Upload
dangdang
View
222
Download
9
Embed Size (px)
Citation preview
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BÀI TẬP GIỮA KỲ
MÔN: KỸ THUẬT THAM VẤN 1
Phỏng vấn Nhà Tham Vấn: Bàn về vấn đề nguyên tắc đạo
đức nghề tham vấn – trị liệu tại Việt Nam
GVHD: TS. Trì Thị Minh Thúy
LỚP: VB2-K04
SVTH: 1/Trần Thị Linh Giang 1566160024
2/Nguyễn Thị Thuỳ Linh 1566160046
3/Trần Dương Phong 1566160068
4/Vũ Ngọc Đông Phương 1566160072
5/Mai Vũ Phương Thanh 1566160083
6/Dương Thùy Lệ Trang 1566160099
TP, Hồ Chí Minh, tháng 08 - 20117
1
BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN
STT Họ và tên Công việc thực hiện Điểm
1 Trần Thị Linh Giang - Đặt câu hỏi phỏng vấn
- Viết lý do chọn đề tài
- Biên tập phỏng vấn
- Kết luận
2 Nguyễn Thị Thuỳ Linh - Đặt câu hỏi phỏng vấn
- Phỏng vấn NTV
- Ghi lại nội dung phỏng vấn
3 Trần Dương Phong - Đặt câu hỏi phỏng vấn
- Lý do chọn đề tài
4 Vũ Ngọc Đông Phương - Đặt câu hỏi phỏng vấn
- Kết luận
5 Mai Vũ Phương Thanh - Đặt câu hỏi phỏng vấn
- Phỏng vấn NTV
- Ghi lại nội dung phỏng vấn
6 Dương Thùy Lệ Trang - Đặt câu hỏi phỏng vấn
- Kết luận
1
PHẦN 1: GIỚI THIỆU
1. Lý do chọn đề tài
Những năm gần đây nghề Tham vấn - Trị liệu tâm lý xuất hiện khá phổ biến ở
Việt Nam. Tỷ lệ sinh viên theo học ngày càng nhiều và điểm chuẩn tuyển sinh đầu vào
cũng ngày một tăng cao. Năm 2017, tại trường đại học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn
TP.HCM, Tâm Lý Học trở thành ngành có điểm đầu vào cao nhất trường. Trường đại
học Hoa Sen lần đầu tiên tuyển sinh ngành Tâm Lý Học Ứng Dụng. Điều đó cho thấy,
Tâm Lý Học ngày càng trở nên «hot » trong xã hội. Trên thế giới, Tâm Lý Học được
đánh giá là một ngành khoa học có giá trị và những người hành nghề tâm lý đang ngày
càng chú ý đến vấn đề đạo đức và chuyên môn. Dù được xã hội quan tâm, nhưng đáng
tiếc nghề Tham vấn – Trị liệu tại Việt Nam vẫn chưa được nhà nước công nhận. Cụ
thể, hiện nay Tâm Lý Học vẫn chưa có mã nghề, chưa được xây dựng bộ nguyên tắc
đạo đức nghề nghiệp, chưa có một chức danh cụ thể trong các đơn vị nhà nước đồng
nghĩa với việc vẫn chưa được pháp luật bảo vệ nghề. Từ đó dẫn đến, các bệnh viện,
trường học chưa đẩy mạnh phát triển mô hình chăm sóc sức khỏe thể chất phối hợp
cùng sức khỏe tinh thần cho người bệnh, học sinh. Người dân ít chú trọng đến điều trị
tâm lý. Vì vậy, những người làm nghề Tham vấn - Trị liệu phải tự «bơi» trong nghề
của mình, bảo vệ bản thân và thân chủ dựa trên nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp do
nước ngoài xây dựng.
Là sinh viên theo học ngành Tâm Lý Học, chọn con đường trở thành Nhà Tham
vấn –Trị liệu trong tương lai, ít nhiều chúng tôi có những hoang mang về nghề trong
bối cảnh chưa được công nhận. Liệu việc áp dụng bộ nguyên tắc đạo đức của nước
ngoài tại Việt Nam có phù hợp với điều kiện văn hóa xã hội của Việt Nam hay không?
và làm thế nào để không vi phạm đạo đức nghề nghiệp? Làm thế nào để bảo vệ được
bản thân mình và nghề, trong khi chưa được nhà nước công nhận và bảo vệ? chúng tôi
tự hỏi, liệu chúng tôi phải làm gì nếu một thân chủ bị trầm cảm bất ngờ có hành vi tử
vẫn trước mặt mình? hay thân chủ tấn công bạo lực Nhà tham vấn khi đang trong
phiên làm việc? Phản ứng như thế nào là không vi phạm đạo đức nghề mà bảo vệ
được cả chính mình và thân chủ?. Thiết nghĩ đối với sinh viên - những người chập
chững vào nghề thì học tập kinh nghiệm từ thầy cô, các bậc tiền bối đi trước là điều
thiết thực và cần thiết trong điều kiện bấy giờ. Bên cạnh đó, Tham vấn - trị liệu là một
nghề đặc biệt, vì đối tượng mà nó hướng tới là con người. Vậy nên, người hành nghề
2
không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phải thể hiện đầy đủ các phẩm chất tốt đẹp của
Nhà tham vấn, tức là phải có đạo đức nghề. Đó là lý do chúng tôi chọn đề tài «Nguyên
tắc đạo đức nghề nghiệp trong tham vấn tâm lý». Để qua đó chúng tôi có cái nhìn tổng
quát hơn về việc áp dụng nguyên tắc đạo đức nghề tại Việt Nam, nhận biết bản thân
mình nên làm gì khi đi trên con đường này.
3
PHẦN 2: NỘI DUNG PHỎNG VẤN
1. Bảng câu hỏi phỏng vấn
Thông tin Nhà Tham Vấn (NTV):
Tuổi?
Giới tính?
Thời gian hành nghề?
Làm việc ở đâu (tư nhân; bệnh viện; trường học; trung tâm)?
NTV sử dụng cách tiếp cận trị liệu nào?
Câu hỏi phỏng vấn
1. Theo tìm hiểu của chúng tôi, nước ta chưa có quy định về nguyên tắc đạo đức của
nghề Tham vấn - Trị liệu tâm lý? Với tư cách là một NTV anh/chị có thể chia sẻ về
vấn đề này?
2. Việc áp dụng nguyên tắc đạo đức của nước ngoài cho môi trường Việt Nam, theo
anh/chị điều này có phù hợp không? (Nếu câu trả lời là «có» – bỏ qua câu số 3)
3. Vậy theo anh/chị, nên thay đổi như thế nào để phù hợp với điều kiện và văn hóa của
Việt Nam? Anh/chị có thể nêu một ví dụ cụ thể?
4. Tuy nhiên, đạo đức hành nghề là một điều kiện cần để khẳng định một người hành
nghề nào đó là chuyên nghiệp, giúp người hành nghề hướng đến những giá trị cao đẹp
của nghề nghiệp, nhưng Việt Nam lại không có quy định. Điều này chắc hẳn có ảnh
hưởng đến quyền lợi của người hành nghề tham vấn tại Việt Nam?
5. Anh/ chị có thể chia sẻ những khó khăn của chính mình? những câu chuyện thực tế
liên quan đến đạo đức nghề mà anh chị đã từng tham vấn? (Gợi ý - chẳng hạn như có
bao giờ anh/chị gặp rắc rối với thân chủ khi thực hiện theo nguyên tắc đạo đức của
nước ngoài?)
6. Khi bắt đầu buổi tham vấn, NTV thường giải thích về khung làm việc của mình.
Trong đó có nói đến một nguyên tắc bảo mật thông tin của thân chủ, đối với trường
hợp ngoại lệ NTV được quyền tiết lộ thông tin mà không cần trao đổi, xin ý kiến thân
chủ. Thông thường thân chủ có phản ứng như thế nào khi nghe đến nguyên tắc ngoại
lệ này?
7. Trường hợp nếu thân chủ không chấp nhận ngoại lệ, họ muốn mọi thông tin đều
phải giữ kín, anh chị xử lý như thế nào?
4
8. Đối với vấn đề bảo mật, nên truyền đạt như thế nào để thân chủ hiểu đây là vấn đề
thuộc về quy định nghề nghiệp? Cách truyền đạt riêng của anh/chị?
9. Anh/chị sẽ làm gì với các thân chủ khi nhận thấy thân chủ có biểu hiện lệ thuộc vào
mình? Việc để cho họ “dựa” có vi phạm đạo đức nghề không?
10. Anh/chị có bao giờ nói “tôi sẽ giữ bí mật tuyệt đối cho thân chủ” không?
11. Người làm tham vấn ở Việt Nam dễ vi phạm nguyên tắc đạo đức nào trong các
nguyên tắc đạo đức của nước ngoài quy định?
12. Anh/chị nghĩ gì khi đồng nghiệp của mình vi phạm đạo đức nghề?
13. Việc giữ đạo đức nghề trong bối cảnh Việt Nam không quy định này, theo anh/chị
là dễ hay khó? Liệu những người làm tâm lý ở Việt Nam có đang chịu thiệt thòi?
14. Hiện nay, có quá nhiều cá nhân không học tâm lý cũng trở thành nhà tham vấn trị
liệu? Theo anh/chị đây có phải là hệ lụy của việc thiếu quy định về nghề hay chỉ là
những «cá biệt»?
15. Chúng ta nên làm gì để đạo đức nghề được nhiều người trong ngành tuân thủ?
16. Trong điều kiện nước ta Nhà tâm lý học chưa được pháp luật bảo vệ một cách phù
hợp như vậy, anh /chị có xây dựng nguyên tắc riêng để bảo vệ sự an toàn của bản thân
không? (Nếu trả lời không, hỏi tiếp -Vì sao? Nếu trả lời có – anh/chị có thể chia sẻ
nguyên tắc riêng của mình?)
17. Đạo đức nghề giúp làm rõ trách nhiệm của chuyên gia với xã hội, mang lại sự yên
tâm cho xã hội đồng thời giúp các chuyên gia duy trì sự công bằng và liêm chính
trong quá trình hành nghề, ngành nghề nào cũng có những quy định về đạo đức nghề
nghiệp nhưng tâm lý học thì không. Phải chăng nghề này không được thừa nhận tại
Việt Nam? Với tư cách là một Nhà tâm lý học theo anh/chị chúng ta nên làm gì để
nghề được công nhận như những ngành nghề khác?
Trên đây là bộ câu hỏi do nhóm xây dựng để phỏng vấn hai nhà tham vấn,
trong quá trình trao đổi chúng tôi dự kiến sẽ có những câu hỏi phát sinh tùy thuộc vào
câu trả lời của nhà tham vấn cũng như độ nhiệt tình của họ. Tuy nhiên do điều kiện
thời gian eo hẹp, nên có một số câu hỏi chưa được làm rõ, nhiều câu hỏi còn bỏ ngõ
và nhiều vấn đề chưa được khai thác hết. Chúng tôi cũng lấy làm tiếc vì điều đó!.
5
2/ Nội dung phỏng vấn
1. Nhà Tham vấn: N.T.T.H
Tuổi: 39 Giới tính: Nữ
Thời gian hành nghề: 6 năm
Nơi làm việc: Tư nhân
Sử dụng cách tiếp cận trị liệu: Phân tâm học
Theo tìm hiểu của chúng tôi, nước ta chưa có quy định về nguyên tắc đạo đức
của nghề tham vấn, trị liệu tâm lý, với tư cách là NTV chị có thể chia sẻ về vấn đề
này?
NTV: Đúng vậy, hiện tại nước ta chưa có mã ngành tâm lí và chưa có Bộ luật
quy định về nguyên tắc đạo đức của nghề. Với tôi việc áp dụng nguyên tắc đạo đức
của nước ngoài cho môi trường Việt Nam là khá phù hợp và không có vấn đề gì.
Tuy nhiên, đạo đức hành nghề là một điều kiện cần để khẳng định một người
hành nghề nào đó là chuyên nghiệp, giúp người hành nghề hướng đến những giá trị
cao đẹp của nghề nghiệp, nhưng Việt Nam lại không có quy định. Điều này chắc hẳn
ảnh hưởng đến quyền lợi của người nghề tham vấn tại Việt Nam?
NTV: Điều này khiến các nhà tâm lý bị thiệt thòi, chưa có mức lương, chức
danh cụ thể trong các đơn vị nhà nước.
Chị có thể chia sẻ những khó khăn của chính mình? những câu chuyện thực tế
chẳng hạn như có bao giờ chị gặp rắc rối với thân chủ liên quan đến vấn đề đạo đức
nghề?
NTV: Bản thân tôi không ngừng việc trao đổi học hỏi kinh nghiệm trị liệu với
đồng nghiệp, tiền bối. NTV cần được trị liệu kỹ, làm việc với bản thân trước khi làm
việc với thân chủ và luôn luôn theo dõi bản thân để tránh bị chuyển di từ các vấn đề
của thân chủ.
Điều đó có thể nói là chị chưa từng gặp rắc rối!
NTV: (gật đầu)
Khi bắt đầu buổi tham vấn, NTV thường giải thích về khung làm việc của mình.
Trong đó có nói đến một nguyên tắc bảo mật thông tin của thân chủ, đối với trường
hợp ngoại lệ NTV được quyền tiết lộ thông tin mà không cần trao đổi, xin ý kiến thân
chủ. Thông thường thân chủ có phản ứng như thế nào khi nghe đến nguyên tắc này?
NTV: Đồng ý, tôi chưa bao giờ gặp phản ứng từ chối trong tình huống này.
6
Người làm tham vấn ở Việt Nam dễ vi phạm nguyên tắc đạo đức nào trong các
nguyên tắc đạo đức của nước ngoài quy định?
NTV: Nhà tâm lí ở đâu cũng phải tuân thủ đạo đức nghề. Tuy nhiên, bên cạnh
đó vẫn có những cá nhân vi phạm, theo tôi các kiểu vi phạm đặc trưng như là: lợi
dụng tình dục; bóc lột người khác; lệch lạc chức năng; thích được sùng bái… và còn
rất nhiều kiểu khác nữa. Tuy nhiên điều này phụ thuộc vào chuyên môn, tính cách và
tham vọng của mỗi người.
Chị nghĩ gì khi đồng nghiệp của mình vi phạm đạo đức nghề?
NTV: Làm sao để biết được họ vi phạm đạo đức nghề? Chỉ có thân chủ của họ
biết – trong trường thân chủ nhạy cảm và có kiến thức và người giám sát của họ biết,
hoặc tổ chức quản lý họ - trong trường hợp có báo cáo ca, hoặc các hỗ trợ cần thiết
cho ca được báo cáo đó và người quản lý nhận ra các dấu hiệu bất thường và đủ quyền
lực can thiệp.
Giữ đạo đức nghề trong bối cảnh Việt Nam không có một quy định nào cho
nghề này theo anh chị là dễ hay khó?
NTV: Mặc dù nói là chưa có quy điều đạo đức, nhưng những điều cơ bản đều
được học ở trường học. Vấn đề là thái độ nghiêm khắc của chính người làm tâm lý và
việc xử lý các vấn đề liên quan tới “chống chuyển di” của người làm nghề. Tôi nghĩ ở
đây người thiệt thòi là thân chủ, người sử dụng dịch vụ tâm lý, do không đủ hiểu biết
hoặc không đủ cơ sở để “phản biện” lại người giúp đỡ họ.
Hiện nay, có quá nhiều cá nhân không học tâm lý cũng trở thành NTV? Theo
chị đây có phải là hệ lụy của việc thiếu quy định về nghề hay chỉ là những “cá biệt”?
NTV: Câu chuyện đề cập tới cả khía cạnh quản lý nhà nước và hiểu biết của
người dân với tư cách là người sử dụng dịch vụ. Và hai công việc cần được quan tâm
đồng thời: hoàn thiện khung pháp lý có liên quan, phổ biến thông tin về ngành nghề
và chức năng trợ giúp tâm lý.
Trong điều kiện nước ta Nhà Tâm Lí Học chưa được pháp luật bảo vệ một cách
phù hợp như vậy, chị có xây dựng riêng cho mình một nguyên tắc nào để vừa giúp đỡ
được thân chủ, vừa bảo vệ sự an toàn của bản thân?
NTV: Chắc chắn có rồi, vì “vừa bảo vệ sự an toàn của bản thân”. Cơ bản đó là
các yêu cầu đạo đức nghề đã được học trong trường!
7
Đạo đức nghề giúp làm rõ trách nhiệm của chuyên gia với xã hội, mang lại sự
yên tâm cho xã hội đồng thời giúp các chuyên gia duy trì sự công bằng và liêm chính
trong quá trình hành nghề, ngành nghề nào cũng có những quy định về đạo đức nghề
nghiệp nhưng tâm lý học thì không. Phải chăng nghề này không được thừa nhận tại
Việt Nam? Với tư cách là một Nhà Tâm Lý Học theo chị chúng ta nên làm gì để nghề
được công nhận như những ngành nghề khác?
NTV: Chưa được thừa nhận chứ không phải không được thừa nhận, vì các lý
do về bối cảnh xã hội và các điều kiện kinh tế, văn hóa.
GS. Jean Pierre Martineau, Đại học Montpellier III - Paul Valéry nói: “Công cụ của
nhà lâm sàng chính là nhân cách của nhà lâm sàng”, và mỗi nhà tâm lý sẽ góp phần
của mình dựa trên nền tảng nhận thức và nỗ lực của mỗi người để hướng tới hai mục
đích chính – vận động xây dựng cơ sở pháp lý cần thiết cho vị trí nghề trong xã hội và
giúp đỡ người dân nâng cao hiểu biết về chăm sóc sức khỏe tâm thần nói chung.
2. Nhà Tham Vấn: T.B.K
Tuổi: 38 Giới tính: Nữ
Thời gian hành nghề: 10 năm (Thực hành pro-bono coaching và paid coaching)
Nơi làm việc: Tư nhân
Sử dụng cách tiếp cận trị liệu: I’m a coach (không nói về tiếp cận trị liệu)
Theo tìm hiểu của chúng tôi, nước ta chưa có quy định về nguyên tắc đạo đức
của nghề tham vấn, trị liệu tâm lý? Chị có thể chia sẻ về vấn đề này?
NTV: Câu trả lời thật lòng là không có gì để chia sẻ. Vì có quy định của nhà
nước về nguyên tắc đạo đức của nghề tham vấn - trị liệu tâm lý hay không đối với tôi
không quan trọng bằng ai là người đề xuất, kiểm duyệt và giám sát các quy chuẩn đó,
đồng thời cơ sở của quy chuẩn đạo đức nghề cũng quan trọng không kém.
Vậy, việc áp dụng nguyên tắc đạo đức của nước ngoài cho môi trường Việt
Nam, theo chị điều này có phù hợp không?
NTV: Không phù hợp 100%, ai cũng biết vậy mà!
Không phù hợp như thế nào? Theo chị nên thay đổi nguyên tắc đạo đức nào để
phù hợp với điều kiện và văn hóa của Việt Nam ?
NTV: Không cần thay đổi nguyên tắc đạo đức mà là cần điều chỉnh phạm vi áp
dụng để phù hợp hơn.
8
Tuy nhiên, đạo đức hành nghề là một điều kiện cần để khẳng định một người
hành nghề nào đó là chuyên nghiệp, giúp người hành nghề hướng đến những giá trị
cao đẹp của nghề nghiệp, nhưng Việt Nam lại không có quy định. Điều này chắc hẳn
có ảnh hưởng đến quyền lợi của người hành nghề tham vấn tại Việt Nam?
NTV: Đạo đức hành nghề là một trong những điều kiện cần để khẳng định một
người hành nghề nào đó là chuyên nghiệp, giúp người hành nghề hướng đến những
giá trị cao đẹp của nghề nghiệp…” không phải chỉ có một điều kiện cần là “đạo đức
đúng - đạo đức đẹp” thì sẽ hành nghề chuyên nghiệp.
Chị có thể chia sẻ những khó khăn của chính mình? những câu chuyện thực tế,
chẳng hạn như có bao giờ chị gặp rắc rối với thân chủ liên quan đến vấn đề này?
NTV: Câu này có gợi ý giả định nhiều, và “đạo đức nghề” hiện tại vẫn là khái
niệm chủ quan với mỗi cá nhân hành nghề tham vấn. Vì thế trước khi trả lời đúng, đủ,
cần thiết nêu rõ định nghĩa cá nhân của người trả lời về “đạo đức nghề”.
Cá nhân tôi áp dụng quy chuẩn của ICF (International Coach Federation). Tôi có thể
chia sẻ theo gợi ý: nếu thân chủ không chia sẻ câu chuyện thật, tôi dùng kỹ thuật phản
hồi để bày tỏ cảm nhận của mình đồng thời tôn trọng góc nhìn và quyền chia sẻ của
thân chủ. Nếu thân chủ chọn chia sẻ “một phần của câu chuyện”, nghĩa là coach cần
build trust more để thân chủ cảm nhận được “unconditional positive regards” và
“curiousity without judgment” của coach đối với câu chuyện của thân chủ.
Khi bắt đầu buổi tham vấn NTV thường giải thích về khung làm việc của mình.
Trong đó có nói đến một nguyên tắc bảo mật thông tin của thân chủ, đối với trường
hợp ngoại lệ NTV được quyền tiết lộ thông tin mà không cần trao đổi, xin ý kiến thân
chủ. Thông thường thân chủ có phản ứng như thế nào khi nghe đến nguyên tắc ngoại
lệ này?
NTV: Thông thường họ đồng ý. Ít thông thường hơn, nếu có chi tiết nhạy cảm,
thân chủ sẽ có biểu hiện gia tăng mức độ phòng vệ, ít cởi mở.
Trường hợp nếu thân chủ không chấp nhận trường hợp ngoại lệ, chị xử lý như
thế nào?
NTV: Cá nhân tôi chưa từng gặp trường hợp này nên không có trải nghiệm
thực tế. Tưởng tượng nếu gặp, tôi sẽ xem xét ai/điều gì quan trọng nhất hiện tại, có
nguy cơ tử vong hoặc thân chủ mất ý thức hay không, và quyết định tôn trọng lựa
9
chọn của thân chủ, xin phép nếu tôi nhận thấy có nguy cơ. Tôi có thể hỏi lại ý kiến
của thân chủ và có quyết định theo tình huống/thời điểm.
Đối với vấn đề bảo mật thông tin cho thân chủ, nên truyền đạt như thế nào để
thân chủ hiểu đây là vấn đề thuộc về quy định nghề nghiệp? Cách truyền đạt riêng
của chị như thế nào ạ?
NTV: Người hành nghề được dạy nguyên tắc, còn nội dung và ngôn từ có thể
được điều chỉnh, cá nhân hóa bởi mỗi người tư vấn. “Truyền đạt như thế nào” là
người hỏi muốn hỏi về nguyên tắc hay câu chữ? Nguyên tắc thì ai cũng được học, còn
nếu là về câu chữ có một vài gợi ý, và có thể là một công thức tồi nếu ai đó đọc
nguyên si vậy.
Chẳng hạn: “Em yên tâm là tất cả những điều em chia sẻ sẽ được giữ bí mật. Trong
quá trình tư vấn, em có thể thấy tôi thỉnh thoảng ghi chú, và những ghi chú này được
lưu riêng vào tủ có khóa, do tôi giữ, giúp tôi có thể nhớ đúng và đủ những điều chính
yếu về câu chuyện của em. Khi chúng ta tình cờ gặp nhau bên ngoài, có thể chúng ta
sẽ không chào nhau, và đó cũng là một trong những cách bảo mật thông tin của
tôi….”
Chị sẽ làm gì với thân chủ khi nhận thấy thân chủ có biểu hiện lệ thuộc vào
mình? Việc để cho họ “dựa” có vi phạm đạo đức nghề không?
NTV: “Làm gì” tùy thuộc vào trường hợp và tình huống cụ thể. Tôi có thể chia
sẻ nguyên tắc là dùng kỹ thuật phản hồi và đặt câu hỏi dạng “powerful question” để
khơi gợi tính chủ động của thân chủ.
Việc để cho họ “dựa” có vi phạm đạo đức nghề hay không tôi không trả lời được, vì
chưa nêu được định nghĩa và phạm vi “đạo đức nghề” ở đây. Quan điểm cá nhân là
khi nhà tư vấn để cho thân chủ dựa, họ cần giải thích mục đích, lý do và phạm vi, mức
độ “cho dựa” với thân chủ. Nếu không, đó là biểu hiện của sự thiếu chuyên nghiệp,
thiếu năng lực hơn là kém đạo đức.
Chị có bao giờ nói “tôi sẽ giữ bí mật tuyệt đối cho thân chủ” không?
NTV: Không. Vì tuyệt đối là một từ cực đoan, và không có gì tuyệt đối, ngay
cả khi thân chủ không nói gì.
Người làm tham vấn ở Việt Nam dễ vi phạm nguyên tắc đạo đức nào trong các
nguyên tắc đạo đức của nước ngoài quy định?
10
NTV: Người làm tham vấn ở Việt Nam hay phán xét và cho lời khuyên, hoặc
bình phẩm sau lưng thân chủ, lấy câu chuyện của thân chủ làm chuyện phiếm.
Chị nghĩ gì khi đồng nghiệp của mình làm như vậy?
NTV: Tôi nghĩ là không nên trả lời câu hỏi này, cũng như chả nghĩ gì về những
đồng nghiệp ấy, lo chuyện mình đi.
Giữ đạo đức nghề trong bối cảnh Việt Nam không có một quy định nào cho
nghề này theo anh chị là dễ hay khó?
NTV: Dễ hay khó do mình. Với tôi là dễ.
Hiện nay, có quá nhiều cá nhân không học tâm lý cũng trở thành nhà tham vấn
trị liệu? Theo anh chị đây có phải là hệ lụy của việc thiếu quy định về nghề hay chỉ là
những “cá biệt”?
NTV: Cả hai gợi ý đều đúng, là hệ lụy của việc thiếu quy định về nghề và là
những cá biệt. Vì câu hỏi thiếu yếu tố định tính, nên trả lời chuẩn xác là không thể.
Những cá biệt không học tâm lý cũng trở thành nhà tham vấn trị liệu là những cá biệt
nào? Và nếu “có quá nhiều” thì có còn là “cá biệt”?
Theo chị nên làm gì để đạo đức nghề được người trong ngành tuân thủ?
NTV: Cá nhân tôi nên làm gương.
Trong điều kiện nước ta nhà tâm lí chưa được pháp luật bảo vệ một cách phù
hợp như vậy, chị có xây dựng nguyên tắc riêng để bảo vệ sự an toàn của bản thân?
NTV: Có. Và không (NTV không muốn chia sẻ cụ thể, cho rằng bản thân áp
dụng theo ICF).
Đạo đức nghề giúp làm rõ trách nhiệm của chuyên gia với xã hội, mang lại sự
yên tâm cho xã hội đồng thời giúp các chuyên gia duy trì sự công bằng và liêm chính
trong quá trình hành nghề, ngành nghề nào cũng có những quy định về đạo đức nghề
nghiệp nhưng tâm lý học thì không. Phải chăng nghề này không được thừa nhận tại
Việt Nam? Với tư cách là một Nhà Tâm Lý Học theo chị chúng ta nên làm gì để nghề
được công nhận như những ngành nghề khác?
NTV: “Phải chăng nghề này không được thừa nhận tại Việt Nam?” – Ai thừa
nhận? “Với tư cách là một nhà tâm lý học theo anh/chị chúng ta nên làm gì để nghề
được công nhận như những ngành nghề khác?” – Tôi chỉ trả lời được từ cá nhân tôi:
“Tôi làm gương về tuân thủ nguyên tắc hành nghề, các tiêu chuẩn và năng lực cốt lõi,
theo ICF.
11
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Có thể nói đạo đức nghề Tham vấn –Trị liệu trong bối cảnh Việt Nam hiện nay
là một chủ đề rất rộng để bàn luận. Việc chưa được thừa nhận cũng như chưa có quy
định về nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp dẫn đến rất nhiều mặt tiêu cực trong xã hội.
Dựa vào nội dung phỏng vấn chúng tôi đúc kết và rút ra bài học sau:
Thứ nhất: Việc áp dụng nguyên tắc của nước ngoài, đôi khi có những vấn đề
không phù hợp với văn hóa xã hội Việt Nam dẫn đến mỗi NTV áp dụng một kiểu, họ
tự xây dựng cho mình chuẩn mực riêng để bảo vệ mình và nghề. Chính sự không
thống nhất này dễ đưa đến hệ lụy, các NTV không thể cùng nhau đóng góp ý kiến, xây
dựng phát triển nghề và cùng nhau làm trong sạch đạo đức nghề.
Mặt khác, xét trong mối tương quan với thân chủ, NTV ở một mức độ nhất
định có quyền lực trong quan hệ tham vấn. Việc không tuân thủ theo các nguyên tắc
đạo đức có thể thực sự làm hại thân chủ. Tuy nhiên các Nhà Tâm Lý Học làm công
tác tham vấn, trị liệu ở nước ta lại chưa có những quy định chung này. Hiện Việt Nam
chỉ tồn tại những quy tắc riêng lẻ do các trung tâm tự ban hành và chỉ áp dụng với các
thành viên của họ/ các NTV chủ động xây dựng riêng cho mình bộ nguyên tắc để vừa
giúp đỡ được thân chủ, vừa bảo vệ sự an toàn của bản thân, dựa trên các yêu cầu đạo
đức nghề đã được học của mỗi người. Tình hình này dẫn đến không kiếm soát được
những người hành nghề tham vấn, trị liệu nên sẽ khó bảo vệ được lợi ích của thân chủ
và đặc biệt bảo vệ vị trí của nghề này trong xã hội. Do đó, người làm tham vấn cũng
dễ vi phạm nguyên tắc đạo đức như là: lợi dụng tình dục; bóc lột người khác; lệch lạc
chức năng; thích được sùng bái, hay phán xét và cho lời khuyên, hoặc bình phẩm sau
lưng thân chủ, lấy câu chuyện của thân chủ làm chuyện phiếm….
Thứ 2: Tại Việt Nam, có khá nhiều người không có chuyên môn, không được
đào tạo về tâm lý học, hoặc mới chỉ qua một vài khóa tập huấn về tham vấn cũng hoạt
động trong lĩnh vực tham vấn và tự nhận mình là “nhà tham vấn” đang là vấn đề đáng
lo ngại. Điều này không chỉ gây nguy hiểm cho người sử dụng dịch vụ (thân chủ) mà
nó còn làm xấu đi hình ảnh của nghề tham vấn, đồng thời ảnh hưởng đến những Nhà
Tâm Lý Học được đào tạo bày bản và hành nghề chân chính. Bên cạnh đó, thân chủ ở
Việt Nam - người sử dụng dịch vụ tham vấn tâm lý, do không đủ hiểu biết hoặc
thường không có nhiều thông tin về dịch vụ này nên không đủ cơ sở để “phản biện”
12
lại người tham vấn tâm lý cho họ dẫn đến dễ dàng chấp nhận những nguyên tắc mà
NTV đưa ra khi bắt đầu quá trình tham vấn.
Thứ 3: Tham vấn tâm lý là nghề đặc thù liên quan đến sức khỏe tinh thần của
con người. Điều này đòi hỏi sự “trong sáng về đạo đức” của người hành nghề. Nhưng
chúng ta có xu hướng suy diễn thông tin, tình huống và hành vi của người khác dựa
trên hệ thống giá trị của chúng ta. Điều này dẫn dắt hoặc định hướng các phản ứng của
chúng ta đối với người khác, nên có thể hành động của người hành nghề không mang
lại kết quả tốt nhất cho thân chủ.
Thứ 4: Trong hành nghề, mỗi NTV có một cách riêng của mình sao cho phù
hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Vì vậy nó có tính chất tham khảo chứ không phải để
áp dụng cứng nhắc, bắt chước nguyên mẫu.
Mục đích chính của thực hành các nguyên tắc đạo đức trong tham vấn tâm lý là
để phục vụ tốt nhất cho thân chủ và giữ tương quan thích hợp cho thân chủ và nhà
tham vấn. Mối tương quan trị liệu được xây dựng bằng cách cốt lõi là duy trì niềm tin
nơi thân chủ. Bên cạnh đó, khi chạm vào các vấn đề thâm sâu của cá nhân người khác,
nhà tham vấn cần phải duy trì tính chính trực và kiểm soát được hành vi, thái độ, ngôn
ngữ và chuẩn mực của mình. Chính các nguyên tắc đạo đức là nền tảng cho nhà tham
vấn có những quyết định hợp tình hợp lý trong những tình huống khó khăn và nhạy
cảm. Trong những tình huống phát sinh tranh chấp, nguyên tắc đạo đức trong tham
vấn sẽ là phương tiện pháp lý bảo vệ nhà tham vấn.
Mối quan hệ tham vấn phải luôn dựa trên lợi ích của thân chủ, tôn trọng giá trị
khác nhau nơi mỗi cá nhân. Sự nâng đỡ tinh thần bằng kiến thức chuyên môn và cái
tâm của nghề thể hiện, tuyệt đối không bỏ rơi thân chủ giữa tiến trình trị liệu.
Người làm tham vấn phải tuân theo những nguyên tắc đạo đức hành nghề bắt
buộc, có như thế mới hướng đến sự chuyên nghiệp trong quá trình hành nghề, nâng
cao được uy tín và vị thế nghề nghiệp trong xã hội. Đạo đức trong tham vấn chính là
thước đo quyết định xem hành vi của NTV.
Mặc dù hiện tại Việt Nam chưa có bộ luật quy định về các tiêu chuẩn đạo đức
trong hành nghề tâm lý nhưng các chuẩn mực đạo đức của Hiệp hội Tham vấn Hoa
Kỳ nói riêng và các hiệp hội khác trên Thế giới nói chung vẫn được coi là các tiêu
chuẩn hướng dẫn và đánh giá những hành xử cho hầu hết các chuyên gia tham vấn
trên thế giới sử dụng. Vì tất cả đều xuất phát từ những quan điểm nhân văn và dựa
13
trên một tập hợp “những chân lý mang tính toàn cầu”. Mặc dù, các quy điều đạo đức
này vẫn cần được thể chế hóa dựa trên nền tảng pháp lý của mỗi quốc gia. Nói một
cách nôm na là trước khi được nhà nước công nhận, bảo vệ và xây dựng nguyên tắc
đạo đức nghề, thì mỗi cá nhân hành nghề phải biết tự bảo vệ chính mình và nghề
nghiệp của mình. Giữ gìn sự trong sạch của nghề dựa vào nguyên tắc của nước ngoài
nói riêng (vì suy cho cùng các nguyên tắc này đều xây dựng dựa trên nền tảng bảo vệ
quyền lợi của con người) và hệ thống giá trị đạo đức cốt lỗi của nhân loại nói chung.
14