66

C DÂN TỘC BẮC BỘ - msenmediastorage.blob.core ... · này rất được ưa chuộng trong xã hội thời phong kiến do các tập tục tế lễ thánh thần là một

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

2 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT”

KHÁM PHÁ NÉT ĐẸP ÂM NHẠC VIỆT

MÔN GDCD 10

THỰC HIỆN: NHÓM NGHIÊN CỨU – LỚP 10A3

3 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

DỰ ÁN: “GIŨ HỒN QUÊ VIỆT” – MÔN: GDCD LỚP 10

NHÓM NGHIÊN CỨU – C03er’s THỤC HIỆN

ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ

TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN

4 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

MUC LUC

NỘI DUNG TRANG

PHẦN 1: GIỚI THIỆU

- Lời nói đầu ....................................................................................

- Tổng quan về âm nhạc dân tộc Bắc bộ ................................................

PHẦN 2: CÁC THỂ LOẠI

- Chương 1:

HÁT XOAN .........................................................................

- Chương 2:

QUAN HỌ BẮC NINH .......................................................

- Chương 3:

XẨM ....................................................................................

- Chương 4:

CA TRÙ ...............................................................................

- Chương 5:

CHẦU VĂN .........................................................................

- Chương 6:

HÁT TRỐNG QUÂN ..........................................................

PHẦN 3: ĐÚC KẾT

Thực trạng dân ca Bắc Bộ trong đời sống hiện nay .......................

Lời kết .............................................................................................

. .

6

7

10

18

31

38

42

51

59

63

5 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

PHẦN 1

GIÓI THIÊU

BẢN ĐỒ PHÂN BỐ CÁC DI SẢN VĂN HÓA – CÁC THỂ LOẠI DÂN CA

BẮC BỘ

6 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

LOI NÓI DAU

Việt Nam là một quốc gia có nền văn hóa lâu đời, trải qua lịch sử dựng

nước và giữ nước hàng nghìn năm, các giá trị văn hóa, tinh thần không

ngừng được xây dựng, bồi đắp tạo nên mang bản sắc riêng của dân tộc

Việt, trong đó âm nhạc truyền thống chiếm một vị trí vô cùng quan trọng.

Trong kho tàng văn hóa của phi vật thể âm nhạc dân tộcc mang đậm bản

sắc truyền thống vì nó là tiếng nói của tâm hồn của người dân Việt nam, nó

phản ánh phong tục , lối sống, tâm hồn, cốt cách của con người Việt nam.

Âm nhạc dân tộc là di sản vô cùng quý báu của dân tộc ta và là một trong

những yếu tố quan trọng nhất giúp chúng ta không bị hòa tan trong quá

trình hội nhập. Hiện nay giới trẻ những chủ nhân tương lai của đất nước

đang có xu hướng chạy theo các thể loại âm nhạc hiện đại du nhập từ

nước ngoài, mà không quan tâm đến nền âm nhạc dân tộc đang bị hao

mòn theo năm tháng, đó là một thực tế đáng buồn và lo. Để đóng góp một

phần nhỏ trong việc giải quyết thực trạng này, với mong muốn quảng bá

loại hình dân ca dậm đà bản sắc dân tộc Việt, chúng tôi xin gửi đến đến các

bạn trẻ cuốn tài liệu: Tìm hiểu âm nhạc dân tộc Bắc Bộ. Trong cuốn sách

này chúng tôi giới thiệu đến các bạn học sinh những loại hình dân ca Bắc

Bộ và âm nhạc truyền thống tiêu biểu như hát xoan, ca trù, quan họ Bắc

Ninh, chầu văn, hát xẩm, trống quân. để các bạn hiểu hơn về âm nhạc dân

tộc ta. Hy vọng cuốn sách này sẽ hướng tình yêu âm nhạc của các bạn trẻ

nói chung và học sinh Phú Nhuận nói riêng trở về với cội nguồn để rồi có ý

thức giữ gìn và phát huy những di sản văn hóa cha ông đã để lại cho chúng

ta.

Trong quá trình tìm hiểu và khai thác kiến thức, nếu có điều gì sai sót

mong nhận được sự góp ý, bổ sung chân tình từ phía độc giả. Thay mặt

ban biên tập chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ và những đóng

góp quý báu của các bạn.

Nhóm nghiên cứu lớp 10A3

7 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

TÔNG QUAN VÊ DÂN CA

I. GIÁ TRỊ CỦA DÂN CA

1. Giá trị giáo dục

Các làn điệu dân ca và nhạc dân tộc sâu lắng mượt mà giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của quê hương, đất nước, gắn kết tình cảm giữa người với người… từ đó mỗi người sống đẹp hơn, tốt hơn. Các bài hát dân ca có khả năng tác động mạnh mẽ vào tâm tư, tình cảm của con người, giúp ta phát triển các phẩm chất tư duy, trí tuệ, thể chất, những tình cảm đạo đức tốt đẹp,cách ứng xử giao tiếp với mọi người. Từ đó hình thành tình yêu với âm nhạc dân tộc, chính tình yêu đó giúp mỗi chúng ta có ý thức giữ gìn và trân trọng bản sắc văn hóa dân tộc mình. 2. Giá trị lao động

Dân ca là một thể loại ca hát dân gian, chủ yếu bắt nguồn từ môi trường nông ngư nghiệp ở các vùng nông thôn. Cũng có thể bắt nguồn từ một cá nhân có năng khiếu dệt nhạc vào một bài ca dao, tục ngữ hay đồng dao.Những làn điệu dân ca và những thể loại âm nhạc dân tộc khác được cha ông ta sáng tác trong quá trình lao động phản ánh những hoạt động của cuộc sống. Những bài hát có chức năng hỗ trợ các thao tác lao động trên cạn như: ru em, xay lúa, giã gạo, tát nước, kéo gỗ, hò giã vôi…, trên sông nước thì có hò chèo thuyền, kéo lưới, hò khoan… làm bớt đi sự căng thẳng mệt mỏi trong quá trình lao động, đồng thời khiến cho tinh thần của người lao động hưng phấn hơn, giúp cho quá trình lao động được năng suất hơn, đạt kết quả cao hơn.

3. Giá trị sinh hoạt

Những làn điệu dân ca và những thể loại âm nhạc dân tộc khác ra đời trong lao động, khi sinh hoạt hội hè đình đám hay những lúc nông nhàn dưới những hình thức hát đối đáp, hát giao duyên…Những người tham gia thường sử dụng các câu ca dao, bằng thủ pháp chêm, đệm, chèn, láy… mang tính ngẫu hứng đã hình thành nên những làn điệu đặc trưng , kết hợp với hành động để diễn xuất từ đó tạo nên nghệ thuật diễn xướng đặc sắc mang bản sắc riêng cho từng loại hình dân ca ở các đia phương. Có

8 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

thể thấy rõ chức năng sinh hoạt trong các thể loại hát Ví, hát Quan họ, Trống quân, Giặm, hát Lý, hát Đúm…

4. Giá trị tâm linh

Dân ca nghi lễ thường gắn liền với lễ hội. Để phục vụ cho nghi thức lễ hội, nhiều địa phương đã sáng tạo nên những điệu hát múa cho phù hợp như hát Chầu văn, hát Cửa đình (cửa đền), hát lễ phục vụ cho nghi lễ thờ phụng thánh thần ở các đình hay đền làng sở tại. Những lọai hình dân ca này rất được ưa chuộng trong xã hội thời phong kiến do các tập tục tế lễ thánh thần là một nhu cầu quan trọng không thể thiếu trong đời sống của các cộng đồng cư dân nông nghiệp.

5. Giá trị nghệ thuật

Trải qua thời gian với sự sàng lọc tinh hoa của dân tộc, một số thể loại dân ca và nhạc dân tộc đã phát triển vượt ra khỏi khuôn khổ đất nước Việt Nam ta như Hò Huế, Ca trù, Quan họ Bắc Ninh, thể loại sân khấu Tuồng, Chèo, cải lương để đến với thế giới và được bạn bè quốc tế yêu thích. Ngoài ra cũng đã có những điệu dân ca và nhạc dân tộc đã được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại như: Dân ca Quan họ của Bắc Ninh, Ví giặm Nghệ Tĩnh, Đờn ca tài tử Nam bộ

II. KẾT LUẬN

Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, cùng với sự gìn giữ của dân

tộc dân ca và nhạc dân tộc vẫn có sức sống bền chặt trong lòng mỗi người

dân Việt Nam. Vì thế dân ca có nhiều ý nghĩa, vai trò không chỉ chứng tỏ

bản sắc văn hóa của dân tộc mình, mà còn góp phần làm giàu, làm phong

phú, đa dạng thêm kho tàng văn hóa âm nhạc Việt Nam trên thế giới

9 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

PHẦN 2

CÁC THE LOAI

10 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

CHUONG 1: HÁT XOAN I. GIỚI THIỆU

1) Khái niệm át xoan là loại hình dân ca lễ nghi phong tục hát thờ thần, thành hoàng với hình thức nghệ thuật đa yếu tố: có nhạc, hát, múa; thường được biểu diễn vào dịp đầu xuân, phổ biến ở vùng đất tổ Hùng Vương - Phú Thọ, một tỉnh thuộc vùng trung du Việt Nam. 2) Lịch sử Hát Xoan là một di sản văn hóa phi vật thể quý giá của vùng đất Tổ Hùng Vương. Hát Xoan Phú Thọ thuộc loại hình dân ca lễ nghi phong tục, là hát cửa đình, hội tụ đa yếu tố nghệ thuật như nhạc, hát, múa... Nguồn gốc của Hát Xoan gắn với những giai thoại của thời đại Vua Hùng dựng nước. Các làng xoan gốc đều là những ngôi làng cổ nằm trên địa bàn trung tâm nước Văn Lang, vì vậy hát xoan còn bảo lưu được nhiều yếu tố văn hóa cổ của thời đại bình minh dựng nước... Hát xoan được vinh danh góp phần tôn vinh các giá trị, đạo lý của Việt Nam, khẳng định vị thế dân tộc Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.

II. ĐẶC ĐIỂM CHUNG

1. Đặc trưng Một lần vào mùa xuân, ba anh em Hùng Vương đi tìm đất dựng thành, nhân lúc nghỉ chân ở ven rừng, vua trông thấy lũ trẻ chăn trâu đùa nghịch và hát đồng dao. Vua cho gọi chúng đến trò chuyện và bảo chúng hát cho nghe. Nghe xong, vua truyền dạy cho lũ trẻ những điệu hát múa của người Lạc Việt trên đất Văn Lang. Để tưởng nhớ ơn vua, nhân dân quanh vùng đã dựng ngôi miếu trên đất đó để thờ vua, tục gọi là miếu Lãi Lèn. Miếu ấy

H

Hát xoan (Nguồn: lienketviet.net)

11 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

nay ở xã Kim Đức, thành phố Việt Trì, Phú Thọ. Từ khi có miếu Lãi Lèn, cứ đến ngày 30 tháng Chạp hằng năm, dân các làng lại làm cỗ cúng vua. Từ sáng mùng 1 đến hết ngày mùng 5 tháng Giêng, dân làng tiếp tục tổ chức những canh hát nghi lễ để thờ vua - trình diễn lại những điệu hát múa được vua trao truyền, với mục đích cầu mong vua giáng phúc cho dân làng một năm an hoà. Nghệ thuật Hát Xoan bắt nguồn từ đó. Thường vào mùa xuân, có các phường xoan lần lượt khai xuân ở đình, miếu làng. Vào ngày mùng 5 âm lịch thường hát ở hội đền Hùng. Thời điểm hát được quy định tại một điểm nhất định, mỗi "phường" chọn một vị trí cửa đình. Hát cửa đình giữ cửa đình mục đích nhân dân địa phương kết nghĩa với nhau.Theo lệ dân tại chỗ là vai anh, họ (làng khác) là vai em. Khi kết nghĩa rồi cấm trai gái hai bên dân và họ kết hôn với nhau do là anh em. Phường hát xoan là một tổ chức văn nghệ của làng, phần lớn là những người có quan hệ họ hàng với nhau. Hát Xoan là tiếng hát dâng thần linh, cầu chúc, khấn nguyện thần linh ban phúc cho dân làng... Đứng đầu một phường Xoan là ông trùm phường - người dạy nghệ thuật hát xoan, đồng thời là người tổ chức biểu diễn.Theo hầu ông trùm là các cô đào trẻ. Trong hát xoan, múa và hát luôn đi cùng kết hợp với nhau, dùng điệu múa minh họa nội dung cho lời ca 2. Phân loại Có 3 hình thức hát xoan: a) Hát thờ

Tưởng nhớ các Vua Hùng, các vị thần, những người có công với dân, với nước và tổ tiên của các dòng họ. b) Hát Nghi lễ

- Hát Nghi lễ để ca ngợi thiên nhiên, con người, đời sống sản xuất, sinh hoạt của cộng đồng, qua 14 làn điệu khác nhau, gọi là 14 Quả cách c) Hát hội

Hát hội (Nguồn: dulich24.com.vn)

12 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

Hát Hội (trong đó có Hát Giao duyên) để bày tỏ khát vọng cuộc sống, tình cảm, tình yêu nam nữ và phục vụ nhu cầu văn hóa của cộng đồng, với những làn điệu đậm chất trữ tình, vui nhộn, được thể hiện qua hình thức hát đối đáp giữa trai, gái làng sở tại và các Đào, Kép của phường Xoan… Tuy nhiên, tùy theo hoạt động hội lệ ở các địa phương, nhiều trường hợp Hát Xoan chỉ trình diễn một hoặc hai trong ba chặng hát nêu trên. 3. Biểu diễn Trong hát Xoan, múa và hát luôn kết hợp với nhau. Các tiết mục múa hát thường theo thứ tự nhất định. Mở đầu là 4 tiết mục có tính nghi thức, mang nội dung khấn nguyện, chúc tụng, xen mô tả sản xuất. Đây là những bài ca cổ, chủ yếu hát nói hoặc ngâm ngợi, theo thứ tự là giáo trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám. Tiếp theo là phần hát quả cách. Mười bốn quả cách trong hát Xoan là các đề tài khác nhau mô tả lao động, sinh hoạt ở nông thôn, ca ngợi cảnh vật thiên nhiên. Sau phần hát cách đến các tiết mục với nội dung đậm nét trữ tình, mang dáng dấp của các bài dân ca, ví giao duyên, hát trống quân. Mỗi tiết mục nối tiếp nhau ở đây thường gắn với lối diễn mang tính chất hoạt cảnh như: hát gái, bỏ bộ, xin huê, đố chữ, gài huê, hát đúm... Mỗi năm hát Xoan có ba cuộc hội ngộ lớn nhất vào mồng 3 tháng Giêng khởi đầu cuộc lưu diễn xuân, mồng 10 tháng 3 giỗ Tổ vua Hùng và đại tiệc thờ vua Hùng mồng 10 tháng 9. Vào những thời điểm đó không khí Xoan náo nức trải khắp cả bốn phường Xoan gốc (Thét, An Thái, Phù Đức, Kim Đới) và các làng sở tại có mời phường Xoan đến hát thờ. Khi những lá non đầu xuân xòe cánh cũng là lúc cả phường Xoan đi phụ giá theo kiệu tới các làng sở tại để hát Xoan. Khác với kép trong phường,

Biểu diễn hát xoan (Nguồn: dulich24.com.vn)

13 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

các đào Xoan phải giúc vào dưới chân kiệu, vừa đi vừa hát từ làng mình cho tới đình làng sở tại.Khuôn mặt đào nào cũng trang nghiêm mà tươi tắn lắm. Cuối cuộc lưu diễn, phường Xoan thường được làng sở tại biếu ván xôi con gà.Mọi người để dành xôi lại gửi nhà dân đến hôm về đem giã bánh dày làm quà cho gia đình.Những lần được biếu lợn thì cả phường Xoan sẽ làm bữa liên hoan vui vẻ. 4. Âm nhạc Âm nhạc trong hát Xoan được cấu thành chủ yếu từ những thang 3 âm, 4 âm. Giai điệu Xoan mộc mạc, tiết tấu đơn giản, giọng hát gần gũi với giọng nói. Nhạc cụ trong Hát Xoan chỉ dùng một chiếc trống nhỏ, hai mặt bịt da và đôi ba cặp phách tre. Bài bản Xoan được kết hợp hài hòa giữa nhạc, thơ và giọng điệu. Trong Hát Xoan còn có các điệu múa, kết hợp với việc sử dụng các đạo cụ, như quạt, phách tre, nậm rượu... Lời Xoan thường được thể hiện dưới dạng thơ song thất lục bát, thất ngôn, lục bát, lục bát biến thể, bốn từ, sáu từ…

III. CÁC NGHỆ NHÂN – NGHỆ SĨ NỔI TIẾNG

1. Nghệ nhân dân gian Lê Thị Tú a) Cuộc đời

Nghệ nhân Lê Thị Tú đã 77 tuổi. Đã ở cái tuổi “thất thập cổ lai hy” nhưng niềm say mê của bà với hát Xoan vẫn như ngày nào. Bà sinh ra và lớn lên trong một gia đình có nhiều người là đào, kép Xoan nên tuổi thơ của bà đã thắm đượm những làn điệu Xoan. Thừa hưởng “gen” từ mẹ, lại được cậu, chú ruột dạy hát nên càng ngày, bà càng phát huy năng khiếu của mình. Bà kể, năm 13 tuổi bà đã thuộc và biểu diễn thuần thụcnhiều bài Xoan cổ. Thông thường đối với nhiều người, mới đầu tập hát Xoan nhất là các điệu hát thờ rất khó, nhưng đối với nghệ nhân Lê Thị Tú thì khác, nó như một bản năng mà ông trời đã

Nghệ Nhân Dân Gian Lê Thị Tú (Nguồn: denhung.org.vn)

14 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

ưu ái ban cho một thiếu nữ có niềm đam mê cháy bỏng. Lớn lên, bà hát được tất cả các điệu Xoan mà hát điệu nào cũng hay. Càng hát nhiều bà lại càng hiểu và thấm thía những ý nghĩa sâu sắc của các câu Xoan cổ. Những lời khuyên, răn mộc mạc trong những câu Xoan nhưng lại có giá trị giáo dục vô cùng to lớn.

Khuyên bạn có chí học cho hay Cơm 3 bữa đã có cha cày mẹ cấy Áo 4 mùa đã có bác mẹ may Cờ bạc, cò quay xin bạn lánh mặt Bút nghiên, đèn sách bạn chớ rời…

Hơn 60 năm gắn bó với hát Xoan, điều hạnh phúc nhất chính là khi mình biểu diễn, khán giả chăm chú nghe và say mê câu hát. Còn nhớ năm 2005, tôi vinh dự được sang Thái Lan biểu diễn, lúc ấy được đi nước ngoài và mang theo những làn điệu quê hương trình diễn cũng phấn khởi lắm. Niềm vui ấy như được nhân lên gấp bội khi mình xuất hiện trên sân khấu được khán giả chào đón nồng nhiệt. Nhạc cụ giản đơn chỉ với cái trống con nhưng trong buổi biểu diễn hôm đó, những tiết mục Xoan đã thu hút được sự chú ý của khán giả và để lại những ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn bè quốc tế. Cuộc sống khó khăn về vật chất cũng không làm niềm đam mê hát Xoan trong bà ngừng cháy. Hiện tại, vợ chồng bà đang sống cùng với người con bị nhiễm chất độc màu da cam, lúc ngơ lúc ngẩn. Mảnh đất khô cằn, sỏi đá chỉ trồng được vài củ sắn, nuôi thêm vài con gà, mấy đàn ong… cuộc sống thiếu thốn đủ đường nhưng những câu hát mộc mạc vẫn theo bà réo rắt mấy chục năm qua. Hiện nay, 2 con gái của bà cũng tham gia hát Xoan mỗi dịp hội hè, tết đến. Không chỉ truyền dạy cho con cháu trong nhà, hễ ai muốn học hát Xoan, bà Tú đều vui vẻ nhận lời dạy miễn phí. Tối đến, nhất là những ngày cuối tuần, sau khi cơm nước xong xuôi là bọn trẻ trong khu lại tụ tập tại nhà bà Tú để học hát. Cách dạy Xoan của bà vẫn theo lối của thế hệ trước là truyền khẩu. Bà hát mẫu, trò ca theo, người hát vì thế thả hồn vào từng câu hát một cách tự nhiên và truyền cảm. Những điệu hát Xoan tưởng như sắp thất truyền giờ đây lại được ngân vang trong từng ngõ xóm. b) Giải thưởng

15 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

Với những đóng góp không nhỏ trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản hát Xoan: - Năm 2010, bà Nguyễn Thị Tú vinh dự được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian. - Năm 2012, bà được Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ tặng Bằng khen. Đây chính là sự động viên lớn lao để bà tiếp tục “sự nghiệp” truyền dạy hát Xoan cho thế hệ trẻ. 2. Nghệ nhân Nguyễn Thị Sủng a) Cuộc đời

Nghệ nhân Nguyễn Thị Sủng sinh năm 1927 ở TP Việt Trì, Phú Thọ. Từ nhỏ, nghệ nhân Nguyễn Thị Sủng có mẹ và chị gái theo phường Xoan nên thường cất giọng ca luyện Xoan ở nhà. Cứ thế, âm điệu trữ tình của Xoan ngấm dần vào cụ, tự nhiên như từng hơi thở. Mới 15 tuổi, cụ Sủng đã bước chân vào làm đào trong phường Xoan Thét. Nghệ nhân Nguyễn Thị Sủng hiện nay đang làm cố vấn cho lớp đào tạo nghệ nhân kế cận và truyền dạy hát Xoan Phú Thọ năm 2013 – 2014 cho 143 học viên. Cụ Sủng là truyền nhân sống quý báu còn lưu giữ được nét nguyên trạng của hát Xoan. Cách dạy Xoan của cụ Sủng cho học trò vẫn theo lối của thế hệ trước là truyền khẩu. Nghệ nhân hát mẫu, trò ca theo. Cứ thế tạo thành bè nhịp điệu của Xoan vừa vang vừa vọng. Người hát Xoan phải thả hồn vào từng câu hát mới tạo nên vẻ tự nhiên và truyền cảm. Nhiều người dân ở xã Kim Đức vẫn thấy nghệ nhân Nguyễn Thị Sủng tay cầm đèn tay chống gậy lọ mọ đi bộ một mình tới nhà văn hóa khu, hoặc UBND xã để dạy hát Xoan cho mọi người.

Nghệ nhân Nguyễn Thị Sủng (đứng thứ 3

từ trái sang) biểu diễn ở đình Thét (Nguồn: phutho.gov.vn)

16 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

Dù cuộc sống ở vùng quê nghèo vẫn còn gánh nặng cơm áo, dẫu tuổi đã cao mắt mờ lưng còng, hay tấm áo đào đã mòn cùng năm tháng, nghệ nhân Nguyễn Thị Sủng vẫn hát say sưa khúc ca Xoan. * Đến chết mới thôi hát Xoan

Dù đã mắt mờ răng rụng, song âm vực của nghệ nhân Nguyễn Thị Sủng vẫn còn chắc khỏe lắm, lời ca vẫn ràng rọt, tay múa chân đưa mềm dẻo các điệu Xoan từ Giáo trống giáo pháo, Ngư tiều canh mục, Đưa hương, Đóng đám… Cụ Sủng có chất giọng hát Xoan vừa ngân nga như tiếng nước chảy vừa êm đềm giống lời mẹ ru. Cách biểu cảm trên khuôn mặt và điệu múa của cụ khiến người nghe cảm thấy ấm áp và thân thiện. Thì ra Xoan đẹp đến vậy, đẹp mộc mạc mà thiêng liêng làm lưu luyến lòng người. Nghệ nhân Sủng tiết lộ vẫn còn thuộc làu làu được 7 chữ vua Hùng. Hiện nay chỉ may ra có một, hai người còn thuộc được các chữ hát thờ này. Ông trùm Nguyễn Ngọc Bảo (phường Xoan Thét) đánh giá: “Cụ Sủng thuộc Xoan tận trong tâm trí, nhiều trùm phường như trùm Đọc và tôi đã từng theo học cụ. Nhiều học trò của cụ Sủng hiện nay cũng đã được phong làm nghệ nhân.” Là người nghiên cứu về hát Xoan, ông Nguyễn Anh Tuấn, Giám đốc Bảo tàng Hùng Vương nhận xét: “Đến nay tuổi cụ đã cao, sức khỏe yếu nhưng cụ còn nhiệt tình, say sưa lắm. Chúng tôi đánh giá cụ Sủng còn giữ được bản sắc cổ kính của hát Xoan từ xưa đến nay.” Nở nụ cười phúc hậu, cụ Sủng tâm sự: “Kể cả những hôm trời có mưa hay rét lạnh, tôi vẫn không ngừng đi dạy. Đến chết tôi mới thôi hát Xoan.” Người nghệ nhân cao tuổi vẫn cần mẫn để bảo tồn hát Xoan cho đời. Nhìn tấm lòng với Xoan của nghệ nhân Nguyễn Thị Sủng mới hiểu vì sao hát Xoan có sức sống trường cửu đến vậy. b) Giải thưởng

Trong suốt cuộc đời hát xoan, bà đã được nhận kỷ niệm chương của Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, nhiều bằng khen của Viện trưởng viện âm nhạc UBND tỉnh Phú Thọ trao tặng

IV. THỰC TRẠNG NGÀY NAY

1. Các làng xoan Gốc của hát xoan ở vùng Phú Thọ, sau lan tỏa tới các làng quê đôi bờ sông Lô, sông Hồng, qua cả tỉnh Vĩnh Phúc. Bốn phường xoan cổ là An Thái,

17 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

Phù Đức, Kim Đới và Thét nằm ở hai xã Kim Đức và Phương Lâu (Phú Thọ) từ xưa được cộng đồng của 30 làng, 18 xã của tỉnh Phú Thọ,Vĩnh Phúc mời đến biểu diễn. Vì thế hát xoan mới ghi dấu tại nhiều làng quê ngoài vùng Phú Thọ và Vĩnh Phúc. 2. Việc truyền dạy Theo khảo sát của tỉnh Phú Thọ, hiện còn khoảng 70 nghệ nhân hát xoan, nhưng chỉ có khoảng 10 người có khả năng truyền dạy, toàn tỉnh có khoảng gần 100 người tham gia các phường xoan, nhưng chỉ khoảng 50 người biết hát. Các di tích như đình, miếu, nơi diễn ra các sinh hoạt hát xoan từ xa xưa nay chỉ còn khoảng hơn 10 di tích. Trong 2 năm 2013, 2014, tỉnh Phú Thọ đã tổ chức nhiều lớp đào tạo nghệ nhân kế cận tại 2 xã Kim Đức và Phượng Lâu với gần 100 học viên tham gia. Mục đích của việc tổ chức các lớp đào tạo nghệ nhân kế cận là tăng cường nhận thức về bảo tồn và phát huy giá trị di sản hát Xoan Phú Thọ đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp; cung cấp những kiến thức, kỹ năng cơ bản về nghệ thuật trình diễn hát Xoan Phú Thọ cho các học viên vận dụng vào hoạt động văn nghệ cơ sở và biểu diễn chuyên nghiệp đạt kết quả tốt. Đồng thời, phát huy vai trò của các nghệ nhân cao tuổi, truyền dạy, tập huấn cho thế hệ trẻ để hát Xoan ngày càng được lan tỏa trong cộng đồng. 3. Công nhận Ngày 24/11/2011, tại Hội nghị lần thứ VI của Ủy ban liên chính phủ về Bảo tồn Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO tổ chức tại Bali - Indonesia, Hồ sơ Hát Xoan - Phú Thọ của Việt Nam đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. * Giá trị nổi bật toàn cầu

Hồ sơ hát xoan Phú Thọ đã hội đủ các yêu cầu cần thiết của UNESCO để được công nhận là: - Tính giá trị, tính cộng đồng trong việc sáng tạo và truyền dạy từ đời này qua đời khác - Sức sống mạnh mẽ của hát xoan cũng như các cam kết bảo vệ nghệ thuật này không bị biến mất trong đời sống hiện đại.

Đây là một số ít những hồ sơ nhận được toàn bộ sự ủng hộ của hội đồng tư vấn khoa học xét duyệt sơ khảo trước đó.

18 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

CHUONG 2: QUAN HO BAC NINH

I. GIỚI THIỆU

1. Khái niệm ân ca Quan họ Bắc Ninh là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam. Nó còn được hình thành và phát triển ở vùng văn hóa Kinh Bắc xưa, Kinh Bắc là một tỉnh cũ bao gồm cả 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang (Và một số huyện của Lạng Sơn, Hưng Yên, Vĩnh Phúc). Do có sự chia tách về địa lý mà quan họ còn được gắn tên cục bộ địa phương như quan họ Bắc Ninh. 2. Lịch sử Làng quan họ Gốc, nơi khai sinh ra Quan họ là làng Diềm (Viêm Xá) thuộc xã Hòa Long, TP Bắc Ninh (ngày nay). Nơi duy nhất thờ Vua bà Thủy tổ Quan Họ. Từ xa xưa Quan họ đã sớm hình thành ở Bắc Ninh, từ đó Tỉnh Bắc Ninh được lan rộng Dân ca quan họ (44 làng quan họ gốc). Quan họ phát triển ở đỉnh điểm thời Lý, phục vụ cho triều đình. Vốn dĩ quan họ chỉ ở bên bờ nam sông Cầu (Tức Bắc Ninh), nhưng do sức ảnh hưởng của nó quá lớn nên đã lan rộng sang các vùng lân cận như bên Bắc sông Cầu (Tức Bắc Giang). Ý nghĩa từ "Quan họ" thường được tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa đen về mặt từ nguyên của "quan" và của "họ". Điều này dẫn đến những kiến giải về Quan họ xuất phát từ "âm nhạc cung đình", hay gắn với sự tích một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó và đã dừng bước để thưởng thức ("họ"). Tuy nhiên cách lý giải này đã bỏ qua những thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt (nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời chỉ là bạn, không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xướng,

.

D

Hát quan họ (Nguồn: vietforum.vn)

19 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

cách thức tổ chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian. Một số quan điểm lại cho rằng Quan họ bắt nguồn từ những nghi lễ tôn giáo dân mang yếu tố phồn thực chứ không phải Quan họ có nguồn gốc từ âm nhạc cung đình, hoặc có quan điểm nhận định diễn tiến của hình thức sinh hoạt văn hóa "chơi Quan họ" bắt nguồn từ nghi lễ tôn giáo dân gian qua cung đình rồi trở lại với dân gian. Nhận định khác dựa trên phân tích ngữ nghĩa từ ngữ trong các làn điệu và không gian diễn xướng lại cho rằng Quan họ là "quan hệ" của một nhómnhững người yêu quan họ ở vùng Kinh Bắc. II. ĐẶC ĐIỂM CHUNG

1. Phân loại a) Quan họ truyền thống

Quan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 49 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc. Quan họ truyền thống là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa dân gian của người dân Kinh Bắc, với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi liền anh, liền chị(1)phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ. Điều này giải thích lý do người dân Kinh Bắc thích thú "chơi Quan họ", không phải là "hát Quan họ". Quan họ truyền thống không có nhạc đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ. * Chơi quan họ

“Chơi quan họ”là truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người thưởng thức (thưởng thức "cái tình" của bạn hát). Nhiều bài quan họ truyền thống vẫn được các liền anh, liền chị "chơi quan họ" ưa

(1): Liền anh (bên nam, người nam giới hát quan họ) Liền chị (bên nữ, người nữ giới hát quan họ)

Hát quan họ cổ (Nguồn: trithucsong.vn)

20 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

thích đến tận ngày nay như: Hừ La,La rằng, Tình tang, Bạn kim lan, Cái ả, Cây gạo. b) Quan họ hiện đại

Quan họ mới còn được gọi là "hát Quan họ", là hình thức biểu diễn (hát) quan họ chủ yếu trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết đầu xuân, lễ hội, hoạt động du lịch, nhà hàng,... Thực tế, quan họ mới được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm. Quan họ mới luôn có khán thính giả, người hát trao đổi tình cảm với khán thính giả không còn là tình cảm giữa bạn hát với nhau.Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra ở nhiều nơi, đến với nhiều thính giả ở các quốc gia trên thế giới. Quan họ mới có hình thức biểu diễn phong phú hơn quan họ truyền thống, bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa... Quan họ mới cải biên các bài bản truyền thống theo hai cách: không có ý thức và có ý thức. Dù ít hay nhiều nhưng hình thức hát quan họ có nhạc đệm được coi là cách cải biên không có ý thức. Đa số các bài quan họ mới thuộc dạng cải biên này.Cải biên có ý thức là những bài bản đã cải biên cả nhạc và lời của bài bản quan họ truyền thống.Loại cải biên này không nhiều, ví dụ bài "Người ở đừng về" là cải biên từ làn điệu "Chuông vàng gác cửa tam quan" (Xuân Tứ cải biên). Hát quan họ với lời mới được nhiều người yêu thích tới mức tưởng nhầm là quan họ truyền thống như bài "Sông Cầu nước chảy lơ thơ" do Mai Khanh soạn lời mới từ làn điệu truyền thống "Nhất quế nhị lan". Quan họ mới được ưa thích hơn quan họ truyền thống không phải do không gian và những sinh hoạt theo lề lối cổ của quan họ không còn nữa mà một phần do hoạt động "hát quan họ" ngày nay thường được gắn với chính quyền nhiệm vụ tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá quan họ trên diện rộng. 2. Làn điệu – âm nhạc Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam.Mỗi một bài quan họ đều có giai điệu riêng.Cho đến nay, đã có ít nhất 300 bài quan họ đã được ký âm.Các bài quan họ được giới thiệu mới chỉ là một phần trong kho tàng dân ca quan họ đã được khám phá. 3. Trang phục

21 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

Trang phục quan họ bao gồm trang phục của các liền anh và trang phục của các liền chị.Trong các lễ hội quan họ có cả những cuộc thi trang phục quan họ. a) Liền anh

Liền anh mặc: -Áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá đầu gối. Thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài. Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen, chất liệu là lương, the, hoặc đối với người khá giả hơn thì áo ngoài may bằng đoạn màu đen, cũng có người áo dài phủ ngoài may hai lần với một lần ngoài bằng lương hoặc the, đoạn, lần trong bằng lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ non, màu vàng chanh...gọi là áo kép. - Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài tới mắt cá chân, chất liệu may quần cũng bằng diềm bâu, phin, trúc bâu, hoặc lụa truội màu mỡ gà. Có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. - Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc khăn xếp.Thời trước, đàn ông còn nhiều người búi tó nên phải vấn tóc bằng khăn nhiễu. Sau này phần nhiều cắt tóc, rẽ đường ngôi nên chuyển sang dùng loại khăn xếp bán sẵn ở các cửa hàng cho tiện. - Cùng với quần, áo, khăn xếp, dép,… các liền anh thường có thêm nón chóp với các dạng chóp lá thường hoặc chóp dứa, có quai lụa màu mỡ gà. - Ngoài ra cũng thường thấy các liền anh dùng ô đen. Các phụ kiện khác là khăn tay, lược, những "xa xỉ phẩm" theo quan niệm thời xưa. Khăn tay bằng lụa hoặc bằng vải trắng rộng, gấp nếp và gài trong vành khăn, thắt lưng hoặc trong túi trong. b) Liền chị

Trang phục liền chị thường được gọi là "áo mớ ba mớ bảy", nghĩa là liền chị có thể mặc ba áo dài lồng vào nhau (mớ ba) hoặc bảy áo dài lồng vào

Trang phục của liền anh (Nguồn: chimviet.free.vn)

22 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

nhau (mớ bảy).Tuy nhiên trong thực tế, các liền chị thường mặc áo mớ ba. Về cơ bản trang phục bao gồm các thành phần: - Trong cùng là một chiếc yếm có màu rực rỡ thường làm bằng lụa truội nhuộm. Yếm thường có hai loại là yếm cổ xẻ (dùng cho trung niên) và yếm

cổ viền (dùng cho thanh nữ).Yếm thường nhuộm màu đỏ (xưa gọi là yếm thắm), vàng thư (hoa hiên), xanh da trời (thiên hanh), hồng nhạt (cánh sen), hồ thủy (xanh biển)... Giải yếm to buông ngoài lưng áo và giải yếm thắt vòng quanh eo rồi thắt múi phía trước cùng với bao và thắt lưng. - Bên ngoài yếm là một chiếc áo cánh màu trắng, vàng, ngà. - Ngoài cùng là những lượt áo dài năm thân, cách phối màu cũng tương tự như ở bộ trang phục

nam nhưng màu sắc tươi hơn. Áo dài năm thân của nữ, có cài khuy, khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt trước. Chất liệu để may áo đẹp nhất thời trước là the, lụa. Áo dài ngoài thường mang màu nền nã như màu nâu già, nâu non, màu đen, màu cánh gián trong khi áo dài trong thường nhuộm màu khác nhau: màu cánh sen, màu hoa hiên, màu thiên thanh, màu hồ thuỷ, màu vàng chanh, màu vàng cốm v.v. Áo cánh mặc trong có thể thay bằng vải phin trắng, lụa mỡ gà. - Bao của các cô gái quan họ xưa thường sử dụng chất liệu sồi se, màu đen, có tua bện ở hai đầu bao, khổ rộng, có thể đựng túi tiền mỏng ở trong bao rồi thắt gọn ngang eo, luồn qua lưng áo dài, bó chặt lấy ba thân áo trước, thắt múi to để che phía trước bụng. Thắt lưng thường là loại bao nhỏ bằng chừng 1/3 bao, dùng để thắt chặt cạp váy vào eo. Cũng tương tự yếm, thắt lưng làm bằng lụa nhuộm các màu tươi sáng như màu hoa lựu, màu hoa đào, màu hoa hiên tươi, màu hồ thủy. Thắt lưng cũng buộc múi ra phía trước để cùng với múi bao, múi giải yếm tạo nên những múi hoa màu sắc phía trước người con gái.

Trang phục của liền chị (Nguồn: chimviet.free.vn)

23 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

- Liền chị mặc váy váy sồi, váy lụa, màu đen, đôi khi có người mặc váy kép với váy trong bằng lụa, vải màu, lương, the, đoạn; váy ngoài bằng the, lụa. Người biết mặc váy khéo là không để váy hớt trước, không để váy quây tròn lấy người như mặc quần mà phải thu xếp sao cho phía trước rủ hình lưỡi chai xuống gần tới mu bàn chân, phía sau hơi hớt lên chớm tầm đôi con khoai phía gót chân. - Liền chị mang dép cong làm bằng da trâu thuộc theo phương pháp thủ công; có một vòng tròn bằng da trên mặt dép để xỏ ngón chân thứ hai khiến khi đi lại, không rơi được dép. Mũi dép uốn cong và người thợ làm dép phải biết nện, thuộc cho mũi dép cứng, như một lá chắn nhỏ, che giấu đầu các ngón chân.Ngoài áo, quần, thắt lưng, dép, người liền chị còn chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao, và thắt lưng đeo dây xà tích.

4. Văn hóa quan họ Văn hoá quan họ còn là cách ứng xử thật khéo léo, tế nhị, kín đáo và mang đầy ý nghĩa như các làn điệu mời nước, mời trầu thật chân tình, nồng thắm mỗi khi có khách đến chơi nhà đôi tay nâng chén rượu đào, đổ đi thì tiếc, uống vào thì say. Quan họ uống chén rượu mừng xuân, mừng hội, vui bầu, vui bạn… rồi ca xướng cho tan canh mãn võ, cho tàn đêm rạng ngày, rồi các làn điệu chia tay giã bạn đầy quyến luyến trong câu hát "Người ơi người ở đừng về"tàn canh, giã hội rồi mà quan họ vẫn còn ngậm ngùi tiếc

Mẫu trưng bày trang phục liền anh và liền chị (Nguồn: wikipedia)

24 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

nhớ "Người về tôi vẫn ngậm ngùi, để thương, để nhớ cho tôi thế này... Người về tôi chẳng dám nài, áo trong người mặc, áo ngoài người để làm tin"… Và để rồi kết thúc bằng những lời hứa hẹn tha thiết "Đến hẹn lại lên"… trong mùa hội tới. Quan họ là "ứng xử" của người dân Kinh Bắc, "mỗi khi khách đến chơi nhà", không chỉ "rót nước pha trà" mời khách, mà cùng với đó là những câu hát thắm đượm nghĩa tình: "Mỗi khi khách đến chơi nhà/ đốt than quạt nước pha trà mời người xơi/ trà này quý lắm người ơi/ Mỗi người một chén cho tôi vui lòng"... 5. Hội Lim Hội Lim là một lễ hội lớn của tỉnh Bắc Ninh, chính hội được tổ chức vào ngày 13 tháng giêng hàng năm, trên địa bàn huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Hội Lim được coi là nét kết tinh độc đáo của vùng văn hoá Kinh Bắc. a) Phần lễ

8h ngày 13/1 Âm lịch, Hội Lim được mở đầu bằng lễ rước.Đoàn rước với đông đảo người dân tham gia trong những bộ lễ phục ngày xưa, sặc sỡ sắc màu và cũng vô cùng cầu kì, đẹp mắt kéo dài tới cả gần cây số.Trong ngày lễ, có nhiều nghi lễ và tục trò dân gian nổi tiếng, trong đó có tục hát thờ hậu. Toàn thể quan viên, hương lão, nam đinh của các làng xã thuộc tổng Nội Duệ phải tề tựu đầy đủ tại lăng Hồng Vân để tế lễ hậu thần. Trong khi tế có nghi thức hát quan họ thờ thần. Để hát thờ, các liền anh,liền chị quan họ nam và nữ của tổng Nội Duệ đứng thành hàng trước cửa lăng hát vọng vào. Trong khi hát, họ chỉ được hát những giọng lề lối để ca ngợi công lao của thần

Hát quan họ Bắc Ninh mời trầu bên sông (Nguồn: binhlong.binhphuoc.gov.vn)

25 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

Hội Lim đi vào lịch sử và tồn tại và phát triển cho đến ngày nay được hàng tổng chuẩn bị tập rượt rất chu đáo từ ngày 9 và 10, rồi được diễn ra từ ngày 11 đến hết ngày 14 tháng giêng. Chính hội là ngày 13, với các nghi thức rước tế lễ các thành hoàng các làng, các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng, lăng Hồng Vân, lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy. Trong các nhà thờ họ Nguyễn, họ Đỗ ở làng Đình Cả, dâng hương cúng Phật, cúng bà mụ Ả ở chùa Hồng Ân. b) Phần hội

Có nhiều trò chơi dân gian như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm. Đặc sắc hơn cả là phần hát hội - Là phần căn bản và đặc trưng nhất của hội Lim. Từ hát mời trầu, hát gọi đò đến con sáo sang sông, con nhện giăng mùng. Hội thi hát diễn ra khoảng gần trưa, được tổ chức theo hình thức du thuyền hát quan họ. Tại một hồ nước nhỏ sát bên cánh đồng làng Lim, chiếc thuyền hình rồng được sơn son thiếp vàng rời bến trong những câu hát đậm đà nghĩa tình. Một bên thuyền là các liền chị, đối diện là những em nhỏ súng sính trong những tà áo tứ thân. Các liền anh thì đứng hoặc ngồi sát hai phía đầu và cuối thuyền. Tối ngày 12 sẽ là đêm hội hát thi quan họ giữa các làng quan họ. Mỗi làng quan họ được dựng một trại tại phần sân rộng của đồi Lim. Đây là phần hội hay nhất của cả lễ hội Hội Lim. Về với Hội Lim là về với một trời âm thanh, thơ và nhạc náo nức không gian đến xao xuyến lòng người. Những áo mớ bảy mớ ba, nón ba tầm, quai thao, dải yếm lụa sồi, những ô lục soạn, khăn đóng, áo cặp the hoa gấm... như ẩn chứa cả sức sống mùa xuân của con người và tạo vật. Cách chơi hội

Hình ảnh Hội Lim – Tiên Du (Bắc Ninh)

(13 tháng Giêng hằng năm) (Nguồn: binhlong.binhphuoc.gov.vn)

26 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

của người quan họ vùng Lim cũng là cách chơi độc đáo, mỗi cử chỉ giao tiếp đã mang trong nó một sắc thái văn hoá cao. Lễ hội diễn ra khắp các làng xã trong tổng Nội Duệ, trung tâm là núi Hồng Vân, với nghi thức tế lễ rước xách uy nghiêm, hùng tráng và nhiều trò vui, đặc sắc mà hấp dẫn nhất là đánh cờ người, tổ tôm điếm, thi dệt vải, thi làm cỗ và đón bạn, ca hát Quan họ.

III. CÁC NGHỆ NHÂN – NGHỆ SĨ NỔI TIẾNG

1. Những bài quan họ nổi tiếng Một số làn điệu quan họ cổ: La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn, Hừ la, La hời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Cái hờn, cái ả, Gió mát trăng thanh, Tứ quý, Vào chùa, Lúng liếng, Gửi bức thư sang, Đi cấy, Buôn bấc buôn dầu, Qua cầu gió bay, Người ở đừng về, Con nhện giăng mùng, … 2. Các nghệ nhân quan họ nổi tiếng NSƯT Khánh Hoàn, Anh Hai Chi, NSƯT Thúy Cải, NSƯT Hải Xuân,… a) NSND Thúy Hường

NSND Thúy Hường sinh năm 1967, ở xã Cách Bi, huyện Quế Võ (Bắc Ninh), không phải là làng quan họ cổ. Năm 1984, Thúy Hường học khoa âm nhạc, trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Hà Bắc. Thúy Hường được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú năm 2001. Năm 2012, Thúy Hường làm giảng viên thuộc khoa Dân ca Quan họ tại Trường Trung cấp Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh. Thúy Hường đã ra mắt khán giả 9 album riêng: Người ở đừng về, Lúng liếng, Nhớ mãi khôn nguôi, Cắp nón đón đò, Bạn tình ơi, Lý giao duyên, Cây trúc xinh. Tháng 5 năm 2012, Thúy Hường được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân (NSND) và cũng là NSND trẻ nhất trong 74 NSND của cả nước được phong tặng đợt này (45 tuổi). Ngoài ra, Thúy Hường cũng đó một số phim như "Đầm hoang", "Thương nhớ đồng quê". b) NS Minh Thành

27 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

Nghệ sỹ Minh Thành hát quan họ từ năm 13 tuổi, 25 năm qua giọng hát của chị càng thêm ngọt ngào, say đắm lòng người. Chị có may mắn được học hát quan họ từ nghệ nhân, NSƯT Tạ Thị Hình ở làng Bồ Sơn, Bắc Ninh. Đến nay, Minh Thành đã có vốn liếng 100 bài quan họ cổ. Chị hiện đang là thành viên của Câu lạc bộ âm nhạc Sông Cầu do Sở Văn hóa tỉnh Bắc Ninh thành lập. Chính nét duyên quan họ và giọng ca truyền cảm đã giúp Minh Thành đoạt rất nhiều huy chương trong các cuộc thi, hội diễn chuyên nghiệp và quần chúng như: - Huy chương vàng hát giao duyên toàn quốc (1994) - Giải B giọng hát hay Truyền hình Hà Bắc - Huy chương bạc Hội diễn Nghệ thuật quần chúng ngành Hậu cần lần thứ Nhất (1996) - Huy chương bạc thi hát quan họ - Hoàn thành xuất sắc Hội diễn NTQC (Hội diễn NTQC Công an lần thứ 4) Giờ đây, cái tên nghệ sỹ Minh Thành đã trở thành một gương mặt nghệ sĩ thân thuộc, một giọng ca quan họ được đông đảo công chúng yêu nghệ thuật truyền thống đánh giá cao bởi tính chuẩn mực trong nghệ thuật hát quan họ và sức quyến rũ lay động lòng người.

IV. THỰC TRẠNG NGÀY NAY

1. Các làng quan họ Năm 2014, có 67 làng quan họ được đưa vào danh sách bảo tồn và phát triển.Trong đó tỉnh Bắc Giang có 23 làng quan họ, tỉnh Bắc Ninh có 44 làng quan họ. Các làng quan họ Kinh Bắc tồn tại ở các huyện: Yên Phong, Từ Sơn, Tiên Du, thành phố Bắc Ninh (còn gọi là quan họ bờ nam sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Ninh) và các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa (còn gọi là quan họ bờ bắc sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Giang). Danh sách 67 làng Quan họ tồn tại và phân bố như sau:

28 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

* Thành phố Bắc Ninh có 31 làng: Cổ Mễ, Phúc Sơn, Thanh Sơn (phường Vũ Ninh); Viêm Xá (Diềm), Hữu Chấp (Chắp), Đẩu Hàn (Đô Hàn), Xuân Ái (Sói), Xuân Đồng (Đồng Mật), Xuân Viên (Vườn Xuân) (xã Hoà Long); Thượng Đồng (Lẫm), Đông Xá (Đặng), Thọ Ninh (Thụ), (xã Vạn An). Khúc Toại (Chọi), Trà Xuyên (Trà) (xã Khúc Xuyên); Châm Khê (Bùi), Điều Thôn (Đào Xá), Dương ổ (Đống Cao) (xã Phong Khê); Xuân Ổ (Ó), Khả Lễ (Sẻ), Hoà Đình (Nhồi), Bồ Sơn (Bò) (xã Võ Cường); Đỗ Xá (Đọ) (phường Ninh Xá); Niềm Xá (Niềm), Yên Mẫn (Yên Giữa), Thị Chung (Yên Chợ), Y Na (Nưa) (phường Kinh Bắc); Vệ An (Vệ) (phường Vệ An); Thị Cầu (phường Thị Cầu); Ném Đoài, Ném Sơn (Hồ Sơn), Ném Tiền (Niệm Tiền) (xã Khắc Niệm) * Huyện Việt Yên (Bắc Giang) có 19 làng: Trung Đồng, Vân Cốc (xã Vân Trung); Thổ Hà (xã Vân Hà); Mật Ninh, Đình Cả, Khả Lý Thượng (xã Quảng Minh); Núi Hiểu, Quang Biểu, Tam Tầng (xã Quang Châu); Hữu Nghi, Giá Sơn, Mai Vũ, Nội Ninh (xã Ninh Sơn); Đông Long, Sen Hồ, Yên Ninh (Nếnh); Thần Chúc, Tiên Lát Thượng, Tiên Lát Hạ, (xã Tiên Sơn). * Tiên Du (Bắc Ninh) có 9 làng: Duệ Ðông, Lũng Giang, Lũng Sơn (thị trấn Lim); Ngang Nội, Vân Khám (xã Hiên Vân); Bái Uyên (Bưởi), Hoài Thị (Bựu Sim) Hoài Trung (Bựu Giữa) (xã Liên Bão); Hạ Giang, Đình Cả(Nội Duệ) * Huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang) có 2 làng: Xuân Thành và Ngọ Xá (xã Châu Minh). * Huyện Yên Dũng (Bắc Giang) có 2 làng: Yên Hà và Yên Thịnh (xã Yên Lư). * Huyện Yên Phong (Bắc Ninh) có 2 làng: Đông Mơi (Đông Mai) (xã Trung Nghĩa) và Làng Đông Yên (Đông Khang) (xã Đông Phong). * Thị xã Từ Sơn (Bắc Ninh) có 2 làng: Tam Sơn (xã Tam Sơn) và Tiêu Sơn (xã Tương Giang). - Trong phạm vi UNESCO công nhận ban đầu chỉ gồm có 49 làng Quan họ sau: Hữu Nghi, Giá Sơn, Mai Vũ, Nội Ninh, Sen Hồ, Hữu Chấp, Viêm Xá, Ðẩu Hàn, Xuân Ái, Xuân Ðồng, Xuân Viên, Đình Cả, Thụ Ninh, Ðặng Xá, Khúc Toại, Trà Xuyên, Ông Mơi, Ðông Yên, Châm Khê, Ðào Xá, Dương Ổ, Cổ Mễ, Phúc Sơn, Y Na, Thị Cầu, Thanh Sơn, Niềm Xá, Yên Mẫn, Yên Thị Trung, Vệ An, Ỗ Xá, Xuân Ổ, Hòa Đình, Khả Lễ, Bồ Sơn, Duệ Ðông, Lũng Giang, Lũng Sơn, Ngang Nội, Hoài Thị, Hoài Trung, Vân Khám, Bái Uyên, Ném Ðoài, Đình Cả, Ném Tiền, Tiêu, Tam Sơn, Tam Tảo.

29 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

2. Bảo tồnquan họ - Quan họ là một loại hình dân ca phong phú về giai điệu, được lưu truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác qua phương thức truyền khẩu. Phương thức này là một yếu tố giúp cho Quan họ trở thành một loại hình dân ca có số lượng lớn bài hát với giai điệu khác nhau.Tuy nhiên, cũng chính phương thức này đã làm cho các bài Quan họ lưu truyền trong dân gian bị biến đổi nhiều, thậm chí khác hẳn sẽ với ban đầu.Nhiều giai điệu cổ đã mất hẳn. Mặc dù sự thay đổi này cũng làm cho Quan họ phát triển, nhưng ở trong bối cảnh văn hóa Phương Tây đang xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, vấn đề bảo tồn nguyên trạng Quan họ trong từng giai đoạn phát triển là việc làm cấp thiết. - Từ những năm 70 của Thế kỷ XX, Sở Văn hóa Hà Bắc đã tiến hành sưu tầm Quan họ. Hàng nghìn bài Quan họ, bao gồm cả các dị bản đã được ghi âm tại các làng quan họ, với giọng hát của hàng trăm nghệ nhân. Sau khi sàng lọc và lựa chọn, nhạc sĩ, nhà nghiên cứu Hồng Thao đã ký âm thành bản nhạc, có bổ sung thêm một số ký tự riêng đặc trưng cho giai điệu Quan họ. Khoảng 300 bài Quan họ hay nhất đã được Nhà xuất bản Âm nhạc in thành sách. Tuy nhiên, hàng nghìn bài Quan họ đã được ghi âm, do các cụ nghệ nhân (đã mất) hát, phải được bảo quản cực kỳ cẩn thận. Sở Văn hóa thể thao du lịch Bắc Ninh và Bắc Giang chịu trách nhiệm lưu giữ các cuốn băng này cần phải số hóa toàn bộ để có thể lưu giữ một cách dài lâu cho thế hệ mai sau, đó cũng là tài liệu văn hóa cần bảo tồn giúp các làn điệu quan họ sống mãi. - Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ IV của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), Dân ca quan họ Bắc Ninh đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, cùng đợt với ca trù.

- Ngày 20 tháng 1 năm 2013, Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh tổ chức ra mắt. Đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh nay là nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ sưu tầm, nghiêm cứu, gìn giữ và phát triển dân ca quan họ; nhiều hình thức giới thiệu dân ca quan họ mà đoàn thể nghiệm được quần chúng nhân dân đánh giá cao và học tập làm theo, góp phần thúc đẩy phong trào ca hát quan họ trong tỉnh cũng như lan tỏa rộng khắp cả nước.

30 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

- Đến nay từ 44 làng quan họ gốc, tỉnh Bắc Ninh đã nhân lên thành 329 làng Quan họ mới, trong đó có 41 nghệ nhân dân ca Quan họ. Đối với thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, TP Bắc Ninh, nơi được coi là Thủy tổ dân ca Quan họ Bắc Ninh đã có nhiều giải pháp khôi phục, bảo tồn dân ca Quan họ, nhất là các bài Quan họ cổ. - Về ẩm thực Quan họ, khôi phục lại "Mâm đan, bát đàn" đó là những vật dụng của người quan họ khi mời thực khách dự ẩm thực quan họ. Xây dựng phòng trưng bày văn hóa quan họ, giới thiệu diu sản với bạn bè trong nước, quốc tế. Các phương tiện thông tin đại chúng tăng thời lượng tuyên truyền về dân ca quan họ, nhất là các lề lối Quan họ, văn hóa Quan họ.

31 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

CHUONG 3: XÂM I. GIỚI THIỆU

1) Khái niệm ẩm là một loại hình dân ca của miền Bắc Việt Nam, phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ. "Xẩm" cũng còn được dùng để gọi những người hát xẩm - thường là người khiếm thị đi hát rong kiếm sống và do đó hát xẩm còn có thể coi là một nghề. Cho đến tháng 2 năm 2013, tỉnh Ninh Bìnhvới nghệ nhân Hà Thị Cầu (1928-2013) được coi là người hát xẩm cuối cùng của thế kỷ 20, đang có những nỗ lực đệ trình UNESCO công nhận hát xẩm là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. 2) Lịch sử Xẩm được xem là một hình thức mưu sinh của nhưng người dân nghèo khổ đặc biệt là người khiếm thị Xẩm đa số được biểu diễn ở chợ, đường phố, nơi đông người qua lại chứ rất ít được biểu diễn ở những sân khấu lớn nên rất ít người biết đến loại nhạc truyền thống này. *Truyền thuyết về nguồn gốc

Theo truyền thuyết, đời nhà Trần, vua cha Trần Thánh Tông có hai hoàng tử là Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh. Do tranh giành quyền lực nên Trần Quốc Đĩnh bị Trần Quốc Toán hãm hại, chọc mù mắt rồi đem bỏ giữa rừng sâu. Tỉnh dậy, hai mắt mù loà nên Trần Quốc Đĩnh chỉ biết than khóc rồi thiếp đi. Trong mơ bụt hiện ra dạy cho ông cách làm một cây đàn với dây đàn làm bằng dây rừng và gẩy bằng que nứa. Tỉnh dậy, ông mò mẫm làm cây đàn và thật lạ kỳ, cây đàn vang lên những âm thanh rất hay khiến chim muông sà xuống nghe và mang hoa quả đến cho ông ăn. Sau đó, những người đi rừng nghe tiếng đàn đã tìm thấy và đưa ông về. Trần Quốc Đĩnh dạy đàn cho những người nghèo, người khiếm thị. Tiếng đồn về những khúc nhạc của ông lan đến tận hoàng cung, vua vời ông vào hát và

X

Những người hát xẩm ở Hải Phòng

thời thuộc Pháp (Nguôn: wikipedia)

32 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

nhận ra con mình. Trở lại đời sống cung đình nhưng Trần Quốc Đĩnh vẫn tiếp tục mang tiếng đàn, lời ca dạy cho người dân để họ có nghề kiếm sống.Hát xẩm đã ra đời từ đó và Trần Quốc Đĩnh được suy tôn là ông tổ nghề hát xẩm nói riêng cũng như hát xướng dân gian Việt Nam nói chung. Người dân lấy ngày 22 tháng 2 và 22 tháng 8 âm lịch làm ngày giỗ của ông. Trung tâm Phát triển Nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam thuộc Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã lập ra một giải thưởng mang tên Trần Quốc Đĩnh nhằm tôn vinh, hỗ trợ các nghệ nhân, nghệ sĩ, nhà sưu tầm, nghiên cứu, nhà báo có công lao, đóng góp cho lĩnh vực âm nhạc truyền thống và trao giải lần đầu tiên năm 2008. Theo chính sử thì vua Trần Thánh Tông không có hoàng tử tên Đĩnh hay Toán. Thái tử con vua Thánh Tông tên là Khảm, sau lên ngôi là vua Nhân Tông; một người con nữa là Tả Thiên vương. Vì vậy nguồn gốc hát xẩm là dựa trên thánh tích chứ không truy được ra trong chính sử.

II. ĐẶC ĐIỂM CHUNG

1) Phân loại – làn điệu Xẩm có hai làn điệu chính là xẩm chợ và xẩm cô đào. "Hát xẩm chợ, điệu hát mạnh, những tiếng đệm, tiếng đưa hơi đều hát nổi tiếng bằng lời hát chính và đệm đàn bầu hay nhị với sênh phách; còn hát xẩm cô đào thì điệu hát dịu dàng hơn, những tiếng đệm và tiếng đưa hơi lẫn vào lời chính, cốt giúp cho có nhiều dư âm và bắt khúc được dễ dàng. Hát xẩm cô đào đệm đàn đáy và sênh phách, không dùng đàn bầu và nhị.". Ngoài ra xẩm còn sử dụng nhiều làn điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ khác như trống quân, cò lả, hát ví, ru em, quan họ, chèo,... hoặc ngâm thơ các điệu bồng mạc, sa mạc. Các làn điệu dân ca khác khi được dùng trong hát xẩm đã được "xẩm hoá" theo phong cách đặc trưng của xẩm. Trên thực tế, cách gọi tên các loại xẩm không phải theo làn điệu mà theo một số tiêu thức khác: Tên bài xẩm nổi tiếng: xẩm thập ân (theo tên bài xẩm ca ngợi công đức của cha mẹ), xẩm anh Khoá (theo tên bài thơ được hát theo điệu xẩm Tiễn chân anh Khoá xuống tàu của Á Nam Trần Tuấn Khải)... Theo mục đích, nội dung bài xẩm: xẩm dân vận (được chính quyền khuyến khích sáng tác để tuyên truyền, vận động quần chúng)... Theo môi trường biểu diễn: ngoài xẩm chợ và xẩm cô đầu (hay còn gọi là xẩm nhả tơ, xẩm ba bậc, xẩm nhà trò, xẩm huê tình) sau này còn có một dòng xẩm của Hà Nội gọi là xẩm tàu điện thường được hát trên tàu điện.

33 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

Theo địa phương có hát xẩm Hà Nội, hát xẩm Ninh Bình,hát xẩm Bắc Ninh... Miền Trung và miền Nam cũng có thể loại hát xẩm tuy khác ngoài Bắc. Xẩm miền Trung lấy bài bản từ ca Huế trong khi mền Nam gọi là "nói thơ" chẳng hạn như "nói thơ Lục Vân Tiên" 2) Nhạc cụ Bộ nhạc cụ đơn giản nhất để hát xẩm chỉ gồm đàn nhị và sênh. Nhóm hát xẩm đông người có thể dùng thêm đàn bầu, trống mảnh và phách bàn. Có tài liệu cho rằng đàn bầu khởi thuỷ là nhạc cụ đặc trưng của hát xẩm, sau do đàn nhị dễ chơi hơn và có âm lượng tốt hơn (phù hợp với chỗ đông người) nên thường được sử dụng. Để thay cho đàn nhị truyền thống, có thể dùng đàn gáo. Đây là loại đàn được phát triển từ đàn nhị nhưng to và dài hơn, thích hợp khi đệm cho giọng trầm. Sênh dùng đệm nhịp cho hát xẩm có thể là sênh sứa (gồm hai thanh tre hoặc gỗ) hoặc sênh tiền (có gắn thêm những đồng tiền kim loại để tạo âm thanh xúc xắc). Ngoài ra, đàn đáy, trống cơm, sáo và thanh la cũng có thể hiện diện trong hát xẩm.

III. CÁC NGHỆ NHÂN – NGHỆ SĨ NỖI TIẾNG

1. NSƯT Hà Thị Cầu a) Cuộc đời và sự nghiệp

Hà Thị Cầu (1928 – 3 tháng 3, 2013) tên thật là Hà Thị Năm là một nghệ nhân hát xẩm. Bà được xem là nghệ nhân hát xẩm cuối cùng của thế kỷ 20 và từng được mệnh danh là "báu vật nhân văn sống"

Nhạc cụ hát xẩm (Nguồn: cvdvn.net)

NSƯT Hà Thị Cầu

(1928 – 2013) (Nguồn: Wikipedia)

34 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

Theo một số nhận định, bà sinh năm 1917, tuy nhiên theo chị Mận, con gái của bà, thì bà sinh năm 1928 tại huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định trong một gia đình ba đời hát xẩm. Cha bà là một người hát xẩm bị khiếm thị. Năm 11 tuổi, cha mất và bà cùng mẹ rời Nam Định về sinh sống tại thôn Quảng Phúc, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Khoảng tám tuổi, bà đã bê chiếc thau đồng theo bố mẹ lê la khắp các chợ quê để hành nghề hát xẩm kiếm sống. Định cư tại Yên Mô (Ninh Bình), hai mẹ con bà nương nhờ học hát tại nhà ông trùm xẩm Chánh Trương Mậu khi đó hiện là trưởng sáu gánh hát ở Ninh Bình. Năm 16 tuổi bà trở thành người vợ thứ 18 của ông trùm xẩm Nguyễn Văn Mậu (biệt danh là Chánh Trương Mậu). Năm đó ông Mậu 49 tuổi, từng chung sống với 17 người đàn bà, trong đó có 8 bà chính thức. Khi bà 33 tuổi thì ông Mậu qua đời, để lại cho bà bảy người con; sau thì bốn người lần lượt qua đời vì bệnh đậu mùa. Con rể bà làm nghề đánh cá còn con gái buôn bán rong các chợ Bút, chợ Ninh, chợ Nam Dân ở Ninh Bình. Năm 1977, sau ngày Việt Nam thống nhất, bà viết bài Theo Đảng trọn đời. Sau đó, bà được tham dự nhiều hội diễn văn nghệ quần chúng toàn quốc, đoạt được nhiều huy chương vàng và giải thưởng đặc biệt. Năm 1981-1982, bà được Nhạc viện Hà Nội mời tham gia phụ trách chương trình nghệ thuật chào

(Nguồn: www.cailuongvietnam.com)

(Nguồn: kenh14.vn)

35 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V. Bà đã nhận được bằng khen năm 1998 của Đài Tiếng nói Việt Nam và giải đặc biệt "Nghệ nhân hát chèo tỉnh Ninh Bình" trong Liên hoan Trích đoạn tuồng chèo hay toàn quốc. Năm 2008, Nghệ nhân Hà Thị Cầu đã nhận được giải thưởng Đào Tấn, giải thưởng dành cho những đóng góp trong việc gìn giữ vốn quý nghệ thuật dân tộc Bước vào tuổi 80, bà kết thúc công việc hát rong của mình. Hoàn cảnh khó khăn của gia đình bà đã được đề cập nhiều trên các phương tiện truyền thông và đã nhận được nhiều sự ủng hộ tích cực của nhiều người hảo tâm. Những làn điệu xẩm cùng giọng hát của bà là những di sản quý giá còn lại của nghệ thuật xẩm. Bà đã được Hội văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức trao tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian vào ngày 25 tháng 12 năm 2004 và đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. Mặc dù những giải thưởng và danh hiệu, nhưng cuộc sống của bà vẫn vô cùng khổ cực. Đến cuối đời, bà vẫn chưa một ngày thoát khỏi cảnh nghèo khó và gia đình bà Cầu thuộc diện những hộ dân nghèo nhất xã Yên Phong. Bà mất ngày 03 tháng 03 năm 2013 tại nhà riêng ở xã Yên Phong, Yên Mô, Ninh Bình, thọ 86 tuổi. b) Tôn vinh

Năm 1998, bà đã nhận được bằng khen của Đài Tiếng nói Việt Nam và giải đặc biệt "Nghệ nhân hát chèo tỉnh Ninh Bình" trong Liên hoan Trích đoạn tuồng chèo hay toàn quốc. Bà được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam trao tặng danh hiệu "Nghệ nhân Dân gian" vào ngày 25 tháng 12 năm 2004. Năm 2008, Nghệ nhân Hà Thị Cầu được nhận giải thưởng "Đào Tấn", giải thưởng dành cho những đóng góp trong việc gìn giữ vốn quý nghệ thuật dân tộc. Bà được Nhà nước Việt Nam trao tặng danh hiệu "Nghệ sĩ Ưu tú". 2. Các nghệ nhân khác Vũ Đức Sắc (Hà Nội), Thân Đức Chinh (Bắc Giang), Nguyễn Văn Khôi (Hà Nội), Minh Sen, Tô Quốc Phương (Thanh Hoá)... Trùm Khoản (Sơn Tây), Chánh Trương Mậu (Ninh Bình - chồng nghệ nhân Hà Thị Cầu), Đào Thị Mận (Hưng Yên), Hà Thị Cầu

36 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

Nhà nghiên cứu: Vũ Ngọc Phan, Trần Văn Khê, Trần Việt Ngữ, Hoàng Kiều, Thao Giang...

IV. THỰC TRẠNG NGÀY NAY

1. Hát xẩm ngày nay Từ khi ra đời cho đến giữa thế kỷ 20, hát xẩm được nhiều người khiếm thị sử dụng làm nghề kiếm sống nơi bến đò, chợ búa hay lang thang trên những nẻo đường... Họ tổ chức thành các phường hội để truyền nghề và giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống. Vào cuối năm 1954 đầu 1955, để chống lại việc người dân miền Bắc di cư vào miền Nam sau Hiệp định Genève, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tập trung nhiều nhóm hát xẩm (gồm nhiều nghệ nhân xẩm của các vùng Thái Bình, Ninh Bình, Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nội...), cử người viết bài và đến các vùng duyên hải phía Bắc biểu diễn nhằm vận động nhân dân không di cư.[6] Sau đó, khi Hội Người mù được thành lập, những người hát xẩm được dạy nghề về thủ công và chuyển sang sống bằng nghề mới này nên xẩm dần vắng bóng. Hát xẩm hiện nay chỉ đôi khi xuất hiện trên sóng phát thanh, sân khấu như một tiết mục văn nghệ thuần túy do những diễn viên chuyên nghiệp biểu diễn chứ hát xẩm không còn tồn tại với hình thái xã hội vốn có của nó. Gần đây, khi công tác sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn dân ca được chú trọng, các nghệ nhân hát xẩm hiếm hoi còn lại như bà Hà Thị Cầu đã được tổ chức truyền lại cho thế hệ sau loại hình dân ca này. Sau mấy chục năm gián đoạn, ngày 29 tháng 3 năm 2008 (22 tháng 2 âm lịch), lễ giổ tổ nghề hát xẩm cũng đã được phục hồi và tổ chức một cách trọng thể tại Quốc tử giám, Hà Nội. Thời gian gấn đây, được sự đồng ý của Sở Văn hoá, du lịch và thể thao Hà Nội cùng với sự tài trợ của một số doanh nhiệp; các nghệ sĩ Xuân Hoạch, Văn Ty, Thanh Ngoan, Đoàn Thanh Bình thường tổ chức các buổi biểu diễn nghệ thuật hát xẩm vào tối thứ bảy hàng tuần tại truớc cổng chợ

Vũ Ngọc Phan

(1902 – 1987)

Trần Văn Khê

(24/7/1921 – 24/6/2015)

37 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm trong khuôn khổ các hoạt động văn hóa nghệ thuật tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. 2. Đề cử là di sản thế giới Ngày 26/11/2011, Nhà hát Chèo Ninh Bình đã tổ chức lễ khai trương công trình khôi phục, bảo tồn và phát triển nghệ thuật hát xẩm[7] nhằm sưu tầm, biên soạn, truyền dạy và phổ biến các bài hát xẩm theo các làn điệu cổ truyền, dàn dựng chương trình hát xẩm, bảo tồn, phát triển nghệ thuật hát xẩm. Các nghệ sĩ đã sưu tầm các làn điệu, các bài hát xẩm cổ truyền, biên soạn chương trình và trực tiếp truyền dạy nghệ thuật hát xẩm cho các diễn viên, nhạc công Nhà hát Chèo Ninh Bình và các diễn viên quần chúng ở xã Yên Phong (Yên Mô) - quê hương của nghệ nhân Hà Thị Cầu. Theo kế hoạch, đến tháng 12-2011 Dự án sẽ được báo cáo phần khung với lãnh đạo tỉnh Ninh Bình. Đồng thời, thông qua các hoạt động của Dự án cũng chính là bước đệm để trình UNESCO công nhận hát xẩm là Di sản văn hóa phi vật thể của Thế giới.

Một buổi biểu diễn hát xẩm (năm 2015) tại

Hà Nội (Nguồn: bigtime.vn)

38 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

CHUONG 4: CA TRÙ I. GIỚI THIỆU

1. Khái niệm a trù (hay còn gọi là hát ả đào, hát nhà trò, hát cô đầu, hát nhà tơ,...). Đó là lối hát mà trong nó có rất nhiều điệu hát thét nhạc, non mai, hồng hạnh, hát nói,... 2. Lịch sử Một số văn bia thế kỷ XVI, XVII ghi rõ qui định nàỵ Khái niệm ca trù sớm nhất hiện biết là thế kỷ XVI trong bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Lê Đức Mạo. Mặc dù trải qua nhiều biến động lịch sử, xã hội nhưng Ca trù vẫn có một sức sống riêng bởi giá trị của nghệ thuật đối với văn hóa Việt Nam.

II. ĐẶC ĐIỂM

1. Trình bày Một chầu hát cần có ba thành phần chính: - Một nữ ca sĩ (gọi là "đào" hay "ca nương") sử dụng bộ phách gõ lấy nhịp, - Một nhạc công nam giới (gọi là "kép") chơi đàn đáy phụ họa theo tiếng hát. - Người thưởng ngoạn (gọi là "quan viên", thường là tác giả bài hát) đánh trống chầu chấm câu và biểu lộ chỗ đắc ý bằng tiếng trống. Vì là nghệ thuật âm nhạc thính phòng, không gian trình diễn ca trù có phạm vi tương đối nhỏ. Đào hát ngồi trên chiếu ở giữa. Kép và quan viên ngồi chếch sang hai bên. Khi bài hát được sáng tác và trình diễn ngay tại chỗ thì gọi là "tức tịch," nghĩa là "ngay ở chiếu." Khi ả đào hát, quan viên thị lễ, một bên đánh trống,một bên đánh chiêng, trống đánh chát và chiêng đánh một tiếng khi thấy hát hay thì thưởng cho đào một thẻ trù, xong tiệc hát đào, kép ứng theo số thẻ đã được thưởng mà tính tiền, nhận tiền đúng theo quy định.

C

Hình ảnh ca trù (Nguồn: langviet.info)

39 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

2. Âm nhạc Ca trù vừa là một loại thanh nhạc (vocal music), vừa là một loại khí nhạc (instrumental music) có một ngôn ngữ âm nhạc tế nhị, tinh vi. * Thanh nhạc: Ca nương phải có một giọng thanh - cao - vang, khi hát phải biết ém hơi, nhả chữ và hát tròn vành rõ chữ, biết nảy hạt (đổ hột), đổ con kiến. Ca nương vừa hát, vừa gõ phách. Phải biết rành 5 khổ phách cơ bản, đánh lưu không, tiếng phách phải chắc và giòn, lời ca và tiếng phách phải ăn khớp với nhau.

* Khí nhạc: Kép đàn dùng đàn đáy phụ họa. Bản đàn không nhất thiết phải đi theo bài hát, vì phải theo khổ đàn, nhưng khổ đàn – khổ phách – tiếng ca hợp nhau, hài hòa nhuần nhuyễn. Có những cách đàn ca chân phương- theo lề lối hay hàng hoa- sáng tạo và bay bướm. Quan viên là người cầm chầu, tiếng trống chầu vừa chấm câu khi tham gia vào cuộc diễn tấu, nhưng có tính chất phê phán, khen chê đúng chỗ, để khích lệ ca nương – kép đàn, giúp cho thính giả biết được đoạn nào hay - thật hay và như thế được giáo dục âm nhạc trong cách nghe.

* Nhạc cụ:Gồm trống chầu, đàn đáy và phách

III. CÁC NGHỆ NHÂN NỔI

TIẾNG

1. Tác phẩm Có thể kể 1 số như của: - Cao Bá Quát với "Tự tình", "Hơn nhau một chữ thì", "Phận hồng nhan có mong manh", "Nhân sinh thấm thoắt"... - Nguyễn Công Trứ với "Ngày tháng thanh nhàn", "Kiếp nhân sinh", "Chơi xuân kẻo hết xuân đi", "Trần ai ai dễ biết ai"... - Dương Khuê với "Hồng hồng, tuyết tuyết" (Gặp đào Hồng đào Tuyết). - Chu Mạnh Trinh với Hương Sơn phong cảnh. - Tản Đà với "Gặp xuân","Xuân tình", "Chưa say" - Nguyễn Khuyến với "Hỏi phỗng đá", "Duyên nợ"

Nhạc cụ ca trù (thứ tự từ trái sang

phải: Trống chầu, đàn đáy, phách) (Nguồn: vietnamhoc.the-talk.net)

40 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

- Nguyễn Thượng Hiền với "Chơi chùa Thầy"; - Trần Tế Xương với "Hát cô đầu" 2. Nghệ nhân nổi tiếng a) Nghệ nhân Quách Thị Hồ

- Quách Thị Hồ sinh ngày 11 tháng 6 năm 1909tại làng Ngọc Bộ, xã Long Hưng, huyện Văn Giang, Hưng Yên (trước thuộc tỉnh Bắc Ninh, nơi sản sinh nhiều làn điệu quan họ), là một nghệ nhân ca trù nổi tiếng. Bà sinh ra trong một gia đình có nghiệp đàn hát lâu đời. Mẹ bà cũng là một ả đào có tiếng. Ngay từ nhỏ, bà Hồ đã sống trong tiếng đàn phách, rồi được mẹ truyền nghề đàn hát. - Năm 1976, Giáo sư Trần Văn Khê từ Pháp trở về Hà Nội, ghi âm tiếng hát của bà đem đi giới thiệu với thế giới. Năm 1978, Hội đồng Âm nhạc Quốc tế của UNESCO và Viện Nghiên cứu Quốc tế về Âm nhạc đã trao tặng bà bằng danh dự cho công lao "gìn giữ một di sản nghệ thuật truyền thống quý báu của Việt Nam, một vốn quý của nhân loại". Quách Thị Hồ đã trở thành nghệ nhân ca trù tiêu biểu của Việt Nam. Giọng hát của bà đã được Đài tiếng nói Việt Nam thu âm, phát sóng rộng rãi trên sóng phát thanh của Đài. Năm 1988, bà được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. - Nghệ nhân Quách Thị Hồ mất ngày 4/1/2001 tại Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi. - Bà sở hữu một giọng hát đặc biệt, cùng tiếng phách điêu luyện đã chinh phục nhiều người thưởng thức. Một trong những kĩ thuật đặc trưng nhất của bà là kĩ thuật đổ hột hay nảy hạt - một kĩ thuật thường thấy trong chèo, tuồng và cả quan họ. - Trong những năm thập niên 1950-1970, nghệ thuật ca trù không có chỗ Có thể nói Quách Thị Hồ là người đã có công đóng góp lớn trong việc khôi phục, quảng bá và phát triển nghệ thuật ca trù. Giọng hát của bà cũng được nhiều nghệ sĩ học hỏi như nhóm Ca trù Thái Hòa và nghệ sĩ Thúy Loan. b) Tên các nghệ nhân khác

- Nghệ nhân Nguyễn Thị Thiệp (Bắc Ninh) - Nghệ nhân Nguyễn Văn Khôi (Hà Nội)

41 TÀI LIỆU ÂM NHẠC DÂN TỘC BẮC BỘ VIỆT NAM

- Nghệ nhân Phạm Thị Mùi (Lỗ Khê, Đông Anh, Hà Nội) IV. THỰC TRẠNG NGÀY NAY

Ngày 1/10/2009, tại kỳ họp lần thứ IV của Ủy ban liên chính phủ Công ước

UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28/9 2/10/2009), ca trù đã được công nhận là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là một Danh hiệu UNESCO ở Việt Nam có vùng ảnh hưởng lớn, với phạm vi tới 16 tỉnh, thành phố ở nửa phía Bắc Việt Nam. Hồ sơ đề cử Ca trù là di sản văn hóa thế giới với không gian văn hóa Ca trù trải dài khắp 16 tỉnh phía Bắc gồm: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Theo thống kê, trước khi ca trù được công nhận là di sản, có 22 Câu lạc bộ ca trù hoạt động. Một số câu lạc bộ ở Hà Nội như: - Câu lạc bộ Ca trù Thái Hà với địa điểm diễn ở Thụy Khuê, Văn Miếu - Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội diễn ở Bích Câu - Câu lạc bộ Thăng Long ở đình Giảng Võ - Câu lạc bộ Ca trù UNESCO ở Bảo tàng Dân tộc học - Trung tâm Văn hóa ca trù Thăng Long diễn tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam… Rồi một lớp ca trù do ca nương Phạm Thị Huệ khởi xướng với sự truyền dạy của kép đàn Nguyễn Phú Đẹ và nghệ nhân Nguyễn Thị Chúc được Quỹ Ford tài trợ. Thế nhưng sau gần hai năm ca trù được ghi danh, hầu hết các Câu lạc bộ biểu diễn cầm chừng; lớp học ca trù của Quỹ Ford kết thúc dự án; Trung tâm Văn hóa ca trù Thăng Long gần như giải thể với lý do vắng khách… Nghệ nhân Nguyễn Văn Mùi của Câu lạc bộ Ca trù Thái Hà cho biết thêm: “Khi ca trù được công nhận là di sản thì cũng là lúc tần suất diễn của Câu lạc bộ ca trù gia đình tôi giảm đi…”. Chung số phận với các Câu lạc bộ ca trù biểu diễn chuyên nghiệp, một số Câu lạc bộ ca trù truyền thống trên đất Thăng Long cũng sống lay lắt sau khi được UNESCO vinh danh mà nguyên nhân chính là do thiếu nghệ nhân truyền dạy và hạn hẹp về kinh phí hoạt động

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

42 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

CHUONG 5: CHÂU VAN I. GIỚI THIỆU

1) Khái niệm át văn, còn gọi là chầu văn hay hát bóng, là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (Đạo Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. 2) Lịch sử Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thời kỳ thịnh vượng nhất của hát văn là cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Vào thời gian này, thường có các cuộc thi hát để chọn người hát cung văn. Từ năm 1954, hát văn dần dần mai một vì hầu đồng bị cấm do bị coi là mê tín dị đoan. Đến đầu những năm 1990, hát văn lại có cơ hội phát triển. Các trungtâm của hát văn là Hà Nam, Nam Định và một số vùng thuộc đồng bằng Bắc Bộ.

II. ĐẶC ĐIỂM CHUNG

1) Phân loại a) Hát thờ

Hát thờ được hát vào các ngày lễ tiết, những ngày tiệc thánh (ngày thánh đản sinh, ngày thánh hóa...) và hát trước khi vào các giá văn lên đồng.

H

Một nghệ nhân đang hát Chấu Văn (Nguồn: www.nhandan.org.vn)

Hát thờ

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

43 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

b) Hát hầu

Trong hát hầu: - Theo tín ngưỡng tứ phủ thì ba giá tam tòa Thánh Mẫu là bắt buộc và hầu tráng bóng chứ không tung khăn. Các giá tung khăn bắt đầu từ hàng Quan Lớn trở xuống. - Trong tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, người ta có thể kết hợp hầu tứ phủ hoặc hầu riêng, nếu hầu kết hợp với tứ phủ thì thường thỉnh tam tòa Thánh Mẫu đầu tiên, còn nếu hầu riêng thì mới thỉnh đức Thánh Vương Trần Triều đầu tiên. c) Hát văn nơi cửa đền

Hát văn nơi cửa đền thường diễn ra tại các đền phủ trong những ngày đầu xuân, ngày lễ hội. Các cung văn hát chầu văn phục vụ khách hành hương đi lễ. Lời ca tiếng hát được coi như một bài văn khấn nguyện cầu các mong ước của khách hành hương. Ví dụ như: Con đi cầu lộc cầu tài. Cầu con cầu của gái trai đẹp lòng. Gia trung nước thuận một dòng. Thuyền xuôi một bến vợ chồng ấm êm.

Hay: Độ cho cầu được ước nên. Đắc tài sai lộc ấm êm cửa nhà. Lộc gần cho chí lộc xa. Lộc tài lộc thọ lộc đà yên vui.

d) Hát văn trong hầu đồng

Hầu đồng là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác ông Đồng bà Cốt. Trong nghi lễ đó, hát vǎn phục vụ cho quá trình nhập đồng hiển thánh.Sau khi đã múa các thánh thường ngồi nghe cung văn hát, kể sự tích lai lịch vị thánh đang giáng. Với các giá ông Hoàng thì cung văn ngâm các bài thơ cổ.

Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác về gối và thưởng tiền cho cung văn. Lúc này cũng là lúc thánh dùng những thứ người hầu đồng dâng

Một nghệ nhân đang hát Chấu Văn (Nguồn: hanhtrinhtamlinh.com)

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

44 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

như: rượu, thuốc lá, trầu nước v.v. Các thứ thánh dùng phải làm nghi thức khai cuông (khai quang) cho thanh sạch.Động tác người lên đồng phải ăn khớp với bài hát văn.

2) Âm nhạc a) Trình bày

Chầu văn là một thể hát do cung văn hát trong nghi thức hầu bóng lên đồng. Thông thường trong chầu văn: - Cung văn ngồi một bên mé - Người hầu bóng, gọi là đệ tử thánh, ngồi trước bàn thờ. - Hai bên cung văn là nhạc công tấu nhạc cùng ban phụ họa hát theo. - Hai bên đệ tử thánh thì có người phụ việc sửa soạn khăn áo để khi thánh nhập thì trang phục ăn khớp với giá đồng. - Người phụ việc cũng lo các lễ vật dâng cúng cùng lộc thánh để phát cho các người đến cung nghinh - Nghi lễ hát chầu văn lên đồng có thể chia thành bốn phần chính: 1. Mời thánh nhập 2. Kể sự tích và công đức 3. Xin thánh phù hộ 4. Đưa tiễn - Bài hát thường chấm dứt với câu: "Xa loan thánh giá hồi cung!" b) Lời nhạc

Chầu văn sử dụng nhiều thể thơ khác nhau như thơ thất ngôn, song thất lục bát, lục bát, nhất bát song thất (có thể gọi là song thất nhất bát gồm có một câu tám và hai câu bảy chữ), hát nói… Các ví dụ * Thể thất ngôn: (trích đoạn bỉ của văn công đồng)

Sâm sâm hạc giá tòng không hạ Hiển hiển loan dư mãn tọa tiền Bất xả uy quang phu thần lực Chứng minh công đức lượng vô biên * Thể song thất lục bát: (Trích văn Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên) Chốn cung

tiên mây lồng ánh nguyệt

Cảnh bầu trời gió quyện hương bay Cửu trùng tọa chín tầng mây Thiên Tiên Đệ Nhất ngự rày trung cung

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

45 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

Gió đông phong hây hây xạ nức Bộ tiên nàng chầu chực hôm mai Dập dìu nơi chốn trang đài Chính cung Mẫu ngự trong ngoài sửa sang * Thể lục bát: (Trích văn Chầu Đệ Nhị) Trên ngàn gió cuốn rung cây

Dưới khe cá lặn chim bay về ngàn Canh khuya nguyệt lặn sao tàn Chiếc thoi bán nguyệt khoan khoan chèo vào Gập ghềnh quán thấp lầu cao

Khi ra núi đỏ lúc nào ngàn xanh Thượng ngàn Đệ Nhị tối linh Ngôi cao công chúa quyền hành núi non

* Thể song thất nhất bát (Trích văn Cô Bơ Thoải)

Nhang thơm một triện, trống điểm ba hồi Đệ tử con, dâng bản văn mời Dẫn sự tích thoải cung công chúa Tiền duyên sinh ở:thượng giới tiên cung Biến hóa lên về Động Đình trung

Thác sinh xuống,con vua thoải tộc Điềm trời giáng phúc, thoang thoảng đưa hương Mãn nguyệt liền, hoa nở phi phương Da tựa tuyết ánh hường tươi tốt

* Thể hát nói: (Trích văn Quan Đệ Nhị)

Nhác trông lên tòa vàng san sát, Không đâu bằng Phố Cát, Đồi Ngang Đá lô xô nước chảy làn làn Điều một thú cỏ hoa như vẽ Nhạn chiều hôm bay về lẻ tẻ, Trên sườn non chim sẻ ríu ran.

Nước dưới khe tung tính tiếng đàn, Trên đỉnh núi tùng reo điểm trống Ngần ngật Sòng Sơn kiêu dĩ lộng Thanh thanh chi thủy chiếu trần tâm Sơn chi cao hệ thủy chí thâm Đây thực chốn non nhân nước trí

c) Tiết tấu

Về tiết tấu, hát văn thường sử dụng nhịp ngoại (đảo phách).Loại nhịp này mang đến một cảm giác không ổn định trong tâm trí người nghe, đưa người nghe vào trạng thái mông lung, huyền ảo. Các làn điệu hát văn cơ bản gồm: Bỉ, Miễu, Thổng, Phú Bình, Phú Chênh, Phú Nói, Phú rầu (phú dầu), Đưa Thơ, Vãn, Dọc, Cờn Xá, Kiều Dương, Hãm, Dồn, điệu kiều thỉnh, Hát Sai (Hành Sai), ngâm thơ...

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

46 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

- Bỉ mang sắc thái trịnh trọng, được dùng để mở đầu cho hình thức hát văn thờ. Thông thường điệu Bỉ được hát trên thể thơ thất ngôn tứ cú (bốn câu mỗi câu bảy chữ) hoặc thất ngôn bát cú (tám câu mỗi câu bảy chữ) nhưng cũng có khi điệu này có thể hát trên các thể thơ khác như song thất lục bát, lục bát, song thất nhất bát. Trong các bản sự tích chư thánh được hát thờ thì đoạn bỉ thường là đoạn giới thiệu tóm tắt nội dung chính của cả bản văn. Các đoạn bỉ cũng thường sử dụng nhiều câu đối nhau (biền ngẫu).Một điều đặc biệt nữa đó là điệu bỉ chỉ có trong hát văn thờ mà tuyệt nhiên không có trong hát văn hầu đồng. Bỉ được lấy theo dây lệch, nhịp theo lối dồn phách. - Miễu là lối hát rất nghiêm trang, đĩnh đạc, chỉ được dùng trong hát thi và hát thờ, tuyệt nhiên không bao giờ được dùng trong Hầu Bóng. Miễu được lấy theo dây lệch, nhịp đôi. - Thổng chỉ dành riêng cho văn thờ và văn thi, được lấy theo dây bằng, nhịp ba. - Phú Bình dành riêng cho hát văn thờ, rất đĩnh đạc, và dùng để hát ca ngợi các nam thần. Phú Bình được lấy theo dây lệch, nhịp 3. - Phú Chênh là lối hát buồn, thường dùng để hát trong những cảnh chia ly. Được lấy theo dây bằng, nhịp 3. - Phú Nói thường dùng để mô tả cảnh hai người gặp gỡ, nói chuyện với nhau.Dùng trong hát văn thờ, văn thi và cả trong hầu bóng. Lấy theo dây bằng, nhịp ba hoặc không có nhịp mà chỉ dồn phách. - Phú rầu là lối hát rất buồn, được lấy theo dây bằng nhưng hát theo nhịp đôi. - Đưa thơ được lấy theo dây bằng, nhịp 3 và dồn phách, nhưng chủ yếu là dồn phách. - Vãn lấy theo dây bằng, nhịp đôi, hát theo lối song thất lục bát, hát theo lối vay trả (vay của câu trước thì trả lại trong câu sau). - Dọc lấy theo dây bằng, nhịp đôi, hát theo lối song thất - lục bát và hát theo nguyên tắc vay trả. Nếu hát từng câu thì gọi là nhất cú.Nếu hát liền hai câu song thất - lục bát thì gọi là "Dọc gối hạc" hay "Dọc nhị cú". - Cờn dùng để ca ngợi sắc đẹp các vị nữ thần. Cờn được lấy theo dây lệch, nhịp đôi. Có thể hát theo dây bằng, nhưng hầu hết là hát kiểu dây lệch (biến hóa).

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

47 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

- Hãm lấy theo dây bằng, nhịp đôi, đây là lối hát rất khó vì phải hát liền song thất lục bát. Trong lối hát này có một tuyệt chiêu là Hạ Tứ Tự, có nghĩa là mượn bốn chữ của trổ sau, khi sang một trổ mới thì lại trả lại bốn chữ ấy. - Dồn được lấy theo dây bằng, nhịp 3. - Xá là một trong những điệu hát quan trọng nhất khi hát văn hầu bóng (cùng với Cờn, Dọc, Phú nói). Điệu Xá đặc trưng cho các giá nữ thần miền thượng. - Xen kẽ những đoạn hát là đoạn nhạc không lời, gọi là lưu không.

c) Nhạc cụ - trang phục

* Trang phục

- Trang phục trong hát văn phong phú và đa dạng với những đường nét may vá, thêu ren… tỉ mỉ và công phu. Tuy vậy, trang phục được quy định rất chặt chẽ, phù hợp theo từng giá và giới tính, tính cách của từng vị thần linh. Trang phục có 4 màu sắc cơ bản: đỏ, xanh, trắng và vàng. - Màu đỏ là trang phục của Mẫu Thượng Thiên và ngôi thứ nhất gồm các vị: chầu đệ nhất, quan lớn đệ nhất…

Phục trang của người hầu đồng

Mẫu Thoải

Trang phục chầu Đệ Nhị: Lộng

lẫy, nghe hát văn về sự tích,

công trạng của các vị anh hùng

dân tộc trong không gian nghi lễ

với nhiều sắc màu rực rỡ

Ông Hoàng Mười là vị tướng thời Lê

có nhiều công trạng, văn võ song

toàn, được dân tôn là Thánh,

thường xuất hiện ở các giá hầu đồng

với dung mạo khôi ngô, tuấn kiệt

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

48 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

- Màu xanh là trang phục của Mẫu Thượng Ngàn và ngôi thứ hai gồm các vị: chầu đệ nhị, quan lớn đệ nhị… - Màu trắng là trang phục của Mẫu Thoải và ngôi thứ ba gồm các vị: chầu đệ tam, quan lớn đệ tam… - Màu vàng là trang phục của Mẫu Địa và ngôi thứ tư gồm các vị: chầu đệ tứ, quan lớn đệ tứ… - Với các vị Thánh hàng quan, trang phục còn có thêm cờ lệnh, cung, kiếm… thể hiện sự uy nghi, mạnh mẽ vì các Thánh này đều thuộc võ quan. Cô Sáu thuộc phủ Thượng Ngàn (tục truyền cô là người dân tộc Nùng) trang phục là quần áo chàm, đeo túi hoa, tóc cài hoa rừng… * Nhạc cụ

Hát văn là lễ nhạc hát chầu Thánh nên có vai trò quan trọng trong lễ hầu đồng. Lời ca, tiếng nhạc của cung văn nhằm mời gọi các vị Thánh về. Hát văn làm cho buổi lễ sống động. Những người hát văn vừa chơi nhạc cụ vừa thay nhau hát trong một vấn hầu thường kéo dài từ 4-8 tiếng Các nhạc cụ chính (hình bên), ngoài ra còn sử dụng nhiều nhạc cụ khác như: trống cái, sáo, đàn tranh, đàn nhị, kèn bầu, chuông, mõ, đàn bầu,...

III. CÁC NGHỆ NHÂN NỔI TIẾNG

1) Văn chương là nghệ sĩ chèo nổi tiếng song bên cạnh đó Văn Chương cũng được biết đến như một nghệ sĩ hát chầu văn, một số bài ông hát: Cô Đôi Thượng Ngàn, Tam Tòa Thánh Mẫu,Quan đệ nhất,Quan đệ nhị,Quan đệ tam,Quan đệ tứ………. 2) Thanh Ngoan cũng như Văn Chương bà cũng là một nghệ sĩ chèo nổi tiếng và hát một số bài chầu văn như: Chầu đệ nhị, Bà chúa thác,Chầu lục, Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười……… 3) Tuyết Tuyết

Nhạc cụ Chầu Văn (Nguồn: dotchuoinon.com)

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

49 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

a) Cuộc đời

Nghệ nhân Tuyểt Tuyết tên thật là Nguyễn Thị Tuyết, sinh năm 1982 tại Thái Bình, Nghệ nhân Tuyết Tuyết ngay từ nhỏ đã có niềm đam mê loại hình nghệ thuật hát Chầu văn, cha và mẹ của nghệ nhân cô đều là những cung văn có tiếng. Năm 2002 Tuyết Tuyết học trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thái Bình, theo đuổi niềm đam mê hát Chầu văn. Năm 2006 Tuyết Tuyết thi đỗ vào trường Nhạc viện Hà Nội nay là Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam, b) Giải thưởng

Năm 2004 chị đoạt Huy chương vàng hát chầu văn do Bộ Văn Hóa - Thông tin tặng tại Chung khảo Hội thi "Tiếng hát sinh viên và học sinh THCN toàn quốc “lần thứ VIII”. Giải A với tiết mục hát văn "Thái Bình miền đất quê em" do Tuyết Tuyết tự soạn lời và biểu diễn tại “Liên hoan ca múa nhạc & triển lãm mỹ thuật học sinh sinh viên các trường văn hóa nghệ thuật toàn quốc năm 2004” tại Hà Nội. Từ năm 2006 đến 2008 chị đã tham gia 3 tháng Triển lãm văn hóa thế giới tại Tây Ban Nha cùng nhiều cuộc thi văn nghệ và nhận được nhiều giải thưởng nghệ thuật tiêu biểu cho loại hình nghệ thuật này. Năm 2013 Nghệ nhân Tuyết Tuyết đạt Huy chương vàng tiết mục hát văn "Hà thành 36 phố phường" tại Liên hoan hát văn và hát chầu văn vùng đồng bằng Sông Hồng mở rộng. Tháng 11 năm 2014 Tuyết Tuyết tham gia chương trình diễn xướng dân gian tại thành phố Đà Lạt, soạn lời và biểu diễn bài hát văn "Thắm tình Đà Lạt ngàn hoa" đã được ban tổ chức chọn vào biểu diễn truyền hình trực tiếp tối mùng 9/11/2014 tại Lâm Đồng. -Và hiện nay nước ta có hơn 1.000 người hát chầu văn khác, người cao tuổi nhất là 93, ít tuổi nhất là 16, các bậc nghệ nhân mẫu mực chiếm số ít trong đó.

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

50 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

IV. THỰC TRẠNG NGÀY NAY

- Theo thời gian, các bậc nghệ nhân (cung văn) mẫu mực còn lại rất ít. Những cung văn, ông đồng/bà đồng có kinh nghiệm, nắm giữ nhiều lời văn, làn điệu cổ… phần lớn đã tuổi cao, sức yếu nên không thể truyền lại hết những vốn liếng vô giá cho thế hệ tiếp nối. Vậy nên phần lớn các cung văn lớp kế cận đang hành nghề hiện nay đều chỉ nắm giữ được một phần những giá trị của truyền thống. - Mặt khác, tình trạng thương mại hoá, lợi dụng tín ngưỡng để “buôn thần bán thánh”, hiện tượng “đồng đua”, mua sắm nhiều lễ vật đắt tiền, đốt vàng mã nhiều gây tốn kém và ô nhiễm môi trường còn tồn tại khiến nghi lễ này có nguy cơ bị biến dạng… - Nghệ thuật chầu văn đang được quan tâm bảo tồn và lập hồ sơ trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể. Hiện tại, Nghi lễ chầu văn của người Việt ở Hà Nam, Nam Định đã được đưa vào danh sách 33 di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam (đợt 1). - Có thể nói loại hình nghệ thuật hát chầu văn đã trải qua nhiều biến cố thăng trầm nhưng vẫn giữ được hồn Việt thuần nhất, mộc mạc, song cũng rất đa dạng, phong phú.

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

51 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

CHUONG 6: HÁT TRÔNG QUÂN

I. GIỚI THIỆU

1) Khái niệm át Trống Quân là hình thức sinh hoạt ca hát giao duyên rất phổ biến ở các tỉnh đồng bằng và trung du của Việt Nam, kể từ Thanh Hóa trở ra. Một số nơi có nghệ thuật Trống Quân phát triển như ở Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, vùng ven Hà Nội, Vĩnh Phúc và Phú Thọ. 2) Lịch sử Tục truyền, hát Trống Quân xuất hiện vào đời nhà Trần, thời kháng chiến chống quân Nguyên, binh sĩ khi giải trí ngồi thành hai hàng đối nhau, một bên là "Hát xướng", một bên là "Hát đáp", khi hát gõ vào tang trống để làm nhịp. Dựa trên đặc thù của lối hát, người ta cho rằng, khi nào có sự ra đời của thơ lục bát, thì khi đó điệu trống quân ra đời. Bởi, tất cả các bài hát trống quân đều dựa trên nền thơ lục bát, kể cả các bài lời cổ lẫn bài mới sáng tác gần đây.

II. ĐẶC ĐIỂM CHUNG

1) Đặc trưng Hát trống quân ở mỗi địa phương có chút ít khác nhau về làn điệu, cách thức, thời điểm hát nhưng có đặc điểm chung là cách thức hát xướng giống nhau, làn điệu gần giống nhau và sử dụng một loại trống để đánh nhịp khi hát và đoạn "Lưu không" giữa những câu đối đáp.

H

Hát Trống Quân (Nguồn: xahoi.com.vn)

Hát Trống Quân (Nguồn: duphong.bacninh.gov.vn)

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

52 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

Hát Trống Quân phổ biến ở Bắc Bộ thường được tổ chức vào những tuần trăng tháng bảy, tháng tám âm lịch, ngoài ra còn được tổ chức hát thi vào những ngày hội.Trong những ngày mùa, những người thợ gặt ở nơi khác đến thường tổ chức hát với trai hoặc gái trong làng hoặc giữa họ với nhau vào buổi tối, lúc nghỉ việc.Hát trống Quân thường được tổ chức ngoài sân nhà hoặc ở bãi cỏ rộng, ở gần đình làng, giữa một bên là nam và một bên là nữ. 2) Trống thùng Khi hát Trống Quân có trống dẫn nhịp. Người ta còn gọi là trống này là "Trống thùng". Trống thùng được cấu tạo như sau: Hai cọc được cắm ở hai bên, một bên cọc là phe nam, một bên cọc là phe nữ đứng (hoặc ngồi). Một sợi dây thừng được buộc vào hai cọc, chính giữa sợi dây đặt một cái thùng, mặt rỗng úp xuống một hố đất nhỏ, mặt đáy trên sát sợi dây.Người ta gõ vào đầu dây ở phía cọc, dây bật vào đáy thùng mà kêu thành tiếng. Xưa kia, trống thùng làm bằng hai cọc tre cao khoảng 1 mét và một thanh tầm vông gát ngang. Giữa thanh tầm vông người ta đặt một thanh tre vuông góc, một đầu chống lên một miếng ván mỏng được đặt hờ trên một hố đất nhỏ. Khi đối đáp, bên nào hát dứt câu thì đánh vào trống thùng (là phần dây nơi đầu cọc hoặc đầu thanh tầm vông) để làm nhịp "Lưu không", vừa để thúc giục phe bên kia hát đáp lại. 3. Tiết tấu: Về âm nhạc, Trống Quân là một làn điệu gần với tiếng nói hơn. Vì lời ca là thơ lục bát và mỗi lần hát có thể dài ngắn khác nhau, nên giai điệu biến đổi theo dấu giọng, Trống Quân lấy đối lời làm chính và được diễn xướng ở tốc độ nhanh vừa, lời ca chỉ có vài tiếng đệm nhằm phục vụ cho việc xây dựng giai điệu như: thời, có mấy, hời, ư, nầy, rằng... Đoạn tiết tấu "Lưu không" của hát Trống Quân:

♪♪|♪♬ ♪♪|♩ ♪♪|♪♬ ♪♪|♩

hoặc

♪♪|♩♪♪|♩♪♪|♪♬♪♪|♩ Trống quân

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

53 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

Có đám mây xanh Trên trời (thời) có đám mây xanh Ở giữa (thời) mây trắng (ấy) Chung quanh mây bển vàng (ư…) - "Lưu không" Ước gì (thời) anh lấy được nàng thì anh (này) Mua gạch (ấy) Bát Tràng đem về xây (ư…) - "Lưu không" Xây dọc (thời) anh lại xây ngang (chứ) Xây hồ (thời) bán nguyệt (ấy) Cho nàng chân rửa chân (ư…) - "Lưu không" Nên chăng (thời) tình ái nghĩa ân Chẳng nân (này) phi giả (ấy) Về dân Tràng Bát Tràng – "Lưu không" 4. Biểu diễn a) Cách hát

Về số lượng người hát, các cụ kể rằng một đám có tổ chức, thường chỉ khoảng 4 - 5 người tham gia mỗi nhóm bên nam và bên nữ.Tất nhiên phải là những người có trình độ nghệ thuật nhất định. Hát hay nhưng nếu ứng đối lời thơ không nhanh nhạy hoặc ngược lại, ứng đối giỏi nhưng không có chất giọng thì cuộc hát trống quân sẽ bất thành. Mở đầu, một bên cử người đại diện vào hát trước để chèo kéo bên kia vào cuộc. Khi cặp nam nữ đối đáp so tài, tất có kẻ thắng, người thua.Và, bên nào thua sẽ thay người khác vào hát tiếp.Như vậy, số lượng người tham gia mỗi bên không nhất thiết phải bằng nhau. Bởi nếu một thành viên bên này đủ tài ứng đối thì rất có thể sẽ lần lượt đánh bại tất cả thành viên bên kia và ngược lại. Mặt khác, nếu có một cặp hát ứng đối ngang tài, ngang sức thì họ sẽ chiếm sân chơi lâu hơn, thậm chí có thể bao sân cả một cuộc hát đến khi mệt thì thôi.Hiện tượng này không phải là hiếm, đặc biệt trong các đám hát khao, sân chơi của những nghệ nhân tài danh trong một vùng. Ở nhiều nơi, cũng phổ biến vai trò cố vấn

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

54 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

của một đôi người có trình độ ứng đối văn thơ. Có những đám hát, mỗi nhóm mời hẳn một cụ đồ nho có uy tín giúp đỡ, gà bài tại chỗ.Họ có nhiệm vụ mách nước giúp các chàng trai, cô gái thoát khỏi thế bí, khi đối phương ra bài đối hóc hiểm. Điều đó càng khiến cho sức hấp dẫn của đám tăng lên bội phần. Ở nhiều vùng, khi các đám hát trống quân phát triển tới quy mô lớn, mang nặng tính chất thi thố thì làng thường phải lập ra một ban giám khảo để giám định cuộc chơi. Giải thưởng có thể là đôi ba vuông lụa hay mấy gói chè thuốc... mang tính khích lệ hơn là giá trị vật chất. Bởi danh dự nghệ thuật là niềm tự hào trong mỗi cộng đồng. Ngày xưa, mỗi lần hát trống quân các cụ thường khoét đất, úp trống lên để làm nhịp, hát theo kiểu một đôi nam nữ ứng tác. Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khách quan nên mọi người quyết định "cách tân" cách hát. Đội hình hát bây giờ thường gồm 3 nam, 3 nữ hoặc 5 nam, 5 nữ, khi hát có bộ nhạc dây, sáo đệm cùng. Riêng lời hát, vẫn giữ nguyên lời cổ. Trống quân Dạ Trạch có 2 làn điệu, được gọi nôm là trống quân 1 và trống quân 2. Điệu 1 mọi người thích hát hơn, vì lời hát thường kèm theo các phụ âm "ơ", "a", nên dễ dàng cho việc lấy hơi, giữ nhịp. Trong khi điệu 2 vẫn giữ chất cổ, có chữ "thời", chữ "i" đi cùng ở các điệu ngân nên khó giữ nhịp, phách. Giới trẻ bây giờ đa số thích học và hát những bài thuộc điệu trống quân 1 hơn vì nghe vừa hay, lại dễ hát và tính lan truyền cao hơn. b) Thời gian diễn ướng:

Trống quân Đức Bác (trống quân nghi lễ) do gắn liền với lễ hội khai xuân cầu đinh vào dịp từ mùng 1 đến mùng 4-2 âm lịch, nên vài ba năm mới tổ chức một lần .Khi đó, các hình thức sinh hoạt trống quân giao duyên lại diễn ra thường xuyên vào nhiều dịp trong năm. . Phân loại Loại có tổ chức: Hát trong đám khao Hát lúc nông nhàn Loại tự do

III. CÁC NGHỆ NHÂN – NGHỆ SĨ NỔI TIẾNG

1. Nghệ nhân Nguyễn Thị Xuyên

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

55 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

Là người yêu điệu hát trống quân như "máu thịt", nhưng bà Xuyên lại không phải con gái nơi đây. Quê bà ở xã bên cạnh về làm dâu đất Dạ Trạch Khi về làm dâu, qua những lần đi cấy sáng trăng, bà đã được nghe và yêu thích điệu hát ấy bởi trai gái trong làng hát đối đáp lúc nghỉ giải lao. Tưởng như điệu hát ấy sẽ mất hẳn trước sự xâm lấn của đời sống âm nhạc thị trường thì may mắn thay, nó lại được "sống lại". Người có công đầu trong việc "đánh thức" điệu hát ấy chính là cụ Nguyễn Duy Phí, nguyên Giám đốc Nhà hát Múa rối Trung ương, là người con của quê hương Dạ Trạch. Năm 1991, biết thông tin Nhà nước có chủ trương khôi phục lại các di sản văn hóa đang bị thất truyền trong dân gian, cụ Phí đã về quê tìm gặp các nghệ nhân cao tuổi để sưu tầm lời hát rồi tập hợp lại, nhờ cụ Điệp biên tập, chỉnh lý. Sau khi hiệu chỉnh thành tuyển tập, năm 1993, cụ Phí tuyển chọn 8 người (4 nam, 4 nữ) có năng khiếu về âm nhạc, yêu điệu trống quân, để truyền dạy cách hát. Bà Xuyên thuộc đội này và được coi là một trong những người đầu tiên đưa điệu hát trống quân trở lại. Cũng từ đây, CLB Trống quân Dạ Trạch được ra đời, tồn tại đến bây giờ. Tôi theo bà Xuyên đi vào nhà trong. Bà bê ra một chồng ảnh, bằng khen, giấy khen, giấy chứng nhận tham gia hội diễn, giao lưu các loại của CLB Trống quân Dạ Trạch kể từ khi mới thành lập. Nghe bà Xuyên kể, từ khi được khôi phục lại, bà và các thành viên CLB liên tục "mang chuông đi đánh xứ người", tham gia hàng chục hội thi và các chuyến lưu diễn trên nhiều tỉnh, thành phố, lần nào cũng gây được ấn tượng tốt đẹp với ban tổ chức và các đơn vị bạn. Liếc nhanh những bằng chứng nhận bà đang lọc ra,

Nghệ nhân Nguyễn Thị Xuyên đang dạy trống

quân cho các bạn trẻ (Nguồn: www.qdnd.vn)

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

56 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

tôi thấy nổi bật có 2 Huy chương vàng, Huy chương bạc tại Hội diễn Nghệ thuật quần chúng toàn quốc các năm 1994, 1997 do Ban tổ chức trao tặng CLB Trống quân Dạ Trạch. Ngoài ra, còn có giải B tại Liên hoan Dân ca toàn quốc, giải nhất tại Hội thi Tiếng hát người cao tuổi tỉnh Hưng Yên. Bà Xuyên cho biết thêm, năm 2015, bà được Chủ tịch nước tặng thưởng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú. Với những "nghệ sĩ không chuyên" như bà và các bạn diễn, đây là niềm vinh dự, tự hào không phải ai cũng có được! Trước khi chúng tôi ra về, bà Xuyên lại vỗ tay làm nhịp rồi hát một điệu trống quân để chào tạm biệt. Đưa khách ra cổng, bà báo thêm tin vui: Hiện nay, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hưng Yên đang làm hồ sơ để đệ trình lên cấp trên xem xét, công nhận hát Trống quân Dạ Trạch là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là nguồn động viên to lớn để Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Xuyên và các thành viên của CLB Trống quân Dạ Trạch tiếp tục gìn giữ, lan tỏa điệu hát cổ truyền, để nét văn hóa đặc sắc ấy sống mãi trong đời sống tinh thần của người dân. 2. Nghệ nhân Nguyễn Thị Vẫy Nghệ nhân Nguyễn Thị Vẫy, 78 tuổi, ở thôn Đan Nhiễm, xã Khánh Hà, Thường Tín (Hà Nội), người có công lớn trong việc bảo tồn, lưu giữ và phát triển điệu trống quân cổ và những làn điệu mới, truyền dạy nghệ thuật hát trống quân cho thế hệ trẻ. Cụ Vẫy có mẹ là nghệ nhân trống quân, thuộc rất nhiều làn điệu cổ, thường sáng tác làn điệu mới để dạy cho con trai, con gái trong nhà. Vì thế, ngay từ lúc 8 – 9 tuổi, Nguyễn Thị Vẫy đã rất mê hát trống quân. Đến tuổi thiếu nữ, vào những đêm trăng sáng, cô thôn nữ Nguyễn Thị Vẫy theo người làng dong thuyền trên sông đi hát làm mê lòng biết bao chàng trai thủa ấy. Năm 15 tuổi, Nguyễn Thị Vẫy bắt đầu đi hát trống quân trên loa xã, đi đọc báo, đọc những chủ trương chính sách của nhà nước cho bà con trong xã. Đã có một thời gian dài, những làn điệu trống quân bị mai một và lớp trẻ không say mê. Nhớ nghề và muốn lưu giữ, cụ Vẫy vẫn vận động các cháu trong nhà học hát trống quân. Mãi tới năm 2005, câu lạc bộ hát trống quân xã Khánh Hà ra đời để gây dựng phong trào văn hóa văn nghệ và truyền dạy nghệ thuật hát trống quân cho con cháu. Cụ Vẫy là một trong những nghệ nhân đầu tiên trong câu lạc bộ. Ngoài việc chép lại các lời hát cổ, các nghệ nhân còn biên soạn, sáng tác lời mới phục vụ tập luyện và truyền dạy.

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

57 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

Mỗi năm, câu lạc bộ mở một lớp tập hát trống quân cho 20 cháu bé từ 9-15 tuổi. 10 năm qua, có khoảng hơn 100 người dân trong 7 thôn được truyền dạy hát trống quân, trong đó có 45 thành viên thường xuyên tham gia sinh hoạt trong đội văn nghệ và tham gia biểu diễn dịp hội làng, lễ tết. Năm 2007, với sự động viên và hỗ trợ của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, cụ Vẫy mở các lớp dạy hát trống quân cho mọi lứa tuổi. Từngười trẻ đến người trung niên và cả người già rủ nhau đến lớp học, sinh hoạt tại câu lạc bộ. Năm 2009, cụ được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và huy hiệu Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian Việt Nam. Tháng 11-2015, cụ được vinh danh là Nghệ nhân ưu tú.

IV. THỰC TRẠNG NGÀY NAY

* Câu ạc bộ giữ gìn trống quân:

Nhiều năm qua, nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Thanh Xuyên và các thành viên trong CLB Trống quân Dạ Trạch (Khoái Châu- Hưng Yên) đã không ngừng tuyển chọn, truyền dạy, phổ biến điệu hát cho người dân địa phương và vùng lân cận. Đối với nhiều người, điệu hát trống quân giờ đã ngấm vào máu thịt, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong những dịp lễ hội của địa phương và sinh hoạt hàng ngày...! Số học viên năm nay của câu lạc bộ lên đến gần 100 người trong đó có những cụ già gần 80 tuổi và cả những em nhỏ chỉ mới 6,7 tuổi cũng tham gia hang say.

Đã gần 80 tuổi, nghệ nhân Nguyễn Thị Vẫy vẫn

nặng lòng với àn điệu trống quân. (Nguồn: cand.com.vn)

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

58 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

PHẦN 3

DÚC KÊT

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

59 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

THUC TRANG DÂN CA BAC BÔ TRONG DÒI SÔNG HIÊN NAY

Trong dự án “Giữ hồn quê Việt” này, các thành viên nhóm Phóng viên lớp

10A3 Trường THPT Phú Nhuận đã có một bài khảo sát về dân ca Bắc Bộ.

Thông qua bài khảo sát này các bạn sẽ có cái đánh giá về sự ảnh hưởng của

dân ca Bắc Bộ tới quần chúng nhân dân hiện nay

I. TỔNG QUÁT

1. Mục tiêu: Khảo sát về dân ca Bắc Bộ

2. Đối tượng khảo sát

Tổng người đã khảo sát: 50 người, trong đó

Người lớn (30-75 tuổi): 30 người

+ Học sinh (THCS, THPT, ...): 20 người

II. KẾT QUẢ THỐNG KÊ

1. Hiểu biết về các thể loại và nhạc cụ trong dân ca Bắc Bộ Chúng ta dễ dàng thấy được có 25 người lớn (chiếm 83% so với lượng khảo sát ban đầu) trả lời đúng về các câu hỏi nhạc cụ và thể loại dân ca Bắc

. . . .

0

5

10

15

20

25

30

35

Người lớn Học sinh

Trả lời sai

Trả lời đúng

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

60 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

Bộ, có khỏang 8 học sinh (40%) trả lời đúng cùng với câu hỏi như trên. 2. Những biện pháp giữ gìn và phát huy dân ca Bắc Bộ a) Thưởng thức dân ca Bắc Bộ

Khoảng 56% người khảo sát (toàn bộ là người lớn) chọn cách xem các

chương trình dân ca Bắc Bộ qua tivi, Họ thường quan tâm theo dõi dân ca

bằng những phong cách cổ điển, không có quá hiện đại như giới trẻ bây

giờ. Chúng ta có thể nói như vậy vì có khoảng 30% người khảo sát (chủ

yếu là học sinh) xem các chương trình dân ca Bắc Bộ qua mạng. Trong thời

đại công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, dường như các bạn trẻ

chúng ta lại quan tâm tới dân ca bằng mạng nhiều hơn. 14% còn lại chọn

nhiều đáp án khác nhau (ví dụ : xem trên radio, đài Fm, hay từ những người

lớn tuổi trong nhà, ...)

b) Giới thiệu bạn bè Khoảng 3 người lớn (6%) trong số lượng người đã khảo sát đã sẵn sàng tuyên truyền trong và ngoài nước. 15 học sinh (30%) với những suy nghĩ tiến bộ hơn, các bạn đã đưa ra nhiều cách trả lời khác nhau trong phần

56% 30%

14%

Xem các chương trình dân ca Bắc Bộ

Qua Tivi

Qua mạng

Khác

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

61 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

câu hỏi này. (ví dụ : nhiều bạn đã đề nghị đưa dân ca vào trong chương trình giáo dục các cấp, nhiều bạn thì lại đưa ra các cuộc thi để giữ gìn thể loại dân ca này,...) Số còn lại (64%) chưa sẵn sàng trả lời câu hỏi này. Qua bài khảo sát trên, chúng tôi xin đưa ra nhận xét chung như sau: - Hầu hết các bạn học sinh đều có những câu trả lời khá độc đáo, mới mẻ về biện pháp giữ gìn dân ca Bắc Bộ, người lớn thì trả lời bằng những câu trả lời có sẵn trong phần khảo sát. Họ còn rập khuôn, chưa có nhiều ý tưởng đặc sắc. Tuy người lớn có lượng kiến thức lớn về dân ca nhưng họ lại khá khép kín do biện pháp quá rập khuôn và không mới mẻ. Song, cảm nhận của người lớn khi dòng nhạc hiện đại thay thế dân ca Bắc Bộ thì họ đã quyết liệt mạnh bạo không đồng tình. Trái ngược với họ là một lượng nhỏ các bạn trẻ thờ ơ trước sự thay thế này. Họ không quan tâm gì trước sự thay thế này.

Từ những số liệu khảo sát, trong số người lớn vào tầm những người có độ tuổi ngoài 60 tuổi, họ trả lời chúng tôi bằng tất cả những gì mình biết đến nỗi " khắc cốt ghi tâm", thậm chí một vài người còn hát cả một đoạn nhạc mà mình biết trong thể loại dân ca Bắc Bộ.

6%

30%

64%

Sẵn sàng tuyên Truyền trong và ngoài nước

Người lớn

Học sinh

Còn lại thì chưa sẵn

sàng

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

62 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

-Một số bạn trẻ biết dân ca bắc bộ thực sự thì do phong trào của lớp hay ép

buộc , không tự tìm hiểu hay có ý định theo dòng nhạc này.

Qua những số liệu thiết thực và lập luận chặt chẽ ta có thể khẳng

định được thực trạng đời sống của dân ca hiện nay đó chính là lớp

trẻ hiện nay dần quên di giá trị của dân ca ,dân ca không được chào

đón bởi những bạn trẻ như những dòng nhạc trẻ thịnh hành như

bây giờ. Qua từ đó, chúng ta rút biện pháp khắc phục, cố gắng gìn

giữ và phát triển nền Dân ca Bắc Bộ của Việt Nam nói chung và trong

nước ngoài nói riêng cụ thể là sẵn sàng tiếp tục vận động các bạn trẻ

thông qua các lần kêu gọi , thăm dò kiến thức , chủ động đưa vào

giáo dục , để gần gũi hơn , tạo điều kiện để các bạn biết và phát huy

giá trị của chúng

Còn các bạn thì sao? Dựa vào những gì các bạn biết và dựa vào kết quả khảo

sát trên, các bạn có suy nghĩ gì về thực trạng của dân ca Bắc Bộ ngày nay?

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

63 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

LOI KÊT

Trước tiên chúng tôi xin cám ơn các bạn đã đọc hết cuốn sách này và cùng chúng tôi khám phá một phần văn hóa của đất nước Việt Nam, những thể loại dân ca và nhạc dân tộc đặc sắc của người dân đồng bằng Bắc bộ. Có thể thấy, dân ca nhạc dân tộc giữ một vị trí quan trọng và mang tính chất phổ biến trong đời sống tinh thần cũng như trong lao động, sinh hoạt hằng ngày của nhân dân. Dân ca và các thể loại nhạc dân tộc là tiếng nói tâm hồn người dân Việt, là bức tranh toàn cảnh phong phú phản ánh cuộc sống sinh hoạt, tâm tư tình cảm của người dân Việt, góp phần làm giàu, làm phong phú, đa dạng thêm kho tàng văn hóa âm nhạc Việt Nam. Hi vọng sau khi gấp sách này lại, các bạn không chỉ thêm vốn hiểu biết nhất định mà còn cái nhìn tích cực hơn về âm nhạc dân tộc, một phần của bức tranh văn hóa đa sắc màu của nhân dân ta. Có thể trong con người chúng ta cần sự « hiện đại hóa », các bạn có thể thuộc nhiều bài rap, pop, EDM, … nhưng chúng ta cần phải giữ lại cái hồn dân tộc mình, có thể ít nhưng chính nhờ đó sẽ hoàn thiện hơn nhân cách và giúp chúng ta không bị hòa tan trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.

Chào thân ái!

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

64 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Wikipedia – bách khoa toàn thư mở: https: vi.wikipedia.org/wiki/

2. Trang web khi di tích lịch sử Đền Hùng (Phú Thọ): denhung.org.vn

3.Cổng giao tiếp điện tử tỉnh Phú Thọ: phutho.gov.vn

4.Báo điện tử xây dựng: www.baoxaydung.com.vn

5. Báo mới: www.baomoi.com

6. Báo điện tử Quân Đội Nhân Dân: www.qdnd.vn

7. Báo điện tử Công An Nhân Dân: cand.com.vn

8. Websites Trần Quang Hải

9.Website Trưòng Đai học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương. www.spnttw.edu.vn/

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

65 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

THỰC HIỆN: NHÓM NGHIÊN CỨU – LỚP 10A3

Ban Biên tập:

- Dương Phan Trí Hoàng

- Nguyễn Hữu Hoàng An

- Hồng Tấn Kiệt

- Phạm Trung Hiếu

- Nguyễn Thành Lộc

- Nguyễn Hùng Anh

- Nguyễn Trương Hòa Bình

- Nguyễn Khánh Duy

- Trần Nguyễn Minh Đạo

- Lê Phan Dạ Thảo

- Phạm Ngọc Long

- Trần Ngọc Anh Hiếu

DỰ ÁN “GIỮ HỒN QUÊ VIỆT” - TRƯỜNG THPT PHÚ NHUẬN – LỚP 10A3

66 TÀI LIỆU DÂN CA BẮC BỘ VIỆT NAM

- Uông Nguyễn Mạnh Tân

- Nguyễn Hùng Sơn