866
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH BAN CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TÀI LIỆU ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (Bản thảo)

Chuyên đề 1nongthonmoihatinh.vn/uploads/news/2013_04/tai-lieu-dao... · Web viewSau khi nhận được ý kiến góp ý bằng văn bản của các ban, sở, ngành và các

  • Upload
    others

  • View
    3

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Chuyên đề 1

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BAN CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

TÀI LIỆU ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG

CÁN BỘ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

(Bản thảo)

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRẦN PHÚ HÀ TĨNH

HÀ TĨNH, 2013

MỤC LỤC

Trang

Chuyên đề 1

Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng nông

thôn mới

3

Chuyên đề 2

Chức năng, nhiệm vụ của Ban chỉ đạo các cấp và bộ máy quản lý

điều hành Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn

mới giai đoạn 2010-202

32

Chuyên đề 3

Huy động nguồn vốn và quản lý tài chính ngân sách trong

chương trình xây dựng nông thôn mới

55

Chuyên đề 4 Hướng dẫn triển khai quy hoạch xây dựng nông thôn mới

119

Chuyên đề 5

Quy trình triển khai thực hiện dự án phát triển kết cấu hạ tầng

kinh tế - xã hội thuộc Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng

nông thôn mới

161

Chuyên đề 6

Phát triển sản xuất và nâng cao thu nhập cho cư dân nông thôn

213

Chuyên đề 7

Đổi mới và nâng cao hiệu quả của các hình thức tổ chức sản xuất ở

nông thôn

300

Chuyên đề 8

Lập kế hoạch có sự tham gia của người dân

379

Chuyên đề 9

Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của chính quyền xã trong xây dựng Nông thôn mới

434

Chuyên đề 10

Tuyên truyền vận động nhân dân xây dựng Nông thôn mới ở tỉnh ta

trong giai đoạn hiện nay

492

Chuyên đề 11

Công tác theo dõi, báo cáo tiến độ triển khai thực hiện Chương

trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới

514

Kính gửi: - Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới tỉnh

- Quý vị đại biểu tham dự Hội nghị

Sau khi nhận được ý kiến góp ý bằng văn bản của các ban, sở, ngành và các ý kiến góp ý trực tiếp tại cuộc họp ngày 27/2/2013, Ban biên soạn tài liệu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xây dựng nông thôn mới Trường Chính trị Trần Phú đã chỉ đạo nghiên cứu, tiếp thu để đưa vào bản thảo tài liệu như sau:

Chuyên đề 1

CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC

VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

I. TỔNG QUAN VỀ NÔNG THÔN MỚI

1.Khái niệm nông thôn

Đến nay, khái niêm nông thôn được thống nhất với quy định tại Theo Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cụ thể: "Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân xã".

2. Khái niệm nông thôn mới

- Là nông thôn mà trong đó đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Nông dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.

- Nông thôn mới có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng được xây dựng đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn kết hợp lý giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ. Sức mạnh của hệ thống chính trị được nâng cao, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.

3. Xây dựng nông thôn mới

Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao.

Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Nông thôn mới không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp.

Xây dựng nông thôn mới giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.

4.Đặc trưng của nông thôn mới

Theo cuốn “Sổ tay hướng dẫn xây dựng nông thôn mới” (Nhà xuất bản Lao động 2010), đặc trưng của Nông thôn mới thời kỳ CNH –HĐH, giai đoạn 2010-2020, bao gổm:

- Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao;

- Nông thôn phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ;

- Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy;

- An ninh tốt, quản lý dân chủ.

- Chất lương hệ thống chính trị được nâng cao...

5. Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới

- Nội dung xây dựng nông thôn mới hướng tới thực hiện Bộ tiêu chí Quốc gia được qui định tại Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ.

- Xây dựng nông thôn mới theo phương châm phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng, ban hành các tiêu chí, quy chuẩn, xã đặt ra các chính sách, cơ chế hỗ trợ và hướng dẫn. Các hoạt động cụ thể do chính cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để quyết định và tổ chức thực hiện.

- Được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang triển khai ở nông thôn, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần thiết; có cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế; huy động đóng góp của các tầng lớp dân cư.

- Được thực hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của mỗi địa phương (xã, huyện, tỉnh); có quy hoạch và cơ chế đảm bảo cho phát triển theo quy hoạch (trên cơ sở các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các Bộ chuyên ngành ban hành).

- Là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp uỷ Đảng, chính quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tổ chức thực hiện; Hình thành cuộc vận động “toàn dân xây dựng nông thôn mới" do Mặt trận Tổ quốc chủ trì cùng các tổ chức chính trị - xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò chủ thể trong việc xây dựng nông thôn mới.

II. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

1. Quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân và nông thôn

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình tổ chức, động viên và tập hợp lực lượng đều nhận thức rõ vị trí, vai trò và khả năng cách mạng to lớn của giai cấp ND trong sự nghiệp cách mạng do giai cấp CN mà đội tiên phong là Đảng cộng sản lãnh đạo. Chính trong quá trình đó, cả C.Mác, Ph.Ăngghen và VI.Lênin đều có những nghiên cứu rất có giá trị về NN. Đặc biệt là về chỉ đạo tổ chức và phát triển kinh tế hợp tác trong NN.

C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn bao giờ cũng vẫn là vấn đề cơ bản của chính quyền nhà nước, một nội dung trọng yếu trong cương lĩnh hoạt động của các Đảng cộng sản.

Để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện một nước kém phát triển, trong những năm 1921-1923, V.I. Lênin đưa ra quan điểm là: Phải bắt đầu từ nông dân; phải chấn hưng NN và xem đó là giải pháp quan trọng để thực hiện Chính sách kinh tế mới và chế độ hợp tác xã.

Là một vị lãnh tụ có tầm nhìn sâu rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ rất sớm đã khẳng định vị trí, vai trò hết sức to lớn của sản xuất NN đối với việc phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu Cách mạng tháng Tám mới thành công, trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam, ngày 11-4-1946, Hồ Chí Minh viết: "Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh". Từ đó, Người khẳng định: "Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính". Chính vì vậy, Người rất quan tâm, dành nhiều công sức để nghiên cứu và chỉ đạo phát triển sản xuất NN.

Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Công sản Việt Nam luôn khẳng định tầm quan trọng của vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta tiếp tục khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 

Đại hội lần thứ III của Đảng khẳng định: ra sức phát triển nông nghiệp, vì muốn phát triển công nghiệp, muốn tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa phải có những điều kiện tiên quyết như lương thực, thực phẩm, lao động, v..v mà những điều kiện đó phụ thuộc vào sự phát triển của nông nghiệp. Hội nghị Trung ương lần thứ năm (khóa III) năm 1961 đã ra nghị quyết về vấn đề phát triển nông nghiệp, trong đó nêu lên phương hướng cải tiến công cụ và cơ giới hóa nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). 

Đến Đại hội lần thứ IV, Đảng xác định lấy phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ làm cơ sở để ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, nêu ra vấn đề kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp. Như vậy, đến Đại hội IV, vai trò của nông nghiệp được xác định là cơ sở để phát triển công nghiệp. Tuy nhiên đường, lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV đề ra vẫn thiên về xây dựng công nghiệp nặng, chưa tập trung sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ một cách đúng mức. 

Đại hội V của Đảng khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và chỉ rõ quan điểm xây dựng và phát triển công nghiệp nặng phải nhằm phục vụ thiết thực và có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng. 

Đại hội VI là bước ngoặt trong đổi mới tư duy của Đảng về chủ nghĩa xã hội nói chung, về nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Đại hội chỉ rõ, trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986-1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Trong toàn bộ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không được tách rời nông nghiệp với công nghiệp. Song trong từng giai đoạn, chặng đường cụ thể, vị trí của nông nghiệp và công nghiệp có khác nhau; trong chặng đường hiện nay phải tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua Đại hội VII và các nghị quyết của Trung ương khóa VII, tiếp tục khẳng định, làm rõ quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn, theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ra nghị quyết về: “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn”, xác định hệ thống quan điểm nhằm tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu và là khâu đột phá.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và các Nghị quyết Trung ương, Bộ Chính trị khóa VIII tiếp tục cụ thể hóa hơn nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư (Khóa VIII) chỉ rõ : Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác hóa, dân chủ hóa. Nghị quyết xác định đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động ở nông thôn, giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản; phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông thôn; phát triển các cơ sở quốc doanh ở vùng sâu, vùng xa. 

Đại hội IX của Đảng và nhất là Nghị quyết Trung ương năm về “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010” đã làm rõ hơn những nội dung tổng quát và quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường. Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn. 

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đồng thời chỉ rõ định hướng phát triển về kinh tế: Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân. Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, tạo điều kiện từng bước hình thành nền nông nghiệp sạch. Gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội X, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 26 “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” tiếp tục khẳng định những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả v.v...

Như vậy, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn của thời kỳ đầu quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước phát triển và hoàn thiện tư duy về vị trí, vai trò của nông nghiệp, Đảng đã sớm khẳng định: muốn tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa phải bắt đầu từ nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phải tập trung nguồn lực đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, tạo ra nguồn tích lũy ban đầu cho công nghiệp hóa. Trong quá trình phát triển nhận thức của Đảng, nông nghiệp, nông dân và nông thôn là những vấn đề mang tầm chiến lược của cách mạng Việt Nam, có tầm quan trọng đặc biệt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng nông thôn mới

2.1. Quan điểm, chủ trương về xây dựng nông thôn mới ở Trung ương

2.1.1. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5 tháng 8 năm 2008 của Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

a. Yêu cầu của việc xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong tình hình mới.

Sau hơn 20 năm thực hiện đường đối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.

Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hoá. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.

Trước thực trạng nêu trên, Nghị quyết số 26 - NQ/TW (khóa X) đã đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn; xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững; xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

b. Quan điểm, mục tiêu xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn.

Quán triệt và cụ thể hóa quan điểm của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, Nghị quyết số 26 - NQ/TW đã đưa ra một số quan điểm cũng như xác định các mục tiêu tổng quát, ngắn hạn về xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nước ta.

Về quan điểm:

- Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.

- Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.

- Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân

- Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Về mục tiêu:

Mục tiêu tổng quát: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn… Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao… Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý...; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu đến năm 2020: Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5 - 4%/năm; sử dựng đất nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay; Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%; Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai…Ngăn chặn, xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, từng bước nâng cao chất lượng môi trường nông thôn.

c. Một số nhiệm vụ giải pháp xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Để đạt được những mục tiêu nêu trên, góp phần thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết 26 đã đề ra 8 nhóm nhiệm vụ giải pháp xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Thứ nhất: Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.

Đẩy nhanh tiến độ quy hoạch sản xuất nông nghiệp, cơ cấu lại ngành nông nghiệp, gắn sản xuất với chế biến và thị trường; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản. Phát triển ngành trồng trọt, hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung, thực hiện đầu tư thâm canh, áp dụng các giống và quy trình sản xuất mới có năng suất, chất lượng cao. Phát triển nhanh ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, an toàn dịch bệnh, phù hợp với lợi thế của từng vùng. Phát triển lâm nghiệp toàn diện từ quản lý, bảo vệ, trồng, cải tạo, làm giàu rừng đến khai thác, chế biến lâm sản, bảo vệ môi trường cho du lịch sinh thái. Triển khai có kết quả chương trình khai thác hải sản trong chiến lược phát triển kinh tế biển, gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ ở các vùng nông thôn theo quy hoạch. Phát triển nhanh và nâng cao chất lượng các loại dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống của dân cư nông thôn.

Thứ hai: Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị.

Tiếp tục đầu tư các công trình thủy lợi theo hướng đa mục tiêu, nâng cao năng lực tưới tiêu chủ động cho các loại cây trồng, cấp nước sinh hoạt cho dân cư và công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn; Phát triển giao thông nông thôn bền vững gắn với mạng lưới giao thông quốc gia; Cải tạo và phát triển đồng bộ hệ thống lưới điện, bảo đảm đủ điện phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; Phát triển hệ thống bưu chính viễn thông; Xây dựng hệ thống chợ nông sản phù hợp với từng vùng; Nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, y tế dự phòng, các bệnh viện đa khoa tuyến huyện, các trung tâm y tế vùng, các cơ sở y tế chuyên sâu; hoàn thành chương trình kiên cố hóa trường học; xây dựng các trung tâm, nhà văn hoá - thể thao tại thôn, xã.

Quy hoạch bố trí lại dân cư nông thôn gắn với việc quy hoạch xây dựng công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị ở các vùng. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới với các tiêu chí cụ thể, phù hợp với đặc điểm từng vùng, chú ý các xã còn nhiều khó khăn ở miền núi, biên giới, bãi ngang, hải đảo. Phát triển mạng lưới thị trấn, thị tứ theo quy hoạch; tiếp tục thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các đối tượng chính sách, xoá nhà tạm ở nông thôn, thực hiện chương trình nhả ở cho đồng bào vùng bão, lũ; bố trí lại dân cư ra khỏi vùng bão, lũ, vùng sạt lở núi, ven sông, ven biển.

Thứ ba: Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng khó khăn.

Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; bảo đảm hài hoà giữa các vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị; Tập trung nguồn lực và tăng cường chỉ đạo thực hiện đồng bộ chiến lược về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo; Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu và khám chữa bệnh; Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc; Nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, xây dựng các hương ước, phát huy truyền thống tốt đẹp, tương thân tương ái, tình làng nghĩa xóm, bài trừ các hủ tục, thực hiện nếp sống mới ở nông thôn; Xây dựng hệ thống an sinh xã hội; Đấu tranh, ngăn chặn các hành vi tiêu cực, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, giải quyết kịp thời các vụ việc khiếu kiện của nhân dân, không để gây thành những điểm nóng ở nông thôn.

Thứ tư: Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn.

Tiếp tục tổng kết, đổi mới và xây dựng các mô hình kinh tế, hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn; Tiếp tục đổi mới, phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác phù hợp với nguyên tắc tổ chức của hợp tác xã và cơ chế thị trường; Hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp. Tạo môi trường thuận lợi để hình thành và phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp nông thôn, nhất là các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sử dụng nguyên liệu và thu hút nhiều lao động nông nghiệp tại chỗ, doanh nghiệp dịch vụ vật tư, tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản cho nông dân. Phát triển mạnh doanh nghiệp công nghiệp chế tạo máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu... phục vụ nông nghiệp.

Thứ năm: Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn.

Tăng đầu tư ngân sách cho nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ để nông nghiệp sớm đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực; Xây dựng các chính sách đãi ngộ thỏa đáng để khai thác, phát huy tốt các nguồn lực khoa học - công nghệ, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ; Tăng cường năng lực của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ khác ở nông thôn; xây dựng các vùng sản xuất nông sản an toàn, công nghệ cao; Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại cho nông dân; Hình thành chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo hàng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động nông thôn. Thực hiện tốt việc xã hội hoá công tác đào tạo nghề.

Thứ sáu: Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân.

Sửa đổi Luật Đất đai theo hướng: Tiếp tục khẳng định đất đai là sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch, kế hoạch để sử dụng có hiệu quả; giao đất cho hộ gia đình sử dụng lâu dài; mở rộng hạn mức sử dụng đất, thúc đẩy quá trình tích tụ đất đai; công nhận quyền sử dụng đất được vận động theo cơ chế thị trường, trở thành một nguồn vốn trong sản xuất, kinh doanh.

Rà soát, điều chỉnh cơ cấu đầu tư ngân sách, giảm bớt đầu tư cho các công trình có thể thu hồi vốn để tạo nguồn, tăng đầu tư phát triển cho khu vực nông nghiệp, nông thôn; Tăng cường phân cấp thu chi ngân sách cho các địa phương, bao gồm cả cấp huyện và xã; Tiếp tục thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; có biện pháp bảo vệ thị trường nội địa, phát triển thị trường xuất khẩu nông sản phù hợp với luật pháp quốc tế; Tăng cường hệ thống dự trữ quốc gia, nhất là lương thực.

Thứ bảy: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân.

Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của đảng bộ, chi bộ cơ sở để thực sự là hạt nhân lãnh đạo toàn diện trên địa bàn nông thôn; củng cố và nâng cao năng lực bộ máy quản lý nông nghiệp từ Trung ương đến địa phương, nhất là cấp huyện, xã và các lĩnh vực khác ở nông thôn. Tiếp tục cải cách hành chính, tăng cường đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức xã. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn; tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi cho Hội Nông dân Việt Nam trong việc trực tiếp thực hiện một số chương trình, dự án phục vụ sản xuất và nâng cao đời sống của nông dân, hướng dẫn phát triển các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp; Chăm lo xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

2.1.2. Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2008 của Chính phủ)

Để thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Chính phủ xây dựng Chương trình hành động với các nội dung chủ yếu sau:

Mục tiêu: khẳng định và bổ sung nhiệm vụ của Chính phủ, các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhằm: Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao; Nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn; Hoàn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; xây dựng nông thôn mới bền vững theo hướng văn minh, giàu đẹp, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; đảm bảo điều kiện học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng nông thôn gần với các đô thị trung bình; Nâng cao năng lực phòng chống giảm nhẹ thiên tai, thực hiện một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biển đổi khí hậu toàn cầu, nhất là nước biển dâng.

Yêu cầu: Quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu và nội dung của Nghị quyết Trung ương để xây dựng các chương trình kinh tế - xã hội, các đề án chuyên ngành, cụ thể hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở Nghị quyết và Chương trình hành động của Chính phủ, các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng kế hoạch cụ thể để chỉ đạo triển khai thực hiện.

Những nhiệm vụ chủ yếu: Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước được giao, các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo, tổ chức triển khai những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

Thứ nhất: Thống nhất nhận thức, hành động về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Các cơ quan chức năng ở các cấp tổ chức quán triệt và thực hiện tuyên truyền, giáo dục, vận động sâu rộng trong toàn xã hội về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; cụ thể hóa những chủ trương và giải pháp lớn, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị để triển khai các nội dung của Nghị quyết này, cũng như các Nghị quyết khác của Đảng và Nhà nước liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Thứ hai: Xây dựng các chương trình mục tiêu quốc gia đến năm 2020. Tiếp tục triển khai đồng bộ, có hiệu quả ở địa bàn nông thôn các Chương trình mục tiêu Quốc gia đã được phê duyệt. Triển khai xây dựng mới Chương trình mục tiêu Quốc gia sau đây: Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới; Chương trình mục tiêu Quốc gia về thích ứng với sự biến đổi khí hậu; Chương trình mục tiêu Quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực nông thôn.

Thứ ba: Nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý quy hoạch. Trên cơ sở điều kiện cụ thể và lợi thế của từng vùng, nghiên cứu, dự báo thị trường, tiến bộ kỹ thuật công nghệ, các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng các quy hoạch tổng thể, rà soát bổ sung các quy hoạch hiện có trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; chỉ đạo, hướng dẫn và giám sát thực hiện quy hoạch phạm vi ngành và địa phương.

Thứ tư: Xây dựng các đề án chuyên ngành. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ theo chức năng, nhiệm vụ được phân công chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng các Đề án chuyên ngành theo các nhóm: Xây dựng nền nông nghiệp hiện đại; Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn; Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho dân cư nông thôn; Đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn; Phát triển khoa học – công nghệ phải trở thành khâu đột phá để phát triển nông nghiệp hiện đại và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn; Nâng cao năng lực quản lý nhà nước.

Thứ năm, Nhóm dự án luật và chính sách. Thực hiện sửa đổi Luật Đất đai theo hướng, Luật Ngân sách nhà nước; Rà soát các quy định về đầu tư để khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Xây dựng các Luật: Vệ sinh an toàn thực phẩm, Thủy lợi, Nông nghiệp, Bảo vệ thực vật, Thú y; Xây dựng chính sách thu hút cán bộ, thanh niên, trí thức về nông thôn.

(Nhiệm vụ cụ thể của các Bộ, ngành có Phụ lục kèm theo).

2.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh về xây dựng nông thôn mới.

2.2.1. Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 19 tháng 5 năm 2009 của BCH Đảng bộ tỉnh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Hà Tĩnh giai đoạn 2009-2015 và định hướng đến năm 2020.

Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Nghị quyết Đại hội lần thứ XVI Đảng bộ tỉnh và Chương trình hành động số 852-CTr/TU, ngày 10/11/2008 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; để tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân, ngày 19/5/2009, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 19 tháng 5 năm 2009 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Hà Tĩnh giai đoạn 2009-2015 và định hướng đến năm 2020:

- Thực trạng nông nghiệp, nông dân, nông thôn tỉnh ta từ sau ngày tái lập tỉnh đến nay:

Sau ngày tái lập tỉnh, nhất là từ năm 2001 đến nay, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện của cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp và sự nổ lực phấn đấu của bà con nông dân, nông nghiệp, nông dân, nông thôn tỉnh ta đã đạt được những thành tựu khá toàn diện. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành nông nghiệp đạt 2,56%/năm; cơ cấu giá trị sản xuất trong nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, sản lượng lương thực từ 42 vạn tấn lên 51 vạn tấn, tăng 21%; giá trị sản xuất nông nghiệp từ 16,6 triệu đồng tăng lên gần 40 triệu đồng/ha; giá trị xuất khẩu nông, lâm, hải sản từ 9,7 triệu USD lên 32,4 triệu USD. Tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi tăng từ 29,7% lên 36%; khai thác, đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản tiếp tục phát triển. Các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh ở nông thôn bước đầu được hình thành và phát triển; xuất hiện nhiều mô hình, điển hình về phát triển kinh tế hàng hoá. Các làng nghề truyền thống được khôi phục và phát triển, gắn với xây dựng các khu, cụm công nghiệp, ngành nghề nông thôn; một số nghề mới được du nhập bước đầu phát huy hiệu quả. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông nghiệp, nông thôn được tập trung xây dựng, nâng cấp như: giao thông, thuỷ lợi, điện, trạm xá, trường học… Công tác xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, xoá nhà tranh tre dột nát đạt kết quả rõ nét. Các chính sách đối với vùng sâu, vùng bị thiên tai, các gia đình có công với cách mạng, gia đình có hoàn cảnh khó khăn được thực hiện kịp thời. Hệ thống chính trị được tăng cường; dân chủ cơ sở ngày càng được phát huy; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn được cải thiện. Bộ mặt nông thôn nhìn chung có nhiều thay đổi, phong trào xây dựng nông thôn mới được triển khai trên diện rộng, một số xã đã đạt các tiêu chí nông thôn mới.

Tuy vậy, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Nông nghiệp tăng trưởng thiếu bền vững, sản xuất chưa gắn với thị trường. Tỷ lệ cơ giới hoá trong các khâu sản xuất đạt thấp. Việc chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nhất là giống mới vào sản xuất hiệu quả chưa cao. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn quy mô nhỏ, phát triển thiếu quy hoạch. Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm. Các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn như: kinh tế tập thể, kinh tế trang trại, các doanh nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn… còn hạn chế. Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá và phục vụ đời sống của nhân dân. Kết quả đạt được trong xoá đói, giảm nghèo thiếu bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm chưa được quan tâm đúng mức, tỷ lệ lao động nông nghiệp được đào tạo nghề đạt thấp (8,05%). Nhiều vấn đề phát sinh, vướng mắc ở nông thôn chậm được giải quyết như: công tác quản lý nhà nước về đất đai; tình trạng tranh chấp đất đai, lần chiếm rừng, đất rừng; xây dựng cơ bản, chính sách đối với người có công, dịch bệnh; các tai, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng. Hiện tượng vi phạm Pháp lệnh Dân chủ cơ sở vẫn còn xẩy ra. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân còn nhiều khó khăn, khoảng cách giàu, nghèo giữa thành thị, nông thôn và giữa các vùng, miền ngày càng tăng.

  - Mục tiêu chung là: “Phát triển nông nghiệp toàn diện gắn với công nghiệp, dịch vụ theo hướng hiện đại, bền vững; hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung; đẩy mạnh cơ giới hoá, điện khí hoá và áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, đảm bảo năng suất, chất lượng, hiệu quả; giải quyết tốt các nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực phẩm, môi trường bền vững không những cho dân cư nông thôn mà cả dân cư công nghiệp và đô thị. Phát triển công nghiệp, dịch vụ gắn với chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân; từng bước điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý. Xây dựng nông thôn mới theo hướng truyền thống, văn minh, hiện đại, có kết cấu hạ tầng phù hợp với quy hoạch không gian làng, xã, quy hoạch kinh tế - xã hội của ngành và địa phương; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; đảm bảo môi trường sinh thái… Nhanh chóng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền, đặc biệt quan tâm vùng miền núi, vùng sâu, vùng tái định cư; nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng giai cấp nông dân mới theo ý thức tự vươn lên, có khả năng làm chủ nông thôn mới. Đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội”.

Nghị quyết đề ra các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2010, 2015 và mục tiêu định hướng chủ yếu đến năm 2020, trong đó nhấn mạnh các chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thủy sản, giá trị sản xuất trên 1 ha diện tích, thu nhập bình quân, tỉ lệ hộ nghèo, các tiêu chí nông thôn mới…

Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, Nghị quyết đã xác định 11 nhiệm vụ giải pháp sau đây:

1. Tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung và xây dựng mới các quy hoạch, chương trình, đề án phát triển nông nghiệp, nông thôn

2. Phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đống thời phát triển mạnh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn

 3. Huy động các nguồn lực phát triển nhanh, đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, tăng cường năng lực dự báo, phòng, chống giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường

4. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn; tập trung giải quyết các vấn đề phát sinh, vướng mắc, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội và xây dựng nông thôn mới

5. Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học – công nghệ

6. Nâng cao kiến thức và đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, coi đây là mũi đột phá trong giai đoạn tới

7. Tiếp tục đổi mới và phát triển các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác; khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn

8. Mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản cho nông dân

9. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách của Trung ương, đồng thời rà soát, xây dựng và thực hiện đồng bộ hệ thống chính sách khuyến khích của tỉnh

10. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

11. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể, nhất là Hội Nông dân.  

2.2.2. Kế hoạch của UBND tỉnh Hà Tĩnh thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Hà Tĩnh giai đoạn 2009 - 2015 và định hướng đến năm 2020. (Ban hành kèm theo Quyết định số 2165/QĐ-UBND ngày 16 tháng 7 năm 2009 của UBND tỉnh Hà Tĩnh)

Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 19 tháng 5 năm 2009 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Hà Tĩnh giai đoạn 2009-2015 và định hướng đến năm 2020, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã xây dựng Kế hoạch thực hiện với các nội dung chủ yếu như sau:

Mục tiêu: Sớm đưa Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 19 tháng 5 năm 2009 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh vào cuộc sống; Làm cơ sở cho các Sở, ban, ngành, ủy ban nhân dân các huyện, thành phố, thị xã xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện ở đơn vị, địa phương mình; Làm căn cứ để tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra, đánh giá kết quả, hiệu quả đạt được.

Yêu cầu: Bám sát nội dung của Nghị quyết số 08-NQ/TU, căn cứ theo điều kiện thực tế để xây dựng nội dung, các chương trình, đề án, quy hoạch, chính sách cụ thể, sát thực, có tính khả thi cao, đáp ứng yêu cầu phát triển; có lộ trình bước đi vững chắc và nguồn lực đảm bảo.

Những nội dung chủ yếu:

Thứ nhất: Tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền nhằm thống nhất về nhận thức và hành động: Các cơ quan chức năng ở các cấp tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng trong toàn xã hội về Nghị quyết số 08-NQ/TU; đặc biệt là vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị với sự tập trung cao nhất.

Thứ hai: Xây dựng các chương trình: Chương trình xây dựng nông thôn mới; Chương trình xóa đói, giảm nghèo và kiên cố hóa nhà ở cho hộ chính sách, hộ nghèo; Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Chương trình đào tạo nguồn nhân lực nông thôn; Chương trình về thích ứng với sự biến đổi khí hậu.

Thứ ba: Xây dựng các đề án chuyên ngành: Đề án phát triển ngành trồng trọt; Đề án phát triển ngành chăn nuôi; Đề án bảo vệ phát triển rừng; Đề án nuôi trồng, khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản; Đề án phát triển ngành Muối; Đề án áp dụng cơ giới hóa trong nông nghiệp; Đề án phát triển ngành nghề nông thôn; Đề án bảo quản, chế biến sau thu hoạch; Đề án phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; Đề án đổi mới loại hình tổ chức sản xuất ngành nông nghiệp, phát triển nông thôn; thành lập Ban nông nghiệp xã và thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về xã hội công tác; Đề án nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao KHCN, khuyến nông - khuyến ngư phục vụ nông nghiệp, nông thôn.

Thứ tư: Rà soát, điều chỉnh, bổ sung và xây dựng mới các quy hoạch. Tiến hành rà soát, điều chỉnh bổ sung các quy hoạch đã có cho phù hợp với tình hình thực tiễn của tỉnh, các quy hoạch của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn; các quy hoạch của các ngành khác có liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn như quy hoạch hệ thống giao thông, thủy lợi, điện nông thôn... Đồng thời xây dựng các quy hoạch mới đáp ứng cho nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, hiện đại, thân thiện môi trường, đáp ứng được nhu cầu của một xã hội văn minh, giàu mạnh trong tương lai.

Thứ năm: Xây dựng, ban hành và thực hiện chính sách. Tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện, bố trí đủ ngân sách đảm bảo thực hiện có hiệu quả các chính sách đã ban hành. Đồng thời căn cứ vào yêu cầu thực tiễn về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và nguồn lực của tỉnh, đặc biệt là nguồn tài chính để đảm bảo tính khả thi để xây dựng và ban hành các chính sách mới như: Chính sách hỗ trợ lãi suất vốn vay; Chính sách đầu tư kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào; Chính sách thu hút và thành lập mới doanh nghiệp đầu tư phục vụ nông dân, nông nghiệp, nông thôn; Chính sách nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao, nhân rộng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống…

(Chi tiết nhiệm vụ của các Sở, ngành, địa phương có Phụ lục kèm theo)

IV. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

1. Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 9 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia Nông thôn mới

Quyết định 491/QĐ-TTg được ban hành kèm theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.

Bộ tiêu chí là căn cứ để xây dựng nội dung Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; chỉ đạo thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; kiểm tra, đánh giá công nhận xã, huyện, tỉnh đạt nông thôn mới.

Bộ tiêu chí gồm 5 nhóm với 19 tiêu chí - là cụ thể hoá các định tính của nông thôn mới Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020.

+ Nhóm 1: Quy hoạch - 1 tiêu chí

+ Nhóm 2: Hạ tầng kinh tế - xã hội - 8 tiêu chí

+ Nhóm 3: Kinh tế và tổ chức sản xuất - 4 tiêu chí

+ Nhóm 4: Văn hoá – Xã hội – Môi trường - 4 tiêu chí

+ Nhóm 5: Hệ thống chính trị - 2 tiêu chí

Một xã đạt đủ 19 tiêu chí là đạt tiêu chuẩn NTM

- Căn cứ vào Bộ tiêu chí Quốc gia, các Bộ ngành liên quan đều xây dựng quy chuẩn của ngành, chủ yếu là các tiêu chuẩn kỹ thuật cho các công trình hạ tầng, để áp dụng khi xây dựng Nông thôn mới.

* Gần đây, ngày 20/2/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 342/QĐ-TTg sửa đổi 5 tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới ban hành tại Quyết định số 491/QĐ-TTg. Theo đó, 5 tiêu chí trong Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, gồm: tiêu chí số 7 về chợ nông thôn, tiêu chí số 10 về thu nhập, tiêu chí số 12 về về cơ cấu lao động, tiêu chí số 14 về giáo dục và tiêu chí số 15 về y tế. Cụ thể:

- Đến 2015, chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 26 triệu đồng/người

Quyết định 491/QĐ-TTg quy định nội dung tiêu chí thu nhập là thu nhập bình quân đầu người/năm so với mức bình quân chung của tỉnh. Cụ thể, để đạt tiêu chí thu nhập thì thu nhập bình quân đầu người/năm so với mức bình quân chung của tỉnh phải từ 1,2 - 1,5 lần (tùy từng vùng).

Còn theo quy định mới, nội dung tiêu chí thu nhập lại là thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn (triệu đồng/người). Quyết định cũng quy định cụ thể chỉ tiêu thu nhập đối với từng vùng cũng như lộ trình từng giai đoạn như sau:

Nội dung tiêu chí

Chỉ tiêu chung

Chỉ tiêu theo vùng

TDMN phía Bắc

Đồng bằng sông Hồng

Bắc Trung bộ

Duyên hải nam TB

Tây Nguyên

Đông Nam bộ

ĐB Sông Cửu Long

Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn (triệu đồng/người)

Năm 2012

18

13

20

13

16

16

24

20

Đến năm 2015

26

18

29

18

23

23

34

29

Đến năm 2020

44

35

49

35

40

40

58

49

Chỉ tiêu cụ thể đạt chuẩn theo từng năm giữa các giai đoạn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn chi tiết.

Các xã thuộc Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP được áp dụng mức của vùng Trung du miền núi phía Bắc.

Các xã đạt chuẩn phải có tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người của xã không thấp hơn tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người tối thiểu khu vực nông thôn của vùng do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn chi tiết và công bố.

- Sửa tiêu chí "cơ cấu lao động" thành "tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên"

Tiêu chí số 12 về cơ cấu lao động cũng được đổi thành tiêu chí tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên.

Theo đó, thay vì tính theo tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp thì quy định mới tính theo tỷ lệ người làm việc trên dân số trong độ tuổi lao động.

Đối với chỉ tiêu này, quyết định nêu rõ chỉ tiêu chung và từng vùng là đạt từ 90% trở lên.

- Về tiêu chí chợ nông thôn, nội dung "chợ đạt chuẩn của Bộ Xây dựng" được thay thế bằng nội dung "chợ theo quy hoạch, đạt chuẩn theo quy định".

- Quyết định cũng sửa đổi nội dung "phổ cập giáo dục trung học" trong tiêu chí về giáo dục thành "phổ cập giáo dục trung học cơ sở".

- Nội dung tỷ lệ người dân tham gia các hình thức Bảo hiểm y tế trong tiêu chí số 15 về y tế được sửa đổi thành "Tỷ lệ người dân tham gia Bảo hiểm y tế" với chỉ tiêu chung cho cả nước đạt từ 70% trở lên, chỉ tiêu cho các vùng là đạt.

2. Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt “Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020”

Thực hiện chủ trương của Đảng và các Nghị quyết của Chính phủ, ngày 4 tháng 6 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 800/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020.

1. Mục tiêu chung: Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

2. Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2015 có 20% và đến năm 2020 có 50% số xã đạt tiêu chuẩn Nông thôn mới (theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới).

3. Thời gian, phạm vi thực hiện chương trình:

- Thời gian thực hiện: từ năm 2010 đến năm 2020.

- Phạm vi: thực hiện trên địa bàn nông thôn của toàn quốc.

4. Nội dung chương trình: Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng, gồm 11 nội dung sau:

4.1. Quy hoạch xây dựng nông thôn mới

Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 01 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới. Đến năm 2011, cơ bản phủ kín quy hoạch xây dựng nông thôn trên địa bàn cả nước.

Nội dung: Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường; phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có trên địa bàn xã.

Phân công quản lý, thực hiện: Các Bộ, ngành có liên quan như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì phối hợp thực hiện.

4.2. Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội

Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 2; 3; 4; 5; 6; 7; 8; 9 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.

Nội dung: Hoàn thiện đường giao thông đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã và hệ thống giao thông; Hoàn thiện hệ thống các công trình đảm bảo cung cấp điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất; Hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ nhu cầu về hoạt động văn hóa thể thao; Hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ việc chuẩn hóa về y tế; Hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ việc chuẩn hóa về giáo dục; Hoàn chỉnh trụ sở xã và các công trình phụ trợ; Cải tạo, xây mới hệ thống thủy lợi trên địa bàn xã.

Phân công quản lý, thực hiện: Các Bộ, ngành có liên quan như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công thương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Y tế, Bộ Giáo dục, Bộ Nội vụ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì phối hợp, hướng dẫn thực hiện.

4.3. Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập

Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 10, 12 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới. Đến năm 2015 có 20% số xã đạt, đến 2020 có 50% số xã đạt.

Nội dung: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa, có hiệu quả kinh tế cao; Tăng cường công tác khuyến nông; đẩy nhanh nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp; Cơ giới hóa nông nghiệp, giảm tổn thất sau thu hoạch trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống theo phương châm “mỗi làng một sản phẩm”, phát triển ngành nghề theo thế mạnh của địa phương; Đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, thúc đẩy đưa công nghiệp vào nông thôn, giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nông thôn.

Phân công quản lý, thực hiện: Các Bộ, ngành có liên quan như: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì phối hợp, hướng dẫn thực hiện.

4.4. Giảm nghèo và an sinh xã hội

Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 11 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới;

Nội dung: Thực hiện có hiệu quả Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao (Nghị quyết 30a của Chính phủ) theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới; Tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo; Thực hiện các chương trình an sinh xã hội.

Phân công quản lý, thực hiện: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì, hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện.

4.5. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn

Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 13 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới. Đến 2015 có 65% số xã đạt chuẩnvà đến 2020 có 75% số xã đạt chuẩn.

Nội dung: Phát triển kinh tế hộ, trang trại, hợp tác xã; Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn; Xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết kinh tế giữa các loại hình kinh tế ở nông thôn.

Phân công quản lý, thực hiện: Các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì, hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện.

4.6. Phát triển giáo dục - đào tạo ở nông thôn

Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 5 và 14 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới. Đến 2015 có 45% số xã đạt chuẩn và đến 2020 có 80% số xã đạt chuẩn.

Nội dung: Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới;

Phân công quản lý, thực hiện: Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì, hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện.

4.7. Phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân nông thôn

Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 5 và 15 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới. Đến 2015 có 50% số xã đạt chuẩn và đến 2020 có 75% số xã đạt chuẩn.

Nội dung: Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia trong lĩnh vực về y tế, đáp ứng yêu cầu Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.

Phân công quản lý, thực hiện dự án: Bộ Y tế chủ trì, và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì, hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện.

4.8. Xây dựng đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông nông thôn

Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 6 và 16 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới. Đến 2015 có 30% số xã có nhà văn hóa xã, thôn và 45% số xã có bưu điện và điểm internet đạt chuẩn. Đến 2020 có 75% số xã có nhà văn hóa xã, thôn và 70% có điểm bưu điện và điểm internet đạt chuẩn.

Nội dung: Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, đáp ứng yêu cầu Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới; Thực hiện thông tin và truyền thông nông thôn, đáp ứng yêu cầu Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.

Phân công quản lý, thực hiện: Các Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì, hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện.

4.9. Cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn

Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 17 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới; đảm bảo cung cấp đủ nước sinh hoạt sạch và hợp vệ sinh cho dân cư, trường học, trạm y tế, công sở và các khu dịch vụ công cộng; thực hiện các yêu cầu về bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái trên địa bàn xã. Đến 2015 có 35% số xã đạt chuẩn và đến 2020 có 80% số xã đạt chuẩn;

Nội dung: Tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Xây dựng các công trình bảo vệ môi trường nông thôn trên địa bàn xã, thôn theo quy hoạch, gồm: xây dựng, cải tạo nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước trong thôn, xóm; xây dựng các điểm thu gom, xử lý rác thải ở các xã; chỉnh trang, cải tạo nghĩa trang; cải tạo, xây dựng các ao, hồ sinh thái trong khu dân cư, phát triển cây xanh ở các công trình công cộng. v.v.

Phân công quản lý, thực hiện: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì, hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện.

4.10. Nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội trên địa bàn

Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí số 18 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới. Đến 2015 có 85% số xã đạt chuẩn và năm 2020 là 95% số xã đạt chuẩn.

Nội dung: Tổ chức đào tạo cán bộ đạt chuẩn theo quy định của Bộ Nội vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới; Ban hành chính sách khuyến khích, thu hút cán bộ trẻ đã được đào tạo, đủ tiêu chuẩn về công tác ở các xã, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để nhanh chóng chuẩn hóa đội ngũ cán bộ ở các vùng này; Bổ sung chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng nông thôn mới.

Phân công quản lý, thực hiện: Bộ Nội vụ và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì, hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện.

4.11. Giữ vững an ninh, trật tự xã hội nông thôn

Mục tiêu: Đạt yêu cầu tiêu chí số 19 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới. Đến 2015 có 85% số xã đạt chuẩn và năm 2020 là 95% số xã đạt chuẩn;

Nội dung: Ban hành nội quy, quy ước làng xóm về trật tự, an ninh; phòng, chống các tệ nạn xã hội và các hủ tục lạc hậu; Điều chỉnh và bổ sung chức năng, nhiệm vụ và chính sách tạo điều kiện cho lượng lực lượng an ninh xã, thôn, xóm hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn theo yêu cầu xây dựng nông thôn mới.

Phân công quản lý, thực hiện: Bộ Công an và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì, hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện.

5. Vốn và nguồn vốn thực hiện chương trình

Vốn ngân sách (Trung ương và địa phương), bao gồm: Vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia và chương trình, dự án hỗ trợ có mục tiêu đang triển khai và sẽ tiếp tục triển khai trong những năm tiếp theo trên địa bàn: khoảng 23%; Vốn trực tiếp cho chương trình để thực hiện các nội dung theo quy định tại điểm 3 mục VI của Quyết định này: khoảng 17%;

Vốn tín dụng (bao gồm tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng thương mại): khoảng 30%;

Vốn từ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các loại hình kinh tế khác: khoảng 20%;

Huy động đóng góp của cộng đồng dân cư: khoảng 10%.

6. Các giải pháp chủ yếu để thực hiện chương

Thứ nhất: Thực hiện cuộc vận động xã hội sâu rộng về xây dựng nông thôn mới. Tổ chức phát động, tuyên truyền, phổ biến, vận động từ trung ương đến cơ sở, để mọi tầng lớp nhân dân hiểu và cả hệ thống chính trị tham gia; Phát động phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới trong toàn quốc.

Thứ hai: Cơ chế huy động vốn: Thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn huy động để triển khai thực hiện chương trình này.

Thứ ba: Nguyên tắc cơ chế hỗ trợ

Theo Quyết định số 800/QĐ-TTg: Hỗ trợ 100% từ ngân sách trung ương cho: công tác quy hoạch; đường giao thông đến trung tâm xã; xây dựng trụ sở xã; xây dựng trường học đạt chuẩn; xây dựng trạm y tế xã; xây dựng nhà văn hóa xã; kinh phí cho công tác đào tạo kiến thức về xây dựng nông thôn mới cho cán bộ xã, cán bộ thôn bản, cán bộ hợp tác xã;

Hỗ trợ một phần từ ngân sách trung ương cho xây dựng công trình cấp nước sinh hoạt, thoát nước thải khu dân cư; đường giao thông thôn, xóm; giao thông nội đồng và kênh mương nội đồng; phát triển sản xuất và dịch vụ; nhà văn hóa thôn, bản; công trình thể thao thôn, bản; hạ tầng các khu sản xuất tập trung, tiểu thủ công nghiệp, thủy sản;

Mức hỗ trợ từ ngân sách trung ương căn cứ điều kiện kinh tế xã hội để bố trí phù hợp, ưu tiên hỗ trợ cho các địa phương khó khăn chưa tự cân đối ngân sách, địa bàn đặc biệt khó khăn và những địa phương làm tốt.

Tuy nhiên, hiện nay các công trình được hỗ trợ 100% vốn ngân sách Trung ương đã được thay đổi theo Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 8/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó: 

a) Đối với tất cả các xã, hỗ trợ 100% từ ngân sách nhà nước cho: Công tác quy hoạch; xây dựng trụ sở xã; kinh phí cho công tác đào tạo kiến thức về xây dựng nông thôn mới cho cán bộ xã, cán bộ thôn bản, cán bộ hợp tác xã.

b) Đối với các xã thuộc các huyện nghèo thuộc Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ, hỗ trợ tối đa 100% từ ngân sách nhà nước cho: Xây dựng đường giao thông đến trung tâm xã, đường giao thông thôn, xóm; giao thông nội đồng và kênh mương nội đồng; xây dựng trường học đạt chuẩn; xây dựng trạm y tế xã; xây dựng nhà văn hóa xã, thôn, bản; công trình thể thao thôn, bản; xây dựng công trình cấp nước sinh hoạt, thoát nước thải khu dân cư; phát triển sản xuất và dịch vụ; hạ tầng các khu sản xuất tập trung, tiểu thủ công nghiệp, thủy sản.

Đối với các xã còn lại, hỗ trợ một phần từ ngân sách nhà nước cho: Xây dựng đường giao thông đến trung tâm xã, đường giao thông thôn, xóm; giao thông nội đồng và kênh mương nội đồng; xây dựng trường học đạt chuẩn; xây dựng trạm y tế xã; xây dựng nhà văn hóa xã, thôn, bản; công trình thể thao thôn, bản; xây dựng công trình cấp nước sinh hoạt, thoát nước thải khu dân cư; phát triển sản xuất và dịch vụ; hạ tầng các khu sản xuất tập trung, tiểu thủ công nghiệp, thủy sản.

Giao Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho từng nội dung, công việc cụ thể, bảo đảm phù hợp với thực tế và yêu cầu hỗ trợ của từng địa phương.

c) Mức hỗ trợ từ ngân sách trung ương cho các địa phương căn cứ điều kiện kinh tế - xã hội để bố trí phù hợp với quy định tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Ưu tiên hỗ trợ cho các địa phương khó khăn chưa tự cân đối ngân sách, địa bàn đặc biệt khó khăn và những địa phương làm tốt.

d) Chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã) không quy định bắt buộc nhân dân đóng góp, chỉ vận động bằng các hình thức thích hợp để nhân dân tự nguyện đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của địa phương. Nhân dân trong xã bàn bạc mức tự nguyện đóng góp cụ thể cho từng dự án, đề nghị Hội đồng nhân dân xã thông qua.

Hộ nghèo tham gia trực tiếp lao động để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của địa phương được chính quyền địa phương xem xét, trả thù lao theo mức phù hợp với mức tiền lương chung của thị trường lao động tại địa phương và khả năng cân đối ngân sách địa phương. Ủy ban nhân dân địa phương xem xét, quyết định mức thù lao cụ thể sau khi trình Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo, hướng dẫn các sở, ban, ngành, huyện, xã triển khai thực hiện.

đ) Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hướng dẫn và phân bố kinh phí (bao gồm kinh phí hỗ trợ của ngân sách trung ương và nguồn của ngân sách địa phương các cấp) để thực hiện các dự án, nội dung công việc quy định tại Điều này.

Thứ tư: Cơ chế đầu tư. Chủ đầu tư các dự án xây dựng công trình cơ sở hạ tầng trên địa bàn xã là Ban Quản lý xây dựng nông thôn mới xã do Ủy ban nhân dân xã quyết định.

Dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại các xã, thôn, bản có thời gian thực hiện dưới 2 năm hoặc giá trị công trình đến 3 tỷ, chỉ cần lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật kèm theo thiết kế, bản vẽ thi công và dự toán;

Đối với các công trình có giá trị trên 3 tỷ hoặc công trình có yêu cầu kỹ thuật cao thì việc lập báo cáo kinh tế -kỹ thuật và thiết kế, bản vẽ thi công và dự toán phải do đơn vị tư vấn có tư cách pháp nhân thực hiện.

Ủy ban nhân dân huyện là cấp quyết định đầu tư, phê duyệt báo cáo kinh tế - kỹ thuật các công trình có mức vốn đầu tư trên 3 tỷ đồng có nguồn gốc từ ngân sách và các công trình có yêu cầu kỹ thuật cao;

Ủy ban nhân dân xã là cấp quyết định đầu tư, phê duyệt báo cáo kinh tế - kỹ thuật các công trình có mức vốn đầu tư đến 3 tỷ đồng có nguồn gốc từ ngân sách;

Lựa chọn nhà thầu: Việc lựa chọn nhà thầu xây dựng cơ sở hạ tầng các xã thực hiện theo 3 hình thức: Giao các cộng đồng dân cư thôn, bản, ấp tự thực hiện xây dựng; Lựa chọn nhóm thợ, cá nhân trong xã có đủ năng lực để xây dựng và lựa chọn nhà thầu thông qua hình thức đấu thầu.

Ban giám sát cộng đồng gồm đại diện của Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc xã, các tổ chức xã hội và đại diện của cộng đồng dân cư hưởng lợi công trình

Ngày 21/3/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 498/QĐ-TTg bổ sung cơ chế đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020. Theo đó, bổ sung cơ chế đầu tư đối với các công trình quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản. Cụ thể, trong trường hợp này, các địa phương được áp dụng cơ chế đầu tư đặc thù theo hướng không phải lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật, trên cơ sở thiết kế mẫu, thiết kế điển hình chỉ cần lập dự toán đơn giản và chỉ định cho người dân và cộng đồng trong xã tự làm. UBND cấp huyện quyết định danh mục công trình được áp dụng cơ chế đầu tư đặc thù nêu trên.

UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hướng dẫn chi tiết, cụ thể đảm bảo phù hợp với thực tế địa phương; ban hành thiết kế mẫu, thiết kế điển hình, tạo điều kiện cho các xã triển khai hoạt động đầu tư xây dựng công trình và tổ chức kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn một số nguyên tắc cơ bản về quản lý đầu tư xây dựng công trình áp dụng cơ chế đặc thù nêu trên. 

Thứ năm: Đào tạo cán bộ chuyên trách để triển khai chương trình mục tiêu quốc gia. Hình thành đội ngũ cán bộ chuyên trách ở các cấp từ Trung ương đến địa phương để triển khai có hiệu quả chương trình. Đồng thời, tổ chức đào tạo, tập huấn cho cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới từ trung ương đến địa phương.

Thứ sáu: Hợp tác quốc tế trong xây dựng nông thôn mới. Vận động, hợp tác với các tổ chức quốc tế hỗ trợ tư vấn và kỹ thuật đồng thời tranh thủ hỗ trợ vốn và vay vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế và các đối tác phát triển quốc tế để tăng nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới.

Thứ bảy: Điều hành, quản lý chương trình. Thành lập Ban Chỉ đạo và Văn phòng điều phối ở Trung ương và các cấp để chỉ đạo thực hiện chương trình.