179
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN LỆ THU BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC HÀ NỘI - 2017

BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

  • Upload
    others

  • View
    6

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN LỆ THU

BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG

GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI

PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

HÀ NỘI - 2017

Page 2: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN LỆ THU

BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG

GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI

PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Mã số: 62 22 03 08

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS NGUYỄN THỊ NGÂN

2. TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THỦY

HÀ NỘI - 2017

Page 3: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả

Nguyễn Lệ Thu

Page 4: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

MỤC LỤC Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8

1.1. Các nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án 8

1.2. Giá trị của các công trình đã tổng quan và những nội dung luận án

cần làm sáng tỏ 28

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA

BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY 31

2.1. Lao động gia đình và bình đẳng giới trong lao động gia đình 31

2.2. Lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc và bình đẳng

giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc 35

2.3. Vai trò của việc thực hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình

dân tộc thiểu số đối với việc phát triển kinh tế - xã hội miền núi phía

Bắc Việt Nam hiện nay 41

2.4. Một số yếu tố tác động đến việc thực hiện bình đẳng giới trong lao

động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam 50

Chương 3: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC

THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 62

3.1. Thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc

thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay 62

3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong lao

động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam 105

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY BÌNH

ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN

NÚI PHÍA BẮC HIỆN NAY 119

4.1. Những quan điểm cơ bản thúc đẩy bình đẳng giới trong lao động gia

đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc hiện nay 119

4.2. Một số giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lao động gia đình

dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc hiện nay 125

KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

PHỤ LỤC 166

Page 5: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BĐG : Bình đẳng giới

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DTTS : Dân tộc thiểu số

MNPB : Miền núi phía Bắc

Page 6: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1: Vai trò của vợ và chồng trong hoạt động sản xuất 63

Bảng 3.2: Mức độ tham gia của vợ và chồng trong hoạt động tái sản xuất 82

Bảng 3.3: Người đại diện cho gia đình tham gia hoạt động cộng đồng 99

Page 7: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án

Bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, đầy đủ là lý tưởng mà nhân

loại đã theo đuổi hàng nhiều thế kỷ. Ngày nay, bình đẳng giới (BĐG) là

vấn đề có tính quốc tế, là mối quan tâm của toàn nhân loại, là một trong

tám mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG). Ở nước ta, sự nghiệp giải

phóng phụ nữ đã được Đảng và Nhà nước quan tâm ngay từ buổi đầu cách

mạng. Khẩu hiệu “nam nữ bình quyền” được khẳng định từ Hiến pháp đầu tiên

của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946). Cho đến nay, Đảng và nhà nước

Việt Nam luôn quan tâm thúc đẩy thực hiện BĐG nói chung và BĐG trong lao

động gia đình nói riêng. Nhiều văn bản quan trọng đã ra đời và quy định cụ thể

về nội dung này như: Hiến pháp, Luật Lao động, Luật Hôn nhân gia đình, Luật

Bình đẳng giới. Như điều 18 Luật BĐG đã quy định: Vợ chồng bình đẳng với

nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia

đình,... các thành viên nam nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc

gia đình.

Những quan điểm, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cùng

với thành tựu của 30 năm đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần của các gia

đình Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu,

kết cấu, mối quan hệ của các thành viên trong gia đình. Phụ nữ ngày càng có

nhiều cơ hội tham gia và khẳng định vai trò to lớn của mình trong các hoạt

động kinh tế - xã hội, nhất là trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Bên cạnh đó,

xuất hiện xu hướng ngày càng có nhiều đàn ông đảm nhiệm những công việc

trước đây vốn được coi là của phụ nữ. Với sự thay đổi chức năng của các cá

nhân trong gia đình, khoảng cách của bất BĐG trong lao động gia đình đang

dần dần được thu hẹp. BĐG trong lao động gia đình đã trở thành xu hướng tất

yếu, là thước đo mức độ tiến bộ, hạnh phúc của mỗi gia đình.

Page 8: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

2

Tuy nhiên, dù pháp luật quy định trong gia đình, vợ chồng đều bình

đẳng với nhau về mọi mặt, cùng nhau bàn bạc, quyết định mọi vấn đề chung,

cùng chia sẻ mọi công việc cũng như chăm lo con cái, cha mẹ, nhưng trên

thực tế thời gian làm việc của phụ nữ trong gia đình thường dài hơn nam giới.

Trong gia đình nam giới vẫn được coi là trụ cột, có quyền quyết định các vấn

đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng, còn các công việc nội trợ, chăm

sóc các thành viên trong gia đình vẫn được coi là “thiên chức” của phụ nữ,

được coi là việc vặt, không tên, không có giá trị.

Vậy là ngoài giờ đi làm, tham gia hoạt động sản xuất như nam giới, phụ

nữ còn phải gánh trách nhiệm chính trong hoạt động tái sản xuất của gia đình,

điều này đã hạn chế cơ hội được tiếp cận và khả năng tìm được chỗ đứng

trong thị trường lao động, ảnh hưởng tới việc học tập, nâng cao trình độ

chuyên môn, sức khỏe, tâm lý và thời gian nghỉ ngơi, giải trí để đảm bảo tái

sản xuất, tham gia hoạt động xã hội của phụ nữ. Ngoài ra, một bộ phận phụ

nữ còn tự ti, an phận, cam chịu, chấp nhận những định kiến giới tồn tại trong

xã hội. Đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số (DTTS), bất BĐG

trong lao động gia đình vẫn đang diễn ra mạnh mẽ, vị thế của người phụ nữ

trong gia đình còn thấp kém.

Miền núi phía Bắc (MNPB) là địa bàn chiến lược của đất nước, nơi

tụ cư của nhiều DTTS, với sự đa dạng về bản sắc văn hóa tộc người. Do

trình độ phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa còn thấp kém, bất BĐG trong

gia đình DTTS MNPB còn khá phổ biến và nặng nề hơn so với nhiều vùng

khác trong cả nước. Tính chất bảo thủ của phân công lao động truyền thống

theo giới, vẫn đang thể hiện rõ nét trong gia đình DTTS. Vì điều kiện sản

xuất và thu nhập thấp, nên phụ nữ tham gia hầu hết các công việc sản xuất.

Hơn nữa việc sử dụng dịch vụ xã hội, phương tiện giúp giảm nhẹ gánh

nặng của công việc nội trợ của gia đình DTTS còn rất ít, chưa đủ sức giải

phóng người phụ nữ ra khỏi những lo toan vất vả của đời sống gia đình

Page 9: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

3

hiện nay. Do vậy, phụ nữ DTTS MNPB thường phải lao động với cường độ

lớn, thời gian làm việc kéo dài, điều kiện nghỉ ngơi dường như không có, ít

có cơ hội tiếp cận các nguồn lực để phát triển, nâng cao năng lực của bản

thân, khả năng ra quyết định và hưởng thụ lợi ích của họ nhìn chung thấp

hơn nhiều so với nam giới.

Mặc dù chính phủ đã tiến hành nhiều chương trình nhằm giúp đỡ các

DTTS MNPB, song có lẽ một bộ phận không nhỏ phụ nữ DTTS MNPB vẫn

còn đứng bên lề của sự phát triển. Nghèo đói, rào cản của luật tục, hạn chế

về kiến thức, không chỉ làm gia tăng thêm gánh nặng cho phụ nữ trong lao

động sản xuất, tái sản xuất để duy trì cuộc sống gia đình, mà còn làm cho

những cơ hội để họ tham gia hòa nhập với dòng chảy của xã hội ít hơn so

với nam giới. Vì vậy, phụ nữ DTTS chính là nhóm xã hội cực khổ nhất, chịu

nhiều sự bất bình đẳng nhất ở MNPB, giải quyết bất BĐG trong gia đình

DTTS MNPB để không ai bị bỏ lại phía sau, chính là góp phần thực hiện

mục tiêu phát triển bền vững hiện nay ở MNPB.

BĐG trong lao động gia đình không phải là chủ đề nghiên cứu mới,

nhưng luôn mang tính thời sự, luôn nhận được sự quan tâm của các nhà khoa

học không chỉ trong nước mà cả quốc tế và ngày càng được quan tâm nghiên

cứu trên nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay chưa có

công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ về BĐG trong lao động gia đình

DTTS MNPB.

Từ những lí do trên, việc nghiên cứu thực trạng BĐG trong lao động

gia đình DTTS MNPB hiện nay, để đề xuất giải pháp thúc đẩy thực hiện

BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay được đặt ra cấp thiết.

Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc

thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án Tiến sỹ Triết

học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.

Page 10: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

4

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn, những vấn đề đặt ra của

việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB, luận án đề xuất một

số quan điểm, giải pháp chủ yếu để thúc đẩy BĐG trong lao động gia đình DTTS

MNPB Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.

- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu BĐG trong lao

động gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.

- Phân tích thực trạng, chỉ ra những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện

BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.

- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy BĐG trong

lao động gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu thực trạng BĐG trong lao động gia đình.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Nội dung: Trong phạm vi luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu

BĐG trong lao động gia đình giữa vợ và chồng.

- Phạm vi không gian: MNPB gồm 14 tỉnh với 30 dân tộc, được chia

thành nhiều nhóm với các trình độ phát triển khác nhau. Trong khuôn khổ luận

án và điều kiện nghiên cứu, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số dân tộc như:

Tày, Thái (nhóm DTTS phát triển); Mông (thuộc DTTS phát triển trung bình);

La Hủ (thuộc nhóm DTTS phát triển kém) ở các tỉnh Hà Giang, Lạng Sơn, Lào

Cai, Sơn La, Lai Châu.

- Phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu về tình hình thực hiện

BĐG trong lao động gia đình DTTSMNPB Việt Nam từ năm 2007 (Luật BĐG

có hiệu lực) cho đến nay.

Page 11: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

5

4. Cơ sở lí luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn

- Cơ sở lí luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về

vấn đề BĐG, gia đình, DTTS. Ngoài ra, luận án còn vận dụng một số lý thuyết

như: xã hội học về vị thế - vai trò, giới và phát triển, nữ quyền.

- Luận án kế thừa tài liệu, công trình có liên quan đến đề tài của các nhà

nghiên cứu, hoạt động thực tiễn ở Việt Nam, cũng như các tổ chức quốc tế.

- Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng BĐG trong lao động gia đình

DTTS MNPB đã xác định ở phạm vi nghiên cứu.

- Luận án sử dụng nhiều số liệu của Tổng cục Thống kê về MNPB (do

DTTS chiếm tỷ lệ lớn của vùng và hiện tại không có số liệu thống kê riêng về

DTTS của vùng), nên các số liệu về MNPB mà tác giả đề cập trong luận án hàm

ý nói về DTTS ở MNPB.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ

nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng các phương pháp sau:

- Thu thập tư liệu, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh các tư liệu đã có

làm cơ sở lí luận, thực tiễn tham khảo.

- Điều tra xã hội học là phương pháp nghiên cứu quan trọng, mà luận án

sử dụng để thu thập những bằng chứng khách quan, tin cậy về thực trạng, cũng

như những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình

DTTS MNPB, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp.

Nghiên cứu định tính: được tiến hành thông qua phương pháp phỏng vấn

sâu. Luận án phỏng vấn sâu 20 cuộc.

Các cặp vợ chồng gia đình: dân tộc Thái (3 cuộc), dân tộc Tày (3 cuộc),

dân tộc Mông (6 cuộc), dân tộc La Hủ (2 cuộc), cán bộ lãnh đạo Đảng, chính

quyền và các tổ chức chính trị xã hội (6 cuộc).

Page 12: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

6

Với nội dung tập trung vào các vấn đề:

+ Thực trạng phân công lao động trong các hoạt động: sản xuất, tái sản

xuất, cộng đồng.

+ Quan niệm của người dân về việc phân công lao động trong gia đình

như thế nào là hợp lý.

+ Tìm hiểu tác động của các yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa tới BĐG

trong lao động gia đình DTTS

Nghiên cứu định lượng: Luận án thực hiện 536 phiếu trưng cầu ý kiến.

+ Ở địa bàn: xã Phố cáo, Huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang; xã Tân

Lang huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn; Thị trấn Sa Pa, huyện Sa Pa tỉnh Lào

Cai; xã Pa Ủ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu; Thị trấn Phù Yên tỉnh Sơn La.

+ Cơ cấu về giới tính: có 50% là nữ (268) và 50% là nam (268)

+ Dân tộc: Thái (28,3%), Tày (27,6%), Mông (29,9%), La Hủ (14,2%)

+ Cơ cấu về độ tuổi: từ 18 đến 50.

+ Tình trạng hôn nhân: Đầy đủ vợ chồng

+ Cơ cấu về trình độ học vấn: mù chữ: 106; cấp 1: 192; cấp 2:189; cấp 3: 49

+ Cơ cấu nghề nghiệp chính: chủ yếu làm nông nghiệp.

- Quan sát thực địa là một phương pháp, mà tác giả sử dụng trong luận án

nhằm làm sáng tỏ một số phát hiện dựa trên bảng hỏi và thảo luận nhóm.

5. Đóng góp mới của luận án

- Làm rõ hơn lý luận về lao động gia đình DTTS MNPB, nội dung biểu

hiện của BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB.

- Đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực của các yếu tố tự nhiên,

kinh tế, văn hóa, chính sách đến việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình

DTTS MNPB.

- Đánh giá một cách cụ thể thực trạng BĐG trong lao động gia đình

DTTS MNPB Việt Nam ở các lĩnh vực: sản xuất, tái sản xuất, tham gia hoạt

động cộng đồng.

Page 13: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

7

- Phát hiện những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện BĐG trong lao động

gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.

- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp để thúc đẩy BĐG trong lao động

gia đình DTTS MNPB.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Góp phần khẳng định lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước ta về BĐG, gia

đình và DTTS, ngoài ra còn khẳng định giá trị của các lý thuyết khác về giới.

- Luận án có thể làm tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy

những chuyên đề liên quan đến vấn đề phụ nữ, BĐG, gia đình, dân tộc... trong

Chủ nghĩa xã hội khoa học và các chuyên ngành liên quan.

- Với việc chỉ ra thực trạng, những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện

BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB, đề xuất một số giải pháp, luận án

góp phần cung cấp tư liệu cho việc hoạch định, hoàn thiện chính sách về phụ nữ

DTTS, BĐG, gia đình, lao động và việc làm, DTTS ở MNPB.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận án bao gồm 4 chương, 10 tiết.

Page 14: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

8

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.1. Các nghiên cứu tiêu biểu về bình đẳng giới trong lao động

gia đình

Các tác giả Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn và Nguyễn Linh Khiếu trong

công trình Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [7], đã đi sâu phân tích vai trò của người

phụ nữ trong: tái sản xuất sức lao động gia đình; phát triển kinh tế gia đình;

tiếp cận và quản lý các nguồn lực phát triển; quyền quyết định các vấn đề

quan trọng trong gia đình; sinh hoạt cộng đồng và đã đưa ra kết luận: mặc dù

đã trở thành một người lao động chính cùng với chồng tạo nên nguồn của cải

nuôi sống gia đình, nhưng phụ nữ vẫn là người độc tôn trong việc thực hiện

các công việc nội trợ gia đình. Theo nhóm tác giả, các số liệu thực tế cho

thấy người phụ nữ chưa được tiếp cận, kiểm soát và quản lý các nguồn lực

phát triển, sự bất bình đẳng ở đây không những không tạo cơ hội cho người

phụ nữ tham gia một cách tích cực hơn vào quá trình phát triển, mà còn hạn

chế sự phát triển kinh tế gia đình, cũng vì vậy mà vị thế của người phụ nữ

chưa tương xứng với vai trò của họ. Công trình này đã gợi mở cho tác giả

luận án về một số vấn đề lý luận, thực trạng có thể triển khai trong luận án.

Trong công trình Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình [30], Nguyễn

Linh Khiếu đã phân tích làm sáng rõ vai trò của phụ nữ, cũng như mối

quan hệ giới trong gia đình trên các lĩnh vực như: kinh tế, tiếp cận nguồn

lực, giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Đặc biệt, tác giả nghiên cứu sâu hơn

về vị thế của phụ nữ trong gia đình nông thôn miền núi, những yếu tố văn

hóa đang cản trở quá trình phát triển của họ. Những kết luận được khái

quát của công trình này, đã gợi mở cho tác giả luận án một số vấn đề đặt ra

hiện nay trong thực hiện được BĐG trong lao động gia đình DTTS.

Page 15: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

9

Gender and Domestic life của Tony Chapma [12], là công trình nhấn

mạnh đến vai trò giới và công việc gia đình. Tác giả nghiên cứu gia đình và

công việc gia đình trong tương quan giới, để làm rõ sự bất bình đẳng còn

tồn tại trong phân công lao động gia đình. Tony Chapman đã xem xét công

việc gia đình, mà nam giới và nữ giới tham gia ở phạm vi rộng, bao gồm

các công việc được trả lương, công việc nội trợ, chăm sóc và nuôi con, thời

gian nghỉ ngơi, quản lý, chi tiêu và cả kế hoạch của gia đình. Tác giả chỉ ra

rằng, định kiến giới về công việc gia đình và công việc xã hội đã ăn sâu

trong tiềm thức con người, tuy nhiên sự phát triển của kinh tế xã hội cũng

kéo theo sự biến đổi sâu sắc về cuộc sống gia đình và sự phân công lao

động trong gia đình hiện nay. Ngoài ra, tác giả đã làm rõ vai trò và khả

năng của nam giới và phụ nữ trong việc làm thay đổi định kiến giới về lĩnh

vực gia đình trong tương lai. Công trình này đã cung cấp gợi mở giúp tác

giả luận án nhìn nhận rõ hơn lý luận về lao động gia đình.

Trong công trình Định kiến và phân biệt đối xử theo giới: lý thuyết và

thực tiễn [21], Trần Thị Minh Đức đã chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến định

kiến, phân biệt đối xử với người phụ nữ trong gia đình. Theo tác giả, không

phải chỉ đàn ông định kiến phân biệt đối xử với giới nữ, mà ngay chính bản

thân người phụ nữ, họ cũng định kiến về địa vị của mình trong gia đình và

ngoài xã hội, họ luôn coi mình không có giá trị bằng nam giới và mặc định

rằng những công việc như nội trợ, làm việc nhà… là của phụ nữ và hậu quả là

người phụ nữ phải gánh chịu rất nhiều thiệt thòi, không có cơ hội phát triển

bản thân. Công trình đã giúp tác giả luận án nhìn nhận rõ hơn về định kiến

giới - một nguyên nhân dẫn tới bất BĐG trong lao động gia đình DTTS

MNPB hiện nay.

Phạm Thị Ngọc Anh trong công trình Vai trò giới và lượng hóa giá trị

lao động gia đình [1], đã đưa ra cách tiếp cận mới về lao động gia đình từ

góc độ kinh tế, đề cập tới khía cạnh giá trị của lao động gia đình để đề xuất

những giải pháp phù hợp, bao gồm cả các giải pháp về chính sách phúc lợi

gia đình cho phụ nữ, nhằm hỗ trợ gia đình phát triển theo hướng bình đẳng

Page 16: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

10

và hiện đại. Nghiên cứu này nhận diện vấn đề lao động gia đình một cách

toàn diện, xác định thực trạng phân công lao động trong gia đình thủ đô hiện

nay, phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ tham gia của mỗi giới để tìm

ra nguyên nhân của thực trạng; đồng thời lượng hóa giá trị công việc lao

động gia đình mà họ đang thực hiện nhằm đánh giá đúng mức giá trị lao

động, làm căn cứ cho các giải pháp được đề xuất. Mặc dù, công trình này chỉ

giới hạn nghiên cứu về gia đình ở thủ đô Hà Nội, nhưng cũng đã cung cấp

thêm cho tác giả luận án lý luận về lao động gia đình, gợi mở một số giải

pháp để thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB.

Quỹ Health Bridege Canada - Viện Nghiên cứu phát triển xã hội với

nghiên cứu Đóng góp kinh tế của phụ nữ thông qua công việc nhà [61], đã

cung cấp những bằng chứng về đóng góp của phụ nữ thông qua công việc

nhà; lượng hóa các giá trị của các công việc đó và đóng góp của nó vào kinh

tế quốc gia. Để đạt được mục đích đó, nhóm tác giả đã: tìm hiểu thực trạng

tham gia vào công việc nhà của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ trên

địa bàn nghiên cứu, quan niệm và thái độ của các cặp vợ chồng về công việc

gia đình; lượng hóa thời gian làm công việc nhà của nam và nữ trong gia

đình và lượng hóa giá trị kinh tế cho những công việc đó. Kết quả nghiên

cứu cho thấy mặc dù người trả lời cả nam và nữ đều chia sẻ rằng ai cũng có

thể làm việc nhà, không kể nam hay nữ và công việc nhà cần được chia đều

cho hai vợ chồng, thì trong cả hai bối cảnh, thành thị và nông thôn, người

phụ nữ vẫn là người dành nhiều thời gian làm các công việc nhà hơn nam

giới. Trong các khuyến nghị đưa ra, thì khuyến nghị cần nâng cao nhận thức

của toàn xã hội về giá trị lao động gia đình và đóng góp của phụ nữ vào kinh

tế gia đình, bên cạnh sự đóng góp thông qua các hoạt động có thu nhập của

họ, là một khuyến nghị chúng ta cần quan tâm, nếu làm được điều này mới

có thể tạo được BĐG trong lao động gia đình đối với người phụ nữ. Nghiên

cứu này là tài liệu quan trọng, gợi mở cho tác giả luận án nhiều vấn đề cần

triển khai.

Page 17: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

11

Dựa trên số liệu định lượng từ cuộc “Điều tra cơ bản về thực trạng

BĐG ở Việt Nam” do viện Khoa học xã hội Việt Nam tiến hành từ 2004 -

2006, trong bài Đóng góp kinh tế của vợ chồng [3], Trần Thị Vân Anh đã

tập trung xem xét việc đóng góp kinh tế giữa phụ nữ và nam giới trong gia

đình. Theo tác giả, do chưa đủ điều kiện áp dụng kỹ thuật và phân tích thu

nhập của từng thành viên, cũng như cuộc khảo sát này không cho phép đưa

ra số liệu cụ thể, nên đóng góp vào thu nhập ở đây được hiểu là bằng tiền,

hiện vật sản phẩm chứ chưa đề cập tới những đóng góp bằng công sức cho

việc tái sản xuất sức lao động và chăm sóc các thành viên trong gia đình.

Theo tác giả, kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ tham gia của vợ và chồng

vào việc đóng góp thu nhập gia đình đều khá cao. Tuy nhiên xét về mức độ

đóng góp, thì ở thành thị, tỷ lệ gia đình có vợ là người đóng góp thu nhập

chính cao hơn nông thôn. Tỷ lệ gia đình có vợ đóng góp thu nhập chính tăng

lên cùng với trình độ học vấn. Các phân tích này gợi ra rằng, việc nâng cao

trình độ học vấn là yếu tố có ý nghĩa quan trọng trong việc cải thiện tương

quan thu nhập giữa vợ và chồng, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia

đình, thực hiện BĐG.

Trong công trình Những vấn đề giới - từ lịch sử đến hiện đại [31], các

tác giả đã nghiên cứu quan điểm về giới trong tác phẩm kinh điển của C.Mác,

Ph.Ănghen, VI.Lênin, Hồ Chí Minh và khẳng định những tư tưởng, quan

điểm của các nhà mác xít nêu trên là cơ sở lý luận, phương pháp luận quan

trọng để nhận thức và thực hiện BĐG ở nước ta hiện nay. Vấn đề giới trong

đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng được

các tác giả đi sâu phân tích và đã đưa ra nhận định: đường lối, chính sách,

pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh

giá, là rất tiến bộ, tích cực trên phương diện BĐG. Công trình này đã cung

cấp cho tác giả luận án những cơ sở lý luận quan trọng về vấn đề nghiên cứu.

Trong bài viết Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải phóng

phụ nữ [77], các tác giả đã khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về

con đường giải phóng phụ nữ ở 5 ý lớn: thứ nhất, làm cho toàn bộ nữ giới trở

Page 18: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

12

lại tham gia nền sản xuất xã hội và thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.

thứ hai, xã hội hóa công việc gia đình đối với phụ nữ; thứ ba, tạo điều kiện xã

hội giúp phụ nữ khẳng định địa vị của mình trong gia đình, ngoài xã hội; thứ

tư, người phụ nữ phải nâng cao ý thức tự giải phóng mình; thứ 5, thực hiện

quyền bình đẳng dân chủ của phụ nữ một cách thật sự. Bài viết này đã gợi mở

cho tác giả luận án về một số giải pháp, có thể đưa ra để thúc đẩy BĐG trong

lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.

Lê Ngọc Lân với bài viết Vấn đề lao động, việc làm nhìn từ góc độ giới

[34], đã chỉ ra hiện nay vẫn còn nhiều khía cạnh bất BĐG giữa nam, nữ, cụ thể

là tình trạng việc làm có thu nhập cao thường xuyên của nam cao hơn nữ, nam

có nhiều lợi thế trong việc tìm kiếm và lựa chọn ngành nghề cũng như cơ hội

tuyển dụng. Trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, khuôn mẫu giới truyền

thống về phân công lao động vẫn chưa thay đổi nhiều. Có nhiều nguyên nhân

dẫn tới bất bình đẳng, nhưng theo tác giả bài viết nguyên nhân bao trùm là định

kiến giới hiện vẫn còn tồn tại trong tư tưởng của nhiều người trong xã hội.

Trong bài Khía cạnh giới trong phân công lao động gia đình [44],

Nguyễn Hữu Minh đã phân tích thực trạng phân công lao động theo giới trong

gia đình. Theo ông cho đến nay chưa có những số liệu so sánh đủ tin cậy ở

quy mô toàn quốc về xu hướng biến đổi phân công lao động theo giới trong

gia đình, nhưng “sự bình đẳng của xã hội theo hướng công nghiệp hóa đã tạo

thêm nhiều cơ hội việc làm cho phụ nữ, sự tham gia của họ vào lực lượng lao

động xã hội ngày càng tăng. Những yếu tố đó sẽ góp phần dẫn đến việc tăng

sự tham gia của người chồng vào công việc gia đình”. Tác giả đã chỉ ra những

khác biệt chủ yếu có liên quan đến phân công lao động theo giới trong gia

đình là: sống ở khu vực thành thị hay nông thôn; nghề nghiệp; học vấn, chu

trình sống của gia đình và cơ cấu hộ gia đình; sự đóng góp của phụ nữ vào

nguồn thu nhập gia đình và định kiến giới. Tác giả cũng đưa ra một số vấn đề

nghiên cứu cần quan tâm như: hiện nay khi nghiên cứu về phân công lao động

theo giới trong gia đình, thường tập trung vào phân công công việc nội trợ, sự

phân công trong các loại công việc khác như sản xuất, kinh doanh gia đình,

Page 19: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

13

giao tiếp… còn ít được đề cập; vấn đề lượng hóa giá trị các công việc gia đình

chưa được quan tâm.

Trương Thu Trang với bài viết Những yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng

giới trong phân công thực hiện công việc nội trợ giữa vợ và chồng [78], đã đề

cập tới các yếu tố ảnh hưởng đến phân công lao động nội trợ trong gia đình

như: cấu trúc gia đình, độ tuổi của người vợ, nghề của hộ, chênh lệch về thu

nhập và học vấn. Qua khảo sát, tác giả thấy rằng chênh lệch về thu nhập và

học vấn không có mối tương quan đáng kể với mức độ thực hiện công việc

nội trợ, dù chênh lệch về thu nhập thế nào, thì người vợ vẫn phải làm nhiều

loại công việc nhà hơn chồng. Ngoài ra những đóng góp về thời gian, công

sức và tiền bạc của người vợ chủ yếu làm công việc nội trợ hiện nay, đã phần

nào được nhìn nhận đúng đắn, đây là một dấu hiệu tốt để giảm đối xử bất bình

đẳng đối với phụ nữ.

Trong công trình Bình đẳng giới ở Việt Nam [4], Trần Thị Vân Anh và

Nguyễn Hữu Minh, đã đề cập đến việc phân công lao động và quyền quyết định

trong gia đình ở phần II của công trình. Từ việc phân tích số liệu, các tác giả

nhận định phụ nữ tham gia vào tất cả các loại hình sản xuất tạo ra thu nhập như

nông, lâm, ngư nghiệp, dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp và tất cả các khâu của

một chu trình sản xuất. Tuy nhiên công việc nội trợ trong gia đình vẫn chủ yếu

do phụ nữ đảm nhiệm cho dù gia đình có sự khác nhau về quy mô, độ dài hôn

nhân, về loại hình sản xuất kinh doanh. Về việc ra quyết định trong gia đình,

theo nhóm tác giả hầu hết các công việc đều được bàn bạc và do hai vợ chồng

cùng quyết định. Tuy nhiên có sự khác biệt, tiếng nói của người chồng có tính

quyết định ở các công việc “đối ngoại”, còn người vợ ở những công việc “đối

nội”, phụ nữ ở thành thị có nhiều quyền quyết định trong gia đình hơn so với

phụ nữ nông thôn. Phần IV của công trình, các tác giả đề cập tới khuôn mẫu

giới: phân tích quan niệm về vai trò của vợ và chồng, các phẩm chất mong

muốn ở con trai và con gái, quan niệm tên vợ, tên chồng trong giấy chứng nhận

tài sản, qua số liệu cho thấy định kiến giới trong những vấn đến vẫn còn tồn tại.

Page 20: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

14

Công trình này đã gợi mở cho tác giả luận án một số vấn đề cần triển khai trong

luận án.

Nguyễn Thị Ngân, trong hai bài viết Thực hiện quan điểm của Đảng và

chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới [46], Chủ trương của Đảng, Nhà

nước về giải phóng phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam [47], đã khái quát

lại một số quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về thực hiện

BĐG được thể hiện ở: Chỉ thị 44/TW ngày 7-6-1984 của Ban Bí thư Trung

ương Đảng, Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 12-4-1993 của Bộ Chính trị, Luật

BĐG. Theo tác giả, trong các văn kiện của Đảng từ Đại hội VI đến đại hội X

đều đề cập tới việc thực hiện BĐG, trong những năm qua Việt Nam đã không

ngừng thực hiện quan điểm đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về

BĐG, do vậy phụ nữ đã có những đóng góp to lớn, tham gia ngày càng tích cực

vào các hoạt động chính trị xã hội. Ngoài ra, trong hai bài viết tác giả còn chỉ ra

một số bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện mục tiêu BĐG như: một số

chủ trương lớn còn thiếu nhạy cảm về giới; định kiến giới còn tồn tại trong

không ít các cơ quan nhà nước; vai trò của Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ chưa

thật sự được đề cao; thiếu nguồn lực cũng như kỹ năng lồng ghép giới vào các

hoạt động của từng cơ sở; bản thân phụ nữ còn tự ti, rụt rè. Để đạt được mục

tiêu BĐG, tác giả nhận định “cần có sự chỉ đạo mạnh mẽ, quyết tâm cao và

hành động cụ thể của tất cả các cơ quan nhà nước, các ngành, các cấp. Do vậy,

hướng tới BĐG cần phải có sự lồng ghép giới trong hoạch định và thực thi

chính sách”. Hai bài viết này đã cung cấp cho tác giả luận án, một số vấn đề về

lý luận, đồng thời cũng gợi mở hướng tiếp cận về nguyên nhân dẫn tới bất

BĐG có thể triển khai trong luận án.

Báo cáo phát triển con người 2010 của UNDP [83], với chủ đề ”dịch

vụ xã hội cho phát triển con người”, đã nhận diện những thách thức mà nhiều

người Việt Nam đang phải đối mặt trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ

bản và đưa ra khuyến cáo về những định hướng chính sách. Ba chỉ số phát

triển con người chính đã được xem xét, bao gồm chỉ số phát triển con người

(HDI), chỉ số phát triển giới(GDI) và chỉ số nghèo đói ở con người (HPI). Báo

Page 21: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

15

cáo khẳng định, Việt Nam là quốc gia thực hiện rất tốt về BĐG, nhưng bất

BĐG vẫn tồn tại đặc biệt trong gia đình và thị trường lao động. Theo bản báo

cáo chênh lệch về mức sống giữa các tỉnh giàu nhất và nghèo nhất vẫn còn

khá lớn, đáng chú ý trong khi khoảng cách về giới nói chung đang dần được

thu hẹp, thì một số tỉnh nghèo hơn lại có sự chênh lệch về giới trong giáo dục

tăng lên; trong khi đó, một số tỉnh phát triển năng động lại có khoảng cách

chênh lệch thu nhập gia tăng giữa nam và nữ. Để khắc phục thực trạng trên,

UNDP khuyến nghị Việt Nam cần rà soát chính sách xã hội hóa, tác động của

nó đối với chi tiêu của hộ gia đình cho y tế và giáo dục; cần có quy định hiệu

quả hơn về cung cấp dịch vụ công và dịch vụ tư nhân. Báo cáo này góp phần

cung cấp dữ liệu cho các nhà hoạch định chính sách, để từ đó đưa ra những

quyết định đầu tư đúng đắn cho các dịch vụ xã hội, ở cấp quốc gia và địa

phương, nhằm hiện thực hóa tiềm năng phát triển con người của Việt Nam.

Tác giả luận án có kế thừa nhiều số liệu của báo cáo này.

Trong tài liệu Thúc đẩy quyền của phụ nữ tại Việt Nam của UN Women

[86] đã phân tích: trong hơn 30 năm qua, Việt Nam đã chuyển mình từ một

trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, thành một quốc gia mới nổi

năng động nhất thế giới. Trong khi phần đông dân số được hưởng lợi từ sự phát

triển ấn tượng này, thì những chuẩn mực và khuôn mẫu giới đã và đang ngăn

cản nhiều phụ nữ trong việc phát triển tối đa năng lực của họ [86, tr.3]. Báo cáo

nhấn mạnh BĐG là quyền cơ bản, việc trao quyền cho phụ nữ là cần thiết để

Việt Nam tiếp tục phát triển kinh tế xã hội, tuy nhiên chưa chỉ ra được giải

pháp cụ thể nhằm thúc đẩy BĐG.

Cuốn sách Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về bình đẳng

giới và phòng, chống Bạo lực gia đình [16] gồm có 4 phần, đã khái quát lại:

văn bản chỉ đạo của Đảng; các văn bản quy định hiện hành về BĐG; các văn

bản hiện hành về tổ chức bộ máy về BĐG, vì sự tiến bộ của phụ nữ và

phòng, chống bạo lực gia đình; một số trích đoạn của các văn kiện quốc tế

liên quan. Đây là cuốn sách có giá trị, rất cần thiết giúp tác giả luận án tìm

hiểu thông tin và nắm vững chính sách, pháp luật về BĐG, phòng chống bạo

Page 22: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

16

lực gia đình. Tuy nhiên, để tiện lợi cho việc tham khảo và theo dõi quá trình

phát triển chính sách pháp luật trong các lĩnh vực BĐG, phòng, chống bạo

lực gia đình, các văn bản nên hệ thống theo thời gian thì sẽ tốt hơn.

Báo cáo phát triển thế giới 2012: Bình đẳng giới và phát triển [100],

là một trong số những ấn bản thường niên quan trọng nhất của Ngân hàng

thế giới được phát hành. Báo cáo này, đã phân tích vai trò của BĐG trong sự

phát triển chung và sự phát triển của kinh tế, BĐG sẽ góp phần như thế nào

vào việc nâng cao năng suất lao động, cũng như làm cho quốc gia thịnh

vượng hơn. Báo cáo tập trung vào 4 lĩnh vực ưu tiên về cải cách chính sách:

giảm bất BĐG về nguồn vốn con người - nhất là bất BĐG trong tỷ lệ tử vong

và trình độ học vấn của phụ nữ; giảm bất bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội

kinh tế, thu nhập và năng suất lao động; giảm bất BĐG về tiếng nói và năng

lực trung gian trong xã hội; hạn chế sự tái diễn của tình trạng bất bình đẳng

từ thế hệ này qua thế hệ khác. Theo báo cáo, cần có những giải pháp công,

để tác động đến những nguyên nhân cơ bản của tình trạng bất BĐG trong

những lĩnh vực ưu tiên. Đây là tài liệu quan trọng, gợi mở cho tác giả về ý

nghĩa của BĐG trong lao động gia đình DTTS với sự phát triển kinh tế xã

hội của MNPB.

Những phát hiện chính từ Báo cáo An sinh xã hội cho phụ nữ và trẻ em

gái ở Việt Nam của UN Women [87], là tài liệu tham khảo khá quan trọng cho

các nhà hoạch định chính sách và quản lý, cũng như cho tác giả luận án khi

nghiên cứu về khía cạnh BĐG và đảm bảo quyền lợi của phụ nữ. Báo cáo đã

bước đầu đánh giá được những vấn đề và thách thức giới trong hệ thống chính

sách an sinh xã hội, chỉ ra tỷ lệ tham gia lực lượng lao động, trình độ chuyên

môn kỹ thuật, tốc độ tăng việc làm, tốc độ chuyển dịch việc làm, thất nghiệp,

tiền lương bình quân của lao động nữ luôn thấp hơn lao động nam. Báo cáo đã

cung cấp cho tác giả luận án nhiều số liệu thực tiễn đáng quý.

Lê Thị Quý với bài viết Bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay [60], đã phân

tích về BĐG và đưa ra nhận định: phụ nữ ngày nay đã có kinh tế độc lập, được

tham gia và thừa nhận trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa

Page 23: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

17

học, gia đình, thậm chí ở nhiều nơi, họ còn đứng ở vị trí lãnh đạo cao cấp, đây

là những biểu hiện của BĐG thực chất ở Việt Nam [60, tr.77]. Theo tác giả,

luật pháp và chính sách BĐG Việt Nam đã có những tiến bộ về giới, như đã

công nhận quyền bình đẳng nam và nữ ở trong xã hội và gia đình, tuy nhiên

vẫn còn nhiều thách thức đặt ra như: BĐG hình thức vẫn còn tồn tại; luật thì có

nhưng không được thực hiện; sự vất vả của phụ nữ trong vai trò "kép" chưa

được gia đình và xã hội đánh giá nhìn nhận đúng.

Nguyễn Thị Phương Thủy với công trình Gia đình và giáo dục gia đình

[69], đã phân tích lý luận về gia đình, mối quan hệ giữa gia đình và xã hội,

những nguyên nhân dẫn tới sự chuyển biến của gia đình Việt Nam trong thời

kỳ CNH, HĐH, đặc biệt tập trung làm rõ những thuận lợi, khó khăn và một số

vấn đề của gia đình hiện nay như: sự biến đổi về cấu trúc, quy mô, mối quan hệ

trong gia đình; quan hệ tình dục trước hôn nhân; bạo lực trong gia đình; ly hôn;

và đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao vai trò của gia đình

trong bối cảnh hiện nay. Đây là công trình đã cung cấp cho tác giả luận án

nhiều cơ sở lý luận.

Trong bài viết Phân công lao động theo giới trong gia đình:cách nhìn

mới cho một chủ đề cũ [50], dựa vào các nguồn tài liệu đã công bố và một số

nghiên cứu đã thực hiện, Trần Thị Vân Nương đã điểm qua lịch sử nghiên

cứu về phân công lao động theo giới trong gia đình, bình luận một số kết quả

của các nhà nghiên cứu trước đây về chủ đề này, sau cùng là luận bàn một

cách nhìn mới trong nghiên cứu phân công lao động theo giới trong gia đình

trước bối cảnh biến đổi gia đình hiện nay. Theo tác giả, khi đánh giá phân

công lao động theo giới trong gia đình cần có quan điểm lịch sử cụ thể, cần

phải thừa nhận không phải tất cả những khác biệt về giới trong phân công lao

động đều là bất hợp lý và tiêu cực, là mặt trái của mối quan hệ giới.

UNDP với công trình The women’s access to land in contemporary

Viet Nam (Tiếp cận đất đai của phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện nay) [84],

đã lần đầu tiên xem xét quyền tiếp cận của phụ nữ đối với đất đai ở trên địa

bàn 10 tỉnh, thuộc 8 vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam. Các kết quả

Page 24: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

18

nghiên cứu tài liệu văn bản, tài liệu định lượng và định tính trên địa bàn 10 tỉnh

thành thuộc 8 vùng kinh tế khác nhau, ở các bối cảnh tộc người khác nhau cho

thấy, có sự khác biệt tương đối lớn trong tiếp cận đất đai của phụ nữ. Nói một

cách chung nhất, khả năng tiếp cận đất đai của nhóm phụ nữ ở các cộng đồng

thực hành chế độ phụ hệ hạn chế hơn rất nhiều so với phụ nữ ở các cộng đồng

thực hành mẫu hệ và song hệ; tương tự như vậy, phụ nữ ở khu vực thành thị có

nhiều cơ hội tiếp cận đất đai hơn so với nhóm phụ nữ nông thôn. Nghiên cứu

này, phát hiện ra 6 rào cản chính hạn chế sự tiếp cận đất đai của phụ nữ là: các

yếu tố pháp luật, thực hành dòng họ, tiếp cận dịch vụ pháp lý, di chúc, tổ hòa

giải và kiến tạo giới.

Nguyễn Thị Nga, Phạm Anh Hùng trong bài viết Lao động nữ không

được trả công ở Việt Nam [45], đã tập trung làm rõ quan niệm về lao động nữ

không được trả công trong gia đình, theo các tác giả “lao động không được trả

công trong gia đình của phụ nữ chính là những hoạt động, những công việc

trong gia đình nhằm tái sản xuất con người, tái sản xuất sức lao động, đòi hỏi

chi phí về thời gian và năng lực của người phụ nữ mà không được trả tiền

công và không tính vào thu nhập của gia đình” [45; tr67]; các tác giả phân

tích thực trạng lao động không được trả công của phụ nữ trong gia đình ở Việt

Nam hiện nay và đề ra một số giải pháp. Công trình đã giúp tác giả luận án

nhìn nhận rõ hơn về giá trị của hoạt động tái sản xuất, mà phụ nữ đang đảm

nhận trong gia đình và sự bất công trong việc đánh giá loại lao động này.

Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2014, Báo

cáo cuối cùng, do Tổng cục Thống kê và UNICEF Hà Nội, Việt Nam [76]

tiến hành nhằm thu thập các thông tin trên nhiều lĩnh vực liên quan đến chăm

sóc sức khỏe, điều kiện sống và sự phát triển của trẻ em và phụ nữ Việt Nam.

Những thông tin thu thập được góp phần đánh giá: tình hình thực hiện các

mục tiêu quốc gia và quốc tế vì trẻ em được cam kết trong Chương trình hành

động Quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 - 2020; mục tiêu và kế hoạch hành

động vì Một thế giới phù hợp với trẻ em; báo cáo hoàn thành Mục tiêu Phát

triển Thiên niên kỷ vào năm 2015. Tác giả luận án đã kế thừa nhiều số liệu

Page 25: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

19

của cuộc điều tra này, để phân tích thực trạng BĐG trong lao động gia đình

DTTS MNPB hiện nay.

1.1.2. Các nghiên cứu tiêu biểu về bình đẳng giới trong lao động gia

đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc

Trong bài Phụ nữ dân tộc và miền núi trong đời sống kinh tế - văn

hóa các dân tộc [65], Lê Ngọc Thắng đã phân tích vai trò to lớn của phụ nữ

DTTS trong đời sống kinh tế, đời sống văn hóa của dân tộc và đưa ra một số

vấn đề cần quan tâm. Theo tác giả “trong các sinh hoạt kinh tế gia đình, phụ

nữ khu vực dân tộc và miền núi có vai trò quan trọng. Họ tham gia hầu hết

các hoạt động kinh tế trồng trọt, chăn nuôi, nghề thủ công, tự quản chi tiêu

duy trì cuộc sống cho các thành viên trong gia đình”. Ngoài ra trong đời

sống văn hóa vai trò của phụ nữ cũng rất quan trọng, “trong sự tương quan

với nam giới thì nữ giới khu vực dân tộc và miền núi là người có công bảo

tồn nhiều yếu tố bản sắc văn hóa của từng dân tộc và quốc gia”. Bài báo này

giúp tác giả luận án có thêm tư liệu về vai trò của người phụ nữ DTTS trong

đời sống kinh tế xã hội các dân tộc.

Cao Bang - Bac Kan - Rural Development project: Gender Studies on

Tay Nung ethnic minorities in Cao Bang [5], trên cơ sở nghiên cứu về dân tộc

Tày, Nùng ở Cao Bằng, Đỗ Thị Bình đã chỉ ra rằng trong gia đình DTTS hiện

nay vẫn còn tồn tại khoảng cách giới tương đối lớn trên các mặt như: phân

công lao động, tiếp cận, quản lý và hưởng lợi từ các nguồn lực và quyền

quyết định các vấn đề quan trọng trong gia đình và cộng đồng. Theo tác giả,

những nguyên nhân cơ bản dẫn tới thực trạng bất bình đẳng trong gia đình

DTTS ở địa bàn nghiên cứu là đói nghèo và nhận thức thấp. Công trình này

đã giúp tác giả luận án có thêm tư liệu để so sánh sự biến đổi trong quan hệ

giới của gia đình DTTS MNPB hiện nay.

Trong công trình Phát triển kinh tế hộ gia đình miền núi trong quá

trình chuyển dịch sang cơ chế thị trường [20], Sa Trọng Đoàn đã phân tích rõ

vai trò, tính đặc thù của kinh tế hộ gia đình nông dân miền núi; luận giải

những nhân tố chi phối sự phát triển kinh tế hộ gia đình nông dân miền núi

Page 26: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

20

trong cơ chế thị trường, cũng như xu hướng vận động chủ yếu của kinh tế hộ

gia đình nông dân miền núi nước ta; từ đó đề xuất những quan điểm, phương

hướng, biện pháp cụ thể để phát triển kinh tế hộ gia đình nông dân miền núi

Tây Bắc nước ta hiện nay. Công trình này đã gợi mở một số giải pháp có thể

phát triển kinh tế của gia đình DTTS MNPB, tạo tiền đề để thực hiện BĐG

trong lao động gia đình.

Trong bài viết Mấy vấn đề về sự phát triển của phụ nữ Hmông (từ

thực tiễn ở Mộc Châu, Sơn La và Quản Bạ, Hà Giang) [66], Lê Ngọc Thắng

đã đề cập tới vai trò người phụ nữ Hmông trên hai phương diện cơ bản là

kinh tế và một số vấn đề xã hội. Theo tác giả, bên cạnh công việc nặng nhọc

của một nữ nông dân thực sự, công việc nội trợ đã làm cho người phụ nữ

Hmông tăng cường độ lao động lên gấp nhiều lần so với nam giới, song

công việc “không tên” đó còn ít được cộng đồng quan tâm, ghi nhận, đánh

giá. Về một số vấn đề xã hội, theo tác giả xã hội cổ truyền của cộng đồng

Hmông bị chi phối bởi các quan niệm thôn xã, dòng họ, gia đình và các tập

tục hôn nhân, đến nay các tập tục đó vẫn là những quan niệm của xã hội cũ

chưa hoàn toàn bị mất đi theo những nhu cầu của cuộc sống mới, có tác

động không nhỏ đến vị thế người phụ nữ trong cuộc sống gia đình và cộng

đồng. Bài báo này, cung cấp thêm cho tác giả luận án những tư liệu về sự bất

BĐG đối với người phụ nữ Hmông, đồng thời cũng gợi mở một số giải pháp

thúc đẩy BĐG trong gia đình các dân tộc, mà luận án nghiên cứu.

Bài viết Vị thế của người phụ nữ H’Mông trong gia đình và xã hội

của Đặng Thị Hoa [27] đã phân tích vai trò, vị thế của phụ nữ Mông trong

gia đình ở các khía cạnh: phân công lao động, quyền quyết định những vấn

đề quan trọng trong gia đình. Tác giả đưa ra kết luận: dù điều kiện kinh tế đã

có những chuyển biến tích cực hơn so với trước, nhưng đa số phụ nữ Mông

hiện nay vẫn là người phụ thuộc trong gia đình, lại càng trở nên bị cách biệt

trong xã hội, không thể hòa nhập vào cộng đồng và càng không thể chủ động

tham gia công tác xã hội khi họ không có trình độ học vấn, ngôn ngữ phổ

thông. Những ràng buộc về phong tục tập quán, thói quen trong suy nghĩ,

Page 27: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

21

cách làm của họ bị khép kín trong cộng đồng và chưa thể hòa nhập với nhịp

độ phát triển của kinh tế - xã hội trong quá trình CNH, HĐH.

Trong bài viết Một số phong tục tập quán ảnh hưởng tới chăm sóc sức

khỏe sinh sản cho phụ nữ các dân tộc tỉnh Hà Giang [24], Trần Minh Hằng

cho rằng, quan niệm “nhiều con, nhiều phúc”, tâm lý muốn có con trai đang

là trở ngại đáng kể đối với phụ nữ trong việc thực hiện quyền sinh sản, kế

hoạch hóa gia đình. Nhiều phụ nữ không có quyền tự quyết định số con do

sức ép của chồng, của gia đình chồng khao khát có con trai. Theo số liệu

của tác giả có đến 69,7% phụ nữ Mông, 47,5% phụ nữ Dao trả lời muốn có

thêm con trai, nếu đã có con gái không một chút đắn đo. Cũng theo tác giả,

tình trạng tảo hôn còn khá phổ biến ở cộng đồng DTTS, chăm sóc sức khỏe

sinh sản đang là một vấn đề nan giải với đồng bào dân tộc ở vùng sâu vùng

xa, gần 2/3 số phụ nữ có thai mà không đi khám thai lần nào, có 60,6% phụ

nữ do người nhà đỡ đẻ. Có thể thấy rằng, đây chính là một trong những yếu

tố cản trở việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình đối với phụ nữ

DTTS ở MNPB.

Trong bài viết Vài nét về người phụ nữ trong xã hội Thái [23], trên cơ

sở phân tích vai trò của người phụ nữ Thái ở huyện Thanh Luông, tỉnh Lai

Châu trong quá trình phân công lao động, tiếp cận các nguồn lực trong gia

đình và cộng đồng, Lương Thị Thu Hằng đã đưa ra những nhận định: phụ

nữ Thái có vai trò rất lớn trong phát triển kinh tế gia đình, trong tham gia

các sinh hoạt cộng đồng, nhất là trong việc giữ gìn, lưu truyền những giá trị

văn hóa dân tộc. So với các tộc người thiểu số khác trên địa bàn, trong gia

đình người Thái có nhiều điểm tiến bộ, bình đẳng thể hiện ở quan niệm,

nhận thức cũng như phân công lao động trong gia đình và cộng đồng. Tuy

nhiên, trên thực tế trong gia đình dân tộc Thái vẫn tồn tại khoảng cách giới,

người phụ nữ chưa được đối xử tương xứng với vai trò của họ.

Nguyễn Hồng Quang với bài Gia đình dân tộc thiểu số và lao động

trẻ em [55], đã phân tích thực trạng lao động trẻ em và đưa ra nhận xét:

những công việc của các bé người Tày, người Dao và người Hmông trên các

Page 28: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

22

địa bàn nghiên cứu rất đa dạng, từ việc không tên trong nhà đến việc sản

xuất ngoài nương rẫy, thậm chí đi làm thuê ở ngoài, bán hàng, vác hàng lậu,

nhìn chung các công việc là quá sức với các em, thời gian lao động trong gia

đình của trẻ em hầu như kéo dài trong cả ngày, các em gái vất vả hơn em

trai. Theo tác giả, việc mưu sinh kiếm sống không chỉ là nhu cầu, mà còn là

nghĩa vụ đặt lên vai đứa trẻ, nhiệm vụ này được đứa trẻ coi như là việc

đương nhiên và nghiễm nhiên chúng phải thực hiện, “nghèo đói là nguyên

nhân bất khả kháng đẩy các em vào thị trường lao động và coi lao động trẻ

em là một lẽ đương nhiên” và hậu quả của lao động trẻ em nói chung là vô

cùng to lớn, đặc biệt là tước đi nhiều quyền và cơ hội của trẻ em gái. Có thể

thấy, đây cũng chính là một rào cản việc thực hiện BĐG trong lao động gia

đình DTTS MNPB hiện nay.

Trong bài viết Vấn đề giới trong các dân tộc ít người ở Sơn La - Lai

Châu hiện nay [59], Lê Thị Quý đã đề cập tới sự bất bình đẳng đối với người

phụ nữ. Theo tác giả, người phụ nữ có vai trò quan trọng trong cả lĩnh vực sản

xuất và tái sản xuất, nhưng việc tiếp cận và kiểm soát nguồn lực cũng như lợi

ích của họ có một khoảng cách rất xa so với nam giới. Phụ nữ là người tiếp

cận nguồn lực nhiều hơn nam giới, nhưng lại ít quyền kiểm soát nguồn lực đó.

Việc hưởng thụ cũng không công bằng, vì phụ nữ thường hy sinh những lợi

ích vì chồng con. Bài báo này đã gợi mở cho tác giả luận án, nhiều vấn đề về

lý luận cũng như nguyên nhân dẫn tới bất BĐG đối với người phụ nữ DTTS

trong lao động gia đình.

Trong công trình Thu nhập, việc làm và địa vị của phụ nữ dân tộc

thiểu số trong quá trình phát triển kinh tế thị trường - những phân tích qua

lăng kính giới (nghiên cứu trường hợp Lào Cai và Lạng Sơn) [63], nhóm tác

giả đã nghiên cứu gia đình các dân tộc ở Lào Cai, Lạng Sơn ở một số khía

cạnh như: đặc điểm hộ gia đình, điều kiện sinh sống, nguồn thu và mức sống

và đưa ra kết luận so với mặt bằng chung của xã hội, phụ nữ các DTTS còn

chịu nhiều thiệt thòi, cuộc sống của họ còn gặp nhiều khó khăn. Để làm rõ

địa vị kinh tế của người phụ nữ các dân tộc, nhóm tác giả đã phân tích

Page 29: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

23

những vấn đề như: nghề nghiệp, các điều kiện thay đổi nghề nghiệp và thu

nhập; các cơ hội tìm kiếm việc làm; vai trò cụ thể của mỗi giới trong lao

động sản xuất cũng như các công việc gia đình; việc tiếp cận và sử dụng các

nguồn lực kinh tế. Nhóm tác giả đưa ra kết luận: xét về lĩnh vực phân công

lao động, dù mang lại thu nhập nhiều hay ít cho gia đình so với người chồng,

thì vai trò của phụ nữ là rất lớn. Một cách tổng thể, có thể thấy rằng các hoạt

động kinh tế của phụ nữ đóng góp vào thu nhập của các gia đình hiện nay là

tương đương với nam giới. Trong khi đó, họ vẫn phải đảm đương các công

việc gia đình nhiều hơn, mà hầu hết các loại việc này lại tiêu tốn nhiều thời

gian, sức lực của người phụ nữ trong ngày; trong tiếp cận và sử dụng các

nguồn lực, quản lý và quyết định các công việc gia đình của phụ nữ DTTS

vẫn còn nhiều thiệt thòi. Mặc dù phụ nữ ngày càng đóng vai trò quan trọng

trong gia đình, nhưng so với nam giới, họ chưa được bình đẳng trong lao

động gia đình, chưa được nhìn nhận và đánh giá đúng vị thế trong gia đình.

Lê Ngọc Lân với bài viết Phụ nữ các dân tộc miền núi phía Bắc: về

hôn nhân, văn hóa giáo dục và chăm sóc sức khỏe [33], đã giới thiệu một số

nét về địa vị của phụ nữ các DTTS trong các lĩnh vực hôn nhân, giáo dục và

chăm sóc sức khỏe và đưa ra kết luận so với phụ nữ vùng đồng bằng, đô thị,

thì phụ nữ DTTS MNPB còn thua thiệt nhiều. Các phong tục tập quán của

mỗi dân tộc tuy có khác nhau, nhưng còn ảnh hưởng khá đậm nét, phần nào

cản trở sự phát triển và BĐG đối với người phụ nữ. Theo tác giả để nâng cao

vai trò, vị thế của phụ nữ các DTTS cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ

về kinh tế xã hội, trong đó cần quan tâm đẩy mạnh hoạt động của các đoàn

thể xã hội, mở rộng các hình thức phổ cập giáo dục, xóa nạn mù chữ, mở

rộng các hình thức tuyên truyền nhằm xóa bỏ một số tập tục lạc hậu, những

định kiến đang cản trở sự phát triển của phụ nữ. Công trình này, đã gợi ra

một số giải pháp mà luận án có thể đề cập tới.

Nguyễn Thị Thanh Tâm, Lê Việt Nga và Phan Thị Thanh Mai với đề

tài Một số vấn đề giới của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc [64], đã

bước đầu nêu và phân tích vấn đề giới trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế,

Page 30: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

24

lao động việc làm, giáo dục, y tế của một số DTTS vùng núi phía Bắc và dự

báo sự vận động biến đổi của vấn đề này theo xu hướng ngày càng bình

đẳng hơn. Một trong những kết luận, mà các tác giả nghiên cứu khẳng định

là: so với các vùng khác trong cả nước, MNPB vẫn là nơi mà bất BĐG còn

rất nặng nề, có nhiều thách thức trong quá trình thực hiện mục tiêu BĐG.

Mặc dù, các tác giả chưa chỉ ra được nguyên nhân, dẫn tới thực trạng bất

BĐG ở các tỉnh MNPB là gì, những thách thức nào đang cản trở quá trình

thực hiện BĐG, tuy nhiên tài liệu này đã góp phần giúp tác giả luận án, có

cái nhìn toàn diện hơn về thực trạng BĐG của đồng bào DTTS MNPB.

Báo cáo Country Social Analysis - Ethnic and Development in Viet

Nam (Phân tích xã hội về tộc người và phát triển ở Việt Nam) [98] của WB, là

kết quả nghiên cứu công phu và có giá trị của các nhà khoa học quốc tế về

những vấn đề liên quan đến quá trình phát triển các dân tộc Việt Nam. Báo

cáo đã phân tích và so sánh những khác biệt về điều kiện, cơ hội, lợi thế, cũng

như những khó khăn, trở ngại trong quá trình phát triển của dân tộc đa số

(Kinh) và một số DTTS. Trên cơ sở đó, báo cáo chỉ ra các nhân tố xã hội,

chính trị, văn hóa, tác động ảnh hưởng như thế nào tới cơ hội và kìm hãm sự

phát triển hội nhập và bình đẳng. Nghiên cứu cũng phát hiện một số vấn đề

mà người DTTS phải đối mặt và nhấn mạnh tới nhóm dễ bị tổn thương đó là

phụ nữ và trẻ em gái. Báo cáo có đưa ra kết luận: bên cạnh những lợi ích mà

phụ nữ và nam giới cùng được hưởng từ thành quả của phát triển kinh tế, vẫn

còn bằng chứng cho thấy sự tồn tại dai dẳng của hiện tượng bất bình đẳng,

nhưng báo cáo chưa đưa kiến nghị nhằm khắc phục vấn đề này.

Phan Thị Thanh Mai với bài viết Thực trạng và vai trò của phụ nữ dân

tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc trong chăm sóc sức khỏe sinh sản

[39], đã phân tích và tổng hợp các kết quả nghiên cứu đã công bố, nhằm tìm

hiểu và đưa ra bức tranh chung về thực trạng, vai trò của phụ nữ DTTS các

tỉnh MNPB trong chăm sóc sức khỏe sinh sản. Theo tác giả, đa số phụ nữ

DTTS các tỉnh MNPB còn chưa có ý thức rõ rệt về chăm sóc sức khỏe nói

chung và chăm sóc sức khỏe sinh sản nói riêng, họ chưa quen với việc sử

Page 31: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

25

dụng dịch vụ và các hình thức chăm sóc sức khỏe của xã hội hiện đại, mặc dù

họ lại là người đảm nhận trách nhiệm chính trong kế hoạch hóa gia đình, là

trụ cột trong việc nuôi dưỡng và chăm sóc con cái. Tuy chịu trách nhiệm

chính trong việc chăm sóc và nuôi dạy con, song không vì thế mà địa vị

của người phụ nữ trong gia đình được nâng cao, mà ngược lại rất thấp, họ

hầu như chỉ ở nhà trông con và làm các công việc gia đình, mọi sinh hoạt

bên ngoài xã hội dành cho người chồng. Tác giả đã chỉ ra rằng chính tình

trạng kinh tế nghèo khó, trình độ học vấn thấp, sự hạn chế trong nhận thức

của phụ nữ DTTS, là những trở ngại trong việc tiếp cận với các biện pháp

và các phương tiện chăm sóc sức khỏe sinh sản hiện đại, bên cạnh đó, một

số phong tục tập quán lạc hậu của cộng đồng, cũng cản trở người phụ nữ

DTTS nắm bắt và thực hành việc chăm sóc sức khỏe sinh sản một cách an

toàn và khoa học.

Báo cáo hiện trạng bất bình đẳng giới trong cộng đồng người dân tộc

thiểu số [51], đã phân tích thực trạng bất BĐG trong gia đình cộng đồng

DTTS ở khía cạnh: phân công lao động, đóng góp kinh tế của nam nữ, tiếp

cận và kiểm soát nguồn lực, “đàn ông biết nhiều hơn mình”; ngoài ra còn

phân tích bất BĐG theo lĩnh vực: giáo dục, y tế, lao động việc làm và một số

vấn đề khác. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị hướng tới việc xây dựng chính

sách “đặc thù”, để tăng cường BĐG và tăng tính hiệu quả của các chính sách,

chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo. Ngoài ra, nghiên cứu này

còn xem xét mối quan hệ tương tác giữa những chính sách phát triển kinh tế

vĩ mô, những thiết chế văn hóa truyền thống và xu thế của quá trình hội nhập

đối với vai trò, vị trí và tiếng nói của nam giới và nữ giới.

Trong Báo cáo đánh giá tiếp cận và sử dụng các dịch vụ pháp lý của

phụ nữ dân tộc thiểu số [96], các nhà nghiên cứu của ISEE đã rà soát tài liệu

về các dịch vụ pháp lý và khả năng tiếp cận và các dịch vụ này của người

DTTS tại Việt Nam, qua đó chỉ ra các rào cản khiến cho đồng bào DTTS ít có

khả năng tiếp cận với dịch vụ pháp lý. Đặc biệt trong phần một, báo cáo đã

đánh giá tình trạng bất BĐG trong các nhóm DTTS dựa trên 8 lĩnh vực của

Page 32: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

26

Luật BĐG và đưa ra nhận định bất BĐG chính là nguyên nhân sâu sa dẫn tới

tình trạng đói nghèo của DTTS.

Giới, tăng quyền và phát triển: quan hệ giới từ góc nhìn của người dân

tộc thiểu số ở Việt Nam [97], trong chương 2 của công trình nhóm tác giả đã

đề cập tới quan niệm và quan hệ giới của người DTTS ở các khía cạnh: vai trò

giới và phân công lao động; tiếp cận và thu nhập; tham gia và ra quyết định;

chương 3 đề cập tới vấn đề tăng quyền từ góc nhìn tính tự quyết và vị thế của

phụ nữ trong tập quán truyền thống, xã hội đương đại và lý giải cơ sở văn hóa

của những quyết định đó. Tài liệu này đã giúp tác giả luận án có cái nhìn về

vấn đề giới của các DTTS MNPB dưới góc độ văn hóa tộc người.

Trong công trình Quan hệ giới trong gia đình dân tộc thiểu số miền núi

phía Bắc hiện nay [22], từ việc phân tích mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới

trong các lĩnh vực của đời sống gia đình, Nguyễn Thị Hà đã chỉ ra thực trạng,

xu hướng biến đổi của quan hệ giới trong gia đình DTTSMNPB hiện nay. Theo

tác giả so với trước đây, hiện nay gia đình DTTS vùng núi phía Bắc mối quan

hệ giới được xây dựng theo hướng bình đẳng hơn, nhất là trong phân công lao

động trong gia đình, tuy nhiên bất bình đẳng giữa vợ, chồng, giữa trẻ em trai và

trẻ em gái trên nhiều mặt của đời sống gia đình còn phổ biến và thiệt thòi vẫn

nghiêng về phía phụ nữ và trẻ em gái. Từ thực trạng, tác giả đã đưa ra những

quan điểm và giải pháp chủ yếu để xây dựng quan hệ giới bình đẳng, tiến bộ

trong gia đình DTTS ở MNPB. Tài liệu này đã gợi mở ra nhiều vấn đề thực

tiễn cho tác giả luận án triển khai.

Phạm Thu Hiền với bài viết Tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu

đối với cộng đồng dân tộc thiểu số phía Bắc - nhìn từ lăng kính giới [26], đã

chỉ ra tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu đối với cuộc sống của người

dân đặc biệt với người phụ nữ dưới 3 khía cạnh: sinh kế của người dân, nhất

là của phụ nữ bị ảnh hưởng mạnh từ những tác động của thiên tai và biến đổi

khí hậu; thời gian lao động, gánh nặng công việc gia đình của phụ nữ tăng

lên; cuộc sống gia đình, sức khỏe của phụ nữ và trẻ em bị ảnh hưởng nhiều

hơn bởi thiên tai và biến đổi khí hậu; ngoài ra nghiên cứu cũng chỉ rõ vai trò

Page 33: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

27

và những đóng góp của phụ nữ trong nỗ lực giảm rủi ro và thích ứng với biến

đổi khí hậu.

Trong bài Gia đình người Tày ở Việt Nam - truyền thống và đổi mới

[25], dựa vào các công trình nghiên cứu về người Tày, Bế Văn Hậu đã phân

tích một số nét biến đổi về chế độ hôn nhân - gia đình của người Tày ở Việt

Nam. Tác giả cho rằng, trong những thập niên gần đây, gia đình của người

Tày với đặc trưng cơ bản là tính chất gia trưởng phụ quyền, đã và đang có sự

biến đổi khá mạnh mẽ, sâu rộng thể hiện trên nhiều phương diện từ chế độ

hôn nhân đến hình thái, quy mô và cơ cấu gia đình, từ vị thế vai trò của các

thành viên đến sự phân công lao động, cũng như các khuôn mẫu ứng xử khác

trong gia đình. Sự biến đổi này diễn ra ở cả ba lĩnh vực của đời sống gia đình

- đó là đời sống vật chất, văn hóa tinh thần và mối quan hệ giữa các thành

viên. Sự biến đổi này cũng đang mang đến cho gia đình người Tày nhiều sự

thay đổi tích cực, đã có sự bình đẳng hơn giữa các thành viên, quyền bình

đẳng và tự do cá nhân đã được tôn trọng, nên mỗi thành viên đều phát huy

được năng lực sáng tạo của bản thân trong lao động sản xuất, trong việc học

hành cũng như trong các sinh hoạt xã hội khác.

Lê Tuấn Ngọc với bài viết Phát triển nguồn lực con người trong quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay

[48], đã phân tích thực trạng nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh MNPB hiện nay. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải

pháp nhằm phát triển nguồn lực cho khu vực này, cụ thể như sau: xây dựng

chiến lược tổng thể phát triển nguồn lực con người phục vụ cho sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh trong khu vực; phát triển giáo dục -

đào tạo, coi trọng đẩy mạnh và đổi mới công tác nghề; có chính sách hợp lý

về tuyển dụng, sử dụng nguồn lực con người; đẩy mạnh phát triển kinh tế đi

đôi với thực hiện chính sách an sinh xã hội, tạo tiền đề vật chất cho phát triển

nguồn lực con người. Những giải pháp tác giả đưa ra, đã gợi mở cho luận án

hướng triển khai một số giải pháp để phát triển nguồn nhân lực của đồng bào

Page 34: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

28

DTTS MNPB, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội tạo tiền đề vật chất

để thực hiện BĐG trong lao động gia đình.

1.2. GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ TỔNG QUAN VÀ NHỮNG NỘI

DUNG LUẬN ÁN CẦN LÀM SÁNG TỎ

1.2.1. Những giá trị của các công trình đã tổng quan

Một là, những công trình nghiên cứu trên là những tài liệu quý cả về

lý luận và thực tiễn, để luận án tham chiếu trong quá trình triển khai mục

tiêu và nhiệm vụ của mình. Các công trình đã phần nào cho thấy tính cấp

thiết của việc nghiên cứu vấn đề BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB

hiện nay, cung cấp cho tác giả cơ sở lý luận và một phần cơ sở thực tiễn, gợi

mở một số vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm thúc đẩy BĐG trong lao động gia

đình DTTS MNPB.

Hai là, một số công trình đã phân tích làm rõ vị trí, vai trò của phụ nữ

trong phát triển kinh tế xã hội, đã luận giải và làm sáng tỏ ở mức độ nhất

định vấn đề BĐG trong lao động gia đình như: phân công lao động, tiếp cận,

hưởng lợi từ các nguồn lực, quyền quyết định và thụ hưởng lợi ích. Đặc biệt,

tác giả của nhiều công trình đã tập trung nghiên cứu, nhấn mạnh hơn đối với

phụ nữ DTTS MNPB.

Ba là, một số công trình đã đưa ra cách đánh giá, nhìn nhận mới về

một loại lao động trong gia đình (lao động tái sản xuất), đề xuất cách lượng

hóa giá trị của lao động tái sản xuất, phân tích đóng góp của lao động tái sản

xuất vào kinh tế quốc dân.

Bốn là, một số công trình đã phân tích và chỉ ra một số rào cản sự phát

triển phụ nữ DTTS, rào cản thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS ở

một số khía cạnh như: điều kiện kinh tế khó khăn, phong tục tập quán lạc

hậu, trình độ dân trí thấp...

Năm là, một số công trình đã nêu ra những biến đổi trong gia đình

DTTS MNPB như: cơ cấu gia đình, quan hệ trong gia đình, quyền quyết định,

phân công lao động, trình độ văn hóa và hôn nhân gia đình; đã phân tích mối

Page 35: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

29

quan hệ giữa trình độ học vấn, nghề nghiệp, kết cấu gia đình, thu nhập với

việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình.

Sáu là, một số công trình đã tổng kết quá trình đổi mới, phát triển của

miền núi, đánh giá những thành tựu, hạn chế của quá trình đó, đồng thời nêu

quan điểm định hướng và nguyên tắc phát triển miền núi và vùng DTTS; đề

cập tới sự phân hoá giàu nghèo ở các tỉnh MNPB, mức độ ảnh hưởng của nó

tới các mặt của đời sống xã hội nói chung, trong đó bao hàm cả sự tác động

đối với BĐG trong lao động gia đình DTTS.

Bảy là, một số công trình đã tập trung phân tích mối liên hệ giữa giới,

nghèo đói và chính sách phát triển, lồng ghép giới vào chính sách vĩ mô, cách

thức giải quyết nghèo đói từ góc độ giới, bất bình đẳng. Từ đó, nêu trách

nhiệm của các nhà hoạch định chính sách cũng như cộng đồng về thực hiện

mục tiêu Thiên niên kỷ.

1.2.2. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ

Tuy có nhiều công trình nghiên cứu về BĐG, vai trò của phụ nữ trong

gia đình, sự biến đổi quan hệ giới trong gia đình, nhưng đều chỉ nghiên cứu

khía cạnh nào đó của lao động gia đình, mà chưa nghiên cứu một cách đầy đủ

toàn diện về BĐG trong lao động gia đình. Một số luận cứ khoa học, thực tiễn

về ý nghĩa của việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình nói chung và gia

đình DTTSMNPB nói riêng, một số yếu tố cản trở người phụ nữ DTTS phát

huy vai trò của mình, thực hiện BĐG còn chưa được đề cập.

Hiện nay, chưa có tác giả nào, công trình nào nghiên cứu một cách

chuyên sâu, có hệ thống dưới góc độ chính trị - xã hội về BĐG trong lao động

gia đình DTTS MNPB. Đây là một trong những khoảng trống cần được đầu tư

nghiên cứu, nhằm thực hiện BĐG trong gia đình nói chung và DTTS nói riêng,

một cách đầy đủ hơn.

Từ những giá trị của các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, từ

góc độ tiếp cận của chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, từ sự tích lũy

trong nghiên cứu của cá nhân, tác giả sẽ tập trung vào nghiên cứu, luận chứng

và giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:

Page 36: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

30

Một là, khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn về sự cần thiết thực hiện BĐG

trong lao động gia đình DTTS MNPB, trong đó tập trung làm rõ:

- Lý luận về lao động gia đình, lao động gia đình DTTS MNPB, nội dung

biểu hiện của BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.

- Vai trò của BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB đối với việc phát

triển kinh tế - xã hội ở MNPB.

- Sự tác động của yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội, chính sách xã

hội tới thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.

Hai là, từ những số liệu thực tế, luận án phân tích thực trạng BĐG trong

lao động gia đình DTTS MNPB, ở các nội dung:

- Hoạt động sản xuất.

- Hoạt động tái sản xuất.

- Hoạt động cộng đồng.

Ba là, nghiên cứu, làm rõ những vấn đề đặt ra, cụ thể là những mâu thuẫn

trong việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.

Bốn là, đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc

đẩy BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB.

Page 37: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

31

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI

PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH VÀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG

GIA ĐÌNH

2.1.1. Quan niệm về lao động gia đình

Trong lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất cuốn sách Nguồn gốc của

gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước năm 1884, Ph.Ănghen viết:

Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến

cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp... Một mặt là

sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những

công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản

xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống [38, tr.44].

Từ quan điểm này của Ph. Ănghen, có thể thấy để tồn tại và phát

triển, mỗi gia đình (tế bào của xã hội) phải tiến hành hai loại lao động, đó

là lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất và lao động “sản xuất ra bản

thân con người”.

Theo Trần Vân Anh và Lê Ngọc Hùng, có thể chia lao động gia đình

thành hai loại: một loại gồm những hoạt động kinh tế tạo ra sản phẩm hàng

hóa hay thu nhập; một loại lao động gồm những công việc không trực tiếp tạo

ra hàng hóa hay thu nhập bằng tiền mà phụ nữ thường đảm đương trong gia

đình [2, tr.219].

Nguyễn Linh Khiếu cho rằng: đời sống gia đình có rất nhiều hoạt động

phong phú và đa dạng khác nhau. Nhưng nhìn chung, các hoạt động đó

thường xoay quanh 3 lĩnh vực sinh sống chủ yếu của gia đình, đó là: sản xuất,

tái sản xuất và hoạt động cộng đồng [30, tr.220].

Page 38: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

32

Dương Thị Minh thì nhận định rằng:

Dù trong điều kiện nào, dưới bất cứ hình thức nào, gia đình cũng

phải đảm bảo những nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của

các thành viên. Để thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu ấy, gia đình

đồng thời tiến hành hai loại lao động chủ yếu: các lao động nhằm

trực tiếp tạo ra của cải vật chất và các loại lao động đảm bảo tái

sản xuất ra sức lao động [43, tr.29-30].

Theo giáo sư Lê Thi:

Lao động gia đình là một gánh nặng trên vai người phụ nữ từ xa

xưa đến nay. Nó làm tiêu hao sức lực của phụ nữ, làm cho người

phụ nữ không còn thời gian nghỉ ngơi, hưởng thụ văn hóa nghệ

thuật, nâng cao trình độ. Mặc dù hết sức vất vả, lao động gia đình

vẫn chưa được xã hội và gia đình nhìn nhận đúng. Đó là loại lao

động có giá trị tái sản xuất sức lao động của con người, nhưng

chưa được đánh giá và bù đắp [67, tr.28].

Nguyễn Hữu Minh cho rằng:

Công việc trong gia đình thường được chia thành một số loại như

nội trợ, sản xuất kinh doanh hộ gia đình, chăm sóc thành viên

trong gia đình (con nhỏ, người già, người đau ốm), giao tiếp (cụ

thể như tiếp khách đến, đại diện gia đình giao tiếp với chính

quyền). Các nhóm công việc này, đến lượt mình lại được phân ra

chi tiết hơn. Chẳng hạn, công việc nội trợ thường được hiểu là

công việc tái sản xuất liên quan đến việc chăm sóc và duy trì hộ

gia đình như: nấu ăn, giặt giũ, mua thức ăn, dọn dẹp nhà cửa...

Công việc sản xuất, kinh doanh cũng được chia ra thành các loại

hình trồng trọt, chăn nuôi, lâm, ngư nghiệp, dịch vụ [44, tr.44].

Như vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về lao động gia đình, có quan

điểm cho rằng lao động gia đình nghĩa là làm công việc nội trợ trong gia đình,

có quan điểm lại cho rằng lao động gia đình không chỉ là làm công việc nội

Page 39: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

33

trợ, mà còn gồm nhiều loại công việc khác nhau trong gia đình như hoạt động

sản xuất, tham gia hoạt động cộng đồng.

Tác giả luận án tiếp cận khái niệm lao động gia đình với nội hàm sau

đây: Lao động gia đình là hoạt động có mục đích của các thành viên trong

gia đình, nhằm thực hiện các chức năng của gia đình, để đảm bảo cho sự tồn

tại và phát triển ổn định của gia đình. Lao động gia đình gồm: hoạt động sản

xuất, hoạt động tái sản xuất và hoạt động cộng đồng.

Hoạt động sản xuất: là loại hoạt động được trả công hay tạo ra thu

nhập, liên quan đến sản xuất hàng hóa, dịch vụ, trao đổi hàng hóa và mua bán,

làm ruộng, làm thuê, tự tổ chức công việc.

Hoạt động tái sản xuất: là những hoạt động liên quan đến việc chăm sóc

và duy trì gia đình như: nấu ăn, lấy nước, lấy củi, đi chợ, trông nom nhà cửa,

chăm sóc sức khỏe cho gia đình…Tái sản xuất là loại hoạt động thiết yếu để

duy trì cuộc sống của con người, song lại thường khó quy đổi thành giá trị

kinh tế, vì vậy vẫn được coi là loại lao động không được trả công, là công

việc dành riêng cho phụ nữ.

Hoạt động cộng đồng: là những công việc thể hiện quan hệ của gia đình

với cộng đồng và thiết chế xã hội. Người thực hiện những công việc này là

người đại diện cho gia đình giao tiếp và giải quyết các vấn đề quan trọng của

gia đình với chính quyền và cộng đồng. Hoạt động cộng đồng bao gồm nhiều

nội dung khác nhau như: tham gia các lễ hội tại địa bàn sinh sống, họp thôn

bản, tập huấn, vệ sinh thôn xóm, làm đường, hiếu hỉ....

2.1.2. Quan niệm về bình đẳng giới trong lao động gia đình

Bình đẳng giới là một khái niệm hàm chứa ý nghĩa xã hội to lớn,

khái niệm này ra đời là kết quả của phong trào phụ nữ và chủ nghĩa nữ

quyền thế giới. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về BĐG, luận án

tiếp cận quan điểm về BĐG theo Luật BĐG của Việt Nam: BĐG là việc

nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng

Page 40: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

34

lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như

nhau về thành quả của sự phát triển đó [56, tr.9].

Từ khái niệm lao động gia đình và BĐG có thể hiểu: BĐG trong lao động

gia đình là việc nam giới và nữ giới trong gia đình có vị trí, vai trò ngang nhau,

có cơ hội, điều kiện tham gia vào mọi hoạt động sản xuất, hoạt động tái sản

xuất, hoạt động cộng đồng, để được phát huy hết khả năng, năng lực của mình,

nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của gia đình, được hưởng lợi

như nhau từ kết quả của sự đóng góp đó.

Để làm rõ nội hàm khái niệm BĐG trong lao động gia đình, trong luận

án tác giả sẽ dựa vào một số công cụ phân tích giới sau đây:

Thứ nhất, phân công lao động gia đình theo giới: Tìm hiểu phân

công lao động trên cơ sở giới là một cách thức đánh giá tình trạng BĐG tại

một cộng đồng cụ thể, vì nó cho biết các hoạt động của nam và nữ khác

nhau như thế nào trong hoạt động sản xuất, hoạt động tái sản xuất và hoạt

động cộng đồng.

Thứ hai, tiếp cận các nguồn lực: Tiếp cận là nói đến khả năng sử dụng

các nguồn lực, nam giới và nữ giới thường có các cấp độ khác nhau về tiếp cận.

Các nguồn lực đó có thể là đất đai, máy móc, công nghệ, việc làm, vốn, giáo

dục và đào tạo, trợ giúp kỹ thuật, các cơ hội ra quyết định, thông tin, lợi ích,

thu nhập. Tiếp cận nguồn lực là một trong những các phương pháp phân tích

giới, cho phép phát hiện những chênh lệch bất hợp lý về phân bố nguồn lực từ

góc độ giới

Thứ ba, ra quyết định trong gia đình: Đó là việc người chồng hay

người vợ quyết định cho các vấn đề lớn nhỏ trong gia đình? quyết định ở mức

độ nào (tư vấn, quyết định ban đầu và quyết định cuối cùng)? Ai sẽ chịu tác

động của những quyết định này?

Thứ tư, thụ hưởng các lợi ích: Với sự đóng góp cho sự phát triển của

gia đình, liệu nam và nữ thụ hưởng các lợi ích có tương xứng với sự đóng góp

đó của mình không?

Page 41: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

35

2.2. LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC VÀ

BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN

NÚI PHÍA BẮC

2.2.1. Đặc điểm của lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi

phía Bắc

Lao động gia đình DTTS MNPB là hoạt động có mục đích của các

thành viên trong gia đình DTTS MNPB, nhằm thực hiện các chức năng của

gia đình, để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của gia đình và xã

hội. Lao động gia đình DTTS MNPB có những đặc điểm riêng như sau:

2.2.1.1. Về hoạt động sản xuất

MNPB là vùng có tỷ lệ hộ dân hoạt động ngành sản xuất kinh doanh

dịch vụ phi nông, lâm nghiệp, thủy sản rất thấp, trong đó vùng Tây Bắc là

thấp nhất cả nước (18,4%) [71, tr.382]. Lao động sản xuất của gia đình DTTS

MNPB, có điểm khác biệt so với các vùng khác trong cả nước là chủ yếu diễn

ra trong lĩnh vực nông nghiệp, ngoài ra còn có một số hoạt động sinh kế bổ

trợ như: làm nghề thủ công, săn bắn hái lượm, buôn bán nhỏ, làm thuê.

Xét theo tập quán sinh sống và canh tác của các DTTS, có thể chia

thành một số nhóm: dân tộc Tày, Nùng, Thái... chủ yếu cư trú ở vùng đồi núi

thấp, thung lũng, khe dọc; dân tộc Dao, Mông, Khơ Mú, La Ha, La Hủ, Mảng

chủ yếu cư trú ở vùng lưng chừng núi (vùng giữa) và núi cao (vùng cao).

Những dân tộc sinh sống vùng thấp, vùng thung lũng sớm biết trồng lúa nước,

biết áp dụng các biện pháp thủy lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm

cọn lấy nước tưới ruộng, biết kết hợp làm nương trồng lúa, ngô, hoa màu;

sống quần cư đông đúc thành bản làng có khi tới hàng trăm nóc nhà. Những

dân tộc có tập quán sinh sống ở lưng chừng núi hoặc núi cao có tập quán làm

nương, làm ruộng (bậc thang), trồng ngô, lúa, lúa mạch, cây ăn quả... thường

sống phân tán, rải rác, ít xen kẽ với các dân tộc khác, sống thành từng bản có

vài chục nóc nhà hoặc chỉ trên dưới chục nóc nhà. Trong đó có một số nhóm

dân tộc còn tồn tại cách thức canh tác lạc hậu: du canh du cư, phát rừng, đốt

nương làm rẫy, chọc lỗ, tra hạt, chăn nuôi theo phương thức thả rông như một

Page 42: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

36

bộ phận dân tộc Cống, La Ha, La Hủ, Xinh Mun... sinh sống ở những vùng

sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

So với các vùng DTTS khác trong cả nước, thì MNPB chỉ tồn tại loại

hình gia đình phụ hệ, nên tính phụ quyền được phản ánh rõ nét, trong gia đình

người nam giới (người chồng) có vai trò chi phối và quyết định mọi vấn đề,

điều khiển mọi công việc từ sản xuất, sinh hoạt đến cúng bái, quan hệ với bên

ngoài, tham gia giải quyết những vấn đề chung của thôn bản... vị thế vai trò

và tiếng nói, cũng như quyền quyết định của nữ giới rất thấp kém, khiến họ về

cơ bản phụ thuộc vào nam giới.

Gia đình các DTTS MNPB đều coi trọng con trai hơn con gái, con trai

vừa là người thờ tổ tiên, lưu truyền huyết thống, vừa là người có trách nhiệm

chăm sóc, nuôi dưỡng bố mẹ lúc về già. Tài sản bố mẹ thường chia đều cho

các con trai, con gái không được hưởng trừ khi cha mẹ cho làm của hồi môn.

Quan niệm cần có con trai của dân tộc Tày, Thái, La Hủ, không quá nặng nề

giống như dân tộc Mông. Với các dân tộc này, nhà nào không có con trai, thì

sẽ lấy rể ở đời cho con gái, con rể ở đời không phải đổi họ, nhưng các con

phải theo họ mẹ và được hưởng gia sản, thờ cúng tổ tiên nhà mẹ. Chính luật

tục này, đã cản trở phụ nữ DTTS được tiếp cận nguồn lực sản xuất, hưởng thụ

lợi ích của gia đình và là một trong những nguyên nhân dẫn tới bất BĐG

trong hoạt động sản xuất ở MNPN hiện nay.

2.2.1.2. Về hoạt động tái sản xuất

Hiện nay ở cả 4 dân tộc (Thái, Tày, Mông, La Hủ) đều tồn tại hai hình

thức gia đình phổ biến là: gia đình nhỏ hai thế hệ gồm bố mẹ và con cái chưa

đến tuổi thành niên và gia đình lớn gồm hai ba cặp vợ chồng cùng sinh sống.

Không giống như người Mông, hầu như người Tày, Thái, La Hủ không sống

theo gia đình lớn, nhiều đời cùng chung sống trong một mái nhà, mà gia đình

nhỏ phụ quyền là loại hình chủ yếu, bao gồm vợ chồng và con cái, tuy nhiên

cũng có những gia đình gồm 3 thế hệ. Dù là hai hay nhiều thế thệ cùng chung

sống, thì như ta biết gia đình có quy mô lớn với số lượng thành viên đông là

đặc trưng trước hết cho cư dân nông thôn và các DTTS. Hơn nữa, ở những

Page 43: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

37

dân tộc phụ hệ như Thái, Tày, Mông, La Hủ, do xuất phát từ tư tưởng trọng

nam khinh nữ, nên các gia đình càng nhiều con hơn. Theo số liệu thống kê, tỷ

suất sinh của vùng MNPB là cao nhất nước 2,56 con/phụ nữ (cả nước là 2,09

con/phụ nữ), cho nên số người bình quân trong một hộ gia đình nông thôn của

MNPB cũng cao nhất nước (4,1 người/hộ), có 25,9% hộ có từ 5 - 6 người, 7%

hộ có từ 7 người [73, tr.1]. Trong khi các dịch vụ an sinh xã hội của vùng chưa

phát triển nhiều so với các vùng khác trong cả nước, đặc biệt là ở vùng sâu,

vùng xa. Nếu hệ thống trường học, nhà trẻ, mẫu giáo là một yếu tố góp phần

làm giảm gánh nặng công việc cho phụ nữ, thì hiện nay giáo dục mầm non ở

vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS MNPB còn gặp nhiều khó khăn.

Nhiều thôn, bản cách xa trung tâm xã chưa có lớp mẫu giáo, do đó nhiều trẻ

em trong độ tuổi mầm non không được đến lớp, hơn nữa việc thu hút các cháu

đi học mẫu giáo cũng rất khó khăn vì học sinh thì nhỏ, nhiều gia đình cuộc

sống còn khó khăn, cha mẹ mải lo kiếm cái ăn, cái mặc. Vào ngày mùa, người

dân đi làm nương rẫy từ sáng tới tối hoặc mất vài ngày mới về, nếu cho con đi

học thì phải bỏ việc ở nương rẫy, nên họ thường mang theo con lên rẫy. Việc

các cháu nhỏ không đi nhà trẻ, mẫu giáo, không những làm cho người phụ nữ

mất nhiều thời gian chăm sóc con cái, mà còn ảnh hưởng lớn đến tương lai của

trẻ em gái, vì trẻ em gái thường phải ở nhà trông em nên không có thời gian

học bài. Với những đặc điểm này có thể thấy, khối lượng công việc liên quan

tới hoạt động tái sản xuất, mà người phụ nữ DTTS MNPB phải đảm nhận là rất

lớn, tốn nhiều thời gian và sức lực.

2.2.1.3. Về hoạt động cộng đồng

Gia đình DTTS là tế bào của xã hội các dân tộc, mang đậm tính truyền

thống, có bổn phận thực hiện nhiều chức năng quan trọng, có ảnh hưởng trực

tiếp đến sự phát triển ý thức tộc người. Mặc dù nhiều nhóm tộc người cùng cư

trú đan xen trong một vùng hay một xã, nhưng ở phạm vi một bản làng,

thường bao gồm những người cùng trong một nhóm dân tộc và rất nhiều

trường hợp họ là những người ruột thịt, nên nhiều gia đình trong bản làng có

quan hệ huyết thống ruột thịt với nhau. Họ sống gắn kết chặt chẽ, trong đó

Page 44: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

38

mỗi cá nhân là một mắt nối, họ gắn kết với nhau không chỉ vì có quan hệ ruột

thịt láng giềng, mà còn bởi sinh hoạt văn hóa và tôn giáo, đặc biệt là do các

hoạt động sinh kế. Hoạt động sinh kế nương rẫy ở vùng cao, cũng như các

hoạt động trồng lúa nước của một số nhóm cư trú vùng thấp đều gắn với thiên

nhiên, cây cỏ, phụ thuộc vào thời tiết, đòi hỏi có sức lao động tập trung vào

vụ mùa (thu hoạch)… tất cả đã buộc cộng đồng phải cố kết và dựa vào nhau

để sinh tồn. Sự gắn bó này giúp họ có thể chia sẻ và phát triển, tích lũy những

tri thức bản địa và kinh nghiệm lao động sản xuất với nhau, khiến mối quan

hệ cộng đồng gắn bó hơn.

Trong gia đình truyền thống của DTTS MNPB, có rất nhiều quy định

khắt khe đối với phụ nữ. Trong gia đình dân tộc Mông, con dâu khi bước chân

về nhà chồng, thì đã trở thành ‘‘ma’’ của dòng họ nhà chồng, nên con dâu

vĩnh viễn không được phép đi lấy chồng dòng họ khác. Con dâu không được

phép ngồi ăn chung mâm với bố chồng, hoặc không được ăn chung bát thức

ăn, chung nồi với bố chồng. Đối với người Tày, giữa con dâu và các bậc trên

có sự cách biệt nghiêm ngặt như: không được ngồi ngang hàng, ăn cùng mâm,

ngồi cùng chiếu với bố chồng và anh chồng, không được tới chỗ ngủ và nơi

dành riêng cho bố, chú, bác, anh chồng... Với người Thái, riêng bàn thờ con

dâu không được phép đến. Ở trong nhà, con dâu và khách nữ không được ngồi

cạnh cửa sổ, vì chỗ đó chỉ dành cho các cụ tuổi cao và nam giới, đặc biệt con

dâu về nhà chồng chỉ được ngồi trên ghế mang từ nhà bố mẹ đẻ về, không được

ngồi vào các chiếc ghế nhà chồng. Có thể thấy, trong gia đình DTTS MNPB

truyền thống có nhiều yếu tố cản trở phụ nữ tiếp cận nguồn lực, phát huy vai

trò của mình trong hoạt động cộng đồng.

Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, đời sống gia đình

DTTS MNPB đang diễn ra những thay đổi đáng kể về vai trò và vị trí của

người chủ gia đình, ở một mức độ nhất định đang bước đầu xóa dần sự bất

bình đẳng giữa nam và nữ, tạo ra sự tôn trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng, giữa

anh em, cha con trong đời sống gia đình cũng như xã hội. Các việc như: làm

nhà mới, cưới xin, ma chay... đều được đưa ra bàn bạc thảo luận giữa các

Page 45: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

39

thành viên trưởng thành của gia đình (không phân biệt nam, nữ, dâu, rể...),

nam giới đã tham gia vào nhiều công việc mà trước đây được coi là việc của

phụ nữ như: thu dọn nhà cửa, giặt giũ nấu nướng, lợn gà, tùy theo thời gian và

điều kiện, việc tổ chức đời sống trong gia đình cũng không như trước nữa.

Với nàng dâu trong nhiều DTTS ở MNPB trước đây còn có sự cách biệt

nghiêm ngặt, như không được phép ăn cùng mâm, ngồi cùng chiếu với bố

chồng và anh chồng. Ngày nay tục lệ này hầu như đã đi vào dĩ vãng, tuy

nhiên ở nơi này nơi khác người ta vẫn bảo lưu nó ở một chừng mực nhất định.

Những quan hệ mới về chất giữa các thế hệ ông bà, cha mẹ và con cái

được xác lập, quan hệ giữa vợ chồng theo xu hướng bình đẳng hơn, các

thành viên chung sống với nhau hòa thuận, vui vẻ, ít xảy ra những xung

khắc nghiêm trọng trong gia đình. Sự phát triển và biến đổi của những mỗi

quan hệ hôn nhân và gia đình, có liên quan chặt chẽ với sự thay đổi về địa vị

của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, tác động lớn đến thực hiện BĐG

trong lao động gia đình.

2.2.2. Nội dung biểu hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình

dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc

Theo tác giả luận án: BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB là

việc nam giới và nữ giới trong gia đình DTTS MNPB có vị trí, vai trò ngang

nhau, có cơ hội, điều kiện để tham gia vào mọi hoạt động sản xuất, hoạt động

tái sản xuất, hoạt động cộng đồng, để được phát huy hết khả năng, năng lực

của mình nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của gia đình và

được hưởng lợi như nhau từ kết quả của sự đóng góp đó.

Bình đẳng giới trong lao động gia đình DTTS MNPB có nội dung biểu

hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất, BĐG trong hoạt động sản xuất của gia đình DTTS MNPB

biểu hiện ở các khía cạnh sau:

+ Phân công lao động giữa vợ và chồng trong: nông nghiệp, nghề thủ

công, buôn bán hàng hóa và dịch vụ, làm thuê (bốc vác).

Page 46: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

40

+ Tiếp cận các nguồn lực sản suất như: đất đai, vay vốn, dịch vụ

khuyến nông.

+ Quyền ra quyết định trong hoạt động sản xuất: thay đổi hướng sản

xuất, sử dụng vốn.

+ Thụ hưởng lợi ích: Thừa kế tài sản, giáo dục.

Thứ hai, BĐG trong hoạt động tái sản xuất của gia đình DTTS MNPB

biểu hiện ở các khía cạnh sau:

+ Phân công lao động giữa vợ và chồng trong các hoạt động như: nấu

ăn, giặt giũ, đi chợ, giữ tiền, chăm sóc dạy con học, chăm sóc người già, lấy

nước, giã gạo, thu lượm chất đốt, sửa chữa đồ dùng trong nhà.

+ Tiếp cận các nguồn lực trong hoạt động tái sản xuất: quản lý tiền

trong gia đình, các biện pháp kế hoạch hóa gia đình.

+ Quyền ra quyết định trong hoạt động liên quan tới tái sản xuất: các

khoản chi tiêu trong gia đình, số con và sử dụng biện pháp tránh thai.

+ Thụ hưởng lợi ích liên quan tới hoạt động tái sản xuất: chăm sóc sức

khỏe, giải trí.

Thứ ba, BĐG trong hoạt động cộng đồng của gia đình DTTS MNPB

biểu hiện ở các khía cạnh sau:

+ Phân công lao động giữa vợ và chồng trong các hoạt động như: dự

đám hiếu/hỉ, giao tiếp với chính quyền, họp bản làng, tiếp khách, làm vệ sinh

làng, xóm, tham gia cúng giỗ của làng.

+ Quyền tiếp cận các hoạt động cộng đồng của vợ và chồng.

+ Quyền ra quyết định tham gia hoạt động cộng đồng.

+ Thụ hưởng lợi ích từ hoạt động cộng đồng.

Việc làm rõ BĐG ở các khía cạnh trên, sẽ góp phần nhận diện thực

trạng BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay, đồng thời chỉ ra

các vấn đề cần quan tâm giải quyết, từ đó tìm ra những giải pháp để thúc đẩy

BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.

Page 47: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

41

2.3. VAI TRÒ CỦA VIỆC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO

ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ -

XÃ HỘI MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY

2.3.1. Bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số sẽ góp

phần phát triển kinh tế vùng miền núi phía Bắc

Thứ nhất, bình đẳng giới trong lao động gia đình thúc đẩy tăng năng

suất lao động

Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, xã hội loài người tồn tại và phát triển là

do hai loại sản xuất quyết định, sản xuất ra con người và sản xuất ra của cải

vật chất. Bởi vậy, hoạt động kinh tế là chức năng của gia đình trong mọi thời

đại (tất nhiên với mức độ không giống nhau), làm cho gia đình không những

là đơn vị kinh tế tiêu dùng, mà còn là đơn vị sản xuất ra của cải vật chất để

thoả mãn nhu cầu của mọi thành viên trong gia đình và làm giàu cho xã hội.

Cùng với quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất ở từng lúc, từng nơi, kinh tế

gia đình biến đổi phong phú và có vị trí khác nhau: có thể là một đơn vị kinh

tế cơ sở chủ động và tự chủ dưới dạng kinh tế hộ gia đình, hay gia đình làm

kinh tế không hoạt động như một đơn vị kinh tế độc lập tự chủ, mà các thành

viên của gia đình sản xuất làm việc ở các đơn vị quốc doanh, tập thể hay xí

nghiệp tư nhân. Dù trong điều kiện nào, dưới bất kỳ hình thức nào gia đình

vẫn đảm bảo nhu cầu sinh hoạt vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia

đình, làm giàu cho xã hội.

Bình đẳng giới trong lao động gia đình đồng nghĩa với việc nữ giới và

nam giới có cơ hội được tiếp cận, ra quyết định đối với các nguồn lực sản

xuất bình đẳng như nhau. Việc cải thiện khả năng tiếp cận của người phụ nữ

với các nguồn lực trên, có thể đem lại các tiềm năng sản xuất mới, nâng cao

hiệu quả quản lý, phân phối đều thu nhập hơn, phát triển nguồn nhân lực,

những tác động tích cực này sẽ thúc đẩy tăng trưởng mạnh nền kinh tế.

C.Mác từng nhận định: Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang

xã hội mà không có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi. Hay Chủ tịch Hồ

Chí Minh cũng đã từng nói:

Page 48: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

42

Bây giờ toàn dân ta ai cũng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải làm gì? Nhất định phải tăng

gia sản xuất thật nhiều. Muốn sản xuất nhiều thì phải có nhiều sức

lao động. Muốn có nhiều sức lao động thì phải giải phóng sức lao

động của phụ nữ. Nói phụ nữ là nói phân nửa của xã hội. Nếu

không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người.

Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ

một nửa [40, tr.110].

Tổ chức Nông Lương (FAO) đã ước tính rằng, nhờ bình đẳng hóa mức

tiếp cận với các nguồn lực sản xuất giữa nam và nữ ở nông thôn, sẽ tăng sản

lượng nông nghiệp ở các nước đang phát triển lên tới 2,5% - 4%. Xóa bỏ

những rào cản khiến phụ nữ không thể tham gia một số ngành nghề nhất định,

cũng đem lại kết quả tương tự, giảm cách biệt về năng suất giữa nam và nữ

công nhân tới 1/3 - 1/2 và tăng năng suất lên 3% - 25% ở một loạt các quốc

gia [100, tr.17].

Báo cáo quốc gia về phát triển con người năm 2011, chỉ ra có mối

liên hệ chặt chẽ trong việc xếp hạng GDI và GDP của các tỉnh MNPB.

Những tỉnh có chỉ số phát triển giới (GDI) cao, là tỉnh có thứ hạng cao về

HDI và chỉ số tổng sản phẩm nội địa. Các tỉnh xếp hạng dưới cùng về GDI

cũng là những tỉnh nghèo nhất, như Điện Biên, Lai Châu ở Tây Bắc và Hà

Giang ở Đông Bắc [83, tr.55]. Có thể nhận định rằng, một trong những

nguyên nhân dẫn tới tình trạng đói nghèo của MNPB, chính là do bất BĐG,

chưa phát huy được sức lao động sáng tạo của phụ nữ nói chung và phụ nữ

DTTS nói riêng, cho nên MNPB hiện nay vẫn là vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao

nhất cả nước.

Ở MNPB, kinh tế hộ gia đình là một bộ phận đông đảo có tiềm năng to

lớn, có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế vùng. Hoạt động kinh tế hộ

gia đình có những mức độ và hình thức khác nhau ở mỗi dạng gia đình cụ thể,

nhưng đều vì mục đích tăng thu nhập làm giầu chính đáng, tạo lên nhiều loại

sản phẩm vật chất để thúc đẩy sự phát triển của gia đình và xã hội. Trong kinh

Page 49: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

43

tế hộ gia đình DTTS, vai trò của người phụ nữ là rất to lớn, họ không chỉ

tham gia các hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất, góp phần quan

trọng vào bảo đảm các nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần của gia đình, mà

còn đóng góp to lớn vào sự phát triển sản xuất, phát triển kinh tế xã hội của

vùng. Thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS, tạo điều kiện giải

phóng sức lao động của phụ nữ, nâng cao cơ hội tiếp cận, quyền ra quyết

định của phụ nữ với các nguồn lực sản xuất của gia đình là một trong

những việc làm cần thiết hiện nay ở MNPB. Thực hiện BĐG trong lao

động gia đình, phụ nữ DTTS có cơ hội nâng cao trình độ, có nhiều cơ hội

được tiếp cận với các nguồn lực, được bình đẳng trong việc thụ hưởng các lợi

ích, sẽ làm thay đổi vị thế, tạo ra những cơ hội để họ thoát khỏi những cản trở,

đem hết khả năng của mình cống hiến cho sự phát triển gia đình, vì lợi ích,

tiến bộ của xã hội, trong đó có nam giới, điều này có ý nghĩa quan trọng trong

việc tăng năng suất lao động, thúc đẩy kinh tế của vùng phát triển.

Có thể thấy, khi lao động của phụ nữ bị lãng phí hay sử dụng sai mục

đích, mà lý do là sự phân biệt đối xử trên thị trường, hay các thể chế xã hội

khiến phụ nữ học hành dang dở, phải làm một số nghề nhất định, không có

được thu nhập như nam giới, thì kết quả là sẽ làm thất thoát kinh tế, kìm hãm

sự phát triển kinh tế. Vì vậy, BĐG trong lao động nói chung và trong lao động

gia đình nói riêng có tác động to lớn đến tăng trưởng kinh tế.

Thứ hai, bình đẳng giới trong lao động gia đình ảnh hưởng gián tiếp

đến tăng trưởng kinh tế thông qua việc giảm tỷ lệ sinh

BĐG một mặt được coi là mục tiêu chủ yếu của những nỗ lực phát triển

xã hội, mặt khác nó lại chính là nguyên lý cơ bản của phương pháp phát triển

trên cơ sở thực hiện quyền bình đẳng. BĐG trong lao động gia đình làm tăng

cơ hội học tập, việc làm và phát triển bản thân cho phụ nữ, đồng thời làm thay

đổi nhận thức cộng đồng xã hội, những tiến bộ này thường gắn liền với việc

giảm mức sinh, tăng cường sức khỏe của trẻ em và phụ nữ và vì vậy sẽ gián

tiếp tác động tới tăng trưởng kinh tế.

Page 50: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

44

Khi trong lao động gia đình có sự bình đẳng, phụ nữ sẽ có điều kiện để

nâng cao trình độ, chi phí cơ hội thời gian của họ sẽ tăng lên, đồng thời họ

cũng có khả năng thương thuyết trong gia đình hơn, hai yếu tố này đều góp

phần làm giảm tỷ lệ sinh. Số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2013

cho thấy, tỷ lệ phần trăm phụ nữ sinh con thứ ba trở lên trong năm của những

phụ nữ chưa đi học là 45,4%, giảm dần xuống còn 27,4% đối với phụ nữ chưa

tốt nghiệp tiểu học, 21,1% đối với phụ nữ tốt nghiệp tiểu học, 16,2% đối với

phụ nữ tốt nghiệp trung học cơ sở và chỉ còn 5,7% đối với phụ nữ có trình độ

học vấn từ trung học phổ thông trở lên [73, tr.41]. Giữa trình độ học vấn của

người mẹ và tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên có mối quan hệ tỷ lệ nghịch: trình độ

học vấn càng cao, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên càng thấp.

Tỷ lệ sinh giảm sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế, vì tỷ lệ sinh thấp

hơn sẽ làm giảm gánh nặng nuôi con, tăng tỷ lệ tiết kiệm, chính tỷ lệ tiết kiệm

cao hơn sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ sinh thấp hơn, đồng nghĩa với

tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tăng lên và nếu tất cả các lao động gia tăng

thêm đều có việc làm, thì thu nhập tính trên đầu người tăng lên, cho dù năng

suất lao động và lương không tăng, điều đó có thể đạt được là do số người ăn

theo đã giảm. Tỷ lệ sinh giảm, phụ nữ sẽ có điều kiện hơn, có nhiều cơ hội

hơn tham gia vào hoạt động sản xuất nâng cao thu nhập, sức khoẻ phụ nữ

nâng lên, khả năng tham gia lực lượng lao động nhiều hơn, thúc đẩy năng suất

lao động của họ trên thị trường.

Mặc dù hiện nay tỷ suất sinh của DTTS MNPB đã giảm, nhưng vì

nhiều nguyên nhân, trong đó do định kiến giới, bất BĐG mà tỷ suất sinh của

phụ nữ DTTS MNPB là cao nhất nước 2,56 con/phụ nữ, tỷ lệ phụ nữ mang

thai và có con trước 15 tuổi của vùng cao gấp 2 lần so với trung bình cả

nước. Trong khi đây là vùng mà các dịch vụ an sinh xã hội chưa phát triển,

nên khi quy mô gia đình lớn, đồng nghĩa với khối lượng công việc mà người

phụ nữ phải đảm nhận là rất lớn, tốn nhiều thời gian và sức lực. Điều này đã

cản trở quá trình phát triển của phụ nữ và cũng chính là nguyên nhân dẫn tới

đói nghèo.

Page 51: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

45

Cho nên, thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB, tạo

điều kiện để nâng cao vị thế, cơ hội tiếp cận nguồn lực, khả năng ra quyết

định của phụ nữ trong việc kế hoạch hóa gia đình là một trong những giải

pháp làm giảm tỷ lệ sinh ở MNPB, góp phần phát triển kinh tế vùng MNPB

hiện nay, qua đó nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội.

2.3.2. Bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số góp

phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông thôn miền núi phía Bắc

Gia đình chính là thiết chế đầu tiên có chức năng giáo dục con người,

là trường học đầu tiên đối với cuộc đời của mỗi con người. Những nghiên

cứu của các nhà tâm lý học và giáo dục học cho rằng: trong những năm đầu

của cuộc đời, hệ thần kinh của trẻ là mềm mại hơn cả, nên thường rất dễ

hình thành những phản xạ có điều kiện, tức là những nét cơ bản của cá tính,

những thói quen nhất định. Trên cơ sở đó, những phẩm chất tâm lý, những

yếu tố nhân cách con người dần dần được định hình. Trong mỗi gia đình,

phụ nữ có vai trò giáo dục to lớn, vì “phụ nữ vừa là người lao động, vừa là

người công dân, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Khả

năng và điều kiện lao động, trình độ văn hóa, vị trí xã hội, đời sống vật chất

và tinh thần của phụ nữ có ảnh hưởng sâu xa đến sự phát triển của thế hệ

tương lai” [8, tr.3].

Để phát huy tốt vai trò “là người mẹ, người thầy đầu tiên”, phụ nữ

phải là người tiến bộ và gia đình chính là nơi bắt đầu cho sự tiến bộ của phụ

nữ. Việc loại bỏ sự phân biệt đối xử về giới và nâng cao vị thế của phụ nữ

DTTS, sẽ tạo điều kiện cho phụ nữ hoàn thành tốt vai trò, góp phần tạo

nguồn nhân lực ngày càng có chất lượng cao đáp ứng được đòi hỏi của quá

trình CNH, HĐH.

Thực hiện BĐG trong lao động gia đình, tức là phụ nữ được tiếp cận và

hưởng lợi các nguồn lực như nam giới, trong đó có quyền được tiếp cận và

hưởng thụ thành quả của giáo dục. Giáo dục nói chung và giáo dục cho phụ

nữ nói riêng là chìa khóa để phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Nghiên

Page 52: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

46

cứu của Ngân hàng thế giới cho rằng, có mối quan hệ thuận chiều giữa trình

độ học vấn của người mẹ và năng lực trí tuệ của con, trình độ học vấn của

người mẹ càng cao, thì thành tích trí tuệ của con cái càng lớn. Bình đẳng của

phụ nữ và hạnh phúc của trẻ em có thể nói luôn song hành cùng nhau, khi phụ

nữ được trao quyền để giành lấy cuộc sống ấm no và hạnh phúc, thì trẻ em sẽ

được phát triển đầy đủ, hạnh phúc của người phụ nữ là nền tảng mang lại

hạnh phúc cho con cái của họ. Vì vậy, người ta thường nói: nhìn vào trẻ em để

biết tương lai cho một dân tộc, nhưng liền theo đó người ta cũng thấy rằng: nhìn

vào sức khỏe, học vấn, văn hóa của phụ nữ, ta có thể biết cả quá khứ, hiện tại và

tương lai của một quốc gia.

Sự thấp kém của phụ nữ trong mọi lĩnh vực không chỉ đẩy giới nữ vào

vị trí của người chịu thiệt thòi, phải còng lưng cúi mặt, sống một cuộc đời

không có ánh sáng của văn hóa, của niềm vui, của niềm hãnh diện làm Người,

của tâm hồn dám cất cánh đến những ước mơ cao đẹp. Mà điều nguy hại số

một, chính là khi người phụ nữ bị thấp kém về mọi mặt, phụ nữ sẽ không

hoàn thành tốt chức năng thiên bẩm của mình, truyền thụ cho thế hệ con mình

những tầm nghĩ rộng mở, những tính cách sáng tạo, những rung động cao cả.

Trong khi con người ở thế hệ hôm nay và mai sau tất yếu phải là những con

người của trí tuệ, những con người luôn luôn khám phá những cái mới tràn

đầy tính nhân bản.

Ngoài ra, khi thực hiện BĐG trong lao động gia đình, đồng nghĩa với

việc người phụ nữ được tạo điều kiện để phát triển bản thân, đầu tư cho giáo

dục, nên chắc chắn trình độ của họ được nâng cao, có thể đáp ứng yêu cầu của

sự nghiệp CNH, HĐH. Khi phụ nữ có sức khỏe, có kiến thức sẽ đóng góp

nhiều hơn cho phát triển bền vững.

Những năm qua nông thôn MNPB đã có những bước tiến quan trọng,

nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững, đời sống nông dân được cải

thiện. Tuy nhiên, đây vẫn là vùng chậm phát triển, phát triển thiếu bền vững,

cơ cấu kinh tế còn thuần nông, công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển

chưa tương xứng với lợi thế của vùng. Cho nên CNH, HĐH nông nghiệp,

Page 53: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

47

nông thôn vừa là đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, vừa là con đường ngắn nhất

để đưa nông nghiệp, nông thôn MNPB thoát khỏi tình trạng khó khăn hiện

nay, để phát triển sản xuất hàng hóa, tăng năng suất lao động, cải thiện đời

sống của cư dân nông thôn.

Yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đặt ra đối với vùng MNPB hiện nay

là phải xây dựng được kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật hiện đại, như giao

thông, thông tin liên lạc, thực hiện cơ khí hóa, hiện đại hóa, thủy lợi hóa,

chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, trên cơ sở

chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, áp dụng công nghệ sinh học, chuyển đổi mạnh

cơ cấu sản xuất cây trồng, vật nuôi, tạo lập thị trường trong nước và xuất khẩu

cho các sản phẩm hàng hóa. Rõ ràng, đây là bài toán khó đối với một vùng

kinh tế nghèo, phức tạp về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và đặc biệt chất

lượng nguồn nhân lực còn rất thấp kém như MNPB.

Về mặt thể lực, đa số đồng bào DTTS có chiều cao, cân nặng nhỏ bé

hơn mức trung bình của cả nước. Nguyên nhân là do những thiếu thốn trong

chế độ dinh dưỡng, hậu quả của những thủ tục lạc hậu như tảo hôn, hôn nhân

cận huyết...

Về mặt trí lực, nguồn nhân lực ở MNPB đã từng bước được cải thiện,

do các chính sách ưu đãi trong giáo dục để thu hút trẻ em tới trường và theo

học các cấp, bậc học cao hơn. Song chất lượng giáo dục của vùng, nhìn

chung còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước, đến đầu năm 2014, tỷ lệ

mù chữ vẫn trên 12%, trong đó, có những tỉnh đặc biệt cao như Lai Châu

hơn 50%, Hà Giang 35%, Điện Biên trên 30%, đặc biệt, có tới 90% người

La Hủ chưa từng đi học [48, tr.65]. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ

năm 2014 là thấp nhất trong cả nước 89,0%, trong khi trung bình của cả

nước là 94,7% [75, tr.30]; tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc

trong nền kinh tế đã qua đào tạo năm 2014 cũng rất thấp (15,5%) so với của

cả nước (18,2%) [75, tr.146].

Về mặt tâm lực, do đặc điểm địa hình xa xôi, cách trở, điều kiện sống ít

giao thiệp với bên ngoài và khó khăn về mặt ngôn ngữ, nên phần lớn nhân lực

Page 54: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

48

DTTS MNPB chưa có nhiều kỹ năng sống trong môi trường hiện đại cần hợp

tác, trao đổi.

Thực trạng này đã và đang ảnh hưởng không tốt đến quá trình đẩy

mạnh CNH, HĐH của vùng, Lênin cho rằng: “Việc điện khí hóa không thể do

người mù chữ thực hiện được, mà chỉ biết chữ không thôi thì không đủ. Phải

hiểu rằng điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện

đại và nếu họ không có nền học vấn đó, thì chủ nghĩa Cộng sản vẫn chỉ là một

nguyện vọng mà thôi” [36, tr.364-365].

Như vậy để tiến hành CNH, HĐH ở MNPB, chúng ta phải nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực, đó là căn cứ, cơ sở để chuyển giao, phát triển và

ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ vào MNPB và để làm được

điều này thì một trong những giải pháp quan trọng chính là thực hiện BĐG

trong lao động gia đình nói chung và gia đình DTTS nói riêng. BĐG trong lao

động gia đình DTTS MNPB sẽ tạo ra “lợi ích kép” cho cả phụ nữ và trẻ em

DTTS - nguồn nhân lực tương lai của một dân tộc, nâng cao chất lượng không

chỉ nguồn nhân lực hiện tại mà cả nguồn nhân lực tương lai cho vùng MNPB.

2.3.3. Bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số là tiền đề

để thực hiện bình đẳng xã hội ở miền núi phía Bắc

Nếu coi xã hội là cơ thể sống, thì mỗi gia đình là một tế bào làm nên

cơ thể xã hội. Hình thức, kết cấu, tính chất của gia đình là những nhân tố

quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của mỗi thành viên trong gia đình,

cũng tức là tới lực lượng sản xuất của xã hội, vì mỗi cá nhân không chỉ là

thành viên của gia đình, mà còn là thành viên của xã hội, quan hệ giữa các

thành viên trong gia đình đồng thời cũng là quan hệ giữa các thành viên

trong xã hội. Gia đình là nơi thể hiện đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân,

là yếu tố giữ vị trí trung gian nối liền cá nhân và xã hội. Vì vậy, gia đình hòa

thuận, hạnh phúc, thì cả xã hội tồn tại và vận động một cách êm thấm, như

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội,

xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của

Page 55: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

49

xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý

hạt nhân cho tốt” [42, tr.300].

V.I.Lênin từng khẳng định: không chỉ giải phóng phụ nữ ở ngoài xã hội

mà phải giải phóng họ ngay trong gia đình, bởi chính nơi đây gánh nặng công

việc đang đè lên vai họ, làm cho họ không thể phát triển như nam giới. Mặc

dù có mọi luật lệ giải phóng, nhưng phụ nữ vẫn cứ còn là nô lệ trong gia đình,

vì những công việc nội trợ linh tinh còn đè nặng lên lưng họ, làm cho họ

nghẹt thở, mụ mẫn, nhục nhằn, ràng buộc họ vào bếp núc, vào buồng con cái,

lãng phí sức lực của họ vào một công việc cực kỳ kém năng suất, tủn mủn,

làm cho họ nhọc nhằn, đần độn, bị gò bó [35, tr.27-28]. V.I.Lênin còn cho

rằng, “ngay trong điều kiện hoàn toàn bình đẳng, thì sự thật phụ nữ vẫn bị trói

buộc vì toàn bộ công việc gia đình đều trút lên vai phụ nữ” [35, tr.321].

Cho nên việc giải phóng phụ nữ trong công việc gia đình, thực hiện

BĐG trong lao động gia đình có vai trò quan trọng trong việc thực hiện BĐG

trên các lĩnh vực khác của xã hội. Khi BĐG trong lao động gia đình được

thực hiện, thì cơ hội, điều kiện bình đẳng trên các lĩnh vực khác của đời sống

xã hội sẽ được thực hiện, vì gia đình chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội.

Như ta đã biết, gia đình đóng vai trò cơ bản trong việc định hình mối

quan hệ giới ngay từ những buổi đầu của cuộc sống con người, truyền tải

chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác, là nơi xã hội hóa vấn đề giới, truyền lại

các kiến thức và kỹ năng về giới. Khi các thành viên trong gia đình nhận thức

đúng đắn về BĐG, xóa bỏ định kiến giới, sự quan tâm, chăm sóc, tình yêu

thương của cha mẹ, ông bà dành cho trẻ em trai và trẻ em gái là như nhau.

Con trai, con gái đều được tôn trọng như nhau. Phân công lao động trong gia

đình trên cơ sở khả năng của mỗi người, mà không phụ thuộc vào giới tính…

Hành động cụ thể trên sẽ tác động tích cực đến nhận thức, hành vi, cơ hội của

thế hệ kế tiếp, điều đó góp phần rút ngắn khoảng cách giới, tiến tới BĐG

trong đời sống xã hội.

Page 56: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

50

Bình đẳng giới trong lao động gia đình DTTS MNPB trước hết không

chỉ giải phóng người phụ nữ trong gia đình, mà còn đem lại ý nghĩa lớn lao

đối với phát triển xã hội. Phụ nữ có trình độ kiến thức tốt sẽ quản lý gia đình

có hiệu quả, có khả năng lôi cuốn người chồng chia sẻ trách nhiệm, kiến thức,

giúp phụ nữ nâng cao vị trí của họ trong gia đình, họ có điều kiện tham gia

các quyết định quan trọng trong gia đình và xã hội và có điều kiện để được

BĐG trên các lĩnh vực.

Ngày nay BĐG là một trong những tiêu chí quan trọng (GDI) để đánh

giá sự phát triển của một xã hội, một đất nước, tự nó là mục tiêu của sự phát

triển và là yếu tố hỗ trợ, nâng cao khả năng tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã

hội của quốc gia. Vì vậy, thực hiện BĐG trong lao động gia đình liên quan

đến sự tiến bộ, đi lên của một quốc gia dân tộc về kinh tế, chính trị, văn hóa,

xã hội, theo kịp trình độ văn minh của thời đại. BĐG nói chung và BĐG trong

lao động gia đình nói riêng, chính là yếu tố quan trọng để tạo nên một thế giới

mà Tuyên bố thiên niên kỷ muốn xây dựng: một thế giới hòa bình, bình đẳng,

khoan dung, an toàn, tự do với môi trường trong sạch và mọi cá nhân đều có

trách nhiệm, nơi mà phụ nữ và trẻ em được sống cuộc sống tươi đẹp.

2.4. MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG

GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC

VIỆT NAM

2.4.1. Yếu tố tự nhiên

Miền núi phía Bắc là một trong sáu vùng kinh tế nằm trong quy hoạch

phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, bao trùm toàn bộ hai vùng miền núi rộng

lớn ở phía Bắc là Đông Bắc và Tây Bắc, gồm 14 tỉnh là: Điện Biên, Lai Châu,

Sơn La, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao

Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên và Bắc Giang [13, mục 2].

MNPB có tổng diện tích tự nhiên là 95.266,8km2 chiếm hơn 28% diện

tích của cả nước, đặc điểm nổi bật đầu tiên về điều kiện tự nhiên của các tỉnh

trong vùng là có diện tích tự nhiên rất rộng [75]. Với điều kiện tự nhiên đa

dạng về địa hình, khí hậu và đất đai, các tỉnh MNPB có tiềm năng phát triển

Page 57: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

51

một nền kinh tế nông nghiệp toàn diện. Sản phẩm nông nghiệp của các tỉnh

MNPB không chỉ đa dạng, phong phú về chủng loại, mà còn có lợi thế cạnh

tranh trên thị trường, do có nhiều giống cây trồng vật nuôi bản địa đặc sắc.

Đây là một trong những vùng giàu tài nguyên khoáng sản bậc nhất

nước ta, tập trung nhiều loại khoáng sản có ý nghĩa quốc gia thuộc đủ các

nhóm năng lượng, kim loại và phi kim. Một số loại khoáng sản của vùng

chiếm tỉ lệ khá lớn trong tổng trữ lượng loại khoáng sản đó của cả nước như:

Apatit (100%), đồng chiếm 70%, đất hiếm chiếm gần 100% trữ lượng của cả

nước, Than mỡ (56%), Mangan (42%)… [10], việc khai thác khoáng sản đã

và đang góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao

chất lượng cuộc sống của người dân trong vùng.

Vị trí địa lý đã tạo cho vùng một “thế mở” trong quá trình phát triển

kinh tế - xã hội, vùng có 7 tỉnh biên giới (Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Lào

Cai, Cao Bằng, Hà Giang và Lạng Sơn), có đường biên giới giáp nước Cộng

hòa nhân dân Trung Hoa dài 1.500km và giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân

dân Lào dài khoảng 560km, là vùng có số lượng cửa khẩu nhiều nhất trong cả

nước. Ở vị trí là “cầu nối ” giữa ASEAN với thị trường Trung Quốc, các hoạt

động thương mại thông qua các cửa khẩu, đã tạo nên một hình thức tổ chức

lãnh thổ thương mại mới là khu kinh tế cửa khẩu. Các khu kinh tế cửa khẩu

góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất và dịch vụ phát triển, tạo nhiều việc

làm mới cho người dân, tăng nguồn thu ngân sách cho địa phương, góp phần

cải thiện đời sống nhân dân.

Ngoài ra trên địa bàn các tỉnh MNPB, có nhiều danh lam thắng cảnh

được tạo nên bởi vẻ đẹp của núi, rừng, động, thác, hồ, sông, suối, thung lũng,

nước khoáng, ruộng bậc thang, có nhiều di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Phát

triển kinh tế du lịch là một trong những lợi thế của vùng.

Có thể thấy, MNPB có nhiều tiềm năng về tài nguyên và giao lưu buôn

bán, điều này tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống

của nhân dân MNPB nói chung và đồng bào DTTS nói riêng, qua đó tạo tiền

Page 58: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

52

đề vật chất để thúc đẩy quá trình thực hiện BĐG trong lao động gia đình

DTTS hiện nay.

Tuy nhiên cũng chính yếu tố tự nhiên lại dẫn tới nhiều thách thức mới,

lại là yếu tố cản trở quá trình thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS.

Do địa hình bị phân tầng, chia cắt rất mạnh nên giao thông nội vùng và

liên vùng là một trong những khó khăn nan giải, tác động lớn đến cuộc sống

của người dân và trao đổi hàng hóa. Mặc dù trong những năm gần đây, Nhà

nước đã đầu tư nhiều dự án cải tạo, nâng cấp đường giao thông liên xã, liên

thôn, đồng bào DTTS nói chung đã có những điều kiện thuận lợi để thực hiện

quyền hưởng thụ văn hóa thông tin, song nguồn lực đầu tư vẫn chưa đủ đáp

ứng nhu cầu đi lại của người dân trên một địa hình quá khó khăn, cách trở. Tỷ

lệ xã có đường giao thông đến trung tâm xã được nhựa hóa, bê tông hóa đi lại

được bốn mùa toàn vùng chỉ đạt trên dưới 50% như: Lào Cai (45,45%), Cao

Bằng (51,96%), Sơn La (52,13%). Ở MNPB hiện nay chỉ có 89,19% số thôn,

bản có điện lưới quốc gia, trong khi đó tỷ lệ này ở khu vực Tây Nguyên là

98,04%, đồng bằng sông Cửu Long là 99,44% [70, tr.128, 131], điều này đã

ảnh hưởng lớn đến việc giao lưu phát triển kinh tế - xã hội, tiếp thu những giá

trị văn hóa tiến bộ từ bên ngoài, trong đó có giá trị về BĐG.

Khí hậu của MNPB rất khắc nghiệt. Mùa đông thường khô hanh, ít

mưa, khí hậu lạnh, nhiệt độ trung bình 100c, có nơi xuất hiện sương muối và

băng giá (Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn), ảnh hưởng lớn đến cây trồng, vật

nuôi và sinh hoạt của con người, đặc biệt làm tăng thời gian dành cho công

việc tái sản xuất sức lao động - vốn đã là gánh nặng đối với phụ nữ DTTS

trong điều kiện thiếu thốn của cuộc sống và những khó khăn do cách biệt địa

lý đem lại.Thời gian rét kéo dài, để sưởi ấm gia đình phải đốt củi nhiều hơn.

Thời tiết khô hạn, do thiếu nước sinh hoạt, nguồn nước lại xa nhà, chủ yếu là

ở khe suối nên mất rất nhiều thời gian lấy nước, chính những công việc này

thường lấy đi cơ hội học hành của trẻ em gái và thời gian nghỉ ngơi, giải trí

của phụ nữ, vì họ thường đảm nhận chính việc kiếm củi và lấy nước trong gia

đình. Mùa hè, ngược lại có nhiều mưa, mưa lớn tập trung trong khoảng thời

Page 59: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

53

gian ngắn, vì rừng đầu nguồn bị tàn phá nên thường có lũ lụt, xói lở, lũ quét,

ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất, giao lưu hàng hóa, cuộc sống của người dân,

là một trong những tác nhân dẫn tới nghèo đói của đồng bào DTTS nơi đây.

Hơn nữa, sự biến đổi của thời tiết còn ảnh hưởng tới sức khỏe của con người,

nhất là trẻ em và người già. Phụ nữ với tư cách là người chăm sóc gia đình, đã

phải dành nhiều thời gian cho việc chăm sóc trẻ em, các thành viên khác trong

gia đình khi bị ốm đau. Khối lượng công việc tái sản xuất gia tăng, một mặt

làm cho phụ nữ ít có điều kiện tham gia các hoạt động xã hội, mặt khác làm

giảm thời gian cho các hoạt động tạo thu nhập, việc gắn chặt hơn vào các

công việc không mang lại thu nhập có nguy cơ “xói mòn” hơn vị trí vốn đã

thấp kém của họ trong gia đình và xã hội, gia tăng mức độ bất bình đẳng trong

lao động gia đình.

Việc khai thác khoáng sản chưa hiệu quả chính là nguyên nhân dẫn tới

tình trạng môi trường sống ở MNPB bị ô nhiễm, diện tích đất canh tác bị thu

hẹp lại, ảnh hưởng không nhỏ tới phát triển kinh tế của gia đình DTTS. Bình

quân đất sản xuất trên đầu người khu vực vùng cao Tây Bắc chỉ đạt trên

dưới 300m2 đất ruộng và 800m2 nương rẫy. Tại các xã thuộc chương trình

135, bình quân một hộ gia đình chỉ có 1.412m2 đất tốt và 370 m2 đất trông

cây lâu năm [90, tr.3]. Hộ thiếu đất sản xuất ngày càng có xu hướng tăng

lên, có tới 64,2% số hộ thiếu đất sản xuất, 50% số hộ thiếu nước sản xuất

[89, tr.12]. Để có đất sản xuất, người dân phải đi sâu vào thung lũng khai

thác ruộng nước hoặc đi làm rẫy xa, khoảng cách từ nhà tới nơi sản xuất rất

xa, nên mất nhiều thời gian đi lại, thậm chí còn phải ngủ lại trên rẫy. Canh

tác trên đất dốc, đường đi lại khó khăn, đã tăng thêm gánh nặng công việc

cho đồng bào DTTS, đặc biệt là khâu thu hoạch, ảnh hưởng lớn đến sức

khỏe người lao động.

Do có nhiều cửa khẩu, biên giới, nên MNPB hiện nay đang phải đối

diện với hàng loạt vấn đề như: tình trạng buôn bán vận chuyển, sử dụng chất

ma túy trái phép, buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới, có nơi đã trở thành

điểm nóng như: tuyến biên giới huyện Điện Biên Đông thuộc tỉnh Điện Biên,

Page 60: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

54

huyện Mộc Châu tỉnh Sơn La, huyện Yên Minh tỉnh Hà Giang. Việc giao lưu

giữa người dân tộc bản địa với du khách từ mọi miền, đã tác động không nhỏ

đến tâm lý giữa nhóm người nghèo có thu nhập thấp với những người thu

nhập cao, gây ra những hiện tượng ăn chơi, đua đòi, lười lao động của một số

thanh niên dân tộc, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút, mại

dâm. Những điều này đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến kinh tế hộ gia đình, tâm

lý của đồng bào, cản trở việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình của đồng

bào DTTS.

Tóm lại, yếu tố tự nhiên có tác động hai chiều tới thực hiện BĐG trong

lao động gia đình ở MNPB. Hạn chế tối đa sự tác động tiêu cực của yếu tố tự

nhiên, là một trong những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã

hội của vùng, tiến tới nâng cao vị thế của người phụ nữ và thực hiện BĐG

trong lao động gia đình DTTS.

2.4.2. Yếu tố kinh tế

Từ trước đến nay, MNPB vẫn được xác định là khu vực có điều kiện

kinh tế - xã hội khó khăn nhất Việt Nam. Sau khi có Nghị quyết số 22

NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VI), vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của

các tỉnh MNPB đã được quan tâm hơn, có những bước phát triển mới. Quá

trình đổi mới kinh tế, giao lưu hội nhập đã làm thay đổi đáng kể nhịp độ

phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh MNPB. Đời sống vật chất, tinh thần

của đồng bào DTTS ngày càng phát triển và tiến bộ rõ rệt; kết cấu hạ tầng

được đầu tư xây dựng và củng cố; nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt,

y tế, giáo dục từng bước được quan tâm giải quyết, tỷ lệ đói nghèo ngày

càng giảm. Quan hệ giới trong gia đình DTTS nhờ vậy cũng có sự biến đổi

theo xu hướng ngày càng bình đẳng, dân chủ.

Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh tế vẫn

chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp còn chiếm phần lớn

trong GDP, nền kinh tế còn rất lạc hậu, nông lâm nghiệp vẫn phổ biến là sản

xuất nhỏ (kỹ thuật thủ công, tự cung tự cấp). Công nghiệp, dịch vụ còn yếu

chưa phát huy được tiềm năng của vùng, chất lượng cuộc sống của nhân dân

Page 61: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

55

còn thấp so với các vùng khác trong cả nước. Phần đông đồng bào DTTS vẫn

sử dụng phương thức sản xuất lạc hậu, công cụ sản xuất thô sơ, cho nên đời

sống của đồng bào DTTS phần nhiều là đói nghèo, thu nhập của gia đình là

rất thấp. Một bộ phận không nhỏ hộ DTTS thu nhập dưới chuẩn nghèo và

giáp ranh phía trên chuẩn nghèo, dẫn đến nguy cơ tái nghèo rất cao.

Cho đến nay, phần lớn các tỉnh MNPB vẫn nhận ngân sách do Trung

ương cấp là chủ yếu, ngân sách trong tỉnh chỉ góp được một phần nhỏ. Tâm lý

ỷ lại, trông chờ, phụ thuộc vào Trung ương còn lớn, dẫn tới thiếu sức sáng tạo

trong hoạt động thực tiễn, tư duy kinh nghiệm là chủ yếu, bảo thủ chậm phát

triển vẫn là thói quen khá phổ biến ở MNPB. Nhân dân và đồng bào các dân

tộc vẫn an phận với những gì mình có, chí tiến thủ vươn lên còn hạn chế,

bằng lòng với “cơm đủ ăn, áo đủ mặc”.

Những yếu tố kinh tế trên đã tác động đến các thành viên trong gia

đình, ảnh hưởng đến thực hiện BĐG trong lao động gia đình. Bởi lẽ, nhiều

nghiên cứu đã chỉ ra rằng giữa kinh tế và BĐG có mối quan hệ biện chứng tác

động lẫn nhau. Phát triển kinh tế chính là mở rộng cơ hội, nguồn lực và nới

lỏng các ràng buộc đối với các thành viên trong gia đình - nhất là đối với phụ

nữ và trẻ em gái, bảo đảm sự bình đẳng hơn trong mối quan hệ giới. Ngược

lại, kinh tế kém phát triển, thu nhập thấp, đói nghèo, buộc gia đình phải thắt

chặt các chi tiêu cho giáo dục, y tế và dinh dưỡng, các dịch vụ xã hội khác, thì

phụ nữ và trẻ em gái thường phải chịu thiệt thòi nhiều hơn, bất bình đẳng

nhiều hơn.

2.4.3. Yếu tố văn hóa - xã hội

Miền núi phía Bắc là nơi tụ cư của nhiều dân tộc nhất nước ta, trong số

54 dân tộc của cả nước, thì vùng có 30 dân tộc anh em thuộc bảy nhóm ngữ

hệ, trong đó có tới 27 DTTS chủ yếu cư trú ở MNPB (chiếm tới trên 90% dân

cư cùng dân tộc trên cả nước). Theo kết quả thống kê dân số và nhà ở năm

2009, tổng dân số DTTS các tỉnh MNPB là 6.044.337 người, chiếm 51,4%

dân số DTTS của cả nước và chiếm 54,7% dân số của toàn vùng. Ở nhiều

tỉnh, người DTTS chiếm tỷ lệ cao như: Cao Bằng 94,2%; Hà Giang 86,8%;

Page 62: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

56

Lai Châu 84,7%; Lạng Sơn 84,8%; Điện Biên 81,6%; Sơn La 82,4%; Lào Cai

65,4%; Yên Bái 53,7%.

Do có nhiều tộc người cùng sinh sống nên văn hoá ở MNPB rất đa

dạng, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Có nhiều phong tục, tập quán và

nhất là luật tục, tác động tích cực đến việc thực hiện BĐG trong lao động gia

đình, ví dụ như: là việc khuyến khích việc xây dựng mối quan hệ vợ chồng

chung thủy, hòa thuận (nếu kẻ nào xúi giục vợ chồng khác xung khắc phải

chuộc lỗi, đền tội - dân tộc Mông); những quy định rõ ràng về trách nhiệm trợ

giúp, đóng góp tích cực trong việc kết hôn của thành viên nam nữ của dân tộc,

gia đình, dòng họ (dân tộc Tày, Thái, Mông); quy định phụ nữ là người có

quyền tự do và khuyến khích phụ nữ tham gia sinh hoạt cộng đồng (dân tộc

Thái). Những luật tục này góp phần xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa

nam và nữ, tạo điều kiện cho người phụ nữ DTTS được phát triển bản thân,

đóng góp cho gia đình và cộng đồng.

Tuy nhiên, bên cạnh những phong tục, tập quán tốt đẹp, phù hợp, nhân

văn, vẫn còn tồn tại không ít những hủ tục lạc hậu. Tâm lý trọng nam khinh

nữ, các tập tục không phù hợp trong kết hôn như ngủ thăm (dân tộc Thái), ngủ

thử (dân tộc Dao), cướp vợ (dân tộc Mông), hứa hôn, cưỡng ép, hôn nhân

mang tính gả bán, tục “nối dây”, tâm lý sớm có con đàn cháu đống, có người

nối dõi, kết hôn sớm để gia đình có thêm người làm nương rẫy, nay vẫn còn

ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống của đồng bào DTTS MNPB.

Vùng DTTS MNPB có tỷ lệ tảo hôn cao nhất nước (22,6%). Tại khu

vực Tây Bắc, cứ 10 trẻ em trai tuổi từ 10 - 19, thì có một em đã kết hôn; trong

khi cứ 5 trẻ em gái tuổi từ 10 - 19, thì có một em đã kết hôn. Nhóm DTTS

người Mông có tỷ lệ tảo hôn cao nhất là 33%, trong khi tỷ lệ ghi nhận được ở

nhóm người Thái và người Mường tương ứng là 23,1% và 15,8%. Điển hình

ở tỉnh Lai Châu từ năm 2004 đến năm 2011 trong 7 năm mà có tới 1600

trường hợp tảo hôn; ở xã Loong Luông, huyện Mộc Châu, Sơn La năm 2014

có 62% trường hợp kết hôn là tảo hôn. Tỷ lệ phần trăm phụ nữ từ 15 - 49 tuổi

kết hôn trước 15 tuổi của vùng là 2,1%, cao nhất nước và gấp đôi trung bình

Page 63: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

57

cả nước (0.9%) [76, tr.228]. Chính vì vậy, tỷ suất sinh con ở độ tuổi vị thành

niên của khu vực MNPB cao nhất nước (107/1000), phần trăm phụ nữ mang

thai và có con trước 15 tuổi của vùng là 15,4% cao nhất nước, gấp hơn 2 lần

so với trung bình cả nước (6,3%).

Không những vậy quan niệm kết hôn trong họ tộc để lưu giữ tài sản

trong gia đình, không mang của cải sang họ khác, hiện vẫn còn phổ biến ở

không ít đồng bào DTTS rất ít người ở MNPB như dân tộc Chứt, Mảng, La

Hủ... Theo kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 DTTS năm 2015,

hôn nhân cận huyết của các dân tộc như sau: dân tộc Tày 1,7%; Thái 4,3%;

Mông là 11,4%; La Hủ 8,8% [93, biểu 15].

Thực tế cho thấy, tảo hôn và hôn nhân cận huyết để lại nhiều hệ lụy cho

gia đình và xã hội. Việc kết hôn sớm, mang thai và sinh đẻ trong lứa tuổi vị

thành niên, khi cơ thể người mẹ chưa phát triển hoàn thiện, thiếu hiểu biết,

kinh nghiệm, chưa sẵn sàng về mặt tâm sinh lý để mang thai và sinh con đã

ảnh hưởng lớn tới sức khỏe bà mẹ, sự phát triển bình thường của thai nhi và

trẻ sơ sinh, là một trong những lực cản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội,

tiến bộ xã hội và sự phát triển bền vững của vùng DTTS. Trẻ em buộc phải

kết hôn sớm, ít khi được tiếp tục việc học hành, cản trở họ có hy vọng về sự

độc lập, được tiếp thu những nền giáo dục tiên tiến, hiện đại nhằm phát triển

tối đa nhân cách, tài năng, các khả năng về trí tuệ và thể chất của trẻ em,

khiến khả năng kiếm sống hoặc đóng góp về kinh tế cho gia đình là rất thấp,

dẫn đến tỷ lệ đói nghèo ngày càng tăng cao. Kết hôn sớm và hôn nhân cận

huyết, vừa là nguyên nhân và cũng chính là hậu quả của sự nghèo đói, thất

học và suy giảm chất lượng cuộc sống, là rào cản đối với việc hoàn thành các

mục tiêu thiên niên kỷ của Việt Nam đã cam kết thực hiện với Liên Hợp

quốc: giảm tình trạng đói nghèo, phổ cập giáo dục tiểu học, tăng cường bình

đẳng nam nữ, giảm tử vong trẻ em, cải thiện sức khỏe bà mẹ, trẻ em và đấu

tranh chống các bệnh dịch.

Thách cưới là một tục lệ truyền thống của nhiều DTTS ở MNPB, nhà

gái được thách cưới để đền bù về kinh tế và công cha mẹ nuôi dưỡng. Có

Page 64: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

58

tộc người nhìn vào việc nhà gái thách cưới bao nhiêu để đánh giá giá trị

của người con gái. Tục thách cưới cao và ở rể có thể trở thành gánh nặng

cho người vợ khi về nhà chồng, vì tục thách cưới cao nên khi về nhà

chồng, phụ nữ phải làm việc để “trả nợ” cho nhà chồng. Nhà gái nào càng

thách cao, thì khi về làm dâu người vợ càng phải vất vả, lo lao động để trả

nợ cho nhà chồng.

Những tư tưởng, hủ tục lạc hậu này đã tác động không nhỏ tới sự phát

triển kinh tế của đồng bào DTTS MNPB, chính là nguyên nhân dẫn tới vòng

luẩn quẩn của đói nghèo, đồng thời kìm hãm sự phát triển, cản trở quá trình

thực hiện BĐG ở nơi đây.

2.4.4. Tác động của chính sách xã hội

Chính sách xã hội là một công cụ quan trọng của quản lý nhà nước,

nhằm thực hiện và điều chỉnh các mối quan hệ của con người, xoay quanh

mối quan hệ lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.

Chính sách xã hội đúng đắn là động lực to lớn khơi dậy tiềm năng

của con người, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động phát huy được

năng lực sáng tạo của mình, đóng góp cho sự phát triển của cá nhân và

cộng đồng xã hội.

Trong những năm qua, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách riêng để

phát triển kinh tế xã hội, nhằm cải thiện đời sống cho đồng bào DTTS nói

chung và DTTS MNPB nói riêng, có thể khái quát ở một số lĩnh vực như sau:

Về kinh tế: có chính sách về miễn, giảm thuế doanh thu, thuế lợi tức, ưu

đãi thuế đối với loại hình hợp tác xã; chính sách hỗ trợ hộ DTTS đặc biệt khó

khăn (Nghị quyết số 15/2003/QH11 Về việc miễn, giảm thuế sử dụng đất

nông nghiệp trong 10 năm cho nhân dân); chính sách phát triển thương mại

miền núi, hải đảo và vùng đồng bào DTTS, chương trình trồng mới 5 triệu

hecta rừng; chính sách về vốn, tín dụng (Chính phủ đã ban hành Nghị định số

78/2002/NĐ-CP, ngày 4-10-2002 Về tín dụng đối với người nghèo và các đối

tượng chính sách khác) - đã tạo nên nguồn lực đáng kể cho hàng triệu hộ nông

dân, hộ nghèo và hộ ở những vùng khó khăn mở rộng phát triển sản xuất,

Page 65: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

59

nâng cao đời sống. Ngoài ra, có thể kể tên các chương trình lớn như: Chương

trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020

theo Quyết định số 800/2010/QĐ-TTg, ngày 4-6-2010 của Thủ tướng Chính

phủ - đây là chương trình khung về phát triển có tính toàn diện trên các lĩnh

vực: hạ tầng, thương mại, dịch vụ, văn hóa, giáo dục, đào tạo nghề và giải

quyết việc làm cho khu vực nông thôn, đã tạo nên diện mạo mới về kinh tế xã

hội vùng nông thôn và vùng DTTS; Chương trình giảm nghèo bền vững theo

Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền

vững đối với 62 huyện nghèo - là chương trình lớn và quan trọng, có tác động

mạnh đến giảm nghèo và nâng cao điều kiện sống của người nghèo. Chương

trình này đã lồng ghép một loạt các hạng mục phát triển kinh tế xã hội như:

phát triển cơ sở hạ tầng, tín dụng cho người nghèo, bảo hiểm y tế, giáo dục,

nhà ở, vệ sinh môi trường và các chương trình khuyến nông. Với chính sách

toàn diện thúc đẩy mọi khía cạnh quan trọng của đời sống và ảnh hưởng đến

nhóm dân cư dễ bị tổn thương, thiệt thòi nhất ở vùng sâu, vùng xa, chương

trình này đã đạt được mục tiêu chung là giảm nghèo, tăng thu nhập và cải

thiện đời sống của nhóm cư dân. Đặc biệt ngày 8/7/2013 Thủ tướng Chính

phủ, đã phê duyệt QĐ số 1064/QĐ/TTg, công bố Quy hoạch tổng thể phát

triển kinh tế - xã hội vùng trung du và miền núi phía Bắc đến năm 2020. Theo

đó, giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8%, GDP bình

quân đầu người đến năm 2020 đạt trên 2000USD; phấn đấu mỗi năm giảm

3,4% hộ nghèo, văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng để tạo ra liên kết

trong phát triển kinh tế - xã hội vùng trung du và MNPB, đồng thời góp phần

cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân ở khu vực này trong

thời gian tới.

Về văn hóa - xã hội: có các chính sách cử tuyển, ưu tiên con em DTTS

vào học các trường cao đẳng, đại học; chương trình và chính sách các trường

phổ thông dân tộc nội trú, giảm học phí ở các trường công lập, chính sách hỗ

trợ gạo hàng tháng cho gần 50 vạn học sinh ở vùng xa trên mọi miền tổ quốc

(Quyết định 36/2013/ QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ), chính sách trợ giá

Page 66: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

60

vận chuyển thuốc chữa bệnh, miễn nộp một phần phí khi khám, chữa bệnh ở cơ

sở y tế của Nhà nước, chính sách hỗ trợ tiền sinh con cho phụ nữ DTTS (Nghị

định số 39/ 2015/ NĐ ngày 27/4/2015 của chính phủ).

Theo Ủy ban Dân tộc đánh giá, với tổng số 24 báo, tạp chí cấp miễn phí

cho vùng DTTS, vùng đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 2472 và 1799

của Thủ tướng Chính phủ, công tác thông tin tuyên truyền đã có trọng tâm,

bao quát đầy đủ mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, quốc phòng an

ninh và môi trường sinh thái. Các báo, tạp chí được cấp đã góp phần tuyên

truyền kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước,

đây là kênh thông tin quan trọng góp phần thúc đẩy nhanh công cuộc xóa đói

giảm nghèo, ổn định đời sống. Thông qua các thông tin trên báo, tạp chí, bà

con tiếp thu được kiến thức để ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các

mô hình sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt, có thêm kỹ năng chăm sóc sức khỏe

cho bản thân và gia đình, kiến thức về BĐG.

Như vậy có thể thấy, chính sách đối với đồng bào DTTS hiện nay khá

đầy đủ, toàn diện trên các lĩnh vực. Bộ mặt nông thôn vùng DTTS đã được

thay đổi rõ nét, nhất là hạ tầng kinh tế - xã hội, đời sống vật chất, tinh thần

của đồng bào được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo vùng DTTS và miền núi giảm

nhanh 3 - 4%/năm, lĩnh vực văn hóa giáo dục y tế có bước phát triển tích cực.

Với những chính sách này, cuộc sống của đồng bào DTTS MNPB đã có

những thay đổi tích cực, chắc chắn cả nam giới và phụ nữ DTTS đều được

hưởng lợi từ những chính sách này.

Kết luận chương 2

Bình đẳng giới là vấn đề có tính toàn cầu, mà mọi quốc gia đã rất quan

tâm giải quyết, trong đó BĐG trong lao động gia đình có tầm quan trọng đặc

biệt. Gia đình DTTS MNPN là thiết chế cơ bản của xã hội ở MNPB, có những

đặc điểm riêng biệt so với gia đình DTTS ở các vùng dân tộc khác trong cả

nước, vì vậy mà lao động gia đình DTTS ở MNPB cũng có những nét đặc thù.

Page 67: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

61

Bình đẳng giới trong lao động gia đình DTTS MNPB với nội hàm là

việc nam giới và nữ giới trong gia đình DTTS MNPB có vị trí, vai trò ngang

nhau, có cơ hội, điều kiện để tham gia vào mọi hoạt động sản xuất, hoạt động

tái sản xuất, hoạt động cộng đồng, để được phát huy hết khả năng, năng lực

của mình nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của gia đình và

được hưởng lợi như nhau từ kết quả của sự đóng góp đó. Để đánh giá được

thực trạng BĐG trong lao động gia đình DTTS, thì cần phải làm rõ được nét

đặc thù của lao động gia đình ở MNPB và dựa vào các công cụ phân tích giới

như: phân công lao động theo giới, tiếp cận các nguồn lực, ra quyết định và

thụ hưởng lợi ích từ lao động gia đình.

Việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS có ý nghĩa quan

trọng đối với việc phát triển kinh tế xã hội của các tỉnh MNPB. BĐG trong

lao động gia đình DTTS không chỉ góp phần phát triển kinh tế, nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn

MNPB mà BĐG trong lao động gia đình còn là tiền đề để thực hiện bình đẳng

xã hội ở MNPB hiện nay.

Những đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam là

cơ sở lý luận, phương pháp luận quan trọng để nhận thức và thực hiện BĐG ở

nước ta nói chung và trong gia đình DTTS MNPB nói riêng. Việc thực hiện

BĐG trong lao động gia đình DTTS ở MNPB hiện nay chịu sự tác động như:

yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa, chính sách xã hội. Những yếu tố tác động cả

tích cực lẫn tiêu cực đến việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS

MNPB. Khắc phục những mặt tiêu cực và phát huy tác động tích cực của các

yếu tố này là một trong những giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy BĐG

trong lao động gia đình DTTS ở MNPB.

Page 68: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

62

Chương 3

BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC

THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY -

THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG

GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.1. Trong hoạt động sản xuất

3.1.1.1. Phân công lao động

Phân công lao động theo giới trong sản xuất là lĩnh vực cơ bản nhất

biểu thị vai trò của hai giới, là nền tảng để lý giải địa vị xã hội và sự bất bình

đẳng trong cộng đồng từ góc độ kinh tế. Quá trình mở rộng và phát triển các

hoạt động phi nông nghiệp trong thời gian qua như: tiểu thủ công, du lịch,

buôn bán đã là một động lực, tác động mạnh đến sự chuyển đổi kinh tế của

các DTTS ở MNPB, mang theo một luồng sinh khí mới xâm nhập sâu vào xã

hội truyền thống. Kết quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy, trong tất cả

các lĩnh vực của hoạt động sản xuất nhằm tạo thu nhập, làm ra của cải vật

chất trong gia đình DTTS MNPB đều có sự tham gia của cả người vợ và

người chồng, người phụ nữ ngày càng tự chủ trong các hoạt động kinh tế.

Thậm chí hiện nay phụ nữ DTTS MNPB có ưu thế hơn nam giới về những

công việc mang lại thu nhập thường xuyên cho gia đình như làm nghề thủ

công, buôn bán nhỏ, sự chia sẻ giữa vợ và chồng trong hoạt động sản xuất có

xu hướng ngày càng tăng.

Trong nông nghiệp, tác giả luận án khảo sát 8 loại hình công việc (từ 1

-8) trong bảng 3.1), thì có tới 6 hoạt động mà trong đó tỷ lệ tham gia của cả

hai vợ chồng là cao nhất, cụ thể: Gieo trồng, cấy: 45,5%; thu hoạch 41,8%;

bảo quản sản phẩm 68,7%; chăm sóc gia súc gia cầm: 50,2%, thậm chí nhiều

công việc sản xuất trước đây vốn được xem là “công việc riêng” của phụ nữ

như gieo trồng, cấy, chăm sóc gia súc gia cầm, thì hiện nay tỷ lệ cả hai vợ

chồng tham gia cũng chiếm tỷ lệ cao nhất. Điều này cho thấy, xu hướng hợp

Page 69: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

63

tác, bình đẳng hơn trong hoạt động nông nghiệp giữa vợ và chồng trong gia

đình DTTS MNPB.

Bảng 3.1: Vai trò của vợ và chồng trong hoạt động sản xuất

Vợ Chồng Cả hai Người khác Người thực hiện

Loại hình công việc Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tỷ lệ %

1. Cầy bừa 5,2 58,8 30,2 5,8

2. Gieo trồng, cấy 35,4 15,7 45,5 3,4

3. Chăm sóc, làm vườn 46,6 19,2 28,7 5,5

4. Phun thuốc sâu 10,3 61,2 17,7 10,8

5. Thu hoạch 33,6 17,5 41,8 7,1

6. Bảo quản sản phẩm 20,1 7,3 68,7 3,9

7. Làm chuồng nuôi gia súc 4,5 63,2 30,2 2,1

8. Chăm sóc gia súc, gia cầm 27,2 15,3 50,2 7,3

9. Buôn bán, dịch vụ 40,5 35,4 19,4 4,7

10. Nghề dệt, đan lát 60,6 6,5 13,1 19,8

11. Nghè rèn, mộc 3,4 75,2 11,6 9,8

12. Làm thuê (bốc vác, phụ xây) 17,7 37,7 31,7 12,9

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Dệt là nghề thủ công phổ biến ở tất cả các DTTS MNPB. Người Mông

nổi tiếng với nghề trồng lanh và dệt vải, họ tự hào nói: “Ở đâu có cây lanh, ở

đó có người Mông”, còn cây bông là cây gắn liền với phụ nữ Thái, Tày. Dệt

vải, thêu may được coi là công việc của phụ nữ, con gái từ 10 -12 tuổi đã

được mẹ, chị chỉ bảo, hướng dẫn, làm quen với những công việc liên quan

đến dệt vải. Hơn thế nữa, sự thông thạo trong nghề dệt được coi là một tiêu

chí, một phẩm hạnh con gái. Người ta không thể tính được số ngày công lao

động của phụ nữ trong công việc này, các sản phẩm dệt đã chứng tỏ sức bền

bỉ và nghệ thuật tài hoa của người phụ nữ DTTS MNPB. Kết quả khảo sát của

luận án cho thấy, nghề dệt có tới 60,6% phụ nữ tham gia. Ngoài làm sản phẩm

phục vụ nhu cầu của gia đình và đồng bào trong vùng, hiện nay có nhiều gia

Page 70: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

64

đình còn nhận cả đơn đặt hàng của khách du lịch nước ngoài, thu nhập từ các

sản phẩm dệt vải, thêu may chiếm một phần quan trọng trong kinh tế hộ, vài

năm trở lại đây nghề dệt truyền thống trở thành lối thoát nghèo cho đồng bào

dân tộc.

Trong khi đó, rèn - chủ yếu nam giới tham gia 75,2% - là nghề thủ công

lâu đời và đạt đến trình độ khá cao của nhiều tộc người như: Tày, La Hủ,

Mông, đang đứng trước nguy cơ mất dần, do người dân mua công cụ dưới

xuôi đưa lên rẻ hơn, thu nhập từ nghề rèn của nam giới, có lẽ hiện giờ không

thể bằng được so với nghề dệt, làm đồ thủ công của phụ nữ.

Những năm gần đây ở MNPB, do du lịch phát triển nên có một bộ phận

gia đình DTTS chuyển sang làm nghề mới như: hướng dẫn viên du lịch, làm

dịch vụ du lịch tại nhà - hình thức đón khách nghỉ lại qua đêm hoặc dài ngày

trong gia đình và thu tiền các dịch vụ như ăn, ngủ, tắm thuốc… (cho thuê chỗ

ngủ với giá 1 đô la/tối tại nhà). Bình quân thu nhập từ việc phục vụ khách du

lịch có thể đem lại cho các gia đình khoảng 1 triệu đồng/tháng, đây là nguồn

thu không phải nhỏ đối với hộ nông dân. Ở huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai, một số

phụ nữ năng động ở các xã thường ra hẳn thị trấn Sa Pa để thuê nhà trọ và bán

hàng lưu niệm cho khách du lịch nước ngoài. Và đặc biệt là, người làm ra hầu

hết các sản phẩm cho khách du lịch, từ các sản phẩm thổ cẩm cho đến các mặt

hàng khác như tre đan chính là phụ nữ. Có thể thấy với công việc này, phụ nữ

đang có đóng góp ngày càng lớn cho kinh tế gia đình và cũng làm cho phụ nữ

DTTS ngày càng năng động hơn.

Tại các xã biên giới Việt - Trung, Việt - Lào, khi việc buôn bán ở khu

vực biên giới được thông thương, thu nhập của khá nhiều gia đình dân tộc ở

tỉnh Lạng Sơn, Lào Cai phần lớn từ các hoạt động buôn bán hàng hóa qua

biên giới và theo sự công nhận của các cán bộ địa phương thì phụ nữ đã đóng

góp vào thu nhập của gia đình không hề kém, mà thậm chí còn cao hơn nam

giới. Có thể thấy, trong các hoạt động dịch vụ buôn bán, phụ nữ có nhiều lợi

thế hơn so với nam giới, những công việc của đàn ông đòi hỏi phải có sức

Page 71: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

65

khỏe, nhưng lại thiếu ổn định vì không phải lúc nào cũng có việc như: bốc

vác, xe ôm.

Nếu xét theo tương quan dân tộc, thì trong gia đình dân tộc Tày, Thái

mức độ tham gia của cả hai vợ chồng vào công việc sản xuất là phổ biến và cao

hơn so với dân tộc Mông, La Hủ. Trong hầu hết các công việc sản xuất nông

nghiệp, người vợ trong gia đình dân tộc Thái, Tày tham gia đảm nhiệm ít hơn

nhiều so với người vợ trong gia đình Mông, La Hủ. Ngược lại mức độ tham gia

của người chồng trong nhiều công việc vốn được coi là của phụ nữ trong gia

đình Thái, Tày ngược lại cao hơn nhiều so với dân tộc Mông, La Hủ (Phụ lục

1). Cường độ lao động của các dân tộc cũng có sự khác biệt. Theo số liệu điều

tra bảng hỏi, việc sử dụng máy móc (máy cày, máy bừa) trong các khâu làm đất

của người Thái, Tày là khá phổ biến, các hộ gia đình chủ yếu thuê máy cày,

bừa, tỉ lệ khoảng 80%; đã mua sắm, sử dụng máy tẽ ngô không động cơ, máy

tuốt lúa có tỷ lệ khoảng 15,2%; phương tiện vận chuyển sản phẩm chủ yếu là

phương tiện cơ giới, điều này đã đem lại năng suất lao động cao, đồng thời góp

phần giải phóng sức lao động. Trong khi đó sản xuất nông nghiệp của người

Mông, La Hủ vẫn chủ yếu dựa vào sức mạnh của cơ bắp, ngoài ra do họ

thường canh tác trên đất dốc, nên tốn nhiều sức lao động và gặp nhiều khó

khăn hơn trong canh tác, vì vậy cường độ làm việc của dân tộc Mông, La Hủ

cũng nhiều hơn so với dân tộc Tày, Thái. Ngoài ra, dân tộc Tày, Thái, Mông có

nhiều ưu thế hơn so với dân tộc La Hủ trong việc đa dạng hóa sinh kế, chuyển

đổi cơ cấu lao động. Do phát triển du lịch và các dịch vụ du lịch ở Hà Giang,

Lào Cai, Lạng Sơn, nên có nhiều gia đình DTTS chuyển sang làm nghề mới

như hướng dẫn viên du lịch, dịch vụ cho thuê nhà hoặc làm tiểu thủ công (thổ

cẩm) cao hơn so với đồng bào dân tộc ở Sơn La, Lai Châu.

Tóm lại, nghiên cứu phân công lao động theo giới trong sản xuất của

gia đình DTTS MNPB cho thấy, trong điều kiện kinh tế - xã hội còn chưa

phát triển, trình độ sản xuất còn thấp, đời sống còn gặp nhiều khó khăn, người

phụ nữ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất, đem lại nguồn lợi kinh

Page 72: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

66

tế và đảm bảo nhu cầu lương thực cho gia đình và cộng đồng. Họ tham gia

hầu hết và khá bình đẳng với nam giới trong các công việc sản xuất của gia

đình, có ưu thế về những công việc mang lại thu nhập thường xuyên hơn nam

giới cũng được khẳng định.

Tuy nhiên kết quả khảo sát của luận án cũng cho thấy, khuôn mẫu giới

(nguyên tắc bất thành văn) vẫn ngự trị trong suy nghĩ và hoạt động của người

dân nơi đây khi tham gia công việc sản xuất. Tùy từng gia đình mà các hoạt

động sản xuất có thể do người chồng, người vợ hoặc con cái đảm nhận chính,

nhưng thông thường lao động sản xuất trong các gia đình DTTS MNPB được

phân công theo “việc đàn ông”, “việc đàn bà”. Sự phân công lao động này

xuất phát từ quan niệm nam giới là “phái mạnh”, phải đảm nhận những “việc

nặng”, cần “tính toán”, “kỹ thuật”, còn phụ nữ thuộc “phái yếu” nên phụ trách

những “việc nhẹ”, “công việc không tên”.

Có thể thấy nam giới thường đảm nhận những việc được coi là quan

trọng và nặng nhọc hơn trong nông nghiệp như: phun thuốc sâu 61,2%, cầy

bừa 58,8%, làm chuồng 63,2%. Trong khi đó phụ nữ đảm nhận chính trong

các công việc, được coi là “nhẹ nhàng”: gieo trồng 35,4%, chăm sóc

46,6%, thu hoạch 33,6%, bảo quản sản phẩm 20,1%, bán/trao đổi sản phẩm

32,5%, chăm sóc gia súc, gia cầm 27,2%.

Trong nghề thủ công, nam và nữ thường tập trung với tỉ lệ cao ở các

ngành được xem là phù hợp với mình, ví dụ nghề dệt vải, đan lát là nghề mà

có tới 60,6% phụ nữ tham gia, chỉ có 6,5% là người chồng tham gia. Xét theo

tương quan dân tộc thì phụ nữ dân tộc Mông có tỷ lệ tham gia nghề dệt nhiều

hơn cả so với 3 dân tộc còn lại. Với nghề mộc và rèn thì chủ yếu dành cho

nam giới, có tới 75,2% người khảo sát cho rằng đó việc của nam giới. Trong

hoạt động dịch vụ, mô hình phân công lao động theo giới cũng thể hiện rõ nét.

Nam giới chủ yếu làm các dịch vụ đòi hỏi cơ bắp, hoặc làm việc với máy móc

như cày bừa, chuyên chở, xay xát, bốc vác hàng hóa tại các cửa khẩu biên

giới, còn việc buôn bán và dịch vụ ăn uống chủ yếu do phụ nữ đảm nhận.

Page 73: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

67

Không thể phủ nhận nhiều công việc do nam giới thực hiện đòi hỏi sức

cơ bắp nhiều hơn, nhưng trên thực tế những công việc mà phụ nữ đảm nhận,

được coi là những việc “nhẹ nhàng” lại tốn rất nhiều thời gian, công sức và

phải thực hiện liên tục hàng ngày như: chăm sóc, làm vườn, dệt vải, kiếm

thức ăn. Điều đáng lưu ý là, mặc dù đa số họ đều cho rằng phụ nữ có thể làm

được những công việc như chặt cây to hoặc lái máy cày và ngược lại nam giới

có thể làm những công việc như làm cỏ, bón phân, song theo họ không nên

thay đổi, vì như vậy sẽ đánh mất những đặc điểm nam tính hay nữ tính và

quan trọng nhất là sợ người khác chê cười. Họ cũng nhấn mạnh thêm, việc

phân công lao động như thế đã có từ lâu đời, đã trở thành chuẩn mực, cho nên

khi được hỏi thì có tới 76% người được hỏi cho rằng việc phân công trong

hoạt động sản xuất như hiện nay là hợp lý và không cần thay đổi.

Vậy là, cả phụ nữ và nam giới đều coi đây là sự phân công lao động

hợp lý, là chuẩn mực phải tuân theo và không cần phải thay đổi. Tại sao lại

như vậy? Để hiểu được nguyên nhân thì ngoài những lý do bên trên, có lẽ ta

phải nhìn nhận, đánh giá từ khía cạnh văn hóa tộc người.

Đồng bào DTTS MNPB không có quan niệm về sự “bình đẳng” như

cách hiểu của truyền thông và luật pháp hiện nay, thay vào đó quan niệm của

họ về gia đình bình đẳng là sự “cùng nhau” và thương nhau. Việc “ai làm gì”

trong gia đình, không được họ quan niệm là “phân công lao động” như chúng

ta thường nói đến, mà mang ý nghĩa là chia sẻ lao động, ai làm việc gì phù

hợp nhất thì làm. Người chồng cho rằng họ gánh trách nhiệm làm việc nặng

(chặt cây, phát rẫy, cày bừa, đào ao, xẻ gỗ), để nhường việc nhẹ cho vợ (nuôi

lợn gà, lấy củi …). Do đảm nhận việc nặng, nên người chồng có thể làm ít,

điều này được phụ nữ thừa nhận như lẽ đương nhiên, hợp lý và công bằng,

cần tuân theo để đạt được mục tiêu gia đình hòa thuận.

Có thể thấy, định kiến giới về phân công lao động trong sản xuất,

không chỉ tồn tại trong nhận thức của nam giới, mà có ở ngay trong chính nữ

giới - những người đã được dạy dỗ và nuôi dưỡng theo mô típ của người mẹ,

Page 74: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

68

người bà trước đây và đến lượt họ cũng sẽ “góp phần” dạy dỗ con gái như

vậy. Chính theo tinh thần đó, mà đời người phụ nữ (nhất là phụ nữ Mông)

như một vòng tròn khép kín, ngay từ khi còn nhỏ đã phải hy sinh cho kinh tế

và phúc lợi gia đình, đến khi lớn trở thành người vợ, người mẹ, họ lại tiếp tục

lầm lũi hy sinh quyền lợi của bản thân cho chồng con và gia đình nhà chồng.

Kết quả nghiên cứu của tác giả một lần nữa đã chứng minh rằng: không

chỉ phụ nữ ở đồng bằng, ven biển mà ngay cả các phụ nữ DTTS ở MNPB

cũng đóng vai trò quan trọng trong sinh kế gia đình và cộng đồng của họ.

Những đóng góp của phụ nữ trong sản xuất chứng tỏ rằng khả năng của họ

không hề thua kém nam giới. Tuy nhiên vẫn còn sự bất bình đẳng trong phân

công lao động sản xuất, phụ nữ phải lao động quá nhiều trong nông nghiệp -

một lĩnh vực nhọc nhằn, tốn thời gian nhưng kỹ thuật không mấy cải tiến và

thu nhập không cao, có những lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp người chồng

còn ít chia sẻ công việc với người vợ, dẫn tới người phụ nữ ít có thời gian

nghỉ ngơi, hưởng thụ.

3.1.1.2. Tiếp cận các nguồn lực sản xuất

- Đất đai

Nghề chủ yếu của đồng bào DTTS MNPB là nông nghiệp, nên đất đai

là nguồn lực thiết yếu đối với mỗi hộ gia đình. Việc tiếp cận đất đai có vai trò

quan trọng trong hoạt động sản xuất, nhằm đảm bảo đời sống kinh tế cho gia

đình. Theo Hiến pháp, Luật Hôn nhân và Gia đình (2014), Luật Đất đai

(2013) và các chính sách đất đai gần đây của Đảng và Nhà nước, thì phụ nữ

và nam giới có vị thế bình đẳng về tài sản và của cải.

Trong gia đình DTTS MNPB hiện nay, mặc dù tỷ lệ cả hai vợ chồng

cùng đứng tên sở hữu trong sổ đỏ chỉ chiếm 13,8%, phụ nữ đứng tên tuy mới

chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ 9,0%, nhưng điều này đã thể hiện sự chuyển biến

tích cực trong nhận thức của người dân nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng

về quyền sở hữu tài sản, phần nào cũng đã thể hiện được vị thế bình đẳng

giữa vợ và chồng trong gia đình. Khả năng tiếp cận quyền sở hữu đất đai có

Page 75: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

69

nội hàm sâu xa hơn đối với việc tăng cường quyền năng kinh tế như tiếp cận

tín dụng, quyền hợp pháp đối với tài sản, nguồn lực kinh tế, tài nguyên thiên

nhiên. Với vai trò là người đứng tên trong sổ đỏ, các loại giấy tờ quan trọng

khác, thì phụ nữ sẽ có nhiều cơ hội và điều kiện hơn trong việc ra các quyết

định liên quan đến việc sử dụng và chuyển nhượng đất sản xuất, kinh doanh,

trong thế chấp vay vốn hơn.

Nếu xét theo tương quan dân tộc, ta thấy tỷ lệ hai vợ chồng cùng có tên

trong sổ đỏ của dân tộc Thái, Tày là tương đương nhau(14,5%, 14,2%), cao

hơn so với dân tộc Mông, La Hủ (13,1%, 13,2%). Tỷ lệ người vợ đứng tên

trong sổ đỏ của dân tộc La Hủ 5,3% là thấp nhất trong 4 dân tộc, điều này

được lí giải do trình độ của phụ nữ La Hủ và mức độ bình đẳng trong gia đình

La Hủ thấp hơn so với ba dân tộc còn lại (Phụ lục 2).

Như chúng ta đã biết, các quy định pháp lý dù hoàn hảo đến đâu, cũng

mới chỉ là công cụ, việc các công cụ này được vận dụng như thế nào, có bảo

vệ được lợi ích của những đối tượng cụ thể không, trên thực tế phụ thuộc vào

nhiều yếu tố, trong đó có nhận thức của bản thân các đối tượng thuộc phạm vi

điều chỉnh của pháp luật. Chẳng hạn, trong trường hợp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, nhận thức của phụ nữ và nam giới rất quan trọng, họ có

yêu cầu cơ quan đăng ký ghi tên cả hai vợ chồng hay không, họ có muốn đổi

giấy chứng nhận từ một tên sang hai tên hay không…, tất cả phụ thuộc vào

hiểu biết pháp luật, nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề trên, ý thức về

quyền mà pháp luật đã trao cho từ phía người vợ và người chồng.

Kết quả khảo sát của tác giả luận án cũng đã cho thấy, thực tế việc tiếp

cận quyền sở hữu đất của phụ nữ DTTS ở MNPB là rất thấp. Trong số người

được hỏi, có tới 75,5% cho rằng giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất là do

người chồng đứng tên, người vợ chiếm tỷ lệ khiêm tốn là 9,0% và cả hai vợ

chồng chiếm khoảng 13,8% (Phụ lục 2). Chỉ có một số ít người dân (trong số

phỏng vấn), biết rằng pháp luật hiện có quy định các tài sản này phải do cả vợ

Page 76: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

70

và chồng đứng tên và một số hộ gia đình làm sổ đỏ đất đai, đã có cả tên vợ và

chồng theo quy định của pháp luật.

Kết quả khảo sát của tác giả, cũng không khác nhiều so với kết quả của

UN Women khi nghiên cứu về tình hình phụ nữ và trẻ em gái DTTS ở Việt

Nam năm 2015. Theo UN, tỷ lệ hộ gia đình DTTS có nam giới là chủ sở hữu

quyền sử dụng đất duy nhất là 74,2%; giấy chứng nhận có tên cả vợ và chồng

của gia đình DTTS chỉ là 21%; trong nhiều trường hợp, phụ nữ còn không

nhận thức được quyền lợi hợp pháp của mình là được cùng có tên trên giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất [88, tr.6].

Có thể thấy có sự chênh lệch lớn trong việc đứng tên giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất giữa nam và nữ. Mặc dù pháp luật đã có quy định cụ thể về

việc đứng tên trên giấy chứng nhận tài sản do hai vợ chồng cùng tạo dựng,

song nhận thức của một bộ phận phụ nữ và nam giới, thì chưa phù hợp để tạo

điều kiện cho việc thực hiện các quy định của pháp luật. Có lẽ việc xây dựng

pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ và nam giới trên cơ sở BĐG, dù quan

trọng nhưng mới chỉ là bước đầu. Các bước tiếp theo, có ý nghĩa quyết định

đối với hiệu quả thực thi pháp luật là nâng cao nhận thức, xóa bỏ định kiến và

khuôn mẫu giới trong quan niệm của cả phụ nữ và nam giới và nhóm cần

được quan tâm đặc biệt là phụ nữ và nam giới DTTS. Rõ ràng là việc tuyên

truyền nâng cao nhận thức về giới và phổ biến pháp luật cho đồng bào DTTS

cần được đặt ra một cách cấp bách.

- Vốn

Vốn là yếu tố hết sức quan trọng để có thể thay đổi cơ cấu kinh tế,

ngành nghề, cơ cấu lao động, cơ cấu vật nuôi, cây trồng - nghĩa là sẽ tạo việc

làm, tăng thu nhập cho các gia đình nông dân. Hơn thế, đầu tư vốn sẽ góp

phần làm thay đổi mục đích nền kinh tế nông thôn từ nền kinh tế tự cung tự

cấp sang nền kinh tế hàng hóa - thị trường.

Kết quả xử lý câu hỏi “Nếu gia đình có nhu cầu vay vốn bên ngoài thì

ai là người đi vay”, cho thấy xu hướng cả hai vợ chồng cùng đi vay chiếm tỷ

Page 77: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

71

lệ cao nhất 39,9% (Phụ lục 3). Dù là dân tộc ở trình độ phát triển cao, trung

bình hay thấp thì xu hướng cả hai vợ chồng cùng đứng tên vay vốn đều chiếm

tỷ lệ cao, điều này đã thể hiện được tính bình đẳng, dân chủ hơn trong quan

hệ gia đình và cơ hội tiếp cận nguồn lực sản xuất của phụ nữ.

Tuy nhiên, cơ hội tiếp cận vốn của nam giới vẫn cao gần gấp đôi so với

nữ giới, có tới 39,6% là do người chồng đi vay, còn do người vợ đi vay là

20,5%. Có thể lý giải điều này là do bản thân các nguồn vốn cho vay hiện

nay, chưa tạo được cơ hội cho người phụ nữ nói chung và phụ nữ DTTS

MNPB nói riêng tiếp cận, vì để có thể vay vốn thường đòi hỏi tài sản thế

chấp, nhất là đất hoặc bất động sản, trong khi phụ nữ ít đứng tên trong giấy tờ

chứng nhận quyền sử dụng đất, họ cũng không giữ vai trò chủ hộ.

Theo kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2012, khu vực

MNPB có 94,5% hộ có vay vốn ở ngân hàng chính sách; 0,4% vay ở quỹ hỗ

trợ việc làm; 2,9% vay quỹ giảm nghèo; 1,8% vay các tổ chức chính trị xã hội

khác [71, tr.357]. Dựa vào nguồn vốn vay, không chỉ nhận biết được tính chất

giàu nghèo của người vay, mà còn nhận biết được giới tính của người này.

Những người vay vốn của quỹ Hội phụ nữ phải là hội viên Hội phụ nữ, đối

với các nguồn vốn từ Hội Phụ nữ thực tế còn phụ thuộc vào phong trào hoạt

động của Hội cơ sở, ở đâu Hội hoạt động mạnh, thì ở đó thường thu hút được

nhiều nguồn vốn cho hội viên vay, ngược lại ở đâu phong trào Hội kém phát

triển, thì ở đó thu hút được ít nguồn vốn hơn. Những người vay vốn từ Ngân

hàng Nông nghiệp, do phải thế chấp tài sản, nên thường là các chủ hộ đứng ra

vay. Với Ngân hàng chính sách dành cho người nghèo, dĩ nhiên, người đi vay

cũng phải là chủ hộ, mà chủ hộ thường không phải là phụ nữ.

Xét theo tương quan dân tộc, thì có thể thấy khả năng tiếp cận vốn của

phụ nữ Thái là cao nhất (21,1%) sau đó là phụ nữ Tày (21,0%), thấp nhất là

phụ nữ La Hủ (19,7%). Trong gia đình dân tộc Tày, Thái xu hướng cả hai vợ

chồng cùng đi vay vốn cũng cao hơn so với gia đình Mông, La Hủ. Điều này

Page 78: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

72

đã thể hiện rõ mức độ phát triển, bình đẳng hơn của gia đình Tày, Thái so với

gia đình dân tộc Mông, La Hủ.

- Dịch vụ khuyến nông

Hiện nay, trong gia đình DTTS MNPB có 25% phụ nữ có cơ hội tiếp

cận với dịch vụ khuyến nông, có lẽ đây cũng là bước tiến mới, thể hiện sự

phát triển của người phụ nữ. Do nông nghiệp là ngành chính để phát triển

kinh tế gia đình vùng DTTS, nên việc tiếp cận dịch vụ khuyến nông có ý

nghĩa rất lớn, nói lên những cơ hội của phụ nữ trong vấn đề tiếp thu những

thành tựu khoa học kĩ thuật để phục vụ sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh

tế gia đình, nâng cao mức sống. Kết quả khảo sát cho thấy, trên 90% những

người tham gia các lớp tập huấn khuyến nông đều có nhận định rằng việc

tham gia các lớp tập huấn là rất hiệu quả.

Tuy nhiên, việc tiếp cận dịch vụ khuyến nông giữa nữ và nam có sự

khác biệt đáng kể, người được tiếp cận với dịch vụ khuyến nông nhiều nhất

vẫn là nam giới (60%). Tỷ lệ phụ nữ được tiếp cận với dịch vụ khuyến nông

còn hết sức hạn chế chiếm 25%, gần bằng ½ so với nam giới. Thực trạng về

sự khác biệt giữa vợ và chồng trong tiếp cận với dịch vụ khuyến nông trong gia

đình DTTS ở các tỉnh MNPB, cũng phản ánh phần nào tình trạng chung về sự

bất bình đẳng trong cơ hội, điều kiện tiếp cận của nữ giới và nam giới với dịch

vụ này trên phạm vi toàn quốc. Các nghiên cứu gần đây của Ủy ban Quốc gia

vì sự tiến bộ của phụ nữ cũng thấy rõ thực trạng này, “mặc dù phụ nữ chiếm

phần đông (1/2 - 3/4) lực lượng lao động trong lĩnh vực chăn nuôi, nhưng chỉ

có 20% các khóa tập huấn khuyến nông về chăn nuôi có phụ nữ tham gia.

Tương tự như vậy, mặc dù 80% phụ nữ nông thôn tham gia trồng trọt, nhưng

họ chỉ chiếm 10% số người được tập huấn về trồng trọt” [95, tr.8].

Việc phụ nữ ít có cơ hội, điều kiện để tham dự các lớp tập huấn

khuyến nông, sẽ là một thiệt thòi lớn cho họ trong việc nâng cao trình độ

hiểu biết trong sản xuất, chăn nuôi và nâng cao vốn hiểu biết của mình về

dịch vụ này. Hầu như các hộ gia đình DTTS có tình trạng chồng “đi học” -

Page 79: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

73

tiếp thu kiến thức về khoa học kỹ thuật còn vợ ở nhà “thực hành”. Phải

chăng đây là một nghịch lý “nữ làm nam học”, làm ảnh hưởng đến hiệu quả

và năng suất lao động ở MNPB.

Nếu so sánh giữa các dân tộc, thì dân tộc Thái, Tày có nhiều cơ hội

tiếp cận với dịch vụ khuyến nông hơn dân tộc Mông, La Hủ và cơ hội của

phụ nữ Tày, Thái cũng nhiều hơn so phụ nữ Mông, La Hủ, vì họ có trình độ

cao hơn, trong gia đình có sự bình đẳng hơn, ngoài ra do sống ở vùng thấp

nên có cơ hội tiếp cận cao hơn, nhưng nếu so với nam giới thì phụ nữ vẫn ít

có cơ hội hơn.

Khi được hỏi lý do tại sao phụ nữ tham dự các lớp học khuyến nông thấp

hơn nam giới, nhóm cán bộ xã tại địa phương nghiên cứu cho biết: “phụ nữ

không đi được vì phải chăm sóc gia đình”, “phụ nữ học vấn thấp hơn nam giới,

đàn ông luôn làm tốt hơn trong các vấn đề kỹ thuật, học hỏi tiếp thu nhanh hơn,

vì thế sau khi học rồi thì việc áp dụng và thực hành luôn tốt hơn phụ nữ. Phụ

nữ cho đi học về cũng không làm nổi”. Có thể thấy, đồng bào DTTS MNPB

vẫn còn mang nhiều “định kiến giới” về vai trò, năng lực của phụ nữ trong việc

tiếp thu kiến thức khoa học, chính vì định kiến giới này mà trong quá trình lập

danh sách đề cử người đi tập huấn, đi học khuyến nông số lượng phụ nữ tham

gia rất thấp.

Hơn nữa do trình độ hiểu biết và học vấn của phụ nữ hạn chế hơn nam

giới, thậm chí nhiều chị không biết chữ, không biết tiếng Kinh, nên khả năng

tiếp nhận kiến thức rất khó khăn. Đa số nam giới người DTTS có thể nói và

viết thành thạo tiếng phổ thông (tiếng Việt), trong khi đó, phụ nữ DTTS đặc

biệt là phụ nữ Mông, La Hủ do rào cản trong phong tục tập quán, ít được giao

lưu rộng rãi ngoài gia đình, nên khả năng hiểu và giao tiếp bằng tiếng phổ

thông rất hạn chế, chỉ có 33,3% phụ nữ Mông, 25,3% phụ nữ La Hủ từ 15 tuổi

trở lên biết đọc [93, biểu 40], đặc biệt tâm lý rụt rè, tự ti, an phận, xem ra đã

ăn sâu trong nếp nghĩ thói quen và hành vi của phụ nữ, nên ảnh hưởng tới

quyết định ai sẽ là người đi dự các lớp tập huấn về khuyến nông.

Page 80: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

74

Có thể khẳng định tiếp cận, quản lý, kiểm soát và sử dụng các nguồn lực

phát triển của gia đình một cách tự chủ, không chỉ là điều kiện mà còn là cơ hội

để phụ nữ phát huy được những tiềm năng vốn có của mình, để phát triển kinh

tế gia đình và đó cũng là cơ hội để phụ nữ từng bước khẳng định vai trò của

mình, qua đó mà thiết lập đúng vị thế của họ trong đời sống gia đình và đời

sống xã hội.

3.1.1.3. Quyền ra quyết định trong hoạt động sản xuất

- Thay đổi hướng sản xuất của gia đình

Trong đời sống của các gia đình hiện nay, người vợ đã thực sự trở

thành người có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng đời sống kinh

tế của gia đình. Họ cũng tạo ra thu nhập không kém gì nam giới, thậm chí ở

không ít lĩnh vực sản xuất họ là người tạo ra nguồn thu nhập chính. Chính từ

thực tế này, mà vị thế kinh tế của người phụ nữ trong các gia đình ngày càng

được nâng cao, điều này thể hiện rõ trong quyền ra quyết định đối với việc

sản xuất kinh doanh. Số liệu khảo sát cho thấy, quyền quyết định đối với các

công việc sản xuất kinh doanh trong gia đình, giờ đây không chỉ dành riêng

cho người chồng mà còn dành cho cả người vợ. Cả hai vợ chồng cùng quyết

định trong hoạt động này chiếm tỷ lệ cao nhất 40,5%, cụ thể trong gia đình

dân tộc Thái là 42,7%, dân tộc Tày là 40,5%, dân tộc Mông là 38,8%, dân tộc

La Hủ là 39,5%, (Phụ lục 4), ta thấy có sự chênh lệch không quá nhiều giữa

các nhóm dân tộc. Với việc tham gia vào quyền quyết định trong hoạt động

sản xuất hiện nay, đã nâng cao vị trí của người phụ nữ lên ngang tầm nam

giới, khiến họ có vai trò quan trọng cùng chồng ra quyết định và thực hiện

chức năng kinh tế của gia đình.

Tuy nhiên, trong thực tế phụ nữ không phải là người quyết định chính

trong việc thay đổi cơ cấu vật nuôi cây trồng, phân công lao động, mua vật tư,

công cụ sản xuất, kinh doanh và bán sản phẩm, xét ở khía cạnh nào đó thì vai

trò của họ bị giới hạn ở người thực hiện, phục tùng những quyết định của

chồng. Số liệu khảo sát cho thấy, quyền quyết định các công việc sản xuất

Page 81: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

75

trong các gia đình người DTTS MNPB hiện nay, người vợ chỉ chiếm một tỷ

lệ (20,5%) thấp hơn so với người chồng (34,3%) (Phụ lục 4), thậm chí vai trò

quyết định của người chồng cao gấp hơn so với người vợ trong gia đình dân

tộc Mông, La Hủ. Qua số liệu nhận thấy, phụ nữ Tày, Thái có quyền quyết

định chính cao hơn người phụ nữ Mông, La Hủ và trong gia đình Tày, Thái cả

hai vợ chồng cùng thảo luận, bàn bạc đưa ra quyết định trong hoạt động sản

xuất kinh doanh của gia đình, cũng cao hơn nhiều so với gia đình Mông, La

Hủ, điều này phản ánh rõ tính chất bình đẳng hơn trong gia đình của người

Tày, Thái, tiếng nói của người phụ nữ Tày, Thái trong gia đình cao hơn phụ

nữ Mông, La Hủ.

Như vậy, đối với việc chuyển hướng sản xuất của gia đình, người phụ

nữ DTTS có một vai trò quan trọng, tuy nhiên quyền quyết định chưa thực sự

thuộc về họ, quyền lực chính vẫn thuộc về nam giới, phụ nữ DTTS vẫn là

nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương và ít được đưa ra quyết định trong hoạt động

sản xuất kinh doanh, nhưng tỷ lệ cả hai vợ chồng cùng bàn bạc cao, cho thấy

xu hướng ngày càng bình đẳng trong quan hệ gia đình.

- Vốn

Người phụ nữ DTTS MNPB trong cơ chế thị trường đã ngày một

chứng tỏ tính năng động, tháo vát của mình trong sản xuất kinh doanh nâng

cao thu nhập, phát triển đời sống gia đình. Đối với việc vay vốn và sử dụng

vốn vay như thế nào trong quá trình sản xuất, đầu tư cho sản xuất, thì vai trò

của người vợ tỏ ra ngang bằng so với người chồng. Cả hai vợ chồng cùng

thảo luận bàn bạc mới đi đến quyết định cuối cùng trong việc sử dụng vốn đã

trở thành xu hướng phổ biến trong gia đình DTTS hiện nay, chiếm tỷ lệ lớn

tới 45,6%. Điều đó chứng tỏ quan hệ giới trong gia đình có những khía cạnh

tiến bộ, dân chủ và bình đẳng hơn trước đây.

Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại sự khác biệt giữa hai giới và các dân tộc

trong việc quyết định sử dụng vốn vay đó như thế nào. Số liệu khảo sát cho

thấy 34,6% người được hỏi đã khẳng định việc quyết định sử dụng vốn vay là

Page 82: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

76

do chồng, chỉ có 19,8% là do vợ quyết định. Đối với gia đình dân tộc Thái,

Tày thì vai trò người vợ trong việc quyết định sử dụng vốn cao hơn, tương

ứng là 22,3% và 25,4%, còn dân tộc La Hủ đa số không vay vốn để sản xuất

trong khoảng thời gian qua.

3.1.1.4. Thụ hưởng lợi ích

Cơ hội tiếp cận, kiểm soát của phụ nữ DTTS MNPB đối với kinh tế gia

đình ngày càng tăng lên, vai trò kinh tế của họ ngang bằng với nam giới và

thậm chí cao hơn nam giới khi phụ nữ tham gia vào các hoạt động phi nông

nghiệp. Nhưng trên thực tế, trong gia đình họ vẫn là những người có ít cơ hội

bình đẳng nhất. Cho đến nay, nhiều phụ nữ vẫn chưa thoát khỏi thân phận lệ

thuộc vào gia đình nhà chồng, dường như họ không thể chống lại quan điểm

cho rằng: “Đàn bà làm chủ nhà thì nghèo, gà mái gáy thì gở”, tiếng nói của họ

trong gia đình ít trọng lượng hơn so với nam giới, cơ hội thụ hưởng lợi ích

của phụ nữ so với nam giới vẫn còn nhiều hạn chế.

- Thừa kế tài sản

Về quyền thừa kế tài sản (luận án chỉ đề cập tới đất đai), để tìm hiểu

nhận thức của người dân tại các xã khảo sát về vấn đề thừa kế, chúng tôi đặt

câu hỏi “dự định của ông bà về việc phân chia tài sản (đất đai) sau này như

thế nào?” và kết quả là có 63,4% dự định chỉ chia con trai; 2,2% chỉ chia cho

con gái; 13,9% chia đều cho các con; 20,5% chia cho con trai nhiều hơn con

gái (Phụ lục 5).

Mặc dù, việc quyết định chia đều cho các con chỉ chiếm tỷ lệ là 13,9%,

chỉ chia cho con gái chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn là 2,2%. Tuy nhiên, theo tác giả

luận án đây cũng là sự biến đổi tích cực trong nhận thức của đồng bào DTTS

MNPB về quyền thừa kế của con gái, vì như ta đã biết gia đình MNPB là theo

chế độ phụ quyền, còn tồn tại nhiều tư tưởng trọng nam khinh nữ, nên dù chỉ

tỷ lệ nhỏ nhưng cho thấy xu hướng cha mẹ đối xử bình đẳng hơn giữa con trai

và con gái trong gia đình và cơ hội được bình đẳng trong thừa kế của phụ nữ.

Page 83: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

77

Nếu xét theo tương quan dân tộc, thì ta nhận thấy trong gia đình dân tộc

Tày, Thái có xu hướng bình đẳng hơn, khi mà dự định chỉ chia tài sản thừa kế

cho con gái gấp đôi so với gia đình dân tộc Mông, La Hủ. Dự định chia cho

con trai nhiều hơn của các gia đình là không có sự khác biệt nhiều.

Có thể thấy rằng, câu trả lời chỉ thừa kế cho con trai chiếm tỷ lệ cao

nhất, số liệu này vừa phản ánh nhận thức, vừa phản ánh thực trạng về quyền

thừa kế tài sản xét trên khía cạnh giới trong gia đình DTTS MNPB hiện nay.

Mặc dù pháp luật quy định sự bình đẳng trong thừa kế của cả nam lẫn nữ,

nhưng luật pháp chưa thể xóa đi những tập tục cũ, làm cho nam nữ bình đẳng

hơn trong các lĩnh vực của đời sống. Đối với đồng bào DTTS MNPB, đất đai

không chỉ là tài sản, mà còn là hiện thân vật chất của dòng họ, là sự nối kết

quá khứ, hiện tại và tương lai. Vì vậy, đất đai được lưu truyền theo dòng họ

để đảm bảo cuộc sống và sự thỏa nguyện của cả người sống và người chết.

Người tiếp nối dòng họ phải đảm nhiệm việc chăm sóc tuổi già cho cha mẹ

và thờ cúng tổ tiên. Ở dòng họ phụ hệ, gia đình và cộng đồng mong đợi con

trai sẽ là người thờ cúng tổ tiên, nuôi dưỡng cha mẹ, họ thuộc về dòng họ

đó, trong khi con gái thì “lấy chồng thì phải theo chồng”, nên việc thừa

hưởng đất của ông bà tổ tiên giống như một đặc quyền của người con trai.

Theo họ, để người con trai được hưởng phần đất hương hỏa là “phù hợp” với

đạo lý và có làm như vậy mới được xem là “giữ được nề nếp gia phong”.

Mảnh đất do gắn với việc thờ cúng gia tiên, dòng họ, gắn với sự sinh sống

của các thế hệ (thường được gọi là đất hương hỏa, đất ông bà...), vì vậy nó

không đơn thuần mang giá trị cư trú, giá trị kinh tế, mà còn mang giá trị tinh

thần, giá trị biểu tượng đậm nét. Việc coi trọng giá trị biểu tượng của đất

đai, đã hạn chế quyền thừa kế đất đai của người phụ nữ. Phụ nữ thường bị

gạt ra khỏi thừa kế tài sản của gia đình cha mẹ đẻ của mình, bởi quan niệm

văn hoá cho rằng họ sẽ được hưởng lợi từ tài sản của nhà chồng. Tuy nhiên,

ở gia đình nhà chồng, họ lại bị gạt ra vì quan niệm cho rằng đó là tài sản của

gia đình chồng, không phải là tài sản của người phụ nữ. Có thể thấy theo luật

Page 84: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

78

tục, đất đai và ruộng nương của bố mẹ chỉ dành quyền thừa kế cho những

người con trai trong gia đình và bản thân người phụ nữ các DTTS ở đây coi

đó là điều hiển nhiên, không đòi hỏi. Chính những điều này đã dẫn tới, dù

phụ nữ như đã thấy là người đóng vai trò hơn hẳn nam giới trong sản xuất

nông nghiệp, thế nhưng họ lại không phải là chủ sở hữu, người được giao

quyền sử dụng đất, các quyền ấy đa số thuộc về người đàn ông. Tất nhiên,

khi khảo sát các hộ gia đình, ta thường nhận được câu trả lời rằng, mọi quyết

định lớn trong sản xuất và kinh doanh đều được bàn bạc giữa các thành viên

trong gia đình, nhất là sự bàn bạc giữa vợ và chồng, thế nhưng người chồng

- nam giới rõ ràng bao giờ cũng có ưu thế hơn trong quá trình trao đổi, dù có

bàn bạc dân chủ đến đâu thì người quyết định cuối cùng thường là nam giới.

Đứng trên quan điểm giới mà xét, thì vai trò quyết định của người vợ trong

gia đình khá thấp so với người chồng. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến

cho người phụ nữ chịu nhiều áp lực, cản trở trong bối cảnh phát triển kinh

tế, xã hội hiện nay.

- Giáo dục

Có một thực tế là người dân đều ý thức khá rõ tầm quan trọng của việc

học để xóa mù chữ, thoát khỏi nghề nông (làm ruộng, làm nương) vất vả, khổ

nhọc. Dù là người Thái, người Tày, người Mông hay người La Hủ đều nói

“học để biết chữ đỡ vất vả, đời bố mẹ đã không biết chữ rồi, đến đời con cháu

phải khác”; “đi học mới có kiến thức, biết tính toán”. Đơn thuần như học cộng

trừ nhân chia con số trong mua bán giao dịch là tiêu chí mà người Mông coi

thế mới ‘biết làm ăn.’ Người Thái mong muốn “có học, có kiến thức sẽ chủ

động đi lại khắp nơi trong nước”. Với nam giới người Mông thì biết chữ còn

gắn với nhu cầu thiết thực để lấy bằng lái xe (máy), vì rằng có bằng lái xe

máy mới đến xã, đi ra huyện hoặc lên thành phố, mới kết nối với thế giới bên

ngoài, không biết chữ không được thi lấy bằng lái xe, không được đi đâu chỉ

quanh quẩn ở bản sẽ mất nhiều cơ hội, trong khi đó phụ nữ thì mong muốn

học để “biết chữ nhận được mặt đồng tiền”.

Page 85: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

79

Hầu hết các ông bố, bà mẹ người DTTS trong địa bàn được phỏng vấn,

đều nghĩ rằng con gái và con trai cần phải có quyền bình đẳng trong giáo dục.

Tuy nhiên, trên thực tế, con trai có nhiều cơ hội được đi học hơn con gái, theo

kết quả khảo sát của tác giả luận án có tới 55% người được hỏi cho rằng cần

đầu tư cho con trai học hết bậc trung học phổ thông, đối với con gái là 38%.

Trong gia đình dân tộc Tày, Thái, có vẻ bình đẳng hơn, khi các gia đình cho

rằng cần cho con gái học hết trung học phổ thông, một số muốn con học đến

đại học và số còn lại muốn con học hết trung học cơ sở hoặc đi học nghề. Hầu

hết trẻ em các dân tộc Tày, Thái đều được đến trường và theo học các cấp 2,

cấp 3. Riêng người Mông, La Hủ, do cư trú ở vùng sâu, vùng xa đi lại còn

nhiều khó khăn, địa bàn thôn bản lại cách xa trường học, nhu cầu lao động

trong gia đình rất cao, đặc biệt vào mùa vụ trồng trọt hoặc thu hoạch, nên tỷ lệ

trẻ em bỏ học và nghỉ học còn nhiều. Phần lớn các em chỉ theo học đến hết

cấp 1, phổ biến là lớp 3 và 4, nhất là các em gái. Đặc biệt đối với việc lựa

chọn cho người con nào tiếp tục học, thì có tới 16% lựa chọn và ưu tiên cho

con trai, trong khi đó con gái chỉ chiếm 1%, có tới 12% cho rằng “con gái

không cần học cao” là phù hợp. Hầu hết các bà mẹ đều cho rằng, nếu thu nhập

của gia đình thấp và họ thiếu lao động, thì con gái của họ ít khả năng đến

trường, mặc dù họ rất muốn cho chúng đi học. Trong khi nếu con trai của họ

muốn đi học, thì gia đình sẽ cố gắng giúp chúng được đi học. Điều này phù

hợp với đánh giá chung của Liên hiệp quốc về tình hình giáo dục ở Việt Nam,

“trẻ em gái và phụ nữ là những người ít có khả năng tham gia và hưởng lợi từ

các chương trình giáo dục” [82, tr.17].

Vậy là, việc đầu tư nâng cao học vấn cho con cái, có sự khác biệt đáng

kể giữa con trai và con gái, dù chỉ trong dự định, nhìn chung các gia đình

mong con trai học cao hơn con gái, nên tại một số tỉnh ở MNPB khoảng

cách giới trong tỷ lệ nhập học chung lên tới 30%, ví như tại Điện Biên, tỷ lệ

nhập học chung của nữ giới là 55,3% so với 78,5% ở nam giới, tại Sơn La là

55% ở nữ giới so với 71,3% ở nam giới và tại Lai Châu là 51,4% so với

Page 86: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

80

65,6% [83, tr.71]. Ở Lai Châu tỷ lệ biết chữ ở phụ nữ là 48% so với 75,5% ở

nam giới, ở Điện Biên là 60,5% so với 83,4% và ở Hà Giang là 62,7% so với

84,1% [83, tr.71].

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới việc tỷ lệ phụ nữ biết chữ thấp hơn rất

nhiều so với nam giới ở các tỉnh MNPB, trong đó có nguyên nhân do định

kiến giới, sự thiên lệch trong đầu tư giáo dục cho trẻ em trai và trẻ em gái của

cha mẹ, kinh tế gia đình khó khăn.

Trong nhiều hộ nghèo, lao động của trẻ em nhất là của trẻ em gái có giá

trị hơn nhiều so với việc tới trường. Lợi ích dài hạn của giáo dục không thể bù

đắp được những tổn thất về thu nhập trong ngắn hạn. Những hộ gia đình

nghèo nhất không thể đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng hiện tại, nếu không

có nguồn thu nhập do lao động trẻ em mang lại, vì vậy học vấn của trẻ em và

triển vọng thoát nghèo phải nhường chỗ cho sự tồn tại trước mắt. Các chi phí

cơ hội của việc không có lao động trẻ em làm việc gia đình, ngăn cản các hộ

gia đình nghèo đầu tư vào giáo dục, đặc biệt là cho con gái - những người mà

các chi phí cơ hội này lớn hơn. Hộ gia đình có mức sống càng thấp, thì con

cái càng hay bỏ học và đi học muộn hơn so với tuổi, mức sống và khoảng thời

gian đi học của trẻ em có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, điều này có nghĩa

rằng việc tiếp cận và duy trì học vấn của trẻ em, nhất là trẻ em gái phụ thuộc

nhiều hơn vào điều kiện kinh tế gia đình. Ngoài lý do kinh tế thì các em gái

DTTS thiệt thòi hơn em trai trong việc học hành, do những quan niệm truyền

thống về vai trò giới và hiện tượng tảo hôn ở nhiều địa phương. Có quan niệm

cho rằng, con gái khi ở nhà với bố mẹ chủ yếu là để đi làm nương, khi lấy

chồng phải làm nương nuôi chồng, con, phải chăm sóc gia đình, không cần

phải đi học cao.

Chính sự thiên lệch trong hướng đầu tư giáo dục cho con cái của nhiều

hộ gia đình, do quan niệm truyền thống, dẫn tới thực trạng trẻ em gái là những

người chịu thiệt thòi trong cơ hội đến trường, cơ hội tìm kiếm việc làm và cơ

hội hòa nhập xã hội. Điều này đã làm gia tăng thêm khoảng cách bất BĐG

Page 87: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

81

trong cơ hội hưởng thụ các thành quả giáo dục của nam giới và nữ giới, là

mối nguy hiểm khiến sự chênh lệch về trình độ học vấn giữa hai giới, quá

trình tiến tới BĐG ở Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt với những nguy cơ

tiềm ẩn lâu dài.

Dù nguyên do của tỷ lệ bỏ học cao là gì, thì cũng để lại một hệ lụy là tỷ

lệ mù chữ ở người DTTS, đặc biệt phụ nữ DTTS rất cao (75% không biết

chữ) [82, tr.11], chỉ có 7,2% lao động nữ DTTS đã qua đào tạo chuyên môn

kỹ thuật, trình độ của phụ nữ Mông là thấp nhất trong các DTTS, chỉ có 1,4%

đã được qua đào tạo chuyên môn [88, tr.4], việc này không chỉ là sự bất hạnh

của bản thân các em gái mà còn để lại hậu quả cho thế hệ sau. Trong tương lai

các em sẽ làm vợ, làm mẹ và với một người mẹ ít học thậm chí thất học, thì

việc sinh đẻ có kế hoạch, chăm sóc và giáo dục con cái tốt, là điều gần như

phải bỏ ngỏ và sẽ trở thành đối tượng thiệt thòi nhất trong việc tiếp cận những

cơ hội việc làm phi nông nghiệp. Với hoạt động cạnh tranh trong phát triển

kinh tế thị trường, thì đa số những người có trình độ học vấn cao hơn sẽ có

nhiều lợi thế, cơ hội và điều kiện để thoát ly lao động chân tay, để phát triển

kinh tế gia đình cũng như có điều kiện và cơ hội để tiếp cận và thụ hưởng

những phúc lợi khác của gia đình và xã hội. Đối với trẻ em bỏ học sớm phải

trả giá đắt bằng năng suất lao động sau này, thu nhập bị mất và thiếu tích lũy

kĩ năng sẽ làm cho một người khó có thể thoát nghèo đói khi trưởng thành.

Khi trưởng thành, đã lập gia đình, thì cơ hội được học tập, để nâng cao trình

độ của bản thân, đối với phụ nữ là một công việc không hề đơn giản, có nhiều

nguyên nhân cản trở việc họ có thể học tập, như đã thấy khi phân tích về vấn

đề tiếp cận dịch vụ khuyến nông.

Tóm lại, trong hoạt động sản xuất của gia đình DTTS MNPB, vai trò

của phụ nữ là vô cùng to lớn, họ tham gia vào hầu hết tất cả các công việc,

đảm nhận chính nhiều loại công việc, vị thế, vai trò của người phụ nữ trong

tiếp cận, kiểm soát các nguồn lực sản xuất của gia đình được nâng lên. Tuy

nhiên quan niệm truyền thống, định kiến giới vẫn chi phối nhiều đến việc

Page 88: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

82

phân công lao động, tiếp cận các nguồn lực sản xuất và thụ hưởng lợi ích.

Việc tiếp cận, kiểm soát và ra quyết định, hưởng thụ lợi ích trong hoạt động

sản xuất của người phụ nữ còn gặp nhiều hạn chế và vẫn còn bất bình đẳng so

với nam giới.

3.1.2. Trong hoạt động tái sản xuất

Tái sản xuất là hoạt động chiếm rất nhiều thời gian, vừa gián tiếp vừa

trực tiếp tạo ra hiệu quả kinh tế đối với mỗi hộ gia đình, thực hiện công việc

này không chỉ là thước đo vị trí, tầm quan trọng của chồng hoặc vợ, mà còn là

cơ sở đánh giá vai trò của mỗi giới liên quan đến kinh tế gia đình. Nhưng trên

thực tế, việc đo lường hiệu quả kinh tế của dạng lao động này vẫn còn bất

cập, thiếu khách quan, công bằng. Trong quan niệm xã hội thường coi đây là

công việc hiển nhiên, mà người phụ nữ phải đảm nhận, là công việc “lặt vặt”,

không có giá trị, vì vậy mà không được trả công, không được coi là công việc

tạo ra thu nhập.

3.1.2.1. Phân công lao động

Bảng 3.2: Mức độ tham gia của vợ và chồng trong hoạt động tái sản xuất

Vợ Chồng Cả hai Người khác Người làm chính

Loại việc TL TL TL TL

Nấu ăn 66,6 7,1 16,2 10,1

Giặt giũ 67,3 5,4 20,3 7,0

Đi chợ 76,0 5,2 15,5 3,3

Giữ tiền 73,2 14,1 12,0 0,7

Chăm sóc và dạy con học 40,3 4,8 52,1 2,8

Chăm sóc người già 28,6 14,7 52,0 4,7

Lấy nước 81,5 4,6 11,4 2,5

Giã gạo 42,2 12,5 40,3 5,0

Thu lượm chất đốt 60,3 4,5 28,5 6,7

Sửa chữa đồ dùng 7,8 69,3 17,9 5,0

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Page 89: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

83

Hiện nay trong gia đình DTTS MNPB, đã có sự tham gia, chia sẻ của

nam giới trong hoạt động tái sản xuất. Trong các việc như: chăm sóc và dạy

con, chăm sóc người già, người ốm, nếu so sánh tỷ lệ người làm chính, thì

người vợ chiếm tỷ lệ cao hơn người chồng, nhưng đây cũng không hẳn là

những công việc chỉ người vợ thực hiện, việc kết hợp giữa vợ và chồng chỉ số

cao nhất là 52,1% (chăm sóc và dạy con học) và 52,0% (chăm sóc người già

ốm). Sự chia sẻ những công việc này giữa vợ và chồng cho thấy, các gia đình

đánh giá rất cao tầm quan trọng của những công việc này, đây là một sự

chuyển biến tích cực trong phân công lao động trong hoạt động tái sản xuất.

Nếu so sánh thì phụ nữ Tày, Thái dường như có sự bình đẳng, nhận

được sự chia sẻ, giúp đỡ của người chồng nhiều hơn so với phụ nữ Mông, La

Hủ, tỷ lệ cả hai vợ chồng cùng tham gia các công việc tái sản xuất trong gia

đình Tày, Thái cao hơn gia đình Mông, La Hủ ở tất cả các chỉ số (Phụ lục 6).

Ngoài ra do kinh tế khá hơn, trong gia đình dân tộc Thái, Tày đã sắm được

nhiều phương tiện sinh hoạt hiện đại, góp phần giải phóng phần nào sức lao

động của người phụ nữ. Phần lớn người Mông sử dụng lương thực tự sản xuất

được, trong đó ngô được coi là nguồn lương thực chính, vì vậy cần phải có

công đoạn xay giã. Trong khi đó nhiều thôn của người Mông không có máy

xay, bằng quan sát tại những thôn được chọn để thu thập thông tin, chúng tôi

không hề thấy một nam giới nào tham gia vào việc xay ngô và giã gạo ngoài

phụ nữ, trong khi đó người Thái, Tày đã sử dụng máy xay, máy xát.

Có thể thấy phân công lao động giữa vợ và chồng trong hoạt động tái

sản xuất trong gia đình DTTS MNPB dường như phù hợp với đặc điểm sinh

học của mỗi giới, người chồng thường đảm nhiệm những công việc mang

tính phức tạp và nặng nhọc trong gia đình, còn người vợ đảm nhận những

công việc mang tính khéo léo tỉ mỉ. Ví như trong công việc sửa chữa đồ

dùng trong gia đình, các kết quả cho thấy hầu như ở các gia đình được hỏi,

người chồng đảm nhận chính trong việc sửa chữa đồ dùng trong gia đình

chiếm 69,3%, trong khi đó người được hỏi trả lời vợ là người đảm nhận

Page 90: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

84

chính trong sửa chữa đồ dùng trong gia đình chỉ chiếm 7,8%, cả hai là

17,9%. Cũng giống như việc đi chợ thì việc nấu nướng trong gia đình, hầu

hết vẫn là do phụ nữ đảm nhiệm chính, nam giới chỉ tham gia với tỉ lệ nhỏ,

không đáng kể. Có rất ít gia đình cho rằng việc nấu nướng là công việc cần

sự chia sẻ của cả nam và nữ.

Mặc dù có những thay đổi theo hướng bình đẳng trong lao động tái sản

xuất, tuy vậy phụ nữ vẫn là người đảm nhận chính, cường độ lao động của

phụ nữ trên lĩnh vực này là rất lớn và cao gấp nhiều lần so với nam giới. Qua

kết quả khảo sát của luận án ta nhận thấy, với nam giới chỉ số tham gia công

việc gia đình cao nhất là chăm sóc người già ốm (14,7%), thấp nhất là chỉ số

đi lấy nước (4,6%), thu lượm chất đốt (4,5%), trong khi đó chỉ số cường độ

làm việc của phụ nữ thấp nhất là 28,6% (chăm sóc người già ốm), cao nhất là

việc đi lấy nước 81,5%, vậy là cường độ làm việc của phụ nữ trong những

công việc này cao gấp rất nhiều lần so với nam giới.

Trong hoạt động tái sản xuất, những công việc mà người phụ nữ đảm

nhận, thậm chí cao gấp hơn 10 lần so với nam giới, ví như lấy nước gấp 17

lần so với nam giới. Con số này khá tương ứng với kết quả khảo sát năm 2014

của tổng cục Thống kê và tổ chức UNICEF, theo khảo sát này thì ở MNPB

80,5% việc lấy nước là của phụ nữ, nam giới chỉ chiếm 16,2%; trẻ em gái

dưới 15 tuổi đi lấy nước cao gấp 4 lần so với trẻ em trai [76, tr.121]. Để đi lấy

nước thì 0,7% hộ phải mất thời gian trên 30 phút, có thể thấy đây là công việc

không hề nhẹ nhàng, nó đã ảnh hưởng lớn tới sức khỏe, thời gian nghỉ ngơi,

hưởng thụ đời sống văn hóa của người phụ nữ và chính là một trong những

nguyên nhân tước đi cơ hội học tập của trẻ em gái.

Theo kết quả khảo sát của tác giả luận án, có tới 66,6% phụ nữ đảm

nhận công việc nấu ăn của gia đình, công việc này chiếm rất nhiều thời gian

và ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của phụ nữ. Hiện nay ở MNPB chỉ có 0,5 hộ

nấu ăn bằng điện, 26,5% hộ dùng ga (thấp nhất cả nước), trong khi đó có tới

70,2% hộ dùng chất đốt rắn (cao nhất nước) [76, tr.107]. Chất đốt rắn gồm

Page 91: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

85

chất đốt sinh học như: gỗ, than củi, hoặc các loại chất thải nông nghiệp, phân,

rơm rạ, than. Điều đặc biệt là phần lớn các gia đình DTTS MNPB đều nấu ăn

ngay trong nhà, mà không có khu vực nấu ăn riêng. Nấu ăn và sưởi ấm bằng

chất đốt rắn không chỉ tạo ra một lượng khói lớn trong nhà, mà còn làm sản

sinh ra các thành phần độc tố như khí CO, hydro cacbon thơm đa nhân, SO2

và các thành phần gây hại khác, gây ảnh hưởng lớn cho sức khỏe con người

như: làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn hô hấp cấp, viêm phổi, tắc nghẽn phổi

mãn tính, ung thư, có thể bị lao, hen suyễn hoặc đục thủy tinh thể, tăng nguy

cơ nhẹ cân ở trẻ sơ sinh do người mẹ bị nhiễm độc khói khi mang thai, có thể

thấy điều này tác động không nhỏ tới sức khỏe của người phụ nữ.

Từ số liệu phân tích, có thể nhận xét định kiến trong phân công lao

động dựa trên cơ sở giới tính đối với phụ nữ DTTS vẫn còn tồn tại khá nặng

nề. Phụ nữ trong gia đình DTTS đảm nhận đa số công việc tái sản xuất, những

công việc này trên thực tế có sự đóng góp to lớn cho kinh tế gia đình, không

chỉ cung cấp đầu vào cho sự phát triển con người, mà còn tạo ra năng lượng

tinh thần to lớn cho cuộc sống con người. Nhưng sự đánh giá của nam giới và

của chính phụ nữ đối với công việc này còn chưa đúng mức, phần lớn họ cho

rằng đấy là công việc nhẹ nhàng, chủ yếu diễn ra trong phạm vi gia đình,

không phải là những công việc nặng nhọc và những công việc này, phụ nữ

làm tốt hơn vì bản thân phụ nữ vốn khéo tay và gọn gàng.

Cũng như hoạt động sản xuất, khi được hỏi về phân công lao động

trong tái sản xuất như hiện nay có hợp lý không, thì có tới 78% người được

khảo sát cho rằng là hợp lý, tại sao lại như vậy?

Người DTTS MNPB thích thuận “theo lẽ thường”, theo một chuẩn mực

giới đã thấm sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ. Chuẩn mực giới được tạo

nên bởi các truyền thống trong cộng đồng, đó là những giá trị và hành vi

mang tính phổ biến, được cộng đồng chấp nhận và trở thành những qui ước có

quyền lực đối với những hành vi, thực hành văn hóa của nam và nữ. Một số

phụ nữ mà chúng tôi đã gặp, tuy cũng nhận thức thấy sự vất vả của phụ nữ

Page 92: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

86

(phụ nữ cứ làm, làm, làm), vì việc nhà tuy nhẹ, nhưng lặp đi lặp lại, ngày này

qua ngày khác, bận rộn từ sáng đến tối, nhưng quan niệm truyền thống về

chuẩn mực giới vẫn chi phối thái độ ứng xử của họ. Người dân trong từng

cộng đồng tin rằng, nếu mình không làm theo những chuẩn mực giới đã được

hình thành và lưu giữ qua nhiều thế hệ là điều xấu hổ, sẽ không được cộng

đồng coi trọng. Cũng như phụ nữ, đàn ông được trông đợi phải tuân theo

những chuẩn mực giới, họ cần làm việc nặng, không làm những việc linh tinh.

Như vậy, những công việc mà người ngoài cho rằng rất vất vả và bất

công cho phụ nữ, có thể lại được người trong cuộc quan niệm như những

công việc hàng ngày tất yếu của cuộc sống. Nếu có cảm nhận về sự vất vả,

người phụ nữ lại thuận theo khuôn khổ của những thực hành truyền thống, để

đạt đến sự hòa thuận trong gia đình. Trường hợp không có sự chia sẻ công

việc, thì họ vẫn có khuynh hướng tránh phá vỡ mẫu hình lý tưởng của cộng

đồng, mà bản thân mình đã nhập tâm từ thơ ấu. Dưới góc độ nhân quyền và

giới thì việc thực hiện theo các phong tục truyền thống, đôi khi có thể đem lại

sự thiệt thòi cho phụ nữ, không thể được coi là lý do biện minh cho những đối

xử bất công đối với người phụ nữ.

Có thể lấy phụ nữ Mông là ví dụ điển hình cho sự tự ti, cam chịu của

người phụ nữ DTTS ở MNPB. Hình ảnh quen thuộc nhất đối với phụ nữ

Mông là với chiếc gùi trên lưng, đôi chân sải bước thoăn thoắt trên đường lên

nương, xuống chợ, trong khi đôi tay vẫn mải miết tước từng sợi lanh. Phụ nữ

Mông đảm đang, chịu khó, là những người chăm lo, vun vén gia đình và làm

hầu hết mọi việc từ nấu ăn, giặt giũ, kiếm củi, gùi nước, trông con cho đến

xuống chợ, làm nương... Mỗi ngày của họ bắt đầu từ khi con chim rừng chưa

hót sáng cho đến lúc nó đã tìm chốn ngủ từ lâu…, người phụ nữ không những

phải làm hết thảy công việc, mà còn phải phục vụ vô điều kiện, không một lời

ca thán… như lời bài thơ “Tiếng hát làm dâu”: “Năm nay em đi làm dâu/Em

làm chín thời mười giờ/Chẳng có lúc nào nghỉ/Trâu măng cày, dây khiếu

không biết ải/ Em đi làm dâu không có mùa nghỉ chỉ có mùa làm”.

Page 93: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

87

Nhiều người ca ngợi đức tính tuyệt vời của người phụ nữ Mông, hết

lòng vì chồng, con và gia đình, nhưng dưới góc độ nghiên cứu, có thể thấy

một khuôn phép giới, một sự bất BĐG quá lớn đối với người phụ nữ Mông

trong gia đình, một xu hướng trì trệ, lạc hậu kiểu quán tính, sức ì và cả sự tự ti

của một số phụ nữ, họ vẫn nghĩ việc nhà là thiên chức của mình, công việc

này so với các công việc mà người chồng làm thì không đáng kể, họ cảm thấy

ái ngại khi để chồng phải làm các “việc vặt” trong gia đình. Một bộ phận chị

em chưa nhận thức được rằng chính những “việc vặt” không tên này, làm cho

họ ít có cơ hội học tập để nâng cao trình độ hiểu biết, chính là một lực cản lớn

trên con đường tiến tới sự bình đẳng trong gia đình và xã hội.

Có thể khẳng định, phân công lao động trong hoạt động tái sản xuất là

một trong những lĩnh vực bất bình đẳng nhất giữa nam và nữ trong gia đình

DTTS MNPB hiện nay, những công việc ấy tưởng chừng như là đơn giản,

“nhẹ nhàng”, nhưng khối lượng công việc mà người phụ nữ phải thực hiện là

hết sức lớn và nặng nhọc, họ phải tập trung tâm trí, sức lực và thời gian để

thực hiện vai trò kép: vừa tham gia lao động sản xuất không kém gì nam giới,

đồng thời phải thực hiện sinh đẻ, nuôi dưỡng, nội trợ.

3.1.2.2. Tiếp cận các nguồn lực trong hoạt động tái sản xuất

- Quản lý tiền trong gia đình

Thông thường, trong gia đình Việt Nam, người đàn ông được coi như

“chiếc giỏ” - người kiếm tiền nuôi sống gia đình, còn người phụ nữ là “chiếc

hom” - người bảo quản, giữ vốn liếng của gia đình, vì một mặt phụ nữ biết chi

tiêu tằn tiện cho phù hợp với nguồn thu và nhu cầu của gia đình, mặt khác do

họ là người đảm nhiệm chính trong nội trợ gia đình, hàng ngày họ phải đi

chợ, lo cơm nước cho gia đình, nên họ quản lý quỹ chi tiêu thường xuyên

được coi là hợp lý. Trong sự vận động chung của xã hội, nói chung nếu vai trò

kiếm tiền chỉ là của đàn ông, thì khó có thể đảm bảo nuôi sống gia đình, phụ

nữ đã tham gia và đóng góp cho thu nhập của gia đình ngày càng tăng, nhưng

quan niệm về “chiếc hom” người giữ tiền thuần túy thì không mấy thay đổi.

Page 94: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

88

Kết quả khảo sát của luận án cho thấy, trong gia đình DTTS MNPB hiện

nay, nhìn chung vợ là người quản lý tiền chiếm tỷ lệ cao 73,2% và chỉ có 14,1%

là người chồng quản lý, cả hai vợ chồng cùng giữ chung chiếm 12% (Bảng 3.2).

Nếu xét theo khía cạnh tộc người, ta thấy có sự chênh lệch giữa nhóm dân tộc

Mông và dân tộc khác trong vấn đề quản lý kinh tế hộ gia đình. Phụ nữ trong gia

đình dân tộc Tày, Thái, La Hủ là người quản lý tiền chiếm tỷ lệ cao hơn so với

phụ nữ dân tộc Mông (68,8%), ngược lại nam giới trong gia đình dân tộc Mông

nắm giữ tiền nhiều nhất (18,8%) so với nam giới các dân tộc khác (Phụ lục 6).

Tuy nhiên nếu coi việc phụ nữ nắm nguồn thu nhập trong gia đình là một biểu

hiện của bình đẳng, thì điều đó là hoàn toàn không chính xác, vì dù là người giữ

tiền, nhưng phụ nữ không phải được tiêu một cách chủ động.

- Các biện pháp kế hoạch hóa gia đình

Sử dụng các biện pháp tránh thai, thực hiện kế hoạch hóa gia đình đóng

vai trò quan trọng trong bảo đảm sức khỏe của phụ nữ và trẻ em, vì giúp

phòng tránh được việc mang thai quá sớm hoặc quá muộn, nới rộng khoảng

cách các lần sinh con và quản lý được số con. Việc sử dụng các biện pháp

tránh thai của đồng bào DTTS MNPB gần đây có chiều hướng ra tăng, thể

hiện việc tiếp cận những thông tin và dịch vụ trách thai đối với đồng bào

DTTS đã có nhiều cải thiện. Nhiều nam giới đã là người chủ động sử dụng

các biện pháp tránh thai (15,3%).

Tuy vậy, ngoài một số ít các biện pháp tránh thai dành cho nam giới,

trách nhiệm giữ gìn sức khỏe và kế hoạch hóa gia đình chủ yếu vẫn nhằm vào

phụ nữ. Báo cáo của Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc cho biết, 80% trong số 283

cặp vợ chồng đã sử dụng những biện pháp tránh thai, nhưng những biện pháp

dành cho nữ chiếm tới 91% so với 9% nam giới sử dụng bao cao su và triệt

sản nam. Hay một nghiên cứu khác của Quỹ dân số Liên Hợp Quốc tại Mèo

Vạc cũng cho thấy những biện pháp kế hoạch hóa gia đình được người Mông

sử dụng như dụng cụ tử cung, uống thuốc tránh thai, tiêm thuốc tránh thai,

nạo hút thai chủ yếu vẫn tập trung vào phụ nữ [51, tr.27].

Page 95: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

89

Kết quả khảo sát của tác giả luận án cũng phản ánh thực trạng này, tỉ

lệ sử dụng các biện pháp tránh thai ở người vợ trong gia đình DTTS MNPB

là 60,4%, chồng là 15,3%, cũng như quan niệm của họ ai sử dụng thì tốt hơn

55,9% cho là vợ và 30,2% cho là chồng, những con số này đã thể hiện

khoảng cách giới rất lớn trong lĩnh vực dân số - kế hoạch hóa gia đình. Ở

vùng sâu vùng xa, tỷ lệ phụ nữ dùng các phương pháp đặt vòng, triệt sản cao

hơn hẳn nam giới. Số lượng phụ nữ MNPB đình sản cao gấp 3,4 lần nam

giới, số nam giới dùng bao cao su để phòng tránh thai thấp nhất cả nước

(9,3%) [76, tr.142]. Sự khác biệt này một phần do nam giới thiếu hiểu biết

kiến thức về sức khỏe sinh sản, ngoài ra do họ tin vào quan niệm lạc hậu vốn

có trong dân gian là sau khi đình sản người đàn ông bị ngu đần đi nhiều,

cũng như việc nhiều người nam giới sau khi sử dụng bao cao su không đúng

cách thất bại, nên họ từ chối các biện pháp tránh thai, để mặc việc sử dụng

các biện pháp tránh thai cho vợ. Mặt khác, phần lớn chính bản thân những

người phụ nữ DTTS cũng quan niệm rằng thực hiện kế hoạch hóa gia đình là

trách nhiệm của người vợ.

Quan niệm về vai trò của phụ nữ như người phụ thuộc vào chồng trong

xã hội phụ hệ, tiếp tục ảnh hưởng tới sức khỏe và hành vi sinh sản của phụ nữ

DTTS MNPB. Họ vẫn là đối tượng chính của các biện pháp tránh thai, là

người chịu trách nhiệm chính trong việc bảo vệ sức khỏe sinh sản. Việc các

chương trình bảo vệ sức khỏe sinh sản vẫn nhằm vào phụ nữ, có lẽ tạo thêm

một gánh nặng cho người phụ nữ vốn đã rất bận bịu với các trách nhiệm khác

trong gia đình.

3.1.2.3. Quyền ra quyết định trong hoạt động liên quan tới tái

sản xuất

- Quyết định các khoản chi trong gia đình

Kết quả khảo sát của luận án cho thấy, vai trò quyết định của phụ nữ

ngày càng trở nên quan trọng trong đời sống gia đình, thể hiện qua tỷ lệ cả hai

cùng quyết định các khoản chi tiêu lớn trong gia đình như: mua sắm đồ đạc

Page 96: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

90

đắt tiền, xây dựng nhà cửa, việc học hành của con là chỉ số cao nhất, có thể

thấy quan hệ dân chủ đang từng bước được tạo lập trong các gia đình, đây là

một bước tiến bộ lớn trong quan hệ giới của gia đình DTTS MNPB.

Mặc dù có được quyền ra quyết định đối với việc chi tiêu các công việc

quan trọng trong gia đình và có được phương tiện tài chính trong tay nhưng

trên thực tế người giữ tiền, quản lý tiền trong gia đình DTTS MNPB, không

đồng nghĩa với việc họ có quyền quyết định sử dụng tiền theo ý muốn chủ

quan của mình. Phần đông phụ nữ trong gia đình DTTSMNPB chỉ là người

giữ tiền, được quyền chi tiêu cho các “món lặt vặt” của cuộc sống thường

ngày như đi chợ mua những đồ dùng, vật dụng ít tiền, thậm chí quyền quyết

định của phụ nữ trong việc đi chợ mua những vật dụng ít tiền của vợ cao gấp

5 lần so với người chồng. Còn những khoản chi tiêu lớn, có ảnh hưởng đáng

kể đến đời sống kinh tế của các gia đình, thì vai trò quyết định của người đàn

ông là chủ yếu, cao gấp hơn 2 lần so với phụ nữ, cụ thể: nếu mua sắm đồ đắt

tiền thì do người chồng quyết định chiếm 34,5% cao gấp đôi so với người vợ

14,7%; nếu xây sửa nhà cửa thì quyền quyết định của chồng cũng cao hơn gấp

đôi so với người vợ (34,5 với 12,7) (Phụ lục 7).

Theo tương quan dân tộc, người chồng trong gia đình Mông có quyền

quyết định cao hơn các dân tộc khác, tuy nhiên xu hướng cả hai vợ chồng

cùng quyết định cũng chiếm tỷ lệ rất cao.

- Quyết định số con

Trong các gia đình được khảo sát tại địa bàn nghiên cứu, đối với việc

quyết định số con đều do cả hai vợ chồng cùng quyết định. Quyền quyết định

số con, do cả 2 vợ chồng cùng quyết định chiếm tỷ lệ cao 33,6%. Đây là một

bước tiến bộ rất lớn của sự bình đẳng nam nữ và qua đây ta cũng thấy rằng

nhận thức của đồng bào DTTS về kế hoạch hóa gia đình đã có nhiều sự thay

đổi theo hướng tích cực.

Tuy nhiên thực tế ở MNPB cũng cho thấy, có 49,3% người chồng là

người quyết định cuối cùng về số con trong gia đình, quyền quyết định cao

Page 97: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

91

gấp 3 lần so với người vợ (Phụ lục 7), người vợ tuy là người mang nặng đẻ

đau nhưng lại không phải là người quyết định chính về việc sinh con, nên tỷ

lệ gia đình có đông con đang là một thách thức của gia đình DTTS MNPB

hiện nay trong cuộc đấu tranh xóa bỏ nghèo đói.

Kinh tế truyền thống của đồng bào DTTS là kinh tế nương rẫy, đòi hỏi

cường độ lao động cơ bắp rất cao, nên sức lao động trở thành nguồn tài sản

quan trọng nhất. Gia đình nào có nhiều lao động, thì số lương thực thu về

càng nhiều, vì vậy đã hình thành tâm lý cần đông con nhiều cháu. Tâm lý này

càng được củng cố ở các làng dân tộc còn du canh du cư và vẫn chi phối số

đông dân tộc còn sản xuất nương rẫy.

Với dân tộc Mông, vai trò của dòng họ cũng như vị trí của mỗi gia

đình đối với cộng đồng, phụ thuộc rất nhiều vào số lượng con trai trong gia

đình và dòng họ đó. Gia đình, dòng họ nào càng có nhiều con trai, thì càng

được xem là gia đình và dòng họ có sức mạnh và uy tín trong quyết định

những công việc chung của cộng đồng. Người Mông quan niệm con trai là

trụ cột của gia đình, con gái chỉ là người nội trợ. Do đó khi sinh, nếu đẻ con

trai, nhau thai sẽ được chôn dưới cột chính với ý nghĩa con trai là trụ cột.

Nếu đẻ con gái, nhau thai chôn ở gầm giường với ý niệm con gái là người

quán xuyến việc nhà. Người Mông còn cả hệ thống tục ngữ ca ngợi việc sinh

con trai, ca thán việc sinh con gái: “Đẻ con gái như gáo nước đổ đi rồi không

lấy lại được”, “Con gái chỉ giúp nhà một thời, con trai giúp nhà cả đời”. Qua

phỏng vấn có tới 84% nam nữ thanh niên được hỏi đều mong muốn có cả

con trai, con gái, trong đó 89% số người được hỏi cho rằng gia đình hạnh

phúc là phải có con trai. Con trai không chỉ là niềm tự hào cho cả gia đình,

mà còn là niềm tự hào với cả dòng họ. Trước sức ép của nhiều phía, buộc

người phụ nữ phải sinh nhiều con, mặc dù chính họ không muốn điều đó.

Một số nghiên cứu khác cũng đã đưa ra các kết luận cho rằng, việc sinh cho

bằng được con trai để có người nối dõi, có người thừa hưởng tài sản dòng

họ, thực sự là một vấn đề gây ra những ảnh hưởng lớn đến đời sống tâm lý,

Page 98: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

92

hạnh phúc gia đình của rất nhiều phụ nữ. Luật tục của một số dân tộc quy

định chỉ có con trai mới được thừa kế tài sản, nhà cửa đất đai và luật tục này

vẫn còn duy trì mạnh mẽ trong đời sống của người dân trong các bản. Nếu

không có con trai, người phụ nữ phải đồng ý cho chồng tìm kiếm người khác

để có con trai, hoặc phải đi tìm con trai nhà khác để có thể nhận làm con

nuôi. Ngoài ra, đối với người La Hủ, vì trông chờ gạo cứu đói của Nhà nước

với tiêu chuẩn 15kg/khẩu/tháng, nên cho rằng “càng đẻ nhiều con, cán bộ

càng cho nhiều gạo”.

3.1.2.4. Thụ hưởng lợi ích

- Chăm sóc sức khỏe

Sức khoẻ là một tài sản hết sức quan trọng đối với con người, là một

trong những yếu tố ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của cộng đồng, vì nó

không chỉ làm tăng khả năng lao động, mà còn cải thiện chất lượng cuộc sống

của chúng ta. Vì thế, quan tâm và cải thiện sức khoẻ cho đồng bào các DTTS từ

lâu đã là một phần quan trọng trong chính sách của Chính phủ nhằm quan tâm,

giúp đỡ vùng rừng núi, vùng sâu, vùng xa tiến kịp cùng với đồng bằng và thành

phố. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn đồng bào các DTTS nói chung, trong đó có

DTTS MNPB chưa được hưởng lợi nhiều từ những chính sách này.

Với câu hỏi “Trong 12 tháng qua, ông/bà có đi khám bệnh không?”,

kết quả là chỉ có 45% trả lời là có. Có thể thấy, tự điều trị khi ốm đau là hình

thức phổ biến của đồng bào DTTS MNPB, tỷ lệ sử dụng các dịch vụ y tế công

là rất thấp, trừ khi người dân mắc phải bệnh nặng. Vì mỗi dân tộc đều có

phương thuốc truyền thống của mình, đồng bào DTTS dùng rất nhiều loại

thảo mộc để chữa các triệu chứng như sốt, tiêu chảy, đau đầu và những bệnh

thông thường khác. Trong số những người trong năm qua có đi khám bệnh,

thì 76% lựa chọn đến cơ sở y tế ở địa phương, chỉ có 24% lựa chọn đến các

cơ sở y tế xa hơn ở tỉnh và trung ương, với điều kiện trang thiết bị tốt hơn. Có

sự khác biệt nhất định giữa phụ nữ và nam giới trong tiếp cận các dịch vụ

chăm sóc sức khỏe. Phụ nữ thường sử dụng những dịch vụ ở gần, ít tốn kém,

Page 99: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

93

trong khi nam giới sử dụng các dịch vụ y tế ở xa, cần nhiều chi phí vật chất và

thời gian của các thành viên trong gia đình nhiều hơn phụ nữ. Vậy là, nam

giới có xu hướng được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt, hiện đại

hơn so với nữ giới.

Xét theo tương quan dân tộc, thì dân tộc Thái, Tày có điều kiện tiếp cận

dễ dàng hơn với các bệnh viện tuyến trên, cả về khả năng tài chính, khoảng

cách và phương tiện đi lại. Dân tộc Tày, Thái, do cư trú ở vùng thấp, có điều

kiện phát triển kinh tế thuận lợi hơn, kế hoạch hóa gia đình cũng thực hiện

sớm hơn, đời sống kinh tế hộ gia đình ổn định, nên nhóm cư dân này dễ dàng

tiếp cận được với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Trong khi đó, dân tộc

Mông, La Hủ thường cư trú ở các làng xa xôi, hẻo lánh, kinh tế hộ gia đình

còn nhiều khó khăn, nên việc chăm sóc sức khỏe chưa được quan tâm đúng

mức, số lượng người đi khám chữa bệnh là rất ít. Theo kết quả điều tra thực

trạng kinh tế - xã hội 53 DTTS thì, khoảng cách trung bình từ nhà tới trạm y

tế của dân tộc Tày là 2,9km; Thái là 4,1km; Mông 7,3km; La Hủ 9,1km;

khoảng cách trung bình từ nhà tới bệnh viện của các dân tộc Tày, Thái, Mông,

La Hủ tương ứng là 15km, 20,5km, 27,8km, 39,2km [93, biểu 23].

Đối với chị em phụ nữ Mông, La Hủ, việc khám bệnh chỉ được thực

hiện khi trạm y tế xã tiến hành các chiến dịch khám phụ khoa và chăm sóc

sức khỏe bà mẹ trẻ em ngay tại bản. Ngoài ra trình độ học vấn, khả năng dùng

tiếng Kinh chính là yếu tố làm tăng nhận thức của phụ nữ trong chăm sóc sức

khỏe sản phụ, khi nhóm phụ nữ có học vấn cao hơn đi khám thai nhiều lần có

tỷ lệ cao hơn.

Tác giả luận án không có số liệu cụ thể chứng minh cho sự bất BĐG

trong chăm sóc sức khỏe giữa nam và nữ trong gia đình DTTS ở MNPB, tuy

nhiên theo nhận định chủ quan của tác giả luận án thì phụ nữ chịu nhiều thiệt

thòi hơn so với nam giới trong chăm sóc sức khỏe. Dù phụ nữ là người có trách

nhiệm chính trong chăm sóc sức khỏe cho các thành viên gia đình, nhưng họ

Page 100: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

94

lại ít được chăm sóc, kể cả khi mang thai, thậm chí phải lao động cho đến tận

giờ sinh và sinh con trên nương rẫy.

Theo khuyến cáo của UNICEF và WHO trong suốt thời kỳ mang thai,

phụ nữ phải khám thai tối thiểu 4 lần. Khám thai sớm rất quan trọng đối với

phụ nữ mang thai để phòng ngừa và phát hiện các vấn đề có thể ảnh hưởng

đến bà mẹ và thai nhi, việc khám thai cần được duy trì trong suốt thời kỳ

mang thai. Nhưng số phụ nữ mang thai không đi khám thai lần nào của vùng

MNPB chiếm tới 16,8% cao nhất cả nước [76, tr.151]. Tỷ lệ phụ nữ từ 15 - 49

tuổi được khám thai bởi bác sỹ là 71,2%; được chăm sóc bởi cán bộ y tế được

đào tạo chuyên môn của vùng MNPB thấp nhất cả nước (82,7%) thấp hơn

15,9 điểm so với đồng bằng sông Hồng [76, tr.150].

Tăng tỷ lệ sinh con tại cơ sở y tế là một yếu tố quan trọng, làm giảm

các rủi ro cho sức khỏe bà mẹ và trẻ nhỏ. Chăm sóc y tế đúng cách và điều

kiện vệ sinh trong khi sinh, có thể làm giảm những rủi ro về tai biến hoặc

nhiễm trùng có thể dẫn đến bệnh tật hoặc tử vong cho mẹ hoặc bé. Tuy nhiên,

tỷ lệ sinh con tại nhà ở MNPB cao nhất nước, chỉ có 72,6% được đỡ đẻ bởi

nhân viên y tế (đồng bằng sông Hồng là 92,9%), có tới 16,6% do người quen

đỡ đẻ và 0,9% không ai đỡ đẻ cho họ [76, tr.156].

Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy, trong khi hầu hết phụ nữ Tày,

Thái đã đến trạm y tế hay những cơ sở y tế khác, thì phụ nữ La Hủ đẻ ở nhà

vẫn chiếm tỷ lệ cao, khi sinh nở thường chỉ do sản phụ tự đỡ, tự cắt dây rốn

bằng cật nứa. Tìm hiểu nguyên nhân tình trạng trên, ngoài vấn đề tập quán

còn do tâm lý xấu hổ, ngại tiếp xúc với người lạ, không muốn người khác sờ

vào người và biết được “cái riêng của họ”, một số thì cho rằng đẻ ở nhà đỡ

tốn kém, không phải đi xa, đường sá cách trở và không biết tiếng kinh.

Vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, hạn chế trong nhận thức về chăm sóc

sức khỏe sinh sản, nên nhiều phụ nữ đã không được nghỉ ngơi. Công việc của

họ không hề giảm đi trong suốt thời kỳ mang thai, họ vẫn phải gánh vác nặng,

Page 101: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

95

leo núi, đi rừng… Họ cho rằng phải làm cố để khi đẻ có cái mà ăn, có củi mà

sưởi. Họ thường tự an ủi “cái khó nó bó cái khôn, không làm lấy gì mà ăn”,

hoặc né tránh vấn đề này theo hướng lạc quan “lao động nhiều nên rất dễ đẻ,

có khi đang làm việc thấy có dấu hiệu muốn đẻ, thì chỉ trong vòng 1 giờ sau là

cháu bé đã ra đời”. Trước thực trạng này, vấn đề đặt ra là cần tăng cường

tuyên truyền bằng nhiều hình thức, để người dân hiểu được sự cần thiết của

việc giảm cường độ lao động nặng nhọc đối với phụ nữ khi mang thai, giúp

họ thấy rõ cái được và cái mất trong việc thu xếp thời gian nghỉ ngơi một cách

hợp lý cho người phụ nữ khi họ mang thai và trước khi sinh đẻ.

Vấn đề dinh dưỡng cho thai phụ cũng rất quan trọng, tuy nhiên do đời

sống khó khăn, nên việc bổ sung dinh dưỡng cho thai phụ thực sự không dễ

dàng. Bên cạnh chế độ dinh dưỡng, việc nghỉ ngơi sau đẻ cũng rất cần thiết

để bảo vệ sức khỏe. Tuy nhiên, nhiều chị em phụ nữ DTTS MNPB chỉ một

tuần sau đẻ đã trở dậy làm việc nhà, thậm chí có trường hợp người mẹ lên

nương sau khi đẻ 3 ngày. Thực tế này, vô cùng bất lợi cho sức khỏe bà mẹ

và trẻ sơ sinh. Theo số liệu thống kê, thì việc phụ nữ của MNPB được kiểm

tra sức khỏe sau sinh là thấp nhất nước, tỷ lệ phụ nữ không có ai chăm sóc

sức khỏe sau sinh trong vòng 2 ngày là 24,2% gấp 3 lần so với trung bình

của cả nước [76, tr.173].

Phần trăm trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú sữa mẹ hoàn toàn của MNPB

là 41,0% cao nhất nước, trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú sữa mẹ chủ yếu của

vùng là 55,3% cao hơn nhiều vùng trong cả nước. Có thể thấy, trẻ em DTTS

MNPB sinh ra được nuôi dưỡng chủ yếu bằng nguồn sữa mẹ, thậm chí đến

khi đứa bé lên bốn, năm tuổi mới được mẹ cai sữa. Trong khi phần lớn các bà

mẹ này luôn phải lao động nặng nhọc, không có thời gian nghỉ ngơi sau khi

sinh nở và cũng không có bất cứ sự bồi dưỡng ăn uống đặc biệt nào dành cho

bà mẹ cho con bú, thì việc đảm bảo cung cấp đủ nguồn sữa cho con bú là một

điều rất khó khăn đối với họ, cũng như họ có thể có đủ dinh dưỡng để phục

hồi lại sức khỏe của mình.

Page 102: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

96

- Giải trí

Hiện nay, phương tiện nghe nhìn ngày càng hiện đại, phong phú, nhiều

hộ gia đình DTTS MNPB đã sắm được ti vi, đài,…, theo kết quả khảo sát

mức sống hộ gia đình năm 2012 ở MNPB có 83,6% hộ dân có ti vi; 4,1% có

dàn nghe nhạc; 48,9% có đầu video; 8,9% có vi tính [71, tr.295], nên sau một

ngày làm việc vất vả, người dân MNPB nói chung và đồng bào DTTS nói

riêng có thể thưởng thức những chương trình mình ưa thích ngay tại nhà.

Kết quả khảo sát của luận án về sự hưởng thụ văn hóa hoặc sử dụng

thời gian ngoài lao động sản xuất, cho thấy phụ nữ và nam giới có sự khác

biệt trong việc sử dụng thời gian rỗi. Nam giới có nhiều thời gian để nghỉ

ngơi, hưởng thụ lợi ích tinh thần hơn phụ nữ (Phụ lục 9). Kết quả khảo sát của

tác giả phần nào cũng tương ứng với số liệu của MICS 2014 về phần trăm phụ

nữ từ 15 - 49 tuổi được tiếp cận hàng tuần với các phương tiện truyền thông,

ở MNPB chỉ có: 26,7% phụ nữ đọc báo ít nhất 1 lần/tuần; 22,4% nghe đài ít

nhất 1 lần/tuần; và có tới 9,1% không đọc báo, không nghe đài, không xem ti

vi ít nhất 1 lần/tuần, cao nhất so với các vùng được khảo sát [76, tr.266]. Có

thể thấy một nghịch lý đang diễn ra ở đây, mặc dù xã hội bùng nổ thông tin,

đời sống văn hóa tinh thần rất sôi động, nhưng ít phụ nữ DTTS có điều kiện,

cơ hội để tiếp nhận thông tin, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.

Ngoài việc dành thời gian rỗi để nghỉ ngơi, xem tivi, thì phụ nữ làm

nhiều việc khác như thêu may, bán hàng… nhiều hơn nam giới, đó là chưa kể

phần lớn họ không có thời gian nhàn rỗi. Ngoài lo công việc sản xuất, phụ nữ

còn lo công việc nội trợ, nên họ không có thời gian nghỉ ngơi thực sự trong

ngày. Rõ ràng việc sử dụng thời gian của phụ nữ cho nghỉ ngơi, hưởng thụ

các loại hình văn hóa là rất ít, cả về thời lượng, cũng như trong tương quan

với nam giới trong gia đình. Ước muốn thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu

sống cho mọi thành viên trong gia đình, đã không ngừng thôi thúc người phụ

nữ, khiến họ càng ngày càng ra sức lao động chăm chỉ, cần mẫn, tích cực. Họ

đã và đang phải làm việc vô cùng cực nhọc, sẵn sàng chấp nhận hy sinh toàn

Page 103: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

97

bộ thời gian, tâm lực, sức khỏe của mình, để mong có thể cải thiện được cuộc

sống gia đình. Phần lớn họ chú trọng nhiều tới việc làm thế nào để thỏa mãn

được nhu cầu vật chất tối thiểu, hơn là mong được đáp ứng các nhu cầu văn

hóa tinh thần. Sự bất BĐG trong hưởng thụ văn hóa đã trở thành tập quán,

một nếp sinh hoạt quen thuộc.

Với phụ nữ DTTS muốn nâng cao đời sống văn hóa thật sự hết sức khó

khăn, có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn tới thực trạng này. Khi tìm hiểu

nguyên nhân, tùy địa bàn, tùy điều kiện sinh hoạt, hoặc nhận thức của mỗi

người, mà các lý do đưa ra khác nhau, nhưng nguyên nhân được đại đa số nhắc

tới là không có thời gian. So sánh giữa các nhóm dân tộc thuộc phạm vi nghiên

cứu của luận án cho thấy, ngay trong nhóm nữ cũng có sự khác biệt về mức độ

hưởng thụ phúc lợi gia đình (thời gian dành cho hoạt động vui chơi, giải trí).

Tỷ lệ nghỉ ngơi tại nhà, đi chơi bản/xóm, đọc sách báo, nghe đài/xem tivi của

phụ nữ Thái, Tày là cao hơn nhiều so với phụ nữ Mông, La Hủ (Phụ lục 9).

Nguyên nhân là do điều kiện kinh tế của nhóm Mông, La Hủ khó khăn,

cư trú ở vùng cao, biệt lập, trình độ nhận thức thấp, mù chữ và mức độ biết

tiếng phổ thông thấp hơn nhiều lần so với các dân tộc Tày, Thái. Đối với

người Mông, La Hủ do địa bàn cư trú quá cao, nên không có phủ sóng thông

tin, chỉ có 0,2% gia đình La Hủ và 0,6% gia đình Mông có kết nối Internet,

trong khi đó tỷ lệ này trong gia đình Tày, Thái cao hơn thậm chí gần 10 lần

[93, biểu 21], ngoài ra do thu nhập quá thấp nên chỉ có một số hộ trong bản

của người La Hủ sắm được đài, chỉ có 1,7% hộ gia đình La Hủ là có đài.

Ngoài ra có thể thấy, trình độ văn hóa thấp và sự không thông thạo tiếng phổ

thông là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới việc tiếp thu thông điệp và kiến

thức. Ngược lại từ khá lâu, bên cạnh tiếng dân tộc, ngôn ngữ phổ thông đã

được coi như là ngôn ngữ chính trong giao tiếp của dân tộc Tày, Thái. Trình

độ văn hóa cao hơn, sự thông thạo tiếng phổ thông là nhân tố quan trọng để

phụ nữ Tày, Thái, có thể tiếp cận dễ dàng các nguồn thông tin, kiến thức phát

qua các kênh truyền thông đại chúng và các kênh truyền thống khác. Trong

Page 104: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

98

khi đó có một bộ phận không nhỏ phụ nữ Mông, La Hủ, không hiểu được

tiếng phổ thông.

Tóm lại, mặc dù quan hệ trong gia đình DTTS MNPB có xu hướng

bình đẳng và dân chủ hơn, nhưng đàn ông - trụ cột của gia đình, vẫn có nhiều

lợi thế hơn so với phụ nữ, tiếng nói trọng lượng hơn phụ nữ trong các quyết

định lớn của gia đình. Nếu nhìn nhận việc quyết định, thụ hưởng lợi ích từ các

công việc trong gia đình theo tương quan dân tộc, thì ta thấy trong gia đình

dân tộc Thái, Tày, tỷ lệ cả hai vợ chồng cùng bàn bạc quyết định các công

việc cao hơn trong gia đình dân tộc Mông, La Hủ. Trong gia đình Thái, Tày

người phụ nữ được chia sẻ, được thụ hưởng lợi ích một cách tốt hơn so với

dân tộc Mông, La Hủ.

Bình đẳng giới trong lao động gia đình không đồng nghĩa với việc chia

đều công việc gia đình giữa nam và nữ, cũng không phải bắt phụ nữ từ bỏ

việc chăm sóc gia đình. Song gánh nặng công việc của vai trò kép đè lên vai

người phụ nữ DTTS, đã cản trở sự phát triển của họ khi muốn nâng cao năng

lực phát triển, tham gia vào thị trường lao động để nâng cao vị thế của mình.

Vì vậy, sự cảm thông, chia sẻ của người chồng, quan tâm của xã hội là hết sức

cần thiết.

3.1.3. Trong hoạt động cộng đồng

3.1.3.1. Phân công lao động

Hoạt động cộng đồng của đồng bào dân tộc DTTS MNPB trong phạm

vi nghiên cứu của luận án bao gồm: dự đám hiếu/hỉ, giao tiếp với chính

quyền, họp bản làng, tiếp khách, làm vệ sinh làng xóm, cúng giỗ của làng.

Trong đời sống từ xưa, những việc như thế này chỉ do nam giới đảm nhận,

không phải chỗ cho phụ nữ, trẻ nhỏ. Hiện nay những công việc cộng đồng

không chỉ là công việc của nam giới nữa, mà thay vào đó phụ nữ đã tham gia

nhiều hơn, có tiếng nói nhiều hơn trong việc tham gia vào các công việc

mang tính cộng đồng. Kết quả khảo sát của luận án, đã cho thấy trong những

công việc như ma chay, cưới xin thờ cúng tổ tiên, thăm viếng họ hàng, vệ

Page 105: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

99

sinh làng xóm thì tỉ lệ tham gia của nam giới so với nữ giới chênh lệch nhau

không đáng kể, mà những người được hỏi đều cho rằng cả vợ và chồng đều

có mức độ thường xuyên tham gia như nhau trong những công việc mang

tính cộng đồng.

Bảng 3.3: Người đại diện cho gia đình tham gia hoạt động cộng đồng

Vợ Chồng Cả hai Người

khác

Người tham gia

Hoạt động TL% TL% TL% TL%

Dự đám hiếu/hỉ 26,4 35,3 34,6 3,7

Giao tiếp với chính quyền 20,9 47,6 29,5 2,0

Họp bản làng 20,3 46,3 31,7 1,7

Tiếp khách 22,5 38,4 37,8 1,3

Làm vệ sinh làng, xóm 29,7 21,3 38,1 11,0

Cúng giỗ của làng 2,6 58,4 37,5 1,5

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Trong việc tham gia các hoạt động của cộng đồng, chỉ số thấp nhất của

người phụ nữ chính là việc tham gia cúng giỗ của làng. Người phụ nữ ít tham

gia vào hoạt động cúng giỗ làng, vì theo luật tục của đồng bào DTTS, nam

giới luôn chịu trách nhiệm thực hiện các nghi lễ tín ngưỡng tôn giáo trong

khuôn khổ gia đình, làng bản. Nam giới cũng là người thực hiện chức năng

đối ngoại, thay mặt gia đình tham dự các công việc của dòng họ, làng bản. Có

chỉ số duy nhất mà phụ nữ tham gia nhiều hơn so với nam giới đó chính là

việc tham gia dọn dẹp, làm vệ sinh làng xóm. Giống như hoạt động sản xuất,

tái sản xuất, trong hoạt động cộng đồng, ta thấy nam giới thường đảm nhận

chính trong những công việc được coi là quan trọng hơn, thậm chí có những

việc cao gấp hơn rất nhiều lần so với phụ nữ, phụ nữ chỉ đóng vai trò thứ yếu.

Page 106: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

100

Vậy là, phân công lao động theo giới trong gia đình DTTS MNPB,

không những được quy định bởi tính chất “nặng - nhẹ”, mà còn có khác

biệt về không gian. “Việc đàn ông” không chỉ là những việc đòi hỏi nhiều

sức lao động, mà còn bao gồm những trách nhiệm liên quan tới giao tiếp xã

hội “bên ngoài”.

Số liệu phân tích cho thấy sự khác biệt rất rõ, về nội dung họp, tập huấn

mà phụ nữ hay nam giới tham gia. Nam giới tham gia với tỷ lệ cao hơn ở các

lớp họp, tập huấn về kỹ thuật nông nghiệp, ngược lại, phụ nữ tham gia với tỉ

lệ cao hơn ở các lớp chăm sóc sức khỏe và dân số, kế hoạch hóa gia đình. Các

lớp tập huấn kỹ thuật nông, lâm nghiệp, tỉ lệ tham gia nam là 40,5%, còn nữ

là 22,8%, trong khi đó, các tỉ lệ tương ứng tham gia các lớp về dân số, kế

hoạch hóa gia đình là 22,6% và 43,5% (Phụ lục 11). Điều đáng chú ý là mặc

dù tỷ lệ phụ nữ đảm nhận việc chính trong nông nghiệp là lớn, nhưng cơ hội

tập huấn luôn thấp hơn nam giới. Ngoài những nguyên nhân liên quan đến cơ

hội học tập nói chung của phụ nữ như vướng bận gia đình, thì có thể còn

nguyên nhân từ cơ chế tổ chức lớp học, tiêu chuẩn học viên… Dù nguyên

nhân cụ thể là gì, thì thực trạng tổ chức tập huấn này, cũng không góp phần

nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực trong nông nghiệp, xét ở cả góc độ hiệu

quả sản xuất và hiệu quả đào tạo, tập huấn, khi người làm nghề không được

học và người học chưa hẳn đã làm nghề.

3.1.3.2. Tiếp cận các hoạt động cộng đồng

Xét riêng số lần tham gia tập huấn ở nhóm nam, nữ, số liệu cũng cho

thấy, tỷ lệ nam giới tham dự các lớp tập huấn kỹ thuật nông nghiệp cao hơn

nữ giới. Tỷ lệ nam giới đã nhiều lần dự tập huấn là 21,1% trong khi tỷ lệ này

ở nữ là 15,7%. Trước hết nam giới thường là chủ hộ nên họ được mời đi

họp. Nam giới là người đóng vai trò quyết định trong việc điều hành, đối

nội và đối ngoại của gia đình. Vẫn còn nhiều dân tộc còn giữ phong tục cản

trở phụ nữ tham gia các sinh hoạt cộng đồng như tang ma, cưới xin, hội

Page 107: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

101

họp, hiện tượng này được gọi là “đi họp đội mũ, ra đồng đội nón”, có nghĩa

là nam giới thì đi họp còn phụ nữ thì đi đồng. Các số liệu cho thấy, nam giới

vẫn là nhân vật chính trong các hoạt động cộng đồng, nhưng cũng đang có sự

chia sẻ và chuyển dịch vai trò giữa nam và nữ.

Nếu theo tương quan nhóm dân tộc, có thể thấy nhóm dân tộc Tày,

Thái đánh giá cao sự tiến bộ phụ nữ, vai trò cộng đồng của phụ nữ lớn hơn

so với nhóm Mông, La Hủ. Do vậy địa vị của phụ nữ Thái, Tày cao hơn, họ

được bình đẳng, tự do tham gia các hoạt động xã hội. Ngoài ra phụ nữ Tày,

Thái có trình độ học vấn cao hơn, thông thạo tiếng phổ thông hơn phụ nữ

dân tộc Mông, La Hủ, nên họ có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với các hoạt

động tuyên truyền. Do canh tác lúa nước, ruộng gần bản, nên phụ nữ Thái,

Tày không cần phải đi nương liên tục như phụ nữ Mông, nên họ cũng tham

gia họp đội sản xuất hoặc phụ nữ, được thường xuyên tiếp xúc với các

nhóm chị em, bạn bè. Trong khi đó phụ nữ Mông, khi lập gia đình sống lệ

thuộc hoàn toàn vào người chồng và hầu như không tham gia các hoạt động

xã hội, chế độ gia trưởng phụ quyền còn tồn tại mạnh mẽ. Phụ nữ Mông

hoàn toàn lệ thuộc vào đàn ông, công việc trong gia đình đều do đàn ông

quyết định.

3.1.3.3. Quyền quyết định trong tham gia hoạt động cộng đồng

Kết quả khảo sát cho thấy, Trong các nhóm công việc này của gia đình,

tỷ lệ người phụ nữ làm chính thấp nhất là 20,9%, cao nhất là 26,5%, điều này

cho thấy đây là một bước tiến bộ rõ rệt về vị thế của người phụ nữ. Sự hiện

diện của phụ nữ một cách thường xuyên với tư cách là người đại diện cho gia

đình, người chủ gia đình để dự các đám hiếu, hỉ, tiếp khách, làm việc với

chính quyền đoàn thể, tham gia hội họp bàn bạc và quyết định những vấn đề

quan trọng của cộng đồng - các lĩnh vực hoạt động vốn rất thành kiến giới

trong truyền thống này, là một bước tiến bộ quan trọng của phụ nữ DTTS, đó

thực sự là sự hòa nhập vai trò giới và thay đổi vị thế một cách tích cực.

Page 108: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

102

Tuy đã có một tỷ lệ nhất định phụ nữ đảm nhận chính, hoặc cả hai vợ

chồng đều tham gia như nhau, nhưng nam giới vẫn là người giữ vai trò chính,

tỷ lệ nam giới tham gia các cuộc họp thường xuyên cao hơn phụ nữ. Một điều

đáng chú ý là khi đi họp, đa số phụ nữ các nhóm DTTS MNPB rất ít khi tham

gia phát biểu, vì họ thiếu kiến thức, ít hiểu biết về các nội dung họp, họ tự ti

mặc cảm và ngại nói trước đám đông. Hơn nữa do định kiến xã hội, trong các

cuộc họp thôn bản điều hành chủ yếu là nam giới, nhiều người trong số họ

chưa ý thức được việc khuyến khích phụ nữ phát biểu không phải lúc nào ý

kiến của phụ nữ cũng được nam giới ủng hộ. Có những phụ nữ phát biểu

hăng hái quá đã bị một số người (cả nam và nữ) cho là nam tính và nhìn họ

không mấy thiện cảm, cách đối xử này đã làm giảm sự nhiệt tình của chị em

và ảnh hưởng đến chất lượng đóng góp của họ.

3.1.3.4. Thụ hưởng lợi ích

Việc tham gia các hoạt động cộng đồng đem lại nhiều lợi ích cho đồng

bào DTTS, họ có thể thu nhận những thông tin mang tính thời sự ở địa

phương, cũng như để củng cố kỹ năng sinh kế và quan trọng hơn qua đó họ

ngày càng nhận ra giá trị của sự tham gia, để có được hiểu biết và để nói tiếng

nói của mình. Với phụ nữ DTTS, những cuộc họp này góp phần tăng cường

hạnh phúc cho họ, qua việc tạo thời gian nghỉ ngơi và giao tiếp xã hội, những

việc mà trước đây phụ nữ rất ít khi có điều kiện thực hiện, có thể thấy đây là

một lợi ích gián tiếp, tác động tích cực đến cuộc sống tình cảm của phụ nữ và

giúp họ cảm thấy hạnh phúc.

Hiện nay, việc tiếp cận và thụ hưởng các giá trị từ các hoạt động của

phụ nữ DTTS MNPB còn nhiều hạn chế so với nam giới. Theo tác giả luận

án, có ba lý do chính khiến nam giới có nhiều cơ hội, điều kiện để tham dự

các hoạt động cộng đồng hơn so với nữ. Thứ nhất, theo quan niệm phổ biến

truyền thống, đã trở thành những “chuẩn mực” trong phân công lao động của

gia đình, đàn ông là người hiểu biết hơn và họ giữ vai trò “lãnh đạo”, chủ hộ

Page 109: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

103

trong gia đình và trong các sinh hoạt cộng đồng, phụ nữ phần đông là “trợ lý”

là người thừa hành công việc, quan niệm trên vô hình chung đã tạo cơ hội cho

nam giới được ưu tiên trong việc đi học, đi tập huấn, đi họp thôn xã, tiếp xúc

với thị trường, nắm bắt các thông tin, kỹ thuật mới, nâng cao giá trị đóng góp

của nam giới và khép lại cơ hội, sự tham gia và tiếng nói của phụ nữ trong các

công việc quan trọng của gia đình và cộng đồng. Thứ hai, phụ nữ vì phải dành

nhiều thời gian cho công việc nội trợ trong gia đình và chăm sóc con cái, nên

họ có ít điều kiện để tham gia sinh hoạt cộng đồng. Thực tế cho thấy, nếu

trong gia đình người vợ vừa phải lo kiếm sống, vừa phải lo công việc nội trợ,

chăm sóc con cái, thì họ không thể có thời gian để đọc báo, vui chơi giải trí.

Thời gian làm việc nhà của phụ nữ nhiều hơn rất nhiều so với nam giới, đối

với dân tộc Thái phụ nữ làm 75% việc nhà, còn dân tộc Mông, Dao phụ nữ

làm trên 90% việc nhà. Một kết quả nghiên cứu của tác giả Phan Thị Nhiệm

cho thấy phụ nữ làm việc 4309 giờ/ năm, vượt xa nam giới với 2955 giờ, gần

gấp rưỡi so với nam giới [49, tr.37].

Trong các phỏng vấn sâu của tác giả luận án, hầu hết các ý kiến đều

cho rằng, thời gian làm việc trong ngày của phụ nữ thường kéo dài hơn nam

giới. Ngoài thời gian dành cho sản xuất là tương đương giữa nam và nữ

(khoảng 8h/ngày), nam giới thường chăm sóc con cái dưới 1h, công việc gia

đình cũng rất ít, trong khi nữ giới phải mất 2 -3 giờ cho con cái và khoảng

bằng ấy thời gian cho nội trợ và dọn dẹp nhà cửa.

Mặt khác, việc phụ nữ dành hầu hết thời gian chăm sóc các thành viên

gia đình, cũng có nghĩa họ không có điều kiện tham gia các hoạt động trong

xã hội. Vì vậy mà, phụ nữ không có điều kiện để tiếp cận với các cơ hội phát

triển, học hỏi và trao đổi kiến thức tăng gia sản xuất hay tiếp cận những

nguồn lực kinh tế có thể giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của bản thân và

gia đình. Thứ ba, người phụ nữ còn mang tâm lý tự ti, ngại tiếp xúc do trình

độ học vấn thấp.

Page 110: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

104

Như vậy, có nhiều nguyên nhân cản trở người phụ nữ tham gia hoạt

động cộng đồng, chủ yếu là do nguyên nhân khách quan từ dư luận cộng

đồng, xã hội và ảnh hưởng của sự phân công lao động dựa trên cơ sở giới tính

trong nhiều gia đình các DTTS. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan từ phía bản

thân phụ nữ là yếu tố không nhỏ - đó là thái độ tự ty, mặc cảm, ngại giao tiếp

với cộng đồng, do hạn chế về vốn hiểu biết xã hội, cũng như trình độ học vấn.

Vì vậy, phụ nữ muốn khẳng định tiềm năng, vị thế xã hội của mình trong các

hoạt động cộng đồng, thì bên cạnh sự quan tâm của nam giới, chị em phải tự

vượt lên chính mình, tự học hỏi nâng cao trình độ hiểu biết của mình và tích

cực, chủ động tham gia công tác xã hội.

Tóm lại, mối quan hệ giới trong các cộng đồng DTTS không tĩnh tại,

mà cũng đã có sự thay đổi rất nhiều, cùng với sự biến động của đời sống xã

hội, của quá trình định canh định cư, quá trình đô thị hóa và tác động của

truyền thông đại chúng, việc giảm nhẹ các nghi lễ thực hành truyền thống

cũng dẫn đến những quan niệm cởi mở hơn về vai trò và vị thế của vợ và

chồng. Theo đánh giá của bản thân phụ nữ DTTS MNPN, cuộc sống của họ

đã thay đổi rất nhiều, nhiều phụ nữ cũng đã không còn cho rằng chỉ “việc

nhà” mới là việc của mình. Mặt khác, nhiều thanh niên cũng không còn cảm

thấy “xấu hổ” nếu làm “việc nhà”, chẳng hạn việc chồng giặt quần áo cho vợ,

giúp việc nhà, nấu ăn, dọn dẹp, chăm con, chăm lợn gà.

Tuy nhiên, trong gia đình DTTS MNPB hiện nay, về cơ bản vẫn còn

mang nhiều định kiến giới, phân công lao động vẫn tuân theo quan điểm

truyền thống “việc đàn ông”, “việc đàn bà”. Sự phân công này xuất phát từ

quan niệm nam giới là “phái mạnh” phải đảm nhận những “việc nặng”, cần

“tính toán” và “kỹ thuật,” còn phụ nữ thuộc “phái yếu” nên phụ trách những

“việc nhẹ”, “công việc không tên”. Sự phân biệt “việc đàn ông” và “việc đàn

bà” trên thực tế đã làm giảm giá trị lao động của phụ nữ, chính điều này đã

Page 111: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

105

cản trở họ trong việc tiếp cận, kiểm soát các nguồn lực để phát triển, hạn

chế quyền quyết định trong lao động gia đình. Trong gia đình người vợ vẫn

bị lệ thuộc vào người chồng, người nam giới. Trong khi thực hiện khối

lượng công việc nội trợ và các công việc chăn nuôi, trồng trọt nhiều hơn

người chồng thì người vợ chỉ có tiếng nói quyết định về các vấn đề quan

trọng ít hơn nhiều so với người chồng. Điều cần chú ý, BĐG trong tiếp cận

và hưởng thụ các nguồn lực của gia đình vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa

nam và nữ, giữa vợ và chồng. Trên thực tế thấy rằng, việc thực hiện BĐG

trong lao động gia đình của DTTS MNPB còn đứng trước rất nhiều khó

khăn, thử thách.

3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG

GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC

VIỆT NAM

3.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về tiền đề kinh tế để thực hiện bình

đẳng giới trong lao động gia đình với thực trạng kinh tế nghèo, lạc hậu ở

miền núi phía Bắc hiện nay

Thực tế cho thấy khi kinh tế - xã hội phát triển sẽ mở rộng cơ hội việc

làm, tăng thu nhập, giảm đói nghèo, tạo điều kiện các gia đình đầu tư vào

chăm sóc sức khỏe và giáo dục cho con cái, nhờ đó bất bình đẳng giới cũng sẽ

được thu hẹp. Ngược lại, trong điều kiện kinh tế khó khăn, thu nhập thấp buộc

các gia đình phải tính toán, cắt giảm các khoản chi tiêu, đầu tư trước hết là

giáo dục, y tế, dinh dưỡng… trong bối cảnh đó, phụ nữ và trẻ em gái thường

chịu thiệt thòi hơn nam giới do phụ nữ không có quyền quyết định, có trình

độ học vấn thấp hơn và có ít cơ hội hơn và những điều đó khiến họ trở thành

những người nghèo nhất trong số những người nghèo. Nghèo đói không chỉ

ảnh hưởng đến cơ hội phát triển, hưởng thụ của phụ nữ, mà nó còn làm gia

tăng thêm gánh nặng cho họ trong lao động sản xuất và tái sản xuất để duy trì

cuộc sống gia đình.

Page 112: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

106

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai thực hiện

nhiều chủ trương, chính sách, chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế

- xã hội nhằm nâng cao đời sống nhân dân ở MNPB, theo kết quả khảo sát

mức sống hộ gia đình năm 2012 của Tổng cục Thống kê, có 29,8% hộ gia

đình MNPB tự đánh giá mức sống đã cải thiện hơn nhiều, 57,8% hộ nhận

xét cuộc sống đã cải thiện hơn một ít [71, tr.348]. Tuy nhiên, nghèo đói vẫn

là vấn đề nan giải của khu vực này, tỷ lệ hộ nghèo của vùng là cao nhất

nước, gấp đôi so với trung bình của cả nước [72, tr.739]. Thu nhập bình

quân đầu người một tháng theo giá hiện hành, của vùng MNPB thấp nhất

trong cả nước, cụ thể trung bình cả nước năm 2010: 1.387.000; 2012:

2.000.000, thì vùng MNPB chỉ đạt tương ứng là 905.000; 1.258.000 [72,

tr.720]. Nghèo đói, thu nhập thấp dẫn đến con người ta ít có cơ hội nghĩ

đến việc hưởng thụ cuộc sống và dường như cũng không có thời gian quan

tâm tới nhiều vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề BĐG trong lao động gia

đình. Song song với tình trạng kinh tế kém phát triển, sẽ là sự kém phát

triển về xã hội, trong đó có vấn đề bất BĐG, mà biểu hiện là phân công lao

động bất hợp lý giữa nam và nữ.

Nghèo đói là sự phản ánh trực tiếp trình độ lực lượng sản xuất, khoa

học - kỹ thuật lạc hậu, phân công lao động xã hội còn kém phát triển. Trong

các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, công cụ lao động là yếu tố

động, căn bản nhất, quyết định tới sự phân công lao động, đồng thời nó cũng

đóng vai trò quan trọng quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tính

chất thô sơ, thủ công của công cụ lao động trong gia đình DTTS MNPB, là

sự thể hiện trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất - một trong những

nguyên nhân trực tiếp của nghèo đói. Do những điều kiện, đặc điểm tự nhiên

ít phù hợp với các loại máy móc cơ giới, do hoàn cảnh lịch sử để lại, nên các

công cụ sản xuất ở MNPB chưa phải là hiện đại, vẫn mang nhiều nét thô sơ

tiền công nghiệp như cái cuốc, cái cày, cái bừa… và sử dụng sức kéo của

trâu bò là chính, nhiều biện pháp thủ công còn phổ biến như: gặt lúa nương

Page 113: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

107

từng bông, giã gạo bằng tay, gieo trồng bằng chọc lỗ tra hạt…, nên cường độ

làm việc của phụ nữ rất cao (vì phụ nữ là người đảm nhiệm chính trong

những công việc này). Cường độ lao động cao, khiến phụ nữ ít có thời gian

nghỉ ngơi, hưởng thụ văn hóa, mất cơ hội học tập, nâng cao trình độ, thiếu

cơ hội tiếp cận thông tin. Hoàn cảnh đói nghèo và thu nhập của gia đình

thấp, đã tăng gánh nặng cho phụ nữ trong việc kiếm sống cho gia đình, tạo

nên hình ảnh người phụ nữ DTTS cam chịu, sẵn sàng hy sinh cho chồng con,

chấp nhận bất BĐG.

Chính vì công cụ sản xuất thô sơ, năng suất lao động thấp, nên trong

quá trình sản xuất, gia đình cần sử dụng đến nhiều lao động, nên trẻ em DTTS

có xu hướng tham gia lao động rất sớm, nhất là trẻ em gái. Đến 15 tuổi nhiều

em gái DTTS MNPB đã tham gia làm việc như người trưởng thành, trong khi ở

độ tuổi này, em gái dân tộc Kinh, dân tộc Hoa phần lớn còn đang đi học trung

học phổ thông và sau đó tiếp tục học nghề, cao đẳng, đại học. Do vậy, tỷ lệ

tham gia thị trường lao động của nữ DTTS là 82,9%, cao hơn đáng kể so với tỷ

lệ này của nữ dân tộc Kinh - Hoa là 70,2%. Tỷ lệ nữ dân tộc Mông tham gia thị

trường lao động cao nhất với 94,2%, dân tộc Mường 89,8% và dân tộc Thái là

88,5% [88, tr.5].

Từ các đặc điểm trên của lực lượng sản xuất, tất yếu dẫn đến những

đặc điểm riêng biệt về quan hệ sản xuất của vùng MNPB. Với một lực lượng

sản xuất lạc hậu, kém phát triển, thì các quan hệ sản xuất cũng mang những

hình thức lạc hậu, thể hiện ở tình trạng manh mún trong sản xuất, đời sống

du canh, du cư, nền kinh tế mang tính tự cung, tự cấp. Hình thức kinh tế phổ

biến nhất của đồng bào DTTS MNPB là kinh tế hộ gia đình, tự cung tự cấp,

chứ không phải theo kiểu kinh tế hộ gia đình ở vùng đồng bằng để sản xuất

hàng hóa. Dạng thức kinh tế hộ gia đình loại này chứa đựng quan hệ giữa

những người sản xuất là quan hệ huyết tộc, đàn ông là lực lượng sản xuất

chính, phụ nữ sinh con và hái lượm, trồng trọt. Đồng bào dân tộc chủ yếu

Page 114: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

108

sống bằng nương rẫy, kinh tế mang nặng tính tự cung, tự cấp. Với loại hình

kinh tế nương rẫy, trong cơ chế sản xuất tự cung tự cấp khép kín, nên phân

công lao động trong mỗi gia đình rất chặt chẽ, bố mẹ và con cái, đều có công

việc cụ thể, không thể thiếu hoặc vắng mặt một lao động nào. Do đó điều

kiện đi học của người dân, nhất là phụ nữ và trẻ em, gặp nhiều khó khăn.

Phụ nữ ở khu vực này, thường làm những công việc không mang lại giá trị

kinh tế cao, hoặc những công việc mà không được tính công như công việc

tái sản xuất lao động. Do đó tiếng nói của họ ít có trọng lượng, thường

không có vai trò quyết định trong những vấn đề lớn của gia đình. Đây chính

là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc người phụ nữ ít có cơ hội, điều kiện để

phát huy tiềm năng bản thân, dẫn đến bất BĐG. Điều này cần phải được

nhận thức rõ, từ đó có giải pháp thiết thực để phát triển kinh tế, từng bước

xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, tạo việc làm, tăng thêm thu

nhập cho phụ nữ. Thực chất, đây chính là một trong những điều kiện cần

thiết để giải phóng phụ nữ khỏi đói nghèo và bất BĐG, vì những điều kiện

kinh tế - xã hội khác nhau sẽ là nhân tố quyết định sự khác biệt của các hình

thức hôn nhân, gia đình, cũng như xác định vị thế của các thành viên nam,

nữ trong gia đình.

3.2.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao dân trí, nhận thức với thực

trạng trình độ dân trí thấp, nhận thức về bình đẳng giới trong lao động

gia đình của cộng đồng xã hội nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói

riêng còn chưa cao

Nhiều nhà kinh tế học và các nhà hoạch định chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội đều thống nhất: xét đến cùng thì tài nguyên sức người quyết định

tốc độ phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia hay khu vực. Trình độ học

vấn là chìa khóa mở đường cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, là một

biện pháp hàng đầu nhằm thực hiện BĐG nói chung và giải phóng phụ nữ

thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, bất bình đẳng.

Page 115: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

109

Trong những năm qua, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào

MNPB đã có nhiều thay đổi, trình độ học vấn đã được nâng lên, nhưng so với

trình độ dân trí và phát triển giáo dục, đào tạo với các vùng trong cả nước thì

khoảng cách chênh lệch còn lớn. Ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, đời sống

kinh tế, văn hoá, xã hội thấp, điều kiện học tập thiếu thốn, thì trình độ dân trí

của đồng bào DTTS còn nhiều hạn chế. Theo kết quả chủ yếu điều tra dân số

và nhà ở giữa nhiệm kỳ thời điểm 1.4.2014, thì MNPB có tỷ lệ dân số từ 5

tuổi trở lên chưa bao giờ đi học cao nhất cả nước (9,0%) [74, tr.4]. Tỷ lệ đi

học chung chia theo cấp học của MNPB rất thấp so với các vùng khác trong

cả nước chỉ đạt 89,9% (chỉ cao hơn Tây Nguyên) [71, tr.75]. Tỷ lệ dân số từ

15 tuổi trở lên biết chữ của vùng MNPB thấp nhất so với cả nước (89,5%),

hai tỉnh có tỷ lệ dân số 15 tuổi trở lên biết chữ thấp nhất nước là Điện Biên

(71,4%) và Lai Châu (64,3%), trong khi trung bình của cả nước năm 2013 là

94,8% [72, tr.123]. Số học sinh người DTTS học tới cấp 3 trong tổng số

những học sinh DTTS đang học là rất thấp cụ thể tính đến thời điểm

30.9.2013 Tỉnh Hà Giang có 124.855 học sinh DTTS đang học thì chỉ có

10612 học sinh cấp 3 (chiếm 8,49%), Cao Bằng 15,9%; Lào Cai 10,2%; Lạng

Sơn 20,17%; Điện Biên 12,2%; Lai Châu 7,8%. Tỷ lệ phụ nữ từ 15 -24 tuổi

biết chữ ở khu vực MNPB cũng thấp nhất cả nước 87,3% [76, tr.190].

Trình độ dân trí thấp cản trở sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và

hạn chế thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, cản trở việc khai thác các tiềm

năng của vùng đồng bào dân tộc. Trình độ học vấn thấp đã hạn chế việc tiếp

thu các kiến thức khoa học kỹ thuật tiên tiến, làm chậm quá trình thay đổi tập

quán sản xuất lạc hậu của người dân, trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả thực

hiện các chương trình, dự án của Nhà nước, của các tổ chức quốc tế đối với

miền núi và vùng đồng bào DTTS.

Trình độ học vấn của cả nam và nữ đều ảnh hưởng đến thực hiện BĐG,

tuy nhiên trình độ học vấn của phụ nữ ảnh hưởng lớn hơn đến việc thực hiện

Page 116: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

110

BĐG trong gia đình, cũng như ngoài xã hội. Phụ nữ vừa là người vợ, người

mẹ, người thầy, ảnh hưởng của họ rất lớn, không chỉ đối với việc xây dựng và

giữ gìn hạnh phúc gia đình, mà còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển

nguồn lực con người trong tương lai của đất nước. Một khi người phụ nữ

được giáo dục, đào tạo đầy đủ, trình độ được nâng lên, họ sẽ nhận thức và

thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình, có kiến thức và biết nuôi dạy con tốt,

thực hiện quyền bình đẳng tốt hơn trong gia đình.

Với xuất phát về học vấn thấp hơn nam giới, khi lập gia đình điều kiện

học hành vươn lên của phụ nữ lại càng khó khăn, họ phải chịu những thiệt

thòi mới. Trình độ học vấn ảnh hưởng lớn đến cơ cấu nghề nghiệp của phụ nữ

DTTS, đa số họ làm việc trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, với lao

động thủ công là phổ biến. Năm 2014, tỷ lệ đã qua đào tạo chuyên môn kỹ

thuật của lao động nữ DTTS chỉ là 7,2% so với lao động nữ dân tộc Kinh -

Hoa là 17,6%. Trình độ của phụ nữ Mông thấp nhất trong các DTTS, chỉ có

1,4% đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật [88, tr.4]. Điều tra Lao động - Việc

làm năm 2014 cho thấy, tỷ lệ nữ DTTS có công việc làm công ăn lương là

37,9% so với tỷ lệ 43% của nữ Kinh - Hoa. Những nhóm nữ DTTS có công

việc làm công, ăn lương chiếm tỷ lệ thấp nhất là nữ dân tộc Mông. Do khả

năng tiếp cận giáo dục còn hạn chế, phụ nữ DTTS ít cơ hội có việc làm được

trả lương hoặc các công việc phi nông nghiệp, hơn 77,1% phụ nữ DTTS ở

khu vực nông thôn là lao động tự làm hoặc lao động gia đình không hưởng

lương trong nông nghiệp. Những dân tộc có tỷ lệ nữ là lao động tự làm trong

nông nghiệp trên 90% như: dân tộc Mông 98,7%, dân tộc Thái gần 92%, dân

tộc Nùng 90,5% và dân tộc Mường 90%. Tình trạng này đã tạo cho họ nhận

thức chỉ cần làm với kinh nghiệm cổ truyền, không sáng tạo, vì thế không

thúc đẩy lao động nữ học tập văn hoá, nâng cao trình độ chuyên môn. Họ

chấp nhận bớt giờ ngủ, nghỉ, hạn chế đến mức thấp nhất việc hưởng thụ văn

hoá, việc giao tiếp, tham gia các hoạt động tinh thần để làm thêm việc đồng

Page 117: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

111

ruộng và việc gia đình, dẫn tới phụ nữ ít có điều kiện được tiếp cận với giáo

dục, đào tạo để nâng cao trình độ văn hóa, càng không có điều kiện để tiếp

cận các phương tiện thông tin, họ trở nên lạc hậu với thực tế, nhận thức xã hội

bị hạn chế, gặp nhiều khó khăn trong cơ chế thị trường.

Thực tiễn đời sống đã chứng minh, để thực hiện BĐG trong cộng đồng

dân cư, thì điều có ý nghĩa quan trọng là tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ

chức đoàn thể cần xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức các hoạt động

cũng như kiểm tra, giám sát một cách thường xuyên, có tính định kỳ. Để vấn

đề BĐG được hiện thực hóa trong cuộc sống, đặc biệt là đối với khu vực

MNPB, nơi đang phải đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, cũng

như các hủ tục lạc hậu, đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm của đội ngũ cán bộ cơ

sở trong việc triển khai, chỉ đạo các chủ trương, chính sách về BĐG, như Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều

xong xuôi”. Tuy nhiên, số liệu điều tra cho thấy, sự hiểu biết của đội ngũ cán

bộ cơ sở ở MNPB về vấn đề này còn hết sức hạn chế và bất cập. Có tới 80,4%

cán bộ trong diện khảo sát, trả lời chưa từng được nghe và tiếp cận với

chương trình lồng ghép giới, tỷ lệ cán bộ trả lời đúng Luật BĐG có bao nhiêu

lĩnh vực lại hết sức khiêm tốn (9,2%) và có tới 58,8% trả lời không biết Luật

có mấy lĩnh vực. Điều này cho thấy, việc nghe đến Luật và nắm được các lĩnh

vực mà Luật quy định đối với đội ngũ cán bộ cấp cơ sở đang có một khoảng

cách khá lớn. Đây là một trong những chỉ báo phản ánh mức độ quan tâm của

cán bộ cơ sở tại MNPB với chính sách BĐG còn hết sức mờ nhạt. Kết quả

phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các

cấp cũng đã phản ánh thực tế vẫn còn một số tổ chức cấp cơ sở chưa quan tâm

đến việc đưa vấn đề BĐG vào các chương trình, kế hoạch hoạt động của địa

phương mình, nếu có đưa cũng chỉ dừng ở mức chung chung, mang tính “hô

khẩu hiệu”, mà chưa thực sự coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng

của địa phương.

Page 118: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

112

3.2.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu xây dựng gia đình văn hóa, tạo điều

kiện thực hiện bình đẳng giới hiệu quả với sự tồn tại dai dẳng của nhiều

hủ tục lạc hậu

Gia đình là môi trường tuyên truyền, giáo dục tốt nhất về bình đẳng

giới. Gia đình đóng vai trò cơ bản trong việc định hình mối quan hệ giới ngay

từ những buổi đầu của cuộc sống con người và truyền tải chúng từ thế hệ này

sang thế hệ khác. Gia đình là nơi xã hội hóa vấn đề giới, truyền lại các kiến

thức và kỹ năng về giới. “Hạt nhân của xã hội là gia đình”, do vậy mà xây

dựng gia đình văn hóa mới có ý nghĩa rất quan trọng trong tình hình hiện nay,

góp phần phát triển lực lượng sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống, thực

hiện kế hoạch hóa dân số, giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo đức,

văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Muốn xóa bỏ bất BĐG trong lao động gia đình

DTTS, việc làm cần thiết là đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa,

vì đây là môi trường trực tiếp nhất để thiết lập quan hệ bình đẳng giới trong

gia đình. Tuy nhiên, việc xây dựng gia đình văn hóa ở MNPB lại đang đứng

trước những thách thức to lớn từ những hủ tục đã tồn tại từ rất lâu như tảo

hôn, hút thuốc phiện, nghiện rượu, tâm lý tự ti…

Do tập quán trồng và sử dụng thuốc phiện, nên từ lâu vấn đề nghiện hút

thuốc phiện đã trở thành một tệ nạn xã hội nhức nhối trên địa bàn của nhiều

DTTS MNPB, đặc biệt là người Mông và La Hủ. Việc nghiện hút đã làm cho

kinh tế gia đình đã khó khăn lại càng thêm khánh kiệt, bên cạnh đó, người

nghiện không đủ sức khỏe để lao động do đó đã trở thành gánh nặng của gia

đình, dẫn đến việc thiếu lương thực trầm trọng. Nghiện hút đã làm giảm hiệu

quả của các chương trình, dự án của Nhà nước, đang triển khai tại địa bàn

người La Hủ, khi nhận được gạo trợ cấp của Nhà nước hay nhận tiền, hàng, quà

cứu trợ của các cơ quan đoàn thể…, những gia đình có người nghiện thường

bán hoặc đổi lấy thuốc phiện để hút. Việc chồng, con họ nghiện ma túy không

chỉ là cho kinh tế gia đình đi đến chỗ kiệt quệ, mà còn phá vỡ các mối quan hệ

Page 119: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

113

trong gia đình, đe dọa tương lai của các thành viên khác. Hơn ai hết, những

người mẹ, người vợ là những người phải gánh chịu những hậu quả nặng nề

nhất trong mọi khía cạnh về kinh tế, tinh thần và sức khỏe do hành vi nghiện

ma túy của chồng con gây ra.

Do thiên nhiên khắc nghiệt núi đồi chiếm đa số, dân cư sống thưa

thớt, thậm chí “mỗi nhà một quả đồi”, “ra thấy núi vào thấy núi”, nên hình

thành ở đồng bào DTTS MNPB nếp nghĩ trực quan, cảm tính, tư tưởng tiểu

nông sản xuất nhỏ, chỉ thấy cái trước mắt chứ không thấy cái lâu dài, chỉ

tin những cái “nhìn thấy”, ”sờ thấy” chưa có tầm mắt nhìn ra bên ngoài,

nên suy nghĩ bó hẹp làng, bản địa phương mình. Tâm lý, tập quán gắn liền

với sản xuất nhỏ đã tạo cho con người lối sống gia trưởng, mệnh lệnh áp

đặt một chiều trên bảo dưới nghe, trọng nam khinh nữ. Nhiều dân tộc sống

du canh du cư nay đây mai đó vẫn còn tồn tại, dẫn đến cách suy nghĩ, cách

làm của người dân mang tính tạm thời thiếu tính chiến lược lâu dài. Điều

này ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân, đến việc xây dựng gia

đình văn hóa, thực hiện BĐG trong lao động gia đình. Đồng bào DTTS

thường có lối tư duy đơn giản, thiếu tính “mở” và “động”, được hình thành

trong môi trường kinh tế xã hội khép kín, ít giao lưu với thế giới bên ngoài.

Ngay ở trẻ nhỏ cũng đã có tâm lý khuôn mình trong bản làng, nương rẫy,

ngại học tập, phấn đấu để thoát ly, vì thế không thích ứng với nhu cầu tái

cơ cấu lao động trong thời kỳ CNH, HĐH. Lối tư duy đơn giản, khép kín

cũng kìm hãm sự phát triển của tư duy “động”, “mở”, nhất là trong điều

kiện kinh tế thị trường được xác lập với tính năng động và phức hợp của nó

đặt ra nhiều vấn đề phát triển trí lực con người tương ứng. Một bộ phận

đồng bào có tính tự ti, ỷ lại, thiếu chí tiến thủ, ngại cạnh tranh, nổi bật nhất

của người La Hủ hiện nay. Tâm lý này được biểu hiện cụ thể ngay trong

cuộc sống hàng ngày của các gia đình, nguồn sống chính của nhiều gia

đình La Hủ là phụ thuộc vào rừng. Hàng ngày, họ vào rừng với con dao và

Page 120: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

114

chiếc gùi, ở đó sẽ tìm được các loại rau, củ, quả, chim thú, chuột bọ có thể

nuôi sống qua ngày, dần dần lối sống dựa vào khai thác tự nhiên đã ăn sâu

trong tâm thức, hình thành ở họ một thói quen, nếp nghĩ cứ có rừng là sống

được, mọi nhu cầu cuộc sống đều trông chờ vào khai thác những sản vật có

sẵn trong rừng. Đây chính là biểu hiện của tâm lý “trông chờ, ỷ lại vào

rừng”, điều này được cán bộ địa phương đúc kết trong khẩu ngữ quen thuộc

“đói không lo, no không mừng” (ổ mứa mà cô, ổ cha pố mà cô). Từ năm

2009 trở lại đây, đồng bào La hủ được hưởng nhiều chính sách của Đảng,

Nhà nước, các cấp chính quyền, điển hình nhất là chính sách trợ cấp gạo

của Nhà nước cho các hộ gia đình theo định mức 15kg/người/tháng, bình

quân 4 tháng/ người/năm. Khi nhận được gạo, người La Hủ yên tâm sẽ có

mấy tháng không phải lao động, cứ ở nhà ăn hết gạo, khi nào đối mặt với

cái đói thì lại vào rừng. Đó là chưa kể đến các bản xa trung tâm xã, khi

nhận gạo trợ cấp, do khả năng có hạn, nên đồng bào đổi/bán bớt một phần

gạo để trả tiền công vận chuyển, hoặc đổi lấy rượu uống. Song hành với

tâm lý trông chờ, ỷ lại là không biết tích lũy, người La Hủ khi nhận được

tiền rừng, thì không gì ngăn cản được họ ăn uống và tiêu xài, có thể thấy

điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc phát triển kinh tế gia đình, xây

dựng gia đình văn hóa, tạo tiền đề để thực hiện BĐG.

3.2.4. Mâu thuẫn giữa xu thế tất yếu của việc giải phóng phụ nữ với

tâm lý tự ti, an phận của phụ nữ dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc

Bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, triệt để là lý tưởng mà nhân loại

đã theo đuổi nhiều thế kỷ. Đầu thế kỷ XIX, nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa

không tưởng Pháp S.Phurie đã nhận định: Trình độ giải phóng phụ nữ là

thước đo trình độ phát triển của xã hội. Luận điểm này tiếp tục được khẳng

định trong học thuyết Mác ngay từ khi nó ra đời và được phát triển ở trình độ

mới cao hơn ở các giai đoạn tiếp theo. Những luận điểm trên đã cổ vũ cho

nhiều phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng giữa nam và nữ, trở thành

Page 121: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

115

một trong những mục tiêu đấu tranh của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới

trước đây và cho tới ngày nay.

Việc thực hiện BĐG nói chung và BĐG trong lao động gia đình DTTS

MNPB hiện nay còn gặp nhiều trở ngại. Bên cạnh các nguyên nhân về điều

kiện kinh tế, điều kiện xã hội, làm cho địa vị của phụ nữ luôn thấp kém hơn

nam giới, còn có nguyên nhân cơ bản nhất là do phụ nữ chưa nhận thấy rõ vị

trí, vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội, còn thiếu tự tin, chưa thật

sự cố gắng vươn lên trong mọi lĩnh vực để khẳng định mình.

Do ảnh hưởng lâu dài của tập tục truyền thống, nên các định kiến xã

hội về giới không chỉ ăn sâu, bén rễ trong nhận thức của nam giới, mà còn in

đậm chính ngay trong tâm tưởng của phụ nữ DTTS. Nhiều người vẫn giữ

quan niệm về phân công lao động truyền thống đối với phụ nữ, yêu cầu phụ

nữ cần phải đặt gia đình lên trên hết, thậm chí hy sinh cả sức khỏe, nguyện

vọng cá nhân, phải tuân theo quyền lực của nam giới. Kết quả là phụ nữ

không thể biết đến, hoặc không thể thực hiện được quyền của họ, mặc dù đã

được pháp luật công nhận.

Bản thân người phụ nữ DTTS MNPB hiện nay, chưa thay đổi cách nhìn

truyền thống về vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Tư tưởng an

phận, tự ti còn phổ biến, chị em vẫn bằng lòng chấp nhận quan niệm rằng:

phục vụ vô điều kiện cho chồng con là “chức năng”, là “thiên chức”, là sự hy

sinh, là nữ tính của người phụ nữ trong gia đình. Ở các mức độ khác nhau,

thừa nhận quan niệm này, tự phụ nữ đã gán cho mình những trách nhiệm

chính rất nặng nề trong các công việc nội trợ, chăm sóc con cái và các thành

viên trong gia đình, trong khi họ là người thực hiện chính nhiệm vụ tái sản

xuất sinh học ra con người và chịu trách nhiệm sản xuất như nam giới. Đồng

nghĩa với việc lao động quá sức, sự hưởng thụ của phụ nữ bị coi là thứ yếu,

thậm chí không được tính đến, đây được coi là dạng bạo lực lao động mà nạn

nhân chủ yếu là phụ nữ.

Page 122: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

116

Theo kết quả điều tra của MICS 2014, thì số phần trăm phụ nữ từ 15 -

49 tuổi tin rằng người chồng có quyền đánh đập vợ mình của các tỉnh MNPB

là tương đối cao, có một số chỉ số là cao nhất so với các vùng trong cả nước,

cụ thể như sau: nếu đi chơi mà không nói với chồng 13,0%; nếu bỏ bê con cái

26,2%; nếu cãi lại chồng 17,4%; nếu từ chối quan hệ tình dục với chồng

6,1%; nếu làm cháy thức ăn 1,7%; nếu không làm việc nhà 9,6%; nếu nghi

ngờ không chung thủy 13,1%; nếu bị phát hiện không chung thủy 43,9%; bất

kỳ lý do nào trong 8 lý do 52,4% [76, tr.235]. Đáng lưu ý là có tới 52,4% phụ

nữ được khảo sát cho rằng, chồng có quyền đánh vợ khi vợ mắc một trong

tám lỗi đưa ra, chứng tỏ nhận thức của phụ nữ về bạo lực gia đình là chưa đầy

đủ, những suy nghĩ kiểu như nam giới có quyền được uống rượu cả ngày, hay

nam giới có quyền chửi mắng, đánh đập vợ con vẫn còn tồn tại như điều cố

hữu trong tư tưởng của phụ nữ nơi đây. Với cách nghĩ đơn giản, nhiều chị em

chấp nhận những hành vi thô bạo của các ông chồng với quan điểm cho rằng

“phải biết thông cảm”, việc chấp nhận các hành vi bạo lực gia đình của phụ

nữ DTTS là khá rõ ràng.

Với tính tự ti, an phận, phụ nữ DTTS chưa thật sự tích cực phát huy

quyền dân chủ tham gia bàn bạc những vấn đề chung của cộng đồng, cũng

như của gia đình, chưa biết vận động nam giới tham gia, chia sẻ cùng mình

trong công việc nội trợ, chưa chủ động nắm bắt thông tin về BĐG, chưa thật

sự tích cực tham gia sinh hoạt các nhóm, hội do phụ nữ tổ chức. Nhiều chị

em do thiếu hiểu biết và do hệ quả của quá trình giáo dục trên cơ sở các định

kiến về giới, nên chấp nhận quan niệm việc làm “ra tiền” và “không ra tiền”,

vì thế hầu hết phụ nữ DTTS chấp nhận làm nhiều việc hơn chồng để chồng

nghỉ ngơi. Điều này không những làm tăng gánh nặng cho phụ nữ, ảnh

hưởng đến sức khỏe, cơ hội học tập và điều kiện tham gia công việc xã hội

của phụ nữ, mà còn khiến giá trị công việc của phụ nữ không được gia đình

và cộng đồng đánh giá đúng.

Page 123: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

117

Vì vậy, muốn thực hiện BĐG, bản thân phụ nữ cần phải nâng cao nhận

thức cho chính mình, bản thân phụ nữ phải tự cởi trói cho mình khỏi vòng

kim cô của tư tưởng tự ti, an phận thủ thường. Khắc phục sự tự ti, an phận,

vượt khó khăn tự vươn lên khẳng định mình thì bình đẳng, bình quyền mới

được hiện thực hóa trong cuộc sống.

Kết luận chương 3

Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đã làm thay đổi trên nhiều lĩnh vực

của đời sống xã hội. Gia đình là một thiết chế xã hội cũng có những biến đổi

theo xu hướng tích cực, tiến bộ, đặc biệt các mối quan hệ trong gia đình ngày

càng hướng tới sự dân chủ, bình đẳng hơn. Vai trò của người phụ nữ trong gia

đình và ngoài xã hội ngày càng được khẳng định hơn.

MNPB là vùng đất có nhiều tiềm năng và nguồn lực phát triển về kinh

tế, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng, lãnh đạo trong 30 năm

qua đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của người DTTS được nâng

cao, đặc biệt là phụ nữ không ngừng được cải thiện, vị thế của họ ngày càng

được nâng lên. Mối quan hệ giới trong các cộng đồng DTTS không tĩnh tại,

mà cũng đã có sự thay đổi rất nhiều, cùng với sự biến động của đời sống xã

hội, của quá trình định canh định cư, quá trình đô thị hóa và tác động của

truyền thông đại chúng. Trong tất cả các hoạt động sản xuất, tái sản xuất, hoạt

động cộng đồng, vị thế vai trò của phụ nữ ngày càng được nâng cao, họ đã có

nhiều cơ hội trong việc tiếp cận, ra quyết định cũng như hưởng thụ lợi ích từ

lao động gia đình. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế kém phát triển, trình độ

dân trí còn thấp, các tư tưởng, tập quán cũ, tâm lý trọng nam khinh nữ vẫn

còn tồn tại, đã ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống hàng ngày của người dân,

nên còn nhiều biểu hiện chưa bình đẳng giữa nam và nữ trong hoạt động xã

hội và gia đình. So với phụ nữ ở các đô thị, đồng bằng, phụ nữ dân tộc Kinh,

Page 124: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

118

thì phụ nữ DTTS MNPB trên mọi phương diện đều khó khăn hơn, kể cả

những điều kiện để phát huy khả năng của mình.

Việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB vẫn đang

đứng trước hàng loạt thách thức, mâu thuẫn như: tiền đề kinh tế còn lạc hậu,

nghèo nàn; nhận thức trình độ dân trí còn chưa tương xứng với yêu cầu thực

hiện BĐG; nhiều hủ tục lạc hậu cản trở việc xây dựng gia đình văn hóa; trong

khi giải phóng phụ nữ đã trở thành xu thế tất yếu thì một bộ phận không nhỏ

phụ nữ DTTS vẫn mang tâm lý tự ti an phận.

Đây thật sự là những thách thức lớn đối với việc thực hiện BĐG trong

lao động gia đình DTTS trong sự vận động và phát triển của xã hội. Để khắc

phục được điều này, đòi hỏi phải có một loạt các giải pháp đồng bộ, trên tất cả

các lĩnh vực, để tạo điều kiện cho phụ nữ DTTS MNPB, nâng cao vị thế và

thực hiện được BĐG trong lao động gia đình.

Page 125: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

119

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY

BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC

THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC HIỆN NAY

4.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG

LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC HIỆN NAY

4.1.1. Thực hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc

thiểu số miền núi phía Bắc phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế

xã hội, chiến lược phát triển nguồn nhân lực của vùng và chủ trương xây

dựng nông thôn mới

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng giữa kinh tế và bình đẳng giới có mối

quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau. Phát triển kinh tế chính là mở rộng cơ

hội, nguồn lực và nới lỏng các ràng buộc đối với các thành viên trong gia đình

- nhất là đối với phụ nữ và trẻ em gái, bảo đảm sự bình đẳng hơn trong mối

quan hệ giới. Ngược lại, kinh tế kém phát triển, các gia đình thu nhập thấp,

đói nghèo buộc phải thắt chặt các chi tiêu cho giáo dục, y tế và dinh dưỡng,

các dịch vụ xã hội khác thì phụ nữ và trẻ em gái thường phải chịu thiệt thòi

nhiều hơn, bất bình đẳng nhiều hơn. Có thể khẳng định, ở nơi nào điều kiện

kinh tế khó khăn, ở đó gặp phải nhiều thách thức, trở ngại trong quá trình thực

hiện mục tiêu BĐG. Chính vì vậy, phát triển kinh tế - xã hội để nâng cao mức

sống cho từng gia đình, từng dân tộc là điều kiện quan trọng để có thể thực

hiện được BĐG nói chung, BĐG trong lao động gia đình nói riêng và ngược

lại thực hiện được BĐG trong lao động gia đình sẽ có tác động to lớn đến sự

phát triển kinh tế của gia đình, xã hội.

Chiến lược Quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 - 2020 đã nêu rõ quan

điểm: “Chiến lược quốc gia về BĐG là một bộ phận cấu thành quan trọng của

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là cơ sở nền tảng của chiến

lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước” [11]. Vì vậy, việc thực hiện

Page 126: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

120

BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB, không thể không gắn liền với

chiến lược phát triển kinh tế xã hội, phát triển nguồn nhân lực của vùng.

Chiến lược phát triển kinh tế của MNPB hiện nay, cần hướng vào việc

giải quyết vấn đề lao động, việc làm có thu nhập cao, để cải thiện điều kiện

sống cho nhân dân, tạo tiền đề thúc đẩy thực hiện BĐG. Để làm được điều

này, các tỉnh MNPB cần:

- Khai thác và phát huy có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của vùng, đẩy

mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, thông qua phát triển các hành lang kinh tế,

tăng cường hợp tác giữa các địa phương trong vùng nhằm huy động và sử

dụng tốt mọi nguồn lực để phát triển nhanh và bền vững.

- Tập trung đầu tư có trọng điểm vào những ngành, lĩnh vực có lợi thế

của các địa phương trong vùng, phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế

cửa khẩu nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, tạo bước đột phá làm

thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế. Phát triển nông, lâm, nghiệp với quy mô tập

trung, gắn với công nghiệp chế biển sản phẩm sau thu hoạch phục vụ tiêu

dùng trong nước và xuất khẩu.

- Phát triển kinh tế gắn với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, tạo

việc làm, xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức sống nhân dân trong vùng,

đặc biệt là đối với đồng bào DTTS

- Phát triển kinh tế xã hội kết hợp với bảo vệ môi trường và phát triển

bền vững, gắn phát triển kinh tế với phát triển du lịch, bảo tồn và phát huy giá

trị văn hóa lịch sử, văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc.

Yếu tố quan trọng nhất để phát triển kinh tế chính là nguồn nhân lực,

hiện tại chất lượng nguồn nhân lực miền núi phía Bắc còn thấp hơn so với các

vùng khác, có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ. Phần lớn lao động của đồng

bào DTTS là lao động giản đơn, trình độ văn hóa thấp, ít được đào tạo nghề, ít

có cơ hội tiếp xúc với khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Nếu tình trạng

này kéo dài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phát triển kinh tế, xã hội của

vùng, vì vậy việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở khu vực MNPB nói

Page 127: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

121

chung và đồng bào DTTS nói riêng, là sự cần thiết khách quan để có thể phát

triển kinh tế của vùng. Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực hiện có, nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực, từng bước thực hiện BĐG trong lao động gia đình

là việc làm có ý nghĩa quan trọng cấp thiết và có mối quan hệ biện chứng với

nhau. Đảng bộ và chính quyền các cấp cần thiết phải có chính sách đầu tư

giáo dục cho đồng bào DTTS; có chương trình dạy nghề và đầu tư phát triển

các hình thức, các cơ sở dạy nghề phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của

đồng bào dân tộc, qua đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế.

Thực tế cho thấy, thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB

hiện nay, không chỉ là mục tiêu của phát triển, mà còn là cách thức để có thể

xóa đói giảm nghèo ở nơi đây. Thực hiện BĐG trong lao động gia đình là một

bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển, chiến lược giảm nghèo của

đồng bào DTTS, góp phần xây dựng nông thôn mới ở vùng đồng bào DTTS.

Vì vậy cần quán triệt trong nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân

về tính tất yếu phải tăng cường hoạt động lồng ghép giữa chiến lược phát triển

kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các tỉnh

MNPB với chính sách BĐG.

4.1.2. Thực hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc

thiểu số miền núi phía Bắc cần phải gắn với Chiến lược Quốc gia về bình

đẳng giới, kế hoạch hành động bình đẳng giới của các tỉnh trong vùng

Chiến lược Quốc gia về BĐG xác định mục tiêu tổng quát: “Đến năm

2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự

tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội,

góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước” [11].

Để đạt được mục tiêu tổng quát trên, chiến lược Quốc gia về BĐG giai

đoạn 2011 - 2020 đã đưa ra nhiều mục tiêu cụ thể như: giảm khoảng cách giới

trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ

Page 128: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

122

nghèo ở nông thôn, phụ nữ người DTTS đối với các nguồn lực kinh tế, thị

trường lao động, cụ thểtỷ lệ nữ ở vùng nông thôn nghèo, vùng DTTS có nhu

cầu được vay vốn ưu đãi từ các chương trình việc làm, giảm nghèo và các

nguồn tín dụng chính thức đạt 80% vào năm 2015 và 100% vào năm

2020;nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia

bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, với chỉ tiêu về tỷ

lệ biết chữ của nam và nữ trong độ tuổi từ 15 đến 40 ở vùng sâu, vùng xa, vùng

DTTS, vùng đặc biệt khó khăn đạt 90% vào năm 2015 và 95% vào năm 2020;

bảo đảm BĐG trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe; bảo

đảm BĐG trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới, cụ

thể rút ngắn khoảng cách về thời gian tham gia công việc gia đình của nữ so

với nam xuống 2 lần vào năm 2015 và xuống 1,5 lần vào năm 2020.

Trên cơ sở Chiến lược quốc gia về BĐG, các tỉnh MNPB đều đã ban

hành Kế hoạch thực hiện chiến lược quốc gia về BĐG và sự tiến bộ của phụ

nữ phù hợp với thực tiễn của tỉnh mình. Cho nên thực hiện BĐG trong lao

động gia đình DTTS MNPB, cần thiết phải đặt trong mối quan hệ với việc

thực hiện bình đẳng trên các lĩnh vực khác, phải gắn với chiến lược thực hiện

BĐG của từng tỉnh.

4.1.3. Thực hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu

số miền núi phía Bắc trên cơ sở phối hợp tổng thể sức mạnh của các cấp

ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể và bản thân người phụ nữ

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, giải phóng phụ nữ không phải là công

việc của riêng ai, mà là sự nghiệp của mỗi cá nhân và toàn xã hội “phải cách

mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân. Dù to và khó nhưng nhất định

thành công” [41, tr.155]. Quán triệt tư tưởng của Bác, một trong bốn quan

điểm được đưa ra trong Nghị quyết 11 ngày 27/4/2011 của Bộ Chính trị là:

“Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và

từng gia đình, trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm

Page 129: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

123

trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là

phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam” [9]. Các cơ

quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức xã hội, cơ

quan thông tin đại chúng cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao

nhận thức về giới và ý thức trách nhiệm thực hiện BĐG cho cán bộ, đảng

viên, các tầng lớp nhân dân.

Giới là một lĩnh vực đa ngành, không nên xem BĐG một cách thiển

cận như là vấn đề chỉ của riêng phụ nữ, việc xây dựng xã hội có BĐG, bảo

đảm BĐG là lời kêu gọi không chỉ của riêng nữ giới, mà của mọi người, là

mục tiêu cần sớm hoàn thành của các quốc gia, để từ đó góp phần xây dựng

một thế giới phát triển bền vững. Do vậy, đòi hỏi có sự phối hợp và trách

nhiệm của cả xã hội. Chương IV của Luật BĐG đã quy định cụ thể về trách

nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc thực hiện và bảo

đảm BĐG. Thực hiện BĐG là cam kết và trách nhiệm cao của Đảng, Nhà

nước và của cả hệ thống chính trị, đồng thời mở rộng sự tham gia của các tổ

chức xã hội, cộng đồng trong việc tổ chức thực hiện các mục tiêu BĐG.Phát

huy vai trò của hệ thống chính trị vùng DTTS MNPB hiện nay, là yêu cầu cấp

bách, có ý nghĩa đối với việc thực hiện BĐG nói chung và BĐG trong lao

động gia đình nói chung. Các cấp, các ngành và các tổ chức Hội, Đoàn thể

trên địa bàn có sự phối hợp chặt chẽ trong việc thúc đẩy BĐG. Các cấp, các

ngành, các địa phương cần tăng cường phối hợp trong xây dựng chương trình,

kế hoạch thực hiện BĐG cho địa phương, tổ chức mình. Tạo sự phối hợp nhịp

nhàng, đồng bộ, thống nhất tốt nhất cho thực hiện BĐG trên địa bàn MNPB

4.1.4. Thực hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc

thiểu số miền núi phía Bắc phải xuất phát từ điều kiện đặc thù của vùng

và đặc điểm riêng của các dân tộc

Thực hiện nam nữ bình đẳng là tư tưởng, quan điểm cơ bản của Đảng và

Nhà nước ta. Quan điểm đó đã được khẳng định ngay từ thời kỳ Đảng mới

Page 130: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

124

thành lập, đồng thời được thể chế hóa trong Hiến pháp của nước ta qua các thời

kỳ và trong hệ thống chính sách phát triển kinh tế của nước nhà. Tuy nhiên,

việc biến chủ trương, chính sách của Đảng thành hiện thực cuộc sống còn

nhiều bất cập. Vì giới là một phạm trù gắn chặt với các mối quan hệ xã hội,

được quy định bởi hoàn cảnh cụ thể, điều này tạo ra sự khác biệt trong mối

quan hệ giới giữa các vùng miền, tộc người ngay bên trong cùng một lãnh thổ.

Chính bởi lẽ đó, thực trạng BĐG ở Việt Nam có sự khác biệt rất rõ nét giữa

các vùng và giữa các dân tộc.

Chúng ta đã có một hệ thống chính sách, pháp luật vì sự tiến bộ của phụ

nữ Việt Nam, vấn đề là cần phải biến các cơ sở pháp lý đó trở thành nếp sống

hàng ngày của toàn xã hội. Không thể áp dụng một cách máy móc mọi quy

định của chính sách và pháp luật, chúng ta phải biết phát hiện những điểm bất

hợp lý, cần bổ sung, hoàn thiện và nâng cao chất lượng của chính sách và pháp

luật, đây là việc làm cần thiết và thường xuyên, việc đổi mới và hoàn thiện

chính sách đối với phụ nữ nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng, phải phù hợp

với phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện tiên quyết để chị em tham gia tích

cực vào các hoạt động trong gia đình và xã hội.

Miền núi phía Bắc là vùng còn tồn tại nhiều tập tục lạc hậu, điều kiện

kinh tế của đồng bào DTTS còn vô cùng khó khăn, nên đây cũng là vùng mà

bất BĐG trong gia đình còn phổ biến và nặng nề hơn so với nhiều vùng khác

trong cả nước.

Những yếu tố văn hóa truyền thống, đã ảnh hưởng tới quan niệm của

đồng bào DTTS về BĐG trong phân công lao động trong gia đình, đã tác

động đến cơ hội được tiếp cận, kiểm soát các nguồn lực, hưởng thụ đời sống

của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Chính vì vậy, để đảm bảo các

chính sách nhằm thúc đẩy BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB có thể

khả thi, cần chú trọng tới tính đặc trưng về văn hóa cũng như yếu tố vùng

miền trong cả khâu thiết kế và thực thi chính sách. Chính sách phải xuất phát

Page 131: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

125

từ thực tiễn, từ nhu cầu, lợi ích giới và đặt trong chương trình phát triển chung,

đảm bảo sự bình đẳng, công bằng về quyền lợi, nghĩa vụ cho cả hai giới.

Như đã phân tích, ở MNPB hiện nay, vấn đề BĐG nói chung và bất

BĐG trong lao động gia đình nói riêng, còn khoảng cách so với nhiều vùng

khác trong cả nước, do đó chính sách thực hiện BĐG có lẽ cần lấy vùng

DTTS MNPB làm đối tượng cần ưu tiên trong thời gian tới, cần đặc biệt quan

tâm tới phụ nữ DTTS.

Mỗi vùng miền có những điều kiện khác nhau, mỗi địa phương có

những thế mạnh riêng, vì vậy, cần phát huy những thế mạnh của địa phương

nhằm thúc đẩy sự phát triển của từng đối tượng phụ nữ ở địa phương đó. Cần

quan tâm đầy đủ đến quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ, để họ có điều

kiện thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ,

người thầy đầu tiên của con người, đặc biệt quan tâm đến việc cải thiện điều

kiện học tập, làm việc của phụ nữ DTTS, tập trung giải quyết những vấn đề

nhằm ngăn chặn sự tổn thương đối với phụ nữ.

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO

ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC HIỆN NAY

4.2.1. Phát triển kinh tế hàng hóa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp nông thôn

Kinh tế phát triển là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện BĐG

trong lao động gia đình DTTS MNPB, kinh tế phát triển thì hạ tầng cơ sở sẽ

được đầu tư nhiều hơn. Các khoản đầu tư này cùng với việc phát triển thị

trường cho các lao động thay thế, có thể làm giảm nhẹ các công việc phi thị

trường của phụ nữ và đem lại cho họ nhiều cơ hội làm công ăn lương, cũng như

thời gian rảnh rỗi, tạo điều kiện phá bỏ sự phân công lao động cứng nhắc. Cùng

với đó, việc giảm nhẹ gánh nặng công việc gia đình, cũng có thể đem lại những

lợi ích tiềm tàng cho sức khoẻ của người phụ nữ, cho thu nhập của hộ gia đình

và cho việc học tập của trẻ em gái. Để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống cho

Page 132: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

126

nhân dân, nhiệm vụ hàng đầu hiện nay của các tỉnh MNPB là phải phát triển

kinh tế hàng hóa, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Thứ nhất, MNPB cần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất

hàng hóa, phát huy lợi thế cạnh tranh của vùng

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, phù hợp với điều kiện tự

nhiên, xã hội của vùng không chỉ bảo đảm an ninh lương thực, tạo động lực

cho sự phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư, mà

còn tạo cơ hội phát triển cho phụ nữ nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng.

Một là, với điều kiện kém thuận lợi về địa lý, hạn chế về đất nông

nghiệp, nhạy cảm về môi trường, nên việc làm cần thiết để phát triển nông

nghiệp hàng hoá cạnh tranh ở MNPB là phải đa dạng hóa nông nghiệp. Đa

dạng hoá nông nghiệp là sự đáp ứng của nông dân đối với các cơ hội mới của

thị trường, dựa vào tính khả thi về kinh tế và kỹ thuật, bao gồm việc chuyển

từ các cây trồng có giá trị thấp sang các sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao

hơn, từ sản xuất các cây trồng truyền thống sang sản xuất hàng hoá chăn nuôi,

lâm nghiệp, thuỷ sản, hoặc sang các hoạt động tạo thu nhập phi nông nghiệp.

Để đa dạng hóa nông nghiệp các tỉnh MNPB cần phải:

Thực hiện các dự án sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, tiến hành đưa

những giống lúa mới cho năng suất cao và khả năng thích nghi tốt với những

điều kiện tự nhiên vào trồng phổ biến, đồng thời tăng cường khuyến cáo để

người dân lựa chọn giống, cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện đất, thổ

nhưỡng, khả năng đầu tư và trình độ canh tác của mình, đẩy mạnh việc tăng

vụ đông xuân nhằm đảm bảo nhu cầu lương thực cho người dân.

Cần lựa chọn các kiến thức khoa học kỹ thuật phù hợp với trình độ

nhận thức, điều kiện sản xuất của đồng bào, từng bước chuyển giao với các

hình thức đa dạng, có sự tham gia ngay từ đầu của đồng bào DTTS, để có thể

tiếp nhận, học tập, vận dụng làm theo; Tăng cường cán bộ khoa học kỹ thuật

(chú trọng cán bộ biết tiếng DTTS) đến từng bản hướng dẫn bà con làm kinh

tế một cách cụ thể, thậm chí đối với những dân tộc, những địa phương kém

Page 133: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

127

phát triển phải “cầm tay chỉ việc”, tránh tình trạng chỉ đạo chung chung, chỉ

đạo từ xa có thể áp dụng với mọi vùng, mọi miền. Cần tạo mối liên kết chặt

chẽ giữa bốn nhà: nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước, để

đảm bảo cả đầu vào và đầu ra trong sản xuất cho đồng bào.

Ngoài ra, để phát triển nông nghiệp, các tỉnh MNPB cần có sự phân

vùng một cách tương đối, để hoạch định chính sách nông nghiệp: Đối với

vùng cao, khó khăn, khả năng sản xuất nông nghiệp hạn chế, cần tập trung

cho việc hỗ trợ trồng và bảo vệ rừng, bảo vệ vùng đầu nguồn, vùng biên giới

thông qua chính sách hỗ trợ lương thực và hỗ trợ sản xuất phù hợp; Đối với

vùng có khả năng sản xuất nông nghiệp, nhưng chưa có điều kiện sản xuất

hàng hóa, thì trước mắt nên đặt trọng tâm vào phát triển, khai thác hệ canh tác

truyền thống chuyển đổi thành hệ thống nông lâm kết hợp để tạo ra lượng sản

phẩm nhiều hơn, đáp ứng nhu cầu tại chỗ và cung cấp hàng hóa cho thị trường

phạm vi nhỏ, đa dạng sinh kế cho người dân; Đối với vùng có khả năng sản

xuất hàng hóa, cần quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa cho những sản phẩm

đặc trưng có lợi thế so sánh, xây dựng cơ sở chế biến nông sản để tăng giá trị

sản phẩm và thúc đẩy sản xuất, xây dựng các kênh thị trường tiêu thụ sản

phẩm hàng hóa theo các cấp độ thị trường vùng, trong nước và xuất khẩu.

Hình thành và phát triển những vùng chuyên canh cây công nghiệp và cây ăn

quả quy mô lớn, đặc biệt với những sản phẩm đặc trưng có giá trị xuất khẩu

cao, như các loại chè thơm ngon ở Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái, Hà

Giang, Sơn La. Ở các vùng núi giáp biên giới của Cao Bằng, Lạng Sơn, cũng

như trên vùng núi cao Hoàng Liên Sơn, điều kiện khí hậu rất thuận lợi cho

việc trồng các cây thuốc quý như: tam thất, đương quy, đỗ trọng, hồi, thảo

quả và các cây ăn quả như mận, đào, lê. Ở Sa Pa có thể trồng rau mùa đông và

sản xuất hạt giống quanh năm. Việc đẩy mạnh sản xuất cây công nghiệp và

cây đặc sản, sẽ cho phép phát triển nền nông nghiệp hàng hóa có hiệu quả cao

của vùng và có tác dụng hạn chế nạn du canh, du cư.

Page 134: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

128

Đa dạng hoá nông nghiệp sẽ tạo ra các cơ hội để phát triển các ngành

công nghiệp, dịch vụ kèm theo như cung cấp nguyên liệu đầu vào, chế biến,

tiếp thị, điều này sẽ thu hút nhiều lực lượng lao động dư thừa, đồng thời tạo ra

thu nhập phi nông nghiệp cho các nông hộ. Đa dạng hoá nông nghiệp đóng

góp lớn vào công tác giảm nghèo cho các vùng DTTS MNPB, đồng thời cải

thiện BĐG thông qua việc tạo ra việc làm mới có thu nhập cao cho phụ nữ.

Hai là, MNPB là vùng có nhiều khoáng sản, như mỏ quặng đồng -

niken (Sơn La), đất hiếm (Lai Châu), mỏ sắt (Yên Bái), thiếc và bô xít (Cao

Bằng), kẽm - chì ở (Bắc Cạn), đồng - vàng (Lào Cai), đây chính là thế mạnh

rất lớn để vùng phát triển công nghiệp khai khoáng, chế biến khoáng sản, mà

không phải vùng nào cũng có. Tuy nhiên, hiện nay việc khai thác còn lộn xộn,

gây ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường và trật

tự an ninh xã hội. Các tỉnh MNPB cần tổ chức lại ngành công nghiệp khai

thác, tập trung đầu tư để từng bước xây dựng cơ sở khai thác, chế biến khoáng

sản hiện đại, nhằm đảm bảo việc khai thác vừa có hiệu quả, vừa bảo vệ được

môi trường và an ninh xã hội;tiếp tục điều tra, khảo sát tìm kiếm thêm các mỏ

mới, nhằm tạo điều kiện thúc đẩy ngành công nghiệp này tiếp tục phát triển

với tốc độ nhanh, góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập cho nhân dân.

Ba là, vùng có nhiều di tích lịch sử đã được xếp hạng, nhiều địa danh

nổi tiếng như Điện Biên phủ, nhà tù Sơn La, hang Pắc Pó, cây đa Tân Trào,

hồ Núi Cốc, Ba Bể, Cẩm Sơn, Thác Bà, Sa Pa... đây là tiềm năng lớn để phát

triển du lịch.Với vị trí địa lý thuận lợi giáp Trung Quốc ở biên giới phía Bắc,

giáp Lào ở biên giới phía Tây, MNPB có nhiều lợi thế để tham gia hội nhập

kinh tế quốc tế, buôn bán hàng hóa qua các cửa khẩu vùng biên giới như: Tân

Thanh, Chi Ma (Lạng Sơn), Tà Lùng (Cao Bằng), Thanh Thủy (Hà Giang),

Hà Khẩu (Lào Cai), Ma Lù Thàng, Tây Trang (Lai Châu).

Các tỉnh MNPB cần tổ chức khai thác có hiệu quả hoạt động dịch vụ

thương mại tại các cửa khẩu, khu kinh tế cửa khẩu; cần mở rộng, xây dựng

các trung tâm thương mại, chợ biên giới, chợ nông thôn, để tiêu thụ hàng hoá

Page 135: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

129

trong và ngoài tỉnh; chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm du

lịch, với những sản phẩm đặc sắc gắn với kỳ quan thiên nhiên, di tích lịch sử

của vùng.

Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở MNPB, cần phải đi liền với tổ

chức phân công lại lao động một cách hợp lý, cần chống xu hướng nữ hóa

trong nông nghiệp như hiện nay, cần tiến hành phân công lại lao động ở nông

thôn theo hướng giảm lao động thuần nông, tăng lao động trong những ngành

phi nông nghiệp trên cơ sở phát triển các ngành, nghề, làng nghề truyền

thống; các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Dù là hộ

thuần nông, kiêm ngành nghề hay chuyên ngành nghề, phân công lao động

phải tính tới yếu tố sinh học của phụ nữ, để tránh họ làm các công việc nặng

nhọc, độc hại hay căng thẳng về cường độ và thời gian lao động. Trong mỗi

ngành nghề, tùy điều kiện, khả năng từng người mà phân công lao động, làm

sao để vừa tăng thu nhập vừa phát huy được khả năng của từng người. Việc

đưa các công nghệ tiên tiến, kỹ thuật máy móc vào sản xuất, cần chú trọng

việc cải thiện điều kiện lao động cho phụ nữ, làm thế nào để phụ nữ có thể sử

dụng được các công nghệ mới, các thiết bị máy móc mới để nâng cao năng

suất, tăng thu nhập, cần xóa bỏ sự phân công lao động theo giới vốn bất lợi

cho phụ nữ.

Thứ hai, MNPB cần thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế

Với trình độ thấp kém và phát triển không đồng đều của lực lượng sản

xuất ở khu vực MNPB, buộc chúng ta phải mở rộng nhiều hình thức quan hệ

sản xuất, phá vỡ hình thức sản xuất tự cấp, tự túc truyền thống của khu vực,

xây dựng một nền kinh tế gồm nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế của

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Do sản xuất chủ yếu vẫn là tự cấp, tự túc, nên kinh tế hộ gia đình ở

MNPB nhìn chung là bảo thủ, lạc hậu, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm

là chính, nên sản phẩm lao động làm ra kém năng suất và chất lượng. Tạo

điều kiện để cho hộ gia đình phát huy tối đa mọi khả năng trong sản xuất và

Page 136: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

130

kinh doanh, là trực tiếp thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh nhất

trong tình hình hiện nay ở MNPB. Kinh tế hộ gia đình phát triển là cơ sở hình

thành nền sản xuất hàng hóa, chuyên môn hóa - điều đó được thể hiện ở chỗ

từ những sản phẩm dư thừa của hộ gia đình được đem ra thị trường để bán và

trao đổi, trong những sản phẩm này, có những mặt hàng đã được thị trường

chấp nhận, nếu các sản phẩm đó được nhân rộng trong làng, bản hay cả khu

vực và được đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, thì đó sẽ là con đường

nhanh chóng chuyên môn hóa sản xuất ở MNPB, là cơ sở để thực hiện chuyển

giao kỹ thuật, công nghệ về chăn nuôi, trồng trọt, nâng cao hiểu biết cho nhân

dân, nâng cao đời sống của nhân dân.

Kinh tế tư nhân ở MNPB chưa phát triển thật sự mạnh mẽ, nên việc thu

hút đầu tư và phát triển thành phần kinh tế này càng cần thiết và mang ý nghĩa

thiết thực hơn. Ngoài những mục tiêu phát triển kinh tế, nó còn tạo điều kiện

để cải tạo tác phong, lề lối làm việc, kiểu sản xuất tự túc, tự cấp.

Việc mở rộng hình thức kinh tế hợp tác ở MNPB có vai trò to lớn trong

việc thúc đẩy phát triển kinh tế, không chỉ có khả năng giải quyết những khó

khăn trong quá trình sản xuất và kinh doanh, tạo ra sức cạnh tranh lớn hơn, mà

còn là một trong những cách thức đưa MNPB đi từ sản xuất tự cung, tự cấp,

tiến tới xây dựng quan hệ sản xuất hiện đại. Việc xây dựng kinh tế hợp tác ở

MNPB, có thể đi theo hướng mở rộng các hình thức hợp tác trong nội bộ làng,

bản, ngành, xây dựng các hợp tác xã từ những tổ đổi công vốn có trong truyền

thống sản xuất của đồng bào các dân tộc. Cần nhân rộng các mô hình liên kết

hộ nông dân, các hình thức kinh tế hợp tác, việc hộ gia đình tham gia vào các

nhóm, các câu lạc bộ, được hưởng lợi từ việc vay vốn của các dự án phát triển

kinh tế, tạo thêm nhiều cơ hội việc làm, tăng thu nhập và giảm nghèo đói là

một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy BĐG trong lao động gia đình.

Thứ ba, MNPB cần đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng

Phát triển kết cấu hạ tầng ở MNPB là một yêu cầu tất yếu và cấp bách

trong quá trình CNH, HĐH, xây dựng nông thôn mới. Các yếu tố như giao

Page 137: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

131

thông, thủy lợi, năng lượng… mặc dù ít tham gia trực tiếp vào quá trình hình

thành các sản phẩm hàng hóa, nhưng giữ vai trò quan trọng đối với sản xuất

hàng hóa. Sản xuất hàng hóa có phát triển được hay không sẽ phụ thuộc rất

lớn vào các chi phí giao thông, điện sinh hoạt, thông tin. Những yếu tố này sẽ

tạo ra mối quan hệ, giao lưu giữa MNPB với các khu vực khác, là cơ sở tiền

đề để thực hiện CNH, HĐH nông thôn.

Một là, do giao thông khó khăn, nên đã cản trở rất lớn đến hoạt động

vận chuyển các sản phẩm nông - lâm nghiệp để đem ra chợ trao đổi, nhiều chi

phí cho vận chuyển hàng hóa đã chiếm hết giá trị trao đổi của hàng hóa, nên

nhiều nông sản của đồng bào DTTS đem bán hoặc trao đổi bao giờ cũng phải

chịu mức giá thấp hơn giá trị thực của nó, trong khi những hàng hóa cần thiết

phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng của đồng bào thì lại phải mua với giá đắt

hơn nhiều lần. MNPB cần cải tạo, xây dựng hệ thống giao thông trong vùng,

quan tâm phát triển giao thông nông thôn để dễ dàng sử dụng xe cơ giới nhỏ,

xe cải tiến, xe kéo ở vùng thấp, ngựa thồ ở vùng cao.

Hai là, sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào xây dựng hệ

thống thủy lợi và thủy điện nhằm phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân.

Đối với sản xuất nông nghiệp và nông thôn, thủy lợi có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng. Trong khi xây dựng hệ thống thủy lợi, MNPB cần kết hợp xây dựng thủy

điện vừa và nhỏ, phục vụ cho nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Để có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế của vùng DTTS MNPB, bên

cạnh chính sách chung của Nhà nước, thì Đảng ủy, Ủy ban nhân dân các cấp

ở MNPB cần có những chính sách đầu tư và quản lý đầu tư tốt hơn trong xây

dựng cơ sở hạ tầng, có chính sách ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi nhất trong

việc vay vốn để mở rộng sản xuất cho cả người dân và doanh nghiệp đầu tư

vào khu vực DTTS; cần thu hút các kênh đầu tư của cá nhân hoặc tổ chức

trong nước, quốc tế, các dự án phát triển làng nghề truyền thống bền vững;

cần thiết phải lồng ghép giới vào quá trình hoạch định chính sách và chương

trình phát triển kinh tế xã hội ở địa phương như: ưu tiên cho các gia đình nông

Page 138: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

132

dân nghèo vay vốn để phát triển sản xuất, tham gia dịch vụ xã hội. Mặt khác,

cần phát triển các dịch vụ xã hội, đặc biệt là dịch vụ hỗ trợ các công việc gia

đình nông thôn.

Bên cạnh những chính sách chung cần có những chính sánh, chương

trình đặc thù phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và văn hóa miền núi,

nhằm tạo điều kiện cho các DTTS có cơ hội phát triển, có như vậy mới tạo ra

được những nhân tố mới thúc đẩy quá trình phát triển tiến tới thực hiện BĐG.

Hội Phụ nữ các tỉnh MNPB cần phối hợp với Sở Lao động Thương

Binh - Xã hội, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức nhiều hoạt

động dạy nghề, tạo việc làm cho đồng bào miền núi. Hội Phụ nữ các cấp

huyện, xã tư vấn, giới thiệu việc làm tại các doanh nghiệp trong tỉnh, đi xuất

khẩu lao động ở nước ngoài… góp phần thực hiện chương trình dạy nghề,

giải quyết việc làm, giúp lao động nữ miền núi có việc làm, tăng thu nhập, ổn

định cuộc sống.

Hội Nông dân cần phối hợp Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,

tuyên truyền, vận động hội viên là nông dân DTTS tích cực ứng dụng tiến bộ

khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, bảo quản chế biến... Tổ chức

đào tạo nghề cho hội viên nông dân thông qua việc tổ chức các lớp dạy nghề

ngắn hạn tại chỗ về trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp và ngành nghề

nông thôn, gắn với tạo việc làm tại chỗ, phù hợp với tình hình thực tiễn của

nông nghiệp, nông thôn MNPB; Xây dựng và phát triển các mô hình câu lạc

bộ khuyến nông, câu lạc bộ nông dân làm kinh tế giỏi, chuyển giao khoa học

kỹ thuật, các hoạt động dịch vụ, tư vấn cho hội viên nông dân. Xây dựng tủ

sách khoa học kỹ thuật cho các câu lạc bộ, các chi hội nông dân, mỗi xã, bản

để hội viên nông dân hàng tháng sinh hoạt trao đổi.

4.2.2. Nâng cao trình độ học vấn và nhận thức về bình đẳng giới

cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc

Trình độ học vấn luôn đóng vai trò quyết định và tỷ lệ thuận với những

tiến bộ, những giá trị mới của mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống gia đình.

Page 139: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

133

Trình độ học vấn cao sẽ làm thay đổi nhận thức, quan niệm, thái độ và hành vi

của các thành viên gia đình. Quan hệ gia đình vì thế trở nên tốt đẹp, quan hệ vợ

chồng bình đẳng hơn, có điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, thay

đổi quan niệm và hành vi bất BĐG, hành vi sinh sản. Hơn nữa, chỉ khi nào

đồng bào DTTS có được một trình độ học vấn cao, thì khi ấy họ mới có điều

kiện thay đổi tập quán canh tác lạc hậu, tiếp thu và áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào

trong sản xuất và đời sống, vượt qua nghèo nàn, mới thực hiện được BĐG

trong lao động gia đình. Cho nên nâng cao trình độ học vấn cho đồng bào

DTTS là khâu then chốt, nhằm tạo nội lực phát triển cho vùng. Văn kiện Đại

hội Đảng XII của Đảng đã ra quan điểm chỉ đạo: “Nâng cao chất lượng giáo

dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc”

[19, tr.164].

Để nâng cao học vấn cho đồng bào DTTS MNPB hiện nay, cần thực

hiện đồng bộ nhiều giải pháp, với sự tham gia của các cấp chính quyền, ngành

giáo dục và toàn thể người dân.

Thứ nhất, cần gây dựng và củng cố niềm tin về các cơ hội học tập và

nghề nghiệp cho đồng bào DTTS. Để làm được điều này, cần đẩy mạnh tuyên

truyền về việc dạy và học, những chính sách giáo dục đối với vùng DTTS của

Nhà nước và của địa phương, để người dân có được thông tin một cách đúng

đắn, kịp thời, chính xác và thiết thực. Đối với đồng bào DTTS MNPB, do còn

hạn chế về nhận thức và bất đồng ngôn ngữ, nên cần có một khoảng thời gian

rất dài mới có thể thay đổi nhận thức, vì thế việc cung cấp thông tin, tuyên

truyền, giúp họ dần dần hiểu được vai trò của giáo dục phổ thông đối với đời

sống, tương lai công việc của con em họ, hiểu được những chính sách ưu đãi

của Nhà nước và địa phương dành cho việc học tập, cần phải tiến hành

thường xuyên, liên tục. Từ sự thay đổi tích cực trong nhận thức sẽ đưa đến

những thay đổi tích cực trong hành động, giúp họ chủ động hơn, tích cực hơn,

hợp tác hơn trong việc xây dựng xã hội học tập cho chính con em họ và mọi

Page 140: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

134

nỗ lực của Nhà nước trong quản lý, đầu tư cho giáo dục vùng dân tộc mới đạt

mục tiêu.

Thứ hai, hoàn thiện quy hoạch mạng lưới trường học, đầu tư chuẩn hóa

cơ sở vật chất trường, lớp học. Trường có cơ sở gần thôn bản là ước mơ của

các học sinh từ bậc tiểu học đến trung học phổ thông, để các em được đến

trường nhiều, các tỉnh MNPB nên mở rộng hệ thống trường cấp 1 theo hình

thức liên thôn bản (nhiều bản cách xa nhau đến 7 km), xây dựng trường cấp 2

và cấp 3 theo hình thức liên xã (khoảng ba đến 4 xã chung một trường cấp 3).

Khi đó khoảng cách từ hộ gia đình đến trường dao động trong khoảng từ 3-

5km, thì học sinh dù không có phương tiện xe đạp vẫn có thể đi bộ đến

trường; Cần củng cố hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, đồng bào

DTTS MNPB mong đợi hình thức này được mở rộng hơn để con em họ có thể

tiếp cận với cách học “tập trung và chuyên tâm”, về phía cha mẹ cũng bớt

phải lo về kinh tế; nhân rộng mô hình trường phổ thông dân tộc nội trú có dạy

nghề, thành lập trường phổ thông dân tộc nội trú liên cấp trung học cơ sở -

trung học phổ thông; đảm bảo điều kiện sinh hoạt cho học sinh các trường

phổ thông dân tộc bán trú, xây dựng nhà ở bán trú cho học sinh DTTS học

trung học phổ thông ở những địa bàn đặc biệt khó khăn, giao thông cách trở.

Thứ ba, MNPB có nhiều dân tộc cùng sinh sống, nên trong một trường,

một lớp lại có nhiều học sinh thuộc nhiều tộc người khác nhau. Hơn nữa,

trong vùng có một số dân tộc có mức độ phát triển cao như Tày, Nùng,

Mường, Thái, nhưng cũng có tới 13/16 dân tộc thuộc nhóm rất ít người ở mức

độ phát triển thấp như: La Hủ, Cống, Cờ Lao, Mảng, Lô Lô, Pu Péo, Pà

Thẻn,... đời sống của các dân tộc thiểu số này ở mức kém phát triển, tình

trạng đói nghèo phổ biến, dân số ít, sống biệt lập, rải rác. Đây cũng là đặc thù

so với các vùng DTTS khác trong cả nước (Tây Nguyên, Tây Nam Bộ), là

khó khăn trong việc phát triển giáo dục, nhất là việc dạy song ngữ, nên cần

chú ý tới rào cản ngôn ngữ và nhu cầu giáo dục đặc thù cho người DTTS.

Page 141: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

135

Hiện nay, các môn học trong trường đều được dạy bằng tiếng Việt, trong khi

đó kỹ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh DTTS còn rất kém. Việc chưa

thông thạo tiếng Việt, thể hiện qua cách các em không nghe kịp được các thầy

cô giảng, hoặc nhiều em nghe nhưng không hiểu nghĩa của từ nên không nhớ

được kiến thức. Ở bậc tiểu học, nên có giáo viên người địa phương (cùng

nhóm tộc người) dạy cho học sinh là tốt nhất bởi sẽ cần vận dụng cả tiếng phổ

thông và tiếng địa phương để truyền dạy, giải thích cho các em hiểu rõ.

Thứ tư, MNPB là vùng có trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn kém,

đời sống người dân thấp, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, những rào cản

về nhiều mặt khiến cho việc học hành của học sinh vùng DTTS gặp nhiều khó

khăn. Ở nơi mà mối quan tâm đầu tiên và hàng ngày là miếng cơm, manh áo;

việc làm hàng ngày là lên nương làm rẫy, chống chọi lại sự khắc nghiệt của tự

nhiên thì con đường đến với cái chữ của những trẻ em vùng DTTS, vùng sâu,

vùng xa còn rất dài và rất gian nan. Chính vì vậy, nếu để giáo dục phổ thông

vùng DTTS phát triển tự nhiên theo cùng một chính sách, cùng một phương

thức quản lý ngang bằng như, giống như mọi vùng miền, thì sự phát triển của

nó lại gặp thêm rất nhiều khó khăn mới. Để đảm bảo sự công bằng trong cơ

hội học tập của học sinh dân tộc thiểu số, Nhà nước phải là chủ thể trực tiếp

cung ứng dịch vụ giáo dục cho các em, đồng thời cần đặc biệt, ưu tiên hơn

nhằm tạo những “cú hích”, xây dựng những nền tảng, tạo dựng những cơ sở

vững chắc cho nó có điều kiện phát triển. Đó là những hỗ trợ, ưu tiên cho học

sinh, cho giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục về chế độ học tập, sinh hoạt, cơ

hội học tập, về cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học, về tinh thần,… để giáo

dục phổ thông vùng DTTS MNPB có cơ hội và điều kiện phát triển như

những vùng miền khác. Ví như, với học sinh cấp 3, nhà nước nên giảm 50%

mức đóng góp ở bậc PTTH và có thể áp dụng thời điểm thu phí uyển chuyển

hơn (không nhất thiết phải đóng ngay đầu năm học mà có thể cho nộp dần

trong học kỳ, giãn đến một hoặc hai tháng sau). Đối với các thôn bản đặc biệt

khó khăn, nhà nước có thể xét trợ cấp gạo, tiền cho học sinh trong những

Page 142: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

136

ngày giáp hạt từ tháng 1 đến tháng 4 dương lịch (vùng người Mông và người

La Hủ).

Thứ năm, do lực lượng lao động ở MNPB chưa qua đào tạo còn chiếm

tỷ lệ rất cao, nên đào tạo nghề cho người lao động phải được mở rộng và phổ

biến, thì mới có thể phát triển được chất lượng nguồn nhân lực. Việc đào tạo

ngành nghề cho lao động ở MNPB cần phải dựa trên nguyên tắc là gắn với

tiềm năng, thế mạnh của địa phương, trong đó cần tập trung và đào tạo cấp

tốc các ngành nghề về phát triển nông - lâm nghiệp dưới các hình thức

khuyến nông, khuyến lâm, mở rộng các ngành nghề tiểu thủ công như các

ngành đan, thêu, dệt truyền thống của một số dân tộc. Đối với đào tạo nghề,

không nhất thiết mọi người phải trải qua trình độ trung học phổ thông, mà có

thể đào tạo ngay từ những năm trung học cơ sở hoặc sớm hơn. Cần miễn học

phí và hỗ trợ sách giáo khoa và vở, hỗ trợ tiền ăn ở cho các em, bởi vì hầu hết

những người đi học nghề đều là những người đóng góp chính cho kinh tế gia

đình và chi phí cơ hội của việc bỏ lỡ việc làm do đi học nghề cần được bù đắp

để các em có thể tham gia học nghề.

Kết quả khảo sát, cũng như qua nghiên cứu các tài liệu liên quan cho

thấy, tuy vấn đề BĐG nói chung, BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB

đã có nhiều bước cải thiện đáng kể so với giai đoạn trước, nhưng những định

kiến giới, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn còn tồn tại mạnh mẽ ở MNPB.

Vì vậy, nhiệm vụ của chúng ta cần làm thay đổi nhận thức ở mỗi người, đặc

biệt phải làm cho nhận thức đó chuyển hóa thành các hành vi, thái độ ứng xử

bình đẳng với phụ nữ.

Để nâng cao nhận thức về BĐG nói chung và BĐG trong lao động gia

đình nói riêng, công tác tuyên truyền cần được tiến hành trong xã hội, ở

cộng đồng và trong các cơ quan Nhà nước, trước tiên là lực lượng cán bộ

lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành. Hiện nay, một số cán bộ lãnh đạo và

công chức chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề BĐG. Nhiều người còn gặp khó

khăn hoặc nhầm lẫn khi phân biệt những khái niệm cơ bản như: “giới”, “giới

Page 143: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

137

tính”, “bất BĐG”, “lồng ghép giới”… chẳng hạn, khi nói về giới một số

người nghĩ rằng đó là nói về phụ nữ. Mặt khác, vẫn còn một bộ phận lãnh

đạo các cấp, ngành ở địa phương chưa nhận thức rõ mối quan hệ mật thiết

giữa BĐG và công cuộc phát triển phát triển bền vững. Họ chưa hiểu hết tầm

quan trọng của việc lồng ghép BĐG, như là một cách tiếp cận hiệu quả nhất

để thực hiện BĐG, nên chưa xây dựng được những chính sách tốt nhằm phát

huy vai trò của phụ nữ, nâng cao vị thế của phụ nữ. Vì vậy cần đẩy mạnh

tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giới trước hết cho đội ngũ lãnh

đạo các cấp.

Để làm được điều này, cần tăng cường mở các lớp đào tạo về giới và

BĐG cho các đối tượng là cán bộ lãnh đạo của các ban, ngành, đoàn thể, cán

bộ Hội phụ nữ đặc biệt là ở cấp cơ sở. Thông qua các đợt tập huấn đó sẽ góp

phần nâng cao kiến thức và kỹ năng về BĐG cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý, giúp họ có khả năng lồng ghép các chính sách về giới trong các

chương trình kinh tế - xã hội ở địa phương có hiệu quả hơn.

Về nội dung đào tạo, cần cung cấp cho các học viên kiến thức mang tính

toàn diện và khách quan về BĐG, cần tránh hiện tượng cung cấp những thông

tin một chiều như quá nhấn mạnh đến những thiệt thòi của nữ giới, mà phải

đánh giá cả thực trạng bình đẳng của giới nam và giới nữ… cũng như mối quan

hệ qua lại giữa hai giới. Nếu trước kia, xu hướng chung là cử một số cán bộ

tham gia tập huấn về giới chủ yếu là cán bộ nữ, thì hiện nay để đạt được BĐG

trong xã hội, việc đào tạo tuyên truyền về giới không chỉ tập trung ở đối tượng

nữ. Bởi lẽ hiện nay, nam giới vẫn đang có những ưu thế trong xã hội, nếu cán

bộ lãnh đạo cả nam và nữ, được đào tạo về giới, họ nhận ra được bất BĐG là

do định kiến và quan niệm, thì việc xóa bỏ những bất bình đẳng đó sẽ dễ dàng

hơn, khoảng cách bất BĐG giữa nam và nữ sẽ mau thu hẹp hơn. Đưa nội dung

về BĐG vào chương trình bồi dưỡng về quản lý nhà nước, đào tạo về cao cấp

lý luận chính trị, nhằm nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ chủ chốt. Như

Page 144: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

138

vậy, để công tác BĐG có hiệu quả, phải bắt đầu từ nhận thức và sự đánh giá

đúng đắn từ phía những người có chức trách, thẩm quyền cao là nam giới.

Đặc biệt cần nâng cao nhận thức về BĐG cho đồng bào DTTS, đây là

việc cần được tiến hành thường xuyên. Bởi lẽ với điều kiện kinh tế xã hội ở

miền núi vùng phía Bắc còn khó khăn, trình độ dân trí còn hạn chế, thì việc

trang bị cho đồng bàoDTTS những kiến thức, thông tin về BĐG kịp thời là

hết sức quan trọng, nếu không sẽ dẫn tới khoảng cách bất BĐG giữa hai giới

ngày càng tăng.

Về nội dung: do trình độ dân trí thấp và vốn hiểu biết xã hội còn hạn

chế, nên nội dung tuyên truyền cần dễ hiểu, ngắn gọn súc tích.

Về đối tượng: từ thực trạng về BĐG trong lao động gia đình DTTS

MNPB, cho thấy nam giới cần được tuyên truyền, vận động để có cách nhìn

nhận cởi mở, tích cực về BĐG, nhất là về sự cần thiết phải nâng cao vai trò

giới, vai trò của phụ nữ, tiến tới xóa bỏ những định kiến và cách suy nghĩ

khuôn mẫu cứng nhắc, lạc hậu về vai trò làm vợ, làm mẹ của người phụ nữ,

cần phải phân tích để cho người dân thấy được sự bất bình đẳng trên nhiều

khía cạnh sẽ là một trong những yếu tố cản trở sự phát triển của chính bản

thân phụ nữ, gia đình và toàn xã hội. Đối tượng tuyên truyền còn chính là

những phụ nữ còn mang tư tưởng lạc hậu, an phận ở các nhóm dân tộc khác

nhau, cũng như không chỉ tuyên truyền cho lớp trẻ, mà còn chú ý đến những

người có tuổi, người già, còn bảo thủ, có giữ lại những định kiến, vì chính họ

là tác nhân quan trọng nhất trong trong việc tuyên truyền, giáo dục về BĐG

cho thế hệ trẻ. Khi các thành viên gia đình nhận thức đúng đắn về BĐG, thì

trẻ em trai và trẻ em gái ngay từ khi chào đời đã được cha mẹ, những người

lớn tuổi đối xử bình đẳng. Khi lớn lên, được chứng kiến quyền bình đẳng giữa

cha mẹ, ông bà; được hưởng quyền và thực hiện trách nhiệm bình đẳng với

nhau. Gia đình mà trong đó nam và nữ được bình đẳng với nhau, sẽ tiếp tục là

môi trường tuyên truyền, giáo dục hiệu quả nhất về BĐG, ngoài ra cần phát

huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng.

Page 145: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

139

- Hình thức tuyên truyền cần đa dạng, với tư duy cụ thể, đồng bào

DTTS cần lượng thông tin thật, người thật, cần có nhiều hình ảnh trực quan,

sinh động dễ hiểu (song ngữ) qua các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc

tuyên truyền trực tiếp trong các cuộc họp, sinh hoạt cộng đồng, các phiên chợ,

lễ hội, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, biểu đạt bằng pa nô, áp phích. Có thể lồng

ghép các kiến thức về BĐG vào sinh hoạt của các câu lạc bộ: “Câu lạc bộ

không sinh con thứ ba”, sinh hoạt nhóm “lồng ghép dân số với phát triển gia

đình bền vững”, câu lạc bộ “gia đình 5 không, 3 sạch”, tiếp tục thực hiện đề

án “giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt”, đặc biệt cần nâng cao hơn nữa

tính hiệu quả của Dự án Tín dụng gia đình, bởi lẽ thông qua các sinh hoạt của

các nhóm, các câu lạc bộ là một trong những hình thức có hiệu quả nhất cho

việc cung cấp các kiến thức về giới và BĐG cho cả phụ nữ và nam giới. Đối

với đồng bào DTTS, không thạo tiếng phổ thông cần sử dụng đội ngũ cán bộ

người dân tộc tuyên truyền bằng chính ngôn ngữ của họ... Bên cạnh đó cần

lồng ghép nội dung giáo dục này, vào chương trình giảng dạy trong các nhà

trường phổ thông hiện nay như môn: Giáo dục Công dân, kỹ năng sống.

Đặc biệt cần tăng cường kinh phí cho việc thực hiện chương trình phát

thanh, truyền hình và làm báo hình, tăng thời lượng phát sóng truyền thanh,

truyền hình, về nội dung BĐG nói chung, BĐG trong lao động gia đình nói

riêng, bằng tiếng dân tộc ở địa phương, duy trì và phát triển các điểm bưu

điện văn hóa xã tới tận địa bàn cư trú của bà con

Ở MNPB, do trình độ am hiểu pháp luật của người dân còn thấp, lại

chịu ảnh hưởng của những tập tục lạc hậu, những chuyện xảy ra trong gia

đình thường được xem là chuyện riêng tư của vợ chồng, không can hệ gì đến

pháp luật, cho nên nhiều vấn đề tiêu cực trong gia đình phát sinh dẫn đến

những hậu quả đáng tiếc. Nên cần đẩy mạnh việc tuyên truyền phổ biến chính

sách và pháp luật đến với đồng bào DTTS, nhất là luật Hôn nhân gia đình,

luật BĐG, Luật phòng chống bạo lực gia đình. Khi tuyên truyền, phổ biến

chính sách, pháp luật, cần xác định đối tượng cả nam và nữ, nội dung cần

Page 146: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

140

được xác định cụ thể cho từng đối tượng để họ nắm được toàn bộ quyền và

nghĩa vụ pháp lý liên quan trực tiếp đến mình, trên cơ sở đó thực hiện và bảo

vệ được quyền và nghĩa vụ.

Có thể nói, để có thể thực hiện được giải pháp trên, thì vai trò của các

cấp ủy Đảng, chính quyền là vô cùng quan trọng, trong việc chỉ đạo lồng ghép

các nội dung tuyên truyền vào các chương trình phát triển kinh tế xã hội của

địa phương, là trách nhiệm của các tổ chức chính trị xã hội như Hội phụ nữ,

Đoàn thanh niên và có vai trò to lớn của người có uy tín trong cộng đồng của

đồng bào DTTS.

4.2.3. Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở miền núi

phía Bắc

Gia đình là thể chế xã hội đầu tiên có thể làm thay đổi tập quán phân

công lao động theo giới, tạo điều kiện thực hiện BĐG một cách hiệu quả. Khi

trong gia đình nam giới sẵn sàng chia sẻ việc nhà, thì phụ nữ có cơ hội tham

gia vào thị trường lao động, phát huy khả năng và sở thích của mình, trực tiếp

tạo thu nhập, từ đó phụ nữ có khả năng tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực,

có tiếng nói trong gia đình. Vì gia đình và sự tiến bộ của phụ nữ là hai vấn đề

có quan hệ khăng khít với nhau, nên ở MNPB- nơi còn tồn tại nhiều ràng

buộc khắt khe đối với phụ nữ, dẫn tới họ phải chịu nhiều thiệt thòi, muốn xóa

bỏ bất BĐG trong lao động gia đình DTTS, thì cần đẩy mạnh phong trào xây

dựng gia đình văn hóa.

Trong những năm qua, phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở MNPB

đã được triển khai bằng nhiều hình thức phong phú và đem lại hiệu quả thiết

thực. Tại Cao Bằng, các dòng họ đã phát huy truyền thống hiếu học, xây dựng

quỹ khuyến học, những hộ khá giỏi hỗ trợ vốn, truyền nghề, tạo công ăn việc

làm giúp hộ nghèo thoát nghèo, nhiều gia đình văn hóa thuộc đối tượng chính

sách gia đình thương binh, bệnh binh gương mẫu, gia đình công giáo sống tốt

đời, đẹp đạo. Các gia đình văn hóa tỉnh Lào Cai gương mẫu thực hiện nếp

sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội tại các bản văn hóa, tích cực

Page 147: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

141

vận động bà con xóa bỏ những hủ tục lạc hậu trong việc cưới, việc tang ở

thôn, bản. Bắc Kạn xây dựng các mô hình hòa thuận, tương thân tương ái,

hiếu học, phát triển kinh tế vườn, đồi theo hướng hàng hóa, có ý thức bảo tồn

và gìn giữ các giá trị văn hóa của dòng họ, cộng đồng, kế thừa, xây dựng các

tập quán tốt đẹp trên cơ sở truyền thống văn hóa đồng bào dân tộc. Tại nhiều

tỉnh Tây Bắc, đồng bào DTTS đã phấn đấu xây dựng gia đình văn hóa theo

phương thức tập trung phát triển kinh tế gia đình, vươn lên dám nghĩ dám

làm, mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, áp dụng tiến bộ khoa

học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh giỏi, làm giàu bằng chính bàn tay, khối

óc của mình.

Hiện nay, để đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở

MNPB cần:

Thứ nhất, tiếp tục phát triển với các hình thức đa dạng và phong phú.

Chú trọng xây dựng mô hình các câu lạc bộ “gia đình hạnh phúc, bình đẳng

và không có bạo lực”, “nhóm cùng sở thích”. Thúc đẩy sự tham gia của nam

giới trong các hoạt động truyền thông và các mô hình, câu lạc bộ nhằm tác

động tích cực đến nhóm nam giới trong cộng đồng.

Thứ hai, cần tuyên truyền người dân thực hiện tốt kế hoạch hóa gia

đình, “gia đình ít con” để vừa giảm tỷ lệ tăng dân số, vừa đảm bảo sức khỏe

cho phụ nữ và chăm sóc, nuôi dạy con cái được tốt hơn. Cần phát huy sức

mạnh cộng đồng, thông qua các biện pháp: cung cấp đầy đủ các dịch vụ kế

hoạch hóa gia đình, nhất là tổ chức, triển khai biện pháp đình sản, triệt sản,

không coi việc sử dụng các biện pháp tránh thai chỉ là nhiệm vụ của phụ nữ.

Nêu gương tốt, việc tốt trong thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa gia

đình. Tuyên truyền, vận động việc thực hiện chính sách dân số bằng nhiều

hình thức khác nhau, phù hợp với trình độ nhận thức của đồng bào: tổ chức

các câu lạc bộ sinh hoạt văn nghệ để lồng ghép giới, sử dụng hình thức trực

quan như áp phích, tranh cổ động, tuyên truyền lưu động.

Page 148: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

142

Thứ ba, không thể có bình đẳng trong nghèo nàn, lạc hậu nên “no ấm”

được coi là điều kiện để xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc, vì vậy xóa đói

giảm nghèo, phát triển kinh tế để nâng cao phúc lợi cho gia đình, tạo sự ấm

no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc cho các thành viên trong gia đình, nhất là

cho người phụ nữ. Khi kinh tế phát triển, các gia đình không phải đứng trước

sự lựa chọn ưu tiên do tình trạng khan hiếm, phụ nữ không còn phải đối mặt

với một loạt vấn đề của cuộc sống như: ăn, mặc, học tập, sức khỏe..., họ sẽ có

điều kiện phát triển cá nhân.

Thứ tư, để xây dựng gia đình văn hóa, trong đó đảm bảo các tiêu chí

tiến bộ, hạnh phúc, bền vững, thì phải kiên quyết ngăn chặn và đẩy lùi các hủ

tục như: tảo hôn, hôn nhân cận huyết; tệ nạn: hút thuốc phiện, buôn bán phụ

nữ; bạo lực, tích cực vận động các thành viên trong gia đình và cộng đồng xây

dựng đời sống văn hóa, nếp sống văn minh. Cần áp dụng các hình thức nhằm

khuyến khích thanh niên DTTS ở các vùng khó khăn kết hôn ở độ tuổi muộn

hơn, có thể là tặng quà (khăn bông, màn) nếu họ đến đăng ký kết hôn tại văn

phòng ủy ban nhân dân xã, cần hỗ trợ để họ được tiếp cận thông tin tốt hơn về

tình dục và hôn nhân, đồng thời cần cung cấp các dịch vụ tư vấn làm cha mẹ

ở các khu vực DTTS và miền núi, kết hợp với nâng cao nhận thức về những

tác động tiêu cực của hôn nhân cận huyết.

Hội Phụ nữ cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, các ngành chức

năng kiểm tra, giám sát chế độ chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em: giám

sát việc thực hiện Luật Phòng chống Bạo lực gia đình, Chương trình an sinh

xã hội...; thành lập nhóm phụ nữ phòng chống bạo lực gia đình ở một số cơ

sở; trực tiếp can thiệp, đề nghị xử lý một số vụ bạo lực gia đình nhằm bảo vệ

quyền và lợi ích của phụ nữ… Cung cấp nhiều hơn các dịch vụ tài chính vi

mô bền vững và hiệu quả cho những phụ nữ nghèo DTTS thông qua hoạt

động của quĩ Tình thương. Huy động sức mạnh nội lực trong chị em, giúp

Page 149: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

143

nhau bằng cây, con giống... kết hợp các chương trình hỗ trợ của tổ chức

trong và ngoài nước về vốn, kiến thức cho phụ nữ phát triển kinh tế, xây

dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

Hội Phụ nữ tiếp tục tổ chức sinh hoạt “câu lạc bộ gia đình hạnh phúc”

với những nội dung thiết thực như: lợi ích của việc sinh đẻ có kế hoạch đối

với sự phát triển kinh tế và hạnh phúc gia đình, phương pháp nuôi con khoẻ,

dạy con ngoan. Qua đó, mỗi đoàn viên, hội viên trở thành một tuyên truyền

viên dân số tích cực tuyên truyền, vận động thực hiện sinh đẻ kế hoạch.

Để đảm bảo sự phát triển của phụ nữ mang tính bền vững, các cấp hội

phụ nữ cần tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục về quyền phụ nữ,

quyền bình đẳng của phụ nữ trên mọi lĩnh vực; Cần đẩy mạnh đấu tranh

chống lại các quan niệm lạc hậu về vai trò của phụ nữ trong đời sống chính

trị, kinh tế- xã hội. Điều quan trọng là, các cấp hội cũng cần phải tuyên truyền

giáo dục để tự bản thân người phụ nữ cũng phải xóa bỏ những mặc cảm tự ti,

vượt lên trên những thành kiến cổ hủ, mạnh dạn tham gia vào các hoạt động

xã hội để khẳng định vị trí, vai trò của mình.

Đoàn Thanh niên cần phối hợp tổ chức tuyên truyền, đẩy mạnh giáo

dục đào tạo, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần và vận động các hoạt động

phòng chống tệ nạn xã hội, ma tuý trong đoàn viên thanh niên, đẩy mạnh hoạt

động của “câu lạc bộ tiền hôn nhân”.Vận động phong trào Đoàn viên thanh

niên sinh đẻ có kế hoạch, vận động thực hiện gia đình 2 con, con thứ nhất

cách con thứ hai 5 năm, không có người sinh con thứ 3, nuôi con khỏe, dạy

con ngoan…Vận động phong trào xóa mù chữ cho đoàn viên thanh niên, nhất

là nhóm nữ đoàn viên DTTS.

Tóm lại, con đường nhận thức và hành động vì BĐG phải bắt đầu từ

gia đình và ngay trong gia đình. Do đó, xây dựng gia đình văn hóa là điều

kiện để giải phóng phụ nữ DTTS, thực hiện BĐG, góp phần xây dựng thể chế

gia đình bền vững ở MNPB.

Page 150: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

144

4.2.4. Phát huy vai trò nỗ lực vươn lên của phụ nữ dân tộc thiểu số

miền núi phía Bắc

V.I.Lênin từng chỉ ra rằng: Phụ nữ chỉ được giải phóng, được phát triển

khi họ tự nhận thức được vị trí, vai trò của mình và có quyết tâm đấu tranh vì sự

nghiệp cao cả ấy, việc giải phóng lao động nữ phải là việc của bản thân phụ nữ.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhắc nhở: phụ nữ phải vươn lên để

bình đẳng với nam giới về trình độ, về năng lực quản lý kinh tế và quản lý xã

hội, chủ động quyết tâm khắc phục khó khăn, phải tự tin, tự lực, tự cường, không

nên tự ti, “ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình”. Theo

Người, hơn tất cả mọi điều chính là bản thân chị em phụ nữ phải tự phấn đấu

vươn lên để thoát khỏi tâm lý tự ti, bó hẹp, để đấu tranh giải phóng đòi quyền lợi

cho chính mình và giới mình, góp công sức, trí tuệ của mình trong xây dựng đất

nước. Để có thể xóa bỏ tâm lý tự ti, phụ nữ DTTS MNPB cần:

Thứ nhất, phải cố gắng học tập, nâng cao trình độ

Sự nghiệp đổi mới đang đòi hỏi bên cạnh việc kế thừa và phát huy

những giá trị truyền thống của phụ nữ DTTS như: chân thật, giản dị, chăm

chỉ, nhân hậu, khéo léo, sống có trách nhiệm với gia đình và xã hội, thì nay

cần hình thành những phẩm chất mới như: năng động, sáng tạo, bản lĩnh, tự

tin, tinh thần chủ động, dám nghĩ, dám làm đem lại lợi ích cho bản thân và

cộng đồng, tác phong lao động linh hoạt, nhanh nhẹn, để ứng phó được những

tình huống mới liên tục xuất hiện trong xu thế cạnh tranh, giao lưu, hợp tác.

Để có thể khẳng định được vị thế xã hội của mình trong gia đình, đòi

hỏi phụ nữ DTTSMNPB phải nâng cao hiểu biết, năng lực, phải có tri thức,

kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân

đạo, để tự tin khẳng định mình. Việc phụ nữ có đủ năng lực và sự chủ động

trong việc ra các quyết định quan trọng về các mặt trong gia đình, sẽ là điều

kiện quan trọng để tiến tới bình đẳng giới thực sự trong gia đình.

Muốn vậy, gia đình và các các tổ chức xã hội cần phải tạo những cơ

hội và điều kiện thuận lợi để phụ nữ DTTS có điều kiện và cơ hội tham gia

Page 151: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

145

các lớp tập huấn, các khoá đào tạo ngắn hạn và dài hạn liên quan đến hoạt

động sản xuất, giúp họ tham gia và trực tiếp ra các quyết định liên quan đến

kinh tế hộ gia đình như đối với hoạt động vay vốn để đầu tư vào sản xuất

kinh doanh và các hoạt động khác. Có chính sách thoả đáng đối với họ khi

tham gia học tập tại các trường lớp, nâng cao trình độ trên các địa bàn này,

tiến tới xoá bỏ dần khoảng cách và sự chênh lệch kiến thức, trình độ giữa

phụ nữ các dân tộc và giữa phụ nữ và nam giới.

Cần đặc biệt chú ý tới việc tạo điều kiện, cơ hội cho phụ nữ tham gia

vào các hoạt động xã hội, tự học hỏi, tự đào tạo để nâng cao kiến thức văn

hoá và khắc phục mặc cảm tự ti, xóa bỏ định kiến, để tiến tới chủ động và tích

cực phấn đấu nâng cao sự công bằng giới trong các lĩnh vực của đời sống gia

đình và xã hội. Nâng cao kiến thức, kỹ năng cho phụ nữ DTTS về chăm sóc

sức khoẻ, nuôi dạy con, dân số và kế hoạch hoá gia đình, kỹ năng sống và tổ

chức cuộc sống gia đình. Xây dựng phụ nữ DTTS MNPB có “ sức khoẻ, tri

thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng

nhân hậu, tích cực lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”.

Hội phụ nữ cần nêu gương người tốt, việc tốt của phụ nữ DTTS trong

các lĩnh vực. Họ là những con người có những phẩm chất cao quý trong lao

động sản xuất, trong sinh hoạt và học tập, là những tấm gương sáng về sự

kết hợp giữa hài hoà giữa ý chí kiên cường, lòng dũng cảm đức hi sinh, nghị

lực sống và tài năng sáng tạo không ngừng. Những tấm gương đó không chỉ

thôi thúc mỗi người phụ nữ noi theo, mà còn góp phần thay đổi những nhận

thức chưa đầy đủ về vị trí và vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Tổ

chức các lễ hội tôn vinh phụ nữ DTTS nhằm tạo dư luận xã hội rộng rãi ủng

hộ, khuyến khích các hành động tích cực chăm lo cho sự phát triển của phụ

nữ đồng thời phê phán, loại bỏ những hành vi tiêu cực, những phong tục tập

quán, tâm lý, thói quen coi thường, hạ thấp nhân phẩm của phụ nữ,giúp cho

phụ nữ nhận thức rằng vị thế xã hội thấp kém của họ so với nam hiện nay,

không phải chỉ là do những khác biệt về mặt thể chất tự nhiên, mà là bắt

nguồn từ những yếu tố xã hội.

Page 152: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

146

Trong bối cảnh hiện nay,ở MNPB còn nhiều định kiến với phụ nữ,

công cuộc đổi mới đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng

nguồn nhân lực nữ. Sự nghiệp đổi mới đã tạo điều kiện và đòi hỏi phụ nữ phát

huy ý thức, ý chí, khả năng của cá nhân cho sự phát triển của cộng đồng.Vì

vậy, muốn đấu tranh xoá bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu coi thường

phụ nữ, thì bản thân phụ nữ phải biết vươn lên, không ngừng học hỏi, nâng

cao năng lực, trình độ về mọi mặt để có một nền tảng tri thức vững chắc có

thể chủ động, tự tin giải quyết các vấn đề của bản thân, gia đình và xã hội.

Thứ hai, cần nâng cao tính tích cực xã hội của phụ nữ

Tham gia vào các hoạt động mang tính xã hội, phụ nữ DTTS MNPB

không chỉ được phát huy khả năng, mà hơn thế nữa họ được hoàn thiện chính

bản thân mình. Tâm lý tự ti, mặc cảm của họ chắc chắn sẽ dần được khắc

phục, nếu họ được tham gia vào một môi trường hoạt động giàu tính năng

động, sáng tạo, luôn có sự giao lưu đa chiều tôn trọng nhu cầu, khả năng và

nguyện vọng của mỗi cá nhân.

Để thực hiện BĐG trong lao động gia đình, không chỉ dừng lại ở việc

xoá bỏ những định kiến bảo thủ lạc hậu đối với phụ nữ DTTS, mà quan trọng

hơn là phải bằng những hành động thiết thực tạo điều kiện cho sự phát triển

của phụ nữ DTTS thông qua việc tiếp cận với giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức

khoẻ, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, chống tệ bạo hành, buôn bán phụ

nữ, các tệ nạn xã hội từ trong gia đình.

Kết luận chương 4

Quá trình thúc đẩy thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS

MNPB, cần phải quán triệt những quan điểm cơ bản như: phải gắn liền với

chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến lược phát triển nguồn nhân lực và

chủ trương xây dựng nông thôn mới; phải gắn với Chiến lược Quốc gia về

BĐG, kế hoạch hành động BĐG của các tỉnh trong vùng; thực hiện BĐG

trong lao động gia đình DTTS MNPB là sự kết hợp sức mạnh tổng thể của các

Page 153: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

147

cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể và bản thân người phụ nữ. Đặc biệt,

thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB cần phải xuất phát từ

điều kiện đặc thù của vùng và đặc điểm riêng của từng dân tộc.

Việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS ở MNPB hiện nay,

đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức như: kinh tế lạc hậu, trình độ

dân trí và nhận thức của người dân còn thấp, trong đời sống xã hội còn tồn tại

nhiều hủ tục lạc hậu. Để giải quyết được những mâu thuẫn này, thúc đẩy

BĐG trong lao động gia đình, đòi hỏi MNPB cần thực hiện một hệ thống các

giải pháp mang tính đồng bộ. Trước tiên các tỉnh MNPB cần phát triển kinh tế

để cải thiện đời sống cho nhân dân, thông qua việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng sản xuất hàng hóa để phát huy lợi thế cạnh tranh của vùng, đồng

thời thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế và đẩy mạnh việc hoàn

thiện kết cấu hạ tầng phục vụ phải triển kinh tế. Thứ hai, các tỉnh MNPB cần

phải có giải pháp để nâng cao trình độ học vấn và nhận thức về BĐG cho

đồng bào DTTS, với những hình thức và nội dung phù hợp với đặc thù vùng

và đặc điểm của dân tộc. Thứ ba, các tỉnh MNPB cần phải đẩy mạnh phong

trào xây dựng gia đình văn hóa bằng nhiều hình thức khác nhau, để đẩy lùi

ảnh hưởng tiêu cực của các hủ tục, vì con đường nhận thức và hành động vì

BĐG bắt đầu từ gia đình và ngay trong gia đình. Thứ tư, cần có những chính

sách giải pháp tạo điều kiện cho phụ nữ học tập, nâng cao tính tích cực xã hội,

để phát huy vai trò vươn lên của phụ nữ DTTS.

Page 154: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

148

KẾT LUẬN

Bình đẳng giới là một trong những mục tiêu toàn cầu, mà Liên hợp

quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác từ lâu đã vận động và thúc đẩy. Quyền

bình đẳng nam nữ trên mọi lĩnh vực đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế

giới về quyền con người (1948), Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức

phân biệt đối xử với phụ nữ của Liên hợp quốc (1979) và nhiều văn kiện pháp

lý quốc tế khác, cũng như đã được khẳng định trong pháp luật của hầu hết các

quốc gia trên thế giới.

Bình đẳng giới là mục tiêu vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài, vừa có

tính cấp bách trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ta. Thực hiện mục tiêu

này, nam giới và nữ giới có thể có những điều kiện bình đẳng để phát huy đầy

đủ các tiềm năng của họ, có cơ hội để tham gia, đóng góp trong công cuộc

phát triển đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.

Thực tiễn đời sống đã chứng minh, bất kỳ một sự phân biệt đối xử nào cũng

đều dễ gây nên những căng thẳng và xung đột xã hội. Bất BĐG không chỉ hạn

chế sự phát triển của phụ nữ, mà còn cản trở tiến trình phát triển của mỗi quốc

gia, đặc biệt là với các nước đang phát triển.

Vấn đề BĐG được đề cập rất sớm ở Việt Nam, các quan điểm về BĐG

không chỉ được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp của Nhà

nước, được cụ thể hóa bằng các văn bản, những chỉ thị, nghị định, mà quan

trọng hơn, ở một mức độ nhất định, đã và đang được thực thi trong cuộc sống

nhằm phát huy vai trò, vị trí và tiềm năng của phụ nữ trong xã hội.

Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực của

đời sống xã hội. Gia đình là một thiết chế xã hội, cũng có những biến đổi theo

xu hướng tích cực tiến bộ, đặc biệt các mối quan hệ trong gia đình ngày càng

hướng tới sự dân chủ, bình đẳng hơn. Có thể nói gia đình và sự tiến bộ của

phụ nữ là hai vấn đề có quan hệ khăng khít với nhau. Trong gia đình, phụ nữ

có vai trò hết sức quan trọng, là người thầy đầu tiên của con người, là linh hồn

Page 155: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

149

của một gia đình, là người tạo dựng nền tảng tâm hồn và nhân cách cho con

người ngay từ thuở lọt lòng cho đến khi trưởng thành. Để phát huy tốt vai trò

của mình, người phụ nữ phải là người tiến bộ và gia đình là nơi bắt đầu sự

tiến bộ của phụ nữ. Người phụ nữ không thể nâng cao vị trí của mình khi gia

đình thiếu sự bình đẳng, sự chia sẻ vai trò của mình cùng với các thành viên

trong gia đình và sự ủng hộ của xã hội. BĐG trong lao động gia đình có ý

nghĩa to lớn, góp phần phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

và thúc đẩy thực hiện công bằng xã hội.

Miền núi phía Bắc là vùng đất có nhiều tiềm năng và nguồn lực phát

triển về kinh tế, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng, lãnh đạo

trong 30 năm qua đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của người DTTS

được nâng cao.

Trong gia đình DTTS hiện nay đã có sự biến đổi theo hướng tích cực

trong mối quan hệ giữa các thành viên, đặc biệt trong phân công lao động

trong gia đình. Tuy nhiên trên thực tế thấy rằng, việc thực hiện BĐG trong

lao động gia đình của DTTS MNPB còn đứng trước rất nhiều khó khăn, thử

thách. Trong gia đình DTTS MNPB hiện nay, về cơ bản vẫn còn mang nhiều

định kiến giới, phân công lao động vẫn tuân theo quan điểm truyền thống

“việc đàn ông”, “việc đàn bà”. Sự phân công này xuất phát từ quan niệm nam

giới là “phái mạnh” phải đảm nhận những “việc nặng”, cần “tính toán” và “kỹ

thuật,” còn phụ nữ thuộc “phái yếu” nên phụ trách những “việc nhẹ”, “công

việc không tên”. Sự phân biệt “việc đàn ông” và “việc đàn bà” trên thực tế đã

làm giảm giá trị lao động của phụ nữ, chính điều này đã cản trở họ trong

việc tiếp cận, kiểm soát các nguồn lực để phát triển, hạn chế quyền quyết

định trong lao động gia, cản trở quá trình thực hiện BĐG trong lao động gia

đình đồng bào DTTS.

Thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB đòi hỏi phải

nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò lao động của người phụ nữ trong gia đình

ở các địa phương này, cần phải vận động tuyên truyền mạnh mẽ hơn nữa để

Page 156: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

150

mọi người thay đổi cách nhìn thiên lệch về vai trò của phụ nữ đặc biệt là phụ

nữ DTTS trong thời đại ngày nay. Cần phải phát triển kinh tế hàng hóa ở

MNPB để tạo điều kiện thúc đẩy năng suất lao động, đa dạng hóa sinh kế, giải

phóng sức lao động. Ngoài ra các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị và các

thành viên trong gia đình cần tạo điều kiện cho chị em phụ nữ DTTS có cơ

hội học hành, có công ăn việc làm, được đảm bảo tốt về mặt sức khỏe…, để

họ có thể vừa hoàn thành thiên chức làm vợ, làm mẹ, mà vẫn đảm bảo tốt mọi

trọng trách mà xã hội giao phó. Đặc biệt để thực hiện được BĐG trong lao

động gia đình thì bản thân người phụ nữ DTTS cũng phải nỗ lực vươn lên vì

BĐG không phải là làm giúp cho phụ nữ mà là tạo cơ hội, tạo điều kiện cho

phụ nữ phát huy được năng lực bản thân, BĐG không phải là tạo chỗ dựa, mà

là giúp phụ nữ đứng vững trên đôi chân của mình để họ góp phần xây dựng

một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Muốn thực hiện được BĐG trên các lĩnh vực khác, thì trước hết phải

thực hiện được BĐG trong gia đình, vì gia đình là “tế bào” của xã hội. Và

trong gia đình để có BĐG thì thực hiện BĐG trong lao động gia đình lại có ý

nghĩa quyết định. BĐG trong lao động gia đình không những là chìa khóa để

đảm bảo cho sự ổn định bền chặt, êm ấm của gia đình, mà còn tạo điều kiện

cho sự phát triển toàn diện của cả nam và nữ về mặt xã hội, cải thiện dần địa

vị của mỗi giới, đặc biệt là địa vị của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.

Page 157: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Lệ Thu (2012), "Tâm lý tự ti, an phận của phụ nữ và sự bất bình

đẳng giới trong gia đình dân tộc HMông ở Hà Giang", Tạp chí Dân tộc

và thời đại, (146), tr.8-14.

2. Nguyễn Lệ Thu (2015), "Tâm lý tự ti, an phận và sự bất bình đẳng giới với

phụ nữ trong gia đình Hmông vùng Đông Bắc", Kỷ yếu hội thảo khoa

học quốc gia Nữ quyền những vấn đề lý luận và thực tiễn, Trường Đại

học Sư phạm Hà Nội, Nxb Đại học Sư phạm, tr.500-505.

3. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Triết lý nhân sinh trong nghi lễ tang ma của người

Tày ở miền núi phía Bắc", trong cuốn Triết lý nhân sinh trong văn hóa

Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Nxb Lý luận chính trị,

tr.464-469.

4. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Đào tạo sinh viên ngành Giáo dục công dân kiến

thức về giới đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông

mới", Kỷ yếu hội thảo Trường Sư phạm trong phát triển năng lực nghề

nghiệp cho giáo viên phổ thông đáp ứng chương trình giáo dục mới,

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội, tr.207-213.

5. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Bình đẳng giới và xóa đói giảm nghèo ở miền núi

phía Bắc", Tạp chí Dân tộc và thời đại, (187), tr.55-60.

6. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Cung cấp kiến thức về giới cho sinh viên sư phạm

đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay", Kỷ yếu hội thảo khoa học

sinh viên và cán bộ trẻ các trường Sư phạm toàn quốc năm 2016 toàn

văn, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Sư

phạm thành phố Hồ Chí Minh, tr.325-331.

7. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Tác động của phong tục tới thực hiện bình đẳng giới

trong lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc", Tạp chí Lao

động và công đoàn, (605), tr.18-19.

Page 158: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Thị Ngọc Anh (2006), Vai trò giới và lượng hóa giá trị lao động

gia đình, Trường Cán bộ phụ nữ Trung ương, Hà Nội.

2. Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng (2000), Phụ nữ và gia đình, Nxb Phụ

nữ, Hà Nội.

3. Trần Thị Vân Anh (2007), “Đóng góp kinh tế của vợ chồng”, Tạp chí

Nghiên cứu gia đình và giới, (5), tr.3-14.

4. Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu Minh (chủ biên) (2008), Bình đẳng giới ở

Việt Nam (phân tích số liệu điều tra), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

5. Do Thi Binh (1999), Cao Bang - Bac Kan - Rural Development project:

Gender Studies on Tay Nung ethnic minorities in Cao Bang, Ha Noi.

6. Đỗ Thị Bình (2001), “Mấy vấn đề về vai trò giới trong gia đình nông

thôn hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp các xã phía Bắc), Tạp chí

Khoa học về phụ nữ, (3), tr.20-33.

7. Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn và Nguyễn Linh Khiếu (2002), Gia đình Việt

Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

8. Bộ Chính trị (1993), Nghị quyết số 04, ngày 12-7-1993 về đổi mới và tăng

cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, Hà Nội.

9. Bộ Chính trị (2007), Nghị quyết số 11, ngày 27-4-2007, về công tác phụ

nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

10. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Chiến lược phát triển (2010), Các vùng,

tỉnh thành phố trực thuộc trung ương: Tiềm năng và triển vọng đến

năm 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2010), Chiến lược Quốc gia về

bình đẳng giới giai đoạn 2010 - 2020, Hà Nội.

12. Tony Chapman (2004), Gender and Domestic life (changing Pratices in

family and Household), Palgranve Macmillan.

Page 159: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

153

13. Chính phủ (2006), Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 về việc

lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội,

Hà Nội.

14. Chính phủ (2011), Báo cáo tổng kết thực hiện dự án “trồng mới 5 triệu

hecsta rừng” và kế hoạch bảo vệ phát triển rừng giai đoạn 2011 -

2020, Hà Nội.

15. Chính phủ (2011), Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14-1-2011 về

Công tác dân tộc, Hà Nội.

16. Chương trình hợp tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và Liên hợp quốc

về bình đẳng giới (2011), Hệ thống các văn bản quy định hiện hành

về bình đẳng giới và phòng, chống Bạo lực gia đình, Nxb Thời đại,

Hà Nội.

17. Đại học Thái Nguyên (2014), Phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo

cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi, Nxb Đại học Thái

Nguyên, Thái Nguyên.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 47, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Sa Trọng Đoàn (2000), Phát triển kinh tế hộ gia đình miền núi trong quá

trình chuyển dịch sang cơ chế thị trường, Luận án tiến sĩ, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

21. Trần Thị Minh Đức (2006), Định kiến và phân biệt đối xử theo giới: lý

thuyết và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

22. Nguyễn Thị Hà (2012), Quan hệ giới trong gia đình dân tộc thiểu số

miền núi phía Bắc hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính

trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

23. Lương Thị Thu Hằng (2002), “Vài nét về người phụ nữ trong xã hội

Thái” (Nghiên cứu tại huyện Thanh Luông, tỉnh Lai Châu), Tạp chí

Khoa học về phụ nữ, (5), tr.21-29.

Page 160: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

154

24. Trần Minh Hằng (2001), “Một số phong tục tập quán ảnh hưởng tới

chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ các dân tộc tỉnh Hà Giang”,

Tạp chí Dân số và phát triển, (2), tr.35-40.

25. Bế Văn Hậu (2014), “Gia đình người Tày ở Việt Nam - truyền thống và

đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, (2).

26. Phạm Thu Hiền (2013), “Tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu đối

với cộng đồng dân tộc thiểu số phía Bắc - nhìn từ lăng kính giới”,

Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, (2), tr.56-66.

27. Đặng Thị Hoa (2001), “Vị thế của người phụ nữ H’Mông trong gia đình

và xã hội”, (Nghiên cứu ở bản Hang Kia, xã Hang Kia, huyện Mai

Châu, Hòa Bình), Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (1), tr.33-36.

28. Đặng Thị Hoa, Phạm Thị Kim Oanh (2008), “Vấn đề bạo lực gia đình ở

vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam”(nghiên cứu

trường hợp dân tộc Mông), Tạp chí Dân tộc học, (4).

29. Nguyễn Linh Khiếu (2002), “Khía cạnh quan hệ giới trong gia đình

nông thôn” (Nghiên cứu trường hợp xã Cát Thịnh, Văn Chấn, Yên

Bái), Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (1), tr.25-29.

30. Nguyễn Linh Khiếu (2003), Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

31. Phan Thanh Khôi, Đỗ Thị Thạch (đồng chủ biên) (2007), Những vấn đề

giới - từ lịch sử đến hiện đại, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

32. Knud Knudsen and Kari Waerness (2008), National context and spouses’

Housework in 34 countries (bối cảnh đất nước và công việc gia đình

của vợ chồng tại 34 quốc gia), Europian Sociological Review,

Volume 24. Number 1.

33. Lê Ngọc Lân (2005), “Phụ nữ các dân tộc miền núi phía Bắc: về hôn

nhân, văn hóa giáo dục và chăm sóc sức khỏe”, Tạp chí Khoa học về

phụ nữ, (6), tr.34-44.

34. Lê Ngọc Lân (2007), “Vấn đề lao động, việc làm nhìn từ góc độ giới”,

Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới,(2).

Page 161: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

155

35. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, NXb Tiến bộ, Matxocova.

36. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Matxocova.

37. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Matxocova.

38. C.Mác, Ph. Ănghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Phan Thị Thanh Mai (2009), “Thực trạng và vai trò của phụ nữ dân tộc

thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc trong chăm sóc sức khỏe sinh

sản”, Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, (1).

40. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.

41. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,

Hà Nội.

43. Dương Thị Minh (2004), Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ

trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Nguyễn Hữu Minh (2008), “Khía cạnh giới trong phân công lao động gia

đình”, Tạp chí Xã hội học, (4), tr.44-56.

45. Nguyễn Thị Nga, Phạm Anh Hùng (2015), “Lao động nữ không được.

trả công ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, số 1 (86).

46. Nguyễn Thị Ngân (2008), “Thực hiện quan điểm của Đảng và chính sách

của Nhà nước về bình đẳng giới”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (3),

tr.42-45.

47. Nguyễn Thị Ngân (2008), “Chủ trương của Đảng, Nhà nước về giải

phóng phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng,

(3), tr.48-55.

48. Lê Tuấn Ngọc (2015), “Phát triển nguồn lực con người trong quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay”,

Tạp chí Triết học, số 4 (287), tr.65-70.

49. Phan Thị Nhiệm (2009), “Tác động của gia nhập WTO tới phụ nữ dân

tộc thiểu số nông thôn tại một số tỉnh miền núi phía Bắc”, Tạp chí

Kinh tế và phát triển, (142), tr.36-42.

Page 162: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

156

50. Trần Thị Vân Nương (2013), “Phân công lao động theo giới trong gia

đình: cách nhìn mới cho một chủ đề cũ”, Tạp chí Nghiên cứu giới và

gia đình, (3).

51. Oxfarm actionaid, Oisee, Caritas (2010), Báo cáo hiện trạng bất bình

đẳng giới trong cộng đồng người dân tộc thiểu số.

52. Oxfarm - Actionad (2013), Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng

dân tộc thiểu số điển hình ở Việt Nam.

53. Lò Giàng Páo (2010), Điều tra, đánh giá tăng trưởng và giảm nghèo ở một

số vùng dân tộc thiểu số phía Bắc, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

54. Lò Giàng Páo (2010), Điều tra đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội tuyến

biên giới Việt Nam - Trung Quốc, Báo cáo dự án điều tra cấp bộ, Ủy

ban dân tộc, Hà Nội.

55. Nguyễn Hồng Quang (2003), “Gia đình DTTS và lao động trẻ em”, Xã

hội học, số 1 (81), tr.41-50.

56. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật Bình

đẳng giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Đất

đai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Hôn

nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Lê Thị Quý (2004), “Vấn đề giới trong các dân tộc ít người ở Sơn La -

Lai Châu hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, số 1 (85).

60. Lê Thị Quý (2013), “Bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa

học xã hội Việt Nam, (2).

61. Quỹ Health Bridege Canada - Viện Nghiên cứu phát triển xã hội (2007),

Women’s Economic Contribution through their Unpaid Work in

Vietnam (Đóng góp kinh tế của phụ nữ thông qua công việc nhà).

62. Roberta Satow (2001), Gender and social life (Giới và đời sống xã hội),

Nxb Allyn and Bacon, Boston.

Page 163: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

157

63. Nguyễn Thị Thanh Tâm và nhóm nghiên cứu (2005), Thu nhập, việc

làm và địa vị của phụ nữ dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển

kinh tế thị trường - những phân tích qua lăng kính giới (nghiên cứu

trường hợp Lào Cai và Lạng Sơn), Viện Gia đình và giới, Hà Nội.

64. Nguyễn Thị Thanh Tâm, Lê Việt Nga và Phan Thị Thanh Mai (2007),

Một số vấn đề giới của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, Viện

Gia đình và giới, Hà Nội.

65. Lê Ngọc Thắng (1998), “Phụ nữ dân tộc và miền núi trong đời sống

kinh tế - văn hóa các dân tộc”,Tạp chí Cộng sản, (539).

66. Lê Ngọc Thắng (2001), “Mấy vấn đề về sự phát triển của phụ nữ

Hmông (từ thực tiễn ở Mộc Châu, Sơn La và Quản Bạ, Hà Giang)”,

Tạp chí Dân tộc học, (1).

67. Lê Thi (1996), Gia đình Việt Nam ngày nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

68. Lê Thi (1998), Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam,

Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

69. Nguyễn Thị Phương Thủy (2014), Gia đình và giáo dục gia đình, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

70. Tổng cục Thống kê (2011), kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp

và thủy sản năm 2011, Nxb Thống kê, Hà Nội.

71. Tổng cục Thống kê (2012), Điều tra mức sống, Hà Nội.

72. Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống kê, Hà Nội.

73. Tổng cục Thống kê (2013), Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa

gia đình thời điểm 1/4/2013, Hà Nội.

74. Tổng cục Thống Kê (2014), Kết quả chủ yếu Điều tra dân số và nhà ở

giữa kỳ thời điểm 1/4/2014, Hà Nội.

75. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê tóm tắt 2014, Hà Nội.

76. Tổng cục Thống kê, UNICEF (2015), Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ

em và phụ nữ Việt Nam 2014, Báo cáo cuối cùng, Hà Nội.

Page 164: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

158

77. Nguyễn Thị Mỹ Trang, Nguyễn Lê Tâm (2007), “Quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ”, Tạp chí Giáo dục lý luận,

(5), tr.7-11.

78. Trương Thu Trang (2008), “Những yếu tố ảnh hưởng đến BĐG trong

phân công thực hiện công việc nội trợ giữa vợ và chồng”, Tạp chí

Thông tin khoa học xã hội, (4).

79. Trung tâm Nghiên cứu gia đình và phụ nữ (1998 - 2000), Điều tra cơ

bản về gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong gia đình

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hà Nội.

80. Trịnh Quốc Tuấn, Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên) (2008), Khoa học giới -

Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận - Hành chính, Hà Nội.

81. UN (2002), Tóm tắt tình hình giới.

82. UN (2009), Báo cáo tiến độ thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ,

xóa bỏ khoảng cách thiên niên kỷ.

83. UNDP (2010), Human Development Report 2010 (Báo cáo phát triển con

người 2010).

84. UNDP (2013), Thewomen’s access to land in contemporary Viet Nam

(Tiếp cận đất đai của phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện nay).

85. UN Women (2010), Pháp luật của chúng ta có thúc đẩy bình đẳng giới,

Sổ tay nghiên cứu rà soát pháp luật dựa trên công ước CEDAW, (Dịch

ra tiếng Việt: Hà Ngọc Anh), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

86. UN Women (2011), Thúc đẩy quyền của phụ nữ tại Việt Nam.

87. UN Women (2012), Những phát hiện chính từ Báo cáo An sinh xã hội

cho phụ nữ và trẻ em gái ở Việt Nam.

88. UN Womem (2015), Tóm tắt tình hình phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số.

89. Ủy ban dân tộc (2011), Nghèo của DTTS ở Việt Nam - thực trạng và

thách thức ở các xã thuộc Chương trình 135 - II, Hà Nội.

90. Ủy ban Dân tộc (2012), Báo cáo nghiên cứu thực trạng quản lý và sử

dụng đất đai ở vùng dân tộc và miền núi, Hà Nội.

Page 165: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

159

91. Ủy ban dân tộc (2013), Báo cáo đánh giá và triển khai thực hiện chính

sách dân tộc và miền núi, Hà Nội.

92. Ủy ban Dân tộc (2014), Đề án giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân

cận huyết thống trong đồng bào DTTS (dự thảo), Hà Nội.

93. Ủy ban Dân tộc (2015), Kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 dân

tộc thiểu số năm 2015, Hà Nội.

94. Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam (2004), Hướng dẫn lồng

ghép giới trong hoạch định và thực thi chính sách, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

95. Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ (2010), Chiến lược quốc gia vì sự

tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

96. Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE) (2010), Báo cáo

đánh giá tiếp cận và sử dụng các dịch vụ pháp lý của phụ nữ dân tộc

thiểu số, Hà Nội.

97. Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE) (2010), Giới,

tăng quyền và phát triển: quan hệ giới từ góc nhìn của người dân tộc

thiểu số, Hà Nội.

98. Word Bank (2009), Country Social Analysis - Ethnic and Development in

Viet Nam (Phân tích xã hội về tộc người và phát triển ở Việt Nam.

99. Word Bank (2011), Gender Assessment in Viet Nam (đánh giá Giới tại

Việt Nam).

100. Word Bank (2012), TheWord Development Report 2012: Gender Equality

and Development (Báo cáo phát triển thế giới: BĐG và phát triển).

Page 166: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

160

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VIỆN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

PHIẾU HỎI

Kính thưa Ông (bà) !

Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc thực hiện BĐG trong gia

đình dân tộc thiểu, chúng tôi triển khai đề tài: Bình đẳng giới trong lao động

gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam

Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi xin trân trọng kính

nhờ ông, bà giúp đỡ cung cấp thông tin bằng cách hoàn thành phiếu hỏi này.

Sự giúp đỡ của ông bà sẽ góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công

đề tài nghiên cứu nói trên.

Việc cung cấp thông tin này là hoàn toàn tự nguyện. Vì vậy, chỉ xin

ông, bà vui lòng trả lời câu hỏi mà không cần ghi tên. Xin trân trọng cảm ơn

ông, bà đã giành thời gian giúp đỡ chúng tôi hoàn thành phiếu trưng cầu ý

kiến này.

Câu 1: Ông/bà có biết về Luật BĐG không? (khoanh tròn 1 lựa chọn)

1. Có 2. Không

Câu 2: Ông/bà có cho rằng cả hai vợ chồng phải làm các công việc

như nhau mới là bình đẳng không? (khoanh tròn 1 lựa chọn).

1. Rất đồng ý 2. Đồng ý 5. Ý khác

3. Không đồng ý 4. Khó trả lời

Page 167: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

161

Câu 3: Trong gia đình ông/bà ai là người làm chính các công việc

sau đây (Tích dấu X vào lựa chọn)

Người làm chính

Công việc Vợ Chồng

Cả hai vợ chồng

Người khác

Cầy bừa

Gieo trồng, cấy

Chăm sóc, làm vườn

Phun thuốc sâu

Thu hoạch

Bảo quản sản phẩm

Chăm sóc gia súc, gia cầm

Làm chuồng nuôi gia súc

Bán sản phẩm (nông sản, thủ công)

Dệt

Rèn

Làm thuê

Câu 4: Theo ông/bà việc sản xuất do nam giới đảm nhận đem lại lợi

ích kinh tế lớn hơn so với nữ giới? (khoanh tròn lựa chọn)

1. Đồng ý 2. Không đồng ý

Câu 5: Trong gia đình ông/bà ai là người thường xuyên làm những

công việc sau?(Tích dấu X vào lựa chọn)

Người làm chính

Công việc Vợ Chồng

Cả hai vợ chồng

Như nhau

Nấu ăn

Giặt giũ

Đi chợ

Giữ tiền

Chăm sóc, dạy bảo con

Chăm sóc người già

Lấy nước

Giã gạo

Thu lượm chất đốt

Sửa chữa đồ dùng

Page 168: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

162

Câu 6: Ông/bà có thể cho biết, trong gia đình ông/bà ai là người

tham gia các hoạt động cộng đồng dưới đây? (Tích dấu X vào lựa chọn)

Các công việc cộng đồng Vợ Chồng Cả hai Người khác

Dự đám hiếu/ hỉ

Giao tiếp với chính quyền

Họp thôn bản

Tiếp khách

Làm vệ sinh làng, xóm

Cũng giỗ của làng

Câu 7: Theo ý kiến của ông/bà, sự phân công giữa vợ và chồng

trong hoạt động sản xuất trong gia đình như hiện nay có hợp lý không?

(khoanh tròn 1 lựa chọn)

1. Rất hợp lý2. Hợp lý3. Chưa hợp lý, cần thay đổi

Câu 8: Theo ý kiến của ông/bà, sự phân công giữa vợ và chồng

trong công việc nội trợ của gia đình như hiện nay có hợp lý không?

(khoanh tròn 1 lựa chọn)

1. Rất hợp lý2. Hợp lý3. Chưa hợp lý, cần thay đổi

Câu 9: Theo ý kiến của ông/bà, sự phân công giữa vợ và chồng

trong việc tham gia hoạt động cộng đồng như hiện nay có hợp lý không?

(khoanh tròn 1 lựa chọn)

1. Rất hợp lý2. Hợp lý3. Chưa hợp lý, cần thay đổi

Câu 10: Trong hoạt động sản xuất, gia đình ông bà có sử dụng các

loại máy móc nào? (Khoanh các máy móc có dùng)

1. Máy cày 2. Máy bừa 3.Máy xát 4. Máy tẽ ngô

Câu 11: Trong gia đình ông (bà) ai là người đứng tên giấy chứng

nhận quyền sở hữu nhà đất(tích X vào 1 lựa chọn).

Người đứng tên Loại hình giấy tờ

Vợ Chồng Cả hai Người khác

Giấy sở hữu nhà đất

Page 169: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

163

Câu 12: Trong gia đình ông (bà) hiện nay, ai là người sử dụng biện

pháp tránh thai? (khoanh tròn lựa chọn)

1. Vợ 2. Chồng

Câu 13: Theo ông/bà, vợ hay chồng sử dụng biện pháp tránh thai

sẽ tốt hơn? (khoanh tròn lựa chọn)

1. Vợ 2. Chồng

Câu 14: Trong gia đình ông/bà ai là người quyết định trong sản

xuất và đời sống? (tích dấu X vào lựa chọn)

Quyết định Vợ Chồng Cả hai Người khác

Sử dụng vốn

Chuyển hướng SX

Chi tiêu hàng ngày (gạo, thực phẩm…)

Mua sắm đồ đắt tiền

Học hành của con cái

Xây sửa nhà cửa

Số con

Câu 15: Trong 12 tháng qua ông/bà có vay tiền để làm ăn không?

(Khoanh tròn 1 lựa chọn)

1. Có 2. Không

Câu 16: Nếu gia đình có nhu cầu vay vốn bên ngoài, ai là người đi

vay? (khoanh tròn 1 lựa chọn)

1. Vợ 2. Chồng 3. Cả hai vợ chồng

Câu 17: Ông/bà từng tham gia khóa tập huấn về khuyến nông nào

chưa?(khoanh tròn 1 lựa chọn)

1. Có 2. Không

Câu 18: Khi có giấy mời tham dự lớp tập huấn khuyến nông, trong gia

đình ông/bà ai là người thường xuyên tham gia? (khoanh tròn 1 lựa chọn)

1. Vợ 2. Chồng 3. Người khác

Page 170: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

164

Câu 19: Khi gia đình ông/bà được mời họp đại diện tại xã ai là

người trong gia đình thường xuyên tham gia? (tích dấu X vào lựa chọn)

Mức độ

Người tham gia

Thường

xuyên

Thỉnh

thoảng

Không

bao giờ Ý kiến khác

Phụ nữ

Nam giới

Câu 20: Trong cuộc họp mà ông/bà thường xuyên tham dự, ông bà

có: (khoanh tròn 1 lựa chọn)

1.Tham gia phát biểu ý kiến

2. Im lặng lắng nghe

3.Không quan tâm tới nội dung cuộc họp

Câu 21: Ông/bà dự định chia tài sản cho con sau này thế nào?

(khoanh tròn 1 lựa chọn)

1. Chỉ chia cho con trai 3. Chia đều cho các con

2. Chỉ chia cho con gái 4. Chia cho con trai nhiều hơn

Câu 22: ông/bà có nhận xét gì về mối quan hệ nam nữ trong gia

đình dân tộc mình hiện nay? (khoanh tròn 1 lựa chọn)

1. Rất bình đẳng 4. Rất không bình đẳng

2. Bình đẳng 5. Không trả lời

3. Chưa bình đẳng

Câu 23: Ông/bàdự định đầu tư cho con trai và con gái học hết bậc

học nào sau đây? (Tích X vào lựa chọn)

Giới tính Tiểu học Trung học

cơ sở

Trung học

phổ thông Đại học

Con trai

Con gái

Page 171: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

165

Câu 24: Quan niệm truyền thống cho rằng “con gái không cần học

cao”. Theo ông/bà quan niệm trên có còn phù hợp trong xã hội hiện nay

không? (Khoanh tròn lựa chọn)

1. Phù hợp 2. Phù hợp một phần 3.Không phù hợp

Câu 25: Nếu gia đình gặp khó khăn, ông/bà ưu tiên cho con nào

được đi học trước? (Khoanh tròn lựa chọn)

1. Con trai 2. Con gái

Câu 26: Thời gian rỗi ông/bà thường tham gia những hoạt động

nào sau đây? (Tích X vào lựa chọn)

Mức độ

Các dạng hoạt động

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Hiếm khi Không bao giờ

Nghỉ ngơi ở nhà

Đi chơi bản/xóm

Đọc sách báo

Nghe đài/ xem tivi

Chơi thể thao

Trông con

Dọn dẹp nhà cửa

Thêu thùa, may thổ cẩm

Câu 27: Trong 12 tháng qua, ông/bà có đi khám bệnh không?

(Khoanh tròn 1 lựa chọn)

1. Có 2. Không

Câu 28: Ông/bà thường đi khám bệnh ở đâu? (Khoanh tròn 1 lựa chọn)

1. Cơ sở y tế ở bản 2. Tại huyện

3. Tỉnh 4. Trung ương

Thông tin chung về bản thân Ông/ Bà:

a. Giới tính:

b. Dân tộc: Tôn giáo:

c. Tuổi:

d. Trình độ học vấn:

e. Công việc chính:

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà

Page 172: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

166

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

Vai trò của vợ và chồng trong sản xuất nông nghiệp xét theo tương quan dân tộc

Người tham gia

Loại hình công việc

Vợ Chồng Cả hai Người khác

Dân tộc Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ

Cày bừa 3,3 3,4 7,6 7,9 60,5 60,1 56,9 56,6 30,9 30,4 29,4 30,3 5,3 6,1 6,2 5,3

Gieo trồng, cấy 33,6 34,5 37,5 36,8 16,4 16,9 15,0 13,2 46,7 45,9 44,4 44,7 3,2 2,7 3,1 5,3

Chăm sóc, làm vườn 45,4 45,3 47,5 50,0 20,4 19,6 18,8 17,1 29,6 29,1 28,1 27,6 4,6 6,1 5,6 5,2

Phun thuốc sâu 11,2 10,8 16,3 14,5 60,5 60,2 56,2 55,3 18,4 18,2 16,9 17,1 9,9 10,8 10,6 13,1

Thu hoạch 32,9 32,4 34,4 35,5 18,4 18,2 16,9 15,8 42,8 42,6 41,3 39,5 5,9 6,8 7,5 9,2

Bảo quản 19,1 19,6 20,6 22,4 7,9 7,4 6,9 6,6 69,7 69,6 67,5 67,1 3,3 3,4 5,0 3,9

Làm chuồng 5,2 4,7 9,4 6,6 62,5 62,8 58,7 60,5 30,9 30,4 30,0 28,9 1,3 2,0 1,9 3,9

Chăm sóc gia súc 26,3 26,3 28,1 28,9 16,4 16,2 15,0 11,8 51,3 51,4 49,4 47,4 5,9 6,1 7,5 11,8

Bán sản phẩm 39,5 39,9 40,6 43,4 36,2 35,8 34,4 35,5 20,4 20,3 18,8 17,1 3,9 4,1 6,3 3,9

Dệt 59,2 60,1 67,5 50,0 7,2 6,8 6,3 5,3 14,5 14,2 12,5 9,2 19,1 18,9 13,8 35,5

Rèn 3,2 4,1 4,4 1,3 72,4 72,3 76,9 82,9 12,5 12,2 10,6 10,5 11,9 11,5 8,1 5,3

Làm thuê 18,4 18,2 17,5 15,8 36,8 37,2 38,8 38,2 32,9 32,4 30,6 30,3 11,8 12,2 13,1 15,7

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Page 173: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

167

Phụ lục 2

Người đứng tên quyền sở hữu nhà đất

Vợ Chồng Cả hai Người khác Người đứng tên

Dân tộc SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%

Tổng chung (536) 48 9,0 405 75,5 74 13,8 9 1,7

Thái 16 10,5 113 74,3 22 14,5 1 0,7

Tày 15 10,1 111 75,0 21 14,2 1 0,7

Mông 13 8,1 123 76,9 21 13,1 3 1,9

La Hủ 4 5,3 58 76,2 10 13,2 4 5,3

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Phụ lục 3

Người đi vay vốn

Vợ Chồng Cả hai Người đi vay

Dân tộc SL TL% SL TL% SL TL%

Tổng chung (536) 110 20,5 212 39,6 214 39,9

Thái 32 21,1 59 38,8 61 40,1

Tày 31 21,0 57 38,5 60 40,5

Mông 32 20,0 65 40,6 63 39,4

La Hủ 15 19,7 31 40,8 30 39,5

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Page 174: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

168

Phụ lục 4

Người quyết định trong chuyển hướng sản xuất

Vợ Chồng Cả hai Người khác Người quyết định

Dân tộc SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%

Tổng chung (536) 110 20,5 184 34,3 217 40,5 25 4,7

Thái 35 23,0 45 29,6 65 42,7 7 4,7

Tày 33 22,3 47 31,8 60 40,5 8 5,4

Mông 30 18,7 60 37,5 62 38,8 8 5,0

La Hủ 12 15,8 32 42,1 30 39,5 2 2,6

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Phụ lục 5

Dự kiến chia tài sản thừa kế

Chỉ chia cho con trai Chỉ chia cho con gái Chia bằng nhau Chia cho con trai

nhiều hơn Chia tài sản

Dân tộc SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%

Tổng chung (536) 340 63,4 12 2,2 75 13,9 109 20,5

Thái 95 62,5 5 3,3 22 14,5 30 19,7

Tày 93 62,8 4 2,7 21 14,2 30 20,3

Mông 103 64,3 2 1,3 22 13,8 33 20,6

La Hủ 49 64,5 1 1,3 10 13,1 16 21,1

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Page 175: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

169

Phụ lục 6

Mức độ tham gia của vợ và chồng trong hoạt động tái sản xuất xét theo tương quan dân tộc

Người tham gia

Loại hình công việc

Vợ Chồng Cả hai Người khác

Dân tộc Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ

Nấu ăn 64,5 64,9 68,8 69,7 8,6 8,8 6,3 2,6 17,1 16,9 15,6 14,5 9,8 9,4 9,3 13,1

Giặt giũ 65,1 67,6 68,8 68,4 6,6 6,1 4,4 3,9 22,4 22,3 18,1 17,1 5,9 4,0 8,7 10,5

Đi chợ 74,3 75 77,5 77,6 5,9 5,4 5,0 4,0 17,2 16,9 14,4 11,8 2,6 2,7 3,1 6,5

Giữ tiền 73,0 74,3 68,8 73,7 13,8 12,1 18,8 14,5 12,5 12,8 11,3 11,8 0,7 0,7 1,2 0,0

Chăm sóc và dạy con 38,2 38,5 41,3 46,1 5,9 5,4 4,4 2,6 53,3 52,7 51,3 50,0 2,6 3,4 3,0 1,3

Chăm sóc người già 27,6 27,7 29,4 30,3 15,8 15,5 13,1 14,5 53,3 52,7 51,3 50,0 3,3 4,1 6,3 5,2

Lấy nước 79,6 81,1 82,5 84,2 5,9 5,4 3,8 2,6 12,5 12,1 10,0 10,5 1,9 1,4 3,7 2,7

Giã gạo 38,8 39,2 41,3 43,4 13,2 12,8 11,9 11,8 43,4 43,2 41,3 39,5 4,6 4,7 5,6 5,3

Thu lượm chất đốt 58,6 59,5 61,3 63,2 5,3 4,7 3,8 3,9 29,6 29,1 27,5 27,6 6,6 6,8 7,5 5,3

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Page 176: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

170

Phụ lục 7

Người quyết định trong gia đình

Chồng Vợ Cả hai Người khác Tổng Người quyết định

Việc SL TL SL TL SL TL SL TL SL

Mua sắm đồ đắt tiền 185 34,5 79 14,7 262 48,9 10 1,9 536

Xây sửa nhà cửa 185 34,5 68 12,7 273 51,0 10 1,8 536

Việc học hành của con 128 23,9 110 20,5 293 54,7 5 0,9 536

Đi chợ 38 7,1 211 39,4 278 51,9 9 1,6 536

Số con 264 49,3 82 15,3 180 33,6 10 1,9 536

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Page 177: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

171

Phụ lục 8

Người quyết định trong gia đình theo tương quan dân tộc

Người quyết định

Loại hình công việc Vợ Chồng Cả hai Người khác

Dân tộc Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ

Mua sắm đồ đắt tiền 15,8 15,5 13,8 13,2 33,6 33,8 33,8 39,5 50,0 49,3 48,1 47,4 0,7 1,4 4,3 0,0

Xây dựng nhà cửa 13,8 13,5 11,9 10,5 33,6 33,8 33,8 39,5 52,0 51,4 50,0 50,0 0,7 1,4 4,4 0,0

Việc học hành của con cái 21,1 20,9 20,0 19,7 23,0 23,0 24,4 26,3 55,3 54,7 54,4 54,0 0,7 1,4 1,3 0,0

Số con 16,4 16,2 14,4 13,2 48,0 48,6 50,0 51,3 34,9 34,5 32,5 31,6 0,7 0,7 3,1 3,9

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Phụ lục 9 Các hoạt động ngoài thời gian sản xuất

Vợ (268) Chồng (268) Dân tộc Hoạt động Thái Tày Mông La hủ chung Thái Tày Mông La Hủ Chung

Nghỉ ngơi ở nhà 78,7 78,4 75,0 73,5 77,0 82,9 82,4 82,5 84,2 82,8

Đi chơi bản/xóm 48,7 48,6 46,3 44,7 47,4 55,3 55,4 56,3 57,9 55,9

Đọc sách/ báo 7,9 8,1 2,5 2,6 5,6 28,9 28,4 22,5 18,4 25,4

Nghe đài/ xem tivi 38,2 37,8 33,8 28,9 35,4 39,5 39,2 35 34,2 37,5

Chơi thể thao 2,6 1,4 1,3 2,6 1,9 6.6 6,8 6.3 5,3 6,3

Trông con 40,8 41,9 45,0 50,0 43,7 23,7 23,0 21,3 21,1 22,4

Dọn dẹp nhà cửa 65,8 67,6 70,0 73,7 68,7 28,9 28,4 26,3 26,3 27,6

Thuê thùa, may thổ cẩm 47,4 41,9 47,5 44,7 45,5 3,9 2,7 2,5 2,6 3,0

Bán hàng, làm thuê 19,7 24,3 23,8 21,1 22,4 7,9 12,2 12,5 5,3 10,1

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Page 178: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

172

Phụ lục 10

Người đại diện cho gia đình tham gia hoạt động cộng đồng xét theo tương quan dân tộc

Người tham gia

Loại hình công việc

Vợ Chồng Cả hai Người khác

Dân tộc Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ

Dự đám hiếu hỉ 17,1 16,9 15,6 15,8 34,9 35,1 35,6 35,5 46,1 45,9 43,1 42,1 2,0 2,0 5,6 6,6

Giao tiếp với chính quyền 22,4 21,6 19,4 19,7 46,1 46,6 48,1 51,3 30,3 29,7 28,8 28,9 1,3 2,0 3,8 0,0

Họp bản làng 21,1 20,9 19,4 19,7 45,4 45,3 46,9 48,7 32,2 32,4 31,3 30,3 1,3 1,4 2,5 1,3

Tiếp khách 23,0 22,9 21,9 21,1 36,8 37,2 38,8 42,1 38,8 37,8 37,5 35,5 1,3 2,0 1,9 1,3

Làm vệ sinh làng, xóm 28,9 28,4 30,0 32,9 22,4 22,3 20,6 18,4 39,5 39,2 37,5 34,2 9,2 10,1 11,9 14,5

Cúng giỗ làng 3,3 2,7 2,5 1,3 57,9 58,1 58,8 59,2 38,2 37,8 36,9 36,8 0,7 1,3 1,9 2,6

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Phụ lục 11

Tham gia tập huấn của nam/ nữ theo các nội dung

Vợ Chồng Cả hai Các lớp tập huấn

SL (%) TL (%) SL (%) TL (%) SL (%) TL (%)

Kỹ thuật nông lâm 122 22,8 217 40,5 197 36,7

Công tác dân số 233 43,5 121 22,6 182 33,9

Chăm sóc sức khỏe 245 45,7 126 23,6 165 30,7

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Page 179: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU …hcma.vn/Uploads/2017/5/4/LA _ Thu _nop QD_.pdf · Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng

173

Phụ lục 12

Tham gia tập huấn xét theo tương quan dân tộc

Người tham gia Vợ Chồng Cả hai

Dân tộc

Lớp tập huấn

Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ

Kỹ thuật nông lâm 23,7 23,6 21,9 21,1 38,8 39,2 41,9 43,4 37,5 37,2 36,3 35,5

Công tác dân số 42,8 42,6 44,4 44,7 23,0 23,0 21,9 22,4 34,2 34,4 33,7 32,8

Chăm sóc sức khỏe 44,1 43,9 46,9 50,0 24,3 24,3 22,5 22,4 31,6 31,7 30,6 27,6

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án