Upload
others
View
5
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
Công án là gì ?
Lời BBT :
Công án là một công cụ không thể thiếu trong các thiền viện mà các
thiền sư dùng để hướng dẫn các thiền sinh trên tiến trình tu học tìm
đường giải thoát tiến đến Giác Ngộ. Sau đây chúng tôi đã sưu tầm được
một số bài viết đã đăng trên các trang mạng về đề tài : Công án là gì ?
để quý độc giả có được một ý niệm chính xác về công án. Chúng tôi xin
chân thành cảm tạ các tác giả có bài viết được trích đăng dưới đây.
Thiền công án
Thiền sư Genjo Marinello
(Đạo Phật ngày nay)
Thầy Genjo Marinello là Viện Chủ Chùa Dai Bai Zan Cho Bo Zen Ji tại
Seattle, Hoa Kỳ. Thầy đã tập Thiền từ năm 1975, xuất gia và thọ giới
năm 1980, rồi thọ cụ túc giới năm 1990. Ngòai việc trách nhiệm các
chương trình dạy Thiền ở chùa, Thầy còn hành nghề Tham Vấn Về Y Tế
http://www.daophatngaynay.com/vn/author/admin/
2
Tâm Thần và là Giám Đốc về Tâm Linh (Washington State Licensed
Mental Health Counselor and Spiritual Director) tại khu vực Capitol
Hill của Seattle, và là một thành viên trong hội đồng khoa của đại học
Antioch University. Bài sau đây của Thiền sư Genjo Marinello nói
về pháp tu công án. Chỗ này xin mạn phép góp một ý nhỏ nơi đây: Thiền
sư Genjo Marinello trong bài khuyên rằng nên để công án nơi bụng, tuy
nhiên theo người dịch thấy, nên để nghi tình về công án ngòai thân, lơ
lửng dưới tầm mắt, sẽ có lợi hơn và sẽ duy trì dễ hơn, nhất là khi rời oai
nghi ngồi, tới một lúc chỗ nào mắt nhìn cũng thấy niệm nghi tình hiện
ra. Nếu thấy khó để niệm ngoài thân, độc giả cũng không nên để niệm
riêng vào một điểm nào trong thân, mà nên để niệm này ở tòan thân một
cách tự nhiên. Tùy độc giả sẽ thấy cách nào thích hợp. Tham công án
khác với tham thọai đầu. Công án là một tích truyện, mang trong đó một
vấn đề, có khi mang cả nhiều vấn đề. Còn thọai đầu là công án được
chọn để sẽ hướng về một câu hỏi đơn độc, dễ hướng tâm hơn. Bài của
Genjo Marinello như sau.
Công án là các câu hỏi, hay các câu trả lời không ăn nhập với nhau
nhưng thách thức đối với con người bạn, đối với cái khái niệm nền
tảng nhất về tự ngã của bạn. Công án như vũ khí sắc bén đâm vào tự
ngã và từ đó tuôn trào ra Phật Tánh. Công việc của bạn không phải là
tác chiến hay vật lộn với các cú tấn công này, mà là trung hòa chúng.
Công án (kung an) xuất phát từ Trung Quốc, tiếng Nhật gọi là Koan, có
nghĩa là nguyên tắc chung. Trong Thiền tông, các công án được dùng
như chất xúc tác để đánh thức bản chất sâu thẳm, trong sạch của bạn.
Công án thường kể lại một cuộc gặp gỡ giữa thầy và trò, trong đó, câu
hỏi hay câu trả lời của vị thầy nhằm khai mở bản chất sâu thẳm của vạn
pháp như chúng là. Có lẽ, công án điển hình, sớm nhất là công án về câu
chuyện, khi Đức Phật Thích Ca không nói một lời, đưa cành hoa sen lên
trước hội chúng. Lúc đó, tất cả hội chúng đều im lặng, ngơ ngác không
hiểu, chỉ trừ tôn giả Ca Diếp mỉm cười.
3
Công án là một công cụ cao cấp, không có sức mạnh siêu nhiên ẩn tàng
nào nhưng lại có thể giúp hành giả giác ngộ khi thực hành đúng đắn. Tôi
từng nghe Thiền sư Genki gọi chúng là ‘cách mở nắp lon’ cho Tâm của
bạn.
Công án chỉ nên được dùng sau khi bạn đã vào được chánh định. Chánh
định là trạng thái của tâm khi tất cả ý niệm, suy nghĩ, cảm thọ, phán
đoán… đã im bặt, và tâm đã trở nên sáng tỏ, lặng lẽ, phản chiếu một
cách tự nhiên, trôi chảy tự do trong khoảnh khắc này. Nếu tâm bạn chưa
đắc định, thì đừng tu tập gì với công án. Công án sẽ quậy lên dòng nước
của tâm, và nếu tâm đang có sẵn sự hỗn loạn thì pháp tham công án sẽ
chỉ làm cho mọi chuyện tệ hơn. Đó là lý do vì sao Thiền sư Genki chỉ
trao cho công án trong khi vào các kỳ nhập thất Sesshins (có sách dịch là
nhiếp tâm, tiếp tâm, một kỳ thất dài nhiều ngày. LND) trong đó học
nhân dễ nhập định hơn.
Công án sẽ KHÔNG được giải đáp. Bất kỳ đáp ứng mô tả nào: kiểu
có/không, hay kiểu cái này/cái kia… đều sẽ bị bác bỏ. Thường thường,
công án không cần gì tới lời nói ngôn ngữ. Một vài cử chỉ đột khởi cũng
là đủ rồi. Đó là lý do vì sao tôi nói công án không được trả lời, nhưng
được giải quyết.
Để tham một công án có nghĩa là để một công án hoạt động trong bạn.
Khi một mức độ chánh định đã đạt được, bạn đưa công án vào tâm. Cách
khởi công án thích hợp nhất là nêu câu hỏi một cách dịu dàng nhưng liên
tục vào ý thức. Đừng mất thì giờ tìm cách hiểu công án. Hãy để nó đưa
tâm của bạn xuyên qua chất vấn này, và đừng có nỗ lực nào giải đáp nó.
Bất kỳ phân tích nào cũng chỉ làm uổng phí thì giờ, và tận cùng kiểu đó
chỉ cao lắm là sản xuất ra một câu trả lời kiểu Thiền giả mạo. Công án là
một khí cụ nhắm tới chỗ diễn dịch, giải thích, bắt chước hay phân tích
của chúng ta mà đánh vào; và rồi, chỉ sau khi chúng ta cạn kiệt hay là
buông bỏ hết mọi kiểu khảo sát, điều tra loại đó, thì một mức độ thâm
sâu hơn của tham cứu mới có thể dò tới được.
Chỉ khi nào chúng ta có thể thú nhận rằng chúng ta không biết gì hết, thì
pháp tham công án chân thực mới bắt đầu được. Hãy để công án trong
4
bụng của bạn, nơi đó có thể khởi đầu như là bạn đã nuốt một quả cầu sắt
nóng, tới nỗi nó không thể bị tiêu hóa hay trục xuất đi. Thực tế, đôi khi
sau nhiều năm tu tập, công án sẽ làm phần việc của nó, tâm bạn sẽ mở ra
trong sự hiểu biết sâu thẳm.
Công án là các câu hỏi, hay các câu trả lời không ăn nhập với nhau
nhưng thách thức đối với con người bạn, đối với cái khái niệm nền tảng
nhất về tự ngã của bạn. Công án như vũ khí sắc bén đâm vào tự ngã và
từ đó tuôn trào ra Phật Tánh. Công việc của bạn không phải là tác chiến
hay vật lộn với các cú tấn công này, mà là trung hòa chúng.
Bất cứ khi nào một công án khởi lên trong tôi, trước khi vào độc tham
(tham vấn riêng giữa Thầy và trò), tôi để mặc cho nó trôi mất đi; đó là
bảo đảm tốt nhất rằng [cái] đáp ứng khởi lên trong khi độc tham, hay
trước mặt vị Thầy, sẽ là [một đáp ứng] tươi mới. Thường thì, đáp ứng
mà tôi trình trong buổi độc tham gần giống như phản ứng lúc đầu của
tôi. Tuy nhiên, bằng cách buông bỏ các đáp ứng đầu tiên và kế tiếp đó,
công án có cơ hội tốt nhất để mở rộng hiểu biết của bạn vào trong sự
hiển lộ đầy đủ nhất.
Thí dụ, khi trả lời công án “Cái gì là tiếng vỗ của một bàn tay”, bạn có
thể hiểu nó là sự VẮNG LẶNG: niềm vắng lặng tịch diệt bao trùm khắp
vũ trụ, cái tự thân là Đạo. Nhưng những hiểu biết có phần suy lý này
không nói được gì cả. Khi xem như là một đáp ứng, thì nó đã chết từ lâu.
Làm cách nào bạn cảm nhận niềm vắng lặng tịch diệt này trong từng
mảnh thân tâm bạn, và khi điều này được kinh nghiệm một cách trực
tiếp, thì làm cách nào bạn sẽ hiển lộ được kinh nghiệm của bạn để cho vị
Thầy hài lòng?
Hãy can đảm, đừng ngồi yên và đông lạnh; ít nhất hãy nói, “Con không
biết”. Bất kỳ đáp ứng nào bị Thầy bác bỏ đều sẽ khép lại một ngõ hẹp
không tới đâu, hay là sẽ đẩy bạn tới một vài hướng mới. Từ từ, vị Thầy
sẽ giúp bạn gạt bỏ mọi đáp ứng, chỉ trừ một phản chiếu thuần tịnh trong
trẻo về cái đang được hướng tới. Mỗi công án đòi hỏi một đáp ứng riêng
biệt, độc đáo, trong khung của câu hỏi. Nếu một công án hệt như một tay
quyền đánh vào đầu, thì sẽ vô dụng khi đáp ứng bằng cú đá vào ống
5
quyển. Nếu Thầy đòi có một quả táo, hãy mang tới đủ thứ riêng của bạn;
nhưng hãy hiểu rằng một quả cam hay một ổ bánh mì sẽ không đáp ứng
được.
Công án được xem như hạt giống của tỉnh ngộ. Đôi khi cần một thời
gian dài lâu để trưởng dưỡng sự gian nan, có khi thời kỳ trưởng dưỡng
này ngắn và trực tiếp. Muốn giải quyết trọn vẹn một công án, bạn phải
để cho nó lớn lên trọn vẹn; một công án phải được tự hiển lộ. Để nuôi
dưỡng và chăm sóc cho một công án, một cách đơn giản và liên tục, bạn
hãy kích vào cái chăm chú tỉnh biết của bạn, cái cốt tủy của “câu hỏi”
hay của “cuộc trực diện” đó.
Thí dụ, nếu công án là “Hãy mang cho tôi tự tánh của tiếng chuông
chùa” thì trước tiên, chúng ta phải sửa sọan cái nền đất nơi mà công án
sẽ được trồng vào bằng cách nhập định (tình trạng khi tâm bạn hoàn toàn
tự nhiên, tĩnh lặng, quân bình, và tỉnh giác tròn đầy). Một khi sự an định
đã thiết lập (ở các oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm…), chúng ta trồng công
án một cách liên tục và chăm chú bằng việc đưa công án vào sự tỉnh
giác, và đặt nó an nghỉ trong bụng mình. Nơi đó, nó sẽ mọc lên và lớn
dậy mà không cần thêm bất kỳ nỗ lực nào.
Trong thí dụ đi tìm tự tánh của tiếng chuông chùa, chúng ta hãy để cho
tiếng chuông chùa vọng lên trong bụng, cho tới khi nó có thể trôi ra khỏi
người chúng ta mà không có bất kỳ phân biệt suy lý nào. Vào khoảnh
khắc tỉnh ngộ, quả chín của công án sẽ tự nhiên đứt rời khỏi chúng ta
như là một đáp ứng rõ ràng mà không chút màu mè nào về “nó” hay
“tôi”. Lúc đó, không có gì tách rời giữa hành giả và tiếng chuông; chúng
sẽ là một, mà không có can thiệp nào từ ý thức phân biệt.
Qua nhiều năm tu tập công án với nhiều Thiền sư khác nhau, tôi đã hiểu
rằng công án có thể chia làm 5 loại khác nhau. Thực sự, cũng có thể chia
chi tiết thêm nhiều nhóm phụ nữa, nhưng xét đến tận cùng tất cả cách
chia đều vô nghĩa, một công án chỉ là một công án thôi.
Một số công án đòi hỏi sự buông bỏ các hàng rào giữa bạn và thiên
nhiên chung quanh. Những công án như hãy mang cho tôi tiếng mưa rơi,
6
tự tánh của đóa hoa, hay một ngọn núi trên một sợi dây thừng, tất cả đều
đẩy học nhân vào hướng của sự tỉnh giác mở rộng.
Các công án khác thì đòi hỏi hành giả buông bỏ các rào cản khái niệm
và giả tạo đang dựng lên giữa chính bạn và Phật. Các công án như, hãy
mang cho tôi tự tánh của pho tượng [Phật] đứng trên bàn thờ kia, hãy
đưa cho tôi xem yếu nghĩa việc làm của Thiền Sư (Câu Chi, Sư Ngạn,
Lâm Tế…); hay là khi hàm răng của ông cắn vào cành cây giữa bờ vực
mà tay chân đều không bám đâu được, làm sao ông trả lời một câu hỏi
chân thành xin giải bày pháp yếu (Chân Lý/ Ý chỉ tổ sư)?...
Một số công án đòi hỏi hành giả mở hết các cửa về đời người bằng cách
yêu cầu “hãy mang tới cho ta tự tánh của lão già (hay [của] phụ nữ, đứa
trẻ, hài nhi, thằng bịp, tên ngốc, pháp sư, nhà sư, thầy giáo, cái chết, sự
sinh, bạn hữu, kẻ thù, niềm vui, nỗi buồn…)”.
Một số công án đòi hỏi hành giả hiển lộ Đạo trong tự thân (nền tảng của
Thực Tại, cái vượt qua sinh tử, qua tướng và vô tướng, qua đúng và sai,
âm và dương, nam và nữ, và qua mọi nhị nguyên khác).
Cuối cùng, có những công án đòi hỏi hành giả hiển lộ các hành vi bình
thường. Các công án đẩy chúng ta vào lối này có thể là yêu cầu “hãy
hiển lộ chân tánh của khắp pháp giới trong khi rửa chén,…”.
Tất cả các công án đều đòi hỏi chúng ta tỉnh ngộ hiện tiền, và sống trọn
vẹn với cái hiện tiền đó mà không còn màng lọc nào giữa chúng ta và
phần còn lại của thực tại.
Khi thiền công án được tu tập đúng hướng, chúng ta sẽ khám phá rằng
chính đời sống chúng ta là công án lớn nhất của mọi công án. Bất kỳ trở
ngại hay hoàn cảnh nào có vẻ như tách rời chúng ta xa khỏi chính chúng
ta, hay xa khỏi bất kỳ ai hay bất kỳ vật gì khác, đều có thể được dùng
như một công án. Hãy đưa trở ngại hay nan đề đó vào tâm bạn, như cách
đã mô tả trên, và chờ cho nó chín cây, và rụng xuống mà không cần tìm
cách sửa chữa, thay đổi hay phân tích. Bạn sẽ khám phá rằng tất cả các
trở ngại đều là ảo giác của kiểu này hay kiểu khác của tâm.
7
Để thấy thực tại một cách rõ ràng là hãy gỡ bỏ hết mọi rào cản bên trong
bạn, giữa tự ngã của bạn và mọi thứ khác với nó. Tam Tổ của Thiền
Tông nói rằng không hề có gì cách biệt hay bị lọai trừ, vạn pháp vẫn
chuyển động và đan vào nhau mà không phân biệt gì.
Thí dụ, tôi thường bị ám ảnh bởi nhiều loại niệm cứ dường như lập đi
lập lại không ngừng; nhưng rồi, nếu tôi lui lại khỏi các loại niệm đó, hay
là [lui khỏi] nỗi đau đớn, và giữ nó một cách dịu dàng và chăm chú
trong bụng hay trên đùi, rồi trong một trật tự tương đối ngắn thì đợt sóng
niệm hay nỗi đau đớn đó sẽ tan biến đi, đôi khi lại hiển lộ ra bằng một
câu chuyện hay một chân lý trước đó chưa thấy. Cũng có lúc, sự nhẹ
gánh này chỉ là tạm thời, có khi là vĩnh viễn, nhưng luôn luôn với sự tỉnh
giác chăm chú thì nó có thể giải quyết xong, hay ít nhất là đã có tiến
triển trong thực hành. Một lần, tôi được hỏi là có phải đáp ứng với một
công án thì y hệt như đóng kịch không, và tôi nói: “Vâng, y hệt như
đóng kịch giỏi, nơi mà, trong sự chân thành thuần tịnh, không có gì cách
biệt giữa người diễn viên với vai mà anh ta đang đóng”.
***
Thiền sư Genjo Marinello là Viện Chủ Chùa Dai Bai Zan Cho Bo Zen Ji
tại Seattle, Hoa Kỳ. Thầy đã tập Thiền từ năm 1975, xuất gia và thọ giới
năm 1980, rồi thọ cụ túc giới năm 1990. Ngoài việc chịu trách nhiệm
các chương trình dạy Thiền ở chùa, Thầy còn làm công tác Tham Vấn
Về Y Tế Tâm Thần, và là Giám Đốc về Tâm Linh (Washington State
Licensed Mental Health Counselor and Spiritual Director) tại khu vực
Capitol Hill của Seattle, đồng thời là một thành viên trong Hội đồng
khoa của đại học Antioch University. Bài sau đây của Thiền sư Genjo
Marinello nói về pháp tu công án. Chỗ này xin mạn phép góp một ý nhỏ:
Thiền sư Genjo Marinello khuyên rằng nên để công án nơi bụng, tuy
nhiên theo người dịch thấy, nên để nghi tình về công án ngoài thân, lơ
lửng dưới tầm mắt, sẽ có lợi hơn và sẽ duy trì dễ hơn, nhất là khi rời oai
nghi ngồi, tới một lúc chỗ nào mắt nhìn cũng thấy niệm nghi tình hiện
ra. Nếu thấy khó để niệm ngoài thân, độc giả cũng không nên để niệm
8
riêng vào một điểm nào trong thân, mà nên để niệm này ở toàn thân một
cách tự nhiên. Tùy độc giả sẽ thấy cách nào thích hợp. Tham công án
khác với tham thọai đầu. Công án là một tích truyện, mang trong đó một
vấn đề, có khi mang cả nhiều vấn đề. Còn thoại đầu là công án được
chọn để hướng về một câu hỏi đơn độc, dễ hướng tâm hơn.
Đạo Phật Ngày Nay
9
Công án là gì? Giác Ngộ online
HỎI: Tôi là một thiền sinh gặp rất nhiều khó khăn khi tìm hiểu công án.
Vậy xin quý Báo cho biết công án là gì và có cách nào giúp dễ dàng tiếp
cận tìm hiểu công án không? (TRẦN VĂN HIỂU, Cần Thơ)
ĐÁP:Công án nguyên nghĩa
là án lệ phán quyết chuyện
phải trái cáo bạch công khai
trên bảng yết thị của quan
phủ ngày trước, tạm coi
tương đương như thông báo
của Nhà nước ngày nay.
Việc Thiền tông đem ngôn
hạnh của Tổ sư các đời ghi
chép lại dùng để khải thị cho
kẻ tọa thiền, lâu dần cũng
thành ra một loại tư khảo,
hoặc một bài minh nhắc nhở
ghi khắc bên cạnh người ngồi
thiền. Vì ngôn hạnh của các
Tổ sư được ghi chép lại như
vừa nói trên cũng mang ý
nghĩa như một cáo bạch
chính thức, một công án của
chính phủ, tức đầy đủ tính
cách trang nghiêm bất khả
xâm phạm, lại cũng giúp khải
phát tư tưởng, cung ứng tư
10
duy cho người nghiên cứu Thiền, đồng thời cũng làm phép tắc khuôn mẫu
để đời sau nương nhờ, cho nên mới gọi là công án.
Phong khí này xuất hiện ban đầu từ đời Đường, đến nhà Tống thì thật
thịnh hành. Căn cứ vào sách Cảnh Đức truyền đăng lục, có người cho rằng
tổng số công án ở Trung Quốc ước khoảng 1.700, nhưng thật ra không
đúng như thế, vì một số công án chỉ là các mẫu đối cơ giữa sư đồ hay đấu
cơ phong giữa các thiền sư với nhau.
Thật ra ngày nay, ngay cả các câu đối đáp dí dỏm, hóm hỉnh đượm tính mí
mửng hàm chứa cơ lược của các Tăng sĩ hay cả cư sĩ cũng có thể coi là
công án hiện đại trong một chừng mực nào đó. Mà ngay cả các công án
chính thức cũng thường có sự trùng lắp hay chỉ là mượn ý cũ thay cách nói
mới, hoặc chưa hội đủ tính tham cứu nên theo sự nhận định chung của các
nhà nghiên cứu công án thì con số có thể chấp nhận vào khoảng 500 tắc
(mẩu chuyện).
Thuở ban sơ, Thiền tông chỉ có độc gia ngữ lục nên sách chuyên về công
án không có. Dần dần ngữ lục ra đời ngày càng nhiều nên mới có các loại
sách chuyên vựng tập công án, trong đó nổi tiếng nhất là Bích nham lục,
Thung dung lục, Vô môn quan, Cảnh Đức truyền đăng lục, Nhân thiên
nhãn mục, Chỉ nguyệt lục, Tục Chỉ nguyệt lục v.v... Trong công án phần
nhiều có một chữ hay một câu nói ngắn nêu ra để cho người học tham cứu
gọi là “Thoại đầu”, như hỏi: “Con chó có Phật tính không?”, đáp:
“Không”, thì mẩu đối thoại này gọi là công án, mà chữ “Không” là một
thoại đầu (Vấn “Cẩu tử hữu Phật tính dã vô?”. Đáp “Vô”).
Nếu khi tham thiền mà nhằm công án hạ công phu thì gọi là “Tham thoại
đầu”.
Riêng công án mà sư gia dùng ngôn ngữ để khai thị học nhân thì gọi là
“Thoại đầu công án”.
Theo lý thuyết mà nói thì người ta không thể dùng luận lý (la tập) để suy
đoán hoặc dùng kiến thức để giải thích ý nghĩa công án vì tinh thần Thiền
tông vượt qua khỏi ý nghĩa của từ ngữ hoặc sự suy lường của thế trí. Do
11
đó mà sư gia thường sử dụng tính cách “Không thể dùng luận lý” để giúp
họ thể chứng chân tánh.
Hàm nghĩa trọng yếu của công án gồm có 5 phần :
1. Là công cụ giúp cho ngộ Thiền.
2. Là phương pháp giúp mình tự khảo nghiệm trình độ Thiền
3. Là khuôn phép tạo uy lực Thiền
4. Là dấu đóng xác minh được ấn chứng
5. Là chỉ điểm rốt ráo để ngộ Thiền.
Rất nhiều người phản bác việc lý giải công án Thiền, nhất là hướng dẫn
Tăng Ni sinh tìm hiểu công án. Nói xin sám hối, ngoại trừ một số tác gia
thật sự hiểu công án nhưng muốn để hàng hậu học tự xúc phát trực giác
mà ngộ, còn thì không thiếu chi sư gia đã lợi dụng đặc tính “bí hiểm” trên
để che đậy chỗ hạn chế của mình vì đúng là không ai có thể lý giải giùm
người khác cái trực giác mà chính họ phải tự bộc phát lấy để ngộ Thiền,
nhưng trong một chừng mực vừa phải nào đó, thầy dạy có thể gợi ý để
giúp học đồ mau chóng phần nào thấy được hướng mở khóa để hiểu sơ bộ
ngoại vi mật ý công án để rồi sau đó cảm thụ sâu thẳm tự khoái trá thế
nào, nhấm nháp hương vị công án ra sao là tùy căn cơ, tâm cảnh của mỗi
người.
I. Điều kiện tối thiểu cần có để hiểu sơ bộ công án
Trước một công án Thiền tông bằng Hán văn, các thiền sinh chí ít cần có
một số điều kiện tối thiểu để có thể tạm lãnh hội được dễ dàng mau chóng
ý Thiền nằm trong đó:
1. Trước hết có khả năng đọc nguyên văn chữ Hán 2. Biết thành ngữ điển cố đời thường
3. Biết thành ngữ điển cố Thiền tông
4. Biết phong tục tập quán chủ yếu Trung Hoa cổ đại (hoặc Á Đông nói
chung)
5. Biết các thuật ngữ và dụng ngữ Thiền lâm
6. Đọc sâu hiểu rộng Thiền sử
7. Cảm thụ được Thiền cơ, nhất là tính u mặc (tếu)
12
8. Có năng khiếu nhạy bén thiên bẩm để lãnh hội được Thiền chỉ v.v...
Xin đơn cử một vài thí dụ:
1- Điều kiện thứ nhất: Không cần phải nêu thí dụ gì cả vì bất cứ ai muốn dịch giải công án Thiền
tông hệ chữ Hán thì đương nhiên phải chuyên sâu Hán văn cổ.
2-Biết thành ngữ điển cố đời thường :
Như công án sau đây:
Có ông tăng hỏi Thiền sư Tuệ Minh :
-Thế nào là bản lai diện mục ?
Tuệ Minh đáp :
-Một lời nói ra, ngựa tứ khó theo!
Nếu biết thành ngữ đời thường “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” có
nghĩa là :
“Lời nói khi thốt ra thì đi nhanh đến nỗi loại tuấn mã là ngựa kéo xe từ
cũng không đuổi theo kịp” ta sẽ suy diễn rộng ra ý Thiền sư muốn nói là :
“Nếu dùng lời lẽ thì đã rời quá xa chân lý không còn có thể nắm bắt được,
tức Thiền bất dụng ngôn ngữ.
3- Biết thành ngữ điển cố Thiền tông:
Như công án dưới đây:
“Tăng hỏi: “Người xưa nói: “Thiền Như Lai thì kể như huynh đã hiểu, còn
Thiền Tổ sư thì nằm mộng cũng chưa thấy”. Xin hỏi Thiền Như Lai và
Thiền Tổ sư giống và khác nhau thế nào ?
Sư đáp: “Mũi tên đã bay qua đến Tân La!”.
Nếu biết Tân La là tên xưa của nước Triều Tiên được Thiền lâm dùng để
chỉ nơi xa xăm thì ta sẽ hiểu thành ngữ: “Mũi tên đã bay đến nước Tân La
(Nhất tiễn quá Tân La)” được Thiền sư dùng để chỉ “Thiền cơ đã qua mất
rồi” nhằm khai thị ông Tăng là khi dùng tâm chấp thủ hỏi Tổ sư Thiền là
Như Lai Thiền tức có ý so sánh nọ kia mà không biết cả hai chỉ là một thì
đã để vuột mất Thiền cơ rồi vậy.
4- Biết phong tục tập quán, chủ yếu Trung Hoa cổ đại:
13
Như công án sau đây:
Tăng hỏi: “Thế nào là tự kỷ?”. Sư đáp “Vua chốn triều đường, tướng quân
ngoài biên ải”.
Nếu biết phong tục tập quán xã hội phong kiến Trung Quốc trước kia, ta
sẽ hiểu câu trả lời của sư có ý nói: “Chính mình là kẻ tối thượng, là kẻ
quyền uy đối với mình như ông vua ở chốn triều đình và ông tướng chỉ
huy ngoài biên ải quyền lực vô biên”.
Hoặc công án:
Hỏi: “Ý Thiền và ý Giáo giống hay là khác?”.
Sư đáp: “Quan Thượng thơ họ Lý, quan Bộc xạ họ Vương”.
Nếu biết được tổ chức quan viên đời Đường chức Thượng thơ và Bộc xạ
ngang nhau thì ta sẽ hiểu ý Thiền sư muốn khải thị ý Thiền và ý Giáo tên
tuy gọi khác nhưng thực chất là một.
5- Biết các dụng ngữ Thiền tông:
Như công án dưới đây:
Tăng hỏi: “Thế nào là Tổ sư Tây Lai Ý?”. Sư Động Sơn đáp: “Chờ khi
nào nước khe trong động chảy ngược lên dốc sẽ nói cho ngươi nghe”.
Nếu biết “Tổ sư Tây Lai Ý” là thuật ngữ Thiền dùng để chỉ “Ý chỉ của
Thiền tông” thì ta sẽ hiểu ngay câu trả lời của Thiền sư Đông Sơn là “Chỉ
ý của Thiền tông là một sự kiện bất khả tư nghì, không thể dùng ngôn ngữ
văn tự mà lý giải được. Vậy kẻ nào muốn dùng ngôn ngữ để nói bàn về Tổ
sư Tây Lai Ý thì đã làm một việc vô lý xuẩn ngốc như muốn nước khe
trong động chảy ngược lên dốc cao!”.
6- Đọc sâu hiểu rộng Thiền chỉ:
Như công án sau đây:
Tăng hỏi Ba Lăng: “Thế nào là tông phong của Đề Bà?”.
Ba Lăng đáp:
- Trong chén bạc chứa đầy tuyết.
Có thông Thiền sử ta mới biết được Đề Bà tông là tông phong của ngài Ca
Na Đề Bà, mà Ca Na Đề Bà là truyền tự của ngài Long Thọ, làm Tổ thứ
15 của Thiền tông Tây Thiên nổi danh dùng biện tài để diệt tà kiến ngoại
đạo. Còn ngài Ba Lăng là hậu tự của Vân Môn Văn Yển cũng nổi danh với
14
chủ trương “Biện tài vô ngại”. Có nắm được các chi tiết trên, ta mới hiểu
câu hỏi của ông Tăng là “Thiền pháp của Ba Lăng giống Thiền pháp Đề
Bà như thế nào”, để rồi sau đó hiểu luôn câu trả lời của Ba Lăng là Thiền
pháp hai người tuy giống mà cũng có chỗ dị biệt, như bạc và tuyết đều
cùng màu trắng giống nhau, nhưng bạc là kim loại, còn tuyết là nước
đông”.
7- Cảm thụ Thiền cơ:
Thiền cơ rất khó nắm bắt, gặp thuận duyên thì phải chộp ngay, nhưng
không phải dễ, mà cần có sự bén nhạy thiên phú như gặp công án sau đây:
Ni cô tên Huyền Cơ đến tham vấn Hòa thượng Tuyết Phong. Tuyết Phong
hỏi: “Từ xứ nào đến?”.
Đáp: “Từ núi Đại Nhựt (Mặt trời lớn) đến”.
Phong hỏi:
- Mặt trời lên chưa?
Đáp: “Nếu mặt trời lên thì nung chảy núi Tuyết (Tuyết Phong) còn gì?”.
Tuyết Phong hỏi:
- Ni cô tên gì?
Đáp: “Huyền Cơ (máy dệt)”
Phong hỏi hóm hỉnh:
- Mỗi ngày dệt nhiều ít?
Đáp: “Tấc tơ chẳng dính”.
Nói xong bèn lễ bái mà lui. Vừa trở lui ba bốn bước thì Tuyết Phong gọi
giật lại bảo: “Góc cà sa quét đất kìa”.
Ni quay đầu lại nhìn, Tuyết Phong nói:
- Đúng là “Tấc tơ chẳng dính” thứ thiệt đấy!
Đối với công án “Thốn ti bất quải” này, các thiền sinh ngoài kiến thức
thông thường còn phải có một cơ phong bén nhạy để nắm bắt vì đây là
một cuộc đấu Thiền cơ lý thú giữa một ni cô và một thiền sư “nặng ký”.
Đầu cuộc gặp gỡ là hai bên xuất độc chiêu ngay.
Ni cô vừa cho biết mình ở núi Đại Nhựt đến là Tuyết Phong hỏi kiểu chơi
chữ ngay “Mặt trời lên chưa” vì Đại Nhựt có nghĩa thông thường là mặt
15
trời lớn, vậy là 1-0.
Ni cô chẳng phải tay vừa, phản pháo lại ngay “Nếu mặt trời lên thì sẽ nung
cháy ngọn núi tuyết rồi còn gì”, tức nung chảy sư Tuyết Phong vì Tuyết
Phong, pháp hiệu của sư, có nghĩa là núi tuyết. Chơi chữ gặp chơi chữ thế
là 1-1.
Tuyết Phong lại xuất độc chiêu chơi chữ kế tiếp vì khi Ni cô cho biết mình
tên Huyền Cơ là sư hỏi ngay “Ngày dệt được bao nhiêu” vì thời xưa
“huyền cơ” có nghĩa là cái khung dệt vải. Thế là 2-1.
Ni cô nào phải thứ dễ nuốt nên lại xuất quái chiêu phản độc chiêu khi
dùng dụng ngữ “Thốn ti bất quải” vốn có nghĩa chốn Thiền lâm là “Tâm
tính không vướng nhiễm chút bụi bặm” để vừa trả lời sát sườn câu hỏi của
Tuyết Phong vừa chứng tỏ mình tâm tính đã sạch làu làu. Thế là lại 2-2.
Tuy nhiên khi ni cô vừa lễ tạ lui ra đôi ba bước thì sụp vào cái bẫy tuyệt
chiêu của Tuyết Phong vì bất thình lình sư gọi giật lại bảo cho biết là góc
áo cà sa phết đất, và vì mất cảnh giác ni cô bất chợt quay lại nhìn nên bị sư
nói mỉa “A, đây là tấc tơ chẳng dính thứ thiệt đấy” có nghĩa chê ni cô chỉ
nói được chứ chưa thật sự “Tâm tính chẳng nhiễm chút bụi trần”. Rốt lại
thì 3-2.
Các thiền sinh ta ơi, thật ra mọi công án đều hàm chứa đủ tính bí hiểm, u
mặc như công án “Thốn ti bất quải” này, cho nên một số điều kiện tạm
nêu ra chỉ là để gợi ý, còn đứng trước một công án, bao giờ các thiền sinh
cũng phải vận dụng tối đa phần trực giác bén nhạy để mà tự ngộ vậy!
II. Một số kinh nghiệm thực tiễn
Công án là một hình thức khải thị sâu kín chỉ ý Thiền tông. Vậy muốn tìm
hiểu sơ bộ chỉ ý Thiền để làm phương hướng giúp trực giác tự phát lãnh
hội phần sâu thẳm thì các thiền sinh nên chú tâm đến phạm trù chỉ ý. Thật
ra về phương diện tuyệt đối thì chỉ ý là phần bất khả tư nghì, là thánh ý
không thể dùng ngôn ngữ văn tự phàm tình để mong nắm bắt, nhưng ở
một chừng mực tương đối nào đó thì chỉ ý này bao hàm một số nguyên lý
16
nằm trong chủ trương và tinh thần Thiền tông. Thiền tông dựa trên tinh
thần tự chủ, sùng thật và cách tân (còn gọi là thích nghi) và đưa ra chủ
trương Bất lập ngôn ngữ văn tự, giáo ngoại biệt truyền, dĩ tâm truyền tâm,
trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.
Từ tinh thần và chủ trương này, Thiền tông mặc nhiên nêu một số quy
định, cụ thể tạm kê ra theo vài phạm trù đại khái như sau:
1. Nói là sai, là lìa xa đạo lý
2. Mình là chủ tể của chính mình (Tự kỷ Phật)
3. Đạo lý không tự ngoài mình mà có được
4. Thiền bình thường giản dị
5. Thiền cụ thể hiện tiền
6. Thiền không chủ trương thần thông
7. Phải phản quan tự kỷ
8. Nhất tâm bất sinh, vạn pháp chí lý.
Từ mấy quy luật tạm nêu trên đây, chúng ta có thể đưa ra một số thí dụ
tương ứng như:
1- Nói là sai, là lìa xa đạo lý
Trong công án “Đại Chứng chỉ thạch sư tử”, Tuệ Trung Quốc sư chỉ con
sư tử đá yêu cầu hoàng đế Đường Túc Tông hạ một chuyển ngữ. Đế lắc
đầu bảo sư nói. Sư tạ tội không nói được.
Gặp loại công án này, các thiền sinh hãy tập trung ý vào phạm trù “Nói là
sai đạo lý” vì sư tử đá tượng trưng cho bản lai diện mục mà bản lai diện
mục thì không thể dùng lời lẽ mà nói bàn được nên cả vua lẫn quốc sư đều
lắc đầu chào thua.
2- Mình là chủ tể của chính mình
Hai Thiền sư Thản Nhiên và Hoài Nhượng hỏi: “Thế nào là Tổ sư Tây Lai
Ý?”. Thiền sư Tuệ An đáp: “Sao không tự hỏi chỉ ý của chính mình”.
Gặp loại công án này, các thiền sinh hãy chú ý tới phạm trù “Mình là chủ
tể của chính mình”. Từ đó sẽ hiểu ý thiền sư muốn khải thị “Tự kỷ ý” là
17
phần quan trọng sao không tự hỏi mà đi hỏi chi Tổ sư Tây Lai Ý.
3- Đạo lý không từ bên ngoài mà có được
“Thiền sư Triệu Châu làm hỏa đầu đóng cửa bếp đốt lửa khói xông lên mù
mịt rồi la toáng lên “chữa cháy - chữa cháy”. Mọi người chạy đến, sư bảo:
“Hãy nói đúng thì ta mới mở cửa”. Mọi người không biết làm thế nào. Sư
Nam Tuyền đến đút chìa khóa qua song cửa, sư liền mở”.
Gặp loại công án này, các thiền ni sinh nên chú ý tới phạm trù “Đạo lý
không từ ngoài mà có được”. Vì lửa khói tượng trưng cho phiền não. Dẹp
tan phiền não là tự mình chứ không nhờ người ngoài giúp được, tức đạo lý
không từ bên ngoài mà có được.
4- Thiền bình thường giản dị
Nửa đêm sư Trí Thông la to lên: “Ta ngộ rồi, ta ngộ rồi”, làm mọi người
đều nhốn nháo. Qua hôm sau tại pháp đường, được trụ trì hỏi ngộ cái gì thì
sư bảo “Ni cô là phụ nữ”. Trụ trì phải nhận là đúng.
Gặp loại công án này, các thiền sinh phải chú ý tới phạm trù “Thiền bình
thường giản dị như” như Sư cô là phụ nữ (còn Tăng là đàn ông).
5- Thiền cụ thể hiện tiền
Tăng hỏi Triệu Châu: “Kính nghe Hòa thượng từng tham vấn ngài Nam
Tuyền phải không?”. Sư đáp bâng quơ: “Ở Trấn Châu có sản sinh một củ
cải to”.
Gặp loại công án này, các thiền ni sinh phải chú ý tới phạm trù “Thiền cụ
thể hiện tiền” bởi ý sư Triệu Châu muốn khải thị là chúng ta nên chú ý đến
sinh hoạt thiết thực hiện tiền, nếu không thì lời nói vàng ngọc của ngài
Nam Tuyền không có giá trị cụ thể bằng một củ cải nuôi được người dân
hàng ngày.
6- Thiền không chủ trương thần thông
18
Trong công án “Hương Nghiêm nguyên mộng”, Thiền sư Quy Sơn Linh
Hựu ngủ trưa dậy, bảo hai đệ tử là Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch và Hương
Nghiêm Trí Nhàn bàn giải giấc mộng của mình. Ngưỡng Sơn bèn bưng
một chậu nước và cái khăn tới cho sư lau rửa mặt mày, còn Hương
Nghiêm thì bưng đến một tách trà nóng cho sư uống sau khi rửa mặt.
Gặp loại công án này, các thiền sinh nên chú ý phạm trù Thiền tông không
chủ trương thần thông huyền bí" mà thực tế hiển hiện vì đối với người mới
thức dậy, đoán mộng là chuyện thần thông đâu đâu sao bằng cụ thể mang
nước khăn đến rửa mặt rồi chén trà nóng thấm giọng.
7- Phản quan tự kỷ
Thiền sư Vân Môn dạy rằng: “Ai ai cũng có sẵn quang minh vậy mà khi
nhìn lại không thấy, chỉ thấy tối mò. Mà ánh sáng quang minh là cái gì?
Là cổng chùa, nhà kho”.
Gặp loại công án này, các thiền sinh phải chú ý đến phạm trù, “Phản quan
tự kỷ” vì ai ai cũng có ánh quang minh mà vì không tự nhìn lại mình, mải
lo đi tìm tự đâu đâu mà nào có biết ánh quang minh chỉ là những vật bình
thường giản dị như nhà bếp, cổng chùa.
8- Nhất tâm bất sinh, vạn pháp chí lý
Trong công án “Bản lai diện mục vô sinh diệt”, Thiền sư Triệu Châu nói:
“Phật bằng vàng không chịu nổi lò nung. Phật bằng gỗ không chịu nổi lửa,
Phật bằng đất không chịu nổi nước, chỉ có chân Phật là an nhiên”.
Gặp loại công án này, các thiền sinh phải chú ý đến phạm trù “Nhất tâm
bất sinh, vạn pháp chí lý” vì Phật bằng chất gì cũng bị vật chất hủy hoại,
chỉ có chân Phật tự tánh bảo nhiệm ngồi nghiêm bên trong không bị nước
lửa hủy hoại, biểu thị nhất tâm bất sinh đồng với vạn pháp chí lý.
Các thiền sinh của tôi ơi, viết đến đây tôi tự cảm thấy các điều mình vừa
trình bày đều vô nghĩa vì ở mỗi công án đều dung chứa đồng lúc nhiều
phạm trù nên càng phân tích chiết trung càng bế tắc... và thấy được phạm
trù thiên hình vạn trạng ở các công án đâu phải là chuyện một bài hỏi đáp
19
chỉ ra được. Vậy thì chung quy cũng quay lại nguyên tắc mỗi thiền sinh
trước công án phải vận dụng trực giác bén nhạy thôi!
Lý Việt Dũng
20
Công Án Là Gì? 15/08/2010 )
Thích Đức Thắng Nhuận Bảo Hà Minh Triết
(www.quangduc.com)
HỎI: Tôi là một thiền sinh gặp rất nhiều khó khăn khi tìm hiểu công
án. Vậy xin quý Báo cho biết công án là gì và có cách nào giúp dễ
dàng tiếp cận tìm hiểu công án không? (TRẦN VĂN HIỂU, Cần Thơ)
ĐÁP:
Mục đích của tu Tổ Sư Thiền là làm ngưng lại dòng tâm ý thức
(thường lưu) trôi chảy liên tục trong tâm con người từ thời vô thuỷ.
Chư Tổ Sư dùng cơ xảo để làm cho đương cơ bật ngược lại, vượt qua
bức màn vô minh từ thời vô thủy, vượt qua luôn bờ bên kia của vô
thủy vô minh, hoàn toàn giác ngộ, như vàng đã tôi luyện, loại bỏ hết tạp
chất.
Bản thể chân tâm của chúng ta vốn thanh tịnh, nhưng vì một niệm bất
giác, tức nhất niệm vô minh sinh khởi, nên sinh ra ý thức phân biệt, gây
thành có ta, có cái không phải ta, sinh ra đối đãi, từ đó dòng tâm ý thức
tham sân si dấy lên, ngày càng dầy đặc, càng trôi lăn trong vòng sinh tử
luân hồi tạo nghiệp trả quả, vay trả không ngừng. Nay muốn trở về cội
nguồn thì phải dừng được dòng tâm ý thức. Nghĩa là dừng lại những tạo
tác của ý thức thường nghiệm, luồng tư tưởng, những ý niệm và nhận
thức.
Thoạt kỳ thủy, chưa có công án, mà chỉ là cơ xảo của chư Tổ, tùy theo
theo căn cơ của người đối diện mà tháo gỡ vướng mắc đã khiến họ kẹt
cứng, không hội nhập lại bản thể được, thí dụ như Lục Tổ hỏi thượng tọa
Huệ Minh:
http://thuvienhoasen.org/author/post/34/1/thich-duc-thanghttp://thuvienhoasen.org/author/post/40/1/nhuan-baohttp://thuvienhoasen.org/author/post/41/1/ha-minh-triet
21
- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của thượng
tọa Minh?
Nghe câu đó, thượng tọa Minh ngơ ngác, trong một sát na dòng tâm ý
thức bị khựng lại, bản thể hiển lộ lập tức. Những thí dụ như trong một
ngàn bảy trăm công án đều là những câu vấn đáp của chư Tổ, chính là để
đương cơ "khựng ngay dòng ý thức lại". Mỗi vị đều có những câu khác
nhau, tùy theo nhận xét của thầy mà đưa câu hỏi cho trò.
Người sau thấy những câu hỏi đáp đó đã giúp khai ngộ cho đệ tử, bèn
thu thập lại, rồi đề ra cho người tới xin tu, cho họ một câu, gọi là "một
tắc công án", để họ tự hỏi hoài, thành ra một nỗi thắc mắc nhân tạo, coi
như dụng cụ để giúp người tu thiền có thể ngưng đọng tâm tư, tạo được
khối nghi, chờ một ngày kia có trợ duyên, khối nghi bùng vỡ, là Ngộ.
Càng về sau, tâm tư con người càng phức tạp, biện luận càng nhiều.
Người tu dùng công án để tạo thắc mắc, nghi tình thì ít, đem công án ra
để bình giải thì nhiều, công án nhà Thiền biến thành công cụ để bình
luận văn thơ, đã không giúp cho dòng ý thức ngưng, còn khai triển ra đủ
loại tư tưởng đối nghịch, biến thành trò chơi chữ nghĩa. Trong trường
hợp đó, công án không còn phục vụ sứ mạng tạo nghi tình, lại lấp bít
con đường đi tới giác ngộ chân chính. (BBT)
Như vậy:
(1) “công án Thiền không phải là một đối tượng nhận thức, vì cứu
cánh của chúng vượt lên trên ngôn ngữ chấp trước của tri thức, đó là một
cảnh giới mà kinh Bát Nhã gọi là" VÔ SỞ ĐẮC," kinh Kim Cương gọi
là"VÔ SỞ TRỤ," kinh Lăng Già gọi là"CẢNH GIỚI CỦA THÁNH TRÍ
TỰ CHỨNG." (Xem thêm: CÔNG ÁN THIỀN VÀ VẤN ĐỀ NHẬN
THỨC - Thích Đức Thắng)
(2) “Công án thiền cũng là ngôn ngữ, là hành động nhưng chúng ta
không thể hiểu nó bằng tư duy, phân biệt hay suy lường, mà chỉ có thể
thâm nhập nó, "biết" nó bằng trực giác. Thế nên những công án Thiền
không phải là đối tượng để cho chúng ta có thể tiếp cận hay hiểu nó
bằng cảm quan, tình thức, bằng học vấn, suy tư hoặc có thể mổ xẻ,
lý giải bằng ngôn ngữ, văn tự theo cách hiểu thông thường. Nghĩa là
những Thiền ngữ này, tức phương tiện khai thị của các Thiền-sư hoàn
http://thuvienhoasen.org/p33a3662/1/cong-an-thien-va-van-de-nhan-thuchttp://thuvienhoasen.org/p33a3662/1/cong-an-thien-va-van-de-nhan-thuc
22
toàn chẳng giống như những bài toán, những luận đề hay là những lý
thuyết khoa học mà con người có thể biện biệt, phân tích, luận bàn đúng
sai phải trái, để rồi dẫn đến một kết luận tương đối hay cho ra một đáp
án khả dĩ số đông chấp nhận được. Bản chất và công năng của Công án
Thiền hoàn toàn không phải như thế…” (Xem thêm: ĐÔI NÉT VỀ
THIỀN CÔNG ÁN - Nhuận-Bảo)
(3) “…Sau khi lược sơ 200 trang của chương “Tu Tập Công Án: Phương
Tiện Chứng Ngộ”, trong Essays in Zen Buddhism”của soạn giả Daisetz
Teitaro Suzuki, mà dịch giả Trúc Thiên và thượng tọa Tuệ Sỹ dịch
là Thiền Luận chúng ta đã thấy rõ rằng: 1 – Tác giả Suzuki chủ trương
“không thể dùng tâm ý thức, suy tư tìm hiểu, kiến giải, để khán Công
Án, Thọai Đầu”. 2 – Đề lên rất cao tầm quan trọng của “nghi tình” trong
khán Công Án. 3 – Ông không dạy “giải công án”. (Xem thêm: QUAN
ĐIỂM CỦA DAISETZ SUZUKI VỀ CÔNG ÁN - Hà Minh Triết)
“..Để thay lời kết luận, chúng tôi (Thượng tọa Thích Đức Thắng) tha
thiết yêu cầu mọi người trong chúng ta, hãy vì sự nghiệp giải thoát của
mọi người, mà ngưng đi những việc làm tai hại đó (gỉai công án), vì
chúng không có lợi, mà ngược lại sẽ có hại cho chính ngày hôm nay và
ngay cả mai sau; bởi vì chúng sanh trong thời kỳ mạt pháp tình trạng căn
cơ của họ nghiêng nặng về lý trí phân biệt. Cho nên đối với những người
học Đạo, họ chỉ biết đắm mình vào thế giới ngôn ngữ văn tự, để rồi bị
chúng đánh lừa trở thành nô lệ, và tự thỏa mãn cho đó là cứu cánh, đáng
lý ra chúng chỉ là phương tiện bị vượt qua, nên đức Phật Thích Ca đã
từng tiên liệu trong kinh Lăng Già ngài đã phủ nhận: "Bốn mươi chín
năm ta chưa hề nói lời nào." Thế mà cái hậu quả ấy vẫn xảy ra, càng
ngày càng thêm tệ hại không phương cứu chữa! Chúng ta nên quay nhìn
lại xem cái kiến thức, mà chúng ta đã nỗ lực thâu lượm nhờ vào ngôn
ngữ văn tự, tư duy học hỏi đó, có phải là cái bản lai diện mục xưa nay
của chúng ta hay không? Hay đó chỉ là cái quái thai của vọng thức điên
đảo phân biệt? Vậy thì cái bộ mặt thật xưa nay của chúng ta nó ở đâu?
Hãy cẩn thận! Đừng tự đánh lừa mình! Đừng đánh lừa mọi ngườí! Hãy
tự thực hành theo những lời dạy của đức Phật, cho dù chỉ là một chữ hay
một câu đi chăng nữa, nếu chúng ta thực hành thấu đáo vượt qua khỏi
chúng, thì đó là một việc làm lợi ích, chứ không phải học hỏi so sánh đối
chiếu thiên kinh vạn quyển qua ngôn ngữ này ngôn ngữ nọ, để hiểu biết
http://thuvienhoasen.org/p33a3661/1/doi-net-ve-thien-cong-anhttp://thuvienhoasen.org/p33a3661/1/doi-net-ve-thien-cong-anhttp://thuvienhoasen.org/p33a3660/1/quan-diem-cua-daisetz-suzuki-ve-cong-anhttp://thuvienhoasen.org/p33a3660/1/quan-diem-cua-daisetz-suzuki-ve-cong-an
23
những lời dạy của đức Phật, rồi đem ra bàn luận mổ xẻ phân biệt chúng
đúng sai chi li qua sách vở hay lời nói, rốt cuộc tham vẫn còn tham, sân
vẫn còn sân, và si vẫn còn si. Đó không phải là mục đích tối hậu của
những lời dạy đức Phật, mà mục đích tối hậu của đức Phật là thực hành
giải thoát tất cả mọi trói buộc của tham-sân-si ngay trong cuộc sống này,
chứ không phải học để biết tham sân si. Như thế chúng ta học để làm gì
cho phí công vô ích, trong khi chúng không can hệ gì đến vấn đề giải
thoát tham-sân-si!? ." (Xem thêm: CÔNG ÁN THIỀN VÀ VẤN ĐỀ
NHẬN THỨC - Thích Đức Thắng)
http://thuvienhoasen.org/p33a3662/1/cong-an-thien-va-van-de-nhan-thuchttp://thuvienhoasen.org/p33a3662/1/cong-an-thien-va-van-de-nhan-thuc
24
Thiền Công Án Thích Chơn Thiện
www.budsas.org
Thực Chất Của Công Án
Thật là lúng túng khi bàn đến Công án Thiền. Hỏi Công án là gì cũng
như hỏi Chân như là gì hay Diệu nghĩa của Phật pháp là gì!
Làm sao đặt chân đến đó với ngôn ngữ khái niệm quá nghèo nàn, giới
hạn?
Ðề cập đến Công án một cách gián tiếp, phủ định chăng? Nếu bằng cách
đó thì chúng ta đã trở lại ngôn ngữ mà Công án sử dụng.
Mở cửa Công án bằng những Công án mới chăng? Cách này chỉ đem lại
cho người đọc thêm lúng túng, mà vấn đề Công án vẫn bỏ ngõ.
Người viết bèn phương tiện mượn ngôn ngữ nhật dụng để nói đến Công
án, nhưng nói với thái độ đầy cẩn trọng.
Tông chỉ của Thiền Công án (hay Thiền Tổ sư) là: "Giáo ngoại biệt
truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành
Phật" (truyền riêng ngoài giáo, không lập văn tự, chỉ thẳng tâm người,
thấy tánh thành Phật). Do đó, Công án Thiền thật sự dành riêng cho căn
cơ đặc biệt thích hợp với nó. Tiếng hét, tiếng bổng, lời lẽ v.v... hình như
chỉ đến riêng với hành giả đang đối diện với Thiền sư ở một thời điểm
đặc biệt nào đó. Mỗi Công án, vì vậy, có một tác dụng riêng. Ðiểm
giống nhau của các Công án là trợ giúp hành giả bừng ngộ. Nói đến Ngộ
là nói đến ngộ tự tánh, hay pháp tánh. Như thế, dù đối tượng nắm giữ có
khác nhau, thời gian nắm giữ đối tượng có dài ngắn khác nhau ở mỗi
hành giả, chung qui chỉ có một việc: thế nào để làm hiển lộ tâm giữa
25
đám sương mù của vọng niệm. Nếu không phải thế thì chúng ta không
có gì để bàn đến Công án cả; trong ý nghĩa đi tìm giải thoát từ nó.
Thật ra không phải chỉ có Công án Thiền hay ngôn ngữ Thiền Công án
là khó hiểu, bí mật, mà mọi sự vật đang trình diện trước mắt ta, gồm cả
ngôn ngữ khái niệm, cũng đầy bí mật cả. Bởi vì, thấy rõ thật nghĩa, thật
tướng của chúng tức là thấy rõ Chân tính hay Niết bàn. Thế giới mà ta
gọi là "hiện tượng giới" hay "thế giới vật lý", bình tĩnh mà nói theo ngôn
ngữ triết học Tây phương, còn siêu hình hơn cả những gì siêu hình. Ta
có thể lập luận: nếu triết lý là nói về cuộc sống, thì chính cuộc sống là
triết lý siêu đẳng. Tương tự, nếu Công án là để chỉ thấy Tánh, thấy Pháp,
thì Pháp là Công án thượng thừa.
Với Công án Tổ dạy, do vì hành giả đặt nhiều tin tưởng vào đó, nắm giữ
nó như là nắm giữ chiếc đũa thần, nên hành giả tập trung mạnh tâm thức
vào đó mà sớm vỡ lẽ tâm, pháp.
Với sự vật trước mắt, nếu hành giả can đảm, có đủ lòng tin, tập trung
quán tưởng vào đó, chúng cũng sẽ giúp hành giả đi đến một thành tựu
tương tự.
Một điều duy nhất đã làm cho Công án trở nên bí ẩn và làm cho việc
thấy Tánh trở nên khó khăn là do sức tập trung tâm thức không đủ mạnh
để làm tan vỡ các vọng niệm. Sức tập trung tâm thức ấy chỉ đủ mạnh nếu
hội đủ hai điều kiện:
1. Ðối tượng quán thích hợp với điều kiện tâm lý của hành giả, thu hút
được sức tập trung mãnh liệt của hành giả.
2. Lòng tin của hành giả chú tâm vào đối tượng.
Nói cách khác, bí ẩn của Công án chính ở chỗ làm dấy lên được sức tập
trung mạnh để xóa tan các vọng niệm ấy.
Hai trường hợp được kể sau đây sẽ giúp ta soi sáng điều đó:
26
1. Trở về câu chuyện người đệ tử trẻ của Tôn giả Xá lợi phất: "Hãy
thay bến nước khác" (Bổn sanh Tittha, Jàt. 182).
Chuyện kể rằng theo lời dạy của Tôn giả, một người đệ tử trẻ đã thực
hành quán tưởng bất tịnh trong bốn tháng nhưng vẫn không có tiến bộ
trong việc phát triển Thiền quán. Tôn giả quán biết người đệ tử có duyên
được Phật độ, đã đưa người đệ tử đến yết kiến Thế Tôn và trình lên Thế
Tôn sự việc.
Thế Tôn biết tâm hướng của người đệ tử trẻ ấy thích hợp với đối tượng
quán tịnh hơn, do vì nhiều kiếp trước sinh vào gia đình thợ vàng chuyên
thấy vành thanh tịnh. Thế Tôn bèn cho người đệ tử trẻ ấy, mặc y phục
trong và ngoài tốt đẹp, dẫn đi khất thực các thức ăn thượng vị, cho nghỉ
trưa ở hương phòng, rồi cho đi ngắm một hồ sen tuyệt đẹp (hồ sen do
thần lực của Thế Tôn thị hiện), ở đó có đóa hoa tuyệt thắm, đẹp mắt.
Thế Tôn bảo người đệ tử trẻ ngắm sen và chờ Thế Tôn về hương phòng
một lát sẽ trở lại.
Ðang lúc mải ngắm đóa sen tuyệt thắm, đóa sen bổng dưng héo và rụng.
Người đệ tử hốt nhiên bừng sáng lý vô thường, tâm hoàn toàn ly tham,
trực đắc A la hán quả.
Ðây là một trường hợp điển hình về đối tượng quán tưởng tương ưng với
tâm lý của hành giả.
2. Chuyện "Với ít vốn, người trí" (Bổn sanh Cullapanthaka, Jàt.
114).
Tỷ kheo Cullapanthaka ám độn, bốn tháng chưa học thuộc bài kệ bốn
câu. Tỷ kheo thất vọng muốn hoàn tục để tu phước. Thế Tôn thấy rõ tâm
hướng, bèn trao cho một tấm vải sạch bảo vừa lau bụi vừa nói: "Ðồ lau
bụi"...
Khi miếng vải tinh bị nhớp, Cullapanthaka bỗng hoát nhiên bừng tỉnh
tính vô thường của các hành, tâm an trú trên đoạn diệt, phát triển mạnh
trên Thiền quán. Thế Tôn liền bảo Cullapanthaka để ý bụi tham, sân, si
27
trong tâm, hãy lau sạch chúng và Ngài nói lên ý nghĩa đó bằng một bài
kệ. Nghe xong, Cullapanthaka đắc A la hán, đắc Vô ngại giải, thông suốt
Ba tạng giáo điển.
Trường hợp này là trường hợp điển hình đặt niềm tin mãnh liệt vào đối
tượng quán. Do sức tập trung ấy, hành giả phát triển được Thiền quán và
bừng tỏ thấy Tánh.
Kiến tánh, như thế chỉ là sự bừng vỡ của nguồn tuệ có sẵn bên trong
hành giả. Công án và các đối tượng quán tưởng khác không mang một bí
ẩn nào khác hơn là trợ duyên tốt cho hành giả trong việc tập trung tư
tưởng phát triển Thiền quán. Những trường hợp đặc biệt của tiếng bổng,
tiếng hét, đạp gai, vấp ngã, nghe sỏi rơi, bị chặt đứt một ngón tay, bị
nghiền nát bàn chân v.v... đều mang ý nghĩa trợ duyên ấy. Có lúc hành
giả chỉ cần một sự kích động nhỏ khai thông chỗ kẹt là đủ để đánh thức
giác tánh.
Ðốn ngộ ở Thiền quán cũng không phải là trường hợp ngẫu nhiên hay
đặc biệt. Mọi sự bừng ngộ hầu hết là hốt nhiên. Ðiểm khác biệt nhanh,
chậm giữa những người cùng tu là ở người này vô minh chỉ còn là làn
sương mỏng, ở người kia là một lớp băng giá, phải cần nhiều nhiệt năng
và thời gian mới có thể làm tâm thức hiển lộ.
Các trường hợp bừng ngộ được ghi lại rất nhiều ở Kinh Bộ, ở Trưởng
Lão Tăng Kệ và Trưởng Lão Ni Kệ, qua đó ta có thể thấy rằng Thiền
Công án không phải là khám phá đặc thù của Thiền Tổ sư.
Việc nắm giữ Công án thường là việc nắm giữ dòng Thiền quán về một
đối tượng. Nó đặc biệt hợp với căn cơ luận giải và có một căn bản định
lực (tối thiểu là Sơ thiền, Nhị thiền), không phải là căn tánh đó thì khó
có thể, hay không thể, phát triển Thiền định. Nếu ngược căn tánh, có khi
nỗ lực thực hành thì sẽ dẫn đến ảnh hưởng trái ngược, tâm lý dễ bị xáo
trộn giữa lúc hành giả đang bận phải đối mặt với lắm phiền não ở đời.
Ðể tránh tai hại ấy, hành giả cần tự xét căn tánh của mình, cần luôn luôn
tỉnh giác khi đến với Thiền Công án.
28
Tại đây, ta có thể rút ra một vài kết luận:
- Công án Thiền không thể bí ẩn và khó hiểu hơn cuộc đời vọng động
mình đang sống. Công án không thể mang ý nghĩa nào khác hơn là một
đối tượng Thiền quán.
- Việc chọn đối tướng Thiền quán thích hợp với căn tánh hành giả là
quan trọng trong việc phát triển Thiền định.
- Mọi sự vật ở đời đều có thể trở thành Công án hay đề tài Thiền quán
cả.
Ngôn Ngữ Công án
Mọi thứ ngôn ngữ chỉ là dấu hiệu. Dấu hiệu chỉ là biểu tượng. Biểu
tượng thì phải biểu tượng một cái gì đó. Thế nên, cái mà ngôn ngữ biểu
tượng thì không có trong ngôn ngữ. Muốn biết nó, người ta phải chắp
cánh cho ý niệm bay vào thực tại ở đàng sau ngôn ngữ ấy. Từ ngôn ngữ
đến thực tại là một khoảng cách dài của: ngôn ngữ - ý niệm - tư tưởng -
thực tại.
Tư duy hay tư tưởng, chỉ là sản phẩm của Năm uẩn đầy hư ảo. Nó không
phải là thực tại.
Thiền sư biết rõ như thế, nên đã chủ trương "giáo ngoại biệt truyền", và
trong việc "khai thị hành giả ngộ nhập thực tại chi tính" đã dùng đến một
loại ngôn ngữ riêng gọi là ngôn ngữ Công án. Ðó là ngôn ngữ khái niệm
được dùng qua một lối diễn đạt độc đáo. Ngôn ngữ của một Công án này
không hẳn là loại ngôn ngữ của một công án khác, và cũng không phải
là ngôn ngữ của khái niệm.
Dù sao, Thiền sư cũng phải nói tiếng nói con người. Và tiếng con người,
dù được hiểu bằng cách nào thì cũng không rời khỏi tướng thanh trần.
Nếu thấy được trần, thì sẽ thấy được đạo. Cái thấy đạo là cái thấy rời
khỏi tướng "nhị thủ" (năng và sở). Do đó, khi Công án bừng sáng, thì
bừng sáng một lượt với tâm thức ở ngoài vùng chấp thủ tướng của hành
giả. Công án không phải là cái gì bí mật mà cũng không phải là lời nói
29
trống rỗng. Nó nói ít mà ý nhiều, sống động, và có khi có tác động mạnh
vào tâm lý, lay đổ các vọng tưởng của hành giả.
Thích Chơn Thiện
("Tìm Vào Thực Tại", Sài Gòn, 1997)
30
Công án Thiền
14/03/2008 Vũ Nguyên Tâm
http://www.phattuvietnam.net/nghiencuu/thien-hoc/3120-c%C3%B4ng-
%C3%A1n-thi%E1%BB%81n.html )
Công án, nguyên nghĩa là án lệnh ở công đường hay toàn bộ nội dung
của một vụ án được đưa ra để công chúng thẩm định phải trái, đúng
sai.
Trong Thiền tông Trung Hoa, công án là một bài (tắc) ghi lại hoàn cảnh,
sự việc, qua đó một thiền giả đạt ngộ hay sự đối đãi, chỉ dạy của một
thiền sư khiến cho một đệ tử hay một người đến tham vấn đạt đến lý
chân thật của thực tại tuyệt đối vốn không dính dáng gì đến thứ lý luận
phân biệt, chấp trước bằng ngôn ngữ, tư duy thông thường.
Do đó mà ta thường thấy sự việc, hành tác, ngôn ngữ, cử chỉ… của nhân
vật, đặc biệt là của các thiền sư trong công án rất nghịch lý, khó hiểu.
http://www.phattuvietnam.net/author/Admin/http://www.phattuvietnam.net/nghiencuu/thien-hoc/3120-c%C3%B4ng-%C3%A1n-thi%E1%BB%81n.htmlhttp://www.phattuvietnam.net/nghiencuu/thien-hoc/3120-c%C3%B4ng-%C3%A1n-thi%E1%BB%81n.html
31
Ví dụ: Một ông Tăng hỏi Hoà thượng Động Sơn: “Phật là gì?”. Sư đáp:
“Ba cân mè”, hoặc: Hoà thượng Thủ Sơn giơ gậy trúc trước chúng và
nói: “Này các vị, nếu gọi là gậy trúc thì xúc phạm, không gọi là gậy trúc
thì trái nghịch. Vậy gọi là gì?“.
Đây là ngôn ngữ của một thứ biện chứng pháp siêu việt, nhằm tạo sự
ngỡ ngàng, hụt hẫng, làm bung vỡ mọi chấp trước, phân biệt, phá tan
mọi kiến thức, nghi nan, mọi tư duy nhị nguyên, đưa đến sự đạt ngộ
ngay liền (đốn ngộ).
Phương pháp trao truyền và thể cách thọ nhận “trực chỉ nhân tâm, kiến
tánh thành Phật” và “giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự” giữa thầy và
trò là nét đặc biệt của Thiền tông Trung Hoa khởi từ Bồ Đề Đạt Ma (thế
kỷ VI), tiếp đó là 5 vị Tổ, rồi trải đến các dòng Thiền về sau, đặc biệt là
dòng Lâm Tế và dòng Tào Động.
Đến đời Tống (thế kỷ X), những trường hợp dạy dỗ, chứng đạt đặc thù
trước kia được ghi chép lại, phổ biến trong thiền môn để các hành giả
tham cứu, quán các đề tài trong đó, nhằm khơi dậy cái trực giác về trí
tuệ uyên nguyên vốn có ở mỗi người nhưng bị che lấp vì phiền não,
phân biệt. Những trường hợp được truyền thuật này được gọi là các công
án.
Người ta bảo rằng có đến 1.700 công án nhưng phần lớn bị trùng lặp,
thêm bớt, nhầm lẫn hoặc nguỵ tạo. Hiện nay, theo các thống kê không
chính thức, có khoảng 500 hay 600 công án (kể cả các công án phát xuất
từ Nhật Bản).
Các sách ghi chép công án thường có thêm lời bình, lời tụng của người
biên soạn, cũng khó hiểu không kém các công án. Có 5 bộ sách chính là:
Bích Nham Lục, Thung Dung Lục, Vô Môn Quan, Chính Pháp Nhãn
Tạng và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục; ngoài ra, các sách Thiên Nhân
Nhãn Mục, Chỉ Nguyệt Lục, Tục Chỉ Nguyệt Lục cũng được xem là
những sách quan trọng về công án. Một công án nêu lên một lời kinh
32
hay lời nói của một vị thiền sư thường được gọi là thoại đầu hay thoại
đầu công án.
Ngoài mục đích sưu tập công án đã nói trên, người ta còn phân biệt 5 lợi
ích của công án là: công cụ cho việc ngộ Thiền, làm phương pháp để
khảo nghiệm, làm phương thức nương tựa cho đời sau, làm tín vật cho
sự ấn chứng và làm tiêu điểm cứu cánh.
Theo chúng tôi, rất khó, thậm chí là không thể đạt ngộ bằng việc tham
công án.
Tiểu sử chư Tổ, chư Đại Thiền sư cho ta thấy chư vị đều chuyên cần
tụng kinh, niệm Phật, thiền định cho đến khi đạt ngộ chứ không phải chỉ
tham cứu công án. Những trường hợp đạt ngộ của hành giả là do căn cơ,
do nhân duyên, kể cả những cơ duyên nhỏ nhất như cơn gió, làn mây,
viên sỏi, … và phần lớn là nhờ một bậc thầy biết rõ tâm của hành giả và
thiện xảo đẩy đưa hành giả đến chỗ đạt ngộ ngay tại một thời điểm đặc
biệt…
Lại nữa, “như người uống nước, nóng lạnh tự hay” cho nên những
trường hợp đạt ngộ là trường hợp của một cá nhân, trong một sự hội tụ
cơ duyên đặc biệt, chứ không thể có hai trường hợp giống nhau được.
Chúng ta ngày nay lật xem công án, nhìn cái phong cách dạy dỗ, tu tập,
truyền đạt, thọ nhận của người xưa là chỉ thấy cái bề ngoài, dù có hiểu
được phần nào cái nội dung công án thì đấy cũng chỉ là nội dung biểu
kiến, không thật.
Sự đốn ngộ thật ra là kết quả của một quá trình tu tập lâu dài, cần có Đại
phấn chí (ý chí mãnh liệt), Đại nghi đoàn (sự trăn trở, tư duy, nghiền
ngẫm đề tài chứ không phải mối nghi ngờ thông thường) và Đại tín căn
(niềm tin tuyệt đối vào chính pháp và khả năng trí tuệ của chính mình);
đặc biệt là Đại nghi đoàn mà Thiền sư Bạch Ẩn nói đến: “Nghi lớn thì
ngộ lớn” và ngài Vô Môn cũng dặn: “Hãy tận dụng 360 xương cốt, tám
33
vạn bốn ngàn lỗ chân lông, vận dụng cả thân tâm, khởi thành một mối
nghi”.
Như vậy là để đạt ngộ, hành giả phải đem hết thân tâm, cả sinh mạng
của mình để nghiền ngẫm, quán xét cái thực tại siêu việt cho đến khi đạt
ngộ.
Sau cùng, chúng ta cần ghi nhận rằng các công án không phải do chư
Tổ, chư Đại sư tự tay chép lại. Người chép lại có thể là một đệ tử, hoặc
là một chú tiểu hầu trà, thậm chí do nhiều người sau kể lại…
Sự “truyền riêng ngoài giáo” rất riêng tư giữa hai thiền giả làm sao
người khác biết được? Làm sao xác định được những động tác, những
lời lẽ kia đúng là một công án hay chỉ là một sự giao tiếp rất bình
thường? Và như vậy, làm sao nhận biết những công án không thật trong
số 500 hay 600 công án hiện nay để khỏi phải tốn công tham khảo vô
ích?
34
CÔNG ÁN THIỀN
(Trích sách: Đại Thừa Yếu Lược, soạn giả: Liên Hoa Tịnh Huệ, trang
269-274)
(http://www.diendan.daitangkinhvietnam.org/viewtopic.php?t=10797)
Công Án là một đề tài suy gẫm được thiền sư trao cho đệ tử trong quá
trình tu tập đi đến giác ngộ. Công án được thịnh hành vào cuối thế kỷ
thứ 9 bên Trung Hoa, khoảng 150 năm sau Lục Tổ Huệ Năng. Trước đó
không có việc xử dụng công án. Các thiền sư dạy thiền bằng cách nói
một bài pháp hay giảng về một đề tài nào đó trước đồ chúng được tập
hợp trước thiền đường. Công án nhằm phổ thông hóa thiền, làm cho
thiền vốn từ trước là phần sở hữu của giới thượng lưu trí thức nay trở
thành thiền đại chúng, có hệ thống, kinh nghiệm. Tĩnh tọa và mặc tưởng,
học nhiều thiền ngữ và thiền thoại cốt đạt chơn lý không phải là mục
tiêu của công án thiền. Dưới đây là một vài cong án chung cho những
người mới tu tập:
1. Phật là gì? Sư Đông Sơn đáp: "Ba cân gai". 2. Nếu trong tâm không móng khởi một niệm, có lỗi lầm gì không? Sư
Vân Môn cho biết: "Lỗi đó dường như núi Tu Di".
3. Con chó có Phật tánh không?Sư Triệu Châu nói: "Vô". 4. Huệ Minh hỏi Huệ Năng về mật chỉ của thiền. Huệ Năng
đáp: "Bổn lai diện mục của ông trước khi cha mẹ sanh ra là gì?"
5. Sơ Tổ Đạt Ma sang Trung Hoa có ý gì? Sư Triệu Châu nói: "Cây bách trước sân".
6. Triệu Châu đến học thiền với Nam Tuyền hỏi: "Đạo là gì?" Đáp: "Bình thường tâm là đạo".
7. Vạn pháp qui nhứt, nhứt qui về đâu? Triệu Châu đáp: "Khi ở Thanh Châu, ta có may một chiếc áo nặng bảy cân".
8. Bàng cư sĩ đến gặp Mã Tổ hỏi: "Ai là kẻ không cùng vạn pháp làm bạn?" Đáp" [i]Đợi khi ngươi uống một hớp hết cả nước Tây Giang
rồi ta sẽ nói".
Đặt các câu hỏi như trên tức là đã làm những công việc tìm kiếm, suy tư
mà không tìm được câu giải đáp. Do đó các đệ tử thường phải hỏi thầy
35
nhưng thầy lại không nói rõ, chỉ trả lời một chữ hoặc nói một cách bâng
quơ khó hiểu khiến cho các đệ tử phải nổ lực tìm tòi nữa, đào sâu trong
trí óc, lặn sâu hơn nữa dưới những lớp tri thức thường nghiệm. Lặn mãi,
tìm mãi đến khi nào đột nhiên đụng vào cái chốt mở cửa cho thấy chớn
trời bao la mới mẻ.
Tình trạng bế tắc, khủng hoảng và bất an của các đệ tử trong giai
đoạn tìm tòi nói trên là một điều hết sức cần thiết, nếu được minh sư
hướng dẫn, chỉ điểm đúng mức, đúng lúc thì sẽ được phá vỡ và vượt qua
ngay. Vì thế thiền được định nghĩa là nấu dầu trên lửa hực". Một cái
tát, một cái vỗ vai, một lời thốt lên, một tiếng hét của minh sư, bất luận
là gì, nếu quy trình tìm tòi đã đến lúc chín mùi và sắp kết thúc, cũng đủ
giúp cho các đệ tử thấy được chiếc thuyền trôi ngược gió, điện ngọc
trên đầu ngọn cỏ.
TU TẬP CÔNG ÁN
Tu tập công án là tiến hành công việc tìm tòi, suy tư chung quanh đề tài
đã được thiền sư trao cho mình. Dưới đây là lời dạy của các Tồ:
"Các ông hãy chuyên tâm vào chữ Vô của Triệu Châu, cố tìm hiểu ý
nghĩa của nó. Chuyên tâm vào nó cả ngày lẫn đêm, dù đứng đi nằm
ngồi, dù cả khi mặc áo ăn cơm, đại tiện tiểu tiện. Hãy tận lực ghi nhớ nó
trong lòng. Ngày qua tháng lại cho đến khi tâm của các ông được nhồi
thành một khối (nhứt tâm) thì hoa lòng bỗng nhiên bừng nở, tỏ ngộ cái
tâm cơ của Phật và Tổ".
Công án có nhiều thứ, hoặc chữ "Vô", hoặc "vạn pháp", hoặc "núi Tu
Di"... hoặc tham cứu niệm Phật (hay trì niệm Đà la ni) tùy theo sở thích
mà nắm giữ lấy công án, hẹn cho đến khi ngộ mới thôi. Lời xưa có nói:
"Mười phần tín là mười phần nghi, mươi phần nghi là mười phần ngộ".
Hãy rửa sạch cái tâm chứa đầy sở kiến, sở văn, biết lầm, hiểu bậy, lời lạ,
36
tiếng hay, đạo thiền, pháp Phật, cống cao, ngã mạn... (tất cả đều là vọng
niệm, còn chấp ngã và pháp), chỉ chuyên tâm vào công án. Đừng phân
biệt đêm ngày, giữ tâm chuyên nhất cho đến lúc chẳng bận Đông, Tây,
Nam, Bắc. Phải giống như người chết mà còn thở. Tâm theo cảnh mà
hóa, đụng đến là biết ngay. Ý niệm thôi khởi phát, tâm thức bặt đường
đi. Rồi hốt nhiên đập vỡ óc não, từ dấy nhận ra rằng nguyên lai đạo vốn
có trong mình" (ngộ Phật tánh).
Hãy bỏ những gì thấy, nghe, hay, biết (kiến, văn, giác, tri) mà thấy
những gì trong chính mình. Do kiến văn giác tri mà chúng ta bước vào
đạo, nhưng cũng do kiến văn giác tri mà chúng ta không bước vào được,
vì chúng là một trở ngại lớn lao làm chúng ta mù mắt, đi lang thang mãi
trong bóng tối. Chúng ta hãy dứt bỏ chúng, bắt chúng đứng yên, đi đứng
nằm ngồi, yên lặng hay nói năng hãy giữ tâm mình như sợi dây căng
thẳng, đừng để chúng vượt ra khỏi vòng câu thúc của mình.
Có ba yếu tố cần thiết trong việc tu tập công án: tin lớn, chí lớn, nghi
lớn. Đừng bao giờ xao lãng tìm hiểu chữ "Vô" của Triệu Châu hay một
công án nào khác. Khi thấy công án trở thành vô nghĩa, nhạt nhẽo, vô vị,
mình sẽ cảm thấy bất an trong tâm thức. Đến đây là lúc cùng tắc thông,
hãy buông mình xuống vực thẳm để rồi sống lại với biết bao nỗi vui
mừng. Nên nhớ rằng đại nghi cũng còn được gọi là nhất tâm, tất cả khả
năng tâm thức của chúng ta được tập trung vào công án. Chúng ta nên áp
dụng lời chỉ dẫn sau đây của thiền sư Thôi Ẩn tu tập công án: "Không
tưởng tượng, không xao lãng, không qui định công án để rút ra một ý
nghĩa, không bộc bạch bằng lời, không lấy ý nghĩa công án làm đối
tượng suy tư, không xét công án theo khía cạnh hữu hoặc vô, không xem
công án như chỉ điểm của ngoan không, không lầm nhẩm công án và
không mong cầu chứng ngộ".
37
Giải (đáp) công án chẳng phải Thiền Tông
Lê Anh Chí __(http://www.kientanh.com/Luan5/GiaiCAKhongThienTong.html)
___________________________
Dàn Bài : I) Ba Phương Thức Thiền Tông
II) Pháp môn ‘‘Giải (đáp) công án’’
III) Giải (đáp) công án là tri thức chẳng phải Kiến Tánh
IV) Khởi nghi tình chớ chẳng phải là ‘‘tìm đáp án cho công án’’
V) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi vấn
VI) Khởi Nghi tình rồi . . .
VII) Nguyên Lý Phá Nhập
VIII) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chánh pháp
IX) Sao gọi là chánh nghi ?
I) Ba Phương Thức Thiền Tông
Việc tu hành của pháp môn Kiến Tánh gồm 3 Phương Thức :
1) truyền tâm ấn tâm
2) tự tu bằng Kinh Kim Cang
3) khán công án, thoại đầu
Chỉ vỏn vẹn có 3, không hai, không bốn, không năm.
Xem bài
Nguyên Lý Phương Thức Thiền Tông
Từ 800 năm nay, phần đông hành giả Thiền Tông đều tu theo pháp
công án, thoại đầu.
Pháp khán công án, thoại đầu là: khởi nghi tình, kết nghi tình thành một
khối, duy trì nghi tình, đến khi nghi tình bỗng tan vỡ thì Kiến Tánh.
Xin lưu ý : Công án khác thoại đầu
Công án là một câu chuyện.
Thoại đầu là một câu nói.
Công án và thoại đầu đều dùng để khởi nghi tình
Bài này sẽ dùng chữ Công án thay cho cả hai chữ Công án và thoại đầu.
http://www.kientanh.com/Luan5/GiaiCAKhongThienTong.htmlhttp://www.kientanh.com/Luan3/NguyenLyTT.html
38
II) Pháp môn ‘‘Giải (đáp) công án’’
Có một số nơi tu hành như sau : thầy đưa ra một vấn đề, gọi là công án,
trò tìm cách giải công án đó ; hết công án này lại đến công án kia. Giải
được khoảng hơn 700 công án thì được xem là bậc thầy, là đắc đạo
Tu hành như vậy, trong bài này, được gọi là theo Pháp môn ‘‘Giải (đáp)
công án’’
III) Giải (đáp) công án là tri thức chẳng phải Kiến Tánh
Ba Phương Thức Thiền Tông đều cùng một mục đích : Kiến Tánh.
Kiến Tánh là chứng ngộ Phật Tánh,
là chứng ngộ Phật Tâm
là chứng ngộ Đại Niết Bàn,
là chứng ngộ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh,
là chứng ngộ Bản Thể của Tâm
Kiến Tánh là chứng ngộ, là một sự thực chứng. Thực chứng Đại Niết
Bàn, thực chứng Thường Lạc Ngã Tịnh ,thực chứng Trạng Thái Kiến
Tánh
Kiến Tánh là một sự chứng ngộ , chẳng phải là Kiến Văn Giác Tri.
1) Biết rằng tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh của ta
bình đẳng với chư Phật, đều là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Biết như vậy
chẳng phải là Kiến Tánh .
Hiểu, tin rằng tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh của ta
bình đẳng với chư Phật, đều là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Hiểu, tin như
vậy chẳng phải là Kiến Tánh .
Nhận thức rằng tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh của
ta bình đẳng với chư Phật, đều là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Nhận thức
như vậy chẳng phải là Kiến Tánh .
Kiến Tánh là một sự chứng ngộ .
Nhận thức, hiểu, biết , tin như trên là thuộc về Kiến Văn Giác Tri, là
lòng tin, là lý luận ( mà lý luận rất gần với hí luận), đều chẳng phải là
Kiến Tánh ; mà chỉ là điều kiện cần thiết để tu theo Thiền Tông mà
thôi !
39
2) Giải (đáp) công án là tri thức, là thuộc về Kiến Văn Giác Tri chẳng
phải Kiến Tánh
Giải (đáp) được một công án chỉ là dùng lý luận để giải quyết một vấn
đề (nhân tạo) là tri thức , chẳng dính dáng gì đến sự thực chứng Thường
Lạc Ngã Tịnh, chẳng phải là Kiến Tánh.
Giải (đáp) được 700công án chỉ là dùng lý luận để giải quyết 700 vấn đề
(nhân tạo) là tri thức , chẳng dính dáng gì đến sự thực chứng Thường
Lạc Ngã Tịnh, chẳng phải là Kiến Tánh.
Vì mục đích Thiền Tông là Kiến Tánh
Cho nên, Giải (đáp) công án là chẳng phải là Thiền Tông.
IV) Khởi nghi tình chớ chẳng phải là ‘‘tìm đáp án cho công án’’ Pháp khán công án, thoại đầu là: khởi nghi tình, kết nghi tình thành một
khối, duy trì nghi tình, đến khi nghi tình bỗng tan vỡ thì Kiến Tánh.
Việc phải làm là khởi nghi tình chớ chẳng phải là tìm đáp án cho công
án.
Cho nên, Giải (đáp) công án là chẳng phải là Thiền Tông.
V) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi vấn Xin nhớ cho rằng đây là nghi tình ; nghi tình chớ chẳng phải là nghi
vấn ! Thoại đầu không là một câu đố.
Công án không là một bài toán đố.
Tham công án, thoại đầu chẳng phải là để tìm đáp án cho một vấn đề.
Tham công án, thoại đầu để khởi nghi tình. Rồi sau đó , . . .
Rồi sau đó , như thế nào thì đã nói ở trên, và lập lại sau đây
VI) Khởi Nghi tình rồi . . .
Khởi Nghi tình rồi kết nghi tình thành một khối.
Pháp khán công án, thoại đầu là: khởi nghi tình, kết nghi tình thành một
khối, duy trì nghi tình, đến khi nghi tình bỗng tan vỡ thì Kiến Tánh.
Tại sao tham công án, thoại đầu lại có thể Kiến Tánh ? - nguyên tắc là
"dĩ độc chế độc" : Thiền sư Nguyệt Khê bảo rằng tu theo các pháp môn
40
khác giỏi lắm chỉ đến "vô thủy vô minh", cần phải dùng "nhất niệm vô
minh" để phá "vô thủy vô minh". Khi vô thủy vô minh bị phá thì Kiến
Tánh.
Pháp tham công án, thoại đầu dùng nghi tình làm nhất niệm vô minh (để
phá vô thủy vô minh) ; bởi vậy, cần khởi nghi tình, kết nghi tình thành
một khối (ở giai đọan này, nghi tình là nhất niệm vô minh) và gắng sức
giữ nghi tình :
nghi tình thành một khối là nhất niệm vô minh
vì nghi tình thành một khối và chỉ có một vô minh, nên vô minh này
cũng là vô thủy vô minh
khi nghi tình bỗng tan vỡ thì "nhất niệm vô minh" bị phá và "vô
thủy vô minh" cũng tan vỡ
khi vô thủy vô minh bị phá thì Kiến Tánh.
Tu theo Phương Thức này cũng cần có thầy vì : a) khởi nghi tình có thể
làm thần kinh căng thẳng b) "thiền bệnh" : thiền sinh có thể có thiền
bệnh ở vài giai đoạn của pháp môn.
Vì cần khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối (nhất niệm vô minh)
, nên gọi đó là làm ra "cái độc", dùng "cái độc" này để phá "cái độc" vô
thủy vô minh, nên gọi là dĩ độc chế độc
VII) Nguyên Lý Phá Nhập
Xem bài
Nguyên Lý Vượt Nhập và Phá Nhập
( Nguyên Lý Nguyên Lý Thiền Tông [3] )
1) Kiến Tánh = Nhảy Một Cái vào thẳng đất Như Lai
Trong Chứng Đạo Ca ,Thiền Sư
Huyền Giác đã diễn tả sự Kiến tánh như sau :
NHẤT SIÊU trực nhập Như Lai địa
mà Trúc Thiên dịch :
Một nhẩy vào liền đất Như Lai .
http://www.kientanh.com/Luan4/NLNguyenLyIII.htmlhttp://www.kientanh.com/Luan4/NLNguyenLyIII.html
41
đây là bản dịch ‘chính thức’ được nhiều người công nhận.
Tôi dịch là :
NHẢY Một Cái vào thẳng đất Như Lai
Dịch là Nhảy Một Cái thì gợi hình, gợi ý hơn và nhất là Việt hơn.
Nhảy Một Cái còn nói lên được sự hoát nhiên của Ngộ.
Đây là cái nhảy siêu không gian, vượt thời gian.
2) siêu không gian
Nhảy từ Vọng tâm sang Chân tâm, từ thế giới Tam Độc sang
thế giới Thường Lạc Ngã Tịnh, từ vũ trụ Ái Dục sang vũ
trụ Phật Tánh , từvũ trụ chúng sin