Upload
others
View
6
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
BÁO CÁO KẾT QUẢ KHẢO NGHIỆM
ĐÁNH GIÁ RỦI RO NGÔ GA21 ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG
VÀ ĐA DẠNG SINH HỌC
Số báo cáo: SYTVN-04-2012
Tên tổ chức đăng ký: Công ty TNHH Syngenta Việt Nam
Địa chỉ liên hệ: Số 16 đường 3A, Khu Công nghiệp Biên Hoà 2 Đồng Nai, Việt Nam
Điện thoại: 0618826026 Fax: 0618826015
Website: www.syngenta.com
Biên Hòa, ngày 09 tháng 5 năm 2012
i
MỤC LỤC
Nội dung Trang
Phần I. THÔNG TIN CHUNG
1.1. Tổ chức đăng ký khảo nghiệm 1
1.2. Giống cây trồng biến đổi gen đăng ký khảo nghiệm 1
1.3. Đơn vị khảo nghiệm 2
1.4. Giấy phép khảo nghiệm 2
Phần II. TỔNG QUAN VỀ GIỐNG CÂY TRỒNG BIẾN ĐỔI GEN GA21
2.1. Thông tin liên quan đến gen chuyển/gen cho 3
2.1.1. Phương pháp chuyển gen 3
2.1.2. Nguồn gốc vectơ sử dụng và chức năng của chúng 3
2.1.3. Nguồn DNA nhận, kích thước và chức năng của mỗi đoạn trong
vùng gắn vào hệ gen ngô (T-DNA)
5
2.2. Thông tin liên quan đến cây ngô chuyển gen GA21 5
2.2.1. Các tính trạng và đặc tính trong ngô GA21 5
2.2.2. Trình tự đoạn gen chèn vào hoặc mất đi 5
2.3. Sinh vật nhận gen 8
2.3.1. Mô tả về cây ngô/bắp (sinh vật nhận gen): 8
2.3.2. Đặc điểm giống ngô nền (NK66) 19
2.4. Biểu hiện protein biến đổi trong cây ngô GA21 20
2.4.1. Tính trạng, điểm khác biệt giữa ngô GA21 và ngô không chuyển
gien
20
2.4.2. Biểu hiện protein biến đổi (mEPSPS) trong cây ngô GA21 20
2.4.3. Tình hình cấp phép, sử dụng ngô GA21 trên thế giới 23
Phần III. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ KHẢO NGHIỆM Ở VIỆT NAM
3.1. Kết quả khảo nghiệm đánh giá rủi ro trên thế giới đối với ngô GA21 và
protein EPSPS bị biến đổi
26
3.2. Xác định các yêu cầu cần khảo nghiệm đánh giá rủi ro ngô GA21 đối
với môi trường và đa dạng sinh học tại Việt Nam.
31
3.2.1. Tính an toàn của ngô chuyển gen GA21 hay enzyme mEPSPS 32
3.2.2. Nguyên lý chung đánh giá rủi ro đối với cây trồng chuyển gen 33
ii
3.2.3. Cơ sở lý luận cho việc đề nghị các nghiên cứu đánh giá rủi ro
cho khảo nghiệm hạn chế và diện rộng của ngô GA21 đối với môi
tường và đa dạng sinh học ở Việt Nam
35
Phần IV. MỤC TIÊU, NỘI DUNG, VẬT LIỆU, PHƯƠNG PHÁP KHẢO
NGHIỆM
4.1. Khảo nghiệm hạn chế 50
4.1.1. Mục tiêu khảo nghiệm 50
4.1.2. Nội dung khảo nghiệm 50
4.1.3. Ý nghĩa khảo nghiệm 50
4.1.4. Địa điểm và thời gian tiến hành khảo nghiệm 51
4.1.5. Bố trí thí nghiệm 53
4.1.6. Chỉ tiêu theo dõi, phương pháp đánh giá và xử lý số liệu 54
4.2. Khảo nghiệm diện rộng 61
4.2.1. Mục tiêu khảo nghiệm 62
4.2.2. Nội dung khảo nghiệm 62
4.2.3. Ý nghĩa khảo nghiệm 62
4.2.4. Địa điểm và thời gian tiến hành khảo nghiệm 62
4.2.5. Bố trí thí nghiệm 70
4.2.6. Chỉ tiêu theo dõi, phương pháp đánh giá và xử lý số liệu 72
PHẦN V: KẾT QUẢ KHẢO NGHIỆM
5.1. KHẢO NGHIỆM HẠN CHẾ 79
5.1.1. Kết quả 79
5.1.1.1. Đánh giá các đặc điểm nông sinh học, hình thái của ngô
GA21 trong điều kiện canh tác tại Việt Nam
79
5.1.1.2. Đánh giá ảnh hưởng đến sinh vật không chủ đích của ngô
GA21
80
5.1.1.3. Hiệu quả của ngô GA21 trong phòng trừ cỏ dại trên ngô 89
5.1.2. Thảo luận 91
5.1.2.1. Nguy cơ trở thành dịch hại, cỏ dại xâm lấn môi trường tự nhiên
của ngô GA21 và các nguy cơ trôi gen, phát tán gen
91
5.1.2.2. Nguy cơ trở ảnh hưởng bất lợi đến sinh vật không chủ đích của
ngô GA21
95
5.1.2.3. Các nguy cơ khác ảnh hưởng bất lợi đến hệ sinh thái xung
quanh
96
iii
5.1.2.4. Các tác động bất lợi khác 99
5.1.3. Kết luận từ khảo nghiệm hạn chế 100
5.2. KHẢO NGHIỆM DIỆN RỘNG 101
5.2.1. Kết quả so sánh đặc tính nông sinh học/nguy cơ trở thành dịch hại,
cỏ dại của ngô GA21 kháng thuốc trừ cỏ glyphosate
101
5.2.2. Kết quả đánh giá nguy cơ ảnh hưởng đến sinh vật không chủ đích
của ngô GA21
105
5.2.3. Đánh giá hiệu quả kháng thuốc trừ cỏ glyphosate của ngô chuyển
gen NK66GA21
123
5.2.4. Đánh giá hiệu lực quản lý cỏ dại của ngô chuyển gen GA21 124
5.2.5. Năng suất và hiệu quả kinh tế của ngô chuyển gen GA21 125
5.2.5.1 Năng suất của ngô GA21 125
5.2.5.2 Hiệu quả kinh tế của ngô GA21 126
5.3. KẾT QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO 127
PHẦN VI: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
6.1. Kết luận 132
6.2. Đề nghị 136
Phần VII. Tài liệu tham khảo 138
iv
MỤC LỤC HÌNH
Hình I: Bản đồ plasmid của vectơ biến nạp pDP434 4
Hình II. Quy trình đánh giá rủi ro của cây trồng chuyển gen đối với môi
trường theo quyết định 2001/18/EC
35
Hình 1. Diễn biến chỉ số gây hại của rệp muội ngô, (BRVT, vụ Hè thu
2010)
83
Hình 2. Diễn biến mật độ Bọ rùa bắt mồi ăn thịt trong thí nghiệm ngô
GA21 (Vụ 1 Tân Thành, Bà Rịa, 2010)
83
Hình 3. Diễn biến mật độ nhện lớn bắt mồi ăn thịt trong thí nghiệm ngô
GA21 (BRVT, 2010)
84
Hình 4. Diễn biến mật độ cánh cứng cánh ngắn trong thí nghiệm ngô
GA21 (Vụ 2, BRVT, 2010)
85
Hình 5. Diễn biến chỉ số gây hại của Rệp ngô trong thí nghiệm ngô
chuyển gen GA21 tại Hưng Yên (A), Sơn La (B), BRVT (C),
Đăk Lăk (D)
108
Hình 6. Diễn biến mật độ bọ rùa BMAT trong thí nghiệm ngô chuyển gen
GA21 tại Hưng Yên (A), Sơn La (B), BRVT (C), Đăk Lăk (D)
112
Hình 7. Diễn biến mật độ nhện lớn BMAT trong thí nghiệm ngô GA21
tại Hưng Yên (A), Sơn La (B), BRVT (C) và Đăk Lăk (D)
113
Hình 8. Diễn biến mật độ nhện lớn BMAT trong thí nghiệm ngô GA21
tại Hưng Yên (A), Sơn La (B), BRVT (C), Đăk Lăk (D)
115
v
MỤC LỤC BẢNG
Bảng 1. Các thành phần trong vùng backbone của vectơ 5
Bảng 2. Các vùng của vectơ dự định biến nạp (vùng T-DNA) vào hệ gen
ngô
5
Bảng 3. Kích thước và chức năng của mỗi vùng trong đoạn T-DNA 6
Bảng 4: Nồng độ m PSPS trên m u đo c n tươi trên cây nhận được từ ngô
GA21
21
Bảng 5: Nồng độ mEPSPS trên một m u đo khô trong cây ngô GA21 22
Bảng 6: Nồng độ mEPSPS trong lá ngô GA21 từ ba thế hệ lai hồi giao 23
Bảng 7. Danh sách các nước chấp thuận ngô GA21 được sản xuất và sử
dụng làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi trên thế giới
25
Bảng 8. Sự phát tán gen qua các con đường khác nhau 37
Bảng 9. Tỉ lệ thụ phấn chéo ở các khoảng cách khác nhau so với nguồn cho
phấn ở cây ngô
40
Bảng 10. Một số đặc điểm nông sinh học của ngô GA21 (BRVT, vụ Hè Thu
và Thu Đông 2010)
80
Bảng 11. Đặc điểm hình thái của ngô GA21 (BRVT, vụ Hè Thu và Thu Đông
2010)
80
Bảng 12a. Thành phần loài côn trùng và nhện trong khảo nghiệm ngô GA21
theo hệ thống phân loại (BRVT, vụ Hè Thu 2010 và Thu Đông
2010)
81
Bảng 12b. Số lượng các loài côn trùng và nhện trong khảo nghiệm ngô GA21
theo nhóm đối tượng (BRVT, vụ Hè Thu 2010 và Thu Đông 2010)
82
Bảng 13. So sánh quần thể bọ đuôi bật (Collembola) trong đất trồng ngô
chuyển gen GA21 và ngô không chuyển gen (Tân Thành, Bà Rịa,
vụ Hè Thu 2010 và Thu Đông 2010)
86
Bảng 14. So sánh tỷ lệ loài ưu thế (bọ đuôi bật Collembola) trong đất trồng
ngô GA21 và không chuyển gen (Tân Thành, Bà Rịa, vụ Hè Thu
2010 và Thu Đông 2010)
87
Bảng 15. Thành phần bệnh hại và tần suất bắt gặp trong thí nghiệm ngô
GA21 (Tân Thành, Bà Rịa, vụ Hè Thu 2010 và Thu Đông 2010)
88
Bảng 16. Mức độ gây hại của một số bệnh hại chính trong thí nghiệm ngô
GA21 tại 70-75 NSG (Tân Thành, Bà Rịa, vụ Hè Thu 2010 và Thu
Đông 2010)
89
vi
Bảng 17. Ảnh hưởng của phun Glyphosate đến sinh trưởng, phát triển của
cây ngô(Tân Thành, Bà Rịa, 2010)
90
Bảng 18. Hiệu lực quản lý cỏ dại của giống chuyển gen GA21 kháng thuốc
trừ cỏ
90
Bảng 19. Một số đặc tính nông học của các giống ngô GA21 và NK66 trong
khảo nghiệm diện rộng tại Hưng Yên, Sơn La, BRVT và Đăk Lăk
102
Bảng 20. Một số đặc điểm hình thái của các giống ngô GA21 và NK66 trong
khảo nghiệm diện rộng tại Hưng Yên, Sơn La, BRVT và Đăk Lăk
104
Bảng 21a. Thành phần loài côn trùng và nhện trong khảo nghiệm ngô chuyển
gen GA21 theo hệ thống phân loại
106
Bảng 21b. Số lượng các loài côn trùng và nhện trong khảo nghiệm ngô chuyển
gen NK66GA21 theo nhóm đối tượng
106
Bảng 22. So sánh một số chỉ số định lượng của Collembola trên đất trồng ngô
GA21 và NK66 trong khảo nghiệm diện rộng, 2011
117
Bảng 23. Thành phần loài Collembola ưu thế trên đất trồng ngô GA211 và
NK66
119
Bảng 24a. Mức độ gây hại của một số bệnh hại chính trong thí nghiệm ngô
chuyển gen NK66GA21 tại Hưng Yên và Sơn La
121
Bảng 24b. Mức độ gây hại của một số bệnh hại chính trong thí nghiệm ngô
chuyển gen GA21 tại BRVT và Đăk Lăk
122
Bảng 25. Khả năng kháng thuốc trừ cỏ Glyphosate của ngô NK66GA21trong
khảo nghiệm diện rộng tại Hưng Yên, Sơn La, BRVT và Đăk Lăk
123
Bảng 26. Hiệu lực quản lý cỏ dại của ngô chuyển gen GA21 phun glyphosate 124
Bảng 27. Năng suất của ngô chuyển gen GA21 và giống nền NK66 trong
khảo nghiệm rộng năm 2011
125
Bảng 28 Hiệu quả kinh tế của ngô chuyển gen GA21 127
1
Phần I. THÔNG TIN CHUNG
1.1. Tổ chức đăng ký khảo nghiệm
Tên Tổ chức đăng ký: Công ty TNHH Syngenta Việt Nam
Địa chỉ liên hệ: Số 16 đường 3A, khu Công nghiệp Biên H a 2, Đồng Nai, Việt Nam
Điện thoại: 0618826026 Fax: 0618826015
E-mail: Website: www.syngenta.com
Người và địa chỉ liên lạc tại Việt Nam:
Đại diện: Ông Shane Emms
Chức vụ: Tổng Giám đốc
Địa chỉ liên hệ: Văn ph ng đại diện Công ty TNHH Syngenta tại TP Hồ Chí Minh
Tầng 11 Toà nhà Đại Minh, 77 Hoàng Văn Thái, Phường Tân Phú, Quận 7, TP Hồ Chí
Minh
Điện thoại: (08) 54318900 Fax: (08) 54318898
Email: [email protected] Website: www.syngenta.com
1.2. Giống cây trồng biến đổi gen đăng ký khảo nghiệm
- Cây trồng chuyển gen khảo nghiệm: Ngô/Bắp (Zea May L.), thuộc chi Maydeae, họ
hoà thảo (Poaceae hay gramineae), bộ hoà thảo (Poales hay Graminales), lớp một lá
mầm (Monocotylens), ngành hạt kín (Angiospermatophyta), phân giới thực vật bậc
cao (Cosmobionia).
- Sự kiện chuyển gen: GA21, có gen biến đổi 5-enol pyruvylshikimate-3-phosphate
synthase (mepsps) là từ enzyme EPSPS từ ngô được biến đổi, enzyme này là
enzyme phổ biến có trong thực vật và vi sinh vật nhưng không xuất hiện ở động
vật. nzyme m PSPS là enzyme được biến đổi với các đặc tính nhận biết là giống
với enzyme gốc trong ngô tới 99,3%
- Đặc tính biểu hiện: Ngô GA21 mang đặc tính có lợi là chống chịu được thuốc trừ
cỏ chứa hoạt chất glyphosate, với tính năng sử dụng linh hoạt khi chúng ta có thể
phun thuốc trừ cỏ glyphosate trùm lên cây ngô GA21 trong khoảng 16 đến 40 ngày
sau gieo hoặc trước khi khép tán (tùy vào mùa vụ và giống ngô). Sau khi phun cỏ
sẽ chết còn cây ngô mang sự kiện GA21 v n sống và sinh trưởng bình thường.
2
- Giống nền sử dụng: NK66, là giống đã được thương mại hóa tại Việt Nam năm
2006.
1.3. Đơn vị khảo nghiệm
Theo quyết định số 252/QĐ-BNN-KHCN, v/v Chỉ định Tổ chức khảo nghiệm đánh giá rủi
ro đối với đa dạng sinh học và môi trường của giống cây trồng chuyển gen, Công ty Trách
nhiệm Hữu Hạn Syngenta Việt Nam đã chọn Viện Di Truyền Nông nghiệp, Trung tâm
khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng và phân bón Nam Bộ và Viện Bảo vệ Thực
vật là các đơn vị thực hiện khảo nghiệm đánh giá tác động của ngô chuyển gen GA21 đối
với môi trường và đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Viện Di truyền Nông nghiệp- Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.
Đại diện: PGS.TS. Lê Huy Hàm
Chức vụ: Viện trưởng, Viện Di truyền Nông nghiệp
Địa chỉ: Đường Phạm Văn Đồng, Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Điện thoại: 84 4 8386734; Fax: 84 4 7543196
E-mail: [email protected] Website: http:// www.agi.gov.vn
Viện Bảo vệ thực vật
Đại diện: Tiến sĩ Ngô Vĩnh Viễn
Chức vụ: Viện Trưởng
Địa chỉ: Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội
Điện thoại: + 84 4 38389724 Fax: +84 4 38363563
Email: [email protected]
Trung tâm khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng và phân bón Nam Bộ
Đại diện: ThS. Nguyễn Quốc Lý
Chức vụ: Giám đốc
Địa chỉ: 135A Paster, Quận 3, Hồ Chí Minh
Điện thoại: + 84 838229085 Fax: + 84 838229086
Email: [email protected]
1.4. Giấy phép khảo nghiệm
3
1.4.1. Khảo nghiệm hạn chế
Thực hiện theo quyết định số 773/QĐ/BNN-KHCN quyết định V/v “Khảo nghiệm hạn chế
đánh giá rủi ro đối với đa dạng sinh học và môi trường của cây ngô chuyển gen” do Bộ
trưởng bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ký ngày 29 tháng 03 năm 2010.
1.4.2. Khảo nghiệm diện rộng
Thực hiện theo quyết định số 403/QĐ/BNN-KHCN quyết định V/v “Công nhận kết quả
khảo nghiệm hạn chế và cấp phép khảo nghiệm diện rộng đánh giá rủi ro đối với đa dạng
sinh học và môi trường của cây ngô chuyển gen” do Thứ trưởng bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn ký ngày 07 tháng 03 năm 2011.
4
Phần II. TỔNG QUAN VỀ GIỐNG CÂY TRỒNG BIẾN ĐỔI GEN GA21
2.1. Thông tin liên quan đến gen chuyển/gen cho
2.1.1. Phương pháp chuyển gen
Ngô GA21 được tạo ra qua phương pháp bắn gen, sử dụng các tế bào huyền phù làm
mô đích bắn. Điều này được mô tả trong bằng sáng chế quốc tế PCT/VS98/06640
(trang 75-77, Spencer và cs., 1998a).
2.1.2. Nguồn gốc vectơ sử dụng và chức năng của chúng
Plasmid pDPG434 được sử dụng để tạo ra dòng ngô GA21 qua biến nạp bằng súng bắn
gen (Spencer và CS., 1998a,b). Plasmid có nguồn gốc từ vectơ pSK, được sử dụng rộng
rãi trong sinh học phân tử và có nguồn gốc từ PUC19 (Short và CS., 1988). Bản đồ
vectơ của pDPG434 được chỉ ra trong Hình I. Đoạn giới hạn NotI chứa cassette biểu
hiện được sử dụng để biến nạp gen. Các thành phần được chỉ ra trong Bảng 1 và 2 dưới
đây nêu rõ nguồn gốc của chúng. Đoạn giới hạn NotI chứa cassette biểu hiện gen 5’ -
enolpyruvylshikimate-3 Phosphate Synthase cải biến (mepsps) nhưng không chứa đoạn
cho khởi động sao mã, gen bla hoặc trình tự gen lacZ.
Hình I: Bản đồ plasmid của vectơ biến nạp pDP434
5
Bảng 1. Các thành phần trong vùng backbone của vectơ
Thành phần
của vectơ
Mô tả
LacZ Trình tự gen mã hóa cho lacI, promoter plac và trình tự gen mã hóa cho
protein -galactosidase hoặc các protein LacZ (Yanisch - Perron và CS.,
1985).
Bla Gen -lactamase dạng TEM từ Plasmid pBR322 của E.coli có tác dụng
kháng ampicillin và các penicillin khác (Sutcliffe, 1978). Gen được điều
khiển bởi promoter của chính vi khuẩn.
ColE1 ori Khởi đầu sao mã DNA từ plasmid PUC19 của E.coli (Yanisch - Perron và
CS. 1985).
Bảng 2. Các vùng của vectơ dự định biến nạp (vùng T-DNA) vào hệ gen ngô
Thành phần của
vectơ
Mô tả
Promoter actin và
intron của lúa.
Vùng đầu 5’ của gen actin 1 của lúa chứa promoter, exon thứ
nhất và intron (Mc Elroy và CS., 1990). Nó được mô tả là “Act
promoter + intron” trong vector được chỉ ra ở Hình I.
Đoạn peptide vận
chuyển tối ưu
Trình tự peptide vận chuyển tối ưu đầu N được xây dựng trên cơ
sở trình tự peptide từ gen ribulose -1,5- bis phosphate carboxylase
oxygenase (Rubis co) từ ngô và hoa hướng dương (Le Brun và
CS., 1996). Đoạn này được mô tả là “mSSU (CTP) và SSSU
(CTP)” trong vectơ được chỉ ra trong Hình I.
Gen epsps cải biến
của ngô GA21
Gen epsps của ngô dạng dại (ngân hàng gen số X63374) chứa các
trình tự đột biến tại vị trí axít amin thứ 102 (threonine tới
isoleucine) và 106 (proline tới serine). Đoạn gen này được mô tả
là “m PSPdm” trong vectơ được chỉ ra ở Hình I.
Đoạn kết thúc Nos 3’ Vùng không được dịch mã 3’ từ gen tổng hợp nopaline từ
Agrobacterium tumefaciens (Bevan, 1984).
2.1.3. Nguồn DNA nhận, kích thước và chức năng của mỗi đoạn trong vùng gắn vào hệ
gen ngô (T-DNA)
Các yếu tố dự tính để chèn vào hệ gen ngô được nằm trong vùng đoạn cắt giới hạn Not1
của plasmid pDPG434 được chỉ ra trong Hình I. Đoạn giới hạn này được sử dụng trong
quá trình biến nạp. Nguồn và kích thước của mỗi vùng được chỉ ra trong Bảng 2 ở trên.
Kích thước và chức năng của mỗi vùng được nêu rõ trong Bảng 3.
6
Bảng 3. Kích thước và chức năng của mỗi vùng trong đoạn T-DNA
Thành phần của
vectơ
Kích thước
(kb) Chức năng
Promoter actin và
intron của lúa
1,4 Tạo ra biểu hiện của gen mepsps ở ngô. Đoạn này
được mô tả là “Act promoter + intron” trong vectơ
pDPG434, Hình I.
Peptide có chức
năng vận chuyển
(transit peptide).
0,4 Hướng protein mEPSPS chuyển tới lục lạp (Le Brun
và CS., 1996). Đoạn này được mô tả là “mssu (CTP)
và sssu (CTP)” trong vectơ pDPG434, Hình I.
Gen epsps cải
biến (mepsps) của
cây ngô
1,3 Gen mã hóa cho protein EPSPS ở cây ngô biến đổi
gen, chống chịu glyphosate. Đoạn này được mô tả là
“m PSPm” trong vectơ pDPG434, Hình I.
Đoạn kết thúc
Nos 3’
0,3 Kết thúc phiên mã và trực tiếp tạo ra poly A của
mRNA.
2.2. Thông tin liên quan đến cây ngô chuyển gen GA21
2.2.1. Các tính trạng và đặc tính trong ngô GA21
Ngô GA21 là ngô biến đổi gen biểu thị enzym mEPSPS. EPSPS là một enzym quan
trọng trong con đường axit shikimic liên quan đến quá trình sinh tổng hợp các axit amin
thơm (phenylalamine, tyrosine, tryptophan) và được tìm thấy trong tự nhiên ở tất cả thực
vật, nấm, vi khuẩn nhưng không có trong động vật. EPSPS rất nhậy cảm với chế phẩm
thuốc diệt cỏ chứa glyphosate, cây ngô được biến nạp với gen biến đổi mepsps (GA21)
có khả năng tổng hợp protein mEPSPS để chống chịu sự gây hại của thuốc diệt cỏ chứa
hoạt chất glyphosate (Spencer và CS., 2000; Le Brun và CS., 2003). Đột biến gen này
được đưa vào cây, tạo ra khả năng chống chịu chế phẩm thuốc trừ cỏ chứa glyphosate,
vì có 2 vị trí thay đổi riêng biệt so với protein EPSPS của ngô dạng dại (ngô không
biến đổi gen). Sự thay đổi này tại vị trí axit amin 102 (threonine thành isoleucine) và
106 (proline thành serine).
2.2.2. Trình tự đoạn gen chèn vào hoặc mất đi
a) Số bản sao của tất cả các đoạn T-DNA hợp nhất vào hệ gen ngô
Đoạn gen mepsps được chèn vào ngô GA21 dạng đầy đủ và các vùng xung quanh gen
mepsps hợp nhất vào hệ gen ngô được xác định trình tự. Phân tích trình tự đoạn DNA
trong ngô GA21 cho thấy đoạn này gồm có 6 vùng liên tục có nguồn gốc từ đoạn cắt
giới hạn NotI dài 3,49kb từ plasmid pDPG343 có mặt trong các cây ngô GA21 (số bản
sao 1-6). Bản sao 1 chứa promoter actin của lúa (khuyết 696 bp), exon thứ nhất của gen
actin và intron, peptit vận chuyển tối ưu, gen mepsps và đoạn kết thúc NOS. Bản sao 2,
7
3 và 4 là các bản sao nguyên vẹn của đoạn giới hạn NotI dài 3,49kb từ plasmid
pDPG434. Bản sao 5 chứa promoter actin nguyên vẹn của lúa, exon thứ nhất và intron
của gen actin, peptide vận chuyển tối ưu, đoạn 288 bp đầu tiên của gen mepsps, kết
thúc tại một codon dừng và không chứa đoạn kết thúc NOS. Bản sao 6 chứa promoter
actin của lúa và đoạn đầu exon thứ nhất của gen actin; nó không chứa các yếu tố nào
khác từ plasmid pDPG434.
Sự thay đổi tại cặp base đơn được thông báo trong đoạn kết thúc NOS ở Bản sao 1 và 2.
Nucleotit tại vùng này trong Bản sao 1, 2 là “C” trong khi ở Bản sao 3 và 4 là “G” và
đây là sự thay đổi mong muốn tại vùng này. Một điểm khuyết ở cặp base đơn cũng
được thông báo trong promoter actin ở Bản sao 6. Promoter actin ở bản sao 6 dài 842
bp. Phân tích Northern và Western được thực hiện để phát hiện ra khả năng phiên mã
của gen mepsps và dịch mã sau đó, kết quả là không phát hiện thấy các bản phiên mã
hoặc protein liên quan đến gen mepsps cải tiến này.
b) Vị trí của nhiễm sắc thể của đoạn T-DNA (nhân, lục nạp, ty thể) và các phương
pháp để xác định
Kiểu di truyền của đoạn T-DNA mang gen chuyển có nguồn gốc từ pDPG434 ở ngô
chuyển gen GA21 được nhận điện bằng các phân tích, các kết quả đã chỉ ra rằng gen
này gắn vào nhiễm sắc thể trong nhân.
c) Tổ chức vật liệu di truyền đoạn T-DNA tại ví trị gắn, thông tin về trình tự của
đoạn T-DNA và các vùng xung quanh đầu 3’ và 5’ đoạn T-DNA
Toàn bộ đoạn T-DNA và các vùng xung quanh đoạn T-DNA được gắn vào nhiễm sắc
thể ở ngô GA21 đã được xác định trình tự, tổ chức của vật liệu di truyền đoạn T-DNA
tại vị trí gắn được mô tả trong Mục 2.2.2/a phần II ở trên. Trình tự DNA vùng xung
quanh đoạn T-DNA hợp nhất vào hệ gen ngô cũng được nhận biết và được mô tả dưới
đây:
Số liệu về trình tự vùng 5’: Đoạn gen chèn trong ngô GA21 nằm ở phần đầu 5’ đoạn
T-DNA được xác định trong trình tự DNA EcoRV dài 20,5 kb của hệ gen. Phân tích
Blast đoạn chèn này cho thấy sự tương đồng của nó với DNA lục lạp ngô (số accession
X86563.2). Sự hiện diện trình tự của bộ phận tế bào trong hệ gen nhân chỉ được phát
hiện ở dòng ngô GA21 mà chưa được phát hiện ở các loài cây không biến đổi gen kể cả
ngô (Figueroa và CS., 1999a, b; Fukuchi và CS., 1991; Goff và CS., 2002; Kemble và
CS., 1983).
Sàng lọc in silico đối với đoạn khung đọc mở (ORFs) tại vị trí gắn giữa hệ gen ngô và
đoạn T-DNA đã được thực hiện. Đánh giá này xác định đoạn ORF được bắt đầu với bộ
ba ATG và kết thúc với một trong các bộ ba dừng (TAG, TAA hoặc TGA) với kích
thước nhỏ nhất của 50 axit amin. Hai ORFs đã được nhận biết tại đầu 5’ của đoạn T-
DNA trong hệ gen ngô. Một ORF có nguồn gốc ở đoạn đầu 5’ của hệ gen ngô và tiếp
tục vào trong đoạn T-DNA của ngô GA21. OFR thứ hai có 17 axit amin đầu tiên tương
8
ứng với protein phát sinh cytochrom C (số accession CAA60348) tìm thấy trong DNA
lục lạp ngô. Do đó đoạn T-DNA của ngô GA21 đã làm gián đoạn ORF được nhận biết
ở giữa DNA lục lạp ngô và tạo ra protein dung hợp. Sự có mặt của gen có chức năng
sinh tổng hợp cytochrom C trong hệ gen lục lạp ngô GA21 sẽ bổ sung cho giải thích
gián đoạn được quan sát thấy trong hệ gen nhân. Bằng chứng cho biện luận này được
cung cấp bởi các số đo hình thái và thành phần, kết quả cho rằng dòng ngô GA21 là
tương đương với ngô không biến đổi gen. Cả 2 ORF đã được kiểm tra về tính tương
đồng trình tự với độc tố và chất gây dị ứng. Không có ORF nào ở ngô GA21 nằm ở đầu
5’ của đoạn T-DNA giống với các protein được biết là những độc tố hoặc chất gây dị
ứng.
Số liệu về trình tự vùng 3’: Phân tích BLAST đoạn DNA của ngô GA21 nằm ở đầu 3’
của đoạn T-DNA hợp nhất trong hệ gen ngô cho thấy có sự tương đồng về trình tự
nucleotit của ngô trong ngân hàng gen của Trung tâm thông tin công nghệ sinh học
quốc gia (NCBI). Sàng lọc in silico đối với ORF tại vị trí gắn giữa hệ gen ngô và đoạn
T-DNA chèn được thực hiện như được mô tả đối với vùng đầu 5’ của ngô GA21. Theo
mô tả này, ba ORF được nhận biết tại đầu 3’ của đoạn T-DNA. Hai ORF được chứa
toàn bộ trình tự đầu 3’ của đoạn T-DNA ở ngô GA21. Trong khi các ORF này gồm
toàn bộ trình tự của ngô do nằm gần promoter actin tại vị trí đầu 3’ của đoạn T-DNA
của ngô GA21. Một ORF khác (ORF5) có nguồn gốc từ trình tự của hệ gen ngô GA21
nằm ở phần đầu 3’ của đoạn T-DNA và đoạn tiếp theo vào trong đoạn T-DNA. Các
ORF được kiểm tra về sự tương đồng trình tự với các độc tố và chất gây dị ứng được
biết đến, không có ORF nào trong vùng trình tự ở hệ gen ngô nằm ở phần đầu 3’ của
đoạn T-DNA tương đồng với các protein được biết là các độc tố hoặc chất gây dị ứng.
2.3. Sinh vật nhận gen
2.3.1. Mô tả về cây ngô/bắp (sinh vật nhận gen):
2.3.1.1. Đặc điểm hình thái, nông sinh học của ngô
Ngô hay còn gọi là bắp có tên khoa học là Zea mays L., thuộc chi Maydeae, họ hoà thảo
(Poaceae hay gramineae), bộ hoà thảo (Poales hay Graminales), lớp một lá mầm
(Monocotylens), ngành hạt kín (Angiospermatophyta), phân giới thực vật bậc cao
(Cosmobionia).
a) Nguồn gốc và phân bố:
- Ngô, trong tiếng Anh “maize” xuất phát từ tiếng Tây Ban Nha (maíz) là thuật ngữ
trong tiếng Taino để chỉ loài cây này, là từ thông dụng Vương quốc Anh để chỉ cây
ngô. Tại Hoa Kỳ, Canada và Australia, thuật ngữ hay được sử dụng là corn, là từ trước
đây dùng để gọi cho một loại cây lương thực, hiện nay thuật ngữ này dùng để chỉ cây
ngô, là dạng rút gọn của "Indian corn" là “cây lương thực của người Anh điêng”. Lịch
sử nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khảo cổ, di truyền học, thực vật học, dân tộc học và
địa lý học…quan tâm và đưa ra nhiều giả thuyết. Có giả thuyết cho là nguồn gốc cây
9
ngô khoảng năm 5.500 tới 10.000 trước công nguyên (TCN). Những nghiên cứu về di
truyền học gần đây cho rằng quá trình thuần hóa ngô diễn ra vào khoảng năm 7000
TCN tại miền trung Mexico và tổ tiên của nó là loại cỏ teosinte hoang dại gầngiống
nhất với ngô ngày nay v n còn mọc trong lưu vực sông Balsas. Liên quan đến khảo cổ
học, người ta cũng đã phát hiện các bắp ngô có sớm nhất tại hang Guila Naquitz trong
thung lũng Oaxaca, có niên đại vào khoảng năm 4.250 TCN, các bắp ngô cổ nhất trong
các hang động gần Tehuacan, Puebla, có niên đại vào khoảng 2750 TCN. Một số giả
thuyết cho rằng, có lẽ sớm nhất khoảng năm 1500 TCN, ngô bắt đầu phổ biến rộng và
nhanh, ngô là lương thực chính của phần lớn các nền văn hóa tiền Columbus tại Bắc
Mỹ, Trung Mỹ, Nam Mỹ và khu vực Caribe. Với người dân bản xứ tại đây, ngô được
suy tôn như bậc thần thánh và có tầm quan trọng về mặt tôn giáo do ảnh hưởng lớn của
nó đối với đời sống của họ.
- Việc gieo trồng ngô đã lan rộng từ Mexico vào tây nam Hoa Kỳ sau đó vào đông bắc
nước này cũng như đông nam Canada, làm biến đổi cảnh quan các vùng đất này do thổ
dân châu Mỹ đã dọn sạch nhiều diện tích rừng và đồng cỏ để trồng ngô. Ngô lan truyền
sang châu Âu và phần còn lại của thế giới sau khi có tiếp xúc của người châu Âu với
châu Mỹ
- Ngô được đưa vào châu Âu đầu tiên ở Tây Ban Nha trong chuyến thám hiểm thứ hai
của Columbus vào khoảng năm 1494. Người châu Âu đã nhận biết được giá trị của nó
và nhanh chóng phổ biến rộng rãi. Vào những năm đầu của thế kỷ XVI, bằng đường
thủy các tầu của Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italia đã đưa cây ngô ra hầu hết các lục
địa của thế giới cũ. Năm 1517, ngô xuất hiện ở Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Đức. sau đó
là nam châu Âu và Bắc Phi. Năm 1521, ngô đến Đông Ấn Độ và quần đảo Indonesia.
Vào khoảng năm 1575 ngô đến Trung Quốc.
- Ở Việt Nam, ngô là loại cây lương thực quan trọng thứ hai sau lúa. Ngô được trồng
khắp nơi, từ đồng bằng đến trung du và khá nhiều ở miền núi. Có nhiều loại ngô,
thường được xếp vào các loại khác nhau về cả tính chất và công dụng như ngô nếp (hạt
màu trắng, dẻo hạt), chủ yếu để ăn, ngô tẻ (hạt màu trắng hoặc vàng), cứng nhưng sản
lượng cao nên dùng làm thức ăn cho gia súc. hai loại là ngô đường (hạt màu vàng
không đều), vị ngọt và ngô rau (bắp nhỏ, ít tinh bột) dùng để ăn.
- Cây ngô ở Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc. Theo Lê Quý Đôn trong “Vân Đài
loại ngữ “ hồi đầu đời Khang Hi (1662-1762), Trần Thế Vinh, người huyện Tiên Phong
(Sơn Tây, phủ Quảng Oai) sang sứ nhà Thanh lấy được giống ngô đem về nước. Khắp
cả hạt Sơn Tây đã dùng ngô thay cho lúa gạo. Từ đó ngô được phổ biến và phát triển ra
khắp đất nước. Nhà nông có câu: “Được mùa chớ phụ ngô khoai”, điều đó đủ để thấy
rằng, mặc dù trong những năm tháng đã có đủ lúa gạo nhưng ngô v n giữ vai trò quan
trọng đối với người nông dân.
- Tuy nhiên, do là một nước có truyền thống sản xuất lúa gạo, trong một thời gian dài
ngô ít được chú ý mà chỉ những năm gần đây mới phát triển. Cuộc cách mạng về giống
10
ngô lai đã góp phần phần tăng nhanh diện tích, năng suất và sản lượng ngô toàn quốc,
đưa nước ta đứng vào hàng ngũ những nước trồng ngô lai tiên tiến của vùng châu Á.
b) Đặc tính thực vật học của ngô
Ngô (Zea mays L.) là cây nông nghiệp một lá mầm thuộc chi Zea, họ hòa thảo
(Poaceae hay còn gọi là Gramineae). Các giống ngô ở Việt Nam có những đặc điểm
như chiều cao cây, thời gian sinh trưởng, chống chịu sâu bệnh và thích ứng với điều
kiện ngoại cảnh khác nhau. Song cây ngô đều có những dặc điểm chung về hình thái,
giải ph u. Các bộ phận của cây ngô bao gồm: rễ, thân, lá, hoa (bông cờ, bắp ngô) và
hạt.
Rễ ngô: Ngô có hệ rễ chùm tiêu biểu cho bộ rễ các cây họ hòa thảo. Độ sâu và sự mở
rộng của rễ phụ thuộc vào giống, độ phì nhiêu và độ ẩm của đất. Ngô có 3 lọai rễ
chính: Rễ mầm, rễ đốt và rễ chân kiềng.
Rễ mầm (còn gọi là rễ mộng, rễ tạm thời, rễ hạt): gồm có: rễ mầm sơ sinh và rễ
mầm thứ sinh.
- Rễ mầm sơ sinh (rễ phôi): là cơ quan đầu tiên xuất hiện sau khi hạt ngô nảy mầm.
Ngô có một rễ mầm sơ sinh duy nhất. Sau một thời gian ngắn xuất hiện, rễ mầm sơ
sinh có thể ra nhiều lông hút và nhánh. Thường thì rễ mầm sơ sinh ngừng phát
triển, khô đi và biến mất sau một thời gian ngắn (sau khi ngô được 3 lá). Tuy nhiên
cũng có khi rễ này tồn tại lâu hơn, đạt tới độ sâu lớn để cung cấp nước cho cây
(thường gặp ở những giống chịu hạn).
- Rễ mầm thứ sinh: Rễ mầm thứ sinh c n được gọi là rễ phụ hoặc rễ mầm phụ. Rễ
này xuất hiện từ sau sự xuất hiện của rễ chính và có số lượng khoảng từ 3 đến 7.
Tuy nhiên, đôi khi ở một số cây không xuất hiện lọai rễ này. Rễ mầm thứ sinh cùng
với rễ mầm sơ sinh tạo thành hệ rễ tạm thời cung cấp nước và các chất dinh dưỡng
cho cây trong khoảng thời gian 2 - 3 tuần đầu. Sau đó vai tr này nhường cho hệ rễ
đốt.
Rễ đốt (còn gọi là rễ phụ cố định): phát triển từ các đốt thấp của thân, mọc vòng
quanh các đốt dưới mặt đất bắt đầu lúc ngô được 3 - 4 lá. Số lượng rễ đốt ở mỗi đốt
của ngô từ 8 - 16 . Rễ đốt ăn sâu xuống đất và có thể đạt tới 2,5m, thậm chí tới 5m,
nhưng khối lượng chính của rễ đốt v n là ở lớp đất phía trên. Rễ đốt làm nhiệm vụ
cung cấp nước và các chất dinh dưỡng suốt thời kỳ sinh trưởng và phát triển của
cây ngô.
Rễ chân kiềng (còn gọi là là rễ neo hay rễ chống): mọc quanh các đốt sát mặt
đất. Rễ chân kiềng to, nhẵn, ít phân nhánh, không có rễ con và lông hút ở phần trên
mặt đất. Ngoài chức năng chính là bám chặt vào đất giúp cây chống đỡ, rễ chân
kiềng cũng tham gia hút nước và thức ăn.
c) Thân ngô
11
- Thân ngô đặc và khá chắc, có đường kính từ 2-4 cm tùy thuộc vào giống, điều kiện
sinh thái và chăm sóc. Chiều cao của thân ngô khoảng 1,5-4 m. Thân chính của ngô có
nguồn gốc từ chồi mầm. Từ các đốt dưới đất của thân chính có thể phát sinh ra từ 1-10
nhánh (thân phụ) với hình dáng tương tự như thân chính.
- Thân ngô trưởng thành bao gồm nhiều lóng (dóng) nằm giữa các đốt và kết thúc bằng
bông cờ. Số lóng và chiều dài lóng là chỉ tiêu quan trọng trong việc phân loại các giống
ngô. Thường các giống ng8a1n ngày (thân cao 1,2-1,5 m) có khoàng 14-15 lóng; các
giống trung ngày (thân cao 1,8-2,0 m) có 18-20 lóng; các giống dài ngày (thân cao từ
2,0-2,5 m) khoảng 20-22 lóng. Nhưng không phải lóng nào cũng có bắp. Lóng mang
bắp có một sãnh dọc cho phép bắp bám và phát triển bình thường.
d) Lá ngô
Căn cứ vào vị trí trên thân và hình thái có thể chia lá ngô làm 4 loại:
- Lá mầm: Là lá đầu tiên khi cây còn nhỏ, chưa phân biệt được phiến lá với vỏ bọc
lá.
- Lá thân: Lá mọc trên đốt thân, có mầm nách ở kẽ chân lá.
- Lá ngọn: lá mọc ở ngọn, không có mầm nách ở kẽ lá.
- Lá bi: Là những lá bao bắp.
Lá ngô điển hình được cấu tạo bởi bẹ lá, bản lá (phiến lá) và lưỡi lá (thìa lìa, tai lá). Tuy
nhiên có một số loại không có thìa lìa làm cho lá bó, gần như thẳng đứng theo cây.
- Bẹ lá (còn gọi là cuống lá): Bao chặt vào thân, trên mặt nó có nhiều lông. Khi cây
còn non, các bẹ lá lồng gối vào nhau tạo thành thân giả bao phủ, bảo vệ thân chính.
- Phiến lá: Thường rộng, dài, mép lá lượn sóng, ở một số giống trên phiến lá có
nhiều lông tơ. Lá ở gần gốc ngắn hơn, những lá mang bắp trên cùng dài nhất và sau
đó chiều dài của lá lại giảm dần.
- Thìa lìa: Là phần nằm giữa bẹ lá và phiến lá, gần sát với thân cây. Tuy nhiên,
không phải giống ngô nào cũng có thìa lìa; ở những giống không có thìa lìa, lá ngô
gần như thẳng đứng, ôm lấy thân.
Số lượng lá, chiều dài, chiều rộng, độ dày, lông tơ, màu lá, góc lá và gân lá thay đổi tùy
theo từng giống khác nhau. Số lá là đặc điểm khá ổn định ở ngô, có quan hệ chặt với số đốt
và thời gian sinh trưởng. Những giống ngô ngắn ngày thường có 15 - 16 lá, giống ngô
trung bình: 18 - 20 lá, giống ngô dài ngày thường có trên 20 lá.
e) Bông cờ và bắp ngô
12
Ngô là loài cây có hoa khác tính cùng gốc. Hai cơ quan sinh sản: đực (bông cờ) và cái
(bắp) nằm ở những vị trí khác nhau trên cùng một cây.
Bông cờ (hoa đực): Hoa đực nằm ở đỉnh cây, xếp theo chùm gồm một trục chính và nhiều
nhánh. Hoa đực mọc thành bông nhỏ gọi là bông chét, bông con hoặc gié. Các gié mọc đối
diện nhau trên trục chính hay trên các nhánh. Mỗi bông nhỏ có cuống ngắn và hai vỏ nâu
hình bầu dục trên vỏ trấu (mày ngoài và mày trong) có gân và lông tơ. Trong mỗi bông nhỏ
có hai hoa: một hoa cuống dài và một hoa cuống ngắn. Một bông nhỏ có thể có một hoặc
ba hoa. Ở mỗi hoa có thể thấy dấu vết thoái hoá và vết tích của nhụy hoa cái, quanh đó có
ba chỉ đực mang ba nhị đực và hai mày cực nhỏ gọi là vẩy tương ứng với tràng hoa. Bao
quanh các bộ phận của một hoa có hai mày nhỏ - mày ngoài tương ứng với lá bắc hoa và
mày trong tương ứng với lá đài hoa.
Bắp ngô (hoa cái): Hoa tự cái (bắp ngô) phát sinh từ chồi nách các lá, song chỉ 1 - 3 chồi
khoảng giữa thân mới tạo thành bắp. Hoa có cuống gồm nhiều đốt ngắn, mỗi đốt trên
cuống có một lá bi bao bọc. Trên trục đính hoa cái (cùi, lõi ngô), hoa mọc từng đôi bông
nhỏ. Mỗi bông có hai hoa, nhưng chỉ có một hoa tạo thành hạt, còn một hoa thoái hóa. Phía
ngoài hoa có hai mày (mày ngoài và mày trong). Ngay sau mày ngoài là dấu vết của nhị
đực và hoa cái thứ hai thoái hoá; chính giữa là bầu hoa, trên bầu hoa có núm và vòi nhụy
vươn dài thành râu. Râu ngô thuôn dài trông giống như một búi tóc, ban đầu màu xanh lục
và sau đó chuyển dần sang màu hung đỏ hay hung vàng. Trên râu có nhiều lông tơ và chất
tiết làm cho hạt phấn bám vào và dễ nảy mầm.
f) Hạt ngô
Hạt ngô thuộc loại quả dính gồm 5 phần chính: vỏ hạt, lớp alơron, phôi, nội nhũ và chân
hạt. Vỏ hạt là một màng nhẵn bao xung quanh hạt. Lớp alơron nằm dưới vỏ hạt và bao lấy
nội nhũ và phôi. Nội nhũ là phần chính của hạt chứa các tế bào dự trữ chất dinh dưỡng.
Nội nhũ có 2 phần: nội nhũ bột và nội nhũ sừng. Tỷ lệ giữa nội nhũ bột và nội nhũ sừng
tùy vào chủng ngô, giống ngô.
Phôi ngô chiếm 1/3 thể tích của hạt và gồm có các phần: ngù (phần ngăn cách giữa nội nhũ
và phôi), lá mầm, trụ dưới lá mầm, rễ mầm và chồi mầm.
Các hạt ngô có kích thước cỡ hạt đậu Hà Lan, và bám chặt thành các hàng tương đối đều
xung quanh một lõi trắng để tạo ra bắp ngô. Mỗi bắp ngô dài khoảng 10 – 25 cm, chứa
khoảng 200 - 400 hạt. Các hạt có màu như ánh đen, xám xanh, đỏ, trắng và vàng.
2.3.1.2. Đặc tính sinh sản của ngô
a) Chu kỳ phát triển ngô
Thời gian sinh trưởng của cây ngô dài, ngắn khác nhau phụ thuộc vào giống và điều kiện
ngoại cảnh. Trung bình thời gian sinh trưởng từ khi gieo đến khi chín là 90 - 160 ngày. Sự
phát triển của cây ngô chia ra làm 2 giai đoạn:
13
- Giai đoạn sinh trưởng dinh dưỡng: Từ khi gieo đến khi xuất hiện nhị cái
- Giai đoạn sinh trưởng sinh thực: Bắt đầu với việc thụ tinh của hoa cái cho đến khi hạt
chín hoàn toàn. Có nhiều ý kiến khác nhau về thời gian sinh trưởng phát triể của cây ngô,
song có thể chia ra các thời kỳ sau: Thời kỳ nảy mầm, thời kỳ 3 - 6 lá, thời kỳ 8 - 10 lá,
thời kỳ xoáy nõn, thời kỳ nở hoa và thời kỳ chin.
b) Phương thức sinh sản
Ngô là loài cây có hoa khác tính cùng gốc. Hai cơ quan sinh sản: đực (bông cờ) và cái
(bắp) nằm ở những vị trí khác nhau trên cùng một cây.
Ngô là cây một lá mầm với hoa đực và hoa cái nằm ở các vị trí khác nhau trên cùng một
cây và chúng là cây thụ phấn chéo trong cùng một thế hệ. Tuy nhiên, tỉ lệ tự thụ trong ngô
được báo cáo là khoảng 5%. Hoa đực được mọc trên một cụm gọi là cờ nằm ở trên đỉnh
của thân ngô theo trục thẳng đứng, những nhánh phụ của cờ ngô mọc xoắn quanh một trục.
Hoa cái của ngô thì nằm bên trong một bao được bao bọc dưới lá bắc dưới và chúng mọc
lên từ một trong những nốt của thân ngô thông thường nằm ở giữa thân.
Thời kỳ xoáy nõn: Vào giai đoạn cây được 12 lá, số noãn (hạt thế năng) trên mỗi bắp và
độ lớn của bắp được xác định. Số hàng trên bắp đã được thiết lập. Các chồi bắp trên v n
còn nhỏ hơn các chồi bắp dưới, nhưng đang tiến tới sát dần nhau về độ lớn. Điều kiện quan
trọng cần được đảm bảo ở giai đoạn này là độ ẩm và chất dinh dưỡng , sự thiếu hụt của các
yếu tố này d n đến sự giảm sút nghiêm trọng số hạt tiềm năng và độ lớn của bắp. Các
giống ngô lai chín sớm thường có bắp nhỏ hơn nên cần được trồng với mật độ cây cao hơn
giúp chúng đảm bảo được lượng hạt tương đương với các giống lai chín muộn trên cùng
đơn vị diện tích.
Giai đoạn cây được 15 lá là giai đoạn quyết định đến năng suất hạt. Các chồi bắp phía trên
vượt hơn các chồi bắp phía dưới. Sau 1 - 2 ngày lại hình thành một lá mới. Râu ngô bắt
đầu mọc từ những bắp phía trên. Ở đỉnh của bẹ lá bao quanh, một số chồi bắp trên cũng đã
bắt đầu xuất hiện. Đỉnh của bông cờ cũng có thể nhìn thấy (Nguồn: Viện nghiên cứu ngô).
Trong giai đoạn này, sự đảm bảo đủ nước là điều kiện quan trọng nhất để có được năng
suất hạt tốt. Rễ chân kiềng bắt đầu mọc ra từ các đốt trên mặt đất khi cây được 18 lá.
Chúng giúp cây chống đổ và hút nước, chất dinh dưỡng ở những lớp đất bên trên trong giai
đọan sinh thực. Râu ngô mọc từ noãn đáy bắp rồi đến râu từ đỉnh bắp và tiếp tục phát triển.
Bắp ngô cũng phát triển nhanh chóng. Cây ngô lúc này đang ở vào khoảng 1 tuần trước lúc
phun râu.
Thời kỳ nở hoa: Thời kỳ này bao gồm các giai đoạn: Trỗ cờ, tung phấn, phun râu, thụ tinh
và mẩy hạt
- Giai đoạn trổ cờ: Bắt đầu khi nhánh cuối cùng của bông cờ đã thấy hoàn toàn, còn râu thì
chưa thấy. Đây là giai đoạn trước khi cây phun râu khoảng 2 - 3 ngày. Cây ngô hầu như đã
đạt được độ cao nhất của nó và bắt đầu tung phấn. Tùy thuộc vào giống và điều kiện bên
14
ngoài mà thời gian giữa tung phấn và phun râu có thể dao động khác nhau. Ở điều kiện
ngoài đồng, tung phấn thường xuyên xảy ra vào cuối buổi sáng và đầu buổi chiều. Giai
đoạn tung phấn thường kéo dài từ 1 đến 2 tuần. Trong thời gian này từng sợi râu cá thể có
thể phun ra để thụ tinh nếu như hạt đã phát triển. Thời kỳ này bông cờ và toàn bộ lá đã
hoàn thiện nên nếu gặp mưa đá thì lá sẽ rụng hết sẽ d n đến mất hoàn toàn năng suất hạt.
- Giai đoạn phun râu: Giai đoạn này bắt đầu khi một vài râu ngô đã được nhìn thấy bên
ngoài lá bi. Khi những hạt phấn rơi được giữ lại trên những râu tươi, mới này thì quá trình
thụ phấn xảy ra. Hạt phấn được giữ lại cần khoảng 24 giờ để thâm nhập vào từ râu cho đến
noãn - nới xảy ra thụ tinh và noãn trở thành hạt. Thường thường, tất cả râu trên 1 bắp phun
hết và thụ phấn hết trong khoảng 2 - 3 ngày. Râu mọc khoảng 2,5 - 3,8 cm mỗi ngày và
tiếp tục kéo dài đến khi được thụ tinh. Noãn hay hạt ở giai đoạn phun râu hầu như hoàn
toàn chìm trong các vật liệu cùi bao quanh (mày, mày dưới, lá bắc nhỏ) và ở bên ngoài có
màu trắng. Vật liệu bên trong của hạt biểu hiện trong và hơi lỏng. Phôi hoặc mầm c n chưa
thấy rõ. Đây là thời gian quyết định số noãn sẽ được thụ tinh. Những noãn không dược thụ
tinh sẽ không cho hạt và bị thoái hóa. Ở giai đoạn này cần theo dõi các loại sâu hại rễ ngô,
sau ăn rau và xử lý kịp thời. Nhu cầu về kali của cây đã đủ, c n đạm và lân được hút
nhanh.
- Quá trình thụ phấn, thụ tinh và hình thành hạt ngô: Ngô là cây giao phấn (thụ phấn
chéo), sự giao phấn này được thực hiện chủ yếu nhờ gió và côn trùng. Khi hoa đực chín,
các mày của nó phồng lên, các chỉ nhị dài ra, bao phấn tách ra khỏi hoa và tung ra các hạt
phấn hình trứng có đường kính khoảng 0,1mm. Mỗi bông cờ có 2 hoa, mỗi hoa có 3 nhị
đực, mỗi nhị đực có một bao phấn, mỗi bao phấn có 2 ô và trong mỗi ô có khoảng 1000 -
2500 hạt phấn. Như vậy tổng cộng mỗi bông cờ cho 10 - 13 triệu hạt phấn. Khi bắt đầu nở,
các hoa ở 1/3 phía đỉnh trục chính tung phấn trước, sau đó theo thứ tự từ trên xuống và từ
ngoài vào trong. Một bông cờ trong mùa xuân, hè đủ ấm thường tung phấn trong 5 - 8
ngày; mùa lạnh, khô có thể kéo dài 10 - 12 ngày. Thời gian phun râu của hoa cái thường
sau tung phấn của hoa đực 1 - 5 ngày tuỳ thuộc vào giống và điều kiện tự nhiên. Tuy
nhiên, cũng có khi râu phun trước tung phấn. Ở điều kiện Việt Nam, râu phun trong
khoảng thời gian từ 5 - 12 ngày. Trên một bắp hoa cái, gần cuống bắp phun râu trước rồi
tiếp đến đỉnh bắp. Trên một cây, bắp trên thường phun râu trước bắp dưới 2 - 3 ngày. Hạt
phấn từ bông cờ rơi trên râu ngô 5 - 6 giờ thì bắt đầu nảy mầm. Ống phấn mọc dài và đi
dọc theo chiều dài của râu ngô đến tận túi phôi. Tế bào phát sinh trong hạt phấn phân chia
nguyên nhiễm sinh ra hai tinh trùng di chuyển ra phía đầu ống phấn, khi noãn đầu ống vỡ
ra, phóng hai tinh trùng vào trong noãn, ở đây quá trình thụ tinh diễn ra.
- Giai đoạn mẩy hạt (10 - 14 ngày sau phun râu): Hạt có dạng hình mẩy và bên ngoài có
màu trắng. Nội nhũ và chất lỏng bên trong có màu trong và có thể thấy phôi rất nhỏ. Rễ
mầm, bao lá mầm và lá phôi đầu tiên đã được hình thành mặc dù phôi còn phát triển chậm.
Nhiều hạt đã mọc ra ngoài, các vật liệu bao quanh của cùi ở hạt và cùi đã gần như đạt tới
kích thước cuối cùng. Râu ngô đã hoàn thành chức năng ra hoa, đang thâm màu và bắt đầu
khô. Trong nội nhũ loãng của hạt bắt đầu tích luỹ tinh bột. Hạt bắt đầu giai đoạn tích luỹ
15
chất khô nhanh, chắc và bắp đầy hạt dần. Mặc dù tổng lượng đạm và lân trong cây đang
c n tích lũy nhanh, nhưng những chất dinh dưỡng này đang bắt dầu di chuyển từ các phần
dinh dưỡng sang các bộ phận sinh thực. Hạt có khoảng 85% độ ẩm, độ ẩm của hạt giảm
dần cho đến thu hoạch.
Thời kỳ chín:
- Giai đoạn chín sữa (18 - 22 ngày sau phun râu): Hạt bên ngoài có màu vàng và chất lỏng
bên trong như sữa trắng do đang tích lũy tinh bột. Phôi phát triển nhanh dần. Phần lớn hạt
đã mọc ra ngoài vật liệu bao quanh của cùi. Râu có màu nâu, đã hoặc đang khô. Do độ tích
lũy chất khô trong hạt nhanh nên hạt lớn nhanh, độ ẩm khoảng 80%. Sự phân chia tế bào
trong nội nhũ của hạt cơ bản hoàn thành, tế bào phồng lên và đầy lên bằng tinh bột.
- Giai đoạn chín sáp (24 - 28 ngày sau phun râu): Tinh bột tiếp tục tích lũy bên trong nội
nhũ làm chất sữa lỏng bên trong đặc lại thành bột hồ. 4 lá phôi đã được hình thành. Cùi tẽ
hạt có màu hồng nhạt đến hồng do các vật liệu bao quanh hạt đổi màu. Vào khoảng giữa
giai đoạn này, bề ngang của phôi bằng quá nửa bề rộng của hạt. Chất lỏng giảm dần và độ
cứng của hạt tăng lên sinh ra trạng thái sáp của hạt. Sau đó, những hạt dọc theo chiều dài
của bắp bắt đầu có dạng răng ngựa hoặc khô ở đỉnh. Lá phôi thứ 5 (cuối cùng) và các rễ
mầm thứ sinh được hình thành.
- Giai đoạn hình thành răng ngựa (35 - 42 ngày sau phun râu): Tuỳ theo chủng mà các hạt
đang hình thành răng ngựa hoặc đã có dạng răng ngựa. Cùi đã tẽ hạt có màu đỏ hoặc trắng
tuỳ theo giống. Hạt khô dần bắt đầu từ đỉnh và hình thành một lớp tinh bột nhỏ màu trắng
cứng. Lớp tinh bột này xuất hiện rất nhanh sau khi hình thành răng ngựa như một đường
chạy ngang hạt. Hạt càng già, lớp tinh bột càng cứng và đường vạch càng tiến về phía đáy
hạt (phía cùi). Vào đầu giai đoạn này hạt có độ ẩm khoảng 55%. Ở giai đoạn này, nếu gặp
thời tiết lạnh, chất khô trong hạt có thể ngừng tích luỹ và lớp đen trên các hạt hình thành
quá sớm. Điều này d n đến sự giảm năng suất và trì hoãn công việc thu hoạch do ngô khô
chậm khi gặp lạnh. Để hạn chế thiệt hại do tác động của lạnh, nên chọn giống chín khoảng
3 tuần trước ngày lạnh gây tác hại đầu tiên ở mức trung bình.
- Giai đoạn chín hoàn toàn - chín sinh lý (55 - 65 ngày sau phun râu): Sự tích luỹ chất khô
trong hạt đạt mức tối đa và tất cả các hạt trên bắp cũng đã đạt trọng lượng khô tối đa của
nó. Lớp tinh bột đã hoàn toàn tiến đến cùi và sẹo đen hoặc nâu đã hình thành. Lớp đen này
bắt đầu hình thành từ các hạt đỉnh bắp đến các hạt đáy bắp. Hạt ngô lúc này ở thời điểm
chính sinh lý và kết thúc sự phát triển. Lá bi và nhiều lá không còn xanh nữa. Độ ẩm của
hạt ở thời gian này tuỳ thuộc vào giống và điều kiện môi trường, trung bình khoảng 30 -
35%. Nếu thu hoạch ngô cho ủ chua (si-lô) thì đây là thời điểm thích hợp. C n bình thường
nên để ngô ở ngoài đồng một thời gian nữa, lúc cả cây ngô đã ngả màu vàng để hạt ngô đủ
khô (ở ngô tẻ độ ẩm khoảng 13 - 15%) để hạt cất giữ được an toàn.
2.3.1.3. Lịch sử sử dụng sinh vật nhận
a) Lịch sử được thuần hóa, trồng trọt
16
Ngô trồng hiện nay được tiến hóa từ chi Cỏ ngô là một nhóm các loài cỏ lớn với danh
pháp khoa học Zea, được tìm thấy tại Mexico, Guatemala và Nicaragua. Các loài trong
chi Zea bị ấu trùng của một số loài côn trùng trong bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) phá hại,
như Spodoptera frugiperda; Helicoverpa zea; Diatraea và Chilo spp. (tại châu Mỹ);
còn tại Cựu thế giới là Gymnoscelis rufifasciata, Agrotis clavis, Agrotis exclamationis,
Hypercompe indecisa, Apamea sordens, Xestia c-nigrum, Agrotis segetum, Ostrinia
nubilalis v.v.
Các loài Cỏ ngô có thể kể ra như sau:
Zea diploperennis
Zea luxurians
Zea mays
Zea mays huehuetenangensis
Zea mays mays (ngô)
Zea mays mexicana
Zea mays parviglumis
Zea nicaraguensis
Zea perennis
Trong đó Zeamays chính là loài ngô được thuần hóa và sử dụng ngày nay.
Quá trình tiến hóa của ngô: Cỏ ngô là thành phần cực kỳ quan trọng trong quá trình tiến
hóa của ngô, nhưng các quan điểm về quá trình này lại rất khác nhau. Theo một mô hình
tiến hóa thì ngô đã phát triển lên trực tiếp từ Zea mays parviglumis bằng chọn lựa với các
đột biến quan trọng; tới 12% thành phần bộ gen của nó có từ Zea mays mexicana thông qua
trao đổi gen. Mô hình khác lại cho rằng ngô dại với các tai nhỏ đã được thuần hóa, và sau
khi được phát tán từ miền đông Trung Mexico, dạng lai ghép giữa ngô dại này với Z.
luxurians hoặc Z. diploperennis đã tạo ra sự bùng nổ lớn trong sự đa dạng gen của ngô,
hình thái tai và lõi, khả năng thích nghi với các môi trường sống mới, cũng như năng suất
cây trồng được gia tăng. Mô hình thứ ba cho rằng ngô nguyên thủy là kết quả lai ghép chéo
giữa Z. diploperennis và các loài cỏ trong chi Tripsacum; nhưng hỗ trợ cho giả thuyết này
là rất ít.
Trong chi Zea này hiện tại người ta công nhận 5 loài cỏ ngô: Zea diploperennis, Zea
luxurians, Zea nicaraguensis, Zea perennis và Zea mays. Loài cuối cùng này được chia
tiếp thành 4 phân loài là: huehuetenangensis, mexicana, parviglumis và mays, trong đó ba
phân loài đầu là cỏ ngô, c n phân loài cuối cùng là ngô, loại cây duy nhất trong chi này
được con người gieo trồng làm lương thực hay thức ăn cho gia súc. Chi này đôi khi cũng
17
được chia ra thành 2 nhánh (sectio), là nhánh Luxuriantes, bao gồm 4 loài đầu tiên, và
nhánh Zea với loài duy nhất là Zea mays. Nhánh thứ nhất có đặc trưng là các chỗ phồng
s m màu cấu thành từ heterochromatin ở cuối ở mỗi nhánh nhiễm sắc thể, trong khi phần
lớn các phân loài của nhánh Zea có thể có 0-3 chỗ phồng giữa mỗi đoạn cuối của nhiễm
sắc thể và trung đoạn và rất ít chỗ phồng ở cuối (ngoại trừ phân loài huehuetenangensis có
nhiều chỗ phồng lớn ở cuối).
Các loài trong chi này có thể là cây một năm l n cây lâu năm. Zea diploperennis và Z.
perennis là cây lâu năm, trong khi các loài c n lại là cây một năm. Gần như tất cả các loài
đều là lưỡng bội (n=10) với ngoại lệ là Z. perennis (tứ bội (n=20)). Các loài và phân loài cỏ
ngô có thể dễ dàng phân biệt dựa trên các khác biệt về hình thái, di truyền học tế bào,
protein và ADN cũng như trên cơ sở nguồn gốc địa lý, cho dù hai loài lâu năm là cùng khu
vực phân bổ và khá giống nhau. Phân loài cỏ ngô khó xử nhất là Zea mays
huehuetenangensis, kết hợp các đặc trưng hình thái tương tự như của Zea mays
parviglumis với nhiều chỗ phồng cuối của nhiễm sắc thể và vị trí trung gian giữa hai
nhánh. Phân loài cỏ ngô khác biệt nhất về hình thái và bị đe dọa nhiều nhất là Zea mays
nicaraguensis, chỉ phát triển trong điều kiện ngập lụt dọc theo 200 mét cửa một con sông
nhỏ ở tây bắc Nicaragua.
Như từ tên gọi có thể thấy, các loài/phân loài cỏ ngô tương tự như ngô ở nhiều điểm, đáng
chú ý nhất là hình thái của cờ (cụm hoa đực) của chúng. Điểm khác biệt đáng chú ý nhất
giữa cỏ ngô và ngô là chúng có nhiều nhánh, mỗi nhánh mang các chùm hoa cái nhỏ và
khác biệt. Mỗi chùm hoa này khi phát triển thuần thục sẽ tạo ra một 'tai' hai cấp gồm 5-10
đoạn rời hình tam giác hay hình thang, màu đen hay nâu, mỗi đoạn chứa một hạt. Mỗi hạt
được che phủ bằng lớp vỏ quả rất cứng, bao gồm một quả đấu hay chỗ lõm xuống trong
cuống và mày thấp và cứng. Lớp vỏ này bảo vệ hạt không bị tiêu hóa trong ruột của các
loài động vật nhai lại và giúp cho việc phát tán hạt khi chúng bị thải ra theo phân. Hạt cỏ
ngô khó nảy mầm nhưng sẽ nhanh chóng nảy mầm nếu được xử lý bằng dung dịch loãng
của perôxít hiđrô.
Tất cả các loài cỏ ngô Nicaragua có thể mọc trong hay rất gần với các cánh đồng trồng
ngô, tạo cơ hội cho việc lai tạp giữa ngô và cỏ ngô. Các thế hệ lai ghép đầu-cuối hay được
tìm thấy trong các đồng ngô này, nhưng tỷ lệ trao đổi gen là khá thấp. Một vài quần thể
Zea mays mexicana có hình dáng bề ngoài giống như ngô trong các cánh đồng trồng ngô,
có lẽ là kết quả của quá trình tiến hóa dưới áp lực từ việc diệt cỏ dại có chọn lọc từ phía
người nông dân. Tại một vài khu vực thuộc Mexico, cỏ ngô bị các nông dân chuyên trồng
ngô coi là một loại cỏ dại khó tiêu diệt, trong khi tại một số khu vực khác thì người ta lại
coi chúng như là cây đồng hành có ích, và khuyến khích việc chuyển gen từ cỏ ngô sang
ngô của họ.
Trên thực tế tất cả các quần thể cỏ ngô hiện đang ở tình trạng bị đe dọa hay nguy cấp: Zea
diploperennis tồn tại trong khu vực chỉ vài dặm vuông; Zea nicaraguensis hiện c n khoảng
6.000 cây trong khu vực 200 x 150 mét. Trong những năm gần đây, chính quyền Mexico
và Nicaragua đã có một số hành động nhằm bảo vệ các quần thể cỏ ngô hoang dã, bằng
18
cách sử dụng các phương pháp bảo tồn in situ (tại chỗ) và ex situ (không tại chỗ). Hiện tại,
có một lượng lớn sự chú ý, quan tâm từ giới khoa học đối với các đặc trưng có ích của cỏ
ngô, như khả năng kháng côn trùng, khả năng sống lâu năm và chịu ngập lụt, nhằm cải tạo
các giống ngô, mặc dù điều này là cực kỳ khó khăn do nó cũng kèm theo các đặc trưng có
hại của cỏ ngô.
Ngô chỉ lan truyền gen tới các loài thực vật khác tương thích về sinh sản và điều này chỉ có
thể xảy ra ở những nơi mà có các loài họ hàng hoang dại của ngô mọc tại đó như Mexico
và Guatemala (EEA, 2002).
Khả năng sống sót của ngô ngoài môi trường: Ngô ngày nay là một loại cây trồng đã
được thuần hóa cao và không thể tồn tại mà không có sự can thiệp của con người (Niebur,
1993). Ngô là loại cây trồng một năm, do cấu trúc đặc thù của bắp nên chúng không thể
phát tán nếu như không có tác động cơ học để tách ra từ lõi và hầu như hạt ngô không có
giai đoạn ngủ nghỉ. Không tồn tại sự tái sinh từ các bộ phận khác của cây ở điều kiện môi
trường tự nhiên.
Sự sống của cây ngô phụ thuộc vào các điều kiện như nhiệt độ, độ ẩm hạt giống, kiểu gen,
sự bảo vệ của vỏ và giai đoạn phát triển. Ngô không phải là loại cỏ dại tồn tại dai dẳng. Hạt
giống ngô chỉ có thể tồn tại dưới một phạm vi hẹp của điều kiện khí hậu. Những cây tự
mọc rễ ràng bị chết do lạnh, hoặc rễ ràng kiểm soát bằng các phương pháp nông học thông
thường như canh tác đất và sử dụng các chất diệt cỏ chọn lọc (Niebur, 1993). Ngô không
có khả năng duy trì sinh sản nếu không có sự canh tác của con người và không xâm hại
môi trường sống tự nhiên (OECD, 2003).
b) Lịch sử sử dụng làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi
Tùy mỗi loại ngô khác nhau mà chúng được sử dụng cho các mục đích khác nhau. Ngô có
thể dùng trong chế biến thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, làm nguyên liệu chất đốt, nguyên
liệu trong công nghiệp và làm thuốc chữa bệnh.
Toàn thế giới sử dụng 21% sản lượng ngô làm lương thực cho người trong đó nhiều nước
sử dụng ngô là lương thực chính. Khẩu phần ăn ở các nước châu Mỹ La Tinh là bánh ngô,
đậu đỗ và ớt giống như các nước châu Á sử dụng cơm (gạo), cá, rau xanh và các nước châu
Âu sử dụng bánh mỳ, khoai tây, sữa.
Ở Việt Nam, ngô là loại lương thực quan trọng thứ 2 sau lúa gạo. Hạt ngô có thể xay nhỏ
nấu với gạo thành cơm hoặc chế biến thành các món ăn như xôi ngô, ngô bung, nhiều vùng
miền núi thường bung ngô nếp với đậu đen ăn thay cơm, xay hạt ngô thành bột nấu bánh
đúc ngô…Ngô sử dụng làm thực phẩm như ngô bao tử xào thịt, súp ngô, chè ngô, cháo
ngô, ngô luộc, ngô hấp ngô rang, ngô nướng, kẹo ngô, bột dinh dưỡng ngô, rượu ngô…
Ngô làm thức ăn chăn nuôi: Từ ngô hạt có thể xay vỡ nuôi gia cầm (gà, vịt, ngan,
ngỗng…), nghiền thành bột và chế biến làm thức ăn cho trâu b , lợn và gia cầm, chế biến
19
thức ăn cho cá... Thân lá ngô có thể cho trâu b ăn tươi, sau khi thu hoạch (nhất là ngô thu
bắp non) băm nhỏ ủ chua làm thức ăn cho gia súc.
Chế biến thức ăn chăn nuôi từ ngô: Ngô nghiền thành bột và có thể trộn theo thành phần
và tỷ lệ khác nhau với bột sắn (khoai mỳ), cám gạo, khô dầu lạc, khô dầu đậu tương, bột
cá, vỏ tôm, vỏ s …để chế biến làm các loại thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản…
Giá trị dinh dưỡng của thân, lá ngô ngô khá lớn, phụ thuộc vào giống ngô và thời vụ thu
hoạch. Trong 1 kg thân cây ngô có 600 - 700 g chất khô, 60 - 70 g protein, 280 - 300 g xơ.
Do vậy, thân, lá ngô là nguồn thức ăn thô quan trọng cho trâu bò ở nhiều vùng. Giá trị dinh
dưỡng thân, lá ngô c n tăng lên nếu được chế biến theo cách lên men ủ chua.
2.3.2. Đặc điểm giống ngô nền (NK66)
Giống ngô NK66 là giống ngô lai đơn đã được cho phép thương mại hóa ở Việt Nam từ
năm 2006. NK66 là giống quốc gia, thích nghi rộng và có thể trồng trên tất cả các vùng
sinh thái và mùa vụ khác nhau. Giống cho năng suất cao, ổn định và được nông dân và
người tiêu dùng ưa chuộng với diện tích trồng năm 2010 vào khoảng 70000 ha/1.1 triệu ha
ngô.
Sau đây là một số đặc điểm nông sinh học và chế độ canh tác cho ngô NK66 ở Việt Nam:
- Thời gian sinh trưởng: 95-100 ngày
- Dạng hình cây gọn, bộ lá đứng
- Lá bi bao kín trái bắp
- Bắp to, hạt hình trụ có 14-16 hàng hạt/bắp
- Khả năng thích ứng rộng
- Cho năng suất 12-14 tấn/ha
- Sử dụng để chế biến thức ăn gia súc, gia cầm
Yêu cầu kỹ thuật trồng trọt:
- Thời vụ trồng: Trồng nhiều vụ trong năm: Vụ Xuân, Hè, vụ Đông ở Miền Bắc và
các vụ ở phía nam
- Mật độ: Gieo mỗi hốc một hạt; khoảng cách trồng 70 x 25 cm hoặc 75 x 20 cm, mật
độ 57000 – 66000 cây/ha.
- Phân bón
Loại phân Sào Bắc bộ
(360 m2)
Sào Trung bộ
(500 m2)
1000 m2 1 ha
Phân chuồng 180-360 kg 250-500 kg 500-1000 kg 5000-10000 kg
Đạm Urea 11-15 kg 15-20 kg 30-40 kg 300-400 kg
Super Lân 15-18 kg 20-25 kg 40-50 kg 400-500 kg
Kali 4-6 kg 6-8 kg 11-15 kg 110-150 kg
20
- Cách bón: Bón lót toàn bộ phân chuồng và phân lân
Thúc lần 1: lúc cây con có 3-4 lá, bón 1/3 lượng Urea +1/3 lượng kali
Thúc lần 2: Lúc cây 7-9 lá, bón 1/3 lượng Urea + 1/3 lượng Kali
Thúc lần 3: lúc cây xoắn ngọn, trước trổ cờ 3-5 ngày, bón hết lượng phân còn
lại
- Phòng trừ sâu bệnh:
Phòng sâu xám: xử lý hạt giống bằng Cruiser Plus 321.5 FS trước khi gieo
Phòng trừ bệnh khô vằn: dùng thuốc Anvil 5 SC
Thu Hoạch: Thu hoạch như các giống ngô thông thường khác.
2.4. Biểu hiện protein biến đổi trong cây ngô GA21
2.4.1. Tính trạng, điểm khác biệt giữa ngô GA21 và ngô không chuyển gien
Để đánh giá các tính trạng nông học, các giống ngô mang sự kiện GA21 được khảo
nghiệm bởi Syngenta ở 8 vùng, 3 bang trong năm 2004 tại Hoa Kỳ. Có tới 20 tính trạng
khác nhau được đánh giá mặc dù không phải tất cả các tính trạng được ghi nhận trong
tất cả các vùng. Hai dòng ngô lai GA21 thương mại và các dòng ngô lai không biến đổi
gen có kiểu gen tương đồng được so sánh. Hầu hết các tính trạng nông học được đánh
giá không có sự khác nhau đáng kể về thống kê giữa các dòng ngô lai có nguồn gốc
GA21 và ngô lai đối chứng không biến đổi gen cùng dòng.
Khảo nghiệm đánh giá các bệnh phổ biến trên ngô cũng được tiến hành năm 2004 tại
Hoa Kỳ về khả năng nhạy cảm bệnh của các d ng ngô lai GA21 và d ng đối chứng
không biến đổi gen cùng dòng với tác nhân nấm gây tàn lụi lá ngô (Helminthosporiunm
maydis) và đốm lá nấm (Cercosspora zeae - maydis) được đánh giá. Không có dấu hiệu
nào khác nhau về khả năng nhậy với bệnh hại giữa ngô lai truyền thống và ngô lai
nguồn gốc GA21.
Như vậy, trong lĩnh vực canh tác các đặc tính nông sinh học của ngô chuyển gen GA21
là tương tự như ngô không chuyển gen cùng dòng/giống, đặc điểm duy nhất có thể phân
biệt là khi phun thuốc trừ cỏ có chứa hoạt chất Glyphosate thì ngô chuyển gen GA21
v n sinh trưởng và phát triển bình thường trong khi ngô không chuyển gen sẽ bị chết
hoàn toàn sau khi phun Glyphosate từ 5 đến 7 ngày.
2.4.2. Biểu hiện protein biến đổi (mEPSPS) trong cây ngô GA21
Như đã trình bày ở trên, sự khác biệt của ngô GA21 với ngô cùng dòng không chuyển gen
là sự có mặt của enzyme biến đổi mEPSPS là gen lấy từ ngân hàng gen của ngô dạng dại
được công nhận là protein có đặc tính an toàn, khi ngô GA21 có mặt của gen này thì
21
protein này có khả năng sinh ra để chống lại sự gây hại từ thuốc trừ cỏ chứa hoạt chất
Glyphosate, do vậy sự biểu hiện tính trạng của gen được chuyển trong ngô GA21 chính là
tính chống thuốc cỏ trừ cỏ không chọn lọc gốc glyphosate và là biểu hiện của enzyme hay
protein mEPSPS.
Bảng 4: Nồng độ m PSPS trên m u đo c n tươi trên c y nhận được từ ngô GA21
Mô
Nguyên
sinh chất1
Giai đoạn phát triển
Ra lá Nở hoa Hạt chín Cây già
Phạm vi trung bình m PSPS μg/g gam chất tươi +/- S.D.2
Lá
115TT-189 11,98 +/- 1,70
(10,44 –
14,53)
14,94 +/- 2,42
(12,36 –
17,57)
< 0,46
(<LOQ –
0,87)
< 0,24 N-4
(<LOQ)
47TT-593 10,44 +/- 1,75
(8,63 – 13,22)
12.73 +/- 2.07
(9,92 – 15,47)
< 0,29
(<LOQ –
0,41)
< 0,24
(<LOQ)
Rễ
115TT-189 6,71 +/- 1,11
(5,57 – 8,44)
6,72 +/- 0,65
(6,07 – 7,71)
3,05 +/- 1,22
(2,20 – 5,15)
2,21 +/- 1,99
(0,81 – 5,66)
47TT-593 5,98 +/- 1,01
(5,33 – 7,76)
5,73 +/- 1,63
(3,71 – 7,16)
3,61 +/- 1,66
(1,50 – 5,11)
< 2,36
(<LOQ –
4,04)
Hạt
115TT-189 N/A3 N/A 6,61 +/- 1,35
(4,93 – 8,60)
7,40 +/- 1,09
(5,86 – 8,65)
47TT-593 N/A N/A 7,01 +/- 1,43
(5,37 – 8,54)
3,87 +/- 1,09
(2,53 – 5,39)
Hạt phấn 4
115TT-189 N/A 158,37 N/A N/A
47TT-593 N/A 177,91 N/A N/A
Toàn bộ
cây
115TT-189 7,20 +/- 1,12
(6,19 – 9,03)
9,60 +/- 0,89
(8,51 – 10,48)
5,31 +/- 0,71
(4,34 – 6,33)
5,17 +/- 1,89
(3,49 – 7,48)
47TT-593 7,07 +/- 0,77
(6,12 – 8,08)
7,70 +/- 1,06
(6,52 – 8,77)
3,36 +/- 0,44
(2,94 – 4,09)
4,96 +/- 0,98
(3,21 – 5,47)
1 Nồng độ EPSPS trong mẫu đối chứng âm là <LOQ hoặc <LOD ở thí nghiệm pha loãng
tương tự mà mEPSPS đượ đ n ượng t ng mẫu gen chuyển đổi tương ứng và không có
trong bảng.
2 N=5. Những giá tr nhận đượ xá đ nh bằng ELISA và k ông được hiệu chỉnh cho hiệu
suất phân tích. Giá tr t ung bìn đi t ước bởi "<" (nhỏ ơn) ỉ ra rằng LOQ ướ ượng
đượ dùng để tượng t ưng một hoặc nhiều mẫu khi tính giá tr trung bình.
3 N/A = loại mô k ông được phân tích ở giai đ ạn này
4 Một mẫu dùng ung được phân tích n ư n ận đượ (p ơi k ô qua đêm).
22
Bảng 5a: Nồng độ mEPSPS trên một m u đo khô trong cây ngô GA21
Mô
Nguyên sinh
chất1
Giai đoạn phát triển
Ra lá Ra hoa Hạt chín Cây già
Phạm vi trung bình m PSPS μg/g gam chất khô +/- S.D.2
Lá
115TT-189 70,41 +/-
10,01
(58,03 –
80,53)
70,94 +/-
11,22
(58,37 –
81,93)
< 1,02
(<LOQ –
2,29)
< 0,30 N-4
(<LOQ)
47TT-593 57,48 +/-
9,71
(47,89 –
72,42)
56,96 +/-
9,91
(43,68 –
69,95)
< 0,56
(<LOQ –
0,72)
< 0,30
(<LOQ)
Rễ
115TT-189 43,83 +/-
4,56
(39,22 –
50,30)
43,00 +/-
4,50
(35,65 –
46,50)
17,19 +/-
7,19
(11,72 –
28,93)
12,44 +/-
10,40
(4,47 – 30,44)
47TT-593 35,89 +/-
3,69
(30,54 –
40,16)
36,30 +/-
4,46
(30,65 –
44,16)
18,26 +/-
8,41
(8,60 –
26,27)
< 13,95
(<LOQ –
22,54)
Hạt
115TT-189 N/A3 N/A 9,54 +/- 2,05
(7,25 –
12,39)
9,50 +/- 1,41
(7,36 – 10,92)
47TT-593 N/A N/A 10,23 +/-
1,89
(7,82 –
12,25)
4,80 +/- 1,33
(3,25 – 6,65)
Toàn bộ
cây
115TT-189 67,71 +/-
14,66
(52,66 –
92,26)
63,23 +/-
7,69
(54,47 –
75,39)
13,38 +/-
2,32
(10,49 –
16,39)
11,93 +/- 6,18
(6,02 – 19,28)
47TT-593 62,33 +/-
6,38
(54,18 –
71,63)
47,74 +/-
6,79
(39,23 –
55,10)
8,08 +/- 2,60
(5,48 –
12,24)
9,17 +/- 2,40
(7,07 – 13,12)
1 Nồng độ EPSPS trong mẫu đối chứng âm là <LOQ hoặc <LOD ở thí nghiệm pha loãng
tương tự mà mEPSPS đ n ượng được trong mẫu gen chuyển đổi tương ứng và không có
trong bảng. 2 N=5. Những giá tr nhận đượ xá đ nh bằng ELISA và k ông được hiệu chỉnh cho hiệu
suất phân tích. Giá tr t ung bìn đi t ước bởi "<" (nhỏ ơn) ỉ ra rằng LOQ ướ ượng
đượ dùng để tượng t ưng một hoặc nhiều mẫu khi tính giá tr trung bình. 3 N/A = loại mô k ông được phân tích ở giai đ ạn này.
4 Hạt phấn được phân t n ư n ận đượ , ng ĩa à k ông dựa trên một mẫu đ
23
Để mô tả phạm vi biểu hiện của protein mEPSPS trong các cây ngô nhận mang event
GA21, nồng độ protein m PSPS được xác định bằng cách xác định dựa vào phương pháp
ELISA trên mô cây và trên toàn bộ cây ngô ở 4 giai đoạn sinh trưởng (ra lá, nở hoa, hạt
chín, cây già). Nồng độ định lượng của protein m PSPS được xác định trong hầu hết các
mô ngô trong thí nghiệm. Qua tất cả các giai đoạn tăng trưởng, lượng protein mEPSPS
trung bình đo trên lá, rễ, và trên toàn bộ cây ở mức thấp hơn giới hạn lượng định (<0.2
μg/g gam chất tươi) tới 15 μg/g chất tươi (0.4-71 μg/gam chất khô). Nồng độ mEPSPS
trung bình đo được trong hạt ở mức từ 4.7 μg/g gam chất tươi (5-10 μg/g gam chất khô) và
trong hạt phấn trung bình là 168 μg/g gam chất tươi. Nồng độ m PSPS là tương đương
nhau giữa các dòng ngô GA21 và các dòng không chuyển gen cận dòng. Số liệu nghiên
cứu chi tiết của công ty Syngenta chỉ rõ hàm lượng protein biểu hiện trên các mô ngô ở các
giai đoạn khác nhau khi được phân tích trọng lượng tươi và trọng lượng tươi của các mô
ngô. Số liệu chi tiết về biểu hiện protein m PSPS trong ngô được nêu rõ trong Bảng 4 và 5
ở trên.
Nồng độ protein m PSPS trung bình trên lá đo được qua ba thế hệ lai hồi giao là 13-14
μg/g gam chất tươi (82-96 μg/g gam chất khô). Nói chung, nồng độ m PSPS tương tự
nhau qua ba thế hệ phân tích, chứng minh sự biểu hiện ổn định của protein mEPSPS qua
nhiều thế hệ (Bảng 6).
Bảng 6: Nồng độ mEPSPS trong lá ngô GA21 từ ba thế hệ lai hồi giao
Thế hệ lai hồi giao* Phạm vi trung bình mEPSPS
μg/g gam chất tươi +/- S.D.
Phạm vi trung bình mEPSPS
μg/g gam chất khô +/- S.D.
BC1 12,61 +/- 1,86
(9,61 – 13,92)
82,25 +/- 11,34
(71,91 – 95,37)
BC2 13,60 +/- 2,84
(10,49 – 17,15)
95,71 +/- 20,65
(71,66 – 120,76)
BC3 13,10 +/- 1,19
(11,76 – 14,46)
83,93 +/- 6,67
(76,64 – 92,91)
N = 5. Số liệu đượ xá đ nh bởi ELISA và ưa được chỉnh sửa cho hiệu quả phân tích.
* Nồng độ EPSPS trong mẫu đối chứng âm à <LOD (0,73 μg/g gam ất tươi; 4,94 μg/g
gam chất khô) ở thí nghiệm p a ãng tương tự mà mEPSPS đ n ượng được trong mẫu
gen chuyển đổi tương ứng và không có trong bảng.
2.4.3. Tình hình cấp phép, sử dụng ngô GA21 trên thế giới
Trong v ng 15 năm từ năm 1996 tới năm 2009, công nghệ chuyển gen tạo tính trạng kháng
thuốc diệt cỏ liên tục được tập trung phát triển, tiếp đến là tính trạng kháng sâu bệnh, sau
24
đó là các gen tích hợp vào cùng một giống để mang cả hai đặc tính kể trên. Năm 2009, tính
trạng kháng thuốc diệt cỏ đã được triển khai ở trên cây đậu tương, ngô, cải dầu và bông.
Diện tích trồng các loại cây trồng mang tính trạng kháng thuốc diệt cỏ chiếm 65% tương
đương với 87 triệu héc-ta trong tổng số 134 triệu héc-ta diện tích trồng cây biến đổi gen
trên toàn cầu. Các cây trồng mang cả hai đặc tính trên là nhóm tăng trưởng nhanh nhất
trong những năm vừa qua với mức tăng diện tích là 49% so với năm 2008.
Việc sử dụng cây trồng chống chịu thuốc trừ cỏ đã làm thay đổi việc quản lý cỏ dại trên
đồng ruộng. Các hoạt động canh tác trong sản xuất cây trồng có tác động to lớn đến thành
phần quần xã cỏ dại. Những thay đổi về loại cỏ quan trọng mang tính địa phương được cho
là chuyển đổi thành phần cỏ dại. Những chuyển đổi này đặc biệt phù hợp cho việc quản lý
cỏ dại trong hệ thống cây trồng chống chịu thuốc trừ cỏ, trong đó biện pháp vun xới và sử
dụng thuốc trừ cỏ đều giữ vai trò lớn trong việc điều chỉnh quần xã cỏ dại. Trong các tài
liệu đã công bố, có các báo cáo về 14 loài cỏ dại hoặc các nhóm cỏ có quan hệ họ hàng gần
gũi đã tăng mức độ phong phú ở nơi sử dụng các cây trồng chống chịu thuốc trừ cỏ
(National Research Council, 2010). Một điều tra trên ngô, đậu tương và bông trồng ở 6
bang ở Hoa Kỳ, có khoảng 36 – 70% người trồng cho biết áp lực của cỏ dại đã giảm xuống
sau khi sử dụng luân canh các loại cây chống chịu thuốc trừ cỏ (Kruger et al., 2009).
Sự thay đổi trong biện pháp vun xới khi sử dụng ngô chống chịu thuốc trừ cỏ chứa
hoạt chất glyphosate: Việc đưa vào sản xuất các cây trồng chống chịu thuốc trừ cỏ đã gắn
liền với việc chấp nhận và ứng dụng các biện pháp canh tác bảo tồn (không làm đất, không
vun xới), giảm sự chảy tràn nước tưới, tăng thẩm thấu nước và giảm xói m n đất. Các
khuynh hướng chấp thuận biện pháp canh tác bảo tồn đã được nghiên cứu ở Hoa Kỳ và
Ác-hen-tina là những nước có diện tích trồng cây chuyển gen chống chịu cỏ lớn nhất thế
giới. Ở Hoa Kỳ, người trồng đậu tương đã chấp thuận phương pháp canh tác bảo tồn trước
khi thuốc trừ cỏ Glyphosate được đưa vào sản xuất ở 19 bang của Hoa Kỳ. Kết quả điều tra
cho thấy người trồng đậu tương chuyển gen chống chịu thuốc trừ cỏ đã thực hiện biện pháp
canh tác cũ ít hơn 25% so với người trồng đậu tương không chuyển gen (Marra và cs.,
2004). Việc đưa vào sản xuất đậu tương kháng thuốc trừ cỏ cũng được trích d n là một yếu
tố đóng góp cho việc tăng lên nhanh chóng của việc không làm đất gieo đậu tương từ 1/3
diện tích trong năm 1996 lên 80% vào năm 2008. Các yếu tố khác góp phần làm tăng việc
áp dụng biện pháp không làm đất bao gồm các chính sách kinh tế vĩ mô, giảm giá thuốc trừ
cỏ và các nỗ lực trong nghiên cứu và khuyến mại (Trigo và cs., 2009). Một điều tra thực
hiện trên 59 người trồng đậu tương ở Ác-hen-tina trong năm 2001 cho thấy hoạt động làm
đất ít hơn 58% trên diện tích trồng cây chống chịu thuốc trừ cỏ so với diện tích không dùng
giống chuyển gen này (Qaim & Traxler 2005). Cho dù việc đưa vào sản xuất cây chuyển
gen chống chịu thuốc trừ cỏ đã làm tăng sự chấp thuận biện pháp canh tác bảo tồn hay
ngược lại thì đây cũng là mục tiêu của rất nhiều nghiên cứu. Trong một phân tích về việc
đưa ra quyết định của nông dân sử dụng số liệu điều tra quốc gia năm 1997, các nhà nghiên
cứu đã thấy rằng việc chấp thuận biện pháp canh tác bảo tồn đã d n tới việc chấp thuận đậu
tương kháng thuốc trừ cỏ Glyphosate, nhưng việc chấp thuận dùng giống đậu tương kháng
thuốc trừ cỏ không d n đến việc tăng việc chấp thuận phương pháp canh tác bảo tồn
(Fernandez-Cornejo & McBride, 2002). Tuy nhiên, các điều tra gần đây nhất đã cho thấy
25
có 2 đường tương quan thuận. Sử dụng các số liệu từ 1998 đến 2004, một quan hệ đồng
thời đã được tìm thấy giữa việc chấp nhận phương thức canh tác bảo tồn và việc chấp
thuận sử dụng giống bông chống chịu thuốc trừ cỏ ở bang Tennessee (9090. Roberts và cs.,
2006). Một nghiên cứu rộng hơn về người sản xuất sử dụng giống bông chống chịu thuốc
trừ cỏ với các dữ liệu ở mức bang từ 1997 đến 2002 cũng đã cho thấy mối quan hệ đồng
thời giữa việc chấp thuận sử dụng giống bông chống chịu cỏ và kỹ thuật canh tác bảo tồn
(Frisvold et al., 2009).
Bảng 7. Danh sách các nước chấp thuận ngô GA21 được sản xuất và sử dụng làm
thực phẩm và thức ăn chăn nuôi trên thế giới
Nguồn: http//www.agbios.com
Tình hình cấp phép cho canh tác và an toàn làm thực phẩm, thức ăn gia súc: ngô
GA21 được chấp thuận cho canh tác ở Mỹ, Canada, Argentina, Brazil, Philippine và Nhật
Bản và Uruguay. Nó được chấp thuận cho sử dụng thức ăn gia súc tại Mỹ, Canada,
Argentina, Nam Phi, Mexico, Nhật Bản, Philippines, Nga, EU, Thụy Sĩ , Đài Loan, Hàn
Quốc và Trung Quốc, và cho sử dụng trong thực phẩm tại Mỹ, Canada, Argentina ,
Mexico, Nhật Bản, Nam Phi, Nga, EU, Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Philippines, Đài
Loan, Uruguay và Trung Quốc. Không có báo cáo về ảnh hướng đến sức khỏe hay tác hại
môi trường liên quan với việc sử dụng các giống ngô GA21.
Tên nước Năm cấp giấy
chứng nhận an
toàn về môi
trường và đa
dạng sinh học
Năm cấp giấy
chứng nhận an
toàn thực phẩm
và hoặc thức ăn
gia súc
Năm cấp giấy
chứng nhận an
toàn thực phẩm
Năm cấp giấy
chứng nhận an
toàn thức ăn gia
súc
Argentina 1998 2005
Australia 2000
Brazil 2008 2008
Canada 1998 1999 1998
China 2004
EU 2006 2005
Japan 1998 1999 1999
Korea 2002 2005
Mexico 2002
Philippines 2009 2003 2003
Russia 2007 2007
South Africa 2002
Taiwan 2003
United States 1997 1996
Uruguay 2011 2011
26
Phần III. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ KHẢO NGHIỆM Ở VIỆT NAM
3.1. Kết quả khảo nghiệm đánh giá rủi ro trên thế giới đối với ngô GA21 và protein
EPSPS bị biến đổi
3.1.1. Các kết quả nghiên cứu về kiểu hình của ngô GA21
Một loạt các khảo nghiệm đánh giá kiểu hình và đặc tính nông học đối với ngô chuyển gen
GA21 đã được tiến hành bới Syngenta ở rất nhiều vị trí đại diện cho các vùng trọng điểm
ngô ở Hoa Kỳ, với 8 điểm trong năm 2004 và 10 điểm năm 2005. Ở Châu Âu, các khảo
nghiệm cũng đã được tiến hành vào năm 2007 (3 điểm ở Cộng H a Sec, 3 điểm ở Tây Ban
Nha, 2 điểm ở Rumani) và năm 2008 (3 điểm ở Tây Ban Nha, 3 điểm ở Rumani) nhằm
mục đích so sánh biểu hiện các đặc tính nông học và biểu hiện ở ngoài đồng ruộng của ngô
chuyển gen GA21 so với đối chứng không chuyển gien cùng dòng. Thông tin về những đặc
điểm về kiểu hình, đặc tính nông học của ngô GA21 và đối chứng được thu thập, đánh giá
về hình thức sinh trưởng, sinh trưởng sinh dưỡng, đặc tính sinh sản, năng suất và các đặc
tính về hạt được tính toàn và so sánh.
Những dữ liệu về đặc tính nông học và kiểu hình của các khảo nghiệm trên không cho thấy
bất cứ sự thay đối chính nào về các đặc điểm của ngô GA21 điều này cho thấy ngô GA21
không có khả năng tồn tại dai dẳng hay có tính xâm lấn. Mặc dù sinh khối của ngô GA21
lớn hơn khác biệt so với giống đối chứng cùng dòng khi áp dụng thuốc trừ cỏ glyphosate
(EFSA, 2011)
Thông tin về kiểu hình của ngô chuyển gen GA21 mang gen emsps đã được thu thập từ các
nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, nhà lưới và khảo nghiệm đồng ruộng. Kết quả của
những nghiên cứu này đã được trình bày chi tiết trong những những hồ sơ pháp lý với mục
đích chứng minh: i) nhận diện bất cứ t ay đổi về kiểu hình mà nó có thể ản ưởng đến
tính an toàn của môi t ường canh tác; ii) Nhận diện bất cứ t ay đổi không mong muốn tới
hệ sinh sinh vật của cây trồng mà có thể làm ản ưởng đến sự an toàn của môi t ường. Số
liệu về kiểu hình của ngô chuyển gen GA21 và các công bố đã được thẩm định có giá trị
tương đương đã tập trung vào các đặc tính của cây trồng mà chúng có thể đóng góp vào sự
sống sót hay tồn tại dai dẳng (như tiềm năng trở thành cỏ dại), hoặc những biểu hiện bất lợi
của các đặc tính nông học (như m n cảm với bệnh hay ảnh hưởng đến năng suất) đã được
nêu rõ trong các bộ hồ sơ nộp lên chính phủ của các nước là: ANZFA 2000a, 2000b, 2001,
2002; CFIA 1995, 1998, 2005; FSANZ 2005; USDA APHIS 1993, 1995a, 1995c, 1996a,
1996b, 1997b, 1998a, 1998c, 2000a, 2001, 2003, 2004a, 2004c, 2004e, 2006).
Những số liệu bổ sung, đặc biệt là kết quả về năng suất đại diện cho điều kiện quản lý và
môi trường khác nhau cũng đã được thu thập cho mục đích mô tả về sản phẩm (Delannay
và cs., 1995; Ellmore và cs., 2001; Light va cs., 2003). Số liệu về kiểu hình trong các
nghiên cứu cũng được đánh giá định lượng cho các yếu tố như năng suất, số lượng hạt, thời
gian sinh trưởng hoặc định tính cho các đặc điểm như số liệu điều tra về tính m n cảm về
sâu và bệnh hại.
27
Sự so sánh trực tiếp về những quan sát kiểu hình giữa các sự kiện mang gen epsps biến đổi
là không thể thực thực hiện bởi vì sự khác nhau về vi sinh vật của loài cây chủ và mỗi loài
thì có những đặc điểm kiểu hình khác nhau như sự khác nhau giữa ngô, bông và đậu tương.
Các kết luận từ những hồ sơ báo cáo đã được đệ trình lên các chính phủ nơi đăng ký đều
cho rằng sự biểu hiện của en enzyme EPSPS bị biến đổi trong cây ngô chuyển gen không
làm thay đổi kiểu hình của ngô chuyển gen chống chịu thuốc trừ cỏ glyphosate.
3.1.2. Các nghiên cứu về khả năng trở thành cỏ dại trong môi trường nông nghiệp của
ngô GA21.
Các đặc tính có thể tác động đến khả năng để một cây trồng biến thành cỏ dại thì cũng
tương tự như loài cỏ dại, các đặc tính đó là tính ngủ nghỉ của hạt, tính rụng bắp và tính
cạnh tranh (Baker 1974). Những số liệu nghiên cứu đã đệ trình và được phê chuẩn là
USDA APHIS 1993, 1995a, 1995c, 1996a, 1996b, 1997b, 1998a, 1998c, 2000a, 2001,
2003, 2004a, 2004c, 2004e, 2006, chỉ ra rằng không có mối liên kết nào giữa sự biểu hiện
của ngô GA21 với bất cứ tồn tại dai dẳng hay là khả năng sống qua mùa đông để có thể
phát triển trong vụ gieo trồng kế tiếp dưới dạng cỏ dại.
Những cây tự mọc từ hạt chuyển gen trong vụ sau sẽ bị loại bỏ vì các chương trình quản lý
canh tác, đặc biệt là chế độ luân canh cây trồng liên tục. Các lựa chọn thay thế cho kế
hoạch quản lý như sự tự mọc của cây trồng chuyển gen như thay đổi các loại thuốc khác
nhau hay kiểm soát cỏ dại bằng máy cũng đã được đề cập chi tiết trong các báo cáo của
Beckie và cs., 2004, Deen và cs., 2006, OECD 1997, OECD 2000, OECD 2001, OECD
2003a, OECD 2008, OGTR 2008, USDA APHIS 2004d).
3.1.3. Khả năng trở thành cỏ dại của ngô GA21 trong môi trường phi nông nghiệp
Các số liệu trong các báo cáo được đệ trình lên chính phủ của các nước đã cho phép canh
tác ngô GA21 đều đã xem xét đến có hay không khả năng ngô chuyển gen GA21 có thể trở
thành cỏ dại trong môi trường phi nông nghiệp do các yếu tố như sự rơi vãi hạt giống trong
quá trình vận chuyển hàng hóa hoặc là trôi gen từ cây chuyển gen đến quần thể thực vật
cùng loài hoặc khác loài có liên quan. Các nghiên cứu đã được chi tiết và đệ trình trong các
báo cáo của các nước đã phê chuẩn (ANZFA 2000a, 2000b, 2001, 2002; CFIA 1995, 1998,
2005; EFSA 2003, 2004a, 2004b, 2005a, 2005b, 2006a, 2006b, 2006c, 2008a, 2008b,
2009a, 2009b; FSANZ 2005; Japan BCH 2003, 2004; USDA APHIS 1994, 1995b, 1995d,
1996b, 1997a, 1998b, 1999, 2000b, 2002, 2004b, 2004d, 2005a, 2005b, 2007a, EFSA,
2011)
Trong khi tất cả các cây có thể được coi là cỏ dại trong một số bối cảnh, không cây nào
trong số các loại cây trồng chuyển gen chống chịu thuốc trừ cỏ được coi là loài xâm lấn
hoặc có vấn đề bên ngoài hệ thống nông nghiệp. Hầu hết là chúng v n tồn tại trong các
điều kiện thuận lợi và đôi khi chúng cần những biện pháp quản lý, đặc biệt là khi nó mọc
lại trong mùa vụ kế tiếp, những vấn đề này được đề cập chi tiết trong các báo cáo OECD
28
1997, OECD 2000, OECD 2001, OECD 2003a, OECD 2008, OGTR 2008, USDA APHIS
2004d, EFSA, 2011.
Dựa trên dữ liệu nông học, các nghiên cứu chỉ ra rằng sự có mặt của protein EPSPS biến
đổi trong ngô GA21 không làm thay đổi đặc điểm nông học (bao gồm cả khả năng trở
thành cỏ dại). Cho đến nay, không có bất cứ bằng chứng nào cho rằng sự biểu hiện của
protein EPSPS biến đổi sẽ biến cây chuyển gen có tiềm năng trở thành cỏ dại. Các kết quả
này đều đã được chứng minh trước khi thương mại ở các nước đã cho phép phóng thích ra
ngoài môi trường.
Biểu hiện của protein EPSPS biến đổi chỉ ảnh hưởng đến khả năng cây trồng sống sót nếu
được xử lý bằng thuốc diệt cỏ glyphosate. Giống như trong môi trường nông nghiệp, các
lựa chọn quản lý khác cho cây trồng chuyển gen chống chịu thuốc trừ cỏ trong môi trường
phi nông nghiệp đã được chỉ rõ trong các báo cáo Beckie và cs., 2004, Deen và cs., 2006,
OECD 1997, OECD 2000, OECD 2001, OECD 2003a, OECD 2008, OGTR 2008, USDA
APHIS 2004d, EFSA, 2011.
3.1.4 Các tác động bất lợi của ngô GA21 đối với các sinh vật khác trong môi trường
nhận
Khả năng để ngô mang gen EPSPS biến đổi có ảnh hưởng bất lợi đối với các sinh vật trong
môi trường nhận chúng đã được xem xét trong các báo cáo đánh giá rủi ro với một số
lượng bằng chứng rất lớn để chứng minh trong các báo cáo của CFIA 1995, 1998, OGTR
2003a, 2003b, 2006, USDA APHIS 1994, 1995b, 1995d, 1997a, 1997c, 1998b, 1999,
2000a, 2000b, 2004b, 2004d, 2005b, 2007a, EFSA, 2011,
Dựa trên các protein độc hại được biết đến (Sjoblad và cs., 1992), và các thí nghiệm ở
chuột cho thấy protein EPSPS biến đổi không có tác dụng phụ ảnh hưởng đến chuột
(Harrison và cs., 1996, EFSA, 2011). Hơn nữa, Enzyme biến đổi này nhanh chóng bị phân
hủy trong hệ thống tiêu hóa của động vật có vú, giảm phơi nhiễm, và không có trình tự có
ý nghĩa hoặc cấu trúc tương đồng với chất độc hoặc chất gây dị ứng (Harrison và cs., 1996;
Nickson và Hammond, 2002, EFSA, 2011). Hơn nữa, protein EPSPS biến đổi không phải
là chất gây độc cho bất kỳ sinh vật nào (CFIA 1995, 1998; EFSA 2003, 2004a, 2004b,
2005a, 2005b, 2006b, 2006c, 2008a, 2008b, 2009a, 2009b; OGTR 2003a, 2003b, 2006;
USDA APHIS 1994, 1995b, 1995d, 1997a, 1997c, 1998b, 1999, 2000a, 2000b, 2004b,
2004d, 2005b, 2007a, EFSA, 2011).
Sự cô lập của các gen mepsps được thay đổi từ gen epsps trong ngô không có phơi nhiễm
đáng kể trong đất, và người đánh giá rủi ro cũng kết luận rằng mEPSPS có cấu trúc và
chức năng tương đồng với enzyme nội sinh EPSPS khác trong cây trồng cũng như môi
trường (CFIA 1995, 1998; EFSA 2003, 2004a, 2004b, 2005a, 2005b, 2006b, 2006c, 2008a,
2008b, 2009a, 2009b; OGTR 2003a, 2003b, 2006; USDA APHIS 1994, 1995b, 1995d,
1997a, 1997c, 1998b, 1999, 2000a, 2000b, 2004b, 2004d, 2005b, 2007a, EFSA, 2011).
29
Các hoạt động enzym của mEPSPS là rất cụ thể và tương đương với các protein EPSPS
khác trong thực vật và vi sinh vật, do vậy các sinh vật trong môi trường tiếp nhận nó sẽ
không có phơi nhiễm với các sản phẩm trao đổi chất của mEPSPS (CFIA 1995, 1998;
EFSA 2003, 2004a, 2004b, 2005a, 2005b, 2006b, 2006c, 2008a, 2008b, 2009a, 2009b;
OGTR 2003a, 2003b, 2006; USDA APHIS 1994, 1995b, 1995d, 1997a, 1997c, 1998b,
1999, 2000a, 2000b, 2004b, 2004d, 2005b, 2007a, EFSA, 2011).
Người đánh giá rủi ro đã cân nhắc việc chuyển nạp mEPSPS vào cây trồng sẽ d n đến thay
đổi trong thực vật và có thể có tác động xấu đến các sinh vật khác. Đặc tính kiểu hình của
cây trồng (xem ở trên) cũng như phân tích thành phần dinh dưỡng (xem dưới đây) đã kết
luận rằng chuyển nạp mEPSPS vào ngô không xuất hiện những ảnh hưởng không mong
muốn đến đặc tính của cây trồng mà các đặc tính này nếu thay đổi thì có thể ảnh hưởng đến
các sinh vật khác trong môi trường nhận chúng (CFIA 1995, 1998; EFSA 2003, 2004a,
2004b, 2005a, 2005b, 2006b, 2006c, 2008a, 2008b, 2009a, 2009b; Nickson và Hammond,
2002; Nida và cs., 1996; OGTR 2003a, 2003b, 2006; Padgette và cs., 1996; Ridley và cs.,
2002; USDA APHIS 1994, 1995b, 1995d, 1997a, 1997c, 1998b, 1999, 2000a, 2000b,
2004b, 2004d, 2005b, 2007a, EFSA, 2011).
Quan sát cây trồng biểu m PSPS trong quá trình đánh giá thử nghiệm đồng ruộng cho thấy
không có bất cứ tác động xấu nào của chúng đến các sinh vật khác (OGTR 2003a, 2003b,
2006; USDA APHIS 1994, 1995b, 1995d, 1997a, 1997c, 1998b, 1999, 2000a, 2000b,
2004b, 2004d, 2005b, 2007a, EFSA, 2011). Những quan sát này, cùng với những thông tin
về việc không đủ bằng chứng về độc tính trực tiếp hoặc phơi nhiễm đáng kể với protein
mEPSPS là cơ sở để cơ quan quản lý kết luận rằng ngô chuyển gen chống chịu thuốc trừ cỏ
glyphosate mang protein EPSPS biến đổi không có tiềm năng gây ra ảnh hưởng bất lợi đến
các sinh vật khác, các biểu hiện của ngô chuyển gen hoàn toàn tương tự như ngô truyền
thống (CFIA 1995, 1998; EFSA 2003, 2004a, 2004b, 2005a, 2005b, 2006b, 2006c, 2008a,
2008b, 2009a, 2009b, OGTR 2003a, 2003b, 2006, USDA APHIS 1994, 1995b, 1995d,
1997a, 1997c, 1998b, 1999, 2000a, 2000b, 2004b, 2004d, 2005b, 2007a, EFSA, 2011).
3.1.5. Phân tích thành phần dinh dưỡng của ngô mang gen mEPSPS
Phân tích chi tiết thành phần dinh dưỡng là yếu tố khoa học cần đánh giá nghiêm ngặt cho
các đặc tính biểu hiện trong cây trồng chuyển gen và là yêu cầu pháp lý để phê chuẩn hay
công nhận tính an toàn để làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi đối với sản phẩm của cây
trồng chuyển gen (OECD 1992; WHO 1995, FAO/WHO 1996; EFSA 2006A; Codex
2003a, 2003b). Việc lựa chọn phân tích tiến hành phụ thuộc vào mục đích sử dụng của
phản phẩm đó.
Cây trồng chuyển gen chống chịu thuốc trừ cỏ glyphosate đã trải qua tất cả các phân tích
về dinh dưỡng như protein thô, chất béo thô, chất xơ, độ ẩm và tro. Phân tích chi tiết của
axit béo và thành phần axit amin cũng đã được tiến hành, cũng như phân tích của các chất
chuyển hóa quan trọng thứ cấp có tính chất độc hại hoặc phi dinh dưỡng (ví dụ như
glucosinolate và axit eruxic trong cải dầu, các chất ức chế trypsin trong đậu tương). Các dữ
liệu thu thập được là rất hữu ích để chỉ ra sự hiện diện hay vắng mặt của bất kỳ thay đổi
30
không mong muốn nào của cây trồng chuyển gen so với cây không chuyển gen (Codex
2003a, 2003b; Nickson and Hammond 2002; Nida và cs., 1996; Padgette và cs., 1996;
Ridley và cs., 2002 và Taylor và cs., 1999).
Đối với ngô GA21: Các chất chuyển hóa phụ được định nghĩa như các sản phẩm tự nhiên
không có chức năng trực tiếp trong những hoạt động hóa sinh chủ yếu hỗ trợ cho sự tăng
trưởng, phát triển và tái sinh sản của cây trồng nơi mà chúng xuất hiện (EuropaBio, 2003).
Một nhóm các chất chuyển hóa phụ, ức chế dinh dưỡng, tương ứng với những ảnh hưởng
có hại liên quan tới sự hấp thu dinh dưỡng và vi dưỡng từ thực phẩm (Shahidi, 1997).
Thông thường, không có các chất ức chế dinh dưỡng được nhận biết trong ngô ở mức độ
được xem như gây độc, nhưng vì mục đích đánh giá tính tương đương có trong ngô, dữ
liệu phân tích sau đây được cung cấp đối với: furfural, axít phytic, inositol, raffinose, chất
ức chế trypsin, axít ferulic và axít p-coumaric. Những chất chuyển hóa phụ được chọn này
và những chất ức chế dinh dưỡng bao gồm trong phân tích của Catherine Kramer and
Justin De Fontes, 2005 (hồ sơ đã đệ trình và được phê chuẩn), kết luận của nghiên cứu
được tóm tắt như sau:
- Furfural là một an-de-hit dị vòng xuất hiện trong nhiều loại rau, trái cây và ngũ cốc. Nó
được xem như là một chất gây ung thư độc tính qua miệng ở liều lượng thấp (OECD
2002). Furfural thấp hơn giới hạn định lượng trong tất cả các m u kiểm tra đối với ngô
GA21;
- Axít Phytic (myo-inositol 1,2,3,4,5,6-hexakis [dihydrogen phosphate]) được phân bố
rộng rãi trong các thực vật bậc cao (Boyer và cộng sự, 1987) và được xem như là một chất
ức chế dinh dưỡng bởi vì khả năng của nó kết hợp các khoáng, protein và tinh bột ở độ pH
sinh lý (Rickard 1997). Axít phytic hiện diện trong mầm ngô và kết hợp 60-75% phốt pho,
làm giảm tính lợi ích sinh học của phốt pho trong ngô đối với các động vật không nhai lại
(OECD 2002), Inositol là một thành phần của axít phytic. Không có sự khác biệt đáng kể
đối với inositol hoặc axít phytic giữa ngô GA21 và ngô không chuyển gen;
- Alpha-galactosidase của đường mía, bao gồm raffinose, được phân bố rộng rãi trong các
thực vật bậc cao (Naczk, 1997). Do bởi sự vắng mặt của hoạt tính alpha-galactosidase
trong niêm mạc người và động vật, raffinose không thể bị bẻ gãy bởi những enzym trong
bộ tiêu hóa ruột-dạ dày và được xem như một chất kháng dinh dưỡng, mặc dù nó không
độc. Mức raffinose là thấp hơn giới hạn định lượng (LOQ) trong tất cả các m u kiểm tra;
- Chất ức chế Protease được tìm thấy dư thừa trong ngũ cốc thô và rau đậu, đặc biệt trong
đậu nành. Chất ức chế Trypsin trong đậu nành làm gia tăng sự khử hoạt tính và mất trypsin
trong ruột non, làm kích thích sự dư thừa trypsin trong lá lách qua việc tiêu thụ sulfur có
chứa trong các axít amin (Shahidi, 1997). Ngô có chất ức chế trypsin rất thấp (OECD
2002). Không có khác biệt đáng kể về chất ức chế trypsin giữa m u chuyển gen GA21 và
không chuyển gen;
- Axít phenolic có thể có ảnh hưởng tốt đối với sức khỏe bởi vì các đặc tính chống oxi hóa
của chúng. Axít phenolic, ferulic và p-coumaric là thành phần cấu trúc và chức năng của tế
31
bào cây và được tìm thấy trong rau, quả và ngũ cốc (OECD 2002), sự khác biệt đáng kể về
mặt thống kê giữa mức ferulic và axít p-coumatic trong giống ngô chuyển gen ký hiệu
E1(+) và giống không chuyển gen E3(-) chỉ ra rằng sự khác biệt không cố định là có ở tất
cả các vị trí, điều này là tương tự khi so sánh giữa ngô chuyển gen E2(+TD) và E3(-) và sự
thay đổi cũng lại biểu hiện ngay ở giống không chuyển gen, do vậy sự thay đổi này không
liên quan đến sự có mặt của gen chuyển.
Như vậy ngô mang gen chống chịu thuốc trừ cỏ glyphosate, GA21 không có sự khác biệt
đáng kể về thành phần dinh dưỡng và chức năng của mỗi thành phần so với ngô không
chuyển gen.
3.1.6. Tác động của ngô chuyển gen GA21 đến sinh vật không chủ đích
Đối với cây ngô chuyển gen chống chịu thuốc trừ cỏ nói chung và ngô GA21 nói riêng thì
đều được coi là không có sinh vật không chủ đích và các enzyme chống chịu thuốc trừ cỏ
thông thường v n có mặt ở thực vật và chưa phát hiện chúng có bất kỳ thuộc tính gây độc
nào (APIS-USDA, 1994; Carpenter, 2001).
Tuy nhiên những lo ngại về tác động bất lợi có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp của những
thay đổi mong muốn (đặc tính cải tiến, chống chịu thuốc trừ cỏ) và thay đổi không mong
muốn cũng như biểu hiện của protein m PSPS trong ngô GA21 đến sinh vật không chủ
đích, sinh vật trong hệ sinh thái, cơ chế hóa sinh trong đất và các tác động khác… đã được
xem xét, đánh giá và kết luận bởi Hội đồng An toàn Thực phẩm Sinh vật biến đổi gen
Châu Âu. FSA đã kết luận rằng ngô GA21 không có bất cứ ảnh hưởng bất lợi nào đến
môi trường và đa dạng sinh học, bản chất của ngô GA21 cũng như ngô truyền thống. sự
khác biệt duy nhất là khô GA21 có thể chống chịu được thuốc diệt cỏ chứa hoạt chất
glyphosate khi chúng bị phun trùm lên cây (EFSA, 2011). Các phân tích chi tiết sẽ được đề
cập ở mục 3.2, phần III dưới đây.
Kết luận: ăn ứ vào những kết luận từ những báo cáo/hồ sơ đã được phê chuẩn ở các
nước cho phép phóng thích trên thế giới đối với ngô chuyển gen GA21 và những cây trồng
chống ch u thuốc trừ cỏ glyphosate mang gen chuyển mepsps (EFSA, 2011). Chúng tôi kết
luận ngô chuyển gen GA21 không có bất cứ sự khác biệt nào về kiểu hình, thành phần dinh
dưỡng so với ngô không chuyển gen ùng dòng. Ngô GA21 ũng không có bất cứ ảnh
ưởng bất lợi nà đến các sinh vật khác. Ngô chuyển gen GA21 k ông ó nguy ơ t ở
thành cỏ dại, xâm lấn hay tồn tại dai dẳng t ng môi t ường nông nghiệp và phi nông
nghiệp.
3.2. Xác định các yêu cầu cần khảo nghiệm đánh giá rủi ro ngô GA21 đối với môi
trường và đa dạng sinh học tại Việt Nam.
Ngô GA21 đã được đánh giá và phê chuẩn là an toàn cho canh tác, sử dụng làm thực phẩm,
thức ăn chăn nuôi và chế biến ở trên rất nhiều nước trên thế giới (xem mục 3.1, phần III ở
trên), và ngô GA21 cũng đã có lịch sử sử dụng an toàn hơn 10 năm qua mà không có bất
cứ bằng chứng khoa học nào chỉ ra tính bất lợi hay những ảnh hưởng xấu tới môi trường,
32
đa dạng sinh học cũng như làm thực phẩm. Với yêu cầu khảo nghiệm đánh giá rủi ro sinh
vật biến đổi gen đối với môi trường và đa dạng sinh học ở Việt Nam, căn cứ vào điều 15
của nghị định 69 là:
- Nguy cơ trở thành dịch hại, cỏ dại;
- Nguy cơ ảnh hưởng xấu đến sinh vật không chủ đích;
- Nguy cơ làm thay đổi bất lợi đến hệ sinh thái xung quanh;
- Các tác động bất lợi khác.
Những dữ liệu khoa học và những lý luận khoa học được trình bày dưới đây là cơ sở để
xác định các vấn đề cần khảo nghiệm trong điều kiện Việt Nam cũng như những vấn đề đã
được khẳng định chắc chắn ở trên thế giới mà không cần nhắc lại trong các khảo nghiệm
tại Việt Nam. Căn cứ vào những kế hoạch khảo nghiệm từ phía công ty (sau khi tham khảo
ý kiến của những nhà khoa học và Hội đồng An Toàn Sinh Học), các kế hoạch khảo
nghiệm hạn chế và diện rộng ngô chuyển gen GA21 đối với môi trường và đa dạng sinh
học đã được phê chuẩn và cho thực hiện bởi bộ NN&PTNT trong năm 2010 và 2011.
3.2.1. Tính an toàn của ngô chuyển gen GA21 hay enzyme mEPSPS
Việc phát triển cây trồng chống chịu thuốc trừ cỏ được dựa trên 3 cơ chế sau:
- Tạo ra các enzyme không bị ảnh hưởng bởi thuốc trừ cỏ: tạo ra những thay đổi
trong enzyme là mục tiêu của thuốc trừ cỏ nhằm mục đích ngăn cản sự tác động của
thuốc trừ cỏ vào enzyme đó.
- Tăng cường sự biểu hiện của enzyme bị hại so thuốc trừ cỏ: Tăng cường sự biểu
hiện của các protein (enzyme) mục tiêu bằng cách chuyển gen nhằm tăng số bản
sao/tăng cường sự biểu hiện của enzyme mục tiêu. Số lượng enzyme/protein mục
tiêu của thuốc trừ cỏ sẽ nhiều hơn hơn với lượng mà thuốc trừ cỏ có thể tác động
nhờ đó quá trình sinh tổng hợp các hợp chất của cây v n được thực hiện bình
thường ngay cả khi có mặt thuốc trừ cỏ.
- Tạo ra các enzyme làm mất độc tính của thuốc trừ cỏ: Chuyển gen tổng hợp
enzyme có khả năng phá vỡ cấu trúc hóa học của phân tử thuốc trừ cỏ d n đến
thuốc trừ cỏ bị mất hoạt tính.
Mức độ an toàn của cây trồng chuyển gen đã được chứng minh với 15 năm thương mại
hóa. Mặc dù được cho là có nguy cơ tiềm ẩn đối với môi trường, đa dạng sinh học và sức
khỏe con người, nhưng cho đến nay chưa có ghi nhận nào về ảnh hưởng bất lợi của cây
trồng chuyển gen. Để được thương mại hóa và được chấp nhận tiêu dùng ở các quốc gia
khác nhau trên thế giới, các cây trồng phải trải qua các quy trình quản lý an toàn sinh học
được xây dựng đặc thù cho mỗi quốc gia.
33
Ngô chuyển gen chống chịu thuốc trừ cỏ chứa hoạt chất glyphosate GA21 được tạo ra
bằng phương pháp bắn gen, sử dụng các tế bào huyền phù làm mô đích (bằng sáng chế
quốc tế PCT/VS98/06640 (trang 75-77, Spencer và CS. 1998a). Gen đột biến 5-enol
pyruvylshikimate-3-phosphate synthase (mepsps) biểu hiện trong ngô GA21 mang đặc tính
ưu việt là cây ngô GA21 có thể chống chịu thuốc diệt cỏ có chứa hoạt chất Glyphosate, là
những loại thuốc trừ cỏ không chọn lọc (trừ cả cỏ lá rộng và lá hẹp). Gen mepsps có nguồn
gốc từ enzyme EPSPS, chúng có mặt phổ biến trong thực vật và vi sinh vật nhưng không
xuất hiện ở động vật. m PSPS là enzyme được biến đổi với các đặc tính nhận biết là giống
với enzyme gốc trong ngô tới 99,3%. Gen mã hóa cho enzyme này được chuyển vào thực
vật để tạo thành cây trồng chuyển gen có khả năng chống chịu thuốc trừ cỏ glyphosate.
Glyphosate ức chế hoạt động của EPSPS nội sinh trong cây trồng, kết quả d n đến ức chế
quá trình sinh tổng hợp các amino axit thơm và hậu quả là cây trồng bị chết. Khác với
PSPS được tổng hợp trong cây, mEPSPS bị bất hoạt bởi glyphosate. Do đó, cây chuyển
gen mã hóa EPSPS phân lập từ vi khuẩn có khả năng chống chịu với thuốc trừ cỏ loại này
(Nida và cs., 1996; Padgette và cs., 1995; Stallings và cs., 1991).
Lịch sử sử dụng an toàn của protein enolpyruvyl-shikimate-3-phosphate synthase:
EPSPS là protein có trong cây ngô, thuộc nhóm protein PSPS được tìm thấy rộng rãi
trong thực vật và vi sinh vật nhưng không có trong động vật (Padgette và cs., 1996). Các
phân tích sử dụng các công cụ tin sinh học để so sánh sự tương đồng về trình tự axit amin
cho thất protein này không tương đồng với bất cứ chất gây dị ứng hay chất độc nào đã biết
(Harrison và cs., 1996).
Cơ chế tác động của mEPSPS (enolpyruvyl-shikimate-3-phosphate synthase): Protein
m PSPS được sản sinh và tham gia vào quá trình sinh tổng hợp các axit amin thơm trong
các loài thực vật, vi sinh vật nhưng chúng lại không có mặt ở người và động vật có vú bởi
các động vật có vú không có bộ máy đồng hóa để tổng hợp các axit amin có v ng thơm.
Điều này giải thích đặc tính hoạt động chọn lọc trên thực vật, vi sinh vật mà không gây độc
đến động vật của protein mEPSPS.
Các đánh giá in vitro về khả năng tiêu hóa: Các đánh giá in vitro đã được tiến hành trên
protein enolpyruvyl-shikimate-3-phosphate synthase cho thấy enzyme này phân hủy nhanh
chóng trong các phản ứng kiểm tra trong hệ tiêu hóa (Harrison và cs., 1996).
Đánh giá tính độc cấp tính: Ngô GA21 hay enzyme biến đổi m PSPS không co tính độc
và dị ứng vì nó không có chuỗi đồng đẳng giống với các protein gây độc và gây dị ứng đã
được biết đến. Các nghiên cứu về tính độc, dị ứng đã được kết luận bởi EFSA, 2011 và
được mô tả trong mục 2.3.e, phần III ở dưới.
3.2.2. Nguyên lý chung đánh giá rủi ro đối với cây trồng chuyển gen
Công thức đánh giá rủi ro: Để xác định rủi ro có thể xảy ra đối với một sinh vật tới môi
trường, con người và động vật thì chúng ta dựa trên các nguyên tắc sau:
Nguy cơ (Hazard) x điều kiện phơi nhiễm (Exposure) = Rủi ro (Risk)
34
Nguy cơ và điều kiện phơi nhiễm là hai điều kiện cần và đủ để rủi ro có thể xảy ra. Nếu có
nguy cơ nhưng không có điều kiện phơi nhiễm để nguy cơ bùng phát hoặc ngược lại nếu
có điều kiện để nguy cơ bùng phát nhưng lại không có nguy cơ được xác định thì sẽ không
có rủi ro.
Việc đánh giá rủi ro của cây trồng chuyển gen phải đảm bảo tính khoa học, minh bạch và
được tiến hành theo các phương pháp, kỹ thuật trong nước và quốc tế được cơ quan có
thẩm quyền công nhận.
Việc đánh giá rủi ro của cây trồng chuyển gen được tiến hành theo từng trường hợp cụ thể
phụ thuộc vào sinh vật chuyển gen, mục đích sử dụng và môi trường tiếp nhận sinh vật
chuyển gen đó, đồng thời cần tính đến các yêu cầu đặc thù về trồng trọt và sự có mặt của
cây trồng khác trong môi trường.
Rủi ro của cây trồng chuyển gen được đánh giá trên cơ sở so sánh sự khác biệt giữa cây
trồng chuyển gen và cây trồng đối chứng thích hợp trong cùng điều kiện. Giả thiết cơ bản
của đánh giá so sánh đối với các cây chuyển gen đó là đặc điểm sinh học của cây trồng
truyền thống và các cây này được sử dụng làm vật liệu để tạo ra các cây trồng chuyển gen.
Trong đánh giá an toàn môi trường, cần sử dụng thích hợp các kiến thức và kinh nghiệm
trước đó và các đối chứng để nhấn mạnh sự khác biệt liên quan đến cây chuyển gen trong
môi trường.
Biến đổi di truyền của cây trồng có thể d n đến những hiệu qủa mong muốn hoặc không
mong muốn. Đánh giá rủi ro môi trường tập trung vào phát hiện và mô tả cả hai loại hiệu
quả này về khả năng gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, vật nuôi và môi trường.
Các tác động có thể là trực tiếp hay gián tiếp, biểu hiện tức thì hoặc lâu dài sau đó, bao
gồm cả các tác động tích lũy lâu dài.
Các hiệu quả mong muốn là những hiệu quả được thiết kế để xảy ra và đáp ứng những mục
đích ban đầu của việc cải biến di truyền. Sự thay đổi trong kiểu hình có thể được xác định
thông qua sự phân tích so sánh về quá trình sinh trưởng, năng suất, khả năng kháng sâu và
bệnh hại…Những thay đổi mong muốn trong thành phần cấu trúc của cây chuyển gen so
với cây đối chứng của nó có thể được xác định thông qua việc đánh giá xác định các thành
phần riêng lẻ.
Đối với đánh giá an toàn của cây trồng chuyển gen đối với môi trường, những sai khác
không có ý nghĩa thống kê giữa cây chuyển gen và các đối chứng thích hợp của nó về kết
qủa không mong muốn cần được đánh giá đặc biệt về đặc điểm sinh học và khả năng gây
tác động xấu đến môi trường. Kết quả của đánh gía an toàn dựa vào việc sử dụng phương
pháp so sánh cho phép quyết định các đặc tính đã được xác định cần phải được đánh giá về
khả năng gây tác động bất lợi tiềm năng trong môi trường, không kể chúng là các kết quả
mong muốn hay không mong muốn và các kết quả này sẽ giúp để thiết kế các nội dung tiếp
theo của đánh giá rủi ro môi trường.
35
Cho đến nay, chưa có một khung đánh giá rủi ro thống nhất cho tất cả các quốc gia. Theo
Ủy ban an toàn thực phẩm châu Âu ( FSA), đánh giá rủi ro đối với môi trường bao gồm 6
bước sau:
- Xác định vấn đề (bao gồm xác định nguy cơ) (Problem formulation)
- Mô tả nguy cơ (Hard characterization)
- Mô tả khả năng xảy ra nguy cơ (điều kiện phơi nhiễm) (Exposure characterization)
- Mô tả rủi ro (Risk characterization)
- Đề xuất các chiến lược quản lý rủi ro (Risk management strategy)
- Đánh giá tổng thể rủi ro và đưa ra kết luận (Overall risk evaluation, conclusion)
Hình II. Quy trình đánh giá rủi ro của cây trồng chuyển gen đối với môi trường theo
quyết định 2001/18/EC
3.2.3. Cơ sở lý luận cho việc đề nghị các nghiên cứu đánh giá rủi ro cho khảo nghiệm
hạn chế và diện rộng của ngô GA21 đối với môi tường và đa dạng sinh học ở Việt
Nam
Ngô chuyển gen GA21 chống chịu thuốc trừ cỏ chứa hoạt chất glyphosate đã được đánh
giá trên rất nhiều nước và được chứng nhận là an toàn đối với môi trường, làm thức ăn và
thực phẩm (phần II, mục 2.4.3), Các hồ sơ, báo cáo đã được đệ trình, phê duyệt và kết luận
từ các nước phê duyệt đều kết luận ngô GA21 không có tác động bất lợi đến môi trường và
đa dạng sinh học (phần III, mục 3.1), và bằng chứng về sự an toàn của ngô GA21 chính là
tính an toàn của protein m PSPS đã được chứng minh là an toàn từ những nghiên cứu
trước đây trong ph ng thí nghiệm và ngoài đồng ruộng (phần III, mục 3.2.1).
36
Theo Ủy Ban An Toàn Thực Phẩm Châu Âu (EFSA), các nội dung chủ yếu trong đánh
giá an toàn sinh học của cây trồng chuyển gen đối với môi trường bao gồm:
- Xác định khả năng phát tán gen
- Xác định khả năng trở thành cỏ dại hoặc xâm lấn đối với môi trường tự nhiên
- Xác định khả năng gây tác động bất lợi đến các sinh vật không chủ đích
- Xác định khả năng gây tác động bất lợi đến các quá trình sinh học tự nhiên của hệ
sinh thái đất
- Xác định khả năng gây tác động không mong muốn khác liên quan đến đa dạng
sinh học.
Căn cứ trên những quy định của EFSA và những nghiên cứu đã được tiến hành và báo cáo
và phê chuẩn trên thế giới ở các cấp độ phòng thí nghiệm, nhà lưới nhà kính và ngoài
ruộng và theo hướng d n của nghị định 69 và Thông tư 69. Công ty TNHH Syngenta Việt
Nam đã đề xuất kế hoạch khảo nghiệm đánh giá rủi ro ngô GA21 đối với môi trường và đa
dạng sinh học ở Việt Nam để làm rõ tính an toàn của ngô chuyển gen GA21 đồng thời
khẳng định tính an toàn của nó trong điều kiện khảo nghiệm ở Việt Nam. Các nghiên cứu
và dữ liệu sau đây nhằm trả lời những vấn đề đặt ra là có hay không ngô chuyển gen GA21
ảnh hưởng đến môi trường và đa dạng sinh học, đồng thời xác định những nghiên cứu cần
thiết phải tiến hành ở Việt Nam để đề xuất, đánh giá, thẩm định từ đó làm căn cứ để chính
phủ xem xét cho thương mại sản phẩm chuyển gen ngô GA21 chống chịu thuốc trừ cỏ
chứa hoạt chất glyphosate ở Việt Nam.
a) Khả năng phát tán gen của ngô GA21: Sự phát tán gen là sự di chuyển của các hệ gen
của sinh vật hoặc giữa các môi trường (Heinemann, 2007). Sự phát tán gen là hiện tượng
sinh học bình thường, xảy ra qua sự thụ phấn chéo trong và giữa các loài có sự tương hợp
về giới tính và tạo ra con cháu (sự phát tán gen dọc-vertical gene flow), sự chuyển các gen
từ sinh vật không phải là họ hàng không thông qua giao phối (sự phát tán gen ngang-
horizontal gene flow) hoặc thông qua sự di chuyển của hạt giống hoặc các thể sinh dưỡng
vào môi trường mới.
Trong tự nhiên, các giống cây trồng và các họ hàng của chúng có thể trao đổi gen qua thụ
phấn chéo nếu chúng được trồng gần nhau (Ellstrand và cs., 1999; Ellstrand, 2003; Stewart
và cs., 2003; Duputi và cs., 2007). Sự phát tán gen có thể xảy ra giữa các loài cây trồng, từ
cây trồng đến các loài hoang dại và thậm chí từ loài hoang dại đến cây trồng. Phát tán gen
là một hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và được xem là một trong những nhân tố quan
trọng của tiến hóa và phát sinh loài mới ở thực vật có hoa (Anderson, 1961; Reiseberg và
Wendel, 1993; Ellstrand và cs., 1999) và được khai thác sử dụng trong lịch sử phát triển
giống cây trồng qua phương pháp lai truyền thống.
37
Bảng 8. Sự phát tán gen qua các con đường khác nhau
Loại hình
phát tán
Khả
năng
xảy ra
Bị ảnh hưởng bởi
mối quan hệ giữa
sinh vật cho và sinh
vật nhận gen
Các yếu tố hạn chế phát tán gen
Thông qua
hạt phấn
Phổ
biến
Có Tỉ lệ tạp giao của đối tượng nhận, mức độ
tương hợp hạt phấn giữa đối tượng cho và
nhận, môi trường truyền phấn (gió, động
vật) và điều kiện thời tiết
Thông qua
hạt
Phổ
biến
Không Môi trường phát tán hạt (gió, nước, động
vật, con người) và điều kiện thời tiết
Thông qua
sinh sản vô
tính
Không
phổ
biến
Không Môi trường phát tán bộ phận sinh dưỡng
(gió, nước, động vật và người)
Các con đường phát tán gen ở cây trồng: Có 3 con đường phát tán gen ở cây trồng đó là
(1) phát tán gen thông qua hạt phấn, (2) phát tán gen thông qua hạt giống và (3) phát tán
gen thông qua sinh sản vô tính. Phát tán gen thông qua hạt phấn là sự di chuyển các gen
thông qua sự thụ phấn giữa các cá thể của các quần thể khác nhau. Phát tán gen thông qua
hạt là sự di chuyển của của các gen thông qua sự phát tán hạt giữa các quần thể khác nhau.
Phát tán gen thông qua sinh sản vô tính là sự di chuyển của các gen thông qua sự phát tán
các bộ phận sinh dưỡng của các quần thể khác nhau. Sự phát tán gen dù theo con đường
nào cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau được tóm tắt trong Bảng 8.
Trong trường hợp phát tán gen thông qua hạt giống và sinh sản vô tính, việc đánh giá phát
tán gen sẽ không thể thực hiện được vì nếu chỉ dựa trên các kiến thức về sinh học của cây
trồng. Quá trình phát tán gen sẽ bị ảnh hưởng lớn bởi quá trình phát tán tự nhiên bởi động
vật, gió, nước, trong đó các hoạt động vận chuyển, trao đổi và buôn bán hạt giống, cây
trồng giữa các vùng địa lý với cấp độ địa phương, quốc gia và quốc tế của con người. Để
hạn chế sự phát tán gen theo con đường trên, cần áp dụng các biện pháp quản lý thích hợp
trên quy mô quốc gia và quốc tế.
Ở trường hợp phát tán gen xảy ra do sự phát tán hạt phấn, sự phát tán gen có thể được phân
tích và đánh giá dựa trên các đặc điểm về sinh học, đặc biệt là đặc điểm sinh học trong quá
trình thụ phấn của các loài thực vật khác nhau như hệ thống chọn tạo, tỉ lệ tạp giao, lượng
hạt phấn. Ngoài ra, các yếu tố vật lý và môi trường cũng ảnh hưởng đến sự phát tán gen
qua phát tán hạt phấn như: khoảng cách vật lý, độ lớn và hướng gió, nhiệt độ, ánh sáng, độ
ẩm không khí. Để hạn chế từ cây trồng đến các loài thân thuộc một số biện pháp có thể
được áp dụng như: cách ly trước và sau hợp tử, sử dụng các gen chuyển quy định các tính
trạng như sự ngủ nghỉ của hạt hoặc mất khả năng phát tán hạt phấn (Conner và cs., 2003).
38
Phát tán gen ở cây trồng chuyển gen là một vấn đề cần được xem xét một cách nghiêm túc.
Tuy nhiên đánh giá các tác động gây ra bởi hiện tượng phát tán gen chuyển là một thách
thức lớn, bởi vì rất khó để dự đoán các tác động sinh thái của gen chuyển đã được đưa vào
các nền di truyền khác nhau hoặc được biểu hiện trong các điều kiện sinh thái khác nhau.
Thực tế, các cây trồng tiếp nhận gen chuyển sẽ tiếp tục tiến hóa dưới tác động áp lực của
chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo trong điều kiện đồng ruộng. Quan trọng hơn, nếu
các gen chuyển nạp đã được chuyển vào một quần thể mới thì rất khó có thể loại bỏ chúng
ra khỏi môi trường nếu các gen này có thể tồn tại và phát tán một cách hiệu quả trong quần
thể (Johnston và cs., 2008). Do đó, những vấn đề liên quan đến phát tán gen như loại hình
phát tán gen, loại gen phát tán, nguyên nhân d n đến phát tán gen và những điều cần phải
đối mặt khi các gen chuyển được đưa vào một quần thể nhận thông qua phát tán gen là
những thông tin hữu ích trong đánh giá những hậu quả tiềm ẩn của chúng.
Trong đánh giá tác động của cây trồng chuyển gen đến môi trường, sự phát tán gen từ cây
trồng chuyển gen sang cây trồng không chuyển gen và các loài họ hàng hoang dại của nó
qua hạt phấn là một trong những vấn đề chính được quan tâm.
Gen chuyển có thể di chuyển được thông qua hạt phấn theo 3 trường hợp: (i) Từ cây trồng
chuyển gen đến cây trồng; (ii) Từ cây trồng chuyển gen đến cây cỏ dại và (iii) Từ cây
trồng chuyển gen đến các loài hoang dại.
Để cho bất cứ một gen chuyển nào có thể được truyền qua con đường hạt phấn và phát tán
vào quần thể cây hoang dại, sự lai tạm thời phải được thực hiện thành công giữa cây trồng
và các loài nhận gen có sự tương hợp về mặt sinh sản. Chỉ có quá trình thụ tinh sẽ d n đến
việc lai hoặc tổ hợp các gen sau này vào một quần thể hoang dại, và khi đó có thể sẽ d n
đến những hậu quả khác nhau về sinh thái và môi trường. Nhìn chung, các cây có sự tương
hợp về mặt sinh sản thường là cùng một loài hoặc là các loài có quan hệ họ hàng gần gũi.
Nếu con lai giữa cây trồng chuyển gen và cỏ dại/loài hoang dại có thể tạo ra hạt mà hạt này
có thể phát triển thành cây hữu thụ thì các con cháu đời sau có thể lai chéo với các cây cỏ
dại hay loài hoang dại d n tới sự tái tổ hợp của các gen chuyển ở các thế hệ tiếp theo sẽ
phụ thuộc vào khả năng hữu thụ của các con lai và áp lực chọn lọc trên cây tiếp nhận gen
chuyển. Các cây trồng có thể tiếp nhận hạt phấn từ các cây cỏ dại hoặc họ hang dại để tạo
ra con lai ở các thế hệ sau để tiếp tục phát tán.
Về nguyên tắc, sẽ không có sự tái tổ hợp giữa cây chuyển gen và cây không chuyển gen
hoặc họ hàng hoang dại nếu sự lai hoặc tổ hợp gen sau đó không xảy ra quá trình di chuyển
về mặt vật lý của các gen chuyển. Trong trường hợp này, các hậu quả về môi trường sẽ
không nghiêm trọng bởi gen chuyển sẽ không được tái tổ hợp vào hệ gen của các quần thể
nhận. Tuy nhiên, nếu như sự phát tán gen qua hạt phấn xảy ra thì thường d n đến sự lai
giữa cây cho hạt phấn (cây chuyển gen) với cây nhận hạt phấn (cây không chuyển gen, cỏ
dại hoặc loài hoang dại) và xảy ra sự tổ hợp gen tiếp sau.
Các nghiên cứu thực hiện nhằm tìm hiểu về nguy cơ phát tán gen của cây trồng chuyển gen
được tiến hành với các nội dung liên quan đến một số điều kiện để sự phát tán gen có thể
diễn ra gồm:
39
- Các cây trồng tương hợp về mặt sinh sản thuộc cùng loài hoặc họ hàng gần phải
đang tồn tại ở gần vị trí trồng cây trồng chuyển gen
- Các cây trồng này phải nằm trong phạm vi phát tán hạt phấn hoa đối với cây trồng
chuyển gen
- Thời gian tung phấn của cây trồng chuyển gen phải trùng với thời điểm có thể được
nhận bởi cây trồng nhận phấn
- Các con cháu tạo ra phải sống sót và hữu dục.
Các nghiên cứu đánh giá về khả năng phát tán gen đã được tiến hành trên ngô chuyển gen.
Ngô là cây giao phấn chéo nhờ gió điển hình. Nhìn chung, sự hình thành và tồn tại của hạt
phấn ở các giống ngô chuyển gen thương mại hiện nay đa phần không có sự thay đổi so
với các giống truyền thống. Bởi vậy, sự phát tán hạt phấn và tỉ lệ lai chéo cũng xuất hiện
với tỉ lệ tương tự như đối với các giống ngô khác. Khi đánh giá khả năng phát tán gen của
ngô chuyển gen thông qua giao phấn chéo nhờ gió, các vấn đề liên quan đến sự phát tán hạt
phấn cần quan tâm là khả năng tồn tại của hạt phấn và các yếu tố hạn chế khác giống như
các giống ngô thông thường. Trên đồng ruộng, phần lớn hạt phấn ngô rơi trong khoảng 5
mét so với bờ ruộng (Sears và Stanley-Horn, 2000; Pleasants và cs., 1999). Trong nghiên
cứu của Stanley-Horn về các cánh đồng trồng 7 giống ngô Bt khác nhau cho thấy 84-92%
hạt phấn rơi trong khoảng 5 mét và trong khoảng 25-30 mét có khoảng 96-99% hạt phấn và
toàn bộ hạt phấn đều rơi trong khoảng 100 m. Các nghiên cứu khác cũng phân tích ảnh
hưởng của kích thước và hình dạng của cánh đồng, hướng gió và các điều kiện môi trường
khác (Klein và cs., 2002) đến sự phát tán hạt phấn. Mặc dù hạt phấn có thể được phát tán
như để xảy ra phát tán gen thì hạt phấn của cây chuyển gen phải tồn tại, rơi trên v i đầu
nhụy của cây nhận và cạnh tranh với hạt phấn khác để có khả năng thụ phấn chéo. Nhiều
nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu tỉ lệ thụ phấn chéo ở khoảng cách từ nơi tiếp nhận đến
nguồn cho phấn khác nhau. Nghiên cứu của Loubet và Foueillassar (2003) đã đưa ra kết
luận rằng, những hạt phấn có màu sáng ít có khả năng tồn tại cũng như có thể phát tán
trong khoảng cách xa và hạt phấn có thể bị chết trong 2 giờ khi độ ẩm không khí là 70%,
nhiệt độ là 200C hoặc chỉ tồn tại trong 1 giờ ở nhiệt độ 30
0C.
Các nghiên cứu về sự thụ phấn chéo giữa ngô chuyển gen và ngô không chuyển gen đã
được tiến hành ở châu Âu trong rất nhiều năm bởi một số nhóm nghiên cứu như Bénétrix
và Bloc (2002 & 2003); Melé và cs., 2004; APROSE, 2003 nhằm mô tả trường hợp xấu
nhất có thể xảy ra. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chỉ cần áp dụng biện pháp trồng trọt tốt
và các biện pháp thu hoạch thông thường đã có thể đạt độ tinh sạch là 99,1%. Tuy nhiên,
nếu có sử dụng thêm các phương pháp đặc thù riêng rẽ hoặc kết hợp với nhau thì có thể
giảm tỉ lệ tạp nhiễm xuống mức thấp hơn nữa. Như vậy trên thực tế, tỉ lệ nhiễm là rất nhỏ
ngay cả trong điều kiện sản xuất thông thường và khả năng tái tổ hợp từ gen chuyển đối
với cây trồng nhận là không thể xảy ra (bảng 9)
40
Bảng 9. Tỉ lệ thụ phấn chéo ở các khoảng cách khác nhau so với nguồn cho phấn ở
cây ngô
Tỉ lệ thụ phấn chéo ở khoảng cách khác nhau so với nguồn cho
phấn
Tài liệu tham khảo
- Hàng sát cánh đồng: 25,4%
- 200 m: 1,6%
- 500 m: 0,2%
Jones và Brooks
(1952)
- 10 m: 3,1%
- 200 m: 0,5%
- 600 m: 0,8%
- 800 m: 0,2%
Salamov (1940)
- 3 m: 4,5% Jugeneheimer (1976)
- 200 m: 1,11% Burris (2001)
- 2,5 m: 4%
- 20 m: 1%
Bateman (1947)
- 25-40 m: 1% Messean (1999)
- 18 m: 1% Simpson (1999)
Khả năng thụ tinh (% hạt phấn có khả năng thụ tinh) giảm khi
khoảng cách từ nguồn cho phấn tăng:
- 100 m: 4-12%
- 250 m: 2-7%
Loubet và
Foueillassar (2003)
Có một số ý kiến quan ngại về hiện tượng truyền gen tới các vi sinh vật do một số vi khuẩn
có khả năng trao đổi vật chất di truyền trực tiếp, thậm chí với các sinh vật khác loài thông
qua tiếp hợp tế bào, chuyển nạp qua virut/ thực khuẩn hay biến nạp tự nhiên. Liên quan tới
vấn đề này, Cơ quan an toàn thực phẩm châu Âu ( PSA) đã nhận định rất khó có khả năng
ADN tái tổ hợp được truyền từ ngô GA21 tới các loài vi sinh vật trong đất hoặc trong bộ
máy tiêu hoá của người và động vật do quá trình này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: nồng
độ và chất lượng ADN tái tổ hợp, vi khuẩn nhận có khả năng tạo ra các biến nạp tự nhiên
(ví dụ: khả năng thu nhận ADN ngoại bào), khả năng gắn kết của ADN tái tổ hợp vào hệ
gen của vi khuẩn, ưu thế chọn lọc của tính trạng được mã hoá, biểu hiện protein trong tế
bào vi khuẩn… Trong thực phẩm, ADN tái tổ hợp bị phân huỷ rất nhanh trong quá trình
chế biến và tiếp tục bị phân huỷ trong bộ máy tiêu hoá của người và động vật. Do vậy, các
ADN bị cắt nhỏ và hiện tượng truyền gen nguyên vẹn tới vi sinh vật là khó có thể xảy ra
(EFSA, 2009a và các tài liệu trích d n trong đó). Một số vi khuẩn trong đất được cho là có
khả năng phơi nhiễm với ADN ngoại bào được truyền từ tế bào cây vào đất (Levy-Booth et
al., 2007). Tuy nhiên, ADN bị phân huỷ rất nhanh và chỉ là một thành phần tạm thời với
nồng độ rất thấp trong toàn bộ nguồn ADN dồi dào trong đất. Do vậy để xảy ra biến nạp tự
nhiên, ADN tái tổ hợp từ cây phải có ưu thế chọn lọc rất cao. Điều này khó có thể xảy ra
do vi khuẩn luôn được tiếp xúc với rất nhiều nguồn ADN gần gũi và tương đồng hơn trong
đất (ESPA, 2009b và các tài liệu trích d n trong đó). Cho đến nay, chưa có bằng chứng
khoa học nào ghi nhận hiện tượng truyền gen ngang từ ngô GA21 sang các vi sinh vật
41
trong đất cũng như trong bộ máy tiêu hoá của người, động vật (Keese, 2008; EFSA, 2009a
và các tài liệu trích d n trong đó; Brigulla and Wackernagel, 2010; Ma et al., 2011).
Kết luận: Đán giá k ả năng phát tán gen là một quá trình phải tiến hành lâu dài, phức
tạp và cần có những p ương tiện đán giá uẩn mực theo tiêu chuẩn Good Laboratory
Pracice. Ở điều kiện Việt Nam, không xuất hiện loài ngô hoang dại và khả năng p át tán
gen chỉ có thể xảy a đối với phát tán hạt phấn với cây ngô truyền thống. Căn ứ vào
những nghiên cứu ở nước ngoài nêu trên thì khả năng p át tán từ cây chuyển gen đến ngô
truyền thống à k ông đáng kể và không gây ra bất cứ sự t ay đổi bất lợi nào, do vậy đán
giá về khả năng p át tán gen ở điều kiện Việt Nam là không cần thiết đối với ngô chuyển
gen GA21.
b) Khả năng trở thành cỏ dại hoặc xâm lấn đối với môi trường tự nhiên
Trong các cây trồng chuyển gen thương mại hiện nay, nguy cơ phát triển thành cỏ dại được
đặc biệt quan tâm. Các nhà khoa học mong đợi rằng các gen chuyển chống chịu với thuốc
trừ cỏ sẽ không làm tăng đặc tính cỏ dại của các loài hoang dại liên quan, bởi vì những gen
này có thể gây hại hoặc trung tính đối với các loài hoang dại có quan hệ họ hàng. Tuy
nhiên, trong các trường hợp mà các thuốc trừ cỏ được sử dụng để kiểm soát cỏ dại, tính
kháng cỏ dại có thể mang lại những thuận lợi cạnh tranh cho các cây trồng tự nhiên không
mong muốn (Keeler, Turner và Bolick 1996).
Nếu cây trồng chuyển gen được trồng ở những nơi có loài họ hàng hoang dại sinh trưởng,
hiện tượng lai tự nhiên có thể xảy ra. Những gen được chuyển này có thể tồn tại và xâm
nhập vào các quần thể tự nhiên nếu chúng không phải là các gen có hại hoặc liên kết chặt
chẽ với các gen có hại (Ellstrand 2003; Song và cs., 2003). Mặc dù hoạt động của những
gen chuyển chỉ có thể gây ra những tác động không đáng kể, nó có thể làm tăng sự đa dạng
di truyền (Song và cs., 2003) hoặc xâm lấn d n đến sự tuyệt chủng của các quần thể hoang
dại (Ellstrand và cs., 2003).
Hầu như tất cả các cây trồng quan trọng trên thế giới đều có thể lai được với loài hoang
dại. Ít nhất 44 cây được trồng đã chứng minh được khả năng cho lai với loài hoang dã,
trong đó 12 trong số 13 cây được trồng rộng rãi (Ellstrand và cs., 1999) và 11 trong số 20
cây trồng quan trọng nhất nước Mỹ, bao gồm cả hướng dương, củ cải, lúa miến, cải dầu,
bí, lúa nước, lúa mì, củ cải đường, rau riếp, cây dương, dâu tây và cỏ ống (Ellstrand, 2003)
Các hậu quả tiềm tàng chính liên quan đến phát tán gen từ cây trồng chuyển gen đến cỏ dại
hoặc họ hàng hoang dại gồm:
- Sự hình thành các loài cỏ dại mới và siêu cỏ: Phát tán gen từ cây trồng chuyển gen
sang các họ hàng dại có thể đẩy mạnh các đặc trưng của cỏ dại, làm cho các loài cỏ dại
hiện có được tăng cường khả năng tồn tại và xâm lấn trong môi trường. Mặt khác, cây
chuyển gen cũng có thể nhận các gen quy định các đặc tính của cỏ dại và d n đến một cây
trồng có thể trở thành cỏ tồn tại lâu dài và có khả năng xâm lấn. Hai mối quan tâm chính
về phát tán gen và sự xuất hiện cỏ dại là: i) Một loài hoang dại hoặc cỏ dại, ví dụ một
42
giống lúa dại hay cây cải dầu xâm lấn và tồn tại âu dài t ng á án đồng có khả năng
trở thành loài cỏ có tính xâm lấn mạnh và hiệu quả ơn; ii) Một cây trồng chuyển gen tồn
tại từ vụ t ước hay con lai giữa cây trồng chuyển gen với họ hàng hoang dại có khả năng
trở thành cỏ dại có tính xâm lấn cao sau khi tổ hợp các gen chuyển quy đ nh tính trạng
chống lại các ức chế sinh học và phi sinh học. Các mối lo lắng này liên quan đến giả thuyết
là một gen chuyển từ cây chuyển gen sẽ có ưu thế về tính thích nghi đối với quần thể cây
trồng chuyển gen còn sót lại từ vụ trước, các loại cỏ dại và loài hoang dại (Lu và Snow,
2005).
Một cây trồng thương mại trở thành cỏ dại nếu nó sống sót lâu hơn đời sống kinh tế của nó
(chẳng hạn như qua một mùa đông) hoặc toàn bộ hạt có thể nảy mầm và can thiệp đến một
cây trồng thay thế trong chu kỳ sinh trường tiếp theo. Ví dụ, nếu một cây kháng glyphosate
mọc trên đồng ruộng mà ở đó cây trồng được mong muốn là một cây kháng glyphosate
khác, hiệu quả của glyphosate bị giảm. Một khả năng khác nữa là cây trồng tự nó sẽ tham
gia vào hệ sinh thái hoang dại. Trước nguy cơ này, các đối tượng cây trồng chuyển gen
chính (ngô, đậu tương, bông cũng được xem xét khả năng trở thành cỏ dại.
Cây ngô không có khả năng tồn tại trong môi trường hoang dại sau một quá trình thuần hóa
kéo dài từ teosinte. Mặc dù ngô từ vụ trước có thể nảy mầm trong mùa vụ tiếp theo nhưng
nó không thể tồn tại như là một cây cỏ dại. Ngô không có khả năng duy trì sinh sản nếu
không có sự chăm sóc của con người (Neibur, 1993). Ngô là thực vật không có khả năng
xâm lấn trong môi trường tự nhiên (Gould, 1968). Trái ngược với các cây trồng hoang dại,
bắp ngô mang hạt ngô được bao bọc trong lá bao, bởi vậy khả năng phát tán hạt ngô trong
tự nhiên là không xảy ra.
Sự sống của cây ngô phụ thuộc vào các điều kiện như nhiệt độ, độ ẩm hạt giống, kiểu gen,
sự bảo vệ của vỏ và giai đoạn phát triển. Ngô không phải là loại cỏ dại tồn tại dai dẳng. Hạt
giống ngô chỉ có thể tồn tại dưới một phạm vi hẹp của điều kiện khí hậu. Những cây tự
mọc dễ dàng bị chết do lạnh, hoặc dễ dàng kiểm soát bằng các phương pháp nông học
thông thường như canh tác đất và sử dụng các chất diệt cỏ chọn lọc (Neibur, 1993). Ngô
không có khả năng duy trì sinh sản nếu không có sự canh tác của con người và không xâm
hại môi trường sống tự nhiên (OECD, 2003).
Xem xét cây ngô ở điều kiện Việt Nam ta thấy: Yếu tố lai xa giữa chi trong cùng một tông
Maydeae (theo hệ thống phân loại mới là Andropogoneae), có 4 chi gần gũi nhất có thể
xem xét khả năng tương thích sinh sản là chi Zae, Euchlaena, Coix và Tripsacum (FOC).
Theo danh lục các loài thực vật Việt Nam tập 3 (Chủ biên Nguyễn Tiến Văn, 2005) và một
số tài liệu khác trên thế giới, chi Euchlaena có thể lai với chi Zea nhưng lại không tồn tại ở
Việt Nam, chi Coix (có một loài được nhập trồng tại Việt Nam là cây bo bo, ý dĩ) không lai
được với chi Zea, chi Tripsacum (cũng có một loài được nhập trồng tại Việt Nam là cỏ
Watemala, làm thức ăn gia súc) được cho là chỉ lai được với chi Zea trong một số điều kiện
nhất định (Mangelsdorf, 1986; Engle, 1984; Ramirez and dela Vina, 1996; Arago, cs.,
1997). Như vậy khả năng sự kiện chuyển gen GA21 được phát tán sang các loài thực vật
gần gũi về sinh sản (như giữa các Loài-species) trong một Chi (genera), giữa các Chi
43
(genera) trong một Tông (tribe) trong điều kiện canh tác hay trong tự nhiên là không thể có
tại Việt Nam do đặc điểm thực vật và các đặc điểm địa lý, không gian và thời gian.
Đánh giá về tính ổn định di truyền của ngô GA21, phân tích Southern về DNA có
nguồn gốc từ một số thế hệ cây GA21 được tiến hành để khẳng định sự có mặt của một
bản sao đoạn T-DNA. Hạt đại diện của 3 thế hệ ngô GA21 (BC1, BC2, BC3) được
phân tích DNA bằng cắt với enzyme Hind III và lai sau đó với m u do đặc hiệu gen
mepsps. Số liệu về lai đã khám phá rằng đoạn T-DNA được hợp nhất vào hệ gen ngô
GA21 được ổn định qua các thế hệ.
Về tính ổn định kiểu hình về kiểu hình, ổn định biểu hiện protein mEPSPS qua nhiều
thế hệ được đánh giá. Hạt từ 3 thế hệ bằng phép lai trở lại được trồng trong điều kiện
nhà kính và mô lá được thu thập tại thời điểm nở hoa để phân tích nồng độ protein
mEPSPS. Nồng độ trung bình của m PSPS được đo với tất cả các thế hệ là 13 - 14
g/g tươi (82 - 96 g/g tươi). Nhìn chung, nồng độ m PSPS tương tự trong cả 3 thế hệ
được phân tích, đã khám phá biểu hiện ổn định protein mEPSPS trong nhiều thế hệ.
Để đánh giá các tính trạng nông học hay biểu hiện kiểu hình của ngô GA21 trong điều
kiện đồng ruộng, các giống ngô lai mang event GA21 được trồng Một loạt các khảo
nghiệm đánh giá kiểu hình và đặc tính nông học đối với ngô chuyển gen GA21 đã được
tiến hành bởi công ty Syngenta ở rất nhiều vị trí đại diện cho các vùng trọng điểm ngô ở
Hoa Kỳ, với 8 điểm trong năm 2004 và 10 điểm năm 2005. Ở Châu Âu, các khảo nghiệm
cũng đã được tiến hành vào năm 2007 (3 điểm ở Cộng H a Sec, 3 điểm ở Tây Ban Nha, 2
điểm ở Rumani) và năm 2008 (3 điểm ở Tây Ban Nha, 3 điểm ở Rumani) nhằm mục đích
so sánh biểu hiện các đặc tính nông học và biểu hiện ở ngoài đồng ruộng của ngô chuyển
gen GA21 so với đối chứng không chuyển gen cùng dòng. Thông tin về những đặc điểm về
kiểu hình, đặc tính nông học của ngô GA21 và đối chứng được thu thập, đánh giá về hình
thức sinh trưởng, sinh trưởng sinh dưỡng, đặc tính sinh sản, năng suất và các đặc tính về
hạt được tính toán và so sánh.
Những dữ liệu về đặc tính nông học và kiểu hình của các khảo nghiệm trên không cho thấy
bất cứ sự thay đổi chính nào về các đặc điểm của ngô GA21. Điều này cho thấy ngô GA21
không có khả năng tồn tại dai dẳng hay có tính xâm lấn. Mặc dù sinh khối của ngô GA21
lớn hơn khác biệt so với giối đối chứng cùng dòng khi áp dụng thuốc trừ cỏ glyphosate
Khảo nghiệm bệnh đặc hiệu cũng được Công ty Syngenta tiến hành năm 2004 tại Hoa
Kỳ về khả năng nhạy cảm bệnh của các d ng ngô lai GA21 và d ng đối chứng cùng
kiểu gen không biến đổi gen với tác nhân nấm gây tàn lụi lá ngô (Helminthosporiunm
maydis) và đốm lá nấm (Cercosspora zeae - maydis) được đánh giá. Không có dấu hiệu
nào về khả năng nhậy cảm bệnh khác nhau được quan sát thấy giữa ngô lai truyền
thống và ngô lai nguồn gốc GA21.
Ủy ban an toàn thực phẩm sinh vật biến đổi gen Châu Âu đã kết luận các khảo nghiệm
đồng ruộng không cho thấy bất cứ sự thay đổi về các đặc tính kiểu hình và biểu hiện
của các đạc tính nông học giữa ngô GA21 và ngô không chuyển gen cùng dòng. Sự
44
khác biệt duy nhất là ngô GA21 có thể chống chịu thuốc trừ cỏ chứa hoạt chất
glyphosate trong khi ngô thường thì bị chết khi bị phun trùm lên cây ngô (EFSA,
2007).
Kết luận: Căn ứ vào những nghiên cứu đã t ực hiện và các lý luận khoa học ở trên, xét
thấy ngô GA21 không có nguy ơ t ở thành cỏ dại. Tuy n iên để đán giá một cách chắc
chắn thì các thí nghiệm đồng ruộng t ng điều kiện hạn chế và diện rộng là cần thiết để so
sánh sự khác biệt về kiểu ìn , đặc tính nông sinh họ ũng n ư k ả năng nhiễm bệnh giữa
ngô GA21 so với ngô không chuyển gen ùng dòng NK66 để àm ơ sở kết luận về tính xâm
lấn hay trở thành cỏ dại và sự khác biệt di truyền ăn ứ trên biểu hiện về kiểu hình so với
giống ngô không chuyển gen cùng dòng.
c) Đánh giá khả năng g y tác động bất lợi của ngô GA21 đến sinh vật không chủ đích
Đối với cây ngô chuyển gen chống chịu thuốc trừ cỏ nói chung và ngô GA21 nói riêng thì
đều được coi là không có tác động độc hại trực tiếp đến các sinh vật không chủ đích vì các
enzyme chống chịu thuốc trừ cỏ thông thường v n có mặt ở thực vật và chưa phát hiện
chúng có bất kỳ thuộc tính gây độc nào (APIS-USDA, 1994; Carpenter, 2001).
Khả năng ngô GA21 có ảnh hưởng bất lợi trực tiếp hoặc gián tiếp đến sinh vật không chủ
đích và hệ sinh thái mà chúng hiện diện, chẳng hạn như thụ phấn, kiểm soát sinh học, hoặc
phân hủy (Sanvido và cs., 2009; Arpaia, 2010), được đánh giá bởi Hội đồng An toàn Thực
Phẩm Sinh vật chuyển gen Châu Âu (EFSA, 2011). Đánh giá này bao gồm việc đánh giá
khả năng ảnh hưởng xấu của môi trường đến sinh vật không chủ đích do những thay đổi
mong muốn và những thay đổi không mong muốn từ cây trồng chuyển gen (Hjältén và cs.,
2007; Desneux và cs., 2010; Garcia-Alonso, 2010, Raybould và cs., 2010; Arpaia và cs.,
2011). Thay đổi mong muốn của cây chuyển gen là những thay đổi mà người tạo ra có ý
định có được đặc tính mong muốn, ví dụ như chống chịu thuốc trừ cỏ, trong khi thay đổi
không mong muốn được định nghĩa là sự khác biệt giữa cây chuyển gen so với cây không
chuyển gen tương ứng, mà đi vượt ra ngoài thay đổi mong muốn được giới thiệu vào cây
chuyển gen (EFSA, 2010d, e). Những thay đổi này có thể gây hậu quả cho môi trường, và
nó là bản chất bất lợi tiềm tàng từ những hậu quả này đ i hỏi phải đánh giá. EFSA đã đi
theo hai cách tiếp cận khác biệt để bổ sung cho đánh giá nguy cơ ảnh hưởng bất lợi tới sinh
vật không chủ đích (EFSA, 2010d, e).
FSA đã có những thẩm định đánh giá về ảnh hưởng bất lợi đến sinh vật không chủ
đích từ những thay đổi không mong muốn, những nhận xét và kết luận của EFSA
như sau:
Các đặc tính phân tử của đoạn DNA chèn vào ngô GA21 và các khu vực tiếp giáp các đầu
gắn của ngô GA21 không cho thấy những thay đổi không mong muốn do việc chèn gen
mEPSPS vào ngô GA21. Hơn nữa, không có sự khác biệt sinh học có liên quan trong thành
phần của chất phân tích chính hoặc đặc tính nông học và kiểu hình được xác định từ ngô
GA21 so với ngô không chuyển gen cùng dòng (EFSA, 2007). Vì vậy, EFSA kết luận rằng
45
không có dấu hiệu thay đổi ngoài ý muốn từ ngô GA21 ở cấp độ phân tử, thành phần và
đặc tính nông học/ kiểu hình.
Để những khẳng định này đáng tin cậy hơn, EFSA đã yêu cầu công ty Syngenta xem xét
tất cả các nghiên cứu cụ thể về sự kiện các nhóm chức năng chính của sinh vật không chủ
đích để cung cấp thêm những dữ liệu nhằm củng cố cho kết luận của Hội đồng về tác động
của những thay đổi không mong muốn (EFSA, 2010d,e).
Theo yêu cầu của EFSA, công ty Syngenta đã cung cấp thông tin bổ sung bao gồm dữ liệu
ở cả trong phòng thí nghiệm và đồng ruộng. Nghiên cứu trên đồng ruộng đã được thực hiện
ở Tây Ban Nha trong năm 2008 để xác định sự phong phú của động vật chân đốt đại diện
của các nhóm chức năng chính hiện diện trong ngô. Ngô GA21 và ngô không chuyển gen
cận d ng được khảo nghiệm chính quy theo khối hoàn toàn ng u nhiên với bốn lần lặp lại.
Ba công thức được sử dụng, bao gồm ngô GA21 được phun thuốc thuốc diệt cỏ thông
thường, ngô GA21 được phun thuốc diệt cỏ glyphosate và ngô không chuyển gen cùng
d ng được phun thuốc diệt cỏ thông thường, tất cả các công thức không áp dụng thuốc trừ
sâu. Số liệu về sự phong phú của động vật chân đốt của các nhóm chức năng chính hiện
diện trong ruộng ngô được thu thập. Không có sự khác biệt đáng kể nào được tìm thấy về
sự phong phú hay là sự thay đổi của các loài động vật ăn cỏ (động vật chân đốt, bao gồm:
Cánh thẳng/Orthoptera, Cánh tơ/Thysanoptera, Cánh đều/Homoptera, Cánh
cứng/Coleoptera) và động vật ăn thịt (bao gồm động vật chân đốt như: Nhện lớn, nhện
nhỏ/Aranea, Cánh da/Deramptera, Cánh tơ/Thysanoptera, Cánh đều/Heteroptera, Cánh
mạch/Neuroptera và Bộ Cánh cứng/ Coleoptera) giữa các công thức khác nhau. Dữ liệu thu
thập trên ong bắp cày ký sinh hymenopteran không cho thấy sự khác biệt đáng kể nào giữa
các công thức. Một nghiên cứu tương tự trên đồng ruộng được thực hiện với ngô
Bt11xMIR604xGA21 và ngô không chuyển gen cùng dòng ở Tây Ban Nha trong năm
2008, kết quả cho thấy không có tác dụng phụ trên động vật ăn cỏ và động vật chân đốt ăn
thịt trên cây trồng.
Bởi vì các loài thụ phấn không hiện diện đủ về số lượng trong nghiên cứu trên đồng ruộng
trong năm 2008 để phân tích thống kê, công ty Syngenta đã tiến hành một thí nghiệm đánh
giá trong phòng với loài ong mật (Apis mellifera). Trong thí nghiệm sinh học này, các loài
ong mật trưởng thành được cho ăn phấn hoa của ngô GA21 và ngô thông thường với 5 lần
lặp lại, mỗi công thức gồm 10 con ong mật. Ba công thức cho ăn được so sánh trong thời
gian 96 giờ: ong được cho ăn phấn hoa ngô GA21 và phấn hoa ngô không biến đổi gen đều
không phát hiện thấy sự khác biệt nào có ý nghĩa thống kê về sự sống và thói quen ăn của
ong.
EFSA đã thừa nhận các kết quả của nghiên cứu độc tính cấp tính trên loài ong mật, nhưng
cho rằng những nghiên cứu tác động không mong muốn có thể gây chết chúng trong môi
trường cũng cần phải được xem xét.Vì vậy, một nghiên cứu về tác dụng của phấn hoa ngô
GA21 đến sự phát triển ấu trùng loài ong mật đã được tiến hành trong phòng thí
nghiệm/screenhouse study, trong đó sự phát triển và khả năng sống sót của ấu trùng ong
mật đã được nghiên cứu, sau khi tiếp xúc với phấn ngô GA21. Phấn hoa ngô GA21 đã
46
được chuẩn bị ở nồng độ 2 mg phấn hoa mỗi tế bào ấu trùng kết hợp với sucrose 30%. Hai
công thức bổ sung là: đối chứng âm bao gồm phấn hoa từ ngô không chuyển gen cùng
dòng phù hợp với nền di truyền tương tự như ngô GA21 kết hợp với sucrose 30%, và một
đối chứng âm (tham khảo) bao gồm phấn hoa từ ngô không chuyển gen cùng dòng kết hợp
với 20μg kali arsenate, cả hai được dùng ở mức 2 mg phấn hoa/mỗi tế bào ấu trùng. Các
nghiệm thức được bố trí bốn lần lặp lại và mỗi công thức có 20 ấu trùng ong mật. Ấu trùng
ong mật (2-3 ngày tuổi) được cho ăn với một liều duy nhất ở các giai đoạn khởi đầu, phát
triển và sống sót và chúng được quan sát trong quá trình phát triển của ấu trùng và nhộng.
Sự phát triển của ong không khác nhau giữa các công thức cho ăn phấn hoa GA21 và đối
chứng âm. Ấu trùng từ cả hai công thức bắt đầu xuất hiện trong cùng một ngày, các ấu
trùng cuối cùng từ công thức đối chứng âm xuất hiện hai ngày sau khi ấu trùng cuối cùng
của công thức GA21 xuất hiện. Một sự khác biệ có ý nghĩa thống kê đã được quan sát là
khả năng sốt sót của ấu trùng. Ấu trùng sống sót của công thức xử lý GA21 (92,7%) cao
hơn trong công thức đối chứng âm (81,4%).
Từ những nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và ngoài đồng, EFSA đã đồng ý với kết luận
của công ty Syngenta là ngô GA21 không có ảnh hưởng bất lợi nào đến sự phát triển và
sống sót đến ấu trùng loài ong mật khi so sánh với đối chứng âm (EFSA, 2011).
Các nghiên cứu trên sinh vật không chủ đích do công ty Syngenta thực hiện và nộp lên
EFSA cho thấy không có tác động bất lợi nào từ ngô GA21 hoặc phấn hoa của nó đến các
loài khác nhau của động vật ăn cỏ, động vật ăn thịt và côn trùng thụ phấn. Dựa trên các
bằng chứng được cung cấp bởi công ty Syngenta và tài liệu khoa học có liên quan về ngô
GA21, EFSA kết luận rằng ngô GA21 không có ảnh hưởng bất lợi đến sinh vật không chủ
đích từ những thay đổi không mong muốn của ngô GA21 (EFSA, 2011).
Tác động bật lợi đến sinh vật không chủ đích từ protein mEPSPS của ngô GA21:
Dựa trên phương thức hoạt động của protein mEPSPS, lịch sử sử dụng an toàn của ngô
GA21 và cây trồng chống chịu thuốc diệt cỏ glyphosate khác thì không chắc rằng sự biểu
hiện của protein này trong các cây trồng chống chịu thuốc diệt cỏ glyphosate sẽ gây ra các
tác động bất lợi trực tiếp đến các sinh vật không chủ đích (EFSA, 2009c đối với ngô
NK603; CERA, 2010). Protein m PSPS không tương đồng với các protein độc hại được
biết đến (phần 4; EFSA, 2007) và 99,3% giống với EPSPS của ngô thông thường. Protein
EPSPS phổ biến ở thực vật và vi sinh vật (CaJacob và cs., 2004; CERA, 2010).
Việc thiếu độc tính của protein mEPSPS đến ong mật, chuột và gà thịt khi cho ăn khẩu
phần ăn có chứa ngô GA21 được nêu rõ trong các nghiên cứu độc tính và các nghiên cứu
dinh dưỡng tương đương (phần 4; EFSA, 2007).
Nghiên cứu ở cấp độ cao đã được tiến hành với những cây trồng biểu hiện mEPSPS như
GA21, ngô NK603 (Rosca, 2004; Reyes, 2005; Rodriguez và cs., 2006; Schier, 2006;
Albajes và cs., 2008, 2009, 2010; EFSA, 2009c), ngô MON88017 ( FSA, 2011e) và đậu
tương GTS 40-3-2 (Buckelew và sc., 2000; Bitzer và cs., 2002; Jasinski và cs., 2003)
khẳng định rằng sự phơi nhiễm của các sinh vật không chủ đích khi tiếp xúc protein
47
m PSPS được tìm thấy trong các loại cây trồng không gây ra mối nguy hiểm tiềm năng
nào, nghiên cứu này đã hỗ trợ cho các kết luận của các nghiên cứu ở cấp độ thấp hơn
(lower Tier). Các nghiên cứu ở cấp độ cao (Higher Tier) của Jasinski và cs. (2003) gợi ý
rằng sự phong phú của một số sinh vật có lợi giảm trên ruộng phun thuốc diệt cỏ
glyphosate so với ruộng thông thường. Những sự suy giảm này không phải là sự ảnh
hưởng trực tiếp do biểu hiện của protein mEPSPS.
Những bằng chứng có sẵn cho thấy không có tác động bất lợi nào đến các loài sinh vật
không chủ đích khác nhau do sự biểu hiện của protein mEPSPS trong ngô GA21. EFSA
cũng đã ghi nhận rằng ngô GA21 và các cây trồng chịu thuốc diệt cỏ glyphosate đã được
trồng rộng rãi ở Mỹ và các nước khác trong nhiều năm và không nhận bất cứ báo cáo nào
về tác động trực tiếp đến sinh vật không chủ đích do sự biểu hiện của protein. Những ấn
phẩm gần đây đã xác nhận rằng không có bằng chứng nào cho thấy cây trồng chống chịu
thuốc diệt cỏ glyphosate có một ảnh hưởng trực tiếp đến đa dạng sinh học và sự phong phú
của trong đồng ruộng canh tác do sự biểu hiện của protein EPSPS (Firbank và cs., 2003a;
Cerdeira và Duke, 2006, 2007, 2010; Albajes và cs., 2008, 2009, 2010, Owen, 2008;
CERA, 2010).
Vì protein mEPSPS không có hoạt tính kháng côn trùng, chống lại sinh vật không chủ
đích, EFSA đã không yêu cầu nghiên cứu các cấp độ thấp hơn cho việc đánh giá ảnh
hưởng bất lợi các sinh vật không chủ đích do sự biểu hiện của protein mEPSPS (EFSA,
2011).
Các nghiên cứu ở cấp độ cao trong phòng thí nghiệm, nhà lưới/screenhouse cũng như các
khảo nghiệm trên đồng ruộng về tác động bất lợi trực tiếp hoặc gián tiếp từ những thay đổi
mong muốn và không mong muốn cũng như biểu hiện của protein m PSPS đến các loài
sinh vật không chủ đích như động vật ăn cỏ, động vật ăn thịt, loài thụ phần đã được tiến
hành và thẩm định ở các nước trên thế giới như Mỹ, Brazil, công đồng Châu Âu, Nhật,
Philippines…đều khẳng định rằng ngô GA21 hay các cây trồng chuyển gen mang đặc tính
chống chịu thuốc trừ cỏ glyphosate không có ảnh hưởng bất lợi trực tiếp hay gián tiếp đến
các loài sinh vật không chủ đích và ngô GA21 cũng không ảnh hưởng đến môi trường canh
tác ngô.
Kết luận: Để đán giá ó ay k ông ó n ững tá động bất lợi của ngô chuyển gen GA21
đến đa dạng sinh họ và môi t ường t ng điều kiện Việt Nam, các nghiên cứu ở cấp độ
cao trong phòng thí nghiệm là không cần thiết mà các khảo nghiệm ng ài đồng ruộng sẽ
được áp dụng á p ương p áp đán giá n ư đã àm ở P i ipines, Tây Ban N a… (nơi ó
điều kiện sản xuất hoặc khí hậu n ư ở Việt Nam), á đán giá về tần xuất, số ượng, mật
độ của quần thể ôn t ùng, đán giá về bệnh và biểu hiện của emb a, à đại diện cho
sinh vật đất rất nhạy cảm với những t ay đổi của môi t ường đã được lựa chọn để tiến
hành nghiên cứu t ng điều kiện đồng ruộng hạn chế và diện rộng để àm ơ sở kết luận
tính an toàn với môi t ường của ngô GA21 đối với hệ sin t ái đất và đa dạng sinh họ nơi
ây ngô GA21 được phóng thích.
48
d) Xác định khả năng g y tác động bất lợi của ngô Bt11 đến các quá trình sinh học tự
nhiên của hệ sinh thái đất:
Protein mEPSPS biểu hiện trong ngô GA21 có thể được truyền vào đất thông qua các tàn
dư từ mô cây trồng và thông qua phân hủy của các tế bào trong suốt quá trình phát triển
của cây trồng từ các tàn dư thực vật phân hủy còn lại trên đồng ruộng sau thu hoạch
(Stotzky, 2004), và có thể thông qua dịch tiết từ rễ cây (Saxena và cs., 2002, 2004; Icoz và
Stotzky, 2007; Icoz và cs., 2008), kết quả là sự phơi nhiễm của các sinh vật không chủ đích
trong đất với protein mEPSPS. Phơi nhiễm gián tiếp thông qua phân bón và phân từ động
vật ăn ngô GA21 cũng được xem xét mặc dù hầu hết protein mEPSPS sẽ bị phân hủy bởi
hoạt động của enzyme trong đường ruột và sau đó là bởi các quá trình phân hủy vi sinh vật
trong phân.
Các nghiên cứu bởi Syngenta đã kết luận rằng không có tác động trực tiếp đến quá trình
sinh địa hoá và môi trường phi sinh học của ngô GA21 do sự biểu hiện của protein
mEPSPS. Protein chuyển đổi mEPSPS không làm thay đổi các quá trình sinh hóa học quan
trọng trong đất, chẳng hạn như quá trình chuyển đổi carbon và nitơ được chứng minh qua
các nghiên cứu ở cấp độ cao và thấp được thực hiện với ngô NK603 tại Pháp (Philippot và
cs., 2006), Ngô chống chịu thuốc trừ cỏ ở Canada (Hart và cs., 2009), ngô và đậu tương
chống chịu thuốc diệt cỏ glyphosate ở Mỹ (Liphadzi và cs., 2005). Bởi vì protein mEPSPS
trong ngô GA21 là tương tự như các protein PSPS tìm thấy trong thực vật và vi sinh vật
(CERA, 2010) nên nó không ảnh hưởng đến vi sinh vật trong đất do đó không ảnh hưởng
đến quá trình sinh địa hoá. Tương tự như vậy, sự biểu hiện của các tính trạng mới được
giới thiệu, trong đó các biến thể hoang dại được diễn ra tự nhiên trong môi trường đất,
không được cho là sẽ làm thay đổi sự tương tác tự nhiên giữa cây ngô với môi trường phi
sinh học.
Khả năng truyền gen ngang của ngô GA21 hay protein mEPSPS tới sinh vật đất là không
xảy ra, các dữ liệu được nêu rõ ở mục 3.2.3.a, phần III ở trên,
Kết luận của EFSA đã kết luận ngô chuyển gen GA21 không có tác động bất lợi đến các
quá trình sinh học tự nhiên của hệ sinh thái đất.
Kết luận: Tóm ại, dựa và kết quả ng iên ứu, ó t ể đưa a kết uận ằng, việ t ồng ngô
GA21 k ông gây tá động xấu đến ệ sin t ái đất ũng n ư quá t ìn sin óa ọ t ng
đất. Với n ững kết uận từ á ng iên ứu uyên sâu t ng p òng t ng iệm và đồng
uộng t ì á ng iên ứu bổ sung t ng p òng t ng iệm à k ông ần t iết và k ó t ự
iện ở điều kiện Việt Nam. C emb a, ôn t ùng điển ìn và ất mẫn ả với sự t ay đổi
ủa môi t ường xung quan đượ ọn àm đối tượng t ng á ng iên ứu tá động ủa
ngô uyển gen đến ệ sin vật đất t ng á k ả ng iệm ạn ế và k ả ng iệm diện
ộng ở Việt Nam với p ương p áp ng iên ứu đượ nêu i tiết t ng p ần kế ạ k ả
ng iệm.
e) Xác định khả năng g y tác động không mong muốn khác liên quan đến đa dạng
sinh học.
49
Các phân tích phân tử và đánh giá an toàn thực phẩm và thức ăn chăn nuôi của ngô GA21
đã không đưa ra mối quan ngại nào đến an toàn đối với sức khỏe con người và động vật
(phần 3 đến 5; EFSA, 2007).Trong ý kiến khoa học trước đây về ngô GA21 (EFSA, 2007),
Báo cáo của FSA đã kết luận rằng "ngô GA21 an toàn như ngô truyền thống không
chuyển gen đối với các tác động tiềm năng từ ngô đến sức khỏe con người và động vật",
do đó "ngô GA21 không có bất kỳ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và động vật"
(EFSA, 2011).
Nghiên cứu đánh giá độ độc cấp tính của protein mEPSPS tiến hành trên 5 con chuột cái và
5 chuột đực. Kết quả cho thấy, với liều cho ăn 2000 mg protein mEPSPS/kg trọng lượng
cơ thể không gây ra ảnh hưởng bất lợi đến chuột (Barnes, 2005).
Cũng từ một thí nghiệm trên 12 chuột đực và 12 chuột cái được cho ăn khẩu phần chứa từ
10 - 41.5% hạt ngô GA21 có xử lý glyphosate. Kết quả theo dõi sau 90 ngày, chuột ăn ngô
GA21 không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ tác động bất lợi nào khi so sánh với thức ăn thông
thường (EFSA Journal 2011; 9 (12):2480).
Kết luận: Căn ứ vào những nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy ngô GA21 hoàn toàn
không có khả năng gây tá động không mong muốn k á iên quan đến đa dạng sinh học
n ư n người, thực vật, động vật, côn trùng không chủ đ , quá t ìn sin óa
đất…T ng p ạm vi đán giá tá động của ngô GA21 đến môi t ường và đa dạng sinh học
ở Việt Nam, môi t ường nông nghiệp và đa dạng quần thể (n ư nêu ở mục 3.2.2, c, phần
III), sẽ đượ đán giá, p ân t và kết luận cụ thể sau khi hoàn thành các khảo nghiệm
được yêu cầu và đã được phê duyệt.
50
Phần IV. MỤC TIÊU, NỘI DUNG, VẬT LIỆU, PHƯƠNG PHÁP KHẢO NGHIỆM
Qua những kết quả của các nghiên cứu và phê chuẩn ở các nước khác trên thế giới cũng
như phần cơ sở lý luận để tiến hành lựa chọn đối tượng, nội dung trong khảo nghiệm đánh
giá ngô chuyển gen GA21 đối với môi trường và đa dạng sinh học ở Việt Nam đã được nêu
chi tiết trong phần III ở trên.
Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu được phê chuẩn cũng như những cơ sở lý luận ở
phần III cũng như để trả lời các câu hỏi trong điều 15, Nghị định 69. Công ty Syngenta đã
tham khảo ý kiến các nhà khoa học và hội đồng An Toàn Sinh học, Bộ NN&PTNT đề xuất
kế hoạch khảo nghiệm đánh giá rủi ro ngô chuyển gen GA21 đối với môi trường và đa
dạng sinh học trong điều kiện khảo nghiệm hạn chế và diện rộng ở Việt Nam.
Các thiết kế thí nghiệm và phương pháp thực hiện trong nghiên cứu khảo nghiệm hạn chế
và diện rộng ngô chuyển gen GA21 được xây dựng trên những dữ liệu có sẵn từ các nghiên
cứu và dựa trên cơ sở các quy định thông thường của quốc tế và Việt Nam về khảo nghiệm
đồng ruộng và các phương pháp thường quy trong nghiên cứu đánh giá rủi ro của sinh vật
chuyển gen đối với môi trường và đa dạng sinh học.
4.1. Khảo nghiệm hạn chế
Thực hiện theo quyết định số 773/QĐ/BNN-KHCN quyết định V/v “Khảo nghiệm hạn chế
đánh giá rủi ro đối với đa dạng sinh học và môi trường của cây ngô chuyển gen” do Bộ
trưởng bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ký ngày 29 tháng 03 năm 2010, với các
nội dung cụ thể sau:
4.1.1. Mục tiêu khảo nghiệm
- Xác định tác động (nếu có) của ngô GA21 kháng thuốc trừ cỏ Glyphosate đến đa
đạng sinh học và môi trường sinh thái Việt Nam
- Đánh giá khả năng chống chịu thuốc trừ cỏ glyphosate của ngô chuyển gen GA21.
4.1.2. Nội dung khảo nghiệm
- Đánh giá các đặc tính nông sinh học của ngô chuyển gen GA21 chống chịu thuốc
trừ cỏ Glphosate.
- Đánh giá tác động của ngô chuyển gen GA21 đến các đối tượng sinh vật không chủ
đích.
- Đánh giá khả năng chống chịu thuốc trừ cỏ glyphosate của ngô chuyển gen GA21.
4.1.3. Ý nghĩa khảo nghiệm
- Cung cấp cơ sở khoa học chứng minh sự kiện ngô chuyển gen chống chịu thuốc trừ
cỏ Glyphosate là an toàn đối với đa dạng sinh học và môi trường trong điều kiện
51
hạn chế, làm cơ sở đề xuất các nghiên cứu bổ xung trong khảo nghiệm diện rộng
trên các vùng sinh thái trọng điểm ngô khác nhau ở Việt Nam
4.1.4. Địa điểm và thời gian tiến hành khảo nghiệm
Khảo nghiệm được tiến hành trong 2 vụ liên tiếp tại Trại khảo nghiệm giống Đông Nam
Bộ, thuộc TT KKN Giống và SP cây trồng Nam Bộ, xã Sông Xoài, huyện Tân Thành, tỉnh
Bà Rịa
a) Vị trí, đặc điểm địa lý, thổ nhưỡng và khí hậu
Song Xoài thuộc Bà Rịa-Vũng Tàu là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Nam Bộ, tiếp
giáp tỉnh Đồng Nai ở phía bắc, Thành phố Hồ Chí Minh ở phía tây, tỉnh Bình Thuận ở phía
đông, c n phía nam giáp Biển Đông.
Diện tích và dân số: Bà Rịa Vũng Tàu có một thành phố trực thuộc tỉnh, một thị xã và 6
huyện. Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009, dân số Bà Rịa-Vũng Tàu là 994.837
người.Hiện nay BRVT có gần 40.000 hộ giáo dân với gần 257.000 nhân khẩu, chiếm 27%
dân số toàn tỉnh.
Khí Hậu: Bà Rịa-Vũng Tàu thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa; một năm chia hai mùa
rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, thời gian này có gió mùa Tây Nam. Mùa
khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, thời gian này có gió mùa Đông Bắc. Nhiệt độ
trung bình hàng năm là 27°C, tháng thấp nhất khoảng 24,8°C, tháng cao nhất khoảng
28,6°C. Số giờ nắng rất cao, trung bình hàng năm khoảng 2400 giờ. Lượng mưa trung bình
1500 ẩm. Bà Rịa-Vũng Tàu nằm trong vùng ít có bão.
52
Địa hình: Bà Rịa - Vũng Tàu có 7 đơn vị hành chính: Thành phố Vũng Tàu, thị xã Bà Rịa
và 4 huyện trên đất liền: Châu Đức. Tân Thành, Xuyên Mộc và Long Đất nằm ở kinh độ
107'05" Đông, vĩ độ 10'50" Bắc. Huyện Côn Đảo nằm ở kinh độ 106'35" Đông, vĩ độ 8'42"
Bắc có 66 km bờ biển. Thềm lục địa rộng trên 100.000 km2. Địa hình tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu có thể chia làm 4 vùng: bán đảo hải đảo, vùng đồi núi bán trung du và vùng thung lũng
đồng bằng ven biển.Bán đảo Vũng Tàu dài và hẹp diện tích 82,86 km2, độ cao trung bình
3-4m so với mặt biển. Hải đảo bao gồm quần đảo Côn Lôn và đảo Long Sơn. Vùng đồi núi
bán trung du nằm ở phía Bắc và Đông Bắc tỉnh phần lớn ở huyện Tân Thành, Châu Đức,
Xuyên Mộc. Ở vùng này có vùng thung lũng đồng bằng ven biển bao gồm một phần đất
của các huyện Tân Thanh Long Điền, Bà Rịa, Đất Đỏ.
Cây trồng: Lúa nước, ngô (diện tích 19.6 nghìn ha năm 2008) xen l n những vạt đôi thấp
và rừng thưa có những bãi cát ven biển.
b) Thời gian gieo trồng
Vụ Hè Thu 2010:
+ Ngày gieo: 24/ 06/ 2010
+ Ngày thu hoạch: 28/ 09/ 2010
Vụ Thu Đông 2010:
+ Ngày gieo: 10/08/2010
+ Ngày thu hoạch: 18/11/2010
c) Diện tích khảo nghiệm, số lượng hạt giống GA21 được sử dụng
Vụ Hè Thu 2010:
+ Tổng diện tích khu khảo nghiệm 1000m2
+ Diện tích ô khảo nghiệm GA21 là 21 m2, tổng diện tích = 3 lần nhắc x 21 =
63 m2
+ Sử dụng hạt giống:
o Giao nhận: 720 hạt
o Gieo trồng: 720 hạt
o Tiêu hủy: 0
Vụ Thu Đông 2010:
+ Tổng diện tích khu khảo nghiệm 1000m2
53
+ Diện tích ô khảo nghiệm GA21 là 21 m2, tổng diện tích = 3 lần nhắc x 21 =
63 m2
+ Sử dụng hạt giống:
o Giao nhận: 720 hạt
o Gieo trồng: 720 hạt
o Tiêu hủy: 0
Khảo nghiệm hạn chế được bố trí hoàn toàn trong khu vực nghiên cứu của Trại khảo
nghiệm giống Đông Nam Bộ, thuộc TT KKN Giống và SP cây trồng Nam Bộ, là nơi được
kiểm soát chắt chẽ và cách ly với vùng canh tác của nông dân.
4.1.5. Bố trí thí nghiệm
Công thức và sơ đồ thí nghiệm được thiết kế như nhau cho tất cả 2 vụ khảo nghiệm
Công thức thí nghiệm
TT Công thức Diễn giải
1 CT1 Ngô chuyển gen GA21, phun Glyphosate
2 CT2 Ngô NK66 không chuyển gen, phun Glyphosate
3 CT3 Ngô NK66 không chuyển gen, phun nước, làm cỏ bằng tay
4 CT4 Ngô NK66 không chuyển gen, phun nước, không làm cỏ
5 CT5 Ngô C919, canh tác bình thường
- Trước khi trồng, địa điểm khảo nghiệm được thiết lập hàng rào để ngăn chặn sự thâm
nhập của loài động vật và người không phận sự.
- Vành đai bảo vệ: Trồng 4-5 hàng ngô xung quanh khảo nghiệm, với giống ngô NK66,
cùng giống khảo nghiệm nhưng không chuyển gen.
- Cách ly về thời gian: Khảo nghiệm được trồng trên cơ sở cách ly không gian trồng sau
ngô canh tác của nông dân ít nhất 25 ngày.
- Các công thức được thiết kế theo khối đầy đủ hoàn toàn ng u nhiên, ba lần nhắc lại.
Mỗi ô thí nghiệm có diện tích 21 m2 (4,2 x 5,0 m); khoảng cách trồng là 70 cm x 25 cm
(4 hàng, mỗi hàng 21 c y).
- Ghi nhận dữ liệu thời tiết: Độ ẩm, nhiệt độ, lượng mưa được ghi nhận hàng ngày vào
lúc 8 giờ và 14h tại khu vực khảo nghiệm.
Quản lý canh tác: Các thực hành quản lý canh tác được tuân theo Quy phạm khảo
nghiệm ngô (10TCN 341-2006 do Bộ NN & PTNN ban hành.
54
SƠ ĐỒ KHẢO NGHIỆM HẠN CHẾ NGÔ CHUYỂN GEN (GA21) CHỐNG CHỊU
THUỐC TRỪ CỎ CHỨA HOẠT CHẤT GLYPHOSATE
1.4 5m 1.4 5m 1.4 5m 1.4
CT5R1 CT5R2 CT2R3
1m
CT4R1 CT3R2 CT1R3
1m
CT3R1 CT2R2 CT3R3
1m
CT2R1 CT4R2 CT5R3
1m
CT1R1
6 rows x 0.7m CT1R2 CT4R3
4.1.6. Chỉ tiêu theo dõi, phương pháp đánh giá và xử lý số liệu
4.1.6.1. Đánh giá đặc điểm sinh nông học của cây ngô chuyển gen GA21: Nhằm đánh
giá khả năng trở thành cỏ dại, dịch hại căn cứ vào so sánh với giống ngô không chuyển gen
cùng d ng. Theo dõi đặc điểm sinh trưởng phát triển và năng suất của ngô chuyển gen
GA21 theo quy định 10TCN341-2006, các chỉ tiêu đánh giá như sau:
- Ngày cây mọc: số ngày từ khi gieo đến khi 50% cây trồng mọc.
- Số cây mọc trong khoảng 12-14 ngày sau gieo.
- Nảy mầm và sức sống cây con: Ngày xuất hiện cây con sẽ được ghi nhận khi 50%
số hạt đã nảy mầm (7-10 ngày sau gieo) và sức sống của cây con sẽ được đánh giá
theo thang điểm từ 1-9 (trong đó 1= rất mạnh, 3 = mạnh, 5 = trung bình, 7 = yếu, 9
= rất yếu).
- Tỷ lệ cây đổ gãy : ghi nhận số cây bị đổ g y trên 4 hàng ở giữa tại thời điểm 85
ngày sau gieo
- Thời gian trỗ cờ: Ghi nhận ngày mà 50% số cây trổ cờ.
- Thời gian phun râu: Ghi nhận ngày 50% số cây phun râu
55
- Chiều cao cây: Đo chiều cao cây của 20 cây được lựa chọn ng u nhiên ở mỗi ô
trong 2 hàng giữa vào giai đoạn chín sáp (khoảng 90 ngày sau gieo), đo từ mặt đất
tới hết bẹ lá cao nhất gần cờ.
- Chiều cao đóng bắp: 20 cây được chọn ng u nhiên và đo từ mặt đất đến sát mắt
đóng bắp vào giai đoạn cuối chín sáp (90 ngày sau gieo).
- Ngày từ gieo đến chín sinh lý: là số ngày từ gieo đến khi đầu phôi hạt chuyển màu
nâu hoăc đen.
- Năng suất: Việc tính năng suất được thực hiện khi thu bắp của hai hàng giữa của
mỗi công thức thí nghiệm:
+ Trọng lượng bắp/ô (cả lõi) sau khi lột vỏ tính bằng kg.
+ Tỷ hệ hạt/bắp (%).
+ Ẩm độ hạt lúc thu hoạch (%).
+ Năng suất thực thu (tấn/ ha)
- Các thông số quan trọng khác sẽ được ghi nhận như đổ ngã, bật rễ, rụng bắp
4.1.6.2. Tác động của ngô GA21 đến sinh vật không chủ đích
Mục đích của những nghiên cứu này để xác định tác động nếu có của ngô GA21 đến sinh
vật không chủ đích trong đất và trên mặt đất bằng cách thu thập tất cả các loài côn trùng
trên mỗi điểm đánh giá để đánh giá phân loại, đồng thời bổ sung cho phần kết luận vầ tính
an toàn của ngô GA21 đến hệ sinh thái xung quanh và các tác động bất lợi khác như đã
chứng minh ở phần III ở trên.
Điều tra, theo dõi và đánh giá tiêu chuẩn ngành của Viện Bảo vệ thực vật dựa trên “Viện
Bả vệ t ự vật. 1997. P ương p áp điều t a ơ bản d ại nông ng iệp và t iên đ
ủa úng (Tập I) Viện Bả vệ t ự vật, Bộ Nông ng iệp & PTNT. N à Xb Nông ng iệp,
t ang 99 và; Viện Bả vệ t ự vật. 2000. P ương p áp điều t a, đán giá sâu, bện , ỏ
dại, uột ại ây t ồng ạn (Tập III). Viện Bả vệ t ự vật, Bộ Nông ng iệp & PTNT.
N à Xb Nông ng iệp, t ang 77”, thu thập m u bằng cách đánh giá bằng mắt thường và b y
dính vàng. Côn trùng từ b y dính vàng được thu thập định kỳ 02 tuần/lần sau đó chuyển về
ph ng thí nghiệm để đánh giá, tính toán và phân loại.
a) Thành phần các loài động vật chân khớp (côn trùng và nhện)
- Dụng cụ theo dõi: B y dính vàng và mắt thường
- Phương pháp điều tra: Điều tra định kỳ trong suốt thời gian sinh trưởng của cây
ngô (từ khi trồng đến trỗ cờ); mỗi lần cách nhau 7-8 ngày (4 lần/tháng, thường chọn
ngày cố định, thí dụ hàng tháng điều tra ngày 7, 14, 21 và 281ngày).Trên mỗi ô
56
thí nghiệm chọn 20 cây trên 2 hàng ở gữa ô. Chọn cây ng u nhiên lần đầu sau đó
ghi số treo biển để điều tra các lần tiếp theo cho đến khi kết thúc thí nghiệm. Các
cây điều tra phải cách hàng ngoài cùng ít nhất 2 hàng.
- Ghi nhận tất cả những đối tượng chân khớp (côn trùng và nhện) bắt gặp trên cây
được điều tra. Nếu không nhận dạng được thì đưa về ph ng thí nghiệm để giám
định. Các b y dính vàng được thu định kỳ 02 tuần/lần để đưa về ph ng thí nghiệm
giám định và phân loại.
- Chỉ tiêu theo dõi:
+ Chỉ tiêu theo dõi: Thành phần loài, tần suất bắt gặp, số lượng một số loài đại
diện cho các nhóm chân khớp tại một số thời điểm xuất hiện chủ yếu.
+ Tập trung ghi nhận các loài thuộc nhóm sâu hại bộ Lepidoptera, thiên địch có
ích (ong mật)
+ Tần suất xuất hiện
b) Mật độ các loài côn trùng và chân khớp phổ biến
- Dụng cụ theo dõi: B y dính vàng và mắt thường
- Đối tượng theo dõi chính: Rệp ngô (Rhopalosiphum maidis) và các loài thiên
địch chính (bọ rùa bắt mồi ăn thịt, nhện lớn bắt mồi ăn thịt, cánh chúng, cánh
ngắn…).
- Phương pháp điều tra: Điều tra định kỳ trong suốt thời gian sinh trưởng của cây
ngô (từ khi trồng đến trỗ cờ); mỗi lần cách nhau 7-8 ngày (4 lần/tháng, thường
chọn ngày cố định, thí dụ hàng tháng điều tra ngày 7, 14, 21 và 281ngày). Trên
mỗi ô thí nghiệm chọn 20 cây trong 2 hàng ở giữa ô. Cây điều tra được chọn ng u
nhiên lần đầu sau đó ghi số treo biển để điều tra các lần tiếp theo cho đến khi kết
thúc thí nghiệm. Các cây điều tra phải cách hàng ngoài cùng ít nhất 2 hàng.
- Tính mật độ các loài ch n khớp phổ biến trên thí nghiệm:
+ Đối với loài có kích thước lớn: đếm số lượng cá thể bắt gặp trên cây điều tra;
+ Đối với loài có kích thước nhỏ, mật độ dày đặc (rệp muội ngô) sẽ đánh giá quần
thể theo cấp nhiễm.
Cấp 0: không có rệp muội
Cấp 1: rệp muội phân bố từng cá thể rải rác, chưa hình thành quần tụ
Cấp 2: rệp muội bắt đầu hình thành một số quần tụ nhỏ
57
Cấp 3: rệp muội có quần tụ nhỏ, bắt đầu hình thành một số quần tụ lớn
Cấp 4: rệp muội có nhiều quần tụ lớn
Cấp 5: rệp muội có nhiều quần tụ lớn liên kết liền lại thành vùng lớn
- Chỉ tiêu theo dõi
+ Mật độ các loài được điều tra
+ Tỷ lệ nhiễm và chỉ số nhiễm với rệp muội
+ Tỷ lệ hại và chỉ số hại
c) Đánh giá mức độ gây hại của sâu hại ngô không chủ đích trên đồng ruộng
- Đối tượng theo dõi: đối tượng miệng nhai (sâu cắn lá, sâu róm, sâu gai, bọ cánh
cứng ăn lá 4 vệt...) để đánh giá mức độ gây hại trên đồng ruộng. Việc xác định loài
sẽ được thực hiện khi tiến hành thí nghiệm.
- Phương pháp lấy m u: Điều tra vào các giai đoạn sinh trưởng chính của ngô (cây
con, sinh trưởng thân lá, trước trỗ cờ, chín sáp và trước thu hoạch) theo 5 điểm, mỗi
điểm 20 cây, các cây điều tra phải cách hàng ngoài cùng ít nhất 2 hàng.
- Phương pháp đánh giá:
Đánh giá 4 lần, vào các thời điểm: 2 - 4 lá; 10-15 lá; trỗ cờ - chín sữa; trước
thu hoạch.
Thang điểm đánh giá: theo thang điểm từ 1-9 (Guthrie and Dickens, 1960).
d) Đánh giá sự đa dạng của sinh vật đất
- Đối tượng theo dõi: nhóm bọ đuôi bật Collembola (côn trùng)
- Chỉ tiêu đánh giá: thành phần loài, chỉ số đa dạng sinh học.
- Phương pháp: nghiên cứu đa dạng sinh học nhóm Collembola theo phương
pháp của Gilarov (1975). Mỗi ô thí nghiệm thu 5 m u /lần điều tra với kích thước
5x5x10cm. Lấy m u 3 lần/vụ, vào các thời điểm: Cây con - sinh trưởng sinh dưỡng (0-30
NSG), ra hoa (50-60 NSG) và trước khi thu hoạch (75-90 NSG). M u đất cho vào túi ni
lông riêng, bên trong và bên ngoài có kèm theo nhãn (thời gian, địa điểm thu m u, sinh
cảnh thu m u, người thu m u) và buộc chặt, sau đó đưa về phòng thí nghiệm.
Tại phòng thí nghiệm: Collembola và các động vật không xương sống khác được tách ra
khỏi đất bằng phễu Tullgren trong thời gian 7 ngày đêm ở nhiệt độ phòng thí nghiệm.
Phương pháp này cho phép thu thập được số lượng cá thể lớn hơn nhiều khi thu bằng tay
và cũng cho tập hợp những thông tin về mật độ nhiều hơn (Palacios-Vargas, 1992). Phễu
58
Tullgren có cấu tạo bằng bìa carton cứng cuốn thành cái phễu với đường kính 20cm, độ
cao 15cm-18cm. Ở đáy phễu có gắn một ống nghiệm có đường kính 1,0cm, dài 4cm bên
trong đựng dung dịch định hình cồn 90o. M u đất mang từ thực địa về, được chuyển vào
một cái rây lọc (đường kính rây 18cm, thành rây bằng sắt, cao 5cm, đáy rây là lưới ni lôn
với kích thước lỗ lưới 1,5mmx1,5mm). Đặt rây này bên trong phễu carton và đặt trên một
giá sắt cố định. Sau 7 ngày thu các ống nghiệm trong đó động vật đất đã chui sâu qua đất,
rơi vào ống nghiệm bên dưới và được định hình bằng cồn 90o.
Để xử lý m u vật, bảo quản và định loại: các ống nghiệm có m u vật (Collembola) thu
được nhờ phễu Tullgren sẽ được lần lượt đổ ra đĩa petri để tính đếm số lượng các nhóm,
các dạng loài dưới kính lúp hai mắt (Olympus SZ40); Để xác định đến loài, tiến hành làm
tiêu bản cố định, soi dưới kính hiển vi với độ phóng đại lớn (đến 4000 lần) (Olympus
CH2). Định loại với các tài liệu chuyên môn. Các m u bọ nhảy không làm tiêu bản, sẽ
được cho vào trong ống nghiệm chứa dung dịch bảo quản cồn 90o. Các ống nghiệm đều
được gắn nhãn ghi đầy đủ ngày thu, điểm thu, công thức. Toàn bộ tiêu bản định loại và các
m u vật được bảo quản tại ph ng Sinh thái Môi trường đất, Viện Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Danh sách loài Collembola được sắp xếp theo hệ thống cây chủng loại phát sinh dựa theo
hệ thống phân loại của Moen và Ellis, 1984. Các loài trong một giống được sắp xếp theo
vần a, b, c. Định tên loài theo tài liệu của Nguyễn Trí Tiến, 1995; Jan Stach (1965), Yoshii
Ryozo (1982-1983); Hermann Gisin (1960); Loui Deharveng et Anne Bedos (1995).
- Các vật liệu phục vụ cho việc nghiên cứu bao gồm: hệ thống lọc m u đất (rây lọc,
phễu lọc,v.v….); dụng cụ tách m u, phân tích m u và làm tiêu bản như đĩa petri, lam kính,
lamen và các hóa chất thường dùng trong nghiên cứu động vật đất; kính lúp Olympus
SZ40; kính hiển vi Olympus CH2; ngoài ra, một số loại dụng cụ khác như lọ đựng m u, túi
nilon, hộp lấy m u đất, bút, sổ ghi chép, … cũng được sử dụng để phục vụ cho việc nghiên
cứu.
- Đánh giá thành phần loài, mật độ trung bình, chỉ số đa dạng sinh học H' và chỉ
số đồng đều J' được tính theo Gormy & Grum (1993).
Các chỉ số phân tích:
- Số lượng loài: được tính bằng tổng số loài có mặt trong điểm thí nghiệm ở tất cả
các lần thu m u của một vụ.
- Mật độ trung bình: số lượng cá thể của tất cả các lần thu m u của một vụ quy ra
trên một mét vuông (cá thể/m2).
- Chỉ số đa dạng Shannon-Weiner (H’): được sử dụng để tính sự đa dạng loài hay
số lượng loài trong quần xã và tính đồng đều về sự phong phú cá thể của các loài trong
quần xã. Giá trị của H’ dao động trong khoảng 0 - . Chỉ số đa dạng của quần xã phụ
thuộc vào hai yếu tố là số lượng loài và tính đồng đều về sự phong phú của các loài trong
59
quần xã. Chỉ số đa dạng là một chỉ tiêu để đánh giá tính đa dạng về khu hệ động vật của
một khu vực. Chỉ số được tính theo công thức:
N
ni
N
niH
s
i
1
ln'
Trong đó: s: số lượng loài
ni: số lượng cá thể của loài i
N: tổng số lượng cá thể trong toàn bộ m u
- Chỉ số phong phú Margalef (d): tính theo công thức d = (s-1)/logN
Dựa trên 2 tham số: số lượng loài và tổng số cá thể của seri m u. Giá trị của d dao động
trong khoảng 0-.
- Chỉ số ưu thế nghịch Simpson: tính theo công thức 1-’= 1-ni(ni-1)/[N(N-1)].
Chỉ số này phản ánh mức độ đồng đều của sự phân bố số lượng cá thể giữa các loài trong
quần xã. Giá trị chỉ số này càng cao sẽ làm cho tính ưu thế càng giảm, nghĩa là mức độ ưu
thế sẽ phân đều cho các loài, do đó tính đa dạng của quần xã sẽ được tăng lên. Ý nghĩa của
chỉ số này tương tự như chỉ số đồng đều Pielou (J’).
- Chỉ số đồng đều Pielou (J’): tính theo công thức J’=H’/logS
Trong đó: S; tổng số loài; N: tổng số m u; ni: số cá thể của loài thứ i
Giá trị của J’ dao động từ 0-1. Giá trị của J’=1 khi số lượng cá thể của các loài
trong quần xã bằng nhau.
- Loài ưu thế: là những loài có giá trị chỉ số ưu thế bằng hoặc lớn hơn 5% (Maria
Sterzynska, 1990). Chỉ số ưu thế được tính theo công thức:
100xn
nD a
Trong đó: na: số lượng cá thể của loài a
n: tổng số cá thể của toàn bộ m u theo sinh cảnh hay địa điểm.
- Loài phổ biến: là những loài có giá trị chỉ số thường gặp từ 50% -100% . Chỉ số
thường gặp được tính theo công thức:
100xN
NaC
Trong đó: Na: số lượng m u thu có chứa loài a
60
N: tổng số lượng m u của sinh cảnh nghiên cứu
e) Vi sinh vật hại ngô
- Đối tượng: thành phần bệnh, các bệnh hại chính trên thân lá và vi sinh vật xâm nhiễm
trên bắp/hạt
- Ghi nhận thành phần bệnh thân lá và trên bắp.
- Đánh giá tỷ lệ nhiễm và chỉ số nhiễm một số bệnh hại chính theo thang 9 cấp của
CYMIT vào 75-80 NSG.
Đánh giá tỷ lệ nhiễm nấm trên bắp/hạt vào thời điểm thu hoạch.
4.1.6.3. Hiệu quả chống chịu thuốc trừ cỏ Glyphosate của ngô chuyển gen GA21
- Vào thời điểm 16-25 ngày sau gieo (cây ở giai đoạn 4-5 lá), lô khảo nghiệm sẽ
được phun thuốc trừ cỏ glyphosate theo mức khuyến cáo. Cùng thời gian, lô đối
chứng không phun thuốc (làm cỏ bằng tay) được phun cùng lượng nước dùng trong
thí nghiệm phun thuốc;
- Theo dõi các đặc tính gây độc và đặc tính bất bình thường khác tại ngày thứ 5 và
ngày thứ 10 sau khi phun glyphosate đối với toàn bộ lô xử lý. Theo dõi số lượng
cây chết, các đặc điểm nông học.
- Các đánh giá dựa vào phương pháp: “Viện Bả vệ t ự vật. 1997. P ương p áp
điều t a ơ bản d ại nông ng iệp và t iên đ ủa úng (Tập I) Viện Bả vệ
t ự vật, Bộ Nông ng iệp & PTNT. N à Xb Nông ng iệp, t ang 99
4.1.6.4 Xử lý số liệu
- Số liệu sẽ được phân tích thống kê sinh học để so sánh giá trị trung bình trên phần
mềm IRRISTAT, SAS.
4.2. Khảo nghiệm diện rộng
Ngày 19 tháng 1 năm 2011, Hội đồng Tư vấn An toàn sinh học, Bộ Nông nghiệp PTNT đã
họp đánh giá kết quả thực hiện khảo nghiệm hạn chế với ngô chuyển gen GA21 của Công
ty Syngenta do Viện Di truyền Nông nghiệp chủ trì thực hiện trong hai vụ năm 2010. Công
ty Syngenta và Viện Di truyền Nông nghiệp đã trình bầy trước Hội đồng báo cáo đánh giá
rủi ro của ngô chuyển gen GA21 đối với đa dạng sinh học và môi trường và kết luận như
sau:
- Ngô chuyển gen GA21 kháng thuốc trừ cỏ Glyphosate không có nguy cơ trở thành
cỏ dại
61
- Ngô chuyển gen GA21 kháng thuốc trừ cỏ Glyphosate không có ảnh hưởng xấu
đến các sinh vật không chủ đích (hệ động vật chân đốt trên tán lá, gồm cả sâu hại
và thiên địch, côn trùng trong đất, bệnh hại)
- Ngô chuyển gen GA21 kháng thuốc trừ cỏ Glyphosate không làm thay đổi bất lợi
đến hệ sinh thái, bao gồm cả hệ sinh thái tự nhiên l n hệ sinh thái nông nghiệp.
- Ngô chuyển gen GA21 kháng không bị ảnh hưởng bởi thuốc trừ cỏ Glyphosate,
trong khi đó ngô không chuyển gen và cỏ bị chết hoàn toàn sau 10 ngày phun
Glyphosate. Hiệu được đánh giá là thấp hơn so với làm cỏ bằng tay tại thời điểm
thu hoạch
- Ngô chuyển gen GA21 đã được chứng minh an toàn và sử dụng nhiều năm trên thế
giới, nhưng cần tiếp tục đánh giá trong khảo nghiệm diện rộng để khẳng định tính
an toàn và hiệu quả về môi trường, xã hội và kinh tế của ngô chuyển gen GA21
trong điều kiện sản xuất tại Việt Nam.
Hội đồng đã ghi nhận các kết quả đạt được trong khảo nghiệm hạn chế với ngô chuyển gen
GA21 chống chịu thuốc trừ cỏ Glyphosate và cho phép công ty Syngenta cùng các đơn vị
thực hiện được chỉ định tiếp tục tiến hành khảo nghiệm diện rộng với ngô chuyển gen
GA21 tại các vùng trồng ngô chính ở Việt Nam để có kết luận cuối cùng về đánh giá rủi ro
với môi trường của ngô chuyển gen GA21 với đa dạng sinh học và môi trường tại Việt
Nam.
Trong điều kiện sản xuất của Việt Nam, việc tiến hành khảo nghiệm sẽ cung cấp các thông
tin cần thiết cho 5 vấn đề được đặt ra về an toàn sinh học của ngô chuyển gen GA21 theo
nghị định 69/2010/NĐ-CP của Chính phủ. Để đáp ứng yêu cầu này, đơn vị thực hiện khảo
nghiệm sẽ tiến hành tập trung vào đánh giá (1) Ản ưởng của ngô chuyển gen GA21 đến
các sinh vật trong ruộng ngô, bao gồm (a) sự đa dạng của động vật ân đốt thông qua
thành phần và tần suất xuất hiện; (b) diễn biến mật độ của sâu hại và t iên đ ch chính trên
ngô; (c) sự đa dạng của nhóm bọ đuôi bật Collembola và (d) vi sinh vật gây bệnh thông
qua thành phần và mứ độ gây hại của bệnh chính trên ngô do nấm và vi khuẩn gây ra; (2)
nguy ơ ỏ hóa của ngô chuyển gen GA21 t ông qua đán giá đặ điểm nông sinh học; (3)
tính kháng thuốc trừ cỏ có hoạt chất Glyphosate trên các loài cỏ trên ruộng ngô hiện nay
tại Việt Nam, qua đó đán giá iệu quả sử dụng ngô chuyển gen GA21 trong quản lý cỏ
dại và kế hoạch quản lý tính kháng Glyphosate của cỏ dại t ng tương ai.
Thực hiện theo quyết định số 403/QĐ/BNN-KHCN quyết định V/v “Công nhận kết quả
khảo nghiệm hạn chế và cấp phép khảo nghiệm diện rộng đánh giá rủi ro đối với đa dạng
sinh học và môi trường của cây ngô chuyển gen” do Thứ trưởng bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn ký ngày 07 tháng 03 năm 2011., với nội dung chi tiết như sau:
62
4.2.1. Mục tiêu khảo nghiệm
- Xác định tác động (nếu có) của ngô GA21 kháng thuốc trừ cỏ Glyphosate đến đa
đạng sinh học và môi trường sinh thái Việt Nam
- Đánh giá khả năng chống chịu thuốc trừ cỏ glyphosate của ngô chuyển gen GA21.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế khi sử dụng ngô chuyển gen GA21 kháng thuốc trừ cỏ
Glyphosate.
4.2.2. Nội dung khảo nghiệm
- Đánh giá các đặc tính nông sinh học của ngô chuyển gen GA21 chống chịu thuốc
trừ cỏ Glphosate.
- Đánh giá tác động của ngô chuyển gen GA21 đến các đối tượng sinh vật không chủ
đích.
- Đánh giá khả năng chống chịu thuốc trừ cỏ glyphosate của ngô chuyển gen GA21.
- Đánh giá và so sánh năng suất của ngô chuyển gen GA21 trong khảo nghiệm diện
rộng.
4.2.3. Ý nghĩa khảo nghiệm
- Cung cấp cơ sở khoa học chứng minh sự kiện ngô chuyển gen chống chịu thuốc trừ
cỏ Glyphosate là an toàn đối với đa dạng sinh học và môi trường ở Việt Nam và
cho phép tiến hành cấp phép thương mại hóa ngô chuyển gen mang sự kiện GA21
tại Việt Nam;
- Giới thiệu thêm giải pháp cho người trồng ngô phục vụ mục đích gia tăng năng suất,
quản lý cỏ dại hiệu quả, linh hoạt và nâng cao thu nhập cho người nông dân.
- Đem lại lợi ích cho sản xuất nông nghiệp, con người và môi trường sinh thái.
4.2.4. Địa điểm và thời gian tiến hành khảo nghiệm
Các vị trí được chọn cho khảo nghiệm diện rộng ngô chuyển gen GA21 được đặt tại Trung
tâm khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng và phân bón vùng Nam Bộ, là cơ sở đã
được bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn cho phép và chỉ định để làm khảo nghiệm
cây trồng chuyển gen và các vùng trồng ngô tại các tỉnh Hưng Yên, Sơn La và DalkLak là
những khu vực được chọn cách xa khu dân cư với bán kính là trên 250 mét và cách xa khu
bảo tồn sinh học như: Vườn quốc gia, khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài hoang dã, và
khu bảo tồn cảnh quan ( như theo quy định trong điều 12 của luật đa dạng sinh học).
4.2.4.1. Xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên (Đại diện vùng Đồng bằng
sông Hồng)
63
a) Vị trí, đặc điểm địa lý, thổ nhưỡng và khí hậu
Huyện Khoái Châu có diện tích tự nhiên là 13.073,1 ha với 184.079 nhân khẩu gồm 25 xã:
Đông Tảo, Dạ Trạch, Hàm Tử, Ông Đình, Bình Minh, An Vĩ, Đông Kết, Bình Kiều, Tân
Dân, Tứ Dân, Tân Châu, Đông Ninh, Đại Tập, Liên Khê, Nhuế Dương, Chí Tân, Đại
Hưng, Thuần Hưng, Thành Công, Phùng Hưng, Việt H a, Đồng Tiến, Hồng Tiến, Dân
Tiến, và thị trấn Khoái Châu.
Đặc điểm địa lý: Khoái Châu là huyện đồng bằng Bắc Bộ, nằm trên bờ tả ngạn của sông
Hồng, phía Nam và Đông Nam giáp các xã Thọ Vinh, Đồng Thanh, Vĩnh Xá, Toàn Thắng
của huyện Kim Động, góc phía Đông giáp xã Xuân Trúc của huyện Ân Thi, phía Đông
Bắc và Bắc giáp các xã Minh Châu, Yên Hoà, Hoàn Long, Yên Phú, Lý Thường Kiệt của
huyện Yên Mỹ, phía Tây Bắc giáp Mễ Sở, Tân Tiến, Liên Nghĩa của huyện Văn Giang.
Phía Tây giáp các xã nằm trong các huyện của Hà Nội : xã Tự Nhiên, Thống Nhất, Vạn
Điểm, Lê Lợi của huyện Thường Tín (ở chính phía tây) và Văn Nhân, Thuỵ Phú, Hồng
Thái của huyện Phú Xuyên (ở phía Tây Nam), ranh giới là sông Hồng. Dân số: 179200
người, dân tộc: Kinh; mật độ: 1369 người/km2.
Khí hậu: Khoái Châu có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5
đến tháng 10, đặc trưng là nóng ẩm mưa nhiều. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau
thường lạnh, đầu mùa khí hậu tương đối khô, nửa cuối ẩm ướt và có mưa phùn, nhiệt độ
trung bình hàng năm khoảng 23oC, cao nhất 38 - 39
oC, thấp nhất không dưới 5
oC.
Tài nguyên:
+Tài nguyên đất: Khoái Châu có diện tích đất tự nhiên là 130,86km2, trong đó đất nông
nghiệp có 8.779 ha chiếm 67,09% (đất canh tác là 7.280,9 ha chiếm 82,94% đất nông
64
nghiệp), đất chuyên dùng 2.526,3 ha chiếm 19,31% đất ở có 1.046,9 ha chiếm 8%, đất
chưa sử dụng 733,83 ha chiếm 5,61%.
+ Tài nguyên khoáng sản: Khoáng sản chính của Khoái Châu chỉ có nguồn cát ven sông
Hồng và một số đất sét sản xuất gạch ngói có thể phát triển khai thác phục vụ nhu cầu xây
dựng. Theo các tài liệu thăm d địa chất, tại vùng đồng bằng sông Hồng trong đó có Khoái
Châu tồn tại trong l ng đất một mỏ than nâu rất lớn nằm trong lớp trầm tích Nioxen với trữ
lượng dự báo hàng trăm tỷ tấn, nhưng ở độ sâu 300 - 1.700m.
+ Nguồn nước: Khoái Châu nằm trong hệ thống sông Hồng là hệ thống sông lớn nhất ở
miền Bắc, do có nguồn nước phù sa bồi đắp đáp ứng nhu cầu về phát triển kinh tế và dân
sinh của huyện. Từ độ sâu 50 - 110m, huyện có nguồn nước ngầm khá tốt.
- Xã Tân Châu: diện tích 6,11 km2 bao gồm các thôn Hợp Hòa, Mãn Hòa, Hồng Châu,
Kiến Châu.
- Cây trồng: Là vùng đất bãi bồi ven sông Hồng nên các cây trồng chủ yếu là ngô (diện tích
9,2 nghìn ha); chuối, nhãn và một số cây hoa mầu khác.
Khảo nghiệm diện rộng được trồng trong tháng 3, vụ Xuân Hè (muộn), để suy trì cách ly
về thời gian với vụ ngô chính của dân được trồng vào tháng 1.
b) Thời gian gieo trồng
Vụ Xuân Hè 2011
+ Ngày trồng thí nghiệm: 13/ 03/ 2011
+ Ngày thu hoạch thí nghiệm: 17/ 07/ 2011
c) Diện tích khảo nghiệm, số lượng hạt giống GA21 được sử dụng
+ Tổng diện tích khu khảo nghiệm 8.100 m2, gồm cả event Bt11 và tổ hợp lai
Bt11xGA21
+ Diện tích khảo nghiệm GA21 là 600m2 x 2 = 1200m
2
+ Sử dụng hạt giống:
o Giao nhận: 4 kg
o Gieo trồng: 4 kg
o Tiêu hủy: 0
4.2.4.2. Đội Bắc Quang, Công ty nông nghiệp Tô Hiệu, Thị trấn Hát Lót, huyện Mai
Châu, tỉnh Sơn La (đại diện vùng Tây Bắc).
65
a) Vị trí, đặc điểm địa lý, thổ nhưỡng và khí hậu
Sơn La là tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam, tỉnh có diện tích 14.125 km2 chiếm 4,27%
tổng diện tích Việt Nam, đứng thứ 3 trong số 63 tỉnh thành phố. Toạ độ địa lý: 20039’ -
22002’ vĩ độ Bắc và 103011’ - 105002’ kinh độ Đông. Địa giới: phía bắc giáp các tỉnh Yên
Bái,Điện Biên, Lai Châu; phía đông giáp các tỉnh Phú Thọ, Hoà Bình; phía tây giáp với
tỉnh Điện Biên; phía nam giáp với tỉnh Thanh Hoá và nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Lào với đường biên giới chung dài 250 km, chiều dài giáp ranh với các tỉnh khác là 628
km. Sơn La có 11 đơn vị hành chính (1 thành phố, 10 huyện) với 12 dân tộc.
Nằm cách Hà Nội 320km trên trục Quốc lộ 6 Hà Nội - Sơn La - Điện Biên, Sơn La là một
tỉnh nằm sâu trong nội địa. Tỉnh này có 2 cửa khẩu quốc gia với Lào là Chiềng Khương và
Pa Háng. Sơn La có độ cao trung bình 600 - 700m so với mặt biển, địa hình chia cắt sâu và
mạnh, 97% diện tích tự nhiên thuộc lưu vực sông Đà, sông Mã, có 2 cao nguyên Mộc Châu
và Sơn La - Nà Sản, địa hình tương đối bằng phẳng. Cùng với các tỉnh Hoà Bình, Điện
Biên, Lai Châu, Sơn La là mái nhà của đồng bằng Bắc Bộ.
Khí hậu: Sơn La có khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng núi, mùa đông lạnh khô, mùa hè nóng
ẩm, mưa nhiều. Do địa hình bị chia cắt sâu và mạnh nên hình thành nhiều tiểu vùng khí
hậu, cho phép phát triển một nền sản xuất nông - lâm nghiệp phong phú. Vùng cao nguyên
Mộc Châu phù hợp với cây trồng và vật nuôi vùng ôn đới. Vùng dọc sông Đà phù hợp với
cây rừng nhiệt đới xanh quanh năm. Thống kê nhiệt độ trung bình năm của Sơn La có xu
hướng tăng trong 20 năm lại đây với mức tăng 0,5°C - 0,6°C, nhiệt độ trung bình năm của
thị xã Sơn La hiện ở mức 21,1°C, Yên Châu 23°C; lượng mưa trung bình năm có xu hướng
giảm (thành phố hiện ở mức 1.402 mm, Mộc Châu 1.563 mm); độ ẩm không khí trung bình
năm cũng giảm. Tình trạng khô hạn vào mùa đông, gió tây khô nóng vào những tháng cuối
66
mùa khô đầu mùa mưa (tháng 3-4) là yếu tố gây ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp của
tình. Sương muối, mưa đá, lũ quét là yếu tố bất lợi.
Cây trồng chính: Ngô (diện tích 114,2 nghìn ha năm 2008), mía và một số cây trồng khác.
Khảo nghiệm được gieo vào tháng 5 (Vụ Hè Thu), gieo sau trà ngô của dân để đảm bảo
cách ly về thời gian.
b) Thời gian gieo trồng
Vụ Hè Thu 2011
+ Ngày trồng thí nghiệm: 27/ 05/ 2011
+ Ngày thu hoạch thí nghiệm: 09/ 09/ 2011
c) Diện tích khảo nghiệm, số lượng hạt giống GA21 được sử dụng
+ Tổng diện tích khu khảo nghiệm 10.800 m2, gồm cả event Bt11 và tổ hợp lai
Bt11xGA21
+ Diện tích khảo nghiệm GA21 = 600m2 x2 = 1200 m
2
+ Sử dụng hạt giống:
o Giao nhận: 4,5 kg
o Gieo trồng: 4,5 kg
o Tiêu hủy: 0
4.2.4.3. Trại khảo nghiệm giống Đông Nam Bộ, thuộc TT KKN Giống và SP cây trồng
Nam Bộ, xã Sông Xoài, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa
a) Vị trí, đặc điểm địa lý, thổ nhưỡng và khí hậu
Sông Xoài thuộc Bà Rịa-Vũng Tàu là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Nam Bộ, tiếp
giáp tỉnh Đồng Nai ở phía bắc, Thành phố Hồ Chí Minh ở phía tây, tỉnh Bình Thuận ở phía
đông, c n phía nam giáp Biển Đông.
Diện tích và dân số: Bà Rịa Vũng Tàu có một thành phố trực thuộc tỉnh, một thị xã và 6
huyện. Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009, dân số Bà Rịa-Vũng Tàu là 994.837
người.Hiện nay BRVT có gần 40.000 hộ giáo dân với gần 257.000 nhân khẩu, chiếm 27%
dân số toàn tỉnh.
Khí Hậu: Bà Rịa-Vũng Tàu thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa; một năm chia hai mùa
rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, thời gian này có gió mùa Tây Nam. Mùa
khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, thời gian này có gió mùa Đông Bắc. Nhiệt độ
trung bình hàng năm là 27°C, tháng thấp nhất khoảng 24,8°C, tháng cao nhất khoảng
67
28,6°C. Số giờ nắng rất cao, trung bình hàng năm khoảng 2400 giờ. Lượng mưa trung bình
1500 ẩm. Bà Rịa-Vũng Tàu nằm trong vùng ít có bão.
Địa hình: Bà Rịa - Vũng Tàu có 7 đơn vị hành chính: Thành phố Vũng Tàu, thị xã Bà Rịa
và 4 huyện trên đất liền: Châu Đức. Tân Thành, Xuyên Mộc và Long Đất nằm ở kinh độ
107'05" Đông, vĩ độ 10'50" Bắc. Huyện Côn Đảo nằm ở kinh độ 106'35" Đông, vĩ độ 8'42"
Bắc có 66 km bờ biển. Thềm lục địa rộng trên 100.000 km2. Địa hình tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu có thể chia làm 4 vùng: bán đảo hải đảo, vùng đồi núi bán trung du và vùng thung lũng
đồng bằng ven biển.Bán đảo Vũng Tàu dài và hẹp diện tích 82,86 km2, độ cao trung bình
3-4m so với mặt biển. Hải đảo bao gồm quần đảo Côn Lôn và đảo Long Sơn. Vùng đồi núi
bán trung du nằm ở phía Bắc và Đông Bắc tỉnh phần lớn ở huyện Tân Thành, Châu Đức,
Xuyên Mộc. Ở vùng này có vùng thung lũng đồng bằng ven biển bao gồm một phần đất
của các huyện Tân Thanh Long Điền, Bà Rịa, Đất Đỏ.
Cây trồng: Lúa nước, ngô (diện tích 19.6 nghìn ha năm 2008) xen l n những vạt đôi thấp
và rừng thưa có những bãi cát ven biển.
b) Thời gian gieo trồng
Vụ Hè Thu 2011
+ Ngày trồng thí nghiệm: 15/ 06/ 2011
+ Ngày thu hoạch thí nghiệm: 20/ 09/ 2011
c) Diện tích khảo nghiệm, số lượng hạt giống Bt11 được sử dụng
68
+ Tổng diện tích khu khảo nghiệm 10.000 m2, gồm cả event Bt11 và tổ hợp lai
Bt11xGA21
+ Diện tích khảo nghiệm GA21 là 1000m2x2 = 2000 m
2
+ Sử dụng hạt giống:
o Giao nhận: 7,5 kg
o Gieo trồng: 7,0 kg
o Tiêu hủy: 0.5
4.2.4.4. Thôn 13, xã Cuor Knia, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắc Lắc (đại diện vùng Tây
Nguyên)
a) Vị trí, đặc điểm địa lý, thổ nhưỡng và khí hậu
- Hành chính: Đắk Lắk, Darlac hay Đắc Lắc (theo tiếng Ê Đê: Đăk = nước; Lăk = hồ) là
một tỉnh nằm ở trung tâm Tây Nguyên, phía Bắc giáp Gia Lai, phía Nam giáp Lâm Đồng,
phía Tây Nam giáp Đăk Nông, phía Đông giáp Phú Yên và Khánh H a, phía Tây giáp
Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài 70 km. Tỉnh lỵ của Đắk Lắk là thành phố
Buôn Ma Thuột, cách Hà Nội 1.410 km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 320 km.
- Huyện Buôn Đôn nằm ở rìa phía tây tỉnh Đắk Lắk. Phía Nam giáp huyện Cư Jút, phía
Đông Nam giáp thành phố Buôn Ma Thuột, phía Đông giáp huyện Cư M'gar, phía Bắc
giáp huyện Ea Súp. Phía Tây huyện là biên giới với Campuchia.
69
Con sông Serepôk chảy cắt ngang huyện, theo hướng Đông Nam - Tây Bắc, sang đất
Campuchia để góp nước vào sông Mê Kông. Trung tâm huyện Buôn Đôn nằm cách thành
phố Buôn Ma Thuột 25 km về hướng Tây bắc theo con đường tỉnh lộ số 1. Địa danh Bản
Đôn cách thị trấn Buôn Đôn 20 km về hướng Ea Súp. Huyện Buôn Đôn hiện nay có 96
thôn buôn, có trung tâm cách thành phố Buôn Ma Thuột 25km
- Địa hình thổ nhưỡng: Đắk Lắk có diện tích tự nhiên 13.085 km², chiếm 3,9% diện tích tự
nhiên cả nước Việt Nam. Tổng diện tích: 1.312.537 ha; đất ở: 13.361,03 ha; đất nông
nghiệp: 478.154,7 ha; đất lâm nghiệp: 602.479,94 ha; đất chuyên dùng: 82.179,32 ha; đất
chưa sử dụng:136.362,01 ha. Phần lớn địa bàn Đắk Lắk thuộc sườn phía tây nam dãy
Trường Sơn nên địa hình núi cao chiếm 35% diện tích tự nhiên, tập trung ở phía Nam và
đông nam tỉnh với độ cao trung bình 1.000-1.200 m.
Buôn Đôn có địa hình cao nguyên bằng phẳng nằm ở giữa tỉnh, đất đỏ bazan thích hợp cho
việc phát triển cây công nghiệp dài ngày như cà phê, cao su, điều, hồ tiêu và cây ăn quả và
ngô.
- Buôn Đôn có Vườn quốc gia Yok Đôn rộng trên 115.500 ha; nằm trên địa bàn xã Krông
Na. Cách nơi đặt khu khảo nghiệm là xã Cuor Knia 25-30km theo đường chim bay.
- Khí hậu: Do đặc điểm vị trí địa lý, địa hình nên khí hậu ở Đăk Lăk vừa chịu sự chi phối
của khí hậu nhiệt đới gió mùa, vừa mang tính chất của khí hậu cao nguyên mát dịu. Song
chịu ảnh hưởng mạnh nhất chủ yếu v n là khí hậu Tây Trường Sơn. Thời tiết chia 2 mùa rõ
rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam; mùa khô từ
tháng 11 đến tháng 4 năm sau, trong mùa này độ ẩm giảm, gió Đông Bắc thổi mạnh.
Lượng mưa trung bình hàng năm đạt khoảng 1.600 – 1.800 mm. Độ ẩm không khí trung
bình năm khoảng 82%. Tổng số giờ nắng bình quân hàng năm khá cao, khoảng 2.139 giờ.
- Cây trồng : bông (bông vải), cacao, cao su, điều, các loại cây ăn trái (cây bơ, sầu riêng,
chôm chôm, xoài) và ngô (diện tích 118,4 nghìn ha năm 2008). Khảo nghiệm được tiến
hành trong vụ Hè Thu muộn
Trong cả 4 địa điểm trên, loài có thể bị ảnh hưởng bởi hoạt động khảo nghiệm ngô chuyển
gen chỉ có thể là cây ngô thường vì có hệ sinh sản đồng nhất với ngô chuyển gen nên có
thể giao phấn trong quá trình trồng. Nhưng thời gian trồng ngô trong khảo nghiệm muộn
hơn các ruộng ngô xung quanh từ 20-25 ngày, nên việc cách ly bằng thời gian để ngăn
chặn giao phấn được đảm bảo. Khảo nghiệm có hàng rào và được bảo vệ ngăn sự xâm
nhập khi chưa được phép.
Vụ Hè Thu 2011
+ Ngày trồng thí nghiệm: 07/ 06/ 2011
+ Ngày thu hoạch thí nghiệm: 16/ 09/ 2011
c) Diện tích khảo nghiệm, số lượng hạt giống GA21 được sử dụng
70
+ Tổng diện tích khu khảo nghiệm 8.200 m2, gồm cả event Bt11 và tổ hợp lai
Bt11xGA21
+ Diện tích khảo nghiệm GA21 là 600m2x2 = 1200 m
2
+ Sử dụng hạt giống:
o Giao nhận: 4,8 kg
o Gieo trồng: 4,8 kg
o Tiêu hủy: 0
4.2.5. Bố trí thí nghiệm
Khảo nghiệm diện rộng không nhắc lại, xung quanh có 4-6 hàng bảo vệ, giữa các ô không
có dải cách ly. Diện tích ô khảo nghiệm: 1000m2. Cách ly thời gian với ngô thường tại địa
điểm khảo nghiệm ( 30 ngày). Quản lý, canh tác, chăm sóc thí nghiệm tuân thủ theo hướng
d n đánh giá khảo nghiệm 10TCN 341-2006 Bộ Nông nghiệp và PTNN.
Công thức khảo nghiệm
- CT1: Ngô chuyển gen NK66GA21 (Phun glyphosate 1 lần).
- CT2: Ngô không chuyển gen NK66 (phun glyphosate định hướng/interrow).
- CT3: Ngô không chuyển gen NK66 (làm cỏ tay 2 lần).
- CT4: Ngô NK66GA21 (làm cỏ tay 2 lần).
Sơ đồ khảo nghiệm
Hưng Yên
Hướng vào
Area=600 m2/plot
CỔNG
Dải cây bảo vệ : 5 hàng
3.3m 2m 24 m 1.42m 3.3m
I-1: NK66Bt11
- Làm cỏ
- Không trừ sâu
II-3: Đối chứng
(NK66)
- Làm cỏ tay 2 lần/vụ
- Trừ sâu
136 m
I-2: Đối chứng 1
(NK66)
- Làm cỏ
- Không trừ sâu
II-1: NK66GA21
- Phun Glyphosate 1
lần/vụ
- Trừ sâu
III-1: NK66 Bt11xGA21
- Phun Glyphosate 1
lần/vụ
- Không trừ sâu
II-2 :Đối chứng 2.2
(NK66)
- Phun thuốc trừ cỏ
giữa hàng
- Trừ sâu
III-2: Đối chứng 3
(NK66)
- Làm cỏ bằng tay 2
lần
- Không trừ sâu
II-4: NK6GA21
- Làm cỏ bằng tay 2
lần
- Trừ sâu
2m
5 hàngngô
60m
Ruộng
ngô c
ủa dân
, trồng
trước
35 ng
ày
Ruộng ngô của dân trồng trước 35 ngày
Ruộng ngô của dân trồng trước 35 ngày
25 m
2
3.5m
22
2
71
Sơn La
Bà Rịa
NK66 (làm cỏ tay)II.4 NK66 GA21 (làm cỏ
tay hai lần)
Ngô b
ảo vệ
(6 hà
ng)
III.1 NK66 (Bt11xGA21)-
Phun thuốc 1 lần
II. 2 NK66 (phun thuoc
cỏ glyphosate định
hướng)
Ngô b
ảo vệ
(6 hà
ng)
I. 2 NK66 (canh tác bình
thường)
II.1 NK66GA21 (phun
glyphosate 1 lần)
I.1 NK66 Bt11 (canh tác
bình thường)
II.3 NK66 (làm cỏ tay
hai lần)
Ngô bảo vệ (5 hàng)
Ngô c
ủa dâ
n trồn
g trư
ớc 35
ngày
Ngô c
ủa dâ
n trồn
g trư
ớc 35
ngày
NK66
- Phun thuoc tru co giua
hang (1 lan/vu)
- Tru sau duc than neu can
GA21
- Khong phun thuoc tru sau
- Lam co bang tay 2 lan/vu
GA21
- Phun Glyphosate 1 lan/vu
- Tru sau duc than neu can
NK66
- Lam co bang tay 2lan/vu
- Tru sau duc than neu can
NK66
- Lam co bang tay 2 lan/vu
- Khong tru sau duc than
Bt11
- Lam co bang tay 2 lan/vu
- Khong tru sau duc than
Bt11xGA21
- Phun Glyphosate 1 lan/vu
- Khong tru sau duc than
NK66
- Lam co toi thieu (1 lan/vu)
- Khong phong tru sau duc than
72
Buôn đôn:
4.2.6. Chỉ tiêu theo dõi, phương pháp đánh giá và xử lý số liệu
4.2.6.1. Đánh giá đặc điểm sinh nông học của cây ngô chuyển gen GA21: Nhằm đánh
giá khả năng trở thành cỏ dại, dịch hại căn cứ vào so sánh với giống ngô không chuyển gen
cùng d ng trên các vùng sinh thái đại diện cho các vùng trọng điểm ngô ở Việt Nam. Theo
dõi đặc điểm sinh trưởng phát triển và năng suất của ngô chuyển gen GA21 theo quy định
10TCN341-2006, các chỉ tiêu đánh giá như sau:
- Ngày cây mọc: số ngày từ khi gieo đến khi 50% cây trồng mọc.
- Số cây mọc trong khoảng 12-14 ngày sau gieo.
- Nảy mầm và sức sống cây con: Ngày xuất hiện cây con sẽ được ghi nhận khi
50% số hạt đã nảy mầm (7-10 ngày sau gieo) và sức sống của cây con sẽ được
đánh giá theo thang điểm từ 1-9 (trong đó 1= rất mạnh, 3 = mạnh, 5 = trung
bình, 7 = yếu, 9 = rất yếu).
- Tỷ lệ cây đổ gãy : ghi nhận tỷ lệ đổ g y tại thời điểm 85 ngày sau gieo và sau
các đợt mưa gió, lốc lớn.
Chòi Bảo
Vệ
NK66
(Bt11xGA21)
- Phun
Glyphosate 1
lan/vu
- Không trừ sâu
đục thân
NK66
- Làm cỏ tối
thiểu (1 lần/vụ)
- Không phun
thuốc trừ sau
NK66
- Phun
Glyphosate giữa
hang (1 lần/vụ)
- Trừ sâu đục
thân nếu cần
NK66 GA21
- Phun
Glyphosate 1
lan/vu
- Trừ sâu đục
thân nếu cần
NK66
- Làm cỏ bằng tay
2 lần/vụ
- Không phun
thuốc trừ sau
NK66GA21
- Không phun
thuốc trừ sau
- Làm cỏ bằng
tay lần/vu
NK66
- Làm cỏ bằng
tay 2 lần/vụ
- Trừ sâu đục
thân nếu cần
NK66Bt11
- Làm cỏ bằng tay
2 lần/vụ
- Không phun
thuốc trừ sau
Ruộn
g ng
ô củ
a dâ
n tr
ồng
trướ
c 30
ngày
Ruộn
g ng
ô củ
a dâ
n tr
ồng
trướ
c 30
ngày
Ngô của dân trồng trước 30 ngày
6 hà
ng b
ảo v
ệ
Ruộng ngô của dân trồng trước 30 ngày Ruộng ngô của dân trồng trước 30 ngày
5 hàng bảo vệ
6 hà
ng b
ảo v
ệ
6 hàng bảo vệ
25m
25m
2m
1.4m
22m
73
- Thời gian trỗ cờ: Ghi nhận ngày 50% số cây trổ cờ .
- Thời gian phun râu: Ghi nhận ngày 50% số cây phun râu
- Chiều cao cây: Đo chiều cao cây của 20 cây được lựa chọn ng u nhiên từ mặt
đất tới hết bẹ lá cao nhất gần cờ vào giai đoạn chín sáp.
- Chiều cao đóng bắp: Đo chiều cao đóng bắp của 20 cây được chọn ng u
nhiên từ mặt đất đến sát mắt đóng bắp vào giai đoạn cuối chín sáp (90 ngày
sau gieo).
- Trạng thái cây (thang diểm 1-5)
- Trạng thái bắp (thang diểm 1-5)
- Ngày từ gieo đến chín sinh lý: là số ngày từ gieo đến khi đầu phôi hạt chuyển
màu nâu hoăc đen.
- Năng suất: Việc tính năng suất được thực hiện khi thu bắp từ 5 điểm trên
đường chéo góc, mỗi điểm 15m2 (thu 4 hàng, mỗi hàng dài 5 m)
+ Khối lượng bắp/ô (cả lõi) sau khi lột vỏ tính bằng kg.
+ Tỷ hệ hạt/bắp (%).
+ Ẩm độ hạt lúc thu hoạch (%).
+ Năng suất thực thu (tấn/ ha) được tính ở ẩm độ của hạt 14%
- Các đặc điểm diễn biến khác của cây ngô chuyển gen Bt11 và không chuyển gen
sẽ được ghi nhận trong quá trình khảo nghiệm
4.2.6.2. Tác động của ngô GA21 đến sinh vật không chủ đích
Mục đích của những nghiên cứu này để xác định tác động nếu có của ngô GA21 đến sinh
vật không chủ đích trong đất và trên mặt đất bằng cách thu thập tất cả các loài côn trùng
trên mỗi điểm đánh giá để đánh giá phân loại, đồng thời bổ sung cho phần kết luận về tính
an toàn của ngô GA21 đến hệ sinh thái và các tác động bất lợi khác khi ngô GA21 được
khảo nghiệm ở các vùng sinh thái trọng điểm ngô khác nhau ở Việt Nam. Điều tra, theo dõi
và đánh giá tiêu chuẩn ngành của Viện Bảo vệ thực vật dựa vào “Viện Bả vệ t ự vật.
1997. P ương p áp điều t a ơ bản d ại nông ng iệp và t iên đ ủa úng (Tập I)
Viện Bả vệ t ự vật, Bộ Nông ng iệp & PTNT. N à Xb Nông ng iệp, t ang 99 và; Viện
Bả vệ t ự vật. 2000. P ương p áp điều t a, đán giá sâu, bện , ỏ dại, uột ại ây
t ồng ạn (Tập III). Viện Bả vệ t ự vật, Bộ Nông ng iệp & PTNT. N à Xb Nông ng iệp,
trang 77”, thu thập m u bằng cách đánh giá bằng mắt thường.
a) Thành phần các loài động vật chân khớp (côn trùng và nhện)
74
- Dụng cụ theo dõi: Theo dõi bằng mắt thường theo phương pháp của Viện BVTV
- Phương pháp điều tra: Điều tra vào 5 giai đoạn sinh trưởng chính của ngô (cây
con, sinh trưởng thân lá, trước trỗ cờ, chín sáp và trước thu hoạch) trên 5 điểm theo
đường chéo góc, mỗi điểm điều tra 20 cây, các cây điều tra phải cách hàng ngoài
cùng ít nhất 2 hàng. Ghi nhận sự có mặt, chỉ số hại và tỷ lệ hại của tất cả đối tượng
chân khớp (nhóm ăn lá, nhóm chích hút, nhóm bắt mồi, nhóm ký sinh và sinh vật
vãng lai).
- Ghi nhận tất cả những đối tượng chân khớp (côn trùng và nhện) bắt gặp trên cây
được điều tra. Nếu không nhận dạng được thì đưa về ph ng thí nghiệm để giám
định.
- Chỉ tiêu theo dõi:
+ Chỉ tiêu theo dõi: Thành phần loài, tần suất bắt gặp, số lượng một số loài đại
diện cho các nhóm chân khớp tại một số thời điểm xuất hiện chủ yếu.
+ Tập trung ghi nhận các loài thuộc nhóm sâu hại bộ Lepidoptera, thiên địch có
ích (ong mật)
+ Tần suất xuất hiện
b) Mật độ các loài côn trùng và chân khớp phổ biến
- Dụng cụ theo dõi: Theo dõi bằng mắt thường
- Đối tượng theo dõi chính: Rệp ngô (Rhopalosiphum maidis) và các loài thiên
địch chính (bọ rùa bắt mồi ăn thịt, nhện lớn bắt mồi ăn thịt, cánh chúng, cánh
ngắn…).
- Phương pháp điều tra: Diện rộng: Điều tra định kỳ 7 ngày/lần trong thời gian
trước trỗ cờ đến chín sữa (từ 50-75 ngày sau gieo) theo 5 điểm cố định trên đường
chéo góc, mỗi điểm 20 cây, các cây điều tra phải cách hàng ngoài cùng ít nhất 2
hàng.
- Tính mật độ các loài ch n khớp phổ biến trên thí nghiệm:
+ Đối với loài có kích thước lớn: đếm số lượng cá thể bắt gặp trên cây điều tra;
+ Đối với loài có kích thước nhỏ, mật độ dày đặc (rệp muội ngô) sẽ đánh giá quần
thể theo cấp nhiễm.
Cấp 0: không có rệp muội
Cấp 1: rệp muội phân bố từng cá thể rải rác, chưa hình thành quần tụ
Cấp 2: rệp muội bắt đầu hình thành một số quần tụ nhỏ
75
Cấp 3: rệp muội có quần tụ nhỏ, bắt đầu hình thành một số quần tụ lớn
Cấp 4: rệp muội có nhiều quần tụ lớn
Cấp 5: rệp muội có nhiều quần tụ lớn liên kết liền lại thành vùng lớn
- Chỉ tiêu theo dõi
+ Mật độ các loài được điều tra
+ Tỷ lệ nhiễm và chỉ số nhiễm với rệp muội
+ Tỷ lệ hại và chỉ số hại
c) Đánh giá mức độ gây hại của sâu hại ngô không chủ đích trên đồng ruộng
- Đối tượng theo dõi: đối tượng miệng nhai (sâu cắn lá, sâu róm, sâu gai, bọ cánh
cứng ăn lá 4 vệt...) để đánh giá mức độ gây hại trên đồng ruộng. Việc xác định loài
sẽ được thực hiện khi tiến hành thí nghiệm.
- Phương pháp lấy m u: chọn 20 cây ng u nhiên trong 2 hàng trong của ô thí
nghiệm.
- Phương pháp đánh giá:
Đánh giá 4 lần, vào các thời điểm: 2 - 4 lá; 10-15 lá; trỗ cờ - chín sữa; trước
thu hoạch.
Thang điểm đánh giá: theo thang điểm từ 1-9 (Guthrie and Dickens, 1960).
d) Đánh giá sự đa dạng của sinh vật đất
- Đối tượng theo dõi: nhóm bọ đuôi bật Collembola (côn trùng)
- Chỉ tiêu đánh giá: thành phần loài, chỉ số đa dạng sinh học.
- Phương pháp: nghiên cứu đa dạng sinh học nhóm Collembola theo phương pháp
của Gilarov (1975). Mỗi ô thí nghiệm thu 5 m u /lần điều tra với kích thước 5x5x10cm.
Lấy m u 3 lần/vụ, vào các thời điểm: Cây con - sinh trưởng sinh dưỡng (0-30 NSG), ra hoa
(50-60 NSG) và trước khi thu hoạch (75-90 NSG). M u đất cho vào túi ni lông riêng, bên
trong và bên ngoài có kèm theo nhãn (thời gian, địa điểm thu m u, sinh cảnh thu m u,
người thu m u) và buộc chặt, sau đó đưa về phòng thí nghiệm.
Tại phòng thí nghiệm: Collembola và các động vật không xương sống khác được tách ra
khỏi đất bằng phễu Tullgren trong thời gian 7 ngày đêm ở nhiệt độ phòng thí nghiệm.
Phương pháp này cho phép thu thập được số lượng cá thể lớn hơn nhiều khi thu bằng tay
và cũng cho tập hợp những thông tin về mật độ nhiều hơn (Palacios-Vargas, 1992). Phễu
Tullgren có cấu tạo bằng bìa carton cứng cuốn thành cái phễu với đường kính 20cm, độ
76
cao 15cm-18cm. Ở đáy phễu có gắn một ống nghiệm có đường kính 1,0cm, dài 4cm bên
trong đựng dung dịch định hình cồn 90o. M u đất mang từ thực địa về, được chuyển vào
một cái rây lọc (đường kính rây 18cm, thành rây bằng sắt, cao 5cm, đáy rây là lưới ni lôn
với kích thước lỗ lưới 1,5mmx1,5mm). Đặt rây này bên trong phễu carton và đặt trên một
giá sắt cố định. Sau 7 ngày thu các ống nghiệm trong đó động vật đất đã chui sâu qua đất,
rơi vào ống nghiệm bên dưới và được định hình bằng cồn 90o .
Để xử lý m u vật, bảo quản và định loại: các ống nghiệm có m u vật (Collembola) thu
được nhờ phễu Tullgren sẽ được lần lượt đổ ra đĩa petri để tính đếm số lượng các nhóm,
các dạng loài dưới kính lúp hai mắt (Olympus SZ40); Để xác định đến loài, tiến hành làm
tiêu bản cố định, soi dưới kính hiển vi với độ phóng đại lớn (đến 4000 lần) (Olympus
CH2). Định loại với các tài liệu chuyên môn. Các m u bọ nhảy không làm tiêu bản, sẽ
được cho vào trong ống nghiệm chứa dung dịch bảo quản cồn 90o. Các ống nghiệm đều
được gắn nhãn ghi đầy đủ ngày thu, điểm thu, công thức,…. Toàn bộ tiêu bản định loại và
các m u vật được bảo quản tại ph ng Sinh thái Môi trường đất, Viện Sinh thái và Tài
nguyên sinh vật, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Danh sách loài Collembola được sắp xếp theo hệ thống cây chủng loại phát sinh dựa theo
hệ thống phân loại của Moen và Ellis, 1984. Các loài trong một giống được sắp xếp theo
vần a, b, c. Định tên loài theo tài liệu của Nguyễn Trí Tiến, 1995; Jan Stach (1965), Yoshii
Ryozo (1982-1983); Hermann Gisin (1960); Loui Deharveng et Anne Bedos (1995).
- Các vật liệu phục vụ cho việc nghiên cứu bao gồm: hệ thống lọc m u đất (rây lọc,
phễu lọc,v.v….); dụng cụ tách m u, phân tích m u và làm tiêu bản như đĩa petri, lam kính,
lamen và các hóa chất thường dùng trong nghiên cứu động vật đất; kính lúp Olympus
SZ40; kính hiển vi Olympus CH2; ngoài ra, một số loại dụng cụ khác như lọ đựng m u, túi
nilon, hộp lấy m u đất, bút, sổ ghi chép, … cũng được sử dụng để phục vụ cho việc nghiên
cứu.
- Đánh giá thành phần loài, mật độ trung bình, chỉ số đa dạng sinh học H' và chỉ
số đồng đều J' được tính theo Gormy & Grum (1993).
Các chỉ số phân tích:
- Số lượng loài: được tính bằng tổng số loài có mặt trong điểm thí nghiệm ở tất cả
các lần thu m u của một vụ.
- Mật độ trung bình: số lượng cá thể của tất cả các lần thu m u của một vụ quy ra
trên một mét vuông (cá thể/m2).
- Chỉ số đa dạng Shannon-Weiner (H’): được sử dụng để tính sự đa dạng loài hay
số lượng loài trong quần xã và tính đồng đều về sự phong phú cá thể của các loài trong
quần xã. Giá trị của H’ dao động trong khoảng 0 - . Chỉ số đa dạng của quần xã phụ
thuộc vào hai yếu tố là số lượng loài và tính đồng đều về sự phong phú của các loài trong
77
quần xã. Chỉ số đa dạng là một chỉ tiêu để đánh giá tính đa dạng về khu hệ động vật của
một khu vực. Chỉ số được tính theo công thức:
N
ni
N
niH
s
i
1
ln'
Trong đó: s: số lượng loài
ni: số lượng cá thể của loài i
N: tổng số lượng cá thể trong toàn bộ m u
- Chỉ số phong phú Margalef (d): tính theo công thức d = (s-1)/logN
Dựa trên 2 tham số: số lượng loài và tổng số cá thể của seri m u. Giá trị của d dao
động trong khoảng 0-.
- Chỉ số ưu thế nghịch Simpson: tính theo công thức 1-’= 1-ni(ni-1)/[N(N-1)].
Chỉ số này phản ánh mức độ đồng đều của sự phân bố số lượng cá thể giữa các loài trong
quần xã. Giá trị chỉ số này càng cao sẽ làm cho tính ưu thế càng giảm, nghĩa là mức độ ưu
thế sẽ phân đều cho các loài, do đó tính đa dạng của quần xã sẽ được tăng lên. Ý nghĩa của
chỉ số này tương tự như chỉ số đồng đều Pielou (J’).
- Chỉ số đồng đều Pielou (J’): tính theo công thức J’=H’/logS
Trong đó: S; tổng số loài; N: tổng số m u; ni: số cá thể của loài thứ i
Giá trị của J’ dao động từ 0-1. Giá trị của J’=1 khi số lượng cá thể của các loài
trong quần xã bằng nhau.
- Loài ưu thế: là những loài có giá trị chỉ số ưu thế bằng hoặc lớn hơn 5% (Maria
Sterzynska, 1990). Chỉ số ưu thế được tính theo công thức:
100xn
nD a
Trong đó: na: số lượng cá thể của loài a
n: tổng số cá thể của toàn bộ m u theo sinh cảnh hay địa điểm.
- Loài phổ biến: là những loài có giá trị chỉ số thường gặp từ 50% -100% . Chỉ số
thường gặp được tính theo công thức:
100xN
NaC
Trong đó: Na: số lượng m u thu có chứa loài a
78
N: tổng số lượng m u của sinh cảnh nghiên cứu
e) Vi sinh vật hại ngô
- Đối tượng: thành phần bệnh, các bệnh hại chính trên thân lá và vi sinh vật xâm nhiễm
trên bắp/hạt
- Ghi nhận thành phần bệnh thân lá và trên bắp.
- Đánh giá tỷ lệ nhiễm và chỉ số nhiễm một số bệnh hại chính theo thang 9 cấp của
CYMIT vào 75-80 NSG.
Đánh giá tỷ lệ nhiễm nấm trên bắp/hạt vào thời điểm thu hoạch.
4.2.6.3. Hiệu quả chống chịu thuốc trừ cỏ Glyphosate của ngô chuyển gen GA21
- Vào thời điểm 16-25 ngày sau gieo (cây ở giai đoạn 4-5 lá), lô khảo nghiệm sẽ được
phun thuốc trừ cỏ glyphosate theo mức khuyến cáo. Cùng thời gian, lô đối chứng
không phun thuốc (làm cỏ bằng tay) được phun cùng lượng nước dùng trong thí
nghiệm phun thuốc;
- Theo dõi các đặc tính gây độc và đặc tính bất bình thường khác tại ngày thứ 5 và
ngày thứ 10 sau khi phun glyphosate đối với toàn bộ lô xử lý. Theo dõi số lượng cây
chết, các đặc điểm nông học.
- Các đánh giá tuân theo hướng d n của “Viện Bả vệ t ự vật. 1997. P ương p áp
điều t a ơ bản d ại nông ng iệp và t iên đ ủa úng (Tập I) Viện Bả vệ
t ự vật, Bộ Nông ng iệp & PTNT. N à Xb Nông ng iệp, t ang 99”
4.2.6.4. Đánh giá so ánh năng suất và hiệu quả kinh tế của ngô chuyển gen GA21
- Hạch toán chi phí sản xuất. Đánh giá hiệu quả kinh tế sau thu hoạch;
- Đánh giá các tác động khác (nếu có) đến sản phẩm cuối cùng.
4.3.6.5. Xử lý số liệu
- Số liệu thu được trong khảo nghiệm rộng từ công thức NK66Bt11 được so sánh
với đối chứng NK66 không chuyển gen sử dụng phầm mềm xcel để tính giá trị
trung bình, chỉ số Sd .
79
PHẦN V: KẾT QUẢ KHẢO NGHIỆM
5.1. KHẢO NGHIỆM HẠN CHẾ
5.1.1. Kết quả
Khảo nghiệm hạn chế ngô GA21 (sự kiện GA21 được chuyển vào giống nền NK66) được
thực hiện 2 vụ liên tiếp tại BRVT trong năm 2010. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành đánh giá
các chỉ tiêu theo nội dung khảo nghiệm trình bày trong phần IV, bao gồm: các đặc tính
nông sinh học, hình thái (nguy cơ cỏ dại hoá); các nguy cơ ảnh hưởng đến quần thể sinh
vật không chủ đích trên ruộng ngô và khả năng chống chịu thuốc trừ cỏ gốc glyphosate của
sự kiện GA21. Kết quả cụ thể được tổng hợp và trình bày dưới đây:
5.1.1.1. Đánh giá các đặc điểm nông sinh học, hình thái của ngô GA21 trong điều kiện
canh tác tại Việt Nam
Các đặc tính để cây ngô trồng bị cỏ hoá bao gồm: tính ngủ nghỉ của hạt, tính rụng bắp và tính
cạnh tranh (Baker 1974). Trong 2 vụ khảo nghiệm hạn chế, các đặc tính nông sinh học và
hình thái của ngô GA21 được đánh giá và so sánh với giống nền NK66 và giống ngô phổ
biến trong sản xuất C919 nhằm mục đích xác định có hay không nguy cơ trở thành cỏ dại
của ngô GA21. Các kỹ thuật canh tác và chăm sóc được thực hiện theo 10TCN 341-2006 của
Cục Trồng trọt - Bộ NN và PTNT. Tiến hành trừ cỏ bằng cách phun glyphosate trùm cây đối
với công thức GA21, và làm cỏ tay 2 lần ở các công thức NK66 và C919. Kết quả được tổng
hợp và trình bày trong Bảng 10 và Bảng 11.
Kết quả khảo nghiệm cho thấy: ngô GA21 có các mốc thời gian sinh trưởng tương tự với
giống nền NK66. Thời gian từ gieo đến mọc nhanh (4 ngày) và tương đương nhau giữa
ngô GA21 và giống nền NK66 (Bảng 10), chứng tỏ không có hiện tượng ngủ nghỉ ở hạt
giống. Thời gian trổ cờ, phun râu cũng như tổng thời gian sinh trưởng của ngô GA21 cũng
tương tự giống nền NK66, trong khi đó giống đối chứng trong sản xuất C919 có các mốc
thời gian trỗ cờ, phun râu sớm hơn (hoặc muộn hơn tùy theo thời vụ) và tổng thời gian sinh
trưởng ngắn hơn (Bảng 10).
Chiều cao cây, màu sắc hạt, dạng hạt và các chỉ tiêu hình thái khác cũng đồng nhất giữa
ngô GA21 và giống nền của nó (Bảng 11). Bên cạnh đó, tính m n cảm với một số bệnh hại
ngô chính là như nhau. Ngô GA21 cũng nhiễm các loại bệnh chính như bệnh khô vằn, gỉ
sắt, đốm lá lớn, đốm lá nhỏ, tương tự như giống nền NK66 (Báo cáo khảo nghiệm hạn chế
ngô GA21 năm 2010, Viện Di truyền).
80
Bảng 10. Một số đặc điểm nông sinh học của ngô GA21 (BRVT, vụ Hè Thu và Thu
Đông 2010)
TT Chỉ tiêu theo dõi Thời vụ GA21 NK66 C919
1 Tỷ lệ nảy mầm (%) Vụ 1 90b 95a 96a
Vụ 2 88b 88a 93a
2 Gieo - Mọc (ngày) Vụ 1 4 4 4
Vụ 2 4 4 4
3 Gieo - Trổ cờ (ngày) Vụ 1 48 48 49
Vụ 2 49 49 47
4 Gieo - Phun râu (ngày) Vụ 1 49 49 50
Vụ 2 51 51 49
5 TG sinh trưởng (ngày) Vụ 1 95 95 92
Vụ 2 98 98 96
Trong một hàng, các số liệu có cùng một chữ ái k ông sai k á ó ý ng ĩa t ống kê ở
mức P<0.05
Nguồn: Viện Di truyền Nông nghiệp, 2010.
Bảng 11. Đặc điểm hình thái của ngô GA21 (BRVT, vụ Hè Thu và Thu Đông 2010)
TT Chỉ tiêu theo dõi Thời vụ GA21 NK66 C919
1 Chiều cao cây (cm) Vụ 1 205a 208a 209a
Vụ 2 189ab 192a 184b
2 Chiều cao đóng bắp
(cm)
Vụ 1 103ab 104a 106a
Vụ 2 93ab 95a 94a
3 Mầu sắc hạt Vụ 1 vàng nhạt vàng nhạt vàng cam nhạt
Vụ 2 vàng nhạt vàng nhạt vàng cam nhạt
4 Dạng hạt Vụ 1 BRN* BRN BRN
Vụ 2 BRN BRN BRN
Trong một hàng, các số liệu có cùng một chữ ái k ông sai k á ó ý ng ĩa t ống kê ở
mức P<0.05
Nguồn: Viện Di truyền Nông nghiệp, 2010; *BRN: Bán ăng ngựa
Như vậy, các kết quả đánh giá đều cho thấy ngô GA21 có đặc điểm nông sinh học, hình
thái hoàn toàn tương tự giống nền của nó là NK66. Sự kiện GA21 không làm phát sinh một
giống ngô mới hay thể hiện sự sinh trưởng vượt trội, lấn át so với giống nền. Biểu hiện của
protein mEPSPS chỉ có tác dụng giúp cây sống sót được khi xử lý Glyphosate chứ không
có ảnh hưởng đến đặc tính nông học và kiểu hình của giống. Kết quả này cũng tương tự
như các kết quả đã được ghi nhận trong các nghiên cứu trước đây của công ty Syngenta đã
được phê chuẩn bởi nhiều Quốc gia trên thế giới (EFSA Journal 201; 9[12]:2480).
5.1.1.2. Đánh giá ảnh hưởng đến sinh vật không chủ đích của ngô GA21
Ngô GA21 biểu hiện protein mEPSPS. Protein này giúp cho cây chống chịu thuốc trừ cỏ
gốc glyphosate và được cho là không có tương tác với bất kỳ sinh vật chủ đích nào.
81
Trong khuôn khổ khảo nghiệm này, chúng tôi tiến hành đánh giá và so sánh ảnh hưởng của
ngô GA21 và giống nền NK66 đối với sinh vật không chủ đích thuộc 2 nhóm đối tượng
chính: nhóm động vật chân khớp trên ruộng ngô (sâu hại, thiên địch bắt mồi ăn thịt, ký
sinh, thụ phấn...) và nhóm côn trùng trong đất (collembola). Đó là những nhóm sinh vật
không chủ đích đóng vai tr quan trọng trong chuỗi thức ăn, có khả năng trực tiếp hay gián
tiếp chịu ảnh hưởng (nếu có) của ngô GA21. Ngoài ra, thành phần và mức độ nhiễm các
bệnh hại chính trên ngô cũng được theo dõi và đánh giá. Kết quả được tổng hợp chi tiết
trong phần dưới đây:
a. Ảnh hưởng của ngô GA21 đến động vật chân khớp trên không
Ản ưởng đến thành phần loài
Kết quả điều tra thành phần các loài chân khớp xuất hiện trong thí nghiệm với ngô GA21
cho thấy mặc dù diện tích ô thí nghiệm không lớn, nhưng tổng số loài chân khớp ghi nhận
được trong 2 vụ khảo nghiệm là 57 loài côn trùng và nhện, thuộc 13 Bộ trên ruộng ngô
khảo nghiệm. Không có sự khai khác về thành phần và số lượng loài theo Bộ cũng như
theo nhóm đối tượng khi so sánh giữa ngô GA21 và ngô NK66 (Bảng 12a và 12b). Tần
suất xuất hiện của các loài này trên ruộng ngô GA21 và giống nền NK66 là hoàn toàn
tương tự nhau (Báo cáo khảo nghiệm hạn chế ngô GA21, Viện Di truyền, 2010.)
Bảng 12a. Thành phần loài côn trùng và nhện trong khảo nghiệm ngô GA21 theo hệ
thống phân loại (Tân Thành, Bà Rịa, vụ Hè Thu 2010 và Thu Đông 2010)
TT Bộ (Order) GA21 NK66
1 Lepidoptera (cánh vảy) 10 10
2 Hemiptera (cánh nửa) 6 6
3 Homoptera (cánh đều) 6 6
4 Coleoptera (cánh cứng) 12 12
5 Orthoptera (cánh thẳng) 7 7
6 Hymenoptera (cánh màng) 4 4
7 Thysanoptera (cánh tơ) 1 1
8 Dermaptera (cánh da) 1 1
9 Neuroptera (cánh mạch) 1 1
10 Diptera (hai cánh) 1 1
11 Acari 1 1
12 Araneae (nhện lớn) 5 5
13 Acarina (nhện nhỏ) 2 2
Tổng số loài 57 57
82
Biến động loài côn trùng và số lượng cá thể thu được qua các lần điều tra bằng b y dính
vàng cũng cho thấy không có sự sai khác giữa công thức ngô GA21 và công thức giống
nền NK66. Số lượng cá thể trong 2 nhóm côn trùng thu được nhiều nhất là rầy và nhện đều
không sai khác ở mức có ý nghĩa. Điều này chứng tỏ ngô GA21 không ảnh hưởng đến đa
dạng quần thể của các loài này (Báo cáo khảo nghiệm hạn chế ngô GA21, Viện Di truyền,
2010).
Bảng 12b. Số lượng các loài côn trùng và nhện trong khảo nghiệm ngô GA21 theo
nhóm đối tượng (Tân Thành, Bà Rịa, vụ Hè Thu 2010 và Thu Đông 2010)
TT Nhóm đối tượng GA21 NK66
1 Nhóm miệng nhai
(sâu cắn lá rễ, đục bắp…)
19 19
2 Nhóm chích hút,giũa hút
(rầy rệp, bọ trĩ…)
12 12
3 Nhóm bắt mồi ăn thịt (nhện, bọ rùa…) 22 22
4 Nhóm ký sinh (ong ký sinh…) 3 3
5 Nhóm thụ phấn (ong mật) 1 1
Tổng số loài 57 57
Nguồn: Viện Di truyền Nông nghiệp, 2010.
Ản ưởng đến sâu hại chính: rệp muội ngô Rhopalosiphum maidis (Fitch)
Bên cạnh các đánh giá về đa dạng thành phần loài, nhóm nghiên cứu đã tiến hành theo dõi
ảnh hưởng của ngô GA21 đến quy luật phát sinh của một số nhóm côn trùng không chủ
đích chính trên ruộng ngô, bao gồm các loài thiên địch bắt mồi ăn thịt và sâu hại trên thân,
lá. Rệp muội ngô Rh. madis là một trong những đối tượng sâu hại chính trên ngô với số
lượng phát sinh lớn, mật độ cao ở mọi thời vụ và các vùng trồng ngô của Việt Nam (N. Đ.
Khiêm, 1995; N. T. K. Oanh, 1996; Q. T. Ngọ, 2000). Trong khảo nghiệm ngô GA21 ở vụ
1, rệp muội Rh. madis là đối tượng gây hại chính trên ngô ở tất cả các công thức. Đây là lý
do nhóm nghiên cứu đã chọn đối tượng này để so sánh có hay không sự tác động của ngô
GA21 đến quần thể rệp muội nói riêng và đến sinh vật không chủ đích nói chung. Diễn
biến về chỉ số gây hại của rệp muội ngô được trình bày trong Hình 1.
Rệp muội ngô xuất hiện và gây hại giống nhau ở cả hai công thức khảo nghiệm. Chúng có
diễn biến về chỉ số gây hại tương tự nhau và đều đạt mức cao nhất vào thời điểm 15/8. Kết
quả phân tích thống kê không cho thấy sự sai khác có ý nghĩa giữa hai công thức khảo
nghiệm. Trong vụ 2, do mưa nhiều nên mật độ rệp muội trong các công thức khảo nghiệm
đều rất thấp, nhiều kỳ điều tra không bắt gặp sự hiện diện của chúng trên ruộng ngô (Báo
cáo khảo nghiệm hạn chế ngô GA21, Viện Di truyền, 2010). Như vậy, có thể nói, ngô
GA21 không có ảnh hưởng gì đến sự phát sinh và gây hại của rệp muội.
83
Hình 1. Diễn biến chỉ số gây hại của rệp muội ngô, BRVT, vụ Hè thu 2010
(Nguồn: Viện Di truyền Nông nghiệp, 2010)
Ản ưởng đến một số ài t iên đ ch trên ngô
Đi sâu phân tích ảnh hưởng của ngô GA21 đến nhóm sinh vật thiên địch trên ngô, nhóm
nghiên cứu đã theo dõi và ghi nhận diễn biến mật độ và qui luật phát sinh phát triển của 3
nhóm thiên địch xuất hiện nhiều nhất trong quá trình khảo nghiệm là nhóm Bọ rùa bắt mồi
ăn thịt, Nhện lớn bắt mồi ăn thịt và nhóm Cánh cứng cánh ngắn. Diễn biến mật độ của các
nhóm thiên địch này trên ngô chuyển gen và ngô không chuyển gen trong thí nghiệm ngô
GA21 được trình bày trong Hình 2, Hình 3 và Hình 4.
Hình 2. Diễn biến mật độ Bọ rùa bắt mồi ăn thịt trong thí nghiệmngô GA21
(Vụ 1 Tân Thành, Bà Rịa, 2010)
Diễn biến mật độ Bọ rùa BMAT trên ruộng ngô GA21 là tương tự với giống nền NK66.
Phân tích thống kê cho thấy, mật độ cá thể ở cả hai công thức không sai khác có ý nghĩa
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
1/8/10 8/8 15/8 22/8 1/9
Chỉ số g y hại của rệp ngô (%
)
Ngày điều tra
BRVT, Vụ 1
GA21
NK66
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
1/8/10 8/8 15/8 22/8 1/9
Mật độ Bộ rùa BMAT tổng số
(co
n/2
0 c
ây
)
Ngày điều tra
BRVT, Vụ 1
GA21
NK66
84
(Báo cáo khảo nghiệm hạn chế ngô GA21, Viện Di truyền, 2010). Tương tự như trường
hợp của rệp muội ngô, nhóm bọ rùa BMAT hiện diện với mức độ rất thấp ở vụ khảo
nghiệm thứ hai, điều này là phù hợp với quy luật tự nhiên vì rệp muội là đối tượng thức ăn
chính của bọ rùa. Mật độ rệp muội giảm d n đến việc bọ rùa cũng xuất hiện ít hơn. Kết quả
khảo nghiệm cũng cho thấy ngô GA21 không có ảnh hưởng nào đáng kể đến diễn biến mật
độ cá thể của nhóm thiên địch này.
Nguồn: Viện Di truyền Nông nghiệp, 2010.
Hình 3. Diễn biến mật độ nhện lớn bắt mồi ăn thịt trong thí nghiệm ngô GA21
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
25/7/10 1/8 8/8 15/8 22/8 1/9
Mật độ Nhện
lớn BMAT
(co
n/2
0 c
ây
)
Ngày điều tra
A BRVT, Vụ 1
GA21
NK66
0
2
4
6
8
10
12
14
7/9/10 15/9 22/9 1/10 8/10 15/10 22/10 29/10 5/11
Mật độ Nhện lớn BMAT
(co
n/2
0câ
y)
Ngày điều tra
B BRVT, Vụ 2
GA21
NK66
85
Hình 4. Diễn biến mật độ cánh cứng cánh ngắn trong thí nghiệm ngô GA21
Nguồn: Viện Di truyền Nông nghiệp, 2010.
Tương tự như nhóm bọ rùa BMAT, mật độ cá thể và diễn biến của các nhóm nhện lớn
BMAT và nhóm cánh cứng cánh ngắn là không khác biệt có ý nghĩa thống kê trong tất cả
các kỳ điều tra trên ngô GA21 và giống nền NK66. Mật độ xuất hiện trên ruộng ngô của
các nhóm thiên địch này có biến động qua các vụ khảo nghiệm nhưng luôn duy trì ở mức
không sai khác giữa hai công thức khảo nghiệm (Báo cáo khảo nghiệm hạn chế ngô GA21,
Viện Di truyền, 2010). Ngô GA21 không có ảnh hưởng đến mật độ hay diễn biến sinh
trưởng của các nhóm thiên địch phổ biến trên ruộng ngô.
Các nghiên cứu của công ty Syngenta đệ trình theo yêu cầu của Cơ quan an toàn thực
phẩm châu Âu cũng cho thấy ngô GA21 đã không có ảnh hưởng gì tới sự phong phú về
loài của quần thể chân khớp trên ruộng ngô trong thí nghiệm được thực hiện ở Tây Ban
Nha năm 2008. Thí nghiệm trong phòng trên ấu trùng 2-3 ngày tuổi của ong mật cũng cho
kết quả tương tự, không quan sát thấy bất kỳ ảnh hưởng bất lợi nào đối với sự sinh trưởng,
phát triển của ấu trùng ong mật sau khi ăn hạt phấn ngô GA21 (EFSA Journal
2011;9(12):2480)
Như vậy, kết quả đánh giá ảnh hưởng của ngô GA21 tới quần thể chân khớp trên ruộng
ngô hoàn toàn phù hợp với những phân tích trên thế giới. Căn cứ vào cơ chế hoạt động của
protein cải tiến mEPSPS và lịch sử sử dụng an toàn của ngô GA21 cũng như của các loại
cây trồng chuyển gen chống chịu glyphosate khác, có thể nói rằng protein mEPSPS không
gây ảnh hưởng bất lợi đến các sinh vật không chủ đích ( FSA, 2009c; C RA 2010).
Protein mEPSPS có trình tự axit amin tương đồng tới 99,3% so với protein PSPS ban đầu
và được ghi nhận hoàn toàn không có độc tính do vậy an toàn cho sử dụng cũng như giống
nền NK66 của nó.
0
1
2
3
4
5
6
7
7/9/10 15/9 22/9 1/10 8/10 15/10 22/10 29/10 5/11
Mật độ CCCN (con/20 c y)
Ngày điều tra
BRVT, Vụ 2
GA21
NK66
86
b. Ảnh hưởng của ngô GA21 đến quần thể bọ đuôi bật Collembola trong đất
Quần xã Collembola phản ánh đặc điểm của môi trường sinh sống. Những d n liệu về
thành phần loài, mật độ quần thể, mức độ phong phú của quần thể, sự biến động số lượng,
các nhóm hình thái, sinh thái, phổ các dạng sống, các nhóm loài đặc trưng, sự phân bố
thẳng đứng của chúng và thậm chí cả sự phân bố vi sinh cảnh sẽ cho ta một bức tranh khá
đầy đủ về mối quan hệ của quần xã Collembola với đặc điểm sinh thái của môi trường sinh
sống.
Trong khảo nghiệm hạn chế ngô GA21, m u đất trong ô thí nghiệm trồng ngô GA21 và
giống nền NK66 được thu thập vào 3 giai đoạn sinh trưởng chính của cây (giai đoạn cây
con, giai đoạn trước khi ra hoa và giai đoạn trước khi thu hoạch) để tách lọc và phân tích
quần thể nhóm bọ đuôi bật Collembola. Giai đoạn lấy m u đất cũng được tiến hành sau khi
ngô GA21 được phun thuốc trừ cỏ Glyphosate. Số liệu chi tiết về thành phần loài và mức
độ phân bố được trình bày trong Báo cáo khảo nghiệm hạn chế ngô GA21 năm 2010, Viện
Di truyền.
Kết quả tổng hợp các chỉ tiêu định lượng Collembola qua hai vụ khảo nghiệm được trình
bày trong Bảng 13. Kết quả cho thấy trong cả 2 vụ, số loài bọ đuôi bật được ghi nhận trên
ngô GA21 và ngô NK66 là tương đương nhau. Thậm chí số lượng loài và mật độ cá thể
trên ngô GA21 trong vụ 1 c n cao hơn trên đối chứng không chuyển gen. Tuy nhiên kết
quả xử lý thống kê cho thấy mật độ cá thể ở cả hai công thức GA21 và NK66 là không sai
khác có ý nghĩa (Báo cáo khảo nghiệm hạn chế ngô GA21, Viện Di truyền, 2010).
Bảng 13. So sánh quần thể bọ đuôi bật (Collembola) trong đất trồng ngô GA21 và ngô
NK66 (Tân Thành, Bà Rịa, vụ Hè Thu 2010 và Thu Đông 2010)
TT Chỉ số đánh giá Thời vụ GA21 NK66
1 Số loài Vụ 1 24 20
Vụ 2 13 13
2 Mật độ cá thể (con/m2) Vụ 1 3360a 2870a
Vụ 2 3560a 3870a
3 Chỉ số Shannon-Weaver (H’) Vụ 1 2.8a 2.5a
Vụ 2 2a 1.9a
4 Chỉ số phong phú Margalef (d) Vụ 1 4.6a 3.9a
Vụ 2 2.7a 2.3a
5 Chỉ số ưu thế nghịch Simpson (1-l’) Vụ 1 0.9a 0.8a
Vụ 2 0.8a 0.8a
6 Chỉ số đồng đều Pielou (J’) Vụ 1 0.9a 0.8a
Vụ 2 0.8a 0.8a
Số liệu trong một hàng có cùng một chữ cái không sai khác nhau có ý ng ĩa ở P=0.05
87
Nguồn: Viện Di truyền Nông nghiệp, 2010.
Các chỉ số đa dạng như chỉ số H’, Margalef, Simpson và chỉ số đồng đều J’ (Bảng 13) và
tỷ lệ các loài chiếm ưu thế (Bảng 14) cũng cho thấy không có sự khác biệt giữa quần thể bọ
đuôi bật Collembola trong đất trồng ngô GA21 với ngô không chuyển gen. Một số loài
chiếm ưu thế trên một trong hai công thức ngô, tuy nhiên tỷ lệ ưu thế không lớn. Nhóm
nghiên cứu Collembola (Viện Sinh thái tài nguyên sinh vật) đã kết luận không thấy sự khác
biệt về thành phần loài và đặc trưng phân bố của Collembola trong đất trồng ngô biến đổi
gen và không biến đổi gen trong khảo nghiệm hạn chế với ngô GA21 chống chịu thuốc trừ
cỏ Glyphosate.
Bảng 14. So sánh tỷ lệ loài ưu thế (bọ đuôi bật Collembola) trong đất trồng ngô GA21
và không chuyển gen (Tân Thành, Bà Rịa, vụ Hè Thu 2010 và Thu Đông 2010)
Đơn v : tỷ lệ %
Loài ưu thế GA21 NK66 GA21 NK66
Vụ 1 Vụ 2
Isotomurus punctiferus 9,27 13,18 - -
Sminthurides bothrium 12,58 25,58 10,62 -
Folsomina onychiurina 15,23 13,18 28,75 29,31
Entomobrya lanuginosa - 7,75 - -
Xenylla humicola 5,96 - - -
Proisotoma tenella 5,96 - 26,25 26,44
Cryptopygus
thermophilus
7,95 - - 13,79
Cyphoderus javanus - - 5,00 5,17
Sphaeridia zaheri - - 11,87 5,17
Brachystomella parvula - - - 5,17
Sphaeridia pumilis - - - 8,63
Nguồn: Viện Di truyền Nông nghiệp, 2010.
Như vậy, các kết quả khảo nghiệm cho thấy protein cải tiến mEPSPS trong ngô GA21
không ảnh hưởng đến nhóm bọ đuôi bật Collembola nói riêng quần thể sinh vật không chủ
đích trong ruộng ngô nói chung. Ngô GA21 được trồng rất phổ biến ở Mỹ và nhiều quốc
gia khác trong thời gian tương đối dài nhưng cho đến nay chưa ghi nhận bất cứ ảnh hưởng
nào của protein mEPSPS tới quần thể sinh vật không chủ đích. Những nghiên cứu được
xuất bản gần đây đều cho thấy không có bằng chứng chứng tỏ protein mEPSPS trong cây
trồng chống chịu glyphosate gây ảnh hưởng bất lợi đến đa dạng sinh học và tính phong phú
88
về loài của các quần thể sinh vật trên đồng ruộng (Firbank et al., 2003a; Cerdeira and
Duke, 2006, 2007, 2010; Albajes et al., 2008, 2009, 2010; Owen, 2008; CERA, 2010).
c. Ảnh hưởng của ngô GA21 đến bệnh hại trên ngô
Kết quả điều tra đã ghi nhận có 4 bệnh hại được ghi nhận trong thí nghiệm ngô GA21
trong cả 2 vụ, là đốm lá lớn (Helminthoprium turcicum), đốm lá nhỏ (H. maydis), khô vằn
(Rhizoctonia solani) và gỉ sắt (Puccinia maydis). Trong đó, bệnh khô vằn và gỉ sắt là 2
bênh gây hại suốt mùa vụ. Cả ngô GA21 và ngô không chuyển gen đều bị nhiễm các bệnh
này với tần suất cao (Bảng 15).
Bảng 15. Thành phần bệnh hại và tần suất bắt gặp trong thí nghiệm ngô GA21 (Tân
Thành, Bà Rịa, vụ Hè Thu 2010 và Thu Đông 2010)
Bệnh hại Tần suất bắt gặp
Tên Việt Nam Tên khoa học GA21 NK66
Đốm lá lớn Helminthoprium turcicum ++ ++
Đốm lá nhỏ Helminthoprium maydis ++ ++
Bệnh khô vằn Rhizoctonia solani +++ +++
Bệnh gỉ sắt Puccinia maydis ++ ++
Ghi chú: + Tần suất bắt gặp ít
++ Tần suất bắt gặp trung bình
+++ Tần suất bắt gặp phổ biến
Nguồn: Viện Di truyền Nông nghiệp, 2010.
Chỉ số bệnh và tỷ lệ bệnh khô vằn và gỉ sắt, hai bệnh hại quan trọng nhất tại vùng trồng
ngô Đông Nam Bộ. Tào thời điểm 70-75 ngày sau gieo, ngô GA2 bị nhiễm khô vằn 100%,
chỉ số nhiễm bệnh dao động từ 21.7 – 59.3% trong cả 2 vụ và hoàn toàn tương đương với
mức nhiễm bệnh của giống nền NK66. Với bệnh gỉ sắt, vụ 2 gây hại năng hơn vụ 1 (Bảng
16). Chỉ số bệnh trên ngô GA21 có thấp hơn giống nền một chút, tuy nhiên tỷ lệ số cây
nhiễm bệnh ở công thức GA21 trong vụ 2 cũng lên tới 100% với chỉ số bệnh khá cao
37.4%. Các kết quả này cho thấy ngô GA21 không có tính kháng với bệnh gỉ sắt và bị
nhiễm bệnh như ngô không chuyển gen. Nhìn chung, tính m n cảm với 2 loại bệnh này của
ngô GA21 là không sai khác đáng kể so với giống nền NK66. Kết quả này cũng giống với
các đánh giá đã thực hiện trên 10 điểm khảo nghiệm ở Mỹ, 2005; trên 8 điểm ở châu Âu
năm 2007 (Tây Ban Nha, Rumani, Cộng hoà Séc) và 6 điểm năm 2008 Tây Ban Nha và
Rumani) ( FSA Journal 2011;9(12):2480). Các đánh giá đó đều được đệ trình lên Cơ quan
An toàn Thực phẩm châu Âu và đã được Cơ quan này công nhận.
89
Bảng 16. Mức độ gây hại của một số bệnh hại chính trong thí nghiệm ngô GA21 tại
70-75 NSG (Tân Thành, Bà Rịa, vụ Hè Thu 2010 và Thu Đông 2010)
Thời vụ Bệnh hại Chỉ tiêu theo dõi
(%)
GA21 NK66
Khô vằn TLB
100.0 100.0
Vụ 1 CSB
21.7a 17.4a
Gỉ sắt TLB
3.3b 13.3a
CSB
0.74b 1.48a
Khô vằn TLB
100.0 100.0
Vụ 2 CSB
59.3a 55.7a
Gỉ sắt TLB
100.0 100.0
CSB
37.4b 51.5a
Trong một hàng, số liệu theo sau bởi các chữ cái giống nhau không sai khác nhau có ý
ng ĩa t ống kê.
TLB = Tỷ lệ bệnh; CSB = Chỉ số bệnh
Nguồn: Viện Di truyền Nông nghiệp, 2010.
Như vậy, kết quả của 3 vụ khảo nghiệm hạn chế trong 2 năm 2010 tại Bà Rịa Vũng Tàu
đều không cho thấy bất cứ ảnh hưởng bất lợi nào của ngô GA21 kháng sâu đục thân ngô
châu Á đối với nhóm động vật chân khớp không chủ đích trên không và nhóm trong đất.
Thành phần loài, tần suất xuất hiện, mức độ phân bố của các loài này là tương tự nhau trên
ruộng trồng ngô GA21 và ngô thường NK66. Diễn biến mật độ cá thể của các loài sâu hại
chính, các loài thiên địch phổ biến cũng duy trì ở mức không sai khác. Ngoài ra, tính m n
cảm đối với một số loại bệnh chính đều được ghi nhận trên cả ngô GA21 và ngô thường
NK66. Những kết quả khảo nghiệm trên cùng với những căn cứ dựa trên cơ chế tác động
của protein mEPSPS và lịch sử sử dụng an toàn của cây trồng chuyển gen mepsps chống
chịu thuốc trừ cỏ glyphosate, cho thấy: ngô GA21 không tồn tại nguy cơ gây ảnh hưởng
bất lợi đến quần thể sinh vật không chủ đích. Kết quả này cũng tương đồng với kết luận
của Cơ quan An toàn thực phẩm Châu Âu (EFSA Journal 2011;9(12):2480).
5.1.1.3. Hiệu quả của ngô GA21 trong phòng trừ cỏ dại trên ngô
Ngô GA21 kháng thuốc trừ cỏ Glyphosate được đánh giá hiệu quả trừ cỏ (bằng cách phun
Glyphosate trên tán lá 1 lần vào 18-25 ngày sau gieo) và kết hợp so sánh với giống nền
NK66 công thức làm cỏ truyền thống bằng tay 2 lần /vụ và công thức không làm cỏ. Kết
quả đánh giá đồng ruộng trong khảo nghiệm hạn chế được ghi nhận trong Bảng 16 cho
thấy: sau khi phun thuốc 5 ngày ngô không chuyển gen (NK66) bắt đầu héo và sau 10 ngày
cây ngô chết hoàn toàn, trong khi ngô GA21 v n sinh trưởng và phát triển tốt. Như vậy
hiệu quả kháng thuốc trừ cỏ glyphosate của ngô GA21 được thể hiện rất rõ ràng trong khảo
nghiệm hạn chế của cả 2 vụ liên tiếp tại BRVT
90
Bảng 17. Ảnh hưởng của phun Glyphosate đến sinh trưởng, phát triển của cây ngô
(Tân Thành, Bà Rịa, 2010)
Công thức Phương thức
phòng trừ cỏ dại
Sinh trưởng của cây ngô sau khi áp dụng
biện pháp trừ cỏ
Sau 5 ngày Sau 10 ngày
NK66GA21 Phun glyphosate Sinh trưởng tốt Sinh trưởng tốt
NK 66 Phun glyphosate Héo rũ Chết hoàn toàn
NK 66 Phun nước, làm cỏ tay Sinh trưởng tốt Sinh trưởng tốt
NK 66 Phun nước, không làm cỏ Sinh trưởng tốt Sinh trưởng tốt
C919 Làm cỏ bằng tay Sinh trưởng tốt Sinh trưởng tốt
Nguồn: Viện Di truyền Nông nghiệp, 2010.
Ngoài ra, hiệu lực quản lý cỏ dại ở công thức phun glyphosate cũng được theo dõi và đánh
giá. Diễn biến mức độ che phủ của cỏ dại trong suốt thời gian sinh trưởng và phát triển của
cây ngô trên các công thức được thể hiện ở Bảng 18.
Trước khi phun thuốc glyphosate và làm cỏ bằng tay thì tất cả các công thức tham gia
khảo nghiệm đều có mức độ che phủ của cỏ dại là 65 %. Tại thời điểm đánh giá (7 ngày
sau phun glyphosate và làm cỏ lần 1), mức độ che phủ của cỏ dại trong công thức ngô
GA21 (phun thuốc trừ cỏ glyphosate) là 0 % (cỏ dại bị diệt hoàn toàn); Các công thức ngô
không chuyển gen (làm cỏ bằng tay) độ che phủ là 5 %; nếu không làm cỏ, mức độ che phủ
của cỏ dại lên tới 75%.
Bảng 18. Hiệu lực quản lý cỏ dại của giống chuyển gen GA21 kháng thuốc trừ cỏ
Nguồn: Viện Di truyền Nông nghiệp, 2010.
Công thức Phương thức
phòng trừ cỏ
Mức độ che phủ của cỏ dại (%) sau khi phòng trừ
Trước
phòng
trừ cỏ
Sau 7
ngày
Sau 20
ngày
Sau 40
ngày
Trước
thu
hoạch
GA21 Phun
glyphosate
65 0 0 5 25
NK 66 Làm cỏ bằng
tay
65 5 30 10 30
NK 66 Không làm cỏ 65 75 90 100 100
C919 Làm cỏ bằng
tay
65 5 30 10 30
91
Ghi nhận tại thời điểm trước thu hoạch, độ che phủ cỏ trong ô thí nghiệm ngô GA21 chỉ là
25%, thấp hơn làm bằng tay 2 lần/ vụ (30%), đạt hiệu quả trừ cỏ là 75% (so với không ngô
không làm cỏ). Như vậy, kết quả cho thấy khả năng quản lý cỏ dại trên ruộng ngô GA21
xử lý glyphosate là rất tốt và có hiệu quả cao.
Nhóm nghiên cứu cũng đã tiến hành xác định khả năng chống chịu glyphosate của tổ hợp
lai Bt11xGA21 kết hợp đánh giá hiệu lực quản lý cỏ dại của công thức phun glyphosate
trùm cây 1 lần trong khảo nghiệm hạn chế 2 vụ liên tiếp của tổ hợp lai này. Kết quả cho
thấy, tương tự như sự kiện GA21 riêng lẻ, tổ hợp lai Bt11xGA21 cũng thể hiện tính chống
chịu cao với thuốc trừ cỏ gốc glyphosate và cho hiệu lực quản lý cỏ dại rất tốt trong suốt cả
mùa vụ. Hiệu lực quản lý cỏ dại của Bt11xGA21 phun thuốc glyphosate tương đương với
công thức làm cỏ tay hai lần (Báo cáo khảo nghiệm hạn chế ngô Bt11xGA21, Viện Di
truyền, 2010).
5.1.2. Thảo luận
Qua 2 vụ khảo nghiệm hạn chế tại Tân Thành, Bà Rịa Vũng Tàu, nhóm nghiên cứu đã tiến
hành đánh giá những tác động của ngô GA21 (sự kiện gen GA21 được đưa vào giống ngô
NK66) tới môi trường và đa dạng sinh học tại Việt Nam. Kết quả đánh giá được tổng hợp
và phân tích cùng các nghiên cứu đã có trên thế giới cũng như các nghiên cứu của Công ty
Syngenta nhằm mục đích trả lời 4 câu hỏi liên quan đến đánh giá rủi ro được nêu ở Điều
15, Nghị định 69/2010/NĐ-CP do Chính phủ ban hành. Các phân tích chi tiết theo từng
tiêu chí trong đánh giá rủi ro với môi trường và đa dạng sinh học được trình bày dưới đây:
5.1.2.1. Nguy cơ trở thành dịch hại, cỏ dại xâm lấn môi trường tự nhiên của ngô GA21
và các nguy cơ trôi gen, phát tán gen
Nguy cơ trở thành cỏ dại, dịch hại của ngô GA21 được xét đến trên khả năng (a) bản thân
cây ngô mang sự kiện gen GA21 có thể tồn tại dai dẳng trong tự nhiên không cần sự tác
động của n người và trở thành một loài cỏ dại và (b) sự kiện chuyển gen GA21 có thể
được truyền sang các họ hàng thực vật hoang dại khác thông qua sinh sản hữu tính hoặc có
thể truyền ngang tới các sinh vật k á k ông qua n đường sinh sản (trôi gen).
Phân tích nguy cơ trở thành cỏ dại của ngô GA21
Như đã đề cập trong phần kết quả khảo nghiệm, nguy cơ trở thành cỏ dại của ngô được thể
hiện qua tính ngủ nghỉ của hạt, tính rụng bắp trước thu hoạch và tính cạnh tranh (Baker,
1974). Để đánh giá nguy cơ này, công ty Syngenta đã tiến hành rất nhiều thí nghiệm đồng
ruộng so sánh các đặc tính nông sinh học, sinh trưởng, phát triển, các đặc điểm kiểu hình
của ngô GA21 với giống cùng dòng không chuyển gen.
Trong khảo nghiệm đồng ruộng năm 1999 và 2004 ở Mỹ và năm 2003 tại Braxin, các đặt
tính của ngô G21 bao gồm: chiều cao cây, chiều cao đóng bắp, năng suất, tỷ lệ g y thân, đổ
rễ, tính m n cảm với bệnh hại… đã được đánh giá chi tiết. Kết quả cho thấy có một số sai
khác có ý nghĩa thống kê giữa ngô chuyển gen GA21 và giống ngô thường, Tuy nhiên sự
92
sai khác này không ổn định, không đặc trưng với từng nhóm chỉ tiêu và v n nằm trong
khoảng biến thiên của kết quả đánh giá trên giống ngô thường không chuyển gen. Bởi vậy,
FSA (2007) đã kết luận: không có sự khác biệt nào do ảnh hưởng không chủ định của cây
trồng chuyển gen gây ra.
Các khảo nghiệm đồng ruộng liên tiếp trong các năm từ 2005 đến 2008 tại Mỹ (10 điểm
khảo nghiệm) và tại châu Âu (Tây Ban Nha, Rumani, Cộng hoà Séc) cũng đều cho kết quả
tương tự giữa ngô GA21 và ngô thường không chuyển gen (EFSA Journal 2011;
9(12):2480). Như vậy, ngoài tính trạng mong muốn được đưa vào, ngô GA21 không thể
hiện bất cứ sự khác biệt nào về kiểu hình cũng như các đặc tính nông sinh học so với giống
nền của nó. Moi sự tương tác với điều kiện ngoại cảnh (côn trùng, bệnh hại, các tác nhân
gây ức chế từ môi trường phi sinh học) ở các vùng sinh thái khác nhau của ngô GA21 đều
tương tự với giống nền. Ngô GA21, do vậy, không thể hiện sự tồn tại dai dẳng hay nguy cơ
xâm lấn môi trường tự nhiên.
Bên cạnh đó, các m u lá và hạt ngô GA21 trong các khảo nghiệm đồng ruộng ở Mỹ năm
2004 và 2005, ở Ý và Tây Ban Nha năm 1997 cũng được thu thập để phân tích các thành
phần dinh dưỡng trong đó. Các chỉ tiêu phân tích theo hướng d n của OCED (2002) bao
gồm: hàm lượng các chất xơ và khoáng (trong lá); hàm lượng chất béo, axit amin, xơ và
khoáng chất, các vitamin và tiền vitamin, và các hợp chất chuyển hoá thứ cấp (trong hạt).
Kết quả cho thấy, mặc dù có một vài sai khác về hàm lượng một số chất giữa ngô GA21 và
ngô thường nhưng sự sai khác này không ổn định qua các năm khảo nghiệm và các giá trị
phân tích được đều nằm trong khoảng biến thiên của các giống ngô tham khảo. Do vậy,
FSA (2007) đã kết luận: ngoại trừ protein mEPSPS biểu hiện trong ngô GA21, thành
phần các chất dinh dưỡng khác trong ngô chuyển gen không khác biệt với giống nền và
nằm trong khoảng biến thiên giá trị dinh dưỡng của các giống ngô thương phẩm. Kết luận
này tiếp tục được khẳng định trong các nghiên cứu tiếp theo ở Tây Ban Nha và Rumani
năm 2006 ( FSA Journal 2011; 9(12):2480).
Tại Việt Nam, trong cả 2 vụ khảo nghiệm hạn chế năm 2010 BRVT, các kết quả đều cho
thấy ngô GA21 có đặc điểm nông sinh học (thời gian mọc mầm của hạt, tính ngủ nghỉ, các
mốc sinh trưởng, tổng thời gian sinh trưởng, tỷ lệ g y thân, đổ rễ …) và hình thái (chiều
cao cây, chiều cao đóng bắp, hình dạng và màu sắc hạt…) là hoàn toàn tương tự với giống
cùng dòng không chuyển gen NK66 (Bảng 10,11).
Bên cạnh đó, các đánh giá về mức độ nhiễm một số bệnh hại ngô chính như bệnh khô vằn,
gỉ sắt, đốm lá lớn, đốm lá nhỏ cũng cho thấy tính m n cảm với các loại bệnh này là tương
đương giữa ngô GA21 và giống ngô thường NK66 (Bảng 16). Thành phần và mức độ xuất
hiện của một số bệnh hại khác cũng được ghi nhận giống nhau trên cả ngô GA21 và giống
nền NK66 (Bảng 15). Kết quả này cho thấy mức độ phản ứng với điều kiện ngoại cảnh của
ngô GA21 và giống nền NK66 là tương tự nhau. Như vậy, sự kiện GA21 không làm phát
sinh một giống ngô mới hay thể hiện sự sinh trưởng vượt trội, lấn át so với giống nền.
Ngô là cây trồng sinh sản và nhân giống bằng hạt. Mặc dù hầu hết các loài cỏ dại tồn tại và
phát tán trong tự nhiên đều có hình thức sinh sản bằng hạt, nhưng để tồn tại trong tự nhiên
93
chúng cũng cần duy trì được độ nẩy nầm trong thời gian dài và các hình thức tự phát tán
tốt. Tuy nhiên, theo nhiều tác giả (Mangelsdorf, 1986; Neibur, 1992), hạt ngô không có
tính ngủ nghỉ. Hạt đã chín dễ dàng nẩy mầm khi có đủ độ ẩm, thậm chí khi bắp đang c n ở
trên cây. Ngô là một cây trồng có tính thuần hóa cao, ngô không thể tồn tại độc lập trong tự
nhiên mà không có sự can thiệp của con người bởi hạt ngô có cấu tạo tập trung, được bao
bọc bởi lớp lá bi dày và không có cơ chế tự phát tán. Nếu một bắp ngô bị rơi xuống đất và
nảy mầm sau một thời gian, sẽ có rất nhiều cây con cùng mọc lên trên một diện tích đất rất
nhỏ và các cây ngô này sẽ không thể tồn tại và phát triển. Cây mọc tự nhiên rải rác sẽ bị
chết các điều kiện tự nhiên hoặc được kiểm soát dễ dàng bằng các biện pháp canh tác
như luân canh cây trồng và sử dụng thuốc diệt cỏ chọn lọc (Neibur, 1992). Ngô không
có khả năng sinh sản liên tục nếu không được trồng và không phát tán tới nơi nào đó để
cư trú tự nhiên (OECD, 2003). Trong khảo nghiệm này, ngô GA21 có đặc tính tương tự
giống nền. Ngô GA21 không thể hiện ưu thế sinh trưởng vượt trội. Hạt ngô nảy mầm
ngay sau thu hoạch, bắp không bị rụng. Xét tổng thể các yếu tố đã theo dõi, chúng tôi
kết luận: ngô GA21 hoàn toàn tương tự giống nền NK66, ngô GA21 không mang các
đặc tính của cỏ do vậy không có nguy cơ trở thành cỏ dại xâm lấn môi trường tự
nhiên.
Phân tích nguy cơ trôi gen, phát tán gen
Nguy cơ trôi gen, phát tán gen được xét trên 2 khả năng: phát tán gen dọc sang các loài họ
hàng hoang dại thông qua sinh sảnh hữu tính; và phát tán gen ngang sang các loài vi khuẩn
trong hệ tiêu hoá của động vật hoặc trong môi trường đất.
Như đã phân tích trong phần III, khả năng trôi gen, phát tán gen sang các loài hoang dại chỉ
xảy ra khi chúng tương thích về mặt sinh sản với cây ngô. Các loài họ hàng hoang dại
trong cùng chi Zea Mays, có thể lai hữu tính với ngô thì chỉ tồn tại ở Nam Mỹ và không
tìm thấy ở Việt Nam. Chính vì vậy, phân tích sự cách biệt về địa lý cũng như đặc điểm sinh
sản của cây ngô cho thấy việc gen mepsps được truyền từ ngô GA21 sang một loài họ hàng
hoang dại cùng chi Zea là không thể xẩy ra trong điều kiện tại Việt Nam.
Xét đến yếu tố lai xa giữa các chi trong cùng một tông Maydeae (theo hệ thống phân loại
mới là Andropogoneae), chi có thể lai được với ngô (Zea) là Euchlaena thi không tìm thấy
ở Việt Nam. Chi Triptacum (cũng có một loài được nhập trồng tại Việt Nam là cỏ
Watemala, làm thức ăn gia súc) được cho là chỉ lai được với chi Zea trong một số điều kiện
nhất định (Mangelsdorf, 1986; Engle, 1984; Ramirez and dela Vina, 1996; Arago, et al.,
1997). Các chi khác thi không lai được với chi Zea. Như vậy, khả năng sự kiện chuyển
gen GA21 được phát tán sang các loài thực vật gần gũi về sinh sản (như giữa các Loài-
species) trong một Chi (genera), giữa các Chi (genera) trong một Tông (tribe) trong điều
kiện canh tác hay trong tự nhiên là không thể có tại Việt Nam do đặc điểm thực vật và các
đặc điểm địa lý, không gian và thời gian.
Có một số quan ngại về hiện tượng truyền gen tới các vi sinh vật do một số vi khuẩn có
khả năng trao đổi vật chất di truyền trực tiếp, thậm chí với các sinh vật khác loài thông qua
94
tiếp hợp tế bào, chuyển nạp qua virut/ thực khuẩn hay biến nạp tự nhiên. Liên quan tới vấn
đề này, Cơ quan an toàn thực phẩm châu Âu ( PSA) đã nhận định rất khó có khả năng
ADN tái tổ hợp được truyền từ ngô GA21 tới các loài vi sinh vật trong đất hoặc trong bộ
máy tiêu hoá của người. Hai yếu tố chính ngăn cản quá trình này là (1) việc thiếu ơ ế
hiệu quả để gắn kết ADN “ ạ” và bộ nhiễm sắc thể trong tế bào vi khuẩn và (2) khả năng
mang ưu t ế chọn lọ đối với vi khuẩn của tính trạng được mã hoá là rất thấp.
Ngoài ra, để gen truyền ngang được từ ngô sang hệ vi sinh vật còn phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố: nồng độ và chất lượng ADN tái tổ hợp, vi khuẩn nhận có khả năng tạo ra các biến
nạp tự nhiên (ví dụ: khả năng thu nhận ADN ngoại bào), khả năng gắn kết của ADN tái tổ
hợp vào hệ gen của vi khuẩn, ưu thế chọn lọc của tính trạng được mã hoá, biểu hiện protein
trong tế bào vi khuẩn…
Hai đối tượng vi sinh vật chính được cân nhắc sẽ bị phơi nhiễm với protein mEPSPS biểu
hiện trong ngô chuyển gen GA2 là: hệ vi sinh vật trong đất ruộng trồng ngô GA21 và hệ vi
sinh vật trong đường tiêu hoá của người và động vật ăn thức ăn có nguồn gốc từ ngô
GA21.
Trong thực phẩm, ADN tái tổ hợp bị phân huỷ rất nhanh trong quá trình chế biến và tiếp
tục bị phân huỷ trong bộ máy tiêu hoá của người và động vật. Do vậy, các ADN bị cắt nhỏ
và hiện tượng truyền gen nguyên vẹn tới vi sinh vật trong đường tiêu hoá là khó có thể xảy
ra (EFSA, 2009a và các tài liệu trích d n trong đó). Với các vi khuẩn trong đất phơi nhiễm
với ADN ngoại bào được truyền từ tế bào cây vào đất, các ADN này bị phân huỷ rất nhanh
và chỉ là một thành phần tạm thời với nồng độ rất thấp trong toàn bộ nguồn ADN dồi dào
trong đất (Levy-Booth et al., 2007). Do vậy để xảy ra biến nạp tự nhiên, ADN tái tổ hợp từ
cây phải có ưu thế chọn lọc rất cao. Điều này khó có thể xảy ra do vi khuẩn luôn được tiếp
xúc với rất nhiều nguồn ADN gần gũi và tương đồng hơn trong đất (ESPA, 2009b và các
tài liệu trích d n trong đó). Cho đến nay, chưa có bằng chứng khoa học nào ghi nhận hiện
tượng truyền gen ngang từ ngô GA21 sang các vi sinh vật trong đất cũng như trong bộ máy
tiêu hoá của người, động vật (Keese, 2008; EFSA, 2009a và các tài liệu trích d n trong đó;
Brigulla and Wackernagel, 2010; Ma et al., 2011) và do vậy cũng không thể gây hại cho
người, động vật và môi trường đất.
Như vậy, sự kiện chuyển gen GA21 hoàn toàn không làm phát sinh một giống ngô mới. Sự
khác biệt duy nhất là ngô GA21 có thể kháng thuốc trừ cỏ gốc glyphosate, do đó thể hiện
được các đặc điểm tối ưu của sự kiện. Biểu hiện của protein mEPSPS chỉ có tác dụng giúp
cây chống chịu với glyphosate. Ngô GA21 có đặc điểm nông sinh học giống với giống nền
NK66, là một giống cây trồng có tính thuần hóa cao, phù hợp điều kiện thâm canh trong
sản xuất và không thể tồn tại trong tự nhiên nếu không có sự can thiệp của con người.
Với các kết quả nghiên cứu về đặc điểm nông sinh học của ngô GA21, xem xét các yếu tố
phân loại và mức độ gần gũi giữa cây ngô với các loài thực vật trong cùng chi (genera),
tông (tribe), lịch sử hình thành và phát triển cây ngô tại Việt Nam đồng thời phân tích các
nguy cơ trôi gen khác, có thể khẳng định rằng ngô GA21 không có nguy cơ trở thành cỏ
95
dại, dịch hại và sự kiện chuyển gen GA21 cũng không thể tự phát tán ra môi trường tự
nhiên.
5.1.2.2. Nguy cơ trở ảnh hưởng bất lợi đến sinh vật không chủ đích của ngô GA21
Ngô GA21 là giống ngô NK66 của công ty Syngenta được mang sự kiện chuyển gen
GA21, có khả năng chống chịu với thuốc trừ cỏ không chọn lọc Glyphosate. Thuốc trừ cỏ
Glyphosate tiêu diệt thực vật, trong đó có cây ngô, bằng cách ngăn cản enzim EPSPS, một
loại enzym có mặt trong tế bào thực vật và vi sinh vật nhưng không có trong động vật,
tham gia vào quá trình tổng hợp sinh học các amino axit thơm, vitamins và nhiều quá trình
trao đổi chất thứ cấp của cây trồng.
Cây ngô GA21 mang gen mepsps được cải tiến so với gen epsps ban đầu. Kết quả là ngô
GA21 biểu hiện protein m PSPS được cải tiến có khả năng giúp cây tăng cường khả năng
chống chịu thuốc diệt cỏ glyphosate (Spencer và CS. 2000; Lebrun và CS. 2003). Ngô
GA21 được dùng để khống chế cỏ một cách kinh tế. Mục tiêu ngô GA21 là kháng
glyphosate, vì vậy không có tương tác giữa ngô GA21 và một sinh vật đích nào.
Các kết quả phân tích ngô GA21 xác định không có độc tố ở các nồng độ khác nhau. Biểu
hiện của enzyme mEPSPS của ngô GA21 không gây rủi ro cho môi trường vì enzyme
mEPSPS chỉ thay đổi 2 axit amin và được nhận diện giống với enzyme EPSPS trong ngô
không chuyển gen và các vi sinh vật tới 99,3% (Hill, 2005). Quan sát trên các thí nghiệm
đồng ruộng ở Tây Ban Nha (2008) cho thấy ngô GA21 không có tác động tiêu cực đến các
sinh vật không chủ đích. Mức độ phong phú quần thể động vật chân khớp có ích trên đồng
ruộng không khác biệt giữa ngô GA21 và ngô thường không chuyển gen (EFSA Journal
2011; 9(12):2480).
Thử nghiệm cho ong mật ăn phấn hoa của ngô GA21 và ngô thường cũng cho kết quả
tương tự. Ong v n sinh trưởng, phát triển bình thường. Không quan sát thấy sự khác biệt
trong tập quán kiếm ăn và tỷ lệ chết của ong. Thử nghiệm tiếp theo trên ấu trùng (2-3 ngày
tuổi) cho ăn 2mg phấn hoa trộn với 30% sucrose cho thấy, cả ấu trùng ăn phấn hoa và ấu
trùng trong công thức đối chứng đều hoá sâu trong cùng một ngày. Tỷ lệ sống sót của ấu
trùng trong công thức cho ăn phấn hoa GA21 thậm chí còn cao hơn trong công thức đối
chứng (EFSA Journal 2011; 9(12):2480).
Dựa vào những kết quả trên FSA đã kết luận ngô GA21 không gây ảnh hưởng bất lợi đến
quần thể sinh vật không chủ đích. Sự khác biệt duy nhất giữa ngô GA21 và ngô không
chuyển gen là sự sản sinh enzyme m PSPS để kháng thuốc trừ cỏ Glyphosate.
Protein mEPSPS biểu hiện trong ngô GA21 được cho là rất an toàn qua các phân tích về
độc tính ( FSA, 2007). Căn cứ và cơ chế hoạt động của protein này (không có hoạt tính trừ
sâu) và lịch sử sử dụng an toàn của ngô GA21 và các cây trồng chống chịu glyphosate
khác, có thể nói rằng protein mEPSPS hầu như không thể gây ra ảnh hưởng bất lợi cho các
sinh vật không chủ đích. Vì vậy các thử nghiệm xa hơn là không cần thiết (Garcia- Alonso
và cộng sự, 2006; Raybould, 2006). Cho đến nay chưa có bằng chứng khoa học nào cho
96
thấy protein mEPSPS gây ảnh hưởng bất lợi đến đa dạng sinh học và phong phú về loài
sinh vật trên ruộng ngô (Firbank và cộng sự, 2003a; Cerdeira và Duke, 2006, 2007, 2010;
Owen, 2008; CERA, 2010). Khảo nghiệm đồng ruộng với ngô GA21 của công ty Syngenta
đã được thực hiện tại Philippine năm 2008 và kết quả khảo nghiệm cũng như báo cáo đánh
giá rủi ro với ngô GA21 đã được chính phủ Philippine thông qua tháng 11 năm 2009 cũng
không đề cập đến việc đánh giá các đối tượng sinh vật không chủ đích với ngô GA21.
Tuy nhiên, trong 2 vụ khảo nghiệm hạn chế tại Việt Nam, để cung cấp thêm các dữ liệu về
ảnh hưởng của ngô GA21 tới đa dạng sinh học, nhóm nghiên cứu đã tiến hành đánh giá các
tác động của ngô GA21 đến đối tượng không chủ đích, bao gồm thành phần quần thể chân
khớp trên không (sâu hại, thiên địch, ký sinh và thụ phấn), nhóm chân khớp trong đất bọ
đuôi bật Collembola và nhóm bệnh hại.
Các kết quả khảo nghiệm hạn chế đều cho thấy, ngô GA21 không có ảnh hưởng bất lợi nào
đáng kể đến thành phần loài động vật chân khớp theo hệ thống phân loại cũng như theo vai
trò trong ruộng ngô (Bảng 12a, b). Diễn biến phát sinh và gây hại của sâu hại chính là rệp
ngô cũng hoàn toàn tương tự nhau giữa ngô GA21 và ngô thường NK66 (Hình 1). Ngoài
ra, mật độ các loài chân khớp có ích trên ruộng ngô (bọ rùa, nhện lớn bắt mồi, cánh cứng
cánh ngắn...) cũng không chịu bất cứ tác động bất lợi nào từ ngô chuyển gen GA21 trong
suốt quá trình khảo nghiệm (Hình 2, 3, 4).
Để đánh giá ảnh hưởng của ngô GA21 tới quần thể động vật chân khớp trong đất, trong
khảo nghiệm hạn chế tại Hưng Yên và BRVT, nhóm nghiên cứu đã điều tra thành phần
loài, mật độ cá thể Collembola trong đất trồng ngô chuyển gen GA211 và giống đối chứng
không chuyển gen NK66. Kết quả ghi nhận được là tương tự nhau (Bảng 13). Bên cạnh đó
các chỉ số đa dạng, đồng đều của quần thể, tập hợp các loài ưu thế collembola trên hai
ruộng ngô khảo nghiệm GA21 và NK66 cũng duy trì ở mức sai khác không đáng kể (Bảng
13 và 14).
Như vậy, đối với cả hai nhóm động vật chân khớp trong sinh cảnh ruộng ngô là nhóm côn
trùng trên không và nhóm côn trùng trong đất, ngô GA21 đều không thể hiện bất kỳ ảnh
hưởng bất lợi nào đến thành phần loài, mức độ phong phú, diễn biến mật độ cá thể… Các
kết quả nghiên cứu trên thế giới và kết quả khảo nghiệm 2 vụ hạn chế trên đồng ruộng Việt
Nam đều chứng minh rằng ảnh hưởng của ngô GA21 đến các loài sinh vật không chủ đích
là tương tự như giống truyền thống không chuyển gen. Cho đến nay, chưa quan sát thấy
bất kỳ ảnh hưởng bất lợi nào của ngô GA21 tới quần thể sinh vật không chủ đích trong
sinh cảnh ruộng ngô.
5.1.2.3. Các nguy cơ khác ảnh hưởng bất lợi đến hệ sinh thái xung quanh
Khi canh tác ngô GA21 trên đồng ruộng thì hệ sinh thái nông nghiệp là những cây trồng
xung quanh, các sinh vật không chủ đích, sinh thái đất. Bên cạnh đó con người và động vật
chăn thả là những yếu tố cần đề cập đến có hay không có tính bất lợi của ngô GA21 đến
các đối tượng đó.
97
Bên cạnh việc phân tích những kết quả thu được trong khảo nghiệm hạn chế chứng minh
ngô GA21 không tồn tại nguy cơ gây ảnh hưởng bất lợi đến môi trường tự nhiên và quần
thể sinh vật không chủ đích trong ruộng ngô, nhóm nghiên cứu cũng tiến hành so sánh, thu
thập các nghiên cứu trước đây trên thế giới có liên quan đến đánh giá tính an toàn của ngô
GA21 tới hệ sinh thái, các nghiên cứu liên quan đến vần đề đề cập trên được tóm tắt như
sau:
Ảnh hưởng tới con người và động vật
Đã có rất nhiều thử nghiệm đánh giá rủi ro của ngô GA21 đối với sức khoẻ con người và
động vật. Trong phạm vi của báo cáo này chúng tôi tổng hợp một số đánh giá của công ty
Syngenta và trên thế giới về độc tính, khả năng gây dị ứng của protein mEPSPS và cây ngô
chuyển gen GA21 khi được sử dụng làm thức ăn. Giá trị dinh dưỡng của hạt ngô GA21 so
với giống ngô thông thường cũng được đề cập đến.
Như đã phân tích ở trên, ngô GA21 hoàn toàn giống như ngô không chuyển gen chỉ có
khác biệt là chúng có enzyme m PSPS tương đồng tới 99,3% với enzyme PSPS ban đầu.
Phân tích trình tự axit amin cho thấy mEPSPS có trình tự axit amin không giống với bất kỳ
protein có tính độc nào hay các tác nhân gây dị ứng nào đã biết (Brian 2006). Protein này
cũng rất dễ bị phân huỷ bởi enzyme pepsin khi tiến hành thí nghiệm trong ống nghiệm.
Protein không bền với nhiệt. Như vậy về lý thuyết, protein m PSPS không mang tính độc,
không gây dị ứng và an toàn cho người cũng như động vật.
Khi đánh giá độ độc cấp tính của protein mEPSPS các nhà khoa học đã tiến hành thử
nghiệm với chuột. Nhóm năm chuột cái và năm chuột đực được đưa vào dạ dày bằng ống
0mg (đối chứng) và 2000 mg protein mEPSPS/kg trọng lượng cơ thể với 1 liều mỗi ngày,
sử dụng nước khử ion như chất đối chứng và tá dược lỏng. Protein mEPSPS là thành phần
chính của chất thí nghiệm. Các quan sát lâm sàng, trọng lượng cơ thể, và sự tiêu hóa thức
ăn được thực hiện trong suốt nghiên cứu. Kết thúc thử nghiệm, các m u máu ở tim được
lấy cho việc kiểm tra mô bệnh học tiếp theo. Kết quả cho thấy, việc thử nghiệm 2000 mg
protein mEPSPS/kg trọng lượng cơ thể như một liều đơn trên chuột không gây ra ảnh
hưởng bất lợi đến chuột (Barnes, 2005).
Trong một thử nghiệm khác, một nhóm gồm 12 chuột đực và 12 chuột cái được cho ăn
khẩu phần chứa từ 10 - 41.5% hạt ngô GA21 có xử lý glyphosate. Nhóm đối chứng gồm
các con chuột ăn khẩu phần gồm 10 – 41.5% hạt ngô thông thường được xử lý bằng các
loại thuốc trừ cỏ chọn lọc. Kết quả theo dõi sau 90 ngày, về cơ bản chuột không bị ảnh
hưởng bởi bất kỳ tác động bất lợi nào từ việc ăn khẩu phần thức ăn có chứa hạt ngô GA21
(EFSA Journal 2011;9(12):2480).
Như vậy, với nồng độ tới 2000mg trên trọng lượng cơ thể chuột cũng không có ảnh hưởng
nào bất lợi như gây độc và dị ứng cùng với lịch sử an toàn của enzyme này thì ngô GA21
không thể có bất cứ ảnh hưởng làm thay đổi đời sống sức khỏe con người và động vật sống
xung quanh ngay cả khi ăn phải bộ phận của cây ngô GA21.
98
Song song với các phân tích về độc tính, các thử nghiệm để đánh giá khả năng gây dị ứng
của ngô GA21 cũng được thực hiện. Gene epsps mã hoá protein EPSPS có nguồn gốc từ
ngô, là thực phẩm an toàn, không gây dị ứng. Phân tích trình tự axit amin cho thấy protein
mEPSPS có trình tự axit amin không tương đồng với bất cứ tác nhân gây dị ứng nào đã
biết. Protein dễ dàng bị thuỷ phân bởi pepsin trong thí nghiệm mô tả thuỷ phân trong dịch
dạ dày. Từ tất cả các thông tin trên Cơ quan An toàn thực phẩm châu Âu cho rằng ngô
GA21 khó có khả năng là tác nhân gây dị ứng (EFSA Journal 2011; 9(12):2480).
Bên cạnh đó, các thử nghiệm dinh dưỡng cũng được thực hiện trên gà giò trong 49 ngày
kết hợp theo dõi cân nặng, tỷ lệ chết, hiệu quả chuyển hoá thức ăn… và đã chứng minh
được rằng ngô GA21 cũng an toàn và giầu dinh dưỡng như ngô thông thường. Kết quả này
đã được thẩm định bởi nhiều nhà khoa học. Các đánh giá trong ph ng thí nghiệm cũng cho
thấy thành phần dinh dưỡng trong ngô GA21 không khác gì với ngô thường, điểm khác
biệt duy nhất là ngô GA21 biểu hiện protein mEPSPS. Do vậy, Cơ quan An toàn thực
phẩm châu Âu đã kết luận: ngô GA21 an toàn và giầu dinh dưỡng như ngô thông thường.
Ngô GA21 không gây bất cứ tổn hại nào cho người và động vật (EFSA Journal
2011;9(12):2480 và các tài liệu trích d n trong đó). Trên thực tế, ngô GA21 đã được chấp
thuận cho canh tác ở Mỹ, Canada, Argentina, Brazil, Philippine, Nhật Bản... và nó được
chấp thuận cho sử dụng thức ăn gia súc tại Mỹ, Canada, Argentina, Nam Phi, Mexico,
Nhật Bản, Philippines, Nga, EU, Thụy Sĩ , Đài Loan, Hàn Quốc và Trung Quốc. Ngô
GA21 cũng được phép sử dụng trong thực phẩm tại Mỹ, Canada, Argentina, Mexico, Nhật
Bản, Nam Phi, Nga, EU, Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Philippines, Trung Quốc và Đài
Loan.
Ảnh hưởng tới quá trình sinh địa hoá trong đất và môi trường phi sinh học
Khi canh tác ngô GA21, protein mEPSPS có thể bị truyền vào đất thông qua nhiều
cách: qua các mô của cây bị tổn thương do các tác nhân vật lý, qua việc phân huỷ lá, rễ
thân cây bị l n vào đất khi thu hoạch (Stotzky, 2004) hoặc qua dịch tiết ra từ rễ (Saxena
và cộng sự, 2002, 2004; Icoz và Stotzky, 2007). Điều này d n đến nguy cơ phơi nhiễm
của các vi sinh vật đất với loại protein này.
Các nghiên cứu về nồng độ/lượng protein mEPSPS trong ngô GA21 trong toàn bộ chu
kỳ sinh trưởng cho thấy nồng độ mEPSPS trung bình trong lá, rễ, và toàn bộ cây dao
động ở mức độ thấp lần lượt như sau: trong lá tươi là <0.2 - 15 g/g tươi (< 0,3-70 g/g
khô); trong rễ 2-7g/g tươi (<14-44g/g khô); và trên toàn bộ cây ngô GA21 là 3-7
g/g tươi (8-68 g/g khô) (Hill, 2005). Protein mEPSPS hiện diện với nồng độ thấp trong
rễ ngô GA21 và do đó việc canh tác ngô GA21 không làm tăng đáng kể lượng EPSPS
trong đất.
Như đã phân tích ở mục 5.1.2.1 sự truyền gen ngang từ cây chuyển gen sang vi khuẩn phơi
nhiễm với nó và các biểu hiện tiếp theo được xem là không thể có trong các điều kiện tự
nhiên. Tuy nhiên, trong trường hợp cực hiếm, nếu truyền gen ngang xuất hiện, nó cũng
không thể sản sinh thêm mEPSPS trong vi khuẩn đất bởi vì biểu hiện của mepsps trong ngô
99
GA21 được điều khiển bởi promoter của sinh vật nhân chuẩn (eukaryotic) và promoter này
hầu như không hoặc rất ít hoạt động trong môi trường tế bào các sinh vật nhân sơ
(prokaryotic) như vi khuẩn. Do vậy, ảnh hưởng bất lợi đáng kể đối với quá trình sinh hóa
trong đất là khó có thể xảy ra. Có chăng là mối quan ngại về khả năng tăng tính kháng của
một số vi khuẩn đối với glyphosate; tuy nhiên các enzyme EPSPS của vi khuẩn bản địa đã
phổ biến trong tự nhiên rồi và có khuynh hướng tương đối mạnh hơn đối với glyphosate
(Priestman và cộng sự 2005a).
Cho đến nay chưa có báo cáo nào ghi nhận việc canh tác ngô GA21 có thể làm thay đổi
các quá trình sinh địa hoá trong đất. Các quá trình chuyển hoá nhờ vi sinh vật trong đất
như chuyển hoá cacbon-nitơ không bị ảnh hưởng hay thay đổi (Hart và cộng sự, 2009;
Phillipot và cộng sự, 2006; Liphadzi và cộng sự 2005). Do protein mEPSPS rất giống
với protein PSPS ban đầu nên khả năng gây ảnh hưởng xấu đến vi sinh vật và các quá
trình sinh hoá trong đất là rất khó xảy ra. Tương tự như vậy, khả năng tính trạng chống
chịu glyphosate đưa vào cây ngô có thể làm thay đổi mối tương tác của cây với các tác
nhân phi sinh học trong môi trường là hầu như không thể. Cơ quan An toàn thực phẩm
châu Âu ghi nhận: chưa có nghiên cứu nào tìm thấy ảnh hưởng bất lợi của việc canh tác
cây trồng chống chịu glyphosate tới các quá trình sinh địa hoá và các mối tương tác với
môi trường phi sinh học (Dunfield và Germida, 2004; Cereira và Duke, 2006; Powell
và cộng sự, 2007, CERA, 2010).
5.1.2.4. Các tác động bất lợi khác
Sự kiện chuyển gen GA21 chống chịu glyphosate được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá an
toàn với con người, động vật và môi trường, do đó hiện nay ngô GA21 đang được trồng ở
rất nhiều vùng sinh thái trên thế giới khác nhau về các yếu tố sinh học (quần thể sinh vật,
cây trồng…), vật lý (gió, mưa, độ ẩm, nhiệt độ…) và dinh dưỡng (đất, nước…). Mọi quan
sát về tương tác giữa cây chuyển gen GA21 với điều kiện ngoại cảnh đều đồng nhất với
cây ngô truyền thống (xem phần thảo luận các mục 5.1.2.1 đến 5.1.2.3, và các tài liệu trích
d n trong đó). Cho đến nay chưa ghi nhận ảnh hưởng bất lợi nào của ngô GA21 tới môi
trường và đa dạng sinh học. Các nghiên cứu đã được thực hiện tại Việt Nam trong hai vụ
khảo nghiệm hạn chế cũng cho thấy ngô GA21 tương tự ngô không chuyển gen cùng dòng
NK66 về đặc tính nông học. Các tác động đến quần thể sinh vật không chủ đích cũng
không cho thấy sự khác biệt nào đáng kể.
Ảnh hưởng của ngô GA21 đến trồng trọt, quản lý và kỹ thuật thu hoạch so với ngô
thường
Ngô GA21 sẽ được phun bằng thuốc diệt cỏ glyphosate một đến hai lần vào các giai đoạn
khi cây mọc mầm và giai đoạn 8 lá của ngô GA21 để khống chế nhiều loại cỏ dại. Vần đề
này cũng tương tự khi ngô thông thường áp dụng thuốc diệt cỏ chọn lọc hậu nảy mầm khác
như sulcotrione, mesotrione, bromoxynil, và nicosulfuron. Do vậy, phương thức canh tác là
không thay đổi tập quán phun thuốc cỏ, tuy nhiên lợi thế ở đây là sử dụng GA21 thì nông
dân có thể phun trùm và linh hoạt hơn trong sử dụng đồng thời cây trồng không bị ảnh
hưởng đến sinh trưởng, phát triển.
100
Việc sử dụng thuốc trừ cỏ gốc glyphosate trong thời gian dài khi canh tác ngô d n đến một
số lo ngại có các ảnh hưởng bất lợi đến đa dạng quần thể sinh vật trên đồng ruộng. Cụ thể
là làm giảm đa dạng loài thực vật do có hiện tượng thay cỏ. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng
lại do nhiều yếu tố quyết định như: chế độ luân canh cây trồng, hiệu quả kháng cỏ của
thuốc, mức độ đa dạng về loài của môi trường nhận.
Thuốc diệt cỏ khác nhau thì khác biệt về hiệu quả trong việc khống chế một số loại cỏ nhất
định khác nhau. Điều này d n đến hiện tượng thay cỏ và chuyển sang các loại cỏ có thể
kháng lại thuốc glyphosate. Tuy nhiên nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường từ việc thay cỏ
do dùng glyphosate cũng tương tự các nguy cơ đến từ việc sử dụng các loại thuốc trừ cỏ
khác trên các giống ngô thông thường. Khi đưa GA21 chống chịu glyphosate vào canh tác
diện rộng trên đồng ruộng, cần có các giải pháp quản lý thích hợp để giảm thiểu ảnh hưởng
bất lợi tới môi trường.
Tóm lại, ngoài tác dụng kháng thuốc cỏ Glyphosate thì ngô GA21 sẽ được canh tác thông
thường như ngô không chuyển gen do vậy ngô GA21 không có ảnh hưởng bất lợi nào đến
trồng trọt, quản lý và kỹ thuật thu hoạch so với ngô thường. Ngược lại, sử dụng ngô
chuyển gen GA21 chống chịu thuốc trừ cỏ sẽ cho phép áp dụng kỹ thuật canh tác làm đất
tối thiểu và do vậy góp phần quan trọng trong việc giảm xói m n đất, đồng thời tiết kiệm
thời gian và chi phí lao động cho người nông dân.
5.1.3. Kết luận từ khảo nghiệm hạn chế
Như vậy, kết quả phân tích qua 2 vụ khảo nghiệm hạn chế liên tiếp Bà rịa Vũng Tàu
(2010) cho thấy:
- Ngô GA21 không có khả năng trở thành cỏ dại và phát tán vào môi trường qua hình
thức tự tồn tại và phát triển thành 1 loài cỏ dại hay phát tán gen qua một loài hoang
dại thông qua sinh sản. Ngô chuyển gen cũng không phát triển các đặc điểm nông
sinh học mới so với ngô không chuyển gen. Do đó ngô GA21 không có nguy cơ tác
động đến hệ sinh thái qua việc trở thành cỏ dại hay một loài mới.
- Ngô GA21 không có tác động đến các thành phần sâu hại và thiên địch, cũng như
nhóm côn trùng ký sinh và thụ phấn. Số lượng cá thể và diễn biến của một số loài
sâu hại và thiên địch quan trọng trên ruộng ngô chuyển gen và không chuyển gen là
tương tự nhau, vì thế ngô GA21 không thể gây ra sự thay đổi bất lợi tới quần thể
động vật chân khớp trên ruộng ngô.
- Ngô GA21 không tác động đến thành phần, số lượng loài, tính đa dạng, ổn định của
nhóm côn trùng đất, bọ đuôi bật Collembola so với ngô không chuyển gen. Nhóm
bọ đuôi bật Collembola là nhóm sinh vật được coi là chỉ thị để đánh giá sinh thái
môi trường đất do sự m n cảm của nhóm sinh vật này với sự thay đổi của môi
trường. Do đó có thể nói ngô GA21 không thể làm thay đổi bất lợi đến hệ sinh thái
đất trồng ngô.
101
- Các kết quả điều tra bệnh hại cho thấy thành phần bệnh trên ngô GA21 không có
sai khác lớn so với ngô không chuyển gen. Tính m n cảm với các loại bệnh chính
trên ngô GA21 và giống nền NK66 là tương tự nhau.
- Ngô GA21 chống chịu thuốc trừ cỏ gốc glyphosate rất tốt. Hiệu lực quản lý cỏ dại
cao. Sử dụng ngô GA21 đem lại lợi ích cho môi trường qua việc giảm thiểu xói
mòn, ô nhiễm đất. Bên canh đó c n tiết kiệm chi phí chăm sóc và công lao động,
đem lại lợi ích kinh tế cho người trồng trọt
Kết quả từ khảo nghiệm hạn chế cùng với các nghiên cứu từ nhiều Quốc gia trên ngô
chuyển gen GA21 đã bước đầu trả lời được 4 câu hỏi đánh giá rủi ro nêu trong điều 15
NĐ69/2010, 2 đơn vị thực hiện khảo nghiệm là Viện BVTV và Trung tâm KKN Giống,
SPCT Nam Bộ tiếp tục thực hiện khảo nghiệm diện rộng ngô mang sự kiện GA21 của công
ty Syngenta tại 4 vùng trọng điểm ngô để đánh giá tính an toàn với môi trường, đa dạng
sinh học của sinh vật không chủ đích trên ruộng ngô. Đánh giá sự sinh trưởng, phát triển và
tương tác của cây ngô GA21 với các điều kiện ngoại cảnh khác nhau. Khảo nghiệm diện
rộng cũng nhằm thêm mục đích so sánh năng suất và hiệu quả kinh tế của ngô GA21 so với
ngô không chuyển gen cùng dòng NK66 (giống nền) khi canh tác diện rộng trong điều kiện
sản xuất tại Việt Nam. Kết quả khảo nghiệm diện rộng được tổng hợp và trình bày trong
phần dưới đây:
5.2. KHẢO NGHIỆM DIỆN RỘNG
Dựa trên báo cáo chi tiết của các đơn vị trực tiếp thực hiện khảo nghiệm, chúng tôi đã tổng
hợp số liệu và tiến hành so sánh, đánh giá những chỉ tiêu cơ bản nhất trong nội dung khảo
nghiệm. Qua đó đưa ra những kết luận về ảnh hưởng của ngô chuyển gen GA21 kháng
thuốc diệt cỏ glyphosate đến đa dạng sinh học và môi trường sinh thái, đồng thời xác định
hiệu quả kinh tế cũng như tiềm năng năng suất của giống ngô này tại Việt Nam. Trong
khảo nghiệm diện rộng lần này, 4 công thức thí nghiệm đã được xây dựng, sử dụng các
biện pháp trừ cỏ khác nhau (làm cỏ tay hoặc phun thuốc glyphosate) nhằm đánh giá tác
động của ngô GA21 tới đa dạng sinh học và môi trường sinh thái đồng thời so sánh tính
kháng thuốc diệt cỏ glyphosate của ngô GA21 và giống nền của nó là NK66 .
5.2.1. Kết quả so sánh đặc tính nông sinh học/nguy cơ trở thành dịch hại, cỏ dại của
ngô GA21 kháng thuốc trừ cỏ glyphosate
Việc đánh giá nguy cơ trở thành dịch hại, cỏ dại đối với ngô GA21 đã đươc thực hiện trong
khảo nghiệm hạn chế năm 2010. Trong khảo nghiệm diện rộng năm 2011, chúng tôi tiếp
tục khảo sát lại các đặc tính nông sinh học của giống ngô GA21 và so sánh với giống nền
của nó là NK66, nhằm xác định có hay không ảnh hưởng của các điều kiện sinh thái khác
nhau đến sự sinh trưởng, phát triển và kiểu hình của ngô GA21. Qua đó đánh giá nguy cơ
trở thành cỏ dại, dịch hại của giống ngô GA21 này. Hai công thức thức GA 21 và NK66
không phun thuốc, chăm sóc và làm cỏ bằng tay đã được lựa chọn để so sánh và đánh giá
102
các chỉ tiêu này. Kết quả tổng hợp các đặc tính nông học tại 4 địa điểm khảo nghiệm được
trình bày trong Bảng 19 và 20.
Kết quả ghi trong Bảng 19 cho thấy: tại một địa điểm khảo nghiệm, ngô GA21 và giống nền
NK66 có thời gian mọc, trỗ cờ, phun râu và thu hoạch tương tự nhau. Tỷ lệ nẩy mầm cao
(trên 90%) và không có sự khác biệt lớn giữa ngô GA21 và giống nền NK66. Tại các địa
điểm khảo nghiệm miền Bắc, thời gian từ gieo đến mọc mầm 50% của cả 2 loại giống đều
khá dài (9 ngày ở Hưng Yên và 10 ngày ở Sơn La), đó là do điều kiện thời tiết khô hạn ở
giai đoạn đầu vụ. Tuy nhiên, ở các địa điểm khảo nghiệm phía Nam, do mưa nhiều, độ ẩm
cao, thời gian mọc mầm của cả 2 giống ngô được rút ngắn xuống còn 4-5 ngày. Không
quan sát thấy sự khác biệt về thời gian mọc mầm của cả 2 giống ngô. Ở cả hai công thức,
hạt ngô đều mọc mầm sớm và không thể hiện đặc tính ngủ nghỉ.
Bảng 19. Một số đặc tính nông học của các giống ngô GA21 và NK66 trong khảo
nghiệm diện rộng tại Hưng Yên, Sơn La, BRVT và Đăk Lăk
TT Chỉ tiêu theo dõi Hưng Yên Sơn La BRVT Đăk Lăk
GA21 NK66 GA21 NK66 GA21 NK66 GA21 NK66
1 Tỷ lệ nảy mầm (%) 90 95 95 95 93 97 92 97
2 Thời gian gieo-mọc
(ngày)
9 9 10 10 4 4 5 5
3 Thời gian gieo-trỗ
cờ (ngày)
66 66 59 59 50 50 51 51
4 Thời gian gieo-
phun râu (ngày)
69 69 62 62 52 52 53 53
5 Thời gian sinh
trưởng (ngày)
112 112 105 105 96 96 102 102
Nguồn: Viện BVTV; TT KKN Giống, Sản phẩm cây trồng Nam Bộ, 2011.
Đặc điểm hình thái của các giống ngô là yếu tố liên quan đến di truyền, chế độ kỹ thuật canh
tác và các yếu tố ngoại cảnh. Kết quả khảo nghiệm cho thấy các chỉ tiêu chiều cao cây, chiều
cao đóng bắp của 2 loại giống GA21 và NK66 tại cùng một địa điểm khảo nghiệm không sai
khác nhau nhiều, còn màu sắc hạt và dạng hạt của 2 loại giống ngô này hoàn toàn giống nhau
ở tất cả các địa điểm khảo nghiệm (Bảng 20). Như vậy, kết quả khảo nghiệm diện rộng một
lần nữa tái khẳng định kết quả thu được trong khảo nghiệm diện hẹp. Ngô GA21 có đặc điểm
nông sinh học tương tự giống nền. Cả hai giống GA21 và NK66 đều thể hiện tính đồng nhất
và ổn định cao về các chỉ tiêu nông sinh học qua các điểm khảo nghiệm. Như vậy, sự kiện
chuyển gen GA21 hoàn toàn không làm phát sinh một giống ngô mới. Ngô chuyển gen GA21
có đặc điểm nông sinh học giống với ngô lai NK66, là một giống cây trồng có tính thuần hóa
cao, phù hợp điều kiện thâm canh trong sản xuất và không thể tồn tại trong tự nhiên nếu
không có sự can thiệp của con người.
Từ các đánh giá về đặc điểm nông sinh học của ngô GA21, xem xét các yếu tố phân loại và
mức độ gần gũi giữa cây ngô với các loài thực vật trong cùng chi (genera), tông (tribe),
103
lịch sử hình thành và phát triển cây ngô tại Việt Nam, kết quả khảo nghiệm diện rộng tại 4
vùng sinh thái một lần nữa khẳng định ngô GA21 không có nguy cơ trở thành cỏ dại hay
dịch hại và sự kiện chuyển gen GA21 cũng không thể tự phát tán ra môi trường tự nhiên.
104
Bảng 20. Một số đặc điểm hình thái của các giống ngô GA21 và NK66 trong khảo nghiệm diện rộng tại Hưng Yên, Sơn La, BRVT và
Đăk Lăk
TT Chỉ tiêu theo dõi Hưng Yên Sơn La BRVT Đăk Lăk
GA21 NK66 GA21 NK66 GA21 NK66 GA21 NK66
1 Chiều cao cây (cm) 190,5 ± 1,72 195,2± 1,07 223,9 ± 2,12 225,5± 2,57 198,6 ± 3,0 201,8 ± 1,4 225,1 ± 2,7 224,4 ± 3,7
2 Chiều cao đóng bắp
(cm)
84,8 ± 0,93 96,8 ± 1,31 125,8 ± 3,05 129,1 ± 2,28 104,8 ± 1,3 109,5 ± 1,7 127,8 ± 2,5 129,0 ± 2,2
3 Màu sắc hạt Vàng nhạt Vàng nhạt Vàng nhạt Vàng nhạt Vàng nhạt Vàng nhạt Vàng nhạt Vàng nhạt
4 Dạng hạt BRN** BRN BRN BRN BRN BRN BRN BRN
** BRN: Bán ăng ngựa
Nguồn: Viện BVTV; TT KKN Giống, Sản phẩm cây trồng Nam Bộ, 2011.
105
5.2.2. Kết quả đánh giá nguy cơ ảnh hưởng đến sinh vật không chủ đích của ngô GA21
Trong khảo nghiệm diện rộng năm 2011, các tác động của ngô GA21 đến đối tượng sinh vật
không chủ đích bao gồm nhóm chân khớp trên ruộng ngô (sâu hại, thiên địch, ký sinh và thụ
phấn), nhóm chân khớp phân huỷ xenluloza trong đất (bọ đuôi bật Collembola) và nhóm bệnh
hại tiếp tục được đánh giá tại 4 địa điểm khảo nghiệm khác nhau nhằm xác định có hay không
ảnh hưởng của ngô GA21 đến quần thể sinh vật không chủ đích dưới các điều kiện địa lý và
sinh thái khác nhau. Công thức GA21 và NK66 làm cỏ bằng tay tiếp tục được lựa chọn để so
sánh và đánh giá các ảnh hưởng đến đa dạng sinh học quần thể sinh vật không chủ đích trên
ruộng ngô. Kết quả được trình bày dưới đây:
5.2.2.1. Ảnh hưởng của ngô GA21 đến thành phần động vật chân khớp trên không
a) Ản ưởng đến thành phần loài
Kết quả khảo nghiệm diện rộng năm 2011 cho thấy, thành phần động vật chân khớp trên ruộng
ngô khảo nghiệm khá phong phú về chủng loại. Tại Hưng Yên và Sơn La, đã ghi nhận được
tổng số 57 loài trong đó có 31 loài sâu hại, 25 loài thiên địch và 1 loài thụ phấn (Bảng 21).
Thành phần và mật độ của các loài trên ngô chuyển gen GA21 và giống nền NK66 là hầu như
không khác biệt. Nhóm nghiên cứu nhận thấy, loài châu chấu sống lưng vàng xuất hiện trên
công thức NK66 nhưng không quan sát thấy ở công thức ngô GA21. Tuy nhiên, do tần suất bắt
gặp của loài này là rất ít nên không thể kết luận về sự khác biệt giữa hai công thức (Báo cáo
khảo nghiệm diện rộng ngô GA21, Viện BVTV, 2011). Tại các địa điểm khảo nghiệm phía Nam
(BRVT và Đăk Lăk) thành phần động vật chân khớp ghi nhận được gồm 51 loài, trong đó có
20 loài gây hại, 30 loài thiên địch và 1 loài thụ phấn (Bảng 20a). Thành phần các loài là hoàn
toàn tương tự nhau giữa hai công thức ngô GA21 và NK66. Chi tiết về tần suất xuất hiện và
thành phần loài được trình bày trong Báo cáo khảo nghiệm diện rộng ngô GA21, Viện BVTV và
TT KKN Giống và SPCT Nam Bộ, 2011. Thành phần các loài động vật chân khớp phân theo
nhóm đối tượng được trình bày trong Bảng 21b. Kết quả điều tra cũng cho thấy, không xuất
hiện loài dịch hại mới nào trên tất cả các giống ngô đã khảo nghiệm. Các loài ghi nhận được
đều là những loài đã xuất hiện ở Việt Nam từ trước tới nay. Đồng thời, cũng không thấy có sự
bùng phát gây hại bất thường nào của các loài dịch hại trên ruộng ngô GA21và trên công thức
giống nền NK66.
Như vậy, thành phần và mức độ hiện diện của các loài động vật chân khớp trên ngô GA21 và
ngô NK66 là tương tự nhau. Kết quả này là đồng nhất tại các vùng sinh thái khác nhau và cũng
đồng nhất với các số liệu thu được từ khảo nghiệm diện hẹp. Tương tự với kết luận của Cơ
quan An toàn thực phẩm châu Âu (EFSA Journal 2011; 9(12):2480), kết quả khảo nghiệm diện
rộng tại 4 vùng sinh thái một lần nữa khẳng định: không quan sát thấy bất kỳ ảnh hưởng bất
lợi nào từ ngô GA21 và protein cải tiến mEPSPS biểu hiện trên ngô GA21 tới sự đa dạng và
cấu trúc quần thể côn trùng không chủ đích trên ruộng ngô.
106
Bảng 21a. Thành phần loài côn trùng và nhện trong khảo nghiệm ngô chuyển gen GA21
theo hệ thống phân loại
TT Bộ/Order Hưng Yên - Sơn La BRVT - Đăk Lăk
(Côn trùng và nhện) GA21 NK66 GA21 NK66
1 Lepidoptera (cánh vảy) 9 9 5 5
2 Orthoptera (cánh thẳng) 5 6 5 5
3 Homoptera (cánh đều) 6 6 6 6
4 Hemiptera (cánh nửa) 3 3 7 7
5 Thysanoptera (cánh tơ) 1 1 1 1
6 Coleoptera (cánh cứng) 17 17 10 10
7 Acarina (nhện nhỏ) 2 2 - -
8 Dermaptera (cánh da) 1 1 1 1
9 Araneae (nhện lớn) 5 5 9 9
10 Neuroptera (cánh mạch) 1 1 1 1
11 Diptera (hai cánh) 1 1 1 1
12 Hymenoptera (cánh màng) 5 5 5 5
Tổng số 56 57 51 51
Bảng 21b. Số lượng các loài côn trùng và nhện trong khảo nghiệm ngô chuyển gen
NK66GA21 theo nhóm đối tượng
TT Nhóm đối tượng Hưng Yên-Sơn La BRVT - Đăk Lăk
GA21 NK66 GA21 NK66
1 Nhóm miêng nhai (sâu
đục thân, cắn lá…)
19 20 11 11
2 Nhóm chích hút, giũa
hút (rầy, rệp, bọ trĩ…)
11 11 9 9
3 Nhóm bắt mồi ăn thịt
(nhện, bọ rùa…)
21 21 26 26
4 Nhóm ký sinh
(ong ký sinh)
4 4 4 4
5 Nhóm thụ phấn
(ong mật)
1 1 1 1
Tổng số 56 57 51 51
Nguồn: Viện BVTV; TT KKN Giống, Sản phẩm cây trồng Nam Bộ, 2011.
b) Ản ưởng đến sâu hại không chủ đ n : ệp muội ngô
Việc đánh giá tác động của ngô chuyển gen tới mức độ gây hại của sâu hại ngô không chủ đích
được thực hiện với loài chích hút là rệp muội ngô Rhopalosiphum maidis (Fitch). Ở Việt Nam,
đã ghi nhận có 5 loài rệp muội hại ngô, nhưng loài Rh. maidis luôn luôn phát sinh với số lượng
lớn, mật độ dày đặc ở mọi thời vụ ngô, đặc biệt trên ngô đông (N. Đ. Khiêm, 1995; N. T. K.
Oanh, 1996; Q. T. Ngọ, 2000). Trong thí nghiệm khảo nghiệm ngô chuyển gen NK66GA21
107
diện rộng, loài Rh. maidis là đối tượng gây hại chính cho tất cả các giống ngô khảo nghiệm. Do
đó, nhóm nghiên cứu đã chọn đối tượng này để so sánh có hay không sự tác động của ngô
GA21 đến quần thể rệp muội nói riêng và đến sâu hại không chủ đích nói chung.
Kết quả điều tra cho thấy rệp muội ngô xuất hiện và gây hại đồng đều cho tất cả các giống ngô
khảo nghiệm ở thí nghiệm GA21 tại Hưng Yên và Sơn La. Chúng có diễn biến về chỉ số gây
hại tương tự nhau trên các công thức dùng giống ngô chuyển gen và các công thức dùng giống
ngô không chuyển gen (Hình 5A, B). Kết quả tính toán cũng cho thấy chỉ số gây hại của
chúng không sai khác nhau ở mức có ý nghĩa giữa các công thức ngô chuyển gen GA21 và các
công thức giống nền NK66 ở từng kỳ điều tra tại mỗi địa điểm khảo nghiệm (Báo cáo khảo
nghiệm diện rộng ngô GA21, Viện BVTV, TT KKN Giống, SPCT Nam Bộ, 2011).
Tại Đăk Lăk, lúc ngô hoàn tất trổ cờ, gặp thời tiết mưa lớn trong nhiều ngày, rệp bị chết nhiều,
không ghi nhận có rệp hại ở các điểm điều tra (Hình 5D). Về sau vào giai đoạn ngô chín sáp và
thu hoạch, chỉ số rệp hại và tỷ lệ hại có chiều hướng tăng lên, gây hại chủ yếu ở lá bắp. So sánh
giữa công thức ngô GA21 và giống nền NK66 vào thời điểm cây trước trổ cờ, chỉ số rệp hại ở
công thức không chuyển gen NK66 cao hơn, ngược lại, vào thời điểm chín sáp, các trị số này ở
công thức ngô chuyển gen (GA21) cao hơn (Hình 5D). Nhìn chung, so sánh chênh lệch chỉ số
hại giữa công thức giống ngô chuyển gen (GA21) và không chuyển gen (NK66) cho thấy: có
thời điểm mức độ hại ở công thức chuyển gen cao hơn công thức không chuyển gen, có thời
điểm thì ngược lại, nhưng sự sai khác này không ở mức có ý nghĩa (Báo cáo KN diện rộng ngô
GA21, Viện BVTV, TT KKN Giống, SPCT Nam Bộ, 2011). Từ kết quả này cho thấy giống ngô
GA21 không làm ảnh hưởng đến sự xuất hiện và sự gây hại của rệp muội ngô. Protein
mEPSPS biểu hiện trên ngô GA21 không có ảnh hưởng gì đáng kể tới thành phần và mức độ
gây hại của loại sâu hại phổ biến này.
108
Hình 5. Diễn biến chỉ số gây hại của Rệp ngô trong thí nghiệm ngô chuyển gen GA21 tại
Hưng Yên (A) và Sơn La (B)
Nguồn: Viện BVTV, 2011.
0
10
20
30
40
50
60
(71 NSG) (79 NSG) (86 NSG) (93 NSG) (100 NSG)
Chỉ số g y hại của rệp ngô (%
)
Ngày điều tra
A Hưng Yên
GA21
NK66
0
5
10
15
20
25
30
(14 NSG) (29 NSG) (43 NSG) (74 NSG) (87 NSG)
Chỉ số g y hại của rệp ngô (%)
Ngày điều tra
B Sơn La
GA21
NK66
109
Hình 5. Diễn biến chỉ số gây hại của Rệp ngô trong thí nghiệm ngô GA21 tại BRVT (C)
và Đăk Lăk (D)
Nguồn: TT KKN Giống, sản phẩm cây trồng và phân bón, 2011.
0
5
10
15
20
25
trước trỗ cờ phun râu chín sáp trước thu hoạch
Chỉ số g y hại của rệp ngô (%
)
Ngày điều tra
C BRVT
GA21
NK66
0
5
10
15
20
25
30
trước trỗ cờ phun râu chín sáp trước thu hoạch
Chỉ số g y hại của rệp ngô (%)
Ngày điều tra
D Đăk Lăk
GA21
NK66
110
) Ản ưởng đến một số ài t iên đ t ên ngô
Cũng với mục đích xác định có hay không ảnh hưởng của ngô GA21 tới các loài động vật
chân khớp có ích trên ruộng ngô trên phạm vi diện rộng, nhóm nghiên cứu đã tiến hành điều
tra diễn biến mật độ của một số loài thiên địch trên ruộng ngô. Dưới đây là kết quả theo dõi
mật độ của hai loài thiên địch phổ biến và và có tần suất xuất hiện nhiều nhất trong suốt quá
trình sinh trưởng của cây ngô: nhóm bọ rùa bắt mồi ăn thịt (BMAT) và nhóm nhện lớn
BMAT tổng số. Kết quả được trình bày trong Hình 6 và 7.
Diễn biến mật độ bọ rùa bắt mồi ăn thịt trên ngô khảo nghiệm
Trong nhóm bọ rùa BMAT, các loài bọ rùa đỏ Micrapis discolor, bọ rùa 6 chấm Menochilus
sexmaculatus. bọ rùa chữ nhân Coccinella transversalis, bọ rùa 8 chấm Harmonia
octomaculata, Bọ rùa Harmonia axyridis (Pallas), Bọ rùa Oenopia sauzeti Muls là những thiên
địch của sâu đục thân ngô (Reyes et al., 2004; Alcantara, 2004) và rệp muội ngô (P. V. Lầm,
2005). Kết quả quan sát trên đồng ruộng khảo nghiệm ngô chuyển gen tại Hưng Yên và Sơn
La trong vụ Xuân - Hè 2011 cho thấy các loài bọ rùa này hiện diện trên cả ngô chuyển gen
GA21và ngô không chuyển gen NK66 (Hình 6A, B) với diễn biến tương tự nhau. Mật độ bọ
rùa BMAT tổng số trên cả hai công thức ngô GA21 và NK66 là không sai khác nhau ở tất cả
các kỳ điều tra, trên toàn bộ các địa điểm khảo nghiệm.
Kết quả điều tra tại BRVT và Đăk Lăk cũng cho thấy, diễn biễn xuất hiện và mật độ bọ rùa
tổng số là tương tự nhau trên cả ngô GA21 và giống nền NK66 (Hình 6C, D). Tại các thời
điểm điều tra trong suốt quá trình sinh trưởng của cây ngô, diễn biến mật độ bọ rùa BMAT trên
ngô GA21 và NK66 là không sai khác có ý nghĩa thống kê (Báo cáo khảo nghiệm diện rộng
ngô GA21, VIện BVTV, TT KKN Giống, SPCT Nam Bộ, 2011). Như vậy, kết quả khảo nghiệm
diện rộng thu được hoàn toàn đồng nhất với các kết quả đã điều tra được trong khảo nghiệm
hạn chế. Ngô chuyển gen GA21 không có tác động gì đáng kể đến mật độ và qui luật phát triển
của nhóm thiên địch này.
111
0
5
10
15
20
25
30
(31 NSG) (44 NSG) (63 NSG) (79 NSG) (100 NSG)
Mật độ bọ rùa BMAT tổng số
(co
n/2
0 c
ây
)
Ngày điều tra
A Hưng Yên
GA21
NK66
0
5
10
15
20
25
30
(16 NSG) (31 NSG) (45 NSG) (76 NSG) (89 NSG)
Mật độ bọ rùa BMAT tổng số
(co
n/2
0 c
ây
)
Ngày điều tra
B Sơn La
GA21
NK66
0
2
4
6
8
10
12
sinh trưởng
thân lá
trước trỗ cờ phun râu chín sáp trước thu
hoạch
Mật độ bọ rùa BMAT tổng số
(co
n/2
0 c
ây
)
Ngày điều tra
C BRVT
GA21
NK66
112
Hình 6. Diễn biến mật độ bọ rùa BMAT trong thí nghiệm ngô chuyển gen GA21 tại Hưng
Yên (A), Sơn La (B), BRVT (C), Đăk Lăk (D)
Nguồn: Viện BVTV, TT KKN Giống, SPCT Nam Bộ, 2011.
Diễn biến mật độ nhện lớn bắt mồi ăn thịt (BMAT) trên ngô khảo nghiệm
Nhện lớn BMAT là nhóm thiên địch quan trọng của nhiều loại sâu hại ngô trong đó có sâu đục
thân ngô. Các loài nhện lớn BMAT thường gặp trên ngô là nhện sói Lycosidae sp., nhện linh
miêu Oxiopes sp., nhện lưới Araneus sp. và nhện lùn Atypena sp. Kết quả điều tra đánh giá tại
Hưng Yên và Sơn La cho thấy nhóm nhện lớn BMAT xuất hiện thường xuyên với diễn biến
mật độ tương tự nhau trên cả ngô chuyển gen và không chuyển gen (Hình 7A, B).
Tại BRVT và Đăk Lăk, kết quả điều tra cho thấy mật độ nhện lớn bắt mồi điều tra được trên
các công thức GA21 và NK66 cũng không sai khác nhau nhiều (Hình 7C, D). Kết quả phân
tích thống kê cho thấy, mật độ của nhóm thiên địch này trong các kỳ điều tra là không sai khác
có ý nghĩa (Báo cáo khảo nghiệm diện rộng ngô GA21, Viện BVTV và TT KKN Giống, SPCT
Nam Bộ, 2011). Diễn biến mật độ nhện lớn BMAT có khác nhau tại các địa điểm khảo nghiệm
nhưng hoàn toàn tương tự nhau giữa hai công thức GA21 và NK66. Như vậy, đối với cả hai
nhóm đối tượng thiên địch phổ biến trên ngô là bọ rùa BMAT và nhện lớn bắt mồi, sự kiện
chuyển gen GA21 đều không biểu hiện bất kỳ ảnh hưởng nào. Ngoài ra, diễn biến mật độ của
một số loài thiên địch có tần số xuất hiện ít hơn trên ngô như cánh cứng cánh ngắn (Hình 8), bọ
xít mù xanh cũng không cho thấy sự khác biệt đáng kể nào giữa hai giống ngô thí nghiệm (Báo
cáo khảo nghiệm diện rộng ngô GA21, Viện BVTV, TT KKN Giống, SPCT Nam Bộ, 2011).
Điều này tái khẳng định kết luận từ khảo nghiệm diện hẹp và các nghiên cứu trước đó trên thế
giới. Ngô chuyển gen GA21 không có tác động bất lợi nào tới sự hiện diện và mật độ của các
loài thiên địch chủ yếu nói riêng và quẩn thể động vật chân khớp không chủ đích trên ruộng
ngô nói chung.
0
5
10
15
20
25
sinh trưởng
thân lá
trước trỗ cờ phun râu chín sáp trước thu
hoạch
Mật độ bọ rùa BMAT tổng số
(co
n/2
0 c
ây
)
Ngày điều tra
D Đăk Lăk
GA21
NK66
113
Hình 7. Diễn biến mật độ nhện lớn BMAT trong thí nghiệm ngô GA21 tại Hưng Yên (A),
Sơn La (B)
Nguồn: Viện BVTV, 2011.
0
2
4
6
8
10
12
14
16
(31 NSG) (44 NSG) (63 NSG) ( 79 NSG) (100 NSG)
Mật độ nhện
lớn BMAT tổng số
(co
n/2
0 c
ây
)
Ngày điều tra
A Hưng Yên
GA21
NK66
0
2
4
6
8
10
12
14
(16 NSG) (31 NSG) (45 NSG) (76 NSG) (89 NSG)
Mật độ nhện lớn BMAT tổng số
(co
n/2
0 c
ây
)
Ngày điều tra
B Sơn La
GA21
NK66
0
5
10
15
20
25
30
35
Ngày 5/7 Ngày 19/7 Ngày 2/8 Ngày 16/8 Ngày 30/8
Sinh trưởng thân lá Trước trổ cờ Phun râu Chín sáp Trước thu hoạch
Thời điểm điều tra
Mậ
t đ
ộ n
hệ
n lớ
n B
MA
T t
ổn
g s
ố (
co
n/2
0 c
ây
)
NK66GA21, phun Glyphosate
NK66, phun thuốc cỏ định hướng
NK66, làm cỏ bằng tay
NK66GA21, làm cỏ bằng tay
114
Hình 7. Diễn biến mật độ nhện lớn BMAT trong thí nghiệm ngô GA21 tại BRVT (C) và
Đăk Lăk (D)
Nguồn: TT KKN Giống, SPCT Nam Bộ, 2011.
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
sinh trưởng
thân lá
trước trỗ cờ phun râu chín sáp trước thu
hoạch
Mật độ nhện
lớn BMAT tổng số
(co
n/2
0 c
ây
)
Ngày điều tra
C BRVT
GA21
NK66
0
5
10
15
20
25
30
35
sinh trưởng
thân lá
trước trỗ cờ phun râu chín sáp trước thu
hoạch
Mật độ nhện lớn BMAT tổng số
(co
n/2
0 c
ây
)
Ngày điều tra
D Đăk Lăk
GA21
NK66
115
Hình 8. Diễn biến mật độ nhện lớn BMAT trong thí nghiệm ngô GA21 tại Hưng Yên (A),
Sơn La (B)
Nguồn: Viện BVTV, 2011.
0
2
4
6
8
10
12
(31 NSG) (44 NSG) (63 NSG) ( 79 NSG) (100 NSG)
Mật độ CCCN tổng số
(co
n/2
0 c
ây
)
Ngày điều tra
A Hưng Yên
GA21
NK66
0
1
2
3
4
5
6
7
8
(16 NSG) (31 NSG) (45 NSG) (76 NSG) (89 NSG)
Mật độ CCCN tổng số
(co
n/2
0 c
ây
)
Ngày điều tra
B Sơn La
GA21
NK66
116
Hình 8. Diễn biến mật độ nhện lớn BMAT trong thí nghiệm ngô GA21 tại Hưng BRVT
(C) và Đăk Lăk (D)
Nguồn: TT KKN Giống, SPCT Nam Bộ, 2011.
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
sinh trưởng
thân lá
trước trỗ cờ phun râu chín sáp trước thu
hoạch
Mật độ CCCN tổng số
(co
n/2
0 c
ây
)
Ngày điều tra
C BRVT
GA21
NK66
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
sinh trưởng
thân lá
trước trỗ cờ phun râu chín sáp trước thu
hoạch
Mật độ CCCN tổng số
(co
n/2
0 c
ây
)
Ngày điều tra
D Đăk Lăk
GA21
NK66
117
5.2.2.2. Ảnh hưởng đến quần thể bọ đuôi bật Collembola trong đất trồng ngô
Như đã đề cập trong phần kết quả khảo nghiệm diện hẹp, nhóm côn trùng bọ đuôi bật
Collembola được chú ý đến như một nhóm sinh vật chỉ thị vì có vai trò quan trọng trong các
chu trình dinh dưỡng, phân hủy và mạng lưới thức ăn trên cạn (Frampton, 1997). Do
Collembola nhạy cảm với thay đổi của môi trường, nhất là sự thay đổi của lớp thảm thực vật;
đồng thời, thành phần loài lại phong phú, số lượng lớn và thu bắt dễ dàng, nên đây là đối tượng
được sử dụng để đánh giá mức độ thay đổi của môi trường nơi chúng cư trú (Penelope
Greenslade, 1997; Nico van Straalen, 2002). Những d n liệu về thành phần loài, mật độ quần
thể, mức độ phong phú của quần thể, sự biến động số lượng, các nhóm hình thái… phản ánh
khá đầy đủ về đặc điểm sinh thái của môi trường. Trong khảo nghiệm diện rộng tại 4 vùng sinh
thái khác nhau, nhóm nghiên cứu đã tiến hành thu thập các m u đất trong ruộng thí nghiệm
trồng ngô GA21 và ngô không chuyển gen, giống nền NK66 được thu thập vào 3 giai đoạn
sinh trưởng chính của cây (giai đoạn cây con-sinh trưởng sinh dưỡng, giai đoạn trỗ cờ-chín sữa
và giai đoạn trước khi thu hoạch) để tách lọc và phân tích quần thể nhóm bọ đuôi bật
Collembola. Qua đó đánh giá có hay không ảnh hưởng của ngô GA21 đến nhóm động vật chân
khớp trong đất này. Kết quả thu thập được trình bày trong Bảng 22.
Bảng 22. So sánh một số chỉ số định lượng của Collembola trên đất trồng ngô GA21 và
NK66 trong khảo nghiệm diện rộng, 2011
TT Chỉ tiêu Hưng Yên Sơn La BRVT Đăk Lăk
theo dõi GA21 NK66 GA21 NK66 GA21 NK66 GA21 NK66
1 Số loài 23 18 24 17 30 31 26 30
2 Mật độ
(con/m2)
15.813a 10.533
a 3.067
a 3.627
a 3,333
a 3,013
a 3,360
a 2,800
a
3 Chỉ số đa
dạng H’
2,17a 2,16
a 2,60
bc 2,27
ac 3,14
a 3,19
a 2,52
a 3,12
a
4 Chỉ số
đồng đều J’
0,69 0,75 0,82 0,80 0,92 0,93 0,77 0,92
Chú thích: tại một đ a điểm khảo nghiệm, các số liệu theo sau bởi chữ cái giống nhau không sai
khác nhau ở mức P=0,05
Nguồn: Viện BVTV; TT KKN Giống, Sản phẩm cây trồng Nam Bộ, 2011.
Tính chung sau 3 đợt thu m u định lượng Collembola, số lượng loài Collembola ở các nền đất
trồng ngô dao động từ 18- 23 loài (Hưng Yên), 17-24 loài (Sơn La), 30-31 loài (BRVT) và 26-
30 loài (Đăk Lăk) (Bảng 22). Số lượng loài thu được khác nhau tuỳ theo địa điểm khảo
nghiệm. Có lúc cao hơn ở công thức GA21, có lúc lại cao hơn ở công thức NK66. Sự khác biệt
về số lượng loài còn thể hiện ngay ở một công thức thí nghiệm (với các đợt thu m u khác
nhau) (Báo cáo khảo nghiệm diện rộng ngô GA21, Viện BVTV, TT KKN Giống, SPCT Nam Bộ,
2011). Điều này có nghĩa sự khác biệt về số lượng loài giữa các công thức trồng khảo nghiệm
diện rộng ngô chuyển gen GA21 không phụ thuộc vào giống cây trồng mà có thể phụ thuộc
118
vào các yếu tố ngoại sinh khác như thời tiết, đặc điểm cư trú hoặc đặc điểm dinh dưỡng, đặc
điểm di cư của bản thân động vật sống ở khu vực nghiên cứu.
So sánh số lượng cá thể cũng như mật độ trung bình quần thể Collembola theo từng cặp các
công thức thí nghiệm tại các địa điểm khảo nghiệm cho thấy: mật độ cá thể, chỉ số đa dạng H’
và chỉ số đồng đều J’ không có nhiều khác biệt (Bảng 22). Nhìn chung, số lượng loài, cá thể
Collembola và mật độ trung bình ở ngô chuyển gen GA21 v n nằm trong khoảng dao động về
loài, số lượng cá thể và mật độ trung bình của Collembola ở ngô đối chứng NK66 và không có
sự khác biệt lớn.
Như vậy, kết quả nghiên cứu về Collembola sau một vụ trồng khảo nghiệm diện rộng ngô
chuyển gen GA21 ở 4 địa điểm khảo nghiệm đã cho thấy ngô chuyển gen không ảnh hưởng
đến Collembola. Cụ thể là chưa thấy có sự sai khác có ý nghĩa về thành phần loài, phân bố, số
lượng loài và mức độ phong phú của Collembola giữa các giống ngô trồng khảo nghiệm (ngô
đối chứng NK66 và ngô chuyển gen GA21). Số lượng cá thể, mật độ trung bình (con/m2), giá
trị của các chỉ số đa dạng Shannon- Weiner (H’) và chỉ số đồng đều Pielou (J’) của ngô GA21
và giống nền NK66 hầu như không có sự khác biệt. Tập hợp Collembola ưu thế giữa lô đất
trồng ngô đối chứng và ngô chuyển gen có nhiều điểm chung và không có nhiều sự sai khác
(Bảng 23). Kết quả này một lần nữa tái khẳng định những kết quả thu được trong khảo nghiệm
hạn chế năm 2010. Ảnh hưởng của ngô GA21 đến quẩn thể côn trùng trong đất là không khác
biệt so với giống nền không chuyển gen NK66.
119
Bảng 23 Thành phần loài Collembola ưu thế trên đất trồng ngô GA211 và NK66
T Loài ưu thế Hưng Yên Sơn La BRVT Đăk Lăk
T (%) GA21 NK66 GA21 NK66 GA21 NK66 GA21 NK66
1 I. palustris 21,59 30,63 9,56
2 Deuterosminthuru
s sp.1 13,83 7,85
3 P. hortensis 16,36
4 O. saphianus 22,26
5 C. javanus
5,31
5,71
6 S. aquaticus
7 I. punctiferus 6,09
5,71
8 D.pallipes 9,11
7,08
9 E. muscorum
7,59
10 I. prasinus
6,84
11 E.lanuginosa
22.28
12 S.victorius
10.44 10,29
13 S. boneti
7,83 11,03
15 F.exiguus
8,69 8,09
16 C.thermophilus
33,09
18 Xenylla humicola
9,57
11,2 8,85
19 S.parvulus
6,09
20 B.parvula 5,31
21 S.pseudomonoculata 5,6 6,19 7,62
22 Sphaeridia zaheri 8,0 6,19 7,14
23 C.tuberculata 7,08
24 S.bothrium 10,4 6,19 23,02 7,62
25 Salina celebensis 6,19
26 P.tenella 5.6 7,94
27 Friesea mirabilis 8,73 11,43
28 C.thermophilus 22,22 10,48
29 Lepidosira sp.1 5,71
Nguồn: Viện BTVT, TT KKN Giống, SPCT Nam Bộ, 2011
5.2.2.3. Ảnh hưởng của ngô GA21 đến một số bệnh hại chính trên ngô
Tính m n cảm của ngô GA21 đối với một số bệnh hại chính trên ngô cũng được đánh giá và so
sánh với giống nền NK66 nhằm xác định có hay không ảnh hưởng của ngô GA21 tới nhóm vi
sinh vật gây bệnh trên ngô. Kết quả điều tra 4 nhóm bệnh hại chính trên ngô (khô vằn, gỉ sắt,
đốm lá nhỏ, đốm lá lớn) được tổng kết và trình bày trong Bảng 24a và 24b.
Kết quả điều tra cho thấy, bệnh khô vằn và gỉ sắt gây hại rất nặng trên ngô, đặc biệt tại thời
điểm trước thu hoạch. Tỷ lệ hại của 2 bệnh này dao động từ 60% -100% (Bảng 24a và 24b) tuỳ
120
theo địa điểm khảo nghiệm và gây hại nặng hơn ở các địa điểm phía Nam (BRVT và Đăk Lăk).
Tỷ lệ bệnh của hai bệnh này trên giống ngô chuyển gen GA21 và giống nền NK66 là không sai
khác nhau có ý nghĩa.
Tại Hưng Yên và Sơn La, hai bệnh đốm lá lớn và nhỏ cũng xuất hiện phổ biến trên các ruộng
ngô khảo nghiệm nhưng mức độ gây hại ít hơn. Tại thời điểm điều tra trước thu hoạch, bệnh
gây hại nặng hơn ở Sơn La. Tuy nhiên, tại cùng một địa điểm khảo nghiệm, tỷ lệ bệnh và chỉ
số bệnh đốm lá lớn, nhỏ trên hai giống ngô chuyển gen GA21 và không chuyển gen NK 66 sai
khác không đáng kể (Bảng 24a).
Theo kết quả điều tra phía Nam, bệnh đốm lá nhỏ gây hại tương đối nặng trên ngô khảo
nghiệm tại Bà Rịa Vũng Tàu (tỷ lệ tăng dần từ 50-100% theo thời gian điều tra, Bảng 24b) và
đồng đều trên cả hai giống chuyển gen và không chuyển gen. Trong khi đó, bệnh đốm lá lớn lại
được ghi nhận nhiều ở Đăk Lăk. Tại thời điểm trước thu hoạch tỷ lệ bệnh lên tới 100% ở tất cả
các công thức khảo nghiệm (Bảng 24b). Như vậy, về cơ bản, các nhóm bệnh hại chính đều
xuất hiện trên hai giống ngô với tỷ lệ, chỉ số và cấp số tương đương nhau. Không quan sát thấy
ảnh hưởng đáng kể nào của ngô chuyển gen GA21 tới mức độ gây hại của các nhóm bệnh này.
Như vậy, qua điều tra đánh giá những tác động của ngô GA21 tới môi trường và đa dạng sinh
học của quần thể sinh vật không chủ đích trên ruộng ngô trong điều kiện diện rộng tại 4 vùng
sinh thái khác nhau, nhóm nghiên cứu không tìm thấy bất cứ ảnh hưởng bất lợi nào của ngô
GA21 tới môi trường. Ngô GA21 thể hiện các đặc điểm sinh trưởng, phát triển, tính tương tác
với các điều kiện ngoại cảnh hoàn toàn tương tự với giống nền không chuyển gen NK66.
Ngoài đặc tính chống chịu thuốc trừ cỏ gốc glyphosate mong muốn, protein cải tiến mEPSPS
biểu hiện trên ngô GA21 hoàn toàn không gây những ảnh hưởng bất lợi tới nhóm sinh vật
không chủ đích trong hệ sinh thái ruộng trồng ngô. Căn cứ vào những nghiên cứu trên thế giới
về ngô GA21 trên các đối tượng không chủ đích khác như con người, động, thực vật, môi
trường đất cùng cơ chế hoạt động của protein mEPSPS và lịch sử sử dụng an toàn của loại ngô
này tại nhiều Quốc gia, có thể kết luận rằng, ngô GA21 an toàn cho việc canh tác và sử dụng
cũng như giống ngô cùng dòng, không chuyển gen NK66.
121
Bảng 24a. Mức độ gây hại của một số bệnh hại chính trong thí nghiệm ngô chuyển gen GA21 tại Hưng Yên và Sơn La
TT Bệnh Hưng Yên Sơn La
89NSG 119NSG 89NSG 119NSG
GA21 NK66 GA21 NK66 GA21 NK66 GA21 NK66
1 Khô vằn
Tỷ lệ bệnh (%) 48,3 ± 1,67 50,0 ± 2,89 78,3 ± 1,67 78,3 ± 1,67 70,0 ± 2,89 70,0 ± 2,89 98,3 ± 1,67 100
Chỉ số bệnh (%) 12,5 ± 0,72 13,2 ± 1,44 24,2 ± 1,10 25,0 ±0,72 19,2 ± 1,50 22,5± 0,72 33,8 ± 0,72 36,3 ± 0,72
2 Gỉ sắt
Tỷ lệ bệnh (%) 55,0 ± 0,72 57,5 ± 3,47 66,1 ± 1,74 61,7 ± 0,72 100 100 100 100
Chỉ số bệnh (%) 6,11 ± 0,08 6,39 ±0,39 7,34 ± 0,19 7,05 ± 0,05 12,1 ± 0,16 12,4 ± 0,43 17,2 ± 0,38 17,4 ± 0,44
3 Đốm lá nhỏ
Tỷ lệ bệnh (%) 7,60 ± 0,59 11,4 ± 0,66 10,6 ± 0,74 13,9 ± 1,56 22,0 ± 1,44 22,2 ± 3,08 35,6 ± 0,20 36,9 ± 1,93
Chỉ số bệnh (%) 0,84 ± 0,07 1,29 ± 0,05 1,18 ± 0,08 1,68 ± 0,23 2,44 ± 0,16 2,49 ± 0,35 4,91 ± 0,09 5,23 ± 0,32
4 Đốm lá lớn
Tỷ lệ bệnh (%) 4,87 ± 0,59 6,67 ± 0,60 7,74 ± 0,51 10,5 ± 0,82 7,84 ± 0,55 15,2 ± 1,47 31,8± 1,89 33,0 ± 0,51
Chỉ số bệnh (%) 0,99 ± 0,17 1,22 ± 0,15 1,48 ± 0,11 1,79 ± 0,06 1,21 ± 0,11 2,99 ± 0,44 4,41 ± 0,41 4,94 ± 0,33
Nguồn: Viện BVTV, 2011.
122
Bảng 24b. Mức độ gây hại của một số bệnh hại chính trong thí nghiệm ngô chuyển gen GA21 tại BRVT và Đăk Lăk
TT Bệnh BRVT Đăk Lăk
75NSG 90NSG 75NSG 90NSG
GA21 NK66 GA21 NK66 GA21 NK66 GA21 NK66
1 Khô vằn
Tỷ lệ bệnh (%) 100 100 100 100 100 100 100 100
Cấp bệnh (1-5) 1,9 2,1 ± 0,1 2.6 ± 0.1 2,8 ± 0,2 1,9 2,0 2,9 ± 0,1 2,9 ± 0,1
2 Gỉ sắt
Tỷ lệ bệnh (%) 100 100 100 100 100 100 100 100
Cấp bệnh (0-9) 1,9 ± 0,1 1,8 ± 0,1 3.5 ± 0.2 3,6 ± 0,2 3,1 ± 0,1 3,0 ± 0,1 5,0 ± 0,1 4,9 ±0,1
3 Đốm lá nhỏ
Tỷ lệ bệnh (%) 51 ± 5,5 50 ± 5,0 100 100
Cấp bệnh (0-9) 0,7 ± 0,1 0,7 ± 0,1 1,7 ± 0.1 1,6 ± 0,0
4 Đốm lá lớn
Tỷ lệ bệnh (%) 23 ± 4 29 ± 11 100 100
Cấp bệnh (0-9) 0,2 0,3 ± 0,1 1,5 ± 0,1 1,5 ± 0,1
Nguồn: TT KKN Giống, sản phẩm cây trồng Nam Bộ, 2011.
123
5.2.3. Đánh giá hiệu quả kháng thuốc trừ cỏ glyphosate của ngô chuyển gen
NK66GA21
Hiệu quả kháng thuốc trừ cỏ glyphosate của ngô chuyển gen GA21 một lần nữa được đánh
giá và so sánh với giống nền NK66 trong khảo nghiệm diện rộng. Thuốc glyphosate được
phun một lần trùm cây ở liều lượng 2lit/ha đối với ngô GA21 và được phun định hướng
giữa hàng theo liều khuyến cáo đối với công thức ngô cùng dòng, không chuyển gen
NK66. Mức độ bị hại của ngô được điều tra làm 3 đợt, tại các thời điểm khác sau khi phun
thuốc. Kết quả được trình bày trong Bảng 25.
Bảng 25. Khả năng kháng thuốc trừ cỏ Glyphosate của ngô NK66GA21trong khảo
nghiệm diện rộng tại Hưng Yên, Sơn La, BRVT và Đăk Lăk
TT Đợt đánh giá*** Hưng Yên Sơn La BRVT Đăk Lăk
GA21
*
NK66** GA21 NK66 GA21 NK66 GA21 NK66
1 Đợt 1,
mức độ bị hại (0-9)
0
3
0
1
0
4
0
1
2 Đợt 2,
mức độ bị hại (0-9)
0
1
0
1
0
5
0
2
3 Đợt 3,
mức độ bị hại (0-9)
0
0
0
0
0
5
0
2
* P un g yp sate t ùm ây; ** P un g yp sate đ n ướng giữa hàng
***Đợt 1: Hưng Yên-Sơn La: 10 NSP; BRVT-Đăk ăk: 7 NSP
Đợt 2: Hưng Yên-Sơn La: 20 NSP; BRVT-Đăk ăk: 14 NSP
Đợt 3: Hưng Yên-Sơn La: 30 NSP; BRVT-Đăk ăk: 21 NSP
Nguồn: Viện BVTV; TT KKN Giống, Sản phẩm cây trồng Nam Bộ 2011.
Kết quả quan sát tại Hưng Yên, Sơn La và BRVT cho thấy, thuốc glyphosate xử lý không
gây ảnh hưởng đến ngô chuyển gen NK66GA21. Tình hình sinh trưởng cũng như phát
triển của cây ngô chuyển gen sau khi phun thuốc tương tự như cây ngô ở ruộng làm cỏ
bằng tay (Báo cáo khảo nghiệm diện rộng ngô GA21, Viện BVTV, TT KKN Giống, SPCT
Nam Bộ, 2011). Trong khi đó, trên giống nền NK66, cây bị hại ở mức độ từ cấp 1 đến cấp
3 tuỳ theo đợt điều tra và địa điểm khảo nghiệm (Bảng 25).
Tại Đăk Lăk, ngô NK66 không chuyển gen phun thuốc trừ cỏ glyphosate định hướng
(phun giữa hàng) bị ảnh hưởng rõ rệt với mức ảnh hưởng từ cấp 4 đến cấp 5. Ngô biểu
hiện lá vàng và có khoảng 10% cây bị chết, phần lớn cây bị ảnh hưởng nặng đến sinh
trưởng. Trong khi đó, ngô chuyển gen v n sinh trưởng và phát triển bình thường (Bảng
25). Điều này chứng tỏ rằng ngô chuyển gen GA21 có khả năng kháng thuốc trừ cỏ
glyphosate rất cao.
Nguyên nhân giống nền NK66 tại Đăk Lăk bị ảnh hưởng nặng nề hơn tại các địa điểm
khảo nghiệm khác là do sau khi phun thuốc 2 giờ, có mưa to, thuốc xâm nhập vào bộ rễ
124
cây; với bản chất là thuốc trừ cỏ lưu d n, nên glyphosate gây ra ảnh hưởng nặng ở ngô
NK66 không chuyển gen. Điều này cũng cho thấy nguy cơ tiềm ẩn của việc áp dụng phun
thuốc trừ cỏ giữa hàng ở ngô không chuyển gen sau khi gieo từ 14-16 ngày hiện đang được
áp dụng bởi nông dân ở nhiều địa phương (Theo TT KKN Giống, Sản phẩm cây trồng
Nam Bộ, 2011).
5.2.4. Đánh giá hiệu lực quản lý cỏ dại của ngô chuyển gen GA21
Để đánh giá hiệu lực quản lý cỏ dại, nhóm nghiên cứu đã tiến hành đánh giá mức độ che
phủ của cỏ tại các thời điểm khác nhau trước và sau khi phun thuốc. 4 công thức thí
nghiệm đã được xây dựng, sử dụng các biện pháp quản lý cỏ dại khác nhau với mục đích
đánh giá hiệu lực quản lý cỏ dại của kỹ thuật phun glyphosate trùm cây trên ngô GA21 và
so sánh với các kỹ thuật phun định hướng giữa hàng và làm cỏ bằng tay v n được áp dụng
phổ biến trong canh tác ngô. Kết quả được tổng hợp và trình bày trong Bảng 26.
Kết quả trong Bảng 25 cho thấy, trước khi phun thuốc glyphosate và làm cỏ bằng tay, mức
độ che phủ của cỏ dại ở các công thức dao động từ 88-91% (BRVT) và 63-70% (Đăk Lăk).
Điều này thể hiện mức độ đa dạng và sức ép cỏ dại rất cao ở địa điểm khảo nghiệm.
Ở tất cả các giai đoạn đánh giá sau khi phun thuốc hoặc làm cỏ tay, các kết quả đều cho
thấy: phun thuốc trừ cỏ glyphosate trên giống chuyển gen phát huy hiệu lực chậm hơn
nhưng hiệu quả rất cao. Phun thuốc định hướng về cơ bản không quản lý tốt cỏ dại; trong
khi làm cỏ bằng tay chỉ có thể quản lý tốt cỏ dại trong thời gian rất ngắn và không triệt để,
đặc biệt khi áp lực cỏ dại cao.
Bảng 26: Hiệu lực quản lý cỏ dại của ngô chuyển gen GA21
TT Thời gian BRVT Đăk Lăk
Độ che phủ của cỏ dại (%) Độ che phủ của cỏ dại (%)
CT1* CT2 CT3 CT4 CT1 CT2 CT3 CT4
1 Trước phun 91 88 89 90 65,5 63 63 70
Sau phun Glyphosate/sau làm cỏ lần 1
2 7 ngày sau phun héo rũ héo rũ 14 10 héo rũ héo rũ 10 10
3 14 ngày sau
phun
0 20 20 20 2 13 20 20
4 21 ngày sau
phun
2,8 25,2 38,4 38,6 5 20 35 35
Sau phun Glyphosate/sau làm cỏ lần 2
5 50 ngày sau gieo 10 35 8 8 8 30 10 10
6 75 ngày sau gieo 15 35 15 15 15 35 15 15
7 90 ngày sau gieo 20 40 22 22 20 40 20 20
*CT1: GA21, phun glyphosate 1 lần; CT2: NK 66, phun thuốc trừ cỏ đ n ướng; CT3:
NK66, làm cỏ bằng tay; CT4: GA21, làm cỏ bằng tay
Nguồn: TT KKN Giống, sản phẩm cây trồng Nam Bộ, 2011.
125
Trong năm 2011, nhóm nghiên cứu cũng tiến hành đánh giá tính chống chịu glyphosate và
hiệu lực quản lý cỏ dại của tổ hợp lai Bt11xGA21. Kết quả đánh giá đặc điểm sinh trưởng
phát triển, và đặc tính hình thái cho thấy, tổ hợp lai Bt11xGA21 có khả năng chống chịu
tốt với glyphosate. Bên cạnh đó, hiệu lực quản lý cỏ dại trên công thức Bt11xGA21 phun
glyphosate trùm cây là tương đương, thâm chí tốt hơn công thức NK66 làm cỏ tay 2 lần
(Báo cáo khảo nghiệm diện rộng ngô Bt11xGA21, Viện BVTV, TT KKN Giống, SPCT Nam
Bộ, 2011).
Tất các các đánh giá trên cho thấy việc áp dụng giống chuyển gen GA21 và tổ hợp lai
Bt11xGA21 kết hợp phun glyphosate 1 lần có thể quản lý cỏ dại tốt trong suốt mùa vụ ngô;
hiệu lực quản lý cỏ dại tương đương so với làm cỏ bằng tay 2 lần. Trong khi đó làm cỏ
định hướng (phun glyphosate 1 lần giữa hàng), không đủ để quản lý cỏ dại cả vụ; đồng thời
nguy cơ gây ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển của ngô là thực tế.
5.2.5. Năng suất và hiệu quả kinh tế của ngô chuyển gen GA21
Năng suất và hiệu quả kinh tế của ngô GA21 so với ngô không chuyển gen là những vấn
đề rất được quan tâm; đồng thời là yếu tố quan trọng để đánh giá khả năng chấp nhận của
nông dân với tiến bộ về giống mới.
5.2.5.1 Năng suất của ngô GA21
Bảng 27: Năng suất của ngô chuyển gen NK66GA21 và giống nền NK66 trong khảo
nghiệm rộng năm 2011
Giống/ Điểm khảo
nghiệm
Tỷ lệ hạt/ bắp Độ ẩm hạt Năng suất
(%) (%) (tấn/ ha)
Ngô chuyển gen GA21
BRVT 75,6 32,4 7,93
Đăk Lăk 76,0 32,7 8,29
Hưng Yên 74,1 32,0 8,23
Sơn La 76,1 34,0 9,29
Trung bình 75,4 32,8 8,43
Ngô không chuyển gen NK66
BRVT 75,8 32,2 8,00
Đăk Lăk 75,6 32,4 8,31
Hưng Yên 75,5 30,2 8,17
Sơn La 74,9 30,8 9,18
Trung bình 75,5 31,4 8,42
126
Nguồn: Viện BVTV, Trung tâm KKN Giống, SPCT Nam Bộ, 2011
Năng suất của ngô chuyển gen NK66GA21 và ngô NK66 không chuyển gen trong khảo
nghiệm diện rộng năm 2011 được trình bày trong Bảng 27.
Kết quả đánh giá năng suất qua khảo nghiệm hạn chế và khảo nghiệm rộng có thể kết luận
rằng: trong điều kiện áp dụng phun glyphosate 1 lần ở giai đoạn 18-20 NSG, giống ngô
chuyển gen NK66GA21cho năng suất tương đương so với giống giống nền NK66 được
làm cỏ bằng tay 2 lần.
5.2.5.2 Hiệu quả kinh tế của ngô GA21
Những vấn đề thường được cán bộ quản lý, khuyến nông, nông dân đặt ra ở các Hội thảo
đầu bờ đánh giá kết quả khảo nghiệm ngô chuyển gen trong 2 năm khảo nghiệm là: (i) lợi
ích cụ thể của ngô chuyển gen là gì?, (ii) ngô chuyển gen có mang lại hiệu quả kinh tế cao
ơn ngô t ông t ường hay không?, ở mức nào? (iii) giá hạt giống ngô chuyển gen a ơn
ngô t ường bao nhiêu?, (iv) khi nào thì nông dân có thể được áp dụng ngô chuyển
gen?...Vì vậy cùng với đán giá năng suất, việc tính toán hiệu quả kinh tế để làm rõ thêm ý
ng ĩa t ực tiễn và khả năng ấp nhận của người sản xuất với ngô GA21 là cần thiết.
Trên cơ sở các thông số về chi phí sản xuất và thu nhập mang lại từ ngô chuyển gen GA21
và giống nền NK66 trong điều kiện khảo nghiệm rộng vụ Hè Thu 2011, hiệu quả kinh tế
của GA21 so với NK66 được sơ bộ tính toán để đánh giá ý nghĩa thực tiễn và khả năng áp
dụng trên diện rộng của ngô GA21.
Năm 2011, giá nông sản nói chung và giá ngô nói riêng đều khá cao, nên thu nhập nông
dân sản xuất các cây trồng chủ lực như lúa, ngô, mía, cây công nghiệp… đều cao. Nhìn
chung, tổng thu của ngô chuyển gen GA21 phun glyphosate tương đương so với ngô
NK66 không chuyển gen làm cỏ tay 2 lần (Bảng 28).
Tuy nhiên, xét lợi nhuận thu được/ ha, GA21 phun thuốc trừ cỏ 1 lần đạt mức lợi nhuận
trung bình là 34.557.000 đồng/ha cao hơn 2.494.250 đồng/ ha (tương ứng 7,8%) so với ngô
NK66. Nhìn chung, mức tăng lợi nhuận của ngô chuyển gen GA21 so với ngô NK66
không chuyển gen thể hiện trong khảo nghiệm diện rộng là có ý nghĩa đáng kể với nông
dân sản xuất ngô ở Việt Nam.
Mặt khác ngô GA21 ngoài việc cho hiệu quả kinh tế cao hơn, c n giải quyết được áp lực
công lao động nông nghiệp ngày càng khó khăn ở nông thôn do nhu cầu lao động của các
khu công nghiệp và dịch vụ thu hút ngày càng nhiều và mở rộng ở mọi địa phương. Thực
tế ở ngô GA21 chỉ cần 3-4 công lao động để phun thuốc cỏ glyphosate là có thể quản lý cỏ
dại cả vụ; trong khi đó nếu làm cỏ bằng tay ở ngô không chuyển gen phải cần tới 30-50
công lao động/ vụ.
Trong quá trình khảo nghiệm và so sánh điều kiện ở các vùng sản xuất khác nhau cho thấy,
nếu trồng giống chuyển gen GA21 kháng thuốc trừ cỏ glyphosate tại các vùng có áp lực cỏ
dại cao, áp lực về lạo động cao và diện tích sản xuất lớn thì hiệu quả càng cao hơn. Trong
127
sản xuất đại trà, bên cạnh việc quản lý tốt cỏ dại, ngô GA21phun glyphosate sẽ phát huy tốt
hơn hiệu quả của phân bón, đồng thời đảm bảo mật độ và sinh trưởng phát triển của ngô
đồng đều hơn.
Bảng 28. Hiệu quả kinh tế của ngô chuyển gen GA21
Khoản mục GA21 NK66
1. Chi phí sản xuất (đồng/ ha)
BRVT 19.281.000 21.996.000
Đăk Lăk 19.281.000 21.146.000
Hưng Yên 21.578.000 23.948.000
Sơn La 21.578.000 23.948.000
Trung bình 20.429.500 22.759.500
Giảm so đối chứng (đồng) -2.330.000
Giảm so đối chứng (%) -10,2
2. Tổng thu (đồng/ ha)
BRVT 47.580.000 48.000.000
Đăk Lăk 49.740.000 49.860.000
Hưng Yên 57.582.000 57.190.000
Sơn La 65.044.000 64.239.000
Trung bình 54.986.500 54.822.250
Tăng so đối chứng (đồng) 164.250
Tăng so đối chứng (%) 0,3
3. Lợi nhuận (đồng/ ha) = 2-1
BRVT 28.299.000 26.004.000
Đăk Lăk 30.459.000 28.714.000
Hưng Yên 36.004.000 33.242.000
Sơn La 43.466.000 40.291.000
Trung bình 34.557.000 32.062.750
Tăng so đối chứng (đồng) 2.494.250
Tăng so đối chứng (%) 7,8
Nguồn: Viện BVTV, Trung tâm KKN Giống, SPCT Nam Bộ, 2011
5.3. KẾT QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO
5.3.1. Cách ly trong khảo nghiệm
128
Tất cả các khu khảo nghiệm được cách ly sinh sản với các loài có điều kiện sinh sản
tương ứng là 25 ngày (gieo sau 25 ngày) và được ghi chép chi tiết trong phiếu theo dõi
cách ly không gian theo phụ lục 6.4 và 6.5 của thông tư 69 /2009/TT-BNNPTNT ngày 27
tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ NN& PTNT về Quy định khảo nghiệm đánh giá
rủi ro đối với đa dạng sinh học và môi trường của giống cây trồng chuyển gen
Việc giám sát cách li thời gian được đảm bảo chặt chẽ trong suốt quá trình khảo nghiệm.
Các thành viên trong Uỷ ban giám sát cơ sở đã tiến hành giám sát 1-2 tuần/lần. Các vi
phạm cách li thời gian (nếu có) đều được xử lý kịp thời và được ghi chép lưu trữ đầy đủ
theo quy định. (Xem Phụ lục Hồ sơ quản lý và giám sát rủi ro kèm theo Báo cáo).
5.3.2. Quản lý rủi ro và giám sát khảo nghiệm
- Tập huấn: cán bộ và công nhân tham gia thực hiện khảo nghiệm tại tất cả các địa điểm
khảo nghiệm, quản lý và giám sát khảo nghiệm ngô chuyển gen của công ty Syngenta
đều được tập huấn về quản lý an toàn sinh học và tuân thủ trước và trong suốt thời
gian tiến hành khảo nghiệm cây trồng chuyển gen (xem hình ảnh kèm theo trong phụ
lục Báo cáo).
- Ủy ban giám sát cơ sở gồm có thành viên quản lý An toàn sinh học thuộc các đơn vị
thực hiện là: Viện Di truyền Nông nghiệp, Trung tâm KKN Giống, SP giống cây trồng
Nam Bộ và Viện Bảo vệ thực vật, cán bộ công ty Syngenta đã được thiếp lập và thực
thi giám sát an toàn sinh học trong suốt quá trình khảo nghiệm.
- Cán bộ tham gia thực hiện theo danh sách đăng ký với Bộ NN&PTNT, bao gồm: Viện
Di Truyền Nông nghiệp, Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống và sản phẩm cây trồng
Nam Bộ; Viện Bảo vệ thực vật và Viện Sinh thái tài nguyên sinh vật.
5.3.3. Vận chuyển, lưu giữ và bảo quản
Quá trình vận chuyển và bàn giao hạt giống ngô chuyển gen Bt11 của công ty TNHH
Syngenta Việt Nam trên địa bàn Việt Nam đều được tuân thủ theo các qui định trong:
- Thông tư 69 /2009/TT-BNNPTNT ngày 27 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ
NN& PTNT về Quy đ n k ả nghiệm đánh giá rủi ro đối với đa dạng sinh học và
môi trường của giống cây trồng chuyển gen;
- Nghị định 69/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 6 năm 2010 về An toàn sinh học đối với
sinh vật chuyển gen, m u vật di truyền và sản phẩm của sinh vật chuyển gen
Toàn bộ quá trình vận chuyển, bàn giao, sử dụng đều được ghi chép đầy đủ theo các biểu
m u quy định trong thông tư 69 (xem phụ lục Hồ sơ giám sát và quản lý rủi ro kèm theo
Báo cáo)
5.3.4. Quản lý thất thoát
129
Tất cả các điểm khảo nghiệm đều được bảo vệ từ khi gieo đến khi kết thúc theo dõi sau
thu hoạch bởi những người bảo vệ đã được đào tạo về quản lý rủi ro cây trồng chuyển
gen để đảm bảo tất cả các vật liệu chuyển gen không bị thất thoát ra ngoài. Không có vật liệu thực vật sống của ngô chuyển gen (hạt, thân, lá, hoa...) trong khu vực khảo nghiệm được vận chuyển ra vào khu khảo nghiệm nếu không được phép của người và đơn vị có trách nhiệm. Các nguyên vật liệu cây chuyển gen đưa vào
trong khu vực khảo nghiệm nếu không sử dụng hết đều được tiêu hủy trong khu vực khảo
nghiệm. Rác và sản phẩm phế thải của quá trình khảo nghiệm cũng được hủy và chôn
trong khu vực khảo nghiệm.
Tất cả các thiết bị dùng cho hạt giống hay dùng ở nơi khảo nghiệm đều được lau chùi
sạch sẽ trước khi đưa vào sử dụng ở nơi tiến hành khảo nghiệm và sau khi kết thúc sử
dụng để đảm bảo loại bỏ hoàn toàn hạt giống và các vật liệu cây trồng có thể hiện diện
trước khi tiến hành hoặc sót lại trên dụng cụ sau khi sử dụng. Các phương pháp lau chùi
bao gồm làm sạch bằng tay hay xịt nước áp lực cao. Các vật liệu thu được không rõ
nguồn gốc đều được tiêu huỷ và ghi nhận trong sổ theo dõi khảo nghiệm.
Cả 4 góc của khảo nghiệm, bao gồm cả các hàng rào, được đánh dấu bằng các cột mốc cố
định, cho phép xác định khu khảo nghiệm trong suốt mùa vụ trồng và cả thời kỳ sau thu
hoạch.
Tất cả các biểu m u theo dõi được tổng hợp trong Phụ lục Hồ sơ quản lý, giám sát rủi to
kèm theo báo cáo này.
5.3.4.5. Gieo trồng
Trước khi gieo trồng, đơn vị đăng ký và thực hiện khảo nghiệm đều gửi thông báo và
giấy mời tới Ủy ban giám sát An toàn sinh học của Bộ Nông nghiệp PTNT, Bộ Tài
nguyên Môi trường, Cục Bảo vệ thực vật và Chính quyền địa phương nơi gieo trồng để
cùng giám sát an toàn sinh học trong quá trình khảo nghiệm.
Việc gieo trồng được thực hiện theo giấy phép và kế hoạch khảo nghiệm được Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn phê duyệt. Quá trình gieo trồng đều được tiến hành dưới
sự chứng kiến của các thành viên Uỷ ban giám sát của Bộ NN&PTNT và Uỷ ban giám
sát cơ sở và có Biên bản kèm theo (Xem Phụ lục Hồ sơ quản lý và giám sát rủi ro kèm
theo Báo cáo)
5.3.6. Quản lý rủi ro cho người làm việc và tiếp xúc với ngô chuyển gen
Hạn chế tối đa việc ra vào khu vực khảo nghiệm trong thời gian ngô sinh sản (ngô trỗ cờ,
tung phấn, phun râu...).
Người làm việc trong khu vực khảo nghiệm được trang bị các trang thiết bị bảo hộ như
quần áo, ủng, kính bảo hộ, khẩu trang than hoạt tính. Khách thăm quan khảo nghiệm
được yêu cầu hạn chế tối đa tiếp xúc trực tiếp vào cây.
5.3.7. Thu hoạch và tiêu hủy
130
Thu hoạch khảo nghiệm được tuân thủ theo thông tư 69 /2009/TT-BNNPTNT ngày 27
tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ NN& PTNT về Quy định khảo nghiệm đánh giá
rủi ro đối với đa dạng sinh học và môi trường của giống cây trồng chuyển gen. Trước
khi thu hoạch, Uỷ ban giám sát cơ sở thông báo đến Uỷ ban giám sát của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn về thời gian thu hoạch. Quá trình thu hoạch đều được tiến
hành dưới sự chứng kiến của Uỷ ban giám sát cơ sở, đại diện của Uỷ ban giám sát Bộ
Nông nghiệp và nhân viên có trách nhiệm đối với khảo nghiệm đánh giá rủi ro của đơn vị
đăng ký khảo nghiệm.
Thu hoạch được tiến hành từng lô một, sau khi đã thu hoạch toàn bộ các cây ở hàng bảo
vệ, mỗi lô thu hoạch được ghi nhận và thu thập số liệu. Đối với khảo nghiệm hạn chế,
chôn toàn bộ vật liệu trong khảo nghiệm sau khi nấu chín bắp ngô trong nước sôi 100ºC
trong v ng 5 phút và đốt toàn bộ cây ngô. Vị trí hố chôn nằm trong khu vực khảo
nghiệm.
Đối với khảo nghiệm diện rộng, tại các điểm Hưng Yên, Sơn La, Đăk Lăk hạt ngô được
tiêu hủy bằng cách nghiền nhỏ, trộn vôi bột và chôn dưới đất. Tất cả vật liệu trong thí
nghiệm đều được tiêu huỷ, kể cả hàng bảo vệ.
Tại điểm khảo nghiệm BRVT, do xin được giấy phép tạm thời sử dụng làm thức ăn chăn
nuôi nên hạt ngô chuyển gen sau khi thu hoạch được làm mất sức nẩy mầm bằng cách
sấy ở 80ºC, kiểm tra lại sức nảy mầm để đảm bảo đã phá nảy mầm hoàn toàn trước khi
đóng gói và bảo quản trong kho tại địa điểm khảo nghiệm. Chi tiết quá trình thu hoạch,
làm mất sức nảy mầm, đóng gói và sổ theo dõi bảo quản đều được kèm theo trong Hồ sơ
quản lý và giám sát rủi ro.
Ruộng khảo nghiệm phải được cày lại ngay sau khi kết thúc khảo nghiệm với sự kiểm tra
của những thành viên tham gia thu hoạch. Uỷ ban giám sát cơ sở có trách nhiệm kiểm tra
kĩ lưỡng để đảm bảo không c n bất cứ cây ngô chuyển gen cũng như cây trồng cùng loài
c n tồn tại trong thí nghiệm trước khi rời địa điểm khảo nghiệm.
Các Biên bản chi tiết quá trình thu hoạch và tiêu huỷ ngô khảo nghiệm được tổng hợp
trong Hồ sơ quản lý và giám sát rủi ro kèm theo Báo cáo.
5.3.8. Quản lý đồng ruộng sau thu hoạch
Tuân thủ theo thông tư 69 /2009/TT-BNNPTNT ngày 27 tháng 10 năm 2009 của Bộ
trưởng Bộ NN& PTNT về Quy định khảo nghiệm đánh giá rủi ro đối với đa dạng sinh
học và môi trường của giống cây trồng chuyển gen. Ghi nhận toàn bộ thông tin liên quan
đến quản lí sau thu hoạch dựa trên phụ lục 6.4, 6.7 của Thông tư 69.
Trong v ng 3 tháng sau thu hoạch, nhân viên quản lý khảo nghiệm đã tiến hành giám sát,
nhổ bỏ những cây ngô mọc lại tại ruộng khảo nghiệm sau khi thu hoạch. Việc này cũng
được thực hiện ngay với các cây ở hàng bảo vệ. Chi tiết về số lượng và cách thức tiêu
huỷ cây mọc lại được ghi chép trong biên bản quản lý sau thu hoạch. Quá trình giám sát
131
được thực hiện thường xuyên (1-2 tuần/ lần), đảm bảo các vi phạm về quản lý sau thu
hoạch (nếu có) trong khu vực khảo nghiệm đều được xử lý kịp thời và được ghi chép
theo các biểu m u quy định trong thông tư 69. Chi tiết các biên bản được tổng hợp trong
Hồ sơ quản lý và giám sát rủi ro sau thu hoạch kèm theo Báo cáo.
132
PHẦN VI: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
6.1. Kết luận
6.1.1. Mức độ tuân thủ các quy định hiện hành về điều kiện khảo nghiệm
Khảo nghiệm được thực hiện nghiêm ngặt theo các quy định hiện hành. Địa điểm khảo
nghiệm tuân thủ mọi yêu cầu trong Nghị định 69/2010/NĐ-CP và Thông tư 69/2009/TT-
BNNPTNT, đồng thời cũng đáp ứng được các yêu cầu cần thiết cho khảo nghiệm. Thời
gian và quy mô khảo nghiệm được thực hiện đúng theo kế hoạch khảo nghiệm đã được phê
duyệt. Quá trình khảo nghiệm được giám sát chặt chẽ bởi đơn vị thực hiện và đăng ký khảo
nghiệm để đảm bảo việc tuân thủ theo quy định.
6.1.2. Phương pháp, kỹ thuật khảo nghiệm
Các phương pháp sử dụng trong khảo nghiệm là những phương pháp đã được công nhận,
hoặc được ban hành bởi các đơn vị có thẩm quyền và các Viện đầu ngành. Kế hoạch khảo
nghiệm được xây dựng trên cơ sở tham khảo ý kiến các chuyên gia, các nhà khoa học và
kinh nghiệm từ các nghiên cứu đã có trên thế giới do đó đảm bảo được tính khoa học và
minh bạch của khảo nghiệm.
6.1.3. Số liệu khảo nghiệm
Khảo nghiệm được thực hiện bởi các đơn vị có năng lực chuyên môn phù hợp và được chỉ
định tiến hành khảo nghiệm trên cây trồng biến đổi gen theo số QĐ 252/QĐ-BNN-KHCN
của Bộ NN và PTNT. Các số liệu khảo nghiệm trong báo cáo này đều được tổng kết từ các
báo cáo cơ sở của các đơn vị thực hiện khảo nghiệm. Sô liệu được xử lý thống kê để đảm
bảo tính trung thực, khách quan và có độ tin cậy cao.
6.1.4. Quản lý, giám sát rủi ro
Việc giám sát, quản lý rủi ro được thực hiện nghiêm ngặt theo đúng quy định hiện hành.
Tất cả quá trình chuẩn bị và thực hiện bao gồm: lập kế hoạch khảo nghiệm, lựa chọn địa
điểm khảo nghiệm, quản lý đồng ruộng, cách ly sinh sản trong quá trình khảo nghiệm,
giám sát khảo nghiệm, thu thập và xử lý số liệu, thu hoạch và tiêu huỷ, giám sát sau thu
hoạch, xử lý khi có rủi ro xảy ra…đều tuân thủ chặt chẽ các quy định của Chính Phủ. Mọi
hoạt động trong quá trình khảo nghiệm đều được ghi chép rõ ràng trên các văn bản theo
quy định và được lưu trữ đầy đủ.
6.1.5. Các kết luận về đánh giá rủi ro ngô chuyển gen Bt11 tới đa dạng sinh học và môi
trường sinh thái
Căn cứ trên kết quả khảo nghiệm hạn chế (2010, 2011) và khảo nghiệm diện rộng (4 vùng
trọng điểm ngô, 2011) đánh giá rủi ro của ngô chuyển gen GA21 đối với đa dạng sinh học
và môi trường ở Việt Nam, kết hợp với các nghiên cứu đã có trên thế giới, bước đầu chúng
tôi đưa ra một số kết luận như sau:
133
Ngô GA21 không tồn tại nguy cơ trở thành cỏ dại và dịch hại xâm lấn môi trường
tự nhiên
- Đặc điểm nông sinh học của ngô GA21 hoàn toàn tương tự với giống không
chuyển gen (NK66) là giống cây trồng có tính thuần hoá cao, phù hợp với điều kiện
thâm canh trong sản xuất và không thể tồn tại trong tự nhiên nếu không có sự can
thiệp của con người.
- Ngô GA21 không thể hiện sự sinh trưởng vượt trội, lấn át giống không chuyển gen
cùng dòng NK66. Tính m n cảm với một số sâu, bệnh hại phổ biến cũng tương tự
giống không chuyển gen NK66.
Không tồn tại nguy cơ trôi gen, phát tán gen từ ngô GA21
- Hạt ngô chuyển gen GA21 không ngủ nghỉ, hạt dễ dàng nảy mầm và mọc ngay sau
thu hoạch. Bắp không bị rụng trước thu hoạch.
- Ngô chuyển gen GA21 được cách li sinh sản tuyệt đối với cây cùng loài trong quá
trình khảo nghiệm. Các điều kiện để xảy ra nguy cơ trôi gen, phát tán gen sang các
loài họ hàng hoang dại thông qua sinh sản hữu tính đều không tồn tại ở Việt Nam.
Cũng chưa ghi nhận bất cứ trường hợp trôi gen sang các vi sinh vật đất khi canh tác
ngô chuyển gen GA21.
Như vậy sự kiện chuyển gen GA21 hoàn toàn không làm phát sinh giống ngô mới hay một
loài cỏ dại. Cùng với các kết quả nghiên cứu về đặc điểm nông sinh học, xem xét yếu tố
phân loại và mức độ gần gũi giữa cây ngô và các loài thực vật trong cùng chi (genera),
tông (tribe), lịch sử hình thành và phát triển của cây ngô tại Việt Nam có thể khẳng định
ngô chuyển gen GA21 không thể trở thành dịch hại và sự kiện chuyển gen GA21 cũng
không thể tự phát tán ra môi trường tự nhiên.
Ngô GA21 không tồn tại nguy cơ g y ảnh hưởng bất lợi tới quần thể sinh vật
không chủ đích trong điều kiện khảo nghiệm ở Việt Nam, cụ thể:
- Thành phần chân khớp (côn trùng và nhện) là tương tự nhau giữa giống ngô GA21
và giống nền NK66 ở mọi loại hình và địa điểm khảo nghiệm. Chưa ghi nhận được
loài dịch hại mới nào xuất hiện hoặc các loài đã có phát triển nổi trội làm thay đổi
cấu trúc quần xã chân khớp trên ruộng ngô khảo nghiệm.
134
- Không có sự sai khác về mật độ và diễn mật độ của các thiên địch phổ biến như
nhóm bọ rùa BMAT, cánh cứng cánh ngắn, nhện BMAT tổng số, bọ xít mù xanh…
giữa ngô GA21 và giống nền NK66.
- Ngô GA21 không gây ảnh hưởng đến sự hiện diện và mức độ gây hại của rệp muội
ngô (sâu hại không chủ đích thuộc nhóm chích hút).
- Ngô GA21 không ảnh hưởng đến Collembola. Các chỉ tiêu thành phần loài, phân
bố, số lượng loài, giá trị của các chỉ số đa dạng H’ và chỉ số đồng đều J’ trên đất
trồng ngô chuyển gen và ngô đối chứng là không khác biệt trong tất cả các khảo
nghiệm.
- Ngô GA21 không ảnh hưởng đến sự hiện diện và gây hại của các loại bệnh hại
chính trên ngô, không ghi nhận thấy sự xuất hiện bệnh hại mới hoặc sự bùng phát
gây hại của các loại bệnh thông thường trên ngô chuyển gen.
Tóm lại: Ngô GA21 kháng thuốc trừ cỏ hoạt chất glyphosate không có ảnh hưởng xấu đến
các sinh vật không chủ đích (hệ động vật chân đốt trên tán lá, gồm cả sâu hại và thiên địch,
côn trùng trong đất, bệnh hại).
Ngô chuyển gen GA21 không tồn tại nguy cơ có các ảnh hưởng bất lợi đến hệ sinh
thái xung quanh, cụ thể:
- Ngô chuyển gen GA21 không có khả năng trở thành cỏ dại và không ảnh hưởng
đến quần thể sinh vật không chủ đích trong ruộng ngô khảo nghiệm.
- Ngô chuyển gen GA21 không ảnh hưởng đến thành phần, số lượng loài, tính đa
dạng, ổn định của nhóm côn trùng đất Collembola. Collembola được coi là chỉ thị
để đánh giá sinh thái môi trường đất do sự m n cảm của nhóm sinh vật này với sự
thay đổi của môi trường. Do đó có thể nói ngô chuyển gen GA21 không thể làm
thay đổi bất lợi đến hệ sinh thái đất trồng ngô.
- Các nghiên cứu của công ty Syngenta cũng như nghiên cứu của nhiều nước trên thế
giới cùng với lịch sử sử dụng an toàn của ngô GA21 đã chứng minh protein cải tiến
mEPSPS từ ngô chuyển gen GA21 không gây ảnh hưởng bất lợi đến sức khoẻ con
người, động vật, cũng như các vi sinh vật có nguy cơ phơi nhiễm với loại protein
này trong đất. Canh tác ngô chuyển gen GA21 cũng không có ảnh hưởng gì tới các
chu trình sinh hoá trong đất…
Như vây, ngô chuyển gen GA21 kháng sâu đục thân ngô châu Á không làm thay đổi bất lợi
đến hệ sinh thái, bao gồm cả hệ sinh thái tự nhiên l n hệ sinh thái nông nghiệp.
Chưa ghi nhận bất cứ một tác động bất lợi nào khác của ngô chuyển gen GA21
Ngô chuyển gen GA21 thích ứng cao với các điều kiện canh tác ngô và được trồng ở
nhiều quốc gia trên thế giới dưới các điều kiện sinh thái khác nhau. Các tương tác với
135
điều kiện ngoại cảnh của ngô chuyển gen tương tự như ngô thường thể hiện ở khả năng
sinh trưởng phát triển, đặc điểm sinh học, kiểu hình, tính m n cảm với các loại bệnh….
Như vậy, cho đến nay chưa ghi nhận trường hợp ảnh hưởng bất lợi nào của ngô chuyển
gen GA21 tới môi trường sinh thái, và do vậy cũng chưa ghi nhận các yếu tố môi
trường có thể làm gia tăng hay hạn chế ảnh hưởng bất lợi của ngô GA21.
6.1.6. Các kết luận khác
Ngô GA21 cho hiệu quả chống chịu thuốc trừ cỏ rất cao.
Ngô GA21 hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi thuốc trừ cỏ glyphosate, trong khi đó
giống không chuyển gen NK66 chịu những ảnh hưởng bất lợi đến sinh trưởng và phát
triển từ việc phun thuốc trừ cỏ định hướng giữa hàng.
Ngô GA21 cho hiệu quả phòng trừ cỏ dại vượt trội
Sử dụng giống NK66GA21 kết hợp xử lý thuốc trừ cỏ Glyphosate 1 lần/vụ có thể quản lý
cỏ dại rất hiệu quả, đặc biệt khi áp lực cỏ dại cao. Qua đó, giảm thiểu chi phí làm cỏ và
giúp gia tăng lợi nhuận xấp xỉ 7,8% so với giống nền NK66 làm cỏ tay 2 lần/vụ
Như vậy ngô GA21 hoàn toàn giống với giống ngô cùng dòng không chuyển gen về
đặc tính nông học nên nó không có khả năng trở thành dịch hại, cỏ dại. Ngô GA21
không có bất cứ những tác động bất lợi nào đến sinh vật không chủ đích cũng như
môi trường sinh thái. Đặc tính khác biệt duy nhất là khả năng kháng thuốc trừ cỏ
glyphosate tốt, tăng cường hiệu lực quản lý cỏ dại, giảm xói m n đất đồng thời đem
lại hiệu quả kinh tế cho người trồng ngô.
136
137
138
139
Phần VII. Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
Danh luc các loài thực vật việt nam tập 3. Chủ biên Nguyễn Tiến Văn. Năm 2005, p. 773-
853
Nguyễn Đức Khiêm (1995). Một số kết quả nghiên cứu về sâu đục thân ngô tại Trường Đại
học Nông nghiệp I Hà Nội. Tạp chí BVTV, số 5, tr 3 – 6.
Nguyễn Thị Thu Anh, Nguyễn Trí Tiến, 2000. Nghiên cứu ảnh hưởng của phân hữu cơ vi
sinh đến nhóm bọ nhảy (Insecta: Collembola) ở đất chuyên canh rau xã Gia Xuyên,
huyện Gia Lộc, Hải Dương. Kỷ yếu HNCTH TQ lần thứ 6. Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội: 447-454
Nguyễn Thị Thu Anh, Nguyễn Trí Tiến, 2009. Nghiên cứu bọ nhảy (Collembola) ở đất ô
nhiễm chì tại Văn Lâm, Hưng Yên. Kỷ yếu HNKHTQ lần thứ 3 về Sinh thái và Tài
nguyên sinh vật. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội: 1168-1173.
Nguyễn Thị Thu Anh, Nguyễn Trí Tiến, Lê Thị Hoa, 2008. Ảnh hưởng của hiệu lực bón
kali khác nhau đến một số định lượng của Collembola ở đất trồng màu huyện Gia
Lâm, Hà Nội. Kỷ yếu HNCTH TQ lần thứ 6. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội: 440-446.
Nguyễn Thị Thu Anh, Nguyễn Trí Tiến, Phan Thị Thu Hiền, 2008. Nghiên cứu ảnh hưởng
của một số liều lượng bón phân lân đến động vật chân khớp bé ở ruộng trồng lạc
huyện Gia Lâm, Hà Nội. Kỷ yếu HNCTH TQ lần thứ 6. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội:
432-439
Nguyễn Trí Tiến, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Thị Thu Anh, Nhữ Thị Hoài, 2009. Nghiên
cứu ảnh hưởng của phân hữu cơ và kỹ thuật vùi phụ phẩm nông nghiệp trên đất
trồng mía đến Collembola (Insecta) ở nông trường Hà Trung, Thanh Hóa. Kỷ yếu
HNKHTQ lần thứ 3 về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật. Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội: 1705-1710.
140
Viện Bảo vệ thực vật. 1997. Phương pháp điều tra cơ bản dịch hại nông nghiệp và thiên
địch của chúng (Tập I) Viện Bảo vệ thực vật, Bộ Nông nghiệp & PTNT. Nhà Xb
Nông nghiệp, trang 99.
Viện Bảo vệ thực vật. 2000. Phương pháp điều tra, đánh giá sâu, bệnh, cỏ dại, chuột hại
cây trồng cạn (Tập III). Viện Bảo vệ thực vật, Bộ Nông nghiệp & PTNT. Nhà Xb
Nông nghiệp, trang 77.
Tiếng Anh
Alibhai M.F. and Stallings W.C. (2001). Closing down on glyphosate inhibition – with a
new structure for drug discovery. Proceedings of the National Academy of Sciences
98: 2944-2946.
ANZFA (2000a). Final risk analysis report, application A363, food produced from
glyphosate-tolerant canola line GT73. Australia New Zealand Food Authority
(ANZFA), Canberra, Australia and Wellington, New Zealand. http://
www.foodstandards.gov.au/_srcfiles/A363%20draft%20IR.pdf.
ANZFA (2000b). Draft risk analysis report, application A355, food produced from
glyphosate-tolerant cotton line 1445. Australia New Zealand Food Authority
(ANZFA), Canberra, Australia and Wellington, New Zealand. http://www.
foodstandards.gov.au/_srcfiles/A355%20FA.pdf.
ANZFA (2001). Final assessment report, application A378, food derived from herbicide-
tolerant sugar beet line 77. Australia New Zealand Food Authority (ANZFA),
Canberra, Australia and Wellington, New Zealand. http://www.foodstandards.
gov.au/_srcfiles/A378%20Final%20AR.pdf.
ANZFA (2002). Final assessment report, application A416, glyphosate-tolerant corn line
NK603. Australia New Zealand Food Authority (ANZFA), Canberra, Australia and
Wellington, New Zealand.
http://www.foodstandards.gov.au/_srcfiles/A416_FAR.pdf.
Arago, et al. (1997.) Cytogenetics of Job’s Tears Coix lacryma-jobi Linn. Phil. J. Crop Sci.
22(2): 64-67.
Baker H.G. (1974). The evolution of weeds. Annual Review of Ecology and Systematics 5:
1-24.
Barnes E, 2005, single dose oral toxicity study in the mouse
Beckie H.J., Seguin-Swartz G., Nair H., Warwick S.I., and Johnson E. (2004). Multiple
herbicide-resistant canola can be controlled by alternative herbicides. Weed
Science 52 (1): 152-157.
Brian. H, Double Mutated Maize 5-Enol Pyruvylshikimate-3-Phosphate Synthase
141
(mEPSPS) Enzyme as Expressed in Event GA21 Maize: Assessment of Amino
Acid Sequence Homology with Known Toxins
Brigulla M, Wackernagel W, 2010. Molecular aspects of gene transfer and foreign
DNA acquisition in prokaryotes with regard to safety issues. Applied Microbiology
and Biotechnology 86, 1027-1041.
Busse, M.D., Ratcliffe, A.W., Shestak, C.J. and Powers, R.F., 2001. Glyphosate toxicity
and the effects of long-term vegetation control on soil microbial communities. Soil
Biology and Biochemistry 33, 1777-1789.
CBD (2000a). Cartagena Protocol on Biosafety. Secretariat of the Convention on
Biological Diversity (CBD), Montreal. http://www.cbd.int/biosafety/protocol.shtml.
CBD (2000b). Cartagena Protocol on Biosafety Annex III: Risk Assessment. Secretariat of
the Convention on Biological Diversity (CBD), Montreal. http://
www.cbd.int/biosafety/articles.shtml?a=cpb-43
CERA, 2010
Cerdeira AL, Duke SO, 2006. The current status and environmental impacts of
glyphosate-resistant crops: A review. Journal of Environmental Quality 35, 1633-
1658.
Cerdeira AL, Duke SO, 2007. Environmental impacts of transgenic herbicide-
resistant crops. CAB Reviews: Perspectives in Agriculture, Veterinary Science,
Nutrition and Natural Resources 2, 1-14.
Cerdeira AL, Duke SO, 2010. Effects of glyphosate-resistant crop cultivation on
soil and water quality. GM crops 1, 1-9.
CFIA (1995). Determination of environmental safety of Monsanto Canada Inc.’s roundup
herbicide-tolerant Brassica napus canola line GT73. Canadian Food Inspection
Agency, Ottawa, Canada.
http://www.inspection.gc.ca/english/plaveg/bio/dd/dd9502e.shtml.
CFIA (1998). Determination of the safety of Monsanto Canada Inc.’s roundup herbicide-
tolerant Brassica rapa canola lines ZSR500, ZSR502, and ZSR503. Canadian Food
Inspection Agency (CFIA), Ottawa, Canada. http://www.inspection.
gc.ca/english/plaveg/bio/dd/dd9821e.shtml
CFIA (2002). Canada – U.S. bilateral agreement on agricultural biotechnology Appendix
II: environmental characterization data for transgenic plants intended for
unconfined release.
http://www.inspection.gc.ca/english/plaveg/bio/usda/appenannex2e.shtml
CFIA (2005). Determination of the safety of Monsanto Canada Inc. and KWS SAAT AG’s
roundup ready sugar beet (Beta vulgaris ssp vulgaris L.) Event H7-1. Canadian
Food Inspection Agency (CFIA), Ottawa, Canada http://www.inspection.
gc.ca/english/plaveg/bio/dd/dd0554e.shtml.
Codex (2003a). Principles for the risk analysis of foods derived through modern
142
biotechnology. Codex Alimentarius Commission (Codex), Rome http://www.
codexalimentarius.net/download/standards/10007/CXG_044e.pdf.
Codex (2003b). Guideline for the conduct of food safety assessment of foods derived from
recombinant DNA plants. Codex Alimentarius Commission (Codex), Rome
http://www.codexalimentarius.net/download/standards/10021/CXG_045e.pdf.
Coe, E. H. J., M. G. Nueffer and D. A. Hoisington (1988). "The Genetics of Maize". In
Corn and Corn Improvement. Agronomy Monographs. A. S. o. Agronomy.
Wisconsin, Madison, E. G.F Sprague and J.W. Dudley. 18: 81-236
Deen W., Hamill A., Shropshire C., Soltani N., and Sikkema P. H. (2006). Control of
volunteer glyphosate-resistant corn (Zea mays) in glyphosate-resistant soybean
(Glycine max). Weed Technology 20:261-266.
Delannay X., Bauman T. T.,Beighley D. H., Buettner M. J., Coble H. D., DeFelice M. S.,
Derting C. W., Diedrick T. J., Griffin J. L., Hagood E. S., Hancock F. G., Hart S.
E., LaVallee B. J., Loux M. M., Lueschen W. E., Matson K. W., Moots C. K.,
Murdock E., Nickell A. D., Owen M. D. K., Paschall II E. H., Prochaska L. M.,
Raymond P. J., Reynolds D. B., Rhodes W. K., Roeth F. W., Sprankle P. L.,
Tarochione L. J., Tinius C. N., Walker R. H., Wax L. M., Weigelt H. D., and
Padgette S. R. (1995). Yield evaluation of a glyphosate-tolerant soybean line after
treatment with glyphosate. Crop Science 35:1461-1467.
Dick, R.E. and Quinn, J.P., 1995. Glyphosate-degrading isolates from environmental
samples: occurrence and pathways of degradation. Applied Microbiology and
Biotechnology 43, 545-450.
Dunfield KE, Germida JJ, 2004. Impact of genetically modified crops on soil- and
plant-associated microbial communities. Journal of Environmental Quality 33, 806-
815.
EC (2001). Directive 2001/18/EC of the European Parliament and of the Council.
European Commission, Brussels Belgium. http://ec.europa.eu/environment/
biotechnology/pdf/dir2001_18.pdf.
A 2002. Maize In: Genetically Modified Organisms (GMO’s): The significance of gene
flow through pollen transfer. A review and interpretation of published literature and
recent/current research from the SF ‘ Assessing the Impact of GM plants’ AIGM
programme. Authors: Eastham K and Sweet J. Environmental Issue Report 28 pp
38-42.
EFSA (2003). Opinion of the Scientific Panel on genetically modified organisms [GMO]
on a request from the Commission related to the Notification (Reference
CE/ES/00/01) for the placing on the market of herbicide-tolerant genetically
modified maize NK603, for import and processing, under Part C of Directive
2001/18/EC from Monsanto. European Food Safety Authority (EFSA), Brussels,
Belgium.
http://www.efsa.europa.eu/en/scdocs/doc/opinion_gmo_03_final_en1,2.pdf.
143
EFSA (2004a). Opinion of the Scientific Panel on genetically modified organisms [GMO]
on a request from the Commission related to the Notification (Reference
C/NL/98/11) for the placing on the market of herbicide-tolerant rape GT73, for
import and processing, under Part C of Directive 2001/18/EC from Monsanto.
European Food Safety Authority (EFSA), Brussels, Belgium.
http://www.efsa.europa.eu/en/scdocs/doc/opinion_gmo05_ej29_gt73_en1,3.pdf.
EFSA (2004b). Opinion of the Scientific Panel on genetically modified organisms [GMO]
on a request from the Commission related to the safety of foods and food
ingredients derived from herbicide-tolerant genetically modified maize NK603, for
which a request for placing on the market was submitted under Article 4 of the
Novel Food Regulation (EC) No 258/97 by Monsanto. European Food Safety
Authority (EFSA), Brussels, Belgium.
http://www.efsa.europa.eu/en/scdocs/doc/opinion_gmo_02_final_en1,3.pdf.
EFSA (2005a). Opinion of the Scientific Panel on genetically modified organisms [GMO]
on an application (Reference EFSA GMO BE 2004 07) for the placing on the
market of insect-protected glyphosate-tolerant genetically modified maize
MON863 x MON810 x NK603, for food and feed uses, and import and processing
under Regulation (EC) No 1829/2003 from Monsanto. European Food Safety
Authority (EFSA), Brussels, Belgium.
http://www.efsa.europa.eu/en/scdocs/doc/gmo_opinion_ej256_mon863xmon810xn
k603_en1,3.pdf.
EFSA (2005b). Opinion of the Scientific Panel on genetically modified organisms [GMO]
on an application (Reference EFSA GMO UK 2004 06) for the placing on the
market of insect-protected glyphosate-tolerant genetically modified maize
MON863 x NK603, for food and feed uses, and import and processing under
Regulation (EC) No 1829/2003 from Monsanto. European Food Safety Authority
(EFSA), Brussels, Belgium.
http://www.efsa.europa.eu/en/scdocs/doc/gmo_opinion_ej255_mon863xnk603_en1
,3.pdf.
EFSA (2006a). Guidance document of the scientific panel on genetically modified
organisms for the risk assessment of genetically modified plants and derived food
and feed. European Food Safety Authority (EFSA), Brussels, Belgium.
http://www.efsa.europa.eu/en/scdocs/doc/gmo_guidance_derived_feed_food.pdf.
EFSA (2006b). Opinion of the Scientific Panel on genetically modified organisms [GMO]
related on an application (Reference EFSA GMO UK 2004 08) for the placing on
the market of products produced from glyphosate tolerant genetically modified
sugar beet H7-1, for food and feed uses, under Regulation (EC) No 1829/2003 from
KWS SAAT AG and Monsanto. European Food Safety Authority (EFSA),
Brussels, Belgium.
http://www.efsa.europa.eu/en/scdocs/doc/gmo_op_ej431_sugar_%20beet_%20H7-
1_en,3.pdf.
144
EFSA (2006c). Opinion of the Scientific Panel on genetically modified organisms [GMO]
on an application (Reference EFSA-GMO-UK-2004-05) for the placing on the
market of insect-protected and glufosinate and glyphosate-tolerant genetically
modified maize 1507 x NK603, for food and feed uses, and import and processing
under Regulation (EC) No 1829/2003 from Pioneer Hi-Bred and Mycogen Seeds.
European Food Safety Authority (EFSA), Brussels, Belgium.
http://www.efsa.europa.eu/en/scdocs/doc/gmo_ov_op5_annexa_en1,3.pdf
EFSA (2008a). Scientific Opinion of the Panel on Genetically Modified Organisms on
application (Reference EFSA-GMO-UK-2005-20) for the placing on the market of
the insect-resistant and herbicide-tolerant genetically modified maize 59122 x
NK603, for food and feed uses, and import and processing under Regulation (EC)
No 1829/2003 from Pioneer Hi-Bred International. European Food Safety
Authority (EFSA), Brussels, Belgium.
http://www.efsa.europa.eu/en/scdocs/doc/gmo_op_ej874_maize59122xNK603_en.
pdf.
EFSA (2008b). Opinion of the Scientific Panel on Genetically Modified Organisms on
application (reference EFSA-GMO-NL-2006-36) for the placing on the market of
the glyphosate-tolerant genetically modified soybean MON89788, for food and
feed uses, import and processing under Regulation (EC) No 1829/2003 from
Monsanto. European Food Safety Authority (EFSA), Brussels, Belgium.
http://www.efsa.europa.eu/en/scdocs/doc/gmo_op_ej758_soybeanMON89788_en.p
df.
EFSA (2009a). Scientific Opinion on applications (EFSA-GMO-RX-GT73) for renewal of
the authorisation for continued marketing of existing (1) food and food ingredients
produced from oilseed rape GT73; and of (2) feed materials, feed additives and
food additives produced from oilseed rape GT73, all under Regulation (EC) No
1829/2003 from Monsanto. European Food Safety Authority (EFSA), Brussels,
Belgium. http://www.efsa.europa.eu/en/scdocs/doc/1417.pdf.
EFSA (2009b). Scientific Opinion on application (EFSA-GMO-NL-2007-38) for the
placing on the market of insect resistant and/or herbicide tolerant genetically
modified maize MON89034 x NK603 for food and feed uses, import and
processing under Regulation (EC) No 1829/2003 from Monsanto. European Food
Safety Authority (EFSA), Brussels, Belgium.
http://www.efsa.europa.eu/en/scdocs/doc/gmo_op_ej1320_GMmaize_MON89034x
NK603_en.pdf.
EFSA (2011), Scientific Opinion on application (EFSA-GMO-UK-2008-60) for placing on
EFSA Journal 2011;9(12):2480. EFSA Panel on Genetically Modified Organisms
(GMO) Scientific Opinion on application (EFSA-GMO-UK-2008-60) for placing
on the market of genetically modified herbicide tolerant maize GA21 for food and
feed uses, import, processing and cultivation under Regulation (EC) No 1829/2003
from Syngenta Seeds
145
EFSA, 2007. Opinion of the Scientific Panel on Genetically Modified Organisms on
an applications (references EFSA-GMO-UK-2005-19 and EFSA-GMO-RX-GA21)
for the placing on the market of glyphosate-tolerant genetically modified maize
GA21, for food and feed uses, import and processing and for renewal of the
authorisation of maize GA21 as existing product, both under Regulation (EC) No
1829/2003 from Syngenta Seeds S.A.S. on behalf of Syngenta Crop Protection AG.
The EFSA Journal 541, 1-25,
EFSA, 2009a. Statement of EFSA on the consolidated presentation of the joint
Scientific Opinion of the GMO and BIOHAZ Panels on the “use of antibiotic
resistance genes as marker genes in genetically modified plants” and the Scientific
Opinion of the GMO Panel on “consequences of the opinion on the use of antibiotic
resistance genes as marker genes in genetically modified plants on previous EFSA
assessments of individual GM plants”. The FSA Journal 1108, 1-,
EFSA, 2009b. Scientific Opinion on application (EFSA-GMO-UK- 2007-49) for
the placing on the market of insect resistant and herbicide tolerant genetically
modified maize Bt11 x GA21 for food and feed uses, import and processing under
Regulation (EC) No 1829/2003 from Syngenta Seeds. The EFSA Journal 1319, 1-
27, http://www.efsa.europa.eu/en/scdocs/doc/1319.pdf
Ellmore R. W., Roeth F. W., Klein N., Knezevic Z., Martin A., Nelson L. A., Shapiro C.
A. (2001). Glyphosate-resistant soybean cultivar response to glyphosate.
Agronomy Journal 93:404-407
Engle, L.M. 1984. Cytogenetic studies in the Philippine grasses. Bull. Nat. Res.Council
Phil. 98:139-147.
FAO/WHO (1996). Biotechnology and food safety. Report of a Joint FAO/WHO
Consultation. Food and Agriculture Organization (FAO)/ World Health
Organization (WHO), Food and Nutrition Paper 61, Rome, Italy.
http://www.fao.org/ag/agn/food/pdf/biotechnology.pdf.
FAO/WHO (2006). Food safety risk analysis: a guide for national food safety authorities.
Food and Agriculture Organization (FAO) and World Health Organization (WHO),
Rome. http://www.who.int/entity/foodsafety/publications/micro/riskanalysis06.pdf.
Firbank LG, Heard MS, Woiwod IP, Hawes C, Haughton AJ, Champion GT, Scott
RJ, Hill MO, Dewar AM, Squire GR, May MJ, Brooks DR, Bohan DA, Daniels RE,
Osborne JL, Roy DB, Black HIJ, Rothery P, Perry JN, 2003a. An introduction to
the Farm-Scale Evaluations of genetically modified herbicide-tolerant crops.
Journal of Applied Ecology 40, 2-16.
Franz, J.E., Mao M.K. and Sikorski J.A.. 1997. Glyphosate: A Unique Global Herbicide.
ACS Monograph 189 (pp. 27-64). American Chemical Society, Washington D.C.
FSANZ (2005). Final assessment report, application A525, food derived from herbicide-
tolerant sugar beet H7-1. Food Safety Australia New Zealand (FSANZ) Canberra,
Australia and Wellington, New Zealand.
http://www.foodstandards.gov.au/_srcfiles/A525%20GM%20Sugar%20beet%20F
AR.pdf.
146
Garcia-Alonso, M., Jacobs, E., Raybould, A., Nickson, T.E., Sowig, P., Willekens, H., Van
Der Kouwe, P., Layton, R., Amijee, F., Fuentes, AM. And Tencalla, F., 2006. A
tiered system for assessing the risk of genetically modified plants to nontarget
organisms. Environmental Biosafety Research 5, 57-65.
Graser. G, Characterization of the Double-Mutated Maize 5-Enol pyruvylshikimate-3-
Phosphate Synthase (mEPSPS) Enzyme Produced in Event GA21-Derived Maize
(Corn) and Comparison with mEPSPS Expressed in Recombinant Escherichia coli
Harrison L.A., Bailey M.R., Naylor M.W., Ream J.E., Hammond B.G., Nida D.L.,
Burnette B.L., Nickson T.E., Mitsky T.A., Taylor M.L., Fuchs R.L. and Padgette
S.R. (1996). The expressed protein in glyphosate-tolerant soybean, 5-
enolpyruvylshikimate-3-phosphate synthase from Agrobacterium sp. Strain CP4, is
rapidly digested in vitro and is not toxic to acutely gavaged mice. Journal of
Nutrition 126: 728-740.
Hill. K, 2005, Quantification of mEPSPS (Double Mutated Maize 5-Enol
Pyruvylshikimate-3-Phosphate Synthase) in Maize Tissues and Whole Plants
Derived from Transformation Event GA2.
Hoekstra, F. A., L. M. Crowe and J. H. Crowe (1989). " Differential dessication sensitivity
of maize and Pennisetum pollen linked to their sucrose content. ." Plant, Cell and
Envir. 12: 83-91
http://www.efsa.europa.eu/cs/BlobServer/Scientific_Opinion/gmo_op_ej541_GA21Maize_en,0.pdf
http://www.efsa.europa.eu/EFSA/ScientificPanels/GMO/efsa_locale-
1178620753812_Statements456.htm
Japan BCH (2003). Outline of the biological diversity risk assessment report (Brassica rapa
GT73). Japan Biosafety Clearing House, Tokyo.
Japan BCH (2004). Outline of the biological diversity risk assessment report (Gossypium
hirsutum 1445X531). Japan Biosafety Clearing House, Tokyo.
http://www.bch.biodic.go.jp/download/en_lmo/1445_531enRi.pdf
Jones, M. and L. C. Dand Newel (1948). " Longevity of pollen and stigmas of grasses:
buffalograss, Buchloe dactyloides (Nutt.) Engelm., and maize, Zea mays L." J. Am.
Soc. Agr. 40: 195-204 maize." Crop Science 20: 796-800.
Keese P, 2008. Risks from GMOs due to horizontal gene transfer. Environmental
Biosafety Research 7, 123-149.
Kishore, G., Shah D., Padgette S., dells-Cioppa G., Gasser C., Re D., Hironak C., Taylor
M., Wibbenmeyer J. , Eichholtz D., Hayford M., Hoffmann N., Delannay X.,
Horsch R., Klee H., Rogers S., Rochester D., Brundage L., Sanders P. and Fraley
R.T. (1988). 5-Enolpyruvylshikimate 3-Phosphate Synthase. From Biochemistry to
Genetic Engineering of Glyphosate Tolerance. In Hedin P.A.,
Lebrun, M., Sailland, A., Freyssinet, G., Degryse, E. 2003. Mutated 5-
enoylpyruvylshikimate-3-phosphate synthase, gene coding for said protein and
147
transformed plants containing said gene. Bayer CropScience S.A. (Lyons, FR)
Patent # 6,566,587.
Levy-Booth DJ, Campbell RG, Gulden RH, Hart MM, Powell JR, Klironomos JN,
Pauls KP, Swanton CJ, Trevors JT, Dunfield KE, 2007. Cycling of extracellular
DNA in the soil environment. Soil Biology & Biochemistry 39, 2977-2991.
Light G. G., Baughman T. A., Dotray P. A., Keeling J. W., Wester D. B. (2003). Yield of
glyphosate-tolerant cotton as affected by topical glyphosate applications on the
Texas high plains and rolling plains. Journal of Cotton Science 7:231-235
Ma BL, Blackshaw RE, Roy J, He T, 2011. Investigation on gene transfer from
genetically modified corn (Zea mays L.) plants to soil bacteria. Journal of
Environmental Science and Health, Part BPesticides Food Contaminants and
Agricultural Wastes 46, 590-599.
Mallory-Smith C., and Zapiola M. (2008). Gene flow from glyphosate-resistant crops. Pest
Management Science 64: 428-440.
Mangelsdorf, P.C. 1986. The Origin of Corn. Sci. Amer.: 80-86.
Marvier M.. 2002. Improving risk assessment for nontarget safety of transgenic crops.
Ecological Application, 12 (4): 1119-1124.
Menn J.J., and Hollingworth R.M. (Eds.), Biotechnology for Crop Protection (pp37-48).
American Chemical Society, Series No. 379, Wahington, D.C.
Monsanto (2002). Safety assessment of Roundup ready canola event GT73. Monsanto
Company, St. Louis.
http://www.monsanto.com/monsanto/content/products/productivity/roundup/canola
_pss.pdf
Neibur W. S., (1992) Traditional crop breeding practicies: an historical review to serve as a
baseline for assessing the role of modern biotechnology. OECD pp 113-121
Nickson T.E. and Hammond B.G. (2002). Case Study: Canola Tolerant to Roundup
Herbicide, an Assessment of its Substantial Equivalence Compared to Nonmodified
Canola. In Atherton K.T (ed.) Genetically Modified Crops: Assessing Safety, (pp.
138-163). Taylor and Francis, New York.
Nida D.L., Patzer S., Harvey P., Stipanovic R., Wood R. and Fuchs R.L. (1996).
Glyphosate-tolerant cotton: the composition of the cottonseed is equivalent to that
of conventional cottonseed. Journal of Agriculture and Food Chemistry 44:1967-
1974.
NRC (1989). Field testing genetically modified organisms: framework for decisions.
National Academy of Sciences, National Research Council (NRC) committee on
Scientific Evaluation of the Introduction of Genetically Modified Microorganisms
and Plants into the Environment. National Academy Press, Washington, D.C.
NRC (1993). Issues in risk assessment. National Research Council (NRC).National
Academy Press, Washington D.C.
148
OECD (1992). Recombinant DNA safety considerations. Organization for Economic
Cooperation and Development (OECD), Paris, France.
OECD (1993). Safety considerations for biotechnology: scale-up of crop plants.
Organization for Economic Cooperation and Development (OECD), Paris, France.
OECD (1997). Consensus document on the biology of Brassica napus L. (oilseed rape).
Organization for Economic Cooperation and Development (OECD), Paris, France.
OECD (2000) Consensus document on the biology of Glycine max (L.) Merr. Organization
for Economic Cooperation and Development (OECD), Paris, France.
OECD (2001). Consensus document on the biology of Beta vulgaris L. Organization for
Economic Cooperation and Development (OECD), Paris, France.
OECD (2003). "Consensus document on the biology Zea mays subsp. mays (Maize)."
Series on Harmonisation of Regulatory Oversight in Biotechnology (Number 27)
OECD (2003a). Consensus document on the biology of Zea mays subsp. Mays.
Organization for Economic Cooperation and Development (OECD), Paris, France.
OECD (2003b). Description of selected key generic terms used in chemical hazard/risk
assessment. Organization for Economic Cooperation and Development (OECD),
Paris.
http://www.olis.oecd.org/olis/2003doc.nsf/LinkTo/NT00004772/$FILE/JT0015255
7.PDF
OECD (2006). Points to consider for consensus documents on the biology of cultivated
plants. Organization for Economic Cooperation and Development (OECD), Paris,
France.
OECD (2008). Consensus document on the biology of cotton (Gossypium spp.).
Organization for Economic Cooperation and Development (OECD), Paris, France.
OGTR (2003a). DIR 020/2002 - canola licence application risk assessment and risk
management plan. Office of the Gene Technology Regulator (OGTR), Canberra,
Australia. http://www.ogtr.gov.au/internet/ogtr/publishing.nsf/Content/dir020-
3/$FILE/dir020finalrarmp.pdf.
OGTR (2003b). DIR 023/2002 – Cotton license application risk assessment and risk
management plan. Office of the Gene Technology Regulator (OGTR), Canberra,
Australia.
http://www.ogtr.gov.au/internet/ogtr/publishing.nsf/Content/dir0233/$FILE/dir023f
inalrarmp.pdf
OGTR (2006) DIR 059/2005 - Full Risk Assessment and Risk Management Plan for
Commercial Release of Genetically Modified Cotton Lines. Office of the Gene
Technology Regulator (OGTR), Canberra, Australia. http://www.ogtr.gov.
au/internet/ogtr/publishing.nsf/Content/dir059-3/$FILE/dir059finalrarmp1.pdf.
OGTR (2008). The biology of Gossypium hirsutum L. and Gossypium barbadense L.
149
Office of the gene technology regulatory (OGTR) Department of Health and
Ageing, Canberra, Australia.
OGTR (2009). Risk analysis framework. Office of the gene technology regulatory (OGTR)
Department of Health and Ageing, Canberra, Australia.
Owen MDK, 2008. Weed species shifts in glyphosate-resistant crops. Pest
Management Science 64, 377-387.
Padgette S.R., Biest-Taylor N., Nida D.L., Bailey M.R., MacDonald J., Holden L.R., and
Fuchs R.L. (1996). The composition of glyphosate-tolerant soybean seeds is
equivalent to that of conventional soybeans. Journal of Nutrition 126: 702-716.
Powell JR, Gulden RH, Hart MM, Campbell RG, Levy-Booth DJ, Dunfield KE,
Pauls KP, Swanton CJ, Trevors JT, Klironomos JN, 2007. Mycorrhizal and
rhizobial colonization of genetically modified and conventional soybeans. Applied
and Environmental Microbiology 73, 4365-4367.
Priestman, M.A., Funke, T., Singh, I.M., Crupper, S.S. and and Schönbrunn, E., 2005a. 5-
Enolpyruvylshikimate-3-phosphate synthase from Staphylococcus aureus is
insensitive to glyphosate. FEBS Letters 579, 728-732.
Priestman, M.A., Healy, M.L., Funke, T., Becker, A. and Schönbrunn, E., 2005b.
Molecular basis for the glyphosate-insensitivity of the reaction of 5-
enolpyruvylshikimate 3-phosphate synthase with shikimate. FEBS Letters 579,
5773-5780.
Ramirez, D.A. and A.C. dela Vina. 1996. Interspecific hybridization in grasses I. Zea.
DOST-Terminal Report.
Raybould, A., 2006. Problem formulation and hypothesis testing for environmental risk
assessment of genetically modified crops. Environmental Biosafety Research 5,
119-125.
Ridley W.P., Sidhu R.S., P Pyla.D., Nemeth M.A., Breeze M.L. and J Astwood.D.(2002).
Comparison of the nutritional profile of glyphosate-tolerant event NK603 with that
of conventional corn (Zea mays L.). Journal of Agriculture and Food Chemistry,
50: 7235-7243.
Saxena, D., Flores, S. and Stotzky, G., 2002. Bt toxin is released in root exudates
from 12 transgenic corn hybrids representing three transformation events. Soil
Biology and Biochemistry. 34, 133–137.
Sjoblad R.D., McClintock J.T. and Engler R. (1992). Toxicological considerations for
protein components of biological pesticide products. Regulatory Toxicology and
Pharmacology 15: 3-9.
Spencer, T.M., Mumm, R., Gwyn, J. 2000. Glyphosate resistant maize lines. Official
Gazette of the United States Patent and Trademark Office Patents. 1232(3)
#6,040,497.
Steinrücken, H.C. and Amrhein N.(1980). The herbicide glyphosate is a potent inhibitor of
150
5-enolpyruvyl-shikimic acid -3-phosphate synthase. Biochemical and Biophysical
Research Communications, 94: 1207-1212.
Taylor N.B., Fuchs R.L., MacDonald J., Shariff A.R. and Padgette S.R. (1999).
Compositional analysis of glyphosate-tolerant soybeans treated with glyphosate.
Journal of Agriculture and Food Chemistry, 47:4469-4473.
the market of genetically modified herbicide tolerant maize GA21 for food and feed uses,
import, processing and cultivation under Regulation (EC) No 1829/2003 from
Syngenta Seeds.
United States Department of Agriculture, Animal and Plant Health Inspec tion Service
(USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs2/04_08601p_com.pdf.
USDA APHIS (1993). 93-258-019 Monsanto petition for determination of nonregulated
status: soybeans with a Roundup ready gene. United States Department of
Agriculture, Animal and Plant Health Inspection Service (USDA APHIS),
Washington D.C. http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/93_25801p.pdf.
USDA APHIS (1994). APHIS-USDA Petition 93-258-01 for determination of
nonregulated status for glyphosate-tolerant soybean line 40-3-2, Environmental
assessment and finding of no significant impact. United States Department of
Agriculture, Animal and Plant Health Inspection Service (USDA APHIS),
Washington D.C. http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs2/93_25801p_com.pdf.
USDA APHIS (1995a). Monsanto petition 95-045-01p to USDA/APHIS for determination
of nonregulated status of glyphosate tolerant cotton (Roundup ready) lines 1445
and 1698. United States Department of Agriculture, Animal and Plant Health
Inspection Service (USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/95_04501p.pdf.
USDA APHIS (1995b). Monsanto petition 95-045-01p to USDA/APHIS for determination
of nonregulated status of glyphosate tolerant cotton (Roundup ready) lines 1445
and 1698, Environmental assessment and finding of no significant impact. United
States Department of Agriculture, Animal and Plant Health Inspection Service
(USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs2/95_04501p_com.pdf.
USDA APHIS (1995c). Monsanto Company petition for determination of nonregulated
status: insect protected corn (Zea mays L.) with the cryIA(b) gene from Bacillus
thuringiensis subsp. Kurstaki. United States Department of Agriculture, Animal and
Plant Health Inspection Service (USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/95_09301p.pdf
USDA APHIS (1996a) Monsanto Company petition for determination of nonregulated
status: additional yieldgard corn (Zea mays L.) with the cryIA(b) gene from
Bacillus thuringiensis subsp. Kurstaki. United States Department of Agriculture,
Animal and Plant Health Inspection Service (USDA APHIS), Washington D.C.
151
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/96_01701p.pdf.
USDA APHIS (1996b). Monsanto Company petition for determination of non-regulated
status: insect-protected Roundup ready corn line MON802. United States
Department of Agriculture, Animal and Plant Health Inspection Service (USDA
APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/96_31701p.pdf.
USDA APHIS (1997a). USDA/APHIS petition 96-317-01p for determination of
nonregulated status for insect-resistant/glyphosate-toleran corn line MON 802,
Environmental assessment and finding of no significant impact. United States
Department of Agriculture, Animal and Plant Health Inspection Service (USDA
APHIS), Washington D.C. http://www.aphis.usda.gov/brs/
aphisdocs2/96_31701p_com.pdf.
USDA APHIS (1997b). Monsanto Company petition for determination of nonregulated
status: Roundup ready corn line GA21. United States Department of Agriculture,
Animal and Plant Health Inspection Service (USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/97_09901p.pdf.
USDA APHIS (1997c). Monsanto/Dekalb petition 97-099-01p for determination of
nonregulated status for transgenic glyphosate tolerant corn line GA21,
Environmental assessment and finding of no significant impact. United States
Department of Agriculture, Animal and Plant Health Inspection Service (USDA
APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs2/97_09901p_com.pdf.
USDA APHIS (1998a). Novartis Seed and Monsanto Company petition 98-173- 01p for
determination of nonregulated status for transgenic glyphosate tolerant sugar beet
line GTSB77. United States Department of Agriculture, Animal and Plant Health
Inspection Service (USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/98_17301p.pdf.
USDA APHIS (1998b). Novartis Seed and Monsanto Company petition 98-173-01p for
determination of nonregulated status for transgenic glyphosate tolerant sugar beet
line GTSB77, Environmental assessment and finding of no significant impact.
United States Department of Agriculture, Animal and Plant Health Inspection
Service (USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs2/98_17301p_com.pdf.
USDA APHIS (1998c). Monsanto petition 98-216-01p for determination of nonregulated
status for glyphosate-tolerant canola line RT73. United States Department of
Agriculture, Animal and Plant Health Inspection Service (USDA APHIS),
Washington D.C. http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/98_21601p.pdf.
USDA APHIS (1999). Response to Monsanto petition 98-216-01p for determination of
nonregulated status for glyphosate-tolerant canola line RT73, Environmental
assessment and finding of no significant impact. United States Department of
152
Agriculture, Animal and Plant Health Inspection Service (USDA APHIS),
USDA APHIS (2000a). Monsanto request (00-011-01p) seeking extension of
determination of non-regulated status for glyphosate tolerant corn line NK603.
United States Department of Agriculture, Animal and Plant Health Inspection
Service (USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/00_01101p.pdf.
USDA APHIS (2000b). Approval of Monsanto request (00-011-01p) seeking extension of
determination of non-regulated status for glyphosate tolerant corn line NK603,
Environmental assessment and finding of no significant impact. United States
Department of Agriculture, Animal and Plant Health Inspection Service (USDA
APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs2/00_01101p_com.pdf.
USDA APHIS (2001). Monsanto Company request (01-324-01p) seeking an extension of
determination of nonregulated status for glyphosate tolerant canola event GT200.
United States Department of Agriculture, Animal and Plant Health Inspection
Service (USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/01_32401p.pdf.
USDA APHIS (2002). USDA/APHIS decision on Monsanto Company request (01-324-
01p) seeking an extension of determination of nonregulated status for glyphosate
tolerant canola event GT200, Environmental assessment and finding of no
significant impact. United States Department of Agriculture, Animal and Plant
Health Inspection Service (USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs2/01_32401p_com.pdf.
USDA APHIS (2003). Monsanto Company and KWS SAAT AG petition 03- 323-01p for
determination of nonregulated status for Roundup ready sugar beet event H7-1.
United States Department of Agriculture, Animal and Plant Health Inspection
Service (USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/03_32301p.pdf.
USDA APHIS (2004a). Monsanto company request (04-086-01p) seeking a determination
of non-regulated status for glyphosate tolerant cotton event MON88913. United
States Department of Agriculture, Animal and Plant Health Inspection Service
(USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/04_08601p.pdf.
USDA APHIS (2004b). Approval of Monsanto company request (04-086-01p) seeking a
determination of non-regulated status for glyphosate tolerant cotton event MON
88913, Environmental assessment and finding of no significant impact.
USDA APHIS (2004c). Monsanto Company and Forage Genetics International petition for
determination of nonregulated status: Roundup ready alfalfa (Medicago sativa L.)
events J101 and J163. United States Department of Agriculture, Animal and Plant
Health Inspection Service (USDA APHIS), Washington D.C.
153
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/04_11001p.pdf.
USDA APHIS (2004d). USDA/APHIS preliminary environmental assessment: Monsanto
Company and Forage Genetics International petition 04-110-01p for determination
of non-regulated status for Roundup ready alfalfa events J101 and J163. United
States Department of Agriculture, Animal and Plant Health Inspection Service
(USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/04_11001p_pea.pdf.
USDA APHIS (2004e). Monsanto Company petition for the determination of nonregulated
status for MON 88017 corn. United States Department of Agriculture, Animal and
Plant Health Inspection Service (USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/04_12501p.pdf.
USDA APHIS (2005a). Approval of Monsanto Company request 04-125-01 seeking a
determination of non-regulated status for corn rootworm resistant corn MON
88017. United States Department of Agriculture, Animal and Plant Health
Inspection Service (USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs2/04_12501p_com.pdf.
USDA APHIS (2005b). Monsanto Company and KWS SAAT AG petition 03-323-01p for
determination of nonregulated status for Roundup ready sugar beet event H7-1,
Environmental assessment and finding of no significant impact. United States
Department of Agriculture, Animal and Plant Health Inspection Service (USDA
APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs2/03_32301p_com.pdf.
USDA APHIS (2006). Petition for the Determination of Nonregulated Status for Roundup
Ready2Yield Soybean MON 89788. United States Department of Agriculture,
Animal and Plant Health Inspection Service (USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs/06_17801p.pdf.
USDA APHIS (2007a). Finding of no significant impact, Animal and Plant Health
Inspection Service petition for non-regulated status for soybean line MON 89788,
Environmental assessment. United States Department of Agriculture, Animal and
Plant Health Inspection Service (USDA APHIS), Washington D.C.
http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs2/06_17801p_com.pdf.
USDA APHIS(1995d). USDA/APHIS petition 95-093-01 for determination of
nonregulated status for insect protected corn line MON 80100, Environmental
Assessment and Finding of No Significant Impact. United States Department of
Agriculture, Animal and Plant Health Inspection Service (USDA APHIS),
Washington D.C. http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs2/95_09301p_com.pdf.
USEPA (1992). Framework for ecological risk assessment. Risk Assessment Forum, U.S.
Environmental Protection Agency (USEPA), Washington D. C.
http://oaspub.epa.gov/eims/eimscomm.getfile?p_download_id=36361
http://cfpub.epa.gov/ncea/cfm/recordisplay.cfm?deid=30759.
154
USEPA (1998). Guidelines for ecological risk assessment. Risk Assessment Forum, U.S.
Environmental Protection Agency (USEPA), Washington D. C.
http://oaspub.epa.gov/eims/eimscomm.getfile?p_download_id=36512.
Warwick, S.I., Legere, A., Simard, M.-J., James, T. (2008). Do escaped transgenes persist
in nature? The case of an herbicide resistance transgene in a weedy Brassica rapa
population. Mol. Ecol. 17:1387-1395.
Washington D.C. http://www.aphis.usda.gov/brs/aphisdocs2/98_21601p_com.pdf.
WHO (1995). Application of the Principles of Substantial Equivalence to the Safety
Evaluation of Foods or Food Components from Plants Derived by Modern
Biotechnology. A Report of a WHO Workshop. World Health Organisation
(WHO), Geneva.
155
156
157
158
159
160