích Ca” quen thuộc, thì có lẽ nhiều người trong chúng ta đã quên hẳn đi từ lâu rồi. Tuy nhiên chúng ta không thể nào quên được, vì đất nước cộng hòa nhỏ bé đó, vốn là thánh địa thiêng liêng, có sức hấp dẫn đặc biệt với những người có đời sống tâm linh phong phú. Sự nổi tiếng của dòng dõi bộ tộc Thích Ca cách đây trên 2500 năm và đến tận ngày nay, sự nổi tiếng đó còn được nhân lên gấp nhiều lần, khi con người đã có điều kiện thuận tiện trong việc đi lạitham quan, nghiên cứu. Bởi tại nơi đây đã xuất hiện một bậc vĩ nhân kiệt xuất thuộc dòng dõi quý tộc Thích Ca và đó chính là sự ra đời của Thái tử Tất Đạt Đa.

Theo lịch sử Ấn Độ, vua Tịnh Phạn có hai người vợ đều sinh ra từ xứ Devadaha, cũng thuộc bộ tộc Thích Ca. Vợ cả là Hoàng hậu Ma Da (Màyà), vợ kế là thứ phi Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahàpajàpati). Hoàng hậu Ma Da và Ma Ha Ba Xà Ba Đề là hai chị em ruột.

Trong phần giới thiệu trong truyện “Tiền Thân Đức Phật” hay kinh Bổn Sanh (Jàtakas) đã có nhắc đến câu chuyện lịch sử liên quan đến sự ra đời của Thái tử Tất Đạt Đa, chúng tôi chỉ tóm lược phần đáng chú ý: - Thời bấy giờ Hoàng hậu Ma Da đã mang thai ở tuổi bốn mươi, khi gần đến ngày sinh nở, bà đã cùng đoàn tùy tùng của mình trở về quê mẹ ở Devadaha để sinh con theo tập tục lúc bấy giờ và cũng là để nhờ mẫu thân nuôi dưỡng trong thời hậu sinh…

Có lẽ ngày xưa đường sá không được bằng phẳng, phương tiện di chuyển tối ưu có thể kể đến như xe ngựa, xe bò, nhưng những thứ này lại hoàn toàn bất tiện đối với một phụ nữ lớn tuổi đang mang thai, hơn nữa quãng đường từ thành Ca Tỳ La Vệ đến xứ Devadaha quả là chặng đường dài thế kỷ đối với một sản phụ luôn sống trong phú quý như Hoàng hậu Ma Da… Chính những điều kiện không thuận lợi cho một kỳ sinh nở như thế này, đã khiến việc sinh nở diễn ra sớm hơn dự liệu của mọi người. Trên đường về xứ Devadaha, khi đến làng Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thì Hoàng hậu Ma Da đã sinh ra Thái tử ở dưới cội cây Vô Ưu (nơi này 300 năm sau, vua A Dục (Asoka) đã đến chiêm bái và cho xây một trụ đá để ghi dấu nơi đức Phật ra đời). Nếu phỏng theo lịch Ấn Độ thì Thái tử ra đời đúng vào ngày trăng tròn tháng Vesak, tức ngày rằm tháng 4 âm lịch, vào năm 624 trước CN.

Sau khi sinh ra Thái tử, Hoàng hậu đã cùng đoàn tùy tùng của mình nhanh chóng quay trở lại thành Ca Tỳ La Vệ, thay vì phải về quê ngoại ở Devahada như dự tính ban đầu. Sự kiện này chứng tỏ được hai điều; một là sức khỏe của Hoàng hậu Ma Da sau khi sanh nở là rất yếu, trước mắt bà rất cần được sự chăm sóc cấp thời; hai là quãng đường từ Lâm Tỳ Ni trở về Thành Ca Tỳ La Vệ là rất gần so với chặng đường phải đi tiếp từ Lâm Tỳ Ni đến DeVahada, cho nên Hoàng hậu Ma Da mới quyết định đưa hoàng tử ấu nhi trở về hoàng cung trước sự hân hoan của cả hoàng tộc và cũng không kém phần vừa sung sướng vừa hồi hộp của vua cha Tịnh Phạn…

Thái tử chào đời được ba ngày sau, vua Tịnh Phạn đã cho người mời đạo sĩ A Tư Đà (Asita) đến hoàng cung tiên đoán vận mệnh của Thái tử, đây là một thông lệ mà các hoàng tộc thời bấy giờ thường thực hiện. Sau khi xem qua thần sắc tướng mạo, đạo sĩ A Tư Đà cho biết, tương lai Thái tử, nếu ở đời sẽ là vị minh quân kiệt xuất; nếu tu hành giải thoát thì Thái tử sẽ là một bậc Đại Giác Ngộ, một bậc Chuyển Pháp Luân độc nhất vô nhị trên thế gian này. Tương lai không xa, Thái tử sẽ đem ánh sáng giác ngộ khơi nguồn tuệ giác trong đời sống nhân gian, chỉ ra cho chúng sanh con đường đi đến chân lý giác ngộ giải thoát… Tiên đoán xong, đạo sĩ A Tư Đà bật khóc vì nuối tiếc, tự thấy mình đã quá già rồi, sẽ không còn cơ hội để được tu học theo nguồn minh triết của một đức Phật tương lai…

Page 22: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

22

Cùng với việc tiên đoán tương lai, thì một nghi thức không kém phần quan trọng nữa, đó là việc đặt tên cho Thái tử. Hai ngày sau nữa, vua Tịnh Phạn đã cho người thỉnh vào cung tám vị Bà La Môn uyên bác để đặt tên cho Thái tử, cuối cùng nhóm đạo sĩ Bà La Môn đã thống nhất đặt tên cho Thái tử là Tất Đạt Đa (Siddhattha) có nghĩa là “Người toại nguyện”. Thái tử có họ là Cồ Đàm (Gotama), như vậy họ tên đầy đủ của Ngài là Cồ Đàm Tất Đạt Đa (Gotama -Siddhatta). Một điểm đáng lưu ý nữa, Ngài xuất thân từ bộ tộc Thích Ca, nên sau khi chứng được đạo quả, người đương thời đã tôn xưng ngài là Thích Ca Mâu ni (Sakya Muni). Ở đây chữ Mâu Ni có nghĩa là bậc Thánh nhân, là nhà thông thái. Thích Ca Mâu Ni có nghĩa là bậc thánh nhân xuất thân từ bộ tộc Thích Ca. Tìm hiểu đến đây chúng ta nhận thấy, tên họ của đức Phật, chính là Cồ Đàm Tất Đạt Đa.

Điều cần nói thêm ở đây, cũng trong buổi lễ đặt tên cho Thái tử, tám vị Bà La Môn này cũng đồng đưa ra những tiên đoán về vận mệnh Thái tử, Ngài sẽ là một bậc Đại Giác Ngộ và sự lợi ích cho chúng sanh của bậc Đại Giác trong tương lai này là không thể nào tả nổi. Vị Bà La Môn trẻ tuổi nhất trong tám vị Bà La Môn đó là Kiều Trần Như (Kondanna), sau này đã quy y theo đức Phật và trở thành một trong những đại đệ tử của Ngài.

Nói về thân mẫu của ngài, sau khi sanh ra Thái tử được bảy ngày, thì Hoàng hậu Ma Da cũng đã lặng lẽ qua đời. Tuy nhiên, để bù đắp trước mất mát quá lớn này, Thái tử vẫn có được nguồn sữa và con tim yêu thương của người mẹ kế, tức là dì ruột Ma Ha Ba Xà Ba Đề tận tình nuôi dưỡng.

Sở dĩ có được sự may mắn này là vào khoảng thời gian Hoàng hậu Ma Da sinh Thái tử thì kế mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề cũng vừa sinh ra hoàng tử Nan Đà (Nanda). Như vậy Thái tử Tất Đạt Đa và hoàng tử Nan Đà là hai anh em cùng cha khác mẹ. Lịch sử còn ghi nhận việc bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề đã dành hết mọi thời gian để chăm sóc Thái tử Tất Đạt Đa, đứa con yêu của người chị ruột vắn số, trong khi đó con của bà thì bà lại nhờ một nhũ mẫu khác tạm thời trông nom săn sóc…

Có thể nói sự kiện ra đời của Thái tử Tất Đạt Đa đã mang lại cho nhân loại niềm hân hoan vô biên vô hạn. Riêng đối với những người con Phật sống trên hành tinh này thì ngàyThái tử Tất Đạt Đa chào đời cũng chính là ngày mà chúng ta có nhiều cơ hội để khai tâm mở trí, tức là chúng ta có nhiều cơ hội để thoát khỏi khổ đau luân hồi sanh tử.

Như chúng ta thường thấy, sự ra đời của các bậc vĩ nhân gần như luôn được người đời tôn sùng và thần thánh hóa một cách thái quá, đến nỗi gây phản cảm và mất tác dụng. Tuy nhiên với một nhân vật vô cùng đặc biệt như đức Phật, thì khó có thể đưa ra một nhận định chuẩn về những tình tiết mà trong các kinh điển Pàli lẫn Đại thừa đã đề cập đến. Chẳng hạn, Hoàng hậu Ma Da đã nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà chui vào bụng mà thọ thai, sau đó sanh ra Thái tử Tất Đạt Đa. Hoặc nhiều tình tiết ly kỳ khác mà chúng tôi đã tranh thủ nêu ra ở phần đầu chương này… Chúng tôi cho rằng những tình tiết như thế này là phi thường, là lạ thường đối với một Thánh nhân xuất thế, chứ không phải là hoang đường hay phi lịch sử, bởi các di chỉ khảo cổ học cũng phát kiến ra những tình tiết này, hơn nữa hệ kinh tạng Pali cũng là một trong những yếu tố lịch sử quan trọng cần phải tìm đọc mỗi khi đề cập đến cuộc đời đúc Phật. Có điều là chúng ta không nên tô vẻ hay phóng đại những tình tiết mang tính cá biệt của bậc Thánh nhân xuất thế, vì nó làm cho người sơ cơ chưa hiểu Phật pháp rất dễ rơi vào con đường mê tín. Còn đối với những người đã hiểu Phật pháp rồi thì những câu chuyện khác thường xoay quanh cuộc đời một bậc vĩ nhân nào đó chẳng qua cũng chỉ là ánh hào quang mà người đời dâng tặng. Tuy nó vô hại, nhưng nó thật sự không cần thiết bằng những giáo điều đạo đức hay phương pháp tu hành mang lại kết quả thiết thực trong cuộc sống.

Ơ đây người viết không đặc nặng vấn đề chính sử hay huyền sử cuộc đời Đức Phật. Điều quan trọng là nhân cách sống và lời dạy của Đức Phật đã tác động tích cực trong đời sống nhân loại qua con đường tuệ giác của Ngài.Chính vì vậy mà trong những chương kế tiếp, chúng tôi sẽ cố gắng kéo khoảng thời gian 2550 năm trước đây, trở về thật gần với đời sống chúng ta hiện nay, để chúng ta có thật nhiều cơ hội đến với Phật pháp thông qua từng bước trưởng thành của Thái tử Tất Đạt Đa.

Ngày nay du khách đặt chân lên mảnh đất Lâm Tỳ Ni, chắc có lẽ sẽ không hình dung ra nổi, cách đây trên 2550 năm, vì nhân duyên gì, phước báu gì, mà nơi đây lại có đại diễm phúc được đức Phật chọn làm nơi để giáng sanh. Và có lẽ ít ai ngờ rằng cái nôi sinh ra một bậc vĩ nhân trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, đồng thời mang lại niềm tự hào vinh quang cho cả

Page 23: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

23

phương Đông trước sự ngưỡng mộ của toàn thế giới, lại là nước Cộng hòa Thích Ca nhỏ bé nằm gọn ở giữa vùng biên giới rộng lớn của Nepal và Ấn Độ.

Khi đã đặt chân đến cái nôi của xứ Phật thì điều chắc chắn rằng cảm xúc thành kính nơi mỗi chúng ta sẽ không thể nào ngăn lại được. Tôi đã từng đến những nơi đây, đã thực sự xúc động vì không thể ngờ mình đang đứng tại nơi mà cách đây 2550 năm đức Phật đã chào đời. Đối với một người con Phật thuần thành, thì những xúc cảm dấy khởi càng mãnh liệt hơn nữa, vì trong kiếp sống ngắn ngủi này, dù sao chúng ta cũng đã từng một lần được chiêm bái và kính lễ những thánh tích thiêng liêng nhất trong thế giới con người.

Trong phần cuối chương này, chúng tôi muốn nói thêm về những di chỉ rất quan trọng, được xem là có liên quan đến niên đại Thái tử Tất Đạt Đa chào đời. Về di chỉ Lâm Tỳ Ni: Vào năm 1896, các nhà khảo cổ học của Anh và Ấn Độ đã khai quật tại Lâm Tỳ Ni và đã tìm thấy một trụ bằng đá (thạch trụ) cao 6,5 mét, do vua A Dục (Asoka) dựng vào năm 245 trước công nguyên, nhằm ghi dấu nơi đức Phật đản sanh (Thái tử Tất Đạt Đa chào đời). Trên tượng đá có ghi sắc dụ của vua A Dục, được khắc bằng kiểu chữ Brahmì: “Hai mươi lăm năm sau khi lên ngôi, quốc vương Devànampiya Piyadasi (Thiên Ái Thiện Kiến, tức A Dục) ngự đến đây chiêm bái, vì đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc hiền nhân của bộ tộc Thích Ca, đã đản sinh tại đây. Nhà vua ban lệnh khắc một tượng bằng đá và dựng một thạch trụ. Ngài miễn thuế đất ở làng Lâm Tỳ Ni và giảm thuế hoa lợi từ ¼ theo tỷ lệ thường xuống 1/8”.

Một phiến đá có khắc hình Hoàng hậu Ma Da sinh Thái tử Tất Đạt Đa khi người đang đứng vịn vào nhành cây Vô Ưu cũng đã được tìm thấy tại Lâm Tỳ Ni vào thế kỷ thứ 2 sau công nguyên và hiện được lưu giữ tại một ngôi chùa nhỏ tại địa phương này.

Khi đề cập đến lịch sử đản sanh của Thái tử Tất Đạt Đa, nhân đây cũng cần có đôi dòng về một sự kiện trọng đại đối với toàn thể Phật giáo đồ trên thế giới:

Vào ngày 15/12/1999, trong phiên họp lần thứ 54, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (LHQ) đã chính thức thừa nhận Đại lễ Phật đản hằng năm là ngày “Phật giáo Thế giới”. Hơn thế nữa, Liên Hiệp Quốc còn xem đây là Lễ hội Văn hóa Tôn giáo có ý nghĩa thiêng liêng, trọng đại nhất của loài người trên hành tinh… Từ ngày LHQ đứng ra tổ chức Đại lễ Phật đản lần đầu tiên vào năm 2000 tại trụ sở LHQ (New York - Mỹ) đến nay, Đại lễ Phật đản đã trở thành sự kiện lịch sử thiêng liêng và trọng đại bởi thông điệp hóa giải hận thù, giải thoát khổ đau, vị tha nhân ái, hòa bình hạnh phúc mà tinh thần và hoạt tính cao cả thiết thực của Đại lễ Phật đản đã mang đến cho nhân loại…

Vào năm 2008, Việt Nam đã đăng cai và tổ chức thành công Đại lễ Phật đản LHQ. Có thể nói đây là cơ hội quí báu để đất nước Việt Nam chúng ta tạo nên hình ảnh tốt đẹp đối với bạn bè thế giới; khẳng định tính công bằng, dân chủ, văn minh của đất nước và con người Việt Nam luôn yêu chuộng hòa bình, thân thiện, hòa hợp và đoàn kết. Qua đó, nâng cao vị trí và tầm vóc của Việt Nam trên trường quốc tế. Có thể nói rằng, đây là một vinh dự lớn lao của đất nước Việt Nam, đồng thời cũng là niềm tự hào và trọng trách của Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng như của toàn thể tín đồ Phật giáo Việt Nam…

CHƯƠNG HAI

NGUỒN GỐC THÁI TỬ TẤT ĐẠT ĐA

Nói về nguồn gốc của một con người, dù người đó là ai đi chăng nữa thì cũng không ra ngoài hai phạm trù: Quê hương và dòng tộc.

Thái tử Tất Đạt Đa là con của vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, vua Tịnh Phạn thuộc bộ tộc Thích Ca là vị tân vương thống trị

Page 24: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

24

nước cộng hòa mang tên bộ tộc của mình. Bộ tộc Thích Ca hay còn gọi là tiểu quốc cộng hòa Thích Ca có kinh đô là thành Ca Tỳ La Vệ. Nếu so với các vương quốc tạo nên một liên bang Ấn Độ hùng mạnh lúc đó như Kiều Tất La, Vamsa, Avanti và Ma Kiệt Đà; thì cộng hòa Thích Ca là một bộ tộc nhỏ nằm ở phía Bắc vương quốc Kiều Tất La và nằm giữa ranh giới Nepal -Ấn Độ.

Cộng hòa Thích Ca có diện tích khoảng 2.000 km2, chu vi khoảng 1.880 km (ước chừng 4.000 hải lý). Ngoài kinh đô Ca Tỳ La Vệ, bộ tộc Thích Ca còn có đến tám thị trấn như Devadaha, Càtumà, Sàmagàma, Khomadussa, Silàvati, Medatalumpa, Ulumpa và Sakkàra. Lãnh thổ cộng hòa Thích Ca phần lớn là rừng già chưa được khai phá canh tác, phần còn lại là đất nông nghiệp, không những đủ cung cấp lương thực cho cả bộ tộc mà còn tạo ra những kho quân lương lớn, điều này rất cần thiết mỗi khi đất nước xảy ra thiên tai dịch bệnh hay có chiến tranh... Trong tổng số 180.000 dân, thì có khoảng 8.000 dân sống tập trung tại thành Ca Tỳ La Vệ, trong tám thị trấn kể trên thì mỗi thị trấn bình quân có khoảng 4.000 người sinh sống. Phần còn lại khoảng 130.000 dân sống rải rác ở các vùng thôn quê hẻo lánh…

Thời bấy giờ bộ tộc Thích Ca dù nhỏ hơn so với các đại quốc, nhưng được xem là một bộ tộc quý phái, vì gồm toàn những những vị trong tập cấp Sát Đế Lợi, một thành phần giai cấp cao sang với nhiều quyền hành trong tay và trách nhiệm cai trị đất nước. Bộ tộc Thích Ca tuy theo chính thể cộng hòa, nhưng sự truyền trao quyền hành thì lại theo truyền thống cha truyền con nối, đến thời Tịnh Phạn vương là đời thứ sáu, kể từ đời thứ sáu này trở đi, trong việc trao quyền lại cho người kế nhiệm, có thể nói là Tịnh Phạn vương gặp những điều khôngnhư ý ông mong đợi, vì mọi sự hy vọng điều hành cai quản đất nước của Tịnh Phạn vương đều hướng về Thái tử Tất Đạt Đa, nhưng Thái tử Tất Đạt Đa thì lại hướng vào con đường tu hành giải thoát.

Nếu nói cộng hòa Thích Ca là quê hương của Thái tử Tất Đạt Đa thì cũng không sai, nhưng cần sự chính xác hơn thì phải nói Ca Tỳ La Vệ mới đích thực là quê hương của Thái tử, bởi ngài đã ở nơi đây suốt quãng đời thơ ấu cho đến lúc trưởng thành. Điều cần lưu ý, Ca Tỳ La Vệ là quê hương của Thái tử nhưng không phải là nơi ngài chào đời. Nơi ngài chào đời chính là Lâm Tỳ Ni, một lãnh địa nằm trong sự cai quản của bộ tộc Thích Ca.

Vua Tịnh Phạn kết hôn với hai chị em ruột từ xứ Devadaha, đó là Hoàng hậu Ma Da và thứ phi Ma Ha Ba Xà Ba Đề. Ma Da phu nhân là mẫu thân của Thái tử Tất Đạt Đa, còn Ma Ha Ba Xà Ba Đề là mẫu thân của vương tử Nan Đà (sinh sau Thái tử Tất Đạt Đa vài ngày). Cả hai chị em bà Ma Da và Ma Ha Ba Xà Ba Đề đều thuộc bộ tộc Thích Ca. Điều này cho thấy, việc kết hôn trong cùng một bộ tộc là phù hợp với quy luật hôn nhân nội tộc thịnh hành thời bấy giờ. Đặc biệt ở giai cấp Bà La Môn thì phản bác lại việc kết hôn nội tộc mà chấp thuận cho kết hôn ngoại tộc, theo đó thì những người cùng một tộc họ sẽ không được phép kết hôn. Chẳng hạn tộc họ của vua Tịnh Phạn là Cồ Đàm (Gotama), thì Ngài sẽ không được kết hôn với những phụ nữ cùng tộc họ như ngài.

Theo kinh sách ghi chép lại thì dòng họ Cồ Đàm của Thái tử Tất Đạt Đa có nguồn gốc từ vị vua khởi thủy của đất nước có tên là Chúng Sở Hứa (có nghĩa là được mọi người yêu quý). Từ Tổ khởi thủy Chúng Sở Hứa truyền đến đời vua Đại Thiện Sanh, từ Đại Thiện Sanh vương trở về sau, trải qua các đời: Đại Thiện Sanh – Sư Ma Ý – Ưu Đà La – Cồ La – Sư Tử Giáp – Tịnh Phạn – Tất Đạt Đa. Căn cứ trên đây thì vua Đại Thiện Sanh là tổ tiên bảy đời của Thái tử và Sư Tử Giáp là ông nội của Thái tử.

Sau đây là tóm lược gia phả của Thái tử Tất Đạt Đa, khởi nguồn từ thời ông nội của Thái Tử là Sư Tử Giáp:

Page 25: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

25

(Chú ý: Nhớ vẽ sơ đồ gia phả vào chỗ này)

Khi nhìn vào bản gia phả ta thấy rất rõ mối quan hệ hôn nhân cùng huyết thống giữa vua Tịnh Phạn và hai chị em Ma Da phu nhân: - Mẫu thân của vua Tịnh Phạn và phụ thân của hai chị em Ma Da phu nhân là hai anh em ruột. Và phụ thân của Tịnh Phạn vương cùng mẫu thân của hai bà cũng như vậy. Hay như Thái tử Tất Đạt Đa cưới công chúa Da Du Đà La (Yasodharà), hai người này là con cô con cậu. Từ hệ gia phả tương đối đặc biệt này chúng ta có thể xác định, trước và cùng thời Thái tử Tất Đạt Đa thì hiện tượng hôn nhân cùng huyết thống đã từng diễn ra và nó tồn tại trong thời gian dài tại các bộ tộc, xứ sở nằm rải rác trên toàn liên bang Ấn Độ…

CHƯƠNG BA

XÁC ĐỊNH NGÀY PHẬT ĐẢN VÀ NIÊN ĐẠI ĐẢN SANH CỦA ĐỨC PHẬT

Từ trước đến nay, việc xác định ngày tháng năm sinh của đức Phật luôn là đề tài được các nhà Phật học cũng như giới nghiên cứu khoa học đưa ra tranh luận, họ đã tốn khá nhiều thời gian và công sức, nhưng vấn đề này, mãi đến nay vẫn chưa được thống nhất. Trong khi đó, hằng năm, tại Việt Nam cũng như toàn thế giới, các giáo hội Phật giáo đều lấy ngày rằm tháng tư âm lịch, làm ngày truyền thống tổ chức đại lễ Phật đản. Và nhất là niên đại đản sanh của đức Phật vẫn còn gây nhiều tranh cãi…

Trên thực tế đức Phật chỉ sinh ra vào đúng một giờ khắc nào đó, một ngày, một tháng, một năm nào đó; chứ ngài không thể xuất hiện trên thế gian này với quá nhiều cột mốc thời gian và những con số ngày tháng năm sinh mỗi ngày một dài ngoằn ra như vậy.

Trên một trăm năm qua, đã có quá nhiều học giả phương Đông lẫn phương Tây, Phật học lẫn thế học tham gia tìm tòi nghiên cứu nhằm xác định Phật lịch một cách thống nhất, nhưng khốn nỗi, càng bàn cãi, thì càng làm phong phú thêm nguồn tư liệu và càng làm cho ngày tháng năm sinh của Thái tử Tất Đạt Đa trở thành một ẩn số khó có cơ may giải mã… Chính vì xác định trước điều này, nên trong chương này, chúng tôi chỉ làm một công việc nên làm, là chọn ra một giải pháp tương đối hợp lý trong hoàn cảnh nan giải như trên…

Trước đây, nói về ngày Phật đản sanh, hệ phái Phật giáo Nam tông thì lấy ngày 15/4 (Âl) làm ngày Phật đản sanh, còn hệ phái Phật giáo Bắc tông thì lấy ngày 08/4 (Âl) làm ngày Phật đản sanh. Vì sao có sự khác biệt này? Nguyên nhân do đâu? Vậy ngày nào mới đích thực là

Page 26: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

26

ngày đức Phật ra đời? Có lẽ chúng ta cũng nên nhín chút ít thì giờ để cùng nhau cởi mở vấn đề này.

Nếu dựa theo Phật học khái luận của Hòa thượng Thích Chơn Thiện thì dẫn đến sự sai khác đó là do sáu nguyên nhân: 1. Lịch ghi của các nước thời xa xưa khác nhau và các lịch ghi ấy lại khác hẳn với Tây lịch mà thế giới hôm nay đang dùng, nó càng khác hẳn với âm lịch của Trung Hoa. 2. Thời đức Phật tại thế gồm cả kỳ kiết tập đầu tiên, các vị tu sĩ thiếu điều kiện ghi chép mà chỉ trùng tuyên. Khi trùng tuyên các vị đệ tử thường chỉ nhớ kỹ nội dung giáo lý giải thoát mà khó có thể nhớ đúng ngày tháng của các sự kiện lịch sử, hoặc không chủ ý ghi lại các ngày tháng ấy, cũng có thể các sử liệu ghi lại đúng các ngày tháng lịch sử, nhưng trải qua bao cuộc đổi dời, các thế kỷ truyền thừa, các sử liệu ấy bị thất lạc hoặc bị ghi chép sai lầm. 3. Do sự tranh chấp ảnh hưởng giữa các học phái mà ngày tháng năm ra đời của đấng giáo chủ hay của hệ tư tưởng bị sửa lại khác đi như trường hợp cạnh tranh ảnh hưởng Phật, Lão, Khổng ở Trung Hoa. 4. Cũng có thể do các tài liệu giả đánh tráo vào tài liệu lịch sử của Phật giáo của ngoại đạo để phúc vụ ý đồ của ngoại đạo. 5. Cũng có thể do các lý do xã hội, chính trị của các thời đại, tài liệu bị ghi sai lệch đi, hoặc do sự ghi chép chủ quan và giới hạn của người biên khảo. 6. Cũng có thể sử liệu được ghi lại và được điều chỉnh theo quan điểm của bộ phái.

Một lý do dẫn đến sự sai biệt giữa các ngày tháng của các sự kiện lịch sử trong Phật giáo nữa, đó là do ảnh hưởng văn hóa giữa các vùng miền dân tộc. Về điều này chúng ta sẽ thấy: Về mặt lịch sử Phật giáo thì có lẽ chúng ta đều phải công nhận rằng, trong 20 bộ phái thì Thượng Tọa bộ và Đại Chúng bộ là phát triển mạnh nhất. Nếu nhìn nhận một cách khách quan, thì Đại Chúng bộ đã đóng góp rất lớn trong sự truyền bá Phật pháp về hướng Bắc mà chúng ta thường gọi là Phật giáo Bắc tông. Phật giáo Bắc tông phát triển mạnh nhất ở Trung Hoa, sau đó lan rộng sang các nước, do vậy Phật giáo luôn bị ảnh hưởng bản sắc văn hóa nơi mỗi dân tộc và chính kiến của các triều đại là điều đương nhiên. Khi kinh tạng truyền sang Trung Hoa, trong quá trình dịch thuật, đối với những con số tính theo thời lịch trong các bộ kinh, sẽ dễ khiến các dịch giả khó tìm ra cái mốc thời gian để căn cứ, điều này sẽ làm cho họ trở nên mơ hồ và sẽ dịch theo cảm tính, nhất là đối với niên đại đức Phật đản sanh là dễ bị ảnh hưởng bởi các mốc thời gian và cách tính theo lịch của Trung Hoa. Điều này đã dẫn đến sự sai khác như đã nêu. Theo sách Châu Thơ Di Ký ghi rằng: “Chiêu Vương trị vì nhà Châu đã được hai mươi bốn năm, đến ngày mồng Tám tháng Tư năm Giáp Dần, bỗng thấy sông suối ao hồ nước đều dâng lên, hào quang năm sắc chiếu khắp bốn phương, cùng các hiện tượng thiên nhiên khác lạ. Vua hỏi Thái sư Tô Do: “Đó là điềm gì?”. Tô Do thưa: “Có vị Thánh nhân sanh ở phương Tây nên hiện điềm này”. Vua hỏi: “Về thiên hạ của nhà Châu có quan hệ gì không?”. Tô Do thưa: “Khoảng ngoài ngàn năm nữa, tôn giáo ấy sẽ truyền qua xứ này”. Nghe thế, Chiêu Vương bèn cho truyền sai khắc đá làm bia ghi lại câu chuyện đã xảy ra này và chôn nó trước đền Nam Giao. Sang đời Hán Minh Đế, có vị pháp sư viện theo câu chuyện ấy mà cho rằng: “Phật giáng sinh vào ngày mồng Tám tháng Tư năm Giáp Dần vào đời Châu Chiêu Vương”. Đến đời Đường, năm thứ ba niên hiệu Trinh Quán, vua Đường vì thấy nhiều người căn cứ các giáo pháp linh điển mới truyền vào đất nước mà chủ trương nhiều thuyết khác nhau, trong đó có sự khác nhau về ngày Phật giáng sinh, nên đã hạ chiếu cho các ông Lưu Đức Oai và Pháp Lâm cùng nhiều người nữa lập ra một ban để xác định lại thời kỳ giáng sinh của đức Phật. Trải qua một thời gian dài, ban này mới đưa ra nhận định: “Phật giáng sinh vào đời vua Chiêu Vương nhà Châu và Phật nhập diệt vào đời vua Mục Vương nhà Châu”. Sau đó, vua Đường ban chiếu thông báo khắp nước, quyết định lấy ngày Phật giáng sinh y theo sự nhận định của ban này. Chính do ảnh hưởng văn hóa và chính kiến của triều đại mà trong nhiều bộ kinh có mặt tại Trung Hoa như kinh Phương Đẳng Nê Hoàn, kinh Phật Bát Nê Hoàn ở phần chương sau đều có ghi: “Phật giáng sinh ngày mồng Tám tháng Tư…”. Lại như trong kinh như kinh Bồ Tát Xử Thai, thì ghi ngày Phật đản sanh là ngày mồng Tám tháng Hai, mồng Tám là y theo chiếu chỉ của vua Đường, còn tháng Hai là dịch theo tiếng Ấn Độ, hoặc nghĩ rằng: “Đời nhà Châu lấy tháng Tý làm tháng Giêng, thì tháng Tư của nhà Châu tức là tháng Mão, nghĩa là tháng Hai của nhà Đường”. Từ sai lệch này, nhiều người xem các kinh này lại cho rằng, trong kinh nói Phật giáng sinh vào ngày mồng Tám tháng Hai thì tưởng là tháng Hai của nhà Châu, nên đem lùi ngày Phật đản sinh về mồng Tám tháng Chạp… Cứ theo các cách tính để xác định ngày Phật đản sanh như đã nêu trên thì quả là có quá nhiều bất cập.

Giới nghiên cứu khi bắt tay vào công việc xác định ngày Phật đản sanh thường đụng phải những thuyết khác nhau về ngày Phật đản trong kinh tạng Phật giáo Nam tông (mồng 8/2,

Page 27: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

27

mồng 8/3, 15/3, mồng 8/4) và ba mốc thời gian (ngày, tháng, năm) cũng đều sai khác. Ngày sai khác: ngày 8 và ngày 15 (Âl). Tháng sai khác: tháng hai, tháng ba, tháng tư. Năm thì có đến 32 thuyết nói về năm sinh của đức Phật. Tuy nhiên chỉ có 16 thuyết là được nhiều người để tâm đến, trong đó có một thuyết được giới nghiên cứu đưa ra vào năm 1956 được nhiều người đồng tình chấp nhận. Trong các thuyết trên, cách đây trên một thế kỷ, ở Trung Hoa có ba thuyết được đem ra bàn cãi nhiều nhất. Một là thuyết Giáp Dần, đây là thuyết cổ sử rất thịnh hành và được lưu truyền rộng rãi thời bấy giờ. Trong bộ Phật Tổ Thống Kỷ đã tập hợp sáu bộ kinh sử như Chu Thu Dị Ký, Pháp Bản Nội Truyện, Ngụy Thư, Nam Nhạc, Phụ Hành, Pháp Lâm đều nói Phật giáng sinh vào năm Giáp Dần. Thuyết này cho rằng, đức Phật Thích Ca giáng sinh nhằm đời nhà Chu Cơ, vua Chiêu Văn Vương năm thứ 26 là năm Giáp Dần (theo lối tính 60 năm hoa giáp của Trung Hoa). Cuối cùng theo thuyết này thì năm đức Phật đản sanh, nếu tính đến năm 2010 này là 3057 năm (?). Hai là thuyết của ngài Pháp Châu: Thuyết này cho rằng, đức Phật giáng sinh trước Chúa Giêsu 563 năm. Như vậy lại là năm Mậu Tuất. Tính đến năm 2010 này là 2573 năm. Ba là thuyết của cụ Phí Trường Phòng đời nhà Tùy. Thuyết này đã đem các kinh Thụy Ứng, Phả Diệu, Phật Bản Hạnh v.v… so sánh với sử ký của nước Lỗ thời Xuân Thu liền khẳng định, đức Phật giáng sinh vào thời Trang Vương thứ 16, nhà Chu năm thứ 10, đương thời Trang Công nước Lỗ năm thứ 7. Thuyết này còn gọi là thuyết lưỡng Trang, thuyết này cho rằng đức Phật giáng sinh vào năm Bính Thân, cách năm Bính Thân của thuyết Điểm Ký là 120 năm.

Về niên đại giáng sinh của đức Phật, nếu chắt lọc thêm một lần nữa, thật ra chỉ có một vài cách tính được xem là có cơ sở đáng tin cậy và được sự đồng thuận nhiều hơn cả.

1. Đối với vấn đề xác định niên đại đức Phật đản sanh, đa số sử gia châu Âu đều cho rằng đức Phật giáng sinh vào năm 563 trước công nguyên, đây là niên đại được xác lập sớm nhất. Cách tính này căn cứ vào các niên đại ra đời của các vị vua Ấn Độ bởi các sử gia Hy Lạp. Nguyên vào năm 327 trước công nguyên, Alexandre Đại Đế đem quân xâm lược Ấn Độ , từ đó tạo ra mối quan hệ Hy Lạp – Ấn Độ. Đến năm 303 trước công nguyên, Hoàng đế Ấn Độ lúc đó là Candragupta thuộc vương triều Khổng Tước (Moriya) đã đạt được một thỏa hiệp về biên giới lãnh thổ với vị cựu đại tướng Seleukos Nikator lúc đó đang cai trị thành Babylonia. Qua các bản báo cáo của sứ thần Hy Lạp là Megasthenes (khi vị này được bổ nhiệm đến thủ đô Pàtaliputta) thì chúng ta mới biết được vua Candragupta lên ngôi vào năm 321 trước công nguyên, qua đó đồng thời cũng theo sách sử ký của Tích Lan như Đảo Sử (Dìpavamsa) và Đại Sử (Mahavamsa) thì vua Candragupta trị vì đất nước Ấn Độ được 24 năm (297 trước CN). Vua Candragupta ngày càng được các sử gia Hy Lạp biết đến nhiều hơn qua cái tên Hy Lạp là Sandrokottos. Sau khi vua Candragupta qua đời, hoàng nam kế vị là Tần Đầu Sa La (Bindusàra) tiếp tục trị vì Ấn Độ 28 năm rồi qua đời (269 trước CN). Trong thời gian Tần Đầu Sa La qua đời, trong thời gian này, triều đình diễn ra cảnh tương tàn tương sát để tranh dành ngôi vị rất khốc liệt, cuối cùng A Dục (Asoka) đã tiêu diệt tất cả hoàng gia huynh đệ, trở thành người chiến thắng, nhưng mãi đến bốn năm sau A Dục mới lên ngôi. Lúc đó là vào năm 265 trước công nguyên. Kể từ đây việc xác định niên đại đản sanh của đức Phật sáng tỏ hơn, nhưng vẫn còn gặp trở ngại bởi hai cách nghĩ, do đó cho ra đời hai kết quả sai khác nhau.

Một là theo sử sách của Tích Lan đều xác định vua A Dục lên ngôi sau khi đức Phật nhập niết bàn là 283 năm. Như vậy cộng thêm với 80 năm tuổi đức Phật trụ thế, thì năm đản sanh của đức Phật sẽ được tính như sau: 265 + 283 + 80 = 628 năm trước CN.

Trong khi đó, trong hai cuốn sử ký Đảo Sử (Dìpavamsa) và Đại Sử (Mahavamsa) cũng của Tích Lan thì lại cho rằng, vua A Dục lên ngôi sau khi Phật nhập niết bàn là 218 năm. Như vậy cộng thêm với 80 năm tuổi trụ thế của đức Phật nữa, thì năm đản sanh của đức Phật sẽ được tính như sau: 265 + 218 + 80 = 563 năm trước CN.

2. Cách tính thứ hai căn cứ vào sinh hoạt mang tính truyền thống của chư Tăng. Theo lịch sử Phật giáo Trung Hoa ghi chép thì vào đời Lương, có nhà nghiên cứu Phật học tên là Triệu Bá Hưu ở núi Lô, gặp vị sa môn pháp danh Hoành Độ trao cho tập tài liệu có tên Chúng Thánh Điểm Ký, trong đó có ghi chép như sau: “Sau khi Phật diệt độ, ngài Ưu Ba Li đã kết tập luật tạng (trong một khóa hạ) đến ngày tự tứ rằm tháng bảy thì giải hạ. Khi kết thúc mùa hạ thì đánh dấu một điểm vào đó. Qua năm sau cũng vậy, mỗi năm đều đánh dấu vào đó một điểm truyền nhau qua các đời không gián đoạn. Đến đời ngài luật sư Tăng Già Bạt Đà La, ngài đã đem bộ luật Thiện Kiến sang Trung Hoa phiên dịch ở Quảng Châu nhằm đời nhà Tề niên hiệu Vĩnh Ninh thứ 7 năm Canh Ngọ và ngày tự tứ rằm tháng bảy. Năm đó ngài Tăng Già Bạt Đà

Page 28: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

28

La cũng tiếp tục chấm một điểm vào đó”. Theo đó cứ sau mỗi mùa an cư thì chư Tăng chấm một điểm vào trong luật tạng. Đây là truyền thống lâu đời trong sinh hoạt của Tăng đoàn, có từ thời đức Phật bắt đầu cho chư Tăng an cư kiết giới vào mùa hạ hằng năm. Vào năm 1956, Đại hội Phật giáo Thế giới được tổ chức tại Tích Lan, đã được các vị trưởng lão đại diện Phật giáo các nước công bố là đã đếm được 2500 chấm trong luật tạng. Như vậy vào thời điểm năm 1956, chúng ta lấy con số 2500 trừ cho 1956 ta sẽ được con số 544. Từ sự công bố của Đại hội Phật giáo Thế giới, thì năm 544 trước công nguyên được Phật giáo Tích Lan và các nước lân cận xác nhận là năm đức Phật nhập niết bàn. Nếu muốn xác định năm đức Phật đản sanh thì lấy năm đức Phật nhập niết bàn cộng thêm với 80 năm đức Phật trụ thế. Năm đức Phật đản sinh sẽ là 544 + 80 = 624. Như vậy đức Phật đản sinh vào năm 624 trước CN. Trên thực tế thì cách tính này được Phật giáo thế giới thống nhất áp dụng vì cho rằng an cư kiết hạ là truyền thống tu học của Phật giáo và truyền thống này chưa từng bị gián đoạn. Phật giáo Việt Nam chúng ta cũng thực hiện theo cách tính này. Vì Phật lịch được tính theo cách lấy ngày Phật nhập niết bàn (544 trước CN) cộng với Tây lịch hiện hành, cho nên muốn ngày đản sanh của đức Phật thì chúng ta bắt buộc phải cộng thêm 80 năm trụ thế của đức Phật. Chẳng hạn vào năm 2010 Tây lịch này, thì Phật lịch sẽ là 2554. Theo cách nghĩ truyền thống lâu nay thì lấy Phật lịch 2554 trừ cho Tây lịch 2010, chúng ta sẽ thấy xuất hiện con số mặc định là 544. Năm 544 trước CN là năm đức Phật nhập niết bàn. Tuy nhiên nếu muốn biết thật chính xác, đến nay đức Phật đã bao nhiêu tuổi, hay nói khác hơn Ngài đã cách xa chúng ta bao nhiêu năm, thì chúng ta cần phải làm thêm phép tính: 2554 + 80 = 2634, tức đến năm 2010 này, đức Phật đã xa cách chúng ta đúng 2634 năm rồi.

3. Ba là cách tính căn cứ theo kinh điển Phật giáo Nam tông, căn cứ vào sử Dipavamsa của Phật giáo Nam tông thì đức Phật giáng sinh vào năm 563-483 trước Tây lịch. Tuy nhiên Phật giáo Tích Lan (Sri Lanka), Miến Điện (Myanmar), Thái Lan thì lại lấy năm đức Phật nhập niết bàn làm ngày kỷ niệm đức Phật đản sanh, tức là năm 544 trước Tây lịch. Về sau này, năm 1952, Đại hội Phật giáo Thế giới đã quyết định lấy năm Phật nhập niết bàn làm năm kỷ niệm Phật lịch thống nhất của Phật giáo. Vào năm này, Đại hội Phật giáo thế giới tổ chức đại lễ Phật đản lần thứ 2500 năm, tức là đức Phật ra đời vào năm 624 trước công nguyên (544 + 80 = 624).

Trong thư tịch Phật giáo về niên đại Phật đản sanh có rất nhiều giả thuyết như: Thánh chúng điển ký ghi Phật đản sinh 565 trước CN; Bia ký Phật ở Myanmar ghi 561 trước CN; Luật Thiện Kiến ghi 559 trước CN; Bia ký Bồ Đề Đạo Tràng ghi 623 trước CN; Phật sử Tích Lan ghi 624 trước CN; Phật sử Tây Tạng ghi 626 trước CN; khảo cổ phương Tây ghi 563 trước CN… Ngoài các học thuyết và các tính niên đại đản sanh của đức Phật như đã nêu, chúng tôi còn tìm thấy một số tác phẩm của các học giả có uy tín, như cuốn “2500 years of Buddhism” (2500 năm Phật giáo) của C.V Joshi khẳng định đức Phật đản sanh vào năm 623 trước CN. Hay trong tác phẩm “The discovery of India” (Phát hiện Ấn Độ) của Pandit Nehru, đưa ra nhận định đức Phật đản sanh vào năm 624 trước CN… Dù có rất nhiều kết quả khác nhau về niên đại đản sanh của đức Phật, nhưng hiện nay Phật giáo Việt Nam cũng như Phật giáo các nước, đều đồng thuận với quyết định của tổ chức Phật giáo thế giới, thống nhất niên đại của đức Phật theo cách tính của người Tích Lan. Niên đại của đức Phật là từ 624 – 544 trước công nguyên.

Nói về việc xác định ngày Phật đản, thì đây là một điều vừa khó khăn nhưng cũng vừa thú vị. Trong một tài liệu chuyên môn về việc này cho rằng, muốn xác định được ngày đại lễ này, trước hết phải tìm những điều ghi trong kinh sách của Nam tông và Bắc tông nói về lịch sử đức Phật. Sau đó đem đọ với hai thứ lịch Ấn Độ và Trung Hoa, tra cứu tận cùng mới có thể đạt được yêu cầu như mong muốn. Lịch Ấn Độ ngày xưa thì có 4 thứ: lịch Sóc Vọng, lịch Mặt Trời, lịch Địa Cầu, lịch Ngôi Sao. Trung Hoa cũng có 4 thứ lịch: lịch nhà Hạ (chính kiến Dần), lịch nhà Thương hay nhà Ân (chính kiến Sửu), lịch nhà Chu (chính kiến Tý) lịch nhà Tần (chính kiến Hợi). Bốn thứ lịch này đều là Âm lịch. Lịch nhà Hạ vẫn hiện hành từ xưa đến nay, có thể gọi là Âm + Dương lịch, vì nội dung đối chiếu được cả các ngày tháng về Dương lịch. Nay chúng ta chỉ cần dùng hai thứ lịch Sóc Vọng của Ấn Độ và Hạ lịch (hay còn gọi là nông lịch) của Trung Hoa mà xác định ngày Phật đản, vì hai thứ lịch này đều tính theo độ số chu toàn của sao Thái Âm xoay quanh trái đất mà làm lịch. Mỗi Nguyệt chu là 19 năm, cũng mỗi năm 12 tháng, có tháng đủ, tháng thiếu, và tháng nhuận bù trừ cho nhau, mặt dù ngày tháng sắp đặt có chênh lệch mỗi năm đều khác nhau.

Page 29: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

29

Mỗi tháng của lịch Ấn Độ đều muộn hơn lịch Trung Hoa một tháng rưỡi. Và ngày trăng tròn của lịch Ấn Độ thì đặt vào ngày cuối cùng của mỗi tháng chứ không phải giữa tháng như lịch Trung Hoa. Như thế Ngày Trăng Tròn của lịch Ấn Độ tức là Ngày Rằm của lịch Trung Hoa vậy. Chỉ có một điều khác nhau giữa hai lịch nhưng không ảnh hưởng sai trái các ngày trăng tròn. Điều này còn có nghĩa là lịch Trung Hoa một năm chia thành 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông; lấy 12 địa chi Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi đặt tên cho 12 tháng. Còn lịch Ấn Độ một năm chi làm 3 mùa: Xuân, Hạ, Đông (mỗi mùa 4 tháng) ở Ấn không có mùa Thu; lấy 12 ngôi sao đặt tên cho 12 tháng. Xin xem biểu đồ so sánh giữa 2 thứ lịch nêu trên với Dương lịch Gơ Rê Goa.

Lịch Ấn Độ Lịch Trung Hoa Lịch Gơ Rê GoTháng Giêng Chếđatla Mão Nửa cuối tháng Hai Tháng 3 đến tháng 4Tháng Hai Vaisákha Thìn Nửa cuối tháng Ba Tháng 4 đến tháng 5Tháng Ba Thệsattra Tỵ Nửa cuối tháng Tư Tháng 5 đến tháng 6Tháng Tư Asacha Ngọ Nửa cuối tháng Năm Tháng 6 đến tháng 7Tháng Năm Thậtlaphatnoa Mùi Nửa cuối tháng Sáu Tháng 7 đến tháng 8Tháng Sáu Balabatda Thân Nửa cuối tháng Bảy Tháng 8 đến tháng 9Tháng Bảy Anthấpphagiusà Dậu Nửa cuối tháng Tám Tháng 9 đến tháng 10Tháng Tám CalạtdếcachayCađề Tuất Nửa cuối tháng Chín Tháng 10 đến tháng 11Tháng Chín Mạtgiathúyla Hợi Nửa cuối tháng Mười Tháng 11 đến tháng 12Tháng Mười Paosa Tý Nửa cuối tháng M.Một Tháng 12 đến tháng 1Tháng M.Một Makhư Sửu Nửa cuối tháng Chạp Tháng 1 đến tháng2Tháng Chạp Phalặclâunoa Dần Nửa cuối tháng Giêng Tháng 2 đến tháng 3.

Bảng so sánh lịch tháng Hai Vaisakha (Sao Cơ) của Ấn với lịch tháng Tư - Trung Hoa:

Ấn 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30TH 16 17 18 19 20 21 22 … 30 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15

Tháng Ba (Thìn) Tháng Tư (Tỵ)

Ngày 30 mỗi tháng của lịch Ấn Độ gọi là ngày Bạch nguyệt tận nhật hay Nguyệt mãn tân nhật, nghĩa là ngày cuối cùng đầy tháng hay cuối cùng trăng tròn. Nghiên cứu kỹ thì thấy Phật giáng sanh vào ngày 30 tháng Hai – Vaisakha, tháng Sao Cơ lịch Ấn Độ, nhằm đúng ngày rằm tháng Tư lịch nhà Hạ Trung Hoa. Theo lịch quốc tế hiện nay đương sử dụng, thì Âm lịch là Đinh Tỵ, Dương lịch là năm 544 trước CN.

Nguyên nhân sai lệch ngày Phật đản chính là do ba điểm như sau: 1/ Vì sự phức tạp về những tháng của lịch Ấn Độ. 2/ Vì ảnh hưởng văn hóa (chấp trước) của dân tộc Hán. 3/ Vì tình trạng bị động của những vị dịch kinh.

Về điểm thứ nhất: Lịch Ấn Độ chia mỗi tháng làm hai phần là Hắc nguyệt và Bạch nguyệt (lịch Ấn Độ thì Hắc nguyệt trước mà Bạch nguyệt sau, thế mới ăn khớp với lịch Trung Hoa và đúng với hiện tượng thiên nhiên). Hắc nguyệt: từ mồng 1 đến 15, những ngày trong

Page 30: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

30

nửa tháng đầu này, về các ban đêm mặt trăng tròn sáng dần dần đến càng bị khuyết, đêm cuối cùng của Hắc nguyệt không còn thấy trăng. Ghép vào lịch Trung Hoa thì là từ ngày 16 đến ngày nguyệt tận (ngày hối). Bạch nguyệt: từ ngày 16 đến ngày hết tháng, những ngày trong nửa cuối tháng này, trái lại từ đêm không có trăng đến bắt đầu trăng lưỡi liềm kế đến bán nguyệt (trăng huyền) đêm cuối cùng của bạch nguyệt thì trăng tròn sáng (ngàyvọng), ghép vào lịch Trung Hoa thì từ mồng một đến ngày rằm của nửa tháng sau.

Lịch Ấn Độ lại chia Hắc nguyệt và Bạch nguyệt làm hai đoạn ngắn nữa, gọi là Hắc bán và Bạch bán; Hắc bán từ ngày 1 đến ngày 8; Bạch bán từ ngày 16 đến ngày 23 (mồng 8 và ngày 23 hai ngày huyền). Ngày 8 gọi là ngày Hắc bán tận nhật, ngày 15 gọi là Hắc nguyệt tận nhật, ngày 23 gọi là Bạch bán tận nhật, ngày hết tháng gọi là Bạch nguyệt tận nhật hay Nguyệt mãn tận nhật, như vậy 4 ngày cuối cùng của mỗi phần trong mỗi tháng đều gọi là tận nhật. Có khi gọi gồm 2 ngày của Hắc nguyệt là Hắc tận nhật, 2 ngày của Bạch nguyệt là Bạch tận nhật. Vì thế mà điều này một phần dễ làm xáo trộn ngày đản sanh của đức Phật.

Về điểm thứ nhì: Quan điểm của Hán tộc rất coi trọng ngày mồng 8 của mỗi tháng, đã xưng hô, ca tụng và suy tôn ngày 8 bằng những lời nhất định tốt đẹp, như cát nhật, lương nhật, thượng nhật, phúc sinh nhật, cốc nhật… phàm làm việc gì thì phải chọn ngày mồng 8 là quý báu hơn hết.

Về điểm thứ ba: Đạo Phật truyền đến Trung Hoa, buổi ban sơ gặp ngay triều đại nhà Hán. Dân tộc Đại Hán chiếm ưu thế lớn, vua Hán tiếp đón các vị sứ giả cao Tăng tiêu biểu của đạo Phật từ Ấn Độ sang chủ ý là lo việc dịch kinh. Vị dịch kinh lúc đầu này chỉ cốt truyền bá giáo lý Phật pháp buổi sơ khai, nên phải lựa cơ duyên để cho việc dịch kinh được trôi chảy, liền lấy ngày tận nhật bạch nguyệt nhập vào với ngày tận nhật bạch bán, tức là đưa ngày tận nhật sau hợp với ngày tận nhật trước, theo ngày mồng 8 là chính, ghi vào kinh văn: “Đức Phật Thích Ca giáng sinh vào ngày mồng 8 âm lịch Trung Hoa”. Bộ kinh đầu đã lưu hành rộng khắp, tất nhiên trong đó đã xác nhận “Đức Phật Thích Ca giáng sinh vào ngày mồng 8 âm lịch Trung Hoa”, các bộ kinh phiên dịch sau cứ y theo bộ kinh đầu mà lưu hành. Về lịch sử đức Phật, đầu tiên là nói trong kinh Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi, thời Hán – Ngô Chi Khiêm dịch, kinh Tu Hành Bản Khởi. Trúc Đại Lực và Khang Mạnh Tường cùng dịch…

Tóm lại, để xác định ngày Phật đản sanh, chúng ta có thể nương theo bốn cơ sở dẫn chứng sau đây: 1/ Bộ Tây Vực ký (Bắc tông) nói là Phật đản sanh vào ngày 15 âm lịch. Đến thuyết Đâu suất giáng thần cũng nói nhằm vào ngày 15 (trăng tròn). 2/ Tạp chí Hiện Đại Phật Học của Hội Phật Học Trung Hoa khẳng định: Nói đức Phật đản sanh vào ngày mồng 8 tháng 4 là bị ảnh hưởng tư tưởng của Hán tộc. 3/ Bộ sách nhan đề Đạo Phật của Phật giáo Liên Xô cũ (Mật tông) nói rõ: “Phật đản Pu-rơ-ni-ma ngày trăng tròn của tháng Vaisakha”. 4/ Trong kinh tạng Nam tông chỉ nói duy nhất một điều là: “Đức Phật đản sanh vào ngày trăng tròn”. Qua bốn luận chứng này, chúng ta có thể kết luận là đức Phật chỉ có thể đản sanh vào ngày rằm tháng Tư âm lịch nhà Hạ. Lịch này vẫn đang lưu hành ở nước ta cũng như một số nước trong vùng Đông Nam Á. Một điều làm tăng thêm tính khẳng định khi chúng ta xác nhận ngày Phật đản sanh là ngày Rằm tháng Tư âm lịch nữa, đó là tất cả những ngày mồng 8 âm lịch không bao giờ rơi vào ngày trăng tròn cả…

Hiện nay các nước Tích Lan, Ấn Độ, Miến Điện, Lào, Campuchia đều chọn ngày Rằm trăng tròn tháng Vésakha, tức là ngày Rằm tháng Tư làm ngày kỷ niệm đức Phật đản sanh. Điều đáng ghi nhận ở đây là hầu hết các sử liệu gồm kinh điển Bắc tông, Nam tông, kể cả bia ký của vua A Dục cũng đều xác nhận đức Phật là một nhân vật lịch sử chứ không phải là một nhân vật thuyết thần thoại. Ở Việt Nam, lễ Phật đản được áp dụng thống nhất theo Phật lịch thế giới vào năm Mậu Tuất 2501, nhằm ngày thứ Bảy 26/5/1958 theo quyết định của Tổng hội Phật giáo Việt Nam họp vào tháng 9 năm 1957.

Dù sao thì chúng ta cũng không nên quá đặt nặng đến sự chính xác của các sự kiện lịch sử, bởi chúng ta đã tốn nhiều thời gian cho công việc này mà vẫn không mang lại một kết quả như ý. Chúng tôi cho rằng, chúng ta nên tôn trọng sự thống nhất các ngày đại lễ của Phật giáo từ phía Hội Phật giáo Thế giới hay Ủy Ban đặc trách về Phật giáo của Liên Hiệp Quốc. Điều mà chúng tôi cho là cần thiết là nên làm cho tư tưởng giác ngộ giải thoát và tinh thần từ bi hỷ xả của đạo Phật đi sâu vào đời sống nhân loại trong những ngày đại lễ của Phật giáo diễn ra, hơn là cứ bàn cãi về ngày tháng năm sinh của đức Phật, bởi đến lúc này, nó không cần thiết bằng những điều đạo đức hay phương pháp tu hành mang lại kết quả thiết thực trong cuộc sống…

Page 31: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

31

CHƯƠNG TƯ

THÁI TỬ TẤT ĐẠT ĐATUỔI THƠ VÀ THỜI NIÊN THIẾU

Trong số chúng ta có lẽ ai cũng phải thừa nhận quãng đời đẹp nhất của một đời người đó chính là tuổi thơ với những tháng ngày hồn nhiên vui chơi vô tư trong sáng. Đã sinh ra làm một con người thì Thái tử Tất Đạt Đa có lẽ cũng sẽ không ra ngoài qui luật tất yếu này, có nghĩa là thời trẻ con thì Thái tử cũng vui chơi đùa giỡn như bao đứa trẻ cùng trang lứa khác… Điều này có đúng như suy nghĩ của chúng ta?

Trong Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikaya) có liệt kê ra hàng loạt trò chơi của trẻ con xứ Ấn Độ. Rải rác ở một số đoạn kinh, thỉnh thoảng chúng ta cũng bắt gặp hình ảnh chú bé kháu khỉnh Tất Đạt Đa chơi đấu cờ trên những tấm ván chia thành tám ô vuông hay mười ô vuông với em trai cùng cha khác mẹ của mình là Nanda. Cũng có khi Tất Đạt Đa hồn nhiên cùng với những đứa trẻ khác chạy và nhảy qua những ô vuông được vẽ trên mặt đất, cũng giống như hồi nhỏ chúng ta thường chơi trò nhảy lò cò. Các trò mà hầu hết trẻ con Ấn Độ thời bấy giờ rất thích chơi, đó là trò chơi người bù nhìn, đấu gậy, trốn tìm, bịt mắt bắt dê, trò chơi cày cuốc, xe ngựa, cung tên tí hon… Tuy nhiên với những đứa trẻ có tố chất thông minh và bộc phát tư duy khá sớm thì lại ưa thích các trò chơi trừu tượng hơn, chẳng hạn như trò chơi đoán suy nghĩ của người khác, trò chơi đố nhau nhận ra chữ viết khi dùng tay vẽ lên hư không, hoặc viết chữ hay vẽ hình ở sau lưng người phỏng đoán, tất nhiên là những đứa trẻ chơi trò chơi này phải biết đọc biết viết thành thạo… Đây là những trò chơi thông minh, chứa chiều sâu tư duy của những đứa trẻ cá biệt và chú bé Tất Đạt Đa thời bấy giờ là một trong rất hiếm những đứa trẻ cá biệt đó…

Nói về tiện nghi trong cuộc sống thì chú bé Tất Đạt Đa quả là có đại phước báu, dù cũng là một hoàng tử hay một vương tôn, nhưng chưa chắc gì họ có được sự quan tâm của cả hoàng tộc, như trường hợp của bé Tất Đạt Đa và nhất là sự tận tâm chăm sóc dạy bảo của vua cha dành cho chú. Thật ra chuyện các vương tử thừa hưởng những đặc quyền đặc lợi trong chốn hoàng cung từ xưa đến nay là chuyện bình thường không có gì phải bàn cãi. Nhưng chuyện Tịnh Phạn vương dành sự quan tâm hết sức đặc biệt cho chú bé Tất Đạt Đa, nó gói gọn những tâm tư thầm kín của người cha nhân từ cũng như hoài vọng về một tương lai sáng ngời cho đất nước từ đứa con vừa thông minh vừa nhân ái và thỉnh thoảng bộc lộ những điểm siêu việt khác thường này…

Đối với người dân thành Ca Tỳ La Vệ bấy giờ thì hoàng cung của vua Tịnh Phạn là một khu vực bất khả xâm phạm, được phòng vệ rất cẩn mật và chỉ có các vương tử mới được tự do thoải mái ra vào. Cung điện được xây bằng gạch nung rất chắc chắn, các cột kèo được sử dụng bằng các loại gỗ quý hiếm, làm bởi các tay thợ chuyên nghiệp được tuyển dụng từ nhiều vùng trên khắp đất nước. Chính vì vậy mà sự lộng lẫy nguy nga của cung điện không chỉ người dân thành Ca Tỳ La Vệ trầm trồ khen ngợi mà những bậc đế vương các nước lân bang cũng gật đầu thán phục tài kiến trúc của Tịnh Phạn vương. Vì ở Ấn Độ một năm chỉ có ba mùa Xuân, Hạ, Đông; nên vua Tịnh Phạn đã thiết kế tư thất của mình uyển chuyển theo sự thay đổi của thời tiết khí hậu nơi đây, chẳng hạn mùa Hạ ông thường ngủ trên sân thượng có mái che hay mùa Đông có phòng sưởi ấm rất đặc biệt… Trong khi đa số dân chúng vẫn còn sống trong những căn nhà tranh vách đất, hay những căn nhà được dựng tạm bằng tre nứa lau sậy thì đời sống của hoàng gia vương giả đều là như vậy. Tại hoàng cung, ngay cả số cung nữ hay những người phục vụ cũng được thừa hưởng một đời sống khá sung túc. Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) cũng có nói, thay vì họ phải ăn cơm tấm hay cháo gạo như các gia nhân thông thường thì họ được dùng gạo nguyên và cả thịt nữa.

Trong một môi trường sống quá đầy đủ tiện nghi như vậy, chú bé Tất Đạt Đa nổi bật lên giữa đám thiếu nhi trong thành Ca Tỳ La Vệ bởi sự ăn mặc sang trọng chỉnh tề hơn các trẻ em khác. Bộ quần áo mà chú bé Tất Đạt Đa mặc trên người nó được làm bằng toàn tơ lụa Ba La Nại, đó là loại tơ lụa quý hiếm đắt tiền bậc nhất. Đặc biệt thời còn thơ ấu, lúc nào Tất Đạt Đa cũng được một nhũ mẫu và đám tùy tùng vây quanh hầu hạ. Khi lên ba, lên năm thì sự quan tâm của hoàng tộc dành cho chú càng tăng lên nhiều hơn chứ không hề suy giảm, mà theo như lời Thái tử nói trong Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikaya) thì Ngài “rất mực được nuông chiều, hết sức được nuông chiều”…

Page 32: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

32

Thời thơ ấu trôi qua như một giấc mơ đẹp trong mỗi đời người, và với chú bé Tất Đạt Đa chắc hẳn cũng vậy! Tuy nhiên khi bước sang tuổi thiếu niên có lẽ cuộc đời sẽ không còn tròn đẹp và thoải mái như khi còn thơ ấu nữa, bởi trước mắt là bao điều cần phải giải quyết, cần phải tuân thủ, và cần phải trang bị cho bản thân những tư lương cần thiết nhất định, trước khi bước vào sân chơi lớn của mỗi đời người trên con đường sự nghiệp…

Nhờ được sự nuôi dưỡng tận tình của di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề và sự quan tâm dạy dỗ rất chu đáo của người cha nhân từ Tịnh Phạn Vương, nên khởi đầu của Thái Tử có nhiều thuận lợi để phát huy tối đa tố chất thông minh cũng như hình thành nên một nhân cách tư duy và trí tuệ siêu việt về sau.

Các tiểu vương quốc tại Ấn Độ thời bấy giờ dường như là họ rất quan tâm đến một nền giáo dục toàn diện, để tạo ra những hạt giống văn võ song toàn, không chỉ vậy, các vị vương tôn còn phải học và hành các môn đạo học để làm nền móng căn bản của cuộc sống, tất cả đều không ngoài mục đích là kế thừa ngôi vua cha để trị vì thiên hạ, chính vì vậy mà Thái tử Tất Đạt Đa cũng như các vương tôn hoàng tộc khác đều được thụ hưởng một nền giáo dục rất là chu đáo. Được thụ hưởng và thấm nhuần dưới một nền giáo dục đặc biệt đó, nhưng trong tâm tư Thái tử luôn suy tư về kiếp sống nhân sinh cũng như luôn âm thầm thắc mắc về những hiện tượng biến đổi vô thường trong đời sống…

Vào thời bấy giờ không hiểu giới bình dân nghèo khổ có được học hành hay không, về điều này chúng tôi không thấy kinh tạng Pali đề cập, nhưng trong Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikaya) và Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) thì có nói đến cách thức dạy học và các môn học của trẻ em thuộc tập cấp Bà La Môn và tập cấp quý tộc Sát Đế Lợi.

Vua Tịnh Phạn được xem là một vị minh quân rất quan tâm đến vận mệnh quốc gia, chính vì vậy mà ông đã quan tâm sâu sắc đến công tác giáo dục đào tạo cho những vương tử trong hoàng tộc. Thể hiện điều này, ông đã cho mời rất nhiều vị danh sư lỗi lạc cũng như những vị Bà La Môn uyên bác vào cung làm giáo thọ cho Thái tử.

Sự thông minh xuất chúng của Thái tử đã thật sự làm kinh ngạc những bậc thức giả cao thâm thời bấy giờ. Tương truyền, vua Tịnh Phạn cho người đi tìm những vị trí thức ẩn danh nơi chốn thâm sơn cùng cốc về dạy cho Thái tử, nhưng chỉ qua vài ba ngày, vị này phải bái biệt cáo từ, vì vốn liếng tri thức đã cạn, trong khi nhu cầu học hỏi của Thái tử là quá sức đối với vị giáo thọ này; vua Tịnh Phạn phải cho người đi thỉnh vị danh sư khác về dạy, nhưng vị nào uyên bác lắm cũng chỉ truyền đạt kiến thức cho Thái tử không quá một tuần là hết vốn, cuối cùng cũng đành từ biệt… Điều này chứng tỏ, sự thông minh cực kỳ của Thái tử là vô cùng hy hữu, đồng thời điều này cũng cho chúng ta thấy được, vì sao mà Thái tử hiểu biết rất thâm sâu các lãnh vực đời sống ngay khi chỉ mới vừa tám tuổi… Theo ghi chép của lịch sử Phật giáo Ấn Độ, thì khi vừa lên tám tuổi, Thái tử đã được vua cha cho theo học cả văn lẫn võ, và Ngài mau chóng tinh thông cả hai lãnh vực này.

Về lãnh vực tri thức, trên phương diện đạo học, Thái tử Tất Đạt Đa đã được dạy rất kỹ lưỡng về Tứ Thư Vệ Đà, bao gồm: 1/ Ly Câu Vệ Đà (Rig Veda): Gồm những bài thánh ca mang tính thần thoại, trong đó bao hàm tư tưởng về nhân sinh quan và vũ trụ quan. 2/ Tha Ma Vệ Đà (Sama Veda): Gồm những bài vịnh cũng không ngoài ý tưởng ngợi ca những vị thần. 3/ Dạ Nhu Vệ Đà (Yajur Veda): Trong kinh tứ thư Vệ Đà, thì Dạ Nhu Vệ Đà gồm những lời cầu khấn trong tế lễ. 4/ A Thát Bà Phệ Đà (Atharva Veda): Gồm những câu thần chú, mục đích nhằm giúp người cầu đảo thông linh với các vị thần quyền năng trong vũ trụ. Trên phương diện thế học, Thái tử Tất Đạt Đa đã được dạy bốn ngành học căn bản của thế gian và một ngành đạo học, mà thuật ngữ Phật học gọi chung là Ngũ Minh, gồm có: 1/ Thanh Minh: Là môn học về văn chương, ngôn ngữ. 2/ Công Xảo Minh: Là môn học khéo tay trong kỹ nghệ. 3/ Y Phương Minh: Là môn học về nghề y. 4/Nhân Minh: Là môn học về phương cách lý luận. 5/ Nội Minh: Riêng nội minh là môn học nhằm bổ sung kiến thức ở lãnh vực đạo học, cũng là một môn học đi sâu vào đạo Bà La Môn giáo…

Trong học tập, Thái tử Tất Đạt Đa đã thể hiện sự thông minh tuyệt vời vì chỉ trong một thời gian ngắn, Thái tử đã nắm vững một cách toàn diện những kiến thức uyên áo nhất của thời đại, được gói gọn trong Tứ Thư và Ngũ Minh đó.

Trong quá trình học tập, đặc điểm nổi bật của Thái tử là thường đưa ra những lập luận hay kiến giải rất sáng tạo, làm cho các vị danh sư thông thái vô cùng kinh ngạc, cũng có khi Thái tử chủ động chất vấn các vị giáo sư làm họ lúng túng không thể trả lời được. Với tố chất thông minh thiên phú và với những kiến thức có thể nói là bao trùm thời đại mà Thái tử đang

Page 33: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

33

sở hữu nhưng điều đó vẫn không làm cho Thái tử tự mãn, ngược lại Thái tử vẫn miệt mài đi tìm minh sư học hỏi với thái độ rất khiêm cung cầu học chớ không phải để đi chất vấn hay khoe khoang sở học.

Như chúng ta đã biết, vì Thái tử Tất Đạt Đa suốt ngày chỉ quan tâm đến các vấn đề liên quan đến trí tuệ và đời sống tâm linh, nên việc tiếp thu những tư tưởng uyên áo của thời đại đối với Thái tử quả là một việc quá dễ dàng. Bên cạnh đó việc thụ hưởng giáo dục của Thái tử cũng được hỗ trợ bởi sự thường xuyên có mặt của Thái tử tại các buổi họp hội đồng hoàng tộc hay các buổi xử án mà Tịnh Phạn vương làm chủ tọa. Thực tế tại các phiên tòa xét xử hay tại phòng họp hội đồng gia tộc đã giúp cho Thái tử tạo nên một phong cách lắng nghe, phương pháp suy luận để nhận chân vấn đề, cẩn trọng và chính xác trong phát biểu.

Đặc điểm của sự thông minh và trí tuệ uyên bác nơi Thái tử là luôn tồn tại song hành với sự nhạy cảm của tâm hồn và sự suy tư trầm mặc để chiêm nghiệm về những điều bí ẩn trong đời sống tâm linh. Những đặc tính hoàn toàn không có ích lợi gì trong việc gìn giữ ngai vàng, điều này đã làm cho Tịnh Phạn vương lo lắng, vì với sự suy nghĩ thực tế của Ngài, thì đó là dấu hiệu bộc lộ những nhược điểm không nên có nơi một vị quân vương tương lai…

Chính sự nhạy cảm và suy tư đặc biệt đó mà Thái tử đã nhận thức được rằng, cuộc đời không phải lúc nào cũng vui sướng cả, nấp đằng sau mọi hạnh phúc đều có sẵn đau khổ và vô thường. Về điều này, trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) cũng đã nêu rất rõ là ngay trong giai đoạn còn là một thiếu niên, được sống trong vòng tay yêu thương của phụ vương và di mẫu, đời sống gia đình vô cùng ấm cúng và nó tách biệt với sự khổ đau bất hạnh ở bên ngoài, vậy mà Thái tử đã nhận thức sâu sắc vấn đề này:

“Này các Tỳ kheo, ta đã sống cuộc đời rất được nuông chiều trong cung phụ vương. Và này các Tỳ kheo, giữa cuộc đời đầy hạnh phúc ấy, tư tưởng này thường nảy lên trong trí ta: “Quả thật, một kẻ chỉ biết sống đời thế tục hoàn toàn, chính kẻ ấy bị tuổi già chi phối, lại rất chán ngán khi thấy một người già nua. Song phần ta cũng bị tuổi già chi phối và không thể thoát được chuyện ấy. Nghĩ như thế, này các Tỳ kheo, mọi lạc thú về tuổi trẻ đều rời bỏ ta”.

“Quả thật, một kẻ chỉ biết sống đời thế tục hoàn toàn, chính kẻ ấy phải bị bệnh tật chi phối, lại rất chán ngán khi thấy một người bệnh hoạn. Song phần ta cũng phải bị bệnh tật chi phối và không thể thoát được chuyện ấy. Nghĩ như thế, này các Tỳ kheo, mọi lạc thú về thể lực đều rời bỏ ta”.

“Quả thật, một kẻ chỉ biết sống đời thế tục hoàn toàn, chính kẻ ấy phải chịu cái chết chi phối, lại rất chán ngán khi thấy một tử thi. Song phần ta cũng phải bị cái chết chi phối và không thể thoát được chuyện ấy. Nghĩ như thế, này các Tỳ kheo, mọi lạc thú về đời sống đều rời bỏ ta” (Tăng Chi Bộ Kinh 3-38).

Khi đọc qua những đoạn kinh văn trên đây, chúng ta cảm nhận ngay một sự tha thiết và trịnh trọng của Thái tử khi Ngài nói về sự thực bất di bất dịch trong đời sống con người, dù lúc đó Ngài chỉ là một thiếu niên chưa đến tuổi trưởng thành. Có thể nói đây là một trong những kinh nghiệm tâm linh đầu đời rất chân thật chính xác và sâu sắc của Thái tử. Những kinh nghiệm và nhận thức như thế này mỗi ngày một bền chắc và sâu sắc hơn khi độ tuổi trưởng thành của Thái tử càng ngày càng chín.

Từ nhân cách sống và thái độ nghiêm túc trong học tập, cũng như những tinh hoa tư tưởng mà Thái tử đã tiếp thu, đã phần nào tạo nên một nhân cách văn hóa tuyệt vời nhất trong lịch sử loài người mà chúng ta sẽ có dịp bàn đến trong các chương sau.

Về phương diện võ nghệ, thì ngay từ thời còn nhỏ, Thái tử đã được vua cha cho học cỡi ngựa, rồi làm quen với cung tên, gươm kiếm. Khi vừa đủ tuổi để tập luyện binh khí, thì chỉ trong một thời gian ngắn, Thái tử đã thuần thục tất cả bát ban võ nghệ. Trong một đại hội võ thuật, Thái tử đã nhanh chóng đánh bại Đề Bà Đạt Đa (Devadata) và Nan Đà (Nanda) chỉ trong một hiệp mà không cần phải dụng công nhiều. Từ sự uyên bác vượt bật trên phương diện tri thức lẫn tài thao lược quân sự và tinh thông bát ban võ nghệ, đã khiến cho Thái tử Tất Đạt Đa trở nên một vị vương tử văn võ song toàn, là niềm tự hào cho cả bộ tộc Thích Ca, là niềm tin yêu và kỳ vọng của vua Tịnh Phạn.

Sự học hành trong chốn hoàng cung và những kiến thức mà Thái tử đã lãnh giáo từ những bậc thạc đức trí tuệ cao thâm, quả là đã đem đến cho Thái tử những tháng ngày vô cùng ý nghĩa và thật sự bổ ích, vì đó là cơ sở để Thái tử hướng xa tầm nhìn, càng sâu sắc trong tư duy hơn và tất nhiên là nó đã giúp cho Thái tử hiểu rõ hơn các pháp thế gian sẽ không thể nào giải quyết được những điều mà con người trăn trở thao thức về kiếp sống nhân sinh.

Page 34: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

34

CHƯƠNG NĂM

THÁI TỬ TẤT ĐẠT ĐATRƯỞNG THÀNH VÀ XUẤT GIA

Khi nhìn lại lịch sử Phật giáo, chúng ta đều biết, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ba lần xin phép Tịnh Phạn Vương ra ngoài bốn cửa thành để quan sát đời sống dân gian. Thoạt tiên, Thái Tử nhìn thấy cảnh tương tàn tương sát giữa các loài chim muông và sâu bọ; kế tiếp là cảnh sống khốn khổ bần cùng cũng như số phận bi thương của những người nô lệ thuộc tập cấp Thủ Đà La; rồi tận mắt chứng kiến cảnh những người bệnh nằm co quắp ở dưới những gốc cây nơi bìa rừng chờ chết và cảnh những người khiêng tử thi đem đi hỏa thiêu, sau đó đem tro thả xuống dòng sông Hằng, để cho nó trôi đi theo phương trời vô định…

Sau những lần mục kích đời sống thế gian không hề bình an phẳng lặng và hanh phúc đủ đầy như ở chốn hoàng cung, điều này đã khiến nội tâm Thái tử ngày đêm văng vẳng tiếng kêu thương của những người nô lệ. Cũng chính trong những lần ra khỏi thành quan sát và tìm hiểu đời sống dân gian, ấn tượng mạnh mẽ đã in sâu vào tâm trí Thái tử, đó là hiện tượng đau khổ tột cùng của sanh già bệnh chết nơi mỗi con người…

Với một trí tuệ siêu việt và một tâm hồn nhạy cảm trước khổ đau luân hồi sinh tử của chúng sanh và tất nhiên là trong đó có bản thân mình, cho nên Thái tử thường bỏ qua những thú vui thường tình trong cuộc sống mà để tâm nhiều đến tư tưởng triết lý giải thoát của các đạo giáo lúc bấy giờ. Những cuộc bàn luận triết lý với các bậc hiền triết đương thời đã gây ấn tượng sâu sắc vào tâm hồn Thái tử và Thái tử đã thật sự bị thu hút bởi sức hấp dẫn đặc biệt của các đoàn thể Sa môn (của Bà La Môn giáo), lời cảm thán của ngài về điều này đã được ghi lại trong Duyên Khởi Luận (Nidànakathà) như sau: “Đời sống tại gia đầy bất tịnh thật là chật hẹp, còn đời sống Sa môn tự do như bầu trời khoáng đạt”.

Cũng trong Duyên Khởi Luận (Nidànakathà) đã trích lại một đoạn kinh văn trong Kinh Đại Bổn (thuộc Trường Bộ Kinh) thuật lại bốn lần du hành của đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipassi), đây là một vị cổ Phật (phi lịch sử), vị Phật này cũng từng du hành qua bốn cửa thành và chứng kiến cảnh sanh–lão-bệnh-tử trong đời sống nhân gian để rồi cuối cùng phát bồ đề tâm hướng về con đường tu hành giải thoát như mười phương chư Phật đã trải qua, rồi sau đó chuyển tiếp đến đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni. Trong tường thuật về bốn lần du hành của Thái tử Tất Đạt Đa, Duyên Khởi Luận (Nidànakathà) ghi tóm lược rằng, Thái tử Tất Đạt Đa lúc bấy giờ đang sống một đời sống nhung lụa êm ấm trong chốn hoàng cung tại thành Ca Tỳ La Vệ, tuy nhiên ngài rất muốn được tận mắt chứng kiến đời sống thế gian ra sao. Khi ngồi trên vương xa tứ mã, người quản xa chậm rãi thả nước kiệu để Thái tử thong thả dạo ngắm cảnh đời. Bỗng nhiên Thái tử trông thấy một lão già bên vệ đường dáng vóc tiều tụy, lưng còng run rẩy trông rất thương tâm. Thái tử bèn hỏi người quản xa và được trả lời đó là người già đó sắp chết, quản xa lại nói thêm: “Người già rồi phải chết, việc này diễn ra thường xuyên trong đời sống con người”. Nghe người quản xa nói như thế, tâm trạng Thái tử rất lo lắng hoảng sợ, vì nhận ra rằng, rồi đây, trong một ngày nào đó mình cũng sẽ già, cũng sẽ tiều tụy, má hóp da nhăn, lưng còng run rẩy như bà cụ già sắp chết kia thôi. Thái tử không còn hứng thú dạo chơi nữa, ngài liền trở về cung. Trong ba lần du hành tiếp theo sau đó, Thái tử trông thấy một người bệnh,

Page 35: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

35

một người chết và một vị khất sĩ. Trong lần gặp vị khất sĩ, đã khiến tâm trí Thái tử thú hướng mãnh liệt đến con đường tu hành giải thoát. Chính vì vậy mà Thái tử đã quyết định từ giã đời sống thế tục một cách dứt khoát…

Hiện tượng sanh già bệnh chết tuần tự diễn ra trong đời sống nhân gian chính là nỗi trăn trở thao thức khôn nguôi nơi tâm hồn Thái tử, những cảnh tượng đau buồn này luôn ám ảnh Thái tử, khiến cho ngài không giấu được cảm xúc ưu tư sầu khổ hiện lên trên gương mặt thánh thiện của mình, điều này làm cho Thái tử không còn chút cảm hứng gì đối cái ngai vàng mà lúc nào Vua Tịnh Phạn cũng kỳ vọng ở ngài… Như trong Trường A Hàm1, Kinh Đại Bản Duyên đã có ghi:

“Nhìn mạng già sắp chết Nương chiếc gậy yếu bước Bồ tát tự suy nghĩ Ta chưa khỏi nạn này”. “Thấy người bệnh lâu kia Nhan sắc bị suy tàn Lặng lẽ tự suy nghĩ Ta chưa khỏi nạn này”. “Vừa trông thấy người chết Biết họ còn tái sanh Thầm lặng mà suy nghĩ Ta chưa khỏi nạn này”. “Quyết tìm pháp nhiệm mầu Người nghe theo xuất gia Xa lìa ngục ái ân Không còn các ràng buộc”.Thật đúng là như vậy, vì sau khi dạo quanh bốn cửa thành, in sâu vào tâm trí của Thái Tử

Tất Đạt Đa lúc bấy giờ tất cả đều không ngoài nỗi ám ảnh bởi sự chi phối và hủy diệt từng giây từng phút của vô thường. Đó là hiện tượng sanh già bệnh chết luôn đeo bám đời sống con người như hình với bóng… Có thể nói đây là bài học rất sâu sắc về lý vô thường mà Thái tử đã nhắc nhỡ chúng ta rằng “Đời sống vốn vô thường, mạng sống con người vốn mong manh, không chắc thật”.

Mạng sống con người mong manh không chắc thật, đã vậy thời giờ còn trôi nhanh như tên bắn, cứ mỗi giây phút trôi qua, mạng sống lại giảm dần, tâm tư trăn trở thao thức vấn đề này một cách mãnh liệt đã khiến nội tâm Thái tử Tất Đạt Đa bùng phát tinh thần “Tự Giác” và “Tự Độ”. Đây là động cơ chính yếu để ngài từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, cam chịu đời sống khổ hạnh nơi rừng thiêng nước độc để tìm cầu đạo giải thoát. Đối với chúng ta cũng vậy, khi đã cảm nhận sâu sắc về lý vô thường, chắc chắn rằng, chúng ta sẽ không còn mặn mà với việc tham đắm lợi danh, chắc chắn chúng ta cũng sẽ không còn cảm thấy hứng thú gì với việc gây hấn tranh đua, thị phi nhân ngã, giành giựt nhau trong đời sống. Ngược lại chúng ta sẽ thường xuyên cảnh tỉnh bản thân, sẽ tự phát khởi trách nhiệm với chính bản thân mình bằng tinh thần “Tự Giác” và “Tự Độ”, chúng ta sẽ biết quý trọng thời gian, dùng thời gian vào những việc hữu ích trong đời sống tu tập, hoằng pháp, từ thiện xã hội làm lợi ích quần sanh…

Từ bài học vở lòng về lý vô thường, chúng ta sẽ phát khởi lòng từ để đồng cảm và chia sẻ với những hoàn cảnh bất hạnh đau thương trong đời sống quanh ta, chúng ta sẽ phát khởi trí tuệ để nhận chân đâu là điều thiện, đâu là điều bất thiện một cách tường tận và rõ nét hơn, để có hành dụng và ứng xử hợp lý với từng sự việc. Nói khác hơn, khi cảm nhận sâu sắc về luật vô thường, chúng ta sẽ biết gieo nhân lành, xa rời điều ác, để tránh quả báo đau khổ về sau. Chính bài học vô thường đã giúp chúng ta chủ động sống tích cực hơn, chứ không phải sống bi quan, thụ động, vì cho rằng “sống nay chết mai” chẳng có gì phải vướng bận!

Từ khi còn là Thái Tử, chỉ với việc ba lần dạo quanh bốn cửa thành, rồi trở về suy tư thao thức, đức Phật của chúng ta đã đánh động lương tri của loài người, rằng hãy tự cứu lấy mình, trước khi vô thường hủy diệt. Và điều này không chỉ xác thực với mỗi người con Phật, mà còn đúng với cả nhân loại, nhất là trong bối cảnh thế giới ngày nay đang chịu rất nhiều hậu quả nghiêm trọng bởi hiện tượng biến đổi khí hậu, cụ thể là hiện tượng băng tan và quả đất đang nóng dần lên từng ngày… Điều thú vị và đáng tự hào của Phật tử chúng ta là lời dạy của

Page 36: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

36

đức Phật, dù cách đây đã trên 2550 năm, nhưng đến nay vẫn còn rất thời sự, rất tâm linh mà cũng rất khoa học, rất sáng suốt, rất thực tế, hoàn toàn không mơ hồ ảo tưởng. Cũng từ việc dạo quanh bốn cửa thành, trăn trở trước hiện tượng sanh già bệnh chết trong đời sống nhân gian, đức Phật đã khéo khơi dậy lòng từ bi vốn có nơi mỗi con người, là hãy sống với nhau chân thực hơn, hãy sống ích lợi cho bản thân và cống hiến cho xã hội nhiều hơn vì trên dòng đời ngắn ngủi này, uy quyền danh lợi rồi cũng lụi tàn, chỉ có Từ Bi và Trí Tuệ mới tồn tại vĩnh hằng, vì thế gian đầy biến động này vốn là cõi tạm, duy chỉ có giác ngộ và giải thoát mới giúp chúng ta có con đường sáng để quay về chốn quê Cực Lạc… Có thể nói, từ sự nhận chân bản chất vô thường của vạn vật, từ sự chứng ngộ bản tâm vốn tràn đầy công đức của Thái tử Tất Đạt Đa, mà sau này đã hình thành nên một nhân cách văn hóa siêu việt của đức Phật. Hay nói khác hơn, sự nhận chân chuẩn xác và xuyên suốt quá trình sống đạo, hoằng pháp lợi sanh đã hình thành nên một nhân cách văn hóa tuyệt vời trong lịch sử loài người…

Ngay sau những lần dạo quanh bốn cửa thành, Thái tử đã cảm nhận một cách sâu sắc tính chất vô thường luôn hiện hữu trong đời sống con người. Do vậy đối với Thái tử thì cuộc đời không có gì là vui sướng, là bền vững chắc thật, là an lạc lâu dài và giải thoát cả, ngược lại tất cả đều là vô thường, là bất an và đau khổ… Do vậy mà Thái tử luôn suy nghĩ tìm cách độ mình và cứu khổ chúng sanh.

Nói về vua Tịnh Phạn, vì thấy Thái tử lúc nào cũng suy tư trầm mặc, nên ngài khuyên Thái tử nên dạo chơi đây đó cho khuây khỏa tâm hồn, thế là Thái tử liền ra ngoài thành để du sơn ngoạn thủy. Trong lần này, Thái tử bắt gặp hình ảnh một vị Sa Môn đang ung dung thả bước, tướng mạo oai nghi, trang nghiêm đỉnh đạc, trong rất tiêu dao tự tại… Thái tử liền nảy sinh tư tưởng xuất gia cầu đạo giải thoát. Trên đường về Thái tử rất vui mừng, trông mau về đến hoàng cung để xin phép vua cha cho mình được xuất gia.

Thái tử đã mấy lần xin phép cũng như khẩn cầu vua Tịnh Phạn cho phép ngài đi xuất gia, nhưng lần nào vua Tịnh Phạn cũng đều không chấp thuận. Vua Tịnh Phạn đưa ra lý do rằng, việc xuất gia chỉ phù hợp với những vị tu sĩ Bà La Môn, còn đối với Thái tử thì hãy nên an dưỡng tinh thần, trau giồi văn chương võ thuật cũng như binh pháp để sau này kế thừa ngôi vị…

Thật ra Tịnh Phạn vương là một vị minh quân, đồng thời cũng là một người cha nhân từ đức độ, nhưng ngài không thể nào hiểu nỗi những tâm tư sâu kín nơi đứa con yêu quý của mình, chính vì vậy mà ngài luôn tìm cách muốn ngăn cản con đường xuất gia học đạo của Thái tử. Một trong những điều mà ông có thể làm, là tìm mọi cách khiến cho Thái tử vui lên, phấn chấn lên… bằng những buổi yến tiệc linh đình với đầy đủ đàn sáo ca ngâm hát xướng, nhưng tất cả cũng chỉ làm cho Thái tử nở nụ cười miễn cưỡng mà thôi…

Như chúng ta đã biết, nhờ được sự giáo dưỡng tận tình chu đáo của kế mẫu và người cha nhân từ Tịnh Phạn Vương, chính vì vậy mà Thái tử Tất Đạt Đa đã được thụ hưởng một nền giáo dục được xem là toàn diện. Dù được thụ hưởng nền giáo dục đặc biệt đó, nhưng tâm tư Thái tử luôn suy tư trăn trở về những hiện tượng vô thường trong đời sống… Trong kinh điển thường ghi chép lại rằng, tâm trí Thái tử lúc nào cũng âm ỉ ngọn lửa suy tư về kiếp nhân sinh, một bằng chứng xác thực là sau những giờ học, Thái tử thường dạo chơi ở những nơi hoang vắng yên tĩnh, tại những nơi có không gian lắng đọng như vậy, Thái tử rất thích được ngồi một mình, tha hồ suy tưởng về những vấn đề mà thường ngày Thái tử vẫn còn ưu tư thắc mắc trong lòng.

Cũng cần nói thêm, sự khát khao một đời sống tâm linh giải thoát trong tâm hồn Thái tử, được thổi bùng lên trong bối cảnh xã hội Ấn Độ thời bấy giờ là phong trào các tín đồ Bà La Môn cấp tiến và các du sĩ từ giã đời sống gia đình vào chốn rừng sâu tìm cầu chân lý đang đến hồi nở rộ. Vì thấy được nguy cơ trước sau gì thì Thái tử cũng xuất gia, nếu như không có một mái ấm gia đình và một trách nhiệm cụ thể giữ lấy chân chàng, nên Tịnh Phạn vương đã âm thầm sắp đặt một cuộc hôn nhân, mà mọi việc chỉ còn là vấn đề thời gian sao cho hợp lý…

Thấy không thể làm cho Thái tử nguôi ngoai ý chí xuất gia, Tịnh Phạn vương đã lệnh cho Thái tử phải lập gia đình theo truyền thống hoàng tộc, vì lúc bấy giờ Thái tử cũng vừa tròn 16 tuổi. Như chúng ta đã biết, Thái tử Tất Đạt Đa là một người con chí hiếu, nên Thái tử sẵn sàng vâng lệnh vua cha tham dự buổi kén chọn phò mã. Cuối cùng Thái tử đã vượt qua các đấu thủ và thành hôn với công chúa Da Du Đà La (Yásoddharà) con gái của vua Thiện Giác (Suppabuddha) nước Câu Ly (Koli). Sau đó, Thái tử hạ sanh một con trai tên là La Hầu La (Rùhula).

Page 37: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

37

Đối với các nhà Phật học và giới nghiên cứu lịch sử đức Phật thì cuộc hôn nhân giữa Thái tử Tất Đạt Đa và công chúa Da Du Đà La (Yásoddharà) là một sự kiện đáng chú ý nhất trong khoảng thời gian từ khi lập gia đình cho đến lúc xuất gia. Nói là đáng chú ý vì qua đó nó bộc lộ rõ hơn nữa tính cách chân thật, tinh thần trách nhiệm, khả năng thích nghi và cả sự dứt khoát kiên quyết của Thái tử khi cần thực hiện một điều gì đó thật sự có ý nghĩa và lợi ích cho mọi người xung quanh.

Như chúng ta thấy, cuộc hôn nhân này là do chủ ý của vua Tịnh Phạn nhằm ràng buộc Thái tử trong đời sống thế tục, dù biết là như vậy, nhưng Thái tử không những vui vẻ chấp thuận, mà Thái tử còn nỗ lực làm cho cuộc hôn nhân của mình thành tựu trọn vẹn. Bởi vì đây là một cuộc hôn nhân kén chọn phò mã, nên bắt buộc Thái tử phải vượt qua tất cả những người tham gia ứng thí. Tại đấu trường, trải qua những màn thách đấu võ nghệ, phô diễn các tài nghệ cỡi ngựa bắn tên, điều làm cho mọi người vô cùng ngưỡng mộ là Thái tử đã nhanh chóng vượt qua các đối thủ, và chiến thắng tuyệt đối họ ở hai phương diện cả văn lẫn võ. Điều này làm cho Tịnh Phạn vương vô cùng sung sướng hãnh diện và làm cho vua Thiện Giác (Suppabuddha) phụ vương của công chúa Da Du Đà La (Yásoddharà) từ ngạc nhiên đến thán phục. Điều này cũng làm cho vua Thiện Giác rất yên tâm vì đã chọn được một vị phò mã vừa đức hạnh vừa oai dũng với văn võ song toàn…

Ở đây chúng ta nhận thấy tính chân thật và tinh thần trách nhiệm của Thái tử là rất cao cả và tuyệt đối, dù rằng chúng ta thường hay nói với nhau là trên đời này thì không có gì là tuyệt đối cả. Sở dĩ chúng tôi nói như vậy là vì khoảng thời gian trước buổi thi đấu kén chọn phò mã không lâu, Thái tử còn khẩn cầu vua cha cho mình được xuất gia tu học, và ngay cả lúc vâng lời vua cha để đi dự buổi kén chọn phò mã thì tâm tư Thái tử chắc gì đã bằng lòng an phận trong đời sống thế tục (?). Vậy mà Thái tử vẫn quyết tâm vượt qua các đối thủ mặc dù tài năng những người này đều chẳng phải hạng tầm thường. Nỗ lực vượt qua tất cả mọi chướng ngại để mang về một kết quả mà mình không hề lưu tâm tới, hay nói một cách xác thực hơn, nỗ lực vượt qua tất cả mọi chướng ngại để nhận lấy một cái mà Thái tử luôn tâm niệm đó là cội nguồn của khổ đau sanh tử. Nếu suy nghĩ chín chắn, chúng ta mới thấy chữ hiếu nơi Thái tử nó lớn dường nào, nó chân thật dường nào!

Qua những chiến thắng oanh liệt trên đấu trường, điều này chứng tỏ ngoài một trí tuệ siêu việt xuất chúng, Thái tử còn có một tài năng vượt bật và một sức khỏe phi thường của một dũng tướng. Với một người có tham vọng, họ hoàn toàn có thể nuôi giấc mộng bá chủ, mở rộng giang sơn… Thế nhưng, Thái tử đã có một cách sống riêng, đúng với bản chất của mình, là chân thật từ bỏ danh vọng, là sống có trách nhiệm và sống không vì tư lợi hay ích kỷ bản thân.Có thể nói sự chiến thắng này cũng đã làm cho thái tử ngộ được chân lý của sự hơn thua, đó là kẻ thắng thì an vui, người thua thì đau khổ. Chính những tính cách này mà Thái tử không thể nào rời bỏ chí hướng xuất gia cầu đạo giải thoát…

Một điều nữa, dù là một cuộc hôn nhân ngoài mơ ước, hay nói đúng hơn, là không ở trong suy nghĩ và ngoài tầm kiểm soát của Thái tử. Nhưng chắc hẳn nó cũng đã mang lại cho Thái tử một cuộc sống mới với nhiều trải nghiệm cần thiết trong đời sống thế tục, với một người tầm thường thì đây là một hôn nhân mang lại thật nhiều hạnh phúc cho họ, nhưng đối với một người hoàn toàn không mặn mà gì với đời sống thế tục như Thái tử thì cuộc hôn nhân này chưa chắc đã mang lại hạnh phúc, nếu không muốn nói đó chỉ là một sự ràng buộc mong manh…

Quả thật là như vậy, khi được sống trong một điều kiện tối ưu, trong một gia đình hạnh phúc, thì hình ảnh khốn khổ của những tiện dân nô lệ Thủ Đà La hiện lên tâm trí Thái tử rõ nét hơn bao giờ hết; đặc biệt là sự hiện diện của một mầm sống mới trong mái ấm son trẻ này đã làm Thái tử thao thức nhiều hơn về kiếp nhân sinh và luật vô thường, sanh lão bệnh tử vẫn là nỗi ám ảnh day dứt khôn nguôi trong tâm hồn Thái tử, mà với nhận thức của Thái tử thì một khi đã làm người thì không một ai có thể trốn chạy đi đâu cho thoát.

Chính bức tranh tương phản này đã làm những hạnh phúc nhất thời trong đời sống thế tục của Thái tử bỗng chốc tan biến và nhường chỗ vào đó là sự quyết tâm xuất gia cầu đạo giải thoát trở nên quyết liệt hơn, mạnh mẽ hơn. Chính vì vậy mà Thái tử đã rất dứt khoát với quyết định của mình lần này. Chàng đã bỏ lại nơi chốn hoàng cung vị cha gìa nhân từ đức độ, bỏ lại vòng tay rất mực yêu thương của người vợ trẻ đẹp và đứa con thơ vừa mới sinh ra rất cần được sưởi ấm bởi tình thương của cha lẫn mẹ, cùng với bao nhiêu điều lưu luyến mến thương khác.

Page 38: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

38

Có thể nói rằng đây là một sự ra đi tràn đầy thương cảm nhưng cũng cao ngất ý chí thoát trần của một bậc đại trượng phu giác ngộ (lý vô thường).

Hành động từ bỏ tất cả của một cuộc sống có thể nói là quá đầy đủ về tinh thần và vật chất, tự nguyện dấn thân vào cuộc đời sương gió nơi rừng thiêng nước độc cam chịu nhọc nhằn khổ ải chỉ vì khao khát tìm cầu chân lý giải thoát, điều này đã làm cho sự ngưỡng mộ và thán phục của nhân loại đối với Thái tử Tất Đạt Đa trên 2550 qua ngày càng tăng chứ không hề suy giảm.

Quay lại sự việc sau khi Thái tử lập gia đình với công chúa Da Du Đà La (Yásoddharà), Tịnh Phạn vương rất vui mừng, vì cho rằng, như vậy sẽ cột chặt cuộc đời Ngài trong chốn hoàng cung và níu được chân ngài ở lại với chiếc ngai vàng… Thế nhưng, những năm tháng chăn êm nệm ấm bên người vợ đẹp tuyệt trần như vậy vẫn không làm cho Thái tử quên đi sự trầm tư và ưa thích sống trong yên lặng để chiêm nghiệm những điều bí ẩn của thế giới tâm linh. Cuộc hôn nhân nào rồi cũng có kết quả của nó, và cuộc hôn nhân của Thái tử cũng đã mang lại một kết quả vô cùng có hậu, được xem là đại kiết tường, dù rằng Thái tử đã đặt tên cho con mình là La Hầu La (Rùhula) có nghĩa là Điều ràng buộc, nhưng chúng ta thử nghĩ, nếu Thái tử quyết tâm rời bỏ cha già vợ đẹp mà không để lại một đứa con ngoan thì công chúa Da Du Đà La (Yásoddharà) sẽ sống như thế nào đây trong chốn khuê phòng lạnh lẽo? Tịnh Phạn vương sẽ được an ủi như thế nào nếu không có một đứa cháu kháu khỉnh yêu thương bên ông nội?

Khi đặt tên cho con là La Hầu La (Điều ràng buộc), tức là Thái tử đã tự nhắc nhở với bản thân mình rằng, đây là kết quả của sự yêu thương ân ái vốn là dục lạc ích kỷ trong đời sống thế gian, nó là sợi dây ràng buộc, làm ngăn trở con đường giải thoát đối với những ai có chí thoát trần… Chính vì luôn nhắc nhở bản thân mình như vậy, kể từ khi cảm ngộ sâu sắc lý vô thường, ý chí xuất gia cầu đạo giải thoát của Thái tử không hề suy giảm, ngược lại càng làm cho Thái tử nung nấu chí hướng của mình hơn bao giờ hết, cho nên dù cung vàng điện ngọc đang chờ sẵn, với vợ đẹp con ngoan, với một tương lai tràn đầy uy quyền danh vọng, nhưng rồi Ngài cũng từ bỏ như từ bỏ một đôi dép rách…

Những điều ràng buộc ấy hầu như không thể nào ràng buộc được Thái tử, thế rồi việc gì đến đã đến, trong một đêm khuya, Thái tử đã bảo với quản xa Xa Nặc (Chandaka) là hãy giúp ngài đặt yên cương vào lưng ngựa. Trong khi Xa Nặc làm công việc của mình thì Thái tử nhẹ nhàng bước về phía phòng công chúa, lúc bấy giờ ngọn đèn dầu đã tắt, nên trước mắt Thái tử chỉ phảng phất hình dáng Da Du Đà La đang ôm La Hầu La vào lòng say giấc ngủ ngon. Có lẽ do vậy mà Thái tử đã không được nhìn rõ mặt của La Hầu La trước khi ngài lên đường. Sau khi lặng lẽ nhìn vợ con lần cuối, Thái tử đã trốn Tịnh Phạn Vương, vượt thành Ca Tỳ La Vệ ra đi vào lúc nửa đêm cùng với người quản xa trung thành Xa Nặc và con ngựa Kiền Trắc (Kanthaka) yêu quý. Khi đến cửa Đông, cổng thành đã đóng chặt và lính gác rất nghiêm ngặt, tuy nhiên cuối cùng ngài cũng đã vượt qua để từ đó tiến sâu vào bản nguyện, với quyết tâm tìm ra chân lý, để khơi nguồn tuệ giác giúp cho nhân loại vượt lên những ràng buộc trong kiếp nhân sinh và giải thoát khỏi sự bức ngặt khổ đau luân hồi sanh tử.

Vượt qua cổng thành hướng Đông, Thái tử bảo Xa Nặc hãy cho Kiền Trắc phi nước đại, thành Ca Tỳ La Vệ mỗi phút giây trôi qua, theo vó ngựa phi, nó càng lùi dần vào dĩ vãng. Ngay trong đêm đó, sau khi đã vượt qua ba nước láng giềng thuộc bộ tộc Koliyas, Thái tử Tất đã đến dòng sông A Nô Ma (Anomà) lịch sử. Sau khi khuyên bảo Xa Nặc quay về thành cùng với tất cả vàng ngọc trang sức của mình, Thái tử bơi sang bên kia bờ sông A Nô Ma, ngài dùng dao cạo bỏ râu tóc, khoác lên người chiếc áo Sa môn (Samana) và bắt đầu một cuộc sống mới của người khất sĩ tu hành giải thoát…

Ngày Thái tử Tất Đạt Đa dấn thân vào con đường tu hành giải thoát, thật sự là một ngày lịch sử rất đáng ghi nhớ của nhân loại. Lịch sử Phật giáo thế giới đã xác nhận đó là ngày đức Phật Thích Ca xuất gia, nhằm ngày mồng 8 tháng 2 âm lịch, năm đó Thái tử Tất Đạt Đa vừa tròn 29 tuổi.

Page 39: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

39

CHƯƠNG SÁU

THÁI TỬ TẤT ĐẠT ĐATHÀNH PHẬT

Khi nói đến bước đường hành đạo của Thái tử Tất Đạt Đa, có lẽ quý Phật tử liền nghĩ ngay đến quá trình sáu năm khổ hạnh rừng già và cái mốc quan trọng là bảy thất nghiêm minh thiền tọa, tức là 49 ngày thiền định dưới cội bồ đề, cho đến khi nhìn thấy ánh sao Mai vừa mọc vào rạng sáng ngày thứ 49, ngài hốt nhiên triệt ngộ, thấu rõ bản tâm thanh tịnh, chứng thực tướng nhân sanh vũ trụ. Đây là điều mà quý Phật tử đều đã từng biết về bước đường tu hành giải thoát của Thái tử Tất Đạt Đa nôm na là như vậy…

Tuy nhiên để tìm hiểu một cách kỹ lưỡng hơn quá trình hành đạo của Sa môn Cồ Đàm (tên thường gọi của Thái tử Tất Đạt Đa sau khi ngài xuất gia) chúng ta cần phải bắt đầu từ việc sau khi ngài cạo bỏ râu tóc, khoác lên người chiếc áo Sa môn để bắt đầu một cuộc sống mới của người tu hành giải thoát.

Thật ra cho đến nay vẫn chưa có nguồn sử liệu nào nói chính xác về việc Sa môn Cồ Đàm đi đến đâu trước tiên sau khi ngài cạo bỏ râu tóc. Theo Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) thì tường thuật lại rằng, sau khi rời thành Ca Tỳ La Vệ, vượt qua ba quốc gia, ngài cạo bỏ râu tóc bên bờ sông A Nô Ma rồi liền đi ngay đến am thất của đạo sư A Ra La Già Đa Na (Àlàra Kàlàma). Thế nhưng trong Duyên Khởi Luận (Nidànakathà) thì lại ghi rằng, ngay sau khi xuất gia, ngài tìm đến tiên nhân Bạt Già Bà (Bhagavà) hỏi đạo, thấy không phù hợp, Thái tử chỉ lưu lại nơi này đúng một đêm rồi cáo từ đi đến nơi khác. Trong Duyên Khởi Luận (Nidànakathà) ghi nhận rằng Thái tử đã sống tuần đầu tiên ở làng Anupiỳa rồi đi đến thành Vương Xá, tại thành Vương Xá, ngài gặp đại vương Tần Bà Sa La (Bimbisàra) của vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha), lúc đó nhà vua này chỉ mới có hai mươi bốn tuổi. Sự kiện này cũng được xác nhận trong Kinh Tập Chương (Sutta Nipàta). Duyên Khởi Luận (Nidànakathà) thuật rằng, Sa môn Cồ Đàm (Gotama) đi khất thực trong vùng Giribbaja thuộc phạm vi cận ngoại thành Vương Xá. Lúc đó đại vương Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đang đúng từ trên lầu thành ngó xuống nhìn thấy một vị khất sĩ tầm vóc cao lớn, dáng vẻ oai nghiêm, nhà vua động

Page 40: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

40

lòng hiếu kỳ liền cho người mời Sa môn Cồ Đàm đến đồi Pandava (một ngọn đồi trong số năm ngọn đồi bao bọc quanh thành Vương Xá) để được diện kiến. Tại đây, khi được đại vương Tần Bà Sa La (Bimbisàra) hỏi về nguồn gốc sinh trưởng, Thái tử Tất Đạt Đa cho biết ngài thuộc dòng họ Cồ Đàm (Gotama) thuộc bộ tộc Thích Ca (Sakiya), ngài từ vương quốc Kiều Tất La (Kosala) dưới chân dãy núi Tuyết Sơn đến đây. Do nhận thấy cuộc đời quá vô thường, ngài đã từ bỏ mọi dục lạc ở thế gian để trở thành một du sĩ khất thực, với mục đích trước mắt là điều phục bản thân và tự thắng dục vọng của mình.

Khi trả lời đại vương Tần Bà Sa La (Bimbisàra), ở đây chúng ta nhận thấy Thái tử không nói là mình từ thành Ca Tỳ La Vệ thuộc tiểu quốc cộng hòa Thích Ca đến, mà nói rằng ngài từ Kiều Tất La (Kosala) đến, điều này cho thấy, sau khi rời thành Ca Tỳ La Vệ, ngài đã dừng chân tại Kiều Tất La trước khi đến vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha) của Tần Bà Sa La (Bimbisàra). Trong Duyên Khởi Luận (Nidànakathà) chỉ nói sự kiện này rất vắn tắt mà không đề cập sâu thêm nhân duyên giữa Thái tử Tất Đạt Đa và nhà vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra). Có lẽ đây là một trong những buổi gặp gỡ đầu tiên giữa Thái tử với những người Ngài gặp sau khi ngài xuất gia, nên được kinh sách ghi nhận lại mà thôi, chứ thật ra đây là cuộc tiếp xúc bình thường không có ấn tượng gì sâu sắc cho lắm…

Cũng chính vì nhân duyên tiếp xúc bình thường không có ấn tượng gì đặc sắc nên Thái tử đã nhanh chóng rời khỏi thành Vương Xá (Ma Kiệt Đà), ngài tiếp tục lên đường, vượt qua nhiều núi đồi để đến Vesalì, tại đây ngài hướng thẳng đến am thất của đạo sư A Ra La Già Đa Na (Àlàra Kàlàma) lãnh tụ của giáo phái Samkhya. Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) Thái tử Tất Đạt Đa đã khái lược về việc học đạo dưới sự hướng dẫn của đạo sư A Ra La Già Đa Na (Àlàra Kàlàma) như sau:

“Sau khi đã xuất gia với mục đích tìm cầu đạo thánh thiện tối thắng an tịnh, ta đã đến Àlàra Kàlàma và thưa rằng: “Bạch tôn giả Già Đa Na (Kàlàma), tôi ước mong được sống đời Phạm hạnh theo giáo pháp và giới luật của tôn giả”. Đạo sư A Ra La Già Đa Na (Àlàra Kàlàma) liền trả lời: “Này hiền giả, hãy ở lại đây. Giáo pháp này sẽ khiến cho người có trí chẳng bao lâu có thể chứng đạt tri kiến bằng đạo sư của mình và an trú trong ấy”. Sau đó ta đã nhanh chóng học thông suốt giáo lý ấy. Tuy nhiên ta cũng nhanh chóng nhận ra rằng, ta cũng chỉ là người đọc tụng suông các bài tụng mà ta đã học được từ các đệ tử của vị trưởng lão này, và rồi đây ta cũng sẽ giống như các vị đệ tử trung thành kia. Ta sẽ cho rằng, ta đã hiểu, đã thông suốt giáo lý này.

Kế đến tư tưởng này đã khởi lên trong trí ta: “Khi tuyên thuyết giáo lý này, chắc hẳn đạo sư A Ra La Già Đa Na (Àlàra Kàlàma) đã thực sự chứng đắc bằng tri kiến trực giác chớ không đơn thuần là ở bởi lòng tin mà thôi”. Thế rồi ta liền thưa với ngài rằng: “Bạch tôn giả Già Đa Na (Kàlàma), ngài đã tự chứng đắc giáo lý này bằng trực giác đến mức độ nào?”. Đạo sư A Ra La Già Đa Na (Àlàra Kàlàma) liền tuyên bố: “Này hiền giả, ta đã chứng được Vô Sở Hữu Xứ (Akicavyàyatan)”.

Thế rồi ta lại suy nghĩ: “Không phải chỉ có A Ra La Già Đa Na (Àlàra Kàlàma) là có lòng tin, có tinh tấn, có niệm, có định, có tuệ. Ta cũng có đủ tất cả những điều kiện này”. Trong chẳng bao lâu nữa ta cũng chứng đắc giáo lý và cùng an trú trong ấy. Khi đó ta liền chứng đắc giáo lý này. Ta trình bày chuyện này với A Ra La Già Đa Na (Àlàra Kàlàma) và đạo sư đã bảo với ta rằng: “Thật là lợi ích cho chúng ta, thật là an lạc cho chúng ta, khi có được tôn giả này làm vị đồng phạm hạnh với chúng ta. Giáo pháp này ta đã chứng đắc, tôn giả cũng đã chứng đắc. Ta như thế nào, tôn giả cũng như thế ấy. Tôn giả như thế nào thì ta cũng như thế ấy. Này tôn giả, chúng ta hãy cùng nhau hướng dẫn chúng hội này”. Như vậy vị đạo sư này đã rất tôn trọng ta và xem ta như người đồng đẳng. Song ta lại nghĩ rằng: “Giáo pháp này đã không giúp ta yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn mà chỉ đưa ta đến Vô Sở Hữu Xứ (Akicavyàyatan)”. Nghĩ như vậy ta liền khước từ lời gọi mời hợp tác rất nhiệt thành của đạo sư A Ra La Già Đa Na và rời khỏi đạo tràng này ra đi tìm con đường cứu cánh Niết bàn”…

Nói về cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ (Akicavyàyatan) mà đạo sư A Ra La Già Đa Na đã chứng đắc thì đây là một trạng thái tâm thanh tịnh do công phu nhập định phát sanh. Trong Trường Bộ Kinh (Dìgha Nìkaya) xác nhận một đệ tử của đạo sư A Ra La Già Đa Na là Pukkusa (về sau trở thành đệ tử của đức Phật) đã kể lại câu chuyện có lần Àlàra Kàlàma ngồi thiền định dưới gốc cây, ngài nỗ lực tập trung vào công phu thiền định, trong khi đó có đến 500 chiếc xe bò sầm sập chạy ngang qua mà ngài không hề hay biết gì, điều này chứng tỏ công

Page 41: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

41

phu thâm nhập thiền định của A Ra La Già Đa Na là rất sâu. Vào thời bấy giờ đường lối tu thiền của Àlàra Kàlàma có thể nói là rất tiến bộ và đây cũng được xem là một hình thái tu Yoga có chiều sâu tâm linh xuất phát từ phương pháp thực hành trong Áo Nghĩa Thư đã được cách tân.

Sau khi học giáo lý từ Àlàra Kàlàma, Thái tử Tất Đạt Đa đã chứng được cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ (Akicavyàyatan) và nhất là ngầm học được ở vị đạo sư này cách thức tổ chức một giáo đoàn có nề nếp. Trong quá trình tiếp nhận giáo pháp từ Àlàra Kàlàma, dù đường lối tu tập vẫn chưa làm thỏa mãn chí hướng giác ngộ giải thoát của Thái tử, nhưng cách sống và phạm hạnh của vị đạo sư này đã làm cho Thái tử thật sự ngưỡng mộ. Đây cũng là lý do đã khiến cho Thái tử quay trở lại tìm gặp đạo sư Àlàra Kàlàma trong những năm tháng về sau…

Sau khi rời khỏi đạo tràng của đạo sư A Ra La Già Đa Na. Thái tử liền xuôi về hướng Đông Nam, vượt qua sông Ganga, đến Ma Kiệt Đà rồi tiến thẳng vào kinh thành Vương Xá. Nơi đây Thái tử tìm đến một vị đạo sư mới khác, đó là đạo sư Uất Đà Già La Ma Tử (Uddaka Ràmaputta) một lãnh tụ uy tín của phái Yoga (vị này vốn là một đệ tử lớn của đạo sư Ràma) để tu tập theo giáo lý đưa hành giả đến cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ (Naivasamjnanàsamjnayatana). Trong Trung Bộ Kinh số 26 & 36 (Majjhima Nikàya 26 & 36) đức Phật đã mô tả lại kinh nghiệm tu tập với đạo sư Uất Đà Ca La Ma Tử cũng giống như quá trình tu tập theo giáo pháp của đạo sư A Ra La Già Đa Na. Tất nhiên với đoạn kết sẽ là: “Giáo pháp này đã không giúp ta yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, niết bàn mà chỉ đưa ta đến cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ”.

Nói về cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ thì đây là một trạng thái tâm thanh tịnh cao tột cũng được phát sanh từ công phu thiền định. Trong bản Kinh Thanh Tịnh thuộc Trường Bộ Kinh số 29 (Dìgha Nìkaya 29) có phân tích sơ lược về nội dung giáo lý Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ này từ nhận xét của đức Phật dạy cho một vị Sa di có tên là Cunda. Trong kinh dẫn lời vị đạo sư Uddaka thì những hạng người phàm phu “thấy mà không thấy”, chẳng hạn với một con dao cạo sắc bén, thì chúng ta chỉ có thể thấy hình tướng của lưỡi dao chứ không thể nào thấy được độ sắc bén của lưỡi dao, vì nó là cái không phải dễ nhìn thấy ở con mắt bình thường. Về điều này, những người đã từng đọc qua Áo Nghĩa Thư sẽ dễ dàng liên tưởng đến sự tương đồng với kinh Chàndogya Upanisad kể về chuyện Uddàlaka Àrumi bảo cậu con trai của mình là Svetaketu chẻ đôi một hạt mè, sau đó phân tích cho người con biết phần tinh hoa của vũ trụ và bản thể nó nằm ngay trong cái tinh tế không thể nào nhận biết được bằng mắt thường kia. Từ nhận xét này, chúng ta có thể mạnh dạn đưa ra nhận định đạo sư Uddaka đã chủ trương giảng dạy về tư tưởng Áo Nghĩa Thư, giáo lý này chủ trương Phạm Thể (Brahman) là cái tuyệt đối thường trụ trong vạn pháp.

Như chúng ta đã biết, sau khi chứng đạt cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ, Thái tử Tất Đạt Đa tiếp tục chứng đạt cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ từ sự hướng dẫn thiền định của đạo sư Ràma (sư phụ của Uddaka) nhưng Thái tử vẫn hoàn toàn thất vọng vì không đạt được mục đích tối thượng là giác ngộ giải thoát cứu cánh niết bàn như mong muốn. Sau khi Thái tử chứng đắc được tri kiến mà sư phụ Ràma của Uddaka đã chứng đắc, đạo sư Uddaka Ràmaputta đã nhận ra sự tu chứng của Thái tử cao thâm hơn mình rất nhiều, nên liền thỉnh cầu Thái tử hãy đứng ra nhận lãnh chức vụ lãnh đạo của giáo đoàn và cho rằng nếu được Thái tử chấp thuận thì đây là đại phước duyên vô cùng quý báu của chúng hội. Tuy nhiên, một lần nữa Thái tử lại khước từ lời đề nghị chân tình ấy của đạo sư Uddaka Ràmaputta vì mục đích của Ngài hành đạo là mong cầu giải thoát khổ đau luân hồi sanh tử chứ đâu có phải vì chức danh lãnh đạo một giáo phái nào cả.

Trước đây giáo lý của đạo sư Àlàra Kàlàma đã không làm cho Thái tử thỏa mãn thì nay giáo lý của đạo sư Uddaka Ràmaputta cũng chưa giải quyết rốt ráo mục đích giải thoát tối thượng của ngài, đây là lý do mà Thái tử đành phải rời bỏ chúng hội nơi đây để tiếp tục du hành, nhằm hướng đến một con đường mới, với hy vọng sẽ đạt được cứu cánh giải thoát giác ngộ. Theo Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikàya) thì quảng thời gian mà Thái tử học đạo và tu tập với hai vị đạo sư chỉ trong vòng có sáu tháng. Và chỉ trong vòng có sáu tháng, Thái tử đã nhanh chóng chứng đắc hai cảnh giới cao nhất trong thiền định, đó là Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ, sự công phu đòi hỏi một mà người có quyết tâm cao và kiên định lắm có khi cũng phải mất cả đời người chưa chắc gì đã đạt được, vậy mà ngài chỉ hạ thủ công phu vỏn vẹn trong vài tháng. Điều này đã nói lên trí tuệ siêu việt và khả năng thiền định phi thường có một không hai của Thái tử Tất Đạt Đa…

Page 42: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

42

Vì không đạt được mục đích tu hành giải thoát, Thái tử đã giã từ chúng hội của đạo sư Uddaka Ràmaputta, rời khỏi thành Ràjagaha, Thái tử Tất Đạt Đa thẳng tiến về hướng Tây Nam, nơi có thị trấn Ưu Lâu Tần Loa (Uruvelà) được xem là một thành lũy của quân đội nước Ma Kiệt Đà. Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) đức Phật đã mô tả cảnh trí tại khu vực ngoại ô thị trấn này như sau: “Nơi đây là một vùng đất nhiều cây cỏ xanh tươi, khu rừng có cảnh trí rất đẹp, lại có dòng sông trong xanh, không khí thoáng đãng rất thích hợp cho việc tư duy thiền định, không xa khu rừng lắm lại có làng xóm rất tiện cho việc khất thực”. Như việc mô tả trong kinh thì cảnh trí tuyệt đẹp và thơ mộng nơi đây quả là rất hiếm hoi đối với những khu rừng tại Ấn Độ thời bấy giờ. Bởi vì đa phần cây rừng bao phủ các tiểu lục địa vào thời đức Phật tại thế thường thay đổi tùy theo vùng miền. Như ở vùng Bihàr thì cây trong rừng rất cằn cỗi thưa thớt và chỉ tươi xanh vào mùa mưa. Một loại cây nổi bật lên trong các khu rừng tại Ấn Độ thời bấy giờ đó là cây Sa La (Shorea Robusta), có cây cao đến trên 30 mét sừng sững giữa trời mây như là một biểu tượng của những khu rừng thiêng xứ Ấn…

Nói về Thái tử Tất Đạt Đa, vì không thích hợp với giáo lý Áo Nghĩa Thư (Upanishad) và phương pháp thiền Yoga từ hai vị đạo sư lỗi lạc bấy giờ là Àlàra Kàlàma và Uddaka Ràmaputta, Thái tử đã lựa chọn phương pháp tu khổ hạnh, vì cho rằng đây là phương pháp tu tập có thể đạt đến tri kiến giải thoát. Chính vì có suy nghĩ như vậy mà Thái tử đã không ngầnngại tiến thẳng vào rừng sâu để thực hành các pháp tu khổ hạnh.

Với một người tiện dân thuộc tập cấp thấp hèn trong xã hội, có hoàn cảnh cơ cực, đời sống khốn cùng, phải đi hái trái cây hay nhặt củi làm kế sinh nhai thì việc vào rừng sâu đối với họ quả là một việc bất đắc dĩ, bởi những tai nạn hiểm nguy bất ngờ luôn rập rình xung quanh. Vậy mà với một Thái tử thuộc tập cấp Sát Đế Lợi cao quý như Thái tử Tất Đạt Đa tự nguyện dấn thân vào nơi rừng thiêng nước độc thì phải nói là vô cùng khó khăn gian khổ, đó là chưa nói đến những phương pháp tu khổ hạnh rất là khắc nghiệt, dù cố hình dung thì chúng ta khó có thể hình dung ra hết những cam go khổ ải trong những năm tháng mà ngài đã tu hành khổ luyện. Trong Kinh Sợ Hãi và Khiếp Đảm thuộc Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) đức Phật đã kể lại khoảng thời gian đầu mà ngài phải chịu đựng trong chốn rừng sâu đầy hiểm nguy đó cho vị Bà La Môn có tên là Jànussoni nghe như sau: “Sự hiu quạnh của rừng già quả thật khó có thể chịu đựng nổi, cũng thật khó có thể tìm được sự an lạc trong đời sống độc cư. Ban đêm khi ta ở lại những nơi hiu quạnh vắng vẻ hiểm nguy đáng khiếp đảm kia, chỉ một con nai đi ngang qua hay một con công làm gãy rụng một cành cây khô hoặc gió thổi xào xạc trên các tán lá cây, thì tâm ta cũng đầy kinh hoàng hoảng hốt”.

Qua đoạn kinh văn này chúng ta nhận thấy ở đó nổi bật lên sự chân thật của đức Phật, bởi thông qua đó, ngài muốn nói lên một điều là ngài cũng chỉ là một con người bằng xương bằng thịt, tâm hồn Ngài cũng chứa đầy tâm lý bất an sợ hãi khi phải giáp mặt với những cảnh tượng chứa đựng đầy tính chất hiểm nguy trong đời sống con người. Tuy nhiên, ngài hoàn toàn khác hẳn chúng ta ở hai điểm căn cơ trong cuộc sống. Một là ngài tự dấn thân vào chốn hiểm nguy để tầm cầu chân lý. Hai là trong chốn hiểm nguy với vô vàn khó khăn gian khổ ngài đã vượt qua tất cả bằng ý chí và tinh thần tự chủ cao độ của một bậc đại trượng phu.

Thế rồi nỗi sợ hãi và lo lắng kia từ từ cũng qua đi bởi ý chí và tự chủ của bản thân. Sau khi làm quen với môi trường khắc nghiệt giữa rừng già hoang vắng và thật sự ổn định tinh thần, Thái tử đã tranh thủ thời gian thực hiện những bước khởi đầu cuộc sống khổ hạnh. Trong Đại Kinh Saccaka số 36 và Đại Kinh Sư Tử Hống số 12 thuộc Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) đức Phật đã kể lại cho một cư sĩ theo đạo Kỳ Na giáo là Saccka Aggivessana và Sàriputta nghe về thời kỳ bước đầu khổ hạnh này. Nội dung các đoạn kinh văn này đặc tả về sự khởi đầu tầm cầu chân lý của Thái tử Tất Đạt Đa bằng cách nỗ lực buộc tâm mình phải đạt được tri kiến giải thoát: “Ta nghiến răng và chặn lưỡi trên nóc họng, ta nỗ lực hàng phục tâm, ta nỗ lực chế ngự tâm…”. Dù rất nỗ lực với ý chí cao ngất nhưng kết quả hoàn toàn ngược lại, bởi nó là kết quả của sự ép buộc và thiếu trí tuệ, điều này làm cho Thái tử vô cùng thất vọng và bắt buộc ngài phải tìm cho mình một phương pháp mới.

Phương pháp khổ hạnh khởi đầu lần thứ hai đó là công phu “hành thiền theo kiểu nín thở”. Quá trình kiềm chế hơi thở càng lâu càng tốt này cũng không đem lại kết quả như mong muốn. Với phương pháp mới này, Thái tử hoàn toàn không đạt được thiền định hay thắng trí nào cả, ngược lại là một số thân bệnh mới xuất hiện, đó là những cơn đau nhức khủng khiếp trong đầu, tai bị ù, mắt bị hoa, dạ dày thì co thắt đau đớn dữ dội…

Page 43: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

43

Sau hai lần thất bại, Thái tử bèn chuyển sang phương pháp tu khổ hạnh với vô số phương pháp hành hạ xác thân thường thấy ở các tu sĩ Bà La Môn. Đầu tiên ngài không nhận bất cứ vật thực của người cúng dường mang đến, mỗi bữa ngài chỉ ăn chừng một vắt cơm hay một ít trái cây do tự ngài đi khất thực, tiến đến trong bảy ngày ngài chỉ ăn bữa ăn chính đúng một lần giữa ngọ mà thôi, về sau nữa mỗi ngày ngài chỉ dùng vài hạt mè để cầm hơi. Nói về mặc thì ngài mặc bằng thứ vải tẩm liệm tử thi hoặc lấy vỏ cây đóng làm khố. Đi sâu vào pháp tu khổ hạnh thì ngài thực hành pháp “trụ thân”, tức chỉ đứng chứ không được ngồi hay nằm, nếu cơ thể quá yếu, cần phải nằm thì ngài nằm trên chỗ có gai nhọn. Ngài cũng không tắm rửa giặt giũ, cứ mặc cho bụi đất bám dày trên thân thể. Về việc cư trú thì sự khổ hạnh của ngài càng làm cho chúng ta vô cùng cảm phục sự hy sinh trải nghiệm vì chân lý cao cả đó. Ngài sống suốt mùa đông ở ngoài trời từ tháng mười hai đến tháng giêng trong rừng vào ban đêm khi mà thời tiết nhiệt độ lạnh cóng chỉ trên dưới không độ, còn về mùa hạ, vào tháng năm tháng sáu, ngài lại sống vào ban đêm trong những khu rừng rậm bị bao phủ bởi không khí oi bức ngột ngạt và ban ngày thì ngài sống ngoài trời dưới ánh nắng chói chang như thiêu đốt. Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) đức Phật đã mô tả một phần của sự tu hành khổ hạnh này như sau: “Vì trong mỗi ngày ta ăn ít quá, nên cơ thể ta hết sức gầy yếu. Tay chân ta như các lóng tre khô gầy khúc khuỷu. Hai bàn tọa của ta nhìn như móng trâu. Xương sống và cột sống của ta lồi ra giống như chuỗi hạt. Xương sườn ta lộ rõ ra như rui cột của một ngôi nhà đổ nát. Đồng tử của ta sâu thẳm trong hai hố mắt. Da đầu ta khô héo nhăn nheo như trái mướp đắng đã được cắt rồi đem phơi khô… Khi ta sờ vào bụng thì ta đụng nhằm xương sống vì hai thứ da và xương đã dính sát vào nhau. Khi ta đi đại tiện hay tiểu tiện thì ta phải ngã úp mặt xuống đất. Khi ta chà xát tay chân thì những đám lông hư mục rụng xuống trong tay ta”.

Quá trình khổ hạnh của Thái tử Tất Đạt Đa diễn ra như thế nào thì có lẽ chúng ta vẫn còn nhiều mơ hồ, thế nhưng khi đức Phật đã nói lên kết quả của sự tu hành khổ hạnh như chính ngài đã mô tả trong đoạn kinh nêu trên thì quả là quá phi thường, với một sức người bình thường có lẽ sẽ không thể nào chịu đựng nổi sự khắc nghiệt đó. Dù khổ hạnh không phải là phương pháp tu mang lại kết quả giải thoát giác ngộ, ngay chính đức Phật cũng đã khuyên Phật tử chúng ta nên đi theo con đường trung đạo, thế nhưng sự khổ hạnh này đã chứng minh ý chí nỗ lực hy sinh phi thường vì đạo giải thoát của Thái tử Tất Đạt Đa trên 2550 năm qua và mãi đến nay nó vẫn luôn được nhân loại không tiếc lời tán thán ngưỡng mộ trước ý chí kiên định sắt đá của ngài…

Quá trình tu khổ hạnh Thái tử Tất Đạt Đa đã được những thương gia ở Uruvelà hết lòng ủng hộ. Đặc biệt ngài còn được một nhóm tu sĩ Bà La Môn chuyên tu khổ hạnh lúc đó vô cùng ngưỡng mộ. Đó là nhóm năm huynh đệ, gồm A Nhã Kiều Trần Như (Annà Kondannà) đến khu rừng này từ vùng Donavatthu, ở dưới chân núi Tuyết Sơn, vị này trong ba mươi năm về trước là một trong tám vị Bà La Môn tham dự lễ đặt tên cho Thái tử theo lời mời của Tịnh Phạn vương. Bốn vị còn lại là Bạt Đề (Bhadaka), Thập Lực Ca Diếp (Dásbala Kàsypa) có tài liệu lại ghi là Bà Phả (Vappa), Ma Ha Nam (Mahànàman), Át Bệ hay Mã Thắng (Assaji). Nhóm năm du sĩ khổ hạnh Bà La Môn này Phật tử chúng ta thường gọi họ là năm anh em Kiều Trần Như, về sau năm vị Bà La Môn này đều xuất gia quy y theo Phật và đều chứng được quả vị A La Hán.

Trong khoảng thời gian gần sáu năm khổ hạnh, chịu đựng muôn ngàn gian khổ, năm anh em Kiều Trần Như đã cùng với Thái tử Tất Đạt Đa nỗ lực thực hành các pháp tu khổ hạnh. Trước sự dõng mãnh tinh tấn khổ hạnh của Thái tử Tất Đạt Đa đã khiến năm anh em Kiều Trần Như vô cùng khâm phục và điều đó đã làm cho họ theo sát gót chân Thái tử, xem công phu khổ hạnh của Thái tử là tấm gương sáng để họ noi theo. Cũng trong khoảng thời gian này, giữa Thái tử Tất Đạt Đa và năm anh em Kiều Trần Như có một giao ước là hễ bất cứ người nào trong nhóm chứng ngộ chân lý giác ngộ giải thoát trước thì sẽ báo cho mọi người trong nhóm cùng biết. Dù giao ước là như vậy nhưng ai cũng tin tưởng là Thái tử Tất Đạt Đa chắc chắn sẽ là người đầu tiên chứng đạo.

Tuy nhiên một bất ngờ đã xảy ra trong nhóm tu khổ hạnh này, đó là biểu hiện tách rời khỏi nhóm của Thái tử Tất Đạt Đa, sự việc này được Thái tử Tất Đạt Đa thể hiện bằng cách ngài nhận lãnh bát sữa của một thiếu nữ chăn bò có tên là Nan Đà và không tiếp tục đeo đuổi phương pháp tu khổ hạnh nữa. Sau khi dùng bát sữa xong, Thái tử cảm thấy trong lòng khoan khoái dễ chịu, khí lực phục hồi nhanh chóng, ngài liền xuống dòng sông Ni Liên Thuyền (Nairanjanà) tắm gội và tuyên bố với năm anh em Kiều Trần Như là bắt đầu từ đây ngài từ bỏ

Page 44: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

44

lối tu khổ hạnh. Điều này đã làm cho năm anh em Kiều Trần Như dao động và vô cùng bất mãn. Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) đức Phật đã nói lý lên do vì sao mà ngài không áp dụng lối tu khổ hạnh: “Bằng phương pháp này, theo con đường này, với khổ hạnh khắc nghiệt này, ta sẽ không thể nào chứng đắc chân lý tối thượng bằng sự nỗ lực không mệt mỏi của đấng trượng phu, đó là tri kiến thù thắng vi diệu của bậc Thánh. Tại sao ta không thể đạt được tri kiến thù thắng vi diệu đó? Đó là vì ta đã không đạt được trí tuệ (Panna), là pháp cao thượng có khả năng hướng dẫn người thực hành đoạn trừ tận gốc khổ đau luân hồi sanh tử”. Cũng trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) đức Phật đã nói lên sự vô ích và bất cập của pháp tu khổ hạnh mà ngài đã kinh qua: “Bất cứ Sa môn Bà La Môn nào từng trải qua những cảm thọ đau đớn khốc liệt, khủng khiếp thế nào đi chăng nữa, thì cũng không thể nào vượt qua hay sánh với sự thọ khổ của ta. Tuy thế với sự khổ hạnh vô cùng khắc nghiệt này, ta vẫn không đạt được cứu cánh tối thượng bằng sự nỗ lực không mệt mỏi của đấng trượng phu, đó là tri kiến thù thắng vi diệu của bậc Thánh. Vậy có thể có một con đường nào khác, một phương pháp nào khác đưa ta đến sự giác ngộ chăng?”.

Nhận ra với tình trạng cơ thể ốm yếu bạc nhược thì sẽ không thể nào đi tiếp con đường đưa đến sự giác ngộ giải thoát, Thái tử Tất Đạt Đa đã ăn uống trở lại bình thường, mọi sinh hoạt dần dần quân bình trở lại, điều này đã làm cho năm anh em Kiều Trần Như trở nên xa lánh Ngài vì cho rằng Ngài đã thối chí bởi không thể tiếp tục chịu đựng nếp sống khổ hạnh được nữa.

Sau khi năm anh em Kiều Trần Như bỏ đi, chỉ còn lại một mình trong khu rừng Uruvelà yên tĩnh vắng lặng, Thái tử Tất Đạt Đa bắt đầu cho một sự tu tập mới mà không hề vướng bận bất cứ một sự ràng buộc nào. Khi đó Thái tử đi đến dưới cội cây Tất Bà La (Pippala) ở Già Da (Ỳaỳa). Ở đây chúng tôi xin nói thêm, cây mà sử sách ghi chép là cây Tất Bà La thật ra đó là cây Bồ Đề (Bodhydruma) mà bất cứ người Phật tử nào cũng biết đến. Quay lại sự việc, sau khi Thái tử Tất Đạt Đa đến dưới cội cây Bồ Đề, ngài rải lá cây làm tòa và kết cỏ làm bồ đoàn (tọa cụ), xong ngài xoay mặt về hướng Đông với lời thệ nguyện: “Nếu ngồi tòa này mà không chứng được đạo Vô Thượng Bồ Đề, thân này dù xương tan thịt nát ta cũng quyết không đứng dậy”. Phát nguyện xong, Thái tử lặng lẽ nhập vào thiền định. Trong phương pháp tọa thiền nhập định làm nền tảng tạo bước đột phá để đưa đến sự giác ngộ cứu cánh giải thoát mà Thái tử đã quyết định thực hiện, gồm có bốn giai đoạn nhập định (Jhàna) như trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) đức Phật đã mô tả bốn giai đoạn nhập định đó như sau:

Giai đoạn sơ thiền: Là bước đầu diệt dục và bất thiện pháp, đi kèm theo đó là trạng thái tầm và tứ của tâm, đó là một trạng thái hỷ lạc do tâm ly dục sanh ra. Giai đoạn nhị thiền: Là diệt tầm và tứ, phát triển nội tĩnh và nhất tâm, đó là trạng thái hỷ lạc do định sanh. Giai đoạn tam thiền: Là diệt hỷ, trú xả, chánh niệm tĩnh giác, giai đoạn này sanh ra trạng thái thọ lạc của thân. Giai đoạn tứ thiền: Là diệt các cảm thọ lạc và khổ, ly hỷ và ưu, phát triển xả và niệm thanh tịnh. Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) ghi lại rất rõ ràng kết quả từng giai đoạn nhập định của Thái tử Tất Đạt Đa. Khi tâm của Thái tử trở nên định tĩnh và tuyệt đối thanh tịnh, khi đó tâm ngài không còn cấu uế, thoát ly mọi lậu hoặc, nhu nhuyến, dễ điều phục, kiên cố, bất động. Khi đó ngài hướng tâm hồi tưởng lại các tiền kiếp của mình (Túc mạng trí). Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) ghi nhận sự kiện này như sau: “Ta nhớ lại nhiều kiếp quá khứ đã trải qua, bắt đầu một kiếp, hai kiếp, ba kiếp cho đến vô lượng kiếp… Ta biết tường tận tất cả các sự việc mà ta đã trải qua, ta ở nơi này, ta đã đến nơi kia, gia tộc ta như vậy, nếp sinh hoạt ta như vậy. Ta đã trải qua vô lượng vô số sự rủi may trong các kiếp như vậy, mệnh chung và tái sanh như vậy. Sau khi thân hoại diệt, ta lại tái sanh nơi khác với tên họ là như vậy, sau đó lại mệnh chung, rồi lại tái sanh như vậy. Bằng cách này ta đã nhớ lại các đời sống quá khứ với rất nhiều hoàn cảnh. Ta đã đạt được minh trí (Vijjà) trong canh đầu đêm ấy”. Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) đức Phật đã nói về cảnh giới chứng đắc thắng trí thứ hai vào canh kế tiếp: “Với thiên nhãn thanh tịnh, siêu việt tri kiến phàm phu, ta thấy tường tận cách chúng hữu tình tử sanh sanh tử như thấy lòng bàn tay. Ta thấy rõ ràng hạng người cao sang hay hạ liệt, thông minh hay ngu muội, mỗi người đều được tái sanh cõi lành hay rơi vào đường ác tùy theo hạnh nghiệp của mình và ta biết rất rõ: “Những kẻ nào đã tạo nghiệp ác về thân, khẩu, ý, sau khi thân hoại mạng chung tất sẽ tái sanh vào cảnh khổ, hoặc sẽ đọa vào ba đường dữ như địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Tuy nhiên những người nào, thân khẩu ý tạo nghiệp thiện thì sẽ được tái sanh vào cõi lành hay sanh về thiên giới”. Vào canh cuối, cũng vào lúc chân trời vừa hừng sáng, Thái tử Tất Đạt Đa chứng nhập vào thắng trí thứ ba, đó là tri kiến về Tứ Thánh Đế, tri

Page 45: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

45

kiến này đã tạo thành căn bản giáo lý của đức Phật sau khi ngài thành đạo: “Ta hướng tâm đến lậu tận trí, đoạn tận lậu hoặc (Àsavà) và thật biết: “Đây là Khổ (Dukkha), đây là Khổ Tập, đây là Khổ Diệt, và đây là con đường đưa đến Khổ Diệt”. Khi ta nhận chân điều này, trí ta liền được giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Thế rồi tri kiến khởi sanh trong ta: “Sanh đã đoạn tận trong ta. Ta đã hoàn thành đời Phạm hạnh, những gì cần làm ta đã làm xong, ta không còn tái sanh nữa”. Ngài liền bày tỏ niềm hân hoan, cực lạc vô biên của bậc đại giác ngộ: “Đạt giải thoát vẹn toàn. Kiếp này kiếp cuối cùng. Không còn tái sanh nữa” (Trung Bộ Kinh -Majjhima Nikàya).

Trong lịch sử Phật giáo thì rạng sáng ngày hôm đó, ngày mà Thái tử Tất Đạt Đa hoàn thành bổn nguyện giác ngộ giải thoát, chứng đạt đạo quả vô thượng bồ đề, thành bậc Đẳng Chánh Giác, thật sự là một ngày lịch sử thiêng liêng trọng đại của nhân loại. Lịch sử Phật giáo thế giới xác nhận đó là ngày đức Phật Thích Ca thành đạo, nhằm ngày mồng 8 tháng 12 (tháng Chạp) âm lịch.

Ngài xuất gia năm 29 tuổi, sau 6 năm khổ hạnh và tọa thiền nhập định, Thái tử Tất Đạt Đa đã trở thành một đức Phật Thế Tôn, bậc thầy của trời người với đầy đủ mười danh hiệu tôn quý: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ. Điều Ngư Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Năm ấy ngài được vừa đúng 35 tuổi.

CHƯƠNG BẢY

ĐỨC PHẬTNHẬP NIẾT BÀN

Theo trình tự, sau khi Thái tử Tất Đạt Đa thành đạo, thì chúng tôi sẽ đề cập ngay đến quá trình hoằng pháp độ sanh của ngài. Tuy nhiên trong cuốn sách nhỏ này, chúng tôi đã dành hẳn một thiên (gồm năm chương) để nói về công cuộc hoằng pháp độ sanh của đức Phật, vì vậy mà trong chương này, chúng tôi muốn cùng chia sẻ với quý Phật tử những giây phút thiêng liêng tràn đầy cảm xúc khi đấng giác ngộ, vị cứu tinh của toàn nhân loại giả từ thế gian này để đi vào cõi Niết bàn. Đây là một sự kiện trọng đại mà mỗi khi nhắc đến thì bất kỳ người con Phật nào cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động và vô cùng tiếc nuối…

Như chúng ta đã biết, từ khi thành tựu đạo quả vô thượng bồ đề, đức Phật đã đi khắp mọi nơi trên đất nước Ấn Độ để hoằng truyền chánh pháp, kinh sách và lịch sử Phật giáo đã ghi nhận sự hóa độ chúng sanh của đức Phật là không ngừng gián đoạn trong suốt 45 năm, kể từ khi Ngài thành Phật cho đến lúc nhập ngài Niết Bàn.

Trong 45 năm thuyết pháp độ sanh, trung tâm mà đức Phật thường hay lui tới để giáo hóa là hai vương quốc Ma Kiệt Đa và Kiều Tất La, kế đến là các nước thuộc vùng Trung Ấn, nằm theo duyên ngạn sông Hằng (Gange) như các tiểu quốc Thiểm Ba (Campà) ở phía Đông, Kiều Thường Di và Ma Thâu La (Mathùrà) ở phía Tây, Ba la Nại (Barànaisi) ở phía Nam và thành Ca Tỳ La Vệ ở phía Bắc. Tuy nhiên cũng còn rất nhiều vùng khác nữa đức Phật đã đến

Page 46: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

46

tuyên dương chân lý mà ngài đã thành tựu. Đến năm 80 tuổi, đức Phật nhận thấy cơ duyên giáo hóa chúng sanh cõi Ta Bà này đã viên mãn, ngài liền nghĩ, nay đã đến lúc vào Niết Bàn.

Tuy nhiên trước khi đức Phật nhập niết bàn đã có một số sự kiện diễn ra mà chúng ta không thể không nhắc đến. Trong Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikaya) ghi chép khá tỷ mỷ buổi thọ trai cuối cùng của đức Phật và xem đây là một trong những sự kiện ấn tượng về đức hạnh từ bi hỷ xả cũng như sự kham nhẫn của ngài trước những tình huống gay cấn mà ngài phải đối diện.

Theo kinh đã dẫn thì từ thành Xá Vệ (Savatthi) thuộc vương quốc Kiều Tất La (Kosala) đức Phật đã thống lĩnh giáo đoàn du hành đến cánh rừng Sa La (Sala) nằm cách thành Câu Thi Na (Kusinàrà) khoảng 16km theo hướng Đông Nam, trên đường đi đến đó, tại Pàva đức Phật đã gặp Thuần Đà (Cunda) vốn là một thợ rèn sùng kính đức Phật, vị này đã thỉnh mời đức Phật cùng Tăng chúng thọ trai. Khi Thuần Đà dâng lên món nấm để cúng dường chư Tăng thì đức Phật bảo với Thuần Đà rằng: “Thí chủ đừng nên mời chư Tăng những món ấy”. Dù gợi ý khuyên bảo Thuần Đà như vậy, nhưng đức Phật đã không đắn đo nhận lời thọ trai để không phụ lòng kính ngưỡng cúng dường của Thuần Đà. Kết quả của buổi thọ trai hy hữu này đã khiến cho ngài nhận lãnh một cơn đau bụng dữ dội bởi vì loại nấm mà Thuần Đà dâng cúng là một loại nấm không tốt cho sức khỏe. Do biết trước việc này nên đức Phật đã đề nghị Thuần Đà không nên mời Tăng chúng thọ trai, tuy nhiên ngài vẫn điềm tĩnh thọ nhận ách nạn lần cuối cùng trước lúc ra đi…

Để tự chữa trị cơn đau đớn hành hạ thân xác, bằng ý chí và thiền định, đức Phật đã vượt qua cơn đau mà ngài chưa cần sử dụng đến một phương pháp trị liệu nào khác. Sau khi cơn đau lắng dịu, ngài đã hớp một ngụm nước do thị giả A Nan (Ànanda) múc lên từ một con suối gần đó và khuyên bảo Tăng chúng là không nên quở trách người thợ rèn có thiện chí kia, vì chính anh ta cũng không biết đó là loại nấm gây nguy hại như vậy. Cuộc du hành về hướng khu rừng Sa La vẫn tiếp tục như không hề có một trở ngại nào vừa xảy ra.

Trên đường đi chẳng được bao lâu thì đức Phật và Tăng đoàn gặp một đạo sĩ từ bộ tộc Malla đi đến. Đức Phật đã nhận ra vị đạo sĩ này chính là Pukkusa, một đồ đệ của đạo sư A Ra La Già Đa Na (Àlàra Kàlàma), người mà trước đây Ngài đã từng học tập theo giáo lý của phái này. Trong cuộc gặp gỡ không hề hẹn trước, đạo sĩ Pukkusa đã dâng lên cúng dường đức Phật và thị giả A Nan hai tấm kim y rất giá trị. Có thể nói đây là lần nhận tấm y cúng dường cuối cùng trong cuộc đời hoằng pháp độ sanh của đức Phật.

Ở độ tuổi 80, dù sức khỏe có phần thuyên giảm, cộng thêm sự du hành đường sá xa xôi với nhiều chướng ngại, nhưng đức Phật vẫn có thể tự mình lội qua sông Ni Liên Nhã Bạt Đề (Hiranyavati) mà ngài không hề nhờ sự trợ giúp nào của thị giả hay Tăng chúng trong đoàn. Khi đặt chân đến thành Câu Thi Na Yết La (Kusínagara) một thị thành lớn thứ hai của bộ tộc Malla, Ngài hướng dẫn Tăng đoàn tiếp tục đi về hướng Nam để đến khu rừng Upavattana, ngài bảo với thị giả A Nan là hãy sắp đặt chỗ cho ngài nghỉ ngơi dưới đồi cây Sa La Song Thọ.

Vào lúc này đức Phật đã căn dặn với Tôn giả A Nan rằng, sau khi ngài nhập Niết bàn, chư Tăng không nên quá quan tâm đến tang lễ của Ngài mà hãy dành nhiều thời gian cho việc nỗ lực công phu tu tập để mau được giải thoát khỏi khổ đau luân hồi sanh tử.

Ngài đã căn dặn rất kỹ: “Sau khi Như Lai diệt độ, các thầy Tỷ kheo hãy lấy giới luật làm Thầy. Hãy gìn giữ giới luật như gìn giữ con ngươi của mắt mình vậy”. Trong Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikaya) ghi lại rằng, khi nghe đức Phật căn dặn điều này, Tôn giả A Nan đã không cầm được nước mắt và đã bật khóc với gương mặt bộc lộ nỗi ưu phiền đầy thương tiếc: “Bạch đức Thế Tôn! Nay con vẫn còn là kẻ hữu học, còn phải nỗ lực tu tập nhiều hơn nữa...Vậy mà nay đức Thế Tôn, người luôn thương tưởng con, lại sắp diệt độ”.

Nhìn thấy người thị giả của mình bỗng chốc trở nên tiều tụy, đau thương như vậy, đức Phật đã xoa đầu an ủi Tôn giả A Nan: “Này A Nan! Đừng có phiền muộn than khóc. Như Lai thường bảo với ông rằng chúng ta phải chia lìa mọi vật thân thiết, dù nó có đáng yêu với chúng ta như thế nào đi chăng nữa thì chúng ta cũng phải giã từ chúng, vì trên thế gian này, không có vật gì tồn tại mãi mãi được. Phàm vật gì được sanh khởi, được hình thành, được tạo tác do nghiệp (Kamma) của đời trước tất phải chịu sự biến hoại. Này A Nan! Từ lâu ông đã ở bên cạnh Như Lai với tâm ân cần tận tụy, đã tạo được nhiều an lạc phước đức, thì nay hãy tinh tấn nỗ lực tu tập, thì chẳng bao lâu nữa ông cũng sẽ đoạn trừ các lậu hoặc”.

Sau khi vỗ về Tôn giả A Nan như vỗ về một đứa con thơ dại trên bước đường giải thoát, đức Phật đã bảo đại chúng, hãy yên lặng lắng nghe những lời dạy của ngài lần cuối. Trường

Page 47: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

47

Bộ Kinh (Dìgha Nikaya) đã ghi lại lời khuyên bảo hết sức ân cần này: “Này các Tỷ kheo! Có thể có một vài vị Tỷ kheo trong chúng hội này vẫn còn nghi ngờ chưa thông suốt về Phật, Pháp, Tăng, hay phương pháp thực hành tu giải thoát. Vậy các vị Tỷ kheo hãy tham hỏi đi, kẻo sau khi ta diệt độ, chư vị sẽ cảm thấy hối tiếc vì suy nghĩ: - Chúng ta đã diện kiến bậc Đạo Sư, song chúng ta đã không tự mình thưa hỏi với Ngài”. Trong lần cuối cùng này đức Phật đã giảng giải cho các hàng đệ tử trong chúng hội những chỗ mà đại chúng còn hồ nghi, cũng trong lần thọ pháp rốt sau này đã có rất nhiều đệ tử đã được chứng ngộ một trong tứ thánh quả.

Điều đáng lưu ý là trong lần đức Phật hóa độ cuối cùng này, Tu Bạt Đà La (Subbadra) là một tu sĩ Bà La Môn giáo đã trên 120 tuổi, đang tu gần nơi đức Phật đang thuyết pháp, khi nghe tin đức Phật chuẩn bị nhập Niết bàn, ông vội vã đến hỏi đạo và xin được làm đệ tử của đức Phật. Dù Tăng chúng sợ đức Phật mệt nhọc nên ngăn lại không cho vào, nhưng ngài đã gọi Tu Bạt Đà La đến để thuyết pháp đồng thời thâu nhận Tu Bạt Đà La làm đệ tử. Được sự chấp thuận của đức Phật, Tôn giả A Nan đã làm lễ thế phát xuất gia (Pabbaddha) và cùng Tăng chúng truyền giới Sa di cho Tu Bạt Đà La, như vậy Tu Bạt Đà La là người đệ tử xuất gia cuối cùng được đức Phật tiếp nhận vào giáo đoàn trước khi ngài vào cõi Niết bàn.

Chứng minh lễ xuất gia cho Tu Bạt Đa La xong, đức Phật đã rất cẩn trọng công việc lãnh đạo của giáo hội sau khi Ngài nhập diệt. Trong Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikaya) đã ghi lại một cách nhấn mạnh lời dạy của Ngài về sự hướng dẫn giáo pháp giác ngộ giải thoát đối với Tăng chúng như sau: “Này A Nan! Có thể một số trong những vị Tỷ kheo có suy nghĩ: Bậc Đạo Sư nay đã nhập diệt, nay chúng ta không còn bậc Đạo Sư nữa. Này A Nan! Các ông không nên nghĩ như vậy. Vì sao? Vì Pháp và Luật mà Như Lai đã thuyết giảng cho các ông sẽ là bậc Đạo Sư của các ông sau khi Như Lai diệt độ”.

Đối với tứ chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ), nhất là đối với hàng ngũ Tăng Ni đã tự nguyện dâng hiến trọn đời mình cho con đường giải thoát, thì hầu như không ai có thể quên được những lời giáo huấn vắn tắt cuối cùng của đức Thế Tôn, đó là những lời dạy bảo cô đọng, hàm súc, chứa đựng tình thương sâu xa và mang đầy ý nghĩa giải thoát của đấng từ phụ mà chúng ta thường hay gọi là Kinh Di Giáo.

Những lời vàng ngọc này xuất phát từ kim khẩu đức Phật cách nay đã trên 2550 năm, vậy mà mỗi khi có dịp đọc lại, chúng ta cũng không thể nào kiềm chế nỗi bồi hồi xúc động, vừa cảm nhận ân đức sâu dày của đấng từ phụ, vừa cảm thấy xấu hổ xót xa trước những lỗi lầm trong đời sống tu học của mình. Chúng tôi nghĩ rằng, đã là một Tăng sĩ chưa giải thoát khỏi luân hồi sanh tử (phàm Tăng) thì không thể nào hoàn toàn tuyệt đối trang nghiêm thanh tịnh, chính vì vậy mà những lời giáo huấn cuối cùng của đức Phật luôn mang lại tác dụng vô cùng lớn lao, nó làm tỉnh thức những tâm hồn mê muội, khiến mỗi chúng ta, lòng tự dặn lòng, sẽ hết sức nỗ lực, sẽ hết sức cố gắng trong khả năng của mình để vượt qua những chông gai chướng ngại trên bước đường đi về ngôi nhà giác ngộ giải thoát.

Chúng tôi thiết nghĩ, việc trích ghi lại một số đoạn thiết yếu của Kinh Di Giáo trong chương này là một điều rất hợp lý và vô cùng cần thiết, vì qua đó chúng ta có thể cùng nhau soi rọi lại mình, để có một định hướng đúng đắn trong chuỗi ngày tu học ngắn ngủi còn lại trên cõi đời này:

“Các thầy Tỷ kheo, sau khi Như Lai diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu Như Lai ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy.

Giữ tịnh giới thì các thầy hãy tiết chế cơ thể, ăn đúng thì giờ, sống bằng cách sống trong sạch… Phải tự đoan tâm chánh niệm cầu độ. Không được che giấu lỗi lầm, hoặc tỏ ra kỳ dị để mê hoặc quần chúng. Đối với bốn sự hiến cúng thì phải biết tự lượng và biết vừa đủ. Hễ được hiến cúng thì không nên tích trữ...

Đó là Như Lai nói vắn tắt về sự giữ giới. Giới thì chính thuận với căn bản của sự giải thoát, nên Như Lai mệnh danh Ba La Đề Mộc Xoa. Nhờ giới mà phát sinh thiền định và trí tuệ có năng lực hủy diệt thống khổ.

Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy giữ tịnh giới đừng cho vi phạm, thiếu sót. Ai giữ tịnh giới thì người đó có thiện pháp. Không có tịnh giới thì mọi thứ công đức không thể phát sanh. Do đó mà biết tịnh giới là chỗ yên ổn nhất, làm nơi trú ẩn cho mọi thứ công đức.

Các thầy Tỷ kheo, đã ở trong tịnh giới thì phải chế ngự năm thứ giác quan, không cho phóng túng vào trong năm thứ dục lạc. Như kẻ chăn trâu, cầm gậy mà coi giữ, không cho phóng túng, phạm vào lúa mạ của người. Phóng túng năm thứ giác quan thì không những chỉ

Page 48: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

48

có năm thứ dục lạc mà có thể sẽ không còn giới hạn nào nữa, không thể cấm chế. Như con ngựa hung hãn mà không được chế ngự bằng dây cương, thì sẽ mang người lao xuống hầm hố. Giặt cướp làm hại, khổ chỉ một đời, còn giặc giác quan hại đến nhiều kiếp, tai hại rất nặng, các thầy không thể không cẩn thận. Thế nên người có trí thì chế ngự mà không theo nó, giữ như giữ giặc, không cho phóng túng. Giả sử phóng túng năm thứ giác quan, thì cũng không bao lâu ta sẽ thấy nó tàn diệt tất cả.

Các thầy Tỷ kheo, năm thứ giác quan do tâm chủ động, vì vậy mà các thầy lại phải thận trọng chế ngự tâm mình. Tâm còn đáng sợ hơn cả rắn độc, thú dữ, giặc thù, lửa dữ bùng cháy lan tràn cũng chưa đủ để ví dụ cho tâm. Như một kẻ tay bưng bát mật mà chuyển động chạy nhảy, chỉ thấy bát mật chứ không thấy hố sâu, như thế không khác gì voi điên mà không có móc sắt, vượn khỉ mà được cây rừng thì sẽ hung hăng nhảy vọt, khó mà ngăn cản; các thầy phải cấp tốc tỏa chiết, đừng cho phóng túng. Phóng túng tâm ra thì làm tan nát việc thiện của người. Chế ngự tâm lại một chỗ thì không việc gì không thành. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy nỗ lực tinh tấn mà chiết phục tâm mình.

Các thầy Tỷ kheo, thọ dụng đồ ăn thức uống, ngon không ham, dở không bỏ, vừa đủ duy trì cơ thể cho khỏi đói khát. Như ong lấy mật hoa, chỉ lấy mùi vị mà không tổn đến hương sắc, người xuất gia cũng vậy, thọ dụng cúng phẩm của người vừa khỏi đói khát thì thôi, không được ham cầu cho nhiều, phá vỡ thiện niệm của họ. Hãy bắt chước kẻ khôn ngoan, biết lượng sức lực con trâu của mình chịu đựng nhiều ít, không dùng quá sức đến nỗi kiệt lực.

Các thầy Tỷ kheo, ban ngày thì nỗ lực thực tập thiện pháp, không để thì giờ lướt mất, đầu đêm cuối đêm cũng đừng phế bỏ, giữa đêm lại phải tụng niệm để tự tiêu trừ điều ác, sinh trưởng điều thiện. Đừng vì lý do ngủ nghỉ mà để đời mình trôi đi, không được một chút ích lợi. Hãy nhớ ngọn lửa vô thường đốt cháy thế gian, để sớm cầu tự độ, đừng ham ngủ nghỉ. Giặc phiền não thường rình giết ta, dữ hơn kẻ thù, tại sao ta có thể ngủ nghỉ mà không tự cảnh giác? Phiền não ngủ trong tâm, cũng như rắn hổ mang màu đen nằm ngủ trong nhà, các thầy phải dùng móc sắt giữ giới mà cấp tốc móc kéo nó ra. Rắn ngủ ra rồi mới nên yên tâm ngủ nghỉ. Không ra mà ngủ thì thật là kẻ không biết hổ thẹn. Sự hổ thẹn là phục sức đẹp nhất trong mọi thứ phục sức. Như cái móc sắt, sự hổ thẹn có năng lực chế ngự mọi thứ phi pháp của con người. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy luôn luôn biết hổ thẹn, sỉ nhục, đừng bao giờ, dầu chỉ tạm thời cũng không được phép quên mất đức tính ấy. Mất hổ thẹn là mất công đức. Có hổ thẹn là có thiện pháp, không hổ thẹn thì không khác gì cầm thú.

Các thầy Tỷ kheo, phải biết kẻ ham muốn nhiều, thì vì nhiều sự cầu lợi nên khổ não cũng nhiều. Còn ít ham muốn thì không cầu mong, không dục vọng, nên không có cái họa đó. Chỉ có như thế mà thôi, sự ít ham muốn cũng phải đã thực tập, huống chi sự ấy còn đem lại đủ các công đức. Người ít ham muốn thì không dua nịnh quanh co để cầu được lòng người, cũng không bị các giác quan lôi kéo. Thực hành đức tính ít ham muốn thì lòng bình thản, không lo sợ, gặp cảnh ngộ nào cũng thấy thừa thãi, không bao giờ có cảm giác thiếu thốn. Có ít ham muốn là có niết bàn. Đó là hạnh ít ham muốn.

Các thầy Tỷ kheo, muốn giải thoát khổ não thì các thầy hãy cứu xét sự biết vừa đủ. Chính sự biết vừa đủ là giàu sang, vui thú và yên ổn. Biết vừa đủ thì nằm trên đất cũng thấy vui thích, không biết vừa đủ thì ở thiên đường cũng vẫn bất mãn. Không biết vừa đủ thì giàu mà nghèo, biết vừa đủ thì nghèo mà giàu. Không biết vừa đủ thì luôn luôn bị cả năm thứ dục lạc lôi kéo, làm cho người biết vừa đủ phải xót thương. Đó là hạnh biết vừa đủ.

Các thầy Tỷ kheo, nỗ lực tinh tấn thì không có việc gì khó khăn. Thế nên các thầy phải thực hành sự nỗ lực tinh tấn. Nước nhỏ mà chảy mãi thì có thể xuyên thủng cả đá. Nếu người hành đạo mà hay biếng nhác phế bỏ, thì cũng như kéo lửa chưa nóng mà đã ngừng, dầu thiết tha có lửa, lửa cũng khó mà có được. Đó là hạnh tinh tấn.

Các thầy Tỷ kheo, cầu thiện tri thức, cầu thiện hộ trì và cầu thiện hỗ trợ, đều không bằng không quên chánh niệm. Không quên chánh niệm thì giặc phiền não hết cách xâm nhập tâm trí. Thế nên các thầy hãy luôn luôn tập trung chánh niệm lại nơi tâm trí. Mất chánh niệm là mất công đức. Nếu chánh niệm có sức lực vững vàng, thì dẫu phải vào trong đám giặc ngũ dục, cũng không bị chúng sát hại; tựa như tướng sĩ lâm trận mà mặt áo giáp lát đồng, thì không còn sợ hãi gì nữa. Đó là hạnh không quên chánh niệm.

Các thầy Tỷ kheo, tập trung tâm lại thì tâm sẽ ở trong thiền định. Tâm ở trong thiền định thì có thể thấu triệt trạng thái chuyển biến của vũ trụ. Vì thế mà các thầy phải luôn luôn tinh tấn, nỗ lực thực tập thiền định. Thiền định được thì tâm hết tán loạn. Tiếc nước thì phải đắp đê

Page 49: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

49

sửa bờ cho khéo, hành giả cũng vậy, hãy vì nước trí tuệ mà thực tập thiền định để giữ cho nó khỏi chảy mất. Đó là hạnh thiền định.

Các thầy Tỷ kheo, có trí tuệ thì hết đam mê, luôn luôn tự tĩnh thức và tự dò xét, không để lỗi lầm có thể có được, như thế là trong chánh pháp của Như Lai, người ấy có khả năng thực hiện giải thoát. Không như thế thì đã không phải xuất gia, lại không phải thế tục, không còn biết gọi là gì. Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc nhất vượt biển sanh lão bệnh tử, là ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô minh, là thần dược cho mọi kẻ bệnh tật, là búa sắt chặt cây phiền não. Vì thế mà các thầy hãy dùng cái tuệ Văn Tư Tu chứng để tự tăng tiến ích lợi. Có trí tuệ soi chiếu, thì dẫu mắt thịt cũng vẫn là kẻ thấy rõ nhất. Đó là hạnh trí tuệ.

Các thầy Tỷ kheo, đối với mọi thứ công đức, các thầy hãy thường xuyên nhất tâm tu tập, tránh sự phóng dật như tránh giặc thù. Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói chánh pháp một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành. Hoặc trong núi rừng, hoặc cạnh đầm vắng, hoặc dưới đại thọ, các thầy hãy ở một cách thư thái, trong tịnh thất nhỏ, nhớ và chiêm nghiệm chánh pháp đã tiếp nhận đừng để quên mất. Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tấn mà tu tập, đừng để đời mình sẽ chết đi một cách vô ích và sau này sẽ phải lo hối hận.

Như Lai như vị lương y, biết bệnh mà chỉ thuốc, còn uống hay không, không phải lỗi củalương y. Lại như người dẫn đường rất tốt, chỉ dẫn đường tốt cho người, nhưng nghe rồi mà không đi, thì không phải lỗi của người dẫn đường”…

Căn dặn những điều cần thiết này xong, đức Phật liền hỏi chư Tăng trong chúng hội:“Các thầy Tỷ kheo, đối với bốn chân lý, các thầy còn hồ nghi chỗ nào thì có thể chất vấn

tức khắc, không được giữ sự hồ nghi mà không cầu giải đáp”.Đức Phật sau khi nói lên ba lần như vậy, nhưng lúc đó không có ai chất vấn cả. Vì lẽ chư

Tăng không có ai còn hoài nghi về Tứ Thánh Đế mà đức Phật đã chỉ dạy. Lúc bấy giờ, Tôn giả A Nậu Lâu Đà quán sát tâm trí chư Tăng, rồi bạch với đức Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho nguội đi, song bốn chân lý mà đức Thế Tôn đã dạy thì không thể làm cho khác đi được. Bởi Ngài dạy khổ thì thật là khổ, không thể làm cho vui lên; tập là nguyên nhân của khổ, thì không còn có nguyên nhân nào khác nữa; diệt là khổ diệt, vì nguyên nhân đã diệt, mà nguyên nhân đã diệt thì kết quả cũng diệt; đạo là phương pháp diệt khổ nên thật là đạo, không còn đạo nào khác hơn. Bạch đức Thế Tôn! Đối với bốn chân lý, các vị Tỷ kheo đây đã quyết định không còn hoài nghi gì nữa”…

Lúc đó những người mới vào chánh pháp, khi nghe đức Phật thuyết pháp liền được hóa độ, như trong đêm tối bỗng điện chớp sáng liền thấy con đường đi ngay. Đối với những người tu học đã hoàn tất, đã liễu thoát luân hồi sanh tử thì trong tâm nghĩ rằng, đức Thế Tôn sao diệt độ mau chóng vậy. Còn đối với chư Tăng, những vị tu học chưa hoàn tất khi thấy Phật diệt độ thì rất là bi cảm, tiếc nuối, đau buồn khôn xiết...

Dù tôn giả A Nâu Lâu Đà đã tác bạch với đức Phật rằng, chư Tăng ai cũng đã thấu triệt bốn chân lý, nay trong chúng hội không còn ai hồ nghi cả, nhưng đức Phật vẫn đem tâm đại từ đại bi mà huấn dụ thêm một lần nữa:

“Các thầy Tỷ kheo, không nên buồn rầu; nếu Như Lai ở đời lâu đến một đại kiếp đi chăng nữa, thì sự kết hợp nào rồi cũng phải tan rã. Kết hợp mà không tan rã là điều không thể có được. Chánh pháp tự lợi lợi tha đã có đầy đủ. Như Lai sống cho lâu cũng không còn ích lợi gì nữa. Ai có khả năng tiếp nhận hóa độ, thì ở trên chư Thiên hay ở trong nhân loại, Như Lai đã hóa độ tất cả cho họ. Từ nay về sau, đệ tử của Như Lai hãy triển chuyển thực hành. Như thế là pháp thân của Như Lai thường trú bất diệt.

Thế nên, các thầy Tỷ kheo, phải ý thức toàn bộ cuộc đời là chuyển biến vô thường, có kết hợp thì có tan rã, đừng nên lo buồn gì cả. Ngược lại, cuộc đời như thế thì các thầy phải nỗ lực tinh tấn để sớm cầu tự độ, đem ánh sáng trí tuệ diệt trừ hắc ám vô minh. Vũ trụ quả thật mong manh, không một thứ chi bền chắc. Như Lai được diệt độ cũng như trừ được cơn bệnh khủng khiếp. Đây là vật tội ác và đáng bỏ, giả hiệu, mà lại chìm ngập trong biển cả già bệnh sống chết, như thế người có trí tuệ ai lại không hoan hỷ khi trừ bỏ được thân này như trừ bỏ kẻ thù?

Các thầy Tỷ kheo hãy thường nhất tâm nỗ lực cần cầu tuệ giác giải thoát. Toàn thể vũ trụ, dầu pháp biến động hay pháp bất động thì cũng đều là trạng thái bất an và tan rã. Thôi các thầy hãy yên lặng, không nên nói nữa. Thì giờ sắp hết, Như Lai muốn diệt độ. Những lời căn dặn trên đây là di huấn tối hậu của Như Lai”.

Page 50: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

50

Qua những lời di huấn tối hậu của đức Phật trên đây, đối với giới Tăng sĩ, thì đây là một báu vật thiêng liêng không thể thiếu trên con đường tu tập giải thoát… Khi viết đến đây chúng tôi bỗng liên tưởng đến mối liên hệ tương đồng mật thiết giữa đạo với đời, và chợt cảm thấy thú vị, vì chúng tôi nghĩ rằng, như đức Phật đã dạy, nếu chúng ta tu tập đạo giác ngộ giải thoát mà không giữ giới luật tinh nghiêm thì chúng ta sẽ không thể nào trở thành một bậc giác ngộ giải thoát được. Còn trong đời sống xã hội, nếu chúng ta không nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà Nước thì chúng ta cũng sẽ không thể nào trở thành một công dân tốt cho đất nước được. Như vậy ở trong đạo thì xem giới luật làm thầy, còn ở ngoài đời thì cần phải có pháp luật để làm căn bản cho sự hoàn thiện của mọi thành viên trong xã hội. Nếu chúng ta chưa làm tốt trách nhiệm tối thiểu của một công dân là nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của nhà nước, thì chúng tôi mạo muội cho rằng, như vậy chúng ta vẫn chưa đủ tư cách làm một công dân tốt, nếu không muốn nói là một con người không đứng đắn, mà làm một con người còn chưa xong thì lấy cơ sở nào để chúng ta có thể vươn đến chân trời cao xa hơn là giác ngộ giải thoát.

Quay lại vấn đề, càng về khuya cảnh vật toàn khu rừng Sa La càng trở nên yên tĩnh vắng lặng rất thích hợp cho một thời pháp thâm diệu và có thể nó sẽ để lại một ấn tượng sâu sắc cho những ai may mắn và cũng có thể nói là được đại diễm phúc mới có mặt dự thính trong lần pháp thoại lịch sử trọng đại này. Lịch sử Phật giáo cũng đã ghi lại sự kiện trọng đại này, bắt đầu từ việc Ngài ban lời giáo huấn cuối cùng cho hàng đệ tử có mặt ngày hôm đó (và cho tất cả chúng sanh trong pháp giới) bằng một thời pháp vô cùng đặc biệt, chỉ trong vòng một đêm, Ngài đã thuyết trọn bộ kinh Đại Bát Niết Bàn. Thuyết kinh này xong, đức Phật liền trao y bát lại cho trưởng tử trong giáo đoàn là Tôn giả Ma Ha Ca Diếp và Ngài nhắn nhủ lời cuối cùng trước khi diệt độ:

“Này các Tỷ kheo, các thầy hãy thường nhất tâm nỗ lực cần cầu tuệ giác giải thoát. Toàn thể vũ trụ, dầu pháp biến động hay pháp bất động thì cũng đều là trạng thái bất an và tan rã. Thôi các thầy hãy yên lặng, không nên nói nữa. Thì giờ sắp hết, Như Lai muốn diệt độ. Những lời căn dặn trên đây là di huấn tối hậu của Như Lai”.

Khi mọi việc đã hoàn tất, đức Phật khoan thai bước lên tòa thất bảo, Ngài nằm nghiêng sườn bên tay phải theo thế kiết tường, đầu tựa hướng Bắc, chân ngài duỗi hướng Nam, mặt hướng về phía Tây, Ngài lặng lẽ nhập định và từ từ đi vào cõi Đại Niết Bàn (MaHàvirvàna). Sự kiện trọng đại này, lịch sử Phật giáo thế giới đã xác nhận đó là ngày đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, nhằm ngày Rằm tháng 2 (âm lịch).

Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cùng đại chúng đã rước kim quan của Ngài tới giàn hỏa thiêu thực hiện lễ Trà tỳ (Jhàpeta). Trong lúc Tôn giả A Nậu Lâu Đà là người giữ được sự bình tĩnh, Ngài dến an ủi từng vị Tỳ kheo với nhiều lần trùng tuyên lại tính chất vô thường mà đức Phật đã khuyên bảo trước lúc Ngài ra đi, thì Tôn giả A Nan được chư Tăng phó thác công việc vào thành Câu Thi Na để báo tin cho bộ tộc Malla gần đó biết…

Lễ trà tỳ diễn ra trong bầu không khí vô cùng trang nghiêm tràn đầy xúc động, đến nỗi nhiều vị đệ tử đã là bậc Thánh Tăng cũng vẫn không cầm được nước mắt. Sau khi Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cùng đại chúng đi nhiễu quanh kim quan đức Phật ba lần về phía hữu, tất cả thành kính chấp tay cúi đầu đảnh lễ đức Phật. Nghi thức lễ bái cúng dường vừa xong thì giàn hỏa cũng bắt đầu được một trưởng lão Bà La Môn có tên là Dona đảm trách lễ trà tỳ đến châm mồi lửa. Sau khi trà tỳ xong, đại chúng vô cùng mừng rỡ, vui sướng vì được tận mắt nhìn thấy vô số xá lợi của đức Phật, đó là một bảo vật thiêng liêng thay thế cho sự hiện diện của đấng Thế Tôn trên cõi đời này. Lúc bấy giờ sứ giả của nhiều nước đến xin thỉnh phần xá lợi Phật về xây tháp cúng dường tôn thờ và cũng từ đây, tập tục tín ngưỡng tôn thờ xá lợi được lưu truyền rộng ra trong sinh hoạt tâm linh của Phật giáo.

Từ khi đức Phật Đản sanh cho đến khi ngài nhập Niết Bàn, các di tích nơi đức Phật đã từng lưu lại đều trở thành những Thánh tích thiêng liêng trên thế giới, đó cũng là nơi để cho toàn thể Phật giáo đồ khắp mọi nơi hành hương đến chiêm bái. Trong số các Thánh tích quan trọng đó chúng ta có thể kể đến vườn Lâm Tỳ Ni nơi đức Phật giáng sinh, Bồ Đề Đạo Tràng nơi đức Phật thành đạo, vườn Lộc Uyển nơi đức Phật nơi đức Phật thuyết pháp độ sanh lần đầu tiên và rừng Sa La Song Thọ (thành Câu Thi Na) là nơi đức Phật nhập Niết Bàn. Đây là bốn Thánh tích lịch sử của Phật giáo nói riêng và của nhân loại nói chung, nó luôn tồn tại trong tâm trí của tất cả những người con Phật, dù cho thời gian có bào mòn và thế gian hư huyễn này có trải qua biến động như thế nào đi chăng nữa thì sự hiện hữu của bốn thánh tích

Page 51: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

51

này vẫn tồn tại mãi mãi trong tâm hồn của nhân loại trên hành tinh này. Trong bất cứ ai nếu có thiện duyên một lần về xứ Phật đều cảm xúc trào dâng nước mắt khi đến đảnh lễ, chiêm bái bốn thánh tích mà đạo phật gọi “ Tứ động tâm”.

PHẦN BA

Page 52: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

52

HOẰNG PHÁP ĐỘ SANH

CHƯƠNG MỘT

ĐỨC PHẬT THUYẾT PHÁP LẦN ĐẦU TIÊN TẠI VƯỜN LỘC UYỂN

Như chúng ta đã biết, sau khi thành tựu đạo quả vô thượng bồ đề, đức Phật đã thuyết thời

pháp lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (tức là Vườn Nai, còn gọi là Lộc Dã – Migadàya) thuộc nước Ba La Nại (Barànaisi, Vàrànasì) để độ cho năm anh em Kiều Trần Như.

Lịch sử Phật giáo gọi lần thuyết pháp này là Sơ Chuyển Pháp Luân (Dhamma cakkrappravattana) có nghĩa là lần đầu đức Phật quay bánh xe chánh pháp. Song chúng ta cũng cần tìm hiểu xem nguyên nhân nào đã khiến cho đức Phật thuyết thời pháp quan trọng này và vì sao đức Phật lại đến vườn Lộc Uyển trước tiên để độ cho năm anh em Kiều Trần Như giúp họ đều được giải thoát?

Dù chúng ta đang nói về một đức Phật lịch sử chứ không phải một đức Phật thần thoại phi lịch sử, thế nhưng chúng ta cũng không nên bỏ qua phần duyên khởi vô cùng quan trọng, mà như quý Phật tử đã biết, đức Phật giảng một thời pháp nào hay giáo huấn ai một điều gì thì cũng đều có nhân duyên sâu xa của nó. Vậy nhân duyên đưa đến thời pháp đầu tiên này từ đâu?

Như chúng ta đã biết, bổn nguyện của chư Phật ra đời là để cứu vớt chúng sanh thoát khỏi cảnh trầm luân trong đau khổ luân hồi sanh tử. Tuy nhiên sau khi thành đạo, đức Phật vô cùng phân vân là có nên thuyết pháp để giáo hóa chúng sanh hay không, vì Ngài cho rằng, pháp của Như Lai thậm thâm vi diệu, chúng sanh khó có thể lãnh hội tu hành giải thoát được. Trong Kinh Đại Phẩm của Luật Tạng (Mahàvagga) thuộc hệ thống kinh điển Pali đã ghi lại những suy tư này của đức Phật sau khi Ngài thành đạo: “Giáo lý mà ta đã chứng, thâm áo, vi diệu, khó thấy, khó hiểu, tế nhị vô cùng, dựa trên thực nghiệm, không phải do lý luận, chỉ người có trí mới thấu triệt được mà thôi” và “Thế giới này ham thích thú vui dục lạc, song giáo pháp (Dharma) của ta hướng đến sự viễn ly, ly tham, diệt ái. Giả sử như ta có thuyết giảng giáo pháp này, tức phải đi ngược dòng với thế giới này, và người đời sẽ không hiểu được ta, điều ấy sẽ gây mệt nhọc cho ta mà cũng chẳng lợi ích gì cho chúng sanh trong thế giới này”. Khi Ngài đang suy nghĩ như vậy thì bỗng có một vị Phạm Thiên quỳ trước mặt đức Phật và thưa với Ngài rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thế giới này sẽ hủy diệt mất nếu đấng toàn giác không quyết định thuyết pháp. Do vậy, cầu xin đức Thế Tôn hãy thuyết pháp. Có những người ít nhiễm bụi trong mắt, nếu không được nghe pháp, thì chúng sẽ sa đọa. Song nếu chúng nghe

Page 53: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

53

pháp, chúng sẽ đạt được giải thoát”. Lời thỉnh cầu của vị Phạm Thiên như mở toang cánh cửa đại từ đại bi của đức Phật, mà bi tâm nơi đức Phật vốn luôn sẵn sàng để đón chúng sanh bước vào trong ngôi nhà giáo pháp của Ngài. Sau khi vị Phạm Thiên ba lần thỉnh cầu như vậy, đức Phật mới đồng ý thuyết pháp. Vị Phạm Thiên vô cùng hoan hỷ đảnh lễ đức Phật, đi nhiễu quanh ngài ba vòng về phía hữu rồi cáo biệt.

Khi đã đồng ý nhận lời thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, người đầu tiên mà đức Phật nghĩ đến là hai vị đạo sĩ Bà La Môn A Ra La Già Đa Na (Àlàra Kàlàma) và Uất Đà Già La Ma Tử (Uddaka Ràmaputta), những vị này đã từng là đạo sư của đức Phật khi Ngài vừa mới xuất gia và tu tập thiền Yoga với họ. Nhưng khi biết được hai vị đạo sư này đã từ trần, đức Phật liền nghĩ ngay đến năm anh em du sĩ Bà La Môn đã từng cùng tu khổ hạnh với Ngài trước đây, hiện họ vẫn còn đang thực hành pháp tu khổ hạnh tại vườn Nai (Lộc Uyển), Ngài liền hướng đến Ba La Nại, đi thẳng đến vườn Nai.

Nhóm năm du sĩ khổ hạnh Bà La Môn này gồm năm huynh đệ đồng tu, mà chúng ta quen gọi là năm anh em Kiều Trần Như: A Nhã Kiều Trần Như [Annà Kondannà], Bạt Đề [Bhadaka], Ma Ha Nam [Mahànàman], Át Bệ hay còn gọi là Mã Thắng [Assaji], Thập Lực Ca Diếp [Dásbala Kàsypa] (có tài liệu không cho là Thập Lực Ca Diếp mà lại ghi là Bà Phả [Vappa]), khi nhìn thấy đức Phật xuất hiện từ ngoài xa, họ lộ vẻ bất mãn và ra vẻ dửng dưng không quan tâm gì đến một người đã từng rời bỏ họ trước đây. Lúc này gần như trong nhóm đã có một sự xếp đặt ngầm cho một cuộc gặp mặt không mấy thiện chí này. Chẳng hạn họ sẽ đồng lòng không thèm chào hỏi cũng như không đứng lên đảnh lễ đức Phật. Thế nhưng đến khi đức Phật từ từ tiến lại gần phía họ, thì cả năm anh em Kiều Trần Như đều bị đức Phật chinh phục bởi dáng vẻ uy nghi thanh thoát của Ngài và bị chiêu cảm bởi ánh sáng quang minh trí tuệ tỏa ra từ gương mặt đức độ nhân từ của một bậc đại giác ngộ đã hoàn toàn giải thoát. Và mọi dự tính của họ bị đảo lộn mà có lẽ sau này họ cũng sẽ không ngờ tới. Khi đó tất cả đồng loạt đảnh lễ dưới chân đức Phật, cả nhóm chia nhau người cầm bình bát, người cầm tích trượng, người đỡ tấm y, người sửa soạn chỗ ngồi và rửa chân cho đức Phật. Lúc đó tất cả đồng loạt xưng hô với đức Phật là “Hiền giả”, một cách xưng hô rất tôn quý mà người Bà La Môn giáo chỉ dành để xưng hô với những bậc trưởng thượng và đạo đức. Song đức Phật đã nhẹ nhàng bảo họ thay đổi cách xưng hô như vậy.

Trong Kinh Đại Phẩm của Luật Tạng (Mahàvagga) đã ghi lại toàn bộ sự kiện này như sau:

“Đức Thế Tôn lần hồi đến Ba La Nại (Baranasì) trong rừng Ispatana, nơi cư trú của năm vị Tỳ kheo. Năm vị Tỳ kheo thấy Thế Tôn từ xa tiến lại. Khi trông thấy Ngài, họ bảo với nhau: “Này các hiền hữu, Sa Môn Cồ Đàm đang đến kia, đấy là người đang sống trong dư dật, người đã từ bỏ những hoài bão của mình mà buông mình theo vật chất. Chúng ta chớ nên cung thỉnh ông ta, chớ đứng dậy chào ông ta, chớ đỡ lấy bình bát và y khoác ngoài cho ông ta. Chúng ta chỉ dọn cho ông ta một chỗ ngồi nếu ông ta muốn ngồi”.

“Thế nhưng khi Thế Tôn càng đến gần thì năm vị Tỳ kheo càng khó giữ được quyết định của họ. Họ đến trước mặt Thế Tôn. Người thì đỡ lấy bình bát và y khoác ngoài của Ngài, kẻ thì sửa soạn chỗ ngồ icho Ngài kẻ thì đem nước đến để Ngài rửa chân, giá và đòn để Ngài gác chân. Thế Tôn ngồi vào chỗ đã soạn sẵn. Ngồi xuống xong và gác chân lên giá”.

“Bấy giờ các vị Tỳ kheo ấy chào hỏi Thế Tôn, gọi là Ngài và xưng Ngài là Hiền giả. Khi họ nói như thế, Thế Tôn mới bảo với họ rằng:

“Này các Tỳ kheo, chớ gọi Như Lai là “Hiền giả”. Này các Tỳ kheo, Như Lai là Tối thượng, là Tối Thắng Phật. Này các Tỳ kheo hãy lắng nghe cho kỹ: Sự giải thoát khỏi cái chết đã được tìm thấy. Như Lai dạy Pháp cho các Người. Nếu các Người theo lời dạy của Như Lai thì chẳng bao lâu các Người sẽ chia sẻ được điều mà vì nó các thanh niên chúng ta rời bỏ nhà cửa để sống đời lang thang, đấy là sự thành tựu tối cao về những hoài bão cao thượng. Ngay tại đời này, các người sẽ biết được Chân Lý, các Người sẽ thấy chân lý ngay trước mắt mình”.

“Nghe Thế Tôn dạy như thế, năm vị Tỳ kheo mới hỏi Ngài: “Này Hiền giả, nếu như trước kia Người đã không đạt được sự toàn hảo tối thượng, sự viên mãn của Tuệ Giác là thứ mà chỉ các bậc Toàn Hảo mới đạt được, bằng những hoài bão, tu tập khổ hạnh của Người, thì nay Người đang sống trong vật chất, đang chối bỏ các hoài bão của người và đang buông mình theo sự dư dật, làm sao Người có thể đòi đạt được sự Toàn Hảo Tối Thượng, sự viên mãn của Tuệ Giác là thứ mà chỉ có các bậc Toàn Hảo mới có được ?”.

Page 54: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

54

“Nghe năm vị Tỳ kheo nói thế, Thế Tôn đáp: “Này các Tỳ kheo, Như Lai không sống dư dật; không chối bỏ hoài bão và không buông mình theo vật chất. Này các Tỳ kheo, Như Lai là cao cả, là Tối Thượng Phật. Này các Tỳ kheo, hãy lắng nghe cho kỹ: Sự giải thoát khỏi cái chết đã được tìm thấy. Như Lai dạy pháp cho các Người. Nếu các Người theo lời dạy của Như Lai thì chẳng bao lâu các người sẽ chia sẻ được điều mà vì nó thanh niên của chúng ta rời bỏ nhà cửa để sống đời sống lang thang, đấy là sự thành tựu tối cao về những hoài bão cao thượng. Ngay tại đời này, các Người sẽ biết được chân lý, các Người sẽ thấy được chân lý ngay trước mắt mình”.

Khi đó đức Phật, hướng về phía năm anh em Kiều Trần Như mà tuyên thuyết thời pháp đầu tiên kể từ sau khi Ngài thành đạo, trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikàya - quyển 5) Kinh Chuyển Pháp Luân đã ghi lời dạy của đức Phật:

“Này các Tỳ kheo, có hai điều cực đoan, người xuất gia không nên hành trì. Thế nào là hai? Một là mê đắm là dục lạc thế gian, hạ liệt, yếu đuối thấp hèn, không xứng với Thánh hạnh, không tương ứng với đạo lý, không đem lại ích lợi cho đời sống và sự tu hành. Hai là tu hành khổ hạnh, ép xác, tự gây khổ đau, cũng không xứng Thánh hạnh, không ứng hợp đạo lý, chẳng mang lại lợi ích cho sự tu hành giải thoát”.

“Này các Tỳ kheo, nhờ tránh xa hai điều cực đoan này và nhận ra con đường Trung đạo, chính là con đường khiến cho ta thấy và biết chân chánh, giúp cho ta đạt được pháp nhãn và trí tuệ, đó là con đường đưa đến sự an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niet bàn”.

“Này các Tỳ kheo, đây là Khổ đế: Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, chia cách cái mà ta thích là khổ, gặp gỡ cái ta không thích là khổ, không được cái ta muốn là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.

“Này các Tỳ kheo, đây là Tập đế: Chính sự khát ái hiện hữu đưa đến tái sinh, kèm theo dục lạc, tham ái, nó cứ tìm kiếm khắp nơi sự dục lạc, sự khao khát dục lạc, sự khao khát được hiện hữu, sự khao khát của cải.

“Này các Tỳ kheo, đây là Diệt đế: Dập tắc sự khát khao ấy, do sự tiêu diệt hoàn toàn các dục vọng, bằng cách loại trừ dục vọng, từ chối nó, thoát ra khỏi nó, không dành chỗ nào cho nó.

“Này các Tỳ kheo, đây là Đạo đế: Đấy là Bát Chánh đạo tức là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.

“Đây là Khổ đế. Như thế đấy, này các Tỳ kheo, chính mặt Ta đã thấy những ý ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với Ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng trí, tuệ giác đã mở ra như thế. Khổ đế nay cần phải hiểu nó. Khổ đế này Ta đã hiểu nó. Như thế đấy, này các Tỳ kheo, chính mắt Ta đã thấy những ý ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng trí, tuệ giác đã mở ra như thế.

“Đây là Tập đế. Như thế đấy, này các Tỳ kheo, chính mặt Ta đã thấy những ý ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với Ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng trí, tuệ giác đã mở ra như thế. Tập đế này cần phải hiểu nó. Tập đế này Ta đã hiểu nó. Như thế đấy, này các Tỳ kheo, chính mắt Ta đã thấy những ý ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với Ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng trí, tuệ giác đã mở ra như thế.

“Đây là Diệt đế. Như thế đấy, này các Tỳ kheo, chính mắt Ta đã thấy những ý ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với Ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng chí, tuệ giác đã mở ra như thế. Diệt đế này cần phải hiểu nó. Diệt đế này, Ta đã hiểu nó. Như thế đấy này các Tỳ kheo, chính mắt Ta đã thấy những ý ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với Ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng trí, tuệ giác đã mở ra như thế.

“Đây là Đạo đế. Như thế đấy, này các Tỳ kheo, chính mắt Ta đã thấy những ý ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với Ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng trí, tuệ giác (giác trí) đã mở ra như thế. Đạo đế này cần phải hiểu nó. Đạo đế này Ta đã hiểu nó. Như thế đấy, này các Tỳ kheo, chính mắt Ta đã thấy những ý ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với Ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng trí, giác trí đã mở ra như thế.

“Này các Tỳ kheo, khi nào mà từ Tứ Diệu Đế này, Ta không chứng đắc được tuệ kiến và tuệ giác đích thực một cách viên mãn theo ba chuyển và mười hai hành, thì này các Tỳ kheo, khi ấy Ta biết rằng trong cõi trời, cõi Ma vương, Phạm Thiên, giữa tất cả chúng sinh với các ẩn sĩ và các Bà-la-môn, Trời, Người, Ta chưa đạt được quả Phật tối thượng. Nhưng, này các Tỳ kheo, khi nào mà từ Tứ Diệu Đế nay ta chứng đắc được tuệ kiến và tuệ giác đích thực một cách viên mãn theo ba chuyển và mười hai hành, thì này các Tỳ kheo, khi ấy Ta biết rằng

Page 55: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

55

trong cõi đời này, trong các cõi Trời, cõi Ma vương và Phạm Thiên, giữa tất cả chúng sinh với các ẩn sĩ, Bà-la-môn, Trời, Người, Ta đã đạt đến hàng Phật Tối Thượng. Và Ta đã biết và thấy như thế: Ta được giải thoát mãi mãi. Đây là kiếp cuối cùng của Ta. Từ nay, Ta sẽ không còn tái sinh nữa”.

Đức Phật thuyết pháp xong, năm anh em Kiều Trần Như vô cùng hoan hỷ. Khi đó Tôn giả Kiều Trần Như (Kondanno) đạt được pháp nhãn thanh tịnh vô cấu. Đức Phật liền tuyên bố: “Chính Kiều Trần Như đã chứng hiểu, chính Kiều Trần Như đã chứng hiểu”. Như vậy là đức Phật đã ấn chứng cho sự giác ngộ chân lý Tứ Thánh Đế của Tỳ kheo Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển trong lần Sơ Chuyển Pháp Luân lịch sử này. Lúc đó Kiều Trần Như được mang một cái tên mới là Annata Kondanna, có nghĩa là Kiều Trần Như bậc chứng hiểu. Trong lịch sử Phật giáo gọi lần thuyết pháp đầu tiên này là Sơ Chuyển Pháp Luân. Vào lúc này, Phật Bảo (Buddha), Pháp Bảo (Dharma), Tăng Bảo (Sangha) được hình thành và ngôi Tam Bảo đã bắt đầu từ đây. Đức phật là ngôi Phật bảo, bài pháp Tứ đế là ngôi Pháp bảo và năm anh em Kiều Trần Như là Tăng bảo.

Tiếp theo, Đức Phật dạy về vô thường, vô ngã. Tóm lại, trong lần chuyển pháp luân đầu tiên của đức Phật trước năm Tỳ kheo, nhóm Tôn giả Kiều Trần Như (Kodannà), ngài đã tóm tắt tất cả giáo lý của Ngài, tư đó trong suốt bốn mươi lăm năm hoằng hóa, Ngài đã triển khai thành chi tiết, hệ thống, đặc biệt là Tứ đế, Tam Pháp ấn, Thập nhị nhân duyên, đề tài mà đức Phật đã quán sát dưới cội Bồ-Đề, giải thích toàn bộ vũ trụ quan của Phật giáo, bao gồm tri thức luận, đạo đức luận.

Như chúng ta đã biết, đạo Phật là đạo của từ bi trí tuệ, mục đích duy nhất của đạo Phật là giải thoát khổ đau cho chúng sanh nói chung và cho nhân loại nói riêng. Từ nền tảng Trung đạo và giáo lý Tứ Diệu Đế từ trên 2550 năm qua và cho mãi đến muôn đời sau, ý nghĩa tối thượng của đạo Phật cũng không ra ngoài mục đích ấy. Từ ngàn xưa đến nay, loài người đã hết sức cố gắng đi tìm bản chất thực thể của con người và vũ trụ. Thế nhưng mọi sự cố gắng đều trở nên bế tắc, bởi lẽ những sự cố gắng đó chỉ đơn thuần là tư duy luôn bị giới hạn bởi bản ngã mà không gắn liền với sự buông xả để lắng lòng chiêm nghiệm thực tại. Vì thế, vấn đề khổ đau trong luân hồi sinh tử của con người là một sự thật hiện hữu rõ ràng nhất nhưng loài người vẫn không thể nào giải quyết một cách rốt ráo được.

Trên nền tảng Trung đạo và giáo lý Tứ Diệu Đế, chúng tôi nhận thấy rất rõ ràng, sở dĩ chúng sanh không thoát ra khỏi vòng luân hồi khổ đau sanh tử là vì đã không nhận chân sự thật bản chất của khổ, nguyên nhân và con đường đi đến sự diệt khổ. Không nhận ra điều này, có nghĩa là chúng sanh vẫn cứ mãi bị lẩn quẩn trong vòng khổ đau luân hồi sanh tử. Trong sự bế tắc tưởng chừng không một chút tia sáng hy vọng cho sự giải thoát đó thì giáo lý Tứ Thánh Đế ra đời, đã được đức Phật thuyết giảng tại vườn Lộc Uyển, nó như một cơn mưa lớn trong bối cảnh đời sống tâm linh của nhân loại đang ngoi ngóp bởi hạn hán kéo dài…

Trong chương này chúng tôi chỉ tường thuật vắn tắt lần chuyển pháp luân đầu tiên của đức Phật tại vườn Lộc Uyển. Trong chương kế tiếp nói về những giáo lý căn bản và thực tiễn tu hành mà đức Phật đã chỉ dạy, chúng tôi sẽ chia sẻ tương đối đầy đủ hơn về nội dung Tứ Thánh Đế, vì nhận thấy đây là nấc thang quan trọng để mỗi người con Phật vững bước tiến lên trên con đường giác ngộ giải thoát.

CHƯƠNG HAI

GIÁO LÝ CĂN BẢN MÀ ĐỨC PHẬT ĐÃ DẠY

Page 56: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

56

Cuốn sách khiêm tốn này có tựa đề là “Đức Phật và con đường tuệ giác”, nên trong nội dung sách này đương nhiên phải nói về cuộc đời và giáo pháp của đức Phật. Dù chủ đích của tôi là muốn nêu bật nhân cách văn hóa của đức Phật và những ảnh hưởng tích cực đến đời sống nhân loại từ giáo pháp của Ngài.

Tuy nhiên một khi đã nói về những ảnh hưởng tích cực đến đời sống nhân loại từ giáo pháp của đức Phật, thì không thể không nhắc đến những giáo lý căn bản mà Ngài đã chỉ dạy. Vì vậy mà trong chương này chúng tôi nêu ra những bài pháp căn bản nhất trong hệ thống giáo lý Phật giáo. Một trong những bài pháp vô cùng quan trọng đó chính là Tứ Diệu Đế, bài pháp đánh dấu sự khởi đầu hoằng pháp độ sanh của đức Phật.

Bên cạnh đó chúng tôi cũng xin trình bày tóm tắt những bài pháp cực kỳ quan trọng có liên quan mật thiết đến Tứ Diệu Đế như Thập Nhị Nhân Duyên, Bát Chánh Đạo và nhất là luật Nhân Quả, vì đây là cơ sở lý luận khoa học và rất vững chắc của Phật giáo, nó mang tính thực tiễn tu hành giải thoát đối với người tu học theo Phật pháp.

Trước hết chúng ta cùng nhau đi vào nội dung của bài pháp Tứ Diệu Đế.Duyên khởi của thời pháp này là đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu của Phạm Thiên, sau

đó đức Phật đã đi đến vườn Lộc Uyển hóa độ năm anh em ông Kiều Trần Như. Sự việc này chúng ta đã biết qua trong chương trước. Tuy nhiên có lẽ chúng ta cũng nên bắt đầu lại từ phần đầu của bài thuyết pháp để làm nền cho những lý giải mà chúng tôi xét thấy cần thiết khi đề cập đến Tứ Diệu Đế.

Như chúng ta đã biết, khổ đau sanh tử luân hồi của mỗi con người là một sự thật hiện hữu trong đời sống. Song con người vẫn không tài nào thoát ra khỏi vòng luân hồi luẩn quẩn đó, chính vì không nhận ra bản chất của khổ, nguyên nhân và con đường đi đến sự diệt khổ, nên sự khổ đau luân hồi sanh tử trong đời sống con người vẫn nối tiếp nhau không bao giờ đoạn dứt. Nhìn thấy tường tận tình cảnh trầm luân bất hạnh của hết thảy chúng sanh, nên ngay trong thời pháp đầu tiên đức Phật đã từ bi chỉ ra bốn sự thật, từ nguyên nhân của khổ cho đến con đường đi đến sự diệt khổ để đạt được cứu cánh Niết bàn. Chữ Đế ở đây chúng ta nên hiểu là chân thực. Tứ Đế có nghĩa là bốn chân lý như thật. Bốn lẽ thật này là nền tảng căn bản đạo học của Phật giáo, chúng ta gọi đó là Tứ Diệu Đế.

Khổ Đế (Duhkka satya): Trong thế giới này, bất cứ loài hữu tình hay vô tình đều ở trong chân tướng của khổ não. Phật dạy, đã là con người thì ai cũng gắn chặt với bốn cái khổ lớn, đó là Sinh khổ, Lão khổ, Bệnh khổ, Tử khổ; tiếp đến là Ái biệt ly khổ (yêu thương xa nhau khổ), Oán tắng hội khổ (oán ghét gần nhau khổ), Cầu bất đắc khổ (cầu mong không toại nguyện khổ), Ngũ ấm xí thạnh khổ (chấp trước và năm uẩn [Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức] bị nó nung nấu khổ). Vì đời sống con người dãy đầy những sự đau khổ, xét cho cùng thì thế giới này là thế giới khổ não. Tuy sống trong thế giới khổ nhưng con người lại mê muội mà không hay biết, mãi tham đắm dục lạc thế gian cứ cho đó là hạnh phúc sung sướng, vì vậy mà đắm chìm trong bể khổ, trầm luân trong luân hồi sanh tử không có ngày thoát. Đức Phật đã nhận thấy đời sống mỗi con người là một bể khổ, thế giới thì biến hoại vô thường, sanh trụ dị diệt không ngừng, nên Ngài mới dạy chúng ta về Khổ Đế. Đây là chân lý của cuộc sống là sự thật mà đức Phật đã chứng ngộ, chứ không phải suy tưởng.

Tập Đế (Samudaya satya): Chữ Tập ở đây chúng ta nên hiểu là tập hợp là nguyên nhân. Tập Đế là sự thật về sự chứa góp những chân tướng khổ não làm nhân cho hiện tại và tương lai. Đức Phật dạy rằng, hết thảy thế giới vạn hữu đều y vào sự quan hệ giữa nhân và qua mà sinh hay diệt, trong bất kỳ sự việc nào, dù to lớn trùm cả thế giới hay nhỏ nhặt li ti như hạt bụi cũng không ra ngoài quy luật nhân quả. Bản thân mỗi con người là một hạt giống khổ não, lại sinh ra trong thế giới vô thường khổ não, nên không thể trốn tránh đâu cho thoát sự khổ não này. Theo lời Phật dạy thì tất cả mọi hiện tượng khổ đau nơi mỗi con người không phải tự nhiên hay ngẫu nhiên mà có, mà nó lệ thuộc vào Tập nhân rồi theo luật nhân quả mà chi phối. Tập nhân ở đây là “vô minh”, vì y vào “vô minh” nên sinh ra “chấp trước”, vì “chấp trước” nên sinh ra “dục vọng”, chính do “dục vọng” mà con người tạo các nghiệp ác bởi Thân – Khẩu - Ý cùng với các nghiệp khác huân thành “nghiệp”. Đến đây thì “nghiệp” (Karma) có một sức dẫn dắt rất lớn nên gọi là nghiệp lực, nó cũng có sức tích tập nên trở thành nghiệp nhân, các nghiệp tương ứng với nghiệp nhân gọi là nghiệp quả, từ đó dẫn đến khổ báo, tạo thành quả khổ. Nếu nhìn xuyên suốt lại chúng ta sẽ thấy, cái nhân gần nhất đưa đến quả khổ đó là “nghiệp”, còn cái nhân sâu xa đưa đến quả khổ đó chính là “vô minh” hay là “hoặc”. Từ đó chúng ta thấy rõ cái quả khổ ở hiện tại là do bởi “hoặc” và “nghiệp” ở quá khứ mà sanh ra, và

Page 57: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

57

quả khổ ở tương lai là do bởi “hoặc” và “nghiệp” ở hiện tại mà thành. Một điều đáng quan tâm nữa là, cái quả khổ nó được tồn tại là do “hoặc” và “nghiệp” cứ tiếp diễn không ngừng. Điều này khiến cho ba thứ “hoặc”, “nghiệp” và “khổ” làm nhân cho nhau, gây ra quả khổ triền miên, nó tiếp diễn vô cùng vô tận. Đây chính là Tập Đế.

Diệt Đế (Nirodha satya): Diệt Đế được xem là tư tưởng luận về giải thoát và cũng là lý tưởng luận của Phật giáo. Qua sự phân tích ở trên chúng ta thấy rằng, Khổ Đế và Tập Đế chính là nhân và qua của khổ não. Trong chân lý Diệt Đế thứ ba này là phương pháp để diệt trừ nhân khổ và quả khổ, rốt ráo là đưa con người đến Niết bàn thường trụ. Theo như phân tích trên đây thì, quả khổ nơi mỗi con người đều do cái nhân gần nhất là “nghiệp”, thế nhưng “nghiệp” lại nương vào “hoặc” mà có, mà “hoặc” lại từ “vô minh” sinh ra. Đến đây, nếu chúng ta chịu khó tìm hiểu, chúng ta sẽ thấy, từ “vô minh” nơi con người mà sinh ra “bản ngã”, từ “bản ngã” sinh ra “chấp trước” xem bản thân và các hiện tượng trong thế giới này có thật nên sinh ra “vọng tưởng”, “vọng tưởng” là căn bản để sinh ra mọi “phiền não”, từ “phiền não” gây ra nghiệp nhân, tạo thành cái quả khổ sanh tử. Như vậy để đoạn diệt quả khổ, trước hết chúng ta phải chấm dứt ngay nghiệp nhân (tác nhân) mà muốn chấm dứt nghiệp nhân trước tiên chúng ta cần phải diệt sự “chấp trước” (ngã tưởng). Khi không còn “chấp trước” thì chúng ta sẽ nhận ra chân tướng của thế giới này là vô ngã. Đồng Bản ngã được diệt thì chân tướng của nhân sinh vũ trụ được hiển bày, đó tức là Bản Thể Vô Ngã. Khi thực sự nhận ra (chứng được) chân tướng của thế giới là bổn lai vô ngã thì sự chấp vào bản ngã cũng được đoạn diệt, khi đó chúng ta sẽ chấm dứt sự luân hồi, thoát khỏi khổ đau sanh tử, đạt được cứu cánh giải thoát Niết bàn. Đây chính là Diệt Đế.

Đạo Đế (Màrga satya): Đây là phương pháp tu hành thực tiễn để đưa con người đến quả Niết Bàn giải thoát. Theo lời Phật dạy thì muốn đạt đến quả niết bàn thì trước hết phải đi theo con đường trung đạo và tu Bát Chánh Đạo. Đồng thời người tu phải lấy giới luật làm căn bản cho sự tu hành của mình để thân tâm được thanh tịnh, không bị vọng niệm khuấy động. Nhờ thực hành theo Bát Chánh Đạo mà trí huệ phát sanh, hành giả sẽ thấu suốt được chân tướng của thế giới vũ trụ, diệt trừ hết thảy “nghiệp”, “hoặc”, “khổ”, đạt đến cứu cánh Niết bàn. Trong Tứ Thánh Đế thì Khổ Đế và Tập Đế là cặp nhân quả thế gian, trong đó Tập Đế là nhân và Khổ Đế là qua. Còn Diệt Đế và Đạo Đế là cặp nhân quả xuất thế gian, trong đó Đạo đế là nhân và Diệt Đế là qua.

Trong Kinh Tương Ưng bộ V (Samyutta Nikàya - 5), kinh Chuyển Pháp Luân, đức Phật đã dạy rằng:

“Thế nào là Tứ Thánh Đế? Đó là Khổ Thánh Đế, Khổ Tập Thánh Đế, Khổ Diệt Thánh Đế và Khổ Diệt Đạo Thánh Đế…

Thế nào là Khổ Thánh Đế? Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, sầu bi là khổ, ưu não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ…

Thế nào là Khổ Tập Thánh Đế? Chính là ái đưa đến tái sinh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là Dục ái, Hữu ái và Vô hữu ái…

Thế nào là Khổ Diệt Thánh Đế? Chính sự đoạn diệt ly tham, không còn tàn dư của khát ái, sự từ bỏ, không có chấp trước, giải thoát…

Thế nào là Khổ Diệt Đạo Thánh Đế? Tức là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định”.

Nhân đây, thiết nghĩ cũng nên nói thêm một số ý quan trọng trong Tứ Thánh Đế, chính lòng từ bi thương tưởng chúng sanh như con một của đức Phật, mà mỗi Đế được cắt nghĩa thành ra ba Chuyển:

1- Đó là Ngài đã thấy rõ và chỉ ra cho chúng sanh thấy rõ khổ đau (Thị Chuyển).2- Đó là Ngài khích lệ chúng sanh nên thấy rõ khổ đau (Khuyến Chuyển).3- Đó là Ngài khẳng định có sự chứng ngộ khi ứng dụng thực hành Tứ Thánh Đế, chắc

chắn dứt trừ hết khổ đau (Chứng Chuyển).Mỗi Đế có ba Chuyển, như vậy Tứ Thánh Đế được phân thành Mười Hai hành tướng.

Trong đó Chứng Chuyển là một khích lệ lớn đối với chúng sanh, vì đó là sự giác ngộ chân lý như thật của đức Phật.

Một điều mà chúng ta cũng nên lưu ý để khích lệ bản thân trong quá trình tu nhân học Phật của mình, là đức Phật trước khi giác ngộ, Ngài cũng là một chúng sanh, cũng là một con người như tất cả chúng ta, chứ Ngài không phải là một đấng thần linh với những khái niệm mơ

Page 58: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

58

hồ, cho nên chúng ta có quyền tự hào và tin tưởng rằng, giáo lý Tứ Thánh Đế, bài pháp đầu tiên mà đức Phật đã thuyết pháp hóa độ cho năm anh em Kiều Trần Như, là nền tảng căn bản giải thoát cao thượng và thiết thực của Phật giáo, chắc chắn sẽ đem lại sự giải thoát giác ngộ cho tất cả chúng ta, nếu chúng ta có niền tin chánh tín và ứng dụng thực hành.

Tuy nhiên để biến Tứ Diệu Đế trở thành một Thánh dược đối với mỗi người con Phật chúng ta, thì trước hết chúng ta cần phải xác định bốn việc nên làm, đó là Khổ nên biết, Tập nên đoạn, Diệt nên chứng và Đạo nên tu.

1- Thánh Đế thứ nhất là Khổ Đế, được trình bày trước hết là trong hai cặp nhân quả thế gian và xuất thế gian của Tứ Diệu Đế. Khổ (Duhkha) tựu trưng lại đó là trạng thái và cảm giác khổ đau bất an. Sự khổ có thể hiểu theo ba nghĩa: Một là khổ theo nghĩa thông thường bởi sự ràng buộc hay bức ngặt bởi vật chất hay sinh lý. Hai là khổ về tinh thần. Ba là sự khổ mang tính triết học như trong kinh đã dạy: “Đời sống vốn vô thường là khổ nạn”. Từ ba ý nghĩa này, mà Phật giáo có ba khái niệm khổ (Tisro-duhkhatàh). Đó là khổ kho (Duhkha- duhkhatà), hoại khổ (Viparinàma- duhkhatà) và hành khổ (Samskàra- duhkhatà).

Khổ Khổ là trạng thái khổ đau của thân tâm, cảm giác khổ dễ nhận thấy nhất trong đời sống con người đó là sinh, lão, bệnh, tử, xa người mình thương, gần người mình ghét, cầu không được cũng khổ, năm ấm hẫy hừng thì quá khổ.

Hoại Khổ là sự khổ luôn ở trong niềm vui và nó sanh diệt tiếp diễn liên tục trong đời sống con người.

Hành Khổ chính là nỗi khổ sâu thẳm và gắn chặt trong tâm thức của tất cả chúng sinh. Sự khổ sâu thẳm này tồn tại và chuyển biến ngấm ngầm trong tạng thức mỗi người. Hay nói một cách khác hơn, hành khổ là sự chấp giữ lấy năm uẩn giả huyễn này là ta, thân tâm này là của ta, đó là mầm mống sinh khởi ái dục, đưa đến vô vàn khổ đau trong đời sống mỗi con người.

2- Thánh Đế thứ hai là Tập Đế, đây là chân lý cao cả mà đức Phật chỉ dạy chúng ta cần phải đoạn Khổ (Duhkha). Theo Thánh Đế này thì quả khổ nó bao hàm sự sinh khởi, phát triển, kéo dài, liên hệ đến phiền não… Những yếu tố này tựu trung đều nằm không ngoài một trong bốn nghĩa: Nhân (Hetu), Tập (Samudaya), Sinh (Prabhava) và Duyên (Pratyaya).

Nhân là những điều làm nhân đưa đến quả khổ. Tập là những điều tập hợp nguyên nhân đưa đến quả khổ.Sinh là những cái có khả năng làm phát hiện Khổ Đế.Duyên là những gì làm duyên cho khổ được hình thành.Theo Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikàya) thì khát ái (tanhà) là nguyên nhân chính

tạo nghiệp sanh tử luân hồi. Và bản chất của khổ chính là tham - sân – si, nó thường được biểu hiện qua sự tạo tác của thân, khẩu, ý. Tuy nhiên theo Duyên Khởi Luận thì Ái chưa hẳn là nguyên nhân đầu tiên gây nên khổ, bởi vì Ái do Thọ sinh, Tho do Xúc sinh, Xúc do Hànhsinh… mà như thế cũng có nghĩa là do mười hai nhân duyên hay năm uẩn mà tập khởi. Như vậy sự chấp thủ năm uẩn vô hình chung lại là cội nguồn của vô minh…

Chúng ta cũng nên biết, theo nghĩa Duyên như đã nêu trên, thì sự luân hồi được nuôi dưỡng bởi “bốn loại thức ăn” (atvàra àhàràh) để hữu tình tồn tại. Một trong “bốn loại thức ăn” đó, thì tư niệm thực là ý chí muốn sống, muốn tồn tại, tương tục, tăng trưởng, tạo nên nguồn gốc của sự sống và tiếp tục mang theo những nghiệp thiện và bất thiện để tái sinh. Khi chúng ta biết về tư niệm thực thì sẽ hiểu được ba hình thức khát ái: Dục ái (khao khát khoái lạc), Hữu ái (khao khát sự hiện hữu) và Vô hữu ái (khao khát sự không hiện hữu).

Tóm lại thì Vô minh, Ái, Thủ, Hành… đều là những sự thật về nguyên nhân của Khổ (Duhkha) ngoài ra không có nguyên nhân nào khác… Chúng ta lại thấy, nguyên nhân của Khổ nó nằm ngay trong bản chất Khổ, từ đó Thánh Đế thứ ba chỉ ra sự tường tận bản chất của Khổ.

3- Thánh Đế thứ ba là Diệt Đế, đây là chân lý mà đức Phật chỉ dạy chúng ta cần phải thực hành để chứng đạt bằng cách đoạn diệt nguyên nhân gây ra Khổ (Duhkha). Theo Thánh Đế này thì công phu tu tập đoạn trừ ái dục chỉ là con đường dẫn đến Niết-bàn, chứ chưa phải là đã đến cảnh giới Niết bàn. Bởi Niết bàn là cảnh giới của trạng thái giải thoát, nó không nằm trong ngôn ngữ hay khái niệm, nó vượt ngoài các phạm trù đối lập của nhị nguyên. Điều này đã được chư vị Tổ sư chứng minh trong các bộ luận, các Ngài đã phân tích rất rõ về cặp nhân quả xuat thế Diệt đế và Đạo đế như sau: Đạo Đế (Bát Chánh đạo) được coi là hữu vi, hữu lậu, đó chỉ là phương tiện đưa đến vô lậu, trong khi Diệt Đế (tức Niết Bàn) gọi là vô vi, vô lậu, vì nó vượt ngoài mọi ý niệm, ngôn ngữ biểu đat…

Page 59: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

59

Nếu tổng quát về Tứ Diệu Đế, thì đó chính là con đường chân chánh đưa đến sự giác ngộ giải thoát của hết thảy chúng sanh, nó bao hàm toàn bộ giáo lý tu tập Phật giáo được xây dựng trên nền tảng căn bản của Giới – Định – Tuệ, trong đó Bát Chánh Đạo chính là phương hướng chung cho mọi ngả đường dẫn đến Niết Bàn.

Thật ra thì các pháp môn hành trì trong Phật pháp đều không ra ngoài Bát Chánh Đạo. Nó mang một mục đích và ý nghĩa rất cụ thể giúp cho hành giả đạt đến sự giác ngộ giải thoát, nếu chúng ta biết ứng dụng tu hành triệt để. Trong tám con đường chân chánh hướng đến ngôi nhà giải thoát thì Đạo chính là con đường của tư tưởng chân chánh, hành động chân chánh và có định hướng chân chánh rõ ràng. Nếu nói một cách tập trung hơn thì rốt ráo của Bát Chánh Đạo chính là con đường diệt dục, ly ái, dẫn đến nghiệp tận tình không, giúp cho hành giả đạt đến cứu cánh Niết-bàn. Ngoài ra chúng ta còn có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nữa, chẳng hạn, đó là con đường đúng như chánh pháp, đúng như chân lý, hoàn toàn có khả năng thành tựu, hay đó là con đường có khả năng giúp chúng ta dứt sạch phiền não, đưa chúng ta thoát khỏi luân hồi sanh tử…

Trên đây là những nội dung cô đọng hàm súc bốn chân lý đưa đến sự giác ngộ giải thoát cho tất cả chúng sanh. Tứ Thánh Đe (Tứ Diệu Đế) chính là chân lý cao cả, là sự thực hiển nhiên không thể tranh luận hay phủ nhận. Trong giáo điển Phật giáo gọi đây là Thánh Đế, vì đây là con đường đưa con người phàm phu bước lên bậc Thánh. Chân lý này đã được đức Phật thực chứng, sau đó Ngài đã khai thị, truyền bá rộng rãi, mà khởi đầu là thời pháp tại Vườn Nai hóa độ năm anh em Kiều Trần Như như chúng ta đã biết.

Bốn chân lý này không phải do sự suy diển của đức phật, mà nó là chân lý do đức phật chứng đắc qua quá trình thực nghiệm tu tập, chứ đức Phật không phải là người sản sinh hay đặc để bốn chân lý này. Và bốn chân lý này luôn hiện hữu như là một thực thể bất hoại.

Tứ Thánh Đế là chân lý chỉ ra sự thật của thế gian và xuất thế gian. Giáo lý Tứ Thánh Đế, bài pháp đầu tiên mà đức Phật đã thuyết pháp hóa độ cho năm anh em Kiều Trần Như cách nay trên 2550 năm, cũng chính là nền tảng căn bản giải thoát và thiết thực cho đời sống tâm linh của nhân loại trong mọi thời đại. Bốn chân lý này thực sự cao thượng, đó là pháp bảo của hàng đệ tử Phật, vì trước và sau thời đức Phật, chưa từng có một giáo lý nào chân thực và rốt ráo đến như vậy. Như lời xác nhận chắc thật của Tôn giả A Nậu Lâu Đà trước lúc đức Phật nhập Niết bàn: “Bạch đức Thế Tôn, mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nhưng bốn chân lý mà Ngài dạy: Khổ thì thật là khổ không thể làm cho vui lên; Tập là nguyên nhân của khổ thì không còn có nguyên nhân nào khác nữa; Diệt là khổ diệt vì nguyên nhân đã diệt, mà nguyên nhân diệt đã thì kết quả cũng diệt; Đạo là phương pháp diệt khổ nên thật là Đạo, không có Đạo nào khác hơn”.

Nếu quý Phật tử dụng tâm thực hành Tứ Thánh Đế, thì đó là dấu hiệu báo trước của sự giác ngộ chân lý, như trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikàya) đức Phật đã dạy: “Này các Tỳ-kheo, đây là điềm đi trước, đây là tướng báo trước mặt trời sắp mọc tức là rạng đông. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, đây là điềm đi trước, đây là tướng báo trước sự giác ngộ như thật Tứ Thánh Đế, tức là Chánh Tri Kiến”.

Lời dạy của đức Phật cách nay đã trên hơn hai mươi lăm thế kỷ, nhưng đến nay vẫn không hề lỗi thời hay mất đi giá trị thực tiễn, ngược lại mỗi ngày nó càng minh chứng cho nhân loại thấy rằng, lời Phật dạy luôn phù hợp mọi thời đại, luôn đem lại lợi ích thiết thực cho nhân loại, không chỉ vậy, nó còn rất thời sự và khoa học…

Trên thực tế cuộc sống đã cho chúng ta thấy, nếu đất nước nào trên thế giới này, người dân có niềm tin chánh tín và thực hành theo lời Phật dạy thì người dân trên đất nước đó có đời sống tinh thần phong phú, có niềm tin nhân quả sâu sắc, thường có nếp sống thuần hòa, hay tích đức tùng thiện. Tất cả chung sống với nhau trong ngôi nhà hòa bình và được an ổn, người dân luôn nhiệt tình giúp đỡ nhau vượt qua hoạn nạn khi gặp trắc trở trong cuộc sống. Nhất là mỗi khi đất nước gặp khó khăn hay chiến tranh chống ngoại xâm, thì người dân sẵn sàng xả thân quên mình hy sinh vì đất nước. Với điều này thì người Phật tử Việt Nam chúng ta có quyền tự hào về những đóng góp của mình cho đất nước trong mọi phương diện, kể cả trong thời bình cũng như thời chiến.

Chúng ta thử hỏi vì sao Phật giáo lại làm được như thế, đó là nhờ Phật giáo luôn dạy cho người Phật tử một quan niệm sống cao đẹp và thánh thiện, nói có cơ sở hơn là nhờ Phật tử biết giữ gìn ngũ giới và thực hành đúng theo tám lời khuyên quý báu của đức Phật. Tám lời khuyên chân chánh đó được gọi nôm na là Bát Chánh Đạo:

Page 60: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

60

1- Chánh kiến: Đó là sự nhìn thấy đúng đắn về bản chất của tất cả hiện tượng cũng như sự vật đang hiện hữu trong đời sống.

2- Chánh tư duy: Đó là sự suy nghĩ đúng đắn sau khi đã thấu rõ bản chất tất cả hiện tượng cũng như sự vật trong cuộc sống. Từ sự nhìn thấy đúng đắn và suy nghĩ đúng đắn, dẫn đến sự hiểu biết đúng, từ sự hiểu biết đúng đã giúp cho người Phật tử có cuộc sống chân chánh. Theo lời Phật dạy thì để có một đời sống chân chánh, đúng đắn, tốt đẹp cho mình và cộng đồng xã hội, thì người Phật tử cần phải thực hành các phần cực kỳ quan trọng dưới đây.

3- Chánh ngữ: Tức là lời nói chân thật và ái ngữ, có lợi cho mình và tất cả mọi người.4- Chánh nghiệp: Tức là nghề nghiệp, việc làm lương thiện, đúng lẽ phải, không phạm

pháp, không làm việc gì trái với lương tâm đạo đức. 5- Chánh mạng: Tức là nuôi dưỡng mạng sống của mình một cách chân chánh. Đối với

người Phật tử nhất nhất phải xem sinh mạng chúng sinh như sinh mạng của mình, nên không được sát sinh hại vật để nuôi sống bản thân, bởi làm như thế sẽ tạo ác nghiệp, nghiệp ác sẽ theo nhau lưu chuyển không ngừng, làm cho oán thù ngày càng chồng chất. Điều này đức Phật gián tiếp khuyên Phật tử nên ăn chay để tránh quả báo về sau và nhiều phương diện lợi ích klhác.

6- Chánh tinh tấn: Tức là sự nỗ lực tinh tấn không ngừng mới mong đạt được kết quả tốt đẹp.

7- Chánh niệm: Tức là thường nhớ nghĩ đến giáo pháp của đức Phật cùng những điều hay lẽ phải, quan trọng của chánh niệm là phải sống sao cho phù hợp với giáo lý giải thoát mà đức Phật đã dạy.

8- Chánh định: Tức là tập trung tư tưởng để tư duy, quán chiếu về một vấn đề mà mình quan tâm, nhằm có được một cách nhìn tổng thể, để có một ý nghĩ chân thực và với một quan điểm khách quan, phù hợp với chân lý. Đối với Phật tử chuyên sâu và hành trì thì chánh định là công phu thiền định trong Phật pháp.

Khi người Phật tử nhớ nghĩ, quán chiếu và thực hành thuần thục như tám điều đức Phật dạy trên đây, thì sẽ được phát sinh trí huệ và tâm hồn luôn an ổn. Nhờ đó mà người Phật tử sẽ không rơi vào cực đoan hay tà kiến… Tám lời khuyên vàng ngọc này nó giống như tám cột trụ đồng vững chắc để xây dựng nên tòa nhà Phật pháp nguy nga tráng lệ với đầy Phật chất (từ bi và trí tuệ) ngay trong tâm trí mỗi người con Phật. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, thiết nghĩ quý Phật tử nên ứng dụng ngay lời Phật dạy vào đời sống hằng ngày, mà cụ thể là giữ gìn ngũ giới và thực hành Bát Chánh Đạo, mới mong đạt được sự an lạc, hạnh phúc chân thật cho bản thân, gia đình và xã hội.

Trên đây chúng ta đã nói qua về Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo, nay chúng ta bàn tiếp về Thập Nhị Nhân Duyên. Đó chính là chuỗi mắt xích liên hoàn mang tính nhân quả của nhân loại, nó gồm mười hai chi nhân duyên tạo nên hai loại nhân quả ba đời.

Sau khi thành đạo, đức Phật đã căn cứ vào lý sinh khởi của sự khổ trong thế gian là Khổ Đế và Tập Đế mà trình tự nói ra sự quan hệ nhân quả của nó có mười hai chi, hay còn gọi là mười hai nhân duyên. Trong giáo lý nhà Phật thì Thập Nhị Nhân Duyên này có một vị trí vô cùng quan trọng đối với sự tu hành giải thoát của Phật tử. Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) và nhiều kinh khác đều bắt đầu chuỗi liên kết mười hai chi này từ thực trạng vô minh của con người.

1- Vô Minh (Avijjà): Là u tối, thiếu trí tuệ, không ý thức rõ sự thực mọi hiện tượng đều khổ đau, không nhận biết nhân quả. Do vô minh mà con người phát triển Hành…

2- Hành (Sankhàra): Tạo nghiệp phải nhận lấy quả báo tái sanh và tái hữu. Đặc tính của Hành là làm nhân và tăng trưởng cho Thức…

3- Thức (Vijnana): Sau khi thân hoại, thức dẫn đến sự phát triển một vòng tái sinh ra một con người mới bằng cách đậu thai trong lòng người mẹ, có những đặc tính phù hợp với nó, đó là Danh Sắc…

4- Danh Sắc (Namà rùpa): Được tái sanh, con người mới này cũng có đầy đủ sáu căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) do tiếp xúc và nhận thức thế giới trong tương quan lục căn ấy sinh ra Lục Nhập…

5- Lục Nhập (Sad àyatana): Cùng với lục nhập này, qua sáu căn, nó thành lập Xúc…6- Xúc (Pharsa): Do tiếp xúc với mọi sự vật trên thế giới này nó sinh ra Tho…7- Thọ (Vedanà): Vì tham đắm các lạc thọ mà con người sanh ra Ái…

Page 61: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

61

8- Ái (Tanhà): Do ham muốn thụ hưởng, nên chấp lấy sự hiện hữu làm thật, khiến con người mãi trôi lăn trong vòng sanh tử. Từ ái sang ra Thủ…

9- Thủ (Upàdàna): Tức là giữ lấy, nắm chặt, từ đó sinh ra Hữu…10- Hữu ( Bhava): Do sự tích tập nghiệp trong hiện tại bởi từ Hữu nên sinh ra Sanh…11- Sanh (Jàti): Khi sự Sanh chấm dứt dẫn đến Lão Tử…12- Lão Tử: (Javà marana). Từ đây tiếp tục một chu kỳ tái sanh mới bởi sự tồn tại vô

minh nơi mỗi con người… Trên đây là một trong vô số cách lý giải về chuỗi mắt xích mười hai nhân duyên.Đối với Thập Nhị Nhân Duyên thì có rất nhiều cách giải thích, nhưng thông thường thì

các bậc tôn túc thường căn cứ vào phương pháp Tam Thế Phối Đáng để giải thích, phương pháp này bắt đầu từ chi “Lão Tử”, nó ứng với thực tế luân hồi sanh tử trong đời sống con người nên được nhiều học giả tham khảo, đại khái như sau:

Già và Chết trong vị lai mà con người phải chịu là từ Sinh ở vị lai mà có. Sinh ở vị lai là kết quả bởi sự tích tập nghiệp của hiện tại là Hữu mà có. Hữu nương vào sự chấp trước của Thủ mà có. Thủ nương vào sự tham ái về sự vật của Ái mà có. Ái nương vào cảm giác khổ vui của Thọ mà có. Thọ nương vào sự tiếp xúc với ngoại cảnh của Xúc mà có. Xúc nương vào sự tiếp xúc về sáu cảm quan của Lục Nhập mà có. Lục Nhập nương vào sự kết hợp giữa thân và tâm của Danh Sắc mà có. Danh Sắc nương vào sự tác dụng nhận thức phân biệt của Thức mà có. Tuy nhiên thân tâm của hiện tại thì đếu do kết quả bởi nghiệp ở qúa khứ đã tạo là Hành, trong khi đó Hành nương vào Vô Minh (Hoặc) mà sinh ra. Giải thích đến đây thì rõ ràng là nguyên nhân căn bản của hết thảy khổ não tức là do Vô Minh sinh ra.

Trong cách giải thích này thì hai chi Sanh và Lão Tử là hai quả vị lai, nguyên nhân trực tiếp của hai quả này là từ ba chi Ái, Thủ, Hữu, gọi là ba nhân của hiện tại. Đối với năm chi Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc và Thủ đều là nguyên nhân gián tiếp cho hai quả vị lai, đồng thời nó lại là quả về nghiệp của quá khứ, nên còn gọi là năm quả của hiện tại. Cuối cùngVô Minh và Hành là hai nhân ở quá khứ. Qua đó chúng ta thấy rõ ràng trong mắt xích mười hai nhân duyên nó bao gồm mối liên hệ mật thiết nhân quả lẫn nhau trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Nếu chúng ta kết hợp liên hệ với ba thứ Hoặc, Nghiệp, Khổ thì hai quả của vị lai và năm quả của hiện tại là “Khô”. Trong khi đó Hữu và Hành là “Nghiệp” của quá khứ và hiện tại còn Thù, Ái và Vô Minh là “Họăc” của quá khứ và hiện tại. Mặt khác, Hoặc, Nghiệp, Khổ cũng quan hệ lẫn nhau, tạo thành một chu kỳ tuần hoàn không ngừng nghỉ, mười hai nhân duyên cũng nương vào nhau mà tạo thành nhân và quả, tất cả tạo thành mối quan hệ khắn khít vô cùng tận.

Như chúng ta đã biết định luật nhân quả là một định luật tự nhiên vốn có trong vũ trụ trời đất, định luật này đã được đức Phật phát kiến và thẩm thấu trong quá trình tu chứng và giác ngộ. Và học thuyết nhân quả ba đời là học thuyết căn bản để ứng dụng trong việc tu nhânthành quả, mà việc tu tập theo Bát Chánh Đạo là một cơ sở để chứng minh cho lý giải này. Học thuyết nhân quả ba đời cũng nhằm giải thích rõ ràng hơn sở hành của mười hai chi nhân duyên.

Sau đây là biểu đồ minh họa cho “hai loại nhân quả ba đời” được gắn kết với mười hai chi nhân duyên:

� Quá khứ

� Hiện tại

� Vị lai

� Vô minh

� Hành

� Thức

� Danh sắc

� Lục nhập

� Xúc

� Thọ

� Ái

� Thủ

� Hữu

� Sinh

� Lão Tử

� Nhân

� Quả

� Nhân

� Quả

Chuỗi nhân quả thứ nhất

hiện tại nhất chủng nhân quả

Chuỗi nhân quả thứ hai

vị lai nhất chủng nhân quả

Page 62: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

62

Trong mười hai chi nhân duyên, thì rõ ràng Vô Minh và Hành thuộc về nhân từ quá khứ. Do nhân từ quá khứ nên đã dẫn đến cái quả ở hiện tại, tức là Thức, Danh Sắc, Lục nhập, Xúc và Thọ, đây là một loại nhân quả. Đồng thời Ái, Thủ, Hữu làm nhân trong đời hiện tại, nên dẫn đến quả Sinh và Lão Tử ở đời vị lai, đây cũng là một loại nhân quả. Giáo lý của đức Phật chính là dạy cho nhân loại cách tháo gỡ một trong mười hai mắt xích trói buộc này, nếu chặt đứt được một đoạn trong mười hai mắt xích thì chúng ta sẽ giải thoát khỏi khổ đau luân hồi sanh tử.

Cơ sở của học thuyết Thập Nhị Nhân Duyên chính là Duyên Khởi Luận. Trong Duyên Khởi Luận cho rằng, vũ trụ do nhân duyên sinh thì cũng do nhân duyên diệt. Tất cả hiện tượng giới tồn tại đều do các mối quan hệ tác dụng, nếu tách khỏi các quan hệ và những điều kiện, thì không thể có bản thân của sự vật. Phật giáo cho rằng: “Do cái này có mà cái kia có, do cái này sinh nên cái kia sinh, cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt”, đây chính là lý nhân duyên gắn kết với luật nhân quả trong hệ thống đạo lý của Phật giáo.

Qua đó chúng ta thấy rằng tất cả sự vật trên thế giới này cũng đều không có bản chất của tự thân chúng, bởi tất cả đều được sinh ra do quan hệ nhân duyên hỗ tương, do vậy mà cũng không có bất cứ sự vật nào có thể tồn tại vĩnh viễn. Chúng cũng không thể nào ra ngoài quy luật sinh diệt biến hóa trong vũ trụ. Điều này trong Phật giáo cũng gọi là luật “vô thường” chi phối…

Một điều vô cùng quan trọng nữa cũng nằm trong giáo lý căn bản mà đức Phật đã dạy, đó là luật nhân quả. Đây có thể được xem là cơ sở lý luận khoa học và rất vững chắc của Phật giáo. Như chúng ta đã biết, có nhân tức là có quả, có quả tức là có nhân. Điều này có nghĩa là vạn vật trong vũ trụ này, đều không thể tự tồn tại, bất cứ sự vật và dữ kiện nào cũng là kết quả của một hay nhiều điều kiện và nguyên nhân nhất định nào đó đưa đến. Theo lời Phật dạy dù thế gian hay xuất thế gian, thì tất cả cũng không lìa nhân quả. Phật pháp cũng được xây dựng từ nền tảng cơ sở đạo lý nhân quả. Gieo nhân thì ắt có quả. Nhân thiện quả lành. Nhân ác thì quả khổ. Nhân quả luôn vĩnh viễn, liên tục và tuần hoàn, đạo lý này người học Phật chúng ta rất cần phải để tâm đến, không chỉ để tâm đến mà chúng ta còn phải thật cẩn trọng để gieo nhân lành, tránh xa điều ác, mới mong cải thiện được tương lai của chúng ta. Trong kinh Lương Hoàng Sám ghi rõ: “Vì ác nghiệp nên phải đọa trong ba đường dữ trải khắp ác thú và sinh ra ở nhân gian để chịu trả quả báo đau khổ. Quả báo đau khổ như thế đều do nhân duyên túc đối đời trước đem lại. Bây giờ xả thân này chịu thân khác để chịu trả quả báo mãi mãi không thôi”.

Khi chúng ta biết được nhân quả nối tiếp nhau liên tục và tuần hoàn không bao giờ chấm dứt, và khi đã tin sâu vào luật nhân quả, thì trong mọi lúc mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, chúng ta sẽ hướng đến việc đoạn trừ điều ác, siêng làm việc lành. Bởi vì chúng ta biết rõ là chính mình gieo nhân thì chính mình gặt lấy quả và tất nhiên là chẳng ai mong muốn chuốc lấy quả báo đau khổ bao giờ. Luật nhân quả chỉ cho chúng ta thấy rằng, chúng ta gieo nhân thiện nhất định sẽ được quả thiện, gieo nhân ác nhất định sẽ được quả ác. Như chúng ta đã biết, sức chịu đựng của con người là có hạn, nhưng ác báo mà nơi mỗi người sẽ nhận lãnh thì vô chừng vô hạn, bởi nó tùy theo mức độ gieo nhân ác của mỗi con người từ vô thỷ kiếp đến nay. Khi làm ác thì vui thích, nhưng khi quả báo đến thì kêu la thảm thiết đau đớn vật vã. Đây là một nghịch lý nơi đời sống con người và là sự thật trong đời sống thế gian. Nhân nào quả nấy, không thể gieo nhân thiện mà lại gặt quả ác hay gieo ác mà gặt thiện, điều này hoàn toàn không thể có và cũng không bao giờ xảy ra cả. Nhân quả là một định luật tất yếu muôn đời bất biến. Nếu đời này chúng ta gieo nhân thiện, đời này chưa hưởng (quả chưa chín) thì chắc chắn đời sau hoặc đời sau nữa chúng ta sẽ được hưởng. Đối với nhân ác cũng vậy, chúng ta không trốn chạy đi đâu cho thoát.

Trong Kinh Bổn Sanh (tiền thân của đức Phật) hay trong Kinh Hiền Ngu, những mẩu chuyện về tiền thân của đức Phật được ghi chép rất đầy đủ, trong đó thường xuyên nhắc đến những quả báo mà đức Phật phải nhận lãnh, do Ngài đã gieo ra từ trước... Do vậy, khi đã nói đến luật nhân quả, chúng ta nên hiểu một cách thấu đáo rằng đây là một định luật rất công bằng, công bằng một cách tuyệt đối và sòng phẳng, bởi vì ngay cả đức Phật, Ngài cũng không thể làm gì khác hơn một khi bản thân Ngài nhận lãnh quả báo, huống gì là chúng sanh như tất cả chúng ta thì không thể nào chạy đâu cho thoát khỏi luật nhân quả. Như vậy cách tốt nhất là

Page 63: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

63

chúng ta không nên gieo nhân bất thiện, bất hảo trong những ngày sống trên thế gian này và trong cả mai sau. Cũng nên nhắc lại, lịch sử Phật giáo đã ghi nhận rất nhiều sự kiện nhân quả có liên quan đến đức Phật. Chẳng hạn như khi đứng trước tình cảnh bộ tộc Thích Ca sắp phải hoại diệt bởi cuộc chiến tranh đẫm máu với vương quốc Kiều Tất La (Kosala) thì đức Phật cũng chẳng có thể làm gì khác được một khi quả báo đối với bộ tộc Thích Ca đã đến.

Trong đời sống, chúng ta cũng thường hay thấy có người đời này hay làm thiện mà quả báo lại không tốt, có người đời này làm việc xấu ác mà kết quả lại may mắn. Nhiều lúc chúng ta thắc mắc vì sao có hiện tượng này? Thật ra đối với người đã tin sâu luật nhân quả thì họ liên tưởng đến nhân quả ba đời không chút hồ nghi, còn đối với người chỉ hiểu nôm na “nhân nào quả nấy” thì trước hiện tượng này sẽ không khỏi thắc mắc nghi ngờ. Như chúng ta đã biết là nhân nào quả nấy, nhân quả nối tiếp tuần hoàn và liên tục, do vậy, đối với những hiện tượng khác thường nêu trên, chúng ta nên xét đến thời gian ba khoảng thời gian của nhân quả, đó là hiện báo, sinh báo và hậu báo. Nhân quả hiện báo, là chúng ta tạo nhân thiện hay nhân ác thì chúng ta thọ lãnh quả báo ngay trong hiện đời. Chẳng hạn chúng ta chăm chỉ lao động, chấp hành nghiên chỉnh luật pháp thì kết quả chúng ta sẽ được có tiền của và chắc chắn sẽ trở thành một người công dân tốt. Ngược lại nếu chúng ta cướp của giết người thì chúng ta sẽ bị pháp luật trừng trị thích đáng ngay trong đời này. Nói về nhân quả sinh báo, nghĩa là chúng ta gieo nhân đời này nhưng đời sau mới chịu quả báo. Để chỉ rõ về sinh báo, đức Phật dạy: “Muốn biết nhân đời trước hãy xem quả đời này. Muốn biết quả đời sau, hãy xem nhân đời này”. Còn nhân quả hậu báo, nghĩa là đời này chúng ta tạo nhân, nhưng mãi đến nhiều đời sau hay vô lượng kiếp về sau chúng ta mới thọ lãnh quả báo, hoặc từ nhiều kiếp lâu xa về trước chúng ta gieo nhân thì đời này hay nhiều đời sau nữa chúng ta mới lãnh. Để chỉ rõ về hậu báo, trong kinh đức Phật dạy: “Giả sử trong ngàn kiếp trôi qua, những nghiệp mà chúng ta đã gieo tạo sẽ không mất. Khi nhân duyên hội đủ, tự mình phải gánh chịu quả báo”. Như vậy rõ ràng quả báo đến tự ai làm thì người đó chịu, chẳng ai thay thế mà chịu sướng khổ thay chúng ta cả, khi đã hiểu về nhân quả ba đời, nối tiếp, tuần hoàn liên tục như vậy, chúng ta cần phải nỗ lực siêng năng làm các việc thiện, đoạn tuyệt với điều ác, luôn chú tâm giữ gìn ý nghĩ sao cho thật trong sạch để tạo cho chúng ta một cuộc sống mới tốt đẹp ngay trong hiện đời và một tương lai xán lạn về sau.

Hiểu được đạo lý này, khi chúng ta làm việc thiện, chúng ta sẽ cảm thấy an lạc cả thân và tâm và kết quả là hạnh phúc, hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, cho dù chúng ta có dư báo của nhiều kiếp trước mà chúng ta phải gánh lấy trong hiện tại. Hiểu đạo lý nhân quả ba đời, chúng ta không oán trách quá khứ, không đau khổ ở tương lai mà luôn gieo nhân lành trong hiện tai.

CHƯƠNG BA

ĐỨC PHẬT THÂU NHẬN ĐỆ TỬ VÀ THÀNH LẬP GIÁO HỘI TỲ KHEO.

Page 64: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

64

Trước khi nói về việc đức Phật thâu nhận đệ tử và thành lập Giáo hội, thiết nghĩ cũng cần tóm tắt qua khởi đầu của sự tu hành giải thoát của đức Phật. Như chúng ta đã biết, sau khi từ bỏ cung điện, vợ đẹp con thơ, bên dòng sông Anoma, Thái tử Tất Đạt Đa đã tự tay cắt bỏ râu tóc, đổi vương y để nhận bộ cà sa hoại sắc, để rồi từ đó Ngài đã trở thành một tu sĩ, một Sa Môn. Và sau sáu năm khổ hạnh với một đời sống ẩn sĩ, kiên trì, nỗ lực tu tập, cuối cùng Ngài đã chứng ngộ, trở thành vị Đại Sa Môn, sống đời sống phạm hạnh của một Sa Môn và lãnh đạo giáo đoàn gồm những vị Sa-môn.

Danh từ Sa Môn (Samana) ở đây chúng ta có thể hiểu là một tu sĩ, nó mang ý nghĩa là một người siêng làm điều thiện (cần giả), người dứt bỏ nghiệp ác (tức giả), người sống nghèo kho (bần giả) không có gì là phục vụ cho riêng mình cả…

Vào vào thời Phật, hình ảnh vị Sa Môn đã trở thành quá quen thuộc tại các quốc gia phía Nam và Đông Nam Ấn, nơi ghi đậm dấu chân đức Phật trong những năm sinh trưởng, tu tập và hoằng pháp của ngài, cũng là nơi mà hình ảnh các vị tu sĩ của nhiều giáo phái sống du phương khất thực xuất hiện.

Như đã nói ở trên, vào thời Phật, có rất nhiều đoàn tu khất sĩ. Trong những cuộc chẩn tế được tổ chức ở các đô thị, người ta thường thấy hàng đoàn khất sĩ đủ mọi giáo phái, xen lẫn vào đó là nhiều thành phần lang thang vô gia cư trong xã hội trà trộn vào… Tuy nhiên, các tu sĩ khất sĩ thường được phân biệt hẳn do thái độ ung dung, điềm đạm và phong cách thanh thoát. Những vị khất sĩ chân tu được mọi người tôn trọng gọi là Samana (Sa Môn), nghĩa là bậc tinh tấn trong đời sống tâm linh. Trong bối cảnh xã hội bấy giờ do Bà La Môn chiếm một vị trí và đẳng cấp cao nhất của xã hội nên người ta gọi những vị Sa Môn theo đạo Bà La Môn là Sa Môn Bà La Môn (Samana Brahmana), còn những vị tu sĩ khác thì chỉ gọi là Sa Môn (Samana). Tuy nhiên khi đức Phật thành đạo, qua trí tuệ đã giác ngộ và sự nghiệp giáo hóa chúng sanh, Ngài trở thành một biểu tượng phạm hạnh giác ngộ giải thoát danh tiếng đương thời,do đó người ta gọi Ngài là bậc Đại Sa-môn (Maha Samana) và gọi các tu sĩ đệ tử Ngài là Sa-môn Thích tử (Sakyaputtàya Samana). Còn bản thân các đệ tử tu sĩ của đức Phật thì tự gọi mình là Tỷ Khưu hay Tỳ Kheo (Bhikkhu) nghĩa là tu sĩ, khất sĩ. Từ Tỳ Kheo (Bhikkhu) nó rất gần với từ Bí Sô hay Bật Sô (Bhiksu) có nghĩa là kẻ lang thang xin ăn, kẻ sống vô gia cư… Riêng cộng đồng những vị Tỳ kheo (Bhikkhu) hay chỉ một nhóm Tỳ kheo thì được gọi là Giáo Đoàn Tỳ Kheo hay Tăng Già Tỳ Kheo (Bikkhu Sangha).

Trên đây là chúng tôi đại khái về ý nghĩa của danh từ Sa Môn và Tỳ Kheo. Tiếp theo chúng tôi xin trình bày việc đức Phật thâu nhận đệ tử và sự khởi đầu hình thành Giáo hội Phật giáo thuở ban sơ dưới thời đức Phật còn tại thế.

Sau khi đức Phật thành đạo, Ngài rất đắn đo là có nên đem giáo pháp truyền bá phổ độ chúng sinh hay không, bởi Ngài nhìn thấy rất rõ là cội rễ vô minh nơi con người rất sâu dày, khó nhận thấy được chân lý.

Song chính sự chứng đạt chân lý của đức Phật và chân lý ấy được biểu hiện rõ ràng sinh động qua hình ảnh và nếp sống của đức Phật, qua Trí Tuệ, Đạo Đức, Tâm Đại Từ Bi cũng như qua phương pháp khai thị của Ngài, nên chánh pháp tối thượng mà đức Phật đã giác ngộ vẫn có thể tuyên bày. Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikàya I) ghi chép như sau: “Pháp nhờ Phật mà được khai diễn một cách khéo léo, Pháp ấy là hiện thực, không bị hạn chế bởi thời gian, là Pháp mà kẻ nào thực hành sẽ có hiệu quả nhanh, là Pháp có thể dẫn đường”. Trong Kinh Đại Phẩm của Luật Tạng (Mahàvagga) thuộc hệ thống kinh điển Pali đã miêu tả quả vị Niết Bàn tối thượng mà đức Phật đã chứng đắc: “Trong toàn cõi, kể cả các cõi trời, không có kẻ nào bằng Ta. Ta là bậc Trí giả của toàn thể các cõi, Ta là Đạo sư tối thượng, Ta là Phật toàn hảo”. Ở đây chúng ta nhận thấy đức Phật tự cho mình là bậc Trí giả, là bậc Trí tuệ, Từ bi và Đạo đức, những phẩm hạnh này rất gần gũi với con người. Đức Phật không tự xem mình là một vị Chúa tể tối thượng đầy quyền lực hay là một vị Thần đầy quyền năng cao cả, hay là đấng ban ân huệ giải thoát cho nhân loại. Ngài chỉ là một con người giác ngộ, rồi dùng Trí Tuệ đã đạt được và tâm Đại Từ Bi để hóa độ chúng sanh, khai mở Giáo hội Tăng già…

Lịch sử Phật giáo đã ghi chép rằng, sau khi thành đạo, đức Phật đã rời cội Bồ Đề ở Uruvelà, Ngài hướng về phía sông Hằng (Gange), rồi Ngài ngược dòng và vượt qua sông này để sang phía hữu ngạn, tiếp tục đi về Ba La Nại (Baranàsi), nơi mà gần đó, tại vườn Lộc Uyển (Vườn Nai, Migadàya), nhóm năm vị Sa Môn Tôn giả Kiều Trần Như (Kodannà) đang tụ tập.

Tại đây, hai tháng sau khi thành đạo, đức Phật đã chuyển pháp luân đầu tiên trong thế gian này hóa độ năm anh em ông Kiều Trần Như bằng một thời pháp căn bản và tối thượng.

Page 65: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

65

Đó là Tứ Thánh Đế, nhận định đời là khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường diệt khổ. Đó là Trung Đạo, con đường xa rời mọi cực đoan. Đó là Bát Thánh Đạo, tám phương cách cần phải tu tập để đạt đến Niết bàn giải thoát. Đây cũng chính là bức thông điệp truyền đi tín hiệu giác ngộ giải thoát trong lịch sử hoằng pháp độ sanh của đấng đại giác.

Sau bài thuyết pháp đầu tiên này, Tôn giả Kiều Trần Như đắc quả Dự Lưu (quả vị thứ nhất trong bốn Thánh quả) và cả năm vị Tỳ kheo đều xin quy y Phật. Bốn ngày liền tiếp sau đó đức Phật dạy Ngũ uẩn và Vô ngã, tất cả năm vị đều đắc quả A La Hán là quả vị tối thượng trong hàng đệ tử Phật. Đây là năm đệ tử đầu tiên xuất gia của Phật và đều đắc quả A La Hán. Đây là Giáo đoàn, Tăng già Phật giáo đầu tiên trong lịch sử Phật giáo trên thế giới, nó là cơ sở cho toàn bộ Giáo hội Phật giáo trên toàn thế giới sau này.

Tại Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhigaya) khi đức Phật vừa thành đạo, thì có hai vị thương gia tên là Bạt Lê Ca (Bhallikà) và Đế Lê Phú Bà (Trapusha) dẫn đoàn xe chở hàng hóa đi ngang qua chỗ đức Phật tọa thiền, trông thấy đức Phật đang thiền định oai nghiêm đức hạnh, hai ông bèn dừng lại bên đức phật và xin được cúng dường lên Ngài một bữa cơm và mật. Đức Phật im lặng nhận lời và thuyết pháp cho hai ông này nghe. Sau khi được giáo hóa, hai ông liền xin quy y Phật và được đức chấp nhận. Như vậy hai ông Bạt Lê Ca (Bhallikà) và Đế Lê Phú Bà (Trapusha) là hai vị cư sĩ đầu tiên quy y Phật. Về sau này, ông Bạt Lê Ca (Bhallikà) xin thọ giới Tỳ kheo, tu hành đắc quả A La Hán, còn ông Đế Lê Phú Bà (Trapusha) vẫn là một cư sĩ rất thuần thành. Cũng cần nói thêm, trước đó, đức Phật đã ban cho hai vị này một nắm tóc và họ đã giữ gìn rất kỹ như là môt báu vật vô giá trên cõi đời này.

Sau khi hóa độ cho năm Sa Môn trong nhóm ông Kiều Trần Như, cũng tại vườn Lộc Uyển (Migadaya) đức Phật đã tiếp một thanh niên tên là Da Xá (Yassa) con một trưởng giả ở Ba La Nại (Baranasì) khi người này bỏ nhà và vượt qua sông Ba La Na (Varana) tìm đến yết kiến đảnh lễ đức Phật. Da Xá vốn là một công tử nhà giàu vì đã quá chán chường cuộc sống phong lưu và không còn hứng thú gì với cảnh sống thế gian nữa. Tại đây đức Phật đã thuyết giảng về Tứ Thánh Đế và đã hóa độ cho chàng thanh niên gặp nhiều may mắn này. Sau khi nghe pháp Tứ Thánh Đế, Da Xá liền đắc quả A La Hán. Vài ngày sau, Tôn giả Da Xá đã giới thuệu và dẫn đường cho bốn bằng hữu của mình là Tỳ Ma La (Vimàla), Tu Bà Hầu (Subàhu), Phú Lan Ca Na (Purnajit) và Già Bà Bạt Đế (Gavàmapati) đều thuộc hàng trưởng giả trong thành Ba La Nại (Baranasì) đến xin quy y đức Phật. Tại đây họ được nghe đức Phật thuyết pháp và đều đắc quả A La Hán.

Như vậy đến lúc này, ngoài đức Phật ra, Giáo đoàn của đức Phật có được mười vị A La Hán. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, cũng tại Ba La Nại (Baranasì), không chính xác là địa điểm nào, có lẽ cũng là ở vườn Lộc Uyển, đức Phật độ thêm năm mươi vị nữa chứng quả A La Hán, những vị này đa số đều là bạn bè, thân thích của Tôn giả Da Xá hoặc là người thân của các vị A La Hán vừa đắc quả, tất cả đều từ các nước lân cận đến.

Nói về Tôn giả Da Xá, sau khi bỏ nhà ra đi, thì cả nhà vô cùng lo lắng, phụ thân Da Xá đã tìm đến vườn Lộc Uyển thì được đức Phật giáo hóa bằng thời pháp Tứ Thánh Đế, ông liền xin quy y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Sau khi quy y, ông thỉnh đức Phật cùng chư Tăng đến nhà ông thọ trai, ngoài mục đích cúng dường, ông còn có ý muốn đưa con trai ông là Da Xá trở về nhà để vợ ông được nhìn thấy con trai yêu quý của mình. Về việc này đức Phật im lặng (nhận lời). Khi đến nhà song thân của Tôn giả Da Xá, bữa cơm cúng dường được dọn lên tươm tất nhờ bàn tay khéo léo của thân mẫu Tôn giả. Nhân dịp này đức Phật đã thuyết pháp và mẹ của Tôn giả Da Xá đã quy y Tam Bảo. Sự việc cả nhà Da Xá quy y làm đệ tử đức Phật và đặc biệt là chàng thanh niên Da Xá, được xem là con trai cưng của một nhà trưởng giả, rất phong lưu lãng tử, bỗng dưng từ bỏ tất cả quyết chí tu hành, điều này đã trở thành một sự kiện thời sự nổi bật lúc bấy giờ, việc này đã khiến cho nhiều người phát tâm quy y Tam Bảo.

Như chúng ta đã biết, cùng với hai thương gia Bạt Lê Ca (Bhallikà) và Đế Lê Phú Bà (Trapusha) được xem là hai đệ tử tại gia đầu tiên của đức Phật, thì sau khi quy y Tam Bảo, song thân của Tôn giả Da Xá trở thành bốn Phật tử tại gia đầu tiên trong giáo hội của đức Phật. Lúc bấy giờ người nam sau khi quy y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) thì được gọi là Ưu Bà Tắc (Upàsaka), phía người nữ thì được gọi là Ưu Bà Di (Upàsika). Như vậy hai chúng Phật tử tại gia được hình thành từ thuở sơ khai này và cũng bắt đầu từ đây.

Sau sự việc này, đức Phật cùng với Tăng đoàn đi khắp nơi giáo hóa. Trước tiên, Ngài hướng về thành Vương Xá, thủ phủ của vương quốc Ma Kiệt Đà. Trên đường đi Ngài đã độ cho ba vị Bà La Môn thờ thần lửa, đó là ba anh em ông Ca Diếp, người huynh trưởng tên là

Page 66: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

66

Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp (Uruvilvà Kàsýapa), hai người còn lại là Na Đề Ca Diếp (Nani Kàsýapa) và Già Da Ca Diếp (Giỳa Kàsýapa). Sau khi nghe Phật thuyết pháp, cả ba đều rất hoan hỷ vui mừng xin theo làm đệ tử đức Phật. Đặc biệt là ba vị Bà La Môn này còn có cả một ngàn đồ chúng cũng được đức Phật hóa độ. Chính vì vậy mà giáo đoàn của đức Phật lúc này rất đông đúc.

Khi đức Phật cùng đoàn Tăng chúng đến thành Vương Xá, thì vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) quốc vương nước Ma Kiệt Đà, rất lấy làm lạ, từ trên lầu gác cao hoàng thành nhìn xuống, nhà vua trông thay một vị Sa-môn oai nghi đĩnh đạt, phong thái giải thoát vô cùng, đang ở ngoài thành cùng với rất nhiều môn đệ, vì cách không xa lắm nên vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) nhận ra trong đoàn Tăng chúng này có nhiều vị Sa Môn rất nổi danh mà trước đây nhà vua từng biết họ. Tần Bà Sa La vừa thán phục, vừa hiếu kỳ, nên đã đến cho người mời đức Phật cùng đoàn Tỳ kheo đệ tử ngài vào thành độ trai. Tại hoàng cung, đức Phât đã tự xưng là bậc giác ngộ, là Phật. Đến lúc này thì vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) mới nhận ra vị Đại Sa Môn tự xưng mình là Phật, chính là Thái tử Tất Đạt Đa (Siddattha) con vua Tịnh Phạn ở Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu), là vị tu khổ hạnh mà nhà vua đã một lần yết kiến tại núi Linh Thứu (Grudhakuta) và được hứa sẽ trở lại gặp mình (nhà vua) sau khi chứng đạo. Nay Tần Bà Sa La gặp lại đức Phật, nghe được Pháp, được tham vấn đủ các mặt kiến thức. Nhà vua rất khâm phục đem lòng ngưỡng mộ đức Phật, liền xin quy y và dâng cúng toàn bộ đất tại cánh rừng Trúc Lâm (Veluvana) cho Giáo hội, đồng thời ngay sau đó vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đã sai trưởng giả Ca Lan Đà (Karanda) xây dựng tịnh xá Trúc Lâm (Venuvana Vihàra) nằm ở ngoại ô thành Vương Xá và tịnh xá Linh Thứu ở núi Kỳ Xà Quật để cúng dường đức Phật và Tăng chúng làm nơi an cư và thuyết pháp. Có thể nói đây là trú xứ đầu tiên, mở đầu một giai đoạn mới, một khởi đầu của việc cư trú có tính cách định cư, khác với lối sống lang thang của các đoàn Sa Môn lúc bấy giờ.

Đến tháng Vesakhà (khoảng tháng 4 – 5 âm lịch) tại Ấn Độ là tháng vào mùa mưa, cũng như các đoàn tu sĩ lang thang khất thực lúc bấy giờ, Tăng đoàn của đức Phât cũng ngưng sinh hoạt khất thực để tìm chỗ trú cho qua mùa mưa. Lúc này đức Phật cùng đoàn Tỳ kheo an cư tại tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana) nơi đã được vua Ba La Nại (Bimbisàra) xây dựng cúng dường. Sau hai tháng an cư, nhân một buổi khất thực trong thành Vương Xá, Tôn giả Át Bệ hoặc Mã Thắng (Assaji) đã gặp Bà La Môn Xá Lợi Phất (Sàriputra), Tôn giả Át Bệ đã thuyết pháp cho ông Xá Lợi Phất (Sàriputra) về lý Duyên Khởi, liền đó ông Xá Lợi Phất (Sàriputta) chứng quả Tu Đà Hoàn (Dự Lưu). Sau khi đắc quả Tu Đà Hoàn, Tôn giả Xá Lợi Phất liền trở về miêu tả sự việc hy hữu chưa từng xảy ra này cho người bạn thân là Mục Kiền Liên (Maudgalyỳayana) nghe. Cũng xin được nói thêm ở đây, cả hai ông Xá Lợi Phất (Sàriputra) và Mục Kiền Liên (Maudgalyỳayana) đều là hai nhà trưởng giả rất có uy tín và địa vị trong vùng, họ đã từng học hỏi thông suốt giáo điển của các vị thầy lừng danh thời bấy giờ, chẳng hạn từng làm đệ tử của đạo sĩ Sajaya và trước khi Sajaya từ trần, đạo sĩ này đã dự báo cho hai ông biết, họ sẽ là đệ tử lớn của một vị Phật. Nhớ lại lời truyền ký của đạo sĩ Sajaya trước đây và sự thâm tín Phật pháp sâu khi chứng ngộ, nên cả hai ông liền đem hai trăm năm mươi đệ tử của mình đến quy y Phật và xin gia nhập Tăng đoàn. Cả hai Tôn giả Xá Lợi Phất (Sàriputra) và Mục Kiền Liên (Maudgalyỳayana) đều đắc A La Hán sau ít tuần lễ. Đây là hai vị thông tuệ, biện tài nổi danh, có uy tín vào bậc nhất trong hàng A La Hán đệ tử của đức Phật. Tôn giả Xá Lọi Phất được đức Phật chọn làm trưởng tử, cùng với Tôn giả Mục Kiền Liên góp phần quan trọng vào việc xây dựng Giáo đoàn, giáo dục Tăng chúng, hóa độ cho rất nhiều Tỳ kheo tu học và đạt Thánh quả. Cũng trong quãng thời gian này ông Đại Ca Diếp (Mahà Kàsýapa) đã được đức Phật giáo hóa chứng được quả vị A La Hán, về sau Tôn giả Đại Ca Diếp (Mahà Kàsýapa) được xem là bậc nhất thiền định và trở thành một trong mười đại đệ tử trứ danh của đức Phật.

Trong Kinh Đại Phẩm của Luật Tạng quyển I (Mahàvagga – I) ghi lại rằng, khi Giáo đoàn đã đông đúc, đức Phật đã dạy các vị Tỳ kheo trong giáo đoàn của Ngài như sau: “Này các Tỳ kheo, hãy đi đi, đi khắp nơi vì lợi lạc và hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với cuộc đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của trời và người. Chớ đi hai người chung đường với nhau. Này các Tỳ kheo, hãy thuyết giảng giáo pháp cao thượng ở lúc khởi đầu và cao thượng ở lúc giữa, cao thượng ở lúc cuối trong tâm trí và trong ngôn từ. Hãy rao giảng sự toàn hảo viên mãn, đời sống thanh tịnh của trạng thái cao cả. Có những kẻ mà trí óc chỉ bị che mờ bởi đôi chút bụi bặm, nhưng nếu không được nghe giảng pháp thì họ không thể đạt được giải thoát: Những kẻ ấy sẽ hiểu pháp”.

Page 67: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

67

Cũng cần nói thêm, từ tịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà, đức Phật đã trở về thành Ca Tỳ La Vệ thăm bệnh đức phụ hoàng, trong lần này đức Phật đã hóa độ vua cha Tịnh Phạn cùng các hàng vương tử, trong đó có La Hầu La là người con yêu quý của Ngài, Nan Đà (Nanda) là người em khác mẹ cùng với A Nan Đà (Ànanda), Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), A Nậu Lâu Đà cũng đều xin theo làm đệ tử đức Phật. Trong lần này có một sự kiện đáng ghi nhớ, khi vua Tịnh Phạn gặp lại đức Phật, Ngài vô cùng xúc động vì qua bao năm tháng nhớ thương nay mới được gặp lại người con yêu quý của mình, mà nay đãtrở thành một bậc đại giác ngộ danh tiếng vang dội khắp mọi nơi. Trong cảm xúc vừa mừng vừa tủi đó, Tịnh Phạn vương đã bạch với đức Phật rằng:

“Thế Tôn có biết không? Khi Thế Tôn bỏ trẩm đi tu, trẩm nhớ thương Thế Tôn nhiều lắm. Trẩm bỏ ăn, bỏ ngủ, thậm chí không lâm triều để lo quốc sự. Đến khi Thế Tôn đắc đạo, trở về lập Tăng đoàn thì La Hầu La cũng bỏ trẩm xuất gia theo Thế Tôn, trẫm thêm một lần buồn khổ nữa. Từ lòng thương con thương cháu của trẩm, trẩm mới hiểu ra rằng, còn có biết bao nhiêu bậc cha mẹ khác cũng phải chịu cảnh cô đơn, sầu muộn vì con cháu họ cũng bỏ nhà ra đi xuất gia theo Thế Tôn. Cho nên điều duy nhất mà trẩm cầu xin Thế Tôn là từ nay về sau, nếu có nhận ai xuất gia thì trước hết phải được sự đồng ý của cha mẹ họ, rồi sau đó Thế Tôn mới cho nhận vào Tăng đoàn.

Khi nghe lời đề nghị của Tịnh Phạn vương đức Phật rất hiểu tấm lòng yêu quý con cái của các bậc làm cha làm mẹ, nên Ngài rất cảm thông và im lặng nhận lời. Kể từ đây, Phật tử nào muốn xuất gia tu học đều phải được sự ưng thuận của các bậc cha mẹ thì vị bổn sư mới tiếp nhận và cho làm lễ thế phát xuất gia, từ đó đến nay điều này đã trở thành một nguyên tắc trong sinh hoạt của Tăng đoàn. Cũng kể từ đây, trong giáo luật của đạo Phật có thêm điều luật là bất cứ người nào đi tu, dù là bao nhiêu tuổi, dù có chức phận gì, nếu còn cha mẹ thì trước hết vẫn phải được sự đồng ý của cha mẹ mình, sau đó mới được giáo hội tiếp nhận. Như vậy, chúng ta thấy rõ là đi tu ở đạo Phật không phải là bất hiếu.

Trở về tịnh xá Trúc Lâm chưa được bao lâu, đức Phật lại đi đến thành Xá Vệ, thủ phủ của nước Kiều Tất La (Kosala) vua Ba Tư Nặc (Prasennajit) quốc vương nước này có người con trưởng tên là Thái tử Kỳ Đà(Jeta) rất sùng kính đức Phật, trong dịp này Thái tử Kỳ Đà cùng với trưởng giả Tu Đạt Đa (Sudatta), sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, hai vị này rất hoan hỷ kính phục, họ đã cùng phát tâm xây dựng tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana Vihàra) để cúng dường đức Phật. Ngoài ra, vua nước Tỳ Xá Ly (Vaisàli) cũng đã xây dựng Đại Lâm tịnh xá (Mahàvana Vihàra) và giảng đường Lộc Mẫu Tử (Mrgàramàtuh Pràsàda). Trong khi đó tại thủ phủ Kiều Thượng Di (Kosambi) vua nước Vamsa xây dựng tịnh xá Kỳ Sử La Viên (Ghosilàràma) và tại thành Phệ Xá Ly (Vesalì) nằm ở hướng Đông bắc Ma Kiệt Đà, thủ phủ của bộ tộc Ly Xá Tỳ (Licchavi) cũng tiến hành xây dựng giảng đường Trùng Các (Kùtàgàra Sala) tất cả đều nhanh chóng bắt tay tạo dựng những công trình kiến trúc để cúng dường đức Phật làm nơi thuyết pháp…

Đức Phật thành đạo và hoằng pháp lợi sanh được năm năm thì vua Tịnh Phạn băng hà. Kế mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề, người đã từng chăm sóc nuôi dưỡng Ngài sau khi mẫu thân Ngài qua đời và công chúa Da Du Đà La, người vợ một thời của Thái tử Tất Đạt Đa ngày nào, cũng đều được đức Phật hóa độ cho xuất gia làm Tỳ kheo ni. Đây là lần đầu tiên, nữ giới được đức Phật chấp thuận cho đứng vào hàng ngũ những người xuất gia. Đến lúc này thì trong giáo đoàn của đức Phật có đầy đủ tứ chúng, hai chúng xuất gia đó là Tỳ kheo (Bhiksu) và Tỳ kheo ni (Bhiksuni), hai chúng Phật tử tại gia đó là Ưu Bà Tắc (cư sĩ nam) và Ưu Bà Di (cư sĩ nữ).

Giáo đoàn của đức Phật mỗi ngày càng một phát triển lớn mạnh, khó có thể thống kê một cách đầy đủ là đã có bao nhiêu người đã được Ngài hóa độ và đã vinh dự được đứng vào hàng tứ chúng của Ngài. Tuy nhiên, theo lịch sử Phật giáo, thì chúng ta cũng có thể biết được những đệ tử tiêu biểu nổi tiếng đã góp nhiều công sức trong việc cùng với đức Phật hóa độ chúng sanh và phát triển giáo hội thời Phật còn tại thế. Trong Kinh Thập Đại Đệ Tử, đã ghi chép mười vị đệ tử bậc nhất, được xếp vào hàng thượng thủ trong giáo đoàn của đức Phật. Đó là: Tôn giả Xá Lợi Phất đệ nhất trí tuệ, Tôn giả Mục Kiền Liên đệ nhất thần thông, Tôn giả Đại Ca Diếp đệ nhất thiền định, Tôn giả Ca Chiên Diên đệ nhất nghị luận, Tôn giả A Nan đệ nhấtđa văn, Tôn giả A Nậu Lâu Đà đệ nhất thiên nhãn, Tôn giả La Hầu La đệ nhất mật hạnh, Tôn giả Tu Bồ Đề đệ nhất tánh không, Tôn giả Phú Lâu Na đệ nhất nhạo thuyết biện tài, Tôn giả Ưu Bà Ly đệ nhất giới luật. Điều đáng lưu ý là trong số mười đại đệ tử của đức Phật, chúng ta không thấy tên của năm anh em Kiều Trần Như và ba anh em ông Ca Diếp (Ưu Lâu Tần Loa

Page 68: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

68

Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Già Da Ca Diếp), những người đã được đức Phật giáo hóa lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển mở đầu cho công cuộc hoằng dương chánh pháp về sau. Điều này chứng tỏ trong giáo đoàn của đức Phật lúc bấy giờ xuất hiện rất nhiều bậc thâm chứng Phật pháp và họ cũng đều là những bậc kỳ tài ở nhiều lãnh vực trong đời sống. Về nữ giới xuất gia thì Tỳ kheo ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề, được xem là bậc thượng thủ của Ni giới, bên cạnh đó còn có rất nhiều vị Tỳ kheo ni khác mà chúng ta cũng thường được nghe nhắc đến trong kinh điển. Trong hai chúng tại gia ngoại hộ Phật pháp rất nổi tiếng, về phía Ưu Bà Tắc, chúng ta thấy có vua Tần Bà Sa La và vua A Xà Thế nước Ma Kiệt Đà, vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tất La, Thái tử Kỳ Đà hay trưởng giả Tu Đạt Đa (Cấp Cô Độc) ở thành Xá Vệ. Về phía những vị Ưu Bà Di nổi tiếng, chúng ta thường được nghe danh của những vị này trong các kinh điển Phật giáo như bà Vi Đề Hy phu nhân, Mạt Lợi phu nhân, Thắng Man phu nhân, vợ của ông Tu Đạt Đa là bà Thiện Sinh…

Nhân lần trở về Ca Tỳ La Vệ thăm phụ hoàng trước đây, đức Phật đã hóa độ Tôn giả Ưu Bà Ly (Upàli) trở thành một vị A La Hán và được xuất gia làm Tăng sĩ, đây là vị Trưởng lão gương mẫu trong giới hạnh, có năng khiếu phân tích, biện biệt về giới luật, nên đã được đức Phật lưu tâm dạy bảo và cho phụ trách về phần giới luật trong Tăng đoàn. Vào năm thứ sáu, sau khi đức Phật thành đạo, thì giới luật dành cho Tỳ kheo đã hình thành rõ nét hơn. Đến năm thứ mười (theo một số tài liệu thì có thể là năm thứ mười hai) luật Tạng đã hoàn tất gồm ba phần như: Ba La Đề Mộc Xoa (Pàtimokkha), Đại Phẩm (Mahà Vagga) và Tiểu phẩm (Culla Vagga). Chính vì những bất cập nhất đinh do sự sống chung giữa các Tỳ kheo với nhau và nhất là sự tiếp xúc cọ sát gần gũi với cuộc sống thế gian nên đã phát sinh những trở ngại trong quá trình hình thành Tăng già, nên giới luật càng lúc càng tăng và Luật Tạng ngày càng có nhiều chỉnh sửa cho phù hợp (thường là thêm) trong những năm tiếp theo, nhất là những năm tháng sau khi đức Phật nhập diệt và sau đó cả hàng thế kỷ.

Tính từ năm đức Phật thành đạo, khoảng chừng mười năm sau thì số lượng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni trong Giáo đoàn đã lên tới năm, bảy ngàn vị, chia ra nhiều nhóm Tăng già ở nhiều địa phương và số lượng tín đồ Phật tử có thể nói là lên đến hàng triệu người và nếu so với tổng số dân của các vương quốc Ấn Độ bấy giờ, từ vĩ tuyến 23 trở lên thì chỉ chưa tới mười triệu, qua đó chúng ta thấy rằng, sự phát triển của Giáo đoàn Phật giáo và quần chúng Phật tử tại các vương quốc Ấn Độ lúc bấy giờ thực sự đã lớn mạnh vào bậc nhất so với các tôn giáo khác, kể cả so với Bà-la-môn giáo.

Trên đây chúng tôi tạm phác thảo vài nét về sự hình thành và phát triển Tăng đoàn thời đức Phật. Sự hình thành và phát triển Giáo đoàn luôn dựa trên một nguyên thể bất di bất dịch là Phật, Pháp, Tăng. Đó chính là một cơ thể sống của Giáo Hội Phật Giáo từ nguyên thủy sơ khai cho mãi đến tận ngàn sau. Tuy nhiên chúng ta cũng cần hiểu thêm rằng, vì Tăng già hình thành trong thế gian, sinh hoạt trong hoàn cảnh của pháp hữu vi, cho nên phải gặp những khó khăn, đòi hỏi phải khéo léo trong tổ chức, trong sinh hoạt, trong hoằng pháp và giáo dục… Trước những vấn đề đặt ra này, thì Giáo Hội phải bằng mọi cách phải thành tựu hai mục tiêu căn bản: Một là Tăng già phải tiến tới việc tất cả thành viên đều đạt Thánh quả, giải thoát. Hai là Tăng già phải gìn giữ giới luật và truyền bá Phật pháp để cứu độ chúng sanh, khiến cho con người tiến tới việc chấm dứt khổ đau, giải thoát luân hồi sanh tử. Như vậy, sinh hoạt của Tăng già vừa có tính cách cá nhân, vừa có tính cách xã hội. Cả hai nhân tố ấy phải hỗ tương nhau, cùng nhau khơi nguồn tuệ giác trong đời sống nhân loại.

Page 69: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

69

CHƯƠNG BỐN

THÀNH LẬP GIÁO HỘI TỲ KHEO NI

Theo lịch sử Phật giáo thì khoảng năm thứ năm sau khi đức Phật thành đạo, nghe tin vua Tịnh Phạn (Suddhodona) sắp lâm chung, đức Phật liền rời thành Xá Vệ (Savatthi) để trở về hoàng cung tại thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu). Bên long sàng, đức Phật ân cần an ủi và thuyết pháp cho nhà vua nghe lần cuối, Tịnh Phạn vương đã đắc quả A La Hán trước khi lìa trần.

Trong dịp này, bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahapajàpatì), di mẫu của Phật đã nêu ra những lý do là sau khi vua Tịnh Phạn (Suddhodona) qua đời, bà không còn ai bên cạnh cả, vì trước đó không lâu, vương tử Nan Đà và vương tôn La Hầu La đã xuất gia theo Phật, còn công chúa Sundarì Nanda sớm muộn rồi cũng theo chồng, nay tuổi bà cũng đã cao, bà cảm thấy đã đến lúc phải tu đạo giải thoát, do vậy bà cầu xin đức Phật cho bà được xuất gia, gia nhập Giáo đoàn.

Trong kinh Tiểu Phẩm của Luật Tạng (Cullavagga) ghi lại rằng, một hôm bà tìm thấy đức Phật ở Ni Câu Luật Viên (Nigrodhàràma) bà đã bạch với đức Phật rằng: “Nếu nữ giới cũng được xuất gia sống không gia đình (làm Tỳ kheo ni) trong giáo pháp của đức Thế Tôn thì thật hạnh phúc thay”. Bà đã kiên nhẫn thưa với đức Phật ba lần như vậy, nhưng đức Phật vẫn giữ nguyên lập trường là dứt khoát từ chối. Điều này đã làm bà bật khóc và bà đành lặng lẽ quay trở về kinh thành.

Ngày kia, khi đức Phật đến thành Ca Tỳ La Vệ để giảng hòa một cuộc tranh chap quyền sử dụng nguồn nước trên dòng sông Rohini giữa hai bộ tộc Sakyan và Koliyan. Sau khi nỗ lực dàn xếp ổn thỏa cuộc cãi vã tranh chấp, đức Phật ôn tồn thuyết giảng giáo pháp cho tất cả cùng nghe. Sau khi cảm nhận chân lý, một số đông người trai trẻ bộ tộc Sakyan đã xin phép đức Phật cho họ xuất gia và gia nhập Giáo hội. Thấy vậy bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahapajàpatì) bèn hướng dẫn các bà vợ của những vị ấy đến xin xuất gia với đức Phật. Tại đây bà đã khẩn khoản van xin:

“Bạch đức Thế Tôn, thật là một đại hạnh cho nữ giới, nếu hàng phụ nữ chúng con được đức Thế Tôn chấp nhận cho gia nhập vào Giáo hội Tỳ kheo Ni để khép mình trong khuôn khổ của giáo pháp và giới luật mà Thế Tôn dạy”.

Tuy nhiên, đức Phật vẫn không chấp thuận lời đề nghị này: “Như Lai không thể làm vừa lòng và chấp nhận theo ý nghĩ như vậy”. Lần thứ nhì, rồi lần thứ ba bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahapajàpatì) lập lại lời thỉnh cầu, nhưng mỗi lần thỉnh cầu như vậy đều bị đức Phật từ chối.

Thế rồi trong một thời gian ngắn không lâu sau đó, do biết được tin đức Phật sẽ rời Ca Tỳ La Vệ để đến kinh thành Phệ Xá Ly (Vesalì) của bộ tộc Ly Xá Tỳ (Licchavi) nằm ở hướng Đông bắc Ma Kiệt Đà, tại đây đức Phật ngự trong một đền thờ trên đỉnh núi. Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahapajàpatì) vẫn không nản chí vì những lần thỉnh nguyện bất thành, mà quyết định tiếp tục theo sát gót chân đức Phật để đi đến thành Phệ Xá Ly (Vesali) cùng với một số mệnh phụ phu nhân có niềm tin nơi bà. Nơi đây bà tự tay cắt lìa những chùm tóc vốn rất đẹp của một vương phi, rồi vứt bỏ tất cả đồ trang điểm ngọc ngà châu báu và khoác lên mình tấm y vàng thô thiển, các bà cam chịu khổ nhọc đi bộ, trải qua đoạn đường dài trên một trăm năm mươi dặm mới đến được thành Phệ Xá Ly (Vesali). Vốn chưa từng quen thuộc với những thử thách quá cam go như vậy thì cuộc hành trình này quả là cuộc chiến đấu với bản thân vô cùng cam go vất vả, khổ nhọc trăm bề. Trên đường đi đến Phệ Xá Ly, nhiều người thấy vậy rất cảm kích, sẵn lòng hào hiệp tạo điều kiện giúp đỡ, nhưng các bà lễ độ khước từ và tiếp tục nhọc nhằn lê bước. Cuối cùng các bà cũng đã đến thành Phệ Xá Ly (Vesali), khi đến nơi thì đôi chân của bà bị sưng phồng và bụi đất bám đầy y áo. Cảnh tượng này diễn ra thật ảo não nhìn rất thương tâm. Tại đây bà đã kể lễ lại cho Tôn giả A Nan chí nguyện của bà là xin đức Phật cho phép bà xuất gia và được thành lập Giáo hội Tỳ kheo ni.

Page 70: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

70

Theo Kinh Tiểu Phẩm của Luật Tạng (Cullavagga) khi đó Tôn giả A Nan động lòng và cảm thông trước chí nguyện cao cả và chính đáng của bà. Bằng sở trường đa văn và tài biện hộ của mình, Tôn giả A Nan đã tác bạch với đức Phật:

“Bạch đức Thế Tôn, nữ giới sống không gia đình trong pháp và luật của Thế Tôn, có chứng đắc quả vị giác ngộ hay không?”.

Đức Phật trả lời:- “Này A Nan, có thể được”. Tôn giả A Nan liền thưa với đức Phật rằng:- “Bạch đức Thế Tôn, vì nữ giới có khả năng về việc này, và vì hoàng hậu Ma Ha Ba Xà

Ba Đề Cồ Đàm(Mahapajàpatì Gotami) đã có công lớn đối với Thế Tôn, vừa là di mẫu của Thế Tôn, vừa là kế mẫu nhũ mẫu chăm sóc nuôi dưỡng Thế Tôn, vì chính lý do này, Thế Tôn nên cho phép nữ giới xuất gia sống không gia đình trong pháp và luật của đức Thế Tôn!”.

Trước lời khẩn cầu nhiệt thành của Tôn giả A Nan (Ananda), đức Phật không thể làm gì khác hơn là chấp thuận. Tuy nhiên Ngài đã ban hành Bát Kỉnh Pháp, được xem là những quy định cụ thể cho tất cả vị Tỳ kheo ni, nhằm giữ gìn và bảo vệ tương lai cho cả hai Giáo hội Tăng chúng và Ni chúng. Trong Kinh Tiểu Phẩm của Luật Tạng (Cullavagga) ghi lại lời dạy của đức Phật đối với Tôn giả A Nan: "Những giới luật và Bát Kỉnh Pháp phải được tôn trọng, tuân hành và nghiêm túc thọ trì suốt đời, không được vi phạm dầu bất cứ trường hợp nào”. Sau đó ngài dạy tiếp: -“Này A Nan, nếu mẫu hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề cam kết tuân theo tám trọng giới này thì hãy xem đây là lễ thọ giới của bà”.

Thế rồi đức Phật nêu ra Bát Kỉnh Pháp (Garudharma) có nghĩa là tám giới quan trọng cần được tôn kính, với mục đích làm nền tảng cho Ni chúng phục tùng Tăng chúng. Nội dung Bát Kỉnh Pháp (Garudharma) là nhằm đề cao tính chất quan trọng của Tăng đoàn trong việc hướng dẫn giáo dục Ni đoàn, thông qua Bát Kỉnh Pháp thì suốt một đời của Tỳ kheo ni, dù là bậc trưởng lão trong Ni giới cũng phải luôn tôn trọng cung kính đảnh lễ một vị Tỳ kheo vừa mới thọ giới.

Những điều kiện được quy định trong Bát Kỉnh Pháp như sau:1- Một vị Tỳ kheo ni, dầu có đến trăm tuổi hạ do sự thọ trì cụ túc giới (Upasamapada)

cũng vẫn phải chào hỏi một vị Tỳ kheo, đứng dậy trước mặt vị Tỳ kheo, đảnh lễ cũng như thực hành tất cả những bổn phận thích nghi đối với vị Tỳ kheo, dù cho vị này mới thọ cụ túc giới trong ngày hôm nay.

2- Một vị Tỳ kheo ni không thể nhập hạ (Vassa) ở một nơi mà không có Tỳ kheo.3- Vào mỗi ngày sám hối (một tháng hai lần) chư vị Tỳ kheo ni phải hỏi Giáo Hội chư

Tỳ kheo ngày giờ nào một vị Tỳ kheo đến hành lễ phát lồ (Uposatha).4- Khi mãn thời gian an cư kiết hạ mỗi vị Tỳ kheo ni phải thọ lễ tự tứ (Pavarana) trước

cả hai Giáo hội Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. 5- Một vị Tỳ kheo ni đã phạm một trọng tội phải chịu hình phạt manatta, trước cả hai

Giáo hội Tỳ kheo và Tỳ kheo ni.6- Một nữ giới tử (Sikkhamana, trong thời gian học tập) đã tu tập sáu giới trong thời gian

hai năm, có thể thọ trì cụ túc giới với cả Giáo hội Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni (Tăng chúng và Ni chúng).

7- Bất cứ trong trường hợp nào một vị Tỳ kheo ni đều không được quyền khiển trách hay nặng lời một vị Tỳ kheo.

8- Tỳ kheo ni không được làm lễ sám hối cho Tỳ kheo tăng, nhưng Tỳ kheo tăng có thể hành lễ sám hối cho Tỳ kheo ni.

Vì Bát Kỉnh Pháp cũng thuộc về giới và luật đối với những bậc đã xuất gia và thọ giới trong Giáo hội, cho nên chúng tôi xét thấy không cần phải giải thích chi tiết, mà chỉ dón gọn nội dung của Bát Kỉnh Pháp như đã nói trên đây.

Quay lại sự việc, sau khi đã nắm rõ nội dung tám giới chủ yếu mà đức Phật đã đưa ra, Tôn giả A Nan (Ananda) đã đến gặp bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (MahaPajapati) và trao truyền tám giới này lại cho bà. Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (MahaPajapati) vô cùng hoan hỷ lãnh giáo và nghiêm chỉnh thọ trì Bát Kỉnh Pháp (Garudharma) này và nguyện giữ trọn đời không sai phạm. Sau đó bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (MahaPajapati) được đức Phật chính thức cho thế phát xuất gia. Bà đến trước đức Phật thành kính đảnh lễ và yên lặng nghe đức Phật thuyết pháp, sau đó bà nỗ lực hành thiền, khai triển Tuệ Minh Sát (Vipassana) và chẳng trong bao lâu bà đã chứng quả A La Hán. Cũng từ đây, Giáo đoàn Tỳ kheo ni (Bikkhuni Sangha) do bà Ma Ha Ba

Page 71: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

71

Xà Ba Đề (Mahapàjapatì) đứng đầu được thành lập, do chính đức Phật trực tiếp lãnh đạo, hướng dẫn, giáo hóa, cùng với sự hỗ trợ đắc lực của chư vị Tỳ kheo, sự tổ chức và huấn luyện khéo léo của Ni trưởng Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahapàjapatì), Ni đoàn không ngừng phát triển. Lúc bấy giờ nhiều vị Tỳ kheo ni chứng quả A La Hán, chiếm được sự kính ngưỡng niềm tin của các thành phần xã hội không thua kém Tăng đoàn.

Nói về sự thận trọng của đức Phật đối với việc cho phái nữ xuất gia và thành lập Ni đoàn, thì trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) Chương Tám, Phẩm 6 – Cồ Đàm (Gotami) hay ở nhiều bộ Luật (Vagga) đã ghi lại lời dạy của đức Phật như sau:

“Này A Nan (Ananda), nếu nữ giới không được phép xuất gia sống không gia đình trong pháp và luật này, đời Phạm hạnh có thể tồn tại lâu hơn, chánh pháp có thể tồn tại một ngàn năm. Nhưng nay vì nữ giới đã được thâu nhận xuất gia, đời Phạm hạnh sẽ không tồn tại lâu dài và chánh pháp sẽ chỉ tồn tại năm trăm năm”.

“Giống như những gia đình nào có nhiều phụ nữ và ít nam nhân dễ trở thành mồi ngon cho bọn đạo tặc cướp tài sản, cũng vậy là Giáo hội có nữ giới được phép xuất gia”.

“Giống như một ruộng lúa chín có bệnh dịch trắng như xương và ruộng mía chín bị bệnh rỉ sét đỏ phải tàn tạ, cũng vậy là Giáo hội có nữ giới được phép xuất gia”.

“Giống như một người xây con đê làm hồ chứa nước, để cho nước không tràn qua bờ được, cũng vậy, này A Nan (Ananda) ta đã ban hành Bát Kỉnh pháp này cho các Tỳ kheo Ni”.

Trước lời dạy trên đây của đức Phật, chúng ta không thể đưa ra một lời giải thích hay bất cứ bàn luận nào, tuy nhiên chúng ta vẫn có thể cảm nhận, ở đằng sau lời dạy nêu trên là cả mộtsự lo lắng, sự cẩn trọng dè chừng, sự giáo dục tâm lý đối với biệt nghiệp tương đối phức tạp nơi người phụ nữ. Chúng tôi cho rằng, đức Phật đã tỏ thái độ nghiêm khắc và khó khăn khi chấp thuận cho Ni giới gia nhập vào Giáo đoàn là vì Ngài nhận thấy ở hoàn cảnh tâm sinh lý của người phụ nữ khi gia nhập Giáo đoàn, nếu không được sự hướng dẫn tu hành bởi những vị thánh Tăng thì sẽ gặp nhiều khó khăn để đạt đến mục tiêu giác ngộ giải thoát.

Chúng tôi thiết nghĩ, việc chánh pháp tồn tại lâu hay mau trên thế gian này cũng chính là do ba ngôi báu Phật Pháp Tăng có được tôn trọng đúng nghĩa hay không, điều này đức Phật đã dạy trong Tương Ưng Kinh bộ II, Tạp A Hàm (Samyutta II) như sau: “Chánh pháp không mất đi khi tượng pháp chưa xuất hiện và khi tượng pháp xuất hiện thì chánh pháp mới mất đi. Sở dĩ có tượng pháp là do Giáo hội thiếu tôn trọng Phật, Pháp, Tăng, thiếu tu tập tâm thức, thiền định”. Và như vậy rõ ràng là chánh pháp nếu có mất đi, hay tồn tại với thời gian ngắn hơn, thì cũng chưa hẳn hoàn toàn là do nguyên nhân có mặt của Ni giới trong Giáo hội.

Nói về sự thành lập và phát triển Ni giới, chúng ta cũng cần nói qua về cuộc đời và sự nghiệp của bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahappajapati). Như chúng ta đã biết, sự xuất gia và sau đó sự thành lập Giáo Hội Tỳ kheo Ni (Bhikkhuni) là một trong những mẫu chuyện sáng chói về ý chí tu hành giải thoát cũng như sự khéo léo tổ chức điều hành Giáo đoàn Ni chúng của bà. Qua đó nó cũng đã biểu hiện trí tuệ, tầm nhìn xa trông rộng cũng như tâm đại Từ đại Bi của đức Phật. Đức Phật nổi bật là một trong số ít các vị giáo chủ của nhân loại đã nâng cao hàng phụ nữ lên một vị trí xứng đáng trong đời sống, bằng cách cho phép nữ giới gia nhap vào Giáo hội Tỳ Kheo ni, điều này đã mở ra một trang sử mới trong lịch sử giải phóng sự bế tắc tâm linh của người phụ nữ trên thế gian này.

Trong thời đức Phật tại thế, bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Maha Pajapati) là người đứng hàng đầu nữ giới Phật tử, được đức Phật chỉ định lãnh đạo, tổ chức và điều hành Ni đoàn. Ở đây chúng ta sẽ thấy một điều là nếu không đủ lòng dũng cảm kiên trì và bất khuất trước những bất trắc chồng chất, thì nữ giới Phật tử (Ưu Bà Tắc) sẽ không hình dung ra được sẽ đến bao giờ mới có một Giáo hội Tỳ Kheo Ni để họ được gia nhập tu học.

Quay lại khoảng thời gian hơn hai mươi lăm thế kỷ về trước, khi đó đức Phật đặc ân công nhận và cho phép hàng phụ nữ được xuất gia và gia nhập vào giáo hội (mặc dù đức Phật rất đắn đo do dự). Và người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử nhân loại trực tiếp đảm đang trách nhiệm đòi quyền bình đẳng cho nữ giới, ngoài đức Phật ra, thì người đưa phụ nữ vượt qua khúc quanh lịch sử, giải phóng phụ nữ, không ai khác hơn là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Maha Pajapati) cao cả và thánh thiện.

Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Maha Pajapati) là em của Hoàng hậu Ma Da (Maha Maya), cả hai chị em đều là vợ của vua Tịnh Phạn (Suddhodana). Bà sanh trưởng tại thị trấn Devadaha cũng thuộc bộ tộc Thích Ca (Sykaya), là thứ nữ của A Noa Thích Ca Vương và bà Da Du Đà La (em gái của Sư Tử Giáp). Họ tộc của bà là Cồ Đàm (Gotami), nên người ta hay gọi bà là

Page 72: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

72

Ma Ha Ba Xà Ba Đề Cồ Đàm (Maha Pajapati Gotami). Ở đây chữ “Maha” có nghĩa lớn, “Pati” nghĩa là người dẫn đầu và “Paja” nghĩa là một nhóm đông người có tổ chức, khi bà còn nhỏ, các nhà tiên tri đã tiên đoán rằng về sau bà sẽ trở nên vị lãnh đạo của một nhóm người rộng lớn và điều này đã ứng vào việc bà được đức Phật chỉ định bà làm lãnh đạo Giáo đoàn Ni chúng. Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề sanh một gái tên là Sundari Nanda và một trai tên Nanda. Về sau cả hai đều gia nhập vào Giáo Hội. Hoàng hậu Ma Da qua đời sau khi hạ sanh Thái tử Tất Đạt Đa được bảy ngày, bà đã cao ca hy sinh tình mẫu tử, vì đã giao con ruột là Nan Đà (Nanda) lại cho người khác nuôi dưỡng và tự lãnh lấy trọng trách thiêng liêng dưỡng dục va chăm sóc Thái tử Tất Đạt Đa (con của chị mình). Sự việc bà đã tận tâm dưỡng nuôi và chăm sóc vị Phật tương lai trước đó mấy năm, không những được toàn Phật tử trên thế gian tri ân, mà cũng đặt đức Phật luôn mang thâm ân sâu nặng đối với bà. Cũng chính lòng tri ân này, bên cạnh những lý do không thể từ chối, đã khiến bậc đạo sư cuối cùng cũng phải tán thành lời thỉnh cầu khẩn thiết và kiên trì của Tôn giả A Nan, chấp nhận cho bà xuất gia và thành lập Giáo hội Tỳ kheo Ni.

Trong khi cư ngụ tại Phệ Xá Ly (Vesali), bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề Cồ Đàm (Maha Pajapati Gotami) nhận biết rằng mạng căn của bà hết, bà liền đến đảnh lễ từ gĩa đức Phật và viên tịch. Lúc đó bà được một trăm hai mươi tuổi thọ.

CHƯƠNG NĂM

NGUỒN GỐC AN CƯ TỊNH NGHIỆP ĐẠO TRÀNG

Nói về sinh hoạt an cư của các đoàn Sa Môn khất sĩ du phương tại Ấn Độ, nhiều sử sách ghi chép, an cư là một thông lệ đã hình thành từ lâu của các đạo sĩ Ấn Độ trước khi Tăng đoàn Phật giáo xuất hiện, nhưng cũng có tư liệu cho rằng, chỉ sau khi đức Phật thành lập Tăng đoàn thì sinh hoạt an cư mới hình thành. Ở đây chúng ta không bàn đến thời gian trước hay sau việc hình thành sinh hoạt an cư, mà chúng ta chỉ nói đến nguồn gốc an cư tịnh nghiệp đạo tràng trong sinh hoạt tu hành của Phật giáo.

Cuộc sống lang thang với hạnh khất thực được xem là một sinh hoạt chung trong các đoàn Sa Môn của tất cả các giáo phái thời bấy giờ. Trong hoàn cảnh xã hội Ấn Độ đương thời, như chúng ta đã biết, chỉ có giai cấp cao quý như Bà La Môn hay Sát Đế Lợi mới có đặc quyền sinh hoạt tâm linh, chính điều này chúng ta có thể mạnh dạn đưa ra nhận định, các Sa Môn đều không phải là thành phần nghèo khó đến nỗi phải đi khất thực xin ăn, họ càng không phải là những kẻ lười biếng bất tài không đủ sức lao động để nuôi sống mình. Trái lại, khất thực ở đây là nhằm thực hiện một công hạnh có ý nghĩa đạo đức cao thượng đối với các Sa Môn, họ chấp nhận một cuộc sống không tư hưu, không ham muốn vật chất. Đồng thời việc khất thực cũng là nhằm tạo điều kiện cho người khác thể hiện từ tâm, xả bỏ bớt của cải vật chất của mình để bố thí chia sẻ cho kẻ khác, để mọi người bày tỏ sự đồng tình đối với những ai đang truy tìm chân lý.

Thời tiết ở Ấn Độ không cho phép các Sa Môn đi khất thực quanh năm. Mùa mưa thường bắt đầu từ giữa tháng Sáu và kéo dài suốt liền ba tháng cho đến tháng Chín dương lịch. Vào mùa này, bầu trời mù mịt, cảnh vật u ám, mưa tuông ào ạt, sông hồ dâng đầy, nước tràn lênh láng, rắn rết côn trùng bò lúc nhúc khắp nơi, viec trồng trọt hay buôn bán đều phải ngưng trệ cho đến hết mùa mưa. Do đó các Sa Môn khất thực cũng tạm ngưng việc đi lại để tìm nơi ẩn trú. Việc ẩn trú chờ cho hết mùa mưa này, Bà La Môn giáo gọi là Duhruvasìla, Kỳ Na giáo

Page 73: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

73

gọi là Pajjusama và Phật giáo gọi là Vassa. Như thế, việc ẩn trú trong mùa mưa đã là một thông lệ chung cho các giáo đoàn tu sĩ du phương khất thực thời bấy giờ.

Đức Phật sau khi thành đạo, Ngài luôn căn dặn hàng đệ tử là phải sống “Vì lợi ích và hạnh phúc của số đông”. Với phương châm sống vì lợi ích tha nhân, Tăng già mang ý nghĩa cộng đồng tập thể, xã hội… và tổ chức sinh hoạt của Tăng già đã mau chóng thoát ra khỏi ý nghĩa cuộc sống riêng lẻ, cô độc như các giáo phái đương thời, để khoác lên mình sứ mạng nhập thế độ đời, khơi nguồn tuệ giác trong chốn nhân gian, giúp chúng sanh giải thoát khỏi khổ đau luân hồi sanh tử. Chính vì vậy mà từ cuộc sống lang thang từ dưới một gốc cây, trong một hang động của chư vị Tỳ kheo đã tiến đến cuôc sống ẩn cư trong một túp lều tạm bợ, rồi tiến đến cuộc sống an cư trong những căn nhà, dần dần định cư ở những tịnh xá, tu viện được xây dựng kiên cố, có nghĩa là từ cuộc sống lang thang vô định tiến đến cuộc sống định cư đàng hoàng. Đây là một hình thức sinh hoạt đặc biệt của Tăng già Phật giáo so với các Giáo đoàn khác. Tìm hiểu thêm chúng tôi được biết, trong những tháng mưa gió, những tu sĩ Bà-la-môn giáo và Kỳ Na giáo cũng thực hiện cuộc sống an cư, tuy nhiên đối với các tu sĩ Bà-la-môn giáo và Kỳ Na giáo thì họ không chủ trương việc “cùng sống với nhau” trong suốt mùa mưa. Các kinh sách Bà La Môn chỉ bảo là “sống ở một nơi” (Ekatra) hay “chỗ ở đã định” (Dhyruvasìla). Còn Kỳ Na giáo thì cho phép vị thầy (Acàryopahijàna) và một nhóm môn đệ (Ganavacchedaka) cùng sống chung với nhau.

Như chúng ta đã biết, thời tiết Ấn Độ khác biệt hơn so với Việt Nam hay Trung Quốc cũng như một số quốc gia khác. Tại Ấn Độ thời tiết một năm chia làm ba mùa rõ rệt: Từ tháng một đến tháng tư là mùa Xuân, từ tháng năm đến tháng tám là mùa Hạ và từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa Đông, như vậy ở Ấn Độ không có mùa Thu. Vào những tháng mưa gió, các đạo sĩ của Bà La Môn giáo, Kỳ Na giáo hay Sa Môn của các đạo giáo khác đưa ra qui định là nên an trú một nơi nhất định để bảo hàm dưỡng sức khoẻ cũng như ổn định nội lực. Điều này cũng dễ hiểu, vì đa số các đạo giáo tại Ấn Độ thời bấy giờ tu tập theo hệ thống giáo lý của Bà La Môn giáo và họ lấy vấn đề tu hành khổ hạnh và thiền Yoga làm căn bản tu hành.

Còn theo lịch sử Phật giáo thì kể từ khi Giao đoàn Phật giáo hình thành, khi chúng Tăng quá đông thì Giáo đoàn được tổ chức thành những đoàn nhỏ, mỗi đoàn gồm sáu vị Tỳ kheo, thường gọi là Lục Quần Tỳ Kheo, cùng nhau tu tập và hóa duyên các nơi. Tuy nhiên trong suốt những tháng mưa gió, nhận thấy các vị Tỳ kheo khi đi khất thực hóa duyên thường dẫm đạp lên côn trùng vừa sanh nở cũng như cây cỏ mới đâm chồi, tổn thương đến sinh linh vạn vật, trái với tâm từ bi bất sát của đạo Phật, nên đức Phật đã ban hành quyết định cấm túc an cư vào những tháng mùa mưa cho toàn thể chư Tăng trong Giáo đoàn. Thời gian an cư là ba tháng, bắt đầu từ ngày mồng một trăng tròn tháng A Sà Đà (Àsàdha) cho đến ngày mồng một trăng tròn của tháng A Thấp Phược Đê Xà. Theo ngài Huyền Trang, trong Đại Đường Tây Vực Ký, tính theo lịch Trung Quốc, thì thời điểm ngày mồng một trăng tròn tháng A Sà Đà (Àsàdha) nhằm đúng ngày 15 tháng 5 âm lịch (tức vào khoảng giữa tháng 6 dương lịch). Vềsau này, Phật giáo Bắc Tông vì muốn lấy ngày rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự Tứ nên người ta đã chọn ngày rằm tháng 4 âm lịch hàng năm làm ngày bắt đầu mùa an cư kiết hạ. Người ta còn phân biệt thời kỳ tiền an cư và hậu an cư (thời gian hơn kém nhau một tháng); hậu an cư lại được chia thành trung an cư (một tháng sau ngày khởi sự hậu an cư) và hậu an cư (một tháng sau ngày khởi sự trung an cư). Đây là một việc làm linh động nhằm giải quyết cho những vị Tăng có Phật sự phải đi ra ngoài trong những tháng an cư chính thức. Tuy nhiên việc cấm túc an cư dù sớm hay muộn cũng phải tròn đủ ba tháng. Nhân đây xin nói thêm về thời tiết tại Việt Nam, tuy thể hiện rõ nét là một năm chỉ có hai mùa, là mùa nắng và mùa mưa, song người ta vẫn áp dụng theo cách phân chia thời mùa như ở Trung Quốc là Xuân, Hạ, Thu, Đông. Thời điểm để tu sĩ Phật giáo Việt Nam chính thức nhập hạ an cư được tính từ ngày rằm tháng 4 cho đến rằm tháng 7 âm lịch. Riêng đối với hệ phái Phật giáo Nguyên Thủy (Nam tông) thì mùa an cư kiết hạ bắt đầu từ ngày rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9 âm lịch. Đặc biệt, ở Trung Quốc và Việt Nam, một vài nơi còn tổ chức thêm an cư kiết đông, bắt đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 âm lịch, sinh hoạt tu tập này là dựa theo tinh thần của Luật Bồ Tát.

Nói đến hành trình tu tập giải thoát giác ngộ để đạt được Thánh quả, nếu chưa phải là bậc thượng căn thượng trí, thì thật không đơn giản chút nào, nó đòi hỏi nhiều thời gian và sự nỗ lực tinh tấn không ngừng nghỉ. Hơn nữa tinh thần tự lợi là một nhu cầu cần thiết đối với bất cứ một vị Tỳ kheo nào khi chưa dự phần vào dòng Thánh (Từ quả vị Tu Đà Huờn, Tư Đà

Page 74: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

74

Hàm, A Na Hàm đến quả vị A La Hán), thì việc dụng công tu tập luôn là một nhu cầu bức thiết. Bên cạnh đó, vào thời xưa tại Ấn Độ, nếu thực hiện cấm túc an cư trong ba tháng, thì chư vị Tỳ kheo cũng sẽ tránh được sự ngộ sát côn trùng khi mùa mưa gió đến, đây cũng là một nhân duyên để chư vị Tỳ kheo trưởng dưỡng lòng từ bi đối với muôn loài muôn vật. Chính vì vậy mà việc hạn chế đi lại là việc cần thực hiện trước tiên, trước khi đi sâu vào thực tiễn tu hành, nhất là đối với những vị Tỳ kheo khi mà căn bản nghiệp chướng phiền não vẫn còn tiềm ẩn sâu kín bên trong.

Trong những ngày khởi sự thành lập Tăng già cho đến khi Giáo đoàn lên đến một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo, lịch sử an cư mùa mưa đầu tiên của Giáo đoàn Phật giáo diễn ra tại tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana) do vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) xây dựng cúng dường đức Phật và chúng Tăng. Kể từ đây Giáo đoàn Phật giáo từ bỏ hẳn cuộc sống lang thang như các Giáo đoàn tu sĩ khác. Mùa an cư của Phật giáo có ý nghĩa nổi bật là sự sống hòa hợp thanh tịnh của chư Tăng và chư Ni, là thời gian để chư vị Tỳ kheo cùng thăng tiến trên con đường tu tập, nhờ thảo luận giáo pháp và thực hành thiền định. Ngoài thời gian tu tập thì việc đi khất thực cũng được xem là một trong những pháp môn để hành trì tu tập, ngoài ra các Tỳ kheo không được tự ý bước ra khỏi phạm vi kiết hạ an cư, nếu không có duyên sự khẩn cấp đặc biệt. Mùa an cư còn là thời gian để Phật tử tại gia có dịp cúng dường tứ sự, bày tỏ niềm tin với Tam Bảo, đóng góp vào việc tu tập của chư Tăng và Ni, đồng thời được thân cận học tập đời sống thánh thiện của chư Tăng.

Đạo Phật là đạo giác ngộ trên tinh thần tự lợi lợi tha, khi hành giả tu hành được giải thoát, vượt lên trên những khổ đau phiền trược thì mới có thể hoằng hóa lợi tha, giúp chúng sanh thoát khỏi vô minh phiền não, còn người bị trói buộc trong sanh tử luân hồi thì làm sao có thể cởi trói độ thoát cho người khác được. Từ những suy nghĩ như vậy mà chúng tôi cho rằng, sinh hoạt an cư trong ba tháng hạ tại Việt Nam cũng như một số nước Á Đông khác, chính là quỹ thời gian vô cùng quý báu để người tu hành có điều kiện nhìn kỹ lại chính mình, phát hiện những hạn chế yếu kém của bản thân, từ đó thành tâm sám hối và nỗ lực tu hành thì phiền não hoặc nghiệp mới có thể dần dần đoạn diệt. Trong bối cảnh xã hội ngày nay thì mục đích chính của ba tháng cấm túc an cư kiết hạ, chính là khoảng thời gian quý báu để chư Tăng thúc liễm thân tâm, tạo nhiều thắng duyên để thanh tịnh thân khẩu ý, tiến đến nhất tâm chánh niệm trong công phu tu tập. Trong Bộ Luật Tư Trì Ký ghi rằng, lập tâm một chỗ gọi là Kiết, còn Bộ Nghiệp Sớ ghi rằng, thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh gọi là An. Như vậy dù an cư kiết hạ hay an cư kiết đông thì mục đích chính vẫn là nỗ lực tu hành để thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức.

Trong Giáo đoàn của Phật, dù bất cứ thời đại nào, một vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni mà không chú tâm đến việc tu tập thiền định để phát triển nguồn tuệ giác thì đều không xứng đáng là bậc tỉnh thức mô phạm. Có thể nói đây là một sự khắt khe chánh đáng, vì đức Phật, Ngài mong muốn Tăng già có được một nguồn sống đạo lực thực sự từ việc triển khai năng lực tu tập của mỗi thành viên Tăng hay Ni trong Giáo đoàn. Trên tinh thần đó và theo truyền thống an cư từ xưa cho đến nay, nếu chư vị Tỳ kheo cũng như chư Tỳ kheo ni mà không tôn kính thực hành theo quy định này, xem an cư là một điều bó buộc, thì người ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà còn gây cản trở sự phát triển Giáo đoàn. Điều này cũng được ví như bác nông phu quanh năm cày cấy, nhưng chỉ cần lơ là không tập trung chăm sóc sâu rầy, thì mùa màng sẽ bị thất bát. Hàng Sa Môn Thích tử cũng vậy, nếu không có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn nhau tu tập thì làm sao có điều kiện phát hiện ra trùng sư tử ở trong thân sư tử, làm sao có thể tạo thành năng lực hòa hợp và kiểm chứng chân giá trị của sự thanh tịnh?

Vào thời đức Phật tại thế, ngoài việc tập trung an cư tại tịnh xá Trúc Lâm dưới sự điều hành của đức Phật, thì tại các địa điểm tập trung an cư khác, để chuẩn bị cho việc an cư vào những ngày mưa gió, các vị Tỳ kheo phải tự tay xây dựng những căn lều tạm bằng các vật liệu nhẹ, dễ kiếm như gỗ, tre, bùn, đất, lá để làm nơi cư trú. Vào mùa mưa gió, ở những vùng quê hay ở các bìa rừng, các căn lều tạm như thế này được dựng lên sát nhau, có thể ghép lại với nhau thành từng dãy phòng, người ta gọi chung là Àvasa. Còn ở thành thị, các cơ sở an cư được xây dựng khang trang rộng lớn, thường tọa lạc trong một vườn cây đẹp đẽ, thì người ta gọi chung là Aràma. Các Àsasa (trứ xứ ở nông thôn) hay Aràma (trú xứ ở thành thị) khởi đầu đều là những trú xứ chỉ phục vụ cho nhu cầu an cư vào mùa mưa, chứ chưa hẳn là nơi định cư lâu dài. Nhưng càng về sau, các trú xứ mùa mưa càng nhiều hơn, có tỷ lệ thuận theo với số lượng Tỳ kheo ngày càng đông, nên nó được xây dựng chắc chắn với đầy đủ tiện nghi hơn.

Page 75: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

75

Vào thời đức Phật, mỗi Àvasa hay Aràma là một khu vực có phạm vi nhất định, được ấn định bởi các đường ranh gọi là ranh giới (Sìmà). Theo qui định bấy giờ thì mỗi khu vực của một trú xứ có chu vi hình vuông. Còn ranh giới thì có hai loại, đó là ranh giới tự nhiên và ranh giới ấn định. Ranh giới tự nhiên thường áp dụng cho các trứ xứ ở nông thôn (Àsasa), thì lấy mốc trong thiên nhiên như con sông, gốc cây lớn, tảng đá lớn làm chuẩn, mỗi bề rộng khoảng 1 km, nếu khu vực ấy có nhà cửa dân chúng thì ranh giới khu vực an cư được linh động nới rộng ra khoảng gần 2 km, hoặc nếu khu vực an cư ở trong rừng, thuộc vùng nguy hiểm như có thú dữ, thì ranh giới tự nhiên có thể thu hẹp rút ngắn lại còn lại chưa tới 100 mét. Ranh giới ấn định thường áp dụng cho các trú xứ ở thành thị (Aràma), loại ranh giới này hình thành bởi sự quyết định của Tăng già thông qua các buổi họp. Nếu trú xứ rộng rãi, gồm đủ giảng đường, phòng ốc thì ranh giới gồm hai lớp, vòng ngoài gọi là đại giới, bao gồm cả khu dân cư, mỗi bề gần 20 km; riêng về trú xứ của Tỳ kheo ni, đại giới mỗi bề chỉ khoảng 2 km. Vòng trong gọi là tiểu giới, bao gồm cả hội trường hay giảng đường, phạm vi tùy theo trú xứ rộng hay hẹp chứ không nhất định, tuy nhiên ranh giới vòng trong, tối thiểu cũng phải đủ rộng khoảng hai mươi mốt người ngồi dang hai cánh tay ra mà không đụng người ở hai bên, mục đích của chiều rộng được quy định này là để việc họp diễn ra thoải mái.

Các trú xứ để an cư có thể lớn nhỏ khác nhau tùy theo các nhóm Tỳ kheo chung sống (Àvàsika). Tuy nhiên để trở thành một bộ phận Tăng già, thì tối thiểu cũng phải gồm bốn vị Tỳ kheo trở lên và không hạn định số lượng tối đa, thậm chí số lượng Tỳ kheo có thể lên tới vài ngàn vị. Thời Phật tại thế đã có các trú xứ mà các Tỳ kheo được quyền tự quyết trong sinh hoạt, hoạt động riêng lẻ theo từng địa phương, như người ta vẫn thường hay gọi là Tăng già Vương Xá, Tăng già Phệ Xá Ly, Tăng già Xá Vệ… Sở dĩ có nhiều Tăng đoàn lớn, nhỏ, tập trung và riêng lẻ như vậy là do số lượng Tỳ kheo đã quá đông, lại có các vị Chiêu Đề Tăng, đi các nơi để truyền bá giáo lý, phát triển Tăng già ở nhiều vùng trên đất nước Ấn Độ, đối với những vị Tăng này, dù đi đến bất kỳ một nào đi nữa, thì họ vẫn là Tăng già của bốn phương, điều này được giáo luật của đức Phật quy định một cách thống nhất và cụ thể. Do vậy một Tỳ kheo có thể từ trú xứ này sang trú xứ khác sinh hoạt, tu tập và hoằng hóa, thì trú xứ mới phải lo sắp xếp, tạo điều kiện tốt cho Tỳ kheo mới đến. Đây là sự việc rất thường xảy ra trong Giáo đoàn Phật giáo thời bấy giờ.

Nói đến nguồn gốc an cư, chúng tôi thiết nghĩ, không thể không nhắc đến những tịnh xá rất nổi tiếng trên đất nuớc Ấn Độ. Tại những nơi này, đức Phật đã có những thời pháp thâm diệu mà qua kinh sách chúng ta đều đã biết đến. Đồng thời đây cũng là những Thánh tích tuyệt vời nhất trong lịch sử Phật giáo, mặc dù đến nay nó chỉ con lưu lại trong sử sách.

Đến nay, sử sách Phật giáo đã ghi nhận, thời bấy giờ có đến hàng chục tịnh xá của Giáo đoàn Phật giáo được tổ chức rất quy mô, có thể kể đến như: Tịnh xá Trúc Lâm (Veluvanàràma) ở gần thành Vương Xá (Ràjiagaha), Pulbhàràma ở phía Đông Vương Xá, Kỳ Bạt (Jìvakàrama) ở Ràjagaha; Ambapàli Vana ở Tỳ Xá Ly (Vesali); Hậu Trạch (Markathrada) ở gần Tỳ Xá Ly (Vesali); Ưu Đàm Ba Ly (Udambari Kàràma) hay còn gọi là Paribbàja Kàràma ở hữu ngạn sông Sappini, Kukkutàràma; Choisitàràma; Badaritàràma, Pàrikàniavana; Cù Sư La (Ghosavatiàràma) đều ở Kiều Thượng Di (Kosambi), Kỳ Hoàn (Jetavanàràma) ở Xá Vệ (Sàvathi), Ni Câu Đà (Nigrodhàràma) ở Ca Tỳ La Vệ (Capilavatthu), Lộc Uyển (Isipatana) ở Ba La Nại (Baranàsi)…

Trong số các tịnh xá trên, thì có ba tịnh xá khá nổi tiếng được các nhà khảo cổ ghi lại được dấu tích, sưu tập được tài liệu là: Tịnh xá Kỳ Bạt (Jìvakàrama), Tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavanàràma) và Tịnh xá Cù Sư La (Ghosavatiàràma). Còn các tịnh xá khác thì chỉ tìm thấy tên gọi hay đôi chút vết tích kiến trúc mà thôi. Dựa theo tài liệu của Sukumar Dutt (Buddhist Monks and Monasteries of India – G.Allen and Unwin LTD. London, 1962), nay chúng tôi chỉ xin sơ lược đôi nét về tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavanàràma), một tịnh xá rất nổi tiếng mà bất kỳ một Phật tử nào cũng được nghe qua.

Tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavanàràma) là tịnh xá rất nổi tiếng và lớn nhất vào thời đức Phật còn tại thế. Chính nơi đây, đức Phật đã trải qua mười chín mùa an cư (có tài liệu bảo là hai mươi lăm mùa an cư). Người dâng cúng dường tịnh xá này là ông Cấp Cô Độc (Anàthapindika) vốn là một trưởng giả nổi danh giàu có tại thành Xá Vệ (Sàvatthi). Ông đã từng đến thành Vương Xá (Ràjagaha), nhằm vào năm đầu tiên khi đức Phật đang hoằng hóa tại đây.

Page 76: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

76

Trong suốt 45 năm hoằng pháp lợi sanh, đức phật không ngừng nghỉ việc tu tập, nhất là việc an cư trong 3 tháng mùa mưa. Những nơi đức phật an cư trong suốt hành trình truyền giáo qua 45 mùa kiết hạ, an cư :

1- vườn lộc uyển.2,3,4 – trúc lâm tinh xá.5- kutagarasala ( gần Tỳ Xá Ly).6- đồi mankuna( gần Magadha).7- cung trời đao lợi ( Thuyết pháp cho hoàng hậu Mada).8- Rừng Bhesacala.9- Gositarama ( gần thành Kosambi).10- Rừng Parilegyaka ( gần Kosambi).11- Làng Bà La Môn xứ Nara.12- cây sầu đông xứ Jara.13- Tảng đá Caliya. 14- Kỳ Viên Tinh xá ( nơi La Hầu La thọ cụ túc giới).15- Nigrodha ( thành La Tỳ La Vệ, vua Thiện Giác băng hà)16- Agalava xứ Alivi.17- Trúc Lâm Tinh xá.18, 19- Núi Caliya.20- Trúc Lâm Tinh xá ( Tăng chúng cử A Nan làm thị giảvà đức Phật độ ông Vô Não)21- 44- Kỳ Viên Tinh xá.45- Làng Veluvagakhatta xứ Vesali và Ngài Nhập diệt tại Kusinara. Khi ông đến nhà người anh vợ, thấy nơi đây đang tấp nập sửa soạn nhà cửa, lo tiệc

tùng, hỏi ra thì được biết gia đình đang chuẩn bị trai phạn cúng dường đức Phật và chư Tỳ kheo. Suốt đêm ấy, ông trằn trọc không ngủ được; sáng hôm sau, ông dậy thật sớm, khi trời chưa sáng ông đã vội đi đến chỗ đức Phật. Lần đầu tiên, ông chiêm ngưỡng đức Phật, vào lúc ấy Ngài đã thức dậy và đang đi dạo trong buổi ban mai lạnh lẽo. Ông đến gần đảnh lễ đức Phật và tự giới thiệu về mình, rồi ông thỉnh cầu đức Phật cùng chư Tăng hôm sau đến nhà ông để độ trai. Đức Phật nhận lời. Hôm sau, trong buổi cùng dường ngọ trai, ông lại thỉnh cầu đức Phật và chư Tỳ kheo đến nơi ông đang ở tại Xá Vệ (Sàvatthi) để an cư mùa mưa năm sau. Lời thỉnh cầu của ông được đức Phật chấp thuận.

Trong Đại Phẩm của Luật Tạng (Mahà Vagga III, 5,6) ghi rằng, tại Xá Vệ (Sàvatthi), ông Cấp Cô Độc (Anàthapindika) đã cố gắng tìm kiếm một nơi thích hợp để xây tịnh xá làm trú xứ cho đức Phật và chư Tăng, cuối cùng ông nhận thấy khu vườn cảnh của Thái tử Kỳ Đà (Jeta) là lý tưởng nhất, ông liền hỏi mua. Nói về chủ nhân khu vườn cảnh này là Thái tử Kỳ Đà (Jeta) vốn rất giàu có, vì không cần tiền bạc nữa, nên không muốn bán, tuy nhiên Thái tử Kỳ Đà (Jeta) cũng muốn đùa chơi, nên ra giá hết sức cao để làm nản lòng ông Cấp Cô Độc. Thế nhưng không ngờ ông Cấp Cô Độc chịu mua ngay, đồng thời cho người nhà chuẩn bị tiền bạc để đáp ứng điều kiện mà Thái tử Kỳ Đà (Jeta) đã đưa ra. Thấy vậy, Thái tử Kỳ Đà (Jeta) đổi ý, không chịu bán nữa. Sự việc phải đưa ra nhờ các quan phân xử. Lúc này Thái tử Kỳ Đà (Jeta) ra điều kiện là vàng lót đến đâu thì đất được bán đến đó. Nghe vậy, ông Cấp Cô Độc chấp nhận ngay và đích thân ông đã chở từng xe vàng đến rải đầy mặt đất như điều kiện giao ước, chỉ những chỗ có gốc cây là không lót vàng được, ông liền đến hỏi xem ý định của Thái tử Kỳ Đà (Jeta) như thế nào, vì trong giao ước không có nêu ra điểm này. Cảm phục vì tấm lòng thành của ông Cấp Cô Độc, Thái tử Kỳ Đà (Jeta) đã xin được hiến cúng luôn các cây cối trong vườn cảnh của mình. Có lẽ do vậy mà trong các bộ kinh, ở phần Duyên Khởi các thời pháp của đức Phật, thường ghi là “Cấp Cô Độc viên Kỳ Đà thọ hoặc Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên”, điều này có nghĩa là “tại vườn của ông Cấp Cô Độc, nhưng cây thì của thái tử Kỳ Đà”. Sau đó trưởng giả cho xây cất một tịnh xá đồ sộ với đầy đủ phòng ốc, giảng đường, nhà bếp, nhà kho, nơi kinh hành, giếng lộ thiên, giếng có nắp, phòng tắm…

Theo sử sách thì tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavana) tồn tại suốt mấy trăm năm. Đến thế kỷ thứ V sau Tây lịch, khi ngài Pháp Hiển từ Trung Hoa sang Ấn Độ đến tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavana) để chiêm bái, thì nơi này vẫn còn là một tịnh xá nhỏ, có lẽ là được người đời sau xây lại trên nền đất cũ để kỷ niệm. Cho đến hai trăm năm sau nũa, pháp sư Huyền Trang lại

Page 77: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

77

đến tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavana), thì nơi đây chỉ còn lại hai trụ đá, mỗi trụ cao 25 mét do vua A Dục (Asoka 264 – 227 trước CN) xây cất ở cổng phía Đông của tịnh xá.

Trên đây chúng tôi đã nói về nguồc gốc an cư cùng với những điều kiện để thực hiện một mùa an cư vào thời đức Phật còn tại thế. Trong đó chúng tôi cũng đã nói về ý nghĩa lớn lao của ba tháng cấm túc an cư. Phần cuối chương này, chúng tôi xin nói về những diễn biến và ý nghĩa đặc biệt trong thời gian cuối của khóa an cư, đó là ngày Tự Tứ.

Tự tứ là buổi lễ rất đặc biệt của Phật giáo được tổ chức vào ngày cuối cùng của mùa an cư. Tự tứ theo tiếng Sanskrit (Phạn) là Pràvaràna, phiên âm Hán – Việt là Bát Hòa La hay Bát Lặc Đà Lặc Noa, từ Hán dịch là Tự tứ, có nghĩa là sự thỉnh mời, là mặc tình.

Trong Ký Quy Truyện, ở quyển hai có ghi: “Tự tứ Phạn vân Bát Lặc Bà Lặc Noa, dịch vi Tùy ý, diệc thị Bảo túc nghĩa, diệc thị Tùy tha nhân ý cử kỳ sở phạm”. Câu này có nghĩa là “Tự tứ tiếng Phạn là Bát Lặc Bà Lặc Noa (Pràvaràna), dịch là tùy ý, có nghĩa là cho thỏa bụng; cũng có nghĩa là để cho người khác nêu lên điều mà mình vi phạm”. Còn trong Phật Học Đại Từ Điển, Khải Minh Thư Cục Đài Loan, thì giải nghĩa từ Tự tứ như sau: “Sử tha thanh tịnh tứ cử kỳ sở phạm chi tội, đối tha Tỳ kheo nhi sám hối chi”, nghĩa là “Khiến cho chúng Tỳ kheo thanh tịnh, người khác mặc tình nêu các tội mà mình đã vi phạm, mình sám hối các tội ấy với các vị Tỳ kheo”. Đồng thời giải nghĩa hai chữ “Tùy Ý” như sau: “Sở tùng tha nhân chi ý tứ cử kỳ sở phạm cố vân tùy ý”, có nghĩa là “Do ý của người khác mặc tình nêu lên sự sai phạm của mình thì gọi là tùy ý”. Như những cách giải thích trên đây thì Tự tứ là hình thức tập thể phê bình một cá nhân và cá nhân hoan hỷ nhận khuyết điểm, tỏ ra hối tiếc và hứa sẽ sửa chữa nếu mình có sai phạm. Cụ thể ở đây là sự việc một Tỳ kheo để cho các Tỳ kheo khác nêu ra những sai phạm của mình để từ đó vị Tỳ kheo này sám hối trước tập thể chư vị Tỳ kheo.

Khi nói đến Tự tứ, cũng có nghĩa là chúng ta phải nói đến ý nghĩa Sám hối, vì Sám hối là nội dung không thể thiếu trong hành trang tu tập của bất kỳ người học Phật nào. Trong đời sống tu tập hằng ngày của chư Tăng, Ni, cũng như Phật tử tại gia, thì Sám hối (Parisuddhi) được thực hiện đều đặn mỗi tháng hai lần trước ngày Bố tát, trong đó, một Tỳ kheo tự phê bình kiểm điểm mình, tự giác nêu ra những sai sót của mình, rồi thành tâm sửa chữa.

Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikàya) đã ghi lại ngày Tự tứ vào thời đức Phật, trong những năm đầu mới hình thành Tăng già như sau:

“Nhân ngày trăng tròn của Bố tát và Tự tứ, Thế Tôn ngồi ở ngoài trời; năm trăm vị Tỳ kheo đã đắc quả vị A La Hán im lặng ngồi vây quanh Ngài. Thế Tôn nhìn quanh chúng Tỳ kheo, Ngài mở lời: “Này các Tỳ kheo, này các Tỳ kheo, nay Ta mời các Tỳ kheo nói lên, các Tỳ kheo có điều gì chỉ trích Ta hay không, về thân, hay về lời nói?”.

Khi đó Tôn giả Xá Lợi Phất đắp thượng y, đảnh lễ đức Phật và tác bạch: “Bạch đức Thế Tôn, chúng con không có gì chỉ trích Thế Tôn về thân hay về lời nói. Bạch đức Thế Tôn, con đường chưa sanh khởi, Thế Tôn làm cho sanh khởi, con đường chưa được biết, Thế Tôn làm cho được biết, con đường chưa được thuyết giảng, Thế Tôn thuyết giảng. Thế Tôn biết đạo, hiểu đạo, thiện xảo về đạo. Bạch đức Thế Tôn, các đệ tử nay là những người sống hành đạo và sẽ thành tựu đạo về sau. Bạch đức Thế Tôn, con xin thỉnh mời đức Thế Tôn nói lên, đức Thế Tôn có điều gì chỉ trích con hay không, về thân hay về lời nói ?”.

Thế Tôn đáp: “Này Xá Lợi Phất, Ta không có gì chỉ trích ông về thân hay về lời nói. Này Xá Lợi Phất, ông là bậc đại trí, quảng trí, tốc trí, tiệp trí, nhuệ trí, nhập trí… Này Xá Lợi Phất, ví như trưởng tử của vua Chuyển Luân chân chánh vận chuyển bánh xe pháp đã được vua cha vận chuyển, cũng vậy, này Xá Lợi Phất, ông chân chính vận chuyển pháp luân Vô Thượng đã được Ta vận chuyển”.

Tôn giả Xá Lợi Phất: “Bạch đức Thế Tôn, Thế Tôn không có gì chỉ trích con về thân hay về lời nói. Bạch đức Thế Tôn, đối với năm trăm Tỳ kheo ở đây, Thế Tôn có gì chỉ trích về thân hay về lời nói không?”.

Thế Tôn đáp: “Này Xá Lợi Phất, trong khoảng năm trăm Tỳ kheo ở đây, sáu mươi Tỳ kheo là bậc Tam minh, sáu mươi Tỳ kheo là bậc Thắng trí, sáu mươi Tỳ kheo là bậc Câu phần giải thoát, và các vị còn lại đều là bậc Tuệ giải thoát”.

Buổi Tự tứ được kết thúc sau khi Tôn giả Vangìsa đắp thượng y xin phép đức Phật đọc lên bài kệ tán thán buổi Tự tứ …

Theo như tường thuật một buổi lễ Tự tứ vào những năm an cư đầu tiên, khi Tăng già mới được thành lập, gồm năm trăm vị A La Hán vây quanh đức Phật, thì buổi Tự tứ diễn ra thật đơn giản và đầy ý nghĩa của một tập thể thanh tịnh và hòa hợp. Đây là sinh hoạt của một

Page 78: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

78

cộng đồng gồm những vị đã chứng đắc Thánh quả, không bị ràng buộc bởi những Giới tướng. Thế nhưng, càng về sau này thì những thể thức, cũng như nội dung của buổi lễ Tự tứ đã được bổ sung thêm vào rất nhiều, dẫn đến điều này là do đã có xảy ra nhiều trường hợp vi phạm giới luật, thiếu thanh tịnh, và cũng là để ngăn ngừa những trường hợp đó.

Tự tứ có một nội dung hết sức quan trọng để tổng kết quá trình tu tập của chư vị Tăng hay Ni. Đối với những ai vi phạm giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo bản năng cố hữu, thì sẽ bị đại chúng cử tội, hoặc tự bản thân người đó phát lồ sám hối để sửa chữa khuyết điểm, hoặc tùy theo nặng nhẹ mà đại chúng chư Tăng có những hình thức kỷ luật tương xứng.

Như chúng ta thường thấy, tại các trường hạ chư Tăng an cư trong ba tháng, thường có bốn chữ “Tịnh nghiệp đạo tràng”, tức là tại những nơi đây đang xây dựng cảnh giới Tịnh Độ trang nghiêm thanh tịnh. Thế nhưng muốn cho tâm hồn thanh tịnh thì đương nhiên chúng ta phải giác ngộ, mà muốn cho giác ngộ thì trước mắt chúng ta phải từ bỏ ác nghiệp, mà muốn đoạn trừ ác nghiệp thì chúng ta phải tha thiết sám hối, sửa chữa lỗi lầm. Đây chính là ý nghĩa và cũng là mục tiêu hàng đầu của “Tịnh nghiệp đạo tràng” trong ba tháng an cư kiết hạ.

Theo truyền thống sinh hoạt trong Phật giáo Đại thừa, để kết thúc mùa an cư kiết hạ, chư Tăng tại các trường hạ thường tiến hành ngày Tự Tứ vào rằm tháng bảy.

Trong kinh Vu Lan Bồn, đức Phật dạy ngài Mục Kiền Liên muốn cứu độ mẹ mình thì phải chờ sau ba tháng an cư, thành tâm cúng dường nhân ngày chư Tăng Tự Tứ đặng nhờ sức chú nguyện của chư Tăng thì mới có thể chuyển hoá được nghiệp lực và đem lại lợi lạc cho cha mẹ hiện đời cũng như quá vãng. Trên tinh thần cởi mở của người học đạo, chúng ta có thể đặt câu hỏi rằng: Tại sao đức Phật dạy Tôn giả Mục Kiền Liên muốn cứu mẹ thì phải chọn ngày chư Tăng Tự Tứ sau ba tháng an cư kiết hạ? Ngày Tự Tứ có ý nghĩa trong đại như thế nào mà ngay cả chư Phật mười phương cũng quan tâm và hoan hỷ?

Như chúng ta đã biết, ngày chư Tăng Tự Tứ là ngày mà đại chúng phát lồ sám hối, nghĩa là đại chúng Tăng (Ni) mỗi người tự đem cái lỗi của mình ra phơi bày trước mọi người rồi thành tâm ăn năn sám hối, tự khắc kỷ bản thân sẽ không bao giờ phạm phải lỗi lầm đó nữa, kế đến tha thiết khẩn cầu đại chúng chỉ rõ những lỗi lầm sai phạm của mình (do chủ quan không nhận ra) để kịp thời khắc phục chuyển hóa bản thân. Có thể nói đây là một tinh thần tu tập rất tự giác, một ý chí hướng thượng rất tuyệt vời, một hình ảnh vô cùng cao đẹp mà trên thế gian này hiếm có một tôn giáo nào thực hiện được điều đó. Cũng cần nói thêm, tinh thần tự giác và ý chí hướng thượng dõng mãnh của chư Tăng trong ngày Tự Tứ đã làm tăng thêm tính thuần khiết thanh tịnh trong tâm thể của chư Tăng vốn đã nghiêm tịnh trong suốt ba tháng an cư kiết hạ vừa qua.

Thấy được lỗi, sửa được lỗi, hiện tại và tương lai không sai phạm thì thân tâm chúng ta mới trở nên thanh tịnh. Thật ra, tinh thần giác ngộ trong Phật giáo chính là tinh thần tự giác. Tự giác để thường xuyên hướng thượng. Điều then chốt trong tinh thần tự giác đó là mỗi người tự nhìn nhận một cách trung thực và chân thật nhất về những lỗi lầm nơi tự thân thì mới có cơ hội để tiến tu trên con đường đạo pháp. Tựu trưng ngày chư Tăng Tự Tứ trên căn bản được hình thành từ tinh thần giác ngộ như đã nêu trên.

Kết hợp giữa sức chú nguyện từ tâm thể thanh tịnh của oai lực đại chúng Tăng (Ni) với tấm lòng hiếu đạo của những người con Phật đã hình thành ý nghĩa thiêng liêng của mùa Vu Lan báo hiếu. Tấm lòng hiếu đạo của những người con Phật trong lễ Vu Lan là biểu hiện của niềm tin Phật pháp một cách tuyệt đối, cũng là biểu hiện của tâm hạnh từ bi cứu khổ và tinh thần hướng thượng. Bởi vì chỉ có hướng thượng, thành tâm nương về chánh pháp và được sự chú nguyện của đại chúng Tăng thanh tịnh thì mới có thể tháo gỡ nghiệp lực và hoá giải mọi khổ đau phiền trược. Do vậy Vu-Lan-Bồn (U-Lan-Ba-Na) có nghĩa là tháo gỡ nghiệp lực, hoá giải nghiệp lực, giải thoát mọi khổ đau ràng buộc… Thật ra, trong ngôi nhà Phật pháp, không riêng gì ngày chư Tăng tự tứ mà đối với những Phật tử thuần thành, trong đời sống hằng ngày, một khi biết mình có tội lỗi, tôi nghĩi, hầu như tất cả Phật tử chúng ta đều có tâm tha thiết sám hối, qua đó nổ lực tinh tấn tu hành để không sai phạm nữa, điều này sẽ khiến cho thân tâm Phật tử trở nên thanh tịnh.

Ở đây chúng ta cùng trao đổi về ngày chư Tăng Tự Tứ tức là ngày chư Tăng thanh tịnh đã đặt gót chân lên nấc thang giác ngộ. Chúng tôi thiết nghĩ, biết sám hối tức là đã giác ngộ vì chỉ có người giác ngộ mới tha thiết và thành tâm sám hối. Ở đây chúng ta chợt nhận ra vì sao ngày chư Tăng Tự Tứ lại là ngày chư Phật mười phương vô cùng hoan hỷ! Cũng chính vì vậy

Page 79: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

79

mà đức Phật đã dạy Tôn giả Mục Kiền Liên hãy chọn lấy ngày chư Tăng Tự Tứ (giác ngộ) để cứu mẹ mình thoát khỏi đói khổ đọa đày trong cảnh giới ngạ quỉ.

Từ ý nghĩa trong đại của ngày chư Tăng Tự Tứ , chúng ta thử liên hệ và so sánh giữa tinh thần giác ngộ cũng như huớng thượng trong ngày chư Tăng Tự Tứ và tinh thần hướng thiện cao cả trong đời sống xã hội, để chúng ta có nhận thức đúng đắn và khách quan đối với tính thiêng liêng cao tột của ngày chư Tăng Tự Tứ.

Trong dân gian vẫn thường hay nói “xấu che, tốt khoe” và trong đời sống gia đình xã hội, thông thường cái gì xấu xa, tội lỗi thì người ta hay che đậy, bưng bít, còn cái gì tốt đẹp, quý giá thì ai cũng tìm cách phô trương, khoe khoang trước mọi người, đó là bản chất của cuộc sống và tâm lý chung của mọi người. Quả đúng là như vậy, trong đời sống thực tế, thật hiếm có người can đảm phơi bày cái lỗi của mình trước thiên hạ hoặc nhờ người khác chỉ rõ cái lỗi của mình để mọi người cùng biết. Thế nhưng đối với đệ tử của Phật thì sự thể hoàn toàn ngược lại. Đệ tử Phật một khi đã giác ngộ chân lý, khi thấy mình có lỗi thì ngay đó thành tâm sám hối, chưa thấy thì nhờ người khác chỉ giùm để kịp thời sửa chữa và không tiếp tục sai phạm. Phải chăng đó là thực tế sinh động nhất về tinh thần hướng thượng và giác ngộ chân lý mà giới Tăng sĩ Phật giáo đã biểu hiện trọn vẹn trong ngày chư Tăng Tự Tứ. Trong đời sống hằng ngày, nếu người nào thường hay nhìn lại mình, thường tự kiểm điểm bản thân, thường xấu hổ và xót xa mỗi khi bản thân gây ra lỗi lầm, thì người đó luôn có cơ hội thăng tiến trong cuộc sống, và một điều chắc chắn là đời sống tinh thần cũng như tâm linh của người này sẽ được an vui hạnh phúc, nhẹ nhàng thanh thản. Đồng thời người có tâm cầu tiến hướng thiện ắt sẽ được mọi người tin yêu, quí mến và nể trọng. Nhờ thường xuyên khắc phục những sai sót, sửa chữa lỗi lầm, người này sẽ nhanh chóng khẳng định mình trong cuộc sống, đương nhiên uy tín của người này cũng sẽ được nhân lên tương ưng với nhân cách và hạnh kiểm của họ.

Đối với một người sống bình thường trong xã hội, chỉ với cái tâm biết xấu hổ với lỗi lầm của bản thân mà đã có thể đàng hoàng đứng thẳng người để khẳng định mình và thành công như vậy, huống gì đối với một vị Tăng sĩ, suốt đời trường trai thanh tịnh, hằng ngày được sống trong một môi trường trang nghiêm của oai nghi giới luật, tâm hạnh luôn thăng tiến trên đường tu học theo giáo lý Phật Đà, nếu thường xuyên thúc liễm thân tâm, thường xuyên quán sát những sai sót bản thân, tất nhiên đạo hạnh sẽ cao tột và như vậy chắc chắn rằng người đời trong thế gian khó ai có thể sánh bằng.

Đức Phật dạy rằng, trong đời sống có hai hạng người mạnh mẽ nhất: Một là người hoàn toàn trong sạch, nghĩa là người chưa từng chuốc lấy tội lỗi vào thân. Hai là hạng người khi đã phạm phải tội lỗi sai lầm mà biết xấu hổ, tha thiết ăn năn sám hối, thành tâm sửa chữa lỗi lầm đã gây ra. Như vậy rõ ràng là chư Phật luôn tán thán khen ngợi những người biết lỗi và thành tâm sửa lỗi, không chỉ thế, đức Phật còn xác quyết hạng người này là mạnh mẽ nhất trong thế giới con người.

Lại nữa, cùng với hàng trăm hạng người từ đủ loại thành phần và giai cấp trong đời sống thì giới Tăng sĩ Phật giáo từ xưa đến nay vẫn luôn được xã hội xem là thành phần cao quí và được trọng vọng nhất trong đời sống cộng đồng.

Khi đã thực thụ là một vị Tăng thì bản thân vị Tăng đó đã là kỳ hoa dị thảo trong thế giới con người rồi. Như vậy, đối với một vị chân Tăng, luôn quán sát những sai sót bản thân, tha thiết ăn năn sám hối, thành tâm sửa chữa lỗi lầm đã gây ra, thì rõ ràng đây là bậc chân tu giác ngộ. Dù đã giác ngộ chân lý nhưng phần đông giới Tăng sĩ vẫn luôn hướng thượng và không ngừng thăng hoa trên bước đường mà đấng Đại Giác đã đi qua, như vậy dĩ nhiên họ là những con người, dù chưa phải Thánh nhân, nhưng vẫn đáng được thế gian tôn quí cúng dường và quay về nương tựa.

Từ ý nghĩa thiêng liêng và trọng đại trên tinh thần giác ngộ và hướng thượng của một vị Tăng, lòng thành tín Phật pháp của chúng ta đã cảm thấy vô cùng kính trọng ngưỡng mộ, và điều này thật đáng để chúng ta thành kính cúng dường, huống gì không phải một hay hai ba vị Tăng như vậy mà là hàng chục hàng trăm vị Tăng thanh tịnh tề tựu về nhóm họp để phát lồ sám hối trong ngày Tự Tứ. Hơn nữa, trong kinh Phật thường nói đến “Phước chúng như hải” đây cũng là yếu tố vô cùng quan trọng tạo nên đại oai lực và không khí trang nghiêm thanh tịnh trong ngày đại lễ.

Chúng ta vẫn biết rằng ý nghĩa thiêng liêng của mùa Vu Lan báo hiếu được hình thành từ sự kết hợp chan hòa đồng nhất giữa sức chú nguyện và oai lực đại chúng Tăng thanh tịnh với tấm lòng hiếu đạo của những người con Phật.

Page 80: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

80

Ở chùa chúng ta thường hay nói với nhau “Phước chúng như hải” hay “Đức chúng như hải”, điều này có nghĩa là Phước hay Đức của đại chúng nó lớn lao, mênh mông như biển cả, chính nhờ điều này mà sự cộng tu trong ba tháng cấm túc an cư sẽ tạo nên một tịnh nghiệp đạo tràng với đầy đủ phước đức cũng như trí tuệ, tạo nên thắng duyên rất lớn để từng hành giả tiến tu đạt đến quả vị giải thoát. Đồng thời cũng chính môi trường thanh tịnh trong ba tháng an cư mà nó sẽ đào thải tất cả những “con sâu làm rầu nồi canh” ra khỏi môi trường trang nghiêm thanh tịnh này. Thật vậy, ba tháng an cư sẽ tạo ra nguồn đích thực năng lực vô cùng quí báu, nó sẽ hâm nóng và cụ thể hóa tinh thần thanh tịnh hòa hợp của Tăng già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày ngày giới luật nghiêm minh, trên dưới hòa hợp, cùng tu tập trong chánh niệm thanh tịnh, chan hòa tinh thần tương thân tương ái và đoàn kết.

Lịch sử phát triển của Phật giáo đã qua nhiều trải nghiệm và đúc kết được một điều tối quan trọng là, Giáo đoàn muốn thật sự hòa hợp như nước với sữa, theo đúng bản chất của nó, thì buộc mỗi thành viên trong Giáo đoàn phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính bản thân mình. Bậc Sa Môn Thích tử một khi đã lấy trí tuệ làm sự nghiệp như lời đức Phật đã dạy, tất nhiên phải nghiêm trì giới luật và nỗ lực công phu thiền định. Ngược lại nếu không thường xuyên cùng nhau cảnh sách, giữ gìn giới luật, công phu bái sám, thực hành Ba mươi bảy pháp trợ đạo(Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát chánh đạo), mà một mình một cõi, tự tung tự tác, buông lung phóng dật, lang thang lãng tử rày đây mai đó, không ngừng tạo nghiệp bất thiện trong chốn nhân gian, thì rất khó cho việc thành tựu con đường tuệ giác, mà đã như vậy thì làm sao có thể hóa độ chúng sanh như bổn hoài của mười phương chư Phật đã kỳ vọng ở vai trò vị trí của một Sa Môn Thích tử?

Chính vì vậy mà ý nghĩa tối thượng (giác ngộ giải thoát) trong sinh hoạt an cư kiết hạ đã trở thành một nhu cầu cấp thiết để làm phương thuốc hồi sinh tinh thần hòa hợp cao quý đó. Mặt khác, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ngày nay đã và không ngừng tập trung vào tinh thần thống nhất về mặt tổ chức, cũng như triển khai thực hiện sứ mạng nhập thế độ đời cao cả đó, thì mùa an cư kiết hạ hằng năm, chính là một thắng duyên để Giáo hội xây dựng Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp.

CHƯƠNG SÁU

SỰ HOẰNG PHÁP CỦA ĐỨC PHẬTĐỐI VỚI CÁC VỊ VUA

Trong suốt 45 năm hoằng pháp độ sanh, đức Phật đã giáo hóa không biết bao nhiêu con người từ bình thường trở thành bậc Thánh nhân, từ vô minh bước lên nấc thang giác ngộ. Chỉ riêng hàng Tỳ kheo, ngay từ thời kỳ đầu đức Phật giáo hóa, đã có đến 1250 vị Tỳ kheo đắc quả A La Hán. Điều đáng chú ý là trong sự nghiệp hoằng hóa độ sanh của đức Phật, Ngài rất bình đẳng, không hề phân biệt giai cấp, không kể là hàng vua quan hay hạng tiện nhân nô lệ, miễn sao người đó đến với Phật pháp bằng cái tâm khát khao con đường giác ngộ và nỗ lực cần cầu giải thoát.

Trong bối cảnh xã hội tại Ấn Độ thời bấy giờ, sự hiện diện của các vị vua hoặc ít ra là sự liên hệ và gần gũi của các vị vua với các đạo giáo, nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của các đạo giáo đương thời. Chính vì vậy mà trong chương này, chúng tôi muốn có đôi nét về “Sự hoằng pháp của đức Phật đối với các vị vua” để tìm hiểu thêm sự hoằng pháp của đức Phật đối với các đối tượng đặc biệt này diễn ra như thế nào và sự có mặt của các vị vua đứng trong hàng ngũ tứ chúng của đức Phật đã đóng góp được gì cho sự phát triển của Phật giáo vào thời chánh pháp thịnh hành?

Sự giáo hóa của đức Phật đối với quốc vương Tần Bà Sa La (Bimbisàra) của nước Ma Kiệt Đà (Magadha) là gây ấn tượng hơn cả, có lẽ do vậy mà sử sách ghi lại sự kiện này rất chi tiết. Đức Phật đã sớm nhận thấy thái độ của các đấng quân vương đối với Ngài là rất quan trọng trong việc truyền chánh pháp. Chính vì vậy mà đức Phật đã chọn thành Vương Xá (Ràjiagaha) kinh đô của nước Ma Kiệt Đà (Magadha), đồng thời cũng là hoàng cung của vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) làm nơi dừng chân sau khi Ngài thành đạo.

Page 81: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

81

Tương truyền, trước đây vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đã từng đến tham bái đức Phật khi Ngài còn là một tu sĩ tu khổ hạnh tại Uruvelà, lúc đó nhà vua có đề nghị với đức Phật, sau này thành đạo thì hãy ghé lại thành Vương Xá cho nhà vua được tham bái.

Theo Đại Phẩm của Luật Tạng quyển I (Mahàvagga – I) thì ngay khi đức Phật cùng Tăng đoàn, trong đó có ba anh em Tôn giả Ca Diếp (Kassapa) và rất nhiều Tỳ kheo mà trước đây vốn là đoàn tu sĩ khổ hạnh theo phái bện tóc của ba anh em Tôn giả Ca Diếp, vừa đặt chân đến ngoại ô Vương Xá (Ràjiagaha) và nghỉ ngơi tại khu rừng Tượng Lâm (Latthivana) ở phía Tây Nam kinh thành, thì tại hoàng cung, vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đã được quân lính trình báo là: “Sa Môn Cồ Đàm (Gotama) thuộc dòng Thích Ca đã đến”. Nghe báo cáo như vậy, vua Tần Bà Sa La liền cùng quần thần, các đạo sĩ Bà La Môn và đoàn tùy tùng của mình, lập tức trực chỉ hướng về khu rừng Tượng Lâm để yết kiến đấng đạo sư. Ở đây chúng ta cũng cần hiểu thêm là tại Ấn Độ thời xưa, hay có phong tục là đối với các bậc tu hành giải thoát, thì dù là vua quan thì cũng phải đích thân đi tham kiến các bậc tu hành giác ngộ để tỏ lòng kính ngưỡng, chứ không phải ngồi một chỗ rồi mời bậc đạo sư đến yết kiến.

Dù vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đã biết “Sa Môn Cồ Đàm” là bậc đại giác ngộ, nhưng quần thần và các vị Bà La Môn trong đoàn nhà vua vẫn chưa hình dung ra ai là đấng đạo sư của đoàn Sa Môn oai nghiêm, thanh tịnh, danh tiếng chấn động này. Lúc đó nhiều người đều nghĩ rằng, trưởng lão Ca Diếp chắc chắn là bậc đạo sư, bởi trước đây vị Bà La Môn thờ thần lửa này đã nổi tiếng là đạo sư tu hành khổ hạnh rất tinh tấn, đến nỗi cả nước Ma Kiệt Đà không ai mà không biết danh tiếng trưởng lão Ca Diếp. Với trí tuệ thông suốt của một đấng giác ngộ, đức Phật đã thấy được sự suy nghĩ này của họ, nên chờ mọi người đến đông đủ, đức Phật đã chủ động chất vấn Tôn giả Ca Diếp (Kassapa), cuộc đối thoại này đã thực sự gây ấn tượng mạnh mẽ với vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) và tạo nên uy thế lừng lẫy của Giáo đoàn do Phật lãnh đạo, nên từng chi tiết nhỏ đều được ghi chép kỹ trong kinh tạng Pàli. Trong Đại Phẩm của Luật Tạng quyển I (Mahàvagga – I) thuật lại như sau:

Khi đó đức Phật hỏi Tôn giả Ca Diếp (Kassapa): Cách đây chẳng bao lâu Chí thành thờ Thần Lửa Tại rừng Ưu Tần Loa Này Hiền giả Ca Diếp Nguyên do gì từ bỏ Hiền giả hãy nói rõ Cho ta biết đi nào?Tôn giả Ca Diếp (Kassapa) liền bạch Phật: Phước báu do tế đàn Phần thưởng cùng giai nhân Thảy đều là dục lạc Thảy đều pháp thế gian Chẳng pháp nào thanh tịnh Con này từ bỏ hết Sự ham thích tế đàn Như lìa xa bất tịnhĐức Phật hỏi tiếp: Tâm Hiền giả chẳng luyến Hết thảy pháp thế gian Thú vui lễ tế đàn Thì giờ đây Hiền giả Tìm lạc thú đâu ra Hiền giả hãy thật tâm Trình bày thật rõ ràngTôn giả Ca Diếp (Kassapa): Con nay đạt an lạc Niết Bàn chân giải thóat Giữa trần gian mộng huyễn Không còn gì chấp thủ Việc này do tự chứng

Page 82: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

82

Không thể nói bằng lời Trong tâm trí tự hiểu Vì thế không cần tìm lạc thú trong tế đàn.Khi nói những lời này xong, Tôn giả Ca Diếp (Kassapa) liền quỳ xuống đảnh lễ đức

Phật và dõng dạc tuyên bố giữa mọi người: “Đức Thế Tôn là đạo sư của con! Con nay là đệ tử của Ngài! Đức Thế Tôn là đạo sư của con! Con nay là đệ tử của ngài!”...

Trước sự chí thành đảnh lễ và sự quy ngưỡng của đại trưởng lão Ca Diếp (Kassapa) đối với đức Phật trong thời điểm đó, khi mà Sa Môn Cồ Đàm vẫn chưa nổi danh cho lắm, thì sự việc này và nhất là lời tuyên bố dõng dạc và công khai trước nhà vua cũng như nhiều người của trưởng lão Ca Diếp, đã thực sự tạo ấn tượng rất mạnh mẽ đối với vua Tần Bà Sa La.

Tôn giả Ca Diếp (Kassapa) đảnh lễ và tuyên bố những lời tự quy y đức Phật xong, thì hết thảy mọi người đều hướng về đức Phật với lòng thành kính vô hạn và ai nấy rất khát khao mong được đức Phật ban pháp từ giáo hóa. Trước nhân duyên chín muồi này, đức Phật liền thuyết bài pháp Thuận thứ cho cả chúng hội cùng nghe. Lần nghe pháp này, vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đắc quả Dự Lưu. Sau khi nghe pháp, những người có mặt trong buổi hôm đó, tất nhiên là có cả vua Tần Bà Sa La đều xin quy y đức Phật.

Về sự kiện vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) tự nguyện quy y, xin làm Phật tử tại gia của đức Phật, đã được kinh tạng Pàli ghi lại rất rõ ràng. Trong một bản văn thuộc Đại Phẩm của Luật Tạng quyển I (Mahàvagga – I) đã nói về việc đức Phật giáo hóa vị vua nhân từ này. Kinh ghi lại rằng, sau khi đã thông hiểu giáo pháp, thể nhập giáo pháp và thâm tín Phật pháp, thì vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đã thành kính bạch với đức Phật như sau:

“Bạch đức Thế Tôn! Đệ tử trước là một vương tử, đệ tử có năm điều nguyện ước, nay tất cả đều đã thành tựu. Đệ tử đã ước được lên làm vua và được một bậc Đẳng Chánh Giác đến viếng thăm trong chính quốc độ của mình. Đệ tử cũng nguyện cầu tự thân mình thân hành tiếp kiến bậc Đẳng Chánh Giác với tất cả lòng tôn kính quy ngưỡng, rồi bậc Chánh Giác ấy sẽ thuyết pháp cho đệ tử và đệ tử có thể thông hiểu giáo pháp ấy. Nay tất cả mọi nguyện ước kia đều thành tựu. Ví như một người dựng lên một vật đã bị quăng ngã xuống hay chỉ đường cho kẻ bị lạc lối, hay rọi ánh đèn vào nơi tăm tối để những ai có mắt có thể trông thấy hình sắc mọi vật. Cũng vậy đức Thế Tôn đã thuyết giảng Chánh Pháp với nhiều phương tiện. Bạch đức Thế Tôn! Nay đệ tử xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Ước mong Thế Tôn nhận đệ tử làm cư sĩ tại gia từ nay cho đến trọn đời”.

Sau khi được đức Phật chấp thuận nhận làm đệ tử tại gia, vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đã thỉnh mời đức Phật cùng chư Tăng về hoàng cung thọ trai. Đức Phật im lặng thể hiện việc nhận lời. Sáng hôm sau đích thân nhà vua đã đứng ra phục vụ đức Phật và chư Tăng, không chỉ có vậy thôi, trong buổi sáng hôm đó, vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đã dâng lên cúng dường đức Phật và Tăng chúng một món quà vô cùng ý nghĩa và hết sức thiết thực đối với Tăng chúng thời bấy giờ. Đó là nhà vua tuyên bố cúng dường đức Phật và chúng Tăng ngự viên Trúc lâm (Veluvana) nằm ngay trước cửa Bắc của kinh thành Vương Xá (Ràjagaha). Để chứng minh cho sự thành tâm cúng dường của mình, và cũng là để công bố cúng dường của mình có hiệu lực trên mặt pháp lý theo truyền thống nghi lễ thời bấy giờ, vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đã rót cho mình một bát nước, rồi tự tay đem rót bát nước ấy vào trong cái bát vàng của đức Phật, trong khi đó đức Phật im lặng. Thay vì lời cám ơn hay một vài lời đáp từ, thì đức Phật chỉ im lặng và sau đó Ngài thuyết một thời pháp cho vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) và những người có mặt cùng được hưởng lợi ích.

Vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) trước sau vẫn là một Phật tử thuần thành, ông hết lòng hộ trì Tăng già, tạo mọi điều kiện và giúp mọi phương tiện để chánh pháp luôn được phát triển. Chính vị vua này là người cúng dường cơ sở vật chất đầu tiên (tịnh xá Trúc Lâm) để Giáo đoàn Phật giáo định hình một nếp sống mới mang tính cách định cư lâu dài.

Theo Đại Phẩm của Luật Tạng (Mahàvagga), kể từ ngày vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) quy y Tam Bảo, trải qua hàng chục năm sau và cho đến ngày nhà vua bị mưu sát thì tín tâm của nhà vua đối với Phật pháp vẫn không hề thuyên giảm, ngược lại càng ngày nhà vua càng thâm tín Phật pháp, bởi sự thấu rõ nhân quả nghiệp báo cũng như các mục đích giải thoát tối thượng mà nhà vua đã thâm nhập trong suốt quá trình học Phật.

Theo lịch sử Phật giáo thì việc cảm hóa vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) có tầm quan trọng rất đặc biệt trong sự nghiệp hoằng pháp độ sanh của đức Phật và sự phát triển của Giáo

Page 83: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

83

đoàn. Bởi vì sau khi vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) quy y Tam Bảo, thì hàng ngàn người dân ở Ma Kiệt Đà (Magadha) đã noi guơng nhà vua, họ đều nương tựa vào Phật Pháp Tăng làm thầy dẫn đường trên bước đường tu tập giải thoát. Cũng nhờ việc giáo hóa vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) mà đạo Phật đã được xã hội thời bấy giờ công nhận, để từ đó thuận lợi hơn trên bước đường khai sáng đời sống tâm linh trên các vùng lãnh thổ khác tại Ấn Độ.

Dù là một vị vua nhân từ thâm tín Phật pháp, nhưng cuối đời của vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) cũng không tránh khỏi nghiệp báo nhân quả diễn ra một cách khốc liệt. Tần Bà Sa La (Bimbisàra) có một người con trai là Thái tử Ajatasattu, nói đúng hơn thì đó là một nghịch tử đáng thương và đáng sợ. Ajatasattu đã nghe lời xúi dục của Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) cướp đoạt ngôi vua. Việc bại lộ, thay vì trừng trị thích đáng, thì vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) lại xá tội và thoái vị để nhường ngôi vua cho Ajatasattu. Về sau, Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) một lần nữa xúi dục Ajatasattu giam vua cha Tần Bà Sa La (Bimbisàra) vào ngục và sau đó bỏ đói cho đến chết...

Nói đến sự hoằng pháp của đức Phật đối với các vị vua, chắc có lẽ quý Phật tử cũng thường nghe nhắc đến vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) quốc vương nước Kiều Tất La (Kosala) trong các kinh điển Pali. Theo lịch sử Phật giáo ghi nhận thì vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) vốn có tình giao hảo với vua Tịnh Phạn (Suddhodana) phụ vương của đức Phật. Để tạo thêm sự gắn bó kết thân hơn nữa, vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) xin cưới một công chúa dòng dõi Thích Ca (Sakya), tuy nhiên do lòng tự cao và kiêu ngạo, dòng họ Thích Ca (Sakya) đã đem một nữ nô lệ hóa trang thành công chúa dâng lên vua Ba Tư Nặc (Pasenadi). Việc này bị vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) phát hiện, nhà vua vô cùng tức giận và phát động cuộc chiến tranh quy mô với Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu). Trước sự việc diễn ra tồi tệ này, đức Phật phải đứng ra can ngăn và hòa giải. Về sau vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) quy y đức Phật, trở thành một cư sĩ thuần thành rất tín tâm, hết lòng hộ trì Tam Bảo. Đặc biệt là vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) thường xuyên tham học Phật pháp cũng như phép trị nước an dân với đức Phật và chư vị Tỳ kheo, chính vì vậy mà ông trở thành người cư sĩ rất thân tín của Giáo đoàn.

Cũng giống như số phận của vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra), ông cũng bị người con ruột (cũng là con của người nô lệ do dòng họ Thích Ca ở Ca Tỳ La Vệ gởi đến) là Virùdhaka chiếm đoạt ngôi vua, đến nỗi phải chạy sang Vương Xá (Ràjagaha) để lánh nạn. Dù sao thì cuối đời vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) cũng còn may mắn hơn vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) rất nhiều, bởi ông đã được vua A Xà Thế (Ajatasatta) quốc vương nước Ma Kiệt Đà (Magadha) cho tá túc và đối xử rất tử tế. Cuối cùng ông qua đời tại thành Vương Xá (Ràjagaha).

Khởi đầu việc vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) được đức Phật giáo hóa, chúng ta không thể không nhắc đến hai cái tên vô cùng quen thuộc, đó là thành Xá Vệ (Sàvatthi) và tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavanàràma), bởi nó có liên quan mật thiết đến sự nhân duyên giác ngộ chánh pháp và gắn bó với Giáo đoàn của vị vua này.

Vào thời bấy giờ, tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavanàràma) được xem là cái nôi của Phật pháp, tất cả những thời pháp quan trọng hầu như đều được đức Phật thuyết giảng tại đây. Mặt khác nơi đây là điểm tập trung của chư Tăng trong những mùa an cư và là nơi định cư của chư vị Tỳ kheo kể cả khi không phải mùa mưa gio. Chính vì vậy mà dòng người đổ về tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavanàràma) để được đảnh lễ tham bái đức Phật và Tăng chúng ngày càng nhiều hơn. Trên đoạn đường từ thành Xá Vệ (Sàvatthi) đến tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavanàràma) có một vị kháchrất đặc biệt thường xuyên lui tới thăm viếng nơi cư trú của đức Phật. Đó chính là Ba Tư Nặc (Pasenadi) đại vương của vương quốc Kiều Tất La (Kosala).

Tuy nhiên bước đầu đến với đức Phật, vị đại vương này đã hoài nghi về sự chứng ngộ của đức Phật. Trong Tương Ưng Bộ Kinh, Chương 3 (Samyutta Nikàya - 3) đã ghi lại cuộc đối thoại lúc đầu tiên đến với đức Phật giữa vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) với bậc đạo sư như sau:

Vua Ba Tư Nặc (Pasenadi): “Thưa Sa Môn Cồ Đàm, có phải Tôn giả đã tuyên bố đã chứng đắc Vô Thượng Giác Ngộ như một đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác chăng?”.

Đức Phật: “Quả thật ta đã tuyêh bố như vậy”.Vua Ba Tư Nặc (Pasenadi): “Trẫm biết các Sa Môn thượng thủ của các giáo phái, khi

trả lời câu hỏi của trẫm, tất cả đều bảo chư vị không đạt Vô Thượng Giác Ngộ. Nay làm thế nào Tôn giả có thể trở thành bậc Đại Giác, khi mà Tôn giả còn quá trẻ tuổi và xuất gia chưa được bao lâu?”.

Đức Phật: “Thưa Đại vương, có bốn loại người và vật không được xem thường vì trẻ tuổi. Đó là một vị quý tộc (Sát Đế Lợi), một con rắn, một ngọn lửa, một vị Tỳ kheo”.

Page 84: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

84

Theo cách trả lời của đức Phật như trên đây, chúng ta có thể hiểu rằng, một con rắn hay một ngọn lửa, dù cho nhỏ thế nào thì vẫn có thể gây ra hỏa hoạn hay cắn chết người nếu chúng ta xem thường nó. Đối với một vị quý tộc, dù còn trẻ tuổi thì vẫn là sự tích tạo phước đức nhiều đời mới có thể sanh làm quý tộc, nên chúng ta cũng không thể xem thường, đó là chưa nói đến mặt trái vấn đề, khi có quyền hạn trong tay, cộng thêm sự bồng bột của tuổi trẻ, nếu chúng ta xem thường, thì hậu quả có thể dẫn đến sự rắc rối cho bản thân, còn đối với các giai cấp hạ đẳng, nếu xem thường một vị quý tộc thì cũng có thể dẫn đến cái chết khi mà pháp luật lúc bấy giờ không hề có điều khoản nào bảo hộ cho họ. Riêng đối với một vị Tỳ kheo, dù còn trẻ, thì đó vẫn là một hạt giống giác ngộ giải thoát trên thế gian này, nếu xem thường một vị Tỳ kheo, tức là xem thường Tam Bảo, đương nhiên hậu quả sẽ rơi vào địa ngục chịu nhiều thống khổ, cho nên chúng ta không thể xem thường bốn loại người và vật này. Vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) cảm nhận lời dạy vừa sâu sắc, vừa lanh lợi hoạt bát này của đức Phật, nên sau khi nghe đức Phật trả lời, vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) liền tuyên bố xin làm đệ tử tại gia của đức Phật và xin quy y Tam Bảo.

Quan hệ giữa đức Phật với vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) là quan hệ thầy trò, tuy nhiên ở đó còn là mối quan hệ gắn bó thân mật của tình bằng hữu, cho nên đức Phật đã không ngại khuyên bảo vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) những điều tế nhị trong cuộc sống. Chẳng hạn, vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) là người rất thích tẩm bổ, điều này dẫn đến việc thừa mở trên thân thể của nhà vua, khiến cho việc đi lại trở nên khó khăn. Trong một lần yết kiến đức Phật, vì nhận thấy nhà vua thở hổn hển trông rất mệt nhọc, đức Phật đã khuyên vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) nên tiết độ trong việc ăn uống, điều này đã được Tương Ưng Bộ Kinh, Chương 3 (Samyutta Nikàya - 3) ghi lại như sau:

“Người luôn chú tâm Tiết độ ăn uống Tham dục giảm dần Giữ gìn sức khỏe Tuổi già lâu đến”. Khi nghe đức Phật khuyên bảo điều này, vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) đã quay sang vị

cận thần đang hầu quạt nói rằng: “Khanh hãy nhắc nhở trẫm vần kệ này trước mỗi bữa ăn”. Đối với vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) và vua Ba Tư Nặc (Pasenadi), có thể nói là

thiện tâm của hai vị vua này rất nồng hậu, nên việc giáo hóa của đức Phật diễn ra rất dễ dàng, con đối với vua A Xà Thế (Ajatasatta) vốn là một vị hôn quân tàn bạo, nên sự hóa độ của đức Phật phải chờ đến một cơ duyên chín muồi mới thuận lợi cho việc giáo hóa vị vua này.

Lịch sử Phật giáo ghi chép rằng, vua A Xà Thế (Ajatasatta) là con của vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) quốc vương nước Ma Kiệt Đà (Magadha). Vì nghe theo lời xúi dục của Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) là một Tỳ kheo ác hạnh, vốn là em họ của đức Phật. Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) vì rấp tâm muốn thay mặt đức Phật lãnh đạo Giáo hội, nên đã xúi dục A Xà Thế (Ajatasatta) hãm hại vua cha Tần Bà Sa La (Bimbisàra) và hại luôn cả đức Phật. Tuy nhiên A Xà Thế (Ajatasatta) vẫn thấy đức Phật an ổn, điềm nhiên bình thản, không hề lộ vẻ lo lắng hay sợ hãi, vua A Xà Thế liền hồi tâm hối hận bởi những việc mà mình đã làm trước đây, ông liền đuổi Đề Bà Đạt Đa đi nơi khác. Ít lâu sau ông lâm trọng bệnh, nghe theo lời khuyên của ngự y Jìvaka, nhà vua đã đến đảnh lễ đức Phật, thành khẩn ăn năn sám hối. Nhân cơ hội này, đức Phật đã giảng cho nhà vua nghe một thời pháp. Do thành tâm lắng lòng nghe pháp và sự thông tuệ được khai mở mà vua A Xà Thế đã lãnh hội được yếu chỉ sâu xa của đạo lý giải thoát. Từ đó ông xin quy y Tam Bảo và trở thành một cư sĩ Phật tử hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của Tăng già. Trong một lần thuyết pháp cho nhà vua nghe, đức Phật bảo với ông rằng, nếu ông không mắc phải trọng tội hại cha thì ông đã đắc quả Dự Lưu ngay trong lần đầu nghe Phật thuyết pháp.

Cuối đời, vua A Xà Thế bị con trai là Udàyin giết hại để đoạt ngôi vua. Điều đáng lưu ý là Udàyin sinh ra đúng ngày vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) chết đói trong ngục, phải chăng đây chính là quả báo mà vua A Xà Thế phải trả do tội giết cha trước đó.

Trong số các vị vua mà đức Phật đã giáo hóa, có một vị rất đặc biệt, đó chính là vua Tịnh Phạn (Suddhodana) phụ vương của đức Phật.

Theo lịch sử Phật giáo thì vào năm thứ ba sau khi đức Phật thành đạo, tức là mùa an cư năm thứ hai kể từ ngày thành lập Giáo đoàn, lúc bấy giờ đức Phật và giáo

Page 85: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

85

đoàn của Ngài đã vang danh khắp Ấn Độ và trở thành trung tâm điểm thu hút sự chú ý của xã hội đương thời.

Tại kinh thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) vua Tịnh Phạn (Suddhodana) hay tin con mình nay đã trở thành bậc đại giác ngộ, đang lãnh đạo Giáo đoàn có đến hàng ngàn vị Tỳ kheo chứng đắc Thánh quả, rất được mọi người kính trọng và quy ngưỡng. Nhà vua nôn nóng muốn gặp lại con mình sau thời gian xa cách quá lâu, nhưng do quốc sự bề bộn, hơn nữa, với tâm lý vốn có của một người cha, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) muốn đích thân đức Phật phải quay về kinh thành để bái kiến mình. Có lẽ nghĩ như vậy, nên nhà vua đã không tìm đến đức Phật mà cho người đi mời Ngài về hoàng cung để gặp mặt.

Hay tin đức Phật đang truyền bá Phật pháp ở tịnh xá Trúc Lâm (Veluvanàràma), vua Tịnh Phạn (Suddhodana) đã phái một đoàn gồm một ngàn người đến Ma Kiệt Đà (Magadha) thỉnh cầu đức Phật hồi hương. Khi phái đoàn này gặp đức Phật, được nghe Ngài thuyết pháp, thì tất cả đều quy y Phật và xin gia nhập Giáo đoàn, trong số đó có rất nhiều vị đắc quả dự vào hàng Thánh. Ở hoàng cung chờ đợi sốt ruột mà chẳng thấy tin tức báo về, vua Tịnh Phạn bèn gởi thêm một đoàn mới cũng cả ngàn người nữa, đến tịnh xá Trúc Lâm (Veluvanàràma) thỉnh cầu đức Phật trở về thăm lại quê hương, cũng như lần trước, lần này cả ngàn người khi gặp đức Phật, được nghe Phật thuyết pháp, họ cũng đều quy y Phật và xin gia nhập Tăng đoàn. Cuối cùng, nhà vua phải phái con trai của vị đại thần tên là Kàludàyi, vốn là bạn thân của Thái tử Tất Đạt Đa, đến Ma Kiệt Đà (Magadha) để thỉnh cầu đức Phật theo ý nguyện của vua Tịnh Phạn (Suddhodana). Thế nhưng ngay khi vừa đặt chân đến tịnh xá Trúc Lâm (Veluvanàràma), Kàludàyi liền bị chinh phục bởi tướng hảo quang minh và từ tâm tỏa sáng của đấng giác ngộ, sau khi được nghe Phật thuyết pháp, Kàludàyi liền đắc quả A La Hán và trở thành một vị Thánh Tăng đệ tử của Phật.

Tuy nhiên trong lần này, đức Phật quyết định cùng Tăng đoàn rời kinh thành Vương Xá (Ràjagaha) ngược lên hướng Bắc, băng qua sông Hằng (Gange) để trở về kinh thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu).

Tại hoàng cung, trong thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu), từ vua Tịnh Phạn (Suddhodana) cho đến tất cả bá quan văn võ, sau khi nghe đức Phật thuyết pháp đều xin quy y Tam Bảo, đều xin được làm đệ tử tại gia của đức Phật. Ngay trong lần đầu tiên nghe đức Phật thuyết pháp, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) đã chứng quả Tư Đà Hàm (quả vị thứ hai trong Tứ Thánh quả).

Cũng trong lần giáo hóa này, nhờ thâm nhập Phật pháp mà bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Maha Pajapati), di mẫu của đức Phật đã đắc quả Tu Đà Hoàn (quả dự lưu, quả vị đầu tiên trong Tứ Thánh quả). Ngoài ra còn có Nan Đà (Nanda) là người em khác mẹ, La Hầu La (Rahula) là con ruột, cùng các hoàng thân quốc thích, như A Nan Đà (Ànanda), Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), A Nậu Lâu Đà (Anuruddha), Bạt Đề (Bhaddiỳa), Ba Da (Bhaga), Kiếp Bà La (Kimbila) đều được giáo hóa, đều đắc quả vị dự vào hàng Thánh, tất cả đều xin gia nhập Giáo đoàn. Đặc biệt trong lần hồi hương này, đức Phật đã giáo hóa cho một người làm nghề hớt tóc tên là Ưu Bà Ly (Upàli) chứng đắc quả A La Hán, về sau Tôn giả Ưu Bà Ly (Upàli) trở thành một trong mười đại đệ tử trứ danh của đức Phật, với biệt hiệu là bậc Đệ Nhất Trì Giới.

Như chúng ta đã biết, đức Phật thành đạo và hoằng pháp lợi sanh được năm năm thì vua Tịnh Phạn băng hà. Trước đó không lâu, khi vua Tịnh Phạn (Suddhodana) đang hấp hối, đức Phật đã có mặt kịp thời và đã có một thời pháp cuối cùng dành cho phụ hoàng, điều kỳ diệu là sau khi được nghe đức Phật giáo hóa lần cuối, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) đã chứng đắc quả vị A La Hán, đây là quả vị cao nhất trong Tứ Thánh quả. Như vậy là kể từ đây, vua Tịnh Phạn đã thật sự trút bỏ gánh nặng luân hồi sanh tử, dứt sự ràng buộc trong các cõi, với gương mặt sáng ngời của một người vừa giác ngộ, nhà vua thanh thản ra đi với sự hàm ân vô bờ bến mà đấng Đại Giác đã vì ông mà giáo hóa...

Trong Phật giáo chúng ta thường hay nghe nói đến Tứ trọng ân; đó là ân quốc chủ, ân sư trưởng, ân cha mẹ, ân đàn na tín thí. Đối với một đấng giác ngộ đã đạt đến cảnh giới bình đẳng tánh trí, thì ân nào cũng sâu nặng như nhau, cũng đều được đáp đền một cách xứng đáng. Tuy nhiên trong góc độ của một bậc lãnh đạo Giáo đoàn như đức Phật, ngoài sứ mạng hoằng

Page 86: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

86

pháp độ sanh, thì ngài còn mang một trọng trách lớn lao nữa, đó là sự tồn tại và phát triển Giáo hội, chính vì vậy mà ân quốc chủ được đức Phật quan tâm chú trọng hơn. Đồng thời vị trí và vai trò của các bậc đế vương, cũng như các vị lãnh đạo các giáo phái đương thời luôn có sức ảnh hưởng rất lớn đối với quần chúng, do vậy việc hóa độ các vị vua và các vị lãnh đạo các giáo phái, được xem là một trong những nhiệm vụ hàng đầu mà đức Phật cảm thấy cần phải chu toàn và hoàn thiện.

Sở dĩ đức Phật quan tâm đến các vị quân vương vì ngài nhận thấy, nếu một đất nước mà được cai trị bởi một vị vua nhân từ đức hạnh, thâm tín Phật pháp, thì tất nhiên vị vua đó sẽ lấy đạo đức và trí tuệ làm nền tảng pháp luật căn bản để trị vì thiên hạ, nhờ vậy mà đất nước được thái bình, dân chúng được cơm no áo ấm, xã hội được phát triển tươi đẹp, đất nước được phồn vinh hùng mạnh. Nhận thấy rất rõ điều này nên đức Phật đã làm gương cho hàng Sa Môn Thích tử trong việc thực hành báo đáp ân quốc chủ, được xem là một trọng ân đứng đầu trong Tứ trọng ân.

Để đem lại thịnh trị và bình an cho một quốc gia, đức phật luôn quan tâm đến sinh hoạt và giáo dục một vị vua anh minh. Trong Tăng Nhất A Hàm, đức Phật dạy: “ bổn phận của một vị lãnh tụ quốc gia, muốn làm vị minh quân phải hội đủ 10 điều: 1-Thanh liêm. 2- Nghe lời can gián của người khác. 3- Thi ân cho nhân dân. 4- Thu thuế đúng pháp luật. 5- Phòng the phải nghiêm túc. 6- Không say sưa rượu chè. 7- Siêng năng nghiêm chỉnh. 8- Xét xử nghiêm túc công bằng . 9- Hòa hợp với quần thần. 10- Giữ gìn sức khỏe bản thân.

Sự thật thì muốn cảm hóa một người bình thường để họ giác ngộ Phật pháp đã không phải dễ, huống gì là hóa độ một bậc quân vương vốn ẩn tàng nhiều ngã chấp, nó đòi hỏi bản thân người làm công tác hoằng pháp độ sanh phải thật sự là một bậc chân tu giải thoát, có như vậy thì mới có thể “Trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường”. Như vậy từ việc giáo hóa các bậc đế vương, ở đây chúng ta sẽ thấy một điều rất siêu xuất, đó là đức Phật ngầm dạy hàng đệ tử Tỳ kheo của mình là phải thực sự nỗ lực tu hành giải thoát, bởi theo ngài, có thật sự giác ngộ giải thoát thì mới có thể cứu vớt chúng sanh, dù chúng sanh đó là đối tượng nào đi chăng nữa, còn như cứ mãi đắm chìm trong luân hồi sanh tử thì tự cứu còn chưa xong, huống gì nói đến độ thoát cho ai. Nhất là đối với những hàng chúng sanh đặc biệt khó tiếp cận và khó độ, thì chúng ta càng phải nỗ lực tu tập, bởi một khi chúng ta cảm hóa thành công những đối tượng này thì sẽ đem lại lợi ích vô cùng lớn lao cho Phật pháp...

Page 87: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

87

PHẦN BỐN

NHÂN CÁCH CỦA ĐỨC PHẬT

CHƯƠNG MỘT

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝCỦA ĐỨC PHẬT

Trong đời sống nhân loại, dù đặc điểm tâm lý của con người là rất đa dạng và phức tạp, nhưng hầu như đều gặp nhau ở một mẫu số chung. Đó là hễ người nào có tính ích kỷ, nhỏ nhen, cố chấp, nhiều lòng đố kỵ, sân hận, hung dữ... thường thì nhân cách rất hạn chế; ngược lại người nào tâm tính rộng lượng, khoan dung, vị tha, hiền từ, nhân ái... thì nhân cách trở nên cao thượng, dễ gây được thiện cảm với mọi người và dễ thành đạt trong cuộc sống.

Nói như vậy cũng có nghĩa là nhân cách của mỗi con người, nó tùy thuộc rất lớn vào đặc điểm tâm lý và trình độ nhận thức về cuộc sống nơi bản thân mỗi con người. Qua đó chúng ta có thể rút ra những nhận xét hết sức thú vị, nhất là khi chúng ta cùng bàn về những đặc điểm tâm lý của Đức Phật.

Trong đời sống cộng đồng, hễ nhắc đến đạo Phật, người am hiểu Phật giáo thì liên tưởng ngay đến hai đặc tính cao quý Từ Bi và Trí Tuệ, còn với đại trà quần chúng, thì đạo Phật nôm na là đạo Từ Bi Hỷ Xả. Do vậy, nếu một người nào mang danh là một Phật tử, nhưng khi gặp chuyện bất như ý liền nổi sân, chữi rủa mắng nhiếc người khác, không thể hiện được đức tính Từ, Bi, Hỷ, Xả thì chắc chắn sẽ bị người đời mỉa mai chê cười, hơn là đối với một người chưa phải là Phật tử. Điều này chứng tỏ, cái giá trị đích thực của đạo Phật trong đời sống con người chính là ở đặc tính Từ Bi Hỷ Xả, đó cũng là những đặc tính cao quý tạo nên nhân cách và phẩm hạnh của một Phật tử thuần thành chân chánh.

Page 88: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

88

Như đã nói ở trên, hễ nói đến đạo Phật, tức là nói đến đạo giác ngộ giải thoát, đạo của Từ Bi Hỷ Xả và điều này cũng có nghĩa là chúng ta đang nói đến những đặc điểm tâm lý không thể tách rời bản thân của đấng khai sáng ra đạo Phật, một mối đạo có sức ảnh hưởng vô cùng lớn lao và thiết thực đối với đời sống nhân loại suốt trên 2550 năm qua và mãi đến muôn đời sau.

Trong bối cảnh xã hội Ấn Độ thời bấy giờ, sự quan hệ mật thiết giữa hai tập cấp Ba La Môn chuyên lo về đời sống tâm linh và tập cấp Sát Đế Lợi cai trị đất nước, được xem là rất gắn kết, sự gắn kết này có thể hình tượng như sau: Tập cấp Sát Đế Lợi là thể xác và tập cấp Bà La Môn là linh hồn trong thể xác đó. Sự gắn kết này đã khiến cho hàng vua quan, võ tướng thuộc tập cấp Sát Đế Lợi thâm nhiễm sâu nặng giáo lý Bà La Môn tưởng chừng khó có thể thoát ra được. Chính vì vậy mà họ đều cùng chung một quan niệm rằng, các võ tướng hay chiến sĩ khi ngã xuống trên chiến trường sẽ trở thành những đấng thần linh đầy uy quyền vì họ đã hy sinh cho tổ quốc. Tuy nhiên với tâm từ bi, trí tuệ của Đức Phật Ngài đã cho tập cấp Sát Đế Lợi biết rằng, sự ngã xuống của các chiến sĩ cho tổ quốc là điều đáng trân trọng, ghi ơn. Nhưng để hóa giải nghiệp lực chiến tranh, Đức Phật đã vận dụng tâm từ bi hỷ xả để chiêu cảm hầu giúp họ giác ngộ và chuyển hóa nghiệp thức vào cõi thiện để không tái sanh vàtránh được nghiệp chiến tranh, chết chóc trong kiếp sau. Điều này được thể hiện rất rõ trong đặc tính tâm lý và nhân cách của Đức Phật trong suốt cuộc đời của Ngài, được thể hiện qua hình ảnh từ bi hỷ xả vô ngã vị tha mà Ngài đã đem lại cho nhân loại, ngay cả những người quá cố.

Theo kinh điển mô tả thì Từ Bi Hỷ Xả chính là bốn đặc điểm tính tình nổi bật nhất của Đức Phật, điều này không chỉ được các học phái trong Phật giáo công nhận, mà giới nghiên cứu khoa học lịch sử về tôn giáo các thời đại cũng phải thừa nhận rằng, từ cổ chí kim, chưa có một lãnh đạo giáo phái nào mà tròn đầy đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả như ở Đức Phật.

Vời lòng Từ, Ngài trải lòng thương yêu tất cả muôn loài muôn vật, chỉ muốn đem lại hạnh phúc cho tất cả chúng sanh và đặc biệt là đối với con người. Với Bi tâm lân mẫn, Ngài không ngừng công việc độ thoát chúng sanh từ khi mới thành đạo cho đến tận giây phút nhập Niết Bàn. Tất cả tam tạng kinh điển cũng đều xuất phát từ Đại Bi tâm của Đức Phật, bởi Ngài chỉ muốn cứu vớt độ thoát chúng sanh ra khỏi vòng khổ đau trầm luân sanh tử. Vì Từ Bi nên Đức Phật chủ trương sống vị tha, quên mình để ban vui cứu khổ. Trong kinh tạng Pali chúng ta thường hay gặp những đoạn kinh văn, ghi nhận sự tán dương công đức của Đức Phật đối với những vị Tỳ kheo một khi họ làm được điều gì đó mang lại lợi ích cho chúng sanh, điều này chứng tỏ Ngài luôn khích lệ, tán dương những đặc tính tâm lý cao quý này.

Trong công cuộc hoằng hóa độ sanh, Đức Phật luôn dạy hàng đệ tử xuất gia phải thường xuyên lấy Tứ Nhiếp Pháp (Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự) làm phương tiện để gần gũi hầu độ thoát chúng sanh. Trong Tứ Nhiếp Pháp, chúng ta thấy ở mỗi pháp đều thể hiện sâu xa tâm Đại Từ Đại Bi của Đức Phật; bởi vì ngay trong pháp Bố thí, Ngài khuyên hàng đệ tử của mình, là phải biết thông cảm, chia sẻ trước nỗi đau cũng như sự thiếu thốn của chúng sanh, một khi chúng sanh đã tìm đến với mình hoặc mình có nhân duyên với những chúng sanh đó, nội dung Bố thí ở đây có thể là một thời pháp, hay một bữa cơm đạm bạc nhưng chứa chan sự cảm thông chia sẻ; với pháp Ái ngữ thì Ngài dạy, đối với chúng sanh thì phải luôn luôn dùng lời yêu thương nhẹ nhàng từ ái khi giao thiệp; đối với Lợi hành và Đồng sự thì Đức Phật dạy hàng Phật tử chúng ta phải làm gương và cùng với chúng sanh làm việc tốt đẹp có lợi ích cho đời sống... Qua đó chúng ta thấy rằng, Đức Phật, hầu như lúc nào Ngài cũng thương tưởng nhớ nghĩ đến chúng sanh, tìm mọi cách để gần gũi cứu vớt chúng sanh và mỗi lời nói việc làm của Ngài, đều là sự thể hiện hai đức tính Từ - Bi cao quý đó.

Thật vậy, lòng Từ Bi của Đức Phật luôn hướng đến sự sống của muôn loài, điều này được Ngài bộc lộ ngay sau khi thành đạo, trong lần sơ chuyển pháp luân tại vườn Lộc Uyển, bằng bài pháp Tứ Diệu Đế, với phần tu tập căn bản là Bát Chánh Đạo, trong đó ở hai chi Chánh Nghiệp và Chánh mạng nó hàm chứa trọn vẹn hai đức tính Từ và Bi rất là sâu xa và thiết thực. Chánh nghiệp và Chánh mạng, tức là sống bằng nghề nghiệp chân chánh và hãy nuôi dưỡng mạng sống của mình một cách chân chánh. Điều này có nghĩa là, người Phật tử nhất nhất phải xem sinh mạng chúng sinh như sinh mạng của chính mình, không được sát sinh hại vật để nuôi sống bản thân. Trong Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikàya) đã liệt kê một số nghề như nghề đồ tể, nghề bẫy chim, nghề săn thú, chài lưới, đao phủ, cai ngục, nấu ruợu... mà

Page 89: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

89

trong kinh ghi rất rõ là “nghề bất thiện”, vì các nghề nghiệp này tạo nên sự khổ đau cho người và vật, và khuyên răn hàng Phật tử không nên chọn những nghề như vậy để mưu sinh.

Đối với quần chúng khi phát tâm quy y Tam Bảo, Ngài liền dạy họ thực hành Ngũ giới, đặc biệt trong đó có giới Bất Sát Sanh thể hiện lòng Từ rất cụ thể của Đức Phật; đường tu tiến cao hơn nữa thì Đức Phật dạy chúng ta tu theo Thập thiện, mà trong đó có việc Phóng sanh, Bố thí thể hiện Bi tâm rất sâu xa nồng hậu... Cho đến việc cấm túc an cư, trai đàn chẩn tế, từ thiện xã hội, chung tay vì cộng đồng... tất cả mỗi lời dạy, mỗi phương thức tu hành đều xuất phát từ hai đức tính Từ Bi cao cả nơi Đức Phật và Ngài hằng mong muốn hai đức tính cao quý đó sẽ được huân tập sâu dày vào trong tàng thức những người con Phật, bởi Đức Phật cho rằng Từ và Bi là hai đức tính không thể thiếu được trên con đường tu hành giải thoát giác ngộ.

Nói về đức tính Hỷ Xả của đức Phật, qua kinh điển, có lẽ chúng ta đều đã biết, trong suốt cuộc đời tám muơi năm của Ngài, từ khi sanh ra cho đến khi thanh thản ung dung vào cõi Niết Bàn, hầu như Đức Phật chưa bao giờ, dù chỉ một lần, oán thù mắng nhiếc bất cứ một ai. Ngược lại, phát xuất từ lòng Từ Bi chan chứa dạt dào thương cảm chúng sanh, Ngài luôn độ lượng, khoan dung, thông cảm, tha thứ cho tất cả, dù cho người đó có rắp tâm bức tử Ngài đi chăng nữa. Trong kinh điển Pali đã thuật lại rất nhiều sự việc Ngài bị người đời vu khống, hành hung, nhục mạ nhưng Ngài vẫn an nhiên bình thản như chưa từng xảy ra điều gì với Ngài. Giải thích điều này, Đức Phật dạy rằng, bậc hữu trí đi vào cuộc đời si mê điên đảo thì cần phải có thái độ như con voi thiện chiến xông pha giữa trận mạc, dù cho nó có bị đâm chém, có bị đả thương thì nó vẫn cam chịu được tất cả, nó cũng không bao giờ tỏ thái độ giận dữ hay thù oán. Đồng thời Đức Phật cũng dạy rằng, người đi vu oan giáng họa cho người khác cũng giống như người nhổ nước bọt lên hư không, thì nước bọt đó sẽ rơi xuống ngay mặt mình; và nó cũng giống như người đi ngược trong cơn bão cát, chắc chắn bụi cát sẽ bay tấp vào mặt, vào mắt của mình... Trong Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikàya) có thuật lại một câu chuyện về bốn đức tính cao thượng Từ Bi Hỷ Xả được biểu hiện qua sự bình thản không khởi tâm oán hận của Đức Phật như sau: “Trong một lần Đức Phật cùng đi với Tôn giả A Nan (Ananda) vào thành Kiều Thượng Di (Kosambi) khất thực, Ngài đã bị vợ của vua Udena là hoàng hậu Magandiỳa trút cơn oán hận mà bà đã dồn nén bấy lâu vì chưa tìm được cơ hội trả thù. Nguyên lúc còn thiếu nữ, bà đã đem lòng thương yêu Đức Phật, dĩ nhiên là Ngài không thể nào đáp lại tình yêu thương của bà được. Thay vì nói lời khướt từ thì Đức Phật đã giảng cho bà nghe một thời pháp về Tứ Niệm Xứ. Trong thời pháp ngắn ngũi này, Đức Phật đã tập trung giảng về sự bất tịnh của thân thể con nguời cho bà nghe. Đáng lẽ bà phải đảnh lễ tạ ơn Đức Phật, đằng này bà lại cho rằng Ngài chê bai thân thể của bà là hôi thối, dơ bẫn, bất tịnh nên không đáp lại tình yêu thương của bà, kể từ đó bà trở nên căm thù oán hận Đức Phật một cách sâu sắc. Do vậy trong lần gặp Đức Phật này, bà quyết trả thù cho bằng được. Lúc bấy giờ bà cho thuộc hạ của mình bao vây chặn đường Đức Phật, bọn người này xúm vào chữi rủa Ngài rất thậm tệ: “Mày là thằng đạo đức giả, thằng đểu cán, thằng ăn trộm, thằng lừa, thằng bò, thằng lạc đà, thằng địa ngục, thằng súc sanh, thằng hạ đẳng, thằng không thể sanh vào thiên giới”. Khi đó lòng dạ Tôn giả A Nan rối bời và rất hoảng hốt, người thị giả tận tụy này níu tay áo Đức Phật khẩn hoảng Ngài mau chóng tránh xa nơi nguy hiểm đó. Thế nhưng Đức Phật vẫn an ổn, Ngài bình thản trước những lời chữi rủa nhục mạ độc ác khó nghe đó và lặng im như không có chuyện gì xảy ra, tuy nhiên chỉ Tôn giả A Nan mới nhận ra trong chỗ sâu kín dưới ánh mắt của Ngài phảng phất nỗi xót thương mà người thường khó có thể nhận ra. Lúc đó Ngài ôn tồn bảo Tôn giả A Nan rằng: “Này A Nan, chúng ta đi đâu bây giờ, chúng ta hãy đối mặt với sự thật, rồi mọi chuyện sẽ qua rất nhanh, nhưng nhớ là đừng sanh tâm oán giận, dù trước hoàn cảnh nào và đối với bất cứ ai”. Trên đây chỉ là một trong muôn ngàn câu chuyện về đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả của Đức Phật được ghi chép bàng bạc trong kinh tạng Pali, ở đó chúng ta thấy Đức Phật, tuy là một con người bằng xương bằng thịt, nhưng Ngài đã vượt qua tất cả sự lăng nhục, vu khống, trả thù...trên thế gian này bằng Trí tuệ và bốn đức tính Từ – Bi - Hỷ -Xả cao thượng đó, và trong tâm Ngài cũng chưa từng có một mảy may xao động hay dù chỉ là một gợn rất nhỏ của sự bất như ý dấy khởi trong tâm.

Nói về Từ Bi Hỷ Xả, những đức tính cao thượng trong đời sống, đức Phật đã dạy các đệ tử của mình phải luôn an trú trong từ tâm, dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng quyết không đểcho tâm sân phát khởi. Chẳnh hạn, đối với một vị Tỳ kheo, dù cho gặp phải một tên sát nhân nó chặt tay chân, thì nhất quyết không để cho tâm hận thù khởi lên trong lòng. Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) đã ghi lại lời dạy của Đức Phật như sau: “Tâm ta sẽ không dao

Page 90: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

90

động, ô nhiễm và ta sẽ không thốt lên một lời ác hiểm nào, chúng ta sẽ an trú với từ tâm, không sân hận. Sau khi đã làm thấm nhuần khắp người kia với từ tâm, chúng ta sẽ an trú trong trạng thái ấy biến mãn cùng khắp thế gian”.

Qua kinh điển chúng ta có thể nói rằng Hỷ Xả chính là hai trong bốn đặc tính nổi bật nhất trong tính cách của Đức Phật, về việc này, trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) đã ghi lại lời tuyên bố của y sĩ Jìvaka, một nhà phẩu thuật danh tiếng thời bấy giờ về tình trạng tâm sinh lý của đấng Đạo Sư như sau: “Nhờ sự thăng bằng trong tâm trí và ổn định mọi tình cảm của một bậc giác ngộ, và đức tính Hỷ Xả cao thượng đã trở thành một phần bản tánh của Ngài do sự tu tập điều hòa thân tâm đã tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp, nay Ngài đã là bậc Đại Giác, nên Ngài không bao giờ bị chi phối trước nghịch cảnh hay động tâm trước mọi tình huống như những con người bình thường khác”.

Có thể nói nhận xét trên đây là rất khách quan và trung thực của một chuyên gia ngành y danh tiếng, bởi vì trên thực tế, trước những cuộc tấn công tấp tới của những thành phần đối kháng chĩa thẳng vào Ngài bằng những lời lẽ khiếm nhã, nhưng chưa từng xảy ra một lần Ngài nao núng. Điều đã làm cho các triết gia hàng đầu tại Ấn Độ thời bấy giờ phải tỏ lòng thán phục và ngưỡng mộ bởi họ chưa từng thấy Ngài dao động khi bị khiêu khích đến tận cùng. Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) ghi lại, trong các cuộc tranh luận, các đạo sư của các giáo phái khác thì thường tránh né các câu chất vấn thiếu thiện chí hoặc nổi giận, còn đối với Đức Phật thì bình thản ôn tồn và nhất là “Màu da của Sa Môn Cồ Đàm thì vẫn giữ nguyên vẻ trong sáng”.

Tâm Hỷ Xả của Đức Phật còn thể hiện rất rõ ràng trong tính cách của Đức Phật, khi Ngài thể hiện cách cư xử của mình trước vị đạo sĩ Bà La Môn tên là Bhàravàdja ở Vương Xá (Ràjagaha). Nguyên nhân vì một người trong gia tộc quy y Phật pháp, nên Bà La Môn Bhàravàdja cảm thấy mất thể diện, từ đó tỏ ra tức giận căm phẩn Đức Phật. Trong Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikàya) ghi chép lại sự kiện này như sau: - Khi gặp Đức Phật tại thành Vương Xá (Ràjagaha), Bhàravàdja đã không tiếc lời khi nguyền rủa Đức Phật là “đồ ăn trộm, đồ con lừa, đồ con lạc đà...”. Im lặng và bình thản đón nhận những lời mắng nhiếc đó xong, đột nhiên đức Phật hỏi lại vị Bà La Môn này: “Này Bhàravàdja, thỉnh thoảng ông có mời bạn bè về nhà mình dùng cơm không?”. Khi vị Bà La Môn này trả lời là “Có”. Đức Phật hỏi tiếp: “Này Bhàravàdja, ông phải làm thế nào khi khách không dùng các món ăn mà ông đã dọn lên?”. Bà La Môn Bhàravàdja liền đáp: “Các món ấy sẽ còn lại với mình”. Khi đó Đức Phật tuyên bố: “Điều đó cũng giống hệt như những lời phỉ báng kia, ta không nhận nó, vậy nó trở lại với ông”...

Còn trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) đã ghi lại lời dạy của Đức Phật với chư vị Tỳ kheo ở tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavanàràma) tại thành Xá Vệ (Sàvatthi) như sau: “Này các vị Tỳ kheo, nếu người khác mạ lỵ, phỉ báng, phiền nhiễu Như Lai, trong tâm Như Lai cũng không oán hận, phẫn nộ hay bất mãn... Và nếu người khác kính lễ, tôn trọng sùng bái Như Lai, trong tâm Như Lai cũng không hoan hỷ, thích thú hay phấn khởi”.

Qua lời dạy trên đây của Đức Phật, chúng ta thấy rằng, dù là nghịch cảnh hay thuận cảnh thì Đức Phật luôn dạy người hàng đệ tử của Ngài đều phải tu tập pháp Xả, bởi vì chỉ có chân thật Xả thì mới mang lại nguồn Hỷ Lạc chân thật cho hành giả. Đối với người học Phật thời nay, trước nghịch cảnh chúng ta cố gắng lắm mới Hỷ Xả được, còn đứng trước thuận cảnh, thuận tai, thuận mắt, thuận ý, thuận tình (như sự cúng dường, kính lễ, tôn trọng, sùng bái của tín đồ Phật tử mà đức Phật đã nêu) thì làm sao chúng ta Ly Xả được đây? Có thấu tỏ vấn đề này, chúng ta mới thấy chân giá trị của đạo Phật, đồng thời mới thấy bốn đức tính cao quý Từ Bi Hỷ Xả là bốn pháp lành an ổn mà mỗi người học Phật chúng ta cần phải huân tập, để tạo nên một nhân cách chuẩn mực của một ngưười Phật tử thuần thành chân chánh.

Như chúng ta đã biết, Từ Bi Hỷ Xả là bốn đặc điểm tính tình nổi bật của Đức Phật, cũng là bốn đặc tính cao quý trong Phật pháp mà chúng ta cần phải không ngừng học tập. Chúng ta cũng cần tìm hiểu qua về phẩm chất đạo đức cơ bản của một Phật tử (dù là xuất gia hay ở tại gia), về điều này, trong Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikàya) đã ghi chép về đạo đức của Đức Phật qua nhận xét của ngoại đạo:

“Ngài đã dứt bỏ nhục dục, đã mất hẳn cái khuynh hướng nhục dục; Ngài đã dứt bỏ sự nói dối và đã mất hẳn cái khuynh hướng sự nói dối; Ngài đã dứt bỏ sự vu khống, đã mất hẳn cái khuynh hướng vu khống ấy; Ngài đã dứt bỏ nói lời cay nghiệt và đã mất hẳn cái khuynh hướng nói lời cay nghiệt; Ngài đã dứt bỏ nói lời phù phiếm, đã mất hẳn cái khuynh hướng nói

Page 91: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

91

lời phù phiếm; Ngài không làm hại hạt giống và cây cỏ; Ngài không mang đồ trang sức bằng tràng hoa, dầu thơm, son phấn; Ngài không bao giờ quanh co, không bao giờ mua chuộc, gian lận hay lừa đảo; Ngài không bao giờ nguyền rủa, giết chóc, trói buộc, trôm cắp hay gây bạo lực...” Và “Sa Môn Cồ Đàm đã dứt bỏ hẳn việc gây hại cho đời, đã mất hẳn cái khuynh hướng gây hại đó. Ngài đã gạt bỏ gậy gộc và gươm giáo, Ngài sống một cách khiêm cung hiền hòa, tràn đầy bao dung khoan lượng bởi Từ Bi Hỷ Xả, Ngài mong muốn đem lại hạnh phúc cho tất cả chúng sanh”.

Trên đây chỉ là vài nét đại khái về phẩm chất đạo đức của Đức Phật, phẩm chất đạo đức của Ngài đã làm gương mẫu cho cả Giáo đoàn, những phẩm chất đạo đức cao quý này đã đi vào cuộc sống hằng ngày của người Tăng sĩ và qua đó làm gương cho quần chúng Phật tử học tập theo trên bước đường hướng về ngôi nhà giải thoát.

Trong đời sống thiền môn, hình ảnh những vị Tăng hiền hòa, chân thật, an ổn, thanh bần, hết lòng phụng sự đạo pháp và dân tộc, ngày nay đã trở thành quá quen thuộc đối với mọi người. Chúng ta nên biết, đó chính là kết quả của sự tu tập Giới Định Huệ, mà Bát Chánh Đạolà nền tảng căn bản của sự tu tập đó. Bởi vì tinh tấn thực hành Bát Chánh Đạo, nên Giới Định Huệ ngày càng thăng tiến, Giới Định Huệ thăng tiến nên phẩm chất đạo đức cũng nương đó mà trở nên dồi dào viên mãn. Một khi phẩm chất đạo đức tròn đầy viên mãn, thì lòng Từ, mới đem lại điều hạnh phúc tốt lành cho người khác được nhân lên; thì lòng Bi, mới đem tình yêu thương chúng sanh đang ngập chìm trong đau khổ sẽ được dàn trải trong đời sống; với tâm Hỷ, chúng ta chắc chắn sẽ cảm thấy vô cùng sung sướng khi thấy mọi người xung quanh ta có được niềm vui, hạnh phúc; với tâm Xả, khiến lòng chúng ta buông xả mọi sự ràng buộc, tâm chúng ta càng bình yên thanh thản nhiều hơn... Như vậy bốn đức tính cao quý Từ bi Hỷ Xả cũng chính là những phẩm hạnh đạo đức mà bất kỳ người con Phật nào cũng phải tu tập, trau dồi trên nền tảng căn bản của Bát Chánh Đạo thì mới xứng đáng đứng vào hàng tứ chúng trong Giáo đoàn Phật giáo dù ở bất cứ thời đại nào đi chăng nữa.

Tính đến năm 2010 này, thì đạo Phật đã tồn tại trên hành tinh này đúng 2554 năm. Như vậy, trên 2550 năm tồn tại và phát triển, dù có lúc thịnh lúc suy, có lúc thăng lúc trầm, nhưng ánh sáng giác ngộ của đức Phật vẫn không ngừng soi sáng con đường giải thoát khổ đau cho nhân loại. Thế thì tại sao nhân loại vẫn chưa hết khổ đau, đã vậy, nhiều nơi trên thế giới hận thù oán đối ngày thêm chồng chất. Vì sao vậy? Tất nhiên đó là do loài người chưa thật sự tin tưởng và nương tựa vào lương tri và tánh giác nơi chính bản thân mỗi người, nhất là chưa thật sự thừa hành triệt để theo giáo pháp và tinh thần từ bi hỷ xả của đức Phật.

Tuy nhiên, dù thế giới chúng ta đang sống vẫn còn nhiều bất an do dịch bệnh, thiên tai, khủng bố hoành hành, dù nhân loại vẫn chưa hết đau khổ ưu phiền vì nghiệp chướng chúng sanh không ngừng gieo tạo. Thế nhưng chúng tôi tin tưởng một cách sâu sắc rằng, bất cứ nơi nào ánh sáng trí tuệ và suối nguồn yêu thương từ bi vô hạn của đức Phật soi rọi đến, thì nơi đó, bóng đêm si mê ám chướng được xua tan, hận thù oán đối của chúng sanh được hóa giải, đời sống tinh thần của từng cá thể được quân bình ổn định, đời sống xã hội thêm phồn vinh hạnh phúc, đời sống nhân loại nhờ đó được hòa bình an lạc.

Đối với người đã từng theo đạo Phật, thậm chí đối với người chưa có nhân duyên sâu xa với đạo Phật, nhưng một khi đã hấp thụ, đã thấm nhuần giáo pháp cua Ngài, thì tinh thần Từ Bi Hỷ Xả và Trí Tuệ nơi mỗi người, nhân đó sẽ được phát khởi, sẽ đơm hoa kết quả và tỏa hương khoe sắc. Chắc có lẽ không ít người sẽ không khỏi thắc mắc là tinh thần Từ Bi Hỷ Xả và Trí Tuệ đó sẽ trổ ra hoa gì? Và thành tựu quả gì? Vang! Hoa đó là hoa Vô Ưu, quả đó là quả Trí Tuệ, hương đó là hương Giải Thoát, sắc đó là sắc Vị Tha, Vô Ngã… Thật ra những yếu tố quyết định sự thành tựu trong tinh thần Giác Ngộ và Giải Thoát này, đã hình thành nên nhân cách văn hóa vĩ đại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cách nay đã trên 2550 năm rồi. Nay thông qua giáo pháp của Ngài, ánh sáng trí tuệ và suối nguồn yêu thương chúng sanh vô hạn của đức Phật đã và đang dần dần truyền sang mỗi chúng ta. Khi chúng ta mở lòng, tiếp nhận nguồn tuệ giác và thọ cảm đại bi tâm từ nơi đức Phật, thì bắt đầu từ trong tiềm thức sâu xa và trong tâm hồn sâu lắng của mỗi chúng ta, dù ít hay nhiều, cũng sẽ hình thành nên một nhân cách sống đạo, để chuyen hóa nghiệp lực bản thân. Nhân cách văn hóa đặc thù tâm linh này cũng sẽ góp phần chuyển hóa đời sống còn nhiều khổ đau của nhân loại, mà chúng tôi cho rằng, nó rất cần thiết trong đời sống xã hội trong bối cảnh hiện nay. Đây cũng là nền tảng, là tiền đề để giới Tăng Ni Phật tử nói riêng và toàn xã hội nói chung, cùng nhau chung tay tích cực góp phần xây dựng nên một thế giới an lạc, hòa bình lâu dài và bền vững.

Page 92: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

92

Nhân nói đến đặc điểm tâm lý nổi bật của Đức Phật, chúng tôi cho rằng, chính đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả của Đức Phật là một trong những yếu tố quan trọng hình thành nên nhân cách văn hóa vĩ đại của Ngài. Chính vì vậy mà trước khi bàn về vấn đề này ở chương kế tiếp, thiết nghĩ cũng cần phân tích tính đặc thù cũng như ích lợi thiết thực của bốn đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả, bởi điều này sẽ góp phần làm sáng tỏ và sẽ thay cho những lý luận không cần thiết khi nói về nhân cách văn hóa của Đức Phật.

Như chúng ta đã biết, trong tâm mỗi con người luôn chứa đựng một kho tàng đức hạnh và bên cạnh đó là vô số tật đố xấu xa tội lỗi. Với người biết vun bồi đức hạnh đó là một phước lành cho bản thân và cho cả nhân loại. Còn với người bị tật xấu chi phối thì đó là một đại họa cho bản thân, bản thân đã là đại họa thì nói gì đến lợi ích cho ai. Do vậy đối với những người có chí hướng trở thành thiện hữu tri thức, nêu cao tấm gương sáng trong đời sống và muốn tận dụng cơ hội quý báu đang được làm người, thì phải cố gắng gọt rửa những tật xấu đang tồn tại và nỗ lực phát triển những đức hạnh cao quý đang ẩn tàng trong tâm mỗi người. Điều này cũng giống như khai thác hầm mỏ là một điều khó; để tìm một mỏ vàng, một mỏ dầu hay mỏ kim cương, con người phải hao tốn rất nhiều thời gian công sức. Thế nhưng để khai thác kho tàng đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả, thì chúng ta chỉ cần kiên trì và nhẫn nại tu tập. Mỗi người trong chúng ta đều có thể thực hiện được việc này.

Trước hết chúng ta nên biết, sân hận là một tật xấu có sức tàn phá vô cùng khốc liệt. Hóa giải tâm sân, đó là tâm Từ. Tâm Từ là một đức độ thông qua trạng thái nhẹ nhàng êm dịu làm cho con người trở nên hiền hòa cao thượng. Hung bạo là một tật xấu, rất dễ gây nên trọng tội và những điều tàn ác trên thế gian. Hóa giải tâm hung bạo, đó là tâm Bi. Bi tâm là liều thuốc có thể tiêu trừ bệnh hung bạo. Ganh tị, cố chấp là động lực thúc đẩy con người lao vào những cuộc tranh chấp hiểm nguy. Phương thuốc nhiệm mầu và công hiệu nhất để trị bệnh ganh tị, cố chấp chính là tâm Hỷ và Xả.

Như vậy, đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả luôn giúp con người trở nên hoàn thiện và có được cách sống của bậc Thánh ngay trong hiện kiếp. Tứ vô lượng tâm Từ Bi Hỷ Xả còn có năng lực giúp cho con người từ địa vị phàm phu bước lên hàng Thánh. Nếu nhân loại, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, giai cấp... đều cố gắng trau dồi đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả, thì thế giới này sẽ trở thành một thiên đàng mà tất cả chúng sanh đều được sống an vui trong tình huynh đệ và tất cả chúng ta đều trở nên những công dân lý tưởng trong một thế giới hòa bình an lạc bền vững.

Bốn đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả được gọi là tứ vô lượng tâm, vì nó rộng lớn bao la không ngằn mé, không hạn lượng. Dù nhân loại có bất đồng tôn giáo, dị biệt về nền văn hóa, thì tất cả đều vẫn có thể trau dồi bốn đức hạnh cao thượng đó để hình thành nhân cách cao thượng và sống có ích trên thế gian này.

Đức hạnh cao thượng đầu tiên là Từ tâm. Từ tâm là lòng ước mong cho tất cả mọi người được sống an lành vui vẻ. Người có tâm Từ thì không phân biệt người thân kẻ sơ. Tâm Từ không chỉ giới hạn trong tình huynh đệ, hay giữa người với người, mà nó bao trùm tất cả chúng sanh, không loại trừ một sanh linh bé nhỏ nào, bởi loài cầm thú cũng cần nhiều đến sự giúp đỡ và lòng thương của chúng ta. Tâm Từ càng không phải tình thương giữa những người cùng chung một tôn giáo. Trên thế giới ngày nay, con người không thể coi nhau như anh em trong một đại gia đình, thù hận nhau, chém giết nhau, nếu nguyên do chỉ vì không đồng tín ngưỡng tôn giáo, thì đó quả là sự hẹp hòi ích kỷ và nhận thức sai lệch đáng lên án. Cũng chính sự hẹp hòi ích kỷ và nhận thức sai lệch như vậy mà đã có hàng triệu người bị sát hại vì những cuộc Thánh chiến hết sức thảm thương vô lý. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến điều này là do chưa khơi dậy bốn đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả trong đời sống con người. Trong khi đó, đạo Phật trên thế giới chưa từng xảy ra cuộc chiến nào cả, mặc dù vào thế kỷ 11 sau công nguyên, đạo Phật từng có giai đoạn bị những người đạo Hồi tiêu diệt. Đạo Phật có được nếp sống an hòa này là do không ngừng trau dồi và phát triển đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả.

Trên thế giới này có một con người bằng xương bằng thịt, nhưng lại tròn đầy bốn đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả và chưa từng có một người thứ hai viên mãn bốn đức hạnh Từ Bi Hỷ Xảnày như Ngài, và người đó chính là Đức Phật. Quả thật là như vậy, suốt một đời, Ngài đã tận tâm tạo sự an lành, hạnh phúc cho tất cả mọi người, trong đó có người yêu kính Ngài và cả những người ganh tỵ oán ghét thù hận Ngài. Điều này đã được minh chứng qua việc Từ tâm của Đức Phật đối với La Hầu La hoàn toàn không có chút gì khác biệt đối với Đề Bà Đạt Đa, người đã coi Ngài như thù địch. Như vậy người tròn đầy tâm Từ đến mức cùng tột thì sẽ hòa đồng với tất cả, khi đó không còn sự khác biệt giữa mình và người.

Page 93: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

93

Phản nghĩa với Từ, đó là tâm sân hận, ác ý, thù oán. Tâm Từ và tâm sân hận không thể phát sanh cùng một lúc. Đức Phật dạy rằng: “Không thể lấy thù oán để diệt sân hận, chỉ có tâm Từ mới dập tắt được lòng sân”. Tâm Từ không những dập tắt được lòng sân, mà còn diệt trừ các mầm tư tưởng bất thiện đối với một người khác. Người có tâm Từ không bao giờ nghĩ đến sự làm hại, làm giảm giá trị hoặc bài xích người khác, người có tâm Từ thì không bao giờ sợ ai, và cũng không bao giờ làm ai sợ. Đây là những yếu tố cần thiết tạo nên nhân cách cao thượng của một con người. Chính vì vậy mà tâm Từ đem lại nhiều quả phúc: 1- Người có Từ tâm, trong giấc ngủ được an vui, ngủ với tâm trạng thơ thới, không lo sợ, giấc ngủ đến rất dễ dàng. 2- Khi ngủ với tâm lành, thì khi thức dậy cũng với tâm lành. 3- Người có tâm Từ không chiêm bao mộng mị những điều xấu xa ghê sợ. 4- Người có tâm Từ sẽ được mọi người dành nhiều cảm tình. 5- Người có tâm Từ chắc chắn là người bạn thân thiện của muôn loài. Bởi loài cầm thú cũng rất vui mừng khi được sống gần các bậc hiền nhân. Ngày xưa các vị Tỳ kheo sống một mình ở chốn rừng sâu, giữa đám hổ, báo... tuy nhiên chỉ với tâm Từ họ có thể sống an ổn mà không lo sợ hay đối phó. Đức Phật đãtừng dạy: “Như Lai sống trên một ngọn núi, giữa đám sư tử, cọp, beo, voi, đủ thứ thú dữ, giữa rừng rậm cỏ hoang, không một con vật nào sợ Như Lai và Như Lai cũng không sợ một con vật nào. Đó chính nhờ oai lực của tâm Từ nâng đỡ bảo vệ Như Lai an ổn”. 6- Khi thực hành đúng mức, tâm Từ có năng lực hoán đổi dữ thành lành. Thuốc độc không hại được người có tâm Từ, ngoại trừ người đó phải trả ác nghiệp đã gây ra trong quá khứ. Tâm Từ giúp con người tăng cường sức khỏe, ngăn ngừa những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài. Tư tưởng độc ác thì tự mình đầu độc mình. Tư tưởng trong sạch sẽ giúp cơ thể trở nên lành mạnh. Trong Kinh tạng Pali có ghi chép rằng: “Khi Đức Phật trở về quê nhà lần đầu tiên, con Ngài là La Hầu La lúc ấy vừa lên 7 tuổi, đến gần Ngài và bạch rằng: “Bạch Đức Sa môn, chỉ cái bóng của Ngài cũng đủ làm cho lòng con mát mẻ”. Tâm Từ của Đức Phật bao trùm cậu bé La Hầu La và tạo nên từ lực mạnh mẽ khiến cho cậu bé La Hầu La vô cùng cảm kích. 7- Người có Tâm Từ luôn luôn được chư thiên hộ trì. 8- Người giàu Từ tâm thì không bị những tư tưởng trái ngược khuấy động, nên dễ dàng an trụ. Người có tâm Từ có một gương mặt tươi sáng, vì gương mặt là phản ánh của nội tâm, bởi theo y học thì lúc giận dữ, máu trong cơ thể sẽ chạy nhanh gấp ba lần lúc bình thường, điều này khiến cho người nổi nóng sân hận bị đỏ mặt tía tai trông rất khó coi. 9- Tâm Từ luôn luôn mang lại một đời sống tinh thần vui vẻ, còn thân thể luôn có cảm giác an lành, vì máu được trong sạch và gương mặt hiền từ dễ mến. Trong kinh tạng Pali ghi chép rằng: “Sau khi Đức Phật đắc đạo, trong lúc Ngài tham thiền, tâm Ngài hoàn toàn an trụ và máu trong cơ thể Ngài hết sức trong sạch. Lúc ấy từ trong chiếu ra những ánh hào quang ngũ sắc bao phủ lấy thân Ngài”. 10- Người có Tâm Từ đến lúc chết cũng được an vui vì trong lòng không chấp chứa tư tưởng sân hận. Sau khi tắt thở, gương mặt tươi tỉnh, ấy là biểu hiện của sự ra đi an lành. 11- Khi chết an vui, người có tâm Từ sẽ tái sanh vào cảnh giới lành.

Đức hạnh cao thượng thứ hai tâm Bi. Đặc tính của tâm Bi là luôn mong muốn cứu giúp chúng sanh thoát khỏi cảnh khổ đau trong đời sống. Người có Bi tâm thì không hề ngần ngại gian khổ thậm chí hy sinh cả thân mạng bản thân để làm êm dịu nỗi khổ đau của kẻ khác. Trong kinh Hiền Ngu có kể một câu chuyện về sự hy sinh của một vị Bồ Tát đã tự hiến thân cho cọp mẹ và bầy con đói. Chính từ nơi Bi tâm dạt dào mà con người có thể hoàn toàn vị tha quên mình trong khi hành xử. Với Bi tâm lân mẫn, Đức Phật đã không ngừng công việc độ thoát chúng sanh từ khi mới thành đạo cho đến tận giây phút nhập Niết Bàn.

Đối với người gặp hoàn cảnh khó khăn nghèo khổ, ốm đau bệnh hoạn, neo đơn, cô độc hay người lâm nạn bất ngờ, thì người có Bi tâm luôn sẵn lòng ra tay cứu giúp, sẻ chia. Trong đời sống ngắn ngũi này, đối với những người gây ra nhiều tội lỗi, thì họ là những con người tội nghiệp đáng xót thương. Là người con Phật có tâm Bi, chúng ta không nên khinh rẻ, xa lánh hay bài xích hạng người lầm đường lạc lối ấy, mà nên thương xót và dắt dìu họ trở lại con đường chân chánh. Trong một gia đình, bậc làm cha làm mẹ, hầu như đều thương yêu con cái một cách đồng đều, tuy nhiên đối với những đứa con kém sút hoặc ốm yếu, thường thì cha mẹ dành cho nó sự chăm sóc đặc biệt hơn. Điều này cũng giống như đối với những hạng người bệnh hoạn tinh thần, sút kém đạo đức, thì người có tâm Bi đem lòng thương xót đặc biệt và tận tâm cứu giúp. Như Đức Phật ngày xưa, Ngài đã tận tâm cứu độ nàng Liên Hoa Sắc, một phụ nữ bất hạnh từng lăn lộn trong chốn giang hồ, cũng như Ngài đã hết lòng giáo hóa tế độ chàng thanh niên Vô Não toan giết hại Ngài, được người đương thời xem là một tên sát nhân hung bạo. Sau khi được đức Phật giáo hóa, về sau cả hai đều theo qui y Tam Bảo, họ không chỉ

Page 94: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

94

hoàn lương mà còn là những người tròn đầy đức hạnh của một bậc thượng nhân giác ngộ. Thật ra hàm tàng nơi mỗi con người, dù đương thời họ là những người xấu ác, thì vẫn luôn ngầm chảy bên trong những đức tính thiện lành. Và chỉ cần gặp được người vẹn toàn đức hạnh Từ Bi, đôi khi chỉ cần nghe một lời nói phải, hợp duyên, đúng lúc, cũng có thể giúp họ hoán chuyển số phận cuộc đời, giúp họ từ người bất thiện hung dữ, mọi người xa lánh, trở thành người thiện lành hữu ích. Như vua A Dục (Asoka) vốn là một bạo chúa hung ác, đã giết hại hàng vô số sinh linh, thế mà khi được nghe lời nói chí lý của Tỳ kheo Ni Câu Luật (Nigrodha) mà nhà vua đã phát tâm quy y Tam Bảo, về sau trở thành một vị vua hiền đức, hết lòng hột trì Phật pháp.

Đức tính cao thượng thứ ba trong Tứ Vô Lượng Tâm là Hỷ. Hỷ ở đây không phải là trạng thái thỏa mãn vui thích của bản thân, mà là tâm hoan hỷ trước sự an vui, hạnh phúc, thành công của mọi người. Nếu tâm đố kỵ có sức tàn phá duyên lành và sự an ổn của tâm hồn rất lớn, thì tâm Hỷ là trạng thái hoan hỷ một cách thành thật thoải mái chớ không phải làm ra vẻ hân hoan ngoài mặt mà bên trong chất chứa sự đố kỵ. Nhờ trau dồi tâm Hỷ mà chúng ta loại trừ hẳn cái tâm ganh ghét đố kỵ trước sự thành công của kẻ khác.

Trong cuộc sống có nhiều người lấy làm bực tức khó chịu khi thấy hoặc nghe nói người khác thành tựu cũng như không thể chịu đựng trước sự thành công vinh quang của người khác, trái lại khi thấy người mình ghét gặp nạn hay thất bại thì lộ vẻ vui mừng thỏa thích. Những người như vậy chúng ta có thể nói đời sống của họ không có nền tảng đạo đức.

Người có tâm Hỷ đương nhiên là không chấp chứa tâm ganh tỵ. Trên phương diện đạo đức, người có tâm Hỷ sẽ không bao giờ làm trở ngại sự thăng tiến của người. Ngược lại luôn mong muốn mọi người xung quanh đạt được nhiều thành tựu và hạnh phúc.

Đức hạnh cao thượng thứ tư trong Tứ Vô Lượng Tâm đó chính là tâm Xả. Xả không có nghĩa lãnh đạm, thờ ơ không màng đến thế sự; cũng không phải là trạng thái vô ký, không vui buồn thương ghét. Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) đã ghi lại lời dạy của Đức Phật với chư vị Tỳ kheo tại tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavanàràma) về tâm Xả như sau: “Này các vị Tỳ kheo, nếu người khác mạ lỵ, phỉ báng, phiền nhiễu Như Lai, trong tâm Như Lai cũng không oán hận, phẫn nộ hay bất mãn... Và nếu người khác kính lễ, tôn trọng sùng bái Như Lai, trong tâm Như Lai cũng không hoan hỷ, thích thú hay phấn khởi”. Và Ngài còn dạy:“Người trí luôn thản nhiên, hành tâm Xả, vững chắc như tảng đá to sừng sững giữa trời”. Trong đời sống thế gian, thường thì khi được ngợi ca thì vui thích, còn khi bị khiển trách vì buồn rầu. Thế nhưng giữa cuộc thăng trầm thị phi của thế sự mà tâm Đức Phật lúc nào cũng bình thản và an ổn thì quả là điều rất đáng để chúng ta học tập.

Đời sống của Đức Phật là một gương sáng về tâm Xả cho những ai còn luân chuyển trong vòng Tam Giới. Trên thế gian này chưa từng có vị giáo chủ nào hoặc một nhân vật lịch sử nào mà bị chỉ trích, đả kích, sỉ nhục hoặc bị lăng mạ nhiều như Đức Phật. Đồng thời Đức Phật cũng lại là người nhận được sự tán dương, sùng bái và tôn kính nhất trong lịch sử đời sống nhân loại. Tuy nhiên những điều này hầu như không làm cho Ngài bận tâm, điều mà đức Phật lưu tâm đến nhất là làm sao giáo hóa được thật nhiều chúng sanh, cứu vớt thật nhiều chúng sanh ra khỏi bể khổ luân hồi sanh tử. Đây mới thật là nhân cách văn hóa vĩ đại nhất trong thế giới loài người.

Từ bốn đức tính Từ Bi Hỷ Xả mà chúng ta đã đề cập trên đây, nếu liên hệ trong đời sống thực tế, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra những giá trị thiết thực mà nó đã mang lại cho đời sống. Ví như trong đời sống gia đình, nếu chúng ta có một bà mẹ hay một người cha giàu lòng Từ Bi Hỷ Xả, thì mái ấm của chúng ta sẽ vô cùng an ổn, hạnh phúc, nếp sống trong gia đình của chúng ta chắc chắn sẽ khác hơn rất nhiều so với những gia đình có bậc song thân cố chấp, hẹp hòi, ích kỷ; con cái trong gia đình sẽ có một đời sống đạo đức rất tự nhiên nhờ sự huân tập bốn đức tính Từ Bi Hỷ Xả nơi cha mẹ. Nếu trong thôn xóm chúng ta cư ngụ có nhiều người có đức tính Từ Bi Hỷ Xả thì chắc chắn rằng, thôn xóm nơi chúng ta ở rất là bình yên, tràn đầy sự yêu thương chia sẻ lẫn nhau... Điều này có nghĩa, chính bốn đức tính cao thượng Từ Bi Hỷ Xả đã nâng cao đời sống đạo đức cho con người và luôn mang lại hạnh phúc cho thế gian này. Thật ra, trên đời sống này, nếu bản thân mỗi chúng ta chỉ cần có được một hay hai đức tính cao quý này, thì nhân cách của chúng ta đã vượt trội trong đời sống cộng đồng rồi, còn nếu như ai đó trong số chúng ta hội đủ bốn đức tính cao quý này thì đó là một bậc đại trượng phu rất đáng để chúng ta gần gũi học tập, bởi đây là một nhân cách lớn, một giá trị đạo đức chân thực trong đời sống vốn huyễn mộng với nhiều hư dối thị phi.

Page 95: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

95

Sở dĩ trong chương này chúng tôi đề cập nhiều đến bốn đức tính Từ Bi Hỷ Xả vô cùng cao thượng mà Đức Phật thường xuyên khuyên dạy hàng Phật tử chúng ta không ngừng trau dồi huân tập, bởi đây là nhân tố quan trọng hình thành nên nhân cách văn hóa nơi mỗi con người. Riêng đối với Đức Phật, Ngài là một con người viên mãn về Trí Tuệ và tròn đầy bốn đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả, cùng với vô số đức hạnh cao quý khác như Trung thực, Ngay thẳng, Tinh tấn, Dũng cảm... và tất cả những yếu tố cao thượng này đã tạo nên một nhân cách văn hóa vĩ đại nhất trong lịch sử loài người.

CHƯƠNG HAI

NHÂN CÁCH VĂN HÓACỦA ĐỨC PHẬT

Khi nói đến nhân cách của một con người, tức là chúng ta nói đến phẩm chất giá trị đạo đức của con người đó. Bởi nhân cách vĩ đại hay tầm thường của con người nó tùy thuộc vào giá trị đạo đức và sự giới hạn đạo đức nơi mỗi con người.

Trong chương này chúng ta cùng đề cập đến nhân cách văn hóa của Đức Phật, khi đọc tiêu đề của chương này, có lẽ nhiều người cho rằng, đã là Đức Phật – đã là đấng thoát ly Tam Giới, thì Ngài đâu còn là một con người trên thế gian này nữa mà nói đến nhân cách hay nhân cách văn hóa.

Tuy nhiên một điều mà không một ai có thể phủ nhận được, đó là cách đây trên 2550 năm, thì Đức Phật vẫn là một con người, một nhân vật lịch sử đàng hoàn hẳn hoi, chứ Ngài không phải là một nhân vật trong thần thoại được thêu dệt bởi những tình tiết mơ hồ huyền bí.

Thật vậy, trước sau gì thì Đức Phật vẫn là một con người, nhưng lại là một con người vô cùng đặc biệt. Sở dĩ chúng tôi nói Ngài là một con người đặc biệt, bởi Ngài là một con người viên mãn về đạo đức và trí tuệ, Ngài là người đầu tiên trên thế gian này nhận ra chân tướng của nhân sinh vũ trụ và nơi chân tâm Ngài tròn đầy đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả.

Nhân đây chúng ta cũng cần tìm hiểu thêm như thế nào là nhân cách văn hóa của một con người? Một khi nói đến nhân cách văn hóa, chúng ta nên hiểu là chúng ta đang nói đến nguồn tư tưởng ưu việt, phẩm chất đạo đức và những ảnh hưởng tích cực của một cá nhân nào đó trong đời sống nhân loại. Từ nhận định khái quát này và theo thiển ý của chúng tôi, khi nguồn tư tưởng và phẩm chất đạo đức nơi một cá nhân, mang lại những điều tốt đẹp, ích lợi cho cuộc sống cộng đồng, cũng như nâng cao giá trị đạo đức và tư tưởng thăng hoa cho đời sống nhân loại, thì chúng ta có thể gọi đó chính là nhân cách văn hóa của cá nhân đó.

Trước khi bàn đến nhân cách văn hóa của đức Phật, điều tôi muốn thổ lộ suy nghĩ của bản thân cùng quý Phật tử là đức Phật ở trong tôi cũng là một con người bằng xương bằng thịt, trong lòng cũng tràn đầy cảm xúc, Ngài cũng sinh ra và rồi cũng giã từ cõi đời này cũng như bao con người khác trên thế gian, chứ không phải là một siêu nhân hay một đấng thần linh được tô vẽ đươm nhiều màu sắc tín ngưỡng hoang đường và bí ẩn. Nếu có khác chúng ta chăng, thì Ngài là một con người viên mãn về đạo đức vì Ngài đã đầy đủ đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả; Ngài là một con người trí tuệ vì Ngài đã giác ngộ lý vô thường từ khi còn là Thái tử. Ngài là bậc trượng phu có ý chí, vì Ngài đã đoạn tuyệt ngũ dục ngay trong chốn hoàng cung, đã vứt bỏ tất cả uy quyền, danh vọng như chúng ta từ bỏ đôi dép rách. Ngài là người có tâm hồn cao thượng và tầm nhìn xa rộng, vì Ngài đã lập chí tu hành tìm cầu đạo giải thoát. Ngài là bậc đại tinh tấn vì đã chiến thắng ma quân, dấn thân vào chốn rừng thiêng nước độc, vượt qua muôn vàn khó khăn, thiếu thốn để hoàn thành chí nguyện. Ngài là một con người thông minh siêu

Page 96: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

96

việt vì đã nhận ra nguyên lý tu hành là không nên sống buông thả theo cám dỗ dục vọng và cũng không nên quá ép xác, vì như vậy sẽ khó có cơ hội để tìm ra chân lý giác ngộ bản tâm. Ngài là một bậc đại giác ngộ vì đã chứng được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. Đạo quả mà Ngài chứng được cùng với đạo hạnh và lòng từ bi yêu thương chúng sanh như con một, tất cả đã hình thành nên nhân cách văn hóa tuyệt vời nhất của đức Phật, và những điều này đã khiến nhân cách văn hóa của Ngài trở nên lung linh siêu việt và bất tử trong lịch sử nhân loại.

Nói một cách gần gũi hơn, đức Phật là một con người đã giác ngộ, với lòng từ bi vô hạn, Ngài đã đem sự giác ngộ của bản thân để hóa độ chúng ta và chúng ta là những người chưa giác ngộ như đức Phật, điều này có nghĩa, chúng ta sẽ theo học giáo pháp của đức Phật, hành trì theo lời dạy của Ngài để được giác ngộ như Ngài. Chính những suy nghĩ như vậy, cho nên đối với tôi, nhân cách của đức Phật là biểu hiện về một nhân cách sống có ý nghĩa tuyệt vời nhất trong thế giới loài người, nó hiện hữu nơi một con người bằng xương bằng thịt trên thế gian này cách đây trên 2.550 năm.

Như chúng ta đã biết, mục đích mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện trên thế gian này là để khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật Tri Kiến của chính mình, như tinh thần kinh Pháp Hoa đã đề cập. Nói một cách khác, sự ra đời của đức Phật là để chỉ ra cái bản tâm thanh tịnh sáng suốt chưa từng bị ô nhiễm của mỗi chúng ta. Bản tâm thanh tịnh đó, trong thuật ngữ nhà Phật gọi là Chân Tâm hay còn gọi là Phật Tánh, nó hiện hữu sống động, thể hiện nơi sự sáng suốt của tánh giác và lương tri đạo đức luôn thường hằng trong đời sống tâm linh của tất cả chúng ta, dù cho chúng ta đang sống lăn lộn trong cõi phàm trần vốn nhiều vọng động, dù chúng ta có bị ngũ dục cám dỗ và phiền não chi phối.

Nói một cách khác, mục đích sâu xa và ý nghĩa thiêng liêng về sự ra đời của đức Phật chính là nhằm khai hóa ánh sáng trí tuệ và khơi nguồn yêu thương trong đời sống nhân loại một cách toàn diện và triệt để. Về điều này, chúng tôi cho rằng, chỉ có cách phát triển trí tuệ và tâm từ bi một cách triệt để trong đời sống mỗi con người, đánh động lương tri và phát triển tình yêu thương một cách toàn diện trong đời sống cộng đồng, thì chúng ta mới có thể mang lại an lạc thật sự cho nhân loại, mang lại hòa bình lâu dài bền vững cho thế giới.

Nay thông qua giáo pháp của Ngài, ánh sáng trí tuệ và suối nguồn yêu thương chúng sanh vô hạn của đức Phật đã và đang dần dần truyền sang mỗi chúng ta. Khi chúng ta mở lòng, tiếp nhận nguồn tuệ giác và thọ cảm đại bi tâm từ nơi đức Phật, thì bắt đầu từ trong tiềm thức sâu xa và trong tâm hồn sâu lắng của mỗi chúng ta, dù ít hay nhiều, cũng sẽ hình thành nên một nhân cách sống đạo để chuyen hóa nghiệp lực bản thân. Nhân cách văn hóa đặc thù tâm linh này cũng sẽ góp phần chuyển hóa đời sống còn nhiều khổ đau của nhân loại, mà chúng tôi cho rằng, nó rất cần thiết trong đời sống xã hội trong bối cảnh hiện nay. Đây cũng là nền tảng, là tiền đề để giới Tăng Ni Phật tử nói riêng và toàn xã hội nói chung, cùng nhau chung tay tích cực góp phần xây dựng nên một thế giới an lạc, hòa bình lâu dài và bền vững.

Nhìn lại lịch sử hoằng hóa độ sanh của đức Bổn Sư, chúng ta vô cùng cảm kích trước công đức trí tuệ và lòng từ bi yêu thương chúng sanh hơn con một của ngài. Từ lúc hành đạo cho đến thời khắc nhập niết bàn, đức Phật đã tùy căn cơ mà hóa độ chúng sanh không hề ngưng nghỉ. Có thể nói rằng, hết thảy dòng tư tưởng và nguồn minh triết trên thế gian này thảy đều trở nên bại hoại và hư huyễn một khi đối mặt trước trí tuệ siêu phàm và giáo pháp thâm sâu diệu vợi của đức Phật.

Điểm nổi bật tràn đầy cảm xúc nơi giáo pháp của Ngài, đó là sự thương tưởng đến chúng sanh, cụ thể là luôn hướng đến nỗi đau bất hạnh của nhân loại, tùy căn cơ trình độ mỗi người, Ngài đã đưa ra những phương pháp giúp họ vượt thoát khổ đau luân hồi sanh tử, như Ngài đã từng dạy: “Nước trong bốn bể chỉ có một vị, đó là vị mặn. Giáo pháp mênh mông của Như Lai cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát”. Mà thật vậy, đối với hàng vua chúa, đức Phật đã dạy họ hãy làm phước thiện, bố thí cúng dường, cách ứng xử đạo nghĩa trong gia đình cũng như quan hệ ngoài xã hội; đối với Phật tử tại gia, ngài trao truyền Tam quy, Ngũ giới, dạy hành Thập Thiện, tu Bát Chánh Đạo; đối với người xuất gia, Ngài giảng về pháp môn Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên; đối với hàng thượng căn thượng trí, Ngài tuyên bày Bát Nhã, trực chỉ Tánh Không. Ngài đã phương tiện từ thấp đến cao, tự cạn đến sâu, tùy căn cơ, tùy nghiệp lực… Ngài đều ban rải từ tâm, giáo hóa tận hơi thở cuối cùng, khiến hằng hà vô lượng chúng sanh được giác ngộ giải thoát.

Để khai thị vấn đề vô cùng hệ trọng này, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dùng đến tám muôn bốn ngàn phương tiện. Thông qua mỗi phương tiện, đức Phật đã định hướng rất cụ thể

Page 97: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

97

trong cách ăn, cách nói, cách suy nghĩ, cách giao tiếp, cách hành động… nói chung đó là cách sống đạo, tức là nếp sống lấy đạo đức và tình thương (Từ Bi) làm nền tảng, lấy Trí Tuệ lèo lái cuộc sống đi theo con đường Chân Thiện Mỹ, nói chung đó là một phương cách sống để chuyển hoá ba nghiệp Thân – Khẩu – Ý từ vọng động, bất tịnh, trở nên sáng suốt, thanh tịnh. Cụ thể hơn, Ngài đã giúp cho đời sống chúng ta từng bước xa rời Tham Sân Si, để từ đó, trong mỗi lời nói, mỗi suy nghĩ, mỗi việc làm, đều nhịp nhàng vận hành trong quỹ đạo Giới - Định –Huệ, nhịp nhàng trong quỹ đạo Chân – Thiện – Mỹ, để tiến đến thể nhập Chân Tâm, chứng ngộ Phật Tánh.

Chúng ta nói đến đạo Phật, tức là chúng ta nói đến Từ Bi và Trí Tuệ, Tự Giác và Giác Tha. Bởi đó la hai hoạt tính quyết định tinh thần Giác Ngộ và Giải Thoát của đạo Phật. Quả thật là như vậy, vì người tu hành theo đạo Phật mà không có Trí Tuệ và Từ Tâm thì chẳng thể nào Giác Ngộ và Giải Thoát được. Cũng chính tầm quan trọng này, mà tinh thần Từ Bi và Trí Tuệ luôn được hiển bày, dàn trải trong suốt quảng đời của đức Phật, từ khi Đản Sanh cho đến thời khắc Ngài nhập Niết Bàn.

Sau khi dạo quanh bốn cửa thành, in sâu vào tâm trí của Thái Tử Tất Đạt Đa lúc bấy giờ tất cả đều không ngoài nỗi ám ảnh bởi sự chi phối và hủy diệt từng giây từng phút của vô thường. Đó là hiện tượng sanh già bệnh chết luôn đeo bám đời sống con người như hình với bóng… Có thể nói đây là bài học rất sâu sắc về lý vô thường mà Thái tử đã nhắc nhỡ chúng ta rằng “Đời sống vốn vô thường, mạng sống con người vốn mong manh, không chắc thật”.

Theo sự tích đức Phật Đản Sanh thì khi vừa mới chào đời, đức Phật của chúng ta đã bước bảy bước trên bảy đóa sen hồng, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất và thốt lên: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Qua sự tích này, phải chăng đây là câu chuyện mang đầy tính huyền sử của một tôn giao; mầu nhiệm và bí ẩn về một nhân vật siêu phàm? Hay đây là biểu hiện thiêng liêng siêu việt của một thánh nhân xuất thế? Ở đây chúng tôi sẽ không đưa ra nhận định, mà chỉ xét về yếu tố lịch sử truyền thống của Phật giáo đã được lưu truyền trên 2550 nay, thì hình ảnh Phật Đản Sanh, đi bảy bước trên bảy đoa sen, với câu nói bất hủ: “Trên trời dưới trời duy chỉ có ta”. Có thể nói, đây là thông điệp đầu tiên mà đức Phật tự tin truyền đến toàn nhân loại, khẳng định sự ra đời của Ngài là đem lại sự Giác Ngộ và Giải Thoát cho chúng sanh bằng Trí Tuệ siêu việt và lòng Từ Bi vô hạn của Ngài. Về điều này tôi chủ quan và cũng tự tin nhận định rằng, duy nhất chỉ có đức Phật mới có thể khẳng định như vậy mà thôi. Bởi đây là con người giác ngộ, Ngài đã thấy rõ cái “ Ngã” và cũng từ cái ngã này mà con người tu tập để đi đến giác ngộ giải thoát, cũng chính cái ngã này mà con người trầm luân đau khổ. Và phải chăng đây là biểu hiện khởi đầu về một nhân cách văn hóa vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới loài người.

Đạo Phật là đạo Giác Ngộ, được thể hiện trọn vẹn bởi tinh thần “Tự Giác” và “Giác Tha”. Đối với chúng ta, muốn được Giác Ngộ và Giải Thoát, thì chúng ta cần phải có Trí Tuệ và Từ Bi. Thế nhưng đối với đức Phật, thì Ngài xuất hiện nơi đời sống thế gian là để giáo hóa chúng sanh, giúp cho chúng sanh Giác Ngộ và Giải Thoát bằng Trí Tuệ và lòng Từ Bi của Ngài.

Sự thị hiện lòng từ bi giáo hóa chúng sanh của đức Phật rất gần gũi, rất thực tế, rất tự nhiên và giàu cảm xúc, điều này đã tác động sâu xa vào tâm thức con người. Sự thị hiện đó, dù đã xảy ra cách nay đã trên 2550 rồi, nhưng đến nay chúng ta vẫn thấy giáo pháp của Ngài là rất khoa học và không hề bị lỗi thời.

Như chúng ta đã biết, đức Phật thị hiện trên cõi đời này dưới hình thức một con người, Ngài muốn chứng minh rằng con người có một địa vị tối tôn tối thắng trong thế giới muôn loài và trung tâm của vũ trụ. Tuy nhiên Ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy rằng, dù con người có khôn ngoan bao nhiêu đi chăng nữa, dù nhân loại có đạt đến đỉnh cao của nền văn minh như thế nào đi chăng nữa, mà tâm hồn vẫn còn chứa đầy tham, sân, si, ái, ố , hỹ, nộ, vẫn còn nhân, ngã, bỉ, thử. … thì nhân loại trên thế giới này vẫn còn hận thù, vẫn còn bất an đau khổ. Đồng thời đức Phật cũng đã chỉ cho chúng ta biết rằng, con người không những chỉ thông minh uyên bác mà còn có thể đạt đến “Tuệ Giác” do quá trình tu tập giác ngộ, chứ không phải nhờ vào sự thông minh học hỏi. Trí tuệ từ sở học càng đạt đến đỉnh cao thì cố chấp càng lớn, ngã mạn càng tăng, ngược lại, nhờ Tuệ Giác mà chúng ta có thể loại bỏ thói hư tật xấu, chuyển hóa vô minh, phá trừ ngã chấp… Nhờ có Tuệ giác mà chúng ta mới thấy được tự tánh của các pháp là vô thường, vô ngã… Chính nhờ Tuệ giác mà chúng ta thấy rằng, giữa chúng ta và muôn loài luôn có sự liên hệ mật thiết với nhau như ruột thịt, do vậy chúng ta mới biết thương yêu nhau, bảo vệ cho nhau,

Page 98: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

98

chung sống với nhau trong ngôi nhà hòa bình trên thế giới. Còn ngược lại thì thế giới mãi là bãi chiến trường đầy dãy đua tranh, hận thù, bất an, đau khổ…

Để trình bày rõ thêm về nhân cách văn hóa của đức Phật, chúng tôi thiết nghĩ, cần phải phân biệt rạch ròi hai giai đoạn sinh hoạt quan trọng trong đời sống của Đức Phật: Trước và Sau khi thành đạo. Đồng thời chúng ta cũng cần nên nhận thức rõ ràng, dù chúng ta đang nói về một Đức Phật lịch sử, một nhân cách văn hóa vĩ đại trong lịch sử, nhưng chúng ta đừng nên quên rằng, trong sự thị hiện trên cõi đời này dưới hình thức là một con người bằng xương bằng thịt, thì Ngài vẫn là một bậc Đại Giác, Ngài là một vị Phật.

Nếu quý Phật tử có thời gian đọc kỹ qua chương “Những đặc điểm tâm lý của Đức Phật” trên đây, cùng với nội dung mà chúng tôi đã trình bày trong chương này, thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng, những điều kiện và hoàn cảnh sống trong bối cảnh văn hóa chính trị xã hội Ấn Độ vào những thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, hoàn toàn không dính dáng gì đến nguyên nhân tạo nên nhân cách của Đức Phật, điều mà hầu hết các tác giả đều đã nêu ra trong một số cuốn sách mới xuất bản gần đây. Bởi nhân cách của Đức Phật hình thành từ nguồn tư tưởng giải thoát ưu việt, đời sống đạo đức cao thượng cùng với bốn đặc điểm tính tình Từ Bi Hỷ Xả nổi bật vốn sẵn có nơi bản tâm Đức Phật. Còn tất cả hoàn cảnh và điều kiện sống xã hội thời bấy giờ chẳng qua chỉ là chất xúc tác thứ yếu dẫn đến việc Thái tử Tất Đạt Đa thực hiện đời sống thoát tục theo bổn nguyện cao cả của mình.

Thật ra, bối cảnh văn hóa chính trị xã hội Ấn Độ vào những thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, mà trọng tâm thu hút sự chú ý nhất, đó chính là sự phân chia giai cấp, tạo ra bất bình đẳng giữa các thành phần trong xã hội một cách gay gắt. Bên cạnh đó là sự độc quyền của giai cấp Bà La Môn trong việc tế lễ đã tạo cơ hội cho những đạo sĩ Bà La Môn biến những đàn tế thành nơi kiếm chác và lợi dưỡng cho bản thân. Với bất kỳ một tâm hồn nhạy cảm nào, khi đứng trước khổ đau của đồng bào nhân loại thì cũng đều trăn trở thao thức. Còn đối với Thái tử Tất Đạt Đa, chắc chắn sự trăn trở thao thức đó sẽ được nhân lên gấp vạn lần và nhất là nỗi trăn trở thao thức trước đời sống vô thường trong kiếp nhân sinh đã làm đậm nét con đường xuất gia tu hành giải thoát của Ngài.

Trên đây là những nét khái quát về nhân cách văn hóa của đức Phật. Tiếp đến chúng tôi xin trình bày đôi nét về những ảnh hưởng tích cực đến đời sống nhân loại từ đạo hạnh và giáo pháp của Ngài. Trong phạm vi hạn hẹp của cuốn sách này chúng tôi chỉ xin nêu ra một vài ý kiến liên quan đến những ảnh hưởng quan trọng từ giáo pháp đức Phật đối với môi trường, đối với viễn cảnh hòa bình trên thế giới, đối với tính công bằng và bình đẳng trong đời sống xã hội loài người. Chúng tôi nghĩ rằng, đây là những vấn đề thời sự cần được nhiều người quan tâm để chia sẻ, để cùng nhau chung tay góp phần cải thiện môi trường và hoàn thiện đời sống trong ngôi nhà hòa bình, thực hiện ước mơ của nhân loại.

CHƯƠNG BA

CÁCH ỨNG XỬ CỦA ĐỨC PHẬT VỚI QUỐC GIA

Đối với mỗi con người, thật khó có thứ tình cảm nào thiêng liêng cao quý có thể sánh bằng tình yêu quê hương đất nước, điều này sẽ dễ dàng nhận ra đối với những người phải sống trong cảnh tha hương nơi đất khách. Dù trong số chúng ta có là ai đi nữa mà đã từng lưu lạc xứ người, mỗi khi nghe qua những lời nhắn gởi “Quê hương mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi. Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nỗi thành người” vừa dạt dào, vừa tha thiết trong ca khúc Quê hương (lời Đỗ Trung Quân, nhạc Giáp Văn Thạch), chắc có lẽ chúng ta sẽ không khỏi nôn nao xao xuyến trong lòng, bởi tình quê hương đất nước vẫn mãi là một thứ tình máu mũ ruột thịt duy nhất ở ngoài cơ thể mỗi con người. Một người bình thường đối với tình yêu quê hương đất nước mà còn trăn trở như vậy huống gì đối với một đấng Giác Ngộ

Page 99: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

99

vẹn toàn đức hạnh Từ Bi như Đức Phật, một hạnh nguyện độ thoát chúng sanh vô bờ bến như Đức Phật, chúng tôi thiết nghĩ, nó sẽ mênh mông sâu lắng và tha thiết dạt dào gấp vạn ngàn lần so với chúng ta và cũng có thể vượt ngoài những gì mà chúng ta suy diễn.

Khi còn là một Thái tử, với một trí tuệ vượt bật hơn người, Ngài đã sớm nhận ra bản chất chiếm hữu và thống trị nơi mỗi con người, do ba nghiệp Tham Sân Si làm thống soái dẫn dắt, thì chắc chắn con người sẽ không thể nào chung sống hòa bình với nhau mãi được, điều đó cũng có nghĩa, sớm muộn gì giữa các xứ sở trong liên bang Ấn Độ cũng sẽ dẫn đến những cuộc chiến tàn sát lẫn nhau, mà bộ tộc Thích Ca của Ngài cũng không ngoài tầm xung đột nguy hiểm đó, thật ra mọi việc chỉ chờ thời gian và nguyên cớ để các vương quốc hùng mạnh phát động chiến tranh mà thôi. Do nhận thấy điều này một cách chuẩn xác và chắc thật, nên ngay từ khi cảm nhận cuộc sống quá vô thường, kiếp người vốn mong manh, mạng người chỉ trong hơi thở, Ngài đã nghĩ đến vua cha, nghĩ đến vợ con và hoàng thân quốc thích, nghĩ đến bộ tộc Thích Ca và kinh thành Ca Tỳ La Vệ thân yêu của Ngài. Tuy nhiên, tinh thần trách nhiệm đối với đồng bào thân tộc cũng như quê hương đất nước của Ngài không phải là nối ngôi vua cha, đem tài thao lược lãnh đạo quốc gia như bao Thái tử kế thừa khác, mà Ngài âm thầm cho một sự ra đi tìm chân lý giác ngộ giải thoát, vì có như vậy, không những cứu độ được quê hương qua cơn binh biến mà còn có cơ hội hóa giải lòng tham chiếm hữu cũng như hận thù ngập tràn trong đời sống con người. Có thể nói đây chỉ là một trong những cách ứng xử vô cùng trí tuệ của một bậc giác ngộ đối với quê hương đất nước của mình.

Như chúng ta đã biết, đạo Phật là đạo nhân quả, một khi chúng sanh gieo nhân thì không thể nào trốn tránh quả báo mà mình đã gieo ra. Nhận thấy điều này một cách tường tận, nên trách nhiệm của Đức Phật là tìm mọi cách giúp cho những người trực tiếp lãnh đạo đất nước hiểu rõ luật nhân quả, từ đó gieo thiện nhân, hành thiện pháp, tạo duyên lành trong quan hệ lân bang để giao hảo được kết chặt. Quan trọng hơn, Ngài rất nỗ lực giáo hóa không hề mệt mõi, chỉ mong sao mọi người được tỉnh thức, vì có như vậy mới chấm dứt mầm mống chiến tranh ngay trong tâm thức con người vừa nhen nhóm. Qua đó chúng ta thấy được cách ứng xử của Đức Phật đối với quê hương đất nước là rất sáng suốt và sâu sắc.

Nhìn lại lịch sử chúng ta sẽ thấy Đức Phật đã sớm từ bỏ ngai vàng và thế sự ngay những ngày Ngài còn là Thái tử trong chốn hoàng cung bên người vợ hiền tài sắc. Ở đây chúng ta thử đặt câu hỏi, con người đã từ bỏ mọi sự ràng buộc đó đã thể hiện sự quan tâm và cách ứng xử với quốc gia của mình như thế nào? Trên phương diện đối đãi thế gian, khi phân tích phần nào về cách ứng xử của Đức Phật về vấn đề quốc gia, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy tinh thần trách nhiệm và bổn phận đối với quốc gia của Đức Phật là rất sâu xa, cũng rất cụ thể và thiết thực. Thật ra từ khi thâm chứng thật tướng nhân sinh vũ trụ, Đức Phật đã xem thế giới này là ngôi nhà chung của nhân loại, và toàn thể nhân loại đều là những con người đáng được yêu thương chia sẻ và giáo hóa, bởi tất cả vẫn còn mãi trầm luân trong vòng luân hồi sanh tử. Tuy nhiên khi nói về đất nước cộng hòa Thích Ca (Sakya), thì đức Phật vẫn có những tình cảm rất riêng và Ngài đã thể hiện bổn phận của mình nhằm chia sẻ phần nào trách nhiệm.

Chúng tôi thiết nghĩ, một khi nói đến cách ứng xử của Đức Phật đối với tổ quốc của mình, cũng cần nói đến cái nhìn về nhân sinh và vũ trụ của Đức Phật, bởi đây là sự khác biệt rất lớn giữa con người chưa giác ngộ như chúng ta và người đã giác ngộ như Đức Phật. Với những người bình thường như chúng ta thì hiện vẫn đang luân hồi trong sanh tử, cho nên cái thấy của chúng ta luôn bị giới hạn bởi thấy biết hẹp hòi của tâm thức vô minh mê muội; còn đối với Đức Phật, Ngài đã chứng ngộ thật tướng vạn pháp, đã vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, cho nên Ngài đã nhìn thấy một cách tường tận kiếp sống con người là vô thường, luân chuyển không ngừng qua bốn giai đoạn sinh, lão, bệnh, tử; Ngài nhìn thấy thế giới này, vũ trụ này là không chắc thật, nó luôn biến động theo dòng thời gian bởi sự thành, trụ, hoại, không. Cũng chính vì vậy mà Ngài thấy rất rõ chuyện thịnh suy, được mất trong thế gian này là lẽ thường tình của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc, cũng như của mỗi đất nước. Điều đáng làm cho chúng ta kính ngưỡng Ngài hơn nữa, đó là, dù thấy rõ qui luật vận động tự nhiên trong pháp giới này là như vậy, dù vẫn biết không thể nào can thiệp vào nhân quả của chúng sanh trên thế giới này, nhưng Ngài đã không thờ ơ trước những biến động đã, đang và sẽ xảy ra trên quê hương đất nước của mình.

Theo lịch sử Phật giáo thì, Đức Phật với uy tín của mình, Ngài đã góp nhiều ý kiến với hội đồng trưởng lão bộ tộc Thích Ca về việc đưa vương tử Ma Ha Nam (Mahanama) lên ngôi kế vị vua Tịnh Phạn (Suddhodana) vừa băng hà, bởi Ngài nhận định Ma Ha Nam

Page 100: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

100

(Mahanama) là người nổi trội hơn các vương tử khác trên phương diện đạo đức và trí dũng song toàn, những tính cách này có thể gánh vác trọng trách quốc gia. Dù là một đấng Đại Giác, nhưng đối với vận mệnh đất nước, Ngài đã đóng góp ý kiến cũng như tác động trực tiếp bằng uy tín và những phân tích sắc bén trước hội đồng trưởng lão trong hoàng tộc, để đưa người có đức có tài lên lãnh đạo đất nước. Qua đó chúng ta thấy, bên trong Đức Phật, một con người giác ngộ trí tuệ siêu phàm, với trách nhiệm giáo hóa chúng sanh, ở đây chúng ta thấy Ngài còn là một con người dạt dào tình yêu quê hương và không hề thơ ơ, lãnh đạm trước trách nhiệm bổn phận phải làm với non sông đất nước.

Vào lúc bấy giờ, nhờ sự can thiệp của Đức Phật mà cục diện chính trị tại cộng hòa Thích Ca (Sakya) đã có được những chuyển biến tích cực. Điều này đã thể hiện kết quả rõ ràng là dưới thời của vua Ma Ha Nam (Mahanama) dân chúng bộ tộc Thích Ca hưởng được một đời sống an vui ấm no hạnh phúc, thật đúng như nhận định và mong muốn của Ngài. Tuy nhiên niềm vui của người dân bộ tộc Thích Ca chẳng kéo dài được bao lâu thì một tai họa bất thần ập đến.

Nguyên nhân sâu xa của tai họa này khởi nguồn từ việc vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) xin cưới một công chúa dòng dõi Thích Ca (Sakya), tuy nhiên do lòng kiêu ngạo, mà dòng họ Thích Ca (Sakya) đã đem một nữ nô lệ hóa trang thành công chúa dâng lên vua Ba Tư Nặc (Pasenadi). Việc này bị phát hiện, khiến vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) vô cùng tức giận và phát động cuộc chiến tranh quy mô với Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu). Trước sự việc diễn ra tồi tệ này, Đức Phật phải đứng ra can ngăn và hòa giải, điều này chúng tôi đã có đề cập đến trong chương Đức Phật giáo hóa các vị vua... Tiếp đến, là sự việc vương tử Lưu Ly (Vidudabha) con của vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) nhân một lần về thăm quê ngoại, đã bị giới quý tộc dòng họ Thích Ca (Sakya) miệt thị về sự xuất thân của mẹ ông, vì họ cho rằng vương tử Lưu Ly (Vidudabha) được sinh ra từ một mối tình vụng trộm của vua Ma Ha Nam (Mahanama) với một tỳ nữ, có nghĩa là họ khinh bĩ mẹ của vương tử Lưu Ly (Vidudabha) chẳng qua cũng chỉ là hạng người nô lệ. Như chúng ta đã biết, sự phân chia giai cấp trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ đã khiến cho hố sâu khoảng cách giữa hàng quý tộc và hạng người nô lệ là không thể lấy gì lấp đầy được, một người quý tộc mà có bất cứ quan hệ tình cảm với người giai cấp nô lệ thì được xem là một sự sĩ nhục lớn nhất trong đời họ, chính vì vậy mà sự miệt thị của giới quý tộc dòng họ Thích Ca (Sakya) đã khiến cho vương tử Lưu Ly (Vidudabha) ngập tràn sự uất hận. Vị vương tử này đã thề nguyền sẽ lấy máu của cả dòng họ Thích Ca (Sakya) để rửa sạch nỗi nhục mà họ đã miệt thị khinh bĩ mình.

Dù ôm hận trong lòng không lúc nào nguôi, nhưng phải đợi đến khi thành công cuộc đảo chánh, chiếm đoạt ngai vàng của vua cha, thì Lưu Ly vương (Vidudabha) mới cất quân chinh phạt cộng hòa Thích Ca (Sakya). Tuy nhiên trong cả ba lần kéo quân chinh phạt cộng hòa Thích Ca bé nhỏ, Lưu Ly Vương (Viduadabha) đều gặp Đức Phật ngồi ngay biên giới để khuyên ông đừng dùng vũ lực mà xâm phạm cộng hòa Thích Ca (Sakya), vì đó là quê cha đất tổ của Ngài và vì cuộc chiến xuất phát từ bất cứ nguyên nhân nào đi chăng nữa cũng đều tổn thương không ít đến những người dân vô tội. Như chúng ta đã biết, mặc dù Lưu Ly Vương (Vidudabha) vốn là một vị vua gian ác bởi từng cướp đoạt ngai vàng của vua cha và rất nhiều lòng thù hận với bộ tộc Thích Ca, nhưng ông lại dành cho Đức Phật có một sự kính trọng vô cùng đặc biệt. Trong ba lần gặp Đức Phật ở biên giới, ông đều bước xuống chiến xa để thỉnh cầu đức Phật đừng nên can thiệp vào những việc mà ông đã quyết tâm thực hiện, đồng thời ông đã thỉnh mời Đức Phật hãy sang cư ngụ tại Kiều Tất La (Kosala), vì vương quốc của ông có rất nhiều cây râm bóng mát, rất thích hợp với đời sống thiên về thiên nhiên của Đức Phật. Dù được vua Lưu Ly rất ưu ái và cung kính thỉnh mời sang Kiều Tất La (Kosala) cư trú, nhưng Đức Phật đã thẳng thắn trả lời vua Lưu Ly (Vidudabha) bằng một câu nói rất nổi tiếng: “Không có bóng mát nào bằng bóng mát quê hương”. Sự kiện này đã được kinh tạng Pali ghi chép rất chi tiết rằng, nơi gốc cây mà Đức Phật ngồi chờ vua Lưu Ly ở biên giới nằm trên phần đất thuộc chủ quyền của cộng hòa Thích Ca (Sakya), dưới trời oi bức, cây trơ trụi lá, đất đá khô cằn, cộng thêm tuổi già sức yếu như vậy mà Đức Phật vẫn cố gắng kiên trì thuyết phục cho bằng được vua Lưu Ly phải lui binh. Có thể nói sự kiên trì dùng uy tín cũng như biểu hiện đạo đức một cách ôn hòa mềm mỏng, Ngài đã nhiều lần ngăn chặn và hóa giải thành công cuộc chiến xảy ra ở cộng hòa Thích Ca (Sakya), đây được coi là một hành động nhân văn cao cả của Đức Phật.

Page 101: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

101

Đức Phật vốn xuất thân từ tập cấp quí tộc, tuy nhiên ngay từ khi còn là Thái tử, Ngài đã sớm lấy trí tuệ, tình thương làm lẽ sống, đối với một con người tình cảm dạt dào và đạo đức sâu nặng như Đức Phật thì đương nhiên là Ngài không thể nào làm ngơ khi đứng trước tình cảnh quê hương đất nước sắp rơi vào con đường hoại diệt, chính vì vậy mà về cuối đời, Đức Phật đã ba lần đem tấm thân già nua của mình ra biên giới để quyết tâm ngăn cản cuộc chiến tranh, bởi Ngài xem đây là việc quan trọng cần thiết phải làm mà một công dân đặc biệt như Ngài không thể làm ngơ hoặc làm khác được đối với tổ quốc của mình. Tuy nhiên thật đáng tiếc, những nỗ lực của Đức Phật đã không thể cứu vãn nỗi quả báo khắc nghiệt mà bộ tộc Thích Ca phải thọ lãnh, đó là vào lần thứ tư, nhân lúc đức Phật bận công việc giáo hóa ở một nơi xa, không có mặt để kịp thời can thiệp, vua Lưu Ly (Vidudabha) đã kéo đại quân ồ ạt tràn sang nhấn chìm quê hương của Ngài trong biển máu. Mặc dù vua Ma Ha Nam (Mahanama) cùng các tướng sĩ bộ tộc Thích Ca (Sakya) đã chiến đấu rất anh dũng, chống đỡ những đợt tấn công dồn dập của quân đội Kiều Tất La, nhưng cuối cùng cũng đành chấp nhận thất bại đau thương trước quân đội hùng mạnh và quá đông đúc của vua Lưu Ly, kết quả là vua Ma Ha Nam (Mahanama) và các tướng lĩnh bại trận, toàn dân bộ tộc Thích Ca đều bị bắt. Lúc đó Lưu Ly Vương (Vidudabha) dự tính sẽ tàn sát toàn bộ dân chúng cộng hòa Thích Ca (Sakya) bằng cách chôn hai chân họ xuống đất rồi cho voi chiến dày xéo lên.

Bàng hoàng và vô cùng đau đớn khi biết cách hành hình dã man của Lưu Ly Vương, và dù là bại trận, vẫn biết trước là sẽ nhận lấy một cái chết thảm khốc bởi lòng thù hận cao ngất trời của Lưu Ly vương, nhưng vua Ma Ha Nam (Mahanama) vẫn giữ được phong độ cao thượng vốn có của mình, ông yêu cầu Lưu Ly Vương (Vidudabha) hãy nghĩ đến đức Phật và đừng nên hành động quá độc ác với gia tộc của Ngài như vậy. Vua Ma Ha Nam (Mahanama) đã yêu cầu Lưu Ly Vương (Vidudabha) cho dân chúng cộng hòa Thích Ca (Sakya) được tự trầm dưới nước mà chết. Khi nghe nhắc đến Đức Phật, Lưu Ly Vương (Vidudabha) đã đồng ý thay đổi cách hành hình theo như yêu cầu của vua Ma Ha Nam (Mahanama), và thế là gần như toàn thể dân chúng nước cộng hòa Thích Ca (Sakya) không phân biệt già trẻ, trai gái đều phải dắt nhau ra bờ sông để tự kết liễu đời mình dưới sự giám sát của quân đội Lưu Ly Vương (Vidudabha). Trong cái ngày tang tóc đau buồn đó, dòng họ Cồ Đàm (Gotama) của đức Phật cũng đã có một số người trong trốn thoát được và vẫn còn giữ lưu truyền dòng họ Cồ Đàm cho đến ngày nay.

Khi hay tin nước cộng hòa Thích Ca thất thủ, vua Ma Ha Nam (Mahanama) và các tướng lĩnh bại trận, toàn dân bộ tộc Thích Ca đều bị bắt và bị đem ra hành hình, trong lòng đấng đạo sư vô cùng đau xót, ở phương xa Đức Phật đã tranh thủ quay về quê nhà ngay lập tức, và trước mắt Ngài là một cảnh tượng điêu tàn, thê lương ảm đạm, điều đáng buồn là lúc về già, Ngài phải đứng nhìn cảnh quê hương của mình bị đốt phá tan hoang, kinh thành Ca Tỳ La Vệ, nơi Ngài sinh sống trọn thời niên thiếu bỗng chốc bị san thành bình địa, còn số kiếp của người dân bộ tộc Thích Ca nay đã trôi theo dòng sông nhân quả cuồn cuộn không ngừng trong kiếp nhân sinh.

Từ việc Ngài ủng hộ vương tử Ma Ha Nam (Mahanama) và dùng uy tín của mình đóng góp nhiều ý kiến với hội đồng trưởng lão bộ tộc Thích Ca để đưa vị vương tử tài đức vẹn toàn này kế vị vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và dù cho đã già yếu nhưng Ngài đã ba lần ra tận biên giới ngăn chặn Lưu Ly Vương xuất binh chinh phạt cộng hòa Thích Ca, thông qua cách ứng xử của Ngài đối với quê hương đất nước như vậy, điều này đã cho chúng ta thấy rất rõ nhân cách văn hóa cao quý của Đức Phật. Hơn thế nữa, Ngài luôn mong muốn mọi người dân trong bộ tộc Thích Ca trau dồi đời sống đạo đức và huân tập bốn đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả, đó là cách trực tiếp mà Ngài xây dựng cuộc sống hòa bình hạnh phúc cho quê hương đất nước của Ngài và cũng là cách Ngài gián tiếp phản đối những cuộc chiến thường xuyên xảy ra trong đời sống nhân loại.

Cách ứng xử của Đức Phật đối với tổ quốc không chỉ đơn thuần là những việc làm mang tính cá nhân như đã nêu trên, mà nó rất thâm trầm sâu sắc; đó là cùng với việc nâng cao đời sống đạo đức và trau dồi bốn đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả cho chư vị Tỳ kheo trong Giáo đoàn, Đức Phật đã rất chú trọng đến việc dạy bảo hàng đệ tử của mình phải luôn chu toàn trách nhiệm của người con Phật là “Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”, có nghĩa là trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường. Điều đáng chú ý là trong bốn ân mà tất cả người con Phật phải mang nặng đó, đứng đầu là ân của Quốc chủ. Quốc chủ ở đây là những người đứng đầu đất nước, họ đã có công lao to lớn đóng góp tài trí và đức độ một cách thiết thực vào sự

Page 102: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

102

hòa bình thạnh vượng của đất nước. Thật ra nếu đất nước hòa bình, thịnh vượng; thì xã hội được ấm no, hạnh phúc; nhà nhà được yên vui; người người được an lạc; người tu hành nhân đó có nhiều điều kiện để công phu tu tập, hoằng hóa độ sanh... Như vậy mối liên hệ giữa đất nước và đời sống con người là vô cùng gắn kết và ảnh hưởng lẫn nhau rất sâu sắc và mật thiết. Do vậy chúng ta nên hiểu, cách thể hiện lòng biết ơn Quốc chủ cũng chính là cách thể hiện trách nhiệm của mỗi người con Phật đối với tổ quốc mà mình đang sinh sống. Đây chính là cách ứng xử của Đức Phật đối với sự hòa bình thịnh vượng bền vững của tổ quốc nói riêng và sự an lạc hạnh phúc của nhân loại nói chung.

Thật ra đối với người con Phật thì trong tứ ân gồm: Ân quốc chủ, ân sư trưởng, ân phụ mẫu, ân đàn na tín thí; thì ân nào cũng quan trọng và sâu nặng như nhau. Tuy nhiên ân quốc chủ đã được Đức Phật đưa lên hàng đầu, bởi quốc chủ là người đảm nhận trọng trách điều hành đất nước được nhân dân tin cậy giao phó, thời xưa quốc chủ là người nắm vận mạng của đất nước. Và sự tồn vong của đất nước nó bao hàm sự tồn vong của những mối quan hệ thiêng liêng trong đời sống con người. Chính vì vậy mà tầm quan trọng của ân quốc chủ cũng chính là tầm quan trọng của tổ quốc đối với mỗi con người vậy.

Ảnh hưởng sâu sắc cách ứng xử của Đức Phật đối với tổ quốc thiêng liêng, lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng đã ghi lại, trong các triều đại từ Đinh Lê đến Lý Trần tinh thần nhập thế phổ độ chúng sinh của Phật giáo đã lấn át những ảnh hưởng của Nho giáo vốn có vị thế vững vàng trong đời sống xã hội đương thời. Trong giai đoạn lịch sử này, Phật giáo có một vị thế như một tôn giáo chính thống bởi những ảnh hưởng lớn lao từ nền giáo dục đạo đức và tinh thần nhập thế hiệu quả rất cao. Các vị cao Tăng có đạo hạnh và uy tín của Phật giáo đã tự tại tham gia triều chính, đảm nhận vai trò quân sư, cố vấn cho vận mệnh quốc gia, vì các ngàinhận thấy sự có mặt cần thiết và kịp thời của mình để xoa dịu và chấm dứt nỗi đau thương triền miên của một dân tộc nhỏ bé vốn đã từng và đang bị ngoại bang xâm lấn. Thời nhà Đinh, năm 971, sau khi lên ngôi vua, Đinh Tiên Hoàng đã có những quy định cụ thể cho các cấp bậc Tăng đạo. Sư Ngô Chấn Lưu đã được vua Đinh Tiên Hoàng phong chức Tăng thống, đứng đầu Phật giáo thời bấy giờ và được ban hiệu là Khuông Việt Đại Sư... Đến thời Lê, vua Lê Đại Hành đã nhiều lần cho mời các nhà sư Sùng Phạm, Vạn Hạnh vào cung để tham vấn đạo pháp và xin ý kiến trị quốc an dân. Đặc biệt, Thiền sư Vạn Hạnh được vua Lê Đại Hành đích thân xin ý kiến về cuộc kháng chiến chống quân Tống vào năm 980. Thiền sư Vạn Hạnh và Thiền sư Đỗ Pháp Thuận đã có công rất lớn trong việc hình thành nên triều đại nhà Lý, chính hai vị thiền sư lỗi lạc này đã đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua và đây là một vị minh quân đã làm rạng rỡ thêm những trang sử vàng son của dân tộc. Nhờ thấm nhuần nền tảng đạo đức, trí tuệ, từ bi và đạo lý nhân quả của Phật giáo, nhất là dựa vào niềm tin chuyển hóa, nên các hình phạt và tù ngục trong triều đại này dần dần được thay thế bởi các chính sách giáo dục đạo đức và cảm hóa có hiệu quả. Đến thời Trần, các vua Trần đã thừa nhận vai trò ổn định trật tự xã hội của đạo Phật thông qua việc giáo dục nhân cách đạo đức con người, bởi đây là một bằng chứng thực tế không thể phủ nhận. Việc công khai thừa nhận áp dụng giáo lý nhà Phật để trị quốc an dân, đồng thời lấy đó làm phương tiện, kim chỉ nam trong việc giáo dục phẩm chất cho vương công quan lại và khơi nguồn đạo đức trong nhân dân, để từ quan đến dân thấm nhuần đời sống đạo đức, tin sâu nhân quả nghiệp báo, tỏ rõ lý vô thường... đã tạo ra những bước tiến vượt trội trong sự nghiệp phát triển triều đại nhà Trần. Từ việc ngưỡng mộ Phật giao, đến việc quy y Tam Bảo, công phu hành đạo và ứng dụng giáo lý của đạo Phật một cách sinh động vào đời sống thực tiễn, các vua Trần đã tạo ra mối quan hệ gắn bó và tin cậy lẫn nhau giữa vua quan với dân chúng, dựa vào sức mạnh đoàn kết của toàn dân, các triều đại nhà Trần đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nặng nề mà lịch sử giao phó, đó là đánh bại tập đoàn quân xâm lược Nguyên Mông vốn được xem là đoàn quân bất bại trên khắp chiến trường Trung Á, củng cố và xây dựng đất nước ngày càng hùng cường giàu mạnh. Nhờ ảnh hưởng sâu sắc tinh thần giác ngộ và giải thoát của đạo Phật, thời Trần đã xuất hiện các bậc minh quân như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông; bên cạnh đó cũng đã xuất hiện các thiền sư lỗi lạc như Đa Bảo, Viên Thông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, các danh tướng tài đức vẹn toàn như Trần Hưng Đạo. Qua đó, có thể nói, nhờ ảnh hưởng sâu sắc giáo lý Phật Đà mà tư tưởng yêu nước, xây dựng đất nước, phát triển đất nước đã trở thành tư tưởng chủ đạo xuyên suốt, không những góp phần gìn giữ vững chắc độc lập chủ quyền cho đất nước mà còn mở ra những trang sử chói lọi trong sự nghiệp phát triển nước nhà...

Page 103: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

103

Sau thời kỳ Đại Việt, thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Việt Nam, là thời kỳ suy giảm, khi nhà hậu Lê lên cầm quyền, đã tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo, kể từ đó cho đến mãi cuối thế kỷ 19, với nhiều biến động của thời cuộc đã ảnh hưởng không ít đến sự phát triển của Phật giáo. Dù dân tộc Việt Nam có trải qua những bước thịnh suy và Phật giáo Việt Nam có thăng trầm thế nào đi chăng nữa, thì nguồn sống đạo đức trong lòng dân tộc và mạng mạch Phật pháp vẫn ngấm ngầm trong hàng triệu triệu trái tim người Phật tử Việt Nam. Bước qua thế kỷ 20, Phật giáo Việt Nam bắt đầu phục hưng trở lại, vào những năm 30 của thế kỷ trước, các hội Phật giáo ở Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ lần lượt ra đời, hoạt động sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, tạo nền luồng gió mới trong ngôi nhà Phật giáo Việt Nam. Đặc biệt là đến thời đại Hồ Chí Minh lịch sử mà chúng ta đang sống, Phật giáo Việt Nam một lần nữa chuyển mình sang giai đoạn có the nói là huy hoàng xán lạn. Khởi đầu cho những trang sử vàng của Phật giáo Việt Nam thời đại chúng ta có thể nhắc đến cái mốc lịch sử năm 1981, đó là khoảng thời gian quan trọng khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN) được thành lập, mở ra một kỷ nguyên mới của Phật giáo nước nhà trước muôn vàn cơ hội và thách thức mới...

Quay lại vấn đề chúng ta sẽ nhận thấy cách ứng xử của Đức Phật đối với quê hương đất nước của Ngài, nó không giới hạn trong thành Ca Tỳ La Vệ hay dừng lại ở phạm vi tiểu quốc cộng hòa Thích Ca nhỏ bé của Ngài, mà nó vượt dãy Hy Mã Lạp Sơn, băng qua bao đại dương, tỏa ra khắp năm châu bốn bể, để rồi hình thành nên một thái độ sống có trách nhiệm của tất cả những người con Phật đối với quê hương đất nước của mình, mà thái độ và trách nhiệm cao cả của những vị cao Tăng đối với đất nước trong các thời Đinh Lê Lý Trần tại Việt Nam chúng ta là một điển hình. Thật vậy, nhân cách văn hóa cao quý của Đức Phật, thông qua cách ứng xử của Ngài đối với tổ quốc, đã thật sự ảnh hưởng sâu sắc đối với đời sống con người trên thế gian này...

CHƯƠNG BỐN

CÁCH ỨNG XỬ CỦA ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI QUYỀN QUÝ

Nói đến những người quyền quý trong bối cảnh xã hội Ấn Độ cách đây trên 2550 năm, tức là chúng ta đang nói đến mối quan hệ đặc biệt giữa Đức Phật với tập cấp Sát Đế Lợi, gồm những vị quân vương, vương tử và hoàng thân quốc thích của những người này. Trong các chương “Sự hoằng pháp của Đức Phật đối với những vị vua” và “Cách ứng xử của Đức Phật đối với quốc gia”, trong đó chúng tôi cũng đã đề cập phần nào về cách ứng xử của Đức Phật đối với người những quyền quý, do vậy trong chương này, chúng tôi chỉ nói đến những nội dung và tính cách tiêu biểu của Đức Phật trong cách ứng xử của Ngài đối với một số nhân vật điển hình trong tập cấp Sát Đế Lợi thời bấy giờ.

Như chúng ta đã biết, Đức Phật là bậc đại giác ngộ, là đấng bình đẳng tánh trí, do vậy đối với Ngài, mọi người đều bình đẳng như nhau, đều có giá trị và đều xứng đáng được tôn trọng trân quý như nhau, do vậy, cách ứng xử của Đức Phật đối với mọi thành phần xuất thân trong xã hội là bình đẳng không phân biệt, đặc biệt Ngài không hề có sự phân chia giai cấp trong giáo hóa hay quan hệ bình thường trong đời sống thường ngày. Ngược lại, Ngài quan tâm nhiều hơn đối với người bần cùng nghèo khổ, người mê lầm tà kiến, người hung dữ gian ác... bởi theo Ngài thì những hạng người này cần sự cảm thông chia sẻ nhiều hơn. Đối với những đối tượng chịu nhiều thua thiệt và yếm thế trong xã hội, Đức Phật cảm thông và quan tâm đặc biệt, còn đối với những người quyền quý có nhiều thuận lợi trong cuộc sống, thì Ngài chia sẻ tình cảm và ứng xử ra sao?

Với một người có trí tuệ siêu việt như Đức Phật, thì Ngài quá thấu suốt tâm lý và nhu cầu cần được chia sẻ ở các đối tượng mà Ngài giao tiếp. Thật ra, đặc điểm trong từng cách ứng xử của Đức Phật là tạo điều kiện tốt lành để mọi người được gần gũi với Ngài, không ngoài mục đích giúp đỡ họ có được thắng duyên để chuyển hóa cuộc sống hiện tại hầu đạt được an vui hạnh phúc, trước khi tiến đến mục đích tối cao là tu hành giải thoát.

Đối với giới thượng lưu quý tộc trong xã hội Ấn Độ đương thời, mà bản thân ngài là một thành viên, thì Ngài thừa biết những đặc điểm tâm lý chung của những người xuất thân từ

Page 104: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

104

tập cấp quý tộc là luôn tự tôn và cao ngạo. Do vậy, đối với họ, không phải tài giỏi thông minh xuất chúng mà có thể làm cho họ nể phục hay thân cận, mà họ luôn đòi hỏi gốc gác xuất thân của đối tượng mà họ tiếp xúc. Về mặt này thì Đức Phật có nhiều thuận lợi, bởi Ngài xuất thân từ tập cấp Sát Đế Lợi, lại là một Thái tử sẵn sàng bước lên ngai vàng chỉ cần Ngài ưng thuận.

Bên cạnh sự xuất thân từ tập cấp quyền quý, những đặc điểm cao quý khác hiện hữu nơi Đức Phật cũng rất quan trọng, đó là Ngài có một ngoại hình hoàn thiện với 32 tướng tốt quang minh và 80 vẻ đẹp hoàn hảo, thêm vào đó là cốt cách thanh cao điềm đạm, khả năng hùng biện xuất chúng, tất cả những ưu điểm này đã tạo ra một hấp lực vô cùng đặc biệt đối với bất cứ những ai một khi đã tiếp xúc với Ngài.

Chính những mặt thuận lợi này mà Ngài rất dễ dàng gây thiện cảm đối với những người quyền quý. Điển hình của điều này là chỉ ngay lần đầu gặp lại Đức Phật, vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đã tỏ lòng ngưỡng mộ cốt cách phi phàm của Ngài. Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) ghi chép lại rằng, vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đã thật sự bị hấp dẫn trước tướng hảo quang minh và dáng dấp thanh cao của đạo sĩ Sa Môn Cồ Đàm (Gotama), nhưng vị vua này cũng đã tỏ ra tò mò và ngạc nhiên, vì sao một con người trông rất quý phái như vậy mà lại đi khất thực xin ăn giữa chốn kinh thành đông đúc người dân qua lại. Sự tò mò hiếu kỳ này đã khiến nhà vua đích thân đến gặp Đức Phật để hỏi về sự xuất thân của Ngài. Đức Phật đã lịch thiệp trả lời về sự xuất thân của mình cho vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) như sau: “Tâu đại vương, trong vùng Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ, có một quốc gia hùng mạnh, tôi vốn là Thái tử của quốc gia ấy, thuộc dòng dõi Thích Ca”. Trước lời giới thiệu ngắn gọn nhưng đầy tự tin của Đức Phật đã khiến cho vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) thích thú và ngưỡng mộ, điều này cũng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng vị vua này. Vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) hỏi tiếp đức Phật, vì sao không màng đến ngôi vua mà lại xuất gia làm đạo sĩ khất thực? Đức Phật cũng trả lời ngắn gọn đại ý rằng; làm vua thì một vương tử bình thuờng có thể làm được, nhưng để làm một đạo sĩ, vất bỏ danh lợi vinh hoa phú quý, cần cầu đạo giải thoát, hóa độ chúng sanh, thì chỉ có bậc đại trượng phu chí khí hơn người mới có thể dấn thân được. Với câu trả lời đầy bản lãnh và tự tin của Ngài, đã khiến cho vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) vô cùng thán phục trước chí nguyện cao cả của con người cao quý đang đứng trước mặt mình. Trước khi từ giả, vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) chỉ còn biết cúi đầu đảnh lễ Sa Môn Cồ Đàm và cầu nguyện cho Ngài mau thành đạt chánh quả và sau này giác ngộ thì đừng quên ông ta. Theo lịch sử Phật giáo thì sau khi Sa Môn Cồ Đàm (Gotama) chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, người thuộc giai cấp quyền quý đầu tiên mà Đức Phật nghĩ đến, đó là vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) và Đức Phật đã giáo hóa vị vua này trở thành một đệ tử thuần thành trong hàng tứ chúng đệ tử của Ngài, cách ứng xử để nhiếp hóa và thu nạp vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) vào Giáo đoàn đã được chúng tôi trình bày khá tỷ mỷ trong chương “Sự hoằng pháp của Đức Phật đối với các vị vua”. Theo kinh tạng Pali, vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đã dâng cúng Đức Phật và Tăng chúng tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana) để Đức Phật có nơi thuyết giảng và Tăng chúng có nơi an cư vào những mùa mưa gió. Có thể nói rằng, chính cách ứng xử trí tuệ linh hoạt, văn hóa và đầy thuyết phục của Đức Phật đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhân cách của vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) sau này. Bằng chứng là từ một vị vua rất quyết đoán cứng rắn, vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đã trở thành vị vua nhân từ độ lượng, trong tâm tràn đầy Từ Bi Hỷ Xả, điều này có thể thấy được qua việc, sau khi khống chế được cuộc nỗi loạn soán ngôi của nghịch tử A Xà Thế (Ajatasattu), thay vì phải trừng trị thích đáng, thì ông lại độ lượng khoan dung, không những vậy ông còn nhường cả ngôi vua cho A Xà Thế (Ajatasattu) để rồi cuối đời phải chịu cảnh chết thảm trong ngục tối do chính đứa con được ông nhường ngôi hãm hại.

Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikàya) có ghi chép lại sự kiện liên quan đến hai vị vua này, mà mỗi khi đọc lại khiến chúng ta vô cùng phẩn nộ sự tàn ác dã man của A Xà Thế (Ajatasattu) đồng thời vô cùng cảm phục đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả của vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) trong cách ông cư xử đối với đứa con nghịch tử của mình. Số là Tần Bà Sa La (Bimbisàra) sau khi nhường ngôi cho con là A Xà Thế (Ajatasattu), Tần Bà Sa La (Bimbisàra)đã bị chính A Xà Thế (Ajatasattu) giam vào ngục tối. Ở trong ngục tối, khi trông thấy sát thủ cầm lưỡi dao cạo đến, thì vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) vui mừng cảm động đến rơi nước mắt, vì nghĩ rằng đứa con trai ngỗ nghịch của ông (tức A Xà Thế ) đã ăn năn hối hận, nên cho người đến cạo râu tóc cho ông trước khi đưa ông trở lại hoàng cung. Thế nhưng thật phủ phàng khi ông nghe tên sát thủ nói rõi ý định đến đây là để kết liễu mạng sống của ông theo lời của A Xà Thế, đồng thời xin ông hoan hỷ tha lỗi cho kẻ chỉ làm theo mệnh lệnh, sau khi nghe lời

Page 105: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

105

trình bày của tên sát thủ, sau giây phút bàng hoàng bởi ác nghiệp chất cao như núi của đứa con mình, vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) im lặng và mĩm cười khoan dung, ông thanh thản đón nhận cái chết, không những không oán hận mà còn cầu nguyện cho đứa con vô đạo bất hiếu của mình sớm ngày tỉnh ngộ. Có thể nói đây là nhân cách vĩ đại của một đấng quân vương. Qua câu chuyện này, một điều không thể phủ nhận, đó là nhân cách văn hóa tuyệt vời của Đức Phật, đã ảnh hưởng sâu sắc và hình thành nên nhân cách siêu phàm của vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) sau khi ông được Đức Phật giáo hóa.

Một điều đáng lưu ý ở đây là, trong khi vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) bị con trai A Xà Thế (Ajatasattu) hãm hại, thì Đức Phật cũng đang bị Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) liên tục bày kế lập mưu đưa Ngài vào chốn hiểm nguy. Tuy nhiên với trí tuệ siêu việt của đấng Đại Giác, Đức Phật đã biết trước đây là nhân quả nghiệp báo mà Ngài cũng như vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) không thể tránh khỏi. Do vậy mà Đức Phật đã im lặng trước hoàn cảnh bi đát của Tần Bà Sa La (Bimbisàra) mà không hề lên tiếng can ngăn A Xà Thế (Ajatasattu), cho mãi đến khi ông vua gian ác này (A Xà Thế) lâm trọng bệnh và thành khẩn ăn năn sám hối, trước nhân duyên chín muồi, Đức Phật mới thuyết giảng để khai mở tâm trí, giáo hóa để A Xà Thế (Ajatasattu) trở thành một Phật tử thuần thành. Qua những điều này, chúng ta thấy rõ thêm, cách ứng xử của Đức Phật đối với những ngưởi quyền quý trong mọi hoàn cảnh đều rất trí tuệ, linh hoạt, và đều thể hiện một phong thái ứng xử trí tuệ siêu việt, vừa thể hiện sự sáng suốt nhân quả và tường tận ở muôn duyên của một đấng giác ngộ, nó lại vừa thể hiện một phong cách ứng xử văn hóa cao thượng và tuyệt vời của một con người tràn đầy đạo đức và Từ Bi Hỷ Xả.

Cũng cần nói thêm là trong các khung hình phạt tại xứ sở Ấn Độ thời bấy giờ, thì khung hình phạt cao nhất trong thời bình là xử tử phạm nhân. Tuy nhiên khung hình phạt này chỉ được thực hiện theo mệnh lệnh của các vị đại vương và chỉ diễn ra tại các nước lớn như Kiều Tất La hay Ma Kiệt Đà, còn ở các tiểu quốc như cộng hòa Thích Ca của Ngài thì không được quyền xử tử phạm nhân. Những cuộc xử tử và trừng phạt phạm nhân diễn ra tại một số vương quốc như Kiều Tất La (Kosala) mà Ngài từng chứng kiến đã gây thương tổn sâu sắc trong tâm hồn trai trẻ của Ngài, điều này đã được Đức Phật mô tả lại trong kinh điển. Từ việc chứng kiến những cảnh tượng đau khổ ghê rợn mà những người mắc phải lỗi lầm phải gánh chịu, Đức Phật đã luôn cảnh sách nhắc nhở hàng đệ tử của mình phải thường xuyên cảnh tỉnh bản thân, phải luôn cẩn trọng trong đời sống, nhất là không nên gieo nhân bất thiện để tránh quả báo thảm khốc bất hạnh có thể xảy ra trong tương lai, bởi Ngài cho rằng, tất cả hình phạt của nền luật pháp trong hiện tại hay quả báo thê thảm trong tương lai con người phải gánh chịu là cũng đều do chúng ta gieo nhân bất thiện thất đức mà tạo ra, chứ không phải vô cớ mà có. Cũng chính vì đã chứng kiến tận mắt những cảnh tượng thương tâm này mà Ngài luôn có lối ứng xử với đau khổ theo cách nhìn thật kỹ vào nó, để rồi hạn chế, tiến đến triệt tiêu nó. Trong cách ứng xử với đau khổ, Ngài luôn tìm ra nguyên nhân gây nên đau khổ và như chúng ta đã biết, trong Tứ Diệu Đế đã chỉ ra phương pháp giải quyết tận cùng nguồn gốc đau khổ trong đời sống của con người. Nói đến cách ứng xử với các bậc đế vương, Đức Phật luôn khuyên nhũ họ hãy bỏ bớt những hình phạt có tính chất tàn nhẫn đối với phạm nhân. Nếu có thể cảm hóa giáo dục được người có tội, thì hãy loại bỏ hẳn khung hình phạt tổn hại đến mạng sống con người, bởi một tâm hồn nhân đạo như Đức Phật, thì rõ ràng là Ngài không thể nào làm ngơ hay dửng dưng khi con người với con người lại đối xử nhẫn tâm và tàn bạo với nhau như vậy.

Một sự kiện đặc biệt cần được lưu tâm về phương diện lịch sử là vào giai đoạn từt hế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ V trước CN, các đế quốc nằm giữa lưu vực hai dòng sông Hằng (Gange) và sông Ấn (Indus) đang thực hiện giấc mộng tiêu diệt các tiểu quốc để tiến đến việc thống nhất Ấn Độ. Động hòa Thích Ca (Sakya) của đức Phật bị kẹp chặt giữa những quốc gia hung tợn như đế quốc Vi Đề Ha (Videha) ở phương đông, đế quốc Kiều Tất La (Kosala) ở chếch về hướng đông bắc và đế quốc Ma Kiệt Đà (Magadha) ở phương nam. Mặc dù chịu cảnh phiên thuộc của đế quốc Kiều Tất La (Kosala), nhưng trước xu hướng thống nhất và sát nhập các quốc gia của thời đại, vận mệnh của cộng hòa Thích Ca (Sakya) và các xứ cộng hòa nhỏ bé khác hết sức nguy ngập. Hiện trạng đó, có lẽ thái tử Tất Đạt Đa (Siddhattha) nhận thấy rất rõ, cộng thêm những cái chết đột ngột vì bịnh tật, vì tai nạn của những người xung quanh đã dần dần tạo nên một hoàn cảnh văn hóa đặc biệt làm tiền đề cho việc xây dựng văn hóa nhận thức sự vô thường, vô ngã của đức Phật sau này.

Page 106: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

106

Nói đến cách ứng xử của Đức Phật đối với những người quyền quý, những người có ảnh hưởng rất lớn đến việc thịnh suy của đất nước, chúng ta có thể nhận thấy nhân cách văn hóa tuyệt vời của Đức Phật trong những lời khuyên rất sâu sắc khi vua A Xà Thế, sau khi đã quy y Phật, đến tham kiến đức Phật và xin Ngài cho ý kiến về việc muốn cất binh xâm chiếm nước Bạt Kỳ. Lần đó Đức Phật đã khéo léo phản đối cuộc chiến bằng cách nêu ra bảy mặt mạnh của nước Bạt Kỳ, mà theo Ngài là xưa nay chưa từng có một quốc gia nào dám xâm chiếm, những điểm mạnh đó là:

1- Thường hội họp nhau để giải quyết vấn đề chung của quốc gia. 2- Đoàn kết thuận hòa với nhau. 3- Thi hành đúng theo pháp luật chế định. 4- Tôn kính bậc trưởng thượng. 5- Kính nể hàng phụ nữ. 6- Bảo tồn các đền thờ trong xứ. 7- Sùng bái các bậc tiền nhân. Sau đó Đức Phật đã khuyên vua A Xà Thế không nên cất binh đánh nước Bạt Kỳ. Ở

đây chúng ta thấy rất rõ về quan điểm của đức Phật về chiến tranh và cách ứng xử thông minh khéo léo của Đức Phật nhằm can ngăn một cuộc chiến.

Qua cách ứng xử của Đức Phật, chúng ta nhận ra rằng, Đức Phật là một bậc trí tuệ giác ngộ, với đầy đủ phương tiện thiện xảo để giáo hóa chúng sanh, đồng thời Ngài cũng là một con người tràn đầy đạo đức và nguồn tình cảm dạt dào tha thiết dành cho thế gian này, bởi trên thực tế qua cách ứng xử của Ngài thì rõ ràng là Ngài chưa hề xa lánh cuộc đời, và cũng chưa hề bị đời sống thế gian làm ô uế.

Trong Kinh Tăng Nhứt A Hàm, đã ghi lại cách ứng xử của Đức Phật đối với các đấng quân vương rằng, Đức Phật đã đặt lợi ích quốc gia và sự bình yên của dân chúng lên trên hết, từ đó Ngài đã dạy bổn phận của một vị lãnh tụ quốc gia, nếu muốn trở thành một bậc minh quân, đem lại hòa bình thịnh vượng cho đất nước, ấm no hạnh phúc cho toàn dân, thì phải thực hiện 10 điều sau đây:

1- Thanh liêm. 2- Nghe lời can gián của người khác. 3- Thi ân cho nhân dân. 4- Thu thuế đúng pháp luật. 5- Phòng the phải nghiêm túc. 6- Không say sưa rượu chè. 7- Siêng năng nghiêm chỉnh. 8- Xét xử nghiêm túc công bằng. 9- Hòa hợp với quần thần. 10-Giữ gìn sức khỏe bản thân.Có thể nói rằng, đây là những lời dạy đầy giá trị và hữu hiệu cho bất cứ một nguyên

thủ quốc gia nào muốn trị quốc an dân, không chỉ đối với các vị vua thời xa xưa tại Ấn Độ.

CHƯƠNG NĂM

CÁCH ỨNG XỬ CỦA ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI CÙNG KHỔ

Trong thời đại ngày nay, khi nền văn minh và tiến bộ xã hội phát triển vượt bật, thì sự đói khổ khốn cùng của một bộ phận người dân sẽ luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc của cộng đồng. Thế nhưng cách đây trên 2550 năm, thì sự đói khổ khốn cùng của bộ phận người dân trong xã hội Ấn Độ không những không được cứu giúp sẻ chia, ngược lại họ càng bị chà đạp và ngược đãi, những người khốn cùng thường xuyên bị chà đạp và ngược đãi trong xã hội đó là ai? Đó là những người nô lệ thuộc tập cấp Thủ Đà La (Sudra), một tập cấp hạ đẳng nhất trong xã hội loài người.

Như chúng ta đã biết, xã hội Ấn Độ thời Đức Phật tại thế được phân chia thành bốngiai cấp. Đứng đầu là giai cấp Ba La Môn (Brahmin). Giai cấp thứ hai là Sát Đế Lợi (Ksatriya) gồm vua chúa và các vương công. Hai giai cấp này được xem là giai cấp cao quý nhất trong xã

Page 107: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

107

hội đương thời. Giai cấp thứ ba là Phệ Xá (Vaisya) bao gồm hầu hết giới bình dân. Và hạ đẳng nhất là giai cấp Thủ Đà La (Sudra) được xem là giai cấp bần cùng gồm những tiện nhân nô lệ. Bà La Môn giáo quan niệm, tập cấp Thủ Đà La vốn sinh ra là để làm nô lệ, nên họ hoàn toàn vô cảm trước nỗi khổ nhục bi thảm của tầng lớp này. Còn giai cấp Sát Đế Lợi (Ksatriya) thì mặc nhiên công nhận sự đọa đày của họ và xem đó là số phận mà những người nô lệ phải gánh chịu, nên những người nô lệ đương thời không được pháp luật bảo hộ, cũng như không hề nhận được sự cảm thông chia sẻ của cộng đồng xã hội.

Trong một xã hội mà sự phân chia giai cấp rạch ròi như vậy và cũng đã an bài như vậy, người Bà La Môn thì tự xem mình là cao quý nhất trong xã hội, nên độc quyền trong việc nắm giữ chân lý. Giai cấp quý tộc Sát Đế Lợi (Ksatriya) cũng tự cho mình là cao quý, nên nắm giữ quyền điều hành đất nước. Còn giai cấp nô lệ Thủ Đà La (Sudra) thì gần như đã an phận với kiếp sống nô lệ lầm than của mình. Trong đời sống hằng ngày, họ không được đi chung đường hay uống chung nguồn nước giếng với người Bà La Môn, nếu vi phạm thì họ phải nhận lãnh những hình phạt tàn nhẫn bởi những đạo luật của Bà La Môn giáo.

Đức Phật ra đời trong bối cảnh giai cấp xã hội đã an bài như vậy, trật tự xã hội đã hình thành bấy lâu nay theo sự phân chia giai cấp và bổn phận của từng thành viên trong giai cấp như vậy. Điều này có nghĩa là không thể thay đổi được, vì nếu có bất cứ sự thay đổi nào về giai cấp, thì cũng sẽ dẫn đến tình trạng xáo trộn bất an hay biến động trong đời sống. Thế nhưng điều kỳ diệu là Đức Phật đã làm được điều này một cách bình an và êm thắm, Ngài không những tạo ra sự bình đẳng thật sự trong Giáo đoàn của Ngài, mà còn dấy lên phong trào bình đẳng giai cấp một cách rộng rãi trong đời sống xã hội lúc bấy giờ.

Về phương diện bình đẳng, Đức Phật đã thâu nhận vào Giáo đoàn tất cả mọi thành phần trong xã hội, miễn là người đó thành tâm và có ý chí tìm cầu đạo giải thoát, điều này đã khiến cho giai cấp quí tộc đương thời rất ngạc nhiên, sửng sốt; đồng thời sự việc này cũng đã khiến cho giai cấp Bà La Môn bất mãn và vô cùng phẫn nộ.

Trong nội dung giáo lý mà Đức Phật thuyết giảng lúc đó, Ngài không chỉ công khai tuyên bố quyền bình đẳng trong đời sống con người, mà trên thực tế Ngài còn đối xử một cách hoàn toàn bình đẳng đối với tất cả mọi người, dù đó là những người nô lệ bần cùng đói khổ.

Khởi đầu sự kiện đặc biệt này là việc Đức Phật đã chấp thuận cho người gánh phân Ni Đề (Nidà) được xuất gia và gia nhập Giáo đoàn. Vì Ngài quan niệm, tất cả mọi con người sống trên thế gian này đều đáng được trân trọng như nhau, và Ngài đã thể hiện sự tôn trọng đó đối với tất cả thành phần trong đời sống xã hội bấy giờ. Xuất phát từ việc thấu hiểu nỗi đau khổ tột cùng của những người nô lệ, do bị xã hội bỏ rơi và chà đạp, họ rất mặc cảm và thiếu tự tin, nên Đức Phật đã không ngồi chờ đợi họ đến với Ngài, mà Ngài đã chủ động tìm đến với họ, để chỉ ra cho họ biết họ cũng là một con người như bao con người khác, họ cũng có khả năng vượt lên số phận và tu tập theo chánh pháp để đạt đến trạng thái giác ngộ giải thoát.

Trong lịch sử Phật giáo ghi lại rằng, do quá mặc cảm bởi thân phận hạ đẳng nhiều đời, nên chàng gánh phân Ni Đề cố tình tránh mặt Đức Phật, người thanh niên tội nghiệp này đã thưa với Tôn giả A Nan là anh ta không thể nào xuất gia được vì xuất thân từ tập cấp Thủ Đà La hạ tiện thấp hèn, và nhờ Tôn giả A Nan trình thưa lại với Đức Phật như vậy.

Thế nhưng Đức Phật đã quyết tâm tìm mọi cách để gặp được Ni Đề (Nidà). Trên đường đi qua chỗ mà Ni Đề gánh phân thường dừng lại nghỉ chân, Đức Phật đã bảo với Tôn giả A Nan là cứ đi thẳng về phía trước, còn Ngài thì ngồi đợi. Khi thấy Ni Đề sắp đi ngang qua chỗ mình ngồi, Đức Phật chủ động đứng dậy và tiến đến đứng ngay trước mặt Ni Đề. Sự xuất hiện đột ngột của đấng giác ngộ, đã làm cho Ni Đề vô cùng bối rối, tuy nhiên Đức Phật đã nhẹ nhàng gọi ngay tên của anh ta với một cử chỉ rất thân thiện trìu mến, đồng thời hỏi anh ta có muốn xuất gia theo học giáo pháp của Như Lai hay không? Lần này được gặp Đức Phật, Ni Đề vừa quá vui mừng sung sướng lại vừa mặc cảm xót xa cho thân phận thấp hèn hạ liệt của mình, sau một hồi bình tĩnh suy nghĩ, Ni Đề đã thưa với Đức Phật là anh ta không thể nào xuất gia theo học Phật pháp được vì anh là thành phần nô lệ. Sau khi im lặng lắng nghe người gánh phân giải bày thân phận của mình, Đức Phật mới nói cho Ni Đề biết, anh cũng là một con người, cũng co giá trị như bao người khác và khuyên anh không có gì để phải xấu hổ hay mặc cảm bởi xuất thân hay nghề nghiệp của mình. Đồng thời Đức Phật cũng thông báo cho Ni Đề biết là trong Giáo đoàn của Ngài không hề có giai cấp, nếu muốn xuất gia tu tập thì Ngài sẵn sàng tiếp nhận.

Page 108: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

108

Được sự mở lòng đón nhận của Đức Phật và nhất là sau khi được nghe Ngài thuyết pháp, Ni Đề (Nidà) đã xin Đức Phật cho phép anh xuất gia và gia nhập Giáo đoàn, và điều này tất nhiên là được Đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Trước sự kiện một tiện nhân nô lệ như Ni Đề được xuất gia, lại được sinh hoạt chung với những người Tăng sĩ vốn là những vương tôn công tử thuộc tập cấp Sát Đế Lợi và cả những Tăng sĩ vốn là những Sa môn Bà La Môn đương thời, đã khiến cho giới quý tộc đương quyền vô cùng bất mãn và cả giới Bà La Môn cũng cực kỳ phẫn nộ.

Trước sự kiện có thể nói là quá hy hữu này, vua BaTư Nặc (Pasenadi), một vị vua rất sùng kính Đức Phật cũng đến gặp Ngài để bày tỏ sự bất bình của mình. Vua BaTư Nặc đã thưa với Đức Phật rằng, nếu làm như vậy sẽ gây nên sự ô nhục cho hàng Sa Môn và thật là khó khăn cho sự cung kính, lễ bái của hàng vua chúa. Bởi từ xưa đến nay, chưa từng có một vị vua, quan hay một đạo sĩ Bà La Môn nào lại cúi đầu chào hỏi, lễ bái một vị Tỳ kheo xuất thân từ nô lệ cả. Đợi cho vua BaTư Nặc giải bày nỗi bức xúc xong, Đức Phật đã ôn tồn trả lời nhà vua rằng, Phật pháp có khả năng dung chưa hết mọi tầng lớp xã hội, mọi con người trong xã hội, điều này cũng giống như đại dương có khả năng chứa đựng được nước từ tất cả các nguồn khác nhau chảy về. Trong Kinh Tiểu bộ I, đã ghi lại lời dạy của Đức Phật về sự bình đẳng trong Giáo đoàn của Ngài như sau: “Phàm các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunà, sông Aciracati, sông Sarabhù, sông Mahi, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ trước của nó, và trở thành biển lớn. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, có bốn tập cấp này, Bà La Môn (brahmin), Sát Đế Lợi (Ksatriya) Phệ Xá (Veisya), Thủ Đà La (Sudra), khi gia nhập vào chúng Tỳ kheo, liền bỏ tên họ trước, chúng trở thành những Sa Môn Thích tử”.

Nói đến cách ứng xử của Đức Phật đối với những người cùng khổ, chắc có lẽ quý Phật tử cũng đã nghe qua câu chuyện Đức Phật hóa độ người thợ hớt tóc trong thành Ca Tỳ La Vệ, đây cũng là một câu chuyện cảm động, thể hiện tình yêu thương bình đẳng, đồng thời nêu bật cách ứng xử của Ngài đối với những người có thân phận thấp hèn trong đời sống xã hội là hết sức cảm thông, ân cần, gần gũi để giáo hóa.

Theo kinh tạng Pali ghi lại, trong dịp trở về kinh thành Ca Tỳ La Vệ, thăm phụ hoàng lần cuối trước khi Tịnh Phạn Vương băng hà, Đức Phật đã gặp người thợ hớt tóc cũng thuộc dòng họ Thích Ca (Sakya) có tên là Ưu Ba Ly (Upàli) và tại nơi đây Ngài đã khuyến khích ông xuất gia. Với tâm trạng cũng đầy mặc cảm như những người có thân phận thấp hèn, nên ông rất do dự, tuy nhiên trước nghĩa cử ân cần gần gũi, tràn đầy sự cảm thông chia sẻ, nhất là cách ứng xử tôn trọng và bình đẳng của Đức Phật đã khiến người thợ hớt tóc này dần dần lấy lại sự tự tin, cuối cùng thì Ưu Ba Ly (Upàli) cũng đã xin Đức Phật xuất gia và gia nhập Giáo đoàn. Được Đức Phật tận tình giáo hóa, hướng dẫn về giới luật, và nhờ sự tinh tấn nỗ lực tu hành của bản thân, nhất là rất chăm chú về giới luật, nên chỉ trong một thời gian ngắn, Ưu Ba Ly (Upàli) đã đắc quả A La Hán. Sự nỗ lực tu tập và chuyên chú vào giới luật của Tôn giả Ưu Ba Ly (Upàli) được Đức Phật nhiều lần tán dương khen ngợi, nên từ đó được mọi người trong Giáo đoàn kính nể và tôn vinh là bậc thượng thủ về giới luật.

Từ việc Đức Phật khuyến khích người thợ hớt tóc Ưu Ba Ly (Upàli) xuất gia tu học, đến việc Tôn giả Ưu Ba Ly (Upàli) chứng quả A La Hán và trở thành một trong mười đại đệ tử nổi tiếng của Đức Phật, chúng ta thấy Đức Phật rất tinh tường trong việc nhìn người và rất khéo léo trong việc giáo hóa cứu độ chúng sanh. Qua đó chúng ta cũng thấy được rằng, Ngài rất bình đẳng, luôn tôn trọng tất cả mọi thành phần trong xã hội, vì đối với Đức Phật, trong Giáo đoàn của Ngài không hề có sự thấp hèn hay cao quí, giàu sang hay cùng khổ, bởi những điều này hoàn toàn vô nghĩa đối với Ngài, theo Ngài thì chỉ có hành động, suy nghĩ và lời nói của mỗi cá nhân mới là thước đo để có thể xác định được là họ cao thượng hay thấp hèn mà thôi. Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) Đức Phật đã tuyên bố điều này một cách rõ ràng và dứt khoát như sau: “Này các Tỳ Kheo, các chúng sanh là chủ của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, là bà con của nghiệp, là chỗ nương tựa của nghiệp. Phàm họ làm nghiệp gì, thiện hay ác, họ là những kẻ thừa tự của nghiệp ấy”.

Thật vậy, quan niệm cũng như cách ứng xử của Đức Phật rất rõ ràng, Ngài không hề có sự phân biệt khi đối xử bất cứ ai, đặc biệt là Ngài luôn trân trọng với những người nỗ lực và cố gắng trên con đường hành thiện. Điều này đã được minh chứng trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) khi Đức Phật trả lời một vị Bà La Môn (Brahmin) về xuất thân của Ngài: “Này Bà La Môn, ta không nói tốt hơn vì sinh trong một gia đình cao quý. Này Bà La Môn, ta không nói xấu hơn vì sinh trong một gia đình cao quý”.

Page 109: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

109

Thời Đức Phật tại thế, việc sinh sống của chư vị Tỳ kheo trong Giáo đoàn chủ yếu là khất thực, điều này vừa là truyền thống của Sa Môn, đồng thời cũng là qui định của Giáo đoàn, tạo điều kiện cho quần chúng gieo hạt giống vào ruộng phước điền của Tam Bảo, nhằm đem lại phước lành trong chốn nhân gian. Đức Phật quy định chư vị Tỳ kheo sinh sống bằng pháp khất thực, vì thông qua việc đi hành khất hằng ngày, Đức Phật tạo điều kiện để chư vị Tỳ kheo được tiếp xúc với mọi tầng lớp nhân dân, qua đó cũng là phương tiện tốt nhất để thực hành pháp bình đẳng.

Trong Giáo đoàn của Đức Phật, chư vị Tỳ kheo đa phần là người của của tập cấp Bà La Môn và Sát Đế Lợi, do vậy Đức Phật thường xuyên nhắc nhỡ hàng đệ tử của mình phải luôn thể hiện tâm bình đẳng bằng thái độ tôn trọng tất cả mọi người, bởi Ngài phòng xa những vị còn nặng tâm tham đắm lợi dưỡng ẩm thực sẽ chê bai món ăn đạm bạc của những người nghèo khổ, điều này sẽ làm tổn thương họ khi họ thành tâm cúng dường. Sở dĩ như vậy là vì trong Giáo đoàn của Ngài thời bấy giờ không phải ai cũng chứng đắc quả Thánh, mà trong đó, còn có không ít người vô minh phiền não chưa đoạn diệt, chính vì vậy mà trong kinh tạng Pali, Đức Phật thường xuyên dạy các vị Tỳ kheo là không được từ chối bất cứ món nào mà người đời thành tâm dâng lên cúng dường Tăng chúng. Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) đã thuật lại sự kiện Trưởng lão Ma Ha Ca Diếp (Maha Kassapa) đã ăn phải một lóng tay của một người cùi, vì trong lúc người cùi này thành tâm cúng dường, thì một lóng tay bị đứt ra và rơi vào bình bát. Sau khi trải qua sự cố hy hữu này, Trưởng lão Ma Ha Ca Diếp (Maha Kassapa) đã kể thuật lại sự kiện đặc biệt này bằng một bài kệ như sau:

“Từ trú xứ ta bình an bước xuống. Vào thành khất thực y pháp thong dong. Ta chậm rãi đến gần người bệnh hũi. Đang ăn cơm bên vệ đường kia. Người bệnh hũi với bàn tay lở loét. Rất thành tâm bỏ vào bát muỗng cơm. Cũng lúc đó một lóng tay rụng xuống”.Có thể nói, sự bình đẳng và tôn trọng mọi người là một đặc tính cao quý trong cách

ứng xử của Đức Phật, trong vai trò lãnh đạo Giáo đoàn, Đức Phật đã dạy chư vị Tỳ kheo là không nên phân biệt giàu nghèo với những người xung quanh hay đối xử thân sơ trong quan hệ cuộc sống, nhất là trong những thời khất thực hằng ngày, hễ người ta dâng cúng món gì thì chư vị Tỳ kheo hãy nhận món đó, chư Tăng nhận cúng dường là nhận ở tâm thành, chứ không phải nhận ở vật thực, cho nên phải hết lòng trân trọng. Từ việc được Đức Phật giáo dục thường xuyên, nên hàng đệ tử của Ngài cũng luôn thể hiện sự tôn trọng mọi người một cách tuyệt đối bình đẳng. Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) có thuật lại một sự kiện: Một lần nọ, Tôn giả A Nan (A Nanda) vì khát nước, nên đã đến xin nước của một cô gái thuộc tập cấp tiện dân. Điều này đã khiến cho cô gái hốt hoảng và bối rối không biết ứng xử ra sao. Bởi theo luật thời đó, người thuộc tập cấp hạ tiện không được đi trước người thuộc tập cấp cao quý, không được bước lên chiếc bóng của người tập cấp cao quý, không được đọc kinh, không được sử dụng nước ở những giếng mà tập cấp cao quý thường dùng... Nếu phạm vào những luật này, những người tập cấp hạ tiện sẽ bị xử phạt rất nặng. Do vậy khi Tôn giả A Nan (A Nanda) đến chỗ cô xin nước, mà cô biết xuất thân trước đó của Tôn giả là một hoàng tử, điều này khiến cô rất lo sợ. Tuy nhiên trước từ tâm và sự tôn trọng và bình đẳng một cách tuyệt đối của Tôn giả A Nan, đã làm cho cô gái bớt kinh sợ. Sau một hồi trấn tĩnh, cô gái đã trình thưa với Tôn giả A Nan là cô không thể đến gần Tôn giả được, bởi vì cô sợ sẽ làm ô uế sự thanh cao của bậc quyền quý. Khi đó Tôn giả A Nan (A Nanda) nhẹ nhàng bảo cô gái rằng: “Thưa cô, tôi chỉ xin nước để uống cho đở khát, chứ không hề xin tập cấp của cô”. Qua câu chuyện này chúng ta có thể nói rằng, cách ứng xử của Đức Phật cũng như của những đệ tử của Ngài đối với những người cùng khổ là không hề có một khoảng cách nào, ngược lại, rất gần gũi, ân cần, và ở đó tràn đầy tình yêu thương, sự cảm thông chia sẻ...

CHƯƠNG SÁU

CÁCH ỨNG XỬ CỦA ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI PHỤ NỮ

Page 110: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

110

Trong xã hội Ấn Độ cách đây trên 2550 năm, nếu thân phận của người nô lệ thuộc tập cấp Thủ Đà La, bị xem là thấp hèn hạ liệt, thì thân phận của những người phụ nữ cũng vướng phải những hệ lụy do tình trạng bất bình đẳng về mặt giới tính gây ra. Nếu như những người nô lệ bị khinh khi, chà đạp; thì những người phụ nữ ngoài hai tập cấp cao quý như Bà La Môn và Sát Đế Lợi ra, họ cũng bị xã hội xem như là một món hàng mua bán, hoặc là món quà để biếu xén. Chính sự bất bình đẳng nam nữ đó đã tạo nên trong lòng Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhattha) một dấu hỏi lớn về thân phận của người phụ nữ.

Thật ra, khi chưa thành đạo, Thái tử Tất Đạt Đa đã có quan niệm bình đẳng trong đời sống con người và luôn tôn trong mọi người trong giao tiếp. Cho đến khi đắc đạo, với trí tuệ siêu việt của một bậc thượng nhân giác ngộ, chứng được thực tướng nhân sinh vũ trụ, Đức Phật đã thể hiện sự bình đẳng và tôn trọng con người trong ứng xử của Ngài một cách táo bạo hơn, nhất là đối với tập cấp nô lệ và người phụ nữ. Đức Phật đã công khai tuyên bố rằng “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”, như vậy quan điểm của Ngài rõ ràng là mọi con người trên thế gian này đều có quyền bình đẳng như nhau và hành động của Ngài đã đi thẳng vào cuộc sống, mà cụ thể là Ngài đã đối xử một cách tôn trọng và bình đẳng đối với những người phụ nữ đương thời.

Nói như vậy có nghĩa là tư tưởng và việc làm của Ngài đã đụng chạm mạnh mẽ đến quyền lợi và truyền thống phân cấp xã hội vốn có từ lâu đời tại Ấn Độ. Chính nhờ trí tuệ siêu việt và tình thương chúng sanh vô bờ bến, cùng với sự tin tưởng và kỳ vọng vào những giá trị cao quí vốn có trong mỗi con người “đều có khả năng thành Phật”, là động cơ để Ngài thực hiện cuộc cách mạng hy hữu về nhân phẩm con người, trong điều kiện xã hội Ấn Độ đương thời có nhiều khó khăn bất cập như vậy mà Ngài đã thành công mỹ mãn, điều này đã làm cho nhân cách văn hóa của Đức Phật trở nên vĩ đại và lung linh bất tử.

Chúng ta muốn tìm hiểu quan điểm cũng như cách ứng xử của Đức Phật về phụ nữ, trong điều kiện hiện nay, thiết nghĩ chỉ có thể tìm hiểu qua tạng kinh điển Pali của Phật giáo Nam tông, đồng thời cũng có thể nhìn vào vai trò vị trí của người phụ nữ trong sinh hoạt truyền thống của Giáo hội Phật giáo hiện hành. Tuy nhiên để tìm hiểu cách ứng xử của Đức Phật đối với phụ nữ, trước hết chúng ta cũng cần biết qua là Ngài đã hiểu biết về người phụ nữ như thế nào.

Thông qua lịch sử Phật giáo, chúng ta dễ dàng thấy được, gần như suốt cuộc đời của Ngài chỉ có một lần duy nhất mà Ngài phải đối mặt với tâm lý vốn phức tạp của người phụ nữ, đó là lần bắt buộc Ngài phải lấy vợ theo ý của vua cha Tịnh Phạn. Tuy nhiên, một diễm phúc rất lớn của Thái tử Tất Đạt Đa, đó là, công chúa Da Du Đà La vốn là một thiếu nữ vừa nết na thùy mỵ, vừa thông minh mẫn tuệ, vốn cảm thông sâu sắc và ngấm ngầm đồng thuận với ý chíxuất gia cầu đạo giải thoát cao thượng của Ngài, do vậy khi thành vợ thành chồng, Ngài đã không phải bận tâm đối phó hay cần nhiều thì giờ để chia sẻ tình cảm hôn nhân cũng như tìm hiểu tâm lý. Ngoài việc tiếp xúc gần gũi với công chúa Da Du Đà La trong nhân duyên thế tục, thì hầu như không có một nhân duyên thế tục nào khác để Ngài tiếp xúc gần gũi chia sẻ tình cảm thân sơ với người nữ, ngay cả với di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề hay những nữ nhân theo hầu Ngài, thì Ngài gần như không quan tâm nhiều đến họ. Sở dĩ như vậy là vì phần lớn thời gian, Ngài dành hết cho việc học tập, luyện võ, tìm hiểu triết lý tư tưởng giải thoát, và sau đó là xuất gia tu hành cho mãi đến ngày Ngài thành đạo. Chính vì vậy mà việc Đức Phật thể hiện sự tôn trọng, bình đẳng với người phụ nữ một cách trí tuệ linh hoạt, khôn ngoan khéo léo, và không hề vướng mắc điều gì, quả là một điều khó hình dung ra được, điều này đã khiến nhiều nhà nghiên cứu Phật giáo phải ngạc nhiên, thán phục.

Tuy nhiên thông qua kinh tạng Pàli, chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều đọan kinh văn diễn bày các cuộc đối thoại giữa Đức Phật và đệ tử của Ngài với phụ nữ, hoặc những nhận xét thảo luận của Đức Phật hay đệ tử của Ngài về những người phụ nữ. Đó là những cuộc đối thoại xoay quanh những vấn đề then chốt trong đời sống của nữ giới. Nhân đó chúng ta có thể khẳng định rằng Đức Phật là người thật sự quan tâm sâu sắc đến phụ nữ, và là người hiểu rõ những đặc tính tâm lý của phụ nữ hơn ai hết. Điều làm cho nhân loại vô cùng kính ngưỡng trân trọng biết ơn Ngài là sự quan tâm sâu sắc của Ngài đến người phụ nữ là để Ngài thuận lợi trong việc giáo hóa những đối tượng có đời sống tâm lý tương đối phức tạp, và họ cũng là đối tượng đã có công rất lớn trong việc sản sinh ra những công dân ưu tú cho thế gian và những bậc hiền Thánh cho đời sống tâm linh thiêng liêng cao quý của nhân loại.

Page 111: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

111

Như chúng ta biết, Đức Phật đã dạy rằng, vô minh và ái dục là nguồn gốc gây ra khổ đau luân hồi sanh tử, mà nói đến ái dục, tức là nói đến quan hệ tình cảm luyến ái giữa nam và nữ. Trong đời sống thế gian, thì người nữ là một phần quan trọng tạo nên nghiệp chướng sanh tử luân hồi, nói như vậy không có nghĩa là chúng ta đỗ thừa hết cho sự có mặt của người phụ nữ trong đời sống thế gian, nhưng trên thực tế, thì bất cứ hành giả nào muốn tu tập theo Phật pháp để thoát khỏi luân hồi sanh tử thì rõ ràng là phải “đoạn ái diệt dục” hay “nghiệp tận tình không”, mà để đạt được điều này thì hành giả phải tránh xa ái dục, có nghĩa là giữa người nữ và người nam nhất định không được quann hệ ái tình hay sanh tâm luyến ái lẫn nhau. Chính vì lãnh sứ mạng trọng trách giáo hóa cứu độ chúng sanh trên thế gian này ra khỏi luân hồi sanh tử, nên Đức Phật phải là người hiểu rõ tâm lý của người phụ nữ, bởi có như vậy thì Ngài mới có thể giáo hóa hàng tứ chúng đệ tử của mình một cách hoàn hảo được.

Sự hiểu biết của Đức Phật về vấn đề quyến rũ muôn đời của phụ nữ đối với đàn ông không dừng lại ở một vài biểu hiện thường tình mà sự quyến rũ đó giống như một ma lực mạnh mẽ nhất khiến cho người đàn ông khó có thể cưỡng cầu hay kèm chế cảm xúc. Về vấn đề này, trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya), Đức Phật đã khẳng định với các đệ tử của mình về sức cám dỗ trước vẻ đẹp và những tính chất đặc thù của đàn bà và Ngài đã dạy như sau: “Này các Tỳ kheo, ta không thấy một hình sắc nào làm tâm trí đàn ông say đắm mê muội như hình sắc đàn bà. Ta không thấy thứ âm thanh, hương, vị, xúc nào mà làm tâm trí đàn ông say đắm mê muội như âm thanh, hương, vị, xúc của đàn bà”, những nhận định này của Đức Phật quả thật đã ứng với trường hợp Tôn giả A Nan bị con gái của Ma Đăng già mê hoặc. Do nhận định rất rõ về khả năng cám dỗ của người phụ nữ đối với đàn ông, và mối nguy hại đến đạo pháp, trong quan hệ giữa nam và nữ tu sĩ trong Giáo đoàn hay giữa các vị Tỳ kheo với các nữ thí chủ, nên trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) Đức Phật đã chỉ ra vấn đề này cho các vị Tỳ kheo thấy như sau: “Do thấy nữ nhân, nên có liên hệ, do có liên hệ nên có sự thân mật, do có sự thân mật nên dễ sanh tà tâm, khi đã có tà tâm thì sẽ chờ cơ hội. Và khi đó sẽ không có hoan hỷ sống đời phạm hạnh hay sẽ rơi vào trong ô nhiễm, hay từ bỏ giới luật, hay sẽ lùi lại và trở về đời sống thế tục”. Cũng trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya), Đức Phật đã nói với các đệ tử của Ngài về tâm trạng lo âu và thương nhớ của người đàn bà đối với người đàn ông mà họ yêu thương như sau: “Người đàn bà, này các Tỳ kheo, thao thức đến đàn ông, ban đêm ngủ ít thức nhiều”...

Cùng với việc nhận ra sức cám dỗ ác liệt ở nơi người nữ đối với nam nhân, Đức Phật còn đánh giá sự hiện diện quan trọng và vai trò đóng góp rất cao của người nữ trong đời sống xã hội, chẳng hạn như trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) Đức Phật đã thuật lại việc trao đổi giữa Ngài với các trai làng về sự thịnh suy của nước Bạt Kỳ (Vajjì) có liên quan đến giá trị của người phụ nữ như sau: “Này các chàng trai trẻ, khi nào dân Bạt Kỳ tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ các bậc trưởng lão Bạt Kỳ và nghe theo lời dạy của những vị này, thời dân Bạt Kỳ sẽ được lớn mạnh không bị suy giảm. Này các chàng trai trẻ, khi nào dân Bạt Kỳ không bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Bạt Kỳ phải về sống với mình, thời dân Bạt Kỳ sẽ lớn mạnh, sẽ không bị suy giảm”.

Như chúng ta đã biết, về mặt phong cách và ngoại hình đã giúp cho sự giáo hóa chúng sanh của Đức Phật gặp nhiều thuận lợi, bởi Ngài xuất thân từ thành phần quý tộc, với tướng hảo quang minh, cốt cách thanh cao, nhạo thuyết biện tài... nên Ngài dễ dàng tiếp cận và chiêu cảm lòng người. Cách ứng xử của Đức Phật đối với hàng quý tộc, với phong cách của một bậc đại trượng phu giác ngộ, Ngài luôn tự tin mỗi khi được các đấng quân vương thỉnh mời đến để chia sẻ trong những thời pháp lạc. Cách ứng xử của Đức Phật đối với hàng cùng khổ, cũng với phong cách của một bậc Đại Giác, nhưng Ngài trở nên gần gũi, ân cần, tràn đầy lòng từ bi để cảm thông chia sẻ. Còn đối với phụ nữ thì cách ứng xử của Đức Phật sẽ thể hiện ra sao?

Thật ra, Đức Phật cũng là một con người như bao con người khác trên thế gian này, ngoài những đặc tính cao quý rất riêng của một đấng giác ngộ, thì Ngài là một người đàn ông cực kỳ thông minh và nhạy cảm, do vậy khi nói về sự hiểu biết của Đức Phật về phụ nữ, thì chúng ta sẽ bắt gặp ở Ngài sự tinh tường sâu sắc, đồng thời cũng sẽ thấy được Đức Phật là một nhà tư tưởng thật sự tự do và cởi mở, chẳng hạn Ngài đã không ngần ngại khi đem chuyện kinh nguyệt của phụ nữ ra để dẫn dụ cho quan điểm chống phân biệt giai cấp của mình. Nhân đây chúng tôi xin kể qua một câu chuyện ngắn gọn, có liên quan đến sự tinh tường của Đức Phật về phụ nữ, điều này đã được thuật lại trong Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikàya), tóm lược như sau: -Những đạo sĩ Bà La Môn thường cho rằng họ được sinh ra từ miệng của đấng Phạm

Page 112: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

112

Thiên, nên họ tự cho mình là những bậc tôn quý nhất ở thế gian. Trong sự tự tin và khẳng định về sự cao quí tối ưu của tập cấp Bà La Môn (brahmin), một Sa môn Bà La Môn đã nói với Đức Phật về sự cao quý đó. Tuy nhiên Đức Phật đã không phủ nhận hay xác nhận quan điểm tư tưởng của đạo giáo này, mà Ngài đã trả lời lại một cách tinh tế và sâu sắc rằng: “Này Vàsettha, các nữ Bà La Môn, vợ của các Bà La Môn ấy được thấy có kinh nguyệt, có mang thai, có sinh con, có cho con bú”. Với câu trả lời như vậy, chúng ta thấy rằng, Đức Phật đã thông qua diễn biến thực tế trong đời sống con người, cũng như sự hiểu biết của Ngài về người phụ nữ, nên đã trả lời rất thẳng thắn với vị đạo sĩ Bà La Môn và công khai phê phán chủ nghĩa tư tưởng thần học của đạo Bà La Môn, bởi những ảo tưởng hoang đường của họ.

Cách đây trên 2550 năm, khi mà các đạo giáo Bà La Môn còn thạnh trị trong đời sống tâm linh của người dân Ấn Độ, vậy mà Đức Phật đã mạnh dạn đem chuyện kinh nguyệt, chuyện sinh con, chuyện cho con bú của phụ nữ vào trong các cuộc đàm thoại đạo lý của mình. Khi nói ra điều này, tất nhiên là Ngài đã vấp phải sự phản kháng đố kỵ của nhiều mối đạo khác nữa chứ không hẳn chỉ là những người theo Bà La Môn giáo. Thậm chí cho mãi đến ngày nay, trên thế giới này vẫn còn có những tôn giáo cấm không cho phụ nữ bước vào đền thờ của họ, vì họ quan niệm người nữ rất ô uế, nếu để họ bước vào đền thờ thì sẽ mang tội với các đấng thần linh.

Mặc khác, về quan điểm bình đẳng nam nữ của Đức Phật rất minh bạch rõ ràng và đầy thuyết phục, khó có thể phủ nhận được. Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikàya) thuật lại một câu chuyện như sau: “Có một lần khi đang hầu chuyện với vua nước Kiều Tất La thì quần thần báo tin với nhà vua là chánh hậu vừa hạ sinh một vì công chúa. Vua nghe tin báo này thì lộ vẻ mặt không vui. Thấy vậy, Đức Phật đã trình bày quan điểm của mình với nhà vua như sau: “Một em bé gái, tâu đại vương, còn quí hơn một đứa con trai, lúc trưởng thành em có thể là người đức hạnh vẹn toàn, biết kính nể và tôn trọng cha mẹ chồng, một người vợ hiền, đứa con mà sau này em sẽ mang vào lòng có thể làm nên đại sự và trị vì một vương quốc vĩ đại, đúng vậy, đứa con của một người vợ cao thượng sẽ trở thành một người hướng đạo chân chính cho một quốc gia”. Chúng ta thấy rằng, ngay từ thời Đức Phật mà Ngài đã khẳng định về giá trị trí tuệ và khả năng cống hiến của một phụ nữ không thua gì một người đàn ông trong xã hội. Vì thế mà ngay từ thuở sơ khai thành lập Giáo hội, Ngài đã thâu nhận phái nữ vào trong hàng xuất gia giải thoát của Ngài. Tính bình đẳng của Đức Phật được Ngài khẳng định như sau: “ Do tạo tác, hành động mà người này trở thành kẻ cùng đinh, ngược lại, cũng do tạo tác và hành động mà người kia trở thành Bà La Môn”. Như vậy theo lời dạy này, chúng ta đừng bao giờ sợ rằng xã hội bất công với chúng ta, đừng sợ rằng chúng ta cống hiến nhiều mà thành quả thu gặt không được bao nhiêu, vì đây là sự bình đẳng hiển nhiên giữa nhân và quả đối với tất cả mọi con người trên cuộc đời này. Nếu chúng ta cống hiến , phục vụ nhiều thì chúng ta sẽ được đãi ngộ nhiều, bằng ngược lại. Nhân đây cũng xin nói thêm rằng, nói về tính bình đẳng, thì Hồ Chủ Tịch, người kết tinh những tinh hoa tư tưởng của dân tộc Việt Nam, đã từng tuyên bố quyền bình đẳng tất yếu trong đời sống con người trong bảng Tuyên Ngôn Độc Lập lịch sử, điều này đã khiến cho tất cả những người yêu chuộng hòa bình và bình đẳng trên thế giới hầu như ai cũng đều trân trọng và ngưỡng mộ. Có thể nói rằng đây là sự bắt gặp giữa cái nhìn tuệ giác của Đức Phật và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thật ra, bằng tuệ giác của một đấng giác ngộ, Đức Phật đã tuyên bố một thông điệp ngắn gọn đầy tính nhân bản: “Không hề có giai cấp trong nước mắt cùng mặn và dòng máu cùng đỏ”. Như chúng ta đã biết, nước mắt tượng trưng cho đau khổ, không chỉ thường dân mới chịu đau khổ mà vua chúa cũng không thể tránh khỏi khổ đau. Và dòng máu tượng trưng cho nguồn sống của tất cả con người, không chỉ có vua chúa mới có quyền tận hưởng cuộc sống hạnh phúc, mà dân đen cũng có quyền được hưởng hạnh phúc vì họ cũng có dòng máu đỏ như nhau những người quyền quý cao sang. Đây chính là nền tảng chân lý mà Đức Phật đã thể hiện cách ứng xử tôn trọng, bình đẳng đối với tất cả mọi thành phần trong đời sống con người.

Đối với Đức Phật, một nhân cách cao thượng trong đời sống nhân loại, một con người có trí tuệ và tình thương bao la; vốn đã có quan niệm bình đẳng, tôn trọng mọi thành phần xã hội, tuy nhiên Ngài còn là một bậc đạo sư thông thái với tất cả đặc tính tâm lý của từng đối tượng trong đời sống con người, vậy trong cách đã đối xử với nữ giới của Ngài có gì đặc biệt?

Nói về ứng xử của Đức Phật đối với nữ giới, có thể nói rằng, cách ứng xử của Đức Phật đối với bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề là tương đối khắt khe, cương quyết và nghiêm khắt; điều này đã gây tranh cải rất nhiều trong giới nghiên cứu Phật học. Sở dĩ gây tranh cải là vì bà Ma

Page 113: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

113

Ha Ba Xà Ba Đề là di mẫu của Ngài, đã có công nuôi dưỡng chăm sóc Ngài khi thân mẫu Ngài qua đời, hơn nữa, việc bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề cầu xin Ngài được xuất gia tu học và thành lập Giáo hội Tỳ kheo Ni là một thỉnh cầu tích cực và chính đáng, vậy thì tại sao Ngài lại một lòng từ chối, cương quyết không chấp thuận? Nếu chúng ta thận trọng quan sát mối quan hệ lúc này, chúng ta sẽ thấy đây là mối quan hệ trong đạo pháp, mối quan hệ giữa thầy và trò, hơn nữa đây là cách ứng xử đầy trí tuệ của một bậc giác ngộ đối với sự tồn vong của cả một mối đạo, chứ không đơn thuần chỉ là việc chấp thuận hay không chấp thuận trước một yêu cầu đầy thiện chí của một người đệ tử. Lịch sử Phật giáo ghi lại rằng, bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề đã ba lần thỉnh cầu Đức Phật cho bà được xuất gia theo Phật và được thành lập Giáo hội Tỳ kheo Ni, nhưng Đức Phật đều khướt từ trước yêu cầu này. Cho đến khi Tôn giả A Nan (Ananda) khéo léo chất vấn Ngài và thay mặt bà chí thành cầu xin, thì Đức Phật không thể làm gì khác hơn là chấp thuận. Tuy nhiên ngài đã ban hành Bát Kỉnh Pháp, được xem là những quy định cụ thể cho tất cả vị Tỳ kheo ni, nhằm giữ gìn và bảo vệ tương lai cho cả hai Giáo hội Tăng chúng và Ni chúng. Trong Luật Tạng (Cullavagga) đã ghi lời dạy của đức Phật đối với Tôn giả A Nan: "Những giới luật và Bát Kỉnh Pháp phải được tôn trọng, tuân hành và nghiêm túc thọ trì suốt đời, không được vi phạm dầu bất cứ trường hợp nào”. Sau đó Ngài dạy tiếp: -“Này A Nan, nếu mẫu hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề cam kết tuân theo tám trọng giới này thì hãy xem đây là lễ thọ giới của bà”. Qua đó chúng ta thấy rằng, việc để cho nữ giới xuất gia và thành lập Giáo hội là một việc vô cùng hệ trọng, nên không thể vì tình riêng mà xem nhẹ được. Về điều này thì nội dung trong Bát Kỉnh Pháp đã nói lên tất cả.

Trong mối quan hệ vô cùng đặc biệt này và trong cách ứng xử khắt khe nghiêm túc này, chúng ta nhận thấy Đức Phật vô cùng hiếu kính và luôn xem trọng bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề. Nói rằng Ngài rất hiếu kính với người di mẫu mà Ngài luôn mang trọng ân, bởi vì thông qua Bát Kỉnh Pháp, chúng ta mới thấy để làm một vị Tỳ kheo Ni suốt đời không phạm luật, quả là một việc không đơn giản chút nào, chính vì Ngài sợ người di mẫu kính yêu của mình không kham nỗi những giới luật và nguyên tắc khắt khe trong Giáo hội dành cho phái nữ nên Ngài đã ba phen từ chối. Còn nói rằng Ngài luôn xem trọng di mẫu của mình, là vì Ngài đã dành cho bà những thử thách về ý chí nghị lực đôi khi quá sức đối với nam giới, dù là nam giới mà thiếu sự quyết tâm tu hành giải thoát như bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề thì chắc gì vuợt qua nỗi. Ở đây nếu chúng ta chịu khó liên hệ đến kỹ nữ Am Ba La, đối với một người kỹ nữ có thân phận thấp hèn, đầy tự ti mặc cảm, thì Ngài phải ân cần cảm thông chia sẻ, chứ đâu thể thử thách một cách khắc nghiệt như đối với di mẫu của mình. Điều này càng chứng minh cho sự tôn trọng và đặt nặng kỳ vọng của Ngài vào sự thành tâm tu hành, quyết chí giải thoát của người mẹ kế mà Ngài rất mực kính yêu.

Qua cách ứng xử của Đức Phật đối với bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề, chúng ta càng nhận ra tâm đức từ bi bao la và trí tuệ tuyệt vời của Ngài, bởi Ngài tùy theo từng trường hợp hoàn cảnh, tùy theo từng căn cơ trình độ mà có ứng xử thích ứng để tất cả mọi người đều cùng được lợi lạc trên con đường tiến hóa và giải thoát. Chúng tôi nghĩ rằng, nếu không đủ niềm tin chánh tín chúng ta sẽ không thể nào nhận ra điều này và cũng dễ dàng ngộ nhận cách ứng xử của Ngài đối với những người có quan hệ ruột ra hay tình thâm cốt nhục.

Qua đó chúng ta có thể nhận thấy, cách ứng xử của Đức Phật đối với nữ giới là sự thấu hiểu và lắng nghe, Ngài lắng nghe bằng con tim yêu thương và trí tuệ của một bậc giác ngộ, và sự thấu hiểu tường tận nơi Ngài là một đặc tính rất riêng, gần như chỉ có ở bậc đạo sư giác ngộ như Đức Phật mới có. Ngài lắng nghe người phụ nữ tỏ bày điều gì, sanh tâm ý gì, là để Ngài tùy nhân duyên và căn cơ để Ngài giáo hóa. Thật ra, Đức Phật đã có nhiều cách ứng xử tùy thuận nhân duyên rất khéo léo, có khi Ngài rất cứng rắn dứt khoát như việc từ chối lời cầu xin thành lập Giáo hội Tỳ kheo Ni của bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề trong những lần đầu tiên, mặc dầu Ngài mang trọng ân đối với người phụ nữ đặc biệt này. Cũng có khi Ngài thể hiện sự mềm mỏng khoan dung độ lượng khi bị hoàng hậu Magandiỳa, vợ của vua Udena, trút cơn oán hận mà bà đã dồn nén bấy lâu vì chưa tìm được cơ hội trả thù, khi Ngài cùng đi với Tôn giả A Nan (Ananda) vào thành Kiều Thượng Di (Kosambi) khất thực... Chúng tôi nêu ra một vài trường hợp ứng xử của Đức Phật đối với phụ nữ trên đây, là để chứng minh rằng, Ngài hoàn toàn không hề có sự phân biệt và kỳ thị về nữ giới, mà đó là cách ứng xử cực kỳ thông minh trí tuệ của một bậc đại giác ngộ.

Còn tại sao Ngài lại công khai thừa nhận là phụ nữ cũng có khả năng trên mọi phương diện như đàn ông, đôi khi phụ nữ còn vượt trội đàn ông trong nhiều vấn đề? Thật ra, đây là nét

Page 114: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

114

tinh tế trong cách ứng xử của Đức Phật với người phụ nữ, bởi vì đây vừa là một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người, lại vừa là nhằm để khích lệ người phụ nữ xóa bỏ những mặc cảm tự ti trong đời sống, qua đó có thể tự tin đóng góp công sức nhiều hơn cho xã hội, nhất là tự tin trong sự tu hành để có thể giác ngộ giải thoát và nếu là nữ tu sĩ thì qua đó có thể đóng góp vào công cuộc hoằng hóa độ sanh cho Giáo hội. Và qua câu chuyện mà chúng tôi nêu ra trên đây về trường hợp Đức Phật đã ứng xử với bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề đã nói lên điều đó.

Trong cách ứng xử của Đức Phật đối với phụ nữ, chúng ta còn thấy Ngài thể hiện sự bình đẳng và tôn trọng thậm chí đối với cả những người làm nghề kỹ nữ, được xem là một nghề thấp hèn và bại hoại đạo đức trong xã hội. Trong kinh tạng Pali đã mô tả việc Đức Phật dùng bữa cơm trưa tại nhà nàng kỹ nữ Am Ba La (Ambapàli) như sau: “...Khi Đức Thế Tôn dùng cơm xong, tay Ngài rời bát, kỹ nữ Am Ba La (Ambapàli) lấy một chiếc ghế thấp khác rồi ngồi xuống một bên cạnh Ngài. Sau khi ngồi xuống, kỹ nữ Am Ba La (Ambapàli) đã thưa với Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, con xin cúng dường ngôi vườn này cho chúng Tỳ kheo và Đức Thế Tôn là vị đứng đầu”. Khi đó Đức Phật nhận lãnh ngôi vườn, rồi Ngài thuyết pháp cho kỹ nữ Am Ba La (Ambapàli), Ngài khích lệ tinh thần hướng thiện khiến cho kỹ nữ Am Ba La (Ambapàli) vô cùng phấn khởi, khiến tâm người kỹ nữ hoan hỷ. Thuyết pháp xong, Đức Phật đứng dậy ra về”. Cách ứng xử thật gần gũi, đầy sự cảm thông và lòng từ bi của Đức Phật đối với kỹ nữ Am Ba La, đã làm cho kỹ nữ Am Ba La (Ambapàli) vô cùng xúc động, bởi ngoài cha của nàng ra thì Đức Phật là người thứ hai trên thế gian này đã dành cho nàng một sự ưu ái và trân trọng đúng nghĩa là một con người. Cũng từ cách đối xử bình đẳng và tôn trọng của Đức Phật đã tác động sâu xa đến nội thức người phụ nữ này, giúp cho cô ta thêm tự tin và nỗ lực phấn đấu để trở thành một con người hoàn thiện.

Với chủ trương mọi người đều bình đẳng và đều có giá trị như nhau, đều xứng đáng được trân trọng như nhau, nên Đức Phật đã không hề phân biệt trong cách đối xử đối với bất cứ một ai. Nói về quan điểm bình đẳng về giới tính của Đức Phật, trong kinh tạng Pàli, hầu hết các câu chuyện kể về những cuộc hội kiến giữa Đức Phật và phụ nữ, đều chứng tỏ Ngài luôn tôn trọng phụ nữ và Ngài đối với họ cũng bình đẳng không khác đối với nam giới. Dù rằng, thời Đức Phật cũng có xuất hiện một số phụ nữ tà hạnh và nhiều ác tâm, họ ưa tranh cãi thị phi và ganh ghét đố kỵ nhau, bên cạnh đó còn có một số nữ nhân có thể lôi cuốn các vị Tỳ Kheo chưa đủ đạo lực ra khỏi con đường tu tập theo Phật pháp, tuy nhiên Đức Phật vẫn không hề lộ vẻ không vừa ý hay tỏ thái độ khinh chê coi thường, ngược lại Đức Phật còn công nhận nữ giới có khả năng thành đạt với kiến thức cao, Đức Phật cũng đã tán thán tuyên dương những người nữ có năng lực, hoặc vượt hẵn nam giới về lòng nhân từ và sự tận tụy tháo vát, cũng như đức hạnh hi sinh trong đời sống gia đình.

CHƯƠNG BẢY

CÁCH ỨNG XỬ CỦA ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI LOÀI VẬT

Như chúng ta đã biết, Đức Phật là đấng Đại Từ Đại Bi, suối nguồn yêu thương bao la mênh mông của Ngài, không chỉ giới hạn dành riêng cho con người mà Ngài còn trang trãi tấm lòng đối với cả muôn loài muôn vật. Nếu như những triết gia và các vị giáo chủ của một số đạo giáo quan niệm rằng, loài vật sinh ra chỉ với mục đích là để làm vật lễ tế thần và phục vụ cho nhu cầu sống của con người, thì Đức Phật lại cho rằng loài vật sinh ra trên thế gian này cũng là một sinh linh như bao sinh linh khác, nên chúng ta cần phải tôn trọng sự sống của chúng; hơn nữa, sở dĩ chúng phải đầu thai làm loài vật là do nghiệp lực nặng nề dẫn dắt, chúng rất yếu đuối và hoàn toàn phụ thuộc vào con người, cho nên nó cần được sự bảo vệ bằng tấm lòng từ bi thương yêu quảng đại của tất cả chúng ta. Tấm lòng yêu thương bao la của Đức Phật đối với loài vật quả thật vô cùng đặc biệt, nhất là Ngài đã thể hiện tình yêu thương đó một cách sâu sắc trong suốt quá trình sống, tu hành, hoằng pháp độ sanh của Ngài.

Kinh tạng Pali đã ghi nhận sự kiện một đàn cá bị các em nhỏ bắt lên từ một vũng nước cạn để vui chơi. Động lòng thương xót đàn cá khốn khổ bị các em nhỏ vô tư hành hạ, Đức Phật đã đến nói chuyện với các em, trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) đã ghi nhận lại sự việc này như sau:

Page 115: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

115

Đức Thế Tôn thấy các em thiếu nhi tại thành Xá Vệ (Sàvatthi) đang hành hạ những con cá nhỏ tại một vũng nước cạn, Ngài bèn hỏi:

“Này các con, các con có sợ đau khổ không? Các con không ưa thích đau khổ phải không?”.

Khi đó, các em thiếu nhi đã thưa với Đức Phật:“Thưa vâng, Bạch Đức Thế Tôn, chúng con sợ đau khổ, chúng con không ưa thích đau

khổ”.Đức Phật liền nói cho các em nhỏ nghe về nỗi đau khổ mà bầy cá phải đang gánh chịu

khi bị các em hành hạ, sau đó Ngài khuyên bảo các em không nên tiếp tục hành hạ bầy cá tội nghiệp đó nữa. Khi đó Đức Phật liền nói bài kệ:

“Nếu con kinh sợ đau khổ. Thì dù bất cứ chỗ nào. Chớ nên tạo ra nghiệp ác. Dù trước mặt hay sau lưng. Nếu con cứ làm, mãi làm. Các nghiệp ác đầy bất thiện. Con không thể thoát quả khổ. Dù trốn tránh bất cứ đâu”. Từ bài học “Ai cũng tham sống, ai cũng sợ chết, con người cũng tham sống sợ chết,

thì loài vật cũng tham sống sợ chết như nhau cả”, Đức Phật đã hóa giải nỗi đau khổ và sự oán kết mà các em thiếu nhi trong thành Xá Vệ đã tự ràng buộc mình với bầy cá nhỏ, như Ngài đã cứu vớt và hóa giải không biết bao nhiêu nỗi thống khổ và nhân duyên ràng buộc như vậy. Với tấm lòng đại từ đại bi của một bậc Đại Giác, Ngài đã thể hiện sự thương xót loài vật, tình yêu thương vô bờ bến và tôn trọng sự sống muôn loài và cách ứng xử của đấng giác ngộ đã theo chân Ngài xuyên suốt cuộc hành trình giáo hóa chúng sanh không mệt mõi.

Cách ứng xử tràn đầy tấm lòng đại từ đại bi bao la không ngằn mé của Đức Phật đối với loài vật đã để lại ấn tượng sâu đậm trong tư tưởng từ bi bình đẳng tôn trọng sự sống muôn loài trong thế giới con người. Lối ứng xử tình cảm vô cùng đặc biệt này đã thật sự để lại dấu ấn đạo đức từ bi hòa bình và nó ăn sâu vào nền văn hóa của bất cứ dân tộc nào theo đạo Phật. Và điều này đã được lịch sử nhân loại và lịch sử Phật giáo minh chứng và xác nhận. Thật vậy, ở bất kỳ một quốc gia nào, trong bất kỳ thời đại nào, khi bốn đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả cùng với tình thương bình đẳng, tôn trọng sự sống muôn loài của Đức Phật thấm nhuần vào đời sống, thì nơi ấy, phẩm giá con người cũng như sanh mạng của loài vật được tôn trọng. Đồng thời tình trạng ngược đãi hay xâm phạm đến sự sống của loài vật cũng xảy ra ít hơn so với những quốc gia không theo đạo Phật.

Cách ứng xử đối với loài vật của Đức Phật đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng bình đẳng trong sự sống và nếp sống từ bi của vua ADục (Asoka). Lịch sử Phật giáo ghi nhận việc vua ADục (Asoka) đã ra lệnh khắc lên đá những đạo dụ, thể hiện lòng từ bi của mình, như dụ số 14 đã viết như sau: “Tại khắp mọi nơi, ta đã cho dựng lên hai loại nhà thương, nhà thương cho người và nhà thương cho súc vật”.

Cách ứng xử bình đẳng trong sự sống và lối sống tôn trọng loài vật mà Đức Phật thể hiện, đã ảnh hưởng sâu sắc đối với Thánh Gandhi, một nhân cách văn hóa tiêu biểu của nhân loại trong thời cận đại.

Sự thương xót và hành động bảo vệ loài vật của Đức Phật đã tác động sâu sắc đến Thánh Gandhi, chính vị Thánh này đã ghi lại những ảnh hưởng đó trong các nhật ký của mình. Trước sự việc, khi thấy những người theo đạo Bà La Môn sắp đem một chú cừu non ra tế lễ, xót xa trước cảnh đau lòng đó, thánh Gandhi liền đến gặp người chủ tế để nói về sự đau đớn mà con cừu phải chịu đựng và khuyên vị chủ tế đừng giết con cừu tội nghiệp. Người chủ tế trả lời rằng: “Con cừu này không đau đớn gì đâu, tiếng ồn ào và tiếng trống ở đây đã làm tê liệt mọi cảm giác đau đớn của nó rồi”. Thánh Gandhi đã bày tỏ suy nghĩ của mình trước sự vô cảm và quá bất nhẫn của người chủ tế đó như sau: “Tôi không thể nghe lọt lỗ tai những lời ấy. Tôi bảo y rằng, nếu con cừu biết nói, thì nó sẽ van vái xin ông tha cho nó. Tôi nghĩ tục lệ tàn bạo ấy cấn phải sớm được chấm dứt. Tôi lại nghĩ đến những câu chuyện giáo hóa chúng sanh của Đức Phật, nhưng rồi tôi nhận thấy những công việc khuyên nhủ giáo hóa như thế này thật sự quá sức đối với tôi”. Thánh Gandhi đã ghi lại trong cuốn tự truyện của mình như vậy, và điều

Page 116: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

116

này đã minh chứng cho việc ảnh hưởng tư tưởng bình đẳng trong sự sống và tôn trọng sự sống muôn loài của Đức Phật là rất sâu xa và rộng khắp trong đời sống nhân loại.

Chính tư tưởng bình đẳng trong sự sống cũng như tôn trọng sự sống muôn loài của Đức Phật đã khiến mối liên hệ giữa Đức Phật với loài vật trở nên gắn bó và khắng khít. Lịch sử Phật giáo ghi lại rằng, tương truyền khi Đức Phật thành đạo, trời bỗng nổi trận mưa rất lớn, ngay khi đó có một con rồng (Long Vương) tên là Mucalinda hiện ra, nó lấy thân mình quấn quanh người Đức Phật bảy vòng, và dương cái đầu của mình lên làm tàng lọng che mưa gió cho Ngài. Dù câu chuyện này có phần mang tính huyền bí hoang đường, tuy nhiên nếu xét trên thực tế, thì câu chuyện này cũng thể hiện phần nào tính lịch sử, bởi vì trong rừng già Ấn Độ thời bấy giờ có rất nhiều loài vật, trong đó tất nhiên có các loài bò sát to lớn. Qua câu chuyện trên chúng ta có thể suy diễn rằng, có một con rắn lớn nào đó đã sống chung hiền hòa với Ngài trong rừng bấy lâu nay, trong cơn mưa to gió lớn, nó đã chui rúc vao lòng Ngài để tìm hơi ấm, và có lẽ nó cảm được lòng từ bi và sự hy sinh dấn thân cầu đạo giải thoát của Đức Phật, nên nó đã trườn lên cành cây cao để che mưa gió cho Ngài. Và điều này, đối với một người luôn tôn trọng sự sống muôn loài và tràn đầy tứ vô lượng tâm Từ Bi Hỷ Xả như Đức Phật thì cũng có thể xảy ra.

Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) đã ghi lại, khi nghe tin một vị Tỳ kheo bị rắn ở vườn của cư sĩ Cấp Cô Độc cắn chết, Ngài liền bảo các đệ tử của mình: “Nếu vị Tỳ kheo ấy, với tâm từ hướng đến bốn gia đình của vua các loại rắn, thời này các vị Tỳ kheo, vị ấy có thể không bị rắn cắn mà chết”. Ở đây chúng ta thấy rằng, sự mẫn cảm và thấu hiểu thế giới tự nhiên, muôn loài muôn vật, và cũng đã từng được loài rắn ứng xử thân thiện và tỏ lòng biết ơn Ngài, mà Đức Phật đã thường xuyên dạy bảo hàng đệ tử của mình, chỉ cần trãi lòng thương yêu đến với các loài vật, dù nó có độc tố trên cơ thể đến đâu đi nữa, thì nó cũng sẽ không bao giờ hại mình, trên góc độ khoa học hiện đại, người ta cũng đã chứng minh được điều này, bởi trên chiều kích tâm linh của lòng từ bi, nó sẽ sinh ra một từ trường có tác dụng gây thân thiện và cảm hóa lực vô cùng hiệu quả và thật sâu sắc.

Cũng chính sự mẫn cảm và thấu hiểu thế giới tự nhiên, muôn loài muôn vật, mà Đức Phật đã miêu tả một cách rành rẽ các đặc tính của chúng, trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) đã ghi lại sự hiểu biết của Đức Phật về thế giới động vật giống như là một nhà động vật học thực thụ: “Khi đàn bò lội sông, đầu đàn đi sai lạc, cả đàn đều đi sai, vì hướng dẫn sai lạc”, “Đào hang không ở, đào hang để ở, ở không đào hang, không đào hang không ở. Này các Tỳ kheo, có bốn loại chuột như vậy”, “Loại rắn có nọc độc nhưng không ác độc, loại ác độc nhưng không có nọc, loại có nọc độc và ác độc, loại không có nọc độc và không ác độc”. Ngoài ra Đức Phật còn mô tả cách ấp trứng của một con gà mẹ và cách tự chui ra khỏi vỏ của một con gà con, mà Ngài đã từng chăm chú quan sát. Điều rất đặc biệt và cũng vô cùng thú vị là Đức Phật đã đem sự hiểu biết thấu đáo của mình về loài vật, rồi đưa vào những thời pháp để so sánh, ví dụ, nhằm minh chứng và làm sáng tỏ thêm ý nghĩa của những bài giảng liên quan đến đời sống của chư vị Tỳ kheo cũng như sinh hoạt trong Giáo đoàn thời bấy giờ.

Trong kinh điển chúng ta hay bắt gặp những đoạn kinh văn mà Đức Phật thường ví mình con sư tử chúa, Ngài cho rằng con sư tử đứng đầu muông thú trong chốn rừng xanh, bởi trí tuệ mà ngài đã giác ngộ là cao tột trên mọi tri kiến và hý luận ở thế gian. Chẳng hạn khi Ngài tự nói về mình: “Sau khi con sư tử cất tiếng rống ba lần, nó đi ra tìm mồi. Này các Tỳ kheo, các loài thú thuộc loại bàng sanh nghe tiếng rống của sư tử, vua các loài thú, phần lớn chúng trở nên run sợ, khiếp đảm”. Đức Phật còn đưa ra những ví dụ như “Dã can bắt chước tiếng rống của sư tử” hay “Gà mái con mà bắt chước tiếng gáy của con gà trống”, để nêu lên việc những người có hạnh kiểm chưa tốt, hiểu biết kém cỏi, lười biếng tu tập, mà đòi nói pháp tối thượng thừa, Ngài cho rằng điều này thật là hoang đường và đương nhiên là Ngài đã dùng đến những ví dụ rất gần gũi và dễ dàng lãnh hội như nêu trên.

Như chúng ta đã biết, Đức Phật là đấng Đại Giác Ngộ, đấng Đại Từ Bi, Đại Hỷ Xả, từ tâm của Ngài đối với chúng sanh là vô biên vô hạn, chính vì vậy mà Ngài luôn thương yêu và tôn trọng sự sống muôn loài. Khi còn là Thái Tử, trước sự việc người em họ Đề Bà Đạt Đa (Devadata) bắn rơi con thiên nga, Ngài đã cứu thoát và che chở, chăm sóc nuôi nấng cho đến khi nó bình phục và trả con thiên nga ấy bay về với bầu trời xanh, sự kiện này được ghi lại trong kinh tạng Pali. Ngài thương xót và cảm thông từ ánh mắt hoảng hốt và đau khổ của con cừu sắp bị tế đàn, cho đến một đàn cá bị các em nhỏ hành hạ để vui chơi trong một vũng nước cạn mà Ngài chứng kiến tại thành Xá Vệ (Savatthi), đó là những hình ảnh sống động về đức

Page 117: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

117

hạnh Từ Bi cao cả của đức Phật. Chỉ với đàn cá bé nhỏ mà ngài còn động lòng thương xót, huống gì là nói đến muôn loài và nhân loại… Một trường hợp khác nữa, trong một lần voi điên Nalagiri đã được cho uống rượu say, hung tợn nhắm thẳng hướng Ngài chạy đến, mọi người bối rối bàng hoàng. A Nan (ANanda) đã tính đem thân mình che chở cho đức Phật, nhưng Ngài đã bình tĩnh tiến bước về phía nó với một tình yêu thương vô hạn, thay vì chà nát Đức Phật, thì con voi lại phủ phục xuống chân Ngài với một biểu hiện rất đáng kinh ngạc là nước mắt nó ứa ra tỏ vẻ vô cùng hối hận trước việc điên rồ của nó. Cảm hóa lực tỏa ra từ đại bi tâm của Đức Phật là như vậy đó, với niềm tin tuyệt đối rằng loài vật sẽ không hãm hại mình, sẽ trở nên hiền hòa đáng yêu nếu như chúng ta thật sự trải lòng yêu thương nó, chính vì vậy mà Đức Phật cảm hóa được một con vật hung dữ dù trong tình trạng nó không còn “lý trí”. Với một niền tin sâu sắc vào việc nếu chúng ta trải lòng từ bi thương xót vạn loài thì sẽ không có bất cứ loài vật nào sanh tâm thù hận hay hãm hại đến mình. Trên góc độ nhận xét còn hạn chế của nền khoa học sơ khai, thì điều này có vẻ hoang đường, thế nhưng trong những nghiên cứu mới đây nhất, nền khoa học hiện đại đã chứng minh cho chúng ta thấy, ở chiều sâu tâm linh của tâm đại từ đại bi, nó luôn sinh phát ra một nguồn năng lượng tinh khiết và thanh tịnh, trên tầng số và dòng từ trường (thanh) đó sẽ hình thành một cảm hóa lực có một tác dụng vô cùng lớn lao để cảm hóa mọi sự oán đối thù hận. Trong kinh tạng Pali, Đức Phật cho rằng, muôn loài vật cũng có tình cảm như con người, cũng cảm nhận được tình cảm của loài người dành cho và điều ấy đã được Ngài thể hiện trong suốt quảng đời từ thơ ấu, đến trưởng thành và trong quá trình hoằng pháp độ sanh của Ngài.

Trong vô số cách ứng xử đối với loài vật của Đức Phật như đã nêu trên, chúng ta cũng có thể nhắc đến những lời dạy bảo của Đức Phật đối với những người con Phật khi mới bước chân vào đạo, hay nói đúng hơn là những quy định bắt buộc dành cho những ai muốn tu hành theo đạo Phật. Đó là Ngũ giới đối với người cư sĩ Phật tử tại gia, ngay trong giới đầu tiên của Ngũ giới, Đức Phật đã dạy chúng ta là “Không được sát sanh”, có nghĩa là không được làm tổn hại đến sinh mạng con người cũng như mạng sống tất cả muôn loài. Tiến lên nấc thang tu hành cao hơn nữa, Đức Phật khuyên dạy chúng ta nên “Phóng sanh” để cứu khổ ban vui cho loài vật, để tăng trưởng tâm từ bi của bản thân và để luôn thương tưởng đến nỗi đau khổ mà chúng sanh đang phải gánh chịu. Có thể nói rằng, “Không được sát sanh” và “Phóng sanh” là sự thể hiện lòng yêu thương và tôn trọng mạng sống muôn loài một cách bình đẳng của Đức Phật.

Là một con người đặc biệt trong loài người, luôn tôn trọng sự sống muôn loài và tràn đầy tứ vô lượng tâm Từ Bi Hỷ Xả, Đức Phật đã qui định chư Tỳ kheo trong Giáo đoàn, trong ba tháng mưa gió phải sống ở một nơi nhất định để tránh giẫm đạp lên những sinh linh bé nhỏ. Điều này đã tạo nên dấu ấn về đạo đức và phẩm hạnh Từ Bi khó có thể phai mờ trong nếp sinh hoạt tập thể trong thế giới loài người. Cách ứng xử của Đức Phật đối với loài vật thể hiện qua việc cấm túc an cư trong mùa mưa gió cách đây trên 2550 năm, đến nay vẫn mãi là nét đẹp văn hóa ngời sáng tâm đức Từ Bi vô lượng của những người tu theo hạnh Phật và đã được hầu hết các nước theo Phật giáo duy trì gìn giữ.

PHẦN NĂM

Page 118: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

118

NHỮNG ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC ĐẾN ĐỜI SỐNG NHÂN LOẠI

TỪ NGUỒN TUỆ GIÁC CỦA ĐỨC PHẬT

CHƯƠNG MỘT

ĐẠO PHẬT VỚINỀN HÒA BÌNH NHÂN LOẠI

Như chúng ta đã biết, Đức Phật là hiện thân hòa bình và đạo Phật là biểu tượng của thế giới hòa bình. Trong vai trò sứ giả hòa bình, trong suốt 45 năm thuyết pháp độ sinh, Ngài đã tận tụy và không ngừng dựng xây một thế giới hòa bình, điều đó được thể hiện một cách cụ thể và hiệu quả qua đời sống đạo đức, Từ Bi Hỷ Xả và qua những lời dạy vàng ngọc của Ngài được ghi chép lại một cách rõ ràng và đầy đủ trong kinh tạng.

Nói rằng Đức Phật là một con người hòa bình, bởi Ngài đã chiến thắng bản ngã, dứt sạch tham sân si, sống nếp sống an tịnh, không tranh luận và tranh chấp với bất kỳ một ai và bất cứ đạo giáo nào. Ngài sống một cách bình an và chan hòa với mọi người và mọi loài, bởi tứ vô lượng tâm Từ Bi Hỷ Xả thương yêu hết thảy chúng sinh nơi Ngài bao la không ngằn mé. Ngài tôn trọng sự sống và môi trường sống của muôn loài, bởi Ngài cảm nhận sâu sắc tâm lý tham sống sợ chết luôn tồn tại nơi mỗi người, và tâm ưa thích sự an lạc, cũng như chán ghét khổ đau của tất cả chúng sinh. Đức Phật luôn khuyến khích mối liên hệ tương giao hòa bình giữa con người và giữa các loài cộng sinh, bởi Ngài hiểu rất rõ lợi ích và giá trị của nếp sống hòa bình là mang lại cho tất cả chúng sanh một đời sống hạnh phúc dài lâu bền vững. Trong đời sống của bản thân đức Phật và Tăng chúng trong Giáo hội luôn là tấm gương sáng về nếp sống an tịnh và những lời dạy đầy từ tâm và đạo đức giải thoát của Ngài không ngừng tạo cảm xúc và đánh thức tâm tưởng hòa bình trong đời sống nhân loại, trong mọi thời đại.

Bốn đức tính cao thượng Từ Bi Hỷ Xả và đời sống giới hạnh đạo đức thanh cao của Đức Phật và Tăng chúng mãi luôn gợi mở cho loài người những cảm xúc ý nhị và suy nghĩ tích cực về một đời sống hòa bình thân thiện. Nếu đời sống hằng ngày của chúng ta được nuôi dưỡng và thường xuyên được khích lệ bởi một đời sống đạo đức và bốn đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả, cùng với sự tu tập căn bản trên nền tảng giữ gìn ngũ giới và tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự) thì chắc chắn rằng tâm chúng ta sẽ được an lạc và thế giới sẽ trở nên hòa bình thịnh vượng. Qua đó chúng ta có tể nói rằng, đạo Phật là một đạo triệt để hòa bình, chúng

Page 119: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

119

ta cũng có thể tự hào là đạo Phật đã làm được rất nhiều điều và rất thiết thực cho công cuộc xây dựng nền hòa bình của nhân loại. Thật vậy, trải qua trên 25 thế kỷ đạo Phật có mặt trên cuộc đời này, là trên 25 thế kỷ hiện hữu hòa bình và ban rãi đời sống hòa bình cho nhân loại.

Trong giáo lý đạo Phật có câu “ Tâm an thế giới an, tâm bình thế giới bình”, điều này chúng ta có thể hiểu ý nghĩa của hòa bình chính là trạng thái an lạc của tâm hồn con người, biểu hiện của hòa bình nơi mỗi con người là sự thanh thản, hoan hỷ, cũng có nghĩa là không bạo động, không chiếm đoạt, không giận dữ, nên không gây ra chiến tranh. Thật ra, trạng thái “Tâm an thế giới an, tâm bình thế giới bình” luôn ngự trị và sẵn có nơi mỗi con người. Tuy nhiên chúng ta rất cần đánh thức nó, nuôi dưỡng và phát triển nó, nhất là trong bối cảnh con người không ngừng đối đầu nhau, tranh chấp lẫn nhau, ngày càng leo thang chiến tranh, gây nên cảnh chết chóc đau thương cho nhân loại. Khi trạng thái tâm an bình nơi mỗi con người trên thế gian này được củng cố và phát triển, thì thế giới chắc chắn sẽ không còn hận thù, bạo động và nguy cơ xảy ra chiến tranh. Từ muôn đời nay, một cõi lòng bình an và một thế giới hòa bình hạnh phúc vẫn mãi là khát vọng khôn nguôi của toàn thể loài người.

Thế giới hiện tại của chúng ta đang khao khát hòa bình hơn bao giờ hết bởi loài người luôn bị ám ảnh bởi chiến tranh và khủng bố. Chúng ta nên nhận thức rõ rằng, cõi lòng chúng ta u ám hay thế giới trở nên đen tối, tất cả là do chính con người tác nghiệp tạo thành. Con người đã tạo chiến tranh gây bất an cho mình thì cũng chính con người phải xây dựng hòa bình tạo an lạc cho bản thân mình chứ không ai khác. Về điều này, trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật đã dạy: “Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu người ta nói năng hay hành động với tâm tư ô nhiễm thì đau khổ sẽ kéo theo sau, giống như chiếc xe lăn theo vết chân con bò kéo. Nếu với tâm trong sạch mà nói năng hay hành động thì an lạc sẽ bước theo sau, giống như bóng không rời hình”. Và trong Hiến chương của Unesco cũng đã nêu rõ: “Chiến tranh bắt nguồn trong tâm thức con người, do đó chính trong tâm thức con người, hòa bình phải được xây dựng”. Lời tuyên bố trên đây có thể là đã được phỏng trích từ quan điểm và lập trường hòa bình của Đức Phật. Nếu chiêm nghiệm lời Phật dạy, chúng ta dễ dàng nhận ra nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc thế giới không đi đến hòa bình, là bởi con người không hòa bình, lòng người không hòa bình. Đức Phật sau khi thành đạo, tự thân chứng nghiệm trạng thái “Tâm an thế giới an, tâm bình thế giới bình”, và Ngài đã tuyên bố lý do Ngài đến với thế gian này là để cứu độ chúng sanh thoát khỏi vô minh, tham dục, bất an, phiền não, luân hồi sanh tử. Đây cũng chính là thông điệp hòa bình của đạo Phật.

Nhìn lại lịch sử Phật giáo chúng ta thấy rất rõ đạo Phật chính là con đường tuệ giác của nhân loại, mà đặc tính nổi bật nhất là nền tảng đạo đức và sự thiết tha trân quý nền hòa bình thế giới. Trãi qua trên 2550 năm hình thành, tồn tại và phát triển, sự thật thì trong lịch sử đạo Phật, chưa từng có một trường hợp, một quan điểm nào mà đạo Phật bào chữa cho chiến tranh, hoặc một ý niệm, hay một sự kiện bạo tàn nào được tìm thấy trong đạo Phật, cho đến một cuộc chiến tranh dù là bênh vực cho quyền lợi của đạo Phật cũng hoàn toàn không có. Nói như vậy để tất cả chúng ta cùng hiểu rằng, có Đạo Phật thì không có chiến tranh. Bởi nếu đạo Phật phải dùng chiến tranh để hoằng truyền giáo lý, thì rõ ràng là cực kỳ mâu thuẩn, hoàn toàn trái ngược với tinh thần Vô Ngã và Từ Bi Hỷ Xả của đạo Phật, và điều này là không thể chấp nhận được. Để làm sáng tỏ tinh thần hòa bình của đạo Phật, thật không gì minh bạch hơn, khi chúng ta cùng nhau chiêm nghiệm lời Đức Phật đã dạy trong kinh Pháp Cú: “Hận thù không bao giờ trừ diệt hận thù, chỉ có tình thương mới trừ diệt hận thù”.

Chủ trương hòa bình vô điều kiện của đức Phật biểu lộ rõ ràng trong ba vần kệ của Pháp Cú, đó ngài diễn tả bất bạo động là phương tiện chấm dứt thù nghịch hận sân:

“Nó làm nhục tôi, tấn công tôi! Nó chiến thắng tôi, cướp của tôi!”. Ai chứa trong lòng tư tưởng ấy. Hận thù như vậy chẳng hề nguôi. “Nó chiến thắng tôi, cướp của tôi!”. Không chứa trong lòng tư tưởng ấy. Hận thù như vậy sẽ dần nguôi. Các mối hận thù trong thế gian. Chẳng hề tiêu diệt bởi lòng sân. Vô sân trừ khử niềm uất hận. Định luật muôn đời của cổ nhân”.

Page 120: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

120

Trong lịch sử Phật giáo cũng đã ghi nhận lại sự kiện, vào thế kỷ thứ mười một và mư-ời hai, khi các tôn giáo của dân bản địa tại Ấn Độ bị người Hồi giáo đàn áp, trong đó có Phật giáo với hàng ngàn vị Tỳ kheo phải im lặng nhận lấy cái chết đau thương mà không hề thể hiện sự kháng cự nào. Các nguồn kinh điển Tây Tạng cũng đã ghi nhận sự kiện lịch sử này và nhận xét đây là hành động tự điều phục bản thân một cách rốt ráo mà chưa từng có một tôn giáo nào thể hiện nỗi.

Theo giáo lý đạo Phật và cũng dựa trên chiêm nghiệm thực tế trong đời sống con người, chúng ta biết rằng, sân hận là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chiến tranh. Vô sân là một lý tưởng cao thượng nhưng cần phải thực sự nỗ lực tu tập mới có thể đạt đến được. Nói về vô sân, trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) Đức Phật đã mô tả như sau: “Tâm ta sẽ không dao động, ô nhiễm và ta sẽ không thốt ra một ác ngôn nào. Chúng ta sẽ an trú với từ tâm, không sân hận. Sau khi đã làm thấm nhuận khắp người kia với từ tâm, chúng ta sẽ an trú trong trạng thái ấy biến mãn cùng khắp thế gian”. Cũng trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) Đức Phật đã diễn tả tính cách an nhiên tự tại của Ngài và khích lệ chư Tăng nỗ lực tu tập tâm vô sân như sau: “Này các Tỳ kheo, nếu người khác mạ lỵ, phỉ báng, phiền nhiễu Như Lai, trong tâm Như Lai cũng không oán hận, phẫn nộ hay bất mãn... Và nếu người khác kính lễ, tôn trọng, sùng bái Như Lai, trong tâm Như Lai cũng không hoan hỷ, thích thú hay phấn khởi”. Trong kinh tạng Pali đã nói về hành trang của đức Phật trên đường tìm cầu chân lý cũng như hóa độ chúng sanh: “Ngài đã bỏ một bên cái gậy, bỏ một bên thanh gươm, hành trang của Ngài chỉ tràn ngập lòng thương tưởng cứu vớt đối với tất cả chúng sanh”. Quả thật lòng từ bi, yêu thương tất cả chúng sanh của Đức Phật bao trùm khắp muôn loài, nó vượt ra ngoài ý thức hệ, đảng phái, quốc gia, chủng tộc, nó là sở hữu chung của toàn thể nhân loại, và hơn thế nữa, tình thương yêu của Đức Phật là cho toàn thể sự sống trên thế gian này.

Đức Phật là đấng Đại Giác Ngộ, Đại Từ Bi, Đại Hỷ Xả, từ tâm của Ngài đối với chúng sanh là vô biên vô hạn, chính vì vậy mà Ngài rất thương yêu và tôn trọng sự sống muôn loài. Khi còn là Thái Tử, trước sự việc người em họ Đề Bà Đạt Đa (Devadata) bắn rơi con thiên nga, Ngài đã cứu thoát và che chở, nuôi nấng cho đến khi nó bình phục và trả con thiên nga ấybay về với bầu trời xanh và sự kiện này được ghi lại trong kinh điển. Ngài thương xót và cảm thông từ ánh mắt hoảng hốt và đau khổ của con cừu sắp bị tế đàn cho đến một đàn cá bị các em nhỏ hành hạ để vui chơi trong một vũng nước cạn mà Ngài chứng kiến tại thành Xá Vệ (Savatthi) là những hình ảnh sống động nói về đức hạnh Từ Bi cao cả của đức Phật. Chỉ với đàn cá bé nhỏ mà ngài còn động lòng thương xót, huống gì là nói đến muôn loài và nhân loại … Trong kinh tạng Pali, đều ghi nhận rằng, khi còn ở độ tuổi niên thiếu, Thái tử Tất Đạt Đa đã sớm biểu lộ tấm lòng vị tha nhân ái, từ bi hỷ xả và rất yêu quý và trân trọng một cuộc sống hòa bình. Lòng thương người thương vật, tính ôn hòa trầm tư, đó là những dấu hiệu rất sớm bộc lộ trong tâm hồn của một vị Phật. Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya), ghi lại rằng, trong quang cảnh lễ hội hạ điền theo truyền thống hằng năm của bộ tộc Thích Ca (Sàkya) vô cùng náo nhiệt, thế nhưng Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhattha) lại cảm thấy không vui, vì Ngài đã trông thấy cảnh tượng những con trùn, con sâu, đàn kiến và nhiều sinh vật bé nhỏ khác quằn quại dưới mỗi đường cày của những người tế nông trong buổi lễ xuống đồng. Do vậy, thay vì hòa nhập nô đùa như bao đứa trẻ khác, thì Thái tử âm thầm tìm đến gốc cây ngồi lặng lẽ trầm tư vềnhân sinh vũ trụ. Một trường hợp khác nữa, trong một lần voi điên Nalagiri đã được cho uống rượu say, hung tợn nhắm thẳng hướng Ngài chạy đến, mọi người bối rối bàng hoàng. A Nan (ANanda) đã tính đem thân mình che chở cho đức Phật, nhưng Ngài đã bình tĩnh tiến bước về phía nó với một tình yêu thương vô hạn, thay vì chà nát đức Phật, thì con voi lại phủ phục xuống chân Ngài với một biểu hiện rất đáng kinh ngạc là nước mắt nó ứa ra tỏ vẻ vô cùng hối hận trước việc điên rồ của nó. Cảm hóa lực từ đại bi tâm của đức Phật là như vậy đó, với niềm tin tuyệt đối rằng loài vật sẽ không hãm hại mình, sẽ trở nên hiền hòa đáng yêu nếu như chúng ta thật sự trải lòng yêu thương nó, chính vì vậy mà Đức Phật cảm hóa được một con vật hung dữ dù trong tình trạng nó không còn “lý trí”. Với một niền tin sâu sắc vào việc nếu chúng ta trải lòng từ bi thương xót vạn loài thì sẽ không có bất cứ loài vật nào sanh tâm thù hận hay hãm hại đến mình. Trên góc độ khoa học thì điều này có vẻ hoang đường, thế nhưng trên từ trường phát xuất từ chiều sâu tâm linh bởi lòng từ bi thì nó lại có một tác dụng cảm hóa vô cùng lớn lao. Ngài cho rằng loài vật cũng có tình cảm như con người, cũng cảm nhận được tình cảm của loài người và điều ấy Ngài đã thể hiện.

Page 121: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

121

Đạo Phật là đạo của một thế giới hòa bình vĩnh cữu vì nó bước ra từ ánh sáng trí tuệ và suối nguồn yêu thương của Đức Phật. Thật vậy, nơi nào có ánh sáng trí tuệ và suối nguồn yêu thương của Đức Phật soi rọi đến thì nơi đó cây cối đâm chồi nảy lộc, vạn vật vui mừng hớn hở, cảnh giới hòa bình cùng niềm hạnh phúc của muôn loài lan tỏa trong đời sống, và ngược lại, chính nhờ ảnh hưởng tâm từ bi của Ngài mà hận thù trong đời sống con người được hóa giải, chiến tranh chết chóc được đẩy lùi. Nói về đạo Phật với hòa bình, qua kinh tạng PaLi, chúng tôi được biết, Đức Phật đã nhiều lần ngăn chặn những cuộc chiến tàn khốc sắp xảy ra giữa vương quốc Kiều Tất La và tiểu quốc cộng hòa Thích Ca, quê hương xứ sở của Ngài, dù Ngài biết chắc rằng nhân quả nghiệp báo oán đối hận thù giữa chúng sanh với nhau khó có thể tránh khỏi. Tuy vậy, Ngài vẫn nhiều lần đứng ra can thiệp. Điều này chứng tỏ rằng, lòng nhân từ và tâm đại bi của Đức Phật là vô lượng vô biên bởi Ngài đã không một phút nghỉ ngơi vì sự nghiệp hóa độ chúng sanh, mong muốn chúng sanh có được một đời sống hòa bình an lạc.

Dù là một đấng giác ngộ đã thoát ly tam giới, nhưng đức Phật luôn quan tâm đến một thế giới hòa bình, nhân loại được ấm no hạnh phúc. Ngài đã toàn tâm thực hiện bất cứ điều gì trong khả năng mà Ngài có thể can thiệp được. Với quê hương của mình, xứ sở mà cuộc đời của Ngài đã gắn kết sâu sắc nhất từ khi còn là Thái tử đến khi hành đạo, đức Phật đã dốc hết sức mình kiến tạo nên một đất nước hòa bình thịnh vượng, dù lúc đó tuổi Ngài đã cao sức Ngài đã yếu. Trong Kinh tạng PaLi đã ghi lại rằng, vào thời Phật tại thế, Ngài đã dùng uy tín của mình để tiến cử vương tử Ma Ha Nam (Mahanama) lên ngôi kế vị vua Tịnh Phạn (Suddhodana) vừa băng hà. Đức Phật chủ động việc này, vì theo Ngài thì vương tử Ma Ha Nam có đủ đức lẫn tài để đảm đương ngôi vị quốc vương. So với các vị vương tử khác thì với đức độ của vương tử Ma Ha Nam chắc chắn sẽ đem lại cho muôn dân một đời sống hòa bình thịnh vượng. Mà quả thật là như vậy, dưới thời của vua Ma Ha Nam đời sống dân chúng ấm no, an vui, hạnh phúc, đất nước thanh bình thịnh vượng đúng như mong muốn của Ngài.

Một trường hợp thể hiện từ tâm của đức Phật và thái độ yêu chuộng hòa bình của Ngài nữa, theo kinh tạng Pa Li ghi lại gằng, nhân một lần về thăm quê ngoại, vương tử Lưu Ly đã bị giới quý tộc của cộng hòa Thích Ca (Sakya) đã khinh miệt về sự xuất thân của mẹ mình. Vô cùng uất hận vì sự miệt thị đó, Lưu Ly ghim sâu hận thù này vào tâm trí với lời thề độc là sẽ lấy máu của dòng họ Thích Ca để rửa sạch mối nhục này. Thế rồi việc gì đến cũng đã đến, khi vừa lên ngôi vua, Lưu Ly Vương liền dốc hết quân lực tiến thẳng về xứ sở cộng hòa Thích Ca bé nhỏ. Tuy nhiên cả ba lần kéo quân chinh phạt thì cả ba lần thì đều gặp đức Phật ngồi chờ ngay biên giới để xin ông đừng dùng vũ lực mà tàn sát lẫn nhau … Dù với tâm thù hận đang dâng cao ngút trời, nhưng Lưu Ly Vương lại có một sự tôn trọng đặc biệt dành cho đức Phật. Cả ba lần đó, ông đều bước xuống chiến xa ra lễ đức Phật và thỉnh cầu Ngài nên quay về an dưỡng tuổi già, đồng thời cũng thỉnh cầu đức Phật hãy dời sang cư trú tại vương quốc Kiều Tất La của ông, vì vùng đất này có nhiều cây râm mát rất phù hợp với đời sống thiên về thiên nhiên của đức Phật. Sau ba lần tấn công Cọng Hòa Thích Ca thất bại, nhưng đến lần thứ tư, nhân lúc đức Phật đương hoằng pháp ở nơi xa không về can thiệp kịp, Lưu Ly Vương đã ồ ạt thần tốc kéo quân sang bình địa thành Ca Tỳ La (Kapila), tàn sát gần như toàn bộ dòng họ Thích Ca, ngoại trừ chỉ một số ít người sống sót nhờ trốn được…

Nói đến đạo Phật đối với nền hòa bình nhân loại, chúng ta có thể liên hệ đến cách ứng xử của Đức Phật với những người quyền quý, những người có ảnh hưởng rất lớn đến việc thịnh suy của đất nước, chúng ta có thể nhận thấy nhân cách văn hóa tuyệt vời của Đức Phật trong những lời khuyên rất sâu sắc khi vua A Xà Thế, sau khi đã quy y Phật, đến tham kiến đức Phật và xin Ngài cho ý kiến về việc muốn cất binh xâm chiếm nước Bạt Kỳ. Lần đó Đức Phật đã khéo léo phản đối cuộc chiến bằng cách nêu ra bảy mặt mạnh của nước Bạt Kỳ, mà theo Ngài là xưa nay chưa từng có một quốc gia nào dám xâm chiếm, những điểm mạnh đó là:

1- Thường hội họp nhau để giải quyết vấn đề chung của quốc gia. 2- Đoàn kết thuận hòa với nhau. 3- Thi hành đúng theo pháp luật chế định. 4- Tôn kính bậc trưởng thượng. 5- Kính nể hàng phụ nữ. 6- Bảo tồn các đền thờ trong xứ. 7- Sùng bái các bậc tiền nhân.

Page 122: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

122

Sau đó Đức Phật đã khuyên vua A Xà Thế không nên cất binh đánh nước Bạt Kỳ. Ở đây chúng ta thấy rất rõ về quan điểm của đức Phật về chiến tranh và cách ứng xử thông minh khéo léo của Đức Phật nhằm can ngăn một cuộc chiến.

Qua cách ứng xử của Đức Phật, chúng ta nhận ra rằng, Đức Phật là một bậc trí tuệ giác ngộ, với đầy đủ phương tiện thiện xảo để giáo hóa chúng sanh, đồng thời Ngài cũng là một con người tràn đầy đạo đức và nguồn tình cảm dạt dào tha thiết dành cho thế gian này, bởi trên thực tế qua cách ứng xử của Ngài thì rõ ràng là Ngài chưa hề xa lánh cuộc đời, và cũng chưa hề bị đời sống thế gian làm ô uế.

Trong Kinh Tăng Nhứt A Hàm, đã ghi lại cách ứng xử của Đức Phật đối với các đấng quân vương rằng, Đức Phật đã đặt lợi ích quốc gia và sự bình yên của dân chúng lên trên hết, từ đó Ngài đã dạy bổn phận của một vị lãnh tụ quốc gia, nếu muốn trở thành một bậc minh quân, đem lại hòa bình thịnh vượng cho đất nước, ấm no hạnh phúc cho toàn dân, thì phải thực hiện 10 điều sau đây:

1- Thanh liêm. 2- Nghe lời can gián của người khác. 3- Thi ân cho nhân dân. 4- Thu thuế đúng pháp luật. 5- Phòng the phải nghiêm túc. 6- Không say sưa rượu chè. 7- Siêng năng nghiêm chỉnh. 8- Xét xử nghiêm túc công bằng. 9- Hòa hợp với quần thần. 10-Giữ gìn sức khỏe bản thân.Đây là lời dạy đầy giá trị và hữu hiệu cho bất cứ một nguyên thủ quốc gia nào muốn

trị quốc an dân. Tất cả những việc làm của đức Phật điều duy nhất là vì hạnh phúc, hòa bình cho nhân loại.

Lịch sử Phật giáo ghi nhận rằng, cho đến tận cuối đời, đức Phật đã không quản ngại gian khổ, Ngài đã đem tấm thân già ra đến tận biên cương hai nước để ngăn chặn một cuộc tương tàn tương sát, thế nhưng mọi nỗ lực của đức Phật đã không thể cứu vãn nỗi tình hình khi quả báo của chúng sanh đã đến lúc chín mùi. Qua sự kiện này, chúng tôi nhận thấy, hành động dùng uy tín và đạo đức của bản thân hay đúng hơn là Ngài đã vận dụng đại bi tâm để cứu khổ chúng sanh, đức Phật của chúng ta đã làm tất cả những gì có thể làm được để hóa giải cuộc chiến tương tàn tương sát điển hình này, dù biết trước rằng, nhân quả nghiệp báo mà chúng sanh phải gánh, phải trả là điều tất yếu khó có thể can thiệp thành công. Điều này đã nói lên nhân cách văn hóa tuyệt vời của đức Phật trong đời sống con người. Cũng qua đó, chúng ta thấy rằng, để hóa giải nghiệp chướng, thì tự thân vua Lưu Ly phải khởi tâm từ bi xóa bỏ hận thù với dòng họ Thích Ca mới có thể thay đổi cục diện và tránh khỏi quả báo khốc liệt về sau bởi hành động tàn sát và tư tưởng hận thù hiện tại.

Ngoài nếp sống hòa bình của tự thân và những cống hiến lớn cho mục tiêu hòa bình lâu dài thông qua những lời dạy sáng suốt và đầy từ tâm của Ngài, Đức Phật cũng trực tiếp hoặc gián tiếp can ngăn những cuộc giết hại, tranh chấp và chiến tranh xảy ra trong thời đại của Ngài. Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) thuật câu chuyện Thế Tôn đã giành lại sự sống cho bảy trăm con bò đực, bảy trăm con bò cái, bảy trăm con dê và bảy trăm con cừu, trả chúng về đồng cỏ để chúng được ăn cỏ xanh, được uống nước mát và được hưởng làn gió trong lành, sau khi Ngài thuyết giảng cho vị Bà la môn Kùtadanta về sự nguy hại của lễ tế đàn hy sinh súc vật và lợi ích của lễ tế đàn thanh tịnhm không giết hại. Năm trăm con bò đực, năm trăm con nghé đực, năm trăm con nghé cái, năm trăm con dê và năm trăm con cừu khác cũng được bậc Đại từ bi cứu khỏi ngọn lửa tế đàn nhẫn tâm, qua bài thuyết giảng của Ngài cho Bà la môn Uggatasarìra. Cũng trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) và tuyển Kinh Trưởng lão Tăng kệ (Theragàthà) có thuật câu chuyện Đức Phật từng hàng phục tên sát nhân vấy đầy máu Ương Quật Ma La (Angulimàla) và thu nhận ông vào Tăng già, khiến quốc vương Ba Tư Nặc (Pasenadi) rất đỗi khâm phục biết ơn và dân chúng Kiều Tất La (Kosala) thở phào nhẹ nhõm.

Theo Trưởng Lão Tăng Kệ (Theragàthà) thuật lại sự việc Ương Quật Ma La (Angulimàla) được cha mẹ cho theo học với một vị Bà la môn ở Takkaxila, do học rất thông minh và tận tâm phụng sự sư phụ, nên Ương Quật Ma La (Angulimàla) được gia đình thầy rất

Page 123: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

123

thương quý. Trước sự việc này, một số bạn bè xấu ganh tỵ bày kế hãm hại. Những người bạn xấu phao tin Ương Quật Ma La (Angulimàla) thông dâm với vợ của thầy. Nghe tin này, vị sư phụ đùng đùng nổi trận lôi đình, liền bảo với Ương Quật Ma La (Angulimàla) rằng, nếu anh ta muốn chứng minh cho mình thật sự trong sạch thì hãy đi kiếm cho ông 1000 ngón tay. Vừa oan ức mà không biện bạch được với ai, vừa điên dại vì xấu hổ trước tin đồn động trời này, Ương Quật Ma La (Angulimàla) hạ quyết tâm đi giết bằng được 1000 người để cắt đủ 1000 ngón tay đem về cho sư phụ nhằm chứng minh mình là người trong sạch, do vậy bỗng chốc Ương Quật Ma La (Angulimàla) biến thành một kẻ sát nhân tàn bạo không chùn tay trước tội ác, điều này đã làm rúng động kinh thành XáVệ (Sàvatthi) và không ai có thể ngăn được cơn điên lạon với bàn tay đẫm máu của anh ta. Sau khi kiếm đủ 999 ngón tay, chỉ còn giết thêm một sinh mạng nữa, thì Ương Quật Ma La (Angulimàla) mới thỏa mãn chứng minh cho sự trong sạch của mình. Cũng vào hôm ấy, bà mẹ Ương Quật Ma La (Angulimàla) vì quá thương con, nên bà đã lên đường tìm cách ngăn chặn không cho Ương Quật Ma La (Angulimàla) làm điều ác nữa. Lúc bấy giờ Đức Phật đang trú ở thành Xá Vệ (Sàvatthì), Ngài thiền định biết rõ điều này, bèn nghĩ, nếu Angulimàla gặp mẹ thì anh ta sẽ giết luôn cả người mẹ hiền đó cho đủ 1.000 ngón tay. Nếu ta không kịp thời nhăn chặn thì hậu quả này rất thê thảm. Do vậy ngay sau bữa ăn đức, Đức Phật liền đi đến rừng khu rừng Jalini, biết được ý định của Đức Phật, nhiều người đã ngăn cản Ngài, nhưng Đức Phật vẫn quyết cứu cả hai mẹ con Ương Quật Ma La (Angulimàla). Nói về Ương Quật Ma La (Angulimàla), khi anh ta nhìn thấy mẹ mình, anh toan giết mẹ để cắt lấy ngón tay cho đủ 1000 ngón, Cũng ngay lúc đó, Đức Phật đi đến và Ngài đi giữa Ương Quật Ma La (Angulimàla) và mẹ của anh ta. Khi đó Ương Quật Ma La (Angulimàla) liền bỏ ý định giết mẹ và quyết định giết Đức Phật để cắt ngón tay như suy nghĩ. Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) đã mô tả cảnh tượng này như sau: “Tên sát nhân Ương Quật Ma La (Angulimàla) thấy Thế Tôn từ xa đi lại, sau khi thấy liền nghĩ: ‘Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Con đường này, cho đến người người, hai mươi người, ba mươi người, bốn mươi người, năm mươi người tụ họp lại, tụ họp lại rồi cùng đi; tuy vậy, chúng vẫn rơi vào tay của ta. Nay người Sa môn này, chỉ có một mình, không có người thứ hai, lại đi đến, hình như do một sức mạnh gì? Vậy ta giết hại mạng sống của người Sa môn này!”. Nghĩ như vậy rồi Ương Quật Ma La (Angulimàla) liền rút kiếm, chạy thật nhanh về hướng Đức Phật. Cùng lúc, Đức Phật dùng thần thông, khiến cho Ương Quật Ma La (Angulimàla) trổ tài chạy hết sức lực cũng không có thể đuổi kịp Ngài, dù Ngài đang đi một cách bình thường. Do ráng hết sức mà vẫn không theo kịp Đức Phật, Ương Quật Ma La (Angulimàla) nghĩ rằng: “Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Ta trước đây đuổi theo con trẻ vui đùa đang chạy và bắt kịp nó, đuổi theo con ngựa đang chạy và bắt kịp nó, đuổi theo chiếc xe đang chạy và bắt kịp nó, đuổi theo con nai đang chạy và bắt kịp nó. Nay dẫu ta đi với tất cả tốc lực của ta cũng không thể bắt kịp Sa môn này đang đi với tốc lực bình thường”. Nghĩ như vậy rồi Ương Quật Ma La (Angulimàla) hướng về phía truớc, kêu to lên:

- Sa-môn! Hãy đứng lại. Sa-môn! Hãy đứng lại. Đức Phật trả lời rằng:- Ta đã đứng rồi, này Ương Quật Ma La (Angulimàla)! Nay đến lượt ngươi hãy đứng

lại!Nghe Đức Phật nói như vậy, Ương Quật Ma La (Angulimàla) suy nghĩ: “Sa môn

Thích tử là người nói thật”. Vậy tại sao Sa-môn này đang đi mà lại nói rằng: “Ta đã đứng rồi, này Ương Quật Ma La (Angulimàla)! Nay đến lượt ngươi hãy đứng lại!”. Vậy ta hãy hỏi vị Sa-môn này cho ra lẽ. Nghĩ như thế, Ương Quật Ma La (Angulimàla) hướng về Đức Phật nói bài kệ rằng:

Người đi lại nói: “Ta đã đứng rồi!”. Ta đứng, Người nói: “Sao ta không đứng?”. Sa-môn, ta hỏi về ý nghĩa này? Sao Người đứng lại. còn ta không đứng...”Đức Phật liền trả lời Ương Quật Ma La (Angulimàla) rằng: “Ta đã đứng rồi.

Page 124: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

124

Với mọi chúng sanh. Ta bỏ trượng, kiếm. Còn ngươi hữu tình. Không tự kiềm chế. Do vậy, Ta đứng. Còn Ngươi chưa đứng”.Nghe Đức Phật trả lời xong, Ương Quật Ma La (Angulimàla) liền quăng bỏ kiếm và

đảnh lễ dưới chân Đức Phật, cầu xin Đức Phật cho được xuất gia... Trong câu chuyện trên đây, chúng ta có thể thấy rằng, thật sự Đức Phật mang đến cuộc sống hòa bình cho nhân loại trên 2550 năm qua, thế nhưng nhân loại vẫn không chịu dừng tham sân si, nên đã gây nên bao cảnh chiến tranh và thù hận. Điều này thật không khác gì Đức Phật đã dừng mà Ương Quật Ma La (Angulimàla) chưa chịu buông kiếm xuống...

Lịch sử Phật giáo đã ghi chép về sự kiện Ngài từng đứng trước làn tên mũi đạn của hai bộ tộc Thích Ca (Sàkya) và Koliya trong việc tranh giành nhau quyền sử dụng nước sông Rohinì để nói lời hòa giải. Chuyện thuật rằng Đức Phật đã thuyết phục hai bộ tộc này giải giới tranh cấp và làm lành với nhau, khiến cho cả hai phe cùng hiểu ra rằng “nước sông Rohinì không quý bằng nhân mạng”. Ngài cũng đã cố thuyết phục vua Lưu Ly Vương (Vidùdabha) bỏ qua chuyện trả thù dòng họ Sakya khiến vị vua này đôi lần đình hoãn tấn công Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu). Tuy nhiên, do quá uất ức trong lòng, Vidùdabha đã không kiềm chế được mối hận Sakya từng gạt cha mình nên sau đó đã quyết định đánh phá kinh thành Kapilavatthu. Một trường hợp mà Đức Phật đã can gián chiến tranh khác là vào năm cuối đời mình, khi Ahàtasattu phái đại thần Vassakara đến thỉnh vấn Ngài về ý định của ông muốn chinh phục xứ Vajjì, Đức Phật đã gián tiếp can ngăn công cuộc xâm lăng của vị vua này bằng cách nói đến bảy yếu tố hùng mạnh của dân tộc Vajjì.

Chính vì quán xét sâu xa động cơ gây nên chiến tranh và nguyên lý để kiến tạo một thế giới hòa bình bền vững mà đạo Phật luôn triển khai triệt để tinh thần Từ Bi Hỷ Xả trong đời sống tu hàng của tứ chúng. Cũng xuất phát từ tâm từ bi này và cũng là để chấm dứt tận gốc rễ chiến tranh, đạo Phật đã chủ trương truyền trao năm giới cho bất cứ một Phật tử nào khi bắt đầu bước vào con đường học Phật. Trong năm giới thì giới “không sát sanh” được xem là giới “trọng” mang tính chất quyết định để khơi dậy và phát triển lòng từ nơi mỗi con người. Khi giữ được giới “không sát sanh” tức là chúng ta đã cắt đứt được mầm mống chiến tranh gây ra đau khổ và hình thành một cảnh giới an lạc trong tâm hồn mỗi người, nói rộng ra, cả nhân loại giữ được trọn vẹn giới “không sát sanh” thì chắc chắn rằng loài người sẽ được sống an ổn trong ngôi nhà hòa bình của nhân loại. Quả thật như vậy, không sát sanh hại vật chính là một viên gạch vô cùng quí giá để xây dựng ngôi nhà hòa bình mà nhân loại bao đời hằng mơ ước.

Đến nay chúng ta có quyền tự hào cho rằng, đạo Phật là đạo của hòa bình duy nhất trên hành tinh này và điều này đã được LHQ thừa nhận. Thật vậy, suốt chiều dài lịch sử trên 2550 năm qua, dù bất cứ thời đại nào và trong bất cứ hoàn cảnh nào, hễ nói đến đạo Phật thì chúng ta thường nhắc đến tứ vô lượng tâm Từ Bi Hỷ Xả, đây là bốn đức hạnh cao quý để xây dựng một đời sống hòa bình mà đức Phật đã luôn hướng về chúng sanh trong suốt quá trình hoằng pháp độ sanh. Bốn đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả này cũng đã được hình thành, được trưởng dưỡng và được nuôi lớn trong tâm hồn mỗi người con Phật. Như chúng ta đã biết, nguyên nhân chính yếu gây nên chiến tranh tàn sát lẫn nhau là do lòng tham vô bờ bến của con người và sự đố kỵ, đối nghịch và thù hận muôn kiếp của loài người. Chúng tôi thiết nghĩ, nếu con người hạn chế và biết dừng tâm tham lam thì ắt sẽ không có tranh giành nhau, hơn thua nhau; và nếu không có tranh giành xâu xé nhau thì sẽ không có đối ngịch và thù hận. Không hơn thua tranh đoạt nhau từ tư tưởng cho đến vật chất và không có đối nghịch và thù hận trong các mối quan hệ thì chắc chắn rằng thế giới này sẽ không có chiến tranh, loài người sẽ dần dần thoát khỏi cảnh lầm than đau khổ do hậu quả chiến tranh gây ra. Về điều này, những cuộc chiến xảy ra hằng ngày trên thế giới đã chứng minh một cách thuyết phục nội dung này. Thật vậy, vì tham lam mà thực dân đế quốc đã đem quân xâm chiếm nước ta gây ra cảnh lầm than nồi da xáo thịt và cuộc chiến giải phóng giành lại độc lập bảo vệ giang sơn xã tắc của nhân dân ta là một cuộc chiến chính nghĩa. Sau khi thắng lợi, nhưng dân tộc ta không những không thù hận thực dân đế quốc mà lại còn xóa bỏ hận thù trong quá khứ, cùng bắt tay nhau hướng đến sự phát triển lâu dài và hòa bình bền vững. Phải chăng đây là tinh thần “lấy ân báo oán” và “lấy tình thương xóa bỏ hận thù” xuất phát từ tinh thần Từ Bi Hỷ Xả của đạo Phật. Có thể nói

Page 125: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

125

đây là một sự vận dụng sâu sắc truyền thống đạo đức nhân ái ngàn đời của dân tộc, mà dân tộc Việt nam chúng ta lại có sự ảnh hưởng và gắn kết sâu xa với tinh thần Từ Bi hỷ Xả của đạo Phật. Chính thái độ và cách ứng xử này đã đem lại hòa bình thịnh vượng cho đất nước và tạo được ảnh hưởng tích cực trong các mối quan hệ quốc tế, thu hút được nhiều thiện cảm đối với thế giới khi nghĩ về con người và đất nước Việt nam. Và bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng có tinh thần lấy từ bi xóa bỏ hận thù, chắc chắn cũng sẽ mang lại một kết quả thuyết phục trong việc kiến tạo một đất nước hòa bình thịnh vượng như Việt Nam chúng ta ngày nay.

Một khi nói đến vấn đề đạo Phật và nền hòa bình của nhân loại, chúng ta nên ý thức rằng, đạo Phật chưa từng đứng ra tuyên bố một chương trình hòa bình nào cả, mà đạo Phật chỉ kêu gọi tín đồ Phật tử và quần chúng hãy thực hiện một đời sống đạo đức, không tham lam tranh chấp, trau dồi bốn đức hạnh cao quý Từ Bi Hỷ Xả, để hóa cải tâm tham sân si nơi mỗi con người mà thôi. Vì chính thay đổi vô cùng cần thiết này sẽ làm nẩy nở sự an lạc nơi tâm hồn con người, mà theo đạo Phật, sự an lạc của tâm hồn vô cùng quan trọng, nó là chánh yếu, còn cảnh giới hòa bình trên thế gian chỉ là vấn đề thứ yếu. Bởi một khi tâm hồn an lạc thật sự thì thì mọi chương trình về hòa bình đều không có giá trị.

Nói về đức hạnh Hỷ Xả của Ngài, thì có lẽ trong đời sống thế gian không có một con người thứ hai thể hiện nỗi. Trong kinh tạng PaLi còn ghi lại rất nhiều câu chuyện liên quan đến Tứ vô luợng tâm của đức Phật. Có câu chuyện rằng: “Khi đức Phật cùng với A Nan (A Nanda) đi vào thành Kiều Thượng Di (Kosambi) để khất thực, không may cho ngài là lúc đó Ngài gặp phải Mãgandiya là hoàng hậu xứ Kiều Thượng Di (Kosambi) vợ của vua Udena, một nhân vật vô cùng oán ghét đức Phật. Sự thể khi còn là thiếu nữ, bà đã đem lòng yêu đức Phật, tất nhiên là đức Phật không thể đáp lại tình yêu của bà. Cũng nhân duyên này đức Phật đã thuyết một bài pháp về quán thân bất tịnh cho bà nghe. Nhưng cũng kể từ đó, bà căm thù đức Phật sâu sắc, vì bà cho rằng đức Phật đã chê bai thân thể là bất tịnh … Cho đến khi thấy cơ hội rửa hận đã tới, bà liền cho người ra chận đường đức Phật và chửi bới những câu thậm tệ nhất. Trước những lời chửi rủa mạ nhục thậm tệ, đức Phật bình thản đứng lặng im, sau đó Ngài dạy A Nan: “Hãy can đảm đối đầu với sự thật, mọi chuyện sẽ qua rất nhanh , nhưng nhớ đừng sanh tâm oán hận”.

Sự tôn trọng sự sống và môi trường sống của tất cả chúng sinh chính là thái độ Ngài phản đối chiến tranh, xem việc chinh phục người khác bằng vũ lực là hạ sách, chỉ chồng chất thêm oán thù. Ngài cho rằng tự thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất, hơn thắng cả ngàn quân địch ở chiến trường. Ngài từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sinh và loài hữu tình. Ngài tránh làm tổn hại các mầm sống và không gây thương tổn các loài cây cỏ.

Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikàya) Đức Phật đã dạy các vị Tỳ kheo thực tập hạnh không sát sanh như sau: “Này gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ: “Ta muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ. Nếu có ai đến đoạt mạng sống của ta, một người muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý đối với ta. Nhưng nếu ta đoạt mạng sống một người muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý đối với người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho một người khác?” Do suy tư như vậy, vị ấy bỏ sát sanh, khuyến khích người khác từ bỏ sát sanh nói lời tán thán từ bỏ sát sanh”.

Biểu hiện trân trọng và yêu quý cuộc sống hòa bình của Đức Phật được ghi chép khá đầy đủ trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya), chẳng hạn như nói về đời sống khất thực của các vị Sa môn trong Giáo đoàn của Đức Phật, Ngài không tự chọn món ăn theo ý mình và không cho phép đệ tử tự chọn món ăn theo ý thích, Ngài cũng không ăn thịt cá, bởi Ngài cảm nhận nỗi đau của những con vật khi nó bị giết thịt. Ngài ngăn cấm việc sát sanh và không tán thành đệ tử tại gia của Ngài theo các nghề nghiệp gây sát hại. Ngài khuyên dạy các đệ tử mình nuôi dưỡng tâm từ bi và đối xử bình đẳng với mọi loài. Ngài cảm nhận tâm lý rất chung rằng tất cả chúng sinh đều yêu quý sự sống, lo sợ sự chết, mong muốn an lạc, chán ghét khổ đau. Bởi vậy Ngài khuyên mọi người hãy lấy bản thân mình làm ví dụ để không sát hại hay khiến người khác sát hại.

Page 126: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

126

Đức Phật chủ trương hòa bình, quý trọng sự sống bởi một lẽ rất tự nhiên rằng cuộc đời quá vô thường và đời người chỉ trong gang tấc, Ngài nhấn mạnh sự mong manh vô thường của đời người để kêu gọi lối sống hướng thiện, sống chơn chánh, có ý nghĩa. Ngài tán đồng quan điểm của quốc vương Pasenadi cho rằng trong cục diện chinh phục con người theo quy luật già chết thì tốt hơn. Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) Đức Phật đã dạy rằng: “Này Bà-la-môn, ít oi là đời sống của loài người, nhỏ bé, không đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Hãy giác ngộ! Hãy làm điều lành, đời sống phạm hạnh. Ví như, này Bà-la-môn, như giọt sương là đời sống loài người, nhỏ bé, không đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Hãy giác ngộ! Hãy làm điều lành, sống đời Phạm hạnh. Ví như, này Bà-la-môn, khi trời mưa nặng hạt, bong bóng nước trên nước mau chóng biến mất, không tồn tại lâu dài. Cũng vậy, này Bà-la-môn, như bong bóng nước là đời sống của loài người, nhỏ bé, không đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Hãy giác ngộ! Hãy làm điều lành, sống đời Phạm hạnh. Ví như, này Bà-la-môn, con sống trên núi chảy xa, dòng nước chảy nhanh, lôi cuốn theo vật này vật khác, không có sát-na nào, không có giây phút nào, không có thời khắc nào có dừng nghỉ, nó phải chảy tới, cuồn cuộn chảy, thúc đẩy chảy tới. Cũng vậy, này Bà-la-môn, ví như con sông ấy là đời sống của loài người, nhỏ bé, không đáng kể... Ví như, này Bà-la-môn, người lực sĩ tụ lại một cục nước miếng trên đầu lưỡi và nhổ đi không có phí sức. Cũng vậy, này Bà-la-môn, ví dụ với cục nước miếng là đời sống loài người, nhỏ bé, không đáng kể... Ví như, này Bà-la-môn, một miếng thịt được quăng vào một nồi sắt được hâm nóng cả ngày, mau chóng biến mất, không tồn tại lâu dài. Cũng vậy, này Bà-la-môn, ví như miếng thịt là đời sống con người, nhỏ bé, không đáng kể... Ví như, này Bà-la-môn, con bò cái sắp bị giết, được dắt đến lò thịt, mỗi bước chân giơ lên là bước gần đến bị giết, gần đến chết. Cũng vậy, này Bà-la-môn, ví dụ với con bò cái sắp bị giết là đời sống con người, nhỏ bé, không đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Hãy giác ngộ! Hãy làm điều lành, hãy sống Phạm hạnh”.

Bởi vậy Ngài kêu gọi hòa bình, hòa hợp, không tranh chấp, không tranh luận, cho rằng không có gì đáng để người ta phải tranh hơn thua trong cục diện một thế giới luôn luôn bị chi phối bởi già, bệnh, chết và mọi thứ phải kết thúc bởi quy luật danh diệt. Ngài thấy cả thế giới đang bị sóng tử thần cuốn phăng đi từng giây phút mà cảm thương cho loài người cứ rơi vào tranh chấp mưu hại lẫn nhau chỉ vì thỏa mạn một chút tham vọng, tự ái hay ngã mạn. Trong Kinh Pháp Cú, Ngài dạy: “Có gì đáng tự hào và hân hoan khi cuộc đời mãi bị thiêu đốt bởi tham lam và sâu hận, bị che phủ bởi si mê; sao người ta không tìm ngọn đèn thoát khỏi sự vô minh đang thiêu đốt ấy?”.

Chính vì một lịch sử có khởi nguồn tuệ giác và đạo đức vĩ đại như vậy mà những ảnh hưởng tích cực của đạo Phật là muôn vàn to lớn khó có thể kể ra hết được. Chỉ liên hệ một vài ảnh hưởng điển hình từ nền tuệ giác và giáo pháp cao siêu của đức Phật đến vận mạng dân tộcvà sự hưng thịnh của đất nước Việt Nam chúng ta sẽ thấy rất rõ điều này. Chẳng hạn ngay trong thời kỳ dựng nước, nhờ tuệ giác của các Thiền sư mà Phật giáo đã đóng góp tích cực cho công cuộc dựng nước. Cũng buổi ban đầu mới mở mang bờ cõi, các triều đại đã biết lấy đạo đức Phật giáo để xây dựng một xã hội thuần lương, một dân tộc thuần thiện, điều này đã được văn học dân gian truyền tụng bàng bạc trong đời sống, như “Đầu làng có một cây đa, giữa làng cây thị xa xa ngôi chùa” hay “Rủ nhau xuống biển mò cua, lên non hái củi vào chùa nghe kinh”. Trong quá trình giữ nước, lịch sử thường nhắc đến các triều đại huy hoàng nhất, đó là triều đại Lý Trần. Dưới các triều đại này các thiền sư nổi tiếng với tuệ giác siêu việt đã giữ vai trò Quốc sư góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước như thiền sư Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Mãn Giác, Giác Hoàng, Không Lộ … Các thiền sư đã trực tiếp giúp nhà vua thiết lập kế hoạch, thảo văn thư, soạn chiếu chỉ, tiếp ngoại giao đoàn. Như vậy dù đạo Phật không đem của cải vật chất hay vũ khí tối tân để giúp vua, giúp nước đánh đuổi ngoại xâm, xây dựng nước nhà, mà bằng tuệ giác đã giúp vua giúp nước, đánh thắng oai hùng quân xâm lược xây dựng nên một thời đại huy hoàng trong lịch sử dân tộc Việt Nam…

Trong cuộc đời ngũ trược ác thế này, nếu không có tuệ giác soi đường, nếu không có từ tâm ban rải thì sẽ khó có được một đời sống hòa bình hạnh phúc. Nét đặc thù của Phật giáo là không bao giờ gieo oán kết thù, không bao giờ bạo động hoặc sách động, mà Phật giáo chỉ dùng lưỡi gươm trí tuệ, cây cung từ bi và áo giáp nhẫn nhục để cảm hóa và xây dựng trên bước đường hoằng truyền chánh pháp. Chính vì vậy mà Liên Hiệp Quốc đã chính thức công nhận và lấy ngày Phật Đản Sinh là ngày lễ hội tôn giáo toàn cầu, đó cũng là ngày hội hướng đến hòa bình của nhân loại.

Page 127: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

127

Đường lối xây dựng một cuộc sống hòa bình của Đức Phật rất rõ ràng và cụ thể. Ngài không lẫn tránh cuộc đời nhưng cũng không bị trói buộc bởi cuộc đời. Ngài đối mặt, cảm nhận, nhưng không luyến ái chấp thủ, cũng không bị trói buộc phiền não. Ngài chứng thực hết thảy pháp đều do nhân duyên duyên sinh và cũng do nhân duyên diệt, do vậy mà Ngài không vướng bận. Trong Trung Bộ Kinh, thuật lại một câu chuyện, một hôm Ngài cùng Tôn giả A Nan (Ànanda) vào thành khất thực, bị dân chúng trong thành phỉ báng dữ dội. Khi đó Tôn giả A Nan (Ànanda) vô cùng lo lắng, bèn thưa với Đức Phật:

- Bạch Đức Thế Tôn, người trong thành này không kính tín Tam bảo, họ phỉ báng chúng ta, vậy chúng ta nên đi xứ khác.

- Này A Nan, nếu người xứ khác cũng phỉ báng chúng ta, chúng ta phải làm sao?- Bạch Thế Tôn, chúng ta lại đi đến xứ khác nữa.- Này A Nan, nếu người xứ khác đó cũng phỉ báng chúng ta, chúng ta phải làm sao?- Bạch Thế Tôn, chúng ta lại đi đến một xứ khác nữa.- Như vậy chẳng được đâu. Này A Nan! Hãy kham nhẫn. Điều gì có sanh khởi, thì ắt

cũng đến hồi chấm dứt”.Qua câu chuyện trên đây chúng ta thấy Đức Phật hoàn toàn không hề có một ý tưởng

đối phó, hay mong đợi những điều tốt đẹp an ổn đến với mình, bởi Ngài thấu đạt lý duyên sinh của hiện hữu. Chính sự xúc chạm các pháp trong đời sống thế gian mà tâm không động, không tham đắm, không hệ lụy, không bị trói buộc hay phiền não, thì đấy là tâm an lạc, là nhân tố quyết định của một cuộc sống hòa bình bền vững. Qua đó chúng ta thấy, Đức Phật chủ trương xây dựng hòa bình ngay trong tâm hồn an lạc nơi mỗi con người và trên cơ sở diệt trừ tham sân si. Do vậy, Ngài chủ trương hàng đệ tử phải quan tâm thật nhiều đến việc nuôi dưỡng đạo đức trong đời sống và thực hành bốn đức hạnh cao cả Từ Bi Hỷ Xả, bởi vì nếu đời sống mà không có đạo đức và vị tha, thì tâm hồn sẽ khó có thể trong sáng thanh tịnh được. Do vậy việc giữ gìn giới luật hay thực hiện một đời sống đạo đức được xem là bước đi đầu tiên và cơ bản cho tâm hồn an lạc và cuộc sống hòa bình. Về nếp sống kỷ cương đạo đức, Đức Phật dạy hàng Phật tử phải giữ gìn: 1- Ngũ giới (Không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong các dục, không nói láo, không uống rượu). 2- Bát giới (Không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong các dục, không nói láo, không uống rượu, không ăn phi thời, không dùng đồ trang sức và không xem hát, nhạc, kịch, không nằm giường cao lớn). 3- Thập thiện giới (Không sát sanh, không lấycủa không cho, không tà hạnh trong các dục, không nói láo, không nói lời hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sâu hận, không si mê).

Một yếu tố quan trọng khác góp phần vào mục tiêu hòa bình của đạo Phật là thái độ tránh bàn thế sự được vận dụng vào đời sống hằng ngày của người Phật tử. Đức Phật không bàn chuyện thời thế và Ngài luôn quan tâm đến việc giáo hóa, xây dựng cuộc sống an lạc hòa bình cho những người hữu duyên. Trong Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã dạy: “Này các Tỳ kheo, khi các thầy hội họp với nhau, có hai việc cần phải làm: Một là thảo luận chánh pháp, hai là im lặng như chánh pháp”. Có thể nói đây là điều kiện tốt để Phật tử nuôi dưỡng chánh niệm cũng như phát triển trí tuệ, nhận biết sự thật duyên khởi sanh diệt của các pháp, qua đó có thể dễ dàng đoạn trừ tham sân si. Đây chính là phương pháp điều phục thân khẩu ý rất hiệu quả, và cũng là một giải pháp hết sức thực tiễn cho mục tiêu tìm nguồn sống an lạc cho bản thân và cuộc sống hòa bình cho nhân loại.

Khi nói về đạo Phật với nền hòa bình của nhân loại, chúng ta thấy rất rõ con đường hòa bình mà Đức Phật vạch ra cho loài người hết sức cụ thể, cùng với việc giữ gìn giới luật, thực hành một đời sống vị tha nhân ái, Từ Bi Hỷ Xả, còn có một đời sống có trách nhiệm đạo đức đối với bản thân, gia đình, xã hội. Nói về tương quan giữa con người, gia đình và xã hội, Trong Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt, thuộc Trường Bộ Kinh, Đức Phật đã chú trọng đến trách nhiệm và bổn phận mà các đệ tử của Ngài cần phải thực hiện một cách chu toàn. Chẳng hạn, trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái thì bậc làm cha làm mẹ phải hoàn thành trách nhiệm của mình đối với con cái; về phần con cái cũng phải làm tròn bổn phận đối với cha mẹ. Nhất là con cái phải chăm sóc phụng dưỡng khi cha mẹ già yếu, thay cha mẹ làm các phận sự, duy trì danh giá và truyền thống gia đình, bảo quản gia sản của cha mẹ, lo tang lễ cho cha mẹ khi cha

Page 128: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

128

mẹ qua đời. Đồng thời bậc làm cha làm mẹ phải ngăn con làm điều ác, khuyến khích con làm điều thiện, nuôi dưỡng giáo dục con cái thành người hữu ích cho xã hội... Trong mối quan hệ thầy trò thì người học trò phải biết tôn trọng và vâng theo lời dạy của thầy, phải chăm chỉ học tập. Về phần thầy cũng phải dạy dỗ học trò kiến thức cùng những điều hay lẽ phải ở đời... Trong mối quan hệ chồng vợ, người chồng phải yêu thương, tin tưởng, thủy chung và tôn trọng người vợ. Về phần người vợ cũng phải quán xuyến thậtb tốt công việc gia đình, thủy chung, tin tưởng chồng, phải giữ gìn gia sản của nhà chồng... Trong mối quan hệ bạn bè, bà con, chòm xóm, Đức Phật cũng khuyên chúng ta thực hành Tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợii hành, đồng sự), bên cạnh đó phải tôn trọng nhau trong cuộc sống, không tranh chấp, giúp nhau lúc cần và không bỏ nhau lúc hoạn nạn.

Đức Phật hiểu rất rõ sức mạnh của tham dục trong thế giới loài người (dục giới) và nỗi khổ đau do dục vọng mang lại, trong Trung Bộ Kinh, Ngài gọi thế giới này là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho dục vọng, bởi “dầu mưa bằng tiền vàng, các dục khó thỏa mãn”. Do đó, để tránh tranh chấp, chiến tranh giữa các cá nhân, cộng đồng và quốc gia, Trong Đại Kinh Khổ Uẩn, thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã nhắc nhỡ các vị Tỳ kheo phải thường xuyên cảnh tĩnh bản thân trước tai họa của tham dục như sau:

“Này các Tỳ kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nhân duyên, do chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua, Sát Đế Lợi tranh đoạt với Sát Đế Lợi, Bà La Môn tranh đoạt với Bà La Môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ, cha mẹ tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha mẹ, anh em tranh đoạt với anh em, bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Một khi đã tranh chấp, tranh luận, tranh đoạt, sẽ dẫn đến công phá nhau bằng tay; công phá nhau bằng đá; công phá nhau bằng gậy... Điều này sẽ dẫn đến tử vong, dẫn đến sự đau khổ. Lại nữa, này các Tỳ kheo, do dục làm nhân... sẽ dẫn đến việc họ bắn nhau bằng tên, họ đâm nhau bằng đao, bằng kiếm... Điều này sẽ dẫn đến việc họ bị đến tử vong, đi đến sự đau khổ”. Trong Đại Kinh Khổ Uẩn, thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã tự nói về Ngài rằng Ngài đã hạn chế các cuộc tranh chấp và chiến tranh bằng cách khuyên mọi người sống bố thí, tiết độ và hành thiền; bố thí nhằm hạn chế lòng tham, tiết độ để chế ngự dục vọng và hành thiền để có được hạnh phúc tâm linh thay thế các thú vui dục lạc thường tình ở thế gian.

Trong Đại Phẩm của Luật tạng (Mahàvagga) có ghi lại sự kiện vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) giới thiệu tám vạn dân của ông đến núi Linh Thứu (Gijìhakùta) để yết kiến và lắng nghe giáo pháp của Đức Phật. Sự kiện này cho thấy ngoài đức tin của một Phật tử, vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) đã dùng ảnh hưởng đạo đức của đạo Phật như là một phương tiện thù thắng để trị quốc an dân. Cũng như vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra), vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) quốc vương nước Kiều Tất La (Kosala) cũng là một Phật tử tín tâm thuần thành của đạo Phật.

rất mến mộ Đức Phật và giáo pháp của Ngài. Lịch sử Phật giáo ghi chép lại rằng, ông là một vị vua rất chuộng hòa bình, không

muốn chiến tranh, tự nhận là mình sau khi thâm ngộ Phật pháp rồi, ông không hề làm hại bất cứ một ai. Trong nhiều cuộc đàm luận với bậc Đạo sư, Pasenadi tỏ ra rất quan tâm về nếp sống đạo đức tâm linh của quần chúng. Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) có ghi lại đoạn kinh văn ông đã tâm sự với Đức Phật về đời sống nội tâm an lạc của con người liên quan đến cuộc sống hòa bình của nhân loại như sau: “Bạch Đức Thế Tôn, khi con ngồi yên tĩnh, tư tưởng này khởi lên nơi con: “Người đời sau khi được tài sản, có thể không bị lôi cuốn, không bị chìm đắm, không bị dục lạc mê đắm...Ngược lại, cũng có người trong đời này, sau khi được tài sản phong phú, dồi dào, có thể bị lôi cuốn, bị mê đắm trong dục lạc và có những hành vi bất hảo đối với người khác. Bạch Đức Thế Tôn, khi con ngồi yên tĩnh, tư tưởng này khởi lên nơi con: “Đối với ai, tự ngã được bảo vệ? Đối với ai, tự ngã không được bảo vệ?”. Bạch Đức Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Những ai thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, những người ấy không bảo vệ tự ngã. Dầu cho họ được tượng binh bảo vệ, hay được mã binh bảo vệ, hay được xa binh bảo vệ, hay được bộ binh bảo vệ; đối với những người ấy, tự ngã không được bảo vệ. Vì cớ sao? Vì sự bảo vệ như vậy là bảo vệ ở ngoài, không phải sự bảo vệ bên trong. Cho nên đối với những người ấy, tự ngã không được bảo vệ. Và những ai thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện, những người ấy bảo vệ tự ngã. Dầu cho họ không được tượng binh bảo vệ, không được mã binh bảo vệ, không được xa binh bảo vệ, hay không được bộ binh bảo vệ; đối

Page 129: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

129

với những người ấy, tự ngã được bảo vệ. Vì cớ sao? Vì sự bảo vệ như vậy là sự bảo vệ bên trong, không phải sự bảo vệ ở ngoài. Cho nên đối với những người ấy, tự ngã được bảo vệ”.

Qua tâm sự mà vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) quốc vương nước Kiều Tất La (Kosala) thổ lộ với Đức Phật, điều này chứng tỏ ông là một Phật tử giàu lòng vị tha, luôn mong muốn mọi người sống xả ly tham dục, không sát sanh, không làm hại, sống thanh tịnh thân, miệng, ý; trong cuộc sống tránh xa mười điều ác, siêng làm mười điều thiện, tức những điều mà ông lãnh hội sau khi quy y Đức Phật. Chúng tôi cho rằng, quả thật là may mắn cho người dân Ấn Độ được sống dưới sự lãnh đạo của một vi minh quân hết sức quan tâm đến điều thiện, yêu chuộng hòa bình, biết chú trọng đến đời sống tâm linh của bản thân cũng như của mọi người dân.

Trong lịch sử Phật giáo, có thể nói đạo Phật đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền hòa bình của Ấn Độ dưới thời vua A Dục (Asoka), theo kinh tạng Pali thì vua A Dục (Asoka) được xem là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Ấn Độ chủ trương đường lối hòa bình trên nền tảng thập thiện của đạo Phật. Căn cứ theo nội dung bia ký IV, thì nhờ các thánh chỉ tôn giáo mà dân chúng Ấn Độ đã tiến bộ đáng kể về phương điện đạo đức. Họ từ bỏ sát sanh, hiếu kính cha mẹ, tôn trọng các bậc trưởng thượng, cung kính các Sa Môn và Bà La Môn. Lịch sử dân tộc Ấn Độ cũng đã ghi nhận sự nghiệp chính trị của vua A Dục (Asoka) ảnh hưởng sâu sắc tư tư-ởng Phật giáo, ông chủ trương đường lối đức trị, cụ thể là nỗ lực truyền bá Phật pháp sâu rộng trong đời sống nhân dân, tạo công ăn việc làm cho dân, tăng cường chế độ phúc lợi xã hội, có chế độ ưu tiên trợ giúp cho người nghèo khó, người già neo đơn, điều chỉnh sưu thuế, không dùng hình phạt đối với kẻ lầm đường lạc lối và khoan hồng cho kẻ biết hồi tâm... Điều đáng lưu ý là thông qua nội dung trong bia ký XII, chúng ta biết được vua A Dục (Asoka) đã ban bố chính sách tôn giáo như sau: “Nhân dân không nên chỉ kính trọng tôn giáo của mình và bài xích tôn giáo của người khác. Vì như vậy, không chỉ tự làm tổn thương tôn giáo của mình mà còn làm thương tổn tôn giáo của người khác. Sự thật thì các tôn giáo đều xứng đáng được tôn trọng. Người nào kính trọng tôn giáo của mình và bài xích tôn giáo của người khác, thì người đó tự làm tổn thương tôn giáo của chính mình”. Với nội dung của bia ký này chúng ta thấy vua A Dục (Asoka) ảnh hưởng sâu sắc tinh thần hòa đồng, tôn trọng, bình đẳng tôn giáo rất đáng khâm phục, mặc dù ông là một Phật tử thuần thành. Đây chính là sự ảnh hưởng nếp sống hòa bình an lạc của đạo Phật.

CHƯƠNG HAI

ĐẠO PHẬT VỚIMÔI TRƯỜNG SINH THÁI

Tại Ấn Độ hai mươi lăm thế kỷ trước, cũng đã từng xảy ra những trận mưa lũ kinh hoàng, mà trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) Đức Phật đã mô tả về một trận lũ lụt như sau: “Này các thầy Tỳ Kheo, một thời có mưa nổi lên. Khi mưa lớn nổi lên, này các Tỳ Kheo, lụt lớn sanh khởi. Do lụt lớn sanh khởi nên các làng bị cuốn trôi, các thị trấn bị cuốn trôi, các phố thị bị cuốn trôi”. Nguyên nhân gây nên vấn nạn này, theo Đức Phật đó chính là do ô nhiễm và mất cân bằng hệ sinh thái môi trường. Cũng trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya), Ngài đã nêu ra một vài tác nhân do hành vi con người gây ra: “Ví như, này các Tỳ Kheo, một hồ nước uế nhớp, bị khuấy động bùn. Tại đây có một người đứng trên bờ, không thể thấy các con ốc, các con sò, các hòn sạn... các đàn cá qua lại, đứng yên. Vì cớ sao? Vì nước bị khuấy đục”. Thật ra sự hiểu biết về môi trường, khí hậu và thời tiết của Đức Phật vô cùng phong phú, bởi trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya), Đức Phật còn mô tả khá tỷ mỷ các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn về sự ảnh hưởng của thời tiết đến mùa màng như sau: “Năm nào thời tiết thất thường thì năm đó gió thổi sai lạc và trái mùa... Khi nào trời mưa không điều hòa, khi ấy lúa chín trái mùa”.

Page 130: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

130

Chúng ta thừa biết môi trường thiên nhiên đang bảo bọc sự sống nhân loại và muôn loài trên trái đất, vậy mà chúng ta không ngừng ra tay tàn phá môi trường sống quý báu đó, điều này dẫn đến sự mất cân bằng sinh thái, khiến phát sinh muôn ngàn thiên tai nguy hại như lũ lụt, động đất, sóng thần làm cho nhân loại phải lâm cảnh khốn cùng điêu đứng. Vào thời Đức Phật tại thế, khi nhận thức của con người còn giới hạn về khoa học môi trường, thì trước những thảm họa thiên tai, người ta thường cho rằng, đó là sự trừng phạt của thần thánh. Trong khi đó Đức Phật đã sớm nhận ra những thảm họa kia đều do chính con người gây ra, chứ không phải do ai khác. Cũng như khi nói về họa phúc, đau khổ, bất hạnh của kiếp người, Đức Phật nhận định rằng: “Con người là chủ nhân, là kẻ thừa kế trực tiếp của những nghiệp do mình làm nên”. Nhận định này mang tính phổ quát cho mọi trường hợp trong cuộc sống, tất nhiên trong đó có môi trường.

Khi chúng ta bàn về những ảnh hưởng tích cực đến môi trường sống của nhân loại từ giáo pháp của Đức Phật, chúng tôi nhận thấy, yếu tố cần thiết phải xét đến là cách giải quyết đời sống kinh tế của loài người mà Đức Phật quan tâm đến. Bởi đây là một trong những nguyên nhân gây nên sự tàn phá môi trường. Về điều này Đức Phật đã dạy đệ tử cần phải thực hiện “chánh mạng”, nghĩa là phải kiếm sống một cách lương thiện, đúng đắn, không làm tổn hại cho mình, cho người và muôn loài. Cách ứng xử về vấn đề kinh tế như vậy, nếu được thực hành một cách trọn vẹn, thì chúng ta sẽ thực hiện việc bảo vệ môi trường sống của con người một cách hoàn hảo. Thực hiện phương cách sống “chánh mạng”, chúng ta sẽ không tàn phá rừng và săn giết muôn thú vô tội vạ (nếu như nó không thực sự tối cần thiết cho cuộc sinh tồn). Cùng với thực hành “chánh mạng” trong Bát Chánh Đạo, Đức Phật dạy bảo hàng tứ chúng Phật tử phải giữ giới “không được sát sanh” đồng thời thường xuyên “phóng sanh” và khuyên dạy đệ tử tùy theo khả năng hoàn cảnh của mỗi người mà nên thực hành việc “ăn chay” để tăng trưởng lòng từ bi bác ái.Có thể nói đây là những việc làm thiết thực, âm thầm và lâu dài trong việc bảo vệ môi trường sống của con người một cách hoàn hảo nhất.

Xuất phát từ lòng thương yêu và tôn trọng sự sống của muôn loài, việc cấm sát sanh của Đức Phật là một biểu hiện cụ thể nhất. Cũng trên tinh thần từ bi vô hạn này, nếu xét trên lăng kính của thời đại thì nó có tác dụng góp phần bảo vệ môi trường thiên nhiên một cách tích cực và hiệu quả. Bằng chứng là ngày nay các quỹ bảo vệ động vật hoang dã đã lần lượt ra đời trên thế giới, chẳng hạn như đảng Xanh ở châu Âu đã nhận ra sự nguy hiểm của việc tàn phá môi trường, nên họ đã lặn lội khắp nơi trên thế giới để bảo vệ các loài vật sắp bị tuyệt chủng. Những hành động của họ ngày hôm nay chính là tinh thần “bất hại”. Tinh thần “bất hại” này rất phù hợp với tinh thần từ bi “bất sát”, phù hợp với tinh thần tôn trọng sự sống của đạo Phật, mặc dù phần đông trong số họ chưa hẳn họ là những người chịu ảnh hưởng tinh thần từ bi của đạo Phật. Thật ra, tinh thần “bất hại” tự nó đã chứa đựng đầy đủ ý nghĩa tôn trọng sự sống, nó vừa không xâm phạm hay làm tổn hại, lại vừa che chở cứu vớt... Như vậy tư tưởng và hành động “bất hại” luôn mang tính hợp tác và cộng sinh như tinh thần Đức Phật đã dạy chư vị Tỳ Kheo: “Ví như bầy ong lấy mật hoa, không làm tổn hư hương sắc”. Trong lãnh vực môi trường, với suy nghĩ đúng theo phương pháp luận Tứ Diệu Đế, từ “khổ” sang “nguyên nhân của khổ” đến “con đường diệt khổ” và “sự chấm dứt của khổ”, người Phật tử sẽ lãnh hội dễ dàng những thông tin và nhận định đa chiều về ô nhiễm và suy thoái của môi trường … từ đó sẽ không còn mấy khó khăn để tìm ra những giải pháp, những hành động thiết thực phù hợp với khả năng trong việc cải thiện môi trường. Đây là lý tưởng cùng tột nói lên giá trị nội tại bình đẳng của muôn loài.

Vấn đề ăn của Đức Phật và đệ tử của Ngài đơn giản như vậy, song, vấn đề mặc của Ngài và các đệ tử lại càng đơn giản hơn nữa. Trong khi có rất nhiều loài thú quí hiếm bị săn bắt và giết hại để phục vụ cho nhu cầu y phục xa xỉ của con người, như những chiếc áo lụa tơ tằm, lông chồn, lông hổ, báo, những túi da, dây nịt, hay các loại giày bằng da bò, da cá sấu... thì cách phục sức của Đức Phật là cực kỳ giản dị, chỉ bằng tấm vải liệm của người chết để lại ở bìa rừng được đem về giặt sạch hay chỉ cần một tấm y phấn tảo, miễn sao vừa giữ ấm cơ thể, vừa trang nghiêm sạch sẽ, thế là đủ. Cách thức giải quyết vấn đề ăn mặc của Đức Phật giản dị, thể hiện sự tôn trọng sinh mạng loài vật quả thật là một nét đẹp trong văn hóa bảo vệ thiên nhiên và môi trường.

Trong lịch sử nhân loại, những Thánh nhân thường yêu thương con người và thiên nhiên, thế nhưng yêu thiên nhiên, sống hòa nhập với thiên nhiên như Đức Phật là một trường hợp hy hữu. Những nơi Ngài đã từng đi qua và dừng lại để an trú, thuyết pháp, Ngài luôn có

Page 131: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

131

một cách ứng xử đầy yêu thương và tôn trọng. Với tình yêu thiên nhiên, tôn trọng môi trường sống như vậy, cách ứng xử của Đức Phật là một tấm gương sáng cho thời đại của chúng ta, khi loài người đang nhân danh văn minh để tàn phá những khu rừng, tàn phá thiên thiên một cách vô tội vạ vì lợi ích trước mắt, thì văn hóa ứng xử với thiên nhiên của Đức Phật lại càng trở nên ý nghĩa hơn bao giờ hết.

Cuộc đời Đức Phật từ lúc Đản Sanh cho đến lúc nhập Niết Bàn là một minh chứng xác thực cho một đời sống chan hòa với thiên nhiên và cỏ cây: Ngài sinh ra dưới gốc Vô Ưu vào mùa trăng tròn. Ngài thành đạo dưới gốc cây Bồ Đề trong rừng sâu bên dòng sông Ni Liên Thuyền cũng trong một mùa trăng tròn. Ngài thuyết bài pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển. Và Ngài từ giã thế gian cũng tại khu rừng dưới hai cội Sa La đại thọ… Sinh hoạt thường nhật của Đức Phật đã được chính Ngài mô tả trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) như sau: “Ở đây, này Bà La Môn, ta sống gần một làng hay một thị trấn. Buổi sáng ta đắp y, cầm bát đi vào làng ấy, hay thị trấn ấy để khất thực. Sau khi ăn xong, trên con đường đi khất thực trở về, ta đến một góc cuối của ngôi rừng. Tại đấy, ta lượm cỏ hay lá chất thành một đống, rồi ta ngồi kiết già”.

Cuộc sống của Ngài gắn liền với thiên nhiên như vậy, nên Ngài luôn có thái độ yêu mến và trân trọng thiên nhiên. Ngài đã từng nhiều lần tuyên bố cỏ cây cũng có cuộc sống của riêng nó. Ngài tỏ thái độ của mình bằng cách tôn trọng sự sống của thiên nhiên mà trong các luật chế ra cho các hàng đệ tử xuất gia, Ngài đã nghiêm cấm đệ tử tàn hại đến cỏ cây. Tinh thần văn hóa yêu thiên nhiên cây cỏ đó đã được thể hiện rất rõ ở hành động: “Ta đến góc cuối của một ngôi rừng” và “Ta lượm cỏ hay lá chất thành một đống”. Chỉ là động tác lượm thôi, rất nhẹ nhàng và hiền hòa, rất tôn trọng và lịch thiệp, Ngài đối xử với cỏ cây hoa lá mà như là đối xử với một con người thật sự. Thật vậy, nhìn lại cuộc đời Ngài, chúng ta nhận thấy, từ lúc Ngài đản sanh cho đến khi nhập Niết Bàn, suốt cả cuộc đời, hầu như Ngài đều gắn bó với rừng sâu suối vắng, với muôn hoa cây cỏ... Chính vì vậy mà Đức Phật đã thường dùng các loài cây (Bồ Đề, Sa La), các loài hoa (Sen, Vô Ưu) cùng phong cảnh thiên nhiên như ao hồ, sông suối, rừng cây để đưa ra dẫn dụ trong các thời pháp thoại.

Kinh điển cũng thuật lại việc thí chủ Cấp Cô Độc (Anathapindika) thường hay đến viếng thăm Đức Phật mỗi ngày. Những khi ông gặp được Ngài thì ông tỏ ra vui mừng, những khi Ngài đi giáo hóa ở phương xa thì ông tỏ vẻ buồn rầu ra mặt. Đại đức A Nan (A Nanda) băn khoăn về vấn đề này nên đã hỏi Đức Phật để tìm một giải pháp hợp lý. Đức Phật chấp nhận việc trồng cây Bồ Đề do A Nan đề xuất để tượng trưng cho dự hiện diện của Phật. Xuất phát từ việc này mà cây Bồ Đề được xem như là sự hiện diện của Đức Phật. Chính vì vậy cho mãi đến ngày nay khi bước chân vào bất kỳ một ngôi chùa nào trên khắp thế giới, ta đều thấy sự hiện diện của loài cây này ở một nơi trang trọng nhất trong sân chùa.

Cuối cuộc đời, khi chuẩn bị cho việc nhập Niết Bàn, Đức Phật đã chọn nơi yên nghỉ là một khu rừng già hoang vắng, đó là khu rừng cây Sala của bộ tộc Malla. Trước sự việc này, Tôn giả A Nan đã thỉnh cầu Đức Phật: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có diệt độ tại đô thị phụ thuộc này, tại đô thị hoang vu này”. Thế nhưng Đức Phật đã thanh thản trả lời: “Này A Nan, chớ có nói như vậy, chớ có nói đô thị này nhỏ bé, đô thì này hoang vu” (Kinh Trường bộ I). Trong khuynh hướng chung của con người, ai cũng thích và xem trọng những nơi phồn hoa đô hội và xem nhẹ chốn làng quê thôn dã. Nhưng Đức Phật đã chọn rừng cây Sala hoang vu để từ giã cõi đời này, bởi Ngài yêu thương và luôn tôn trọng môi trường sống thiên nhiên. Ngài trân trọng thiên nhiên nên thiên nhiên cũng đã ưu ái với Ngài khi tiễn đưa Ngài lần cuối. Trong thời khắc thiêng liêng ấy, những cây Sa La nở hoa trái mùa, nghiêng mình và phủ lên kim thân Ngài những bông hoa, kính cẩn chào con người vĩ đại của nhân loại giây phút cuối cùng.

Hễ nói đến đạo Phật nhiều người liên tưởng ngay đến một tôn giáo chú trọng đến việctu hành giải thoát hoặc nghĩ đến một mối đạo chỉ chú trọng đến Từ Bi Hỷ Xả. Thế nhưng khi tìm hiểu mối liên hệ sâu xa và những ảnh hưởng tích cực từ đạo Phật đến đời sống nhân loại, chúng ta mới vỡ lẽ đạo Phật lại có mối liên hệ mật thiết rất chặt chẽ đến việc bảo tồn hệ sinh thái và cải thiện môi trường hiệu quả nhất. Vì sao vậy? Như đã nói, vì đạo Phật là đạo từ bi trí tuệ, nếu chúng ta nhận thức một cách sâu sắc mọi vấn đề trong đời sống kết hợp với từ tâm của tất cả chúng ta thì chắc chắn rằng chúng ta sẽ không tổn hại đến bất cứ điều gì dù đối tượng là một cây kim hay ngọn cỏ, huống gì nói đến việc phá rừng lấp sông xẻ núi, tàn sát muôn loài, hủy diệt lẫn nhau. Chính những điều này đã chứng tỏ dù đạo Phật không trực tiếp chủ trương việc bảo vệ môi trường, nhưng kỳ thật đạo Phật lại là đạo sinh ra để giải quyết tận gốc những

Page 132: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

132

vấn nạn nghiêm trọng nhất về môi trường, mà các giải pháp bảo vệ môi trường trong đời sống thế gian xem ra chỉ có thể giải quyết ở phần ngọn và rất hạn chế.

Trong nhịp sống thời đại hiện nay, nhân loại vẫn đang lo ngại trước sự mâu thuẫn trầm trọng giữa những chỉ số phát triển kinh tế và sự tàn phá môi trường sống của con người. Theo một nghiên cứu gần đây nhất đã cho thấy, tốc độ phá rừng hiện nay, với 11 triệu ha mỗi năm, đến năm 2040 thế giới sẽ mất đi từ 17% đến 35% loài thực vật trong số 10 triệu loài. Đến năm 2040 thì mỗi ngày sẽ có từ 20 đến 70 loài bị tuyệt chủng. Thật vậy, môi trường đang che chở và bảo bọc cho sự sống của chúng ta đang bị chính chúng ta huỷ diệt mỗi ngày. Hậu quả bi thảm đã tàn phá nhiều nơi trên thế giới thông qua các thảm trạng như lũ lụt, thiên tai, sóng thần... quả báo tàn khốc này cùng với việc tiếp tục gây ô nhiễm và mất cân bằng hệ sinh thái cũng chính là cái “nhân” mới khiến cho nhân loại càng tiến đến gần nguy cơ huỷ diệt nhiều hơn. Chẳng hạn những khu rừng sau khi bị chặt trắng, sẽ dẫn đến việc toàn bộ hệ sinh thái khu vực này bị đảo lộn và nếu như chúng ta cứ tiếp tục tàn phá thì hậu quả sẽ vượt ngoài khả năng tự quân bình vốn có trong thế giới tự nhiên và như thế là chúng ta tự đánh mất nguồn dinh dưỡng trong lành quý giá của mình, điều này đồng với nghĩa là chúng ta đang tâm hũy diệt sự sống của chính mình.

Khi con người tàn phá môi trường thiên nhiên thì chúng ta cứ tưởng là môi trường thiên nhiên im lặng, bình thường trông như nó không phản đối trước bất cứ một tác động nào của con người, thế nhưng không phải vậy, môi trường thiên nhiên luôn lên tiếng phản đối trước những hành vi tác hại của con người, cho đến khi nó không phản đối nữa và sức sức quật khởi mãnh liệt từ hậu quả ô nhiễm môi trường thông qua những cơn sóng thần, những trận động đất kinh hoàng thì chúng ta mới bàng hoàng tỉnh ngộ. Trên thế giới ngày nay, trước những tác nhân gây ô nhiễm môi trường như cuộc chiến tranh dầu hỏa tại vùng Vịnh, sự cố Dioxin ở Seveco ở Ý năm 1974 hay tại Việt Nam chúng ta, tại nạn lò nguyên tử tại Tschernoby Ukrain năm 1986 và vô số cuộc chìm tàu chở dầu trên các đại dương... vẫn luôn là những đề tài nóng trong những bàn hội nghị thảo luận về tương lai nhân loại.

Cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Phật đã dạy: “Cái này hiện hữu thì cái kia hiện hữu. Cái này không thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh. Cái này diệt thì cái kia diệt”. Nguyên lý duyên khởi này chỉ ra rằng, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới và vũ trụ đều làm điều kiện cho nhau chuyển biến không ngừng nghỉ trong quá trình “sinh trụ hoại diệt”. Ngài Tịch Thiên đã nhắc lại trong tập Luận “Nhập Bồ Tát Hạnh”: “Tất cả các pháp đều do các duyên sinh ra. Không pháp nào tự có”. Về điều này, nếu chúng ta liên hệ thì sau khi rừng thiên nhiên bị chặt trắng, sẽ dẫn đến việc toàn bộ hệ sinh thái của nó sẽ dần dần tự phục hồi trên mặt đất trống qua quá trình tự cân bằng sinh thái. Thế nhưng chúng ta cứ tiếp tục tàn phá thì hậu quả sẽ vượt ngoài khả năng tự quân bình và như thế chúng ta tự đánh mất nguồn dưỡng khí trong lành, điều này đồng với nghĩa là chúng ta đang tâm hũy diệt sự sống của chính mình.

Để cải thiện môi trường sống của nhân loại, năm 1991 Hiệp Hội Bảo Vệ Thiên Nhiên Thế Giới (IUCN), Chương Trình Môi Trường Liên Hợp Quốc (UNEP) và Quỹ Bảo Vệ Thiên Nhiên Quốc Tế (WWF) đã có những giải pháp cấp thời nhằm “Cứu lấy Quả Đất” với chín nguyên tắc cơ bản và 132 hành động thiết thực nhằm tăng chất lượng môi trường sống của con người với những nội dung khái quát như sau: “Mỗi dạng sống đều phải được bảo đảm quyền tồn tại, bất kể nó có giá trị như thế nào đối với con người. Sự phát triển của loài người không được đe dọa đến tính toàn vẹn của thiên nhiên và sự sống còn của các loài khác. Con người phải đối xử tử tế với tất cả các sinh vật khác và bảo vệ chúng chống lại những hành vi hung bạo, những đau đớn có thể tránh được, cũng như sự giết chóc không cần thiết”. Trước đó Albert Scheizer đã nói đủ những điều trên qua một công thức ngắn gọn: “Đạo đức là sự mở rộng trách nhiệm đến tận vô biên đối với tất cả những gì có sự sống. Về mặt tôn giáo, tình yêu thương rộng lớn như bác ái, từ bi được xem như nguyên tắc căn bản để cứu lấy quả đất” và để đạt được như vậy, thì con người cần phải thay đổi “thái độ và hành vi” của mình, “thay đổi kiểu sống”, “thay đổi những quan niệm về giá trị mà họ quen hiểu xưa nay”.

Nói đến những ảnh hưởng tích cực của đạo Phật đến việc bảo vệ và cải thiện môi trường, là người Phật tử, chúng ta liên tưởng ngay đến đức tính Từ Bi Hỷ Xả, bởi đây là nền tảng đạo đức và cũng là tình yêu thương rộng lớn, để từ đó xây dựng nên một nguyên tắc sống căn bản để cứu lấy sự nguy hoại của quả đất. Là Phật tử, ai cũng biết rằng thực hiện Từ Bi là thể hiện tình yêu và lòng thương xót chúng sinh không giới hạn, tận tâm mang lại niềm an vui và sự cứu khổ đối với muôn loài. Đối với cuộc khủng hoảng môi trường, Từ Bi trở thành

Page 133: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

133

nguyên tắc “sống thân thiện”, “sống vô hại” đối với muôn loài cũng như môi trường sống của chúng. Từ Bi Hỷ Xả là bốn hạnh tu hỗ trợ nhau để diệt tâm bất thiện, sâu xa hơn, Từ Bi là một con đường sống cao đẹp đưa đến hạnh phúc và hòa bình, điều mà toàn thể nhân loại mơ ước. Đức Phật đã dạy bảo những điều này được tóm gọn trong Kinh Từ Bi như sau:

“Để đạt chân hạnh phúc, thoát khỏi luân hồi sanh tử. Phật tử phải nỗ lực tu tập để tròn đầy Trí và Đức. Thứ nhất, phát triển trí tuệ và nhận thức. Thứ hai, từ tâm ban rãi đến muôn loài. Thứ ba, thực hành lợi ích cho chúng sinh. Thứ tư, dứt tâm tham dục, thoát tử sinh Viên mãn Giới Đức và Trí Tuệ”.Với những lời dạy hàm súc và ý nghĩa trên đây, Đức Phật đã nhắn nhủ chúng ta rằng,

để có được cuộc sống hạnh phúc và an lành, người Phật tử phải tự phát triển nội lực, phải trau dồi thuần thục những đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả. Đây là “điều kiện cần” trước khi ban vui cứu khổ.

Trong lãnh vực môi trường, căn cứ theo phương pháp luận của Tứ Diệu Đế, từ “khổ” sang “nguyên nhân của khổ” đến “con đường diệt khổ” và “sự chấm dứt của khổ”, quý Phật tử sẽ dễ dàng cảm nhận những thông tin đa chiều về nguyên nhân ô nhiễm và suy thoái môi trường. Từ đó tìm ra giải pháp, để có những hành động thiết thực, phù hợp với khả năng trong việc bảo vệ môi trường. Thật ra ứng dụng Tứ Diệu Đế cũng là ứng dụng lý Duyên Khởi, nhờ đó chúng ta dễ dàng nhận ra mạng lưới tương quan, tương tác, tương duyên, tương sinh giữa các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ. Trong Kinh Từ Bi, Đức Phật còn dạy chúng ta một số đức tính thiện lành cần thiết, để làm hành trang trên bước đường đi tìm hạnh phúc. Những đức tính thiện lành đó là:

“Nghe lời phải, dịu dàng khiêm tốn. Sống biết đủ, vui đời giản dị”.Nhân đây chúng tôi xin nói thêm về sự “sống biết đủ”. Sống biết đủ là sống chừng

mực, thanh thản dù cuộc sống của chúng ta có còn thiếu thốn. Đức Phật dạy chúng ta “sống biết đủ” nhằm khuyên chúng ta nên giới hạn sự xa hoa, phung phí. Thật vậy, là Phật tử thì chúng ta cần phải sống “biết đủ” và “giản dị” như Kinh Từ Bi đã dạy. Bởi đó là nếp sống thanh cao và rất lợi ích cho đời sống tu tập và nhất là đóng góp rất đáng để cho việc bảo vệ môi trường sinh thái. Chính vì vậy mà Phật tử cần phải quan tâm suy ngẫm để thực hành. Chúng tôi xin trích thêm một đoạn Kinh Từ Bi mà Đức Phật đã dạy:

“Nguyện mang tình thương đến muôn loài. Cầu mong hết thảy đều lợi lạc. Chia sẻ chan hòa không bỏ sót. Người ốm yếu và người khỏe mạnh.

Loài cao to, hoặc ngắn, hoặc dài. Loài trung bình, bé nhỏ, tế, thô. Dù có tướng hay không hình tướng. Dù ở gần hoặc tận nơi xa. Vừa mới sinh hoặc đã sinh ra. Cũng nguyện cầu thảy đều an lạc”.Trong đoạn kinh này, Đức Phật đã nêu thật đầy đủ hết thảy muôn loài chúng sinh, từ

những loài có hình tướng to lớn, dài cao, ngắn, nhỏ, thô, tế đến cả những loài không có hình tướng, từ những chúng sanh ốm yếu cho đến các loài khỏe mạnh. Bởi tất cả chúng, dù là loại nào đi chăng nữa cũng là những sinh linh trên trái đất này, nên rất cần được sự tôn trọng mạng sống và tình thương yêu chia sẻ, bảo bọc, cứu vớt như nhau. Tình thương “không bỏ sót một hữu tình nào” là tình thương tỏa rộng đến tất cả mọi giống loại, xuyên suốt cả không gian lẫn thời gian, trùm lên thế giới hữu hình lẫn vô hình. Đây cũng là tình thương vô ngại, bình đẳng, mở rộng cùng khắp vạn vật và vũ trụ. Điều này Đức Phật đã dạy trong kinh tạng Pali như sau: “Hãy du hành vì hạnh phúc của quần sanh, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người”.

Sự đa dạng của các loài luôn gắn liền với sự đa dạng của hoàn cảnh và số phận. Chỉ có trí huệ sáng suốt một cách tường tận của đấng giác ngộ như Đức Phật, thì mới có thể chỉ ra cho chúng ta thấy rõ được từng cảnh ngộ và từng số phận trên thế gian này. Và chỉ có tâm từ bi vô

Page 134: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

134

biên vô hạn như Đức Phật mới có thể ban rãi tình yêu thương một cách sâu xa và trọn vẹn nhất đến với từng hoàn cảnh và số phận. Còn đối với người học Phật như chúng ta, thì chỉ khi nào tâm từ bi của chúng ta thật sự trổi dậy cùng với nhận thức sâu xa về sự sống của muôn loài, trong đó có chúng ta, thì chúng ta mới có thể cảm thông chia sẻ, ban vui cứu khổ, và thể hiện một nếp sống bởi lòng yêu thương và đạo đức của người con Phật.

Trên thực tế cuộc sống, chúng tôi cho rằng, với lòng nhạy cảm rất dễ xót xa thương cảm trước nỗi khổ đau của tất cả chúng sanh, nhất là đối với những loài vật yếu ớt bé nhỏ, không có khả năng tự vệ và mạng sống nó gần như tùy thuộc hoàn toàn vào tình thương và nhận thức của con người, thì đối với người Phật tử, đã thấm nhuần lời Phật dạy và huân tập ít nhiều bốn đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả cao quý, thiết nghĩ chúng ta nên hết lòng vì sự đau khổ bế tắc của muôn loài mà ra tay cứu vớt. Chúng tôi cho rằng, một khi đã là Phật tử, chắc chắn chúng ta sẽ không nỡ nào nhìn số phận của sinh linh đang bị sát hại sinh mạng mà không lên tiếng can thiệp hay ra tay ngăn chặn. Như chúng ta đã biết, quan niệm của con người từ xưa đến nay là làm chủ và thống trị vạn vật, chính vì vậy mà loài người công khai và mạnh tay trấn áp, bắt bớ, tàn sát, giết hại những loài vật khác với nhiều mục đích khác nhau trong cuộc sống. Quả thật, những nơi nào còn có hành vi tàn sát các loài vật, còn ỷ mạnh hiếp yếu, nơi nào chúng sanh còn sợ hãi, còn lo âu đau khổ thì nơi đó chưa có hạnh phúc chân thật. Chính vì vậy mà Đức Phật dạy rằng, hạnh vô úy thí là hạnh cao nhất, giới cấm sát sinh là giới đứng đầu mọi giới cấm. Để làm rõ điều này, trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật đã dạy hàng đệ tử như sau:

“Tất cả mọi người. Cùng sợ dao gậy. Và sợ chết chóc. Cứ tự coi mình. Mong muốn thế nào. Thì biết người khác. Cũng muốn như vậy. Chớ có tự mình. Hay xúi người khác. Làm việc giết hại”.Như vậy sống với tình thương vô biên là sống không gây áp lực, gây sợ hãi, giết chóc;

đó chính là nhịp điệu sống đạo, sống trong tâm niệm hòa bình và an lạc. Có lẽ một số ít trong những ảnh hưởng về giáo pháp của Đức Phật đối với môi trường sống của nhân loại, mà trong khía cạnh bảo vệ môi trường sinh thái, Hans Jonas, một triết gia khá nổi tiếng về đạo đức sinh thái, đã đưa nguyên tắc hành động có trách nhiệm đối với sự sống của con người qua câu nói vắn tắc và hàm súc như sau: “Bạn hãy hành động sao cho thực sự vì lợi ích của muôn loài trên quả đất”. Còn ông Schumacher, một nhà kinh tế học Anh, giữa thập niên 1970, đã đề nghị một mô hình “Kinh tế Phật Giáo”, đây được xem là một mô hình kinh tế không sát sanh, không bóc lột, sống hợp tác với thiên nhiên, dựa trên những nguyên tắc sinh thái lành mạnh và trên một nền công nghiệp mang tính nhân bản cao. Mô hình kinh tế này đương nhiên là hướng con người sống đúng theo “chánh nghiệp”. Tất cả những ý kiến đầy thiện chí trên đây của các nhà khoa học đạo đức là mong muốn loài người trên hành tinh này hãy sớm thức tỉnh về những bất cập và tai hại của sự phát triển kinh tế xã hội không bèn vững do tàn phá môi trương gây nên.

Như chúng ta đã biết, Đức Phật đã từng dạy đệ tử cách hành xử “bất hại” đầy trách nhiệm đối với người và thiên nhiên trong Kinh Pháp Cú như sau: “Như ong đến với hoa. Không hại sắc và hương. Che chở hoa lấy nhuỵ…”. Tuy nhiên chúng ta cũng cần ý thức rằng, sống bất hại, sống hy sinh vì mọi loài một cách rốt ráo thật không dễ, bởi con người cũng là thành viên của cộng đồng sinh vật trên trái đất. Sự sống còn và phát triển của con người hoàn toàn tùy thuộc vào thực phẩm, nước uống và không khí trong trời đất vũ trụ. Vì vậy mọi hành động nuôi dưỡng và phát triển sự sống không thể nào tránh khỏi sự xâm phạm trực tiếp hay gián tiếp đến loài này hay loài khác thuộc giới động vật hay thực vật. Thực hiện rốt ráo hạnh “bất hại” đối với hàng Phật tử tại gia thực vô cùng khó khăn. Do vậy trong đoạn cuối của Kinh Từ Bi, Đức Phật đã dạy như sau:

“Ban rãi từ tâm cùng khắp cõi. Tình thương chân thật vốn vô biên. Trên, dưới, trong ngoài và chặn giữa Không hề vướng mắc oán thù ai.

Page 135: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

135

Đi, đứng, ngồi, nằm tâm an lạc. Tinh thần sáng suốt trí tuệ thông. Chánh niệm hiện tiền khơi nguồn sống Là Chân Thiện Mỹ nhất trên đời Chớ để mê tâm vào u tối Thì tròn giới đức, trí huệ ngời. Lìa xa tham dục tâm an lạc Tương lai ắt sẽ thoát luân hồi”.Trước lời dạy của Đức Phật “Ban rãi từ tâm cùng khắp cõi” trong Kinh Từ Bi, điều

này đã nói lên ý nghĩa lòng từ bi của người con Phật cần phải mở rộng cùng khắp mười phương, đến vô cùng tận. Được như vậy thì lòng từ bi của chúng ta mới có thể thiết lập lại một môi trường trong sạch đúng nghĩa thuần khiết của nó và tạo nên mối quan hệ “tử tế”, “thân thiện” với thiên nhiên.

Tóm lại, Kinh Từ Bi chỉ ra một con đường tu học cao đẹp để Phật tử hướng đến một đời sống lý tưởng. Nội dung của đời sống lý tưởng này bao gồm: mở rộng trí tuệ và nhận thức để thấy được mạng lưới tương quan tương duyên giữa vạn vật và mọi hiện tượng; mở rộng tình thương đến muôn loài; thấy rõ tính bình đẳng của sự sống; đạt được hòa bình của nội tâm; đóng góp cho hòa bình và văn minh nhân loại, gìn giữ tính toàn vẹn của các hệ sinh thái quả đất; sống thân thiện với mọi loài; chuyển hóa dần những thói quen sống lãng phí có hại cho môi trường trở thành lối sống biết đủ và giản dị nhằm cởi trói những lệ thuộc vào nếp sống bề ngoài, đóng góp phần bé nhỏ của mình vào việc kiến tạo sự nghiệp văn minh và hòa bình cho nhân loại mà cộng đồng các quốc gia trên thế giới đang góp sức xây dựng.

Con đường tu học và thể hiện Từ Bi là một con đường cam go, nó đòi hỏi sự quyết tâm và ý thức tu tập cao độ của mỗi người con Phật, nhất là khi gặp những hoàn cảnh mâu thuẫn giữa “ta và đối tượng bên ngoài”. Chiến lược “Phát triển bền vững” được xem là chiến lược dài hạn không phải chỉ cho thế kỷ mà cho cả thiên niên kỷ. Quyết tâm hành động của những người theo đuổi việc thể hiện các mục tiêu lý tưởng mà cộng đồng các nước trên thế giới đã đề rất đáng để người Phật tử suy ngẫm mỗi khi đọc lời nguyện “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

Một khi nói đến vấn đề Đạo Phật đối với sự phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, thì như chúng ta đã biết, trong quá trình phát triển, con người đã không ngừng tàn phá thiên nhiên và các loại động vật một cách vô tội vạ, sự việc tệ hại này hoàn toàn không đem lại kinh tế mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái. Chính vì vậy chúng ta cần có một giải pháp phát triển kinh tế và xã hội một cách bền vững, nhưng vẫn có thể bảo tồn được sức sống và sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người. Đây quả là một bài toán nan giải nhưng bắt buộc con người phải nhanh chóng thực hiện và thực hiện một cách có hiệu quả, mới có thể cải thiện được môi trường trong tình trạng trái đất đang mỗi ngày một nóng dần lên. Ở đây chúng ta sẽ thấy sự đóng góp hiệu quả của đạo Phật về mặt tư tưởng cũng như hành động thiết thực đối với vấn đề phát triển bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái.

Tình trạng khai thác bừa bãi các nguồn tài nguyên thiên nhiên và sự tàn phá môi trường theo đúng nghĩa của từ này, do con người gây ra trong hàng trăm hàng ngàn năm qua, đến nay có thể nói là khó mà phục hồi hay cải thiện, quả đất đang nóng dần lên, kéo theo hiện tượng băng tan, động đất, sóng thần, mưa bùn, lũ quét, cường độ bão lụt gia tăng, là những minh chứng xác thực nhất mà con người không thể chối cải cho hành vi tác hại môi trường, coi thường mạng sống của chính mình và của thế hệ mai sau. Bên cạnh đó, là đời sống thực dụng, chạy theo thế giới vật chất, đã làm xói mòn những giá trị truyền thống ngày càng ăn sâu vào tâm thức của con người thời đại. Đứng trước những nguy cơ hoại diệt trong tương lai không xa này, đạo Phật đã có những đóng góp cụ thể và thiết thực ra sao để có thể xây dựng một nếp sống quân bình giữa vật chất và tinh thần trong tình trạng biến đổi khí hậu đang gia tăng từng ngày từng giờ như hiện nay.

Lịch sử Phật giáo trên 2550 năm qua đã chứng minh cho nhân loại thấy rằng, giáo lý của Đức Phật là hoàn toàn không hề mơ hồ hay trừu tượng, bàng quang đứng ngoài cuộc đời, mà rất là cụ thể thiết thực, luôn dấn thân nhập thế độ đời. Điều đó đã được thể hiện sâu sắc trong Tứ hoằng thệ nguyện, mà trong đó có “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Mà muốn cứu độ vô biên vô tận chúng sanh, thì trước mắt, đạo Phật phải có định hướng và phương cách cụ thể để tạo ra cho chúng sanh một môi trường sống an lành, một đời sống bình yên hạnh

Page 136: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

136

phúc ngay trong thế giới hiện hữu này. Do đó, việc xây dựng một nếp sống tu tập vì sự giải thoát nơi bản thân quý Phật tử và vì sự an lành của chúng sinh là điều nên làm trước mắt của những người con Phật.

Trước sự phát triển triển kinh tế xã hội đòi hỏi nhu cầu sản xuất “ngày càng nhanh, ngày càng nhiều và ngày càng mới” đã thúc đẩy bản tánh Tham - Sân - Si của con người ngày càng tăng cao, khiến con người xa rời nếp sống tỉnh thức, đối nghịch và tàn phá thiên nhiên, và nhận lấy quả báo từ nhận thức sai lệch và hành vi mà con người đã gây ra. Đối với đạo Phật, thì sự phát triển này là sự phát triển của tâm Tham - Sân - Si; mà giáo lý căn bản của đạo Phật là dạy hàng Phật tử phải nỗ lực trong cuộc sống đời thường cũng như trong tu tập là giảm thiểu Tham – Sân - Si, đi đến đoạn trừ tận gốc Tham - Sân - Si vốn là nguyên nhân chính gây ra khổ đau luân hồi sanh tử. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật đã dạy:

“Người nhiều lòng tham dục. Ắt hại mình, hại người. Khi quả chưa chín muồi. Người ngu cho là ngọt. Khi quả báo ác đến. Đành cam chịu khổ đau”.Cuộc khủng hoảng được gọi là “khủng hoảng sinh thái”, thực chất là cuộc khủng

hoảng văn hóa và tâm linh, phát sinh từ Tham Sân Si của con người. Giáo lý của đạo Phật đã dạy hàng Phật tử phải trang bị Giới Định Huệ và Bi Trí Dũng để đối trị Tham - Sân - Si, để xây dựng nếp sống an vui, giải thoát cho mình, cho người và cho muôn loài. Đạo Phật không ngừng gieo hạt giống lành trong con tim và khối óc của Phật tử, không ngừng nhắc nhở Phật tử phải nỗ lực tinh tấn. Nếu chúng ta tinh tấn vun trồng cây thiện, chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái cho mình, cho con cháu mình và cho đời những quả thiện.

Về mặt “bảo vệ môi trường”, chúng ta không thể hiểu một cách hạn hẹp rằng đó chỉ là chống ô nhiễm không khí, đất đai, sông suối hoặc bảo vệ những loài động vật hoang dã, mà nội dung của thuật ngữ môi trường, trên mặt xã hội, được hiểu là hoàn cảnh của con người, của gia đình và của tập thể. Về mặt không gian, môi trường là địa bàn, là khu vực sống của con người dù cho rộng hẹp như thế nào chăng nữa, đó là những công trình xây dựng, làng xã, huyện tỉnh, quốc gia và sinh quyển. Về mặt sinh vật và sinh thái, môi trường bao gồm cả giới vô sinh (đất, nước, không khí) và hữu sinh (con người, giới động và thực vật). Bởi vậy "bảo vệ môi trường", trên khía cạnh sinh thái, không chỉ giới hạn trong mục tiêu bảo vệ thiên nhiên và qui hoạch cảnh quan. Nó còn bao gồm mục tiêu làm thanh lịch quê hương, đất nước, các khu vui chơi giải trí, du lịch và mạng lưới cây xanh trong thành phố. Về mặt vệ sinh và công nghiệp, mục đích của "bảo vệ môi trường" bao gồm sự giữ sạch môi trường không khí, nước và đất đai, cũng như xử lý chất thải, rác và những chất độc hóa học, làm giảm sự gay gắt của thời tiết và ngăn ngừa các tia độc hại.

Nói đến sự ảnh hưởng tích cực của đạo Phật đối với môi trường sống của nhân loại, tất nhiên là chúng ta phải bắt đầu từ đời sống hòa nhập với thiên nhiên của Đức Phật; kế đến là nói về thực trạng thảm họa do sự tàn phá môi trường thiên nhiên mà con người đã gây ra; điều quan trọng của chương “Đạo Phật với môi trường” này, đương nhiên là những nội dung giáo pháp của Đức Phật dạy về nếp sống và sự tu tập của Tăng Ni Phật tử có ảnh hưởng thiết thực trực tiếp đến việc cải thiện cũng như làm trong sạch môi trường; những điều này trên đây chúng tôi đã dàn trãi tương đối đầy đủ. Tuy nhiên chúng tôi vẫn còn thấy thiếu một điều gì đó, nếu chúng ta không bàn đến những phương hướng hay giải pháp cụ thể hơn nữa, mà theo chúng tôi là có thể triễn khai thực hiện rộng khắp trong đời sống Tăng Ni Phật tử, hoặc có thể tích cực hưởng ứng cùng thực hiện với các phong trào quần chúng xã hội về việc bảo vệ môi trường, chẳng hạn như phong trào “Giờ trái đất” rất có ý nghĩa mà thời gian qua cả nước ta đã thực hiện.

Một khi nói đến sự ảnh hưởng tích cực của đạo Phật đối với môi trường, thiết nghĩ không gì cụ thể hơn là bốn đức hạnh Từ Bi Hỷ Xả cùng với tinh thần “bất sát”, “vô hại” và nếp “sống thân thiện” với thế giới muôn loài của đạo Phật. Đồng thời từ những lời dạy ý nghĩa trong Kinh Từ Bi, và trên tinh thần “Chúng sanh vô biên thề nguyện độ” quý Phật tử có thể bắt tay thực hiện một số điều quan trọng sau đây:

1- Điều căn bản là quý Phật tử cần phải tinh nghiêm giữ gìn ngũ giới, nhất là giới “không sát sanh”, nếu có điều kiện thì nên thực hành việc “phóng sanh” để ban vui cứu khổ,

Page 137: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

137

trưởng dưỡng lòng từ, đồng thời góp một phần nhỏ vào việc cải thiện việc cân bằng hệ sinh thái trong môi trường sống. Không chỉ vậy mà chúng ta còn phải quan tâm bảo vệ loài vật, thay vì dửng dưng trước việc chúng sinh bị nguy hại cũng như môi trường sinh tồn của chúng sinh bị tác động hủy diệt. Quý Phật tử cũng cần thường xuyên tu tập và trau dồi bốn đức hạnh cao quý Từ Bi Hỷ Xả, vì đây là động cơ rất quan trọng để quý Phật tử đạt được một cuộc sống an lành, thân thiện, ban rãi tâm từ bi cùng khắp trong đời sống nhân gian.

2- Quý Phật tử nên thực hành lối sống giản dị, biết đủ, cuộc sống giản dị giúp chúng ta tránh được những đòi hỏi không cần thiết trong cuộc sống. Bởi thói quên tiêu dùng xa hoa phung phí cũng là một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc các nguồn tài nguyên bị khai thác bừa bãi và bị lạm dụng quá độ. Như lời Đức Phật dạy, sống thiểu dục tri túc, tiết kiệm và hợp lý, tức là tích cực đóng góp cho sự ổn định an sinh xã hội, đồng thời gián tiếp giảm sức ép lên môi trường cũng như các hệ sinh thái tự nhiên.

3- Quí Phật tử nên cố gắng thực hành việc tiết kiệm năng lượng, bằng việc làm cụ thể hằng ngày là sử dụng điện một cách hợp lý, không nên ỷ lại là mình thừa khả năng đóng tiền điện mỗi tháng, bởi vấn đề không phải là tiền, mà là sự nguy hại môi trường sống con người do điện năng tỏa ra trong không gian càng lớn thì sẽ góp phần tăng sức nóng quả đất, là nguyên nhân trực tiếp gây nên hệ quả biến đổi khí hậu, điều này sẽ vô cùng nguy hiểm cho sự sống chung của nhân loại, trong đó có chính chúng ta. Là Phật tử chúng ta có thể âm thầm thực hiện “nhiều giờ quả đất” trong nhiều ngày, nhiều tháng, chứ không phải trong một năm chỉ cúp điện có một giờ tượng trưng gọi là “giờ quả đất”. Đây mới thực sự là biểu hiện thiết thực của việc quan tâm đến sự bảo vệ môi trường.

4- Để đóng góp cụ thể cho sự bảo vệ môi trường, đặc biệt là trên khía cạnh bảo vệ cảnh quan môi trường sinh thái, chúng ta có thể kiến tạo những cảnh chùa “sinh thái” tại những nơi có mặt bằng thuận lợi, tạo thành những cảnh quan thanh lịch. Ngoài cây cảnh, cây ăn quả, chúng ta cần trồng thêm một số cây rừng hợp với thổ nhưỡng bản địa. Nếu có điều kiện cho phép chúng ta nên kiến lập nhiều mô hình “tĩnh tâm viên” hay “rừng Thiền” như ở Thái Lan hay Miến Điện... Các chùa, thiền viện cũng nên xắn tay áo tham gia chia sẻ trách nhiệm trồng rừng và bảo vệ rừng. Bên cạnh đó, quí Phật tử nên khuyến khích và vận động quần chúng “trồng cây phước đức” hay “trồng cây trí tuệ” thay cho tục “hái lộc”, “bẻ lộc” vốn đã lạc hậu trong những dịp lễ Tết.

CHƯƠNG BA

LỜI VÀNG CỦA ĐỨC PHẬT

Đức Phật dạy: “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn”, điều này có nghĩa là “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Nói là “Phật pháp khó nghe” thì chúng ta nên hiểu theo nghĩa sâu xa của lời này là khó lãnh hội. Khó lãnh hội, có nghĩa là dù cho chúng ta có nghe thuyết pháp, có xem qua băng đĩa của quý Thầy giảng pháp, có đọc qua kinh điển, mà vẫn chưa lãnh hội được diệu nghĩa của kinh văn thì cũng xem như là chúng ta chưa gặp được Phật pháp, mà đã không lãnh hội được yếu chỉ Phật pháp, cũng đồng với nghĩa là chúng ta chưa “gặp” được Phật pháp, tất nhiên chúng ta không thể nào giác ngộ được bản tâm, vì lẽ đó mà việc tu niệm của chúng ta sẽ trở nên nan giải.Vào thời Đức Phật tại thế, có một bà lão, nhà ở gần tịnh xá Kỳ Hoàn, bà lão này thỉnh thoảng cũng trông thấy đức Phật trên đường lúc ngài khất thực, nhưng lại không hề hay biết rằng mình cực kỳ may mắn là đã được sinh ra cùng thời với đức Phật, đã được trông thấy Phật, nhưng bất hạnh thay cho bà lão là bà không có nhân duyên với Phật pháp. Trường hợp của bà lão này thật là đáng tiếc, chúng ta có thể gọi trường hợp này là Phật pháp khó gặp…

Còn một câu chuyện nữa, thời Phật tại thế, cư sĩ Cấp Cô Độc cúng dường đất để xây dựng tịnh xá Kỳ Hoàn. Trong khi xây dựng tịnh xá, vì do đào đất nên có một tổ kiến bị động

Page 138: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

138

tỏa ra rất đông đã làm trở ngại việc thi công, cư sĩ Cấp Cô Độc bèn hỏi Tôn giả Xá Lợi Phất, đàn kiến này vì sao lại ở đây? Khi đó Tôn giả Xá Lợi Phất dạy rằng, những con kiến này đã ở đây từ thời Đức Phật Ca Diếp, vào thời Đức Phật Ca Diếp làm tịnh xá để chư Tăng an cư cũng đã từng gặp đàn kiến này... Từ hai mẩu chuyện ngắn trên đây, chúng ta thấy rằng, đàn kiến này qua nhiều thời đức Phật xuất hiện trên thế gian, đàn kiến đã sinh ra và cùng thời với các đấng Đại Giác, lại sinh sống ngay trên mảnh đất được gọi là Thánh địa, nơi đức Phật và chư Thánh Tăng cư ngụ, vậy mà nó vẫn mãi làm loài kiến. Cũng như bà lão đã từng gặp Sa Môn Cồ Đàm mà không hề biết đó là Phật. Đây quả là “Thân người khó được – Phật pháp khó gặp”.

Như chúng ta đã biết, trong thời đại chúng ta đang sống, dù cách xa thời Phật tại thế đã trên 2550 năm và dù chúng ta đang sống trong thời mạt pháp, song chúng ta vẫn còn rất may mắn là được nghe Phật pháp, được gặp quý Thầy, và trong số chúng ta đây cũng đã có nhiều người lãnh hội yếu chỉ Phật Pháp, hằng ngày thành tâm trì danh niệm Phật. Theo chúng tôi thì đây quả là may mắn nhất của đời người.

Tuy nhiên bên cạnh chúng ta cũng không ít người bất hạnh như bà lão trong câu chuyện trên đây, bởi họ cũng từng gặp chư Tăng, cũng từng đi ngang qua chùa, cũng có khi vào nhà sách, trông thấy nhiều tựa sách Phật giáo có giá trị khai mở đời sống tâm linh cho nhân loại, nhưng hầu như họ rất thờ ơ, không quan tâm đến thì đây xem như họ thiếu duyên gặp phật pháp. Chúng tôi mạo muội cho rằng, đây là bất hạnh lớn, dù cho họ đang sống trong cảnh giàu sang, hay quyền cao chức trọng.

Sở dĩ chúng tôi cho đó là nỗi bất hạnh lớn nhất của đời người là vì những quả báo hữu lậu kia, cứ thụ hưởng mãi mà không bồi đắp thì cũng sẽ khô cạn, nếu chỉ biết thụ hưởng phước báo mà không lo gieo nhân trí tuệ giải thoát, thì làm sao ra khỏi luân hồi sanh tử. Và như vậy thì làm người đã là khó, sanh ra đời gặp Phật pháp lại càng khó gấp trăm vạn ngàn lần. Về điều này, trong Kinh Pháp Cú ghi rằng: “Được sanh làm người là khó. Được sống càng khó hơn. Được nghe chánh pháp là khó. Được gặp Phật ra đời càng khó hơn”. Nay xét lại bản thân mỗi chúng ta, đang được làm người, đang có duyên với Tam Bảo, đang được gặp Phật pháp, nếu theo như lời Đức Phật dạy thì chúng ta là những người rất may mắn trong cõi đời này.

Chúng tôi cho rằng, Phật pháp rất thực tế, vì Phật pháp chỉ thẳng ra căn bệnh vô minh phiền não của chúng sanh, đem lại sự bình an cho tâm hồn và vạch ra con đường đưa nhân loại đến thế giới hòa bình hạnh phúc. Do vậy, khi chúng ta đang diễm phúc có được nhân duyên sâu xa cũng như tín tâm với Phật pháp và may mắn là đang được làm người, chúng tôi mong rằng, quý Phật tử hãy nên tận dụng cơ hội này để thâm nhập Phật pháp ngõ hầu lợi ích cho bản thân và xã hội.

Như lời Đức Phật dạy, thì được làm người thì rất là may mắn, bởi chỉ có làm người mới có thể thấu hiểu tận cùng những khổ đau trong kiếp nhân sinh, đồng thời cũng có nhiều khả năng tiếp nhận ánh sáng giác ngộ, chính suy nghĩ như vậy mà trong chương cuối của tập sách “Đức Phật và con đường tuệ giác” này, chúng tôi xin nêu ra những lời vàng ngọc Đức Phật đã dạy một cách cụ thể và thiết thực, để hàng Phật tử chúng ta nương vào đó mà tu nhân học Phật, qua đó cũng nhằm chia sẻ đến quý Phật tử những trăn trở thao thức của chúng tôi trước những vấn đề cấp bách mà người học Phật chúng ta cần phải thực hiện ngay khi đang sở hữu những cái may mắn lớn lao này.

Khi thực hiện chương này, ban đầu chúng tôi dự tính sẽ tìm kiếm một số lời mà đức Phật đã dạy trong kinh điển sao cho thật cô đọng và hàm súc, để giúp quý Phật tử chưa có duyên đọc kinh sách, thì nhân đây sẽ có điều kiện tiếp thu tu tập. Tuy nhiên biển pháp thì mênh mông, tạng kinh thì vô tận, những lời nào của Phật dạy cũng đều thâm thúy, cũng đều mang lại lợi ích thiết thực cả, do đó để tìm một lời dạy chung cho tất cả mọi căn cơ, để tất cả cùng được lợi ích lớn, chúng tôi chủ quan cho rằng, chỉ có lời dạy trong Giới Kinh mà chúng tôi sẽ nêu ra đây là cô đọng, súc tích, thiết thực và phù hợp với mọi căn cơ, mọi tầng lớp. Đây chính là ý nghĩa của một bài kệ trong Giới Kinh, nguyên âm tiếng Hán như sau:

“Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật giáo”.Điều này có nghĩa là: “Tránh các điều ác. Siêng làm việc lành.

Page 139: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

139

Giữ ý nghĩ trong sạch. Là lời chư Phật dạy”.Đây là ba điều căn bản mà Đức Phật đã dạy nhằm giáo dục đạo đức, xây dựng nhân

cách cho con người, đồng thời cũng là phương cách tu tập luật nhân quả một cách cụ thể nhất mà đức Phật đã dạy chung cho toàn thể nhân loại. Đối với hàng tứ chúng đệ tử của Đức Phật, dù là hạng sơ cơ độn căn hay bậc trưởng lão thượng căn, thì những lời dạy vắn tắc này, mãi mãi vẫn là khuôn vàng thước ngọc. Riêng đối với Phật tử tu pháp môn trì danh niệm Phật, những lời dạy thiết thực này sẽ giúp quý Phật tử tạo thêm nhiều phước lành, thuận duyên trong công phu niệm Phật.

Một khi nói đến lời Phật dạy, có lẽ nhiều Phật tử sẽ không khỏi thắc mắc, chẳng lẽ suốt 45 năm hoằng pháp độ sanh, mà giáo lý của Đức Phật chỉ có vỏn vẹn ở ba điều đơn giản như vậy thôi sao? Về điều này, quý Phật tử nên lưu ý, tam tạng kinh điển mà đức Phật đã thuyết quả thật mênh mông, hơn nữa nghĩa lý lại sâu xa siêu việt, dù một kiếp người gắng đọc thì chúng ta cũng không thể nào đọc hết và cho dù đọc hết với cái tâm thông minh bác học thì chúng ta cũng không thể nào lãnh hội. Vấn đề của Phật pháp là ở chỗ thực hành. Chính vì vậy mà chúng tôi không ngại nêu ra ba điều đức Phật dạy rất dễ thực hành này, vì một khi quý Phật tử để tâm thực hành chắc chắn sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho bản thân và cho cả nhân loại.

Đức Phật dạy rằng: “Tránh các điều ác. Siêng làm việc lành. Giữ ý trong sạch”. Ba điều vắn tắc này ai mới nghe qua cũng thấy quá đơn giản, thậm chí một Phật tử sơ cơ cũng có thể hiểu được, tuy nhiên một trưởng lão chưa chắc gì đã thực hiện vẹn toàn. Trong đời sống, mọi việc khi nói thì ai cũng nói được, nhưng đi vào thực hành thì quả là không đơn giản chút nào. Thật ra lời dạy“Tránh các điều ác. Siêng làm việc lành. Giữ ý trong sạch” vô cùng cô đọng này đức Phật chỉ dạy cho hàng Phật tử sau khi đã thâm tín Phật pháp, tuy nhiên lời dạy này cũng rất là siêu việt vì nó dành luôn cho tất cả những ai có tâm chú trọng thực hành để mong được lợi ích cho đời sống bản thân, dù người đó không phải là một Phật tử.

Thật vậy, Đức Phật dạy vắn tắc “Tránh các điều ác. Siêng làm việc lành. Giữ ý trong sạch”, là muốn chúng ta áp dụng vào đời sống, để mỗi chúng ta tự trang nghiêm phước trí và lợi ích ngay trong đời hiện tại, đồng thời sẽ gặt được quả báo tốt đẹp trong kiếp vị lai. Còn đối với những hành giả đang công phu tu tập thì đay là chiếc chìa khóa vàng có năng lực mở toang cánh cửa ngôi nhà giải thoát.

Như chúng ta đã biết, để trở thành một Phật tử chân chính, trước hết chúng ta phải quy y Tam Bảo, tức là chúng ta quay về nương tựa với đấng giác ngộ, vâng theo lời dạy của đấng giác ngộ mà thực hành, đồng thời nương tựa vào những vị Tăng sống có phạm hạnh thanh tịnh để được hướng dẫn tu học. Để có thể quy y Tam Bảo, trước tiên chúng ta cần phải hiểu rõ mục đích ra đời của đức Phật là nhằm chỉ ra sự mê lầm của chúng sanh, giúp chúng sanh giác ngộ, giải thoát khỏi khổ đau luân hồi sanh tử; và lời Phật dạy chính là con đường chân chính giúp chúng sanh đạt đến mục đích giác ngộ giải thoát. Nhận thức điều này một cách sâu sắc chúng ta mới có thể thực hành những lời dạy của đức Phật; có hiểu, có thực hành thì sự quy y theo Phật, Pháp, Tăng của chúng ta mới thật sự có ích. Chính vì những điểm này, mà đạo Phật được gọi là đạo giác ngộ. Cũng cần nói thêm rằng, nếu chúng ta không hiểu gì về mục đích ra đời của đạo Phật cả, cũng không hiểu gì về giáo lý nhà Phật cả, mà chúng ta cứ tin, thì sự tin này không ích lợi. Về điều này, đức Phật dạy rằng: “Tin ta mà không hiểu ta là báng bổ ta”. Phương pháp chủ đạo của đạo giác ngộ là gạn lọc ý nghĩ cho trong sạch, vì ý nghĩ của chúng ta nó quyết định cho mọi hành động thiện ác nơi mỗi chúng ta.

Để nói lên sự liên quan mật thiết, có thể nói là không thể tách rời nhau giữa ý nghĩ và hành động, đức Phật đã dạy luật nhân quả, đây cũng chính là con đường mà ba đời chư Phật đã trải qua, mãi đến nay hàng trăm triệu người con Phật trên thế giới này vẫn đang tin tưởng thực hành theo, đang dần dần cải thiện nhân quả trong đời sống tu học của bản thân mình, bằng cách thực hành lời Phật dạy “Tránh các điều ác, Siêng làm việc lành, Giữ ý trong sạch” hầu mong kết quả được khởi sắc tốt đẹp hơn. Thực hiện lời Phật dạy, chúng ta cần sự cố gắng thường xuyên, mà muốn thực hiện được điều này, đối với Phật pháp chúng ta phải có lòng tin chơn chánh, hiểu biết chơn chánh cùng với hành trang tối thiểu mang theo trên bước đường học Phật là năm giới cấm như quý Phật tử đã biết.

Suốt 45 năm hoằng hóa độ sanh, lời Phật dạy đã được ghi chép thành thiên kinh vạn quyển, trong biển pháp mênh mông đó thật khó cho chúng ta đi giáp hết vòng kinh luận, nhưng nếu để giúp cho hàng sơ cơ học Phật nương đó tiến tu thì không gì hữu hiệu và thiết

Page 140: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

140

thực bằng cách chỉ cho họ tu tập theo ba điều căn bản này. Vì khi “Tránh tất cả điều ác, Siêng làm các việc thiện, Giữ ý nghĩ trong sạch” thì ở trong đó nó đã bao gồm tu ngũ giới, tu thập thiện, tu bát chánh đạo, tu từ bi hỷ xả; nó cũng bao gồm tu nhân quả, tu giải thoát... Chính vì tầm quan trọng và thiết thực như vậy, chúng tôi rất mong quý Phật tử lưu ý nhiều hơn ba điều căn bản mà đức Phật đã dạy trên đây.

Tránh các điều ác, siêng làm việc lành, có thể nói chỉ hai điều này thôi, nếu thực hiện cho thật tốt, nó đã giúp chúng ta đi được nửa đường trên con đường giải thoát rồi. Vì sao chúng ta có thể tin chắc như vậy? Vì trên đường đi đến tương lai, hai vai ta sẽ nhẹ nhàng, sẽ không còn mang vác nhiều thứ phiền não, vì chúng ta thường làm việc thiện. Tâm thức chúng ta cũng sẽ không còn gánh nặng quá nhiều nghiệp chướng như trước nữa, vì chúng ta đã tránh xa điều ác. Tâm hồn ta sẽ trở nên nhẹ nhàng thanh tịnh an lạc hơn, vì chúng ta luôn giữ ý trong sạch. Nếu chúng ta thực hành đúng đắn nghiêm túc ba điều căn bản mà đức Phật đã dạy, tức là chúng ta đang tu hành nhân quả một cách rốt ráo. Vì không có cái nhân nào mang ý nghĩa và thiết thực lợi ích bằng cái nhân siêng làm việc thiện, thường tránh điều ác, giữ ý trong sạch cả.

Điều đầu tiên đức Phật dạy chúng ta là không làm điều ác, chúng ta nên hiểu rằng, những việc làm, lời nói và ý nghĩa không hợp lý, trái với đạo đức khiến hại mình hại người cả trong hiện tại lẫn tương lai thì điều gọi là ác. Làm các điều lành là bao hàm những việc làm, lời nói, và ý nghĩ hợp lý, có nền tảng đạo đức khiến cho mình và mọi người đều lợi ích. Ý nghĩ trong sạch là ý nghĩ hợp với điều hay lẽ phải, luôn nghĩ điều đạo đức, nghĩ đến các pháp tu, không tham giận kiêu căng, không ganh ghét đố kỵ, không gây ra hậu quả khổ đau cho mình và cho người. Ý nghĩ của chúng ta trong sạch, khi chúng ta làm việc gì thì việc đó chân chánh, khi nói ra điều gì thì điều đó trung thực từ hòa, điều tốt đẹp làm lợi ích cho bản thân và mọi người. Chính nhờ ý nghĩ trong sạch mà mục đích cứu cánh giải thoát giác ngộ của đạo Phật giữ được trọn vẹn, đồng thời có một lịch sử truyền giáo lâu dài trên 2550 năm, không những không lỗi thời mai một mà ngày càng quang minh ích lợi thiết thực giữa dòng đời đau khổ.

Như chúng ta đã biết, ý nghĩ soi đường cho hành động, dẫn dắt mọi việc làm của chúng ta, một khi ý nghĩ của chúng ta trong sạch tức thì lời nói, hành động của chúng ta đều thuần thiện và lợi ích. Chính đặc điểm nổi bật này mà Phật giáo luôn chú trọng đến vai trò đặc biệt của ý. Thật ra, thiên kinh vạn quyển hay tám vạn bốn ngàn pháp môn tu cũng quy về một điều là dạy cho chúng ta gạn lọc ý nghĩa cho trong sạch, tiếp theo đó mới đi sâu vào công phu tham thiền nhập định. Để thực hiện được ba điều căn bản đó, trước hết đòi hỏi chúng ta phải có chánh tín, nghĩa là chúng ta chỉ tin vào những điều chơn chánh, hợp lý, có lợi ích, chứ không nên tin vào những điều tà vạy, vô lý, gây tổn người hại vật. Chánh tín cũng tức là tin sâu nhân quả, như chúng ta tin rằng gieo nhân gì sẽ gặt quả đó, nhân quả theo nhau như bóng với hình.

Trên thế gian, người đời thường rất sợ nghèo khó, khổ đau, tật bệnh, nhưng làm thế nào để có được một đời sống giàu sang, hạnh phúc, khỏe mạnh... thì gần như không mấy ai quan tâm đến cái nguyên nhân sâu xa dẫn đến kết quả tốt đẹp này. Còn trong đời sống tu hành, những vị chân tu thường rất cẩn trọng khi gieo nhân, thậm chí một con kiến, một con muỗi họ cũng không dám giết hại, thường nhật họ kham nhẫn với tương chao dưa muối sống qua ngày không dám làm điều gì bất thiện hay trái đạo. Có thể nói, hiện tượng “Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả” như thế này thường xảy ra trong đời sống con người, là người con Phật, chúng ta nên quan tâm nhiều hơn đến cái nhân mà ta gieo trong đời sống, bởi nhân quả báo ứng theo nhau như bóng với hình, còn chúng ta thì không thể trốn chạy đi đâu một khi khổ quả tràn về sẽ cuốn ta vào ba đường khổ nạn.

Theo như lời Phật dạy, khi chúng ta làm điều ác thì quả báo thật đáng kinh sợ, quá khứ chúng ta lỡ gieo ra rồi thì không thể trốn chạy né tránh đi đâu được cả. Còn theo kinh Địa Tạng thì dù hiện đời chúng ta có làm lành chút ít, nhưng nếu không tha thiết tu tập, chúng ta vẫn có thể bị sa đọa vào ba đường dữ, huống gì là đối với những người đầy dãy tâm tham giận kiêu căng một đời làm ác. Điều này đáng để cho chúng ta suy ngẫm, soi rọi lại bản thân mình, ngay trong đời này chúng ta làm thiện được bao nhiêu, có vớt vát nổi núi nghiệp bất thiện mà quá khứ chúng ta đã gieo tạo? Chúng ta thử hỏi, vì sao làm lành mà vẫn có thể bị đọa vào ác đạo? Thật ra, có thể dẫn đến như vậy là do việc lành mà chúng ta làm trong hiện đời chẳng đáng là bao, trong khi nhân ác trong quá khứ của chúng ta thì quá nhiều. Trong đời sống thực tế, có không ít người ỷ lại vào một vài việc lành nhỏ của mình, nào là tôi có đi chùa lễ Phật,

Page 141: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

141

nào là tôi ăn chay tháng được mười ngày, tôi hay giúp đỡ những người nghèo trong xóm... từ đó sanh tâm chê bai người khác không biết tu phước làm thiện, họ nào hay biết ác nghiệp quá khứ mà họ gieo vẫn chưa đến thời kết quả. Nếu đến thời kết quả thì một vài việc làm thiện chẳng thấm tháp gì đó làm sao có thể cân bằng và cũng chẳng thể nào cứu vãn được tình hình rối rắm mơ hồ hoảng loạn lúc lâm chung hấp hối. Suy ngẫm điều này, tất cả chúng ta đều phát tâm siêng năng làm việc thiện lành nhiều hơn nữa, quan trọng hơn, chúng ta phải giữ ý trong sạch để không rơi phạm vào điều ác, phải khởi tâm ăn năn hổ thẹn, thành kính nhất tâm niệm Phật, có như vậy mới mong vượt qua những hậu quả khôn lường khi sinh báo, hậu báo đâm hoa kết quả.

Khi tin sâu luật nhân quả chúng ta sẽ không còn hồ nghi hay lầm lẫn về nhân quả trước mọi hiện tượng trong cuộc sống. Trong đời sống con người, chúng ta cũng thường hay thấy có người đời này hay làm thiện mà quả báo lại không tốt, có người đời này làm việc xấu ác mà kết quả lại may mắn hạnh phúc. Vì sao có hiện tượng này? Đối với người đã tin sâu luật nhân quả thì họ liên tưởng đến nhân quả ba đời không chút hồ nghi, còn đối với người chỉ hiểu nôm na “nhân nào quả nấy” như cách thường nói của ông bà, thì trước hiện tượng này sẽ không khỏi thắc mắc nghi ngờ.

Nhìn quả hôm nay thấy nhân quá khứ, trong kiếp này, mỗi người chúng ta tuy có hiểu Phật pháp, có làm lành và có chút ít công phu niệm Phật, nhưng tâm thức vẫn còn đầy dãy tham sân si ái ố hỷ nộ, nhỏ nhen tỵ hiềm, đấu tranh ganh ghét, điều này chứng tỏ đời trước của chúng ta cũng đã gieo không ít điều ác xấu và ngay cả đời này chắc gì chúng ta đã đoạn tuyệt hẳn với ác nhân ác nghiệp, chính vì vậy mà chúng ta cần nỗ lực chuyển nghiệp, chuyển đổi những hành động bất thiện xấu ác. Trước đây do chưa tin tưởng vào luật nhân quả, chưa gặp Phật pháp, chưa có trí tuệ nên chúng ta sống theo bản năng tạo nghiệp chẳng lành, không sửa đổi những thói hư tật xấu, hoặc dù có muốn cải thiện đời sống, muốn sửa đổi những thói quen không lành mạnh, thì chúng ta vẫn không đủ đạo lực để hoán chuyển, cải thiện được. Nói chung ba điều căn bản đức Phật đã dạy trong Giới Kinh, đó là: Tránh các việc ác, siêng làm điều thiện, giữ ý trong sạch, đây chính là nguyên tắc sống của người có ý thức vươn lên, đây cũng là nguyên lý đưa con người từ chỗ tối tăm đau khổ đến nơi an lạc. Chúng tôi thiết nghĩ, từ nền tảng ngũ giới và tâm chánh tín, chúng ta ứng dụng ba điều Phật dạy vào đời sống một cách triệt để, dần dần tâm chúng ta sẽ trở nên thanh tịnh, trí huệ sẽ phát sinh. Khi đó chúng ta sẽ có đủ năng lực chuyển đổi tất cả. Dù ác nghiệp có nặng đến đâu chúng ta cũng có thể hóa giải được, điều này tùy thuộc vào quyết tâm và ý chí vượt thoát khổ đau nơi mỗi con người.

Chúng ta cũng cần biết thêm tính chất của luật nhân quả, đó là một định luật đương nhiên giống như các định luật khoa học, luật nhân quả không do ai đặt ra cả, mà do ánh sáng giác ngộ và sự tu tập nơi đức Phật đã chứng ngộ được đạo lý này, từ đó soi đường dẫn lối cho chúng ta từng bước tiến đến sự giác ngộ giống như đức Phật. Nhân quả đã là một định luật thì tạo nhân thiện hưởng quả thiện, tạo ác nhân gặt ác báo, nhân quả do mỗi người gieo ra tự gặt lấy hoàn toàn không do trời thần quỷ vật nào cưỡng lại, xen vào hay thưởng phạt chúng ta được.

Khi đã hiểu Phật pháp, chắc chắn hàng Phật tử chúng ta đều nhận ra rằng, mỗi lời dạy của đức Phật đều đem lại an lạc lợi ích cho chúng sanh, mục đích ý nghĩa mỗi lời mỗi câu Phật dạy đều trong sáng thuần thiện và thiết thực, thế nhưng chúng ta cứ gieo nhân tác nghiệp để rồi thọ khổ từ đời này sang đời khác, vì nguyên do nào chúng ta hiểu biết một đàng mà làm một nẻo? Đã là Phật tử, tất nhiên chúng ta luôn tâm niệm và làm theo lời Phật dạy ngõ hầu đem lại lợi ích cho bản thân và mọi người, tuy nhiên không phải lúc nào chúng ta cũng dễ dàng thực hiện một đời sống tu hành nghiêm túc, phạm hạnh, bởi nó còn tùy thuộc nghiệp chướng nặng nhẹ và ý chí kiên định dõng mãnh nơi mỗi con người. Đối với người đã hiểu đạo, tam nghiệp tương đối thuần hòa, thật tâm tha thiết tu hành, vẫn còn gặp trở ngại không ít bởi tâm hôn trầm, mỏi mệt, lười biếng, huống gì đối với người sơ cơ học Phật còn nặng nợ với thất tình lục dục thì làm sao có thể vượt qua vô vàn thử thách trên bước đường về... Chính vì vậy mà đức Phật đã từ bi chế ra ngũ giới để giúp chúng ta bảo tồn cái nhân làm người trước đã; sau đó Ngài dạy chúng ta làm lành lánh dữ, giữ ý nghĩ trong sạch để dọn đường tiến lên phía trước, cuối cùng Ngài dạy chúng ta nhất tâm niệm Phật cầu vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Phải thừa nhận rằng đức Phật quá từ bi, thương xót chúng sanh còn hơn mẹ thương con, nếu như chúng ta không chịu khó thúc liễm thân tâm và nỗ lực tu hành theo lời Phật dạy thì chẳng thể lấy gì báo đáp thâm ân trời biển này trong muôn một.

Page 142: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

142

Thế giới ngày nay hình như đã thấy được lợi ích thiết thực và sự nhiệm mầu của Phật pháp. Nhân loại đã phần nào thức tỉnh hướng về đạo Phật với sự thành kính ngưỡng mộ thật lòng, trong số đó đã có rất nhiều người phát tâm quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới cấm. Hàng Phật tử khắp năm châu đã quay về ổn định nội tâm, cần cầu sám hối, tha thiết tu hành theo Phật pháp. Có lẽ đây là những dấu hiệu đáng mừng trong thời mạt pháp này. Loài người đã có phản tỉnh trong bối cảnh thế giới đang có nhiều biến động bởi hiện tượng biến đổi khí hậu, bên cạnh đó là nạn khủng bố tràn lan, tật bệnh đói nghèo, khủng hoảng kinh tế, lương thực, năng lượng vẫn là những vấn đề nan giải mà con người luôn có nguy cơ phải đối mặt. Hơn bao giờ hết, đây là thời điểm mà nhân loại rất cần đến ánh sáng giác ngộ của Phật pháp soi rọi đến, nếu loài người không nhanh chóng hòa hợp chung tay cùng thực hành rốt ráo năm giới cấm và ba điều căn bản mà Phật đã dạy, thì e rằng nghiệp chướng và thù hận của chúng sanh sẽ không còn cơ hội nào để cứu vãn...

Nhân loại vẫn bất an đau khổ, thế giới đang thoi thóp đợi chờ cơn hủy diệt mà hiện tượng biến đổi khí hậu đang là lời cảnh báo thực tế nhất, đã vậy loài người vẫn cứ khủng bố nhau, vẫn cứ tiến hành chiến tranh ra mặt. Quá khứ, loài người đã gieo tạo ác nghiệp quá nhiều và hiện tại vẫn không chịu dừng nghỉ. Sở dĩ xảy ra như vậy là vì nhân loại không có chánh tín. Như chúng tôi đã đề cập ở phần đầu chương này, chánh tín nghĩa là tin vào điều chơn chánh, hợp lý, có lợi ích, chánh tín cũng có nghĩa là tin vào nhân quả, gieo gì gặt nấy, ai gieo nấy gặt. Niềm tin đặt ngược lại những điều này, tùy trường hợp mà ta gọi là mê tín hay cuồng tín.

Trong cuộc sống, niềm tin là một thứ tình cảm đặc biệt mà chúng ta chỉ dành riêng cho những ai tôn trọng và thật sự tin cậy ở họ. Trong tôn giáo cũng vậy, đức tin cũng là một thứ tình cảm thiêng liêng được phát khởi khi chúng ta hướng về đấng thiêng liêng tối cao nào đó và ta đặt hết niềm tin vào đó. Đức tin chính là nền tảng cho mọi hoạt động của tôn giáo.

Con người khi đến với bất kỳ đạo nào thì khởi đầu cũng phải dựa vào đức tin. Nếu đạo đó là đạo giác ngộ, giáo lý của đạo đó thật sự đem lại lợi ích giải thoát đau khổ cho quần sanh, chúng ta nên đặt niềm tin vào đó. Khi đặt niềm tin vào đó tức là chúng ta đã đặt niềm tin đúng hướng, nghĩa là chúng ta tin trong sự sáng suốt, có lý trí, có suy ngẫm, thì niềm tin này là cội nguồn của mọi hành động chân thiện mỹ, là cội nguồn của hạnh phúc an lạc cho bản thân và mọi người xung quanh. Ngược lại, khi chúng ta đặt niềm tin vào những mối đạo tà kiến, cực đoan, thì không những không đem lại lợi ích mà còn gây đau khổ cho bản thân, gây bất an cho nhân loại. Tin một cách mơ hồ mù quáng như vậy thì niềm tin này là cội nguồn của bạo hành khủng bố, gây đổ vỡ loạn ly, bất an đau khổ, trầm luân sanh tử.

Mê tín là biểu hiện của tâm mê mờ không sáng suốt. Cuồng tín là biểu hiện của mất lý trí, vì vậy nó phát triển tâm nhỏ nhen ích kỷ lên đến tột đỉnh. Cuồng tín cũng là biểu hiện của trạng thái mất quân bình, đánh mất khả năng cảm nhận sự tương giao, tương sinh trong cuộc sống nhân loại. Cuồng tín và mê tín đều cùng phát khởi từ gốc rễ vô minh, đều là những tâm hồn bệnh hoạn chưa được khai mở. Tuy nhiên mê tín thì mang tính thụ động, chạy ra thế giới bên ngoài (ngoài tâm) để cầu thần cậy thánh, thiếu khả năng tự giác nên trầm luân trong mê mờ tăm tối. Cuồng tín thì mang tính bạo động, lửa tham sân si hẫy hừng, hoàn toàn mất hẳn khả năng tự giác tự độ nên dễ dàng bị các thế lực lợi dụng nhiếp phục sai khiến. Đối với kẻ cuồng tín, dù họ mang thân người ở bên ngoài những gần như không còn chất ở người bên trong, tất nhiên tình cảm ở họ cũng cạn kiệt tùy theo mức độ cuồng tín trong tâm họ. Trong quan hệ nếu ai nghịch ý thì người đó là kẻ thù, họ tiêu diệt ngay không cần suy xét. Chính vì vậy mà họ phải chịu quả báo khổ đau trong chốn sâu địa ngục. Điều này quả thật đáng thương xót!

Ngay trong cái thời đại được xem là văn minh tiến bộ này, nhìn ra thế giới, những cuộc chiến vô lý được ngụy biện là Thánh chiến, kéo dài từ ngày này sang ngày khác, năm này sang năm khác, ngày nào cũng có người ngã xuống vì bom đạn, thù hận giữa các phần tử cực đoan kéo dài triền miên bất tận, tất cả cũng chỉ vì vọng tâm cuồng tín. Trên các phương tiện thông tin đại chúng hằng ngày, đăng tải nhan nhản các vụ đánh bom liều chết đẫm máu. Chính tâm cuồng tín đã khiến những người này dám ôm những quả bom lao vào chỗ đông người để kích nổ, gây ra cảnh thịt nát xương tan cho hàng trăm ngàn đồng loại. Điều này quả là dã man ghê rợn không gì có thể sánh bằng.

Trên thế giới ngày nay, bên cạnh sự khủng bố tràn lan, loài người vẫn hăm he chiến tranh, đối phó lẫn nhau, và sẵn sàng tiêu diệt nhau khi cần thiết. Trong những ngày gần đây, báo chí đã đăng tin làn sóng mua sắm vũ khí ồ ạt của nhiều quốc gia Nam Mỹ đã làm nảy sinh

Page 143: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

143

những lo ngại mới về an ninh tại khu vực này. Được biết khu vực Nam Mỹ hiện có rất nhiều tranh chấp đường biên giới giữa các nước láng giềng, như giữa Peru với Ecuador, Bolivia với Chile, Venezuela với Guyana, Venezuela với Columbia... Trong khi đó Venezuela đã chi ra 4,4 tỷ đô la để mua của Nga 51 trực thăng tấn công và vận tải, 24 chiến đấu cơ Su – 30 MK, 100 ngàn khẩu súng AK103 cùng các loại tên lửa, bom gắn trên máy bay, súng bắn tỉa. Chi Lê thì gia tăng số lượng máy bay chiến đấu F-16 cùng với việc mua 140 xe tăng Leopard 2A4 của Đức. Colombia trong năm 2008 đã chi 12,3 tỷ đô la cho chi tiêu quốc phòng. Sau những cuộc chiến điêu tàn trong quá khứ, dù các bên nói rằng cố gắng giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Thế nhưng sự tồn tại của những tranh chấp cùng với xu hướng mua sắm vũ khí ồ ạt như gần đây, thì nguy cơ về những xung đột vũ trang cục bộ là điều có thể xảy ra. Ở Afghanistan, Irắc cuộc chiến vẫn kéo dài chưa đến hồi kết thúc. Vấn đề hạt nhân ở CHDCND Triều Tiên và Iran vẫn là mối lo ngại cho những con người yêu chuộng hòa bình trên thế giới...

Cùng với nguy cơ chiến tranh mà con người đang tạo ra thì những quả báo khắc nghiệt cũng do chính con người đã miệt mài tạo tác hàng ngàn năm qua nay cũng đã đến hồi nhân loại phải gánh chịu hậu quả. Bụi khói khí thải từ các nhà máy công nghiệp nặng nhẹ cùng với các chất phóng xạ từ các lò phản ứng hạt nhân lan tràn bầu khí quyển. Nạn săn bắt thú rừng quý hiếm cùng với những cánh rừng bạt ngàn bị con người tàn phá vô tội vạ. Chất thải độc hại từ các nhà máy khắp nơi vô tư tuôn ra các dòng sông và đó đây là nạn khai thác sa khoáng sản vô lề lối... tất cả diễn ra với cường độ ngày càng mạnh, càng dữ dội hơn, bởi lòng tham của con người thì vô bờ bến.

Kết quả ban đầu là những cơn sóng thần cứ vài năm tái diễn một lần, mỗi lần như vậy cướp đi hàng trăm hàng ngàn, có khi lên đến hàng trăm ngàn sinh mạng, cuốn trôi không biết bao nhiêu là làng mạc, nhà cửa, tài sản. Những trận động đất liên tiếp xảy ra trong vài năm trở lại đấy, Tứ Xuyên (Trung Quốc) chưa kịp hoàn hồn, đến lượt Indonesia, rồi động đất lại rung chuyển cả một vùng Nam Á rộng lớn, khiến cho hàng trăm triệu người dân ở Afghanistan, Pakistan, Ấn Độ phải một phen khiếp vía, gần đây nhất là trận động đất kinh hoàng xảy ra tại Haiti khiến cho hàng trăm ngàn người thiệt mạng và hàng triệu người lâm cảnh màn trời chiếu đất, nỗi thống khổ không thể nào nói xiết. Rồi lũ bùn, bão tuyết, sập đồi, lở đất, triều cường xâm thực diễn ra khắp mọi nơi. Điều đáng sợ hơn đó chính là hiện tượng băng tan ở Bắc cực, trái đất nóng dần lên, hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu, thảm họa thiên tai, còn nữa, đó là dịch bệnh hoành hành, nào là ung thư, sida, nào là H5N1 rồi AH1N1... Hậu quả thê lương này chỉ vì vô minh và lòng tham dục quá sâu nặng ở con người.

Kiếp người quá ngắn ngủi, mạng sống lại mong manh chỉ trong hơi thở, con người không những không tỉnh ngộ ra điều này, ngược lại còn ra sức tàn phá bầu khí quyển, tự bóp ngặt lá phổi của chính mình, điều này càng làm chúng ta liên tưởng đến những lò sát sinh của Đức Quốc xã trong chiến tranh thế giới thứ II, khi chúng hút hết dưỡng khí và xả chất độc hại vào lò để sát hại những tù binh.

Cái thế giới quá mong manh này hình như không còn chịu nổi sự tàn phá của con người, thiên nhiên đã nhiều lần lên tiếng, các nhà khoa học hướng thiện cũng đã truyền đi những thông điệp khẩn cấp hãy cứu lấy hành tinh... Tuy nhiên trong đại họa cũng còn chút phước, đó chính là sự lặng lẽ tinh tấn tu hành của hàng trăm triệu người con Phật trên khắp hành tinh, từ bao nhiêu năm qua đã âm thầm làm công việc cải thiện phần nào sự bất an bất ổn do đồng loại gây ra, bằng cái tâm thanh tịnh của người con Phật.

Xét cho cùng, sở dĩ con người vô minh như vậy, tham lam như vậy, tạo ra nghiệp chướng như vậy và nhận lấy hậu quả khôn lường như vậy, cũng là do con người không gặp được Phật pháp, không hiểu luật nhơn quả mà thôi. Sự thật thì, 2550 năm qua, nếu không có Phật pháp hiện hữu trên thế gian này, không có những bậc giác ngộ ra đời và những Phật tử chánh tín thuần thành, lúc nào cũng hướng về điều lành, đoạn trừ điều ác, giữ ý nghĩ trong sạch, thì có lẽ cái thế giới này còn tồi tệ hơn nhiều.

Như chúng ta đã biết, nhân nào quả nấy, những gì con người đã gieo ra thì chính con người phải gánh chịu hậu quả. Là một sinh linh trong số hàng chục tỷ sinh linh hiện hữu trên thế giới này, dù hiện đời chúng ta không gieo ra thảm họa chiến tranh hay tàn phá thiên nhiên, nhưng biết chừng đâu, trong nhiều đời nhiều kiếp trước, việc làm tổn hại này chúng ta cũng đã có lần sai lầm mắc phạm, hơn nữa, đã là cộng nghiệp thì không thể nói là không ảnh hưởng. Do vậy, đã hiện diện trên cuộc đời bất an đau khổ này, hàng Phật tử chúng ta nên đi tiên phong trong việc xây dựng lại thế giới bất an đau khổ này trở thành một thế giới hòa bình an lạc,

Page 144: Đức Phật và Con đường giác tuệ

TT THÍCH HUỆ THÔNG

144

bằng việc làm cụ thể là giữ gìn ngũ giới và thực hiện chu toàn ba điều căn bản mà Đức Phật đã dạy: “Tránh các điều ác. Siêng làm việc lành. Giữ ý nghĩ trong sạch”.

Trong chương “Lời Vàng Của Đức Phật” này, sở dĩ chúng tôi nêu ra nhiều thảm họa trong đời sống thế gian, là để hàng Phật tử chúng ta nhận ra trọng trách của mỗi người con Phật trong bối cảnh thời nay, để quý Phật tử ý thức được sự cần thiết và cấp bách của đời sống tu hành. Chúng tôi mong rằng, quý Phật tử hãy nỗ lực nhiều hơn nữa trong việc giữ gìn năm giới cấm, thực hiện ba điều căn bản mà Phật đã dạy: “Siêng làm việc lành – Tránh các điều ác – Giữ ý nghĩ trong sạch”. Tự giác và nỗ lực thực hiện trọn vẹn những điều này trước hết là để tự cứu lấy mình, đồng thời những ảnh hưởng tích cực từ bổn tâm thanh tịnh do tu hành phát sinh ra cũng sẽ phần nào hóa giải bớt đi sự nguy vong của nhân loại.

Nhân dịp này chúng tôi xin một lần nữa truyền đạt thông điệp thiêng liêng của đức Phật đến với mọi người, đó là, dù khoa học có tiến bộ đến đâu, văn minh thời đại có đạt đến mức nào đi chăng nữa mà thiếu vắng ánh sáng giác ngộ và suối nguồn từ bi của đạo Phật thì thế giới vẫn còn tối tăm, bế tắc; loài người vẫn còn bất an đau khổ. Do vậy, chúng tôi mạo muội nghĩ rằng, trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội như khoa học, văn hóa, giáo dục, kinh tế, quận sự, chính trị, thương mại… điều nhất thiết phải lấy nền tảng đạo đức làm trọng tâm thì thế giới loài người mới có thể bình ổn và an lạc. Ngược lại, nếu thiếu nền tảng đạo đức thì xã hội sẽ băng hoại. Do đó vai trò của Phật giáo là hết sức quan trọng trong đời sống con người, nhất là trong bối cảnh thời đại.

Chúng tôi nghĩ rằng, cấp thiết mỗi cá nhân trong chúng ta cần phải nỗ lực chuyên tâm trên con đường tu tập đoạn trừ vô minh phiền não, vì đó là nguồn gốc của mọi bất an đau khổ. Trong đời sống chúng ta phải sống như thế nào để có thể tìm thấy được sự an lạc và hạnh phúc. Về đều này, đức Phật đã dạy chúng ta rằng, muốn được an lạc và hạnh phúc thì mỗi chúng ta phải xa tránh hai trạng thái cực đoan, nghĩa là chúng ta không nên sống bằng lối sống thiên về hưởng thụ, cũng không nên sống ép xác khổ hạnh quá mà phải sống theo tinh thần trung đạo. Cách sống trung đạo ở tầng bậc dễ truyền đạt cho nhau và dễ dàng giúp nhau tiếp nhận để thực hiện, đó là Bát Chánh Đạo, bao gồm:

1- Chánh kiến, tức là sự hiểu biết chân chánh.2- Chánh tư duy, tức là suy nghĩ chân chánh.3- Chánh ngữ, tức là lời nói chân chánh.4- Chánh nghiệp, tức hành động chân chánh.5- Chánh mạng, tức là việc làm, nghề nghiệp chân chánh.6- Chánh tinh tấn, tức là sự nỗ lực chân chánh.7- Chánh niệm, tức là thường nhớ nghĩ đến giáo pháp của đức Phật.8- Chánh định, tức là sự định tâm chánh.Bát Chánh Đạo được chia thành ba môn học căn bản:1- Lời nói chân chánh, Hành động chân chánh, Cách kiếm sống chân chánh thuộc về

“Giới”. 2- Nỗ lực chân chánh, Suy niệm chân chánh, Định tâm chân chánh thuộc về “Định”. 3-Hiểu biết chân chánh và Tư tưởng chân chánh thuộc về “Tuệ”.

Theo đức Phật, nếu cá nhân nào thực hành được tất cả tám đạo lý cao quí này thì sẽ viên mãn được Giới- Định –Tuệ, cá nhân ấy sẽ đạt được hạnh phúc và an lạc. Mỗi cá nhân được hạnh phúc an lạc thì toàn thế giới sẽ là một thế giới hòa bình, nhân loại sẽ không còn bất an đau khổ.

Đạo Phật có bề dày lịch sử trên 2550 năm đóng đóng góp cho sự nghiệp giải thoát của nhân loại là vô cùng lớn lao và cụ thể. Là Phật tử chúng ta có quyền tự hào trước những cống hiến vô cùng thiết thực mà Phật giáo đã mang hạnh phúc và hòa bình thịnh vượng cho thế giới. Trong chiều sâu của nó và suốt chiều dài lịch sử nhân loại, Phật giáo mãi mãi là bài học ngời sáng ánh quang minh tuệ giác và dạt dào tình yêu thương vô hạn, để qua đó giới học Phật chúng ta soi rọi lại bản thân, để học tập, tu hành, hoằng pháp, lợi sanh, đồng thời tìm thấy nguồn cổ vũ động viên lớn trong mọi hoạt động Phật sự.