350
J.Beateman Cậu cháu nói chuyện đạo (Dialogues apologétiques) 1

Cậu cháu nói chuyện đạo

  • Upload
    to-toan

  • View
    104

  • Download
    8

Embed Size (px)

DESCRIPTION

sách hộ giáo

Citation preview

Page 1: Cậu cháu nói chuyện đạo

J.Beateman

Cậu cháunói chuyện đạo

(Dialogues apologétiques)

IMPRIMATURFr.Verdier

Paris 10.6.1932

1

Page 2: Cậu cháu nói chuyện đạo

LỜI NGƯỜI DỊCH

Câu truyện trao đổi này, tuy ở một bối cảnh tôn giáo và xã hội trước Vaticanô II đến hơn nửa thế kỉ, trong thời gian đó, nhiều quan điểm thần học đã khác đi, đặc biệt là quan điểm về đại kết, nhưng những vấn đề chủ chốt của khoa minh giáo vẫn y nguyên, những luận cứ được vận dụng vẫn đầy sức thuyết phục, sắc bén, rõ ràng.

Do đó, để giúp thực hiện hiểu, sống và làm chứng đạo trong hoàn cảnh chúng ta hiện nay, thiết tưởng đây là một trong những câu chuyện lí thú và bổ ích cho những ai không đủ điều kiện đi sâu vào mọi ngõ ngách của môn Thần học có hệ thống.

Người chuyển dịch tập này nghĩ nhiều hơn cả đến các bạn giáo lí viên, chính thức, chuyên nghiệp hay nghiệp dư, tạm thời, đang muốn góp tay gầy dựng toà nhà giáo lí vốn nghèo nà của chúng ta.

Nào! Bây giờ xin mời hai Cậu cháu bắt đầu nói chuyện đạo.

Phần ICó Thiên Chúa

2

Page 3: Cậu cháu nói chuyện đạo

Chương mở đầu:Ba nguyên tắc của ông cậu

- Chà! Cậu! Cậu tàn nhẫn thế à?- Thế đấy! Đây, tóm tắt: Cậu chỉ tin cái gì cậu thấy. Cậu chỉ tin cái gì cậu hiểu. Cậu là người tự - do - tư - tưởng. Chấm. Hết.- Nhưng nếu cháu chứng minh được cho cậu thấy tất cả những cái đó đều sai lạc cả thì sao?- Thế nào?- Cháu chứng minh được rằng cậu tin những cái cậu không thấy, không hiểu và cậu không phải là người tự - do-tư - tưởng?- Được, nói xem!- Có thật, có chắc chắn rằng cậu chỉ tin cái gì cậu thấy mà thôi không?- Có chứ! Người nghiêm túc chỉ có thái độ đó mà thôi.- Cậu đã thấy Na-pô-lê-ông chưa? - Chưa.- Vậy là không hề có Na-pô-lê-ông. Cậu có thấy ông cố nội của cậu không?- Không.- Vậy là cậu không có ông cố nội. Cậu có thấy dạ dày, tim, trí khôn của cậu không?- Không. Nhưng...- Vậy cậu không có dạ dày, không có trái tim, không có trí khôn.- Cháu chọc tức cậu nhé! Cháu ghê quá!- Không. Cháu cứ lô-gích thôi mà. Với cái nguyên tắc khốn nạn cậu phóng ra như một phát thuỷ lôi đó, cậu không thấy rằng cậu rơi vào tình trạng phi lí hết chỗ nói sao? Cứ nguyên tắc đó, thì không được phép tin cổ sử, địa lí, hay triết học, khoa học nào cả. Vậy mà cậu vẫn tin những cái đó. Này, cậu có tin có thành phố Bắc kinh không? Có tin có không gian, có bản chất, có thời gian không?- Có! Phải tin những cái đó chứ!- Thế cậu đã trông thấy những cái đó rồi?

3

Page 4: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Nhưng cháu cũng biết rằng, khi người ta có thể thấy bằng con mắt mình, thì người ta chắc chắn mình không lầm.- Sai to rồi. Chính con mắt cậu cũng đánh lừa cậu!- Con mắt cậu? Sao? Con mắt cậu đây?- Cậu cứ thọc một chiếc đũa vào cốc nước. Cậu sẽ thấy nó gãy đi. Không phải là con mắt cậu lừa cậu đó sao? Cậu cứ đi vào lòng những sa mạc châu Phi, ảo cảnh sẽ làm cậu ngay giữa 12 giờ trưa mà thấy cả những đồng cỏ xanh tươi, những cảnh trí nên thơ. Không phải là những cái đó đánh lừa cậu sao? Phải chăng con mắt cậu không bảo cậu rằng mặt trời xoay quanh quả đất sao? Vậy mà trái lại thế.- ...- Cậu không nói gì cả? Này, cháu xin cậu nghĩ lại. Hãy vứt bỏ cái nguyên tắc quá sai lầm đó đi. Nếu không, cậu sẽ phải kết luận rằng: tổ quốc, danh dự, lòng tôn kính, tình yêu, công lí, nghĩa vụ... chỉ là những danh từ, chỉ là những cái không có thật, vì người ta không thấy chúng bằng con mắt mình.- Thôi, không phải dài lời. Nhưng nguyên tắc thứ hai thì cậu cương quyết giữ lấy, không bao giờ bỏ. Nguyên tắc này...Mọt cũng đã đục rỗng đi như nguyên tắc thứ nhất.- Cháu đừng sợ cậu nêu lại nguyên tắc đó.- Ô! Không, cháu không hề sợ. Này, ngay bây giờ đây, nói thì cũng hỗn với cậu đây, cháu có thể nói với cậu rằng nếu cậu chỉ tin cái gì cậu hiểu, thì kết cục cậu là người không tin một cái gì hết.- Trắng trợn thế!- Xin lỗi, cháu đùa đấy. Trở lại cái nguyên tắc của cậu: riêng cháu, cháu dám quyết rằng thật ra có những cái cậu không hiểu mà cậu vẫn tin.- Dẫn chứng xem!- Cậu này! Chúng ta sống giữa những cái không thể hiểu, chúng ta bị dìm trong bí nhiệm. Sự sống là gì? Nó được truyền sang chúng ta như thế nào? Nó bắt đầu có khi nào và kết liễu khi nào? Nếu cậu nhận có linh hồn, thì cậu giải thích làm sao việc một cái thiêng liêng, phi vật chất, mà có thể làm cho một thể xác vật chất cử động, dời chỗ được? Nếu cậu không tin có linh hồn, thì xin cậu

4

Page 5: Cậu cháu nói chuyện đạo

nói cho cháu hiểu tư tưởng là gì, ý chí là gì, vui sướng, sầu khổ, lương tâm là gì? - Nóng lạnh, không gian, bản thể, điện lực là gì? - Làm sao hạt lúa lại hoá thành bông lúa, con tằm biến thành con bướm? – Cậu giải thích cho cháu lời nói là gì, dinh dưỡng, tiêu hoá là gì, giấc ngủ, ánh sáng, lửa là gì? - Tại sao cũng một nồi nước sôi, mà bỏ thức ăn này vào thì cứng lại, bỏ thức ăn khác vào lại mềm ra, hành ra màu trắng, thịt ra màu sẫm, nhưng tôm cua lại hoá màu đỏ?

- Giải thích? Giải thích ư?... - Vâng, xin cậu giải thích cho cháu hiểu làm sao quả đất lại

có 3 chuyển động khác nhau một trật: xoay quanh trục của nó, xoay quanh mặt trời và di chuyển trong không gian; - làm sao theo lời các nhà bác học, mỗi giọt nước chứa đến 25 triệu phân tử, mỗi phân tử như thế lại chứa hàng triệu nguyên tử? Đúng. Cả vũ trụ nàyđầy dẫy những ẩn số oái oăm, những bài toán hóc búa. Nói tóm tắt là đầy dẫy những mầu nhiệm. Chúng ta sống trong cái không thể hiểu và, như Pascal nói, “chúng ta không biết rõ cái gì hết”. Nào cậu không thấy nguyên tắc của cậu lung lay tận gốc và nó làm cậu ra người kiêu căng sao?

- Thế nào? Cậu kiêu căng? - Vâng, vì nếu nguyên tắc đó cậu đề ra một cách nghiêm

chỉnh, thì nó có nghĩa là: 1/ Nếu Thiên Chúa có thật, thì Người phải ra trước toà án lí trí cậu để cậu xét hỏi về những bằng chứng về Người; nếu cậu chưa cho những bằng chứng đó là đủ, cậu sẽ không nhận Thiên Chúa; 2/ Cái mà bản thân cậu nghĩ mình có thể làm được, thì kẻ thô bỉ nhất trong thiên hạ cũng có thể đòi Thiên Chúa phải làm cái đó cho hắn. Cậu không thấy như vậy là xấc xược sao?

- Nhưng trí khôn cậu có quyền kiểm tra!- Trong những việc của loài người, được, nếu nó có thể kiểm

tra (nhiều lúc không thể); nhưng trong những việc của Thiên Chúa, không được.

- Sao lại không được?- Nếu nơi Thiên Chúa, không có cái gì mầu nhiệm cả, thì

Thiên Chúa sẽ không còn là Thiên Chúa nữa. Đàng khác, nếu nơi 5

Page 6: Cậu cháu nói chuyện đạo

sự vật thụ tạo rốt bét mà mầu nhiệm còn đầy dẫy như thế, sao lại cấm không được có cái gì mầu nhiệm nơi Đấng đã sáng tạo nên các sự vật?

- Thế thì còn gì là quyền của lí trí con người nữa?- Lí trí có quyền trong phạm vi của nó. Bên cạnh một vài

quyền lợi, lí trí còn có những nhiệm vụ. Này cậu, nếu chỉ có cái cậu hiểu được là có thật và, do đó, đáng tin, như thế không phải là cậu cho trí khôn cậu là thước đo độc nhất, tuyệt đối và không thể sai lầm cho chân lí hay sao? Như thế là cậu trở thành Ngài, trọng tài thẩm định sự thật. Cái gì Ngài hiểu được là đúng, là thật. Cái gì Ngài không hiểu được là sai, là trái!

- Cậu không nói như thế.- Nhưng cậu đã nêu nguyên tắc, thì phải đi đến đó chứ! Ô!

Trông một con người dùng chút trí khôn lu mờ như ngọn đèn lắm khói soi vào những bài toán hóc búa của vũ trụ và vô hạn, người ta tưởng như thấy nó đang lấy cái đê-xi-mét đo cả đường kinh tuyến, cân cả dãy Bạch sơn trên cái cân thư, hay hút cho hết nước đại dương bằng cái “đếm giọt”. Thật đấy, cậu ạ. Cậu tin vô số cái mà cậu chỉ nghiệm xét mà không sao hiểu được. vậy thì cậu cũng nên biết điều mà kết luận rằng nơi Thiên Chúa cũng có những mầu nhiệm chúng ta phải tin vì chính Người đã tỏ ra cho chúng ta.

- Nhưng dù sao thì cháu cũng phải nhận rằng tin những cái mình không hiểu được là làm một việc mâu thuẫn, vô lí, phi lí.

- Khoan! Mầu nhiệm không phải là phi lí. Có thể chúng ta không thấy được các phần của chân lí bí nhiệm chúng hoà hợp nhau như thế nào, nhưng chúng ta không thể chứng minh các phần đó mâu thuẫn nhau.

- Như mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chẳng hạn?- Nếu cháu nói với cậu: ba Thiên Chúa làm thành một

Thiên Chúa độc nhất, thì rõ ràng như thế là phi lí. Đàng này, cháu nói: nơi Thiên Chúa có ba ngôi nhưng làm thành một Thiên Chúa mà thôi. Cậu không hiểu làm sao lại như thế, nhưng cậu không thể chứng minh rằng nói như vậy là mâu thuẫn. Hình tam giác: nó có một mặt phẳng duy nhất, nhưng ba cạnh. Mầu nhiệm vượt trên

6

Page 7: Cậu cháu nói chuyện đạo

sức trí khôn, nhưng không nghịch với trí khôn. Mầu nhiệm là cái không thể hiểu được, nhưng mầu nhiệm không phi lí.

- Các nhà bác học sẽ đủ lí lẽ để trả lời cháu!- Cũng không hơn gì một người mù chữ. Tuy họ có biết hơn

chúng ta đôi chút, nhưng cũng như chúng ta, mà còn hơn chúng ta nữa, họ cũng sống giữa những mầu nhiệm. Họ nghiệm xét các sự kiện, nhưng họ chẳng giải thích được cái gì cả. Cậu cũng thừa biết rằng chính khoa học cũng có những mầu nhiệm của nó, những mầu nhiệm không sao thăm dò được. Khoa học tự hào về những mầu nhiệm đó, vì nó nghiệm xét chúng, nhưng khoa học lại phải nhục vì chúng, vì khoa học không biết gì về nguyên nhân hay bản chất nội tại của chúng.

Trong thế giới tự nhiên mà còn như thế, thì sao cậu lại bỡ ngỡ khi nghe nói rằng tôn giáo là phạm trù rộng lớn mênh mông, mà đối tượng là Thiên chúa, tôn giáo cũng có những mầu nhiệm?

Cơ-lôt Bec-na nói rằng: có thấy nhà bác học, khi chạm trán với bí nhiệm siêu hình, đành “buông mình cho ngọn gió của cái không biết ru ngủ, giữa những cái tuyệt diệu của dốt nát”, mới thán phục cái cử chỉ của người tín hữu tin cả những cái mình không thể hiểu, vì niềm tin của họ dựa trên lời nói của một vị Thiên Chúa không thể lầm, cũng không hề lừa dối chúng ta.

- Vị Thiên Chúa cháu nói đó, tại sao người ta lại không thể hiểu Người, mặc dù xung quanh Người là những mầu nhiệm?

- Cháu đã thưa với cậu: nếu chúng ta hiểu được Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ là Thiên Chúa. Khi chúng ta hiểu một cái gì, thì có nghĩa là cái đó lọt vào trí hiểu chúng ta, chúng ta chứa cái đó. Mà cậu biết rằng chứa và hiểu đôi lúc đồng nghĩa với nhau. Do đó, muốn hiểu được Thiên Chúa, thì Người phải nằm gọn trong trí hiểu chúng ta. Điều đó không thể được, vì Thiên Chúa vô hạn, còn ta có hạn. Ô! Cậu ạ, trí khôn chúng ta mà hiểu được, chứa được Thiên Chúa, thì Thiên Chúa nhỏ bé quá!

- Các mầu nhiệm của cháu, chà! chỉ là đêm tối!- Rất đúng. Nhưng đêm tối không phải là không có ích: có

đêm mới thấy sao. Thiên Chúa có những mầu nhiệm của Người, cũng như chúng ta, chúng ta có những bí mật riêng của chúng ta.

7

Page 8: Cậu cháu nói chuyện đạo

Chúng ta có thể không thông tỏ những bí mật đó cho ai cả. Thiên Chúa cũng làm như thê. Thay vì phẫn uất trước một việc tự nhiên như thế, trước mầu nhiệm mà chúng ta cảm thấy ngay trong chúng ta, xung quanh chúng ta, khắp mọi nơi, nhưng chính mầu nhiệm đó cậu lại muốn không gặp thấy nơi Thiên Chúa, thay vì như thế, tốt hơn là cậu hãy thoả mạn với câu trả lời của Niu-tơn vĩ đại: “Tôi biết luật hấp dẫn vũ trụ. Nhưng nếu ai hỏi tôi hấp dẫn vũ trụ là gì, thì tôi không biết trả lời thế nào cả!”

- Mặc!- Thánh Augustin nói: “Khi không ai hỏi tôi: thời gian là gì,

thì tôi hiểu nó. Nhưng hễ là có ai hỏi: thời gian là gì. Thế là tôi không hiểu nữa!” Đấy, người ta đã cố định nghĩa thời gian bao nhiêu thế kỉ rồi mà vẫn chưa làm được.

- Như vậy, cứ nên trả lời: “ tôi không hiểu” sao ?- Nhiều khi như thế là khôn hơn cả. Và cậu cũng nên bắt

chước Niu-tơn điểm này nữa. Hôm nọ có bà kia hỏi ông mấy vấn đề, ông không giải đáp được. Thấy vậy, bà ta bỡ ngỡ, vặn lại:

-Nhưng, thưa ngài, thông thái như ngài nào ích gì? - thưa bà, ích ở chỗ để đôi lúc mà trả lời với người ta rằng:

tôi không hiểu.- Thôi, cám ơn cháu !- Cậu ạ, cháu nghĩ rằng cậu có quá đủ thông minh để không

chôn chân trước một bóng ma như vậy. Có ngày chính cậu cũng sẽ tin đạo.

- Không đâu. Cháu cũng biết thế, vì thẳng thắn mà nói, cậu là người tự do tư tưởng.

- Như thế là đến nguyên tắc thứ ba? - Đúng. Mà cháu đừng hòng tấn công nó. Cậu có quyền

muốn tin gì thì tin mặc ý mình.- Không thể được. Trừ khi trí khôn đã rối loạn.- Thế cậu không được tự do suy nghĩ sao?- Không. Cậu không được tự do nghĩ rằng 2 cộng 2 thành 9,

rằng chưa bao giờ có vua Cơ-lô-vix, rằng Pa-ri ở bên Nhật, rằng thạch tín là thức ăn tốt nên dùng và Axít xuyn-phu-rit là đồ uống rất hợp vệ sinh.

8

Page 9: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Nhưng nếu cậu lại muốn nghĩ như thế, thì ai ngăn được?- Lí trí ngăn, nếu cậu có lí trí.- Thiên Chúa có thì cũng phải để ta tự do chứ!- Cậu tự do. Cậu có cái khả năng thãm hại là lãnh đạm,

không chịu tin, ghét tôn giáo; nhưng cậu không có quyền làm như thế. Cháu xin nói lại lần nữa: không phải cậu muốn suy nghĩ thế nào mặc ý cậu đâu. Không phải cậu sáng tạo nên chân lí; chính chân lí chi phối và ràng buộc cậu. Nếu trong toán học,hình học, sử học, địa lí, nghệ thuật, triết lí và mọi ngành khoa học khác, tự do tuyệt đối trong suy nghĩ là một điều phi lí, thì chân lí tôn giáo cũng tuyệt đối, cũng buộc người ta tin như chân lí văn chương, khoa học, triết học và đạo đức học. Không. Người ta không được tự do muốn suy nghĩ thế nào tuỳ ý. Có những chân lí bắt buộc người ta phải tin.

- Kì dị thật!- Kì dị là cậu cứ cố sống cố chết bám lấy những luận điệu cũ

rích đó, như người chết đuối bám lấy chiếc phao cứu mệnh. Cháu xin hỏi: nếu cháu thưa ba cháu rằng ba không có quyền gì đối với cháu, cháu được tự do muốn suy nghĩ thế nào mặc cháu, nghĩa là vâng lời ba hay không tuỳ cháu, thì sao?

- Như thế là sai! Nguyên việc nghĩ đến điều đó cũng không được.

- Thế thì trên đời, chỉ có cậu là tự do?- Ai cũng tự do, nhưng cũng có ba bảy cách tự do.- Phải rồi, ba bảy cách, nghĩa là người ăn trộm thì (nghĩ mình

được phép lấy của kẻ khác; tên hung thủ thì cho rằng giết người có thể là có ích...Tóm tắt, như cậu nói, thì tự do tư tưởng chỉ là suy nghĩ như cậu mà thôi... Như vậy là cậu nhận có hai chân lí và, theo cậu, chân lí chắc chắn nhất lại không phải là chân lí mà người ta nghĩ là chắc chắn nhất. Do đó, cậu không có quyền tự do suy nghĩ mặc ý... Rồi, cậu có phải là nhà tư tuởng không? Cháu khó mà hi vọng có thể tặng cậu cái danh hiệu đó, nếu cậu cứ tiếp tục lặp đi lặp lại những luận điệu cũ rích, quá lỗi thời, chỉ tổ làm trò cười cho hạng khờ, chứ thật ra đó là những nguyên tắc rỗng tuếch, vô vị.

9

Page 10: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Ô! Rất tinh tế.- Này, cậu phải thú nhận là các nguyên lí mong manh cậu

nêu ra đã lung lay rồi. Cậu nên nhớ rằng lấy tay bịt mắt lại không tắt được mặt trời đâu!

- Được rồi! Cháu sẽ biết tay! Cháu còn trẻ quá, đừng hòng bẻ gãy được một tay già đời như cậu.

- Dù sao, hôm nay, cháu thấy rõ và cháu ghi nhớ 3 điểm này: 1/ Có những cái cậu không thấy mà cậu cũng tin;2/ Có những cái cậu không hiểu mà cậu cũng tin;3/ Cậu không phải tự do, cũng không phải nhà tư tưởng. Như

thế.- Được, rồi cháu sẽ biết!....

Chương II: Có Thiên Chúa

I. Sáng tạo và sự sống- Này cháu! Hôm trước, cháu cũng một phần nào làm lung

lay các nguyên tắc của cậu. Cậu đã để cháu làm việc đó. Suy nghĩ lại, thì những nguyên tắc đó cũng có chỗ thiếu, sót. Hôm nay, chúng ta đề cập những vấn đề lớn. Cháu có bộ óc linh lợi đấy, nhưng cháu sẽ thấy rằng những tên lửa cháu phóng ra không thể nào khuất phục được cậu đâu. Miệng cháu cứ luôn luôn nói đến Thiên Chúa. Phần cậu, cậu quyết rằng không có Thiên Chúa.

10

Page 11: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Phải rồi, đây là vấn đề căn bản, vấn đề chủ chốt. thiếu nó, tất cả những vấn đề khác đều sụp đổ. Vì thế, cháu sẽ chứng minh cho cậu thấy rõ là có Thiên Chúa.

- Cũng gay đấy, cháu ạ.- Tất nhiên ở đây cháu không thể dẫn những chứng cứ theo

lối toán học. Thế nhưng, những lí lẽ cháu trình bày với cậu, cũng đủ mạnh để quật ngã một người vô thần, miễn là người đó thành tâm.

- Cậu là vô thần đây. Nhưng cháu nên biết rằng cậu muốn thấy những chứng cứ, nếu không toán học, thì ít ra cũng có tính chất thực nghiệm theo nghĩa thông dụng hiện nay của từ ấy.- Nhưng, cậu ạ, Thiên Chúa là một Đấng thuần thiêng, thì làm sao có thể dùng một thí nghiệm vật lí hay hoá học mà chững minh có Người được? Đàng khác, thiếu gì sự vật có thật, mà người ta không thể thấy, không thể sờ vào hay cảm nếm được!

- Thí dụ? - Thí dụ: tư tưởng, sự sống, điện lực,vv... Có những sự vật

khác, có thể thấy được, nhưng không thấy cũng có thể đoán chắc là có thật. Đây, vì cậu thích những sự vật cụ thể: vết chân người trên bãi cát chẳng hạn: thấy nó, cậu kết luận rằng có một người nào đó đã đi qua. Thấy sợi khói từ mái bếp toả lên, cậu đã có thể quyết trong nhà có lửa, mặc dầu mắt cậu không thấy lửa.- Đúng!

- Đàng khác, cháu xin báo cho cậu biết rằng: cuộc tranh luận đầu tiên ngày hôm trước đã kích thích làm cháu thấy say sưa. Nên cháu đã tạm gác mấy cuốn tiểu thuyết lại để vùi đầu vào việc nghiên cứu minh giáo. Do đó, hôm nay, cháu xuất trận được vũ trang đầy đủ lắm.

- Càng hay! Cậu thích những luận cứ chắc chắn, hơn là những lối nói nửa đùa nửa thật.

- Thật ra, đối với những luận cứ mong manh hôm trước, thì dễ bẻ gãy thôi. Nhưng hôm nay, không phải là những luận cứ mong manh nữa, mà là một câu phủ định tàn nhẫn. thế thì ta đi ngay vào vấn đề đó.

- Được, cháu nói trước đi!11

Page 12: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Trước tiên, cậu chối không có Thiên Chúa. Cái đó đã rõ ràng. Vậy cháu xin hỏi: liệu cậu có thể chứng minh rằng khôngcó Thiên Chúa không?

- Chứng minh ư?- Phải. Xin cậu cho những chứng cứ. Xin cậu chứng minh

cho cháu thấy không có Thiên Chúa.- Cái đó không chứng minh được, chỉ khẳng định thôi.- Như thế là cậu khẳng định một phủ định? Cháu thì cháu

thấy rõ và cháu dám nói với cậu rằng cháu ngang nhiên hơn cậu, vì cháu có thể đưa ra cho cậu thấy những chứng cứ và cháu cuộc cậu đánh sập được những chứng cứ đó!

- Được, cậu sẽ đánh sập cho mà xem!- Cậu hãy nói cho cháu biết: ai sáng tạo nên vũ trụ này? - Chẳng ai sáng tạo nên vũ trụ này cả. Nó có từ bao giờ đến

nay.- Có luôn ư?- Đúng thế.- Như thế nghĩa là từ trước tới nay, bao giờ cũng đã có

những khoáng sản, những thảo mộc, động vật, con người?- Tất nhiên!- Thế là cậu thua rồi! Này, cậu cũng biết rằng môn vũ trụ học

cho hay vũ trụ không phải là đã có luôn như nó hiện có. Ban đầu, chỉ là một khối khổng lồ chảy lỏng, phải biến hoá mất 15 triệu năm mới được như ngày nay. Quả đất ta ở tách khỏi khối đó phải mất 50 triệu năm mới nguội đi, rồi dần dà sự sống mới xuất hiện được. Môn địa chất học cho biết: trạng thái của những khối đá sơ thuỷ và bản chất của chúng làm chững quả đất ta trước kia nguyên là một khối nóng chảy thấp nhất là ở 3000 độ. Làm sao có thể có một cây, một con vật, một con người sống được trong cái lò lửa đó!

- Nói như thế để kết luận cái gì?- Kết luận rằng sự sống chỉ có thể xuất hiện trong vũ trụ này

sau thời kì bạch nhiệt của nó và như thế nghĩa là phải có một ai đó đã gieo sự sống vào quả đất này.

- Còn thuyết tự sinh thì sao? 12

Page 13: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Ô! Pat-xtơ và Tin-đơn đã chứng minh một cách thực nghiệm và dứt khoát không thể chối cãi được rằng không làm gì có hiện tượng tự sinh và hễ là một vật sống thì chỉ có thể do vật sống mà ra.

- Nhưng một nhà hoá học giỏi có thể làm nên một hợp chất tương tự như “nguyên sinh chất” nơi một tế bào.

- Đồng ý. Nhưng như thế là nhà hoá học đó làm được một “sản phẩm hữu cơ”, chứ không phải một “chất hữu cơ và sống”. Làm gì thì làm, sục sạo các ống nghiệm mấy thì sục sạo, không bao giờ ông tìm thấy sự sống. Do đó, sự sống tuỳ thuộc vào một nguyên nhân ngoài và cao hơn vật chất. Nguyên nhân đó, cháu và những người như cháu gọi là Thiên Chúa.

- Lập luận của cháu ranh mãnh lắm. Để cậu suy nghĩ đã.- Nếu cậu đồng ý, chúng ta theo một phương pháp khác.

Cháu xin hỏi cậu: Cậu do đâu mà có?- Do cha cậu.- Cha cậu do đâu?- Do ông cậu.- Như thế là cậu lần mãi lên tận “Đại hồng thuỷ”?- Trên nữa chứ! Cậu là một mắt xích trong cả một dây

chuyền mất hút trong đêm tối thời gian.- Cháu đồng ý với cậu lấy so sánh dây chuyền và mắt xích.

Vậy phải chăng cậu muốn làm cháu tin rằng sợi dây chuyền đó không có một mắt xích nào là mắt xích đầu tiên cả ư? Nếu thế, nó treo vào cái gì? Cái gì giữ nó ? Phải. Cậu thử tìm cho cháu một sợi dây chuyền không có mắt xích đầu tiên nào!

- Nó có từ đời đời...- Ô! Vật chất mà bảo là có từ đời đời mới kì chứ! Như thế là

cậu có ý nói vũ trụ có từ đời đời?- Đúng!- Có từ đời đời như Thiên Chúa?- Thiên Chúa là một ẩn số.- Như thế là cậu đẩy cháu vào địa hạt triết học rồi. Được, ta

cứ tiến lên! Cháu nói thế này nhé: nếu vũ trụ có từ đời đời, thì nó phải tất yếu, bất biến, vô hạn.

13

Page 14: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Rất đúng.- Cậu có công nhận rằng vũ trụ là vật chất không? - Tất nhiên.- Được rồi. Cháu hỏi cậu nhé: làm sao vật chất lại tất yếu

được! Trong các thành phần của nó, không thành phần nào có một cách tất yếu cả. Có thể không có dãy núi này, cây cam này, có thể không có cậu, không có cháu, phải không?

- Cái đó thì rõ quá rồi!- Thế thì, nếu không thành phần nào của vật chất là tất yếu

cả, làm sao toàn bộ lại tất yếu được?- Thôi, cái đó cho qua đi!- Vật chất đời đời thì phải bất biến; vậy mà cậu cũng thấy

rằng mọi sự đổi thay, xuất hiện, sống, chuyển động, biến hoá xung quanh ta. Điểm này có cần cho qua không, cậu?

- ừ, cho qua!- Nhưng cháu chưa cho qua, cháu xin nói thêm rằng: nếu vật

chất có từ đời đời, thì nó phải vô hạn. Vậy mà ..- Nó vô hạn, có luôn, không bắt đầu, không chấm tận, nó...- Thôi, thôi! Cậu luận dở quá!- Có thể lần ngược mãi chiếc thang sự vật, lên mãi không bao

giờ cùng, không bao giờ gặp cái “đầu mút” mà cháu khư khư bám lấy đó.

- Phải. Cháu bám chặt lấy nó.- Không bám thì hỏng cả.- Không. Như thế mới hợp lí.- Thế ra cậu đây phi lí hay sao?- Hoàn toàn phi lí. Quyết rằng một vật nào đó không bao giờ

bắt đầu cả, tức là nói nó tự mình mà có và do đó, trong yếu tính của nó có chứa lí do tồn tại của nó và vì lẽ đó, cũng quyết rằng nó không bao giờ mất được. Cái gì không bắt đầu thì cũng không bao giờ chấm tận.

-Thì chính đó là điểm cậu khẳng định.- Nhưng không may cho cậu: khoa học còn đó để nói với cậu

rằng: mặt trời và các ngôi sao đang ngày một nguội dần; rằng có những vũ trụ đang hình thành và nhưng vũ trụ đang tàn tạ; rằng

14

Page 15: Cậu cháu nói chuyện đạo

căn cứ vào màu sắc tương ứng của mỗi ngôi sao, người ta tính được tuổi của nó. Tóm tắt, mọi sự đang tiến bước, đang chạy tới một điểm tận không gần thì xa; quả đất ta ở đã trải qua tuổi thơ, tuổi thanh niên của nó; có ngày nó sẽ già cỗi và chấm tận. Vô hạn mà có ngày chấm tận!? Thế mới kì chứ!

- Cháu thì bao giờ cũng lấy chuyện sao trời để tấn công cậu.- Cháu cũng sẽ tấn công cậu bằng cách kéo cậu vào thế giới

những vật vô cùng nhỏ bé. Nhưng ta trở lại vấn đề đã. Như thế là vũ trụ đã có lúc bắt. Vậy thì ai là người đã làm cho mọi sự bắt đầu có?

- Chả biết!- Chưa hết. Không cần biết vũ trụ đã bắt đầu có khi nào, cho

bằng biết nó đã bắt đầu có thế nào. Vấn đề thời gian không hệ gì. Căn bản là biết rõ nguyên nhân.

- Đơn giản thôi.- Thế cậu thử nói xem nào!- Đồng ý với cháu là vũ trụ không thể hằng có luôn như ngày

nay; trải qua các thời đại, nó đã biến hoá liên tục. Chúng ta hiện ở tuổi vàng của vũ trụ, nhưng trước kia đã có thời kì đồ đá, thời kì đồ sắt, thời kì hoá thạch, thời kì phân tử, thời kì nguyên sơ. Chúng ta có thể cùng với khoa học lần lên tới tận khối tinh vân nguyên thuỷ, trung tâm và mẹ của mọi cái hiện có.

- Cháu công nhận hệ thuyết đó . - Qua những biến hoá liên tiếp, vật chất trở thành khoáng

chất, rồi thảo mộc, rồi động vật, cho đến bước phát triển hoàn bị như ta thấy hiện nay.

- Tuy cháu có thể công nhận một sự biến hoá nhất định đã có thể diễn ra chính trong vật chất, nhưng cháu đố cậu chứng minh được cho cháu thấy rõ rằng: 1. Vật chất hay khối tinh vân nguyên thuỷ đã tự mình mà có; 2. Vật chất vô cơ, có khối lượng, bất động, lại có thể tự mình chuyển động, tự tổ chức nên có qui cũ như hiện thấy; 3. Nhất là vật chất đã có thể sáng tạo nên sự sống cùng với con người có thiên tư trí tuệ.

- Sao lại không? 15

Page 16: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Không có cái gì không có nguyên nhân gây nên. Mọi hiệu quả đòi phải có một nguyên nhân tương ứng. Không ai có thể cho cái mình không có. Vậy mà vật chất nguyên nó không có sự sống, thì có biến hoá mấy cũng không làm gì phát sinh sự sống được.

- Hiện nay người ta chưa nắm bắt được hết mọi tiềm lực của tự nhiên.

- Đồng ý. Nhưng: 1. Những nguyên tử có móc mà người ta bảo là đã hình thành nên khối tinh vân, tự nó không có chuyển động thì cũng không thể truyền chuyển động được; 2. Vật chất quán định không thể phát sinh sự sống; 3. Vật chất vô tri (inepte) không thể tạo nên trí tuệ.

- Nhưng đã có Tình cờ!- Ô! Hoan hô, cháu vẫn chờ đợi ngài Tình cờ! Cậu ơi, tình cờ

chẳng là cái gì hết và nó chẳng làm phát sinh ra được cái gì hết. Tình cờ chẳng qua là một danh từ người ta nặn ra để che đậy cái dốt nát của mình, hoặc để gỡ mình khỏi những cái làm mình phiền. Một lần nữa, cậu này, cháu bám lấy (như nguyên tử có móc mà người ta nói ấy) cháu bám lấy khối tinh vân nguyên thuỷ in như cậu trình bày và cháu xin cậu nói cho cháu biết nó từ đâu đến.

- Dễ thôi, nó phát xuất từ những vi thể ê-te lúc đầu còn rải rác trong khoảng không gian vô hạn. Đến một lúc nào đó, chúng qui tụ vào trung tâm của chúng, thành ra khối tinh vân.

- Nhưng những vi thể ê-te kia do đâu mà có?- Do...do...- Phải, xin cậu cho cháu biết những vi thể ê-te, cái khối tinh

vân nguyên thuỷ kia do đâu?- Chà! Do...do...- Trong khi chờ đợi câu trả lời do đâu mà có, cháu xin phép

tóm tắt luận cứ của cháu thế này:1/ Vật sống chỉ có thể do vật sống mà có. Đó là cái công thức

mà nhà đại bác học La-voa-di-ê năng nhắc đến.2/ Để kiện chứng định tắc đó, cháu đã nói rằng thuyết tự sinh

đã bị khoa học lên án, sau những thí nghiệm thời danh của Patxtơ. 16

Page 17: Cậu cháu nói chuyện đạo

Hồi đó, Hàn lâm viện đã cử một tiểu ban duyệt lại và họ đã chỉ có thể kiện chứng rằng thí nghiệm của Pat-xtơ hoàn toàn đúng.

3/ Đã có một thời kì mà những bằng cứ của khoa học hiện đại vẫn quyết là có như thế, đã có một thời kì trên quả đất ta đang ở không có một vật sống nào có thể tồn tại, vì quả đất vừa nguội đi sau một thời kì nóng chảy.

4/ Vậy mà vật sống đã xuất hiện trên mặt đất và xuất hiện dưới những hình thái khác nhau. Một lần nữa, vật sống đó do đâu mà có?

Nếu cậu bảo rằng nó từ chính bản thân nó mà có, nghĩa là nó tự ban sự sống cho mình theo thuyết tự sinh, thì khoa học chứng minh cho cậu thấy rằng việc đó là không thể.

- Do đó, phải công nhận rằng vật sống đã nhận sự sống từ một vật sống khác đã có sự sống đó trước nó và chỉ vật sống có thể ban sự sống. Không thể tưởng tượng ra một giả thuyết thứ ba: hoặc là vật sống tự ban sự sống cho mình; hoặc là nó nhận sự sống từ vật khác. Mà vì nó không thể tự mình ban sự sống cho mình, nên phải kết luận rằng nó đã nhận sự sống từ hữu thể khác, hữu thể này không nhận sự sống từ đâu cả. Đó là Thiên Chúa.

Chương III. II. Chuyển động

- Nào! Cậu, cậu có thông tin gì về khối tinh vân nguyên thuỷ chưa?

- Chưa có gì. Thú thật vấn đề hôm trước làm cậu phải suy nghĩ ghê gớm. Dầu vậy, hệ thuyết của cậu hay lắm.

- Hay, nhưng không giải thích được cái gì cả.- Có chứ. Do lai các vật.- Có đâu! Đành rằng thuyết đó cũng có giải thích được phần

nào cách thức biến hoá của vật chất, nhưng vấn đề do lai vẫn chưa được giải quyết. Đàng khác, những sự biến hoá kia cũng đòi có một người lãnh đạo chúng. Để mặc nó, vật chất làm được gì!

17

Page 18: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Sao nó lại không tìm được ngay trong nó bản nguyên của mọi sự biến hoá?

- Cậu thấy cái đồng hồ kia chứ? Thật ra người ta cũng bảo là nó tự động, nghĩa là tự mình chạy được. Nhưng nếu cậu không lên dây lại, thì rồi nó đi làm sao được. Vũ trụ cũng vậy. Do đó, cháu thấy cần đề ra với cậu một vấn đề khác, cũng cấp thiết như vấn đề trước. Đó là chuyển động.

- Nói rõ hơn xem nào!- Thế này: trong vũ trụ, mọi cái đều chuyển động. Hạt lúa có

chuyển động riêng của nó. Mầm cây trổ thành bông hoa, rồi kết quả; mà trong bông hoa nhỏ bé nhất cũng có cả một chuỗi những hoạt động không ngừng. Trong thế giới động vật còn lí thú hơn nữa: hô hấp, tuần hoàn, đồng hoá, sinh trưởng; ngày đêm, chuyển động cứ tiếp diễn, ngưng là chết. Sau hết, hãy nhìn vũ trụ thiên hà. Vì muốn nói chuyện với cậu, mà cháu vừa mới đọc lại tậpvũ trụ hoc. Cháu thấy rằng quả đất ta nặng 5.875 tỉ tỉ tấn. Muốn kéo nó đi, phải dùng sức của 10 tỉ đoàn ngựa, mỗi đoàn gồm 10 tỉ con ngựa. Vậy mà trong không gian, quả đất cứ mỗi giây đi được 55km, đồng thời nó xoay trên trục của nó với vận tốc là 375 dặm/giờ. Mỗt trời (chỉ là ngôi sao lớn thứ 6), nặng hơn quả đất 35 vạn lần, mỗi năm nó đi được 74 triệu dặm, kéo cả các vệ tinh của nó đi theo. Ngôi sao số 1830 trong sổ Gơ-rum-bơ-rit-giơ, mỗi ngày đi được 3 triệu dặm. Vậy mà còn có hàng triệu mặt trời khác như mặt trời chúng ta, với hàng triệu ngôi sao khác đi theo chúng. Và tất cả đạo binh tinh tú vô số đó, chuyển động trong không gian vô hạn theo những vận tốc kinh khủng.

- Đồng ý!- Thế, cậu có thể nói cho cháu biết ai làm chúng chuyển động

như vậy không? Cháu thiết tưởng cậu cũng thừa nhận mọi chuyển động đều đòi phải có một động cơ đầu tiên chứ?

- Không cần động cơ đầu tiên. Vật chất tự nó làm cho nó chuyển động.

- Chà! Nói như thế, các nhà bác học mà nghe được, thì họ phải thét lên. Cậu chủ trì vật chất không phải là trơ trơ bất động,

18

Page 19: Cậu cháu nói chuyện đạo

nó tự làm cho mình chuyển động được, tức là cậu phi bác tất thảy mọi tính toán của môn cơ học.

- Cậu không cần những thứ đó!- Hơn nữa, cậu còn phỉ nhổ cả lương tri của con người. Vật

chất mà chuyển động được, thì chúng ta sẽ thấy những pho tượng nhảy nhót trên bệ, sách vở trong thư viện xoay tít và đá gạch nhà ta ở chạy ngang chạy dọc làm chúng ta vô cùng vướng trở. Không, không có cái gì tự chuyển động cả. Ngọn đèn đang đỏ tắt phụt đi, nó có tự làm cho mình đỏ lại không? Viên đạn không có thuốc nổ đẩy đi, liệu nó có ra khỏi nòng súng được không?

- Tất thảy những hiện tượng đó liên hệ với nhau. Chẳng hạn trong một nhà máy, bánh xe này làm cho bánh xe khác chuyển động, rồi các dây chuyền làm công việc của chúng, thế là toàn hệ thống máy chạy đều.

- Đúng thế! Nhưng xem xét một lúc, chúng ta thấy ngay là có một động cơ hoạt động nhờ hơi nước. Bánh xe nhiều mấy, nhưng một mình chùn không thể chuyển động được. Do đó, cháu xin nhắc lại câu hỏi ban nãy: trong vũ trụ có một chuyển động vĩnh cửu, vậy động cơ ở đâu?

- Cháu không biết lực hấp dẫn làm các phân tử tự chuyển động hay sao?

- Nhưng nếu vậy tại sao những phân tử hiện tại làm nên những vật thể trước mắt ta, như cái bàn này chẳng hạn, lại không thể tự mình chuyển động được nữa? Chúng mệt mỏi quá rồi hay sao?

- Không. Nhưng chúng đã phát triển đến độ trọn vẹn rồi.- Ô! cháu thì khi nào cháu phát triển hơn cả mới chuyển

động nhiều nhất?! Không đâu! Cậu ạ, nói gì thì nói, chuyển động không phải là yếu tính của vật chất. Nếu chuyển động là yếu tính của vật chất thì mọi vật thể đều chuyển động. Vậy mà chúng ta thấy hầu như mọi vật thể đều im lìm.

- Cháu quên mất khối tinh vân nguyên thuỷ rồi sao?- Lại thế nữa à? Lại những vi thể ê-te à? Khối tinh vân tự nó

xoay vần ư?

19

Page 20: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Đúng thế, nhờ nó có một cơ cấu đặc biệt và nhờ chuyển động riêng do các vi thể tách biệt qui tụ lại làm nên nó.

- Nếu các vi thể đó chuyển động, thì ai làm chúng chuyển động? cháu xin nói lại: mọi chuyển động đòi phải có một động cơ phát động. Cháu nhất định dựa vào các nguyên tắc của cháu, mà chúng không yếu ớt đâu. Một phân tử nhỏ bé nhất cũng không bao giờ tự làm cho mình chuyển động được.

- Chính thời gian đã thực hiện công việc lạ lùng đó.- Phi lí! Cậu có thể chồng chất hàng tỉ thế kỉ, nhưng thời gian

không thể làm được gì, không bao giờ nó làm được cho một nguyên tử từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động. Thời gian chưa và sẽ không bao giờ làm phát sinh năng lượng, dù ở dạng tiềm tàng. Nếu xưa kia, các phân tử đã có thể chuyển động, thì nay chúng vẫn có thể làm việc đó. Vậy mà thực tế chúng không còn chuyển động được nữa. Chuyển động hiện thấy trong vũ trụ nhất định đã có lúc bắt đầu. Vậy thì ai đã búng cái búng đầu tiên?

- Nếu không phải thời gian, thì có thể là tính vĩnh cửu. Cháu căn cứ cái gì mà quyết rằng chuyển động không phải là vĩnh cửu?

- Vĩnh cửu hay không vĩnh cửu thì chúng cũng đều nhận từ cái khác mà có; dù thời gian, dù tính vĩnh cửu cũng không làm thay đổi vấn đề. Bài toán vẫn chưa có đáp số: những chuyển động kia phát xuất từ đâu? Một chiếc đầu máy xe hoả chạy qua, cháu hỏi cậu: sức đẩy của nó từ đâu mà có? Và cậu trả lời: từ đàng xa kia! Trả lời như thế tồi quá. Cháu không có ý hỏi chuyển động từ nơi nào đến. Cháu hỏi ai đã có thể gây nên chuyển động.

- Như thế nghĩa là theo cháu chỉ cần nhận có một động cơ đầu tiên?

- Hoàn toàn như thế. Nhất định phải có một động cơ đầu tiên, cố định bất động, độc lập, làm mọi vật chuyển động mà không nhận chuyển động từ đâu cả.

- Các sự vật cứ kích động nhau; có thể lần qua nhiều nguyên nhân trung gian, lần đến vô cùng.

- Thế cậu không thấy rằng với giả thuyết đó, cậu chỉ càng làm vấn đề thêm phức tạp, mà không tìm ra một nguyên nhân nào gây nên nó; cậu chỉ kéo dài con sông, mà không bao giờ lên tận

20

Page 21: Cậu cháu nói chuyện đạo

nguồn mạch ư? Chủ trì rằng con số vô tận những nguyên nhân trung gian có thể miễn cho ta khỏi phải tìm ra một nguyên nhân đầu tiên, cũng chẳng khác gì nói một cái bút có thể tự mình vẽ nên bức tranh, miễn là nó có một cái cán rất dài. Dứt khoát phải quyết rằng mọi chuyển động, mọi hoạt động đều đòi phải có một nguyên nhân tác thành đầu tiên, từ đó phát xuất mọi chuyển động và làm cho mọi nguyên nhân trung gian có hiệu lực. Đừng kể khi chúng ta không chịu hiểu, còn thì chúng ta phải tìm mãi cho đến nguyên nhân tuyệt đối đó, cho đến động cơ đầu tiên độc lập, bất đi bất dịch và khác biệt vũ trụ. Nguyên nhân đó, động cơ đó, chính là Đấng mà đạo cháu gọi là Thiên Chúa.

-...- Cậu không trả lời cháu thế nào cả sao?- Cậu đang suy nghĩ.- Thế thì xin cậu hãy suy đến câu lưỡng đao luận này: hoặc

là nơi khối tinh vân nguyên thuỷ, chuyển động gắn liền với vật chất; hoặc là chuyển động được truyền vào cho vật chất nhờ một nguyên nhân khác biệt với vật chất.

- Đồng ý!- Có phải cậu quả quyết rằng chuyển động gắn liền với vật

chất; nói khác đi, đâu có vật chất đó nhất thiết có chuyển động không?

- Sao lại không ?- Thế nhưng, một lần nữa (xin cậu thứ lỗi, nếu cháu nói lặp),

cơ học cho chúng ta thấy vật chất hoàn toàn bất động; cơ học dựa trên nguyên lí đó, mọi dữ kiện của nó cũng vậy. Ngoài ra, định luật quán tính của vật chất là điều kiện tuyệt đối phải có để có thể áp dụng toán học vào các hiện tượng vật chất. Nếu vật chất có thể xuất kì bất ý cử động một cách nào đó, thì không phải là mọi phán đoán sẽ không còn chắc chắn gì nữa ư? Vậy mà, vì môn vật lí ngày càng dùng những lí giải toán học, nên có thể quyết rằng định luật quán tính của vật chất đã được chứng minh chắc chắn như toán học. Do đó, vật chất bất động không thể tự mình làm mình chuyển động và nhất định cậu phải nhận có động cơ đầu tiên.

21

Page 22: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Rơ-năng nói , và cậu nghĩ cậu có thể tán đồng ý kiến ông rằng: “bắt đầu sự chuyển động trong vũ trụ, là việc phá vỡ thế quân bình, mà phá vỡ không vì một sự không-thuần-nhất; vì một vũ trụ thuần nhất thì không bao giờ cử động. Tại sao vũ trụ không ở yên? Tại sao nó cứ muốn lao mình vào con đường mạo hiểm, thay vì nghỉ yên trong sự bất biến tuyệt đối? Là vì có một cái gì đã thúc đẩy nó. Một băn khoăn thầm kín làm nó chuyển động. Cái làm nên sự sống bao giờ cũng là một sự đột nhiên rời khỏi trạng thái ù lì, một ước muốn, một chuyển động mà không ai đề xuất cả, một cái gì ra lệnh: “Tiến lên!”

- Phải, cháu đã đọc câu đó trong “ Đối thoại triết học” của Rơ-năng. Cháu đã chẳng đếm xỉa gì đến nó và hiện giờ cháu vẫn thế. Câu nói hoa mỹ đó không che nổi cái nhu cầu của ông ta là muốn gỡ mình khỏi cái động cơ đầu tiên hình như làm phiền ông ta lắm. Bởi vì nói như thế chưa đủ: vật chất để mặc nó sẽ vĩnh viễn im lìm.

- Không!- Một là cậu phải thừa nhận ngay trong bản thân vật chất có

chứa một năng lực, điều này trái với đinh luật quán tính; hai là chủ trì có sự đề xuất một chuyển động không có nguyên nhân; điều này lại là phủ nhận cơ sở của mọi khoa học. Trong cả hai trường hợp, cậu đều bị khoa học và lí trí phi bác.

Bây giờ cháu đi xa hơn. Hãy giả thiết ngày nào đó vật chất tự làm cho mình chuyển động, thì cậu lại chạm trán với một khó khăn oái oăm hơn nữa.

- Khó khăn gì?- Đây: cậu bắt buộc phải thẩy rằng chuyển động hoạt hoá vật

chất đó hoàn toàn có trật tự hẳn hoi: nó vâng theo những định luật toán học, không bao giờ nó đi trệch ra ngoài.

- Đồng ý!- Vậy thì cái trật tự ấy do đâu? Cái gì làm phát sinh nên

những định luật huyền bí, những năng lực chi phối vật chất đó: định luật hấp dẫn, chuyển động xoay tròn trong không gian? vật chất tự nó có hiểu biết không?

- Không.22

Page 23: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Nếu nó không hiểu biết gì cả, thì làm sao cái khối hỗn mang sơ thuỷ mà các nhà bác học mô tả, lại đi đến một trật tự huyền diệu hoàn toàn chính xác như toán học, đến nỗi những Cô-pec-nic, những Ke-pơ-le, những Niu-tơn cũng phải sửng sốt?

Đến đây, cậu cho phép kết luận như Kant trong cuốn “Tự nhiên thông sử” rằng: “ Tôi sung sướng được thấy từ khối hỗn mang xuất hiện cả một toàn bộ có trật tự hẳn hoi. Đó là chứng minh hùng hồn nhất cho thấy rằng nó lệ thuộc vào một hữu thể có trước nó, hữu thể này chứa ngay trong mình do lai của hết mọi vật và mọi qui luật sơ khởi qui định hoạt động của mọi vật đó.”

Luận chứng đó, hôm nay cháu chỉ mới bước đầu đề cập thôi. Hôm khác, cháu sẽ xin quãng diễn.

Chương IV: III. Trật tự trong vũ trụ

- Nào! Cậu đã tìm được một giải đáp cho những vấn đề hôm trước chưa?

- Để suy nghĩ đã. Vấn đề quan trọng, hậu quả lớn lắm!- Để giúp cậu dễ suy nghĩ, cậu có thể cho phép cháu dẫn ra

đây một chứng cứ không ạ?- Cháu vẫn chưa hết chứng cứ kia ạ? - Chưa.- Thế hôm nay, cháu định dẫn những gì nào? Thú thật, cháu

làm cậu sửng sốt đấy. Cho đến nay, cậu chỉ biết cháu là một đứa cháu gái xinh xắn, thích chơi đùa, hay làm dỏm một ít...

- Rất ít thôi!- Nhưng từ hôm chúng ta mở đầu cuộc tranh luận, thì cậu

không nhận ra cháu nữa.- Có gì lạ! Điều cháu hết sức mong muốn, là đưa cậu trở về

với Thiên Chúa. Vì thế, cháu thấy cần phải thuyết phục cậu. Chính vì mục đích đó, mà cháu nghiên cứu nhiều hơn bao giờ hết... Bàn viết của cháu đầy những pho sách khổng lồ...má lo cháu đến điên mất.

- Ô! Không đâu cháu ạ. Đàng sau địch thủ, mặc dù đôi lúc dữ tợn, nhưng cậu vẫn có gan đương đầu đó, cậu cũng thấy được tất cả linh hồn của cháu.

23

Page 24: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Nó không đên nỗi dữ tợn như cậu thấy đâu. Xin cậu biết cho rằng chính vì cháu mến cậu, mà cháu khó nhọc nghiên cứu như thế. Hôm nay cháu xin trình bày một luận cữ mới: không có trật tự nào mà không có một ai thông minh sắp đặt nên trật tự đó. Vậy mà nhìn vào thiên nhiên, chúng ta thấy có một trật tự hoàn bị, lạ lùng, kì diệu. cho nên...

- Cho nên có Thiên chúa?- Hoàn toàn đúng như thế. Cháu xin nói rõ. Cháu không

muốn yêu cầu cậu dùng một kính hiển vi hoàn chỉnh để tìm hiểu các vật vô cùng nhỏ. Nhưng thật ra, trong đó có những sự kì diệu, ai nghiệm xét cũng phải say mê.

- Chẳng qua đó là những qui luật của tự nhiên thôi!

- Ta xem một bông hoa, một bông hồng. Trong bông hoa nhỏ bé đó, có những tế bào hợp thành những mô; có sinh ra, có phát triển, có truyền sinh, rễ cây hút chất nuôi, lá cây hô hấp, có sự tinh luyện và vận chuyển nhựa sống,v.v...cả một hoạt động hài hoà, không ngừng nghỉ.

- Đó là những qui luật của tự nhiên!- Cái đó khoan đã. Đây một con vật, một con ruồi chẳng hạn.

Cậu có để ý đến vô số cơ quan, vô số yếu tố làm nên con sâu nhỏ đó cũng như sự phức tạp lạ lùng trong đó không?

- Đó là những qui luật của tự nhiên!- Khoan đã! Đây thân thể con người. Thật là kì diệu. Kể sao

xiết vẻ đẹp của nó. Nghiên cứu các cơ quan lần lượt từng cái một, ai cũng phải sửng sốt. Dạ dày để tiêu huỷ thức ăn, nó chứa những chất dịch để tiêu hoá, vậy mà chính nó lại không bị những chất dịch đó tiêu huỷ. Quả tim là một máy bơm hạng nhất, dùng để làm cho máu lưu thông trong cơ thể; máu trong tim từ ngăn này chuyển sang ngăn khác, rồi chảy qua các ống dẫn để đến tưới cho các cơ quan, lấy chất dinh dưỡng nuôi sống mọi phần cơ thể. Nhưng cái mà cháu cho là kì thú nhất, đó là cấu trúc của tai. Cháu vừa đọc đoạn sách mô tả nó. Lạ lùng quá! Cậu cũng biết rằng trong chỗ sâu nhất có một bộ phận nhỏ gọi là ốc nhĩ. Vậy mà cách đây không lâu, một nhà bác học thời danh đã tìn được nơi ốc nhĩ

24

Page 25: Cậu cháu nói chuyện đạo

lí do cuối cùng của hệ thính giác: ở một điểm nhỏ xíu của cái bộ phận gồm 8.000 phần chính đó, trong đáy ốc nhĩ, có một màng nhỏ; trên màng nhỏ ấy, là một chiếc thụ cầm huyền diệu có 6.000 dây. Dây vắn nhất dài 1 phần 20 mm và dây dài nhất để thu âm thanh trầm nhất, dài một nửa mm. Tất thảy các dây đó, người ta phỏng đoán là chúng nối liền với 6.000 dây thần kinh nhỏ, dẫn đến một trung tâm duy nhất, trung tâm này thu lấy những tiếng động từ bên ngoài. Cậu ạ, không biết cậu có cho cái đó là kì thú không. Còn cháu, nhìn cái cơ quan nhỏ xíu nhưng kì diệu đó, cháu cứ muốn phục gối uống mà cám tạ Thiên chúa.

- Đó cũng chỉ là những qui luật của tự nhiên thôi!- Cậu nói như thế, thì cháu có thể trả lời cậu như Pơ-ru-đông,

ông tổ của thuyết xã hội Pháp thế này: “Bảo rằng cái hệ thống vũ trụ này là do những qui luật vật lí, mà không đếm xỉa gì đến cái Bản ngã sắp đặt nên nó, thì cũng phi lí không kém gì nói rằng chiến thắng Ma-ren-gô chỉ là kết quả của những sự phối hợp chiến lược, chứ không phải là do mưu trí của Na-pô-lê-ông.”

- Sao? Pơ-ru-đông mà cũng cho là có “Bản ngã sắp đặt?”- Phải. Chỉ vì lẽ này, là chỉ có một nguyên nhân có trí không

là có thể bố trí một phương thế dẫn đến một mục đích.- Thế còn qui luật của tự nhiên thì sao ?- Ô! Những qui luật mà cậu khư khư bám lây đó, nhất định

chúng cũng phải do một nhà lập luật sáng nghĩ ra mới có, duy trì cho chúng tồn tại, lãnh đạo và coi sóc chúng. Cháu nghĩ rằng cậu sẽ không cho những qui luật đó, kể cả những qui luật của tự nhiên, là tự mình mà có?

- Tất nhiên!- Thế nghĩa là cậu thừa nhận?- Rằng...rằng...tình cờ có thể giải thích đầy đủ tất cả.- Tình cờ ư? Cậu cũng biết rằng Vých-to Huy-gô đã định

nghĩa tình cờ chỉ là “món ăn mà bọn bịp bợm dọn cho tụi khờ dùng”.

- Đây không phải là tên bịp bợm.- Mà cháu cũng không phải là một đứa khờ. Vì cháu sẽ

chứng minh cho cậu thấy rằng tình cờ không giải thích được cái 25

Page 26: Cậu cháu nói chuyện đạo

gì hết...Cậu cứ cầm một triệu chữ in, ném bừa xuống nền nhà này, tình cờ có làm chúng xếp lại in thành một cuốn sách không? Cậu cứ cho tất thẩy các bộ phận rời của một chiếc đồng hồ vào trong cái hộp nhỏ này; liệu tự mình chúng, chúng có biết sắp lại, cái nào chỗ nấy, cho thành chiếc đồng hồ không? Không bao giờ! Vậy cháu xác nhận rằng nếu muốn có chiếc đông hồ, phải có thợ làm đồng hồ, thì cho được có trật tự trong vũ trụ như thế này, cũng phải có một trí năng vô cùng thông minh sắp đặt nên.

- Nhưng có những tình cờ hoàn chỉnh.- Xin cậu đừng đùa như thế! Tình cờ không tổ chức nên cái

gì cả, ngay một bông hoa nhỏ cũng vậy. Thế thì làm sao nó lại có thể thiết lập nên trật tự kì diệu trong tự nhiên? Xin cậu theo dõi lời cháu nói nhé! Người đã tính rằng 12 hòn bi có thể được sắp thành 479.001.600 hình khác nhau. Vậy, nếu có thể, cậu cứ hình dung trong trí là các thành phần của cơ quan nhỏ nhất có thể sắp thành hàng tỉ hình thái khác nhau. Trong tất thảy các hình thái đó, chỉ có một hình thái là thực hiện được cân bằng. Mà thực ra, chỉ có hình thái đó là tốt thôi. Chà! Anh chàng tình cờ của cậu tài chưa!

Chẳng hạn, lấy thí dụ con mắt. Con số tế bào làm nên nó, thật là kinh khủng. Muốn những tế bào đó được sắp đặt ổn, phải có một sự cân bằng vô cùng chính xác. Nếu một tế bào của giác mạc lại nằm ngay trước con ngươi, những cơ của thuỷ tinh thể lại tác động trên dây thần kinh thị giác, thế là con mắt cậu rối loạn. Cậu không thấy gì nữa (...)

Nếu từ một bộ phận, chúng ta suy đến tất thảy mọi bộ phận của một vật thể; từ một vật thể, suy đến hàng tỉ vật thể, khoáng vật, thực vật và động vật đã và sẽ xuất hiện trên mặt địa cầu này, nào cậu không thấy rằng muốn giải thích trật tự kì diệu trong từng vật thể đó, cậu phải dùng đến không biết bao nhiêu là “vận may” mà cậu gán cho tình cờ, con số “vận may” này phải là một con số không thể tin được, vì nó lớn quá lẽ! Không. Lối giải thích đó quá trẻ con! Hiệu quả nào cũng đòi một nguyên nhân tương ứng; vậy mà anh chàng tình cờ của cậu không giải thích được gì hết.

- Nhưng, như thế mà mọi sự ổn cả. Và, như lời Rơ-năng...26

Page 27: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Lại cái gì nữa?- Phải. Rơ- năng nói: “Cứ làm đi làm lại vô số lần, cuối cùng,

những tình cờ, kết quả đạt được sẽ xem chừng được như ý muốn!”

- Rơ-năng của cậu thật kì quái! Nhận có Thiên chúa thì ông ta lấy làm phiền, thế là ông ta quay lại với tình cờ!

- Đó là một cách giải thích.- Để khỏi phải nhậnThiên chúa.- Không thế.- Nhưng cậu ạ, cậu nghĩ lại mà xem: nếu thỉnh thoảng tình cờ

có may mà đạt kết quả, thì cũng có biết bao nhiêu lần nó không đạt được! Vì cậu đừng quên rằng tình cờ là anh mù, tình cờ vẫn là tình cờ. Trở lại với giả thuyết các chữ cái của mẫu tự: cậu có biết với 26 chữ cái đó, người ta có thể sắp thành 2 tỉ tỉ kiểu khác nhau không? Hai người chơi cờ đô-mi-nô, mỗi người điều khiển 7 con cờ, có thể chơi thành 137 tỉ ván khác nhau. Một nhà hộ giáo nói: “Nếu muốn tính được các nguyên tử trong riêng một quả đất này có thể xếp thành bao nhiêu kiểu, thì tất cả các toà nhà trên 5 châu này cũng không đủ để số giấy phải dùng để tính toán.”

- Cháu cứ lấy những con số của cháu để áp đảo cậu!- Là vì những con số đó có ý nghĩa lắm!- Nhưng những nguyên tử kia có cả một cõi vô cùng để mà

tìm vận may!- Cái quãng thời gian từ khi quả đất chúng ta hiện ở còn

trong trạng thái bạch nhiệt và do đó chưa thể có sự sống trên đó được, (cho đến lúc sự sống xuất hiện, là một quãng thời gian hoàn toàn có hạn, hơn nữa cũng tương đối vắn. Chhắc cậu đã biết điều đó. Nhưng không phải chỉ có thế. Hãy giả thiết rằng tình cờ đã có thể hoàn thành cái cơ cấu nhất định mà ta hiện thấy nơi một tế bào. Nhưng hỏi rằng tế bào đó có sống không? Không. Nó chỉ mới có khả năng đón nhận sự sống mà thôi.Tình cờ của cậu không thể làm nên sự sống được. Nó có thể làm nên một tế bào, nhưng tế bào đó không có sự sống.

- Vấn đề sự sống, khoan đã! Cậu cầm trong tay một bộ xúc xắc. Cậu muốn tung một cái mà được 3 và 5 chẳng hạn. Cậu tung

27

Page 28: Cậu cháu nói chuyện đạo

lên. Chưa kết quả. Cậu làm lại. Mãi cho đến khi đạt kết quả. Các nguyên tử cũng đã có thể làm như thế.

- Nhưng, cậu ơi! Cậu thì có trí khôn. Chứ những nguyên tử bé tí kia, chúng chỉ là vật chất vô tri vô giác. Nếu chính tình cờ đã kích cho chúng chuyển động, thì khi làm lại lần khác, tình cờ làm thế nào mà kích động nữa? Ai bảo cho nó biết lần trước chưa đạt? Sau mỗi lần hỏng việc, làm sao các nguyên tử lại có thể lìa nhau, rỗi lại tìm gặp nhau để chẩn bị cho cuộc phối hợp khác? Chúng không có sự sống. Cũng không có trí khôn. Sao cậu lại nghĩ chúng có thể thực hiện được một công việc như thế?

- Cháu thật ghê gớm!- Ô! Cháu chỉ suy luận thôi mà! Phần cậu, nếu cậu chịu suy

luận một ít, cậu sẽ thấy ngay rằng nói tình cờ, không có nghĩa là không có nguyên nhân nào.

- Sao thế?- Đơn giản thôi. Cậu đi qua phố. Một miếng ngói rơi nhằm

đầu. Do đâu? Tình cơ phải không?- Nhất định rỗi!- Nhưng chính cái tình cờ đó cũng có một nguyên nhân.

chẳng hạn một hụt gió thổi qua làm ngói rơi. Không cái gì không có nguyên nhân cả. Những cái huyền hoặc nhất cũng có một nguyên nhân. Dẫu thế giới này có được do tình cờ, dẫu hàng tỉ tỉ nguyên tử đó trước kia được sắp xếp lại do tình cờ, thì cũng còn phải tìm cho ra nguyên nhân; rồi từ nguyên nhân này sang nguyên nhân khác, lần mãi đến Nguyên nhân đầu tiên, túc là Thiên Chúa.

- Nhưng thiếu gì cái ngoại thường!- Đồng ý! Nhưng tất thảy cũng do một nguyên nhân mà ra.

Giả sử cậu đến một hải đảo hoang vắng. Cậu gặp thấy nơi đây một lâu đài tráng lệ, với tất cả sự xa hoa lộng lẫy hiện đại: piano, ôtô, thư viện, tranh ảnh, Tivi...thử hỏi cậu có dám quyết rằng tất thảy những cái đó gặp nhau trên đảo là do tình cờ không?

- Phải mất trí mới quyết như thế!- Thế thì, bảo rằng trật tự hài hoà của vũ trụ chỉ là sản phẩm

của tình cờ, cũng mất trí không kém. Trong phạm vi thuần lí thuyết, cậu có thể tìm được những lí lẽ tinh vi để chống đỡ một

28

Page 29: Cậu cháu nói chuyện đạo

điều nghịch lí như thế. Nhưng trên thực tế, cậu không thể chủ trì điều đó mà không bị người ta nghi là trí khôn không bình thường.

- Cháu lại cứ như thế!- Thì cậu cũng vậy! Làm sao cậu lại muốn cháu tin phục các

luận cứ của cậu, khi cháu thấy cậu cứ che đậy những lí lẽ non nớt của mình dưới những danh từ trống rỗng? Đứng trước con số nguyên tử nhiều không thể đếm trong toàn bộ thiên nhiên, nếu quyết rằng mọi cái được sắp đặt lại do tình cờ, rằng chúng tự đi tìm lấy vị trí của chúng do tình cờ, rằng chúng giữ được trật tự bền bĩ và nhất mực đó do tình cờ, thì...

- Phải, cháu nói đúng. Thôi, đừng nói đến tình cờ nữa!- Có thế chứ!- Nhưng sao lại không nói được là thiên nhiên chứa sẵn trong

mình nó bản nguyên làm nên trật tự trong nó?- Nếu thế, ai đã đặt bản nguyên đó vào trong nó?- Thì một hạt lúa cũng chứa sẵn mầm mống của tất cả tổ

chức đẹp đẽ mà ta thấy nơi cây lúa.- Giả thuyết đó không chứng minh được cái gì hết, bởi vì bố

trí một hệ thống chính xác để tự nó thu lấy kết quả định trước, đúng thời đúng lúc, thì cũng tài khéo không kém trực tiếp làm nên từng kết quả đó. Cây do hạt mà ra thật lạ lùng. Nhưng chính hạt cũng lạ lùng không kém. Ai đã làm nên cái trật tự cơ cấu đầu tiên trong hạt lúa?

- Những năng lực của tự nhiên.- Những năng lực thế nào?- Những năng lực bí nhiệm.- Ô! Cám ơn các năng lực bí nhiệm! thế này, cậu nhé! Một

chiếc máy bay đang bay. Có lẽ cậu tưởng rằng người ta chế tạo nó để bay chăng? Không. Một ngày nào đó, tình cờ nó tự mình mà có. Rồi người ta dùng nó để bay lên không trung.

- Đồ điên!- Không! Thì cháu cũng chỉ ứng dụng những lập luận của

cậu thôi. Này cậu, cháu xin hỏi thế này: từ sở làm việc, cậu muốn về nhà, cậu lên xe điện. Cậu cứ bảo người lái xe: ông bạn ơi! cứ thả tay lái mà ngồi xuống đây. Xe sẽ tự nó chạy thôi mà! Không

29

Page 30: Cậu cháu nói chuyện đạo

cần động cơ gì cả. Tình cờ sẽ làm cho xe chạy. Ông sẽ thấy tự mình nó, tình cờ có thể làm mọi cái chuyển động...Cậu cứ bảo như thế, rỗi cậu sẽ thấy người lái xe và hành khách trả lời cậu như thế nào!

Thôi, xin chào cậu nghỉ!

Chương V: IV. Những câu hỏi bỏ lửng

Cậu thân yêu,Hôm trước cậu cháu chúng ta chia tay nhau, sau khi đã hành

quyết cái anh chàng tình cờ. Từ đó đến nay, cậu có vẻ buồn cháu, ra như vì cháu mà các nguyên tắc của cậu đổ vỡ, luận cứ của cậu trở thành quái dị. Dễ chừng cậu tưởng cháu đã quyết định có lập trường hiếu hoà hơn ư? Không đời nào! Cháu thấy như cháu đã nhảy lên được mấy bước vào trận tuyến của cậu; đã chiếm được mấy công sự rồi. Cuộc chiến đấu chưa kết liễu đâu. Cháu định đánh cho tơi bời tất thảy mọi lập luận. Cháu biết có những lập luận con nằm ngủ đang chuẩn bị chặn lối cháu. Cháu sẵn sàng đón tiếp chúng, dẫu sao, trong khi chờ đợi cuộc gặp gỡ sau, hôm nay cháu muốn trình bày với cậu thêm mấy vấn đề, mong cậu giải đáp cho. Nhưng xin cậu trả lời rành mạch hơn, đừng khất “rồi sẽ biết” nữa. Cho đến nay, cháu nghĩ là cậu chưa nắm được vấn đề gì cả...mà cháu cũng thế. Đáp lại những vấn đề mà cháu đưa ra, cháu thấy ra như chỉ được một giải đáp này: cậu chưa nhận gì cả, còn cháu thì vẫn giữ lấy tất cả.

1/ Quả trứng hay con gà? Cậu cứ bảo cháu rằng mọi sự hằng có luôn luôn. Cậu cũng biết rõ nói như thế là không đúng. Nhưng nếu luôn luôn đã có những vật thể như chúng ta thấy hiện nay, thì xin cậu cho biết: trong hai vật là quả trứng và con gà, vật nào đã có trước? Có phải cậu nói quả trứng không? Thế thì con gà do đâu mà có? Hay là cậu bảo con gà có trước? Nếu vậy quả trứng đầu tiên do đâu? Hỏi như thế hơi ngớ ngẩn đấy. Nhưng xin cậu cứ trả lời cho.

30

Page 31: Cậu cháu nói chuyện đạo

2/ Xin thử làm cho một con ruồi! Không phải là cậu cứ bắt một con ruồi có sẵn rồi đem tới cho cháu đâu. Nhưng như thế này: vì theo cậu, vật chất rất có năng lực, tài tình, muốn thế nào là biến hoá được ra thế ấy (theo cậu thì vật chất cứ biến hoá liên tục mà làm cho khối tinh vân nguyên thuỷ phát sinh ra sự sống, con người với trí khôn), nên cháu không xin cái gì to tát. Cháu chỉ xin cậu bảo vật chất mà cậu nói có tài biến hoá như thế, chế tạo nên một con ruồi cho cháu vui lòng!

3/ Những quan năng tinh thần của cậu. Thưa cậu, cậu có một linh hồn. (Cháu cũng hiểu rằng cậu quyết đoán trái lại thế; nhưng cháu xin “biếu” cậu linh hồn đó, trong khi chờ đợi chứng minh được cho cậu thấy là nó có thật). Như thế, cậu là một vật thể biết tư duy, hồi cố, so sánh, lí luận và ước muốn. Cái đó, cậu sẽ không phủ nhận. Không lẽ lại chính vật chất sản sinh ra tư tưởng, tinh thần, lí trí, ý chí của cậu sao? Không bao giờ. Thật. Không bao giờ một bản nguyên vật chất lại sản sinh một vật thiêng liêng. Nếu xảy ra điều phi thường, là vật chất lại sản sinh những quan năng của linh hồn cậu, thì linh hồn cậu phải là vật chất. Như thế, lại không phải là vật chất. Hay là một loài thiêng liêng? Nhưng loài thiêng liêng thì bản tính nó là đơn nhất và không chia sẻ được. Vậy thì cái gì đã làm nên linh hồn cậu? Tình cờ ư?

4/ Những ước mơ của cậu. Cậu muốn biết, muốn yêu, muốn được hạnh phúc. Đó là một khuynh hướng không thể cưỡng lại được. Con người có thể lầm “địa chỉ”, tìm hạnh phúc ở nơi không có hạnh phúc. Nhưng không bao giờ nó thoát ra khỏi cái nhu cầu gắt gao nó cẩm nhận trong mình. Cái dạ dày no căng rỗi thì không thèm ăn gì nữa. Nhưng trí óc cậu thì không biết khi nào nó no chán: càng biết, càng muốn biết thêm và càng thấy mình chưa biết gì hết. Tâm hồn cậu cũng thế, nó không bao giờ thoả mãn. Cậu mơ một chân lí, một tình yêu vô hạn. Phải, thưa cậu, cậu vươn tới vô hạn với tất cả mọi thớ sợi của con người cậu. Thiếu những khuynh hướng cao quí đó, cậu chỉ là một con vật không hơn không kém. Vậy mà có những ước mơ về một đối tượng vô hạn, tất nhiên phải có một đối tượng vô hạn. Thiên nhiên không hề tạo nên một nhu cầu mà đồng thời không đặt ra bên cạnh đó một đối

31

Page 32: Cậu cháu nói chuyện đạo

tượng khả dĩ làm thoả mãn nhu cầu đó. Cây cối cần gì có nấy. Con vật cũng thế. Không lẽ chỉ con người là đầu tạo vật, lại thua thiệt dở dang sao?

5/ Đứng riêng một mình? Nếu có một sự kiện được chứng minh rõ ràng hơn cả, đó là tất thảy mọi dân tộc thuộc mọi thời đại đều tin có một Đấng Tối cao. Nếu họ không biết Thiên Chúa thật, thì họ tự tưởng tượng ra. Đó là trường hợp người Rôma thời suy vong: trong các đền chùa của họ, có đến hơn 3 vạn vị thần. Vậy mà không thể nào tất thẩy mọi người xưa nay đều đã luôn luôn sai lầm về một chân lí mà hậu quả thực tiễn rất nghiêm trọng và đầy những nhiệm vụ lắm lúc thật phiền toái. Khảo sát, phê phán, kiêu ngạo, dục tình tất cả đã từng nỗ lực đả phá niềm tin đó, nhưng chưa bao giờ đã có thể thủ tiêu nó. Vậy niềm tin đó do đâu?

Nếu cậu có muốn dẫn thí dụ một số người vô thần có tên hay không tên để phi bác lời cháu, thì cháu sẽ xin cậu cho thấy những người nào thật là vô thần thành tâm thành ý và nhất là vô thần có xác tín, sẵn sàng chết để duy trì niềm xác tín của họ, như người kitô hữu dã từng hi sinh hàng triệu để chứng minh niềm tin của mình. Hãy giả thiết một điều không thể có, là nếu cậu có tìm ra một vài người như thế, thì cháu xin thưa cậu rằng: nếu có những người cụt tay, thì không phải vì thế mà kết luận rằng người lành mạnh không có hai tay.

6/ Con chim: Thưa cậu, hôm qua đây, khi nhìn tốp máy bay vút qua bầu trời, cháu thấy nảy một ý kiến mà cháu muốn trình bày ra đây với cậu luôn thể. Những chiếc máy bay đó phải có một trí óc đã sáng chế nên chúng, cũng như phải có một trí óc để điều khiển chúng.Cậu không thể chủ trì ngược lại.

Vậy mà, cháu thấy có những chiếc máy bay nhỏ khác, thường gọi là chim. Hẳn là cậu cũng nhất trí với cháu rằng loài chim chúng hơn máy bay về 3 điểm: đơn giản, an toàn và ổn định.

Do đó, cháu nghĩ thế này:Phải có một trí óc để sáng chế nên máy bay, thì cũng phải có

một trí óc để tạo nên con chim. Do đó, cháu đặt cậu trước một lưỡng đao luận: hoặc con chim bay được là nhờ người ta đã chế tạo nên bộ máy cho nó bay (nếu thế, xin cậu cho biết địa chỉ hãng

32

Page 33: Cậu cháu nói chuyện đạo

ché tạo đó!), hoặc nó do Thiên Chúa sáng tạo nên như thế. Xin cậu trả lời cho.

7/ Những anh chàng bán thuốc rong: Chắc cậu đã thấy những anh chàng như thế trên các ngả ba đường, những ngày chợ phiên. Họ rùm beng quảng cáo cho những hàng hoá của họ. Thưa cậu, một số nhân vật thời danh mà cậu sùng bái, cũng đã làm như thế.

Rơ-năng bảo : “Có ngày nhân loại sẽ không tin nữa. Nó biết thôi”.

Béc-tơ-lô: “Thế giới ngày nay không còn cái gì là mầu nhiệm nữa. Quan niệm duy lí quả quyết soi sáng tất cả, hiểu tất cả và vĩnh viễn lật đổ ý niệm siêu nhiên.”

Phải chăng đó là lời quảng cáo cho một chương trình khoa học? Không. Đó là một lời thách thức! Là khai chiến với Thiên Chúa!...là cái khẩu lệnh kế tiếp một cách lô gích câu hò hét: “ Hãy tiêu diệt tên xấu xa” của Vôn-te. Nhưng rồi sự việc đã xảy như thế nào? Nào không phải là Vôn-te đã chết như một kẻ tuyệt vọng sao? Phải chăng nhân loại ngày nay không tin nữa, mà chỉ biết thôi? Như thế, những chấm hỏi khổng lồ hiện rõ trước mắt con người biết suy nghĩ, những chấm hỏi đó đã bị xoá đi hay chỉ càng thêm rõ? Phải chăng những triết gia kia đã có thể soi sáng tất cả, hiểu biết tất cả?

Đức Giám mục Bôt-xuy-ê nói: “ Điều trái lẽ nhất của đầu óc con người, là cái gì mình muốn có thật, thì cứ tin trước đi, là nó có thật”. Chính vì thế mà những người tự xưng là vô thần, khi chân họ không bị xiềng, thì mắt lại có vải bịt lại. Nhiều người chỉ xếp cánh lại là để dễ đặt chân trên mặt đất hơn và ra thực hành, họ biết khôn khéo bỏ qua những suy luận trừu tượng rắc rối, để tìm những luận điểm dễ dàng hơn.

Sau vô thần luận cổ lỗ, nhất nguyên luận và phiếm thần luận, khoa học tìm ra một thuyết mới: thuyết tiến hoá. Nó chạy hỏi hết mọi loài trong tự nhiên, nó sục sạo lòng đất và đáy biển, nó cúi mình trên những dạng thức sơ thuỷ thô sơ nhất của vật chất hữu cơ để tìm chỏa một phôi bào đang thối rữa để tôn lên làm Tác giả sự sống. Nhưng rồi bài toán vũ trụ vẫn chưa có đáp số.Tiếp đến, thuyết tự sinh xuất hiện, để rồi bị chứng minh là bất thể. Đến lượt

33

Page 34: Cậu cháu nói chuyện đạo

con “vượn người” cũng đã được thấy những ngày vẻ vang: con người ngày nay được kể là cháu chắt của con vượn, hay con đười ươi. Nhưng không may, là người ta đã chẳng tìm được mẫu “vượn - người” và cái khâu trung gian vẫn cứ là một bóng ma. Triết học vô thần thua trận trên mọi chiến tuyến, liền bám lấy một chất ở dưới đáy biển, một chất keo vô định hình, đặt tên cho là Ba-thi-bi-ôt (có nghĩa là chiều sâu của sự sống). Đó là vật chứng cho thấy việc sự sống xuất hiện trên mặt đất. Người ta hoan hô. Nhưng 11 năm sau, chính con người đã nặn ra chất Ba-thi-bi-ôt, đã làm các nhà bác học phải cười nhạo cả y cả điều sai lầm của y.

Cái ngày mà Bơ-ruy-nơ-chi-e hỏi khoa học vô thần xem đã giữ lời hứa chưa, ông chỉ thấy một sự thiếu hụt khổng lồ và ông ghi vào đó hai tiếng: Phá sản!

8/ Những câu nói chân thật: Thôi, ta hãy bỏ mặc những anh chàng bán thuốc rong kia. Hãy để ý tới những bậc thức giả, đồng thời là những bậc thầy tiên tổ của thuyết tự do tư tuởng ngày nay.

Ten-nơ, năm 1855, tuyên bố: “nhân đức và nết xấu chỉ là những sản phẩm hoá học, không khác gì đường và lưu toan diêm. Tư tưởng là một chất do óc tiết ra. Sự sống là rung động của nguyên tử bị cuốn đi trong cơn lốc vĩnh hằng của các vật thể”.

Nhưng câu nói cuối cùng của ông là gì? - “ Nếu Giáo hội không làm sao chinh phục lại được những đại khối vô đạo kia để biến họ thành một dân có tín ngưỡng, thì nền văn minh nước Pháp sẽ biến mất!”

Lit-tơ-rê, năm 1673, tính đến chuyện “đẩy Thiên Chúa cũ rích của siêu hình học ra ngoài biên giới, rồi cám ơn vì những công ơn nhất thời Thiên Chúa đã làm cho nước nhà”. Nhưng rồi khi hấp hối, miệng ông sốt sắng thầm thĩ kinh “Kính mừng” và tay ông đấm ngực ăn năn.

Bec-tơ-lô, ban đầu cả quyết sẽ soi sáng mọi bí nhiệm và “vĩnh viễn lật đổ ý niệm phép lạ và siêu nhiên”. Nhưng rồi ông chết như một kẻ tuyệt vọng. Bằng chứng là lời cuối cùng của ông: “Tôi càng giác ngộ về nhân vị của tôi, thì những điều tôi không chắc càng tăng thêm. Chính vì lẽ đó mà tôi đã luôn luôn ẩn thân trong hành động để chống lại những tuyệt vọng của tôi”.

34

Page 35: Cậu cháu nói chuyện đạo

Hê-bớc Xpen-xơ, cha của tiến hoá luận, khi chết đã thú nhận “sách vở ông viết một đàng, mà tin tưởng tôn giáo của ông một nẻo!” Như thế, tất cả phái tự do tư tưỏng đã phải kêu lên ở mức này hay mức khác, như lời Thánh kinh: “Chúng ta đã lầm!”

Thưa cậu, cháu dẫn ra đây những sự kiện đó để cậu tự rút ra những kết luận.

9/ Đòn trí mạng: Để kết thúc lá thư quá dài này, cháu muốn trích dẫn ra đây mấy câu cháu ghi lại để tặng cậu. Bởi vì, thưa cậu, cậu không thể hiểu được cháu nghĩ đến cậu nhiều như thế nào đâu! Cháu bỏ qua những tác giả mà cậu không ưa. Nhưng vì cháu biết rằng Vôn-te (Vôn-te đại danh, như cậu vẫn gọi ấy mà!) là thần linh của cậu (kìa, cậu xưng là vô thần mà cũng kiếm ra được một thần đấy chứ!), nên cháu muốn trích dẫn mấy câu nói của ông ta:

“ Người ta chưa bao giờ dẫn được một bằng chứng nào chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa!”

“ Người vô thần xảo quyệt, bội bạc, lừa đảo, tàn bạo, họ lí luận và hành động ra như họ thoát được khỏi sự trừng phạt của loài người. Nếu không có Thiên Chúa, thì con quái vật đó chính là thiên chúa của bản thân họ”.- Chà! Anh chàng Vôn-te xử tệ với cậu quá nhỉ! Sau hết, câu nói rõ ràng này cũng là của ông ta: “Vô thần luận là tật xấu của bọn ngốc”.

Thật là miếng đòn trí mạng. Cậu có đáng chịu miếng đòn đó hay không? Tuy cậu có nhiều câu nói huyênh hoang, nhưng cháu vẫn chưa tin là cậu đến nỗi như thế. Mặc dầu cậu ngoan cố, cháu chỉ mong Thiên Chúa sẽ bức cậu không những không dám phủ nhận mặt trời nữa, mà còn để ánh sáng nó lọt vào soi chiếu linh hồn cậu.

Cậu rất mến của cháu, tuy cháu tấn công cậu có phần căng đấy, nhưng xin cậu cứ tin ở tất cả lòng yêu mến của đứa cháu gái đã thề sẽ hoán cãi cậu.

Mác-đa.

35

Page 36: Cậu cháu nói chuyện đạo

Chương VI: V. Ông cậu tấn công

- Này, Mác-đa! Cậu có tiếp thư cháu. Nó đã làm cậu phải suy nghĩ. Nhưng phải như thế nào nứ, mới hòng quật ngã được con thú da dày cao niên này. Vì thế, hôm nay, cậu chuẩn bị trận chiến, lòng đầy hăng hái.

- Ô! thưa cậu, thế thì hay lắm, vì cháu cũng vậy, chưa bao giờ cháu thấy nhất quyết lao mình vào trận chiến như hôm nay, và cháu sẵn sàng, cậu nghe rõ chưa?- Cháu đã sẵn sàng mọi sự...để đưa về với Thiên Chúa linh hồn vốn tốt đẹp như thế của cậu.

- Cháu làm cậu cảm động. Nhưng không thể thuyết phục được cậu đâu!

- Cháu cũng đã phần nào nghĩ đến điều đó. Vì thế, giờ đây, cháu hiên ngang chờ đợi những luận cứ cậu đưa ra nhằm phi bác tin tưởng của cháu. Do đó, cháu xin nói trước là tất thảy những “lí cụt” cậu có thế sẽ đưa ra...

- Sao lại “lí cụt”? - Thì thôi vậy. Phải, tất thảy những lí lẽ cậu đưa ra sẽ không

chứng minh được cái gì cả. Còn cháu, cháu đề xuất cái gì, cháu đều chứng minh được hết. Vô thần luận chưa bao giờ dẫn ra được một bằng chứng nào... Họ chỉ phùng mang trợn má lên; họ sừng sộ “ta đây”, huênh hoang khoác lác, tung ra những lời kêu mà rỗng tuếch; họ nhai lại những câu khẳng định đã ngàn lần bị chỉ trích, ngàn lần bị đánh đổ. Còn chứng cứ, những chứng cứ đích thực. Chưa bao giờ!

- Còn cháu, cháu cũng đã có bao giờ đưa ra được những chứng cứ sờ đến được, những chứng cứ toán học đâu!

- Trước hết, cháu xin nói để cậu rõ: đây là một vấn đề không có gì là trực tiếp liên hệ đến toán học cả.

- Nhưng nếu cháu có thể chứng minh được cách nào như 2 cộng 2 là 4, thì có lẽ người ta phải nhận mình thua cuộc.

- Được rồi! Vì cậu cứ bám lấy toán học, mà cậu vốn sành lắm, nên cháu xin nói nhé!

36

Page 37: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Nói đi nào!- Thời gian tồn tại của vũ trụ tất nhiên có thể phân tích ra

thành từng khoảng khắc kế tiếp. Hãy tạm cho khoảng khắc đó là giây.

- Được. Phân tích ra thành từng giây.- Như thế, chúng ta sẽ lấy giây làm đơn vị thời gian. Có thể

biểu thị thời gian tồn tại của vũ trụ bằng một con số giây khổng lồ, không đếm được, nhưng thế nào cũng có hạn. Bởi vì con số nào nhất thiết cũng có hạn, vì lớn mấy thì lớn, nó cũng phải bắt đầu bằng 1 và bao giờ cũng còn có thể thêm vào đó một đơn vị nữa. Cậu đồng ý?

- Tất nhiên phải thế.- Do đó và hơn nữa, có sự ưng nhận của cậu khích lệ, cháu đi

đến lết luận chặt chẽ này: thời gian tồn tại của vũ trụ tất nhiên phải có cùng có hạn, nên vũ trụ đã có lúc bắt đầu. Và mọi cái gì đã có lúc bắt đầu, thế nào cũng có ngày chấm tận. Một vật thể không thể có hạn ở phía này, mà không có hạn ở phía khác. Nếu vậy, lẽ ra phải nói: nó vừa có hạn, lại vừa vô hạn: phi lí quá!

- Nhưng tính ngược thời gian qua các thời đại, phải chăng người ta không nói được rằng chúng ta đứng trước một khoảng khắc vô hạn ư?

- Không. Bởi vì nói một chuỗi khoảng khắc đã qua, tức là nói nó có hạn định và bất cứ một chuỗi nào cuối cùng cũng phải có một khởi điểm. Do đó, vũ trụ đã có lúc bắt đầu. Vì thế, vũ trụ phải đã do một ai đó đã sáng tạo nên nó... Do đó...

- Nhưng, một lần nữa, (thôi, ta đừng nói chuyện toán học nữa), cái gì chứng minh cho cháu biết vũ trụ nhất định đã có lúc bắt đầu?

- Một ngành khoa học gọi là nhiệt động học nhận xét rằng năng lượng rải rác trong vũ trụ cứ hao hụt dần mà không có gì bù lại. Đó là định luật của Các-nô, gọi là định luật giảm năng lượng.

- Cậu mà biết điều đó thì đã không tấn công cháu hôm nay.- Nhưng cháu lại tấn công cậu. Cháu nhận thấy rằng mặt trời

cũng như mọi tinh tú đều nguội giận. Người ta tìm thấy ở các miền địa cực có hoá thạch của những loài cây chỉ sống ở miền

37

Page 38: Cậu cháu nói chuyện đạo

nhiệt đới. Điều đó cho thấy rằng xưa kia mặt trời cũng đã đốt nóng cả hai địa cực. Vậy mà những loài cây đó mất hẳn, không thấy trở lại các miền địa cực nữa. Hiện nay, ở đó, người ta sống dưới những hầm tuyết. Như thế là năng lượng mặt trời đã giảm; mà một cái gì cứ giảm luôn một mực, thì chỉ có thể tồn tại một thời gian nhất định. Vậy là việc “giảm năng lượng” đã bắt đầu.

- Nhưng nào vũ trụ không thể tự làm cho mình có được hay sao?

- Không. Vì muốn làm cho mình có, thì phải có đã. Vậy mà như Đức Giám mục Bôt-xuy-ê nói: “Nếu một lúc nào đó đã không có cái gì cả, thì đời đời sẽ không có cái gì cả”. Thế nghĩa là bắt buộc phải có một Hữu thể tất yếu và vĩnh cửu.

- Nhưng, nếu vũ trụ không phải là “tất yếu”, thì nguyên tử, cái nhân tố của vũ trụ, có thể vĩnh cửu. Và vũ trụ gồm những nguyên tử vĩnh cửu, cũng sẽ vĩnh cửu.

- Nhưng như thế thì cái anh chàng nguyên tử kia do đâu mà có? Nó tự mình mà có sao?

- Sao lại không?- Thưa cậu, ta nghiêm chỉnh một tí! Không hiệu quả nào mà

không có nguyên nhân. Nào cậu có dám quyết rằng chiếc đồng hồ của cậu tự nó mà có, chứ không cần thợ đồng hồ nào làm nên nên cả không?

- Phải. Nguyên tử vĩnh cửu. Cậu thấy như thế đúng hơn.- Ô! Như thế nghĩa là cậu tưởng tượng ra cái nguyên tử thô

sơ, bé tí đó, nó lơ lửng trong chân không, nó tìm một anh bạn nào để bám vào, cuối cùng nó làm nên vũ trụ? sự sống? con người với lí trí và tâm hồn sao? Nhỏ mấy thì nhỏ, nó cũng không thoát ngoài định luật chung và phổ cập. Cháu xin nói lại lần nữa: không hiệu quả nào mà không có nguyên nhân. Cái hạt bụi tí ti gần như không đó, cũng phải có ai đã sáng tạo nên nó.

- Nhưng, như Rơ-năng viết: “thời gian là nhân tố phổ cập và hệ số khổng lồ của sự chuyển thành vĩnh cửu!”

- Chà! Như thế nghĩa là thời-gian-nhân-tố, không có vũ trụ thì không làm gì có nó, vậy mà chính nó lại sinh ra thời gian? Thôi đi, cái vòng luẩn quẩn đó!

38

Page 39: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Này cháu, cũng có thể là do “xu hướng tới Tiến bộ”, là cái“lò xo thầm kín đẩy tất cả tới một cuộc sống ngày càng phát triển và làm cho cái “có thể” thành “có thật”.

- Lại Rơ-năng nữa, phải không cậu?- Đúng!- Con người mới lạ chứ! Hư vô làm sao đã có thể có một xu

hướng trong khi chưa có gì cả?- Đó là một cái lò xo.- Cậu chắc như thế? Nhưng thử hỏi làm sao một cái lò xo lại

hoạt động được, nếu ít ra nó không gắn liền vào một cái gì vững chắc và có thật? - Quả cháu giỏi thật! Cái gì cũng trả lời được hết. Nhưng này, cháu không thấy rằng khối tinh vân xoay tít của La-pơ-la-xơ cũng đủ để giải thích tất cả sao?

- Không hơn gì nguyên tử của cậu. Nó không giải thích được cái gì hết, vì chính nó còn cần được giải thích. Nó do đâu mà có?

- Do những hạt hơi nước, những bụi bặm, những nguyên tử nát vụn mà làm thành.

- Nhưng những hạt hơi nuớc và các đồng chí của chúng đó do đâu? Khốn thay, chính những vật này cũng chỉ là những “món hàng chế tạo”

- Thế cháu đã suy nghĩ kĩ về Tiến hoá chưa?- Kĩ lắm. Cái thuyết đó cũng ít sức chứng minh như những

thuyết khác.-Nhưng nó giải thích được tất cả! Sự biến hoá của khối tinh

vân cho ta hiểu tại sao lại có những biến chuyển khoa học trong những thời đại đầu tiên; rồi sự biến chuyển hoá học mang lại sự sống, sự sống làm ra con người và có con người là có xã hội. Không cần Thiên Chúa cũng hiểu được vũ trụ.

- Gì cũng muốn chứng minh cả, thì rốt cuộc chẳng chứng minh được gì hết. Thật thế, cháu xin nói lại lần nữa: khối tinh vân do đâu mà có? Làm sao vật chất vốn bất động, lại có thể chuyển động được? Làm sao vật chất vô sinh, lại phát sinh sự sống? Làm sao vật chất thô lổ lại sản sinh trí tuệ? Nói một vật gì tiến hoá, là nói một cái gì có khả năng tiến hoá và một tác nhân có khả năng

39

Page 40: Cậu cháu nói chuyện đạo

làm cho tiến hoá. Tiến hoá là một thủ thuật, không phải là một nguyên nhân. Cái mà cháu yêu cầu cậu chỉ cho cháu chính là nguyên nhân, nguyên nhân đầu tiên. Nhưng vì cậu không chỉ ra được, nên cháu yêu cầu cậu cho biết nguyên nhân của chính sự tiến hoá thôi.

- Vũ trụ hiện nay như thế này và nó đang tiến hoá, vì nó mang sẵn trong mình những qui luật chi phối nó.

- Ai đề ra những qui luật đó?- Nguồn gốc của tất cả tổ chức đó là “một định tắc được công

bố thuở sơ thuỷ của muôn loài; chính tiếng vang dậy kéo dài của định tắc được công bố đó, thông qua những đợt sóng vô tận của nó, đã sản sinh nên vũ trụ bao la”.

- Ai mà hiểu được! Câu nói đó sặc mùi triết lí Đức, cả triết lí Đức, cả sự ngu đần. Cậu ạ, thưa thật với cậu, cậu càng nói, cháu càng ít phục cậu.

- Thiên Chúa chưa có, nhưng đang chuẩn bị để có. Thiên Chúa ở ngay trong con người, ở mút cuối của tiến hoá: vật chất, sựu sống, con người, Thiên Chúa! Đó cũng là ý kiến của Rơ-năng.

- Nhưng nếu từ đầu chưa có Thiên Chúa, thì cuối cùng cũng sẽ không có Thiên chúa. Cậu ạ, qua những lời phi lí của cậu, cháu thấy cậu đang ở vào một tình trạng lúng túng không lối thoát. Xin cậu cho phép cháu tóm tắt:

Cậu nói: 1/ vũ trụ tự mình mà có. Thật là ngớ ngẩn hết chỗ nói.

Cậu nói: 2/ Khối tinh vân nguyên thuỷ giải thích được tất cả. Nhưng cậu nói cho cháu biết: nó do đâu mà có?

Cậu nói: 3/ Thuyết tự sinh giải thích được sự sống. Nhưng khoa học đã chứng minh rằng không làm gì có hiện tượng tự sinh.

Cậu nói: 4/ Tiến hoá! Nhưng vấn đề không phải là tìm cho biết vũ trụ có được như thế nào, mà vấn đề chính là tìm xem nguyên nhân của vũ trụ là gì. Điểm này cậu chưa bao giờ trả lời cháu.

Cậu nói: 5/ Vật chất vĩnh cửu. Nhưng nào cậu không thấy 2 tiếng đó đang tru trếu lên, vì bị cậu xếp cho đi đôi với nhau sao?

40

Page 41: Cậu cháu nói chuyện đạo

Cậu nói: 6/ Riêng đối với định tắc “được công bố thuở sơ thuỷ của muôn loài”, cháu nghĩ là cậu nói đùa thôi, chứ nếu cháu cho là cậu nói thực, thì cậu sẽ đến đánh cháu, vì như thế nghĩa là cháu tin rằng cậu bị tật thiếu não do di truyền, thiếu hẳn và không thể chữa được.

La Bơ-ruy-e nói: “ Tôi rất ước ao được thấy một người nào đó tuyệt đối tin là không có Thiên Chúa. Tôi sẽ bảo họ, ít ra, nói cho tôi biết cái lí do gì mạnh đến nỗi đã làm họ tin như thế”.

Cháu cũng thế, cháu rất ước ao được biết cái lí do gì mạnh đến nỗi giúp cậu lại trọng thuyết vô thần. Cháu đã luôn luôn mong chờ lí do đó và cháu sẽ còn mong chờ nó lâu nữa. Cháu đã dẫn ra cho cậu những chứng cứ.

- Chứng cứ gì? - Chứng cứ của cháu là: cần phải có một nguyên nhân đầu

tiên, chuyển động, trật tự vũ trụ,v,v... Hơn nữa, cháu cũng đã đề cập một chứng cứ toán học, chứng cứ này, cháu thấy nó đã làm cậu sửng sốt. Cháu đã đánh, đã hạ, đã phi bác, đã huỷ hoại tất thẩy các vấn nạn và giả thuyết vô bằng cứ và đầy mâu thuẫn của cậu.

Hôm nay, những tấn công, những vấn nạn của cậu đã buộc cháu phải trở lại với những luận cứ mà cháu vẫn nghĩ là đã ổn định, đã hiểu, đã lĩnh hội và nắm vững. Cháu đã đẩy lùi được những tấn công đó, đã phi bác được những vấn nạn đó. Cậu đã bắt cháu phải nói lại những vấn đề mà một em bé cũng hiểu được. Thật là đáng tiếc.

Dẫu sao, trong khi chờ đợi những chứng cứ của cậu, những chứng cứ sẽ không bao giờ có, cháu cố thủ trong lập truờng này:

- Không có cái gì tự dưng do hư vô mà có; - Không hiệu quả nào mà không có nguyên nhân;- Không chuyển động nào mà không do một động cơ kích

động;- Không có trật tự nào mà không do một ai đó sắp đặt nên;- Không có luật nào mà không có người lập luật.Khoa học đã chứng minh rõ rằng vũ trụ đã có lúc bắt đầu; mà

bởi chúng ta đứng trước vũ trụ là một hiện tượng lớn lao và kì 41

Page 42: Cậu cháu nói chuyện đạo

diệu như thế, nên cháu kết luận rằng để sản sinh ra vũ trụ, phải có một năng lực kì diệu, năng lực này đã có thể một mình làm cho từ hư vô xuất hiện vô vàn yếu tố để làm nên vũ trụ.

Chương VII : Trước không gian bao la vô hạn Cậu rất mến

Hôm trước, thái độ của cháu làm cậu phần nào khó chịu và trong khi say sưa tranh luận, cháu đã lỡ thốt ra những lời không được từ tốn lắm. Nhưng xin cậu biết cho là hễ có ai động đến Thiên Chúa, đến Đạo mà cháu đã ghi tạc vào lòng, cháu cứ thấy như máu trong mình nó sôi lên. Chẳng qua cũng vì cậu thôi. Bởi vì rút cuộc, cháu thấy cậu vẫn cố sống cố chết bám lấy những cái cũ rích của cậu; cậu không chịu trả lời cho những câu cháu đặt ra. Thấy bận tâm, là cậu lẩn tránh; rồi không kể gì lịch sự, cậu lại rút ra một mũi tên khác. Cháu hi vọng rằng từ đây những mũi tên của cậu đã cùn đi nhiều, không hiệu lực gì nữa. Như thế, để cậu khỏi tính đến chuyện rút những mũi tên khác. Thôi, cho chúng an giấc ngàn thu đi!

Vì thế, hôm nay, cháu sẽ hãm tính hiếu chiến của cháu lại. Và xin mời cậu ra vườn thưởng ngoạn với cháu. Đêm đẹp quá! Không biết cơ man nào làm sao nhấp nháy trên không trung. Cháu chỉ xin mời cậu ta cùng cháu đọc trong cuốn sách khổng lồ đó: cháu thấy ở đó ghi rõ tiếng Thiên Chúa.

Một buổi tối, nhà bác học Niu-tơn và một người bạn thân cùng dạo chơi. Người bạn xin nhà bác học cho một chứng cứ vắn tắt về sự có Thiên Chúa. Niu-tơn liền giang hai tay lên trời mà nói: “ Kìa!”

Phải, thưa cậu, theo như cháu nghĩ, cảnh tượng cõi bao la vô hạn mở ra trước mắt, nó áp đảo ta, làm ta phải kinh ngạc và thét vào tai ta hai tiếng: Thiên Chúa!

Quả đất ta ở chẳng hạn, nó chỉ là một vật bé tí trong cõi bao la thôi, vậy mà đường bán kính của nó đến 6.371km. Cái bầu tròn

42

Page 43: Cậu cháu nói chuyện đạo

khổng lồ đó lao mình trong không gian như một viên đạn đại bác, với một tốc độ kinh khủng ta mà thấy được thì phải đến thất kinh bạt vía.

Mặt trời mà ta thấy như một chiếc điã cỡ trung bình, theo thiên văn học (cháu có sách đây) nó lớn hơn quả đất ta 1.310.000 lần. Vậy mà cái khối khổng lồ đó cũng chỉ nhỏ xíu bên cạnh những ngôi sao to lớn khác, như sao Arcturus và sao Bételgeuse, có khối lượng lớn gấp hơn một triệu lần mặt trời.

Phải. Mặt trời to vào hàng thứ 6, nhưng chỉ là một mảnh tíu ti trong giải Ngân hà, những kính viễn vọng lớn nhất cũng chịu không trông rõ được. Nếu đem đặt nó vào vị trí của quả đất, thì quĩ đạo của nó sẽ vượt quá mặt trăng hàng ngàn dặm.

Không biết có cần phải nói với cậu về những sao chổi quái dị, chỉ xuất hiện trên vòm trời chúng ta một thời gian vắn, thân mình chúng to lớn ghê gớm, đuôi dài đến 300 triệu km.

Và cậu cũng đừng quên rằng thái dương hệ gồm hơn 5 ngàn ngôi sao, nhưng đó cũng chỉ mới là một phần nhỏ trong vô số thiên thể khác.

Ngày nay, nhờ kính ảnh nhạy, người ta đã tìm ra hơn một tỉ ngôi sao. Khắp bầu trời, rải rác những chòm sao, như chòm Vũ tiên (Hercule) có đến 3 vạn sao.

Riêng một giải Ngân hà đã gồm hàng trăm triệu sao. Đám mây khổng lồ của nó, làm thành bởi hàng trăm chòm sao, và với máy ảnh chụp xa, người ta đã đếm được trong một chòm như thế có đến 30 vạn mặt trời. Kính viễn vọng còn cho thấy trong cõi bao la vô hạn những đoàn lũ vô tận hàng triệu mặt trời khác nữa.... Nào trước cảnh tượng tinh tú bao la huyền bí đó, cậu không thấy mình thất điên bát đảo sao? Cháu thì cháu hoảng hốt lên mà kêu: Lạy Chúa, xin tha cho con! Và cháu lấy làm lạ không hiểu tại sao, trước một cảnh tượng như thế, người ta lại có thể nói đến chuyện những nguyên tử có móc và bảo: “Tất cả những cái đó là tự mình mà có!?”

Bây giờ, sau khi nhìn cõi bao la vô hạn của thế giới thiên hà, cũng như tốc độ kinh khủng của chúng trong khoảng không gian

43

Page 44: Cậu cháu nói chuyện đạo

vô tận, nếu chúng ta để ý tới khoảng cách giữa các thiên thể đó, chúng ta cũng phải ngẩn người.

Sao Thuỷ cách mặt trời 58 triệu km. Sao Kim 108 triệu. Sao Hoả 227 triệu. Không phải là ghê rợn sao? Dầu vậy, đó chỉ mới là những ngôi sao ở gần ta hơn cả.

Vì thế, muốn biểu thị khoảng cách giữa các ngôi sao, người ta đã phải lấy vận tốc ánh sáng trong một giây, tức là 30 vạn km, làm đơn vị. Một thí dụ đủ làm ta rởn tóc gáy: ánh sáng từ mặt trời chiếu đến tận chúng ta chỉ mất 8 phút rưỡi. Vậy mà từ sao Anpha của chòm Nhân mã đến chúng ta, nó phải đi mất 4 năm. Từ sao Thiên lang (Sirius) mất 14 năm. Từ sao Bắc cực 46 năm. Như thế, sao Bắc cực ta thấy đó, nếu ta muốn biết nó xa ta bao nhiêu, phải lấy 300.000km(tức vận tốc ánh sáng trong một giây) nhân với 87.039.360.000(số giây trong 46 năm), tức là 26.111.808.000.000.000km. Kinh khủng chưa! Nhất là khi nghĩ đến còn có vô vàn ngôi sao khác cách xa chúng ta hơn sao Bắc cực đó hàng tỉ dặm, thì đầu óc nhỏ bé của cháu như bị dìm vào trong cõi bao la vô hạn đó. Cái không gian vô hạn, thăm thẳm mịt mù mà Lô-ti đã gọi một cách lí thú là “cõi kinh ngạc”, không ai có thể nhìn bằng cặp mắt hững hờ!

Chưa hết. Hãy xem quả đất ta ở. Nó nhỏ bé thật đấy, nhưng cũng đã làm ta ngẩn người, khi biết nó lao mình trong không gian với một vận tốc kì diệu, trong khi đó, nó lại xoay tít trên trục của nó như con cù, cuốn theo hàng tỉ sinh vật sống trên mình nó. Cảnh tượng hùng vĩ thay! Sức mạnh thần kì thay! Quĩ đạo nó đã được vạch sẵn, bao giờ cũng thế, đồng đều nhất mực, có qui cũ.

Và từ bao thế kỉ nay, nó xoay như thế mà không trục trặc, không va chạm, không hề xảy tai nạn gì. Và rồi, quả đất là gì so với vô vàn ngôi sao đang lao vút trong không gian vô hạn, không ngừng rơi vào cõi vô viên, vô đáy! Và trong cái cơ chế đó, chúng ta thật không tài nào hiểu được nó chính xác, ăn khớp, trật tự, hoà hợp biết bao! Tất cả được bố trí hoàn hảo đến độ nhìn vào đó, chúng ta không những được thấy một cảnh tượng uy nghiêm hùng vĩ, mà cả một địa bàn và một đồng hồ vô cùng chính xác, đúng

44

Page 45: Cậu cháu nói chuyện đạo

đắn như toán học. Như thế là có cả một trật tự kì diệu. Nhà bác học nghiệm xét vũ trụ, họ biết được cái “tại sao” và cái “thế nào” của những qui luật phát sinh trật tự đó: luật hút và đẩy giữ các ngôi sao trong thế cân bằng, luật hấp dẫn lực, luật biến đổi ánh sáng,v.v...và thế nào họ cũng phải tự hỏi ai là người đã có thể đề ra những qui luật đó cho vật chất và bảo đảm sự thi hành nhất mực những qui luật đó. H.Poăng Ca-rê thú nhận rằng “tất cả cái đó không thể là kết quả của tình cờ”. Nhưng ông không dám kết luận phải có một Đấng Tối Cao sắp đặt nên. Tuy nhiên, thánh Tô-ma nói: “Mọi trật tự đều là công trình của lý trí và trật tự vĩnh cửu chỉ có thể giải thích bằng một nguyên nhân vĩnh cửu”.

Vì thế, thưa cậu, để kết thúc, cháu lại xin hỏi cậu mấy câu:Ai đã sáng tạo nên vật chất kinh khủng đó? Làm sao những khối lượng khổng lồ đó có thể tự mình đứng

trong không, nếu không nhờ một năng lực vô hình choán đầy không gian nâng đỡ chúng?

Tại sao chúng xoay tít kinh khủng như thế mà không vỡ ra? Tại sao không bao giờ chúng lạc lối, trệch đường?Tại sao mỗi ngôi sao chạy theo một hướng và với vận tốc

khác nhau, mà không bao giờ chúng gặp nhau, va chạm nhau?Ai đã làm nên tất cả những cái đó? Người ta thì không phải. Cậu không phải. Mà cháu cũng không phải. Thế thì ai?

Mác-đaT.B. Thưa cậu, nếu có thể, xin cậu cứ tung lên trong phòng cậu ở 1,2,3,10,100,1.000,10.000 hòn bi, sao cho chúng không bao giờ chạm nhau cả. Làm được như thế là một phép lạ to tát bậc nhất rồi. Cuộc cậu làm đấy! Vậy mà, theo các nhà thiên văn học, thì con số ngôi sao hiện biết được, có chừng 100 tỉ. Tất nhiên 100 tỉ sao ấy chạy và xoay trên mình, ngôi này xung quanh ngôi khác, chạy với vận tốc kinh khủng như thế mà không bao giờ va chạm nhau, bao giờ cũng đúng đường. Nào cậu không thấy ở đó có sự hiện diện của một động cơ đầu tiên có trí tuệ và toàn năng sao?

45

Page 46: Cậu cháu nói chuyện đạo

Chương VIII: Thiên Chúa với đau khổ

- Này, Mác-đa, hôm nay thì cậu đã trang bị sẵn một vấn nạn mà cháu sẽ không tài nào giải đáp được, và dù có tập trung tất thảy mọi luận cứ cũng không thể bẽ gãy được. Đó là vấn đề đau khổ. Có đau khổ. Do đó, không có Thiên Chúa.

- Cháu lạ gì vấn nạn đó!- Phải, cậu cũng biết thế. Đây, cậu nói thế này: hoặc là Thiên

Chúa muốn thanh toán đau khổ đi, nhưng không làm được; hoặc làm được, nhưng lại không muốn làm. Trường hợp thứ nhất, Thiên Chúa bất lực. Trường hợp thứ hai, Thiên Chúa độc ác. Trong cả hai trường hợp, Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa.

- Kí tên: Ê-pi-cuy-rơ.- Cháu cũng biết?- Vâng, cháu biết lắm. Và cháu vẫn chờ cậu đưa ra vấn nạn

đó. Cháu đã chuẩn bị để đối phó với nó rồi, và cháu sẽ thẳng thắn trả lời cậu, chỉ đứng trên quan điểm triết học mà thôi. Nhưng cháu cần nói trước với cậu rằng vế vấn đề oái oăm này, chúng ta sẽ không bao giờ làm sáng tỏ hoàn toàn được.

- Nhưng đây là vấn đề cậu muốn thấy rõ hơn cả.- Thiên Chúa bước vào đâu, là mang theo vào đó những mầu

nhiệm của Người. Người là vô hạn. Những điều chúng ta biết được không đáng kể gì. Vậy mà không lẽ chúng ta lại lấy trí óc nhỏ hẹp của chúng ta mà do lường sự Khôn ngoan và lòng Nhân hậu của Người sao?

- Nhưng cháu cũng phải nhận rằng một Thiên Chúa mà để cho đau khổ xảy ra, thì thật là khó hiểu.

- Muốn hiểu Thiên Chúa, phải là Thiên Chúa. Chúng ta sống giữa những mầu nhiệm; ngay bản tính con người chúng ta cũng đầy dẫy những mầu nhiệm. Sao cậu lại muốn không được có mầu nhiệm nơi Thiên Chúa?

- Lẽ ra Người có thể miễn cho ta khỏi phải đau khổ và chết!

46

Page 47: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Nếu Thiên Chúa để đau khổ xảy ra, là vì Người có thể để nó xảy ra. Tầm mắt chúng ta thiển cận lắm, không thể phê phán sự việc một cách đúng đắn được. Dẫu sao, cháu xin dẫn ra đây một cách vắn tắt theo triết học, những câu trả lời độc nhất mà tí óc nhân loại có thể đưa ra trước bài toán oái oăm đó. Rồi mầu nhiệm vẫn còn. Nhưng giữa đêm tối mịt mù đó, sẽ loé lên những tia sáng, đủ làm cho cậu thấy rằng dầu sự dữ, đau khổ cũng không thể là một vấn nạn chống lại sự có Thiên Chúa. Luận đề của cháu thế này:

Thiên Chúa đã có thể không sáng tạo nên cái gì cả. Như thế, sự dữ sẽ không có. Nếu Người đã sáng tạo, nếu Người để cho có sự dữ trong công trình của Người, thì tất nhiên Người đã có những lí do cao cả để làm như thế.

- Để xảy ra sự dữ, tức là muốn có sự dữ.- Thật ra có một sự khác biệt rõ rệt giữa để cho xảy ra và

muốn cho xảy ra. Chẳng hạn các cháu của cậu muốn chơi. Đôi lúc có thể quá trớn một ít: chúng cãi nhau, đanh nhau...những cái tai hại đó, cậu có muốn thật không? Không. Nhưng khi muốn cho các cháu chơi, tức là cậu cũng thấy trước và để cho tính hăng hái của tuổi trẻ có thể đi đến những quá trớn đó.

Hiểu như thế, xin cho phép cháu nói rõ thêm bằng cách phân tích rành mạch:

1/ Thiên Chúa không muốn sự dữ nào cách trực tiếp và muốn sự dữ vì sự dữ, dù là sự dữ vật lí. Thiên Chúa không thể muốn sự dữ. Vì như thế trái với bản tính và mọi hoàn hảo của Người.

2/ Thiên Chúa có thể muốn sự dữ vật lí, nhưng muốn cách gián tiếp mà thôi, nghĩa là Người muốn sự lành, nhưng sự lành này lại có sự dữ đi kèm không tách ra được.

- Chẳng hạn?- Người có thể muốn cậu bị một chứng bệnh làm cậu đau

đớn, nếu cái “đau đớn hồng phúc” đó có thể dắt cậu trở về đường lành, trở về với nghĩa vụ, với Người. Những khi mà sự dữ vật lí gắn liền với sự lành tâm lí hay vật lí có giá trị hơn giá trị sự lành ta mất đi vì sự dữ đó, làm sao Thiên Chúa lại không thể muốn sự dữ nói đó (bệnh tật) vì sự lành sẽ do đó mà ra (trở lại) Khi muốn

47

Page 48: Cậu cháu nói chuyện đạo

cho có sự bền vững trong các qui luật tự nhiên, Thiên Chúa cũng đã vì muốn có một sự lành cao hơn, mà gián tiếp muốn có nhiều sự dữ sẽ tất yếu do sự bền vững đó mà có. Trong khi muốn bảo tồn con người, Thiên Chúa cũng muốn con người giết một số loài vật để ăn thịt chúng, một số loài cá nuốt cá khác nuôi thân. Có phải là sự dữ không?

- Đó là đối với loài vật. Với loài người thì không thế.- Chà! Phán đoán của cậu cứ thay đổi luôn khi thế này khi

thế khác, tuỳ cậu nhìn lên hay nhìn xuống. Nếu cậu nhìn xuống, thì cậu cho việc chúng ta ăn thịt loài vật là điều tất nhiên, không có gì đáng lấy làm lạ và loài vật không có quyền kêu ca ai oán gì hết. Nếu cậu nhìn lên, thế là cậu không hiểu nữa. Cậu oán trách Thiên Chúa sao lại làm những việc mà chính bản thân cậu làm thì cậu cho là bình thường! Cháu xin nói tiếp.

3/ Sau hết, đối với sự dữ luân lí, tức là sự tội, thì Thiên Chúa không bao giờ muốn, dù là gián tiếp cũng vậy. Người chỉ để nó xảy ra; nghĩa là Người không muốn ngăn cản không cho ý muốn thong dong phạm nó. Tuy nhiên, trong ý định để cho người ta phạm tội đó, Thiên Chúa chỉ nhằm vào sự lành.

- Sự lành gì?- Tự do của con người, công phúc, hoán cải, cơ hội biểu

dương lòng nhân ái hay sự công chính của Người,v.v...- Những cái đó có bàu chữa cho sự dữ được không?- Cháu thấy ở đây sự lành lấn át sự dữ.- Ô! Chính Thiên Chúa làm nên sự dữ!- Không. Người để nó xảy ra. Hai đàng khác nhau một trời

một vực. Bây giờ cháu thấy cần dẫn ra đây một số trong những lí lẽ cao cả vì đó Thiên Chúa để sự dữ xảy ra.

- Được. Nói đi!- 1/ Sự dữ vật lí gắn liền với mọi bản tính thụ tạo. Điều đó là

do chỗ những sự vật nó chứa trong mình căn bản là bất toàn. Thiên Chúa sáng tạo nên chúng ta có thể xác và cảm giác.

Do đó, chúng ta có khả năng đau cái đau, cái đau này chỉ là hậu quả của bản tính ta bất toàn. Muốn ở trên địa cầu này không có

48

Page 49: Cậu cháu nói chuyện đạo

một sự dữ nào, thì Thiên Chúa phải đã sáng tạo nên một thế giới thập toàn.

- Sao không sáng tạo nên nó như thế?- Vì một thế giới hết sức hoàn hảo là điều không thể có. Bao

giờ sự hoàn hảo của nó cũng phải có giới hạn, đừng kể sự đòi hỏi một thế giới vô cùng hoàn hảo như chính mình Thiên Chúa. Do đó, một thế giới thụ tạo thì tất yếu phải là bất toàn, vì nó không thể hoàn hảo như Đấng Hoá Công đã sáng tạo nên nó. Vậy nếu thế giới nhất thiết phải bất toàn, thì có sự dữ trên thế giới nào có lạ lùng gì?

- Lẽ ra Thiên Chúa cho có nhiều sự lành hơn nữa!- Xin hỏi cậu: một người cha có dốc tất cả gia tài cho con

tiêu phí vào những thú vui nhỏ không?- Cha không bắt con chịu khổ.- Thế, khi cha bắt con phải để người ta mổ một cái nhọt?- Khi đó là để làm ích cho con.- Thì Thiên Chúa cũng làm như vậy.- Dù sao, trong công trình của Thiên Chúa cũng có quá nhiều

bất toàn!- Thế mà nhiều! Những bất toàn người ta nhận thấy nơi từng

phần, thật ra đều góp vào việc làm cho toàn bộ được đẹp đẽ. Xem một bức tranh, tại sao cậu chỉ ngắm những chỗ tối, không để ý gì đến những chỗ sáng sủa, rực rỡ? Thật ra những sự dữ kia chỉ ít thôi, nếu đem so với những sự lành đầy dẫy trong cuộc sống, mà ta quá quen thuộc đến độ không để ý tới nữa. Ta chỉ đau ốm mấy ngày, nhưng ta khoẻ mạnh sung sức biết bao nhiêu năm!

- Còn sự chết? - Nếu không ai chết cả, thì quả đất này đủ chỗ cho người

sống thế nào được?- Nhưng dù sao, thế giới này quá nhiều hỗn loạn! - Muốn phê phán một công trình, không phải cứ tỉ mỉ xem

xét từng bộ phận tách rời!Chúa mới làm được. Không ai yêu một người đã chết; tôn kính thì có, chứ yêu thì chỉ đến mộ là hết. Đức Giêsu thì trái lại, Người

49

Page 50: Cậu cháu nói chuyện đạo

chết đã hai ngàn năm, mà vẫn được người ta yêu. Vậy mà ai làm được cho người ta yêu mình bằng một tình yêu lớn như thế nào, thì người đó cũng lớn như thế. Tình yêu của người ta đối với Đức Giêsu lớn đến nỗi chúng ta có quyền kết luận rằng Đức Giêsu còn hơn là một con người.

- Nghĩa là Đức Giêsu là Thiên Chúa?- Vâng, nếu cậu phản đối ý kiến đó, thì xin làm chứng.- Cứ sự thực mà nói, thì luận cứ của cháu tài đấy. Nhưng tại

sao cháu không nói đến lòng ghét nữa?- Đó là phần hai của luận cứ.- Đức Giêsu có bị người ta ghét không?- Ô! Yêu chừng nào thì ghét chừng ấy, ít ra về cường độ.- Cháu nói lạ quá!- Lạ chỗ nào? Cậu là người biết Vôn-te lắm, lẽ nào cậu

không thuộc lòng câu khẩu hiệu ghê gớm của ông ta: "Hãy tiêu diệt tên xấu xa!" Tên xấu xa ông ta nói đây là Đức Giêsu. Trong khi Ma-hô-mét không bị người ta thù ghét, những con quái vật Nê-rô, Ti-bê-ri-ô, Ca-li-gu-la chỉ bị ghét khi còn sống, thì chỉ có Đức Giêsu được cái vinh dự là bị người ta ghét cay ghét đắng, ghét mãi không nguôi, ghét khủng khiếp, độc địa. Đối với những kẻ gây hoạ cho nhân loại, ta chỉ khinh dể họ là đủ, thù ghét họ là quá. Đức Giêsu thì trái lại, chưa bao giờ bị khinh dể, mà luôn luôn bị thù ghét.

- Tại sao vậy?- Dễ hiểu thôi. Là vì Người luôn luôn còn đó với thần tính

của Người, với tín lí mà trí óc kiêu căng của con người không thể chấp nhận được, với nền luân lí cao quí có một không hai, nhưng đồng thời cũng vô vàn khắc khổ. Người cản trở dục vọng của người ta. Chính vì thế mà người ta không ngừng thù ghét Người .

Nào chính Et-ga Ki-nê đã không viết thế này sao: " Đây là một cuộc chiến đấu nghiêm trọng, một mất một còn.Vấn đề không phải chỉ là bài xích bọn theo giáo hoàng" (người Anh giáo dùng

50

Page 51: Cậu cháu nói chuyện đạo

cụm từ này chỉ người công giáo Rôma. N.D.), mà còn là nhổ bật chúng, bêu xấu chúng, gìm chúng tận bùn đen". Thù ghét ư? Thế cậu không biết câu nói của Giăng Giắc Rút-xô sao: "Hỡi Thiên Chúa, cám ơn Ngươi đã dựng nên ta có tự do, vì ít ra ta cũng được tự do thù ghét Ngươi!?"

Thù ghét ư? Thì đây, vì không thể đánh vào con người Đức Kitô, người ta tìm cách giết Người trong linh hồn những em bé mà người ta định biến thành những "thiếu nhi vô thần", trong linh hồn kẻ nghèo, trong linh hồn người phụ nữ. Chạm trán với Người ở đâu, người ta thù ghét bách hại Người ở đó; người ta dùng đến cả xiềng xích, nhà tù và cái chết. Giáo hội Đức Giêsu ra đời nói được là trong một biển máu; từ ấy đến nay, không phải là có đến mấy chục triệu tử đạo đó sao? Như vậy có phải là bị thù ghét không?

- Thế là, ở đây cũng vậy, cháu định kết luận ...- Rằng: không người nào chết rồi mà còn bị người ta thù

ghét. Vậy mà Đức Giêsu chết đã hai mươi thế kỉ, vẫn còn bị truy lùng, lăng mạ, thù ghét, căm tức. Do đó, Giê-su là Thiên Chúa.

- Chưa dễ kết luận như vậy đâu!- Và để cho xong vấn đề ở khía cạnh đó, hãy xem vị Thiên

Chúa mà người ta xua đuổi khắp nơi đó, Người thống trị vẻ vang biết dường nào!

Người thống trị trí óc nhân loại, đòi trí óc nhân loại phải tin một cách chắc chắn hết sức vào giáo lí vừa có những điểm sáng sủa lạ lùng, vừa có điều bí nhiệm không thăm dò nổi. Người đời có thể áp bức tư tưởng, nhưng không thể khuất phục nó. Đức Giêsu đã làm được như thế. Và những bậc thiên tài lỗi lạc nhất, như Pat-xcan và bao nhiêu người khác, đều đã hàng phục và đã tin, bởi lẽ chính Đức Giêsu phán dạy họ.

Người thống trị ý chí nhân loại. Khuất phục được trí óc người ta là tài giỏi, khuất phục được ý chí người ta càng tài giỏi hơn. Vậy mà tự do là của quí làm con người tự hào hơn cả. Người ta có thể hành hạ, giết chết con người, nhưng bức một

51

Page 52: Cậu cháu nói chuyện đạo

người thuận theo ý mình, thì không thể, trừ khi người đó tự ý thuận theo. Đức Giêsu đã làm được như thế. Người bức ý chí nhân loại phải tuân cứ luật Người, thi hành huấn lệnh Người, giữ một thứ luân lí truyền phải thắng mình và giết chết những khuynh hướng mình.

- Thế người ta không chống lại sao?- ồ! Có chứ. Đạo Đức Giêsu luôn luôn bị bách hại, bị tấn

công bởi những người vô đạo, bởi người Do thái, bởi các triết gia, các kẻ lạc đạo, các bạo vương bạo chúa, nhưng nó vẫn đứng vững. Đạo Đức Giêsu đã kinh qua hai mươi thế kỉ liên lỉ đấu tranh và luôn luôn chiến thắng. Như thế không phải là thống trị sao?

Sau hết, Đức Giêsu thống trị tâm hồn nhân loại. Người rời khỏi sân khấu thế giới này 20 thế kỉ rồi, nhưng trong suốt 20 thế kỉ đó, Người đã làm được cho người ta yêu Người, yêu bằng tâm hồn dơ như bùn hôi của dân ngoại xưa, yêu bằng tâm hồn cứng như sắt như đá của dân man-di, mọi rợ; yêu bằng tâm hồn nhạy cảm của những người phụ nữ cũng như tâm hồn dũng mạnh của nam giới. Mỗi sáng, hàng triệu người cất tiếng biểu lộ lòng mình yêu Người .

Cậu ạ, luận cứ tâm lí của cháu đến đây là hết. Có lẽ luận cứ cháu trình bày hôm nay không mạnh như những luận cứ cháu sẽ trình bày sau. Nhưng đối với cháu thì luận cứ này cảm kích hơn cả.

- Đó chỉ mới là những khẳng định. Cậu cần kiểm tra xem đã. Nhưng có điều này đánh động cậu hơn hết, là đối với Đức Giêsu mà cậu thấy còn xa cách như thế, cậu thấy cháu yêu Người một cách say sưa nồng nhiệt lạ lùng!

- Ô! Phải rồi, cháu yêu Người với cõi lòng sâu kín nhất của cháu.

- Chính điều đó làm cậu cảm động.- Dù sao, đối với kẻ tìm kiếm Người trong tinh thần và trong

sự thật, thì Người không ở xa đâu. Cậu ạ, rồi cuối cùng thế nào cậu cũng gặp được Người. Và vì cậu có một tâm hồn cao thượng,

52

Page 53: Cậu cháu nói chuyện đạo

nên thế nào rồi cậu cũng phục gối xuống như bao người khác để thờ lạy và yêu mến Người . Chương IV Hai khẳng định vô cùng quan trọng

- Thưa cậu, hôm nay, chúng ta tiếp tục cái chuỗi chứng cứ về thần tính của Đức Giêsu. Cháu sẽ đặt cậu đứng trước hai câu khẳng định mà cháu dám nói là vô cùng quan trọng...

- Nói cho to chuyện đấy chứ!- Cái đó, xin để tuỳ cậu phê phán. Chúng ta đứng trước:

1/ Một khẳng định của toàn thế giới kitô giáo; 2/ Một khẳng định tích cực, khẳng định của chính mình Đức Giêsu.

- Khẳng định thì dễ thôi.- Xin cậu khoan đã nói như thế. Đây, khẳng định thứ nhất:

cậu cứ rảo cho cùng mặt đất này, hàng triệu người sẽ bảo cậu rằng họ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa.

- Hàng triệu kia à?- Nếu cậu muốn con số chính xác, thì đây: hiện nay, cả thế

giới có đến 304 triệu người công giáo,157 triệu người li giáo và 212 triệu người Tin lành. Li giáo và Tin lành đã đổi khác giáo lí Người. Trong số công giáo, không phải tất cả đều thật xứng với danh hiệu của mình. Dù sao, chúng ta cũng đứng trước một khối to lớn 673 triệu người tin Chúa Giêsu.

- 673 triệu người đó khẳng định cái gì?- Khẳng định Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Khẳng định đó

phổ biến, trường cửu, suốt từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ chúng ta lần ngược lên tận các Tông đồ. Người ta đã luôn luôn

53

Page 54: Cậu cháu nói chuyện đạo

duy trì một niềm tin xác định, một tín lí kèm theo nhiều hậu quả thực tiễn và cam go.

- Nhưng khẳng định đó có giá trị gì?1/ Đó là một khẳng định có hiểu biết. Tất thảy những nhân

vật thời danh và thiên tài lỗi lạc đều phục gối thờ lạy Người. Họ đã tỉ mỉ xem xét các sách vở, xác minh cả ngày tháng, họ đối chiếu, kiểm nghiệm những dấu hiệu của Thiên Chúa, đã bàn cãi, đã nói như thánh Tôma: "không thấy phải tin, thì không đời nào tôi tin".

2/ Khẳng định đó chính trực và có lôgích, khẳng định của một thánh nhân sống đúng như mình tin, cách ăn nết ở rập khuôn đức tin, thực hiện những đức tính cao quí nhât.

3/ Khẳng định đó hào hiệp và anh hùng, thúc đẩy hàng triệu người nam,nữ,già,trẻ chết cho Đấng mình tôn thờ. Thật ra, một khẳng định hoàn toàn của con người , không thể đi xa hơn thế

- Nhưng ai làm chứng cho cháu thấy rằng tất thảy những người đó không lầm?

- Chỉ cái lôgích thôi. Nếu tin tưởng đó chỉ là do hiểu sai về một sự kiện lịch sử, thì đã không địch được với ngần ấy tấn công; bao nhiêu thánh nhân đã không dại gì mà sống nhân đức, nếu chỉ để phục vụ một sai lầm; bao nhiêu tông đồ đã không mất công phí sức xông pha nguy hiểm, nếu chỉ để truyền bá một điều mê tín khả ố!

- Nói như thế để kết luận?- Rằng: hoặc là điều mà cả thế giới kitô giáo 20 thế kỉ nay

khẳng định về Đức Giêsu là đúng thật; hoặc là Thiên Chúa đánh lừa chúng ta, vì đã dung túng cho một sự bịp bợm thắng thế nhất. Như một giáo phụ đã nói: "Nếu những điều chúng tôi tin là sai, thì lạy Chúa, chính là vì Chúa đã đánh lừa chúng tôi!" Cậu xem, đó là khẳng định thứ nhất với những hậu quả mà cậu không thể trốn tránh được.

54

Page 55: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Thật ra đó cũng là một điều lạ lùng: một người thì có thể sai lầm, chứ đàng này cả một tập thể sai lầm và sai lầm đã hai mươi thế kỉ!...Cháu cứ nói tiếp đi...

- Cháu xin nói sang khẳng định thứ hai: khẳng định của chính mình Đức Giêsu. Chính Người nói và khẳng định Người là Thiên Chúa.

- Nê-rô xưa cũng đã làm như thế.- Không thể đem Đức Giêsu sánh với Nê-rô.- Vì hai bên cũng khẳng định như thế cả.- Phải. Nhưng cần tìm hiểu giá trị của nhân vật và giá trị của

điều mà nhân vật đó khẳng định. Vậy mà có đến 74 chỗ trong Tin mừng, Đức Giêsu xưng mình là Thiên Chúa, hoặc Con Thiên Chúa, tuy về mức độ rõ ràng có khác nhau.

- Cháu nói rõ hơn nữa.- Dễ thôi. Người đã khẳng định thần tính mình:1/ Trước mặt cha mẹ Người. Hôm ông bà tìm thấy Người

trong Đền thờ,Người nói: "Nào ông bà không biêt rằng con phải quan tâm đến những công việc của Cha con hay sao?”

2/ Trước các tông đồ và môn đệ: Khi thánh Phê-rô động lòng tin mạnh thưa rằng: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống", thì không những Người ưng nhận sự tuyên xưng đó, mà còn cho vị Tông đồ là "có phúc". Sau nữa, nào không phải chính Người nói rõ như thế này với Phi-li-pê: "Này Phi-li-pê, ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy; chúng con không tin rằng Thầy ở trong Cha Thầy và Cha Thầy ở trong Thầy sao?" 3/ Trước đám đông. Mat-ta khóc em, Người bảo: "Thầy là sự sống lại và là sư sống; ai tin Thầy, dù có chết cũng sẽ sống". Hôm khải hoàn vào thủ đô, Người xưng mình là: "Sự Sáng chiếu soi thế gian". Lần khác, Người nói trước có ngày Người sẽ xét xử kẻ sống và kẻ chết.

55

Page 56: Cậu cháu nói chuyện đạo

4/ Trước người nước ngoài. Trước mặt thiếu phụ đất Xa-ma-ri, Người không ngần ngại tiết lộ một điều lớn lao: "Đấng Cứu thế ư ? Này Tôi đây !"

5/ Trước người Do thái: Người Do thái muốn biết chắc về Người; họ bức Người phải tuyên bố rõ mình có phải Đấng Cứu thế, là Thiên Chúa không? Người trả lời: "Các việc Tôi làm, làm chứng về Tôi. Cha Tôi và Tôi là một". Lần khác, Người bảo họ: "Khi Ap-ra-ham chưa có, Tôi đã có". Người hỏi một người bệnh vừa được Người chữa khỏi: "Con có tin Con Thiên Chúa không? -"Thưa Thầy, ai là Con Thiên Chúa? -"Con đã thấy Người rồi; Con Thiên Chúa chính là Tôi đây!"

6/ Trước nhà chức trách: Thượng tế Cai-pha "nhân danh Thiên Chúa hằng sống" buộc Người phải nói rõ Người có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" không? Người chỉ trả lời: "Ông nói đúng. Tôi là Con Thiên Chúa hằng sống".

7/ Trước những người bị thập hình: sắp chết, Người hứa với người kẻ trộm lành rằng chính ngày hôm đó, anh sẽ ở với Người trên thiên đường.

Đó là những lời khẳng định của Người. Cậu cứ đọc lại sách Tin mừng, cậu sẽ thấy có rất nhiều những lời như vậy.

- Cho đi là ông Giê-su đã thật có nói như thế. Nhưng ông có biết mình có thần tính không? Có hành động như Thiên Chúa không?

- Người nói và làm như Chúa Tể của Lề luật; Người đặt mình trên mọi ngôn sứ; Người xưng mình có quyền đối với lương tâm người ta và có quyền xét xử kẻ sống người chết. Người có tin ở thần tính mình không ư? ồ! Tin ở thần tính mình, đó là linh hồn của cuộc sống của Người và cũng chính đó là nguyên nhân dẫn đến cái chết của Người. Hãy hỏi các pháp sư Do thái. Tất thảy sẽ trả lời cậu rằng: sở dĩ ông cha họ trong Hội đồng Cộng toạ Giê-ru-sa-lem đã lên án giết Người, là vì họ cho rằng Người đã cướp quyền Thiên Chúa. Chối Người không phải là Thiên Chúa, đó là

56

Page 57: Cậu cháu nói chuyện đạo

một sự vi phạm đức tin. Chối Người không xưng mình là Thiên Chúa, đó là thiếu thiện chí.

- Ừ! Cho đi là ông Giêsu đã khẳng định. Nhưng khẳng định như thế có thế lực gì?

- Ồ! Lời khẳng định này có biết bao hậu quả: vì khẳng định như thế, Người đòi người ta phải thờ lạy Người, Người đòi một đức tin trọn vẹn và mù quáng, một lòng mến có nhiều yêu sách, bởi vì Người muốn mọi người yêu mình và yêu trên hết mọi sự.

Một hậu quả khác: đã khẳng định mình là Thiên Chúa, thì Người phải cho rằng mình có khả năng không những thực hiện nơi mình tất thảy mọi lời tiên báo về Đấng Cứu thế, mà còn thiết lập vương quốc vĩnh hằng của công chính và thánh thiện mà Đấng Cứu thế có nhiệm vụ chấn hưng.

- Nhưng, nào ông ta không nói: "Sự sống vĩnh hằng ở tại chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa độc nhất chân thật và Giêsu Kitô Cha đã sai đến" sao?

- Điều đó dễ hiểu thôi! Khi gọi Cha Người là "Thiên Chúa độc nhất chân thật", Người muốn làm nổi bật sự đối lập giữa Chúa Cha với các thần giả mà dân ngoại thờ, chứ không phải đối lập giữa Chúa Cha với chính mình Người, vì ngay sau đó, Người nói: "Chúa Cha và Tôi là một".

- Nào ông ta không thú nhận rằng "Cha" của ông ta "trọng hơn" ông ta sao?

- Phải, trọng hơn nếu kể về tư cách một con người. Điều đó đúng.

- Dẫu sao, ở đây cũng như ở mọi vấn đề khác, có thể đặt ra những giả thuyết, như: ông ta khẳng định như thế, nhưng liệu ông có tin điều mình khẳng định không? Ông không thể lầm sao? Nào ông không thể chỉ là một "người mơ màng" sao?

- Nếu không tin điều mình khẳng định, thì chỉ là kẻ bịp bợm. Nếu Người lầm về thần tính mình một cách tồi tệ như vậy, thì cháu sẽ chẳng gọi Người là một kẻ mơ màng, mà gọi là một anh

57

Page 58: Cậu cháu nói chuyện đạo

điên. Nhưng nếu Người thật lòng tin điều mình nói, thì phải nhận Người là thành thật.

- Đồng ý.- Do đó, cậu chỉ có thể giải quyết khó khăn gây nên do lời

khẳng định của Đức Giêsu bằng một trong ba cách này: gian dối, điên rồ hay là sự thật.

- Cho là gian dối thì sao? - Đức Giêsu không thể gian dối. Một người đã dám nói:

“Chân lí là Tôi đây", một con người như thế không thể cả đời lừa dối. Hơn nữa, ai lại có gan nói dối, nếu biết vì nói dối sẽ mất mạng?

- Thôi, bỏ giả thuyết nói dối đi. Ở đây, giả thuyết đó không hợp lí. Nhưng ông ta không thể bị một chứng điên nhẹ, có tài thuyết phục người ta, năng gặp nơi những người bề ngoài tưởng như bình thường, nhưng thật ra...

- Cậu không được nói nữa. Như thế nghĩa là cậu bảo Đức Giêsu là một người điên, một người ảo tưởng?

- Không! Chỉ là một "người mơ màng", như Rơ-năng nói.- Vấn đề này, cần phải thành thật. Một là điên, hai là thật.

Nhưng bảo rằng vì kém trí mới sai lầm trong một vấn đề lớn như vậy, thì thế nào cũng phải sai lầm trong nhiều vấn đề khác nữa. Đàng này, cậu nói cho cháu xem những vấn đề mà cậu có thể cho là Người sai lầm nào! Xta-phơ, một đại diện hạng siêu của Tin lành, có viết thế này: "Đức Giêsu đã xưng mình là Đấng Cứu thế. Điều đó đã rõ. Điều đó chắc chắn. Làm sao Người nói được như thế? Một là điên, hai là không điên. Từ đây, giữa người tin và người không tin, chỉ có một trong hai đàng đó. "Có thật cậu nói Đức Giêsu điên không?

- Không.- Nếu cậu dám nói, thì cháu sẽ yêu cầu cậu phải giải thích

cho cháu hiểu làm sao điên mà lại có một tinh thần siêu thoát, một trí thông minh sâu sắc thể hiện qua ngôn ngữ của Người như thế; làm sao một người đầu óc mất thăng bằng, mà lại tìm ra một học

58

Page 59: Cậu cháu nói chuyện đạo

thuyết tôn giáo vượt xa những triết thuyết cao nhất và một nền luân lí đã trở thành lí tưởng của nhân loại như thế?

- Cũng có thể là vì ông ta sẵn tính nhạy cảm, nên dễ làm theo sự kích thích của môi trường, của đám đông.

- Trái lại thế. Người phũ phàng chống lại những nhiệt hứng thiếu suy nghĩ của đám đông; Người bỏ trốn khi người ta định tôn vua; Người nói cho mọi người biết vương quốc Người không ở trần gian này; chính Người năng nói đến những nhục nhã đang chờ đợi mình.

- Cũng có thể là ông ta có những triệu chứng kích phấn bệnh hoạn!

- Ồ! Nếu thế thì sau những giờ khắc khủng hoảng, thế nào cũng có những lúc suy nghĩ lại, bị day dứt và sửa chữa sai lầm. Ít ra cũng có sự do dự ngập ngừng. Đàng này không có như thế.

- Mà ông ta duy trì khẳng định đó mãi đến tận cùng? - Phải. Và đó là điều cho thấy rõ sự thành thật của Người

hơn cả. Người ta có thể sa vào ảo tưởng, hơn nữa, có thể làm gan làm liều; nhưng chỉ khi sống thôi; còn khi sắp chết, ai thế nào là lộ rõ thế ấy. Vậy mà, như cháu đã nói, khẳng định đó, Đức Giêsu đã duy trì mãi cho đến cái chết khốc liệt nhất, kinh khủng nhất, cái chết thập hình. Cậu thấy không, tuy bị treo trên khổ giá thảm hại như thế, Người vẫn nắm chắc thắng lợi của mình, đến nỗi hứa ban thiên đường cho người kẻ trộm đang hấp hối bên mình. Cậu có nghe không, sau ba giờ hấp hối, Người thốt lên: "Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha" Như thế không phải là một cái chết xứng bậc Thiên Chúa sao? Một lần nữa, có thể coi Người như một gã điên không?

- Không. Ông Giêsu lớn quá!- Lại nữa, một người điên, làm sao gây được một ảnh hưởng

suốt hai mươi thế kỉ, thiết lập được một công trình vĩ đại và tung vào thế giới một Giáo hội chính Người sáng lập, bảo toàn và giúp Giáo hội chiến thắng như thế? Rơ-năng nói: "Một người điên

59

Page 60: Cậu cháu nói chuyện đạo

không thể thành được". Vậy mà Đức Giêsu đã thành công lạ lùng. Xin để cậu kết luận.

Chương V Những câu nói siêu nhân của Đức Giêsu

( Những nét lớn ở chương này lấy của J.Barat "Gửi những người vô tín ngưỡng")

Thưa cậu,Vì tuần này cháu không thể gặp cậu, nên cháu biên thư trao

đổi với cậu câu chuyện hôm truớc. Cháu đã đọc đi đọc lại Tin mừng, cuốn sách mà cháu xin cậu cứ kể như một cuốn sử; và vì quá say sưa với cuộc tranh luận giữa cậu với cháu, nên cháu đã gạch dưới những đoạn có thể nói là đã cho một cảm giác vật lí về thần tinh Đức Giêsu. Đó cũng chỉ là những tia chớp loé lên rồi lại vụt biến đi, nhưng chúng soi sáng vấn đề chúng ta đang bàn đây biết dường nào! Đây:

1/ Cậu hãy xem Đức Giêsu trên biển hồ nổi sóng. Người đứng thẳng lên, đe doạ gió bão và ra lệnh cho biển: "Im đi! Lặng đi!" Liệu cậu không sửng sốt mà nói như các Tông đồ lúc đó: "Người là ai mà sóng gió phải vâng lệnh!" sao ?

2/ Hãy nghe cậu nói cảm kích của Người: "Hỡi tất thảy những ai nặng gánh cuộc đời, đến đây, Tôi sẽ cất nhẹ cho!" Một người thường đâu dám nói như thế!

3/ Cuối bữa Tiệc li, Người trối lại cho các Tông đồ mấy tiếng làm toát lên lòng từ ái: "Thầy sẽ không bỏ chúng con mồ côi; Thầy sẽ đến với các con". Lời đó, nếu một người thường nói, thì không thể hiểu được.

4/ Người nói thêm: "Ai yêu mến Thầy, hãy giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến và ở lại trong

60

Page 61: Cậu cháu nói chuyện đạo

kẻ ấy". Như thế không phải là tuỳ ý sử dụng sự phù trợ của Thiên Chúa Cha đó sao? Lại là một lời hứa. Nguyên một ý tưởng, mà hiện nay là điều có thật trong đạo Kitô, rằng một vị Thiên Chúa có thể trú ngụ, có thể ở trong linh hồn chúng ta, một người thường có thể đề xuất ý đó không? Hay là chỉ có Thiên Chúa?

5/ Khi Ma-đơ-len đổ dầu thơm xức chân Chúa, Người sung sướng vì cử chỉ của chị. Người nói: "Tôi nói thật với ông, Tin mừng rao giảng tới bất cứ nới nào trên thế giới,thì người ta đều kể lại việc người phụ nữ này vừa làm". Như thế là nói tiên tri! Là thấy rõ tương lai! Như thế không phải là báo trước việc Tin mừng được rao giảng cách diệu kì, lạ lùng trên khắp thế giới đó sao? Như thế không phải là lời của Thiên Chúa đó sao?

6/ "Con Người là Chúa cả ngày hưu lễ".Câu nói làm thất kinh bạt vía người Do thái vốn coi ngày hưu lễ là ngày của Chúa. Ai không giữ ngày đó, người ta đem ném đá. Đức Giêsu không lùi bước trước khẳng định to tát đó. Tôi là Chúa ngày hưu lễ, nghĩa là Tôi là Đấng Lập luật tối cao, đặt ra lề luật và biết mình muốn giữ hay không tuỳ ý.

7/ Đây, lời tuyên bố oai nghiêm trang trọng tột bực: "Trời đất rồi sẽ qua, nhưng lời Tôi sẽ không qua". Và thật ra hai ngàn năm sau Người, chúng ta có thể thấy rõ lời đó vẫn y nguyên, vẫn được người ta sống, vẫn sinh động, có sức sinh hoá và choán đầy thế giới. Cử chỉ oai vệ thay! Chỉ một liếc mắt mà bao quát mọi thế hệ tương lai. Ồ Câu nói toát lên phong thái của Chúa tể thời gian và vĩnh hằng!

8/ "Không ai lên trời, nếu không phải chính Đấng đã từ trời xuống, là Con Người ở trên trời". Ở trên trời mà vẫn ở dưới thế. Thật đúng vừa là Người vừa là Thiên Chúa, là Người-Thiên-Chúa. Có lẽ không lúc nào Người tiết lộ tính chất lưỡng tính và tính chất phổ tại của mình bằng ở đây. Mà câu nói trọng đại đó, Người nói ra một cách bình tĩnh, giản dị biết bao! Câu nói thốt ra từ miệng Người như nước từ mạch vọt ra. Rất tự nhiên, không trau chuốt cầu kì chút nào.

61

Page 62: Cậu cháu nói chuyện đạo

9/ Giọng Người cũng bình dị biết bao, khi tuyên bố mình có quyền xét xử: "Thiên Chúa đã ban cho Người quyền xét xử, vì Người là Con Người". Xét xử! Nào Thiên Chúa không dành cho một mình Người quyền đó sao? Nào Thiên Chúa không phải là Thẩm phán tối cao xét xử kẻ sống kẻ chết sao? Thế mà Đức Giêsu tuyên bố rành mạch, thẳng thắn, không quanh co uẩn khúc: "Tôi đã được ban quyền xét xử!"

10/ Và đây, chúng ta đứng trước mầu nhiệm dịu hiền nhất mà cũng làm chúng ta băn khoăn nhất: phép Thánh Thể. Không những Người báo trước, làm các môn đồ cũng lấy làm chướng mà kêu: "Câu nói cứng cỏi, ai mà nghe được!". Người còn minh định nó, Người đập lại mọi dị nghị có thể có và kêu lên: "Tôi nói thật với anh em, nếu anh em không ăn Thịt Con Người và uống Máu Người, anh em sẽ không có sự sống trong mình anh em!" Phần chúng ta, chúng ta quá quen với sự lạ đó, chúng ta sống bằng sự lạ đó. Nhưng chúng ta dễ thông cảm sự cứng lòng tin của những người đầu tiên nghe câu nói lạ lùng đó. Vậy thì, nếu không phải Thiên Chúa, ai là người có thể thai nghén ý tưởng về mầu nhiệm lạ lùng đó? Nếu Đức Giêsu chỉ là một con người, thì câu nói đó vô ích biết bao, kì cục biết bao, mà cũng phạm thượng biết bao! Nhất là khi người ta thấy Người đặt việc chịu lấy, ăn lấy chính mình Người làm một điều kiện sinh tử. Chúng ta chỉ biết rằng mầu nhiệm đó lạ lùng, làm người ta sửng sốt bỡ ngỡ.

11/ Đây, Người ở trên khổ giá. Kề bên là hai người kẻ trộm đang ngắc ngoải. Sửng sốt vì thấy Chúa quá nhân hậu, một trong hai nhận ra Người là Thiên Chúa. Thế rồi, Chúa bảo anh: "Thật hôm nay, anh sẽ được ở nơi vui vẻ cùng Tôi". Nói vậy nghĩa là gì, nếu không phải rằng thiên đường là vương quốc của Người, Người muốn cho ai vào đó tuỳ ý Người?

12/ Người Do thái quấy nhiễu Người, bắt bẻ Người, bẫy Người, Người chỉ nói với họ một lời: "Ai trong anh em bắt lỗi Tôi được điều gì nào?" Nói như thế không có gì là kiêu căng. Người vốn hết mực khiêm tốn. Đây là một sự quả quyết chắc chắn, một khẳng định đơn giản mà đầy đủ, kẻ thù không dám phi bác, vì

62

Page 63: Cậu cháu nói chuyện đạo

không thể phi bác được. Một người thường, bẩm tính yếu đuối, đâu dám thốt ra một lời như thế!

13/ Sau khi sống lại, Chúa dịu dàng trách các Tông đồ cứng lòng tin: "Điều đó, Thầy đã nói với các con, hồi Thầy còn ở với các con; vì mọi lời viết về Thầy trong sách Môsê, các Ngôn sứ và Thánh vịnh, đều phải được thực hiện". Đây, như chúng ta đã nói, Người tuyên bố mọi lời tiên tri về Đấng Cứu thế đều trọn vẹn thực hiện nơi mình. "Hồi Thầy còn ở với các con!" Câu nói đó, cũng là một bằng chứng rõ ràng, cụ thể biết bao về việc Người sống lại. Thật là tuyệt vời! Thật là thần linh!

14/ Đây, bên giếng Gia-cóp, Người đang truyện vãn với thiếu phụ đất Xa-ma-ri. Đáp lại câu nói của chị: "Tôi biết Đấng Cứu thế đã gần đến", Người dám tuyên bố: " Chính là Tôi đây, Tôi đang nói với chị đây!" Đấng Cứu thế là Tôi đây ! Câu nói dứt khoát, mạnh mẽ, bình dị, ý nghĩa rõ ràng không thể chối cãi đàng nào hết.

15/ "Cha Tôi và Tôi là một". Như thế không phải là xưng mình là Thiên Chúa, qua câu nói vắn gọn, trang trọng và quả quyết sao?

16/ "Tôi là sự Sáng thế gian, Tôi là sự Sống lại và sự Sống. Tôi là Đường, là sự Thật và sự Sống". Sự Sáng thế gian, chính là Tôi đây! Sự Sống lại, chính là Tôi đây! Đường đi, là Tôi đây! Sự Thật, là Tôi đây! Sự sống, là Tôi đây! Nào những câu khẳng định đó không mở ra những viễn cảnh vô tận sao?

17/ "Chúng con sẽ bị thế gian bách hại; nhưng hãy tin tưởng, vì Thầy đã thắng thế gian!" Chắc chắn mà thản nhiên, bình tĩnh. Loan báo một chiến thắng sẽ đạt và sẽ kéo dài mãi. Loài người ai dám nói thế? Ai nói như thế mà không sợ tình thế dễ dàng xoay ngược lại tức thì?

18/ Đức Giêsu đã sống lại. Người sắp về với Cha của Người Đây, hãy nghe Người nói: "Mọi quyền phép đã ban cho Thầy trên trời dưới đất. Các con hãy đi khắp thế giới, giảng Tin mừng cho mọi người!" Mọi quyền phép ! Trên trời dưới đất ! Nói như

63

Page 64: Cậu cháu nói chuyện đạo

thế nghĩa là gì, nếu không phải vì Người là Thiên Chúa toàn năng?

19/ Sau cùng, vì không thể kể hết (kể hết thì phải đọc cả Tin mừng) nên cháu dẫn ra đây một tiếng đơn giản, một động từ vắn gọn, nhưng rõ ràng nhất: "Tôi nói thật, Tôi nói thật, khi Ap-ra-ham chưa sinh ra, Tôi vốn có!" Người không nói: "Tôi đã có"; nhưng nói: " Tôi vốn có". Đối với Thiên Chúa là Đấng muôn đời hiện diện, thì không có thời gian kế tiếp. Người không đã có, Người không sẽ có. Người vốn có. Nếu không phải Thiên Chúa mà dám quyết như thế, thì ai nghe mà không rùng mình! Vậy mà Đức Giêsu đã quyết như thế.

Thưa cậu, cháu xin tạm ngừng ở đây. Xin để cậu đọc đi đọc lại, phân tích, mổ xẻ những câu nói cháu đã rút trong Tin mừng đó. Ai đào bới, tìm hiểu đến nơi đến chốn, một cách trực diện, những câu nói đó, thế nào cũng phải trở lại với câu lưỡng đao luận hôm nọ: một là điên, hai là Thiên Chúa. Cậu đã đồng ý rằng không thể bảo là điên, thì cậu hãy có lô-gích, hãy nghiệm xét thần tính xem!

Pát-xcan nói: "Thay vì phàn nàn rằng vì Thiên Chúa tự giấu mình đi, nên ta không thấy được,thì hãy cám tạ Người vì đã tỏ mình rõ ràng như thế". Phải. Thần tính của Đức Giêsu rực lên trong Tin mừng. Không hề có một cái gì làm ta ngờ rằng Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa .

Do đó, cậu hãy nói như người Do thái hôm nào, lúc họ khâm phục Chúa tột độ: "Chưa ai nói hay như Người này!"

Chương VI

Đức Giêsu sống lại

64

Page 65: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Cậu ạ, cháu xin phép dẫn ra đây một chứng cứ mới nữa làm chứng Đức Giêsu là Thiên Chúa, đó là việc Người sống lại.

- Đây cũng thế, cháu cứ để cậu đi từ từ. Trước hết, cho được sống lại, phải đã. Ông Giêsu có chết thật không?

- Cháu có thể nhắc lại việc người lính lấy đòng đâm thủng trái tim Người, việc người ta xức thuốc thơm vào xác nằm trong huyệt, nếu chưa chết, lúc đó cũng phải chết ngạt. Nhưng cháu muốn chứng minh cho cậu thấy bằng hai lí chứng đơn giản: yêu và ghét. Cậu có thể tin rằng các kẻ thiết nghĩa của Người đã chôn Người trong huyệt đang lúc ngực Người còn hoi hóp, nghĩa là tỏ dấu còn sống không? Cậu có thể tin rằng kẻ thù của Người ăn chờ nằm chực bên thập giá, lại chịu bỏ miếng mồi của chúng mà về, khi chưa nắm chắc được rằng con người mà chúng ghét cay ghét đắng đã chết thật rồi không?

- Người Do thái không thể lấy trộm xác ông ta sao?- Ồ! Nếu thế thì 50 ngày sau đó, khi các Tông đồ bắt đầu

giảng việcThầy mình sống lại, thế nào người Do thái cũng lợi dụng cơ hội đó, đem xác Đức Giêsu ra ánh sáng, để người ta tin chắc các ông bày đặt, gian dối. Sở dĩ họ không làm như thế là vì họ không làm được.

- Cũng có thể ông Giêsu mới ngất đi, chưa chết thật.- Nếu chỉ mới ngất đi, thì thuốc thơm trong mộ cũng làm

chết ngột luôn. Cậu ạ, giả chết cũng khó lắm!-Thôi, cho đi là ông Giêsu đã chết thật. Nhưng làm sao

chứng minh được rằng ông ta sống lại? Cái nút của vấn đề là ở đó.-Trước hết, một sự việc không thể chối cãi, kẻ thiết nghĩa

cũng như kẻ thù của Người đều nhận thấy, đó là: sáng ngày thứ ba, người ta thấy mộ trống, tấm đá đậy mộ cất sang một bên, lính canh bỏ trốn.

- Các đồ đệ có thể lấy trộm xác chứ!

65

Page 66: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Lấy thế nào? Bằng vũ lực ư? Thì lính canh đó; hơn nữa, các ông vốn rất nhát! Tất cả đều bỏ trốn, hất vọng, sợ sệt, ngã lòng, tan tác. Bằng đút lót ư? Các ông nghèo quá, mà có đút lót người ta cũng biết. Bằng mưu chước ư? Lừa được bọn lính ư? Lấy xác giấu đi ư? Nhưng làm sao họ biết mình làm một điều gian dối như thế, mà rồi lại lấy việc Thầy sống lại làm cơ sở cho việc thuyết giáo của mình, và rồi tất thảy đã chết cái chết đẫm máu, nhằm khẳng định sự sống lại của một con người mà từ đây họ không còn hi vọng gì nữa ?

Đàng khác, việc lấy xác như thế giúp ích gì cho các ông? Chỉ làm cho các ông bị truy tố trước pháp luật thôi! Nguyên một việc nghĩ đến điều đó, cũng đã làm các ông thất kinh bạt vía. Khi phải chứng minh Thầy đã sống lại, các ông làm thế nào được?

- Giả sử lính canh ngủ: lấy trộm xác cũng dễ thôi!- Ồ! Chính người ta đã đút tiền cho bọn lính bảo phải nói

như thế. Nhưng, này cậu, chắc cậu cũng phải nhận rằng dựa vào chứng của những người ngủ, thì thật không gì chán bằng chứ!

- Cũng có thể có thủ đoạn gian manh, có đồng mưu chứ! - Đây, trước việc Đức Giêsu sống lại, các người phụ nữ

hoảng hốt bỏ về, họ "không dám nói ra với ai, vì họ kinh khiếp quá". Khi họ kể lại việc đã thấy cho cácTông đồ nghe, thì các ông không tin; các ông tưởng họ "nói sảng". Khi Đức Giêsu hiện đến với các đồ đệ "họp nhau trong phòng kín vì sợ người Do thái" (chà! Đồng mưu mà nhát như thế thì làm nên trò trống gì!), Người đã phải chỉ các vết thương cho các ông! Hai đệ tử trên đường Em-mau, "đôi mắt nhắm lại", nghĩa là họ không nhận ra Chúa, Chúa phải chứng minh là chính Người đó! Giữa một lớp người như thế, thì làm gì có thể có gian trá, đồng mưu!

- Nhưng cũng có thể đây là một trường hợp ảo tưởng tập thể. Cũng có thể là sức tưởng tượng mạnh của một Ma-đơ-len, đã làm cho cả thế giới tin một Thiên Chúa sống lại!

66

Page 67: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Ma-đơ-len mà ảo tưởng ư? Không thể, vì khi Đức Giêsu hiện đến với chị trong vườn, chị có nhận ra Người đâu, chị tưởng đó là người làm vườn, nên chị hỏi: "XácThầy ở đâu, xin chỉ cho biết". Đức Giêsu phải tỏ mình, chị mới nhận ra. Như thế mà bảo là ảo tưởng sao?

- Tất thảy những điều đó chỉ là những lời giải thích bông lông. Cháu có thể dẫn những sự kiện không?

- Đây, một sự kiện: việc Đức Giêsu sống lại đã được khắc sâu vào tâm trí cácTông đồ, đến nỗi các ông lấy đó làm cơ sở cho cả côngcuộc thuyết giáo của mình. Thánh Phaolô tin chắc đến mức đã có thể nói: "Nếu Đức Giêsu không sống lại, thì việc chúng ta tin đạo là luống công vô ích và chúng ta là những kẻ khốn khổ nhất loài người!" Mặt khác, sau khi sống lại, Đức Giêsu đã hiện đến với 12 Tông đồ, với trên 500 người một lúc. Không những các người đó chưa tin ngay, mà phần đông cũng đã làm như Rơ-năng, nghĩa là cho những người phụ nữ đạođức ở mộ thánh về kể lại, là ảo tưởng, là nói sảng. Các ông chỉ đầu hàng trước một thực tại rõ ràng, đủ sức thuyết phục. Cậu cũng biết thánhTôma đòi phải có như thế nào mới tin...

- Phải, vì đòi như thế nên ông ta bị coi là điển hình cứng lòng tin.

- Cứng lòng tin, nhưng rồi đã phải đầu hàng trước sự thật và về sau đã đổ máu làm chứng việc đó. Không lẽ cậu cho 11 Tông đồ, 500 người đã thấy Đức Giêsu, cũng như thánh Phaolô là một tập thể ảo tưởng sao? Nào cậu có nhận thấy nơi những người đó một dấu vết trí óc mất thăng bằng không?

- Nhưng trí óc người ta dễ bị ảo tưởng lắm. - Cậu này, cậu có học tâm lí một ít, thế nào cậu cũng phải

biết rằng muốn có ảo tưởng, thì trước hết phải có những hình ảnh đã được ghi vào não đã; rằng bao giờ thì điểm xuất phát của ảo tưởng cũng là những hình ảnh đã biết, chính mình đã sống những

67

Page 68: Cậu cháu nói chuyện đạo

cái đó. Vậy mà nơi các Tông đồ và môn đệ, không có sự chuẩn bị trực tiếp cần cho ảo tưởng đó.

- Dầu sao, có phải cháu tin ông Giêsu sống lại là dựa vào chứng của các Tông đồ và môn đệ không?

- Đúng thế.- Cháu cho chứng đó đã đủ?- Hoàn toàn đủ.- Cậu thấy cháu dễ tin quá!- Nhưng cháu xin hỏi cậu: khi một sự kiện đã được những

nhân chứng trực tiếp nhất trí khẳng định, thì có thể coi là nó đã được chứng minh đầy đủ chưa?

- Trường hợp này có phải như thế đâu!- Phải chứ! Những chứng đó, chúng ta biết được nhờ các Tin

mừng. Mà Tin mừng được viết vào những thời kì khác nhau, bởi những người có chủ đích riêng, kể lại các sự việc theo cách thế riêng, dường như chỉ có mình họ mà thôi. Vậy mà nội dung hoàn toàn hợp nhau: việc thấy mộ trống, việc xác chết sống lại và các lần hiện hình. Sau hết, các Giáo hội Kitô đều đã nhất trí ưng nhận, tin, dùng 4 Tin mừng, công nhận một cách tự phát, không ai tính chuyện bắt bẻ, công kích cách nào.

- Phải chăng người ta không thể thừa nhận giả thuyết cho là lừa dối hay gian lận?

- Nếu chỉ có một nhân chứng thôi, thì điều đó cũng có thể; dù vậy, cũng còn phải kiểm tra kĩ lưỡng. Còn ở đây làm sao cả 500 người lại có thể đồng tình với nhau bịa ra một việc gian dối như thế, mà rồi về sau không bị tiết lộ cách nào cả? Mà lừa dối làm gì? Chỉ để được cái kết quả là bị bách hại thôi.

- Nhưng việc ông Giêsu sống lại đã gây được hậu quả thực tiễn nào chưa?

- Có chứ! Hậu quả của niềm tin đó, là cũng một trật xảy ra ba sự biến đổi: biến đổi nơi các Tông đồ, biến đổi nơi cư dân Giêrusalem và biến đổi nơi kẻ thù của Đức Giêsu (Luận cứ cuối

68

Page 69: Cậu cháu nói chuyện đạo

cùng này rút ở các bài diễn thuyết của Cha Pi-na đơ la Bu-lay,1930).

- Nói như thế có nghĩa là thế nào?- Biến đổi nơi các Tông đồ: mới hôm qua, các ông rã rời

tuyệt vọng; thế mà hôm nay, các ông bắt đầu rao giảng việc Thầy sống lại. Suốt 12 năm, các ông đem công bố tại chỗ sự kiện đó, công bố trước mặt những quan toà có khả năng bắt bẻ phi bác các ông hơn cả, công bố trước mặt những kẻ đã nhúng tay vào cái chết của Đức Giêsu; và các ông làm như thế với một thái độ kiên cường đến mức dù tù tội, dù cái chết, dù voi giày ngựa xé cũng không thể bắt các ông thinh lặng được.

Biến đổi nơi cư dân Giêrusalem. Hôm Đức Giêsu chết, đám đông nhát đảm, để mặc người ta thực hiện tội ác tầy trời đó. Năm mươi ngày sau, ngay giữa Thành thánh, có hàng ngàn người trở lại, một Giáo hội được hình thành, làm hạt nhân cho Kitô giáo.

Biến đổi nơi kẻ thù của Đức Giêsu. Mới hôm qua, họ liều lĩnh đòi Philat trao nạn nhân cho họ; vậy mà sau lễ Năm Mươi, họ chỉ còn là những con người yếu đuối sợ sệt. Họ im hơi lặng tiếng. Họ cảm thấy mình bại trận.

Ba sự biến đổi đó, nếu Đức Giêsu không sống lại, thì cậu giải thích thế nào được? Các đồ đệ Đức Giêsu lấy lại can đảm, quần chúng trở lại, kẻ thù của con người bị thập hình bổng trở thành bất lực, dù họ rất để tâm vạch trần sự gian dối. Đó là ba sự kiện không ai phủ nhận được.

- Bị kích thích thần kinh một lúc, cũng có thể biến dổi như thế.

- Một sự kích thích thần kinh chốc lát không thể làm được như thế, vì nó vắn vỏi quá. Đàng khác, các Tông đồ không phải là những người nóng nảy; bản tính các ông bình tĩnh, ôn hoà, thiếu tự tin. Đã 19 thế kỉ nay, người ta nêu hết giả thuyết này đến giả thuyết khác để tránh khỏi phải đi đến kết luận. Nhưng không giả thuyết nào đứng vững được. Và nếu cậu cho phép, cháu sẽ kết thúc bằng nêu lên đây một lưỡng đao luận để cậu suy nghĩ: hoặc

69

Page 70: Cậu cháu nói chuyện đạo

là Đức Giêsu đã sống lại thật và như thế thì Người là Thiên Chúa và đạo Người bởi Thiên Chúa; hoặc là Người không sống lại và như thế sự kiện việc tôn thờ Người được truyền bá khắp thế giới, mặc cho những trở lực xét về mặt loài người là không thể lướt thắng được, cũng như bao mưu mô thủ đoạn xảo quyệt nhất, chỉ riêng việc đó đã là một phép lạ lớn lao nhất. Đàng nào cậu cũng không phủ nhận được yếu tố thần tính.

Chương VIIViệc thiết lập đạo Kitô

- Hôm trước, cháu đã để cậu ra về với vẻ đăm chiêu suy nghĩ. Hôm nay, cháu sẽ làm cậu phải suy nghĩ nhiều hơn, bằng cách dẫn ra đây một sự kiện phi thường, không thể giải thích được, nếu không nhận là phép lạ, nghĩa là việc do Thiên Chúa thực hiện.

- Lại phép lạ! Cháu cũng biết cậu không thừa nhận phép lạ.- Sẽ có ngày chúng ta trở lại vấn đề đó. Hiện giờ, luận cứ của

cháu thế này: hoặc là đã có những phép lạ rõ ràng, được thực hiện để hoán cải thế giới, và như thế thì đạo Kitô là bởi Thiên Chúa; hoặc là không có phép lạ và như thế thì việc hoán cải thế giới mà

70

Page 71: Cậu cháu nói chuyện đạo

không cần đến phép lạ lại là phép lạ lớn hơn mọi phép lạ, vì trái hẳn qui luật của trật tự tinh thần.

- Bao giờ cháu cũng cố đẩy cậu vào kẹt giữa những lưỡng đao luận!

- Sao cậu lại lẩn tránh những câu lưỡng đao luận? - Thế nghĩa là cháu quyết rằng việc thế giới theo đạo Kitô là

một phép lạ?- Có lẽ là phép lạ lớn nhất. Ở đây không cần lập luận theo

triết học, chỉ cần mở mắt nhìn và giở xem lịch sử.- Cứ nói đi nào!- Trước tiên, việc đạo Kitô được truyền bá là một sự kiện

không thể chối cãi. Ngay từ thế kỉ đầu, người ta đã thấy nó du nhập vào Pa-let-xtin, vào Tiểu á, Xi-ri, Rôma, Hi lạp, Ma-sê-đô-ni-a. Năm 250, chỉ riêng thành Rôma, đã có 30 ngàn tín đồ; 50 năm sau, có 90 ngàn. Quãng 197, Téc-tuy-liêng viết: "Chúng tôi chỉ mới xuất hiện hôm qua, mà chúng tôi đã choán khắp đế quốc của Bệ hạ, choán khắp các đô thị, công viên, phòng họp, chiến trường, lâu đài, nghị trường, Nguyên lão viện; chúng tôi chỉ để lại các chùa chiền cho Bệ hạ. Nếu chúng tôi rút khỏi nước của Bệ hạ, thì Bệ hạ sẽ phải khủng khiếp vì thấy mình cô độc; Bệ hạ sẽ rùng mình kinh hãi ra như cả thế giới đã chết."

Nếu tính ở thế kỉ 20 này, thì hiện có gần 700 triệu kitô hữu (kể cả lạc giáo). Việc đạo Kitô được truyền bá là một sự kiện không thể chối cãi được.

- Được, hãy thừa nhận điều đó.- Nhưng đối với một sự kiện, chỉ thừa nhận thôi chưa đủ; còn

phải tìm hiểu những nguyên nhân gây nên sự kiện đó nữa.- Dễ hiểu thôi! Một cái mới; một nền luân lí đẹp, tự nhiên

người ta chạy theo ngay.- Không. Xin để cháu sắp đặt cho thứ tự xem. Những trở lực

đạo Kitô gặp phải trên đường tiến, thật là bao la to tát.

71

Page 72: Cậu cháu nói chuyện đạo

1/ Người Do thái không thích. Đạo Kitô nên như cái bia cho cho họ vấp phạm. ồ! Người ta định bắt họ thờ ông Giêsu mà họ đã đóng đinh. Vì thế, họ truy lùng người kitô hữu một cách như điên như dại.

2/ Người ngoại giáo thì cho Kitô giáo là một "sự điên rồ". Đạo Kitô bắt họ tin những cái họ không thể quan niệm được: các mầu nhiệm. Đạo Kitô muốn rằng chính họ cũng phải thờ lạy một người Do thái, một người thợ mộc bị nhà chức trách trong nước mình giết chết; rằng Xêda phải kể mình ngang hàng với nô lệ trước mặt Thiên Chúa; đạo ấy bắt các đam mê phải tuân cứ những luật lệ luân lí khắc khổ, kêu gọi người ta đấu tranh với tính kiêu căng, tính hà tiện, tính ham mê nhục dục, là 3 tên trùm của thế giới. Như thế nghĩa là đối lập với nó, là những mê tín dị đoan trong quần chúng, là sự hăm hở chạy theo những sai lầm, là lòng kiêu căng của các triết gia, sự phóng túng về phong hoá, uy lực của Xêda, lòng độc ác của các bạo vương. Tóm lại, là tất thảy mọi lực lượng của trần gian và hoả ngục hợp lại.

3/ Nhìn qua tình hình thế giới ngoại giáo hồi đó, người ta thấy gì? Một Vạn-thần-miếu đầy ắp thần tượng; gia đình đồi truỵ; thói mãi nô tàn bạo; những tục tế tự dâm ô nghe mà nôn mửa; những trò chơi ở hí trường. Chính Rơ-năng cũng đã viết: "ở Rôma hồi đó, tất thảy mọi nết hư được phô trương một cách trơ trẽn đến làm người ta nổi tức không chịu được; những trò vui đã làm đồi bại phong hoá một cách gớm ghiếc. Những tầng lớp đê tiện trong nhân loại chiếm ưu thế. Tinh thần thác loạn và độc ác tràn ngập nơi nơi, khiến Rôma hồi đó không khác gì một cống rãnh hôi thối, một trung tâm đầu độc, một địa ngục!" Thế mà chính trong cái cống rãnh hôi thối đó, trong địa ngục đó, đạo Kitô đã có thể nảy mầm, phát triển và từ đó lan tỏa khắp thế giới.

- Cũng vì sống ở một xã hội gớm ghiếc như thế, nên người ta hồi đó mới mơ một tôn giáo tốt hơn.

- Cậu ạ, cậu lí luận như một người mang 20 thế kỉ Kitô giáo trong mạch. Nhưng dễ chừng cậu tin rằng những con người đã đồi

72

Page 73: Cậu cháu nói chuyện đạo

truỵ, đã hư hỏng vì một nết hư như thế, lại sẵn sàng theo một tôn giáo khắc khổ như đạo Kitô sao? Cậu hãy chọn lấy một người trong xã hội hồi đó, rồi bảo họ từ bỏ nết hư, sân khấu, trò chơi, đoạn tuyệt với dĩ vãng mình, với môi trường mình đang sống và thực hành những đức tính anh hùng vượt quá sức loài người, ăn ở thanh tịnh, khiêm tốn, dịu hiền, tha thứ kẻ thù và vì đạo mới đó mà đương đầu với những cực hình ghê tởm nhất, cả cái chết nữa.... Cậu có đoán được họ sẽ trả lời cậu thế nào không?

- Ai mà biết được!- Thế thì xin cậu hãy thử xem! Cậu hãy ra bãi biển, chọn lấy

12 người đánh cá, sống với họ 3 năm, dạy cho họ một đạo mới, đến một ngày thứ sáu nào đó liệu cho người ta giết mình đi; đến chủ nhật, cậu hãy làm cho mình sống lại; rồi cậu phái 12 người đánh cá đó đi tuyên truyền đạo của cậu trong thủ đô Pa-ri này, sau đó trên khắp thế giới. Cậu sẽ thấy!

- Cháu nhạo đấy chư! - Không, cháu chỉ lấy những sự kiện xảy ra hồi đầu mới có

đạo Kitô đem đặt vào thế kỉ hai mươi này thôi.- Nhưng 12 Tông đồ của ông Giêsu là những bậc thức giả.- Cậu cũng biết là không phải như thế. Đó chỉ là 12 người

đánh cá, như mọi người thường dân khác, thô lỗ, dốt nát, nghèo xác xơ, không có tài hùng biện, không một chút ảnh hưởng, không được hưởng một sự bảo trợ riêng nào, không thế lực nào! Phê-rô chối Thầy, Giuđa bán Thầy; các ông khác thất kinh bạt vía, bỏ chạy mỗi người một ngả! Trên đường tới Vườn Dầu hấp hối, họ còn cãi nhau ai là người trọng nhất. Như thế mà cậu cho rằng họ có khả năng đảm đương cái công tác kinh thiên động địa, siêu nhân loại như chúng ta thấy sao?

- Cũng có thể vì say mê mà họ làm được như thế.- Nếu say mê thì lúc đứng trước những khó khăn không thể

khắc phục trong công tác, trước những cực hình và cái chết, họ cũng không thể say mê được nữa. Đừng phủ nhận, cậu ạ. Tốt hơn, cậu hãy khâm phục Đức Giêsu, Đấng coi khinh sự khôn ngoan

73

Page 74: Cậu cháu nói chuyện đạo

loài người, muốn làm tất cả mọi sự mà không cậy dựa vào cái gì cả và để tỏ rõ thần tính mình hơn, đã sử dụng những phương thế trái ngược hơn cả với mục tiêu định đạt cho được. Khi Thiên Chúa định làm một cái gì, Người liệu cho mọi sự bất lực, rồi Người mới ra tay hành động.

- Nhưng tình hình xã hội Rôma hồi đó cũng tạo nên những vận may cho sự thắng lợi đó. Phải. Nền chính trị thống nhất trong cả đế quốc, khắp nơi thái bình an lạc, mọi miền nói một tiếng Hi lạp như nhau, đường sá vô số: tất cả những cái đó rất thuận tiện.

- Nhưng chưa đủ để bắt đầu óc người ta cúi mình trước những mầu nhiệm của Tín lí, nhất là bắt tâm hồn và lòng muốn người ta tuân cứ những khắc khổ của luân lí Kitô giáo.

Bây giờ như thế là chúng ta đã thấy sự kiện rồi, thì xin cậu giải thích cho cháu xem: làm sao những người đánh cá tồi tàn kia lại trở thành những Tông đồ chinh phục linh hồn người ta? Giăng Giắc Rút-xô sẽ trả lời cậu: "Lịch sử những thời kì đầu của đạo Kitô là một sự lạ liên lỉ". Bay-lơ thì nói: "Việc đạo Kitô bành trướng trên thế giới là việc của Thiên Chúa".

- Nhưng chính Ma-hô-mét đã chẳng truyền bá đạo của ông ta với một tốc độ ghê gớm đó sao?

- Giữa hai trường hợp có những điểm khác nhau rất rõ. Đức Giêsu truyền kẻ tin đạo Người phải giữ một thứ luân lí khắc khổ; Ma-hô-mét, trái lại, cho người ta giữ một thứ luân lí phóng túng... Đức Giêsu truyền bá đạo Người bằng hiền hoà; Ma-hô-mét, bằng vũ lực: "Một là tin, hai là chết". Đức Giêsu đã gặp phải một nhân loại rơi tận đáy vực thẳm ti tiện và phản động; Ma-hô-mét gặp được một môi trường đã chuẩn bị sẵn. Sau hết, Ma-hô-mét truyền đạo bằng vũ lực; còn Đức Giêsu, Người truyền đạo bằng hi sinh mạng sống mình và liều mạng sống những người thuộc về mình. Khác nhau như vậy thì so sánh làm sao được!

- Nhưng tâm hồn người ta hồi đó cũng đã tương đối sẵn sàng để tiếp thụ một giáo lí mới khả dĩ giải thoát họ khỏi sự trống rỗng trước mắt chứ!

74

Page 75: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Thì hãy giả sử có một người Rôma đã được chuẩn bị sẵn sàng về tâm lí. Anh nghe thánh Phê-rô giảng. Anh thấy đạo Kitô đẹp đẽ. Anh theo đạo. Nhưng cho được theo đạo, anh phải hi sinh cả sự độc lập suy nghĩ của anh, vì rồi nó phải tiếp thụ các mầu nhiệm, cả sự tự do ý chí, vì phải ưng nhận những yêu sách của một nền luân lí cao cả nhưng khắc khổ. Trở lại đạo Kitô không phải là cởi áo cũ để mặc áo mới; mà chính là suốt một đời, phát động một cuộc cách mạng thực sự, kéo theo những hậu quả rất sâu đậm, nói được là như tạo nên trong mình một bản tính thứ hai. Mọi người trở lại Kitô giáo đều mang dấu vết của sự đoạn tuyệt với cái cũ, để chiết ghép vào đạo mới đó. Vậy xem xét tất thảy những cái người Rôma đó phải từ bỏ và tất thảy những cái mới anh phải tạo nên trong mình, liệu cậu có tin rằng sẽ có đủ vận may để đưa anh ta đến với đạo Kitô không?

- Kể thì cũng gay đấy!- Vậy mà, - và đây là điều cháu có ý nói, - việc mà người ta

khó mà làm được nơi một người có nhận thức cao như thế, các tông đồ đã làm được nơi một đại khối chưa được chuẩn bị gì cả: đó là những người Do thái vừa giết hại Chúa, những người Hi lạp kiêu căng và hay thay đổi, những người Rôma đắc chí vì uy quyền của mình, những người ngoại giáo đã rơi xuống hàng thú vật...

Nếu cậu để ý thêm điều này, là đạo Kitô đã phải trong cũng một trật vừa đánh bại những thói mê tín dị đoan ngàn đời nơi dân hèn, vừa lấn át những thành kiến ngoan cường nơi hạng thượng lưu; thuyết phục cả người tự do lẫn người nô lệ, người thức giả cũng như kẻ dốt nát, người văn minh cũng như dân man di, thì không những cậu sẽ phải bỡ ngỡ, mà cậu còn thất kinh bạt vía nữa. Ở đây, hiệu quả vượt quá những nguyên nhân tự nhiên mà con người tưởng tượng ra và nghiệm xét. Nếu tập họp tất thảy các trở lực lại trong một cái nhìn bao quát, như đã có trong thực tế, thì người ta thấy rằng đạo Kitô đã phải đương đầu với sự liên minh của tất thảy mọi lực lượng trong xã hội: quyền bính và dư luận, học thức và thành kiến, chính trị và triết lí. Bên cạnh những sức

75

Page 76: Cậu cháu nói chuyện đạo

lôi cuốn mạnh mẽ, đạo Kitô còn mang ngay trong mình không biết bao nhiêu căn cớ yếu đuối nơi những kẻ truyền bá nó, cũng như không biết bao nhiêu lí do làm người ta gớm ghét trong giáo lí và luân lí của mình. Xin cậu hãy kết luận đi. Đây cũng vậy, chúng ta đứng trước một công trình siêu nhân loại, một công trình mà chỉ mình Thiên Chúa thực hiện được .

- Cháu có tài làm đảo lộn tư tuởng người ta!- Ồ! ước gì cháu có thể làm đảo lộn cả những vật cản cuối

cùng và làm lung lạc cả những vấn nạn còn lại của cậu. Bởi vì cậu nên biết: một con người có thể tin rằng tất cả những cái đó đã xảy ra mà không cần một sự can thiệp siêu nhân nào, con người đó có lòng tin mạnh hơn là lòng tin cần có để tin đạo Đức Giêsu. Con người như thế chỉ vì quá dễ tin mà không chịu tin đạo.

Chương III

Chứng máu

- Nào cậu, cậu suy nghĩ như thế nào rồi?- Cháu đã phần nào làm lung lạc những nguyên tắc của cậu.

Tuy chưa phục lẽ, nhưng cậu đã thấy rõ hơn; cậu tìm hiểu, cậu còn đọc sách nữa; không phải để tìm vũ khí cho bằng để thông tỏ vấn đề. Ô! Giá mà tất thảy những người vô tín như cậu đều có bên mình một đứa cháu gái hiếu chiến như cháu, dũng cảm như cháu và nhiều hiểu biết như cháu (cậu không nói thông thái), thì chắc là không mấy kẻ chịu nằm khèo trong cuộc sống vô vị và rỗng tuếch của những người tự xưng là vô thần có xác tín như thế!

- Ồ! Cám ơn cậu. Như thế là cháu đã bõ công vất vả lắm rồi, vì thú thật với cậu, từ ngày cậu cháu chúng mình mở đầu cuộc

76

Page 77: Cậu cháu nói chuyện đạo

tranh luận về tôn giáo này, để tìm chứng cứ, cháu đã phải đọc lại các tài liệu ghi được hồi ở học hiệu, rồi bổ sung vào (vì những tài liệu đó sơ sài quá); cháu đọc sách, cháu nghiên cứu, làm việc cả ngày, có khi suốt đêm. Cậu đừng nói với ai nhá, nhất là với ba cháu!

- Dại gì thế! Vì chẳng qua cũng vì cậu, vì lợi ích của cậu, mà cháu làm việc nhiều như thế.

- Hôm nay, cháu thêm một luận cứ nữa về thần tính của Đức Giêsu. Luận cứ này cũng mạnh lắm và cậu có thể gặp ngay trong lịch sử. Đó là chứng của các Đấng Tử đạo. Đối với một đầu óc không bị vẫn đục vì thành kiến, thật là một phép lạ tinh thần rất có sức thuyết phục, cảnh tượng một đại khối hằng hà sa số trẻ em, phụ nữ, đàn ông, cụ già, binh lính, kẻ nghèo, người giàu, hăm hở chạy ra đón lấy những cực hình ghê rợn nhất, với một thái độ anh hùng trước sau như một. Phải, họ xông vào cái chết như đàn ong bay về tổ, đến nỗi đôi lúc, các linh mục phải ngăn họ lại. Và cháu xin nói thế này: 1/ Nếu không có một phép lạ hiển nhiên, thì đã không có những anh hùng tử đạo; 2/ Máu các anh hùng tử đạo đã thành hạt giống trổ sinh tín hữu Kitô. Điều này cũng làm đảo lộn những qui luật tâm lí.

- Có thật đông như thế không? Phải chăng người ta đã không lấy một vài trường hợp cá biệt mà khái quát lên?

- Cậu nên biết rằng những cuộc bách hại đầu tiên đã kéo dài gần 3 thế kỉ, tuy mức độ mạnh yếu có khác nhau tuỳ giai đoạn và tuỳ vùng; rằng những cuộc bách hạị đó diễn ra khắp nơi trên thế giới mà người ta biết được hồi đó; rằng sắc lệnh bắt bớ kitô hữu mà các Xê-da ban hành, chưa bao giờ bị bãi bỏ hẳn; rằng ngay cả những thời kì bách hại tạm ngưng, hễ có ai nộp một tín hữu Kitô, thì buộc các quan toà phải thi hành sắc lệnh đó. Như thế, cậu có thể kết luận rằng con số đó nhiều vô kể.

- Chừng mấy trăm?- Theo các văn sĩ trong Giáo hội, chỉ tính 3 thế kỉ đầu, đã có

hàng triệu.Và đây, cháu xin dẫn chứng của những nhà văn ngoại

77

Page 78: Cậu cháu nói chuyện đạo

giáo. Ta-xit nói: Thời Nê-rô, có vô vàn tín hữu Kitô phải chết". Pơ-lin Lơ Giơn nói: "Có đông đảo người, già có, trẻ có, giàu có, nghèo có, nam có, nữ có, bị gọi ra toà vì thứ tà giáo Kitô mà họ theo". Sen-xi-ô viết: "Thời Mác-cô Au-rê-li-a-nô, người ta truy lùng tín hữu Kitô mọi nơi trong đế quốc, để giết chết". Lăc-tăng-xơ: "Chính mắt tôi đã thấy cả một thành phố Kitô giáo bị thiêu huỷ, mọi người trong đó đều chết". Chắc cậu còn nhớ đạo binh Tê-ba-it: cả một vạn lính bị giết một trật. Thời Đi-ô-cơ-lê-xiêng, số tử đạo đông đến nỗi sau này người ta tìm được một đồng tiền có khắc mấy tiếng: "Ghi nhớ việc hủy diệt danh từ kitô hữu". Muốn huỷ diệt như thế, nhất định người ta đã phải gây ra những vụ tàn sát máu chảy thành sông, xương chất thành núi, tuy rồi cũng chả kết quả gì.

- Thời gian đó là bao lâu?- Người ta đã tính những vụ bách hại đó kéo dài 6 năm trong

thế kỉ đầu, 86 năm trong thế kỉ II, 24 năm trong thế kỉ III và 13 năm đầu thế kỉ IV. Như thế nghĩa là hồi đó, Giáo hội trải qua 129 năm bị bách hại.

- Người ta chịu được như thế là vì cuồng tín.- Không. Các anh hùng tử đạo đã giữ được mức trung dung:

không sợ hãi đâm ra bạc nhược, cũng không liều lĩnh hoá say mê. Nét đặc trưng của tử đạo Kitô giáo là ngược lại với cuồng tín: các ngài bình tĩnh, chín chắn, sẵn sàng tranh biện về đạo mà mình tin. Nơi các ngài, không hề có dấu vết gì là bệnh hoạn hay bị kích thích quá độ. Đồng ý là có một ít kẻ vì nhiệt tín mà sa vào tình trạng cuồng tín đáng trách đó; nhưng cả cái đại khối bao la không hề vì cuồng tin mà hi sinh như thế. Cậu chỉ cần đọc bài kể việc các ngài chịu chết vì đạo thì rõ. Kẻ cuồng tín là kẻ kiêu căng, sắp chết còn kêu gọi trả thù; là kẻ bạo động, kẻ phản loạn dã man; kẻ cuồng tín hăng hái vì một ý đồ đen tối và tàn bạo. Người cuồng tín, nếu có thể, họ sẵn sàng giết chết kẻ khác để tự vệ; còn vị tử đạo Kitô giáo sắp tắt thở vẫn cầu cho kẻ giết mình.

- Biết đâu là lòng ham danh vọng!

78

Page 79: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Ồ! Thôi, đừng nói đến chuyện đó. Tất thảy các vị tử đạo đều chết như những người dân thường, nhiều khi chết âm thầm trong ngục tối, không ai biết. Thử hỏi những em bé kia, những người đàn bà thấp hèn kia, những cụ già lụ khụ kia có thể cầu cái danh vọng gì? Cậu vào các hang Toại đạo mà xem: trong 20 trường hợp, có đến 19 trường hợp chỉ có một cành dừa, một lọ máu cho biết đó là mộ một vị tử đạo. Không có tên tuổi gì hết.

- Thì chẳng qua cũng chỉ phải khổ trong giây lát thôi.- Chà! ước gì cậu lâm vào cảnh đó, thì cậu sẽ biết! Đành rằng

cũng có người phải cực hình không lâu; nhưng trong vô số trường hợp, cực hình kéo dài, dữ dằn, ghê gớm, khủng khiếp. Chỉ nghe kể lại thôi, cũng đã rởn cả tóc gáy lên. Cậu muốn rõ những điều đó, xin đọc lịch sử giáo hội những thế kỉ đầu.

- Nhưng tất thảy mọi tôn giáo, mọi chủ nghĩa, dù là tôn giáo chủ nghĩa kém giá trị, cũng đều có thể có những "tử đạo" của họ: Hồi giáo, Ấn độ giáo,Tin lành, Hư vô thuyết...

- Vấn đề không phải ở đó. Cái hiện tượng tâm lí và xã hội độc nhất, dị thuờng, đòi phải do Thiên Chúa mà ra mới hiểu được, cái hiện tượng đó không ở tại một ít trường hợp cá biệt, như gặp thấy nơi các tôn giáo khác; mà ở nơi hằng hà sa số con người chịu đựng những cực hình ghê gớm nhất với một chí nhẫn nại anh hùng. Chưa hề có đạo nào cho thấy một đặc điểm anh hùng chủ nghĩa thuần tuý, hào hùng, phổ biến, lạc quan, dẻo dai, bền bĩ như thế để toàn bộ những tính chất đó làm thành một bằng chứng cho tính siêu việt của giáo lí đạo mình.

- Tất thảy những chuyện đó toàn là chuyện xưa cả!- Ồ! Sau 3 thế kỉ bị dìm trong máu, cuối cùng đạo đã có thể

thở ra khoan khoái, thì lúc đó thời kì bách hại cũng chấm dứt. Nhưng từ ấy đến nay, trong Giáo hội không bao giờ thiếu vắng bằng chứng của máu. Khi nơi này, khi nơi khác trên mặt địa cầu. Thế kỉ 5, tử đạo ở Ba tư: trên 16.000; tử đạo do tất thảy các lạc giáo, không biết bao nhiêu mà kể; rồi tử đạo trong các cuộc bách hại ở Xcăng-đi-na-vi, ở Iêc-lăng-đơ; tử đạo do bè Can-vanh; tử

79

Page 80: Cậu cháu nói chuyện đạo

đạo do các cuộc bách hại của Anh giáo; tử đạo thuộc dòng Phan sinh ở Ma-rốc năm 1220; ở Pa-let-xtin, ở Tuếc-két-tăng năm 1342; tử đạo nô lệ Kitô giáo ở Bác-ba-ri; tử đạo Ba lan thế kỉ 19; tử đạo linh mục thời kì Téc-mi-do và Chấp chính viện; 8.000 tử đạo Triều tiên giữa 1866 và 1870; 3 vạn tử đạo Nhật bản năm 1624; tử đạo Việt nam từ 1745 đến 1883: 15 thừa sai, 123 thày giảng, 270 nữ tu và 37.784 giáo hữu; 10 vạn tín hữu bị thảm sát ở Mi-do-rơ; tử đạo ở A-bit-xi-ni thế kỉ 18; tử đạo ở U-găng-đa năm 1855; hàng ngàn tín hữu Trung hoa bị giết trong cuộc khởi nghĩa Nghĩa hoà đoàn năm 1900...

Kể như thế, tuy chưa thấm vào đâu, nhưng cũng đã đủ để cho thấy rằng máu tiếp tục chảy và sẽ còn chảy mãi, như Đức Giêsu đã tiên báo; đồng thời cũng đủ để bức cậu phải thừa nhận rằng: "chỉ có những chủ nghĩa nào không có người chết cho, mới diệt vong!"

- Nhưng chết như thế là điên!- Đúng là điên! Mà đây lại là một phép lạ nữa, vì cái qui luật

của mọi công trình loài người, là muốn thành đạt, thì những kẻ chủ trương phải sống để nâng đỡ, bảo vệ chúng. Chỉ có đạo Kitô vẫn sống, trong khi những tay thợ xây nên nó đã chết; nó được thiết lập chính trên cái chết của họ; nó nảy mầm và phát triển chính trong máu họ. Hiểu thế nào được việc những người vô đạo, vì thấy các vị tử đạo chịu những cực hình ghê tởm mà theo đạo? Làm sao tất thảy những vị tử đạo đó đã có thể chiến thắng trong khi ngã xuống?

- Nhưng bí quyết của những chiến thắng siêu nhân đó là gì?- Nếu cậu hỏi các vị tử đạo, các ngài sẽ bảo đó là vinh quang

Đức Giêsu. Cậu hỏi các tín hữu thời đó ư? Họ sẽ trả lời cậu như Téc-tuy-liêng: "Trong vị tử đạo, có Chúa Kitô!" Hỏi những người ngoại giáo tham dự những vụ hành quyết ư? Họ sẽ khó mà phủ nhận có một sức diệu kì nào đó thu hút họ khi trông thấy những vị anh hùng đó. Dù sao, họ cũng đã không thể không tôn trọng một tín ngưỡng mà vì đó một người vui lòng hi sinh tính mạng mình. Tính chất công khai của việc tử đạo không những không làm

80

Page 81: Cậu cháu nói chuyện đạo

người ta mất nhuệ khí, mà trái lại, chỉ có thể đánh động và cải hoá tâm trí mọi người. Riêng về những kẻ hành hình các tử đạo, đôi lúc nhân đức và dũng khí của các ngài làm họ thất điên bát đảo và trở lại đạo. Sự kiện lịch sử là như vậy. Nó chứng tỏ có một sự can thiệp siêu nhiên.

- Nhưng sức loài người lên đến độ chót cũng có thể làm những việc phi thường.

- Dù sao, anh hùng bao giờ cũng là đặc hữu của một số ít người; anh hùng không phải tự nhiên ai cũng có. Vậy một khi người ta đã nhận thấy có anh hùng nơi những đại khối đông đảo, nơi hàng triệu con người, thì muốn giải thích, phải chạy đến một cái gì không phải là một mình sức lực con người. Do đó, cậu ạ, cậu hãy hình dung cái "đại khối nhân chứng" đó đang diễu qua trước mắt cậu, cậu sẽ nghe từ môi miệng đẫm máu của các ngài thốt ra câu nói sau đây, đánh tan mọi vấn nạn, dẫu bề ngoài có lí mấy: "Phải tin một tôn giáo mà những người làm chứng tôn giáo đó để người ta giết đi vì tôn giáo mình".

Chương IX

Giáo hội vẫn đứng

81

Page 82: Cậu cháu nói chuyện đạo

Thưa cậu, vì hôm nay cháu không thể đến gặp cậu, nên cháu xin gửi thư này đến với cậu. Trong thư này, cậu sẽ thấy một luận cứ cuối cùng làm chứng Đức Giêsu là Thiên Chúa và Giáo hội Người là bởi Thiên Chúa.

Luận cứ thế này: Trải 20 thế kỉ, Giáo hội đã kinh qua những tai biến nghiêm trọng, không còn hi vọng thoát khỏi; Giáo hội đã bị tấn công trong ngoài bởi tất thảy mọi lực lượng hợp lại; Giáo hội đã chịu những cuộc bách hại, những quấy phá của các li giáo, lạc giáo và những xâm phạm của phần đời. Vậy mà cũng đã 20 thế kỉ, Giáo hội vẫn đứng, vẫn tồn tại, không nhờ một sức nâng đỡ nào bên ngoài, trái với mọi dự đoán của loài người. Nếu không thừa nhận có một Thiên Chúa bảo vệ Giáo hội, duy trì, làm cho Giáo hội "đứng" được, thì phải nói sự vững bền kì diệu đó là một điều không thể hiểu.

Do đó, chúng ta hãy tìm hiểu thiên anh hùng ca bất hủ là lịch sử tồn tại của Giáo hội đó.

1/ Giáo hội đã gỡ mình thoát khỏi ảnh hưởng của Do thái giáo, hòng nuốt chửng nó ngay trong trứng nước. Biết rõ Giáo hội phôi thai có nguy cơ bị Do thái giáo thôn tính, tất thảy các Tông đồ đều từ bỏ đạo đó, theo lời yêu cầu của hai thánh Phê-rô và Phaolô.

2/ Giáo hội còn măng sữa, phải trôi nổi trên một biển máu ròng rã 3 thế kỉ. Những cuộc bách hại nói trên thỉnh thoảng xảy đến nhằm dìm nó, tiêu diệt nó bằng mọi giá. Thế nhưng, rồi Công-xtăng-ti-nô đã cho thêu huy hiệu của Giáo hôị từng bị hạ nhục lên cờ hiệu của mình! Và nhà vua trở thành người bảo hộ các tín hữu Kitô.

3/ Sự liên đới không như ý. Thừa hưởng những di sản to tát của ngoại giáo thuyết và được sự bảo trợ của đế quốc, Giáo hội tiến tới. Thế nhưng một nguy cơ đang chờ đón Giáo hội. Là người liên đới với đế quốc, liệu Giáo hội có sụp đổ cùng với đế quốc hay không? Không. Các giáo hoàng cảnh giác, liều quyết tách mình khỏi đế quốc trước khi nó sụp đổ. Nó sụp đổ...nhưng Giáo hội vẫn sống ngay trên tất thảy những đổ vỡ đó.

82

Page 83: Cậu cháu nói chuyện đạo

4/ Chế độ phong kiến định quốc hữu hoá Giáo hội. Không còn phương thế nào người ta không dùng nhằm đạt mục đích đó, đặc biệt là ban cho các vua chúa "quyền trao nhẫn gậy" (tức là quyền ban các chức tước trong Giáo hội). Do đó, của cải gia tăng mà lòng đạo thì suy đồi. Có những giám mục, những tu viện trưởng sa vào tội mại thánh và hàng giáo phẩm dưới quyền các ngài cũng lao mình theo con đường dốc đó. Người ta thấy có những chủ chiên, vì miếng mồi đó mà lên chức thầy cả và rồi sống một cuộc sống xa hoa, sung túc. Các giáo hoàng thấy rõ nguồn gốc của tệ nạn đó là việc phần đời trao ban các ân bổng Giáo hội. Làm thế nào được? Chống lại ư? Thì tức là gây nên một cuộc giao tranh khủng khiếp giữa Giáo hội với Nhà nước, là làm cho cả cái xã hội giàu sang, có thế lực và dường như nâng đỡ Giáo hội đó trở thành thù địch với mình. Là mở đầu một cuộc chống đối về phía những giám mục thấy Giáo hội mặc nhiên phi bác quyền sở hữu của mình. Vì thế, việc thanh lọc đó cơ hồ chỉ là một ảo tưởng. Vậy mà năm 1122, Thoả ứớc Worms cho phép tự do tuyển chọn các cấp bậc trong Giáo hội. Thế là Giáo hội thoát nạn.

5/ Những giáo hoàng ở A-vi-nhông. Thế rồi xảy đến một thời kì rối ren, chính ngôi giáo hoàng cũng ra như bị lâm nguy. Châu Âu chia thành hai trận tuyến, nhận hai giáo hoàng. Ngay các vị thánh cũng không còn nhận ra đàng nào nữa. Hai giáo hoàng ra vạ tuyệt thông lẫn nhau. Lại thêm một giáo hoàng thứ ba nữa: A-lec-xăng-đơ-rơ V. Thế không phải là sụp đổ đến nơi sao? Không. Dưới triều đại Đức Mác-tanh V, toàn thể Giáo hội thế giới phục quyền một chủ chiên duy nhất.

6/ Sự bảo trợ của thế quyền. Lu-i XIV, Na-pô-lê-ông I muốn độc chiếm giáo hoàng. Nhưng họ không đạt ý nguyện. Tiếp theo là cuộc "Phân quyền" ở Thuỵ sĩ và cuộc "Chiến đấu vì văn minh" ở Đức. Nhưng những cái đó qua đi mà Giáo hội vẫn còn.

7/ Các triết gia, đứng đầu là Vôn-te, đã thề tiêu diệt Giáo hội và "đè bẹp tên xấu xa". Năm 1758, y viết: "hai mươi năm nữa,

83

Page 84: Cậu cháu nói chuyện đạo

Giáo hội công giáo sẽ hết đời". Nhưng đến năm 1778, y chết (đúng 20 năm sau!). Vôn-te không còn nữa, Giáo hội vẫn còn. 8/ Đến lượt Cách mạng Pháp cũng tìm cách bóp chết Giáo hội. Cách mạng đã làm mưa làm gió. nhưng rồi nó cũng đã qua đi, mà Giáo hội vẫn còn.

9/ Bè Tam điểm đã thề ra tay tiêu diệt Giáo hội. Những tên trùm: Găm-bet-ta, J.Fe-ri, Pôn-be, Công-bơ cũng tham lam không kém những bậc tiền bối của chúng thời Cách mạng Pháp. Nghị sĩ Đen-pếch kêu lên: "Người xứ Ga-li-lê đã thắng hai mươi thế kỉ nay, đã đến lúc nó diệt vong, tên Chúa gian dối!" Tất cả những tay đó đã qua và sẽ qua hết. Và Giáo hội kêu mời họ suy ngắm câu nói của cha Ô-li-vi-ê: "Nếu Giáo hội cần có một cái bệ để đứng, thì Giáo hội chỉ cần bước chân lên trên những quan tài mà suốt thế kỉ này thế kỉ khác, Giáo hội đã dùng để chôn thây nhưng người bách hại mình".

10/ Các lạc giáo. Nhưng bên cạnh những tấn công từ bên ngoài đó, còn có những tấn công nghiêm trọng hơn, vì do tự bên trong mà ra. Các li giáo và lạc giáo sớm xuất hiện, mang theo những làn khí độc hại. Nhưng các lạc giáo A-ri-ô, Nét-xtô-ri-ô, Eu-ti-ke, Pê-la-gi-ô và Đo-na-tô chỉ gây được một công hiệu là làm cho giáo lí của Giáo hội mạnh hơn và nhất quán hơn. Thế kỉ 11, li giáo bên Đông; thế kỉ 14, li giáo bên Tây; thế kỉ 16, lạc giáo Tin lành là những cơn bão táp làm rối loạn các quốc gia, các tổ chức, các xã hội. Chỉ Giáo hội là không hề bị lung lay.

Như con tàu kiên cố dìm mình theo làn nước đang vồ vập, để rồi ngoi lên cao hơn trên ngọn sóng, Giáo hội Đức Giêsu đã thắng mọi cơn bão táp.

Rồi, các ngành khoa học đứng lên. Triết học vay mượn ở khoa học những giả thuyết, những kết luận vội vàng và những khái quát quá trớn. Thế rồi nổi lên những ông trùm, họ tuyên bố rằng thế là hết mầu nhiệm và tôn giáo tương lai sẽ là vô tôn giáo. Nhưng đây, đến lượt các nhà bác học Kitô giáo cũng đứng lên và thế là lại một lần nữa, người ta chứng minh được rằng tôn giáo rất

84

Page 85: Cậu cháu nói chuyện đạo

am hợp với khoa học và những dữ kiện khoa học chỉ có tác dụng làm cho những dữ liệu của Đức Tin thêm mạnh mẽ!

Cuối cùng, gần chúng ta hơn cả, là thuyết Duy tân, kết tinh của tất thảy mọi lạc giáo xưa nay; nó xuất hiện ngay trong ruột, trong mạch máu của Giáo hội. Trước cảnh tượng đó, người vô tín ngưỡng đã tỏ vẻ hả hê, vì cho rằng cái ngày mà họ báo trước rằng Giáo hội sẽ bị tiêu diệt, cái ngày đó đã đến. Thế nhưng, chỉ một lời của Đức Giáo Hoàng đã đủ hạ được cơn sốt đó và thuyết Duy tân hết đời! Tại sao Giáo hội bị tấn công như thế mà chưa bao giờ ngã thua? Làm sao Giáo hội đã có thể kinh qua ngần ấy tai biến tưởng chừng không sao thoát khỏi, mà chỉ một trong những tai biến như thế thôi đã đủ tiêu diệt cả đế quốc? Vậy đâu là mãnh lực đã giúp Giáo hội chiến thắng và sau mỗi cơn bão táp lại vươn lên, trẻ hơn và sống động hơn bao giờ hết? Không phải là, như Trét-xtớc-tơn nói, "một cuộc mạo hiểm quay cuồng" sao? Suốt dòng thời gian, đã 20 lần, 100 lần, Giáo hội phục hưng một cách lạ lùng. Mà phục hưng như thế giữa lúc rối ren nhất, trước những địch thù tài giỏi và tinh vi ghê gớm! Mới nhìn qua, có thể cho rằng sự phục hưng như thế sở dĩ có được là nhờ một thời cơ, một việc bất ngờ thuận lợi nào đó. Thế nhưng, chính cái chiến thắng trong hết mọi giao tranh trong cũng như ngoài đó, đã bắt buộc Vôn-te phải thốt ra lời thú nhận đáng ghi nhớ nầy: "Giữa những thăng trầm, hưng phế, giữa tiếng ồn ào của bao nhiêu đổ vỡ, chỉ có đạo Kitô là vẫn đứng vững, bất biến như Thiên Chúa là Đấng đã sáng lập nên nó. Tôi buộc lòng phải tin và ca tụng!" Cũng theo một ý ấy, Na-pô-lê-ông nói lên câu nói rõ ràng này: "Các dân tộc qua đi, các ngai vua sụp đổ, chỉ Giáo hội còn mãi!" Như vậy là ông vua tù ở Xanh-tê-len cũng hiểu ra điều đó ít nhiều. Nào chúng ta không thể kết luận rằng tính vững bền về hai mặt lịch sử và tín lí đó, là như hai con dấu Thiên Chúa đóng vào, đảm bảo và chứng minh rất đầy đủ rằng Giáo hội Đức Giêsu là bởi Thiên Chúa sao? Bền là gì? là còn mãi, bất chấp mọi cái. Những đế quốc mênh mông to lớn nhất đều đã suy sụp thất bại với thời gian. Còn Giáo hội trái lại vẫn đứng. Giáo hội sống đã hai ngàn năm. Hơn

85

Page 86: Cậu cháu nói chuyện đạo

nữa, Giáo hội còn nâng đỡ cho mọi sự tồn tại, vì kinh nghiệm đã chứng minh rằng cái gì không tựa trên Giáo hội, thì không thể đứng vững được. Chính Giáo hội là người bảo vệ gia đình, trật tự, lao động và quyền sở hữu.

Thưa cậu, đó là một sự kiện mà cháu dẫn ra để cậu suy ngắm. Thời gian phá hủy tất cả, các đế quốc sụp đổ, các triết thuyết không sống lọt 50 năm, những triết thuyết khác đã đến thay thế. Tóm tắt, tất thảy mọi công trình loài người sinh ra và chết đi, lần lượt, kế tiếp nhau. Chỉ Giáo hội công giáo, nhờ sức nâng đỡ của Đấng sáng lập là một vị Thiên Chúa, nên kháng cự được tất cả, kinh qua tất cả, mà vẫn giữ được toàn vẹn sức sống mình, không tỏ dấu gì là già lão, tàn tạ. Như thế không phải là "một lí do khả tín lớn lao và vĩnh hằng" sao?

Phần IV

Giáo hội công giáo bởi Thiên Chúa

Chương IBức thư thứ I : Dọn đường

Thưa cậu,Đối với vấn đề chúng ta sắp đề cập đây, cháu thiết nghĩ rằng

tạm thời chúng ta đừng đấu tay đôi với nhau nữa. Vì thế, mặc dầu cháu đang nghỉ hè, cháu muốn nhân cơ hội viết nhiều thư quấy rầy cậu. Mà cách này cũng lịch sự hơn.

Trước hết, cháu muốn làm công việc dọn đường. Trước khi chứng minh cho cậu thấy Giáo hội công giáo là Giáo hội duy nhất và chân thật, cháu có ý quét dọn các ngả lối của vấn đề cho sạch sẽ, bằng cách loại ra ngoài vòng chiến những tôn giáo mà nếu cháu không bỏ ra ngoài trước, thì thế nào cậu cũng nói đến, những tôn giáo đó không có quyền nại đến Đức Giêsu. Cháu xin bắt đầu.

86

Page 87: Cậu cháu nói chuyện đạo

I. Đa thần giáo. Hiện nay vẫn còn. Nhưng nguyên một việc thờ nhiều thần, tức nhiều thiên chúa như thế đã là một mâu thuẫn kì quái, nên cháu thấy không cần nói dài làm gì nữa. Hoặc là có một Thiên Chúa mà thôi, hoặc là chẳng có Thiên Chúa nào hết. Thôi, ta cho qua!

II. Bái hỏa giáo (Zoroastrisme). Đạo này tin hai vị Tối cao: một dựng nên sự Thiện, một dựng nên sự ác. Như thế vẫn là hai Thiên Chúa. Thừa một. Ta cho qua!

III. Khổng giáo. Cậu cũng biết Khổng Phu Tử là người khí khái. Vì khiếp sợ trước những tệ lạm thời đó (551 - 479 tcn), ông muốn đưa người đồng thời trở lại với những tín ngưỡng cổ truyền. Có những tin tưởng tốt đẹp, thí dụ có một Thiên Chúa độc nhất... nhưng ông chết được 1.000 năm thì người ta bắt đầu tôn ông làm thần mà thờ. Học thuyết của ông trở thành một hổ lốn kì quái, làm thành bởi 3 thứ đạo khác nhau; không bao lâu về sau, lại thêm cả đạo Phật nữa. Trải qua những biến đổi không thể tránh khỏi, Khổng giáo đã rơi vào chủ nghĩa duy vật thuần tuý nhất.

IV. Đạo Ba-la-môn. Đạo này còn hơn là một tập hợp mâu thuẫn, một hỗn hợp những khẳng định rối rắm, không thể phô diễn có đầu đuôi được. Người ta thấy trong đó có đa thần giáo pha trộn với độc thần giáo, vô thần luận kề cạnh với phiếm thần luận; tư tưởng luân hồi lẻn vào khắp nơi và một thuyết siêu hình hồ đồ hỗn độn phủ lên tất cả. Các thần khi nào cạn nhựa thần của mình thì chết (thần mà như thế cũng thật tội nghiệp!). Xiva, vị thần tối thượng, là một nhà ẩn sĩ, lại vừa là một tên cuớp và một kẻ dâm đảng: ba điều chẳng hợp tí nào với một vị thần cả. Ngưòi ta đã có thể nói rằng các thần của đạo này làm thành một tập hợp (...) mà người ta có thể bày đặt ra". Thôi, đừng dài lời nữa. Ta cho qua!

V. Phật giáo. Đạo Phật tuy dạy một thứ luân lí cao hơn, nhưng chỉ dành cho những người bất toàn. Đối với những người đã hoàn toàn, thì qui luật phải cứ để nên hoàn thiện, là không làm gì hết, không ao ước gì và không suy nghĩ gì. Bao trùm lên tất

87

Page 88: Cậu cháu nói chuyện đạo

cả, là chủ nghĩa bi quan yếm thế... Cuộc sống là một sự dữ. Lí tưởng là vào cho được Niết bàn, tức là một cõi hư vô, nhưng lại là một cái gì đó; là hạnh phúc tột bực trong đó người ta không còn ý thức về cái gì nữa. Đàng khác, lí tưởng bi luỵ đó cũng chỉ dành cho một mình các tăng lữ; còn bao người trong nhân loại đều bị lên án phải trải qua những cuộc lộn kiếp may rủi, đầy khổ não và mung lung vô định, ròng rã ngàn vạn năm, trước khi được vào cõi Niết bàn chưa có gì là chắc thực.

Luân hồi là cơ sở của đạo Phật, nghĩa là linh hồn tuần tự nhập vào những xác người hay súc vật, mãi cho đến khi tới cõi Niết bàn. Thích-ca Mâu-ni, tức là Đức Phật, sau khi lộn kiếp làm ngưạ, làm khỉ, làm sóc, làm công, rồi còn thác đi sinh lại 550 kiếp khác nữa! Ô! Ngán quá!

Về luân lí, đương nhiên đạo Phật có dạy nhiều điều hợp với luật tự nhiên. Đạo đó cấm sát sinh, cấm ăn trộm, cấm say sưa,... Cấm thì có, nhưng không truyền phải làm gì cả. Theo lời các nhà du lịch, thì không đâu phong hoá suy đồi cho bằng ở một số vùng quê hương đạo Phật. Ngay trong việc tế tự cũng lắm chuyện... Mà để thưởng nhân đức, chỉ có Niết bàn, tức là cõi hư vô!VI. Đạo Hồi. Đạo này có cao hơn ít nhiều. Ma-hô-mét chọn 3 tín

điều đơn giản và rõ ràng làm vốn liếng tinh thần: một Thiên Chúa, linh hồn bất tử và việc thưởng lành phạt dữ trong cõi vô cùng. Thế nhưng, ông chỉ thêm vào đó mấy điều mà chính mấy điều này lại làm đổ vỡ tất cả. Ông tự xưng là người kế tục Đức Giêsu; vậy mà Đức Giêsu đã tuyên bố rằng Giáo hội Người còn mãi cho đến tận thế. Vả chăng, luân lí của Ma-hô-mét so với luân lí của Đức Giêsu, thật là một bước thụt lùi nghiêm trọng. Chỉ cần xem những gì liên hệ đến hôn nhân, chế độ nô lệ, cuộc "thánh chiến". Riêng về thiên đường, thì Ma-hô-mét cho rằng ở đó phần thưởng cao nhất để thưởng nhân đức, là tự do thoả mãn tình dục. Chừng ấy đã đủ để phê phán một học thuyết. Trong kinh Co-ran, chính Ma-hô-mét đã chép nhiều điều mâu thuẫn được chính thức công nhận và duy trì. Trong đó, có 200 câu bị 93 câu khác phi bác. Những mạc khải bị phi bác đó được thay

88

Page 89: Cậu cháu nói chuyện đạo

thế bằng những mạc khải khác thích hợp hơn, cho phép Vị Ngôn sứ được vi phạm luật lệ chính mình đã ban hành về hôn nhân (...)

VII. Đạo Do thái. Xưa kia, căn bản nội dung đạo này là độc thần và trông chờ Đấng Cứu thế. Nhưng từ 19 thế kỉ nay, đã có một sự kiện mới, đó là Đức Giêsu Kitô. Trước sự kiện này, đạo Do thái không còn lí do tồn tại. Những người Do thái thành tâm đôi lúc cũng thú nhận điều đó. Các ngôn sứ đã báo trước thời gian Đấng Cứu thế xuất hiện là trước khi Đền thờ Giêrudalem thứ hai phải phá. Vậy mà Đền thờ này phải phá năm 70 kỉ nguyên này. Nếu Đấng Cứu thế đã đến rồi thì cần gì chờ đợi nữa; còn nếu chưa đến, thì ấy là các ngôn sứ đã nói sai. Trước kia đạo Do thái có thể đúng. Ngày nay, chỉ có thể là một sai lầm.

VIII.Giáo hội chính thống. Đây là một đạo tự xưng là của Đức Giêsu. Đạo này chủ trương rằng, qua nhiều thế kỉ, họ và Giáo hội công giáo là một Giáo hội duy nhất, nhưng Phô-xi-ô, rồi Mi-ca-e Xê-ru-la-ri-ô đã tách họ ra. Vì muốn làm thượng phụ Công-xtăng-ti-nô-pơ-lơ, Phô-xi-ô thừa nhận tối thượng quyền của Đức Giáo Hoàng, hi vọng nhờ Người che lấp những mưu đồ đen tối của ông. Không đạt ý nguyện, ông đứng lên phản kháng và nhờ đến Hoàng đế. Vì Đức Giáo Hoàng không cho ông làm Thượng phụ, nên ông xin Hoàng đế cho ông làm giáo hoàng. Cuối cùng ông đuợc như ý và ông phạt vạ tuyệt thông Đức Giáo Hoàng Rôma. Về sau, ông bị vua mới truất phế, lại được phục chức, nhưng cuối cùng bị đày biệt xứ năm 886.Hai thế kỉ sau, cũng tấn tuồng đó diễn ra với Mi-ca-e Xê-lu-ra-

ri-ô. Cùng với Phô-xi-ô, đây là hai nhà sáng lập đạo Chính thống (nói đúng ra, đây là hai người tự xưng là người sáng lập đạo Chính thống), cả hai đều nhờ vào thế lực Hoàng đế để làm giáo hoàng và cả hai đều đã bị chính thế lực hoàng đế truất phế. Vậy mà Đức Giêsu chỉ hứa quyền tối thượng cho một mình Phê-rô; và nhờ ơn Chúa, các vua chúa đã không thể chuyển quyền đó từ toà này sang toà khác được.

89

Page 90: Cậu cháu nói chuyện đạo

Đức Giêsu nói: "Cái gì của Xêda, hãy trả về Xêda, cái gì của Thiên Chúa, hãy trả về Thiên Chúa". Phô-xi-ô thì trả tất cả cho Xêda.

Đức Giêsu nói trước rằng Giáo hội Người sẽ chỉ có một và sẽ lan khắp thế giới. Phô-xi-ô đem đóng khung nó trong đế quốc Rôma, như vậy là bỏ mất tính độc lập, tính duy nhất và tính phổ quát mà Đức Giêsu đòi phải có. Đế quốc không bao lâu đã tan rã, thế là các vua chúa nhặt được những mảnh vỡ của đế quốc đó, thì cũng đem theo mỗi người một phần Giáo hội.

Bị cắt xẻo mọi phía, Giáo hội Con-xtăng-ti-nô đành co lại xung quanh kinh đô. Rồi quân Thổ xuất hiện, thế là từ đây bàn tay vua Thổ nắm quyền điều khiển giáo hội đáng thương nhưng quá tự hào nên không thể phục quyền Đức Giáo Hoàng này. Hiện nay Giáo hội đó chưa đầy một triệu tín đồ.

Nga hoàng thừa kế một phần những mảnh của Giáo hội lâu đời đó. Phê-rô đại đế đặt một Thánh-vụ-viện (Saint-Synode) đứng đầu Giáo hội Nga, do một người trong triều vua trông coi. Các Giám mục yêu cầu vua cho một Thượng phụ thay thế thượng phụ Ni-con đã bị Nga hoàng A-lec-xix bắt giam. Nhà vua trả lời: "Vì các ngài không chịu thừa nhận vị thượng phụ độc nhất hợp thức là vị thượng phụ ở Rôma, nên các ngài phải vâng phục một mình Tôi đây mà thôi!" Rồi nhà vua đặt tay vào thanh kiếm bên mình: "Đây là thượng phụ của các ngài!" Họ không có thượng phụ nào khác, mãi cho đến năm 1917. Còn hiện tình Giáo hội Nga dưới chế độ xô viết, thì cậu đã thừa biết (...).

Những giáo hội khác bởi Phô-xi-ô mà ra thì tự hào mỗi giáo hội có cơ quan lãnh đạo riêng. Phải. Nhưng Nhà nước nắm quyền điều khiển mỗi giáo hội đó. Tất cả đều thuộc về Xêda. Đã thế thì không còn là công giáo nữa, vì mỗi giáo hội có biên giới riêng. Dù có hiệp nhất với nhau thì cũng không thành một khối đơn nhất. Đâu có nhiều đầu, đó không thể có một thân xác duy nhất. Một vấn đề nào đó tranh luận mà không đi đến thoả thuận, thì được đệ lên xin chính quyền Thổ quyết định. Nhìn vào Giáo hội chính thống này, người ta chỉ còn thấy một chút tàn dư của các

90

Page 91: Cậu cháu nói chuyện đạo

Giáo hội xưa kia hiện đang bị làn gió chính trị mặc sức trà trộn hay làm tan rã. Ngày nay trong Giáo hội Chính thống này, ít ra có đến 23 giáo hội tách biệt nhau, ở kề cạnh nhau nhưng không tuỳ thuộc nhau, không liên kết gì với nhau và chỉ sống yên hàn nếu không tiếp xúc gì với nhau cả.

Ở Hi lạp cũng như ở Nga, khắp nơi thịnh hành tệ mua quan bán chức, sự dốt nát và việc thường xuyên bị bách hại, nhất là ở Nga.

Hãy xem người ta tuyển hàng giáo phẩm như thế nào, đặc biệt là ở nông thôn. Khi một giáo xứ khuyết linh mục, thì hễ người nào đến trước tiên, bất kì thợ thủ công, lính thuỷ, anh hàng thịt hay anh đóng giày, miễn là biết đọc các kinh trong thánh lễ, thế là người ta phong chức ngay và người đó thành kẻ chăn giữ linh hồn người ta. Và người đó vừa cứ tiếp tục làm nghề thông thường vừa thi hành các thánh vụ.

Dù vậy, cuốn "Sách bổn chi tiết của Giáo hội Chính thống bên Đông đã được Thánh-vụ-viện Nga kiểm tra và phê chuẩn" có câu này: "Chỉ có trong Giáo hội Công giáo và tông truyền mới có thể rỗi linh hồn".

Thưa cậu, xin cậu miễn thứ cho cháu, nếu cậu thấy cháu muốn tỏ vẻ ta đây biết nhiều, hoặc bắt cậu phải đọc một bức thư hệt như một "bài làm giáo lí". Dù sao, cháu tin chắc những điều đó sẽ đưa lại hứng thú cho cậu, vì cháu đã liệu cho trí não cậu đi theo hướng mới. Đối với những tôn giáo khác nhau đó, cháu chỉ cần bày ra trước mắt cậu, cháu không có ý vạch trần những chỗ mâu thuẫn, điên rồ hay sai lầm.

Xin để cậu bình tĩnh phê phán và đặt chúng đúng vào vị trí của chíng. Nhờ đó, chúng ta vẫn luôn luôn hoà thuận với nhau, cả chính lúc chúng ta tranh luận với nhau. Cháu nghĩ không cần công khai bàn cãi để phi bác một vấn đề chỉ cần phớt qua và loại trừ ngay. Cậu với cháu cũng đều tìm xem trên thế giới này đâu là Giáo hội đích thực của Đức Giêsu, tôn giáo đích thực do Người mạc khải và sáng lập. Nếu trung thực, chúng ta không thể nhận một đạo nào là đạo đích thực trong những đạo cháu vừa sơ lược

91

Page 92: Cậu cháu nói chuyện đạo

trình bày hôm nay. Cháu đinh ninh rằng lần này cậu sẽ tán đồng ý kiến của cháu.

Mac-đa

Chương II

Những mâu thuẫncủa

giáo phái Tin Lành

Thưa cậu,Hôm nay, để làm vui lòng cậu và để cậu thấy rằng cháu đang

tập và đã biết sử dụng những vũ khí khác, chứ không phải chỉ có lối "nói cạnh nói khoé và tinh ranh", thì cháu sẽ xin làm một triết gia. Phải. Cậu đừng cười. Xin cậu nhớ cho điều đó. Cháu sẽ đặt cậu trước một luận cứ dựa trên một lô-gich rất chặt chẽ.

Cháu vốn biết ý kiến cậu về phái Tin lành. Phần cháu, càng nghiên cứu, càng thấy giáo phái đó kì.... Cháu cũng thấy cần nói ngay ra rằng cháu tôn kính những người Tin lành thành tâm, họ có nhiều lắm; nhưng họ tốt hơn giáo lí họ chủ trì. Sau khi trình bày điều đó, bây giờ cháu xin đi vào luận cứ.

Mâu thuẫn là dấu chắc chắn có sai lầm. Hễ là lời cậu nói có chứa mâu thuẫn, tức là cậu nói sai. Đâu cũng vậy, hễ có mâu thuẫn là có sai lầm hoặc gian dối. Vậy mà giáo lí giáo phái Tin lành chứa nhiều mâu thuẫn hiển nhiên rõ ràng... Sự thật quá rõ. Cháu chỉ xin chứng minh câu trên: giáo lí giáo phái Tin lành chứa nhiều mâu thuẫn. Còn kết luận, xin để cậu tự rút lấy.

92

Page 93: Cậu cháu nói chuyện đạo

I. Trước hết ta xem Luy-te.-rô: Ông tuyên bố mình được uỷ thác một sứ mạng đặc biệt là "cải cách" Giáo hội. Ông nói giáo lí của ông là giáo lí mạc khải: " Giáo lí tôi chủ trì là giáo lí của Thiên Chúa, không phải tôi bày đặt ra". Ông nói như thế năm 1522. Cũng năm đó, ông viết cho Phê-đê-rích ở Xavơ: "Tin mừng tôi giảng không bởi người ta, mà từ trời ban xuống qua Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta". Ông còn viết : " Luy-te là một kẻ (...) hay một vị thánh, cái đó không hệ gì. Có điều là giáo lí tôi dạy không phải là của tôi, mà của chính Đức Giêsu ".

Nếu thật giáo lí của Luy-te-rô là do Thiên Chúa như ông quả quyết nhiều lần như thế, nhưng giáo lí đó lại chứa những mâu thuẫn, thì nhất định ông là kẻ thíếu thành thật. Vậy mà giáo lí của ông hệt như một mớ hỗn độn, như một thách thức đối với lô gích và lương tri. Hãy lấy vài thí dụ: con người làm gì cũng có tội cả. Tội trà trộn vào mọi việc ta làm, dù là việc tốt, tất cả đều là tội lỗi. Ông viết: "Anh làm gì thì làm, anh chỉ phạm tội thôi". Đối với ông, không có tội nào nhẹ; tội nào cũng nặng cả. Việc vâng giữ các luật điều, không thuộc khả năng của chúng ta. Con người không có tự do. "Nó bị động. Nó không làm gì. Nó không hành động, nó chịu hành động." Đối với việc rỗi linh hồn hay phải luận phạt, con người không được tự do quyết định; nó là tên tù, là bầy tôi và kẻ nô lệ của ý muốn Thiên Chúa hoặc ý muốn sa-tăng". Chiến công của đức tin, chính là ngợi ca Thiên Chúa "dù Người thưởng kẻ bất xứng hay trừng phạt kẻ vô tội."

Thật là bức tranh bi thảm và tuyệt vọng. Đây một bức tranh khác: "Chính đức tin làm người ta nên công chính". Anh cứ tin là được rỗi: "Anh cứ tin chắc là anh đã được khỏi tội, thế là anh thực sự khỏi tội, dẫu lòng thống hối của anh như thế nào, mặc". Không cần những việc lành: "Việc lành cũng xấu và đều là tội lỗi như mọi việc khác". Nguy cơ lớn, chính là những việc lành. Trái lại, những người tội lỗi chính cống, sa đà, những người "sống trong tình trạng tội lỗi rõ ràng, nặng nề và công khai", những người đó mới có điều kiện rỗi linh hồn hơn ai hết. "Đối với họ, đường lên Trời dễ hơn, chắc hơn". Và đây là câu kết luận thực

93

Page 94: Cậu cháu nói chuyện đạo

hành Luy-te-rô viết cho Mê-lăng-tông trong một bức thư kinh khủng (ngày 21.8.1521): "Cứ phạm tội và phạm tội mạnh đi; nhưng lại hãy tin cậy và vui mừng trong Chúa Kitô mạnh hơn nữa". Còn lương tâm thì đừng nghe nó làm gì! Cứ phạm một tội nào đó cho thật nặng nề để đuổi nó đi. Lương tâm là tiếng nói của sa-tăng. Mọi sự vốn xấu tự thân; nhưng "đối với kẻ tin, mọi sự đều tốt cả".

Như thế mà bảo rằng mọi cái trong giáo lí của Luy-te-rô là mâu thuẫn, thì có gì là lạ? Phải chăng đó là những gì mà Đức Giêsu đã mạc khải cho ông ta?! Những điều (....) như vậy mà ông dám bảo là do Đức Giêsu sao? Thiên Chúa chân thật mà lại lừa phỉnh tạo vật mình và tước mất sự tự do ý chí của nó sao? Thiên Chúa thông minh mà lại để mình sai lầm sao? Đức Giêsu công chính mà lại luận phạt kẻ vô tội và ban thưởng người bất xứng sao? Thiên Chúa khôn ngoan mà ban hành những luật lệ không thể giữ được sao? Thiên Chúa thánh thiện mà âu yếm kẻ tội lỗi sao? Những điều như thế làm sao hoà hợp nhau được? Trước cái mớ mâu thuẫn tỏ tường như vậy, lí trí làm sao có thể không nhảy lồng lên phản kháng được? Vả chăng, chính Luy-te-rô cũng nói: " Giáo lí của tôi thật nghịch lí, lạ lùng, phi lí; nó cực kì mâu thuẫn với lí trí con người". Chính ông thú nhận như vậy.

II. Can-vanh. Can-vanh có một phong cách khác. Thế nhưng, ông này cũng kể mình là được uỷ thác mang tới nhân loại tiếng nói xác thực của Thiên Chúa. Ông tự xưng là đồ đệ của Luy-te-rô, nhưng lại mâu thuẫn với Luy-te-rô, chẳng hạn trong giáo lí về giáo hội và các bí tích. Hai người đã mâu thuẫn nhau, thì tất nhiên một trong hai người phải được kể là sai lạc. Lấy giáo lí Luy-te-rô thêu dệt thêm vào nữa, Can-vanh biến Thiên Chúa thành con quái vật gở lạ nhất, vì: "Người định cho kẻ này được sống muôn đời, kẻ khác phải phạt muôn kiếp", vì " Người chọn lấy một số người nào đó mà yêu thương, chứ không yêu thương hết mọi người" Tác phẩm của Can-vanh đầy dẫy những đoạn nói lên quan điểm của ông về sự thưởng phạt tuỳ tiện đối với loài người như thế. Đàng khác, khi một người đã được tiền định được rỗi linh hồn, thì

94

Page 95: Cậu cháu nói chuyện đạo

người đó cứ lành thánh suốt đời này cũng như đời sau, dù anh ta làm gì. Hơn thế nữa, ngay cả các con cháu dòng dõi người đó cũng được tiền định rỗi linh hồn nhờ người đó. Như vậy, có thể nói thêm, để kết luận, rằng nếu một người chết trong tội, thì tổ tiên người đó đều bị trầm luân hết cả. Chính Đức Giám mục Bốt-xuy-ê vạch rõ điều đó. Không! Không hơn gì Luy-te-rô, Can-vanh không phải là sứ giả của Thiên Chúa. III. Anh giáo. Theo Gio-dép đơ Met-xtơ-rơ thì trong tất thảy các môn phái Tin lành, môn phái này là "gần chân lí hơn cả, nhưng cũng rõ ràng là sai lạc hơn cả. Việc nó sai lạc cũng như mặt trời chói chang sự sáng. Chỉ cần nhìn vào nó đủ biết". Giáo hội Anh tự xưng là "Giáo hội được thiết lập". Mấy tiếng đó nói lên tính chất của nó. Giáo hội này do Hăng-ri VIII thiết lập năm 1534. Có thể nó là của nhà vua, không phải của Thiên Chúa. "Đây là một tổ chức có tính cách điạ phương, đối lập hẳn với tính cách phổ quát là dấu chứng của chân lí. Hoặc là đạo này sai; hoặc là Thiên Chúa chỉ nhập thể cứu người Anh mà thôi". Sau khi phi bác Luy-te-rô, Hăng-ri VIII thấy giáo hoàng cản trở không cho mình tha hồ trong việc lấy vợ, thế là vua đánh đổ Người, rồi tôn mình lên thay thế, tự xưng là "vua độc nhất của vương quốc về mặt đạo cũng như về mặt đời". Các vua sau, thấy mình thu phục được nhân tâm, liền nắn nót tô vẽ giáo hội theo sở thích mình. Et-đuốt VI tiếp thêm giáo lí Luy-te-rô vào đó; E-li-da-bét, giáo lí Can-vanh; Giắc I, giáo lí phái Ac-mê-ni-a-nô; Uyn-liêm II, giáo lí phái phóng nhiệm và cứ thế... Và tất thảy những ý tưởng lai tạp đó cùng tồn tại làm thành một học thuyết nhiều mâu thuẫn, nhưng đã phần nào dịu đi.

Đã có những nhà thần học Tin lành hí hửng vì thấy trong các học thuyết của Cải Cách, có "hàng ngàn màu sắc khác nhau của cầu vồng". Như thế không phải là thú nhận có vô vàn mâu thuẫn sao? Chân lí không đời nào có ngần ấy sắc thái một trật. Chân lí chỉ một.

Chưa hết. Giáo hội Anh nhận Giám mục là đầu và kể các giám mục như do Thiên Chúa đặt lên; bên cạnh đó, giáo hội Ê-cốt

95

Page 96: Cậu cháu nói chuyện đạo

lại cho linh mục là đầu, còn giám mục thì họ nói là bởi quỉ đặt lên.

Một giáo hội do một ông vua thiết lập và lập cho một nước mà thôi, lại xưng mình là công giáo và bởi Thiên Chúa, vừa quyết vừa chối về những vấn đề cơ bản trong cùng một kinh Tin kính; một giáo hội che dưới cánh mình những tín đồ không có cùng một đức tin, như thế không phải rõ ràng là mâu thuẫn sao?

IV. Tự do giải thích Kinh thánh. Nhưng ba ngành của Tin lành đó có chung một cội. Luy-te-rô, Can-vanh, Anh giáo đều dạy rằng đức tin của mỗi tín đồ chỉ dựa trên sự tự do giải thích Kinh thánh. Nhưng nếu Kinh thánh bảo đảm tất cả, thì cái gì bảo đảm Kinh thánh? Chỗ nào trong Kinh thánh nói rõ tín điều đó? Chỗ nào trong Kinh thánh kể mình là qui luật đức tin độc nhất? Chỗ nào Kinh thánh khẳng định mình là người độc nhất có quyền giáo huấn?

Kinh thánh là cuốn sách có lắm chỗ tối nghĩa, khó lĩnh hội. Vậy mà phó mặc nó cho mỗi người tự ý suy nghĩ, người thông cũng như người dốt, như thế không phải là điên rồ sao? Như thế chính là ngông cuồng bất chấp mọi bằng cứ của tâm lí học cũng như của kinh nghiệm. Hãy lấy bộ dân luật, bãi bỏ đi mọi chức quan toà và bảo quần chúng: "Đây là tất cả quyền lợi và nghĩa vụ của anh chị em. Ai muốn giải thích thế nào tuỳ ý và chúng tôi chắc chắn rằng anh chị em sẽ luôn luôn hoà hợp với nhau, không hề có kiện cáo, ai có gì phải kiện cáo kẻ khác, chỉ việc mở bộ Dân luật này mà dàn xếp với nhau là xong !"

Chức năng phi lí đó, phái Tin lành muốn gán cho một cuốn sách đề cập những vấn đề siêu việt nhất, được chép bởi những tác giả khác nhau nhất, đầy dẫy những điều liên hệ những sự kiện, những ngạn ngữ, gợi lại tâm trạng và nền văn minh của một dân tộc khác và thuộc một thời đại khác, chép bằng một ngôn ngữ xa lạ, muốn nghiên cứu đến nơi đến chốn đòi cả đời một người thức giả, thông thạo nhiều cổ ngữ. Như vậy không phải là điên sao? Dẫu Luy-te-rô có nói: "Thánh kinh chính là sự sáng tỏ, là sự sáng láng vượt hơn mặt trời nhiều" thì chỉ 4 tiếng "Này là Mình Thầy",

96

Page 97: Cậu cháu nói chuyện đạo

năm 1577, các người Tin lành cũng đã giải thích 200 kiểu khác nhau. Như thế đúng là mâu thuẫn khắp nơi, ở cội cũng như ở cành.

V. Những câu lưỡng đao luận. Dẫu một người Tin lành ngày nay xưng mình thuộc ngành ngọn nào của giáo phái họ, thì ta cũng có thể đặt người đó vào giữa những câu lưỡng đao luận sau đây, mà người đó không làm sao thoát khỏi:

1/ Các nhà Cải Cách có được Thiên Chúa soi dẫn hay không? Nếu có, tại sao các đồ đệ lại bỏ không còn theo họ nữa? (Vì ngày nay không có tín đồ Tin lành nào còn giữ nguyên vẹn giáo lí của những người khởi xướng nữa). Nếu không, làm sao họ biết được rằng Cải Cách là hợp ý Chúa, là do Chúa truyền?

2/ Họ quả quyết rằng sự soi dẫn của Thiên Chúa được thông ban cho từng tín đồ một. Nhưng thử hỏi Thiên Chúa có thể nói dối không? Nếu Thiên Chúa có thể nói dối, sao lại tin lời Người? Nếu Thiên Chúa không thể nói dối, sao Người lại soi dẫn người ta tin những điều mâu thuẫn như vậy?

3/ Đức Giêsu đã hứa ở với Giáo hội Người cho đến tận thế. Vậy xin hỏi Giáo hội của Đức Giêsu đó, ở thế kỉ 16 có còn nữa hay không? Nếu còn, thì các nhà Cải Cách Tin lành phải ở lại đó mới đúng; nếu không còn, thế nghĩa là Đức Giêsu đã để Giáo hội Người diệt vong và như thế là không giữ lời hứa, là lừa dối và toàn bộ đạo Kitô sụp đổ.

Đến đây, cháu xin nhắc lại luận cứ của cháu. Đâu có mâu thuẫn, đó có sai lầm. Vậy mà đạo Tin lành đầy những mâu thuẫn rõ ràng. Do đó, đạo Tin lành là sai lầm.

Cậu không thể cho rằng cháu thiếu lô-gích. Lô gích của cháu ở đây vững chắc, không thể phi bác được. Vả chăng, trong một thư sau, cháu sẽ trình bày một luận cứ khác mạnh hơn nữa, nhằm tăng cường luận điểm của cháu. Đứa cháu triết gia của cậu

97

Page 98: Cậu cháu nói chuyện đạo

Chương III

Những thay đổicủa

giáo phái Tin lành

Thưa cậu,Hôm nay, đứa cháu triết gia của cậu đánh liều gửi cậu một

thư thứ ba nữa, mặc dầu hai thư trước chưa được cậu hồi âm. Thì xin cậu cứ nghiền ngẫm cho kĩ những gì cháu viết cho cậu. Cháu vẫn thích như thế hơn. Và để giúp cậu suy nghĩ, cháu xin trình bày với cậu một luận cứ nữa, mà cháu hi vọng sẽ đánh động cậu rất nhiều. Cháu biết rằng hiện giờ cậu đang đi tìm sự sáng. Ước gì cháu có thể mang lại cho cậu một vài tia yếu ớt, trong khi chờ ngày mặt trời chân lí chói chang tỏa chiếu tràn ngập tâm hồn cậu. Bây giờ chúng ta đi vào vấn đề.

Đã là chân lí thì không thay đổi. Một tôn giáo mạc khải phải bất biến. Nếu nó biến đổi, thay đổi, thì có thể nói về nó như Đức Giám mục Bôt-xuy-ê: "Anh thay đổi, nên anh là giả hiệu". Vậy mà giáo phải Tin lành đã thay đổi nhiều lắm; đến độ người ta đã có thể viết nên "Lịch sử những thay đổi" của nó. Cho nên nó là giả, là sai.

Câu đại tiền đề không thể chối cãi. Chỉ cần chứng minh câu tiểu tiền đề.

1/ Luy-te-rô đã thay đổi. Trong 24 năm, 14 lần thay đổi về hệ thuyết. Năm1520, Luy-te-rô nhận 7 bí tích; vài tháng sau, bỏ đi 4. Năm 1523, bỏ bí tích Hoà giải. Ông giữ lại phép Thánh tẩy, nhưng bảo là nó không xoá nguyên tội. Về phép Thánh thể, ông

98

Page 99: Cậu cháu nói chuyện đạo

cứ do dự, khi thì nhận 2 bản thể cùng tồn tại, khi lại nhận sự biến thể. Ngay trong nội dung cơ bản của giáo lí, đặc biệt về sự công chính hoá, đòn bẩy của công cuộc cải cách mà ông chủ trì, nhiều điểm ông tự phi bác mình, khi trực tiếp, khi gián tiếp. Thậm chí ông còn thay đổi các bản văn Kinh thánh để phục vụ ý đồ mình. Riêng việc công chính hoá bằng đức tin, là viên đá góc của học thuyết ông, thì trước khi ông chết, các đồ đệ đã nhận nơi ông 20 lối giải thích khác nhau.

2/ Can-vanh đã thay đổi. Từ 1554 đến 1557, ông thảo ra hai bản tuyên tín khác nhau và phê nhận một bản thứ ba nữa. Ba bản không hợp nhau. Các đồ đệ của ông không nhận tín điều của ông về sự công chính hoá nữa. Tín điều về sự tiền định và về sự biết chắc rỗi linh hồn hay không, cũng giảm giá trị đi. Dân thành Giơ-ne-vơ, giáo đô của ông, đã bỏ ông để tôn G.Giắc Rút -xô lên thay. Từ Can-vanh đến Rút-xô, biết bao là thay đổi!

3/ Anh giáo đã thay đổi. Từ Hăng-ri VIII đến Uyn-liêm III, bảy vua lần lượt thay đổi giáo lí trong những điểm cơ bản. Năm 1840, xảy ra cuộc tranh luận ở Thượng viện về 39 điều trong bản Tuyên tín của Anh giáo. Một mục sư quyết rằng toàn thể hàng giáo phẩm đều tin những điều đó; một mục sư khác lại cãi là không ai tin; mục sư thứ ba rằng không thể nào thừa nhận những điều đó; sau cùng một mục sư thứ tư thêm rằng nếu cả đại khối có thừa nhận, thì những người biết điều cũng chỉ tin cái gì mình thích thôi.

4/ Thế giá Kinh thánh. Cơ sở của toàn bộ giáo lí Tin lành là thế giá duy hữu của Kinh thánh. Ban đầu, họ lấy ở đó những gì phục vụ cho nhu cầu của giáo thuyết họ; về sau, họ xuyên tạc các bản văn và rồi, vì cứ thêm bớt cho vừa sở thích mình, nên cuối cùng chính họ làm sai lạc hết tất cả. Các nhà thần học Tin lành hiện nay, phần đông không còn nhận thế giá thần linh của Kinh thánh nữa. Và Rơ-năng phi bác Kinh thánh chính là bằng những vũ khí thu thập được ở trường học Tin lành.

5/ Tự do xác tín. Ban-me (Balmès) nói: "Sai lầm hay di chuyển". Vậy mà chưa có học thuyết nào "di chuyển" nhiều như

99

Page 100: Cậu cháu nói chuyện đạo

Tin lành. Đây là một học thuyết phiêu lưu. Đức Giám mục Bốt-xuy-ê viết cả một cuốn "Lịch sử những biến đổi" của học thuyết này. Khoa phê bình hiện đại không thể phi bác được cuốn sách này. Cái phá hoại học thuyết Tin lành hơn cả, chính là giáo lí tự do xác tín. Luy-te-rô nói: "Mỗi người có toàn quyền phê phán những kẻ định dạy mình". Chính nguyên tắc đó đã mở đầu cho tình trạng hỗn độn kéo dài mãi tới ngày nay. Đem tự do xác tín áp dụng vào giáo lí mạc khải, như thế không phải là bảo rằng con người có quyền thừa nhận, phi bác, nhồi nặn bằng chứng của Thiên Chúa một cách tuỳ tiện đó sao? Chính vì thế mà có đầy dẫy những giáo phái đối lập nhau, chính vì thế mà học thuyết Tin lành xuống dốc một cách kinh hồn, từ phủ định này đến phủ định khác, để đi tới hoài nghi luận, duy lí luận và tự do tư tưởng.

6/ Các giáo phái. Các giáo phái Tin lành nhiều không kể xiết. Ở Pháp có 9 nhóm khác nhau, với 850 mục sư và 65 vạn tín đồ. Ở Đức, trước thế chiến nhất, có 26 giáo hội Tin lành, chưa nói đến vô số "hội" rất khác biệt nhau. Tại Anh, có đến hàng trăm; chỉ riêng 9 quận của vùng Ơn-xtơ, gồm 891.000 tín đồ, mà hiện nay cũng có đến 316 giáo phái khác nhau. Tờ "Thông lịch Uy-têch-cơ", năm 1921, tính rằng chỉ trong hai giáo phái, đã có 4.742 "nhóm" biệt lập. Tại Mỹ, tờ "Thông lịch thế giới" năm 1921, kể ra 184 giáo phái đông nhất và có thế lực nhất. Những giáo phái nhỏ không kể.

Tại các miền Truyền giáo cũng vậy. Chỉ riêng Ma-đa-gat-xca, có đến 54 giáo phái khác nhau. Đâu cũng vậy cả. Những con số đó làm ngẩn người. Thế mới hiểu câu nói của A.Xă-ba-chi-ê: "Nói đến chuyện có một tín điều nào bất di bất dịch và vô ngộ trong đạo Tin lành, thì thật là một điều vô nghĩa lí. Không có giáo hội Tin lành nào có thể cho mình là vô ngộ, mà không tự phi bác mình!" Rồi ông kết luận: "Đạo Tin lành cho ta thấy rằng một tôn giáo tự xưng là siêu nhiên, nhưng lại để mất cái đặc quyền vô ngộ, một tôn giáo như thế có thể đi đến tình trạng nào. Tôn giáo đó không phải là một tôn giáo đã suy đang được cải lương, cũng không phải là một tôn giáo trước vốn thuần khiết nay đã đồi trụy

100

Page 101: Cậu cháu nói chuyện đạo

đi; thực tế mà nói, đó chỉ là sự phủ nhận hoàn toàn mọi mạc khải". Than ôi! ý kiến đó thật quá đúng!

7/ Còn lại gì trong đạo Tin lành nữa? Điều đó không ai biết. Những người Tin lành không còn biết lấy giáo lí nào góp chung lại để làm nên một đạo. Con số những "kinh Tin kính" Tin lành mà họ gọi là "những bản tuyên tín", thật là kinh khủng. Nguyên một việc kiểm kê lại cũng không thể. Chính Luy-te-rô cũng đã phàn nàn rằng thời ông "có bao nhiêu nhà giảng đạo thì hầu như có bấy nhiêu hệ thuyết". Huống nữa là ngày nay! Ra vạ tuyệt thông cho nhau đã chán, các người Tin lành giữa thế kỉ 17 lại cố tìm cách phân biệt giữa các tín điều với nhau; đàng nào cũng phải có những tín điều chính, những tín điều phụ... Nhưng ai có thể quyết định một tín điều nào đó là chính, và một tín điều khác là phụ? Thế là lại cãi nhau, lại chia rẽ.

Vì không thể nghe nhau, cuối cùng họ định thỏa thuận cùng nhận một tín điều độc nhất như nhau. Phải, chỉ một thôi. Nhưng biết chọn tín điều nào? Ai chọn và ai bảo đảm điều đó? Làm thế nào chính thức hoá tín điều đó? Vì không thể nhất trí với nhau, nên họ đành thú nhận rằng thỏa thuận là vô ích, hơn nữa là không nên. Và đạo Tin lành tiếp tục phiêu lưu.

8/ Chung cục. Cái chung cục không thể tránh khỏi của giáo phái Tin lành, là đi đời tín lí, đi đời mọi tín điều minh xác. Một trong những nhà thần học của họ, Ni-cô-la Ha-mơ nói: "Tôi có thể viết ra hết cả trên ngón tay cái của tôi mọi cái gì là tín điều còn được mọi người tin trong giáo phái Tin lành". Thật ra, giáo phái Tin lành tuyệt nhiên không còn giữ được một cái gì trong toàn bộ Mạc khải Kitô giáo, trong tất thảy những tín điều có thể làm di sản của họ xưa nữa.

Tin vào Tin mừng, họ cũng không còn tin nữa! Tất cả những cố gắng tài tình của những bậc thầy thợ trong giới chú giải Kinh thánh của Tin lành, rút cuộc chỉ làm Tin lành mất hết cả ý nghĩa của nó. Đến thần tính của Đức Giêsu cũng không còn nữa. Giáo sỉ Piếc-xơn (Parsons) cho Đức Giêsu là "một người Do thái Pa-lét-xtin rất đáng kính". Đa số các người Tin lành hoặc chối Đức

101

Page 102: Cậu cháu nói chuyện đạo

Giêsu không phải là Thiên Chúa, hoặc cho rằng thần tính của Người chỉ là "nhờ ban cho mà có, hạn chế và tạm thời". Hơn nữa, năm 1906, nào không phải là một người Tin lành Mỹ đã cho xuất bản một cuốn sách để chứng minh rằng Đức Giêsu không bao giờ có đó sao?

Vậy thì còn tin cái gì nữa? "Người ta có giảng giáo lí Phật Thích ca trên toà giảng chúng ta, thì chúng ta cũng không lấy gì làm lạ". Đó là lời của H. Xê-cơ-rê-tăng (Sécrétan), mục sư Tin lành ở Giơ-ne-vơ viết năm 1899. Đúng là Tin lành đã rơi đến chỗ đó, đến chỗ không còn có thể phân biệt giữa Tin lành với thuyết tự do tư tưởng nữa. Họ đã đi đến chỗ "kinh miệt chân lí". Phec-đi- năng Buýt-xông viết: "Kinh tin kính độc nhất của chúng ta, là không có kinh Tin kính nào cả"; vì bất cứ kinh Tin kính nào cũng là một sự giam hãm trái phép tư tưởng con người không cho nó hoạt động".

9/ Khẩu hiệu của Tin lành. Khẩu hiệu đầu tiên và khẩu hiệu cuối cùng của Tin lành đã được công bố tại Đại hội Ma-nem, Đức, năm 1914, bởi một nhà thần học Tin lành, Ec-netx Tơ-ru-en-xec (Er.Troeltsek): "Ngày nay, về giáo lí, chúng ta chỉ biết chắc và chính xác một điều mà thôi, đó là chúng ta không phải công giáo".

Không giáo hoàng gì hết! Đó là khẩu hiệu tập họp của họ. Chính Niu-man, trước khi trở lại, cũng cho sự thù địch với giáo hoàng là "một nhiệm vụ nghiêm nhặt". Chính vì thế mà một liên đoàn ở Mỹ, năm 1920, đã quyết nghị bỏ ra 100 triệu đôla, nhằm "hoán cải" người công giáo ở Pháp, Bỉ và I-ta-li-a. Hoán cải ở đây có nghĩa là là làm cho người công giáo bỏ những điều họ vốn tin, sao cho chính họ cũng "phản đối" (Thệ phản) một điều nào đó. Ngoài cái nguyên lí phủ định: tự do xác tín, thì có mối thù là giáo hoàng.

Nói thù ghét, không phải là quá đáng. Luy-te-rô xưa cũng có "lòng thù ghét giáo hoàng". Chỉ có điều đó là ông không hề thay đổi. Di chúc của ông là: "Uớc gì Chúa cho bạn căm thù mãnh liệt đối với giáo hoàng!" Bài viết cuối cùng của ông năm 1545, có

102

Page 103: Cậu cháu nói chuyện đạo

đầu đề là "Chống ngôi giáo hoàng do quỉ lập nên ở Rôma". Người ta nói trước ngày chết, ông lấy phấn viết lên vách: "Khi sống, ta làm khổ ngươi; khi chết, ta sẽ đánh chết người, hỡi giáo hoàng !"

Tiên báo là nguy hiểm, dẫu khi người ta là Luy-te-rô. Luy-te-rô không còn nữa. Giáo lí ông đã tiêu tan. Nhưng giáo hoàng còn đó. May thay, đồ đệ lại hơn thầy và nhiều khi con người giá trị hơn là học thuyết. Đa số tín đồ Tin lành giá trị hơn thuyết Tin lành.

Mọi tâm hồn có thiện ý, được những ơn bí ẩn. Chỉ Thiên Chúa có thể phê phán linh hồn người ta. Nhưng để phê phán học thuyết, thì chỉ hai tiếng: "Anh tự mâu thuẫn, anh biến đổi, do đó anh là học thuyết sai lạc". Mác-đa

103

Page 104: Cậu cháu nói chuyện đạo

Chương IV

Không có mâu thuẫn, thay đổiTrong đạo công giáo

- Này Mác-đa, cậu sung sướng được gặp cháu để tặng cháu một lời khen.

- Khen gì thưa, cậu?- Khen vì ba bức thư cháu gửi cậu gần đây thật là đẹp đẽ.

mạnh mẽ, có lô-gích và chúng đã làm cậu nao núng. Nhưng cháu có biết chắc những lời cháu trích dẫn kia là thật cả không? Cháu có các sách vỡ để tham khảo đó không? Cậu muốn kiểm tra xem.

- Đúng lắm. Chính vì thế mà hôm nay cháu mang đến cho cậu cuốn sách của A.Ê-mi-ơ đã giúp cháu trong công việc này. Cháu đã mượn ở đó nội dung và tất thảy những viễn ngữ của cháu. Xin cậu cứ kiểm tra. Đây!

- "Hai luận cứ biện hộ cho đạo Công giáo". Sao? Tốt quá! Thế ra chính hai luận cứ này cháu đã lấy để tấn công cậu một cách tàn nhẫn đến như thế...

- Và đúng đắn như thế nữa!- Ô! Đúng đắn, phải, đối với các giáo phái khác. Nhưng nếu

đem áp dụng hai luận cứ đó vào cho đạo Công giáo, liệu cháu có chắc Đạo cháu sẽ đương nổi không?

- Thì ta vào vấn đề đi thôi. Cháu sẵn sàng cả rồi. Cậu sẽ thấy đây là một sự kiện chứng và một chứng cứ tích cực thêm nữa, trong khi chờ những chứng cứ khác.

- Được. Có thật trong đạo Công giáo, cháu không thấy có mâu thuẫn nào cả không?

- Cậu thấy thì xin cậu vạch ra đây. Cổ nhân nói: "Ai quyết thì kẻ đó phải làm chứng"

- Thật ra thì cậu cũng chưa có thời giờ nghiên cứu đến nơi đến chốn vấn đề đó.

104

Page 105: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Tiếc quá! Nhưng cậu có điều gì thật sự thắc mắc về đạo Công giáo không?

- Nào không phải là đã có một công đồng, cậu nhớ là công đồng Macông, đã đặt vấn đề nghi nan không biết phụ nữ có linh hồn hay không đó sao?

- Phải rồi, một số báo chí mới đây đã đặt lại vấn đề đó. Nhưng công đồng này họp năm 585, không phải là công đồng chung, nên không có hệ đến toàn thể giáo hội. Đàng khác, các văn kiện của công đồng này còn đó, mà không thấy nói gì đến vấn đề cậu đề cập đó. Ngoài lề công đồng, một giám mục có nêu một vấn đề về ngữ vựng, về từ la tinh "homo" (là người), mà theo vị giám mục đó, từ này không được dùng để chỉ cả hai phái nam, nữ. Thế thôi.

- Nhưng không phải là cháu lấy làm nguyên tắc câu nói "Tôi tin vì điều đó phi lí" đó sao?

- Chính cậu phi lí, vì cậu tin điều đó! - Nhưng đó là học thuyết của các thầy Dòng Tên kia mà!- Không đâu. Câu nói ngộ nghĩnh đó là của Tec-tuy-liêng,

nhà hộ giáo hăng say. Mà cũng còn phải đặt câu đó trong mạch văn của nó mà hiểu. Đàng khác, Tec-tuy-liêng không phải là Giáo hội. Ông rối đạo trong một quãng đời ông.

- Bảo rằng có ba Thiên Chúa, không phải là mâu thuẫn sao? Thiên Chúa Ba ngôi! Ba = một!

- Cậu này, cháu cứ nghĩ cậu nghiêm chỉnh hơn thế đấy. 3=1, thì rõ ràng là mâu thuẫn rồi. Nhưng ba ngôi vị làm thành một Thiên Chúa duy nhất, đó là một mầu nhiệm. Chỉ có thế thôi. Ba đường thẳng, mỗi đường cắt hai đường kia, làm thành một tam giác; cha, mẹ, con làm thành một gia đình duy nhất. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh làm thành một Thiên Chúa duy nhất. Mâu thuẫn chỗ nào? Đó là mầu nhiệm của khoa tâm lí học Thiên Chúa. Tâm lí học nhân loại không đầy những bí nhiệm đó sao?

- Qua các thời đại, đã có những lạc giáo.105

Page 106: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Và hiện nay vẫn còn. Nhưng Giáo hội đã phi bác những bè lạc giáo đó và loại những người khởi xướng ra khỏi lòng mình.

- Vì thế mà Giáo hội đã mất đi hàng triệu người.- Nhưng đã duy trì được đức tin thuần khiết.- Giáo hội không hưởng ứng sự tiến bộ, ngay cả học thuyết

Tiến hoá, Giáo hội cũng chẳng thừa nhận.- Giáo hội chỉ phi bác thuyết Tiến hoá triệt để, nghĩa là

thuyết Tiến hoá không thừa nhận hiện tượng tiến hoá xuất phát từ Thiên Chúa và không nhận linh hồn con người do Thiên Chúa sáng tạo trực tiếp.

- Thế mới sai lầm.- Cậu ạ, muốn tiến hoá, phải hiện hữu đã. Nhận có hiện hữu

đã rồi mới tiến hoá, thì như thế tiến hoá không thay thế Tạo hoá là nguyên nhân đầu tiên. Lamắc, cha đẻ của thuyết biến chủng (transformisme) đã nói đi nói lại mãi điều đó. Và năm 1884, một nhà tiến hoá luận hăng hái là Et-mông Pe-ri-ê có viết: "Hoá học, vật lí học, thiên văn học, sinh vật hoc không phạm gì đến bản nguyên đầu tiên, không chối bỏ Thiên Chúa. Các ngành khoa học đó nhìn Thiên Chúa xa hơn và nhất là cao hơn".

- Vậy có biết bao vấn nạn đả kích đạo Công giáo thì sao?- Nhưng thử hỏi có cái gì mà không bị đả kích: sự hiện hữu

của vật chất bị đả kích, ngay cả hình học cũng bị đả kích.- Thôi. Đừng nói đến mâu thuẫn nữa. Thế nhưng, hẳn là cháu

không dám quả quyết rằng đạo Công giáo chưa hề thay đổi chứ? Tại sao kinh Tin kính các Tông đồ lại được thay thế bằng kinh Tin kính Ni-xê và sau này bằng kinh Tin kính thánh A-tha-na-dơ? Cháu công kích các "bản tuyên tín" bên Tin lành, nhưng đây cũng có đến 3 kinh Tin kính!

- Cậu lẫn lộn thay đổi với tiến bộ rồi.- Cũng khó mà phân biệt.

106

Page 107: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Cậu cứ so sánh hai kinh đầu: kinh sau không bỏ đi một tiếng nào của kinh trước; thêm vào ít nhiều tiếng để làm thành kinh thứ hai, nên kinh thứ hai chỉ là bản quãng diễn kinh trước.

- Tại sao mãi về sau mới quãng diễn như thế? - Vì những bè lạc giáo tấn công các tín điều. Kinh Tin kính

thứ nhất nói: "Tôi tin Chúa Giê-su Kitô Con Một Thiên Chúa". Nhưng năm 325, A-ri-ô chối Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa. Vì thế công đồng Ni-xê thêm vào kinh đầu để khẳng định thần tính mà A-ri-ô phi bác.

- Còn kinh Tin kính thánh A-tha-na-dơ? - Kinh này được đặt ra nhằm trả lời các lạc giáo Net-xto-ri-ô

và Eu-ti-ke. Bởi vì Giáo hội cũng tiến triển và trưởng thành như thân xác người ta, năm này qua năm khác, chi thể lớn lên, dài ra, dù vậy vẫn cứ là những chi thể trước kia. Do đó, có những tín điều xưa kia mới nảy mầm, về sau đã mọc lên và lớn mạnh; những tín điều xưa kia còn bị bóng tối che khất, về sau được đưa ra ánh sáng rõ ràng. Nhưng một khi đã được nghiệm xét và được định tín rồi, thì những tín điều đó cứ như thế mãi, không hề thay đổi nữa. Phải, đã có sự tiến bộ rộng rãi, cả sự tăng tiến nữa, trong việc hiểu biết có lí luận về các tín điều đó và như thế tuỳ theo sự phát triển của các thời đại, các thế kỉ. Một lần nữa, đã có tiến bộ, quãng diễn, tăng tiến, phải, nhưng biến đổi thì chưa bao giờ. Đã có thêm hằng trăm định tín mới vào kinh Tin kính các Tông đồ, như những búp non mùa xuân thêm vào thân cây vốn đã sung sức. Đạo Công giáo chưa hết tăng tiến; nhưng thực tế, nó chưa hề thay đổi.

- Nó đã già đi.- Tức là nó đã trưởng thành, nó đã tăng tiến; nhưng chú ý

quan sát, cậu sẽ không khám phá ra một dấu gì là hư huỷ, già cỗi hay biến đổi.

- Cháu nói thế để kết luận?- Rằng đó là công trình của Thiên Chúa. Bởi lẽ nếu nó là do

bàn tay con người làm nên, thì lẽ ra cậu phải gặp thấy trong đó 107

Page 108: Cậu cháu nói chuyện đạo

những dấu vết sự yếu đuối loài người, hơn cả trong đạo Tin lành nữa. Phải, trải qua 19 thế kỉ như thế, mặc cho mọi cố gắng điên cuồng nhất của lạc giáo và vô tín ngưỡng, những tấn công do các thế lực bên ngoài, lòng thù ghét của những kẻ địch không thể cảm hoá và hùng mạnh, thế mà bao giờ cũng như bao giờ, tiến bộ thay vì nằm ì như giáo hội Chính thống, hoặc phân huỷ hay phai lạt như giáo hội Tin lành; Thưa cậu, như thế, thật là do Thiên Chúa . Chỉ Thiên Chúa mới làm được phép lạ đó.

- Đạo công giáo không cắt bỏ, không thay đổi, không thêm gì vào giáo lí của Đức Giêsu và các Tông đồ sao?

- Không cắt bỏ gì hết. Nó "đã bảo vệ kho tàng được giao phó". Nó không thay đổi gì. Những tiếng, những công thức đã có thể, hơn nữa đã phải thay đổi, nhưng ý tưởng thì vẫn y nguyên. Giáo hội không hề sửa đổi cách nào cả. Đó là tính bất biến của giáo lí. Thêm vào, cũng không.

- Nhưng Lộ đức? Pa-rê-lơ-mô-ni-an với những cuộc hiện hình, với việc tôn thờ Thánh tâm, không phải là mới sao?

- Giáo hội đã tuyên bố rằng việc Thiên Chúa mạc khải cho loài người đã kết thúc khi vị Tông đồ cuối cùng qua đời. Nếu có khi nào Giáo hội thừa nhận và phê chuẩn những mạc khải riêng tư, thì Giáo hội chủ ý hiểu rằng những mạc khải đó không trái với đức tin hay phong hoá, nhưng Giáo hội không cho mình có quyền buộc tín hữu phải tin những điều đó. Chẳng hạn những lời Đức Giêsu phán ở Pa-rê-lơ-mô-ni-an sẽ không bao giờ thành những tín điều. Như vậy, Giáo hội không cắt bỏ, thay đổi, thêm thắt gì vào kho tàng mạc khải Kitô giáo. Tuy vẫn thừa nhận, cổ động sự tiến bộ, nhưng không hề thay đổi gì. Chưa hề có, và sẽ không hề có ai nghĩ đến chuyện viết một cuốn sách về đạo Công giáo tương tự cuốn "Lịch sử những biến đổi của đạo Tin lành". Chính L. đơ Phông-ta-nơ, chủ tịch Hội đồng lập pháp, năm 1804, đã nói lên ý đó trong bài diễn văn của ông về Đức Giáo Hoàng: "Tất cả đã thay đổi xung quanh Giáo hội. Chỉ có Gíáo hội là chưa hề thay đổi gì hết!"

- Nhưng đã có những giáo hoàng xấu!108

Page 109: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Cháu biết thế nào cậu cũng nói tới chuyện đó. Ô! Giáo hoàng là một con người. Có thể có những tính mê. Đã có những giáo hoàng dở, đã có những vị xấu. Phải. Đã có những giáo hoàng xấu. Giáo hội không phủ nhận điều đó. Đã có A-lec-xăng-đơ-rơ 6, không ai bênh vực được; Giăng 22 và Bơ-noa 9 có hơi khả nghi; và cho đi là đã có 2 hay 3 vị khác nữa có lẽ để mà ngờ. Cộng lại nhiều lắm là 5 hay 6 trên tổng số 261 vị. Trong đó có 76 vị đã được phong hiển thánh. Hơn 1 phần 3! Chỉ 2% là xấu, 34% là thánh!

- Phải. Nhưng nếu những giáo hoàng xấu đã sai lầm, thì luận cứ của cháu đổ.

- Đức Giêsu không bao giờ nói rằng giáo hoàng sẽ vượt trên những sai lỗi của loài người. Nhưng Người đã hứa rằng giáo hoàng sẽ không thể sai lầm khi công bố những định tín " do thượng giáo toà" (ex cathedra). Vậy mà trong số gíáo hoàng xấu đó, không ai sai lầm về giáo lí. Người ta đã có thể công kích những sai lầm về phẩm hạnh các ngài, không bao giờ người ta nói các ngài đã sai lầm về đức tin. Trong khi, như người ta thường nói, "không ai đúng 50 năm liền", thì 261 giáo hoàng đã đúng suốt 19 thế kỉ và chưa hề sai lầm về những vấn đề đức tin và phong hoá.

"Thế kỉ 19, tín điều giáo hoàng không thể sai lầm đã được công bố. Như thế là nói rằng ngài đã không thể sai lầm trong dĩ vãng và ngài sẽ không thể sai lầm trong tương lai. Như thế là thừa nhận rằng những định tín của tất thảy các giáo hoàng suốt 19 thế kỉ nay đều hoà hợp nhau. Tại công đồng Vatican I, mọi cái gì là nhân tài và vật lực trên thế giới này đều được huy động để bênh vực hoặc công kích ơn không thể sai lầm đó, nhất là để công kích. Và trong cái chuỗi dằng dặc những định tín của các giáo hoàng, người ta chưa có thể khám phá ra dù chỉ một biến đổi rõ ràng nào!"

Bơ-rô-gơ-li nói: "18 thế kỉ có lô gích, thật là một điều đáng kể!" Không những thế, đây còn là một lí chứng rất mạnh, phải cho

109

Page 110: Cậu cháu nói chuyện đạo

là có sự can thiệp trực tiếp của Thiên Chúa mới hiểu được. Xin để cậu kết luận.

Chương V

Bốn đặc điểmcủa

110

Page 111: Cậu cháu nói chuyện đạo

Giáo hội thật

Thưa cậu, sau tất thảy những điều chúng ta đã nói về những giáo hội tự xưng là của Đức Giêsu, chúng ta đã có thể tổng kết được rồi. Tuy nhiên, còn một luận cứ cuối cùng, cũng rất rõ ràng, cháu dành lại khi kết thúc. Cậu đồng ý là Đức Giêsu đã thiết lập Giáo hội chứ?

- Phải như thế, vì nếu không, sự nghiệp Người cũng chết luôn theo Người.

- Mặt khác, chính Người báo trước điều đó khi bảo thánh Phêrô: "Con là Đá, trên Đá này Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy". Chủ ý: "Giáo hội của Thầy". Người không nói "những giáo hội của Thầy". Vậy mà Tin lành, Chính thống và Công giáo đều tự xưng là của Đức Giêsu .Thì không thể cả ba đều đúng.

- Phải. Chân lí có một. Chỉ có thể có một Giáo hội thật mà thôi.

- Chà! Hôm nay cậu lí luận tuyệt quá!- Tiếp xúc với cháu, thì cuối cùng cũng phải thành thạo hơn

tí chứ!- Cháu sung sướng về điều đó lắm!- Nhưng ai cho phép cháu kết luận rằng Giáo hội của cháu là

Giáo hội thật?- Đơn giản thôi. Cháu sẽ đưa ra 4 đặc điểm hay dấu chỉ để

phân biệt. Chúng ta đem áp dụng vào 3 giáo hội, xem giáo hội nào có đủ 4 đặc điểm đó.

- Đồng ý!- Đặc điểm thứ nhất: Giáo hội thật thì nhất thiết phải duy

nhất. Vì chỉ có một đức tin.- Cậu cũng đoán trước được ý cháu.- Phải lắm. Và cháu xin hỏi cậu ngay rằng: căn cứ tất thảy

những gì chúng ta đã nói về Chính thống và Tin lành, cậu có đồng ý rằng hai giáo phái đó không có đặc điểm thứ nhất này không?

111

Page 112: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Phải. Đối với Tin lành, vì họ thiếu duy nhất tính đến mức sinh ra hỗn độn trong tín lí cũng như giữa các nhóm. Nhưng Chính thống Hi lạp và Nga có duy nhất tính về giáo lí lắm.

- Lẽ ra cháu có thể cãi lại đấy. Nhưng hãy tạm cho đi là họ có duy nhất tính giáo lí. Về duy nhất tính quản trị thì chắc chắn họ không có, vì mỗi nhóm trong 23 nhóm làm thành những giáo hội đó đều có một thủ lĩnh riêng. Đó là những nhóm tự trị.

- Thế còn Giáo hội công giáo, có duy nhất tính không?- Rõ quá rồi. Duy nhất tính giáo lí khắp nơi. Cả duy nhất

quản trị nữa, vì chỉ có một Thủ lĩnh duy nhất là Đức Giáo Hoàng.- Điều đó, cậu đồng ý với cháu.- Đặc điểm thứ hai để phân biệt là thánh thiện. Đức Giêsu

đến nhằm thiết lập sự thống trị của Thiên Chúa trên mặt đất. Để đạt mục tiêu đó, Người đã lập các bí tích như nguồn sự thánh thiện hay trọn lành. Ban đầu, danh từ "Kitô hữu" đồng nghĩa với "thánh". Dù chỉ xét theo quan điểm thuần lí, thì Giáo hội sở dĩ có ý nghĩa là vì Giáo hội là một phương thế thánh hoá. Vậy mà Tin lành không có thánh thiện.

- Coi chừng! Vấn đề gay đấy! - Cậu sẽ thấy rằng không gay tí nào cả. Tin lành không có

những vị sáng lập thánh thiện. Dẫu Luy-te-rô, dẫu Can-vanh, dẫu Hăng-ri VIII...(...)

- Phải. Với khẩu hiệu "Cứ phạm tội đi, nhưng hãy tin mạnh hơn!" thì làm gì mà đi tới sự thánh thiện được? Nhưng nào cháu đã không nhận rằng đa số người Tin lành tốt hơn là giáo lí của họ sao?

- Đúng. Và may mà còn được như thế. Dù họ không muốn, họ cũng đã giữ được chút ít nhựa sống Tin mừng. Nhưng chút ít nhựa sống đó, họ đã phung phí quá nhiều vì quan niệm thần bí lỏng lẻo của họ. Phải. Bên họ có những người có trình độ luân lí khá cao, những đức tính quí, có khi ở mức độ anh hùng nữa.

- Thế thì?

112

Page 113: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Sở dĩ những người đó đạt được trình độ như thế, nào không phải chính là vì họ không thực hành những nguyên lí của đạo họ đó sao? Có thể có những người Tin lành rất tốt, nhưng giáo lí của họ không có cái gì có sức thánh hoá.

- Còn người Chính thống, cháu cũng chê cả họ nữa sao?- Họ đã làm cho tôn giáo của họ chỉ còn là việc phụng tự bên

ngoài. Họ không có hoạt động xã hội hay hoạt động tông đồ nào cả (...)

- Kết luận: chỉ mình cháu là thánh thiện thôi?- Cháu phải thánh, nếu hiện giờ chưa thánh. Thế nhưng chỉ

có Giáo hội công giáo có sự thánh thiện mà thôi, mặc dầu có những nhược điểm mà Giáo hội cũng không phủ nhận. Thánh thiện trước hết là ở trong giáo lí: tín lí, luân lí, phụng tự của Giáo hội là những nguyên lí của sự thánh thiện. Rồi thánh thiện trong pháp chế: mọi luật lệ của Giáo hội công giáo đều có tính xây dựng và cải thiện. Giáo hội còn thánh thiện trong các tổ chức về đời sống chung cũng như riêng. Cậu thử đếm xem có bao nhiêu nam tu nữ tu trong Giáo hội. Sau hết, thánh thiện trong kết quả: một tập hợp những kitô hữu tốt và một lớp ưu tú gồm những thánh nhân và đại thánh nhân.

- Nhưng cũng có những người công giáo xấu!- Cũng như có những người Tin lành tốt. Cái đó không tránh

khỏi được, cậu ạ. Bên cạnh lúa miến, bao giờ cũng có cỏ lùng!- Dù sao, một Giáo hội tự xưng mình đáng gọi là thánh thì

không thể bày ra trước mắt người đời gương mù của những tín hữu xấu như thế.

- Này cậu, nếu cậu thấy cháu đĩ xem trụ quan ở viện bảo tàng Lu-vơ-rơ mà tay cứ cầm kính lúp ghì sát vào từng viên đá để tìm cho ra những chỗ rỗ nhỏ xíu, chắc thế nào cậu cũng chê cháu.

- Đúng. Một công trình kiến trúc lớn thì phải phê phán cách khác.

- Thì đây cũng thế cậu ạ, Cháu cũng muốn cậu làm như thế: khi cậu định phê phán sự thánh thiện của Giáo hội công giáo, cậu

113

Page 114: Cậu cháu nói chuyện đạo

đừng căn cứ vào một số trong các thành phần của Giáo hội. Ai cũng có thể có những sai lỗi. Nhưng hãy căn cứ vào cái toàn bộ huy hoàng mà phê phán. Không thế, cậu sẽ như chàng công tử nọ xem một bức hoạ kiệt tác, mà lại lật ra sau lưng tấm lụa để xem những mạng nhện ở đó.

- Cháu lí luận đúng lắm. Còn "đặc điểm" nào nữa không?- Còn hai nữa: tính công giáo và tính tông đồ.Giáo hội của cháu là Công giáo, đó là một sự kiện. Mặt khác,

đó là tên riêng của nó. Hơn nữa, nhờ 45.000 thừa sai, nam, nữ, Giáo hội đã lan khắp tận cùng thế giới.

- Tin lành cũng có thừa sai.- Cháu cũng biết điều đó. Thừa sai của Tin lành nhiều, có thế

lực, có tổ chức, được giúp đỡ và nuôi nấng bởi một ngân quĩ khổng lồ. Nhưng con số thừa sai đó lại chia làm nhiều phe phái khác nhau, không phe phái nào có tính phổ quát cả. Phân tán thì có; chứ công giáo, tức là phổ cập thì không.

- Còn phái Hi lạp và Nga?- Cũng thế thôi. Tại đó chỉ có những giáo hội quốc gia, hạn

chế và son sẻ một cách kinh khủng. Cậu có khi nào gặp những thừa sai của họ trên thế giới không?

- Không. Đúng lắm.- Còn tông đồ tính, tức là xét những tương quan của Giáo hội

đối với dĩ vãng, thì nó đáp ứng với nguyên tắc truyền thống và làm thành một đảm bảo cho tính liên tục. Đức Giêsu đã đặt các tông đồ làm người thay thế mình và các Tông đồ luôn luôn kể mình là những người độc nhất nắm giữ các quyền hành mà các ngài lại trao cho các giám mục của mình. Do đó, muốn cho có lô-gích, phải tìm hiểu công trình của Đức Giêsu trong cái chuỗi những người kế vị chính thức của Người. Vậy mà Giáo hội công giáo thực hiện tính tông đồ đó. Các Giáo hoàng đúng là những người kế vị hợp thức của thánh Phê-rô; các ngài kết thành một dây chuyền liên tục, lên mãi tận Đức Giêsu. Hơn nữa, các giám mục khác, rải rác trên thế giới, là những người kế vị hợp thức các

114

Page 115: Cậu cháu nói chuyện đạo

Tông đồ, do việc các ngài đã được phong chức và ban quyền bởi Thủ lĩnh Giáo hội.

- Thế có phải các giáo hội khác không làm gì có "đặc điểm" đó, cũng như không có ba đặc điểm kia không?

- Không làm gì có được. Tin lành ra đời do một sự nứt rạn, một sự li khai. Họ phải lấp đầy 15 thế kỉ mới nối liền với các Tông đồ được. Còn Chính thống, họ có thể có tông đồ tính chất thể, nhưng vì họ đã li khai với trung tâm của tính duy nhất, nên chuỗi giám mục kế tiếp nhau của họ không còn hợp thức nữa.

- Cậu đọc một cuốn sách Tin lành, thấy nói rằng theo họ, còn có một giáo hội vô hình. Trong Giáo hội Đức Giêsu xưa nay vẫn có một số người lành vô danh âm thầm tin theo những giáo lí của Tin lành Cải Cách.

- Phát kiến mới kì chứ! Ô! Phải rồi, cái hố sâu 15 thế kỉ đó làm bực bội, người ta thấy cần lấp cho đầy. Nhưng người ta không làm được như lòng mong muốn. Cậu xem, nếu những người gọi là lành, tổ tiên vô ý thức của Tin lành ẩn náu giữa chúng ta kín đến nỗi không ai nhận ra dấu vết của họ cả, thế thì làm sao những người Tin lành biết có những người đó? Làm sao họ biết cách chính xác ý kiến thầm kín của những người mà chưa ai biết cả?

- Hoan hô! Thua trận như thế này thú quá!- Và phục lí nữa, cháu mong thế.- Cái đó rồi có ngày.- Dẫu sao, thưa cậu, cháu hi vọng cậu sẽ không theo Tin

lành, phải không ạ? Nếu những tín đồ Tin lành có thiện tâm đều đáng kính (đa số như thế), thì trái lại giáo hội của họ chỉ còn là một công trình đổ vỡ, đầy những bè phái không bao giờ có thể hòa hợp nhau. Giáo hội thật có từ Đức Giêsu; Tin lành chỉ mới có gần đây và chính họ thú nhận họ không kế tục ai hết. Cháu nói lại: suốt 15 thế kỉ, họ không tìm được một người nào có cùng một đạo như họ. Chừng ấy đã đủ phê phán họ.

115

Page 116: Cậu cháu nói chuyện đạo

Chương VI

Nói tiếpvề

giáo phái Tin lành

- Này Mác-đa, có lẽ rồi cháu sẽ cho cậu là hơi tỉ mỉ đây. Nhưng thế này: mặc dầu cháu đưa ra những lí chứng mạnh như thế, cậu vẫn thấy thích Tin lành một cách nào đó.

- Thích các tín đồ Tin lành, được. Nhiều người bên họ thành tâm thành ý. Cháu đã nói rồi. Còn thích giáo lí họ, không thể. Không thể được (...).

- Nhưng họ có thật chia rẽ như cháu nghĩ không?- Vì cháu thấy những con số cháu đưa ra về các môn phái và

các bản tuyên tín của họ, hình như chưa thuyết phục được cậu, thì đây, cháu sẽ dẫn ra một lời của Giăng Giắc Rút -xô.

- Ông ta phải không thiên vị chứ!- Thế, cháu thiên vị sao?- Nghĩa là....- A, phải, cháu hiểu ra rồi. Xin cậu nghe nhé: "Người Tin

lành không biết mình tin gì, muốn gì hay nói gì. Có hỏi họ Giê-su Kitô có phải Thiên Chúa không, họ không dám trả lời. Họ nhận bao nhiêu mầu nhiệm, không trả lời. Người ta không biết họ tin

116

Page 117: Cậu cháu nói chuyện đạo

gì, những gì họ không tin. Ngay những cái mà họ dường như tin, cũng chả ai biết là cái gì (...).

- Tuyệt quá!- Cậu cũng thấy chứ?- Nhưng trong họ, có những người tốt lắm!- Phải. Có cả những kitô hữu rất tốt nữa. Cháu đã nói với cậu

và đây là một sự kiện: đa số người Tin lành tốt hơn giáo lí họ... Thế nhưng làm sao phẩm hạnh họ đi đôi với những nguyên lí của họ được?

- Chẳng hạn?- Chẳng hạn phẩm hạnh của Luy-te-rô mà cháu phải xịn lỗi

cậu khi phải dẫn ra đây lần nữa: "Cứ phạm tội đi, nhưng hãy tin mạnh hơn nữa (...) Sự tội không thể làm ta xa rời Thiên Chúa, dẫu mỗi ngày chúng ta có phạm (...) trăm ngàn lần!" Đã thanh nhã chưa!

- Và những người Tin lành sống theo nguyên lí đó?- Cháu hi vọng rằng không! Thế nhưng, sống hay không

sống, như thế, thử hỏi họ có nhận ra người sáng lập đạo mình không? Nếu họ bất nhận, thì họ là ai? Họ từ đâu mà ra? (...) thế đã đủ chưa, thưa cậu?

- Đúng như cháu nói, như thế chả có gì là thanh nhã! Tuy nhiên, những người Tin lành vẫn cứ sống và chết Tin lành.

- Cháu xin giải thích. Hằng ngày, đạo Tin lành mất đi nhiều tín đồ lắm.

- Ô!- Đúng thế. Thật là cái bể chứa rỉ nước. Có hai loại lỗ rỉ. Một

lỗ những thành phần trong họ thoát qua để rời Tin lành, mất hết đức tin rơi vào vô thần và duy lí. Một lỗ khác, những người rời Tin lành sang Công giáo.

- Cháu làm cậu sửng sốt.- Từ phong trào ốc-xphớt mà cả thế giới đều biết, những

Niu-man, Trét-xtớc-tơn và nhiều người khác, vì muốn hợp lô gích 117

Page 118: Cậu cháu nói chuyện đạo

đến cùng, đã theo Giáo hội công giáo. Chỉ tính trong nưóc Anh, đã có 10.000 người trở lại Công giáo mỗi năm (...). - Dù sao, cậu vẫn thấy thích thứ đạo đó. Nó không nghiêm nhặt bằng. Nó nhân đạo hơn Công giáo. - Ô! Đạo Hồi còn hơn thế nữa! Cậu nói điều đó tự đáy lòng sao? Thế cậu không nhận thấy cái gì lôi kéo một số tâm hồn bạc nhược chạy theo Tin lành sao?

- Cám ơn cháu!...- Chính là thứ phong hoá thấp và dễ dãi (...) Đạo Công giáo

yêu sách nhiều, bắt người ta phải tin nhiều điều, giữ nhiều huấn lệnh, thực hiện những việc kiềm chế óc độc lập và ý chí ngông cuồng. Tin lành chỉ tin những gì họ muốn tin; không có xưng tội, giữ chay, kiêng thịt và nếu không dự nghi lễ ngày Chủ nhật cũng không tội lỗi gì. Một tôn giáo tha hồ muốn tin gì thì tin và không bắt buộc làm một việc gì, có thể là lí tưởng của sự dễ dãi; còn phải xem nó có phải là lí tưởng của sự trọn lành thánh thiện và là con đường Chúa muốn ta qua để về trời hay không nữa. Chính Luy-te-rô trả lời: "Đạo của tôi thích hợp hơn để sống, nhưng đạo của giáo hoàng thích hợp hơn để chết". Và Mê-lăng-tông không ngần ngại nói với mẹ đang hấp hối: "Giáo lí mới dễ giữ, nhưng giáo lí kia bảo đảm hơn".

- Như thế có nghĩa là người Tin lành không thể rỗi linh hồn?- Chỉ có Thiên Chúa là Thẩm phán tối cao xét xử mọi linh

hồn người ta. Có điều là người Công giáo không bỏ sang Tin lành, nhất là trong giờ chết; trái lại, có hàng ngàn người Tin lành bỏ sang Công giáo.

- Nhưng bên Tin lành sống yên hàn, còn bên Công giáo đã trải qua những cơn sóng gió kinh khủng.

- Cậu bỡ ngỡ về điều đó sao? Người ta chỉ công kích chân lí thôi. Đối với sai lầm thì chỉ cần khinh bỉ là đủ. Đừng quên rằng đạo Công giáo đặt Thiên Chúa lên trên tất cả, trên cả quyền bính phần đời; chính vì thế mà Nhà nước nhiều khi chống lại Công giáo. Đạo Công giáo trấn áp những đam mê của con người, làm

118

Page 119: Cậu cháu nói chuyện đạo

chúng không chịu nổi, phải làm loạn. Còn đạo Tin lành thì không làm vướng trở một tình dục nào cả. Vua Bác-bơ-rút-xơ bên Đông nói: "Hồi vương thật là sung sướng! Không có giáo hoàng nào để cấm chỉ những tự do phóng đãng của nhà vua cả!"

- Được rồi. Cậu đã hiểu. Thế nhưng tại sao những nước Tin lành như Đức, Mỹ, Anh, Thuỵ sĩ... lại phồn vinh, trong khi những nước Công giáo lại sa sút như thế?

- Trước tiên, xin cậu cho cháu thấy căn cứ đâu mà nói họ phồn vinh là nhờ tôn giáo của họ? Đàng khác, - và đây là điều cậu thích thú, - nhiều khi những nước đó Kitô giáo hơn là một số nước Công giáo. Tại những nơi đó, Nhà nước chính thức là Nhà nước có đạo Kitô, thừa nhận và thỉnh cầu Đức Kitô; tại những nơi đó, bao giờ người ta cũng giữ ngày Chủ nhật. Sau hết, tôn giáo không nhằm trực tiếp lợi ích trần tục, mà phục vụ lợi ích thiêng liêng. Mặt khác, thử hỏi người Công giáo Đức và Anh không phồn vinh như đồng bào Tin lành của họ sao? Nước Pháp giá mà được là một nước Kitô giáo chính thức và thành tâm thành ý, thì cậu sẽ thấy nó phồn vinh đến mức nào!

- Nhưng người Tin lành không cảm thấy mình thua kém về giáo lí sao?

- Có chứ. Hơn nữa, họ còn nuối tiếc mọi cái họ thiếu: Thánh thể, Đức Trinh Nữ Maria, Đức giáo hoàng và, - điều mới lạ lùng chứ! - họ nhớ tiếc cả phép giải tội nữa! Họ không còn biết xin ai tha tội cho. Nhưng họ không tài nào thoát khỏi con đường mòn. Năm 1903, các mục sư họp Công đồng ở Đơ-rét-đơn, đã thú nhận như bao lần khác: "Chúng ta không thể nằm lại tình trạng này mãi. Trong chúng ta, tất cả đang sụp đổ. Chúng ta chẳng còn cái gì làm nền tảng, chẳng biết lấy gì làm biểu tượng, cũng chẳng còn việc Tế lễ nữa. Kìa Giáo hội Rôma dù không ngừng bị bách hại, vẫn trước sau như một, anh dũng và sung sức; dòng nhựa thần linh chu lưu trong lòng và trong các chi thể của giáo hội đó, mãi mãi trẻ trung, mãi mãi vô tận, mãi mãi phong phú".

- Phải, lời thú nhận đó bộc lộ sự hối tiếc, có thể nói là chứa những giọt nước mắt nữa.

119

Page 120: Cậu cháu nói chuyện đạo

- tóm tắt: Tin lành là công trình của loài người; vì thế mà có những nhược điểm, những mâu thuẫn. Đạo Công giáo do Thiên Chúa lập, vì thế có sức mạnh và tính duy nhất đẹp đẽ. Bên các cháu, một lâu đài lộng lẫy, hoàn bị, nguyên tuyền, cao trọng hệt như lúc ban đầu. Bên họ, một toà nhà xiêu vẹo. lung lay, chỉ còn giữ được mấy chân lí rời rạc, bị bóp méo, bị cắt xén. Hai đường, dễ mà chọn một!

- Cậu đã chọn.- Vậy cháu xin mừng cho cậu. Thật ra, cậu ạ, hiện nay, cháu

không còn thấy cậu lang thang trên những đổ vỡ nữa, vì, như Đức Cha Bô-na nói: "Đạo Tin lành chỉ cho thấy những cái gì còn lại cảu Đức Giêsu sống lại: những mảnh vải vấn thân và một khăn liệm. Và linh hồn người kitô hữu bỏ về, khóc lóc như Ma-đơ-len: "Họ lấy mất xác Thầy tôi rồi, mà tôi không biết họ để Người ở đâu mà tìm!"

Phần VNhững vấn nạn

phi bácđạo Công giáo

Chương IVấn nạn dồn dập

- Này cháu, như vậy là cậu cháu chúng ta vẫn cứ đối diện nhau, không khác nào hai địch thủ đã từng quần nhau lâu ngày, không chịu buông tha nhau trước khi đấu trận cuối cùng.

120

Page 121: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Còn hơn thế nữa. Cháu cứng cổ như mọi người đàn bà khác, và cháu nhất quyết đuổi theo cậu, mãi tận cứ điểm cuối cùng của cậu.

- Hẳn là cháu muốn làm được cho cậu giữ đạo.- Trọn vẹn! - Kể cả xưng tội? - Hơn thế nữa!- Ô! Thế thì cháu mất công vô ích thôi. Tin đạo ư? Phải.

Nhưng giữ đạo? Không!- Chà! Cái lô-gích gì vậy?- Tại sao cháu lại muốn bắt cậu phải tuân phục tất thảy

những giới luật Thiên Chúa và Giáo hội? - Vì tin thì phải giữ. Tin mà không làm như mình tin, không

phải là tin chân thành.1. Tại sao phải có tôn giáo?- Vì chúng ta là những thụ tạo, mà thụ tạo thì có những

nghĩa vụ đối với Đấng Tạo hoá đã sáng tạo nên mình.- Riêng cậu, cậu chẳng lệ thuộc ai hết! - Cả Thiên Chúa nữa?- Sao lại không?- Như thế là điên! Tác phẩm lệ thuộc kẻ làm nên nó. Đứa con

ngộ nghịch mấy, muốn hay không muốn, nó cũng có những nghĩa vụ đối với cha mẹ nó chứ?

- Nhưng cậu không yêu cầu ai sinh ra cậu. Tại sao Thiên Chúa lại kéo cậu ra khỏi hư vô? Cậu có yêu cầu gì ở Người đâu!

- Thì cha mẹ của cậu cũng có yêu cầu được sống đâu. Có điều là Thiên Chúa đã gieo sự sống vào trái đất và Người muốn nó được truyền bá mãi. Nào cậu có quyền gì trong việc đó? Mà thử hỏi: "không hiện hữu" thì tốt hơn "hiện hữu" được sao? Sự sống không là một ân huệ đối với cậu sao?

121

Page 122: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Nhưng như vậy là Thiên Chúa bất công: cậu có thể không hiện hữu, mà Người tước mất cái khả năng đó!

- Khi cậu không hiện hữu, thì không làm gì có cái khả năng không hiện hữu, cũng như không làm gì có cái khả năng hiện hữu. Muốn có quyền thế nọ thế kia, trước hết phải hiện hữu đã.

- Thôi, cãi nhau làm gì chuyện đó. Chẳng qua chỉ là để nhập đề thôi mà. Chúng ta bàn về tôn giáo. Nào, cháu nói xem!

2. Tôn giáo mà làm gì?- Tôn giáo là để người ta nhìn nhận chủ quyền tối cao của

Thiên Chúa đối với mình. Ta nhờ Thiên Chúa mà có được mọi sự. Do đó, Người có quyền đòi ta phải tôn kính, luỵ phục và biết ơn.

- Nhưng xét về thực tiễn, tôn giáo ích gì?- Mới đây, một vị danh y vừa công bố một báo cáo, theo đó

thì trong số 342 gia đình bất hạnh, có 320 gia đình không theo một tôn giáo nào; trong số 417 thanh thiếu niên làm điếm nhục gia đình, chỉ có 12 người lui tới thánh đường; trong số 25 người con bất hiếu với cha mẹ, chỉ có một người có đạo.

- Đó chỉ là những con số. Cậu muốn có những sự việc.- Thì đây là một sự việc. Vừa rồi, có hai thiếu nữ 16 tuổi

nhảy xuống sông Xen tự vẫn. Một người có để lại mảnh giấy ghi mấy chữ: "Tôi chết vì tôi đã chán sống!"

- Cháu đọc đâu chuyện đó?- Trên một tờ báo. Ở đó còn có cả mấy cảm nghĩ của Vô-ten

(Vautel) như thế này: "Không có một tôn giáo, một luân lí nào để chặn bước họ cả. Cuộc sống không thấy thích thú nữa, thế là họ tự sát. Để đi đâu? Cái đó chẳng hệ gì. Đó là tất cả triết lí của hai con bé kia. Nếu họ tin ở một cái gì cao hơn bản tính con người chúng ta, thì chắc chắn niềm tin đó đã giữ được họ lại trên bờ vực thẳm".

Tôn giáo mà làm gì ư?

122

Page 123: Cậu cháu nói chuyện đạo

Trước hết tôn giáo là để con người được hạnh phúc. Thiếu nó, người ta thấy lương tâm day dứt, cắn rứt, lòng đầy nghi nan, chán chường, rên xiết. Thừa nhận Thiên Chúa mà lại muốn không cần đến Người cũng hạnh phúc, như thế là điên rồ, là xúc phạm đến bản tính tự nhiên, xúc phạm đến cả kinh nghiệm nữa.

Tôn giáo mà làm gì ư? Tôn giáo là để con người nên lương hảo hơn, tốt hơn, nên đức độ. Muốn chiến thắng bản tính tự nhiên, phải có cái siêu nhiên. Sở dĩ các tôn giáo khác không nhận một động lực siêu nhiên, là vì họ đã cắt bỏ những đức tính gay go để khỏi phải thực hiện chúng; là vì họ đã hợp pháp hoá những nết hư sức loài người không thể thắng nổi, để khỏi phải bận tâm chống đánh chúng.

Không phải hễ muốn nên người đức độ, chỉ cần ở thế nào không có gì đáng trách đối với hình luật. Rõ ràng là nếu tham lam trở thành cái cao quí nhất của con người đoan chính, mê dục trở thành một nhu cầu khí chất, báo thù trở thành một sự tự vệ chính đáng, nếu nhân đức bị tục hoá đi, bị tiêu huỷ đi như thế, thì việc tập luyện nó không còn gay go gi nữa. Đúng là: "Cái gì kiếm được không khó khăn gì, thì cũng không có giá trị gì", như ngạn ngữ nói. Cậu ạ, “con người là một con vật có tôn giáo”. Nếu tôn giáo không có thật, nó cũng bịa ra cho có. Khi con người không biết Thiên Chúa thật, nó bịa ra một Thiên Chúa vừa tầm mình. Như Ben-gia-manh Công-xtăng nói: tôn giáo là "một nhu cầu sâu kín và cần thiết như nhu cầu tự vệ".

Chỉ tôn giáo cho cuộc đời một ý nghĩa. Huênh hoang tự phụ mấy, cũng có những giờ khắc nhất định chúng ta chạm trán với những câu hỏi oái oăm: "Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Tôi đang đi về đâu?" Chỉ tôn giáo nắm giữ chìa khoá bí mật.

Con người vừa bắt đầu suy nghĩ, đã thấy có những cái mốc giới hạn cuộc sống mình cả mọi phía. Trí băn khoăn vì bức tuờng bí nhiệm, lòng khổ cực vì những cay cú của tình yêu, lương tâm đau đớn vì những nhu nhược cũng như những hư đốn của bản năng mình. Muốn xây toà nhà đạo đức, cũng phải có một cơ sở làm nền móng. Thiếu tôn giáo, người ta xây đạo đức trong chân

123

Page 124: Cậu cháu nói chuyện đạo

không... nó đổ vỡ. Chính vì thế mà Đi-đơ-lôt nói: "Kiến thức căn bản đầu tiên phải có là kiến thức về tôn giáo, cơ sở độc nhất của đạo đức. Để giáo dục con gái tôi cho tốt, tôi thấy không gì bằng cuốn sách giáo lí".

Tôn giáo là để làm như thế. Tôn giáo là nghĩa vụ buộc nhặt đối với Thiên Chúa; nhưng đôi lúc nó cũng là chiếc phao cứu mệnh. Cũng có thể ví nó như cái thắng xe. Không phải có nó là tránh được hết mọi tai nạn, nhưng có nó cũng tránh được khá nhiều. Và như thế cũng đã là một cái gì có ích rồi.

3. Nhưng Thiên Chúa không cần đến chúng ta. Ta tôn thờ Người thì Người được gì?

- Đồng ý là Thiên Chúa không cần đến chúng ta; nhưng chúng ta lại cần đến Thiên Chúa. Của cải tràn trề của chủ nợ không làm giảm sút nghĩa vụ của con nợ. Cha không cần được con tôn kính; nhưng nếu cha không đếm xỉa gì đến điều đó, thì có đáng là cha thật không?

4. Cậu theo phái tự nhiên thần luận ( Déisme).- Ban-dắc mà nghe, ông ta sẽ trả lời cậu rằng người theo tự

nhiên thần luận chỉ là người vô thần để có lợi cho mình.- Cháu ạ, nhìn kĩ thì tôn giáo chỉ là "thuốc phiện nhân

dân"...là cái "ru ngủ" như Giô-re nói, vì nói cho cùng thì...5. Chính sự sợ hãi làm phát sinh tôn giáo.- Ô! Không phải, cậu ạ. Người có đạo là một người giữ đạo

vì đó là một nghĩa vụ của họ. Chỉ có thế. Họ không như con vật bất kham, chỉ đi vì sợ roi; họ là người có lương tri, coi việc chu toàn nghĩa vụ là một việc tăng thêm phẩm giá và hạnh phúc cho mình.

- Con người tự nhiên có cái khunh hưóng muốn khuất phục những sức mạnh tự nhiên: mà vì nó sợ những sức mạnh đó, nên nó coi chúng là thần linh.

- Đối với một số bộ tộc man di nhất định, thì có lẽ có như vậy. Nhưng riêng về đạo công giáo thì cậu đã rõ vì câu từng đọc

124

Page 125: Cậu cháu nói chuyện đạo

Tin mừng, đạo công giáo dựa trên cơ sở là lòng mến Chúa yêu người.

- Bên cháu không có gì là sợ hãi cả sao?- Nếu đôi lúc có sợ hãi, thì sự sợ hãi đó chỉ chi viện cho

lòng yêu mến mà thôi.- Hoả ngục chẳng hạn, thì sao?- Ô! Cậu ạ, sự sợ hãi, "khởi đầu của khôn ngoan" nhiều lúc là

một nhân tố của lòng nhân hậu. Thiên Chúa muốn cứu rỗi ta và muốn ta được hạnh phúc đời sau; nhưng đối với những kẻ mà lòng yêu thương thôi chưa đủ để cứu rỗi, Người phải dùng một sự sợ hãi để đưa họ đến với mình. Sự sợ bệnh tật làm ta biết dè giữ không phung phí sức khoẻ và thể lực. Sợ ngã đau, ta cẩn thận khỏi trượt chân; sợ quở mắng, ta cố tránh lỗi lầm. Nhưng sự sợ bệnh không tạo nên sức khỏe; sự sợ ngã đau không tạo nên thế cân bằng; sự sợ quở mắng không tạo nên nghĩa vụ. Đồng ý là trong cơ sở của tôn giáo, có một sự kính sợ nào đó, nhưng nó chỉ là cơ sở thôi. Đạo thật phát triển chính trong niềm tin cậy và yêu mến. Có phải sự sợ hãi làm nên những vị thánh, những vị thừa sai, tử đạo, đồng trinh, những nữ tu bác ái, những "Chị em người nghèo" không? Không, đạo không phải là sự sợ hãi; đạo là sức mạnh, là nghĩa vụ, là danh dự và yêu mến.

6. Tôn giáo không hợp đạo đức, vì người có đạo chỉ làm việc thiện để được thưởng.

- Cậu không nghiêm chỉnh. Chứ thực ra, người có đạo yêu mến Thiên Chúa vì chính mình Người. Thiên đường và hoả ngục có thật. Đạo dạy như thế. Nhưng ý tưởng về phần thưởng có thể là một sự hậu thuẫn, một sức chi viện trong đấu tranh, chứ nó không bao giờ là động lực độc nhất thúc giục người ta hành động. Đàng khác, nào sự thưởng phạt đời sau không phải là một phương thế thông thường và cần thiết để khôi phục công chính sao?

7. Cậu đây, cậu có đạo gì đâu, mà cậu không vì thế mà ốm yếu.

- Con cún của cậu cũng vậy!125

Page 126: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Mày đáo để nhỉ! - Nhưng, thưa cậu, tôn giáo đâu phải một liều thuốc nội trị!

Cậu đừng coi đó là một cái đưa lại sức khoẻ. Cậu có nói: "Cậu không yêu nước, mà vẫn không vì thế mà khổ hơn" thì điều đó cũng chả chứng minh được cái gì phi bác lòng yêu nước và những nghĩa vụ phải làm đối với tổ quốc.

Nhưng cậu cứ vào các bệnh viện mà xem những người bệnh tật vì sớm hư hỏng; nếu họ có đạo, họ đã khá hơn thế. Tôn giáo nhiều khi chỉ là thứ thuốc thơm để ướp sức khoẻ cho khỏi hư, khỏi thối rữa.

Kìa, anh chàng nghiện ngập! Anh ta mà có đạo, phải chăng anh đã không sa đọa như thế?

Kia, những dân tộc không tôn giáo. Không sớm thì muộn rồi họ cũng bị tiêu diệt vì sự son sẻ và nội loạn. Không sinh con nữa, người ta chỉ còn lo thoả mãn những thèm muốn của con thú.

Cậu ạ, xin cậu hủy bỏ vấn nạn đó đi, vì nó làm cháu nghĩ rằng cậu không có những tư tưởng cao siêu, không có sự thanh nhã tâm hồn, cũng chả có một lương tâm cao quí.

An-phơ-rét đơ Muyt-xê đã chẳng viết mấy câu thơ tuyệt cú này sao:

"Rảo bước như đàn cừu, mặt cắm xuống đấtKhông biết gì nữa hết. Như thế phải chăng là hạnh phúc?Không! Như thế không còn là người nữa!?"8. Tôn giáo thích hợp với đàn bà.- Nhưng cũng không đến nỗi xấu đối với đàn ông, như cậu

nghĩ. Chứng cớ là trong nhà tù số đàn ông gấp 3 số đàn bà và trong nhà thờ số đàn bà gấp 3 số đàn ông. Phải nói rằng điều đó cũng nói lên một cái gì. Phải chăng Thiên Chúa đã không sáng tạo nên đàn ông như đã sáng tạo nên đàn bà? Hình như cậu coi bọn chúng cháu như những loài thấp kém. Thật ra về điểm này đàn bà chúng cháu hơn bọn đàn ông như cậu, vì chúng cháu chính trực hơn, mà cũng giàu đại độ hơn đàn ông.

126

Page 127: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Đại độ hơn, đồng ý. Còn chính trực hơn sao?...- Đúng thế, vì trước nhiệm vụ này, chúng cháu trọn vẹn thi

hành, còn đàn ông như cậu thì lại sao nhãng, cho nhiệm vụ đó làm vướng trở mình. Đàng khác, hoặc là tôn giáo do Thiên Chúa, hoặc là tôn giáo không do Thiên Chúa. Nếu không do Thiên Chúa, thì nó không hợp với đàn bà cũng như với đàn ông. Nếu nó do Thiên Chúa, thì ai nó cũng buộc nhặt cả, buộc đàn bà chúng cháu cũng như buộc đàn ông các cậu. Không lẽ cậu dám quyết 2 + 2 = 4 đối với đàn bà, mà 2 + 2 = 5 đối với đàn ông sao?

Tôn giáo chỉ hợp cho đàn bà sao? Nhưng như thế là cậu lạc hậu rồi! Cậu không biết rằng trong năm 1932, có thêm 1.300 sinh viên Đại học tại thủ đô này xưng tội rước lễ mùa Phục sinh. Như thế nghĩa là trong các trường Đại học chúng ta, có chừng 2 vạn thanh niên giữ đạo, tức chừng 69% trong số những người ngày mai sẽ là thành phần ưu tú trong xã hội chúng ta!

Tôn giáo chỉ hợp cho đàn bà thôi sao? Hợp cả cho đàn ông các cậu nữa, vì đàn ông cần tôn giáo hơn đàn bà. Nhưng đây lại là một địa hạt dành riêng; và trên điểm thiết yếu đó, phái yếu lại luôn luôn mạnh hơn cả phái "mạnh"!

9. Với cậu, một mình lí trí đã đủ.- Xin lỗi cậu, dẫu trong lĩnh vực tự nhiên, một mình lí trí

cũng không đủ cho cậu. Có hàng ngàn câu hỏi, hàng ngàn vấn đề mà một mình nó không bao giờ giải đáp được. Trong lĩnh vực siêu nhiên, lí trí ta càng dốt nát hơn nữa. Ta từ đâu đến? Ta đang đi về đâu? Sự sống là gì? Chết là gì? Tại sao ta khổ? Trước những vấn đề đó và bao vấn đề khác, một mình lí trí loài người với sức riêng của nó, không thấu suốt được, hoặc phải câm bặt. Đàng khác, cứ nguyên tắc của cậu, có bao nhiêu người, cũng có bấy nhiêu ý kiến. Như thế thì thật rắc rối!

- Nhưng lí trí con người tinh tường lắm chứ!- Phải, cậu cũng biết rằng một triết gia đã định nghĩa con

người là "một ống tiêu hóa để hở hai đầu". Một triết gia khác quyết rằng nết hư và nhân đức chỉ là "những sản phẩm như đường

127

Page 128: Cậu cháu nói chuyện đạo

và lưu toan diêm". Nhân danh lí trí, người ta đã cổ xuý những hệ thuyết phi lí chỉ tổ xô người sáng nghĩ ra chúng tới tai hoạ!

- Như thế nghĩa là lí trí bất lực và vô dụng sao?- Không, cháu đâu nói thế! Pat-xcan nói: "Loại trừ lí trí và

chỉ nhận lí trí mà thôi, đó là hai cái thái quá nguy hiểm. Lí trí là có ích, hơn nữa là không thể thiếu và nó dẫn ta tới niềm tin. Thế nhưng, một mình nó không bao giờ đủ được. Và người nào tin, người đó ngàn lần có lí hơn và thông giỏi hơn người không tin". Đa số nhân loại bao giờ cũng bắt buộc phải dựa vào thế giá và bằng chứng của người khác. Nhân loại sống bằng những điều tin tưởng.

- Nhưng có những bậc thiên tài lỗi lạc...- Cháu xin ngắt lời cậu và xin trích dẫn ra đây mấy câu nói

đủ để thuyết phục cậu. Bây-cơn: "It khoa học làm xa tôn giáo, nhiều khoa học xích lại gần". Pat-can: "Thái độ cuối cùng của lí trí, là thừa nhận có vô số điều quá sức nó". Pat-xtơ: "Khi người ta đã nghiên cứu đến nơi đến chốn, người ta trở lại với niềm tin của người đàn ông nông dân xứ Bơ-rơ-ta-nhơ. Và nếu trước đây tôi đã nghiên cứu nhiều hơn, thì tôi đã có niềm tin của người phụ nữ Bơ-rơ-ta-nhơ". Ti-e (Thiers):"Nếu tôi được nắm giữ những kho tàng của niềm tin, thì tôi sẽ phân phát cho quê hương tôi". Đó là câu trả lời của những bậc thiên tài mà cậu hỏi ý kiến.

- Thôi, đủ rồi!- Chưa, đây nữa, một người mà cậu coi là danh nhân, người

mà cháu nghĩ là ông ta không ưa gì hàng giáo sĩ, đó là Mi-sơ-lê. Ông viết thế này: "Hạng triết gia hay suy luận chúng ta cứ tha hồ mà tự đắc! Nhưng, hỏi rằng ai trong ta không phát ghen lên, khi nhìn những lớp tín đồ từ thánh đường cuồn cuộn đổ ra, họ trẻ lại, họ đổi mới, sau khi từ bàn rước lễ ra về. Thật ra lí trí vẫn cương quyết, nhưng tâm hồn chúng ta không khỏi ủ ê rầu rĩ". Như cháu đã từng thưa với cậu, lí trí dẫn chúng ta đến với niềm tin. Muốn quan sát các thiên thể, phải có kính viễn vọng. Nhưng có kính viễn vọng mà không có con mắt để nhìn qua kính viễn vọng,

128

Page 129: Cậu cháu nói chuyện đạo

thì cũng chả thấy được cái gì. Cũng vậy, tôn giáo cho ta thấy xa hơn lí trí; thế nhưng không có lí trí, thì tôn giáo cũng bất lực, không khác nào kính viễn vọng mà không có con mắt sử dụng nó.

- Cậu hiểu rồi!- Thế thì? 10. Nhưng, cậu là một con người chính trực, thế là đủ!- Cậu hiểu người chính trực là người như thế nào?- Là người chu toàn mọi nghĩa vụ của mình.- Thế cậu quyết là cậu chu toàn hết cả?- Cho đến khi có chứng ngược lại.- Cậu có những nghĩa vụ nào đối với Thiên Chúa không?- Không biết.- Nhưng vì Người là Đấng đã sáng tạo nên chúng ta, là Chúa

tể chúng ta, Cha chúng ta, tất nhiên chúng ta có những nghĩa vụ đối với Người. Vậy mà tôn giáo chính là ở tại chu toàn những nghĩa vụ đó. Chưa chu toàn, cậu chưa phải là người chính trực trọn vẹn.

- Không. Như thế đã trọn vẹn.- Ăn ở chính trực, phải, như thế đã đủ để được kể là không bị

truy tố trước pháp luật, nhưng chưa đủ để lên thiên đường đâu. Thử hỏi một kẻ không giết người, không trộm cướp, cũng không có gì phải cãi nhau với cảnh sát và toà án, một người như thế không phải thanh toán gì với Thiên Chúa nữa sao? Một tôn giáo cho phép tất cả, chỉ trừ trộm cướp và giết người, cậu cho như thế là đủ sao? Cậu dễ tính quá! Cậu cũng biết rằng trong một nước mà tôn giáo đã giảm sút, thì luân thường cũng suy vong. Chính trực và tôn giáo đi đôi với nhau.

- Giữ được danh thơm tiếng tốt là quí lắm rồi! - Đồng ý. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ đó. Giữ được

danh thơm tiếng tốt chưa đủ. Ra-xin viết cho con trai ông thế này: "Cha hi vọng rằng trong khi dốc hết nỗ lực để trở nên một con người chính trực, con sẽ thấy rằng người ta không thể nên chính

129

Page 130: Cậu cháu nói chuyện đạo

trực, nếu không chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa." Cháu hiểu sự chính trực là như thế.

Ăn ở chính trực là: tuân thủ những qui luật của đức hạnh, nhận rõ thiện ác và dốc toàn tâm toàn lực để đạt điều thiện, giữ lời đã nói, không hề phạm đến thanh danh, danh dự, sự sống, của cải kẻ khác, trung thành với lương tâm mình, vượt lên trên tất cả để làm tròn nghĩa vụ, hi sinh thời giờ, thú vui, của cải và cả mạng sống mình vì nghĩa vụ; sau hết là làm tròn mọi nghĩa vụ đối với Thiên Chúa, với đồng loại, với chính mình. Cậu có chắc rằng không có tôn giáo, cậu vẫn làm được như thế không?

Cháu cũng biết có con người chính trức theo quan điểm người đời. Người đó có thể có một dáng dấp tốt đẹp, lịch sự bề ngoài, nhưng lại dung túng cho những thói hư tật xấu, miễn là vô tai lặng tiếng, kẻ khác không biết; người kẻ trộm chẳng may bị sa lưới, thì họ bêu nhục; nhưng anh bợm sành nghề, thì họ tấm tắc khen ngợi; họ tha hồ nói dối; nợ nần do cờ bạc thì họ coi như nợ thần nợ thánh, nhưng nợ của bà con bạn bè... thì họ cho là có thể bỏ qua; họ giập tắt tiếng nói lương tâm; những nghĩa vụ đối với Thiên Chúa, họ kể như những chuyện tầm thường, không đáng quan tâm.

Nếu cậu quan niệm sự chính trực là như thế, thì cháu không hề khen ngợi cậu!

11. Nhưng mỗi người có thể phụng sự Thiên Chúa theo cách thế của mình.

- Thật không? Giả sử người giúp việc của cậu nói với cậu: Thưa ông, tôi xin phục vụ ông theo cách của tôi và theo ý muốn của tôi, cậu có đồng ý không?

- Ô! Không!- Thiên Chúa là Chủ của ta và cậu phải phụng sự Người như

Người muốn được phụng sự. Cách thế phụng sự của cậu có thể là không như Người muốn.

12. Cậu có tôn giáo riêng của cậu.

130

Page 131: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Tôn giáo nào? Cậu thờ thần tượng? Thờ Thích ca? Thờ Ma-hô-mét? Cậu theo đạo Do thái? Tin lành? Công giáo?

- Không. - Như thế có nghĩa là cậu đã phát minh ra một tôn giáo mới?- Có lẽ.- Ô! Thế thì cậu phải xin đăng kí công nhận đi. Nhưng cậu

nói cho cháu xem: cậu tin những gì? Bản tuyên tín của cậu là gì? Bộ luật luân lí của cậu gồm những giới luật nào? Về nghi lễ thực hành, có những gì? Thánh đền của cậu ở đâu? Ai là linh mục? Một tôn giáo phải có tất cả những yếu tố đó. Nếu cậu chưa có gì cả, thì tôn giáo của cậu là không có thật.

- Chưa chắc! - Riêng cháu, một điều cháu thấy rõ là cách thế cậu phụng sự

Thiên Chúa chỉ là không phụng sự Thiên Chúa. Dễ dàng chưa! Người ta tự đặt cho mình một bộ luật luân lí "bỏ túi", thu gọn hết sức; người ta kính chào Thiên Chúa, nhưng không giao tiếp gì với Người; người ta tự làm lấy một toà cáo giải để rồi tự mình giải tội cho mình; một bàn thờ ở đó người ta tự tôn thờ mình, vì không có ai hơn mình nữa. Thật đơn giản và rẻ tiền!

- Cháu lại mỉa mai rồi!- Thì lỗi tại cậu thôi! Cậu nói như thế, chẳng khác gì anh bộ

đội có thể bảo vệ tổ quốc theo cách thế của anh; một người công nhân bảo chủ: tôi làm việc theo cách thế của tôi, tôi không phải nhận mệnh lệnh gì nơi ông cả; một người giúp việc: tôi sẽ phục vụ ông tuỳ ý tôi; một người con bảo cha: con sẽ vâng lời cha theo sở thích của con!

- Cháu chưa hiểu ý cậu.- Ô! Cháu hiểu rõ quá, cậu ạ. Cậu muốn chủ trì một tôn giáo

"tạp phẩm", bỏ đi những giới luật gây phiền cho cậu, cái gì thích thì giữ, cái không thích thì bỏ, nhất là bỏ...

13. Tôn giáo nào cũng tốt cả!- Có lẽ cậu muốn nói: đạo nào cũng có cái tốt cả?

131

Page 132: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Không. Ý cậu muốn nói mỗi đạo tốt theo cách của mình.- Nếu trả nợ cho cậu, mà người ta đem những tờ bạc giả, cậu

có bằng lòng không?- Cậu không hiểu ý cháu định nói cái gì.- Nếu có những tờ giấy bạc giả, đó không phải là bằng chứng

rằng có những tờ giấy bạc thật, nghĩa là giấy bạc tốt không? Nếu mỗi đạo, đạo nào cũng quyết rằng đạo mình là đạo thật, thì điều đó có nghĩa là ai cũng đồng ý có một đạo thật và chỉ một đạo thật. Vậy nếu người ta đã có thể làm cho các dân tộc tin 100 thứ đạo ngông cuồng, thì điều đó quả quyết 100 lần mạnh mẽ rằng mọi người đều nhất trí có một đạo thật.

- Đây, lập luận của cậu thế này: hình thái đâu tiên của tôn giáo là bái vật giáo; sau đó, xuất hiện đa thần giáo; đa thần giáo giản lược đi thành độc thần giáo. Công việc giản lược còn tiếp tục và rồi độc thần giáo sẽ thành...

- Sẽ thành vô thần luận chứ gì? Và con người sẽ là Thiên Chúa của chính mình. Phủ nhận Thiên Chúa sẽ là bước kiện toàn của việc tin có Thiên Chúa! Cháu không làm sao nhân ra một cái gì tiến bộ trong cái mớ hỗ lốn đó, trong sự lần lộn giữa chân lí và sai lầm đó. Chân lí tự bản chất nó là bất biến; trí khôn con người phải suy phục nó, chứ không phải nó phải suy phục con nguười. Muốn rằng người ngoại giáo thờ 20 thần cũng đúng như người Kitô giáo chỉ thờ một Thần, thì thật là lầm lẫn các khái niệm, là công nhận điều phi lí.

- Ở đây, có vấn đề kiện toàn.- "Có" không bao giờ là kiện toàn của "không". Vậy mà giữa

câu "Giêsu Kitô là Thiên Chúa" bên công giáo và câu "Giêsu Kitô không phải Thiên Chúa" của một số người Tin lành và Do thái, không phải là có sự đối lập như giữa "có" với "không" sao? Riêng cháu, không bao giờ cháu nhận rằng thật cũng là giả.

...................................................................................14. Nhiều đạo, làm sao biết đạo nào là đạo thật?

132

Page 133: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Lẽ ra, cháu chỉ cần xin cậu nhớ lại những cuộc trao đổi trước kia. Những lần đó, cháu đã cố làm cho cậu thấy chỉ có đạo Công giáo là đạo thật. Tuy nhiên, cháu thấy cần nhấn mạnh. Mỗi đạo đều mang dấu ấn kẻ sáng lập nó. Có những đạo để lộ dấu ấn loài người (...) Có một đạo, chỉ một đạo mang dấu ấn Thiên Chúa. Cậu biết đạo ấy là đạo nào rồi. Phải. Trên các đạo khác, rõ ràng có nhãn hiệu sản xuất của loài người. Đó là những giấy bạc giả. Để tiêu dùng bạc giả, người làm bạc giả đã cố sức làm thật giống. Có lúc họ còn giả cả chữ kí của Đức Kitô nữa. Thế nhưng không thật. Cứ tìm hiểu kĩ, cứ so sánh, cậu sẽ nhanh chóng nhận ra chữ kí nơi đạo công giáo (...).

15. Cậu thích đạo tự nhiên hơn.- Vì như thế đơn giản, ít phiền phức hơn. Thật ra, nào đạo tự

nhiên không phải là đạo của những người không có đạo nào cả đó sao? Vả chăng, đó cũng chỉ là một nhãn hiệu suông, chứ không có việc làm nào hết, tín điều cũng không. Thật là đơn giản mà cũng thật là rỗng tuếch. Giữ đạo đó, cậu có những nghĩa vụ gì? Chả có nghĩa vụ gì hết. Cậu thờ gì? Tuỳ ý. Tư tế là ai? Nghi lễ thế nào, đền thờ ở đâu, bản tín biểu, luân lí đâu? Phải nhận rằng đó chỉ là một cái mung lung, gần như hư vô.

Với đạo tự nhiên đó, người ta tha hồ muốn làm gì thì làm, muốn tin gì tuỳ ý. Đạo tự nhiên là đạo của những người không có đạo nào hết.

- Nhưng nó do Thiên Chúa.- Phải. Nhưng nó không còn đủ như xưa nữa. Từ khi Thiên

Chúa mạc khải một đạo khác hoàn hảo hơn, đầy đủ hơn, thì người ta có nhiệm vụ phải tiếp nhận nó. Với đạo tự nhiên, người ta có thể là một con người; nhưng không phải là một người kitô giáo. Người ta là con tự nhiên, không phải là con chính thức. Đạo tự nhiên không đủ. Thiên Chúa còn đòi hơn thế, cao hơn thế. Định cho ta ở vị trí nào, đó là việc của Thiên Chúa, ta không có quyền lựa chọn.16. Theo cậu thì cứ làm việc thiện giúp đỡ người khác là đủ.

133

Page 134: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Như thế cậu chỉ mới thực hiện được một phần chương trình. Cậu đừng tách rời cái mà Thiên Chúa đã liên kết. Người bảo cậu: "Hãy yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em". Cậu chỉ đi có một chân. Thiên Chúa là tất cả, vậy mà cậu chả đếm xỉa gì đến Người. Thuyết ái nhân, tên gọi tục hoá của bác ái, lắm khi chỉ là một "con gà đẻ trứng vàng mà không bao giờ đẻ". Trái lại, cậu hãy xem ảnh hưởng bao la, làn hương dịu dàng của đức bác ái mà Giáo hội công giáo để lại đàng sau mình. Để yêu anh em, phải là người kitô hữu tốt; và có những trường hợp người ta chỉ có thể yêu anh em và làm sự lành cho anh em vì lòng yêu mến Thiên Chúa. Lu-i Vơi-ô cũng phát biểu ý đó khi ông nói: “Lạy Thiên Chúa cao cả, nếu người ta không yêu mến Chúa, thì hỏi ai sẽ giục người ta thương yêu anh em?"

- Như thế nghĩa là cậu bắt buộc phải theo Công giáo và chỉ đạo đó thôi?

- Phải, nếu cậu muốn đi đúng đường.17. Đạo công giáo có nhiều tệ lạm quá! - Trước hết, để trả lời câu vấn nạn đó, cháu có thể nói với

cậu rằng người ta chỉ lạm dụng những cái tốt thôi. Nhưng cháu thấy nên trưng dẫn ra đây câu nói của Vôn-te, ông bạn ngày xưa của cậu. Ông nói: "Phải yêu thích tôn giáo, mặc dầu người ta gặp thấy trong đó những tệ lạm. Người ta không vì chỉ một người lính hèn nhát mà cho rằng cả đạo binh là xấu. Thế thì tại sao một lối kết luận mà ở đâu người ta cũng cho là vô lí, lại chỉ được công nhận khi kết luận đó được áp dụng vào việc phi bác tôn giáo?" Cậu ạ, Giáo hội gồm những con người, mà đâu có con người, đó có sai lỗi.

Riêng về những tệ lạm, ngay cả những gương xấu (cháu không phủ nhận), mà người ta gặp thấy trong đạo công giáo, thì: 1/ chúng không do đạo Công giáo mà ra, vì đạo lên án chúng, mà do tính yếu đuối, sự dốt nát và những đam mê;

134

Page 135: Cậu cháu nói chuyện đạo

2/ Người ta tự do thổi phồng lên: chẳng hạn cậu để ý đến một linh mục sa ngã, nhưng cậu không chịu nhìn đến cả một đạo binh đông đảo những linh mục thánh thiện, nhân đức;

3/ Sau nữa, cũng chính Vôn-te đã nói: "Nhìn vào tệ lạm trong đạo, các bạn chỉ thấy sự dại dột của con người; riêng tôi, tôi thấỵ khôn ngoan của Thiên Chúa đã gìn giữ đạo tồn tại, mặc cho những tệ lạm đó". Cậu có thể nói cho cháu biết trên thế giới này ở đâu có một nhóm người nào đó không có những tệ lạm và lầm lỗi kia? Đàng khác, nào một vài tệ lạm nhất thời kia có đáng kể gì so với bao nhiêu cái tốt mà đạo thực hiện? Cho nên, thôi đi! Đừng chỉ nhìn ở mặt trái của tấm thảm. Hãy nhìn ở mặt phải, thế nào cậu cũng phải kết luận là nó đẹp!

18. Có nhiều người công giáo xấu quá. Như thế có nghĩa đạo là sai.

Nếu có những người công giáo xấu, nào việc đó có phi bác được đạo Công giáo đâu! Đừng lẫn lộn đạo với người có đạo. Một ông thầy thuốc tư cách kém, có phải vì thế mà làm cho y học xấu đi không? Có những người lính hèn nhát, có thể vì đó mà bảo rằng cả đạo binh là hèn nhát và lòng yêu nước là sai không? ` 19. Nhiều khi cậu thấy có những người sùng đạo mà không tốt gì hơn những người khác.

- Điều đó chỉ cho thấy rằng người đó không đem những giới luật đạo buộc ra thực hành; như thế nghĩa là người đó không thật là một người sùng đạo. Đàng khác, chỉ cần chủ ý rằng người ta luôn luôn phê phán người giữ đạo nghiêm nhặt hơn người không giữ đạo. Chính vì biết rằng đạo phải làm cho họ nên tốt hơn, nên người ta mới bỡ ngỡ khi nhận thấy họ có những sai lầm; trong khi đó, người ta không hề nghĩ đến chuyện khiển trách những sai lầm ấy nơi người vô đạo hoặc người hư hốt.

Vả chăng, cũng mắc những đam mê như nhau, nhưng người công giáo đích thực, đúng là một thiên thần, so với những kẻ không theo một đạo nào cả. Vẫn hay, họ có những khuyết điểm; nhưng những kẻ khiển trách khuyết điểm họ, lại nuôi trong mình

135

Page 136: Cậu cháu nói chuyện đạo

cả những nết hư. Nếu người công giáo giữ đạo mà không hoàn toàn, thì không phải vì người đó giữ đạo, mà vì người đó giữ không đúng, hoặc không giữ đủ.

Do đó, đừng căn cứ vào vật giả mà phê phán một sản phẩm, cũng như đừng căn cứ những quả sâu mà cho là cây xấu; đừng vì những người đào ngũ mà bảo cả đạo binh hèn nhát. Mặt khác, người công giáo phải thực hiện cả một chương trình hoàn toàn đẹp đẽ. Nếu họ không thực hiện được toàn bộ, ít ra họ thực hiện được một phần.

Cũng một lầm lỗi, nơi họ thì người ta không tha thứ; chứ nơi người vô đạo, thì người ta chả để ý gì hết. Như thế không phải là đẹp mặt cho người công giáo sao? Như thế không phải là vô tình ca tụng đạo công giáo sao? Một vết bùn trên chiếc áo bẩn, khó mà nhận ra; nhưng trên chiếc áo trắng, thì hiện lên rõ ràng.

20. Có nhiều người vô đạo mà ăn ở tốt, họ sống trong sạch lắm.

- Cháu không phủ nhận điều đó. Nhưng xin cậu nhìn cho kĩ hơn. Trước hết, dù muốn hay không, những người đó cũng mang trong mạch 20 thế kỉ Kitô giáo; không thể gột rửa hết đi được. Có thể là họ không còn được hưởng sự sáng thuần tuý của mặt trời nữa; nhưng dù thế nào đi nữa, họ cũng còn sống trong ánh sáng lờ mờ. Và, dù muốn hay không, họ cũng đang hô hấp một bầu không khí Kitô giáo. Nếu cậu khoe phong tục thanh khiết của họ, thì cháu xin hỏi cậu: cậu có nắm chắc điều đó không? (...)

Cha Hô-na-e (Hoornaert) viết: "Những người tin có Thiên Chúa, hoả ngục, thiên đường, mà còn có lúc lầm lỗi, thì làm sao những người tự do sống theo ý mình, không cái gì hãm lại, không có phần thưởng nào khích lệ, lại có được một tâm hồn trong trắng như hoa huệ? Được vũ trang đầy đủ, mà người công giáo còn có lúc thua trận, không lẽ những người vô đạo tay không mà luôn luôn chiến thắng sao? Nói cho đúng, người vô đạo không còn nghĩa vụ luân thường nào nữa. Nói luật là nói có người lập luật truyền phải giữ và người dưới có nhịêm vụ giữ luật. Phần chúng tôi, chúng tôi thừa nhận hai hạn điểm đó: Thiên Chúa và con

136

Page 137: Cậu cháu nói chuyện đạo

người. Có Thiên Chúa truyền khiến, có con người tuân cứ...Người không tin nhận thần thánh mà lại thực hành nhân đức, hi sinh xả kỉ thì thật là trâí lô-gích hết sức".

Đi-đơ-lô chẳng phải là thánh nhân mà cũng nói: "Một con người đã rảy bỏ ách tôn giáo, thì không còn tìm đâu được một động lực khá mạnh để ăn ở chính trực nữa".

21. Dẫu sao, cậu đồng ý là không nên đổi đạo này sang đạo khác.

- Nói khác đi, nếu cậu đang ở trong hoả ngục, thì cứ phải ở lại đó!

- Nguyên tắc của Tin lành như vậy.- Phải. Cháu đã hơi ngờ ngợ. Thế những các vị lãnh tụ của

họ, Luy-te và Can-vanh, trước kia là công giáo, tại sao lại bỏ đạo cha ông mà sang đạo khác? Cậu không thấy rằng chính nguyên tắc đó làm tổn thương Tin lành sao?

- Nhưng...- Nếu tất thảy các đạo đều xấu, thì phải phi bác tất thảy. Nếu

tất thảy các đạo đều tốt, thì ai muốn bỏ đạo này sang đạo khác tuỳ ý. Trong cả hai trường hợp, nguyên tắc của cậu đếu hỏng. Càng hỏng hơn nữa, nếu chỉ có một đạo là đạo thật, mà người ta lại đang ở một đạo khác không phải là đạo thật đó. Lương tri, sự chính trực, lòng yêu chân lí đòi phải bỏ đạo giả để sang đạo thật.

- Cậu thấy cháu tin đạo một cách có xác tín, cậu hài lòng lắm!

- Tất nhiên, khi có ai phi bác đạo trước mặt cháu, tâm hồn cháu run bắn lên, khác nào người ta đánh má cháu.

- Vì cháu định thuyết phục cậu, thì cháu phải chịu đựng mọi vấn nạn của cậu.

- Những vấn nạn đó có phải tự cậu nghĩ ra không?- Một phần, cậu đọc ở sách báo, cậu nghe...- Và cậu tin những điều đó?22. Nhưng luật cấm-thư thì cậu chả phục tí nào.- Cậu ghét luật đó lắm?

137

Page 138: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Cậu cho việc cấm xem những cuốn sách người ta thích, viện lẽ chúng nói xấu đạo, là đáng ghét. Dù sao thì người ta cũng cần học hỏi, mà muốn thế, phải biết đâu phải đâu trái.

- Xin hỏi một người cha, một người mẹ có ý thức về nghĩa vụ mình, chả lẽ không cảnh giác đề phòng con cái mình trong việc đọc sách vở sao?

- Trẻ em thì cậu đồng ý phải làm như thế.- Đối với việc đạo, nhất là đối với tín lí, chúng ta trọn đời là

trẻ em; và Giáo hội là mẹ cảnh giác, có nhiệm vụ bảo vệ đức tin của con cái cho thuần khiết. Chân lí có những quyền lợi của nó, mà khoan dung, nếu xét về tâm hồn là một đức tính, chứ xét về trí khôn thì chỉ là một nết xấu.

- Nhưng cần phải khoan dung!- Phải khoan dung trong thực hành; còn ở đây là lí thuyết, thì

phải cương quyết, không thể nhượng bộ.-Sao vậy?- Vì cần phải bảo vệ cho chân lí có qưyền phi bác sai lầm,

phải định rõ và vạch rõ phạm vi trách nhiệm của những người cầm bút. Đồng ý là phải tự do báo chí và tự do ngôn luận, thế nhưng cho những người gieo rắc tư tuởng mình khắp thế giới được quyền bất khả xâm phạm hoàn toàn, việc đó có một cái gì bất xứng. Do đó, cần chủ trì bất khả dung về học thuyết và cần đòi hỏi các nhà văn nhà báo tuyên truyền cái xấu phải chịu trách nhêịm về luân thường đạo lí.

- Sao lại cấm đọc sách nọ sách kia?- Cấm là để tránh cho cậu khỏi nhiễm phải nọc độc của tà

thuyết, hoặc xem phải những trang sách dơ bẩn có thể làm cậu mất sự thanh tịnh.

- Ở tuổi như cậu thì cấm gì nữa?- Giáo hội lập luật thì không phải cho một mình cậu, mà cho

mọi người. Đàng khác, nào người ta không nói: "nhà bếp cũ dễ cháy hơn nhà bếp mới" đó sao?

- Dẫu sao, cậu thấy hình như đàng sau sự không khoan nhượng về học thuyết và vai trò bảo vệ mà Giáo hội tự gán cho

138

Page 139: Cậu cháu nói chuyện đạo

mình đó, Giáo hội còn đi xa hơn nữa, Giáo hội bắt người ta theo mình, Giáo hội cưỡng bức người ta tuân cứ luật lệ mình.

- Giáo hội nhân danh Thiên Chúa mà buộc người ta giữ những luật lệ mà chính Thiên Chúa truyền buộc Giáo hội, phải. Đó là quyền và là nghĩa vụ của Giáo hội.

- Giáo hội có ý áp bức người ta!- Không. Thuyết phục thì có.- Cháu nghĩ rằng bao giờ Giáo hội cũng dùng chiến thuật đó?- Đây: Thế kỉ 6, thánh Ô-guyt-xtanh ở Ken-tơ-bi-ri cấm chỉ

vua nước Anh không được dùng bạo lực bức dân theo đạo. Thế kỉ 9, An-quyn cũng lưu ý vua Sác-lơ-ma-nhơ điều đó trong vấn đề đối với dân Xác-xông bại trận. Giáo hoàng Ni-cô-la 1 cũng dạy vua dân Bảo là Mísen như thế. Thánh Bec-na và Đức In-nô-xăng 4 bênh vực người Do thái khi họ bị bách hại. Giám mục Phê-nơ-lông viết cho vua nước Anh là Giắc 2: "Đừng bao giờ đức Vua bức dân bỏ đạo này theo đạo khác. Không quyền lực nào của loài người có thể xâm phạm đến sự tự do ý chí của người khác". Sau hết, Đức Lê-ông 13 viết trong Thông điệp "Immortale Dei": "Giáo hội xưa nay luôn hết sức đề phòng để cho không một ai bị cưỡng bức theo đạo công giáo trái ý họ?"

23. Nếu đạo công giáo là đạo thật và tốt, tại sao có biết bao người không theo đạo đó?

- Tại sao người ta không theo ư? Đơn giản thôi, cậu ạ. Có hơn một triết gia hoặc người tự xưng là triết gia, khi gần chết đã cho biết lí do điều đó. Bu-ghê (Bouguer) nói: "Trước đây tôi không tin đạo, là vì tôi hư hốt". Tâm hồn nhiều khi có thể làm trí óc người ta khó chịu. Người ta cứ muốn sống phóng đãng, không muốn một thứ luân thường nghiêm nhặt nào chế ngự bản tính hư hỏng của mình. Tin đạo, dù là những điều mầu nhiệm đạo dạy, người ta cũng sẵn sàng thôi, nếu không vì tin như thế mà phải thay đổi cách ăn nết ở mình cho hợp với điều mình tin. Vì thế mà người ta cố tình sống như người vô tín ngưỡng, người tự do tư tưởng. Làm như thế cho hợp thời, cho ra vẻ thông thái! Tưởng như thế, công chúng sẽ hoan nghênh mình. Thật ra, như thế có thể

139

Page 140: Cậu cháu nói chuyện đạo

dễ sống hơn, nhưng xin cậu chớ thí nghiệm. Giờ chết mới biết như vậy là khốn nạn,

- Như thế nghĩa là theo ý cháu, tất thảy những người không tin đạo đều tất nhiên là những người hư hỏng cả?

- Không. Không tất nhiên như vậy. Nhưng lắm khi như vậy đấy. La Bơ-ruy-e viết: "Uớc chi có một người tiết độ, thanh tịnh, công chính nói cho ta nghe rằng không có Thiên Chúa!" Xanh-tơ Bơ-vơ đi xa hơn: "Kẻ thù của tôn giáo ít có giá trị về khiêm nhường và tiết dục". Thật ra, khi người ta đã khuấy động mặt hồ, thì còn đâu mà in bóng trời cao nữa!

Cậu cũng nên biết lời thú nhận sau đây của Phơ-răng-xoa Co-pê: "Thành thật mà nói thì chính cơn khủng hoảng của tuổi trẻ và sự hổ thẹn không dám xưng thú một số tội đã làm tôi từ bỏ một số việc đạo đức xưa kia tôi vẫn quen làm". Uớc chi nhiều người khác, nếu họ thành thực, cũng nói lên được như thế!

Lit-tơ-rê sắp chết. Cha Ha-vơ-lanh đến thăm và thử nói chuyện đạo với ông. Ông ngắt lời cha: "Cha không cần chứng minh chuyện đạo với tôi. Thật ra, tôi vẫn hằng tin đạo như Cha. Thế nhưng, bên cạnh lòng tin đó, còn có dục vọng, còn có tính sợ dư luận và bao nhiêu cái khác!" Sau một phút suy nghĩ: "Nếu bây giờ ai làm được cho tôi có một quá khứ vô tội, thì tôi sẵn sàng biếu không cả bộ Từ điển tôi đã soạn".

Thật là những lời thú nhận hùng hồn!Một số khác, không giữ đạo là vì họ kiêu căng. Họ không

chịu uốn gối trước Thiên Chúa... nhưng người ta lại thấy họ kín đáo cúi mình trước con bò vàng, trước một thụ tạo, trước chính mình họ.

- Nếu họ không có niềm tin, phải chăng là do lỗi họ?- Thiên Chúa bao giờ cũng ban niềm tin cho những người

khiêm tốn cầu xin Người; cho những ai chưa có nó. Nhưng đối với những ai đã có mà đã giập tắt đi, thì đôi lúc Chúa không ban cho nữa. Muốn đi đến kinh "Tôi tin kính", trước hết phải "Tôi thú nhận". Chừng nào khối đá kiêu căng còn chắn ngang cửa lòng, chừng đó sự sáng không thể lọt vào đó được. Thiên Chúa không hạ cố tới những tâm hồn...tự cao tự đại như thế!

140

Page 141: Cậu cháu nói chuyện đạo

24. Nhưng tại sao xưa nay đạo lại lắm kẻ thù như thế?- Trong số kẻ thù của đạo, có rất ít kẻ thành tâm; đàng khác,

nào lòng thù ghét không phải một cách nào làm chứng cho chân lí đó sao?

- Cậu chưa hiểu.- Chỉ có đạo công giáo là đã bị bách hại và thù ghét. Các đạo

khác không ai để gì; người ta để họ tự do, vì họ tuỳ cơ ứng biến, người ta không có gì phải sợ họ. Người ta chỉ sợ chân lí thôi.

Thù ghét ư? Cháu đã nói đến điều đó khi trình bày về Đức Giêsu: lòng thù ghét độc dữ, quỉ quái, bám riết Người mãi hai ngàn năm sau khi Người chết, nào không phải là một chứng cứ hùng hồn bậc nhất cho sự trường tồn và do đó cho thần tính của Người đó sao? Kẻ đã chết, ai lại thù ghét họ đến như thế!

- Nhưng một lần nữa, tại sao lại thù ghét như thế?- Chỉ cần nhìn vào những mưu kế người ta dùng để phục vụ

cho sự thù ghét đó:1/ Đặt điều nói dối: Cậu từng biết câu khẩu lệnh của Vôn-te:

"Nói dối, cứ nói đối; thế nào rồi cũng có một mối lợi nào đó.”2/ Chế nhạo: Vì thiếu lí chứng, người ta phải dùng thủ đoạn

diễu cợt, nhạo báng. Chính Vôn-te (cháu thích dẫn ông ta) cũng công nhận: "Những lời diễu cợt độc hại người ta dùng để công kích đạo công giáo, thật là đáng xấu hổ. Lí lẽ không được mấy, chỉ rặt những lời lăng mạ, nhiều vô kể."

3/ Bao giờ cũng cứ nhai đi nhai lại những vấn nạn đó, dù đã trăm ngàn lần bị phi bác. Người ta cứ truyền cho nhau đời này qua đời khác, mà không để ý xem chúng trống rỗng biết bao, sai lạc biết bao. Phải nói toàn là lẩn thẩn. Thế thôi. Vôn-te còn nói: "Trong luận điệu phi bác đạo, phái vô tín ngưỡng đã tỏ ra lẩn thẩn quá lẽ, đến mức không biết lời lẽ họ có thể làm người ta phì cười hay nổi xung lên".

4/ Dốt nát: Những người công kích đạo, đa số không biết gì về đạo cả. Thật không khác nào những người mù cãi nhau về màu sắc. Về các chân lí trong đạo, họ có một ý niệm sai lầm, không đúng đắn, bất toàn, họ không biết gì hết. Họ làm người ta nhớ đến

141

Page 142: Cậu cháu nói chuyện đạo

những em bé muốn bàn luận về những môn học khó nhất, khi chưa có một khái niệm nhỏ nào về chúng.

5/ Quan điểm sai lầm: Họ nhìn từ chỗ cao quá, hoặc thấp quá, gần quá hoặc xa quá. Mắt người ta không thể thấy cái ở ngoài tầm nó, cũng như cái áp sát vào nó. Họ có biết bao cái nhìn sai lạc! Thay vì chú mắt vào một điểm nhỏ không quan trọng, có phải cứ nhìn toàn bộ là hơn không? Đạo công giáo là một toàn bộ hài hoà, một cơ chế bởi trời. Muốn có thể phê phán đúng, phải hiểu biết mọi bộ phận.

6/ Thiếu chứng cứ: Ý tưởng họ không có gì là cố định. Vì thế, La Bơ-ruy-e phải nói: "Những kẻ ‘thông giỏi’ (dịch từ esprits forts, thường dùng để gọi những người vô tín ngưỡng hay phi bác đạo, N.D.) họ có biết người ta gọi họ bằng danh từ đó là để chế họ không?” Họ chối, hoặc quyết. Không bao giờ họ làm chứng cái gì cả. Người công giáo thì trái lại bao giờ cũng đưa ra những chứng cứ. Còn họ, không chứng cứ gì hết. Họ chỉ chối thôi. Chỉ có thế. Nhưng như thế đã hết đâu. Cái lô gích của họ tóm tắt thế này: Tôi muốn điều nọ điều kia không phải là thật; do đó, nó là sai lạc.

- Chà! Hình tượng tuyệt quá! Hơn nữa, lại chính là Vôn-te, ông bạn cố tri của cậu, như cháu nói, chính ông cung cấp tài liệu cho cháu. Như thế, bản thân cậu đây, hồi còn vô tín ngưỡng, cậu cũng có tất thảy những cái xấu đó cả sao?

- Một phần thôi. Nhất là cái tật nói quàng xiên bừa bãi về những điều cậu chưa biết gì hết.

- Đúng. Cậu thú nhận như thế. Bây giờ đây, cậu đã thấy rõ chứng cứ, tuy cậu vẫn còn một số thắc mắc (mà cậu dành lại đây cho cháu), vẫn còn những do dự, những điểm cần soi sáng. Tuy nhiên, cậu không còn tự mãn như lúc đầu nữa.

- Được như thế không phải là không vất vả. Thật là cám ơn Chúa!

-Đây, hôm qua đọc báo, cậu thấy câu này mà cậu cũng chả tán thành:

25. Đạo đã hết thời!

142

Page 143: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Vì trước khi kết thúc, cậu lại đưa ra luận điệu điên rồ đó, nên xin cậu cho phép cháu đạp tan nó đi. Nó bị đập tan, là hết mọi vấn nạn. Đạo công giáo là cái đe đã từng làm vỡ mọi búa. Bao nhiêu cuộc tấn công bằng miệng, bằng ngòi bút, bằng lưỡi rìu, bằng gươm giáo, đều không làm được gì nó; trái lại, bao giờ cũng giúp nó thêm mạnh hơn. Một em bé không thể lấy viên sỏi đá đánh sập một đại thánh đường. Chết sao được, khi người ta hiện có những 350 triệu con cái trên khắp thế giới. Nhất là ngày nay, nào không phải là vấn đề tôn giáo đang xâm nhập vào hết mọi tầng lớp xã hội, sách báo, hội nghị sao? Đâu đâu người ta cũng để ý đến đạo; người thì để bênh vực, người thì để công kích. Sau 20 thế kỉ tồn tại, đạo công giáo hiện nay trẻ hơn và có sức chinh phục hơn bao giờ hết.

Điều đó đã bắt buộc Mác-xen Xam-ba, một gã bài giáo sĩ độc hại, phải thú nhận như thế này: "Chúng ta hãy mạnh dạn nói lên rằng: việc phi bác tôn giáo làm cho lớp trai trẻ gớm tởm hết sức. Thôi thì cứ mặc cho nhà chính khách ngu ngốc nhún vai lắc đầu, đừng để ý gì đến cái điềm báo đó. Gà nhốt trong chuồng thì không thể thấy gì ngoài phạm vi chuồng gà. Khi một hệ thuyết đã thôi không làm bọn trẻ say mê nữa, là nó sắp tận số rồi"...

Năm 1923, hai chủng viện lớn ở Pa-ri, có đến 4 sinh viên Bách khoa, 2 sinh viên Cao đẳng Sư phạm, 3 sinh viên Trung tâm Cao đẳng, 2 thạc sĩ, 4 tiến sĩ luật, 23 cử nhân, 5 kỉ sư, 2 bác sĩ, 68 sĩ quan... Phải chăng đó là triệu chứng cho biết đạo công giáo đang suy vong?!

Kìa! Tầng lớp thanh niên công nhân...hướng về đạo Công giáo. Rồi, hãy xem những hội từ thiện, những tổ chức Hướng đạo công giáo .

Chính phái Xã hội cũng coi thuyết bài giáo là "một lời nói láo cũ rích", "một món ăn hâm lại", "một con ngựa đã mệt lữ". Ba kiểu nói đó, cháu rút trong tờ Nhân đạo. Cũng trong tờ báo này, ngày 23/10/1924, Mác-xen Ca-sanh viết: "Đã đến lúc phải xếp cuộc chiến chống giáo hoàng và các cụ xứ vào kho dĩ vãng!" Do đó, cậu hãy viết cho báo của cậu rằng nó đã lạc hậu lắm rồi và lấy

143

Page 144: Cậu cháu nói chuyện đạo

những sự việc, và những con số cháu vừa đưa ra cho nó làm tài liệu.

- Được, rồi cậu sẽ viết.- Sau cùng, cậu đừng quên điều này: ở đâu đức tin mất, thì ở

đó mê tín dị đoan xâm nhập và bành trướng. Con người là con vật có tôn giáo. Nó phải tin một cái gì đó. Nếu tước bỏ Tin mừng của nó, nó sẽ lao vào ma thuật; vì không có linh mục nữa, nó sẽ chạy tìm những ông thầy bói.

- Cháu có chắc như thế không?- Nhất định phải như thế. Con người cần cái siêu nhiên, đến

mức, nếu đạo mất đi, nó sẽ tìm một món siêu nhiên tạp loại, "pha chế" nào đó. Chúng ta cần tin một cái gì; vì thế, mất đức tin, thì cứ lô-gích, thế nào cũng sa vào dị đoan. Người ta không tin các điều tín lí dạy nữa, cũ rích rồi! Hủ lậu rồi! Trẻ con quá! Khi người ta đã là một "công dân giác ngộ và có tổ chức", thì người ta phải nhanh chóng lột bỏ những cái đó. Nhưng rồi người ta sẽ tin hạt muối lật ngược, hai cái dao chéo nhau, tin phù thủy, tướng tay, tránh ngồi ăn 13 người một lúc. Người ta sẽ đi xem bói toán; người ta sẽ xấu hổ khi mang một ảnh Thánh giá, nhưng lại đường hoàng mang một con voi con hay một con heo con trước ngực. Làm như thế, tâm hồn con người mới thoả.

Nô-đanh, một cựu viên chức ở Pa-ri, đã căn cứ tài liệu ở các phòng bói toán mà tính rằng hằng ngày thành phố Pa-ri tiêu mất chừng 20 vạn phơ-răng cho các thầy chiêm tinh, tướng tay, bói quẻ... Trong thành và ở ngoại ô Pa-ri, có đến 34.600 phòng xem bói. Phải. Pa-ri, thành phố ánh sáng, nuôi nhiều thầy phù thủy và ma-cô hơn là y sỹ và dược sỹ.

- Ô!- Cứ đọc thông lịch Đi-đô Bô-tanh, cậu sẽ thấy rằng chỉ riêng

thành Pa-ri, đã có 34.607 người làm thầy bói, bà đồng, bói quẻ, xem tướng, thôi miên, phù thủy. Chưa nói đến những phụ nữ vừa bói quẻ vừa làm gác cổng, hộ sinh, thợ may, bán y phục lông chim,,,...

Ô! Cậu ạ, những người không tín ngưỡng, họ dễ tin nhảm nhí biết bao! Họ chế nhạo Thiên Chúa và đạo công giáo; nhưng

144

Page 145: Cậu cháu nói chuyện đạo

họ lại xem bã ca-phê để đoán mệnh, xem bàn quay...Cháu thì cháu thích tin Thiên Chúa hơn: như thế khôn hơn, cao thưọng hơn...mà cũng được an tâm hơn, vì Thiên Chúa không lừa dối ai!

Chương II

Khoa học với tôn giáo

- Này Mác-đa, hôm nay thì cậu đến với một món khổng lồ, cháu mà nhìn vào sẽ không dám múa men gì nữa.

- Cái gì vậy?- Khoa học.- KHOA HỌC viết hoa chứ gì? - Đúng!- Ô! Anh chàng này đến đúng lúc quá. Cháu vẫn có ý chờ y.

Cháu đã chuẩn bị đầy đủ, vũ trang từ đầu đến chân rồi đây này!- Thế thì cuộc đấu càng đẹp!- Vậy cậu định nhân danh Khoa học bắt bẻ cháu điều gì nào? - Chỉ điều này thôi: Khoa học đã phá huỷ và thay thế tôn

giáo. Năm 1902, Béc-tơ-lô quả quyết: "Ngày nay khoa học đòi nắm quyền lãnh đạo vật chất, lãnh đạo tinh thần và lãnh đạo cả luân thường của xã hội." Rơ-năng viết trong “Tìm hiểu lịch sử tôn giáo: "Qui luật của lịch sử là không có phép lạ; qui luật của triết học là không có mầu nhiệm; qui luật của khoa học là không có cái gì siêu nhiên cả". Và Ten, trong phần tổng kết cuốn "La Phông-ten và những truyện ngụ ngôn của ông" đã không ngần ngại nói rằng: "Con người là con vật cao cấp sản xuất ra những hệ thuyết triết học, những thơ ca, một cách nào giống như con tằm làm kén và con ong xây tổ".

145

Page 146: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Chỉ thế thôi?- Phải. Đập lại đạo của các dân tộc, Kitô giáo hay đạo khác,

các bậc thiên tài đó đề ra Đạo thờ Khoa học.- Cháu đã rõ. Đó là mộng tưởng của Rơ-năng. Hồi 25 tuổi,

ông ta đã dám viết: "Đạo khoa học. Chỉ mình nó đủ làm động lực cho luân thường! Nó vừa là nguyên động lực vạn năng, là cái trau dồi văn minh, vừa là mục tiêu, là cứu cánh cao cả của mọi việc loài người, vừa là lí do tồn tại của vũ trụ".

- Thế thì phải chăng hiện nay chúng ta chưa được mục kích thứ đạo mới do Rơ-năng sáng lập đó sao?

- Mạt kiếp anh chàng Rơ-năng! Mạt kiếp thứ đạo đó! Mạt kiếp thứ khoa học đó!

- Gì mà dữ vậy?- Không may cho Rơ-năng, cho Ten, cho Béc-tơ-lô và đồng

bọn, cậu ạ, khoa học chân chính chẳng những không thủ tiêu tôn giáo, trái lại, còn cậy dựa vào tôn giáo và chứng minh tôn giáo. Cậu đã trưng dẫn những tác giả cậu thích. Hãy cho phép cháu được trưng dẫn những tác giả của cháu. Lit-tơ-rê: "Khoa học chỉ có thể trở thành phản tôn giáo, khi nào nó trở thành phản khoa học". Lép-nitx: "Sở dĩ tôi có phần trọng khoa học, là vì nó cho tôi quyền đòi người ta im lặng khi tôi nói về tôn giáo".

- Ô! Tôn giáo mà như thế sao?- Không. Cháu chỉ có ý lấy những khẳng định của các nhà

khoa học Kitô giáo mà đập lại sự cao ngạo của những nhà khoa học bài giáo.

- Các nhà khoa học Kitô giáo có nhiều không?- Ngày 9/11/1891, ở Hạ nghị viện, Sác-lơ Duy-puy thuyết

trình về sự nghèo nàn của các Đại học công giáo. Một số nghị sĩ phản đối nhận xét đó, viện lẽ công giáo cũng có nhiều nhà bác học. Ông liền nói: "Được rồi. Chúng tôi sẽ thống kê con số đó".

- Ông ta đã thống kê chưa?- Ông ta không dám làm, hoặc không có gan công bố.- Thế thì?- Đã có những người khác làm: một tiến sĩ Tin lành và một

triết gia công giáo.146

Page 147: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Chắc là lí thú lắm?- Cả hai người đều điều tra về những nhà bác học thời danh

nhất của 3 thế kỉ vừa qua. Đen-ne (Dennert) thấy rằng trong số 235 nhà bác học, có 8 trung lập, 7 vô thần và 220 có tin ngưỡng. Còn E-mi-ơ (Eymieu) thì thấy rằng trong số 398 nhà bác học, có 15 trung lập, 16 vô thần và 367 có tín ngưỡng. Theo ông trên, tỉ lệ bác học có tín ngưỡng là 93%; theo ông dưới, 92%. Cháu nghĩ con số đó quá hùng hồn!

- Kinh khiếp quá nhỉ! Cháu có nắm chắc những số liệu đó không?

- Thì cậu cứ điều tra tận nguồn mà xem. Cậu có quyền làm như thế.

- Dù sao, Khoa học thật là vạn năng!- Cháu hết sức kính trọng nó. Nhưng cháu muốn rằng nó

cũng phải tôn trọng tôn giáo, không được đả phá tôn giáo.- Ô! Họ lại là những bộ óc lỗi lạc, những bậc thiên tài, những

nhân vật vĩ đại, những nguồn sáng...- Cậu muốn cho họ thế nào cũng được. Nhưng chúng ta đừng

phóng đại. Nào Niu-tơn không nói thế này sao: "Những gì chúng ta biết, chỉ là một giọt nước; còn những gì chúng ta không biết, là cả một đại dương!"? Pi-e Lô-ti, trong bài đáp từ sau bài diễn văn nhận Giăng E-ca vào viện Hàn lâm, có nói: "Chúng ta không biết và chúng ta sẽ không bao giờ biết được gì về bất cứ cái gì; đó là điều độc nhất chắc chắn. Hiện nay Khoa học chân chính cũng không còn có tham vọng giải thích mọi sự như trước đây. Mỗi khi một bộ óc con người tiên tiến nào đó khám phá ra cái "tại sao" của một sự gì, thì không khác gì người đó khó nhọc mãi, cạy được một bộ cánh cưả sắt, nhưng để rồi chỉ mở ra một hành lang rùng rợn hơn, tối tăm hơn, dẫn đến một cánh cửa khác khoá chặt hơn, khủng khiếp hơn. Chúng ta càng tiến bước, thì bí nhiệm, đêm tối càng dày đặc và khủng khiếp tăng thêm".

- Lô-ti là một anh chàng giác ngộ!- Mác-xen Pơ-rê-vô (Prévost) nói: "Khoa học càng phát

triển, càng hướng tới chỗ khách quan hơn; do đó, ta thấy được sự sai lầm của những kẻ nghĩ rằng khoa học có ngày sẽ giải đáp

147

Page 148: Cậu cháu nói chuyện đạo

được những bí ẩn của vũ trụ. Thật ra, chính nó lại làm cho số bí ẩn tăng thêm".

- Đó là một viện sĩ Hàn lâm!- Đây một nhà hoá học trứ danh: Giăng Ba-titx Đuy-ma trả

lời cho Ten, ngày 15/1/1880: "Những phát kiến mà các ngành khoa học đã ghi được chứng tỏ chỉ có người ngu mới cho rằng cuốn sách khôn ngoan đã hoàn toàn bị dưa ra ánh sáng. Chúng ta hiện vẫn chưa biết gì hết về nguồn gốc sự sống và bản chất nó. Chúng ta chưa nắm được sợi dây huyền bí nối kết thể xác với tinh thần, làm cho con người thành một khối nhất thống. Sau hai ngàn năm cố gắng, chúng ta vẫn chưa đạt đến đầu mút xa xôi của vũ trụ ta ở; vậy mà vũ trụ ta ở chỉ mới là một điểm trong không gian bao la và chúng ta dừng bước câm lặng và đầy kinh ngạc trước ngưỡng cửa của cõi vô hạn mà chúng ta chưa hiểu gì".

Đây nữa, Đa-lăm-be, giữa hồi lừng lẫy tiếng tăm nhất: "Bản chất con người, sự tồn tại của nó hiện nay và sau này, đó là những bí nhiệm mà những bậc thiên tài lỗi lạc nhất cũng như phần còn lại trong nhân loại, không ai hiểu được".

La-pơ-lat-xơ hấp hối: "Những gì chúng ta biết thật ít ỏi!"Hăng-ri Bóoc-đô: "Không biết lí trí đã bao giờ cho chúng ta

một lời giải thích về vũ trụ, sự sống, sự chết và về bản thân chúng ta chưa. Nó cứ từ nguyên nhân này lần đến nguyên nhân khác, để rồi đi đến một bí nhiệm chìm ngập trong một đêm tối mà không đèn pha nào soi sáng được."

Sau cùng, phải, vì cháu không muốn trích dẫn nhiều, mặc dầu toàn là những lời nói chất đầy ý nghĩa, năm 1894, San-lơ-men La-cua (Challemel-Lacour) phát biểu: "Khoa học có thể chồng chất phát kiến này rồi phát kiến khác; sẽ không bao giờ xảy đến cái ngày mà nhà bác học huênh hoang nhất có thể bảo vũ trụ: Mầy chả có gì bí mật đối với ta nữa... Chính vì thế mà khoa học hoàn bị mấy đi nữa, nó cũng vẫn để tôn giáo giữ nguyên địa vị của mình. Địa vị nào? Địa vị vô cùng trọng yếu!"

Vì thế, đúng như cha Hô-na-e nói: "Hễ là khoa học muốn vượt ngoài giới hạn của nó để thoa dịu lòng người, hoặc để giải quyết những việc liên hệ định mệnh muôn đời của chúng ta, tức

148

Page 149: Cậu cháu nói chuyện đạo

khắc nó bị phá sản. Khoa học chưa tìm được dưới đáy ống nghiệm của mình một thứ huyết thanh nào chống được nỗi buồn; những thứ thuốc sát trùng của nó chưa hề giúp ta diệt cho được độc tố thù ghét ẩn trong lòng quần chúng; tất thảy ánh áng của những ngọn đèn Ê-đi-xơn cũng chưa thể soi sáng một phần nào những vấn đề tâm linh và, dù có nhiều xe cộ tốt, con người vãn chưa đến xứ sở hạnh phúc nhanh hơn được. Phi cơ đưa con người lên đã khá cao; nhưng lí tưởng của cõi lòng chúng ta còn lên cao hơn nữa, vượt muôn trùng tinh tú, lên tận cõi trời!"

- Nhưng khoa học đẹp đẽ và vĩ đại. Nó làm được biết bao việc tốt!

- Ở đây, chính Rơ-năng sẽ trả lời chúng ta: "Nếu khoa học cứ giữ nguyên tình trạng của mình, thì chúng ta phải cam tâm chịu đựng vừa nguyền rủa nó; bởi lẽ nó phá huỷ mà rồi không xây dựng gì cả; nó đánh thức con người, làm ta mất giấc ngủ ngon lành, mà rồi không thoa dịu thực tế đau thương. Cái mà khoa học đưa lại cho tôi, tôi chưa cho là đủ; tôi còn đói!" Rơ-năng đã đổi khác, không như hồi 25 nữa!

- Khoa học cũng có những chỗ hở như thế!...- Thì đây, Hăng-ri Poăng-ca-rê sẽ trả lời cậu: "Dù khoa học

tiến xa mấy, lĩnh vực của nó bao giờ cũng hạn chế; bí nhiệm chập chờn khắp nơi trên biên giới nó, mà biên giới nó càng xa, lại càng rộng". Không bao giờ tri thức nhân loại giải được một bài toán, mà rồi ngay sau đó không nảy ra những bài toán mới. Nó càng đi sâu tìm hiểu, càng làm xuất hiện nhiều câu hỏi hơn là những giải đáp thu được. Không. Cậu ạ, khoa học không biết tất cả vấn đề của bất cứ cái gì. Do đó, nó khó mà hiểu được mọi sự, giải thích được mọi sự và nhất là khó mà không lầm lẫn.

- Ô! Nói lạ chưa!- Cháu hạ bệ thần tượng của cậu thì cũng mất lòng cậu đấy.

Nhưng đây là những sự việc chắc chắn. Năm 1878, khi Duy Mông-xen giới thiệu máy lưu thanh của Ê-đi-xơn tại viện Hàn lâm Khoa học, thì tức khắc một nhà bác học, ông Bui-ô phản đối: "Chúng tôi không mắc lừa một anh chàng nói tiếng bụng". Năm 1789, La-voa-di-ê và cả viện Hàn lâm Khoa học chối không nhận

149

Page 150: Cậu cháu nói chuyện đạo

có những vẫn thạch trong khí quyển. Phi-lip Lơ-bông, người phát minh đèn hơi, bị chế nhạo, vì người ta nói "đèn không bấc sao mà đỏ được!" A-ra-gô và Ti-e mãi đến năm 1838, vẫn không chịu tin khả năng của đường sắt. Năm 1825, khi Xti-phen-xơn phát minh ra đầu máy xe hỏa thì các nhà bác học Anh tuyên bố rằng đầu máy đó, bánh xe phải có răng cưa, đường ray cũng thế, mới chạy được. ở Hà lan, người ta không chịu cấp chứng chỉ cho người phát minh ra kính viễn vọng "vì dùng kính đó, người ta chỉ nhìn bằng một mắt!" Đã một thời gian lâu, người ta chủ trì rằng không khí là một hợp chất không hoá lỏng được, gồm O-xy và Nitơ. Vậy mà năm1878, Cay-ê và Píc-tê đã làm không khí hoá lỏng. Nguyên tố radium do Qui-ri phát kiến, đã gây nên biết bao sự đảo lộn! A.Yơng trong Nhật báo Giơ-ne-vơ, ngày 14/9/1907, có nói: "Có biết bao khái niệm ta học cách đây 20 năm, mà hiện nay ta phải quên đi!"

Cậu, cậu nghĩ thế nào khi thấy khoa học cứ cải chính mình mãi như thế?

- Mày thật đáo để!- Không. Đó là ý kiến chân thành của cháu. Và cháu xin kết

luận với câu nói mà Hác-đoanh viết trong tờ Buổi sáng: "Cho đến nay, người ta vốn tin rằng ưu thế về mặt chân lí ở tại không bị qui là sai lầm. Dường như điều đó đã thay đổi và người ta càng lầm, lại càng chiếm ưu thế. Nói trắng ra thì điều đó có nghĩa là cách tốt nhất để nắm được chân lí (khoa học) là đừng nắm được nó và kẻ muốn có một ngôi nhà vững chãi, kẻ đó phải sống cả đời trên toa xe hỏa. Nếu tôn giáo có được chân lí, thì nó không cần gì thay đổi, vì chân lí không thay đổi. Nếu khoa học thay đổi, thì chính là vì nó không có được chân lí. Khoa học có hơn được tôn giáo ở chỗ nó không có tin lí bất di bất dịch". Ý kiến trên đây, nhà bác học đã thốt lên trong dịp phát kiến ra nguyên tố radium. Đành rằng nói như thế có phần độc ác, nhưng ai chứng minh được rằng nói như thế là sai? Cháu cũng có thể dẫn ra đây những giả thuyết như giả thuyết về vi trùng chẳng hạn, mà y học xây dựng nên, rồi khẳng định, rồi lại bỏ rơi!...

- Như vậy, khoa học đã phá sản sao?150

Page 151: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Gần như thế. Chính Hăng-ri Bác-bu đã nói lên điều đó trong phiên họp viện Hàn lâm ngày 20/2/1908, nhân nói về Bơ-ruy-nơ-chi-e: "Nào các nhà bác học có cam kết cho ta một giải đáp về chỉ một vấn đề đáng mất công bàn cãi, là vấn đề nguyên nhân và cứu cánh con người không? Có. Các nhà triết học có hứa tìm một cái làm cơ sở cho luân thường đạo đức ngoài tôn giáo không? Có. Thế cả hai giới đã giữ lời chưa? Chưa! Vậy nếu bây giờ ta tính sổ lời lỗ, cho những lời hứa là nợ mình mắc người ta và những kết quả thu được là nợ người ta mắc mình, thì cán cân nghiêng hẳn vì thiếu hụt. Như thế là phá sản."

Sau hết, để kết thúc những lời chỉ trích trên đây, chống lại sự kiêu căng của khoa học, chứ không phải chống lại chính bản thân khoa học, vì khoa học vĩ đại và đáng tôn trọng, cháu xin dẫn câu nói của A-ra-gô: "Có ít chân lí khoa học đúng được quá một thế kỉ; mà đó lại là những chân lí đúng hơn cả!"

- Thật là cay cú!- Phải. Nhưng phải nhận rằng khoa học bài giáo muốn thay

thế Thiên Chúa và giập tắt sao trời, thật đáng cho những nhà bác học vĩ đại nhất cũng cảm thấy cần nhắc nó ở khiêm tốn hơn một tí. Như thế chỉ có ích cho khoa học thôi.

- Nhưng trong số những nhà bác học vô thần, có những vị thành tâm.

- Rất ít, nhiều khi giờ chết làm họ hết là vô thần. Thay vì liệt kê một danh sách dài gồm những tên tuổi minh hoạ cho điều vừa nói, cháu chỉ dẫn ra đây lời thú nhận của Rơ-năng: "Lạy Thiên Chúa của tuổi thanh xuân tôi! Tôi những mong có ngày trở lại với Chúa...Có lẽ tôi sẽ trở về với Chúa, với tình trạng nhục nhã và thất trận! Lạy Thiên Chúa của tuổi thanh xuân tôi, có lẽ Chúa sẽ là Chúa của tôi khi tôi hấp hối!" Kể sao hết tên tuổi những người từng phi bác đạo công giáo, những người vô thần, hoặc tự xưng là vô thần, sống một đàng...mà chết một nẻo! Như thế có gọi là thành tâm không?

- Có thể họ có lí của họ.- Thì đây là lí mà Lơ Đăng-téc, anh chàng vô tín ngưỡng

kinh khủng nhất nuớc Pháp, đã có gan thú nhận: "Tại tôi vô thần, 151

Page 152: Cậu cháu nói chuyện đạo

tôi sẽ nói ra một cách vắn tắt, nhưng tôi không tự giấu mình tính chất vu vơ của những lí lẽ đó. Tôi cũng khá khôn ngoan để tự nhủ mình như Đơ La Pa-lit-xơ rằng sở dĩ tôi không tin Thiên Chúa, là vì tôi vô thần; ai hỏi tại sao tôi không tin đạo, tôi chỉ có thể đưa ra cái lẽ mạnh nhất đó."

- Xoàng quá!- Mạnh lắm chứ! - Nhưng các nhà bác học có tín ngưỡng thì lấy lí gì mà tin

đạo?- Cậu có muốn nghe chứng của Cô-si không?- Ông ta là một vĩ nhân!- Thế này: "Tôi đi đạo với Ti-cô Bơ-ra-hê, Cô-pec-nic, Đê-

các-tơ, Niu-tơn, Lép-nít, Pat-xcan; với tất thảy các nhà vật lí học và kỉ hà học đại danh các thế kỉ đã qua. Những xác tín của tôi là kết quả không phải do những thành kiến cha truyền con nối, mà do sự khảo sát kĩ càng. Đối với tôi, những chân lí trong đạo chắc chắn hơn là định lí bình phương của đường huyền hoặc định lí Mác-Lô-ranh". Đó là lời tuyên tín mà ông ghi vào trong bài tưạ một cuốn sách ông viết.

- Ngang nhiên nhỉ!- Phải. Cậu ạ, hễ có ai bảo cậu rằng tôn giáo kìm hãm trí tuệ

và người theo tôn giáo là người ngu si, cậu chỉ cần bảo họ rằng tôn giáo xưa nay rất ít cản trở các nhà bác học, đến nỗi những bậc lỗi lạc nhất trong họ, theo tỉ số 12 với 1, đều có tín ngưỡng. Cậu hãy kể cho họ nghe kết quả của cuộc điều tra do báo Figaro tổ chức năm 1926....

- Điều tra cái gì?- Người ta muốn biết liệu khoa học có đối lập với tín ngưỡng

hay không. Và 73 thành viên của viện Hàn lâm KHoa học đã trả lời.

- Trả lời thế nào?- Không một ai kết luận là có sự đối lập. Không thể kể hết

những câu trả lời đó. Đây, chẳng hạn, có một vị trả lời: "Trước đây và hiện nay có nhiều nhà bác học đại danh có tín ngưỡng

152

Page 153: Cậu cháu nói chuyện đạo

không? Có. Nhận xét đó phũ phàng như một sự việc không như ý. Do đó, vấn đề đã được đặt ra rồi, không phải đặt ra nữa".

- Ai trả lời như vậy ?- Ac-xen Đác-xông-van (Arsene d'Arsonval), nhà vật lí học

giáo sư ở Cao đẳng học viện Pháp- Nếu tất thảy thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học đều

chống lại cậu, thì cậu còn tranh cãi, còn tự đắc tự mãn làm gì nữa! Cậu chỉ có đầu hàng.

- Như thế mới khôn, cậu ạ. Như vậy là bó đuốc khoa học sẽ không đánh tan được tăm tối của niềm tin như người ta quả quyết. Tôn giáo và khoa học, cả hai đều do Thiên Chúa, thì không thể mâu thuẫn nhau được. Trái lại, hai bên thâm nhập nhau, giúp nhau; hai bên có thể và phải cầm tay nhau cùng tiến bước. Tôn giáo không bao giờ ngăn trở tư tưởng của ai. Có chăng, cũng chỉ ngăn trở kẻ không thể suy nghĩ được thôi. Vả chăng, mục tiêu hai bên không giống nhau. Hăng-ri Bác-bu mà cháu vừa dẫn ở trên, phát biểu như thế này, ta có thể lấy làm câu kết luận: "Thật là ảo tưởng hết chỗ nói, nếu nghĩ rằng có thể hoán cải người ta bằng lí luận. Tôi biết chắc rằng cái lô-gích mãnh liệt và có thế lực của Bơ-ruy-nơ-chi-e đã đốt nóng nhiều người từ lâu vốn có xác tín; tôi sung sướng khi nghĩ rằng cái lôgích đó đã làm xao động hoang mang nhiều kẻ vô tín ngưỡng, thế nhưng tôi không chắc nó đã khuất phục được họ. Sao thế? Vì tôn giáo nào cũng có sức yên ủi, mà những câu tam đoạn luận thì chả yên ủi được ai. Nào Bài Giảng trên Núi không phải là chỗ tập họp lạ lùng những mâu thuẫn trí khôn người ta chưa hề gặp phải, không phải là cái chọc tức lô-gích của loài ngưòi đó sao Vậy mà Bài giảng đó đã hoán cải được thế giới, là vì đó là một dòng thác tràn đầy từ ái và yêu thương".

- Như thế là giữa khoa học và đức tin không có mâu thuẫn sao?

- Trong bài "Thách thức" hùng hồn của ông, Măng-xi-ông có nói: "Thưa các ngài bác học vô tín ngưỡng, xin các ngài cứ viết ra trên một tấm bảng, hai cột so sánh với nhau: ở cột thứ nhất, hãy ghi những cái chắc chắn trong khoa học; tôi nói chắc chắn,

153

Page 154: Cậu cháu nói chuyện đạo

không nói giả thuyết; ở cột thứ hai, hãy ghi những cái chắc chắn trong tôn giáo. Rồi cứ so sánh xem!"

Vả chăng, nói mâu thuẫn giữa khoa học với đức tin, nhưng khoa học nào? " Khoa học thiên văn sao? Nếu có, thì La-pơ-lát-xơ phải đã thấy. Y học sao? Nếu có, thì Pat-xtơ phải đã thấy. Vật lí sao? Am-pe lẽ ra đã lưu ý. Hoá học sao? Không lẽ La-voa-di-ê đã không thấy! Triết học sao? Nếu có, thì hẳn là thánh Tô-ma đã mách cho chúng ta biết. Khoa học sẽ không bao giờ mâu thuẫn với đức tin, chỉ vì lẽ là chân lí không thể mâu thuẫn với chân lí".

Cậu ạ, đối với những người tự xưng là bác học, muốn nhân danh khoa học mà phi bác tôn giáo, thì chúng ta chỉ có thể đáp lại bằng câu trả lời đích đáng của Niu-tơn khi thấy Han-lê chế nhạo niềm tin: "Những cái đó, tôi đây đã nghiên cứu rồi; còn ông thì chưa!"

Hẳn là cậu đã nghe nói về nhà địa chắt học thời danh P.Téc-mi-ê. Trong tác phẩm của ông, cuốn "Niềm vui được biết", trang 291 và 312, ông nói thế này: "Khoa học có nhiệm vụ làm cho ta có ý thức về bí nhiệm; nó gợi lên bí nhiệm, hơn là giải thích bí nhiệm. Làm sao người tín đồ lại có thể sợ khoa học! Tôi từng nghiên cứu các ngành khoa học, mà tôi chưa hề gặp một lẽ nào thật mạnh để hoài nghi về đạo Kitô; Trái hẳn thế, tôi gặp được trong đó những lẽ mạnh giúp tôi bám chắc hơn nữa vào những điều tôi tin".

Chương III

154

Page 155: Cậu cháu nói chuyện đạo

Hỏa ngục muôn kiếp

- Trong đạo Công giáo, có một tín điều cậu không thể thừa nhận, đó là hỏa ngục.

- Trước chân lí khủng khiếp đó mà chối suông như thế, không đủ.

- Thì cháu có những chứng cứ gì nào?- Có chứ!- Đủ thuyết phục không?- Cháu hi vọng là có, nhất là với một đầu óc trung thực,

không sợ ánh sáng.- Nhưng, hỏa ngục, ồ, không thể thừa nhận được! Trí khôn

người ta có thể hiểu là có một hình phạt tạm thời; còn một hình phạt vô cùng, một hình phạt vô cùng, một hình phạt trừng trị mãi, không chút thương hại, kẻ mạnh trừng trị người yếu, Thiên Chúa trừng phạt thụ tạo mình; cha trừng trị con mình! Thú thật, tín điều đó không thể thừa nhận được. Lí trí cậu phản đối.

- Có lẽ cậu sẽ bỡ ngỡ, nếu cháu nói rằng chân lí đó có ngay hồi mới có thế giới.

- Thật không?- Nhất định phải là Thiên Chúa đã mạc khải chân lí đó ngay

từ đầu, vì rằng không một tôn giáo nào, thật cũng như giả, mà không giữ lại dấu vết và nhiều khi trọn vẹn cả chân lí kì diệu đó. Từ Đông sang sang Tây, ở Hi lạp, ở Rô-ma, cũng như tại ấn độ, Ai cập, đâu đâu cũng thấy có giáo lí đó.

- Cháu làm cậu kinh ngạc quá! Cháu căn cứ sách vở nào vậy? - Pơ-la-tông nói: "Những linh hồn đã phạm những tội ác

nặng nề, phải ném xuống vực thẳm gọi là hoả ngục, ở đó, họ phải chịu những hìnhg phạt làm khổ họ trong một cõi vô cùng rùng rợn". Tác-ta-rơ, nơi ở của những người khổng lồ quái dị là gì? Ti-xi-ô luôn tái sinh, là gì? Tăng-tan-lơ, không bao giờ được tới gần nước mà uống cho giãn khát, là gì? Xi-xi-phe, đời đời lăn một tảng đá cứ rơi mãi, là gì? Tê-dê-a, phải phạt muôn đời ngồi trên một tảng đá bất động, là gì? Cậu không thấy đó là hình ảnh những cực hình muôn kiếp sao? Vậy, nếu cõi đời đời là không có thật,

155

Page 156: Cậu cháu nói chuyện đạo

thì hiểu sao được niềm tin ghê gớm khủng khiếp đó? Làm sao nhân loại đã có thể tự mình nghĩ ra một sự kinh khủng như vậy?

Chính Vôn-te đã phải thú nhận: "Người Can-đê, người At-xi-ri và người Ai cập xưa kia đều tin có những hình phạt muôn kiếp. Nơi người Hi lap và người Rôma, chúng ta cũng thấy họ tin như thế. Tóm lại, mọi dân tộc trên thế giới đều tin như thế."

- Ông ta có tin như thế không?- Nào ông ta đã không trả lời một người vô tín ngưỡng tự

phụ mình đã chứng minh được không có hoả ngục, rằng: "Như thế thì anh sung sướng lắm. Còn tôi, tôi chưa chứng minh được điều đó!" Sao? Và Đi-đơ-rô: "Tôi thách các bạn chứng minh được không có hoả ngục!"

- Thế mà cậu cứ nghĩ Đức Giêsu mới là người đầu tiên tuyên giảng chân lí đó.

- Người mạc khải nó cho thế giới một cách rõ ràng, làm cho không ai còn hồ nghi được nữa. TrongTin mừng, Người khẳng định bằng những lời lẽ minh xác: "Hỡi đồ vô phúc, cút đi, vào lửa muôn đời! Và chúng sẽ vào nơi khổ cực muôn kiếp".

- Cháu định dựa vào lời khẳng định đó để kết luận?- Hai điểm: 1/ Không thể bảo rằng Đức Giêsu nói ra những

lời ngăm đe như thế chỉ nhằm làm cho cử toạ khiếp sợ và dùng một một sự sợ hãi để giục họ ăn ở tốt hơn; bởi vì Đức Giêsu vô cùng thánh thiện, không thể có một sự gian trá như thế; 2/ ở đây có một lưỡng đao luận: hoặc là điều Đức Giêsu nói là thật và như thế thì không phải bàn cãi gì nữa; hoặc là lời Người không thật, mà không thật thì hoặc là Người nói dối, hoặc là Người đánh lừa ta. Nói dối, thì Người không phải là Thiên Chúa và thế là đạo Người đổ. Nếu không có hoả ngục muôn kiếp, thì Tin mừng không thật, Đức Giêsu nói dối, cả đạo công giáo sụp đổ như toà nhà sập vì người ta giật mất của nó một viên đá góc tường.

- Luận cứ của cháu mạnh đấy. Nhưng Thiên Chúa quá nhân hậu, không đời nào Người lại luận phạt cậu.

- Vì thế Thiên Chúa không luận phạt, mà chính người có tội tự luận phạt mình.

- Cậu không hiểu.156

Page 157: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Thiên Chúa thân đến với con người và bảo: Hãy kính mến, hãy vâng lời...thì con sẽ muôn đời sung sướng với Cha. Con được tự do. Nhưng nếu cả đời người có tội cứ ngoan cố, không chịu vâng lời và kính mến Thiên Chúa, nếu nó chạy theo thụ tạo mà từ chối Tạo hoá, nếu nó hi sinh Thiên Chúa cho dục vọng mình, tóm tắt, nếu nó xua đuổi Thiên Chúa, thì Thiên Chúa bỏ đi. Sự chết đến, mà Thiên Chúa chưa trở lại trong linh hồn tội nhân. Nguyên một sự việc đó làm cho người có tội chịu phạt hoả ngục; vì hoả ngục chẳng qua là sự kéo dài tội nặng sau khi chết.

Thiên Chúa sẽ bảo tội nhân: ngươi không muốn nhận Ta ư?Ngươi đã xua đuổi Ta ư? Được! Thì ngươi cứ đi, đi cho xa mặt Ta và hãy sống sung sướng, nếu ngươi có thể! Như thế là tội nhân tự luận phạt mình, tự cách li mình. Nó đã đuổi Thiên Chúa. Nó đã trốn mặt Thiên Chúa. Nó sẽ đi đâu? Nó sẽ trốn mặt Thiên Chúa mãi muôn đời, không khác nào một vật thể bị ném ra khỏi khối cầu nó vốn ở trong đó, sẽ vĩnh viễn lìa xa tâm điểm. Sở dĩ kẻ dữ phải ở xa Thiên Chúa, là vì chính nó đã khởi sự tự tách mình ra và đã giữ mãi thái độ đó, cứ ngoan cố mãi đến cùng. Hình phạt của nó là tận cùng lô-gích của lỗi nó phạm.

- Như thế khổ lắm nhỉ!- Nào người ta có thể buộc Thiên Chúa phải ban mình cho kẻ

không bao giờ mến Người sao? Ai dám quyết như thế thì thật là kì dị. Có thể rằng trước ngưỡng cửa đời đời, một lần cuối cùng - và đây là ý kiến nhiều nhà thần học, - Chúa Cứu thế đích thân hỏi người đó: "Con có mến Ta không? - Không!" Thế là hình phạt giáng xuống kẻ đã từ chối đến cùng thái độ yêu thương của Thiên Chúa.

- Được. Nhưng cậu không thể không nghĩ trong lòng và nói lên rằng trong việc đó, Thiên Chúa không công bằng. Cậu đã vi phạm luật Thiên Chúa, cậu có tội, phải. Nhưng để trừng phạt lỗi lầm cậu phạm trong chốc lát, Thiên Chúa lại bắt cậu chịu những cực hình kinh khủng suốt cõi đời đời sao? Rõ ràng là thiếu công bằng và như một thách thức đối với lẽ phải.

- Cậu nghiên cứu các pháp chế, cậu có thấy đâu qui định sự cân đối giữa thời gian phạm tội và thời gian phải phạt vì tội đó

157

Page 158: Cậu cháu nói chuyện đạo

không? Cháu không thấy pháp chế nào qui dịnh như thế cả. Đâm một lát dao, bắn một phát súng giết một mạng người, mất bao nhiêu giây? Chỉ một giây thôi. Vậy mà để trừng phạt tội phạm trong chốc lát đó, người ta lên án tử hình, nghĩa là bắt phải chịu hình phạt không bao giờ cùng. Nếu việc đó, công lí người đời không cho là bất công, sao cậu lại dám cho là bất công đối với công lí của Thiên Chúa?

- Ít ra cũng có một sự cân đối nào đó giữa mức nghiêm trọng của tội phạm và mức thẳng nhặt của hình phạt. Còn ở đây, không cân đối tí nào cả.

- Cậu biết như thế nào là cân đối? Muốn chứng minh hai cái gì đó là không cân đối với nhau, trước hết phải hiểu hai cái đó đã. Nếu cháu với một người kia bị lên án tử vì tội lấy trộm một quả cam, thì đúng là không có cân đối. Mà cháu nói được như thế, vì cháu biết một quả cam đáng giá như thế nào và tử hình là thế nào. Đàng này, cậu có biết được sự tội nó to tát nặng nề như thế nào không? Muốn biết được điều đó, phải nắm được tầm mức chính xác của sự oai quyền cao cả nơi Thiên Chúa. Do đó, cậu không thể hiểu một tội người ta phạm là như thế nào.

Đàng khác, nói đến "đời đời", bao giờ lí trí chúng ta cũng lồng lên, vì không bao giờ nó đo lường được tầm mức chính xác của cõi "đời đời". Vậy đã không nắm được giá trị đúng thực của hai cái: tội và cõi đời đời, thì sao cậu lại dám nói là giữa hai cái không có sự cân đối?

- Dầu vậy...- Cậu này, nói đúng lô-gích, không phải nói như thế này: tội

tôi nhẹ quá, không đáng phải phạt hoả ngục; mà chính là nói: tội tôi đáng phải phạt hỏa ngục; do đó, nó nặng nề hơn là tôi ngờ. Thực tế, cậu chỉ cần nhìn lên ảnh chuộc tội. Nếu một ngôi Thiên Chúa đã phải chết, đổ hết máu mình đền tội cho loài người, thì như thế là tự mình nó, sự tội phải có một ác tính kinh khủng lắm. Cây Thập giá của Đức Giêsu đã từng nói cho chúng ta biết mức độ lòng Người yêu thương chúng ta như thế nào, thì đồng thời nó cũng cho chúng ta thấy sự công chính của Người cũng bao la vô hạn như lòng yêu thương đó. Cậu xem: to tát biết bao sự công

158

Page 159: Cậu cháu nói chuyện đạo

chính đòi một giá chuộc lớn lao như vậy! Còn gì chứng minh chắc chắn có hỏa ngục cho bằng trông thấy Thiên Chúa đòi cả một của lễ trọng đại như thế để đền bù tội phạm! Phải. Ảnh chuộc tội là một chứng cứ hùng hồn bậc nhất làm chứng có hỏa ngục.

- Nhưng tại sao lại phạt đời đời như thế? Đồng ý là Thiên Chúa công chính có quyền phạt tội; nhưng cần gì phải phạt mãi đời đời!

- Nhưng chính hình phạt ở tại việc chịu phạt đời đời. Mọi cái gì có cùng, thì không đáng kể gì đối với con người cả. Một hỏa ngục nhất thời sẽ không phải là một hỏa ngục. Vì con người biết mình bất tử, nên nó phải có những hi vọng và sợ hãi vừa tầm thước nó. Những khuynh hướng của nó vô hạn, mà đưa ra một hỏa ngục có hạn, thì hỏa ngục đó làm nó sợ sao được, chặn đứng nó khỏi trượt xuống vực thẳm sao được? Cái làm con người khó chịu, chính là cái thường cản bước nó trên đường tội lỗi. Một hỏa ngục nhất thời, nó sẽ chẳng coi ra gì.

Phải, cậu ạ, đối với con người, cái gì có hạn thì không đáng kể gì hết. Chính vì thế mà người công giáo, tuy rằng tin có luyện ngục và biết rằng ở đó người ta phải chịu những cực hình ghê gớm để đền tội, nhưng trên thực tế, không mấy ai để ý đến luyện ngục.Vì sao? Vì biết rằng hình phạt luyện ngục chỉ kéo dài một thời gian.

- Nhưng dù sao thì việc phạm tội cũng có hạn, như một hành vi.

- Đứng về phía con người mà nhìn thì, phải, nó có hạn; nhưng đứng về phía Thiên Chúa, ác tính của nó vô hạn, vô cùng, như sự cao trọng của Thiên Chúa mà nó xúc phạm là vô hạn, vô cùng. Đàng khác, sự tội, xét ác tính chủ yếu của nó, chính là việc người ta tự ý hi sinh sự thiện muôn đời để hưởng một thú vui chốc lát. Vậy, nếu tội là tự ý hi sinh sự thiện muôn đời, là tự do và tự ý từ bỏ Thiên Chúa để tìm thú vui bên ngoài Thiên Chúa, thì taị sao việc tước bỏ sự thiện muôn đời đó (và như vậy là hỏa ngục) lại không phải là hậu quả chính đáng của sự tự ý từ bỏ đó? Như vậy, giữa tội và hỏa ngục quả có sự cân đối. Trong khi người

159

Page 160: Cậu cháu nói chuyện đạo

ta cố tình liều mất Thiên Chúa, thì chính là người ta thực sự ưng thuận bỏ mất Người.

- Khi phạm tội, ai nghĩ đến tất cả những cái đó! - Chính vì thế mà càng nghĩ đến những cái đó, người ta càng

ít phạm tội đi.- Người ta không thấy trước tất cả những hậu quả đó.- Người ta cũng biết những hậu quả đó khá đủ để lưu tâm.- Tội là một hành vi chốc lát.- Đồng ý. Nhưng xin hỏi cậu: chẳng hạn như khoái lạc dâm

dật, sự thật là nó xảy ra trong chốc lát thôi, nhưng nếu khoái lạc đó có thể kéo dài như ý tội nhân, kéo dài mãi, thì họ có kéo dài không? Đức Cha Ghe (Gay) nói: "Nếu lúc đó bạn có thể kéo dài khoái lạc, phải chăng bạn đã không làm? Biết bao lần bạn đã bảo thần tượng của bạn: mãi mãi! Hai tiếng đó vạch rõ chân tướng bạn: tâm hồn bạn bất diệt và ước mơ bạn cũng không cùng. Và giả sử trong đời người có tội, vào giờ phút nào đó,- tội nhân biết rõ đó là giờ phút nào,- có một mãnh lực vạn năng nào mở cõi Đời Đời ra trước mắt người đó; và chụp lấy người đó đang khi người đó phạm tội và làm cho lạc thú người đó kéo dài mãi, thì thử hỏi người đó có ưng thuận không? Và trong lúc hưởng thụ cảnh thiên đường bỉ ổi đó, không phải là người đó bán rẻ chính thiên đường mà Thiên Chúa ban cho đó sao?"

Tội thì nhất định là có hạn, nhưng ước muốn của người phạm tội thì xa hơn, nó muốn bất diệt hoá lạc thú bỉ ổi của mình. Nếu không thể thực hiện điều đó, ít ra nó cũng ước như thế. Vì thế, Thiên Chúa là Đấng thấy rõ ý muốn con người, nên trước con mắt Người, ở đây vẫn có sự cân đối giữa tội và hỏa ngục.

- Tại sao sau khi người ta chết rồi, Thiên Chúa không tha thứ cho nó, để khỏi phải phạt?

- Là vì sự chết bắt gặp ta trong tình trạng nào, thì nó ghì lấy, nó giữ chặt ta như vậy mãi. Cậu chết đang khi có tội, muôn đời cậu sẽ là tội nhân. Trong hỏa ngục, tội nhân không cải hối được nữa.

- Sao lại không cải hối được nữa?160

Page 161: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Cải hối là một thay đổi; mà thay đổi là nói kế tiếp, kế tiếp đòi phải có thời gian; vậy mà trong cõi Đời Đời không còn thời gian nữa.

- Trừu tượng quá nhỉ! - Nếu cậu muốn rõ hơn: cải hối không chỉ là một thay đổi,

cải hối là một thay đổi tự do và có công trạng. Tự do là có thể chọn lựa. Vậy mà người ta không thể thay đổi một cách có công trạng nữa, một khi đã hiển nhiên; mà đối với người đã bị trầm luân, thì đã có hiển nhiên. Bình sinh, tội nhân có thể bỏ dữ về lành; chết rồi, đã chọn gì thì nhất định như thế mãi. Muốn cải hối, cần hai điều: ơn thánh và tự do. Chết rồi, thì ơn thánh không còn tác động nữa; người bị trầm luân không còn hi vọng gì được nữa. Phải, cải hối, trở lại, là một ơn thuần tuý, mà thời giờ của ơn thánh đã qua. Cậu có thấy ai muốn cải hối khi nào được khi ấy không? Làm sao cậu lại muốn Thiên Chúa phải ban ơn cho kẻ chết mà không cải hối, chấp mê, lòng còn quyến luyến tội, đôi khi miệng còn nói phạm nữa?

- Vấn đề thật bí nhiệm!- Đồng ý, nhưng vấn đề cũng khá sáng tỏ để trả thù cho

Thiên Chúa công chính vì những điều xúc phạm đến Người. Ô-guyt-xtanh Ni-cô-la nói: "Không thể lấy thước công chính ta mà đo sự công chính vô hạn. Phải chăng Thiên Chúa chỉ là một con người, hay phải chăng con người là một Thiên Chúa? Thiên Chúa vô hạn và do đó, ngoài Người ra, không ai hiểu được Người. Nếu ta hiểu được sự công chính Thiên Chúa, sự công chính Thiên Chúa bị hạ xuống ngang tầm sự công chính chúng ta, thì không còn là sự công chính Thiên Chúa nữa, nghĩa là không còn phải là không thể hiểu được sự công chính Thiên Chúa nữa."

- Liệu không có lúc nào đó Thiên Chúa đổi công chính ra thương xót sao?

- Thiên Chúa không thay đổi được. Lời Người không qua đi.- Sau hàng tỉ năm?- Lâu hơn thế cũng không. Tội nhân sẽ muôn đời là tội nhân;

lòng nó sẽ cứ vĩnh viễn cắm chặt trong sự dữ. Đức Giám mục 161

Page 162: Cậu cháu nói chuyện đạo

Bôt-xuy-ê nói: "Tội nhân chết trong tình trạng tội lỗi. Như thế là sự tội đã nhập thân vào con người tội nhân. Con người đã thành tội?"

- Nhưng để đáng phải chịu cái cực hình kinh khủng và muôn kiếp đó, người ta phải đã ưng thuận một tội ác chứ!

- Thiên Chúa có thể trừng phạt cách đó, kẻ nào hoàn toàn có tự do mà cố tình, mà ngang nhiên vi phạm luật lệ Người và chủ ý làm việc có tội nặng và bị cấm vì là tội nặng, mà không có hoàn cảnh nào giảm nhẹ. Thường thì Người nhẫn nhục chờ đợi, Người tha thứ. Nhưng đối với kẻ ngoan cố trong sự tội, thì Người tha thứ sao được?

- Đối với sự công chính thì được. Nhưng làm sao dung hoà lòng nhân hậu của Đấng mà cháu gọi là Chúa nhân lành với hỏa ngục muôn kiếp? Một cực hình người ta phải chịu lâu dài, cuối cùng làm thoả mạn sự công chính; còn khi nguời ta đã chịu phạt lâu dài, mà tha thứ, thì sự tha thứ đó không còn là một ơn ban của người tuyên án, cho bằng một quyền của người bị lên án. Lẽ nào một vị Thiên Chúa mà cháu cho là nhân hậu như thế, lại nhẫn tâm oán phạt người ta suốt cõi đời đời cho thoả mãn sự công chính của mình sao?

- Tóm tắt, có phải cậu nhân danh lòng yêu thương và sự lân tuất mà phản đối sự công chính không?

- Phải.- Được rồi. Trước hết, cậu nên biết rằng ở đây không phải sự

công chính không có lân tuất, mà chính là lòng yêu thương. Lòng yêu thương khi đã bị khinh miệt, sỉ nhục, chế diễu, thế nào cũng báo thù. Cậu không biết câu thơ bất hủ của Ra-xin sau đây sao " Tôi đã yêu nó quá nhiều, nên bây giờ không thể không ghét nó!"?

Khi thấy một vị Thiên Chúa nhập thể, sinh ra, làm lụng ở trần gian và vì những kẻ Người định cứu rỗi mà chịu những cực hình ghê rợn; một vị Thiên Chúa bị trói, bị vả mặt, đánh đập, chế diễu, bị treo lên, bị gia hình, bị đóng vào khổ giá; một vị Thiên Chúa liệu trăm phương nghìn kế lạ lùng nhằm tạo điều kiện cho ta hưởng ơn tha thứ của Người; một vị Thiên Chúa nuôi ta bằng

162

Page 163: Cậu cháu nói chuyện đạo

Mình Máu Người, linh hồn và thần tính Người, một vị Thiên Chúa nhân hậu đến mức nhiều khi chỉ cần một hạt nước mắt, một dấu ăn năn, để tha trắng cả một cuộc đời phóng đãng, đầy tội ác; khi thấy, đứng trước lòng yêu thương lạ lùng, một thụ tạo lại khinh miệt, từ chối, chế diễu Đấng đã yêu mình đến vì thế mà chết đi, thử hỏi ai mà không cho rằng lòng yêu đó có quyền báo thù lại? Yêu mà bị nhục thì thôi, không yêu lại lần nữa. Bị công chính lên án, còn có thể khiếu nại đến lòng yêu; chứ bị chính lòng yêu lên án, thì khiếu nại vào đâu nữa?

- Tất cả những cái đó chỉ là tình cảm!- Cháu thiết tưởng nói về tình yêu, tất phải nói đến tình cảm.

Nhưng, đây, một lẽ khác. "Thử ngẫm nghĩ xem: Thiên Chúa yêu thụ tạo đến mức bắt tính toàn năng mình thực hiện việc tạo thành; bắt uy quyền mình để Con mình hóa hư hèn trong việc Nhập thể; bắt Khôn ngoan mình thực hiện sự điên rồ Thập giá; bắt tính Công chính mình đánh chết Con yêu; đẩy lòng rộng rãi mình tới việc ban mình trọn vẹn; làm cho lòng hào hiệp mình khoan thứ cho mọi người; làm cho lòng lân tuất mình trăm ngàn lần, vô số lần tha thứ tội nhân; giục lòng bao dung mình suốt 50, 60, 80 năm trời kêu mời, soi sáng, giúp đỡ...thử ngẫm nghĩ xem lòng yêu dai dẵng, lạ lùng, điên rồ của Thiên Chúa đối với con người, đối với con người tội phạm như thế, cuối cùng liệu có làm được cho tất thảy những sự trọn hảo Thiên Chúa trọn vẹn từ bỏ và phủ nhận chính mình không?" (GM.Ghe).

- Cháu nói như thế chủ ý gì?- Chịu thua trong cuộc đấu tranh với một ý muốn thụ tạo,

như thế không phải là tự phủ nhận chính mình sao? Phạm tội là đấu tranh chống lại Thiên Chúa; cái làm người có tội đáng phạt (tuy chỉ một tội nặng đã đủ) thường không phải là chính sự dữ, cho bằng thái độ ngoan cố trong sự dữ, ngoan cố một cách cố tình, nếu không phải bao giờ cũng do bất trung, ít ra do lãnh đạm. Trước sự ngoan cố như vậy, Thiên Chúa không thể chịu thua mà không tự phủ nhận và thú nhận là mình bại trận! Giả sử có một người vô đạo, suốt đời không những chối Thiên Chúa, mà còn

163

Page 164: Cậu cháu nói chuyện đạo

lăng mạ, tấn công Người, cố giành giật Người khỏi linh hồn người ta và cuối cùng khi chết, lòng vẫn căm ghét, miệng vẫn nói phạm đến Thiên Chúa. Y sa hỏa ngục. Nếu hỏa ngục không kéo dài muôn kiếp, thì kẻ vô đạo đó, từ đáy vực thẳm, vẫn có thể tiếp tục lăng mạ Thiên Chúa, căm ghét Người và thét bảo Người: mầy phạt ta, ừ, mày có quyền làm như thế. Nhưng việc đó không làm ta thôi nguyền rủa, mạt sát mày. Vì hỏa ngục không có mãi muôn kiếp, nên có ngày, mày sẽ bắt buộc phải nhận ta lên trên đó, trong cõi thiên đường của mày và ban cho ta là kẻ hiện đang căm ghết mày, những lạc thú vô biên của cõi trời! Và thế là chính ta, con người, ta sẽ thắng mày! Chính ta, sự căm thù, sẽ thắng mày là Tình yêu! Chính ta là sự dữ sẽ thắng mày là sự Lành!

Cháu nói như thế, cậu đã hiểu tại sao hỏa ngục phải muôn kiếp chưa?

- Cháu đã làm cậu nao núng. Thú thật lời cháu làm cậu thất điên bát đảo. Chưa bao giờ cậu nghĩ đến những kết luận đó!

- Chưa hết, cậu ạ: nếu hỏa ngục không muôn kiếp, thì thiên đường cũng không thể muôn đời tồn tại. Hủy tính vĩnh hằng của hình phạt, thì cứ lô-gích, cũng hủy luôn tính vĩnh hằng của phần thưởng nữa. Vậy mà thiên đường không muôn đời, sẽ không còn là thiên đường nữa. Vì thế, thánh Ô-guýt-tanh nói: "Cả quyết rằng sự sống muôn đời sẽ không bao giờ hết, nhưng cực hình muôn đời sẽ có lúc hết, như thế chẳng phải là phi lí cực điểm đó sao?"

- Đúng. Thế nhưng người ta cũng có thể cãi rằng: Thiên Chúa biết tội nhân thế nào cũng sẽ sa hỏa ngục, sao không để nó trong hư vô chẳng tốt hơn sao?

- Như thế, không lẽ Chúa tể trời đất lại không thể tạo nên một con người có thể chọn lựa giữa lành và dữ sao? Mà không tạo thành, thì tức là Thiên Chúa từ bỏ tính toàn năng, vì như thế là Người chịu thua ác tính có thể có của thụ tạo. Như thế không phải là trói tay Thiên Chúa lại và từ chối không ban sự sống cho bất cứ thụ tạo có thể có nào đó sao?

- Nhưng khi tạo dựng linh hồn đó, thì Thiên Chúa biết rõ nó sẽ bị trầm luân.

164

Page 165: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Việc Người biết trước không phải là nguyên nhân đưa đến việc nó hư đi; không phải vì Thiên Chúa biết trước tội lỗi và án trầm luân của tội nhân, mà người đó sẽ bị trầm luân; trái lại, chính vì người đó sẽ phạm tội và tự làm cho mình bị trầm luân, mà Thiên Chúa biết trước và đã biết trước điều đó từ muôn đời.

- Dẫu sao thì trong hình phạt hỏa ngục, vẫn có một cái gì có tính chất báo thù, vì tội nhân bị tước hết mọi cái, ngay cả khả năng hoán cải cũng chẳng còn nữa.

- Nếu lí luận đó của cậu là có căn cứ, thì như thế là các quan toà chỉ được lên án những tội phạm có cam đoan sửa mình, còn những tội phạm ngoan cố thì không can gì cả. Như vậy thật là phi lí. Các quan toà kết án tử hình một tội nhân, thì đồng thời không phải là làm cho họ hết khả năng cải hối nữa sao?

- Cậu đọc sách đạo thấy nói trong hỏa ngục có lửa. Cháu tin có lửa đó không?

- Tin mừng nói: "Cút đi! Hỡi đồ vô phúc, hãy vào lửa muôn đời!" Danh từ lửa ở đây phải hiểu là lửa thật...

- Nghĩa là lửa vật chất?- Đa số các Giáo phụ, Tiến sĩ và nhà thần học đều nhất trí

hiểu danh từ lửa theo nghĩa đen.- Nhưng nghe nói một số tác giả bảo đó là nghĩa bóng.- Họ chưa khẳng định, chỉ mới nghiêng về ý đó thôi. Đó chỉ

mới là một ý kiến được đề xuất.- Thế Giáo hội đã định tín tính vật chất của lửa hỏa ngục

chưa? - Chưa. Giáo hội chưa tuyên bố một quyết định có tính cách

tín lí nào buộc tin tính chất khách quan của lửa hỏa ngục, nếu không phải kể là lạc giáo. Năm 1890, Thánh bộ Xá giải chỉ mới công bố rằng không được giải tội cho kẻ không chịu tin tính thực tại của lửa đó.

- Thế thì làm sao một yếu tố vật chất như lửa, lại có thể tác động đến một thực tại vô vật chất như linh hồn đã tách lìa khỏi thể xác?

165

Page 166: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Tất nhiên, đây là một mầu nhiệm. Nhưng ta có thể gặp thấy một trường hợp tương tự là việc linh hồn vô chất hợp nhất với thể xác vật chất. Ở đây có một sự hợp nhất căn bản, tuyệt đối giữa hai yếu tố khác bản tính nhau, nhưng hoà vào nhau đến mức chỉ làm nên một thực thể duy nhất, tác động qua lại liên lỉ đối với nhau. Như thế không lẽ ta phải phủ nhận mọi cái gì ta không hiểu sao? Ai ngăn được linh hồn không cho nó hợp nhất với lửa ở đời sau, như linh hồn hợp với thể xác ở đời này, hợp nhât một cách khá khăng khít để lửa có thể đốt cháy nó?

- Làm sao lửa đốt kẻ dữ mà không làm nó tiêu tan?- Những bí nhiệm trong tự nhiên, chúng ta cũng biết ít thôi,

thì đừng cố hiểu cho tận chân tơ kẻ tóc những bí nhiệm ở đời sau. Vả chăng, cậu không thấy một số chất, lửa đốt mà chỉ trắng ra, mà không tiêu tan, như a-mi-ăng sao? Cha Mông-xa-bơ-rê nói rằng lửa hỏa ngục không phải "thứ lửa tồi mà ta đốt lên, hết nhiên liệu là nó tắt ngay, nhưng là thứ lửa tiềm tàng trong trong tất thảy và mỗi một phần của vũ trụ, nó toả ra qua không gian, ta gặp nó trong mọi chuyển động; đó là cái sức vô tận và luôn hoạt động, là một thứ linh hồn của vũ trụ mà những thứ khí cơ động nhất và mạnh nhất, có lẽ chỉ là những biểu hiện bề ngoài."

- Thiên Chúa cũng có thể làm tội nhân ra không, thế là hỏa ngục không còn lí do để tồn tại.

- Chúng ta không được "lên lớp" cho Đấng Tối cao. Tuy nhiên, giả sử Thiên Chúa phạt tội nhân ra không. Thế thì cậu không thấy rằng tội nhân sẽ tha hồ mà sống theo sở thích, phạm đủ mọi tội xấu xa, vì đã biết chắc mình sẽ không bị trừng phạt sao? Hơn nữa, như thế thì làm sao có sự trừng phạt cân xứng được? Không lẽ một người chỉ phạm một tội nặng cũng bị xử phạt một cách như kẻ suốt đời phạm nhiều tội quái gỡ ai cũng kinh khiếp sao?

- Thôi. Cậu không biết lấy lẽ gì cãi lại cháu nữa. Tuy nhiên, dẫu cháu đưa ra nhiều luận cứ và chứng cứ như thế, cậu vẫn chưa dễ mà tin.

166

Page 167: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Phải. Hoả ngục muôn kiếp, kinh khủng, rùng rợn. Cháu biết thế, cháu cảm thấy như thế. Nhưng chừng nào Thiên Chúa còn là Thiên Chúa, chừng đó lời của Người vẫn không qua đi, mà sự oán phạt của Người cũng vậy.

- Uớc gì cậu có thể tin như thế!- Cậu cứ kiên trì. Chân lí đang tiến tới. Nó sẽ toả sáng, có thể

là không lâu nữa đâu. Nhưng, như người ta nói: "Khi người ta đi tìm chân lí, thì cái điều kinh khủng là cuối cùng thế nào người ta cũng gặp nó". Vì gặp nó, thì phải tiếp nhận nó cùng với mọi hậu quả đi kèm nó. Do đó, xin cậu cứ tìm chân lí đi. Cậu sẽ gặp nó và có ngày cậu sẽ tiếp nhận nó.

Chương IV

Phép lạ

- Này Mác-đa, cậu thấy đối với cậu, trời đã hé sáng, nhưng đàng chân trời còn nhiều đám mây khổng lồ.

- Thì chúng ta hãy cố xua tan chúng đi. Có điều là cháu không thích là cậu cứ lặp đi lặp lại những vấn nạn tồi nghe lỏm ở quán cà-phê hay đọc trong báo.

- Hôm nay, cậu mang đến cho cháu một vấn nạn rất nghiêm trọng.

167

Page 168: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Ô! Những con ngáo ộp của cậu rồi cũng dễ thanh toán như những lần trước thôi. Một khi cậu đã hiểu rõ hơn, thì lí trí ngay thẳng của cậu sẽ đầu hàng.

- Chúng ta hãy nói về phép lạ nhé! Phép lạ là cái không thể nào chấp nhận.

- Trước hết cho phép cháu định nghĩa đúng phép lạ là gì: phép lạ là một sự kiện dị cảm, ngoài thường, có tính cách tôn giáo, vượt quá trật tự và năng lực của tự nhiên, bao gồm một yếu tố cứu cánh, nghĩa là đáp ứng với một cứu cánh xứng hợp với sự khôn ngoan Thiên Chúa. Cậu có hiểu phép lạ là như thế không?

- Cậu tán thành định nghĩa đó. Nhưng cậu cần nói ngay với cháu rằng: đối với cậu, phép lạ hiểu như thế là không thể có.

- Giăng Giắc Rút-xô đã từng tự hỏi mình thế này: "Thiên Chúa có thể làm phép lạ, nghĩa là có thể làm trái với những định luật chính mình đã đặt ra không? Câu hỏi đó, xét cho nghiêm chỉnh, thì thật là vô phép đối với Thiên Chúa, nếu không phải là phi lí. Đối với kẻ trả lời câu hỏi đó bằng tiếng "không", nếu chỉ trừng phạt mà thôi, thì còn quá kính trọng họ; đúng ra, phải bỏ tù!"

- Cháu định bắt giam cậu đấy ư? - Không phải cháu, chính Rút-xô!- Cháu thử trả lời nghiêm chỉnh xem nào!- Thế này. Thiên Chúa đã tự do thiết lập các định luật của thế

giới hữu hình, nào Người không thể bắt các định luật đó phải đình chỉ sao? Người đã sáng tạo vũ trụ, nào Người không có quyền và có khả năng tái tạo như ý mình một bộ phận đã hỏng sao? Anh thợ máy có thể cho đầu máy chạy chậm lại, hay chạy nhanh hơn; con nguời có thể đắp đê ngăn dòng nuớc, mà Thiên Chúa lại bất lực đến nỗi không thể ngăn chặn một sức tự nhiên trong một số trường hợp nhất định sao? Vì là Tạo hoá và Chúa tể của tự nhiên, Thiên Chúa không thể bị những định luật của chính tự nhiên trói buộc. Đàng khác, nào chúng ta biết được gì chắc chắn về các định luật tự nhiên? Về điểm này, hiểu biết của ta chỉ là tương đối, và

168

Page 169: Cậu cháu nói chuyện đạo

có những định luật cách đây đã 50 năm được coi là chân lí tuyệt đối, mà hiện nay lại bị phi bác.

- Đối với phép lạ, hay ít ra đối với cái mà cháu gọi là phép lạ, chỉ có thể giải thích bằng "tự kỉ ám thị".

- Được rồi! Nếu các phép lạ, như phép lạ ở Lộ đức, đều do tự kỉ ám thị mà ra, cháu xin đề nghị với cậu như thế này. Cậu cứ mở môt phòng khám bệnh. Cậu sẽ tập hợp tại đó tất thảy những bệnh nhân, những người bị thương, những người điếc, mù, què, cùi, lao, ung thư,...rồi cậu cứ bảo họ: Các bạn, đây là thứ thuốc công hiệu và rẻ tiền: tất thảy các bạn cứ tự ám thị và tin chắc rằng các bạn không đau ốm bệnh tật gì hết. Từ sáng chí tối, rồi từ tối chí sáng, các bạn cứ nói đi nói lại liên lỉ: tôi không có bệnh, tôi không mù, tôi chẳng có ung thư... Hôm sau, các bạn lại nói như thế, và hôm sau nữa...cứ thế mãi. Cuối cùng, nhờ việc tự kỉ ám thị đó, tất thảy các bạn sẽ khỏi!

- Cháu kì cục quá!- Có đâu! Cháu chỉ áp dụng nguyên tắc của cậu thôi! Đồng ý

là đối với một số bệnh thần kinh nhất đinh, việc tự kỉ ám thị có thể đem lại kết quả, chẳng hạn chứng thần kinh suy nhược... Thế nhưng, cậu cũng biết rằng ở Văn phòng kiểm nghiệm tại Lộ đức, người ta dứt khoát không hề nhận bất cứ một thứ bệnh nào về thần kinh. Riêng cháu, cháu quyết hẳn là tự kỉ ám thị không thể làm được gì đối với một trường hợp lao da, mù, lao phổi hay ung thư.

- Phép lạ vượt trên luật tự nhiên. Đồng ý. Nhưng Thiên Chúa là bất biến và khôn ngoan, không thể thay đổi bất cứ cách nào.

- Vì thế, đối với Thiên Chúa, không có "thay đổi". Phép lạ chẳng qua chỉ là thực hiện một điều Người đã quyết định trước. Người đã thấy trước những nguyên nhân phụ cũng như những nguyên nhân chính. Không gì xảy ra mà bất ngờ đối với Người. Trước mặt Người, không có quá khứ, cũng chẳng có tương lai. Người thấy mọi sự ở hiện tại. Nói khác đi, khi làm phép lạ, Thiên Chúa không thay đổi trật tự vũ trụ đã ấn định từ muôn thuở; Người chỉ thực hiện điều Người đã thấy trước; mà phép lạ là điều

169

Page 170: Cậu cháu nói chuyện đạo

Người đã thấy trước. Phép lạ chỉ là ứng dụng trong thơi gian mọi quyết định đã có từ muôn đời.

- Như vậy thì các định luật tự nhiên không còn là bất khả xâm phạm nữa, vì mọi trật tự và mọi điều hoà đều có thể và phải phá vỡ?

- Phép lạ căn bản là những ngoại lệ. Vậy mà ngoại lệ thì không thủ tiêu qui luật; trái lại, chỉ kiện chứng qui luật. Khi một nhà lãnh đạo tha bổng cho một bị can, phải chăng như vậy là thủ tiêu công lí? Định luật tự nhiên ư? Ô! Bản thân chúng ta cũng vi phạm mỗi ngày nhiều lần: chúng ta chiết cây, dâm cành, chúng ta dùng thuốc mê để khỏi đau khi mổ xẻ, chúng ta uống thuốc ngăn ngừa tác động của bệnh tật... Sao lại cấm Thiên Chúa không được làm như thế?

- Nếu Thiên Chúa làm phép lạ, lẽ ra Người phải làm trước một ủy ban gồm những nhà bác học, vật lí, hoá học và những người thông thạo môn phê bình lịch sử và nội khoa.

- Cậu lặp lại luận điệu Rơ-năng? Cháu chẳng khen ngợi cậu tí nào! Thế nào? Cậu định gọi Đấng Hoá công ra trước vành móng ngựa cho thụ tạo xét xử Thiên Chúa sao? Như vậy Thiên Chúa chỉ là một kẻ múa rối, một gã bán thuốc rong, biểu diễn một vài trò ảo thuật nhằm mua vui cho công chúng, hay giải trí cho các nhà bác học mà thôi sao? Cậu không thấy như thế là ngạo mạn đến gần như điên rồ sao?

- Nhưng phép lạ gây nên những rối rắm trong việc sử dụng thực tiễn các môn khoa học.

- Thiên Chúa ở trên những sự ngẫu nhiên đó. Chả lẽ Người phải đến xin phép ta mới được làm công việc Người đã định sao?

- Thôi! Nhưng ai chứng minh cho cháu biết rằng một sự kiện được kể là lạ lùng, đúng là một phép lạ?

- Tự thân nó, phép lạ là một sự kiện khách quan, do đó có thể kiểm nghiệm, kiểm tra đựợc. Vì thế, chỉ cần: 1/ sự kiện có thật một cách khách quan; 2/ Không thể gán cho một mình những lực tự nhiên.

- Nhưng chúng ta không biết được hết mọi lực của tự nhiên.170

Page 171: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Đồng ý. Nhưng chúng ta biết đích xác rằng có một số hiệu quả nhất định, nó không thể gây nên được, như làm cho một người chết rồi sống lại, một người mù được sáng, một người điếc nghe được, hay trong chốc lát chữa lành một người bị ung thư.

- Ma quỉ cũng làm được những sự lạ.- Muốn phân biệt việc siêu nhiên do Thiên Chúa với việc

ngoại nhiên do ma quỉ, chỉ cần phân biệt: 1/ bản chất trường hợp xảy ra: có những sự kiện vượt ngoài khả năng ma quỉ; 2/ tính chất luân lí thể hiện hoặc nơi tác nhân, hoặc nơi hành động, các tình huống, ...người ta không dễ mà lầm lẫn.

- Phép lạ, theo như cậu biết, thì chưa hề được kiểm nghiệm một cách khoa học.

- Trước hết, cháu xin nói với cậu rằng cần phải chấm dứt quan niệm cho phép lạ là một thí nghiệm khoa học. Các nhà bác học rất đáng kính trọng; thế nhưng nếu họ đòi Thiên Chúa phải tha hồ cho họ muốn sử dụng mình thế nào tùy ý, thì đó là ngạo mạn. Đàng khác, cậu chỉ cần đến Lộ đức mà xem. ở đó, cậu sẽ thấy tận mắt những thầy thuốc đủ moị tín ngưỡng, mọi nước, đang khảo sát những người đã được khỏi bệnh và tuyên bố rằng những sự kiện phi thường xảy ra trước con mắt họ đó, không thể giải thích bằng những định luật tự nhiên mà thôi. Bác sĩ Boát-xa-ri nhận thấy rằng có đến 300 thầy thuốc lừng lẫy tiếng tăm về thành tích, đã đứng ra bảo đảm những sự kiện đã quan sát ở Lộ đức. Cậu còn đòi gì hơn nữa?

- Cháu nói đến Lộ đức. Ô! Đây cũng còn biết bao điều dị nghị!

- Thì cậu nói lên nào!- Nào không phải chính nước Lộ đức chữa bệnh đó sao?- Một thành viên có tiếng bậc nhất trong Đại học Khoa học

Tu-lu-dơ và ông Phi-lon, một nhà hoá học tiếng tăm, được cử phân tích nước Lộ đức, đã kết luận rằng "nước đó không chứa một chất gì có tính chất chữa bệnh cả"

- Như thế, không phải đây là những hiện tượng tự kỉ ám thị đó sao?

171

Page 172: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Nhưng ám thị có giới hạn của nó. Ám thị không thể sửa lại một ống chân sai khớp, khôi phục lại chất tủy sống đã bị phá huỷ, trong nháy mắt chữa lành một người lao da, hay chữa một lá phổi hết sạch vi trùng Cốc. Hơn nữa, muốn chữa bệnh theo phương pháp tâm lí, cần có thời gian. Vậy mà những ca khỏi bệnh quan trọng ở Lộ đức đều xảy ra trong chốc lát.

- Nhưng có thể là có sự tự kỉ ám thị tập thể, gây nên do sự phấn khởi cao của tiếng hát, tiếng đọc kinh, sự khó chịu vì phải chờ đợi, sự cuồng tín của lũ đông.

- Cháu đố cậu tìm ra trong những sự kiện Lộ đức, chỉ một ca khỏi bệnh đã được kiểm nghiệm kĩ càng mà cậu có thể cho là do tự kỉ ám thị, dẫu là ám thị tập thể. Các bác sĩ chỉ đồng ý kiểm nghiệm những ca không có bóng dáng thần kinh suy nhược nào cả. Tự kỉ ám thị không thể nào giải thích, chẳng hạn trường hợp Pi-e Rút-đê được khỏi ngày 7/4/1875 và đã được kiểm tra đúng phương pháp khoa học.

- Anh ta bị cái gì?- Một chỗ gãy ở ống chân trái; thêm vào đó, xương mất đi

một mảnh 3cm.- Anh ta có được chữa khỏi không?- Tức thì.- Chà!- Tự kỉ ám thị ư? Xin cậu nghe nhé! "Ngày 21/3/1929, một

người Bỉ tên là Tê-ô-phin Tim, sinh và trú tại Li-e-giơ, 147 phố Phông-Pi-rét-tơ, viên chức Ngân hàng. Anh đến Lộ đức. Anh đau ở cuống họng, không nuốt được.Thầy thuốc đã phải mổ ở bụng để cho ăn uống thẳng vào dạ dày và đã cấp cho anh một giấy chứng nhận là có như thế. Anh chỉ ăn uống qua một cái vòi. Ngày 25/3, từ Lộ đức trở về khách sạn, anh ăn uống những thức ăn thường được dọn ở khách sạn và ăn bằng miệng. Từ đó anh khỏi hẳn. Vậy mà ngày đó ở Lộ đức không có cuộc hành hương nào, không một tiếng hát, không có bệnh nhân nào khác; quãng trường vắng tanh. Như thế nghĩa là cái hệ thống phấn kích, bực bội,

172

Page 173: Cậu cháu nói chuyện đạo

cuồng tín, tự kỉ ám thị tập thể, đã không thể hoạt động được . Thế mà người đó đã khỏi hẳn" (B.s Van-lê)

- Tự kỉ ám thị tập thể ư? Thì cậu thử đem nó áp dụng vào những ca bệnh sau đây, đã được lưu ý ở Văn phòng kiểm nghiệm Lộ đức: Viêm tủy ở xương đùi trái: cô L.Đơ-ni, 21/8/1925; Ngạnh kết từng đám : cô M. L.Ac-nô, 23/8/1925; Viêm u dạ con : Bà Gióp-Phơ-roa, 11/9/1926; Ung thư dạ dày : Cô Đê-lo, 31/7/1926; Mật chảy mủ : Ô-guýt-tơ A-e, 21/6/1928;Lao phổi cả hai lá và lao họng: Linh mục Đê-xe-li,16/9/1928;Cậu sẽ phải thú nhận trong những ca đó không hề có dấu vết của tự tkỉ ám thị.

- Nhưng những người đó có lành mạnh mãi không?- Những bệnh nhân được khỏi đều được yêu cầu phải đến Lộ

đức trình diện nhiều năm liền và cháu có thể kể cho cậu nghe những ca có sự can thiệp của nhà chức trách. Chẳng hạn anh Gác-gam. Anh được khỏi là một phép lạ lừng lẫy bậc nhất ở Lộ đức. Vì anh được khỏi, nên Công ty Nam phần cắt không tiếp tục phát trợ cấp cho anh như trước, vì lẽ anh không còn bệnh nữa.

- Có thế là do sức mạnh, do sự phấn kích của niềm tin. Thế tại sao biết bao người tin mà không được khỏi; trong

khi đó, nhiều người khác không tin lại được khỏi? Như trường hợp Gác-gam, nhân viên bưu điện, mà cháu vừa kể. Anh ta là người tự do tư tưởng, do mẹ anh dẫn đến. Anh ta không muốn khỏi; mà ra về lại lành mạnh. Rồi những bé thơ khỏi bệnh, cũng có thể giải thích bằng sự phấn kích đức tin hay tự ám thị sao?

- Thiên nhiên có những định luật ta chưa biết, cả những lực nữa.

- Cậu lại quay về với vấn đề đó? Thì cháu xin nhắc lại thế này: một định luật bí ẩn của tự nhiên không thể nào đánh đổ một định luật khoa học đã xác nhận. Hình như cái lực đánh đổ tất thấy mọi định luật tại Lộ đức, - mà đánh đổ một cách tinh quái, - lại

173

Page 174: Cậu cháu nói chuyện đạo

chẳng phải định luật gì cả, vì nó không vâng theo một qui luật cố định nào. Cậu ạ, tất thảy những giả thuyết trên đây, chẳng qua cũng chỉ là một sự thoái thác, một sự thất bại của lí trí, buộc lòng phải thôi không thể giải thích bằng lối tự nhiên những sự kiện không tự nhiên.

- Như thế là chúng ta bị dồn đến chỗ phải nhận đó là một sự kiện do Thiên Chúa?

- Thì có cách giải thích nào khác, xin cậu cho biết!- Cậu vẫn hi vọng rằng trong vấn đề này, khoa học có khả

năng hơn thế!- Cậu ạ, chính khoa học lại giúp cháu đập lại cậu và những

nhà bác học vô tín ngưỡng. Bởi vì giả thuyết cho phép lạ là việc Thiên Chúa, có điều này đặc biệt, nhất là ở Lộ đức, là chỉ còn có giả thuyết đó cho phép người ta tin vào khoa học nữa mà thôi.

- Cậu chưa hiểu.- Thế này ạ. "Nếu việc được khỏi trong chốc lát những bệnh

ung thư, lao da, gãy xương, thương tích, lao phổi...(xảy nhiều ở Lộ đức), không phải là phép lạ, nghĩa là không phải do tác động của một cái gì cao hơn; nếu trái lại, phải gán những sự lạ đó cho nước, cho tự kỉ ám thị, cho khối đông, cho những định luật bí ẩn trong tự nhiên, thì không còn có định luật nào ta biết được, không còn nuớc, không còn ám thị, không còn cơ thể hay tự nhiên gì nữa; không còn những định luật hoá, lí, sinh vật và y học, không còn khoa học nữa. Chỉ còn lại là hỗn mang, là ảo thuật và phép lạ hiểu chính nghĩa đen. Như thế, muốn hay không, cần Thiên Chúa hay không cần Thiên Chúa, phép lạ vẫn là cái mà bạn phải thừa nhận! Không phải là phép lạ tương đối nữa, mà là phép lạ tuyệt đối; không phải là phép lạ bên ngoài nữa, mà là phép lạ ngay bên trong, làm cho hòn đá mà bạn biết là ù lì, có ngày sẽ tự nó bay lên không"(J.Xe-rơ, Những giả thuyết về Lộ đức). Và, cậu ạ, nếu trong vấn đề này khoa học phù hợp với đức tin, thì có lẽ là vì đức tin có tính khoa học hơn người ta tưởng.

- Nhưng tại sao Thiên Chúa lại làm phép lạ?- Người làm phép lạ hằng ngày trước con mắt ta: vũ trụ vận

chuyển, sự sống, hạt lúa thành bông lúa, hạt dẻ thành cây 174

Page 175: Cậu cháu nói chuyện đạo

dẻ...nhưng ta quá quen thuộc, nên không để ý đến nữa. Thỉnh thoảng một sự kiện có tính hấp dẫn hơn, không vì lớn lao hơn, mà vì khác thườn, nó xảy tới, làm người ta chú ý hơn và nhắc người ta nhớ lại vị Thiên Chúa mà họ lãng quên quá dễ dàng.

- Cho đi là có phép lạ thật, thì nó chứng minh cái gì?- Là việc Thiên Chúa, nó chứng minh có Thiên Chúa và việc

Người trực tiếp can thiệp vào để lãnh đạo tôn giáo của Người. Đó là dấu ấn Thiên Chúa đóng vào giáo lí. Sở dĩ những người vô tín ngưỡng cứ lồng lên mà nhao nhao phản đối khi người ta nói đến phép lạ, thì chỉ vì lẽ nếu nhận có phép lạ, họ phải nhận có Thiên Chúa. Mà họ không muốn nhận có Thiên Chúa, vì những lẽ gì, thì ai cũng đoán ra.

Chương V

Xưng tội

- Cậu, nhìn bộ điệu cậu nghiêm trang lặng lẽ, cháu đoán là cháu còn phải đương đầu với một vấn nạn ghê gớm nữa và chắc rằng hôm nay, cậu dự định giáng cho cháu một đòn trực diện, quyết liệt, kinh khủng.

- Phải. Cậu công nhận phép lạ. Dẫu sao, Thiên Chúa thì có tự do, làm gì cũng được. Thế nhưng việc xưng tội, thì, ồ! không đời nào, không đời nào!...

- Dứt khoát thật!- Vấn đề này, chứng của cháu có mạnh mấy đi nữa, cậu cũng

sẽ trơ trơ, cố chấp, không lay chuyển. Bởi vì thật ra, làm như thế là quá đáng! Cậu như thế này mà xưng tội ra ư?

- Xin cậu bình tĩnh, vì cháu chỉ nói ít thôi cũng đủ thuyết phục cậu! Cậu không muốn xưng tội với Thiên Chúa...

175

Page 176: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Linh mục là một con người.- Chính Thiên Chúa tha tội. Phải. Cậu không chịu xưng tội

với Thiên Chúa, thế mà hằng ngày cậu xưng tội, cậu thú những điều xấu xa nhất với những con người như cậu.

- Chà! Nói gì láo vậy?- Nhưng, cậu ạ, xin cậu cứ thẳng thắn thôi! Cậu xưng tội với

mợ (nếu cháu nói thế có chạnh lòng cậu, thì cháu xin cải chính...là với một người đàn bà khác!)... Cậu xưng tội với thầy thuốc của cậu, với ông ta, cậu không giấu điều gì... Cậu xưng tội với bác sĩ phẩu thuật, với dược sĩ, với công chứng viên của cậu, với luật sư của cậu; cậu còn xưng tội cả với viên kiểm tra thuế và ở đây, việc đền tội lắm khi thật nặng nề!...

- Vấn đề không giống thế.- Đây còn tệ hơn là xưng tội với linh mục nữa, cậu ạ. Dẫu

sao, cậu muốn hay không, thì việc xưng tội hiện đáp ứng và sẽ luôn luôn đáp ứng những nhu cầu thúc bách của con người...

- Như thế nghĩa là?- Nhu cầu thú tội và nhu cầu được tha tội. Cháu xin nói rõ

hơn:Nhu cầu thú tội.- Sau khi thực hiện tội ác của mình, tội nhân thấy ngột ngạt. Y cảm thấy cần xưng thú tội mình ra; y không tài nào giữ kín tội mình cho riêng mình biết; nhu cầu đó như thiêu đốt y. Phải. Lương tâm y đòi phải thú tội. Khi không thể, nó thấy bứt rứt, có khi như nghẹt thở.

- Thật không?- Thì cậu cứ thử phạm một tội ác xem. Chỉ mình cậu biết

thôi, như thế là trên mặt đất này không ai làm gì được cậu; ít ra giả sử như thế. Nếu cậu chưa bóp chết hẳn trong cậu tiếng nói và tiếng kêu trách của lương tâm, thì cháu đố cậu sống yên hàn, không bị day dứt, không bị khổ não vì tự nhiên cảm thấy cần trút nhẹ gánh nặng đó. Chừng nào cậu chưa mửa thứ thuốc độc đó ra, chừng đó cuộc sống của cậu còn như một hoả ngục. Kìa, anh chàng A-lếc-xăng Đuy-ma đêm nọ gặp một linh mục ngoài phố, anh nói với linh mục (anh đã cho phép vị linh mục kể tên anh): "Thưa cha, cha có vui lòng cho tôi thưa chuyện cha một lát không

176

Page 177: Cậu cháu nói chuyện đạo

ạ? - Vâng, anh cứ việc. - Tôi là người giàu có, tiếng tăm, sung sướng trước con mắt người đời; Tôi có danh vọng, của cải, một người vợ và mấy đứa con. Tối nay, tôi không sao ngủ được vì cứ bị ám ảnh bởi những tội đã phạm. Trên lương tâm tôi, cả một khối nặng cứ đè xuống làm tôi nghẹt thở. Tôi phải dậy, chạy lang thang như thế này. Gặp cha đây, cha có chịu khó nghe tôi nói không? - Anh cứ nói... "Thế rồi, anh nói, nói rất lâu. Nói xong, anh thưa vị linh mục: "Thưa cha, xin cám ơn cha, xin cám ơn cha! Nếu tôi còn có đức tin, tôi sẽ xin cha giải tội cho. Nhưng đức tin tôi không còn nữa. Dầu vậy, xin cha cứ tin là cha đã cất khỏi tôi một gánh nặng ghê gớm. Nhờ những lời thú tội vừa rồi, tôi cảm thấy mình thanh sạch hơn, nhẹ nhàng hơn, và lương hảo hơn". Và anh cho cha biết tên anh. Rồi vừa khóc, anh vừa xin cha cầu cho anh. Nhu cầu được tha tội. -Tội nhân thú tội mình thì có quyền được tha thứ. Vậy mà chỉ có hai cách tha thứ: tội nhân tự mình tha cho mình, hoặc kẻ khác tha cho. Cách thứ nhất là phi luân lí, điên rồ, vô ích, hoàn toàn vô hiệu. Chỉ hợp lí là cách thứ hai: kẻ khác tha cho. Vậy không thú tội ra thì ai biết mà tha? Lí trí cũng đòi phải có một chánh án, cáo trạng, bản quyết án. Thì đây, đạo công giáo cho ta một linh mục, việc thú tội, lời tha tội. Việc thú tội có thể cất nhẹ, không thể xoá bỏ tội lỗi. Phải có một lời của người có quyền, tuyên bố cho tội nhân, bảo họ rằng họ đã được tha thứ. Chỉ lúc đó, họ mới nhẹ hẳn.

- Tất thảy những cái đó chỉ là chuyện tình cảm. Riêng cậu, cậu thích những sự kiện đích xác. Vậy mà cháu cũng biết, chính những "ông cụ xứ" đã bày ra chuyện xưng tội.

- Chà! Chà!- Cháu cười sao?- Phải. Nói như thế ai mà nín cười được? Cháu vẫn tưởng

cậu thông minh hơn thế!- Cháu nói gì?- Phải. Lẽ ra cậu không ngây thơ đến thế. Làm sao cậu dám

nói rằng người ta đã bày ra sự mới lạ mà 20 thế kỉ qua tính kiêu căng của con người đã luôn luôn phản kháng? Thử hỏi đã có linh

177

Page 178: Cậu cháu nói chuyện đạo

mục nào dám bức người ta phải giữ một luật nhặt nhiệm như thế, bức cả chính mình nữa và ngớ ngẩn tin rằng cả thế giới sẽ vâng cứ luật đó không? Và giả sử đã có môt linh mục dám bày ra luật đó, thử hỏi ai là người hèn hạ đến chịu vâng cứ luật đó? Thế mà từ hai ngàn năm nay, có chừng 10 tỉ tín hữu kitô giáo: đàn ông, đàn bà, trẻ con, giàu nghèo, vua chúa, công nhân, bác học, trí thức thiên tài đã tuân theo luật đó!

- Thế cháu có biết ai lập ra luật xưng tôi không? - Có. Chính Đức Giêsu !- Không phải là một con ngưòi, một linh mục, một giám mục

đó sao?- Này cậu, người ta biết ai là người phát minh ra thuốc súng,

máy cày, máy in, lẽ nào không biết tên kẻ đã bày ra việc xưng tội? Phải. Tên kẻ ấy là gì? Sống ở đâu? Thời nào? Bày ra làm gì? Không lẽ tự nhiên, một ngày nào đó, cả thế giới bắt đầu xưng tội ư? Không có cái gì người ta hiểu rõ và sục sạo kỉ càng cho bằng lịch sử giáo hội. Chúng ta biết rằng thánh Đa-ma-sô đã truyền thêm Kinh Vinh danh vào kinh Nhật tụng và Thánh vịnh; thánh Gơ-rê-gô-ri-ô IX truyền thêm câu Xin Chúa thương xót trong thánh lễ; thánh Ca-lít-xtô dạy giữ Chay Bốn mùa. Thế mà không thấy Truyền thống nói gì về việc mà xưa nay người ta từng chỉ trích một cách cay độc và công kích một cách dữ dội đó sao? Nếu hiện nay, Đức giáo hoàng hoặc Công đồng qui dịnh, chẳng hạn, từ đây có 3 linh mục ngồi nghe xưng tội thay vì một như trước kia, biết người ta sẽ nhao nhao phản đối như thế nào! Vậy mà cậu lại tin rằng cả thế giới công giáo đã chịu tuân giữ luật xưng tội mà không đòi chứng cứ xác thực đó là ý Thiên Chúa sao?

- Dầu sao, đó cũng là một vũ khí lợi hại trong tay các linh mục!

- Cháu thực thà hỏi cậu: nào có gì là thú vị khi ngồi hết giờ này qua giờ khác để nghe người ta xưng tội, nghe kể những sự khốn nạn, những câu truyện xấu xa của loài người! Chẳng phải là vị linh mục sẽ có nhiều ảnh hưởng hơn và ít bị thù ghét hơn, nếu ngài không ngồi làm tấm bia sống của bí tích giải tội và không đại

178

Page 179: Cậu cháu nói chuyện đạo

diện cho công lí của Thiên Chúa dưới đất đó sao? Cậu nghĩ giam mình suốt giờ suốt buổi giữa bốn tấm ván như thế là thú vị lắm! Ban ngày, ban đêm, bất cứ lúc nào đi thăm bệnh nhân như thế là khoái lắm! Đi giải tội cho những người bị dịch, những người phung cùi, như thế là hay lắm! Thánh Phơ-răng-xoa đơ Xan nói: "Nếu tuyên xưng Thiên Chúa trước mặt mọi người là một việc tử đạo; thì giải tội cho người ta trước mặt Thiên Chúa, cũng tử đạo không kém!" Nếu có những con người khá khiêm nhường để thú tội mình với một con người và có những linh mục khá tận tuỵ hi sinh để nghe lời thú tội đó, thì hai việc đó chỉ có thể là do Thiên Chúa lập ra mà thôi.

- Lịch sử không phản đối gì về vấn đề này sao?- Không. Thế mà đây là sự kiện lớn lao nhất trong sử sách

Kitô giáo. Sự im lặng của 19 thế kỉ đó không hiểu được, nếu việc xưng tội do một con người bày ra.

- Nhưng có thể là việc xưng tội được truyền bá dần dần.- Vì đây là một việc nhục nhã, gay go, khó lòng, lẽ ra sử sách

phải ghi lại một vài tiếng phản kháng. Đàng này, lịch sử không nói gì cả.

- Cậu để mặc cháu nói là để dễ đánh bẫy cháu. Chứ thực ra, ai là người bày đặt chuyện xưng tội, thì người ta biết lắm!

- Người đó tên là gì?- Là giáo hoàng In-nô-sen-tê III, năm 1215, ở Công đồng 4

La-tơ-răng.- Trước hết, cậu nên biết rằng lịch sử hiện còn đó để cho cậu

thấy một cách rõ ràng không thể chối cãi, là trước thế kỉ 13, các tín hữu Kitô giáo vốn đã xưng tội. Cháu có thể dẫn ra đây lời các Giáo phụ, - nhưng dẫn như thế lại quá dài dòng, - để chỉ cho cậu thấy rõ việc xưng tội có từ thời các Tông đồ. Khi nào cần, cậu cứ hỏi, cháu sẽ cung cấp tài liệu cho cậu.

- Thế giáo hoàng In-nô-sen-tê III?- Thời Người, khi có một số người xin ý kiến, Người chỉ lên

tiếng nhằm nhắc lại cho thế giới cái mức tối thiểu lề luật yêu cầu, tức là buộc xưng tội ít ra trong mùa Phục sinh.

179

Page 180: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Chỉ có thế?- Vâng, Chỉ có thế. Nhà Tin lành Gíp-bông nói với cậu thế

này: "Người có hiểu biết thì không thể nào phi bác điều rõ ràng là lịch sử làm chứng rằng việc xưng tội là một trong những điểm chính yếu của giáo lí Giáo hội suốt những thế kỉ đầu."

- Chà!- Không có việc người ta xưng tội, cuộc sống của linh mục

sẽ dễ dãi, nhàn hạ; các ngài không thể bày đặt một việc làm người ta ghét mình. Không phải giải tội, các ngài sẽ có nhiều giờ phút nhàn rỗi, có ích; đàng này, cả đời cứ sống mòn mõi trong một toà giải tội, lắm lúc đến cực khổ. Vả chăng, nếu các linh mục đã có khá nhiều uy lực để bắt người ta xưng tội, thì lẽ ra các ngài cũng có đủ tài khôn khéo để miễn cho mình khỏi làm việc đó. Đàng này, chính các ngài cũng đi xưng tội và xưng nhiều lần hơn giáo hữu. Nếu có vài linh mục nào đó đã có gan bắt người ta làm việc đó, lấy quyền riêng mình mà bắt như thế, thì chỉ nguyên một bản tính con người cũng cho phép cháu quyết rằng 3/4 linh mục sẽ phản đối và như vậy thì lịch sử cũng phải nói đến sự xung đột đó.

- Cậu đã đọc kĩ Tin mừng, mà không thấy Đức Giêsu nói đến việc xưng tội ở đoạn nào cả.

- Thế nào? Cậu chưa đọc lời này: "Chúng con tha tội cho ai, thì kẻ ấy được khỏi; chúng con cầm buộc ai, kẻ ấy phải cầm buộc" sao?

- Đọc rồi! Nhưng từ đó đến việc xưng tội, là cả một vực thẳm!

- Cậu muốn nói rằng chỉ còn một bước nữa thôi. Thì ta cứ bước qua đi! Cậu là thầy thuốc. Vì là thầy thuốc, cậu muốn cho ai dùng mooc-phin tuỳ ý cậu. Vậy có phải người bệnh nào, cậu cũng cho mooc-phin cả không?

- Không. Phải phân biệt: có người dùng có ích, có người dùng có hại.

- Thì linh mục cũng phải phân biệt. Nếu Đức Giêsu chỉ nói thế này: "Chúng con tha tội cho ai, kẻ ấy dược khỏi.", thì linh mục có thể tha tội cho tất thảy những ai đến xin tha tội. Nhưng

180

Page 181: Cậu cháu nói chuyện đạo

Chúa còn nói thêm: "Chúng con cầm buộc ai, kẻ ấy bị cầm buộc". Như thế là linh mục cũng phải phân biệt. Khi thì phải "tha", khi lại phải "cầm buộc", nghĩa là giãn ra chưa tha tội. Vậy mà cậu muốn linh mục căn cứ vào cái gì mà làm như thế? Vào tính riêng mình sao? Không được. Phải căn cứ vào tình trạng linh hồn người xưng tội, cũng như thầy thuốc căn cứ vào tình trạng sức khoẻ người bệnh. Vậy nếu người ta không xưng tội thì linh mục làm thế nào mà biết được tình trạng linh hồn họ được?

- Hiểu rồi. Thế nhưng tội phạm đến Thiên Chúa, sao lại bắt cậu thú với linh mục để xin tha thứ?

- Xin hỏi cậu: khi cậu muốn thuê một căn nhà, muốn tu sửa phòng ở hoặc tậu một đám ruộng, thì cậu trực tiếp ai? Chủ của hay người quản lí của đó?

- Người quản lí. - Thực ra, nếu cậu trực tiếp ông chủ, ông sẽ bảo: "Xin ngài

cứ trực tiếp viên quản lí, anh ta thừa hành quyền của tôi. Anh ta làm gì, tôi đã uỷ cho anh trước rồi". Việc xưng tội cũng thế. Thiên Chúa vẫn là chủ của ơn tha tội; nhưng Người lại bảo ta trực tiếp viên quản lí của Người, là linh mục, kẻ đã được Chủ giáo dục, ban quyền và Người đã hứa duyệt y mọi quyết án của linh mục.

- Cho đi là Đức Giêsu đã lập phép giải tội. Nhưng người ta chỉ xưng tội với Thiên Chúa mà thôi, chưa đủ sao?

- Như thế thì dễ dàng hơn, phải. Nhưng lại không xứng đáng tí nào với Thiên Chúa cả, cậu thấy chứ! Đây một tên giết người. Y quì gối: "Lạy Chúa, tôi đã giết người kia!"; một tên trộm: "Lạy Chúa, tôi đã lấy của người ta 10 vạn đồng". Chỉ có thế. Cậu cho như vậy đã đủ cho họ được tha tội sao? Thế thì ai sẽ bảo cho họ biết Thiên Chúa đã tha thứ? Ai sẽ chỉ cho họ những nhiệm vụ đền trả phải làm?

- Nhưng thú tội như vậy thật là gay!- Cậu cho biết có toà án loài người nào xử nhân từ như thế

không? Chỉ cần thú tội trước một thẩm phán, là được tha trắng. Nếu toà án như thế cả, thì làm gì có nhà tù! Sao? Thú tội mình một cách âm thầm, một mình thú với một linh mục có nhiệm vụ

181

Page 182: Cậu cháu nói chuyện đạo

giữ bí mật, thà chết không thà tiết lộ, như thế mà bảo là yêu sách quá?

- Nhưng buộc thú tỉ mỉ làm gì?- Cần phải thú tỉ mỉ như thế: 1/ vì tôn trọng Thiên Chúa:

không thế, Thiên Chúa chỉ còn là cái máy khoan hồng và linh mục, một cái máy tự động phân phát ơn tha thứ; 2/ việc đó cần cho thẩm phán là linh mục: không thế, linh mục có thể tha bừa cho người thống hối lỗi lầm cũng như ngươi không thống hối. Thẩm phán phải biết tội.

- Nhưng linh mục đó là một người như cậu! Cậu chỉ là một tội nhân quì gối dưới chân một tội nhân khác.

- Linh mục là một người như bao người khác sao? Phải chăng viên cảnh sát chỉ là một người như bao người khác? Không, ông ta là người của pháp luật. Viên thu thuế là một người như bao người khác sao? Không. Đó là người của phòng thuế. Linh mục là người của Thiên Chúa. Phải. Linh mục là một người. Cậu muốn linh mục phải là ai nữa? Một vị Thiên Chúa sao? Một thiên thần sao? Một thiên thần không bao giờ có thể thông cảm nổi những điều xấu xa của loài người.

- Dẫu sao, việc xưng tội như thế là trái luân thường.- Trái thế nào?- Vì nó đòi người ta phải tiết lộ những nỗi niềm riêng tư kín

đáo.- Nhưng, cháu đã nói với cậu, nào chính cậu không đem

những chuyện trong nhà trong cửa, dầu là những chuyện tế nhị mấy, kể cho một người bạn, một thầy thuốc, một công chứng viên, một luật sư đó sao? Nếu kể như vậy không là chuyện trái luân thường, sao thú tội trong toà lại trái? Cậu nói như thế, nhưng thử hỏi cậu chưa bao giờ thú tội sao? Khi nghe người ta viện những khó khăn đó để phi bác, lẽ ra cậu cũng thấy những khó khăn đó là vô lí chứ! Cậu ạ, cháu rất hiểu điều cậu định nói. Vậy, thử hỏi người vợ người chồng không có lúc tỏ tất cả cuộc sinh hoạt riêng kín giữa hai người cho thầy thuốc phần xác sao? Thế

182

Page 183: Cậu cháu nói chuyện đạo

mà khi họ kể cho linh mục là thầy thuốc phần hồn một số việc tất nhiên là riêng kín, nhưng thuộc phạm vi phép giải tội, thì cậu lại cho là chướng! Thật thì những ai không có đức tin, không tin việc xưng tội là do Thiên Chúa lập, những người đó có thể thắc mắc, chán ghét việc đó; còn đối với người công giáo như cháu, thì xưng tội là một cuộc thanh tẩy, một sự chi viện, một sức hậu thuẫn, một sức mạnh.

- Những người xưng tội, thường cũng không tốt gì hơn nhưng người không xưng tội.

- Cậu biết thế nào được điều đó? Ai cho phép cậu phê phán lương tâm mỗi người? Nếu họ không hoàn toàn, thì chỉ vì họ còn yếu đuối, hoặc họ xưng tội chưa tốt, chưa đúng. Bệnh nhân uống thuốc mà không khỏi bệnh, có phải lỗi tại thuốc không? Đàng khác, cậu ạ, vì từ bé đến nay cậu chưa hề xưng tội, nên có phải vì thế mà cậu không biết mình đang nói về một vấn đề mình chưa hiểu gì hết cả không? Sở dĩ trên mặt đất này còn có chút ít luân thường đạo lí, thì phải nói đó là nhờ bí tích giải tội.

- Nhưng xưng tội làm gì? Cậu có tội gì đâu?- Ô! Thế thì cháu xin khoét một cái "ô" trên vách, cháu đặt

cậu lên đó, rồi mời tất thảy giáo hữu trong xứ đến viếng và cầu xin vị thánh mới này!

- Đừng nhạo. Cậu nói thực đấy!- Cháu không cho cậu là nói thực. Chỉ có thế! J.Đơ Met-xtơ-

rơ có viết: "Không biết lương tâm một người đểu giả thì như thế nào; chứ lương tâm một người lương hảo cũng đã ghê tởm lắm!" Không lẽ chỉ mình cậu là không thế? Cậu đã luôn luôn chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa...với tha nhân...với chính mình cậu chưa?

- Nhưng xưng tội rồi lại cứ phạm tiếp những tội đã xưng, thì xưng làm gì?

- Cháu rửa tay sạch rồi, nhưng việc đó không giữ được cháu khỏi bị bẩn lần khác. Thế thì cháu thôi không rửa tay nữa sao?

183

Page 184: Cậu cháu nói chuyện đạo

Cháu ăn no rồi, sau lại đói. Thế thì cháu thôi đừng ăn gì nữa hết! Cậu nghĩ thế nào về cái lô-gích của cháu đó?

- Dở hơi!- Thì lô-gích của cậu cũng thế! Con người là cái đồng hồ,

cần lên giây thường xuyên.- Nhưng đi thú tội như vậy chẳng thú vị gì!- Thì đừng phạm tội! Người ta đi xưng tội đâu phải để mua

vui, để giải trí. Người ta đi xưng tội là vì muốn có tâm hồn trắng sạch, vì nhu cầu, vì nhiệm vụ.

- Bên Tin lành không đòi hỏi quá như thế.- Nhưng, nhiều khi họ lại luyến tiếc toà giải tội. Nữ sĩ Đơ

Xtan de Stael) phái Tin lành, viết: "Giá mà tôi được vào quì ở một toà giải tội bên công giáo, thì dù phải trả giá nào, tôi cũng vui lòng!" Na-vi-ơ, Tin lành Thụy sĩ cũng nói: "Ai mà không đưa con mắt thèm thuồng nhìn về toà giải tội! Khi bị day dứt cay cực, khi không biết mình đã được Thiên Chúa tha tội cho chưa, ai là người không mong được nghe từ một cửa miệng mang quyền bính Đức Kitô nói vào tai mình: "Con về bình an, tội con đã được khỏi!" Gần đây, một tờ báo Đức, tờ Rét-sơ-bốt có đăng một bài dài, nhan đề: "Một lời kêu gọi hãy phục hồi bí tích giải tội". Hồi Luy-te-rô lấy quyền mình thủ tiêu việc xưng tội, Mê-lăng-tông, một trong các thủ lĩnh của phong trào Cải cách, bảo ông: "Tôi không tha cho anh cái tội đã thủ tiêu việc xưng tội: anh làm như thế là đã đánh một đòn trí mạng vào luân thường đạo lí".

Mê-lăng-tông đã đoán đúng, vì không bao lâu, những người theo Luy-te-rô đã phải thất kinh vì thấy việc hủy bỏ phép giải tội gây nên biết bao điều hỗn độn.

Dịp đó, xảy một việc lí thú. Vì muốn sửa lại tai hoạ, nhưng lại không dám tự mình đi ngược lại Luy-te-rô, phái Tin lành ở Nơ-rin-be cử một phái bộ đi xin lập lại phép giải tội... Cậu thử đoán là phái bộ đó đã đến xin ai...xin vua Sác-lơ Canh! Nhà vua trả lời thế nào? Nhà vua thản nhiên đáp: "Vì các anh đã không

184

Page 185: Cậu cháu nói chuyện đạo

nhận phép giải tội Thiên Chúa truyền dạy, thì các anh cũng không đời nào nhận phép giải tội tay Trẫm lập nên!..."

Cậu xem, đó là nghĩ tưởng của một số trong những người không còn phép giải tội nữa. Thế mà có những người khác, những người công giáo "vỏ" như cậu, lại cứ công kích, - tuy cũng chỉ vô ích thôi, - cái ân huệ họ có thể hưởng dụng đó.

- Có thật cháu cho việc xưng tội là khôn ngoan không?- Chính Vôn-te cũng đã thú nhận điều đó: "Không có công

trình nào khôn ngoan hơn phép giải tội; đó là cái thắng hữu hiệu ngăn người ta khỏi phạm tội".

- Phải. Nhưng ông ta đâu có xưng tội!- Ô! Cậu nói như thế là sai!- Sao? Vôn-te cũng xưng tội ư?- Như một người công giáo thường, phải, cậu đừng chạnh

lòng!- Làm sao cháu biết điều đó?- Người ta còn giữ một văn bản có chữ kí của ông ta. Trong

tờ đó, ông quả quyết rằng ông đã xưng tội với cha Gô-chi-ê, thuộc dòng Xanh-Xuyn-pi-xơ, ngày 2.3.1778, tại nhà riêng của hầu tước Đơ Vi-let. Ông kí tờ đó trước mặt cha Mi-nhô là cháu ông, và hầu tước Vi-lơ-vây, bạn thân ông.

- Thế mà xưa nay cậu vẫn đọc và tưởng ông ta chết với những nguyên lí vô thần của ông ta.

- Khỏi bệnh, ông ta lại bỏ đạo, không nhớ gì chuyện đó nữa. Ít lâu sau, lại ngã bệnh, ông cho mời linh mục; nhưng những người vô thần quanh ông ngăn không cho linh mục đến; và thế là Vôn-te chết trong tuyệt vọng kinh khủng!

- Ô! Có lẽ cậu cũng thế. Giờ chết, cậu sẽ xưng tội.- Hoặc là cậu sẽ chết trước khi xưng tội! Cậu có chắc giờ nào

chết chưa? Cậu lỗ mạng hết chỗ nói! Cậu hẹn ngày cho Chúa! Người tuỳ ý cậu ư? Như thế không nghiêm chỉnh và không khôn ngoan đâu. Đừng liều mạng như thế!

185

Page 186: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Được. Nhưng thế nào? Nếu người ta thấy cậu đi xưng tội, họ sẽ nói sao?

- Hoan hô! Đây rồi! Đây rồi!- Cái gì vậy?- Đây là lần đầu tiên cậu thành thật .- Cậu vẫn thành thật luôn đấy chứ! - Không. Vì cho tới nay, cậu cứ tung ra cả một đám mây vấn

nạn để che giấu, - nhưng thật là vụng về! - một tâm tình mà cuối cùng cậu đã phải thú nhận: cậu sợ!

- Cháu biết rằng ...- Phải. Ngay bây giờ, cháu biết rằng ông cậu của cháu là con

người ngay thẳng và tốt nhất loài người, nhưng ông ta không đi xưng tội là vì ...

- Phải. Là vì...,là vì...Nhưng đó là việc của cậu!- Ô! Đúng thế, cháu không thể xưng tội thay cho cậu! - Cháu sẽ xem cậu có sợ hay không!- Không. Cậu ạ, hiện giờ cháu đã biết, cậu sẽ không sợ nữa!

Tối nay, cậu đã phục lí. Chân lí chiếu vào, toả sáng, soi sáng và rồi cuối cùng thế nào cậu cũng tiếp nhận chân lí với mọi hậu quả của nó.

- Đúng!- Kể cả việc xưng tội?- Có lẽ!...và rồi, này địch thủ ghê gớm của cậu ơi! cháu sẽ

thấy rằng ngày nào Thiên Chúa trả đức tin lại cho cậu, cháu sẽ tự hào về ông cậu tuổi tác của cháu!

- Uớc gì được như vậy!

186

Page 187: Cậu cháu nói chuyện đạo

Chương VI

Linh mục

- Dẫu sao thì cậu cũng đã bắt đầu thấy rõ hơn qua đám mây vấn nạn lâu nay chặn lối cậu. Thế nhưng, cậu chưa thôi quấy rầy cháu đâu!

- Thì xin cậu cứ nói. Vấn đề đến đây thì chỉ còn những cái vụn vặt nữa thôi. Cái khó đã xong.

- Thế này: linh mục công giáo, cậu vẫn trọng đấy, nhưng cậu cho đó là cả một cái khó hiểu. Cậu không thù ghét gì họ. Nhưng cậu không giao thiệp với. Cậu không hiểu họ.

- Linh mục có cái gì làm cậu không hài lòng nào?- Trước hết: bao giờ họ cũng đòi tiền!- Đã lần nào linh mục đòi tiền cậu chưa?- Chưa. Đừng kể món "phụng sự phí" (denier du culte).

Nhưng món đó là phải lẽ, vì đó là một thứ thuế như mọi thứ thuế khác. Đừng kể món đó, không có việc gì linh mục làm mà không đòi cho được tiền.

187

Page 188: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Cậu này, cậu nên biết rằng linh mục dâng lễ, dạy giáo lí, giải tội, cho rước lễ, làm các phép sau hết cho bệnh nhân, làm phép thánh tẩy hoàn toàn nhưng không cho hết mọi người, ngay cả cho những kẻ không nộp "phụng sự phí"

- Nhưng những đám cưới to, những đám tang trọng thể linh đình, tốn biết cơ man nào là tiền!

- Như thế nghĩa là cậu muốn chính linh mục là người phải ăn xin để sống, lại phải bỏ tiền túi ra mà thanh toán những món đèn nến, hoa, thảm, tiền thuê hoạ sĩ, ca sĩ, thuê đàn...?

- Nhưng tại sao linh mục không lao động để khỏi phải quyên góp như thế?

- Ô! Các linh mục, đặc biệt các linh mục ở thành phố, bận bịu với những công tác theo nghiệp vụ (dạy giáo lí, giải tội, đi thăm bệnh nhân...) đến không còn một phút nhàn rỗi. Ai không đến nỗi bận quá, còn phải soạn bài giảng, tiếp tục nghiên cứu, dạy giáo lí. Đành rằng đó là việc lao động trí óc, nhưng vẫn là lao động.

- Linh mục là những người học rộng, mà lại...- Cậu không được nói thế. Phải, các ngài là những người học

rộng, nếu tham tiền tham của như người ta nói, thì các ngài không phải vất vả gì lắm cũng kiếm được một nghề dễ sống hơn, nhất là trong nuớc Pháp này, nơi mà linh mục hiện bị dồn vào tình trạng nghèo túng, đôi lúc cùng quẫn nữa. Một công nhân sửa đường còn có lương khá hơn linh mục.

- Phải. Ai lạ gì những chiếc "áo chùng thâm màu nước dưa".- Đúng! Đời sống các linh mục, đặc biệt là trong một số giáo

phận, thật là cơ cực hơn bất cứ hạng người nào.- Nhưng những điều họ dạy kẻ khác, họ có tin thật không?- Nếu các ngài không tin những điều đó, thì các ngài chỉ là

những người bán thuốc rong, những kẻ khốn nạn, hơn nữa, là những tội phạm! Thử hỏi nếu các ngài chỉ đóng kịch thôi, thì đóng kịch để cầu cái lợi gì nào? Dễ chừng cậu nghĩ cuộc sống của các ngài, xét theo tính loài người, là thú vị lắm? Sống cô độc,

188

Page 189: Cậu cháu nói chuyện đạo

không tổ ấm, không gia đình, thường là nghèo túng, rất nghèo túng, bị lăng mạ, bị bách hại, bị thù ghét, mặc dầu các ngài không hề làm hại ai, chỉ làm ơn cho người ta thôi; cậu tưởng để sống một cuộc sống như thế, không cần gì tin ở lí tưởng mà các ngài tuyên giảng sao?...

- Được! Nhưng có những linh mục xấu!- Đạo được lập ra vì con người; do đó, không có gì đáng lấy

làm lạ, khi thấy trong đạo có những lầm lỗi nơi những con người. Những khuyết điểm người ta có thể thấy trong đạo, là khuyết điểm của con người, không phải của Thiên Chúa. Phải. Chính các linh mục đôi lúc cũng thiếu sót; hơn nữa, có nhưng linh mục làm gương xấu; thế nhưng đừng lẫn lộn linh mục với tôn giáo mà linh mục rao giảng...

- Lẽ ra họ không bao giờ sa ngã mới phải; vì người ta căn cứ phẩm hạnh họ mà phê phán đạo.

- Phải. Cháu biết đó là cái tật của những kẻ không chịu suy nghĩ. Thế nhưng thử hỏi: một con người được dùng làm công cụ không phải mang trong mình những sự khốn nạn của loài người sao? Thấy một sĩ quan phản quốc, cậu có kết luận rằng toàn bộ các sĩ quan đều phản quốc và lòng yêu nước là sai không?

- Không. - Hàng linh mục như một cây lớn, sai quả. Nhiều quả tốt, rất

tốt nữa là khác; một ít quả hỏng. Vậy phải chăng quả hỏng rụng xuống gốc cây làm chứng rằng cây đó là xấu và tất thảy các quả cây đó đều đáng ghét cả sao?

- Dẫu sao, có nhiều gương xấu quá!- Cậu đừng phóng đại! Hễ thấy một gương xấu xuất hiện,

những người sẵn thù ghét liền tóm lấy cơ hội, hí hửng vì được dịp báo thù. Thế nhưng cái đó vẫn có ích cho đạo.

- Cậu không hiểu.- Vết bẩn trên áo trắng, dễ nhận thấy. áo của những người vô

tín ngưỡng, hoặc những người công kích linh mục, đã nhiều vết bẩn quá rồi, nên bớt đi một hoặc thêm vào một vết nữa, không ai

189

Page 190: Cậu cháu nói chuyện đạo

để ý. Khi có nhật thực, mọi con mắt đổ dồn về mặt trời; nhưng hằng ngày mặt trời xối ánh sáng và sức nóng đều đặn xuống, thì chả ai để ý tới nó. Đối với hàng linh mục cũng vậy: một vết bẩn xuất hiện nơi một phần tử ư? Thế là người ta giả vờ lấy làm kinh ngạc và người ta im hơi lặng tiếng trước bao nhiêu ân huệ mà vị đó gieo vãi; người ta cũng không thấy được những cái đó nữa, vì đã quá quen thuộc.

- Lí luận của cháu hay quá!- Đúng nữa chứ! Nhìn một bức tranh mà chỉ chủ ý tới chỗ

tối; sự lành thì không nói gì đến, việc xấu thì rùm beng lên: cậu cho như thế là công bình sao? Nhưng cháu còn đi xa hơn thế. Không những các tệ lạm và gương xấu mà giáo hội lấy làm phàn nàn đó, không chứng minh được cái gì phi bác Giáo hội; trái lại, đó là một lí chứng thêm nữa rằng Giáo hội là bởi Thiên Chúa.

- Ngược đời thế!- Không. Vẫn đúng! Giáo hội phục vụ loài người; mà linh

mục là những con người. Do đó, cháu nói lại, thế nào trong Giáo hội cũng có những sự khốn nạn, những tính hư của con người. Vậy mà, nếu Giáo hội đã có thể đứng vững và tiến phát, mặc cho những linh mục xấu, cả những giáo hoàng xấu nữa, thì việc đó chứng tỏ có một bàn tay Thiên Chúa cầm lái, không để con tàu chìm đắm!

- Cháu bao giờ cũng giỏi trở tráo!- Cậu cứ nói cho cháu biết cháu sai ở chỗ nào. Đã có những

linh mục xấu và thật sự có những linh mục xấu, thì việc đó không làm Đạo hết tốt đẹp, hết cần thiết đi. Nết hư và khuyết điểm của ông thầy thuốc có làm thuốc ông ta cho mất tác dụng chữa bệnh đi không? Vôn-te (bao giờ cũng vẫn ông ta!) phát biểu về vấn đề này: "Kẻ nghĩ mình công kích các linh mục, tức là công kích Thiên Chúa, kẻ đó hoàn toàn thiếu lương tri. Phải chăng kẻ ấy tưởng cứ nói rằng ông chủ không được phục vụ tốt, như thế là mình đã huỷ diệt được ông chủ sao?" Rồi: "Cuộc sống nguời đời bao giờ cũng hư hốt hơn cuộc sống các linh mục; thế nhưng bao

190

Page 191: Cậu cháu nói chuyện đạo

giờ những sai lỗi của linh mục cũng được chú ý hơn, vì tương phản với Kỉ luật". Gio-dép Đơ Mét-xtơ-rơ: "Người ta không tha thứ một lỗi của hàng linh mục, vì người ta mong ở các ngài tất cả...người ta luôn luôn so sánh bất cứ linh mục công giáo nào với tư cách lí tưởng phải có và do đó, các ngài bị phê phán không chút thương xót; những lỗi nhỏ mọn của các ngài, bị coi như những tội ghê gớm".

- Thế cháu cho rằng có tương đối ít linh mục sa ngã?- Trên tờ "Thông tin" số ra ngày 25,1,1901, cha Bec-tơ-ranh

có công bố con số trung bình những vụ án hình sự mỗi năm. Thời kì từ 1864 đến 1894, trong số 10 vạn người thuộc mỗi nghề, thì có 100 là công chứng viên, luật sư, đại tụng,v.v...; 33 là nghệ sĩ; 25 thầy thuốc, phẫu thuật viên, dược sĩ; 19 giáo sư và nhà giáo bộ đời; 7 giáo sư và giáo viên tu sĩ; 4 linh mục triều và dòng.

Thời kì từ 1894 đến 1898, trong số 10 vạn người, có đến 85 là công chứng viên và luật sư; 33 nghệ sĩ; 30 thầy thuốc; 10 giáo viên bộ đời; 4 giáo viên tu sĩ; 3 linh mục.

Như vậy là mỗi năm, cứ 10 vạn linh mục, thì chỉ có 3 là can án và như thế thì nghĩa là có đến 99.997 vị là cán bộ công chức. Cái tỉ lệ to tát đó hẳn là làm vinh dự cho hàng linh mục, đồng thời tát vào mặt những kẻ lăng mạ các ngài.

- Ấy là cháu chỉ nói đến những nố bị toà lên án; nhưng còn có những sa ngã khác nữa, linh mục cũng vấp phải. Theo cậu, các linh mục cứ lấy vợ đi thì hơn.

- Ô! Cậu đưa cháu đến một vấn đề tế nhị. Nhưng được, cháu quyết theo cậu. Cháu nghĩ như thế này về cảm nghĩ của cậu, mà cũng không phải tự mình cậu mà có cảm nghĩ đó: sách báo, quán cà phê, phố xá đầy những câu nói như thế: sở dĩ linh mục không lấy vợ, là vì:

1/ Các ngài có tự do, cháu nghĩ thế; mà trong việc này, sự tự do của mỗi người có thể và phải được tôn trọng;

2/ Các ngài nhận định và ý thức rằng việc tự nguyện ở độc thân trong những điều kiện mà các ngài cam kết, nhờ ơn Thiên Chúa ban theo bậc sống, nhờ giáo luật giúp đỡ, hậu thuẫn và

191

Page 192: Cậu cháu nói chuyện đạo

phòng ngừa, không những không làm các ngài sa đà tội lỗi, trái lại nó giúp các ngài nên trọn lành thánh thiện.

3/ Các ngài biết rằng sống một mình thì dễ thong dong hơn, thanh thoát hơn, có nhiệt tâm hơn, dễ quên mình để chỉ nghĩ đến người khác; có vợ có con thì khó mà được như thế. Linh mục mà vừa là người chồng tốt, vừa là người cha hiền nữa, thì sẽ mất nhiều thời giờ săn sóc gia đình; phải lao động nuôi vợ con, không còn nhàn rỗi để lo nhiệm vụ linh mục, săn sóc các linh hồn được giao phó cho mình. Vai trò cha phần hồn khó mà đi đôi với vai trò làm cha phần xác.

4/ Các ngài hiểu rằng một linh mục có vợ sẽ làm giáo dân ít tín nhiệm mình; người ta sẽ nghĩ rằng ngài ít vô tư đối với họ và khó mà tin là Ngài giữ kín những điều họ tâm sự với ngài.

5/ Linh mục phải vươn tới đỉnh trọn lành, do đó không thể làm tôi hai chủ. Mà những nhiệm vụ của hôn nhân cũng làm ngài không thể trọn vẹn hiến thân phụng sự Thiên Chúa.

6/ Mỗi sáng, linh mục truyền phép Mình Máu thánh một Ngôi Thiên Chúa, việc đó không buộc ngài phải thanh sạch hơn những người khác sao?

7/ Linh mục phải thông thái. Do đó phải có thời giờ để nghiên cứu, cũng như phải có một sự yên tĩnh tương đối nào đó; linh mục có vợ không thể như thế. Chế độ độc thân tạo điều kiện cho trí khôn làm việc tinh thần.

8/ Linh mục là người của mọi người. Ngài phải luôn luôn sẵn sàng hi sinh tính mạng mình vì con chiên. Đối với một linh mục có vợ, làm sao đòi chuyện đó được?

- Nhưng Giáo hội cũng cho phép linh mục bên Đông lấy vợ. Sao các linh mục bên Tây không được?

- Dĩ nhiên là Giáo hội có thể cho. Nhưng cho như thế, Giáo hội không thấy có cái lợi gì cả. Hàng linh mục bên Đông ở trong một miền đã bạc nhược vì li giáo, đã tan hoang vì lạc giáo, bị đầu độc bởi đạo Hồi. Xưa nay, hình như đối với các dân bên Đông, khó mà đòi họ hi sinh điều đó hơn bên Tây. Đàng khác, đã mấy thế kỉ qua rồi mà Giáo hội bên Đông chưa sản xuất được một vị thánh nào; trong lúc đó, Giáo hội bên Tây cho ta những Ca-rô-lô

192

Page 193: Cậu cháu nói chuyện đạo

Bô-rô-mê-ô, Phan-xi-cô Xa-lê-di-ô, Vin-sen-tê Phao-lô, Cha thánh quản xứ Ars và hàng ngàn vị khác vừa tiếng tăm vừa thánh thiện.

Đây, Mi-sơ-lê, nhà sử học có tiếng thuộc phái tự do tư tưởng, phát biểu như thế này về vấn đề: "Nếu Giáo hội cho các linh mục lấy vợ và vì đó mà ra suy nhược, phàm tục, mãi lo chăm nom gia đình, thì đạo Kitô đã diệt vong rồi. Bởi vì, như vậy thì không còn gì sức mạnh bên trong, cũng như không còn chí hướng vươn lên trời cao nữa. Một Giáo hội gồm những linh mục có vợ thì không bao giờ sản sinh được những thánh Bê-na-đô, Tô-ma, Vin-sen-tê Phao-lô. Đối với những vĩ nhân đó, phải có cảnh cô tịch lặng lẽ, hoặc phải lấy cả thế giới làm gia đình. Đức Giêsu Kitô đã sống trinh khiết; vì thế linh mục phải hiến mình ở độc thân."

- Nhưng Tin lành đã bỏ chế độ độc thân thì sao?- Làm như thế, họ được những gì vẻ vang, cao quí? Chính

Sô-pen-nao cũng nói rằng: "thủ tiêu chế độ độc thân là lỗi to lớn của Tin lành"

Cậu ạ, cậu đừng tước mất của Giáo hội công giáo nguồn sức mạnh và nguồn cao trọng đó. Thủ tiêu chế độ độc thân linh mục,

là hạ linh mục xuống ngang hàng những công chức tầm thường và lột mất uy thế của các ngài. Dù người ta muốn hay không muốn, thì hàng linh mục công giáo, như cậu đã biết, sẽ cứ luôn luôn cố

vươn lên. Tuy có những bước trật, nhưng bao giờ nó cũng lên cao hơn mãi .

Chương VIINhững phát đạn cuối cùng

Cầu nguyện; - Thánh Thể; - Nguyên tội; -ơn vô ngộ của

Đức Giáo hoàng; - Thủ tiêu hôn phối; - Tiền định; - Đức tin.

193

Page 194: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Này Mác-đa, hôm nay, cậu định có gì nữa nói cho hết. Chúng ta đã đề cập mỗi cái một ít. Lí chứng của cháu thật là mạnh mẽ. Cậu thú thật với cháu là những lí chứng đó đã làm cậu xiêu lòng. Vẫn biết từ đây đến bước quyết liệt, cự li còn lớn lắm. Thế nhưng xác tín thì đã rõ rồi.

- Cậu sẽ bước cái bước quyết liệt đó.- Có lẽ!- Cháu thì cháu chắc chắn!- Sao cháu lại chắc chắn như thế được?- Là vì cháu đã cầu nguyện cho cậu và cháu hi vọng!- Như vậy là chính cháu đã vô tình mở đầu cuộc nói chuyện

hôm nay, mà cậu nghĩ rằng đây là cuộc nói chuyện cuối cùng.- Như thế có nghĩa là cậu nộp vũ khí?- Cậu chỉ buông xuống thôi. Cháu vừa nói "cầu nguyện". Đó

cũng là một cái mà cậu không hiểu. Có thật cháu tin rằng khi cháu cầu cho cậu, là cháu tác động được trên ý chí cậu?

- Không phải trên ý chí cậu, mà trên ý chí Thiên Chúa!- Nhưng cháu cũng biết Thiên Chúa là bất biến. Mà cháu cầu

nguyện, tức là buộc Người phải thay đổi kế hoạch đã định.- Đây thánh Tôma trả lời cậu: "Chúng ta cầu nguyện không

để thay đổi kế hoạch Thiên Chúa, nhưng là để được cái mà Thiên Chúa đã muốn ban cho ta, nếu ta cầu xin Người.” Như thế là trong kế hoạch của mình, Thiên Chúa đã thấy trước lời cầu xin của ta, hỏi có gì vi phạm tính bất biến của Người?

- Nhưng cháu không thấy rằng mỗi lúc như vậy, Thiên Chúa lại phải đảo lộn các định luật tự nhiên để thoả mãn lời người ta xin sao?

Phải chăng chính người ta cũng không can thiệp vào nhằm điều khiển hay chế ngự các sức mạnh tự nhiên để bắt chúng làm theo ý mình đó sao? Khi người ta uống thuốc, không phải là chặn lối không cho bệnh tật phát triển sao? Người ta không bắt nước,

194

Page 195: Cậu cháu nói chuyện đạo

gió, điện phục vụ ý muốn mình đó sao? Vậy mà những việc đó chẳng làm đảo lộn cái gì cả!

Chẳng hạn, cậu công kích cháu sao lại dùng lời cầu nguyện để khỏi sét đánh; thế tại sao cậu cắm thu lôi trên mái nhà? Tại sao cậu dùng bơm cứu hoả?

Vậy nếu con người tìm được trong tự nhiên những sức mạnh để chiến thắng những sức mạnh làm hại nó, tại sao không cho phép lời cầu nguyện được làm như thế?

Hay là Thiên Chúa ở trên trời không có việc gì làm đối với vũ trụ và loài người? Khi sáng tạo vũ trụ, Thiên Chúa đã tự khoá tay mình và khoá tay thụ tạo lại rồi sao? Và như thế là hai đàng sống cách biệt nhau, vì có những định luật chắn ngang, khống chế cả Thiên Chúa lẫn loài người sao? Nghĩ như thế và nhất là tin như thế, không phải là kì cục sao?

- Thiên Chúa phải tuân phục định mệnh! Ý muốn của Thiên Chúa là những định luật mà chính Người cũng phải vâng theo như chúng ta. Những định luật đó bất khả xâm phạm, chính Người cũng không thể thủ tiêu chúng được.

- Nếu cháu không lầm, thì cậu lấy ý tưởng đó của A-na-tôn Phơ-răng-xơ.

- Phải. Trong cuốn tiểu thuyết "Trên hòn đá trắng"- Vấn nạn đó chứng tỏ những người vô thần muốn lí luận về

tôn giáo, họ có thể sai lầm đến mức nào! Cậu này, cậu cho cháu biết tại sao Thiên Chúa đã lập nên các định luật trong vũ trụ, lại không thể đình chỉ các định luật đó và bắt trật tự vũ trụ mà mình đã sáng tạo phải chiều theo ý mình? Cậu lấy quyền đâu mà tuyên bố những định luật đó là bất di bất dịch, như một số chính khách ngày nay tuyên bố những định luật chính trị là bất khả xâm phạm? Những định luật đó không bất di bất dịch, cũng chẳng bất khả xâm phạm đâu. Các luật lệ chính trị của cậu, cậu có thể thay đổi khi nào cậu muốn. Cậu biết điều đó chứ! Vậy mà cậu lại muốn Thiên Chúa phải cúi đầu vâng theo những định luật chính Người đã đặt ra? Tóm tắt, - đây cháu nói lặp là tại cậu, - trong khi chính

195

Page 196: Cậu cháu nói chuyện đạo

con người coi thường những định luật, những sức mạnh tự nhiên, thì cậu lại không cho Thiên Chúa có khả năng làm như thế sao?

Vả chăng, Thiên Chúa không cần "thay đổi" những qui luật Người đã lập, để chấp nhận lời người ta xin, vì trước kia Người đã cho những điều ta cầu xin tức là những nguyên nhân tinh thần, vào trong dây chuỗi những nguyên nhân sẽ chế định các biến cố. Thánh Tôma nói: "Con người cầu xin là để đáng được những điều mà từ muôn thuở Thiên Chúa toàn năng đã định ban cho nó".

- Cậu cần gì thì Thiên Chúa biết rõ hơn cậu. Cần gì phải xin nữa?

- Người hành khất lang thang ngoài phố cũng nghĩ bụng: người giàu có đang đi tới kia, ông cũng biết tôi cần gì, không khác nào tôi biết điều đó, tôi cần gì phải xin ông ta? Và nếu anh ta không xin gì cả, liệu cậu có cho anh ta cái gì không? Phải. Thiên Chúa biết ta cần gì. Nhưng Người vẫn muốn ta xin. Đó không phải là quyền của Người sao? Không phải là công bình sao? "Con khóc mẹ mới cho bú" mà!

- Cậu là người cao thượng, không thể làm mình nhỏ đi như thế!

- Vì lẽ đó, thường sự người ta quì gối mà cầu nguyện. Lúc đó,...người ta nhỏ đi!

- Cầu nguyện hạ giá con người! - Không. Cầu nguyện làm con người nên cao trọng, vì khi

đó, con người có đôi cánh để bay lên tiếp cận Thiên Chúa.- Nhưng Thiên Chúa là Cha, lại không thể cho con cái những

sự nó thiếu sao? Cần gì con cái phải van xin như thế cho nhục!- Cháu không đồng ý tiếng "van xin như thế cho nhục".

Riêng cháu, cháu thấy mình nên cao trọng hơn khi quì gối trước mặt Thiên Chúa. Nhưng để trả lời thẳng vào điều cậu nói đó, thì cháu quyết rằng nếu ta cần gì liền có cái đó ngay, không phải cầu xin gì cả, thì ta dễ mà coi những cái đó là phải ban cho ta, ta sẽ nghĩ mình có quyền, có công đáng được những cái đó và đó là vinh dự của ta. Thiên Chúa là một người Cha, chính ta gọi Người

196

Page 197: Cậu cháu nói chuyện đạo

là "Cha chúng con". Vậy thử hỏi cha nào lại không thích nói chuyện với con, cười vui khi con chơi đùa, lo toan đến những cái con cần và nghe lọt tiếng con? Thấy con tự nhiên quay lại và gieo mình vào lòng cha một cách tin cậy, phải chăng là cha không hài lòng? Cậu cứ bám lâý quan niệm tự nhiên thần luận của cậu, cứ giữ lấy tính kiêu căng của cậu; phần cháu, cháu giữ lấy Thiên Chúa của cháu, Thiên Chúa của kinh "Lạy Cha chúng con ở trên trời" quan tâm đến con cái dưới thế, yêu thương con cái và nhiều khi chỉ chờ con cái tỏ một dấu nhỏ, là tuôn đổ xuống tràn trềân huệ.

- Dĩ nhiên, với óc thần bí hăng say của cháu, cháu sẽ bảo cậu

tin rằng cái bánh tròn, trước đó cháu cầu nguyện, có chứa một vị Thiên Chúa, Thiên Chúa ẩn trong hình bánh và hình rượu chứ gì!

- Cháu tin như thế! - Cháu có hiểu không?- Không. Đây là một mầu nhiệm. Nhưng cậu là người muốn

cái gì cậu cũng hiểu được cả, cậu có hiểu làm sao cơm cậu ăn vào lại hoá thành thịt thành máu cậu không?

- Đó là hiện tượng tiêu hoá.- Cậu nghiệm xét nó, nhưng cậu có hiểu nó không?- Đó là sức của tự nhiên.- Trong bí tích Thánh Thể, lại là sức của Đấng Tạo hoá. Việc

mà Thiên Chúa thực hiện hằng ngày trong mình ta một cách tự nhiên, sao Người lại không thể thực hiện một cách siêu nhiên trongThánh thể?

- Dầu sao thì việc một vị Thiên Chúa mà lại nên thức ăn, việc đó thật là quái dị, không tin được, không hiểu được!

- Đồng ý. Phải. Thật là lạ lùng, nên cần lấy tất cả đức tin mới có thể thừa nhận điều đó được. Nhưng cậu ạ, cơm bánh, thức ăn biến thành thân xác, thành cơ bắp, thành máu cậu, cậu có rõ hơn không? Việc đó cậu nghiệm thấy hằng ngày mà không bao giờ

197

Page 198: Cậu cháu nói chuyện đạo

cậu nảy ý phủ nhận. Sở dĩ cậu không để ý đến là vì việc đó đã quá quen thuộc. Tuy nhiên, suy kĩ thì thật là chúng ta đứng trước một việc mà chúng ta không bao giờ hiểu được. Vậy cậu không hiểu được những công hiệu của thức ăn trong thân xác ta, sao cậu lại muốn hiểu công hiệu của thức ăn bởi trời trong linh hồn ta? Cậu ạ, cậu hãy thừa nhận các mầu nhiệm đi, đó là những điều chúng ta phải tin.

- Nói gì thì nói, trong vấn đề này, lí trí cậu kinh ngạc và phản đối, vì phép Thánh Thể làm đảo lộn những định luật của tự nhiên; làm cho những định luật đó ở đây không còn tác dụng nữa?

- Cậu cứ nói đến tự nhiên, chứ thật ra đây là phạm vi hoàn toàn siêu nhiên, thuộc một lĩnh vực mà qui luật tự nhiên không có phận sự gì hết. Đây là những hiện tượng vượt quá lí trí cậu; vì thế lí trí cậu kinh ngạc và phản đối là sai.

- Nhưng Thánh Thể là một mầu nhiệm phi thường!- Phải. Phi thường, kì diệu. Đồng ý, nhưng có phải vì thế mà

không thừa nhận không? Con người chỉ phát minh ra cái mà nó quan niệm được. Vậy mà trí óc con người không bao giờ quan niệm được một điều lạ lùng như thế. Phải, lí trí cháu bảo cháu rằng đây là một "mầu nhiệm làm người ta run rẩy". (GM Bôt-xuy-ê). Và chính vì thế mà nó càng khó tin thì lại càng đáng tin hơn.

- Lại chuyện ngược đời!- Không đâu. Mầu nhiệm này quá sức loài người. Vậy mà lí

trí cháu bảo cháu rằng cái gì quá sức lí trí cháu, nhưng không nghịch với nó, cái đó chỉ có thể do Thiên Chúa mà có.

- Nhưng như thế là hoàn toàn đảo lộn hết mọi qui luật của tự nhiên.

- Lại thế! Cậu nại đến những qui luật đó để phi bác phép Thánh Thể, nhưng cậu có hiểu rõ chúng không? Chúng không có những tính chất tương đối mà cậu không hiểu được sao? Hay là chúng là tuyệt đối? Dẫu không gian, dẫu thời gian, dẫu trọng lưc, dẫu kích thước một vật, cũng không phải là những cái có tinh cách cốt tuỷ và tất hữu. Vả chăng, bản chất, vật chất, quãng cách,

198

Page 199: Cậu cháu nói chuyện đạo

trọng lực, nơi chốn là gì? Vậy cái tuyệt đối trong các sự vật, chúng ta cũng cho là không có, không lẽ cậu muốn bắt Thiên Chúa phải có như thế?

- Thế nghĩa là, theo ý cháu, thì Thiên Chúa hiện diện một cách thật sự, ở mọi nơi trên thế giới có bánh đã truyền phép?

- Đó là một hiện tượng mà một cách nào đó, người ta muốn thực hiên khi nào tuỳ ý.

- Cậu chưa hiểu.- Đây, một bản thảo. Cậu cứ giao nó cho nhà in, yêu cầu in

một triệu bản. Sau đó, cậu hãy lấy một bản, ở một nơi nào bất kì trên thế giới; mở ra, cậu sẽ thấy trọn vẹn tư tưởng tác giả. Một bản, hai bản, 10 bản, 100 bản cũng không nói gì hơn 1 bản. Các bản cộng lại không thêm gì hết. Mỗi bản chứa mọi sự như tất cả các bản khác gộp lại. Tất cả các bản hoàn toàn giống nhau. Nhờ máy in, tư tưỏng một tác giả có thẻ gặp thấy bất cứ ở đâu. Đó chỉ là một sự suy loại. Trong Thánh Thể không chỉ có tư tưởng một người. Còn có một vị Thiên Chúa. Nhưng so sánh đó giúp ta hiểu.

- Hết sức tế nhị!- Cháu xin dẫn một suy loại nữa. Khi một người nào đó ngồi

trước máy thu thanh mà nói, thì khắp nơi, hàng triệu người có thế nghe ông nói gì. Tất nhiên người nói không nhân con người của mình lên cho mỗi người nghe, nhưng đã nhân sự có mặt thật sự của tiếng nói mình. Hẳn là chúng ta cho đó là chuyện lạ lùng, nhưng chúng ta vẫn thừa nhận, vì lẽ chúng ta kinh nghiệm điều đó.

- Nhưng ai chứng minh cho cậu biết chắc có Thiên Chúa ẩn dưới miếng bánh kia?

- Đây cậu ạ, đừng kể ánh sáng đức tin làm ta biết chắc những sự kiện mà cháu đề nghị cậu tìm hiểu đó, thì:

1/ Đức Giêsu đã lập bí tích này đêm trước ngày chịu chết trong một buổi lòng bên lòng với các Tông đồ mà Người sắp từ giã. Người lập bí tích này như một di chúc yêu thương. Vậy mà

199

Page 200: Cậu cháu nói chuyện đạo

thường sự lúc người ta sắp chết, có ai lại đi đánh lừa những bạn thiết nghĩa của mình không?

2/ Người buộc người ta phải lĩnh nhận bí tích này, nếu không, sẽ phải chết. ("Nếu anh em không ăn Thịt Con Người và uống Máu Người, anh em sẽ không có sự sống trong mình"). Nếu trong Thánh Thể chỉ có hình bóng Mình người thôi, hỏi rằng Người có buộc nhặt như vậy không?

3/ Ai lại có thể tin rằng từ 20 thế kỉ nay, loài người đã phục gối thờ lạy một tấm bánh và một Thiên Chúa đã để con cái trần gian thờ quấy quá như vậy.

4/ Một sự kiện khác lớn lao. Có vô vàn bậc thông minh, lỗi lạc đã tin và xưng ra mình tin có thật một Ngôi Thiên Chúa trong Thánh Thể. Cậu muốn biết những tên tuổi đó? Thánh Ô-guyt-xtanh, thánh Tôma, Pat-xcan, Ma-lơ-bơ-răng-sơ, Bốt-xuy-ê, Pat-xtơ, chưa kể đến bao vị đại thánh, không những tin, mà còn sống bằng Thánh Thể nữa. Trước cảnh những tâm hồn thanh khiết nhất, những nhân tài thượng trí nhất, những nhà bác học tiếng tăm nhất, thành phần ưu tú của nhân loại, phục gối trước Mình thánh, cháu tự bảo mình: Đành rằng nhân đức, khoa học cũng như thiên tài, không có cái gì không thể sai lầm; nhưng (nhờ phép Thánh Thể) những cái đó hoàn toàn có cơ may để nắm chắc được sự thật.

5/ Sau hết, giả sử một điều không thể, nếu cậu có thể thủ tiêu được Bánh thánh trên mặt đất này, thì chưa đầy một năm sau, cậu sẽ thấy bao nhiêu nguồn thanh tịnh, chí hi sinh, nhiệt tình tông đồ đều tắc cạn hết. Những giáo hội li khai nói chung và Tin lành nói riêng là một bằng chứng sinh động. Cậu chỉ cần nhớ lại những buổi cậu cháu ta trao đổi về Giáo hội đích thực của Đức Giêsu.

200

Page 201: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Cậu tiếp tục bản cáo trạng của cậu. Thật là bất công, khi một trẻ bé vừa lọt lòng mẹ, đã phải chịu trách nhiệm về một tội em không phạm.

- Cậu định nói về tội nguyên tổ?- Phải. - Giáo hội dạy thế này: Ađam Evà phạm tội, chắc chắn...- Có phải hiểu nghĩa đen câu truyện ngây ngô về quả cấm

không?- Ai bắt cậu phải hiểu như thế? Đây là một sự kiện tâm linh,

một sự nổi loạn, một sự trái lệnh Thiên Chúa thật sự.- Dẫu sao một quả táo, một quả cây, một sự nhỏ mọn không

ra gì!...- Cái gì cũng được thôi. Nhưng có những cái nguyên nó nhỏ

mọn mà ý nghĩa đi theo nó lại to lớn. Lá quốc kì là một miếng vải; thế mà người ta liều chết bảo vệ nó. Cái mốc dựng bên bờ ruộng chỉ là một viên đá thôi; nhưng nó tượng trưng quyền sở hữu và cho thấy chỗ đó hết ruộng người này, bắt đầu ruộng người khác.

Cũng thế, quả cấm nguyên nó là vật nhỏ mọn; nhưng Thiên Chúa đã lấy nó biểu trưng quyền thống trị. Người đã đặt con người làm vua các thụ tạo; nhưng Người muốn chính Người vẫn làm vua thống trị con người và lệnh cấm Người ra là dấu chỉ quyền đó.

Dẫu sao, tội nguyên tổ, đối với chúng ta, chỉ là một "tội tông truyền" (péché de race), là hậu quả do tội của một người khác mà ta chịu hậu quả.

- Nhưng như thế là bất công...- Không bất công gì hết! Bất công là tước mất của kẻ khác

cái họ phải có; vậy mà, con truỵ lạc vì cha truỵ lạc, con lao vì cha lao, con một kẻ giết người phải mang cái nhục do tội của cha; con ăn mày vì cha phá hết của, như thế có bất công không?

- Lẽ ra Thiên Chúa quan phòng phải sửa lại việc đó!

201

Page 202: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Thiên Chúa đã sửa, mà sửa một cách tài tình, vì việc cứu chuộc đã trả lại ta cái mà nguyên tổ đánh mất! Vậy tội nguyên tổ tước mất của ta cái gì? Một quyền lợi ta có, một địa vị ta kiếm được ư? Không. Nó chỉ tước mất của ta ân sủng sơ thuỷ, một trạng thái nói được là lạ lùng mà ta không có quyền được, tức là việc ta được nâng lên bên trên bản tính tự nhiên. Ông vua ban một tuớc trọng cho một người nào đó, kèm theo một số điều kiện nhất định, nếu vì điều kiện không thực hiện, mà rút tước đó lại, hỏi như vậy có bất công không? Việc xảy ra cho Ađam và con cháu cũng vậy thôi.

Luật liên đới định rằng con cái thừa hưởng vinh quang và gánh chịu nhục nhã của cha, luật đó đã đánh vào chúng ta. Phải. Thế nhưng luật đó cũng có thể giúp ích cho ta. Nếu Ađam trung thành thì ông đã truyền lại ta mọi đặc ân ông được. Chính vì nguyên tổ ta đã phá hại tòa nhà tinh thần của nòi giống mình, nên chúng ta phải sống giữa những đổ vỡ và con người trở thành "vị thần sa đoạ nhớ tiếc thiên cung".

- Nói gì thì nói, vì tội chỉ một người mà phạt cả nòi giống, thì...

- Đây một thí dụ khác. Thế kỉ 15, một số người Anh đã đích thân giết Gian-Đa. Họ chết đã 4 thế kỉ nay rồi. Thế mà trong cuộc chiến vừa qua, có những người Anh khác đã đến trước tượng thánh nữ để tạ tội. Mặc dầu không ai trong số những người này đã nhúng tay vào tội ác đó, nhưng dân tộc Anh thấy cái tội nước Anh phạm đó đè nặng trên mình, họ vẫn vì tổ tiên họ truyền lại mà mang cái tội đó, nên họ đã đến làm việc tạ tội, mà việc này lại làm họ đáng trọng. Tại sao thế? Vì giữa tất thảy những thành phần cùng một nòi giống, có luật di truyền, luật liên đới.

- Cháu nói gì thì nói, nhưng cậu thấy việc những đứa con tội nghiệp sinh ra với những tì tích, những tật bệnh thể xác hay tinh thần cha mẹ truyền lại, việc đó thật là bất công.

- Như thế, không lẽ cứ mỗi lúc, Thiên Chúa lại phải làm những phép lạ để sửa chữa những tì tích của cha mẹ và thủ tiêu hồ sơ án tiêt của họ, nếu có ư? Thật ra, định luật tự nhiên cần cứ phát

202

Page 203: Cậu cháu nói chuyện đạo

huy tác dụng của chúng. Thiên Chúa không chịu trách nhiệm, nếu con người lạm dụng tự do của mình. Có thể có những người vô tội phải chịu khổ vì đó, phải. Nhưng lỗi là tại cha mẹ chúng và chính mình chúng. - Nhưng tại sao lại lên án phạt những trẻ chết chưa chịu phép thánh tẩy?

- Cậu thấy đâu nói chuyện đó? Theo thần học, các trẻ đó không được lên thiên đường, đúng; nhưng chúng cũng được hưởng một hạnh phúc tự nhiên nào đó. Chưa bao giờ có vấn đề lên án phạt những trẻ như vậy. Nếu có thì đúng là bất công.

- Dầu sao thì cháu cũng phải nhận là trong đó có mầu nhiệm.

- Cháu cũng nhận như thế. Nhưng sao cậu lại bỡ ngỡ?- Phải nhận rằng cháu thì cháu chạy ngay vào ẩn trong đức

tin, thế là cháu an tâm.- Phải. Vẫn còn mầu nhiệm; nhưng cháu tin điều đó, vì Thiên

Chúa đã phán dạy.- Ai quyết với cháu và làm chứng cho cháu biết điều đó?- Giáo hội, Người bảo quản kho mạc khải. - Giáo hội không thể sai lầm sao?- Đúng!- Như thế là giáo hoàng không thể phạm tội?- Như mọi người, Đức Giáo hoàng vẫn có thể phạm tội và,

hơn nữa, có thể mất linh hồn.- ý cháu muốn nói giáo hoàng không thể sai lầm?- Cháu xin phân biệt: người có thể sai lầm, hơn nữa Người đã

thật sự sai lầm, vì là loài người, khi Người đề cập những vấn đề không liên hệ đến đức tin; nhưng khi Người lên tiếng "tự thượng giáo toà" (ex cathedra), nghĩa là với tư cách là thầy dạy và thủ lĩnh giáo hội, mà phán bảo toàn thể Giáo hội, rõ ràng tuyên bố Người có ý định tín một chân lí mọi người phải tin, thì lúc đó, Người không thể sai lầm.

- Nhưng nói một con người không thể sai lầm, là phi lí!

203

Page 204: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Đây không phải con người, mà chức vụ!- Như vậy là một phép lạ.- Sao lại không? Chúng ta đã thấy rằng Thiên Chúa có thể

làm những phép lạ; Giáo hội từ nền đến đỉnh, là một toà nhà lạ lùng, Do đó, để bảo toàn chân lí trên mặt đất này, Thiên Chúa có thể làm phép lạ này, cũng như đã làm bao nhiêu phép lạ khác.

- Không cần gì!- Cần chứ! Cần có tính vô ngộ đó:1/ Trong các Nhà nước, có một quyền hành xét xử chung

thẩm, mà không bị một quyền nào khác xét xử. Cũng thế, Giáo hội phải có một toà án xử chung thẩm, không được khiếu nại gì hết. Vậy mà một quyền hành giảng dạy do Thiên Chúa lập, không thể quan niệm được, nếu quyền hành đó không được ơn vô ngộ.

2/ Một thủ lĩnh tôn giáo thừa nhận mình có thể sai lầm, mà lại lên án phạt cậu, nếu cậu không tin vào ông ta, một thủ lĩnh như vậy là bất năng và dã man.

3/ Cậu truyền đạt một chân lí hay một sự kiện cho người ta, bằng giấy tờ, thì cậu làm việc đó ban sáng, tối đến sẽ có 4 bản in khác nhau. Nếu kho chân lí mạc khải Thiên Chúa giao cho thế giới mà không được bảo vệ bằng ơn không sai lầm, để giữ gìn che chở nó, thì ngày nay nó còn lại những gì nữa? Kìa gương anh em Tin lành: họ không còn biết phải tin gì nữa! Không có ơn vô ngộ đó, đạo mạc khải được chuyển đến chúng ta ngày nay chỉ còn là những kỉ niệm mơ hồ và sứt mẻ. Chính vì lẽ đó mà Bơ-ruy-nơ-chi-e đã nói: "Muốn cho tín ngưỡng mà chúng ta cần thiết đó được bất biến thì phải có một truyền thống để bảo quản kho đức tin, một quyền bính để hướng dẫn và bênh vực nó".

4/ Giáo hội là một Bà Mẹ. Mà mẹ thì chỉ khẳng định thôi, không chứng minh gì. Con cái tin vào lời mẹ. Giáo hội cũng thế.

5/ Chỉ Giáo hội công giáo là đã dám khẳng định mình không thể sai lầm; mà đã nói mình không thể sai lầm thì cần phải thật sự không thể sai lầm; không thế, mình sẽ nhanh chóng trở thành cái bia cho mọi người chế nhạo.

204

Page 205: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Theo những điều cháu nói, thì Đức Giáo Hoàng không thể sai lầm. Nhưng bên cạnh Đức Giáo Hoàng, còn có những Hồng Y, Giám mục, linh mục. Nào giáo hoàng không thể đi một đàng mà Giáo hội đi một nẻo sao?

- Không thể!- Tại sao?- Cậu có thấy đầu cậu đi một đàng, và chân cậu đi một nẻo

không?- Không thể. Vì đầu và chân do một linh hồn điều khiển!- Thì Giáo hoàng và Giáo hội cũng thế. Cả hai đều do một

động cơ bởi trời thúc đảy, là Thánh Linh.- Chà!

- Tiếng "chà" của cậu chấm dứt cuộc tranh luận thật là có ý nghĩa! Thôi, có gì nữa, cậu cho ra hết đi. Cháu đoán còn một cái gì đó.

- Phải. Còn hai việc.- Việc gì nào?- Hôn nhân là không thể tháo gỡ!- Hoàn toàn như thế! "Điều gì Thiên Chúa đã liên kết, loài

người không được phân li!"- Hoan hô! Nhưng tại sao Giáo hội lại thủ tiêu nhiều nố hôn

phối như vậy? Không phải là vì tiền sao?- Giáo hội chưa bao giờ thủ tiêu những nố hôn phối đã thành

sự.- Nhưng tại sao lại có những đơn xin thủ tiêu?- Giáo hội kể hôn nhân như một giao kèo.- Như vậy là đúng!- Vậy mà bất cứ giao kèo nào, hễ là muốn thành sự, phải có

một số tính chất nhất định.205

Page 206: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Rất đúng!- Thiếu những tính chất đó, giao kèo không thành và phải thủ

tiêu.- Đồng ý!- Khi Giáo hội thủ tiêu một hôn phối, thì tức là Giáo hội chỉ

công bố rằng trong trường hợp nói riêng đó, hôn nhân chưa thành, người ta lấy nhau không thành; chẳng hạn khi chứng minh được là đã có mưu gian, có cưỡng hôn,v.v....không bao giờ Giáo hội tháo một hôn phối trong khi công nhận hôn phối đó đã thành sự.

- Giáo hội không cho phép Na-pô-lê-ông lấy vợ thứ hai đó sao?

- Không, cậu ạ, bản án của cơ quan tài phán Giáo hội Pa-ri, tuyên bố thủ tiêu hôn phối thứ nhất của nhà vua, viện lẽ có ngăn trở mật hôn, bản án đó không có giá trị. Đức Piô 7 đã phản đối và Rôma chưa bao giờ công nhận bản án đó.

Na-pô-lê-ông cưới Giô-dê-phin ngày 9.3.1796. Hôn Hoàng đế. Hôn phối đó hình như chỉ mới là hôn phối đời. Về sau, lên ngôi Hoàng đế, Na-pô-lê-ông tính chuyện hợp thúc hoá tình trạng đó. Đức Pi-ô 7 đến Phông-ten-nơ-bơ-lô tuyên bố rằng Người không thể phong vương cho nhà vua, cũng như cho Gio-dê-phin. Na-pô-lê-ông nổi giận. Đức Giáo hoàng không nao núng. Người ban quyền cho Hồng Y Phét-sơ, Tuyên uý nhà vua, được làm mọi phép chuẩn và được mọi quyền cần thiêt để làm phép hôn phối không cần chứng tá và không phải báo trước cho vị quản xứ. Na-pô-lê-ông ưng như vậy, vì trông rằng sự thiếu thể thức theo luật như thế sẽ cho phép vua xin Giáo hội thủ tiêu hôn phối khi cần.

Ở đây không có việc thủ tiêu, là vì Đức Giáo hoàng đã ban mọi phép chuẩn. Về sau cơ quan tài phán Giáo phận Pari khuyết điểm ở chỗ, ngày 9.1.1810, đã tuyên bố thủ tiêu hôn phối, vì lẽ có ngăn trở mật hôn. Bản án đó vốn vô giá trị và hiện vẫn còn vô giá trị: 1/ Vì ngăn trở đó, Đức giáo hoàng đã cất rồi; 2/ vì trong luật có nguyên tắc dành lại cho Toà thánh những vụ tố tụng hôn phối của các vua chúa và thủ lĩnh nhà nước. Ngày 2.4.1810, tại điện

206

Page 207: Cậu cháu nói chuyện đạo

Tuy-lơ-ri, Na-pô-lê-ông kết hôn với Ma-ri Lu-i-dơ. Mười ba Hồng y không chịu tới dự và vì thế phải tước mất bổng lộc và cuối cùng bị phát lưu.

Rôma không hay biết gì về bản án của tài phán Pari cũng như hôn phối thứ hai của Na-pô-lê-ông mà Rôma không bao giờ chịu công nhận. Chứng cứ còn ghi trong những Đoản sắc Toà thánh gởi cho Ma-ri Lu-i-dơ hoặc về vấn đề của bà, sau khi Đế quốc sụp đổ. Bao giờ Quốc vụ khanh cũng tránh gọi bà bằng tước Hoàng hậu, vì gọi như vậy là mạc nhiên công nhận hôn phối của bà với nhà vua.

Khi thấy có những toà án Giáo hội ra những quyệt nghị không công bằng lắm, cậu không só quyền kết luận rằng Giáo hội như thế là đã cho phép li dị. Việc đó chỉ chứng tỏ rằng những người có trách nhiệm giúp người ta giữ luật Giáo hội, không phải bao giờ cũng đã có gan xét xử theo lương tâm mình. Những thẩm phán đó không phải là không thể sai lầm và một bản án tự tiện không thể làm tổn hại uy tín của tất thảy mọi đại diện của công lí. Sau hết, để đáp lại trường hợp cậu nêu ra, nào cậu không biết rằng Đức Giáo hoàng Cơ-lê-men-tê VII đã thà thấy cả nước Anh theo Tin lành, không thà cho phép Hăng-ri VIII là vua nước đó bỏ người vợ đã cưới thành sự đó sao? Đó là một bằng chứng lịch sủ có sức mạnh của nó.

- Nhưng hình như hiện nay Rôma cũng vẫn cho phép thủ tiêu hôn phối, mỗi khi người ta có tiền mà nộp .

- Căn cứ một bài đăng trên tạp chí Etudes (Nghiên cứu) dựa vào Văn thư Toà thánh (Acta Apostolicae Sedis) là cơ quan chính thức của giáo triều Rôma, cháu có thể dẫn ra đây những con số và chỉ dẫn có thể làm cậu yên lòng.

Đây bản thống kê những bản án của Rôma trong năm 1929 về những vụ tố tụng hôn phối bất thành.

Trong số 58 vụ hôn phối, có 20 vụ được tuyên bố là bất thành và 38 vụ thành.

207

Page 208: Cậu cháu nói chuyện đạo

Trong 29 ca được khiếu nại là có ngăn trở cưỡng hôn hoặc sợ, là vấn đề có nhiều ý kiến tuyên bố bất thành hơn cả, thì 12 vụ được tuyên bố là bất thành và 17 thành.

Trong số 20 ca về sự thiếu ưng thuận (nói là vì bị ép mà ưng), thì 4 vụ được tuyên bố là bất thành, 16 vụ thành.

- Nhưng cho được xin thủ tiêu hôn phối, phải có nhiều tiền.- Có những khoản lệ phí. Phải. Nhưng những vụ tố tụng

phần đời cũng tốn kém lắm chứ! Đàng khác, ai nghèo túng, hoặc không lấy gì làm giàu, nếu có chứng nhận của bề trên giáo phận, thì được miễn mọi lệ phí tố tụng.

Trong số 58 vụ về hôn phối bất thành nói trên, có 28 vụ không mất tiền gì. Trong số 30 vụ trả tiền, 8 vụ được xử bất thành, 22 vụ thất bại. Trong số 28 vụ không mất tiền, 16 vụ thất bại và 12 vụ được như ý.

-Thiên Chúa đã biết trước cậu sẽ được rỗi hay sẽ bị luận phạt, cho nên cậu làm gì thì làm...

- Ô! Đó là vấn nạn cuối cùng và cậu ẩn đàng sau vấn nạn đó - Không cần gì ẩn!- Nhưng sở dĩ cậu dành nó lại sau hết, thì hẳn là để dự bị một

lối thoát?- Dẫu thế nào, cháu cũng không thể chối được sự tiền định.- Cháu không thể chối.- Như vậy là Thiên Chúa đã ấn dịnh mọi sự trước cả. Người

biết những việc làm của thụ tạo, cả trước khi nó chưa tra tay làm; và như vậy là Người đã chọn ai làm kẻ thiết nghĩa với Người rồi. Do đó những người khác, làm gì thì làm, con số những người được tiền định sẽ không bao giờ được tăng thêm.

- Thú thật chúng ta đứng trước một mầu nhiệm to lớn, đã làm các nhà thần học kinh hãi.

208

Page 209: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Thêm một lẽ nữa để cậu...- Thêm một lẽ nữa để cậu cẩn thận, không liều phần rỗi mình

vì một chân lí mà cậu không hiểu được. Dẫu sao, cậu thử nói cho cháu xem cậu có đồng ý rằng những việc tuỳ thuộc ý nuốn tự do của ta, chúng có thể xảy đến, không vì Thiên Chúa đã thấy trước chúng sẽ xảy đến, mà Thiên Chúa thấy trước những việc đó vì chúng sẽ xảy đến không?

- Cậu sẽ một là được rỗi, hai là phải luận phạt. Nếu thế nào cậu cũng sẽ bị luận phạt, thì dẫu cậu có làm gì, cậu cũng chẳng được rỗi!

- Kết luận: một là nay mai cậu sẽ chết, hai là 30 năm nữa cậu mới chết. Nếu Thiên Chúa đã thấy trước rằng 30 năm nữa cậu mới chết, thì cậu có thể bỏ ăn bỏ uống, có thể bắn một phát đạn vào đầu, cậu vẫn không chết vì chuyện đó!

- Nhưng từ muôn đời, Thiên Chúa đã chọn những kẻ được hưởng thiên đường.

- Cũng từ muôn đời, Thiên Chúa đã quyết định cung cấp cho ta những phương thế đủ để rỗi linh hồn. Cậu phàn nàn chuyện gì nữa nào?

- Nhưng nếu Người biết cậu sẽ không dùng những phương thế cứu rỗi đó; sao Người lại dựng nên cậu làm gì?

- Là vì để bảo đảm danh dự cho cậu, Người không thay đổi những cơ chế của công cuộc tạo thành và không vì cậu mà thủ tiêu những thế hệ thụ tạo sẽ làm vinh danh Người bằng cách sử dụng tốt tự do của họ.

- Dẫu sao thì nếu Thiên Chúa đã thấy trước tất cả...- Khi một viên chánh án lên án một tội phạm căn cứ pháp

luật, thì không phải chánh án hay pháp luật là nguyên nhân của việc lên án, mà chính là tội ác đã phạm mới là nguyên nhân. Dẫu rằng Thiên Chúa biết ta sẽ làm gì, thì sự biết trước đó không làm giảm sút sự tự do của ta cách nào cả; việc Thiên Chúa hiểu biết các biến cố, không phải là nguyên nhân gây nên các biến cố đó. Cậu rỗi linh hồn hay không là tuỳ nơi cậu.

209

Page 210: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Nhưng nếu cậu không có tên trong danh sách?- Là vì chính cậu tự gạc tên mình trong danh sách đó.- Nếu Thiên Chúa muốn cậu rỗi linh hồn, thì Người phải cứu

cậu.- Người chết để mở thiên đường cho cậu, chưa đủ sao? Cậu

có nhiệm vụ hưởng ứng ơn Chúa!- Mầu nhiệm quá!- Phải. Đây là mầu nhiệm thâm thuý nhất của thần học. Hành

động của Thiên Chúa ở điểm này vượt quá sức ta; dẫu sao chúng ta vẫn thấy mình có tự do, hệt như chúng ta thấy chúng ta sống động.

Tiền định là "việc biết trước và việc dự bị những ân huệ của Thiên Chúa, nhờ những ân huệ đó, những ai được rỗi linh hồn thì chắc chắn được rỗi." Đó là định nghĩa của thánh Ô-guyt-xanh. Con số kẻ lành cố định; con số kẻ dữ cũng thế. Và ý muốn người ta, tuy vẫn luôn luôn tự do, nhưng thế nào cũng sẽ chiều theo phía Thiên Chúa đã định.

- Phải. Thật là mầu nhiệm khôn dò!- Như thế là Thiên Chúa thật sự muốn một số thụ tạo của

Nguời bị luận phạt.- Chính đó là lập luận của Can-vanh và Giăng-xê-ni-ux. Cần

chú ý rằng trước khi thấy trước các biến cố sẽ xảy đến và trước mọi tình huống, Thiên Chúa đã muốn và đang muốn mọi người được cứu rỗi, không phân biệt ai hết. Không ai bị phó mặc cho sự dữ do một sự tất yêu không gì cưỡng lại được. Mỗi người được Thiên Chúa ban ơn hiện sủng, hay ít ra túc sủng để tự cứu mình. Đức Giám mục Bôt-xuy-ê nói: "Mầu nhiệm lớn lao của ân sủng là ở chỗ: trong khi những kẻ lành bền đỗ, sở dĩ bền đỗ được là nhờ một ơn Thiên Chúa ban vì một lòng ưu ái riêng, thì những kẻ sa ngã, không thể phàn nàn rằng họ phải như vậy vì họ đã mất khả năng bền đỗ toàn diện và hoàn toàn."

- Nhưng tại sao việc phân phát ơn lại không bằng nhau như thế? Tại sao lại có sự ưu tiên?

210

Page 211: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Thiên Chúa là Chúa các ơn Người ban. Vậy ai có quyền trách Người điều gì? Ai có thể khoe mình đã hiểu được dự định và những lí lẽ của ý muốn Người? Dẫu người ta có tìm giải đáp cho bài toán trong những lí luận triết học hay trong kiến thức và sự thi thố các quan năng con người, thì giải đáp sẽ cứ luôn luôn vượt ngoài sự tìm tòi của ta.

- Ôi! ước gì cậu có được đức tin làm cháu yên tĩnh như thế và làm cháu thừa nhận những mầu nhiệm lạ lùng nhất mà không bàn cãi gì!

- Đức tin đó, cậu đã đón nhận khi lĩnh bí tích thánh tẩy. Cậu làm gì nó rồi?

- Hôm rước lễ lần đầu, cậu vốn tin. - Rồi từ đó?

- Từ đó ư?... Ô! Cháu không thể biết được!...- Cháu biết rằng cậu còn có đức tin. Có điều là cháu xin phép

cậu cho cháu nêu 3 giả thuyết: hoặc là đức tin cậu đã thiếp đi, hoặc là nó không dám tỏ mình ra, hoặc là nó không có gan đi mãi cho đến độ bừng nở. Cậu có phải là một người vô tín ngưỡng thành tâm và có xác tín không?

- Không.- Thế thì cậu là một kitô hữu vô ý thức; đức tin cậu đang ngủ

thiếp dưới tro tàn chăng?- Có lẽ.- Hay cậu thuộc lớp người có đức tin, nhưng không dám thể

hiện nó ra bên ngoài, không khác gì anh bộ đội giấu quốc kì trong túi áo?

- Ô! Không. Như thế thì chỉ còn là mảnh khăn mũi nữa thôi!- Vậy thì chỉ còn giả thuyết 3: đức tin âm thầm của cậu

không có gan thể hiện ra ngoài bằng hành động và ngại ăn ở hợp

211

Page 212: Cậu cháu nói chuyện đạo

với đều mình tin. Cháu biết rằng như thế là gây nên trong cậu cả một cuộc cách mạng luân thường thật sự. Thế nhưng đi đạo đâu phải chuyện chơi và chân lí nó có khả năng giải thoát người ta. Có phải chính cái đó đang chặn lối cậu không?

- Cháu thật tò mò!- Nhưng cậu ạ, cháu có quyền truy kích cậu mãi đến cùng!

Cháu đã nhảy vào đám chiến và bây giờ thì cậu cháu mình đã mặt đối mặt với nhau, chúng ta đang soi vào mắt nhau. Cậu thành thật đi, cậu ạ, và cậu hãy thú nhận là...

- Phải. Cậu thú nhận rằng cháu đã giải đáp cách thoả đáng, đôi lúc quả quyết, tất thảy những luận điệu phỉnh phờ cũ rích, ít nhiều hủ lậu mà cậu coi như thành luỹ để ẩn náu. Chính cháu đã thắng. Cháu có sung sướng không?

- Không. Cậu đừng nói thế! Không phải cháu thắng; chính là chân lí đã thắng, mà thắng vì cậu có một tâm hồn trung thực và ngay thẳng. Trước kia sở dĩ cậu không thấy rõ, là vì những đám mây đen che lấp con mắt cậu!

- Phải. Giờ thì cậu đã thấy rõ. Nhưng cậu chưa có đức tin!- Thì Phơ-răng-xoa Cô-pê, một người tân tòng, sẽ nói với

cậu thế này: "Nhờ ơn Chúa, tôi đã gặp lại những cảm xúc của tuổi thiếu thời. Với một sự đồng cảm anh em, tôi nghĩ đến người tín hữu Kitô đang rơi vào tình trạng hững hờ; người đó giờ đây, cũng như tôi ngày xưa, đang xao xuyến vì một luyến tiếc u uất mỗi khi bên tai vẳng tiếng chuông chiều, khi đi qua dưới bóng tháp thánh đường. Hỡi anh bạn tội nghiệp của tôi, hãy quì xuống dưới chân ảnh chuộc tội! Hãy khiêm nhường! Thì rồi ngày mai, nếu anh muốn, hồi chuông Phục sinh ròn rã sẽ loan báo cuộc tỉnh ngộ của linh hồn bạn, linh hồn mà lâu nay bạn tưởng nó đã chết, và rồi nó sẽ vun vút vươn lên trong cuộc sống mới, trong trắng và đầy yêu thương?".

- Có lẽ cậu cũng thế!- Thế thì xin cậu quì xuống mà cầu nguyện đi!- Cậu chả biết cầu nguyện thế nào nữa.

212

Page 213: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Dẫu vậy, cậu cứ cầu nguyện đi. Cậu hãy đọc "Tôi thú nhận", thì rồi nó sẽ dẫn cậu tới "Tôi tin kính". Hãy đọc kinh Lạy Cha hay là tốt hơn cả, đừng đọc những công thức có sẵn đó, cậu cứ cầu nguyện bằng cõi lòng cậu, như em bé nói chuyện với cha. Hãy mở cửa lòng cậu, thì Thiên Chúa sẽ mở cửa lòng Người.

- Làm thế nào để được đức tin?- Muốn thế, không phải chỉ cần tìm chứng cứ để tự thuyết

phục mình, mà nhất là cần đấu tranh đánh bại các dục vọng của cậu.

- Xét cho cùng, cậu tin hay không tin, là tuỳ ý cậu.- Phải. Tin là một việc làm của trí hiểu, nhưng cũng là một

việc làm cuả ý chí. Để tiếp nhận chân lí, trí hiểu cần được thúc đẩy bởi ý chí và ý chí cần được thúc đẩy bởi ơn thánh. Thiên Chúa biết không có Người, ta không làm được gì. Vì thế, người ban ơn, thúc giục, lôi cuốn ta để ta tin đạo, nhưng không hề thủ tiêu quyền tự do sử dụng ý chí trong ta.

- Liệu cậu có được ơn đó không?- Thiên Chúa không từ chối nó với ai hết.- Tóm lại, cậu phải làm gì?- Cậu hãy đem thực hành chút tàn dư đức tin còn lại trong

cậu. Cậu còn tin Thiên Chúa ư? Thì cậu cứ thờ phượng và cầu xin Người! Cậu tin luân thường, sự phân biệt căn bản giữa lành và dữ? Thì cậu cứ làm lành lánh dữ. Hãy xin tha thứ việc dữ đã làm. Nhớ đến tội lỗi, cậu hãy hạ mình ở khiêm nhưòng. Cậu tưởng cứ chờ cho đức tin đến xâm chiếm cậu đã, rồi mới thực hiện nó. Không. Cậu cứ thực hiện, rồi cậu sẽ tin; cứ thực hiện chút ít đức tin còn lại, rồi đức tin mà cậu còn thiếu, không bao lâu nó sẽ tới. Tóm tắt, cậu tin thế nào, cứ thực hiện như vậy đã.

- Có phải cứ bắt đầu như vậy không?- Vâng. Việc gì cần làm trước, thì cứ bắt đầu bằng việc đó:

trước tiên, cậu hãy đi xưng tội.- Thế à?

213

Page 214: Cậu cháu nói chuyện đạo

- Vâng, vì cậu đi xưng tội, tức là cậu phục mình dưới chân Thiên Chúa và rồi cử chỉ khiêm nhường đó sẽ đẩy hòn đá kiêu căng cho đến nay vẫn hạn ngữ không cho đức tin xâm nhập linh hồn cậu. Khi người ta đã ở dưới chân Thiên Chúa, thì người ta ở gần lòng Người lắm rồi!

- Cháu thật đáo để!- Đáo để nhất là phép giải tội. Thiếu gì người không còn có

thể tin đạo nữa, thế mà chính nơi toà giải tội, họ đã gặp lai đức tin, khi họ xưng tội. Đức Giám mục Bôt-xuy-ê nói: "Bạn hãy thanh tẩy đền thờ Thiên Chúa cho Người ngự". Nếu cậu muốn mắt cậu nhìn rõ, hãy chữa nó cho lành đã. Có một phương thần dược trả lại sự sáng cho mắt cậu. Đây không phải là vấn đề tin hay không tin, đây là vấn đề có thật tâm muốn tin hay không. Đây không phải là thành kiến, đây chỉ là công tác vệ sinh tâm hồn.

- A ! Nếu cậu biết con đường Đamát ở đâu, cậu sẽ hân hoan tới đi lại trên con đường đó.

- Không phải cứ đi đi lại lại trên đường là gặp được đức tin đâu. Như cháu vừa nói, cậu cứ phục gối xuống và kêu lên Thiên Chúa như người mù tong Tin mừng: "Lạy Chúa, xin làm cho con sáng mắt"

- Gian nan thật!- Nhưng bây giờ đã thấy rồi, mà cứ tiếp tục lê mình một cách

do dự, ươn ái, chờ thời, luyến tiếc những cái ràng buộc mình và trôi nổi phiêu lưu; như thế không phải là gian nan hơn sao? Muốn vào tới cửa, phải ra tay chèo chống. Cậu đã thấy rõ. Thấy mà thôi chưa đủ, cần phải muốn. Rồi cuối cùng chính cậu cũng phải lặp lại câu nói đẹp đẽ của Pxi-ca-ri, sau khi trở về với đức tin: "Chao ôi! Lạy Chúa, mến Chúa chỉ đơn giản như thế này thôi ư?" Dịch xong tháng 1/1968

214

Page 215: Cậu cháu nói chuyện đạo

Mục lục Phần I: Có Thiên Chúa T.3 Chương mở đầu: Ba nguyên tắc của ông cậu 3 Chương II: I. Sáng tạo và sự sống 11 Chương III: II. Chuyển động 18 Chương IV: III. Trật tự trong vũ trụ 24 Chương V: IV. Những câu hỏi bỏ lửng 31 Chương VI: V. Ông cậu tấn công 37 Chương VII: VI. Trước không gian bao la vô hạn 43

215

Page 216: Cậu cháu nói chuyện đạo

Chương VIII: Thiên Chúa với đau khổ 47 Chương IX: Thiên Chúa với đau khổ (tiếp) 54 Phần II: Linh hồn bất tử 61 Chương I: Có linh hồn 62 Chương II: Linh hồn thiêng liêng 68 Chương III: Linh hồn bất tử 75 Phần III: Thần tính Đức Giêsu 77 Chương I: Những lời tiên báo về Đấng Cứu thế 78 Chương II: Giáo lí cao cả 86 Chương III: Yêu và ghét 92 Chương IV: Hai khẳng định vô cùng quan trọng 54 Chương V: Những câu nói siêu nhân của Đức Giêsu 61 Chương VI: Đức Giêsu sống lại 66 Chương VII: Việc thiết lập đạo Kitô 72 Chương VIII: Chứng máu 78 Chương IX: Giáo hội vẫn đứng 83 Chương IX: Giáo hội vẫn đứng 88 Chương I: Bức thư 1: dọn đường 88 Chương II: Những mâu thuẫn của phái Tin lành 94 Chương III: Những biến đổi của Tin lành 100 Chương IV: Không có biến đổi trong đạo Công giáo 106 Chương V: Bốn đặc điểm của Giáo hội thật 113 Chương II: Nói tiếp về Tin lành 118 Phần thứ V: Những vấn nạn chống công giáo Chương I: Vấn nạn dồn dập 123 Chương II: Khoa học với Tôn giáo 148 Chương III: Hoả ngục muôn kiếp 158 Chương IV: Phép lạ 171 Chương V: Xưng tội 179

216

Page 217: Cậu cháu nói chuyện đạo

Chương VI: Linh mục 191 Chương VII: Những phát đạn cuối cùng 197cầu nguyện, Thánh Thể,- nguyên tội,- Giáo hoàng vô ngộ, thủ tiêu hôn phối,- Tiền định- đức tin. nhớ TCV 1/1968

21/7/1968 4/5/1991

217