82
S VĂN HA, TH THAO V DU LCH THƯ VIN TNH QUNG NAM Thư mục chuyên đề: ĐẤT NƯỚC 70 NĂM ĐỘC LP (KNI M 70 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (19/8/1945 - 19/8/2015) QUỐC KHÁNH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHNGHĨA VIT NAM (02/9/1945 02/9/2015)) Quảng Nam, tháng 8 năm 2015

ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

  • Upload
    lecong

  • View
    226

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

SƠ VĂN HOA, THÊ THAO VA DU LICH

THƯ VIÊN TINH QUANG NAM

Thư mục chuyên đề:

ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

(KỶ NIÊM 70 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (19/8/1945 - 19/8/2015)

QUỐC KHÁNH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIÊT NAM

(02/9/1945 – 02/9/2015))

Quảng Nam, tháng 8 năm 2015

Page 2: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

LỜI GIỚI THIỆU

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám - 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã để lại một

ý nghĩa lịch sử to lớn, đã đập tan ách thống trị gần một thế kỷ của chủ nghĩa thực

dân, phát-xít tàn bạo; chấm dứt sự tồn tại của chế độ phong kiến lỗi thời; thiết lập

nền dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc

lập tự do, nhân dân lao động làm chủ đất nước. Cách mạng tháng Tám và sự ra đời

của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn là ngọn cờ cổ vũ mạnh mẽ phong

trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân

đế quốc, dấu mốc quan trọng đánh dấu sự tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa

thực dân cũ trên toàn thế giới.

Nhìn lại những thành tựu vẻ vang của Cách mạng Việt Nam 70 năm qua,

chúng ta vô cùng tự hào về dân tộc ta - một Dân tộc anh hùng, thông minh, nhân

ái, đoàn kết một lòng; tự hào về Đảng ta - đội tiên phong của giai cấp công nhân,

đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả

dân tộc Việt Nam - luôn vững tay chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi

thác ghềnh đến bến bờ vinh quang; tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ

thiên tài của dân tộc, tư tưởng và cuộc đời vẹn toàn của Người mãi mãi là ngọn

đuốc soi đường, là kho tàng vô giá của dân tộc ta cho hôm nay và cho cả mai sau.

Sự cộng hưởng vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng

sản Việt Nam, truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân

dân Việt Nam chính là những nhân tố cơ bản, cốt lõi làm nên sức mạnh vô địch

của nhân dân Việt Nam trong thời đại mới.

Kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2015) và Quốc

khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2015),Thư

viện tỉnh Quảng Nam trân trọng giới thiệu đến Quý độc giả tập thư mục: “Đất

nước - 70 năm độc lập”. Thư mục đươ c tập hợp, chọn lọc một số bài viết trên các

báo, tạp chí về sự kiện lịch sử trọng đại này.

THƯ VIỆN TỈNH QUẢNG NAM

Page 3: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

CUỘC CÁCH MẠNG VĨ ĐẠI

Bảy mươi năm đã qua kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công

và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập năm 1945.

Thời gian ấy có là bao so với mấy nghìn năm lịch sử của dân tộc. Nhưng đó

lại là thời gian hội tụ và phát tiết những tinh hoa. Để nhân dân ta làm nên những

thắng lợi lịch sử.

Nhìn lại 70 năm, không ai có thể phủ nhận một sự thật hiển nhiên: Cách

mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng vĩ đại. Thắng lợi của Cách mạng Tháng

Tám và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã mở ra một bước

ngoặt lịch sử, làm thay đổi căn bản vận mệnh của đất nước và dân tộc ta. Nước ta

từ nửa thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập tự do. Nhân dân ta

từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của

mình. Một kỷ nguyên mới đã mở ra: Kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

hội.

Có thể khẳng định: Không có thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám thì không

có sự ra đời của Nhà nước Việt Nam độc lập. Không có Nhà nước Việt Nam độc lập

thì không có thắng lợi của hai cuộc kháng chiến cứu nước. Và không có thắng lợi

của hai cuộc kháng chiến cứu nước thì cũng sẽ không có sự nghiệp đổi mới, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Nói thắng lợi nối tiếp thắng lợi không có nghĩa là cách mạng không trải qua

những bước quanh co, chỉ có tiến mà không có lùi, dù đó là những bước lùi tạm

thời.

Cách mạng Tháng Tám oai hùng là thế nhưng trong buổi trứng nước của chế độ

dân chủ cộng hòa, vẫn lơ lửng trên đầu tình thế “nghìn cân treo sợi tóc”.

Cuộc kháng chiến thứ nhất oai hùng là thế, nhưng để đi tới một “Điện Biên

chấn động địa cầu”, ta đã từng phải rời bỏ thủ đô và các thành thị lớn, rút về nông

thôn và rừng núi để xúc tích lực lượng, chiến đấu lâu dài.

Cuộc kháng chiến thứ hai lẫy lừng là vậy, nhưng để có được một Đại thắng

mùa Xuân lịch sử năm 1975, suốt 20 năm liền, nhân dân ta ở cả hai miền đã gánh

chịu biết bao hy sinh xương máu, tổn thất nặng nề, có lúc kẻ thù còn muốn đưa

miền bắc nước ta trở lại thời kỳ đồ đá!

Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay có ý nghĩa như

một cuộc cách mạng mới, vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Ba mươi năm qua, như Đảng ta nhận định, đổi mới đã giành được những thành

tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Bộ mặt của đất nước có sự thay đổi căn bản và toàn

diện. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên nhiều. Tiếng nói và vị thế của nước

ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao.

Nhưng để có được những thành tựu ấy, đất nước đã trải qua biết bao thăng

trầm. Cơ hội và thách thức đan xen nhau, có khi thách thức nổi trội hơn cơ

hội. Mặc dù đã giành được những thành tựu to lớn, nước ta đã ra khỏi khủng

hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, nhưng nay vẫn còn phải đối

Page 4: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

mặt với kinh tế phát triển không bền vững, tăng trưởng chậm lại, và nhất là nguy

cơ sa vào cái bẫy thu nhập trung bình.

Cuộc chiến để bứt phá lên, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước

công nghiệp theo hướng hiện đại đang diễn ra rất quyết liệt. Càng quyết liệt hơn

nữa là cuộc chiến đấu để xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng

lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về

tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống; củng cố lòng tin trong Đảng và nhân dân.

Tiến tới Đại hội XII của Đảng, Dự thảo Báo cáo chính trị của Trung ương đã

phác họa một bức tranh tổng thể khách quan, trung thực về đổi mới. Qua đó,

chúng ta có thể tìm thấy không chỉ thành tựu mà cả yếu kém, khuyết điểm, không

chỉ phương hướng, nhiệm vụ mà cả những giải pháp để tạo nên đột phá mới. Tiến

lên là quy luật của phát triển. Nếu không thì nhận định đổi mới đã giành được

những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử có thể sẽ thay đổi theo chiều ngược lại.

Đó là điều không ai mong muốn.

Về thành tựu của hội nhập quốc tế, tôi muốn nêu lên đôi điều. Không phải

chuyện nước ta đã có quan hệ rộng rãi với hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên

thế giới. Cũng không phải chuyện đáp lại chính sách đối ngoại của ta, hầu hết các

nước trong cộng đồng quốc tế muốn có quan hệ bạn bè và đối tác với ta. Trong đó,

các nước lớn đều lần lượt nâng quan hệ lên tầm đối tác toàn diện hay đối tác

chiến lược.

Điều tôi muốn nói ở đây là chuyện thời sự nóng hổi về Tổng Bí thư Đảng

Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Đoàn cấp cao Việt Nam chính thức thăm

Hoa Kỳ theo lời mời của chính quyền Tổng thống Ô-ba-ma. Tổng thống Hoa Kỳ đã

có cuộc hội đàm đặc biệt, chưa có tiền lệ với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại

Phòng Bầu dục của Nhà Trắng. Ông khẳng định: “Hoa Kỳ nhận thức được rằng Việt

Nam có hệ thống chính trị riêng biệt”, “thừa nhận quyền của người Việt Nam

quyết định cách thức tổ chức xã hội của mình và đây không phải là việc của các

thế lực bên ngoài đến để xác định hộ”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong hội

đàm cũng như trong các cuộc tiếp xúc khác, đã có dịp bày tỏ thiện chí và sự chân

tình. Tổng Bí thư dẫn câu nói đầu tiên trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam

được trích từ chính Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi

người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có

thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và

quyền mưu cầu hạnh phúc”. “Đối với nhân dân Việt Nam, đó là cuộc kháng chiến

để giành độc lập, tự do cho dân tộc mình, giải phóng, thống nhất đất nước mình;

không phải là cuộc chiến tranh nhằm chống lại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, càng

không phải để chống nhân dân Hoa Kỳ”. Giới thiệu bài học kinh nghiệm và những

thành tựu đạt được qua 20 năm quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, Tổng Bí thư nhắc lại

câu nói của Tổng thống Thê-ô-đô Ru-dơ-ven: “Khi tin là có thể, thì bạn đã đạt

được một nửa thành công”.

Còn về phía Mỹ, Phó Tổng thống G.Bai-đơn kết thúc bài phát biểu tại buổi

chiêu đãi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đã trích dẫn hai câu Kiều của đại thi hào

Page 5: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Nguyễn Du, bày tỏ hy vọng vào tương lai tươi sáng của quan hệ hai bên sau một

thời gian khó khăn: “Trời còn để có hôm nay/Tan sương đầu ngõ vén mây giữa

trời”.

Câu chuyện diễn ra ở Oa-sinh-tơn tưởng như chẳng dính dáng gì đến lịch

sử cách mạng Việt Nam, hóa ra tư tưởng độc lập, tự do của Cách mạng Tháng Tám,

của Tuyên ngôn Độc lập lại được những đại biểu Việt Nam truyền đạt một cách rất

tự nhiên đến các nhà lãnh đạo và chính giới Mỹ, khiến phía Mỹ cũng bày tỏ sự tán

thưởng để rồi hai bên thỏa thuận rằng quan hệ Việt- Mỹ phải được xây dựng và

phát triển trên cơ sở “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng,

hướng tới tương lai”.

Phải chăng đây cũng là một trong những điều mà ngay từ đầu, đổi mới chưa

nghĩ tới là có thể?

HÀ ĐĂNG (THÁNG 8-2015)

Hà Đăng. Cuộc Cách mạng vĩ đại// Nhân dân.- 2015.- Ngày 18 tháng 8.- Tr.3.

Page 6: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

70 NĂM XÂY DỰNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

Kỳ 1: Bối cảnh lịch sử và diễn biến Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối.

Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu,

giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin.

Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu

Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật.

Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, Chiến tranh thế giới lần thứ

hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu

hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật.

Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị

thống trị của mình; đế quốc Mỹ đúng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp

vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai

Nhật đang âm mưu thay đổi chủ, chống lại cách mạng.

Bức tranh tái hiện Đại hội Quốc dân tại Đình Tân Trào ngày 16-8-1945

để chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Ảnh: Tư liệu

Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách

mạng dâng cao. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp.

Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định

phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các

hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3-

1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng

ta”. Tháng 4-1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ,

quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt

Nam giải phóng quân. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các

Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân

tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.

Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật, cứu nước diễn ra mạnh mẽ,

phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về

Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị

Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt

Page 7: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước.

Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên

Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát

động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước

khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi

nghĩa thắng lợi, đó là: Tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy

ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-

1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt

Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy

ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí

Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng

khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn

quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước

đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến

ngày 18-8, cuộc tổng khời nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng

bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc

Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19-8, khởi nghĩa giành

chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc

Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc

Liêu... Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng,

Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù

Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính

quyền.

Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành

thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịch sử, trước cuộc mít

tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm

thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới:

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.

DŨNG HÀ THẮNG (tổng hợp)

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/70-nam-cach-mang-thang-tam-va-

quoc-khanh-2-9/ky-1-boi-canh-lich-su-va-dien-bien-cach-mang-thang-tam-nam-

1945/372373.html

Page 8: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

70 NĂM XÂY DỰNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC (tt)

Kỳ 2: Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử Cách mạng Tháng Tám năm

1945

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ do nhiều nguyên

nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo

đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa

Mác- Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ

và sáng tạo. Đảng có phương pháp, chiến lược, sách lược cách mạng phù hợp, linh

hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ,

tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Xe loa phát lệnh Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tại Hà Nội.

Ảnh:Tư liệu

Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí

quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của

người dân mất nước; một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc

tổng diễn tập, đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua 15 năm đấu

tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao đồng

bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập

dân tộc.

Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những

thuận lợi nhất định. Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào

đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên

thế giới phát triển mạnh.

Ý nghĩa lịch sử

- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của

nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc

Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời -

Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong

kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân,

phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước

Page 9: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa

phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt

Nam trở thành một đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con

người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với

chủ nghĩa xã hội.

- Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng

tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ

Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã

hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu

tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình

phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao

của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa

quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì

hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân

tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định

rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng

của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản

kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành

công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi

lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.

DŨNG HÀ THẮNG (tổng hợp)

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/70-nam-cach-mang-thang-tam-va-

quoc-khanh-2-9/ky-2-nguyen-nhan-thang-loi-va-y-nghia-lich-su-cach-mang-

thang-tam-nam-1945/372376.html

Page 10: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

70 NĂM XÂY DỰNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC (tt)

Kỳ 3: Một số bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của

nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc

Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học quý báu, nổi bật

là:

Ngày 19-8-1945, hơn 10 vạn quần chúng Thủ đô Hà Nội

đã tham gia biểu tình giành chính quyền. Ảnh tư liệu

Bài học thứ nhất là có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu

chủ nghĩa Mác - Lê-nin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn

cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có

phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực

lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức

mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.

Bài học thứ hai là vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm

lo xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút

được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta

và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ

vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức

Page 11: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng

ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích

hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của nhân dân, do

nhân dân và vì nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập

khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Ảnh tư liệu

Lễ Tuyên ngôn Độc Lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 2-9-1945. Ảnh tư liệu

Page 12: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Lễ Tuyên ngôn Độc Lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 2-9-1945. Ảnh tư liệu

Bài học thứ ba là vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết

định chính xác và kịp thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ

Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc

thể hiện cụ thể trong, chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945

“Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh sổ 1 của Ủy

ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13-8-1945. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà

sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã

tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.

DŨNG HÀ THẮNG (tổng hợp)

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/70-nam-cach-mang-thang-tam-va-

quoc-khanh-2-9/ky-3-mot-so-bai-hoc-kinh-nghiem-cua-cach-mang-thang-

tam/372955.html

Page 13: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

70 NĂM XÂY DỰNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC (tt)

Kỳ 4: Giành chiến thắng trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,

thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc

Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa

mới ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn. Trước tình thế “ngàn cân

treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã phát huy cao độ sáng tạo, khéo

léo, vững tay chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh, đi đến

bến bờ vinh quang; lãnh đạo nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp xâm lược lần thứ hai với phương châm vừa kiến quốc vừa kháng chiến toàn

dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh.

Năm 1945-1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân chống

thù trong, giặc ngoài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc: Xây dựng và củng cố vững

chắc chính quyền nhân dân; lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày 6-1-

1946, xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (năm 1946); chăm lo xây dựng chế độ

mới, đời sống mới của nhân dân; chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức

kháng chiến chống thực dân Pháp; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng,

bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám; thực hành sách lược

khôn khéo, lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để đánh thực dân Pháp xâm lược, lúc

thì hoà với Pháp để đuổi Tưởng, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc để triệt để

lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa cách mạng vượt qua những thử

thách hiểm nghèo. Tháng 12-1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa

của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng

chiến với quyết tâm: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất

nước, không chịu làm nô lệ. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện,

trường kỳ kháng chiến; vừa kiến quốc vừa kháng chiến dựa vào sức mình là chính,

đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo

nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp mà

đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa

cầu.

Chiến thắng Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu

Page 14: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi và việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ năm

1954 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, mở đầu sự sụp đổ

của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền

Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải

phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được giải phóng

nhưng đế quốc Mỹ thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài nước ta, biến nước ta thành

thuộc địa kiểu mới. Toàn thể nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch

Hồ Chí Minh thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ cách mạng: Cách mạng xã hội chủ

nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa của cách mạng cả nước;

cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị

của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và

dân chủ trong cả nước.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã trải qua nhiều giai đoạn, nhân dân

ta phải lần lượt đối phó với các chiến lược chiến tranh tàn bạo, xảo quyệt của kẻ

thù. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng, qua 21 năm chiến đấu

anh dũng (1954-1975), chúng ta đã giành thắng lợi vẻ vang. Đối với cách mạng ở

miền Bắc, Đảng ta lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc khôi phục kinh tế, cải

tạo xã hội chủ nghĩa (1954-1960); đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội (1961-

1965); chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, tiếp tục xây dựng chủ

nghĩa xã hội, làm nghĩa vụ hậu phương (1965-1968); khôi phục và phát triển kinh

tế, không ngừng chi viện cho chiến trường miền Nam, chiến đấu chống chiến

tranh phá hoại lần thứ hai (1969-1973); khắc phục hậu quả chiến tranh, phát

triển kinh tế, ra sức chi viện cho miền Nam (1973-1975). Đối với cách mạng ở

miền Nam, Đảng ta lãnh đạo đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc

Mỹ, nhất là “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), “Chiến tranh cục bộ” (1965-

1968), “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969-1973) và “đánh cho ngụy nhào” (1973-

1975). Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã

kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam,

thống nhất đất nước; đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả

nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những

trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế, có tính

thời đại sâu sắc.

Page 15: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Ảnh tư liệu

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã đưa đất nước ta bước vào thời kỳ cả

nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân

ta tập trung trí lực, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống

mới, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm đầu sau khi đất nước thống nhất, chúng ta gặp nhiều khó

khăn lớn. Một mặt, chúng ta phải giải quyết hậu quả 30 năm chiến tranh; mặt

khác, phải tiến hành các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tổ quốc, làm nghĩa vụ

quốc tế; lại bị bao vây, cấm vận. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân tộc

quyết tâm đồng lòng vượt qua khó khăn, nhanh chóng khôi phục sản xuất, xây

dựng, củng cố chính quyền trên phạm vi cả nước, ban hành Hiến pháp mới của

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, việc duy trì quá lâu cơ chế

tập trung, bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm.

Trong hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có

nơi đã mắc sai lầm, khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó là một trong những

nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm

đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Mười năm cả nước tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội (1975-1985) là

mười năm Đảng ta tìm tòi con đường đổi mới. Đây cũng là thời kỳ tư duy mới

được hình thành từng bước bắt nguồn từ thực tiễn sinh động của cách mạng Việt

Nam. Những thành tựu và khuyết điểm trong mười năm ấy đã để lại những bài

học quý giá cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những năm

tiếp theo.

DŨNG HÀ THẮNG (tổng hợp)

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/70-nam-cach-mang-thang-tam-va-

quoc-khanh-2-9/ky-4-gianh-chien-thang-trong-cac-cuoc-dau-tranh-giai-phong-

dan-toc-thong-nhat-dat-nuoc-bao-ve-to-quoc/375031.html

Page 16: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

MẶT TRẬN ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Nhờ chính sự chỉ đạo sát sao của Đảng mà Mặt trận Việt Minh đã giải

quyết đúng đắn bài toán dân tộc và giai cấp để đứng lên tập hợp quần chúng

nhân dân trong Cách mạng tháng Tám 1945.

Cuộc mít tinh trọng thể tại Nhà hát lớn Hà Nội

để ra mắt Ủy ban Quân sự cách mạng.

Những ngày mùa Thu tháng Tám lại về trên Tổ quốc yêu dấu của chúng ta.

Năm nào cũng thế, tháng Tám-mùa Thu luôn đem lại cho mỗi người dân đất Việt

một xúc cảm lạ kỳ về một mùa Thu của cách mạng, của thành công; nhất là mùa

Thu ấy lại gắn với tiến trình lịch sử của Việt Nam trong công cuộc giành lại độc

lập, tự do, giành cơm no áo ấm cho đồng bào. Mùa Thu ấy của 70 năm về trước sẽ

mãi ghi dấu trong tâm trí người Việt và nhiều bạn bè trên khắp thế giới.

Đã có rất nhiều bài báo, nhiều công trình nghiên cứu nói về ngày lịch sử ấy

của 70 năm về trước, ngày 19/8/1945, ngày mang tính chất bước ngoặt góp phần

đưa Việt Nam trở thành một nước độc lập, tự do; và những năm sau này, người ta

chắc vẫn sẽ nói về cuộc Cách mạng tháng Tám ấy cũng như vai trò của Mặt trận

Việt Minh trong thời khắc quan trọng này. Và, trên hết đó là vai trò của Đảng, của

Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào cách mạng Việt Nam nói chung hoạt động

của Mặt trận Việt Minh nói riêng.

Kể từ một chủ trương đúng đắn được Hồ Chí Minh khởi xướng tại Hội nghị

Trung ương lần thứ Tám của Đảng ở Pắc Bó vào một ngày tháng 5 năm 1941,

ngày mà về sau, ông Hoàng Quốc Việt- người từng giữ các chức vụ Bí thư Tổng bộ

Việt Minh và Chủ tịch Ủy ban TW MTTQ Việt Nam - nhớ lại trong cuốn hồi ký

“Nhân dân ta rất anh hùng” đã viết: “Chỗ họp của chúng tôi cũng ở xóm Pắc Bó, Hà

Quảng nhưng khác chỗ Bác ở tức là hang Pắc Bó mà sách báo ta thường tả”.

Từ những ngày tháng 5 lịch sử ấy, theo như đánh giá của GS.TS Phạm Hồng

Tung thì “Với sự ra đời của Việt Minh, tư duy về vấn đề Mặt trận dân tộc thống

nhất của Đảng đạt tới một đỉnh cao mới, mở đường dẫn tới thắng lợi của Cách

mạng tháng Tám”.

Page 17: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Mặt trận chính là nơi đoàn kết rộng rãi tất cả

các lực lượng yêu nước, chống đế quốc trên cơ sở khối liên minh công nông. Tư

tưởng đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt Cương lĩnh, đường lối của Đảng trong quá trình

lãnh đạo Cách mạng Việt Nam. Cũng chính ngọn cờ dân tộc và dân chủ, chính

những chính sách đúng đắn với giai cấp tư sản dân tộc mà Việt Minh giương cao

đã giúp lôi kéo trí thức, tư sản dân tộc và học sinh, làm cho tầng lớp này phân hóa,

một bộ phận yêu nước thì ngả theo Việt Minh, số thân Pháp, số thân Nhật ngày

càng ít đi.

Một nhân chứng lịch sử của ngày ấy - ông Vũ Oanh nguyên Ủy viên Bộ

Chính trị và cũng là người từng giữ chức Chủ nhiệm Việt Minh thành Hoàng Diệu

khi ấy - nhớ lại một quyết định quan trọng vào ngày 19/8/1945: Ủy ban Quân sự

cách mạng đứng ra tổ chức cuộc mít tinh trọng thể tại Nhà hát Lớn Hà Nội để ra

mắt Ủy ban Quân sự cách mạng tuyên bố lật đổ chính quyền bù nhìn Trần Trọng

Kim vào sáng ngày 19/8. Sau đó, lực lượng quân sự cùng đông đảo quần chúng

cách mạng lần lượt chiếm các cơ quan trọng yếu như: Phủ Khâm sai, Tòa Thị

chính, Bảo an binh, Ty Liêm Phóng, Bưu điện.

Đúng 8h sáng 19/8/1945, khi có hiệu triệu của Ủy ban Quân sự cách mạng,

hàng chục vạn người từ nội, ngoại thành Hà Nội tưng bừng xuống đường tham gia

cuộc khởi nghĩa long trời lở đất. Không những thế, từ Hà Nội, Sơn La, Bắc Giang,

Nam Định, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Kon Tum, Long Xuyên,

Sa Đéc, Hà Tiên… các cơ sở của Mặt trận Việt Minh đã thu hút không ít các tầng

lớp khác nhau trong xã hội; thậm chí có cả những nhân vật trong bộ máy chính

quyền địch ủng hộ phong trào cứu quốc, ủng hộ cách mạng và đã “biến đội bảo an

của địch thành đội tự vệ của ta”.

Sau này, khi nhìn lại cuộc cách mạng ấy, Chủ tịch QH, Chủ tịch Ủy ban TW

MTTQ Việt Nam Lê Quang Đạo khi đương nhiệm đã đánh giá: “Thắng lợi oanh liệt

này là biểu tượng của sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, của mọi tầng lớp nhân

dân Việt Nam. Toàn dân nổi dậy, cả nước đồng lòng đứng lên. Từ chiến khu về

đồng bằng, từ nông thôn đến thành thị, rồi cả thành thị cùng nông thôn nhất tề nổi

dậy như thác đổ, sóng dâng, đè bẹp mọi sự phản kháng của quân thù”.

Đánh giá ấy là hoàn toàn đúng vì vào thời điểm tháng 8 năm 1945, khi

chúng ta làm Cách mạng, Đảng mới 15 tuổi và mới chỉ có 5.000 đảng viên. Ở nhiều

nơi trên khắp đất nước, lực lượng vũ trang của ta còn mỏng, đơn cử như ở Hà Nội

chỉ 700 tự vệ chiến đấu với 80 súng các loại. Ở các địa phương khác cũng vậy, số

lượng tự vệ cũng chỉ khoảng một hoặc vài trăm nhưng lực lượng quần chúng thì ở

đâu cũng lên tới vài chục ngàn người từ lực lượng ở ngoài đường phố cho đến các

công tư sở; thậm chí là lực lượng lính bảo an ngả theo cách mạng như ở Quảng

Bình, Quảng Nam, Bạc Liêu... Và vì thế, vào thời điểm ấy, nhờ có chính sách mềm

dẻo, hình thức tổ chức thích hợp, đa dạng của Mặt trận Việt Minh, cộng với sức

mạnh của quần chúng khởi nghĩa mới giúp cho Cách mạng thành công mau lẹ đến

như thế trên khắp các mặt trận vào tháng Tám năm 1945.

Page 18: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Mặt trận Việt Minh ra đời, phát triển và đảm đương được sứ mệnh lịch sử

của mình trong giai đoạn lịch sử mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có tính chất

bước ngoặt quyết định của lịch sử dân tộc từ 1941 đến 1945 “là nhờ được đặt

dưới sự lãnh đạo trực tiếp và chặt chẽ của Đảng Cộng sản Đông Dương” - nhà

nghiên cứu Phạm Hồng Tung nhấn mạnh và đưa thêm các cứ liệu minh chứng cho

lập luận này khi nhận định: “Chính BCH Trung ương Đảng đã đóng vai trò là cơ

quan lãnh đạo tối cao của Việt Minh”.

Chính Trung ương Đảng, dưới danh nghĩa Tổng bộ Việt Minh đã ra các “Chỉ

thị về sửa soạn khởi nghĩa “ ngày 7/5/1944, “Lời hiệu triệu của Việt Nam độc lập

đồng minh” ngày 8/6/1944 và “Lời kêu gọi của Việt Nam độc lập đồng minh: Sắm

sửa vũ khí! Đuổi thù chung!”…

Nói như thế để thấy, trong mỗi bước phát triển của Mặt trận Việt Minh tiền

thân của tổ chức MTTQ Việt Nam hôm nay đều có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của

Đảng. Nhờ chính sự chỉ đạo sát sao ấy mà Mặt trận Việt Minh đã giải quyết đúng

đắn bài toán dân tộc và giai cấp để đứng lên tập hợp quần chúng nhân dân trong

Cách mạng tháng Tám 1945. Không còn nghi ngờ gì, Mặt trận Việt Minh là nhân tố

có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi của cuộc Cách mạng có tầm ảnh hưởng lớn

trên thế giới.

Hoàng Mai

Hoàng Mai. Mặt trận đoàn kết dân tộc// Đại đoàn kết.- 2015.- Ngày 19 tháng

8.- Tr.1,12.

Page 19: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

SÁNG TẠO GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC

VÀ PHƯƠNG PHÁP CÁCH MẠNG

Ngày 19-8-1945, nhân dân giành chính quyền tại Bắc Bộ phủ (Hà Nội). (Ảnh tư liệu)

70 năm trước đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương

nay là Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta từ Bắc đến Nam đã đứng lên

tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám lịch sử, lật nhào chế độ thực dân,

phong kiến lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa- nhà nước dân chủ

nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là lần đầu tiên một dân tộc thuộc địa

dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản giành được độc lập, tự do, vì vậy, sức hấp dẫn

của nó được nhiều nhà chính trị và khoa học trong nước và nước ngoài quan tâm

nghiên cứu làm sáng tỏ quá trình chuẩn bị, diễn biến, kết quả cũng như lý giải

nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa, bài học lịch sử và tầm ảnh hưởng của sự kiện lịch

sử trọng đại này qua nhiều công trình chuyên khảo quy mô được xuất bản; hàng

trăm luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ được bảo vệ; hàng nghìn bài viết được được

công bố trong các kỷ yếu, tạp chí khoa học.

Tuy nhiên, thời gian gần đây, trong bối cảnh đổi mới và dân chủ, trên một

số diễn đàn các hội thảo, báo mạng, v.v., một số người nhân danh “nghiên cứu

khoa học, bàn lại lịch sử, tìm góc nhìn mới”, lớn tiếng khẳng định: Cách mạng

Tháng Tám không là một cuộc cách mạng xã hội!?; một số tác giả khác lại “đề xuất

và quảng bá ý kiến đề cao tư tưởng cải cách của Phan Châu Trinh. Họ cho rằng

phương pháp “cách mạng bất bạo động” của ông có thể là duy nhất phù hợp với

tình hình Việt Nam và có thể tránh cho dân tộc một cuộc chiến tranh bằng những

cuộc cải cách và “đấu tranh hòa bình” với Pháp là có thể “giành độc lập mà không

đổ máu.” (1)

Bài viết này làm rõ sự sáng tạo của Đảng và nhân dân ta từ nhận thức lý

luận đến chỉ đạo trong thực tiễn giải quyết vấn đề dân tộc và phương pháp cách

Page 20: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

mạng trong Cách mạng Tháng Tám; từ đó phản bác những quan điểm nhận thức

sai trái về tầm vóc và ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám.

1. Sáng tạo trong giải quyết vấn đề dân tộc

Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cách mạng xã hội là sự

biến đổi, có tính bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ các đời sống xã hội,

là phương thức chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái

kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Nguồn gốc sâu xa của các cuộc cách mạng xã

hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, trở

thành một trở lực đối với sự phát triển của xã hội. Giải quyết mâu thuẫn đó, phải

có sự thay đổi kiến trúc thượng tầng nhà nước, chuyển quyền lực nhà nước từ tay

giai cấp thống trị cố tìm cách duy trì chế độ xã hội cũ, lỗi thời sang tay giai cấp

cách mạng. Trong khi đề cập đến tính chất phổ quát chung của cách mạng xã hội,

xác định nguyên nhân, nội dung, lực lượng và phương thức tiến hành của cuộc

cách mạng đó, Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” Mác và Ăng-ghen cũng nêu

cái đặc thù của cách mạng xã hội ở các nước Đức, Nga và Ba Lan. Với việc nghiên

cứu ba trường hợp đặc thù ở nhưng cấp độ phát triển khác nhau, Mác, Ăng-ghen

đã bổ sung thêm cho học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của mình và bước đầu

đưa ra lý luận về cách mạng không ngừng, lý luận về sự quá độ lên chủ nghĩa xã

hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản ở những nước lạc hậu kinh

tế kém phát triển.

Đầu thế kỷ XX, nước Nga nơi tập trung những mâu thuẫn của thời đại đang

đứng trước ngưỡng cửa một cuộc cách mạng tư sản. Lê-nin đã phát triển những

tư tưởng của Mác và Ăng-ghen về cách mạng không ngừng thành học thuyết về

cách mạng không ngừng và cách mạng có giai đoạn, chuyển cách mạng tư sản

sang cách mạng XHCN dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mà đứng đầu là đội

tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Học thuyết về cách mạng không ngừng của

Lê-nin đã trở thành kim chỉ nam cho những người cộng sản ở các nước thuộc địa,

phụ thuộc, chậm phát triển về kinh tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực

dân, phong kiến bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để hướng tới chủ

nghĩa cộng sản.

Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nghiên

cứu có tính chất phê phán quan điểm cứu nước của các bậc cách mạng tiền bối

trong nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám: “Cụ Phan

Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương,... điều đó là sai lầm, chẳng

khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.

Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy

hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.

Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp.

Nhưng theo lời người ta kể thì Cụ còn nặng cốt cách phong kiến.” (2)

Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Người tiến hành phân tích những

hạn chế, thiếu triệt để của các cuộc cách mạng tư sản nổi tiếng như cách mạng Mỹ

(1776), cách mạng Pháp (1789) trong việc giải quyết vấn đề dân tộc.

Page 21: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Nguyễn Ái Quốc tiếp thu có chọn lọc những

luận điểm phù hợp và đòi hỏi bổ sung lý luận của chủ nghĩa Mác cho phù hợp với

thực tiễn. Người cho rằng:“Mác xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý

nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó

chưa phải là toàn thể nhân loại” (3).

Chính vì vậy, Người đề nghị: Thứ nhất, “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ

sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu

mà Mác ở thời mình không thể có được.”

Thứ hai, “Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng

dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các xô viết đảm nhiệm.” (4)

Đó là cơ sở lý luận và phương pháp luận để Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo

những quan điểm của chủ nghĩa Mác, Ăng-ghen, Lê-nin về cách mạng xã hội vào

hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam.

Từ việc đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn lịch sử của xã hội loài

người về việc giải quyết vấn đề dân tộc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, những nhà sáng

lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong khi đề cập quy luật chung cũng thừa nhận tính

đặc thù. Căn cứ vào lý luận đó, có thể thấy những biểu hiện của cách mạng xã hội

như sau:

- Các cuộc cách mạng thay đổi hình thái kinh tế - xã hội này bằng xã hội

khác, như Cách mạng tư sản Anh, Cách mạng tư sản Pháp,v.v.

- Các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, do giai cấp tiên tiến đương thời,

đại diện cho sư phát triển tiến bộ của giai đoạn lịch lịch sử đó, như Cách mạng giải

phóng dân tộc ở Mỹ thế kỷ 18, phong trào giải phóng dân tộc Ba Lan, v.v.

(Còn nữa)

PGS, TS. Trương Minh Dục

Học viện Chính trị khu vực III

1 Thiên Phương: “Họ tảng lờ sự thật, hay cố tình xuyên tạc sự thật?”, Báo Nhân dân,

số 21809, thứ Sáu, 12 tháng 6-2015. 2 Trần Dân Tiên: Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn

học, Hà Nội, 1970. 3 Hồ Chí Minh toàn tập, t 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 509. 4 Hồ Chí Minh: Sđd, t.1, tr. 509, 510.

Trương Minh Dục. Sáng tạo giải quyết vấn đề dân tộc và phương pháp cách

mạng// Đà Nẵng.- 2015.- Ngày 17 tháng 8.- Tr.3.

Page 22: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

SÁNG TẠO GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC

VÀ PHƯƠNG PHÁP CÁCH MẠNG

(Tiếp theo)

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, các cuộc cách

mạng giải phóng dân tộc do giai cấp công nhân lãnh đạo, cũng thuộc phạm

trù cách mạng vô sản. Đó cũng là một cuộc cách mạng xã hội.

Ở Việt Nam, từ khi thực dân Pháp tấn công xâm lược và thiết lập ách thống

trị trên đất nước ta, xã hội Việt Nam có sự chuyển biến mới, từ xã hội phong kiến

sang xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Ngay từ đầu, mâu thuẫn giữa chế độ thực

dân, nửa phong kiến với yêu cầu phát triển của dân tộc trở nên gay gắt. Mâu thuẫn

đó biểu hiện thành hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội là mâu thuẫn giữa dân tộc

Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược, mâu thuẫn giữa nhân dân lao động, chủ

yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Giải quyết hai mâu thuẫn này mới

tạo điều kiện thuận lợi cho xã hội Việt Nam phát triển.

Để giải phóng dân tộc, đưa đất nước phát triển, từ cuối thế kỷ XIX đến đầu

thế kỷ XX, nhiều cương lĩnh của các lực lượng yêu nước, các đảng phái ở Việt Nam

được đưa ra, nhưng “các phong trào cứu nước, từ lập trường Cần Vương đến lập

trường tư sản, tiểu tư sản qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại” (1).

Nguyên nhân chủ yếu là do chưa có một giai cấp tiền phong lãnh đạo, chưa có lý

luận cách mạng soi đường, cũng như chưa có đường lối chiến lược, sách lược

đúng đắn, đủ sức giành thắng lợi trước kẻ thù là chủ nghĩa thực dân, đế quốc.

Chỉ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc và những

người cộng sản Việt Nam xác định được tính chất xã hội Việt Nam, đề ra chiến

lược giải phóng dân tộc đúng đắn và lực lượng để thực hiện nhiệm vụ cách mạng,

đưa sự nghiệp cứu nước đến thành công.

Tuy nhiên, nhận thức đúng đắn tính chất của cách mạng Việt Nam của

những người cộng sản Việt Nam cũng phải trải qua một quá trình đấu tranh tư

tưởng đầy phức tạp. Bởi lẽ, sáng tạo, đổi mới thường phải vượt qua những khuôn

mẫu giáo điều, đòi hỏi sự dũng cảm và quyết tâm vượt lên, thậm chí trải qua cuộc

đấu tranh nội bộ về quan điểm vận dụng lý luận và nhận thức thực tiễn có lúc gay

gắt. Điều đó thể hiện tính chất và bản lĩnh chính trị của một chính đảng tiền

phong.

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại hội nghị thành lập

Đảng, đường lối cách mạng nước ta được xác định trước hết làm tư sản dân quyền

cách mạng và thổ địa cách mạng để đi đến xã hội cộng sản. Điều đó toát lên tư

tưởng lớn là cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu phải đi tới cách mạng xã

hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là mục đích lâu dài,

cuối cùng của Đảng và cách mạng Việt Nam.

Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 là Cương lĩnh chính trị thứ 2 của

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tính chất của cách mạng Đông Dương là cách

mạng tư sản dân quyền, tiến lên cách mạng chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn

Page 23: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

phát triển tư bản chủ nghĩa, là độc lập hoàn toàn cho các dân tộc, tự do dân chủ

cho nhân dân Đông Dương, lập chính phủ, quân đội nhân dân, đoàn kết với giai

cấp vô sản quốc tế, các dân tộc bị áp bức trên thế giới và sử dụng phương pháp

bạo lực, cách mạng theo phương thức tổng bãi công, bạo động vũ trang khi có thời

cơ.

Tuy nhiên, Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 quá nhấn mạnh đấu

tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất, khi cho rằng nhiệm vụ cốt yếu của cách

mạng tư sản dân quyền là phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh

đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho

triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc

lập” (2). Vì vậy, Luận cương chưa thấy được đầy đủ thực chất của vấn đề thuộc địa

là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền.

Do ảnh hưởng của quan điểm mang tính giáo điều và máy móc trong đánh

giá quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong các nước thuộc địa nên Luận

cương chính trị chưa nhận thức đúng mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội Việt Nam là

mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và bè lũ tay sai của

chúng nên quá nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp, do đó không

phù hợp với một nước thuộc địa.

Đến Hội nghị tháng 10-1936 trong văn kiện “Chung quanh vấn đề chính

sách mới”, Đảng ta sớm nhận thức các hình thức phổ biến và đặc thù của cách

mạng vô sản. Từ đó Đảng ta cũng phê phán Luận cương chính trị 10-1930 và

khẳng định rằng, “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách

mạng điền địa” (3).

Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phải trải qua ba hội nghị Trung

ương: Hội nghị Trung ương 6 (11-1939), Hội nghị Trung ương 7 (11-1940) và Hội

nghị Trung ương 8 (5-1941), Đảng ta mới hoàn chỉnh nhận thức về vấn đề dân

tộc. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của

bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc.

Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi

được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể dân tộc phải

chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng

không đòi lại được. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn đề dân tộc” (4).

Từ đó Đảng ta xác định tính chất của cách mạng Đông Dương là: “Cuộc cách

mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc

cách mạng giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng

chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”. Vậy thì cuộc cách

mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc giải

phóng” (5).

Nhờ có chủ trương đúng đắn, sáng tạo trong việc giải quyết vấn đề dân tộc,

đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến phải

rải từng bước một để phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Đảng ta đã tập

hợp lực lượng đông đảo của cả dân tộc: công nhân, nông dân, dân nghèo thành thị,

Page 24: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

tiểu tư sản, trí thức, tư sản dân tộc, địa chủ vừa, nhỏ và cả tầng lớp trên trong bộ

máy chính quyền phong kiến, tạo nên sức mạnh vĩ đại. Vì vậy, thắng lợi của Cách

mạng Tháng Tám là kết quả trong cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ của nhân

dân ta do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo vì độc lập dân tộc. Với thắng lợi

của Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước dân chủ nhân dân, một hình thức nhà nước

kiểu mới, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ra đời.

Như vậy, trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam

dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã có sự sáng tạo vĩ đại trong nhận thức

về con đường phát triển của cách mạng trong xu thế mới của thời đại, sáng tạo

trong việc giải quyết những vấn đề thực tiễn mà cách mạng đặt ra cho mỗi thời kỳ.

Cách mạng Tháng Tám, năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,

nhưng do Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo nên nó thuộc phạm trù cách mạng vô

sản. Đó là một cuộc cách mạng xã hội vì nó lật nhào ách đô hộ gần 80 năm của chủ

nghĩa thực dân, lật nhào chế độ phong kiến thống trị 1.000 năm, lập nên chính thể

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam châu Á, mở

đường cho lực lượng sản xuất nói riêng và cả dân tộc Việt Nam phát triển.

(Còn nữa)

PGS, TS. TRƯƠNG MINH DỤC

Học viện Chính trị khu vực III

---------------------------------------------

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb

Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.109.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.2 (1930), Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 94.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.6 (1936-1939), Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.152.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập. t.7 (1939-1945), Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.113.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, t.7 (1939-1945), tr.119.

Trương Minh Dục. Sáng tạo giải quyết vấn đề dân tộc và phương pháp cách

mạng// Đà Nẵng.- 2015.- Ngày 18 tháng 8.- Tr.4.

Page 25: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

SÁNG TẠO GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC

VÀ PHƯƠNG PHÁP CÁCH MẠNG

(Tiếp theo)

2. Sáng tạo trong xác định phương pháp cách mạng

Sau khi đề ra đường lối đúng, việc lựa chọn phương pháp tiến hành cách

mạng có ý nghĩa quyết định thắng lợi của đường lối chính trị. Tuy nhiên việc xác

định phương pháp cách mạng không phải do ý muốn chủ quan của bất cứ cá nhân

hay tổ chức chính trị nào mà do sự quy định của những yếu tố khách quan và chủ

quan.

Vai trò của người lãnh đạo là trên cơ sở nhận thức được quy luật vận động

của lịch sử; đặc điểm cụ thể của từng nước, từng địa phương, từng thời kỳ mà đề

ra phương pháp cách mạng cho thích hợp. Từ kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài

người, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ ra rằng để giành chính quyền từ

tay giai cấp thống trị, quần chúng cách mạng phải sử dụng bạo lực chứ không thể

ảo tưởng chờ giai cấp thống trị trao chính quyền cho nhân dân.

Ở Việt Nam, đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đại diện cho

2 xu hướng bạo động vũ trang và cải lương trong đấu tranh chống thực dân Pháp

và triều đình phong kiến để giải phóng dân tộc và phát triển đất nước. Trong bối

cảnh xã hội nước ta lúc đó, tư tưởng yêu nước của các ông như một luồng gió mới

thổi vào xã hội Việt Nam, vì cả hai xu hướng đều tìm thấy lợi khí mới từ tư tưởng

dân chủ tư sản.

Trong đó, Phan Châu Trinh là người vượt qua những hạn chế kỳ thị đương

thời; trên cơ sở mạch tư tưởng của các nhà cải cách Việt Nam thế kỷ XIX như

Nguyễn Tường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, đã vươn tới tiếp thu tư tưởng tiến bộ của

nhân loại, nhằm mục đích giải phóng dân tộc. Tư tưởng tư sản lúc bấy giờ tuy đã

lỗi thời trước sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin, song đối với Việt

Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến thì nó còn mới mẻ, nên có tác dụng nhất

định.

Tư tưởng cải cách dân chủ theo hướng tư sản khi thâm nhập vào quần

chúng đã tạo nên phong trào Duy Tân, phong trào kháng thuế đầu thế kỷ XX. Tuy

nhiên, khác với tư tưởng cải lương bất bạo động của Găng-đi ở Ấn Độ là tư tưởng

có cội rễ từ chiều sâu lịch sử của Ấn Độ và có cơ sở xã hội là giai cấp tư sản dân tộc

tương đối mạnh, có lực lượng quần chúng rộng lớn trong phong trào dân tộc làm

hậu thuẫn, tư tưởng dân chủ cải lương của Phan Châu Trinh không có cơ sở xã hội

vì tình hình kinh tế Việt Nam lúc đó chưa hình thành giai cấp tư sản dân tộc.

Mặc dầu Phan Châu Trinh lớn tiếng “bất bạo động, bạo động tắc tử, bất

vọng ngoại, vọng ngoại dã ngu”, nhưng tư tưởng dân chủ cải lương của ông cũng

bị thực dân Pháp đàn áp vì ngay tư tưởng này cũng là một hiểm họa đối với chế độ

thuộc địa.

Tinh thần yêu nước và tư tưởng đề cao vai trò của văn hóa dân tộc của

Phan Châu Trinh khi chủ trương: chấn hưng dân khí, nâng cao dân trí, hậu dân

Page 26: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

sinh, cho đến nay các thế hệ hậu sinh rất khâm phục. Nhưng tư tưởng này chỉ dựa

vào người Pháp để thực hiện thì chỉ là ảo tưởng.

Chính Phan Châu Trinh trong thư gửi Nguyễn Ái Quốc ngày 18 tháng 2 năm

1922, cũng chua chát thừa nhận: “Bấy lâu nay, bọn mình bên này có đăng báo

chương, hô hào các hạng người Pháp có lương tâm ngõ hầu giúp người An Nam

đánh đổ cường quyền áp chế, nhưng kết quả chẳng được là bao, cái khát vọng tự

do, bình đẳng, bác ái mà ông Mạnh Đức Tư Cưu, ông Lư Thoa khởi xướng chẳng

nhỏ được một giọt nào trên đất Việt Nam”(1). Thế nhưng một số người cố lờ đi sự

thật lịch sử đó, họ lớn tiếng cho rằng: “bất bạo động” là một hình thức đấu tranh,

nếu để cho tư tưởng cải lương bất bạo động của Phan Châu Trinh tiếp tục phát

triển thì may ra cũng giành được độc lập như Ấn Độ mà không cần đổ máu, đất

nước vẫn phát triển.

Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh

nghiệm lịch sử của dân tộc không chỉ trong việc xác định đường lối phát triển đất

nước mà còn trong xác định phương pháp cách mạng giành chính quyền và giải

quyết đúng đắn phương thức giành chính quyền. Đề ra tư tưởng bạo lực cách

mạng, Đảng ta nhận thức rằng sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc là sự

nghiệp cách mạng của quần chúng, vì vậy phải tổ chức lực lượng quần chúng tiến

hành các hình thức đấu tranh từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp trên tất

cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị.

Là một đất nước ở vị trí phải luôn luôn đương đầu với giặc ngoại xâm,

trước kẻ thù to lớn và hung bạo, để bảo vệ sự sống còn, cha ông ta phải luôn luôn

dùng biện pháp đấu tranh vũ trang. Điều này trở thành một truyền thống của dân

tộc, là phương pháp của một nước nhỏ chống lại những kẻ thù xâm lược hung

bạo. Hơn nữa, xâm lược nước ta, đế quốc Pháp cấu kết với bè lũ phong kiến để

đàn áp, bóc lột nhân dân ta, mọi phản kháng dù nhỏ của nhân dân ta đều bị đàn

áp. Để lật đổ chế độ thực dân phong kiến không thể không dùng sức mạnh của

quần chúng.

Tuy nhiên, những người cộng sản Việt Nam không tuyệt đối hóa bạo lực,

không tuyệt đối hóa đấu tranh vũ trang. Đảng Cộng sản Việt Nam, trong quá trình

lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân ta luôn luôn tỉnh táo để nhận thức đúng sự

phát triển của tình hình trong nước và trên thế giới, để đề ra những mục tiêu

trước mắt, cũng như phương pháp cách mạng phong phú, đa dạng, kể cả đấu

tranh đòi dân sinh, dân chủ.

Những người cộng sản không bao giờ đùa với khởi nghĩa. Việc quần chúng

khởi nghĩa giành chính quyền những năm 1930-1931 ở Nghệ Tĩnh là do sự phát

triển thái quá của phong trào cách mạng dưới sự chỉ đạo của đảng bộ địa phương,

chứ không phải là chủ trương chung của Đảng. Tuy nhiên khi khởi nghĩa đã nổ ra,

Đảng ta có thái độ đúng đắn: đánh giá cao sự ra đời của Xô viết Nghệ Tĩnh, đồng

thời tìm mọi cách để hạn chế sự thiệt hại do sự đàn áp của kẻ thù, củng cố ảnh

hưởng của Xô viết trong quần chúng. Đảng ta đã quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa

Nam Kỳ (1940) khi chưa có thời cơ và hoãn việc phát động chiến tranh du kích ở

Page 27: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Cao-Bắc-Lạng (1944). Bản thân thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám (1945)

không phải là kết quả của đấu tranh vũ trang đơn thuần mà là sự kết hợp đấu

tranh chính trị của quần chúng với sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang.

Quán triệt quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, ngay từ khi

mới ra đời, Đảng ta đa chu đo ng chua n bi lư c lươ ng từ thấp đến cao qua ba cao

trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh, cao trào vận động dân chủ 1936

-1939 và cao trào vận động giải phóng dân tộc 1939-1945. Từ thực tiễn Đảng đã

sáng tạo ra những hình thức đấu tranh mới phong phú, đa dạng để tập hợp lực

lượng quần chúng, nhờ đó khi thời cơ đến, nhanh chóng phát động khởi nghĩa

giành thắng lợi quyết định.

Thành công của Cách mạng Tháng Tám là kết quả trực tiếp của mười lăm

năm đấu tranh anh dũng, kiên cường của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng,

là kết quả của quá trình chuẩn bị lực lượng từ thấp đến cao, là quá trình giành

thắng lợi từng bước tiến lên tổng khởi nghĩa thắng lợi trong cả nước. Đó là thắng

lợi cu a nghe thua t ta o thơ i cơ, chơ p thơ i cơ va kie n quye t ha nh đo ng, chứ kho ng

pha i la gia nh thắng lợi nhờ “khoa ng trống quye n lư c” như quan đie m cu a mo t so

ho c gia nươ c ngoa i(2). Điều đó góp phần làm phong phú thêm quan điểm chủ

nghĩa Mác-Lênin về phương pháp cách mạng giành chính quyền ở một nước thuộc

địa, nửa phong kiến.

Như vậy, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả của quá trình nhận

thức và giải quyết một cách sáng tạo vấn đề dân tộc và phương pháp cách mạng.

(Còn nữa)

PGS, TS. TRƯƠNG MINH DỤC

Học viện Chính trị khu vực III

------------------------------------------

(1) Phan Châu Trinh: Toàn tập, (gồm 3 tập), t.3, Nxb. Đà Nẵng, 2005, tr. 99.

(2) S. Tonnesson: The Vietnamese Revolution of 1945. Roosevelt, Ho Chi Minh

and De Gaulle in a worrld at war (Cách mạng Việt Nam năm 1945- Rudơven, Hồ

Chí Minh và Đờ Gôn trong một thế giới chiến tranh).

Trương Minh Dục. Sáng tạo giải quyết vấn đề dân tộc và phương pháp cách

mạng// Đà Nẵng.- 2015.- Ngày 19 tháng 8.- Tr.3.

Page 28: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

SÁNG TẠO GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC

VÀ PHƯƠNG PHÁP CÁCH MẠNG

(Tiếp theo và hết)

3. “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi biết tự bảo vệ”

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 23-9-1945, thực dân

Pháp nổ súng tấn công xâm lược nước ta tại Nam Bộ; tiếp đến ngày 19-12-1946 cả

dân tộc Việt Nam phải cầm súng tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng kéo dài 9

năm (1946-1954) nhằm bảo vệ những thành quả của Cách mạng Tháng Tám, bảo

vệ nền độc lập dân tộc non trẻ, quyền tự do của nhân dân và sự thống nhất toàn vẹn của

đất nước.

Tuy nhiên, một số người cho rằng, do Đảng ta không khôn khéo nên chúng

ta phải đổi độc lập, thống nhất với giá quá đắt! Liệu có thể tránh được cuộc chiến

tranh khốc liệt kéo dài 30 năm không? Những văn kiện đã được lưu hành công

khai trước đây và những tài liệu công bố gần đây trong quan hệ Việt - Pháp (1)

cho thấy rằng, trong hoạt động ngoại giao thời kỳ 1945-1946, Đảng và Chính phủ

ta đứng đầu là Hồ Chủ tịch đã làm những gì có thể làm được để tránh cuộc chiến

tranh xảy ra. Ngay cả khi Việt Nam chỉ là một quốc gia tự do trong khối Liên hiệp

Pháp theo quy định của Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 cũng không ngăn được

thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai.

Chúng ta muốn hòa bình nhưng hòa bình trong độc lập, tự do và chúng ta

đã nhân nhượng đến giới hạn cho phép. Không đừng lại ở đó, ngay sau khi chiến

tranh nổ ra, Chính phủ ta và Hồ Chủ tịch đã hàng chục lần đề nghị Pháp thương

lượng hòa bình để kết thức chiến tranh. Cuộc chiến tranh thần thánh của nhân

dân ta với đế quốc Pháp là do dã tâm của kẻ thù muốn nô dịch nước ta, bắt nhân

dân ta trở lại làm kiếp tôi đòi cho chúng. Chính đế quốc Pháp là nguyên nhân

chính đã gây ra cuộc chiến tranh chống nhân dân ta.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “vang dội năm châu, chấn động địa cầu”,

buộc các nước lớn và các bên tham chiến ký hiệp định Genève năm 1954 thừa

nhận nền độc lập của Việt Nam, cuộc chiến tranh chống Pháp kết thúc. Theo quy

định của hiệp định, sau hai năm sẽ tiến hành cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất

nước. Nhưng đế quốc Mỹ với âm mưu xâm lược nước ta, đã có ý đồ phá hoại ngay

khi hiệp định chưa được ký. Mỹ thay chân Pháp thực hiện chủ nghĩa thực dân mới

ở miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Mỹ và tay sai đã lê máy chém

khắp miền Nam, tiến hành 4 chiến lược chiến tranh hòng bóp nghẹt dân tộc Việt

Nam. Như vậy, kẻ thù buộc nhân dân ta phải “ôm cây súng”, tiếp tục tiến hành

cuộc chiến tranh hơn 21 năm vì độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc.

Trong hai cuộc chiến tranh giải phóng thần thánh chống Pháp và chống Mỹ,

Đảng và nhân dân ta đã sáng tạo và làm phong phú thêm phương pháp cách mạng

trong đấu tranh giành chính quyền. Đó là bạo lực cách mạng gồm hai lực lượng:

lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang với hai hình thức đấu tranh: đấu tranh

chính trị và đấu tranh vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang,

Page 29: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

trong đó lực lượng chính trị là nòng cốt, lực lương vũ trang và đấu tranh vũ trang

hỗ trợ cho lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị của quần chúng. Cuộc chiến

đấu mang tầm vóc thời đại đó đã cổ vũ các dân tộc trên thế giới đứng lên tự giải

phóng.

Như vậy, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, nhân dân ta đã

tiến hành cuộc chiến đấu thần thánh 30 năm, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp

và Mỹ, nhằm thực hiện quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc Việt Nam ma

Chu ti ch Ho Ch Minh đa tri nh tro ng tuye n bo vơ i thế giới trong Tuye n ngo n Đo c

la p đo c trươ c quo c da n đo ng ba o nga y 2 tha ng 9 na m 1945: “Nươ c Vie t Nam co

quye n hươ ng tư do va đo c la p, va tha t sư đa tha nh mo t nươ c tư do đo c la p. Toa n

the da n to c Vie t Nam quye t đem ta t ca tinh tha n va lư c lươ ng, t nh ma ng va cu a ca i

đe giư vư ng quye n tư do, đo c la p a y”.

Thực tiễn lịch sử đó chứng minh chân lý: giành được độc lập đã khó, giữ

được nền độc lập đó càng khó hơn, bởi một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi biết

tự bảo vệ (Lênin) (2).

4. Vĩ thanh

Lịch sử nhân loại phát triển luôn theo quy luật khách quan, nhưng lại in

đậm dấu ấn của nhận thức và hành động chủ quan của con người, vì vậy, lịch sử

phát triển của mỗi dân tộc thể hiện rất phong phú và đa dạng. Lịch sử chỉ xảy ra

một lần, nhưng viết và nghiên cứu phải qua nhiều lần, không chỉ thế hệ này mà

qua các thế hệ khác; thời gian càng lùi xa thì bức tranh lịch sử được dựng lại chân

thực hơn, khách quan hơn. Thế hệ sau luôn luôn mong muốn tiếp nhận những

công trình lịch sử phản ánh chân thực đầy đủ về quá khứ, để từ đó rút ra những

bài học cho hiện tại.

Ngày nay, trong biến đổi phức tạp và khó lường của thế giới đương đại,

nhận thức lại lịch sử để rút ra bài học cho hiện tại là cần thiết, nhưng không thể

giáo điều theo những nguyên lý có sẵn mà cho rằng Cách mạng Tháng Tám không

phải là một cuộc cách mạng xã hội; hoặc áp đặt những hiện tượng lịch sử bên

ngoài mà nắn dòng lịch sử nước ta và bắt hiện thực lịch sử phải theo tư duy khuôn

mẫu, áp đặt chủ quan của mình.

Những tư tưởng đó không phải là thiện ý đối với sự phát triển của đất nước

trong quá khứ lẫn hiện tại, mà thực chất là phủ nhận con đường phát triển của

dân tộc mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đảng và nhân dân ta lựa chọn từ năm 1930;

từ phu nha n đấu tranh giai cấp, để đi đến phủ nhận những thành tựu to lớn mà

Đảng và nhân dân ta phải giành được trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là

vong ân bội nghĩa với hàng triệu đồng bào đã ngã xuống vì độc lập tự do của Tổ

quốc. Mục đích cuối cùng của họ là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong lịch

sử để đi đến phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng trong hiện tại và đưa dân tộc ta phát

triển chệch hướng XHCN.

PGS, TS. TRƯƠNG MINH DỤC

Học viện Chính trị khu vực III

Page 30: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

-------------------------------------

(1) Xem thêm: Philippe Devillers giới thiệu: Paris - Sài Gòn - Hà Nội. Tài liệu lưu

trữ của cuộc chiến tranh 1944-1947, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Hữu Đản, Nhà

xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1993.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.3.

Trương Minh Dục. Sáng tạo giải quyết vấn đề dân tộc và phương pháp cách

mạng// Đà Nẵng.- 2015.- Ngày 20 tháng 8.- Tr.3.

Page 31: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

70 NĂM NGÀY TỔNG KHỞI NGHĨA THẮNG LỢI

Mùa thu năm 1945, nhân dân các địa phương lần lượt nổi dậy giành chính

quyền. Tổng khởi nghĩa thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra

đời.

Đầu tháng 8/1945, thời cơ cách mạng xuất hiện, những điều kiện cho tổng

khởi nghĩa đã đầy đủ. Ngày 11/8, Nhật đầu hàng quân Đồng minh. Ngay lập tức,

Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam họp nhận định đây là "cơ hội rất

tốt cho ta giành độc lập đã tới". Đêm 13/8, Quân lệnh số 1 phát đi kêu gọi nhân

dân toàn quốc "Kẻ thù chúng ta đã ngã gục. Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh. Cơ hội có

một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà".

Ngày 16/8, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) với hơn 60

đại biểu, đại diện cho hơn 20 triệu người dân Việt Nam nhất trí chủ trương tổng

khởi nghĩa, xác định chính sách đối nội, đối ngoại, quốc kỳ, quốc ca, cử ra Chính

phủ cách mạng lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Hồ Chủ tịch kêu gọi

đồng bào cả nước "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc

đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Trong ảnh là đình Tân

Trào, nơi diễn ra đại hội.

Page 32: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Tại Thái Nguyên, trong ngày 16/8, đội Việt Nam Giải phóng quân do Đại

tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến về thị xã. Sáng 20/8, đội quân bao vây, tấn

công phát xít Nhật, giải phóng thị xã Thái Nguyên. Chiều cùng ngày, tại đây đã

diễn ra cuộc mít tinh lớn, Ủy ban khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ bộ máy chính quyền

cũ, lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Thái Nguyên.

Tại Hải Phòng, nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày

23/8/1945. Trước đó vào ngày 18/8, nhân dân ở 4 tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà

Tĩnh, Quảng Nam nổi dậy giành chính quyền ở tỉnh lỵ thành công. Đây là các tỉnh

giành được chính quyền sớm nhất trong cả nước.

Tại Hà Nội, sáng sớm 19/8, đường phố ngập sắc cờ đỏ sao vàng. Các nhà

máy, công xưởng, chợ búa, trường học đều đóng cửa. Hơn 200.000 nhân dân nội

ngoại thành tập trung trước Quảng trường Nhà hát lớn để dự lễ mít tinh ủng hộ

cách mạng.

Page 33: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Dưới sự chỉ huy của Xứ ủy Bắc Kỳ, cuộc mít tinh nhanh chóng chuyển thành

biểu tình vũ trang, đánh chiếm các vị trí đầu não quan trọng của Hà Nội, như Phủ

Khâm sai, Tòa thị chính, Sở cảnh sát, trại Bảo an binh... Khi Hà Nội khởi nghĩa

thắng lợi, Trung ương Đảng thấy đây là một sáng tạo của Xứ ủy Bắc Kỳ nên chỉ thị

cho các địa phương nơi nào có điều kiện thì tiến hành khởi nghĩa như cách của Hà

Nội.

Hình ảnh Chi đội Giải phóng quân tiến vào Hà Nội năm 1945. Từ ngày 19/8

đến ngày 22/8 là cao điểm của cuộc tổng khởi nghĩa. Có thêm 17 tỉnh lần lượt

giành chính quyền là: Yên Bái, Thái Bình, Phúc Yên, Thanh Hóa, Khánh Hòa, Bắc

Ninh, Thái Nguyên, Ninh Bình, Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Sơn Tây, Nam

Định, Kiến An, Nghệ An, Ninh Thuận và Hưng Yên.

Page 34: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Tại Huế, ngày 23/8, hơn 150.000 nhân dân xuống đường mít tinh, tuần

hành vũ trang buộc chính quyền đầu hàng. Vua Bảo Đại thoái vị, đánh dấu sự

chấm dứt của chế độ phong kiến Việt Nam. Tại Bảo tàng Lịch sử Cách mạnh Thừa

Thiên - Huế hiện còn lưu giữ hình ảnh bằng mô hình về sự kiện vua Bảo Đại thoái

vị. Vị vua cuối cùng của triều Nguyễn trao ấn kiếm cho ông Trần Huy Liệu cùng hai

thành viên khác gồm Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận là những đại diện cho

phái đoàn của Chính phủ cách mạng lâm thời bấy giờ. Lễ tuyên chiếu thoái vị và

trao ấn kiếm diễn ra vào chiều 30/8/1945 tại Ngọ Môn (Đại nội Huế) dưới sự

chứng kiến của hàng chục nghìn người dân. Với chiếu thoái vị, vua Bảo Đại nói

"Trẫm để hạnh phúc của dân Việt Nam lên trên ngai vàng của trẫm. Trẫm thà làm

dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ". Ảnh: Đắc Đức.

Tại Quảng Ngãi, đội du kích Ba Tơ tiến về giải phóng thị xã. Trong hai ngày

23 và 24/8, có thêm 19 tỉnh thành giành được chính quyền, bao gồm Bắc Kạn, Hòa

Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Trị, Quảng Bình, Bình Định, Lâm Viên, Gia Lai,

Tân An, Bạc Liêu, Hà Nam, Phú Thọ, Quảng Yên, Đăk Lăk, Phú Yên, Bình Thuận, Gò

Công, Mỹ Tho.

Page 35: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Tại Sài Gòn, ngày 25/8, hơn một triệu quần chúng nội thành và ven đô

cùng một số tỉnh lân cận tiến hành mít tinh, tuần hành vũ trang khổng lồ, lật đổ

chính quyền phát xít Nhật. Sau đó, 13 tỉnh Nam Bộ khởi nghĩa thắng lợi, bao gồm:

Chợ Lớn, Gia Định, Sóc Trăng, Châu Đốc, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Rịa, Thủ Dầu

Một, Trà Vinh, Tây Ninh, Biên Hòa, Sa Đéc, Kon Tum, Sơn La, Cần Thơ, Rạch Giá,

Đồng Nai Thượng, Hà Tiên.

Nhân dân Cần Thơ khởi nghĩa giành chính quyền ngày 26/8/1945. Như

vậy, chỉ trong hai tuần lễ, tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước. Trong hơn

60 tỉnh, thành khởi nghĩa, có 4 tỉnh lỵ dọc biên giới phía Bắc là Hà Giang, Lào Cai,

Móng Cái, Lai Châu bị phản động, quân Tưởng rồi sau đó là quân Pháp chiếm đóng

nên chưa được giải phóng trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.

Page 36: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Sau khi Tổng khởi nghĩa kết thúc, Chính phủ lâm thời chọn Hà Nội làm lễ ra

mắt tại Vườn hoa quảng trường Ba Đình. Trong ảnh là các đơn vị giải phóng quân

tập trung trên Quảng trường Ba Đình trong ngày lễ độc lập.

Ngày 2/9/1945 tại Hà Nội, lễ ra mắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ

lâm thời có sự chứng kiến của hơn một triệu người dân Hà Nội và nhân dân các

tỉnh lân cận. Các biểu ngữ nền đỏ chữ vàng bằng các thứ tiếng Anh, Pháp, Hoa,

Việt chăng ngang khắp phố phường với nội dung "Nước Việt Nam của người Việt

Nam", "Độc lập hay là chết".

Page 37: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Giản dị trong bộ quần áo kaki, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ

lâm thời, đứng trước máy phóng thanh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với

cả thế giới khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. "Một dân tộc đã gan góc

chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe

Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó

phải được độc lập. Vì những lẽ trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có

quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn

thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải

để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy", bản Tuyên ngôn độc lập viết.

Hoàng Phương

http://vnexpress.net/photo/thoi-su/70-nam-ngay-tong-khoi-nghia-thang-

loi-3264022.html

Page 38: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

NGHỆ THUẬT CHỚP THỜI CƠ TỔNG KHỞI NGHĨA

Đánh giá và xác định đúng thời cơ, có hành động kịp thời, mau lẹ chớp thời

cơ là một trong những nhân tố rất quan trọng bảo đảm thắng lợi của Cách

mạng Tháng Tám năm 1945.

Xuất phát từ thực tiễn khách quan, ngay từ Hội nghị lần thứ sáu (11-1939),

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định thời cơ giành chính quyền sẽ tới khi

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và nhấn mạnh: “Ở các nước thuộc địa, hết

thảy dân tộc bị áp bức sẽ vùng dậy tranh đấu liều sống, liều chết với đế quốc xâm

lược để cởi vứt cái ách tôi đòi. Dân các nước tư bản đòi giải phóng. Dân tộc các

thuộc địa đòi độc lập”(1). Ở Đông Dương, cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị do

chiến tranh đế quốc gây ra “sẽ nung nấu cách mệnh Đông Dương bùng nổ và tiền

đồ cách mệnh giải phóng Đông Dương nhất định sẽ quang minh rực rỡ”(2).

Tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương lần thứ tám đã ra nghị quyết, dự báo

một cách chính xác hệ quả trực tiếp của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai:

“Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ

nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa,

sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công…”(3). Thực tiễn lịch sử chứng

minh tính đúng đắn của dự báo do Đảng ta đưa ra. Với chiến thắng của Liên Xô và

các lực lượng Đồng minh trước chủ nghĩa phát xít, thời cơ cách mạng đã đến với

nhiều nước trên thế giới khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.

Chiếm Bắc Bộ Phủ trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội tháng 8- 1945.

Ảnh tư liệu.

Không chỉ dự báo và xác định được thời cơ giành chính quyền cách mạng,

từ rất sớm, Đảng ta đã phân tích chính xác mâu thuẫn giữa các thế lực đế quốc,

nhận định phát xít Nhật sẽ đảo chính hất cẳng thực dân Pháp ở Đông Dương và

vạch ra kế hoạch hành động khi xuất hiện tình hình mới. Ngày 15-2-1944, trong

bài “Bóc trần mưu gian của đế quốc Nhật! Thống nhất hành động đánh đổ thù

chung!” đăng trên Báo Cờ giải phóng, Tổng Bí thư Trường Chinh xác định sớm hay

muộn cuộc đấu súng Nhật-Pháp nhất định sẽ xảy ra. Từ đó đến đầu năm 1945, vấn

Page 39: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

đề “cuộc đảo chính của phát xít Nhật” luôn được nhắc tới trong những văn kiện,

tài liệu tuyên truyền của Đảng, định hướng công tác chuẩn bị của phong trào cách

mạng cho thời điểm “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Vì thế, khi cuộc đảo chính

của Nhật nổ ra vào đêm 9-3-1945, Đảng ta đã chủ động vạch ra những nhiệm vụ

chiến lược sát đúng để đưa cách mạng tiếp tục tiến lên. Ngay trong đêm Nhật-

Pháp bắn nhau, từ chập tối, Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng, dưới

sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh khai mạc tại chùa Đồng Kỵ, Bắc Ninh.

Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị Nhật-Pháp bắn nhau và

hành động của chúng ta, nhận định: Cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương đã

tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực

sự chín muồi, tuy vậy cũng đã tạo ra những tiền đề cần thiết thúc đẩy cuộc khởi

nghĩa chóng tới. Ngoài việc xác định kẻ thù mới và đề ra khẩu hiệu đấu tranh mới,

Ban Chấp hành Trung ương còn dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ cho

nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền trên cả nước: Một là, quân Đồng minh

vào Đông Dương đánh Nhật; hai là, Nhật đầu hàng Đồng minh.

Dưới ánh sáng của Chỉ thị Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta,

các cấp bộ đảng từ Trung ương đến địa phương đã theo dõi sát sao diễn biến mặt

trận Thái Bình Dương. Sau khi Hồng quân Liên Xô tiêu diệt đạo quân Quan Đông

của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc và Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hi-rô-

si-ma và Na-ga-sa-ki, trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực

lượng Đồng minh.

Như vậy, thời cơ xuất hiện như khả năng thứ hai mà Đảng ta đã dự báo. Lúc

này, dù đang bệnh nặng, tại lán Nà Nưa, Tân Trào (Tuyên Quang), lãnh tụ Hồ Chí

Minh thể hiện quyết tâm: “Lúc này thời cơ đã đến, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt

cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”(4). Trung

ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ủy ban

ra Quân lệnh số 1, nêu rõ: “… Giờ Tổng khởi nghĩa đã đến! Cơ hội có một cho quân

dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!… Chúng ta phải

hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!...

Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”(5).

Ngày 14-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc tại Tân Trào. Hội

nghị nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới"(6). Hội nghị

toàn quốc của Đảng vừa kết thúc, ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân được tổ chức

tại Tân Trào (Tuyên Quang), quyết định phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành

chính quyền trên cả nước.

Trong Cách mạng Tháng Tám, thời cơ tồn tại một cách khách quan trong

vòng khoảng 20 ngày, bắt đầu từ khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng (15-8) và kết

thúc khi quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta theo Hiệp

ước Pốt-xđam (5-9). Nếu phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn

quốc trước ngày 15-8 thì quân Nhật còn mạnh và sau ngày 5-9, trên đất nước có

nhiều kẻ thù, cách mạng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tổng khởi nghĩa đã diễn ra từ

14 đến 28-8-1945 trong bối cảnh Cao trào kháng Nhật cứu nước đã lên đến đỉnh

Page 40: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

cao, Nhật Bản đã thua trận và đầu hàng, chiến tranh thế giới vừa kết thúc, chính

quyền tay sai của Nhật ở Đông Dương không còn chỗ dựa, quân Đồng minh chưa

kịp kéo vào nước ta. Đảng và nhân dân ta đã chớp thời cơ, tiến hành Tổng khởi

nghĩa, giành chính quyền thắng lợi trong ngưỡng thời gian đó.

Đại tá, TS NGUYỄN VĂN BẠO

(Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)

-----------------------

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội,

2000, tr.515-516.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội,

2000, tr.535.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội,

2000, tr.100.

(4) Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, Nxb QĐND, Hà Nội, 1969, tr.212.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội,

2000, tr.421-422.

(6) Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập Hồi ký, Nxb QĐND, Hà Nội, 2006, tr.131.

Nguyễn Văn Bạo. Nghệ thuật chớp thời cơ Tổng khởi nghĩa// Quân đội nhân

dân.- 2015.- Ngày 16 tháng 8.- Tr.3.

Page 41: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

THỦ ĐÔ NGÀY TỔNG KHỞI NGHĨA TOÀN THẮNG

Đánh chiếm Bắc Bộ Phủ - Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội tháng 8-1945.

Ảnh tư liệu

Từ sáng sớm ngày 19-8-1945, các đường phố Hà Nội tràn ngập cờ đỏ

sao vàng. Cả Hà Nội xuống đường khởi nghĩa theo tiếng gọi của Việt Minh.

Không những các nhà máy, công sở, tư sở nghỉ việc vì hôm ấy đúng vào ngày

chủ nhật, mà cả các chợ búa, cửa hiệu đều đóng cửa, ô-tô, xe điện, xe kéo, xe

đạp cũng không có một chiếc nào trên đường.

Công nhân các nhà máy trong nội thành và ở Gia Lâm, dưới sự hướng dẫn

của cán bộ, công nhân cứu quốc, đã tập hợp thành đội ngũ trước cổng xí nghiệp,

giương cao cờ đỏ sao vàng và biểu ngữ cách mạng, trong tay cầm vũ khí thô sơ

hoặc công cụ lao động thay cho vũ khí, do các đội tự vệ công nhân dẫn đầu, rầm

rập tiến về quảng trường Nhà hát Lớn, vừa đi vừa hô những khẩu hiệu cách mạng

hoặc hát bài Tiến quân ca.

Từ ngoại thành, trên các ngả đường dẫn vào trung tâm thành phố, hàng vạn

bà con nông dân, già trẻ gái trai, các đội tự vệ mang theo đủ các loại vũ khí, từ

súng trường đến gươm, đao, mã tấu, câu liêm, hùng dũng tiến bước, tiếng hô khẩu

hiệu từng đợt vang lên như sóng triều biển cả. Bà con vùng Láng, Mọc trước khi

vào thành phố, đã hợp sức cùng dân nghèo Ngã Tư Sở chiếm lĩnh tòa Đại lý Hoàn

Long, tịch thu vũ khí của Bảo an binh đóng ở đấy.

Nhân dân các phố nội thành, xếp hàng mười theo từng khối lớn, như phụ

nữ, thanh niên, viên chức, học sinh, trí thức, v.v. lần lượt tiến vào quảng trường,

vừa đi vừa đồng thanh hô to khẩu hiệu, giương cao biểu ngữ và cờ đỏ sao vàng.

Bà con các phủ huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên, Đan Phượng,

Hoài Đức, Gia Lâm, theo đúng lệnh của Xứ ủy, cũng nườm nượp kéo về Hà Nội

tham gia khởi nghĩa.

Một chuyến xe điện đặc biệt chở Đoàn thanh niên xung phong Hoàng Diệu

(lúc đó đã được chuyển thành đại đội du kích) từ chợ Mơ đến đầu phố Tràng Tiền.

Toàn đội xếp theo hàng ba tiến về phía Nhà hát Lớn, súng trường khoác vai, súng

Page 42: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

ngắn cạnh sườn, một số đồng chí còn đeo kiếm dài bên mình như kiểu sĩ quan

Nhật, một số khác tay cầm mã tấu, dẫn đầu có lá cờ đỏ sao vàng rộng khổ bằng xa-

tanh viền tua óng ánh với hàng chữ thêu kim tuyến. Lần đầu tiên trong đời, người

Hà Nội thấy tận mắt một đơn vị bộ đội cách mạng. Suốt cả đoạn đường từ đầu phố

Tràng Tiền đến Nhà hát Lớn đông nghịt quần chúng khởi nghĩa và rợp bóng cờ

cách mạng, họ không ngớt hoan hô bộ đội, người vỗ tay, người tung mũ, người reo

hò.

Hà Nội hôm ấy cực đẹp. Vòm trời trong xanh không gợn một chút mây.

Nắng thu vàng óng như mật ong. Rừng cờ đỏ phấp phới bay trong gió lộng. Khí thế

cách mạng bừng bừng trong từng đợt hô khẩu hiệu của quần chúng khởi nghĩa.

Cuộc mít-tinh gồm 30 vạn người, bắt đầu trong không khí hào hùng chưa từng

thấy.

Sau phút mặc niệm những chiến sĩ cách mạng đã lớp lớp hy sinh vì độc lập

dân tộc từ ngày đất nước ta bị mất về tay thực dân Pháp, đồng chí Lê Trọng Nghĩa

bắn ba phát súng báo hiệu lễ chào cờ, Đoàn nhạc cách mạng rầm rộ cử bài Tiến

quân ca hoành tráng, được các loa phóng thanh phát đi vang vang trong thành

phố. Lá cờ đỏ sao vàng được từ từ kéo lên cột cờ dựng ở giữa quảng trường. Trên

bao-lơn Nhà hát Lớn, từ hai bên, lá cờ cách mạng rộng lớn buông xuống làm nền

cho lễ đài cuộc mít-tinh, hàng vạn truyền đơn được tung ra, lượn bay theo gió, rồi

hạ nhẹ giữa biển người.

Tiếng vỗ tay vang dậy hồi lâu khi đồng chí Nguyễn Huy Khôi (Trần Quang

Huy) đứng ra trước máy phóng thanh đọc lời hiệu triệu của Ủy ban quân sự cách

mạng Hà Nội. Bằng những lời lẽ đanh gọn, bản hiệu triệu vạch rõ thái độ của ta đối

với quân Nhật đã bại trận, đối với thực dân Pháp đang lăm le giành lại quyền

thống trị của chúng ở Đông Dương, rồi khẳng định: “… Điều cần nhất lúc này là

chúng ta phải thành lập ngay một chính phủ Cộng hòa dân chủ Việt Nam, trong đó

dân chúng được tham dự chính quyền để tự định đoạt số phận của mình”.

“Chính phủ nhân dân cách mạng Việt Nam ấy sẽ ban bố những quyền tự do

cho toàn thể quốc dân, sẽ cải thiện sinh hoạt vật chất và tinh thần cho dân chúng,

và đồng thời tổng động viên lực lượng toàn quốc để bảo vệ và củng cố nền độc lập

chân chính của nhà nước. Chỉ có Chính phủ cách mạng mới đủ uy tín và năng lực

thực hiện nguyện vọng tha thiết chung của toàn thể dân tộc ta là độc lập, tự do và

hạnh phúc. Chỉ có Chính phủ nhân dân cách mạng mới đủ uy tín và năng lực để

lãnh đạo dân tộc ta đến một tương lai rạng rỡ, xứng đáng với quá khứ oanh liệt

còn ghi chép trong quốc sử”.

Bản hiệu triệu kết thúc bằng những khẩu hiệu cách mạng làm nức lòng

người:

- Đánh đổ mọi lực lượng xâm phạm đến nền độc lập Việt Nam!

- Thành lập Chính phủ Cộng hòa dân chủ Việt Nam!

- Việt Nam hoàn toàn độc lập!

- Cách mạng giải phóng thành công muôn năm!

Page 43: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Tiếng hô hưởng ứng của 30 vạn quần chúng ầm ầm vang động trên quảng

trường Nhà hát Lớn mỗi lần đồng chí Nguyễn Huy Khôi hô to khẩu hiệu.

Tiếp đó, theo kế hoạch đã định, cuộc mít-tinh nhanh chóng chuyển sang

tuần hành thị uy, chia thành hai khối lớn đi chiếm lĩnh những cơ quan trọng yếu

của chính quyền bù nhìn. Khối thứ nhất, với các đội tự vệ chiến đấu công nhân

dẫn đầu, do đồng chí Nguyễn Khang, đồng chí Nguyễn Huy Khôi và một số đồng

chí khác trong Ủy ban quân sự cách mạng chỉ huy, có nhiệm vụ chiếm Phủ khâm

sai, Tòa thị chính, Kho bạc, Bưu điện và Sở Cảnh sát Hàng Trống. Khối thứ hai, do

đồng chí Nguyễn Quyết chỉ huy và do Đoàn thanh niên xung phong Hoàng Diệu

làm nòng cốt, có nhiệm vụ chiếm Trại Bảo an binh và Ty Liêm phóng.

Khi khối thứ nhất đến gần Phủ Khâm sai, thì hai đại đội bảo an binh đóng ở

đấy, theo lệnh của bọn cầm đầu “Ủy ban chính trị”, đã đóng chặt cổng lại, bố trí lực

lượng bên trong hàng rào sắt, chủ yếu là bên trong khu làm việc (nay là 14 phố

Ngô Quyền), chĩa những họng súng liên thanh ra phía quần chúng cách mạng.

Nhưng chính ở đây ta cũng đã nắm được một số binh lính có cảm tình với Việt

Minh. Ta vừa hô khẩu hiệu thị uy, vừa kêu gọi Bảo an binh quay súng đứng về phía

Việt Minh để cứu nước, cứu nhà. Viên chỉ huy Bảo an binh, mặt tái mét lúng túng

chưa biết xử trí ra sao, thì một số đội viên tự vệ chiến đấu và hội viên cứu quốc đã

vượt hàng rào sắt nhảy vào, trước hết là ở bên khu làm việc, rồi sau là ở bên nhà

tiếp khách của viên Khâm sai (nay là 12 phố Ngô Quyền). Trước sức mạnh của

cách mạng, lính Bảo an xin hàng, xếp vũ khí lại thành đống và ra mở cổng. Quần

chúng khởi nghĩa ùa vào sân như tháo nước, hạ cờ “quẻ ly” xuống, kéo cờ đỏ sao

vàng lên. Ta tịch thu 200 khẩu súng, trang bị bổ sung cho tự vệ chiến đấu, và bắt

giam bọn cầm đầu “Ủy ban chính trị”.

Việc chiếm lĩnh các cơ quan trọng yếu của chính quyền bù nhìn đã được

hoàn tất trong ngày 19-8. Trừ vụ Trại Bảo an binh, còn lại quân Nhật không dám

can thiệp chống lại khởi nghĩa, mà chịu co mình trong các doanh trại của chúng.

Cách mạng đã hoàn toàn làm chủ Thủ đô Hà Nội.

Trần Quang Huy

Nguyên Chủ tịch UBND cách mạng lâm thời Hà Nội (từ ngày 20 đến 30-8-1945)

Trần Quang Huy. Thủ đô ngày Tổng khởi nghĩa toàn thắng// Nhân dân.-

2015.- Ngày 19 tháng 8.- Tr.2.

Page 44: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

CHUYỆN ÍT BIẾT VỀ TỔNG KHỞI NGHĨA Ở NAM BỘ

Chúng tôi đến thăm lão đồng chí Nguyễn Thọ Chân - nguyên Bí thư Thành

ủy Hà Nội năm 1943, cựu tù Hỏa Lò, Côn Đảo, từng là Bí thư đầu tiên của tỉnh

Quảng Ninh, đại sứ Việt Nam ở Liên-Xô, nguyên Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương

binh và Xã hội... Năm nay cụ tròn 95 tuổi nhưng vẫn minh mẫn kể về những ngày

Tổng khởi nghĩa ở Nam Bộ.

Có hai tổ chức Xứ ủy ở Nam Kỳ

“Nhắc đến lịch sử Nam Bộ phải nói đến hai tổ chức này, cùng tồn tại do

thực tế khách quan của cách mạng”, cụ bắt đầu câu chuyện.

…Sau sự kiện Nam Kỳ khởi nghĩa 1940, phong trào ở Nam Bộ bị đàn áp dã

man. Các cơ sở tan nát, cán bộ Xứ ủy Nam Kỳ hầu hết bị bắt, ai còn sống sót phải

dạt về các địa phương. Tháng 1-1941, Xứ ủy Nam Kỳ được tái lập. Nhưng từ giữa

năm 1941, Xứ ủy lại bị chính quyền thực dân bắt bớ, vô hiệu hóa.

Đến năm 1942, Liên tỉnh ủy miền Đông thành lập. Tiếp sau đó là Ban Cán sự miền

Đông Nam Kỳ (năm 1943) và Kỳ bộ Việt Minh Nam Kỳ (năm 1944). Nhóm này

xuất bản bí mật tờ báo Giải phóng.

Từ ngày 13 đến 15-10-1943, một số đại biểu cộng sản các tỉnh, thành phố Nam Kỳ

họp hội nghị ở Chợ Gạo, Mỹ Tho, quyết định tái lập Xứ ủy Nam Kỳ. Ông Trần Văn

Giàu vì không đến tham dự được nên hội nghị bầu ông Dương Quang Đông làm bí

thư. Ông Đông tuyên bố: Chỉ tạm nhận chức và sẽ trao lại cho ông Trần Văn Giàu.

Hội nghị nhất trí.

Trên cương vị Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, trong hoàn cảnh không liên lạc được

với Trung ương, không hay biết Nguyễn Ái Quốc đã về nước và triệu tập Hội nghị

Trung ương lần thứ 8, Trần Văn Giàu mạnh dạn không ngồi chờ mà tự vạch ra một

đường lối cách mạng cho Nam Kỳ. Ông cùng các đồng chí tích cực xây dựng cơ sở,

tập hợp lực lượng lớn, chớp thời cơ được nhận định đã gần kề. Ông chủ trương,

phải mạnh hơn tất cả các chính đảng và giáo phái thân Nhật cộng lại thì mới mong

đem chính quyền về tay nhân dân.

Tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn. Ảnh tư liệu.

Trên cơ sở đó, Xứ ủy đã ra nghị quyết: Khôi phục hệ thống tổ chức Đảng các

cấp, đặc biệt với các cơ sở tại Sài Gòn-Chợ Lớn. Thành lập Tổng công đoàn Nam

Page 45: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Kỳ (tháng 4-1944). Trong nửa năm, phát triển 40 công đoàn cơ sở với 5.000 đoàn

viên. Tập hợp trí thức, sinh viên, nhà công thương vào một số tổ chức như: Tân

Dân chủ đoàn, Hội

Truyền bá quốc ngữ, nhóm Báo Thanh Niên, xuất bản Báo Tiền Phong và

các sách bỏ túi ("Việt Nam trên đường độc lập", "Rạng đông của dân tộc"...), mở

các lớp huấn luyện chính trị.

Như vậy, song song với Xứ ủy Nam Kỳ được thành lập lại từ tháng 10-1943

do Trần Văn Giàu làm Bí thư, còn có một tổ chức khác của Đảng Cộng sản Đông

Dương, thường gọi là Xứ ủy Giải phóng, vì cơ quan ngôn luận của tổ chức này là

Báo Giải phóng; còn Xứ ủy do ông Giàu làm bí thư thường gọi là Xứ ủy Tiền phong.

Xứ ủy Tiền phong và Tổng khởi nghĩa

Ông Trần Văn Giàu nhận định: "Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân; riêng

lực lượng của Đảng không làm nổi cách mạng; phải có sự tham gia, sự nổi dậy của

hàng triệu đồng bào”.

Đặc biệt, Xứ ủy Tiền phong đã khéo léo biến Thanh niên Tiền phong (tổ

chức được sự bảo trợ của Nhật) thành tổ chức của Đảng, thông qua số đảng viên

bí mật như: Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Huỳnh Văn Tiểng... Tổ chức này

tạo được bình phong hợp pháp cho các đảng viên cộng sản hoạt động, nhanh

chóng tập hợp được một lực lượng lớn, vượt qua các tổ chức chính trị khác thời

bấy giờ.

Các bài viết của các nhà nghiên cứu nước ngoài (David Marr, Stein

Tonnesson, William J.Duiker) cũng thừa nhận việc này: Trần Văn Giàu chỉ thị cho

đảng viên cộng sản gia nhập Thanh niên Tiền phong ở mọi cấp, dùng Thanh niên

Tiền phong làm vỏ bọc hợp pháp để khôi phục những mối liên lạc bí mật. Chiến

lược Thanh niên Tiền phong đã giúp những người cộng sản có vai trò lãnh đạo

phong trào giải phóng dân tộc... Phong trào này lan rộng trong giai đoạn mùa xuân

và mùa hè 1945 tại các trường học, nhà máy và làng xã. Đến tháng 8, Thanh niên

Tiền phong đã có số hội viên hơn một triệu, ở hầu hết các tỉnh Nam Bộ…

Ba lần bàn ngày Tổng khởi nghĩa

Sau khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh, nhận thấy thời cơ đã đến,

Thường vụ Xứ ủy thành lập Ủy ban khởi nghĩa đêm 15-8-1945 và triệu tập hội

nghị Xứ ủy Nam Kỳ mở rộng bàn về khởi nghĩa. Dự định sẽ khởi nghĩa vào ngày

hôm sau, nhân cơ hội Lễ tuyên thệ của Thanh niên Tiền phong tại Sài Gòn.

Hội nghị họp tại Chợ Đệm tối 16-8, với kinh nghiệm thất bại của Khởi nghĩa

Nam Kỳ, một số đại biểu tranh luận gay gắt về thời điểm khởi nghĩa. Hội nghị nhất

trí tiếp tục chuẩn bị, chờ tin từ Hà Nội, dời ngày khởi nghĩa đến ngày 18-8.

Ngày 17-8, lễ ra mắt của 5 vạn đoàn viên Thanh niên Tiền phong được tổ

chức tại Sài Gòn. Khẩu hiệu “Việt Nam độc lập”, “Việt Nam thống nhất”, “Việt Nam

hùng cường” được hô vang.

Nhận được tin Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi, ngay sáng 20-8, hội nghị Chợ

Đệm lần thứ hai dự định khởi nghĩa ngay chiều hôm đó. Nhưng có đại biểu còn e

Page 46: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

ngại việc quân Nhật vẫn còn 7-8 vạn. Ông Giàu đề nghị chọn Tân An quê ông làm

thí điểm.

Đêm 20-8, Nguyễn Văn Tạo và Huỳnh Tấn Phát tuyên truyền tại rạp

Nguyễn Văn Hảo. Lần đầu tiên có tiếng hô từ đám đông: “Việt Nam muôn năm!”.

Đêm 21-8, cũng tại rạp này, Trần Văn Giàu chính thức tuyên bố: Việt Minh

ra hoạt động công khai.

Tối 22-8, khởi nghĩa ở Tân An thành công.

Hội nghị Chợ Đệm lần thứ ba, tối 23-8, chỉ định lập Ủy ban Hành chính lâm

thời cho toàn Nam Bộ, gọi tắt là Lâm ủy Nam Bộ, Chủ tịch là Trần Văn Giàu.

Chiều 24-8, lực lượng Thanh niên Tiền phong vũ trang dưới quyền lãnh đạo

của Xứ ủy Nam Kỳ ở Tân An, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh khởi nghĩa giành

chính quyền; sau đó tiến về Sài Gòn.

Ngày 25-8, đến lượt Sài Gòn nổ ra cuộc biểu tình lớn. Hầu hết các cơ sở của

chính quyền lọt vào quyền kiểm soát của Lâm ủy Nam Bộ.

TRẦN KIẾN QUỐC

Trần Kiến Quốc. Chuyện ít biết về Tổng khởi nghĩa ở Nam Bộ// Quân đội

nhân dân.- 2015.- Ngày 19 tháng 8.- Tr.6.

Page 47: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI

CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng Cộng sản và lãnh tụ Hồ Chí Minh

lãnh đạo là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình, là thắng lợi đầu

tiên của một nước thuộc địa, giành lại độc lập. Thắng lợi đó khẳng định chân

lý mà Hồ Chí Minh nêu rõ trong Tuyên ngôn độc lập: “Tất cả các dân tộc trên

thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung

sướng và quyền tự do”. Cách mạng Tháng Tám đánh đổ chế độ phong kiến

đã suy tàn, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước cách mạng

kiểu mới, không phải để cai trị dân mà để phục vụ nhân dân. Cách mạng

Tháng Tám đã mở ra thời đại mới của lịch sử dân tộc - thời đại Hồ Chí Minh,

mà nội dung chủ yếu là đất nước độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc,

tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám có nhiều nguyên nhân, trong đó nhân

tố hàng đầu là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo

đó trước hết là sự hoạch định đúng đắn Cương lĩnh, đường lối cách mạng. Ngày

28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở về nước. Người đã cùng

Trung ương Đảng phát triển, bổ sung đường lối giải phóng dân tộc, một tư tưởng

lớn đã được xác định từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (2-1930). Sự phát triển về

đường lối được nêu bật tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) do Nguyễn Ái

Quốc chủ trì. Nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt quyền lợi của bộ phận, của

giai cấp dưới lợi ích và sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Tập hợp, đoàn kết rộng

rãi toàn dân tộc, phát triển lực lượng chính trị trong Mặt trận Việt Minh, từ đó xây

dựng, phát triển lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng. Đi từ khởi nghĩa từng

phần đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, xây dựng Nhà nước cộng hòa dân

chủ Việt Nam. Chú trọng phát triển tình thế cách mạng và nắm bắt thời cơ. Xây

dựng Đảng vững mạnh bảo đảm sự thống nhất nhận thức và hành động trong toàn

Đảng. Nội dung cơ bản đó của đường lối tiếp tục được phát triển sáng tạo, cụ thể

hóa tại Hội nghị Thường vụ Trung ương (2-1943), Chỉ thị của Ban Thường vụ

Trung ương Đ.C.S.Đ.D Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12-3-

1945) và nhất là Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào - Tuyên Quang (14 - 15-

8-1945). Đường lối cách mạng đúng đắn đã dẫn dắt phong trào cách mạng của toàn

dân tộc phát triển mạnh mẽ bảo đảm đi đến thắng lợi.

Đảng coi trọng phát triển thực lực cách mạng, giải quyết đúng đắn các mối

quan hệ giữa nhân tố chủ quan, khách quan, thời cơ và nguy cơ. Đảng nhận thấy

rõ, cách mạng của ta phải do ta tự làm lấy, vì vậy phải có sức mạnh. “Dù sao chỉ có

thực lực của ta mới quyết định được sự thắng lợi”. Nêu cao ý chí tự lực, tự cường,

đồng thời Đảng coi trọng sự ủng hộ từ lực lượng bên ngoài, khi xác định cách

mạng Việt Nam đứng về phe Đồng minh chống phát-xít. Tháng 8-1942, Hồ Chí

Minh sang Trung Quốc để liên lạc và tranh thủ sự giúp đỡ của lực lượng Đồng

minh, chống quân Nhật xâm lược. Đầu năm 1945, Người lại sang Trung Quốc với

Page 48: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

sứ mệnh đó. Yếu tố bên ngoài là quan trọng, song Hồ Chí Minh cho rằng sự đồng

tâm hiệp lực của dân ta mới là quyết định. Người kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận

mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải

phóng cho ta”. Hồ Chí Minh cùng các nhà lãnh đạo Trường Chinh, Phạm Văn Đồng,

Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng phân tích sâu sắc tình hình trong nước và

chiến tranh thế giới thứ II để đi đến khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới,

dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết

giành cho được độc lập”.

Thời cơ thuận lợi chính là lúc cao trào kháng Nhật cứu nước của nhân dân

Việt Nam phát triển mạnh mẽ trên khắp cả nước từ miền núi, nông thôn đồng

bằng đến đô thị; quân phiệt Nhật tuyên bố đầu hàng các nước Đồng minh ngày

15-8-1945 và chính quyền phong kiến, chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim suy

yếu, hoang mang cực điểm; Trung ương Đảng và các tổ chức đảng trong cả nước

đã sẵn sàng đưa toàn dân vào hành động cách mạng với nguyên tắc chỉ đạo: tập

trung, thống nhất, kịp thời. Khi thời cơ chín muồi cũng là lúc xuất hiện nguy cơ

cần phải ngăn chặn, vượt qua. Thực dân Pháp lợi dụng sự thất bại của Nhật, tìm

cách quay lại khôi phục địa vị cũ ở Đông Dương như trước ngày 9-3-1945. Các

nước Đồng minh theo phân công của Hội nghị Pôt-xđam (Đức) tháng 7-1945 vào

giải giáp quân Nhật nhưng có âm mưu xâm chiếm và chia cắt nước Việt Nam. Việc

giành chính quyền thành công trọn vẹn trong nửa cuối tháng 8-1945 là mẫu mực

tuyệt vời về nghệ thuật chớp thời cơ và do đó đã ngăn chặn được nguy cơ mới đe

dọa vận mệnh của dân tộc.

Sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Trung ương có ý nghĩa quyết định

toàn cục, đồng thời cần phải nhấn mạnh tới tính chủ động, sáng tạo, tinh thần

trách nhiệm cao của đảng bộ các địa phương, của những cán bộ, đảng viên tiêu

biểu. Chỉ với gần 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo hơn 20 triệu đồng bào cả

nước làm nên chiến công có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Lịch sử mãi mãi ghi công

những cán bộ, đảng viên kiên trung cùng sự hy sinh, chiến đấu của toàn dân. Khởi

nghĩa ở Hà Nội 19-8-1945 với vai trò của các đồng chí: Nguyễn Khang, Trần Tử

Bình, Nguyễn Huy Khôi, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Quyết, Nguyễn Duy Thân… Cuộc

khởi nghĩa ở Huế 23-8-1945 có sự lãnh đạo của Tố Hữu, Nguyễn Chí Thanh… Khởi

nghĩa ở Sài Gòn 25-8-1945 gắn liền với vai trò của Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ Trần Văn

Giàu và nhiều đồng chí khác. Đảng bộ và các đồng chí lãnh đạo các địa phương

khác cũng đã chủ động hành động như thế. Sự vùng dậy của cả một dân tộc vì độc

lập, tự do với những người cộng sản dẫn đầu mãi mãi là hình tượng cao đẹp của

cuộc Cách mạng Tháng Tám.

Bài học về sự lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám có ý nghĩa

sâu sắc về lý luận và thực tiễn đối với các thời kỳ cách mạng tiếp theo, nhất là với

công cuộc đổi mới hiện nay. Đổi mới bắt đầu từ sự khởi xướng và hoạch định

đường lối từ Đại hội VI của Đảng (12-1986). Trải qua 30 năm đổi mới, đường lối,

Cương lĩnh của Đảng không ngừng được bổ sung, phát triển trên cơ sở nghiên cứu

lý luận, tổng kết thực tiễn, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin,

Page 49: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

tư tưởng Hồ Chí Minh. Với đường lối đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo xây dựng, phát

triển đất nước đạt được những thành tựu to lớn, rất quan trọng. Hiện nay, cơ hội

cho sự phát triển đất nước là rất lớn khi ta đang đi trên con đường đúng với sự

lãnh đạo, quản lý đúng đắn của Đảng và Nhà nước; thế và lực của đất nước đã tăng

lên rất nhiều; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả.

Đảng cũng thẳng thắn chỉ rõ những nguy cơ và thách thức trên con đường

đổi mới. Đó là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa cả trong nhận thức và hành

động. Nền kinh tế còn có những mặt yếu kém, quy mô, năng suất, chất lượng, hiệu

quả, năng lực cạnh tranh còn thấp. Tham nhũng, lãng phí, sự suy thoái về tư tưởng

chính trị và đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn

chặn như mong muốn. Sự chống phá của các thế lực thù địch rất quyết liệt với âm

mưu “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tình hình đó

đòi hỏi phải nâng cao năng lực lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền và sức chiến đấu

của Đảng. Không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng về mọi mặt, làm cho Đảng thật

sự trong sạch, vững mạnh, kiểu mẫu như mong muốn của Bác Hồ. Chỉ như vậy,

Đảng mới xứng đáng với sự kính trọng, tin cậy của nhân dân và toàn dân tộc, thực

hiện được sứ mệnh vẻ vang, lãnh đạo đẩy mạnh đổi mới toàn diện, đồng bộ, xây

dựng, phát triển bền vững đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững

chắc độc lập, chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.

PGS, TS NGUYỄN TRỌNG PHÚC

Nguyễn Trọng Phúc. Nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách mạng

Tháng Tám// Nhân dân.- 2015.- Ngày 18 tháng 8.- Tr.1,5.

Page 50: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

NHÂN NGUỒN SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TRONG

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Bác bắt nhịp bài ca Kết đoàn

(TG)- Không chỉ khơi dậy nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc, Hồ Chí Minh

và Đảng ta đã phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp

sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân

tiến bộ trên toàn thế giới cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc.

Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, tinh thần yêu

nước gắn liền với ý thức cộng đồng, đoàn kết dân tộc Việt Nam đã hình thành và

củng cố tạo, thành lẽ sống của mỗi người Việt Nam, làm cho vận mệnh mỗi cá

nhân gắn chặt với vận mệnh của cộng đồng, với sự sống còn và phát triển của dân

tộc. Cùng với thời gian, truyền thống ấy, giá trị tinh thần ấy, nguồn sức mạnh nội

sinh từ khối đại đoàn kết ấy được kế thừa và phát triển, góp phần quan trọng làm

nên thắng lợi trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mùa thu năm 1945.

1. Mang trong hành trang của mình lòng yêu nước thương dân tha thiết,

trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến với

chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước theo quỹ đạo cách mạng vô

sản. Trên tinh thần của học thuyết Mác, khác với các nhà hoạt động cách mạng

đương thời, tránh được sự dập khuôn máy móc về quan điểm giai cấp của Quốc tế

Cộng sản, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, ngay từ những năm 1930, Nguyễn

Ái Quốc đã xác định rằng ở Việt Nam phải thực hiện "dân tộc cách mệnh" trước.

Và theo Người, vì "dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp", nên trong khi nêu

rõ việc phải xác định rõ công nông là gốc cách mạng thì không quên các "học trò,

nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ" cũng là "bầu bạn cách mạng của công nông". Từ kinh

nghiệm thực tiễn và nhận thức lý luận, Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá ý nghĩa của vấn

đề "cách mạng chỉ có thể thắng lợi nếu như những làn sóng cách mạng lay động

được quần chúng nông dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản" bằng những nội

dung cụ thể, sáng tỏ được nêu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do

Page 51: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Người soạn thảo (thông qua tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm

1930).

“Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi

tới xã hội cộng sản"[1] là sợi chỉ đỏ, là sự hấp dẫn mà Cương lĩnh chính trị của

Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định. Song nhiệm vụ lịch sử ấy "là việc chung

của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người"[2], vì vậy phải đoàn kết

toàn dân, phải "sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền" trên cơ

sở nòng cốt "công nông là người chủ cách mệnh… Công nông là gốc cách

mệnh"[3]. Và khối đại đoàn kết toàn dân đó phải được tập hợp vào một mặt trận

dân tộc thống nhất, rộng rãi, nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, tập trung

cho mục tiêu giải phóng dân tộc. Trên một nguyên tắc nhất quán, lấy lợi ích tối cao

của dân tộc, quyền lợi của nhân dân lao động làm nền tảng, khi trở về Tổ quốc sau

gần 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng

cả nước, Hồ Chí Minh đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương

lần thứ 8 (10 - 19/5/1941). Hội nghị đã quyết định chuyển hướng chiến lược cách

mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; thành lập Mặt trận Việt

Minh; đề ra chủ trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân

cày nghèo, giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có

ruộng; chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước ở Đông

Dương; thành lập, phát triển và tăng cường lãnh đạo các tổ chức vũ trang và nửa

vũ trang, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang; khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi

nghĩa... có ý nghĩa quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc bie t la sự lãnh đạo và trực tiếp chỉ đạo của

Chủ tịch Ho Ch Minh, tre n tinh thần: “Trong lu c na y quye n lợi da n to c giải phóng

cao hơn he t tha y. Chu ng ta phải đoa n ke t lại đa nh đo bọn đe quo c va bọn Vie t gian

đặng cứu gio ng no i ra khỏi nước sôi lửa bỏng”[4], sự ra đời, phát triển của Mặt

trận Việt Minh đã không chỉ làm cho khối đại đoàn kết dân tộc được mở rộng,

củng cố không ngừng, mà còn là phương tiện nâng nguồn sức mạnh đoàn kết của

cả dân tộc lên gấp bội lần khi được tổ chức trong một tổ chức có sức chiến đấu

cao. Chương trình cứu nước gồm 44 điểm mà tinh thần cơ bản là cốt thực hiện

được hai điều: “Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn được độc lập. Làm cho dân Việt

Nam được sung sướng tự do” vàTuyên ngôn của Mặt trận Việt Minh: “Việt Minh

chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu

nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng

nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn” đã quy tụ được sức mạnh đoàn kết

của mọi người dân Việt Nam yêu nước cho ngày vùng lên của toàn dân tộc.

Đầu năm 1945, tình hình thế giới có sự chuyển biến nhanh lẹ và ở trong

nươ c, phong tra o đa u tranh cu a qua n chu ng pha t trie n ma nh me . Trước sự kiện

Nhật đảo chính Pháp, ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ

thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" nhằm phát động cao trào

kháng Nhật cứu nước (thay đổi hình thức tuyên truyền, tổ chức đấu tranh để

thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa, tập dượt quần chúng tiến lên khởi nghĩa

Page 52: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

giành chính quyền). Tháng 8/1945, khi thời cơ giành thắng lợi đã tới, đêm

13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1: Hiệu triệu toàn dân đứng lên

tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 14/8/1945, Hội nghị toàn quốc của

Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định Tổng khởi nghĩa trong toàn

quốc, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Ngày 16 -

17/8/1945, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào, tán thành chủ trương Tổng khởi

nghĩa của Đảng... Thực hiện lời kêu gọi của Người: “Giờ quyết định cho vận mệnh

dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng

cho ta”, cả dân tộc Việt Nam muôn người như một đã vùng lên, giáng một đòn

quyết định vào các cơ quan đầu não, làm tê liệt mọi sự kháng cự của phát xít Nhật

và bọn tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, thông qua Mặt trận Việt

Minh, dân tộc ta không những đã đoàn kết lại mà lần đầu tiên đoàn kết có hiệu

quả cao nhất. Ch nh v va y, ta t cả những quyết định của Đảng, của Chủ tịch Ho Ch

Minh va Vie t Minh đe u được tuyệt đại đa số qua n chu ng nha n da n, kể cả các lực

lượng vốn đứng ngoài Mặt trận Việt Minh ủng hộ. Sức mạnh vật chất, lực lượng

vật chất của nhân dân, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được hun đúc, bồi đắp trong

lịch sử, được phát triển và thực hiện theo nguyên tắc: không phân biệt dân tộc,

tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, mọi thành phần kinh tế, mọi giới và mọi thành viên

trong đại gia đình dân tộc Việt Nam quy tụ trong Mặt trận Việt Minh đã góp phần

làm lên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945.

2. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, Hồ Chí Minh và Đảng ta

đã không chỉ kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết của chủ nghĩa yêu nước

Việt Nam mà còn kết hợp nguyên lý mácxít về vai trò, sức mạnh của quần chúng

nhân dân trong lịch sử nhằm nâng tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc lên một tầm

cao mới. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, Người và Đảng đã không

ngừng thực hiện và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên cơ

sở lấy dân làm gốc, kết hợp truyền thống với hiện đại, kết hợp sức mạnh dân tộc

với sức mạnh thời đại. Nhận thức sâu sắc rằng, đoàn kết là nguyên nhân,"đoàn kết

là sức mạnh, là then chốt của mọi thành công”, Hồ Chí Minh đã luôn chăm lo xây

dựng khối đại đoàn kết, thống nhất trong Đảng - hạt nhân của khối đại đoàn kết

toàn dân. Không phải ngẫu nhiên, ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc mà Hồ Chí Minh

giương cao lại hấp dẫn tất cả những người dân Việt Nam yêu nước và cả những

người dân yêu chuộng hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ trên toàn thế giới.

Lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam và Hồ

Chí Minh hơn 85 năm qua đã chứng minh rằng: sức mạnh vô địch của khối đại

đoàn kết toàn dân tộc không chỉ có được từ yếu tố truyền thống, đó còn là quá

trình củng cố, bồi đắp và nhân nguồn sức mạnh nội sinh của cả dân tộc trên cơ sở

kiên định mục tiêu, đó là độc lập dân tộc và CNXH.

Triết lý nhân sinh - hành động của Hồ Chí Minh “làm cho đồng bào ta ai

cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" và tấm lòng yêu nước, thương

dân, tin dân, kính trọng dân của Người đã quy tụ xung quanh Người hết thảy

Page 53: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

những người Việt Nam yêu nước, không phân biệt trẻ, già, trai, gái, tôn giáo, đảng

phái. Không chỉ dừng lại ở việc kêu gọi "đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng tâm"

hay "đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết", Hồ Chí Minh - linh hồn của khối đại đoàn

kết toàn dân tộc đã cảm hoá, tập hợp, quy tụ mọi người dân Việt Nam yêu nước

qua mỗi chặng đường cách mạng bằng tấm lòng trung với nước, hiếu với dân của

mình. Uyển chuyển, hài hoà, bao dung trong cả tư tưởng - hành động - đạo đức,

đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh không đơn giản chỉ là phương pháp tập

hợp, tổ chức lực lượng cách mạng, mà cao hơn thế, đó là một bộ phận hữu cơ, gắn

bó trong đưòng lối chiến lược của Đảng Cộng sản, đồng thời trở thành động lực

của cách mạng. Vì vậy, cuộc cách mạng Hồ Chí Minh lựa chọn và kiên trì thực hiện

"không chỉ đấu tranh cho một lá cờ, cho một sự giải phóng bề mặt bên ngoài.

Người muốn tiến hành một cuộc chiến đấu cho phẩm giá con người, cho sự giải

phóng và phúc lợi của toàn dân"[5] đã hấp dẫn hết thảy mọi người.

Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ đoàn kết, thống nhất cho nhân dân Việt

Nam ở mọi thế hệ, mọi thành phần dân tộc là bởi rằng, Hồ Chí Minh là Người luôn

chủ trương "bỏ qua những dị biệt nhỏ, giữ lấy cái tương đồng lớn". Nguyên tắc "dĩ

bất biến, ứng vạn biến" của Hồ Chí Minh đã trở thành phương châm xử lý trong

các vấn đề quốc gia và quốc tế. Hồ Chí Minh "hoà mà không tư", nên những lời kêu

gọi, những khẩu hiệu về đại đoàn kết mà Người nêu ra đã nhanh chóng đi vào lòng

người. Hồ Chí Minh - Người bắt nhịp bài ca Kết đoàn, Người chỉ huy dàn hợp

xướng đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam đã luôn sáng suốt, sử dụng có hiệu quả

các hình thức vận động quần chúng trên cơ sở xoá bỏ thành kiến, thật thà hợp tác,

cô lập lực lượng thù địch, nhằm tạo ra nguồn sức mạnh vô địch của dân tộc Việt

vẫn luôn có sức sống bất diệt.

3. Xuyên suốt trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta

đã xác định: đoàn kết là một chính sách dân tộc, là phương pháp cách mạng, là

nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, bài học về phát huy sức

mạnh khối đại đoàn kết trong Cách mạng Tháng Tám không chỉ thể hiện t nh ca ch

ma ng triệt để ma co n ke t tinh gia tri va n ho a, tinh tha n, y ch quật cường của một

dân tộc anh hùng với truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Không chỉ khơi dậy nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc, Hồ Chí Minh và Đảng ta

đã phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc

với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới

cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

70 năm trôi qua kể từ thắng lợi của cuộc cách mạng vĩ đại mùa thu năm

1945 ấy, một dân tộc Việt Nam đoàn kết “đồng tâm, đồng chí, đồng lòng” vượt qua

mọi hiểm nguy, thách thức đã giành thắng lợi trong các cuộc trường chinh chống

thực dân và đế quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia đã,

đang ngày một phát triển trong hành trình hướng tới tương lai, kiên định mục

tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có

thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp quần chúng

cho phù hợp, nhưng đại đoàn kết toàn dân tộc luôn luôn được thấu triệt là vấn đề

Page 54: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

sống còn của cách mạng. Đại đoàn kết toàn dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm

vụ hàng đầu của cách mạng, được xây dựng trên cơ sở lấy lợi ích tối cao của đất

nước và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng; kết hợp hài hoà lợi

ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích gia đình với lợi ích xã hội, lợi ích giai cấp với

lợi ích dân tộc.

Trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế, đứng trước cả thời

cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, nhất là khi các thế lực thù địch thực

hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với thủ đoạn hết sức thâm độc, nguy hiểm

nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta; lơ i du ng ca c va n đe “nha n quyền”, “dân

tộc”, “tôn giáo” nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ giữa Đảng,

Nhà nước với nhân dân ta; thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”... thì hơn bao

giờ hết bài học về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Cách

mạng Tháng Tám 1945 lại càng có ý nghĩa biết nhường nào. Để nhân nguồn sức

mạnh nội sinh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh đó

trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là ngăn chặn, làm thất bại mọi

âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững môi trường hòa

bình cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, thì “trong toàn bộ hoạt động

của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”[6], xây dựng và phát

huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Thấu triệt tinh thần của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội (1991) về xây dựng khối liên minh công nhân - nông dân - trí

thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Nghị quyết Hội nghị Trung

ương 7 khóa IX về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” ra đời đã nhấn mạnh đại đoàn kết

toàn dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp đó, Đại hội XI của Đảng (1/2011) tiếp

tục khẳng định: “Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược cách mạng Việt

Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định

bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm

2011) đã nêu bài học thứ 2 trong 5 bài học kinh nghiệm là: "Sự nghiệp cách mạng

là sự nghiệp của nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch

sử. Trong toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng

chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân

dân. Quan liêu tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn

lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của

Đảng”[7]…

Từ chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vận động tất cả lực lượng của mỗi

một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn

dân”[8] và quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm về đại đoàn kết toàn dân tộc

trong Cách mạng Tháng Tám, thiết thực đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào

thực tiễn cuộc sống, để nhân nguồn sức mạnh của lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực,

Page 55: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

tự cường, ý thức trách nhiệm và quyền làm chủ của nhân dân, vai trò của khối đại

đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN,

cần phải chú trọng những nhiệm vụ sau:

Một là, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường

xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn; nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm

chất đạo đức và năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phẩm chất của cán

bộ, đảng viên để Đảng luôn đoàn kết, thống nhất, thực sự trong sạch, vững mạnh.

Thực hiện nghiêm túc lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết là một

truyền thống cực kỳ quí báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương

đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết của Đảng như giữ gìn con người của

mắt mình”, làm cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Hai là, các cấp ủy đảng từ Trung ương xuống địa phương cần phải thường

xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước về công tác vận động quần chúng, nhất là Nghị quyết 25-NQ/TW ngày

3/6/2013 của Đảng về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác dân vận trong tình hình mới”. Từ đó, góp phần nâng cao nhận thức cho đội ngũ

cán bộ, đảng viên về yêu cầu, mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng

khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tinh thần trách nhiệm trong tổ chức thực hiện

chiến lược đại đoàn kết.

Ba là, nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm của hệ thống chính

trị, nhất là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân các cấp trong việc

vận động nhân dân, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao chất

lượng công tác tiếp dân, giải quyết các kiến nghị, đề xuất của nhân dân; thực hiện

tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn,

tạo sự đồng thuận trong nhân dân; tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân tham

gia tích cực trong thực hành dân chủ, giám sát quyền lực nhà nước...

Bốn là, đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước,

các cuộc vận động xã hội sâu rộng trong nhân dân, cách thức tổ chức phù hợp với

yêu cầu nhiệm vụ trong từng thời kỳ; thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân

hưởng ứng, tham gia, góp phần phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội… tạo sự đồng thuận

cao trong xã hội.

Năm là, đẩy mạnh cuộc đấu tranh và ngăn chặn có hiệu quả tệ quan liêu,

tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân và sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một

bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Hướng về cơ sở, chú trọng cơ sở, từng bước

giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc… để phòng và chống âm mưu “diễn biến

hoà bình”, chống lại thủ đoạn quyết liệt của các thế lực thù địch nhằm tranh giành

quần chúng, chia rẽ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, chia rẽ khối

đại đoàn kết toàn dân tộc./.

TS. Văn Thị Thanh Mai

Page 56: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996, t.3, tr.1

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.262

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.266

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.198

[5] Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. KHXH, H, 1990, tr.42

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.

Sự thật, H, 1987, tr.213

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.

Chính trị quốc gia- Sự thật, H, 2011, tr.65

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.698

http://www.tuyengiao.vn/Home/70-nam-cach-mang-thang-

8/79004/Nhan-nguon-suc-manh-khoi-dai-doan-ket-toan-dan-trong-cach-

mang-Thang-Tam

Page 57: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

THẮNG LỢI CỦA SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kỳ tích đầu tiên của dân

tộc Việt Nam trong thế kỷ 20, là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong

đó, sức mạnh của nhân dân Việt Nam đoàn kết thành một khối vững chắc,

kiên quyết đấu tranh giành độc lập, tự do là một nhân tố cực kỳ quan trọng.

Quán triệt sâu sắc nguyên lý cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng

ta chủ trương thống nhất và huy động tối đa sức mạnh toàn dân tộc vào cuộc đấu

tranh giành độc lập dân tộc. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương

tháng 11-1939 khẳng định: Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để

đánh đổ đế quốc Pháp. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng

(tháng 5-1941) đề ra quyết sách tập hợp lực lượng toàn dân dưới một hiệu cờ

thống nhất tất cả các tầng lớp, các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo,

có tinh thần chống Pháp - Nhật, giành lại độc lập cho nước nhà vào một mặt trận

“có tính chất dân tộc” là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt

Minh).

Với tên gọi và mười chính sách có sức thức tỉnh tinh thần yêu nước nồng

nàn của nhân dân, hàm chứa tính chất dân tộc sâu sắc, tính chất dân chủ rộng rãi,

mở ra khả năng giải quyết hài hòa lợi ích tối cao của dân tộc với quyền lợi thiết

thực của các tầng lớp nhân dân, hướng tới thiết lập một chế độ thực sự tự do, dân

chủ, phát triển toàn diện, công bằng và hạnh phúc cho nhân dân, Mặt trận Việt

Minh có sức thu hút, quy tụ mạnh mẽ đối với toàn thể dân tộc và đồng bào sinh

sống ở nước ngoài.

Dưới ngọn cờ cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, sức mạnh quật cường, tinh

thần sáng tạo của nhân dân được nhân lên gấp bội. Quần chúng nhân dân được tổ

chức thành các đoàn thể cứu quốc: Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc,

Công nhân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu vong…, tổ chức những đạo

quân chính trị và vũ trang tại khắp mọi miền đất nước; được huy động vào trận

tuyến đấu tranh trên quy mô cả nước và từng địa phương, theo yêu cầu của từng

giai đoạn trong tiến trình cách mạng và đạt tới hiệu quả cao nhất. Càng tiến gần

tới cuộc Tổng khởi nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất càng mở rộng, thu nạp

thêm nhiều tổ chức yêu nước, thu hẹp lực lượng chống đối và tầng lớp trung gian,

tạo nên một lực lượng hùng mạnh.

Chính nhờ sự hy sinh, sáng tạo của nhân dân trong Mặt trận Việt Minh mà

các cơ quan lãnh đạo của Đảng được bảo vệ trước sự đánh phá điên cuồng của kẻ

thù và các hoạt động của Đảng được triển khai nhanh chóng, rộng khắp.

Sự thống nhất ý chí và hành động của toàn dân trong Mặt trận đã làm thất

bại mọi mưu đồ của các thế lực thù địch hòng chia rẽ, lôi kéo một bộ phận cư dân

chống đối cách mạng. Cho dù trong tiến trình chuẩn bị khởi nghĩa, hàng ngàn cán

bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng bị địch bắt, sát hại, khi tiến hành Tổng

khởi nghĩa, toàn Đảng chỉ còn hơn 1.300 đảng viên, nhân dân ta vẫn gửi trọn niềm

Page 58: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

tin ở sự lãnh đạo của Đảng, ra sức chuẩn bị lực lượng hướng tới mục tiêu giành

chính quyền.

Khối đoàn kết, thống nhất lực lượng toàn dân tộc cũng là một cơ sở để cách

mạng Việt Nam tăng cường đoàn kết quốc tế, gắn kết cuộc đấu tranh của nhân dân

Việt Nam với lực lượng chống chủ nghĩa phát-xít trên thế giới.

Đúng như nhận định của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong thư gửi đồng bào ngày

6 tháng 6-1941, muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần toàn dân đoàn kết, với sức

mạnh của toàn dân tộc được tổ chức, mang đậm tinh thần chủ động, tự cường, sẵn

sàng đem sức ta mà tự giải phóng cho ta, ngay khi thời cơ thuận lợi xuất hiện,

dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân nhất tề đứng lên

làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập nước Việt Nam

Dân chủ cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta.

Trải qua 70 năm kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công,

phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân dân ta đã làm nên

những kỳ tích trong đấu tranh cách mạng, hoàn thành mục tiêu độc lập dân tộc,

thống nhất đất nước và đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố là nhân tố bảo đảm ổn định tình hình

chính trị - xã hội, tăng trưởng kinh tế cao, thực hiện xóa đói, giảm nghèo, cải thiện

đời sống nhân dân, thực hiện an sinh xã hội,…

Thực tiễn và yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh nhiều thời

cơ, thuận lợi, đan xen không ít khó khăn, thách thức càng đòi hỏi Đảng và nhân

dân ta phải không ngừng củng cố và tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết

toàn dân tộc. Để tạo động lực và nhân lên sức mạnh tổng hợp đó, chúng ta phải

tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, thực hành dân chủ rộng

rãi, tạo dựng và bảo đảm đồng thuận xã hội; động viên toàn dân, khơi dậy ý thức,

tình cảm dân tộc, lòng yêu nước chân chính của nhân dân và tạo điều kiện cho

nhân dân trong nước và đồng bào định cư ở nước ngoài phát huy lòng yêu nước,

đồng tâm hiệp lực cống hiến sức lực, tài năng phụng sự Tổ quốc. Đồng thời, phải

bảo đảm những lợi ích thiết thực, những quyền lợi chính đáng của nhân dân;

người dân phải được hưởng thụ bình đẳng những thành quả của sự nghiệp đổi

mới; gắn những lợi ích, quyền lợi của các tầng lớp nhân dân với vận mệnh và lợi

ích dân tộc; gắn thực hành, mở rộng dân chủ với tăng cường kỷ cương.

Đại đoàn kết toàn dân tộc là quy luật giành thắng lợi của dân tộc Việt Nam

trong dựng nước và giữ nước, cũng chính là động lực phát triển, hướng tới hệ

mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

PGS, TS TRẦN TRỌNG THƠ

Trần Trọng Thơ. Thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc// Nhân

dân.- 2015.- Ngày 17 tháng 8.- Tr.1,3.

Page 59: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN QUYẾT: KÝ ỨC XANH NGUYÊN

Trong số những nhân chứng lịch sử của những ngày diễn ra Tổng khởi nghĩa

Tháng Tám 1945 mà tôi đã được gặp là Đại tướng Nguyễn Quyết - người

được bầu vào BCH Trung ương 3 khóa liên tục từ khóa IV-khóa VI.

Đại tướng Nguyễn Quyết.

Ông đã kể lại rành rọt, phân tích thấu đáo vì sao lại có một cuộc chiến đấu

trong một thành phố lớn, một bên là nhân dân với bên kia là lực lượng vũ trang

hiện đại. Thế nhưng, lực lượng yếu hơn lại giành được chiến thắng vĩ đại.

Trọng trách

Vào thẳng câu chuyện của những ngày này cách đây tròn 70 năm, Đại tướng

Nguyễn Quyết cho biết, Cách mạng Tháng Tám đặt ra mục tiêu là: giành chính

quyền, đánh đổ kẻ thù, phát xít, phong kiến để giành độc lập tự do cho đất nước.

Mục tiêu là vậy, nhưng trong nước ta, đến thời điểm trước ngày 19-8-1945, chưa

có một tấc đất tự do.

Có quá nhiều việc phải làm – vị Bí thư Thành ủy Hà Nội, Uỷ viên Ủy ban

Quân sự cách mạng Hà Nội, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà

Nội lúc bấy giờ nói.

Hai yêu cầu được đặt ra lúc đó là phải xây dựng lực lượng mạnh và có

phương thức tiến công đúng, đồng thời phải nhanh chóng chớp thời cơ, nếu

không chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Muốn giành độc lập trên toàn quốc, Thủ đô phải đi

đầu. Phải giành chính quyền ở Hà Nội- nhiệm vụ nặng nề đặt lên vai vị Bí thư

Thành ủy và các đồng chí của ông.

Đại tướng Nguyễn Quyết cho biết: Hà Nội có vị trí chiến lược đặc biệt, lúc

đó là cơ quan đầu não của phát xít Nhật. Nếu không “thanh toán” được cơ quan

đầu não này, cách mạng rất khó thành công. Thế nhưng, để đánh bại cơ quan đầu

não của địch không hề dễ. Từ giai đoạn 1930-1944 đã có tới 17 lần Thành ủy Hà

Nội được thành lập, nhưng hoặc cơ sở bị bại lộ, hoặc Bí thư Thành ủy bị địch bắt.

Page 60: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Khi nhận nhiệm vụ làm Bí thư Thành ủy Hà Nội, trực tiếp chỉ đạo quân và

dân kháng chiến, nhiều anh em đã nói rằng, “cửa đó là cửa tử”, tôi sẽ trở thành

con thiêu thân mà thôi. Còn tôi thì nói rằng, đã dấn thân vào con đường cách

mạng, thì “ra đi chẳng tiếc đời xanh” - ông nhớ lại chuyện xưa.

Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, tôi đã tìm hiểu rất kỹ lý do vì sao các vị Bí thư

Thành ủy tiền nhiệm lại bị bắt hoặc cơ sở bị lộ thì rút ra một điều: Phải có căn cứ

an toàn bảo vệ tổ chức của ta. Trong khi đó, trước đây cơ sở của ta toàn đóng

trong nội thành. Tôi quyết định cho xây dựng căn cứ tại khu vực ngoại thành ở Đại

lý Hoàn Long (vùng Nghĩa Đô bây giờ). Từ ngoại thành, căn cứ cách mạng này có

nhiệm vụ chỉ đạo các hoạt động trong nội thành.

Tranh thủ, vận động đối phương

Đại tướng Nguyễn Quyết cho biết, để tiến vào nội thành chỉ có một cách duy

nhất: Tranh thủ vận động lực lượng đối lập, biến họ thành lực lượng của ta, phải

cách mạng hóa họ. Đảng đặt vấn đề, phải tổ chức những người đã từng làm việc

cho Pháp, Nhật, cảm hóa họ vào Quân nhân cứu quốc, Việt Nam cứu quốc.

Các kế hoạch vận động, cảm hóa đã được làm từng bước,bước đầu là phải

cài người vào làm việc tại đơn vị của địch. Nhờ thế, kế hoạch vận động đã có

những kết quả đáng mừng. Thậm chí chúng ta còn vận động được cả Trưởng ty

cảnh sát đi theo cách mạng - Đại tướng Nguyễn Quyết nói.

Với câu hỏi vì sao chúng ta cảm hóa được những người đã từng làm việc ở

chiến tuyến bên kia? Đại tướng Nguyễn Quyết cho rằng, phải có phương thức

nhưng quan trọng là phải có thời cơ. Thời cơ của cách mạng đã đến sau ngày Nhật

đảo chính Pháp 9/3/1945 - ông Nguyễn Quyết nói. Sau khi bị Nhật khủng bố

những người đã từng có thời làm cho Pháp hết sức dao động, vì thế, chúng ta đã

có điều kiện tranh thủ kéo họ đứng về phía chúng ta.

Thời cơ đã đến phải chủ động tiến công

Đêm 14 và ngày 15/8/1945, Xứ ủy Bắc kỳ đã họp ở làng lụa Vạn Phúc (Hà

Đông), quyết định lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền trong phạm vi 10 tỉnh

đồng bằng Bắc Bộ. Riêng Hà Nội, Xứ ủy thấy cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, nhưng

phải thành lập ngay Ủy ban Quân sự để chuẩn bị khởi nghĩa.

Nói rõ vì sao Trung ương chưa quyết định đánh ở Hà Nội, Đại tướng

Nguyễn Quyết cho biết, vì đây là cơ quan đầu não của địch ở Đông Dương. Tại đây,

quân Nhật còn nguyên lực lượng, nếu phát động khởi nghĩa, Hà Nội có thể gặp khó

khăn. Hà Nội khó khăn sẽ ảnh hưởng tới các địa phương khác.

Dù vậy, tối 17/8/1945, sau khi phá thành công cuộc mít tinh của Tổng hội

viên chức (thân Nhật) nhằm ủng hộ chính quyền tay sai do Nhật mới dựng lên và

biến nó thành cuộc mít tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng của ta; nhận thấy

thái độ của Nhật án binh bất động, cố thủ trong doanh trại, Thành ủy Hà Nội ngay

trong đêm đã có cuộc họp khẩn cấp dưới sự chủ trì của Bí thư Nguyễn Quyết.

Tại cuộc họp, ông đã đưa ra một quyết định lịch sử: Hà Nội sẽ tiến hành

khởi nghĩa vào ngày 19/8/1945, đánh đổ chính quyền tay sai, thành lập chính

quyền cách mạng. Đối với quân Nhật, chủ trương của ta là giữ thái độ trung lập,

Page 61: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

cốt sao chúng không can thiệp vào công việc khởi nghĩa. Lực lượng khởi nghĩa chủ

yếu là quần chúng cách mạng, có lực lượng cách mạng làm nòng cốt.

Đại tướng Nguyễn Quyết cho biết, để ra quyết định như vậy, thật sự là cân

não. Cuộc họp kéo dài suốt đêm, từ 8h tối hôm trước đến tận sáng hôm sau với 2

luồng ý kiến trái chiều. Luồng ý kiến thứ nhất là phải tiêu diệt địch, vì địch yếu rồi.

Thứ hai là, phải chờ Trung ương. Cái khó nhất là chưa có chỉ thị của Trung ương.

Dù vậy, không thể không quyết định, vì nếu chờ thì sẽ mất thời cơ.

Đại tướng Nguyễn Quyết tâm sự: “Đó là một quyết định táo bạo nhưng đã

được cân nhắc kỹ lưỡng. Bởi khi đó, nếu không giành thắng lợi thì người đứng

đầu phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Nhưng ông tin đây là quyết định sáng suốt

của cá nhân ông cũng như tập thể những người đã gắn bó, sống chết với phong

trào cách mạng. Nếu tuột mất cơ hội ngàn năm có 1 này rồi mới tiến hành khởi

nghĩa, hay cứ kiên quyết đánh Nhật thì chưa biết hậu quả sẽ thế nào khi quân

Đồng minh đến Hà Nội.

Về ý kiến cho rằng, chiến thắng của Hà Nội là do may mắn mà có, Đại tướng

Nguyễn Quyết cho biết, đây là suy nghĩ hoàn toàn sai lầm. Nếu chỉ nhìn vào tương

quan lực lượng giữa hai bên thì Hà Nội không thể phát động khởi nghĩa và giành

thắng lợi. Nói tới khởi nghĩa tức là vấn đề chính quyền. Kẻ thù không dễ gì từ bỏ

chính quyền-công cụ thống trị của chúng. Chúng sẽ dùng bạo lực quân sự để

chống lại. Hà Nội là nơi Bộ Tư lệnh Quân đoàn 38 của Nhật đóng, chúng còn

nguyên vẹn về tổ chức với hơn 1 vạn sĩ quan và binh lính, trang bị hiện đại. Lực

lượng bảo an binh cũng hơn 1 ngàn tên và bộ máy cảnh sát khá lớn. Trong khi lực

lượng của ta chỉ có 700 người với vũ khí thô sơ - Tướng Quyết nhận định.

Tuy tổ chức và trang bị của lực lượng vũ trang địch chưa tổn thất nhưng

tinh thần của chúng rệu rã. Binh lính Nhật chỉ chờ lệnh hạ vũ khí đầu hàng của

Nhật Hoàng để trở về nước với gia đình, không còn ý chí chiến đấu. Còn binh lính

người Việt làm cho Nhật cũng mất hết tinh thần chiến đấu. Trong khi lực lượng

cách mạng quần chúng, tinh thần khí thế lên rất cao. Nếu những người lãnh đạo

khởi nghĩa có phương sách mềm dẻo ôn hòa, thuyết phục các đơn vị Nhật “đứng

ngoài cuộc” thì khởi nghĩa sẽ thuận lợi, không đổ máu.

Tướng Nguyễn Quyết kể rằng, ông chính là người chỉ huy đoàn biểu tình đi

chiếm trại bảo an binh ở số nhà 40 Hàng Bài. Đây là căn cứ quân sự lớn của ngụy

quyền ở Bắc Kỳ. Chỉ huy trại bảo an binh cố trì hoãn, định cố thủ. Chúng đóng chặt

cổng nhưng đã bị đội quân của ta phá cổng, buộc chỉ huy trại ra gặp.

Trước khí thế cách mạng sục sôi của ta, chỉ huy trại bảo an binh đã chấp

nhận đầu hàng. Tưởng rằng chiếm bảo an binh dễ dàng nhưng sợ ta chiếm trại sẽ

lấy vũ khí tiêu diệt chúng, quân Nhật đã đem xe tăng và binh lính đến bao vây, uy

hiếp đòi chiếm lại trại. Bằng sự linh hoạt, khôn khéo trong ứng xử, nhưng kiên

định trong nguyên tắc và kiên quyết trong hành động, Bí thư Thành ủy Nguyễn

Quyết đã chỉ đạo đoàn biểu tình đấu tranh khôn ngoan với địch bằng phương thức

tuyên truyền, thuyết phục làm cho quân Nhật không hành động liều lĩnh mà quay

về doanh trại. Cứ như vậy, bằng phương thức vận động thuyết phục chứ không

Page 62: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

dùng vũ trang, quân và dân Hà Nội vùng dậy khởi nghĩa khắp nơi giành chính

quyền về tay nhân dân.

Nói về bài học kinh nghiệm đặt ra trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền

ở Hà Nội, Tướng Quyết cho rằng, lực lượng quyết định làm nên thắng lợi chính là

nhân dân. Tinh thần quyết chiến, sự quả cảm quyết hy sinh vì Tổ quốc của quân

dân Thủ đô dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh cũng như sự sáng tạo, linh

hoạt của Thành ủy Hà Nội đã làm nên chiến thắng.

Nhận xét về chiến công này, chính Tổng Bí thư Trường Chinh lúc đương

nhiệm đã từng viết: “Nhiệt tình cách mạng của quần chúng, tinh thần sáng tạo của

Đảng bộ địa phương đã biến chủ trương đúng đắn của Đảng thành thắng lợi.

Chúng tôi nghĩ Hà Nội thắng lợi, cả nước nhất định sẽ noi gương Hà Nội, cách

mạng cả nước nhất định thành công”.

Lục Bình (ghi)

Lục Bình. Ký ức xanh nguyên// Đại đoàn kết.- 2015.- Ngày 13 tháng 8.- Tr.3.

Page 63: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

MỘT ĐỜI ĐỒNG HÀNH CÙNG CÁCH MẠNG

Dù đã bước vào tuổi 100, nhưng cụ Nguyễn Văn Trân vẫn còn minh mẫn

lắm. Bằng giọng trầm trầm, câu chuyện cuộc đời của người chiến sĩ cách

mạng đồng hành cùng đất nước như thước phim quay chậm đã được cụ kể

lại với Đại Đoàn Kết.

Cụ Nguyễn Văn Trân

Thành lập Hội Ái hữu, làm báo Cờ Giải phóng

“Tôi là Nguyễn Văn Trân, sinh năm 1916 tại thôn Phù Xá, Văn Môn, Yên

Phong, Bắc Ninh trong một gia đình nghèo đông con. Năm 15 tuổi, tôi lên Hà Nội

học nghề in. Tại đây, tôi đã gặp được ánh sáng của Đảng, gặp những người lãnh

đạo của Đảng dìu dắt, tôi đã may mắn được đứng trong hàng ngũ của Đảng vào

tháng 3 năm 1936. Từ đó, tôi đã nguyện trọn đời đi theo cách mạng, đi theo con

đường của Chủ tịch Hồ Chí minh” - giọng ông chắc nịch.

Những năm đó, Mặt trận Bình dân giành được thắng lợi ở Pháp, tình hình

chính trị ở Đông Dương nói chung, ở Việt Nam nói riêng có thuận lợi cho phong

trào cách mạng. Một số tờ báo Bạn dân, Tin tức, Thời thế… được ra công khai

tuyên truyền về chính trị, về Đảng Cộng sản. Ông Nguyễn Văn Trân đã viết bài

tuyên truyền về Đảng và là một trong số các đảng viên đứng ra thành lập Hội Ái

hữu.

Khi chiến tranh thế giới thứ II nổ ra, do nhiều nguyên nhân, phong trào

cách mạng đi vào thoái trào. Các tờ báo của Đảng bị cấm hoạt động, một số đảng

viên phải rút vào bí mật. Ông Nguyễn Văn Trân có tên trong sổ đen của Sở Mật

thám Pháp. Ông được Trung ương bí mật đưa về làng Vạn Phúc-Hà Đông, tiếp tục

cùng một số đảng viên khác in tờ Cờ Giải phóng. In được vài số thì cơ sở báo bị bại

lộ.

“Tôi và một thợ in tên là Viên bị bắt đúng vào ngày Tết ông Táo năm 1940”

- ông nói. Hai ông bị địch đưa về phủ Hoài Đức rồi chuyển ra Sở Mật thám Hà Nội.

Kể đến đây người chiến sĩ cộng sản một thời dừng lại, ông lặp đi lặp lại tới ba lần

Page 64: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

chuỗi ngày ông bị bắt và bị đi đầy ở Nhà tù Sơn La. “Ngay trong tối hôm đó, lần

đầu tiên tôi biết thế nào là đòn tra tấn của địch” - ông kể.

Tuy nhiên, kẻ địch có tra khảo, tra tấn dã man đến mấy cũng không khai

thác được gì từ người chiến sỹ cách mạng kiên trung này. “Tôi là người thất

nghiệp, được người ta thuê in ấn thì làm chứ chẳng biết gì đảng phái, Cộng sản là

gì hết”. Lần nào ông cũng trả lời như vậy. Tra tấn chán chê mà không khai thác

được bất kỳ tin tức gì, mật thám Pháp đành đưa ông ra tòa kết án 10 năm tù khổ

sai và đày ông lên Nhà tù Sơn La.

“Thủ lĩnh” của Nhà tù Sơn La

Thời Pháp thuộc, khắp dải đất hình chữ S, đâu đâu cũng nghe tiếng kêu oán

thán “nhà tù nhiều hơn trường học”; roi vọt nhiều hơn tình thương; nước mắt

nhiều hơn nụ cười”…Trong số những nhà tù kiểu Pháp, những bằng chứng sống tố

cáo tội ác của thực dân Pháp ở Việt Nam thì Nhà tù Sơn La là một trong những ví

dụ điển hình.

Tuy những chiến sĩ cách mạng bị tra tấn, hành hạ dã man, nhưng phong

trào cách mạng không hề vơi bớt bởi có những người như ông Nguyễn Văn Trân.

Tại đây, ông Trân thường xuyên lui tới các trại giam tập hợp và bồi dưỡng các tù

nhân và kết nạp họ vào hàng ngũ của Đảng. Một chi ủy bí mật đã được thành lập

ngay trong tù, do ông Nguyễn Văn Trân lãnh đạo.

Ông Trân còn được phân công viết và cất giữ tài liệu tuyên truyền về Đảng.

Mọi thông tin đặc biệt đó được viết vào tờ giấy cuốn thuốc lá, tờ giấy chỉ to bằng

bao diêm, được cất giấu bí mật, đến người ở cùng phòng cũng không hay biết. Từ

ngày có tổ chức đảng ở đây, các cuộc đấu tranh trong Nhà tù Sơn La đã dấy lên

mạnh mẽ.

Tháng 8 năm 1943, chi bộ nhà tù quyết định tổ chức vượt ngục cho 4 người

gồm: Nguyễn Lương Bằng, Trần Đăng Ninh, Lưu Đức Hiểu và Nguyễn Văn Trân.

Tuy nhiên làm thế nào để vượt ngục khi mà có tới 5 lần cửa có lính canh gác suốt

ngày đêm? Nếu thoát khỏi nơi này cũng dễ bị lạc giữa rừng sâu, dễ bị làm mồi cho

thú dữ. Trước đó, đã từng có nhiều người không chịu được cảnh lao tù đã vượt

ngục. Khi địch bị bắt lại chúng đã chặt đầu bêu trước cổng nhà ngục để thị uy.

Ngày 3/8/1943 ông Trân và 3 đồng chí đã tiến hành lần lượt các bước đánh

lừa lính canh và vượt ngục. Các ông đã cải trang thành người Thái nhanh chóng

nấp vào trong rừng sâu. Khi phát hiện có người vượt ngục, lính Pháp lùng sục

khắp nơi. Chúng đã suýt bắt lại các chiến sĩ Cộng sản vượt ngục này ở bến phà

Suối Rút.

Nhanh trí, ông Trân kéo các bạn vào một quán gần đó giả vờ mua hàng rồi

lẩn vào trong đám đông nhốn nháo dưới bến phà. Bằng sự mưu trí, dũng cảm

cùng sự may mắn, các chiến sỹ cách mạng đã thoát khỏi địa ngục trần gian về với

tổ chức để nhận những nhiệm vụ mới.

Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ

Sau cuộc vượt ngục, ông Nguyễn Văn Trân được Trung ương quyết định

cho tham gia Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, phụ trách công tác dân vận. Ông sống

Page 65: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

trong lòng Hà Nội ở với công nhân, sinh viên. Với chiếc xe đạp, ngày ngày, ông đi

khắp nơi để tuyên truyền cách mạng. Tháng 7/1944 ông nhận nhiệm vụ là Bí thư

Xứ ủy Bắc Kỳ.

Trong thời kỳ này ông đã làm được nhiều việc lớn đó là tổ chức để đồng chí

Văn Tiến Dũng vượt ngục thành công và tổ chức các phong trào hoạt động ở một

số địa phương. Hai việc quan trọng mà Xứ ủy phải thực hiện ngay lúc bấy giờ là

gây dựng tài chính và tổ chức sản xuất vũ khí.

Câu chuyện gián đoạn vì ông muốn kể lại những kỷ niệm đặc biệt một thời.

Ông nói rằng, cách mạng cần có tiền để chuẩn bị khởi nghĩa, muốn vậy phải vận

động sự ủng hộ của các nhà tư sản.

Ông kể: “Trong cuộc đời hoạt động cách mạng có rất nhiều chuyện đáng

nhớ, nhưng lần bán tín phiếu của Chính phủ cho ông Bát Tiên tôi không quên

được. Ông Bát Tiên là nhà tư sản lớn. Cuối năm 1943, được sự giới thiệu của anh

em, tôi đến thẳng nhà ông ở Đình Bảng. Tôi giải thích cho ông về tình thế đất

nước, xu thế cách mạng đang lên và kêu gọi mỗi người tùy khả năng công sức

đóng góp cho cách mạng. Ông Bát Tiên không lưỡng lự, vào tủ lấy 5.000 đồng

Đông Dương (lúc đó là lượng tài sản rất lớn) trao cho tôi. Tôi trao lại cho ông tờ

tín phiếu kháng chiến, nhỏ bằng cái phong bì hiện nay, in đen trắng có dấu đỏ của

Tổng bộ Việt Minh”.

Hà Nội những ngày toàn quốc kháng chiến

Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Nguyễn Văn Trân được Đảng và

Chính phủ cử làm Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Bắc Bộ. Khi nhận nhiệm vụ

này, ông đã khéo léo đưa được những đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng

thành công tác của Ủy ban Hành chính Bắc Bộ như: Xây dựng chính quyền mới các

cấp, đắp đê chống lụt, vận động sản xuất chống nạn đói, tổ chức bình dân học vụ,

tổ chức Tuần lễ Vàng, Quỹ Độc lập…

Cuối năm 1946, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Ông Nguyễn Văn

Trân được Trung ương và Bác Hồ điều về làm Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Ủy

ban Kháng chiến Hà Nội. Nhớ lại những ngày Hà Nội chuẩn bị kháng chiến, ông

Trân kể: “Có lần Bác Hồ đã gọi tôi, đồng chí Hoàng Văn Thái cùng một số đồng chí

ra báo cáo công việc. Bác hỏi: Các chú thấy tình hình quân Pháp thế nào? Nếu nổ

ra chiến tranh liệu chúng ta có thể giữ được bao lâu? Phải cố giữ một thời gian để

các tỉnh có thì giờ tổ chức và động viên quần chúng có kế hoạch đi vào cuộc kháng

chiến”. Mọi người chưa ai kịp nói gì, Bác đặt luôn câu hỏi: “Liệu có giữ Hà Nội

được 1 tháng không?”.

Đồng chí Hoàng Văn Thái đã nêu vấn đề: Để chiến đấu ở từng khu phố, từng

căn nhà cần phải tổ chức giao thông liên lạc chặt chẽ giữa các lực lượng chiến đấu.

Phải đục tường liên thông giữa các nhà trong các phố để khi tác chiến có thể di

chuyển lực lượng nhanh chóng và kín đáo. Ý kiến này đã được người dân Hà Nội

hoan nghênh ủng hộ và với tinh thần hăng hái, quyết chiến của quân dân Thủ đô

Page 66: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

có thể giữ Thủ đô được 1 tháng. Bác động viên chúng tôi rằng: “Dựa vào lực lượng

nhân dân thì các chú có thể làm tốt công việc”.

Quả thật, dù tương quan lực lượng giữa ta và địch rất chênh nhau, lính

Pháp gấp 3 lần quân đội cách mạng, nhưng với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc

quyết sinh”, quân và dân Thủ đô đã có những trận đánh vang dội khiến quân địch

khiếp sợ.

Đầu năm 1953, Đảng, Chính phủ quyết định mở chiến dịch tiêu diệt cứ

điểm Điện Biên Phủ, ông Nguyễn Văn Trân được Trung ương cử làm Phó Chủ tịch

Hội đồng cung cấp. Ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao

phó khi tổ chức tiếp tế đầy đủ, lương thực cho bộ đội để làm nên một Điện Biên

Phủ chấn động địa cầu.

Khi hòa bình lập lại ông lần lượt giữ các chức vụ Bộ trưởng Bộ Giao thông-

Bưu điện, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp

nặng… rồi lại trở về làm Bí thư Thành ủy Hà Nội sau đó là lãnh đạo Viện Nghiên

cứu Quản ký Kinh tế Trung ương…Dù ở bất kỳ cương vị nào ông cũng hoàn thành

xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Lục Bình (ghi)

Lục Bình. Một đời đồng hành cùng cách mạng// Đại đoàn kết.- 2015.- Ngày

14 tháng 8.- Tr. 3.

Page 67: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM QUA CON MẮT NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

70 năm qua, các sử gia, nhà nghiên cứu, nhà chính trị, quân sự và nhà báo

nước ngoài đã viết hàng trăm cuốn sách về cuộc Cách mạng Tháng Tám của

Việt Nam. Cho đến hôm nay, các tác phẩm này vẫn thu hút được sự quan tâm

lớn của dư luận.

Nhà sử học Na Uy X.Tôn-nét-xơn (S.Tonnesson) trong cuốn “The

Vietnamese Revolution of 1945-Roosevelt, Ho Chi Minh and de Gaulle in a World

at War” (Cách mạng Việt Nam 1945-Roosevelt, Hồ Chí Minh và De Gaulle trong

một thế giới chiến tranh) in năm 1991, cho rằng Hồ Chủ tịch đã thực hiện tổng

tuyển cử, thành lập chính phủ hợp pháp dựa trên quyền tự do dân chủ: “Cuộc cách

mạng ở Việt Nam năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, không chỉ

có vậy, đó còn là một cuộc cách mạng chính trị chống lại nền quân chủ thối nát và

là một cuộc cách mạng xã hội chống lại chủ đất và những người thu thuế”. Tôn-

nét-xơn cũng cho rằng: “Cách mạng Việt Nam quan trọng và không phải chỉ thuần

túy trong bối cảnh Việt Nam. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam nằm

trong những nguồn cảm hứng chủ yếu của một đường lối đấu tranh lớn khác sau

chiến tranh, đó là quá trình phi thực dân hóa. Trong các cuộc cách mạng cộng sản,

cách mạng của người Việt Nam nổi lên như là một trong những cuộc cách mạng có

sức sống và làm đảo lộn nhiều nhất”.

Cuốn sách “The Vietnamese Revolution of 1945 - Roosevelt, Ho Chi Minh and

de Gaulle in a World at War” (Cách mạng Việt Nam 1945 - Roosevelt, Hồ Chí Minh

và De Gaulle trong một thế giới chiến tranh) in năm 1991 của nhà sử học Na Uy

X.Tôn-nét-xơn. Ảnh: Amazon.com

Với nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu và sử gia người Pháp, thành công của

cuộc Cách mạng Tháng Tám của dân tộc Việt Nam là sự kiện đặc biệt ấn tượng. Họ

Page 68: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

thực sự quan tâm và dành nhiều thời gian để nghiên cứu, tìm hiểu. Một trong

những chuyên gia người Pháp được nhiều người biết tới là nhà sử học A.Rút-xi-ô

(Alain Ruscio). Ông đã có hơn 15 tác phẩm viết về lịch sử Việt Nam, các cuộc

kháng chiến, về Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam. Đã hơn 30 năm

nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, càng đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu, nhà sử học Rút-

xi-ô càng thấy những điều hấp dẫn và cảm phục trước những thắng lợi của nhân

dân Việt Nam trong các cuộc kháng chiến, đặc biệt là thắng lợi của Cách mạng

Tháng Tám. “Chiến thắng năm 1945 của Việt Nam không chỉ là sự kiện gây bất

ngờ, mà đó cũng là sự tất yếu mang tính lô-gíc trong lịch sử phong trào đấu tranh

của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam là dân tộc đầu tiên trong số các dân tộc

trên thế giới bị thực dân Pháp đô hộ đã thành công trong cuộc kháng chiến của

mình. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã có ảnh hưởng rất lớn tới

phong trào đấu tranh đòi độc lập của các nước thuộc địa trên thế giới lúc bấy giờ,

nhất là các nước ở châu Phi. Khi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có vai trò quan

trọng, là người đầu tiên tuyên bố độc lập của một nước thuộc địa”.

A.Rút-xi-ô còn phân tích, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa thực

dân vẫn còn tồn tại, khi đó, 1/3 các dân tộc trên thế giới phải sống dưới sự chiếm

đóng của thực dân Pháp, Anh và Bồ Đào Nha. Ông khẳng định: “Trong bối cảnh

như vậy, Việt Nam là một tấm gương, là biểu tượng của quá trình đấu tranh giành

độc lập; các dân tộc bị đô hộ cần phải lên tiếng”.

Nhà sử học nổi tiếng người Pháp S.Phuốc-ni-ô (Charles Fournieau) thì cho

rằng, cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam là cuộc cách mạng hết sức quan

trọng không chỉ đối với Việt Nam. Đây là cuộc cách mạng thực sự, với sự đồng

lòng, chung sức của cả dân tộc; là cuộc cách mạng lớn, của toàn dân tộc Việt Nam,

đứng lên giành độc lập dân tộc. Theo Phuốc-ni-ô, thực tế, cuộc cách mạng của Việt

Nam đã có tác động lớn trên thế giới, nhất là đối với các nước thuộc địa khi đó.

Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh dấu thời điểm quan trọng trong lịch

sử Việt Nam, phản ánh cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc Việt Nam chống

lại sự chiếm đóng của giặc ngoại xâm, đồng thời đánh dấu sự chuyển giao sang

thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Không những vậy, thành công của cuộc Cách

mạng Tháng Tám ở Việt Nam còn có ý nghĩa quốc tế, bởi lẽ đây là một trong

những phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đầu tiên trên thế giới. Đối với

phong trào cách mạng Đông Dương cũng như thế giới, Cách mạng Tháng Tám ở

Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng.

NGỌC HÀ

Ngọc Hà. Cách mạng Tháng Tám qua con mắt người nước ngoài//Quân đội

nhân dân.- 2015.- Ngày 19 tháng 8.- Tr.7.

Page 69: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

TIẾN BƯỚC CÙNG THỜI ĐẠI

Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945. Ảnh: Tư liệu.

9 giờ sáng ngày 2/9/1945.

Hơn hai vạn con Hồng cháu Lạc tề tựu tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Họ

chờ nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa. Từ khán đài một giọng nói ấm áp vang lên: “Tất cả mọi người

đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm

phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền

mưu cầu hạnh phúc”.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy

rộng ra, câu ấy có nghĩa là; tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẵng;

dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên

ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người

ta sinh ra tự do và bình đẵng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình

đẵng về quyền lợi”. Bản Tuyên ngôn kết thúc với câu: “Nước Việt Nam có quyền

hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân

tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững

quyền tự do và độc lập ấy”.

Lắng nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, nhân dân cả nước

Việt Nam trào dâng niềm phấn chấn khôn tả, một sự rung động tột bậc của con

tim. Mới hôm qua đây họ mang thân phận của kẻ nô lệ. Hôm nay họ là dân một nước

Độc lập.

Nhân dân nhiều nước cũng không kém phần ngạc nhiên. Qua những câu mở

đầu trong Tuyên ngôn Độc lập, họ thấy Việt Nam vốn là nước thuộc địa nay đã

vùng lên, tự cởi bỏ xiềng xích để hòa mình vào giòng thời đại, vào cuộc đấu tranh

cho quyền con ngươi, quyền công dân, quyền độc lập tự do cho các dân tộc.

Bảy mươi năm đã trôi qua. Bảy mươi năm cùng tiến bước theo thời đại,

Việt nam đã giành được nhiều thành tựu to lớn trên mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã

Page 70: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh. Vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế

ngày càng tăng. Việt Nam hiện đã có quan hệ nhiều mặt và khá tốt đẹp với 180

nước trên thế giới: Châu Á: 26 nước, Châu Âu: 46 nước, Châu Đại dương: 11 nước,

Châu Phi: 50 nước, Châu Mỹ: 29 nước.Việt Nam được đánh giá là nước đang phát

triển, có mức thu nhập trung bình.

Những thành tựu nêu trên không phải bỗng nhiên mà có.

Việt Nam mất nước vào tay giặc Pháp vào nửa sau thế kỷ XIX. Cho đến giữa

thế kỷ đầu XX (1945) Việt Nam vẫn bị kẹp chặt trong xiềng xích của chế độ thực

dân. Các nhà cách mạng Việt Nam dấn thân đi tìm con đường cứu nước cứu dân

nhưng vẫn bị bế tắc. Một số người theo hướng Đông du, đi cầu viện Nhật để đuổi

Pháp. Một số người theo hướng Tây du, thỏa hiệp với Pháp lập chế độ Quân chủ

lập hiến. Trong hoàn cảnh đó xuất hiện nhà cách mạng trẻ Nguyễn Ái Quốc.

Nguyễn Ái Quốc cho rằng cầu viện Nhật để đánh đuổi giặc Pháp chẳng khác gì

đuổi beo cửa trước, rước hổ cửa sau; mong muốn thỏa hiệp để được thực dân

Pháp ban ơn là vô vọng. Dựa vào sức của kẻ khác để giải phóng cho mình thì trước

sau đều trở thành kẻ lệ thuộc.

Trong hành động, Nguyễn Ái Quốc không đi theo con đường đấu tranh nghị

trường, lúc ấy gọi là những nhà cách mạng ghế bành. Cùng với việc làm rất nhiều

nghề, hòa mình với nhân dân lao động nhiều nước, người thanh niên yêu nước

Nguyễn Tất Thành đã dành thời gian tới các thư viện lớn để đọc sách, nghiên cứu

các tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin, “Tinh thần pháp luật” của Montesquie,

“Khế ước xã hội” của Jean Jacques Rousseau, Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 nước

Mỹ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Pháp, Hiến pháp năm

1787 của nước Mỹ và nhiều trước tác kinh điển khác để từ đó xác định đúng con

đường cứu nước, cứu dân phù hợp với những đặc điểm của thời đại.

Nguyễn Ái Quốc ra nước ngoài không phải để mưu sinh mà để tìm hiểu tính

thời đại và chọn con đường cứu nước cứu dân. Một số trước tác như: Tám yêu

sách gửi Hội nghị Versailles năm 1919; Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn

Độc lập năm 1945, Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là

những tài liệu thể hiện một cách cô đọng và bao quát nhất về tính thời đại mà

Người đã dấn thân đi tìm tòi trong quãng thời gian dài 34 năm, từ năm 1911- năm

rời bến Nhà Rồng - đến năm 1945 - năm Cách mạng tháng Tám thành công.

Chế độ Cộng hòa Dân chủ là cái nôi của Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Sau này khi đã trở thành một nước XHCN những đích đến ấy vẫn được Đảng ta và

Nhà nước ta theo đuổi. Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là những tiêu chí nhằm đảm

bảo, cải thiện đời sống dân sinh. Có Độc lập mới có Tự do. Có Độc lập, có Tự do

mới có điều kiện để mưu cầu Hạnh phúc. Mất độc lập, mất tự do mà nói đến mưu

cầu hạnh phúc là vô nghĩa. Những mục tiêu ấy có mối liên hệ khăng khít, tùy thuộc

lẫn nhau như hình với bóng, như da thịt với máu xương. Điều mà các vị cách mạng

tiền bối không tìm ra thì Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra. Nguyễn Ái Quốc đã dẫn dắt

nhân dân Việt Nam hướng theo thời đại.

Page 71: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Tiếng nói và uy tín của Nhà nước cách mạng Việt Nam ngày càng có trọng

lượng trên trường quốc tế. Đảng và Nhà nước Việt Nam đang thực hiện đường lối

hội nhập sâu rộng với quốc tế, dẫn dắt đất nước bước theo giòng thời đại. Đây là

đường lời cơ bản nhằm đưa cách mạng Việt Nam chóng tới đích. Tuy vậy so với

nhiều nước quanh vùng, Việt Nam vẫn là nước phát triển chậm. Singapore, một

nước có diện tích xấp xỉ đảo Phú Quốc của Việt Nam, trong 50 năm đã đưa đất

nước phát triển gấp bội phần, thu nhập bình quân từ 428 USD lên đến 56.264

USD/ đầu người hiện nay, trở thành một trong 10 nước có GDP theo đầu người

cao nhất của thế giới.

Nhiều nhà khoa học đang cố tìm nguyên nhân. Có phải chăng vì chưa quán

triệt thấu đáo, cặn kẽ được tính thời đại nên bộ máy và nền pháp luật chậm được

đổi mới. Về mặt lý luận cũng như về thực tiễn, việc nhận rõ tính thời đại và hành

động theo xu thế thời đại là điều nhất thiết phải đặc biệt quan tâm để đưa đất

nước tiến bộ nhanh hơn và tiến kịp với các nước phát triển.

Luật sư Lê Đức Tiết

Lê Đức Tiết. Tiến bước cùng thời đại// Đại đoàn kết.- 2015.- Ngày 24 tháng

8.- Tr.3.

Page 72: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

MẠCH NGUỒN CỦA ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN

QĐND - LTS: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện trọng đại nhất, oanh liệt nhất của dân tộc Việt Nam. Tất cả những thành tựu to lớn của Tổ quốc ta đã đạt được trong suốt 70 năm qua, nhất là trong gần 30 năm đổi mới, đều bắt nguồn từ những nền tảng đầu tiên là thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Để góp phần ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc ta 70 năm qua, rút ra những bài học sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài viết với chủ đề “Mạch nguồn của đổi mới và phát triển”.

Bài 1: XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đánh dấu bước ngoặt của lịch sử dân tộc Việt Nam. Nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, trở thành một nước độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhân dân từ nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam từ một Đảng hoạt động bí mật trở thành Đảng cầm quyền. Nhà nước của giai cấp bóc lột bị đánh đổ và thay vào đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Cách mạng Tháng Tám không chỉ đập tan bộ máy thống trị của Pháp, Nhật, lật đổ chế độ phong kiến, mà còn giành được chính quyền về tay nhân dân lao động, thiết lập một Nhà nước kiểu mới lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Việt Nam, đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước này ra đời là kết quả của việc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Sau bao nhiêu năm bôn ba tìm đường cứu nước, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã xác định kiểu nhà nước thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam là phải đánh đổ. Thế nhưng cũng không thể quay lại kiểu nhà nước phong kiến vì đã lỗi thời. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng không lựa chọn kiểu nhà nước tư sản bởi Người hiểu rất rõ bản chất của Nhà nước ấy. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản với kiểu nhà nước của giai cấp công nhân, nhưng không máy móc dập khuôn theo một mô hình nhà nước xã hội cụ thể nào. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập ra kiểu nhà nước trong đó bảo đảm có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân và tính chất nhân dân, dân tộc.

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 diễn ra tháng 5 năm 1941 do Bác Hồ chủ trì, Đảng ta đã quyết định lập ra Mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, tên gọi là Mặt trận Việt Minh, chuẩn bị lực lượng vũ trang khởi nghĩa, khởi nghĩa từng phần, tiến lên Tổng khởi nghĩa. Nghị quyết Hội nghị đã xác định: “... sau lúc đánh đuổi được Pháp-Nhật sẽ thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào mà là của chung của toàn dân tộc...”.

Để chuẩn bị cho nhà nước kiểu mới, khi chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ đã tổ chức Quốc dân Đại hội Tân Trào (tại Tuyên Quang) có vai trò như là một tiền Quốc hội hay một Quốc hội lâm thời. Với cơ cấu đại biểu đại diện cho khắp các vùng, miền, đại diện cho các giới, các đoàn thể ái quốc, các tầng lớp nhân dân nên quyết sách của Đại hội là quyết sách của nhân dân.

Page 73: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Từ những quyết sách do Quốc dân Đại hội đưa ra, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đã thành công vang dội trong cả nước. Ngày 25-8-1945, Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng Hồ Chí Minh về Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Ủy ban dân tộc giải phóng do Quốc dân Đại hội Tân Trào bầu ra, được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Sau Tổng tuyển cử tự do, bầu Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Điều đầu tiên (điều thứ 1) trong Hiến pháp do Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua ngày 9-11-1946 đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Hiến pháp năm 1946 cũng quy định vị trí và mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp trong hệ thống nhà nước. Bản Hiến pháp đầu tiên này không chỉ đặt cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện bộ máy Nhà nước Việt Nam trong những năm đầu của nền cộng hòa dân chủ, mà còn là cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta trong suốt thời kỳ từ 1946 đến 1959. Bản Hiến pháp năm 1946 vẫn có giá trị nghiên cứu, tham khảo trong cả quá trình xây dựng hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật ở nước ta từ sau năm 1959 và cả trong giai đoạn hiện nay.

70 năm qua, Nhà nước Việt Nam của dân, do dân và vì dân được khởi nguồn từ sau ngày Cách mạng Tháng Tám đã ghi những mốc son chói lọi trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nhà nước đó đã tổ chức nhân dân tiến hành hai cuộc kháng chiến cứu nước kéo dài suốt 30 năm, đã đưa đến hai chiến công vĩ đại của thế kỷ 20: Chiến thắng Ðiện Biên Phủ năm 1954 và Ðại thắng mùa Xuân năm 1975. Ðộc lập và thống nhất của dân tộc ta đã được thực hiện trọn vẹn.

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trải qua gần 30 năm qua, đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, trong đó có thành tựu về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Nhà nước của chúng ta cũng cần phải được hoàn thiện.

Cách đây gần 2 năm, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nhất trí thông qua Hiến pháp năm 2013. Bản Hiến pháp mới thể chế hóa sâu sắc và toàn diện các quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ngay từ Lời nói đầu của Hiến pháp năm 2013 đã long trọng tuyên bố: Nhân dân Việt Nam là chủ thể “xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này”; tiếp đến, bổ sung đầy đủ các hình thức nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước, không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân như quy định của các Hiến pháp trước đây, mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp (Điều 6), bằng biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (Điều 29 và Điều 120). Đảng Cộng sản Việt Nam không những là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mà còn phải “gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Hiến pháp năm 2013 không chỉ ghi nhận Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bao gồm các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân

Page 74: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, mà còn bổ sung vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước (Điều 9). Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị-xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, đóng vai trò “tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước...” (Điều 10). Những tư duy chính trị-pháp lý mới đó xuất phát từ nhận thức sâu sắc rằng, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước; từ nguồn gốc, bản chất đến mục đích tồn tại cũng như sức mạnh của Nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân. Đây chính là nền tảng hiến định để bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy mạnh mẽ hơn nữa chủ quyền của nhân dân trong đời sống nhà nước.

Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta “là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” (khoản 1, Điều 2), Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta, đó là quyền lực nhà nước là thống nhất, không chỉ được phân công, phối hợp mà còn có sự kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (khoản 3, Điều 2). Đây là một trong những nguyên tắc nền tảng về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Bởi nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nên nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu, một đòi hỏi chính đáng. Đó là cơ sở để hình thành cơ chế nhân dân giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước mà mình đã trao cho mỗi quyền. Đây cũng là cơ sở hiến định để sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy nhà nước mà Quốc hội vừa thông qua như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát Nhân dân,… nhằm phát huy vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước.

Kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề khó khăn và phức tạp. Bởi kiểm soát quyền lực nhà nước, một mặt, là để phòng, chống sự tha hóa và lạm dụng quyền lực nhà nước, nhưng mặt khác, làm sao để không phải vì kiểm soát quyền lực nhà nước mà làm mất đi tính năng động, mềm dẻo cần phải có trong thực hiện chức năng của Nhà nước. Vì thế, vấn đề cơ bản của kiểm soát quyền lực nhà nước là làm cho bộ máy nhà nước vừa có khả năng kiểm soát được xã hội, lại vừa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Đây cũng chính là cơ sở hiến định để chúng ta tiếp tục đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay bằng việc hoàn thiện các thể chế về tổ chức bộ máy nhà nước.

70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên trong mặt trận, Nhà nước ra đời từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Để Nhà nước của chúng ta sinh ra từ Cách mạng Tháng Tám làm tròn sứ mệnh của mình, mỗi người dân sống trong Nhà nước phải có trách nhiệm giám sát, bảo vệ và đóng góp công sức, trí tuệ xây dựng Nhà nước ngày càng vững mạnh.

ĐỖ PHÚ THỌ Đỗ Phú Thọ. Mạch nguồn của đổi mới và phát triển. Bài 1: Xây dựng nhà

nước của dân, do dân và vì dân// Quân đội nhân dân.- 2015.- Ngày 27 tháng 8.- Tr.1,4.

MẠCH NGUỒN CỦA ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN

Page 75: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

Bài 2: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ QĐND - Một trong những thành quả nổi bật trong công cuộc xây dựng đất nước 70 năm qua và nhất là sự nghiệp đổi mới đất nước gần 30 năm qua là hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT). Hội nhập KTQT đã tác động toàn diện đến mọi mặt phát triển của đất nước, góp phần củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Đúng như nhận định của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong bài viết đăng trên Báo Quân đội nhân dân số ra ngày 29-7-2015 với nhan đề “Tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, thì Việt Nam “chủ động hội nhập quốc tế để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia”.

Trong quá trình hội nhập KTQT, các quy định pháp luật đã được Quốc hội, Chính phủ rà soát và hoàn thiện theo hướng sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới nhằm thực hiện các cam kết quốc tế. Thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Hiến pháp năm 2013, nhiều luật, pháp lệnh liên quan đến các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế được hoàn thiện, thể hiện qua nhịp độ khẩn trương của hoạt động lập pháp của Quốc hội. Chính phủ đã tích cực trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn. Về cơ bản, hệ thống pháp luật được sửa đổi, bổ sung thời gian qua đã góp phần tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho doanh nghiệp bằng việc bảo vệ quyền kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, bảo đảm sự bình đẳng giữa doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài. Việc vận dụng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có vai trò quan trọng để phát huy các lợi thế do hội nhập mang lại cũng như hạn chế các tác động tiêu cực từ quá trình hội nhập quốc tế.

Hội nhập KTQT đã giúp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, góp phần đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các khu vực nông-lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ… cho thấy sự thay đổi về cơ cấu so với trước khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007. Tốc độ tăng trưởng cao nhất thuộc về khu vực dịch vụ, tiếp đó là công nghiệp và xây dựng; nông-lâm-ngư nghiệp. Tính trung bình năm giai đoạn 2007-2014, tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ, công nghiệp và xây dựng, nông-lâm-ngư nghiệp lần lượt là 6,88%, 6,2% và 3,33%. Sự phát triển mạnh của khu vực dịch vụ có tác động tích cực từ việc mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết quốc tế, trong khi khu vực công nghiệp và xây dựng, dịch vụ tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Hội nhập KTQT đã tạo ra những tác động tích cực về mở rộng thị trường, đầu tư đối với nhiều ngành hàng của Việt Nam, thể hiện qua tăng trưởng kim ngạch và thị phần xuất khẩu. Đến nay, Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 230 nước, vùng lãnh thổ. Thị trường xuất khẩu được đa dạng hóa. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vào các thị trường trọng điểm, đặc biệt là các thị trường có Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đều đạt mức tăng trưởng cao. Năm 2014, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 150,19 tỷ USD, gấp 3,09 lần so với năm 2007; trong khi nhập khẩu là 148,05 tỷ USD, gấp 2,36 lần so với năm 2007.

Trong quá trình hội nhập, điều đáng mừng là cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cơ bản đã chủ động chuyển đổi để thích ứng với các điều kiện cạnh tranh quyết liệt trên thị trường trong nước và thế giới. Số liệu thống kê của UBND

Page 76: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

TP Hồ Chí Minh cho thấy, tỷ trọng đóng góp vào tổng sản phẩm nội địa (GDP) của thành phố trong khu vực kinh tế ngoài Nhà nước năm 2014 chiếm 58,8% so với 23,7% của khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và 17,5% của khu vực kinh tế Nhà nước. Xu hướng tăng dần tỷ trọng của khu vực dân doanh cho thấy sức sống mãnh liệt và khả năng thích ứng tuyệt vời trong hội nhập của kinh tế tư nhân. Ở cấp độ doanh nghiệp, có thể kể ra nhiều gương sáng. Điển hình như Công ty Cổ phần Tập đoàn Intimex ở TP Hồ Chí Minh, sau 9 năm hội nhập, vốn điều lệ tăng từ 14,4 tỷ đồng lên 223 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 1 tỷ USD/năm, chủ yếu là xuất khẩu nông sản; Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) trong 12 năm sau cổ phần hóa, hằng năm doanh thu tăng bình quân 22%, lợi nhuận sau thuế tăng 26%, vốn chủ sở hữu tăng 10,6 lần, tổng tài sản tăng 10,1 lần, trở thành công ty sữa số một Việt Nam, là một trong 50 công ty sữa lớn nhất thế giới, doanh thu đạt gần 3 tỷ USD. Mới đây, khi tới thăm và làm việc với Vinamilk, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã đánh giá cao những thành công của doanh nghiệp và “thực sự ngưỡng mộ một doanh nghiệp Việt Nam đã làm vẻ vang thương hiệu Việt trong tiến trình hội nhập KTQT, trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, trở thành niềm tự hào của đất nước, con người Việt Nam”.

Đóng góp của khu vực FDI trong tổng sản phẩm nội địa cũng tăng mạnh từ năm 2007 đến nay, nhờ giá trị xuất khẩu của khu vực này tăng mạnh. Giá trị xuất khẩu của khu vực FDI trung bình giai đoạn 2007-2014 đạt 56,06 tỷ USD, chiếm 61% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Ngoài ra, khu vực FDI tạo ra khoảng 2 triệu việc làm trực tiếp và hàng triệu việc làm gián tiếp cho nền kinh tế. Số liệu điều tra năm 2013 cho thấy, khu vực này chiếm 26,6% tổng số lao động của nền kinh tế, chiếm 19,1% tổng vốn sản xuất kinh doanh bình quân của các loại hình doanh nghiệp, 25% doanh thu thuần sản xuất kinh doanh, 42,4% lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp. Cùng với quá trình hội nhập KTQT sâu rộng, hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài dần được mở rộng, đa dạng hơn cả về thị trường và lĩnh vực đầu tư. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lũy kế đến tháng 4-2015, vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài là 20 tỷ USD, trong đó 15 tỷ USD là vốn đăng ký đầu tư của 962 dự án mới, 5 tỷ USD là vốn tăng thêm của 115 lượt dự án đã đầu tư. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài không còn chỉ giới hạn trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước mà đã có nhiều cá nhân, doanh nghiệp tư nhân đầu tư ra nước ngoài. Năm 2014, số dự án đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp tư nhân chiếm 76% tổng số dự án.

Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) xác định chỉ số cạnh tranh toàn cầu 2014/2015 của Việt Nam xếp thứ 68. So với khu vực ASEAN, có thể thấy xếp hạng của Việt Nam năm 2014 vẫn ở mức thấp hơn so với các nước trong khu vực như: Xin-ga-po xếp thứ 2, Ma-lai-xi-a xếp thứ 20, Thái Lan thứ 31, In-đô-nê-xi-a thứ 34 và Phi-líp-pin thứ 52. Dựa trên ba yếu tố quan trọng trong cách xếp hạng của WEF về thể chế, chính sách và năng suất, có thể thấy mặc dù chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế ngày càng cao, nhưng Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện cả ba yếu tố này. Ngoài ra, số liệu thống kê của Việt Nam cho thấy có sự cải thiện trong yếu tố năng suất lao động xã hội, cụ thể năng suất lao động năm 2014 gấp 2,7 lần so với năm 2007.

Chủ trì thực hiện giám sát tối cao của Quốc hội về kết quả hội nhập kinh tế từ khi nước ta trở thành thành viên WTO, chuẩn bị báo cáo với Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10 tới đây, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu

Page 77: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

nhận định, quá trình hội nhập KTQT cho thấy kết quả của quá trình thực hiện cam kết WTO nói riêng và hội nhập KTQT nói chung khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong mở rộng hợp tác KTQT và quan hệ đối ngoại, tạo tiền đề thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh… nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đoàn giám sát của Quốc hội nhận thấy, hội nhập KTQT đã góp phần to lớn cho những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế của tỉnh Bình Dương. Năm 2014, tổng sản phẩm trong tỉnh tăng bình quân 13%. Cơ cấu kinh tế công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp với tỷ trọng tương ứng là 60,8%-36,2%-3%, GDP bình quân đầu người đạt 61,2 triệu đồng. Bình Dương là một trong những điểm đến đáng tin cậy của các nhà đầu tư. Tính đến hết quý I-2015, toàn tỉnh hiện có 18.001 doanh nghiệp trong nước đăng ký kinh doanh với tổng số vốn là 136.506 tỷ đồng và 2.440 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn là 20,8 tỷ USD từ 39 quốc gia và vùng lãnh thổ, trở thành một trong 5 địa phương có số vốn đầu tư nước ngoài vượt mốc 20 tỷ USD. Khi làm việc với TP Hồ Chí Minh, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu đánh giá, kết quả đạt được của thành phố đã chứng minh sinh động về định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong hội nhập, triển khai kịp thời các chủ trương, chính sách, pháp luật về hội nhập, phối hợp nhịp nhàng với các bộ, ngành ở Trung ương trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực thi các cam kết quốc tế…

Đoàn giám sát của Quốc hội nhìn nhận, hội nhập KTQT đã tác động toàn diện đến mọi mặt phát triển của đất nước. Quá trình hội nhập đã góp phần phát huy nội lực, lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh giữa các vùng, các lĩnh vực và thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh, bền vững với những cải cách, hoàn thiện về thể chế, tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển hướng bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần phát huy những lợi thế của hội nhập KTQT và hạn chế những tác động tiêu cực từ bên ngoài… Trong quá trình hội nhập và cạnh tranh quốc tế, chúng ta nhận thức rõ hơn về những yếu kém, bất cập của nền kinh tế, từ đó có giải pháp phù hợp nâng cao chất lượng tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng, cải cách hành chính gắn với tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.

Tiến sĩ TRẦN VĂN

Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội

Trần Văn. Mạch nguồn của đổi mới và phát triển. Bài 2: Hội nhập kinh tế

quốc tế// Quân đội nhân dân.- 2015.- Ngày 28 tháng 8.- Tr.1,7.

Page 78: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

MẠCH NGUỒN CỦA ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN

Bài 3: 70 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI Ở NƯỚC TA

QĐND - Nếu hiểu văn hóa theo đúng nghĩa của nó như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, thì bất cứ cuộc cách mạng chân chính nào đều mang theo ý nghĩa văn hóa của nó. Dấu ấn văn hóa càng sâu thì quy mô và ý nghĩa của cuộc cách mạng càng lớn. Với ý nghĩa đó, Cách mạng Tháng Tám tạo ra một bước ngoặt vĩ đại trong đời sống dân tộc ta, xứng đáng đứng vào hàng ngũ các cuộc cách mạng lớn trong lịch sử nhân loại.

Ngay từ năm 1943, nghĩa là 2 năm trước khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, Đảng ta cho ra đời bản Đề cương văn hóa. Đó là bản Tuyên ngôn đầu tiên và đầy đủ nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc xây dựng một nền văn hóa mới trên đất nước ta. Với 3 phương châm: Dân tộc, khoa học, đại chúng, bản Đề cương không chỉ nhằm đấu tranh trực diện chống chính sách văn hóa ngu dân, phản dân tộc, phản đại chúng mà thực dân Pháp đang áp đặt lên nước ta, mà còn phản ánh được quy luật vận động và phát triển của văn hóa. Sức sống của bản Đề cương văn hóa là ở đó, trí tuệ và phẩm chất của Đảng Cộng sản cũng được thể hiện.

Kể từ sau Cách mạng Tháng Tám, nghĩa là sau khi cách mạng chính trị đã thành công, tư tưởng của bản Đề cương đã dần dần được triển khai trong cuộc sống.

Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 có ý nghĩa và giá trị lịch sử sâu sắc. Ảnh: http://dangcongsan.vn

Từ những ngày đầu kháng chiến, khi đất nước đang trải qua muôn vàn khó khăn và thử thách, có thể nói đang trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Bác Hồ

Page 79: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

vẫn bình tĩnh chỉ cho nhân dân biết, trước mắt chúng ta không chỉ có một thứ giặc, mà là ba thứ giặc: Giặc đói, giặc ngoại xâm, giặc dốt. Cả ba thứ giặc đều nguy hiểm như nhau và chiến thắng ba thứ giặc đều vinh quang như nhau. Rõ ràng trong quan điểm của Bác và của Đảng, văn hóa không tách rời sự nghiệp cách mạng. Quán triệt quan điểm của "Đề cương văn hóa", Bác đề xuất khẩu hiệu "Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến". Văn hóa được coi như một mặt trận, một động lực và mục tiêu của cách mạng và kháng chiến. Sự nghiệp xây dựng văn hóa mới theo phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng đã góp phần đắc lực tạo ra một thế hệ người Việt Nam mới với khát vọng không có gì quý hơn độc lập, tự do, với phẩm chất trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Trên cái nền tảng chung của những giá trị mới đó, đã xuất hiện dần dần những con người mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Đó là anh Bộ đội Cụ Hồ, người chiến sĩ công an nhân dân, người trí thức cách mạng, người nghệ sĩ-chiến sĩ, người phụ nữ ba đảm đang... Bên cạnh những chiến sĩ bạch đầu quân, những người như Bác Hồ đã nói:

Càng già, càng dẻo lại càng dai, Tinh thần gương mẫu chẳng nhường ai Đôn đốc con em làm nhiệm vụ Vuốt râu mừng xã hội tương lai. (1)

Là những cháu ngoan Bác Hồ thường xuyên phấn đấu theo lời dạy của Bác: 1. Phải siêng học 2. Phải giữ sạch sẽ 3. Phải giữ kỷ luật 4. Phải làm theo đời sống mới 5. Phải thương yêu giúp đỡ cha mẹ, anh em. (2)

Như vậy là, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, với khẩu hiệu "Kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến", một nền văn hóa mới và một thế hệ con người mới đã xuất hiện ở nước ta. Nền văn hóa và con người mới đó vừa cắm rễ sâu vào các giá trị truyền thống vững chắc của dân tộc, vừa được bổ sung, bồi đắp những giá trị mới mang tính thời đại. Sức mạnh nội sinh của dân tộc qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ được hình thành chủ yếu từ đó. Thắng lợi rực rỡ của hai cuộc kháng chiến, cũng là thắng lợi rực rỡ của nền văn hóa mới và con người mới của nước ta.

Bài học lớn mà sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới theo tinh thần của bản "Đề cương văn hóa năm 1943" là: Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù thuận lợi hay khó khăn, dù hòa bình hay chiến tranh, văn hóa luôn là mặt trận hàng đầu, ở đó những người cộng sản phải có mặt, phải phát huy vai trò lãnh đạo, vai trò tiên phong gương mẫu của mình, đồng thời phát huy triệt để sự tham gia tích cực của quần chúng. Đó là bài học lớn, bài học lịch sử mà chúng ta cần đi sâu nghiên cứu, tổng kết. Ở đây có hàng loạt những câu hỏi được đặt ra và cần giải đáp: Nếu không có bản "Đề cương văn hóa năm 1943" với ba phương châm: Dân tộc, khoa học, đại chúng, thì liệu ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến, chúng ta có thể huy động sức mạnh to lớn của dân tộc vào sự nghiệp kháng chiến được không? Nếu không có bản đề cương đó, liệu ngay từ đầu kháng chiến, chúng ta có thể huy động một đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đầy tài năng và tâm huyết vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa mới được không? Thiếu sự tham gia tích cực của quần chúng và của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ thì liệu nền văn hóa mới có hình

Page 80: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

thành và phát triển được không? Đặt ra và trả lời các câu hỏi đó cũng chính là tạo điều kiện để xây dựng và phát triển văn hóa, con người ở thời kỳ lịch sử mới: Thời kỳ tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đại hội của sự nghiệp đổi mới, đất nước ta chuyển sang giai đoạn mới: Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chấp nhận nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đó là những yêu cầu mới của lịch sử, đòi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Với ý nghĩa đó, sự nghiệp đổi mới mang ý nghĩa một cuộc vận động lớn về văn hóa. Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: "Nói một cách hình tượng, đổi mới phải bắt nguồn và bắt rễ từ mảnh đất của văn hóa, truyền thống văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới bao quát mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội đến chính trị và hệ thống chính trị của nước ta... Với tầm nhìn bao quát, phải thấy văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn hóa"(3), và thực tế đã chứng minh, càng tiến hành đổi mới, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa càng được sự quan tâm ngày càng sâu sắc của toàn xã hội. Từ Đại hội VII của Đảng, văn hóa được coi là nền tảng tinh thần, mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế, xã hội. Đó là kết quả của sự phát triển nhận thức của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, và cũng là cách trở về với những tư tưởng lớn về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ năm 1946, Bác Hồ đã khẳng định: Văn hóa soi đường cho quốc dân đi.

Từ một nhận thức mới về văn hóa, đối chiếu với những yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng thời kỳ mới, Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII của Đảng không chỉ mở rộng nội hàm của từ văn hóa, mà còn đặc biệt chú ý đến những nhân tố cơ bản của đời sống văn hóa trong điều kiện lịch sử mới. Đó là các vấn đề về đạo đức, lối sống, các vấn đề về giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, là vấn đề phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, kết tinh trong bản sắc văn hóa cộng đồng của dân tộc Việt Nam.

Như vậy, Nghị quyết Trung ương 5 về "xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" là sự tiếp nối ở thời kỳ lịch sử mới với những nội dung mới của "Đề cương văn hóa năm 1943" của Đảng Cộng sản Đông Dương. Nghị quyết Trung ương 5 về văn hóa còn chứa đựng trong nó các quan điểm coi văn hóa là nền tảng tinh thần, coi giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ là quốc sách hàng đầu. Những tư tưởng lớn đó của nghị quyết không chỉ nhằm chuẩn bị cho sự hình thành những phẩm chất và năng lực mới đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mà còn để mỗi con người có đủ sức đề kháng chống lại những tiêu cực đã nảy sinh do mặt trái của kinh tế thị trường và của quá trình hội nhập quốc tế tạo nên. 15 năm đã trôi qua, nhưng những tư tưởng lớn của Nghị quyết Trung ương 5 về văn hóa, vẫn còn nguyên giá trị.

Điều mà chúng ta rất dễ nhận ra là, sau 15 năm triển khai Nghị quyết "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", nhận thức chung của cả xã hội về văn hóa đã được nâng cao. Văn hóa được quan tâm hơn cả về chủ trương, chính sách, nguồn lực và ngày càng có sự gắn kết với nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng chỉnh đốn Đảng. Các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được coi trọng. Dân chủ trên các lĩnh vực đời sống xã hội được mở rộng, dân trí được nâng cao, quyền con người được tôn trọng. Con người Việt Nam cũng trở nên năng động, tích cực, sáng tạo hơn. Người dân có nhiều cơ hội tiếp cận thông tin và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Nhiều hoạt động đền ơn đáp nghĩa, xóa đói, giảm nghèo, từ thiện xã hội... được đẩy mạnh, có tác dụng gắn kết cộng đồng, tăng cường nội lực tinh thần, tạo nên sức đề kháng trước mặt trái của

Page 81: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

kinh tế thị trường và toàn cầu hóa. Việc giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa với khu vực và quốc tế được mở rộng, góp phần giới thiệu, quảng bá, tôn vinh văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Bên cạnh những thành tựu đó, lĩnh vực văn hóa và con người vẫn còn bộc lộ những yếu kém, hạn chế. Đáng chú ý là sự suy thoái về đạo đức, về lối sống trong một bộ phận xã hội, nhất là trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.

Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) đã thông qua Nghị quyết "Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước". Nghị quyết khẳng định: "Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp". Kế thừa và phát triển các quan điểm lớn trước đây của Đảng về văn hóa, Nghị quyết Trung ương 9 lần này khẳng định: "Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Nói cách khác, sự phát triển văn hóa và con người sẽ tạo nên mọi sức mạnh vật chất và tinh thần để bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước. Với ý nghĩa đó, việc tập trung mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người đang dần dần trở thành quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước.

Gần đây, trên các diễn đàn xã hội, chúng ta đã nhiều lần nhắc lại câu nói của đại văn hào Mắc-xim Goóc-ky, người bạn thân thiết và người đồng chí trung thành của Lê-nin. Cách chúng ta gần 100 năm, Mắc-xim Goóc-ky từng tuyên bố: "Đối với tôi, lời kêu gọi tổ quốc lâm nguy, cũng không đáng sợ hơn lời kêu gọi: "Hỡi các công dân, văn hóa lâm nguy!". Vai trò và ý nghĩa to lớn của văn hóa cũng là ở đó.

GS, TS, NGND TRẦN VĂN BÍNH ------------------------------------- (1) Hồ Chí Minh toàn tập, Hà Nội, 2000, tập 10, tr.214. (2) Hồ Chí Minh toàn tập, Hà Nội, tập 4, tr.421. (3) Phạm Văn Đồng: Văn hóa và đổi mới, Hà Nội, 1994, tr.6.

Trần Văn Bính. Mạch nguồn của đổi mới và phát triển. Bài 3: 70 năm xây

dựng và phát triển văn hóa, con người ở nước ta// Quân đội nhân dân.-

2015.- Ngày 28 tháng 8.- Tr.1,7.

Page 82: ĐẤT NƯỚC – 70 NĂM ĐỘC LẬP

MỤC LỤC

Lời giới thiệu Tr.1

70 năm xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước Tr.5

Kỳ 1: Bối cảnh lịch sử và diễn biến Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Tr.5

Kỳ 2: Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử CT8 năm 1945 Tr.7

Kỳ 3: Một số bài học kinh nghiệm của CMT8 Tr.9

Kỳ 4: Giành chiến thắng trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Tr.12

thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc

Mặt trận đoàn kết dân tộc Tr.15

Sáng tạo giải quyết vấn đề dân tộc và phương pháp cách mạng Tr.18

70 năm ngày khởi nghĩa thắng lợi Tr.30

Nghệ thuật chớp thời cơ tổng khởi nghĩa Tr.37

Thủ đô ngày tổng khởi nghĩa toàn thắng Tr.40

Chuyện ít biết về tổng khởi nghĩa ở Nam Bộ Tr.43

Nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám Tr.46

Nhân nguồn sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong CMT8 Tr.49

Thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc Tr.56

Đại tướng Nguyễn Quyết: Ký ức xanh nguyên Tr.58

Một thời đồng hành cùng cách mạng Tr.62

Cách mạng Tháng Tám qua con mắt người nước ngoài Tr.66

Tiến bước cùng thời đại Tr.68

Mạch nguồn của đổi mới và phát triển Tr.71

Bài 1: Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân Tr.71

Bài 2: Hội nhập kinh tế quốc tế Tr.74

Bài 3: 70 năm xây dựng và phát triển văn hóa, con người ở nước ta Tr.77