34
1 CHƯƠNG III: DẠY VÀ HC VI CÁC CÔNG CMULTIMEDIA, HYPERMEDIA VÀ INTERNET 1. Tng quan 1.1. Khái nim vMultimedia Trước tiên người ta có thhỏi đa phương tiện là gì (Multimedia), đa phương tiện là tích hp của văn bản, âm thanh, hình nh ca tt ccác loi và phn mm có điều khin trong một môi trường thông tin số. Đây không phải là khái nim mi trong dy hc, khi ta kết hp thai, ba phương tiện dy hc trlên là đã có multimedia. Dliu vđa phương tiện gm dliu vvăn bản, hình nh, âm thanh, hình độngMultimedia được phân loại như sau: Multimedia truyn thng bao gm vic sdng kết hợp các phương tiện như: máy chiếu, băng cassette, radio, vô tuyến, qung cáo, phim, ảnh .v.v. để nâng cao hiu qudy hc. Tuy nhiên, vi sxut hin ca máy tính, multimedia đã có một ý nghĩa mới trong dy hc nhnhng khnăng to lớn mà máy tính đem lại. Vi khnăng tương tác, multimedia trên cơ sở máy tính có ththc hin các công vic rất khó khăn mà multimedia truyn thng rt khó hay hầu như không thc hiện được. Nhu cu vtương tác người-máy luôn đặt ra trong hthng thông tin. Vấn đề chính vtương tác người-máy không là quan hgiữa con người vi máy tính mà là con người với con người. Con người có vai trò quan trng trong hthng thông tin. Siêu phương tiện (hypermedia) cũng là một khái nim liên quan mt thiết đến ni dung multimedia cần quan tâm. Đó là những đơn vị thông tin được liên kết (link) với nhau mà người dùng có thduyt và khảo sát được, điển hình ca hypermedia là mng toàn cu Internet. Hypermedia là mt tài liu, không tuyến tính bng cách kích vào một điểm nóng nào đó trên văn bản, nó có thchuyển đến mt tài liu hay một văn bản khác. Ri có thquay v, thun tin cho người đọc trong vic duyệt văn bản hoc mun tng quan một văn bản trong mc lc. Hypermedia bao gm nhiều môi trường truyền thông khác nhau như đồ th, hình nh, âm thanh, hot hình và ảnh động.

Chương 3 + chương 4

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Chương 3 + chương 4

1

CHƯƠNG III: DẠY VÀ HỌC VỚI CÁC CÔNG CỤ MULTIMEDIA, HYPERMEDIA

VÀ INTERNET

1. Tổng quan

1.1. Khái niệm về Multimedia

Trước tiên người ta có thể hỏi đa phương tiện là gì (Multimedia), đa phương tiện

là tích hợp của văn bản, âm thanh, hình ảnh của tất cả các loại và phần mềm có

điều khiển trong một môi trường thông tin số. Đây không phải là khái niệm mới

trong dạy học, khi ta kết hợp từ hai, ba phương tiện dạy học trở lên là đã có

multimedia. Dữ liệu về đa phương tiện gồm dữ liệu về văn bản, hình ảnh, âm

thanh, hình độngMultimedia được phân loại như sau:

Multimedia truyền thống bao gồm việc sử dụng kết hợp các phương tiện như: máy

chiếu, băng cassette, radio, vô tuyến, quảng cáo, phim, ảnh .v.v. để nâng cao hiệu

quả dạy học.

Tuy nhiên, với sự xuất hiện của máy tính, multimedia đã có một ý nghĩa mới trong

dạy học nhờ những khả năng to lớn mà máy tính đem lại. Với khả năng tương tác,

multimedia trên cơ sở máy tính có thể thực hiện các công việc rất khó khăn mà

multimedia truyền thống rất khó hay hầu như không thực hiện được. Nhu cầu về

tương tác người-máy luôn đặt ra trong hệ thống thông tin.

Vấn đề chính về tương tác người-máy không là quan hệ giữa con người với máy

tính mà là con người với con người. Con người có vai trò quan trọng trong hệ

thống thông tin. Siêu phương tiện (hypermedia) cũng là một khái niệm liên quan

mật thiết đến nội dung multimedia cần quan tâm. Đó là những đơn vị thông tin

được liên kết (link) với nhau mà người dùng có thể duyệt và khảo sát được, điển

hình của hypermedia là mạng toàn cầu Internet. Hypermedia là một tài liệu, không

tuyến tính bằng cách kích vào một điểm nóng nào đó trên văn bản, nó có thể

chuyển đến một tài liệu hay một văn bản khác. Rồi có thể quay về, thuận tiện cho

người đọc trong việc duyệt văn bản hoặc muốn tổng quan một văn bản trong mục

lục. Hypermedia bao gồm nhiều môi trường truyền thông khác nhau như đồ thị,

hình ảnh, âm thanh, hoạt hình và ảnh động.

Page 2: Chương 3 + chương 4

2

1.2. Định nghĩa:

Sau đây là một số định nghĩa do các chuyên gia nêu ra:

Theo Fenrich: “Multimedia là sự tích hợp lý thú giữa phần cứng và phần

mềm máy tính, cho phép tích hợp các tài nguyên video, audio, hoạt hình, đồ

họa và trắc nghiệm để xây dựng và thực hiện một trình diễn hiệu quả nhờ

một máy tính có cấu hình thích hợp”.

Theo Philip: “Multimedia đặc trưng bởi sự hiện diện của văn bản, hình ảnh,

âm thanh, mô phỏng và video được tổ chức chặt chẽ trong một chương

trình máy tính”.

Multimedia với máy tính cho phép người sử dụng có thể trình bày các kiến thức

theo ý mình một cách hiệu quả nhất để đạt đến mục đích của việc dạy và học. Ở

đây, chủ yếu là đề cập đến việc xây dựng phần mềm multimedia dạy học nên có

thể định nghĩa multimedia như là: sự tích hợp nhiều thành phần phương tiện (âm

thanh, hình ảnh, văn bản, mô phỏng .v.v.) trong một thể cộng sinh và cộng tác

động, mang lại cho người dùng nhiều lợi ích đặc biệt mà từng thành phần phương

tiện riêng lẻ không thể thực hiện được.

Định nghĩa đa phương tiện (theo nghĩa rộng) là bao gồm các phương tiện: văn bản,

hình vẽ tĩnh (vẽ, chụp), hoạt hình (hình ảnh động), âm thanh. Cuối cùng người ta

có thể định nghĩa đa phương tiện; đa phương tiện là kỹ thuật mô phỏng và sử dụng

đồng thời nhiều dạng phương tiện chuyển hóa thông tin và các tác phẩm từ các kỹ

thuật đó. Liên quan đến định nghĩa đa phương tiện, người ta cần lưu ý những khía

cạnh sau:

Thông tin cần phải được số hóa, phù hợp với xu thế và rẻ;

Phải dùng mạng máy tính, để đảm bảo truyền bá, hay truyền tải tốt

Sử dụng phần mềm có tương tác, cho phép người dùng trao đổi với phần

mềm và thay đổi theo ý người dùng;

Page 3: Chương 3 + chương 4

3

Phải thiết kế giao diện người-máy phù hợp với phát triển của đa phương

tiện, tức giao diện người dùng đa phương tiện được lưu ý nhiều trong các

năm gần đây.

2. Chức năng của multimedia:

Không chỉ là một công cụ trình diễn hiệu quả, cho phép sử dụng theo ý thích riêng,

multimedia có những lợi thế độc nhất vô nhị mà multimedia truyền thống không có được.

Chức năng chính của nó là:

Cung cấp cho người học những kinh nghiệm cụ thể về đối tượng học tập theo kiểu

trải nghiệm gián tiếp. Với khả năng điều khiển đồng thời tất cả các thành phần như

hình ảnh, âm thanh, video, theo năng lực và sở thích của cá nhân, người học có thể

tự trải nghiệm về đối tượng. Điều này không thể có được nếu như các phương tiện

này được thể hiện tuần tự theo một trật tự cố định, một nhịp độ cố định mà chưa

hẳn đã phù hợp với người học. Hơn nữa, từ những trải nghiệm đó, người học có

được những kinh nghiệm cụ thể về tư duy, về hành vi,về ứng xử.

Multimedia có thể góp phần gia tăng cơ hội học tập với chi phí thấp do giá máy

tính ngày càng rẻ, và với một máy tính có thể học rất nhiều môn học, lĩnh vực học,

tiếp cận rất nhiều nguồn thông tin và cơ hội học tập có giá trị. Tất nhiên, để hoàn

tất việc học với multimedia, người học phải có đủ kỹ năng và ý chí.

Chất lượng giáo dục không nhất thiết bị chi phối bởi công nghệ mà trước hết bởi

nhu cầu (needs) của người học. Khi tìm đến với multimedia, người học đã có một

nhu cầu học tập cụ thể, rõ rệt, đó là một thuận lợi cơ bản. Thuận lợi ấy sẽ được

nhân lên do có thể học một cách linh hoạt cả về không gian, thời gian, theo nhịp

độ và phong cách riêng, cá tính riêng. Nếu được thiết kế tốt, multimedia có thể tạo

nên môi trường học tập vui vẻ và thân thiện mà không bị cản trở bởi tâm trạng lo

sợ thất bại.

3. Ưu điểm của multimedia:

Multimedia có rất nhiều ưu điểm trong dạy học. Cũng có thể nói, qua dạy học và giáo dục

mà multimedia thể hiện được sức mạnh của nó:

Page 4: Chương 3 + chương 4

4

Trước hết, sức mạnh sư phạm của multimedia thể hiện ở chỗ nó huy động tất cả

khả năng xử lý thông tin của con người. Tất cả các cơ quan cảm giác của con

người (mắt, tai .v.v.) cùng với bộ não hợp thành một hệ thống có khả năng vô

cùng to lớn để biến những dữ liệu vô nghĩa thành thông tin. “Trăm nghe không

bằng một thấy”, nhưng nếu cái thấy là thực thể vận động thì ý nghĩa còn lớn hơn

rất nhiều.

Multimedia cũng cho khả năng cung cấp một kiến thức tổng hợp và sâu sắc hơn so

với chỉ dùng các giáo trình in kèm theo hình ảnh thông thường. Ví dụ, một đoạn

phần mềm mô tả nguyên lý hoạt động của một máy phát điện sẽ có hiệu quả hơn

rất nhiều khi có thể thể hiện trình tự tạo ra dòng điện.

Về mặt tâm lý, môi trường multimedia cũng có những thuận lợi riêng. Có thể kể ra

được một số ví dụ: người học không bị mặc cảm có lỗi, xấu hổ khi không làm

đuợc bài, không hiểu bài phải hỏi đi hỏi lại nhiều lần, làm bài sai. Nếu được tổ

chức tốt, multimedia cho phép người học truy cập, tham khảo nhanh chóng, tức

thời đến một kho dữ liệu khổng lồ ngay khi đang học, mà không một giáo viên nào

có được.

Đối với người học, có ba ưu điểm chính sau:

Cho phép làm việc theo nhịp độ riêng và tự điều khiển cách học của bản

thân.

Học với một người thầy vô cùng kiên nhẫn.

Theo sát với việc học và thường xuyên nhận được phản hồi, đánh giá.

Riêng đối với người dạy, multimedia cung cấp những lợi ích sau:

Cho phép làm việc một cách sáng tạo.

Tiết kiệm thời gian, nhờ đó có thể khám phá nhiều chủ đề.

Tìm được giải pháp thay thế những hoạt động học thiếu hiệu quả.

Tăng cường thời gian giao tiếp, thảo luận với học sinh

4. Nhược điểm của multimedia

Page 5: Chương 3 + chương 4

5

Trước hết, multimedia đòi hỏi người học phải có máy tính với cấu hình thích hợp.

Máy tính dùng cho multimedia phải có phần cứng và phần mềm đủ để xử lý âm

thanh, hình ảnh, mô phỏng, video (tất cả đều là những loại thông tin có kích thước

file lớn) cùng lúc. Nếu máy tính có cấu hình quá thấp, bài học sẽ thường xuyên bị

ngắt quãng, mô phỏng không liền lạc, hoặc thậm chí không thực hiện được. Cũng

chính vì điều này mà người thiết kế phần mềm multimedia phải dự liệu trước (về

những thành phần nào cần và kiểu của chúng) để cho kích thước các file dữ liệu và

kích thước chung của cả phần mềm càng nhỏ càng tốt.

Kế đến, việc xây dựng một phần mềm multimedia thường tốn khá nhiều thời gian

và công sức, cũng như đòi hỏi phải có những trang thiết bị tối thiểu, nên giá thành

khá lớn. Nếu qui mô phần mềm càng lớn thời gian bị kéo dài càng nhiều thì giá

thành càng cao.

Multimedia cũng đòi hỏi người học phải có những khả năng và hiểu biết tối thiểu

về máy tính và cả chuyên môn. Bởi vậy, việc huấn luyện giáo viên, những người

không thuộc chuyên ngành máy tính cũng phức tạp, và nếu làm không tốt cũng dễ

gây ra những lãng phí lớn. Trong môi trường multimedia, người học không có cảm

giác được lắng nghe, được chia sẻ và được khuyến khích một cách sống động như

trong môi trường học tập trên lớp. Để giải quyết tốt vấn đề này, cần xây dựng

multimedia dựa trên những cơ sở về tâm lý học nhận thức, lý thuyết học tập. Đây

là cũng là một trong những trở ngại khó giải quyết nhất khi xây dựng multimedia.

Câu 6 - Một số công cụ Multimedia và Hybermedia sử dụng cho dạy học

6.1. Phần mềm Videomach 5.8.6 Professional

Tùy biến và tinh chỉnh Video

Page 6: Chương 3 + chương 4

6

Thông tin chi tiết:

VideoMach là một chương trình xây dựng và chuyển đổi audio/video, nó sẽ cho

phép ta xây dựng các video clip từ các hình ảnh, thêm nhạc nền cho video của

mình, trích các bản audio và hình ảnh từ phim, và chuyển đổi giữa các định dạng

file media.

Ta cũng có thể thay đổi độ nén, frame rate, độ sâu màu, định dạng audio và thay

đổi kích thước clip của mình bằng nhiều cách khác nhau, bao gồm màn ảnh rộng

mà không làm biến dạng nội dung. Thêm vào đó, ta có thể làm tăng giá trị và sửa

lại cho đúng các video clip của mình bằng 12 bộ lọc bao gồm sharpen, emboss,

gamma correction, brightness, contrast, saturation và nhiều thứ khác nữa.

Các tính năng khác bao gồm chuyển đổi giữa PAL và NTSC và những cái khác.

VideoMach hỗ trợ các định dạng audio và video thông dụng, bao gồm AVI, FLIC,

MPEG và HAV.

Đây là một vài tính năng của Video Mach:

Hỗ trợ các định dạng video hình ảnh thông dụng (mpeg, avi, divx, flc, jpeg, png,

tif, gif, bmp, và các định dạng khác)

Đọc và ghi các định dạng hình ảnh chuẩn Linux và UN*X (xpm, pnm, sgi, ras, và

các định dạng khác)

Hỗ trợ các định dạng audio thông dụng (mp3, mp2, ogg, wav, ac3)

Nhập kết quả của camera thu hình ảnh tốc độ cao và theo khoảng thời gian.

Tìm ra liên tục các hình ảnh nhanh nhất của thế giới, hơn 50,000 hình ảnh một

giây.

Page 7: Chương 3 + chương 4

7

MPEG, AVI and Bayer readers, video chất lượng chuyên nghiệp được mã hóa đến

chất lượng cao nhất không giống như hầu hết các chương trình chơi media.

Phần mềm mã hóa MPEG nhanh nhất, hơn 120 hình một giây.

Có thể đọc và viết các file MPEG rất lớn, đến hàng triệu terabyte.

Tạo công nghiệp các chuẩn VideoCD MPEG bằng NTSC và PAL/SECAM

Kết nối đến cả giao diện Video For Windows (VFW) và DirectShow (DS) bảo

đảm hỗ trợ cho số lượng các code và định dạng AVI.

Dễ dàng để thông qua ngoại trừ hộp thoại lựa chọn mã video/audio khi xuất ra

AVI.

Tích hợp chương trình chơi media.

Làm việc trên Windows 95 / 98 / ME / 2000 / XP cũng như các bản phân phối

Linux hiện đại với gói cài đặt Wine.

Bộ cài đặt nhanh chóng, nhỏ gọn và đáng tin cậy với kiểm tra chống virus tích hợp

bên trong.

Với VideoMach ta có thể:

Chuyển đổi hình ảnh liên tục thành file video.

Chắp video và audio clip thành file kết quả duy nhất.

Xoay, thay đổi kích thước và cắt video thành kích cỡ mong muốn.

Trích xuất hình ảnh và âm thanh từ các clip.

Thay đổi code video và audio, data rate, độ phân giải, tỉ lệ màn hình và chất lượng

clip.

Tăng nhanh hoặc làm chậm các video, hoặc một phần của nó.

Chấp nhận bất kì bộ lọc video nào và các chức năng như Brightness, Contrast,

Gamma - Correction, Deinterlace, Mirror, Motion Blur, Fade In/Out, White

Balance, Sharpen, Emboss và nhiều hơn nữa.

Công cụ triển khai đặc biệt như Matrix, Temporal Average hoặc Count Color.

Tự động tiến trình chuyển đỏi bằng cách sử dụng dự án và các thông số dòng lệnh.

Hỗ trợ các định dạng:

Page 8: Chương 3 + chương 4

8

Tích hợp AC3, Dolby Digital

AVI / DIVX / IVF, Windows Audio Video Interleaved

BAY, Bayer Image (chỉ đọc)

BMP / DIB, Windows Device Independent Bitmap

CINE, Vision Research CINE, (chỉ đọc/giải nén)

FLC / FLI, Autodesk FLIC / FLIC-Pro

GIF, Graphics Interchange Format

HAV , High quality Audio Video

JPEG, Joint Photographic Expert Group

MPA / MP2 / MP3, audio MPEG-1/2, Layer I/II/III, (Chỉ đọc MP1 và MP3)

MPEG, Moving Pictures Expert Group, MPEG-1

OGG, OggVorbis Audio

PCX, Zsoft Paintbrush

PNG, Portable Network Graphics

PNM / PPM, Portable Image

RAS / SUN, Sun Raster Image

RGB / SGI, Silicon Graphics Image

TGA, Truevision Targa

TIFF, Tagged Image File Format

WAV, Windows Wave Sound

XPM, X-Pixmap

6.2. Phần mềm mp3DirectCut

mp3DirectCut là chương trình nhỏ gọn giúp ta chỉnh sửa và ghi âm thanh để

nén MP3. Với công cụ này, ta có thể trực tiếp cắt, sao chép, paste hoặc thay

đổi âm lượng mà không cần phải thông qua giai đoạn giải mã tạp âm trước khi

chỉnh sửa như hầu hết những công cụ cùng chức năng. Vì vậy, ta sẽ tiết kiệm

được rất nhiều thời gian và tránh được hiện tượng lãng phí dung lượng của ổ

đĩa cứng máy tính bởi vô số những tập tin lưu tạm trong suốt thời gian xử lý.

Page 9: Chương 3 + chương 4

9

Hơn thế nữa, chương trình cũng đảm bảo được chất lượng âm thanh của tập tin

đầu ra đúng như chất lượng của tập tin gốc bởi không phải tái mã hóa.

mp3DirectCut tích hợp máy ghi âm để tạo ra trực tiếp tập tin MP3 từ tập tin

âm thanh đầu vào. Sử dụng Cue sheets, công cụ sẽ phát hiện tạm dừng hoặc

gợi ý tự động để ta có thể dễ dàng chia nhỏ các tập tin dài.

mp3DirectCut là một tiện ích sử dụng rất ít tài nguyên hệ thống và bộ nhớ

máy tính, do đó có thể chạy tốt trên cả những máy tính có cấu hình thấp. Công

cụ còn giúp ta dễ dàng cắt lấy chỉ đoạn âm thanh mong muốn trong một bản

nhạc MP3, loại bỏ những chi tiết mà ta cho là không cần thiết, tăng/giảm tốc

độ phát nhạc và âm lượng gốc, tự động cân bằng âm thanh, hiệu chỉnh nhãn

của bản nhạc cùng nhiều tính năng cao cấp khác.

Tính năng chính:

Cắt, sao chép, paste các đoạn một cách nhanh chóng.

Thay đổi âm lượng âm thanh, độ nhiễu, chuẩn hóa.

Ghi âm MP3 với bộ mã hóa ACM hoặc Lame.

Chuyển hướng MPEG nhanh chóng và dễ dàng.

Hỗ trợ Layer 2 (âm thanh DVD/DVB). Hỗ trợ CUE sheet.

Hỗ trợ AAC.

Xử lý hàng loạt.

Hỗ trợ chỉnh sửa tag ID3 1.1, giữ nguyên tag D3 2.

Ghi với tốc độ cao.

Sử dụng dòng lệnh.

Page 10: Chương 3 + chương 4

10

Hỗ trợ Unicode.

Xem ảnh chụp màn hình.

Câu 7 - Quy trình xây dựng một webquest:

1. Chọn và giới thiệu chủ đề

Chủ đề cần phải có mối quan hệ rõ ràng với các nội dung được chỉ định trong

chương trình dạy học. Chủ đề có thể là một vấn đề quan trọng trong xã hội, đòi

hỏi học sinh phải thể hiện quan điểm. Không thể thể hiện quan điểm bằng

những câu trả lời như “đúng” hay “sai” một cách đơn giản mà cần lập luận

quan điểm trên cơ sở hiểu biết về chủ đề. Những câu hỏi cần trả lời khi quyết

định chủ đề:

Chủ đề có phù hợp với chương trình đào tạo không?

Học sinh có hứng thú với chủ đề không?

Chủ đề có gắn với tình huống, vấn đề thực tiễn không?

Chủ đề có đủ lớn để tìm được tài liệu trên Internet không?

Sau khi quyết định chọn chủ đề, cần mô tả chủ đề để giới thiệu với học sinh.

Giới thiệu đề tài một cách ngắn gọn, dễ hiểu để học sinh có thể làm quen với

một đề tài khó.

2. Tìm nguồn tài liệu học tập:

Giáo viên tìm các trang web có liên quan đến chủ đề, lựa chọn những trang

thích hợp để đưa vào liên kết trong Webquest. Đối với từng nhóm bài tập

riêng rẽ cần phải tìm hiểu, đánh giá và hệ thống hóa các nguồn đã lựa chọn

thành dạng các địa chỉ internet (URL). Giai đoạn này thường đòi hỏi nhiều

công sức. Bằng cách đó, người học sẽ được cung cấp các nguồn trực tuyến

để áp dụng vào việc xử lý và giải quyết các vấn đề. Những nguồn thông tin

này được kết hợp trong tài liệu Webquest hoặc có sẵn ở dạng các siêu liên

kết với các trang web bên ngoài.

Ngoài các trang Web, các nguồn thông tin tiếp theo có thể là các thông tin

chuyên môn được cung cấp qua Email, CD hoặc các ngân hàng dữ liệu kỹ

Page 11: Chương 3 + chương 4

11

thuật số (ví dụ các từ điển trực tuyết trong dạy học ngoại ngữ). Điều quan

trọng là phải nêu rõ nguồn tin đối với từng nội dung công việc và trước đó

các nguồn tin này phải được giáo viên kiểm tra về chất lượng để đảm bảo

tài liệu đó là đáng tin cậy.

3. Xác định mục đích:

Cần xác định một cách rõ ràng những mục tiêu, yêu cầu đạt được trong

việc thực hiện Webquest.

Các yêu cầu cần phù hợp với học sinh và có thể đạt được.

4. Xác định nhiệm vụ

Để đạt được mục đích của hoạt động học tập, học sinh cần phải giải

quyết một nhiệm vụ hoặc một vấn đề có ý nghĩa và vừa sức. Vấn đề

hoặc nhiệm vụ phải cụ thể hóa đề tài đã được giới thiệu. Nhiệm vụ học

tập cho các nhóm là thành phần trung tâm của Webquest. Nhiệm vụ

định hướng cho hoạt động của học sinh, cần tránh những nhiệm vụ theo

kiểu ôn tập, tái hiện thuần túy.

Như vậy, xuất phát từ một vấn đề chung cần phải phát biểu những

nhiệm vụ riêng một cách ngắn gọn và rõ ràng. Những nhiệm vụ cần phải

phong phú về yêu cầu, về phương diện có thể áp dụng, các dạng làm

bài. Thông thường, chủ đề được chia thành các chủ đề nhỏ hơn để từ đó

xác định nhiệm vụ cho các nhóm khác nhau. Các nhóm cũng có thể có

nhiệm vụ giải quyết vấn đề từ những góc độ tiếp cận khác nhau.

5. Thiết kế tiến trình:

Sau khi đã xác định nhiệm vụ của các nhóm học sinh, cần thiết kế tiến trình

thực hiện Webquest. Trong đó đưa ra những chỉ dẫn, hỗ trợ cho quá trình làm

việc của học sinh. Tiến trình thực hiện Webquest gồm các giai đoạn chính là:

nhập đề, xác định nhiệm vụ, hướng dẫn nguồn thông tin, thực hiện, trình bày,

đánh giá.

6. Trình bày trang web:

Page 12: Chương 3 + chương 4

12

Các nội dung đã được chuẩn bị trên đây, bây giờ cần sử dụng để trình bày

Webquest. Để lập ra trang Webquest, không đòi hỏi những kiến thức về lập

trình và cũng không cần các công cụ phức tạp để thiết lập các trang HTML. Về

cơ bản chỉ cần lập Webquest, ví dụ trong chương trình Word và nhớ trong thư

mục HTML, không phải như thư mục DOC. Có thể sử dụng các chương trình

điều hành Web, ví dụ như FrontPage, tham khảo các mẫu Webquest trên

Internet hiện có. Trang Webquest được đưa lên mạng nội bộ để sử dụng.

7. Thực hiện Webquest:

Sau khi đã Webquest lên mạng nội bộ, tiến hành thử với học sinh để đánh giá

và sửa chữa.

8. Đánh giá, sửa chữa:

Việc đánh giá Webquest để rút ra kinh nghiệm và sửa chữa cần có sự tham gia

của học sinh, đặc biệt là những thông tin phản hồi của học sinh về việc trình

bày cũng như quá trình thực hiện Webquest. Có thể hỏi học sinh những câu hỏi

sau:

Các em đã học được những gì?

Các em thích và không thích những gì?

Có những vấn đề kỹ thuật nào trong Webquest? …

Câu 8 -Tìm hiểu việc tổ chức nội dung và hoạt động dạy học với LMS/LCMS

Learning Management System (LMS) là phần mềm quản lý, theo dõi và tạo các

báo cáo dựa trên tương tác giữa học viên và nội dung và giữa học viên và giảng

viên. Đôi khi người ta cũng gọi là Course Management System (CMS). Một

Learning Content Management System (LCMS) là hệ thống dùng để tạo, lưu trữ,

tổng hợp, và phân phối nội dung e-Learning dưới dạng các đối tượng học tập. Vậy

đặc điểm chính để phân biệt với LMS là LCMS tạo và quản lý các đối tượng học

tập.

1. Phân loại -

Page 13: Chương 3 + chương 4

13

Có nhiều loại LMS/LCMS khác nhau. Có rất nhiều vấn đề khác nhau trong các LMS

và LCMS do đó khó so sánh đầy đủ, chính xác. Các điểm khác nhau giữa các sản

phẩm có thể được liệt kê như sau:

Khả năng mở rộng

Tính tuân theo các chuẩn

Hệ thống đóng hay mở

Tính thân thiện người dùng

Sự hỗ trợ các ngôn ngữ khác nhau

Khả năng cung cấp các mô hình học tập khác nhau

Giá cả

2. Các tính năng chính

Đăng kí: học viên đăng kí học tập thông qua môi trường web. Quản trị viên và

giáo viên cũng quản lý học viên thông qua môi trường web.

Lập kế hoạch: lập lịch các khóa học và tạo chương trình đào tạo nhằm đáp ứng các

yêu cầu của tổ chức và cá nhân.

Phân phối: phân phối các khóa học trực tuyến, các bài thi và các tài nguyên khác.

Theo dõi: theo dõi quá trình học tập của học viên và tạo các báo cáo.

Trao đổi thông tin: Trao đổi thông tin bằng chat, diễn đàn, e-mail, chia sẻ màn

hình và e-seminar

Kiểm tra: cung cấp khả năng kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học viên

Nội dung: tạo và quản lý các đối tượng học tập (thường chỉ có trong LCMS)

3. Khả năng ứng dụng trong e-Learning

Cung cấp một môi trường toàn diện, đầy đủ để quản lý các quá trình, sự kiện, và

nội dung học tập.

4. Thuận lợi và bất lợi

Thuận lợi:

Cung cấp một môi trường ổn định để sử dụng e-Learning

Dễ dàng quản lý học viên, nội dung, các khóa học, và các tài nguyên khác

Page 14: Chương 3 + chương 4

14

Bất lợi

Rất khó lựa chọn một LMS/LCMS phù hợp.

Các hệ thống rất đắt tiền

Không dễ dàng để tạo ra một LMS/LCMS vì sự phức tạp của hệ thống và các

quá trình bên trong nó

Ví dụ

Moodle là một LMS mã nguồn mở, được đánh giá rất cao. Hiện tại có thể coi là

đối thủ chính của BlackBoard (BlackBoard vừa mua WebCT). Moodle nổi bật là hướng

giáo dục, được thiết kế dựa trên triết lý giáo dục tốt (constructivist). Một điểm nữa là

Moodle có cộng đồng rất đông đảo, thường xuyên đóng góp ý kiến và tài chính để nâng

cao chất lượng phần mềm. Website: http://www.moodle.org

Điều đáng mừng là cộng đồng Moodle Việt Nam đã được thành lập hơn một năm,

sẵn sàng cung cấp hỗ trợ miễn phí bằng tiếng Việt cho các trường học và cơ sở đào tạo.

Địa chỉ: http://moodle.org/course/view.php?id=45

Hệ thống quản lý học tập Moodle

A. Giới thiệu:

1. Moodle là một hệ thống quản lý học tập (Learning Management System - LMS hoặc

người ta còn gọi là Course Management System hoặc VLE - Virtual Learning

Environment) mã nguồn mở (do đó miễn phí và có thể chỉnh sửa được mã nguồn), cho

phép tạo các khóa học trên mạng Internet hay các website học tập trực tuyến.

2. Moodle (viết tắt của Modular Object-Oriented Dynamic Learning Environment) được

sáng lập năm 1999 bởi Martin Dougiamas, người tiếp tục điều hành và phát triển chính

của dự án. Do không hài lòng với hệ thống LMS/LCMS thương mại WebCT trong trường

học Curtin của Úc, Martin đã quyết tâm xây dựng một hệ thống LMS mã nguồn mở

hướng tới giáo dục và người dùng hơn. Từ đó đến nay Moodle có sự phát triển vượt bậc

và thu hút được sự quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới và ngay cả những

công ty bán LMS/LCMS thương mại lớn nhất như BlackCT (BlackBoard + WebCT)

cũng có các chiến lược riêng để cạnh tranh với Moodle.

Page 15: Chương 3 + chương 4

15

3. Moodle nổi bật là thiết kế hướng tới giáo dục, dành cho những người làm trong lĩnh

vực giáo dục.

4. Moodle rất dễ dùng với giao diện trực quan, giáo viên chỉ mất một thời gian ngắn để

làm quen và có thể sử dụng thành thạo. Giáo viên có thể tự cài và nâng cấp Moodle.

5. Do thiết kế dựa trên module nên Moodle cho phép bạn chỉnh sửa giao diện bằng cách

dùng các theme có trước hoặc tạo thêm một theme mới cho riêng mình.

6. Tài liệu hỗ trợ của Moodle rất đồ sộ và chi tiết, khác hẳn với nhiều dự án mã nguồn mở

khác. 7. Moodle phù hợp với nhiều cấp học và hình thức đào tạo: phổ thông, đại học/cao

đẳng, không chính quy, trong các tổ chức/công ty.

8. Moodle rất đáng tin cậy, có trên 10.000 site trên (thống kê tại moodle.org) thế giới đã

dùng Moodle tại 160 quốc gia và đã được dịch ra 75 ngôn ngữ khác nhau. Có trên 100

nghìn người đã đăng kí tham gia cộng đồng Moodle (moodle.org) và sẵn sàng giúp bạn

giải quyết khó khăn. Nếu bạn cần sự giúp đỡ chuyên nghiệp về cài đặt, hosting, tư vấn sử

dụng Moodle, phát triển thêm các tính năng mới, và tích hợp Moodle với các hệ thống đã

có trong trường của bạn, bạn có thể chọn cho mình một trong các công ty Moodle

Partners(Khoảng 30 công ty).

9. Moodle phát triển dựa trên PHP (Ngôn ngữ được dùng bởi các công ty Web lớn như

Yahoo, Flickr, Baidu, Digg, CNET) có thể mở rộng từ một lớp học nhỏ đến các trường

đại học lớn trên 50 000 sinh viên (ví dụ đại học Open PolyTechnique của Newzealand

hoặc sắp tới đây là đại học mở Anh - Open University of UK, trường đại học cung cấp

đào tạo từ xa lớn nhất châu Âu, và đại học mở Canada, Athabasca University). Bạn có thể

dùng Moodle với các database mã nguồn mở như MySQL hoặc PostgreSQL. Phiên bản

1.7 sẽ hỗ trợ thêm các database thương mại như Oracle, Microsoft SQL để các bạn có

thêm nhiều cơ hội lựa chọn.

10. Để biết mọi người nghĩ gì về Moodle, các nghiên cứu về Moodle, cũng như so sánh

Moodle với các hệ thống khác, bạn đọc tiếp tại:http://moodle.org/buzz/. Về tương lai phát

triển của Moodle, bạn xem tại: http://docs.moodle.org/en/Roadmap.

11. Cộng đồng Moodle Việt Nam được thành lập tháng 3 năm 2005 với mục đích xây

dựng phiên bản tiếng Việt và hỗ trợ các trường triển khai Moodle. Từ đó đến nay, nhiều

Page 16: Chương 3 + chương 4

16

trường đại học, tổ chức và cá nhân ở Việt Nam đã dùng Moodle. Có thể nói Moodle là

một trong các LMS thông dụng nhất tại Việt Nam. Cộng đồng Moodle Việt Nam giúp

bạn giải quyết các khó khăn về cài đặt, cách dùng các tính năng, cũng như cách chỉnh sửa

và phát triển. Nhớ rằng cộng đồng Moodle Việt Nam được xây dựng bằng chính Moodle.

12. Một câu hỏi đặt ra là Moodle trị giá bao nhiêu? Một thống kê thú vị tại

http://www.ohloh.net/projects/25 kết luận Moodle đáng giá 20 triệu USD nếu bạn phải

xây dựng một hệ thống tương tự như thế từ đầu.

B. Tại sao lại dùng Moodle?

Câu hỏi này được đặt ra khi nhiều trường đại học đã dùng BlackBoard hoặc

WebCT (do họ đã sát nhập nên chúng ta gọi là BlackCT) chuyển sang dùng Moodle. Với

những ai không biềt thì BlackBoard và WebCT là hai LMS/LCMS ra đời sớm và chiếm

thị phần lớn nhất trên thế giới trong số các hệ thống thương mại. Một thống kê tham khảo

về thị phần các LMS/LCMS chính Moodle+BlackCT+Sakai có tại

http://www.zacker.org/higher-ed-lms-market-penetration-moodle-vs-blackboard-vs-

sakai.

Dưới đây là các lí do chính (Dựa trên nghiên cứu của Terence Armentano được

đưa lên tại địa chỉ:http://moodle.org/mod/forum/discuss.php?d=35845):

1. Phần mềm nguồn mở giúp trường đại học của bạn không phụ thuộc vào một công

ty phần mềm đóng.

Ví dụ 1 – LMS (Learning Management System) đóng có thể ảnh hưởng rất sâu

đến một trường đại học cho đến mức mà bạn không thể quay lại. Giáo viên quá

quen với nó. Sinh viên và các nhân viên khác cũng vậy. Đến lúc này công ty bán

LMS nhận ra sự phụ thuộc của bạn vào sản phẩm này và bắt đầu tăng giá, hỗ trợ ít

hơn, bắt bạn mua các sản phẩm bổ sung và bạn bắt buộc phải làm theo, không còn

sự lựa chọn nào khác.

Ví dụ 2 – Nếu bạn cần hỗ trợ, bạn phải dựa vào công ty bán sản phẩm cho bạn

nâng cấp và chỉnh sửa vì bạn không thể có mã nguồn trong tay. Với mã nguồn mở,

bạn có thể tự sửa hoặc trả cho các công ty khác hỗ trợ bạn, thường thì rẻ hơn vì

bạn có thể chọn được nhiều công ty. Hơn nữa, nếu bạn không hài lòng với một

Page 17: Chương 3 + chương 4

17

công ty, bạn có thể tìm các công ty khác để hỗ trợ. Moodle có khoảng 30 công ty

có thể hỗ trợ bạn. Hơn nữa, nếu bạn có những chuyên gia tin học tốt thì bạn không

cần thuê bên ngoài.

2. Tùy biến được (Customizable). Moodle có thể tùy biến và cấu hình mềm dẻo một

cách đáng ngạc nhiên. Mã mở được đưa ra công khai do đó bạn có thể tùy biến hệ

thống để phù hợp với các yêu cầu đào tạo và thuê lâp trình viên làm chuyện đó

thay cho bạn. Ví dụ, nếu trường đại học muốn xây dựng một module XYZ thì họ

có thể tự phát triển bên trong hoặc gửi yêu cầu đó lên cộng đồng mã nguồn mở và

một người lập trình viên có thể xây dựng module đó miễn phí. Ngay cả khi bạn

không phải là một lập trình viên, bạn vẫn có thể cài đặt Moodle trên một server,

tạo các khóa học, và cài thêm các module bổ sung, và gỡ các rắc rối với sự trợ

giúp của cộng đồng Moodle.

3. Hỗ trợ. Các mức độ hỗ trợ cho một phần mềm mã nguồn mở tốt thật đáng kinh

ngạc. Cộng đồng, nhân viên IT có sẵn, hoặc các công ty bên ngoài là các lựa chọn

cho bạn.

4. Chất lượng. Đôi khi phần mềm mã nguồn mở, như trong trường hợp của Moodle

và Sakai, bằng hoặc tốt hơn Blackboard /WebCT trong các khía cạnh. Bởi cộng

đồng các nhà giáo dục, chuyên gia máy tính, và các chuyên gia thiết kế giảng dạy

chính là những người phát triển Moodle, và kết quả là bạn có trong tay một sản

phẩm đáp ứng tốt các yêu cầu người dùng. Ví dụ, Moodle có các tính năng hướng

tới giáo dục vì chúng được xây dựng bởi những người làm trong lĩnh vực giáo

dục.

5. Moodle được hỗ trợ tích cực bởi những người làm trong lĩnh vực giáo dục. Họ là

những người có trình độ IT tốt và có kinh nghiệm trong giảng dạy. Họ chính là

những người dùng LMS và có thể hỗ trợ bạn.

6. Sự tự do. Bạn có nhiều sự lựa chọn hơn và không bao giờ có cảm giác là “nô lệ‟

của phần mềm.

7. Ảnh hưởng trên toàn thế giới. Bởi vì Moodle có một cộng đồng lớn như vậy, phần

mềm được dịch ra hơn 75 ngôn ngữ và được sử dụng tại 160 nước khác nhau. Bạn

Page 18: Chương 3 + chương 4

18

rất ít khi tìm được một phần mềm đóng thông dụng được dịch ra hơn 10 ngôn ngữ

khác nhau.

8. Moodle, giống như các công nghệ mã nguồn mở khác, có thể tải về và sử dụng

miễn phí. Mã nguồn mở dùng mô hình kinh doanh khác với mô hình mà chúng ta

từng biết. Ví dụ, bạn có thể mở một công ty tư vấn Moodle và thuê một lập trình

viên để phát triển phần mềm và chia sẻ nó miễn phí cho cộng đồng bởi vì càng có

nhiều người dùng nó công ty của bạn càng có cơ hội kinh doanh.

9. Cơ hội cho các sinh viên tham gia dự án. Thật là tốt khi bạn tạo điều kiện cho các

sinh viên khoa học máy tính (công nghệ thông tin) có cơ hội để phát triển một

module cho LMS Moodle. Sinh viên có thể xây dựng module cho LMS Moodle và

chia sẻ nó cho cộng đồng toàn cầu. Nếu module đủ tốt, nó sẽ được tích hợp vào

phiên bản mới Moodle thường được phát hành 6 tháng một lần. Bởi vì Moodle

thiết kế dựa trên module, xây dựng module mới cho Moodle khá đơn giản nếu bạn

biết PHP. (Ví dụ như sinh viên Phạm Minh Đức - Đại học BK Hà Nội đã phát

triển thành công module SCORM 2004, sau đó đóng góp cho cộng đồng Moodle).

10. Với mô hình mở như Moodle, cho phép bạn trao đổi trực tiếp với chính những

người phát triển phần mềm, góp ý kiến và yêu cầu chỉnh sửa.

Nếu muốn bạn có thể nghe cuộc phỏng vấn với Martin Dougiamous, người sáng

lập Moodle và hiện tại vẫn đang là người điều hành chính Moodle, về tương lai

của Moodle tại http://technosavvy.org/?p=329.

Các trường ĐH sử dụng Moodle

EVietnam Group –

Trang web dạy toán Phổ Thông Trung học –

Học nữa, học mãi –

Khoa Công nghệ Thông tin & Truyền thông – Đại học Cần Thơ

Khoa quản trị kinh doanh – Đại học Đà Nẵng

Khoa CNTT- Đại Học Khoa Học Tự Nhiên-ĐHQGTPHCM

Đại học Mở Bán công TPHCM

Page 19: Chương 3 + chương 4

19

Viện Khoa học và Công nghệ

Phân viện TPHCM

Ho Chi Minh International School

TinhHoa Networking Academy

Hóa học phổ thông

Trung tâm Đào tạo Từ xa

Đại học Hà Nội

Việt Nam - Đất nước - Con người

VietMaths

Công ty điện lực 2

EDO - Đại học Hà Nội

Toán học phổ thông

Ephysics

Trung tâm Tin học - Bộ GD & DT

Khoa Trung Quốc - Đại học Hà Nội

Đại học Công Nghệ

Đại học quốc gia Hà Nội

Cổng bồi dưỡng giáo viên kỹ thuật

Khoa quản trị và du lịch - Đại học Hà Nội

Khoa Pháp - Đại học Hà Nội

Viện Đại học Mở Hà Nội

Đại học Xây Dựng Hà Nội

Trường cao đẳng Đông Á

Singapore International School

Khoa Nhật - Đại học Hà Nội

Dự án HRCTEM của Bỉ

Đại học Kinh tế - Đà Nẵng

Khoa Nga - Đại học Hà Nội

Page 20: Chương 3 + chương 4

20

Khoa Công nghệ thông tin - Đại học Sư phạm TPHCM

Vn Experts

Kaist e-Learning System

Thi trắc nghiệm trực tuyến

Đại học Thủy lợi

Khoa Đức - Đại học Hà Nội

Chương trình hợp tác quốc tế - Đại học Bách Khoa Hà Nội

Đại học Huế -

còn nữa ...

CHƯƠNG IV: DẠY VÀ HỌC VỚI CÁC PHẦN MỀM DẠY HỌC: DRILL

&PRACTICE SOFTWARES, TUTORIAL SOFTWARES, INSTRUCTIONAL

GAMES, SIMULATION SOFTWARES, INTEGRATED LEARNING SYSTEM

INTELLIGENT TUTORING SYSTEMS

Câu 10 - Ưu và nhược điểm của phần mềm Powerpoint trong dạy học

Hiện nay, việc dùng phần mềm PowerPoint (PPt) là khá phổ biến ở các cuộc hội

họp, các cuộc Hội thảo chuyên môn, các lớp huấn luyện nghề của các đơn vị kinh tế…Đã

có những cán bộ giảng Nghị quyết của Đảng cũng dùng PP. Điều này cho thấy tính ưu

việt gần như tuyệt đối hiện nay của máy tính với phần mềm PP về mọi phương diện cho

một bài báo cáo hoặc bài giảng. Tuy nhiên, tính ưu việt đó còn phụ thuộc rất nhiều vào

người báo cáo và đặc biệt là vào sự chuẩn bị các trang trình chiếu.

Đối với nghề dạy học, tiêu chí của bài học không giống như những bài thuyết

trình, những bản báo cáo. Đối tượng dạy học lại hoàn toàn không như các đối tượng Hội

nghị, Hội thảo. Cho nên, việc chuẩn bị một bài giảng bằng PPt cần đảm bảo không những

tính nội dung (khoa học) mà còn phải đặt mạnh tiêu chí về tính sư phạm. Tính sư phạm ở

đây bao gồm: sự phù hợp về mặt tâm sinh lí học sinh (HS), sinh viên (SV), tính thẩm mĩ

của trang trình chiếu, sự thể hiện nhuần nhuyễn các nguyên tắc dạy học và các phương

pháp dạy học (PPDH). Vì vậy, người giáo viên (GV) muốn sử dụng PPt để dạy học có

hiệu quả thì không những phải có kiến thức tối thiểu về phần mềm này (không phải chỉ

Page 21: Chương 3 + chương 4

21

đơn thuần là “viết” chữ lên các trang trình chiếu) mà còn cần phải có ý thức sư phạm,

kiến thức về lí luận dạy học và về các PPDH tích cực, sau đó mới là sự linh hoạt và sáng

tạo trong thiết kế các trang trình chiếu sao cho hấp dẫn một cách có ý nghĩa.

1. Những vấn đề chung:

Sử dụng máy tính để dạy học là một trong những hướng thay đổi PPDH trong nhà

trường chúng ta hiện nay, trong đó, việc giảng bằng các trang trình chiếu PPt đang được

các giảng viên đại học, thầm chí nhiều GV trường THPT bắt đầu thực hiện. Đương nhiên,

không phải và cũng không cần thiết biến mọi tiết dạy trở thành giờ học bằng máy tính,

cho dù ở trường nào đó có đủ khả năng về cơ sở vật chất cũng như các kĩ năng thích hợp

cho công việc. Mỗi giáo viên cần chọn tiết học sao cho nếu đưa nó lên trang trình chiếu

PP thì sẽ tận dụng được tối đa ưu việt của máy tính về phương diện cung cấp thông tin

cho người học, về tính hấp dẫn của của bài giảng, chí ít cũng có hiệu quả hơn bài giảng

với bảng viết thông thường. Cần tránh việc chạy theo phong trào để rồi bài giảng thiếu

chất lượng, lạm dụng các hiệu ứng trong phần mềm PPt làm người học bị phân tán sự chú

ý. Cũng không nên tầm thường hoá việc dạy bằng PPt. Nhiều người quan niệm trang

trình chiếu chẳng qua là thay bảng đen, thậm chí không bằng bảng đen (vì họ không được

viết xóa thoải mái như dùng bảng đen). Cái “lí” của họ cũng có thể đúng, bởi vì thực tế,

một số GV dạy bằng PPt nhưng cuối cùng HS chẳng ghi được gì vào tập, không thu nhận

được kiến thức gì quan trọng ngoài sự “thú vị” một cách chung chung!

Như vậy có nghĩa là, sử dụng máy tính để dạy học phải đạt được yêu cầu cao nhất là:

hiệu quả giờ học. Trước hết ta hãy nói đế thực trạng của vấn đề này hiện nay:

a. Khái quát các ưu, nhược điểm của việc sử dụng bài giảng bằng PPt

* Phần mềm PPt có những ưu điểm cơ bản sau:

Các hiệu ứng, màu sắc, kiểu chữ…rất tiện lợi cho một xử lí một bài giảng linh

hoạt, hấp dẫn và sư phạm.

Khả năng sử dụng hiệu quả các hình ảnh, phim, các tư liệu dạy học nhanh

chóng và chất lượng.

Tiết kiệm nhiều thời gian viết, vẽ trên lớp

Thuận lợi cho việc sử dụng các PPDH tích cực.

Page 22: Chương 3 + chương 4

22

* Những nhược điểm khi sử dụng phần mềm :

Tốn khá nhiều kinh phí để đào tạo GV sử dụng máy tính, cán bộ kĩ thuật đảm bảo

cho việc thực hiện của GV thông suốt, máy móc không bị hư hỏng một cách vô lí

và mua sắm máy móc trang bị cho các đơn vị giáo dục.

Vấn đề kĩ thuật sử dụng máy tính, máy chiếu còn là một khó khăn chưa thể vượt

qua ở nhiều GV.

Nếu không có ý thức sử dụng PPt tốt thì các ưu thế của phần mềm này có thể sẽ

trở thành nhược điểm lớn và cơ bản: HS thích học vì mới lạ nhưng tâm lí bị phân

tán, không theo dõi được bài học, không ghi được nội dung cơ bản của bài….

b. Những điểm mạnh và yếu của giáo viên khi thiết kế bài giảng bằng PPt:

Mặt mạnh của giáo viên sử dụng PPt:

Thiết kế màn hình đẹp, da dạng

Đã sử dụng nhiều các phần mềm chuyên dụng làm các thí nghiệm ảo, lồng ghép

phim ảnh minh họa

Rất chịu khó thu thập tư liệu cho môn học.

Những thế mạnh này là rất cơ bản nhưng chưa đủ cho việc dạy học bằng máy tính

theo nghĩa đích thực của nó.

Những điểm yếu của giáo viên sử dụng PPt:

Sử dụng màn hình không hợp lí trong việc bố trí chữ (viết quá nhiều – dư, viết quá

ít – phải lật trang liên tục), kích cỡ chữ, nội dung viết cũng như tính nhất quán

trong trình bày (đâu là nội dung cho HS ghi chép, đau là điều khiển của GV..)

Lạm dụng các hiều ứng làm HS mất tập trung vào bài giảng.

Lạm dụng màu sắc, âm thanh hoặc sử dụng chúng không hợp lí, không nhất quán..

Cỡ chữ, kiểu chữ không được qui định thống nhất làm cho bài giảng lôn xôn, khó

theo dõi

c. Các yêu cầu cơ bản để đảm bảo một bài giảng bằng PPt đạt chất lƣợng:

* Về nội dung trang trình chiếu

Cần:

Page 23: Chương 3 + chương 4

23

Đủ nội dung cơ bản của bài học

Phải được mở rộng, cập nhật

Nhiều thông tin có ý nghĩa và được chọn lọc.

Trên các trang trình chiếu phải thể hiện được cả tính phương pháp.

Tránh:

Nội dung nghèo nàn, chỉ nhằm thay thế chiếc bảng đen

Quá nhiều thông tin làm HS bị “nhiễu”

Sai sót các loại lỗi chính tả, lỗi văn bản

* Về hình thức trang trình chiếu:

Cần:

Bố cục các trang trình chiếu sao cho HS dễ theo dõi, ghi được bài

Các trang trình chiếu phải mang tính thẩm mĩ để kích thích sự hứng thú học

tập,vừa giáo dục được HS

Cỡ chữ phù hợp với số lượng người học, quá lớn thì loãng thông tin, quá

nhỏ thì người cuối lớp không nhìn thấy.

Thông thường dùng cỡ chữ 24 hoặc 28 là vừa.

Cố gắng tận dụng kĩ thuật trong phần mềm (nhưng không cần thiết cầu kì)

để thể hiện tính sư phạm của bài giảng

Tránh:

Lạm dụng các hiệu ứng (effect) tới mức không cần thiết

Lạm dụng màu và dùng các màu chõi nhau trên cùng một trang (xem mục

3.1).

2. Để tập trung sự chú ý của HS trong giờ dạy bằng PowerPoint:

Phong trào sử dụng PPt để dạy học đang phát triển mạnh ở Trường Phổ thông,

khác với bài giảng ở Trường Đại học, một bài giảng trước HS phổ thông có những

yêu cầu nghiêm ngặt riêng của nó về nội dung bài học, về ghi chép trên bảng, về

PPDH. Mỗi bài giảng, thậm chí mỗi trang trình chiếu đều có sự hướng đích khác

nhau, thể hiện ở sự bố trí thông tin, bố cục, màu sắc… Tuy nhiên, mọi hướng đích đều

Page 24: Chương 3 + chương 4

24

có một mục đích chung, đó là chuyển tải được thông tin một cách có hiệu quả và

thuyết phục người nghe. Vì vậy, thu hút sự chú ý có nghĩa là làm cho HS phải theo

dõi bài giảng một cách tự nguyện. Đó cũng là là nghệ thuật sư phạm của người giảng

và người thiết kế các trang trình chiếu.

Thông thường, trong một giờ giảng, người nghe sẽ khá tập trung chú ý ở thời điểm

bắt đầu. Tuy nhiên, sự tập trung ấy sẽ giảm dần rất nhanh. Vào cuối bài bài giảng, nếu

chúng ta cho HS biết rằng bài học sắp kết thúc, họ sẽ chú ý trở lại, trong khi nội dung

chính của bài giảng lại nằm ở khoảng “giữa”. Vậy làm thế nào để thu hút sự chú ý của

người nghe trong suốt quá trình bài giảng? Bản thân các trang trình chiếu bằng PPt

(nếu soạn hợp lí) đã có một sức hút lớn đối với học sinh. Tuy nhiên, nếu quá lạm dụng

tính ưu việt đó thì đôi khi bài giảng sẽ có tác dụng ngược. Nghệ thuật sư phạm của

người thiết kế bài giảng PPt sẽ có một sức hút riêng đối với HS trong giờ học. Có một

số thủ thuật cần thiết cho việc thiết kế bài giảng bằng PPt như sau:

Nội dung

Thay vì mở đầu bằng lời (kể chuyện dẫn dắt, ra một bài tập nhỏ..) ta kèm theo đó

là một trang hình phù hợp với nội dung nói, thậm chí có thể là một đoạn trích, một

câu hỏi thảo luận đầu giờ, một hình ảnh có ý nghĩa, một đoạn phim…

Hãy dành một trang nêu tên bài học (sau mở đầu) cùng các đề mục (dàn bài) và

cũng nên giới thiệu sơ qua các phần đó đề cập đến vấn đề gì, HS sẽ dễ dàng có

một tổng quan về bài giảng, gây tâm lí chờ đợi những thông tin thú vị phía sau.

Mỗi nội dung nhỏ (mục) cần có “điểm nhấn” hấp dẫn: một câu chuyện để chuyển

tiếp giữa các mục, hình ảnh, một đoạn phim, một nhiệm vụ học tập cho hS làm

nhanh, một câu trích dẫn có ý nghĩa, có thể pha một ít tính hài hước …để lôi kéo

người nghe trở về bài giảng, đôi khi có ai đó bị mất tập trung.

Hãy giữ liên tục nội dung bài giảng (phần dành cho HS ghi) từ trang này sang

trang khác như một chiếc “bảng kéo”. Muốn làm điều này, cần chú ý:

Hãy sử dụng cỡ chữ, kiểu chữ, màu chữ thống nhất theo từng loại đề mục của bài

học. Cỡ chữ ghi nội dung cụ thể nhỏ hơn các đề mục. Sự thống nhất này phải giữ

từ đầu đến cuối bài giảng, cho dù nội dung bài học phải chuyển sang trang tiếp.

Page 25: Chương 3 + chương 4

25

Cố gắng sắp xếp nội dung một hoặc một số mục nằm gọn trong trang, trừ trường

hợp bất khả kháng.

Mọi nội dung khác không nhằm cho HS ghi hoặc vẽ theo, chỉ dùng tạm thời để mở

rộng hoặc làm “điểm nhấn” cho bài giảng (chuyển tiếp giữa các mục, minh họa

hình ảnh, câu hỏi thảo luận, nhiệm vụ khám phá..) đều phải dùng kĩ thuật

“chèn”các ô cửa sổ có hình hoặc chữ, sử dụng xong thoát ra, không lưu lại (dùng

các hiệu ứng xuất hiện rồi biến mất), hoặc dùng thuật Hyperlink (trong Insert)…,

sao cho tồn tại từ trang đầu đến trang cuối vẫn là nội dung chính của bài giảng

(xem 3.4). - Những công việc trên còn phải được kết hợp linh hoạt với nghệ thuật

trình bày của GV. Ví dụ: Thay vì chuyển tiếp sang mục khác thì GV có thể tóm

lược những ý chính của mục vừa mới giảng. Nhờ vậy mà người nghe sẽ bắt kịp

tiến độ bài giảng, nếu vì lí do gì đó mà HS bị mất tập trung.

Mỗi trang sau cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc quay về các trang trước để nội

dung bài giảng được liên tục (đôi khi cần nhắc lại cái vừa mới học ở trang trước).

Muốn vậy, cần lập File riêng cho từng trang (nhưng bỏ hết các hiệu ứng của trang

này) – chúng tôi gọi đó là “trang sạch” (xem 3.4-b) – rồi cho vào tập của bài giảng

(Folder). Đến một chỗ nào đó trong bài giảng cần nhắc lại trang trước thì dùng

Hyper Link cho xuất hiện ngay trang đó.

Một nghịch lí về sự “chú ý” thường xảy ra trong dạy học bằng các trang trình

chiếu, nhất là đối với những người mới sử dụng PPt lần đầu là: Sự lạm dụng màu

hoặc lạm dụng các effect sẽ có thể tập trung được sự chú ý của HS, song sự chú ý

đó lại không hướng vào nội dung bài học mà là vào sự sặc sỡ của màn hình, vào

những sự “nhảy múa” đủ kiểu của chữ và hình trong trang trình chiếu. Có nghĩa là,

HS vẫn chú ý, vẫn thích thú bài học nhưng khi kết thúc giờ học thì bài học cũng

biến mất trong trong đầu các em. Điều này thật dễ hiểu đối với tâm lí của HS.

3. Cụ thể một số nguyên tắc thiết kế trang trình chiếu:

1) Sử dụng màu sắc trong các trang trình chiếu:

Page 26: Chương 3 + chương 4

26

Phối màu linh hoạt, phong phú và dễ làm là ưu việt dễ thấy ở máy tính nói

chung, ở các trang trình chiếu PPt, nói riêng. Song sử dụng màu sắc thế nào

cho hợp lí thì không phải ai cũng làm được.

a) Màu sắc phản ánh nội dung:

Để có những trang trình chiếu thu hút và ấn tượng, ngoài nội dung khoa học ra,

chúng ta phải biết sử dụng màu sắc hợp lí: chọn màu, phối màu giữa nền và

chữ, phối màu giữa các dòng văn bản.

Có 3 cách chọn màu nền:

Màu và hình nền mặc định đã được soạn sẵn trong phầm mềm PPt (Design) nói

chung là đủ để sử dụng. Kiểu màn hình mặc định có ưu điểm là màu chữ cũng măc

định, tương phản tốt với màu nền. Tuy nhiên, Font chữ định sẵn cho từng màn

hình đôi khi không theo ý muốn. Nếu chọn kiểu màn hình nào thì mặc nhiên các

trang khác cũng được chọn Font chữ như vậy. Trường hợp muốn có màn hình màu

khác xen kẽ vào dãy các trang mặc nhiên đã chọn thì thiết kế theo hai cách dưới

đây.

Có thể chọn màu nền theo ý muốn (đơn sắc): chọn trang màu trắng, sau đó chọn

Format→ Backround. Trường hợp này chỉ có màu đơn sắc cho toàn màn hình.

Theo kiểu này, người thiết kế có thể dễ dàng thay đổi màu cho các trang khác

nhau. Chú ý, nếu chọn màu xong, quyết định Apply, nghĩa là chỉ có màn hình đó

có màu theo ý muốn, nếu click Apply to All, nghĩa là các màn hình trong File đó

cũng cùng màu chọn. Điều này rất quan trọng, bởi vì khi cần xen kẽ một màn hình

khác vào trong dãy màn hình mặc nhiên mà chọn Apply to All thì mọi màn hình

trong dãy đều thay đổi màu, đồng nghĩa với việc ta phải đổi lại màu chữ trong các

màn hình mặc nhiên cho phù hợp. Đôi khi sự trộn màu mặc nhiên và màu đơn sắc

lại không vừa ý người thiết kế. Trường hợp xen kẽ như vậy, ta phải click Apply.

Trường hợp nói trên (trộn màu đơn sắc và màu màn hình mặc nhiên) gợi ý cho ta

kiểu chọn màn hình phối hợp: màn hình mặc nhiên và màu đơn sắc. Kiểu này có

lợi ở chỗ, ta lấy được hình nền mặc nhiên (trong thư mục Design) theo sở thích và

Page 27: Chương 3 + chương 4

27

màu trộn vừa ý. (Còn có cách tự thiết kế màn hình riêng cho minh nhưng phức tạp

hơn)

Theo các công trình nghiên cứu, mỗi màu nền có mang ý nghĩa riêng của nội dung

và đối tượng nghe. Chẳng hạn, những màu trung tính như màu xám và những màu tối

hơn sẽ tạo một không khí nghề nghiệp (tất nhiên không ai chọn nền đen); màu cam và

những màu lân cận trong dãy quang phổ như vàng, hồng nhạt, nâu nhạt sẽ tạo không

khí thân thiện (màu đỏ không nên chọn vì quá chói mắt); màu tím nhạt và hồng có thể

dùng cho lứa tuổi cấp tiểu học; để tạo một bầu không khí vui tươi, chào đón ta có thể

dùng màu vàng và màu hổ phách; màu xanh nước biển và xanh lá cây thì nhã nhặn,

màu trắng rất nghiêm túc song nếu bản báo cáo có chữ viết không được chuẩn bị kĩ

trên nền trắng hoặc dùng nền trắng trong suốt bài giảng sẽ tạo cho HS một cảm giác

một bài giảng sơ sài, thiếu chuẩn bị.

Những ý nghĩa của màu nền như trên có thể dùng để tham khảo. Các hình đã cho

sẵn trong các nền ở Design cũng ảnh hưởng nhất định đối với nội dung trang trình

chiếu. Hơn nữa, việc chọn nền còn phụ thuộc nhiều vào sở thích của người thiết kế.

Cần kết hợp tất cả các yếu tố này để có một bài soạn tốt về hình thức trang trình

chiếu.

b) Màu sắc và sự tiếp nhận của mắt:

Màu chữ và hình sẽ là công cụ đắc lực phục vụ cho bài giảng nếu ta sử dụng nó

hợp lí. Ngược lại, bài giảng sẽ dễ dàng trở thành một buổi biểu diễn màu sắc loè loẹt

nhưng nhạt nhẽo, thậm chí còn gây cảm giác khó chịu cho người đọc. Để đảm bảo việc

sử dụng màu sắc hiệu quả, có một số nguyên tắc sau:

- Sử dụng nhiều nhất là 5 màu trong mỗi trang bài giảng

Nếu chữ viết trong một trang chỉ có một màu duy nhất, người đọc sẽ rất nhàm

chán. (Ngoại trừ trường hợp, trên trang đó chỉ chứa một loại nội dung duy nhất, như, nội

dung của một mục, một đoạn trích, một câu hỏi thảo luận hay nhiệm vụ khám phá.).

Ngược lại, sử dụng quá nhiều màu sắc trong một trang hoặc trong một bài giảng sẽ làm

cho HS hoặc cảm giác đẹp sặc sỡ, thích thú với màu mà không tập trung vào nội dung bài

học, hoặc có cảm giác khó chịu, dẫn đến phản tác dụng. Theo Marcus (1992), nên dùng

Page 28: Chương 3 + chương 4

28

từ 2 đến tối đa 5 màu, phân phối hợp lí thì trang trình chiếu sẽ trở nên hấp dẫn hơn. Ví

dụ: Dùng một màu chính xuyên suốt cho nội dung khoa học của bài học, một vài màu nổi

hơn cho các đề mục và một màu khác để làm nổi bật các ý quan trọng. Chú ý, các đề mục

có vai trò ngang nhau thì phải có màu giống nhau (cỡ chữ, kiểu chữ cũng giống nhau).

Thế nhưng nên dùng màu nào để làm nổi bật các ý quan trọng? Thông thường, người ta

dùng màu đỏ (nhưng không được để trên nền xanh và tím).

- Màu đỏ được mắt tiếp nhận tốt nhất trong số các màu cơ bản

Con người có thể thấy được màu là nhờ vào các tế bào thần kinh ở võng mạc của

mắt. Khoa học đã chứng minh rằng trong 3 màu cơ bản thì số tế bào thần kinh cảm nhận

màu đỏ chiếm khoảng 64% võng mạc, số tế bào thần kinh cảm nhận màu lục là 34% và

màu xanh đậm (blue) là 2% (Thissen, F.& Title, 2004). Điều này giải thích vì sao màu đỏ

dễ đập vào mắt người đọc hơn là màu xanh. Hơn nữa, ánh sáng đi qua thủy tinh thể cũng

bị khúc xạ, do đó những màu gần với màu đỏ trên dãy quang phổ bị khúc xạ ít hơn, ta

cảm nhận chúng có vẻ “gần” hơn, những màu gần với màu tím bị khúc xạ nhiều hơn, ta

có cảm giác chúng ở “xa” hơn . Cho nên, dùng các màu lân cận vạch đỏ trong dãy quang

phổ để làm nổi bật các điểm cần nhấn mạnh sẽ gây ấn tượng mạnh hơn đối với mắt người

và dùng các màu gần vạch tím hơn trong dãy quang phổ cho các chỗ không quan trọng.

Nhưng, nếu lạm dụng nhiều màu đỏ sẽ gây cảm giác chói chang, làm mắt cảm nhận một

sự khó chịu.

- Tránh đặt màu nền và màu chữ có bước sóng quá khác nhau (màu chõi, ví dụ: đỏ

– xanh dương; đỏ – tím) hoặc có bước sóng gần nhau (khó phân biệt, ví dụ: đỏ – cam..):

Thủy tinh thể của mắt không thể điều chỉnh để mắt tập trung vào cùng một lúc hai

màu có bước sóng khác xa nhau (đỏ và xanh chẳng hạn). Mắt sẽ có cảm giác không tốt

khi nhìn vào trang trình chiếu có hai màu này đặt cạnh nhau (các màu nóng và các màu

lạnh sẽ “đối chọi” nhau), nhất là màu nền và màu chữ.

2) Chữ viết trong trang trình chiếu:

a) Kiểu chữ:

Page 29: Chương 3 + chương 4

29

Các Font chữ thường dùng là Times New Roman và Arial. Việc dùng font nào là

tùy sở thích của người thiết kế. Tuy nhiên, trong văn bản tiếng Việt có những bất

cập khi dùng các font này:

- Arial: Font chữ này biểu hiện sự nghiêm túc, thường được mặc định trong phần

mềm PP nên khi dùng nó không phải thay đổi gì. Nhưng nếu viết nghiêng thì Font

này không được đẹp mắt.

- Times New Roman: Muốn dùng font này, sau khi viết cần chuyển từ Arial sang

Time New Roman, hơi mất thời gian. Song, font chữ này đẹp, kể cả khi để

nghiêng. Chú ý: Nên dùng WordArt để viết đề bài hoặc tiêu đề lớn (xem mục d)…

b) Cỡ chữ: Mục đích của việc chiếu các slide lên màn ảnh là để người dự đọc nội

dung chính được viết trên đó, cho nên cần phải đảm bảo để người ngồi ở hàng ghế

cuối cùng cũng đọc được hết chữ. Theo tính toán, chiều cao (kích thước) chữ trên

màn hình có tỉ lệ không nhỏ hơn 1/150 (so với khoảng cách đến người xa nhất). Ví

dụ, nếu người xem ngồi cách màn hình 5 m, chữ trên màn hình phải cao ít nhất 3,3

cm. Tất nhiên, nếu đặt máy chiếu ra xa màn hình thì chữ sẽ được phóng lớn lên,

song, khi đó độ nét của hình và chữ cũng giảm theo. Đối với máy thông thường,

trong khoảng cách giữa máy chiếu và màn hình từ 2,5m dến 5m (không nên xa

hơn). Đó là nói về mặt lí thuyết. Trong thực tế, có nhiều lí do để ta có thể quyết

định cỡ chữ, như:lớp đông HS (quá 40 người), độ phân giải của máy, nội dung

nhất thiết chỉ thể hiện trong một trang nhưng lại quá nhiều chữ (hoặc ngược lại).

Cho nên người thiết kế phải tự quyết định cỡ chữ cho phù hợp để bài giảng đạt yêu

cầu cả cho người thiết kế lẫn người học. Nếu không phải là đề mục của bài thì nên

dùng cỡ chữ 24 (trường hợp bất khả kháng, phải viết nhiều chữ trên một trang thì

có thể nhỏ hơn) và lớn nhất là 28, 32. Chữ nhỏ hơn 20, đặt máy gần sẽ nhỏ, đặt

máy xa thì mờ, cả hai trường hợp đều khó đọc. Chữ lớn, tất nhiên dễ đọc song

cũng không nên dùng cỡ quá lớn. Có hai lí do: Thứ nhất, thị trường của mắt bị

phân tán, cản trở nhận thức của người đọc; Thứ hai, cũng cần sự tập trung nội

dung ít nhất là của một đề mục vào một trang PP để HS theo dõi bài được tốt (xem

mục 2.d).

Page 30: Chương 3 + chương 4

30

c) Số chữ trên một trang trình chiếu: Vấn đề này cũng cần lưu ý. Nói là dùng cỡ

chữ tối thiểu là 20 nhưng không có nghĩa là cho phép viết đầy kín trang PP. Thông

thường, chữ quá nhiều thì người ta sẽ ít tập trung đọc hoặc đọc không hết, thậm

chí có thể đọc nhầm hàng. Cho nên về nguyên tắc, không nên viết quá nhiều hàng

trên trang PP, mỗi hàng không nên quá nhiều chữ (trừ trường hợp bất khả kháng).

Để khắc phục điều đó, cũng như viết trên bảng đen, và để các trang trình chiêú

phải chứa đủ nội dung cơ bản của bài học, không nhất thiết phải viết nhiều, viết

nguyên câu, đầy đủ như trong SGK, có thể làm như sau: Thay vì viết nguyên câu,

ta chọn từ khóa hoặc cụm từ khóa cho chính xác để đưa lên màn hình thay cho câu

ấy. Nếu không có gì đặc biệt, trên mỗi trang nên có khoảng từ 10 đến 15 dòng,

mỗi dòng không quá 10 chữ để trang trình chiếu được tập trung và sáng sủa. Chú

ý: Cùng một cỡ chữ nhưng chữ Arial lớn hơn Tims New Roman 1 bậc.

d/ Việc sử dụng WordArt: Phần mềm này cho phép dùng chữ để trang trí, làm đẹp

trang PP. Có một số tác dụng củaWordArt như sau: Viết đầu đề bài học – thường

dùng trang riêng biệt. Chú ý không chọn những mẫu quá cầu kì hoặc khó đọc. Viết

trong khuôn hình vẽ (dạng cong) Trang trí nền cho trang trình chiếu: Chọn mẫu

chữ (WordArt) thích hợp có ý nghĩa nào đó mà mình muốn, tô màu ít tương phản

với màn hình để không ảnh hưởng đến nội dung viết trên trang ấy, phóng to trên

cả màn hình làm nền. Có thể trang trí chữ theo chiều dọc khi cần thiết Chú ý:

Giống như dùng màu hoặc các effect, khi dùng WordArt, không nên lạm dụng và

cũng không cầu kì làm phân tán sự chú ý của HS. Ngoài ra, cần chú ý, sau khi viết

chữ vào trang PP, cần chỉnh màu sao cho phù hợp và rõ (chọn đối tương, click

chuột phải, chọn Format Ojbect chọn Colors and Lines).

3) Việc sử dụng các hiệu ứng (Effect) trên trang trình chiếu: Đặc sắc của phần

mềm PPt là sự phong phú của các hiệu ứng (các kiểu cho xuất hiện trang trình

chiếu Animation Schemes, các kiểu xuất hiện chữ, hình - Custom Animation

…). Song sử dụng chúng cũng tùy trường hợp, nhất là các kiểu xuất hiện chữ.

Có thể như sau: Nếu là báo cáo trong Hội thảo, Hội nghị, cần hạn chế sử dụng

các effect “quay lộn”, “bay nhảy” vì chúng không thích hợp với không khí

Page 31: Chương 3 + chương 4

31

nghiêm túc, khẩn trương của hội nghị. Đối với bài giảng lại càng phải giữ

nghiêm túc như vậy. Vấn đề này đã được đề cập ở trên. Các effect vui mắt

không đúng lúc sẽ gây thích thú cho các em nhưng không phảivới nội dung bài

giảng mà là với phần mềm của máy tính! Cho nên chỉ nên sử dụng các effect

vừa phải, đảm bảo ở mức đủ sinh động:

- Nên dùng một số kiểu cho màn hình xuất hiện (Animation Schemes): Grow

and exit, Boumerang and exit, Title arc, Compress, Big title, Unfold, Rise up,

Bounce, Ellipse motion, Float. Mỗi bài giảng nên dùng một kiểu thống nhất.

Chú ý: Mỗi kiểu cho xuất hiện trang trình chiếu đều có hiệu ứng mặc nhiên cho

xuất hiện chữ của trang ấy. Nếu thích thì để, nếu muốn đổi thì sang phần

Custom Animation, xoá bỏ hiệu ứng này và thiết kế hiệu ứng theo ý muốn.

Nên để nhan đề hoặc một vấn đề nào đó trên cùng của trang cùng xuất hiện với

màn hình (không cho hiệu ứng hàng chữ đó). Tránh tình trạng khi chuyển trang

thì xuất hiện màn hình trắng một cách vô nghĩa và mất thời gian.

- Các kiểu xuất hiện chữ (Custom Animation) thì nên sử dụng hạn chế ở một

vài effect như: Box, Diamond, Rise up, Ease In hoặc những chức năng tương

tự. Chú ý, cho thực hiện nhanh để không mất thời gian và nhàm chán

(chọnFasthoặc Very Fast trong ngăn Speed).

4) Sử dụng các trang PPt kết hợp các hoạt động dạy và minh hoạ: Đây cũng là

một ưu thế tuyệt đối của PPt mà chiếc bảng thông thường không thể làm được.

Nếu có chăng thì người GV phải chuẩn bị trước các bản vẽ trên giấy khổ lớn

hoặc băng, đĩa hình (hoặc phim) để hỗ trợ thêm cho nội dung giảng. Trong bài

giảng, nhất là bài giảng có sử dụng các PPDH tích cực, giáo viên cần mở rộng

nội dung ra thực tế (bằng hình ảnh, phim), cần cập nhật thông tin hoặc chèn

các câu hỏi, hướng dẫn thảo luận…trong khi vẫn phải để nội dung bài giảng

trên trang PPt phát triển liên tục, HS dễ theo dõi và ghi được bài. Có nhiều

cách để ngườì thiết kế thực hiện điều đó:

a/ Sử dụng “liên kết” (Hyperlink):

* Ưu điểm:

Page 32: Chương 3 + chương 4

32

Sử dụng tư liệu theo kiểu liên kết rất tiện lợi.

Các thao tác với máy đơn giản, tư liệu xuất hiện nhanh, rõ.

Sử dụng thuận lợi cho các tư liệu là hình động hoặc Film

Có thể liên kết nhiều tư liệu, nhưng khi giảng, nếu thiếu thời gian thì ta

có thể bỏ qua tư liệu đó cũng không sao, bởi vì nói chung các tư liệu

không nằm trong một logic nào của bài giảng.

* Nhược điểm:

Khi trình chiếu tư liệu thì bài giảng bị gián đoạn

Khi thiết kế bài giảng, tất cả các trang chủ và trang tư liệu đều phải được để

trong một Folder thì mới sử dụng các trang minh hoạ được. Nếu muốn

chuyển sang máy khác cần phải copy toàn bộ Folder ấy để chuyển đi.

Dấu hiệu liên kết sẽ làm thay đổi màu sắc kí tự đã thống nhất trong các

trang trình chiếu (và có gạch dưới), không được thẩm mĩ.

Chú ý:

Các tư liệu là hình động hoặc Film, cần được đóng gói với phần mềm xử lí

động (Windows Media Player, Winamp…) để phòng khi đem bài giảng

sang máy khác thiếu phần mềm xử lí ấy.

Để tiện cho việc kiểm tra các File tư liệu, nên đánh số trang trong bài giảng

sử dụng tư liệu ấy phía sau tên File.

b/ Chèn tư liệu bằng các hiệu ứng xuất hiện và xóa đi:

Một số tư liệu không chiếm đầy trang PPt như: một hình vẽ, một trích dẫn,

một câu hỏi, một yêu cầu HS làm việc (trao đổi nhóm về nội dung nào đó...), ta

có thể chèn trực tiếp mà không cần dùng liên kết.

Cách làm: đưa hình hoặc khung chữ vào ngay chỗ cần chèn. Sử dụng hiệu

ứng “xuất hiện” khi cần dùng tới tư liệu đó trong bài giảng. Khung chữ nên có

một màu khác với màu nền đề HS chú ý tới nó. Sau khi dùng xong, cho lệnh

exit để rút các tư liệu ra khỏi trang PPt. Để tư liệu không che phần nội dung đã

Page 33: Chương 3 + chương 4

33

giảng, nên chọn chỗ cho chúng xuất hiện, nội dung giảng tiếp theo sẽ được viết

ngay vào đó.

* Ưu điểm: Dễ thực hiện và khi trình chiếu thì nó làm cho màn hình sinh động, tập

trung được sự chú ý của HS

* Nhược điểm lớn nhất của cách làm này là: nếu chèn vào một trang PPt nhiều tư

liệu hoặc có tư liệu văn bản dài (một bài thơ chẳng hạn) thì công việc thiết kế sẽ rất phức

tạp và dễ nhầm lẫn khi cho cái nào xuất hiện trước, cái nào sau...vì tư liệu và nội dung ghi

sẽ chồng chất lên nhau. Cho nên ở mục 2(e) có khái niệm “trang sạch”, nó được định

nghĩa như sau: “Trang sạch” là trang chứa nội dung bài giảng mà không có các hiệu ứng

và tư liệu chèn.

c/ Sử dụng các trang có cửa sổ trong trong Slide Layouts để minh họa:

Kiểu này cho phép chúng ta đưa tư liệu minh hoạ trực tiếp vào trang trình chiếu (các cửa

sổ) khi cần. Chèn vào lúc nào là tuỳ thuộc vào người thiết kế.

* Ưu điểm:

HS có thể theo dõi nội dung bài liên tục vì tư liệu chỉ chèn vào “cửa sổ”.

Khi chuyển máy, không phải đóng gói vì mọi thông tin đều nằm trong File PPt.

Có thể chồng chập nhiều hình trên một trang PPt để khi chiếu, các tư liệu được sử

dụng liên tục (cho xuất hiện rồiexit, xuất hiện minh họa khác…).

* Nhược điểm:

Người thiết kế phải tốn nhiều thao tác trên máy hơn nên rất dễ nhầm lẫn hình và

thứ tự xuất hiện.

Khi in trang trình chiếu phát cho HS (hoặc cử toạ) thì tất cả các tư liệu minh hoạ

trong một trang đều được in ra. Nếu chèn nhiều tư liệu thì chúng sẽ bị chồng lên

nhau.

Các ô cửa sổ chiếm nhiều diện tích màn hình

Đối với hình động hoặc Film thì các thao tác còn phức tạp hơn. Trong trường hợp

này, nên dùng Hyper Link.

Page 34: Chương 3 + chương 4

34

Đối với những người có kĩ thuật máy tính cao, họ có thể dùng nhiều thủ thuật trình

chiếu phức tạp hơn. Ở đây, trình bày vài cách làm cơ bản, chủ yếu là để phù hợp với

trình độ chung của GV (những người có kiến thức tối thiểu về PPt) có thể thiết kế một

bài giảng bằng PP không cầu kì nhưng hấp dẫn và dạy học bằng máy tính có hiệu quả.

Chắc chắn rằng, khi chúng ta đã thiết kế nhiều giáo án rồi thì mỗi cá nhân sẽ có đòi

hỏi tất yếu là làm sao cho giáo án mỗi ngày một phong phú hơn, hay hơn. Sẽ có hai

hướng để cải tiến giáo án cho hay hơn. Hướng thứ nhất phải tích cực tìm tòi, tham

khảo tài liệu để có nhiều tư liệu đưa vào giáo án, hướng thứ hai là nghiên cứu thêm

các kĩ thuật trong máy tính để ứng dụng cho những trường hợp có ý tưởng về PPDH

phức tạp hơn. Việc nghiên cứu các phần mềm mô phỏng các thí nghiêm hoặc các hiện

tượng trên máy tính cũng là vấn đề phải làm và đó cũng là những “tư liệu” tự tạo làm

cho giáo án của chúng ta hấp dẫn hơn. Cũng phải nhắc lại một yêu cầu quan trọng,

tiêu chí cho cả bài viết này, đó là, sự hấp dẫn của một giáo án dạy học bằng PP phải

được bắt nguồn từ nội dung trình chiếu là chủ yếu, không phải là sự hấp dẫn của

những trang quảng cáo hoặc những trang tiêu đề trên truyền hình.