Upload
do-minh-tam
View
237
Download
10
Embed Size (px)
DESCRIPTION
ftu ktpt ktvm2 tieu luan
Citation preview
MỞ ĐẦU
Trong lịch sử phát triển của mỗi quốc gia, nó sẽ sớm hay muộn chuyển đổi từ nước
có thu nhập thấp sang nước có thu nhập cao. Trong quá trình phát triển đó, quốc gia sẽ
phải trải qua giai đoạn thu nhập trung bình.Trong vài thập kỉ qua, nhiều quốc gia như
Phần Lan, Đài Loan, Nhật Bản,… đã vượt qua được thời kì này và vươn lên thu nhập cao
nhưng cũng có các quốc gia như Brazil, Malaysia,… trong 10 năm thậm chí là 50 năm
vẫn bị mắc kẹt trong gian đoạn thu nhập trung bình. Với tình trang này, một số nhà kinh
tế, mở đầu là Gill và Kharas trong báo cáo của World Bank năm 2008 đã đề cập hiện
tượng Bẫy thu nhập trung bình. Hiện tượng này đang ngày càng thu hút nhiều sự chú ý
của thế giới và đặc biệt là các nước có thu nhập trung bình.
Việt Nam sau 30 năm đổi mới đã phát triển mặt mẽ về mặt kinh tế và xã hội. Đến
năm 2009, Việt Nam đã trở thành một nước có thu nhập trung bình. Cũng như các quốc
gia thu nhập trung bình khác, các nhà kinh tế và chính phủ Việt Nam cung rất quan tâm
đến Bẫy thu nhập trung bình và đặt ra câu hỏi: Việt Nam có đang vướng vào chiếc bẫy
này?
Với thực tế đó, việc tiến hành nghiên cứu, phân tích của “bẫy thu nhập trung bình”
trên thế giới từ đó rút ra những kinh nghiệm, bài học cũng như đề xuất các biện pháp cho
Việt Nam đối với “bẫy thu nhập trung bình là một nhiệm vụ mang tính cấp thiết và có ý
nghĩa thực sự quan trọng. Đó cũng chính là lý do nhóm tiến hành nghiên cứu, thực hiện
đề tài :
“Nguy cơ mắc bẫy thu nhập trung bình của Việt Nam”
Trong bài tiểu luận, nhóm có sử dụng phương pháp phân tích-tổng hợp, phương
pháp hệ thống số liệu-dữ liệu, phương pháp thống kê, và phương pháp so sánh, đối chiếu
với thực tế để rút ra những kết luận có tính khách quan tương đối cao.
1
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH
1.1. Định nghĩa quốc gia có thu nhập trung bình
Hiện nay, một số tổ chức quốc tế tiến hành phân loại các quốc gia theo cách thức
khác nhau dựa trên các tiêu chí khác nhau như: tổng sản phẩm trong nước trên đầu người
(GDP/người), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chỉ số phát triển con người (HDI)… Ví
dụ như: Hệ thống phân loại Liên hợp quốc: Sự phân loại này dựa trên cơ sở thu nhập bình
quân đầu người GNP; Tiêu chí phân loại của UNDP dựa trên cơ sở Chỉ số phát triển con
người HDI;… Nhưng phổ biến nhất là phương pháp phân loại theo World Bank.
World Bank thực hiện phân loại các quốc gia theo thu nhập thông qua GNI (tổng
thu nhập quốc dân) theo phương pháp Atlas. Theo công bố ngày 01/7/2013, Ngân hàng
Thế giới phân loại theo thu nhập bình quân đầu người theo bốn mức cụ thể như sau:
Thu nhập thấp: 1035 USD/người hoặc ít hơn.
Thu nhập trung bình thấp: từ 1036 USD/người đến 4085 USD/người.
Thu nhập trung bình cao: từ 4086 USD/người đến 12615 USD/người.
Thu nhập cao: 12616 USD/người hoặc cao hơn
Vậy nhìn vào cách phân loại này của Ngân hàng Thế giới, một quốc gia được coi là
có thu nhập trung bình khi thu nhập bình quân đầu người phải đạt từ 1036 USD/người
đến 12165USD/người. Có thể nói những nước thuộc nhóm này bao gồm các quốc gia
được coi là các nước đang phát triển (quốc gia có mức sống còn khiêm tốn, có nền tảng
công nghiệp kém phát triển, thu nhập đầu người ít ỏi, nghèo nàn phổ biến và cơ cấu tư
bản thấp) như: Việt Nam, Lào… và các quốc gia được coi là các nước công nghiệp mới
(là quốc gia mới công nghiệp hóa trên thế giới, có tốc độ tăng trưởng cao, có nền kinh tế
thị trường ngày càng mở) như: Trung Quốc, Nam Phi…
2
1.2. Các quan điểm về dấu hiệu nhận biết và nguyên nhân gây ra bẫy thu nhập
trung bình
Theo I.Gill and H. Kharas (2007)1: Bẫy thu nhập trung bình diễn ra khi các quốc
gia có thu nhập trung bình có tốc độ tăng trưởng chậm hơn các nước giàu và kể cả nước
nghèo do thiếu sự chuyển đổi về kinh tế trong thế kỉ 21; không cạnh tranh được với các
đối thủ là các nước nghèo với nguồn nhân công rẻ trong các ngành công nghiệp truyền
thống và các nước giàu tiên tiến trong các ngành công nghiệp có tốc độ thay đổi kỹ thuật
nhanh chóng.
Cũng theo chuyên gia của World Bank, Indermit Gill và Homi Kharas(2007),
hiện tượng bẫy thu nhập trung bình có nguyên nhân từ cả khía cạnh kinh tế và xã hội:
+ Tốc độ tăng trưởng giảm và đình trệ
+ Hệ thống tài chính yếu kém
+ Đô thị hóa một cách quá mức và ồ ạt
+ Thiếu các dịch vụ cộng đồng công cộng
+ Khó khăn trong tìm việc làm
+ Sự rối loạn về dân chủ
+ Khoảng cách giàu nghèo gia tăng
+ Tình trang quan liêu trầm trọng
+ Bất ổn, bạo động xã hội
+ Thiếu niềm tin trong người dân
Theo ADB (2012)2: Một quốc gia đang ở trong bẫy thu nhập trung bình nếu nó đã
là một quốc gia có thu nhập trung bình thấp được 28 năm hoặc nhiều hơn. Và quốc gia
đang ở trong bẫy thu nhập trung bình cao nếu nó vẫn là quốc gia có thu nhập trung bình
cao trong vòng 45 năm hoặc hơn.
1An East Asian Renaissance2.Tracking the Middle-income Trap: What Is It, Who Is in It, and Why?
3
TN bq đầu người
(Y)
(P)
W0 W1
Tốc
độ tă
ng d
ân s
ốTố
c độ
tăng
thu
nhập
Theo mô hình bẫy thu nhập cân bằng của Nelson :
Căn bệnh của nhiều nước đang phát triển có thể được chẩn đoán như là sự cân bằng bền vững của thu nhập theo đầu người hoặc tiền gần tới mức đủ sống. Chỉ một phần trăm nhỏ thu nhập của nền kinh tế được được chuyển sang đầu tư. Nếu vốn góp đang được tích lũy bằng với mức tăng tỉ lệ dân số thì lượng vốn được trang bị mỗi công nhân không được tăng lên. Nếu sự tăng trưởng kinh tế được xác định như sự tăng lên của thu nhập đầu người thì những nền kinh tế đó là không phát triển.
Mối quan hệ giữa tốc độ tăng thu nhập quốc dân và thu nhập bình quân đầu người
Thu nhập bình quân đầu người:
Nếu thu nhập bình quân giảm thấp hơn W0 , dân số giảm với tốc độ nhanh hơn tốc độ giảm của thu nhập Thu nhập bình quân đầu người dần trở về mức tối thiểu đủ sống.
Nếu thu nhập bình quân tăng lên lớn hơn W0, tốc độ gia tăng dân số sẽ lớn hơn tốc độ gia tăng thu nhập quốc dân Thu nhập bình quân đầu người sẽ giảm dần trở về mức tối thiểu đủ sống
Do đó, nếu thu nhập bình quân đầu người đã ở mức tối thiểu đủ sống, nó sẽ có xu hướng duy trì tại mức này và các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thấp có xu hướng phải đối mặt với mức tình trạng cân bằng ở mức thu nhập thấp.
Theo quan điểm của GS. Kenichi Ohno
GS. Kenichi Ohno cho rằng bẫy thu nhập trung bình là một tình huống mà một quốc gia bị mắc kẹt tại mức thu nhập được quyết định bởi nguồn lực nhất định và lợi thế ban đầu và không thể vượt quá mức thu nhập đó. Như một lẽ tất nhiên, bất kỳ quốc gia nào, với xuất phát điểm là một nền kinh tế chủ yếu dựa vào khai thác các nguồn lực sẵn có, xuất khẩu nông sản độc canh , nông nghiệp tự cấp tự túc , và mong chờ vào viện trợ, thì để tăng trưởng, quốc gia đó cần tiến hành công nghiệp hóa, quá trình công nghiệp hóa bắt kịp được gồm 4 giai đoạn sau:
4
- Giai đoạn 1: Bắt đầu bằng sự xuất hiện ồ ạt của các công ty chế tạo có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), thực hiện các hoạt động lắp ráp giản đơn hoặc chế biến các sản phẩm công nghiệp nhẹ phục vụ xuất khẩu như dệt may, giày dép, thực phẩm… Trong giai đoạn này, tất cả các hoạt động như thiết kế, công nghệ, sản xuất và marketing đều do người nước ngoài hướng dẫn, nguyên vật liệu chính và phụ tùng được nhập khẩu, còn quốc gia tiếp nhận đầu tư chỉ đóng góp nguồn lao động giản đơn và đất công nghiệp. Điều đó dẫn tới một mức giá trị nội tại rất nhỏ, bị lấn át bởi giá trị do người nước ngoài tạo ra mặc dù công ăn việc làm và thu nhập cho người nghèo được cải thiện.
- Giai đoạn 2: Khi số vốn FDI đã được tích luỹ và quy mô sản xuất mở rộng, nguồn cung nội địa về phụ tùng và linh kiện bắt đầu tăng lên. Điều này diễn ra một phần là do các nhà cung cấp FDI đầu tư vào và một phần là do sự ra đời của các nhà cung cấp trong nước. Các công ty lắp ráp trở nên cạnh tranh hơn và mối liên kết giữa công ty lắp ráp và nhà cung cấp bắt đầu xuất hiện. Ngành công nghiệp này tăng trưởng mạnh về lượng do khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào trong nước gia tăng. Sản xuất về cơ bản vẫn chịu sự quản lý và chỉ đạo của người nước ngoài nên giá trị nội tại tăng không nhiều. Hiển nhiên, tiền lương và thu nhập trong nước cũng như vậy.
- Giai đoạn 3: Đây là giai đoạn nội lực hoá kỹ năng và tri thức thông qua tích luỹ vốn con người trong ngành công nghiệp. Lao động trong nước phải thay thế cho lao động nước ngoài trong tất cả các lĩnh vực sản xuất bao gồm cả quản lý, công nghệ, thiết kế, vận hành nhà máy, hậu cần, quản lý chất lượng và marketing. Vì sự phụ thuộc vào người nước ngoài giảm nên giá trị nội tại tăng lên rõ rệt. Quốc gia trở thành một nước xuất khẩu các sản phẩm chế tạo chất lượng cao, thách thức những đối thủ cạnh tranh đi trước và xác lập lại vị trí của mình trên bức tranh công nghiệp toàn cầu.
- Giai đoạn 4: Quốc gia có năng lực tạo ra sản phẩm mới và dẫn đầu xu thế thị trường toàn cầu.
Trong 4 giai đoạn trên đây, GS. Kenichi Ohno cho rằng với những lợi thế sẵn có về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý…, mỗi quốc gia đều có thể chạm ngưỡng thu nhập trung bình thấp ở ngay từ giai đoạn 1 và tăng trưởng đến mức thu nhập trung bình cao ở giai đoạn 2. Khi bước sang được giai đoạn 3, họ sẽ đạt mức thu nhập cao. Sẽ không có gì phải nói nếu quốc gia nào cũng vượt qua các giai đoạn đó một cách suôn sẻ. Nhưng thực tế là có rất nhiều nước, sau khi vượt ngưỡng thu nhập thấp lại tăng trưởng chậm lại và bị mắc kẹt ngay ở đó. Họ trở thành nạn nhân của “bẫy thu nhập trung bình” Nguyên nhân là do các quốc gia không thay đổi cơ cấu công nghiệp từ các ngành có hàm lượng công nghệ thấp sang các ngành có hàm lượng công nghệ cao bằng chính nguồn lao động nội địa (chuyển từ giai đoạn 2 sang giai đoạn 3). Đó là điều dễ hiểu bởi sau khi vượt ngưỡng
5
thu nhập thấp, một quốc gia sẽ mất dần các lợi thế sẵn có và vốn FDI bắt đầu chuyển sang các nước kém phát triển hơn nhưng có nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn hoặc lao động giá rẻ hơn. Để tiếp tục tăng trưởng, buộc quốc gia đó phải hướng vào phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, là những ngành có tính cạnh tranh lớn. Việc sử dụng lao động trong nước sẽ giúp nâng cao giá trị nội tại cho nền kinh tế. Tuy nhiên, sự thay đổi này sẽ có thể không thực hiện được do những nguyên nhân chính sau:
- Nhân lực trong thời kỳ thu nhập thấp chủ yếu được khai thác ở phần thô (lao động cơ bắp, thủ công) mà chưa được chú trọng về mặt kỹ năng, trình độ, dẫn đến mặt bằng chất lượng kém. Lao động sẽ không đủ khả năng để sáng tạo và sử dụng công nghệ mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Nền tảng khoa học công nghệ lạc hậu so với thế giới.
- Hiệu quả sử dụng vốn kém gây lãng phí vốn, đồng thời làm giảm đi sức hấp dẫn của nền kinh tế đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài.
- Các nhà quản lý kinh tế vĩ mô có tư tưởng chủ quan, thỏa mãn. Họ ngộ nhận những thành quả đã đạt được là kết quả của sức mạnh nội lực nên không kịp thời có các biện pháp, chính sách phù hợp với điều kiện và yêu cầu mới của nền kinh tế. Bốn nguyên nhân trên đây đã cản trở quá trình công nghiệp hóa, cũng như mở rộng đường dẫn nền kinh tế tự sa vào “bẫy thu nhập trung bình”
Như vậy, bẫy thu nhập trung bình xảy ra khi tăng trưởng tạo ra chỉ bằng may mắn (điều kiện tự nhiên) mà không bằng những nỗ lưc của doanh nghiệp và chính phủ. Tăng trưởng chỉ phụ thuộc vào những lợi thế sẵn có thì sớm hay muộn cũng đi đến hồi kết thúc, năng lực cạnh tranh sẽ bị bào mòn trước khi đất nước đạt mức thu nhập cao.
1.3. Hậu quả
Từ các quan điểm của các nhà kinh tế học về “Bẫy thu nhập trunng bình” như đã nêu ở trên, một quốc gia khi “mắc kẹt” sẽ có thể gặp phải những ảnh hưởng xấu tới các yếu tố cơ bản tạo động lực phát triển kinh tế: vốn, lao động, giáo dục và khoa học kĩ thuật.
Thứ nhất là khả năng tích lũy vốn của nền kinh tế. Nguồn vốn để đầu tư được huy động từ hai nguồn chính là khả năng tiết kiệm nội địa và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Thế nhưng, khi một nước bị rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, thu nhập bình quân đầu người sẽ ở mức thấp, chỉ ở mức vừa đủ sống, làm suy giảm hoặc mất khả năng tích lũy vốn của nền kinh tế. Cùng với đó, do mất dần lợi thế cạnh tranh với các khác trong việc thu hút FDI, nền kinh tế sẽ không huy động được lượng vốn cần thiết để tái sản xuất đầu
6
tư và duy trì đà tăng trưởng. Ngoài ra, quốc gia đó cũng không thể dựa vào tài nguyên thiên nhiên để tạo nguồn vốn phát triển được nữa, bởi tài nguyên quốc gia đã dần cạn kiệt trong giai đoạn phát triển từ một nước nghèo lên một nước có thu nhập trung bình. Giải pháp cuối cùng là vay nợ và nhận viện trợ thì có thể không vay được, hoặc bị phụ thuộc kinh tế - chính trị, hoặc bị rơi vào tình trạng “lãi mẹ đẻ lãi con” khiến cho nền kinh tế vốn đã đuối lại càng chìm sâu hơn nữa. Do đó, một quốc gia bị “mắc kẹt” càng lâu thì khả năng thoát khỏi “bẫy” ngày càng khó khăn.
Thứ hai, do thu nhập thấp nên khả năng người lao động tiếp cận với giáo dục và được đào tạo bài bản, có tay nghề cao dần trở nên xa vời. Thiếu hụt lao động với tay nghề và chuyên môn cao sẽ gây khó khăn cho các ngành cần nhiều chất xám – vốn là các ngành tạo ra giá trị gia tăng lớn. Lao động với trình độ thấp sẽ không thể tiếp nhận được các tiến bộ khoa học và các cải tiến sản xuất, cản trở quá trình đổi mới sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Thứ ba, các quốc gia rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” sẽ không có nhiều điều kiện để đầu tư cho giáo dục và khoa học kĩ thuật. Giáo dục yếu kém sẽ không thể tạo ra tầng lớp lao động có trình độ cao để bắt kịp các công nghệ có sẵn trên thế giới hay sáng tạo ra các công nghệ mới. Nếu không đầu tư vào khoa học, một quốc gia sẽ chỉ có thể chạy theo các nước tiên tiến và chỉ tiếp cận được các công nghệ lạc hậu mà không thể tạo ra các “bứt phá” công nghệ, tạo động lực phát triển kinh tế.
Theo Giáo sư Kenichi Ohno- Viện nghiên cứu chính sách Quốc gia Tokyo, “Bẫy thu nhập trung bình” được coi như “Chiếc trần thủy tinh vô hình” ngăn cản sự phát triển kinh tế từ giai đoạn phụ thuộc một phần sang phát triển bằng nội lực.Các ảnh hưởng xấu khi “mắc kẹt” trong “bẫy thu nhập trung bình” tới các yếu tố cơ bản tạo động lực phát triển kinh tế làm suy giảm khả năng tăng trưởng kinh tế cao và lâu dài, đủ để vượt qua “chiếc trần thủy tinh vô hình” để đạt tới mức sống cao hơn.
Về mặt xã hội, nền kinh tế tăng trưởng thấp sẽ không có đủ khả năng tạo việc làm và thu nhập cho người dân, tạo thành một vòng luẩn quẩn. Thất nghiệp tăng cao sẽ dẫn đến các tệ nạn và bất ổn định xã hội. Thu nhập bình quân đầu người thấp làm giảm khả năng thụ hưởng của con người, hạn chế các quyền tự do và điều kiện tiếp cận với các hàng hóa công cộng như y tế và giáo dục.
7
CHƯƠNG 2. DẤU HIỆU VIỆT NAM CÓ THỂ RƠI VÀO BẪY THU NHẬP
TRUNG BÌNH
2.1. Việt nam có đang mắc bẫy thu nhập trung bình
Để đánh giá một quốc gia đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình hay chưa, tiểu luận
này sẽ phân tích theo quan điểm GS. Kenichi Ohno với sáu khía cạnh được xem xét là:
thu nhập bình quân đầu người, tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động, sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, vị trí xếp hạng toàn cầu của nước đó so với các nước trên thế giới và cuối
cùng là các vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế. Vậy Việt Nam có đang
vướng phải bẫy thu nhập trung bình?
2.1.1. Thu nhập bình quân đầu người
Từ năm 2001 tới 2013, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam liên tục tăng.
Năm 2008, Việt nam đã đạt mốc thu nhập bình quân đầu người 1.000 USD và chuyển từ
một nước có thu nhập thấp sang nước có thu nhập trung bình thấp3.
3 Năm 2008, cách xếp loại các quốc gia dựa trên dữ liệu GNI bình quân đầu người của World Bank như sau: quốc gia có thu nhập thấp (975USD hoặc thấp hơn), quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp (976- 3.855 USD), các quốc gia có mức thu nhập trung bình cao (3.856 – 1.195 USD), các quốc gia có thu nhập cao (11.960 USD hoặc hơn). Cách xếp loại này thay đổi theo năm.
8
Hình 1. Thu nhập bình quân đầu người Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2013
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 20130
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
1800
2000
430 460 510590
680760
8501000
11201270
13901560
1740
Nguồn: Ngân hàng thế giới, đo lường theo phương pháp WB Atlas
Tuy nhiên, cũng từ năm 2008 đến 2013, kinh tế Việt Nam liên tục rơi vào tình trạng
bất ổn, trì trệ, nghẽn mạch tăng trưởng dài nhất từ khi đổi mới. Năm 2008, cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ tại Mĩ đã bùng phát và nhanh chóng ảnh hưởng tới toàn cầu, trong
đó có Việt Nam: lạm phát rất cao, bong bóng chứng khoán và bất động sản, nợ xấu ngân
hàng… Tăng trưởng GNI bình quân đầu người cũng tụt dốc nhanh chóng xuống mức
2,9% (năm 2009). Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển quốc tế (OECD), tới năm 2059,
nghĩa là 45 năm nữa, Việt Nam mới thực sự thoát khỏi mức thu nhập trung bình và đạt
mức thu nhập cao.
9
Hình 2. Tăng trưởng GNI bình quân đầu người từ năm 2001 tới năm 2013
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 20130
1
2
3
4
5
6
7
4.9 4.9
5.76.1 6.1
5.5 5.3
4.3
2.9
5.8
4.6 4.3 4.1
Nguồn: Ngân hàng thế giới, cố định theo giá Đô la Mĩ năm 2005
2.1.2. Tăng trưởng kinh tế
Dấu hiệu Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình là tăng trưởng chậm lại như
được minh họa trong hình 3. Sau khi khắc phục các tác động tiêu cực của khủng hoảng
tài chính châu Á (1997- 1998), nền kinh tế Việt Nam bắt đầu tăng trưởng mạnh từ khoảng
năm 2000. Tăng trưởng dần tăng tốc và đạt mức cao nhất 7,55% trong năm 2005. Tuy
nhiên sự tăng trưởng này chủ yếu do bong bóng bất động sản và chứng khoán chứ không
phải do tăng năng suất hay năng lực cạnh tranh. Sau năm 2006, tăng trưởng có xu hướng
đi xuống với nhiều biến động. Tốc độ tăng trưởng dự kiến là 7-8%, giảm xuống chỉ còn
5-6%. Đất nước trải qua giai đoạn khó khăn với bong bóng bất động sản, lạm phát, nợ
xấu. Việt Nam là nền kinh tế tương đối trẻ với tiềm năng phát triển cao hơn nữa thì mức
tăng trưởng dưới 5-6% cũng cần được xem như một cuộc khủng hoảng xã hội. Những
vấn đề dài hạn này rất khó giải quyết, ngay đối với cả những xã hội tiên tiến chứ không
chỉ với quốc gia có thu nhập trung bình như Việt Nam.
10
Hình 3. Tăng trưởng GDP thực tế của Việt Nam
Nguồn: World Bank, cơ sở dữ liệu chỉ số Phát triển Thế giới.
2.1.3. Năng suất lao động
Năng suất lao động là một trong những thước đo năng lực cạnh tranh quốc gia. Theo số liệu của các tổ chức quốc tế4, năng suất lao động của Việt Nam năm 2013 qui đổi theo giá cố định 2005 PPP đạt 5440 USD/lao động, bằng 1/18 năng suất lao động của Singapore, bằng 1/6,5 so sánh với Malaysia, 1/3 Thái Lan và Trung Quốc. Trong khu vực ASEAN, hiện tại năng suất lao động Việt Nam chỉ cao hơn Myanmar, Cambodia và đang xấp xỉ với Lào.
4 ADB-ILO, ASEAN Community 2015: Managing integration for better jobs and shared prosperity, Bangkok, Thailand, 2014.
11
Bảng 1. Năng suất lao động thời kỳ 2007-2013 (USD, PPP2005)
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Tốc độ tăng bình quân
(%)
ASEAN 9,173 9,396 9,366 9,868 10,097
10,467 10,812 2.84
Brunei 104,964
100,995
97,758
98,831
99,362
100,051
100,015
-0.53
Cambodia 3,333 3,427 3,334 3,460 3,619 3,797 3,989 2.99
Indonesia 7,952 8,253 8,439 8,763 9,130 9,486 9,848 3.63
Lao PDR 4,029 4,216 4,399 4,636 4,865 5,115 5,396 4.99
Malaysia 31,907 32,868 31,899
33,344
34,056
35,018 35,751 1.92
Myanmar 2,229 2,282 2,364 2,454 2,560 2,683 2,828 4.07
Philippines 8,841 8,920 8,795 9,152 9,168 9,571 10,026 2.02
Singapore 92,260 90,987 88,751
97,151
98,775
96,573 98,072 1.47
Thailand 12,994 13,205 12,922
13,813
13,666
14,446 14,754 2.23
Viet Nam 4,322 4,516 4,669 4,896 5,082 5,239 5,440 3.90
China 9,227 10,119 11,008
12,092
13,093
14,003 14,985 8.48
India 6,746 7,021 7,596 8,359 8,832 9,073 9,307 5.99
Japan 63,245 62,746 60,055
62,681
63,018
64,351 65,511 0.73
Korea, 52,314 53,226 53,51 56,10 57,12 57,262 58,298 1.93
12
Rep.of 4 6 9
Nguồn: ILO: Trends Econometric Models, Jan. 2014; World Bank: World Development Indicators, 2013.
Theo số liệu của Trung tâm năng suất Việt Nam thì tốc độ tăng năng suất Việt Nam giai đoạn 2007-2013 là 3.9%, so với các nước châu Á và trong khu vực, tốc độ tăng năng suất Việt Nam thuộc nhóm trung bình.
Xu hướng năng suất lao động và cơ cấu lao động
Năm 2013, năng suất lao động của Việt Nam tính theo giá hiện hành đạt 68,7 triệu đồng, cao gấp gần 2,5 lần so với năm 2007. Tuy vậy, tính theo giá cố định 2010 thì tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2007-2013 chỉ đạt 3,22%/năm. Nguyên nhân rõ ràng nhất của tốc độ tăng năng suất lao động thấp là do nền kinh tế đã không thể duy trì tốc độ tăng trưởng như trong quá khứ khi chỉ đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 5,73%/năm trong khi tốc độ tăng trưởng việc làm vẫn ổn định ở mức 2,43%/năm.
Bảng 21. GDP bình quân một lao động theo khu vực kinh tế 2007-2013
Đơn vị: triệu đồng/lao động
2007 2010 2013
GDP bình quân cho một lao động, giá hiện hành 27.6 44.0 68.7
Nông nghiệp 9.7 16.8 27.0
Công nghiệp 56.1 80.3 124.1
Dịch vụ 42.0 63.8 92.9
GDP bình quân cho một lao động, giá so sánh 2010 40.3 44.0 48.7
Nông nghiệp 15.5 16.8 18.3
Công nghiệp 81.4 80.3 88.7
Dịch vụ 59.3 63.8 66.8
Nguồn:Tính toán từ GSO, Niên giám thống kê.
13
Nông nghiệp là ngành có lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng việc làm với 46.8% (2013), tuy nhiên năng suất lao động của ngành này ở mức rất thấp. Năng suất lao động ngành nông nghiệp ước tính chỉ bằng 1/4,5 năng suất ngành công nghiệp và khoảng 1/3,4 năng suất ngành dịch vụ.Năng suất thấp cho thấy hiệu quả của việc sử dụng lao động còn thấp, chưa có nhiều áp dụng khoa học công nghệ.
Công nghiệp là nhóm ngành có năng suất lao động cao nhất trong 3 nhóm ngành với tỷ trọng lao động chiếm 21% tổng việc làm năm 2013. Tốc độ tăng năng suất của nhóm ngành này không ổn định, giảm trong 2007-2010, phục hồi mạnh trong 2010-2013. Trong cả giai đoạn 2007-2013, năng suất lao động nhóm ngành này có tốc độ tăng chậm nhất, chỉ 1.44%/năm.
Dịch vụ là nhóm ngành có tỷ trọng lao động tăng đều qua các năm và đến 2013 đạt 32% tổng việc làm. Năng suất lao động nhóm ngành dịch vụ năm 2013 (theo giá hiện hành) đạt 92.9 triệu đồng/người bằng 1,35 lần mức chung. Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất của nhóm khá ổn định ở mức 2%/năm.
Năng suất lao động và kỹ năng
Trong thời kỳ công nghiệp hóa-hiện đại hóa, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự phát triển của đất nước và sự sống còn của các doanh nghiệp. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có lực lượng lao động dồi dào. Năm 2013, dân số từ 15 tuổi trở lên 69,3 triệu người, lực lượng lao động cả nước đạt 53,7 triệu5, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chiếm đến 77,5%.
Mặc dù có số lượng lao động lớn nhưng chất lượng lao động thấp. Theo số liệu của Điều tra Lao động-Việc làm, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Việt Nam khá thấp và không có nhiều cải thiện. Nếu vào năm 2007, tỷ lệ qua đào tạo của lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chỉ đạt 17.4% thì vào năm 2013, con số này cũng không cải thiện nhiều với tỷ lệ 18,4%. Sự chênh lệch về chất lượng nguồn lao động được thể hiện rõ nhất là ở khu vực nông thôn và thành thị. Ở thành thị lao động đã được đào tạo chiếm 30,9%, trong khi ở nông thôn chỉ có 9%. Đây chính là một rào cản lớn cho việc cải thiện năng suất lao động.
Một vấn đề quan trọng là, đào tạo nguồn nhân lực ở Việt nam chưa gắn kết với nhu cầu của thị trường cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Rất nhiều doanh nghiệp phản ánh học sinh, sinh viên ra trường không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Báo
5 LLLĐ bao gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và những người thất nghiệp.
14
cáo Phát triển Việt Nam 20146 viết "Phần lớn người sử dụng lao động nói rằng tuyển dụng lao động là công việc khó khăn vì các ứng viên không có kỹ năng phù hợp hoặc vì sự khan hiếm người lao động trong một số ngành nghề. Điều này phản ánh một thực tế là chất lượng đào tạo ở nước ta thấp, lao động ở Việt Nam đang làm việc tại những vị trí đòi hỏi trình độ đào tạo cao hơn hoặc thậm chí thấp hơn so với những kỹ năng đang có.
Sử dụng phương pháp đánh giá mức độ phù hợp kỹ năng dựa trên phân loại các nhóm nghề nghiệp chính ISCO-88 và phân loại trình độ học vấn phù hợp với Tiêu chuẩn phân loại giáo dục quốc tế (ISCED) đối với lao động đang làm việc ở Việt Nam cho thấy năm 2007 có 28,6% lao động làm những công việc không phù hợp với trình độ đào tạo, trong đó 4,7% lao động đang làm những công việc thấp hơn trình độ đào tạo (thừa kỹ năng)và 23,9% đang làm những việc cao hơn trình độ đào tạo (thiếu kỹ năng)7.Con số này đã tăng lên rất nhiều vào năm 2013 với các chỉ số lần lượt là 49,8%, 5,9%, 43,9%. Đặc biệt là đối với lao động thiếu kỹ năng, tỷ lệ đã tăng lên gần gấp 2 lần.
Bảng 3. Lao động đang làm việc chia theo nghề nghiệp và trình độ CMKT
Đơn vị tính: người
Không có CMKT
Sơ cấp, Chứng
chỉTrung
cấp Cao đẳngĐại học trở lên Tổng số
2007
Lực lượng vũ trang 26,814 3,148 8,868 825 3,987 43,642
Lãnh đạo 148,114 25,657 100,024 23,553 173,070 470,419
CMKT bậc cao 0 0 2,416 237,326 1,613,226 1,852,968
CMKT bậc trung 77,367 56,474 1,205,560 412,327 60,342 1,812,070
Nhân viên sơ cấp 320,399 110,566 121,138 16,672 57,410 626,185
Nhân viên bán hàng, dịch vụ, bảo vệ 2,513,869 219,992 178,128 32,799 59,950 3,004,738
Lao động có KT trong 1,554,038 54,398 42,896 4,674 10,614 1,666,621
6 WB, Vietnam Development Report 2014, Skilling up Vietnam: Preparing the workforce for a modern market economy, Hanoi 2013.7 Xem bảng phụ lục xác định nghề nghiệp và yêu cầu về trình độ.
15
NN
Thợ thủ công 4,953,778 805,639 239,869 37,621 38,735 6,075,641
Thợ lắp ráp, vận hành 817,883 633,603 85,427 11,895 16,068 1,564,877
Lao động giản đơn 26,989,962 463,797 495,293 66,461 75,229 28,090,746
Tổng số 37,402,2172,373,27
4 2,479,619 844,155 2,108,629 45,207,900
2013
Lực lượng vũ trang 6,736 2,700 18,747 7,140 50,099 85,422
Lãnh đạo 108,585 15,448 107,238 45,366 348,014 624,650
CMKT bậc cao 25,208 3,800 44,394 273,357 2,594,410 2,941,169
CMKT bậc trung 220,908 59,382 877,824 438,942 102,432 1,699,488
Nhân viên sơ cấp 520,609 28,888 184,584 61,138 120,430 915,648
Nhân viên bảo vệ, dịch vụ, bán hàng 7,642,750 187,903 472,477 125,492 259,109 8,687,730
Lao động có KT trong NN 5,787,930 74,124 115,919 24,317 35,026 6,037,317
Thợ thủ công 5,439,486 385,241 334,423 102,310 42,880 6,304,339
Thợ lắp ráp, vận hành 2,641,110 757,812 279,952 73,937 37,804 3,790,615
Lao động giản đơn 20,403,669 136,133 379,346 120,420 81,950 21,121,521
Tổng số 42,796,9931,651,43
1 2,814,9031,272,41
8 3,672,154 52,207,900
Nguồn: Tính toán từ Điều tra Lao động-Việc làm, GSO.
Lao động thừa kỹ năng có tỷ lệ cao tại các nhóm lao động có trình độ trung cấp và cao đẳng (63% và 40%). Tỷ lệ lao động thiếu kỹ năng của nhóm lao động không có chuyên môn kỹ thuật đã tăng vọt từ 28% năm 2007 lên 52% năm 2013.
16
Có đến 40% lao động đang làm việc trong các nghề nhân viên sơ cấp là lao động thừa kỹ năng.Trong khi đó, tỷ lệ lao động thiếu kỹ năng đặc biệt cao trong các nghề lao động có kỹ thuật trong nông nghiệp, nhân viên bán hàng, dịch vụ, bảo vệ, thợ thủ công (96%, 88%, 86%). Cụ thể hơn đây chính là những nhóm nghề đang sử dụng rất nhiều lao động không qua đào tạo, không có chuyên môn kỹ thuật. Việc sử dụng lao động không qua đào tạo vào những công việc đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật là một nguyên nhân chính làm năng suất lao động thấp. Thiếu hụt cung lao động tập trung vào nhóm trình độ sơ cấp, chứng chỉ nghề.
Các phân tích về vấn đề chênh lệch giữa cung cầu kỹ năng cho thị trường lao động ở trên đã minh chứng cho nhận định về đào tạo chưa gắn với nhu cầu sử dụng của nền kinh tế, cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Nói cách khác thay đổi mô hình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế hầu như chưa được hỗ trợ từ đào tạo nhân lực của đất nước, kỹ năng lao động đã không thể tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng suất lao động.
Năng suất lao động và tiền lương danh nghĩa
Một mặt khác để xem xét vấn đề là việc so sánh giữa năng suất lao động và tiền
lương danh nghĩa. Nếu năng suất lao động tăng nhanh hơn so với tiền lương danh nghĩa,
chi phí lao động đơn vị (tiền lương cần thiết để sản xuất một đơn vị sản lượng, được tính
bằng tiền lương danh nghĩa chia cho năng suất lao động) giảm và do đó có thể cạnh tranh
bằng chi phí bị mất đi và đất nước trở thành nơi sản xuất tương đối tốn kém. Trong
những năm gần đây, mức tăng lương tại Việt Nam đã lớn hơn nhiều so với mức tăng
năng suất lao động. Điều này ứng với tình huống thứ hai, tức là sản xuất trở nên đắt đỏ
hơn. Tại Việt Nam, từ năm 2009 đến năm 2012, năng suất lao động của tất cả các ngành
tăng tốc độ trung bình hàng năm 3,2% cho toàn bộ nền kinh tế và 5,1% cho khu vực sản
xuất (Nguồn: Dự án Quốc hội). Trong khi đó, tiền lương danh nghĩa tăng với tỷ lệ trung
bình hàng năm 25,9% cho toàn bộ nền kinh tế và 23,4% cho sản xuất. Điều này có nghĩa
là khả năng cạnh tranh về chi phí bị mất đi với tỷ lệ hàng năm 22,7% cho toàn bộ nền
kinh tế và 18,3% cho sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mĩ
trong giai đoạn này là khoảng 5,5% quá nhỏ để bù đắp cho tốc độ mất khả năng cạnh
tranh của khoảng 20% mỗi năm.
17
Hình 4. So sánh mức lương và năng suất lao động tại Việt Nam và Nhật Bản
Nguồn: Theo tính toán không chính thức của Quốc hội (mức lương) và của Giang Thanh
Long và cộng sự 2014 (năng suất lao động).
2.1.4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành:
Chuyển dịch cơ cấu ngành xét theo tỉ lệ đóng góp trong GDP có những chuyển biến tích
cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với xu hướng tăng tỉ trọng và vai trò của
ngành công nghiệp dịch vụ còn tỉ trọng của ngành nông nghiệp có xu hướng giảm.
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Sự chuyển dịch cơ cấu giữa 3 nhóm ngành lớn tuy đã đúng hướng nhưng nhìn
chung quá trình diễn ra chậm chạp. Về cơ bản nước ta vẫn có nền nông nghiệp chưa phát
triển, còn chiếm tỉ trọng cao, để đạt mục tiêu trở thành nước công nghiệp thì còn cần 1
thời gian dài nữa. Nền nông nghiệp còn phân tán, manh mún, năng suât lao động thấp,
ngay cả những loại nông sản xuất khẩu chủ lực như gạo, cà phê, cao su… chủ yếu từ lao
động thủ công.
Trong công nghiệp, đóng góp lớn cho GDP chủ yếu là các ngành công nghiệp khai
khoáng, công nghiệp chế tác không đáng kể, công nghiệp phụ trợ kém phát triển. Nhìn
18
chung trình độ phát triển của công nghiệp còn thấp, năng lực cạnh tranh yếu, công nghệ
tiên tiến còn ít, với quy mô rất nhỏ.
Khu vực dịch vụ kém năng động, còn nặng về phát triển các ngành truyền thống: y
tế, giáo dục, du lịch khách sạn… Sự phát triển một số ngành dịch vụ chất lượng cao như:
bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn… còn chậm.
Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế:
Nhờ đổi mới, mở cửa hội nhập (bắt đầu từ năm 1986), cơ cấu thành phần kinh tế đã
có sự chuyển dịch rõ rệt. Trước hết là trong cơ cấu GDP, tỷ trọng khu vực Nhà nước
giảm xuống còn dưới 32,2%; khu vực tập thể còn rất thấp: 5,05%; khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài đã chiếm gần 20%; khu vực kinh tế tư nhân chiếm trên dưới 11%...
Hình 6. Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế năm 1986 và năm 2013
19
2001 2005 2006 2008 2010 2012 2013000%005%010%015%020%025%030%035%040%045%050%
Hình 5.Tỉ trọng đóng góp GDP theo ngành giai đoạn 2001-2013
Nông lâm ngư nghiệp
Công nghiệp xây dựng
Dịch vụ
Tỉ tr
ọng
(%)
Nguồn: Tổng cục thống kê
Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập vào kinh
tế toàn cầu, thể hiện ở tỷ lệ xuất khẩu/GDP (XK/GDP) ngày càng tăng, nghĩa là hệ số mở
cửa ngày càng lớn.
Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu ở Việt Nam còn mang nặng tính hình thức. Động lực
chính của quá trình chuyển đổi là công ty nước ngoài (FDI) chứ không phải doanh nghiệp
nội địa. Tính đến cuối năm 2012, FDI vào Việt Nam đạt mức 210,5 tỷ đô la, trong đó
50,3% đầu tư vào sản xuất và công nghiệp chế biến, tiếp đến là bất động sản (23,6%), nhà
ở và dịch vụ ăn uống (5,0%), xây dựng (4,8%). Năm 2012, khu vực FDI đóng góp 18,1%
giá trị gia tăng, 3,3% việc làm, 23,3% đầu tư và 63,1% xuất khẩu của cả nước.
Xét về cán cân thương mại ngành (hình 7), khu vực FDI xuất khẩu ròng trong khi
các khu vực trong nước nhập khẩu ròng. Sự gia tăng xuất khẩu hàng hóa trong hai thập
kỷ qua được thúc đẩy chủ yếu bởi các hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong khi khu
vực trong nước liên tục thâm hụt thương mại. Năm 2008 khu vực trong nước đạt mức
thâm hụt thương mại kỷ lục 24,7 tỷ đô la. Từ đó, tăng trưởng sản lượng có xu hướng
giảm xuống.
Hình 7. Cán cân thương mại theo cơ cấu sở hữu
20
1986 20130
102030405060708090
100
39.7 32.2
60.348.2
019.6
FDINgoài Nhà nướcNhà nước
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Xuất khẩu hàng của Việt Nam chủ yếu do các tên tuổi lớn như Samsung, Canon,
Intel, Fujitsu và những thương hiệu lớn của nước ngoài khác cũng như các nhà sản xuất
hàng may mặc, da giày trong và ngoài nước. Các ngành này đều là ngành thâm dụng lao
động trong khi Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu, linh kiện công nghiệp và
sản phẩm tiêu dùng nhập khẩu. Việc xuất khẩu các sản phẩm thâm dụng lao động và nhập
khẩu các nguyên liệu và sản phẩm công nghiệp gần như không thay đổi nhiều trong hai
thập kỷ qua.
2.1.5. Chỉ số xếp hạng kinh tế
Vị trí của Việt Nam trong bảng xếp hạng dựa trên ba chỉ số của hoạt động kinh tế
(khả năng cạnh tranh, môi trường kinh doanh và tự do kinh tế) được thể hiện tại bảng
dưới đây:
Hình 8. Chỉ số xếp hạng kinh tế toàn cầu của Việt Nam
21
Có thể thấy, Việt Nam không được xếp hạng cao như kỳ vọng đối với một nước có
thu nhập trung bình thấp. Điều đáng lo lắng hơn là xu hướng cải thiện về vị trí trong bảng
xếp hạng của Việt Nam (số thứ tự xếp hạng thấp đi). Các chỉ số của Việt Nam luôn ở
mức thấp hoặc mức trung bình trong những năm gần đây. Để trở thành một nước công
nghiệp mới, việc không cải thiện vị trí xếp hạng toàn cầu cần được xem như một tín hiệu
cảnh báo nghiêm trọng. Đối với các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ Nhật Bản, Việt
Nam đang được xem là điểm đầu tư triển vọng. Tuy nhiên, nhận định cho rằng kinh tế
Việt Nam đang xấu đi và không phát triển như kỳ vọng trước đó cũng sẽ nhanh chóng lan
truyền trong cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản. Tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam
hiện nay quá chậm.
2.1.6. Khoa học công nghệ và khả năng sử dụng vốn
Khoa học công nghệ:
Trình độ công nghệ nói chung còn ở mức trung bình, đổi mới công nghệ còn
chậm.Từ cơ sở hạ tầng, chất lượng dạy và học cho tới năng lực nghiên cứu của doanh
nghiệp, các tổ chức nghiên cứu nhà nước cũng như việc quản lý nhà nước, thực hiện
chính sách về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam đều được đánh giá là
yếu kém.Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới : “Có rất ít doanh nghiệp thực hiện R&D,
mức độ đổi mới sáng tạo còn thấp và sự kết nối với hoạt động nghiên cứu của các tổ
chức nghiên cứu công lập còn yếu”.
22
Trong khi đó, các cơ quan nghiên cứu nhà nước dù đã trải qua nhiều thay đổi, song
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Nhiều phòng thí nghiệm và đơn vị R&D chồng chéo mà
phần lớn trong số đó không đạt quy mô tối ưu, thiếu nguồn lực và vẫn chưa gần với
người sử dụng cuối cùng.
Nguồn lực, vấn đề then chốt đối với khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, theo
báo cáo, cũng đang tồn tại nhiều hạn chế bởi hệ thống giáo dục và đào tạo nặng về lý
thuyết hoặc đã quá lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.
Trong bảng xếp hạng “Good Country Index” (Chỉ số quốc gia tử tế) vừa được công
bố, Việt Nam xếp thứ 89/125 về cống hiến khoa học công nghệ với tỷ lệ bằng sáng chế
cũng như các bài báo quốc tế thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình, xếp sau Ả-rập
Xê-út (86), Siri Lanka (87), Peru (88) và xếp trước Zambia (90) và Guatemala (91). Đáng
nói là, các chỉ số như số lượng sinh viên học tập tại nước ngoài, số bài báo quốc tế, số
xuất bản phẩm quốc tế, số bằng sáng chế của Việt Nam theo bảng xếp hạng này đều ở
mức thấp hơn so với trung bình chung của thế giới.
Trình độ công nghệ thấp, chậm được đổi mới trong nhiều nghành sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và quản lý. Sản phẩm nghiên cứu khoa học và công nghệ trong nước chưa
nhiều, tỷ lệ ứng dụng vào sản xuất và đới sống còn thấp. Tình trạng nhập khẩu các thiết
bị, công nghệ lạc hậu, không đồng bộ, kém hiệu quả ảnh hưởng xấu đến nǎng xuất lao
động và môi trường sinh thái.
Khả năng sử dụng vốn:
Hệ số hiệu quả vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ICOR (Incremental Capital output
Ratio) dùng trong phân tích kinh tế vĩ mô để đánh giá hiệu quả đầu tư (chỉ số ICOR càng
cao thì hiệu quả càng thấp) ở các nước phát triển chỉ số này thường trong khoảng 3,5 - 4
(cá biệt như Đài Loan giai đoạn 1960 – 1970 với mức thu nhập như Việt Nam hiện nay
họ đạt chỉ số ICOR 2,4 trong khi mức tăng trưởng đạt 11%). Ở Việt Nam, trong giai đoạn
1990 -2000,chỉ số ICOR là 4,1. Đến giai đoạn 2001-2005 chỉ số này xấp xỉ 5. Theo tính
toán của Giáo sư David Dapice của trường Đại học Harward thì Việt Nam với tốc độ đầu
23
tư cao như báo cáo thì tỷ lệ tăng trưởng phải đạt mức 9-10% thậm chí còn ước tính Việt
Nam thất thoát, lãng phí đầu tư hàng năm lên đến 1 tỷ USD.
Mặt khác, theo đánh giá theo kết quả "kiểm toán chẩn đoán” theo dự án kiểm toán
phân tích Miya zawa của Ngân hàng thế giới đánh giá hoạt động của các Doanh nghiệp
nhà nước là các Tổng công ty lớn như : Hàng hải, Thủy sản, Dệt may, Cao su, Mía
đường, Thép, Giấy, Xi măng, Lương thực.... cho thấy đầu tư phát triển lớn nhưng hoạt
động kém hiệu quả.
Đầu tư dàn trải, tiến độ thi công dự án chậm trễ, kéo dài. Số dự án đầu tư tăng
nhanh qua các năm không tương xứng với tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư. Nhiều dự
án chưa đủ thủ tục cũng được ghi vốn hoặc ngược lại không có nguồn vốn cũng cho triển
khai, nhiều dự án công trình kéo dài do thiếu vốn thậm chí không theo kế hoạch.
Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư diễn ra trong tất cả các giai đoạn của quá
trình đầu tư.Qua kết quả kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, qua xét sử nhiều vụ án liên quan
đến quá trình thực hiện đầu tư từ nguồn vốn nhà nước cho thấy tình trạng lãng phí, thất
thoát xẩy ra ở các ngành, các địa phương và ở tất cả giai đoạn của quá trình đầu tư. Theo
đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì thất thoát lãng phí trong chủ trương đầu tư, quyết
định đầu tư gây lãng phí lớn nhất chiếm đến 70% tổng số lãng phí thất thoát vốn đầu tư.
2.1.7. Các vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế
Vào giữa những năm 2000, hàng loạt các vấn đề liên quan đến tăng trưởng cao xuất
hiện như lạm phát, bong bóng chứng khoán và bất động sản, nới rộng khoảng cách về thu
nhập và tài sản giữa những người có và không có bất động sản ở đô thị, tắc nghẽn giao
thông, suy thoái môi trường, nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước… Những quan sát thực
tế cho thấy Việt Nam đã chuyển từ quốc gia thu nhập thấp, nơi đa số người dân đã từng
nghèo hoặc rất nghèo, trở thành một nước có thu nhập trung bình với một số người trở
nên giàu có và một bộ phận khác vẫn nghèo đói. Sự chuyển đổi này dường như đã xảy ra
vào khoảng 2007- 2008, khi lạm phát bong bóng bất động sản và tắc nghẽn giao thông
đột nhiên trở nên tồi tệ.
24
2.2. Nguyên nhân
Với tình hình thực tế của Việt Nam hiện nay và cũng như theo GS. Kenichi Ohno,
Việt Nam đang mắc phải bẫy thu nhập trung bình. Mặc dù theo các quan điểm khác, Việt
Nam vẫn chưa mắc phải bẫy thu nhập trung bình nhưng hiện tượng này vẫn là thách thức
lớn mà nền kinh tế Việt Nam dễ mắc phải trong thời gian tới.
Những vấn đề hạn chế đã nêu ra ở trên xuất phát từ những nguyên nhân như sau:
• Thị trường vốn vay ở Việt Nam còn nhiều hạn chế.
Thị trường vốn Việt Nam còn lệ thuộc lớn vào chính sách tiền tệ quốc gia. Khi kinh
tế vĩ mô bất ổn, lạm phát tăng cao, chính sách tiền tệ điều hành theo hướng thắt chặt để
đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô. Mặt bất lợi của chính sách tiền tệ thắt
chặt đã tác động tới thị trường vốn, từ đó giảm đầu tư tư nhân và tốc độ tăng trưởng kinh
tế giảm.
• Nguồn lao động chủ yếu là lao động thiếu kĩ năng, thiếu sự liên kết với các ngành
nghề lao động khu vực khác.
Nguồn nhân lực Việt Nam phần lớn chưa được quy hoạch, khai thác, nâng cấp và
đào tạo bài bản. Vì thế, nguồn lao động chủ yếu là lao động thô, thiếu kinh nghiệm và kỹ
năng chuyên môn. Lực lượng lao động chưa có bằng cấp chiếm tới 2/3 lực lượng lao
động.
25
38,7%
61,3%
Hình 9. Tỉ lệ lực lượng lao động có bằng cấp và không có bằng cấp năm 2013
Lực lượng lao động có bằng cấpLực lượng lao động không có bằng cấp
Nguồn: Tổng Cục Thống kê, quý 2 năm 2014
Hơn nữa, sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân,
trí thức… chưa tốt, còn nhiều chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng phối hợp thực hiện sự
nghiệp công nghệ hóa, hiện đại hóa đất nước.
• Nền khoa học và công nghệ nước ta phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm
nǎng sẵn có, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, còn thua kém so với nhiều nước trong khu vực.
Nhiều vấn đề nảy sinh trong công cuộc đổi mới chưa được làm sáng tỏ về phương
diện lý luận. Nhiều vấn đề kinh tế - xã hội thiếu những dự báo khoa học. Việc tổng kết
thực tiễn bị coi nhẹ. Tình trạng chậm trễ trong một số lĩnh vực lý luận và khoa học xã hội
chưa được khắc phục.
Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tuy tǎng về số lượng, nhưng tỷ lệ trên số dân
còn thấp so với các nước trong khu vực, chất lượng chưa cao, còn thiếu nhiều cán bộ đầu
11nghành, chuyên gia giỏi, đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ. Số đông cán bộ có
trình độ cao đều đã đứng tuổi, đang có nguy cơ hẫng hụt cán bộ. Không ít cán bộ khoa
học và công nghệ chuyển đi làm việc khác hoặc bỏ nghề, gây nên sự lãng phí chất xám
nghiêm trọng.
26
Cơ cấu và việc phân bố cán bộ khoa học và công nghệ chưa cân đối. có nhiều bất
hợp lý. Nông thôn và miền núi còn thiếu nhiều cán bộ khoa học và công nghệ.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho nghiên cứu khoa học quá nghèo nàn, lạc hậu;
thông tin khoa học và công nghệ quá thiếu và không kịp thời.
Hệ thống tổ chức các cơ quan nghiên cứu - triển khai tuy đã được sắp xếp một
bước, nhưng vẫn còn trùng lặp, chưa đồng bộ, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa nghiên
cứu, giảng dạy với thực tiễn sản xuất - kinh doanh và với quốc phòng - an ninh; giữa các
nghành khoa học, giữa khoa học tự nhiên và công nghệ với khoa học xã hội và nhân vǎn.
Tinh thần hợp tác giữa các nhà khoa học, giữa các cơ quan nghiên cứu khoa học còn yếu.
• Nguồn vốn đầu tư ổn định nhưng sử dụng kém hiệu quả.
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 20130
50
100
150
200
250
300
350
400
450
500
161.6185.1 198 209
287.5316.3
341.6374.3
440.5
98.7124.2
189.8
263240.1
299.5 309.4
385410.5
48.665.1 74.1
189.9 181.1214.5 226.9 230 240.1
Hình 10. Phân bố nguồn vốn đầu tư giai đoạn 2005-2013
Khu vực Nhà nước Khu vực ngoài Nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
27
Ông Thomas Vellely – Giám đốc chương trình V.N, Trung tâm kinh doanh và quản
lý trường Đại học Quản lý Kennedy, Đại học tổng hợp Harward thì nhận xét : Tốc độ
tăng trưởng cao của Việt Nam qua dựa trên mức đầu tư cao chiếm 30 – 33 % GDP trong
đó phần lớn dựa vào nguồn xuất khẩu dầu khí, viện trợ phát triển chính thức (ODA) và
tiền gửi về của người Việt Nam ở nước ngoài tương đương với các nước Đông Bắc á thập
niên 1950 – 1960, Đông Nam á thập niên 1970 -1980, Trung Quốc trong thập niên 90
nhưng tốc độ phát triển không cao bằng và nếu hiệu quả đầu tư không được cải thiện và
các nguồn tiền "dễ dàng" không có nữa thì tăng trưởng sẽ chậm lại.
Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư diễn ra trong tất cả các giai đoạn của quá
trình đầu tư.Qua kết quả kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, qua xét sử nhiều vụ án liên quan
đến quá trình thực hiện đầu tư từ nguồn vốn nhà nước cho thấy tình trạng lãng phí, thất
thoát xẩy ra ở các ngành, các địa phương và ở tất cả giai đoạn của quá trình đầu tư. Theo
đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì thất thoát lãng phí trong chủ trương đầu tư, quyết
định đầu tư gây lãng phí lớn nhất chiếm đến 70% tổng số lãng phí thất thoát vốn đầu tư.
28
CHƯƠNG 3: KINH NGHIỆM TRÊN THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ BIỆN PHÁP CHO VIỆT NAM VƯỢT QUA BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH
3.1. Kinh nghiệm của Phần Lan để vượt qua bẫy thu nhập trung bình
Trong số các nước đã vượt qua MIT, không phải nước nào cũng có được một nền
kinh tế ổn định và phát triển kéo dài sau đó, cho thấy việc vượt qua bẫy thu nhập trung
bình và giữ vững tăng trưởng để không rơi lại vào bẫy thu nhập cũng quan trọng không
kém. Sau đây, tiểu luận phân tích mô hình phát triển của Phần Lan, một đại diện đạt được
thành công trong việc vượt qua MIT và duy trì ổn định, phát triển nền kinh tế.
Về các chỉ số kinh tế Phần Lan trong giai đoạn mắc và vượt qua bẫy thu nhập trung
bình:
Thời kì
Các chỉ số kinh tếChỉ số
thương mại
GPD/Đầu
người
(2008
USD)
Tăng
trưởng
GDP
(%)
Cán cân
ngân
sách
(%GDP)
Nợ công
(%GDP)
Lạm phát
(%)
Xuất khẩu
(%GDP)
1945-
1970
1960: 9236
1970:
14200
5,21960: 4,5
1970: 4,9
1960: 16,9
1970: 15,9
1960-1970:
5,9
1960: 21,1
1970: 24,2
1970-
1990
1970:
14200
1990:
25263
3,5 4,1 12,0 9,1 26,3
1991-
1993
1991:
23646
1993:
-3,4 -6,1 32,9 1,3 26,5
29
22322
Nguồn: data.worldbank.org
Trong giai đoạn từ1972 – 1988 là giai đoạn mà Phần Lan chuyển từ thu nhập trung
bình(15074 USD) sang thu nhập cao (23757 USD). Nền kinh tế Phần Lan tăng trưởng
một cách khá cao từ hậu chiến cho đến những năm 1990, và chia ra hai thời kì khá ổn
định.
Về các chính sách, biện pháp mà Phần Lan đã sử dụng để thoát khỏi bẫy thu nhập
trung bình, tiểu luận sẽ đề cập đến dựa theo hai giai đoạn: 1945-1970 và 1970-1990.
Trong cả hai giai đoạn này, bao gồm cả giai đoạn 1972-1988, vì thế các phân tích chính
sách của Phần Lan được bao gồm dưới đây kéo dài trong cả giai đoạn trước, trong và sau
khi rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
*Thời kì đầu kéo dài từ năm 1945-1970:
Trong thời kì này, Nhà nước chiếm vai trò chủ yếu trong việc thúc đẩy kinh tế phát
triển qua các công cụ như kiểm soát lãi suất và việc cho ngân hàng Nhà nước – Ngân
hàng Phần Lan - một vai trò chủ chốt. Ngân hàng này cho vay để các doanh nghiệp, công
cộng hoặc tư nhân, đầu tư vào các dự án lớn. Một phần quan trọng của các chính sách đặc
quyền của Ngân hàng Phần Lan bao gồm hầu hết các quyết định liên quan đến quản lý
ngoại hối và các khuyến nghị ngân hàng nhà nước cấp cho các ngân hàng thương mại.
Trong thời kì này, hai chính sách cải cách đầy tham vọng cũng được triển khai, bao
gồm một là chủ trương cải thiện độ phủ sóng và chất lượng của giáo dục (1968) và hai là
khuyến khích đầu tư trong công nghệ và khoa học (1967). Phần Lan phải đối phó chủ yếu
với các dao động giá lớn trong mặt hàng lâm nghiệp – vốn là mặt hàng xuất khẩu chính
của đất nước này.Đặc điểm trong thời kì này là lãi suất thấp và một nền công nghiệp còn
non trẻ.
* Thời kì thứ hai tính từ năm 1970-1990
30
Phần Lan phải đối phó với một cú sốc về dầu mỏ, các chính sách vĩ mô đều tập
trung để giữ cán cân tài chính của đất nước cân bằng. Sau đó Phần Lan nhanh chóng tìm
được nguồn cung dầu với giá ưu đãi từ Liên Xô. Trong thời kì này, sự tự do hóa tài chính
bắt đầu dần dần được hình thành.
Tự do hóa tài chính trong những năm từ 1985-1992 dẫn đến một sự tăng trưởng quá
mức của tín dụng. Giá tài sản bị đẩy tăng lên quá cao và khiến nền kinh tế trở nên quá
nóng. Sau đó, khi Liên Xô, một trong những đối tác chính của Phần Lan sụp đổ, nền
ngoại thương của đất nước này cũng sụp đổ theo. Hai yếu tố này dẫn đến một thời kì suy
thoái sâu từ 1992-1993.
Cơn suy thoái này ảnh hưởng rất mạnh đến nền kinh tế Phần Lan. Tỉ lệ thất nghiệp
tăng từ 3,2% năm 1990 đến 16,4% năm 1993. Nợ doanh nghiệp và cá nhân tăng quá
nhiều đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng trong ngành ngân hàng, yêu cầu một gói cứu trợ
tài chính của chính phủ khiến nợ công tăng từ 14% GDP năm 1990 lên 55% vào năm
1993.
Điều đặc biệt về cách xử lý cuộc khủng hoảng trong năm 1990 ở Phần Lan là chính
phủ tạo được sự đồng thuận chính trị và xã hội trên diện rộng cho phép các điều chỉnh
kinh tế vĩ mô quan trọng được thực hiện. Phần Lan cũng định hướng lại sản xuất và xuất
khẩu chuyển sang các ngành kỹ thuật cao. Điều này chỉ có thể được thực hiện nhờ sự đầu
tư đáng kể trong chất lượng giáo dục từ trước đó và một chính sách đổi mới sáng tạo. Đi
kèm đó là củng cố tài chính, bao gồm cả cải cách lương hưu và tăng cường quy chế tài
chính nhằm giảm thiểu các nguy cơ của một cuộc khủng hoảng ngân hàng trong tương
lai. Điều này đã giúp Phần Lan bứt phá và chuyển sang một nước có thu nhập cao.
3.2. Một số biện pháp khuyến nghịgiúp Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình
3.2.1. Chính sách Việt Nam đang thực hiện liên quan đến bẫy thu nhập trung
bình
a) Tích cực:
Chính phủ ban hành các chính sách tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất
kinh doanh, xử lý nợ xấu, phát triển thị trường, tăng sức mua, đẩy mạnh tiêu thụ hàng
31
hóa.Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh
doanh theo Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết số 01 và 02 của Chính phủ, nhất là các
chính sách giãn, hoãn, miễn, giảm thuế và chính sách hỗ trợ tín dụng...
Thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống
kết cấu hạ tầng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Rà soát các chính sách
thuế, đất đai, xã hội hóa, khuyến khích DN thuộc các thành phần kinh tế thực hiện tái cơ
cấu sản phẩm, đổi mới công nghệ.
Chính phủ nhà nước đã thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 và
đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo triển khai quyết liệt trong suốt thời
gian qua. Tại Diễn đàn Doanh nhân Việt Nam năm 2014 do Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam tổ chức sáng 19/9, đại diện VCCI và tất cả các hiệp hội doanh nghiệp
đã cùng ký vào Tuyên bố về chương trình hành động nhằm cải thiện môi trường kinh
doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh.nhằm thực hiện sứ mệnh của đội ngũ doanh nhân
thời gian tới trong việc đưa nền kinh tế, đất nước phát triển tự chủ, tránh được bẫy thu
nhập trung bình và của VCCI và các hiệp hội doanh nghiệp trong vai trò đại diện, liên kết
và hỗ trợ cho cộng đồng doanh nhân phát triển.
Đặc biệt trong những năm gần đây,số lượng các Hiệp định mà Việt Nam đã và
sắp ký kết như Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Hàn Quốc, Hiệp định liên
minh thuế quan Việt Nam với Nga, Belarus và Kazakhstan và đặc biệt là Hiệp định tự do
thương mại giữa Việt Nam với EU,… cho thấy Việt Nam đang từng bước tiếp nhận và
sửa đổi phương thức hoạt động thương mại trong nước đối với các nước quốc tế.
b) Tiêu cực:
Việt Nam chỉ sử dụng công cụ chính sách tài khóa và tiền tệ để xử lí vấn đề.
Thực tế, trải qua 6-7 năm liền, chúng ta chỉ sử dụng 2 công cụ tài khóa và tiền tệ, 2 công
cụ này không thể giúp nền kinh tế Việt Nam hội nhập và thay đổi tiềm năng được. Do đó,
vấn đề hiện nay là phải tập trung tái cơ cấu.
Việt Nam đã áp dụng các chính sách thu hút FDI chặt chẽ thay vì mở rộng
Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế vẫn còn nhiều. Số lượng các mặt
hàng thuộc diện kiểm soát giá, diện cấm và hạn chế kinh doanh, và kinh doanh có điều
32
kiện vẫn còn rất lớn. Cơ chế kiểm soát các loại mặt hàng này hầu như không có nhiều
thay đổi. Những chính sách can thiệp này dẫn đến tổn thất kinh tế, lãng phí tài nguyên, và
kìm hãm các lực lượng kinh tế phát triển.
3.2.2. Biện pháp giúp Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình
Việc giải quyết được nguy cơ của bẫy thu nhập trung bình sẽ cần sự cố gắng của
nhiều thế hệ. Nó là thách thức với các nhà hoạch định chính sách không chỉ trong ngắn
hạn mà trong cả dài hạn. Vì vậy, sau đây nhóm chúng em xin đề xuất một vài biện pháp
khuyến nghị cụ thể giúp Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình:
Cải thiện thị trường vốn vay
Việc phát triển mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng để tạo điều kiện cho người dân dễ
dàng hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng để hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng như nhu cầu cải thiện cuộc sống là cần thiết, trong đó không thể không kể đến vai
trò của hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam - kênh dẫn vốn hiệu quả trên thị
trường tài chính - tiền tệ
Một số biện pháp để phát triển thị trường vốn thông qua kênh dẫn vốn là hệ thống
NHTM có thể kể đến: nâng cao năng lực thể chế, rà soát các cơ chế chính sách theo
hướng thị trường, tạo môi trường cho các tổ chức tín dụng hoạt động... Các NHTM nên
chủ động xây dựng lộ trình thích hợp và kiên quyết thực hiện Thông tư số 02/2012/TT-
NHNN về phân loại nợ và trích phòng rủi ro, nhanh chóng áp dụng các chuẩn mực về
phân loại nợ và trích phòng rủi ro theo thông lệ quốc tế; rà soát vốn thực có của các
NHTM để giám sát tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Bên cạnh đó, tạo môi trường lành mạnh
cho hoạt động ngân hàng thông qua việc điều chỉnh cơ chế, chính sách một cách phù hợp,
điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường.
Ngoài ra phải tập trung, đẩy mạnh phát triển thị trường trái phiếu DN, tăng tính
thanh khoản của thị trường này trên cơ sở nâng cao mức độ tín nhiệm của DN. Muốn vậy,
bên cạnh việc các DN phải tự củng cố, minh bạch công khai thông tin hoạt động của DN,
33
công bố mục đích rõ ràng của việc phát hành trái phiếu để nhà đầu tư thấy được hiệu quả
khi bỏ vốn, thì cũng cần phải có cơ chế làm tăng khả năng đánh giá tín nhiệm của DN;
đánh giá độ rủi ro của việc đầu tư vào trái phiếu DN. Từ đó, xây dựng “luật chơi” phù
hợp cho thị trường vốn. Ngân hàng Nhà nước cần có các chính sách “nới lỏng” nhằm tạo
tính thanh khoản cho thị trường vốn nói chung và thị trường trái phiếu sau phát hành nói
riêng. Nghiên cứu và xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá, giám sát sự thay đổi của thị
trường vốn và thị trường trái phiếu để tạo điều kiện cho các thành viên tham gia có điều
kiện theo dõi và dự đoán diễn biến thị trường, kịp thời điều chỉnh danh mục đầu tư.
Nâng cao trình độ và chất lượng nguồn lao động
Để thực hiện giải pháp này, trước hết, từ Trung ương đến các địa phương, từ cơ sở
giáo dục đến các doanh nghiệp cần quán triệt và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc Nghị quyết
29 về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT.
Cụ thể, đổi mới GD&ĐT để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập. Muốn vậy, phải xác định rõ mục tiêu
đào tạo đối với từng cấp học, bậc học, trên cơ sở đó, phân luồng, định hướng nghề nghiệp
cho học sinh theo nhu cầu nhân lực của xã hội và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong
tương lai.
Ngoài ra cũng cần ban hành chế độ chính sách và tạo điều kiện cho lao động tham
gia bồi dưỡng và tự học để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp;Cần xây
dựng và vận hành cơ chế hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là cơ chế rất quan trọng, phù hợp với
việc đào tạo, phát triển nhân lực trong nền kinh tế thị trường đã được nhiều nước trên thế
giới thực hiện thành công.
Một giải pháp quan trọng khác là tổ chức điều tra khảo sát nhân lực hiên đang làm
việc và nhu cầu nhân lực trong các năm tới của các ngành kinh tế, vùng miền để có định
hướng trong việc phân bổ nhân lực hợp lý về trình độ, cơ cấu ngành nghề phù hợp quy
hoạch phát triển nhân lực của địa phương, đất nước trong các giai đoạn, cần nhanh chóng
hoàn thiện để đưa vào vận hành Hệ thống thông tin và dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia;
34
kết nối với các trung tâm dự báo và thông tin về cung, cầu nhân lực của các bộ ngành,
tỉnh/thành phố.
Nghiên cứu mô hình và kinh nghiệm đào tạo phát triển nhân lực trình độ cao thành
công của các nước như Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức, Hàn Quốc…Nhà nước nên tạo điều
kiện cho các cơ sở đào tạo, các cơ sở sử dụng lao động và nhân lực trình độ cao tham gia
giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ký kết
hợp tác giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Việt Nam với các nước tiên tiến trong việc
đào tạo, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam để không tụt hậu xa
so với trình độ chung của các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Đây là chiến lược
quan trọng và lâu dài để hình thành và phát triển bền vững đội ngũ nhân lực chất lượng
cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.
Đẩy mạnh khoa học công nghệ
Phải rà soát, hoàn thiện, triển khai thực hiện có hiệu quả cơ chế, chính sách, nhất là
chính sách thu hút, sử dụng, trọng dụng nhà khoa học, nhất là các nhà khoa học trẻ gắn
liền với chính sách đào tạo các chuyên gia, các nhà khoa học đầu ngành từ các nhà khoa
học trẻ.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ; chú trọng hợp tác về đào tạo
các nhà khoa học trẻ; thu hút và sử dụng hiệu quả đội ngũ sinh viên, nghiên cứu sinh,
thực tập sinh, chuyên gia khoa học và công nghệ học tập và làm việc ở nước ngoài tham
gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam.
Có hình thức khen thưởng, tôn vinh xứng đáng, kịp thời đối với các nhà khoa học
trẻ đạt thành tích xuất sắc trong hoạt động khoa học công nghệ;chú trọng bồi dưỡng và
nhân rộng các gương điển hình tiên tiến về nghiên cứu sáng tạo của tuổi trẻ.
Khoa học và công nghệ rộng lớn, chúng ta nên lựa chọn những lĩnh vực chúng ta có
tiềm năng, lợi thế, có khả năng để chúng ta đưa ra thành sản phẩm cạnh tranh được trong
nước và trên thị trường quốc tế. Làm được điều này cũng góp phần nâng cao vị thế của
dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.Tăng cường công tác thông tin truyền thông, nâng
cao nhận thức, khơi dậy tinh thần đam mê lao động sáng tạo, đổi mới sáng tạo khoa học
và công nghệ, nhất là trong thế hệ trẻ Việt Nam
35
Thu hút vốn đầu tư
Thu hút vốn đầu tư trong giai đoạn đến năm 2020 phải được điều chỉnh theo hướng
chuyển từ thiên về số lượng như trước đây, sang chú trọng nhiều hơn đến hiệu quả thu
hút và nâng cao chất lượng đầu tư, tận dụng tối đa nguồn vốn đầu tư để thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và hiệu quả. Các biện pháp để thu hút đầu tư
trong và ngoài nước có thể kể đến:
Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích để thu hút các dự án đầu tư
hình thành mạng lưới liên kết sản xuất, kinh doanh, các ngành công nghiệp hỗ trợ để hình
thành chuỗi giá trị. Có chính sách thu hút công ty đa quốc gia, có chính sách ưu đãi đối
với các công ty đa quốc gia có kế hoạch liên kết với các doanh nghiệp trong nước về tiêu
thụ, cung ứng sản phẩm để hình thành các cụm công nghiệp - dịch vụ.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung thể thế và triển khai áp dụng nghiêm hệ thống quy định
các yêu cầu bắt buộc về công nghệ, chuyển giao công nghệ, thu hút, đào tạo kỹ năng cho
người lao động. Quy định yêu cầu bắt buộc về chất lượng của các dự án FDI tùy theo lĩnh
vực và địa bàn đầu tư. Quy định về trình độ công nghệ dự án FDI cho từng ngành theo
địa bàn đầu tư. Đối với các đô thị có mật độ công nghiệp cao, những địa bàn phát triển du
lịch sinh thái sẽ hạn chế tối đa thu hút FDI có hàm lượng công nghệ thấp, gây ô nhiễm ở
mức độ nhất định và tỷ trọng gia công cao.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành cần tăng tỷ trọng đầu tư
nước ngoài như đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông, nông nghiệp và nông thôn, điện,
nước, tài chính, tín dụng, giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, hoạt động phục vụ cá nhân và
cộng đồng; các ngành sản xuất có yếu tố hàm lượng công nghệ, đào lạo lao động và
chuyển giao công nghệ, kỹ năng, hoạt động R&D. Hỗ trợ các hoạt động đầu tư có hiệu
quả, đồng thời giảm thiểu những mặt hạn chế, tiêu cực như nhập khẩu nhiều nhưng
không chú trọng sản xuất mà chỉ tập trung vào gia công, lắp ráp và khai thác thị trường
nội địa là chủ yếu
Có các chính sách, quy định về thuế, phí, đất đai, quản lý ngoại hối... để thu hút,
khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất, chế biến sử dụng đầu vào trong
nước thay vì nhập khẩu, gia công, lắp ráp, chú trọng vào kinh doanh thương mại, nhất là
36
tại thị trường nội địa. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào các vùng khó khăn,
vùng sâu, vùng xa.
Ban hành văn bản pháp quy nhằm điều chỉnh và quản lý thống nhất hoạt động xúc
tiến đầu tư trên cả nước; xây dựng Chiến lược xúc tiến đầu tư điều phối tổng thể các hoạt
động xúc tiến ở bình diện quốc gia
Trong giai đoạn 2011-2020, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp thu hút và nâng
cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài nêu trên để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời tích cực góp phần giảm nghèo nhanh và bền
vững.
KẾT LUẬN
Hiện tượng Bẫy thu nhập trung bình đang là vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm
trên diễn đàn kinh tế thế giới. Hiện nay, vẫn còn nhiều sự tranh cãi xung quanh sự tồn tại
hay không tồn tại của hiện tượng này nhưng tất cả đều không thể phủ nhận thực trang
nhiều nước thu nhập trung bình vẫn đang mắc kẹt và chưa vươn lên được mức thu nhập
cao.
Việt Nam, một nền kinh tế đang chuyển đổi, đang có nguy cơ mắc Bẫy thu nhập
trung bình. “ Phòng bênh hơn chữa bệnh”, từ những kinh nghiệm và bài học của các
quốc gia thành công, nền kinh tế Việt Nam cần phải tìm cho mình một lối đi phù hợp để
tránh được bẫy thu nhập. Điều cần thiết bây giờ là Việt Nam cần thực hiện thành công
quá trình chuyển đổi từ quốc gia phụ thuộc vào sản phẩm thôi, lao động giá rẻ sang phụ
thuộc vào kĩ thuật, công nghệ để tạo giá trị gia tăng; thúc đẩy quyền sở hữu trí tuệ và đầu
tư phát triển nguồn nhân lực nhiều hơn nữa.
Để đưa được nước Việt Nam lên quốc gia có thu nhập cao cần sự cố gắng của rất
nhiều thế hệ và thời gian dài. Mỗi người dân Việt Nam đều cần cùng với Chính phủ đưa
quốc gia phát triển giàu mạnh hơn nữa.
37
TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Anna Jankowska, Arne J. Nagengast and José Ramón Perea. 2012. The Middle-Income Trap: Comparing Asian and Latin American Experiences. OECD Development Center2.Asian Development Bank (ADB). 2011. Asia 2050: Realizing the Asian Century.
Manila: Asian Development Bank.
3. Eichengreen, B., Park, D., & Shin, K. (2011). When Fast Growing Economies Slow
Down: International Evidence and Implications for China. Presented National Bureau of
Economic Research, Cambridge http://www.nber.org/papers/w16919
4. Felipe, J., Abdon, A. and Kumar, U. (2012), Tracking the middle-income trap: what is it, who is it, and why? Working Paper No. 715, Levy Economics Institute, Annandale-on-Hudson, NY.
5. Gill, I. and Kharas, H. (2008), An East Asian Renaissance: Ideas for Economic
Growth, Washington, DC: The World Bank
6. Kharas, H. and Kohli, H. (2011), ‘What is the middle income trap, why do countries
fall into it, and how can it be avoided?’, Global Journal of Emerging Market Economies
7. Tom Berliner, Do Kim Thanh, Adam McCarty, 2013, Inequality, Poverty Reduction and the Middle-Income Trap in Vietnam8. Vandenberg, P. & Zhuang, J. (2011). How can China avoid the middle-income trap?
Presented Asian Development Bank.
9. http://data.worldbank.org/
10. http://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=217
11. http://www.ilo.org/global/lang--en/index.htm
12. Cổng thông tin điện tử Chính phủ
13. Heritage Foundation
14. Diễn đàn Kinh tế thế giới
15. http://adb.org/sites/default/files/pub/2012/economics-wp-306.pdf
16. tapchitaichinh.vn tuyencongchuc.vn nld.com.vn truyenthongkhoahoc.vn
38