Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP NƯỚC NGOÀI- BỘ NÔNG NGHIỆP HOA KỲ
MẠNG THÔNG TIN NÔNG NGHIỆP TOÀN CẦU
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ VỀ HÀNG HÓA VÀ THƯƠNG MẠI NÀY ĐƯỢC THỰC HIỆN BỞI NHÂN VIÊN
BỘ NÔNG NGHIỆP HOA KỲ, KHÔNG PHẢI TÀI LIỆU CHÍNH THỨC VỀ CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH
PHỦ HOA KỲ
Được công bố một cách tự nguyện vào ngày 12/01/2015
Tài liệu được dịch bởi Đỗ Thanh Tùng, các phần tô màu vàng do người dịch tự giải thích rõ thêm.
Trung Quốc sửa đổi luật giống nhằm mục đích phát triển ngành giống
Tác giả Trương Lợi
Tiêu điểm:
Vào ngày 04/11/2015, Đại hội toàn thể nhân dân Quốc gia (Quốc hội) đã thông qua việc
sửa đổi luật giống Trung Quốc. Đây là lần sửa đổi luật đầu tiên kể từ khi luật này có
hiệu lực năm 2000. Báo cáo này cung cấp một bản dịch không chính thức toàn bộ văn
bản luật. Văn bản của luật giống cũ được đính kèm ở phần phụ lục để tiện so sánh.
Thông tin chung:
Những sửa đổi cơ bản sau đã được áp dụng đối với hệ thống công nhận giống:
1. Số lượng chủng loại cây trồng buộc phải công nhận giống đã được giảm từ 28 loại xuống
còn 5 loại. 5 loại giống sẽ vẫn cần phải được công nhận là lúa, mỳ, ngô, bông và đậu tương.
Công nhận giống sẽ không còn phải là yêu cầu bắt buộc nữa đối với các cây trồng khác ví dụ
như cải dầu, khoai tây và lạc.
2. Một “luồng xanh” được thiết lập để cho phép các công ty giống đáp ứng các yêu cầu nhất
định được phép tự bố trí thử nghiệm để tiến hành tự công nhận giống.
3. Các công ty giống không cần phải được sư chấp nhận thêm nữa khi đưa một giống đã công
nhận đến một vùng sinh thái tương tự ở một tỉnh khác ở Trung Quốc.
Một hệ thống ghi nhận hồ sơ giống (không cần hoặc không yêu cầu phải được công nhận
giống mới mà chỉ cần nộp hồ sơ xin ghi nhận) đã được thiết lập áp dụng cho các loại cây nhất
định mà không bị ràng buộc bởi hệ thống công nhận giống đã sửa đổi này. Tuy nhiên, Chính
phủ vẫn chưa phát hành danh sách các loại cây được phép áp dụng theo hệ thống ghi nhận
hồ sơ giống.
Các phần trong “Quy định của nước CHND Trung Hoa về bảo hộ các giống cây mới” được tích
hợp vào trong luật sửa đổi này và hình phạt đối với các hành vi vi phạm được gia tăng.
Giấy phép sản xuất giống và giấy phép kinh doanh giống được gộp thành một giấy phép sản
xuất và kinh doanh giống. Một số đòi hỏi như yêu cầu về vốn kinh doanh tối thiểu được hủy bỏ
để tạo sự dễ dàng hơn khi xin giấy phép.
Chính phủ tăng cường trợ giúp và trợ cấp cho ngành giống Trung Quốc. Ví dụ máy móc thu
hoạch và sản xuất giống có thể được đưa vào danh sách máy móc nông nghiệp được trợ giá.
Bản dịch
LUẬT GIỐNG NƯỚC CÔNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG HOA
Chương I: Các điều khoản chung
Chương II: Bảo tồn nguồn gen
Chương III: Chọn tạo, công nhận và ghi nhận hồ sơ giống
Chương IV: Bảo hộ giống mới.
Chương V: Hoạt động sản xuất giống và kinh doanh giống.
Chương VI: Giám sát và quản lý về giống.
Chương VII: Xuất nhập khẩu giống và hợp tác quốc tế.
Chương VIII: Các biện pháp trợ giúp
Chương IX: Trách nhiệm pháp lý
Chương XL Các điều khoản bổ sung.
Chương I: Các điều khoản chung
Điều 1: Luật giống được ban hành với mục đích bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn gen, tiêu
chuẩn hóa việc chọn tạo, sản xuất, quản lý giống, bảo vệ bản quyền giống cây mới, đảm bảo
hiệu lực của pháp luật và khuyến khích người sản xuất, kinh doanh, sử dụng giống, cải tiến
chất lượng giống, hướng tới phát triển ngành giống hiện đại, đảm bảo an ninh lương thực
quốc gia và thúc đẩy sự phát triển của ngành trồng trọt và lâm nghiệp.
Điều 2: Luật sẽ được thực thi đối với các hoạt động như chọn, sản xuất, kinh doanh và quản
lý giống trong phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Khái niệm “”giống”” trong bộ luật này có nghĩa là vật liệu để gieo trồng hoặc để nhân bản cây
trồng và cây lâm nghiệp bao gồm hạt, quả, rễ, thân, cây con, mầm, lá và hoa ...
Điều 3: Các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp (danh từ chung, được biết là Bộ
Nông Nghiệp...) trực thuộc Quốc vụ viện (được biết là chính phủ) sẽ chịu trách nhiệm về những
sự việc liên quan đến giống cây trồng và giống cây lâm nghiệp trên toàn quốc. Các cơ quan
quản lý hành chính nông lâm nghiệp (được biết là sở Nông nghiệp...) thuộc chính quyền nhân
dân (được biết là ủy ban nhân dân) các địa phương từ cấp địa khu (dưới cấp tỉnh, trên cấp
huyện ví dụ như Châu, thành phố cấp tỉnh ...) trở lên chịu trách nhiệm về những sự việc liên
quan đến giống cây trồng và giống cây lâm nghiệp trong phạm vi vùng địa lý của các địa
phương tương ứng.
Các cơ quan chính phủ và các phòng ban liên quan ở mọi cấp phải có các biện pháp để đảm
bảo luật được thực thi, giám sát ngành giống và xử phạt các hành động phạm pháp, bảo vệ
quyền lợi của nông dân.
Điều 4: Nhà nước hỗ trợ việc bảo tồn nguồn gen, việc chọn, sản xuất, cập nhật và nhân các
giống cải tiến, khuyến khích việc kết hợp giữa chọn giống với sản xuất và kinh doanh giống và
trao thưởng cho các tổ chức, cá nhân đạt được các thành tựu xuất sắc về bảo tồn nguồn gen,
chọn và nhân rộng các giống tiến bộ.
Điều 5: Chính quyền nhân dân từ cấp tỉnh trở lên phải lập các kế hoạch phát triển dựa trên
hướng dẫn trong tài liệu về Ứng dụng khoa học và đào tạo để cải tiến nền nông nghiệp để đáp
ứng những đòi hỏi về phát triển ngành trồng trọt, ngành lâm nghiệp và tổ chức thực hiện các
kế hoạch trên.
Điều 6: Chính quyền nhân dân từ cấp tỉnh trở lên phải thiết lập một hệ thống dự trự giống,
đảm bảo đủ đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất khi có thiên tai và để đảm bảo an ninh của nền
sản xuất nông lâm nghiệp. Giống dự trữ phải được thanh kiểm tra, thay thế bằng giống mới
thường xuyên. Các biện pháp đặc biệt áp dụng cho giống dự trữ phải được xây dựng bởi Quốc
vụ viện.
Điều 7: Việc chọn, thử nghiệm, chấp thuận và phổ biến các giống cây chuyển gen buộc phải
được đánh giá an toàn và các biện pháp đánh giá an toàn nghiêm ngặt phải được áp dụng.
Các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc Quốc vụ viện phải tăng cường
theo dõi và giám sát, công bố kịp thời thông tin về sự chấp thuận và phổ biến các giống cây
chuyển gen. Các biện pháp tương thích đặc biệt này phải được xây dựng bởi Quốc vụ Viện.
Chương II: Bảo tồn nguồn gen
Điều 8: Nhà nước bảo tồn những nguồn gen phù hợp với luật, không một tổ chức hoặc cá
nhân nào có thể chiếm đoạt hay phá hoại nguồn gen.
Nghiêm cấm thu thập và cắt xén các nguồn gen tự nhiên đã được nhà nước bảo tồn đặc biệt.
Thu thập hoặc cắt xén để phục vụ cho nghiên cứu khoa học hoặc các mục đích khác phải
được chấp nhận bởi các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc Quốc vụ
viện hoặc thuộc chính quyền nhân dân cấp tỉnh, khu tự trị hay thành phố trực thuộc trung
ương.
Điều 9: Nhà nước hoạch định việc khảo sát, thu thập, phân loại, kiểm tra, đăng ký, bảo tồn,
trao đổi và sử dụng nguồn gen và thường xuyên ấn hành danh mục nguồn gen. Các biện pháp
tương thích áp dụng phải được xây dựng bởi các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp
thuộc Quốc vụ viện.
Điều 10: Các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thuộc Quốc vụ viện phải thành lập
một ngân hàng nguồn gen Quốc gia, thành lập các khu bảo tồn hoặc lưu trữ nguồn gen. Các
cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thuộc chính quyền nhân dân các tỉnh, khu tự trị
hoặc thành phố trực thuộc trung ương, trong trường hợp có nhu cầu có thể thành lập các ngân
hàng nguồn gen, các khu bảo tồn hoặc lưu trữ nguồn gen. Nguồn gen tại các ngân hàng, khu
bảo tồn hoặc lưu trữ nguồn gen phải được mở cửa và sử dụng theo luật định.
Để hiện diện ở bất kỳ một ngân hàng, khu bảo tồn hoặc lưu trữ nguồn gen nào cần phải có sự
chấp thuận từ nhà chức trách thành lập cơ sở đó.
Điều 11: Nhà nước có quyền tối cao đối với nguồn gen. Bất kỳ một tổ chức hoặc cá nhân nào
muốn cung cấp nguồn gen ra nước ngoài, hoặc tổ chức hợp tác về sử dụng nguồn gen với
bất cứ doanh nghiệp hay cá nhân ngoài nước nào đều phải xin phép các cơ quan quản lý nông
lâm nghiệp thuộc chính quyền nhân dân cấp tỉnh, khu tự trị hoặc thành phố trực thuộc trung
ương và phải đệ trình kế hoạch về chia sẻ lợi ích với nhà nước. Cơ quan quản lý hành chính
nông lâm nghiệp tiếp nhận đề nghị phải xem xét và báo cáo cho các cơ quan quản lý hành
chính nông lâm nghiệp thuộc Quốc vụ viện để được thông qua.
Việc thu thập nguồn gen từ nước ngoài phải được thực hiện theo các quy định liên quan được
ban hành bởi các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc Quốc vụ viện.
Chương III. Chọn và lai tạo, công nhận và ghi nhận hồ sơ
Điều 12: Nhà nước trợ giúp các viện nghiên cứu công lập, các trường đại học, cao đẳng tập
trung xây dựng nền tảng, kỹ thuật, công nghệ và ứng dụng cho việc nghiên cứu trong lai tạo
giống, lai tạo giống cây trồng truyền thống, chọn và lai tạo các nguồn vật liệu vô tính và các
nghiên cứu khác bằng nguồn vốn ngân sách.
Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp giống sử dụng toàn bộ kết quả từ các nghiên cứu
sử dụng ngân sách và canh tác các giống chất lượng có quyền sở hữu trí tuệ độc lập. Khuyến
khích các doanh nghiệp giống, các viện nghiên cứu, các trường đại học, cao đẳng xây dựng
công nghệ nghiên cứu và nền tảng phát triển để thiết lập hệ thống công nghệ đổi mới cho
ngành giống mang tính định hướng – thị trường, tính kết nối – nguồn vốn, tính chia sẻ - lợi
nhuận và rủi do bằng sự kết hợp giữa các nguồn lực sản xuất với nghiên cứu và nghiên cứu
hàn lâm.
Nhà nước tăng cường năng lực đổi mới khoa học, kỹ thuật của ngành giống, thúc đẩy việc
chuyển đổi các tiến bộ công nghệ, và bảo vệ quyền lợi pháp lý của nhân viên khoa học kỹ
thuật trong ngành giống.
Điều 13: Bản quyền và quyền sáng chế các giống cây mới liên quan đến việc chọn tạo giống
sử dụng ngân sách phải thuộc về cơ quan thực hiện dự án theo luật định, trừ phi các giống và
sáng chế đó liên quan đến an ninh quốc gia, lợi ích quốc gia hoặc các lợi ích xã hội và cộng
đồng cơ bản.
Chuyển giao và cấp bằng sở hữu các giống cây mới được chọn tạo từ nguồn vốn ngân sách
phải được giao dịch thông qua sàn giao dịch thương mại công khai, nghiêm cấm giao dịch tư
nhân không được ủy quyền.
Điều 14: Nếu lợi nhuận của các tổ chức hoặc cá nhân bị giảm do việc các cơ quan quản lý
hành chính lâm nghiệp thiết lập các vị trí thử nghiệm, thí nghiệm, các khu vực thu thập hoặc
ngân hàng gen để lựa chọn các giống cây rừng cải tiến thì các cơ quan quản lý hành chính
lâm nghiệp thực hiện công việc đó phải bồi thường về kinh tế cho các tổ chức hoặc cá nhân
theo các quy định liên quan của nhà nước.
Điều 15: Nhà nước phải thực thi một chương trình công nhận cho các giống cây trồng và cây
lâm nghiệp chính. Các giống cây trồng và cây lâm nghiệp chính phải được công nhận ở cấp
quốc gia hoặc cấp tỉnh trước khi được phổ biến và ứng dụng trong thực tế. Các giống cây lâm
nghiệp chính được xác định bởi các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thuộc cấp
tỉnh, khu tự trị hoặc các thành phố trực thuộc trung ương thì phải được công nhận ở cấp tỉnh.
Xin công nhận các giống mới khi phải tuân thủ các yêu cầu về tính khác biệt, đồng nhất và ổn
định (DUS).
Các biện pháp (thủ tục) công nhận giống cây trồng và cây lâm nghiệp chính phải được xác
định bởi các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thuộc Quốc vụ viện. Các biện pháp
công nhận phải áp dụng các nguyên tắc công bằng, công khai, khoa học và hiệu quả và phải
tham khảo ý kiến của các nhà chọn tạo, sử dụng, sản xuất, kinh doanh và đại diện các ngành
liên quan đến giống khi xây dựng hoặc khi chỉnh sửa các biện pháp công nhận đó.
Điều 16: Các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thuộc Quốc vụ viện hay thuộc
chính quyền các tỉnh, khu tự trị hoặc thành phố trực thuộc trung ương phải thành lập các hội
đồng (Trung Quốc gọi là ủy ban thẩm định) công nhận giống cây trồng và cây lâm nghiệp đảm
bảo tính chuyên nghiệp (nghiệp vụ), những hội đồng này phải thực hiện việc công nhận các
giống cây trồng, cây lâm nghiệp chính. Hội đồng cần phải lập hồ sơ quản lý việc công nhận,
hồ sơ này bao gồm các thông tin như đơn đăng ký, số liệu khảo nghiệm của giống công nhận,
mẫu giống, các ý kiến nhận xét và kết luận. Hồ sơ công nhận phải mang tính theo dõi được.
Ý kiến nhận xét phải có khi giống được thông qua việc công nhận phóng thích với các thông
tin liên quan theo luật định và phải chịu sự giám sát của xã hội.
Việc công nhận giống phải tránh: các thành viên và nhân viên của hội đồng công nhận giống
và các viên chức khảo nghiệm liên quan phải tận tâm công hiến thực hiên nhiệm vụ một cách
công bằng và không tham nhũng. Hành vi phạm tội của nhưng người nêu trên khi được trình
báo bởi các tổ chức hoặc cá nhân hay được phát hiện bởi thanh tra, giám sát phải được xử lý
kịp thời bởi cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp từ cấp tỉnh trở lên.
Điều 17: Đối với các doanh nghiệp có hoạt động kết hợp giữa chọn tạo, nhân và phổ biến
giống và thỏa mãn các điều kiện của cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thuộc Quốc
vụ viện thì doanh nghiệp đó có thể tự hoàn hành những thí nghiệm phù hợp với các tiêu chuẩn
công nhận giống trong trường hợp giống cây trồng hoặc cây lâm nghiệp chính được chọn tạo
độc lập từ chính doanh nghiệp đó. Hội đồng công nhận giống phải phát hành chứng chỉ công
nhận đối với các giống đạt các tiêu chuẩn công nhận. Các doanh nghiệp giống chịu trách
nhiệm về tính trung thực của số liệu thí nghiệm, và việc truy xuất nguồn gốc phải được đảm
bảo. Doanh nghiệp giống cũng phải chấp nhận sự giám sát từ các cơ quan quản lý hành chính
nông lâm nghiệp cấp tỉnh trở lên và của xã hội.
Điều 18: Nếu các đối tượng nộp đơn công nhận phản đối quyết định về việc các giống cây
trồng, cây lâm nghiệp không được chấp thuận công nhận, họ có thể nộp đơn để tái xét đến
hội đồng công nhận giống đó hoặc cho hội đồng công nhận giống quốc gia.
Điều 19: Các giống cây trồng và cây lâm nghiệp được công nhận ở cấp quốc gia phải được
công bố bởi các cơ quan quản lý hành chính về nông lâm nghiệp thuộc Quốc vụ viện và các
giống đó có thể được phổ biến tại các vùng sinh thái phù hợp trên toàn quốc. Các giống cây
trồng và cây lâm nghiệp được công nhận ở cấp tỉnh phải được công bố bởi cơ quan quản lý
hành chính nông lâm nghiệp thuộc chính quyền nhân dân cấp tỉnh, khu tự trị và thành phố trực
thuộc trung ương và các giống đó có thể được phổ biến tại các vùng sinh thái phù hợp ở
những khu vực hành chính tương thích đó. Các vùng sinh thái tương tự ở các tỉnh, khu tự trị
và thành phố trực thuộc trương khác có thể cho phép các giống đó phổ biến sau khi nộp ghi
nhận hồ sơ đến các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thuộc các tỉnh, khu tự trị và
thành phố trực thuộc trung ương đó.
Sự cho phép của bất kỳ một giống cây lâm nghiệp nào mà nó không được phân bố một cách
tự nhiên trong khu vực phải được thông quan khảo nghiệm theo tiêu chuẩn cho phép cây trồng
quốc gia.
Điều 20: Các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp cấp tỉnh, khu tự trị và thành phố
trực thuộc trung ương phải cải tiến hệ thống hợp tác mang tính khu vực về lựa chọn và công
nhận giống để thúc đẩy việc chọn tạo và phổ biến các giống tốt.
Điều 21: Đối với các giống cây trồng và giống cây đã được công nhận, nếu bị phát hiện có
khiếm khuyết nặng mà không thể khắc phục và không thể bán hay phổ biến được thì việc công
nhận sẽ bị hủy bỏ sau khi có sự xem xét và xác nhận của hội đồng công nhận giống đó. Cơ
quan quản lý tương thích phải thông báo dừng bán và phổ biến giống đó.
Điều 22: Nhà nước phải áp dụng hệ thống công nhận giống đối với một số cây trồng phụ. Các
giống đã liệt kê trong danh mục cây trồng phụ phải được ghi nhận hồ sơ trước khi phổ biến.
Phạm vi cây trồng ghi nhận hồ sơ phải được kiểm tra chặt chẽ và được xác định dựa trên các
nguyên tắc bảo vệ đa dạng sinh học, đảm bảo an toàn tiêu dùng và an toàn về sử dụng giống.
Danh mục ghi nhận hồ sơ phải được xây dựng và điều chỉnh bởi các cơ quan quản lý hành
chính nông lâm nghiệp thuộc Quốc vụ viện. Đối với việc xin ghi nhận hồ sơ các giống dạng
này, các đối tượng xin phải nộp văn bản xin ghi nhận và mẫu giống cho các cơ quan quản lý
hành chính nông lâm nghiệp cấp tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc trung ương. Đối tượng
nộp đơn sẽ phải chịu trách nhiệm về tính xác thực của văn bản giao nộp và mẫu giống cung
cấp, đảm bảo tính có thể theo dõi, và chấp nhận mọi sự thanh kiểm tra. Văn bản xin phải bao
gồm chủng loại, tên, nguồn gốc, các đặc điểm, quá trình chọn tạo cũng như kết quả khảo
nghiệm tính khác biệt, đồng nhất và ổn định của giống đó.
Các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp các tỉnh, khi tự trị và thành phố trực thuộc
trung ương phải triển khai việc kiểm tra văn bản xin ghi nhận hồ sơ được nộp bởi đối tượng
trong vòng 20 ngày làm việc sau khi hồ sơ xin được chấp nhận. Đối với các văn bản thỏa mãn
yêu cầu phải được báo cáo đến cơ quan quản lý hành chính về nông nghiệp thuộc Quốc vụ
viện để ghi nhận hồ sơ.
Đối với các giống đã được ghi nhận hồ sơ (đã được phép SXKD) mà văn bản xin hoặc mẫu
giống giao nộp bị phát hiện làm giả thì các cơ quan quản lý hành chính nông nghiệp thuộc
Quốc vụ viện phải hủy bỏ hồ sơ giống, đưa thông tin vi phạm của đối tượng nộp đơn vào hồ
sơ thanh liêm xã hội và công bố ra công chúng. Đối với các giống đã được ghi nhận hồ sơ mà
gây ra thiệt hại cho người sử dụng giống hay những người liên quan đến giống khác thì phải
có trách nhiệm đền bù theo luật định. Đối với các giống đã ghi nhận hồ sơ, nếu phát hiện thấy
khiếm khuyết không thể khắc phục được thì cơ quan quản lý hành chính nông nghiệp thuộc
Quốc vụ viện phải hủy bỏ hồ sơ giống đó và công báo để chấm dứt sự phổ biến.
Các biện pháp áp dụng đối với việc ghi nhận hồ sơ các giống cây trồng phụ phải được xây
dựng bởi các cơ quan quản lý hành chính nông nghiệp thuộc Quốc vụ viện.
Điều 23: Các giống cây trồng được nộp xin công nhận nhưng hoặc bị đánh trượt công nhận
thì không được quảng cáo, phổ biến hoặc bán.
Không một giống cây lâm nghiệp nào mà khi nộp xin công nhận nhưng hoặc bị đánh trượt
công nhận có thể được bán hay phổ biển như là các giống cải tiến. Tuy nhiên, nếu các giống
đó thực sự cần thiết cho sản xuất thì phải chịu sự xác nhận của hội đồng công nhận giống cây
lâm nghiệp.
Điều 24: Người nước ngoài, các doanh nghiệp nước ngoài và các tổ chức nước ngoài khác
không có nơi ở hoặc địa điểm kinh doanh thường xuyên mà nộp đơn xin kiểm tra và chấp
nhận giống (khảo nghiệm) thì phải giao phó công việc đó cho các cơ sở nghiên cứu, sản xuất
và khoa học Trung Quốc và các cơ sở này phải có tư cách pháp nhân.
Nếu người nước ngoài và các tổ chức nước ngoài không có cư trú thường xuyên hoặc không
có địa điểm kinh doanh ở Trung Quốc nộp đơn xin công nhận hoặc ghi nhận hồ sơ giống của
họ tại Trung Quốc thì cần phải đề nghị các doanh nghiệp giống Trung Quốc có tư cách pháp
nhân làm đại diện.
Chương IV: Bảo hộ giống mới
Điều 25: Nhà nước phải thiết lập một hệ thống bảo hộ giống cây mới, hệ thống mà bản quyền
giống cây mới phải được ban hành bởi các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thuộc
Quốc vụ viện. Các giống được đưa vào danh sách danh mục giống bảo hộ quốc gia, canh tác
hay phát hiện ở nơi hoang dã và sau đó được chọn tạo, đặc tính hóa bởi tính mới lạ, độc đáo,
đồng nhất và ổn định và được đặt tên phù hợp. Người sở hữu pháp lý bản quyền giống cây
mới phải được bảo vệ. Các khái niệm khác phải được thực thi phù hợp với bộ luật này, các
bộ luật và quy định liên quan như việc sở hữu giống cây mới, điều kiện ban hành, nộp đơn và
chấp nhận, xem xét và phê chuẩn, thời hạn, đình chỉ và hiệu lực ...
Nhà nước khuyến khích và trợ giúp việc đổi mới khoa học và công nghệ giống, việc chọn tạo
và ứng dụng kết quả tiến bộ tạo giống cây mới. Nếu một giống được chấp nhận bản quyền
giống cây mới và được phổ biến, nhà chọn tạo giống đó phải được vinh danh để thu được lợi
nhuận kinh tế phù hợp với luật định.
Điều 26: Một giống cây trồng mới chỉ được ban hành một bộ bản quyền giống. Nếu có từ 2
hay nhiều hơn số đối tượng cùng nộp đơn xin bản quyền cho cùng một giống cây mới tương
tự, bản quyền sẽ được cấp cho người nộp đầu tiên; Nếu cùng nộp đơn một lúc thì bản quyền
phải được cấp cho người chọn tạo giống cây mới đó trước.
Giống cây mới mà vi phạm các luật, quy định, gây hại cho lợi ích cộng đồng và môi trường
sinh thái sẽ không được chấp nhận bản quyền giống cây mới.
Điều 27: Việc đặt tên giống cây mới đã được chấp nhận bản quyền phải có tính phân biệt
được với mọi tên đã đặt với giống cùng loài thực vật đã được biết đến (đã được công nhận và
SXKD) hoặc các giống hay các loài cận liên quan. Sau khi công nhận, đặt tên phải thể hiện
được loài của giống cây trồng mới.
Những cách đặt tên sau đâu không được đặt cho giống:
(a) Tên chỉ bao gồm con số;
(b) Tên trái ngược đạo đức xã hội;
(c) Tên gây ra sự hiểu lầm như là về các đặc điểm và đặc tính giống cây mới hay bản sắc của
nhà chọn tạo.
Cùng một giống cây chỉ được dùng một tên để bảo hộ, công nhận, ghi nhận hồ sơ, bán và phổ
biến. Các giống dùng để sản xuất, tiếp thị và bán phải đúng với mẫu giống đã cung cấp để
bảo hộ, công nhận và ghi nhận hồ sơ giống mới.
Điều 28: Tổ chức hoặc cá nhân được ban hành bản quyền giống có quyền độc quyền đối với
giống đã được bảo hộ. Không một tổ chức, cá nhân nào khác mà không có sự cho phép từ
chủ sở hữu bản quyền được sản xuất, tái sản xuất hay bán vật liệu nhân lên từ giống đã được
bảo hộ đó hay sử dụng lại vật liệu nhân từ giống bảo hộ đó cho các mục đích thương mại để
nhân thêm vật liệu giống nữa. Trừ trường hợp được cho phép bởi bộ luật này, các luật và quy
định liên quan.
Điều 29: Sử dụng giống đã được ban hành bản quyền trong các trường hợp sau không cần
phải có sự cho phép hoặc trả tác quyền cho người sử hữu bản quyền giống mới, nhưng việc
sử dụng đó phải không vi phạm các quyền khác của chủ sử hữu bản quyền giống cây mới
theo bộ luật này và các luật, quy định liên quan:
(1) Sử dụng giống đã được cấp bản quyền để chọn tạo giống hoặc thực hiện các hoạt động
nghiên cứu khác;
(2) Tái sản xuất hoặc việc sử dụng vật liệu để nhân giống được thực hiện bởi người nông dân.
Điều 30: Khi lợi ích quốc gia hoặc lợi ích cộng đồng đòi hỏi, các cơ quan quản lý hành chính
nông lâm nghiệp thuộc Quốc vụ viện có thể ra một quyết định bằng một giấy phép cưỡng bách
để khai thác giống cây mới đó và việc này phải được công nhận và công báo. Tổ chức, cá
nhân bị ban hành giấy phép cưỡng bách khai thác không được hưởng quyền độc quyền và
không được quyền cho phép bất kỳ đối tượng nào khai thác.
Chương V: Hoạt động sản xuất và kinh doanh giống
Điều 31: Giấy phép sản xuất và kinh doanh đối với xuất, nhập khẩu giống phải được kiểm tra
bởi các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp của chính quyền nhân dân cấp tỉnh, khu
tự trị và thành phố trực thuộc trung ương và được phát hành bởi các cơ quan quản lý hành
chính nông lâm nghiệp thuộc Quốc vụ viện.
Giấy phép sản xuất và kinh doanh đối với các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh liên quan đến
các loại giống lai của cây trồng chính và giống bố mẹ, giống cây cải tiến cũng như các doanh
nghiệp có hoạt động chọn tạo, sản xuất và tiếp thị, đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu của các cơ
quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thuộc Quốc vụ viện phải đươc thẩm tra bởi các cơ
quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp của chính quyền nhân dân cấp tỉnh, khu tự trị và
thành phố trực thuộc trung ương và được ban hành bởi các cơ quan quản lý hành chính nông
lâm nghiệp của chính quyền nhân dân cấp tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc trung ương.
Giấy phép sản xuất và kinh doanh bất kỳ giống nào khác ngoài nhưng loại được liệt kê ở hai
đoạn mục trên phải được ban hành sau khi được thẩm tra bởi các cơ quan quản lý hành chính
nông lâm nghiệp của chính quyền nhân dân cấp địa hạt trở lên nơi mà doanh nghiệp đó giống
đó đặt địa điểm sản xuất, kinh doanh.
Không yêu cầu có giấy phép sản xuất và kinh doanh đối với những người chỉ sản xuất các
giống cây trồng, cây lâm nghiệp phụ.
Điều 32: Tổ chức hoặc cá nhân nộp đơn xin cấp giấy phép sản xuất kinh và doanh giống phải có đủ
các điều kiện cơ sở vật chất và thiết bị cũng như con người tương xứng với sản xuất và kinh doanh
giống và thỏa mãn các điều kiện khác được quy định bởi luật và các quy định của các cơ quan quản
lý hành chính nông lâm nghiệp thuộc Quốc vụ viện.
Đối với những người sản xuất giống cũng phải có đủ các điều kiện cơ sở vật chất chọn tạo, đảm bảo
tính cách ly để nhân giống và có địa điểm sản xuất giống miễn nhiễm các đối tượng sâu bệnh hại kiểm
dịch hoặc có vườn ươm được thiết kế theo quy định của các cơ quan quản lý hành chính về nông lầm
nghiệp trực thuộc chính quyền từ cấp địa khu trở lên.
Để nộp đơn xin giấy phép sản xuất và kinh doanh giống cho giống đã được chấp nhận bản quyền giống
cây mới, thì phải có văn bản đồng ý từ chủ sở hữu giống cây mới đó.
Điều 33: Giấy phép sản xuất và kinh doanh giống phải chỉ rõ tên và địa chỉ của nhà sản xuất hay nhà
kinh doanh, tên người đại diện pháp luật, giống và địa điểm sản xuất giống, phạm vi sản xuất và kinh
doanh giống, thời hạn của giấy phép, phạm vi lãnh thổ ...
Trong trường hợp thay đổi các nội dung đã đăng ký trước đây, việc đăng ký thay đổi phải được nộp
đơn cho cơ quan cấp phép lần đầu trong vòng 30 ngày trước khi thay đổi. Trừ các trường hợp mô tả
trên thì việc sản xuất và kinh doanh giống không cần giấy phép sản xuất và kinh doanh giống và nghiêm
cấm vi phạm các điều khoản quy định về giấy phép sản xuất và kinh doanh giống. Cấm giả mạo, chỉnh
sửa, chuyển nhượng và cho thuê giấy phép sản xuất và kinh doanh giống.
Điều 34: Giống buộc phải được sản xuất tuân thủ theo các quy định kỹ thuật đối với sản xuất giống,
quy định kiểm định và kiểm dịch.
Điều 35: Thu thập giống trong khu vực sản xuất giống cây lâm nghiệp phải được tổ chức bởi người
điều hành khu vực sản xuất giống đó và giống phải được thu thập tuân thủ theo các tiêu chuẩn quốc
gia liên quan. Việc vơ vét giống chưa chín sinh lý và gây hại cho cây mẹ bị nghiêm cấm, không được
thu thập giống ở các khu rừng non hay từ các cây mẹ còn non.
Điều 36: Người kinh doanh giống phải thiết lập và lưu giữ hồ sơ sản xuất và kinh doanh giống, hồ sơ
chỉ rõ nguồn giống, nguồn gốc, số lượng, chất lượng, địa điểm bán, ngày bán, và người chịu trách
nhiệm ... để đảm bảo có thể theo dõi được. Các mục liệt kê trong hồ sơ sản xuất và kinh doanh giống,
thời hạn lưu trữ hồ sơ, mẫu giống phải được định rõ bởi các cơ quan quản lý hành chính nông lâm
nghiệp thuộc Quốc vụ viện.
Điều 37: Giống thuần còn lại, giống tự nhân và sử dụng bởi nông dân có thể được bán và trao đổi trên
thị trường mà không cần giấy phép sản xuất và kinh doanh giống.
Điều 38: Vùng lãnh thổ bao trùm của một giấy phép sản xuất và kinh doanh giống phải được xác định
bởi cơ quan thẩm quyền cấp phép trong phạm vi quyền hạn của cơ quan đó. Nếu một nhà sản xuất
hoặc kinh doanh giống nào đó lập bất kỳ chi nhánh nào trong vùng phạm vi lãnh thổ của giấy phép hay
kinh doanh giống đóng bao gói mà không chia thành bao gói nhỏ hơn hoặc sản xuất/bán giống hưởng
hoa hồng như là đại lý của một người sản xuất/kinh doanh giống người có giấy phép sản xuất và kinh
doanh giống thì không phải trình giấy phép sản xuất và kinh doanh giống, nhưng người sản xuất và
kinh doanh giống đó phải trình hồ sơ với cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp địa phương đó.
Vùng giới hạn của giấy phép sản xuất và kinh doanh giống có thể là toàn quốc đối với các doanh nghiệp
giống có hoạt động tích hợp chọn tạo, sản xuất và tiếp thị và đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu của các cơ
quan quản lý hành chính về nông lâm nghiệp thuộc Quốc vụ viện.
Điều 39: Nếu không có sự chấp thuận của các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thuộc
chính quyền nhân dân cấp tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc trung ương, không một người nào
có thể thu mua các giống cây có giá trị, hoặc giống cây lầm nghiệp mà bị hạn chế thu mua bởi chính
quyền cấp tương đương đó.
Điều 40: Giống để bán phải được chế biến, phân phẩm cấp và đóng gói trừ các giống không thể chế
biến hay đóng gói được. Giống chứa trong bao to hay được nhập khẩu có thể được phân chia và đóng
gói lại; trong các trường hợp này thì các tổ chức đóng gói lại phải trình bày rõ ràng việc đó và phải tự
chịu trách nhiệm về chất lượng giống.
Điều 41: Giống để bán phải tuân thủ các tiêu chuẩn quốc gia, ngành và được đính nhãn và hướng dẫn
sử dụng mà nội dung trên chúng phải thích hợp với các giống được bán. Những người sản xuất và
kinh doanh giống phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin ghi trên nhãn và hướng dẫn sử
dụng và chất lượng giống của họ.
Nhãn giống phải ghi rõ ràng chủng loại giống, tên giống, số seri công nhận giống hay ghi nhận hồ sơ
giống, vùng gieo trồng phù hợp, mùa vụ gieo trồng, trụ sở nhà sản xuất/kinh doanh đăng ký, chỉ tiêu
chất lượng, số seri chứng chỉ kiểm dịch thực vật, số seri của giấy phép sản xuất và kinh doanh giống
và thông tin lô giống cũng như các nội dung khác được quy định bởi các cơ quan quản lý hành chính
nông lâm nghiệp thuộc Quốc vụ viện.
Để bán các giống được bảo hộ thì số seri bản quyền giống phải được đính kèm.
Để bán các giống nhập khẩu, số seri của giấy phép nhập khẩu và một nhãn hàng bằng tiếng Trung
phải được đính kèm.
Để bán các giống cây trồng chuyển gen, cần phải đánh dấu với các ngôn từ rõ ràng thấy được, và các
biện pháp an toàn khi sử dụng phải được nêu rõ.
Các nhà sản xuất/kinh doanh giống phải tuân thủ luật và các quy định liên quan, phải trung thực và
thành thật cung cấp cho người sử dụng thông tin về nhà sản xuất, các đặc điểm chính của giống, các
biện pháp canh tác cơ bản, hướng dẫn sử dụng giống, cảnh báo rủi do và các dịch vụ tư vấn liên quan.
Không được phép tuyên truyền sai lệch, gây hiểu lầm.
Không một tổ chức hoặc cá nhân nào có thể được phép gây trở ngại một cách bất hợp pháp việc thực
thi bản quyền của các nhà sản xuất kinh doanh giống đối với hoạt đông sản xuất kinh doanh độc lập
của họ.
Điều 42: Các nội dung quảng cáo giống phải phù hợp với các điều khoản của luật này và các luật và
quy định về quảng cáo liên quan, việc mô tả các đặc tính chủ yếu phải phù hợp với nội dung đã trình
bày trong thông báo về việc công nhận hoặc ghi nhận hồ sơ giống.
Điều 43: Giống được vận chuyển và gửi đi phải được kiểm dịch phù hợp với các luật và quy định liên
quan.
Điều 44: Người sử dụng giống phải có quyền mua giống dựa trên ý chí của chính họ. Không một tổ
chức hay cá nhân nào có thể gây cản trở trái luật đối với việc mua hàng trên.
Điều 45: Nhà nước cung cấp sự trợ giúp cho tổ chức lâm nghiệp nhân và sử dụng các giống cây rừng
tiến bộ. Đối với các dự án lâm nghiệp được đầu tư phần lớn hoặc toàn bộ bởi nhà nước và đối với các
tổ chức lâm nghiệp do nhà nước sở hữu thì các giống cây rừng tiến bộ phải được sử dụng phù hợp
với các kế hoạch được lập bởi các cơ quan quản lý hành chính lâm nghiệp.
Điều 46: Nếu người sử dụng giống chịu thiệt hại do chất lượng giống gây ra hoặc do thông tin không
chính xác ghi trên nhãn và hướng dẫn sử dụng giống, thì người sử dụng giống có thể đòi bồi thường
từ nhà kinh doanh bán giống đó, hoặc đòi bồi thường từ gián tiếp nhà sản xuất hoặc kinh doanh giống
đó. Giá trị bồi thường phải bao gồm chi phí mua giống, thiệt hại lợi nhuận dự tính và các mất mát liên
quan khác. Nếu trách nhiệm thuộc về các nhà sản xuất hay kinh doanh giống thì nhà kinh doanh bán
giống đã phải trả bồi thường phải có quyền được trả lại phần bồi thường từ các nhà sản xuất kinh
doanh giống đó.
Chương VI: Giám sát và quản lý giống
Điều 47: Các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp phải tăng cường giám sát và thanh tra chất
lượng giống. Các biện pháp quản lý, tiêu chuẩn ngành và phương pháp thử phải được xây dựng bởi
các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thuộc Quốc vụ viện.
Các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp có thể kiểm tra các giống được sản xuất và kinh
doanh bằng việc sử dụng phương pháp kiểm tra nhanh được mô tả bởi nhà nước và kết quả kiểm tra
có thể được sử dụng làm bằng chứng xử phạt hành chính. Trong trường hợp có người bất đồng ý kiến
với kết quả kiểm tra, người đó có thể nộp đơn để tái kiểm tra mà không sử dụng phương pháp kiểm
tra như lần kiểm tra đầu. Nếu các bên phải chịu thiệt hại do kết quả kiểm tra sau thì phải được bồi
thường theo luật định.
Điều 48: Các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp có thể giao phó cho các cơ sở thanh tra
chất lượng giống có đủ điều kiện thanh tra chất lượng giống.
Các cơ sở thanh tra chất lượng giống phải có đủ điều kiện cơ sở vật chất cần thiết và năng lực thử
nghiệm và phải chịu sự kiểm tra đánh giá đủ tiêu chuẩn bởi các cơ quan có thẩm quyền trực thuộc
chính quyền nhân dân từ cấp tỉnh trở lên. Các cơ sở thanh tra chất lượng hạt giống phải có nhân sự
là các thanh tra viên về giống. Các thanh tra viên về giống phải tốt nghiệp khóa huấn luyện kỹ thuật
nghiệp vụ hoặc phải có bằng cấp ở mức cao hơn và có năng lực thanh tra giống.
Điều 49: Nghiêm cấm sản xuất và kinh doanh giống giả, giống kém phẩm cấp. Các cơ quan quản lý
hành chính nông lâm nghiệp và các cơ quan có liên quan khác đấu tranh với các hoạt động phi pháp
sản xuất và kinh doanh giống giả, giống phẩm cấp kém theo luật định, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nông dân và bảo vệ sự công bằng và trật tự của thị trường cạnh tranh.
Những danh mục sau đây là giống giả:
(1) Giống không đủ điều kiện làm giống và giống của một giống nhưng thực chất là giống khác và;
(2) Loài, giống của giống không phù hợp với những nội dung được trình bày trên nhãn giống;
Những danh mục sau đây là giống kém phẩm cấp:
(1) Chất lượng giống thấp hơn tiêu chuẩn của nhà nước quy định;
(2) Chất lượng giống thấp hơn các chỉ tiêu trên nhãn giống;
(3) Giống chứa các sinh vật có hại thuộc đối tượng kiểm dịch của nhà nước.
Điều 50: Các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp là các cơ quan thi hành việc quản lý hành
chính về giống. Khi luật giống có hiệu lực, nhiệm vụ của họ phải phù hợp với luật, họ phải trình các
giấy tờ về quản lý giống theo luật. Cơ quan thi hành luật quản lý giống phải có quyền tiến hành các
biện pháp sau nhằm thực thi các nhiệm vụ giám sát và thanh tra giống theo luật định:
(1) Thâm nhập các địa điểm sản xuất và kinh doanh để kiểm tra;
(2) Lấy mẫu, phân tích và thử nghiệm giống;
(3) Kiểm tra, sao chép các hợp đồng, hóa đơn, sổ sách, hồ sơ sản và kinh doanh giống và các vật liệu
khác;
(4) Tịch thu, tạm giữ giống có bằng chứng chứng tỏ được sản xuất và kinh doanh bất hợp pháp cũng
như công cụ, thiết bị và phương tiện vận chuyển được sử dụng để sản xuất và kinh doanh giống bất
hợp pháp.
(5) Niêm phong các cơ sở hoạt động sản xuất và kinh doanh hạt giống bất hợp pháp.
Khi các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thi hành chức năng theo luật định thì các bên có
liên quan phải trợ giúp, hợp tác và không được từ chối hay gây trở ngại. Cơ quan thực thi luật thuộc
các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp hoặc cơ quan quản lý hành chính giống được giao
phó có thể tiến hành thực thi luật liên quan đến giống.
Điều 51: Các nhà sản xuất và kinh doanh giống có thể tự nguyện, theo luật định thành lập hiệp hộp
nghành giống để tăng cường tự quản lý ngành nghề và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các
thành viên. Các hiệp hội này cung cấp cho các thành viên và ngành đó những dịch vụ như trao đổi
thông tin, đào tạo kỹ thuật, tín dụng, tiếp thị và tư vấn.
Điều 52: Các nhà sản xuất và kinh doanh giống có thể tự nguyện nộp đơn để trở thành cơ sở chứng
nhận chất lượng giống. Các cơ sở có năng lực có thể sử dụng chứng chỉ đó ghi trên bao gói giống.
Điều 53: Nếu bị thiên tai, cần phải sử dụng giống cây trồng thấp hơn tiêu chuẩn quy định của nhà nước
hoặc chính quyền địa phương thì việc chấp nhận sử dụng đó phải được sự đồng ý của chính quyền
nhân dân từ cấp địa khu trở lên ở vùng sử dụng các giống đó; Nếu giống cây lâm nghiệp được sử dụng
ở tình trạng tương tự thì việc sử dụng phải được sự chấp thuận của chính quyền nhân dân tỉnh, khu
tự trị và thành phố trực thuộc trung ương nơi sử dụng giống đó.
Điều 54: Các tổ chức hay cá nhân gắn với chọn, sản xuất, kinh doanh hoặc quản lý giống phải tuân
thủ luật và các quy định về kiểm dịch thực vật để phòng tránh sâu bệnh hại, cỏ dại và các sinh vật có
hại khác lây lan.
Không một tổ chức hay cá nhân nào có thể thực hiện thí nghiệm chủng, ghép các sinh vật có hại thuộc
đối tượng kiểm dịch tại cơ sở sản xuất giống.
Điều 55: Các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp cấp tỉnh trở lên phải công bố các thông tin
như công nhận giống, ghi nhận hồ sơ giống, bảo hộ giống cây trồng mới, cấp phép sản xuất và kinh
doanh giống, giám sát và quản lý trên phương tiện hợp nhất công bố thông tin của chính quyền . Các
cơ quan quản lý hành chính thuộc Quốc vụ viện phải thành lập ngân hàng mẫu tiêu chuẩn hóa các
giống cây để cung cấp làm cơ sở cho việc giám sát và quản lý giống.
Điều 56: Nhân viên của các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp không được phép tham gia
hoặc đảm đương các hoạt động sản xuất và kinh doanh giống.
Chương VII: Xuất nhập khẩu giống và hợp tác quốc tế
Điều 57 Bất kỳ giống nào được xuất hoặc nhập khẩu đều phải được kiểm dịch với mục đích tránh các
loại sâu, bệnh, cỏ dai nguy hiểm và các sinh vật có hại lây lan vào và ra khỏi Trung Quốc và kiểm dịch
phải được thực hiện phù hợp với các điều khoản của các luật, nguyên tắc và quy định về kiểm dịch
thực vật xuất nhập.
Điều 58: Những cơ sở liên quan đến nhập và xuất khẩu hạt giống được ghi thêm trong giấy phép sản
xuất và kinh doanh giống, phải có giấy phép xuất nhập khẩu giống phù hợp với các luật và quy định
liên quan của nhà nước. Quốc vụ viện phải đặt ra các giới hạn về thẩm quyền kiểm tra và chấp nhận
giới thiệu các giống cây trồng, cây lâm nghiệp từ nước ngoài và xây dựng các biện pháp cho phép xuất
nhập khẩu các giống đó và các biện pháp quản lý giống cây trồng chuyển gen.
Điều 59: Chất lượng của giống nhập khẩu phải đạt tiêu chuẩn ngành hoặc tiêu chuẩn quốc gia. Nếu
chưa có các tiêu chuẩn như vậy thì tiêu chuẩn quy định trên hợp đồng có thể được chấp nhận.
Điều 60: Nếu giống được nhập để sản xuất giống cho nước khác thì việc nhập khẩu như vậy có thể
được miễn trừ những ràng buộc ở đoạn mục 1, điều 58 của luật này nhưng phải cung cấp hợp đồng
đã ký về việc sản xuất giống cho nước khác. Giống nhập khẩu chỉ để sử dụng sản xuất giống lai và
sản phẩm làm ra không được phép bán trên thị trường nội địa.
Giống cây trồng hay cây lâm nghiệp giới thiệu từ nước ngoài để thí nghiệm phải được trồng ở nơi cách
ly, sản phẩm thu hoạch không được bán như là giống thương mại.
Điều 61: Nghiêm cấm xuất nhập khẩu giống giả, giống kém phẩm cấp, giống bị cấm xuất nhập theo
quy định của nhà nước.
Điều 62: Nhà nước phải thiết lập hệ thống kiểm tra an toàn cho ngành giống. Nếu các tổ chức và cá
nhân nước ngoài đầu tư và thâu tóm các doanh nghiệp giống trong nước hoặc thực hiện hợp tác kỹ
thuật với các viện nghiên cứu khoa và/hoặc các doanh nghiệp giống thì việc chấp thuận và quản lý
đăng ký giống mới, sản xuất và kinh doanh giống phải được thực hiện bởi các cơ quan liên quan theo
luật và các quy định liên quan.
Chương VIII Các biện pháp trợ giúp
Điều 63: Nhà nước tăng cường hỗ trợ phát triển ngành giống. Chọn, sản xuất, trình diễn, bảo tồn
nguồn gen, dự trữ giống và các địa điểm hạt sản xuất giống chính phải được hỗ trợ tài chính.
Nhà nước khuyến khích phổ biến việc các loại máy móc ứng dụng cho sản xuất giống hiệu quả và an
toàn, máy móc sử dụng sản xuất giống được đưa vào phạm vị trợ cấp máy nông nghiệp. Khuyến khích
các kênh đầu tư nguồn vốn xã hội vào ngành giống.
Điều 64: Nhà nước phải tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng công cho ngành giống. Đất đai canh tác
tốt ở các cơ sở chọn tạo giống thuận lợi phải được bảo vệ vĩnh viễn như là vùng đất bảo tồn canh tác.
Các cơ sở chọn tạo giống thuận lợi phải được xác đinh bởi các cơ quan quản lý nông nghiệp thuộc
Quốc vụ viện sau khi tham vấn chính quyền nhân dân cấp tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc trung
ương.
Điều 65: Hỗ trợ phải được dành cho các doanh nghiệp giống thực hiện chọn, tạo và sản xuất giống
cây trồng và cây lâm nghiệp theo các quy định có liên quan.
Điều 66: Nhà nước khuyến khích và hướng dẫn các tổ chức tài chính cung cấp nguồn trợ giúp tín dụng
để sản xuất, kinh doanh, thu mua và trữ kho giống.
Điều 67: Nhà nước trợ giúp các nhà bảo hiểm liên quan đến việc bảo hiểm hạng mục kinh doanh và
sản xuất giống. Chính quyền nhân dân cấp tỉnh trở lên trợ giúp triển khai bảo hiểm sản xuất giống
thông qua các biện pháp như trợ cấp tiền phí bảo hiểm.
Điều 68: Các viện nghiên cứu, trường đại học và cao đẳng được khuyến khích thực hiện hợp tác với
các doanh nghiệp giống về lĩnh vực nhân tài chọn tạo giống. Các nhân sự nghiên cứu khoa học của
các viện nghiên cứu, trường đại học và cao đẳng được khuyến khích thực hiện công việc chọn tạo
giống thương mại trong các doanh nghiệp. Các nhân tài nghiên cứu khoa học được khuyến khích đổi
mới và khởi nghiệp kinh doanh.
Điều 69: các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thuộc Quốc vụ viện, chính quyền nhân dân
các tỉnh, khu tự trị hoặc thành phố trực thuộc trung ương nơi có các hoạt động phi địa phương về chọn
tạo giống phải cải thiện tính hợp tác và quản lý các hoạt động chọn tạo phi địa phương và cơ quan
giao thông phải thực hiện việc ưu tiên vận chuyển giống.
Chương IX: Trách nhiệm pháp lý
Điều 70: Nếu các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thiếu sót trong việc cấp giấy phép theo
luật định, kiểm tra và xử phạt các hoạt động phi pháp hoặc thiếu sót trong việc thực thi nhiệm vụ theo
luật này thì chính quyền nhân dân cấp đó hoặc cấp trên phải ra lệnh sửa sai và phê chuẩn hình phạt
đối với trách nhiệm điều hành và các nhân viên có trách nhiệm trực tiếp.
Nếu bất kỳ ai vị phạm các khoản của điều 56, nếu các nhân viên của các cơ quan quản lý hành chính
nông lâm nghiệp dính đến sản xuất và kinh doanh giống thì các hình phạt phải được thực hiện theo
các luật định.
Điều 71: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản của điều 16, nếu các thành viên và nhân viên hội đồng công
nhận giống thiếu sót trong việc thực thi nhiệm vụ của họ theo luật định, nhờ cậy để lừa dối, thiên vị và
cam kết bất thường thì hình phạt phải được áp dụng theo luật; những người này không được phép
tham gia và các công việc công nhận giống trong vong 5 năm kể từ ngày vi phạm.
Điều 72: Các cơ sở khảo nghiệm, thí nghiệm và thanh tra chất lượng giống mà phát hành số liệu hay
chứng chỉ khảo nghiệm, thí nghiệm và thanh tra sai lệch thì bị buộc phải làm sửa chữa cho đúng bởi
các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp từ cấp địa khu trở lên. Tổ chức phải bị bắt buộc chịu
một khoản phạt từ 50,000 NDT đến 100,000 NDT (1 NDT = # 3500 VND); người điều hành và các nhân
viên có trách nhiệm trực tiếp phải bị buộc chịu một khoản phạt từ 10,000 NDT đến 50,000 NDT; trong
trường hợp trục lợi bất hợp pháp thì khoản lợi này phải bị tịch thu; trong trường hợp gây thiệt hại cho
người sử dụng hay các nhà sản xuất và kinh doanh giống thì trách nhiệm liên quan phải bị chịu cùng
với nhà sản xuất và kinh doanh giống; trong trường hợp vi phạm rõ ràng thì chức năng về thanh tra
chất lượng giống sẽ bị bãi bỏ bởi các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp cấp tỉnh trở lên.
Điều 73: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản của điều 28 để thực hiện bất kỳ hành vi trái luật trên bản
quyền giống cây mới thì các bên phải cùng nhau thương lượng; khi thương lượng không thành công,
chủ sở hữu bản quyền của giống có thể nộp đơn để xin dàn xếp cho các cơ quan quản lý hành chính
nông lâm nghiệp từ cấp địa khu trở lên. Bên nguyên cũng có thể nộp hồ sơ kiện lên tòa án nhân dân.
Các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp thuộc chính quyền nhân cấp địa khu trở lên có thể
căn cứ vào sự tự nguyện của các bên tiến hành hòa giải tranh chấp, Bất kỳ thỏa hiệp nào đạt được
qua hòa giải phải được thi hành bởi các bên liên quan. Nếu các bên không thực hiện thỏa hiệp hoặc
không có thỏa hiệp nào đạt được thông qua hòa giải thì chủ sở hữu bản quyền giống cây trồng mới có
thể nộp đơn kiện ra tòa án nhân dân theo luật định.
Tiền bồi thường về vi phạm bản quyền giống cây mới phải được xác định phù hợp với thiệt hại thực
sự do việc vi phạm mang lại; trong trường hợp thiệt hại thực tế khó xác định được, tiền bồi thường có
thể được xác định tương đương với lợi nhuận mang lại của người vi phạm từ việc vi phạm; trong
trường hợp cả quyền lợi của chủ sở hữu và người vi phạm khó xác định được thì tiền bồi thường có
thể được xác định phù hợp với tham chiếu đến thời gian mà bản quyền giống cây mới đó thu được phí
nhượng quyền. Tiền bồi thường phải bao gồm các chi phí hợp lý của chủ sở hữu để làm dừng việc vi
phạm. Trong trường hợp bản quyền giống cây mới bị vi phạm nghiêm trọng thì số tiền bồi thường có
thể sẽ được tính bằng từ 1-3 lần giá trị tiền bồi thường được tính bằng các phương pháp nêu trên. Nếu
thiệt hại của chủ sở hữu, lợi ích của người vi phạm và phí nhượng quyền của giống cây trồng mới đều
khó xác định thì tòa án nhân dân có thể xác định một hình phạt dưới 3 triệu NDT dựa vào các yếu tố
như loại bản quyền giống cây mới, tình trạng và điều kiện vi phạm.
Khi dàn xếp một trường hợp vi phạm bản quyền giống cây mới, các cơ quan quản lý hành chính nông
lâm nghiệp trực thuộc chính quyền nhân dân cấp địa khu trở lên có thể buộc người vi phạm dừng hành
động vi phạm và tịch thu tài sản vi phạm và giống sung công. Trong trường hợp số tiền vi phạm nhỏ
hơn 50,000 NDT, một khoản phạt từ 10,000 đến 250,000 NDT sẽ bị buộc nộp; nếu số tiền đó lớn hơn
50,000 NDT thì một khoản phạt cao gấp 5 đến 10 lần khoản đó sẽ bị buộc chịu.
Điều 74: Nếu có bất kỳ tranh chấp nào giữa các bên liên quan đến việc áp dụng bản quyền giống cây
mới và quyền sở hữu giống cây mới thì bên còn lại có thể nộp đơn kiện ra tòa án nhân dân.
Điều 75: Nếu bất kỳ người nào vi phạm các khoản mục của điều 49 để sản xuất và kinh doanh giống
giả thì các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc chính quyền nhân dân cấp địa khu
trở lên phải buộc dừng sản xuất và kinh doanh, tịch thu tài sản phi pháp, giống và giấy phép sản xuất
và kinh doanh giống sẽ bị hủy bỏ. Nếu số tiền thu được từ việc sản xuất và kinh doanh phi pháp nhỏ
hơn 10,000 NDT thì một khoản phạt từ 10,000 đến 100,000 NDT sẽ bị buộc nộp; nếu số tiền đó lớn
hơn 10,000 NDT thì một khoản phạt gấp 10 đến 20 lần số tiền đó sẽ bị buộc nộp.
Nếu bị đi tù có thời hạn hoặc bị phạt trên mức đó do tội ác gây ra từ việc sản xuất và kinh doanh giống
giả, thì người đại diện pháp luật và người điều hành liên quan trực tiếp trách nhiệm của doanh nghiệp
giống hay tổ chức khác không được phép nắm giữ vị trí đại diện theo pháp luật hay quản lý cấp cao
trong doanh nghiệp giống trong thời hạn 5 năm kể từ ngày vi phạm.
Điều 76: Nếu bất kỳ người nào vi phạm các khoản mục của điều 49 để sản xuất và kinh doanh giống
kém chất lượng thì các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc chính quyền nhân dân
cấp địa khu trở lên phải buộc dừng sản xuất và kinh doanh, tịch thu tài sản phi pháp và giống. Nếu số
tiền thu được từ việc sản xuất và kinh doanh phi pháp nhỏ hơn 10,000 NDT thì một khoản phạt từ
5,000 đến 50,000 NDT sẽ bị buộc nộp; nếu số tiền đó lớn hơn 10,000 NDT thì một khoản phạt gấp 5
đến 10 lần số tiền đó sẽ bị buộc nộp. Có thể sẽ bị rút giấy phép sản xuất và kinh doanh giống.
Nếu bị đi tù có thời hạn hoặc bị phạt trên mức đó do tội ác gây ra từ việc sản xuất và kinh doanh giống
chất lượng kém, thì người đại diện pháp luật và người điều hành liên quan trực tiếp trách nhiệm của
doanh nghiệp giống hay tổ chức khác không được phép nắm giữ vị trí đại diện theo pháp luật hay quản
lý cấp cao trong doanh nghiệp giống trong thời hạn 5 năm kể từ ngày vi phạm.
Điều 77: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 32 và 33 để thực hiện bất kỳ các hành vi sau
thì các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc chính quyền nhân dân cấp địa khu trở
lên phải buộc sửa chữa hành vi và tịch thu tài sản và giống phạm pháp. Nếu số tiền thu được từ việc
sản xuất và kinh doanh phi pháp nhỏ hơn 10,000 NDT thì một khoản phạt từ 3,000 đến 30,000 NDT
sẽ bị buộc nộp; nếu số tiền đó lớn hơn 10,000 NDT thì một khoản phạt gấp 3 đến 5 lần số tiền đó sẽ
bị buộc nộp. Trường hợp vi phạm rõ ràng thì có thể sẽ bị rút giấy phép sản xuất và kinh doanh giống.
(I) Sản xuất và bán giống không có giấy phép sản xuất và kinh doanh giống;
(II) Có được giấy phép sản xuất và kinh doanh giống thông qua các cách thức gian lận, hối lộ và không
phù hợp;
(III) Sai sót trong sản xuất và bán giống không tuân thủ theo quy định của giấy phép sản xuất và kinh
doanh giống.
(IV) Bịa đặt, thay đổi, chuyển giao hay cho thuê giấy phép sản xuất và kinh doanh giống.
Đối với các tổ chức bị rút giấy phép sản xuất và kinh doanh giống thì người đại diện trước pháp luật
và người điều hành liên quan trực tiếp trách nhiệm của doanh nghiệp giống hay tổ chức khác không
được phép nắm giữ vị trí đại diện theo pháp luật hay quản lý cấp cao trong doanh nghiệp giống trong
thời hạn 5 năm kể từ ngày vi phạm.
Điều 78: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 21, điều 22 và 23 để thực hiện bất kỳ các hành
vi sau thì các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc chính quyền nhân dân cấp địa
khu trở lên phải buộc sửa chữa hành vi và tịch thu tài sản và giống phạm pháp và buộc nộp một khoản
phạt từ 20,000 đến 200,000 NDT.
(I) Phổ biến hoặc bán các giống cây trồng phải được công nhận nhưng chưa được công nhận;
(II) Phổ biến hoặc bán các giống cây lâm nghiệp cải tiến phải được công nhận nhưng chưa được công
nhận;
(III) Phổ biến hoặc bán các giống cây trồng, cây lâm nghiệp cải tiển đã bị dừng phổ biến và bán;
(IV) Phổ biến các giống cây trồng phải được ghi nhận hồ sơ nhưng chưa được ghi nhận hồ sơ hoặc
bán dưới tên của giống đã được ghi nhận hồ sơ.
(V) Phổ biến các giống cây trồng mà việc ghi nhận hồ sơ đã bị hủy bỏ hoặc bán dưới tên của giống đã
ghi nhận hồ sơ.
Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 23 và điều 42 để quảng cáo các giống cây trồng mà
các giống đó cần phải được công nhận hay ghi nhận nhận hồ sơ mà chưa làm hoặc mô tả các đặc
điểm chính của giống trên tài liệu quảng cáo không phù hợp với các nội dung đã công bố trong hồ sơ
ghi nhận và công nhận thì trách nhiệm pháp lý phải bị buộc tuân thủ theo các nguyên tắc của luật quảng
cáo nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Điều 79: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 58, điều 60 và điều 61 để thực hiện bất kỳ các
hành vi sau thì các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc chính quyền nhân dân cấp
địa khu trở lên phải buộc sửa chữa hành vi và tịch thu tài sản và giống phạm pháp. Nếu số tiền thu
được từ việc sản xuất và kinh doanh phi pháp nhỏ hơn 10,000 NDT thì một khoản phạt từ 3,000 đến
30,000 NDT sẽ bị buộc nộp; nếu số tiền đó lớn hơn 10,000 NDT thì một khoản phạt gấp 3 đến 5 lần số
tiền đó sẽ bị buộc nộp. Trường hợp vi phạm rõ ràng thì có thể sẽ bị rút giấy phép sản xuất và kinh
doanh giống.
(I) Xuất nhập khẩu giống không có giấy phép;
(II) Bán giống được sản xuất phục vụ cho nước ngoài tại Trung Quốc;
(III) Bán giống thu từ cây trồng nhập khẩu vào Trung Quốc để khảo nghiệm;
(IV) Xuất nhập khẩu giống giả hay giống kém chất lượng hoặc giống không được phép xuất nhập khẩu
theo quy định của nhà nước.
Điều 80: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 36, điều 38, điều 40 và điều 41 để thực hiện
bất kỳ các hành vi sau thì các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc chính quyền
nhân dân cấp địa khu trở lên phải buộc sửa chữa hành vi và buộc nộp một khoản phạt từ 2,000 đến
5,000 NDT:
(I) Bán giống phải được đóng gói nhưng không đóng gói;
(II) Bán giống không có hướng dẫn sử dụng hay nội dung nhãn không phù hợp;
(III) Thay đổi nhãn mác;
(IV) Sai sót trong việc lập hồ sơ sản xuất kinh doanh giống theo yêu cầu;
(V) Sai sót trong lập hồ sơ ở nơi một nhà sản xuất hay kinh doanh giống lập chi nhánh ngoài vùng lãnh
thổ hay kinh doanh giống đã đóng gói mà không được chia thành các bao gói nhỏ hơn hoặc sản
xuất/bán giống trên cơ sở là đại lý hưởng hoa hồng.
Điều 81: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 8 để thực hiện chiếm hữu hay phá hoại nguồn
gen hoặc thu thập, cắt lấy các nguồn gen tự nhiên chịu sự bảo hộ của nhà nước thì các cơ quan quản
lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc chính quyền nhân dân cấp địa khu trở lên phải buộc dừng
hành vi và buộc nộp một khoản phạt từ 5,000 đến 50,000 NDT và người đó sẽ phải chịu trách nhiệm
với bất kỳ thiệt hại nào gây ra theo luật định.
Điều 82: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 11 để cung cấp nguồn gen cho các nước khác
hoặc giới thiệu nguồn gen từ các nước khác; thực hiện nghiên cứu hợp tác sử dụng nguồn gen với
các tổ chức hay cá nhân nước ngoài thì các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc
tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương tịch thu tài sản và nguồn gen phạm pháp và buộc nộp
một khoản phạt từ 20,000 đến 200,000 NDT;
Nếu bất kỳ ai mang hoặc vận chuyển nguồn gen ra ngoài Trung Quốc mà không có sự cho phép của
cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp, cơ quan hải quan thì phải giữ lại nguồn gen và chuyển
trả về cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc cấp tỉnh, khu tự trị và thành phố trực
thuộc trung ương.
Điều 83: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 35 để ăn trộm giống cây non, gây hại cây bố
mẹ, hoặc thu thập giống từ các bố mẹ hoặc cây rừng chất lượng thấp sau thì các cơ quan quản lý hành
chính nông lâm nghiệp trực thuộc chính quyền nhân dân cấp địa khu trở lên phải buộc dừng việc thu
thập giống, tịch thu giống đã thu và buộc nộp một khoản phạt gấp 2 đến 5 lần giá trị giống thu được.
Điều 84: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 39 để thu mua giống cây có giá trị hoặc giống
cây lâm nghiệp bị hạn chế thu mua thì các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc
chính quyền nhân dân cấp địa khu trở lên phải tịch thu giống đã mua và buộc nộp một khoản phạt gấp
2 đến 5 lần giá trị giống cây lâm nghiệp đã thu mua.
Điều 85: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 17 để thực hiện bất kỳ việc làm giả nào thì
các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc chính quyền nhân dân cấp tỉnh trở lên
phải buộc nộp một khoản phạt từ 1 triệu đến 5 triệu NDT; doanh nghiệp giống không được phép nộp
đơn công nhận giống theo các khoản mục của điều 17 luật này; Nếu người sử dụng giống hoặc người
sản xuất và kinh doanh giống khác chịu thiệt hại thì phải bồi thường theo pháp luật.
Điều 86: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 45 để sai sót trong việc sử dụng giống cây
lâm nghiệp cải tiến theo kế hoạch được lập bởi cơ quan quản lý hành chính lâm nghiệp thì cơ quan
quản lý hành chính lâm nghiệp của chính quyền nhân dân cùng cấp phải buộc sửa chữa vi phạm trong
một thời gian nhất định; nếu vi phạm không được sửa chữa đúng hạn thì một khoản phạt từ 3,000 đến
30,000 NDT phải bị buộc nộp.
Điều 87: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 54 để lây nhiễm đối tượng kiểm dịch trong thí
nghiệm đến cơ sở sản xuất giống thì các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp trực thuộc chính
quyền nhân dân từ cấp địa hạt trở lên phải buộc dừng thí nghiệm và buộc nộp một khoản phạt từ 5,000
đến 50,000 NDT.
Điều 88: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 55 để từ chối hoặc gây trở ngại cho việc giám
sát và thanh tra thực hiện bởi các cơ quan quản lý hành chính nông lâm nghiệp theo luật này thì phải
buộc nộp một khoản phạt từ 2,000 đến 50,000 NDT và buộc dừng sản xuất và kinh doanh để cải chính;
Nếu vi phạm an ninh công cộng thì cơ quan an ninh công cộng phải buộc phạt hành chính theo luật
định.
Điều 89: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 13 để tự cá nhân bán kết quả chọn tạo và gây
thiệt hại kinh tế cho tổ chức thì người đó phải đảm đương trách nhiệm bồi thường.
Điều 90: Nếu bất kỳ ai vi phạm các khoản mục của điều 44 để ép người sử dụng giống mua và sử
dụng giống ngoài lý trí của họ vì vậy gây thiệt hạt cho người sử dụng thì phải bồi thường thiệt hại cho
những người sử dụng đó.
Điều 91: Nếu bất kỳ ai vi phạm các điều khoản và sự vi phạm cấu thành tội phạm thì sẽ bị điều tra
trách nhiệm hình sự theo pháp luật.
Chương X: Các điều khoản bổ sung
Điều 92: Những khái niệm sử dụng trong luật này có nghĩa:
(1) Nguồn gen là nói đến các vật liệu cơ bản để chọn tạo giống mới, bao gồm các bộ phận của các
giống cây trồng, cây hoang dại cũng như các vật liệu di truyền của các loại cây khác nhau được tạo ra
một cách nhân tạo từ các vật liệu nói trên.
(2) Giống có nghĩa là thực vật được chọn tạo nhân tạo hay được phát hiện và cải tiến và các đặc điểm
hình thái của chúng là đồng bộ với các đặc điểm sinh học và có đặc tính di truyền tương đối ổn định.
(3) Các loại cây trồng chính là nói đến các cây lúa, mỳ, ngô, bông và đậu tương.
(4) Các cây lâm nghiệp chính được xác định và thông cáo bởi cơ quan quản lý hành chính lâm nghiệp
thuộc Quốc vụ viện; cơ quan quản lý hành chính lâm nghiệp thuộc chính quyền nhân dân của một tỉnh,
khu tự trị hoặc thành phố trực thuộc trung ương có thể xác định bổ sung thêm không quá 8 loại cây
khác vào danh sách đã được xác định bởi cơ quan trực thuộc Quốc vụ viện.
(5) Các giống cây lâm nghiệp cải tiến là nói đến các giống đã được xác nhận mà tại một vùng nhất định
chúng tốt hơn một cách rõ ràng so với các giống cây chính đang trồng tại cùng một thời điểm về cả
sản lượng, tính thích ứng và khả năng chống chịu.
(6) Một giống mới lạ đặc biệt, trong trường hợp áp dụng cho một giống mới là nói đến các tình huống
khi giống của một giống cây như vậy đã được đưa ra bán hay phổ biến bởi người nộp đơn xin hoặc
thông qua giấy phép bán ít hơn 1 năm ở Trung Quốc cho đến ngày mà việc nộp đơn công nhận được
thực hiện; nếu bán ra ngoài lãnh thổ Trung Quốc thì ít hơn 6 năm đối với giống cây cho gỗ hay cây nho
ít hơn 4 năm đối với các loại cây khác.
Bất kỳ một giống mới lạ đặc biệt nào được thêm vào danh sách các giống được bảo tồn như là một
loài hay giống, nếu nộp đơn xin bản quyền giống mới trong vòng một năm khi danh sách bảo tồn được
công bố và giống của giống cây đó được đưa ra bán hoặc phổ biến dưới 4 năm thì sau đó tính mới lạ
phải được xem là vẫn còn.
Thêm nữa sự mất tính mới lạ khi mang ra bán trong các trường hợp sau phải được xem như là đã mất
tính mới lạ:
1. Giống thực sự đã được truyền bá rộng khi được xác nhận bởi các cơ quan quản lý hành chính nông
lâm nghiệp cấp tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc trung ương dựa trên diện tích đã gieo trồng.
2. Giống chưa được nộp đơn xin bản quyền giống cây trồng mới sau khi đã được công nhận hoặc
được ghi nhận hồ hơ nhiều hơn 2 năm.
(7) Tính khác biệt có nghĩa là một giống cây trồng mới phải có nhiều hơn một tính trạng có thể phân
biệt được một cách rõ ràng so với các giống cùng loại cây đã được biết đến.
(8) Tính đồng nhất có nghĩa là các đặc điểm, đặc tính tương đối đặc biệt của một giống cây mới, ngoại
trừ sự khác nhau có thể nhìn thấy được phải duy trì đồng nhất trong một giống và giữa các cá thể của
giống đó.
(9) Tính ổn định có nghĩa là các tính trạng chính của một giống mới, sau khi nhân giống lại hoặc ở cuối
một chu kỳ sinh sản nhất định phải được giữ nguyên vẹn.
(10) Các giống đã được biết phải có nghĩa là các giống cây đã được chấp nhận hay đã được công
nhận, ghi nhận hồ sơ, bảo hộ giống mới hoặc đã được bán và phổ biến.
(11) Nhãn là nói đến các họa tiết, chữ viết đặc chưng được in, dán, gắn lên giống hay lên bề mặt bao
gói giống.
Điều 93: Quản lý và chọn nguồn gen, sản xuất và kinh doanh và quản lý giống cỏ, giống thuốc lá, giống
cây dược liệu và giống nấm ăn được phải được thực hiện theo luật này.
Điều 94: Bộ luật sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2016.
----------------------------