Upload
lyhuong
View
247
Download
5
Embed Size (px)
Citation preview
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
1
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ
CẠNH TRANH 3
PHẦN 1: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH
TRANH ............................................................................................................................................................................................. 3
PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ
CẠNH TRANH TẠI VIỆT NAM .............................................................................................................................................. 22
PHẦN 3: KHUYẾN NGHỊ SỬA ĐỔI CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH ................................ 38
CHƯƠNG II: HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, LẠM DỤNG
VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN 46
PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC KIỂM SOÁT ĐỘC QUYỀN ............................................................................ 46
PHẦN 2: RÀ SOÁT VIỆC THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH/ĐỘC QUYỀN ................................................................................................................................................... 63
PHẦN 3: KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM VỀ KIỂM SOÁT
HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH/ĐỘC QUYỀN ......................................................................................... 82
CHƯƠNG III: TẬP TRUNG KINH TẾ 89
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ QUY ĐỊNH VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ ................................... 89
PHẦN 2: QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG TẬP TRUNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM .............................................. 120
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.................................................................................................................................................. 142
CHƯƠNG IV: RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 151
PHẦN 1: HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM .............................................................................. 151
PHẦN 2. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ .................................................................................................................................................... 184
PHẦN 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM ............. 210
CHƯƠNG V: MÔ HÌNH CÁC CƠ QUAN CẠNH TRANH 224
PHẦN 1: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ XÂY DỰNG CƠ QUAN CẠNH TRANH .................................................................... 224
PHẦN 2: THỰC TRANG CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH TẠI VIỆT NAM ................................................................... 230
PHẦN 3. ĐỀ XUẤT VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................................................................................................. 242
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
2
PHỤ LỤC: MÔ HÌNH CƠ QUAN CẠNH TRANH MỘT SỐ NƯỚC 252
I. ỦY BAN THƯƠNG MẠI LÀNH MẠNH NHẬT BẢN ................................................................................................................................... 252
II. ỦY BAN THƯƠNG MẠI LIÊN BANG HOA KỲ VÀ CỤC CHỐNG ĐỘC QUYỀN CỦA BỘ TƯ PHÁP ....................................................... 267
III.ỦY BAN THƯƠNG MẠI LÀNH MẠNH ĐÀI LOAN .................................................................................................................................. 277
IV. ỦY BAN CẠNH TRANH VÀ NGƯỜI TIÊU DÙNG ÚC ............................................................................................................................. 291
V. CỤC CẠNH TRANH CANADA ................................................................................................................................................................... 298
VI. CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH PHÁP ...................................................................................................................................................... 307
VII. ỦY BAN CẠNH TRANH LIÊN BANG THỤY SỸ .................................................................................................................................... 316
VIII. ỦY BAN CẠNH TRANH SINGAPORE ................................................................................................................................................... 325
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
3
CHƢƠNG I:
RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH VỀ
HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
PHẦN 1: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC HÀNH VI
THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1. Khái quát chung về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Quá trình cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực để đạt được lợi thế hơn
so với các đối thủ. Tuy nhiên, khi phải đối mặt với cạnh tranh, không ít các doanh
nghiệp đã nhìn nhận cạnh tranh như một mối hiểm họa đối với khả năng thu lợi nhuận
cũng như sự tồn vong của doanh nghiệp. Vì vậy, thay vì nỗ lực điều chỉnh, nâng cao
năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới, các doanh nghiệp này
đã chọn một con đường dễ dàng hơn là dàn xếp, thỏa thuận với các đối thủ cạnh tranh
trên thị trường về giá cả, sản xuất, thị trường, khách hàng… nhằm duy trì thị phần và
lợi nhuận kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.
Hậu quả tất yếu của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự độc quyền hóa thị trường,
theo đó các vấn đề quan trọng của thị trường như giá cả, sản lượng, khách hàng…
không còn tuân thủ theo quy luật thị trường mà bị khống chế bởi một nhóm các doanh
nghiệp tham gia thỏa thuận. Từ việc khống chế thị trường, hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, vì vậy, thường mang tính chất ―trục lợi‖ (exploitative) hoặc ―ngăn cản, loại
bỏ‖ (exclusionary) cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh như Adam Smith đã phát
hiện thấy trong cuốn Sự thịnh vượng của các quốc gia xuất bản năm 1776:
―… những người trong cùng một nghề thường hiếm khi gặp nhau, thậm chí để vui vẻ
và giải trí, nhưng nếu có thì các cuộc nói chuyện giữa họ thường kết thúc với âm mưu
chống lại công chúng, hoặc một số thủ đoạn để tăng giá.‖
Mặc dù vậy, không phải tất cả các thỏa thuận giữa các doanh nghiệp đều nhất
thiết nhằm mục đích hoặc có tác động làm phương hại cạnh tranh. Trong một số quốc
gia, luật cạnh tranh có quy định miễn trừ cho một số thỏa thuận hợp tác giữa các doanh
nghiệp nếu các thỏa thuận đó có tác dụng làm tăng hiệu quả kinh tế, năng động hóa thị
trường. Ví dụ, nhiều quốc gia cho phép các doanh nghiệp hợp tác trong lĩnh vực nghiên
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
4
cứu, phát triển sản phẩm (R&D), nghiên cứu, phát triển các tiêu chuẩn thống nhất cho
sản phẩm… để kích thích lợi thế kinh tế qui mô, thúc đẩy các tiến bộ kỹ thuật, công
nghệ... mang lại lợi ích cho người tiêu dùng và toàn bộ nền kinh tế.
Từ các đánh giá, nhìn nhận về tác động tiêu cực của các hành vi thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh của hầu khắp các nước trên thế giới đều có quy
định điều chỉnh các hành vi thỏa thuận và đều coi pháp luật điều chỉnh hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh là một trong ba cột trụ quan trọng của Luật Cạnh tranh. Tuy
nhiên, như đã đề cập trên đây, do không phải bất kỳ thỏa thuận nào giữa các doanh
nghiệp cũng mang ý nghĩa tiêu cực nên việc phân định rõ các dạng thức thỏa thuận,
đánh giá được bản chất, tác động của các hành vi thỏa thuận có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với việc xây dựng và thực thi pháp luật cạnh tranh ở các quốc gia.
1.1. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Mặc dù không có một khái niệm chung, thống nhất giữa các quốc gia về ―thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh‖, tuy nhiên, từ thực tiễn thực thi pháp luật, có thể thấy cách
hiểu, cách tiếp cận đối với ―thỏa thuận hạn chế cạnh tranh‖ ở các quốc gia có nhiều
điểm tương đối đồng nhất.
Ở Châu Âu, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định tại Điều 101 (Điều 81
cũ) của Hiệp ước thành lập liên minh Châu Âu như sau:
"Mọi thoả thuận giữa các doanh nghiệp, quyết định của hiệp hội các doanh
nghiệp và mọi hành vi liên kết khác có thể ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước
thành viên và có mục đích hoặc hệ quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch quy luật
cạnh tranh trên thị trường của liên minh, đều bị coi là đi ngược lại với mục đích thành
lập thị trường chung và bị cấm”.
Tại Nhật Bản, khoản 6, Điều 2, Luật Chống độc quyền quy định:
“Hạn chế thương mại bất hợp lý là các hoạt động kinh doanh mà thông qua đó
bất kỳ doanh nghiệp nào bằng hợp đồng, thỏa thuận hay bất kỳ các hoạt động thông
đồng khác, không phụ thuộc tên gọi, cùng hạn chế hay tiến hành các hoạt động kinh
doanh của họ theo cách thức cố định giá, duy trì giá hay tăng giá, hoặc để giới hạn
sản xuất, công nghệ, sản phẩm, cơ sở sản xuất hay khách hàng hoặc giao dịch của các
đối tác, gây ra hạn chế đáng kể đối với cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại, đi ngược
lại lợi ích chung”.
Tại Việt Nam, Luật Cạnh tranh hiện hành thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được liệt
vào nhóm các hành vi hạn chế cạnh tranh, theo đó là các hành vi của doanh nghiệp làm
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
5
giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Khác với pháp luật cạnh tranh của
Châu Âu và Nhật Bản, Luật Cạnh tranh của Việt Nam không đưa ra khái niệm về thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh mà quy định cụ thể về 8 dạng thức (hành vi) thoả thuận, bao
gồm các thỏa thuận như thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, tiết chế sản
lượng… quy định tại Điều 8, Luật Cạnh tranh.
Như vậy, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam cũng như của các quốc gia nêu trên
đều không phân biệt hình thức thỏa thuận (công khai hay ngầm) và đều nhắm vào mục
đích/hệ quả hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận. Tuy nhiên, từ các cách tiếp cận điều
chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, có thể thấy rằng pháp luật cạnh tranh Việt
Nam hiện hành sử dụng cách tiếp cận đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hẹp hơn so
với tiếp cận của Châu Âu và Nhật Bản, chí ít trên 2 phương diện:
Ở Việt Nam, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ bao hàm thỏa thuận giữa các
doanh nghiệp, không bao hàm các quyết định của Hiệp hội doanh nghiệp hay các hành
vi liên kết khác như ở Châu Âu và Nhật Bản. Chính bởi cách tiếp cận này, Luật Cạnh
tranh của Việt Nam đã không xem xét vai trò của các hiệp hội trong các vụ việc liên
quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Xuất phát từ cách tiếp cận liệt kê hành vi, ở Việt Nam, ngoài 8 dạng thỏa
thuận được luật hóa tại Điều 8 của Luật, các hạn chế thương mại bất hợp lý khác hay
các hành vi liên kết, thông đồng khác mặc dù có mục đích hoặc hệ quả ngăn cản, hạn
chế hoặc làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường nhưng nếu không thuộc 8
dạng thỏa thuận được liệt kê sẽ không bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và không
bị xem xét.
Trong các phần sau, báo cáo sẽ phân tích kỹ lưỡng hơn các điểm tương đồng, dị
biệt trong cách tiếp cận điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của pháp luật
cạnh tranh Việt Nam và của một số nước khác, đánh giá các ưu, nhược điểm để từ đó
có các khuyến nghị phù hợp.
1.2. Các loại hình thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được phân loại và nhận dạng
theo nhiều tiêu chí khác nhau. Hình dưới đây trình bày cách phân loại thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh theo mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thỏa thuận và theo mức độ
vi phạm nguyên tắc cạnh tranh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
6
Thỏa thuận HCCT
Thỏa thuận ngang Thỏa thuận dọc
Thỏa thuận ngang
nghiêm trọng
Thỏa thuận ngang
ít nghiêm trọng
Ấn định giá
Hạn chế sản lượng
Thông đồng đấu thầu
Phân chia thị trường
Ấn định giá bán lại
Các loại thỏa thuận dọc khác
Hợp đồng giao dịch độc quyền
Bán kèm
Phân loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
1.2.1. Căn cứ mối quan hệ giữa các doanh nghiệp tham gia thoả thuận
Căn cứ theo mối quan hệ giữa các chủ thể (doanh nghiệp) tham gia thỏa thuận, có
thể phân loại thành thỏa thuận theo chiều ngang và thỏa thuận theo chiều dọc. Việc
phân loại này có một ý nghĩa quan trọng trong cách tiếp cận điều chỉnh hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh, bởi vì thỏa thuận ngang luôn được đánh giá là có tác động
nguy hại hơn so với thỏa thuận theo chiều dọc, do phạm vi ảnh hưởng trên cùng một
thị trường của thỏa thuận ngang lớn hơn thỏa thuận dọc. Do vậy, phân biệt rõ ràng giữa
thỏa thuận ngang và thỏa thuận dọc sẽ giúp ích cho việc định hướng cách thức điều
chỉnh hành vi thỏa thuận, mức độ can thiệp của cơ quan cạnh tranh đối với vụ việc.
a. Thỏa thuận theo chiều ngang
Thỏa thuận theo chiều ngang (các-ten) là thỏa thuận giữa các chủ thể kinh
doanh trong cùng ngành hàng và cùng khâu của quá trình kinh doanh (ví dụ: thỏa thuận
giữa các nhà sản xuất, những người bán buôn với nhau, giữa những người bán lẻ với
nhau).
Về chủ thể, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang diễn ra giữa các
doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh với nhau.
Về hình thức, thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp,
có thể công khai hoặc ngầm.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
7
Về nội dung, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang thường tập trung
vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh tranh như
giá, thị trường, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện ký kết hợp đồng và nội dung hợp
đồng.
Khi những nội dung của thỏa thuận được hình thành và thực hiện, thì các yếu tố
nói trên sẽ trở thành tiêu chuẩn thống nhất, không có cạnh tranh trên thị trường giữa
những doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.
Căn cứ vào mức độ vi phạm các nguyên tắc cạnh tranh, xem xét trên phương diện
các tác động mà thỏa thuận theo chiều ngang mang đến đối với thị trường, người tiêu
dùng, nền kinh tế và xã hội nói chung, mà người ta chia thỏa thuận theo chiều ngang
thành hai nhóm:
Thoả thuận ngang nghiêm trọng (hardcore cartel) và
Các loại thoả thuận ngang ít nghiêm trọng (non-hardcore cartel).
a.1. Thỏa thuận ngang nghiêm trọng (hardcore cartel)
Theo Khuyến nghị về các hoạt động hiệu quả chống hardcore cartel của OECD
(1998), “hardcore cartel là một thỏa thuận hay thống nhất ý chí cùng hành động giữa
các đối thủ cạnh tranh nhằm ấn định giá, gian lận thầu (thông đồng đấu thầu), hạn chế
sản lượng hoặc hạn ngạch, phân chia thị trường theo nhóm khách hàng, nguồn cung
ứng, khu vực địa lý hay các kênh thương mại.”
Trên thực tế, hardcore cartel được đề cập đến trong nhiều hệ thống luật như là
một dạng hành vi hạn chế cạnh tranh một cách nghiêm trọng, và vì vậy là các vi phạm
―mặc nhiên‖ (per se illegal). Điều đó có nghĩa là các cơ quan cạnh tranh không cần
phải chứng minh về tác động hạn chế cạnh tranh do hành vi gây ra, mà mặc nhiên xác
định đó là một vi phạm. Thông thường, hardcore cartel bao hàm 4 loại hành vi điển
hình: thỏa thuận/thông đồng/cấu kết ấn định giá, hạn chế sản lượng, phân chia thị
trường, và thông đồng đấu thầu.
Thỏa thuận ấn định giá là một thỏa thuận bất kỳ giữa các đối thủ cạnh tranh
nhằm tăng, giảm, ấn định hoặc duy trì giá sản phẩm, dịch vụ trên thị trường. Về bản chất,
thỏa thuận ấn định giá là thỏa thuận nhằm loại bỏ, triệt tiêu hoặc hạn chế cạnh tranh về giá
cả giữa các doanh nghiệp. Thỏa thuận ấn định giá có thể bao gồm các thỏa thuận (ngầm
hoặc công khai) nhằm tăng, giảm, kìm giữ giá các sản phẩm trên thị trường.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
8
Thỏa thuận hạn chế sản lƣợng có thể bao gồm các thỏa thuận về sản lượng
sản xuất, sản lượng bán hoặc tỷ lệ tăng trưởng thị trường. Về bản chất, thỏa thuận hạn
chế sản lượng là những toan tính tác động trực tiếp đến quan hệ cung cầu của thị
trường bằng cách tạo ra sự khan hiếm giả tạo về hàng hóa, dịch vụ mà các doanh
nghiệp kinh doanh. Sự khan hiếm giả tạo được chứng minh bằng năng lực kinh doanh
của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, theo đó họ đã thống nhất cắt giảm số lượng
sản xuất, mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ hoặc ấn định số lượng, khối lượng sản
xuất, mua bán hàng hoá đủ để tạo khan hiếm trên thị trường trong khi năng lực sản
xuất, mua bán hoặc cung ứng của họ đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. Năng lực kinh
doanh của doanh nghiệp được xác định bằng số lượng, khối lượng hàng hoá, dịch vụ đã
sản xuất mua bán hoặc cung ứng trước khi có thỏa thuận.
Thỏa thuận phân chia thị trƣờng là những thỏa thuận trong đó các đối thủ
cạnh tranh phân chia các thị trường với nhau theo lãnh thổ, theo lượng cung, cầu của
từng doanh nghiệp hoặc theo nhóm khách hàng cụ thể.
Thứ nhất, thỏa thuận phân chia thị trường theo lãnh thổ là việc các doanh nghiệp
phân chia thị trường địa lý liên quan thành các khu vực và giao cho từng doanh nghiệp
tham gia được quyền mua, bán hàng hóa dịch vụ trong một, một số khu vực nhất định.
Thỏa thuận này được pháp luật của các nước coi là loại thỏa thuận kinh điển nhất trong
những thỏa thuận phân chia thị trường.
Thứ hai, thỏa thuận phân chia thị trường mang tính định lượng là việc các doanh
nghiệp thống nhất phân bổ lượng hàng hóa, dịch vụ mua, bán trên thị trường cho từng
doanh nghiệp tham gia. Trong trường hợp này, thị trường được phân chia theo lượng
cung, lượng cầu mà không phải theo khu vực địa lý hoặc theo nhóm khách hàng. Để
thực hiện được thỏa thuận này, các doanh nghiệp phải dự liệu được tổng lượng hàng
hóa, dịch vụ được mua, bán trên thị trường liên quan và phân chia thành những phần
khối lượng, số lượng mà từng doanh nghiệp được quyền mua, bán.
Thứ ba, thỏa thuận phân chia thị trường theo nhóm khách hàng là việc các doanh
nghiệp thống nhất cho từng doanh nghiệp tham gia được quyền mua, bán hàng hóa với
một số nhóm khách hàng nhất định. Với thỏa thuận này, các doanh nghiệp phải phân
chia khách hàng thành từng nhóm theo những tiêu chí nhất định. Các tiêu chí phân
nhóm khách hàng rất đa dạng, có thể phân chia theo thu nhập, theo độ tuổi, theo giới
tính, theo đặc điểm về nhu cầu tiêu dùng…. Từ đó, mỗi doanh nghiệp tham gia được
phân công phụ trách mua hoặc bán sản phẩm với một nhóm khách hàng.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
9
Thông đồng đấu thầu (bid rigging): là những thỏa thuận giữa các đối thủ
cạnh tranh nhằm làm sai lệch kết quả đấu thầu để đạt được mục tiêu của mình.
Bản chất hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận thông đồng trong đấu thầu là các bên
tham gia đã loại bỏ cạnh tranh giữa họ hoặc với những doanh nghiệp không tham gia
thỏa thuận để dành quyền trúng thầu cho người mà họ chỉ định. Quan hệ cạnh tranh mà
người mời thầu mong muốn sử dụng để tìm kiếm người cung cấp hàng hoá, cung ứng
dịch vụ tốt nhất đã bị hủy diệt bằng thỏa thuận thông đồng của những người tham gia
dự thầu. Vì vậy, người mời thầu đã không thể đạt được ý định của mình, cuộc cạnh
tranh đã trở thành giả tạo giữa những người dự thầu khi tổ chức đấu thầu. Bằng sự
thông đồng, các bên dự thầu đã phá hỏng cơ chế cạnh tranh trong đấu thầu nên người
trúng thầu được lựa chọn nhưng không do cơ chế cạnh tranh theo đúng ý định của
người mời thầu, mà do các doanh nghiệp tham gia thông đồng xác định.
Ở một số quốc gia, thông đồng đấu thầu và hạn chế sản lượng đôi khi được coi là
một trong số loại hành vi ấn định giá và/hoặc phân chia thị trường, vì tác động của các
hành vi này là nhằm can thiệp đến việc định giá thầu hoặc bằng cách giảm sản lượng
hoặc nhằm chuyển nhượng, phân chia những hợp đồng cụ thể hoặc thị phần giữa các
đối thủ cạnh tranh. Bất kể việc phân loại cụ thể như thế nào, thì tất cả các loại hardcore
cartel đều bao gồm hành vi mà trong đó các đối thủ cạnh tranh ấn định một mặt của thị
trường tự do.
a.2. Thỏa thuận ngang ít nghiêm trọng (non-hardcore cartels)
Trong số các thỏa thuận theo chiều ngang, không phải tất cả các thỏa thuận
theo chiều ngang đều gây tác hại xấu, mà có thể có những trường hợp các đối thủ
cạnh tranh phối hợp với nhau theo cách thức mang lại lợi ích kinh tế không chỉ cho
bản thân họ, mà còn làm lợi cho cả người tiêu dùng. Những thỏa thuận ngang như
thế có thể gọi là thỏa thuận hợp tác.
Những hình thức thỏa thuận hợp tác phổ biến nhất bao gồm:
Thỏa thuận nghiên cứu và phát triển (R&D): Các thỏa thuận R&D có thể
tạo ra một khuôn khổ chung cho một số hoạt động R&D nhất định, cải thiện các công
nghệ hiện có hoặc hợp tác nghiên cứu, phát triển và tiếp thị các sản phẩm mới.
Thỏa thuận sản xuất: Có ba dạng thỏa thuận sản xuất chính:
- thỏa thuận liên doanh sản xuất, theo đó các bên thỏa thuận liên doanh sản xuất
một số sản phẩm nhất định;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
10
- thỏa thuận chuyên môn hóa (đơn phương hoặc đồng nhất), theo đó các bên
thỏa thuận đơn phương hoặc cùng nhau chấm dứt sản xuất một loại sản phẩm và mua
chúng từ một bên khác;
- thỏa thuận thầu phụ, theo đó một bên (nhà thầu) giao việc sản xuất sản phẩm
cho một bên khác (nhà thầu phụ).
Thỏa thuận mua chung sản phẩm: Thỏa thuận liên quan đến việc cùng nhau
mua sản phẩm do một công ty liên doanh mà trong đó nhiều doanh nghiệp giữ cổ phần
nhỏ tiến hành thông qua một hợp đồng thỏa thuận hoặc dưới một hình thức hợp tác lỏng
lẻo hơn.
Thỏa thuận thƣơng mại hóa: Những thỏa thuận này bao gồm hợp tác giữa
các đối thủ cạnh tranh trong việc bán, phân phối và quảng bá sản phẩm của mình.
Phạm vi của chúng có thể khác nhau tùy thuộc vào các chức năng thương mại được
quy định trong thỏa thuận.
Thỏa thuận định chuẩn: Các thỏa thuận định chuẩn có mục tiêu chính là
xác định các tiêu chuẩn chất lượng và kỹ thuật thống nhất đối với những sản phẩm, quy
trình sản xuất hoặc phương pháp sản xuất mà các doanh nghiệp phải tuân thủ.
Thỏa thuận bảo vệ môi trƣờng: Thỏa thuận bảo vệ môi trường là các thỏa
thuận mà theo đó các bên tham gia cam kết giảm ô nhiễm theo quy định của Luật môi
trường hoặc để đạt được các mục tiêu bảo vệ môi trường.
Thỏa thuận về các điều kiện kinh doanh: Thỏa thuận về các điều kiện kinh
doanh là những thỏa thuận thống nhất về điều kiện kinh doanh, cung ứng, thanh toán.
Bên cạnh mặt tích cực là tăng tính tường minh của thị trường còn có điểm cần cân nhắc
về nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cạnh tranh trên thị trường. Đó là sự liên
kết của các doanh nghiệp trên cơ sở xác định các điều kiện có thể gây khó khăn cho các
doanh nghiệp mới hoặc đối thủ tiềm năng và cũng gây trở ngại cho tính năng động, đổi
mới của mỗi doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.
Các dạng thỏa thuận nêu trên, một mặt có tác động gây hạn chế cạnh tranh nhưng
mặt khác cũng có tác động thúc đẩy cạnh tranh, mang lại lợi ích cho xã hội và người
tiêu dùng. Chính vì vậy, các quốc gia như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản có các đối xử khác
biệt hoặc miễn trừ (có thời hạn) đối với các thỏa thuận này.
b. Thỏa thuận theo chiều dọc
Thỏa thuận theo chiều dọc (vertical agreement/vertical restraints) là thỏa thuận
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
11
hợp tác giữa hai hoặc nhiều doanh nghiệp hoạt động ở những khâu khác nhau trong quá
trình sản xuất, hoặc phân phối trên thị trường. Nhìn chung, các thỏa thuận theo chiều
dọc phần lớn ít gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường cạnh tranh, tới thị trường hơn
so với thỏa thuận theo chiều ngang.
Về chủ thể, các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận dọc không phải là đối thủ cạnh
tranh của nhau, mà là những doanh nghiệp hoạt động ở các khâu khác nhau trong quá
trình kinh doanh, chẳng hạn như nhà sản xuất và nhà phân phối.
Về hình thức, cũng giống như thỏa thuận ngang, thỏa thuận dọc có thể công khai
hoặc ngầm định.
Về nội dung, thỏa thuận dọc thường tập trung vào các điều kiện kinh doanh trên
thị trường thứ cấp như giá bán lại, khu vực phân phối, sản lượng phân phối, khách
hàng giao dịch, điều kiện phân phối…Thỏa thuận theo chiều dọc thường đa dạng, tùy
thuộc vào đặc điểm của sản phẩm hay dịch vụ phân phối. Dựa trên các nhóm hành vi
thường gặp, thỏa thuận theo chiều dọc có ba dạng chính, bao gồm:
thỏa thuận ấn định giá bán lại;
thỏa thuận bán kèm sản phẩm, dịch vụ;
hợp đồng độc quyền.
Ngoài ra, còn có một số hình thức thỏa thuận dọc khác như ấn định số lượng sản
phẩm, dịch vụ phải bán, bán sản phẩm theo mức giá khuyến nghị…
Về tác động hạn chế cạnh tranh, có thể thấy thỏa thuận dọc tác động đến hoạt động
cạnh tranh giữa các nhà phân phối của cùng một sản phẩm (intra-brand) và giữa các nhà
sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ trên thị trường (inter-brand). Nói cách khác, tác động hạn
chế cạnh tranh của thỏa thuận theo chiều dọc là theo cả chiều dọc và chiều ngang. Tuy
nhiên, mức độ gây hạn chế cạnh tranh của các dạng thỏa thuận dọc thường ít hơn (so với
thỏa thuận ngang), vì vậy các nước thường sử dụng cách tiếp cận hợp lý để đánh giá theo
từng vụ việc cụ thể và thông thường chỉ xem xét khi một trong các bên tham gia thỏa
thuận có sức mạnh thống lĩnh thị trường. Riêng đối với thỏa thuận ấn định giá bán lại,
Nhật Bản có cách tiếp cận tương đối nghiêm khắc, theo đó mặc nhiên cấm mọi hình thức
thỏa thuận ấn định giá bán lại.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
12
2. Đánh giá tác động của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh xảy ra ở nhiều dạng khác nhau và gây ra các
tác động khác nhau. Có một số thỏa thuận mặc nhiên bị coi là gây ra tác động hạn chế
cạnh tranh, một số thỏa thuận chỉ gây tác động hạn chế cạnh tranh trong những trường
hợp nhất định và cũng có những thỏa thuận không gây tác động hạn chế cạnh tranh.
Đánh giá mức độ tác động của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là nhằm đưa ra cách thức
điều chỉnh phù hợp đối với mỗi loại hành vi.
Thỏa thuận ngang có tính chất nguy hại hơn thỏa thuận dọc
Các cơ quan cạnh tranh thường đánh giá thỏa thuận ngang (giữa các đối thủ cạnh
tranh ở cùng một khâu trong quá trình kinh doanh trên thị trường) có phạm vi ảnh
hưởng đến thị trường và tính chất nguy hại hơn so với thỏa thuận dọc (giữa các doanh
nghiệp ở các khâu khác nhau của quá trình kinh doanh trên thị trường). Các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang, đặc biệt là các thỏa thuận hardcore cartel liên
quan đến giá, sản lượng, phân chia thị trường và thỏa thuận thông đồng đấu thầu luôn
có bản chất hạn chế cạnh tranh. Các thỏa thuận này luôn nhắm đến lợi ích của các bên
tham gia thỏa thuận và đối lập với lợi ích của các chủ thể còn lại trên thị trường như
nhà cung ứng, người tiêu dùng hay các đối thủ cạnh tranh khác không tham gia thỏa
thuận.
Trong khi đó, đối với các thỏa thuận theo chiều dọc, bên cạnh tác động gây hạn
chế cạnh tranh, các cơ quan cạnh tranh cũng thừa nhận các tác động tích cực, thúc đẩy
cạnh tranh của các thỏa thuận, ví dụ: giúp nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ
kiểm soát được các chi phí quảng cáo, khuếch trương sản phẩm, chi phí giao dịch, định
giá bán lẻ sản phẩm rẻ hơn và đồng nhất trong cùng mạng lưới phân phối, tránh tình
trạng thu lợi nhuận kép, kiểm soát các tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm, dịch vụ, bảo
vệ hình ảnh thương hiệu đã tạo dựng, cải thiện chất lượng dịch vụ, loại bỏ tình trạng
hưởng khống (free riding) của các đối thủ cạnh tranh từ sự đầu tư phát triển hệ thống
phân phối... Vì vậy, đối với các thỏa thuận dọc, cơ quan cạnh tranh thường đánh giá tác
động tới cạnh tranh và ra quyết định theo từng trường hợp cụ thể.
Thỏa thuận thuộc nhóm hardcore nguy hại hơn thỏa thuận thuộc nhóm non-
hardcore cartel.
Có một số loại thỏa thuận được xếp vào nhóm thỏa thuận ngang nghiêm trọng
nhất như thỏa thuận ấn định giá, hạn chế sản lượng, phân chia thị trường và thông đồng
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
13
đấu thầu. Các thỏa thuận này luôn được ưu tiên chú trọng hàng đầu, bởi hầu hết các
quốc gia đều cho rằng các loại thỏa thuận này luôn gây ra tác động nguy hại và trực
tiếp đối với môi trường cạnh tranh. Trong khi đó, các thỏa thuận non-hardcore không
phải lúc nào cũng gây ra tác động tiêu cực. Một số thỏa thuận non-hardcore còn phát
sinh hiệu quả kinh tế như đã phân tích ở phần trên. Trong nhiều trường hợp, các tác
động thúc đẩy cạnh tranh của các thỏa thuận này còn lớn hơn so với tác động phản
cạnh tranh mà nó gây ra. Thông thường, các cơ quan cạnh tranh xem xét, đánh giá các
hành vi non-hardcore cartel trên cơ sở phân tích và cân bằng các tác động thúc đẩy
cạnh tranh cũng như tác động hạn chế cạnh tranh phát sinh từ thỏa thuận.
3. Nguyên tắc ban hành quy định cấm
Từ thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh, trên cơ sở đánh giá mức độ nguy hại
tới cạnh tranh của các dạng thỏa thuận, các nước đi trước đã đưa ra các nguyên tắc để
đánh giá tính hợp pháp/bất hợp pháp của một thỏa thuận nhằm tăng cường khả năng
thực thi pháp luật. Có hai nguyên tắc được các cơ quan cạnh tranh sử dụng khi xem
xét, đánh giá một hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bao gồm: cấm mặc nhiên (per
se rule) đối với các thỏa thuận nghiêm trọng và chỉ cấm một số trường hợp đối với các
thỏa thuận không thuộc nhóm nghiêm trọng (rule of reason).
Nguyên tắc vi phạm mặc nhiên là nguyên tắc coi một số hành vi hạn chế cạnh
tranh cụ thể là mặc nhiên vi phạm pháp luật cạnh tranh. Nguyên tắc vi phạm mặc nhiên
khẳng định tính bất hợp pháp của một số loại hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cụ
thể khi chứng minh được sự tồn tại của thỏa thuận, mà không cần phải xem xét đến
mục đích gây hạn chế cạnh tranh, mức độ thiệt hại và tác động mà thỏa thuân gây ra.
Thông thường, nguyên tắc vi phạm mặc nhiên được áp dụng khi xem xét, đánh
giá các hành vi thuộc nhóm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng (hardcore
cartel), bao gồm các thỏa thuận ấn định giá hàng hóa một cách trực tiếp hoặc gián tiếp,
thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát sản lượng, thỏa thuận phân chia thị trường, khu vực,
khách hàng và thông đồng đấu thầu.
Trên thực tế, các nước như Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản đều coi 4 dạng thỏa
thuận ngang gồm thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận phân chia thị trường, thỏa thuận
kiểm soát số lượng sản xuất, mua bán và thông đồng đấu thầu là các thỏa thuận làm
nguy hại tới cạnh tranh trong mọi trường hợp, không thể được biện minh bởi bất kỳ
một lập luận nào về tác động tích cực hay hiệu quả của các thỏa thuận. Do vậy, khi
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
14
xem xét tính hợp pháp/bất hợp pháp của các thỏa thuận này, nước nói trên đều áp dụng
nguyên tắc vi phạm mặc nhiên, tức là cấm các thỏa thuận trong mọi trường hợp.
Nguyên tắc hợp lý là nguyên tắc đánh giá một hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh là vi phạm pháp luật cạnh tranh trên cơ sở xem xét, cân bằng giữa tác động thúc
đẩy cạnh tranh và tác động hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận. Nguyên tắc này được
coi là kim chỉ nam của Luật chống độc quyền Mỹ và cũng được áp dụng rộng rãi ở
Liên minh Châu Âu, Nhật Bản.
Theo nguyên tắc hợp lý, việc kiểm tra tính bất hợp pháp của hành vi được tiến
hành dựa trên việc đánh giá xem liệu thỏa thuận giữa các doanh nghiệp đơn thuần chỉ
là các quy định chung và có tác dụng thúc đẩy cạnh tranh hay liệu nó có thể ngăn chặn
hoặc thậm chí phá hủy sự cạnh tranh trên thị trường. Nói cách khác, trong những
trường hợp này, cơ quan cạnh tranh phải cân nhắc, cân bằng giữa các tác động thúc đẩy
cạnh tranh và tác động hạn chế cạnh tranh.
Nếu thỏa thuận giữa các doanh nghiệp mang lại lợi ích kinh tế lớn hơn so với
các tác động phản cạnh tranh; đồng thời lợi ích này là công bằng giữa nhà sản xuất
và người tiêu dùng trong khi không có biện pháp nào khác có thể được sử dụng để
mang lại lợi ích kinh tế tương đương thì thỏa thuận đó được coi là hợp pháp. Ngược
lại, nếu hành vi thỏa thuận dẫn đến các tác động hạn chế cạnh tranh mà không thể
bù đắp bởi các tác động thúc đẩy cạnh tranh mà nó đem lại và không đáp ứng những
điều kiện nêu trên thì bị coi là bất hợp pháp.
Tuy nhiên, để đưa ra được đánh giá cuối cùng, các cơ quan cạnh tranh thường
phải xem xét các hiện tượng đặc biệt dẫn đến hình thành và áp dụng các thỏa thuận,
các điều kiện thị trường trước và sau khi thực hiện thỏa thuận, bản chất của thỏa thuận
và các tác động thực tế hoặc có thể do hành vi thỏa thuận gây ra… Theo hướng dẫn áp
dụng Điều 101(3) TFEU của EU, việc đánh giá một thỏa thuận có thể được thực hiện
thông qua 2 bước: (1) Thỏa thuận đang xem xét có gây hạn chế cạnh tranh hay không;
và (2) thỏa thuận đó có mang lại lợi ích thúc đẩy cạnh tranh hay không và liệu tác động
thúc đẩy cạnh tranh của thỏa thuận có lớn hơn tác động hạn chế cạnh tranh do nó mang
lại hay không. Hướng dẫn hiện tại của EU liệt kê 4 điều kiện có thể được các cơ quan
cạnh tranh dùng làm căn cứ để xem xét, đánh giá thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, gồm:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
15
Lợi ích kinh tế: thỏa thuận đang xem xét phải mang lại những lợi ích kinh tế
như cải tiến sản xuất và phân phối sản phẩm hoặc thúc đẩy sự tiến bộ khoa học kỹ
thuật và kinh tế phải lớn hơn các tác động hạn chế cạnh tranh gây ra.
Tính cần thiết: các hạn chế do thỏa thuận gây ra là cần thiết để đạt được các
lợi ích kinh tế. Nếu có những cách khác ít gây hạn chế cạnh tranh hơn để đạt được lợi
ích tương tự, thì những lợi ích đạt được từ việc thỏa thuận sẽ không thể được sử dụng
để biện minh cho tác động hạn chế cạnh tranh. Nói cách khác, cơ quan cạnh tranh phải
đánh giá liệu các tác động hạn chế cạnh tranh có vượt quá những gì cần thiết để đạt
được lợi ích kinh tế hay không.
Chia sẻ lợi ích công bằng cho người tiêu dùng: các lợi ích kinh tế đạt được phải
có lợi không chỉ cho các bên tham gia thỏa thuận, mà phải được chia sẻ một cách công
bằng cho người tiêu dùng. Phần lợi ích chuyển cho người tiêu dùng có thể được đánh giá
thông qua việc đánh giá lợi ích cắt giảm chi phí, môi trường cạnh tranh, các yếu tố cung
cầu có lợi cho cạnh tranh…Doanh nghiệp tham gia thỏa thuận sẽ giữ lại hiệu quả không
được chia sẻ cho người tiêu dùng, thể hiện bởi đạt được lợi nhuận cao hơn.
Không loại bỏ cạnh tranh: cơ quan cạnh tranh cần đánh giá liệu thỏa thuận có
gây ra tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường hay không. Nếu
các doanh nghiệp tham gia có vị trí thống lĩnh trên thị trường, thì thỏa thuận gây ra các
tác động phản cạnh tranh và vì vậy hành vi sẽ thuộc diện bị cấm thực hiện.
Như vậy, đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, tiếp cận điều chỉnh của các nước
là kết hợp áp dụng nguyên tắc vi phạm mặc nhiên (đối với thỏa thuận nghiêm trọng) và
nguyên tắc hợp lý (đối với các dạng thỏa thuận khác và thỏa thuân theo chiều dọc).
4. Xử lý vi phạm
4.1. Các hình thức xử lý vi phạm
Sau khi xem xét, đánh giá tính bất hợp pháp của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh trên cơ sở nguyên tắc vi phạm mặc nhiên hoặc nguyên tắc hợp lý, nếu xét thấy
hành vi thỏa thuận vi phạm pháp luật cạnh tranh, thì tùy thuộc vào tính nghiêm trọng,
mức độ tác động và thiệt hại do hành vi gây ra mà cơ quan cạnh tranh, cơ quan công tố
truy cứu trách nhiệm đối với các đối tượng khác nhau, với các hình thức xử lý vi phạm
khác nhau.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
16
Đối tượng có thể bị truy cứu trách nhiệm liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh gồm: a) doanh nghiệp; b) cá nhân; c) tổ chức ngành nghề.
Các hình thức xử lý vi phạm đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy
định trong pháp luật cạnh tranh phải phù hợp với đối tượng bị truy cứu trách nhiệm, đồng
thời phải tương xứng với mức độ tác động và gây hại của hành vi, trong đó bao gồm:
a) chế tài phạt tù: được áp dụng đối với cá nhân vi phạm;
b) chế tài phạt tiền: được áp dụng đối với doanh nghiệp; cá nhân và/hoặc tổ
chức vi phạm;
c) biện pháp khắc phục hậu quả: được áp dụng đối với doanh nghiệp và/hoặc tổ
chức vi phạm.
4.1.1. Xử lý vi phạm đối với cá nhân
Cá nhân vi phạm được đề cập trong phần này có thể là giám đốc, nhà quản lý,
người đại diện doanh nghiệp, chủ tịch hoặc thành viên ban chấp hành hiệp hội đã thực
hiện hành vi thỏa thuận; ép buộc, lôi kéo, xúi giục hoặc tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi
để các bên dễ dàng tham gia thỏa thuận.
Các hình thức xử lý vi phạm có thể áp dụng đối với các cá nhân vi phạm bao gồm
a) chế tài phạt tù và/hoặc b) chế tài phạt tiền.
Chế tài xử lý vi phạm đối với cá nhân thường được áp dụng trong các trường hợp
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thuộc nhóm hardcore cartels, như thỏa thuận ấn định giá,
phân chia thị trường, hạn chế sản lượng hoặc thông đồng đấu thầu...
Việc quy định các chế tài xử lý hình sự đối với các cá nhân tham gia thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật đối với các hành vi các-ten
nguy hại, đồng thời mang tính răn đe, ngăn ngừa. Tuy nhiên, không phải tất cả các
nước đều có quy định về chế tài xử lý vi phạm đối với cá nhân tham gia thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh. Các chế tài xử phạt này chỉ được áp dụng ở những quốc gia có chế độ
xử lý hình sự đối với các-ten, với cách tiếp cận coi các-ten là một tội hình sự, tương tự
như các tội danh trộm cắp, gian lận... Khi đó, việc xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh vi phạm được thực hiện theo thủ tục tố tụng hình sự.
Trong xử lý hình sự đối với các cá nhân tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,
các quốc gia cũng quy định khác nhau về thẩm quyền xử lý vi phạm, thời hạn phạt tù
và mức phạt tiền tối đa.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
17
Tại một số quốc gia, chẳng hạn như Canada, cơ quan cạnh tranh chịu trách nhiệm
điều tra vụ việc, nhưng việc truy tố hình sự lại thuộc thẩm quyền của Viện công tố.
Trong khi đó, ở các quốc gia khác như Hoa Kỳ, Israel, Cơ quan chống độc quyền có
đồng thời hai thẩm quyền điều tra và truy tố hình sự đối với hành vi các-ten.
Về thời hạn phạt tù tối đa, một số quốc gia quy định cá nhân vi phạm có thể bị
phạt tù tối đa lên tới 5 năm, như Nhật Bản, Ireland, Vương quốc Anh...Trong khi đó,
Hoa Kỳ có cách tiếp cận nghiêm khắc hơn đối với hành vi các-ten, đặc biệt là các-ten
hardcore cartels, với quy định về thời hạn phạt tù tối đa lên tới 10 năm.
Mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân vi phạm về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh có thể là 5 triệu yen (tại Nhật Bản), 4 triệu euro (tại Ireland), 500,000 đô la New
Zealand (tại New Zealand) hoặc 1 triệu đô la Mỹ (tại Hoa Kỳ).
4.1.2. Xử lý vi phạm đối với doanh nghiệp
Doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể phải chịu các hình thức
xử lý như sau: a) phạt tiền và/hoặc b) buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả.
a) Phạt tiền
Có thể nói, phạt tiền đối với doanh nghiệp là hình thức xử lý vi phạm chính được
các cơ quan cạnh tranh áp dụng phổ biến đối với các vụ việc liên quan đến hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh.
Cơ sở để tính toán mức phạt tiền đối với doanh nghiệp vi phạm tương đối đa dạng
và có sự khác biệt giữa các quốc gia. Nó có thể là:
o doanh thu/doanh số bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan hoặc tổng
doanh thu, doanh thu trên thị trường nội địa hoặc doanh thu toàn cầu;
o lợi nhuận thu được từ hành vi vi phạm bất chính;
o thị phần của doanh nghiệp trên thị trường liên quan.
Trong tính toán mức phạt tiền đối với doanh nghiệp, cơ quan cạnh tranh luôn chú
trọng tới các yếu tố như tỷ lệ phần trăm từ doanh thu/doanh số, lợi nhuận bất chính;
khoảng thời gian để tính toán doanh thu/doanh số, lợi nhuận; khung phạt tối thiểu, tối
đa. Tỷ lệ phần trăm tối đa từ doanh thu thường được quy định ở mức 10%. Khoảng
thời gian để tính toán doanh thu làm cơ sở tính mức phạt có thể là 01 hoặc tối đa 03
năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Khung phạt có thể rơi vào khoảng
giữa mức tối thiểu và mức tối đa, hoặc chỉ quy định mức phạt tối đa.
Đối với từng vụ việc, cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm về hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh có quyền quyết định áp dụng một, một số hoặc tất cả các hình thức
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
18
phạt tiền nêu trên. Mức phạt tiền cao hay thấp tùy thuộc vào tính nghiêm trọng, mức độ
tác động của hành vi, tuy nhiên không được vượt quá mức tối đa, hoặc nằm ngoài
khung phạt tiền theo quy định của pháp luật cạnh tranh.
b) Biện pháp khắc phục hậu quả
Ngoài chế tài phạt tiền, các biện pháp khắc phục hậu quả cũng được các cơ quan
thực thi cạnh tranh chú trọng áp dụng như là các giải pháp nhằm cân bằng thị trường,
đưa thị trường trở về trạng thái cạnh tranh hơn hoặc trạng thái như trước khi xảy ra các
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Các biện pháp khắc phục hậu quả đối với doanh nghiệp có thể là buộc bồi thường,
bù đắp tổn thất, thiệt hại cho khách hàng, người tiêu dùng, đối tác kinh doanh; buộc
loại bỏ những điều khoản vi phạm ra khỏi hợp đồng, bản cam kết, ghi nhớ, thỏa thuận
giữa các doanh nghiệp/cá nhân kinh doanh; buộc cam kết không tái phạm hoặc tiếp tục
vi phạm các quy định của Luật Cạnh tranh hay buộc học tập và được giáo dục nhận
thức về pháp luật cạnh tranh... Các biện pháp xử lý này mang tính chiến lược, lâu dài,
có tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn các trường hợp tái phạm trong tương lai.
4.1.3. Xử lý vi phạm đối với tổ chức nghề nghiệp
Các tổ chức nghề nghiệp, chẳng hạn như hiệp hội các doanh nghiệp trong cùng
một ngành không phải là đối tượng trực tiếp tham gia thỏa thuận. Tuy nhiên, hiệp hội
vẫn có thể là đối tượng bị truy cứu trách nhiệm liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh do đã ép buộc, lôi kéo, xúi giục các doanh nghiệp thành viên tham gia
thỏa thuận, thực hiện các quyết định của hiệp hội liên quan đến giá, sản lượng sản xuất,
thị trường...hay đóng vai trò tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp thành
viên gặp gỡ, trao đổi các thông tin kinh doanh nhạy cảm và thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh.
Các hình thức xử lý vi phạm áp dụng đối với hiệp hội ngành nghề có thể là phạt
tiền hoặc buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả. Nhật Bản và Đài Loan là
hai quốc gia có những quy định rõ ràng về xử lý vi phạm của hiệp hội thương mại, hiệp
hội nghề nghiệp liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
4.2. Xu hướng điều chỉnh các quy định về xử lý vi phạm
Với quan điểm thống nhất cho rằng vi phạm về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là
một trong các vi phạm pháp luật cạnh tranh nghiêm trọng nhất, thời gian gần đây các
nước trên thế giới có xu hướng điều chỉnh các quy định về xử lý vi phạm liên quan đến
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo hướng tăng chế tài xử phạt. Cụ thể:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
19
a) Xu hướng hình sự hóa các-ten
Theo nghiên cứu mới nhất của Mạng lưới cạnh tranh quốc tế (ICN) năm 2009 về
“Xu hướng và sự phát triển trong thực thi chống các-ten”, trong giai đoạn 10 năm gần
đây từ năm 2000 đến năm 2009, đã có một số quốc gia sửa đổi, bổ sung Luật Cạnh
tranh theo hướng hình sự hóa một số hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm
trọng.
Chẳng hạn, Luật Cạnh tranh của Vương quốc Anh năm 2003 đã bổ sung thêm các
quy định về phạt tù lên tới 5 năm và phạt tiền không giới hạn đối với cá nhân vi phạm
liên quan đến hành vi các-ten nghiêm trọng. Tương tự, điều khoản quy định về chế tài
phạt hình sự đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cũng được đưa vào trong
pháp luật cạnh tranh của Romania năm 2003, Estonia năm 2002 và Hungary năm 2005.
Gần đây nhất, năm 2009, cơ quan thực thi cạnh tranh tại Úc và Nam Phi cũng đã
thay đổi quan điểm và có thái độ nghiêm khắc hơn đối với các hành vi các-ten, coi các-ten
là một tội hình sự. Theo Luật Cạnh tranh mới được sửa đổi của Úc, cá nhân vi phạm hình
sự trong các vụ việc các-ten có thể chịu mức phạt tù tối đa 10 năm và/hoặc mức phạt tiền
tới 220,000 đô la Úc/hành vi. Tại Nam Phi, từ năm 2009, cá nhân là giám đốc hoặc giữ vị
trí quản lý doanh nghiệp đã chỉ đạo, lôi kéo doanh nghiệp thực hiện thảo thuận hạn chế
cạnh tranh có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự dưới hình thức nộp phạt với mức tiền
phạt không quá 500,000 Rand Nam Phi hoặc bị phạt tù tối đa 10 năm, hoặc phải chịu cả
hai chế tài xử phạt.
b) Xu hướng tăng mức phạt
Thể hiện phản ứng mạnh mẽ hơn, quyết tâm cao hơn trong thực thi các quy định
kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh, trong thời gian gần đây, nhiều quốc gia trên thế giới
có xu hướng tăng chế tài xử phạt đối với doanh nghiệp và cá nhân vi phạm, bao gồm tăng
thời hạn phạt tù, mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân, doanh nghiệp. Cụ thể như dưới đây:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
20
Xu hƣớng thay đổi mức phạt đối với cá nhân vi phạm pháp luật về thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh của một số quốc gia 2000 – 2009
Quốc gia Năm
SĐBS
Mức phạt tù tối đa Mức phạt tiền tối đa
Trƣớc SĐBS Sau SĐBS Trƣớc
SĐBS Sau SĐBS
Chile 2009 2 năm 5 năm
Ai-len 2002 2 năm 5 năm 3 triệu € 4 triệu €
Nhật Bản 2009 3 năm 5 năm
Hà Lan 2001 300,000
NZ$
500,000 NZ$
Tây Ban Nha 2007 60,000 €
Hoa Kỳ 2004 3 năm 10 năm 350,000 $ 1 triệu $
Xu hƣớng thay đổi mức phạt tiền đối với doanh nghiệp vi phạm pháp luật về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của một số quốc gia 2000 – 2009
Quốc gia Năm
SĐBS Trƣớc SĐBS Sau SĐBS
Chile 2009 24.2 triệu $
Ai Cập 2008 2 triệu $ 55 triệu $
Pháp 5% doanh thu thị trường Pháp 10% doanh thu toàn cầu
Đức 3 lần lợi nhuận thu được từ
hành vi vi phạm
1 triệu € và 10% tổng doanh
thu
Ai-len 2002 3 triệu € 4 triệu €
Nhật Bản 2005 6% doanh thu trên TTLQ 10% doanh thu trên TTLQ
Hàn Quốc 2005 5% doanh thu hàng năm 10% doanh thu hàng năm
Hà Lan 2001 5 triệu NZ$ 10 triệu NZ$;
3 lần lợi nhuận thu được từ
hành vi vi phạm hoặc 10%
doanh thu.
Panama 2007 100,000 $ 1 triệu $
Tây Ban Nha 2007 10% doanh thu hoặc 10 triệu €
Hoa Kỳ 2004 10 triệu $ 100 triệu $
Mỗi quốc gia lựa chọn một chế độ xử lý riêng đối với hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, phù hợp với hệ thống pháp luật của mình. Mặc dù cơ sở và cách tính toán
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
21
mức phạt, khung phạt giữa các quốc gia có sự khác biệt, tuy nhiên với việc thống nhất
nâng cao quan điểm đánh giá đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các cơ
quan cạnh tranh ngày càng có xu hướng hình sự hóa hành vi các-ten nghiêm trọng hoặc
quy định chế tài phạt nặng hơn nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chống các-ten.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
22
PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH HIỆN
HÀNH VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TẠI VIỆT NAM
1. Tổng quan về các quy định hiện hành
1.1. Về các hành vi t hỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Khoản 3, Điều 3, Luật cạnh tranh đưa ra khái niệm về hành vi hạn chế cạnh tranh
―là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, làm sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị
trường, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế‖. Tuy nhiên, Luật cạnh tranh và
các văn bản hướng dẫn không đưa ra định nghĩa trực tiếp về thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Một cách gián tiếp có thể hiểu, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là thỏa thuận giữa
hai hay nhiều doanh nghiệp nhằm làm giảm, làm sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị
trường.
Luật Cạnh tranh và Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định về thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh dưới hình thức liệt kê các hành vi cụ thể và mô tả chi tiết về nội dung, hình
thức của các loại thỏa thuận này. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, vì vậy, được hiểu bao
gồm 08 dạng thỏa thuận quy định tại Điều 8, Luật Cạnh tranh và được quy định chi tiết
tại các Điều từ 14 đến 21, Nghị định 116/2005/NĐ-CP. Cụ thể như sau:
Theo Điều 8, Luật cạnh tranh, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:
1) Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
2) Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung
ứng dịch vụ;
3) Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán
hàng hoá, dịch vụ;
4) Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
5) Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua,
bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên
quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
6) Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh;
7) Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các
bên của thoả thuận;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
23
8) Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung
cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Mỗi loại thỏa thuận trên được mô tả chi tiết tại Nghị định hướng dẫn thi hành (từ
Điều 14 đến Điều 21, Nghị định 116/2005/NĐ-CP). Như vậy, phạm vi các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh bị điều chỉnh chỉ nằm trong khuôn khổ các hành vi được quy định
trong Luật và Nghị định.
1.2. Về các quy định cấm
Các quy định cấm đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được đề cập tại Điều 9,
Luật Cạnh tranh. Theo đó, các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm đoán ở hai
mức độ: cấm tuyệt đối (trong mọi trường hợp) và cấm khi thị phần kết hợp của các bên
tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan chiếm từ 30% trở lên. Mặc dù vậy, căn cứ
các quy định hiện hành, có thể thấy rằng Luật Cạnh tranh của Việt Nam sử dụng
nguyên tắc vi phạm mặc nhiên khi đánh giá các hành vi thỏa thuận.
1) Quy định cấm tuyệt đối (Khoản 1, Điều 9, Luật Cạnh tranh): được áp dụng
đối với các thỏa thuận quy định tại khoản 6; 7; 8, Điều 8, Luật Cạnh tranh, bao gồm (1)
thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc
phát triển kinh doanh; (2) thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp
không phải là các bên của thoả thuận; (3) thông đồng để một hoặc các bên của thoả
thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Theo cách tiếp cận của Luật Cạnh tranh Việt Nam, ba loại thỏa thuận bị cấm
tuyệt đối và không được miễn trừ luôn hàm chứa tính chất hạn chế cạnh tranh mà
không có bất cứ một cơ sở nào để có thể biện hộ về hiệu quả của chúng đối với thị
trường. Do đó, việc xác định hành vi thỏa thuận bị cấm trong các trường hợp này
không đòi hỏi phải chứng minh về sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp tham gia
thỏa thuận.
2) Quy định cấm khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên
thị trƣờng liên quan từ 30% trở lên (Khoản 2, Điều 9, Luật Cạnh tranh): được áp
dụng đối với các thỏa thuận quy định tại khoản 1; 2; 3; 4; 5, Điều 8, Luật Cạnh tranh,
bao gồm (1) thỏa thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
(2) thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ;
(3) thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá,
dịch vụ; (4) thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; (5) thoả
thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
24
vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến
đối tượng của hợp đồng.
Các thỏa thuận không thuộc ba trường hợp bị cấm tuyệt đối chỉ có thể bị cấm khi
thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan từ
30% trở lên. Việc xác định cấu thành hành vi thỏa thuận bị cấm trong những trường
hợp này yêu cầu phải chứng minh hai yếu tố:
- Nội dung của thỏa thuận thuộc các hình thức thỏa thuận được quy định tại
khoản 1; 2; 3; 4 hoặc 5, Điều 8, Luật Cạnh tranh;
- Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trên thị trường
liên quan phải chiếm từ 30% trở lên.
Điều kiện khác biệt giữa hai mức độ cấm đoán là yêu cầu về mức thị phần kết
hợp của các bên tham gia thỏa thuận. Theo cách tiếp cận của các nhà làm luật Việt
Nam, thị phần là cơ sở để xác định khả năng chi phối của doanh nghiệp đối với thị
trường. Theo Luật Cạnh tranh, mức thị phần trên thị trường liên quan từ 30% trở lên đã
có thể trao cho doanh nghiệp sức mạnh thị trường, là khả năng tác động đến giá cả thị
trường của một loại hàng hóa hoặc dịch vụ mà họ bán hoặc mua.
Quy định ―cấm có điều kiện‖ căn cứ trên cơ sở duy nhất là thị phần kết hợp của
các bên tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan, không xem xét trên cơ sở đánh
giá, cân nhắc giữa các tác động tích cực và tiêu cực của hành vi.
1.3. Về các quy định miễn trừ
Phạm vi các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được miễn trừ theo Luật Cạnh tranh
bao gồm 5 dạng hành vi được xem xét cấm theo ―nguyên tắc hợp lý‖, nghĩa là bị cấm
khi thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các bên tham gia từ 30% trở lên. Cụ
thể, theo Điều 10, Luật Cạnh tranh, chỉ những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định
tại khoản 2, Điều 9 mới thuộc phạm vi các thỏa thuận được xem xét miễn trừ có thời
hạn.
Các thỏa thuận nêu trên được miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng một trong các
điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng:
a) Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh
doanh;
b) Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch
vụ;
c) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ
thuật của chủng loại sản phẩm;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
25
d) Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không
liên quan đến giá và các yếu tố của giá;
e) đ) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
f) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc
tế.
Để được hưởng miễn trừ, các bên tham gia thỏa thuận phải thực hiện thủ tục đề
nghị hưởng miễn trừ quy định tại Điều 25-38, Luật Cạnh tranh. Trên cơ sở hồ sơ đề
nghị hưởng miễn trừ của các bên, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm xem xét,
đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định.
1.4. Về các hình thức xử lý vi phạm
a) Hình thức xử lý vi phạm
Tại Việt Nam, các tổ chức, cá nhân kinh doanh (doanh nghiệp) vi phạm các quy
định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm sẽ bị xử lý theo các hình thức được quy
định tại Điều 117, 118, Luật Cạnh tranh và được quy định chi tiết tại Điều 10-17, Nghị
định 120/2005/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, bao gồm:
- Phạt tiền;
- Phạt bổ sung;
- Biện pháp khắc phục hậu quả.
Các hình thức xử lý vi phạm đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
STT Hình thức
xử lý
Mô tả chi tiết
1
Phạt tiền 0 - 5% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực
hiện hành vi vi phạm nếu không thuộc các trường hợp đặc biệt
(quy định tại Khoản 2, Điều 10, Nghị định 120/2005/NĐ-CP).
5-10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực
hiện hành vi vi phạm nếu thuộc các trường hợp:
- Hàng hoá, dịch vụ liên quan là các mặt hàng lương thực, thực
phẩm, trang thiết bị y tế, thuốc phòng và chữa bệnh cho người,
thuốc thú y, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật,
giống cây trồng, vật nuôi và các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ;
- Doanh nghiệp vi phạm giữ vai trò tổ chức, lôi kéo các đối tượng
khác tham gia vào thoả thuận.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
26
STT Hình thức
xử lý
Mô tả chi tiết
2
Phạt bổ
sung
Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện
hành vi vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu
được từ việc thực hiện hành vi vi phạm
3
Biện pháp
khắc phục
hậu quả
Buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi
hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh
b) Thẩm quyền xử lý vi phạm
Liên quan đến việc xử lý vi phạm các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, sau khi kết thúc quá trình điều tra, Cục Quản lý cạnh tranh có quyền đề xuất,
kiến nghị các hình thức và mức độ xử phạt dựa trên kết quả điều tra và mức độ vi phạm
của các doanh nghiệp. Thẩm quyền xử lý vi phạm đối với hành vi hạn chế cạnh tranh
nói chung, và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói riêng thuộc về Hội đồng cạnh tranh và
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định tại Điều 43, Nghị định 120/2005/NĐ-
CP Quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
c) Căn cứ xác định mức độ xử lý
Khi xác định mức độ xử lý đối với từng hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh cũng tương tự như đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh
nói chung, cơ quan có thẩm quyền có quyền căn cứ vào một hoặc một số yếu tố được
quy định tại Điều 7, Nghị định 120/2005/NĐ-CP như sau:
- Mức độ gây hạn chế cạnh tranh do hành vi vi phạm gây ra;
- Mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra;
- Khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các đối tượng vi phạm;
- Thời gian thực hiện hành vi vi phạm;
- Khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;
- Các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.
d) Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
Các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng là một trong các yếu tố được xem xét
để cân nhắc, xác định mức độ xử lý đối với vi phạm liên quan đến hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được quy định chi tiết tại Điều
85, Nghị định 116/2005/NĐ-CP. Cụ thể:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
27
- Tình tiết giảm nhẹ bao gồm:
a) Tự nguyện khai báo về hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền phát
hiện;
b) Đối tượng vi phạm đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của hành vi vi phạm
hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại;
c) Đối tượng vi phạm tự nguyện cung cấp chứng cứ, thông tin liên quan đến hành
vi vi phạm mà cơ quan có thẩm quyền trước đó chưa biết;
d) Tác động tích cực của hành vi vi phạm đối với việc phát triển nền kinh tế.
- Tình tiết tăng nặng bao gồm:
a) Vi phạm nhiều lần trong cùng lĩnh vực hoặc tái phạm trong cùng lĩnh vực;
b) Thực hiện hành vi vi phạm sau khi nhận được quyết định không chấp thuận
được hưởng miễn trừ hoặc quyết định bãi bỏ quyết định cho hưởng miễn trừ của cơ
quan có thẩm quyền;
c) Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu
chấm dứt hành vi đó;
d) Sau khi thực hiện hành vi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm.
Quy định về tình tiết giảm nhẹ đối với vi phạm liên quan đến thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh đã đề cập đến vấn đề xét giảm nhẹ mức độ xử lý đối với trường hợp “tự
nguyện khai báo về hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện” và
trường hợp ―đối tượng vi phạm tự nguyện cung cấp chứng cứ, thông tin liên quan đến
hành vi vi phạm mà cơ quan có thẩm quyền trước đó chưa biết‖.
Mặc dù quy định này có mang hơi hướng, tinh thần của chính sách khoan hồng,
tuy nhiên nó chưa được cụ thể hóa bằng một ―chương trình khoan dung‖ để chỉ ra lợi
ích rõ ràng của bên tham gia thỏa thuận khi tự nguyện khai báo thông tin về hành vi vi
phạm và cung cấp chứng cứ cho cơ quan cạnh tranh giống như các quy định về
Chương trình khoan dung mà các nước phát triển hiện đang áp dụng một cách hiệu
quả.
2. Đánh giá các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
2.1. Các kết quả đạt được
Ngay từ khi mới được ban hành, giới học giả, luật gia và cộng đồng đông đảo các
doanh nghiệp đã kỳ vọng Luật Cạnh tranh nói chung và pháp luật điều chỉnh hành vi
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
28
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là văn bản quan trọng đảm bảo môi trường kinh doanh
bình đẳng, đảm bảo sự vận hành hiệu quả của một nền kinh tế thị trường. Đến nay, sau
hơn 6 năm kể từ 1/7/2005 (thời điểm Luật có hiệu lực), có thể nói rằng việc ban hành
và thực thi pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam cũng đã đạt được một số kết quả ban đầu.
a) Đã ban hành được bộ quy định điều chỉnh
Thành công bước đầu của Việt Nam trong kiểm soát các hành vi phản cạnh tranh
nói chung và hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói riêng trước hết là đã xây dựng
và ban hành được một bộ quy định điều chỉnh tương đối đầy đủ, bao gồm Luật Cạnh
tranh và các Nghị định hướng dẫn thi hành, tạo được cơ sở pháp lý cho hoạt động cạnh
tranh của doanh nghiệp cũng như việc quản lý nhà nước về cạnh tranh của cơ quan
cạnh tranh.
Mặc dù pháp luật cạnh tranh ở một số quốc gia tiên tiến trên thế giới như Hoa Kỳ,
Nhật Bản, EU đã có một lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, tuy nhiên, đối với một
số nước châu Á nó vẫn còn là một lĩnh vực tương đối mới. Việc Việt Nam lần đầu tiên
ban hành Luật Cạnh tranh năm 2004 là một bước tiến bộ so với các nước trong khu vực
ASEAN. Việt Nam là nước thứ tư trong khu vực ASEAN đã thông qua và áp dụng một
Bộ luật Cạnh tranh toàn diện, chỉ sau Thái Lan (ban hành năm 1999), Indonesia (năm
1999) và Singapore (tháng 10 năm 2004).
Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam hiện nay được điều chỉnh
bởi:
(1) Luật Cạnh tranh của Quốc hội năm 2004;
(2) Nghị định 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Cạnh tranh và
(3) Nghị định 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
Nếu như Luật Cạnh tranh đưa ra các quy định khái quát về mặt nguyên tắc liên
quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bao gồm:
- quy định về hành vi (Điều 8, Luật Cạnh tranh);
- quy định cấm (Điều 9, Luật Cạnh tranh);
- quy định miễn trừ (Điều 10, Luật Cạnh tranh);
- quy định về xử lý vi phạm (Điều 117 – 121, Luật Cạnh tranh);
- quy định về trình tự, thủ tục điều tra và xử lý vụ việc (Chương V, Luật Cạnh
tranh),
thì các Nghị định hướng dẫn thi hành quy định chi tiết hơn giúp các cơ quan chức
năng có căn cứ rõ ràng hơn khi xem xét các vụ việc liên quan đến hành vi thỏa thuận
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
29
hạn chế cạnh tranh. Cụ thể, Nghị định 116/2005/NĐ-CP giải thích rõ hơn các quy định
cấm, miễn trừ, trình tự, thủ tục điều tra và xử lý đối với vụ việc thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, trong khi Nghị định 120/2005/NĐ-CP quy định chi tiết về hình thức và
mức độ xử lý đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Điều
10-17).
b) Đã xây dựng và từng bước hoàn thiện bộ máy cơ quan thực thi
Song song với việc ban hành bộ quy định điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, bộ máy thực thi tại Việt Nam cũng đã được xây dựng, hình thành với hai cơ
quan chức năng, bao gồm Hội đồng cạnh tranh và Cục Quản lý cạnh tranh.
Cơ sở pháp lý cho hoạt động của Hội đồng cạnh tranh và Cục Quản lý cạnh tranh
bao gồm Nghị định 05/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/01/2006 về việc thành lập
và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh
tranh và Nghị định 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/01/2006 quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh. Theo đó,
liên quan đến các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh có
chức năng thụ lý và tổ chức điều tra, trong khi đó Hội đồng cạnh tranh có chức năng xử
lý vụ việc. Với mô hình cơ quan thực thi như hiện tại, việc điều tra và xử lý vụ việc
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh độc lập với nhau.
Việc xây dựng các nghị định nêu trên bước đầu đã tạo tiền đề, cơ sở giúp cơ quan
thực thi điều tra và xử lý được một số vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Tuy
nhiên, cũng chính trong quá trình vận hành bộ máy thực thi đã bộc lộ những khó khăn,
bất cập về mô hình cần khắc phục. Do đó, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan thực thi cạnh tranh vẫn đang từng bước được hoàn thiện. Vấn đề này
được phân tích sâu hơn trong khuôn khổ “Báo cáo rà soát mô hình cơ quan cạnh tranh
Việt Nam”.
c) Một số quy định đã được thực thi, góp phần cải thiện môi trường kinh
doanh/văn hóa cạnh tranh
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, các cơ quan cạnh
tranh Việt Nam thông qua quá trình thực thi đã thực sự bắt đầu đưa Luật Cạnh tranh đi
vào cuộc sống. Kết quả kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thể hiện rõ
nhất thông qua việc một số quy định đã được thực thi nhằm góp phần cải thiện môi
trường kinh doanh cũng như văn hóa cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong số các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, quy định về hành vi
“thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp” tại
Khoản 1, Điều 8, Luật Cạnh tranh và Điều 14, Nghị định 116/2005/NĐ-CP, đồng thời
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
30
quy định cấm tại Khoản 2, Điều 9, Luật Cạnh tranh, cũng như các quy định về xử lý vi
phạm, trình tự , thủ tục điều tra và xử lý vụ việc thỏa thuận ấn định giá tương ứng được
thực thi khá hiệu quả. Trong ba năm trở lại đây, đã có 03 vụ việc thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh được điều tra, trong đó có 01 vụ việc đã được xử lý. Cả 03 vụ việc này đều
liên quan đến ―hành vi thỏa thuận ấn định giá‖ trên các thị trường bảo hiểm vật chất xe
ô tô, thị trường tấm lợp và thị trường bảo hiểm học sinh.
Việc thực thi một số quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đã có những tác
động tích cực đối với môi trường cạnh tranh trên các thị trường liên quan trong ba vụ
việc được điều tra, đồng thời, nhận thức của doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh cũng
được nâng lên rõ rệt.
Cụ thể, trong các vụ việc nêu trên, sau khi cơ quan cạnh tranh ra quyết định điều
tra, các hiệp hội đã gửi công văn yêu cầu các doanh nghiệp thành viên ngừng thực hiện
các thỏa thuận ấn định giá, một số doanh nghiệp lớn đã yêu cầu các đại lý, công ty con
ngừng áp dụng mức giá mới, thậm chí có một vài doanh nghiệp đã bồi thường cho khách
hàng một khoản tiền chênh lệch giữa các mức giá trước và sau khi thực hiện thỏa thuận.
Bên cạnh đó, nhận thức được hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vi phạm pháp
luật cạnh tranh, bị điều tra và xử lý nghiêm minh, nên các doanh nghiệp và hiệp hội đã
có thái độ hợp tác tốt hơn trong việc cung cấp thông tin, chứng cứ phục vụ quá trình điều
tra.
d) Đã phát hiện được một số vấn đề cần hoàn thiện
Nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ trong lĩnh vực cạnh tranh nói
chung và lĩnh vực kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói riêng, ngoài việc
xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ, thì việc hoàn thiện chúng
sao cho phù hợp với thực tiễn và bối cảnh kinh doanh, phát triển kinh tế, xã hội cũng là
một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Trải qua hơn 5 năm thực thi các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bên
cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn cũng cho thấy một số những vấn đề bất cập xuất
phát từ các quy định pháp lý cần phải hoàn thiện. Chẳng hạn như thiếu một quy địnhh
quét về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khiến cho một số hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp về bản chất vi phạm nguyên tắc cạnh tranh nhưng chưa có cơ sở pháp
lý để điều chỉnh, hay trường hợp một số quy định còn chưa rõ ràng khiến cơ quan cạnh
tranh lúng túng trong việc áp dụng hoặc một số quy định lại cho nhiều cách hiểu khác
nhau gây nên tranh cãi.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
31
Những khó khăn, bất cập trong thực thi kiểm soát các hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh xuất phát từ những quy định pháp luật sẽ được phân tích sâu hơn trong phần
2.2. dưới đây.
2.2. Các khó khăn, thách thức phát sinh từ quy định pháp luật
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nhiều ý kiến cũng cho rằng do Luật Cạnh
tranh vẫn còn là một lĩnh vực mới nên hiệu quả thực tiễn của luật vẫn còn nhiều điểm
cần bàn. Nguyên nhân chính có thể bắt nguồn từ cơ chế thực thi, từ sự hạn chế nguồn
lực, sự bất cập trong mô hình cơ quan cạnh tranh hay từ chính sự thiếu rõ ràng, hợp lý,
minh bạch trong các quy định pháp lý …. Trong khuôn khổ phần này, Nhóm nghiên cứu
chỉ phân tích, đánh giá những khó khăn, vướng mắc phát sinh từ quy định pháp luật về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Nhóm nghiên cứu đánh giá những bất cập pháp lý theo
các nhóm vấn đề như sau: a) bất cập liên quan đến các quy định về hành vi; b) bất cập
liên quan đến các quy định cấm; c) bất cập liên quan đến các quy định miễn trừ; d) bất
cập liên quan đến các quy định về xử lý vi phạm/khắc phục hậu quả và e) bất cập liên
quan đến chính sách khoan hồng.
a) Liên quan đến các quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Hiện nay, pháp luật cạnh tranh Việt Nam chưa có định nghĩa hoặc quy định
chung về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Các quy định hiện hành chỉ nhắm đến các
hình thức biểu hiện bên ngoài một cách cứng nhắc, chưa nhắm vào bản chất phản cạnh
tranh của hành vi, đồng thời chưa bao quát được hết các dạng thức kinh doanh mới với
tính phức tạp ngày càng cao của doanh nghiệp. Chẳng hạn, thỏa thuận ấn định mức giá
sàn, giá trần; thỏa thuận tăng giá hoặc giảm giá (không chỉ ở mức cụ thể) hoặc thỏa
thuận duy trì giá bán lại cho bên thứ ba... là những thỏa thuận có bản chất hạn chế cạnh
tranh, nhưng chưa được quy định. Trong khi hành vi kinh doanh, chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp (trong đó có hành vi thỏa thuận) thay đổi ngày càng phức tạp
với nhiều dạng thức khác nhau thì tiếp cận quy định ―cứng‖ như hiện nay sẽ gây khó
khăn cho cơ quan thực thi trong quá trình điều tra, xử lý các vụ việc cụ thể.
b) Liên quan đến các quy định cấm
Thứ nhất, việc phân nhóm các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo hai
mức độ cấm đoán quy định tại Điều 9, Luật Cạnh tranh là chưa hoàn toàn hợp lý.
Cụ thể, một số hành vi thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, hạn chế sản
lượng và thông đồng đấu thầu luôn mang bản chất phản cạnh tranh, vi phạm nghiêm
trọng các nguyên tắc cạnh tranh và có tác động trực tiếp đến các yếu tố thị trường như
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
32
giá cả, sản lượng, khu vực phân phối... Theo cách tiếp cận của nhiều cơ quan cạnh
tranh trên thế giới, các thỏa thuận này bị cấm trong mọi trường hợp mà không cần xem
xét đến các yếu tố tác động hay các trường hợp cụ thể, và không được phép miễn trừ.
Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 2, Điều 9 về các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh bị cấm, các hành vi thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường và hạn chế sản
lượng (được quy định tại Khoản 1, 2, 3, Điều 8, Luật Cạnh tranh và Khoản 14, 15, 16,
Nghị định 116/2005/NĐ-CP) chỉ bị cấm khi thị phần kết hợp của các bên tham gia thỏa
thuận trên thị trường liên quan chiếm từ 30% trở lên.
Quy định này bộc lộ bất cập ở chỗ, một số trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh nghiêm trọng, chẳng hạn như thỏa thuận ấn định giá nghiễm nhiên không bị cấm
nếu thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia thỏa
thuận đạt dưới ngưỡng 30%. Trong khi đó, những thỏa thuận này vẫn gây ra tác động
tăng giá hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Trong những trường hợp này, thị phần
không phản ánh đầy đủ, chính xác về sức mạnh thị trường, hay nói cách khác là khả
năng gây hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.
Trong kinh tế học, “sức mạnh thị trường” được coi là “khả năng doanh nghiệp
thu được lợi nhuận từ việc tăng giá cao hơn mức giá cạnh tranh hoặc hạn chế sản
lượng, chất lượng thấp hơn mức cạnh tranh trong một khoảng thời gian tương đối dài”.
Chính việc tăng giá hay hạn chế sản lượng mà vẫn thu lợi nhuận đã phản ánh sức mạnh
thị trường và khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp tham gia thỏa
thuận. Do đó, việc thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, hạn chế sản lượng và
thông đồng đấu thầu mặc nhiên vi phạm các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
và phải bị cấm tuyệt đối. Quy định cấm có điều kiện đối với các thỏa thuận dạng này sẽ
có thể dẫn đến bỏ sót những hành vi thỏa thuận gây hại cho môi trường cạnh tranh và
người tiêu dùng.
Thứ hai, thị phần là cơ sở duy nhất để phân biệt hai mức độ cấm đoán cũng gây
nên những bất cập trong quá trình thực thi kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Trước hết, việc phân biệt các mức độ cấm đoán đối với các hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh phải dựa trên bản chất hạn chế cạnh tranh của hành vi, tính chất và
mức độ tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các yếu tố cạnh tranh trên thị trường. Thị
phần chỉ là một trong số rất nhiều tiêu chí được sử dụng để đánh giá khả năng gây hạn
chế cạnh tranh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, qua đó gián tiếp phản ánh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
33
mức độ và phạm vi tác động đối với thị trường nếu xảy ra hành vi thỏa thuận. Đánh giá
sức mạnh thị trường hay khả năng gây hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp thỏa thuận
ngoài thị phần còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như cấu trúc của chính thị trường
đó, năng lực dư thừa của các đối thủ cạnh tranh, rào cản gia nhập thị trường, sức mua
của người tiêu dùng....
Ngoài ra, mỗi một ngành có một cấu trúc thị trường riêng và số lượng doanh
nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh ở các ngành, các lĩnh vực cũng khác nhau. Việc
ấn định một ngưỡng thị phần kết hợp 30% cho tất cả các thị trường, các ngành nghề, lĩnh
vực để xác định sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận là không
hợp lý.
Do đó, nếu chỉ căn cứ vào ngưỡng thị phần kết hợp 30% của các doanh nghiệp
tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan để phân biệt các mức độ cấm đoán đối với
các hành vi thỏa thuận sẽ là chưa toàn diện, khiến cho việc đánh giá hành vi thỏa thuận
bị cấm trên thực tế trở nên cứng nhắc và không phù hợp với thực tiễn.
c) Liên quan đến các quy định miễn trừ
Thứ nhất, phạm vi các loại thỏa thuận được miễn trừ như các quy định hiện
hành là chưa hợp lý.
Như đã phân tích ở trên, các thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, hạn
chế sản lượng luôn mang bản chất hạn chế cạnh tranh và vi phạm nghiêm trọng các
nguyên tắc cạnh tranh. Theo đó, các thỏa thuận này phải bị cấm tuyệt đối và không
được phép miễn trừ. Tuy nhiên, theo Luật Cạnh tranh Việt Nam các thỏa thuận này vẫn
thuộc phạm vi các thỏa thuận được phép miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng các điều
kiện quy định tại Khoản 1, Điều 10, Luật Cạnh tranh.
Thứ hai, các quy định về miễn trừ chưa đề cập đến nguyên tắc xác định thời
hạn cho hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Theo quy định tại Điều 10, Luật Cạnh tranh, việc miễn trừ đối với thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh là có thời hạn. Việc cho hưởng miễn trừ có thời hạn đối với thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì, theo thời gian các thỏa thuận này
thường có xu hướng không còn đáp ứng được các điều kiện cần thiết để hưởng miễn
trừ nữa.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
34
Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thụ lý hồ sơ, ra quyết định cho hưởng miễn trừ
đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có quyền đề xuất, quyết định về thời hạn miễn
trừ. Tuy nhiên, việc thiếu các quy định về thời hạn miễn trừ trong pháp luật cạnh tranh
dẫn đến thiếu căn cứ trong việc xác định thời hạn cho hưởng miễn trừ đối với thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh.
Thứ ba, quy định miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm có sự
mâu thuẫn liên quan đến thỏa thuận về giá.
Cụ thể, hành vi “thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp” quy định tại Khoản 1, Điều 8 và bị cấm theo Khoản 2, Điều 9, Luật
Cạnh tranh thuộc phạm vi các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được miễn trừ. Tuy
nhiên, trong số các điều kiện để được hưởng miễn trừ lại bao gồm điều kiện “Thống
nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá
và các yếu tố của giá” (điểm d, Khoản 1, Điều 10, Luật Cạnh tranh). Sự mâu thuẫn
trong quy định miễn trừ cũng gây ra bất cập trong quá trình thực thi.
d) Liên quan đến các quy định về xử lý vi phạm
Thứ nhất, mức phạt tiền được xác định căn cứ trên tổng doanh thu là không hợp
lý.
Thực tiễn điều tra, xử lý các vụ việc hạn chế cạnh tranh cho thấy, tất cả các khiếu
nại hoặc khởi kiện ra tòa án đối với các quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh đều có nội
dung liên quan đến căn cứ xác định khoản tiền phạt là tổng doanh thu. Mặc dù nội
dung khiếu nại, khiếu kiện này đều bị cơ quan cạnh tranh Việt Nam hoặc tòa án bác bỏ
bởi đó là quy định của pháp luật, tuy nhiên có thể thấy rằng việc xác định mức phạt
tiền dựa trên tổng doanh thu, trong nhiều trường hợp, là không tương xứng với mức độ
tác động của hành vi thỏa thuận. Chính bởi nhận định này, cơ quan cạnh tranh trong
các vụ việc đều xem xét áp dụng mức phạt rất thấp trong khung phạt đến 10%, ví dụ:
0.0x% tổng doanh thu của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Vấn đề
đặt ra là, đối với những hành vi bị xử phạt ở mức 5-10% tổng doanh thu thì mức xử
phạt tối thiểu phải là 5%. Trong một số trường hợp, doanh nghiệp thậm chí có thể bị
phá sản bởi quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và tất nhiên, đó là trường hợp mà
không một cơ quan cạnh tranh nào trên thế giới mong muốn bở nó đi ngược lại với
mục tiêu bảo vệ cạnh tranh mà tất cả các luật cạnh tranh đều hướng đến.
Với nhìn nhận xử phạt dựa vào các căn cứ hợp lý để doanh nghiệp tiếp tục tồn tại
và đóng góp cho nền kinh tế, không xử phạt để chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp,
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
35
nhiều quốc gia đã áp dụng nguyên tắc tính mức xử phạt căn cứ theo doanh thu trên thị
trường liên quan hoặc thị trường bị ảnh hưởng. Ngoài ra, đối với các hành vi hạn chế
cạnh tranh diễn ra trong một quá trình, ví dụ hành vi thỏa thuận đã diễn ra trong 5 năm,
các cơ quan cạnh tranh có thể lấy tổng doanh thu trên thị trường liên quan của doanh
nghiệp trong các năm doanh nghiệp đã thực hiện hành vi vi phạm để làm căn cứ xác
định mức phạt. Tuy nhiên, với nhìn nhận xử phạt nhưng không làm chấm dứt hoạt
động của doanh nghiệp, nhiều nước có quy định chỉ hạn chế trong phạm vi tổng doanh
thu trên thị trường liên quan của doanh nghiệp trong phạm vi tối đa là 3 năm liên tiếp
(như Nhật Bản) hoặc quy định mức phạt tối đa trong mọi trường hợp là không quá 10%
tổng doanh thu trong năm tài chính của doanh nghiệp.
Thứ hai, thiếu cơ sở để xác định mức phạt tiền cụ thể đối với các doanh nghiệp
vi phạm các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Các quy định về xử lý vi phạm đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ đề cập
đến hai mức khung phạt tiền là 0-5% và 5-10% tổng doanh thu của năm tài chính trước
năm thực hiện hành vi vi phạm, nhưng không đưa ra nguyên tắc xác định mức phạt cụ
thể trong khung hình phạt đó. Điều đó gây khó khăn cho Cơ quan quản lý cạnh tranh
và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh trong việc xác định mức phạt tiền cụ thể đối với
các doanh nghiệp vi phạm các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, thậm chí gây
tranh cãi trong quyết định mức độ xử lý vi phạm. Mặt khác, việc thiếu cơ sở pháp lý
trong xác định mức phạt tiền cụ thể sẽ dẫn đến những quan ngại của doanh nghiệp về
tính minh bạch trong xử lý vi phạm, đồng thời các doanh nghiệp cũng khó xác định
được mức độ xử lý đối với hành vi vi phạm của mình.
Thứ ba, chưa có quy định về mức phạt tiền tối thiểu.
Việc thiếu quy định về mức phạt tiền tối thiểu (lớn hơn 0 đồng) dẫn đến thực tế
xảy ra trường hợp doanh nghiệp vi phạm chịu mức phạt tiền bằng 0 đồng, do tổng
doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của bên vi phạm
bằng 0. Việc áp dụng mức phạt tiền 0 đồng trong trường hợp này không có ý nghĩa răn
đe đối với doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm.
Thứ tư, chưa có quy định về hình thức và mức độ xử lý đối với cá nhân vi phạm.
Các quy định về xử lý vi phạm đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chưa xem
xét hình thức xử lý đối với cá nhân vi phạm (phạt tiền và/hoặc phạt tù). Thực tế, ý
tưởng liên kết, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thường do các cá nhân đứng đầu doanh
nghiệp, như thành viên ban giám đốc, lãnh đạo, trưởng phòng kinh doanh...xây dựng
nên. Nếu chỉ áp dụng chế tài xử phạt nặng đối với doanh nghiệp có thể dẫn đến tình
trạng khánh kiệt, phá sản doanh nghiệp sau khi nộp phạt, gây ảnh hưởng trực tiếp đến
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
36
đời sống của công nhân, nhân viên đang lao động tại doanh nghiệp, trong khi đó những
cá nhân vi phạm lại không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thứ năm, các quy định về xử lý vi phạm đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
chưa xem xét các chế tài đối với Hiệp hội ngành nghề.
Tại Việt Nam hiện nay có hàng nghìn hiệp hội ngành nghề với quy mô lớn nhỏ
khác nhau. Là tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhưng thực tế cho thấy có nhiều trường hợp,
hiệp hội đóng vai trò chủ trương xây dựng ý tưởng thỏa thuận, tổ chức gặp mặt, trao
đổi thông tin giữa các doanh nghiệp, vận động các doanh nghiệp thành viên tham gia
và thực hiện thỏa thuận.
Mặc dù các hiệp hội ngành nghề thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật cạnh
tranh theo Điều 2, Luật Cạnh tranh, tuy nhiên, hiện chưa có cơ sở pháp lý để áp dụng
các chế tài xử lý vi phạm đối với hiệp hội trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Trong bối cảnh nhận thức của các doanh nghiệp và hiệp hội về pháp luật cạnh
tranh còn chưa cao, việc không áp dụng chế tài xử lý đối với các vi phạm của hiệp hội
liên quan đến các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ không có tác động cảnh
báo, răn đe cũng như khuyến khích các hiệp hội thực hiện tốt các quy định của pháp
luật cạnh tranh.
Thứ sáu, các hình thức phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả chưa phản
ánh đúng mục đích răn đe, giáo dục đối với doanh nghiệp vi phạm.
Theo quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay, biện pháp xử phạt bổ
sung và khắc phục hậu quả đối với các vi phạm về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:
(1) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cả
tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; và (2) Buộc
loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh.
Do đặc thù của các vụ việc liên quan đến thỏa thuận, các doanh nghiệp có thể
thỏa thuận bằng miệng hoặc bằng văn bản dưới nhiều hình thức khác nhau như điện
thoại, email, bản cam kết, thỏa thuận… Chính vị vậy, các biện pháp xử phạt bổ sung và
khắc phục hậu quả trên đây dường như không phù hợp và ít được áp dụng trên thực
tiễn. Trong khi đó, biện pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả lại là một trong
những nội dung quan trọng mà các cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh quốc tế hướng
tới.
Ở Nhật Bản, trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, ngoài biện pháp xử
phạt hành chính đối với doanh nghiệp và thậm chí là xử phạt hình sự đối với các cá nhân
có liên quan trực tiếp đến thỏa thuận, cơ quan cạnh tranh của Nhật Bản còn buộc các
doanh nghiệp thực hiện lệnh chấm dứt hành vi vi phạm, không được thực hiện các hành vi
tương tự trong tương lai, buộc các doanh nghiệp vi phạm thực hiện chương trình tuân thủ
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
37
pháp luật (compliance program), yêu cầu doanh nghiệp vi phạm cung cấp thông tin, tài
liệu liên quan (ví dụ thông tin về giá bán sản phẩm liên quan) theo định kỳ… Điều đáng
lưu ý là cơ quan cạnh tranh Nhật Bản có thẩm quyền đưa ra các biện pháp mà cơ quan này
cho là cần thiết tùy theo đặc thù của từng vụ việc, từng ngành. Đây cũng là điểm các nhà
làm luật Việt Nam cần nghiên cứu, tham khảo thêm trong quá trình hoàn thiện pháp luật
cạnh tranh.
e) Liên quan đến chính sách khoan hồng
Thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh của các nước đi trước cho thấy, việc xử lý
các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ có xu hướng ―ngầm hóa‖ các thỏa thuận. Điều
này sẽ làm cho việc phát hiện và điều tra các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trở nên khó
khăn hơn, phức tạp hơn gấp nhiều lần. Vì vậy, hầu hết các nước đã sử dụng chính sách
khoan hồng như một công cụ quan trọng để phát hiện và điều tra các thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh. Trên thực tế, phần lớn các vụ việc cartel của cơ quan cạnh tranh là vụ
việc được phát hiện thông qua chính sách khoan hồng.
Pháp luật Việt Nam hiện nay về vấn đề khoan hồng mới chỉ có quy định về các
tình tiết giảm nhẹ áp dụng với các bên trong một số trường hợp nhất định. Tuy nhiên,
qua 5 năm thực thi Luật Cạnh tranh cũng có thể thấy quy định về tình tiết giảm nhẹ
không giúp khám phá ra nhiều vụ việc vi phạm do chưa tạo được động cơ và áp lực lớn
để doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trình báo và cung cấp thông tin về thỏa thuận mà
họ tham gia. Vì vậy, cần phải bổ sung các quy định về chính sách khoan hồng để tăng
cường hiệu quả thực thi pháp luật.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
38
PHẦN 3: KHUYẾN NGHỊ SỬA ĐỔI CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỎA THUẬN
HẠN CHẾ CẠNH TRANH
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn thực thi các quy định về thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh tại Việt Nam và phân tích bài học kinh nghiệm của EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản,
Nhóm nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát hành vi
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, trong đó tập trung vào định hướng sửa đổi, hoàn thiện các
quy định liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để phù hợp hơn với thực tiễn thực
thi. Các khuyến nghị được xây dựng trên cơ sở phân tích những bất cập xuất phát từ các
quy định hiện hành như đã nêu trong phần 2 ở trên, đồng thời bám sát các nhóm vấn đề
liên quan đến các (1) hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, (2) các quy định cấm, (3) các
quy định miễn trừ, (4) các hình thức xử lý vi phạm và (5) chương trình khoan dung.
1. Liên quan đến các quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Xuất phát từ tình hình thực thi pháp luật, nhóm nghiên cứu cho rằng cần bổ sung
thêm một điều khoản chung về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, trong đó quy định
bản chất chung nhất của hành vi nhằm bao quát hết các dạng thức thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh. Cụ thể:
Cần bổ sung một quy định chung hay nói cách khác là một “điều khoản quét”
(basket clause) về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhằm “quét” hết các dạng hành
vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội thì các dạng thức kinh doanh của doanh
nghiệp cũng ngày càng trở nên đa dạng, phong phú, theo đó hành vi của doanh nghiệp
cũng có xu hướng biến đổi không ngừng nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận, đặc biệt
trong các môi trường cạnh tranh khốc liệt. Do đó, các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh cũng ngày càng được doanh nghiệp biến hóa nhằm đối phó với các cơ quan cạnh
tranh. Mặc dù hình thức thỏa thuận có thể thay đổi, tuy nhiên bản chất hạn chế cạnh tranh
của hành vi chỉ liên quan đến những yếu tố cạnh tranh như giá cả, khu vực phân phối, thị
trường tiêu thụ, sản lượng, chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Pháp luật cạnh tranh cần dựa
vào các đặc điểm này của hành vi thỏa thuận để ban hành các quy định điều chỉnh.
Trong bối cảnh hiện nay, để đảm bảo việc thực thi luật có hiệu quả, tránh bỏ sót
hành vi hoặc xử lý các hành vi thỏa thuận cần thiết để mang lại lợi ích kinh tế xã hội,
nhóm nghiên cứu cho rằng Việt Nam cần kết hợp hài hòa phương pháp liệt kê hiện tại và
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
39
phương pháp tiếp cận hợp lý. Nói cách khác, bên cạnh việc coi các hành vi được liệt kê
trong luật cũng như trong các văn bản hướng dẫn là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, Việt Nam cần cho phép áp dụng quy định chung hay nói cách khác là một ―điều
khoản quét‖ (basket clause) nhằm ―quét‖ hết các dạng hành vi thỏa thuận có tác động xấu
tới môi trường cạnh tranh, không nên chỉ quy định dựa theo các hình thức biểu hiện bên
ngoài một cách cứng nhắc như hiện nay.
Trong khuôn khổ báo cáo này, nhóm nghiên cứu không có đủ điều kiện để nêu ra
các đề xuất cụ thể về khái niệm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, nhóm
nghiên cứu cho rằng Việt Nam cần cân nhắc kinh nghiệm của các nước như Hoa Kỳ, Nhật
Bản cũng như Châu Âu trong việc áp dụng cách tiếp cận rộng đối với hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, theo đó bao quát toàn bộ các hợp đồng, liên kết, hay bất kỳ hoạt động
thông đồng nào khác (không phụ thuộc vào tên gọi hay hình thức) có mục đích hoặc hệ
quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch quy luật cạnh tranh.
Cân nhắc bổ sung quy định điều chỉnh hành vi của Hiệp hội các doanh nghiệp
trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Mặc dù Hiệp hội không trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường,
không trực tiếp «cạnh tranh« nhưng hoạt động của các hiệp hội nói chung có thể có tác
động lớn tới quá trình cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường. Trong hướng dẫn
phát hiện và xử lý thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, OECD đã chỉ ra rằng Hiệp hội chính là
một trong những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp họp bàn và đi đến
thỏa thuận. Chính vì vậy, nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ đã quy định xử phạt Hiệp hội liên
quan về hành vi «tạo điều kiện để hình thành và thực hiện thỏa thuận giữa các thành
viên«. Một số nước khác như EU, Nhật Bản thậm chí còn coi quyết định, nghị quyết của
hiệp hội các doanh nghiệp là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và vì vậy, cũng bị
xem xét, xử lý tương tự như hành vi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp. Về hình thức xử
phạt đối với hiệp hội liên quan, theo kinh nghiệm của các nước đi trước, biện pháp xử
phạt có thể bao gồm cảnh cáo, phạt tiền hoặc đề nghị các cơ quan chức năng rút giấy phép
hoạt động của Hiệp hội vi phạm.
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay đã bỏ qua vai trò của
Hiệp hội trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thực tế thực thi pháp luật về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam cho thấy, trong 06 vụ việc thỏa thuận hạn chế
cạnh (điều tra chính thức 02 vụ việc) tranh mà cơ quan cạnh tranh Việt Nam đã xem xét,
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
40
xử lý, Hiệp hội đều là tổ chức đứng sau, giữ vai trò tổ chức, lôi kéo doanh nghiệp tham
gia và giám sát việc thực thi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp. Thậm chí trong nhiều vụ
việc, Hiệp hội còn ban hành các «quyết định», các «nghị quyết » về giá cả, sản lượng…
trên thị trường để các doanh nghiệp thành viên thực hiện. Trong khi đó, do pháp luật cạnh
tranh không có quy định điều chỉnh hành vi của hiệp hội nên các cơ quan cạnh tranh đã bỏ
qua hoặc lờ đi vai trò của Hiệp hội trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trong
thời gian tới, Việt Nam cần cân nhắc bổ sung các quy định để điều chỉnh hành vi của Hiệp
hội để phù hợp với thực tiễn và tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật.
2. Liên quan đến các quy định cấm
Thứ nhất, xem xét điều chỉnh các hành vi thuộc nhóm bị cấm tuyệt đối và cấm tùy
theo từng trường hợp cụ thể.
Như đã trình bày trong Phần I, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể bao gồm các
thỏa thuận ngang nghiêm trọng (thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, hạn chế sản
lượng và thông đồng đấu thầu), thỏa thuận ngang ít nghiêm trọng và các thỏa thuận dọc.
Cũng như phân tích tại Phần I, thỏa thuận ngang nghiêm trọng (hardcore cartel) luôn bị
các cơ quan cạnh tranh quốc tế coi là các hành vi làm phương hại tới cạnh tranh nhiều
nhất và vì vậy các nước có xu hướng cấm nhóm hành vi này trong mọi trường hợp và
không xem xét miễn trừ đối với 4 dạng hành vi này. Đối với các hành vi thỏa thuận còn
lại, các nước đều có quy định cho phép cơ quan cạnh tranh cân nhắc các «lợi ích» và «chi
phí » đối với cạnh tranh, đối với người tiêu dùng và đối với toàn xã hội để ra quyết định
cấm hoặc không cấm các doanh nghiệp thực hiện tùy từng trường hợp cụ thể, tùy đặc thù
của từng ngành, đặc điểm của từng thị trường.
Từ thực tiễn thực thi pháp luật, tham khảo kinh nghiệm của các nước đi trước,
Nhóm nghiên cứu cho rằng cần điều chỉnh các quy định cấm của pháp luật cạnh tranh
Việt Nam theo hướng:
- Cấm tuyệt đối đối với 4 dạng thỏa thuận luôn bị coi là nghiêm trọng trong mọi
trường hợp gồm: thỏa thuận ấn định giá; thỏa thuận phân chia thị trường; thỏa thuận hạn
chế, kiểm soát sản lượng sản xuất, mua bán và; thông đồng đấu thầu.
- Cấm theo từng trường hợp cụ thể đối với các dạng thỏa thuận khác tùy theo đặc
thù của từng ngành, đặc điểm của từng thị trường.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
41
Có như vậy, việc thực thi các quy định của pháp luật cạnh tranh về hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh mới có thể phục vụ tốt cho mục tiêu tạo điều kiện cho nền kinh
tế phát triển và đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng Việt Nam.
Thứ hai, cần xem xét sửa đổi cách tiếp cận đánh giá thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
dựa theo tiêu chí duy nhất là thị phần như hiện nay.
Một số ý kiến cho rằng quy định như hiện tại (chỉ cần xem xét thị phần của các
doanh nghiệp tham gia thỏa thuận) là dễ thực thi và phù hợp với các cơ quan cạnh tranh
còn non trẻ. Ở một khía cạnh khác, một số ý kiến khác cho rằng việc ban hành các quy
định điều chỉnh hành vi chỉ vì mục tiêu tạo điều kiện dễ dàng cho cơ quan thực thi luật mà
làm sai lệch bản chất, ý nghĩa, mục đích của việc điều chỉnh là cần phải xem xét lại bởi
nếu không việc thực thi các quy định sẽ không còn có ý nghĩa, thậm chí trong một số
trường hợp còn phản tác dụng. Chính vì vậy, các nước khi ban hành các quy định điều
cấm đối hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đều căn cứ vào bản chất gây hạn chế cạnh
tranh của hành vi và thị phần chỉ là một trong các yếu tố để cơ quan cạnh tranh có thể
xem xét khi đánh giá về vụ việc.
Đối với các vụ việc liên quan đến các hành vi thỏa thuận không thuộc nhóm thỏa
thuận nghiêm trọng, pháp luật cạnh tranh của phần lớn các nước như Hoa Kỳ, Châu Âu,
Nhật Bản… đều áp dụng nguyên tắc hợp lý khi đánh giá vụ việc. Khác với tiếp cận của
Việt Nam, trong các tiêu chí để đánh giá một hành vi có thuộc diện bị cấm hay không, các
cơ quan cạnh tranh quốc tế chỉ coi tiêu chí thị phần không hẳn là một tiêu chí chiếm vị trí
quan trọng. Như đã trình bày tại Chương I, khi đánh giá vụ việc, cơ quan cạnh tranh
trước hết đánh giá liệu thỏa thuận đang xem xét có gây hạn chế cạnh tranh hay không.
Trong trường hợp thỏa thuận có khả năng gây hạn chế cạnh tranh, cơ quan cạnh tranh sẽ
tiếp tục đánh liệu thỏa thuận đó có mang lại lợi ích thúc đẩy cạnh tranh hay không và liệu
tác động thúc đẩy cạnh tranh của thỏa thuận có lớn hơn tác động hạn chế cạnh tranh do nó
mang lại hay không. Các tiêu chí có thể giúp các cơ quan cạnh tranh đánh giá có thể bao
gồm (1) lợi ích kinh tế mà thỏa thuận đó mang lại; (2) tính cần thiết của thỏa thuận nhằm
đạt được các lợi ích kinh tế đó; (3) phần lợi ích được chuyển/chia sẻ cho người tiêu dùng
và; (4) tính không loại bỏ cạnh tranh của thỏa thuận.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
42
Tham khảo kinh nghiệm của các nước đi trước, Nhóm nghiên cứu cho rằng Việt
Nam cần thay đổi cách tiếp cận đánh giá thỏa thuận dựa chủ yếu vào yếu tố thị phần một
cách cứng nhắc như hiện nay. Để có thể thực hiện được điều này, Việt Nam cần nghiên
cứu kỹ để đưa ra một bộ tiêu chí đánh giá phù hợp, theo đó đảm bảo sự cân bằng giữa
phương pháp liệt kê và tiếp cận hợp lý về mặt kinh tế.
3. Liên quan đến các quy định miễn trừ
Như đã trình bày tại mục 2 trên đây, đối với các thỏa thuận thuộc nhóm nghiêm
trọng (hardcore cartel), bao gồm 4 hành vi: (1) thỏa thuận ấn định giá ; (2) thỏa thuận
phân chia thị trường ; (3) thỏa thuận hạn chế sản lượng ; và (4) thông đồng đấu thầu, Việt
Nam cần cân nhắc sửa đổi quy định hiện tại theo hướng cấm trong mọi trường hợp và
không áp dụng miễn trừ đối với nhóm hành vi này. Đối với các thỏa thuận khác, Việt
Nam cần nghiên cứu áp dụng nguyên tắc hợp lý, theo đó cơ quan cạnh tranh sẽ xem xét
trên cơ sở đánh giá yếu «chi phí» và «lợi ích» của thỏa thuận. Theo cách tiếp cận này,
Việt Nam không cần phải ban hành các quy định về miễn trừ. Các điều kiện xem xét miễn
trừ quy định tại Điều 10, Luật Cạnh tranh hiện nay có thể được đưa vào bộ tiêu chí để
đánh giá «chi phí» và «lợi ích» của hành vi thỏa thuận (ngoài hardcore cartel). Miễn trừ,
nếu có, có thể xem xét miễn trừ theo các đặc thù của ngành (block exemptions), tuy nhiên
việc này cần được cân nhắc kỹ lưỡng để tránh việc lạm dụng và làm giảm thiểu vai trò, vị
thế cũng như hiệu quả của Luật Cạnh tranh. Đồng thời, thời hạn miễn trừ và các điều kiện
gia hạn thời hạn được hưởng miễn trừ cũng cần được xem xét quy định.
4. Liên quan đến các quy định về hình thức và mức độ xử lý vi phạm
Thứ nhất, xác định mức phạt tiền dựa trên doanh thu trên thị trường liên quan
Một trong những ý nghĩa quan trọng của việc xác định thị trường liên quan là nhằm
xác định mức độ, phạm vi tác động, gây hạn chế cạnh tranh của hành vi thỏa thuận. Do
đó, khi áp dụng các hình thức xử lý vi phạm đối với các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh bị cấm, đặc biệt là khi xác định mức phạt tiền, thì doanh thu của các
doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan là căn cứ hợp lý hơn thay vì
tổng doanh thu của doanh nghiệp vi phạm như hiện nay. Việc tính toán mức phạt tiền dựa
trên doanh thu trên thị trường liên quan sẽ tương xứng với mức độ tác động, ảnh hưởng
đối với môi trường cạnh tranh trên chính thị trường đó.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
43
Thứ hai, quy định các nguyên tắc xác định mức phạt tiền
Đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, pháp luật cạnh
tranh quy định mức phạt tiền đối với doanh nghiệp tham gia thỏa thuận từ 0 đến 10% tổng
doanh thu của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Tuy nhiên, khung phạt từ
0 đến 10% là tương đối rộng. Do đó, cần quy định nguyên tắc xác định một mức phạt tiền cụ
thể trong khung hình phạt đó. Chẳng hạn, đối với một hành vi vi phạm quy định của pháp
luật cạnh tranh có thể đưa ra một mức phạt chuẩn. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, các căn
cứ xác định mức độ xử lý như mức độ gây hạn chế cạnh tranh, mức độ thiệt hại do hành vi
gây ra, thời gian thực hiện hành vi vi phạm...sẽ có ý nghĩa giúp cơ quan xử lý vụ việc xác
định mức phạt thực tế tăng lên hoặc giảm xuống so với mức phạt chuẩn. Tuy nhiên, các căn
cứ này cũng cần phải được lượng hóa một cách tương đối để cơ quan cạnh tranh có thể dễ
dàng áp dụng, minh bạch hóa trong xác định mức phạt, tránh gây tranh cãi.
Thứ ba, quy định mức phạt tiền tối thiểu
Nếu việc xác định mức phạt tiền chỉ căn cứ vào doanh thu, có những trường hợp
mức phạt tiền của doanh nghiệp bằng 0 đồng, do doanh thu để tính mức phạt bằng 0. Vì
vậy, cần quy định mức phạt tiền tối thiểu đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
dưới hình thức một số tiền tối thiểu mà doanh nghiệp vi phạm phải nộp phạt. Nếu số tiền
phạt được tính toán trên cơ sở doanh thu lớn hơn mức phạt tiền tối thiểu, thì áp dụng mức
phạt tiền tính theo doanh thu, ngược lại, nếu thấp hơn thì áp dụng mức phạt tiền tối thiểu.
Việc quy định mức phạt tiền tối thiểu như thế có tác dụng răn đe, ngăn ngừa những doanh
nghiệp mới gia nhập thị trường, doanh nghiệp nhỏ tham gia vào một thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh.
Thứ tư, quy định các hình thức xử lý vi phạm đối với các cá nhân vi phạm
Với xu hướng hình sự hóa các-ten trên toàn thế giới, trong giai đoạn 10 năm gần đây,
theo nghiên cứu của Mạng lưới cạnh tranh quốc tế (ICN) về xu hướng và sự phát triển trong
thực thi chống các-ten cho thấy có rất nhiều quốc gia đã sửa đổi, bổ sung pháp luật cạnh
tranh theo hướng áp dụng hình thức phạt tù hoặc tăng mức phạt tù đối với cá nhân vi phạm,
trong đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada, Úc, New Zealand. Sự thay đổi này cho thấy xu
hướng ngày càng coi trọng việc kiểm soát và xử lý các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Việc hình sự hóa các-ten có tác dụng ngăn chặn một số hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh có nguy cơ xảy ra trong tương lai, đồng thời việc tăng mức phạt kết hợp với
chương trình khoan dung có tác động thúc đẩy thực thi chống các-ten một cách hiệu quả.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
44
Tuy nhiên, ở Việt Nam việc hình sự hóa một hành vi nào đó chỉ được diễn ra ở giai
đoạn xây dựng pháp luật, dưới sự cho phép của Quốc hội. Một hành vi vi phạm được áp
dụng xử lý theo hình thức phạt tù chỉ khi nó được quy định điều chỉnh trong Bộ luật hình
sự. Điều đó có nghĩa là, việc hình sự hóa các-ten ở Việt Nam sẽ dẫn đến yêu cầu phải sửa
đổi, bổ sung không chỉ pháp luật cạnh tranh, mà cả pháp luật hình sự. Trong khi đó, Bộ
luật hình sự mới được sửa đổi, bổ sung năm 2009 tại kỳ họp Quốc hội khóa XII. Do đó,
việc hình sự hóa các-ten trong bối cảnh hiện tại là tương đối sớm. Mặc dù vậy, việc hình
sự hóa các-ten vẫn là một ý tưởng tốt tăng cường hiệu quả thực thi chống các-ten, thể hiện
sự nghiêm khắc của pháp luật đối với các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh gây hại
nghiêm trọng cho môi trường cạnh tranh và người tiêu dùng. Do vậy, Nhóm nghiên cứu
cho rằng, ở một thời điểm thích hợp trong tương lai việc hình sự hóa các-ten vẫn nên
được xem xét và cân nhắc.
Thứ năm, quy định các hình thức xử lý vi phạm đối với các hiệp hội ngành nghề.
Do đặc thù thị trường tại Việt Nam có sự tham gia sâu rộng của các hiệp hội ngành
nghề trong việc định ra chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên dẫn đến
nguy cơ xảy ra tình trạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thành
viên, mà trong đó hiệp hội đóng vai trò tổ chức, giám sát thực hiện thỏa thuận. Như kiến
nghị ở trên, các quyết định của hiệp hội gây hạn chế cạnh tranh cũng có thể được coi là
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, do đó các hiệp hội ngành nghề cũng phải được coi là đối
tượng vi phạm. Bởi vậy, cần thiết phải quy định các chế tài xử lý vi phạm đối với hiệp hội
ngành nghề.
Do hiệp hội ngành nghề là tổ chức phi lợi nhuận, cho nên việc xác định mức phạt
tiền dựa theo doanh thu như áp dụng đối với các doanh nghiệp vi phạm là không hợp lý.
Đối với hiệp hội, có thể quy định các mức phạt cứng (số tiền cụ thể) đối với cá nhân thuộc
hiệp hội và đối với hiệp hội, đồng thời có thể áp dụng các biện pháp phạt bổ sung hoặc
các biện pháp khắc phục hậu quả, chẳng hạn như rút giấy phép hoạt động, buộc loại bỏ
những điều khỏan vi phạm pháp luật ra khỏi quyết định của hiệp hội, buộc cam kết không
được tái phạm, buộc phải học tập về pháp luật cạnh tranh và phổ biến cho các doanh
nghiệp thành viên...
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
45
Thứ sáu, điều chỉnh lại các quy định về các biện pháp phạt bổ sung hoặc các biện
pháp khắc phục hậu quả.
Các biện pháp phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả đối với thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh được quy định như hiện nay chưa mang tính thực tiễn cao. Để các hình
thức xử lý vi phạm này thực sự có ý nghĩa khắc phục hậu quả cần bổ sung các quy định
về các biện pháp phạt bổ sung hoặc biện pháp khắc phục hậu quả theo hướng tăng cường
phổ biến, giáo dục nhận thức cho hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh
tranh, khôi phục lại các điều kiện cạnh tranh công bằng, thực hiện các cam kết không vi
phạm pháp luật cạnh tranh trong tương lai...
5. Liên quan đến chƣơng trình khoan dung
Thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh của các nước đi trước cho thấy, việc xử lý
các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ có xu hướng ―ngầm hóa‖ các thỏa thuận. Điều này
sẽ làm cho việc phát hiện và điều tra các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trở nên khó khăn
hơn, phức tạp hơn gấp nhiều lần. Vì vậy, hầu hết các nước đã sử dụng chính sách khoan
hồng như một công cụ quan trọng để phát hiện và điều tra các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Trên thực tế, phần lớn các vụ việc cartel của cơ quan cạnh tranh là vụ việc được
phát hiện thông qua chính sách khoan hồng.
Một trong những nguyên nhân khiến chương trình khoan hồng thành công hơn, mấu
chốt chính là ở hình thức và mức xử phạt phải nặng. Khi đứng trước nguy cơ phải đối mặt
với các chế tài nghiêm khắc, nặng nề do hành vi vi phạm của họ, đồng thời trước những
quan ngại về nguy cơ phá vỡ các-ten khi thông tin bị rò rỉ bởi một trong số các doanh
nghiệp tham gia thỏa thuận, doanh nghiệp sẽ có động cơ tự nguyện khai báo, hợp tác với
cơ quan điều tra để nhận được lợi ích từ chương trình khoan dung.
Pháp luật Việt Nam hiện nay về vấn đề khoan hồng mới chỉ có quy định về các tình
tiết giảm nhẹ áp dụng với các bên trong một số trường hợp nhất định. Tuy nhiên, qua 5
năm thực thi Luật Cạnh tranh cũng có thể thấy quy định về tình tiết giảm nhẹ không giúp
khám phá ra nhiều vụ việc vi phạm do chưa tạo được động cơ và áp lực lớn để doanh
nghiệp tham gia thỏa thuận trình báo và cung cấp thông tin về thỏa thuận mà họ tham gia.
Vì vậy, cần phải bổ sung các quy định về chính sách khoan hồng để tăng cường hiệu quả
thực thi pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo chương trình khoan dung phát huy đúng tác
dụng, các quy định về chương trình khoan dung phải được xây dựng dựa trên nguyên tắc
minh bạch, rõ ràng. Đồng thời, cũng cần quan tâm đến cơ chế bảo mật thông tin về đối
tượng khai báo và bảo vệ nhân chứng. Có như vậy, chương trình khoan dung mới trở
thành một công cụ hữu hiệu giúp cơ quan cạnh tranh thực thi hiệu quả các quy định về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh./.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
46
CHƢƠNG II:
HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƢỜNG,
LẠM DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN
PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC KIỂM SOÁT ĐỘC QUYỀN
I. Độc quyền và một số vấn đề về kiểm soát độc quyền
Thị trường là sự tương tác giữa cung và cầu, qua đó xác định giá và lượng hàng hóa
hoặc dịch vụ trao đổi. Tính đa dạng trong hoạt động trao đổi giữa người mua và người bán
hình thành nên các hình thái thị trường khác nhau, bao gồm: cạnh tranh hoàn hảo; độc
quyền; cạnh tranh độc quyền và độc quyền nhóm.
Doanh nghiệp hoạt động trên thị trường bị chi phối bởi các quy luật cung, cầu và thị
trường. Trong các hình thái thị trường nêu trên, thị trường cạnh tranh được cho là thị
trường trong đó nguồn tài nguyên khan hiếm được phân bổ một cách hiệu quả nhất. Đối
với các hình thái thị trường còn lại, do nằm trong tay của một số ít doanh nghiệp nên các
doanh nghiệp có khả năng thay đổi, định đoạt giá cả, sản lượng cũng như các yếu tố khác
của thị trường (quyền lực/sức mạnh thị trường).
Vấn đề đặt ra là, mọi doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp cạnh tranh hay độc quyền,
đều hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các
doanh nghiệp thường có quy mô nhỏ, không có quyền lực thị trường và luôn chịu áp lực
gia nhập ngành dễ dàng của các doanh nghiệp mới tiềm năng. Họ là người chấp nhận giá
và lựa chọn sản lượng cung ứng ra thị trường theo nguyên tắc chi phí biên (MC) = giá bán
(P) để tối đa hóa lợi nhuận.
Trong khi đó, doanh nghiệp độc quyền là người sản xuất duy nhất trên thị trường,
không chịu áp lực từ việc gia nhập ngành của các đối thủ tiềm năng, có quyền lực thị
trường lớn. Vì vậy, doanh nghiệp độc quyền có khả năng kiểm soát, định đoạt sản lượng
cung ứng và mức giá thị trường. Lý thuyết kinh tế đã chỉ ra rằng để tối đa hóa lợi nhuận,
doanh nghiệp độc quyền sẽ lựa chọn sản lượng và định giá tương ứng tại điểm mà chi phí
biên (MC) = lợi nhuận biên (MR) < P.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
47
Trên thực tế, hầu như không tồn tại một thị trường độc quyền tồn tại thực sự. Lợi
nhuận siêu ngạch từ thị trường độc quyền sẽ thu hút các doanh nghiệp mới tham gia thị
trường, làm thủ tiêu tính chất độc quyền tuyệt đối của thị trường, hình thành nên các dạng
thị trường độc quyền nhóm hoặc thị trường cạnh tranh độc quyền. Tuy nhiên, trong các
hình thái thị trường này, những doanh nghiệp có sức mạnh vượt trội vẫn có thể đưa ra các
quyết định về giá và sản lượng tương tự như doanh nghiệp trên thị trường độc quyền
nhằm tối đa hóa lợi nhuận của mình. Những doanh nghiệp nắm sức mạnh thị trường vượt
trội như vậy được coi là các doanh nghiệp nắm giữ vị trí thống lĩnh/độc quyền trên thị
trường.
Với đặc điểm chung nhất nêu trên, thị trường độc quyền làm nảy sinh hai vấn đề lớn,
đó là: tổn thất phúc lợi xã hội (deadweight loss) và lợi nhuận siêu ngạch của nhà độc
quyền.
1. Tổn thất phúc lợi xã hội
Như thể hiện tại biểu đồ dưới đây, phần bên trái của biều đồ dưới đây minh hoạ cho
thặng dư mà người tiêu dùng và người sản xuất nhận được trong thị trường cạnh tranh
hoàn hảo. Phần bên phải biểu đồ minh hoạ mức thặng dư thất thoát mà người tiêu dùng và
người sản xuất phải chịu trong một thị trường độc quyền so với một thị trường cạnh tranh
hoàn hảo. Biểu cho thấy, việc tối đa hóa lợi nhuận của nhà độc quyền tối đã làm cho mức
giá thị trường tăng từ P(pc) tới P(m), trong khi đó sản lượng cung ứng ra thị trường giảm
từ Q(pc) xuống Q(m).
So sánh tình huống cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền
Xét về phúc lợi xã hội, nếu nhìn nhận phúc lợi xã hội là tổng thặng dư của nhà sản
xuất và thặng dư của người tiêu dùng, có thể dễ dàng thấy rằng so với thị trường cạnh
tranh, phúc lợi xã hội trong trường hợp độc quyền đã giảm đi một lượng tương ứng với
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
48
diện tích BCF. Các nhà kinh tế gọi phần mất mát này là tổn thất vô ích (dead weight loss)
hay là chi phí xã hội của độc quyền. Nói cách khác, tổng phúc lợi xã hội sẽ giảm hơn so
với thị trường cạnh tranh bởi phần mất mát về thặng dư của người tiêu dùng không được
chuyển toàn bộ sang cho nhà sản xuất mà mất mà một cách vô ích.
Như vậy, xét về hiệu quả kinh tế, độc quyền sẽ dẫn tới sự phân bổ nguồn lực kém
hiệu quả hay nói cách khác các quyết định về giá cả và sản lượng của nhà độc quyền vì
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đã phá hỏng mục tiêu tối đa hóa thặng dư xã hội. Các nhà
kinh tế, vì vậy, đã nhìn nhận các vấn đề gây ra bởi tình trạng độc quyền là thất bại thị
trường và đã đề xuất các giải pháp kiểm soát độc quyền nhằm đưa thị trường có yếu tố
độc quyền về gần với thị trường cạnh tranh. Luật cạnh tranh chính là một trong những
công cụ để Nhà nước can thiệp, kiểm soát hành vi của doanh nghiệp độc quyền, nâng cao
hiệu quả của nền kinh tế.
2. Lợi nhuận siêu ngạch của nhà độc quyền
Ở một thị trường cạnh tranh, doanh nghiệp tham gia thị trường khó có thể thu được
lợi nhuận siêu ngạch bởi điều này sẽ kích thích các doanh nghiệp mới tham gia thị trường
và về dài hạn, khoản lợi nhuận vượt trội có xu hướng tiến tới 0. Trên thị trường độc
quyền, doanh nghiệp độc quyền có khả năng thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Lợi nhuận siêu ngạch của nhà độc quyền
Do sức hấp dẫn của lợi nhuận siêu ngạch, doanh nghiệp có sức mạnh thị trường luôn
tìm cách đạt được và duy trì vị thế độc quyền. Chính vì vậy, trong quá trình kinh doanh,
doanh nghiệp có sức mạnh độc quyền có xu hướng áp dụng hai chiến lược kinh doanh
chính gồm: (1) trục lợi từ vị thế, sức mạnh thị trường của mình để thu lợi; và (2) loại bỏ
đối thủ cạnh tranh, đóng cửa thị trường nhằm duy trì, tăng cường sức mạnh của doanh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
49
nghiệp trên thị trường. Trong cả hai trường hợp, hành vi của doanh nghiệp đều gây ra các
tác động tiêu cực cho nền kinh tế và tất nhiên người tiêu dùng là đối tượng phải trực tiếp
gánh chịu hậu quả. Luật cạnh tranh được ban hành nhằm mục tiêu kiểm soát các hành vi
tiêu cực đó của doanh nghiệp.
II. Pháp luật cạnh tranh về kiểm soát độc quyền
1. Mục tiêu của pháp luật cạnh tranh về kiểm soát độc quyền
Sự cần thiết của việc điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp có sức mạnh độc quyền
Thông qua lý luận về thị trường độc quyền đã trình bày tại phần trên, có thể thấy nhà
độc quyền luôn có động cơ để thực hiện các hành vi nhằm gia tăng lợi nhuận siêu ngạch
của mình.
Sức mạnh độc quyền đem lại cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh so với các doanh
nghiệp khác và đem lại khả năng chi phối các quan hệ với khách hàng. Những lợi thế cạnh
tranh có thể là khả năng kiểm soát các yếu tố của thị trường (như nguồn nguyên liệu, giá
cả, số lượng sản phẩm đáp ứng cho người tiêu dùng; khả năng tài chính; thói quen tiêu
dùng của khách hàng .v.v.) và các yếu tố tạo ra địa vị không ngang bằng trong cạnh tranh
giữa doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường và các đối thủ của nó (bao gồm cả đối thủ
tiềm năng).
Nhà độc quyền có điều kiện tận dụng những ưu thế trên nhằm gây khó khăn cho đối
thủ trong quá trình kinh doanh hoặc ngăn cản việc gia nhập thị trường. Đối với khách
hàng, vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền đã khẳng định địa vị quan trọng của doanh nghiệp
trong cung ứng hoặc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường liên quan bởi họ là nguồn cung
hoặc nguồn cầu chủ yếu của thị trường. Vì thế, quyền lựa chọn của khách hàng đã bị hạn
chế, nhu cầu của khách hàng bị lệ thuộc vào khả năng đáp ứng của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp có cơ hội để bóc lột khách hàng thông qua việc áp đặt những điều kiện giao dịch
không công bằng.
Chính vì những hậu quả tiềm tàng như vậy, việc điều chỉnh hành vi của doanh
nghiệp có sức mạnh độc quyền luôn là trọng tâm của chính sách cũng như pháp luật cạnh
tranh các nước.
Mục tiêu chính của pháp luật cạnh tranh
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về chính sách và pháp luật cạnh tranh giữa các
quốc gia, nhưng các quốc gia đều thống nhất về ba mục tiêu chính của chính sách và pháp
luật cạnh tranh là: (1) đảm bảo một quá trình cạnh tranh hiệu quả; (2) tăng cường phúc lợi
xã hội, đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng; và (3) tối đa hóa hiệu quả sản xuất, kinh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
50
doanh, phân bổ các nguồn lực xã hội. Vì vậy, luật cạnh tranh là công cụ để bảo vệ và đem
lại lợi ích cho nền kinh tế, xã hội và người tiêu dùng.
Với vai trò là một bộ phận không tách rời của chính sách và pháp luật cạnh tranh,
pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền cũng hướng đến
những mục tiêu chung đã nêu trên.
Điểm quan trọng nhất cần lưu ý là mặc dù tình trạng độc quyền của thị trường có thể
dẫn đến tổn thất chung cho xã hội nhưng pháp luật cạnh tranh không cấm các doanh
nghiệp bằng sức mạnh nội tại của mình, thông qua các biện pháp cạnh tranh, đạt được sức
mạnh độc quyền. Pháp luật cạnh tranh hướng tới mục tiêu hiệu quả và lợi ích người tiêu
dùng thông qua việc đảm bảo cạnh tranh trên thị trường chứ không phải bảo vệ đối thủ
cạnh tranh.
Do đó, pháp luật cạnh tranh chỉ điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp độc quyền/
thống lĩnh trên thị trường nhằm hạn chế, ngăn chặn việc thực hiện các hành vi lạm dụng
sức mạnh thị trường để loại bỏ cạnh tranh và gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Nói cách
khác, việc áp dụng pháp luật chống lạm dụng vị trí độc quyền/thống lĩnh không nhằm xoá
bỏ vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền của doanh nghiệp mà chỉ loại bỏ hành vi lạm
dụng vị trí thống trị/độc quyền để trục lợi hoặc để bóp méo cạnh tranh.
2. Nội dung chính của pháp luật cạnh tranh về kiểm soát độc quyền
Về kiểm soát độc quyền, pháp luật cạnh tranh các nước tập trung vào 4 vấn đề chính:
(1) xác định thị trường liên quan, (2) xác định vị trí thống lĩnh/độc quyền, (3) kiểm soát
hành vi và (4) chế tài xử lý.
2.1. Xác định thị trường liên quan
Xác định thị trường liên quan được xem là một bước quan trọng, mang tính quyết
định đối với một vụ việc hạn chế cạnh tranh. Xác định thị trường liên quan giúp đánh giá
được sức mạnh thị trường mà doanh nghiệp có được, các đối thủ cạnh tranh và tác động
của hành vi do doanh nghiệp có sức mạnh thị trường thực hiện.
Trên thế giới, một doanh nghiệp được xem là có vị trí thống lĩnh khi có sức mạnh thị
trường đáng kể (theo Điều 102 TFEU1). Thị trường liên quan được xác định càng hẹp thì
doanh nghiệp càng bị coi là có vị trí thống lĩnh và có khả năng gây hạn chế cạnh tranh
càng lớn và ngược lại.
1 TFEU là viết tắt của ―Hiệp ước về chức năng của Liên minh Châu Âu (Treaty of the Functioning of the European
Union‖ (hay còn được gọi là Hiệp ước Lisbon), có từ năm 2007
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
51
Thông thường, cơ quan cạnh tranh xác định thị trường liên quan căn cứ trên cả
phương diện sản phẩm và phương diện địa lý. Mục đích của việc xác định thị trường trên
cả hai phương diện này là nhằm xác định các đối thủ cạnh tranh thực sự của doanh nghiệp
thống lĩnh cũng như khả năng các đối thủ này có thể ngăn cản doanh nghiệp thống lĩnh có
những hành động đơn phương tăng giá hoặc áp đặt giá trên mức giá cạnh tranh. Mặt khác,
việc xác định thị trường liên quan sẽ hỗ trợ việc tính toán thị phần (không tính đến các yếu
tố khác), qua đó xác định được sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp có liên quan đối
với hành vi hạn chế cạnh tranh. Các doanh nghiệp có thị phần thấp thường không sở hữu
sức mạnh thị trường đáng kể, mặc dù về nguyên tắc, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng có
một sức mạnh thị trường riêng của mình dù ít hay nhiều.
Việc xác định thị trường liên quan cũng chính là quá trình đi tìm câu trả lời cho câu
hỏi ―Đâu là những sản phẩm mà người tiêu dùng cho là có khả năng thay thế ở mức chấp
nhận được cho một sản phẩm, khi xem xét đến các yếu tố đặc tính, giá cả, mục đích sử
dụng và các thuộc tính quan trọng khác của sản phẩm?‖. Có nhiều loại thông tin, tài liệu
giúp cơ quan cạnh tranh có thể đánh giá mức độ về khả năng thay thế giữa sản phẩm hay
sự khác biệt giữa các khu vực bán sản phẩm. Đối với mỗi vụ việc, các loại thông tin,
chứng cứ khác nhau sẽ có vai trò quyết định trong quá trình xem xét, phân tích vụ việc,
điều này sẽ phụ thuộc nhiều vào đặc tính và đặc trưng riêng của ngành công nghiệp và các
sản phẩm hay dịch vụ mà cơ quan cạnh tranh đang xem xét.
Liên quan đến việc xác định thị trường liên quan, có hai phương pháp xác định
chính: xem xét khả năng thay thế về cầu và khả năng thay thế về cung. Trong hầu hết các
trường hợp, thị trường thường được xác định dựa trên quan điểm của khách hàng, tức là
xét từ góc độ khả năng thay thế về cầu. Nếu cần thiết phải xác định thị trường dựa trên
quan điểm của nhà cung cấp, tức là xem xét khả năng thay thế về cung.
Trên quan điểm kinh tế học, khả năng thay thế về cầu tạo nên sức mạnh thường
xuyên, có hiệu quả và ngay tức thì cho các nhà cung cấp một loại sản phẩm cụ thể. Nếu
như khách hàng có thể dễ dàng chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế sẵn có hoặc
chuyển sang một nhà cung cấp ở một khu vực địa lý khác, thì một doanh nghiệp, hoặc một
nhóm doanh nghiệp không bị coi là có tác động đáng kể lên những điều kiện bán hàng
thông thường, như giá bán hàng hóa, dịch vụ. Về cơ bản, việc xác định thị trường bao
gồm xác định các nguồn cung về mặt sản phẩm và vị trí địa lý của nhà cung cấp có khả
năng thay thế hiệu quả cho khách hàng của các doanh nghiệp liên quan trên thị trường.
Nhìn chung, những tác động cạnh tranh phát sinh từ khả năng thay thế về cung
thường không tác động ngay tới hành vi kinh doanh của các doanh nghiệp khác trên thị
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
52
trường. Vì vậy, một số cơ quan cạnh tranh xem xét khả năng thay thế về cung trong giai
đoạn xác định thị trường liên quan, nhưng cũng có một số cơ quan cạnh tranh xem xét khả
năng thay thế về cung tại giai đoạn đánh giá phân tích cạnh tranh.
2.1.1. Về thị trường sản phẩm liên quan
Tại Nhật Bản, thị trường sản phẩm liên quan được định nghĩa là: ―Phạm vi sản phẩm
được xác định bằng việc xem xét khả năng thay thế giữa các sản phẩm từ phía người tiêu
dùng. Mức độ thay thế sản phẩm rất phù hợp với mức độ tương đồng về mục đích sử dụng
của các sản phẩm. Vì thế, tiêu chí mục đích sử dụng có thể được sử dụng để đánh giá độ
thay thế sản phẩm‖2.
Tại Liên minh Châu Âu, thị trường sản phẩm liên quan được định nghĩa như sau:
―Một thị trường sản phẩm liên quan bao gồm tất cả những sản phẩm và/hoặc dịch vụ mà
người tiêu dùng cho là có thể hoán đổi, thay thế cho nhau về đặc tính, giá cả và mục đích
sử dụng của các sản phẩm đó‖3.
Còn tại Hoa Kỳ, thị trường liên quan được định nghĩa như sau: ―Khi một sản phẩm
được bán bởi một công ty sáp nhập (sản phẩm A) cạnh tranh với một hoặc nhiều sản phẩm
được bán bởi một công ty sáp nhập khác, cơ quan cạnh tranh sẽ xác định thị trường sản
phẩm liên quan xung quanh sản phẩm A để đánh giá về tầm quan trọng của quan hệ cạnh
tranh này. Thị trường sản phẩm liên quan đó bao gồm nhóm các sản phẩm có khả năng
thay thế cho sản phẩm A, và bao gồm cả sản phẩm A. Vì vậy, cơ quan cạnh tranh có thể
xác định một thị trường liên quan bao gồm nhiều sản phẩm‖4.
Vì vậy, khi xác định thị trường sản phẩm liên quan, cơ quan cạnh tranh cần xác định
nhóm các sản phẩm được coi là thuộc thị trường sản phẩm liên quan để phục vụ quá trình
phân tích các tác động cạnh tranh mà hành vi gây hạn chế cạnh tranh đang bị nghi ngờ có
thể gây ra đối với những sản phẩm đó.
Một số phương pháp xác định thị trường sản phẩm liên quan mà các cơ quan cạnh
tranh trên thế giới thường sử dụng, gồm: Phân tích khả năng thay thế về cầu của sản phẩm
dẫn đến hình thành một nhóm các sản phẩm mà theo đánh giá của người tiêu dùng đó là
các sản phẩm có khả năng thay thế cho nhau; Phân tích khả năng thay thế về cung trong
trường hợp ảnh hưởng của khả năng thay thế về cung tương đương với khả năng thay thế
2 Xem Hướng dẫn áp dụng Luật Chống độc quyền trong khi xem xét vụ việc kết hợp kinh doanh (2004, sửa đổi
2011), trang 12. 3 Xem Lưu ý của Uỷ ban Châu Âu về xác định thị trường liên quan theo mục đích của Luật Cạnh tranh
(97/C372/03), trang 8. 4 Xem: Hướng dẫn sáp nhập theo chiều dọc, công bố ngày 19/8/2010, trang 8.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
53
về cầu liên quan đến tính hiệu quả và kịp thời; sử dụng phép thử SSNIP hay còn gọi là
phép thử nhà độc quyền giả định.
2.1.2. Về thị trường địa lý liên quan
Tại Nhật Bản, thị trường địa lý liên quan được định nghĩa như sau: ―Phạm vi địa lý,
cũng như phạm vi sản phẩm đều được xác định dựa trên việc xem xét khả năng thay thế
giữa các sản phẩm được cung cấp tại mỗi khu vực với nhau. Mức độ thay thế giữa các sản
phẩm được cung cấp tại mỗi khu vực có thể được xác định bằng hành vi của người sử
dụng và nhà cung cấp, và các vấn đề về vận chuyển hàng hóa‖.
Liên minh Châu Âu định nghĩa về thị trường địa lý liên quan như sau: ―Thị trường
địa lý liên quan bao gồm các khu vực nơi mà các doanh nghiệp có liên quan có mối liên
hệ với nhau trong việc cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ, trong đó các điều kiện cạnh tranh
là đồng nhất và có thể phân biệt với các khu vực địa lý lân cận do các điều kiện cạnh tranh
tại các khu vực này là khác biệt đáng kể. Các nhân tố có liên quan trong quá trình xác định
thị trường địa lý liên quan bao gồm bản chất và các đặc tính của sản phẩm hoặc dịch vụ có
liên quan, sự tồn tại của các rào cản gia nhập thị trường hay thị hiếu của người tiêu dùng,
sự khác biệt đáng kể về thị phần của các doanh nghiệp giữa các khu vực địa lý lân cận hay
các khác biệt đáng kể về giá‖.
Tại Hoa Kỳ, thị trường địa lý liên quan được xác định thông qua việc trả lời một câu
hỏi tương tự như câu hỏi đã được đặt ra khi xác định thị trường sản phẩm liên quan:
―Người tiêu dùng sẽ chuyển sang nguồn cung nào nếu giá của sản phẩm liên quan tăng
một mức nhỏ nhưng đáng kể và không phải trong một thời gian ngắn?‖ Nếu như một số
lượng đáng kể người tiêu dùng chuyển sang mua hàng tại một khu vực ngoài khu vực
đang được xem xét, vậy khu vực địa lý mà người tiêu dùng sẽ quyết định chuyển sang
mua hàng sẽ phải nằm trong thị trường địa lý liên quan.
Vì vậy, khi xác định thị trường địa lý liên quan, cơ quan cạnh tranh cần xác định khu
vực địa lý cụ thể để phục vụ quá trình phân tích các tác động cạnh tranh mà hành vi gây
hạn chế cạnh tranh đang bị nghi ngờ có thể gây ra trong khu vực đó.
Một số bằng chứng mà cơ quan cạnh tranh có thể xem xét để đưa ra kết luận về thị
trường địa lý liên quan như: Bằng chứng về sự phân chia đơn đặt hàng tới các khu vực
khác nhau trong quá khứ; Các đặc tính cơ bản của cầu; quan điểm của khách hàng và đối
thủ cạnh tranh; mô hình mua sắm địa lý hiện tại; Các rào cản gia nhập và rút khỏi thị
trường v.v…
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
54
2.2. Xác định vị trí thống lĩnh/độc quyền
―Vị trí thống lĩnh/độc quyền‖ được hiểu là một doanh nghiệp trên thị trường có khả
năng tăng giá bán sản phẩm, hạn chế số lượng sản phẩm đầu ra hoặc thậm chí hạn chế quá
trình đổi mới sản phẩm và những điều này có thể gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường.
Liên quan đến khái niệm vị trí thống lĩnh/độc quyền, theo Điều 102 Hiệp ước Cộng
đồng kinh tế Châu Âu (TFEU), ―vị trí thống lĩnh‖ được định nghĩa như ―thế mạnh kinh tế
hình thành do việc thực hiện hành vi ngăn cản cạnh tranh hiệu quả vốn được duy trì trên
thị trường liên quan, thông qua đó, doanh nghiệp có thể hành xử độc lập đáng kể trước đối
thủ cạnh tranh, khách hàng và cuối cùng là người tiêu dùng‖.
Trong Mục 2 của Luật Chống độc quyền Sherman Act của Hoa Kỳ, sức mạnh độc
quyền được hiểu là ―doanh nghiệp có khả năng (1) định giá cao hơn đáng kể so với mức
giá cạnh tranh và (2) cố tình gây ra hành vi này trong khoảng thời gian nhất định nhằm
loại bỏ đối thủ cạnh tranh mới gia nhập hoặc mở rộng thị trường‖.
Mặc dù trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng có thể nhận thấy
một số đặc điểm chung phản ánh trong các định nghĩa về ―sức mạnh thị trường‖ đó là:
Thứ nhất, việc đánh giá sức mạnh thị trường hoặc vị trí thống lĩnh phải gắn liền
trong mối quan hệ với thị trường liên quan cụ thể, không thể mang tính chất trừu tượng
chung chung. Điều này có nghĩa bản thân doanh nghiệp đó (hoặc có thể kết hợp nhiều
doanh nghiệp tạo thành nhóm doanh nghiệp thống lĩnh) phải có vị trí dẫn đầu trên thị
trường so với các đối thủ cạnh tranh của mình.
Thứ hai, cần phân biệt rõ ràng giữa khái niệm “sức mạnh thị trường” và “sức
mạnh thị trường đáng kể/ hoặc vị trí thống lĩnh”:
Sức mạnh thị trường được hiểu là khả năng doanh nghiệp có thể thực hiện hành vi
kiểm soát giá cả hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Tuy khác nhau về mức độ, sức mạnh
thị trường và sức mạnh thị trường đáng kể (hoặc có vị trí thống lĩnh) có mối quan hệ với
nhau. Theo Mục 2 của Đạo luật Sherman Act của Hoa Kỳ, sức mạnh mạnh độc quyền đòi
hỏi mức độ đáng kể về mức mạnh thị trường nhằm kiểm soát giá hoặc loại trừ cạnh tranh
trên thị trường. Bên cạnh đó, sức mạnh độc quyền cũng tồn tại trong khoảng thời gian dài
và không chỉ mang tính chất tạm thời. Xét theo Điều 102 TFEU, vị trí thống lĩnh là việc
doanh nghiệp có khả năng ngăn cản cạnh tranh hiệu quả đang tồn tại trên thị trường và
hành động độc lập so với các đối thủ cạnh tranh. Khái niệm về tính độc lập, đặc trưng cho
vị trí độc quyền/chi phối của doanh nghiệp trên thị trường, có liên quan đến mức độ hạn
chế cạnh tranh mà doanh nghiệp có khả năng gây ra. Khi có vị trí thống lĩnh thị trường,
các doanh nghiệp/nhóm doanh nghiệp đó không hẳn thuộc đối tượng gây cản trở cạnh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
55
tranh hiệu quả. Nói cách khác, doanh nghiệp cần phải có được sức mạnh đáng kể trên thị
trường, chứ không chỉ đơn thuần có sức mạnh thị trường.
Như đã phân tích ở trên, pháp luật cạnh tranh và quá trình thực thi các quy định pháp
lý sử dụng nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau nhằm xác định đối tượng điều chỉnh
từng hành vi phản cạnh tranh đối với doanh nghiệp có ―vị trí thống lĩnh‖, ―sức mạnh độc
quyền‖ và ―sức mạnh thị trường đáng kể‖. Dù việc sử dụng khái niệm khác nhau, khung
pháp lý về cạnh tranh trên thế giới đồng nhất quan điểm rằng các quy định cấm hành vi
hạn chế cạnh tranh chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp có ―sức mạnh thị trường đáng
kể‖.
Sức mạnh thị trường đáng kể tồn tại khi các nỗ lực cản trở cạnh tranh bởi các đối thủ
cạnh tranh hầu như không có tác động đến doanh nghiệp đó. Trong trường hợp này, các
quyết định của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh về sản lượng và giá cả có thể gây ảnh
hưởng đến thị trường đầu ra. Để phân biệt giữa sức mạnh thị trường và sức mạnh thị
trường đáng kể cần phải có những quy định pháp luật giám sát và xử lý thông qua các quy
định cấm, cần xác định liệu sức mạnh thị trường hiện hữu trong thời gian lâu dài, hoặc
đáng kể. Việc nhấn mạnh vào độ bền sức mạnh thị trường giải thích câu hỏi vì sao việc
xác định rào cản gia nhập và mở rộng thị trường- bên cạnh xác định thị phần- là một bước
quan trọng trong việc khẳng định doanh nghiệp có sức mạnh thị trường hay không.
Thứ ba, việc sở hữu sức mạnh thị trường đáng kể không vi phạm Luật Cạnh
tranh, nhưng việc đánh giá đóng vai trò quan trọng trong việc rà soát, xác định liệu
doanh nghiệp đó có khả năng đơn phương thực hiện hành vi phản cạnh tranh hay
không?
Hơn nữa, một số Luật Cạnh tranh như Việt Nam hoặc Châu Âu phân định rõ ràng
giữa hành vi đơn phương gây ra bởi một doanh nghiệp với sức mạnh thị trường đáng kể
(hay còn có thể hiểu là vị trí thống lĩnh) và các tác động kết hợp hình thành do một nhóm
các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh/độc quyền (hoặc có thể hiểu là thống lĩnh thị trường
kết hợp).
2.2.1. Xác định vị trí thống lĩnh của một doanh nghiệp
Những chứng cứ khẳng định sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp thường
được chia thành các chứng cứ trực tiếp và gián tiếp. Về chứng cứ trực tiếp, các chứng cứ
này giúp xác định khả năng doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể thông qua mức
độ nhạy cảm doanh thu doanh nghiệp trước sự thay đổi của khách hàng và doanh thu của
đối thủ cạnh tranh, cũng như xác định ―hiệu quả hoạt động‖ của doanh nghiệp. Chứng cứ
trực tiếp có thể được sử dụng như phương pháp đo lường khả năng của công ty khi muốn
tăng giá sản phẩm, dịch vụ cao hơn mức giá cạnh tranh hiệu quả; hoặc đánh giá khả năng
sinh lời, chứng cứ về hành vi gây tác động phản cạnh tranh trên thị trường của doanh
nghiệp, v.v. Trong khi đó, các chứng cứ gián tiếp thường có liên quan đến khả năng làm
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
56
thay đổi cấu trúc thị trường và quan ngại rằng liệu công ty đó có sức mạnh thị trường lớn
hay không.
Nhằm xác định liệu một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan
hay không, cơ quan cạnh tranh thường căn cứ trên nhiều yếu tố, như: thị phần, các rào cản
gia nhập và mở rộng sản xuất, rào cản rút lui khỏi thị trường, sức mạnh của người mua, độ
co giãn về cầu, khả năng sinh lợi nhuận, mức chênh lệch giữa giá và chi phí v.v…
Trong các yếu tố nêu trên, thị phần là một yếu tố quan trọng được cơ quan cạnh
tranh sử dụng để đánh giá vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền của doanh nghiệp trên thị
trường. Khi doanh nghiệp nắm được thị phần cao trong thời gian dài trên thị trường,
không cần nhiều chứng cứ cũng có thể giả định rằng doanh nghiệp đó có vị trí thống lĩnh.
Ngược lại, với doanh nghiệp có thị phần thấp, cơ quan cạnh tranh cần thu thập thêm nhiều
chứng cứ để có thể kết luận chắc chắn về vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp. Biến động về
thị phần cho thấy cạnh tranh hiệu quả giữa các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Đây
không phải trường hợp khi các doanh nghiệp là kết quả của quá trình tập trung kinh tế.
Để đánh giá sức mạnh thị trường, trước tiên cần dựa trên dữ liệu thị phần hiện tại
của các doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp nghi vấn cũng như các đối thủ cạnh tranh
của các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, những đánh giá tổng quan về quá trình phát triển
của thị trường trong quá khứ, thị phần các chủ thể tham gia cũng là công cụ hữu ích cung
cấp thông tin quan trọng về cạnh tranh, cũng như xu thế phát triển của các đối thủ cạnh
tranh.
Luật pháp của Châu Âu và Hoa Kỳ đều không quy định chính xác về mức độ thị
phần, mà trong đó thị trường chắc chắn có doanh nghiệp thống lĩnh hay có khả năng chi
phối. Tuy nhiên, quy định pháp luật các quốc gia trên thế giới chỉ ra một số kinh nghiệm
về mức thị phần và vị trí doanh nghiệp trên thị trường như sau:
Khả năng kết luận dựa trên chỉ tiêu thị phần Mức thị phần của doanh
nghiệp
EU U.S.
Giả định cao về khả năng có vị trí thống lĩnh trên thị
trường (chủ yếu kết luận thông qua những chứng cứ
ban đầu)
> 50% 70 – 80%
Giả định có vị trí thống lĩnh và cần thu thập thêm
chứng cứ
40 – 50%
Giả định thấp về vị trí thống lĩnh, cần thu thập thêm
nhiều chứng cứ chứng minh
30 – 40% 50 – 70%
Không có dấu hiệu về vị trí thống lĩnh trên thị trường < 25%* < 50%
**
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
57
* Theo Thông lệ 32 Quy chế Hội đồng EC (Concil Regulation EC) số 139/2004
ngày 20/01/2004 về kiểm soát tập trung kinh tế của doanh nghiệp (Quy chế sáp nhập EC),
OJ 24 L, 2004/01/29, trang 1-22.
** Ngoại trừ trường hợp ―nỗ lực độc quyền hóa‖ khi hành vi trong nghi vấn có khả
năng tạo nên độc quyền trên thị trường liên quan, tuy mức độ thị phần doanh nghiệp thấp
nhưng vẫn cần xem xét thêm.
Tuy nhiên, những suy luận về thống lĩnh thị trường không tự hiểu là doanh nghiệp
đó sở hữu thị phần cao trên thị trường. Thị phần chỉ là một trong những chỉ tiêu đánh giá
sức mạnh thị trường, tuy cần khẳng định rằng thị phần đóng vai trò là yếu tố quyết định.
Các phán quyết của tòa án đều cho rằng ―việc chứng minh thống lĩnh thị trường của doanh
nghiệp đòi hỏi quá trình đánh giá toàn diện và không chỉ đơn thuần dựa trên tiêu chí thị
phần‖5.
2.2.2. Xác định vị trí thống lĩnh của nhóm doanh nghiệp
Bên cạnh sự tồn tại của vị trí thống lĩnh của một doanh nghiệp, còn có thống lĩnh thị
trường kết hợp của nhóm doanh nghiệp. Điều 102 của TFEU quy định cấm không chỉ
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh của một doanh nghiệp đơn lẻ, và cả một nhóm doanh
nghiệp: ―Bất kỳ hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường gây ra bởi một hay nhiều
doanh nghiệp (…)‖.
Theo luật pháp Châu Âu, nhóm có vị trí thống lĩnh bao gồm hai hoặc nhiều doanh
nghiệp có thể hành động giống nhau một cách riêng lẻ hoặc cùng hành động như một thực
thể liên kết trên một thị trường liên quan cụ thể.6 Trên quan điểm kinh tế học, sẽ là đầy đủ
chứng cứ khi các doanh nghiệp áp dụng cùng một chính sách chung trên thị trường và
hành động độc lập đáng kể trên thị trường với các đối thủ cạnh tranh, khách hàng và
người tiêu dùng.
Khái niệm về thống lĩnh thị trường kết hợp đề cập đến các khái niệm ―thỏa thuận
ngầm‖. ―Thỏa thuận‖ hay ―cấu kết ngầm‖ là một dạng liên kết và hợp tác có sự đồng
thuận chính thức hoặc không chính thức giữa các đối thủ cạnh tranh trên thị trường (do đó
thuộc đối tượng những thỏa thuận vi phạm pháp luật) với mục đích gây hạn chế cạnh
5 Trích nguồn: American Council of Certified Podiatric Physicians & Surgeons v. American Board. of Podiatric
Surgery, Inc., 185 F.3d 606, 623 (6th Cir. 1999). 6 Tham khảo thêm thông tin tại Joined cases C-395/96 P and C-396/96 P Compagnie maritime belge transports SA,
Compagnie maritime belge SA and Dafra-Lines A/S v Commission [2000] ECR I-1365, paragraph 36.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
58
tranh đáng kể trên thị trường. Tác động của cấu kết ngầm giữa các doanh nghiệp đó là tạo
ra mức giá cao trên thị trường và đem lại doanh thu lớn cho các doanh nghiệp.
Quá trình đánh giá khả năng tồn tại của vị trí thống lĩnh liên kết bao gồm việc trả lời
một số câu hỏi như: Thị trường tồn tại đồng lực khiến các doanh nghiệp tham gia thông
đồng? những hành vi thông đồng đó có khả năng tồn tại và bền vững không?... Để trả lơi
chính xác, hai điều kiện sau đây cần phải thực hiện:
(i) Khả năng các đối tác thông đồng nhanh chóng phát hiện ra độ lệch chuẩn từ chiến
lược thông đồng;
(ii) Có hình phạt đáng tin cậy khiến cho các đối thủ cạnh tranh sản xuất cao hơn
nhiều mức thông thường (hoặc bán ở mức giá rất thấp) trong một khoảng thời gian mà
thỏa thuận đó xảy ra, do đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp tham gia.
Tuy nhiên, hai điều kiện này khó có thể nhận biết được trên thực tế. Do đó, một số
yếu tố sau đây sẽ tạo điều kiện cho thông đồng giữa các doanh nghiệp và có thể sử dụng
để đánh gia khả năng tồn tại của liên kết độc quyền nhóm:7
- Số lượng các doanh nghiệp tham gia liên kết chi phối thị trường/ mức độ tập trung;
- Tính cân xứng (VD: cấu trúc chi phí giống nhau)
- Điều kiện ổn định của thị trường: thị trường càng ổn định càng dễ dàng phát hiện
những sai lệch của thị trường do chiến lược thỏa thuận giữa các doanh nghiệp. Ngoài ra,
đổi mới công nghệ trong điều kiện thị trường ổn định sẽ làm cho những thỏa thuận phản
cạnh tranh khó xảy ra hơn.
- Tính minh bạch của thị trường (VD: các doanh nghiệp có thể quan sát hành động
của đối thủ cạnh tranh trên thị trường)
- Cơ chế xử phạt đảm bảo tính răn đe khiến các doanh nghiệp thấy không đáng kể
thực hiện các hành vi thỏa thuận.
- Sức mạnh bên mua: bên mua có thể tận dụng khả năng thương lượng của mình để
thúc đẩy cạnh tranh giữa các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ trên thị trường và do đó làm
mất tính ổn định của hành vi thông đồng.
- Rào cản gia nhập thị trường cao: Rào cản gia nhập thị trường càng cao thì càng dễ
duy trì hành vi thông đồng, cũng như ngăn chặn khả năng các doanh nghiệp mới phá vỡ
sự thông đồng đó.
7 Tổng quan về các yếu tố tạo điều kiện cho hành vi thông đồng được trình bày cụ thể tại ―Competition policy-
theory and practice,‖, M.Motta (2004, pp.137 ff)
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
59
Trên thực tế, không có nguyên tắc cố định nào đưa ra cách đánh giá thỏa thuận liên
kết tạo nên sức mạnh thống lĩnh như các tiêu chí đã đề cập ở trên. Tuy nhiên, trong quá
trình đánh giá từng vụ việc thì việc đánh giá tổng quan những tiêu chí nếu trên cũng mang
lại những ý nghĩa nhất định.
2.3. Đánh giá hành vi vi phạm
Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh có thể được phân loại theo nhiều cách khác
nhau. Tuy nhiên, cách phân loại truyền thống và quan trọng trong pháp luật Châu Âu chủ
yếu dựa trên các tác động do hành vi gây ra. Theo cách phân loại này, các hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh/ độc quyền có thể được chia thành hai nhóm hành vi chính như sau:
(i) “Hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ đối thủ” là hành vi có tác động ngăn cản
cạnh tranh hiệu quả trên thị trường liên quan bằng cách loại bỏ hoặc cản trở các đối thủ
cạnh tranh hiện tại và/hoặc tăng các rào cản gia nhập thị trường đối với các đối thủ tiềm
năng.
Khái niệm này gồm hai phần, thứ nhất hành vi mang tính loại bỏ trước hết về mặt
bản chất phải có khả năng phong tỏa, loại bỏ đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường. Để xác
định khả năng này cần phải điều tra về hình thức và bản chất của hành vi đó. Thứ hai,
trong bối cảnh thị trường cụ thể, cần xác định khả năng phát sinh tác động phong tỏa, bóp
méo thị trường.
Phong tỏa thị trường có nghĩa là các đối thủ cạnh tranh hiện tại hoặc tiềm năng bị từ
chối tham gia một phần hoặc toàn bộ vào thị trường. Phong tỏa thị trường có thể là ngăn
cản việc gia nhập hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh của các đối thủ hoặc thúc đẩy họ rút
lui khỏi thị trường. Sự phong tỏa thị trường thậm chí hiện hữu ngay cả khi các đối thủ bị
phong tỏa không bị buộc phải rút lui khỏi thị trường: đó là khi các đối thủ cạnh tranh bị áp
đặt các điều kiện khó khăn dẫn đến cạnh tranh kém hiệu quả. Các đối thủ có thể bị gây
khó dễ khi doanh nghiệp thống lĩnh trực tiếp làm tăng chi phí hoặc giảm cầu đối với các
sản phẩm của đối thủ. Các doanh nghiệp thống lĩnh thường là các doanh nghiệp đã gây
dựng được danh tiếng để dễ dàng mở rộng hoặc thâm nhập thị trường.
Sự phong tỏa bị coi là bóp méo thị trường nếu nó có khả năng ngăn cản sự duy trì
mức độ cạnh tranh hiện có hoặc ngăn chặn sự phát triển cạnh tranh trên thị trường và do
đó, có khả năng làm giá cả tăng lên hoặc được duy trì trên mức giá cạnh tranh.
(ii) “Hành vi lạm dụng mang tính trục lợi/bóc lột” là hành vi đối xử không công
bằng hoặc bất hợp lý đối với những bên bị phụ thuộc vào doanh nghiệp thống lĩnh trong
việc cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ trên thị trường liên quan. Hành vi của doanh nghiệp
thống lĩnh có thể được coi là hành vi mang tính bóc lột khi hành vi này là không công
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
60
bằng và bất hợp lý đối với những đối tượng phụ thuộc vào doanh nghiệp thống lĩnh.
Những đối tượng này có thể là các khách hàng (khi doanh nghiệp thống lĩnh định giá quá
cao) hoặc các nhà cung cấp của doanh nghiệp thống lĩnh (khi trả một mức giá quá thấp).
Trong hai nhóm hành vi nêu trên, hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ được coi là
nghiêm trọng hơn và phản ánh mức độ tác động kinh tế lớn hơn của hành vi lạm dụng.
Tuy nhiên, bảo vệ người tiêu dùng cuối cùng là mục tiêu quan trọng của pháp luật cạnh
tranh và do đó rất cần thiết phải xem xét, đánh giá liệu một hành vi mang tính loại bỏ trên
thực tế có gây thiệt hại cho người tiêu dùng cuối cùng hoặc có dẫn đến việc tăng giá hoặc
hạn chế sản lượng, hạn chế sự lựa chọn hay không. Bởi vậy, không có sự phân biệt một
cách tuyệt đối giữa hai loại hành vi trên và một số hành vi lạm dụng khác, chẳng hạn như
việc áp dụng điều khoản bán kèm có thể vừa mang tính bóc lột, vừa mang tính loại bỏ.
Cũng có thể áp dụng cách phân loại khác đối với các hành vi mang tính loại bỏ gây
tác hại đến cạnh tranh trên thị trường, khi vị trí thống lĩnh bị lạm dụng nhằm hạn chế hoặc
bóp méo cạnh tranh trên thị trường liên quan, đặc biệt khi một doanh nghiệp thống lĩnh
bằng cách lạm dụng sức mạnh độc quyền có thể kiểm soát, chi phối sự cạnh tranh trên thị
trường thứ cấp. Cách phân loại này như sau:
Thứ nhất, hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ ―trên cùng một thị trường‖ điển hình
có thể là hành vi định giá hủy diệt hoặc áp đặt các nghĩa vụ giao dịch độc quyền gây khó
khăn hoặc ngăn cản các đối thủ cạnh tranh phát triển hoặc mở rộng hoạt động kinh doanh
trên thị trường mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh. Loại hành vi này được gọi là “phong
tỏa theo chiều ngang”.
Thứ hai, hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ trên thị trường liên đới bao gồm hành
vi từ chối cung cấp/giao dịch hoặc ép giá (margin squeeze). Trong khi mục đích của các
hành vi lạm dụng được mô tả ở trên là nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh trên thị trường sơ
cấp, thì hành vi lạm dụng trên thị trường liên đới nhằm loại bỏ đối thủ đang hoạt động
hoặc có khả năng sắp sửa tham gia vào thị trường thứ cấp. Loại hành vi này được gọi là
“phong tỏa theo chiều dọc”.
Xuất phát từ quan điểm của chính sách cạnh tranh, trong phần lớn các trường hợp,
chỉ nên quan ngại khi bản thân doanh nghiệp thống lĩnh/độc quyền trên thị trường sơ cấp
cũng tiến hành hoạt động kinh doanh trên thị trường thứ cấp. Mặc dù vậy, đôi lúc chúng ta
cũng không thể nhận biết rõ ràng một hành vi cụ thể thuộc loại nào, nhưng cấu trúc của
các loại hành vi lạm dụng có thể được sắp xếp như ở dưới đây:
Các hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ
+ Hành vi mang tính loại bỏ liên quan đến giá (dạng hành vi hủy diệt)
- Định giá hủy diệt
- Phân biệt giá
- Giảm giá …(Fidelity Rebates)
- Ép giá (Margin squeeze)
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
61
- Trợ cấp chéo
+ Hành vi mang tính loại bỏ không liên quan đến giá (hành vi nhằm làm tăng chi phí của
đối thủ)
- Giao dịch độc quyền
- Bán kèm /bán trọn gói
- Từ chối cung cấp
Các hành vi lạm dụng mang tính bóc lột
- Định giá bất hợp lý
- Hạn chế sản lượng
- Áp đặt điều kiện bất hợp lý
2.4. Chế tài xử lý vi phạm
Một điểm chung của hầu hết các cơ quan cạnh tranh trên thế giới là việc xem phạt
tiền như một hình thức răn đe hơn là biện pháp bồi thường.8 Cụ thể, phạt tiền không chỉ để
trừng phạt hành vi vi phạm mà còn dùng để ngăn chặn việc thực hiện hành động phạm
pháp giống và tương tự trong tương lai của mà còn răn đe những đối tượng tiềm tàng có
khả năng thực hiện hành vi phản cạnh tranh khác.
Trong trường hợp này, việc tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ hành vi phạm pháp
có thể giúp ngăn ngừa hiệu quả các vi phạm trong tương lai. Tuy nhiên, rất khó đưa ra
mức phạt dạng này vì không dễ để xác định và chứng minh một khoản lợi nhuận nhất định
mà doanh nghiệp thu được là do hành vi phạm pháp mà có. Vì thế, hầu hết cơ quan cạnh
tranh tính toán mức phạt dựa trên doanh thu của doanh nghiệp vi phạm một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp. Doanh thu này có thể là doanh thu của doanh nghiệp vi phạm trên thị
trường liên quan. Vì thế, dường như không có công thức tối ưu để xác định một mức phạt
hiệu quả. Bên cạnh đó, việc xử phạt tiền cũng có nhiều điểm không thuận tiện. Ví dụ, áp
dụng mức phạt quá cao có thể gây ra kết quả không mong muốn như phá sản và chính vì
thế tác động xấu đến cạnh tranh và thậm chí là nghiêm trọng hơn thế.
Mặc dù pháp luật mỗi quốc gia quy định khác nhau về mức phạt tiền đối với doanh
nghiệp vi phạm, tuy nhiên các cơ quan cạnh tranh đều phải xem xét một số yếu tố nhất
định để tính toán mức phạt cuối cùng. Trong đó, hầu hết cơ quan cạnh tranh đều nhận ra
rằng tổng số tiền phạt phụ thuộc vào mức độ vi phạm. Tuy nhiên, một số yếu tố khác có
thể được xem xét (chủ yếu liên quan đến mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm), như:
mức độ chủ định vi phạm, liệu hành vi vi phạm có được tiến hành một cách nghiêm túc
8 ICN 2008 ―Setting of fines for cartels in ICN jurisdiction‖.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
62
hay không, đặc điểm của thị trường, khoảng thời gian vi phạm, lợi nhuận có được từ việc
vi phạm v.v… Ngoài ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ có thể được xem xét khi điều
chỉnh mức phạt cơ bản, như: khoảng thời gian của hành vi, tái phạm, từ chối hợp tác, cản
trở điều tra v.v… (tình tiết tăng nặng); hợp tác hiệu quả, chấm dứt ngay hành vi vi phạm
v.v… (tình tiết giảm nhẹ).
Bên cạnh những hình thức phạt truyền thống, cũng cần lưu ý tới các cách thức khác
để có thể ngăn chặn hành vi vi phạm. Một ví dụ quan trọng là nghĩa vụ phải công khai các
hình phạt bởi vì thiệt hại gây ra cho uy tín của doanh nghiệp có thể là một hình thức ngăn
chặn rất hữu hiệu.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
63
PHẦN 2: RÀ SOÁT VIỆC THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH/ĐỘC QUYỀN
I. Tổng quan các quy định hiện hành
Quy định về lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trong hệ thống pháp luật
Việt Nam được thể hiện trong các văn bản chính gồm: Luật Cạnh tranh, Nghị định
116/2005/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một số Điều của Luật Cạnh tranh, Nghị định
120/2005/NĐ-CP về xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Khác với hệ thống
pháp luật ở các nước như Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, Việt Nam sử dụng cách tiếp cận vi
phạm mặc nhiên để đánh giá doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc quyền cũng như các
hành vi bị coi là ―lạm dụng‖ và hình thức xử lý vi phạm.
Về khái niệm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, pháp luật cạnh tranh Việt Nam phân
biệt hai trường hợp: một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh và nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh. Để xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp/ nhóm doanh nghiệp, pháp luật
cạnh tranh Việt Nam dựa chủ yếu vào ngưỡng thị phần. Cụ thể như bảng sau:
Doanh nghiệp/Nhóm doanh nghiệp Ngƣỡng thị phần
1 Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh Từ 30% trở lên
2
Nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
Nhóm 2 doanh nghiệp Từ 50% trở lên
Nhóm 3 doanh nghiệp Từ 65% trở lên
Nhóm 4 doanh nghiệp Từ 75% trở lên
Riêng đối với trường hợp một doanh nghiệp, khoản 1, Điều 11 của Luật Cạnh tranh
quy định thêm tiêu chí ―khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể‖ để xác định
vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp. Tiêu chí đánh giá ―khả năng gây hạn chế cạnh tranh
một cách đáng kể‖ được quy định tương đối chi tiết tại Điều 22, Nghị định 116/2005/NĐ-
CP, theo đó liệt kê một số căn cứ để đánh giá như: năng lực tài chính, năng lực công nghệ,
quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, mạng lưới phân phối của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, Nghị định 116/2005/NĐ-CP đã không hướng dẫn cách thức
đánh giá khả năng của doanh nghiệp gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể dựa trên
các yếu tố đó như thế nào.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
64
Về khái niệm doanh nghiệp có vị trí độc quyền, Điều 12, Luật cạnh tranh quy định
―doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh
về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan‖. Theo
quan điểm của các nhà làm luật Việt Nam, sở dĩ cần phân biệt rõ doanh nghiệp thống lĩnh
và doanh nghiệp độc quyền để điều chỉnh là do có một số hành vi mà chỉ doanh nghiệp
độc quyền mới có thể thực hiện hoặc chỉ doanh nghiệp độc quyền thực hiện mới gây ảnh
hưởng tiêu cực cho thị trường và người tiêu dùng.
Về các quy định cấm, pháp luật cạnh tranh Việt Nam thừa nhận sự tồn tại của các
doanh nghiệp thống lĩnh, doanh nghiệp độc quyền, tuy nhiên cấm tất cả các hành vi lạm
dụng sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp này. Theo cách tiếp cận vi phạm mặc
nhiên, Điều 13, Luật cạnh tranh Việt Nam liệt kê 06 hành vi ―lạm dụng vị trí thống lĩnh‖
và Điều 14 liệt kê thêm 02 hành vi ―lạm dụng vị trí độc quyền‖ để điều chỉnh. Trên cơ sở
các quy định này, Nghị định 116/2005/NĐ-CP đã quy định các hành vi ―lạm dụng vị trí
thống lĩnh‖, ―lạm dụng vị trí độc quyền‖ một cách cụ thể, theo đó mô tả một cách chi tiết
các hình thức biểu hiện của từng hành vi bị coi là ―lạm dụng‖.
Ví dụ, theo quy định tại Điều 31, của Nghị định 116/2005/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết
quy định tại khoản 6, Điều 13 của Luật cạnh tranh, hành vi ―ngăn cản việc tham gia thị
trường của những đối thủ cạnh tranh mới‖ là những hành vi sau đây:
“1. Yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới.
2. Đe dọa hoặc cưỡng ép các nhà phân phối, các cửa hàng bán lẻ không chấp nhận
phân phối những mặt hàng của đối thủ cạnh tranh mới.
3. Bán hàng hóa với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập thị
trường nhưng không thuộc trường hợp quy định tại Điều 23 của Nghị định này.”
Theo cách tiếp cận này, chỉ 03 hành vi được liệt kê tại Điều 31, Nghị định 116/NĐ-
CP mới bị coi là hành vi ngăn cản việc tham gia thị trường của đối thủ cạnh tranh mới.
Ngoài 03 hành vi trên, các hành vi khác mặc dù có tác động ngăn cản việc tham gia thị
trường của đối thủ cạnh tranh mới cũng không bị coi là hành vi ―lạm dụng‖ vị trí thống
lĩnh/độc quyền và không bị xem xét, xử lý. Ngược lại, một số hành vi mặc dù không có
khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể, thậm chí mang lại lợi ích cho cạnh
tranh, cho người tiêu dùng nhưng có hình thức biểu hiện phù hợp với mô tả trong các văn
bản hướng dẫn thi hành luật cũng sẽ bị cấm thực hiện.
Cách tiếp cận quy định về vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, thị trường
liên quan cũng như hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền… của pháp luật
cạnh tranh Việt Nam như trên có một số điểm mạnh, đặc biệt đối với các cơ quan cạnh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
65
tranh còn non trẻ. Tuy nhiên, sau hơn 5 năm thực thi trên thực tế, các quy định hiện tại
cũng đã phát sinh một số điểm bất cập, cần xem xét đánh giá để hoàn thiện. Trong phần
sau, báo cáo sẽ tập trung phân tích, đánh giá kỹ hơn về các điểm mạnh cũng như các bất
cập cần hoàn thiện của hệ thống pháp luật kiểm soát doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc
quyền hiện hành.
II. Thực tiễn 6 năm thực thi pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền
Sau hơn 6 năm, Luật Cạnh tranh về cơ bản đã tạo được hành lang pháp lý quan
trọng, giúp tạo lập và duy trì môi trường kinh doanh bình đẳng. Đây là tiền đề quan trọng
đảm bảo hoạt động kinh doanh bình đẳng, bền vững cho các doanh nghiệp, đồng thời đảm
bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và phân bổ hiệu quả các nguồn lực xã
hội. Trên cơ sở quy định của pháp luật, các cơ quan cạnh tranh cũng đã chú trọng đẩy
mạnh hoạt động thực thi pháp luật và từng bước áp dụng các quy định của pháp luật để xử
lý các vụ việc thực tiễn.
Mặc khác, sau 6 năm thực thi Luật cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành, số
lượng các vụ việc vẫn còn ở mức hạn chế. Cụ thể, từ 2005 đến nay, Cục QLCT đã điều tra
03 vụ việc trong các lĩnh vực: cung cấp xăng dầu hàng không; bia; phân phối và chiếu
phim nhựa. Đến thời điểm hiện tại, Cơ quan cạnh tranh đã hoàn tất việc xử lý 02 vụ việc
trong đó ra quyết định xử phạt 01 vụ việc và ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc đối
với vụ việc còn lại.
Ngoài ra, trong nỗ lực tăng cường hoạt động thực thi pháp luật, Cục QLCT cũng
thường xuyên tiến hành hoạt động điều tra tiền tố tụng9. Trong năm 2009, Cục QLCT đã
tiến hành được 08 vụ điều tra tiền tố tụng liên quan đến các hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh/độc quyền. Mặc dù vậy, hoạt động điều tra tiền tố tụng đến thời điểm hiện tại chưa
mang lại hiệu quả tích cực, theo đó chỉ chuyển được 01 vụ việc thành điều tra chính thức
theo quy định của pháp luật cạnh tranh.
Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng trên, Nhóm nghiên cứu nhận thấy có một số
nguyên nhân chính, xuất phát từ phía: các cơ quan cạnh tranh, từ nhận thức của các doanh
nghiệp về pháp luật cạnh tranh còn hạn chế và từ các quy định của Luật Cạnh tranh, cũng
9 Điều tra tiền tố tụng: được tiến hành khi trên thị trường đang xảy ra các tranh chấp hoặc có biến động bất thường và
hành vi của một hay một số doanh nghiệp trên thị trường có dấu hiệu vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh. Hoạt
động này nhằm thu thập thêm các thông tin, chứng cứ về hành vi của doanh nghiệp và thông tin chung về thị trường.
Kết quả của hoạt động này là đưa ra kiến nghị điều tra vụ việc nếu phát hiện thấy dấu hiệu vi phạm, hoặc tiếp tục
theo dõi diễn biến vụ việc nếu nhận thấy chưa có đủ chứng cứ về dấu hiệu vi phạm của doanh nghiệp.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
66
như hoạt động thực thi các quy định đó. Thực tế triển khai các hoạt động thực thi pháp
luật cạnh tranh cho thấy, các vấn đề nổi cộm liên quan đến quy định của pháp luật cạnh
tranh thường tập trung vào các nội dung như: xác định thị trường liên quan, xác định
doanh nghiệp thống lĩnh (theo ngưỡng thị phần), xác định hành vi bị coi là ―lạm dụng‖ và
một số nội dung liên quan đến biện pháp xử phạt và khắc phục hậu quả. Trong phần sau,
Nhóm nghiên cứu sẽ tập trung phân tích về từng vấn đề này.
III. Đánh giá quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam về kiểm soát hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền
1. Quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam về xác định thị trƣờng liên quan
Nhìn chung, cách thức xác định thị trường liên quan của Luật cạnh tranh Việt Nam
cũng phù hợp với các nguyên tắc được sử dụng phổ biến: dựa trên việc đánh giá khả năng
thay thế về cầu và khả năng thay thế về cung.
Các tiêu chí xác định thị trường liên quan của Luật cạnh tranh Việt Nam là được quy
định rất cụ thể tại Nghị định 116. Về mặt tích cực, việc quy định cụ thể như vậy giúp nâng
cao tính minh bạch của pháp luật cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan cạnh tranh
trong quá trình thực thi luật. Tuy nhiên, việc liệt kê các tiêu chí cụ thể cũng như giản lược
hóa các đánh giá về mặt kinh tế trong quá trình xác định thị trường liên quan đã gây
không ít khó khăn cho cơ quan cạnh tranh và trong một số trường hợp có hướng việc đánh
giá của cơ quan cạnh tranh xa rời khỏi thực tế thị trường.
Thứ nhất, Khoản 2, Điều 4, Nghị định 116 quy định: ―đặc tích của hàng hóa, dịch
vụ được xác định theo một hoặc một số căn cứ sau: (a) tính chất vật lý, (b) tính chất hóa
học, (c) tính năng kỹ thuật, (d) tác dụng phụ đối với người sử dụng, (đ) khả năng hấp thụ.
Các tiêu chí cụ thể nêu trên có thể phù hợp đối với hàng hóa nhưng không có một sự liên
quan nào tới dịch vụ. Do đó, trong trường hợp cần phải xác định thị trường liên quan của
một loại dịch vụ, cơ quan cạnh tranh không thể áp dụng các tiêu chí này để xác định đặc
tích của dịch vụ, từ đó, không đảm bảo đầy đủ các yếu tố xác định thị trường liên quan
theo quy định của luật10
.
Thứ hai, về cách thức xác định khả năng thay thế cho nhau về giá, Điểm c, Khoản 5,
Điều 4, Nghị định 116 quy định ―Hàng hóa, dịch vụ được coi là có thể thay thế được cho
nhau về giá cả nếu trên 50% của một lượng mẫu ngẫu nhiên 1.000 người tiêu dùng sinh
sống tại khu vực địa lý liên quan chuyển sang mua hoặc có ý định mua hàng hóa, dịch vụ
10
Khoản 1, Điều 4, Nghị định 116 quy định ―thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch
vụ có thể thay thế cho nhau cả về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả‖.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
67
khác có đặc tính, mục đích sử dụng giống với hàng hóa, dịch vụ mà họ đang sử dụng hoặc
có ý định sử dụng trong trường hợp giá của hàng hóa, dịch vụ đó tăng lên quá 10% và
được duy trì trong 06 tháng liên tiếp‖. Có thể thấy đây là một hình thức đơn giản của phép
thử SSNIP được các cơ quan cạnh tranh trên thế giới công nhận rộng rãi trong việc xác
định thị trường liên quan. Về bản chất, phép thử SSNIP (small but significant and non-
transitory increase in price – mức tăng giá tối thiểu đủ để khách hàng chuyển sang sử
dụng sản phẩm thay thế khác) là nhằm kiểm tra khả năng nhà độc quyền giả định có thể
thu lợi từ việc tăng giá sản phẩm/dịch vụ ở mức độ nhất định (5%-10%) trong một khoảng
thời gian nhất định (6 tháng – 1 năm). Trong trường hợp việc tăng giá đó giúp nhà độc
quyền có thể thu được lợi nhuận (mức sụt giảm trong sản lượng bán ra, tương ứng với
lượng khách hàng chuyển sang sử dụng sản phẩm/dịch vụ khác, không đủ lớn để để làm
giảm lợi nhuận từ việc tăng giá) thì thị trường sản phẩm liên quan đã được xác định.
Trong trường hợp nhà độc quyền không thể thu lợi từ việc tăng giá thì thị trường sản
phẩm liên quan sẽ được mở rộng hơn.
Trên thực tế, số lượng vụ việc sử dụng phép thử SSNIP thuần túy là rất ít do khó
khăn về mặt thu thập dữ liệu thị trường và sự tốn kém trong việc tổ chức lấy ý kiến người
tiêu dùng. Do đó, các cơ quan cạnh tranh thường sử dụng công cụ thay thế như độ co giãn
về cầu để gián tiếp đánh giá khả năng tăng giá của nhà độc quyền giả định.
Do đó, quy định về xác định khả năng thay thế về giá tại Nghị định 116 có những
nhược điểm sau:
Yêu cầu trên 50% mẫu chuyển sang sử dụng một hàng hóa/dịch vụ khác để
xác định khả năng thay thế giữa hai loại sản phẩm/dịch vụ là quá chặt chẽ. Bởi với mức
tăng giá 10%, có thể số lượng người sử dụng sản phẩm/dịch vụ quyết định không tiếp tục
sử dụng hàng hóa/dịch vụ đó nữa chiếm trên 50%. Tuy nhiên, để trên 50% lượng khách
hàng chuyển sang sử dụng một sản phẩm/dịch vụ khác là không khả thi và thường dẫn đến
kết quả thị trường liên quan được xác định là của chính sản phẩm/dịch vụ được khảo sát
hay có thể hiểu là doanh nghiệp bị điều tra là doanh nghiệp độc quyền trên thị trường liên
quan được xác định theo quy định của Luật cạnh tranh. Điều này không phản ánh đúng
với thực tế cạnh tranh trên thị trường.11
11
Kinh nghiệm từ việc thực hiện khảo sát giá theo quy định của Luật cạnh tranh trong vụ bia cho thấy: có trên 50%
số lượng người được phỏng vấn cho biết sẽ không tiếp tục sử dụng sản phẩm được hỏi trong trường hợp giá của sản
phẩm đó tăng lên 10% trong khoảng thời gian 6 tháng. Tuy nhiên, họ lại quyết định lựa chọn các sản phẩm thay thế
khác nhau chứ không phải là một sản phẩm duy nhất khác. Do đó, kết quả khảo sát cho thấy, lượng người tiêu dùng
chuyển sang sử dụng một sản phẩm thay thế khác không đáp ứng ngưỡng 50% như quy định của luật. Như vậy, có
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
68
Việc yêu cầu thực hiện khảo sát trong mọi trường hợp xác định khả năng
thay thế về giá gây ra lãng phí về nguồn lực cho cơ quan cạnh tranh. Thay vào đó, việc
đưa ra nguyên tắc xác định khả năng thay thế về giá và cho phép cơ quan cạnh tranh sử
dụng các công cụ phù hợp nhất tùy vào đặc điểm của từng vụ việc sẽ giúp tiết kiệm cả về
thời gian và chi phí. Ví dụ, với bản chất của phép thử SSNIP như nêu ở trên, cơ quan cạnh
tranh có thể đánh giá khả năng tăng giá của nhà độc quyền giả định thông qua độ co giãn
chéo về cầu.
Theo kinh nghiệm quốc tế, việc xác định thị trường liên quan chủ yếu dựa trên đánh
giá khả năng thay thế về cầu. Cơ quan cạnh tranh chỉ đánh giá khả năng thay thế về cung
khi thấy rằng khả năng gia nhập thị trường của đối thủ mới là khả thi.
2. Quy định về xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh/độc quyền
Theo quy định của Luật cạnh tranh, vị trí thống lĩnh/độc quyền của doanh nghiệp
được xác định dựa trên hai căn cứ: thị phần trên thị trường liên quan hoặc khả năng gây
hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Một doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh
thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây
hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể.
Khái niệm ―khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể‖ được giải thích tại
Điều 22 Nghị định 116/2005/NĐ-CP. Theo đó, khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách
đáng kể của doanh nghiệp trên thị trường liên quan được xác định dựa vào một hoặc một
số căn cứ chủ yếu sau đây:
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
- Năng lực tài chính của tổ chức kinh tế, cá nhân thành lập doanh nghiệp.
- Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát hoặc chi phối
hoạt động của của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của
doanh nghiệp.
- Năng lực tài chính của công ty mẹ.
- Năng lực công nghệ.
- Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp.
- Quy mô của mạng lưới phân phối.
Với cách thức quy định nêu trên của Luật cạnh tranh cũng như Nghị định
116/2005/NĐ-CP, Nhóm nghiên cứu có một số đánh giá như sau:
thể hiểu, theo cách xác định thị trường liên quan được quy định tại Nghị định 116, thị trường sản phẩm liên quan của
vụ việc là thị trường của chính sản phẩm đó, không bao gồm các sản phẩm cạnh tranh nào khác. Điều này không
phản ánh đúng thực tế cạnh tranh trên thị trường bia..
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
69
Thứ nhất, về việc xác định sức mạnh thị trường của doanh nghiệp dựa trên tiêu chí
thị phần theo Luật Cạnh tranh hiện hành, khi một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp
đạt được một ngưỡng thị phần nhất định thì mặc nhiên được coi là có vị trí thống lĩnh trên
thị trường. Thị phần của doanh nghiệp/nhóm doanh nghiệp bị cho là có hành vi phản cạnh
tranh được xem xét tại thời điểm thực hiện hành vi đó, tính theo tháng, quý hoặc năm.
Về vấn đề này, Luật Cạnh tranh của các quốc gia phát triển đều thừa nhận vai trò của
thị phần trong việc đánh giá sức mạnh thị trương của doanh nghiệp bởi thị phần của doanh
nghiệp được thể hiện một cách khách quan, dựa trên các số liệu cụ thể, rõ ràng và cho
thấy sự tương quan trong sức mạnh của doanh nghiệp bị xem xét với các đối thủ khác trên
thị trường. Tuy nhiên, các quốc gia này không đưa ra các ngưỡng thị phần cụ thể để làm
cơ sở xác định sức mạnh thị trường của doanh nghiệp. Thay vào đó, thị phần của doanh
nghiệp bị xem xét được đem so sánh với thị phần của các đối thủ cạnh tranh hoặc được
xem xét trong một quá trình để đánh giá sự tồn tại và sự bền vững của sức mạnh thị
trường mà doanh nghiệp nắm giữ. Cách thức đánh giá như vậy là cần thiết để đảm bảo
tính chính xác khi sử dụng tiêu chí thị phần để xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp.
Bởi có những trường hợp, mặc dù doanh nghiệp nắm giữ 30% thị phần trên thị trường liên
quan nhưng không hề có sức mạnh vượt trội so với đối thủ cạnh tranh hoặc khách hàng.
Ví dụ, trên một thị trường có 03 doanh nghiệp đứng đầu, các doanh nghiệp nắm giữ lần
lượt 50%, 30% và 20% thị phần. Trong trường hợp này, một doanh nghiệp trong số đó, dù
nắm giữ 30% thị phần, cũng không thể có sức mạnh vượt trội so với đối thủ hiện đang giữ
50% thị phần; do đó, không thể coi là có vị trí thống lĩnh trên thị trường. Ngược lại, cũng
tồn tại những thị trường trong đó có 01 doanh nghiệp đứng đầu nắm giữ 20% thị phần;
80% thị trường còn lại thuộc về các doanh nghiệp chỉ nắm giữ 1%-2% thị phần. Như vậy,
doanh nghiệp đứng đầu thị trường, mặc dù không nắm giữ tới 30% thị phần, nhưng lại có
sức mạnh thị trường vượt trội so với phần còn lại của thị trường, hoàn toàn có khả năng
đưa ra những quyết định có ảnh hưởng tới toàn thị trường.
Chính vì vậy, các cơ quan cạnh tranh trên thế giới còn sử dụng cùng lúc rất nhiều
tiêu chí đánh giá vị trí thống lĩnh khác nhau ngoài tiêu chí thị phần. Theo Báo cáo của
Mạng lưới cạnh tranh quốc tế- ICN12, các cơ quan cạnh tranh trên thế giới hiện sử dụng
hơn 20 tiêu chí để đánh giá vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp. Trong đó, các tiêu chí
thường thấy là:
12
ICN, Report on the Objectives of Unilateral Conduct Laws, Assessment of Dominance/Substantial Market Power,
and State- Created Monopolies, Prepared by the Unilateral Conduct Working Group, 2007.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
70
- Vị thế (gồm năng lực vượt trội) và hành vi của các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường,
- Các rào cản gia nhập và khả năng gia nhập thị trường của đối thủ mới,
- Tính bền vững của của sức mạnh thị trường mà các doanh nghiệp đang nắm
giữ,
- Sức mạnh của người mua,
- Các nguồn lực thiết yếu mà doanh nghiệp đang nắm giữ v.v…
Trong tất cả các tiêu chí đó, ICN cũng như các cơ quan cạnh tranh đều cho rằng:
không tiêu chí đơn lẻ nào cho phép khẳng định doanh nghiệp có nắm giữ vị trí thống lĩnh
hay không, nhưng nếu nhiều tiêu chí cùng được kết hợp sử dụng thì có thể cho phép
khẳng định điều đó.
Thứ hai, về tiêu chí khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể, với những
nội dung được đề cập ở trên, có thể thấy, các nội dung được Luật cạnh tranh cân nhắc xem
xét dừng lại ở trạng thái tĩnh. Có nghĩa là, các yếu tố được cân nhắc đánh giá chỉ tập trung
vào doanh nghiệp bị xem xét chứ không được đem so sánh trong mối tương quan với các
đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường. Ví dụ, Điều 22, Nghị định 116 có đề cập tới một
trong các nội dung cần xem xét khi đánh giá khả năng hạn chế cạnh tranh một cách đáng
kể là ―quy mô của mạng lưới phân phối‖. Đánh giá theo quan điểm ―tĩnh‖, sẽ có ý kiến
cho rằng, quy mô như thế nào thì được coi là có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một
cách đáng kể. Còn theo quan điểm ―động‖, quy mô hệ thống phân phối của doanh nghiệp
bị điều tra sẽ được đem so sánh với phần còn lại của thị trường, từ đó cơ quan cạnh tranh
có đánh giá chính xác hơn về sức mạnh trên thị trường của doanh nghiệp.
Ngoài ra, thực tế thực thi Luật cạnh tranh của các quốc gia phát triển cho thấy, trong
một số trường hợp, bản thân việc doanh nghiệp có thể thực hiện một hành vi lạm dụng
nhất định đã cho thấy doanh nghiệp đó có sức mạnh thị trường. Mục 2 của Luật Chống
độc quyền Sherman Act của Hoa Kỳ quy định, sức mạnh độc quyền được hiểu là ―doanh
nghiệp có khả năng (1) định giá cao hơn đáng kể so với mức giá cạnh tranh và (2) cố tình
gây ra hành vi này trong khoảng thời gian nhất định nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh mới
gia nhập hoặc mở rộng thị trường‖.
Tóm lại, các quy định về đánh giá vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp trong Luật cạnh
tranh hiện hành còn khá cứng nhắc và trong một số trường hợp không phản ánh đúng
tương quan cạnh tranh trên thị trường.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
71
3. Quy định về xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền
3.1. Việc phân biệt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và hành vi lạm dụng vị trí
độc quyền chưa phù hợp với thực tiễn
Như đã trình bày tại mục 1 trên đây, Luật Cạnh tranh đã đặt các doanh nghiệp độc
quyền vào tình trạng bị giám sát về hành vi lạm dụng một cách nghiêm khắc hơn so với
các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Ngoài những hành vi bị cấm theo điều 13
Luật Cạnh tranh, các doanh nghiệp độc quyền còn bị cấm thêm hai hành vi theo Khoản 2
và 3 Điều 14 gồm hành vi áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng và hành vi lợi dụng
vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có
lý do chính đáng.
Những hành vi trên chủ yếu xâm phạm đến quyền lợi của khách hàng và nguyên tắc
bình đẳng trong các hợp đồng đã hoặc sẽ được ký kết giữa doanh nghiệp độc quyền và
khách hàng, đối tác của họ. Vì vậy, chúng ta có thể suy đoán cơ sở xây dựng nên khoản 2
và khoản 3 Điều 14 là tình trạng không cân xứng về vị trí giữa doanh nghiệp độc quyền và
khách hàng, đối tác. Theo đó, quyền lựa chọn của người tiêu dùng và khách hàng sẽ
không tồn tại nếu có doanh nghiệp độc quyền trên thị trường. Hệ quả tất yếu là khách
hàng sẽ luôn ở vào tình trạng yếu thế trong giao dịch do nhu cầu của họ bị lệ thuộc vào
khả năng và quyết định cung ứng của nhà độc quyền.
Để ngăn chặn những khả năng khai thác lợi thế độc quyền, xâm phạm đến các
nguyên tắc bình đẳng của pháp luật hợp đồng, Luật Cạnh tranh cấm các doanh nghiệp độc
quyền không được áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng và không được đơn
phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng mà không có lý do chính đáng. Tuy nhiên, trên
thực tế, các hành vi trên có thể xảy ra ở bất kỳ môi trường kinh doanh nào có khiếm
khuyết về cạnh tranh, nhất là khi có sự tồn tại của doanh nghiệp có sức mạnh thị trường.
Vì vậy, khả năng xâm hại đến quyền lợi chính đáng của khách hàng hoặc xâm hại đến
nguyên tắc bình đẳng được pháp luật hợp đồng bảo hộ bằng những hành vi trên đều có thể
xảy ra ngay cả khi chỉ tồn tại doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh (không độc quyền) và hoàn
toàn có thể gây tác động tiêu cực tới cạnh tranh trên thị trường.
Trong vụ việc cạnh tranh liên quan đến Công ty xăng dầu hàng không (Vinapco), các
cơ quan cạnh tranh cho rằng tại thời điểm xem xét (tháng 4/2008), do Vinapco có vị trí
độc quyền trên thị trường dịch vụ cung cấp xăng dầu hàng không (không có doanh nghiệp
nào cạnh tranh với Vinapco trên thị trường) nên hành vi áp đặt các điều kiện bất lợi cho
khách hàng và lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã
giao kết mà không có lý do chính đáng đã bị xử lý. Tại thời điểm hiện tại, Vinapco hoàn
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
72
toàn có thể thực hiện hành vi trên mà không bị xem xét bởi Luật cạnh tranh do hiện nay
họ đã không còn vị trí độc quyền trên thị trường, mặc dù đối thủ cạnh tranh của Vinapco
(là Công ty cổ phần nhiên liệu bay Petrolimex) trên thị trường chỉ chiếm một lượng thị
phần không đáng kể tại sân bay Tân Sơn Nhất (Thành phố Hồ Chí Minh).
Tương tự, năm 2007, Cục Quản lý cạnh tranh nhận được thư tố cáo một doanh
nghiệp lớn (năm 2006 chiếm tới 98% thị phần) đã có hành vi đơn phương ngừng bán hàng
cho hàng loạt các doanh nghiệp phân phối. Trên cơ sở các thông tin ban đầu, Cục Quản lý
cạnh tranh đã làm việc với một số doanh nghiệp, cơ quan có liên quan và nhận định việc
đơn phương ngừng bán hàng là có thật và có tác động tiêu cực tới thị trường. Tác động
của hành động đơn phương ngừng bán hàng, thay đổi doanh nghiệp phân phối sản phẩm
có thể lan trên diện rộng bởi sản phẩm đó là đầu vào quan trọng cho nhiều ngành sản xuất
khác. Mặc dù vậy, do doanh nghiệp thực hiện hành vi đơn phương ngừng cung cấp hàng
hóa không phải là doanh nghiệp độc quyền quy định tại Điều 12, Luật Cạnh tranh nên Cục
Quản lý cạnh tranh đã không thể xem xét, áp dụng Điều 14, Luật Cạnh tranh để điều tra,
xử lý vụ việc.
Tham khảo kinh nghiệm của các nước như Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, có thể thấy
pháp luật cạnh tranh của các nước này không phân biệt hành vi của doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh và hành vi của doanh nghiệp có vị trí độc quyền. Thay vào đó, các nước này
quan niệm vị trí độc quyền là một trường hợp đặc biệt của vị trí thống lĩnh và về bản chất
doanh nghiệp có vị trí độc quyền hay doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đều là các doanh
nghiệp có sức mạnh thị trường, có khả năng hành xử một cách tương đối độc lập so với
đối thủ cạnh tranh (nếu có) và người tiêu dùng. Trong các vụ việc, để đánh giá, ra quyết
định điều chỉnh, cơ quan cạnh tranh của các nước đặt trọng tâm phân tích là tác động gây
hạn chế cạnh tranh, tính chất tận thu, trục lợi hay ngăn cản, đóng cửa thị trường của hành
vi kinh doanh. Pháp luật cạnh tranh của nhiều nước vì vậy chỉ đề cập hành vi của doanh
nghiệp thống lĩnh mà không phân biệt rõ 02 nhóm hành vi như pháp luật cạnh tranh hiện
hành của Việt Nam.
3.2. Việc liệt kê, mô tả hành vi một mặt dẫn tới cách tiếp cận hẹp, khó thực thi,
mặt khác có thể bỏ sót hành vi phản cảnh tranh trên thị trường
Xét về hành vi, Luật cạnh tranh hiện hành liệt kê 6 hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
và 8 hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm. Trên cơ sở các quy định này, Nghị định
116/2005/NĐ-CP tiếp tục chi tiết hóa các quy định của Luật bằng cách liệt kê 20 hành vi
lạm dụng với các hình thức biểu hiện khác nhau. Ngoài 20 hành vi trên, các hành vi khác
mặc dù có thể có tính chất đóng cửa thị trường/loại bỏ đối thủ cạnh tranh (market
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
73
foreclosure/exclusionnary) hoặc tính chất tận thu (exploitative) khác không bị coi là lạm
dụng vị trí thống lĩnh. Tiếp cận liệt kê hành vi một cách chi tiết có thể dẫn tới 03 vấn đề
chính:
Quy định mang nặng tính định dạng, thiên về mô tả hình thức biểu hiện bên
ngoài mà chưa chú trọng đến các dấu hiệu đặc trưng của hành vi
Xuất phát từ nhiều nguyên nhân, các cơ quan soạn thảo Luật Cạnh tranh và các văn
bản hướng dẫn thi hành đã chọn phương pháp mô tả hành vi dựa theo hình thức biểu hiện
bên ngoài của hành vi. Ví dụ, hành vi ―ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối
thủ cạnh tranh mới‖ quy định tại khoản 6, Điều 13, Luật Cạnh tranh được hiểu theo hướng
chỉ bao gồm 03 hành vi (Điều 31, Nghị định 116/2005/NĐ-CP):
(1) Yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới.
(2) Đe dọa hoặc cưỡng ép các nhà phân phối, các cửa hàng bán lẻ không chấp nhận
phân phối những mặt hàng của đối thủ cạnh tranh mới.
(3) Bán hàng hóa với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập thị
trường nhưng không thuộc trường hợp quy định tại Điều 23 của Nghị định này.
Quy định một cách chi tiết dựa vào hình thức biểu hiện bên ngoài như trên hạn chế
đáng kể khả năng đánh giá của cơ quan cạnh tranh trong quá trình điều tra, xử lý vụ việc.
Căn cứ theo hệ thống các quy định hiện hành, cơ quan cạnh tranh của Việt Nam thực chất
không có thẩm quyền được đưa ra các đánh giá sâu về bản chất gây hạn chế cạnh tranh
của hành vi mà chỉ là cơ quan thu thập các chứng cứ phù hợp với các mô tả theo quy định
của pháp luật để kết luận về hành vi. Điều này một mặt tạo điều kiện dễ dàng cho cơ quan
thực thi trong quá trình thu thập thông tin, chứng cứ để chứng minh hành vi, bởi chỉ cần
thu thập các thông tin, chứng cứ phù hợp với mô tả theo quy định của luật mà không cần
phải phân tích, chứng minh về tác động phản cạnh tranh của hành vi. Tuy nhiên, nhìn ở
khía cạnh khác, việc liệt kê nêu trên cũng tạo ra khó khăn cho cơ quan cạnh tranh trong
quá trình thực thi.
Trong vụ việc thực tế liên quan đến thị trường bia, theo đó một doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh bia đã ký hợp đồng phân phối độc quyền với một số ít các nhà hàng/các
quán bán bia. Trong điều khoản hợp đồng, doanh nghiệp bia đã yêu cầu các nhà hàng ký
hợp đồng với họ không được bán các loại bia cạnh tranh khác, và vì vậy, xét về mặt pháp
lý, hành vi này thỏa mãn khách quan quy định tại khoản 1, Điều 31 của Nghị định
116/2005/NĐ-CP. Điều đáng nói là, số lượng các hợp đồng độc quyền liên quan là rất
nhỏ, và mặc dù không có tác động ngăn cản việc tham gia thị trường của doanh nghiệp
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
74
khác nhưng việc ký hợp đồng độc quyền vẫn có thể bị coi là vi phạm do hợp đồng có nội
dung phù hợp với mô tả hành vi bị cấm theo quy định của pháp luật.
Ở một góc nhìn khác, trong vụ việc liên quan đến bản quyền phát hình các sự kiện
thể thao, Công ty CP Viễn thông và Truyền thông An Viên (AVG) đã ký hợp đồng hợp
tác với Liên đoàn Bóng đá Việt Nam (VFF), theo đó AVG được VFF chuyển nhượng toàn
bộ thương quyền của các giải bóng đá13 do VFF tổ chức trong đó có các trận thi đấu tại
giải bóng đá vô địch quốc gia trong thời hạn từ 2011- 2030. Điều đáng nói là, với cách
tiếp cận hiện tại, mặc dù hợp đồng này có tác động hạn chế cạnh tranh, ngăn cản sự tham
gia thị trường của các doanh nghiệp khác nhưng do Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng
dẫn không có quy định cấm ký kết các hợp đồng độc quyền với thời hạn dài nên các cơ
quan cạnh tranh đã không thể có ý kiến về hợp đồng này. Các cơ quan có liên quan khác
sau một thời gian xem xét cũng đã kết luận thừa nhận hiệu lực của hợp đồng trên bởi hiện
nay không quy định nào của pháp luật cấm các pháp nhân ký kết với nhau hợp đồng 20
năm.
Qua hai vụ việc thực tiễn, có thể thấy rằng tiếp cận hiện nay của pháp luật cạnh tranh
Việt nam, trong một số trường hợp, đã ngăn chặn không cho phép doanh nghiệp thực hiện
các hành vi không có tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể, thậm chí là có lợi
cho cạnh tranh, và ngược lại, cho phép thực hiện các hành vi có tác động hạn chế cạnh
tranh, đóng cửa thị trường. Ở các vụ việc tương tự như vụ việc liên quan đến hợp đồng
độc quyền trên thị trường bia và vụ việc bản quyền khai thác các sự kiện thể thao, pháp
luật cạnh tranh của nhiều nước có cách hành xử tương đối khác, theo đó ra quyết định trên
cơ sở đánh giá bản chất hạn chế cạnh tranh, tính chất trục lợi hay đóng cửa thị trường của
hành vi, bất kể hành vi đó được thể hiện dưới hình thức nào. Ví dụ, đối với vụ bia, cơ
quan cạnh tranh có thể cấm doanh nghiệp thực hiện hành vi nếu thấy rằng hợp đồng độc
quyền có tác động ngăn cản một cách đáng kể hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp
bia khác. Ngược lại, họ cũng có thể cho phép thực hiện hợp đồng tùy thuộc từng bối cảnh
thị trường…
Qua thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm
của các nước đi trước, Nhóm nghiên cứu cho rằng đã đến lúc Việt Nam cần nghiên cứu
13
Gồm ghi âm, ghi hình, sản xuất và sở hữu bản ghi âm, ghi hình; quyền công bố, phát sóng, khai thác doanh thu
dưới mọi hình thức và trên mọi phương tiện như truyền hình, internet, cũng như tất cả phương tiện khác, cũng như
tất cả các quyền có liên quan khác đối với một phần hoặc toàn bộ các cuộc thi đấu và các sự kiện, thông tin bên lề
(...)
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
75
thay đổi cách tiếp cận mô tả hành vi theo hình thức biểu hiện bên ngoài, thay vào đó là
cách tiếp cận nhắm trực diện vào bản chất hạn chế cạnh tranh của hành vi. Có như vậy,
việc thực thi pháp luật cạnh tranh mới thực sự mang lại hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế
theo đúng mục tiêu ban hành pháp luật.
Mô tả hành vi với cấu thành pháp lý quá phức tạp đến mức gây khó khăn
cho quá trình áp dụng luật trong thực tiễn
Pháp luật cạnh tranh hiện hành, đặc biệt là các quy định chi tiết tại Nghị định
116/2005/NĐ-CP quy định các hành vi hành vi với mô tả về hình thức biểu hiện và cấu
thành pháp lý quá phức tạp, gây khó khăn cho quá trình áp dụng trong thực tiễn. Ví dụ,
với hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý quy định tại Khoản 2 điều 13 Luật
Cạnh tranh, Nghị định 116/2005/NĐ-CP diễn giải thành:
Hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt hại cho
khách hàng nếu cầu về hàng hoá, dịch vụ không tăng đột biến tới mức vượt quá công suất
thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh nghiệp và thỏa mãn hai điều kiện sau đây:
a) Giá bán lẻ trung bình tại cùng thị trường liên quan trong thời gian tối thiểu 60
ngày liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt quá 5%; hoặc tăng nhiều lần với tổng mức
tăng vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng thời gian tối thiểu đó;
b) Không có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng hóa, dịch
vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu tăng giá.
Căn cứ quy định nêu trên, để chứng minh một doanh nghiệp có hành vi áp đặt giá
bán hàng hóa dịch vụ bất hợp lý cơ quan cạnh tranh trước hết cần chứng minh cầu về hàng
hoá, dịch vụ không tăng đột biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản
xuất của doanh nghiệp. Đòi hỏi này phù hợp với lý thuyết kinh tế, thừa nhận quy luật cung
cầu và giá cả tuy nhiên rất khó áp dụng bởi trên thực tiễn khó có thể ước lượng được
chính xác ―cầu‖ đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó. Nếu tạm chấp nhận căn cứ vào
số liệu bán hàng trong quá khứ để đưa ra ước lượng về lượng cầu và so sánh với năng lực
sản xuất của doanh nghiệp đang xem xét, cơ quan điều tra sẽ gặp khó khăn tiếp theo là xác
định giá bán lẻ trung bình của hàng hóa/dịch vụ tại cùng thị trường liên quan trong khoảng
thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp theo quy định của Nghị định.
Việc xác định giá bán lẻ trung bình càng khó khăn hơn khi khoản 4, Điều 4 của Nghị
định 116/2005/NĐ-CP quy định “giá cả của hàng hóa, dịch vụ là giá ghi trong hóa đơn
bán lẻ theo quy định của pháp luật” và càng khó khăn hơn khi phải thu thập số liệu từ
nhiều doanh nghiệp, nhiều mặt hàng trên cùng thị trường liên quan để tính giá trung bình
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
76
trong thời gian “tối thiểu” 60 ngày liên tiếp trước khi tăng giá. Tiếp sau đó, cơ quan cạnh
tranh phải thu thập các thông tin, số liệu về giá thành sản xuất của hàng hóa tương
ứngtrong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu tăng giá để đánh giá và
chứng minh không tồn tại các biến động bất thường làm tăng chi phí sản xuất lên quá
5%... Khó khăn càng tăng lên gấp nhiều lần khi việc tính toán chi phí sản xuất cũng được
quy định cụ thể tại Điều 24 của Nghị định 116/2005/NĐ-CP và càng khó khả thi hơn khi
việc hạch toán chi phí trên đầu sản phẩm là tùy thuộc vào chế độ hạch toán, tùy thuộc
chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp và nhiều yếu tố khác…
Ở một phương diện khác, quy định cụ thể về hành vi ấn định giá bán hàng hóa, dịch
vụ bất hợp lý như trên vô hình chung đã thu hẹp đáng kể phạm vi áp dụng của khoản 2,
Điều 13, Luật Cạnh tranh. Hành vi ấn định giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý theo quy
định của luật có thể được tiếp cận theo hướng ấn định giá để thu lợi quá mức (excessive
pricing). Tuy nhiên, theo diễn giải của Nghị định 116/2005/NĐ-CP, hành vi ấn định giá
bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý chỉ được tiếp cận dưới một hình thức là ―hành vi tăng giá
bán bất hợp lý‖, đó là tăng giá quá 5% khi chi phí tăng không quá 5%. Quy định này sẽ
không áp dụng đối với trường hợp doanh nghiệp lạm dụng sức mạnh thị trường để áp đặt
mức giá cao bất hợp lý ngay từ đầu cũng như không áp dụng trong trường hợp có biến
động về cầu, có biến động làm tăng chi phí sản xuất quá 5%.
Theo cách tiếp cận này, nếu doanh nghiệp chứng minh được chi phí sản xuất tăng
5,1%, thì việc tăng giá 10%, 20%, 50%... thậm chí hơn nữa cũng không thuộc phạm vi
điều chỉnh của khoản 2, Điều 13, Luật Cạnh tranh. Thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh
tại Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, các vụ việc liên quan đến khoản 2, Điều 13 của
Luật Cạnh tranh (điều 27, Nghị định 116/2005/NĐ-CP sau một thời gian xem xét đều dẫn
tới bế tắc, không thể áp dụng. Điều này cũng dễ hiểu bởi trên thực tế với biến động CPI,
lạm phát của nền kinh tế Việt Nam, cộng thêm tác động của đợt khủng hoảng kinh tế toàn
cầu…trong thời gian qua dễ dàng làm chi phí sản xuất tăng quá 5%. Và như đã đề cập trên
đây, khi chi phí sản xuất tăng quá 5% thì doanh nghiệp thống lĩnh hoàn toàn có thể tăng
giá hàng hóa ở mức cao nhất có thể mà không cần phải lo ngại về các rủi ro pháp lý liên
quan đến khoản 2, Điều 13 của Luật Cạnh tranh.
Xem xét các quy định khác của Luật Cạnh tranh và của Nghị định 116/2005/NĐ-CP,
có thể thấy nhiều quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền khác cũng gặp
các vấn đề tương tự như đối với hành vi áp đặt giá bán bất hợp lý. Cách tiếp cận quy định
hiện hành không những đặt ra các đòi hỏi pháp lý gây khó khăn cho quá trình thực thi luật
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
77
mà còn làm sai lệch bản chất, mục đích của việc điều chỉnh. Trong thời gian tới, Việt Nam
cần đánh giá nghiêm túc về cách tiếp cận hiện hành, tránh tình trạng quy định quá chi tiết,
quá cụ thể về các hành vi bởi càng quy định chi tiết, càng bó hẹp phạm vi và càng khó áp
dụng trên thực tiễn.
Tiếp cận liệt kê theo các hình thức biểu hiện chi tiết của hành vi tất yếu dẫn
tới việc bỏ sót hành vi phản cạnh tranh, tạo kẽ hở pháp lý để doanh nghiệp lách luật
Bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam trong những năm qua, đặc biệt là khi Việt
Nam hội nhập sâu, rộng hơn với nền kinh tế quốc tế, đã có nhiều thay đổi làm cho một số
nội dung của Luật Cạnh tranh không còn phù hợp, hoặc chưa bắt kịp với thực tiễn kinh
doanh của doanh nghiệp. Nhiều chiến lược cạnh tranh mới, trong đó có cả các hành vi
phản cạnh tranh đã ―du nhập‖ và được các doanh nghiệp vận dụng trong hoạt động kinh
doanh. Các hành vi hạn chế cạnh tranh mang tính chất đóng cửa thị trường/loại bỏ đối thủ
cạnh tranh (market foreclosure/exclusionnary) hoặc mang tính chất tận thu (exploitative)
được thực hiện dưới nhiều hình thức mới với mức độ tinh vi, phức tạp ngày càng cao hơn.
Trong khi đó các quy định hiện hành của Luật Cạnh tranh còn mang tính kỹ thuật,
cứng nhắc chưa nhắm vào bản chất phản cạnh tranh của hành vi mà chỉ nhắm đến hình
thức biểu hiện bên ngoài của hành vi và vì vậy, chưa bắt kịp với điều kiện thực tiễn, gây
khó khăn cho quá trình thực thi pháp luật. Đơn cử như hành vi ―ép giá‖ (Margin
Squeezing), mặc dù pháp luật cạnh tranh thế giới đã điều chỉnh từ lâu và hành vi đã xuất
hiện tương đối phổ biến tại Việt Nam nhưng pháp luật cạnh tranh hiện hành không quy
định điều chỉnh hành vi này. Vì vậy, cơ quan cạnh tranh trong một số trường hợp đã phải
vận dụng các quy định khác để giải quyết vụ việc, giải quyết các vấn đề phát sinh từ hành
vi ép giá một cách khiên cưỡng.
Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng bỏ sót hành vi như trên, Nhóm nghiên cứu
cho rằng vấn đề chính không nằm ở chỗ phải rà soát để bổ sung toàn bộ các hành vi mà
nằm ở cách tiếp cận ban hành các quy định. Với cách tiếp cận hiện hành, Nhóm nghiên
cứu cho rằng ngay cả khi pháp luật cạnh tranh liệt kê hàng trăm hành vi phản cạnh tranh
dựa theo hình thức biểu hiện bên ngoài vẫn không thể bao quát hết các hành vi, đặc biệt là
khi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng diễn biến phức tạp. Vì vậy, bên
cạnh việc rà soát các hành vi mới, vấn đề cần tập trung nghiên cứu để sửa đổi chính là
cách tiếp cận ban hành và thực thi pháp luật, giữ được cân bằng giữa phương pháp liệt kê,
mô tả và các quy định nhắm vào bản chất của hành vi.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
78
4. Quy định về biện pháp xử lý vi phạm
Trong hệ thống pháp luật cạnh tranh hiện hành, biện pháp xử lý vi phạm được quy
định cụ thể tại Nghị định 120/2005/NĐ-CP, theo đó bao gồm: (1) Phạt cảnh cáo; (2) Phạt
tiền; và (3) Các biện pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả. Trong các hình thức xử
phạt và khắc phục hậu quả trên đây, biện pháp cảnh cáo chỉ được áp dụng trong một số ít
trường hợp liên quan đến các hành vi vi phạm quy định về cung cấp thông tin, tài liệu, tiết
lộ thông tin, tài liệu thuộc bí mật điều tra hoặc gây rối tại phiên điều trần (Điều 39-40,
Nghị định 120/2005/NĐ-CP). Đối với các vi phạm về lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc
quyền, cơ quan cạnh tranh có thể áp dụng biện pháp phạt tiển đến 10% tổng doanh thu
trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của doanh nghiệp, một số biện
pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3, 4, Điều 4 của Nghị
định 120/2005/NĐ-CP.
Qua một số vụ việc thực tiễn, Nhóm nghiên cứu nhận thấy quy định hiện hành của
Luật Cạnh tranh và Nghị định 120/2005/NĐ-CP về xử lý vi phạm liên quan đến lạm dụng
vị trí thống lĩnh/độc quyền có thể làm phát sinh một số vấn đề chính như sau:
4.1. Mức phạt tiền được xác định căn cứ trên tổng doanh thu của năm tài chính
trước năm thực hiện hành vi vi phạm là không hợp lý
Theo quy định hiện hành của pháp luật, mức phạt tiền đối với hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh/độc quyền có thể lên đến 10% tổng doanh thu của năm tài chính trước năm
thực hiện hành vi vi phạm. Vấn đề đặt ra là, trong các vụ việc hạn chế cạnh tranh, doanh
nghiệp liên quan thường kinh doanh đa nghành nghề, ví dụ: ngoài việc kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ đang xem xét, đa phần các doanh nghiệp liên quan đều có kinh doanh thêm
các hàng hóa, dịch khác. Thậm chí trong một số vụ việc, doanh thu phát sinh từ việc kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ có liên quan trực tiếp đến hành vi vi phạm chỉ chiếm một phần
rất nhỏ trong tổng doanh thu của doanh nghiệp. Đối với những trường hợp này, việc xác
định mức xử phạt căn cứ theo tổng doanh thu theo quy định dường như không tương xứng
với mức độ tác động, ảnh hưởng của doanh nghiệp khi thực hiện hành vi vi phạm trên thị
trường.
Cũng từ những nhận định trên, do pháp luật hiện hành quy định tương đối linh hoạt
về mức xử lý vi phạm (0-5%; 5-10% Tổng doanh thu) nên các cơ quan cạnh tranh có xu
hướng lựa chọn tỷ lệ tính mức phạt rất thấp. Ví dụ: trong vụ việc liên quan đến hành vi
lạm dụng vị trí độc quyền của Vinapco, hay trong vụ việc liên quan đến hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh của 19 doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan cạnh tranh đã xác định
mức phạt rất thấp chỉ tương đương 0.025% tổng doanh thu. Vấn đề đặt ra là, đối với
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
79
những hành vi bị xử phạt ở khung phạt từ 5-10% tổng doanh thu theo quy định thì kể cả
khi cơ quan cạnh tranh áp dụng triệt để các tình tiết giảm nhẹ, tỷ lệ tính mức xử phạt tối
thiểu cũng phải là 5%. Đối với những trường hợp này, nếu lấy tổng doanh thu trong năm
tài chính để làm căn cứ tính mức phạt thì mức phạt có thể rất lớn, thậm chí có thể khiến
doanh nghiệp phá sản bởi quyết định xử lý vụ việc và tất nhiên, đó là trường hợp mà
không một cơ quan cạnh tranh nào trên thế giới mong muốn bởi nó có thể đi ngược lại với
mục tiêu bảo vệ, giữ gìn cạnh tranh.
4.2. Thiếu cơ sở để xác định mức phạt tiền cụ thể đối với các doanh nghiệp thực
hiện hành vi vi phạm
Đối với hình thức phạt tiền, hiện nay pháp luật cạnh tranh quy định 02 khung xử
phạt chính là từ 0 - 5% và từ 5 - 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực
hiện hành vi vi phạm. Do các khung phạt trên là rất rộng, đặc biệt khi sử dụng căn cứ tính
phạt là tổng doanh thu, Nghị định 120/2005/NĐ-CP quy định một số căn cứ để xác định
mức độ xử lý đối với các hành vi vi phạm. Cụ thể, Điều 7, Nghị định 120/2005/NĐ-CP
quy định một số yếu tố mà cơ quan cạnh tranh có thể xem xét khi xác định mức độ xử lý
vi phạm sau:
1. Mức độ gây hạn chế cạnh tranh do hành vi vi phạm gây ra.
2. Mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra.
3. Khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các đối tượng vi phạm.
4. Thời gian thực hiện hành vi vi phạm.
5. Khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
6. Các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 8 của Nghị định
này.
Mặc dù vậy, pháp luật cạnh tranh không quy định cách thức sử dụng các yếu tố để
xác định tỷ lệ tính mức phạt như thế nào, chí ít là về mặt nguyên tắc. Điều này gây khó
khăn cho cơ quan cạnh tranh trong việc xác định mức phạt tiền cụ thể đối với các doanh
nghiệp vi phạm, thậm chí gây tranh cãi trong quyết định mức độ xử lý vi phạm hoặc có
thể dẫn đến việc tùy tiền trong quyết định mức phạt. Ở một góc nhìn khác, việc thiếu cơ
sở pháp lý trong xác định mức phạt tiền cụ thể sẽ dẫn đến những quan ngại về tính minh
bạch, tính có thể dự đoán trước (predictability), tính hợp lý trong quá trình xử lý vi phạm.
5. Quy định về biện pháp xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả
Cũng tương tự như cách tiếp cận quy định về hành vi, pháp luật cạnh tranh Việt Nam
cũng liệt kê một cách chi tiết các biện pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả mà cơ
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
80
quan cạnh tranh có thể áp dụng. Đối với biện pháp xử phạt bổ sung, pháp luật cạnh tranh
quy định 02 biện pháp, trong đó bao gồm ―tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để
thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc
thực hiện hành vi vi phạm‖ là biện pháp có thể áp dụng đối với các vi phạm về lạm dụng
vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền trên thị trường. Đối với biện pháp khắc phục
hậu quả, Nghị định 120/2005/NĐ-CP liệt kê 09 biện pháp áp dụng đối với các vi phạm
liên quan đến hành vi lạm dụng, ví dụ: Buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật
ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh liên quan; Buộc loại bỏ các điều kiện bất lợi
đã áp đặt cho khách hàng; Buộc khôi phục các điều kiện phát triển kỹ thuật, công nghệ
mà doanh nghiệp đã cản trở; Buộc cơ cấu lại doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường…
Về biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi
phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi
vi phạm, mặc dù việc tịch thu khoản lợi nhuận bất hợp pháp là cần thiết trong một số
trường hợp, tuy nhiên Nhóm nghiên cứu nhận thấy việc coi biện pháp này là một biện
pháp xử phạt bổ sung là chưa hợp lý và khiên cưỡng. Xét trên nhiều góc độ, khoản lợi
nhuận thu được từ hành vi vi phạm không phải, và không thể là tang vật hay phương tiện
sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm. Trong khi pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
xem xét khoản lợi nhuận bất hợp pháp dưới hình thức biện pháp khắc phục hậu quả, pháp
luật cạnh tranh cũng cần điều chỉnh để đảm bảo tính nhất quán trong hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật.
Về biện pháp khắc phục hậu quả, có thể nói pháp luật cạnh tranh Việt Nam đã áp
dụng cả các biện pháp khắc phục hậu quả theo hành vi (behaviorial remedies) và biện
pháp khắc phục hậu quả theo cấu trúc (structural remedies). Nghiên cứu, so sánh quy định
về hành vi và quy định về khắc phục hậu quả, có thể thấy về bản chất hầu hết các biện
pháp khắc phục hậu quả theo quy định hiện hành đều hướng tới mục tiêu chính là dừng,
chấm dứt hành vi vi phạm. Ví dụ: buộc loại bỏ các điều kiện bất lợi đã áp đặt cho khách
hàng chỉ áp dụng đối với các vi phạm liên quan đến khoản 2, Điều 14 của Luật Cạnh tranh
áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng; biện pháp buộc sử dụng hoặc bán lại các sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp đã mua nhưng không sử dụng chỉ áp dụng
đối với các vi phạm liên quan đến hành vi mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng
công nghiệp để tiêu hủy hoặc không sử dụng (điểm a, khoản 3, Điều 28, Nghị định
116/2005/NĐ-CP)…. Ở nhóm biện pháp khắc phục hậu quả theo cấu trúc, Nghị định
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
81
116/2005/NĐ-CP sử dụng biện pháp buộc cơ cấu lại doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường để cải thiện cạnh tranh trên thị trường.
Thực tiễn điều tra, xử lý các vụ việc hạn chế cạnh tranh nói chung và lạm dụng vị trí
thống lĩnh/độc quyền tại Việt Nam cho thấy vai trò của biện pháp khắc phục hậu quả vẫn
chưa được nhìn nhận một cách đầy đủ. Mặc dù liệt kê nhiều biện pháp khắc phục hậu quả,
tuy nhiên các biện pháp đưa ra đều ở dưới dạng các quy định cứng nhắc, có thể phù hợp
đối với một vài vụ việc mà không phù hợp với các vụ việc, các ngành khác. Theo kinh
nghiệm của các nước đi trước, nhóm biện pháp khắc phục theo hành vi thường được đưa
ra dưới dạng buộc một doanh nghiệp phải thực hiện một số yêu cầu của cơ quan cạnh
tranh hoặc chấm dứt thực hiện các hành vi có tác động xấu tới môi trường cạnh tranh.
Biện pháp khắc phục theo hành vi, vì vậy, thường rất linh hoạt để phù hợp với từng điều
kiện, hoàn cảnh thị trường cũng như đặc thù trong hoạt động kinh doanh của từng doanh
nghiệp.
Trên thực tiễn, pháp luật cạnh tranh của nhiều nước không quy định quá chi tiết, cụ
thể về các biện pháp khắc phục hậu quả mà đòi hỏi cơ quan cạnh tranh phải xem xét, đánh
giá và quyết định về biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng vụ việc, từng ngành. Ví
dụ: Luật chống độc quyền Nhật Bản quy định cơ quan cạnh tranh có quyền yêu cầu doanh
nghiệp vi phạm thực hiện các biện pháp cần thiết để loại trừ những hành vi vi phạm.
Chính vì vậy, các cơ quan cạnh tranh quốc tế đều có chung quan điểm cho rằng việc thiết
kế được biện pháp khắc phục hậu quả phù hợp, hiệu quả là một nội dung điều tra không
kém phần quan trọng so với điều tra xác định vị trí thống lĩnh và hành vi lạm dụng. Trong
tương lai, để luật cạnh tranh thực sự phát huy hiệu quả, Việt Nam cần nghiên cứu, điều
chỉnh cách tiếp cận về biện pháp khắc phục hậu quả theo hướng điều chỉnh tác động của
hành vi thay vì điều chỉnh trực tiếp các biểu hiện bên ngoài của hành vi như hiện nay.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
82
PHẦN 3: KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM VỀ
KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH/ĐỘC QUYỀN
I. Thay đổi cách thực xác định vị trí thống lĩnh/độc quyền
Trên cơ sở những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn hơn 6 năm thực thi pháp luật
cạnh tranh Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường/độc quyền
đã cho thấy nhu cầu cấp thiết phải thay đổi cách thức xác định vị trí thống lĩnh/độc quyền
hiện nay. Việc sửa đổi có thể được thực hiện theo hướng như sau:
Thứ nhất, xóa bỏ cách thức đánh giá vị trí thống lĩnh/sức mạnh thị trường phụ thuộc
vào tiêu chí thị phần, theo các mức thị phần cố định như hiện nay.
Thứ hai, sửa đổi cụm từ ―Khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể‖ thành
―Khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường liên quan‖ và xây
dựng các quy định về ―Khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường
liên quan‖ thành hệ thống tiêu chí duy nhất để đánh giá vị trí thống lĩnh/ sức mạnh thị
trường đáng kể của doanh nghiệp.
Việc xây dựng hệ thống các tiêu chí giúp đánh giá vị trí thống lĩnh/ sức mạnh thị
trường đảng kể của doanh nghiệp (hoặc nhóm doanh nghiệp) cần thiết được cân nhắc kỹ
lưỡng trên cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn kinh doanh tại Việt Nam. Dưới
đây là một số tiêu chí phổ biến (không phải tất cả các tiêu chí được sử dụng hiện nay) mà
cơ quan cạnh tranh Việt Nam có thể tham khảo nhằm xác định vị trí thống lĩnh/ sức mạnh
thị trường đáng kể của doanh nghiệp:
(1) Thị phần
Trước tiên, cơ quan cạnh tranh cần dữ liệu thị phần hiện tại của doanh nghiệp nghi
vấn cũng như các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp này. Về cơ bản, thị phần thường
được tính toán dựa trên doanh thu hoặc số lượng hàng bán ra, hoặc năng lực sản xuất của
doanh nghiệp. Một yếu tố khác cũng cần xem xét là sự phân bổ thị phần trên thị trường.
Phân bổ thị phần bất đối xứng (VD: một công ty chiếm 50% thị phần và 3 công ty còn lại
mỗi công ty chiếm 10% thị phần) sẽ dễ tạo ra sức mạnh thị trường cho doanh nghiệp lớn
hơn là khi thị phần được chia đều (mỗi công ty chiếm 20% thị phần). Bên cạnh đó, những
thay đổi về thị phần trong quá khứ có thể cung cấp thông tin hữu ích về quá trình cạnh
tranh, cũng như khả năng vận động của thị trường giữa các đối thủ cạnh tranh thông qua
mức độ tăng, giảm thị phần.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
83
Tuy nhiên, thị phần không chỉ là yếu tố duy nhất giúp xác định tình hình cạnh tranh
trên thị trường. Vì thế, cần phân tích thêm các yếu tố khác để đánh giá cụ thể, chính xác vị
trí thống lĩnh/sức mạnh thị trường của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp.
(2) Rào cản gia nhập và mở rộng sản xuất
Sức mạnh thị trường lớn chỉ có được khi khả năng mở rộng sản xuất hoặc gia nhập
thị trường khó khăn, và khi đó, doanh nghiệp sẽ có thể duy trì hành động đơn phương
trong khoảng thời gian tương đối. Tuy nhiên, cơ quan cạnh tranh cũng không nhất thiết
phải tìm chứng cứ về rào cản mở rộng hoặc gia nhập thị trường trong lĩnh vực thường
xuyên có sự gia nhập mới các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu nỗ lực nhằm mở rộng
hoặc gia nhập không thành công, có thể do hành vi ngăn cản, thì việc mở rộng hoặc gia
nhập ít có khả năng gây ra hạn chế cạnh tranh.
Khả năng gia nhập hoặc mở rộng thị trường có thể được đánh giá theo một số tiêu
chí như: Lợi nhuận dự kiến của doanh nghiệp, các rào cản về cấu trúc, chính sách, chiến
lược, công nghệ, thời điểm gia nhập và mở rộng thị trường, hiệu quả của việc gia nhập và
mở rộng thị trường v.v…
(3) Rào cản rút lui khỏi thị trường
Rủi ro khi mở rộng hoặc gia nhập thị trường cũng phụ thuộc vào chi phí mà doanh
nghiệp phải chấp nhận khi việc mở rộng hoặc gia nhập mới không thành công. Những chi
phí đó thường là kết quả của những đầu tư vào thị trường cụ thể. Việc đầu tư vào một thị
trường cụ thể không thể không phục vụ và sử dụng cho một thị trường khác nếu công ty
đó muốn rút lui khỏi thị trường đó (thường được gọi là ―chi phí chìm‖). Vì vậy, chi phí
chìm thấp sẽ làm tăng rủi ro của việc mở rộng hoặc gia nhập thị trường mới, và ngược lại,
chi phí chìm cao sẽ ngăn ngừa được rủi ro này tốt hơn. Chi phí chìm cao, lợi nhuận cận
biên kỳ vọng sẽ cao hơn và thu hút việc gia nhập và mở rộng thị trường.
(4) Sức mạnh của người mua
Vị trí của người mua trên thị trường cung cấp dấu hiệu về khả năng họ có thể hạn
chế hành vi lạm dụng của doanh nghiệp. Người mua có sức mạnh lớn có thể tận dụng khả
năng thương lượng để thúc đẩy cạnh tranh giữa các nhà cung cấp và phá vỡ những hành
động hợp tác của nhóm doanh nghiệp, gián tiếp đe dọa bằng cách chuyển đơn hàng đến
nhà cung ứng khác, xây dựng mạng lưới cung ứng mới, hoặc đe dọa sẽ thiết lập mạng lưới
tự cung ứng cấp trên.
(5) Độ co giãn về cầu
Độ co giãn về cầu mà doanh nghiệp phải đối mặt tác động đến khả năng tăng giá sản
phẩm của công ty đó, sau khi tính toán đến phản ứng về cầu của khách hàng và các nhà
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
84
cung cấp trước sự tăng giá của đối thủ cạnh tranh. Một doanh nghiệp sẽ có độ co giãn về
cầu cao hơn trong trường hợp các đổi thủ cạnh tranh có phản ứng ―hiệu quả‖ thông qua
việc tăng sản lượng đầu ra. Ngược lại, độ co giãn về cầu thấp sẽ cho thấy doanh nghiệp đó
có sức mạnh thị trường cao hơn.
(6) Khả năng sinh lợi nhuận
Một cách tiếp cận khác có ích trong một số trường hợp cụ thể nhằm xác định liệu
năng lực hoạt động của doanh nghiệp (khả năng sinh lợi nhuận) đồng nhất với quan ngại
rằng doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể hay không. Phương pháp đánh giá vị
thế của doanh nghiệp dựa vào khả năng sinh lợi nhuận có thể mang lại kết quả chính xác
trong trường hợp các số liệu thu thập được có liên quan và đáng tin cậy. Tỷ suất lợi nhuận
cao sẽ chỉ ra bằng chứng về sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp và có thể được
sử dụng làm bằng chứng cho các vụ việc về hạn chế cạnh tranh.
Trong sáu tiêu chí trên, cũng như tất cả tiêu chí khác, không có tiêu chí đơn lẻ nào
cho phép khẳng định doanh nghiệp nắm giữ vị trí thống lĩnh/độc quyền, nhưng nếu nhiều
tiêu chí, nhiều dấu hiệu cùng kết hợp lại thì có thể cho phép khẳng định điều đó.
Ngoài ra, các tiêu chí cần được quy định theo hướng mở, tránh quá bó hẹp để cơ
quan cạnh tranh có thể đưa ra đánh giá, nhận định phù hợp trong các trường hợp cụ thể.
II. Xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá hành vi lạm dụng
Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành mới chỉ đưa ra định nghĩa hành
vi hạn chế cạnh tranh, vị trí thống lĩnh/độc quyền mà chưa có định nghĩa hoặc các tiêu chí
chung nhất để xác định như thế nào là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền. Thiếu
sót này khiến doanh nghiệp không hiểu được bản chất của hành vi để tránh; đồng thời có
thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong nội bộ các cơ quan cạnh tranh, từ đó dẫn tới
thiếu định hướng, thậm chí nhầm lẫn trong quá trình thực thi. Việc thiếu một định nghĩa
chung hoặc các tiêu chí đó đồng thời dẫn tới việc phân nhóm, liệt kê các hành vi chưa rõ
ràng và chưa hợp lý.
Ngoài ra, các quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/ độc quyền chưa bao
quát được toàn điện các hành vi lạm dụng gây tác động hạn chế cạnh tranh. Lý do như
sau: Luật Cạnh tranh hiện hành định nghĩa hành vi lạm dụng bằng cách liệt kê một số
lượng hạn chế các hành vi lạm dụng tiêu biểu. Trong khi đó, kinh nghiệm 6 năm thực thi
các quy định này cho thấy, cơ quan cạnh tranh đã phải đối mặt với nhiều vụ việc mà hành
vi bị điều tra cũng có tác động hạn chế cạnh tranh giống với những hành vi được Luật liệt
kê. Tuy nhiên, do các hành vi đó không được liệt kê và giải thích trong Luật hiện hành,
nên cơ quan cạnh tranh không thể sử dụng Luật Cạnh tranh để xử lý các hành vi đó.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
85
Do vậy, cần thiết phải xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh/ độc quyền, đồng thời phải có quy định bao quát các hành vi lạm dụng có tác
động hạn chế cạnh tranh có thể xảy ra. Trong thời gian tới, quy định của Luật Cạnh tranh
về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền có thể được sửa đổi theo hướng sau:
- Xây dựng các tiêu chí cơ bản nhằm xác định hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh/độc quyền;
- Liệt kê một số dạng hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền cơ bản căn
cứ theo các tiêu chí như trên;
- Đưa ra một điều khoản quét (basket clause) để bao quát các hành vi có bản
chất tương tự.
Mặt khác, như đã trình bày tại Phần 2, cùng với việc thay đổi đổi cách thức xác định
vị trí thống lĩnh/độc quyền như đã nêu tại mục 1, các quy định giải thích cụ thể về hành vi
lạm dụng vị trí thị trường cũng phải được bãi bỏ.
III. Thay đổi cách thức phân loại nhóm hành vi và quy định cấm
Hiện nay, Luật Cạnh tranh Việt Nam đang phân loại các hành vi lạm dụng thành hai
nhóm, gồm: hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và lạm dụng vị trí độc quyền; và tất cả
hành vi đó đều bị nghiêm cấm trong mọi trường hợp. Tuy nhiên, việc phân loại nhóm
hành vi và áp dụng nguyên tắc vi phạm mặc nhiên (per se illegal) đối với mọi trường hợp
như trên chưa thực sự phù hợp (như đã phân tích tại mục 3, Chương II). Do vậy, Luật
Cạnh tranh cần thiết được sửa đổi theo hướng:
Phân loại, nhóm hành vi theo bản chất, tác động của hành vi;
Không nên cấm tuyệt đối mọi hành vi, trong mọi trường hợp mà nên trao quyền cho
cơ quan cạnh tranh trong việc đánh giá bản chất và tác động của hành vi để đưa ra quyết
định hợp lý.
Về vấn đề này, pháp luật cạnh tranh trên thế giới cũng có những quan điểm, cách
đánh giá khác nhau. Cụ thể:
Pháp luật cạnh tranh của trên thế giới có nhiều cách phân loại các hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh/độc quyền khác nhau, nhưng không nằm ngoài mục tiêu phản ánh chính
xác bản chất hành vi, từ đó quyết định có nên cấm tuyệt đối hành vi hay không. Nhìn
chung, pháp luật cạnh tranh thường có thái độ khác nhau đối với hai nhóm hành vi: (i)
nghiêm cấm đối với hành vi Ấn định giá bán lại (Resale Price Maintenance- RPM), (ii)
các hành vi lạm dụng khác không liên quan đến giá có thể được xem xét, cân nhắc giữa
những tác động tích cực và tiêu cực của hành vi.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
86
Ấn định giá bán lại là việc một nhà sản xuất/cung cấp thỏa thuận với các nhà phân
phối/bán lẻ nhằm kiểm soát mức giá của sản phẩm mà các nhà phân phối/bán lẻ bán lại
cho khách hàng sau khi mua sản phẩm đó từ nhà sản xuất/cung cấp. Ấn định giá bán lại có
thể diễn ra dưới ba dạng cơ bản, đó là: ấn định giá bán lại cố định (fixed RPM), ấn định
giá bán lại tối đa (maximum RPM), và ấn định giá bán lại tối thiểu (minimum RPM). Lần
lượt theo các hình thức ấn định giá bán lại này, các nhà PP-BL chỉ được phép bán lại sản
phẩm cho khách hàng theo một mức giá (i) cụ thể không đổi, hoặc (ii) không cao hơn hay
(iii) không thấp hơn một mức giá xác định mà nhà sản xuất/cung cấp đã ấn định. Ấn định
giá bán lại liên quan đến hai nhóm chủ thể kinh doanh hoạt động trên hai giai đoạn khác
nhau của một chu trình kinh doanh: giai đoạn sản xuất/cung cấp và giai đoạn phân
phối/bán lẻ. Do đó, dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, hành vi ấn định giá bán lại còn được
gọi là ấn định giá theo chiều dọc (vertical price fixing) để phân biệt với hành vi ấn định
giá theo chiều ngang (horizontal price fixing)-tức thỏa thuận ấn định giá giữa các đối thủ
cạnh tranh, cùng hoạt động trên cùng một giai đoạn của một chu trình kinh doanh.
Tuy nhiên, EU và Hoa Kỳ lại có cách nhìn nhận khác nhau về hành vi ấn định giá
bán lại, và do đó cũng có xử lý khác nhau đối với hành vi này. Cụ thể:
Về lý thuyết, Ủy ban Châu Âu cho rằng ấn định giá bán lại có hai ảnh hưởng tiêu
cực tới cạnh tranh: (i) làm giảm cạnh tranh về giá của một nhãn hiệu sản phẩm, và (ii) làm
gia tăng sự minh bạch về giá theo chiều hướng xấu cho cạnh tranh. Thứ nhất, trong trường
hợp ấn định giá bán lại cố định hay ấn định giá bán lại tối đa, các nhà phân phối/bán lẻ
không còn cạnh tranh với nhau về giá của nhãn hiệu sản phẩm liên quan. Điều này dẫn
đến việc triệt tiêu cạnh tranh về giá của nhãn hiệu sản phẩm đó. Trong khi đó, ấn định giá
bán lại tối đa hay đề xuất giá bán lại là một tiêu điểm, qua đó ít hay nhiều có thể dẫn đến
việc thống nhất giá bán lại tại mức giá tối đa hay mức giá đề xuất đó. Thứ hai, khi giá bán
lại và sự thay đổi giá bán lại được công khai như vậy sẽ khiến cho việc thỏa thuận ngầm
theo chiều ngang giữa các nhà sản xuất/cung cấp hay giữa các nhà phân phối/bán lẻ dễ
dàng hơn, ít nhất là trên thị trường có ít đối thủ cạnh tranh. Qua đó, việc giảm cạnh tranh
đối với một nhãn hiệu sản phẩm có thể gián tiếp dẫn đến việc giảm cạnh tranh giữa các
sản phẩm có khả năng thay thế nhau. 14
Tuy nhiên, trong xu thế đề cao việc bảo vệ cạnh tranh giữa các sản phẩm có khả
năng thay thế nhau hơn là việc bảo vệ cạnh tranh trong một nhãn hiệu sản phẩm nhất định
14
Xem European Commission Guidelines on Vertical Restraints, OJ 2000 C291/1, đoạn 111-112.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
87
của pháp luật cạnh tranh hiện đại, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã lần lượt hủy bỏ phán quyết
Albrecht và Dr. Miles bằng phán quyết Khan 15
và Leegin16
vào năm 1997 và 2007. Theo
đó, hành vi ấn định giá bán lại tối đa và ấn định giá bán lại tối thiểu không còn bị coi là vi
phạm mặc nhiên Đạo luật Sherman. Để khẳng định chúng có vi phạm hay không, các
hành vi này phải được xem xét theo nguyên tắc lập luận hợp lý (rule of reason), tức phải
đánh giá các yếu tố liên quan đến các hạn chế cạnh tranh này, cân bằng giữa các lợi ích
thúc đẩy cạnh tranh và các ảnh hưởng tiêu cực hạn chế cạnh tranh mà các hạn chế cạnh
tranh đó mang lại để xem về bản chất chúng có tác dụng thực sự khuyến khích cạnh tranh
hay ngăn cản cạnh tranh.17
.
IV. Sửa đổi, bổ sung quy định về biện pháp xử lý vi phạm
- Về hệ thống các hình thức xử lý vi phạm:
Pháp luật cạnh tranh hiện hành quy định 03 nhóm biện pháp xử lý vi phạm đối với
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền, gồm: hình phạt chính (phạt tiền), hình phạt
bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả. Các phân loại này là tương tự như nhiều ngành
luật khác. Tuy nhiên, đối với pháp luật cạnh tranh việc phân biệt hình phạt bổ sung và
biện pháp khắc phục hậu quả như trên là không cần thiết. Vì vậy, có thể rút gọn hệ thống
các hình thức xử lý vi phạm đối với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền chỉ gồm
2 nhóm hình thức xử phạt là: hình phạt chính (phạt tiền) và biện pháp khắc phục hậu quả.
Trong đó, hình phạt chính được áp dụng đối với mọi trường hợp cơ quan cạnh tranh quyết
định xử lý vi phạm; biện pháp khắc phục hậu quả chỉ được áp dụng trong trường hợp cần
thiết, do cơ quan cạnh tranh quyết định.
Đồng thời, pháp luật cạnh tranh nên có các quy định cụ thể hơn về việc xử lý vi
phạm đối hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền. Trong
đó, Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành cần khẳng định một cách thống
nhất: hình phạt chính áp dụng cho nhóm hành vi này chỉ là phạt tiền, và không áp dụng
biện pháp phạt cảnh cáo.
- Đối với hình phạt chính (phạt tiền):
Mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm nên được xác định trên doanh thu của doanh
nghiệp trên thị trường liên quan của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm.
15
State Oil Co. v. Khan, 522 U.S. 3 (1997). 16
Leegin Creative Leather Products v. PSKS, 127 S.Ct. 2705 (2007). 17
Nguyễn Thanh Tú, ―Nguyên tắc lập luận hợp lý và nguyên tắc vi phạm mặc nhiên trong pháp luật cạnh tranh‖, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, số 1(225), 2007, tr. 52-62.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
88
Ban hành các quy định về nguyên tắc áp dụng biện pháp phạt tiền, căn cứ tính toán
mức phạt, cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Các quy định trên sẽ tạo căn cứ
vững chắc trong việc quyết định mức phạt, tránh tùy tiện trong khi ra quyết định xử lý vi
phạm và tăng tính minh bạch trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ việc.
- Đối với các biện pháp khắc phục hậu quả
Nhằm hướng tới mục đích nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp và
khôi phục tình trạng cạnh tranh đã bị bóp méo, cơ quan cạnh tranh có thể áp dụng thêm
một số biện pháp khắc phục hậu quả khác. Một số biện pháp xử lý vi phạm mới nên được
nghiên cứu và đưa vào áp dụng như: buộc doanh nghiệp công bố quyết định xử lý vi phạm
đối với hành vi vi phạm của họ (trích lục); hoặc đăng thông cáo với nội dung do cơ quan
cạnh tranh quy định trên một số tờ báo hay ấn phẩm khác theo chỉ định của cơ quan cạnh
tranh; đưa nội dung quyết định xử lý vi phạm vào trong nội dung báo cáo hoạt động
thường niên của doanh nghiệp; buộc lãnh đạo và nhân viên các doanh nghiệp vi phạm
phải tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn về pháp luật cạnh tranh nhằm nâng cao nhận
thức và ý thức pháp luật cạnh tranh v.v…
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
89
CHƢƠNG III:
TẬP TRUNG KINH TẾ
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ QUY ĐỊNH VỀ KIỂM SOÁT
TẬP TRUNG KINH TẾ
I. TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ
1. Mục tiêu của chính sách kiểm soát TTKT
Ở mỗi quốc gia, chính sách kiểm soát TTKT (TTKT) là một bộ phận trong tổng thể
các chính sách của chính phủ, bao gồm chính sách công, chính sách kinh tế và chính sách
cạnh tranh. Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, Nhóm nghiên cứu chỉ tập trung phân
tích chính sách kiểm soát TTKT theo khía cạnh là một bộ phận của chính sách cạnh tranh.
Xét về cạnh tranh, mục tiêu cốt lõi của chính sách kiểm soát TTKT là nhằm đảm bảo
hoạt động TTKT không hoặc không tiềm ẩn nguy cơ gây ra tác động tiêu cực tới hoạt
động cạnh tranh trên thị trường.
Là một bộ phận của chính sách cạnh tranh nói chung, chính sách TTKT được cụ thể
hóa là một trong ba lĩnh vực điều chỉnh của Luật Cạnh tranh, bao gồm: thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền và kiểm soát TTKT. Các quy định về
kiểm soát TTKT có tác động tiền kiểm, nhằm ngăn chặn các vụ việc sáp nhập có khả năng
làm phương hại tới cạnh tranh. Trong khi đó, các quy định điều chỉnh hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh và hành vi dụng vị trí thống lĩnh thị trường lại có nhắm tới hậu kiểm,
xử lý các hành vi làm phương hại tới cạnh tranh trên thị trường.
Việc đưa các quy định về TTKT vào Luật Cạnh tranh, nhằm ngăn chặn các vụ việc
mới chỉ có khả năng gây phương hại cho cạnh tranh là do:
Thứ nhất, TTKT ngay lập tức loại bỏ áp lực cạnh tranh giữa các bên tham gia
vào vụ việc và làm giảm số lượng các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Khi tác động loại
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
90
bỏ cạnh tranh của vụ việc TTKT đủ lớn, thị trường sẽ mất dần định hướng hiệu quả kinh
tế; đồng thời trong một số trường hợp, doanh nghiệp thành lập sau vụ việc TTKT không
cần phải thực hiện các hành vi phạm các quy định mang tính hậu kiểm của Luật Cạnh
tranh mà vẫn có thể loại bỏ được các đối thủ cạnh tranh và thu lợi từ thị trường.
Thứ hai, hiệu quả của công tác thực thi Luật Cạnh tranh không phải là 100%.
Không phải vi phạm nào cũng có thể bị phát hiện và xử lý. Do đó, việc áp dụng các biện
pháp tiền kiểm có thể giúp giảm bớt áp lực cho cơ quan thực thi Luật. Ngoài ra, ngay cả
khi có thể thực hiện các biện pháp khắc phục ở khâu hậu kiểm đối với các vụ việc TTKT
bị phát hiện có tác động xấu tới cạnh tranh, thì các biện pháp này cũng rất tốn kém.
Tóm lại, chính sách kiểm soát TTKT là nhằm mục đích ngăn ngừa việc thay đổi cấu
trúc thị trường có thể dẫn đến việc làm tổn hại tới động lực cạnh tranh trên thị trường, từ
đó làm suy giảm hiệu quả kinh tế và xâm hại tới lợi ích của người tiêu dùng.
2. Các dạng vụ việc TTKT
Thực tế cho thấy, hầu hết các vụ việc TTKT không làm nảy sinh lo ngại về mặt cạnh
tranh. Do đó, cơ quan cạnh tranh cần phân định rõ các dạng vụ việc TTKT mà họ cần tập
trung nguồn lực để xử lý. Thông thường, việc đánh giá một vụ việc TTKT bao gồm hai
bước:
Xem xét xem liệu một giao dịch nhất định có thực sự là một vụ việc TTKT?
Liệu vụ việc TTKT đó có làm nảy sinh lo ngại về cạnh tranh để phải ngăn
chặn?
Luật Cạnh tranh các quốc gia trên thế giới nói chung đều điều chỉnh các dạng vụ
việc TTKT cơ bản, bao gồm: sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh. Luật Cạnh tranh
Việt Nam quy định:
Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ
tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng
thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
91
Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài
sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại.
Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng
nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành
một doanh nghiệp mới.
Thông thường, một giao dịch tự thân nó đã cho thấy đó có phải là một giao dịch
TTKT hay không. Tuy nhiên, có những giao dịch rất khó phân định rõ về bản chất, có thể
coi là giao dịch TTKT nhưng cũng có thể coi là một hành vi bị cấm theo quy định của
Luật Cạnh tranh về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc thậm chí về lạm dụng sức mạnh
thị trường. Những giao dịch biên dạng này có thể bao gồm: liên doanh, mua lại phần sở
hữu của cổ đông thiểu số hoặc mua lại một phần tài sản độc lập như công nghệ hoặc danh
sách khách hàng.
Với mục tiêu của chính sách TTKT như đã nêu ở trên, việc đánh giá một giao dịch
TTKT có thể được hiểu là công việc của cơ quan cạnh tranh nhằm phân tích, đánh giá
xem giao dịch đó có làm tổn hại tới động lực cạnh tranh trên thị trường, từ đó làm suy
giảm hiệu quả kinh tế hoặc xâm hại tới lợi ích của người tiêu dùng hay không. Đây là một
công việc phức tạp, khó khăn và sẽ được phân tích cụ thể ở phần tiếp theo.
Ngoài ra, để đảm bảo tính minh bạch và khả năng dự đoán, pháp Luật Cạnh tranh
các nước đều đưa ra các tiêu chí để xác định xem một vụ việc TTKT có chịu sự điều
chỉnh của pháp luật hay không. Hai tiêu chí được sử dụng phổ biến là tiêu chí về thị phần
và tiêu chí về doanh thu. Việc sử dụng các tiêu chí này như thế nào sẽ được đề cập chi tiết
hơn ở phần Ngưỡng thông báo TTKT.
II. ĐÁNH GIÁ VỤ VIỆC TẬP TRUNG KINH TẾ
Mục tiêu của việc đánh giá các vụ việc TTKT theo quy định của Luật Cạnh tranh
nhằm xác định và ngăn ngừa, hoặc đưa ra các biện pháp khắc phục đối với những vụ việc
có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.
Trong trường hợp này, khái niệm gây hạn chế cạnh tranh có thể được hiểu là hành vi
―thâu tóm, duy trì hoặc gia tăng sức mạnh thị trường‖.
Để xử lý hiệu quả các vụ việc TTKT có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách
đáng kể, chính sách và quy định kiểm soát TTKT cần xây dựng được một khung đánh giá
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
92
toàn diện. Trên cơ sở đó, cơ quan cạnh tranh cũng cần đảm bảo tính toàn diện khi đánh giá
các yếu tố giúp đưa ra quyết định một vụ việc TTKT có khả năng gây hạn chế một cách
đáng kể hay không.
1. Xác định thị trƣờng liên quan
Việc đánh giá tác động cạnh tranh thường được các cơ quan cạnh tranh đánh giá
trong các khuôn khổ thị trường có ý nghĩa về mặt kinh tế, còn gọi là thị trường liên quan.
Thị trường liên quan được xác lập thông qua hai tiêu chí: sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm
là đối tượng của giao dịch (thị trường sản phẩm liên quan)18
và khu vực địa lý nơi giao
dịch đó diễn ra (thị trường địa lý liên quan).
Cơ quan cạnh tranh Châu Âu định nghĩa: “thị trường sản phẩm liên quan bao gồm
toàn bộ các sản phẩm/dịch vụ được người tiêu dùng coi là có khả năng thay thế cho nhau
thông quan việc đánh giá đặc tính, giá cả và mục đích sử dụng của sản phẩm/dịch vụ
đó”19
.
Hướng dẫn TTKT theo chiều ngang của Hoa Kỳ quy định: “khi một sản phẩm được
bán bởi một bên tham gia TTKT (Sản phẩm A) cạnh tranh với một hoặc nhiều sản phẩm
khác được bán bởi bên tham gia TTKT còn lại, cơ quan cạnh tranh sẽ xác định thị trường
sản phẩm liên quan xung quanh Sản phẩm A để đánh giá mức độ cạnh tranh. Thị trường
sản phẩm liên quan được xác định như trên sẽ bao gồm một nhóm các sản phẩm thay thế
cho nhau bao gồm cả Sản phẩm A. Do đó, có thể có nhiều thị trường liên quan sẽ được
xác lập cho một vụ việc”20
.
Việc xác định thị trường liên quan có thể được thực hiện thông qua phép thử nhà
độc quyền giả định hay còn gọi là phép thử SSNIP (Small but significant and non-
transitory increase in price). Phép thử này nhằm kiểm tra xem một nhà độc quyền giả định
có thể tăng giá bán sản phẩm trong một khoảng thời gian liên tục nhất định mà vẫn thu
được lợi nhuận hay không.
Khi sử dụng phép thử SSNIP để xác định thị trường sản phẩm liên quan, cơ quan
cạnh tranh sẽ xác định được một hoặc một nhóm sản phẩm, trong đó, nhà độc quyền giả
18
Sản phẩm được hiểu bao gồm cả sản phẩm và dịch vụ. 19
Commission Notice on the definition of relevant market for the purpose of Community Competition Law
(97/C372?03), par. 8. 20
US. Horizontal Merger Guidelines, published 19/08/2010, p.8.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
93
định có thể tăng giá bán, ít nhất là ở mức tối thiểu đủ để khách hàng chuyển sang sử dụng
sản phẩm thay thế khác, mà vẫn thu được lợi nhuận trong điều kiện các yếu tố thị trường
khác không đổi.
Khu vực địa lý liên quan cũng có thể được xác định thông qua phép thử SSNIP khi
nhà độc quyền có thể tăng giá bán trong một khu vực địa lý nhất định trong khi các yếu tố
thị trường khác không đổi.
Khi nhà độc quyền giả định có chính sách phân biệt giá bán sản phẩm cho các đối
tượng khác hàng khác nhau hoặc trong từng khu vực địa lý nhất định, cơ quan cạnh tranh
cần cân nhắc thu hẹp thị trường liên quan tương ứng với từng nhóm khách hàng hoặc từng
khu vực địa lý cụ thể.
Ngoài ra, cũng cần đánh giá khả năng thay thế về cung, để giới hạn đối tượng đánh
giá chỉ bao gồm các doanh nghiệp tham gia trên thị trường liên quan hay mở rộng, tính
đến cả các doanh nghiệp có khả năng sẽ gia nhập thị trường đó trong một thời gian ngắn
mà không phát sinh nhiều chi phí chìm, sau khi có sự biến động về giá trên thị trường liên
quan.
2. Vai trò của thị phần - đánh giá sức mạnh thị trƣờng
Thị phần và các phương pháp đánh giá mức độ tập trung thị trường đóng một vai trò
quan trọng trong quá trình phân tích vụ việc TTKT. Vì vậy, cơ quan cạnh tranh cần cần
trọng trong việc xác định thị phần và mức độ tập trung thị trường.
Thị phần và mức độ tập trung thị trường có thể đem lại những thông tin ban đầu
giúp nhận diện khả năng gây quan ngại về cạnh tranh của vụ việc TTKT, để từ đó phục vụ
cho các phân tích sâu hơn.
Mức độ tập trung thị trường cao và thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia
TTKT lớn là một dấu hiệu cho thấy cần phải có đánh giá chi tiết hơn về tác động của vụ
việc TTKT. Tuy nhiên, cần lưu ý, đây không phải là yếu tố quyết định về khả năng gây
hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của vụ việc.
Các cơ quan cạnh tranh sử dụng các yếu tố về thị phần và mức độ tập trung thị
trường để đánh giá tác động hạn chế cạnh tranh của vụ việc TTKT cần phải đảm bảo rằng
việc sử dụng các chỉ số đó được hỗ trợ bởi các đánh giá cụ thể khác về điều kiện thị
trường.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
94
3. Các hình thức TTKT
Luật Cạnh tranh Việt Nam sử dụng tiêu chí duy nhất để đánh giá các giao dịch
TTKT: thị phần của các bên tham gia vào giao dịch. Chỉ các vụ việc làm gia tăng thị phần
của các bên tham gia TTKT mới chịu sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh. Từ đó, có thể
hiểu rằng Luật Cạnh tranh Việt Nam chỉ điều chỉnh các dạng TTKT theo chiều ngang.
Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, có thể chia các giao dịch TTKT thành các dạng như sau:
TTKT theo chiều ngang, TTKT theo chiều dọc và TTKT theo dạng tổ hợp.
3.1. TTKT theo chiều ngang
Hình thức này bao gồm những vụ TTKT của các doanh nghiệp tham gia cung ứng
cùng một loại sản phẩm hoặc các sản phẩm có thể khả năng thay thế mật thiết cho nhau.
Khái niệm TTKT theo chiều ngang ngầm ý rằng các doanh nghiệp tồn tại trên cùng một
cấp trong chuỗi sản xuất, cung ứng sản phẩm. Trước khi thực hiện TTKT, các doanh
nghiệp này thường là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp hoặc đối thủ tiềm năng.
Sáp nhập theo chiều ngang được coi là có khả năng gây quan ngại đến cạnh tranh trên
thị trường nhất do việc TTKT trực tiếp làm suy giảm số lượng đối thủ cạnh tranh độc lập
trên thị trường. Vụ việc TTKT theo chiều ngang có 2 dạng tác động chính sẽ được phân
tích ở phần tiếp theo: tác động đơn phương (unilater effects) và tác động kết hợp
(coordinated effects).
3.2. TTKT theo chiều dọc
Hình thức này bao gồm các vụ TTKT giữa các doanh nghiệp ở cấp độ khác nhau
trong cùng một chuỗi sản xuất, cung ứng sản phẩm. Nói cách khác, các vụ việc này phát
sinh khi các doanh nghiệp đang hoặc sẽ có mối quan hệ mua - bán sản phẩm thực hiện
TTKT.
Không giống như các vụ việc TTKT theo chiều ngang, các vụ TTKT theo chiều dọc
không làm giảm số lượng đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan, tuy nhiên, cũng có
thể gây ra những quan ngại đáng kể đối với cạnh tranh trên thị trường. Quan ngại nghiêm
trọng nhất liên quan tới cạnh tranh là khi vụ việc TTKT gây ra tác động đóng cửa thị
trường, ví dụ, trường hợp một doanh nghiệp sản xuất tiến hành TTKT với các nhà cung
cấp nguyên liệu đầu vào thiết yếu và từ chối cung cấp nguyên liệu thiết yếu đó cho các
đối thủ cạnh tranh khác.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
95
3.3. TTKT theo dạng tổ hợp
Hình thức này bao gồm các vụ TTKT khi các bên tham gia hoạt động sản xuất kinh
doanh trong các lĩnh vực khác nhau. Điển hình là khi các công ty không cùng sản xuất
một loại sản phẩm, và cũng không có mối quan hệ mua – bán hiện hữu hoặc tiềm năng.
Các vụ sáp nhập theo dạng tổ hợp được coi là những hình thức TTKT ít gây quan ngại
nhất đến cạnh tranh trên thị trường và thường được miễn trừ trong các quy định của Luật
Cạnh tranh.
4. Đánh giá tác động của vụ việc TTKT theo chiều ngang
Mục tiêu của việc phân tích tác động cạnh tranh trong rà soát các vụ việc TTKT theo
chiều ngang là nhằm đánh giá khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể thông
qua việc tạo lập hoặc củng cố khả năng hay động lực của doanh nghiệp trong việc lạm
dụng sức mạnh sau TTKT bằng các hành vi đơn phương hoặc kết hợp với các đối thủ
cạnh tranh hiện hữu trên thị trường.
Do đó, khi đánh giá tác động cạnh tranh, các cơ quan cạnh tranh thường cân nhắc
xem sau vụ việc TTKT có khả năng dẫn đến các hành vi lạm dụng đơn phương hoặc kết
hợp hay không. Hai cách đánh giá này được coi là hai khung đánh giá cạnh tranh để xem
xét một vụ việc TTKT.
Kinh nghiệm cho thấy, việc đánh giá tác động cạnh tranh, dù trong khuôn khổ hành
vi đơn phương hay kết hợp, cần được dựa trên các phân tích về mặt kinh tế và điều kiện
thực tế của từng vụ việc.
4.1. Tác động đơn phƣơng
Khi phân tích tác động đơn phương của vụ việc TTKT, các cơ quan cạnh tranh
thường tập trung đánh giá liệu doanh nghiệp hình thành sau TTKT có khả năng gây hạn
chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường liên quan thông qua việc tạo lập, củng cố
vị thế trên thị trường và gia tăng khả năng và động lực của doanh nghiệp đó trong việc
lạm dụng sức mạnh thị trường một cách độc lập.
Do đó, cần phải áp dụng các lý thuyết hoặc mô hình kinh tế mô tả đúng nhất đặc
điểm của thị trường cụ thể đó. Ngoài ra, cũng cần đánh giá các áp lực cạnh tranh mà
doanh nghiệp hình thành sau TTKT phải đối mặt hoặc các yếu tố giúp doanh nghiệp hình
thành sau TTKT có thể lạm dụng sức mạnh trên thị trường liên quan.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
96
Một số yếu tố cần cân nhắc khi đánh giá tác động đơn phương của vụ việc TTKT:
Vị thế của các bên tham gia TTKT - thị phần, vị trí trên thị trường xét về mặt thị
phần, các đối thủ cạnh tranh trước khi thực hiện TTKT;
Áp lực cạnh tranh từ các doanh nghiệp không tham gia TTKT - thị phần, khác
biệt về thị phần giữa doanh nghiệp hình thành sau TTKT với các đối thủ cạnh tranh, dư
thừa năng lực cung ứng, mức độ khác biệt hóa sản phẩm;
Áp lực cạnh tranh trực tiếp hoặc tiềm năng – nhập khẩu và khả năng gia nhập
thị trường của đối thủ mới, sự hiện diện của thị trường sản phẩm và thị trường địa lý thay
thế gần cho thị trường liên quan đang xem xét, tính cạnh tranh trong các thị trường liên hệ
theo chiều dọc đối với thị trường đang xem xét;
Hiệu quả kinh tế và năng lực hiện tại của các bên tham gia TTKT.
4.2. Tác động kết hợp
Khi phân tích tác động kết hợp của vụ việc TTKT, các cơ quan cạnh tranh thường
đánh giá xem điều kiện thị trường sau vụ việc TTKT có làm gia tăng khả năng các doanh
nghiệp trên thị trường cấu kết ngầm với nhau hoặc tăng cường sự liên kết hiện tại, gây
hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường liên quan.
Khi đánh giá về khả năng cấu kết ngầm giữa các doanh nghiệp, cần lưu ý một số
điều kiện giúp thực hiện thành công sự cấu kết đó, bao gồm: (a) khả năng xác định điều
kiện cấu kết, (b) khả năng phát hiện vi phạm trong quá trình cấu kết và (c) khả năng trừng
phạt những vi phạm đó.
Ngoài ra, cũng cần đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị
trường trước khi thực hiện TTKT và các yếu tố có tác động kìm hãm hoặc ngăn cản sự
cấu kết giữa các doanh nghiệp đó sau khi vụ việc TTKT được thực hiện. Trong quá trình
đánh giá này, cần xem xét tất cả các bằng chứng mà cơ quan cạnh tranh có thể thu thập
được, bao gồm, điều kiện thị trường trước khi thực hiện TTKT có thể gây bất lợi hoặc tạo
thuận lợi cho quá trình liên kết giữa các doanh nghiệp và tác động của vụ việc TTKT lên
các điều kiện thị trường đó.
Theo kinh nghiệm của Ủy ban thương mại công bằng Nhật Bản (JFTC), mục đích
của việc phân tích các tác động kết hợp là nhằm xác định các vụ việc TTKT, trong đó, do
cấu trúc thị trường, các bên tham gia TTKT có thể thấy được lợi ích về mặt kinh tế khi
liên kết với nhau và có thể cùng tăng giá mà không cần phải hình thành nên các thỏa
thuận vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
97
Các yếu tố cơ bản được JFTC xem xét khi phân tích tác động kết hợp của một vụ
việc TTKT theo chiều ngang bao gồm:
Vị thế thị trường của các bên tham gia TTKT và các đối thủ cạnh tranh trước
khi thực hiện TTKT - số lượng các doanh nghiệp trên thị trường, tính tương đồng giữa
các sản phẩm liên quan và cơ cấu chi phí, mức độ cạnh tranh giữa các bên tham gia
TTKT, dư thừa năng lực cung ứng;
Đặc điểm của thị trường liên quan - tính minh bạch trong giao dịch kinh doanh,
tần suất và quy mô hợp đồng, mức độ ổn định và bão hòa của cầu, tốc độ phát triển công
nghệ, mức độ cạnh tranh trước vụ việc TTKT;
Áp lực cạnh tranh hiện tại và tiềm năng trên thị trường – sản phẩm nhập khẩu,
khả năng gia nhập thị trường của đối thủ mới, sự hiện diện của thị trường sản phẩm và thị
trường địa lý thay thế gần cho thị trường liên quan đang xem xét, tính cạnh tranh trong
các thị trường liên hệ theo chiều dọc đối với thị trường đang xem xét;
Hiệu quả kinh tế và khả năng tồn tại của các bên tham gia TTKT.
4.3. Tác động hạn chế cạnh tranh trực tiếp
Tác dụng của việc xác định thị trường liên quan là nhằm xác định một khuôn khổ thị
trường, trong đó, doanh nghiệp bị xem xét chịu tác động trực tiếp từ hành vi cạnh tranh
của các đối thủ khác trên thị trường. Do đó, việc xác định mức độ tập trung của thị trường
dù không trực tiếp phản ánh cạnh tranh trên thị trường nhưng có thể giúp đưa ra đánh giá
sơ bộ xem một vụ việc TTKT có làm nảy sinh lo ngại về mặt cạnh tranh hay không, do
mức độ cạnh tranh trực tiếp từ các đối thủ cạnh tranh không đủ lớn khiến doanh nghiệp
sau TTKT có thể lạm dụng sức mạnh thị trường của mình. Nhìn chung, thị trường có mức
độ tập trung càng cao thì áp lực cạnh tranh trực tiếp đối với doanh nghiệp hình thành sau
TTKT càng thấp. Các chỉ số cơ bản để đánh giá mức độ tập trung của thị trường bao gồm:
thị phần, mức độ tích tụ thị trường (chỉ số CR) và chỉ số Herfindahl - Hirschmann Index
(HHI).
Chỉ số CR được tính bằng tổng thị phần của các doanh nghiệp chiếm thị phần lớn
nhất trên thị trường, thể hiện quy mô tương đối của nhóm doanh nghiệp này so với tổng
dung lượng thị trường.
n
i
in SCR1
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
98
Trong đó Si là thị phần của doanh nghiệp lớn thứ i trong ngành; n là số lượng các
doanh nghiệp có thị phần lớn nhất trên thị trường để xác định CRn.
Chỉ số CR được sử dụng phổ biến nhất là CR4 (tổng thị phần của 4 doanh nghiệp lớn
nhất trên thị trường). Chỉ số này dao động từ xấp xỉ 0% cho đến 100%. Hệ số tập trung
cao chỉ ra rằng các doanh nghiệp hàng đầu chiếm giữ một vị trí quan trọng trên thị trường
và tính chất tập trung của ngành cao. Điều đó cũng có nghĩa rằng khả năng thống lĩnh thị
trường của các doanh nghiệp lớn, quyền lực trong đàm phán với hệ thống cung cấp hay hệ
thống phân phối cũng được tập trung. Khi chỉ có một số ít doanh nghiệp nhưng chiếm giữ
một thị phần lớn thì thị trường trở lên ít cạnh tranh, thị trường tiến gần đến tình trạng độc
quyền.
Trái lại, mức độ tập trung thấp chỉ ra rằng ngành kinh doanh bị cạnh tranh bởi nhiều
doanh nghiệp, không có doanh nghiệp nào có được thị phần quan trọng. Hiện tượng này
gọi là thị trường bị phân tán, nhưng mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp lại trở lên
rất gay gắt. Các doanh nghiệp thường luôn cố gắng để gia tăng phần thị trường của mình.
Thị trường ở các ngành này thường diễn ra các cuộc chiến về giá cả.
Chỉ số HHI được tính bằng tổng bình phương thị phần của các doanh nghiệp trên
thị trường, cho thấy quy mô của doanh nghiệp trên thị trường, từ đó, xác định mức độ
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường đó. Chỉ số HHI có giá trị trong khoảng
từ 0 đến 10,000, tùy thuộc vào số lượng doanh nghiệp trên thị trường. Trên thị trường
càng có nhiều doanh nghiệp và thị phần của mỗi doanh nghiệp càng gần với thị phần
trung bình của thị trường thì chỉ số HHI càng nhỏ. Điều này cho thấy khả năng gây hạn
chế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường là thấp. Ngược lại, càng ít doanh nghiệp
và mức độ chênh lệch thị phần của các doanh nghiệp trên thị trường càng lớn thì chỉ số
HHI có giá trị càng cao, cho thấy sự tồn tại của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp
chiếm vị trí thống lĩnh và khả năng xảy ra hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị
trường.
Chỉ số HHI được sử dụng ở phổ biến ở các quốc gia, khu vực có nền cạnh tranh lâu
đời như Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản để đánh giá mức độ tập trung của thị trường và coi
đó như là bước đầu của quá trình đánh giá vụ việc TTKT.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
99
4.4. Khả năng gia nhập thị trƣờng của đối thủ mới và mở rộng sản xuất
Ngay cả khi một vụ việc TTKT làm tăng mức độ tập trung thị trường thì nó cũng
chưa chắc đã làm nảy sinh các vấn đề về cạnh tranh nếu các doanh nghiệp khác vẫn có thể
dễ dàng gia nhập thị trường hoặc các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường dễ
dàng mở rộng quy mô sản xuất.
Các doanh nghiệp mới có thể gia nhập thị trường nếu: (i) sự thay đổi về giá tạo ra
động lực hay khuyến khích doanh nghiệp mới gia nhập; và (ii) các rào cản gia nhập không
cao. Bên cạnh các rào cản cấu trúc (ví dụ như lợi thế kinh tế nhờ quy mô của các doanh
nghiệp hiện hữu, hoặc việc sở hữu các tài sản hay công nghệ then chốt), còn có các rào
cản gia nhập dạng hành vi, ví dụ như các doanh nghiệp hiện tại sẽ đối phó với doanh
nghiệp mới gia nhập bằng cách đưa ra mức giá rất thấp hoặc bằng việc đầu tư mở rộng
sản xuất đến mức dư thừa để ngăn cản việc gia nhập.
Vậy khi nào thì nguy cơ gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh mới thực sự trở
thành một tác nhân tiềm năng cản trở hành vi lạm dụng? Việc gia nhập thị trường của đối
thủ mới phải có tính thực tế khi các bên liên quan sau TTKT tìm cách thực hiện hành vi
lạm dụng. Khả năng gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh mới cũng cần phải bền
vững và đủ lớn để đảm bảo cạnh tranh hiệu quả và lâu dài trên thị trường sau khi vụ việc
TTKT được thực hiện. Đồng thời, cũng cần tính đến khả năng chuyển đổi của người tiêu
dùng thông qua chi phí thay đổi sản phẩm đang được sử dụng.
Đối thủ mới có thể được xem xét từ khía cạnh nhập khẩu hoặc sự thay thế về cung.
Ngoài ra, cũng cần tính đến khả năng mở rộng năng lực sản xuất hoặc chiến lược định vị
lại sản phẩm của các doanh nghiệp lớn trên thị trường. Trong trường hợp các đối thủ mới
có thể tham gia thị trường ngay lập tức (trong một thời gian ngắn, không tốn nhiều chi
phí) thì cần phải coi đó là các chủ thể hiện hữu trên thị trường liên quan chứ không phải là
đối thủ tiềm năng.
Về lý thuyết, nếu việc gia nhập thị trường là dễ dàng thì lợi nhuận độc quyền của thị
trường sau vụ TTKT (thu được từ việc hạn chế sản lượng và nâng giá) sẽ thu hút các
doanh nghiệp mới tham gia thị trường và tạo sức ép giảm giá xuống mức giá trước khi
thực hiện TTKT. Trong trường ngược lại, nếu việc gia nhập thị trường là khó khăn, nói
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
100
cách khác, nếu tồn tại rào cản gia nhập thị trường thì khả năng gia nhập thị trường của đối
thủ cạnh tranh mới sẽ bị hạn chế và doanh nghiệp hình thành sau TTKT có thể lạm dụng
sức mạnh thị trường của mình trong một khoảng thời gian đủ dài. Trong những trường
hợp như vậy, sẽ phải có sự can thiệp của pháp luật để ngăn chặn các tác động hạn chế
cạnh tranh của vụ việc TTKT.
Hầu hết các văn bản hướng dẫn thực thi các quy định về TTKT của các cơ quan
cạnh tranh đều nhấn mạnh việc đánh giá xem khả năng gia nhập thị trường của đối thủ
mới hoặc mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp lớn có ảnh hưởng như thế nào trong
việc hạn chế các tác động gây hạn chế cạnh tranh của vụ việc TTKT. Các cơ quan này
đều thống nhất rằng, để thực sự có hiệu quả trong việc hạn chế tác động phản cạnh tranh
của vụ việc TTKT thì việc gia nhập thị trường của đối thủ mới phải (i) khả thi, (ii) kịp
thời và (iii) ở quy mô, phạm vi đủ lớn.
Mặc dù cách tiếp cận nêu trên được thừa nhận rộng rãi về mặt lý thuyết nhưng vấn
đề nằm ở chỗ, trên thực tế, làm sao để có thể đánh giá chính xác nhất tác động của hai yếu
tố khả năng gia nhập thị trường của doanh nghiệp mới và khả năng mở rộng sản xuất của
doanh nghiệp hiện tại trên thị trường. Trong điều kiện mức chi phí gia nhập thị trường
nhất định hoặc phản ứng dự kiến của các doanh nghiệp lớn trên thị trường, cần phải đánh
giá được xem liệu có sự gia nhập thị trường kịp thời ở quy mô đủ lớn để có thể hạn chế
được khả năng lạm dụng của doanh nghiệp hình thành sau TTKT hay không.
Các quốc gia khác nhau đã xây dựng và không ngừng cải tiến mô hình phân tích của
mình để có thể đánh giá được tác động của các yếu tố này. Ở nhiều quốc gia, có sự phân
biệt giữa khả năng gia nhập thị trường trong ngắn hạn và trong trung hạn. Ví dụ, theo
quan điểm của cơ quan cạnh tranh châu Âu và Hoa Kỳ, khả năng gia nhập thị trường
trong ngắn hạn được coi là một dạng của thay thế về cung, do đó, các doanh nghiệp tiềm
năng gia nhập thị trường cũng được tính vào thị trường liên quan và khả năng gia nhập thị
trường trong trung hạn được sử dụng để đánh giá tác động cạnh tranh của vụ việc TTKT.
Ngoài ra, Hoa Kỳ và Brasil còn sử dụng phân tích ―quy mô tồn tại tối thiểu‖ (minimum
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
101
viable scale) để đánh giá tác động cạnh tranh hiệu quả của việc đối thủ mới gia nhập thị
trường21
.
4.5. Sức mạnh của bên mua
Thông thường, trong trường hợp khách hàng có đủ sức mạnh đàm phán có thể tự
mình hạn chế hành vi của doanh nghiệp sau TTKT, vụ việc TTKT đó sẽ không gây ra lo
ngại về mặt cạnh tranh.
Tuy nhiên, sức mạnh của bên mua không chỉ đơn thuần xuất hiện thông qua sự tồn
tại của các khách hàng lớn. Ngay cả các khách hàng lớn cũng có thể không có khả năng
thể hiện sức mạnh đàm phán của mình trong những trường hợp như phải mua các hàng
hóa đặc thù, thiếu nguồn cung thay thế hoặc không tìm được các nguồn cung thay thế tin
cậy.
4.6. Doanh nghiệp phá sản
Việc phân tích cấu trúc thị trường đòi hỏi phải so sánh tình trạng cạnh tranh trên thị
trường trong hai trường hợp: khi vụ việc TTKT được thực hiện và khi vụ việc TTKT
không được thực hiện. Nếu một trong số các doanh nhiệp tiến hành TTKT thực sự rơi vào
tình trạng phá sản, cần phải so sánh cấu trúc của thị trường trong trường hợp cho phép
thực hiện vụ việc TTKT với trường hợp để doanh nghiệp đó phá sản hoặc trường hợp để
cho doanh nghiệp khác không phải là một bên của vụ việc TTKT mua lại doanh nghiệp bị
phá sản đó.
Trên thực tế, các vụ việc TTKT hiếm khi đáp ứng được các tiêu chí được sử dụng để
phân tích trong trường hợp một bên tham gia TTKT lâm vào tình trạng phá sản. Do đó, có
quan điểm cho rằng, nếu cứ để doanh nghiệp phá sản rút khỏi thị trường thì ngay lập tức,
cạnh tranh sẽ gia tăng do các doanh nghiệp còn lại trên thị trường sẽ phải nỗ lực cạnh
tranh để giành các khách hàng của doanh nghiệp vừa rời bỏ thị trường đó.
21 Quy mô tồn tại tối thiểu (MVS) được Hoa Kỳ và Brasil sử dụng như một tiêu chí đánh giá khả năng gia nhập của
đối thủ mới. MVS sẽ lớn khi chi phí cố định và chi phí chìm cho việc gia nhập lớn, và các tài sản được sử dụng
không đúng mức trong một khoảng thời gian dài cho tới khi doanh nghiệp mới có thể chiếm lĩnh thị trường và phát
triển doanh số. Nếu MVS vượt quá 5% doanh số bán của thị trường, việc gia nhập có khả năng không diễn ra.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
102
4.7. Hiệu quả kinh tế
Một vụ việc TTKT có thể sẽ không có vấn đề nếu chứng minh được hiệu quả kinh tế
của vụ việc đó. Tính hiệu quả có thể được thể hiện thông qua tác động tích cực đến cạnh
tranh trên thị trường khiến cho cạnh tranh không bị suy giảm cho dù số lượng đối thủ
cạnh tranh bị giảm đi sau vụ việc TTKT. Ví dụ, vụ việc TTKT giúp hạ thấp chi phí cận
biên của doanh nghiệp sau TTKT hoặc nâng cao khả năng cải tiến công nghệ của doanh
nghiệp. Trong những trường hợp như vậy, việc đánh giá lợi ích thu được từ việc nâng cao
hiệu quả kinh tế thường được sử dụng để đánh giá cạnh tranh trên thị trường và không cần
phải so sánh giữa lợi ích thu được với tác động phản cạnh tranh của vụ việc.
Trên thực tế, có thể xảy ra trường hợp lợi ích kinh tế được gia tăng trong khi cạnh
tranh bị suy giảm. Trong trường hợp này, lợi ích kinh tế có thể được so sánh với tác động
phản cạnh tranh để đánh giá xem, cuối cùng, lợi ích của người tiêu dùng (hoặc tổng phúc
lợi xã hội) có tăng lên hay không. Điểm quan trọng nhất là phải chứng minh được lợi ích
về mặt kinh tế hoặc tác động tổng hợp tới cạnh tranh của vụ việc TTKT sẽ được chuyển
tới tay người tiêu dùng.
Không phải lúc nào lợi ích kinh tế cũng lớn hơn so với tác động phản cạnh tranh.
Trong một số trường hợp, cần phải có một số áp lực cạnh tranh nhất định thì mới đảm bảo
đạt được một kết quả có lợi. Ở đây, việc đánh giá lợi ích kinh tế cũng có liên quan tới việc
đánh giá và đưa các biện pháp khắc phục, theo đó, các biện pháp khắc phục cần tương
xứng để hạn chế tác động phản cạnh tranh nhưng cũng cần đảm bảo phát huy các lợi ích
kinh tế thu được từ vụ việc TTKT.
Như vậy, sẽ có một số vấn đề cần xem xét khi đánh giá tính hiệu quả của vụ việc
TTKT, bao gồm: làm thế nào để so sánh giữa lợi ích kinh tế với tác động từ việc gia tăng
sức mạnh thị trường của doanh nghiệp sau TTKT; có cần phải chứng minh lợi ích kinh tế
sẽ được chuyển tới người tiêu dùng hay không; có thể xây dựng một bộ tiêu chí chung
hay xem xét theo từng vụ việc; có nhất thiết phải đòi hỏi lợi ích kinh tế thu được có tác
động ngay trên thị trường đang xem xét hay không? Làm thế nào để so sánh lợi, hại giữa
các tiêu chí về lợi ích đối với người tiêu dùng (nhiều lựa chọn hơn, chất lượng tốt hơn
nhưng giá lại cao hơn), giữa các nhóm tiêu dùng khác nhau (một số được hưởng lợi
nhưng một số khác lại không), giữa các thị trường khác nhau hoặc giữa tác động ngắn hạn
và tác động dài hạn.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
103
Các doanh nghiệp thường viện dẫn lợi ích kinh tế thu được từ vụ việc TTKT nhưng
trên thực tế, lợi ích kinh tế này có thực sự tới tay người tiêu dùng hay không? Vậy cơ
quan cạnh tranh nên xử lý như thế nào đối với các viện dẫn về lợi ích kinh tế thu được từ
vụ việc TTKT? Theo hướng này, cũng cần lưu ý sự khác biệt giữa thông tin mà các doanh
nghiệp tham gia TTKT có được và thông tin của cơ quan cạnh tranh sử dụng để phân tích
tác động của vụ việc.
III. CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC VÀ NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG
1. Các nguyên tắc áp dụng biện pháp khắc phục
Như đã nêu ở trên, trong một số trường hợp, để đảm bảo đạt được các lợi ích kinh tế,
vụ việc TTKT cần phải được thực hiện trong một khuôn khổ nhất định. Các biện pháp
khắc phục được đưa ra nhằm mục đích khôi phục hay duy trì sự cạnh tranh trên thị
trường, mà vẫn đảm bảo đạt được hiệu quả và lợi ích của vụ việc TTKT. Để đạt được mục
đích này, cần phải lựa chọn các biện pháp khắc phục thông qua việc so sánh giữa hiệu quả
hạn chế tác động phản cạnh tranh của vụ việc với gánh nặng thực hiện các biện pháp đó
và chi phí phát sinh. Theo khuyến nghị của ICN, ―quy định và quy trình thực hiện biện
pháp khắc phục cần đảm bảo tính hiệu quả và khả năng giám sát thực hiện biện pháp hậu
quả đó‖22
.
Các cơ quan cạnh tranh khác nhau sẽ có cách đánh giá khác nhau tùy thuộc vào phép
thử cạnh tranh mà họ sử dụng và thẩm quyền được trao trong việc quyết định các yếu tố
lợi ích liên quan tới TTKT. Nếu một vụ việc TTKT có khả năng gây hại cho cạnh tranh
mà không thể tìm ra một biện pháp khắc phục phù hợp thì, thông thường, vụ việc TTKT
đó sẽ bị cấm. Trong trường hợp có thể tìm được các biện pháp khắc phục phù hợp, thì các
bên tham gia TTKT sẽ có nhiều động lực để đề xuất các biện pháp phù hợp. Do đó, trách
nhiệm đề xuất biện pháp khắc phục thường do các bên tham gia TTKT thực hiện. Để có
được cách xử lý hiệu quả và kịp thời, các cơ quan cạnh tranh thường tìm cách thông báo
cho các biên liên quan trong thời gian sớm nhất về bản chất và phạm vi của các vấn đề
cạnh tranh mà họ cho rằng cần phải giải quyết trước khi thông qua một vụ việc TTKT.
22
ICN Recommended Remedies Practice C
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
104
1.1. Tính tƣơng xứng (nguyên tắc tỷ lệ)
Các cơ quan cạnh tranh thường tìm cách áp dụng những biện pháp/hoặc nhóm biện
pháp khắc phục ít phiền toái nhất đối với các doanh nghiệp mà vẫn có hiệu quả trong việc
loại trừ các tác động phản cạnh tranh của vụ việc TTKT.
Một số cơ quan cạnh tranh áp dụng quy tắc tương xứng, theo đó, một vụ việc TTKT
có thể được thông qua mà không phải thực hiện các biện pháp khắc phục nếu gánh nặng
thực thi các biện pháp đó là quá lớn so với tác động phản cạnh tranh của vụ việc. Điều
này có thể xảy ra trong trường hợp thị phần kết hợp của các bên tham gia TTKT chỉ
chiếm một phần rất nhỏ trên thị trường.
Tuy nhiên, một số khác lại cho rằng việc áp dụng nguyên tắc này là không hợp lý
bởi một khi vụ việc TTKT bị cho rằng có thể gây ra tác động phản cạnh tranh trên thị
trường liên quan thì cần phải có giải pháp để hạn chế các động phản cạnh tranh đó.
1.2. Tính hiệu quả
Việc đánh giá tính hiệu quả của một hay một nhóm biện pháp khắc phục đòi hỏi
phải xem xét các khía cạnh sau:
Tác động toàn diện: biện pháp khắc phục nên giải quyết được tất cả các tổn hại
cạnh tranh do vụ việc TTKT gây ra.
Rủi ro có thể chấp nhận được: kinh nghiệm cho thấy, khi đưa ra một biện pháp
khắc phục, cơ quan cạnh tranh không thể chắc chắn biện pháp đó sẽ mang lại kết quả như
dự kiến. Do đó, các cơ quan cạnh tranh thường chọn các biện pháp đảm bảo vừa có hiệu
quả, vừa có mức độ rủi ro thấp nhất trong trường hợp biện pháp đó không thực sự mang
lại kết quả hạn chế tác động phản cạnh tranh của vụ việc TTKT. Điều này đặc biệt quan
trọng khi cơ quan cạnh tranh bị hạn chế không được phép thay đổi biện pháp khắc phục
cho dù biện pháp đó không hiệu quả như mong đợi
Tính thực tiễn: Một biện pháp khắc phục hiệu quả là biện pháp phù hợp với khả
năng thực hiện của doanh nghiệp, có thể giám sát được và có khả năng thực thi trong
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
105
phạm vi thẩm quyền của cơ quan cạnh tranh. Điều này cũng hàm ý rằng việc áp dụng và
các bước thực hiện biện pháp khắc phục phải được cơ quan cạnh tranh thể hiện rõ ràng.
Thời điểm và thời gian áp dụng phù hợp: Các biện pháp khắc phục cần xử lý
được toàn bộ các tác động phản cạnh tranh trong một khoảng thời gian dự kiến nhất định.
Các biện pháp có tác động ngay trong ngắn hạn thường được ưu tiên sử dụng hơn các
biện pháp dự kiến sẽ chỉ có tác động trong dài hạn hoặc những biện pháp không có khung
thời gian thực hiện cụ thể.
1.3. Các chi phí và gánh nặng tiềm ẩn của các biện pháp khắc phục
Trong quá trình đánh giá các biện pháp khắc phục cũng cần tính đến các gánh nặng
hoặc chi phí tiềm ẩn khi thực hiện các biện pháp đó. Một số dạng chi phí phát sinh cần
cân nhắc, bao gồm:
Chi phí do tác động của biện pháp khắc phục: Một số biện pháp khắc phục có
thể dẫn đến sự bóp méo hay thiếu hiệu quả trong đầu ra của thị trường. Đây có thể là
trường hợp mà các biện pháp khắc phục về hành vi được sử dụng để can thiệp trực tiếp
vào đầu ra của sản phẩm, đặc biệt là trong dài hạn. Ví dụ, việc không cho phép doanh
nghiệp sau TTKT tăng giá có thể ngăn cản sự gia nhập thị trường do mối lo ngại vể khả
năng thu hồi vốn hoặc đảm bảo khả năng sinh lợi. Tương tự như vậy, những hạn chế
không liên quan đến giá cũng có thể có tác động tiêu cực đến quyết định đầu tư.
Chi phí thực hiện biện pháp khắc phục: ngoài chi phí trực tiếp của việc thực
hiện các biện pháp khắc phục, cần tính đến chi phí để giám sát việc thực hiện biện pháp
khắc phục (thuê giám sát, thu thập thông tin phục vụ mục đích giám sát…).
Dự tính hiệu quả kinh tế và các lợi ích khác của vụ việc TTKT: Một trong
những ưu điểm của biện pháp khắc phục là nhằm đảm bảo đạt được hiệu quả kinh tế hoặc
các lợi ích nhất định từ vụ việc TTKT mà không thể đạt được nếu vụ việc đó bị cấm thực
hiện. Thể hiện rõ nhất của những lợi ích đó bao gồm hạ giá thành đồng thời nâng cao chất
lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm, hoặc đẩy mạnh cải tiến. Quan điểm về hiệu quả
kinh tế hoặc các lợi ích khác của các cơ quan cạnh tranh có thể khác nhau nhưng đều có
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
106
một điểm chung là hiệu quả kinh tế và các lợi ích đó phải xuất phát trực tiếp từ vụ việc
TTKT đang được xem xét và nếu không cho phép thực hiện vụ việc TTKT thì không thể
đạt được những kết quả này. Đồng thời, các lợi ích thu được từ vụ TTKT chỉ được coi là
có liên quan khi chúng có khả năng mang lại lợi ích đáng kể cho khách hàng. Thông
thường, việc chứng minh các lợi ích này thường do các bên tham gia TTKT đảm trách.
Nhiệm vụ của cơ quan cạnh tranh chỉ là điều chỉnh các lựa chọn do các bên tham gia
TTKT đề xuất hoặc đề ra các biện pháp nhằm hạn chế tác động tiêu cực tới hiệu quả kinh
tế hoặc lợi ích do vụ việc đem lại. Tuy nhiên, cơ quan cạnh tranh cũng cần đảm bảo rằng
biện pháp do doanh nghiệp đề xuất là có hiệu quả trong việc xử lý các tác động phản cạnh
tranh của vụ việc.
1.4. Tính minh bạch và nhất quán
Trong việc lựa chọn, xây dựng và thi hành các biện pháp khắc phục, tính minh bạch
và nhất quán là những quy tắc cơ bản nhằm đảm bảo tính công bằng cũng như tính hợp
pháp. Bên cạnh đó, các quy tắc này cũng rất quan trọng trong việc tối ưu hóa tính hiệu
quả của các biện pháp khắc phục.
Theo khuyến nghị liên quan tới các biện pháp khắc phục hậu quả của ICN, ―cơ chế
rà soát TTKT cần đưa ra một khuôn khổ minh bạch cho việc đề xuất, thảo luận và thông
qua của các biện pháp khắc phục‖. Tính minh bạch ở đây có nghĩa là những quy tắc và
vấn đề quan trọng của biện pháp khắc phục cho từng vụ việc cụ thể phải dễ hiểu đối với
các doanh nghiệp sáp nhập, thậm chí đối với các đối thủ cạnh tranh và khách hàng của họ.
Tính minh bạch không đồng nghĩa với việc tiết lộ các thông tin mật.
Tính nhất quán trong thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo một cơ sở tin cậy cho việc cân nhắc và ra quyết định của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, do bản chất của từng vụ việc là khác nhau nên rất khó có thể đảm bảo tính nhất
quán.
Đối với những vụ việc có tính chất đa quốc gia, vai trò của tính nhất quán càng trở
nên quan trọng. Các cơ quan cạnh tranh cần phối hợp nhằm tránh sự bất đồng và khác biệt
trong các biện pháp khắc phục hậu quả mà các doanh nghiệp liên quan phải thực hiện.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
107
2. Các biện pháp khắc phục
2.1. Tổng quan về các biện pháp khắc phục
Các biện pháp khắc phục và cách phân loại được thể hiện như hình dưới đây:
Các biện pháp khắc phục
Khắc phục cấu trúc Khắc phục hành vi
Bán lại Khắc phục theo
quyền sở hữu trí tuệ
Khuyến khích cạnh
tranh trực tiếp Kiểm soát
sản lƣợng
Hạn chế tác động
của mối quan hệ
theo chiều dọc
Thay đổi hành vi
của ngƣời mua
Điều chỉnh quan
hệ với khách hàng
cuối cùng
Tổng thể các biện pháp khắc phục hậu quả
Thông thường, các biện pháp khắc phục được phân loại thành các biện pháp khắc
phục về mặt cấu trúc và các biện pháp về mặt hành vi.
Các biện pháp khắc phục về mặt cấu trúc là các biện pháp được thực hiện một lần
nhằm phục hồi cấu trúc cạnh tranh của thị trường.
Các biện pháp khắc phục về mặt hành vi thường là các biện pháp được thực hiện
trong một khoảng thời gian nhất định để điều chỉnh hay kiểm soát hành vi của các doanh
nghiệp tham gia TTKT. Một số biện pháp khắc phục, ví dụ giải pháp liên quan đến chia sẻ
quyền sở hữu trí tuệ, thường khó phân định xem thuộc nhóm nào. Để đảm bảo tính hiệu
quả, một gói giải pháp thường phải bao gồm cả hai yếu tố cấu trúc và hành vi.
Nhiều cơ quan cạnh tranh đề cao vai trò của các giải pháp mang tính cấu trúc hơn so
với các giải pháp về hành vi, đặc biệt đối với các vụ việc TTKT theo chiều ngang. Giải
pháp mang tính cấu trúc, như buộc bán lại một phần doanh nghiệp, thường hiệu quả hơn
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
108
bởi nó giúp trực tiếp giải quyết nguyên nhân gây ra tác động phản cạnh tranh, đồng thời,
không làm phát sinh chi phí giám sát thực hiện cũng như hạn chế sự bóp méo thị trường.
Tuy nhiên, cũng có những hạn chế đối với giải pháp bán lại tài sản, gây ảnh hưởng đáng
kể tới việc thiết kế cũng như tính phù hợp của giải pháp. Trong trường hợp này, lựa chọn
thay thế tốt nhất có thể là cấm thực hiện vụ việc TTKT.
2.2. Các biện pháp khắc phục về mặt cấu trúc
2.2.1. Bán lại tài sản
Bán lại tài sản là hình thức khắc phục phổ biến nhất về mặt cấu trúc. Về bản chất,
bán lại tài sản là việc cố gắng duy trì sự cạnh tranh trên thị trường liên quan bằng cách tạo
nên nguồn lực cạnh tranh mới - thông qua việc bán doanh nghiệp hoặc tạo dựng tài sản
cho đối tượng mới tham gia thị trường, hay củng cố sức mạnh cho nguồn lực cạnh tranh
sẵn có - thông qua việc bán phần tài sản đó đối tượng tham gia trên thị trường độc lập với
các bên sáp nhập. Để đạt được hiệu quả, việc bán lại tài sản đòi hỏi doanh nghiệp bán
phần tài sản thích hợp cho một doanh nghiệp phù hợp.
Các yếu tố mấu chốt của việc bán lại tài sản như quy mô của phần tài sản phải bán,
tìm được người mua phù hợp và quy trình xử lý, có thể gặp phải nhiều rủi ro như:
Rủi ro quy mô phần tài sản phải bán – quy mô phần tài sản phải bán có thể
không được cơ cấu đủ hấp dẫn để thu hút doanh nghiệp khác mua lại hoặc không đủ để
doanh nghiệp mua lại có thể vận hành một cách hiệu quả .
Rủi ro trong việc tìm doanh nghiệp mua phần tài sản phải bán – có thể không
tìm được người mua phù hợp hoặc các bên tham gia TTKT lại chủ đích bán phần tài sản
đó cho một doanh nghiệp yếu kém hoặc không thích hợp.
Rủi ro về tài sản – tính cạnh tranh của phần tài sản phải bán có thể suy giảm
một cách đáng kể trước khi hoàn tất quá trình mua bán, ví dụ, mất đi khách hàng hoặc
nhân sự chủ chốt do thay đổi chủ sở hữu.
Các bên tham gia TTKT luôn có động lực để hạn chế tác động cạnh tranh của phần
tài sản phải bán, do đó, càng làm gia tăng rủi ro của biện pháp khắc phục hậu quả dạng
này. Các rủi ro dạng này có thể được hạn chế phần nào bằng cách sử dụng các biện pháp
phòng ngừa như chỉ định bên được ủy thác giám sát thực hiện các biện pháp khắc phục
hoặc yêu cầu phải tìm được bên mua trước cho phép thực hiện vụ việc TTKT. Ngoài ra,
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
109
việc xác lập một khoảng thời gian hợp lý để thực hiện công việc bán lại tài sản cũng giúp
giảm thiểu các rủi ro tiềm ẩn.
Quy mô của gói tài sản phải bán cũng cần phải đủ lớn để giải quyết các tác động
phản cạnh tranh và cho phép doanh nghiệp mua lại phần tài sản đó có thể cạnh tranh hiệu
quả trong dài hạn. Nhìn chung, quy mô hợp lý của gói tài sản phải bán có thể được coi
như một đơn vị hoạt động nhỏ nhất của một doanh nghiệp (giống như một công ty con
hoặc chi nhánh) có thể đảm trách toàn bộ các hoạt động liên quan và có thể cạnh tranh
một cách độc lập. Sau khi trao đổi với các bên tham gia TTKT, cơ quan cạnh tranh có thể
cho phép thay đổi quy mô của gói tài sản phải bán, miễn là phần tài sản đó đủ để xử lý các
tác động phản cạnh tranh. Trong một số hoàn cảnh nhất định (ví dụ, việc bán lại đòi hỏi
phải tiến hành trong khoảng thời gian ngắn), một số cơ quan cạnh tranh sẽ xác định gói tài
sản ở quy mô lớn hơn, dễ bán lại hơn (được gọi là biện pháp ―crown jewels‖23
) khi gói tài
sản đã được chấp thuận bán lại không được xử lý trong khoảng thời gian quy định. Thay
vì sử dụng ―gói tài sản vương miện‖ dạng này, các cơ quan cạnh tranh khác lại sử dụng
các biện pháp khác (như chỉ định doanh nghiệp trung gian tiến hành bán tài sản) để thúc
đẩy tiến độ bán tài sản này.
Việc bán lại phần tài sản của các bên tham gia TTKT có thể bao gồm: bán lại một bộ
phận hoạt động độc lập, bán lại một phần tài sản của một bên tham gia TTKT hoặc bán lại
phần tài sản của nhiều bên tham gia TTKT. Trong số các giải pháp trên, giải pháp đầu tiên
thường được ưa chuộng nhất để hạn chế các rủi ro nêu trên. Trong trường hợp không thể
áp dụng giải pháp đầu tiên, giải pháp bán lại phần tài sản của một bên tham gia TTKT sẽ
hạn chế rủi ro và tiết kiệm chi phí hơn. Trong trường hợp này, việc đánh giá năng lực và
tài sản của bên mua lại càng trở nên quan trọng nhằm đảm bảo tính cạnh tranh hiệu quả
của phần tài sản được bán đi.
Thông thường, cơ quan cạnh tranh sẽ đòi hỏi quyền phê chuẩn doanh nghiệp mua lại
cũng như phần tài sản phải bán lại. Một doanh nghiệp mua lại thích hợp thường phải
không có mối quan hệ đáng kể đối với doanh nghiệp sau TTKT, ví dụ mối quan hệ tài
chính. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, doanh nghiệp mua lại có thể yêu cầu tiếp cận
các yếu tố đầu vào chủ chốt do các bên tham gia TTKT cung cấp trong một khoảng thoài
gian nhất định.
23 Crown Jewel: Công ty bị thâu tóm bán đi bộ phận hoặc tài sản có giá trị nhất của mình.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
110
Doanh nghiệp mua lại cần phải có nguồn lực và chuyên môn cần thiết để có thể trở
thành đối thủ cạnh tranh thực sự nhưng cũng phải không gây quan ngại về cạnh tranh sau
khi mua phần tài sản của các doanh nghiệp tham gia TTKT. Đồng thời, việc doanh nghiệp
mua lại có kế hoạch kinh doanh và động lực cạnh tranh thích hợp trên thị trường liên quan
sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn cho cơ quan cạnh tranh trong việc phê duyệt kế hoạch bán
lại tài sản.
Khi nhận thấy khả năng xảy ra các rủi ro về quy mô phần tài sản phải bán hoặc rủi
ro về doanh nghiệp mua lại, một số cơ quan cạnh tranh có thể yêu cầu các bên tham gia
TTKT phải tìm được doanh nghiệp mua lại phù hợp và phải có thỏa thuận về việc mua lại
phần tài sản phải bán trước khi cho phép thực hiện TTKT. Trong một số trường hợp, cơ
quan cạnh tranh còn yêu cầu phải hoàn tất việc bán lại đó trước khi cho phép thực hiện
TTKT.
Để tránh những rủi ro tài sản, gói tài sản phải bán lại cần được tách biệt và quản lý
độc lập với các hoạt động kinh doanh còn lại của các doanh nghiệp tham gia TTKT. Việc
này thường được giải quyết thông qua việc chỉ định một công ty được ủy thác giám sát
độc lập. Trong một khoảng thời gian nhất định, nếu các bên tham gia TTKT không thể
bán lại phần tài sản buộc phải bán như đã cam kết, bên được ủy thác giám sát sẽ có quyền
lựa chọn đối tác phù hợp và bán phần tài đó với bất kỳ giá nào.
2.2.2. Sở hữu trí tuệ
Việc bán lại hoặc cấp phép quyền sở hữu trí tuệ (IP), như đã đề cập, được coi là một
biện pháp khắc phục về mặt cấu trúc và nhìn chung, có thể được xem xét như việc bán lại
một hình thái tài sản đặc biệt. Tuy nhiên, trong vài trường hợp nhất định, các điều khoản
của cấp phép quyền sở hữu trí tuệ lại bao gồm cả những yếu tố hành vi, khiến cho biện
pháp này trở thành một biện pháp lai giữa cấu trúc và hành vi.
Điểm mấu chốt của các biện pháp liên quan tới sở hữu trí tuệ là mức độ liên hệ về
mặt vật chất giữa bên cấp phép và bên được cấp phép sau khi việc cấp phép được thực
hiện. Trong trường hợp biện pháp khắc phục chỉ yêu cầu việc chuyển giao quyền sở hữu
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
111
trí tuệ một lần, không thể rút lại, không thể hủy bỏ và không phải trả phí thường xuyên
thì biện pháp này có thể được coi là giải pháp về mặt cơ cấu. Trong khi đó, nếu việc
chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ đòi hỏi bên nhận chuyển giao phải phụ thuộc vào bên
chuyển giao như việc nâng cấp hoặc nguyên liệu đầu vào… thì giải pháp này thường đòi
hỏi phải thực hiện thêm một số yêu cầu về mặt hành vi.
Quyền sở hữu trí tuệ nói chung đem lại lợi nhuận đầu tư thông qua độc quyền khai
thác công nghệ trong một thời gian nhất định. Khi xem xét cách thức và phạm vi của giải
pháp khắc phục về sở hữu trí tuệ, cần đảm bảo sự cân bằng giữa việc duy trì động lực đổi
mới công nghệ và việc khắc phục các tác động tổn hại cạnh tranh. Việc này chịu ảnh
hưởng của một số nhân tố sau đây:
Hình thức và hệ thống pháp lý liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (ví dụ: bằng
sáng chế, giấy phép độc quyền, thương hiệu…) có thể ảnh hưởng tới khả năng chuyển
giao của các quyền sở hữu trí tuệ.
Chuyên môn liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ có thể gây một số hạn chế đối
với việc lựa chọn doanh nghiệp nhận chuyển giao phù hợp. Cơ quan cạnh tranh có thể cần
tư vấn độc lập về khía cạnh kỹ thuật để có những đánh giá chính xác đối với biện pháp
khắc phục có liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ. Trong trường hợp luật không cho phép cơ
quan cạnh tranh có quyền sửa đổi, bổ sung đối với cam kết của các bên sau khi thực hiện
TTKT cho phù hợp với thực tiễn thì vai trò của chuyên môn trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
càng trở nên quan trọng hơn trong việc xây dựng biện pháp khắc phục.
Tốc độ đổi mới công nghệ trên thị trường liên quan có tác động tới thời gian áp
dụng của biện pháp khắc phục. Thị trường có tốc độ đổi mới công nghệ cao hơn sẽ đòi
hỏi thời gian ngắn hơn đối với các biện pháp khắc phục về quyền sở hữu trí tuệ và ngược
lại.
Tác động của hình thức thanh toán cho việc chuyển nhượng quyền sở hữu trí
tuệ. Mỗi hình thức thanh toán khác nhau như thanh toán một lần, thanh toán định kỳ hoặc
phân chia lợi nhuận đều có tác động nhất định tới động lực cạnh tranh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
112
Ngoài ra, các vụ việc sáp nhập trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ có thể liên quan đến những
thủ tục thuộc nhiều quốc gia, ví dụ, trong việc nộp đơn và cấp giấy phép quyền sáng chế quốc
tế.
2.3. Biện pháp khắc phục về mặt hành vi
Các biện pháp khắc phục về mặt hành vi rất đa dạng, đồng thời, cũng đòi hỏi công
tác giám sát và thực hiện rất phức tạp. Ngoài ra, các biện pháp khắc phục theo hành vi còn
có thêm các hạn chế khác như chi phí lớn, hiệu quả không như mong muốn và đặc biệt là
nguy cơ bóp méo thị trường. Mặc dù vậy, biện pháp về hành vi vẫn được lựa chọn trong
một số trường hợp như không có giải pháp khả thi về mặt cấu trúc hoặc trong các vụ việc
xuyên biên giới. Các giải pháp về hành vi có thể được phân loại như sau:
Giải pháp gia tăng cạnh tranh theo chiều ngang bao gồm 3 loại biện pháp khắc
phục như sau:
o Các biện pháp ngăn chặn doanh nghiệp lạm dụng sức mạnh thị trường theo
chiều ngang để loại bỏ đối thủ và hạn chế cạnh tranh, bao gồm: cấm bán kèm (tying &
bundling), bán phá giá và sử dụng hợp đồng độc quyền hoặc có thời hạn dài.
o Biện pháp ngăn ngừa doanh nghiệp sử dụng mối quan hệ theo chiều dọc để bóp
méo hoặc hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang. Điều này có thể thấy rõ qua trường hợp
khi doanh nghiệp sau TTKT có thể kiểm soát các yếu tố đầu vào hoặc cơ sở hạ tầng thiết
yếu mà các doanh nghiệp khác cũng cần có để cạnh tranh. Các biện pháp bao gồm: cho
phép các doanh nghiệp khác tiếp cận các yếu tố đầu vào thiết yếu và quản lý giá, điều
khoản và điều kiện tiếp cận.
o Các biện pháp nhằm thay đổi hành vi của người mua để khuyến khích cạnh
tranh. Những biện pháp này có thể bao gồm việc cung cấp thông tin cho người mua và tạo
điều kiện dễ dàng cho người mua có thể chuyển đổi nhà cung cấp, ví dụ như, yêu cầu quá
trình đấu thầu mở.
Kiểm soát kết quả: Nhóm giải pháp này ngăn chặn tác động phản cạnh tranh
thông qua các biện pháp kiểm soát trực tiếp hệ quả của vụ việc TTKT như ấn định mức
giá trần, buộc phải ký cam kết cung cấp các yếu tố đầu vào thiết yếu…
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
113
Có thể thấy, một số biện pháp về mặt hành vi nêu trên đã được quy định trong Luật
Cạnh tranh liên quan tới việc điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp có sức mạnh thị
trường. Do đó, nhiều quốc gia không đưa các biện pháp đó vào gói biện pháp khắc phục.
Tuy nhiên, một số quốc gia vẫn đưa các biện pháp đó vào gói biện pháp khắc phục nhằm
giúp cho việc thực thi trở nên dễ dàng hơn, đặc biệt đối với các hệ thống pháp Luật Cạnh
tranh đòi hỏi phải chứng minh vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp trên thị trường liên quan.
Những trƣờng hợp có thể áp dụng biện pháp khắc phục về hành vi
Mặc dù giải pháp về cấu trúc được ưa dùng hơn, biện pháp khắc phục về hành vi có
thể sẽ phù hợp với các trường hợp sau:
Việc bán lại tài sản không khả thi hoặc chứa đựng những rủi ro không thể chấp
nhận được (ví dụ như không tìm được doanh nghiệp mua lại thích hợp) và không thể cấm
thực hiện TTKT (đối với vụ việc TTKT đa quốc gia) hay
Các tác động phản cạnh tranh chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định
do sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ hoặc các yếu tố khác hoặc
Lợi ích từ việc sáp nhập là đáng kể và việc áp dụng các giải pháp về mặt hành
vi có hiệu quả hơn so với các giải pháp về mặt cơ cấu trong việc đảm bảo các lợi ích do
vụ việc TTKT mang lại.
Nhìn chung, các biện pháp khắc phục theo hành vi nhằm kiểm soát đầu ra của thị
trường thường rất phức tạp trong việc thực thi và giám sát, hiệu quả không cao và có nguy
cơ làm biến dạng thị trường nếu áp dụng trong một thời gian dài. Do đó, các giải pháp này
chỉ được áp dụng khi không còn biện pháp nào khác và chỉ nên thực hiện trong một khoảng
thời gian ngắn.
Các giải pháp về hành vi đòi hỏi cơ quan cạnh tranh phải cân nhắc khoảng thời gian
áp dụng hợp lý. Các giải pháp này sẽ được áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định
do cơ quan cạnh tranh đề ra. Sau khoảng thời gian đó, các bên tham gia TTKT không phải
thực hiện các biện pháp giới hạn này nữa. Trong một số trường hợp, cơ quan cạnh tranh có
thể quy định sẽ xem xét việc tiếp tục áp dụng, loại bỏ hoặc sửa đổi gói biện pháp khắc phục
sau một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, tựu trung lại, các giải pháp về mặt hành vi
không thể được áp dụng vô thời hạn bởi vì theo thời gian, khi điều kiện thị trường thay đổi,
các biện pháp áp dụng sẽ trở nên không phù hợp và thậm chí còn gây ra các tác dụng phụ
không mong muốn.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
114
IV. XÁC ĐỊNH NGƢỠNG THÔNG BÁO TẬP TRUNG KINH TẾ
1. Ngƣỡng thông báo TTKT
Kinh nghiệm cho thấy, cơ quan cạnh tranh không nên tiêu tốn nguồn lực vào một vụ
việc TTKT, trừ khi vụ việc đó có thể gây quan ngại đáng kể đối với thị trường. Có nghĩa
là, thay vì xem xét toàn bộ các vụ việc TTKT, cơ quan cạnh tranh cần đặt ra những tiêu
chí cụ thể để lựa chọn xem xét các vụ việc TTKT có khả năng gây ra lo ngại về mặt cạnh
tranh. Đồng thời, các tiêu chí này nên được hạn chế trong phạm vi các đối tượng tham gia
TTKT hoặc lĩnh vực kinh doanh là đối tượng của giao dịch TTKT giữa các bên liên quan.
Ngoài ra, ngưỡng thông báo TTKT cần phải rõ ràng và dễ nắm bắt, dựa trên các tiêu
chí định lượng khách quan (như doanh thu hoặc giá trị tài sản thay vì thị phần) và dựa
trên các thông tin mà các bên tham gia TTKT có thể dễ dàng tiếp cận.
1.1. Mục đích của việc đƣa ra ngƣỡng thông báo
Ngưỡng thông báo TTKT cần phải loại bỏ được các giao dịch không có nguy cơ gây
hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể để tránh các chi phí giao dịch không cần thiết cho
doanh nghiệp và giúp cơ quan cạnh tranh tiết kiệm được nguồn lực. Cùng với một cơ chế
kiểm soát TTKT hiệu quả, việc đưa ra ngưỡng TTKT phù hợp không chỉ giúp tiết kiệm
nguồn lực cho cả cơ quan quản lý và doanh nghiệp thông qua việc lọc bỏ những vụ việc
không gây ra lo ngại về mặt cạnh tranh mà còn hạn chế thiệt hại xã hội khi tránh bỏ sót
những vụ việc thực sự có tác động hạn chế cạnh tranh
Theo kinh nghiệm của một số quốc gia đã tiến hành thay đổi ngưỡng thông báo
TTKT, ngưỡng TTKT sử dụng các tiêu chí khách quan như doanh thu hoặc giá trị tài sản
của các bên tham gia TTKT không mang lại nhiều hiệu quả trong việc dự báo tác động
cạnh tranh của giao dịch TTKT. Ngưỡng thông báo TTKT sử dụng các tiêu chí khách quan
có tính cứng nhắc cao, được áp dụng chung mà không tính đến đặc thù của từng lĩnh vực
giao dịch. Do đó, cần phải cân nhắc, tính toán để đưa ra được một ngưỡng thông báo TTKT
phù hợp với từng nền kinh tế, nhằm tránh bỏ sót những giao dịch có nguy cơ gây hạn chế
cạnh tranh nhưng cũng hạn chế sự lãng phí nguồn lực đối với những giao dịch không thực
sự gây tác động hạn chế cạnh tranh.
So với các tiêu chí khách quan nêu trên, tiêu chí thị phần trên thị trường liên quan có
thể giúp phản ánh chính xác hơn các giao dịch có khả năng gây hạn chế cạnh tranh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
115
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ngưỡng TTKT sử dụng tiêu chí thị phần đã gây ra rất
nhiều khó khăn và chi phí không cần thiết. Hầu hết các cơ quan cạnh tranh sử dụng tiêu
chí thị phần đều kết luận rằng lợi ích do các ngưỡng thông báo TTKT dạng này không thể
bù đắp cho những khó khăn và chi phí mà chúng gây ra. Ngoài ra, hệ thống thông báo
TTKT sử dụng tiêu chí thị phần còn có thể gây ra rủi ro pháp lý và kéo dài thời gian xử lý
vụ việc, đặc biệt là công đoạn xác định thị trường liên quan và thị phần của các doanh
nghiệp tham gia TTKT trên thị trường liên quan. Do đó, các tài liệu tổng hợp kinh nghiệm
thực thi quy định về TTKT của các tổ chức như ICN và OECD đều không ủng hộ việc áp
dụng hệ thống thông báo TTKT sử dụng tiêu chí thị phần. Mặc dù thừa nhận ưu điểm của
tiêu chí thị phần nhưng các quốc gia tiến hành sửa đổi Luật Cạnh tranh trong thời gian
gần đây đều quyết định sử dụng các tiêu chí khách quan và nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc xác định một ngưỡng thông báo TTKT phù hợp.
1.2. Xác định ngƣỡng thông báo TTKT
Trong phần này, nhóm nghiên cứu tổng hợp các công đoạn cần thực hiện để xác
định ngưỡng thông báo TTKT từ kinh nghiệm của một số quốc gia. Thông thường, việc
để có được một ngưỡng thông báo TTKT phù hợp tiến hành các bước sau: xác định mục
tiêu của việc đưa ra ngưỡng thông báo TTKT, số lượng vụ việc cơ quan cạnh tranh có thể
xử lý, các tiêu chí được sử dụng trong thông báo TTKT, số liệu về các vụ việc TTKT
trong quá khứ, thông tin về các ngành công nghiệp nội địa, học tập kinh nghiệp từ các
quốc gia có hoàn cảnh tương đồng để đề xuất một ngưỡng thông báo TTKT phù hợp và
cuối cùng, xây dựng cơ chế cho phép có thể thay đổi ngưỡng thông báo TTKT trong
tương lai.
1.2.1. Xác định mục tiêu của việc đƣa ra ngƣỡng thông báo TTKT
Việc xem xét mục tiêu của ngưỡng thông báo TTKT được Nhóm nghiên cứu rà soát
thông qua kinh nghiệm của các quốc gia đã từng tiến hành điều chỉnh ngưỡng thông báo
TTKT. Sau một thời gian thực hiện và phát sinh nhu cầu điều chỉnh thì mục tiêu của việc
xác định ngưỡng thông báo TTKT sẽ trở nên rõ ràng và khả thi hơn.
Kinh nghiệm từ các quốc gia đã tiến hành điều chỉnh ngưỡng thông báo TTKT cho
thấy, mục tiêu chung nhất là nhằm giảm bớt số lượng vụ việc TTKT được thông báo cho
cơ quan cạnh tranh. Đối với mục tiêu hạn chế số lượng vụ việc TTKT cần thông báo này
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
116
(đồng nghĩa với việc nâng cao ngưỡng thông báo TTKT), cần thận trọng nhằm tránh bỏ
sót các vụ việc thực sự gây hạn chế cạnh tranh.
Một số quốc gia khác lại tiến hành điều chỉnh ngưỡng thông báo TTKT bằng cách
thiết lập các ngưỡng thông báo TTKT cho từng loại giao dịch hoặc từng lĩnh vực kinh
doanh khác nhau nhằm làm gia tăng tỷ trọng các vụ việc thực sự cần xem xét. Tuy nhiên,
để thực hiện được mục đích này, cần phải có hướng dẫn cụ thể nhằm tránh sự chồng chéo
và mâu thuẫn giữa các ngưỡng thông báo TTKT khác nhau.
1.2.2. Cân nhắc loại ngƣỡng thông báo
Việc xây dựng một hệ thống ngưỡng thông báo hiệu quả không chỉ đòi hỏi sự linh
động trong việc điều chỉnh ngưỡng, mà còn cần xem xét rộng hơn, tính đến cả hình thức
thông báo.
Đa phần các quốc gia đều sử dụng ngưỡng thông báo TTKT dựa trên tiêu chí doanh
thu trên thị trường nội địa. Trong khi đó, một số khác lại sử dụng ngưỡng thông báo kép,
bao gồm cả hai chỉ tiêu là doanh thu trên thị trường nội địa và doanh thu trên thị trường
toàn cầu. Với những quốc gia sử dụng ngưỡng thông báo kép này, tổng doanh thu toàn
cầu của các bên tham gia TTKT thường được xác định ở mức tương đối cao nhằm tránh
việc phải nhận quá nhiều hồ sơ thông báo. Kết quả là, các giao dịch chỉ mang tính chất
quốc gia, dù có khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên bình diện nội địa, lại bị bỏ sót do
không đáp ứng được tiêu chí về doanh thu trên phạm vi toàn cầu. Trong những trường
hợp như vậy, một hệ thống ngưỡng thông báo TTKT đã sử dụng cả tiêu chí về doanh thu
kết hợp và doanh thu của từng doanh nghiệp tham gia vào giao dịch TTKT trên thị trường
nội địa có thể giúp nắm bắt tốt hơn các giao dịch có khả năng gây hạn chế cạnh tranh.
Mặc dù cách tiếp cận này sẽ không giúp đạt được mục đích hạn chế số lượng thông báo
TTKT mà cơ quan cạnh tranh phải tiếp nhận nhưng lại giúp làm tăng tỷ lệ các vụ việc có
vấn đề được thông báo lên cơ quan cạnh tranh.
Một số quốc gia đã cân nhắc tới việc áp dụng ngưỡng thông báo theo tiêu chí thị
phần nhằm phản ánh chính xác hơn khả năng gây hạn chế cạnh tranh của vụ việc TTKT.
Tuy nhiên, sau quá trình xem xét, các quốc gia này đã loại bỏ phương án này do những
khó khăn mà nó gây ra cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các thủ tục thông báo
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
117
TTKT. Một số trong đó thậm chí còn chỉ ra rằng ngưỡng thông báo sử dụng tiêu chí thị
phần không phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế được thừa nhận rộng rãi.
1.2.3. Cân nhắc miễn trừ đối với các giao dịch không gây quan ngại về cạnh
tranh
Hệ thống thông báo cũng được hoàn thiện hơn khi xem xét đến miễn trừ một số hình
thức giao dịch không cần thông báo theo quy định vì không gây ra quan ngại về cạnh
tranh. Một số hình thức miễn trừ chủ yếu bao gồm: giao dịch nội bộ (khi mà bên mua nắm
giữ hơn 50% số lượng cổ phiếu có quyền biểu quyết của bên bán và đơn thuần chỉ tăng số
cổ phần nắm giữ, điều này cũng đồng nghĩa với việc tài sản được chuyển từ các nhóm cổ
đông trong nội bộ doanh nghiệp), và giao dịch với mục đích duy nhất là đầu tư (thường áp
dụng nếu 10% hoặc thấp hơn 10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết bị mua lại, 15% nếu
nhà đầu tư mua lại là một tổ chức).
Bên cạnh đó, nếu các quỹ tín dụng, tổ chức tài chính hoặc các công ty bảo hiểm mua
lại cổ phiếu của doanh nghiệp khác với mục đích bán lại, thì quá trình mua lại đó không
được coi là hình thức TTKT, trong điều kiện doanh nghiệp mua lại không sử dụng quyền
biểu quyết của cổ phiếu và việc bán lại được thực hiện trong vòng 1 năm.
Ở Đức, pháp luật kiểm soát TTKT cho phép miễn trừ đối với các giao dịch được thực
hiện trên các thị trường không đóng vai trò chủ chốt của nền kinh tế. Đây được gọi là ―điều
khoản đối với thị trường nhỏ‖, được áp dụng đối với các thị trường đã vận hành tối thiểu là 5
năm và tổng doanh thu của thị trường thấp hơn 15 triệu Euro/năm. Ngoài ra, quốc gia này
còn có điều khoản ―tối thiểu hóa‖, cho phép bỏ qua các giao dịch khi một trong các bên tham
gia thuộc loại hình doanh nghiệp nhỏ, ngay cả doanh nghiệp còn lại nằm trong ngưỡng phải
thông báo.
1.2.4. Xem xét các giao dịch trong quá khứ
Nhiều quốc gia tham gia khảo sát của ICN cho biết có tính đến giá trị của các giao
dịch trong quá khứ trong quá trình xây dựng hoặc điều chỉnh ngưỡng thông báo TTKT.
Mặc dù có sự khác biệt trong phương pháp nhưng cách tiếp cận cơ bản là rà soát lại các
giao dịch được tiến hành trong một vài năm trở lại và xem xét tác động của việc tăng
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
118
ngưỡng thông báo TTKT đối với lượng vụ việc mà cơ quan cạnh tranh phải tiếp nhận.
Phương pháp này cũng giúp xác định một ngưỡng thông báo TTKT phù hợp để không bỏ
sót các vụ việc đã từng gây hạn chế cạnh tranh trong quá khứ.
Kết quả thu được tại các quốc gia áp dụng phương pháp này cho thấy có thể nâng
ngưỡng thông báo TTKT lên đáng kể mà không làm ảnh hưởng tới hiệu quả của hệ thống
pháp luật rà soát TTKT. Kết quả nhất quán từ các quốc gia này cho thấy, các ngưỡng
thông báo TTKT của họ trước đây là quá ôm đồm và gây ra những áp lực không đáng có
cho cơ quan cạnh tranh.
1.2.5. Phù hợp với quy mô của nền kinh tế
Quy mô của nền kinh tế có thể ảnh hưởng đến các tiêu chí của ngưỡng thông báo
TTKT. Một nền kinh tế quy mô nhỏ thì các doanh nghiệp thường có quy mô nhỏ (với
doanh thu thấp) hơn các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực tại các nền kinh tế lớn. Điều
này lý giải vì sao ngưỡng thông báo tại các nền kinh tế nhỏ thấp hơn ngưỡng thông báo
TTKT tại các quốc gia có nền kinh tế lớn.
Một số cơ quan cạnh tranh cho biết họ thực sự quan tâm tới thị trường nội địa và
mong muốn đánh giá tác động phản cạnh tranh của vụ việc TTKT lên thị trường nội địa.
Để đạt được điều này, cần phải xác định ngưỡng thông báo TTKT ở mức đủ thấp hoặc
xác định các tiêu chí phù hợp với từng lĩnh vực/ngành công nghiệp cụ thể.
1.2.6. So sánh ngƣỡng thông báo sử dụng tại các quốc gia có điều kiện tƣơng
đồng
Rất nhiều cơ quan cạnh tranh tham gia khảo sát của ICN cho rằng họ đã tiến hành so
sánh các ngưỡng thông báo trong nhiều hệ thống pháp lý khác nhau. Các nhân tố thị
trường nội địa được coi là rất quan trọng trong việc thiết lập và điều chỉnh ngưỡng thông
báo, và việc so sánh tiêu chuẩn ngưỡng thông báo của các hệ thống pháp lý khác nhau rất
hữu ích.
1.2.7. Việc điều chinh ngƣỡng cần phải thực hiện thƣờng xuyên
Kinh nghiệm từ các quốc gia áp dụng hệ thống điều chỉnh ngưỡng thông báo TTKT
thường xuyên cho thấy, có thể khiến chính sách kiểm soát TTKT trở nên tốt hơn khi kết
hợp với việc thường xuyên rà soát và điều chỉnh ngưỡng thông báo TTKT.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
119
Việc điều chỉnh có thể mang ý nghĩa rất quan trọng do ngưỡng thông báo được xác
lập khi luật mới ban hành đã trở nên không còn phù hợp. Nguyên nhân có thể là do bản
thân việc xác định ngưỡng ban đầu là chưa hợp lý hoặc do lạm phát cao làm cho ngưỡng
thông báo ban đầu bị hạ thấp một cách tương đối.
Do đó, một số quốc gia áp dụng hệ thống tự động điều chỉnh tăng giá trị của ngưỡng
thông báo TTKT theo biến động chỉ số giá. Một số khác không áp dụng biện pháp tự
động có thể quy định điều chỉnh ngưỡng thông báo khi có sự biến động nhất định trong
chỉ số lạm phát hoặc quy định rõ việc điều chỉnh ngưỡng thông báo vào mỗi kỳ rà soát
pháp luật về kiểm soát TTKT.
Do biến động bất lường của thị trường, cần phải cân nhắc điều chỉnh ngưỡng thông
báo TTKT cho phù hợp sau một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, để việc điều
chỉnh được thuận lợi, có thể cân nhắc việc cho phép điều chỉnh ngưỡng thông báo TTKT
mà không cần phải thông qua cơ quan lập pháp. Một số quốc gia cho phép tiến hành điều
chỉnh ngưỡng thông báo TTKT thông qua nghị định của chính phủ hoặc đơn giản chỉ
thông qua quyết định của cơ quan cạnh tranh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
120
PHẦN 2: QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG TẬP TRUNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
I. CÁC QUY ĐỊNH VỀ TTKT TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1. Các quy định chung về TTKT
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam có nhiều luật và văn bản dưới luật có các quy
định liên quan đến TTKT. Các văn bản đó được tổng hợp trong Bảng 1 sau đây.
STT Tên văn bản Điều khoản Năm
ban hành
Bộ luật/ Luật
1 Luật Cạnh tranh Điều 16 - 24 2004
2 Bộ Luật Dân sự Điều 94, 95 2005
3 Luật Doanh nghiệp Điều 152,
153
2005
3 Luật Đầu tư Điều 21, 25,
26
2005
4 Luật Chứng khoán Điều 29, 32,
69
2006
Nghị định
5 Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15
tháng 9 năm 2005 của Chính phủ Quy
định chi tiết thi hành Luật Cạnh tranh
(Nghị định 116/2005)
2005
6 Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30
tháng 9 năm 2005 của Chính phủ Quy
định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh
tranh (Nghị định 120/2005)
2005
7 Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng
8 năm 2006 về đăng ký kinh doanh
2006
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
121
STT Tên văn bản Điều khoản Năm
ban hành
8 Nghị định 101/2006/NĐ-CP ngày 21
tháng 9 năm 2006 của Chính phủ Quy
định việc đăng ký lại, chuyển đổi và đăng
ký đổi Giấy chứng nhận đầu tư của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
theo quy định của Luật Doanh nghiệp và
Luật Đầu tư
2006
9 Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22
tháng 9 năm 2006 của Chính phủ Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Đầu tư
2006
Nghị định 139/2007/NĐ-CP ngày 05
tháng 9 năm 2007 của Chính phủ Hướng
dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật
Doanh nghiệp
2007
Các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực
chuyên ngành
Nguồn: Cục Quản lý cạnh tranh
Bảng: Các văn bản pháp luật có liên quan đến TTKT
1.1. Bộ Luật Dân sự
Điều 94, 95 Bộ luật Dân sự quy định về hợp nhất và sáp nhập pháp nhân, theo đó
các pháp nhân cùng loại có thể hợp nhất thành một pháp nhân mới hoặc một pháp nhân có
thể được sáp nhập vào một pháp nhân khác cùng loại theo quy định của điều lệ, theo thoả
thuận giữa các pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Sau khi hợp nhất, các pháp nhân cũ chấm dứt; các quyền, nghĩa vụ dân sự của các
pháp nhân cũ được chuyển giao cho pháp nhân mới. Sau khi sáp nhập, pháp nhân được
sáp nhập chấm dứt; các quyền, nghĩa vụ dân sự của pháp nhân được sáp nhập được
chuyển giao cho pháp nhân sáp nhập.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
122
1.2. Luật Cạnh tranh
1.2.1. Các hình thức TTKT theo Luật Cạnh tranh
Ðiều 16 Luật Cạnh tranh quy định “TTKT là hành vi của doanh nghiệp bao gồm:
(1) Sáp nhập doanh nghiệp; (2) Hợp nhất doanh nghiệp; (3) Mua lại doanh nghiệp; (4)
Liên doanh giữa các doanh nghiệp; và (5) Các hành vi TTKT khác theo quy định của
pháp luật”.
Cụ thể hơn, Điều 17 Luật Cạnh tranh nêu ra khái niệm về các hình thức TTKT như
sau:
Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ
tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng
thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài
sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại.
Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng
nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành
một doanh nghiệp mới.
Các hình thức mua lại không bị coi là TTKT được quy định tại Điều 35, Nghị định
116/2005, bao gồm: ―Doanh nghiệp bảo hiểm, tổ chức tín dụng mua lại doanh nghiệp khác
nhằm mục đích bán lại trong thời hạn dài nhất là 01 năm. Doanh nghiệp mua lại không thực
hiện quyền kiểm soát hoặc chi phối doanh nghiệp bị mua lại; hoặc Doanh nghiệp thực hiện
quyền kiểm soát/chi phối nhưng chỉ trong khuôn khổ bắt buộc để đạt được mục đích bán
lại‖.
1.2.2. Ngƣỡng thông báo và tiêu chí đánh giá vụ việc TTKT
Luật Cạnh tranh sử dụng tiêu chí thị phần để xác định ngưỡng thông báo TTKT và
đồng thời để đánh giá một vụ việc TTKT.
Ngưỡng thông báo TTKT được quy định tại Khoản 1, Điều 20, Luật Cạnh tranh.
Theo đó, trong trường hợp thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia TTKT chiếm
từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp này
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
123
có nghĩa vụ thực hiện thủ tục thông báo TTKT cho Cục QLCT theo quy định tại Điều 20
Luật Cạnh tranh. Ngoài ra, trong trường hợp doanh nghiệp sau TTKT vẫn thuộc loại
doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật thì không phải thông báo.
Thị phần cũng đồng thời được sử dụng để đánh giá tác động hạn chế cạnh tranh của
vụ việc TTKT. Điều 18, Luật Cạnh tranh quy định ―cấm TTKT nếu thị phần kết hợp của
các doanh nghiệp tham gia TTKT chiếm trên 50% trên thị trường liên quan‖. Với cách
tiếp cận như vậy, có thể thấy, Luật Cạnh tranh Việt Nam quan niệm, việc hình thành nên
một thực thể (doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp) chiếm trên 50% thị phần trên thị
trường liên quan đã tạo nên một sức mạnh đủ để gây hạn chế cạnh tranh, có khả năng làm
giảm, làm cản trở và sai lệch cạnh tranh một cách đáng kể. Đối với những trường hợp
này, doanh nghiệp bị cấm thực hiện TTKT, trừ trường hợp doanh nghiệp sau khi thực
hiện TTKT vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, vụ việc TTKT có thể được xem xét cho hưởng miễn trừ theo quy định tại
Điều 19, Luật Cạnh tranh:
Một hoặc nhiều bên tham gia TTKT đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm
vào tình trạng phá sản (thẩm quyền xem xét quyết định thuộc về Bộ trưởng Bộ Thương
mại – nay là Bộ Công thương);
Việc TTKT có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế -
xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ (do Thủ tướng Chính phủ quyết định).
Như vậy, ngoài việc sử dụng tiêu chí thị phần để đánh giá tác động hạn chế cạnh
tranh của một vụ việc TTKT, Luật cạnh tranh Việt Nam còn xem xét thêm hai yếu tố để
cấm hay cho phép tiến hành TTKT: một bên tham gia TTKT đang trong nguy cơ bị giải
thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản và tác động tích cực của vụ việc TTKT tới xuất khẩu,
phát triển kinh tế xã hội, cải tiến công nghệ, kỹ thuật. Mặc dù cả hai yếu tố này đều là
những yếu tố phổ biến được các cơ quan cạnh tranh trên thế giới xem xét khi đánh giá
một vụ việc TTKT (mục 4.6 và 4.7 của Chương I) nhưng có thể thấy, vai trò của cơ quan
cạnh tranh Việt Nam trong việc đánh giá các yếu tố này là thấp. Trong trường hợp thứ
nhất, chỉ cần một bên tham gia TTKT đáp ứng điều kiện về giải thể hoặc phá sản là cơ
quan cạnh tranh sẽ phải đề xuất Bộ trưởng cho phép tiến hành TTKT mà không có quyền
đưa ra các biện pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả của thị trường. Tương tự, đối với
trường hợp thứ hai khi vụ việc TTKT có tác động nâng cao hiệu quả kinh tế, cơ quan cạnh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
124
tranh cũng không có quyền giám sát để đảm bảo hiệu quả kinh tế của một vụ việc TTKT
bị coi là gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể sẽ được chuyển tới tay người tiêu dùng.
Việc sử dụng yếu tố thị phần kết hợp24
làm căn cứ để kiểm soát TTKT cho thấy Luật
Cạnh tranh của Việt Nam chỉ kiểm soát các trường hợp TTKT theo chiều ngang. Vì vậy,
việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh giữa các doanh nghiệp không cùng thị trường
liên quan thì không chịu sự kiểm soát của Luật Cạnh tranh.
Bên cạnh Luật Cạnh tranh, các văn bản luật khác cũng có những quy định liên quan
đến TTKT như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Chứng
khoán được tóm lược ở dưới đây.
1.3. Luật Doanh nghiệp
Với vai trò là pháp luật tổ chức và thiết lập mô hình hoạt động cho các loại hình
doanh nghiệp, pháp luật về doanh nghiệp có nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến
TTKT, cụ thể:
Các quy định trong Luật Doanh nghiệp có thể được sử dụng làm căn cứ pháp
lý để làm rõ khái niệm và phạm vi của các hoạt động TTKT. Chẳng hạn để xác định khái
niệm mua lại doanh nghiệp, khi thực thi cơ quan quản lý cạnh tranh có thể dẫn chiếu đến
Luật Doanh nghiệp. Vấn đề mấu chốt để xác định việc mua lại là quyền chi phối và kiểm
soát doanh nghiệp bị mua lại, theo đó, nếu việc mua tài sản chưa đủ tạo nên quyền chi
phối, kiểm soát doanh nghiệp bị mua lại thì chưa cấu thành hiện tượng TTKT. Pháp Luật
Cạnh tranh xác định hai trường hợp tạo nên quyền kiểm soát, chi phối doanh nghiệp khác
là:
o giành được quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ chiếm được
trên 50% quyền bỏ phiếu tại Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị; hoặc
o giành được quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp bị kiểm soát ở mức mà theo
quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ để doanh nghiệp
mua lại chi phối các chính sách tài chính và hoạt động của doanh nghiệp bị kiểm soát
nhằm thu được lợi ích kinh tế từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị kiểm soát.
Trong trường hợp thứ nhất, căn cứ xác định đã được Luật Cạnh tranh định lượng
theo số phiếu hoặc giá trị biểu quyết tại các cơ quan lãnh đạo, quản lý cao nhất của doanh
24
Khoản 6 điều 3 Luật cạnh tranh quy định: Thị phần kết hợp là tổng thị phần trên thị trường liên quan của các
doanh nghiệp tham gia vào TTKT.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
125
nghiệp. Song, để xác định trường hợp thứ hai cần dẫn chiếu đến những quy định tương
ứng về việc quyết định những chính sách tài chính, kinh doanh trong pháp luật về doanh
nghiệp. Tùy theo hình thức tổ chức của doanh nghiệp bị mua lại mà mức vốn đủ chi phối
các vấn đề nói trên là khác nhau. Pháp luật về doanh nghiệp có vai trò làm rõ hơn những
vấn đề mà Luật Cạnh tranh chưa quy định chi tiết về các hành vi TTKT.
Các quy định liên quan đến thủ tục đăng ký kinh doanh, tổ chức lại doanh
nghiệp, chuyển nhượng vốn góp, mua bán cổ phần trong pháp luật về doanh nghiệp. Với
nhiệm vụ bảo đảm quyền tự do kinh doanh và thiết lập trật tự trong việc thực hiện quyền
kinh doanh, các chế định nói trên đảm bảo quyền quản lý nhà nước đối với hoạt động
kinh doanh trên thị trường. Quan hệ giữa các thủ tục kiểm soát trong Luật Cạnh tranh và
các thủ tục về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp được xác định như sau:
o Nếu TTKT thuộc nhóm không chịu sự kiểm soát của Luật Cạnh tranh thì chỉ
phải làm các thủ tục về việc đăng ký kinh doanh, chuyển nhượng vốn, mua bán cổ phần
theo pháp luật doanh nghiệp mà không phải thực hiện bất cứ thủ tục gì tại cơ quan cạnh
tranh;
o Nếu TTKT thuộc nhóm phải thông báo thì trước khi tiến hành các thủ tục tại cơ
quan đăng ký kinh doanh, các doanh nghiệp tham gia tập trung phải làm thủ tục thông báo
tại cơ quan quản lý cạnh tranh. Chỉ khi nào có trả lời của cơ quan này khẳng định việc
TTKT không thuộc trường hợp bị cấm thì các doanh nghiệp mới được thực hiện các thủ
tục về sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh theo pháp luật doanh nghiệp;
o Nếu thuộc trường hợp bị cấm, các doanh nghiệp tham gia TTKT phải thực hiện
thủ tục xin hưởng miễn trừ và chỉ được phép thực hiện giao dịch TTKT khi có được quyết
định cho hưởng miễn trừ của các cơ quan liên quan25
.
Luật Doanh nghiệp còn có các quy định có thể hỗ trợ cho quá trình kiểm soát
TTKT, bao gồm:
o Các quy định về nghĩa vụ thông báo bằng văn bản tiến độ góp vốn của công ty
TNHH, thông báo tiến độ góp vốn cổ phần của công ty cổ phần26
;
o Nghĩa vụ đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh về việc có cổ đông sở hữu
từ 5% tổng số cổ phần trở lên…Những quy định trên không chỉ tạo điều kiện cho việc
quản lý doanh nghiệp hiệu quả mà còn có thể cung cấp nhiều thông tin cần thiết để việc
xác minh thông tin về vụ việc TTKT được thuận tiện, nhanh chóng.
25
Điều 24 Luật Cạnh tranh 26
Điều 39 và Điều 84 Luật Doanh nghiệp
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
126
1.4. Luật Đầu tƣ
Luật Đầu tư gồm các quy định về hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh;
quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư;
khuyến khích và ưu đãi đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt
Nam ra nước ngoài. Trong đó, có một số nội dung liên quan đến TTKT, cụ thể là:
Các quy định về hình thức đầu tư ghi nhận một số hình thức là các hoạt động
TTKT như: Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài; Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; Đầu
tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp27
. Đối với nhà đầu tư nước ngoài khi
góp vốn, mua cổ phần phải thực hiện đúng các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên về tỷ lệ góp vốn, hình thức đầu tư và lộ trình mở cửa thị trường;
Các quy định về thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thủ tục thẩm tra đầu tư được thiết
kế để thực hiện vai trò quản lý nhà nước về đầu tư. Tuy nhiên, nhà đầu tư nước ngoài lần
đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và thực hiện thủ tục đầu tư để được cấp
Giấy chứng nhận đầu tư; Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh cho tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện dự án đầu tư.
Trong pháp luật đầu tư chỉ có một quy định đề cập đến vấn đề kiểm soát TTKT
dưới góc độ của Luật Cạnh tranh: khi sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh tại Việt Nam
phải tuân thủ các quy định của Luật Doanh nghiệp về điều kiện TTKT và pháp luật về
cạnh tranh28
.
1.5. Các văn bản pháp luật khác
1.5.1. Luật Chứng khoán
Luật Chứng khoán cũng có các điều khoản liên quan đến TTKT thông qua các giao
dịch trên thị trường chứng khoán như sau: ―Tổ chức, cá nhân trở thành cổ đông lớn của
công ty đại chúng (sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu
quyết của công ty đại chúng) phải báo cáo công ty đại chúng, Ủy ban chứng khoán nhà
27
Điều 21 Luật Đầu tư. 28
Khoản 2 điều 10 Nghị định Số 108/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22 tháng 09 năm 2006 Quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư. Ngoài ra, điều 56 của cùng Nghị định 108 nêu trên có quy
định về thủ tục đầu tư trực tiếp theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
127
nước và Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán nơi cổ phiếu của
công ty đại chúng đó được niêm yết‖.
Điều 29 và Điều 32 quy định về việc chào mua công khai theo đó các tổ chức, cá
nhân chào mua công khai số cổ phiếu có quyền biểu quyết dẫn đến việc sở hữu từ 25% trở
lên số cổ phiếu đang lưu hành của một công ty đại chúng phải gửi đăng ký chào mua đến
UBCKNN. Điều 69 quy định về chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi công ty chứng
khoán, công ty quản lý quỹ, theo đó các công ty này đều phải được sự chấp thuận của
UBCKNN khi thực hiện các giao dịch này.
1.5.2. Luật các tổ chức tín dụng
Điều 153 Luật các Tổ chức tín dụng quy định việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập,
mua lại, giải thể tổ chức tín dụng phải được Ngân hàng nhà nước chấp thuận bằng văn
bản.
2. Quy định về mua cổ phần doanh nghiệp Việt Nam đối với nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài
Điều 10, Nghị định 139/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007 về hướng dẫn chi tiết thi hành
một số điều của Luật Doanh nghiệp quy định tất cả các tổ chức là pháp nhân, gồm cả
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, không phân biệt nơi đăng ký trụ sở chính và mọi
cá nhân, không phân biệt quốc tịch và nơi cư trú, đều có quyền góp vốn, mua cổ phần với
mức không hạn chế tại doanh nghiệp, trừ một số trường hợp (công ty cổ phần niêm yết;
doanh nghiệp ngành nghề kinh doanh có điều kiện do pháp luật chuyên ngành quy định;
doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ áp dụng theo
Biểu cam kết về thương mại dịch vụ với WTO).
Đối với công ty niêm yết, Quyết định 238/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài mua, bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán
Việt Nam được nắm giữ tối đa 49% tổng số cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch của một
tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Riêng đối với
lĩnh vực ngân hàng, theo Nghị định số 69/2007/NĐ-CP ngày 20/4/2007 về việc nhà đầu
tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam, tỷ lệ nắm giữ tối đa của
nhà đầu tư nước ngoài là 30% vốn điều lệ (mức tối đa dành cho một tổ chức tín dụng
nước ngoài và người có liên quan là 15%, trường hợp đặc biệt sẽ do Thủ tướng Chính phủ
quyết định nhưng không vượt quá 20% vốn điều lệ.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
128
3. Thủ tục thông báo TTKT
Luật Cạnh tranh quy định về thủ tục thông báo (từ Điều 20 đến Điều 26) trong đó đề
cập đến những vấn đề sau đây:
Đối tượng áp dụng: Các trường hợp TTKT mà thị phần kết hợp của các doanh
nghiệp tham gia chiếm từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan, trừ trường hợp doanh
nghiệp sau khi thực hiện TTKT vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trách nhiệm của các doanh nghiệp có liên quan: Các doanh nghiệp tham gia
TTKT phải làm hồ sơ thông báo TTKT theo điều 21 Luật Cạnh tranh để nộp cho cơ quan
có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về tính trung thực của hồ sơ. Hồ sơ thông báo việc
TTKT cung cấp những thông tin cần thiết về tài chính, về sản phẩm, về thị phần của
doanh nghiệp trên thị trường liên quan trong hai năm liên tiếp gần nhất… làm cơ sở để cơ
quan có thẩm quyền phân tích, đánh giá vụ việc.
Thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh: Cơ quan quản lý cạnh tranh có
quyền kiểm soát TTKT bằng việc xem xét hồ sơ thông báo và trả lời thông báo TTKT.
Nội dung trả lời thông báo TTKT phải xác định TTKT thuộc một trong hai trường hợp
sau:
o TTKT không thuộc trường hợp bị cấm; hoặc
o TTKT bị cấm theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, lý do cấm
phải được nêu rõ trong văn bản trả lời.
Quy định về thời hạn trả lời thông báo TTKT: 45 ngày kể từ ngày nhận được
đầy đủ hồ sơ, có thể gia hạn trong những trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp theo
quyết định của thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh. Việc gia hạn không quá 02 lần,
mỗi lần không quá 30 ngày.
Trách nhiệm đảm bảo tính trung thực của hồ sơ: Các doanh nghiệp nộp hồ sơ
chịu trách nhiệm này.
Mẫu hồ sơ, giấy tờ ban hành kèm Quyết định 17/QĐ-QLCT của Cục QLCT về
việc ban hành một số mẫu giấy tờ theo quy định của Luật Cạnh tranh ban hành ngày
04/07/2006.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
129
Doanh nghiệp
Hồ sơ tập trung kinh tế (HS TTKT)
Cục QLCT
Tiếp nhận HS TTKT
HS đầy đủ, hợp lệ HS không đầy đủ, hợp lệ
VB trả lời về
tính đầy đủ, hợp lệVB yêu cầu
bổ sung HS
Thụ lý HS TTKT
TTKT không thuộc TH bị cấm TTKT thuộc TH bị cấm
Doanh nghiệp Doanh nghiệp
Tiến hành TTKT Dừng TTKT HS xin hƣởng miễn trừ
7 ngày làm việc
45 ngày + 2×30 ngày gia hạn
Cục QLCT
Tiếp nhận HS đề nghị hƣởng miễn trừ (ĐNHMT)
HS đầy đủ HS không đầy đủ
VB trả lời về tính
đầy đủ của HSVB yêu cầu
bổ sung HS
Thụ lý HS ĐNHMT
Bộ trƣởng Bộ Công Thƣơng
TH1: DN ĐNHMT có
nguy cơ giải thể/phá sản TH2: DN mở rộng XK/phát triển
KH-XH, kỹ thuật, công nghệ
Thủ tƣớng Chính phủ
Chấp thuận MT Không chấp thuận MT Chấp thuận MT Không chấp thuận MT
7 ngày làm việc
60 ngày + 2×30 ngày gia hạn 90 ngày + 90 ngày gia hạn
Thủ tục thông báo và xem xét miễn trừ
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
130
4. Quy định về xử lý vi phạm
Việc xử lý vi phạm pháp luật về TTKT trong Luật cạnh tranh Việt Nam chỉ tập
trung xử lý các vi phạm liên quan tới việc tiến hành TTKT trong những trường hợp bị
cấm hoặc TTKT mà không thông báo khi thuộc những trường hợp phải thông báo.
Việc điều tra, xử lý được thực hiện theo quy trình tố tụng cạnh tranh, trong đó cơ
quan quản lý cạnh tranh có chức năng thụ lý, điều tra vụ việc và Hội đồng cạnh tranh có
thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm bằng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính theo
các quy định của Luật Cạnh tranh và Nghị định 120/2005/NĐ-CP.
Các biện pháp xử phạt bao gồm: phạt tiền tùy theo hành vi vi phạm và mức độ
nghiêm trọng của hành vi. Theo đó, phạt tiền đến 5% tổng doanh thu trong năm tài chính
trước khi tiến hành TTKT đối với sáp nhập, hợp nhất, mua lại liên doanh bị cấm; phạt tiền
từ 5% đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước khi tiến hành TTKT đối với sáp
nhập, mua lại bị cấm trong trường hợp có dấu hiệu chèn ép, buộc doanh nghiệp khác phải
sáp nhập hoặc bán toàn bộ hoặc một phần tài sản; phạt tiền từ 5% đến 10% tổng doanh
thu trong năm tài chính trước khi tiến hành TTKT đối với hợp nhất, liên doanh bị cấm
trong trường hợp làm tăng giá hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan một cách đáng
kể; phạt tiền từ 1 đến 3% tổng doanh thu trong năm tài chính trước khi tiến hành TTKT
trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ thông báo theo quy định của Luật Cạnh tranh.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể bị buộc thực hiện chia tách các doanh nghiệp đã sáp nhập,
hợp nhất; bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bị buộc phải bán tài sản đã
mua… (Điều 25 đến điều 29 Nghị định 120).
5. Cơ quan quản lý cạnh tranh và các cơ quan nhà nƣớc có liên quan
Theo pháp Luật Cạnh tranh và pháp luật doanh nghiệp, việc kiểm soát các hành vi
sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp có sự tham gia của các
cơ quan:
Cục Quản lý Cạnh tranh có chức năng: Kiểm soát quá trình TTKT; Thẩm định
hồ sơ thông báo, hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ TTKT; Thụ lý, tổ chức điều tra vụ việc
cạnh tranh liên quan đến hành vi vi phạm các quy định về TTKT của Luật Cạnh tranh;
Hội đồng cạnh tranh xử lý các hành vi vi phạm pháp luật như thực hiện TTKT
trong trường hợp bị cấm hoặc TTKT mà không thực hiện việc thông báo;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
131
Cơ quan đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch Đầu tư và các Sở Kế hoạch – Đầu
tư) thực hiện các thủ tục liên quan đến đăng ký kinh doanh trong các trường hợp sáp
nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh.
Các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành (Ngân hàng Nhà nước, Ủy
ban Chứng khoán Nhà nước…) thực hiện chức năng thẩm định, cấp phép đối với các
trường hợp TTKT trong lĩnh vực chuyên ngành theo pháp luật.
II. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG TTKT TẠI VIỆT NAM
1. Hoạt động TTKT ngày càng phát triển cả về số lƣợng và quy mô
Nguồn: PwC29
Số lượng và giá trị các vụ việc TTKT giai đoạn 2005 - 2010
29
Báo cáo đánh giá hoạt động mua bán sáp nhập năm 2010 của PWC.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
132
Về số lượng và giá trị: số thương vụ được công bố trong các năm vừa qua có xu
hướng tăng ổn định, năm 2009 có khoảng 230 thương vụ. Giá trị các thương vụ cũng tăng
mạnh kể từ năm 2005 và năm 2007 đạt mức gần 1,7 tỷ USD nhưng đã giảm sút trong 2
năm 2008 và 2009. Một số nguyên nhân của hiện tượng này có thể kể đến như sau: (1)
Thị trường chứng khoán chứng kiến sự suy giảm mạnh, do đó kéo theo giá trị thẩm định
có xu hướng giảm theo chỉ số chứng khoán, dẫn đến sự sụt giảm quy mô các giao dịch về
mặt giá trị so với thời gian trước đây. (2) Thực tế là nhiều công ty đa quốc gia dành nguồn
lực để đánh giá lại chiến lược mở rộng của họ tại thị trường sở tại và các thị trường đang
phát triển như Việt Nam do tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu tiếp tục gây ảnh hưởng
lớn đến xu thế TTKT. Tuy nhiên, cùng với đà hồi phục của kinh tế toàn cầu và trong
nước, năm 2010 hoạt động TTKT đã đạt mức cao nhất từ trước tới nay cả về số vụ được
công bố (345) và giá trị giao dịch (1,75 tỷ USD).
Về quy mô các thương vụ: Các giao dịch tại Việt Nam chủ yếu có quy mô nhỏ và
vừa, quan sát các thương vụ diễn ra trong các năm qua, có thể thấy có hai loại thương vụ
chiếm ưu thế: giao dịch quy mô nhỏ dưới 5 triệu USD (chiếm khoảng 30-35% số vụ) và
các giao dịch có quy mô ở mức trung bình (khoảng 20 triệu USD/thương vụ - chiếm 50-
55% tổng số vụ). Các vụ TTKT lớn gắn với đối tác chiến lược của các doanh nghiệp nhà
nước cổ phần hóa vẫn chưa diễn ra do tiến độ cổ phần hóa chậm và những khó khăn trong
việc tìm kiếm và lựa chọn đối tác chiến lược.
Về đặc điểm của thương vụ: Các thương vụ tại Việt Nam chủ yếu thuộc thuộc hai
loại: Doanh nghiệp nước ngoài mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam (chiếm khoảng
40%) và doanh nghiệp Việt Nam mua lại doanh nghiệp Việt Nam (khoảng 40%). Hai
dạng TTKT còn lại (doanh nghiệp Việt Nam mua lại doanh nghiệp nước ngoài và và
doanh nghiệp nước ngoài mua lại doanh nghiệp nước ngoài) chỉ chiếm 20% tổng số
thương vụ.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
133
2. Một số ngành, lĩnh vực có hoạt động M&A sôi động
Nguồn: PWC
Một số ngành chiếm tỷ trọng cao về số vụ việc TTKT
Một số ngành có hoạt động TTKT sôi động trong những năm vừa qua là các ngành:
hàng công nghiệp, năng lượng, tài chính, nguyên vật liệu và ngành hàng tiêu dùng (đặc biệt
là nhóm ngành tiêu dùng nhanh – FMCG). Các vụ TTKT trong các ngành này thường
xuyên chiếm khoảng 2/3 tổng số vụ được công bố. Một số nguyên nhân lý giải điều này có
thể kể đến:
Nhóm các ngành năng lượng và nguyên vật liệu, tài chính là những ngành có
rào cản gia nhập thị trường tương đối cao (đặc biệt là rào cản pháp lý). Để có thể có được
giấy phép hoạt động kinh doanh trong những ngành này, nhà đầu tư thường phải mất một
khoảng thời gian dài. Thậm chí trong một số lĩnh vực, hiện nay nhà nước không cấp giấy
phép cho các doanh nghiệp mới tham gia thị trường nữa. TTKT là cách thức có thể giúp
nhà đầu tư tham gia vào các lĩnh vực đó một cách nhanh chóng.
Việt Nam là một nước đang phát triển, có lực lượng dân số trẻ chiếm tỷ trọng
lớn với thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng với tốc độ cao trong những năm vừa
qua. Cùng với đó là các cơ hội cho các nhà sản xuất, phân phối, bán lẻ trong các ngành
hàng tiêu dùng, đặc biệt là các ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG). Nhiều nhà đầu tư
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
134
nước ngoài đã thông qua TTKT để nhanh chóng tiếp cận thị trường này và tận dụng các
hệ thống phân phối, bán lẻ của các công ty mục tiêu.
3. Sự xuất hiện TTKT thông qua thị trƣờng chứng khoán
Trong những năm vừa qua đã xuất hiện các thương vụ được tiến hành trên các sở
giao dịch chứng khoán đối với các công ty niêm yết. Các thương vụ sáp nhập lớn có thể
kể đến là M&A Hà Tiên 1 – Hà Tiên 2; Mirae – Mirae Fiber; Kinh Đô – Kinh Đô Miền
Bắc; Vinpearl – Vinpearl Đà Nẵng, Vinpearl Hội An. Các thương vụ này đều đã có tham
vấn với Cục QLCT.
4. Hình thức TTKT vẫn còn ở mức độ đơn giản
Chủ yếu vẫn là các vụ thâu tóm một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp và rất ít các
loại ở mức độ cao hơn như hợp nhất, hình thức đòi hỏi trình độ quản lý và hợp tác cao.
Ngoài ra, rất nhiều vụ TTKT diễn ra dưới hình thức đầu tư tài chính, mua cổ phần để trở
thành đối tác chiến lược mà chưa nhắm đến thâu tóm để khống chế sở hữu và điều hành
công ty. Điều này một phần là do tỷ lệ sở hữu cổ phần bị khống chế đối với doanh nghiệp
nước ngoài trong một số lĩnh vực (ngân hàng 30%, công ty niêm yết 49%). Tuy nhiên,
trong hai năm 2009 – 2010, đã bắt đầu xuất hiện các hình thức TTKT mới như: (1) theo
chiều dọc nhằm kiểm soát nguồn cung, nguyên vật liệu cho hoạt động sản xuất kinh
doanh (Mirae – Mirae Fibers,…) hoặc (2) TTKT dạng tổ hợp để mở rộng lĩnh vực kinh
doanh (thương vụ ICA là công ty chiếm thị phần lớn trên thị trường các sản phẩm chăm
sóc sức khỏe của nam giới dành quyền kiểm soát Công ty Thuận Phát là công ty đã có vị
trí trên thị trường sản xuất nước mắm và các loại gia vị, Masan Food – Mỏ than Núi
Pháo…) hoặc (3) sáp nhập để tái cấu trúc hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu
quả hơn (Unilever Quốc tế - Unilever Việt Nam, Kinh Đô – Kinh Đô Miền Bắc, Vinpearl
Land – Vinpearl Hội An – Vinpearl Đà Nẵng…).
5. Các vụ TTKT nằm trong ngƣỡng phải thông báo hoặc bị cấm đã bắt đầu
xuất hiện và có xu hƣớng gia tăng
Trong thời gian vừa qua, trên thế giới đã có một loạt các vụ sáp nhập lớn mà trong
đó, các bên tham gia đều có công ty con hoặc chi nhánh tại Việt Nam, ví dụ như Alcatel –
Lucent, ICI – Akzo Nobel, Prudential – AIA (thương vụ này cuối cùng đã bị hủy bỏ)…
Nhiều công ty đã chiếm lĩnh được thị phần lớn, thậm chí có thể đã có thị phần chi phối
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
135
trên thị trường Việt Nam. Đã xuất hiện nhiều trường hợp các công ty tự tuyên bố hoặc
quảng bá về thị phần lớn đối với các sản phẩm của mình.
Bảng dưới đây thống kê các M&A đã được thông báo (bao gồm cả theo trình tự của
Luật Cạnh tranh và qua công văn tham vấn chính thức) tới Cục Quản lý cạnh tranh từ khi
Luật canh tranh có hiệu lực (tháng 7/2005) đến Tháng 12/2011.
TT Năm Ngành Các công ty tham gia TTKT
1 2008 Sản xuất giấy CTCP Giấy Tân Mai
CTCP Giấy Đồng Nai
2 2008 Công nghệ thông tin CTCP Sáng Tạo
Công ty TNHH Giải Pháp NEC Việt
Nam
3 2008 Thiết bị viễn thông Công ty TNHH Lucent Technologies
Việt Nam
Công ty TNHH Alcatel - Lucent Việt
Nam
4 2009 Dịch vụ khoan dầu
khí
Tổng CTCP Khoan và Dịch vụ khoan
Dầu khí (PV Drilling)
CTCP Đầu tư Khoan Dầu khí Việt
Nam (PVDI)
5 2009 Sản xuất chăn gối
đệm
CTCP Mirae
CTCP Mirae Fiber
6 2010 Sản xuất hàng tiêu
dùng
CT TNHH Unilever Việt Nam
CT TNHH Unilever Quốc tế Việt Nam
7 2010 Bảo hiểm nhân thọ CT BHNT Prudential
CT BHNT AIA
8 2010 Kinh doanh thực
phẩm
CTCP Kinh Đô
CTCP Miền Bắc
CTCP Kem Kido's
9 2011 Dịch vụ nghỉ dưỡng CTCP Vinpearl
CTCP Vinpearl Hội An, Huế,
Vincharm
Bảng Thống kê các vụ việc TTKT được thông báo đến Cục QLCT
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
136
Cho tới nay Cục QLCT đã phê chuẩn tất cả các vụ việc TTKT được thông báo.
Chưa có vụ việc nào thuộc dạng bị cấm theo quy định của Luật cạnh tranh.
Dưới đây là tóm tắt nội dung một số vụ việc thông báo/tham vấn đáng chú ý trong
những năm qua:
Vụ việc 1: Vụ sáp nhập giữa Công ty cổ phần giấy Tân Mai và công ty cổ phần
giấy Đồng Nai
Năm 2008, Cục QLCT đã thụ lý Hồ sơ Thông báo việc TTKT của Công ty cổ phần
giấy Tân Mai và Công ty Cổ phần giấy Đồng Nai. Hình thức TTKT là hợp nhất hai công
ty để hình thành doanh nghiệp mới là Công ty cổ phần Tập đoàn Tân Mai, đồng thời
chấm dứt sự tồn tại của hai công ty trước đó. Sau khi nghiên cứu và phân tích thông tin về
các doanh nghiệp tham gia TTKT, xem xét tổng quan về ngành công nghiệp giấy (giấy in
báo) của Việt Nam bao gồm tình hình sản xuất giấy in báo tại Việt Nam, tình hình đầu tư,
nhập khẩu, đặc điểm thị trường xét trên góc độ thị phần, cũng như những đánh giá về
chính sách giá của doanh nghiệp, Cục Quản lý cạnh tranh đã cho phép hai doanh nghiệp
được phép thực hiện hợp nhất. Xét về tác động cấu trúc thị trường giấy in báo, quá trình
TTKT giữa hai công ty không làm thay đổi cấu trúc thị trường so với trước khi hợp nhất.
Mặt khác, Công ty cổ phần Tập đoàn Tân Mai hình thành sau quá trình hợp nhất sẽ có
thêm lợi thế cạnh tranh về tiềm lực tài chính, nhân sự, công nghệ, thiết bị…do đó có thể
cạnh tranh với các doanh nghiệp nhập khẩu giấy in báo về chất lượng và giá cả. Bên cạnh
đó, những quan ngại gây hạn chế cạnh tranh của hoạt động TTKT này như việc lạm dụng
vị trí thống lĩnh để tăng giá bất hợp lý hay gây bất lợi cho khách hàng của doanh nghiệp
mới hình thành được đánh giá là không có khả năng xảy ra.
Vụ việc 2: Tham vấn đối với vụ sáp nhập giữa Tổng công ty PV Drilling và
Công ty PVDI
Năm 2009, Cục Quản lý Cạnh tranh đã nhận được công văn yêu cầu của Ủy ban
Chứng khoán về việc tham vấn và cho ý kiến hỗ trợ liên quan đến việc sáp nhập giữa
Tổng công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan dầu khí – PV Drilling (thành lập năm
2001) và Công ty Cổ phần Đầu tư Khoan Dầu khí Việt Nam – PVDI (thành lập tháng
4/2007).
Công ty PV Drilling hoạt động trong các lĩnh vực chủ yếu bao gồm dịch vụ cho thuê
và vận hành giàn khoan, dịch vụ kỹ thuật giếng khoan, cung cấp vật tư thiết bị khoan.
Trong đó dịch vụ cho thuê giàn khoan chiếm tới 40% doanh thu năm 2008 với 3.720 tỷ.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
137
Công ty PVDI có vốn điều lệ ban đầu là 1.000 tỷ đồng với 51% vốn do PV Drilling
nắm giữ và 49% vốn của cán bộ công nhân viên ngành dầu khí và các pháp nhân khác.
Việc thành lập PVDI nhằm mục đích chính là triển khai đầu tư 02 giàn khoan cho PV
Drilling.
Sau sáp nhập, 2 giàn khoan này sẽ thuộc sở hữu của PV Drilling và nâng tổng số
giàn khoan của PV Drilling lên 3 giàn khoan.
Sau khi xem xét vụ việc, Cục QLCT đã có công văn trả lời trường hợp sáp nhập của
2 công ty không thuộc đối tượng phải thông báo TTKT do thị phần dịch vụ khoan của PV
Drilling sau khi sáp nhập chỉ chiếm khoảng 25%. Thực chất đây là vụ sáp nhập công ty
con vào công ty mẹ nên cũng không làm thay đổi nhiều cấu trúc thị trường và ảnh hưởng
tới cạnh tranh. Bên cạnh đó, do tình hình khó khăn chung của kinh tế thế giới và Việt
Nam, việc sáp nhập PVDI vào PV Drilling được các bên cho là giải pháp tối ưu giúp
PVDI trong việc huy động nguồn vốn và tìm kiếm thị trường cho 2 giàn khoan mới, nâng
cao sức mạnh, tiềm lực tài chính và khả năng cạnh tranh của PV Drilling đồng thời mang
lại lợi ích cao cho cổ đông của 2 công ty.
Vụ việc 3: Tham vấn vụ việc sáp nhập công ty Mirae Fiber vào Mirae
Tháng 10/2009, Cục QLCT nhận được công văn từ CTCP Mirae tham vấn về việc
sáp nhập Mirae Fiber vào Mirae. CTCP Mirae (Mirae) tiền thân là Công ty TNHH Mirae
Fiber VN, chính thức thành lập năm 2001 với chủ đầu tư là Công ty TNHH Mirae Fiber
Technology Co., Ltd đặt tại Hàn Quốc, sau đó đã cổ phần hóa vào năm 2007. Công ty CP
Mirae Fiber tiền thân là chi nhánh của Công ty Mirae Fiber Vietnam, được tách ra hoạt
động độc lập và lấy tên là Công ty TNHH Mirae Fiber Hưng Yên, cổ phần hóa vào
09/2007. Sau khi tiếp nhận đầy đủ thông tin và nghiên cứu vụ việc, Cục QLCT đã trả lời
trường hợp sáp nhập này không thuộc đối tượng phải thông báo TTKT lên Cục quản lý
cạnh tranh theo quy định tại Điều 20, Luật Cạnh tranh 2004 (Thị phần kết hợp sau khi sáp
nhập trên thị trường liên quan đối với từng loại sản phẩm mà Công ty sau sáp nhập sản
xuất và kinh doanh thấp hơn 30%).
Vụ việc 4: Tham vấn vụ việc mua lại công ty BHNT AIA và BHNT Prudential
Tháng 4/2010, Cục QLCT nhận được công văn của hai Tập đoàn Prudential Plc (có
trụ sở tại Vương quốc Anh) và American International Group Inc (AIG – có trụ sở tại Hoa
Kỳ) để tham vấn về thỏa thuận mua lại AIA Group Limited (AIA) – một công ty con
thuộc sở hữu toàn bộ của AIG – của Prudential. Hiện tại hai tập đoàn này có các công ty
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
138
con tại Việt Nam là Prudential Việt Nam và AIA Việt Nam với thị phần trên thị trường
bảo hiểm nhân thọ tương ứng là 39,97% và 6,67% căn cứ trên tổng doanh thu năm 2009.
Vì vậy trường hợp này nằm trong diện phải nộp hồ sơ thông báo TTKT chính thức tới
Cục QLCT do thị phần kết hợp của hai bên chiếm 46,64% thị phần (trên 30% và dưới
50%). Tuy nhiên, đến tháng 6/2010, đại diện của các bên đã thông báo chấm dứt hợp
đồng sáp nhập AIA vào Prudential, do đó vụ việc đã được đóng lại.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG THỰC THI QUY ĐỊNH VỀ KIỂM SOÁT
TTKT Ở VIỆT NAM
1. Môi trƣờng pháp lý của hoạt động M&A tại Việt Nam
Qua việc phân tích pháp Luật Cạnh tranh về TTKT và các quy định có liên quan
trong một số lĩnh vực pháp luật khác trên đây cũng như từ thực tiễn của hoạt động này
trong thời gian 6 năm kể từ khi Luật Cạnh tranh được ban hành, có thể tìm thấy một số
điểm khiếm khuyết trong môi trường pháp lý về TTKT cần được bổ sung, hoàn thiện như
sau:
Thứ nhất, Luật Cạnh tranh chưa đề cập đến việc kiểm soát đối với TTKT theo chiều
dọc, TTKT hỗn hợp. Ngoài ra, Luật cạnh tranh cũng chưa đề cập đến việc kiểm soát hình
thức liên kết thông qua đội ngũ lãnh đạo, quản lý chung. Những dạng TTKT này, có khả
năng xảy ra trong tương lai cùng với sự đa dạng hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp trên thị trường, và có thể gây hạn chế cạnh tranh ở mức độ nhất định hoặc làm gia
tăng nguy cơ thỏa thuận giữa các doanh nghiệp sau khi tiến hành TTKT.
Thứ hai, ngoài các quy định có nội dung khái quát và mang tính nguyên tắc trong
Mục 3 Chương II Luật Cạnh tranh, và tại Mục 5, Chương II – Nghị định số 116/2005/NĐ-
CP, hiện nay vẫn chưa có các hướng dẫn cụ thể. Luật Cạnh tranh vẫn chưa có quy định để
trao quyền cho cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc xây dựng nội dung thẩm tra trong
thủ tục thông báo, thủ tục miễn trừ các trường hợp TTKT và quy chế kiểm soát TTKT.
Nếu khung pháp lý này được hoàn thiện, doanh nghiệp có thể hình dung được phạm vi
của quyền tự do kinh doanh liên quan đến hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại, góp vốn
thành lập doanh nghiệp… mà họ muốn thực hiện.
Thứ ba, về tổng thể pháp luật liên quan đến TTKT bao gồm các quy định thuộc
nhiều chế định pháp luật khác nhau, trong đó cơ bản là pháp luật về tổ chức lại doanh
nghiệp, pháp luật về thực hiện quyền góp vốn, mua cổ phần, chuyển nhượng vốn góp,
pháp luật đầu tư, pháp luật chứng khoán… Trong các lĩnh vực này, bước đầu đã có sự
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
139
quan tâm ở mức độ nhất định đến việc kiểm soát kinh tế bằng quy định dẫn chiếu đến các
quy định của Luật Cạnh tranh. Tuy nhiên, vẫn chưa có quy định về cơ chế phối hợp giữa
các thủ tục kiểm soát TTKT với thủ tục quản lý nhà nước trong việc đăng ký kinh doanh,
thủ tục đầu tư…, chưa có quy chế liên kết làm việc giữa cơ quan chịu trách nhiệm chính
trong việc kiểm soát TTKT là Cục QLCT với các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh
vực nói trên. Mặc dù đã có sự liên kết về mặt pháp lý nhưng việc thiếu quy định về cơ chế
phối hợp trong quá trình thực thi khiến cho việc kiểm soát TTKT trên thực tế là khó thực
hiện.
2. Bất cập khi sử dụng thị phần làm tiêu chí để đánh giá vụ việc TTKT
2.1. Khó khăn đối với doanh nghiệp khi sử dụng thị phần làm tiêu chí để thông
báo
Luật Cạnh tranh sử dụng thị phần làm cơ sở phân loại nhóm TTKT và là tiêu chí duy
nhất để xác định cách thức xử lý. Thực tế cho thấy, mặc dù số lượng các giao dịch TTKT
là khá lớn và tăng mạnh trong các năm vừa qua, quy mô của nhiều giao dịch cũng không
nhỏ nhưng số lượng các giao dịch được thông báo đến Cục QLCT vẫn còn khá thấp. Một
phần vì các doanh nghiệp đã thực hiện TTKT trên các thị trường có thị phần kết hợp
không cao (dưới ngưỡng kiểm soát 30%), nhưng quy định nghĩa vụ phải thông tin chính
xác về thị phần của các bên tham gia TTKT là một khó khăn cho doanh nghiệp. Trên thực
tế, doanh nghiệp chỉ có thể biết và chịu trách nhiệm về doanh số của mình mà không có
nghĩa vụ phải nắm được doanh số của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường (căn cứ để
tính toán thị phần của các bên tham gia TTKT). Việc yêu cầu doanh nghiệp phải thu thập
một khối lượng lớn thông tin liên quan đến thị trường và thị phần tạo một áp lực rất lớn
cho các doanh nghiệp mong muốn thực hiện thủ tục thông báo hoặc tham vấn ý kiến của
Cục QLCT. Điều này phần nào giải thích lý do tại sao rất nhiều vụ việc TTKT đã diễn ra
nhưng chỉ có một số ít được thông báo tới Cục QLCT.
Bên cạnh đó, từ góc độ của doanh nghiệp, việc xác định các đối thủ cạnh tranh để
đưa ra các quyết định về sản xuất, kinh doanh phù hợp cũng có nhiều điểm khác biệt so
với kỹ thuật xác định thị trường liên quan (cả thị trường sản phẩm và thị trường địa lý)
theo quy định của Luật Cạnh tranh. Điều này cũng sẽ tạo ra những tính toán thị phần kết
hợp khác nhau từ phía Cơ quan cạnh tranh và doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc sử dụng yếu tố thị phần kết hợp làm căn cứ để kiểm soát TTKT cho
thấy Luật Cạnh tranh Việt Nam chỉ kiểm soát các trường hợp TTKT theo chiều ngang. Vì
vậy, việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh giữa các doanh nghiệp không cùng thị
trường liên quan (các dạng sáp nhập theo chiều dọc và tổ hợp) không chịu sự kiểm soát của
Luật Cạnh tranh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
140
2.2. Hạn chế khi đánh giá vụ việc TTKT chỉ dựa trên tiêu chí thị phần
Về nguyên tắc, Điều 18 Luật Cạnh tranh chỉ cấm thực hiện TTKT khi thị phần kết
hợp chiếm trên 50% thị trường. Một khi khẳng định thị phần kết hợp của các doanh
nghiệp chỉ ở mức 50% trở xuống thì cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ trả lời trường hợp đó
không bị cấm. Nói cách khác, thủ tục thông báo đơn giản chỉ là quá trình xác định lại một
cách chính xác về thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia TTKT mà chưa là quá
trình đánh giá tác động của TTKT đến thị trường ở nhiều phương diện.
Cách tiếp cận này làm cho pháp luật kiểm soát TTKT chưa thực sự hiệu quả bởi
những lẽ sau đây:
Về bản chất, đánh giá tác động của việc TTKT đến thị trường luôn hướng về
tương lai. Khi tiến hành thủ tục thông báo (trước khi tiến hành TTKT), hậu quả hạn chế
cạnh tranh chưa thực sự xảy ra. Các số liệu chứng minh về thị phần chỉ phản ánh năng lực
cạnh tranh của từng doanh nghiệp tham gia trong quá khứ hoặc ở hiện tại. Nếu chỉ dựa
vào chúng để đánh giá tác động của TTKT đến tương lai của thị trường cạnh tranh có
nghĩa là chúng ta đang đặt thị trường trong trạng thái tĩnh. Trong sự vận động không
ngừng của thị trường, nhiều khi sự kiện sáp nhập, mua lại, liên doanh… giữa các doanh
nghiệp là nguyên nhân tạo nên những biến động về thị phần trên thị trường một cách
nhanh chóng (doanh nghiệp sau khi TTKT không cần thực hiện bất cứ chiến lược cạnh
tranh nào mà có thể tăng được thị phần ở một mức độ nhất định). Thế nên, trong nhiều
trường hợp, thị phần kết hợp của doanh nghiệp gần đạt đến mức bị cấm mặc nhiên, song
tác động của sự kiện TTKT đã làm cho chúng phát triển đến hoặc vượt qua ngưỡng bị
cấm. Như vậy, mức thị phần kết hợp ở hiện tại chưa đủ để chứng minh về tác hại chắc
chắn trong tương lai gần của việc TTKT.
Trong lý thuyết cạnh tranh, khả năng hạn chế cạnh tranh của TTKT không chỉ là
việc làm thay đổi cơ cấu cạnh tranh của thị trường mà còn là khả năng tăng cường quyền
lực thị trường để thực hiện hành vi phản cạnh tranh trong tương lai. Thế nên, đặt trong bối
cảnh nhất định, việc TTKT cũng có thể bị coi là nguy hại cho thị trường cạnh tranh nếu
đem lại cho doanh nghiệp khả năng chi phối thị trường và tiềm năng thực hiện hành vi phản
cạnh tranh cho dù mức thị phần kết hợp hiện tại chưa đủ để bị cấm mặc nhiên. Xét trong
bối cảnh lịch sử, tại thời điểm ban hành Luật Cạnh tranh thì quy định cấm này có thể có
tính hợp lý nhất định, nhưng với sự vận động của nền kinh tế cũng như qua kinh nghiệm
thực thi của cơ quan cạnh tranh, quy định này rất cần được xem xét điều chỉnh cho phù hợp.
Ngoài ra, việc đặt ra ngưỡng thị phần 50% để cấm thực hiện giao dịch TTKT không
phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế. Số liệu thống kê về các vụ việc TTKT ở Phần
II cho thấy đa phần các vụ việc đều có mô trung bình với mức thị phần kết hợp khoảng
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
141
30% trên thị trường được xem xét. Do đó, ngoài việc hạn chế thẩm quyền của cơ quan
cạnh tranh trong việc đánh giá vụ việc TTKT, ngưỡng thị phần 50% theo quy định của
Luật Cạnh tranh có thể bỏ sót các vụ việc TTKT có khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên
thị trường liên quan.
3. Khó khăn với cơ quan quản lý cạnh tranh về thu thập thông tin, dữ liệu
Hiện nay, ngoài cơ quan quản lý cạnh tranh có chức năng kiểm soát các hoạt động
TTKT đối với những trường hợp thuộc diện phải thông báo hoặc bị cấm, một số cơ quan
quản lý nhà nước chuyên ngành khác cũng có chức năng kiểm soát mua lại, sáp nhập
trong phạm vi ngành, cụ thể là:
Bộ KHĐT và Sở Kế hoạch đầu tư các tỉnh thành phố:
o Thẩm định và cấp giấy phép cho các dự án đầu tư;
o Thay đổi giấy phép đăng ký kinh doanh do nguyên nhân sáp nhập, hợp nhất,
mua lại, liên doanh;
o Khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua các chương trình xúc tiến
đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh
Ủy ban Chứng khoán nhà nước:
o Việc sáp nhập, hợp nhất các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ phải
được sự chấp thuận của Ủy ban
Ngân hàng nhà nước:
o Việc sáp nhập, hợp nhất các tổ chức tín dụng phải được Ngân hàng nhà nước
chấp thuận bằng văn bản.
Các cơ quan điều tiết ngành:
o Viễn thông: phải thông báo cho cơ quan quản lý chuyên ngành nếu thị phần kết
hợp trên 30%
Tuy nhiên, bên cạnh những bất cập trong hệ thống thông báo nêu trên, hiện nay chưa
có một cơ chế phối hợp và trao đổi thông tin giữa các cơ quan trong việc kiểm soát TTKT
dẫn đến việc nắm bắt các thông tin, dữ liệu về các vụ việc TTKT còn nhiều khó khăn và
không đầy đủ. Hiện tại, Cục Quản lý Cạnh tranh chủ yếu dựa vào các nguồn thông tin: từ
phía doanh nghiệp thực hiện TTKT, phương tiện thông tin truyền thông trong nước và
quốc tế, sự hợp tác của một số Sở KH-ĐT…
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
142
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Khuyến nghị về phạm vi và các hình thức TTKT phải kiểm soát
1. Mở rộng về hình thức và hành vi giao dịch TTKT cần phải điều chỉnh.
Như đã phân tích ở trên, việc sử dụng tiêu chí thị phần kết hợp của các doanh nghiệp
tham gia TTKT để đánh giá một vụ việc TTKT cho thấy Luật cạnh tranh Việt Nam chỉ
điều chỉnh các vụ việc TTKT theo chiều ngang. Các tác động phản cạnh tranh tiềm ẩn của
dạng TTKT theo chiều ngang là rõ rệt khi doanh nghiệp sau khi sáp nhập có một sức
mạnh thị trường đáng kể. Dạng TTKT này cũng được chú trọng trong các chính sách
kiểm soát TTKT của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, cả về mặt học thuật lẫn thực
tiễn đã chỉ ra rằng, các dạng TTKT theo chiều dọc không phải không tiềm ẩn những tác
động xấu tới cạnh tranh mặc dù không làm thay đổi trực tiếp tới cấu trúc thị trường.
Không thể phủ nhận các tác động tích cực tới cạnh tranh và phúc lợi xã hội có thể có
của một vụ sáp nhập theo chiều dọc. Rõ thấy nhất là một vụ TTKT giữa hai doanh nghiệp
nằm ở 2 công đoạn liền kề của một chuỗi sản xuất và đều có sức mạnh trên các thị trường
liên quan. Vụ sáp nhập sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động vì lúc này các hoạt động trước là
tách biệt của 2 doanh nghiệp nay đã được thực hiện một cách thống nhất và đồng bộ. Nếu
không có vụ sáp nhập, giá cuối cùng của sản phẩm sẽ hàm chứa mức lợi nhuận biên kép
của cả hai doanh nghiệp, khi mỗi doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất đều có thể tăng giá,
tức là làm hạn chế quyết định về đầu vào của doanh nghiệp nằm ở công đoạn sau của
chuỗi. Với những lợi ích trên và khả năng tác động trực tiếp tới cấu trúc thị trường, nhìn
chung các cơ quan cạnh tranh ít chú ý tới các vụ sáp nhập dạng này.
Tuy nhiên, các giao dịch TTKT kiểu này cũng có khả năng gây ra tác động hạn chế
cạnh tranh nhất định trên mỗi cấp độ thị trường là nơi hoạt động của các doanh nghiệp
tham gia TTKT ngay cả khi doanh nghiệp được hình thành sau TTKT không cần phải
thực hiện các hành vi phản cạnh tranh. Hai tác động phổ biến nhất được các cơ quan cạnh
tranh quan tâm là phân biệt giá (price discrimination) và phong tỏa thị trường (market
foreclosure).
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
143
Ngoài ra, có một số dạng giao dịch thuộc dạng biên30
cũng cần phải được Luật cạnh
tranh xem xét điều chỉnh như: mua lại phần sở hữu của cổ đông thiểu số; mua/bán một
phần tài sản độc lập. Những giao dịch dạng này có thể được xem xét điều chỉnh dưới dạng
kiểm soát TTKT.
Mặt khác, khi một giao dịch TTKT được thực hiện trong nội bộ doanh nghiệp thì
giao dịch TTKT đó có thể được coi là một hoạt động tái cấu trúc của bản thân doanh
nghiệp và không làm thay đổi đáng kể tình trạng cạnh tranh trên thị trường. Do đó, cần
phải có quy định miễn trừ đối với các dạng giao dịch nội bộ này.
Do đó, Nhóm nghiên cứu kiến nghị cần xem xét mở rộng việc điều chỉnh cả về hình
thức và hành vi của giao dịch TTKT.
2. Cần xem xét kiểm soát cả các giao dịch TTKT được thực hiện ngoài lãnh thổ
Việt Nam nhưng có tác động gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường
Việt Nam.
Được đánh giá là một nền kinh tế năng động, thu nhập quốc dân tăng tương đối
nhanh, quy mô thị trường khá lớn và còn nhiều tiềm năng phát triển, chi phí sản xuất thấp
hơn nhiều nước khác trong khu vực, trong những năm qua Việt Nam đã thu hút sự quan
tâm đáng kể của các tập đoàn đa quốc gia. Trên thực tế có nhiều công ty đa quốc gia đã có
sự hiện diện tại Việt Nam và trong số đó có nhiều sản phẩm và dịch vụ do các công ty này
cung cấp có thị phần đáng kể trên thị trường trong nước.
Một vấn đề đặt ra là hiện tại Luật cạnh tranh Việt Nam chỉ mới kiểm soát bằng hình
thức thông báo hoặc cấm/miễn trừ đối với hoạt động TTKT thực hiện trên lãnh thổ Việt
Nam. Giả định một vụ sáp nhập giữa hai tập đoàn đa quốc gia đã được cho phép tại các
quốc gia khác. Hai tập đoàn này đều có mặt trên thị trường Việt Nam với thị phần kết hợp
thuộc dạng bị cấm theo quy định của Luật cạnh tranh Việt Nam31
. Trong trường hợp đó,
các bên sẽ phải cân nhắc các tình huống sau:
30
Nêu tại Mục I.2 của Chương I. 31
Trường hợp này đã có tiền lệ khi Prudential có kế hoạch mua lại AIA trong đó thị phần kết hợp của hai công ty
con tại Việt Nam của hai tập đoàn này được báo cáo cho Cơ quan cạnh tranh Việt Nam là chiếm gần 50% thị trường
bảo hiểm nhân thọ. Con số này lớn hơn tất cả các thị trường khác tại châu Á mà hai tập đoàn này hoạt động (Hàn
Quốc, Singapore, Nhật bản, Malaysia,…). Tuy nhiên, tại các quốc gia có pháp luật kiểm soát TTKT thì vụ M&A này
đã phải báo cáo chính thức cho cơ quan cạnh tranh nước sở tại ngay từ giai đoạn các bên đạt được thỏa thuận mua
lại.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
144
Các bên vẫn tiến hành TTKT nhưng không thông báo hoặc không xin hưởng
miễn trừ. Các doanh nghiệp tham gia vụ việc sẽ phải đối mặt với một rủi ro pháp lý khá
lớn nếu bị cơ quan cạnh tranh phát hiện, điều tra với mức phạt có thể lên tới 10% tổng
doanh thu của năm trước thời điểm vi phạm cũng như phải chia tách doanh nghiệp đã hợp
nhất, sáp nhập trở về trạng thái trước khi TTKT.
Trong trường hợp tiến hành thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh và
không được hưởng miễn trừ, các doanh nghiệp liên quan sẽ phải đối mặt với các lựa chọn:
o Tiếp tục duy trì sự tồn tại độc lập của hai doanh nghiệp có sự liên hệ với nhau
về mặt quản lý. Trên thực tế, khi các công ty mẹ ở nước ngoài đã sáp nhập xong thì không
có lý do nào mà hoạt động của các công ty con là độc lập trong các quyết định về sản
phẩm, sản lượng và giá cả. Điều này cũng đưa các công ty đó gặp một rủi ro pháp lý
không kém phần nghiêm trọng là hành vi thỏa thuận, thông đồng gây hạn chế cạnh tranh
với các mức phạt rất lớn.
o Một bên trong vụ việc TTKT sẽ phải bán lại cho một doanh nghiệp khác hoặc
giải thể. Trên thực tế, cả hai cách giải quyết này đều hết sức tốn kém cả về thời gian và
tiền bạc.
o Trong trường hợp xấu nhất, để đảm bảo kinh doanh ở Việt Nam thì vụ việc
TTKT có thể phải hủy bỏ dù đã được chấp nhận ở các quốc gia khác.
Như vậy, có thể nói trong bất kỳ tình huống nào, việc sáp nhập các công ty đa quốc
gia có hoạt động tại Việt Nam nếu có tiềm ẩn khả năng gây hạn chế cạnh tranh tại Việt
Nam sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, việc cơ quan cạnh tranh Việt Nam
được thông báo để xem xét ngay từ giai đoạn đầu để có được những đánh giá phù hợp là
cần thiết.
Do đó, Nhóm nghiên cứu kiến nghị cần có thêm các quy định điều chỉnh hoạt động
TTKT của các doanh nghiệp nước ngoài có hoạt động tại Việt Nam.
II. Khuyến nghị về bổ sung ngƣỡng thông báo TTKT
Luật cạnh tranh Việt Nam kiểm soát vụ việc TTKT thông qua tiêu chí thị phần. Như
đã phân tích ở trên, việc sử dụng tiêu chí thị phần để xác định ngưỡng thông báo tập trung
kinh tế sẽ giúp cơ quan cạnh tranh có được đánh giá ban đầu chính xác hơn về khả năng
gây hạn chế cạnh tranh của vụ việc, từ đó gia tăng tỷ trọng các vụ việc thực sự có vấn đề
về cạnh tranh trong tổng số các vụ việc mà cơ quan cạnh tranh phải xem xét. Tuy nhiên,
các tiếp cận sử dụng tiêu chí thị phần trên thị trường liên quan cũng gây ra rất nhiều khó
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
145
khăn cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục thông báo TTKT như xác định
thị trường liên quan, xác định thị phần của mình trên thị trường liên quan. Kinh nghiệm
của các quốc gia đã tiến hành sửa đổi quy định kiểm soát TTKT cho thấy, lợi ích từ việc
sử dụng tiêu chí thị phần để xác định ngưỡng thông báo TTKT không thể bù đắp cho
những khó khăn và chi phí mà doanh nghiệp phải gánh chịu. Trên thực tế, hầu hết các hệ
thống kiểm soát TTKT chỉ sử dụng tiêu chí doanh thu để xác định ngưỡng thông báo
TTKT.
Các lợi ích của việc sử dụng tiêu chí doanh thu để xác định ngưỡng thông báo
TTKT bao gồm:
Doanh nghiệp có thể dễ dàng cung cấp số liệu về doanh thu của các bên tham
gia vụ việc TTKT;
Ngưỡng thông báo theo doanh thu là phù hợp với thông lệ quốc tế trong kiểm
soát TTKT.
Cơ quan quản lý cạnh tranh, nếu thấy cần thiết để đánh giá tác động tiềm ẩn tới
cạnh tranh của vụ việc, sẽ yêu cầu các doanh nghiệp tham gia TTKT và các doanh nghiệp
hoạt động trên cùng thị trường liên quan cung cấp thêm thông tin. Sẽ là hợp lý hơn khi
việc thu thập thông tin về thị trường được cơ quan cạnh tranh thực hiện.
Với các lý do trên, thay vì quy định ngưỡng dựa trên thị phần như hiện tại trong
Luật Cạnh tranh, Nhóm nghiên cứu khuyến nghị sử dụng tiêu chí ―doanh thu‖ làm cơ sở
xác định ngưỡng thông báo TTKT.
Trên thực tế, khi xem xét các lựa chọn thay thế cho tiêu chí thị phần, đã có sự cân
nhắc giữa hai tiêu chí ―tổng doanh thu‖ và ―tổng tài sản‖. Tuy nhiên, có thể thấy, tiêu chí
―tổng tài sản‖ sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc xác định hơn. Có nhiều trường hợp (đặc
biệt là đối với các công ty nước ngoài) có thể có tổng doanh thu rất lớn trên thị trường
Việt Nam nhưng tổng tài sản tại Việt Nam lại không đáng kể. Do đó, nếu xét từ quan
điểm xác định sự hiện diện của một doanh nghiệp trong nền kinh tế, tổng doanh thu sẽ là
chỉ dấu đại diện tốt hơn tổng tài sản. Và nếu áp dụng ngưỡng thông báo theo tổng doanh
thu, thì cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài đều được đối xử như
nhau.
Đồng thời, theo kinh nghiệm quốc tế, tỷ lệ giữa ―tổng doanh thu‖ và ―tổng tài sản‖
đối với các tổ chức tài chính (ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán,…) hoàn
toàn khác với các hình thức doanh nghiệp thông thường theo nghĩa là ―tổng tài sản‖ của
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
146
các tổ chức này thường là rất lớn. Đây cũng là một lập luận cho thấy nếu áp dụng tiêu chí
thông báo là ―tổng tài sản‖ thì cần phải có sự phân định giữa các tổ chức tài chính với các
loại doanh nghiệp khác.
III. Khuyến nghị về đánh giá tác động cạnh tranh của vụ việc TTKT
1. Về xác định thị trƣờng liên quan
Nhìn chung, cách thức xác định thị trường liên quan của Luật cạnh tranh Việt Nam
cũng phù hợp với các nguyên tắc được sử dụng phổ biến: dựa trên việc đánh giá khả năng
thay thế về cầu và khả năng thay thế về cung.
Các tiêu chí xác định thị trường liên quan của Luật cạnh tranh Việt Nam là được quy
định rất cụ thể tại Nghị định 116. Về mặt tích cực, việc quy định cụ thể như vậy giúp
nâng cao tính minh bạch của pháp luật cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan cạnh
tranh trong quá trình thực thi luật. Tuy nhiên, việc liệt kê các tiêu chí cụ thể cũng như
giản lược hóa các đánh giá về mặt kinh tế trong quá trình xác định thị trường liên quan đã
gây không ít khó khăn cho cơ quan cạnh tranh và trong một số trường hợp có hướng việc
đánh giá của cơ quan cạnh tranh xa rời khỏi thực tế thị trường.
Thứ nhất, Khoản 2, Điều 4, Nghị định 116 quy định: ―đặc tích của hàng hóa, dịch vụ
được xác định theo một hoặc một số căn cứ sau: (a) tính chất vật lý, (b) tính chất hóa học,
(c) tính năng kỹ thuật, (d) tác dụng phụ đối với người sử dụng, (đ) khả năng hấp thụ. Các
tiêu chí cụ thể nêu trên có thể phù hợp đối với hàng hóa nhưng không có một sự liên quan
nào tới dịch vụ. Do đó, trong trường hợp cần phải xác định thị trường liên quan của một
loại dịch vụ, cơ quan cạnh tranh không thể áp dụng các tiêu chí này để xác định đặc tích
của dịch vụ, từ đó, không đảm bảo đầy đủ các yếu tố xác định thị trường liên quan theo
quy định của luật32
.
Thứ hai, về cách thức xác định khả năng thay thế cho nhau về giá, Điểm c, Khoản 5,
Điều 4, Nghị định 116 quy định ―Hàng hóa, dịch vụ được coi là có thể thay thế được cho
nhau về giá cả nếu trên 50% của một lượng mẫu ngẫu nhiên 1.000 người tiêu dùng sinh
sống tại khu vực địa lý liên quan chuyển sang mua hoặc có ý định mua hàng hóa, dịch vụ
khác có đặc tính, mục đích sử dụng giống với hàng hóa, dịch vụ mà họ đang sử dụng hoặc
có ý định sử dụng trong trường hợp giá của hàng hóa, dịch vụ đó tăng lên quá 10% và
được duy trì trong 06 tháng liên tiếp‖. Có thể thấy đây là một hình thức đơn giản của phép
32
Khoản 1, Điều 4, Nghị định 116 quy định ―thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch
vụ có thể thay thế cho nhau cả về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả‖.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
147
thử SSNIP được các cơ quan cạnh tranh trên thế giới công nhận rộng rãi trong việc xác
định thị trường liên quan. Về bản chất, phép thử SSNIP (small but significant and non-
transitory increase in price – mức tăng giá tối thiểu đủ để khách hàng chuyển sang sử
dụng sản phẩm thay thế khác) là nhằm kiểm tra khả năng nhà độc quyền giả định có thể
thu lợi từ việc tăng giá sản phẩm/dịch vụ ở mức độ nhất định (5%-10%) trong một khoảng
thời gian nhất định (6 tháng – 1 năm). Trong trường hợp việc tăng giá đó giúp nhà độc
quyền có thể thu được lợi nhuận (mức sụt giảm trong sản lượng bán ra, tương ứng với
lượng khách hàng chuyển sang sử dụng sản phẩm/dịch vụ khác, không đủ lớn để để làm
giảm lợi nhuận từ việc tăng giá) thì thị trường sản phẩm liên quan đã được xác định.
Trong trường hợp nhà độc quyền không thể thu lợi từ việc tăng giá thì thị trường sản
phẩm liên quan sẽ được mở rộng hơn.
Trên thực tế, số lượng vụ việc sử dụng phép thử SSNIP thuần túy là rất ít do khó
khăn về mặt thu thập dữ liệu thị trường và sự tốn kém trong việc tổ chức lấy ý kiến người
tiêu dùng. Do đó, các cơ quan cạnh tranh thường sử dụng công cụ thay thế độ co giãn về
cầu để gián tiếp đánh giá khả năng tăng giá của nhà độc quyền giả định.
Do đó, quy định về xác định khả năng thay thế về giá tại Nghị định 116 có những
nhược điểm sau:
Yêu cầu trên 50% mẫu chuyển sang sử dụng một hàng hóa/dịch vụ khác để xác
định khả năng thay thế giữa hai loại sản phẩm/dịch vụ là quá chặt chẽ. Bởi với mức tăng
giá 10%, có thể số lượng người sử dụng sản phẩm/dịch vụ quyết định không tiếp tục sử
dụng hàng hóa/dịch vụ đó nữa chiếm trên 50%. Tuy nhiên, để trên 50% lượng khách hàng
chuyển sang sử dụng một sản phẩm/dịch vụ khác là không khả thi và thường dẫn đến kết
quả thị trường liên quan được xác định là của chính sản phẩm/dịch vụ được khảo sát hay
có thể hiểu là doanh nghiệp bị điều tra là doanh nghiệp độc quyền trên thị trường liên
quan được xác định theo quy định của Luật cạnh tranh. Điều này không phản ánh đúng
với thực tế cạnh tranh trên thị trương.33
33
Kinh nghiệm từ việc thực hiện khảo sát giá theo quy định của Luật cạnh tranh trong vụ bia cho thấy: có trên 50%
số lượng người được phỏng vấn cho biết sẽ không tiếp tục sử dụng sản phẩm được hỏi trong trường hợp giá của sản
phẩm đó tăng lên 10% trong khoảng thời gian 6 tháng. Tuy nhiên, họ lại quyết định lựa chọn các sản phẩm thay thế
khác nhau chứ không phải là một sản phẩm duy nhất khác. Do đó, kết quả khảo sát cho thấy, lượng người tiêu dùng
chuyển sang sử dụng một sản phẩm thay thế khác không đáp ứng ngưỡng 50% như quy định của luật. Như vậy, có
thể hiểu, theo cách xác định thị trường liên quan được quy định tại Nghị định 116, thị trường sản phẩm liên quan của
vụ việc là thị trường của chính sản phẩm đó, không bao gồm các sản phẩm cạnh tranh nào khác. Điều này không
phản ánh đúng thực tế cạnh tranh trên thị trường bia.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
148
Việc yêu cầu thực hiện khảo sát trong mọi trường hợp xác định khả năng thay
thế về giá gây ra lãng phí về nguồn lực cho cơ quan cạnh tranh. Thay vào đó, việc đưa ra
nguyên tắc xác định khả năng thay thế về giá và cho phép cơ quan cạnh tranh sử dụng các
công cụ phù hợp nhất tùy vào đặc điểm của từng vụ việc sẽ giúp tiết kiệm cả về thời gian
và chi phí. Ví dụ, với bản chất của phép thử SSNIP như nêu ở trên, cơ quan cạnh tranh có
thể đánh giá khả năng tăng giá của nhà độc quyền giả định thông qua độ co giãn chéo về
cầu.
Tóm lại, Nhóm nghiên cứu kiến nghị, không nên áp dụng một cách cứng nhắc các
đánh giá mang tính kỹ thuật đối với việc xác định thị trường liên quan. Cần mở rộng các
tiêu chí đánh giá để xác định thị trường liên quan cả về định tính và định lượng để đảm
bảo xác định một thị trường liên quan phản ánh đúng thực tế của vụ việc.
2. Đánh giá tác động của vụ việc TTKT
Theo quy định hiện hành, việc đánh giá vụ việc TTKT chủ yếu tập trung vào việc
xác định thị phần của các doanh nghiệp tham gia TTKT trên thị trường liên quan. Vụ việc
TTKT sẽ bị cấm trong trường hợp thị phần kết hợp của các bên tham gia TTKT chiếm
trên 50% trên thị trường liên quan. Trong trường hợp đó, để có thể tiến hành giao dịch
TTKT, các bên liên quan cần phải thực hiện thủ tục xin hưởng miễn trừ theo quy định tại
Điều 19, Luật cạnh tranh.
Điều 19, Luật cạnh tranh quy định hai trường hợp cho phép hưởng miễn trừ đối với
vụ việc TTKT bị cấm: (i) một bên trong vụ việc đang trong có nguy cơ giải thể hoặc lầm
vào tình trạng phá sản và (ii) tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế
- xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.
Với cách tiếp cận như trên, có thể thấy, Luật cạnh tranh mặc nhiên công nhận: khi
thị phần kết hợp của các bên tham gia chiếm trên 50% trên thị trường liên quan thì vụ việc
TTKT không gây ra hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Điều này đồng nghĩa với việc
nếu thị phần kết hợp của các bên tham gia chiếm từ 50% trở xuống trên thị trường liên
quan thì vụ việc đó không gây ra tác động hạn chế cạnh tranh. Trong trường hợp này, cơ
quan cạnh tranh không có nghĩa vụ/quyền hạn để đánh giá tác động cạnh tranh của vụ
việc TTKT.
Ngay cả trong trường hợp vụ việc TTKT thuộc diện bị cấm thì đánh giá về mặt cạnh
tranh của cơ quan cạnh tranh cũng bị hạn chế. Theo quy định của Điều 19 như nêu ở trên,
đánh giá của cơ quan cạnh tranh chỉ dừng lại ở việc xem xét hiệu quả mà vụ việc TTKT
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
149
có thể mang lại cho sự phát triển kinh tế xã hội. Không có một đánh giá nào liên quan tới
cạnh tranh bởi sự công nhận mặc nhiên rằng với mức thị phần kết hợp trên 50%, các
doanh nghiệp tham gia TTKT đã gây ra hạn chế cạnh tranh trên thị trường, dù có thực
hiện các hành vi phản cạnh tranh (theo quy định điều chỉnh về thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh và lạm dụng vị trí thống lĩnh) hay không.
Trên thực tế, đối với một số thị trường, chỉ cần mức thị phần 10%-20% đã đủ mang
lại cho doanh nghiệp một sức mạnh tuyệt đối trên thị trường, đặc biệt đối với các thị
trường phân tán và có sự chênh lệch đáng kể trong thị phần giữa doanh nghiệp/nhóm
doanh nghiệp đứng đầu trên thị trường với các doanh nghiệp đứng sau. Ngược lại, cũng
tồn tại những thị trường chỉ có một số ít doanh nghiệp, với mức thị phần của các doanh
nghiệp đứng đầu có sự chênh lệch không đáng kể thì việc tiến hành TTKT giữa một
doanh nghiệp trong nhóm đứng đầu thị trường với doanh nghiệp có thị phần nhỏ sẽ không
làm thay đổi đáng kể đến cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh trên thị trường.
Do đó, quy định hiện tại của Luật cạnh tranh không chỉ hạn chế thẩm quyền của cơ
quan cạnh tranh trong việc đánh giá tác động cạnh tranh của vụ việc TTKT mà còn không
phản ánh được chính xác thực tế thị trường, dẫn tới bỏ sót những trường hợp có khả năng
gây hạn chế cạnh tranh hoặc cấm những trường hợp trên thực tế không gây ra tác động
phản cạnh tranh.
Kinh nghiệm ở các quốc gia phát triển cho thấy, luôn có một sự nhất quán giữa mục
tiêu của chính sách kiểm soát TTKT và các hoạt động thực thi pháp luật về kiểm soát
TTKT. Như đã nêu tại phần đầu của nghiên cứu, mục tiêu chung nhất của chính sách
kiểm soát TTKT là nhằm ngăn ngừa việc thay đổi cấu trúc thị trường có thể dẫn đến việc
làm tổn hại tới động lực cạnh tranh trên thị trường, từ đó làm suy giảm hiệu quả kinh tế và
xâm hại tới lợi ích của người tiêu dùng. Từ đó, các hoạt động thực thi chính sách TTKT
luôn tập trung vào hai điểm chính: đảm bảo động lực cạnh tranh trên thị trường và hiệu
quả kinh tế cũng như lợi ích người tiêu dùng.
Do đó, pháp luật cạnh tranh các nước trao quyền rất lớn cho cơ quan cạnh tranh
trong việc đánh giá tác động cạnh tranh của vụ việc TTKT, đồng thời cũng cho phép cơ
quan cạnh tranh tiến hành các biện pháp để đảm bảo đạt được lợi ích kinh tế cũng như
quyền lợi người tiêu dùng. Tiêu chí quan trọng nhất là đảm bảo, bảo vệ cạnh tranh trên thị
trường. Do đó, những vụ việc TTKT có khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường
đều bị cấm. Trong trường hợp vụ việc TTKT có mang lại hiệu quả kinh tế hoặc lợi ích
cho người tiêu dùng, cơ quan cạnh tranh có thể yêu cầu thực hiện các biện pháp khắc
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
150
phục để đảm bảo hiệu quả kinh tế hoặc lợi ích thu được từ vụ việc TTKT sẽ được chuyển
tới người tiêu dùng. Tuy nhiên, có một nguyên tắc cơ bản luôn phải tuân thủ trước khi cho
phép tiến hành giao dịch TTKT là phải đảm bảo giao dịch đó không loại bỏ cạnh tranh
trên thị trường và giao dịch TTKT là biện pháp duy nhất để mang lại hiệu quả kinh tế
hoặc lợi ích cho người tiêu dùng.
Với những đánh giá nêu trên, Nhóm nghiên cứu kiến nghị thay đổi cách thức đánh
giá vụ việc TTKT để hướng mục tiêu của việc đánh giá vụ việc TTKT là nhằm xác định
và ngăn ngừa tác động hạn chế cạnh tranh của vụ việc TTKT hoặc đưa ra các biện pháp
khắc phục để vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế hoặc quyền lợi người tiêu dùng, vừa hạn chế
các tác động phản cạnh tranh của vụ việc.
Về phương pháp đánh giá tác động của vụ việc TTKT, cần cân nhắc các nhân tố sau:
Thị phần và các phương pháp đánh giá mức độ tập trung thị trường đóng vai trò
quan trọng trong phân tích vụ việc TTKT. Đó là những thông tin ban đầu giúp cơ quan
cạnh tranh nhận diện khả năng gây quan ngại về cạnh tranh của vụ việc TTKT, để từ đó
tiến hành các phân tích sâu hơn. Tuy nhiên, cần lưu ý đây không phải là yếu tố quyết định
về khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của vụ việc. Các đánh giá cụ thể
khác về điều kiện thị trường là cần thiết để đưa ra một nhận định về sức mạnh thị trường.
Đánh giá tác động của vụ việc TTKT dựa trên các tiêu chí:
o Tác động đơn phương: (i) vị thế các bên tham gia TTKT; (ii) áp lực cạnh tranh
từ các doanh nghiệp không tham gia TTKT; (iii) áp lực cạnh tranh trực tiếp hoặc tiềm
năng từ nhập khẩu và khả năng gia nhập thị trường của đối thủ mới; (iv) hiệu quả kinh tế
và khả năng tồn tài của các bên tham gia TTKT;
o Tác động kết hợp: (i) khả năng thiết lập điều kiện kết hợp; (ii) khả năng phát
hiện vi phạm khi thực hiện tác động kết hợp; (iii) khả năng trừng phạt những vi phạm đó.
Ngoài ra, cần quy định thêm các biện pháp khắc phục hậu quả hoặc điều chỉnh
cần thiết mà cơ quan cạnh tranh có thể chủ động áp dụng đối với các bên tham gia vụ việc
TTKT.
3. Bỏ quy định về miễn trừ
Về bản chất, khi luật cho phép cơ quan cạnh tranh quyền đánh giá sức mạnh thị
trường của các doanh nghiệp tham gia TTKT và đánh giá tác động vụ việc TTKT, cũng
như việc đưa ra yêu cầu đối với các bên tham gia TTKT có các biện pháp khắc phục thì
quy định về việc xin hưởng miễn trừ là không cần thiết.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
151
CHƢƠNG IV:
RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
PHẦN 1: HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM
I. Hệ thống pháp luật điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở
Việt Nam
1. Các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong uật Cạnh tranh ( CT) và
các văn bản hướng dẫn
Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật Việt Nam lần đầu tiên được
LCT đưa ra tại Khoản 4 Điều 3: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh
tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường
về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.Theo định nghĩa
này, một hành vi cạnh tranh không lành mạnh có những đặc trưng sau:
- Mục đích của hành vi là mục đích cạnh tranh hay rộng hơn là mục đích lợi nhuận.
- Chủ thể thực hiện là các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường. Theo Điều 2
LCT, doanh nghiệp được hiểu là mọi tổ chức, cá nhân kinh doanh, có nghĩa là bao gồm cả
chủ thể kinh doanh không đăng ký loại hình doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp.
- Đặc điểm của hành vi là trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh, là những quy tắc xử sự chung đã được chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong quá
trình kinh doanh trên thị trường.
- Đối tượng bị xâm hại bao gồm ba loại khác nhau: Nhà nước, người tiêu dùng và
doanh nghiệp khác.
Luật Cạnh tranh quy định cụ thể 9 hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ Điều 40
đến Điều 49 bao gồm:
1.1. Quy định về Chỉ dẫn gây nhầm lẫn
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
152
Điều 40 LCT quy định:“Cấm doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin
gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì,
chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khác theo quy định của Chính phủ để làm sai lệch nhận thức
của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh.
Cấm kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn này.”
Theo quy định trên, các đối tượng (chỉ dẫn) mà doanh nghiệp sử dụng để gây nhầm
lẫn trong LCT có nội hàm tương tự với phạm trù ―chỉ dẫn thương mại‖ được quy định tại
Nghị định 54/2000/NĐ-CP và Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT). Điều 4 Nghị định 54 quy định
―Chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hóa,
dịch vụ, gồm nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh
doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hóa, nhãn hàng hóa…‖; ―Sử dụng chỉ
dẫn thương mại là các hành vi gắn chỉ dẫn thương mại đó lên hàng hóa, bao bì hàng hóa,
phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng
cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hóa có gắn chỉ dẫn thương mại đó.‖ Như vậy,
khái niệm chỉ dẫn trong LCT có phần hẹp hơn do trong khái niệm chỉ dẫn này không bao
gồm nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hàng hóa.
Do trong LCT không có định nghĩa chi tiết cho các phạm trù tên thương mại, khẩu
hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, kiểu dáng bao bì của hàng hóa, chỉ dẫn địa lý…
nên có thể hiểu để áp dụng quy định này cần sử dụng phối hợp với các quy phạm định
nghĩa hiện có trong các văn bản pháp luật khác liên quan, mà cụ thể trong trường hợp này
là Nghị định 54 và Luật SHTT.
Về chủ thể thực hiện hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn: Theo quy định tại Điều
40 ở trên thì chủ thể thực hiện hành vi này là ―doanh nghiệp‖. Khái niệm ―doanh nghiệp‖
được hiểu theo nghĩa của LCT không chỉ bao gồm tổ chức kinh doanh như quy định của
Luật DN mà còn bao gồm cả cá nhân kinh doanh, trong đó cá nhân kinh doanh được hiểu
là bao gồm cả cá nhân có đăng ký kinh doanh và cá nhân không có đăng ký kinh doanh.
Phương thức thực hiện hành vi là xâm hại đến tên thương mại, khẩu hiệu kinh
doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý… có trên sản phẩm hàng hóa, dịch
vụ của đối thủ cạnh tranh. LCT không đưa ra các dấu hiệu để nhận dạng các đối tượng bị
xâm phạm này, do đó để có thể nhận dạng được các đối tượng này phải sử dụng phối hợp
với các quy phạm định nghĩa trong các văn bản pháp luật hiện hành khác có liên quan để
từ đó có cách hiểu thống nhất trong quá trình áp dụng.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
153
Về mục đích của hành vi: Mục đích của hành vi là nhằm gây nên sự nhầm lẫn của
khách hàng giữa hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh với hàng hóa,
dịch vụ của doanh nghiệp mình. Như vậy, hàng hóa dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm
lẫn phải cùng trong một thị trường với hàng hóa dịch vụ của đối thủ cạnh tranh hoặc cùng
trên thị trường liên quan.
Phương pháp xác định hành vi: phương pháp xác định hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn
là so sánh giữa các dấu hiệu để nhận biết hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp bị xâm
phạm với đặc tính để nhận biết hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp đang sử dụng bị coi là
đã có hành vi sử dụng những thông tin gây nhầm lẫn cho khách hàng.
Một vấn đề được đặt ra trong quá trình so sánh giữa các quy định về chỉ dẫn gây
nhầm lẫn trong LCT và Luật SHTT là cách thức ứng xử với các chỉ dẫn thương mại đã
được bảo hộ và chỉ dẫn thương mại chưa được bảo hộ. Luật SHTT và Nghị định 54 chỉ
bảo vệ các chỉ dẫn thương mại đã đăng ký bảo hộ, tuy nhiên căn cứ trên quy định của
LCT, theo đó hành vi sử dụng chỉ dẫn làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng
hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh là một dạng của hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, không phụ thuộc vào việc dấu hiệu chỉ dẫn đó đã được đăng ký hay chưa. Như vậy
trên lí thuyết, các chỉ dẫn thương mại chưa đăng ký bảo hộ vẫn tìm được cơ sở pháp lý
bảo vệ trong LCT, tuy nhiên trong quá trình thực thi, sẽ rất khó khăn cho cơ quan điều tra
khi chứng minh một chỉ dẫn chưa được đăng ký bảo hộ nhưng đã trở nên quen thuộc với
người tiêu dùng và đang bị gây nhầm lẫn.
1.2. Quy định về bí mật kinh doanh
Điều 41 LCT quy định: Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau:
1. Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các
biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó;
2. Tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ
sở hữu bí mật kinh doanh;
3. Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ
bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ sở
hữu bí mật kinh doanh đó;
4. Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người
này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
154
hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước
hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy phép liên quan
đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.
Khoản 10 Điều 3 LCT định nghĩa: Bí mật kinh doanh là thông tin có đủ các điều
kiện sau: không phải là hiểu biết thông thường, có khả năng áp dụng trong kinh doanh và
khi được sử dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin đó có lơi thế hơn so với người
không nắm giữ hoặc không sử dụng thông tin đó; được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện
pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
Qua các trình bày nêu trên có thể rút ra một số đặc điểm của hành vi này như sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi là các tổ chức, cá nhân kinh doanh, bao gồm cả
cá nhân có đăng ký kinh doanh và cá nhân không có đăng ký kinh doanh.
Thứ hai, về phương thức thực hiện hành vi: gồm 4 phương thức đã được miêu tả chi
tiết tại Điều 41 ở trên.
Về mục đích của hành vi: nhằm chiếm đoạt bí mật kinh doanh của đối thủ cạnh tranh
qua đó tạo lợi thế cạnh tranh hơn so với người không nắm giữ nó hoặc không sử dụng nó
hoặc ngay cả đối với chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó. Về hậu quả là gây thiệt hại hoặc
có thể gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp thực hiện hành vi.
1.3. Quy định về hành vi ép buộc trong kinh doanh
Hành vi ép buộc trong kinh doanh được quy định tại Điều 42 LCT, theo đó: Cấm
doanh nghiệp buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi
đeo dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh
nghiệp đó.“
Qua cách quy định trên cho thấy, cũng như các hành vi CTKLM đã trình bày ở trên,
LCT đã dùng khái niệm của hành vi để gọi tên nó, theo đó, LCT cấm doanh nghiệp, trong
quá trình cạnh tranh thực hiện hành vi đe doạ hoặc cưỡng ép khách hàng, đối tác kinh
doanh của doanh nghiệp khác không giao dịch hoặc chấm dứt giao dịch với doanh nghiệp
đó. Đây là hành vi xâm phạm trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh bởi hành vi này sẽ làm giảm
số lượng khách hàng, bạn hàng, đối tác kinh doanh của đối thủ cạnh tranh.
Dựa vào tên gọi của hành vi và dưới góc độ lý thuyết thì đây là hành vi ép buộc
trong kinh doanh của doanh nghiệp có những đặc điểm nhận dạng sau đây:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
155
Thứ nhất: chủ thể thực hiện hành vi này bao gồm, tổ chức, cá nhân kinh doanh, bao
gồm cả cá nhân có đăng ký kinh doanh và cá nhân không đăng ký kinh doanh
Thứ hai: về phương thức thực hiện hành vi, được biểu hiện thông qua hành vi dùng
áp lực để đe doạ hoặc cưỡng ép khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác
không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với đối thủ cạnh tranh của mình. Đe doạ hay cưỡng
ép có thể được thể hiện qua việc dùng áp lực từ phía cơ quan công quyền, cơ quan chủ
quản, hay từ ưu thế thị trường, dưới dạng tăng tỷ lệ chiết khấu hoặc các điều khoản của
hợp đồng với các điều kiện ràng buộc nhằm cản trở cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh.
Một trong những nội hàm của tự do kinh doanh là việc bất cứ khách hàng nào cũng đều
có quyền tự do trong việc hình thành và tuyên bố ý chí. Cũng được coi là ép buộc trong
kinh doanh, nếu một doanh nghiệp có hành vi dồn khách hàng của mình vào tình thế bắt
buộc phải mua hoặc không được phép mua hàng hoá, dịch vụ trong điều kiện không còn
sự lựa chọn nào khác.
Thứ ba: mục đích thực hiện hành vi nhằm lôi kéo khách hàng hoặc đối tác kinh
doanh của đối thủ cạnh tranh để từ đó buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với
doanh nghiệp đó, qua đó làm giảm lượng khách hàng hoặc đối tác làm ăn của đối thủ cạnh
tranh với mình.
1.4. Quy định về gi m pha doanh nghiệp khác
Điều 43 LCT quy định: ―Cấm doanh nghiệp gi m pha doanh nghiệp khác bằng
hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu
đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.”
Không phải đến khi có LCT, hành vi gièm pha doanh nghiệp khác mới được điều
chỉnh bởi pháp luật. Hành vi gièm pha doanh nghiệp đã được điều chỉnh trực tiếp hoặc
gián tiếp trong một số văn bản pháp luật khác, theo những cách tiếp cận và mục đích bảo
vệ khác nhau chẳng hạn như: Bộ luật dân sự, các quy định pháp luật trong lĩnh vực quảng
cáo, vệ sinh an toàn thực phẩm...Tuy vậy, nếu xét dưới góc độ cạnh tranh thì hành vi gièm
pha doanh nghiệp khác mới được quy định và gọi tên lần đầu tiên trong LCT. Qua quy
định tại Điều 43 LCT cho thấy, hành vi gièm pha doanh nghiệp khác có một số đặc điểm
về chủ thể, phương thức thực hiện hành vi, mục đích sau đây:
Thứ nhất: Chủ thể thực hiện hành vi là tổ chức, cá nhân kinh doanh, bao gồm cả cá
nhân có đăng ký kinh doanh và cá nhân không có đăng ký kinh doanh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
156
Thứ hai: Điều luật cấm với mục đích nhằm ngăn chặn hành vi CTKLM giữa các
doanh nghiệp cạnh tranh trên cùng thị trường hàng hoá, dịch vụ hay thị trường liên quan,
qua đó bảo vệ quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh cũng như quyền và lợi
ích hợp pháp của người tiêu dùng.
Thứ ba: Hành vi phải xuất phát từ đối thủ cạnh tranh, vì mục đích cạnh tranh. Hành
vi này có thể được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp và như vậy không nhất thiết doanh
nghiệp này phải có hành vi trực tiếp gi m pha. Như vậy, mọi hành vi gi m pha như bôi
nhọ, lăng mạ không xuất phát từ đối thủ cạnh tranh và không vì mục đích cạnh tranh sẽ
được xem xét bởi pháp luật dân sự hay thậm chí là pháp luật hình sự và/hoặc các quy
định khác của pháp luật có quy định, điều chỉnh vấn đề này.
Thứ tư: Phương thức thực hiện hành vi là đưa ra thông tin không trung thực, ảnh
hưởng đến uy tín của đối thủ cạnh tranh có thể được thực hiện dưới các hình thức như nói
xấu, bôi nhọ nhằm vào tình trạng tiềm lực kinh tế, tài chính, hoạt động kinh doanh, chất
lượng hàng hoá, cách thức bán hàng...của đối thủ cạnh tranh (mặc dù thực tế không có
như vậy). Như vậy có thể suy luận rằng, sẽ không bị coi là hành vi nói xấu khi thông tin
mà doanh nghiệp thực hiện hành vi đưa ra là đúng sự thật, trung thực về đối thủ cạnh
tranh. Tuy nhiên để có thể kết luận được chính xác còn cần căn cứ vào phương thức, thời
điểm đưa ra những thông tin đó của doanh nghiệp.
1.5. Quy định về hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Điều 44 LCT quy định: ―Cấm doanh nghiệp gây rối hoạt động kinh doanh hợp pháp
của doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp đó."
Qua quy định trên cho thấy hành vi CTKLM bằng hình thức gây rối hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp khác có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất: chủ thể thực hiện hành vi là tổ chức, cá nhân kinh doanh, bao gồm cả cá
nhân có đăng ký kinh doanh và cá nhân không có đăng ký kinh doanh.
Thứ hai: Đây là hành vi CTKLM nhằm vào đối thủ cạnh tranh và xâm phạm trực
tiếp đến đối thủ cạnh tranh.
Thứ ba: Phương thức thực hiện hành vi là dưới dạng gây rối, quấy phá hoạt động
kinh doanh của đối thủ cạnh tranh với mình. Hành vi này có thể do doanh nghiệp trực tiếp
thực hiện hoặc nhờ qua một chủ thể khác thực hiện tác động đến hoạt động kinh doanh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
157
của đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp mình và chính các hành vi này là tác nhân trực
tiếp ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh.
Thứ tư: Mục đích của hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
là nhằm cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh bình thường của doanh nghiệp, ảnh
hưởng đến hoạt động, hiệu quả cũng như tính cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh trên
thương trường nói chung và trong việc cạnh tranh với doanh nghiệp của mình nói riêng.
1.6. Quy định về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Điều 45 LCT quy định những nhóm hành vi sau đây bị coi là quảng cáo nhằm
CTKLM và bị cấm thực hiện: ―So sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng
hoá, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác; Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác
để gây nhầm lẫn cho khách hàng; Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách
hàng về một trong các nội dung sau đây: Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu
dáng, chủng loại bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá người sản
xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công; Cách thức sử dụng, phương thức phục
vụ, thời hạn bảo hành; Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác và các hoạt động
quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm.“
LCT không đưa ra quy phạm định nghĩa ―Quảng cáo‖ để từ đó tạo cơ sở cho việc
hiểu thế nào là hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Do vậy, chỉ có thể
hiểu dược khái niệm này qua việc vận dụng các quy định trong một số lĩnh vực khác có
liên quan. Nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh hành vi quảng cáo đã được ban hành, trong
đó có Pháp lệnh quảng cáo, Luật Thương mại. Theo Pháp lệnh quảng cáo thì quảng cáo là
hoạt động ―giới thiệu đến người tiêu dùng về hoạt động kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ
bao gồm dịch vụ có mục đích sinh lời và dịch vụ không có mục đích sinh lời‖. Theo quy
định tại Luật Thương mại, ―Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của
thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của
mình‖ (Điều 102 Luật Thương mại). Như vậy, hiện đang tồn tại hai khái niệm quảng cáo,
đó là ―quảng cáo‖ và ―quảng cáo thương mại‖. Tuy nhiên, với các quy định của LCT thì
quảng cáo trong cạnh tranh gần và cần được hiểu theo hướng mà Luật thương mại đã định
nghĩa. Qua quy định tại Điều 45 LCT có thể thấy hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh có một số đặc điểm sau đây:
Hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp về hàng hóa, dịch vụ giữa doanh nghiệp của
mình với doanh nghiệp khác là hành vi quảng cáo nhằm CTKLM được biểu hiện thông
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
158
qua việc cố ý đưa vào các sản phẩm quảng cáo của doanh nghiệp mình các thông tin
mang tính chất so sánh trực tiếp giữa hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ
cùng loại của doanh nghiệp khác theo hướng có lợi cho doanh nghiệp mình. Nói cách
khác, đây là hành vi quảng cáo sản phẩm của mình nhưng cố ý đưa vào đó những lời lẽ,
tuyên bố làm mất uy tín về sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Hệ quả của hành vi này gây
nên cho người tiêu dùng sự so sánh (thông thường chủ yếu tập trung vào yếu tố chất
lượng, giá cả) về hàng hóa, dịch vụ cùng loại theo hướng có lợi cho doanh nghiệp có hành
vi quảng cáo so sánh, tạo cho khách hàng tâm lý không tốt đối với sản phẩm hàng hóa
dịch vụ cùng loại của đối thủ cạnh tranh.
Hành vi bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng:
Khái niệm về ―sản phẩm quảng cáo‖ cũng không được quy định trong LCT. Theo Pháp
lệnh quảng cáo (Điều 4 Khoản 3) thì ―Sản phẩm quảng cáo là sản phẩm thể hiện nội dung
quảng cáo, hình thức quảng cáo. Theo Luật thương mại (Điều 105) thì ―sản phẩm quảng
cáo thương mại gồm những thông tin bằng hình ảnh, hành động, âm thanh, tiếng nói, chữ
viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng chứa đựng nội dung quảng cáo thương mại‖. Như vậy
tuy hai khái niệm trên không hoàn toàn trùng khít nhau nhưng qua đó có thể thấy ―sản
phẩm quảng cáo‖ là một sản phẩm bao gồm 2 yếu tố: yếu tố hình thức và yếu tố nội dung
trong đó chứa đựng các thông tin có thể thể hiện dưới dạng hình ảnh, hành động, âm
thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng. Vậy có thể hiểu việc bắt chước
một sản phẩm quảng cáo khác là hành vi của doanh nghiệp cố ý làm giống, tương tự một
và/hoặc một vài yếu tố nếu trên của sản phẩm quảng cáo khác của đối thủ cạnh tranh. Hệ
quả của hành vi này là làm cho người tiêu dùng không phân biệt được hoặc khó phân biệt
được đến mức có thể gây nhầm lẫn với sản phẩm quảng cáo khác của đối thủ cạnh tranh.
Từ việc nhầm lẫn về sản phẩm quảng cáo, rồi đến là nhầm lẫn hàng hóa, dịch vụ của đối
thủ cạnh tranh được thể hiện trong sản phẩm quảng cáo đó.
Hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng: đây là hành vi
cố ý tạo ra những sản phẩm quảng cáo chứa các thông tin không đúng hoặc có tính chất
mập mờ về một hoặc các yếu tố như: giá, số lượng, chất lượng, kiểu dáng, chủng loại, bao
bì, ngày sản xuất, hạn sử dụng, xuất xứ hàng hóa, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia
công, nơi gia công; cách thức phục vụ, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành. Đây là
hành vi xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của khách hàng. Thông tin chứa đựng
các yếu tố này là dữ liệu liên quan đến hàng hóa, dịch vụ để phân biệt với hàng hóa, dịch
vụ cùng loại khác.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
159
Ngoài ra, khoản 4 Điều 45 Luật Cạnh tranh còn quy định cấm các hoạt động quảng
cáo khác mà pháp luật khác có quy định cấm. Đây là quy phạm mở, theo đó Luật Cạnh
tranh không chỉ cấm các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được quy
định nêu trên mà còn cấm các hoạt động quảng cáo khác được quy định trong các văn bản
pháp luật khác nếu hành vi đó thoả mãn các tiêu chí của cạnh tranh.
1.7. Quy định về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Điều 46 Luật Cạnh tranh quy định 4 nhóm hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh bị cấm cụ thể như sau:
1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng;
2. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối
khách hàng;
3. Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến
mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;
4. Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng
hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng
hàng hoá của mình.
Theo Luật Thương mại, khuyến mại là hoạt động thương mại của thương nhân
nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng
những lợi ích nhất định (Điều 88).
Như vậy, hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại
Điều 46 LCT là hoạt động của doanh nghiệp nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ nhưng chúng lại bị doanh nghiệp cố ý lợi dụng để thực hiện hành vi khuyến
mại không lành mạnh dưới nhiều dạng thức khác nhau. Các hành vi này có thể do doanh
nghiệp trực tiếp thực hiện hoặc được tiến hành thông qua thương nhân kinh doanh dịch vụ
khuyến mại thực hiện việc khuyến mại cho mình.
Hành vi tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng là hành vi cạnh tranh không
lành mạnh xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, qua đó
gián tiếp xâm phạm đến đối thủ cạnh tranh. Để tổ chức khuyến mại, doanh nghiệp phải
thực hiện thủ tục đăng ký việc thực hiện khuyến mại với cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền, doanh nghiệp phải thông báo công khai về loại giải thưởng và giá trị của từng loại
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
160
giải thưởng, thể lệ tham gia chương trình khuyến mại, cách thức lựa chọn người trúng
thưởng…và các thông tin có liên quan khác. Các trường hợp gian dối về giải thưởng có
thể xảy ra như: không có giải thưởng hoặc có nhưng không đúng như những gì đã công
bố; giải thưởng như đã công bố, nhưng thể thức tiến hành lựa chọn người trúng thưởng
không đúng thể lệ, có gian dối.
Hành vi khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để
lừa dối khách hàng cũng là hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh xâm
phạm trực tiếp đến khách hàng và cũng qua đó ảnh hưởng đến quyền lợi, lợi ích hợp pháp
của đối thủ cạnh tranh, làm mất đi cơ hội tiếp cận hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp này
từ phía khách hàng. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn ở đây có thể hiểu là
hành vi cố ý đưa ra những thông tin không đúng sự thật, đánh vào tâm lý của khách hàng
thường thích mua những hàng hóa, dịch vụ có kèm theo khuyến mại, nhằm lừa dối khách
hàng, trong khi khách hàng có thể chỉ vì những thông tin khuyến mại gian dối này mà lựa
chọn sản phẩm của doanh nghiệp. Không trung thực hoặc gây nhầm lẫn ở đây có thể về
giá cả, có thể về chất lượng hàng hóa, dịch vụ … để làm khách hàng tưởng lầm là có
khuyến mại khi mua hàng hóa, dịch vụ, nhưng thực chất là không có khuyến mại.
Hành vi phân biệt đối xử với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức
khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại cũng là một hành vi
khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của khách hàng. Lựa chọn khách hàng và địa điểm khuyến mại là quyền của
doanh nghiệp khuyến mại. Tuy vậy, khi thực hiện các hoạt động khuyến mại phải bảo
đảm sự bình đẳng giữa các khách hàng. Đây là hành vi của doanh nghiệp, mặc dù đều
cùng trong một chương trình khuyến mại, với đối tượng áp dụng là những khách hàng
như nhau, nhưng lại có những chính sách khuyến mại khác nhau ở những nơi khác nhau.
Hành vi tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi
hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để
dùng hàng hóa của mình là hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh xâm
phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp
trên cùng một thị trường hàng hóa cụ thể. Trong trường hợp này doanh nghiệp đã dùng
thủ đoạn lôi kéo, dụ dỗ khách hàng dùng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp mình bằng
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
161
cách khuyến mại dưới dạng tặng hàng hóa để khách hàng dùng thử với điều kiện phải đổi
hàng hóa cùng loại mà khách hàng đang dùng của đối thủ cạnh tranh. Thực tế loại hình
tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền là một loại hình khuyến
mại được pháp luật cho phép. Tuy nhiên phương thức tặng hàng để đổi lấy hàng mà
khách hàng đang sử dụng (lưu ý là hàng hóa dùng để tặng và hàng hóa dùng để đổi ở đây
phải cùng loại, tức là cùng tồn tại trên một thị trường liên quan) lại là phương thức nhằm
mục đích cạnh tranh không lành mạnh và bị LCT cấm.
1.8. Quy định về phân biệt đối xử hiệp hội
Điều 47 Luật Cạnh tranh quy định về hành vi phân biệt đối xử của hiệp hội, theo đó:
" Cấm hiệp hội ngành nghề thực hiện các hành vi sau:
Từ chối doanh nghiệp có đủ điều kiện gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội nếu việc từ
chối đó mang tính phân biệt đối xử và làm cho doanh nghiệp đó bị bất lợi trong cạnh
tranh;
Hạn chế bất hợp lý hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động khác có liên quan tới
mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên"
LCT không đưa ra khái niệm về hiệp hội mà chỉ quy định tại Khoản 2 Điều 3: ―Hiệp
hội ngành nghề bao gồm hiệp hội ngành hàng và hiệp hội nghề nghiệp‖. Tuy nhiên, có thể
tìm thấy các nội dung có liên quan tại nhiều văn bản quy định về hội. Khoản 1 Điều 2
Nghị định số 45/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21/4/2010 quy định về tổ chức, hoạt
động và quản lý hội định nghĩa: ―Hội được quy định trong Nghị định này được hiểu là tổ
chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng
giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt
động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được tổ
chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên
quan".
Các nguyên tắc hoạt động của Hội được nêu tại Điều 3 của Nghị định số
45/2010/NĐ-CP, trong đó hai nguyên tắc quan trọng nhất là ―Tự nguyện, tự quản‖ và
―Dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch‖. Quy định tại Điều 47 LCT cấm Hội từ chối
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
162
doanh nghiệp giai nhập hoặc rút khỏi hoặc đối xử với các doanh nghiệp một cách phân
biệt đối xử...là phù hợp với các quy định khác của LCT về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh cũng như phù hợp với bản chất của Hội.
1.9. Quy định về Bán hàng đa cấp bất chính
Bán hàng đa cấp (BHĐC) là một khái niệm mới và lần đầu tiên được chính thức ghi
nhận trong LCT. ― Điều 3 LCT định nghĩa ―Bán hàng đa cấp‖ như sau:
" Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hoá đáp ứng các điều kiện
sau:
1. Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hoá được thực hiện thông qua mạng lưới người tham
gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau;
2. Hàng hoá được người tham gia tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở,
nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ
thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia;
3. Người tham gia mạng lưới Bán hàng đa cấp sẽ được hưởng tiền hoa hồng, tiền
thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị trực tiếp của mình và của người tham
gia cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức ra và mạng lưới đó được doanh nghiệp
Bán hàng đa cấp chấp thuận".
Cùng với sự phát triển của phương thức kinh doanh theo mạng lưới BHĐC, phương
thức kinh doanh theo kiểu BHĐC bất chính đã xuất hiện ở Việt Nam trong một vài năm
trở lại đây. Đây là phương thức kinh doanh trong đó doanh nghiệp và những tầng trên
trong mạng lưới người tham gia được hưởng các khoản lợi ích kinh tế chủ yếu từ tiền
đóng góp của những người mới tham gia chứ không phải từ lợi nhuận của việc bán lẻ sản
phẩm cho người tiêu dùng. Điều 48 LCT quy định: "Cấm doanh nghiệp thực hiện các
hành vi sau đây nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới
BHĐC:
1. Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban
đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới BHĐC;
2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hoá đã bán cho
người tham gia để bán lại;
3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
163
người khác tham gia mạng lưới BHĐC;
4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới BHĐC, thông
tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hoá để dụ dỗ người khác tham gia".
Bên cạnh những quy định về BHĐC bất chính được quy định tại Luật Cạnh tranh,
Nghị định 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động BHĐC ngày 24/8/2005
còn có thêm một số quy định cấm doanh nghiệp BHĐC thực hiện môt số hành vi như: cản
trở người tham gia trả lại hàng hoá phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng tham gia BHĐC;
từ chối chi trả không có lý do chính đáng các khoản hoa hồng, tiền thưởng hay các lợi ích
kinh tế khác mà người tham gia có quyền hưởng (khoản 5, 7 Điều 7 của Nghị định).
1.10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác
Ngoài 09 hành vi cạnh tranh không lành mạnh cụ thể, Khoản 10 Điều 39 Luật Cạnh
tranh còn trao quyền cho Chính phủ quy định bổ sung các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh khác theo tiêu chí tại Khoản 4 Điều 3 của luật. Điều này là hoàn toàn phù hợp với
thực tiễn đa dạng và phong phú của hoạt động cạnh tranh trên thị trường. Dù văn bản có
tiến bộ đến bao nhiêu thì nhà làm luật cũng không thể dự đoán hết được các diễn biến trên
thị trường, vì vậy, các hành vi cạnh không lành mạnh trên thị trường cần được liên tục rà
soát, bổ sung...Trong quá trình này, sự phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ
quan điều tiết ngành là rất cần thiết vì đây là hai cơ quan liên quan trực tiếp đến hoạt động
cạnh tranh trong lĩnh vực đó...
2. Các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong các lĩnh vực pháp
luật khác
Bên cạnh các quy định của Luật cạnh tranh, hệ thống pháp luật Việt Nam còn có
một số văn bản khác có liên quan đến việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành
mạnh tại các lĩnh vực cụ thể, đặc biệt liên quan đến sở hữu trí tuệ và xúc tiến thương mại.
2.1. Quy định về chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Mặc dù không phải là mục đích chính của Luật SHTT, nhưng các quy định về hành
vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến chỉ dẫn thương mại và các quy định dưới
dạng quy phạm định nghĩa đã góp phần làm rõ dấu hiệu nhận dạng về tên thương mại, chỉ
dẫn địa lý...được quy định trong Luật Cạnh tranh dưới dạng chỉ dẫn gây nhầm lẫn như đã
tình bày ở trên. Điều đó có nghĩa là, trong nhiều trường hợp, cùng với các quy định về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh dưới dạng chỉ dẫn gây nhầm lẫn, các quy định điều
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
164
chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực SHTT nói chung và chỉ dẫn
thương mại nói riêng là bộ phận của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh điều
chỉnh hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn được quy định trong Luật Cạnh tranh .
Theo đó, Điều 130 Luật SHTT cũng quy định những hành vi sau đây được coi là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến chỉ dẫn thương mại và bị cấm, đó là:
Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh,
nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ; Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn
về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng
hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Trong đó, chỉ dẫn thương mại
được hiểu là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao
gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa
lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, dịch vụ.
Qua quy định trên, có thể rút ra một số đặc điểm về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh này được quy định trong Luật SHTT là:
- Về chủ thể thực hiện hành vi: hành vi cạnh tranh không lành mạnh dưới hình thức
sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn là hành vi được quy định trong Luật SHTT, do đó nó bị chi
phối bởi các quy định chung của Luật này bao gồm Điều 2 quy định về đối tượng áp
dụng. Theo đó, đối tượng áp dụng của hành cạnh tranh không lành mạnh không chỉ là các
tổ chức, cá nhân Việt Nam mà cả tổ chức, cá nhân nước ngoài đáp ứng các điều kiện quy
định tại Luật này và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Như vậy có thể thấy,
chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến chỉ dẫn thương mại
theo quy định của Luật SHTT rộng hơn so với Luật Cạnh tranh. Và như vậy sẽ có những
tình huống sau đây xảy ra liên quan đến chủ thể thực hiện hành vi khi tiến hành áp dụng
những luật này: Trường hợp thứ nhất: Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm các quy định về
sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn của cả Luật Cạnh tranh và Luật SHTT; Trường hợp thứ
hai: Chủ thể tuy vi phạm các quy định pháp luật khách quan, nhưng chỉ thuộc chủ thể
được quy định tại Luật SHTT, không thuộc chủ thể được điều chỉnh bởi Luật Cạnh tranh.
Đối với trường hợp thứ hai, nếu chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp Luật SHTT,
luật đó sẽ được áp dụng. Và như vậy sẽ có trường hợp có hành vi thoả mãn các dấu hiệu
của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhưng chủ thể không thuộc đối tượng áp dụng
của Luật Cạnh tranh, do đó sẽ không được hiểu là hành vi cạnh tranh không lành mạnh
theo cách hiểu của Luật Cạnh tranh. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc hành vi đó sẽ
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
165
không được xử lý theo quy định của Luật Cạnh tranh.
Mặt khác, Luật SHTT cũng có một số quy định cụ thể để nhận dạng xâm phạm đối
với một số chỉ dẫn thương mại. Đây cũng sẽ là nguồn quan trọng khi áp dụng các quy
định liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh dưới dạng hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn
được quy định trong Luật cạnh tranh.
2.2. Quy định về xâm phạm bí mật kinh doanh
Trong lĩnh vực SHTT, bí mật kinh doanh cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật
SHTT. Điều 127 Luật SHTT quy định về hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh
doanh như sau:
Các hành vi sau đây bị coi là xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh:
a) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các
biện pháp bảo mật của người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh đó;
b) Bộc lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ
sở hữu bí mật kinh doanh đó;
c) Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, xui khiến, mua chuộc, ép buộc, dụ dỗ,
lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập hoặc làm bộc lộ
bí mật kinh doanh;
d) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người nộp đơn theo thủ
tục xin cấp phép kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm bằng cách chống lại các biện pháp
bảo mật của cơ quan có thẩm quyền;
đ) Sử dụng, bộc lộ bí mật kinh doanh dù đã biết hoặc có nghĩa vụ phải biết bí mật
kinh doanh đó do người khác thu được có liên quan đến một trong các hành vi quy định
tại các điểm a, b, c và d khoản này;
e) Không thực hiện nghĩa vụ bảo mật quy định tại Điều 128 của Luật
Bên cạnh đó, Điều 125 khoản 3 Luật SHTT cũng có quy định việc người chủ sở hữu
bí mật kinh doanh không có quyền cấm người khác thực hiện các hành vi sau đây: bộc lộ,
sử dụng bí mật kinh doanh thu được khi không biết và không có nghĩa vụ phải biết bí mật
kinh doanh đó do người khác thu được một cách hợp pháp; bộc lộ dữ liệu bí mật nhằm
bảo vệ công chúng; sử dụng dữ liệu bí mật tại Điều 128 Luật SHTT không nhằm mục
đích thương mại; bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh được tạo ra một cách độc lập; bộc lộ,
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
166
sử dụng bí mật kinh doanh được tạo ra do phân tích, đánh giá sản phẩm được phân phối
hợp pháp với điều kiện người phân tích, đánh giá không có thoả thuận khác với chủ sở
hữu bí mật kinh doanh hoặc người bán hàng.
Không chỉ có lĩnh vực SHTT, có thể tìm thấy rất nhiều các quy định pháp luật khác
liên quan đến việc bảo vệ thông tin nói chung và bí mật kinh doanh nói riêng, đó là trong
các lĩnh vực: Trong lĩnh vực viễn thông, khoản 2 Điều 11 Luật Viễn thông ; Trong lĩnh
vực kinh doanh bảo hiểm, khoản 6 Điều 124 Luật kinh doanh bảo hiểm; Trong lĩnh vực
chứng khoán, Luật chứng khoán (có hiệu lực 1/1/2007) cũng có một số quy định liên quan
đến bí mật kinh doanh (Điều 6, Điều 9); Đối với Luật sư, Điều 25 Luật Luật sư quy định
một số trường hợp cấm của Luật sư liên quan đến bí mật thông tin; Đối với Kiểm toán
viên, Luật Kiểm toán yêu cầu Kiểm toán viên phải ―Giữ bí mật thông tin, tài liệu thu thập
được trong quá trình kiểm toán‖ (Khoản 5 Điều 30) cũng như cấm kiểm toán viên ―Tiết lộ
bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp của đơn vị được kiểm toán‖...(Điểm e Khoản 1 Điều
12).
2.3. Quy định liên quan đến hành vi ép buộc trong kinh doanh
Mặc dù các quy định trong các văn bản pháp luật khác có liên quan không sử dụng
thuật ngữ ―ép buộc trong kinh doanh‖ để gọi tên hành vi, các hành vi có bản chất là ép
buộc theo tiêu chí của Luật Cạnh tranh có thể tìm thấy ở nhiều văn bản pháp luật ở nhiều
lĩnh vực khác nhau như những nguyên tắc chung về tự do, tự nguyện thoả thuận trong
hoạt động thương mại, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt
động thương mại được quy định trong Luật thương mại , hay các quy định về quyền của
doanh nghiệp trong Luật doanh nghiệp , nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận
trong Bộ luật dân sự , cho đến các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng... Các
quy định trong các văn bản nêu trên đều trực tiếp hoặc gián tiếp thể hiện quan điểm cấm
các hành vi ép buộc trong kinh doanh làm thiệt hại đến lợi ích của các chủ thể kinh doanh,
người tiêu dùng. Các quy phạm của các luật khác cũng có thể được coi là quy định về
chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi nó thoả mãn các yếu tố.
Khoản 2 Điều 11 Luật thương mại quy định: Trong hoạt động thương mại, các bên
hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ,
ngăn cản bên nào. Khác với Luật thương mại, quyền được bảo vệ chống các hành vi ép
buộc trong kinh doanh trong Luật DN được hiểu gián tiếp qua các quy định về quyền của
doanh nghiệp trong việc tự chủ quyết định các công việc kinh doanh (Khoản 7 Điều 8,
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
167
Luật thương mại). Điều 4 Bộ luật dân sự về nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả
thuận đã quy định: Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào
được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào...Cam kết, thỏa thuận hợp
pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân,
chủ thể khác tôn trọng. Cũng như Luật thương mại, quyền được bảo vệ chống lại các
hành vi ép buộc trong kinh doanh có liên quan đến quyền của người tiêu dùng được hiểu
gián tiếp qua các quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản
hướng dẫn, theo đó người tiêu dùng có quyền ―Lựa chọn hàng hoá, dịch vụ, tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định
tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thoả thuận khi tham gia giao
dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ‖( Khoản 3 Điều 8 Luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng). Trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, Luật kinh doanh bảo
hiểm cũng có quy định cấm hành vi tranh giành khách hàng dưới hình thức ngăn cản, lôi
kéo, mua chuộc, đe doạ nhân viên hoặc khách hàng của doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý
bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm khác (Điểm b Khoản 2, Điều 10, Luật kinh
doanh bảo hiểm). Ngoài ra, Luật này còn quy định hành vi ép buộc giao kết hợp đồng bảo
hiểm là một trong các hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm (Khoản 4, Điều
124) .
Như vậy, hành vi ép buộc trong kinh doanh là hành vi vi phạm pháp luật được quy
định trong nhiều văn bản pháp luật, tuy mức độ tiếp cận, mục tiêu điều chỉnh có rộng hẹp
khác nhau tùy thuộc vào phạm vi mà đạo luật đó điều chỉnh. Cũng như cách tiếp cận như
đối với hành vi khác, các quy định về hành vi này cũng sẽ là bộ phận của pháp luật chống
hành vi cạnh tranh không lành mạnh và được xử lý theo quy định của Luật Cạnh tranh khi
thoả mãn các dấu hiệu của một hành vi cạnh tranh không lành mạnh; ngược lại sẽ được xử
lý theo quy định của đạo luật có quy định hành vi đó. Không phải bất kỳ hành vi nào vi
phạm dưới hình thức ép buộc trong kinh doanh được quy định trong các đạo luật này đều
là hành vi CTKLM. Chỉ những hành vi thoả mãn các tiêu chí cạnh tranh mới được xử lý
theo cách của Luật cạnh tranh.
2.4. Quy định liên quan đến hành vi gi m pha doanh nghiệp khác
Cũng như với hành vi Ép buộc doanh nghiệp khác, hành vi gièm pha doanh nghiệp
khác có thể được tìm thấy dưới nhiều dạng thức, biểu hiện trong các văn bản quy phạm
pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau dù không phải lúc nào cũng được gọi tên là
Gièm pha.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
168
Chẳng hạn, trong quan hệ dân sự, các bên phải thiện chí, trung thực trong việc xác
lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, không bên nào được lừa dối bên nào (Điều 6 Bộ
luật dân sự ). Khi quyền dân sự bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy
định của Bộ luật dân sự hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền: công nhận quyền
dân sự của mình; buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai, buộc
bồi thường thiệt hại...(Điều 9 khoản 2 Bộ luật dân sự). Thiệt hại do danh dự, uy tín của
pháp nhân bị xâm phạm bao gồm: chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập
thực tế bị mất hoặc bị giảm sút...(Điều 611 khoản 1 Bộ luật dân sự ).
Pháp luật thuộc lĩnh vực khác cũng có những quy định liên quan điều chỉnh vấn đề
này như: nghiêm cấm hành vi thông tin sai sự thật về nội dung, phạm vi hoạt động, điều
kiện bảo hiểm làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm (Khoản 2
Điều 10 Luật kinh doanh bảo hiểm ). Trong lĩnh vực điện lực: cấm cung cấp thông tin
không trung thực làm tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoạt
động điện lực và sử dụng điện (Khoản 9, Điều 7 Luật điện lực ). Hay trong lĩnh vực vệ
sinh an toàn thực thẩm: nghiêm cấm hành vi thông tin sai sự thật về vệ sinh an toàn thực
phẩm (Khoản 7, Điều 8 Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm ). Trong lĩnh vực quảng cáo:
nghiêm cấm hành vi lợi dụng quảng cáo để xúc phạm danh dự, uy tín hoặc xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Khoản 6, Điều 5 Pháp lệnh quảng cáo ).
Trong lĩnh vực chứng khoán, Luật chứng khoán có quy định: cấm tổ chức, cá nhân trực
tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các hành vi gian lận, lừa đảo, tạo dựng thông tin sai sự thật
hoặc bỏ sót thông tin cần thiết gây hiểu nhầm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến hoạt động
chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng
khoán, dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán (Khoản 1 Điều 9, Luật chứng
khoán). Công bố thông tin sai lệch nhằm lôi kéo, xúi giục mua, bán chứng khoán hoặc
công bố thông tin không kịp thời, đầy đủ về các sự việc xảy ra có ảnh hưởng lớn đến giá
chứng khoán trên thị trường (Khoản 2 Điều 9, Luật chứng khoán).
Như vậy, hành vi được xem là gièm pha cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều
lĩnh vực pháp luật khác, chỉ có điều mục đích điều chỉnh trong những lĩnh vực khác nhau
là không giống nhau. Sự khác nhau đó có thể là về chủ thể, về mục đích thực hiện hành
vi. Chủ thể của hành vi gièm pha, nói xấu trong thực tế thường là đối thủ cạnh tranh của
doanh nghiệp bị gièm pha.
Nói cách khác, các hành vi được quy định trong các văn bản pháp luật khác chỉ có
thể bị xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh và bị xử lý theo pháp luật cạnh tranh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
169
khi nó thoả mãn các yếu tố của hành vi cạnh tranh.
2.5. Quy định liên quan đến hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
khác
Hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác được quy định trực
tiếp hoặc gián tiếp qua các quy định về quyền của chủ thể kinh doanh. Tuỳ vào mục đích
và phạm vi điều chỉnh trong từng lĩnh vực mà các quy định trong các văn bản pháp luật
này điều chỉnh rộng hay hẹp, trực tiếp hay gián tiếp đối với hành vi được coi là có dấu
hiệu gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác đối với từng ngành cụ thể.
Nhiều văn bản pháp luật trong một số lĩnh vực khác có quy định điều chỉnh cũng
thuộc dạng hành vi này như: Khoản 5, Khoản 9, Điều 7 Luật điện lực quy định một trong
các hành vi bị cấm trong hoạt động điện lực và sử dụng điện là: đóng cắt điện trái quy
định của pháp luật; lợi dụng chức vụ quyền hạn để gây sách nhiễu, phiền hà, thu lợi bất
chính trong hoạt động điện lực và sử dụng điện. Khoản 2, Điều 11 Luật thương mại quy
định: Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được
thực hiện hành vi ngăn cản bên nào... Điều 4 Bộ luật dân sự quy định: Trong quan hệ dân
sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được ngăn cản bên nào... Trong lĩnh vực
bưu chính, viễn thông, Khoản 1, 2 Điều 10 Luật bưu chính viễn thông có quy định một số
hành vi bị cấm, cụ thể là: phá hoại các công trình bưu chính, viễn thông hoặc cản trở hoạt
động hợp pháp về bưu chính, viễn thông; thu trộm, nghe trộm thông tin trên mạng viễn
thông của tổ chức, cá nhân khác.
Những hành vi được quy định trong các văn bản pháp luật nêu trên sẽ là hành vi
cạnh tranh không lành mạnh nếu hành vi đó được thực hiện vì mục đích cạnh tranh, nhằm
xâm hại đến đối thủ cạnh tranh trên cùng thị trường hàng hoá, dịch vụ hay thị trường liên
quan. Trường hợp thoả mãn những dấu hiệu của hành vi cạnh tranh thì việc xử lý được
thực hiện bởi các quy định của pháp luật cạnh tranh. Trường hợp các hành vi này không
phải là hành vi cạnh tranh thì việc xử lý hành vi đó sẽ do văn bản pháp luật đó quy định.
2.6. Quy định liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Điều chỉnh hoạt động quảng cáo không lành mạnh hiện nay bên cạnh LCT còn có
một số văn bản pháp luật khác quy định điều chỉnh về hoạt động này: Luật thương mại ,
Pháp lệnh quảng cáo, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng...Các quy định về hoạt động
quảng cáo dưới đây khi thoả mãn các dấu hiệu của hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
nhằm xâm phạm đối thủ cạnh tranh hay người tiêu dùng vì mục đích cạnh tranh sẽ được
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
170
coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh dưới dạng quảng cáo. Các quy định vi phạm
hoạt động quảng cáo trong từng lĩnh vực cụ thể sẽ là nguồn của pháp luật cạnh tranh khi
điều chỉnh cũng như nhận dạng, xác định từng hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực quảng cáo khi những hành vi đó được chủ thể thực hiện vì mục đích cạnh tranh.
Điều 109 Luật Thương mại quy định chi tiết thêm hai hành vi quảng cáo thương mại
bị nghiêm cấm vi phạm tính trung thực về nội dung quảng cáo như hành vi quảng cáo
bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ của mình với hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cùng loại của
thương nhân khác; và hành vi quảng cáo sai sự thật về một trong các nội dung số lượng,
chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, xuất xứ hàng hoá, chủng loại, bao bì, phương thức
phục vụ, thời hạn bảo hành của hàng hoá dịch vụ. Có ngoại lệ trong trường hợp này, đó là
việc sản phẩm quảng cáo có nội dung so sánh hàng hóa của mình với hàng giả, hàng vi
phạm SHTT sau khi có xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về việc sử
dụng những hàng hóa này để so sánh, thì không bị coi là hành vi CTKLM dưới dạng
quảng cáo so sánh. (Điều 22, Nghị định 37/2006/NĐ-CP ngày 4/4/2006 quy định chi tiết
Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại).
Điều 3 Nghị định số 24/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 13 tháng 3 năm 2003 quy
định hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh quảng cáo liệt kê 9 hành vi quảng cáo bị
nghiêm cấm, bao gồm các hành vi: Quảng cáo có tính chất kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng
tộc, xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Quảng cáo có tính chất kích thích bạo lực, kinh
dị, dùng từ ngữ không lành mạnh; Dùng hình ảnh người lãnh đạo Đảng và Nhà Nước Việt
Nam; Quảng cáo không đúng chất lượng hàng hoá, dịch vụ, không đúng địa chỉ cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ; ép buộc quảng cáo dưới mọi hình thức; Quảng cáo hạn chế tầm
nhìn của người tham gia giao thông; làm ảnh hưởng đến sự trang nghiêm tại nơi làm việc
của các cơ quan nhà nước; dùng âm thanh gây tiếng ồn vượt quá độ ồn cho phép theo tiêu
chuẩn Việt Nam; Quảng cáo nói xấu, so sánh hoặc gây nhầm lẫn với cơ sở sản xuất, kinh
doanh, hàng hoá, dịch vụ của người khác; dùng danh nghĩa, hình ảnh của tổ chức, cá nhân
khác để quảng cáo mà không được sự chấp thuận của tổ chức, cá nhân đó; Quảng cáo
thuốc chữa bệnh cho người bán theo đơn của thầy thuốc; thuốc chưa được cấp đăng ký
hoặc hết hạn đăng ký, đã loại ra khỏi danh mục thuốc cho phép sử dụng; thuốc đã được
đăng ký nhưng bị đình chỉ lưu hành; các thiết bị dụng cụ y tế chưa được phép sử dụng,
dịch vụ y tế chưa được phép thực hiện tại Việt Nam; Quảng cáo hàng hoá, dịch vụ khác
mà pháp luật cấm quảng cáo (Điều 3).
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
171
Hoạt động quảng cáo ngoài chịu sự điều chỉnh của các quy định mang tính chất
chung nêu trên còn chịu sự điều chỉnh rất chặt chẽ và chi tiết trong từng lĩnh vực cụ thể.
Trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có nhiều quy định nghiêm cấm các hành vi
thông tin, quảng cáo sai sự thật và các hành vi khác nhằm lừa dối người tiêu dùng.
Điều chỉnh quảng cáo về chất lượng hàng hóa, Khoản 2 Điều 9 Luật Tiêu chuẩn và
quy chuẩn kỹ thuật quy định nghiêm cấm hành vi ― Thông tin, quảng cáo sai sự thật và
các hành vi gian dối khác trong hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và lĩnh vực quy
chuẩn kỹ thuật.‖. Điều chỉnh về quảng cáo giá cả, Khoản 3 4 Điều 28 Pháp lệnh giá quy
định cấm các hành vi bịa đặt, loan tin không có căn cứ về việc tăng giá hoặc hạ giá gây
thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh khác, của người
tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước; nghiêm cấm hành vi định giá sai để lừa dối người tiêu
dùng hoặc tổ chức, cá nhân hợp tác sản xuất, kinh doanh với mình. Điều chỉnh về quảng
cáo trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, Điểm a, Khoản 2, Điều 10 Luật kinh doanh bảo
hiểm cấm hành vi thông tin, quảng cáo sai sự thật về nội dung, phạm vi hoạt động, điều
kiện bảo hiểm làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm. Trong lĩnh
vực dược phẩm, Khoản 5 Điều 9 Luật dược cũng có quy định nghiêm cấm hành vi thông
tin, quảng cáo thuốc sai sự thật, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.
2.7. Quy định liên quan đến hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Khuyến mại là một trong những hoạt động thương mại được quy định khá cụ thể
trong Luật thương mại. Điều 100 Luật thương mại quy định các hành vi bị cấm trong hoạt
động khuyến mại, cụ thể là: Khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng
hoá, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được
phép cung ứng; Sử dụng hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại là hàng hoá, dịch vụ cấm
kinh doanh; hàng hoá, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hoá chưa được phép lưu thông,
dịch vụ chưa được phép cung ứng; Khuyến mại hoặc sử dụng thuốc lá, rượu có độ cồn từ
30 độ trở lên để khuyến mại dưới mọi hình thức; Khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây
nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng; Khuyến mại để tiêu thụ hàng hoá
kém chất lượng, làm phương hại đến môi trường, sức khoẻ con người và lợi ích công
cộng khác; Khuyến mại tại trường học, bệnh viện, trụ sở của cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân; Hứa tặng, thưởng
nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng; Khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh; Thực hiện khuyến mại mà giá trị hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại vượt
quá hạn mức tối đa, hoặc giảm giá hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại quá mức tối đa
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
172
theo quy định.
Trong lĩnh vực giá cả, nhiều hành vi có liên quan đến việc gian dối về giá cũng được
quy định tại các Khoản 3, 4, 5 Điều 28 Pháp lệnh giá, theo đó cấm các tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh thực hiện các hành vi như: bịa đặt, loan tin không có căn cứ về việc
tăng giá hoặc hạ giá gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh khác, của người tiêu dùng và lợi ích của nhà nước; định giá sai đề lừa dối người
tiêu dùng hoặc tổ chức, cá nhân hợp tác sản xuất, kinh doanh với mình; tăng hoặc giảm
giá giả tạo bằng cách thay đổi số lượng, chất lượng, địa điểm giao nhận hàng hoá, dịch
vụ.
Bên cạnh đó, Luật kinh doanh bảo hiểm (Điểm c, Khoản 2, Điều 10), Luật Dược
(Khoản 8, Điều 9), tuy không quy định rõ thế nào là khuyến mại bất hợp pháp, nhưng đã
có quy định mang tính nguyên tắc cấm các hành vi khuyến mại bất hợp pháp, trái quy
định của pháp luật.
II. Thực trạng thực thi pháp luật điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh ở Việt Nam
1. Quy trình xử lý vụ các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của
uật cạnh tranh
1.1. Căn cứ điều tra vụ việc cạnh tranh Khiếu nại vụ việc cạnh tranh
Theo Điều 86 Luật Cạnh tranh, có hai căn cứ để tiến hành điều tra một vụ việc cạnh
tranh, cụ thể được quy định như sau:
“Việc điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh được tiến hành theo quyết định của Thủ
trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh trong những trường hợp sau đây:
1. Hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh đã được cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý;
2. Cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện có dấu hiệu vi phạm quy định của Luật
này.”
Đối với trường hợp tại Khoản 1, Điều 86, trình tự, thủ tục áp dụng đối với các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh được bắt đầu từ khi cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý hồ
sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh.
Theo quy định tại Điều 58 Luật Cạnh tranh thì khi tổ chức, cá nhân cho rằng quyền
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
173
và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi vi phạm quy định của Luật có quyền
khiếu nại đến cơ quan quản lý cạnh tranh. Tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại về những
hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đồng thời cũng có quyền khiếu nại cả những việc
làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng cạnh tranh của các cơ quan và người có thẩm
quyền hoặc bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó, nếu như tổ chức, cá nhân cho rằng
việc vi phạm đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trường hợp các vi
phạm này không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của họ thì cũng có quyền làm
đơn tố cáo về hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo.
Thời hiệu khiếu nại theo quy định của Luật Cạnh tranh là 2 năm kể từ ngày hành vi
có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực hiện. Để được cơ quan quản lý
cạnh tranh thụ lý vụ việc, người khiếu nại phải làm đơn và nộp tiền tạm ứng chi phí cho
việc giải quyết vụ việc cạnh tranh. Đơn khiếu nại có nội dung theo mẫu của cơ quan quản
lý cạnh tranh, theo đó phải có: ngày tháng năm làm đơn; tên cơ quan quản lý cạnh tranh;
họ tên địa chỉ của bên làm đơn khiếu nại, bên bị khiếu nại và của người có quyền, nghĩa
vụ liên quan (nếu có); những vấn đề cụ thể yêu cầu cơ quan quản lý cạnh tranh giải quyết;
họ tên địa chỉ của người làm chứng (nếu có); các thông tin liên quan mà bên khiếu nại xét
thấy cần thiết cho viẹc giải quyết vụ việc cạnh tranh. Bên khiếu nại là cá nhân phải ký tên
hoạc điểm chỉ; nếu là tổ chức nộp đơn khiếu nại thì đại diện hợp pháp của tổ chức đó phải
ký tên và đóng dấu (Khoản 1 Điều 45 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của LCT ngày 15/9/2005, có hiệu lực ngày 30/9/2005).
Mức tạm ứng chi phí giải quyết vụ việc CTKLM mà người khiếu nại phải nộp bằng
30% mức phí giải quyết vụ việc cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
(tức là bằng 30% của 10.000.000 triệu đồng) (Điều 53 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành một số điều của LCT ngày 15/9/2005, có hiệu lực ngày 30/9/2005).
Bên khiếu nại có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh hành vi bị khiếu nại đã
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chứng cứ phải đảm bảo tính trung
thực. Chứng cứ có thể là vật chứng, nhưng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc hoặc
là lời khai của người làm chứng, giải trình của tổ chức cá nhân liên quan hay tài liệu gốc,
bản sao tài liệu gốc, bản dịch tài liệu gốc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp,
xác nhận; kết quả giám định hợp pháp (Điều 76 Nghị định 116/2005/NĐ-CP). Bên khiếu
nại phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho khiếu nại, yêu cầu đó của mình là có căn cứ
và hợp pháp (Điều 74 Nghị định (116/2005/NĐ-CP).
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
174
Sau khi nhận được đơn của bên khiếu nại và nộp tạm ứng chi phí cho việc giải quyết
vụ việc hợp lệ, trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, cơ quan quản lý
cạnh tranh có trách nhiệm xem xét và thông báo cho bên khiếu nại biết về việc có thụ lý
hay trả lại hồ sơ cho bên khiếu nại nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền điều tra, giải
quyết của cơ quan quản lý cạnh tranh.
Trong trường hợp thông qua rà soát thị trường, cơ quan điều tra tự phát hiện hành vi
của doanh nghiệp trên thị trường có dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh, cơ quan cạnh
tranh sẽ tiến hành ―điều tra tiền tố tụng‖ nhằm đánh giá lại hành vi của doanh nghiệp. Sau
quá trình ―điều tra tiền tố tụng‖, nếu xét thấy thực sự có dấu hiệu vi phạm LCT, Thủ
trưởng cơ quan điều tra sẽ quyết định tiến hành điều tra vụ việc theo thủ tục tố tụng cạnh
tranh.
1.2. Điều tra vụ việc cạnh tranh
Điều tra vụ việc cạnh tranh không lành mạnh gồm 2 bước: điều tra sơ bộ và điều tra
chính thức. Sau khi thụ lý hồ sơ khiếu nại về hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc
phát hiện hành vi của doanh nghiệp trên thị trường có dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh,
Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ quyết định việc điều tra sơ bộ và phân công cho
điều tra viên tiến hành việc điều tra sơ bộ. Sự bắt đầu thủ tục điều tra sơ bộ là bước đầu
tiên trong quy trình tiến hành thủ tục tố tụng đối với hành vi CTKLM. Thời hạn điều tra
sơ bộ là 30 ngày, kể từ ngày có quyết định điều tra sơ bộ. Trong thời hạn này, điều tra
viên được phân công điều tra vụ việc cạnh tranh phải hoàn thành điều tra sơ bộ và kiến
nghị Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh ra quyết định đình chỉ điều tra hoặc điều tra
chính thức. Theo Điều 88 Luật Cạnh tranh, căn cứ vào kết quả điều tra sơ bộ và kiến nghị
của điều tra viên, Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh ra một trong các quyết định sau
đây:
1. Đình chỉ điều tra nếu kết quả điều tra sơ bộ cho thấy không có hành vi vi phạm
quy định của Luật này.
2. Điều tra chính thức nếu kết quả điều tra sơ bộ cho thấy có dấu hiệu vi phạm quy
định của LCT.
Thời hạn điều tra chính thức đối với vụ việc CTKLM là 90 ngày, kể từ ngày có
quyết định điều tra chính thức, không phân biệt là vụ việc phức tạp hay không phức tạp;
nhưng trong trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể được Thủ trưởng cơ quan quản lý
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
175
cạnh tranh gia hạn một lần không quá 60 ngày. Như vậy, tổng thời gian điều tra chính
thức kể cả gia hạn đối với một vụ việc cạnh tranh tối đa là 150 ngày.
Việc gia hạn thời hạn điều tra phải được điều tra viên thông báo đến tất cả các bên
liên quan trong thời hạn chậm nhất là 7 ngày làm việc trước ngày hết hạn điều tra (Điều
90 Luật Cạnh tranh).
Trong quá trình điều tra, các bên có quyền yêu cầu Cơ quan quản lý cạnh tranh mời
người làm chứng. Cơ quan quản lý cạnh tranh cũng có thể yêu cầu chính quyền địa
phương, cơ quan công an, tổ chức khác phối hợp, hỗ trợ quá trình điều tra (Điều 97 LCT
2004). Theo quy định tại Điều 88 và 89 Nghị định 116/2005/NĐ-CP thì, Thủ trưởng cơ
quan quản lý cạnh tranh có quyền áp dụng, thay đổi hay huỷ bỏ một trong những biện
pháp ngăn chặn hành chính như: tạm giữ người theo thủ tục hành chính; tạm giữ tang vật,
phương tiện vi phạm pháp luật về cạnh tranh; khám người; khám phương tiện vận tải, đồ
vật; khám nơi cất dấu tang vật, phương tiện vi phạm pháp luật về cạnh tranh…
Trong trường hợp vụ việc liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh được điều tra
chính thức thì trong thời hạn điều tra, điều tra viên phải xác định căn cứ cho rằng liệu bên
bị điều tra đã hoặc đang thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Sau khi kết thúc
điều tra, xác định là có vi phạm thì điều tra viên sẽ đề nghị với Thủ trưởng cơ quan quản
lý cạnh tranh ra quyết định xử lý.
Trường hợp qua điều tra phát hiện vụ việc cạnh tranh có dấu hiệu phạm tội, điều tra
viên phải kiến nghị ngay với Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh xem xét chuyển hồ
sơ đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.
Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự thấy có căn cứ
không được khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì phải trả lại
hồ sơ cho cơ quan quản lý cạnh tranh để tiếp tục điều tra theo thủ tục quy định tại Luật
này. Thời hạn điều tra quy định tại Điều 90 của Luật được tính từ ngày Cơ quan quản lý
cạnh tranh nhận lại hồ sơ (Điều 95 Luật Cạnh tranh).
1.3. Xử lý đối với các hành vi CTK M
Sau khi kết thúc điều tra, xác định là có hành vi cạnh tranh không lành mạnh vi
phạm quy định của Luật Cạnh tranh, điều tra viên sẽ đề nghị Thủ trưởng cơ quan quản lý
cạnh tranh ra quyết định xử lý. Theo các quy định của Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
176
30/9/2005 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh
thì: Hình thức xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh gồm các hình thức xử phạt và các biện
pháp khắc phục hậu quả. Đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh, tổ chức, cá
nhân kinh doanh vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau: phạt cảnh
cáo; phạt tiền. Tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một
số hình thức xử phạt bổ sung như: tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Ngoài các hình thức sử phạt chính và bổ
sung nêu trên, tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm pháp luật về cạnh tranh không lành
mạnh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc cải
chính công khai (Điều 4). Mức phạt tiền đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
được quy định cụ thể như sau:
Đối với hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn, gi m pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp khác: mức phạt tiền thấp nhất là 5 triệu đồng và cao
nhất là 20 triệu đồng. Ngoài việc bị phạt tiền, tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm còn có
thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu
quả như: tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao
gồm tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; buộc
cải chính công khai.
Đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, hành vi ép buộc trong kinh doanh:
mức phạt từ thấp nhất là 5 triệu đồng và cao nhất là 20 triệu đồng. Ngoài ra còn có thể bị
tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cả
tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
Đối với các hành vi quảng cáo, khuyến mại nhằm CTKLM: mức phạt tiền đối với
hành vi này cao hơn các hành vi CTKLM khác như đã nêu trên, thấp nhất là 15 triệu đồng
và cao nhất là 50 triệu đồng. Ngoài ra còn có thể bị tịch thu tang vật, phương tiện được sử
dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ
việc thực hiện hành vi vi phạm và/hoặc buộc cải chính công khai.
Đối với hành vi phân biệt đối xử của hiệp hội thì mức phạt tiền thấp nhất là 15 triệu
đồng và cao nhất là 50 triệu đồng. Tuy vậy chủ thể thực hiện hành vi này không bị áp
dụng các biện pháp xử phạt bổ sung và/hoặc biện pháp khắc phục hậu quả.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
177
Về hành vi BHĐC bất chính: mức phạt tiền đối với hành vi này là cao nhất so với
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác khác, thấp nhất là 50 triệu đồng và cao nhất
là 100 triệu đồng. Ngoài ra còn có thể bị tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để
thực hiện hành vi vi phạm bao gồm tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc
thực hiện hành vi vi phạm và/hoặc buộc cải chính công khai.
1.4. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh chưa có
hiệu lực pháp luật
Theo nguyên lý của nhà nước pháp quyền, các quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
luôn có thể bị khiếu nại hoặc khiếu kiện. Vì vậy, các quyết định của Thủ trưởng cơ quan
quản lý cạnh tranh đều có thể bị xem xét lại thông qua thủ tục khiếu nại hành chính với
thời hiệu là 30 ngày kể từ khi ban hành. Trong trường hợp này, thẩm quyền giải quyết
khiếu nại chống lại quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh là Bộ trưởng
Bộ Công Thương. Trong quá trình xem xét khiếu nại và khiếu kiện, những nội dung của
quyết định không bị khiếu nại hay khiếu kiện là có hiệu lực thi hành, cụ thể là:
Tổ chức cá nhân bị xử lý vi phạm phải chấp hành quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh không lành mạnh có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp không nhất
trí một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh
thì trong thời hạn 30 ngày nêu trên, tổ chức, cá nhân kinh doanh có quyền khiếu nại lên
Bộ trưởng Bộ Công Thương đối với quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Thủ trưởng
cơ quan quản lý cạnh tranh. Những phần của quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không
lành mạnh bị khiếu nại chưa được thi hành.
Bên khiếu nại phải làm đơn khiếu nại và gửi đến cơ quan đã ban hành quyết định xử
lý vụ việc cạnh tranh kèm theo các chứng cứ bổ sung (nếu có) chứng minh cho khiếu nại
của mình là có căn cứ hợp pháp. Trong thời hạn 30 ngày (trừ trường hợp phức tạp, thời
hạn giải quyết khiếu nại có thể được gia hạn nhưng không qúa 30 ngày), kể từ ngày nhận
được hồ sơ khiếu nại, Bộ trưởng Bộ Công Thương có trách nhiệm giải quyết theo thẩm
quyền, cụ thể là: Bộ trưởng Bộ Công thương có quyền giữ nguyên quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh nếu xét thấy việc khiếu nại là không có căn cứ hoặc sửa một phần hoặc
toàn bộ quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nếu quyết định này không đúng pháp luật;
trường hợp chứng cứ chưa được thu thập và xác minh đầy đủ thì có quyền huỷ quyết định
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
178
xử lý vụ việc cạnh tranh và yêu cầu cơ quan quản lý cạnh tranh giải quyết lại theo quy
định. Quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Bộ trưởng
Bộ Công thương có hiệu lực kể từ ngày ký.
Trường hợp không nhất trí với quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh của Bộ trưởng Bộ Công thương thì các bên liên quan có quyền khởi
kiện vụ án hành chính đối với một phần hoặc toàn bộ nội dung của quyết định giải quyết
khiếu nại ra Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền (Toà hành chính). Những phần
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không bị khởi kiện ra Toà án vẫn được tiếp tục đưa ra
thi hành.
Trong trường hợp hết thời hạn 30 ngày như đã trình bày ở trên, nếu tổ chức, cá nhân
kinh doanh bị xử lý vi phạm không tự nguyện thi hành, không khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ
Công thương, Toà án cấp tỉnh có thẩm quyền, bên được thi hành quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh không lành mạnh có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi
có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành tổ chức cưỡng chế thi hành
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh.
2. Một số vụ việc điển hình được xử lý theo uật Cạnh tranh 2004
Sau 5 năm thực hiện các quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh, Cục
QLCT đã tiến hành điều tra 61 vụ việc liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh (01 vụ
trong năm 2006, 05 vụ trong năm 2007, 13 vụ trong năm 2008, 14 vụ trong năm 2009 và
28 vụ trong năm 2010). Trong đó có 46/63 vụ việc do Cục Quản lý cạnh tranh khởi xướng
điều tra và 15/61 vụ việc điều tra dựa trên căn cứ đơn khiếu nại từ các doanh nghiệp,cụ
thể như sau:
- 28 vụ việc liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
- 17 vụ việc liên quan đến hành vi bán hàng đa cấp bất chính;
- 06 vụ việc liên quan đến hành vi dèm pha nói xấu doanh nghiệp khác;
- 05 vụ việc liên quan đến hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
- 04 vụ việc liên quan đến hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
- 01 vụ việc liên quan đến hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
khác.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
179
Bên cạnh các vụ việc được xử lý thông qua tố tụng cạnh tranh, Cục còn tiếp nhận,
xem xét và cho ý kiến hướng dẫn, tư vấn về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thông qua các thủ tục hành chính thông
thường. Cục cũng tiến hành tham vấn tiền tố tụng đối với 62 vụ việc có dấu hiệu vi phạm
pháp luật cạnh tranh không lành mạnh, bao gồm các vụ việc Cục khởi xướng tham vấn và
các vụ việc phát sinh từ đơn khiếu nại của các doanh nghiệp.
2.1. Vụ việc liên quan đến hành vi “chỉ dẫn gây nhầm lẫn”:
Ngày 10/6/2010, Cục Quản lý cạnh tranh đã nhận được Hồ sơ của Công ty TNHH
Đầu tư và Xuất nhập khẩu Thu Hiên khiếu nại Công ty TNHH Sản xuất Thương mại
Dịch vụ Nguyễn Long đã thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Công ty Thu
Hiên là nhà phân phối độc quyền sản phẩm bột rau câu dẻo ―Konnyaku Jelly Powder‖ của
Jim Willie Pte Ltd (Singapore) tại thị trường Việt Nam từ năm 2006. Công ty TNHH SX
TM DV Nguyễn Long là công ty sản xuất và kinh doanh sản phẩm bột rau câu tại Việt
Nam từ năm 2007. Trong quá trình kinh doanh của mình, Công ty Nguyễn Long đã sử
dụng 02 mẫu bao bì là mẫu bao bì bột rau câu Nguyễn Long “Konnyaku Jelly Powder”
và mẫu bao bì bột rau câu Nguyễn Long “Dragon Jelly Powder”. Trong Đơn khiếu nại đề
ngày 10/6/2010, Công ty Thu Hiên khiếu nại Công ty Nguyễn Long về ba nội dung : Thứ
nhất, Công ty Thu Hiên cho rằng bao bì bột rau câu dẻo “Konnyaku Jelly Powder” của
Công ty Nguyễn Long gắn nhiều chỉ dẫn thương mại trùng lặp, gây nhầm lẫn với các chỉ
dẫn thương mại trên sản phẩm bột rau câu dẻo “Konnyaku Jelly Powder” của Jim Willie
(do Thu Hiên phân phối) tại Việt Nam và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn
gốc, chất lượng, các đặc tính khác của sản phẩm trong quá trình nhận biết và lựa chọn sản
phẩm. Thứ hai, Công ty Thu Hiên cho rằng mẫu bao bì mới của Công ty Nguyễn Long
(Dragon Jelly Powder) vẫn là mẫu bao bì vi phạm Konnyaku Jelly Powder có bỏ đi vài
điểm chứ không hề thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, kích cỡ. Thứ ba, Công ty Nguyễn Long
sản xuất và lưu thông đồng thời 02 mẫu bao bì là nhằm mục đích quảng cáo, phát triển,
đưa sản phẩm bột rau câu dẻo “Dragon Jelly Powder” đến với người tiêu dùng dựa trên
nền tảng bột rau câu “Konnyaku Jelly Powder”. Đối với nội dung khiếu nại thứ nhất liên
quan đến “ chỉ dẫn gây nhầm lẫn”, các chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra
cho thấy bao bì bột rau câu dẻo ―Konnyaku Jelly Powder‖ của Công ty Nguyễn Long gắn
nhiều chỉ dẫn thương mại trùng lặp, gây nhầm lẫn với các chỉ dẫn thương mại trên sản
phẩm bột rau câu dẻo ―Konnyaku Jelly Powder‖ của Jim Willie (do Thu Hiên phân phối)
tại Việt Nam và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về 02 sản phẩm. Với việc sử dụng mẫu
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
180
bao bì Konnyaku Jelly Powder này, Công ty Nguyễn Long đã xâm phạm quyền đối với
nhãn hiệu hàng hóa số 107600 của Jim Willie. Công ty Nguyễn Long đã ngừng sản xuất
và lưu hành mẫu bao bì này từ ngày 20/11/2008, tuy nhiên tính từ thời điểm 20/11/2008
cho tới thời điểm điều tra là tháng 06/2010, hành vi vẫn nằm trong thời hiệu khiếu nại.
Hơn nữa, đối với hành vi có dấu hiệu vi phạm về sở hữu trí tuệ của Nguyễn Long nêu
trên, chưa có cơ quan nào xử lý. Căn cứ trên đơn khiếu nại, các tài liệu chứng cứ do bên
khiếu nại cung cấp và các tài liệu khác do Cục QLCT thu thập được, nhận thấy đơn khiếu
nại là có cơ sở, Cục QLCT đã ra quyết định điều tra đối với Công ty TNHH SX TM DV
Nguyễn Long. Đối với 02 nội dung khiếu nại thứ hai và thứ ba, Công ty Thu Hiên không
cung cấp được các bằng chứng chứng minh 2 nội dung này là có cơ sở. Kết thúc giai đoạn
điều tra chính thức, các điều tra viên kết luận Công ty Nguyễn Long đã thực hiện hành vi
vi phạm khoản 2 Điều 40 Luật cạnh tranh qui định về chỉ dẫn gây nhầm lẫn. Ngày
1/10/2010, Cục trưởng Cục QLCT đã ra quyết định số 132/QĐ-QLCT xử phạt Công ty
TNHH SX TM DV Nguyễn Long với mức phạt 10 triệu đồng.
2.2. Vụ việc liên quan đến hành vi “gi m pha nói xấu doanh nghiệp khác”:
Cùng với thời điểm thụ lý đơn khiếu nại của Công ty Thu Hiên, Cục cũng nhận được
đơn khiếu nại từ phía Công ty Nguyễn Long khiếu nại Công ty Thu Hiên về hành vi
―gièm pha nói xấu doanh nghiệp khác‖. Công ty Nguyễn Long cũng đã cung cấp được các
bằng chứng chứng minh đơn khiếu nại của họ là có cơ sở. Quá trình điều tra xác minh cho
thấy Công ty Thu Hiên đã thực hiện việc lưu hành tờ rơi với nội dung không chính xác về
Công ty Nguyễn Long, cụ thể: trong tờ rơi Thông báo đính kèm trong bao bì sản phẩm,
Công ty Thu Hiên đã đưa ra nhiều thông tin ―trực tiếp và gián tiếp‖ không chính xác liên
quan đến Công ty Nguyễn Long như: ―sản phẩm Bột rau câu của Công ty Nguyễn Long
là hàng nhái kém chất lượng‖, và sản phẩm của Công ty Nguyễn Long là ―gian lận về
xuất xứ hàng hóa‖ hay việc Công ty Nguyễn Long bị lực lượng quản lý thị trường kiểm
tra, xử phạt và bị công an kinh tế kiểm tra phát hiện sai phạm...Kết thúc điều tra, các điều
tra viên kết luận Công ty Thu Hiên đã vi phạm Điều 43 Luật cạnh tranh. Ngày
20/10/2010, Cục trưởng Cục QCLT đã ra quyết định xử phạt Công ty TNHH Đầu tư
XNK Thu Hiên với mức phạt 10 triệu đồng.
Đây là một vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp bởi mâu thuẫn giữa 2 công ty đã xảy
ra trong khoảng thời gian khá dài (từ năm 2008), Công ty Thu Hiên đã đệ đơn khiếu nại
lên rất nhiều cơ quan chức năng khác nhưng các cơ quan này đều chưa đưa ra kết luận
cuối cùng. Vì vậy, trong quá trình ―kêu oan‖, Công ty Thu Hiên đã đưa những thông tin
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
181
không chính xác về Công ty Nguyễn Long với mục đích ―trả đũa‖. Trong trường hợp này,
cả hai công ty đều có lỗi. Đứng trên lập trường của Luật cạnh tranh, các điều tra viên Cục
QLCT đã giải quyết vụ việc hợp tình hợp lý, kết thúc mâu thuẫn kéo dài của 2 doanh
nghiệp.
2.3. Vụ việc liên quan đến hành vi “quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh”:
Tháng 1/2010, qua rà soát hoạt động quảng cáo trên thị trường, Cục đã phát hiện các
thông điệp quảng cáo của Công ty TNHH Panasonic đối với các sản phẩm điều hòa, tủ
lạnh có dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh. Qua quá trình điều tra tiền tố tụng, nghiên cứu
tài liệu thu thập được, xét thấy nội dung các quảng cáo nêu trên có yếu tố gây nhầm lẫn,
vi phạm pháp luật cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh tiến hành điều tra vụ việc cạnh
tranh đối với Công ty TNHH Panasonic Việt Nam theo quy định tại khoản 2 Điều 86 của
Luật Cạnh tranh. Bên bị điều tra đã quảng cáo sai sự thật về công dụng của sản phẩm điều
hòa Envio với nội dung: “vô hiệu hóa hơn 99% tác nhân gây hại trong không khí”, bao
gồm vi sinh vật có hại, vi khuẩn, virus và nấm mốc. Theo giải trình của Bên bị điều tra,
kết quả thử nghiệm cho thấy sau khi chạy điều hòa trong môi trường thử nghiệm cho thấy
tỷ lệ một số loại vi khuẩn, virus và nấm mốc trong không khí giảm từ 58% đến 100%,
trong đó khả năng vô hiệu hóa virus cúm A là 99.9%. Tuy nhiên, kết quả thử nghiệm đối
với các loại vi khuẩn khác và nấm mốc không đạt chỉ tiêu như trên. Đồng thời, kết quả
thử nghiệm cũng cho thấy khi không chạy điều hòa, tỷ lệ vi khuẩn và nấm mốc trong
không khí cũng tự giảm đáng kể (giảm tự nhiên). Tại buổi làm việc với các điều tra viên,
cán bộ kỹ thuật của Panasonic Nhật Bản cũng thừa nhận dựa vào các kết quả thử nghiệm
không thể khẳng định sản phẩm có tác dụng vô hiệu hóa hơn 99% tác nhân gây hại trong
không khí, trong đó có cả vi sinh vật có hại, vi khuẩn, virus và nấm mốc. Như vậy, nội
dung quảng cáo này của Bên bị điều tra là sai sự thật. Bên bị điều tra đã quảng cáo không
đầy đủ về công dụng của sản phẩm tủ lạnh Panasonic với nội dung vệ sinh diệt đến 99.9%
vi khuẩn “bất hoạt đến 99.9% vi khuẩn & nấm mốc”. Bên bị điều tra có thử nghiệm tác
dụng kháng khuẩn của màng lọc Ag (bộ phận cấu thành của sản phẩm tủ lạnh Panasonic)
đối với 02 loại vi khuẩn là Staphylocccus và Escherichia Coli. Tuy nhiên, Bên bị điều tra
cũng xác nhận không có cơ sở để xác định 02 loại vi khuẩn nói trên mang tính đại diện
cho tất cả các loại vi khuẩn và nấm mốc. Do đó, nội dung quảng cáo nội dung nói trên là
không đầy đủ, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Quảng cáo sản phẩm điều hòa Envio có
tính năng của tiết kiệm 60% điện tiêu thụ khi chạy liên tục trong vòng 2h: Theo xác minh
của Cục, kết quả thử nghiệm tính năng tiết kiệm điện của điều hòa Envio sử dụng công
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
182
nghệ inverter và cảm biến Eco Patrol cho thấy sản phẩm có hiệu quả tiết kiệm điện so với
dòng sản phẩm điều hòa khác của Panasonic khoảng 40% sau 2 giờ hoạt động và 60% sau
8 giờ. Các chỉ số này đã thể hiện rõ trong catalogue giới thiệu sản phẩm, tuy nhiên khi
đưa lên mẫu quảng cáo báo chí đã thể hiện thành tiết kiệm 60% điện tiêu thụ trong vòng
2h. Về vấn đề này, Công ty cũng đã thừa nhận sai sót và điều chỉnh lại nội dung quảng
cáo ngay trong giai đoạn điều tra sơ bộ.
Ngoài ra, Công ty còn thực hiện quảng cáo sản phẩm tủ lạnh Panasonic có tính năng
tăng cường thành phần vitamin của thực phẩm đến 12% (model NR-BY601X/V và NR-
BY551/XV). Mặc dù, Công ty đã cung cấp báo cáo thử nghiệm cho thấy công nghệ chiếu
sáng thực phẩm trong ngăn kín của tủ lạnh có thể làm tăng vitamin của một số loại rau
quả từ 11.8% đến 21.7%. Tuy nhiên, kết quả thử nghiệm chỉ thể hiện tác dụng trên rau
quả, không đúng với thực phẩm nói chung. Do đó, Công ty cũng đã thừa nhận nội dung
quảng cáo không rõ ràng và đã điều chỉnh nội dung quảng cáo thành “tăng cường thành
phần vitamin trong rau củ quả cao hơn 12%”.
Ngày 16 tháng 6 năm 2010, Cục trưởng Cục QLCT đã ra quyết định số 66/QĐ-
QLCT xử phạt Công ty TNHH Panasonic với mức phạt 30 triệu đồng và yêu cầu chấm
dứt ngay lập tức hành vi vi phạm khoản 3 Điều 45 Luật Cạnh tranh“cung cấp thông tin
gây nhầm lẫn cho khách hàng”.
Vụ việc Công ty TNHH Panasonic có thể coi là vụ việc tiên phong trong năm 2010
của Cục QLCT liên quan đến hành vi ―quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh‖. Vụ
việc đã cung cấp cho các điều tra viên những hiểu biết cơ bản và khá toàn diện về các tính
năng kỹ thuật của sản phẩm điều hòa, vụ việc này cũng trở thành nền tảng cho các vụ việc
điều tra về sau có liên quan tới sản phẩm điều hòa của một loạt các hãng điện lạnh khác
như LG, Sharp, Samsung, Toshiba...
2.3. Vụ việc liên quan đến hành vi “khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành
mạnh”:
Tháng 6 năm 2010, qua rà soát hoạt động khuyến mại trên thị trường, Cục đã phát
hiện hoạt động khuyến mại của Công ty TNHH Supor Việt Nam có dấu hiệu vi phạm
Luật Cạnh tranh. Căn cứ theo quy định của Luật, Cục trưởng Cục QLCT đã ra quyết định
điều tra Công ty TNHH Supor Việt Nam.
Công ty TNHH Supor là công ty kinh doanh và sản xuất các sản phẩm dụng cụ nhà
bếp, các sản phẩm điện gia dụng; nhập khẩu các vật dụng, thiết bị nhà bếp, sản phẩm điện
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
183
dân dụng. Từ cuối tháng 5/2010, Bên bị điều tra đã quảng cáo trên các phương tiện thông
tin đại chúng về chương trình khuyến mại ―Miễn phí 1000 nồi canh‖ có nội dung tặng
hàng hóa cho khách hàng dùng thử kèm theo điều kiện khách hàng đổi các loại nồi nhôm
đang sử dụng do doanh nghiệp khác sản xuất. Kết thúc quá trình điều tra chính thức, các
điều tra viên kết luận bên bị điều tra đã thực hiện hành vi ―Tặng hàng hóa cho khách hàng
dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản
xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình” vi phạm quy định tại
khoản 4 Điều 46 Luật Cạnh tranh. Ngày 29/9/2010, Cục trưởng Cục QLCT đã ra quyết
định số 129/QĐ-QLCT xử phạt Công ty TNHH Supor Việt Nam với mức phạt 30 triệu
đồng và yêu cầu ngay lập tức chấm dứt hành vi vi phạm.
2.5. Vụ việc liên quan đến hành vi “bán hàng đa cấp bất chính”:
Trong quá trình giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương quản lý nhà nước về hoạt động
bán hàng đa cấp, Cục QLCT nhận được một số thông tin liên quan đến việc Công ty Cổ
phần công nghệ mới và phát triển Quốc tế Amkey Việt Nam chưa tuân thủ đúng các quy
định pháp luật trong hoạt động bán hàng đa cấp. Sau khi nghiên cứu các tài liệu liên quan,
Cục Quản lý cạnh tranh tiến hành điều tra vụ việc cạnh tranh đối với Công ty Cổ phần
công nghệ mới và phát triển Quốc tế Amkey Việt Nam theo quy định tại khoản 2 Điều 86
của Luật Cạnh tranh. Kết quả điều tra chính thức cho thấy Công ty Cổ phần công nghệ
mới và phát triển Quốc tế Amkey Việt Nam đã thực hiện một số hành vi có dấu hiệu vi
phạm quy định tại Điều 48 Luật Cạnh tranh về bán hàng đa cấp bất chính, cụ thể: "Yêu
cầu người muốn tham gia phải mua một lượng hàng hoá ban đầu để được quyền tham
gia mạng lưới bán hàng đa cấp"; "Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá
hàng hoá đã bán cho người tham gia để bán lại"; "Cung cấp thông tin sai lệch về tính
chất và công dụng của hàng hoá để dụ dỗ người khác tham gia bán hàng đa cấp". Đây là
vụ việc mà chứng cứ về hành vi vi phạm rất rõ ràng, Công ty cũng đã thừa nhận tất cả các
hành vi vi phạm. Ngày 24/03/2010, Cục trưởng Cục QLCT đã ra quyết định số 39/QĐ-
QLCT xử phạt Công ty Cổ phần công nghệ mới và phát triển Quốc tế Amkey Việt Nam
với mức phạt 210 triệu đồng.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
184
PHẦN 2. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Mặc dù pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã có từ lâu đời, vẫn chưa
có một khái niệm nhất quán cho tất cả các quốc gia về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Vì vậy, quy định cùa từng quốc gia khác nhau cũng rất khác nhau liên quan đến
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu để sửa đổi
một số điều khoản trong Luật Cạnh tranh liên quan tới các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, nhóm nghiên cứu sẽ sử dụng định nghĩa về các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh của Việt Nam làm hệ quy chiếu, trên cơ sở đó nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm của
các quốc gia khác quy định về vấn đề này.
2.1. Kinh nghiệm Nhật Bản
2.1.1. Tổng quan về các quy định pháp luật cạnh tranh không lành mạnh tại Nhật
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Nhật được quy định chủ yếu trong
Luật Cạnh tranh, Luật cấm cạnh tranh không lành mạnh, Luật về các giao dịch thương
mại đặc biệt và Luật cấm bán hàng đa cấp dạng hình tháp. Ngoài ra, liên quan đến các
quy định về chỉ dẫn gây nhầm lẫn, có rất nhiều bộ luật khác tại Nhật có liên quan, ví dụ
như Luật Thương hiệu, Luật tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản… Trong phạm vi của đề
tài nghiên cứu này, việc tìm hiểu quá nhiều luật khác nhau sẽ dẫn đến sự dàn trải và
không hiệu quả, vì vậy, ở đây chúng ta sẽ tập trung tìm hiểu vào 5 Luật có liên quan chủ
yếu, là Luật Cạnh tranh, Luật cấm cạnh tranh không lành mạnh, Luật về giải thưởng và
chỉ dẫn, Luật quy định về các giao dịch thương mại đặc biệt và Luật cấm bán hàng đa cấp
dạng hình tháp.
2.1.1.1. Luật Cạnh tranh
Luật cạnh tranh của Nhật chính là Đạo Luật chống độc quyền (Đạo luật quy định về
chống độc quyền tư nhân và duy trì cạnh tranh công bằng).
Bên cạnh các quy định về chống độc quyền tư nhân và các hành vi hạn chế thương
mại bất hợp lý (cartel), Chương V Luật chống độc quyền Nhật Bản còn quy định các hành
vi được xác định là các hành vi thương mại không lành mạnh (unfair trade practices). Tuy
nhiên, định nghĩa ―hành vi thương mại không lành mạnh‖ ở đây không hoàn toàn trùng
với định nghĩa về ―hành vi cạnh tranh không lành mạnh‖ được quy định trong Luật cạnh
tranh của Việt Nam. Thuật ngữ ―các hành vi thương mại không lành mạnh‖ sử dụng trong
Luật chống độc quyền Nhật Bản được định nghĩa tại Khoản 9 Điều 2 của Luật này, được
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
185
hiểu là bất kỳ hành vi nào trong 16 hành vi được liệt kê tại Khoản 9. Các hành vi này gồm
16 hành vi, trong đó có 6 hành vi tương tự với các hành vi được quy định từ điều 39 –
điều 48 Luật cạnh tranh Việt Nam, bao gồm các hành vi:
1) Các hành vi từ chối giao dịch khác (Other refusal to deal): sử dụng các biện pháp
không chính đáng khiến doanh nghiệp khác từ chối giao dịch với một doanh nghiệp nhất
định, hoặc hạn chế về số lượng/tính chất của hàng hóa/dịch vụ trong giao dịch thương mại
với một doanh nghiệp nhất định;
2) Sự xem xét phân biệt đối xử (Discriminatory consideration): cung cấp hoặc chấp
nhận hàng hóa hoặc dịch vụ tại một mức giá phân biệt đối xử nhằm gây bất lợi hoặc tạo
lợi ích cho một/các doanh nghiệp/người tiêu dùng nhất định, hoặc phân biệt đối xử giữa
các doanh nghiêp/ người tiêu dùng khác nhau trong một khu vực địa lý nhất định;
3) Lôi kéo khách hàng một cách gian dối: dẫn dụ khách hàng của các đối thủ cạnh
tranh giao dịch với mình bằng cách khiến họ nhầm lẫn về tính chất của hàng hóa hoặc
dịch vụ của mình, hoặc nhầm lẫn về các điều khoản thương mại, hoặc nhầm lẫn về các
vấn đề khác có liên quan đến giao dịch này là tốt hơn nhiều hoặc ưu đãi hơn nhiều so với
giao dịch trên thực tế hoặc so với các đối thủ cạnh tranh.
4) Lôi kéo khách hàng bằng các khoản lợi nhuận không chính đáng (Customer
inducement by unjust benefits): lôi kéo các khách hàng của đối thủ cạnh tranh chuyển
sang giao dịch với mình bằng cách đưa ra các lợi ích không chính đáng căn cứ trên các
hành vi kinh doanh thông thông thường;
5) Ép buộc trong kinh doanh (Tie-in sales): khiến một bên khác mua hàng hóa hoặc
dịch vụ từ mình hoặc từ mình hoặc từ một doanh nghiệp được chỉ định bởi chính mình
bằng cách ép buộc bên đó giao dịch với mình hoặc với một doanh nghiệp đã chỉ định.
6) Gây rối hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh (Interference with a
competitor’s transactions): gây rối không chính đáng một giao dịch của một doanh nghiệp
là đối thủ cạnh tranh nội địa của chính mình hoặc với tập đoàn mà mình là một cổ đông
hoặc là một nhân viên, bằng cách ngăn cản việc thực thi kết quả của hợp đồng, hoặc bằng
cách tạo ra sự vi phạm hợp đồng, hoặc bằng bất kỳ biện pháp nào khác34
.
34 Tuy nhiên, ở Nhật Bản, trọng điểm của những hành vi này được đánh giá dựa trên khuynh hướng ngăn cản cạnh tranh lành
mạnh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
186
Ngoài ra, điều 8 của Luật chống độc quyền quy định cấm các Hiệp hội thương mại
thực hiện một số hành vi, trong đó có các hành vi sau tương tự với các quy định về Phân
biệt đối xử hiệp hội (Điều 47, Luật cạnh tranh Việt Nam): Các Hiệp hội thương mại tại
Nhật bị cấm không được thực hiện các hành vi:
1) Hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trong bất kỳ một lĩnh vực thương mại nào;
2) Hạn chế số lượng doanh nghiệp hiện tại hoặc tương lai trong bất kỳ một lĩnh vực
kinh doanh cụ thể nào;
3) Ngăn cản một cách không chính đáng hoạt động hoặc chức năng của các doanh
nghiệp.
4) Cản trở một cách không chính đáng các chức năng hoặc hoạt động của các doanh
nghiệp thành viên.
2.1.1.2. Luật cấm các giải thưởng bất chính và các chỉ dẫn gây nhầm lẫn (Act
against Unjutifiable premiums and misleading representations)
Luật cấm các giải thưởn bất chính và các chỉ dẫn gây nhầm lẫn được coi là một luật
đặc biệt thuộc Luật Chống độc quyền cho tới khi Cục Bảo vệ người tiêu dùng Nhật
(CAA) được thành lập trực thuộc chính phủ Nhật Bản, sau đó, thẩm quyền thực thi Luật
này đã được chuyển sang cho CAA (trước đó thuộc thẩm quyền của JFTC).
Luật cấm các giải thưởng bất chính và các chỉ dẫn gây nhầm lẫn có nội dung chính
là quy định cấm các giải thưởng vô lý (thuật ngữ ―giải thưởng‖ được sử dụng trong Luật
này mang ý nghĩa là bất kì đồ vật, tiền hay bất kì hình thức lợi nhuận kinh tế nào được
doanh nghiệp đưa ra nhằm mục đích lôi kéo người tiêu dùng – xem cụ thể tại Khoản 1
Điều 2 Luật cấm các giải thưởng bất chính và các chỉ dẫn gây nhầm lẫn) và các chỉ dẫn
gây nhầm lẫn về thành phần của hàng hóa, gây nhầm lẫn về điều khoản mua bán hàng
hóa, và bất kỳ chỉ dẫn về hàng hóa nào do CAA kết luận là gây nhầm lẫn dựa trên tiêu chí
dẫn dụ khách hàng mua hàng một cách không chính đáng và cản trở cạnh tranh công bằng
(thuật ngữ ―chỉ dẫn‖ sử dụng trong Luật này được hiểu là quảng cáo hay bất kì chỉ dẫn
nào khác được doanh nghiệp sử dụng như một phương tiện để lôi kéo dẫn dụ khách hàng
– xem cụ thể tại Khoản 2 Điều 2 Luật cấm các giải thưởng bất chính và các chỉ dẫn gây
nhầm lẫn). Bên cạnh đó, Luật còn quy định chi tiết về các nội dung quảng cáo không
chứng minh được (restrictions on uproven advertisement) cũng là các nội dung quảng cáo
bị cấm: trong trường hợp CAA muốn đánh giá liệu một nội dung quảng cáo có gây nhầm
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
187
lẫn hay không, CAA có thể chỉ định một khoảng thời gian hợp lý cho doanh nghiệp cung
cấp các bằng chứng xác thực chứng minh cho các nội dung quảng cáo đó; nếu doanh
nghiệp không cung cấp được các bằng chứng này trong khoảng thời gian hợp lý trên, nội
dung quảng cáo đó có thể bị xác định là chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
2.1.1.3. Luật điều chỉnh hành vi bán hàng đa cấp
Hành vi bán hàng đa cấp bất chính được quy định chi tiết tại cả hai bộ luật của Nhật
là Luật về các giao dịch thương mại đặc biệt và Luật cấm bán hàng đa cấp dạng hình tháp.
Luật về các giao dịch thương mại đặc biệt bắt buộc các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa
hoặc dịch vụ theo các hình thức bán hàng tận cửa (door to door sales), bán hàng qua thư
điện tử, bán hàng qua điện thoại, bán hàng đa cấp… phải tuân theo các quy tắc đã được
quy định trong Luật. Các quy định bắt buộc trong Luật này gồm:
1) Phải thông tin trước và rõ ràng tới đối tác về tên, mục đích và chủng loại hàng
hóa hoặc dịch vụ;
2) (Đối với hoạt động quảng cáo bán hàng đa cấp) cấm tạo ra các chỉ dẫn gây nhầm
lẫn về chất lượng của hàng hóa hay nội dung của quyền sử dụng các điều kiện thuận lợi;
3) Phải cung cấp đầy đủ tài liệu về tổ chức hoạt động bán hàng đa cấp của công ty
cho người tham gia trước khi ký kết hợp đồng;
4) Các hành vi bị cấm :
(i) cố tình che giấu sự thật hoặc các thông tin nhầm lẫn về chủng loại, mẫu mã, hoặc
chất lượng của hàng hóa hoặc che đậy các vấn đề liên quan đến các ràng buộc về nghĩa vụ
và trách nhiệm đã được quy định, các vấn đề liên quan đến từ bỏ lợi nhuận
(ii) Đe dọa hoặc gây rối một người để buộc khiến anh ta/ cô ta miễn cưỡng ký hợp
đồng hoặc nhằm cản trở người đó hủy bỏ hợp động đã ký với công ty bán hàng đa cấp;
(iii) Dụ dỗ một người ký hợp đồng bán hàng đa cấp tại một địa điểm không phải địa
điểm công cộng hoặc trụ sở kinh doanh của Công ty;
Luật cấm bán hàng đa cấp dạng hình tháp là luật cấm hoàn toàn các dạng bán hàng
đa cấp nào thực hiện theo phương thức hình tháp. Đây là một hệ thống tập hợp và phân
phối tiền dựa trên sự gia tăng không giới hạn số người tham gia vào mạng lưới đa cấp,
bằng cách người tham gia trước có thể nhận được lợi nhuận dựa vào tiền tham gia mạng
lưới của những người gia nhập sau.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
188
2.1.1.4. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh
Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Nhật ra đời từ năm 1934 gồm 22 điều
và một số điều khoản bổ sung qua các lần sửa đổi điều chỉnh các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh. Luật chống Cạnh tranh không lành mạnh quy định cụ thể 15 hành vi
cạnh tranh không lành mạnh tại Khoản 1 Điều 2 dưới đây:
(i) Hành vi tạo ra sự nhầm lẫn với hàng hóa hoặc hoạt động kinh doanh của người
khác bằng cách sử dụng một chỉ dẫn giống hoặc tương tự với chỉ dẫn đã nổi tiếng (đối với
người tiêu dùng hoặc những người mua khác), hoặc tạo sự nhầm lẫn bằng cách chuyển
giao, phân phối, chào bán với mục đích chuyển giao hoặc phân phối, xuất khẩu, nhập
khẩu hay phân phối thông qua một kênh truyền thông điện tử hàng hóa sử dụng chỉ dẫn
gây nhầm lẫn đó;
(ii) Hành vi sử dụng chỉ dẫn về hàng hóa hoặc giao dịch của chính mình nhưng
giống hoặc tương tự như chỉ dẫn của sản phẩm hoặc trong kinh doanh của một cá nhân
nổi tiếng, hoặc hành vi chuyển giao, phân phối, trưng bày với mục đích chuyển giao hoặc
phân phối, xuất khẩu, nhập khẩu hoặc cung cấp thông qua một kênh truyền thông điện tử
những sản phẩm có sử dụng những chỉ dẫn đó;
(iii) Hành vi chuyển giao, cho thuê, trưng bày với mục đích chuyển giao hoặc cho
thuê, xuất khẩu hoặc nhập khẩu hàng hóa bắt chước mẫu mã của một loại sản phẩm của
cá nhân khác;
(iv) Hành vi giành được bí mật kinh doanh bằng cách ăn trộm, lừa gạt, ép buộc
hoặc các cách làm sai trái khác, hoặc hành vi sử dụng hoặc tiết lộ bí mật kinh doanh có
được bằng hình thức trên;
(v) Hành vi có được bí mật kinh doanh mặc dù đã biết bí mật này có được bằng các
hành vi sai trái hoặc không biết về vấn đề đó do sơ suất nghiêm trọng, hoặc hành vi sử
dụng hoặc tiết lộ bí mật kinh doanh có được theo cách này;
(vi) Hành vi sử dụng hoặc tiết lộ một bí mật kinh doanh, với nhận thức rõ ràng hoặc
có thể không biết do sơ suất nghiêm trọng, sau khi có được bí mật kinh doanh đó, rằng bí
mật đó có được bằng các biện pháp sai trái;
(vii) hành vi sử dụng hoặc làm lộ một bí mật kinh doanh đã được chủ thể kinh doanh
khác sở hữu và công bố trước đây với mục đích cạnh tranh thương mại không lành mạnh,
hoặc để đạt lợi nhuận bất hợp pháp hoặc gây tổn hại cho bên sở hữu bí mật đó;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
189
(viii) Hành vi có được một bí mật kinh doanh với nhận thức hoặc không nhận thức
được do sơ suất nghiêm trọng, rằng bí mật được tiết lộ không đúng cách, hoặc bí mật đó
có được nhờ sự tiết lộ trái phép, hoặc hành vi sử dụng hoặc tiết lộ bí mật kinh doanh có
được theo cách này;
(ix) hành vi sử dụng hoặc tiết lộ một bí mật kinh doanh có được sau khi nhận thức
được hoặc không nhận thức được do sơ suất nghiêm trọng, sau khi đã có được bí mật kinh
doanh đó, rằng bí mật đó được tiết lộ trái phép, hoặc bí mật đó có được thông qua sự tiết
lộ trái phép;
(x) hành vi chuyển giao, phân phối, trưng bày với mục đích chuyển giao, phân phối,
xuất khẩu hoặc nhập khẩu (a) các thiết bị có chức năng duy nhất là phát tán hình ảnh hoặc
âm thanh, chạy chương trình hoặc ghi lại hình ảnh, âm thanh hay các chương trình đã bị
chặn bởi những biện pháp chặn công nghệ được sử dụng trong kinh doanh, bằng cách phá
rối những biện pháp chặn này, hoặc (b) thiết bị lưu trữ dữ liệu hoặc các máy móc chứa
các chương trình có chức năng duy nhất như trên, hoặc các hành vi cung cấp các chương
trình có chức năng duy nhất như trên thông qua một đường dây truyền thông điện tử.
(xi) hành vi chuyển giao, phân phối, trưng bày với mục đích chuyển giao hoặc phân
phối, xuất khẩu hoặc nhập khẩu cho tất cả mọi người trừ một số cá nhân nhất định (a) các
thiết bị có chức năng duy nhất là cho phép xem hình ảnh hoặc nghe âm thanh, chạy
chương trình, lưu thu hình ảnh, âm thanh hoặc chương trình bị chặn bởi những biện pháp
chặn công nghệ được sử dụng trong kinh doanh để chặn tất cả trừ một số đối tượng nhất
định, không được nghe những hình ảnh, âm thanh, chương trình hoặc hình ảnh, chương
trình được ghi âm,thu lại, bằng cách cản trở các biện pháp chặn công nghệ nói trên, hoặc
(b) phương tiện truyền thông lưu trữ dữ liệu hoặc máy lưu trữ dữ liệu nơi lưu trữ các
chương trình có chức năng duy nhất nói trên, hoặc hành vi cung cấp các chương trình có
chức năng duy nhất nói trên thông qua một đường truyền thông tin điện tử.
(xii) Hành vi giành hay giữ quyền sử dụng một hoặc nhiều tên miền giống hoặc
tương tự với chỉ dẫn của hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể của cá nhân khác, hoặc hành vi sử
dụng bất kì một hoặc nhiều tên miền như trên, nhằm mục đích đạt lợi nhuận bất chính
hoặc gây thiệt hại cho người khác;
(xiii) Hành vi đưa thông tin sai lệch về sản phẩm hoặc dịch vụ, hoặc trong một
quảng cáo, hoặc trong một văn bản hay thư tín sử dụng trong một một giao dịch có liên
quan, theo cách có khả năng gây nhầm lẫn cho công chúng về xuất xứ, chất lượng, hàm
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
190
lượng, quy trình sản xuất, cách sử dụng hoặc về số lượng của hàng hóa; hoặc gây nhầm
lẫn về chất lượng, nội dung, mục đích và số lượng của dịch vụ; hoặc hành vi chuyển giao,
phân phối, trưng bày với mục đích chuyển giao, phân phối, xuất khẩu, nhập khẩu hoặc
cung cấp thông qua kênh truyền thông điện tử hàng hóa hoặc dịch vụ có những dấu hiệu
nói trên;
(xiv) Hành vi tạo ra hoặc phát tán một cáo buộc sai lệch gây tổn hại uy tín kinh
doanh của người khác trong một mối quan hệ cạnh tranh;
(xv) Hành vi của một đại lý, đại diện hoặc của cá nhân – người đã từng là đại lý
hoặc đại diện (trong vòng một năm kể từ thực hiện hành vi) của chủ sở hữu quyền liên
quan tới một thương hiệu của một nước thành viên thuộc liên minh các quốc gia ký Công
ước Paris (Công ước Paris được hiểu như quy định tại điểm (ii) khoản 1 Điều 4 Luật
Thương hiệu (Luật số 127 năm 1959)) hoặc một nước là thành viên của Tổ chức Thương
mại Thế giới WTO hoặc một nước là đối tác ký kết hợp đồng của Hiệp ước về Luật
Thương hiệu, sử dụng thương hiệu giống hoặc tương tự như thương hiệu liên quan đến
quyền sở hữu nói trên không có lý do chính đáng hoặc không có sự cho phép của chủ sở
hữu thương hiệu, hoặc hành vi chuyển giao, phân phối, trưng bày nhằm mục đích chuyển
giao hoặc phân phối, xuất khẩu, nhập khẩu hoặc cung cấp qua kênh truyền thông điện tử
những mặt hàng sử dụng thương hiệu giống như hàng hóa có thương hiệu đã được đăng
ký bản quyền, hoặc cung cấp dịch vụ sử dụng thương hiệu giống hoặc tương tự dịch vụ đã
được đăng ký quyền sở hữu.
Như vậy, tương ứng với 9 hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong
Luật cạnh tranh Việt Nam, Nhật Bản đều có những quy định tương tự, chỉ khác là được
quy định cụ thể và chi tiết hơn trong những bộ luật khác nhau.
2.1.2. Mô hình thực thi pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Nhật
2.1.2.1 Luật Chống độc quyền
Liên quan đến những Luật Chống độc quyền Nhật Bản, các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh được quy định trong luật này được JFTC xử lý theo qui trình như sau:
Khi JFTC nhận được thông tin từ nguồn đáng tin cậy về một hành vi bị nghi ngờ vi
phạm luật, JFTC sẽ tiến hành điều tra. Trong quá trình điều tra vụ việc, phía bị điều tra có
cơ hội được giải thích và bào chữa cho hành vi của mình. Kết thúc quy trình điều tra, nếu
đã có bằng chứng đầy đủ để kết luận về sự vi phạm của bên bị điều tra, JFTC sẽ ban hành
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
191
Lệnh yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm (Cease and Desist Order). Nếu công ty không
thực hiện quyết định của JFTC, JFTC có thể buộc tội hình sự tới Phòng Công tố để áp đựt
một án phạt tù đến 2 năm và phạt tiền đến 3 triệu Yên đối với đại diện của công ty hoặc
đối với chính công ty đó.
2.1.1.2 Luật cấm các giải thưởng bất chính và các chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Đối với Luật cấm các giải thưởng bất chính và các chỉ dẫn gây nhầm lẫn, Cục Bảo
vệ người tiêu dùng Nhật Bản (Consumer Affair Agency-CAA) là cơ quan có thẩm quyền
thực hiện điều tra hành vi nghi vấn và ban hành Lệnh đình chỉ và chấm dứt hành vi vi
phạm.
Quy trình thủ tục điều tra của CAA cũng gần giống như quy định trong Luật chống
độc quyền được thực hiện bởi JFTC. Ngoài ra, chi nhánh đặt tại các tỉnh của JFTC được
chỉ định quyền điều tra vi phạm theo qui định của Luật cấm các giải thưởng bất chính và
các chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
2.1.2.3 Luật Giao dịch thương mại đặc biệt
Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Công nghiệp và Thương mại có thể ra một lệnh yêu cầu bên
vi phạm quy định của Luật này phải thực hiện các biện pháp cần thiết.
Nếu bên vi phạm không tuân theo Lệnh này, bên vi phạm đó sẽ bị áp mức phạt tiền
nhiều nhất là 1 triệu Yên và Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Công nghiệp và Thương mại sẽ ban
hành Lệnh đình chỉ hoạt động kinh doanh đối với bên vi phạm.
Trong trường hợp bên vi phạm không đồng ý với quyết định đình chỉ kinh doanh,
bên vi phạm sẽ phải bị phạt tù lên đến 2 năm hoặc phạt tiền lên đến 3 triệu Yên.
2.1.2.4 Luật cấm bán hàng đa cấp dạng hình tháp
Những vi phạm thuộc phạm vi của Luật cấm bán hàng đa cấp dạng hình tháp có thể
bị phạt tội hình sự (đối với người điều khiển mạng lưới: án phạt có thể lên đến 3 năm tù
và phạt tiền đến 3 triệu Yên, với tư vấn viên kinh doanh cấp cao: phạt tù đến 1 năm và
phạt tiền đến 300 ngàn Yên, đối với cá nhân dụ dỗ người khác tham gia bán hàng đa cấp
bất chính mức phạt áp dụng cao nhất là 200 nghìn Yên).
2.1.2.5 Luật cấm cạnh tranh không lành mạnh
Các hành vi vi phạm Luật chống cạnh tranh không lành mạnh có thể là đối tượng
của các vụ kiện dân sự (lệnh đình chỉ và lệnh bồi thường thiệt hại) hoặc đối tượng phạt
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
192
hình sự (phụ thuộc vào độ nghiêm trọng của vi phạm, có thể bị phạt án tù đến 10 năm
hoặc tiền phạt đến 10 triệu yên, hoặc án tù đến 5 năm và phạt tiền đến 5 triệu Yên).
2.2. Kinh nghiệm Hoa Kỳ
2.2.1. Quy định chung về pháp luật cạnh tranh không lành mạnh ở Hoa Kỳ:
Hầu hết các hành vi được xem là ― cạnh tranh không lành mạnh ‖ theo qui định của
Luật Cạnh tranh Việt Nam rơi vào 4 loại hành vi sau của hệ thống pháp luật Mỹ gồm:
hành vi cản trở hoạt động kinh doanh thông thường (thuộc sự điều chỉnh của các Luật của
các bang khác nhau); hành vi xâm phạm nhãn hiệu hoặc bản quyền (thuộc sự điều chỉnh
của Đạo Luật giảm chất lượng thương hiệu liên bang 1996 (Federal Trademark Dilution
Act) và Đạo Luật Lanham), và quảng cáo so sánh gian dối hoặc gây nhầm lẫn (Thuộc sự
điều chỉnh của Đạo Luật Lanham); và hành vi quảng cáo hoặc marketing thông thường
gian dối hoặc gây nhầm lẫn gây thiệt hại cho tiêu dùng nói chung. Ba loại hành vi đầu
được giải quyết trong lĩnh vực hoạt động của luật tư. Riêng loại hành vi thứ tư, tại Mỹ gọi
là ―hành vi thương mại gian dối hoặc không lành mạnh‖ thuộc sự quản lý của FTC theo
Mục 5 của Đạo Luật về Ủy ban Thương mại liên bang (FTC Act). Ủy ban Thương mại
liên bang đã ban hành nhiều quy tắc nhằm điều chỉnh các hành vi thương mại gian dối
hoặc không lành mạnh mang tính hệ thống. Một số quy tắc có thể kể đến bao gồm: Quy
tắc về đặt hàng qua thư điện tử, Quy tắc về marketing qua điện thoại, Quy tắc không gọi
điện (Do-not-call Rule) và Đạo luật chống thư rác liên bang ( CAN–SPAM Act)… Một
vài cơ quan chính phủ khác của Mỹ cũng có thẩm quyền xét xử chuyên biệt đối với một
số loại quảng cáo đối với các sản phẩm đặc thù, ví dụ như thuốc.
Năm 1994, Đạo Luật FTC sửa đổi định nghĩa hành vi cạnh tranh không lành mạnh
là hành vi ―gây ra hoặc có thể gây ra những thiệt hại đáng kể mà người tiêu dùng không
thể tránh được một cách hợp lý và thiệt hại gây ra này không bù lại được những lợi ích
tương ứng do hành vi đó tạo ra cho người tiêu dùng hoặc đối thủ cạnh tranh.‖
Mặc dù đã phát triển hệ thống các quy định về hạn chế cạnh tranh từ rất lâu (Luật
Sherman-1890), các quy định về cạnh tranh không lành mạnh của Hoa Kỳ lại tương đối
phân tán. Các nhà lập pháp của Hoa Kỳ kết hợp cả hai cách tiếp cận của Châu Âu trong
việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh, sử dụng các quy định chung về bồi
thường thiệt hại dân sự cũng như một số quy định chuyên ngành, và thậm chí có sự khác
biệt giữa pháp luật liên bang và pháp luật các tiểu bang. Các quy định cạnh tranh quan
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
193
trọng nhất có thể kể đến là Đạo Luật về Ủy ban Thương mại liên bang (Đạo luật FTC)
(1914) và Luật nhãn hiệu liên bang, hay còn gọi là Luật Lanham (1946).
Luật về Ủy ban Thương mại liên bang đặt cơ sở cho việc thành lập Ủy ban Thương
mại Hoa Kỳ chức năng của Ủy ban Thương mại Liên bang bao gồm chức năng điều tra và
giám sát các vụ việc chống độc quyền, xử lý ―các cách thức cạnh tranh không lành mạnh
ảnh hưởng dến thương mại và các hành vi không lành mạnh hoặc gây gian dối ảnh hưởng
đến thương mại‖(Điều 5 Luật về Ủy ban Thương mại Liên bang). Ủy ban Thương mại
liên bang Hoa Kỳ (USFTC) đã có những giải thích rõ hơn về phạm vi các hành vi ―không
lành mạnh‖ và ―gian dối‖ trong các văn bản hướng dẫn theo thẩm quyền của mình. Trong
bản Tuyên bố chính sách về hành vi không lành mạnh, cơ quan này nêu rõ: “Luật thành
văn chỉ định khung cho các điều khoản chung do Nghị viện nhận thấy rằng không thể
soạn ra một danh sách các hành vi không lành mạnh mà không bị lạc hậu một cách
nhanh chóng hoặc tạo ra những kẽ hở cho việc vi phạm. Nhiệm vụ xác định các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh thuộc về Ủy ban, với hy vọng các tiêu chí đánh giá sẽ được
xem xét và phát triển”.
Căn cứ trên các án lệ tại tòa án, đến năm 1964 Ủy ban đã hình thành 3 tiêu chí để
đánh giá hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đó là: (i) gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
(ii) vi phạm các chính sách xã hội hiện hành; và (iii) vô đạo đức và không cẩn trọng.
Cũng trên cách tiếp cận này, trong Tuyên bố chính sách về hành vi gian dối, Ủy ban xác
định 3 yếu tố cần xem xét trong một vụ việc gian dối, đó là:
- Phải có một diễn giải, một thiếu sót hoặc một hành động có thể gây nhầm lẫn cho
người tiêu dùng;
- Người tiêu dùng ứng xử có nhận thức và ứng xử hợp lý trong hoàn cảnh tiếp nhận
quảng cáo;
- Cuối cùng, diễn giải, thiếu sót hoặc hành động phải có tác động về mặt vật chất,
có nghĩa là có thể dẫn nguời tiêu dùng đến quyết định hoặc hành động mua hàng. Khi có
tác động vật chất, mới dẫn đến khả năng gây thiệt hại cho người tiêu dùng, do người tiêu
dùng có thể đã lựa chọn nếu không có gian dối.
Nếu Luật về Ủy ban Thương mại Liên bang trao quyền cho USFTC chủ động thực
hiện các biện pháp pháp lý chống quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh với tư
cách đại diện cho lợi ích công và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thì Luật Lanham mở
ra một kênh khác cho phép đối thủ cạnh tranh trực tiếp khiếu nại, và thủ tục này cũng
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
194
được USFTC ủng hộ với quan điểm cho rằng thiệt hại của người tiêu dùng cũng đồng
nghĩa với thiệt hại của các đối thủ cạnh tranh. Mặc dù nội dung chủ yếu của đạo luật này
quy định về nhãn hiệu hàng hóa, Điều 43(a) quy định: ―Bất kỳ ai liên quan đến việc kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng từ ngữ, khái niệm, tên, biểu tượng, hình vẽ hoặc sự kết
hợp của chúng, hay nguồn gốc xuất xứ giả mạo, mô tả gian dối hoặc gây nhầm lẫn
- Có thể gây bối rối, sai sót hoặc đánh lừa về sự liên hệ, liên kết hoặc hợp tác giữa
người này với một người khác, hoặc về nguồn gốc, khả năng tài trợ hoặc sự chấp nhận
hàng hóa, dịch vụ hoặc hoạt dộng thương mại của nguời này từ người khác đó, hoặc
- Trong quảng cáo hay khuyến mại mà diễn giải sai lệch bản chất, đặc điểm số
lượng, nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ hay hành động thương mại của người này
hay người khác đó
Sẽ chịu trách nhiệm từ khởi kiện dân sự của bất kỳ ai cho rằng lợi ích của họ bị thiệt
hại hoặc có thể bị thiệt hại do hành vi nêu trên.
Để chứng minh thiệt hại, bên nguyên đơn phải đưa ra được trường hợp người tiêu
dùng thực tế tin vào quảng cáo gian dối và từ đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
mình. Bên cạnh đó, trong khi Ủy ban Thương mại Liên bang khi tiến hành các vụ việc xử
lý có quyền yêu cầu bên bị đơn chứng minh tính đúng đắn trong quảng cáo của mình, thì
theo thủ tục này bên nguyên đơn phải chứng minh về sự gian dối trong quảng cáo của bên
bị. Có thể thấy rõ do đặt hàng trong một đạo luật về nhãn hiệu, thủ tục giải quyết tranh
chấp về quảng cáo gian dối của Luật Lanham cũng mang nhiều màu sắc của thủ tục giải
quyết tranh chấp trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
2.2.2 Thực thi pháp luật cạnh tranh không lành mạnh tại Hoa Kỳ
2.2.2.1. Ủy ban Thương mại liên bang:
Ủy ban Thương mại Liên bang (FTC) là một cơ quan độc lập được thành lập bởi
Quốc hội vào năm 1941 để thực thi Đạo luật FTC. Mục 5 của Đạo Luật FTC cấm ―các
phương pháp không lành mạnh‖ và được sửa đổi vào năm 1938 cấm ―hành vi thương mại
lừa đảo và không lành mạnh‖.
Đạo luật FTC cung cấp một khuôn khổ toàn diện để thực hiện các sáng kiến pháp
luật của Ủy ban thực thi. Trong trách nhiệm thực thi bảo vệ người tiêu dùng. Ủy ban căn
cứ vào Mục 5 của Đạo luật FTC- ngăn cấm hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay lừa
đảo và một số quy định liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng. Ủy ban quyết định rằng
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
195
một hành vi được coi là hành vi lừa đảo nếu: (i) nó có khả năng đánh lừa người tiêu dùng
(ii) về bản chất, nó khả năng ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn sản phẩm của người tiêu
dùng. Tháng tám năm 1944, Quốc hội sửa đổi Mục 5 của Đạo luật FTC, cụ thể sửa đổi
cho rằng một hành vi thương mại không công bằng khi thiệt hại gây ra hoặc có thể gây ra
cho người tiêu dùng: (i) đáng kể; (ii) người tiêu dùng không thể tránh được; (iii) không
nặng hơn so với những lợi ích của người tiêu dùng và đối thủ cạnh tranh.
Quốc hội cũng đã ban hành một số đạo luật khác quy định trách nhiệm thực thi bảo
vệ người tiêu dùng. Như đạo luật Wheeler- Lea năm 1938 đã cho Ủy ban ngăn chặn
quảng cáo sai về thực phẩm, thuốc, và mỹ phẩm.
* Quy trình giải quyết vụ việc phát sinh:
Khi có vi phạm xảy ra, Luật về Ủy ban Thương mại Liên bang cho phép USFTC
nhân danh lợi ích công tổ chức phiên điều trần với sự có mặt của bên vi phạm để làm rõ
hành vi, và dựa trên kết quả phiên điều trần ra quyết định buộc đình chỉ và chấm dứt đối
với hành vi bị xem là không lành mạnh. Trong trường hợp quyết định có hiệu lực (không
có kháng cáo hoặc kháng cáo không được Tòa Phúc thẩm hoặc Tòa Tối cao chấp thuận),
nếu bên bị đơn tiếp tục vi phạm, Ủy ban có thể đưa vụ việc ra Tòa án và yêu cầu phạt dân
sự mỗi hành vi vi phạm tới 10.000 USD, trong trường hợp vi phạm kéo dài thì mỗi ngày
vi phạm bị tính là một hành vi riêng lẻ (Điều 5 khoản 1). Riêng đối với quảng cáo gian
dối, Ủy ban có thể khởi kiện trực tiếp ta tòa án địa phương có thẩm quyền, yêu cầu bồi
thường thiệt hại và cải chính công khai. Trong trường hợp quảng cáo gian dối gây ra thiệt
hại về sức khỏe, bên bị phạt sẽ bị phạt tiền tới 5.000 USD hoặc phạt tù 6 tháng hoặc chịu
cả hai hình phạt,vi phạm lần thứ hai phạt 10.000 USD và phạt tù tới 1 năm.
FTC có thể điều tra một vụ việc từ nhiều hướng khác nhau. Từ khiếu nại của người
tiêu dùng hoặc của doanh nghiệp, yêu cầu của Quốc hội. Việc điều tra có thể tiến hành
công khai hoặc được giữ bí mật. Nói chung, FTC thường thực hiện điều tra không công
khai để bảo vệ bí mật cho cả bên điều tra và các công ty. Nếu FTC có cơ sở để tin rằng có
hành vi vi phạm pháp luật. FTC sẽ ban hành một lệnh cho các công ty. Một công ty khi ký
vào lệnh trên, không cần thừa nhận hành vi vi phạm nhưng bắt buộc phải chấm dứt hành
vi được đề cập trong đơn khiếu nại.
Nếu lệnh trên không được chấp thuận từ bên bị khiếu nại. FTC sẽ thực hiện một
khiếu nại hành chính. Nếu một khiếu nại hành chính được thực hiện, một thủ tục như một
phiên tòa sẽ được mở ra trước khi thực hiện một vụ kiện hành chính. Bằng chứng được đệ
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
196
trình, được trình bày, có sự kiểm tra về nhân chứng và kiểm tra chéo giữa các bên. Nếu
phát hiện hành vi vi phạm, một lệnh hành chính được ban hành yêu cầu chấm dứt hành vi
vi phạm, phạt tiền, hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại. Quyết định hành chính có thể bị
kháng cáo lên Ủy ban.
Quyết định cuối cùng của Ủy ban có thể bị kháng cáo lên Tòa án Phúc thẩm Mỹ và
cuối cùng là Tòa Tối Cao Hoa Kỳ. Nếu có hành vi vi phạm, Ủy ban có thể tìm kiếm từ
Tòa án một hình phạt dân sự hay một lệnh cấm.
FTC có thể yêu cầu thực hiện một lệnh cấm, một hình phạt dân sự, yêu cầu khắc
phục hậu quả trực tiếp từ lệnh của Tòa án. Điều này thường xảy ra trong việc xử phạt
những hành vi gian lận với người tiêu dùng. Bằng cách thông qua Tòa án, FTC có thể xử
lý kịp thời hành vi vi phạm và tránh những tổn thất không đáng có cho người tiêu dùng.
2.2.2.2. Cục bảo vệ người tiêu dùng:
Cục bảo vệ người tiêu dùng giám sát và báo cáo về sự phát triển của pháp luật về
quảng cáo sai sự thật và lừa đảo, hành vi cạnh tranh không lành mạnh và tiếp thị bất hợp
pháp. Cục tiến hành điều tra, kiện những công ty và những người vi phạm pháp luật. Phát
triển các quy tắc để bảo vệ người tiêu dùng, giáo dục người tiêu dùng và doanh nghiệp về
quyền và trách nhiệm của mình. Cục cũng tiếp nhận những hồ sơ khiếu nại của nguời tiêu
dùng và chuẩn bị hồ sơ cho các cơ quan thực thi pháp luật trên toàn quốc.
2.3. Kinh nghiệm Châu Âu
2.3.1. Tổng quan quy định về cạnh tranh không lành mạnh tại các quốc gia Châu Âu
Châu Âu là nơi khởi đầu của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, và
cũng là nơi phát sinh các cách tiếp cận khác biệt trong quá trình xây dựng pháp luật về
cạnh tranh không lành mạnh. Ba trung tâm kinh tế lớn của Châu Âu là Pháp, Đức và Anh
có những cách điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh riêng, trong đó đáng ngạc
nhiên là hệ thống của Pháp lại có nhiều điểm gần với Anh hơn là Đức.
Pháp và Anh đều điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên cơ sở các
nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tort law) và cụ thể
hoá thông qua các án lệ. Một số nước khác cũng xây dựng pháp luật về cạnh tranh không
lành mạnh theo hướng này là Hà Lan và Italia. Tại các quốc gia này, toà án có vai trò rất
lớn trong việc đánh giá hành vi cạnh tranh không lành mạnh và quyết định biện pháp xử
lý, với chế tài chủ yếu là bồi thường thiệt hại.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
197
Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt giữa hai hệ thống Dân luật và Thông luật trong cách
thức áp dụng pháp luật đối với lĩnh vực này. Trong hệ thống của Pháp, phạm vi áp dụng
tort law đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh tương đối rộng, Toà án có thẩm
quyền xem xét và phán quyết nhiều hành vi cạnh tranh khác nhau, từ đó hình thành các án
lệ đa dạng về các hành vi gây cản trở hoạt động cạnh tranh (concurrence déloyal) và các
hành vi lợi dụng thành quả của đối thủ cạnh tranh (concurrence parasitaire). Trong các
vụ việc tại toà án, bên nguyên đơn cần chứng minh sự tồn tại của hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, thiệt hại xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt
hại; và bên bị đơn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà không cần xét đến yếu tố lỗi (cố
ý) đối với hành vi vi phạm. Hà Lan cũng áp dụng mô hình này, tuy nhiên với nguyên tắc
―doanh nghiệp được thực hiện mọi hoạt động cạnh tranh không bị cấm bởi quy định pháp
luật‖ kết hợp với nguyên tắc ưu tiên, việc sử dụng các điều khoản chung của pháp luật
dân sự để xử lý vụ việc cạnh tranh bị hạn chế hơn.
Trong khi đó, hệ thống Thông luật của Anh chỉ thừa nhận việc áp dụng tort law về
cạnh tranh không lành mạnh đối với một số dạng hành vi cụ thể như gây nhầm lẫn, mạo
nhận về nhãn hiệu (passing off) và xâm phạm bí mật kinh doanh. Do đó, để được toà án
giải quyết, các vụ việc về cạnh tranh không lành mạnh phải đáp ứng một số yêu cầu nhất
định, và các thẩm phán có thể từ chối thụ lý nếu vụ việc liên quan đến các hành vi thị
trường nằm ngoài phạm vi các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nêu trên..
Bên cạnh đó, một số nước đã lựa chọn cách tiếp cận sử dụng luật chuyên ngành (lex
specialis) để điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Một số nước như Đức, Áo,
Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thuỵ Sỹ, Luxemburg đã có một đạo luật riêng về
cạnh tranh không lành mạnh, một số nước khác như Hungary, Bulgary hay Rumani xây
dựng các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong một đạo luật về thương mại hay
cạnh tranh. Các quốc gia này đã luật hoá một số dạng hành vi cạnh tranh không lành
mạnh điển hình, dựa trên cơ sở các khuyến nghị tại Điều 10bis Công ước Paris về Bảo hộ
Sở hữu công nghiệp, và lấy đó làm cơ sở cho việc thực thi pháp luật về cạnh tranh không
lành mạnh. Tuỳ thuộc vào quan điểm điều tiết nền kinh tế thị trường của từng quốc gia tại
từng thời kỳ nhất định, danh sách các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm có thể
nhiều hay ít. Cách tiếp cận này một mặt khiến cho các quy định về cạnh tranh không lành
mạnh rõ ràng và dễ áp dụng, nhưng mặt khác khiến cho quá trình thực thi trở nên cứng
nhắc và gây khó khăn cho cơ quan thực thi trong việc điều chỉnh các hành vi cạnh tranh
mới xuất hiện, hay có sự thay đổi về điều kiện kinh tế xã hội. Ví dụ, nhiều nước tại Châu
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
198
Âu trong một thời gian dài đã coi việc một doanh nghiệp tìm kiếm và thu hút các khách
hàng đã có quan hệ hợp đồng ổn định với doanh nghiệp cạnh tranh khác là một dạng thức
cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên rõ ràng trong điều kiện nền kinh tế thị trường tự
do, quy định như vậy là không hợp lý, một mặt không đảm bảo quyền tự do lựa chọn cho
khách hàng, mặt khác không tạo động lực khuyến khích các doanh nghiệp có động lực
phát triển. Việc sửa đổi, bổ sung danh sách các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã
được luật hoá đòi hỏi phải có những nỗ lực lập pháp với thủ tục không dễ dàng, nhiều khi
không đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh chóng và linh hoạt của cơ chế thị trường.
2.3.2. Tổng quan các quy định về cạnh tranh không lành mạnh của Liên minh Châu
Âu
Trong nhiều năm gần đây, đã có những nố lực để thống nhất các quy định về cạnh
tranh không lành mạnh giữa các nước thành viên EU trong khuôn khổ chương trình hài
hoà hoá pháp luật chung (legal harmonisation) của Cộng đồng Châu Âu. Dựa trên Công
ước Paris về Bảo hộ Sở hữu Công nghiệp, các quốc gia Châu Âu đã phát triển các quy
định chung theo nhiều hình thức, cấp độ, từ các nguyên tắc cơ bản về cạnh tranh tại Hiệp
ước Rome 1957 đến những thoả thuận nhóm như Luật Nhãn hiệu chung của khối Benelux
1971 và những hướng dẫn chung từ EC đến các nước thành viên như Chỉ thị số
2005/29/EC. Mặc dù vậy, tính đến sự khác biệt còn tồn tại giữa hệ thống pháp luật của
các quốc gia thành viên, EU vẫn phải bổ sung một số nguyên tắc giải quyết xung đột pháp
luật, trong đó đặc biệt quan trọng là nguyên tắc nước xuất xứ tại Điều 28 của Hiệp ước
Châu Âu, theo đó pháp luật của quốc gia nhập khẩu được ưu tiên áp dụng để đánh giá tính
hợp pháp trong việc kinh doanh một loại hàng hoá nhất định. EC cũng đã ban hành Quy
định số 2006/2004 ngày 27/10/2004 về việc hợp tác giữa các cơ quan chịu trách nhiệm
thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của các quốc gia thành viên.
Chỉ thị hướng dẫn các hành vi thương mại không lành mạnh (sau đây gọi tắt là Chỉ
thị) được thông qua vào tháng 5/2005, Chỉ thị được thông qua nhằm củng cố niềm tin của
người tiêu dùng thuộc cộng đồng chung Châu Âu vào các giao dịch giữa các quốc gia
thành viên. Người tiêu dùng không chắc chắn rằng liệu quyền lợi của họ có được bảo vệ
một cách thỏa đáng trong các giao dịch quốc tế và vì thế sẽ không tận dụng được lợi thế
của thị trường chung Châu Âu. Sau một quá trình tham vấn chuyên sâu và mở rộng, Chỉ
thị hướng dẫn các hành vi thương mại không lành mạnh đã được thông qua, thay thế cho
một loạt các luật lệ thông thường về thương mại không lành mạnh đang tồn tại tại các
quốc gia thành viên. Sự thống nhất và minh bạch mà Chỉ thị này mang lại cho cộng đồng
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
199
chung Châu Âu sẽ góp phần đảm bảo hơn nữa cho người tiêu dùng trong các giao dịch
mua bán của họ. Mục tiêu của Chỉ thị là nhằm làm rõ các quyền của người tiêu dùng và
đơn giản hóa thương mại xuyên biên giới. Các quy tắc và nguyên tắc chung mà Chỉ thị
mang lại sẽ bảo vệ người tiêu dùng chống lại các hành vi không lành mạnh và các thương
nhân lừa đảo cho dù họ mua hàng từ một cửa hàng gần nhà hay từ một website nước
ngoài. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp có thể quảng cáo và tiếp thị tới
tất cả 450 triệu người tiêu dùng trên khắp cộng đồng Châu Âu với cùng một phương thức
như khi quảng cáo và tiếp thị tới người tiêu dùng nội địa tại quốc gia của họ. Chỉ thị mang
đến sự hài hòa và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia thành viên, hạ thấp các rào cản
trong thị trường chung.
Trước khi chỉ thị ra đời, khái niệm về ―hành vi thương mại không lành mạnh‖ là rất
khác nhau giữa các quốc gia thành viên. Từ khi Chỉ thị ra đời, các hành vi thương mại
trên khắp Châu Âu sẽ được đánh giá theo một tiêu chuẩn chung. Cấu trúc của Chỉ thị bao
gồm: Qui định chung, qui định về các hành vi gây nhầm lẫn, qui định về các hành vi
mang tính công kích và danh sách đen.
Qui định chung bao gồm các nguyên tắc cấm chung đối với hành vi thương mại
không lành mạnh. Điều khoản này sẽ thay thế các qui định phân tán tại các quốc gia thành
viên và vì thế sẽ xóa bỏ đi các rào cản tồn tại trên thị trường chung. Thêm vào đó, hai
mảng chính của hành vi thương mại không lành mạnh là các hành vi ―gây nhầm lẫn‖ và
―mang tính công kích‖ cũng được miêu tả chi tiết hơn. Trên thực tế, hầu hết các hành vi bị
coi là không lành mạnh đều thuộc qui định về hai mảng hành vi trên. Khi áp dụng các qui
định trên, các hành vi được đánh giá dựa trên tác động của hành vi đó hoặc tác động có
khả năng xảy ra của hành vi đó đối với ―người tiêu dùng trung bình‖. Cuối cùng, Danh
sách đen bao gồm danh sách các hành vi có thể, trong mọi trường hợp, bị coi là không
lành mạnh và vì thế sẽ bị cấm mà không cần phải áp dụng kiểm định về ―người tiêu dùng
trung bình‖.
Vậy như thế nào là ―người tiêu dùng trung bình‖? Tòa án công lý liên minh Châu
Âu định nghĩa, người tiêu dùng trung bình là người có đầy đủ thông tin ở mức vừa phải,
tinh ý ở mức vừa phải và thận trọng ở mức độ vừa phải, khi tính đến các yếu tố xã hội,
văn hóa và ngôn ngữ. Tại hầu hết các quốc gia thuộc liên minh Châu Âu, các tòa án quốc
gia đều đã sử dụng kiểm định người tiêu dùng trung bình. Đây không phải là một kiểm
định mang tính thống kê. Các tòa án quốc gia và các cơ quan có thẩm quyền quốc gia sẽ
phải thực thi quyền quyết định của riêng từng cơ quan, có xem xét tới án lệ của Tòa án
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
200
công lý liên minh Châu Âu, để quyết định phản ứng điển hình của một người tiêu dùng
trung bình trong một trường hợp cụ thể.
Khái niệm hành vi thương mại đề cập tới các hoạt động có mối liên hệ với xúc tiến,
kinh doanh hoặc cung cấp hàng hóa tới người tiêu dùng. Nó bao hàm bất kỳ hành động,
sai sót, qui cách ứng xử, chỉ dẫn hoặc quan hệ giao tiếp thương mại – bao gồm quảng cáo
và marketing – được tiến hành bởi thương nhân. Nếu một hành vi thương mại là không
lành mạnh, điều đó có nghĩa là theo tiêu chuẩn cụ thể, hành vi đó bị coi là không thể chấp
nhận được trong mối liên hệ với người tiêu dùng. Điều 5 Chỉ thị hướng dẫn các hành vi
thương mại lành mạnh qui định một hành vi thương mại bị coi là không lành mạnh nếu:
(a) đi ngược lại với các yêu cầu về sự cần mẫn nghề nghiệp, và
(b) ―bóp méo‖ một cách nghiêm trọng hoặc có khả năng ―bóp méo‖ nghiêm trọng
ứng xử kinh tế trong mối liên hệ với sản phẩm của người tiêu dùng trung bình, người mà
hành vi này hướng tới hoặc sản phẩm của nhóm thành viên trung bình khi một hành vi
thương mại hướng trực tiếp tới một nhóm cụ thể người tiêu dùng.
Các hành vi thương mại tác động tới phần đông người tiêu đùng, nhưng có khả năng
bóp méo một cách nghiêm trọng ứng xử kinh tế của chỉ một nhóm người tiêu dùng đặc
biệt dễ bị tổn thương đối với hành vi cụ thể hay một sản phẩm không rõ ràng bởi sự yếu
đuối về mặt thể chất hoặc tinh thần, tuổi tác hay do sự cả tin (doanh nhân thực hiện hành
vi thương mại có thể dễ dàng dự doán được một cách hợp lý sự dễ bị tổn thương của
nhóm người tiêu dùng này), sẽ bị đánh giá dựa trên quan điểm của các thành viên trung
bình của nhóm đó. Điều này không ảnh hưởng tới các hành vi quảng cáo thông thường và
hợp pháp với các thông điệp nói quá hoặc các thông điệp không được hiểu theo nghĩa
đen.
2.4. Kinh nghiệm Úc
2.4.1. Tổng quan về các quy định pháp luật cạnh tranh không lành mạnh tại Úc
Bộ Luật Cạnh tranh và tiêu dùng 2010 mà tiền thân là Đạo luật Thương Mại 1974
quy định về những hành vi phản cạnh tranh nhằm đảm bảo tính công bằng và hiệu quả
cạnh tranh ở Úc. Bộ luật cũng bao gồm những quy tắc bảo vệ người tiêu dùng được biết
đến như là Luật tiêu dùng Úc (Australia Comsummer Law, viết tắt là ACL) mà doanh
nghiệp phải tuân thủ trong giao dịch với người tiêu dùng – ACL được qui định chi tiết tại
Phụ Lục 2 thuộc Quyển 3 của Bộ Luật Cạnh tranh và tiêu dùng 2010. Nội dung tại Phụ
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
201
lục 2 – tức nội dung của ACL là thông tin phụ thêm và không phải là một phần của Bộ
Luật Cạnh tranh và tiêu dùng 2010. ACL được áp dụng dưới hiệu lực được qui định tại
Subdivision A, Division 2, Phần XI của Bộ Luật Cạnh tranh và tiêu dùng Úc 2010. ACL
gồm 5 chương: Chương 1 là chương giới thiệu, Chương 2 qui định các nguyên tắc bảo vệ
chung, Chương 3 qui định các nguyên tắc bảo vệ cụ thể, Chương 4 liệt kê các hành vi vi
phạm, Chương 5 qui định về biện pháp thực thi và các biện pháp phòng vệ khác. Tại
Chương 3 thuộc Phụ lục này, phần 3-1 qui định về các hành vi không lành mạnh, được
gọi dưới tên ―unfair practices‖, đây là phần có những qui định tương tự với các qui định
về hành vi cạnh tranh không lành mạnh được qui định trong Luật Cạnh tranh Việt Nam.
Từ khi ra đời, ACL là quy định pháp luật quốc gia duy nhất về người tiêu dùng ở
Australia. ACL được áp dụng chung thống nhất cho toàn bộ các tiểu bang, vùng lãnh thổ
và các doanh nghiệp thuộc Úc. Đối với những giao dịch xảy ra trước 31 tháng 12 năm
2010, pháp luật về người tiêu dùng của từng tiểu bang, và vùng lãnh thổ vẫn tiếp tục
được áp dụng. Nó được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp bất kể quy mô hay cơ cấu
như thế nào. Luật người tiêu dùng tại Úc được thi hành bởi Ủy ban Cạnh tranh và người
tiêu dùng (ACCC), các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng ở các bang, vùng lãnh thổ và được
thi hành bởi Ủy ban tài chính, chứng khoán và phát triển của Úc (ASIC).
Các hành vi được coi là hành vi không lành mạnh (unfair practices) được qui định
trong ACL bao gồm:
Các chỉ dẫn sai trái hoặc gây nhầm lẫn: cấm bất kỳ hành vi tạo ra chỉ dẫn sai trái
hoặc gây nhầm lẫn nào trong thương mại bằng bất kỳ hình thức nào
- Chỉ dẫn sai trái hoặc gây nhầm lần về hàng hóa hoặc dịch vụ:
- Chỉ dẫn sai trái hoặc gây nhầm lẫn về bán hàng hóa liên quan đến bất động sản
- Chỉ dẫn gây nhầm lẫn liên quan đến vấn đề việc làm:
- Khuyến mại dưới hình thức đưa ra các gói giảm giá, quà tặng, giải thưởng…:
- Chỉ dẫn gây nhầm lẫn về bản chất của hàng hóa
- Chỉ dẫn gây nhầm lẫn về bản chất của dịch vụ
- Quảng cáo dụ dỗ (Bait Advertising)
- Sai trong việc chấp nhận thanh toán
- Miêu tả gây nhầm lẫn về những hoạt động kinh doanh cụ thể
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
202
Các phƣơng thức cung cấp hàng hóa không theo yêu cầu
- Cung cấp thẻ không theo yêu cầu: cấm mọi hành vi cung cấp thẻ tín dụng hoặc thẻ
ghi nợ hoặc bất kỳ loại thẻ nào được sử dụng như thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ nếu không có
yêu cầu từ phía người được cung cấp hoặc không có lí do hợp lý.
- Quyền đòi thanh toán cho các dịch vụ hoặc hàng hóa cung cấp không theo yêu
cầu: cấm các hành vi đòi thanh toán cho các dịch vụ hoặc hàng hóa cung cấp không theo
yêu cầu trừ khi có lý do hợp lý. Người nhận được các hàng hóa/dịch vụ cung cấp không
theo yêu cầu này không có nghĩa vụ phải thanh toán cho các hàng hóa/dịch vụ này.
- Quyền đòi thanh toán cho sự thâm nhập trái phép hoặc quảng cáo trái phép: cấm
các hành vi đòi thanh toán cho các sự thâm nhập trái phép hoặc quảng cáo trái phép trừ
khi có lí do hợp lý.
Sự tham gia vào mạng lƣới hình tháp: cấm các hành vi tham gia vào mạng lưới
hình tháp. Một mạng lưới hình tháp là một mạng lưới có 2 đặc tính sau đây: thứ nhất, để
gia nhập vào mạng lưới, một vài hoặc tất cả các thành viên mới phải cung cấp cho những
thành viên khác trong mạng lưới một trong hai khoản phí sau (gọi là phí gia nhập): một
khoản lợi nhuận tài chính hoặc phi tài chính cho thành viên khác hoặc các thành viên
khác, một khoản lợi nhuận tài chính hoặc phi tài chính một phần cho thành viên khác
hoặc các thành viên khác và một phần cho những người khác; thứ hai, những người mới
tham gia bị xui khiến đóng các khoản phí gia nhập bởi triển vọng rằng họ sẽ được các lợi
ích nếu giới thiệu thêm được những người mới gia nhập thêm vào mạng lưới.
Hành vi định giá:
Hành vi định nhiều mức giá khác nhau: cấm không được cung cấp hàng hóa nếu
hàng hóa đó có nhiều hơn một mức giá quảng cáo, và mức giá hiện cung cấp không phải
là mức giá quảng cáo thấp hơn hoặc thấp nhất.
Hành vi ấn định đơn giá trong các trường hợp nhất định: cấm các hành vi tạo chỉ
dẫn có liên quan đến một số lượng hàng nhất định rằng nếu số hàng này được trả tiền sẽ
tạo thành một phần tiền bồi thường cho nguồn cung hàng hóa/dịch vụ trừ khi người bán
hàng cũng cụ thể hóa đơn giá của hàng hóa/dịch vụ bằng một cách gây chú ý và bằng một
con số duy nhất.
Các hành vi không lành mạnh khác:
Bán hàng hứa hẹn: cấm hành vi dẫn dụ khách hàng mua hàng hóa hoặc dịch vụ
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
203
bằng cách hứa hẹn rằng người đó sẽ nhận được các hình thức giảm giá, hoa hồng hoặc các
hình thức lợi ích thu hồi khác sau khi ký vào hợp đồng mua hàng nếu khách hàng cung
cấp được tên của những khách hàng triển vọng (khách hàng cũng sẽ kí hợp đồng) hoặc
mặt khác trợ giúp bán hàng hóa/dịch vụ cho các khách hàng khác.
Quấy rối và ép buộc: Cấm các hành vi sử dụng vũ lực hoặc quấy rối, ép buộc bất
hợp lý liên quan đến nguồn cung của hàng hóa/dịch vụ hoặc tiền thanh toán hàng hóa/dịch
vụ, hoạt động kinh doanh hoặc nhượng quyền phần lợi nhuận sản sinh từ bất động sản
hoặc tiền thanh toán cho phần lợi nhuận sản sinh từ bất động sản.
2.4.2. Mô hình thực thi pháp luật cạnh tranh không lành mạnh tại Úc
2.4.2.1. Ủy ban cạnh tranh và tiêu dùng của Úc (Australia Competition and
Consumer Commission, viết tắt là ACCC)
Ủy ban cạnh tranh và tiêu dùng của Úc là cơ quan độc lập về mặt pháp luật, điều đó
có nghĩa là trong khi ACCC là một tổ chức chính phủ, mọi hành động của nó vẫn độc lập
với chính phủ. ACCC được Quốc hội ban hành quyết định thành lập vào năm 1995 để
thực thi Đạo luật Thương mại năm 1974 nhằm bảo vệ quyền của người tiêu dùng và các
doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường. ACCC cũng thực hiện chức năng điều chỉnh
những thị trường nơi mà quy luật cạnh tranh tự nhiên không được vận hành một cách hiệu
quả, ví dụ như trong các thị trường năng lượng và viễn thông. Song song với việc thực thi
Đạo luật thương mại 1974, ACC cũng cung cấp thông tin và giáo dục các doanh nghiệp
và người tiêu dùng có được sự hiểu biết về các đạo luật có liên quan.
2.4.2.2. Ủy ban Chứng khoán và đầu tư của Úc (ASIC):
ASIC là một tổ chức của Úc chuyên về thị trường và điều tiết thị trường tài chính.
ASIC đóng góp cho phúc lợi kinh tế của Úc và đảm bảo uy tín trong thương mại bằng
việc đảm bảo thị trường tài chính của Úc được công khai và minh bạch, hỗ trợ các nhà
đầu tư tự tin hơn khi tham gia vào thị trường Úc và cuối cùng đảm bảo quyền lợi cho
người tiêu dùng. ASIC là cơ quan Chính phủ độc lập, được thành lập và thuộc sự điều
chỉnh của Đạo Luật về ACCC chứng khoán và đầu tư của Úc (Đạo luật ASIC) và thực
hiện hầu hết các công việc theo đạo luật Công ty.
2.5. Kinh nghiệm Đài Loan
2.5.1. Tổng quan về pháp luật cạnh tranh không lành mạnh tại Đài Loan
Luật Thương mại lành mạnh Đài Loan được dự thảo từ những năm đầu của thập
niên 80 (1980s) cùng với quá trình thực thi các chính sách phát triển của chính phủ nhằm
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
204
toàn cầu hóa và tự do hóa nền kinh tế Đài Loan, với mục đích thúc đẩy quá trình chuyển
đổi nền kinh tế Đài Loan thành nền kinh tế thị trường cạnh tranh. Luật Thương mại lành
mạnh Đài Loan ra đời với rất nhiều mục đích, không chỉ nhằm bảo đảm cạnh tranh lành
mạnh trên thị trường mà còn nhằm duy trì trật tự cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng và thúc đẩy tính ổn định và sự thịnh vượng của nền toàn bộ nền kinh tế.
Tương tự Luật cạnh tranh Việt Nam, Luật Thương mại lành mạnh Đài Loan điều
chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh, và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định từ điều 19 đến điều 24 trong Luật
Thương mại lành mạnh Đài Loan, bao gồm các dạng hành vi: hành vi làm hàng giả,
quảng cáo gây nhầm lẫn hoặc quảng cáo sai sự thật, hành vi gièm pha/nói xấu doanh
nghiệp khác, và các hành vi giả dối hoặc hành vi không lành mạnh gây ảnh hưởng tới trật
tự thương mại trên thị trường một cách rõ ràng.
Điều 19 Luật Thương mại lành mạnh Đài Loan quy định: “Doanh nghiệp không
được có một trong các hành vi sau đây có thể gây cản trở cạnh tranh hay hạn chế cạnh
tranh lành mạnh:
1. p doanh nghiệp khác không tiếp tục cung ứng, mua hay thực hiện giao dịch với
một doanh nghiệp cụ thể nhằm mục đích gây tác hại đến doanh nghiệp này.
2. Đối xử với doanh nghiệp khác một cách phân biệt mà không có lí do chính đáng;
3. p đối tác thương mại của đối thủ cạnh tranh kinh doanh với mình bằng việc ép
buộc, hối lộ, hay các phương thức bất hợp lí khác.
4. p doanh nghiệp khác tự hạn chế cạnh tranh về giá, hay ép doanh nghiệp khác
tham gia vào hành động hợp nhất hay tập trung thông qua ép buộc, hối lộ, hay các
phương thức bất hợp lí khác;
5. Dành được bí mật sản xuất và kinh doanh, thông tin liên quan đến đối tác thương
mại hay công nghệ khác liên quan đến bí mật của doanh nghiệp khác bằng việc ép buộc,
hối lộ, hay bằng bất kì phương thức bất hợp lí nào khác; hoặc
6. Hạn chế hoạt động kinh doanh của đối tác thương mại một cách bất hợp lí bằng
các phương thức yêu cầu cam kết kinh doanh.”
Song song với Luật thương mại lành mạnh, Ủy ban thương mại lành mạnh Đài Loan
còn ban hành các hướng dẫn (Guidelines) nhằm hướng dẫn chi tiết về các hành vi thương
mại không lành mạnh được quy định trong Luật. Trong hướng dẫn chi tiết cho Điều 19
Luật Thương mại lành mạnh, Ủy Ban thương mại lành mạnh Đài Loan đã đưa ra các tiêu
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
205
chí để quyết định xem có hay không các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của một
doanh nghiệp bị coi là ―có thể hạn chế cạnh tranh lành mạnh‖. Theo đó, để quyết định
xem một doanh nghiệp có thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh lành mạnh hay không,
hành vi đó phải được xem xét một cách chung hoặc tách biệt nhau, xem ―các phương
pháp cạnh tranh‖ được sử dụng bởi doanh nghiệp có lành mạnh không và xem ―kết quả
của phương pháp cạnh tranh‖ có làm suy yếu ―chức năng cạnh tranh tự do trên thị trường‖
hay không. Mỗi khoản trong Điều 19 đã được định nghĩa tương đối rõ ràng, tuy nhiên
trong các trường hợp khác chưa được quy định cụ thể, mỗi vụ việc phải được xem xét và
xác định một cách riêng lẻ, dựa theo phạm vi đạo đức xã hội và kinh doanh bị vi phạm để
xác định xem nó có phải là hành vi không lành mạnh không. Khi tính phi lành mạnh của
hành vi cạnh tranh là không rõ ràng, việc xem xét cần tập trung vào việc kết quả của hành
vi cạnh tranh làm tăng hay giảm cạnh tranh trên thị trường.
Tương tự với hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn được quy định tại Điều 40, LCT Việt
Nam, Điều 20 Luật Thương mại lành mạnh Đài Loan quy định: “Không doanh nghiệp
nào được có một trong các hành vi sau đây đối với hàng hóa hay dịch vụ mà nó cung
ứng:
1. Sử dụng giống nhau hay tương tự, tên cá nhân, tên thương mại hay tên công ty,
hay thương hiệu của doanh nghiệp khác, hay vỏ contenơ, bao bì, hay hình thức hàng hóa
của doanh nghiệp khác, hay bất kì biểu trưng nào khác mà tượng trưng cho hàng hóa của
người này, được biết đến bởi các doanh nghiệp hay người tiêu dùng liên quan, cũng như
gây nhầm lẫn với hàng hóa của người này, hoặc bán, vận chuyển, xuất khẩu, hay nhập
khẩu hàng hóa chứa đựng biểu trưng này.
2. Sử dụng giống nhau hay tương tự, tên cá nhân, tên doanh nghiệp hay tên công ty,
hay nhãn hiệu dịch vụ của doanh nghiệp khác, hay bất kì biểu tượng nào khác mà nó
tượng trưng cho hàng hóa hay dịch vụ của người này, mà nó đươc biết đến bởi doanh
nghiệp hay người tiêu dùng liên quan, cũng như gây nhầm lẫn với các phương tiện, hoạt
động kinh doanh hay dịch vụ của người này; hoặc
3. Sử dụng hàng hóa giống nhau hay tương tự mà nhãn hiệu của nó là giống nhau
hay tương tự với một thương hiệu nước ngoài nổi tiếng mà không được đăng kí trong
quốc gia này; hoặc bán, vận chuyển, xuất khẩu, hay nhập khẩu hàng hóa chứa đựng
thương hiệu này.
Điều khoản trên sẽ không áp dụng với bất kì trường hợp nào sau đây:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
206
1. Sử dụng theo cách thông thường tên chung liên quan đến hàng hóa hay biểu
trưng chung thường được sử dụng trong mua bán các loại hàng hóa giống nhau; hoặc
bán, vận chuyển, xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hóa chứa đựng tên hay biểu trưng này.
2. Sử dụng theo cách thông thường tên hay biểu trưng mà thường được sử dụng
trong mua bán loại hình dịch vụ kinh doanh tương tự;
3. Sử dụng tên riêng của một người có uy tín tốt, hoặc bán, vận chuyển, xuất khẩu
hay nhập khẩu hàng hóa chứa đựng tên này; hoặc/hay
4. Sử dụng theo cách giống nhau biểu trưng có uy tín tốt liên quan đến mục 1 hay 2
của phần trên trước khi biểu trưng này trở nên nổi tiếng đối với người tiêu dùng hay
doanh nghiệp liên quan, hoặc sử dụng biểu trưng này bởi bất kì người kế nghiệp mà được
hưởng biểu trưng này cùng với doanh nghiệp từ một người tiền nhiệm; hoặc bán, vận
chuyển, xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hóa chứa đựng biểu trưng này.
Khi một doanh nghiệp nào đó có bất kì hành vi nào trong các hành vi dược thể hiện
trong Mục ba hay bốn của đoạn trước mà có thể gây hại hay gây nhầm lẫn với doanh
nghiệp, hàng hóa, phương tiện, hay các hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp
khác, Doanh nghiệp sau có thể yêu cầu doanh nghiệp trước để sửa lại biểu trưng thích
hợp trừ phi doanh nghiệp trước chỉ vận chuyển hàng hóa này.”
Như vậy, không chỉ quy định chi tiết hơn về các loại hành vi bị coi là gây nhầm lẫn,
điều luật trên còn có quy định về các trường hợp ngoại lệ mặc dù sử dụng các chỉ dẫn
giống với một chỉ dẫn nào đó nhưng được coi là cách sử dụng thông lệ trong kinh doanh.
Điều 21 Luật Thương mại lành mạnh Đài Loan quy định: “Không doanh nghiệp nào
tạo ra hay sử dụng các biểu tượng hay biểu trưng gây nhầm lẫn hay sai lệch như là giá
cả, số lượng, chất lượng, nội dung, quá trình sản xuất, ngày sản xuất, hạn sử dụng,
phương pháp sử dụng, mục đích sử dụng, nơi xuất xứ, nhà sản xuất, nơi sản xuất, người
gia công, hay nơi gia công hàng hóa hay trong các mục quảng cáo, hay bằng bất kì cách
nào khác làm cho công chúng biết đến.
Không doanh nghiệp nào sẽ bán, vận tải, xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hóa chứa
đựng các biểu trưng gây nhầm lẫn liên quan như được đề cập ở trên.
Hai khoản trên sẽ áp dụng có sửa đổi đối với dịch vụ của doanh nghiệp
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
207
Khi bất kì cơ quan quảng cáo nào sản xuất hay thiết kế sản phẩm quảng cáo mà nó
được nhận thấy hay có thể được nhận biết là gây nhầm lẫn, nó sẽ phải chịu toàn bộ hay
từng phần đối với sản phẩm quảng cáo này về các thiệt hại gây ra. Khi bất kì phương tiện
quảng cáo truyền thông hay xuất bản quảng cáo mà nó được biết hay có thể được biết là
có thể gây ra nhầm lẫn cho công chúng, nó sẽ chịu trách nhiệm toàn bộ hay từng phần
đối với sản phẩm quảng cáo này về những thiệt hại gây ra.” Quy định tại điều này tương
tự với quy định tại khoản 2,3 Điều 45 Luật cạnh tranh Việt Nam về hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên không có quy định về quảng cáo so sánh
được nêu ra.
Tương tự với quy định về gièm pha nói xấu doanh nghiệp khác, Điều 22 Luật
Thương mại lành mạnh Đài Loan quy định như sau: “Không doanh nghiệp nào sản xuất
hay phổ biến bất kì bản thông cáo sai lệch nào mà có thể làm ảnh hưởng xấu đến uy tín
kinh doanh của doanh nghiệp khác vì mục đích cạnh tranh”.
Liên quan đến hành vi bán hàng đa cấp bất chính, quy định trong các Điều 23, 23-1,
23-2, 23-3, 23-4 quy định rất chi tiết và có nhiều điểm giống với quy định bán hàng đa
cấp của LCT Việt Nam, ví dụ như qui định về việc cấm hưởng lợi từ kinh doanh đa cấp
chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp hơn là thông qua
tiếp thị hay bán hàng hóa dịch vụ ở các mức giá hợp lý hay quy định về cam kết mua lại
với mức giá ít nhất 90% giá mua ban đầu …
Ngoài ra, Điều 24 cũng là điều khoản quét giống như quy định tại Khoản 10 Điều 39
LCT Việt Nam: “Ngoài những điều khoản được đề cập trong Luật này, không doanh
nghiệp nào được có hành vi không lành mạnh hay gian dối mà có thể ảnh hưởng đến trật
tự thương mại”.
Qui định về hành vi khuyến mại được quy định tại Hướng dẫn của Ủy Ban Thương
mại lành mạnh về các trường hợp liên quan đến khuyến mại bằng các phương thức tặng
quà và trao giải thưởng, cụ thể tập trung quy định về trị giá của quà tặng được phép sử
dụng cho mục đích khuyến mại. Bên cạnh đó, Ủy Ban cũng ban hành hướng dẫn về thực
thi chính sách về hiệp hội thương mại, theo đó hiệp hội thương mại là các tổ chức được
thành lập để thúc đẩy các quan hệ giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành thương mại,
mang lại lợi ích chung, và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Mục đích của Hướng dẫn
này là nhằm hỗ trợ các hiệp hội thương mại trong việc hiểu biết và duy trì các quy định
liên quan của Luật thương mại lành mạnh và để cung cấp các ý kiến cho Ủy Ban thương
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
208
mại lành mạnh trong việc xử lí các vụ việc liên quan. Hướng dẫn đã quy định chi tiết các
hành vi của hiệp hội thương mại có thể vi phạm Luật thương mại lành mạnh, trong đó có
thể kể đến một số hành vi không lành mạnh bị cấm như: hạn chế việc ra, nhập ngành của
các doanh nghiệp trên thị trường cụ thể, áp đặt các hạn chế về chủng loại, qui cách, hay
hình thức của hàng hóa hoặc dịch vụ, hạn chế việc mở rộng khả năng sản xuất hay quy
mô dịch vụ, ép buộc các thành viên đối xử với các thành viên khác phân biệt hoặc đối xử
không công bằng với thành viên khác trong hiệp hội…
Không chỉ có quy định chung về các hành vi quảng cáo không lành mạnh nói chung,
Ủy Ban Thương mại lành mạnh Đài Loan còn ban hành các hướng dẫn cụ thể về quảng
cáo trong ngành ngân hàng, quảng cáo trong lĩnh vực bất động sản, quảng cáo trong lĩnh
vực thiết bị điện. Các hướng dẫn này không những tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Ủy
Ban trong việc thực thi Luật thương mại lành mạnh mà còn giúp sự chồng chéo giữa các
Luật chuyên ngành khác nhau và Luật Thương mại lành mạnh.
2.5.2. Thực thi pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Đài Loan
Ủy Ban Thương mại lành mạnh (sau đây gọi tắt là Ủy ban hoặc FTC) là cơ quan nhà
nước cấp Bộ được thành lập vào ngày 27/01/1992 theo quyết định của Nội Các Đài Loan.
FTC là cơ quan nhà nước có thẩm quyền chịu trách nhiệm về thực thi Luật Thương mại
lành mạnh tại Đài Loan và phát triển chính sách cạnh tranh tại Đài Loan. Như được quy
định cụ thể tại Luật Thương mại lành mạnh, các trách nhiệm của FTC bao gồm:
(1) Chuẩn bị cho sự ra đời và phát triển chính sách thương mại lành mạnh, các luật
và các quy định về thương mại lành mạnh;
(2) Rà soát lại các vấn đề thương mại lành mạnh có liên quan đến Luật này;
(3) Thực hiện các hoạt động điều tra doanh nghiệp và các điều kiện kinh tế;
(4) Thực hiện điều tra bất kỳ vụ việc nào vi phạm Luật này; và
(5) Chịu trách nhiệm về tất cả các vấn đề khác có liên quan đến thương mại lành
mạnh.
Điều 26 Luật Thương mại lành mạnh quy định ―Ủy ban thương mại lành mạnh có
thể thực hiện điều tra và xem xét vụ việc dựa trên đơn khiếu nại hoặc do tự đề xướng
(mặc nhiên) bất kỳ hành vi nào vi phạm các điều khoản của Luật này và gây thiệt hại cho
lợi ích chung‖. Điều 28 qui định ―Ủy ban thương mại lành mạnh sẽ thực thi trách nhiệm
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
209
của mình một cách độc lập, tuân theo quy định của Luật Thương mại thương mạnh và có
thể tùy ý xử lý các vụ việc liên quan đến thương mại lành mạnh với tư cách của Ủy ban.‖
Qui trình điều tra của FTC được quy định tai điều 27 Luật thương mại lành mạnh
theo các bước như sau:
1. Thông báo cho các bên và bất kỳ bên thứ ba có liên quan nào về việc trình diện để
cung cấp thông tin (trình báo);
2. Thông báo cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hoặc các cá nhân có liên quan
đề nghị cung cấp sách vở và bản thu âm, tài liệu, và bất kỳ thông tin cần thiết nào khác,
và
3. Thực hiện khám xét tại chỗ (tại văn phòng, nơi thực hiện hoạt động kinh doanh
hoặc các địa điểm khác của các tổ chức hoặc doanh nghiệp có liên quan) trong trường hợp
cần thiết.
Điều tra viên thực hiện nhiệm vụ của mình theo quy định của Luật này sẽ phải trình
diện các tài liệu chứng minh cho nghĩa vụ và quyền hạn điều tra của mình; bên bị điều tra
có thể không hợp tác trong quá trình điều tra nếu điều tra viên không trình diện được các
tài liệu này.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
210
PHẦN 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM
3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Từ những phân tích về pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật, kinh nghiệm quốc tế
về lĩnh vực pháp luật này, chúng tôi cho rằng nhu cầu hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh
không lành mạnh đang tồn tại những luận cứ sau:
Thứ nhất, các quy định của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh đang ngày
càng khẳng định vị trí của mình trong hệ thống pháp luật điều tiết các hành vi của doanh
nghiệp trên thị trường. Các quy định của Luật cạnh tranh dù không quy định tất cả các
hành vi, song đã đặt ra nguyên tắc chung và là cơ sở thống nhất về quan niệm pháp lý liên
quan đến xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Từ những nguyên tắc này, các quy
định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau đã được định hình thành một chế
định pháp luật chung quy định hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trên cơ sở đó, hệ
thống pháp lý có thể xem xét, đối chiếu để tìm ra những điểm bất cập, chồng chéo trong
toàn bộ hệ thống các quy định đang rải rác ở nhiều pháp luật cụ thể khác nhau.
Thực tiễn xử lý các vụ việc về cạnh tranh không lành mạnh đã cho những loại hành
vi cạnh tranh không lành mạnh khác nhau thì đa dạng và phong phú về biểu hiện và về
mức độ xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp khác và người tiêu dùng.
Thực trạng giải quyết các khiếu nại của doanh nghiệp và xử lý các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh dựa trên các quy định của Luật cạnh tranh và các văn bản pháp luật
khác đã cho thấy doanh nghiệp đã bắt đầu khai thác giá trị của pháp luật cạnh tranh bên
cạnh việc sử dụng các thiết chế tư pháp để bảo vệ quyền lợi của mình. Pháp luật về cạnh
tranh không lành mạnh đang có vai trò quan trọng trong khung pháp lý bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của doanh nghiệp, người tiêu dùng và đảm bảo sự lành mạnh của thị trường.
Thứ hai, thực trạng thực thi pháp luật đang đặt ra nhiều vấn đề lớn liên quan đến
tính thống nhất của pháp luật và cơ chế thực thi. Hiện nay, với tình trạng cùng một hành
vi được quy định trong nhiều văn bản pháp luật được ban hành ở các thời điểm khác nhau
và được thực thi bởi các cơ quan quản lý nhà nước khác nhau nên tất yếu tồn tại những
khác biệt về cách mô tả cấu thành pháp lý của hành vi, khác biệt về biện pháp và mức độ
xử lý, thủ tục xử lý người có hành vi vi phạm. Thực trạng này ảnh hưởng lớn đến tính
thống nhất của pháp luật và sự nghiêm minh của quá trình thực thi pháp luật. Ngoài ra,
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
211
với sự khác biệt về cơ chế xử lý cũng có thể dẫn đến những khác biệt về quan niệm giải
quyết một vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Mặc dù đều là hành
vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực quản lý kinh tế của Nhà nước, song việc thực thi
các quy định cụ thể trong từng lĩnh vực hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ tích cực của các
cơ quan, các cán bộ có thẩm quyền. Với các cơ quan chuyên ngành, chức năng điều tra vụ
việc không phải là nhiệm vụ chính nên việc xử lý gần như chỉ bắt đầu từ khiếu nại của các
doanh nghiệp hoặc sự lên tiếng của công luận. Các cơ quan chuyên ngành dường như
chưa có sự chủ động phát hiện và điều tra để xử lý các hành vi vi phạm. Trong khi đó,
Luật cạnh tranh trao cho cơ quan quản lý cạnh tranh thẩm quyền điều tra vụ việc ngay cả
khi không có khiếu nại. Với thẩm quyền điều tra và với lực lượng điều tra viên, cơ quan
quản lý cạnh tranh đã chủ động tiến hành các vụ việc điều tra về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh một cách chủ động không phụ thuộc vào sự khiếu nại của những người liên
quan. Những khác biệt đáng kể này đã ảnh hưởng lớn đến sự thống nhất của quá trình
thực thi pháp luật và có thể tạo ra sự bất bình đẳng trong việc xử lý các doanh nghiệp có
hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm đến các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Do
đó, vấn đề hình thành cơ chế thống nhất và đặt ra nguyên tắc thống nhất trong việc xử lý
hành vi cạnh tranh không lành mạnh là cần thiết.
Thứ ba, sự tham gia của nhiều cơ quan quản lý nhà nước vào việc xử lý hành vi
cạnh tranh không lành mạnh một mặt tạo ra sự cần thiết trong việc liên kết và hợp tác
giữa các cơ quan trong nhà nước để đảm bảo giải quyết triệt để các hành vi xâm hại đến
môi trường cạnh tranh lành mạnh; đảm bảo cho các doanh nghiệp, người tiêu dùng có
nhiều cơ hội để nương nhờ vào sức mạnh công quyền để bảo vệ lợi ích của mình. Song
mặt khác tình trạng này cũng có thể gây ra những hệ lụy không mong muốn theo các
hướng sau (1) sự chồng chéo về thẩm quyền xử lý cùng một hành vi cạnh tranh không
lành mạnh. Tình trạng này đã được phân tích trong Phần 1 bằng các ví dụ cụ thể liên quan
đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo. (2) Khả năng đùn đẩy
trách nhiệm giữa các cơ quan thực thi pháp luật khi một hành vi vi phạm được quy định
trong nhiều văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực quản lý kinh tế khác nhau. Đặc biệt là
những hành vi đồng thời được quy định trong Luật cạnh tranh và các văn bản pháp luật
khác. Các vụ việc cạnh tranh vốn dĩ rất dễ chạm đến những nhóm quyền lợi khác nhau
hoặc gây ra những xung đột trong việc bảo vệ và chống lại các nhóm lợi ích của nhiều bộ
phận chủ thể tham gia thị trường. Ngoài những khả năng chạm vào các nhóm lợi ích nhạy
cảm về kinh tế, việc xử lý vụ việc cạnh tranh còn có thể tạo ra những tranh cãi lớn trên
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
212
bình diện xã hội. Tất cả những trường hợp trên đều có thể gây ra áp lực cho cơ quan thực
thi pháp luật. Để thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, cơ quan thực thi không chỉ
cần có đội ngũ điều tra viên am hiểu pháp luật, tinh tường về kỹ thuật điều tra và xử lý
thông tin mà còn cần có bản lĩnh, vị trí chính trị đủ mạnh. Sự yếu thế về chuyên môn hoặc
khả năng chịu sức ép chưa phù hợp đều có thể làm giảm khả năng ứng phó và quyết tâm
xử lý vụ việc triệt để. Từ đó, việc đùn đẩy lẫn nhau giữa các cơ quan có thể xảy ra nhằm
lẩn tránh các sức ép xã hội, kinh tế kể trên. Do đó, dưới góc độ pháp luật, việc đặt ra cơ
chế xử lý xung đột về thẩm quyền, giải quyết tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ
quan nhà nước trong các vụ việc là cần thiết.
Thứ tư, các quy định hiện hành trong Luật cạnh tranh về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh còn nhiều điểm hạn chế về cách sử dụng từ ngữ pháp lý trong việc định hình
cấu thành pháp lý của hành vi; cần nghiên cứu lại tính phù hợp của một số hành vi bị kết
luận là cạnh tranh không lành mạnh và cần xem xét về tính bất chính của một số hành vi
cụ thể trong các nhóm cạnh tranh không lành mạnh. Như đã phân tích trong Phần 1, có
những quy định về một số loại hành vi chưa từng được áp dụng trên thực tế không phải do
không xuất hiện hành vi trên thực tế mà vì cách thức mô tả hành vi có thể giúp cho doanh
nghiệp tránh được sự vi phạm pháp luật mà vẫn đạt được mục tiêu cạnh tranh không lành
mạnh như hành vi khuyến mại bằng cách tặng hàng hóa dùng thử nhưng yêu cầu khách
hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất…; các quy định về hành vi
bán hàng đa cấp bất chính chỉ đơn giản là sự xâm phạm quyền lợi của người tham gia
thông qua các điều khoản trong hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp; hành vi phân biệt đối
xử trong khuyến mại cần được xem xét về tính bất chính trong cạnh tranh. Những hạn chế
trong các quy định hiện hành không chỉ giảm khả năng điều chỉnh của pháp luật mà còn
có thể cản trở sự sáng tạo lành mạnh trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2. Định hướng cơ bản cho công tác hoàn thiện pháp luật cạnh tranh không lành
mạnh
Việc hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh là nhu cầu tất yếu của quá
trình phát triển thị trường và của quá trình thực thi pháp luật. Với đối tượng điều chỉnh là
các quan hệ cạnh tranh trên thị trường, vốn dĩ là những quan hệ có sự vận động, sáng tạo
không ngừng), Luật cạnh tranh là lĩnh vực pháp luật có khả năng lạc hậu nhanh so với
thực tiễn khách quan. Đi sau thực tiễn vốn là đặc tính của pháp luật điều chỉnh hoạt động
kinh doanh và đặc tính này lại càng phát huy trong khu vực pháp lý điều chỉnh các hành
vi cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì vậy, nhu cầu hoàn thiện, bổ sung không ngừng các
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
213
quy định của pháp luật cạnh tranh luôn đặt ra đối với các quốc gia đã thừa nhận pháp luật
cạnh tranh là bộ phận không thể thiếu trong khung pháp luật kinh doanh. Nhu cầu này
không phản ánh năng lực xây dựng pháp luật mà đơn giản chỉ là đòi hỏi tất yếu của quá
trình phát triển thị trường. Ngay cả khi các quy định của pháp luật cạnh tranh chưa từng
được áp dụng thì vấn để sửa đổi hay hoàn thiện, bổ sung pháp luật hoàn toàn có thể đặt ra.
Trong điều kiện hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh cần
được thực hiện dựa trên những nguyên tắc sau:
Nguyên tắc thứ nhất, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh vẫn cần duy
trì trong trạng thái mở và liên kết với các lĩnh vực pháp luật quản lý các lĩnh vực kinh tế
chuyên ngành sâu. Nguyên tắc này được hình thành từ thực tiễn sinh động của thị trường
và từ kinh nghiệm lập pháp của các nước.
(1) Thực tiễn sinh động của thị trường đã và đang xác nhận cho chúng ta rằng
hành vi cạnh tranh không lành mạnh luôn phát triển và xuất hiện những trạng thái mới.
Cùng một hành vi và cùng mục đích cạnh tranh không lành mạnh, các doanh nghiệp có
thể sáng tạo nên vô số biểu hiện khác nhau làm cho sự mô tả chặt chẽ cấu thành pháp lý
của các điều luật nhanh chóng lạc hậu. Mặt khác, đặc thù của từng lĩnh vực kinh doanh có
ảnh hưởng đáng kể đến biểu hiện về hình thức và tính chất của hành vi cạnh tranh không
lành mạnh. Các lĩnh vực kinh tế khác nhau có thể có những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh khác nhau. Ví dụ trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ có những hành vi đặc trưng như chỉ
dẫn gây nhầm lẫn, cạnh tranh không lành mạnh trong sở hữu tên miền…; lĩnh vực quảng
cáo có những hành vi đặc thù như quảng cáo so sánh, quảng cáo gian dối…. Đặc thù của
từng lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi phương thức nhận dạng hành vi khác nhau và cách thức
đánh giá mức độ gây hại, mức độ bất chính của các hành vi không thể giống nhau.
(2) Những phân tích trong Phần 2 đã cho thấy pháp luật về cạnh tranh không
lành mạnh của các quốc gia khác cũng theo xu hướng kết hợp giữa những quy định của
Luật cạnh tranh và các lĩnh vực pháp luật điều chỉnh từng lĩnh vực kinh doanh, từng nhóm
hoạt động thương mại. Mặc dù có sự khác nhau về cách thức xử lý hành vi cạnh tranh
không lành mạnh (có quốc gia sử dụng các chế tài dân sự để giải quyết xung đột giữa các
chủ thể có liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh; có quốc gia sử dụng chế tài
phạt hành chính đối với doanh nghiệp thực hiện hành vi), song về hình thức, gần như hầu
hết các quốc gia có pháp luật cạnh tranh đều không coi Luật cạnh tranh là nguồn duy nhất
của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chế định pháp luật này được hình
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
214
thành từ luật cạnh tranh cũng như nhiều văn bản pháp luật khác nhau thuộc nhiều lĩnh vực
quản lý kinh tế.
Khi thừa nhận nguyên tắc này, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh có
ngoại diên rất rộng bao gồm các quy định trong Luật cạnh tranh và các quy định của các
văn bản pháp luật khác và phương thức xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh là khác
nhau phụ thuộc và lĩnh vực quản lý kinh tế. Có như vậy, điều kiện pháp luật này đảm bảo
được những yêu cầu cơ bản sau (1) khả năng co dãn cao để tương hợp với sự vận động
không ngừng của thị trường. Một khi sự sáng tạo không ngừng của doanh nghiệp trong
các chiến lược cạnh tranh (bao gồm cả thủ đoạn bất chính), thì pháp luật phải vừa bảo vệ
quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh song cũng cần có cơ chế phù hợp để khắc chế
những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Để khắc chế hành vi đa dạng về hình thức và
biến hóa về chiến thuật, pháp luật cần có cơ chế linh hoạt cho phù hợp. Một trong những
cách thức để bảo đảm sự linh hoạt và thích ứng với thực thế là xây dựng một chế định có
độ co dãn cao bằng cơ chế liên kết điều chỉnh giữa nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau.
(2) Đảm bảo tính đặc thù trong các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành sâu. Mặc dù có
chung tính chất là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các hành vi thuộc những lĩnh vực
kinh doanh khác nhau sẽ có tính chất và biểu hiện khác nhau. Tính chất và biểu hiện của
hành vi được thể hiện rõ qua đối tượng mà hành vi khai thác để thực hiện hành vi hoặc
phương thức thực hiện hành vi…. Việc đánh giá tính chất và mức độ không lành mạnh
của một hành vi hoặc một chiến lược cạnh tranh cần phải được xem xét từ các nguyên tắc
cơ bản của từng lĩnh vực cụ thể. Chúng ta không thể xây dựng và ban hành một hoặc một
bộ chuẩn mực chung về đạo đức kinh doanh của tất cả các lĩnh vực của thị trường. Mỗi
lĩnh vực kinh doanh sẽ có những chuẩn mực riêng và có những nguyên tắc quản lý Nhà
nước riêng biệt tùy theo đối tượng của hoạt động kinh doanh và các yêu cầu kỹ thuật
chuyên ngành…. Do đó, để đảm bảo nhận dạng hành vi một cách đúng đắn và đầy đủ
nhất (đầy đủ ở mức độ có thể ở thời điểm xây dựng các quy định của pháp luật), pháp luật
về cạnh tranh không lành mạnh cần được xây dựng theo hướng Luật cạnh tranh đặt ra các
nguyên tắc cơ bản trong việc xử lý hành vi, việc nhận dạng cụ thể giao cho các văn bản
pháp luật về quản lý các lĩnh vực kinh tế cụ thể.
Nguyên tắc thứ hai, cần tôn trọng triệt để nguyên tắc ưu tiên áp dụng pháp luật
chuyên ngành khi có sự khác biệt trong các quy định giữa Luật cạnh tranh (luật chung) và
các văn bản pháp luật khác quy định về quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế cụ
thể (luật chuyên ngành). Một khi chấp nhận pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
215
mạnh có nguồn rất rộng bao gồm các quy định trong Luật cạnh tranh và các quy định
trong các văn bản pháp luật về quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực, các hoạt động kinh
doanh cụ thể tất yếu sẽ phát sinh đòi hỏi phải xây dựng cơ chế phối hợp trong việc nhận
dạng và xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh giữa các văn bản pháp luật có liên
quan. Có như vậy, tính thống nhất và hiệu quả điều chỉnh của pháp luật được đảm bảo
trên thực tế. Theo đó, khi thiết lập cơ chế phối hợp điều chỉnh, nguyên tắc này được thể
hiện ở những khía cạnh sau:
Một là, các văn bản pháp luật chuyên ngành nên quy định các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong phạm vi điều chỉnh trên cơ sở các nguyên tắc được Luật cạnh
tranh ghi nhận. Cần đảm bảo tính thống nhất giữa các quy định về hành vi trong Luật
cạnh tranh và các văn bản pháp luật chuyên ngành. Theo đó, (1) với những hành vi đã
được quy định trong Luật cạnh tranh, pháp luật chuyên ngành chỉ nên lặp lại cấu thành
pháp lý đã được mô tả trong Luật cạnh tranh. (2) Luật chuyên ngành có thể mở rộng phạm
vi của pháp luật cạnh tranh không lành mạnh bằng cách quy định thêm những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực kinh doanh thuộc phạm vi điều chỉnh mà chưa
được quy định trong Luật cạnh tranh. Trong những trường hợp này, pháp luật chuyên
ngành có vai trò bổ trợ cho Luật cạnh tranh trong việc nhận dạng chi tiết các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. (3) Pháp luật chuyên ngành có thể thiết kế các biện pháp và mức
độ xử lý đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc phạm vi điều chỉnh. Tùy
thuộc vào mức độ bất chính, khả năng gây hại cũng như đối tượng bị xâm phạm mà pháp
luật chuyên ngành sẽ thiết kế các biện pháp xử lý cho phù hợp để vừa chấm dứt hành vi
cạnh tranh không lành mạnh và vẫn có thể khôi phục sự cạnh tranh lành mạnh trên thị
trường. Có như vậy, biện pháp xử lý sẽ được áp dụng phù hợp với thực tiễn của vụ việc,
phù hợp với đặc trưng của thị trường.
Hai là, cần phải thống nhất quy trình và nguyên tắc xử lý đối với các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh cho dù chúng thuộc các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Mặc dù các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể được quy định trong nhiều lĩnh vực pháp luật
khác nhau, song một khi đã khẳng định chúng là cạnh tranh không lành mạnh thì cần thiết
phải áp dụng chung một quy trình xử lý và các nguyên tắc xử lý. Chúng ta không thể xé lẻ
việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau.
Mặc dù mỗi lĩnh vực quản lý kinh tế có phương tiện và công cụ khác nhau song việc xử lý
hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì quy trình xử lý không đơn giản là một bộ phận
quản lý chuyên ngành mà là một yếu tố cấu thành cơ bản của việc quản trị cạnh tranh trên
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
216
thị trường. Trước tiên, chúng ta cần xác định rõ bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là gì để quyết định sử dụng công cụ pháp lý tương ứng xử lý doanh
nghiệp thực hiện hành vi. Trên cơ sở đó, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải
được xử lý theo cùng một nguyên tắc pháp lý và quy trình xử lý thống nhất.
Ba là, trong trường hợp có sự khác biệt giữa Luật cạnh tranh và các văn bản pháp
luật chuyên ngành về các quy định nhận dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh, quy
định về xử lý doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm, pháp luật được ưu tiên áp dụng là
pháp luật chuyên ngành. Nếu tuân thủ triệt để hai nội dung trên, pháp luật về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh sẽ thống nhất về cơ bản trong quy trình xử lý và các quy định về
nhận dạng hành vi. Tuy nhiên, vẫn có thể tồn tại những khác biệt trong các quy định về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh và việc xử lý hành vi do sự phát triển của pháp luật
và do những thay đổi trong nhận thức pháp lý về hành vi cho phù hợp với thực tiễn sinh
động của thị trường. Sự tồn tại những khác biệt, những xung đột giữa các văn bản pháp
luật khác nhau quy định về cùng một hành vi cạnh tranh không lành mạnh là tất yếu nên
nhu cầu phải có nguyên tắc xác định hiệu lực ưu tiên giữa các văn bản pháp luật là đòi hỏi
khách quan. Mức độ trừu tượng của các quy định phụ thuộc vào sự phù hợp của các quy
định cụ thể với thực tiễn khách quan của một lĩnh vực kinh doanh cụ thể. Do đó, một khi
đã xác định Luật cạnh tranh đặt ra những nguyên tắc cơ bản cho việc xử lý hành vi và
nhận diện những dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình, tiêu biểu cho một
số lĩnh vực kinh doanh cụ thể thì tính trừu tượng trong các quy định của đạo luật này
đương nhiên sẽ cao hơn so với các quy định trong những văn bản pháp luật điều chỉnh
những hoạt động cạnh tranh theo từng lĩnh vực cụ thể. Vì lý do này, tính ưu tiên áp dụng
phải dành cho các pháp luật chuyên ngành.
Nói tóm lại, với nguyên tắc này, quá trình xây dựng pháp luật luôn đòi hỏi cơ quan
lập pháp phải đặt ra những nguyên tắc tiếp cận việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành
mạnh được thống nhất về quy trình và nguyên tắc xử lý để tránh sự phân tán thẩm quyền
và thủ tục xử lý khác nhau theo nhóm hành vi. Các văn bản pháp luật chuyên ngành chỉ
nên nhận dạng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh phát sinh trong lĩnh vực mà
chúng điều chỉnh. Nguyên tắc ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên ngành chỉ được áp dụng
khi có sự khác biệt trong cấu thành pháp lý hoặc trong cách thức xử lý cùng một hành vi
giữa văn bản pháp luật chuyên ngành và Luật cạnh tranh (với tư cách là luật chung điều
chỉnh hoạt động quản lý nhà nước về cạnh tranh).
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
217
3.3. Các kiến nghị cụ thể
3.3.1. Kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung các quy định về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh được quy định trong Luật cạnh tranh
Với những nghiên cứu trong Phần 1, chúng tôi cho rằng Luật cạnh tranh đã tiếp cận
đúng hướng là chỉ quy định những hành vi cạnh tranh không lành mạnh phổ biến, tiêu
biểu trong một số lĩnh vực nhất định và liên kết điều chỉnh với các lĩnh vực pháp luật
khác để đảm bảo xử lý ở mức tốt nhất, hiệu quả nhất đối với diễn biến về cạnh tranh
không lành mạnh trên thị trường. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề sau đây cần giải
quyết:
Thứ nhất, Với những kết quả nghiên cứu trong Phần 1, chúng tôi cho rằng cần xem
lại các quy định về hành vi bán hàng đa cấp bất chính vì những lý do sau:
Nếu phân tích từ góc độ của các quan hệ phát sinh hành vi bán hàng đa cấp bất
chính, chúng ta có thể thấy rằng các hành vi được liệt kê tại điều 48 Luật cạnh tranh chủ
yếu xảy ra trong quan hệ giữa doanh nghiệp bán hàng đa cấp với người tham gia mạng
lưới bán hàng. Các hành vi này khi được thực hiện đã tạo ra những hợp đồng bất cân
xứng về quyền và nghĩa vụ hoặc bị khiếm khuyết về sự trung thực, công bằng giữa các
bên tham gia. Trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện hành vi nhằm trục lợi từ việc đặt
ra các điều kiện giao dịch bất lợi cho người tham gia bán hàng thì mục đích bất chính chỉ
giới hạn trong quan hệ giữa doanh nghiệp tổ chức bán hàng và người tham gia. Yếu tố
cạnh tranh không thể hiện rõ trong từng hành vi đã được quy định trong điều 48 Luật cạnh
tranh. Chúng tôi cho rằng, việc định danh hành vi có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả điều
chỉnh của pháp luật. Để có thể xử lý hiệu quả một hành vi hoặc một quan hệ cụ thể xảy ra
trên thị trường hoặc trong đời sống xã hội, nhà nước cần xác định rõ tính pháp lý hành vi
để áp dụng các công cụ, các biện pháp xử lý phù hợp. Với Luật cạnh tranh, bán hàn đa
cấp phải mang bản chất cạnh tranh. Các hành vi có thể ngăn cản đền sự công bằng trên thị
trường nhưng không mang bản chất cạnh tranh thì không thể sử dụng các công cụ của
Luật cạnh tranh để xử lý. Có làm như vậy, chúng ta sẽ thuyết phục được công chúng.
Người vi phạm xác định rõ được giới hạn vi phạm và nhà nước sẽ sử dụng các biện pháp
phù hợp theo tính chất của hành vi. Với quan điểm khoa học này, chúng ta không thể quy
kết các hành vi được quy định tại điều 48 Luật cạnh tranh là hành vi cạnh tranh không
lành mạnh. Những hành vi này nếu có bị xử lý thì sẽ bị xếp vào nhóm hành vi bán hàng
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
218
đa cấp vi phạm pháp luật về quản lý bán hàng đa cấp với bản chất là tạo nên các giao dịch
bất cân xứng và trục lợi từ quan hệ bất cân xứng với người tham gia bán hàng đa cấp.
Thứ ba, cần sửa đồi và làm rõ thêm một số quy định cụ thể trong các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh được quy định tại chương III Luật cạnh tranh năm 2004:
(1) Với hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn, với cách mô tả hiện nay, chúng ta sẽ hiểu
giới hạn của quy định này chỉ là doanh nghiệp đã sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn với chỉ
dẫn của doanh nghiệp khác (gây nhầm lẫn về hình thức). Tuy nhiên, từ khái niệm chỉ dẫn
thương mại được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ Chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu,
thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hóa, dịch vụ, gồm nhãn hiệu hàng hóa, tên
thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao
bì của hàng hóa, nhãn hàng hóa... thì chỉ dẫn thương mại luôn có hai ý nghĩa là chỉ dẫn
về nội dung và chỉ dẫn về hình thức của sản phẩm. Với ý nghĩa chỉ dẫn về nội dung, các
yếu tố như nhãn hiệu, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh… có
thể sẽ cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin cơ bản như công dụng, thành phần…
để nhận biết về sản phẩm. Với ý nghĩa chỉ dẫn về hình thức, các yếu tố cấu thành chỉ dẫn
thương mại là cơ sở về hình thức để người tiêu dùng phân biệt sản phẩm cụ thể nào đó với
các sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác. Do đó, chỉ dẫn gây nhầm lẫn không thể
hiểu hạn hẹp trong phạm vi hành vi tạo ra sự nhầm lẫn giữa các sản phẩm mà còn bao
gồm việc sử dụng các chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về nội dung của sản phẩm. Trên
thực tế, đã có những loại chỉ dẫn gây nhầm lẫn cho khách hàng như chỉ dẫn về sữa tươi.
Các doanh nghiệp sản xuất sữa tươi đã sử dụng cụm từ trên bao bì sản phẩm sữa tươi tiệt
trùng, sữa tươi nguyên nhất, sữa tươi nguyên kem…. Tuy nhiên, thực tế sản xuất lại cho
thấy sản phẩm sữa tươi do các doanh nghiệp sản xuất lại là sữa hoàn nguyên (tức là sữa
sản xuất từ bột sữa gầy sau khi đã phe chế thêm chật béo mà không hoàn toàn từ sữa tươi
nguyên chất). Do đó, chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc doanh nghiệp làm vô hiệu hóa ý nghĩa
của chỉ dẫn thương mại bao gồm làm sai lệch nhận thức của khách hàng về sản phẩm và
làm mất khả năng phân biệt sản phẩm trong số các sản phẩm cùng loại.
(2) Cần lãm rõ cấu thành pháp lý của hành vi bắt chước một sản phẩm quảng
cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng. Trong trường hợp này, có hai vấn đề cần được
làm rõ khi xây dựng các quy định của pháp luật là (i) xác định rõ tính không lành mạnh
của hành vi; (ii) xây dựng cấu thành pháp lý của hành vi. Nếu dựa vào quy định hiện tại
theo Khoản 2 điều 45 Luật cạnh tranh, tính không lành mạnh của hành vi chủ yếu được
xác định từ mục đích gây nhầm lẫn cho khách hàng. Tuy nhiên, câu chữ của Luật cạnh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
219
tranh không làm rõ được đối tượng bị nhầm lẫn là nhầm lẫn giữa các sản phẩm quảng cáo
có liên quan hay là nhầm lẫn giữa các sản phẩm được quảng cáo có trong các sản phẩm
quảng cáo liên quan. Một khi chưa làm rõ được điều này thì chắc chắn quy định của pháp
luật còn mơ hồ, không rõ ràng và không thể áp dụng được trên thực tế. Ngoài ra, Khoản 2
Điều 45 cũng chưa làm rõ nội dung nhầm lẫn của hành vi. Điều luật chỉ quy định một
cách đơn giản là bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách
hàng. Tuy nhiên, đối với hành vi này, chúng tôi cho rằng tính không lành mạnh của hành
vi nên xác định từ việc bắt chước sản phẩm quảng cáo khác, cho nên, vụ việc mà hành vi
có mục đích gây nhầm lẫn cho khách hàng và vụ việc có ảnh hưởng gây nhầm lẫn, thì
chúng ta không nên đặt nặng mục đích gây nhầm lẫn và coi chúng như một yếu tố không
thể thiếu trong cấu thành pháp lý của hành vi vi phạm. Mặt khác, nếu hành vi không thật
sư ảnh hưởng gây nhầm lẫn cho khách hàng, thì sẽ quá nghiêm khắc nếu coi đó là vi
phạm. Với cách tiếp cận này, vấn đề cần giải quyết trong quy định trên là cấm vụ việc bắt
chước sản phẩm quảng cáo gây nhầm lẫn cho khách hàng mà không cần phải chứng minh
mục đích gây nhầm lẫn của hành vi.
(3) Cần đánh giá lại về tính không lành mạnh của hành vi phân biệt đối xử đối
với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trrong cùng
một chương trình khuyến mại. Với quy định hiện nay tại Khoản 3 Điều 46 Luật cạnh
tranh, hành vi phân biệt đối xử trong khuyến mại có thể hiểu là việc doanh nghiệp tổ chức
khuyến mại trên nhiều địa bàn khác nhau, khách hàng đã có những giao dịch như nhau
nhưng doanh nghiệp áp dụng các mức, các loại, các hình thức khuyến mại khác nhau cho
khách hàng thuộc những địa bàn khác nhau. Trong hành vi này, chúng ta cần lưu ý những
nội dung sau:
- Doanh nghiệp không có sự phân biệt đối xử với khách hàng trong giao dịch mua
bán hàng hóa dịch vụ mà họ đang kinh doanh. Việc phân biệt đối xử chỉ giới hạn trong lợi
ích khuyến mại mà doanh nghiệp dành cho khách hàng. Giao dịch mua bán hàng hóa,
dịch vụ được diễn ra bình đẳng và công bằng giữa các khách hàng.
- Lợi ích khuyến mại là phần vật chất mà doanh nghiệp chấp nhận mất đi để thực
hiện kế hoạch xúc tiến thương mại (là phần cộng thêm cho khách hàng). Về cơ bản, việc
phân biệt đối xử trong khuyến mại không phải là hành vi trục lợi hoặc đối xử bất công
cho khách hàng trong các giao dịch mua bán chính thức mà đơn giản chỉ là áp dụng các
chính sách khuyến mại khác nhau cho khách hàng có thể nhằm đảm bảo hiệu quả của
chiến lược khuyến mại theo các khu vực khác nhau. Sự công bằng giữa doanh nghiệp và
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
220
khách hàng về cơ bản phải xét trong giao dịch mua bán sản phẩm mà doanh nghiệp kinh
doanh. Phần lợi ích tăng thêm do hoạt động khuyến mại cho dù có áp dụng khác nhau
giữa các khách hàng vẫn không phá vỡ quan hệ công bằng trong mua bán nếu chúng
không phải là công cụ để doanh nghiệp xâm hại đến quyền lợi của khách hàng.
- Về mặt kinh tế, một chiến lược khuyến mại hiệu quả là chiến lược áp dụng lợi ích
khuyến mại ở mức thấp nhất có thể mà vẫn kích thích được nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Với những địa bàn có nhu cầu tiêu dùng khác nhau và mức sống khác nhau thì việc áp
dụng các mức khuyến mại khác nhau đôi khi lại là giải pháp tối ưu để phát huy ở mức tối
đa giá trị khuyến mại. Từ kết quả đánh giá mức độ tiêu dùng và khả năng tiêu dùng,
doanh nghiệp có thể xây dựng những chiến lược khuyến mại để vừa tiết kiệm giá trị
khuyến mại (giảm thiểu phần mất đi cho doanh nghiệp), tăng thêm lợi ích cho người tiêu
dùng một cách phù hợp mà vẫn xúc tiến thương mại. Do đó, nhìn dưới góc độ kinh tế,
việc áp dụng các mức độ khuyến mại khác nhau theo địa bàn có khi là chiến lược kinh
doanh hiệu quả và tích cực.
- Dưới góc độ pháp lý, tổng giá trị khuyến mại là phần vật chất thuộc sở hữu của
doanh nghiệp mà họ chấp nhận dành thêm cho khách hàng để xúc tiến thương mại (không
phải là phần vật chất mua bán trong giao dịch với khách hàng). Với quyền sở hữu, doanh
nghiệp được toàn quyền định đoạt về việc phân phối và mức độ phân phối cho khách
hàng nên không thể quy kết là bất chính.
- Về cấu thành pháp lý, quy định tại Khoản 3 điều 46 Luật cạnh tranh đã tạo nên cấu
thành phức tạp và rất khó áp dụng trong thực tiễn. Với cách quy định hiện nay, doanh
nghiệp rất dễ lách luật để thực hiện những hành vi có mục đích tương tự mà vẫn không
thể quy kết là vi phạm luật cạnh tranh. Theo đó, doanh nghiệp chỉ cần phân chia chương
trình khuyến mại thành hai chương trình nhỏ tổ chức ở hai địa bàn khác nhau với cùng
một thời gian, cùng một điều kiện áp dụng cho khách hàng… nhưng doanh nghiệp tiến
hành hai thủ tục đăng ký khuyến mại khác nhau thì sẽ không vi phạm Luật cạnh tranh vì
không thỏa mãn điều kiện vi phạm là trong cùng một chương trình khuyến mại.
Với những phân tích trên, chúng tôi cho rằng hành vi áp dụng các lợi ích khuyến
mại khác nhau cho các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác
nhau trong cùng một chương trình khuyến mại không mang bản chất của một hành vi
cạnh tranh không lành mạnh nên cần đưa quy định này về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh ra khỏi Luật cạnh tranh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
221
(4) Về hành vi tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách
hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử
dụng để dùng hàng hóa của mình. Chúng tôi cho rằng cách thức quy định này đã chưa bao
trùm hết những dạng vi phạm thuộc nhóm này và dễ bị lạc hậu so với thực tiễn sinh động
của thị trường. Về bản chất, hành vi này mang bản chất không lành mạnh bởi hoạt động
khuyến mại chỉ thực hiện dành cho những người đang sử dụng hàng hóa của doanh
nghiệp khác, nên nó cản trở thương mại giữa người dân và doanh nghiệp khác. Mặt
khách, với cách định dạng theo Khoản 4 Điều 46 Luật cạnh tranh, chỉ khi nào doanh
nghiệp đặt ra điều kiện để hưởng khuyến mại là yêu cầu khách hàng dùng hàng hóa của
mình đổi hàng hóa cùng loại… thì mới là sự vi phạm đã làm cho quy định này trở nên hẹp
hơn so với tính chất không lành mạnh của hành vi. Nói cách khác, dựa và điều khoản hiện
nay, trong vụ việc mà yêu cầu của người thực hiện hành vi không rõ hoặc không tồn tại sẽ
không có vi phạm. Mặt khác, xử lý vụ việc mà mà hành vi không có ảnh hưởng thực sự
làm khách hàng đổi hàng hóa thì quá nặng. Cho nên, thay bằng việc yêu cầu khách hàng
dùng hàng hóa của mình đổi… trong điều khoản hiện nay, chúng tôi đề xuất sửa đổi điều
khoản này bằng cách thêm vào ngăn cản thương mại giữa khách hàng và các doanh
nghiệp khác sản xuất cùng loại hàng hóa đang được khách hàng sử dụng.
3.3.2. Kiến nghị về giải quyết quan hệ giữa Luật cạnh tranh và các văn bản pháp luật
chuyên ngành
Một khi chấp nhận pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh cho ngoại diên
bao gồm các quy định trong Luật cạnh tranh và các văn bản pháp luật quản lý Nhà nước
trong các lĩnh vực kinh tế cụ thể thì vấn đề then chốt cần giải quyết là xử lý mối quan hệ
giữa các lĩnh vực pháp luật này. Theo đó, chúng tôi cho rằng, các vấn đề cần giải quyết
hiện nay để xử lý mối quan hệ này sẽ là:
Một là, phải xác định rõ rằng mối quan hệ giữa Luật cạnh tranh và các văn bản pháp
luật quản lý Nhà nước các lĩnh vực kinh tế cụ thể là quan hệ pháp luật chung và pháp luật
chuyên ngành. Trong đó, Luật cạnh tranh đặt ra những nguyên tắc cơ bản cho việc nhận
dạng hành vi và xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các văn bản pháp luật khác
khi quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực điều chỉnh phải tuân
thủ theo đúng các nguyên tắc này. Các văn bản pháp luật khác quy định chi tiết và bổ
sung cho Luật cạnh tranh về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực điều
chỉnh. Tuy nhiên cần có sự phân biệt giữa các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và
hành vi đơn thuần chỉ vi phạm pháp luật chuyên nghành . Ví dụ, trong lĩnh vực quảng
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
222
cáo, cần phân biệt rõ các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh như quảng
cáo gian dối, quảng cáo so sánh… với các hành vi vi phạm về quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực quảng cáo như dùng hình ảnh lãnh tụ để quảng cáo, quảng cáo những loại sản
phẩm bị cấm quảng cáo…. Để làm được điều này, cần có những nghiên cứu nghiêm túc
về các loại hành vi và bản chất cạnh tranh không lành mạnh của chúng trong từng lĩnh
vực để có những quy định phù hợp.
Hai là, cần thống nhất trong các quy định của pháp luật về các hành vi đã được quy
định trong Luật cạnh tranh và các văn bản pháp luật chuyên ngành và thống nhất về quan
điểm xử lý. Với các quy định về hành vi, chúng ta có thể thấy có nhiều hành vi cùng được
quy định trong Luật cạnh tranh và các văn bản pháp luật khác nhưng có nội dung khác
nhau. Ví dụ như quy định về chỉ dẫn gây nhầm lẫn được quy định trong Luật cạnh tranh
có nội hàm hẹp hơn so với quy định trong pháp luật về sở hữu trí tuệ; các quy định về
xâm phạm bí mật kinh doanh trong hai văn bản pháp luật trên cũng có sự khác nhau đáng
kể về các dạng vi phạm….; các quy định về quảng cáo không trung thực trong pháp luật
quảng cáo và quảng cáo gian dối, gây nhầm lẫn quy định trong Luật cạnh tranh…. Để
đảm bảo tính thống nhất của pháp luật thì cùng một hành vi nên chỉ có một khái niệm mô
tả hành vi. Có như vậy, việc thực thi pháp luật vừa đảm bảo được hiệu quả, vừa đảm bảo
tính minh bạch, rõ ràng của pháp luật. Do đó, việc rà soát sự khác biệt trong các quy định
của pháp luật về cùng một hành vi cạnh tranh không lành mạnh là cần thiết để có thể có
kế hoạch sửa đổi một cách đồng bộ các quy định tương ứng trong nhiều văn bản pháp
luật.
Ba là, cần thống nhất mức xử lý vi phạm đối với các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh được quy định trong Luật cạnh tranh và trong các văn bản pháp luật điều chỉnh các
lĩnh vực pháp luật cụ thể. Với tình trạng hiện nay, khi hành vi cạnh tranh không lành
mạnh được quy định đồng thời trong nhiều văn bản pháp luật thì đã xảy ra tình trạng cùng
một hành vi nhưng lại áp dụng các mức xử lý khác nhau. Ví dụ, cùng xử lý hành vi chỉ
dẫn gây nhầm lẫn nhưng Nghị định 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 09
năm 2005 quy định xử lý vi pham hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh áp dụng biện
pháp phạt tiền với mức phạt từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, nhưng theo Nghị
định 97/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21 tháng 09 năm 2010 quy định về xử phạt
hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp lại áp dụng mức phạt có thể tối đa lên đến
500.000.000 đồng. Sự khác biệt quá lớn về khung xử phạt và mức phạt có thể tạo nên sự
thiếu công bằng khi áp dụng các văn bản pháp luật khác nhau để xử lý cùng một hành vi
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
223
có mức độ như nhau. Do đó, vấn đề cần giải quyết là có sự phối hợp giữa các lĩnh vực
pháp luật khác nhau khi xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh và cần có những sửa
đối cần thiết khi có sự thay đổi trong việc áp dụng các biện pháp xử lý.
Bốn là, về thủ tục xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Sự tồn tại nhiều văn
bản pháp luật quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể gây ra một hệ lụy là
cùng một hành vi có nhiều cơ quan có thẩm quyền và áp dụng các thủ tục khác nhau để
xử lý. Luật cạnh trah đã xây dựng tố tụng cạnh tranh để xử lý các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh với quy định điều tra, xử lý đặc thù cho các vụ
việc cạnh tranh. Trong các lĩnh vực pháp luật khác như pháp luật quảng cáo, pháp luật về
khuyến mại, pháp luật về quản lý bán hàng đa cấp…, hành vi cạnh tranh không lành mạnh
được nhìn nhận như một dạng vi phạm về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực này nên
thủ tục áp dụng để xứ lý là thủ tục xử lý vi phạm hành chính thông thường. Tương ứng
với các thủ tục này là thẩm quyền xử lý sẽ thuộc các cơ quan quản lý chuyên ngành. Sự
đa dạng về thủ tục và cơ quan có thẩm quyền xử lý có thể tạo nhiều khả năng lựa chọn
cho những chủ thể có liên quan bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước những
hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Song mặt khác, tình trạng này lại gây ra những hệ
quả khó lường trước. Theo đó, (1) khả năng các cơ quan khác nhau có những quan điểm
xử lý khác nhau cho cùng một hành vi nếu chúng được quy định trong nhiều lĩnh vực
pháp luật có liên quan. (2) Thủ tục điều tra xác định hành vi khác nhau có thể dẫn đến
cách thức đánh giá bản chất cạnh tranh không lành mạnh và tác động của hành vi cũng
không giống nhau làm ảnh hưởng đến kết luận và các biện pháp xử lý. (3) khả năng đùn
đẩy trách nhiệm cho nhau giữa các cơ quan thực thi pháp luật trước những vụ việc có
nhiều khó khăn trong điều tra và xử lý hành vi. Những hệ quả trên đều có ảnh hưởng
không tốt đối với tính thống nhất của pháp luật, ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi pháp luật
và đến lòng tin của cộng đồng xã hội đối với khả năng quản lý thị trường cua Nhà nước.
Chúng tôi cho rằng, với đặc thù của lĩnh vực cạnh tranh, cho dù được hành vi cạnh tranh
không lành mạnh được quy định ở lĩnh vực pháp luật nào thì việc xử lý chúng cần phải
được thực hiện một cách thống nhất. Có thể chúng ta nghiên cứu thêm về cơ chế phối hợp
giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với cơ quan quản lý chuyên ngành kinh tế cụ thể khi tiến
hành điều tra và xử lý các vụ việc về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhằm có được
những đánh giá chuyên môn theo chuyên ngành.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
224
CHƢƠNG V:
MÔ HÌNH CÁC CƠ QUAN CẠNH TRANH
PHẦN 1: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ
XÂY DỰNG CƠ QUAN CẠNH TRANH
Qua tìm hiểu mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh của một số nước tiêu biểu trên thế
giới như vừa nêu trên, có thể rút ra một số các yêu cầu cơ bản đối với cơ quan cạnh tranh
và tiêu chí xây dựng mô hình cơ quan quản l ý cạnh tranh:
I. Tính độc lập
Pháp luật cạnh tranh của các nước khi quy định về cơ quan cạnh tranh đều không sử
dụng các thuật ngữ ―Lập pháp‖, ―Hành pháp‖ hay ―Tư pháp‖ để chỉ bản chất pháp lý của
các cơ quan này. Các thuật ngữ này thường chỉ xuất hiện trong các học thuyết về quyền
lực nhà nước gắn liền với tổ chức bộ máy nhà nước, ví dụ như học thuyết tam quyền phân
lập của Montesquier. Theo học thuyết này, quyền lực nhà nước được phân thành ba quyền
năng: quyền lập pháp (ban hành pháp luật); quyền hành pháp (tổ chức thi hành pháp luật)
và quyền tư pháp (xét xử các tranh chấp). Trong một bộ máy nhà nước, cơ quan thực hiện
quyền lập pháp được gọi là các cơ quan lập pháp; cơ quan thực hiện quyền hành pháp
được gọi là cơ quan hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp được gọi là cơ quan tư
pháp.
Chính vì vậy, việc xem xét bản chất pháp lý của các cơ quan này cũng chính là
nghiên cứu vị trí, chức năng và quyền hạn của các cơ quan cạnh tranh rồi từ đó rút ra
được cơ quan này có quyền năng của loại hình cơ quan nào.
Qua nghiên cứu các mô hình cơ quan cạnh tranh, nhìn chung cơ quan quản lý cạnh
tranh của các nước đều mang tính "lưỡng tính", tức nó vừa là cơ quan hành chính, lại, là
cơ quạn tư pháp. Cơ quan quản lý cạnh tranh luôn là công cụ của các Chính phủ trong
việc thực thi các chính sách, pháp luật về cạnh tranh, do đó nó có dáng dấp của cơ quan
hành chính. Song hoạt động của nó lại mang tính tài phán tư pháp vì nó có quyền ra các
quyết định để phán xử đúng sai và áp dụng các biện pháp chế tài đối với các bên có hành
vi vi phạm pháp luật. Sự kết hợp hai đặc tính "hành chính", "tư pháp" là yếu tố đảm bảo
cho cơ quan này thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
225
Ví dụ rõ nét nhất về tính lưỡng tính của cơ quan cạnh tranh được thể hiện ở chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban thương mại lành mạnh của Nhật Bản. Căn cứ
Luật của Nhật Bản, có thể chia chức năng của Uỷ ban này làm hai loại: chức năng hành
chính và chức năng tư pháp. Chức năng hành chính bao gồm: (i) ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật chống độc quyền; (ii) thực hiện phối hợp với các ngành khác
trong việc soạn thảo luật và chính sách ngành; (iii) hợp tác quốc tế về cạnh tranh và chống
độc quyền. Về thẩm quyền tư pháp, khi xử lý vụ việc vi phạm Luật chống độc quyền, Uỷ
ban có thể thi hành Luật đối với vụ việc hoàn toàn dựa vào các điều khoản và cách hiểu
như tòa án.
Dù được tổ chức theo mô hình cụ thể như thế nào thì nguyên tắc quan trọng hàng đầu
đối với cơ quan này là bảo đảm tính độc lập cho nó, chính điều này đã gợi mỡ ra một tư duy
mới, một cách tiếp cận mới vượt ra khỏi cách tiếp cận truyền thống về phương pháp tổ chức
bộ máy nhà nước phải được chia theo lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cơ quan hành chính
độc lập, cụm từ này không chỉ thể hiện tính chất "lưỡng tính" như vừa đề cập tới ở trên, mà
nó gợi ra một vấn đề lớn hơn, đó là tổ chức, hoạt động của thiết chế này phải được thiết kế
làm sao để bảo đảm không để can thiệp hoặc bị chi phối từ các cơ quan khác (lập pháp,
hành pháp, tư pháp). Độc lập là yếu tố tiên quyết để có sự công bằng trong việc xử lý các
vụ việc, điều mà các bên đương sự luôn chờ đợi ở cơ quan này.
Tính độc lập của các cơ quan cạnh tranh trong tổ chức và hoạt động luôn luôn là
mục tiêu hàng đầu mà các nước này hướng tới xây dựng. Đây là nội dung rất quan trọng
đảm bảo cho những cơ quan này có thể thực hiện chức năng xử lý một cách công minh, vì
mục tiêu bảo vệ trật tự công cộng – cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Để đạt được việc này, Luật Cạnh tranh của các nước đều quy định nguyên tắc tối
cao là các cơ quan cạnh tranh hoàn toàn độc lập trong các hoạt động của mình mà không
bị chi phối hay can thiệp của bất kỳ cơ quan thứ ba nào. Các cơ quan cạnh tranh được
thành lập theo Luật và thực hiện các quyền năng được Luật này trao cho. Họ cũng có thể
sử dụng những quyền hạn này để yêu cầu sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan khác.
Để tạo lập sự độc lập về mặt tổ chức và tài chính, một số nước như Italia đã thành
lập cơ quan cạnh tranh của mình trực thuộc Quốc hội, độc lập với tư pháp và chính phủ.
Một số cơ quan cạnh tranh khác lại được tổ chức như một Bộ hay ngang Bộ, độc lập với
các bộ ngành khác. Một số trường hợp khác mặc dù đặt trong một bộ ngành nào đó nhưng
lại duy trì một chế độ độc lập rất cao trong hoạt động. Các cơ quan này chỉ bị phụ thuộc
về mặt hành chính. Việc độc lập này còn đạt được thông qua bổ nhiệm những nhân sự của
các cơ quan cạnh tranh này. Ngoài ra, Luật Cạnh tranh các nước còn quy định rõ ngân
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
226
sách hoạt động cũng như chế độ đãi ngộ cho các cơ quan cạnh tranh và thành viên cơ
quan này.
II. Tính minh bạch
Minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước kể cả cơ quan cạnh tranh đang
là một đòi hỏi hết sức quan trọng. Tuy nhiên, đối với các cơ quan cạnh tranh thì đây lại là
yêu cầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều này xuất phát chính từ vai trò trong việc duy
trì trật tự cạnh tranh rõ ràng, lành mạnh. Thông tin trong thị trường phải được thông suốt.
Tính minh bạch sẽ nâng cao thêm uy tín của chính các cơ quan này.
Pháp luật cạnh tranh của các quốc gia nói trên đều quy định rất chặt chẽ về những yêu
cầu phải công bố công khai các hoạt động của cơ quan cạnh tranh. Ngoài ra, các bên liên
quan có quyền yêu cầu các cơ quan cạnh tranh cho phép tiếp cận thông tin liên quan tới vụ
việc. Trên thực tế, các cơ quan cạnh tranh cũng luôn đề cao tiêu chí minh bạch
(Transparency) trong các hoạt động cụ thể của mình, từ việc công khai các chính sách, pháp
luật cũng như các quy trình xử lý công việc… cho đến nội dung các quyết định cụ thể trên
các website của mình. Tuy nhiên, cơ quản cạnh tranh phải có trách nhiệm bảo mật các
thông tin thu thập được trong quá trình điều tra liên qua đến bí mật kinh doanh của các
doanh nghiệp là đối tương bị điều tra.
III. Về nguồn lực hoạt động
Kinh phí hoạt động cho cơ quan cạnh tranh của tất cả các nước này đều lấy từ Ngân
sách nhà nước. Ở một số nước khoản ngân sách này được quy định trong pháp luật cạnh
tranh. Chẳng hạn, Luật chống độc quyền của Italia quy định: cơ quan chống độc quyền
được cấp ngân sách từ Chính phủ Trung ương thông qua việc phân bổ ngân sách hàng
năm. Trong phạm vi ngân sách này, cơ quan có trách nhiệm quản lý chi phí điều hành và
hoạt động của bản thân. Cơ quan chống độc quyền kết thúc năm tài khoá của mình vào
ngày 30/4 của năm tiếp theo, và phải đệ trình báo cáo lên Cơ quan kiểm toán.
Luật Cạnh tranh của Nam Phi đã quy định rất rõ về vấn đề ngân sách. Theo quy
định, ngân sách hoạt động bao gồm ngân sách hàng năm mà Quốc Hội (Parliament) dành
cho Uỷ ban/Toà án Cạnh tranh; các khoản phí có thể trả cho Uỷ ban theo quy định của
Luật Cạnh tranh; thu nhập có được từ việc đầu tư hoặc ký gửi khoản tiền dư thừa (Luật
cho phép Uỷ ban có thể đầu tư hoặc gửi tiết kiệm ngân hàng khoản tiền này khi Uỷ ban
không có nhu cầu cho các khoản chi tiêu bất ngờ hoặc trước mắt); khoản tiền nhận được
từ bất kỳ nguồn nào khác. Hàng năm, Cao Uỷ (đối với Uỷ Ban)/Chánh toà (đối với Toà
án) phải đệ trình bản báo cáo khoản thu chi dự tính của Uỷ ban/Toà án cho Bộ trưởng và
khoản ngân sách mà Quốc hội dành cho năm tài chính tiếp theo. Năm tài chính được tính
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
227
từ 01/04 đến 31/03 năm tiếp theo. Hơn nữa Luật cũng quy định rõ cách thức trả công cho
những cán bộ được tuyển dụng. Cụ thể, Bộ trưởng Bộ Công thương phải tham khảo ý
kiến của Bộ trưởng Bộ Tài chính để quyết định tiền thù lao, trợ cấp, các lợi ích và bất kỳ
điều kiện nào khác cho việc tuyển dụng/bổ nhiệm. Cao Uỷ có thể bổ nhiệm bất kỳ người
nào thuộc Uỷ ban Cạnh tranh làm điều tra viên (Inspector) nếu những người này có đầy
đủ phẩm chất theo yêu cầu. Bộ trưởng có thể tham vấn ý kiến của Bộ trưởng Bộ Tài chính
để quyết định tiền công cho những người được bổ nhiệm làm điều tra viên nhưng không
làm full-time cho Uỷ ban Cạnh tranh. Điều tra viên phải được cấp giấy chứng nhận điều
tra viên của Uỷ viên trưởng tuân theo quy định của Luật. Uỷ viên trưởng có thể tuyển
dụng nhân viên, hoặc ký hợp đồng với bất kỳ người nào để hỗ trợ cho hoạt động của Uỷ
ban Cạnh tranh. Uỷ ban cần tham vấn ý kiến của Bộ trưởng Bộ Công thương và Bộ
trưởng Bộ Tài chính cho việc trả công và các điều kiện tuyển dụng.
Ngân sách dành cho cơ quan cạnh tranh của các nước đang ngày càng được tăng lên do
tính chất của công việc. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì thị trường cũng ngày càng
được mở rộng, hành vi vi phạm của các chủ thể kinh doanh ngày càng trở nên tinh vi và phức
tạp hơn. Lượng công việc cho các cơ quan cạnh tranh cũng đang ngày càng tăng dần lên. Hầu
hết các nước đều ý thức được điều này và đã có sự ưu tiên nhiều hơn đối với công tác quản lý
cạnh tranh.
Một điểm đáng lưu ý là việc bổ nhiệm thành viên cho cơ quan cạnh tranh. Các thành
viên thường được bổ nhiệm bởi những người đứng đầu Chính phủ hoặc Quốc hội. Điều
này đã làm tăng tính chất quan trọng cũng như tính độc lập của cơ quan cạnh tranh trong
quá trình hoạt động. Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm là thành viên của cơ quan cạnh tranh
cũng là điểm cần được nhắc đến. Các thành viên này thường được yêu cầu đạt được một
trình độ chuyên môn nhất định, có học vấn cao, có kinh nghiệm và kiến thức thuộc nhiều
lĩnh vực khác nhau.
Cơ quan chống độc quyền Italia có một Chủ tịch và bốn thành viên được chỉ định
bởi Chủ tịch Hạ viện và Chủ tịch Thượng viện. Chủ tịch được chọn trong số những người
nổi tiếng về tính độc lập, những người giữ vị trí cao trong bộ máy công quyền; bốn thành
viên là những người nổi tiếng trên những vị trí độc lập, là thẩm phán của Toà hành chính
tối cao, Toà Kiểm toán, Toà Phúc thẩm Tối cao, giáo sư đại học, hay đại diện cho cộng
đồng doanh nghiệp, những người đã được công nhận về tiêu chuẩn nghiệp vụ. Mỗi thành
viên của cơ quan này có nhiệm kỳ 7 năm và không được tái bổ nhiệm. Cơ quan chống độc
quyền có thể thuê tới 220 người, cả nhân viên trong biên chế và hợp đồng có thời hạn.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
228
Ủy ban Thương mại lành mạnh Hoa kỳ hoạt động dưới sự chỉ đạo của 5 Ủy viên có
nhiệm kỳ 7 năm, được bổ nhiệm bởi Tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng nghị
viện. Tổng thống chỉ định một Ủy viên đảm trách chức vụ Chủ tịch. Không quá 3 Ủy viên
là thành viên của một Đảng.
Trên thực tế, các nguồn lực hoạt động của các cơ quan cạnh tranh ngày càng tăng
lên nhanh chóng. Điều này càng cho thấy được vai trò quan trọng và sự ưu tiên của các
nước trong việc tăng cường phát triển cơ quan cạnh tranh.
Tên nước Nhân lực
Hoa Kỳ 1110
Nhật Bản 779
Đài Loan 222
Australia 813
Canada 435
Pháp 200
Thụy Sỹ 76
Singapore 60
IV. Về quyền hạn, chức năng và nhiệm vụ
Nhiệm vụ chính của cơ quan quản lý cạnh tranh là bảo đảm thực thi Luật cạnh tranh.
Có thể nói, luật cạnh tranh được thực thi nghiêm chỉnh đến đâu là phụ thuộc vào hiệu quả
hoạt động của chính cơ quan này. Qua nghiên cứu mô hình cơ quan cạnh tranh của một
số nước, chúng ta có thể rút ra một số chức năng, nhiệm vụ chính của cơ quan cạnh tranh
như sau:
- Điều tra, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường
- Chống độc quyền, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
- Kiểm soát quá trình sát nhập hợp nhất doanh nghiệp.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
229
- Điều tra, xử lý các thoả thuận hạn chế cạnh tranh trên thị trường.
- Thực hiện các hoạt động khác nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Bên cạnh đó, do chính sách cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng có quan hệ mật
thiết với nhau nên theo mô hình của nhiều nước trên thế giới như Úc, Colombia, Phần
Lan, Pháp, Hungary, New Zealand, Na Uy, Peru, Ba Lan, Liên bang Nga, Vương quốc
Anh, Hoa Kỳ và Italia…. Cơ quan cạnh tranh vừa có thẩm quyền thực thi chính sách cạnh
tranh vừa có thẩm quyền thực thi chính sách bảo vệ người tiêu dùng.
Ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn trên, hầu hết các cơ quan cạnh tranh đều có hai thẩm
quyền cơ bản:
- Phát hiện và kiến nghị các cơ quan liên quan bãi bỏ các chính sách làm cản trở đến
môi trường cạnh tranh.
- Yêu cầu các tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, chứng cứ trong quá
trình điều tra xử lý vụ việc cạnh tranh
Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh của các
nước ta thấy không có một cơ quan cạnh tranh nào thực hiện thêm chức năng thực thi các
pháp luật về biện pháp bảo đảm công bằng trong thương mại quốc tế.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
230
PHẦN 2: THỰC TRẠNG CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH
TẠI VIỆT NAM
I. Cục Quản lý cạnh tranh
1. Chức năng, nghĩa vụ và quyền hạn
Theo Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006 của Chính phủ, Cục Quản lý
cạnh tranh là tổ chức trực thuộc Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) có chức năng
giúp Bộ trưởng Bộ Thương mại thực hiện:
- Quản lý nhà nước về cạnh tranh (thực thi Luật cạnh tranh)
- Quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự
vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam (thực thi 03 Pháp lệnh về chống bán phá
giá, chống trợ cấp và tự vệ);
- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (thực thi Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng);
- Phối hợp với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng trong việc đối phó với các vụ
kiện trong thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá, trợ cấp và áp dụng các biện
pháp tự vệ.
Về lĩnh vực cạnh tranh, Cục QLCT có nhiệm vụ Quản lý nhà nƣớc về cạnh
tranh (thực thi Luật Cạnh tranh)
Thụ lý, tổ chức điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh
tranh để Hội đồng cạnh tranh xử lý theo quy định của pháp luật.
Tổ chức điều tra và xử lý đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh
tranh không lành mạnh và các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh khác theo quy định
của pháp luật.
Thẩm định hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ theo các quy định của pháp luật để trình
Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định hoặc trình Thủ trướng Chính phủ quyết định.
Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế.
Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin về các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường, các doanh nghiệp độc quyền, về quy tắc cạnh tranh trong hiệp hội, về các trường
hợp miễn trừ.
2. Cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh gồm
- Ban Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
231
- Ban Chính sách cạnh tranh.
- Ban Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
- Ban Bảo vệ người tiêu dùng.
- Ban Xử lý chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.
- Ban Hợp tác quốc tế.
- Văn phòng.
- Trung tâm thông tin.
- Trung tâm đào tạo điều tra viên.
- Văn phòng đại diện của Cục Quản lý cạnh tranh tại Đà Nẵng.
- Văn phòng đại diện của Cục Quản lý cạnh tranh tại thành phố Hồ Chí Minh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
232
3. Quy trình xử lý vụ việc
3.1. Quy trình xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
233
3.2. Quy trình xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
234
3.3. Quy trình khai báo tập trung kinh tế và Đề nghị hưởng miễn trừ
Doanh nghiệp
Hồ sơ tập trung kinh tế (HS TTKT)
Cục QLCT
Tiếp nhận HS TTKT
HS đầy đủ, hợp lệ HS không đầy đủ, hợp lệ
VB trả lời về
tính đầy đủ, hợp lệVB yêu cầu
bổ sung HS
Thụ lý HS TTKT
TTKT không thuộc TH bị cấm TTKT thuộc TH bị cấm
Doanh nghiệp Doanh nghiệp
Tiến hành TTKT Dừng TTKT HS xin hƣởng miễn trừ
7 ngày làm việc
45 ngày + 2×30 ngày gia hạn
Cục QLCT
Tiếp nhận HS đề nghị hƣởng miễn trừ (ĐNHMT)
HS đầy đủ HS không đầy đủ
VB trả lời về tính
đầy đủ của HSVB yêu cầu
bổ sung HS
Thụ lý HS ĐNHMT
Bộ trƣởng Bộ Công Thƣơng
TH1: DN ĐNHMT có
nguy cơ giải thể/phá sản TH2: DN mở rộng XK/phát triển
KH-XH, kỹ thuật, công nghệ
Thủ tƣớng Chính phủ
Chấp thuận MT Không chấp thuận MT Chấp thuận MT Không chấp thuận MT
7 ngày làm việc
60 ngày + 2×30 ngày gia hạn 90 ngày + 90 ngày gia hạn
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
235
4. Thực thi luật cạnh tranh
Cục Quản lý cạnh tranh có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện
Quản lý nhà nước về cạnh tranh (thực thi Luật cạnh tranh và văn bản pháp luật hướng
dẫn):
Luật số 27/2004/QH11 ngày 03/12/2004 về Cạnh tranh
Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/09/2005 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Cạnh tranh.
Nghị định số 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/09/2005 quy định về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
Nghị định số 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/08/2005 về Quản lý hoạt
động bán hàng đa cấp.
Thông tư số 19/2005/TT-BTM của Bộ Thương mại ngày 08/11/2005 hướng dẫn một
số nội dung quy định tại Nghị định số 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/08/2005
về Quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.
II. Hội đồng cạnh tranh
Theo quy định của Luật cạnh tranh, đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh, Cục
Quản lý cạnh tranh chỉ đảm nhận vai trò điều tra, thu thập, tìm kiếm các chứng cứ có liên
quan đến một vụ việc, còn việc xét xử, xử lý, đưa ra các quyết định, giải quyết khiếu nại
có liên quan đến vụ việc hạn chế cạnh tranh thì do Hội đồng cạnh tranh (Hội đồng xử lý
vụ việc cạnh tranh) đảm nhận.
Hội đồng cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập gồm từ 11 đến 15 thành viên
do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương
mại.
Ngày 9/1/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2006/NĐ-CP về việc thành
lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh
tranh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
236
Theo Nghị định này, Hội đồng cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết
khiếu nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh theo
quy định của Luật cạnh tranh.
Ngày 12/06/2006, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại, Thủ tướng Chính
phủ đã ký Quyết định số 843/QĐ-TTg bổ nhiệm 11 thành viên Hội đồng cạnh tranh.
Thành viên Hội đồng cạnh tranh là đại diện của các Bộ: Bộ Thương mại, Bộ Tư Pháp, Bộ
Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, ....
Hội đồng cạnh tranh gồm 01 Chủ tịch, giúp việc cho Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh
sẽ có 02 Phó Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh.
Để giúp việc cho Hội đồng, ngày 28/8/2006, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã có Quyết
định số 1378/QĐ-BTM thành lập Ban Thư ký Hội đồng cạnh tranh. Ban Thư ký Hội đồng
cạnh tranh gồm từ 7-9 người làm việc chuyên trách.
Hiện nay, một mặt Hội đồng cạnh tranh đang nhanh chóng tiến hành xây dựng cơ
chế hoạt động và hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Hội đồng vừa tăng cường trao đổi và học
hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới (Hoa Kỳ, Hà Lan, Pháp, EU) trong việc xử lý
các vụ việc hạn chế cạnh tranh.
III. Khó khăn và bất cập hiện nay
1. Khó khăn và thách thức
1.1. Hạn chế nguồn nhân lực
Theo Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ, Cục
Quản lý cạnh tranh là cơ quan quản lý nhà nước trong cả 3 lĩnh vực: Cạnh tranh, Bảo vệ
người tiêu dùng và Phòng vệ thương mại.
Qua nghiên cứu một số mô hình về cơ quan cạnh tranh của các nước trên thì Cơ
quan Cạnh tranh, Bảo vệ người tiêu dùng và Cơ quan Phòng vệ thương mại đều là những
cơ quan phụ trách độc lập do tính chất công việc của của chúng. Việc cùng một cơ quan
phụ trách tất cả các lĩnh vực này cũng chính là vấn đề vẫn còn bất cập vì với nguồn nhân
lực của Cục QLCT hiện nay có thể nói là chưa thể đáp ứng được với yêu cầu về chức
năng và nhiệm vụ của mình.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
237
Số nhân viên và độ tuổi trung bình của Cục Quản lý cạnh tranh năm 2008 – 2010
Bên cạnh đó, để Luật cạnh tranh đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng, điều quan
trọng là phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp bảo đảm thực thi có hiệu
quả các quy định của Luật này. Đội ngũ cán bộ phải có khả năng làm việc độc lập, năng
động để có thể giải quyết tốt các khâu trong quá trình điều tra xử lý các hành vi vi phạm
Luật cạnh tranh cũng như các vụ việc về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, kể từ
khâu tiếp nhận thông tin đến tổ chức điều tra, xử lý, giám sát, thực hiện các thủ tục giải
quyết miễn trừ, giải quyết khiếu nại… Các công việc đó rất phức tạp, quy mô lớn, liên
quan đến nhiều Bộ/Ngành và các doanh nghiệp.
Hơn nữa, quy trình xử lý công việc cũng như tính chất của vụ việc gắn kết rất nhiều,
chặt chẽ với lĩnh vực kinh tế, tài chính, đầu tư, lao động... Điều này, đòi hỏi phải có một
đội ngũ cán bộ có trình độ cao, có kiến thức chuyên môn sâu mới có thể thực hiện được.
Vấn đề nhân sự có trình độ chuyên môn trong lĩnh vực cạnh tranh, chống bán phá
giá, chống trợ cấp và tự vệ luôn là một vấn đề khó khăn bước đầu cho tất cả các quốc gia.
Chúng ta cũng nhận thức rõ ràng là vấn đề này dù sao cũng không thể được giải quyết
trong một sớm một chiều, mà phải là một quá trình xây dựng và tích tụ từng bước.
Theo quy định của Điều 52 - Luật cạnh tranh Việt Nam, điều tra viên phải là những
người có thời gian công tác thực tế ít nhất là năm năm thuộc một trong các lĩnh vực luật,
kinh tế và tài chính. Trong khi thực tế các cán bộ, nhân viên của Cục Quản lý cạnh tranh
hiện nay đến hơn 80% là những cán bộ mới ra trường hoặc có ít hơn 5 năm kinh nghiệm.
Vì vậy, căn cứ các tiêu chuẩn nói trên, tính đến nay, Bộ trưởng Bộ Công Thương mới chỉ
bổ nhiệm gần 20 điều tra viên.
Trong khi đó, môi trường cạnh tranh ngày càng gắt gao mang tính sống còn với
doanh nghiệp, tâm lý chạy theo lợi nhuận, lợi dụng sự thiếu vắng một khung pháp lý hoàn
chỉnh điều chỉnh các hoạt động kinh tế, cũng như khe hở của các quy định pháp luật hiện
hành, v.v. đã làm xuất hiện trên thị trường nhiều hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
238
không lành mạnh, lợi dụng vị thế độc quyền gây khó khăn, làm tổn hại đến nền kinh tế,
đến hoạt động kinh doanh và lợi ích kinh tế chính đáng của các doanh nghiệp và của
người tiêu dùng. Do đó, chắc chắn trong thời gian tới, số vụ kiện liên quan Luật cạnh
tranh sẽ ngày càng tăng.
Vì vậy, trong thời gian tới, Cục Quản lý cạnh tranh chắc chắn sẽ còn thiếu rất nhiều
điều tra viên cũng như để đảm bảo cả về số lượng và chất lượng, Cục Quản lý cạnh tranh
cần có chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên một cách nhanh chóng và hiệu quả.
- Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh
phải triển khai hoạt động nhiều lĩnh vực như việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật và các
chính sách có liên quan đến cộng đồng doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước ở
Trung ương và địa phương thực hiện nhiệm vụ tại địa phương (mạng lưới các Sở Công
Thương ở các tỉnh/thành phố), đến việc xây dựng mối quan hệ giữa Cục với các cơ quan
điều tiết ngành, với các cơ quan và Hiệp hội liên quan trong công tác bảo vệ người tiêu
dùng… Ngoài ra, hoạt động của hai Trung tâm đào tạo điều tra viên và Trung tâm thông
tin cũng đòi hỏi các cán bộ có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết về các kiến thức pháp luật
cũng như ngoại ngữ và tin học. Đó là những khó khăn, thách thức lớn đối với cơ quan
quản lý cạnh tranh hiện nay.
1.2. Thiếu kinh phí hoạt động
Một trong những khó khăn Cục Quản lý cạnh tranh hiện nay đang phải đối mặt là
không có đủ cơ sở pháp lý để sử dụng kinh phí phục vụ cho công tác chuyên môn, hoàn
thành nhiệm vụ chính trị được giao. Khó khăn này do cơ quan mới, chức năng, nhiệm vụ
mới và đặc biệt là tính chất ―lưỡng tính‖ của cơ quan quản lý cạnh tranh nên các quy định
hiện hành quản lý kinh phí hành chính sự nghiệp là không phù hợp, thậm chí là bất cập,
khó thực hiện trong thực tế.
Để tiến hành điều tra một vụ việc cạnh tranh, các điều tra viên cạnh tranh phải tiến
hành các nghiệp vụ điều tra như: thu thập thông tin, xác minh chứng cứ, bảo vệ chứng cứ,
lấy lời khai… Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, để thu thập và xác minh
các chứng cứ về hành vi vi phạm, các điều tra viên phải thực hiện kiểm tra tại chỗ. Để
việc kiểm tra tại chỗ có hiệu quả, chúng ta phải có nhiều điều tra viên kiểm tra địa điểm
của tất cả đối tượng bị nghi ngờ vi phạm cùng lúc, vì thế, điều này cần một khoản nhất
định dành cho chi phí đi lại, gửi bưu điện và những chi phí khác. Thêm vào đó, để điều tra
có hiệu quả, chúng ta phải thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn với đối tượng bị nghi ngờ vi
phạm, bên đối tác thương mại... không chỉ tại cơ quan của Cục Quản lý cạnh tranh mà còn
tại địa điểm của họ. Do đó, có thể nói rằng việc điều tra chủ động cần tốn kinh phí.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
239
Một ví dụ khác, một trong những chức năng quan trọng nhất của cơ quan cạnh tranh
là phát hiện và kiến nghị các cơ quan có liên quan giải quyết theo thẩm quyền về những
văn bản quy phạm pháp luật có nội dung không phù hợp (những văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành và các dự thảo Luật, Pháp lệnh...) với quy định của pháp luật cạnh tranh,
chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ và bảo vệ người tiêu dùng. Để thực hiện tốt
nhiệm vụ này, đòi hỏi cơ quan quản lý cạnh tranh phải tiến hành rà soát và kiểm tra các
văn bản quy pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ Tài chính hiện nay, chỉ
có một số cơ quan như Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tư pháp, các tổ
chức pháp chế của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Sở Tư pháp, các
phòng tư pháp của các quận/huyện mới thuộc đối tượng được ngân sách nhà nước bảo
đảm kinh phí kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, tại thời điểm hiện nay, Cục
Quản lý cạnh tranh không được cấp kinh phí để triển khai nhiệm vụ này.35
Ngoài ra, các định mức chi cho việc tổ chức các Hội thảo, Hội nghị, Toạ đàm, Lớp
tập huấn để tuyên truyền, phổ biến và đào tạo cho các cán bộ theo quy định của Bộ Tài
chính không còn phù hợp với giá cả trên thị trường hiện nay. Tuy vậy, trong suốt những
năm vừa qua, các hoạt động trên của Cục là hiệu quả, tiết kiệm, tuân thủ theo các quy
định hiện hành, một phần là do có sự hỗ trợ và giúp đỡ của các tổ chức quốc tế trong và
ngoài nước cũng như các cơ quan cạnh tranh đồng nghiệp nước ngoài.
1.4. Thách thức
Luật cạnh tranh đã được Quốc Hội thông qua và đã có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2005.
Tính đến nay, toàn bộ các văn bản hướng dẫn thực thi Luật cũng đã được Chính phủ và
Bộ Công Thương ban hành. Với việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, đến nay các doanh
nghiệp trong nước hoàn toàn có đẩy đủ cơ sở pháp lý để yêu cầu cơ quan quản lý cạnh
tranh của Việt Nam tiến hành điều tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về cạnh
tranh trên thị trường.
Trong khi đó, quá trình đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam
trong những năm gần đây đã thúc đẩy thị trường Việt Nam phát triển và trưởng thành với
một tốc độ vượt bậc; góp phần làm cải thiện diện mạo của nền kinh tế Việt Nam một cách
đáng kể. Tuy nhiên, mặt trái quá trình này đã bắt đầu bộc lộ. Môi trường cạnh tranh ngày
càng gắt gao mang tính sống còn với doanh nghiệp, tâm lý chạy theo lợi nhuận, lợi dụng
sự thiếu vắng một khung pháp lý hoàn chỉnh điều chỉnh các hoạt động kinh tế, cũng như
khe hở của các quy định pháp luật hiện hành, v.v… đã làm xuất hiện trên thị trường nhiều
hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh gây khó khăn, làm tổn hại đến
nền kinh tế, đến hoạt động kinh doanh và lợi ích kinh tế chính đáng của các doanh nghiệp
35 Thông tư liên tịch Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp số 109/2004/TTLT/BTC-BTP ngày 17/11/2004 hướng dẫn việc
quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
240
và của người tiêu dùng. Do đó, chắc chắn trong thời gian tới, số vụ kiện liên quan đến
Luật cạnh tranh sẽ ngày càng tăng.
Ngoài ra, Việt Nam vừa trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, theo
đó sẽ có rất nhiều các tập đoàn kinh tế lớn mạnh đầu tư vào Việt Nam. Một điều có thể sẽ
xảy ra là những tập đoàn kinh tế lớn với nguồn lực tài chính lớn mạnh của mình có thể sẽ
bóm méo môi trường kinh doanh bằng cách lạm dụng nguồn tài chính sẵn có chén ép và
loại bỏ ra khỏi thị trường các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, hiện nay gần 95% các
doanh nghiệp Việt nam là các doanh nghiệp nhỏ và vừa với sức cạnh tranh còn hạn chế.
Yêu cầu đặt ra hiện nay là làm sao để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội cạnh tranh bình đẳng với các
doanh nghiệp nước ngoài. Mặt khác, để thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, chúng
ta cũng phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam
không bị các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh để
cản trở phát triển và mở rộng kinh doanh trên thị trường Việt Nam. Những điều này đòi
hỏi cơ quan quản lý cạnh tranh phải phát huy hiệu quả vai trò của mình.
2. Những bất cập còn tồn tại
2.1. Mô hình cơ quan cạnh tranh
Với mô hình của cơ quan cạnh tranh hiện nay, Cục Quản lý cạnh tranh đảm nhận vai
trò điều tra, thu thập, tìm kiếm các chứng cứ có liên quan đến vụ việc hạn chế cạnh tranh.
Việc còn lại xét xử, xử lý, đưa ra các quyết định, giải quyết khiếu nại có liên quan đến vụ
việc cạnh tranh thì do Hội đồng cạnh tranh (Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh) đảm nhận.
Hội đồng cạnh tranh lại là tập hợp 11 thành viên đại diện của các Bộ: Bộ Công Thương,
Bộ Tư Pháp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, ....
do Thủ tướng bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương. Khi mà các doanh
nghiệp bị điều tra và xử lý lại là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc các Bộ và Ngành mà
thành viên của Hội đồng cạnh tranh đại diện, thì việc đưa ra quyết định xử lý vụ việc rất
khó được coi là công bằng và khách quan.
Hơn nữa, thành viên của Hội đồng cạnh tranh không tham gia điều tra vụ việc ngay
từ thời điểm ban đầu, nên việc ra quyết định xử lý sẽ không được thấu đáo và chặt chẽ,
thậm chí làm kéo dài thêm thời gian xử lý vụ việc.
Có thể nhìn lại việc điều tra và xử lý vụ việc xử phạt 19 doanh nghiệp bảo hiểm đã
thỏa thuận ấn định giá một số dịch vụ bảo hiểm vừa qua để thấy được việc chậm trễ trong
từng thủ tục phối hợp giữa VCA và VCC.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
241
Các mốc thời gian trong việc điều tra và xử lý vụ việc thỏa thuận ấn định giá dịch
vụ của 19 doanh nghiệp bảo hiểm
Thời gian Nội dung Cơ quan
thực thi
18/11/2008 Quyết định điều tra sơ bộ VCA
28/11/2008 Quyết định điều tra chính thức VCA
18/05/2009 Quyết định gia hạn điều tra chính thức VCA
18/07/2009 Kết thúc điều tra chính thức VCA
02/10/2009 Ban giao hồ sơ và kết quả điều tra cho VCC VCA
15/01/2010 Quyết định về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung VCC
15/03/2010 Kết thúc điều tra bổ sung VCA
05/2010 Ban giao hồ sơ cho VCC VCA
12/07/2010 Quyết đinh mở Phiên điều trần VCC
29/07/2010 Quyết định về việc xử lý vụ việc cạnh tranh VCC
Ngày 02 tháng 10 năm 2009, sau khi hoàn thành việc điều tra chính thức VCA bàn
giao toàn bộ hồ sơ vụ việc cho Ban Thư ký của Hội đồng cạnh tranh xử lý. Do không
tham gia điều tra từ đầu nên VCC đã mất gần 04 tháng nghiên cứu hồ sơ rồi do tính chất
của vụ việc nên VCC đã ban hành quyết định trả hồ sơ và yêu cầu VCA điều tra bổ sung.
Tiếp sau quá trình điều tra bổ sung của VCA, đến tận tháng 7 năm 2010, VCC mới ra
Quyết định mở Phiên điều trần.
Như vậy từ khi VCA kết thúc điều tra chính thức, chỉ riêng thời gian phối hợp giữa
VCA và VCC trong các giai đoạn tiếp sau đó: điều tra bổ sung, việc xem xét và xử lý hồ
sơ của vụ việc đã kéo dài thêm là hơn 09 tháng so với tổng thời gian là gần 02 năm bắt
đầu từ khi quyết định điều tra sơ bộ của vụ việc. Việc VCC cùng tham gia cùng điều tra
và phân tích vụ việc ngay tại thời điểm ban đầu thì quỹ thời gian của cả quá trình điều tra
sẽ không bị lãng phí bởi các công đoạn trên.
2.2. Chức năng của Cục Quản lý cạnh tranh
Theo Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006 của Chính phủ, Cục Quản lý
cạnh tranh là cơ quan quản lý nhà nước trong cả 3 lĩnh vực: Cạnh tranh, Bảo vệ người tiêu
dùng và Phòng vệ thương mại. Trong khi tất cả các nước trên thế giới thì Cơ quan Phòng
vệ thương mại và Cơ quan Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng đều là những cơ quan
phụ trách độc lập do tính chất công việc của của chúng. Việc cùng một cơ quan phụ trách
tất cả các lĩnh vực này cũng chính là vấn đề vẫn còn bất cập hiện nay, nên trong tương lai
việc tách biệt hai cơ quan này sẽ được ưu tiên tiến hành.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
242
PHẦN 3. ĐỀ XUẤT VÀ KHUYẾN NGHỊ
Căn cứ những khó khăn, thách thức của Cục Quản lý cạnh tranh hiện nay và bài học
kinh nghiệm của các nước trên thế giới, để thực thi hiệu quả các chính sách cạnh tranh
của Việt nam hiện nay, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm từng bước hoàn thiện
mô hình cơ quan quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ của Việt
Nam hiện nay như sau:
I. Giải pháp
1. Khi chƣa sửa đổi luật cạnh tranh
1.1 Tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh
tranh
Hiện nay, hệ thống cơ quan cạnh tranh của Việt Nam (bao gồm Hội đồng cạnh tranh
và Cục Quản lý cạnh tranh) sẽ cần phải hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng được yêu cầu và
kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội.
Việc Cục chỉ có 02 Văn phòng đại diện (tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng) là quá ít
so với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp hiện nay. Điều nay một mặt gây khó khăn cho
công tác điều tra của Cục khi phải tiến hành điều tra ở thị trường các tỉnh/thành phố ngoài
địa bàn Hà Nội, Đà Nẵng và Tp. Hồ Chí Minh, mặt khác gây cản trở cho các doanh
nghiệp hoạt động trên địa bàn ngoài này có thể tiếp cận với Cục Quản lý cạnh tranh để tư
vấn và nộp hồ sơ khiếu nại.
Theo kinh nghiệm của các nước, quá trình điều tra các vụ việc cạnh tranh có thể kéo
dài từ 6 tháng đến 1 năm, trong trường hợp phức tạp có thể lên tới 2-3 năm. Trong những
trường hợp các hành vi vi phạm diễn ra tại các tỉnh thuộc khu vực miền nam hoặc miền
trung, các điều tra viên của Cục Quản lý cạnh tranh không thể chỉ ngồi làm việc tại Hà
Nội mà họ còn phải tiến hành các cuộc điều tra tại chỗ để thu thập chứng cứ. Do đó, để
tiết kiệm chi phí đi lại và tạo điều kiện cho công tác điều tra được liên tục, việc mở thêm
các Văn phòng đại diện của Cục tại các khu vực này cùng với bộ máy, nguồn nhân lực
cũng như kinh phí hoạt động là hết sức cần thiết.
Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 11 thành viên Hội đồng cạnh tranh hiện
nay là đại diện của các Bộ/ngành có liên quan như: Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp.... Như vậy, trước mắt các thành viên của Hội
đồng sẽ làm việc kiêm nhiệm, bán chuyên trách.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
243
Mô hình trên đã được cân nhắc và khá phù hợp cho giai đoạn đầu. Tuy nhiên, ngay
từ bây giờ cần nghiên cứu để hoàn thiện hơn nữa mô hình này:
Một là, cần một Ban Thư ký hoạt động chuyên trách để giúp việc cho Hội đồng. Ban
Thư ký sẽ đảm nhiệm các nhiệm vụ như:
+ Tiếp nhận báo cáo điều tra của Cục Quản lý cạnh tranh
+ Giúp Hội đồng cạnh tranh tổ chức các phiên điều trần;
+ Thu thập các thông tin, chứng cứ bổ sung;
+ Đóng vai trò là các Ban Thư ký trong các phiên điều trần;
+ Thực hiện các công tác hành chính khác v.v...
Thành viên Ban Thư ký phải là những người có nhiều kinh nghiệm trong quá trình
điều tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Có như vậy, Hội đồng cạnh
tranh mới có thể phát huy hết vai trò, vị trí của mình trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh
tế.
Hai là bổ sung một số thành viên chuyên trách của Hội đồng cạnh tranh. Theo quy
định của Luật cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh có thể có từ 11-15 thành viên, trong khi
hiện nay Thủ tướng Chính phủ mới bổ nhiệm 11 thành viên. Các thành viên này có thể
lấy từ nguồn các chuyên gia về lĩnh vực cạnh tranh và đặc biệt, các thành viên này không
bị giới hạn về tuổi làm việc như quy định của Bộ Luật lao động hiện tại. Theo kinh
nghiệm của một số nước như Pháp, Nhật Bản, Indonesia...., các thành viên của cơ quan
cạnh tranh có thể làm việc đến tuổi 70.
Ba là Ủy viên Hội đồng cạnh tranh sẽ cùng tham gia vào quá trình điều tra vụ việc
hạn chế cạnh tranh ngay từ đầu. Việc này sẽ giúp các Ủy viên nắm được các tình tiết của
vụ việc trước khi ra quyết định chính thức, cũng như rút ngắn lại được về mặt thời gian
xử lý mỗi vụ việc.
1.2. Xây dựng đội ngũ điều tra viên vụ việc cạnh tranh
Theo quy định tại Điều 52 Luật cạnh tranh thì điều tra viên vụ việc cạnh tranh là
những người do Bộ trưởng Bộ Công Thương bổ nhiệm theo đề nghị của Cục trưởng Cục
Quản lý cạnh tranh và phải có đầy đủ các tiêu chuẩn sau đây:
- Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, khách quan;
- Có trình độ cử nhân luật hoặc cử nhân kinh tế, tài chính;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
244
- Có thời gian công tác thực tế ít nhất là năm năm thuộc một trong các lĩnh vực luật,
kinh tế và tài chính;
- Được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ điều tra.
Vấn đề cạnh tranh là vấn đề rất phức tạp, đòi hỏi các điều tra viên khi tiến hành tố
tụng phải có kiến thức chuyên sâu không chỉ về pháp lý mà còn bao gồm cả những kiến
thức về kinh tế. Phân tích kinh tế đóng vai trò quan trọng, không thể thiếu khi áp dụng các
Luật cạnh tranh trong các vụ việc cụ thể.
Đối với Luật cạnh tranh, khi tiến hành điều tra các hành vi hạn chế cạnh tranh (bao
gồm: thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền
và tập trung kinh tế), cơ quan điều tra phải xác định thị trường liên quan, thị phần của
doanh nghiệp có hành vi vi phạm. Để xác định thị trường liên quan, các điều tra viên phải
tiến hành nhiều phân tích kinh tế khác nhau: từ điều tra xã hội học để thăm dò ý kiến,
phản ứng của người tiêu dùng, đến việc xác định các khả năng thay thế cho nhau của các
sản phẩm cùng loại cũng như phân tích các số liệu, doanh thu của các doanh nghiệp hoạt
động trên thị trường để kết luận về cấu trúc thị trường và tính chất của sản phẩm...
Vì vậy, để xây dựng đội ngũ điều tra viên, Cục Quản lý cạnh tranh phải có một
chiến lược hợp lý như sau:
- Xây dựng chương trình đào tạo toàn diện cho từng loại đối tượng đào tạo bao gồm:
nhóm các điều tra viên cạnh tranh và nhóm các điều tra viên chống bán phá giá, chống trợ
cấp và tự vệ.
- Phối hợp với các tổ chức quốc tế, các cơ quan cạnh tranh nước ngoài, cơ quan về
chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ nước ngoài tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn
về kỹ năng điều tra cho các điều tra viên của Việt Nam
- Tích cực và tạo điều kiện cử các cán bộ của mình ra nước ngoài tham gia các khoá
đào tạo ngắn và dài hạn.
- Phối hợp với các cơ quan đào tạo nghiệp vụ điều tra trong nước như: Bộ Công an,
Viện kiểm soát cũng như các Trường đại học kinh tế, tài chính, luật để bồi dưỡng nâng
cao các kiến thức về kinh tế, tài chính, luật và kỹ năng điều tra cho các điều tra viên. Năm
2006, Cục Quản lý cạnh tranh đã phối hợp với Học viện cảnh sát nhân dân tổ chức khoá
đào tạo về phương pháp điều tra cạnh tranh cho 10 cán bộ của Cục.
- Hàng năm, tổ chức các lớp tấp huấn, nâng cao nghiệp vụ cho các điều tra viên. Xây
dựng và triển khai hoạt động của Trung tâm đào tạo điều tra viên của Cục. Trung tâm này
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
245
không chỉ tập trung đào tạo các kỹ năng, kiến thức cho các điều tra viên của Cục mà còn
có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cho các cán bộ của các cơ quan có liên quan như: cán bộ
làm công tác bảo vệ người tiêu dùng tại địa phương, lực lượng quản lý thị trường tại các
tỉnh/thành phố...
- Nên đưa các nội dung, kiến thức của pháp luật cạnh tranh, chống bán phá giá,
chống trợ cấp và tự vệ vào trong công tác nghiên cứu, giảng dạy tại các trường đại học
chuyên ngành luật, tài chính, kinh tế... hoặc các Viện nghiên cứu. Đây chính là nơi đào
tạo và cung cấp nguồn nhân lực chủ yếu và chuyên nghiệp về lĩnh vực này cho cơ quan
quản lý cạnh tranh và các cơ quan hữu quan sau này.
1.3. Tăng cường kỹ năng thẩm phán cho các thành viên Hội đồng cạnh tranh
Theo quy định của Luật cạnh tranh, đối với hành vi hạn chế cạnh tranh thì sau khi
kết thúc điều tra, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh phải chuyển báo cáo điều tra cùng
toàn bộ hồ sơ vụ việc cạnh tranh lên Hội đồng cạnh tranh.
Sau khi nhận được báo cáo điều tra và hồ sơ từ phía Cục Quản lý cạnh tranh, Hội
đồng cạnh tranh sẽ ra quyết định thành lập một Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh sẽ tổ chức phiên điều trần, tại đó có sự tham gia của bên bị
điều tra, bên khiếu nại, luật sư, điều tra viên và những người khác. Sau phiên điều trần,
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh sẽ thảo luận, bỏ phiếu kín và ra quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh.
Như vậy, Hội đồng cạnh tranh là cơ quan mang tính "lưỡng tính", Hội đồng vừa là
cơ quan hành chính vừa là cơ quan tư pháp. Một mặt, Hội đồng cạnh tranh là cơ quan của
Chính phủ trong việc thực thi Luật cạnh tranh, do đó nó có dáng dấp của cơ quan hành
chính. Song hoạt động của Hội đồng lại mang tính tài phán tư pháp vì Hội đồng có thẩm
quyền ra quyết định xử phạt có thể phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của tổ chức,
cá nhân vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Trên thực tế,
mức tiền phạt theo các quy định này có thể lên tới hàng tỷ đồng. Ngoài việc bị phạt tiền,
Hội đồng còn có thẩm quyền yêu cầu các doanh nghiệp vi phạm áp dụng một hoặc một số
hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như tịch thu tang vật, phương
tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi
nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; buộc cơ cấu lại doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường; buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng
hoặc giao dịch kinh doanh liên quan; buộc tách các doanh nghiệp đã tham gia hợp nhất,
sáp nhập; buộc bán lại phần tài sản đã mua...
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
246
Do có sự kết hợp hai đặc tính "hành chính", "tư pháp" nên các thành viên Hội đồng
cạnh tranh ngoài các tiêu chuẩn như theo quy định của Luật cạnh tranh như: (i) Có phẩm
chất đạo đức tốt, trung thực, khách quan, có tinh thần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa;
(ii) Có trình độ cử nhân luật hoặc cử nhân kinh tế, tài chính; (iii) Có thời gian công tác
thực tế ít nhất là chín năm thuộc một trong các lĩnh vực luật, kinh tế và tài chính; (iv) Có
khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao, họ còn phải có các kỹ năng như của một thẩm
phán.
Vì vậy, trong thời gian tới, Hội đồng cạnh tranh cần một mặt tăng cường hợp tác
quốc tế để học tập kinh nghiệm, kỹ năng xử lý các hành vi vi phạm cạnh tranh của các cơ
quan cạnh tranh nước ngoài. Mặt khác, Hội đồng cạnh tranh cũng cần phối hợp với các cơ
quan trong nước như Toà án nhân dân tối cao để tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn, dài
hạn về kỹ năng thẩm phán cho các thành viên của Hội đồng.
1.4. Đào tạo kiến thức về cạnh tranh cho các thẩm phán
Theo quy định tại Điều 115 của Luật cạnh tranh, trường hợp không nhất trí với
quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên liên quan
có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với một phần hoặc toàn bộ nội dung của quyết
định giải quyết khiếu nại ra Tòa án Nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương có
thẩm quyền.
Do đó, để đảm bảo công bằng và hiệu quả trong toàn bộ quá trình xử lý vụ việc cạnh
tranh, trong thời gian tới, chúng ta cần tổ chức bồi dưỡng kiến thức về cạnh tranh cho các
thẩm phán làm việc tại các Toà án nói trên.
2. Khi sửa đổi Luật cạnh tranh
Xây dựng theo mô hình một cơ quan cạnh tranh trực thuộc Chính phủ trên cơ sở xóa
bỏ mô hình cũ, thành lập một Cơ quan độc lập hoàn toàn mới, trên cơ sở nhập Cục Quản
lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh hiện nay
Căn cứ theo các quy định về chức năng, nhiệm vụ của Cục Quản lý cạnh tranh và
Hội đồng cạnh tranh kết hợp tham khảo kinh nghiệm quốc tế, nhóm nghiên cứu đề xuất
trong giai đoạn từ năm 2012-2016, Chính phủ cần thành lập một cơ quan cạnh tranh thống
nhất trực thuộc Chính phủ trên cơ sở nhập Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh
tranh vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh chủ yếu được thể hiện trong
hoạt động điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh. Đặc biệt, trong điều kiện ở nước ta hiện
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
247
nay khi mà các doanh nghiệp nhà nước đang giữ hầu hết các lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế, do đó đối tượng điều tra của cơ quan cạnh tranh có thể sẽ là các Tổng Công ty
nhà nước, các tập đoàn kinh tế lớn và thậm chí là cả các cơ quan quản lý nhà nước. Nếu
không có một vị thế đủ mạnh thì cơ quan cạnh tranh sẽ không thể thực hiện tốt các nhiệm
vụ của mình.
Thứ hai, việc thành lập một cơ quan cạnh tranh độc lập thuộc Chính phủ cũng
sẽ tạo điều kiện cho việc huy động nguồn thu ngân sách thông qua hoạt động một cách
độc lập, tăng thêm tính tự chủ của cơ quan cạnh tranh. Kinh nghiệm tách bộ, ngành, tái cơ
cấu được thực thi trong những năm gần đây cho thấy việc thiết lập một cơ quan ngang Bộ
về mặt thể chế, có cơ cấu gọn nhỏ trong giai đoạn đầu, có cơ chế huy động ngân sách hoạt
động cụ thể là khả thi. Đặc biệt khả năng phát triển ngày càng độc lập trong tương lai sẽ
không bị giới hạn trong một khuôn khổ nhất định nào.
Thứ ba, một lý do khác khá quan trọng chúng ta không thể bỏ qua khi cân nhắc
có nên đặt cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam tại Bộ Công Thương hay không là tầm
quan trọng đặc biệt và tính đa nghành cao của Luật Cạnh tranh. Thậm chí, trên thực tế,
Luật Cạnh tranh thường xuyên được đề cập tới như một luật khung, hoặc nguyên tắc cơ
bản phục vụ xây dựng các quy định chuyên ngành trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
Sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ với các cơ quan chuyên ngành, do đó, là một nhân tố
cốt yếu quyết định sự thành công, tính hiệu quả của Luật nhằm đảm bảo và thúc đẩy môi
trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng trong toàn bộ nền kinh tế.
Thứ tư, vị trí độc lập của một cơ quan trực thuộc Chính phủ giúp đảm bảo và
thúc đẩy việc tập trung chuyên môn, tính công chính, minh bạch và khả năng chịu trách
nhiệm và giải trình của cơ quan này. Tự chủ về quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm cũng như
đào tạo nhân sự, cũng như tự chủ về mặt ngân sách hoạt động đảm bảo cho cơ quan cạnh
tranh có thực quyền cao hơn. Đây cũng là kinh nghiệm của nhiều quốc gia phát triển trên
thế giới chẳng hạn như Nhật Bản, Ủy ban Thương mại Lành mạnh Nhật Bản có vị trí độc
lập và quyền tự chủ, hoạt động hết sức hiệu quả. Luật Chống độc quyền còn đưa ra các
quy định để đảm bảo cho tính độc lập và trung lập trong quyết định của chủ tịch và các ủy
viên của Ủy ban Thương mại Lành mạnh Nhật Bản:
- Chủ tịch và các ủy viên của Ủy ban Thương mại Lành mạnh thực hiện nhiệm vụ
của họ một cách độc lập;
- Chủ tịch và các ủy viên sẽ không bị bãi nhiệm trong thời hạn nhiệm kỳ trái ý muốn
của họ‖ ngoại trừ những trường hợp mà Luật quy định;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
248
- Lương của Chủ tịch và Các ủy viên của Ủy ban được cấp riêng và không bị cắt
giảm ngược lại với ý muốn của họ đang trong nhiệm kỳ.
Thứ năm, một trong những chức năng quan trọng khác của hầu hết các cơ quan
cạnh tranh trên thế giới là chức năng tham vấn. Tại Nghị định 06/2006/NĐ-CP ngày
9/1/2006 cũng quy định Cục Quản lý cạnh tranh có quyền «phát hiện và kiến nghị cơ
quan có liên quan giải quyết theo thẩm quyền về những văn bản đã ban hành có nội dung
không phù hợp với quy định của pháp luật cạnh tranh». Đây đã là một điểm khá tiến bộ
theo hướng cho phép cơ quan cạnh tranh được quyền loại bỏ tất cả các quy định đi ngược
lại với các nguyên tắc cạnh tranh. Tuy nhiên, để làm được điều này đòi hỏi cơ quan cạnh
tranh phải có vị trí đủ mạnh.
Thứ sáu, để đáp ứng đòi hỏi ngày càng tăng của hội nhập kinh tế quốc tế, số vụ kiện
về các hành vi vi phạm pháp luật canh tranh chắc chắn sẽ tăng lên một cách đáng kể. Điều
này đòi hỏi quy mô của cơ quan cạnh tranh phải được mở rộng nhằm đảm bảo nguồn tài
chính, nhân lực để thực thi hiệu quả các công việc được giao.
Thứ bảy, theo thống kê của Bộ Công Thương, trong số 90 cơ quan cạnh tranh hiện
nay trên thế giới, chỉ Việt Nam còn tồn tại mô hình hai cơ quan, một chịu trách nhiệm về
điều tra, một chịu trách nhiệm về xử lý như mô hình cũ của Cơ quan cạnh tranh Pháp.
Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất giữa Hội đồng cạnh tranh của Pháp trước đây và của
Việt Nam là ở Hội đồng cạnh tranh Pháp, ngoài các thành viên Hội đồng còn có các báo
cáo viên. Báo cáo viên đóng vai trò như các điều tra viên của Cục Quản lý cạnh tranh.
Trong một số trường hợp, thông qua các báo cáo viên Hội đồng có thể tự tiến hành điều
tra hoặc tự điều tra bổ sung trên cơ sở những chứng cứ sơ bộ mà Tổng Vụ cạnh tranh và
trấn áp gian lận Pháp gửi lên.
Một trong những điểm yếu lớn nhất của mô hình hai cơ quan như Việt Nam hiện
nay là do các thành viên của các cơ quan xử lý không theo sát được quá trình điều tra vụ
việc. Do đó, chỉ dựa vào các báo cáo điều tra cuối cùng của các điều tra viên, họ sẽ khó
đưa ra được các quyết định chính xác về hành vi vi phạm. Ví dụ, tại Uỷ Ban Thương mại
liên bang Hoa Kỳ, trước khi quyết định có điều tra chính thức một vụ việc cạnh tranh hay
không, các điều tra viên phải trình bày các lập luận trước các Uỷ viên (người đóng vai trò
như các thành viên Hội đồng cạnh tranh Việt Nam). Trong trường hợp các điều tra viên
đưa ra chứng cứ thuyết phục được các Uỷ viên, họ sẽ có quyết định cho phép điều tra
chính thức vụ việc. Cơ chế này giúp giảm thiểu các trường hợp yêu cầu điều tra bổ sung
hoặc kịp thời có quyết định đình chỉ điều tra khi thấy cần thiết, và như vậy sẽ tiếc kiệm
được nguồn lực và kinh phí cho cơ quan điều tra.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
249
Vì vậy, học tập kinh nghiệm của hầu hết các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà
Lan, EU, Đức ..., trong giai đoạn tới, chúng ta nên nhập Cục Quản lý cạnh tranh và Hội
đồng cạnh tranh thành một cơ quan trực thuộc Chính phủ. Tuy nhiên, một trong những
điểm khó của phương án này là chúng ta phải sửa đổi Luật cạnh tranh cho phù hợp với
mô hình mới này.
II. Kiến nghị về việc triển khai các giải pháp nêu trên
Để các giải pháp trên đây mang tính khả thi, cần có sự tham gia tích cực của các cơ
quan quản lý nhà nước. Ở đây, cần nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của tất cả các đơn vị
hữu quan trong công tác xây dựng bộ máy tổ chức. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của các cơ quan do Chính phủ quy định, thì vai trò/trách nhiệm cụ thể của các
đơn vị trong việc thực hiện các giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình cơ quan quản lý cạnh
tranh chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ là rất quan trọng mà các cơ quan cần
nhận thức và thực hiện một cách đầy đủ. Đây cũng chính là những khuyến nghị về cách
thức triển khai của những giải pháp trên. Cụ thể như sau:
1. Đối với Chính phủ
1.1. Trong ngắn hạn
Trong giai đoạn trước mắt, để mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh hoạt động được
hiệu quả, đáp ứng kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội và người tiêu dùng,
Chính phủ cần tạo điều kiện cho Hội đồng cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh nhanh
chóng hoàn thiện bộ máy tổ chức:
- Tăng cường nguồn nhân lực và vật lực cho Cục Quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh
tranh.
- Ban hành quyết định bổ sung thêm 04 thành viên chuyên trách cho Hội đồng cạnh
tranh.
1.2. Trong dài hạn
Theo quy định của Luật cạnh tranh, cơ quan cạnh tranh việt Nam gồm cơ quan quản
lý cạnh tranh (Cục Quản lý cạnh tranh) và Hội đồng cạnh tranh. Như vậy, để xây dựng
mô hình một cơ quan cạnh tranh thống nhất trên cơ sở nhập Hội đồng cạnh tranh và Cục
Quản lý cạnh tranh nói trên đòi hỏi chúng ta phải tiến hành sửa đổi Luật cạnh tranh.
Việc sửa đổi những quy định về cơ quan cạnh tranh Việt nam đồng nghĩa với việc
thay đổi cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh. Điều này đòi hỏi Chính phủ phải trình
Quốc hội sửa đổi một loạt các quy định hiện nay của Luật cạnh tranh như:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
250
Các quy định liên quan đến cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh;
Các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành điều tra vụ việc cạnh tranh;
Các quy định về thẩm quyền xử lý vụ việc cạnh tranh.
Đồng thời với việc sửa đổi Luật cạnh tranh, Chính phủ cũng phải giao cho Bộ Công
Thương chủ trì phối hợp với các Bộ/ngành có liên quan tiến hành sửa đổi các Nghị định
hướng dẫn Luật cạnh tranh bao gồm:
- Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Cạnh tranh.
- Nghị định số 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/9/2005 quy định về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
- Nghị định số 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9/1/2006 của quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh.
- Nghị định số 05/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9/1/2006 về việc thành lập và
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh.
2. Đối với Bộ Công Thƣơng
- Trước mắt, tạo điều kiện cho Cục Quản lý cạnh tranh đào tạo đội ngũ điều tra viên
về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.
- Bổ nhiệm bổ sung các điều tra viên cạnh tranh, chống bán phá giá, trợ cấp và tự vệ.
- Nhanh chóng hoàn thiện bộ máy, tổ chức của Ban Thư ký Hội đồng cạnh tranh.
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ/ngành liên quan nghiên cứu, soạn thảo Đề án và trình
Chính phủ thành lập một cơ quan cạnh tranh Việt Nam thống nhất trực thuộc Chính phủ
và Cục Chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trực thuộc Bộ Thương mại.
3. Đối với Toà án nhân dân tối cao
- Nhanh chóng xây dựng lực lượng thẩm phán trong lĩnh vực cạnh tranh.
- Phối hợp với Bộ Thương mại tổ chức các khoá đào tạo trong và ngoài nước về các
kỹ năng xét xử vụ việc cạnh tranh cho các thẩm phán làm về lĩnh vực cạnh tranh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
251
- Phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng các văn bản hướng dẫn cụ thể về
việc giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh và Bộ trưởng Bộ Thương mại.
4. Đối với Bộ Tài chính
- Đảm bảo nguồn tài chính cho Cục Quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh, Hội
đồng xử lý các vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao. Đặc biệt là các khoản chi phí cho việc đi tiến hành điều tra tại chỗ đối với các
vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ ở nước ngoài.
- Do công tác điều tra cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ có đặc
thù riêng, trong khi các quy định về mực chi hiện nay đối với công tác điều tra nói trên là
không đủ và còn nhiều bất cấp nên trong thời gian tới Bộ Tài chính cần chủ trì phối hợp
với Bộ Công Thương xây dựng các quy định về các định mực chi trong các hoạt động
điều tra của Cục Quản lý cạnh tranh.
5. Đối với Bộ Nội vụ
- Tạo điều kiện đảm bảo đủ biên chế cho Cục Quản lý cạnh tranh cũng như Ban Thư
ký Hội đồng cạnh tranh trong giai đoạn từ nay đến năm 2015.
- Cũng giống như các lực lượng điều tra viên khác như: lực lượng cảnh sát điều tra,
lực lượng quản lý thị trường…, các điều tra viên cạnh tranh cũng đòi hỏi phải triển khai
các công tác điều tra như thu thập thông tin, xác minh chứng cứ, khám xét nơi cất giấu
tang vật và phương tiện vi phạm… Do đó, để đảm bảo quyền lợi cho các điều tra viên
cạnh tranh Bộ Nội vụ cần phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Tài chính trình Chính phủ
ban hành văn bản quy định về chế độ phụ cấp cho các đối tượng nói trên.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
252
PHỤ LỤC: MÔ HÌNH CƠ QUAN CẠNH TRANH
MỘT SỐ NƢỚC
I. Ủy ban Thƣơng mại lành mạnh Nhật Bản
1. Thông tin chung
1.1. Tên gọi:
Ủy ban thương mại lành mạnh Nhật Bản (JFTC)
1.2. Tóm tắt lịch sử hình thành
1.2.1. Năm thành lập--------1947
1.2.2. Tóm tắt lịch sử hình thành
1947 Ban hành Luật Chống độc quyền (AMA); Thành lập JFTC
1956 Ban hành đạo luật cấm Chậm trễ trong thanh toán hợp đồng phụ với các nhà
thầu phụ (Luật hợp đồng phụ)
1962 Ban hành đạo luật về Khuyến mãi không trung thực và chỉ dẫn gây nhầm
lẫn (Luật về chỉ dẫn và khuyến mãi)
1977 Công bố lần sửa đổi thứ 10 của Luật Chống độc quyền (Áp dụng hệ thống
phạt tiền)
1991 Công bố lần sửa đổi thứ 11 Luật Chống độc quyền (tăng mức phạt tiền)
1992 Công bố lần sửa đổi Luật Chống độc quyền (tăng cường chế tài hình sự)
1996 Thành lập Ban Thư ký chung (chuyển từ Ban thư ký)
2003 JFTC chuyển từ cơ quan trực thuộc Bộ Nội nội và Bưu chính viễn thông
Nhật Bản thành cơ quan độc lập thuộc Chính phủ.
2005 Sửa đổi Luật Chống độc quyền (AMA)
Tăng mức phạt tiền;
Áp dụng cơ chế khoan dung;
Áp dụng các biện pháp bắt buộc đối với buộc tội Hình sự;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
253
Sửa đổi Thủ tục tiến hành phiên điều trần;
2009 Chuyển trách nhiệm thực thi bộ luật nhãn mác từ JFTC tới Cơ quan bảo vệ
người tiêu dùng Nhật Bản.
Sửa đổi Luật AMA
Mở rộng đối tượng hành vị chịu hình phạt phụ bằng việc kết hợp hành vi độc
quyền tư nhân và một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Ban hành hệ thống thông báo về thị phần trong mua bán và xem xét lại các quy
định về thông báo ngưỡng.
1.3. Nguồn lực
Năm Nhân viên Điều tra viên Ngân sách
(Tỷ Yên)
2011 799 452 8.92
2010 791 451 8.96
2009 779 442 8.45
2008 795 429 8.66
2007 765 409 8.42
2006 737 383 8.34
2005 706 360 8.13
1.4. Bổ nhiệm ngƣời đứng đầu cơ quan
1.4.1. Danh sách lãnh đạo (tiền nhiệm)
Tên Tiển nhiệm
Chủ tịch Kazuhiko Takeshima Trợ lý tổng thư ký
Ủy viên Michiyo Hamada Hiệu trưởng đại học Luật, Đại học Nagoya
Kiyoshi Hosokawa Chánh án tòa án tối cao Nagoya
Hiroyuki Odagiri Giáo sư – Đại học Seijo
Hideo Makuta Vụ trưởng, Vụ phụ trách các vấn đề hình
sự, Văn phòng mua sắm công tối cao
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
254
1.4.2. Thủ tục bổ nhiệm lãnh đạo cơ quan
JFTC gồm 01 Chủ tịch và 4 Ủy viên. Ủy viên và Chủ tịch là các chuyên gia luật và
kinh tế tuổi đời từ 35 trở lên, được Thủ tướng bổ nhiệm trên cơ sở sự đồng thuận của cả
thượng viện và hạ viện. Việc bổ nhiệm Chủ tịch do Nhật hoàng thông qua.
Chủ tịch và các Ủy viên được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 05 năm và phải nghỉ hưu ở
tuổi 70. Họ không bị miễn nhiệm trừ khi gây ra sai phạm trong thời gian đương nhiệm.
Chủ tịch chủ trì công việc và là đại diện của JFTC.
1.5. Căn cứ để đảm bảo tính độc lập của cơ quan cạnh tranh
Để đảm bảo tính độc lập trong quyết định của JFTC Bản, bên cạnh sự độc lập về
mặt lợi ích với các chủ thể khác, Luật Chống độc quyền còn đưa ra các quy định để đảm
bảo cho tính độc lập và trung lập trong quyết định của chủ tịch và các ủy viên của JFTC.
Điều 28 quy định ―Chủ tịch và các ủy viên của JFTC thực hiện nhiệm vụ của họ một
cách độc lập‖.Tuy điều này chưa tạo ra được một cơ cấu cụ thể để tạo ra tính độc lập
trong quyết định của Chủ tịch và các Ủy viên nhưng chính điều này đã tạo ra cơ sở pháp
lý rất quan trọng cho tính độc lập này.
Để đảm bảo cho việc các quyết định của Chủ tịch và Ủy viên là trung lập và không
bị ảnh hưởng, trong điều 31 “Chủ tịch và các ủy viên sẽ không bị bãi nhiệm trong thời
hạn nhiệm kỳ trái ý muốn của họ” ngoại trừ những trường hợp sau:
i. Khi người này bị tòa án phán xét là không có năng lực, hầu như không có năng
lực, hoặc rơi vào tình trạng phá sản;
ii. Khi người này bị bãi miễn bởi hình phạt kỷ luật;
iii. Khi người này bị phạt vì vi phạm Luật này;
iv. Khi người này bị kết án tù hoặc bị kết án nặng hơn;
v. Khi Ủy ban Thương mại Lành mạnh quyết định rằng người này không đủ khả
năng thực hiện nhiệm vụ của mình vì lý do suy sụp về thể xác và tinh thần;
vi. Khi không giành được sự thông qua tiếp theo của cả hai Viện của Nghị viện như
trong trường hợp quy định tại mục (4) của Điều trên đây.
Đồng thời trong Điều 36 quy định về lương của Chủ tịch và Các ủy viên của JFTC
có quy định như sau nhằm nâng cao tính độc lập trong lợi ích của Chủ tịch và các Ủy
viên:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
255
"1. Lương của Chủ tịch và các ủy viên sẽ được cấp riêng;
2. Lương của Chủ tịch và ủy viên không bị cắt giảm ngược lại với ý muốn của họ khi
họ đang trong nhiệm kỳ"
1.6. Cơ cấu tổ chức
Dưới Ủy ban là Ban thư ký chung.
Tổng thư ký tiến hành tố tụng hành chính của JFTC.
Tổng thư ký thực hiện các thủ tục tố tụng hành chính của Ban Thư ký. Ban Thư ký
gồm thư ký, Cucj các vấn đề kinh tế; Cục điều tra và các văn phòng khu vực đặt tại
Hokkaido (Sapporo) Tohoku (Sendai), Chubu (Nagoya), Kinki (Osaka), Chūgoku
(Hiroshima), Shikoku (Takamatsu) và Kyushu (Fukuoka).
Dưới Cục Các vấn đề kinh tế, có Phòng Thương mại và dưới Cục điều tra có các
phòng điều tra hình sự.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
1.7 Cơ cấu tổ chức:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
257
1.8. Chức năng
1.8.1. Thực thi Luật (chủ yếu là Luật chống độc quyền)
Nhằm mục đích duy trì, ổn định hoạt động cạnh tranh bình đẳng, tự do trên thị
trường, JFTC chịu trách nhiệm thực thi 3 văn bản pháp luật: Luật Chống độc quyền và
Luật Hợp đồng phụ. JFTC đã nỗ lực đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh thông
qua việc ban hành các lệnh đình chỉ và chấm dứt khi phát hiện hành vi cạnh tranh bất
hợp pháp và các lệnh phạt tiền đối với những hành vi các-ten.
1.8.2. Triển khai chính sách cạnh tranh
Trong nỗ lực xây dựng cơ chế kinh tế tự do, cởi mở, bình đẳng và năng động,
JFTC đã chủ động thúc đẩy cải cách mới các quy định và tích cực tham gia ban hành
các chính sách cạnh tranh. Những cố gắng này nhằm mục đích định hướng cho việc
nâng cao chất lượng của Luật Chống độc quyền, đưa ra những nghiên cứu, đề xuất cải
cách pháp luật và hoàn thiện các hướng dẫn hành chính về hạn chế cạnh tranh, đẩy
mạnh hoàn thiện hệ thống hợp đồng đấu thầu công, xây dựng và sửa đổi các chỉ dẫn
khác nhau được xem như các biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm.
2. Thực thi Luật
2.1. Thực thi Luật chống độc quyền và Luật hợp đồng phụ
2.2. Phạm vi của Luật cạnh tranh
Cấm độc quyền tƣ nhân
(Điều 3)
Hành vi kiểm soát hay loại trừ các doanh nghiệp khác
nhằm hạn chế cạnh tranh trên một thị trường liên quan
Cấm hành vi hạn chế
thƣơng mại không chính
đáng (Điều 3)
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, thông đồng đấu thầu
v..v
(Gồm chương trình khoan hồng)
Cấm các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh
(Điều 19)
Hành vi nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Điều khoản về Mua bán và
Sáp nhập (Chƣơng IV)
M&A hạn chế cạnh tranh trên một thị trường liên
quan
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
258
3. Quyền hạn thực thi Luật
3.1. Hành chính
3.1.1. Quyền khởi tố điều tra vụ việc
JFTC tiến hành điều tra sơ bộ thông qua các thông tin thu được từ công chúng
cũng như tự phát hiện vụ việc.
Sau khi điều tra sơ bộ, nếu Cục trưởng Cục điều tra tìm thấy một số nghi vấn làm
cơ sở cho vụ kiện, Cục sẽ gửi báo cáo lên Ủy Ban về sự cần thiết của một cuộc điều tra
và làm rõ gồm (i) lời nói đầu, (ii) bản tóm tắt các sự kiện, và (iii) luật có liên quan
càng nhiều càng tốt.
Trong trường hợp Ủy ban thấy rằng vụ việc cần phải được áp dụng một biện
pháp hành chính, chẳng hạn như một lệnh trình, vv, Ủy ban sẽ chỉ định các điều tra
viên phụ trách vụ việc đó.
Chƣơng trình khoan hồng
Chương trình khoan hồng được ban hành từ năm 2005. Trong chương trình
khoan hồng, thực hiện thông báo hành vi càng sớm trước khi JFTC bắt đầu điều tra
bao nhiêu thì các khoản được miễn giảm sẽ càng nhiều bấy nhiêu. Hệ thống này áp
dụng cho tổng số là 5 ứng viên vào một cơ sở đầu tiên đến trước được miễn trừ, bao
gồm cả báo cáo về trường hợp bất hợp pháp sau khi bắt đầu điều tra.
Đơn đầu tiên trƣớc khi tiến hành điều tra Miễn tất cả các hình phạt
Đơn thứ 2 trƣớc khi tiến hành điều tra Giảm 50% mức phạt
Đơn thứ 3 trƣớc khi tiến hành điều tra Giảm 30% mức phạt
Đơn sau khi tiến hành điều tra Giảm 30% mức phạt
3.1.2. Quyền điều tra vụ việc
Phương pháp thu thập các bằng được các điều tra viên của JFTC sử dụng gồm:
(i) việc ban hành lệnh để thu thập bằng chứng hoặc để giữ bằng chứng thông qua
điều tra tại chỗ;
(ii) ghi chép các báo cáo thông qua các cuộc phỏng vấn, và
(iii) ban hành các lệnh để báo cáo, v…v
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
259
A. Trình tự
Điều 47 khoản (1), mục (iv) của AMA xác định phạm vi điều tra tại chỗ, tiến
hành từ JFTC là "bất kỳ văn phòng kinh doanh của người có liên quan trong vụ việc
hoặc các địa điểm cần thiết khác", các điều tra viên được phép thực hiện, và thực sự
thực hiện, điều tra tại chỗ không chỉ đối với người có liên quan với trường hợp mà còn
cho các đối tác kinh doanh của họ, vv
Trường hợp tài liệu hoặc bằng chứng khác được coi là cần thiết trong một cuộc
điều tra như là kết quả của một cuộc điều tra tại chỗ, các điều tra viên yêu cầu người
đại diện của các bên liên quan nộp tài liệu đó hoặc các bằng chứng đồng thời giữ
chúng, theo quy định của Điều 47 , khoản (1), mục (iii) của AMA.
B. Ghi âm khi phỏng vấn
Điều 47 khoản (1), mục (i) của AMA cho phép các điều tra viên của JFTC yêu
cầu người có liên quan trong vụ việc hoặc nhân chứng tham gia thẩm vấn.
Các điều tra viên sẽ chuẩn bị ghi âm về thẩm vấn sau khi thẩm vấn những người
liên quan trong vụ việc hoặc nhân chứng.
- Lệnh triệu tập và thẩm vấn bắt buộc
Theo Mục 1 Khoản 1 Điều 47 của AMA, cho phép điều tra viên của JFTC có thể
triệu tập nhân chứng và những người có liên quan để tiến hành thẩm vấn. Điều tra viên
phải ghi lại nội dung của buổi thẩm vấn bằng Biên bản thẩm vấn sau khi buổi thẩm
vấn kết thúc.
- Phỏng vấn tự nguyện
Các điều tra viên cũng có thể yêu cầu người có liên quan trong vụ việc hoặc nhân
chứng tiến hành các cuộc phỏng vấn tự nguyện, và tiến hành ghi âm các cuộc phỏng
vấn.
C. Thông qua yêu cầu báo cáo
- Lệnh báo cáo
Điều 47 khoản (1), mục (i) của AMA cho phép các điều tra viên của JFTC có thể
yêu cầu người có liên quan trong vụ việc hoặc nhân chứng đưa ra ý kiến hay báo cáo
một cách tự nguyện.
- Yêu cầu báo cáo
Các điều tra viên cũng có thể yêu cầu người có liên quan trong vụ việc hoặc nhân
chứng đưa ra ý kiến hay báo cáo một cách tự nguyện.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
260
Tuy nhiên, khi các điều tra viên định thu thập ý kiến, báo cáo từ người có liên
quan trong vụ việc, họ thường ra tiến hành bằng lệnh. Yêu cầu nộp tự nguyện được
thực hiện chủ yếu là để làm chứng.
3.1.3. Quyền ra quyết định
(1) Báo cáo kết quả điều tra
Khi cuộc điều tra vụ án đã được hoàn thành, Cục trưởng cục điều tra báo cáo kết
quả cho Ủy Ban.
Các báo cáo phải bao gồm (i) một lời nói đầu, (ii) quá trình điều tra, (iii) một bản
tóm tắt các sự kiện, (iv) các bài viết có liên quan, và (v) các ý kiến của các điều tra
viên. (Mục 23 của Quy chế điều tra) Bản tóm tắt các sự kiện còn bao gồm bằng chứng
hỗ trợ, cụ thể là nội dung ghi ấm các cuộc phỏng vấn với người có liên quan đến vụ
việc và / hoặc các nhân chứng và vật chứng thu thập được như một phần của cuộc điều
tra.
(2) Giải thích trƣớc về nội dung lệnh chấm dứt và tạm dừng điều tra, vv, ý
kiến và giao nộp các bằng chứng, vv, của ngƣời có liên quan
A. Thông báo trƣớc
Nếu JFTC thấy thích hợp để chấm dứt và tam dừng điều tra được mô tả ở trên,
JFTC sẽ thông báo các nội dung của lệnh chấm dứt và tạm dừng tới người có liên
quan, bằng cách gửi một tài liệu mô tả (i ) Nội dung của lệnh ngừng và chấm dứt, (ii)
các yếu tố liên quan được tìm thấy bởi các JFTC, và áp dụng pháp luật và các quy định
liên quan, (iii) cơ hội để bày tỏ ý kiến và giao nộp các bằng chứng liên quan đến các
vấn đề được liệt kê trong (i) và (ii) cho JFTC và thời hạn. (Điều 49, khoản (5) của
AMA, Mục 24 của Quy tắc điều tra)
Khi ban hành lệnh phạt bổ sung, các JFTC phải thông báo cho người có liên
quan, thay cho (i) và (ii) ở trên, (i) số tiền phạt dự định sẽ phải trả và (ii) cơ sở tính
toán các khoản phạt và các hành vi vi phạm liên quan đến việc phạt này. (Điều 50,
khoản (6) của AMA, mục 29 của Quy định điều tra)
B. Giải thích
Khi có yêu cầu từ phía người nhận được thông báo đề cập đến trong mục A trên
hoặc từ phía cơ quan, các điều tra viên phải giải trình về nội dung (i) của lệnh ngừng
và chấm dứt, (ii) các yếu tố tìm thấy từ JFTC, áp dụng các điều khoản từ AMA. Trong
trường hợp này, các điều tra viên cũng cần giải thích bằng chứng cần thiết để cung cấp
những căn cứ để giải thích đến người liên quan. (Điều 25 của Quy tắc điều tra) giải
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
261
thích cũng được cho về các thông báo trước của lệnh thanh toán. (Mục 29 và 25 của
Quy tắc điều tra)
C. Báo cáo ý kiến và giao nộp các bằng chứng từ đối tƣợng điều tra
Một người nhận được thông báo đề cập đến trong mục A. có thể gửi ý kiến bằng
văn bản hoặc bằng chứng tới JFTC trong một ngày cụ thể. Khi nộp chứng cứ, những
người có trách nhiệm làm rõ những vấn đề mà họ đang tìm cách chứng minh. JFTC có
thể cho phép người có liên quan bày tỏ ý kiến của mình bằng lời nói trong trường hợp
đặc biệt cần thiết. (Điều49, đoạn (3) của AMA, mục 26 của Quy chế điều tra)
(3) Lệnh tạm dừng thực hiện hành vi
JFTC ban hành lệnh tạm ngừng thực hiện hành vi hay các hình phạt phụ sau khi
xem xét đầy đủ ý kiến và bằng chứng từ những người liên quan đến việc giải thích tại
mục (2) ở trên.
3.2. Hình sự
3.2.1. Quyền khởi tố điều tra vụ việc
Sau khi điều tra sơ bộ, nếu JFTC thấy cần thiết bắt đầu một cuộc điều tra bắt
buộc đối với vụ án hình sự, JFTC có thể tiến hành khởi tố điều tra.
Trong điều tra bắt buộc đối với vụ án hình sự, Thẩm phán có thể ra lệnh tiến
hành việc cưỡng chế khám xét các doanh nghiệp có liên quan nếu cần thiết.
3.2.2. Quyền đƣa ra quyết định
Khi kết thúc điều tra sơ bộ, Cục trưởng Cục điều tra sẽ thông báo kết quả tới Ủy
ban.
Nếu kết quả điều tra cho thấy các cáo buộc hình sự là có căn cứ, cáo buộc này sẽ
được chuyển tới Viện trưởng viện kiểm sát
3.3. Mua bán sáp nhập (M&A)
3.3.1. Xem xét sơ bộ
(1) Tiếp nhận hồ sơ thông báo
Mẫu hồ sơ thông báo của kế hoạch M&A và giấy tờ cần có được qui định tại
Điều 2-6, 5, 5-2, 5-3 và 6 của Nguyên tắc Thông báo. Khi tiếp nhận hồ sơ thông báo,
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
262
JFTC sẽ đưa cho doanh nghiệp thông báo giấy tiếp nhận hồ sơ theo qui định tại Điều
7, đoạn (1) và (2) của Nguyên tắc Thông báo.
(2) Kết thục điều tra sơ bộ
Theo kết quả xem xét sơ bộ, JFTC sẽ: (1) quyết định M&A bị nghi nghờ không
có vấn đề gì theo AMA và đưa ra thông báo rằng cơ quan sẽ không đưa ra thông báo
trước theo điều khoản của Điều 9 của Nguyên tắc Thông báo, hoặc; (2) quyết định cần
xem xét chi tiết hơn và yêu cầu báo cáo v..v...
Khi doanh nghiệp thông báo yêu cần rút ngăn thời hạn chờ và phán quyết của
JFTC là (1) ở trên, JFTC sẽ nhanh chóng thông báo rằng cơ quan sẽ không đưa ra
thông báo trước theo điều khoản của Điều 9 của Nguyên tắc Thông báo và rút ngắn
thời hạn chờ cho đến hạn của thông báo đã nói.
Thêm vào đó, bất kỳ vụ việc nào khác mà có thông tin hữu ích cho các doanh
nghiệp khác xét xử trong giai đoạn xem xét sơ bộ sẽ được thông báo công khai bởi
JFTC. Những vụ việc như thế bao gồm những vụ mà JFTC coi là không có vấn đề theo
AMA với điều kiện là cần có biện pháp khắc phục bằng cách thông báo cho doanh
nghiệp trong giai đoạn xem xét sơ bộ.
3.3.2. Xem xét lần hai
(1) Yêu cầu báo cáo..v.v.
Khi JFTC yêu cầu doanh nghiệp thông báo trình lên báo cáo…, JFTC sẽ gửi đến
doanh nghiệp thông báo bản yêu cầu báo cáo… như được qui định tại Điều 8, đoạn (1)
của Nguyên tắc Thông báo, và khi JFTC nhận được tất cả báo cáo… từ doanh nghiệp
thông báo, cơ quan sẽ sẽ gửi đến bản tiếp nhận báo cáo… như được qui định tại đoạn
(2) của Điều trên. Khi yêu cầu báo cáo…, theo điều khoản của câu thứ hai của đoạn
(1) của cùng Điều trên, JFTC sẽ giải thích lý do yêu cầu báo cáo.. bằng văn bản yêu
cầu báo cáo…
Khi JFTC yêu cầu doanh nghiệp thông báo trình lên báo cáo…, JFTC sẽ công bố
cho công chúng.
(2) Nghe quan điểm của bên thứ ba
Bất kỳ bên nào có ý kiến về kế hoạch M&A mà JFTC đã công bố yêu cầu báo
cáo… theo như (1) ở trên, có thể gửi lên ý kiến dưới dạng văn bản đến JFTC trong
vòng 30 ngày từ ngày công bố đã nói.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
263
(3) Kết thúc xem xét lần hai
A. Thông báo… liên quan đến kết thúc xem xét lần hai
Theo kết quả xem xét lần hai, JFTC sẽ: (1) quyết định M&A bị nghi nghờ không
có vấn đề gì theo AMA và đưa ra thông báo rằng cơ quan sẽ không đưa ra thông báo
trước theo điều khoản của Điều 9 của Nguyên tắc Thông báo, hoặc; (2) thông báo
trước. Trong trường hợp (1), JFTC sẽ giải thích kết quả xem xét bao gồm cả lý do đưa
đến kết quả. Trong trường hợp (2), thủ tục sẽ dựa theo điều khoản của Chương VIII,
Mục II của AMA.
B. Công bố kết thúc xem xét lần hai
Khi JFTC xem xét, dựa vào kết quả xem xét lần hai, rằng M&A bị nghi nghờ
không có vấn đề gì theo AMA và đưa ra thông báo rằng cơ quan sẽ không đưa ra
thông báo trước theo điều khoản của Điều 9 của Nguyên tắc Thông báo, JFTC sẽ công
bố công khai kết quả xem xét đã nói.
3.4. Số liệu thực thi Luật cạnh tranh
3.4.1. Số lƣợng quyết định/vụ việc
3.4.1.1. Hành chính
Số lƣợng các biện pháp khắc phục hậu quả (2006 -2010)
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Số vụ việc 13 24 17 26 12
3.4.1.2. Hình sự
Số lƣợng các vụ việc cáo buộc hình sự nộp Viện kiếm sát
2006 2007 2008 2009 2010
2 1 1 0 0
3.4.1.3. Mua bán và Sáp nhập
Số lƣợng thông báo Sáp nhập
2006 2007 2008 2009 2010
74 76 69 48 11
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
264
3.2.2. Tiền phạt
Thanh toán phụ phí
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Số lệnh 158 162 87 106 156
Tổng số (Triệu
Yên)
9263 11296 27036 36074 72087
4. Thẩm quyền hoạch định chính sách
4.1. Soạn thảo/Ban hành Luật
JFTC chịu trách sửa sửa đổi Luật chống độc quyền, Luật Hợp đồng phụ và các
Thông tư của Chính phủ.
JFTC cũng chịu trách nhiệm việc ban hành các quy tắc của JFTC bằng cách tham
khảo ý kiến công khai về thủ tục.
4.2. Ban hành Hƣớng dẫn
Nhằm tăng cường tính minh bạch, tính pháp ly’ trong việc thực thi Luật chống
độc quyền, JFTC đã biên soạn các Hướng dẫn các vấn đề liên quan đến AMA.
4.3. Một số công việc khác
JFTC ban hành các điều chỉnh về pháp luật, chính sách với các cơ quan quản ly’
khác (Bộ và những cơ quan khác).
Nếu cần thiết, JFTC có thể yêu cầu người đứng đầu cơ quan hành chính liên quan
gửi và giải thích các tài liệu cần thiết, mặt khác, JFTC cũng góp y’ cho các chính sách
của các cơ quan hành chính có liên quan khác. (Điều 58, đoạn (8), Đạo luật thành lập
của Văn phòng Nội Các).
5. Quy trình xử lý vụ việc
5.1. Thủ tục điều tra
5.2. Thủ tục ra quyết định
---Như đã đề cập ở đoạn 3.1., 3.2. và 3.3.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
265
5.3. Kháng cáo
Hiện tại, bất kỳ người nào người không hài lòng với biện pháp hành chính từ
JFTC có thể yêu cầu JFTC bắt đầu phiên điều trần về các biện pháp hành chính đó.
Phiên điều trần được tiến hành dưới sự JFTC. Tuy nhiên, hệ thống của phiên điều trần
có thể là thiếu công bằng vì chính JFTC sẽ xác định tính phù hợp của biện pháp mà cơ
quan đó tiến hành.
Để đối phó với những chỉ trích về sự công bằng trong các thủ tục được mô tả ở
trên, một dự luật sửa đổi của AMA đã được trình lên vào tháng 3 năm 2010. Nội dung
của dự luật là như sau:
A. Thủ tục điều trần của JFTC về kháng cáo sẽ được bãi bỏ và các điều khoản
pháp ly’ trong các trường hợp đầu tiên về khiếu nại đối với quyết định đưa ra tại phiên
điều trần của JFTC trách nhiệm của các cao Toà án Tokyo sẽ được bãi bỏ.
B. Để đảm bảo tính chuyên môn kỹ thuật trong tòa án và một số mục đích khác,
thẩm quyền trong kháng cáo chống lại lệnh tạm dừng thực hiện hành vi v..v sẽ do Tòa
án quận Tokyo đảm nhiệm, một danh sách gồm từ ba đến năm thẩm phán sẽ nghe thử
và đưa lại các quyết định tư pháp.
C. Đối với các thủ tục điều trần liên quan đến lệnh tạm dừng thực hiện hành vi
điều tra, v…v, các quy định sẽ được ban hành để giải thích về nội dung của lệnh nói
trên và sao chép các chứng cứ bảo đảm đúng thủ tục.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
267
II. Ủy ban Thƣơng mại liên bang Hoa Kỳ và Cục Chống độc quyền của
Bộ Tƣ Pháp
1. Thông tin chung
1.1 Tên cơ quan
Ở Hoa Kỳ có hai cơ quan chính phụ trách thi hành Luật Cạnh tranh bao gồm
Ủy ban Thưong mại liên bang Hoa Kỳ (US FTC) và Cục Cạnh tranh thuộc Bộ Tư
Pháp (DOJ). Mỗi cơ quan chịu trách nhiệm thi hành một số mảng nhất định trong
Luật Cạnh tranh.
1.2 Tóm tắt lịch sử phát triển
1.2.1 US FTC
Cục Doanh nghiệp tập đoàn là tiền thân của Ủy ban Thương mại liên bang
Hoa Kỳ; việc chuyển đổi từ Cục này sang thành Ủy ban Thương mại liên bang Hoa
Kỳ được bắt nguồn từ Quyết định của Tòa án tối cao năm 1911 đối với vụ việc liên
quan đến xăng dầu. Sau khi vụ việc này kết thúc vào năm 1914, Quốc hội đã quyết
định thành lập một cơ quan hành chính có thể trực tiếp ngăn chặn những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, từ đó đưa ra định nghĩa chính xác về những hành vi bị
cấm và sử dụng quyền lực pháp lý để xử lý hành vi này cũng như áp dụng Luật
Clayton.
1.2.2 Cục Chống độc quyền của Bộ Tư pháp
Luật Chống độc quyền Sherman bắt đầu có hiệu lực tại thời điểm Bộ trưởng
Bộ Tư pháp thông qua năm 1890 cho đến thời điểm Văn phòng Thứ trưởng được
thành lập năm 1903 dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Roosevelt và Bộ trưởng
Philander Knox.
Thứ trưởng phụ trách giải quyết các vấn đề liên quan đến chống độc quyền từ
năm 1903 đến năm 1933. Trong khoảng thời gian này, ngày 15/10/1914, Luật
Clayton cũng đã có hiệu lực. Năm 1933, chính quyền Roosevelt và Bộ trưởng
Homer S.Cummings, Cục Chống độc quyền đã được thành lập để thực thi hiệu quả
Luật Cạnh tranh.
1.3 Chức năng của Cơ quan cạnh tranh
1.3.1. Ủy ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ
+Ngăn chặn hành vi kinh doanh phản cạnh tranh hoặc gây bất lợi đối với
người tiêu dùng
+Tăng cường quyền lựa chọn của người tiêu dùng và nhận thức của công
chúng về cạnh tranh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
268
+Hoàn thành những nhiệm vụ trên nhưng không gây ra bất kỳ rào cản hay
gánh nặng pháp lý đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1.3.2 Cục Chống độc quyền của Bộ Tư pháp
Cục Chống độc quyền có chức năng đẩy mạnh cạnh tranh kinh tế thông qua
việc thi hành và hướng dẫn thi hành Luật Chống độc quyền và các quy định liên
quan.
1.4. Nhân lực và ngân quỹ
1.4.1 Ủy ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ
2005 2006 2007 2008 2009
Nhân viên 293 317 382 361 509
Ngân quỹ
($)
85,700,000 86,100,000 94,500,000 102,000,000 108,000,000
1.4.2 Cục Chống độc quyền của Bộ Tư pháp
2005 2006 2007 2008 2009
Nhân viên 770 768 789 782 792
Ngân quỹ
($)
138,800,000 144,000,000 147,800,000 147,800,000 157,800,000
1.5 Bổ nhiệm lãnh đạo
1.5.1 Ủy ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ
Đứng đầu Ủy ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ là một nhóm ủy viên gồm 05
người do Tổng thống đề cử và Thượng viện thông qua, mỗi thành viên có nhiệm kỳ
07 năm. Tổng thống sẽ chọn một trong số 05 Ủy viên làm Chủ tịch. Bên cạnh đó,
nhiều nhất 03 ủy viên được phép thuộc cùng một Đảng.
Ông Jon Leibowitz được bầu làm chủ tịch US FTC từ ngày 02/03/2009.
Hiện tại, các Ủy viên là Julie Brill, Edith Ramirez, và J. Thomas Rosch.
1.5.2. Cục Chống độc quyền của Bộ Tư pháp
Cục Chống độc quyền do Thứ trưởng Bộ Tư pháp giám sát, do Tổng thống đề
cử và Thượng viện thông qua.
Hiện nay, ông Joseph Wayland đảm nhiệm chức Quyền Thứ trưởng từ tháng
4/2012.
1.6 Tổ chức
1.6.1 Ủy ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
269
Trụ sở của US FTC được đặt tại thủ đô Washington, hoạt động rộng rãi trên
07 bang của Mỹ. US FTC chịu trách nhiệm quản lý 3 cơ quan chính: Cơ quan bảo
vệ người tiêu dùng; Cơ quan cạnh tranh và Cơ quan kinh tế. Bên cạnh đó, các Văn
phòng Tư vấn chung, Văn phòng Điều tra chung; Văn phòng Hợp tác quốc tế; Văn
phòng Giám đốc điều hành và các Văn phòng đại diện ở 07 Bang khác.
Sơ đồ tổ chức của USFTC:
1.6.2 Cục Chống độc quyền của Bộ Tư pháp
Thứ trưởng được hỗ trợ bởi 5 trợ lý, có thể là cán bộ chuyên tu. Mỗi bộ phận
và văn phòng thông báo cho 1 Trợ lý nhất định. Giám đốc và phó giám đốc điều
Văn phòng Thư ký Donald S. Clark
Văn phòng Giám đốc
Eileen Harrington
Cục Kinh tế Joseph Farrel
Văn phòng tư vấn chung
Willard K. Tom
Văn phòng khu vực về Bảo vệ
người tiêu dùng David Vladeck
Cục cạnh tranh Richard Feinstein
Văn phòng đại diện các bang
Văn phòng Thẩm phán Luật hành chính
D. Michael Chappell
Văn phòng điều tra chung John Seeba
Văn phòng thư ký Donald S. Clark
Chủ tịch Jon Leibowitz - - - - - - - - - - -
Trưởng tham mưu Joni Lupovitz
Ủy viên Julie Brill
Ủy viên
Trống Ủy viên
J. Thomas Rosch
Ủy viên Edith Ramirez
Văn phòng Quan hệ quốc tế
Randolph W. Tritell
Văn phòng Hoạch định chính sách
Susan S. DeSanti
Văn phòng hành chính công
Cecelia Prewett
Văn phòng Quan hệ Quốc hội
Jeanne Bumpus
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
270
hành, giám đốc Bộ phận thực thi luật hình sự và bộ phận thực thi kinh tế có thêm
quyền giám sát đối với chương trình của họ và là cán bộ chuyên tu.
Bộ phận này có nhiều chi nhánh ở nhiều nơi, như là Alanta, Chicago,
Cleveland, Dallas.
Sơ đồ tổ chức của Cục Chống độc quyền của Bộ Tư pháp như sau:
LEGAL POLICY
DAAG ECONO
MIC ANALYI
S
DAAG INTERNATIO
NAL ENFORCEM
ENT
DAAG CRIMINAL ENFORCE
MENT
DAAG REGULAT
ORY MATTERS
DAAG CIVIL
ENFORCEMENT
ASSISTANT ATTORNEY GENERAL
EXECUTIVE OFFICE
APPELLATE
SPECIAL COUNSEL
FOREIGN
COMMERCE
ECONOMIC
REGULATORY
ECONOMIC
LITIGATION
COMPETI
TION POLICY
NETWORKS
&TECHNOLOGY
TELECOMM &
MEDIA
TRANSPORTATIONENERG
Y & AGRICULTUR
E
LITIGATIO
N I
LITIGATION II
LITIGATIO
N III
OFFICE OF
OPERATIONS
ATLANTA
CHICAGO
CLEVELAND
NEW YORK
PHILADEL
PHIA
NATIONAL CRIMINAL ENFORCE
MENT
DALLAS
SAN FRANCIS
CO
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
271
2. Thực thi Luật
2.1 Ủy ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ
USFTC có trách nhiệm thực thi các quy định hành chính được quy định trong
khoảng 46 Bộ Luật, nhóm thành 03 chủ đề chính, bao gồm (a) Các đạo luật liên
quan đến lĩnh vực cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng; cụ thể Luật Ủy ban
Thương mại liên bang; (b) Các đạo luật chủ yếu liên quan đến đến cạnh tranh, ví dụ
như Luật Clayton; và các đạo luật chủ yếu liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng.
Trong mỗi bộ luật, FTC chỉ phụ trách một số mảng cụ thể, bao gồm:
Luật Ủy ban thương mại liên bang (FTC Act) trao cho US FTC những quyền
hạn sau đây:
(1) ngăn chặn hành vi cạnh tranh không lành mạnh, những hành vi ảnh hưởng
xấu đến hoạt động thương mại;
(2) giúp người tiêu dùng lấy lại được bồi thường về vật chất và tinh thần khi
quyền của họ bị xâm hại
(3) Thi hành các quy định thương mại, trong đó nêu rõ những hành vi cụ thể
được coi là không lành mạnh hoặc gian dối; thiết lập những yêu cầu cụ thể để ngăn
chặn những hành vi đó;
(4) tiến hành điều tra tổ chức, doanh nghiệp, hành vi của chủ thể có liên quan
tham gia vào hoạt động thương mại; và
(5) Xây dưng báo cáo và kiến nghị trình liên Quốc hội.
Trong luật Clayton, trách nhiệm của FTC được quy định tại phần 3,7 và 8 với
nội dung ngăn chặn và phá bỏ những thỏa thuận hợp đồng trái pháp luật, thương vụ
mua bán sáp nhập hoặc ban quản trị phối hợp. Đạo luật này được chỉnh sửa bởi Luật
Robinson-Patman , theo đó Ủy ban được trao quyền hạn ngăn chặn những hành vi
liên quan đến đặt giá phân biệt và khuyến mại sản phẩm.
2.2 Cục chống độc quyền của Bộ Tư pháp
Cơ quan này tập trung nhiều hơn vào chức năng điều tra hạn chế cạnh tranh,
được quy định chủ yếu tại 2 bộ luật : Luật Sherman và Luật Clayton.
Nội dung chính của 2 bộ luật này được kiểm soát và thực thi bời Cục chống
độc quyền, cụ thể như sau:
Luật Sherman nghiêm cấm các hợp đồng, thỏa thuận, âm mưu hạn chế vô lý
hoạt động giao thương giữa các tiểu bang hoặc quốc tế. Những hành vi này bao gồm
thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm ấn định giá, thông thầu, phân chia
khách hàng; những hành vi này có thể bị phạt nặng tương tự như tội phạm hình sự
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
272
nguy hiểm. Luật Sherman còn nghiêm cấm các hành vi độc quyền hóa bất cứ khu
vực nào trong hệ thống thương mại liên bang. Độc quyền trái luật tồn tại khi một
công ty kiểm soát thị trường của một loại hàng hóa hoặc dịch vụ đồng; thời nắm giữ
sức mạnh thị trường không phải vi loại hàng hóa hoặc dịch vụ đó ưu việt hơn các
loại hàng hóa khác mà bởi vì hoạt động cạnh tranh bị kiềm chế bởi hành vi phản
cạnh tranh.
Luật Clayton là bộ luật dân sự (không quy định xử phạt hình sự) trong đó quy
định nghiêm cấm hoạt động sáp nhập hoặc mua bán có nguy cơ hạn chế cạnh tranh.
Theo như bộ luật này, chính phủ ngăn chặn những thương vụ sáp nhập có thể tạo
nên sự tăng giá hàng hóa làm ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng. Tất cả
những chủ thể có kế hoạch tiến hành sáp nhập hoặc mua bán với giá trị vượt quá
mức nhất định phải thông báo với Cục Chống độc quyền và US FTC. Bộ Luật này
cũng nghiêm cấm những hành vi ảnh hưởng tới cạnh tranh trong mọi trường hợp.
3. Quyền hạn thực thi Luật
3.1. Các vụ việc hành chính
3.1.1 US FTC
Trong quá trình xử lý hành chính, US FTC có quyền ra phát quyết sơ bộ một
hành vi cụ thể vi phạm luật
Xét xử: Theo phần 5(b) của Luật FTC, US FTC có thể xem xét hành vi cạnh
tranh không lành mạnh hoặc hành vi gian dối trong kinh doanh (hoặc hành vi liên
quan đến bảo vệ người tiêu dùng) thông qua bước xét xử hành chính. Khi đã có đầy
đủ lý do kết luận rằng có hành vi vi phạm luật cạnh tranh, Ủy ban có thể phát hành
lệnh buộc tội. Nếu bị đơn chấp nhận với cáo buộc, họ sẽ phải ký vào biên bản đồng
ý (không cần xác nhận pháp lý) liên quan đến việc chấp nhận đi đến quyết định cuối
cùng đồng thời tự nguyện từ bỏ các quyền liên quan đến rà soát pháp lý. Nếu như
US FTC chấp nhận biên bản đồng í này, quyết định liên quan sẽ được công bố lấy ý
kiến trong vòng 30 ngày ( hoặc trong khoảng thời gian US FTC quy định) trước khi
đưa ra kết luận cuối cùng.
Theo như quy định ở trên, khi US FTC đưa ra quyết định thông qua bước xét
xử hành chính về hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc gian dối thương mại,
US FTC phối hợp với tòa án để tiến hành lệnh xử phạt dân sự hoặc bồi thường cho
người tiêu dùng do hành vi vi phạm luật
Như diễn giải ở phần trên, tuy Ủy ban US FTC đã xác định thông qua quá
trình xét xử và phán quyết rằng một hành vi là hành vi không lành mạnh hoặc lừa
đảo, US FTC vẫn cần có những hỗ trợ từ Tòa án để đưa ra những mức phạt dân sự
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
273
hoặc khắc phục hậu quả gây ra đối với người tiêu dùng đối với hành vi vi phạm đó,
chiểu theo quy định tạm ngừng hành vi và Quy định các quy tắc thương mại. Mục
13(b) của Luật FTC, 15 U.S.C Mục 53(b), cho phép US FTC đưa ra phán quyết sơ
bộ và nhằm khắc phục lâu dài ―bất kỳ hành vi vi phạm nào theo quy định của Luật‖.
3.1.2. Cục chống độc quyền của Bộ Tư Pháp
Chiểu theo Mục 2 của Luật Sherman, Cục Chống độc quyền của Bộ TP chủ
yếu tiến hành điều tra dân sự liên quan đến việc sử dụng Lệnh điều tra dân sự
(CID), một loại công cụ điều tra tiền khởi tố.
Lệnh điều tra dân sự (CID) là một loại lệnh điều tra chung được ban hành bởi
Thứ trưởng Bộ TP chiểu theo Luật Độc quyền dân sự. Lệnh này sẽ được gửi tới đối
tượng được Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng quy kết là ―sở hữu, kìm hãm hoặc kiểm
soát‖ một loại hàng hóa có liên quan đến điều tra dân sự. Lệnh này cũng có thể
được ban hành cùng với những hành vi bị nghi ngờ là vi phạm.
CID có thể được tiến hành dưới các dạng văn bản, lấy lời khai hoặc thẩm vấn.
3.2. Vụ việc hình sự
Cục chống độc quyền của Bộ TP chịu trách nhiệm chính trong các vụ việc hạn
chế cạnh tranh cũng như khởi tố vụ án ra tòa nếu thấy có dấu hiệu hình sự. Với chức
năng này, cơ quan này sẽ xử lý các hành vi vi phạm luật cạnh tranh bằng cách đưa
vụ án đó ra tòa với mức hình phạt như phạt tiền hoặc bỏ tù. Trong một số vụ việc
khác, cơ quan này có thể kết tội một hành vi dân sự nhất định bằng cách sử dụng
lệnh của tòa án cấm thực hiện những hành vi đó trong tương lại cũng như khắc phục
những hậu quả của hành vi vi phạm trước đó.
Có rất nhiều vụ việc được xử lý với sự hỗ trợ và phối hợp của các cơ quan
cạnh tranh nước ngoài và các văn phòng tư pháp quốc gia.
Phần lớn các vụ khởi tố dân sự đều liên quan đến các vấn đề ấn định giá, thông
đồng đấu thầu, phân chia thị trường hoặc mặt hàng. Bất cứ hình thức thỏa thuận nào
nêu trên nếu xảy ra trong vòng ít nhất 05 năm trở lại đây đều bị khởi tố hình sự,
ngay cả khi hành vi đó không có bằng chứng liên quan đến thỏa thuận chính thức
trên giấy tờ. Các hành vi thông đồng nêu trên có thể được tìm thấy thông qua các
bằng chứng liên quan đến lời khai của người tham gia, hoặc bằng chứng gián tiếp ví
dụ như tình tiết đầu thầu bị nghi ngờ, báo cáo công tác hoặc báo cáo chi tiêu, hóa
đơn điện thoại, nhật ký kinh doanh…
Ấn định giá hoặc thông đồng đấu thầu là hành vi vi phạm luật Sherman. Theo
đó, bất cứ hành vi thông đồng nào cũng sẽ không được bào chữa hay thanh minh, ví
dụ như thỏa thuận về giá là hợp lý, thỏa thuận đó nhằm ngăn chặn hoặc loại trừ khả
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
274
năng giảm giá hoặc phá hoại cạnh tranh; hoặc hành vi thông đồng chỉ đơn thuần
nhằm đảm bảo mỗi bên có thị phần bằng nhau trên thị trường.
3.3. Sáp nhập và Mua lại
Cả US FTC và Cục chống độc quyền (BTP) có chức năng tiếp nhận và rà soát
các vụ việc sáp nhập. Liên quan đến quá trình thông báo tiền sáp nhập, Luật Hart-
Scott-Rodino đã thiết lập chương trình thông báo tiền sáp nhập liên bang nhằm cung
cấp cho US FTC và Cục chống độc quyền những thông tin liên quan đến những kế
hoạch mua bán và sáp nhập lớn. Các công ty khi tiến hành các giao dịcc mua bán
cần phải nộp thông báo tiền sáp nhập cho US FTC và Cục chống độc quyền. Thông
báo phải bao gồm bản khai HSR (còn gọi là Bản thông báo và báo cáo về mua bán
và sáp nhập) đã hoàn thiện cùng với thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh
của mỗi bên. US FTC có trách nhiệm quản lý chương trình báo cáo tiền sáp nhập;
đội ngũ nhân viên thuộc chương trình này luôn có mặt sẵn sàng để trả lời các câu
hỏi liên quan đến cách thức và thời gian nộp hồ sơ báo cáo.
Thông tin chung đối với những đối tượng tham gia hành vi mua bán sáp nhập:
(1) Cá nhân tham gia vào hành vi thương mại trong phạm vi nước Mỹ, có ảnh
hưởng đến nền kinh tế Mỹ; (2) Lượng cổ phiếu hoặc tài sản được coi là kết quả của
quá trình mua bán vượt 50 triệu đo la và (3) Nếu giá trị giao dịch đạt 200 triệu đô la
(có thể điều chỉnh) hoặc ít hơn, một thành viên có doanh thu hoặc tài sản 100 triệu
đô la (có thể điều chỉnh) hoặc nhiều hơn, những thành viên khác có doanht thu
hoặc tài sản 10 triệu đô la (có thể điều chỉnh) hoặc nhiều hơn.
Cá nhân nộp hồ sơ cần phải đợi 30 ngày ( 15 ngày trong trường hợp có lệnh
mời mua cổ phiếu hoặc thông báo phá sản chiểu theo Phần 363(b) của Luật Phá sản
Mỹ ) tính từ ngày các bên nộp bộ hồ sơ hoàn chỉnh. Yêu cầu tiếp theo (thứ hai) có
thể được đưa ra trong trường hợp thời gian chờ đợi được kéo dài thêm 30 ngày tính
từ ngày các bên chấp nhận làm theo yêu cầu tiếp theo đó (10 ngày trong trường hợp
có lệnh mời mua cổ phiếu hoặc phá sản).
Kết thúc giai đoạn 30 ngày, cơ quan có thẩm quyền kết luận không có vấn đề -
giai đoạn xem xét kết thúc
Kết thúc giai đoạn 30 ngày, cơ quan có thẩm quyền vẫn đặt câu hỏi đối với
một số vấn đề - phát hành ―yêu cầu cung cấp thêm thông tin‖, thông thường được
gọi là ―yêu cầu thứ 2‖
Kết thúc giai đoạn yêu cầu thứ hai, nếu cơ quan có thẩm quyền kết luận không
còn vướng mắc, quá trình xétd duyệt kết thúc.
Trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền kiến nghị đây là giao dịch tiềm ẩn
ảnh hưởng đến thương mại, Cục chống độc quyền sẽ đưa vụ việc ra tòa; và US FTC
tiến hành các bước hành chính.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
275
3.4 Thông số liên quan đến thi hành Luật Cạnh tranh
3.4.1 US FTC
2005 2006 2007 2008 2009
Số lƣợng vụ việc xử
lý không liên quan
đến hoạt động sáp
nhập
4 6 11 4 7
Số lƣợng vụ việc xử
lý liên quan đến sáp
nhập
14 16 22 21 19
3.4.2. Cục chống độc quyền (Bộ Tư pháp)
Kết quả điều tra dân
sự
2005 2006 2007 2008 2009
Điều tra không liên
quan đến sáp nhập:
Hồ sơ nộp lên Tòa án
địa phƣơng
8 2 2 4 2
Điều tra sáp nhập: Hồ
sơ nộp lên Tòa án địa
phương
3 10 4 15 7
Vụ việc hình sự 2005 2006 2007 2008 2009
Tổng số vụ việc xử lý 32 34 40 54 72
Cá nhân 47 37 47 59 65
Doanh nghiệp 27 24 10 25 22
Vụ việc xử phạt 2005 2006 2007 2008 2009
Cá nhân: Tổng tiền
phạt ($000)
4,483 3,650 15,109 1,485 605
Số lƣợng cá nhân
bị phạt
22 17 25 23 27
Doanh nghiệp: Tổng
tiền phạt doanh
nghiệp ($000)
595,966 469,805 615,671 695,042 973,740
Số lƣợng doanh
nghiệp bị phạt
18 18 12 12 16
Tổng lượng phạt
($000)
600,449 473,455 630,780 696,527 974,345
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
276
4. Thẩm quyền hoạch định chính sách
4.1. US FTC
Theo phần 18 của Luật FTC, US FTC được trao quyền phác thảo ―những quy
định chỉ ra hành vi cụ thể mang tính không lành mạnh hoặc ảnh hưởng xấu đến hoạt
động thương mại‖ chiểu theo phần 5(a)(1) của cùng Bộ Luật đó. Trước khi tiến
hành viết Luật, US FTC cần phải có đủ lý lẽ để biện chứng rằng hành vi bị điều
chỉnh thường xuyên xuất hiện trong môi trường kinh doanh. Quy định của US FTC
được công bố trong Đề mục thứ 16 của Bộ Luật liên bang.
4.2 Cục chống độc quyền của Bộ Tƣ pháp
Nhằm đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền Luật, Cục chống độc quyền tổ chức
rất nhiều chương trình hướng tới mục tiêu phát triển thị trường, bảo đảm môi trường
kinh tế tự do lành mạnh. Các hoạt động bao gồm hoạt động hợp tác sâu rộng với các
cơ quan liên bang cũng như tổ chức cạnh tranh quốc tế; phối hợp với Tòa án tối cao
và các tòan án địa phương khác.
5. Quy trình xử lý vụ việc
5.1. Quy trình điều tra – Nhƣ đã đề cập ở phần 3.1; 3.2 và 3.3
5.2 Kháng án
5.2.1 USFTC
US FTC có thẩm quyền độc lập để khởi kiện trong một số trường hợp cụ thể,
thay cho vai trò của luật sư . Trừ một số trường hợp khác quy định theo pháp luật,
trong đó Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm thi hành và giải quyết các vụ kiện ,
trong đó Hoa Kỳ, hoặc một trong các cơ quan trực thuộc, đóng vai trò một bên của
vụ kiện. Một số quy định cụ thể liên quan đến tính đại diện trước Tòa án tối cao
theo Mục 16 (3), 15 U.S.C.Sec 56(3), định nghĩa một số trường hợp cụ thể mà Ủy
ban được phép kháng kiện lên Tòa án tối cao theo quy định của Luật dân sự, theo đó
Ủy ban FTC có tư cách là đại diện nguyên đơn tại Điều 15 U.S.C. 56 (1) hoặc (2).
5.2.2 Cục chống độc quyền, Bộ Tư pháp
Theo như quy định, Cục chống độc quyền có quyền hạn đưa ra lệnh khởi kiện
lên Tòa án địa phương. Nếu như các bên liên quan không đồng tình với quyết định
của tòa, họ có thể khởi kiện lên cấp cao hơn – tòa án tối cao.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
277
III.Ủy ban Thƣơng mại lành mạnh Đài Loan
1. Thông tin chung
1.1. Tên cơ quan
Ủy ban thương mại lành mạnh Đài Loan
1.2. Tóm tắt lịch sử phát triển
1.1.1. Năm thành lập --- 1992
Tóm tắt lịch sử phát triển
4/2/1991 Luật thương mại lành mạnh được ban hành
27/1/1992 Thành lập TFTC
4/2/1992 Luật thương mại lành mạnh chính thức có hiệu lực
3/2/1999 Luật thương mại lành mạnh được sửa đổi
30/21999 Các quy định về thực thi sửa đổi được thông báo
26/4/2000 Điều 9 của Luật thương mại lành mạnh được sửa đổi
6/2/2002 Luật thương mại lành mạnh được sửa đổi
19/6/2002 Các quy định về thực thi được sửa đổi
9/6/2010 Điều 21 của Luật thương mại lành mạnh được sửa đổi
1.3. Nguồn nhân lực
1.3.1. Nhân lực
2008 2009 2010
216 214 222
Chuyên ngành: 31% Luật; 22% Kinh tế, 47%: Khác (bao gồm ngành thống kê
số liệu, kế toán, quản trị kinh doanh và các ngành khác).
1.3.2. Ngân sách hoạt động
Không có thông tin
1.4. Bổ nhiệm ngƣời đứng đầu
1.4.1. Tên của ngƣời đứng đầu (nhiệm kỳ trƣớc)
Tên Chức vụ trước đây
Chủ tịch Tiến sĩ WU, Shiow-
Ming
Phó Chủ tịch TFTC
Ủy viên, Ủy Ban pháp chế, Hội
đồng dân tộc bản xứ
Chuyên gia tư vấn, Trung tâm
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
278
nghiên cứu thông tin và chính sách
cạnh tranh
Giáo sư Đại học Quốc gia Chiao
Tung và Đại học Quốc gia Chengchi
Phó Chủ tịch Bà. SHIH, Hui-Fen Chủ tịch Ủy Ban pháp chế
Tổng Thư ký Ủy Ban đào tạo và bảo
vệ dân sự
Chủ tịch Ủy Ban pháp chế, Bộ giáo
dục
Ủy viên Ông. LIN, Yi-Yu Tổng Thư ký, TFTC
Tiến sĩ SUN, Lih-
Chyun
Ủy viên, Ban tư vấn về viễn thông,
Tổng Cục viễn thông
Ủy viên, Ủy Ban rà soát các ngành
phục vụ công cộng của Đài Bắc
Ủy viên, Ủy Ban quốc gia về phát
triển bền vững
Tiến sĩ LIN, Yi-Nan Giáo sư, Hiệu trưởng Đại học
Tamkang
Ủy viên, Ủy Ban Bầu Cử Đài Bắc
Giám sát doanh nghiệp, Tập đoàn
dịch vụ tài sản tài chính Đài Loan
Bà. CHIANG, Li-
Ming
Trưởng Ban Kế hoạch, TFTC
Phó Ban nghiên cứu kinh tế, Ủy Ban
kế hoạch và phát triển kinh tế
Tiến sĩ TSAI, Diana
Hwei-An
Giám đốc Học viện Kinh tế, Đại học
Quốc gia Yat-sen
Giáo sư liên kết của một số trường
đại học tại Canada và Hoa Kỳ
Ủy viên, Ủy Ban phát triển kinh tế
và Ủy Ban kế hoạch đô thị thành
phố Kaoshiung
Tiến sĩ LEE,
Lawrence Li-Chung
Trưởng Khoa kinh tế tài chính Đại
học Asia
Nghiên cứu sinh tại Trường Đại học
New York, Hoa Kỳ
Giám đốc của một số công ty và tập
đoàn như Bảo hiểm Mega, công ty
tài chính Mega,…
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
279
1.4.2. Thủ tục bổ nhiệm những ngƣời đứng đầu
TFTC có 9 Ủy viên thường trực làm việc theo nhiệm kỳ 3 năm và có thể được
bổ nhiệm thêm một nhiệm kỳ nữa. Trong số các Ủy viên sẽ có một người là Chủ
tịch Ủy Ban và được coi là cán bộ được bổ nhiệm đặc biệt sẽ điều hành các hoạt
động của TFTC đồng thời có quyền bổ nhiệm Phó Chủ tịch TFTC để hỗ trợ Chủ
tịch trong việc điều phối TFTC.
Tất cả các Ủy viên do Thủ thướng đề cử và được Tổng thống bổ nhiệm.
1.5. Cơ sở để đảm bảo tính độc lập của cơ quan cạnh tranh
Điều 28 của FTA chỉ ra rằng: ―TFTC sẽ thực thi các nhiệm vụ một cách độc
lập phù hợp với quy định của pháp luật và có thể tiến hành xử lý các vụ việc liên
quan đến thương mại lành mạnh với tư cách là Ủy Ban độc lập‖
TFTC là một trong số ít các Ủy ban của nội các được điều hành bởi một hệ
thống độc lập. Do Luật thương mại lành mạnh là luật thương mại phức tạp, với mục
tiêu đảm bảo xem xét ý kiết của tất cả các bộ ngành và khi xử lý vụ việc tuân thủ
pháp luật của các ngành đó, Quyết định của TFTC dựa trên tỷ lệ bỏ phiếu của các
Ủy viên.
Các Ủy viên sẽ không đại diện cho Đảng nào và sẽ hoạt động độc lập theo quy
định của pháp luật, không chịu bất cứ áp lực nào từ các đảng chính trị.
Số lượng Ủy viên trong cùng một đảng chính trị sẽ không được quá bán so với
tổng số Ủy viên.
Chỉ có những cán bộ có trình độ và giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực như
luật, kinh tế, tài chính, thuế, kế toán hoặc quản lý thì sẽ được bổ nhiệm làm Ủy viên
của TFTC.
1.6. Tổ chức
Dưới Ủy Ban là Ban thư ký.
TFTC thường được tổ chức thành Cuộc họp của các Ủy viên và các phòng ban
chuyên môn, hành chính: Ban 1, 2, 3, Ban Kế hoạch, Ban pháp chế, Ban Thư ký,
Phòng nhân sự, Phòng kế toán, Phòng thống kê số liệu và Phòng civil service ethics
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
280
Cơ cấu tổ chức
1.7. Chức năng
1.7.1. Thực thi luật (chủ yếu quy định trong FTA)
Theo Điều 26 của FTA, ―TFTC có thể điều tra và xử lý các vụ việc theo khiếu
nại của doanh nghiệp hoặc ex officio (mặc nhiên) bất kỳ vi phạm nào theo quy định
của luật tác động xấu đến lợi ích chung.
1.7.2. Thực thi chính sách cạnh tranh
Nhiệm vụ của TFTC, quy định tại Điều 25 – FTA như sau:
(1) hoạch định chính sách, luật và các quy định về thương mại lành mạnh;
(2) rà soát các vần đề thương mại lành mạnh xung đột với luật này
(3) điều tra hoạt động của các doanh nghiệp cũng như kiểm soát các hoạt động
kinh tế;
(4) điều tra và đưa ra quyết định đối với bất kỳ vụ việc nào vi phạm luật
thương mại lành mạnh; và
(5) bất kỳ vấn đề nào liên quan đến thương mại lành mạnh.
2. Thực thi luật
2.1. Thực thi luật --- FTA
Các quy định về việc giám sát hoạt động bán hàng đa cấp
Ban I Ban II Ban III
Ban Pháp chế Ban Kế hoạch
Trung tâm thông tin và chính sách
cạnh tranh
Trung tâm dịch vụ khu vực phía Nam
Phòng
thống kê
Phòng civil
service Phòng kế
toán
Phòng thư
ký
Phòng
nhân sự
Tổng Thư ký
Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Các Ủy viên
Họp Ủy viên
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
281
2.2. Lĩnh vực điều chỉnh của FTA
2.2.1 Khuôn khổ pháp lý: phản cạnh tranh
Độc quyền
Sáp nhập
Cartel
Thỏa thuận
theo chiều dọc
Được cho phép trừ khi lạm dụng sức
mạnh thị trường
Mặc nhiên vi phạm pháp luật về mặt
nguyên tắc trừ khi được cơ quan cạnh
tranh xem xét và phê duyệt từ trước
Thông báo trước khi đến ngưỡng
Duy trì giá bán lại, tẩy chay hàng hóa, đầu
cơ, phân biệt đối xử, etc.
Luật thương mại lành mạnh
Phản cạnh tranh Cạnh tranh không lành mạnh
Độc quyền
Sáp nhập Thỏa thuận theo
chiều dọc
Cartel
Gièm pha doanh
nghiệp
Bán hàng đa
cấp
Quảng cáo Bán hàng giả
Hành vi lừa đảo hoặc cạnh tranh không lành
mạnh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
282
2.2.1 Khuôn khổ pháp lý: cạnh tranh không lành mạnh
3. Quyền hạn thực thi pháp luật
3.1. Hành chính
3.1.1. Quyền khởi xƣớng điều tra vụ việc
TFTC tiến hành điều tra sơ bộ bằng cách thu thập thông tin qua công chúng và
thông qua tìm hiểu của chính Ủy ban.
Điều 26: TFTC có thể tiến hành điều tra và xử lý các vụ khiếu nại hoặc ex
officio bất kỳ những vi phạm nào của Luật tác động xấu đến lợi ích công cộng.
Ban I: chịu trách nhiệm điều tra và thực thi luật liên quan đến độc quyền, sáp
nhập và khiếu kiện tập thể trong lĩnh vực dịch vụ và nông nghiệp.
Ban II: chịu trách nhiệm điều tra và thực thi liên quan đến độc quyền, sáp nhập
và khiếu kiện tập thể trong ngành sản xuất.
Ban III: chịu trách nhiệm điều tra và thực thi liên quan đến hành vi thương mại
không lành mạnh.
Quyền điều tra vụ việc
Khi tiến hành các cuộc điều tra trong khuôn khổ FTA, TFTC có thể tiến hành
các thủ tục với các quy trình như sau:
1. thông báo cho các bên và bên thứ 3 có liên quan đến để tìm hiểu thông tin
2. thông báo cho các cơ quan, các tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân có liên
quan để nộp sách, tài liệu và bất kỳ tài liệu nào hoặc tang vật cần thiết
3. cử cán bộ tiến hành khám sát cơ quan, địa điểm kinh doanh hoặc những địa
điểm khác có liên quan đến các doanh nghiệp hoặc tổ chức có liên quan
Cạnh tranh không lành
mạnh
Bán hàng giả
Quảng cáo
Bán hàng đa cấp
Gièm pha doanh nghiệp
Hành vi lừa đảo và cạnh tranh không
lành mạnh
Luật thương hiệu
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
283
Bất kỳ điều tra viên nào thực hiện nhiệm vụ quy định tại FTA đều xuất trình
những tài liệu chứng minh nhiệm vụ của họ bởi vì người bị hỏi có thể từ chối không
hợp tác khi điều tra viên không xuất trình được những tài liệu nói trên.
Trong quá trình điều tra theo Điều 27, một cá nhân hoặc một bên có liên quan,
để đáp ứng đòi hỏi của việc tuyên bố hay bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, có thể đọc, ghi âm, sao chép hoặc chụp ảnh những tài liệu hoặc hồ sơ liên
quan ngoại trừ những trường hợp sau:
1. Dự thảo quyết định hành chính hoặc tài liệu làm việc nào đó được chuẩn bị
cho một vụ việc
2. Những tài liệu liên quan đến quốc phòng, quân sự, ngoại giao và những bí
mật chính thức khác được bảo mật theo quy định của pháp luật
3. Những tài liệu liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật chuyên môn, hoặc bí
mật kinh doanh cần đảm bảo bí mật theo quy định của pháp luật
4. Trường hợp xâm phạm quyền và lợi ích của bên thứ ba
5. Trường hợp cản trở nghiêm trọng việc thi hành công vụ nhằm duy trì trật tự
xã hội, an ninh công cộng hoặc lợi ích chung
Các vấn đề thủ tục liên quan thẩm định hồ sơ, thời gian nhận hồ sơ, phạm vi
tài liệu; cách thức tiến hành cũng sẽ được TFTC đề cập đến.
3.1.2. Quyền hạn ra quyết định cuối cùng
Khi hoàn thành việc điều tra vụ việc, các ban có liên quan soạn thảo và nộp đề
xuất tại Cuộc họp của các Commissioner để đưa ra quyết định về vụ việc.
3.2. Hình sự
Điều 26 của Luật xử phạt hành chính quy định rằng ―nếu một hành vi đơn lẻ
nào đó đồng thời cấu thành tội hình sự hoặc vi phạm quy định của luật hành chính
sẽ bị xử phạt theo quy định của luật hình sự‖. Chính vì thế, vụ việc có thể bị các
công tố viên điều tra khi cá nhân/công ty bị hại trong vụ việc này có đơn kiện gửi
đến tòa án.
Công tố viên sẽ quyết định đưa vụ việc ra tòa dựa trên bằng chứng và số liệu
thực tế và vụ việc này nằm ngoài thẩm quyền của TFTC. TFTC chỉ có thể tiến hành
điều tra nếu vụ việc được pháp luật quy định là không phải khởi tố hoặc đưa ra
quyết định cuối cùng không thể rút lại của tòa án kết án rằng không có tội, miễn
trách nhiệm tố tụng, không phải đưa ra xem xét hoặc xét xử.
3.3. Mua bán sáp nhập
3.3.1. Thông báo trƣớc khi tiến hành sáp nhập
Theo Điều 11 của FTA, doanh nghiệp cần phải tiến hành thông báo cho TFTC
trước khi tiến hành sáp nhập.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
284
Bất kỳ vụ sáp nhập nào trong các trường hợp dưới đây sẽ phải được thông báo
trước cho TFTC:
sau khi sáp nhập, doanh nghiệp sẽ chiếm 1/3 thị phần trên thị trường liên quan
một trong các doanh nghiệp tham gia sáp nhập chiếm ¼ thị phần hoặc doanh số bán
hàng của năm tài chính trước đó của doanh nghiệp tham gia sáp nhập vượt quá
ngưỡng mà TFTC đã công bố.
Ngưỡng về doanh số được dẫn chiếu tại tiểu đoạn 3 của đoạn trước đó có thể
được TFTC thông báo riêng rẽ đối với doanh nghiệp tài chính và doanh nghiệp phi
tài chính.
Các doanh nghiệp sẽ không tiến hành sáp nhập trong vòng 30 ngày kể từ ngày
TFTC chấp nhận các tài liệu đã hoàn chỉnh, nếu TFTC có thể rút ngắn hoặc gia hạn
thời gian đó nếu cần thiết hoặc thông báo cho doanh nghiệp về những thay đổi trên
bằng văn bản dưới dạng viết.
Khi TFTC gia hạn thời gian cho phù hợp với quy định tại đoạn trên, việc gia
hạn trên có thể không vượt quá 30 ngày, trong trường hợp gia hạn, quyết định mà
TFTC phải phù hợp với các khoản tại điều 12 của FTA.
Khi TFTC không thể thông báo về việc gia hạn thời gian được dẫn chiếu tại
điều khoản của đoạn 3 hoặc đưa ra các quyết định dẫn chiếu đến đoạn trước đó khi
thời gian đã hết, các doanh nghiệp có thể tiếp tục sáp nhập nếu vụ sáp nhập đó
không rơi vào một trong các trường hợp sau đây:
Khi doanh nghiệp chấp nhận thời gian gia hạn đó. Khi hồ sơ của doanh nghiệp
có điểm nào đó sai hoặc nhầm lẫn.
Miễn trừ
Các điều khoản của đoạn 1 của Điều khoản trước sẽ không được áp dụng cho
bất kỳ trường hợp nào sau đây:
Khi doanh nghiệp tham gia vụ sáp nhập chiếm ít hơn 50% số cổ phiếu có
quyền biểu quyết hoặc vốn góp của một cơ quan khác trong vụ sáp nhập đó và sáp
nhập với doanh nghiệp khác như thế.
Khi các doanh nghiệp có 50% hoặc hơn thế cổ phiếu có quyền biểu quyết hoặc
vốn góp do công ty tương tự nắm giữ tiến hành sáp nhập.
Khi một doanh nghiệp chuyển giao phần chính của hoạt động kinh doanh hoặc
tài sản của mình hoặc tất cả hoặc một phần hoạt động kinh doanh mà có thể hoạt
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
285
động riêng lẻ cho một công ty khác mới được thành lập bởi duy nhất một công ty
trước đó.
Khi một doanh nghiệp, theo điều khoản tại Điều 167, đoạn 1 của Luật doanh
nghiệp hoặc Điều 28-2 của Luật chứng khoán mua lại cổ phiếu của cổ đông để mà
cổ phần của cổ đông đích thực rơi vào các trường hợp quy định tại Điều 6, đoạn 1,
tiểu đoạn 2.
3.3.2. Thủ tục pháp lý
Khi có bất kỳ doanh nghiệp nào không nộp hồ sơ thông báo sáp nhập đòi hỏi
phải được phê duyệt, hoặc tiến hành sáp nhập mặc dù TFTC chưa phê duyệt, TFTC
có thể cấm vụ sáp nhập đó, quy định khoảng thời gian mà doanh nghiệp đó phải
tách ra, chuyển đổi tất cả hoặc một phần cổ phần, hoặc chuyển giao một phần các
hoạt động kinh doanh hoặc luân chuyển một số cán bộ nhất định hoặc có thể bố trí
sắp xếp lại nếu cần thiết.
Đối với các doanh nghiệp vi phạm những bố trí mà TFTC đã quyết định như
đoạn trên, TFTC có thể yêu cầu giải thể doanh nghiệp hoặc đình chỉ hoặc chấm dứt
hoạt động của doanh nghiệp đó.
3.4. Số liệu về tình hình thực thi luật cạnh tranh
3.4.1. Số lƣợng quyết định/vụ việc
3.4.1.1. Hành chính
Số lƣợng các biện pháp xử lý
Diễn biến vụ việc Đơn vị: vụ
việc
Năm Các vụ việc đang tiến hành Vụ việc đã
hoàn thành
Vụ việc treo
vào cuối năm Tiến hành từ
năm trước
Nhận trong
năm nay
2006
2007
2008
420
422
329
1,440
1,340
1,507
1,438
1,433
1,583
422
329
253
3.4.1.2. Hình sự
Theo số liệu của Bộ tư pháp, trong năm 2008, tòa hình sự cấp quận đã xử lý
18 vụ sơ thẩm liên quan đến FTA, 50 bị can có liên đới.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
286
Phán quyết của tòa hình sự cấp quận về các vụ sơ thẩm liên quan đến FTA
Đơn vị: bị can và vụ việc
Năm/ Hành vi phạm pháp Vụ
việc
đã xử
lý
Bị can
Tổng số Vi phạm Không vi
phạm
Miễn
phạt
2006
2007
2008
Kinh doanh
Gièm pha doanh nghiệp
Bán hàng đa cấp bất
chính
11
9
18
--
--
--
50
29
50
10
38
2
26
23
32
-
31
1
7
1
2
-
2
-
1
2
1
-
1
-
Năm/Hành vi phạm pháp Bị can
Không
được
chấp
nhận
Xét xử có
sai phạm
Bị truy
nã
Rút lại đơn Khác
2006
2007
2008
Kinh doanh
Gièm pha doanh nghiệp
Bán hàng đa cấp bất
chính
Khác
8
3
8
7
-
1
-
-
3
-
3
-
-
-
1
-
1
-
8
-
3
3
-
-
-
-
-
-
-
-
Nguồn: Vụ thống kê, Bộ tư pháp
Trong năm 2008, tòa án tối cao đã kết thúc 10 vụ xử phúc thẩm liên quan đến
FTA, 31 bị can trong đó 28 bị can bị phạt tiền vì vi phạm các điều khoản quy định
về bán hàng đa cấp bất chính, 2 bị can vi phạm điều khoản về gièm pha doanh
nghiệp. Theo phán quyết của tòa án, 30 bị can bị xử có tội (26 bị bỏ tù, 3 bị phạt
hình sự và 1 bị quản thúc và 1 bị can rút lui.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
287
Phán quyết của tòa hình sự cấp quận về các vụ phúc thẩm liên quan đến FTA
Đơn vị: bị can và vụ việc
Năm/hành vi phạm pháp Vụ
việc
đã xử
lý
Bị can
Tổng số Vi phạm Không vi
phạm
Rút lui
2006 6 16 8 3 5
2007 4 19 17 2 -
2008 10 31 30 - 1
Gièm pha doanh nghiệp - 2 2 - -
Bán hàng đa cấp bất
chính
- 28 27 - 1
Khác - 1 1 - -
Nguồn: Vụ thống kê, Bộ tư pháp
3.4.1.3. Mua bán sáp nhập
Số lượng thông báo sáp nhập
Thông báo sáp nhập Đơn vị: vụ việc
Năm Vụ việc đang giải quyết Kết quả xử lý vụ việc
Triển khai từ
năm trước
Tiếp nhận
trong năm nay
Tổng số Sáp nhập không
bị cấm
2006
2007
2008
3
5
7
79
69
71
77
67
65
34
37
36
Sáp nhập không bị cấm là đề xuất sáp nhập không bị cấm tại cuộc họp
Commissioners của TFTC
Sáp nhập bị cấm là đề xuất sáp nhập bị cấm tại cuộc họp Commissioners.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
288
Chấm dứt rà soát được thực hiện khi các bên thông báo không thể cung cấp
đủ tài liệu theo yêu cầu của TFTC hoặc kết quả xử lý các vụ việc không được xếp
vào danh sách bị cấm.
3.2.2. Số tiền phạt
Không có thông tin
4. Thẩm quyền hoạch đính chính sách
4.1. Soạn thảo/xây dựng văn bản pháp luật
Không có ví dụ
4.2. Xây dựng các hƣớng dẫn
Để nâng cao tính minh bạch và đảm bảo pháp lý trong quá trình thực thi FTA,
TFTC đã xây dựng các hướng dẫn về các vấn đề liên quan đến FTA và các quy định
giám sát quản lý hoạt động bán hàng đa cấp…
5. Quy trình xử lý vụ việc
5.1. Thủ tục điều tra
Mô tả ở trang cuối
Khiếu nại là vụ việc một cơ quan khác hoặc các cơ quan chính phủ chuyển
cho TFTC dưới dạng viết (bao gồm email và fax) hoặc dạng nói (do TFTC ghi âm)
thông báo về khả năng vi phạm quy định của FTA.
TFTC tự tiến hành điều tra nghĩa là việc TFTC tự tiến hành điều tra những
hành vi có khả năng vi phạm FTA trong phạm vi thẩm quyền và nhiệm vụ của mình
theo đúng trình tự thủ tục đã được thiết lập.
5.2. Thủ tục ra quyết định
--- Tương tự như 3.1., 3.2. và 3.3.
5.3. Kháng kiện
TFTC có thẩm quyền phạt hành chính đối với các doanh nghiệp vi phạm FTA.
Để bảo đảm quyền lợi của các doanh nghiệp bị phạt cho phù hợp với Luật kháng
kiện có hiệu lực vào tháng 7 năm 2000, các doanh nghiệp có liên quan có thể kháng
cáo ra Hành chính viện (Executive Yuan).
Năm Vụ việc đƣợc tiếp nhận Vụ việc đƣợc xử lý
Tiến hành từ
năm trƣớc
Tiếp nhận
trong năm
nay
Tổng Bị bác
bỏ
Quyết định
ban đầu bị
hủy bỏ
2006
2007
2008
42
63
50
174
154
143
153
166
148
141
148
116
3
2
14
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
289
Năm Vụ việc đã đƣợc xử lý Vụ việc
đang bị
treo Không
đƣợc
chấp
nhận
Rút
lại
Một phần bị
bác bỏi, một
phần là quyết
định ban đầu
bị hủy bỏ
Một phần
bị bác bỏ,
một phần
không
đƣợc chấp
nhận
Quyết
định ban
đầu bị
hủy bỏ
một phần
2006
2007
2008
9
16
11
-
-
-
-
-
2
-
1
-
-
-
5
63
50
45
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
291
IV. Ủy ban Cạnh tranh và Ngƣời tiêu dùng Úc
1. Thông tin chung
1.1 Tên cơ quan:
Ủy ban Cạnh tranh và Người tiêu dùng Úc (ACCC)
1.2 Lịch sử phát triển
1.2.1. Năm thành lập --- 1995
1.2.2. Tóm tắt lịch sử
Năm 1906 Luật Chống độc quyền đầu tiên ra đời
Năm 1974 Ủy ban Thương mại được thành lập
Năm 1983 Cục Giám sát giá được thành lập
Tháng 11/1995 Ủy ban Thương mại hợp nhất với Cục giám sát giá hành Ủy ban
Cạnh tranh và Người tiêu dùng Úc
Tháng 01 năm 2011 Luật Hành vi thương mại được đổi tên thành Luật Cạnh tranh
và Người tiêu dùng Úc
1.3 Nguồn lực:
1.3.1 Nhân sự
2005 2006 2008 2009 2010
533 588 638 797 813
1.3.2 Ngân sách*
2006 2007 2008 2009 2010
89,794,000 108,017,000 118,798,000 132,555,000 142,892,000
* Ngân sách từ Chính phủ
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
292
1.4 Bổ nhiệm lãnh đạo
1.4.1 Ban Lãnh đạo
Tên Thông tin liên quan (Chức vụ trƣớc đây)
Chủ tịch Rod Sims Chủ tịch Tòa án điều tiết giá độc lập của New
South Wales, Ủy Viên Hội đồng Cạnh tranh
quốc gia…
Phó Chủ
tịch
Michael Schaper
Ủy viên phụ trách vấn đề vốn cho khu vực
doanh nghiệp nhỏ
Thành
viên
Sarah Court Luật sư cao cấp, Giám đốc Trung tâm tư vấn
Luật chính phủ
Joe Dimasi Trưởng Bộ phần điều hành của ACCC
Jill Walker Thành viên của Tòa án cạnh tranh Úc
Edward Willett Giám đốc điều hành Hội đồng Cạnh tranh quốc
gia
1.4.2 Quy trình bổ nhiệm lãnh đạo cấp cao
Ban lãnh đạo của ACCC bao gồm 7 thành viên, trong đó có 01 chủ tịch và 02 phó
chủ tịch. Thành viên Ban lãnh đạo do Người đứng đầu cơ quan Nhà nước bổ nhiệm có
nhiệm kỳ 05 năm. Quyết định bổ nhiệm được tiến hành khi dựa trên đa số phiếu bầu ủng
hộ của các cơ quan lập pháp lãnh thổ và bang ở nước đó.
1.5 Cơ sở pháp lý đảm bảo tính độc lập của Cơ quan cạnh tranh
ACCC là cơ quan thuộc chính phủ chịu trách nhiệm thi hành Luật Thương mại và
các luật liên quan khác, nhưng là cơ quan hoạt động độc lập với Chính phủ.
ACCC được phép áp dụng Luật Thương mại một cách tự chủ để bảo đảm sự nhất
quán trong quá trình thực thi.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
293
Bên cạnh thực thi Luật, ACCC cung cấp thông tin cũng như đào tạo cho doanh
nghiệp và người tiêu dùng về những bộ Luật cơ quan này đang áp dụng.
1.6 Cơ cấu tổ chức
Đơn vị cấp dưới Ủy ban là Ban thư ký, đứng đầu là Trưởng Ban thư ký (CEO)
Ban thư ký có 03 bộ phận: (i) Bộ phận thực thi Luật; (ii) Bộ phận hợp tác và (iii) Bộ
phận điều hành chung
Trong Bộ phận thực thi có Nhóm tổ chức thực thi, Nhóm phổ biến Luật và Nhóm
Sản phẩm an toàn.
1.7 Chức năng
ACCC có những chức năng sau:
1. Đẩy mạnh khuyến khích quá trình cạnh tranh nhưng vẫn tuân thủ luật
2. Đảm bảo kinh doanh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và an toàn sản
phẩm
3. Quản lý lĩnh vực cơ sở hạ tầng ưuốc gia cũng như các lĩnh vực được cho là cạnh
tranh bị hạn chế
2. Thực thi Luật
2.1 Văn bản Luật: Luật cạnh tranh và Bảo vệ ngƣời tiêu dùng (tiền thân là
Luật Thƣơng mại) và các luật khác
2.2. Lĩnh vực thực thi
Thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh (Cartel)
(Bao gồm Quy định
miễn trừ)
Ấn định giá, hạn chế đầu ra, thông đồng đấu thầu, phân chia
khách hàng, nguồn cung và thị trường; tẩy chay vv (Điều 45
vv)
Lạm dụng vị trí thống
lĩnh
Lạm dụng sức mạnh thị trường (Điều 46)
Thỏa thuận độc quyền (Điều 47)
Duy trì giá bán lại tối thiểu (Điều 48)
Mua bán và sáp nhập Hoạt động mua bán và sáp nhập nếu gây ảnh hưởng xấu đến
quá trình cạnh tranh sẽ bị cấm (Điều 50, phần 50A)
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
294
3. Quyền hạn thực thi luật
3.1 Hành chính (dân sự)
3.1.1 Quyền tiến hành điều tra vụ việc
ACCC thu thập thông tin liên quan đến hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh và bảo vệ
người tiêu dùng thông qua khiếu nại của người tiêu dùng, báo chí, nội bộ ACCC và các
cơ quan khác.
Trung tâm tiếp nhận thông tin sẽ trả lời tất cả những khiếu nại cũng như thắc mắc
liên quan đến cạnh tranh và người tiêu dùng.
Quy định về trường hợp miễn trừ
ACCC có thể cho cá nhân hoặc doanh nghiệp hưởng chính sách khoan hồng nếu cá
nhân và doanh nghiệp là thành viên của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tự giác khai báo về
hoạt động thỏa thuận sớm nhất và tại thời điểm ACCC chưa có thông tin đầy đủ về vụ
việc để tiến hành mở điều tra.
Chính sách khoan hồng của ACCC đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
được áp dụng từ năm 2005, thay thế cho chính sách miễn trừ trước đó.
3.1.2. Quyền tiến hành điều tra
ACCC có thể yêu cầu đối tượng liên quan:
(1) Cung cấp đúng thời hạn cho cơ quan điều tra bằng văn bản thông tin cần thiết
theo đúng mẫu mà cơ quan điều tra yêu cầu;
(2) Chỉ định đại diện của công ty đến làm việc với ACCC dựa trên yêu cầu cụ thể
của ACCC
(3) Có mặt tại địa điểm được quy định rõ trong thông báo cung cấp thông tin, bằng
chứng theo hình thức phỏng vấn hoặc nộp văn bản tùy theo yêu cầu của ACCC
3.1.3. Quyền ra quyết định
Quyết định của ACCC được đưa ra thông qua các buổi họp chính thức giữa các Ủy
viên. Chỉ có Ủy ban mới có quyền tiến hành quyết định của tòa án về việc thông qua hoặc
cho phép các hành vi phản cạnh tranh xét đến lợi ích công chúng.
Để thực thi các điều khoản liên quan đến phản cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh,
ACCC có thể tiến hành:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
295
- Tuyên bố hành vi cụ thể nào vi phạm Luật Cạnh tranh
- Phán quyết của Tòa án để ngăn chặn những hành vi bị cấm hoặc yêu cầu thực hiện
một số
- Xác định thiệt hại
- Bằng chứng
- Phạt lao động công ích
- Phạt án treo
- Phạt chính thức
- Xin lỗi công khai
- Thông báo công khai về hành vi vi phạm liên quan đến phản cạnh tranh
- Phạt tiền có thể lên đến 10 triệu đô la, gấp ba lần so với lợi nhuận do hành vi vi
phạm mang lại; hoặc chiếm khoảng 10% doanh thu hàng năm của doanh nghiệp vi phạm
trong trường hợp là phạt công ty; và khoảng 500.000 đô la trong trường hợp phạt cá nhân.
( Cho phép và thông báo)
ACCC có thể miễn giảm các quyết định của tòa án theo Bộ luật thương mại đối với
một số hành vi phản cạnh tranh nhất định nếu như hành vi này phục vụ cho lợi ích cộng
đồng. Quá trình xét xử này được xem như một phần quan trọng và đặc biệt về chức năng
của ACCC.
Các doanh nghiệp được hưởng miễn giảm thông qua hai công đoạn công khai và
minh bạch bao gồm ―cho phép‖ và ―thông báo‖
Quá trình cho phép sẽ bảo vệ doanh nghiệp trước những quyết định của tòa án liên
quan đến hành vi vi phạm luật cạnh tranh (ngoại trừ vi phạm liên quan đến lạm dụng sức
mạnh thị trường hoặc sáp nhập theo s.50). ACCC có quyền cho phép doanh nghiệp tham
gia vào hoạt động phản cạnh tranh nếu xét thấy lợi ích công chúng từ hoạt động này lớn
hơn những thiệt hại cho cộng đồng hoặc có thể mang lại những lợi ích xứng đáng được
cho phép thực hiện
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
296
Quá trình thông báo bảo vệ doanh nghiệp trước quyết định của toàn án về hành vi vi
phạm có thể xảy ra liên quan những điều khoản về mua bán độc quyền của Luật nêu trên
và liên quan đến những thỏa thuận mua bán tập thể của các doanh nghiệp nhỏ.
3.2. Hình sự
Liên quan đến vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các quy định liên quan đến vi
phạm hình sự được giới thiệu tháng 7 năm 2009.
Được bảo đảm bởi tòa án, cán bộ điều tra của ACCC có thể đến các doanh nghiệp
tìm kiếm hồ sơ và bằng chứng vv
ACCC sau đó sẽ chuyển giao những vi phạm hình sự liên quan đến thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh cho Giám đốc bộ phận khởi tố dân sự của Khối thịnh vượng chung đối với
những trường hợp khởi tố hình sự nhất định.
3.3 Sáp nhập và Mua lại
3.3.1 Thông báo trƣớc khi sáp nhập
ACCC không yêu cầu thông báo trước khi tiến hành sáp nhập. Tuy nhiên, thay vào
đó các bên có thể thảo luận không chính thức với ACCC để tham khảo ý kiến và cho phép
chính thức, sau đó nhận được sự thông qua của Tòa án Cạnh tranh
3.3.2 Hiệu lực của việc ra quyết định
Liên quan đến quyết định cho phép chính thức của ACCC, Luật Thương mại Úc quy
định rằng ACCC sẽ phải đưa ra quyết định liên quan đến cho phép tiến hành sáp nhập
trong vòng 40 ngày làm việc sau khi nhận được hồ sơ chính thức. Nếu quyết định không
được đưa ra trong khoảng thời gian đó có nghĩa rằng hồ sơ đã bị từ chối.
Thời gian đối với quá trình ra quyết định của ACCC có thể được gia hạn nếu như
bên nộp hồ sơ chấp thuận để ACCC sử dụng thêm một khoản thời gian nhất định để đánh
giá và đưa ra quyết định đối với bộ hồ sơ đó.
3.4 Số liệu liên quan đến quá trình thực thi Luật Cạnh tranh
3.4.1 Số lƣợng quyết định/ vụ việc
3.4.1.1 Hành chính (dân sự)
2008 2009 2010
15 9 8
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
297
3.4.1.2 Hình sự
Không có
3.4.1.3 Sáp nhập và Mua bán
2009 2010
Phản đối công khai 1 8
Tòa án giải quyết 3 4
Không phản đối 5 5
3.2.2 Lƣợng phạt (đơn vị: AUD)
2009 2010
41,549,000 22,510,000
4. Thẩm quyền hoạch định chính sách
(1) Bên cạnh những công việc nêu trên của ACCC, ACCC còn thực hiện một số
chức năng sau:
(a) cung cấp cho các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại và các chủ thể có
nhu cầu khác thông tin liên quan đến hoạt động, chức năng, thẩm quyền của ACCC, theo
như Bộ luật nêu trên;
(b) Kiểm tra chặt chẽ và báo cáo lại cho Bộ trưởng phụ trách về các bộ luật đang
thực thi ở Úc liên quan đến lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng phù hợp với quyền hạn và
chức năng của ACCC do Chính phủ quy định;
(c) Tiến hành nghiên cứu các vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng phù
hợp với quyền hạn và chức năng của ACCC do Chính phủ quy định;
(d) Tiến hành nghiên cứu các vụ việc do Hội Đồng giao cho có liên quan đến chức
năng của ACCC
(e) Cung cấp thông tin chung cho công chúng về các vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích
của người tiêu dùng;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
298
(f) Cung cấp hướng dẫn cho người tiêu dùng về quyền và nghĩa vụ của những người
được bổ nhiệm công việc bảo vệ người tiêu dùng
(2) Khi một vấn đề nêu trong đoạn (1)(b) do Bộ trưởng phụ trách chuyển đến ACCC
để kiểm định và báo cáo:
(a) ACCC sẽ đăng Công báo và các tờ báo liên quan các thông tin phù hợp như sau:
(-) chỉ rõ thông tin được đưa ra và xác định rõ vấn đề liên quan đến thông tin đó; và
(-) mời các bên có lên quan cho biết ý kiến về vấn đề đó và chỉ rõ thời gian cũng
như cách thức thu thập những ý kiến đó;
(b) ACCC chỉ nên xin ý kiến của các nhân liên quan về một vấn đề cụ thể khi có lý
do chính đáng, từ đó mới xây dựng báo cáo gửi đến Bộ trưởng vụ trách;
(c ) ACCC có thể cho vào báo cáo nêu trên kiến nghị về sửa đổi Luật liên quan đến
vấn đề được đăng tin ở trên ; xác định rõ những kiến nghị góp phần sửa đổi Luật hiện tại
hay xây dựng Luật mới.
(3) Bộ trưởng phụ trách sau khi nhận được báo cáo liên quan đến vấn đề ở phần
(1)(b) từ phía Ủy ban sẽ tiến hành gửi một bản copy đến Nghị viện để được thông qua và
phát huy hiệu lực trong thời gian sớm nhất.
5. Quy trình xử lý vụ việc
5.1 Quy trình điều tra
5.2 Quy trình ra quyết định
- Được đề cập ở điều 3.1 và 3.3 ở trên
5.3 Kháng án
ACCC và bị cáo sẽ tiến hành kháng cáo Quyết định của Tòa án liên quan đến các vụ
việc cạnh tranh đến Tòa án cao hơn và Tòa án tối cao trong một khoảng thời gian nhất
định được quy định trong Luật.
V. Cục Cạnh tranh Canada
1. Thông tin chung
1.1. Tên gọi:
Cục cạnh tranh Canada
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
299
1.2. Tóm tắt lịch sử hình thành
1889 Luật ngăn chặn và phòng ngừa các hình thức liên kết trong hạn chế thương
mại được ban hành
1892 Luật ngăn chặn và phòng ngừa các hình thức liên kết trong hạn chế thương
mại kết hợp Bộ luật Hình sự được ban hành.
1910 Luật phối hợp điều tra được ban hành.
1923 Luật phối hợp điều tra mới được ban hành.
1952 Sửa đổi Luật điều tra phối hợp.
1986 Luật cạnh tranh được ban hành. Luật Tòa án cạnh tranh được ban hành.
1.3.Nguồn lực
1.3.1. Số lƣợng nhân viên
2004 2005 2006 2007 2008
440 440 453 447 435
1.3.2. Ngân sách
(CAD)
2007 2008
40,300,000 47,100,000
1.4. Bổ nhiệm ngƣời đứng đầu cơ quan
1.4.1. Danh sách lãnh đạo
Cục trưởng Cục cạnh tranh hiện tại là bà Melanie Aitken. Bà giữ chức Cục
trưởng tạm thời từ tháng 12 năm 2008 và chính thức được bổ nhiệm tháng 5 năm 2009.
Cục trưởng chịu trách nhiệm quản lý và thực thi Luật Cạnh tranh và ba Đạo luật ghi
nhãn gồm Luật đóng gói và nhãn mác tiêu dùng, Luật nhãn mác kim loại quý và Luật
nhãn hiệu hàng dệt may.
Melanie L. Aitken — Cục trưởng Cục cạnh tranh;
Paul Collins — Phó cục trưởng phụ trách các vấn đề Sáp nhập;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
300
John Pecman — Phó cục trưởng phụ trách các vấn đề hình sự;
Lisa Campell — Phó cục trưởng phụ trách các vấn đề thương mại lành mạnh
Douglas Clark — Quyền Phó cục trưởng phụ trách các vấn đề Dân sự;
Lise Davey — Phó cục trưởng cạnh tranh phụ trách chấp hành và thực thi;
Alan Gunderson — Quyền Trưởng phòng các vấn đề Kinh tế;
Pierre Leduc — Phó cục trưởng các vấn đề công vụ;
Mollie Johnson - Phó cục trưởng cạnh tranh các vấn đề lập pháp và vụ viêc quốc tế
Vicky Eatrides — Phó cục trưởng cạnh tranh Văn Phòng Ủy Viên
1.4.2. Thủ tục bổ nhiệm lãnh đạo cơ quan
Bộ trưởng Công nghiệp bổ nhiệm Cục trưởng Cục cạnh tranh
1.5. Căn cứ bảo đảm tính độc lập của Cơ quan cạnh tranh
Theo Luật Cạnh tranh, Cục trưởng có thể ra quyết định điều tra các vấn đề dân sự và
sáp nhập trước khi Tòa án cạnh tranh xét xử, đưa ra các kiến nghị tới Bộ trưởng Tư pháp
Canada về các vấn đề hình sự, đồng thời cũng là tham gia tranh tụng trước tòa liên bang
và bang như là một luật sư về cạnh tranh.
1.6. Cơ cấu tổ chức
Cục cạnh tranh Canada có bảy văn phòng đại diện tại Halifax, Montreal, Toronto,
Hamiltion, Winnipeg, Calgary và Vancouver.
Cơ quan có tám phòng chuyên môn:
Phòng các vấn đề dân sự xem xét hành vi phản cạnh tranh như: lạm dụng vị trí
thống lĩnh; nhà sản xuất khống chế người tiêu dùng như: từ chối cung cấp hàng hóa, độc
quyền kinh doanh và bán hàng kèm điều kiện khắt khe.
Phòng chấp hành và thực thi giám sát việc tuân thủ hoạt động của Cục, chương
trình đào tạo và dịch vụ khách hàng. Phòng cũng quản lý Trung tâm thông tin và kế hoạch
của Cục, quản lý nguồn lực, điều hành, thông tin hoạt động.
Phòng các vấn đề hình sự điều hành và thực thi các quy định hình sự theo Luật
cạnh tranh, bao gồm các hành vi làm giảm cạnh tranh (như ấn định giá) và thông đồng
đấu thầu, phân biệt giá, định giá hủy diệt và duy trì giá. Phòng hình sự tiến hành các hoạt
động thực thi thông qua các văn phòng khu vực tại Ottawa và một số thành phố khác.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
301
Phòng chính sách và thực thi kinh tế cung cấp tư vấn, chuyên môn kinh tế cũng
như hỗ trợ thực thi cho trưởng bộ phận kinh tế của Cục và các phòng khác của Cục.
Phòng quan hệ đối ngoại và công vụ gồm Ban truyền thông và các vấn đề quốc tế,
nâng cao lợi ích của Cục trong hợp tác quốc tế, đàm phán và phát triển chính sách. Đảm
bảo người tiêu dùng Canada, các doanh nghiệp và cộng đồng quốc tế đều nhận thức được
sự đóng góp quan trọng của Văn phòng tới cạnh tranh trên thị trường và sự phát triển của
nền kinh tế Canada.
Phòng Thƣơng mại lành mạnh điều hành và thực thi các quy định về hành vi chỉ
dẫn nhầm lẫn và tiếp thị gian dối theo Luật cạnh tranh. Ngoài ra, Phòng còn giải quyết các
vụ việc liên quan đến tiếp thị lừa đảo qua điện thoại, kế hoạch tiếp thị bán hàng đa cấp và
mô hình bán hàng kim tự tháp, chỉ dẫn sai lệch hoặc gây nhầm lẫn, khiếu nại về mức giá
thông thường bị sai hoặc nhầm lẫn, các chương trình khuyến mại mà trong đó không thực
hiện đầy đủ các quy định đã đặt ra. Phòng cũng điều hành và thực thực Luật đóng gói và
dán nhãn sản phẩm, Luật nhãn mác kim loại quý và Luật nhãn hiệu hàng dệt may, gọi
chung là các đạo luật về tiêu chuẩn. Phòng thực hiện các điều tra thông qua trụ sở tại
Ottawa và các văn phòng đại diện của Cục.
Phòng các vấn đề luật pháp và quốc hội chịu trách nhiệm xem xét, sửa đổi Luật
cạnh tranh hiện hành, quản lý, phối hợp trong quá trình làm luật của Quốc hội, hỗ trợ các
vấn đề về chính sách và tuyên truyền.
Phòng sáp nhập xem xét các giao dịch sáp nhập để đánh giá liệu các sáp nhập tiềm
năng có thể ngăn chặn hay làm giảm cạnh tranh trên thị trường hay không.
2. Thực thi Luật
Cục cạnh tranh chịu trách nhiệm quản lý và thực thi Luật cạnh tranh, Luật đóng gói
và dán nhãn (sản phẩm không phải là thực phẩm), Luật nhãn hiệu hàng dệt may và Luật
nhãn mác kim loại quý.
2.1.Luật cạnh tranh
Luật cạnh tranh là đạo luật liên bang giám sát hầu hết các hoạt động kinh doanh tại
Canada. Luật bao gồm các quy định hình sự và dân sự nhằm ngăn chặn hành vi phản cạnh
tranh trên thị trường.
Luật nhằm duy trì và khuyến khích cạnh tranh tại Canada để:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
302
Thúc đẩy hiệu quả và khả năng thích ứng của nền kinh tế Canada
mở rộng các cơ hội tham gia vào thị trường thế giới đồng thời ghi nhận vai trò của
cạnh tranh nước ngoài tại Canada.
đảm bảo các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội tham gia bình đẳng vào nền kinh tế
Canada
cung cấp cho người tiêu dùng các mức giá cạnh tranh và sự lựa chọn sản phẩm.
Các quy định của Luật cạnh tranh:
Quy định về các hành vi phản cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ nội địa đã có
hiệu lực ngày 23 tháng 8 năm 2000.
Quy định về việc thông báo giao dịch căn cứ trên phần VIII của Luật cạnh tranh.
Các tham vấn từ trước về Luật cạnh tranh
Ngày 12 tháng 3 năm 2010, hai quy định sửa đổi của Luật Cạnh tranh có hiệu lực.
Những thay đổi này cho phép áp dụng các biện pháp hình sự hiệu quả hơn chống lại các
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng, trong khi vẫn cho phép các doanh nghiệp
hoạt động tự do và linh hoạt để kiếm lợi từ các liên kết hợp pháp với đối thủ cạnh tranh.
Theo quy định của pháp luật cạnh tranh, các loại hành vi phản cạnh tranh bị cấm và bị cơ
quan cạnh tranh điều tra như sau:
Ấn định giá
Thông đồng đấu thầu
Chỉ dẫn sai lệch hoặc gây nhầm lẫn
Gian dối thông báo giải thưởng
Lạm dụng vị trí thống lĩnh
Độc quyền kinh doanh, bán hàng kèm điều kiện khắt khe, hạn chế thị trường
Từ chối giao dịch
Sáp nhập
Kế hoạch tiếp thị đa cấp và chương trình bán hành kim tự tháp
Quảng cáo gian dối qua điện thoại
Hành vi tiếp thị gian dối
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
303
2.2. Luật đóng gói và dán nhãn hàng hóa
Luật gồm các quy định hình sự liên quan đến việc đóng gói, dán nhãn, buôn bán,
quảng cáo sản phẩm, sản phẩm quan trọng đóng gói sẵn và một số sản phẩm khác. Luật
yêu cầu các sản phẩm tiêu dùng đóng gói sẵn phải cung cấp chính xác và đầy đủ thông tin
để giúp người tiêu dùng lựa chọn đúng sản phẩm. Luật cấm các hành vi chỉ dẫn sai hay
sai lệch và bắt buộc nhà sản xuất đưa ra các thông số kỹ thuật của sản phẩm như: tên sản
phẩm, số lượng và địa chỉ các đại lý phân phối.
2.3. Luật nhãn mác hàng dệt may
Luật gồm các quy định hình sự liên quan đến việc đóng gói, dán nhãn, buôn bán,
quảng cáo sản phẩm tiêu dùng dệt may. Luật yêu cầu các sản phẩm dệt may phải có đầy
đủ và chính xác thông tin để giúp người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm. Luật cấm các hành
vi chỉ dẫn sai hay sai lệch và bắt buộc nhà sản xuất đưa ra các thông số kỹ thuật của sản
phẩm, địa chỉ bưu điện và mã số CA.
2.4. Luật nhãn mác kinh loại quý
Luật gồm các quy định liên quan đến việc dán nhãn các sản phẩm là các kim loại
quý. Luật yêu cầu phải mô tả thống nhất, chi tiết chất lượng các sản phẩm làm từ vàng,
bạc, bạch kim và palladium để giúp người tiêu dùng lựa chọn đúng sản phẩm. Luật cấm
các hành vi chỉ dẫn sai hay nhầm lẫn các sản phẩm làm từ kim loại quý. Luật cũng yêu
cầu các đại lý chọn nhãn hiệu sản phẩm phải tương tự chất lượng kim loại đã dùng trước
đây theo Luật và các Quy định.
3. Quyền hạn thực thi luật
3.1. Các vụ việc hành chính
- Ngăn chặn các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và các hành vi phản cạnh
trành: Khi thích hợp, Cục khuyến khích các doanh nghiệp tự nguyện thực hiện quy định
của pháp luật. Bao gồm các hành động cần thiết để khôi phục tình hình. Một giải pháp
chính thức hơn liên quan đến việc ký một thỏa thuận với Toà án Cạnh tranh, theo đó tất cả
các bên đồng ý thực hiện giải pháp khôi phục cạnh tranh trên thị trường. Khi tuân thủ tự
nguyện không thể đạt được, Cục có thể nộp đơn cho Toà án Cạnh tranh cho một trật tự để
khắc phục tình hình.
- Loại bỏ các hành vi chỉ dẫn sai hoặc gây nhầm lẫn thực, các hành vi hành
tiếp thị lừa đảo: Theo quy chế dân sự của Luật Cạnh tranh, Cục có thể tiến hành các hoạt
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
304
động điều tra, xem xét, đánh giá trước khi chuyển vụ việc lên Toà án Cạnh tranh, Tòa án
Liên bang hoặc tòa án cấp tỉnh hoặc vùng lãnh thổ. Để xác định hành vi vi phạm các quy
định này, Cục phải chứng minh với xác xuất như nhau từng yếu tố cấu thành hành vi. Cục
thường làm việc với các doanh nghiệp để loại bỏ hành vi phản cạnh tranh thông qua thủ
tục rút gọn. Theo Luật cạnh tranh, Cục trưởng Cục cạnh tranh sẽ chấm dứt một cuộc điều
tra nếu có đủ bằng chứng để chuyển vụ việc lên Tóa án cạnh tranh chuyển vụ việc tới
Viện trưởng Viện Kiểm sát hoặc đó là vụ việc giải quyết bằng thủ tục rút gọn.
3.2. Các vụ việc hình sự:
Cục cạnh tranh quản lý và thực thi các quy định hình sự theo Luật Cạnh tranh, chủ
yếu liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh và thông đồng đấu thầu. Văn phòng này có
một số công cụ bao gồm các chương trình phòng vệ (Immunity Program) để thi hành các
quy định này. Các vấn đề nghiêm trọng nhất được gọi là Giám đốc Công truy tố cùng với
một đề nghị để truy tố. Người phạm tội bị phạt tiền, bị án tù hoặc cả hai. Để giải quyết các
vụ án hình sự, Cục cũng làm việc với các công ty để loại bỏ hành vi phản cạnh tranh
thông qua giải pháp thay thế.
3.3. Mua bán và sáp nhập
Cục xem xét các giao dịch sáp nhập theo Mục 92 của Luật Cạnh tranh và đánh giá
xem liệu một đề xuất sáp nhập có thể làm giảm đáng kể hoặc ngăn chặn đối thủ cạnh
tranh hay không. Khi Cục thấy rằng một đề nghị sáp nhập có khả năng ảnh hưởng đáng kể
và tiêu cực đến cạnh tranh trên thị trường, các Ủy viên có thể yêu cầu các bên tham gia tái
cơ cấu sáp nhập hoặc đề nghị các biện pháp khắc phục khác để giải quyết những vấn đề
cạnh tranh cụ thể. Khi mối quan tâm về cạnh tranh không thể được giải quyết bằng
thương lượng, các Ủy viên có thể chuyển hồ sơ lên Toà án Cạnh tranh.
Đối với việc sáp nhập có liên quan đến nhiều hơn một hệ thông Luật, việc hợp tác
quốc tế là rất quan trọng. Khi cần thiết, Cục chia sẻ với các cơ quan cạnh tranh quốc tế
quan điểm và thông tin về những vụ việc sáp nhập cũng như lợi ích từ việc trao đổi này.
Mặt khác, Cục cũng trao đổi các ý kiến về những phương pháp và cách thức thực thi
chính sách tốt nhất hiện nay khi xem xét sáp nhập với các cơ quan cạnh tranh khác đồng
thời phối hợp vê mặt thời gian trong quá trình đánh giá và xem xét lại việc gia hạn. Khi
cần thiết, tìm các biện pháp phù hợp (hoặc ít nhất không mâu thuẫn nhau) để khắc phục
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
305
sáp nhập. Cục thường xuyên tiếp xúc với các đối tác của mình tại Uỷ ban Thương mại
Liên bang Hoa Kỳ, Bộ Tư pháp và Ủy ban châu Âu.
3.4. Những số liệu về thực thi Luật cạnh tranh
Từ năm 2006 tới 2010, Cơ quan cạnh tranh đã tiếp nhận trung bình khoảng 1,200
khiếu nại, yêu cầu thông tin liên quan đến các vấn đề dân sự và đã tiến hành điều tra mỗi
năm khoảng 30 vụ việc.
Đối với các vấn đề hình sự, số lượng khiếu nại chỉ bằng 1/3 các vụ việc dân sự,
(khoảng 400 khiếu nại và yêu cầu), cơ quan đã tiến hành kiểm tra mỗi năm khoảng 26 vụ
việc.
Đối với hành vi cạnh tranh lành mạnh, hàng năm trung bình khoảng 16,000 khiếu
nại và yêu cầu thông tin, 20 ý kiến bằng văn bản và tiến hành kiểm tra 52 vụ việc.
Đối với hành vi Mua bán & Sáp nhập, số liệu như sau:
Thông báo
Sáp nhập
Cấp chứng nhận
hợp pháp hóa
M&A
Một số thẩm
định khác
Tổng số
2009-2010
(tính đến
tháng 5/2010)
10 190 16 216
2009-2008 12 195 32 239
2008-2007 15 294 28 337
2007-2006 18 250 32 300
3.5. Tổng số tiền phạt
Cục có trách nhiệm hành chính thu tiền phạt theo quyết định của Tòa án. Trong thời
gian 2010-2006, hơn 10 triệu USD tiền phạt được thu từ Cục hàng năm. Cụ thể, trong
từng vụ việc, số tiền phạt như sau:
Các vụ việc dân sự: khoảng $7,945,000 hàng năm
Các vụ việc về thương mại lành mạnh: khoảng $2,000,000 mỗi năm
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
306
Đối với các vụ việc sáp nhập, doanh thu từ việc Thông báo sáp nhập và cấp chứng
nhận hợp pháp (ARC) yêu cầu qua các năm là: 10.1 triệu USD năm 2009-2010, 10.2 triệu
USD năm 2008 – 2009 và 15.3 triệu USD năm 2007 – 2008.
Liên quan đến các vụ việc hình sự, Luật cạnh tranh đã được sửa đổi đáng kể vào
tháng 3 năm 2009, các sửa đổi này có hiệu lực từ ngày 12 tháng 3 năm 2010. Mức phạt tối
đa cho các hành vi thỏa thuận tăng gấp đôi so với trước, mức phạt lên tới 25 triệu USD
(….), phạt tù tới 14 năm. Người vi phạm có thể bị phạt cả 2 hình thức trên.
4. Thẩm quyền hoạch định chính sách
Cục cạnh tranh có chức năng ban hành các Hướng dẫn và các quy định ngành:
Cục ban hành Dự thảo Hướng dẫn thực thi chống định giá hủy diệt để tham vấn
tháng 10 năm 2007,
Cục đã hoàn thành nghiên cứu quy định chuyên môn ngày 11 tháng 12 năm 2007,
nghiên cứu cho thấy các điều khoản giới hạn quảng cáo, áp đặt giá cho các dịch vụ và hạn
chế cung cấp các dịch vụ chất lượng có thể bị sử dụng quá mức so với mục tiêu bảo vệ lợi
ích công cộng.
Cục kiếm soát quá trình thực hiện quy định về dịch vụ nha khoa. Khi nghiên cứu
chuyên môn được công bố, Cục đã hỗ trợ quản lý dịch vụ nha khoa thông qua áp dụng các
nguyên tắc của báo cáo đó.
Cục tham gia vào quá trình tham vấn công khai liên quan đến trình tự, đề xuất sửa
đổi để tăng cường thẩm quyền tài phán giữa Ủy ban phát thanh-truyền hình -viễn thông
Canada (CRTC) và Cục tại các thị trường điện thoại địa phương.
Cục là đại diện công khai trên văn bản đối với Quản lý quang phổ và Chi nhánh
Viễn thông Canada trong khuôn khổ triển khai dịch vụ băng tần quang phổ không dây.
Cục cũng tham gia vào khuôn khổ tố tụng pháp lý của CRTC đối với việc bán buôn
và các dịch vụ cần thiết khác.
5. Quy trình xử lý vụ việc
5.1. Thủ tục điều tra
Tùy vào sự tự nguyện hợp tác giữa các bên liên quan, Cục sẽ có những biện pháp
khác nhau để giải quyết những vụ việc nhất định.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
307
Biện pháp xử lý rút gọn cho phép Cục giải quyết một số vấn đề nhanh chóng và
dễ dàng mà không cần một cuộc điều tra hoặc trình tự tố tụng đầy đủ. Biện pháp này bao
gồm các cam kết tự nguyện của các công ty và cá nhân để có thước đo xác định tác động
của hành vi phản cạnh tranh và các lệnh cấm. Giải quyết vấn đề theo cách này làm giảm
sự không chắc chắn và tối đa hóa việc sử dụng các nguồn lực Cục vì biện pháp xử lý rút
gọn không yêu cầu hành động lâu dài từ tòa án.
Ngoài ra, trong trường hợp các bên được yêu cầu từ Cục để cung cấp thông tin và tài
liệu cần thiết bằng văn bản. Loại yêu cầu này bắt buộc tất cả các bên có nghĩa vụ thi hành
mệnh lệnh các cơ quan quốc gia. Đặc biệt, trong các trường hợp gian lận thầu và thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh, Immunity program là một trong những cách hiệu quả nhất để
khuyến khích các công ty để lộ thông tin cho Cục.
5.2. Kháng cáo
Khi Toà án đưa ra phán quyết cuối cùng về từng trường hợp cạnh tranh ở
Canada, các thủ tục kháng cáo được tiến hành bởi các tòa án cấp cao hơn.
VI. Cục Quản lý cạnh tranh Pháp
1. Thông tin chung
1.1. Tên cơ quan
Cục Quản lý cạnh tranh Pháp
1.2. Tóm tắt lịch sử
Được thành lập theo Luật Đổi mới nền kinh tế Ban hành năm 2008, Cục quản lý
cạnh tranh Pháp thay thế Hội đồng cạnh tranh (thành lập theo Pháp lệnh ngày 01 tháng 12
năm 1986). Pháp lệnh này được được hệ thống lại trong Phần 4 của Bộ luật Thương mại
năm 2000. Hội đồng cạnh tranh được thanh lập thay thế Ủy ban cạnh tranh (được thành
lập năm 1977). Tiền thân của Ủy ban cạnh tranh là Ủy van kỹ thuật về Cartel và Vị trí độc
quyền. Điều 95, 96 và 97 của Luật Đổi mới nền kinh tế chú trọng vào việc xây dựng Cục
quản lý cạnh tranh và các quy định trước đây của Bộ luật Thương mại.
Với sự điều chỉnh của Luật Đối mới nền kinh tế, Cục quản lý cạnh tranh có toàn bộ
quyền năng của Hội đồng cạnh tranh trước kia và hầu hết quyền hạn của Tổng Vụ cạnh
tranh, tiêu dùng và trấn áp gian lận (DGCCRF) về vấn đề cạnh tranh. Đồng thời, Cục
quản lý cạnh tranh cũng có thêm quyền hạn nữa là đưa ra những ý kiến và khuyến nghị
cho cơ quan công quyền khác.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
308
Trên cơ sở đó, các điều tra viên trước đây thuộc DGCCRF đã chuyển sang Cục quản
lý cạnh tranh. Thêm vào đó việc gia tăng thêm quyền biện hộ của các doanh nghiệp đã tạo
nên sự phân cách lớn hơn giữa chức năng điều tra và chức năng phán xét, theo đó mà vai
trò của ―Đội trưởng đội xử lý vụ việc‖ của Cục quản lý cạnh tranh được nâng lên (mục
1.2), ngoài ra trong vụ việc còn xuất hiện thêm chức danh ―cán bộ điều trần‖ (mục 1.3).
Cuối cùng, thêm một sự đổi mới nữa trong việc soạn thảo của Ban Nghiên cứu của Cục
quản lý cạnh tranh (1.4).
1.3. Nguồn nhân lực
Sau khi tiếp nhận thêm 60 cán bộ mới, Cục quản lý cạnh tranh đến nay có tổng số
cán bộ là 200 so với 130 cán bộ vào năm 2008.
Đội trưởng đội xử lý vụ việc: Chức năng điều tra và khởi tố của Cục quản lý cạnh
tranh được thực hiện dưới sự giám sát của Đội trưởng đội xử lý vụ việc. Đội trưởng được
bổ nhiểm bởi Bộ trưởng Bộ kinh tế cùng với sự đồng thuận của Hội đồng.
1.4. Bổ nhiệm
1.4.1. Lãnh đạo cao nhất
Tên Chức vụ trƣớc đây
Chủ tịch Bruno Lasserre Chủ tịch Hội đồng
Đồng Chủ tịch Thẩm phán và tranh tụng
Hội đồng Nhà nước
Phó Chủ tịch Francoise Aubert Phó Chủ tịch Hội đồng
Thẩm phán Tòa án Tối cao
Elisabeth Flury Herard Cựu thành viên của Hội đồng giám sát
Patrick Spilliaert Thành viên Tổng Cục kiểm toán
1.4.2. Thủ tục bổ nhiệm lãnh đạo cơ quan
Chủ tịch và 4* Phó Chủ tịch được bổ nhiệm bởi Tống thống theo đề nghị của Bộ
trưởng Bộ Kinh tế.
*Hiện tại trống 1 vị trí
Ủy ban Tài chính Kinh tế của cả Quốc hội và Thượng Nghị viện có thể góp ý về
việc bổ nhiểm Chủ tịch cạnh tranh của Tổng thống.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
309
1.5. Cơ sở pháp lý về sự độc lập của cơ quan cạnh tranh
Điều L461-1 của Luật Đổi mới nền kinh tế:
―Cục Quản lý cạnh tranh là một cơ quan hàn chính độc lập, đảm bảo việc tự do cạnh
tranh trong môi trường kinh doanh. Chính điều này sẽ vì vậy nó hỗ trợ thêm sự vận hành
của thị trường cạnh tranh của Châu Âu và quốc tế‖
1.6. Bộ máy tổ chức
1.7. Chức năng
Cục Quản lý cạnh tranh có ba chức năng sau:
Thứ nhất, Cục thực hiện một số chức năng tư vấn. Bất kỳ đề xuất nào về pháp luật
cạnh tranh phải được chính thức tham khảo ý kiến từ Chính phủ (Điều L462-2 Luật
Thương mại). Ngoài ra, Cục có thể được yêu cầu cho y’ kiến về bất cứ vấn đề nào liên
quan đến cạnh tranh. Trong bối cảnh đó, một số các cơ quan cũng có quyền kiến nghị cho
ý kiến, bao gồm Chính phủ, Quốc hội, Toà án, quản lý ngành (như các quy định Viễn
thông ("ARCEP"), các quy định về truyền thông ("CSA") hoặc Quy định về Năng lượng
("CRE")), chính quyền khu vực và địa phương, giáo sư và các hiệp hội, công đoàn thương
mại, các phòng nông nghiệp, thương mại và công nghiệp (Điều L461-5, L462-1 và L462-
3 Luật Thương mại.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
310
Cục quản lý cạnh tranh thông qua ý kiến về hệ thông chia sẻ thông tin bảo mật được
thiết kế cho các khách sạn theo Điều 81 EC và các quy định quốc gia (CCI Mulhouse), e-
Competition, ngoài ra còn có các tổ chức công đoàn thương mại và người tiêu dùng.. các
hiệp hội vào tháng 12 năm 2006-I. Cuối cùng, việc sửa đổi năm 2008 (Ordonnance n°
2008-1161 du 13 novembre 2008 portant modernisation de la régulation de la
concurrence) cho phép Cục quản lý cạnh tranh thẩm quyền ban hành ý kiến và đề xuất
hành động của Chính phủ tại các thị trường nơi cạnh tranh có thể được cải thiện. (Điều
L.462-4 Luật Thương mại).
Thứ hai, chức năng thực thi Luật cạnh tranh không lành mạnh của Pháp và EC tại
Pháp thông qua điều tra các vụ việc và ban hành quyết định, bao gồm các quyết định về
các biện pháp trừng phạt tạm thời, phạt tiền, biện pháp khắc phục, cảnh cáo (Điều L462-5,
L462-6 Luật Thương mại). Thêm vào đó, Cục cũng có những công cụ thực thi khác như
xem xét việc chấp nhận cam kết từ các bên…. để thương lượng các biện pháp giải quyết
cũng như cấp miễn toàn bộ hay một phần tiền phạt cho người nộp đơn khoan hồng trong
các trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Thứ ba, Cục có thẩm quyền xem xét các thông báo sáp nhập (Điều L430-3 Luật
Thương mại). Trước năm 2008, thẩm quyền này thuộc về DGCCRF. Tuy nhiên, Bộ
trưởng Kinh tế vẫn là người quyết định cuối cùng các vụ việc sáp nhập.
- Kết thúc giai đoạn đầu tiên, Bộ Trưởng sẽ có 5 ngày để xem xét quyết định cuối
cùng (kể từ ngày nhận), sau đó sẽ ―yêu cầu‖ Cơ quan Cạnh tranh về khả năng tiếp tục tiến
hành giai đoạn điều tra thứ 2. Cơ sở để xem xét sự can thiệp này cũng như việc Cơ quan
cạnh tranh có thực hiện ―yêu cầu‖ đó hay không không được Pháp Luật quy định cụ thể.
Vào cuối giai đoạn 2, Bộ trưởng đã có 25 ngày làm việc sau khi nhận được quyết
định của Cục về vụ việc liên quan đến căn cứ về lợi ích công cộng ngoài việc duy trì cạnh
tranh trên thị trường. Luật không giới hạn các căn cứ về lợi ích công cộng, cũng không
phải là loại quyết định có liên quan một phần chức năng của Cục (cho phép hay cấm),
cũng không phải là quyền hạn của Bộ trưởng Bộ (thêm cũng như các biện pháp cưỡng
chế, biến cho phép sang lệnh cấm và ngược lại).
Trong thời gian này, các bên không thực hiện các giao dịch, do đó tổng thời gian
cho giai đoạn 1 khoảng 30 đến 45 ngày làm việc và từ 90 đến 110 ngày làm việc cho giai
đoạn 2.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
311
2. Thực thi Luật
2.1. Thực thi Luật
Cục quản lý cạnh tranh có thẩm quyền gần như tuyệt đối để thi hành pháp luật cạnh
tranh của Pháp và EC.
2.2. Phạm vi của Luật cạnh tranh
Cơ quan cạnh tranh thực thi các quy tắc được ghi trong Sách tập IV, Tiêu đề II, Luật
Thương mại Pháp (FCC). Những quy định này cung cấp kiểm soát về:
(i) Các thỏa thuận phản cạnh tranh và các hành vi liên quan (Điều L. 420-1 FCC,
lệnh cấm theo Điều 81 (1) EC);
(ii) Lạm dụng vị trí thống lĩnh đơn lẻ hoặc tập thể (Điều L. 420-2 (1) FCC, lệnh cấm
theo Điều 82 EC);
(iii) Lạm dụng ưu thế bởi một hoặc một nhóm doanh nghiệp (không nhất thiết có vị
trí thống lĩnh) đối với nhà cung cấp hoặc khách hàng (Điều L. 420-2(2) FCC); và (iv) lạm
dụng để ấn định giá thấp (Điều L. 420-5 FCC).
3. Quyền hạn thực thi Luật
3.1.1 Hành chính
3.1.1. Quyền khởi tố điều tra
Công việc điều tra: Cục Cạnh tranh đã có những điều tra viên trong biên chế.
Tuy nhiên, Bộ vẫn giữ lại các dịch vụ điều tra ở cấp độ khu vực để có thể tiến hành
những điều tra đơn giản cũng như việc khám xét, tịch thu tang vật liên quan đến hành vi
phản cạnh tranh cáo buộc trong " khuôn khổ địa phương."
Điều trần trong quá trình khám xét và tịch thu. Sửa đổi cho phép điều tra viên của
Cục Cạnh tranh và của Bộ để thu thập lời khai từ những nhân viên công ty trong quá trình
khám xét và tịch thu. Quyền hạn đã được mở rộng vì nó bao gồm cả "thông tin hay lời
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
312
giải thích hữu ích cho các mục đích của điều tra" và không giới hạn yêu cầu liên quan đến
yếu tố liên quan, tài liệu, như là trường hợp trong luật pháp châu Âu.
Xử phạt đối với hành vi cản trở điều tra. Cục Cạnh tranh có thể, theo yêu cầu của
các trưởng nhóm điều tra, ban hành một lệnh cấm, cùng với hình phạt hàng ngày, đối với
các công ty không trả lời thông báo xuất hiện hoặc không phúc đáp kịp thời thông tin theo
yêu cầu của các điều tra viên của Cục Cạnh tranh hoặc của Bộ.
Cơ quan cạnh tranh cũng có thể, theo yêu cầu của các trưởng nhóm điều tra, áp dụng
phạt đối với việc cung cấp thông tin không đầy đủ, không chính xác hoặc không đầy đủ
hoặc thay đổi tang vật. Tiền phạt không được vượt quá 1% doanh thu của công ty bị coi là
có hành vi cản trở việc điều tra hoặc các yêu cầu của điều tra viên.
Các hình thức xử phạt hình sự đã có hiệu lực trước khi sửa đổi, vẫn được duy trì:
trong trường hợp cản trở điều tra, cá nhân có thể bị kết án 6 tháng tù giam và phạt 7.500
€, các đối tượng pháp lý khác sẽ bị phạt 37.500 €.
3.1.2. Quyền ra quyết định
Nếu Cục quản lý cạnh tranh phát hiện các dấu hiệu vi phạm Luật cạnh tranh, Cục có
quyền ra quyết định yêu cầu các bên chấm dứt các hành vi phản cạnh tranh (s) và áp dụng
hình phạt. Quyết định này được công bố trên website của Cục Cạnh tranh. Thông thương
quyết định của Cục sẽ có hiệu lực ngay lập tức. Cục Cạnh tranh cũng có thể ra cảnh cáo
nhằm khôi phục lại cạnh tranh trên thị trường. Cục Cạnh tranh cũng có thể yêu cầu các
bên tham gia công khai các quyết định xử phạt hoặc công bố trên báo chí. Ngược lại, Cục
cũng có thể quyết định rằng không có cơ sở để tiếp tục tố tụng (i) trong trường hợp hành
vi phản cạnh tranh chưa gây hại trên thị trường, (ii) khi cho rằng tồn tại hành vi bị cấm
nhưng chưa được quy định, (iii) trong trường hợp cam kết từ phía bởi các bên và được
chấp nhận từ phía Cục.
3.2. Hình sự
(Không)
3.3. Mua bán và sáp nhập
3.3.1. Thông báo trƣớc khi tiến hành sáp nhập
Ngưỡng 150.000.000 € tổng doanh thu đạt từ tất cả các bên tham gia giao dịch sáp
nhập và ngưỡng 50.000.000 € doanh thu đạt được ở Pháp ít nhất hai của các bên trong
giao dịch được duy trì.
Tuy nhiên, ngưỡng thông báo mới € 75.000.000 và 15.000.000 € được áp dụng thay
vì các ngưỡng chung trong trường hợp các bên đang hoạt động trong phân phối bán lẻ
hoặc ngoài lãnh thổ Pháp. Cụ thể, khi có ít nhất hai bên trong giao dịch sáp nhập hoạt
động một hoặc một số cửa hàng bán lẻ sẽ phải điền vào một bản yêu cầu nếu:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
313
• Tổng doanh thu của tất cả các bên tham gia giao dịch đạt trên 75.000.000 €; và
• Có ít nhất hai bên tham gia giao dịch ở Pháp có tổng doanh thu trên 15.000.000 €
trong ngành thương mại bán lẻ.
Khi soạn thảo, các ngưỡng này áp dụng đối với bất kỳ giao dịch sáp nhập liên quan
đến ít nhất hai bên điều hành cửa hàng bán lẻ, ngay cả khi những người chỉ chiếm một
phần biên của việc kinh doanh của các bên.
3.3.2. Quyền hạn ra quyết định
Giai đoạn I. Giai đoạn I giới hạn thời gian như sau:
• thời hạn bình thường cho giai đoạn I đối với việc điều tra là 25 ngày làm việc;
• nếu các cam kết được đề xuất, giai đoạn I được mở rộng cho 15 ngày làm việc;
• thời hạn có thể bị hoãn trong 15 ngày, theo đề xuất của các bên, "trong trường hợp có
yêu cầu cụ thể, chẳng hạn như hoàn thiện các cam kết."
Giai đoạn II. Giai đoạn II giới hạn thời gian như sau:
• thời hạn bình thường cho giai đoạn II đối với việc điều tra 65 ngày làm việc;
• nếu các cam kết được nộp ít hơn 20 ngày làm việc trước khi kết thúc thời hạn 65
ngày, giai đoạn II sẽ được gia hạn thêm 20 ngày làm việc;
• giới hạn thời gian này có thể bị hoãn trong 20 ngày, theo sáng kiến của các bên,
"trong trường hợp yêu cầu cụ thể, chẳng hạn như hoàn thiện các cam kết."
Thời hạn kiểm tra từ Bộ trưởng Kinh tế. Như đã nêu ở trên, Bộ trưởng Kinh tế có
thể:
• ở cuối giai đoạn I, trong thời hạn 05 ngày làm việc từ khi nhận quyết định của Cục,
yêu cầu tiến hành giai đoạn II của điều tra (điều tra mang tính chiều sâu);
• ở cuối giai đoạn II, trong thời hạn 25 ngày làm việc từ khi nhận được quyết định
cuối cùng của Cục, xem xét trên các căn cứ khác với cạnh tranh.
3.4. Số liệu về thực thi Luật cạnh tranh
3.4.1. Hành chính
Thời gian 2005 2006 2007 2008 2009
Số lƣợng quyết định 31 13 24 16 15
Số lƣợng công ty, nhóm, doanh nghiệp
bị phạt tiền
137 178 94 82 58
Tổng số tiền phạt (triệu Euro) 754,4 128,2 211 613,3 206,6
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
314
3.4.2. Mua bán & sáp nhập Ban hành 94 quyết định về sáp nhập năm 2009
4. Thẩm quyền hoạch định chính sách
4.1. Soản thảo/Công bố luật
Thủ tục thông báo liên quan đến chương trình khoan hồng của Pháp ban hành ngày
2-3-2009
Thông báo về Cam kết cạnh tranh ban hành ngày 2-3-2009
4.2. Ban hành các Hƣớng dẫn
Khác
*Gồm phối hợp với các Bộ khác,
Nghiên cứu thị trường/Khảo sát và một số loại khác
5. Quy trình xử lý vụ việc
5.1. Thủ tục điều tra
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
315
Hành động/Quyết định Thời gian
Thủ tục khởi tố (hồ sơ/giới thiêu/…)
Yêu cầu thông tin và hƣớng dẫn (kiểm tra / nghe
của các bên từ trưởng nhóm nếu cần thiết / yêu cầu
thông tin) Pre-SO, khả năng trình cam kết
Không có khung thời gian cụ thể - có thể
kéo dài vài tháng / năm kể từ khi bắt đầu
của vụ việc
SO được soạn thảo bởi các cán bộ xử ly’ và thông
báo cho các bên, người khiếu nại và các đại diện
Chính phủ (Commissaire du Gouvernement) do Báo
cáo viên (có thể quyết định áp dụng thủ tục đơn giản
trong hầu hết các đơn giản và / hoặc ít nhất là trường
hợp có hại)
Không có khung thời gian cụ thể - một vài
tháng / năm kể từ khi bắt đầu của vụ việc
Biên bản giám sát của các bên, người khiếu nại và
đại diện Chính phủ đối với SO / truy cập vào các hồ
sơ áp dụng thủ tục giải quyết. Ở giai đoạn này, các
bên có thể chọn không phản đối cuộc thi trong SO
và lợi ích phù hợp từ giảm tiền phạt
Hai tháng kể từ khi nhận được SO + thêm
một tháng khi yêu cầu
Báo cáo nhóm xử lý thông báo cho các bên, người
khiếu nại và các Commissaire du Gouvernement
Không có khung thời gian cụ thể - trong
thực tế là một vài tuần / tháng kể từ khi
nhận được biên bản khi trả lời với SO,
hoặc nhiều hơn trong trường hợp khó khăn
cụ thể
Trả lời của các bên trong các báo cáo Hai tháng sau khi nhận được báo cáo +
thêm một tháng khi trường hợp yêu cầu
đặc biệt
Ý kiến trao đổi của các bên trong quá trình tố tụng
được gửi đến cơ quan điều trần (HO)/ Báo cáo tham
vấn của HO được trình lên Chủ tịch của Cơ quan
cạnh tranh
Quá trình trao đổi ý kiến hậu SO không bị
giới hạn về mặt thời gian – Báo cáo của
HO được gửi đến Ban Lãnh đạo 10 ngày
trước khi diễn ra phiên điều trần
Điều trần trước Ban lãnh đạo Cơ quan cạnh tranh/
Trao đổi ý kiến miệng giữa Rapporteur Général, các
bên và Commissaire du Gouvernement
Không quy định khung thời gian cụ thể -
khoảng từ 2 đến 6 tuần sau khi nhận được
các ý kiến phản hồi về báo cáo
Quyết định của Ban lãnh đạo (Quyết định này
không được dựa trên những dữ kiện bổ sung về hành
vi vi phạm cho những quan điểm đã được trình bày
trong báo cáo)
Một hoặc hai tháng sau khi kết thúc phiên
điều trần
Thông báo về quyết định xử lý đối với các bên –
Đăng tải Quyết định trên trang tin điện tử của cơ
quan cạnh tranh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
316
5.2. Thủ tục ra quyết định
Được mô tả ở phần 3.1 và 3.2 ở trên
5.3. Kháng cáo
Các bên (và cả ủy viên công tố) có thể kháng lại giá trị pháp lý của (i) mệnh lệnh tư
pháp điều chỉnh điều khoản thanh tra L.450-4, và (ii) các điều kiện mà trong đó cuộc
thanh tra được tiến hành với đầy đủ quyền tài phán trước chủ tịch của Tòa phúc thẩm đối
với thẩm phán, người đã ban hành mệnh lệnh hành chính đối với cuộc điều tra đã tiến
hành. Cả hai trường hợp kháng cáo nêu trên phải được yêu cầu trong vòng 10 ngày và
không có hiệu lực tạm hoãn. Một kháng cáo chống lại các điều kiện của cuộc thanh tra
cũng có thể được nộp trong khoảng thời gian tương tự bởi chính người đưa ra khiếu kiện
vì các khoản mục thu được trong suốt cuộc thanh tra. Thủ tục kháng cáo có thể được nộp
lên Chủ tịch tòa Phúc thẩm trước 6 đến 8 tháng. Lệnh do Chủ tịch tòa Phúc thẩm đã đưa
ra chỉ có thể được kháng cáo đối với các vấn đề pháp lý tại phòng hình sự của tòa phá án
Các điều kiện nêu trong điều khoản về thanh tra L.450-3 có thể bị khiếu kiện như là
một khiếu kiện đến sau lên cơ quan điều tra khi quyết định chọn cơ sở của vụ việc và khi
kháng cáo với tòa Phúc thẩm Paris. Sau-SO, các bên liên quan có thể đệ trình các quan sát
của mình cho các viên chức tham gia phiên điều trân của cơ quan điều tra đối với những
vi phạm tiềm tàng quyền lợi của họ. Các viên chức sẽ đưa ra một báo cáo không có tính
ràng buộc pháp lý cho Chủ tịch cơ quan điều tra 10 ngày trước khi phiên điều trần diễn ra,
trong đó có thể dựa trên hoặc không dựa trên các kết luận của các viên chức nêu trên.
VII. Ủy ban Cạnh tranh Liên bang Thụy Sỹ
1. Thông tin chung
1.1. Tên cơ quan
Ủy ban Cạnh tranh Liên bang Thụy Sỹ (COMCO)
1.2. Sơ lƣợc lịch sử
1.2.1. Thành lập
COMCO được thành lập dựa trên Đạo luật liên bang về Cartel và các hành vi hạn
chế cạnh tranh khác năm 1995 (Đạo luật Cartel).
Về mặt hành chính, COMCO là một đơn vị của Federal Department of Economic
Affairs, tuy nhiên, COMCO là cơ quan liên bang độc lập (Điều 18).
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
317
1.2.2. Các mốc thời gian
1962 Đạo luật Cartel thứ nhất được ban hành, theo đó, Ủy ban Cartel được thành
lập.
1985 Đạo luật Cartel 1962 được thay thế bằng Đạo luật 1985 mới.
1995 Đạo luật Cartel 1985 được thay thế bằng Đạo luật Cartel hiện nay, theo đó
COMCO được thành lập.
2003 Đạo luật Cartel được sửa đổi (có hiệu lực từ tháng Tư năm 2004)
1.3. Nguồn lực
1.3.1. Nhân lực36
Ủy ban Cạnh tranh liên bang Thụy Sỹ được hỗ trợ bởi một Ban Thư Ký toàn thời
gian (đến cuối năm 2009, Ban Thư Ký có 64 thành viên bao gồm cả bán thời gian và full-
time).
Ban Thư Ký với hơn 50 thành viên với lĩnh vực chuyên sâu về kinh tế và pháp lý.
1.3.2. Ngân sách37
Ngân sách hàng năm của COMCO vào khoản 7 triệu CHF (tương đương với 7.65
triệu USD).
1.4. Bổ nhiệm lãnh đạo cao nhất38
1.4.1. Ban Lãnh đạo
COMCO bao gồm Ban Chủ tịch (Chủ tịch và 2 phó chủ tịch) và 9 thành viên khác
(bao gồm các chuyên gia độc lập).
Chủ tịch: Giáo sư Tiến sỹ Vincent Martenet.
(Nguyên là Phó Chủ tịch từ năm 1998, cũng giáo sự luật cạnh tranh và hiến pháp
của Đại học Lausanne).
1.4.2. Bổ nhiệm Chủ tịch
Các thành viên của COMCO được lựa chọn bởi Hội đồng Liên bang.
1.5. Cơ sở pháp lý về sự độc lập của cơ quan cạnh tranh39
36 http://www.weko.admin.ch/org/index.html?lang=en 37 THE 2005 HANDBOOK of COMPETITION ENFORCEMENTCEMENT AGENCIES 38 The European Antitrust Review 2011 39 Federal Act on Cartels and other Restraints of Competition - CartA
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
318
Theo Điều 18 của Đạo luật Cartel, COMCO có thể ra quyết định và ban hành các
quy định mà không phụ thuộc vào các cơ quan khác
1.6. Tổ chức40
Ban Thư ký được chia thành 3 nhóm.
Mỗi nhóm chịu trách nhiệm cho một nhóm thị trường: Thị trường sản phẩm,
Dịch vụ và Cơ sở hạ tầng
Nhóm ―Nhân lực và Hậu cần‖ chịu trách nhiệm về các vấn đề hành chính và kỹ
thuật.
1.7. Chức năng41
Chức năng của COMCO bao gồm:
- đấu tranh ngăn ngừa những cartels có hại,
- giám sát các công ty độc quyền có dấu hiện phản cạnh tranh,
- thực thi pháp luật kiểm soát sáp nhập
40 http://www.weko.admin.ch/org/index.html?lang=en 41 http://www.weko.admin.ch/index.html?lang=en
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
319
- chống lại việc áp đặt các hành vi hạn chế cạnh tranh từ nhà nước.
2. Thực thi luật
2.1. Thực thi luật42
Đạo luật Cartel
- Pháp lệnh Kiểm soát sáp nhập
- Pháp lệnh Xử lý vi phạm Đạo luật Cartel
2.2. Phạm vi điều chỉnh của Luật cạnh tranh
Cartel Thỏa thuận được điều chỉnh trên cơ sở hiệu quả kinh tế mà
ảnh hưởng đáng kể đến hạn chế cạnh tranh trên thị trường của
hàng hóa hay dịch vụ cụ thể, và tất cả các thỏa thuận mà loại
trừ cạnh tranh hiệu quả đều là trái pháp luật (Điều 5).
Lạm dụng vị trí thống
lĩnh
Các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh vi phạm pháp luật khi
chúng lạm dụng vị trí của mình trên thị trường, ngăn cản các
các doanh nghiệp khác gia nhập và tham gia cạnh tranh hay
gây bất lợi cho các đối tác thương mại khác (Điều 7)
Mua bán và sáp nhập COMCO cấm hay cho phép việc tập trung kinh tế tùy thuộc
vào các điều kiện và nghĩa vụ nếu cuộc điều tra cho thấy rằng
việc tập trung.
3. Quyền hạn thực thi luật
3.1. Thủ tục hành chính
3.1.1. Quyền tiến hành điều tra vụ việc43
Ban Thư ký có thể tiến hành điều tra sơ bộ và yêu cầu doanh nghiệp hợp tác hay trả
lời những khiếu nại của bên thứ ba. Ban Thư ký có thể đề nghị áp dụng các biện pháp để
42 The Public - Competition Enforcement Review - Switzerland 43 Cartel Act
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
320
loại trừ và ngăn ngừa hành vi hạn chế cạnh tranh. Nhưng trong suốt quá trình điều tra sơ
bộ, Ban Thư ký không có quyền khám xét hồ sơ.
Nếu như phát hiện dấu hiệu của sự vi phạm, Ban Thư ký được sự đồng ý của cuộc
điều tra sơ bộ sẽ mở cuộc điều tra chính thức. Ban Thư ký sẽ mở cuộc điều tra bất cứ khi
nào COMCO hoặc cơ quan khác có yêu cầu. COMCO sẽ quyết định thứ tự tiến hành các
cuộc điều tra tùy theo mức độ quan trọng của chúng.
[Chƣơng trình khoan dung]
Chương trình Khoan dung được quy định theo Đạo luật sửa đổi năm 2003.
Nếu như doanh nghiệp giúp đỡ việc phát hiện và loại trừ được hành vi hạn chế cạnh
tranh (Cartel hay lạm dụng vị trí thống lĩnh) sẽ được miễn toàn bộ hoặc một phần phí
phạt của vụ việc (Điều 49a, Khoản 2)
3.1.2. Quyền hạn đƣa ra quyết định
Trên cơ sở đề nghị của Ban Thư ký, COMCO sẽ ra quyết định áp dụng biện pháp
thích hợp hoặc chấp thuận việc hòa giải theo quy định.
Các bên bị điều tra có thể đánh giá và nhận xét đề nghị của Ban Thư ký bằng văn
bản. COMCO sẽ quyết định tiến hành phiên điều trần hoặc chỉ đạo Ban Thư ký để tiến
hành thêm các biện pháp điều tra.
Nếu trong trường hợp có sự thay đổi đáng kể về khung pháp lý hay điều kiện thực
tế, khi có đề nghị từ Ban Thư ký hoặc yêu cầu của các bên liên quan, COMCO có thể sẽ
xem xét rút lại hoặc sửa đổi quyết đinh đã ban hành.
3.2. Mua bán và sáp nhập
3.2.1. Thông báo trƣớc khi sáp nhập
Các doanh nghiệp tham gia sẽ phải thông báo với COMCO trước khi tiến hành sáp
nhập nếu năm tài chính trước khi việc sáp nhập diễn ra:
a. doanh nghiệp liên quan cùng báo cáo tổng mức doanh thu ít nhất 2 tỷ francs Thụy
Sỹ hoặc doanh thu trên lãnh thổ nước Thụy Sỹ đạt ít nhất 500 triệu francs Thụy Sỹ và
b. ít nhất 2 trong các doanh nghiệp tham gia sáp nhập có doanh thu lần lượt trên lãnh
thổ Thụy Sỹ đạt ít nhất 100 triệu francs Thụy Sỹ.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
321
Khi nhận được thông báo về việc tập trung kinh tế của các doanh nghiệp, COMCO
quyết định sẽ tiến hành cuộc điều tra. COMCOM sẽ thông báo với các doanh nghiệp liên
quan về việc mở cuộc điều tra trong vòng một tháng sau khi nhận được Thông báo về
việc tập trung kinh tế. Sau một tháng kể trên, nếu như không có thông báo gì từ phía
COMCO thì các doanh nghiệp có thể tiến hành việc tập trung theo như thông báo của
mình.
Các doanh nghiệp sẽ chưa được phép tiến hành sáp nhập trong vòng một tháng theo
như thông báo trừ khi các bên liên quan đưa ra được lý do chính đáng và COMCO cho
phép việc sáp nhập.
Nếu COMCO quyết định tiến hành điều tra thì Ban Thư ký sẽ ban hành một số các
điều kiện của việc Thông báo tập trung kinh tế và ấn định khung thời gian mà bên thứ ba
liên quan muốn có ý kiến về việc tập trung kinh tế đã được thông báo đó.
Ở giai đoạn đầu của cuộc điều tra, COMCO sẽ quyết định tạm thời hoặc việc tập
trung sẽ được diễn ra hay vẫn phải tạm thời đình chỉ. COMCO sẽ hoàn tất việc điều tra
trong vòng 04 tháng nếu như không có những lý do ngăn cản chính đáng của bên thứ ba
liên quan.
3.3.2. Thẩm quyền ra quyết định
Tác động về mặt pháp lý của tập trung kinh tế (hình thức phải thông báo bị đình chỉ
liên quan đến sự đáo hạn của các thời hạn được quy định và đối với bất cứ quy định tạm
thời nào để thực thi vấn đề tập trung kinh tế. Nếu Ủy ban Cạnh tranh không đưa ra một
quyết định trước khi kết thúc thời hạn được nêu trong điều 33, đoạn 3, thì tập trung kinh
tế được xem như hợp pháp, trừ khi COMCO khẳng định là không được (bằng việc kết
luận rằng họ không thể tiến hành cuộc điều tra với một số lý do có thể được coi là có liên
quan).
Những hồ sơ đề nghị xem xét ngoại lệ của Hội đồng Liên bang cũng thế thể được đệ
trình trong vòng 30 ngày kể từ khi phán quyết của Tòa hành chính liên bang hoặc Tòa Án
liên bang có liệu lực.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
322
Nếu có thể, Hội đồng Liên bang sẽ đưa ra quyết định trong vòng 4 tháng kể từ ngày
nhận được hồ sơ đề nghị nêu trên.
3.4. Số liệu thống kê về thực thi luật cạnh tranh
3.4.1. Số liệu thống kê44
Nội dung 009 008 007 006 005
Điều tra
Quyết định cuối cùng 6 4 7 4 4
Hòa giải 3 1 1 1 1
Phán quyết hành chính 2 1 3 0 1
Chế tài theo quy định điều 49a, đoạn 1 5 1 2 1 -
Sáp nhập
Báo cáo 6 0 5 9 7
Không có phản đối sau khi điều tra sơ bộ 9 9 9 6 4
Điều tra 5 3 5 3 4
Các quyết định của Ủy ban cạnh tranh 4 2 3 0 1
Sau giai đoạn điều tra sơ bộ 1 0 - - -
Sau khi toàn tất điều tra 3 2 - - -
Thực thi sớm 0 0 0 0 0
3.4.2. Giá trị xử phạt
Nghị định về xử phạt các hành vi Cartel (nghị định xử phạt) đạt ra các tiêu chí được
sử dụng cho việc quyết định mức độ thực tế khi xử phạt. Theo quy định tại điều 2.1 của
nghị định, chế tài được tính toán dựa trên một vài bước:
44 Annual Report of COMCO from 2005 to 2009
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
323
Trước tiên, một mức khởi điểm được xác định. Dựa trên mức độ và hình thức vi
phạm, nó có thể lên tới 10% tổng doanh thu của các doanh nghiệp có liên quan trong thị
trường liên quan ở Thụy Sỹ trong 3 năm gần nhất (Điều 3 của nghị định xử phạt).
Thứ hai, mức khởi điểm đó được điều chỉnh dựa theo thời gian vi phạm. Nếu hành
vi hạn chế cạnh tranh đó đã diễn ra trong khoảng từ 1 đến 5 năm, nó có thể tăng lền tới
50%. Nếu hành vi đó kéo dài trên 5 năm, nó sẽ được tăng thêm 10% đối với mỗi năm kéo
dài thêm (Điều 4 nghị định xử phạt).
Thống kê về mức xử phạt trong một số vụ việc gần đây nhất.
(1). Tháng 5 năm 2010, Ban thư ký COMCO đã kết thúc cuộc điều tra chính thức
đối với thị trường nước hoa cao và mỹ phẩm cấp và đưa ra đề xuất quyết định cuộc điều
tra tới COMCO và các bên liên quan. Theo đề xuất của Ban thư ký, COMCO sẽ tuyên bố
rằng hành vi Cartel đã vi phạm và phải áp dụng chế tài xử phạt cho từng thành viên của
ngành công nghiệp có liên quan.
Mức xử phạt do Ban thư ký đề xuất nằm trong khoảng từ 17,000 CHF đến 25.5 triệu
CHF và tổng mức xử phạt ước tính trên 100 triệu CHF.
(2). Trong tháng 12 năm 2009, COMCO đã đề xử phạt tổng cộng 5.7 triệu CHF đối
với 3 công ty dược phẩm (Pfizer AG, Eli Lilly (Suisse) SA và Bayer (Schweiz) AG)
(3). Trong tháng 12 năm 2009, COMCO đã xử phạt lần lượt là 4.8 triệu CHF và
10,000 CHF đối với nhà sản xuất kem đánh răng Elmex (Gaba International AG) và nhà
sản xuất nhượng quyền của công ty này tại Áo (Gebro Pharma GmbH).
(4). Trong tháng 11 năm 2009, COMCO đã đưa ra quyết định rằng công ty viễn
thông hàng đầu của Thụy Sỹ là Swisscom đã lạm dụng vị trí thống lĩnh thông qua chính
sách giá đối với dịch vụ Internet tốc độ cao (ADSL) và xử phạt Swisscom 220 triệu CHF.
4. Thẩm quyền hoạch định chính sách 45
4.1. Khuyến nghị dành cho các cơ quan quản lý (điều.45)
COMCO sẽ giám sát thường xuyên tình hình cạnh tranh và có thể gửi đến các cơ
quan quản lý những khuyến nghị về cách thức khuyến khích môi trường cạnh tranh một
45 The European Antitrust Review 2011
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
324
cách hiệu quả, đặc biệt liên quan đến việc xây dựng và thực thi các quy định liên quan
đến các vấn đề về thương mại.
4.2. Các quan điểm (điều.46)
Các dự thảo luật Liên bang liên quan đến các vấn đề thương mại mà có khả năng
ảnh hưởng đến cạnh tranh sẽ được thông báo lên Ban thư ký COMCO. Ban thư ký sẽ
quyết định xem liệu rằng những dự thảo luật đó có thể là lý do làm suy giảm hoặc hạn chế
cạnh tranh hay không.
COMCO sẽ thông qua một thủ tục tham vấn để đưa ra quan điểm của mình đối với
các dự thảo luật Liên bang gây cản trở hoặc có ảnh hưởng đến cạnh tranh. COMCO có thể
đệ trình các quan điểm của mình trong các đạo luật của Bang.
4.3. Báo cáo của chuyên gia (điều.47)
COMCO sẽ đưa ra cho các cơ quan quản lý khác những báo cáo của mình đối với
các vấn đề chung có tầm quan trọng cao trong luật cạnh tranh. COMCO có thể chỉ đạo
cho Ban thư ký tiến hành công việc này (đưa ra các báo cáo chuyên sâu) đối với các vấn
đề ít quan trọng hơn.
5. Quy trình xử lý vụ việc46
5.1. Thủ tục điều tra
5.2. Thủ tục ra quyết định
Được mô tả ở mục 3.1 và 3.3 nêu trên
5.3 Kháng cáo
Có hai kênh pháp lý thông qua đó có thể kháng cáo lại các quyết định được đưa ra từ
cơ quan quản lý cạnh tranh.
Một kháng cáo có thể được thực hiện thông qua Ủy ban kháng cáo các vấn đề cạnh
tranh (REKO/WEF). Cơ quan này có thẩm quyền giải quyết trong trường hợp thứ nhất
(điều 44)47
.
Nếu một bên liên quan không thỏa mãn với quyết định của Ủy ban kháng cáo các
vấn đề cạnh tranh, bên đó có thể kháng cáo qua Tòa tối cao.
46 REGULATORY REFORM IN SWITZERLAND - OECD REVIEWS OF REGULATORY REFORM 47 This procedure is amended from January 2011.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
325
Nói cách khác, khi COMCO ban hành quyết định và phán quyết rằng hành vi hạn
chế cạnh tranh là không hợp pháp, các bên liên quan có thể yêu cầu một lệnh đặc biệt từ
Hội đồng Liên bang căn cứ trên lợi ích chung mang tính thuyết phục. (điều 8, 11 và 31).
VIII. Ủy ban cạnh tranh Singapore
1. Thông tin chung
1.1. Tên cơ quan
Cơ quan cạnh tranh Singapore (CCS)
Tóm tắt lịch sử hình thành
1.2.1. Năm thành lập --- 2005
1.2.2. Tóm tắt lịch sử hình thành
19/10/2004 Nghị viện Singapore thông qua Dự thảo luật cạnh tranh
01/2005 Luật Cạnh tranh có hiệu lực
CCS được thành lập trực thuộc Bộ Công Thương Singapore
01/2006 Luật Cạnh tranh bao gồm các quy định M&A
07/2007 Các quy định M&A
1.3. Nguồn lực
1.3.1. Số cán bộ: 60 ngƣời, trong đó có 12 Luật sƣ và 18 chuyên gia kinh tế
(Tính theo năm 2010)
1.3.2. Ngân sách
(SGD)
2005 2006 2008 2009 2010
10,695,262 13,798,358 12,001,083 12,872,943 13,033,864
* Tổng ngân sách trợ cấp của Bộ
1.4. Bổ nhiệm Lãnh đạo CCS
1.4.1. Danh sách Lãnh đạo (Lý lịch)
Tên Lý lịch
Chủ tịch Lam Chuan Leong Đại sứ lưu động, Bộ Ngoại giao
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
326
Tên Lý lịch
Ủy viên Bobby Chin Yoke Choong Chủ tịch
Dr Andrew Khoo Cheng
Hoe
Giám đốc Điều hành các Thị trường Vốn, Sở
Quản lý Tiền Tệ Singapore
Prof Phang Sock Yong Giáo sư Khoa Kinh tế, Đại học Quản lý
Singapore
Prof Tan Cheng Han Giáo Sư Khoa Luật, Đại học Quốc Gia
Singapore
Mrs Tan Ching Yee Thư ký, Bộ Y tế
Ms Yena Lim Hua Yen Chủ tịch Hội đồng Quản trị CCS
Lionel Yee Woon Chin Cố Vấn kiêm Luật sư, Giám đốc Cục Quan
hệ Quốc tế, Phòng chưởng lý
Ms Chia Aileen Phó Tổng Giám Đốc (Viễn Thông & Bưu
Điện)
Cục Phát triển Thông tin truyền thông
Wong Yew Meng Cựu đối tác kiểm toán
PricewaterhouseCoopers
1.4.2. Quy trình thủ tục bổ nhiệm Lãnh đạo CCS
Chủ tịch và thành viên Hội đồng cạnh tranh Singapore do Bộ trưởng Bộ Công
Thương bổ nhiệm
Số thành viên của Hội đồng được quy định không dưới 2 người và không quá
16 người (Phần 5)
Nhiệm kỳ bổ nhiệm Chủ tịch và thành viên Hội đồng cạnh tranh được quyết
định bởi Bộ Công Thương, được quy định không dưới 3 năm và không quá 5 năm. (Có
thể tái bổ nhiệm)
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
327
Bên cạnh thẩm quyền bổ nhiệm Chủ tịch và thành viên Hội đồng cạnh tranh,
Bộ trưởng Bộ Công Thương có thẩm quyền đưa ra những chỉ đạo chung liên quan đến
chính sách của CCS, thông qua việc bổ nhiệm trưởng ban hành pháp (Phần 10)
1.5. Cơ sở Đảm bảo tính Độc lập cho Cơ quan Quản lý Cạnh tranh
Phần 7 Luật Cạnh tranh quy định rằng CCS có chức năng thực thi Luật Cạnh tranh
và không có Luật nào khác có thể giới hạn chức năng này của CCS.
1.6. Tổ chức
Dưới Ủy ban có Ban điều hành. Dưới Ban điều hành có 3 ban: (i) Ban phân tích
chính sách và kinh tế, (ii) Ban Kế hoạch chiến lược và (iii) Ban Hợp tác quốc tế
Dưới Ban điều hành cũng có cơ quan hỗ trợ (Thực thi và pháp chế). Dưới Ban
pháp chế có 2 Ban thực thi và pháp chế.
Chức năng của các Ban như sau
Ban phân tích
chính sách và
kinh tế
Bao gồm phòng Kinh tế (có chức năng phân tích kinh tế trong các
vụ việc cạnh tranh và nghiên cứu thị trường), Phòng Chính sách
(có trách nhiệm trong các vấn đề về chính sách) và Phòng tập
trung kinh tế (quản lý các vụ việc tập trung kinh tế) cùng với Ban
Giám đốc và các chuyên gia kinh tế
Ban kế hoạch
chiến lƣợc
Với một trưởng ban và các cán bộ có trách nhiệm trong mảng hợp
tác quốc tế, chiến lược phát triển và hợp tác cộng đồng
Ban Hợp tác
quốc tế
Bao gồm Phòng Hành chính/IT, Phòng hợp tác cộng đồng, Phòng
Tài chính, Phòng tổ chức, và Phòng phát triển tổ chức, với 1
trưởng Ban và các chuyên viên, có trách nhiệm trong các lĩnh vực
như nhân sự, tài chính, hành chính, quản lý mạng
Thực thi Luật Cạnh tranh, tư vấn pháp lý và soạn thảo các văn
bản pháp luật trong quá trình hoạt động của CCS. Bao gồm các
Giám đốc thứ nhất và thứ hai, các chuyên gia pháp lý và cán bộ
hành pháp.
1.7. Chức năng
Chức năng chính của CCS như sau.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
328
Đảm bảo và nâng cao tính hiệu quả của thị trường và xây dựng một thị trường năng
động, và cạnh tranh tại Singapore
Giám sát thực tiễn cạnh tranh tại Singapore
Thúc đẩy và đảm bảo tính cạnh tranh trong thị trường Singapore
Thúc đẩy môi trường cạnh tranh lành mạnh và xây dựng văn hóa cạnh tranh trong
nền kinh tế Singapore;
Là đại diện cho Singapore tham gia các hoạt động quốc tế trong lĩnh vực cạnh tranh;
Tư vấn cho Chính phủ hay các cơ quan nhà nước khác những vấn đề liên quan đến
cạnh tranh.
2. Thực thi Luật
Thực thi Luật --- Luật Cạnh Tranh 2004
Thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh
(Với chƣơng trình
khoan dung)
Cấm các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các bên
khác nhau nhằm ấn định giá, hạn chế sản xuất, phân chia thị
trường và bóp méo cạnh tranh (Mục 34)
Lạm dụng vị trí thống
lĩnh
Nghiêm cấm các hành vi lạm dụng, bao gồm việc giảm giá để
cạnh tranh, găm hàng, từ chối cung cấp các nguồn đầu vào
thiết yếu để giảm cạnh tranh (Mục 47)
Sáp nhập và hợp nhất Cấm sáp nhập và hợp nhất nếu vụ việc ảnh hưởng đến cạnh
tranh trên thị trường (Mục 54)
3. Quyền hạn thực thi luật
- Hành chính
Thẩm quyền điều tra vụ việc
CCS có quyền thực hiện các vụ kiện tụng (điều tra chính thức) sau khi có khiếu nại
hoặc sau khi có chủ định kiện tụng.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
329
CCS có thể tiến hành điều tra nếu xét thấy có đủ cơ sở nghi ngờ các hành vi vi phạm
Mục 34 (thỏa thuận), Mục 47 (lạm dụng vị trí thống lĩnh) và Mục 54 (sát nhập và hợp
nhất). CCS có thể chỉ định thanh tra để tiến hành các công việc điều tra. (Mục 62)
[Chương trình Nhân văn]
Chương trình nhân văn được triển khai từ năm 2009.
Các hành vi đối xử nhân văn được áp dụng đối với các tổ chức hoặc cá nhân đang
tham gia hoặc đã và đang tham gia vào các hoạt động thỏa thuận hợp tác hiệu quả với
CCS trong đó các điều kiện cụ thể được đáp ứng.
Đưa ra tất cả thông tin xác minh dấu hiệu thông đồng móc nối cũng như hợp tác đầy
đủ trong quá trình điều tra.
Hạn chế tham gia vào các hoạt động câu kết chủ mưu hoặc cưỡng ép
Hành vi đối xử nhân văn bao gồm việc giảm phạt tiền lên tới 100%
[Thẩm quyền điều tra vụ việc]
Thanh tra được bổ nhiệm bởi CCS có các quyền sau.
Yêu cầu xuất trình tài liệu, cung cấp thông tin, vv… (Mục 63)
Khám xét mà không cần trát của tòa (Mục 64)
Ngoài ra, nếu có căn cứ hợp lý, thanh tra có thể xin trát của tòa và được quyền khám
xét theo lệnh. (Mục 65)
Thẩm quyền phán quyết.
CCS có thể đưa ra phán quyết về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và lạm dụng vị trí
thống lĩnh. (Mục 68)
Trong phán quyết, CCS có thể ra lệnh xóa bỏ vi phạm và phạt tiền doanh nghiệp
kinh doanh ở Singapore mỗi năm không quá 10% doanh thu trong thời gian vi phạm
(Không quá 3 năm) (Mục 69)
- Xử lý hình sự
Trong luật cạnh tranh, việc tố tụng hình sự không có trong phần giải quyết vụ án.
- Sáp nhập và thâu tóm
Thông báo trước khi sáp nhập.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
330
Bên sáp nhập được quyền thông báo việc sáp nhập cho CCS.
Ngoài thông báo như trên, đối với sáp nhập và thâu tóm, CCS có thể chủ động tiến
hành điều tra.
Thẩm quyền phán quyết
CCS có quyền quyết định các trường hợp sáp nhập. Tuy nhiên, đối với các phán
quyết này, trong vòng 14 ngày, áp dụng đối với Bộ trưởng Bộ Công Thương, việc sáp
nhập sẽ không còn bị hạn chế nếu có yếu tố công ích (Mục 68).
Trong trường hợp đó, phán quyết của Bộ trưởng là phán quyết cuối cùng.
Bên cạnh các thủ tục chính thức trên, CCS thiết lập thủ tục xem xét sáp nhập theo
hướng dẫn. Tức là, sau thông báo sáp nhập, CCS tiến hành Giai đoạn xem xét 1 trong
vòng 30 ngày. Sau Giai đoạn 1, CCS có thể đưa ra phán quyết chấp thuận hoặc chuyển
sang Giai đoạn xem xét 2. Giai đoạn 2 được tiến hành trong 120 ngày. Sau đó CCS sẽ đưa
ra phán quyết chấp thuận hoặc bác bỏ.
Thống kê thực thi luật cạnh tranh.
Số phán quyết / số trường hợp
Hành chính
Vào tháng 1 năm 2008, CCS đưa ra phán quyết vi phạm với sáu công ty diệt côn
trùng gian lận đấu thầu, và phạt tiền tổng cộng 262.760 SGD.
Tháng 11 năm 2009, CCS ban hành phán quyết vi phạm với 16 nhân viên xe buýt
cùng công đoàn của họ do thông đồng làm giá xe buýt, và phạt tiền các bên vi phạm tổng
cộng 1,69 triệu SGD.
Tháng 6 năm 2010, CCS ban hành phán quyết cuối cùng chống lại một công ty in
nhãn do lạm dụng vị trí thống lĩnh và phạt công ty trên 262.760 SGD.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
331
Tháng 6 năm 2010, CCS đưa ra phát quyết cuối cùng chống lại 14 công ty thiết bị
điện và xây dựng do gian lận đấu thầu. Các bên liên quan phải chịu mức phạt tiền tổng
cộng là 188.000 SGD.
Xử lí hình sự
Không có trường hợp nào.
Sáp nhập và thâu tóm
Sau khi các điều luật có hiệu lực vào năm 2007, CCS đã giải quyết tất cả các thông
báo sáp nhập mà không cần áp đặt bất kì biện pháp nào. Số thông báo như sau:
FY2007 FY2008 FY2009
6 7 5
Số tiền phạt (SGD)
2006 2007 2008 2009 2010
0 0 262.760 1.690.000 1.177.000
4. Thẩm quyền hoạch định chính sách
Soạn thảo / Ban hành luật --- Không có ví dụ.
Ban hành văn bản hƣớng dẫn.
CCS được phép soạn thảo tài liệu hướng dẫn chỉ rõ cách ứng xử để diễn giải và thực
thi các điều khoản của luật cạnh tranh. (Mục 61)
CCS đã ban hành bộ 14 hướng dẫn cách diễn giải và thực thi các điều khoản của luật
cạnh tranh.
Các hướng dẫn gồm:
Hướng dẫn Mục 34.
Hướng dẫn Mục 47.
Hướng dẫn Thẩm định sáp nhập.
5. Quy trình xử lý vụ việc
Quy trình điều tra.
Thủ tục
--- Đã được nhắc đến ở phần 3.1. và 3.3.
Kháng cáo
Theo luật cạnh tranh, hội đồng kháng cáo cạnh tranh sẽ xem xét đơn kháng án chống
lại quyết định của CCS. (Mục 72)
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
332
Hội đồng kháng cáo cạnh tranh là một cơ quan độc lập bao gồm các thành viên bổ
nhiệm bởi Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp. Chủ tịch hiện tại của Hội đồng
phúc thẩm là nguyên Thẩm phán Tòa án Tối cao, ông Thean Lip Ping. Hội đồng sẽ trao
quyền hạn, quyền và đặc quyền cho một Tòa án Quận để xem xét vụ kiện. (Mục 73)
Chỉ có các bên nhận phán quyết từ CCS có thể kháng án lên Hội đồng kháng cáo
cạnh tranh. Các bên có thể kháng án chống lại quyết định của hội đồng lên tòa án tối cao,
nhưng chỉ được phúc thẩm các vấn đề luật và mức phạt tiền. (Mục 74).