22
Bài 2: Thị trường tài chính v1.0 21 Bài 2: THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Nội dung Giới thiệu cho sinh viên các kiến thức cơ bản về thị trường tài chính, các loại hình thị trường tài chính, các chủ thể tham gia và các công cụ lưu thông trên thị trường tài chính Hướng dẫn học Mục tiêu Bài 2 được học trong 8 tiết. Sinh viên cần liên hệ thực tế để hiểu kỹ hơn những nội dung của chương. Thời lượng học 8 tiết Hiểu được lý do tồn tại và cơ chế hoạt động của các thị trường tài chính Hiểu được và phân loại được các thị trường tài chính, các chủ thể và các công cụ của thị trường tài chính

Bài 2: THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

  • Upload
    others

  • View
    0

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Bài 2: Thị trường tài chính

v1.0 21

Bài 2: THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

Nội dung

Giới thiệu cho sinh viên các kiến thức cơ bản về thị trường tài chính, các loại hình thị trường tài chính, các chủ thể tham gia và các công cụ lưu thông trên thị trường tài chính

Hướng dẫn học Mục tiêu

Bài 2 được học trong 8 tiết. Sinh viên cần liên hệ thực tế để hiểu kỹ hơn những nội dung của chương.

Thời lượng học

8 tiết

Hiểu được lý do tồn tại và cơ chế hoạt động của các thị trường tài chính

Hiểu được và phân loại được các thị trường tài chính, các chủ thể và các công cụ của thị trường tài chính

Bài 2: Thị trường tài chính

22 v1.0

TÌNH HUỐNG DẪN NHẬP

Tình huống

Công ty Alpha đang đứng trước rất nhiều cơ hội tăng trưởng, vấn đề là công ty hiện quá thiếu vốn để sản xuất. Ông Quang nhận được lời khuyên từ giám đốc tài chính là nên cân nhắc phương án huy động vốn từ thị trường tài chính, có thể là phát hành cổ phiếu hoặc phát hành trái phiếu để có thêm tiền cho sản xuất. Ông Quang không biết thị trường tài chính là gì, và đặc điểm của cổ phiếu hay trái phiếu là gì, do đó ông Quang rất do

dự khi nhận được lời khuyên như vậy

Câu hỏi

Anh chị có thể tư vấn cho ông Quang thế nào gọi là thị trường tài chính, thị trường tài chính gồm có những bộ phận gì, và ở loại thị trường nào thì người ta mua bán cổ phiếu, trái phiếu

hay không?

Anh chị hãy tư vấn cho ông Quang thế nào là cổ phiếu, thế nào là trái phiếu và sự khác biệt giữa hai loại công cụ này để cho ông Quang có được hiểu biết sơ lược về các công cụ cổ phiếu và trái phiếu trước khi xem xét là nên sử dụng công cụ tài chính nào để huy động thêm vốn

trên thị trường tài chính?

Bài 2: Thị trường tài chính

v1.0 23

2.1. Giới thiệu chung về thị trường tài chính

2.1.1. Định nghĩa thị trường tài chính “Thị trường” là một khái niệm cơ bản của kinh tế học và được nhiều nhà kinh tế học định nghĩa. Thị trường có thể được hiểu là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán “những thứ có giá trị”, chẳng hạn như hàng hoá, bất động sản…, qua đó thoả mãn các nhu cầu về giá trị và giá trị sử dụng của những người tham gia trao đổi.

Thị trường là nơi cung cấp hàng hoá, dịch vụ khi có cầu về hàng hoá, dịch vụ đó. Trong nền kinh tế luôn song song tồn tại hai trạng thái trái ngược nhau: trong khi có những nơi thừa vốn thì nơi khác lại thiếu vốn. Những người thừa vốn là những người có tiền nhưng không có cơ hội đầu tư sinh lợi, trong khi những người đang có cơ hội đầu tư nhưng lại không có đủ vốn để thực hiện. Như vậy, trong nền kinh tế luôn có nhu cầu vay tiền (cầu) khi thiếu vốn và nhu cầu cho vay tiền khi tạm có nguồn vốn dư thừa (cung). Do đó, thị trường tài chính là nơi gặp nhau của cung và cầu vốn.

Định nghĩa

Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng các khoản vốn ngắn hạn hoặc dài hạn thông qua các công cụ tài chính, nhờ đó mà vốn được chuyển giao từ các chủ thể dư thừa vốn đến các chủ thể có nhu cầu về vốn.

Thị trường tài chính có những đặc điểm sau:

Đối tượng mua bán trên thị trường tài chính là các công cụ tài chính (financial instruments), hay còn gọi là chứng khoán (securities) hoặc tài sản tài chính (financial assets).

Người đi vay sẽ vay vốn trực tiếp từ người cho vay trên các thị trường tài chính bằng cách bán chứng khoán, hay còn gọi là công cụ tài chính. Những người cần vốn thông qua việc bán chứng khoán để huy động vốn từ thị trường tài chính, còn những người có vốn cung cấp khoản vốn cho người cần vốn thông qua việc mua chứng khoán do họ phát hành. Chứng khoán là tài sản có (assets) của người mua chúng, nhưng là tài sản nợ (liabilities - IOU) của người phát hành ra chúng.

Giá cả của các công cụ tài chính cũng bị chi phối bởi quan hệ cung cầu, và đến lượt mình, các quan hệ cung cầu của từng loại công cụ tài chính lại bị quyết định bởi đặc điểm, xu hướng kinh doanh của người phát hành cũng như các ảnh hưởng khác.

Bài 2: Thị trường tài chính

24 v1.0

Tài sản, tài sản thực, tài sản tài chính, công cụ tài chính

Tài sản được hiểu là những thứ có giá trị qua thời gian

Tài sản thực là tài sản có hình thái hữu hình như đất đai, nhà xưởng, trang thiết bị, và những tài sản vô hình như thương hiệu, uy tín…

Tài sản tài chính (Financial Assets) là những bằng chứng xác định quyền và lợi ích hợp pháp (claims) của người sở hữu đối với thu nhập tương lai hoặc tài sản của nhà phát hành. Ví dụ như: cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu đối với một phần tài sản hoặc thu nhập của công ty hay trái phiếu xác nhận quyền đối với luồng thu nhập tương lai của công ty, thu nhập này phát sinh từ những tài sản thực của công ty.

Tài sản tài chính/Chứng khoán (Financial Instruments/Securities) là các tài sản tài chính được trao đổi mua bán trên thị trường tập trung hoặc phi tập trung, việc mua bán chứng khoán phải tuân theo các quy định và yêu cầu về mặt pháp luật.

2.1.2. Chức năng của thị trường tài chính Thị trường tài chính không ngừng phát triển với sự ra đời của các công cụ tài chính, các trung gian tài chính mới để theo kịp với sự phát triển của thời đại. Ở các quốc gia, các thời kỳ khác nhau, thị trường tài chính cũng có sự phát triển không giống nhau tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của quốc gia, mức độ phức tạp của các giao dịch, các công nghệ sẵn có... cũng như những khác biệt về văn hoá, lịch sử, chính trị... Do vậy, để có thể có một cái nhìn tổng quan về thị trường tài chính, chúng ta cần phải nghiên cứu những chức năng mà thị trường tài chính đảm nhiệm trong một nền kinh tế.

2.1.2.1. Chức năng dẫn vốn Đây là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của thị trường tài chính. Thị trường tài chính thực hiện chức năng kinh tế nòng cốt trong việc dẫn vốn từ những người dư vốn đến những người thiếu vốn. Chức năng này được trình bày ở hình 2.1.

Vốn được dẫn qua 2 kênh:

o Kênh dẫn vốn trực tiếp (hay còn gọi là kênh tài chính trực tiếp): Là kênh dẫn vốn trực tiếp từ người sở hữu vốn sang người sử dụng vốn, theo đó người đi vay sẽ vay vốn trực tiếp từ người cho vay trên các thị trường tài chính bằng cách bán chứng khoán, hay còn gọi là công cụ tài chính. Những người cần vốn thông qua việc bán chứng khoán để huy động vốn từ thị trường tài chính, còn những người có vốn cung cấp khoản vốn cho người cần vốn thông qua việc mua chứng khoán do họ phát hành. Chứng khoán do đó là tài sản có cho người mua chúng, nhưng lại là tài sản nợ đối với người phát hành ra chúng.

o Kênh dẫn vốn gián tiếp (kênh tài chính gián tiếp): Là kênh dẫn vốn theo đó vốn từ người cho vay tới người đi vay thông qua các trung gian tài chính. Các trung gian tài chính thực hiện việc tập hợp các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội rồi cho vay. Người sở hữu vốn và người sử dụng vốn không gặp nhau trực tiếp trong kênh này. Ví dụ: một ngân hàng có thể huy động vốn dưới dạng tiền gửi tiết kiệm, sau đó dùng vốn này để cho vay hoặc mua chứng khoán trên thị trường

Bài 2: Thị trường tài chính

v1.0 25

tài chính. Kết quả cuối cùng là vốn được chuyển từ người cho vay tới người đi vay với sự trợ giúp của các trung gian tài chính.

Hình 2.1. Các kênh dẫn vốn trong nền kinh tế

Những người cho vay chủ yếu là những hộ gia đình, ngoài ra các công ty, chính phủ, và nước ngoài cũng có những khoản vốn dư thừa tạm thời và có thể cho vay.

Những người đi vay chủ yếu là các doanh nghiệp và chính phủ, ngoài ra còn các hộ gia đình và người nước ngoài. Nhu cầu vay vốn ngoài việc phục vụ đầu tư còn có thể để phục vụ tiêu dùng.

Chức năng dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu là chức năng truyền thống và quan trọng nhất của thị trường tài chính. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, thị trường tài chính còn đảm nhận một số chức năng khác nhằm giúp phân bổ có hiệu quả các nguồn lực tài chính của nền kinh tế.

2.1.2.2. Các chức năng khác của thị trường tài chính

Quản lý rủi ro và phân bổ các nguồn lực

Trong môi trường kinh doanh đầy biến động, quản lý rủi ro là một trong số những chức năng quan trọng nhất của thị trường tài chính. Một thị trường tài chính hoạt động hiệu quả sẽ cho phép nhiều nhà đầu tư cùng chia sẻ rủi ro cho một dự án. Điều này cho phép các dự án có độ rủi ro cao nhưng hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao được thực hiện. Nếu như không có những thoả thuận cùng nhau chia sẻ rủi ro như thế thì những dự án như vậy sẽ khó có thể thực hiện được. Do đó, thị trường tài chính, đã góp phần vào việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực. Cơ chế phân bổ rủi ro trên những thị trường tài chính phát triển cho phép các nhà đầu tư có thể phân tán rủi ro, tự bảo hiểm cho các khoản đầu tư của mình.

Tập trung vốn và phân tán quyền sở hữu

Thị trường tài chính cung cấp cơ chế để có thể tập trung vốn thực hiện những khoản đầu tư quy mô lớn. Thị trường tài chính cho phép các nhà đầu tư nhỏ (cá nhân, gia đình...) có thể tham gia vào các dự án quy mô lớn với việc tập trung vốn và chia cổ phần. Việc tập trung vốn cho phép phân bổ lại rủi ro cũng như chia tách giữa quyền sở hữu và quyền quản lý.

Kênh gián tiếp

Kênh trực tiếp

Trung gian tài chính

Thị trường tài chính

Vốn

Người cho vay Người đi vay Vốn Vốn

Vốn

Vốn

Bài 2: Thị trường tài chính

26 v1.0

Chức năng cung cấp thông tin về giá cả

Các tín hiệu về giá cả hàm chứa những thông tin về khối lượng, mức độ khan hiếm, giá trị của hàng hoá..., qua đó giúp các chủ thể phân bổ nguồn lực sao cho có hiệu quả nhất. Một thị trường tài chính hiệu quả là nơi xử lý và tổng hợp tất cả các thông tin sẵn có về giá trị hay giá cả. Từ góc độ giá trị, thị trường tài chính với chức năng này đã cho phép vốn được chuyển tới những nơi hoạt động hiệu quả nhất và qua đó thực hiện tốt chức năng phân bổ hiệu quả các nguồn lực.

Chức năng thanh khoản

Thị trường tài chính cung cấp các phương thức chuyển đổi các loại tài sản tài chính thành tiền mặt. Nói cách khác, thị trường tài chính tạo điều kiện cho những người nắm giữ các tài sản tài chính có thể bán lại những tài sản này để thu tiền mặt hay có thể nói là làm tăng thêm tính lỏng của các tài sản tài chính. Tính lỏng thêm của những tài sản tài chính khiến cho chúng được ưa chuộng hơn, và tạo điều kiện cho việc thực hiện tốt hơn chức năng dẫn vốn của thị trường tài chính.

Nếu thiếu thị trường tài chính hoặc thị trường tài chính kém phát triển, tính thanh khoản của các chứng khoán kém, người tiết kiệm sẽ ưa thích nắm giữ tài sản hoặc vốn dưới hình thái tiền mặt hơn là các hình thái khác gần với tiền.

Chức năng giám sát và quản lý hiệu quả

Thị trường tài chính thúc đẩy sự giám sát và quản lý hoạt động của các chủ thể hoạt động trên thị trường thông qua việc tạo ra các áp lực và kỷ luật bên ngoài đối với hoạt động của các chủ thể này. Trong môi trường cạnh tranh luôn biến đổi chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ như hiện nay, việc phân bổ các nguồn vốn đi đôi với việc quản lý các nguồn vốn đó sao cho nó có thể được dẫn đến những nơi sử dụng nguồn vốn trên một cách hiệu quả nhất. Quản lý vốn không hiệu quả sẽ dẫn đến những biện pháp như mua lại công ty. Thường thì những mối đe doạ từ việc mua lại công ty... có ảnh hưởng lớn đến việc cần thiết phải quản lý vốn một cách có hiệu quả. Không có sự quản lý và giám sát một cách có hiệu quả, các nguồn vốn có thể bị phân bổ hoặc được sử dụng không chính xác, từ đó gây lãng phí cũng như dẫn đến những ảnh hưởng xấu khác.

CÂU HỎI

Các chức năng trên được thực hiện ở thị trường tài chính Việt Nam như thế nào?

2.1.3. Vai trò của thị trường tài chính

Bài 2: Thị trường tài chính

v1.0 27

Từ những chức năng mà thị trường tài chính đảm nhận có thể thấy vai trò quan trọng của thị trường tài chính đối với nền kinh tế.

Thị trường tài chính giúp phân phối các nguồn vốn một cách hiệu quả, từ đó góp phần vào việc tăng năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.

Với các chức năng của mình, thị trường tài chính tạo điều kiện phân bổ hiệu quả các nguồn lực trong xã hội để phục vụ cho hoạt động sáng tạo ra của cải vật chất, góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế.

Thị trường tài chính cũng góp phần cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách tiêu thụ vốn để dành và giúp những người tiết kiệm chọn thời điểm tốt nhất cho việc mua sắm của họ.

Thị trường tài chính giúp các nhà kinh doanh có thể tập trung và sử dụng các nguồn tài nguyên vào quá trình sản xuất lớn một cách tiết kiệm và hiệu quả nhất, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Thị trường tài chính cũng là công cụ tuyển chọn và kích thích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lành mạnh và hiệu quả.

Thị trường tài chính tạo môi trường thuận lợi để dung hoà các lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế trên thị trường.

Thông qua các cuộc đấu giá tập trung giữa các nguồn cung và nguồn cầu, cơ chế thị trường sẽ hình thành giá cả tốt nhất, có lợi cho cả người bán và người mua, đảm bảo sự công bằng trên thị trường. Các cá nhân hay cộng đồng chỉ có thể tìm thấy sự phát triển tốt nhất cho chính mình trong sự hỗ trợ để các cá nhân hoặc cộng đồng khác cùng phát triển. Nếu thiếu thị trường tài chính hoặc thị trường tài chính kém phát triển, điều kiện để cung cầu gặp gỡ, cọ xát sẽ bị hạn chế, do đó không thể có mức giá phản ánh đầy đủ sức mua, sức bán. Chính vì thế, thị trường tài chính được xem là nơi tạo môi trường thuận lợi để dung hòa các lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế khác nhau trên thị trường, cung cấp lãi đầu tư cho người cho vay, cũng như lợi nhuận và cơ hội phát triển cho người đi vay.

2.2. Cấu trúc của thị trường tài chính

2.2.1. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn Căn cứ vào kỳ hạn thanh toán của các công cụ tài chính, thị trường tài chính được phân loại thành thị trường tiền tệ (money market) và thị trường vốn (capital market).

Định nghĩa

Thị trường tiền tệ là thị trường phát hành và trao đổi những chứng khoán ngắn hạn (cụ thể là các chứng khoán nợ ngắn hạn – short-term debt securities) có thời hạn thanh toán dưới một năm.

Thị trường vốn là thị trường phát hành và trao đổi các chứng khoán trung và dài hạn, cụ thể là các chứng khoán có thời hạn trên một năm. Ví dụ: Cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay thế chấp…

Các khoản đầu tư trên thị trường tiền tệ còn được gọi là các khoản đầu tư tiền mặt (cash investments) do thời hạn ngắn. Ví dụ: Tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng, thương phiếu, quỹ Liên bang, đô la Châu Âu...

Bài 2: Thị trường tài chính

28 v1.0

So sánh thị trường tiền tệ và thị trường vốn:

Hàng hoá:

o Hàng hoá trên thị trường tiền tệ được mua bán phổ biến hơn trên thị trường vốn, thời hạn ngắn hơn nên có tính thanh khoản cao hơn. Hàng hoá trên thị trường tiền tệ có biến động giá ít hơn nên có mức rủi ro thấp hơn (thời hạn ngắn nên những biến động giá do ảnh hưởng của sự biến động lãi suất thị trường là không đáng kể). Đây là loại công cụ đầu tư ít rủi ro, chính vì vậy mà mức sinh lời của chúng thấp hơn.

o Hầu hết hàng hoá trên thị trường tiền tệ được trao đổi với những mệnh giá rất lớn. Điều này hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư cá nhân. Do vậy, cách tốt nhất để các nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường tiền tệ là thông qua các quỹ đầu tư trên thị trường tiền tệ.

Chủ thể tham gia:

Trên thị trường tiền tệ:

o Những người đi vay: là những người đang thiếu hụt tạm thời về tiền tệ để đáp ứng cho các nhu cầu thanh toán. Tuy nhiên chỉ có chủ thể có uy tín cao mới có thể vay trên thị trường tiền tệ. Là các đợt phát hành thường có quy mô lớn.

o Những người đầu tư: là công ty, tập đoàn, những tổ chức tài chính có vốn tạm thời nhàn rỗi ngắn hạn nên chuyển nhượng quyền sử dụng vốn của mình trong thời hạn ngắn để tranh thủ hưởng lãi. Trên thị trường tiền tệ, do khối lượng giao dịch chứng khoán thường có quy mô lớn nên các nhà đầu tư thường là các ngân hàng, các tổ chức tài chính, các chính phủ và các tập đoàn lớn.

Trên thị trường vốn: Đối tượng tham gia rộng rãi hơn

Chức năng:

o Thị trường tiền tệ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc cung ứng tiền tệ cho lưu thông. Chức năng cơ bản của thị trường tiền tệ là nhằm bù đắp chênh lệch giữa cung và cầu vốn khả dụng, nếu nhìn từ góc độ người đi vay. Đây là thị trường quan trọng để tài trợ các nhu cầu về vốn ngắn hạn cho các doanh nghiệp và chính phủ.

o Thị trường vốn là nơi trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn, do đó thoả mãn các nhu cầu về vốn cho các khoản đầu tư dài hạn của các doanh nghiệp, chính phủ và các hộ gia đình. Nếu như trọng tâm của thị trường tiền tệ là cung cấp phương tiện giúp điều chỉnh tình hình thanh khoản thực theo số lượng tiền mong muốn thì thị trường vốn gắn bó với tiết kiệm và đầu tư hơn. Đây có thể được xem là thị trường cung ứng vốn đầu tư cho nền kinh tế.

Phương thức tổ chức:

o Thị trường tiền tệ là thị trường dealer, phi tập trung. Thị trường tiền tệ hoạt động dựa trên cơ sở tôn trọng và tín nhiệm lẫn nhau qua các phương tiện thông tin hiện đại. Thị trường tiền tệ không diễn ra ở một địa điểm cụ thể, không có sàn giao dịch, nó là một khái niệm nói lên sự tiếp xúc giữa cung và cầu để

Bài 2: Thị trường tài chính

v1.0 29

hình thành giá cả. Thị trường này hoạt động suốt ngày đêm (24/24) thông qua một mạng lưới thông tin hiện đại (điện thoại, telex, máy tính...).

o Thị trường vốn: Thị trường tập trung và phi tập trung

2.2.2. Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần (Debt and Equity Markets) Chứng khoán nợ và chứng khoán vốn

Có hai cách để doanh nghiệp hoặc cá nhân vay vốn trên thị trường tài chính: Phát hành chứng khoán nợ và phát hành chứng khoán vốn.

o Các công cụ nợ (chứng khoán nợ) là loại công cụ tài chính mà theo đó người phát hành (người đi vay) phải trả cho người giữ công cụ đó (người cho vay) một khoản tiền nhất định vào những khoảng thời gian đều đặn cho đến một thời điểm nhất định (ngày đáo hạn). Các công cụ vay nợ sẽ được hoàn trả vốn và lãi, bất chấp việc người đi vay sử dụng nguồn vốn đi vay thành công hay thất bại. Người nắm giữ công cụ vay nợ chỉ tham gia vào hoạt động của người phát hành nếu người phát hành vỡ nợ.

Một công cụ vay nợ được coi là ngắn hạn (short term), nếu kỳ hạn của nó dưới một năm, là trung hạn (intermediate term) nếu kỳ, hạn từ 1 đến 10 năm và là dài hạn (long term) nếu có kỳ hạn trên 10 năm.

o Chứng khoán vốn: Chứng khoán cho phép người nắm giữ nó có quyền sở hữu một phần tài sản và quyền hưởng thu nhập ròng của người phát hành.

Ví dụ: Cổ phiếu.

Chứng khoán vốn thường trả cổ tức cho người nắm giữ và được xem là chứng khoán dài hạn do chúng không có thời hạn đáo hạn.

Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần:

o Thị trường nợ là thị trường giao dịch các công cụ nợ (debt instruments) hay chứng khoán nợ (debt securities).

o Thị trường vốn cổ phần là thị trường giao dịch các công cụ vốn hay chứng khoán vốn (equity).

2.2.3. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp cho phép các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ... huy động vốn từ nền kinh tế bằng việc phát hành chứng khoán mới.

Thị trường sơ cấp: là thị trường phát hành các công cụ tài chính, do đó thị trường này còn được gọi là thị trường phát hành.

Hoạt động trên thị trường chứng khoán sơ cấp thường diễn ra giữa các nhà phát hành và các nhà đầu tư lớn theo hình thức bán buôn, và không công khai cho công chúng. Các nhà đầu tư lớn (thường là các ngân hàng đầu tư, các công ty chứng khoán) sẽ bảo lãnh cho đợt phát hành chứng khoán (underwriting) bằng việc mua lại toàn bộ hay phần lớn số chứng khoán mới phát hành theo giá thoả thuận (thường thấp hơn mệnh giá), sau đó bán lại trên thị trường cho các nhà đầu tư khác với các mức giá cao hơn.

Bài 2: Thị trường tài chính

30 v1.0

Thị trường thứ cấp: là thị trường trao đổi, mua bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp.

Ví dụ: Sở giao dịch chứng khoán TPHCM, Sở chứng khoán New York, Sở chứng khoán Tokyo, Sở chứng khoán London.

Trên thị trường thứ cấp có các nhà môi giới chứng khoán (brokers) và các nhà kinh doanh chứng khoán (dealers). Môi giới chứng khoán là người đóng vai trò trung gian giữa người mua chứng khoán với người bán chứng khoán, còn người kinh doanh chứng khoán là người gắn kết người mua với người bán bằng việc mua bán chứng khoán tại một mức giá công bố.

Phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp

Thị trường sơ cấp làm tăng thêm vốn cho nền kinh tế

Thị trường thứ cấp chỉ làm thay đổi quyền sở hữu của các chứng khoán đã phát hành mà không làm tăng thêm lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế (your pains, my gains!). Thị trường thứ cấp đảm bảo khả năng chuyển đổi chứng khoán thành tiền, cho phép người giữ chứng khoán có thể rút ra khỏi đầu tư vào thời điểm họ mong muốn hoặc thực hiện di chuyển đầu tư từ khu vực này sang khu vực khác.

Mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp

Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau:

Thị trường sơ cấp tạo cơ sở cho các hoạt động trên thị trường thứ cấp, vì đây là nơi tạo ra hàng hoá để mua bán trên thị trường thứ cấp.

Ngược lại, thị trường thứ cấp tạo động lực cho sự phát triển của thị trường sơ cấp, thể hiện qua các chức năng của nó:

o Thứ nhất, thị trường thứ cấp là nơi trao đổi, mua bán lại các công cụ tài chính, do đó tăng thêm tính thanh khoản cho các chứng khoán đã được phát hành, khiến chúng trở nên hấp dẫn hơn, được ưa chuộng hơn, do đó tạo thuận lợi cho việc phát hành chứng khoán mới ở thị trường sơ cấp.

o Thứ hai, thị trường thứ cấp xác định giá của chứng khoán mà công ty phát hành trên thị trường sơ cấp. Các nhà bảo lãnh phát hành chứng khoán ở thị trường sơ cấp sẽ căn cứ vào giá cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường thứ cấp để xác định giá cho đợt phát hành mới. Giá của thị trường thứ cấp càng cao, thì giá công ty phát hành sẽ nhận được do phát hành chứng khoán ở thị trường sơ cấp sẽ càng cao. Vì vậy, công ty phát hành nhận được tổng số vốn đầu tư cao hơn.

o Ngoài ra, thị trường thứ cấp còn là nơi đánh giá hoạt động của doanh nghiệp, thể hiện qua phản ứng của thị trường đối với giá của cổ phiếu lưu hành.

Chính vì các lý do này mà tình hình trên thị trường thứ cấp đóng vai trò rất quan trọng đối với các công ty cổ phần. Do đó, khi nghiên cứu thị trường tài chính, người ta thường tập trung vào nghiên cứu phương thức diễn biến của thị trường thứ cấp hơn là thị trường sơ cấp.

Bài 2: Thị trường tài chính

v1.0 31

2.2.4. Thị trường tập trung và thị trường phi tập trung

Thị trường tập trung: là thị trường mà việc giao dịch, mua bán chứng khoán

được thực hiện có tổ chức và tập trung tại một nơi nhất định.

Ví dụ như các Sở giao dịch...

Hoạt động mua bán tại các Sở giao dịch bắt buộc phải thông qua các trung gian

môi giới gọi là các nhà môi giới chứng khoán.

Không phải tất cả các loại chứng khoán đều được mua bán tại Sở giao dịch mà chỉ

những chứng khoán đã được đăng ký yết giá. Để chứng khoán do một công ty phát

hành được đăng ký yết giá, công ty đó phải thoả mãn các điều kiện cần thiết của Sở

giao dịch. Sau khi được Sở giao dịch chấp nhận, chứng khoán được đăng ký vào

danh bạ của Sở giao dịch chứng khoán và thường xuyên được niêm yết giá trên Sở

giao dịch.

Thị trường phi tập trung: là thị trường không có địa điểm cụ thể, không tập

trung. Thị trường phi tập trung thường được tổ chức dưới hình thức một thị trường

giao dịch qua quầy (OTC – Over the Counter), trong đó các nhà buôn chứng khoán

tại các địa điểm khác nhau công bố một danh mục chứng khoán với giá mua và

bán được niêm yết sẵn và họ sẽ sẵn sàng mua hoặc bán chứng khoán thẳng cho bất

kỳ ai chấp nhận giá của họ.

Do hoạt động mua bán chứng khoán tại thị trường OTC ngày nay đều được thực

hiện qua máy tính nên các nhà buôn chứng khoán cũng như khách hàng biết rõ

mức giá các nhà buôn chứng khoán khác, vì vậy tính cạnh tranh trên thị trường này

rất cao, không khác nhiều so với các Sở Giao dịch.

Hàng hoá trên thị trường OTC rất phong phú và đa dạng: nó bao gồm chứng khoán

của các công ty chưa đủ điều kiện để niêm yết tại Sở giao dịch lẫn những công ty

chưa muốn niêm yết giá tại Sở Giao dịch...

2.3. Các công cụ lưu thông trên thị trường tài chính

Thị trường tài chính có thể cung cấp cho chủ thể tham gia thị trường những công cụ

tài chính khác nhau với kỳ hạn và đặc điểm khác nhau để có thể đáp ứng được các yêu

cầu của họ về tính thanh khoản, về rủi ro. Ví dụ, người cung cấp vốn muốn tính thanh

khoản cao (thích cho vay với thời hạn ngắn) ít rủi ro, trong khi nhà đầu tư lại muốn vay

vốn cho những khoản đầu tư dài hạn. Thị trường tài chính giúp giải quyết vấn đề này

với việc cung cấp những công cụ tài chính khác nhau cho phép phân tán rủi ro và cho

phép biến đổi kỳ hạn thanh toán.

2.3.1. Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ là các công cụ có kỳ hạn thanh toán

ngắn, tính thanh khoản cao và rủi ro thấp. Có rất nhiều công cụ lưu thông trên thị

trường tiền tệ với các mức độ rủi ro và mức sinh lợi khác nhau. Dưới đây là một số

công cụ chính:

Bài 2: Thị trường tài chính

32 v1.0

2.3.1.1. Tín phiếu kho bạc (Treasury bills; T-bills) Định nghĩa

Tín phiếu kho bạc là công cụ vay nợ ngắn hạn do Kho bạc phát hành để tài trợ cho những khoản chi tiêu tức thời, các thâm hụt ngắn hạn của chính phủ hoặc tài trợ các khoản nợ đến hạn.

Đặc điểm của tín phiếu kho bạc:

o Là chứng khoán ngắn hạn có kỳ hạn thanh toán dưới một năm: Ví dụ ở Mỹ, tín phiếu Kho bạc thường được phát hành với kỳ hạn chuẩn là 13, 26 hoặc 52 tuần, ở Việt Nam là 91, 182, 273, 364 ngày (13, 26, 39, 52 tuần).

o Là công cụ chiết khấu điển hình, không có phiếu lãi suất. Nhà đầu tư mua tín phiếu kho bạc với giá thấp hơn mệnh giá và khi đến kỳ hạn thanh toán sẽ được nhà phát hành trả lại đúng mệnh giá. Khoản chênh lệch giữa mệnh giá chứng khoán và giá mua chứng khoán chính là lãi của nhà đầu tư.

Ví dụ: Nhà đầu tư mua tín phiếu kho bạc kỳ hạn 90 ngày, mệnh giá 10,000 USD với giá 9,800 USD và giữ nó đến khi đáo hạn sẽ thu được 200 USD. Lãi suất của tín phiếu Kho bạc là lãi suất chiết khấu trên cơ sở 360 ngày (Việt Nam là 365 ngày)

o Thường được phát hành bằng phương pháp đấu giá tín phiếu (Việt Nam: Đấu thầu lãi suất). (Mỹ: lô tròn: 5 triệu USD, Việt Nam: tối thiểu là 100 triệu đồng).

o Bốn đặc điểm để phân biệt tín phiếu Kho bạc với các công cụ khác lưu thông trên thị trường tiền tệ:

Công cụ đầu tư an toàn nhất vì khả năng vỡ nợ gần như không có. Chính phủ luôn có khả năng đáp ứng được các món nợ phải trả vì chính phủ có thể tăng thuế hoặc phát hành thêm giấy bạc nên rủi ro tín dụng hầu như không xảy ra. Vì không có khả năng vỡ nợ nên tín phiếu kho bạc được phép sử dụng với nhiều mục đích mà không thể sử dụng các công cụ của thị trường tiền tệ khác (ví dụ sử dụng trong các hợp đồng mua lại, sử dụng để làm vật thế chấp khi bán không nhiều loại chứng khoán, có thể được các ngân hàng sử dụng thay tiền mặt đảm bảo các quy định dự trữ…, Tín phiếu kho bạc thường được Ngân hàng Trung ương các nước sử dụng như một công cụ để điều chỉnh chính sách tiền tệ thông qua thị trường mở. Tín phiếu kho bạc cũng là một phương tiện truyền thống để điều chỉnh tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại). Tuy nhiên, cũng chính vì mức độ an toàn đặc biệt cao này mà lãi suất của tín phiếu kho bạc thấp hơn các công cụ khác trên thị trường tiền tệ.

Có tính thanh khoản cao nhất vì tín phiếu kho bạc chủ yếu do các ngân hàng thương mại nắm giữ. Tín phiếu kho bạc không những quan trọng về mặt số lượng mà còn vì nó được Ngân hàng Trung ương cũng như nhiều tổ chức tài chính và phi tài chính sử dụng để thực hiện chính sách tiền tệ. Tín phiếu kho bạc có thể coi là công cụ truyền thống để điều chỉnh thanh khoản của các ngân hàng thương mại.

Bài 2: Thị trường tài chính

v1.0 33

Tín phiếu kho bạc được mua bán nhiều nhất trên thị trường tiền tệ (các nhà đầu tư cá nhân cũng có thể mua lại tín phiếu kho bạc từ các tổ chức tài chính). Trên thị trường thứ cấp, tín phiếu Kho bạc thường được mua bán, trao đổi với khối lượng lớn và hoạt động hiệu quả nhất so với các công cụ khác trên thị trường tiền tệ.

Lợi tức thu được từ tín phiếu kho bạc không phải đóng thuế thu nhập

Mệnh giá tối thiểu (US: $10,000)

2.3.1.2. Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được (Negotiable (Bank) Certificates of Deposit – NCDs)

Định nghĩa

Chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposit - CD) là một công cụ nợ do ngân hàng thương mại phát hành, cam kết trả lãi định kì cho khoản tiền gửi và hoàn trả vốn gốc (mệnh giá chứng chỉ) cho người gửi (người mua) theo giá mua ban đầu khi đến hạn thanh toán.

Trước đây, các chứng chỉ tiền gửi không thể chuyển nhượng được và không thể được hoàn trả trước kỳ hạn nếu không chịu phạt một khoản đáng kể. Tuy nhiên, vào năm 1961, để tăng thêm tính thanh khoản và khiến chúng hấp dẫn hơn trong mắt các nhà đầu tư, Citibank đã giới thiệu loại chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được đầu tiên với mệnh giá lớn (trên $100,000) có thể mua bán lại trên thị trường sơ cấp. Khi đó, chúng được gọi là các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng (Negotiable Certificate of Deposit - NCD). Hiện nay, các công cụ này thường được các ngân hàng thương mại lớn phát hành và thu được thành công lớn.

Đặc điểm của chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được

o Chứng khoán vô danh: Người cầm giữ chứng khoán này vào ngày đáo hạn sẽ được nhận vốn và lãi. Điều này tạo điều kiện cho việc mua bán lại được dễ dàng hơn

o Mệnh giá lớn: Ở Mỹ, mệnh giá từ $100,000 đến 10 triệu USD, phổ biến nhất là mức 1 triệu USD.

o Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng có lãi cao hơn tín phiếu kho bạc có cùng thời hạn vì 3 lý do sau:

Mức độ rủi ro cao hơn, tuy nhiên khả năng vỡ nợ của các ngân hàng lớn thường là rất thấp.

Mặc dù thị trường sơ cấp của chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng khá phát triển, nhưng vẫn không phát triển bằng tín phiếu kho bạc. Do vậy, nhà đầu tư có thể đòi hỏi lãi suất cao hơn để bù lại cho tính thanh khoản thấp hơn.

Lãi của tín phiếu kho bạc không phải tính thuế.

o Tất nhiên, mức lãi của chứng chỉ tiền gửi sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như lãi suất thị trường, số lượng tiền đầu tư, thời hạn thanh toán và ngân hàng đầu tư. Để tăng tính hấp dẫn của công cụ này, các ngân hàng thường áp dụng mức lãi suất cho chứng chỉ tiền gửi cao hơn so với lãi suất tiền gửi cùng thời kỳ.

Bài 2: Thị trường tài chính

34 v1.0

o Mặc dù thời hạn của các chứng chỉ tiền gửi có thể từ 1 tháng đến hơn 5 năm, nhưng hầu hết các chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn dưới một năm, các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng thường có kỳ hạn dưới 3 tháng. Những chứng chỉ tiền gửi có thời hạn hơn một năm thường được gọi là những chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn (term CDs).

o Chứng chỉ tiền gửi thường được các ngân hàng sử dụng để huy động các nguồn vốn lớn từ các công ty, các quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ, các tổ chức chính phủ... Tuy nhiên chỉ có các ngân hàng lớn mới có thể bán Chứng chỉ tiền gửi trên thị trường.

o Việc xuất hiện chứng chỉ tiền gửi cho phép các ngân hàng có thể huy động vốn một cách chủ động mà không phải phụ thuộc vào tiền gửi của khách hàng. Khả năng chuyển nhượng tạo nên sự hấp dẫn hơn nhiều cho chứng chỉ tiền gửi so với các hình thức tiền gửi có kỳ hạn khác. Sự phát triển của chứng chỉ tiền gửi và các hình thức huy động vốn chủ động khác tạo điều kiện cho ngân hàng có thể thích ứng với môi trường cạnh tranh mới.

2.3.1.3. Thương phiếu (Commercial paper) Định nghĩa

Thương phiếu là giấy nhận nợ ngắn hạn do các công ty lớn phát hành để vay vốn ngắn hạn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh (vốn hoạt động, bổ sung hàng tồn kho…)

Đặc điểm của thương phiếu

Thương phiếu là các hối phiếu nhận nợ không có đảm bảo ngắn hạn (short-term unsecured promissory note). Do vậy, thương phiếu thường do các công ty lớn, có uy tín phát hành (đối với những công ty này, phát hành thương phiếu là một lựa chọn ít chi phí hơn so với vay ngân hàng).

Giống như tín phiếu kho bạc, thương phiếu thường được phát hành theo hình thức chiết khấu, phản ánh mức lãi suất hiện hành trên thị trường.

Lãi suất thương phiếu phụ thuộc vào thời hạn thanh toán, vào số vốn cần vay, mức lãi suất chung của thị trường tiền tệ, sự xếp hạng tín nhiệm của người phát hành.

Thời hạn của các thương phiếu thường dưới 270 ngày, trong đó chủ yếu là các thương phiếu 30 – 60 ngày.

Thị trường thứ cấp của thương phiếu không đáng kể. Điều này một phần do tính chất đa dạng của thương phiếu, khiến rất khó để có một khối lượng đủ lớn thương phiếu để giao dịch thứ cấp. Ngoài ra, điều này còn do kỳ hạn ngắn của thương phiếu: các nhà đầu tư biết họ muốn đầu tư tiền mặt bao lâu và trừ khi họ có những nhu cầu tiền mặt ngoài dự kiến, họ thường giữ thương phiếu đến khi đáo hạn.

Nhìn chung, thương phiếu là một khoản đầu tư có độ an toàn cao do tình hình tài chính của một công ty có thể được dự đoán trước trong một vài tháng. Hơn thế, thường chỉ có những công ty có uy tín cao mới có thể phát hành thương phiếu. Các thương phiếu có mức độ rủi ro cao hơn tín phiếu kho bạc, do vậy mức lãi suất chiết khấu cũng cao hơn. Ở Mỹ, thương phiếu thường được phát hành với mệnh giá thấp nhất là 100,000 USD.

Bài 2: Thị trường tài chính

v1.0 35

Các nhà phát hành chính: Các tổ chức tài chính, ngân hàng, các công ty sản xuất, trong đó đặc biệt là các công ty tài chính (ví dụ GE Capital, GM Acceptance, Ford Motor Credit…).

Thị trường thương phiếu ngày nay rất sôi động và phát triển với tốc độ rất nhanh, xuất phát từ những thuận lợi đáng kể của thương phiếu.

2.3.1.4. Hợp đồng mua lại (Repurchase Agreement – Repo) Định nghĩa

Hợp đồng mua lại là một hợp đồng trong đó người đi vay đồng ý bán một số chứng khoán (thường là tín phiếu kho bạc) mà người này nắm giữ cho người cho vay và cam kết sẽ mua lại số chứng khoán đó vào một thời điểm trong tương lai với một mức giá nhất định.

Hợp đồng mua lại xuất hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào năm 1969, nó được xem là một phát minh khá mới của thị trường tài chính, tuy nhiên hợp đồng mua lại đã nhanh chóng phát triển và trở thành một trong những nguồn vốn vay rất quan trọng của các ngân hàng và người cho vay quan trọng nhất ở thị trường này là các công ty lớn.

Một số biến thể của hợp đồng mua lại:

o Hợp đồng mua lại đảo ngược (Reverse Repo): Một bên đồng ý mua một số chứng khoán chính phủ từ nhà đầu tư và cam kết sẽ bán lại số chứng khoán đó vào một thời điểm trong tương lai với một mức giá cao hơn.

o Hợp đồng mua lại kỳ hạn (Term Repo): Giống như hợp đồng mua lại nhưng có kỳ hạn hơn 30 ngày.

Đặc điểm của hợp đồng mua lại:

o Hợp đồng mua lại thường có kỳ hạn rất ngắn, từ vay qua đêm đến vài ngày.

o Giá trị giao dịch của các hợp đồng mua lại thường rất lớn. Các hợp đồng mua lại qua đêm hoặc có kỳ hạn dưới 1 tuần thường được giao dịch với giá trị từ 25 triệu USD trở lên. Những hợp đồng có kỳ hạn dài hơn thường được giao dịch với giá trị 10 triệu USD.

2.3.1.5. Hối phiếu đã được ngân hàng chấp nhận – Chấp phiếu ngân hàng (Bankers’ Acceptance – BA)

Định nghĩa

Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận là các hối phiếu kỳ hạn do công ty phát hành, được các ngân hàng bảo đảm thanh toán bằng cách đóng dấu đã chấp nhận lên tờ hối phiếu.

Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận do các công ty phát hành trong hoạt động giao dịch mua bán. Khi người bán không tin tưởng vào khả năng thanh toán của người mua, họ sẽ yêu cầu người mua phải có sự đảm bảo thanh toán từ một Ngân hàng uy tín. Khi Ngân hàng chấp nhận bảo lãnh thanh toán, Ngân hàng cho phép người bán ký phát hối phiếu đòi tiền thẳng Ngân hàng (Ngân hàng sẽ đảm bảo thanh toán vô điều kiện giá trị mệnh giá của hối phiếu khi đến hạn) và Ngân hàng sẽ đóng dấu “đã chấp nhận” trả tiền lên tờ hối phiếu đó. Như vậy, nếu công ty không có khả năng thanh toán

Bài 2: Thị trường tài chính

36 v1.0

thì người trả tiền hối phiếu không phải là người mua nữa mà là Ngân hàng, do vậy người bán được đảm bảo khá chắn chắn về khả năng thanh toán của tờ hối phiếu.

Để được ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu, công ty phát hành hối phiếu phải ký quỹ vào ngân hàng một phần hoặc toàn bộ số tiền của tờ hối phiếu, hoặc được ngân hàng cho vay để thanh toán hối phiếu. Ngân hàng sẽ thu từ người mua một khoản lệ phí đảm bảo thanh toán.

Do vậy, một hối phiếu được ngân hàng chấp nhận là một công cụ tài chính được thiết kế để chuyển rủi ro thương mại quốc tế vào một bên thứ ba sẵn sàng chấp nhận rủi ro.

Các ngân hàng thương mại thường sẵn sàng chấp nhận những rủi ro như vậy vì họ là các chuyên gia trong việc cấp tín dụng, đánh giá rủi ro tín dụng và phân tán rủi ro tín dụng.

Các chấp phiếu ngân hàng thường có thời hạn từ 30 đến 270 ngày (phổ biến là 90 ngày). Một trong những ưu điểm của chấp phiếu ngân hàng là chúng không cần phải giữ cho đến khi hết hạn. Khi cần tiền, các nhà đầu tư có thể bán các chấp phiếu ngân hàng với giá chiết khấu trên thị trường thứ cấp. Thị trường thứ cấp của chấp phiếu ngân hàng khá phát triển.

Đây là một trong những công cụ thị trường tiền tệ có chất lượng cao nhất: kỳ hạn ngắn, rủi ro thấp (đặc biệt khi được các ngân hàng lớn có uy tín chấp nhận), tính lưu hoạt cao...

Ngoài ra, ở các thị trường tiền tệ phát triển như Mỹ còn có các công cụ sau:

2.3.1.6. Quỹ liên bang (Fed Funds) Đây thực chất là những khoản vay nợ ngắn hạn (thường là qua một đêm) của các ngân hàng Mỹ dựa trên những khoản tiền gửi của các ngân hàng này tại Ngân hàng trung ương Mỹ (Fed).

Đây không phải là khoản vay của chính phủ liên bang hay Fed cho các ngân hàng mà là khoản vay giữa các Ngân hàng. Khi tiền gửi của một ngân hàng tại Fed không đạt đến tổng số mà Fed quy định, nó sẽ tiến hành vay từ những ngân hàng có khoản tiền gửi tại Fed vượt quá quy định để bù đắp cho khoản thiếu hụt của mình.

2.3.1.7. Đô la châu Âu (Euro dollars) Đô la châu Âu là những khoản tiền gửi bằng đồng đô la Mỹ tại các ngân hàng bên ngoài nước Mỹ. Các ngân hàng Mỹ có thể vay những món tiền này khi họ cần vốn. Những khoản tiền gửi này thường có mệnh giá rất lớn (triệu đôla Mỹ) và có thời hạn ít hơn 6 tháng. Do vậy thường chỉ có những tổ chức rất lớn mới có thể hoạt động trên thị trường này.

2.3.2. Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn bao gồm các công cụ vay nợ (debt instruments), các công cụ góp vốn trung và dài hạn và các khoản thế chấp. Các công cụ này có giá cả dao động nhiều hơn và có độ rủi ro cao hơn so với các công cụ trên thị trường tiền tệ, nhưng có mức sinh lợi lớn hơn.

2.3.2.1. Trái phiếu Định nghĩa

Trái phiếu là một chứng khoán xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối với người cầm giữ trái phiếu, trong đó cam kết sẽ trả khoản nợ kèm với tiền lãi trong một thời hạn nhất định.

Bài 2: Thị trường tài chính

v1.0 37

Đặc điểm của trái phiếu:

o Thời hạn của trái phiếu (maturity): Là thời hạn đi vay của tổ chức phát hành đối với trái chủ và được ghi rõ trên bề mặt của trái phiếu. Thời hạn của trái phiếu thường trên một năm, do đó đây là công cụ lưu thông trên thị trường vốn.

Thời hạn trái phiếu có ảnh hưởng trực tiếp đến giá trái phiếu trên thị trường, lợi tức và rủi ro trái phiếu. Thời hạn đáo hạn chỉ là thời hạn danh nghĩa của trái phiếu. Thời hạn trung bình mới là thời hạn thực tế của trái phiếu.

o Mệnh giá (face value): Là số tiền ghi trên bề mặt của trái phiếu. Không giống như cổ phiếu, mệnh giá trái phiếu có ý nghĩa rất lớn trong thực tế. Mệnh giá trái phiếu là số tiền mà nhà phát hành phải hoàn trả lại cho người sở hữu trái phiếu khi đến hạn thanh toán.

o Lãi suất và thời hạn trả lãi: Khác với cổ phiếu không quy định cụ thể tỷ suất cổ tức và thời hạn trả cổ tức, trái phiếu quy định lãi suất và thời hạn trả lãi. Mỗi trái phiếu có ghi cam kết của tổ chức phát hành thanh toán cho người sở hữu trái phiếu một số tiền lãi cố định vào một ngày xác định. Số tiền này thường được ghi theo tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá của trái phiếu, có thể được quy định cố định hoặc thả nổi theo lãi suất thị trường, hoặc kết hợp cả hai.

Lãi suất trái phiếu được tính theo năm, nhưng tiền lãi được thanh toán thường là 6 tháng một lần.

o Nhà phát hành trái phiếu: Thường là chính phủ, các cơ quan của chính phủ, các công ty lớn...

Căn cứ vào nhà phát hành trái phiếu có thể chia trái phiếu thành các loại sau:

o Trái phiếu chính phủ (Trái phiếu kho bạc): Là trái phiếu do Chính phủ (Kho bạc) hoặc chính quyền địa phương phát hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách hoặc huy động vốn để xây dựng các cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng.

Trái phiếu chính phủ không có rủi ro vỡ nợ do được chính phủ đảm bảo, tuy nhiên vẫn có rủi ro lãi suất (do thời hạn dài nên vẫn chịu biến động lãi suất).

Các trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu mua bán mạnh nhất trên thị trường vốn, nên được xem là công cụ có tính thanh khoản cao nhất trên thị trường vốn. Nếu trên thị trường tiền tệ, tín phiếu chính phủ là công cụ

Bài 2: Thị trường tài chính

38 v1.0

đầu tư lỏng nhất thì trên thị trường vốn, trái phiếu chính phủ cũng là công cụ đầu tư lỏng nhất và ít rủi ro nhất.

Lãi từ trái phiếu chính phủ được miễn thuế thu nhập

Lãi suất thấp, thường trả lãi coupon.

o Trái phiếu công ty là trái phiếu do các công ty có uy tín lớn phát hành với mục đích huy động vốn để bổ sung vốn tạm thời thiếu, phục vụ cho đầu tư phát triển công ty. Những người nắm giữ trái phiếu trở thành chủ nợ của công ty và có quyền yêu cầu thanh toán lãi và vốn khi đến hạn.

Trái phiếu công ty nhìn chung có độ rủi ro cao hơn và tính thanh khoản thấp hơn trái phiếu chính phủ, vì vậy mức lợi tức yêu cầu thường cao hơn.

Trái phiếu công ty có rất nhiều loại, tùy thuộc vào điều kiện, sự tính toán mà công ty có thể lựa chọn như trái phiếu tín chấp, trái phiếu thế chấp hoặc cầm cố, trái phiếu thu nhập.

Tóm lại, có nhiều loại trái phiếu khác nhau nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng: Trái phiếu là chứng khoán nợ, xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối với người sở hữu (trái chủ), trong đó cam kết sẽ trả số tiền gốc kèm với tiền lãi trong một thời gian nhất định.

2.3.2.2. Cổ phiếu Định nghĩa

Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận việc góp vốn của người nắm giữ cổ phiếu đối với thu nhập và tài sản của một công ty cổ phần

Về bản chất, cổ phiếu là một công cụ góp vốn, hay một chứng khoán vốn. Khi một công ty cổ phần huy động vốn để thành lập hoặc để mở rộng sản xuất, số vốn đó được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là các cổ phần, người mua những cổ phần này được gọi là cổ đông, khi mua cổ phần, các cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần mua được, giấy này được gọi là cổ phiếu.

Cổ đông khi mua các cổ phần của công ty trở thành những người đồng sở hữu công ty. Là người sở hữu công ty, các cổ đông có các quyền cơ bản sau:

Quyền được hưởng đối với tài sản và thu nhập còn lại của công ty (residual claim) sau khi công ty đã trả thuế và hoàn trả các khoản nợ.

Quyền bầu cử (để bầu ra hội đồng quản trị)

Các cổ đông thường không tham gia điều hành trực tiếp công ty.

Giá trị của cổ phiếu

Mệnh giá (Face Value): Số tiền ghi trên bề mặt cổ phiếu, thường được ghi bằng nội tệ, do

luật chứng khoán hoặc công ty cổ phần quy định, ở VN là 10.000 đồng.

Giá trị ghi sổ (Book Value): Giá trị của mỗi cổ phần căn cứ vào giá trị tài sản ròng của

công ty trên bản tổng kết tài sản.

Giá trị thị trường (Market Value): Giá cả cổ phiếu khi mua bán trên thị trường.

Bài 2: Thị trường tài chính

v1.0 39

Cổ phiếu có hai loại cơ bản là cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.

Cổ phiếu phổ thông (Common Stock): Đây là loại cổ phiếu xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu hợp pháp đối với doanh nghiệp cổ phần.

Đặc điểm của cổ phiếu phổ thông:

o Cổ tức của cổ phiếu không cố định, phụ thuộc vào mức lợi nhuận thu được hàng năm của công ty và chính sách chia lời của công ty. Cổ tức chỉ được chia sau khi đã thanh toán cho những người nắm giữ trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi.

o Cổ phiếu có thời hạn bằng thời gian hoạt động của công ty. Trừ trường hợp phá sản hoặc kết quả kinh doanh quá xấu, nếu các công ty vẫn duy trì hoạt động một cách bình thường thì có thể xem như thời hạn của cổ phiếu là vô hạn.

o Trong trường hợp giải thể, cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường có quyền ưu tiên thấp nhất trong việc chia tài sản.

o Trách nhiệm hữu hạn: Thiệt hại của cổ đông thường giới hạn trong số vốn đầu tư ban đầu của cổ đông vào công ty.

o Được hưởng quyền tham gia quản lý công ty: quyền biểu quyết...

Cổ phiếu ưu đãi (Preferred Stock): Tương tự như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi thể hiện quyền sở hữu tài sản. Tuy nhiên, giống như trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi trả cổ tức cố định.

Đặc điểm của cổ phiếu ưu đãi:

o Là cổ tức cố định. Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi được ưu tiên trả lợi tức trước cổ phiếu thường, nhưng sau những người nắm giữ trái phiếu.

o Cổ đông không có quyền bỏ phiếu để bầu ra Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát công ty.

Bài 2: Thị trường tài chính

40 v1.0

TÓM LƯỢC CUỐI BÀI

Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng các khoản vốn thông qua các công cụ tài chính, qua đó vốn được chuyển giao từ các chủ thể dư thừa vốn đến các chủ thể có nhu cầu về vốn.

Chức năng dẫn vốn là chức năng quan trọng nhất của thị trường tài chính. Ngoài ra, thị trường tài chính còn có các chức năng khác như: quản lý rủi ro và phân bổ các nguồn lực, tập trung vốn và phân tán quyền sở hữu, cung cấp thông tin về giá cả, cung cấp thanh khoản, giám sát và quản lý vốn.

Thị trường tài chính có thể được phân loại thành: thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần, thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, thị trường tập trung và thị trường phi tập trung, thị trường tiền tệ và thị trường vốn

Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ là các công cụ vay nợ có kỳ hạn thanh toán ngắn (dưới một năm), tính thanh khoản cao và mức độ rủi ro thấp như: tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được,thương phiếu, hợp đồng mua lại, hối phiếu đã được ngân hàng chấp nhận, quỹ liên bang, đô la châu Âu.

Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn là các công cụ vay nợ và góp vốn trung và dài hạn. So với các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ, các công cụ trên thị trường vốn có giá cả dao động lớn hơn, độ rủi ro cao hơn nhưng có mức sinh lợi lớn hơn, ví dụ như: trái phiếu, cổ phiếu, các khoản vay thế chấp

Bài 2: Thị trường tài chính

v1.0 41

CÂU HỎI THƯỜNG GẶP

1. Thị trường tài chính có phải tập hợp tại một khu vực cụ thể nào đó hay không?

2. Hàng hóa của thị trường tài chính là gì?

3. Tại sao lại nói thị trường tài chính là kênh dẫn vốn trực tiếp khi các trung gian tài chính cũng tham gia trên thị trường tài chính?

4. Sự khác biệt quan trọng nhất giữa các công cụ vốn và các công cụ nợ là gì?

5. Tại sao thị trường tiền tệ không phục vụ cho nhu cầu đầu tư dài hạn?

6. Công trái ở Việt Nam là trái phiếu loại gì?

Bài 2: Thị trường tài chính

42 v1.0

PHỤ LỤC

Thị trường tài chính tiền tệ tháng 2/2009 tương đối ổn định

(Chinhphu.vn) - Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, tính đến cuối tháng 2/2009, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ước tăng 1,62% so với tháng 1/2009 và tăng 0,44% so với cuối năm 2008.

Trong đó, số dư tiền gửi VND tăng 0,23% và số dư tiền gửi ngoại tệ tăng 1,13% so với cuối năm 2008. Nhìn chung, thị trường tài chính tiền tệ tương đối ổn định.

Lãi suất có xu hướng giảm, tỷ giá giữ ở mức ổn định

Đối với lãi suất bằng VND, NHNN cho biết, so với cuối năm 2008, mặt bằng lãi suất huy động giảm từ 0,5-1,5%/năm, lãi suất cho vay giảm từ 2,5-4%/năm. Tuy nhiên, từ giữa tháng 02/2009 đến nay, một số ngân hàng thương mại (NHTM) đã điều chỉnh tăng lãi suất huy động với mức tăng từ 0,3-1%/năm.

Hiện nay, mặt bằng lãi suất huy động bằng VND phổ biến ở mức 6,8-7,5%/năm, lãi suất cho vay ở mức 8-10,5%/năm. Riêng lãi suất cho vay đối với các khoản cho vay được hỗ trợ lãi suất chỉ còn 4-6%/năm; lãi suất cho vay phục vụ nhu cầu đời sống và cho vay thông qua thẻ tín dụng là 12-14%/năm.

Đối với lãi suất bằng USD, có xu hướng giảm so với cuối năm 2008 với mức giảm từ 0,2-0,5%/năm đối với lãi suất huy động và từ 0,2-1,5%/năm đối với lãi suất cho vay. Hiện lãi suất huy động USD phổ biến ở mức 2,2-3,5%/năm và lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 5,7-7,4%/năm; lãi suất cho vay đối với khách hàng cam kết bán lại ngoại tệ cho ngân hàng là 4%/năm.

Nhờ nguồn cung ngoại tệ trên thị trường được cải thiện đáng kể nên diễn biến tỷ giá trên thị trường chính thức trong tháng 2/2009 tương đối ổn định. Ngày 25/2, tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng ở mức 16.973đồng/USD, giảm 0,01% so với tháng trước, tỷ giá giao dịch của các tổ chức tín dụng luôn kịch trần cho phép. Tuy nhiên, do yếu tố tâm lý, tỷ giá trên thị trường tự do từ ngày 20/2 đến 24/2 dao động với biên độ tương đối lớn, ngày 25/2 giao dịch ở mức 17.700-17.730 đồng/USD.

Tỷ giá EUR/VND biến động giảm theo sát diễn biến của đồng EUR trên thị trường quốc tế. Ngày 25/2, tỷ giá trên thị trường chính thức ở mức 22.456-22.876 đồng/EUR, giảm 8,06% so với cuối tháng trước; tỷ giá trên thị trường tự do biến động theo xu hướng tỷ giá trên thị trường chính thức.

Vốn đầu tư cho nền kinh tế tăng

Tính đến hết tháng 2/2009, nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế ước tính tăng 0,23% so với cuối tháng 1/2009 và tăng 0,54% so với cuối năm 2008. Trong đó, đầu tư bằng VND ước tăng 1,35% và đầu tư bằng ngoại tệ ước giảm 2,69% so với cuối năm trước.

Việc tăng đầu tư bằng VND là tác động tích cực chính sách kích cầu của Chính phủ nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.

Về tổng phương tiện thanh toán, ước tính tháng 2/2009 tăng 0,48% so với tháng trước và tăng 3,2% so với cuối năm 2008; trong đó, tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng giảm 4,32% so với tháng trước và tăng 17,67% so với cuối năm trước.

http://www.binhduong.gov.vn/vn/news_detail.php?id=1228&idcat=17&idcat2=9