Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Tòa Giám Mục Giáo Phận Nha Trang
Văn Phòng Tư Pháp
Bí tích Hôn Phối
Hướng Dẫn Giáo Luật
Tài liệu khóa cha quản xứ 2015
Bí tích Hôn Phối
Hướng Dẫn Giáo Luật
Lm. JB. Lê Ngọc Dũng
Nha Trang 2015
a
Bí Tích Hôn Phối Hướng Dẫn Giáo Luật
Mục lục
1. Những điều căn bản ....................................................... 1
1.1. Hôn nhân ................................................................... 1
1.2. Bí tích hôn nhân ........................................................ 1
1.3. Đặc tính chính yếu ..................................................... 2
1.4. Sự ưng thuận .............................................................. 3
1.5. Quyền kết hôn............................................................ 4
1.6. Giáo luật chi phối ...................................................... 5
2. Việc phải làm trước khi cử hành hôn nhân ................ 6
2.1. Chuẩn bị xa, gần và tức thì ........................................ 6
2.3. Lãnh nhận bí tích Thêm Sức ..................................... 8
2.4. Trường hợp bất hợp luật .......................................... 26
3. Thủ tục hôn nhân ........................................................... 9
3.1. Thủ tục hôn nhân thông thường ................................ 9
3.1.1. Đăng ký kết hôn tại giáo xứ ................................ 9
3.1.2. Hồ sơ hôn phối .................................................. 11
3.2. Thủ tục hôn nhân với ngoại kiều ............................. 18
3.2.1. Kết hôn với ngoại kiều Công Giáo ................... 18
b
3.2.2. Hôn nhân với ngoại kiều không Công Giáo ..... 19
4. Ngăn trở tiêu hôn ......................................................... 20
4.1. Khái niệm ................................................................ 20
4.2. Mười hai ngăn trở tiêu hôn ...................................... 21
4.3. Miễn chuẩn (dispensatio) ........................................ 24
4.3.1. Khái niệm .......................................................... 24
4.3.2. Quyền miễn chuẩn ngăn trở tiêu hôn ................ 24
4.3.3. Xin miễn chuẩn ................................................. 25
4.3.4. Cấm hôn ............................................................ 25
5. Cử hành hôn nhân ........................................................ 28
5.1. Thể thức giáo luật (forma canonica) ....................... 28
5.2. Năng quyền chứng hôn ............................................ 28
5.2.1. Năng quyền chứng hôn do chức vụ .................. 28
5.2.2. Năng quyền chứng hôn do ủy nhiệm ................ 30
5.3. Giáo xứ, nơi cử hành ............................................... 31
5.4. Cử hành hôn phối trong hay ngoài Thánh lễ? ......... 32
5.4.1. Hôn nhân giữa hai người Công Giáo ................ 33
5.4.2. Hôn nhân hỗn hợp ............................................. 33
5.4.3. Hôn nhân khác đạo ....................................... 34
6. Hôn nhân hổn hợp, dị giáo, đặc ân ............................ 35
6.1. Hôn nhân hỗn hợp ................................................... 35
c
6.2. Hôn nhân khác đạo (dị giáo) ................................... 36
6.3. Miễn chuẩn thể thức giáo luật trong hôn nhân hổn hợp
hay dị giáo ............................................................................ 38
6.4. Hôn nhân nhờ đặc ân thánh Phaolô ......................... 39
7. Thành sự hóa hôn nhân ............................................... 43
7.1. Thành sự hóa đơn thuần .......................................... 43
7.1.1. Do mắc ngăn trở tiêu hôn ................................. 43
7.1.2. Do thiếu thể thức .............................................. 45
7.2. Điều trị tại căn ......................................................... 47
1
BÍ TÍCH HÔN NHÂN
1. Những điều căn bản
1.1. Hôn nhân
Do giao ước hôn nhân, một người nam và một người
nữ tạo thành một sự hiệp thông trọn cả cuộc sống; tự bản
chất, giao ước ấy tự bản chất hướng về lợi ích đôi bạn,
cũng như đến việc sinh sản và giáo dục con cái (đ.
1055§1).
Về phương diện pháp lý, hôn nhân được thiết lập bởi
một giao ước (foedus) hay một kết ước (contractus) chứ
không bởi tình yêu.
Tình yêu là yếu tố cần thiết để thực hiện đời sống hiệp
thông vợ chồng và phát sinh thiện ích hôn nhân. Nếu coi hôn
nhân như một nơi chỉ để thỏa mãn tình dục một cách hợp
pháp hoặc chỉ để có quyền trên thân xác nhau thì đã đi ngược
với bản chất hiệp thông của tình yêu và đời sống hôn nhân.
1.2. Bí tích hôn nhân
Chúa Kitô nâng giao ước hôn nhân giữa hai người được
Rửa tội lên hàng bí tích (đ. 1055§1).
Hôn nhân giữa hai người được rửa tội là hôn nhân bí
tích (Vd. Công giáo – Công giáo, Công giáo – Tin lành).
2
Hôn nhân giữa một người Công giáo và một người
lương hay giữa hai người lương không là bí tích.
Hôn nhân, từ thuở ban đầu, là một thiết chế tự nhiên.
Sau này, được Đức Kitô nâng lên hàng bí tích, tức lên hàng
thánh thiện, được thông phần dồi dào ân sủng. Trong hôn
nhân, bí tích là một phẩm giá thánh thiện đặt biệt của hôn
nhân, nhưng không là yếu tính hay bản chất của hôn nhân.
Phẩm tính bí tích của hôn nhân không tùy thuộc vào
việc cử hành nó trong hay ngoài thánh lễ mà tùy thuộc vào sự
kiện hai người rửa tội kết hôn. Nếu hai người rửa tội được cử
hành hôn phối ngoài thánh lễ, hôn nhân vẫn là bí tích. Trong
trường hợp nguy tử, kết ước hôn nhân có thể cử hành mà
không có linh lục chứng hôn, chỉ có hai giáo dân làm chứng
cho sự ưng thuận kết hôn, thì hôn nhân vẫn thành sự và đồng
thời là bí tích (đ. 1116§1).
Hai người lương đã kết hôn với nhau theo nghi thức
ngoài Công Giáo, nếu như sau này họ trở lại đạo thì hôn nhân
trước đây của họ không là bí tích sẽ tự động được nâng lên
hàng bí tích. Không được cử hành thêm nghi thức kết hôn
Công Giáo cho họ.1
1.3. Đặc tính chính yếu
Những đặc tính chính yếu của hôn nhân là sự đơn nhất và
bất khả phân ly, Những đặc tính này có một sự vững bền đặc
biệt trong hôn nhân Kitô giáo, vì có tính cách bí tích (đ.
1056).
1 Hôn nhân trước ngoài Công Giáo, bình thường, là đã thành sự và có giá trị.
Nếu cử hành hôn nhân thêm một lần nữa thì hàm ý rằng hôn nhân trước chưa phải
là hôn nhân thành sự hoặc là hôn nhân đó đã không có giá trị.
3
Hôn nhân đã hoàn hợp giữa hai người được Rửa tội là
bí tích và vững bền cách đặt biệt nên không có quyền lực
nhân loại nào có thể tháo gỡ (đ. 1141).
Khi không là bí tích, hôn nhân vẫn mang những đặc
tính: đơn nhất và bất khả phân ly, hướng đến sinh sản và giáo
dục con cái. Tuy nhiên sự vững bền của dây hôn phối đó
không tuyệt đối, có thể tháo gỡ nhờ đặc ân, như đặc ân Thánh
Phaolô (đ. 1143), đặc ân thánh Phêrô (đ. 1148, 1490), Đặc ân
Đức Tin.2
Giáo Hội vẫn công nhận giá trị của hôn nhân ngoài
Công giáo, một khi nó được pháp luật, hoặc tôn giáo, hoặc xã
hội, hoặc truyền thống công nhận. Khi đó, dây hôn phối được
thành lập, không bị tiêu hủy bởi sự ly dị và gây ngăn trở tiêu
hôn cho hôn nhân sau đó với người Công Giáo.
1.4. Sự ưng thuận
Chính sự ưng thuận của đôi bên được biểu lộ cách hợp
thức giữa những người có năng cách về mặt pháp lý làm nên
hôn nhân và không một quyền lực nào của loài người có thể
thay thế được sự ưng thuận ấy (đ. 1057§1).
Ba yếu tố chính yếu làm nên kết ước hôn nhân: 1- sự
ưng thuận; 2- sự ưng thuận đó phải được biểu lộ hợp thức; 3-
và được thực hiện bởi người có năng cách pháp lý. Thiếu một
trong ba yếu tố này, kết ước hôn nhân sẽ vô hiệu.
2 Chú ý: Đặc ân đức tin theo nghĩa rộng thì bao gồm cả ba đặc
ân đó. Theo nghĩa hẹp, đó là Đặc ân Đức Tin (đôi khi cũng được
gọi là đặc ân Thánh Phêrô nhưng Tòa Thánh chính thức gọi là Đặc
ân Đức Tin).
4
Sự ưng thuận là hành vi của ý chí tự do, nhờ đó hai
người nam nữ trao ban và lãnh nhận nhau qua một giao ước
bất khả thu hồi để làm nên hôn nhân (đ. 1057§2).
Giáo Luật quy định thể thức kết hôn (thể thức giáo
luật, forma canonica) tóm tắt như sau: hai người nam nữ biểu
lộ sự ưng thuận trước mặt vị chứng hôn và hai nhân chứng
(đ. 1108).
Kết ước hôn nhân ngoài Công Giáo có nhiều thể thức khác
nhau, tùy theo truyền thống văn hóa, tôn giáo và luật quốc
gia. Nói chung, khi kết ước hôn nhân đó được cử hành một
cách công chứ không phải tư, được những người chung quanh
hay xã hội công nhận thì Giáo hội cũng công nhận. Ở Việt
Nam, một trong những hình thức kết ước như sau thì cũng đủ
làm nên dây ràng buộc hôn nhân: kết ước thành vợ chồng
trước mặt cha mẹ hai bên; kết ước thành vợ chồng trước bàn
thờ tổ tiên với sự chứng giám của bà con họ hàng; làm tiệc
cưới trong đó cô dâu chú rễ xuất hiện giữa thân nhân bạn bè
chứng tỏ họ nên vợ nên chồng với nhau; đăng ký kết hôn và
đã được chính quyền công nhận.
Người có năng cách pháp lý có nghĩa là người có đủ
những tính cách mà Giáo luật quy định để có thể kết hôn
thành sự. Trong đó, có thể kể là người phải đủ trưởng thành,
có tâm trí bình thường và không có ngăn trở tiêu hôn.
1.5. Quyền kết hôn
Tất cả mọi người không bị luật cấm đều có thể kết hôn
(đ. 1058).
Thông thường bị luật cấm khi mắc ngăn trở tiêu hôn
hoặc có vướng mắc điều gì khiến luật không cho phép kết
hôn.
5
Giáo luật khẳng định quyền kết hôn như quyền căn
bản của con người. Nếu không bị luật cấm, thì phải cho họ
kết hôn. Tất nhiên, họ phải được chuẩn bị sẵn sàng để được
kết hôn.
Đó là nói đến “luật cấm”. Trong vài trường hợp có thể
có “nhân cấm”. Đó là, Đấng Bản quyền có thể cấm hôn trong
vài trường hợp riêng biệt, có giới hạn trong một thời gian khi
lý do nghiêm trọng còn tồn tại (1077§1). Cha sở không có
quyền cấm hôn, cho dù trong một thời gian.
1.6. Giáo luật chi phối
Hôn nhân của những người Công Giáo, cho dù chỉ có một
bên là Công Giáo, bị chi phối không những bởi luật Chúa mà
còn bởi luật Giáo Hội nữa (đ. 1059).
Bị chi phối bởi luật, tức là buộc phải tuân theo những
quy định của luật.
Hôn nhân giữa hai người lương, không bị chi phối bởi
Giáo Luật, không cần phải tuân theo những quy định hay thể
thức cử hành của Giáo Luật mới thành sự. Giáo Hội công
nhận những hôn nhân thành sự theo luật dân sự hay tôn giáo
khác nếu nó được xã hội công nhận.
Hôn nhân có một bên là người Công Giáo thì bị chi
phối bởi Giáo luật. Do đó, nếu không theo các quy định Giáo
luật, thì cho dù họ đã có kết hôn dân sự thì hôn nhân này vô
hiệu, không tạo nên dây hôn phối. Ví dụ: hôn nhân giữa một
người Công Giáo với người lương, nếu không có miễn chuẩn
hôn nhân dị giáo, thì hôn nhân này vô hiệu. Khi họ chia tay,
họ có thể tiến tới hôn nhân mới khác.
6
2. Chuẩn bị hôn nhân
2.1. Chuẩn bị xa, gần và tức thì
Giáo luật không ấn định một chương trình chuẩn bị như
thế nào. Điều 1063 chỉ quy định những nét chính yếu:
a) Chuẩn bị xa: Bằng việc giảng thuyết, bằng việc huấn
giáo thích hợp cho nhi đồng, thanh niên và người
thành niên ... nhờ đó các Kitô hữu được giáo huấn về
ý nghĩa hôn nhân Kitô giáo và về vai trò của người
phối ngẫu cũng như của các bậc cha mẹ Kitô giáo (đ.
1063,1o).
Vì vậy, cần có những khóa học về hôn nhân được tổ
chức cho thanh thiếu niên và thành niên.
b) Chuẩn bị gần: Bằng việc chuẩn bị cá nhân để kết hôn,
nhờ đó hai vợ chồng được sẵn sàng hướng đến sự
thánh thiện cũng như những bổn phận của bậc sống
mới (đ. 1063,2o).
Theo hướng dẫn của Ủy ban Giáo hoàng về Gia đình
thì việc chuẩn bị này bao gồm việc giáo huấn về:
1) Những tương quan liên vị giữa người nam và
người nữ trong chương trình của Thiên Chúa về
hôn nhân và gia đình;
2) Ý thức về sự tự do ưng thuận như là nền tảng của
sự kết hợp, đơn nhất và bất khả phân ly của hôn
nhân;
3) Khía cạnh nhân bản của tính dục hôn nhân, hành
vi kết hợp vợ chồng;
4) Khái niệm đúng đắn trách nhiệm cha mẹ;
7
5) Những yêu cầu và mục đích, sự giáo dục con cái
đúng đắn.3
Vào phần cuối của chuẩn bị gần này, đôi bạn cần biết
những điều tốt đẹp của hôn nhân và cách sống giữa cộng
đoàn, cũng như làm thế nào để “bảo vệ và nuôi dưỡng tình
yêu sau này ... làm thế nào để tránh những ‘khủng hoảng’ vợ
chồng”.4
Như vậy theo Ủy Ban Giáo hoàng về Gia đình thì cần
hướng dẫn đặc biệt đến chính hôn nhân: sự ưng thuận, tương
quan nhân bản liên vị, đời sống luân lý tính dục, nghĩa vụ
quyền lợi vợ chồng, nghĩa vụ cha mẹ.
Sự giáo huấn, do đó, nếu chỉ chú trọng đến những điểm
giáo lý hôn nhân hay cách sống đạo nói chung là không đúng
đường hướng cho việc chuẩn bị gần hôn nhân.
c) Chuẩn bị tức thì: Bằng việc cử hành hôn nhân cách
hữu hiệu theo phụng vụ (đ. 1063,3o).
Đôi bạn cần ôn lại tất cả những điều đã học hỏi và những
chuẩn bị tinh thần và phụng vụ.5 Chuẩn bị tức thì này lại càng
cần thiết hơn đối với những trường hợp mà đôi bạn không
tham dự vào những khóa học hôn nhân.
Có bắt buộc chuẩn bị hôn nhân không?
“Việc chuẩn bị cho hôn nhân có phải là điều kiện bắt
buộc, sine qua non, không, hoặc chỉ là một tùy chọn mục
vụ?”
3 Ngày 13-5-1996, Ủy ban Giáo hoàng về gia đình, xuất bản
tập ‘Chuẩn bị cho Bí Tích Hôn nhân”. Đoạn trích ở số 35. 4 Ibid., số 46. 5 Ibid., số 50.
8
“Huels lưu ý rằng, điều 1077§1 (về việc Đấng Bản quyền
có thể cấm hôn trong một thời gian tạm thời) có thể dùng để
hoãn lại việc kết hôn, cho đến khi đôi bạn đã chuẩn bị xong.
Tuy nhiên, rất khó mà từ chối cử hành hôn phối chỉ vì đôi bạn
đã không tham dự được chương trình hôn nhân riêng biệt.
Nên phân biệt giữa chương trình chuẩn bị hôn nhân cụ thể và
sự chuẩn bị cho hôn nhân. Điều quan trọng là đôi bạn phải
được chuẩn bị cho hôn nhân. Chuẩn bị này như thế nào có thể
là không giống nhau đối với mọi đôi hôn nhân. Sự chuẩn bị
hôn nhân của một đôi bạn phải được ước định một cách
cá nhân và khách quan. Nếu họ không được chuẩn bị, điều
1077§1 có thể được gợi đến để hoãn lại việc kết hôn. Tuy
nhiên, quyền căn bản của con người được kết hôn (đ.1058)
cũng phải được xét đến trong quyết định và đánh giá những
sự chuẩn bị như vậy”.6
2.3. Lãnh nhận bí tích Thêm Sức
Người Công Giáo nào chưa lãnh nhận bí tích Thêm Sức,
thì phải lãnh nhận bí tích ấy trước khi kết hôn, nếu điều đó
có thể thực hiện được mà không có bất tiện nghiêm trọng (đ.
1065§1).
Nếu là tân tòng thì chính linh mục ban bí tích Thanh
Tẩy, có năng quyền ban bí tích Thêm Sức. Nếu là người Công
Giáo có đạo từ lâu chưa lãnh nhận Thêm Sức thì có thể xin
Đức Giám Mục ủy năng quyền. Trong trường hợp có bất tiện
nghiêm trọng thì có thể miễn Thêm Sức.
6 X. BEAL J.P. et alii, New Commentary on the Code of Canon
Law, Paulist Press, New York 2000, 1264.
9
3. Thủ tục hôn nhân
3.1. Thủ tục hôn nhân thông thường
3.1.1. Đăng ký kết hôn tại giáo xứ
Nơi đăng ký cử hành hôn phối: Đôi bạn có thể xin
cử hành hôn phối tại giáo xứ hoặc bên nam hoặc bên nữ, khi
họ đã có cư sở hay bán cư sở tại đó hay ít ra là đã cư ngụ được
một tháng (đ.1115). Họ sẽ đăng ký tại giáo xứ mà họ được
chấp nhận cử hành hôn phối.7
Khi muốn cử hành tại một giáo xứ khác: Nếu chưa cư
ngụ ở đó đủ một tháng thì đòi phải có sự chấp nhận của cha
sở nơi cử hành và có phép của Đấng Bản quyền riêng hay của
cha xứ riêng của một bên trong đôi hôn phối (đ.1115).8
Trình diện đăng ký: Đôi bạn nên trình diện đăng ký
với cha xứ, trước khi đăng ký kết hôn phần đời.9
Cha sở nào thụ lý hồ sơ?
Là cha sở nơi cử hành hôn phối, vì các lý do:
7 Giáo Luật mới không quy định cử hành hoặc ưu tiên cử hành
hôn phối tại giáo xứ bên nữ. 8 Giáo Luật không nói xin phép cha sở hay Bản Quyền của cả
hai bên nam và nữ hay chỉ một bên. Beal chú giải là chỉ cần của
một bên, X. BEAL J.P. et alii, 1333. 9 Để tránh những trường hợp đã đăng ký kết hôn dân sự, mà
cha xứ lại không thể cử hành hôn phối được vì có ngăn trở. Ngoài
ra, vì ích lợi mục vụ và theo văn hóa gia đình Việt Nam, khi đến
gặp cha xứ, nên có sự hiện diện của cha mẹ đôi bên, hoặc ít là của
cha hoặc mẹ. Trường hợp cha mẹ xa xôi, có thể cho số điện thoại
để liên lạc nhờ đó có thể giúp lượng định sự trung thực của đôi
bạn cách đầy đủ rõ ràng hơn.
10
(1)Trước khi cử hành hôn nhân phải biết chắc không có
gì cản trở cử hành bí tích thành sự và hợp thức (đ. 1066).
Hôn phối được cử hành trong một địa hạt giáo xứ thì thuộc
năng quyền cha xứ tại nơi đó. Cha xứ đó phải biết chắc không
có gì ngăn trở nên cha phải lo điều tra.
(2) Nếu cha sở ủy quyền cho cha khác cử hành hôn nhân
trong địa hạt mình thì: Trước khi ban ủy quyền riêng biệt,
phải chu toàn tất cả những gì đã ấn định để chứng minh tình
trạng thong dong của các bên (đ. 1113).
Vì vậy chính cha sở khi chấp nhận cho kết hôn trong
giáo xứ của mình, thì chính cha đó có trách nhiệm chính thức
lập hồ sơ: đăng ký kết hôn, làm tờ rao, điều tra ... để cha biết
rõ là không có gì cản trở cử hành bí tích thành sự và hợp thức
(đ. 1066) và để cha có thể chu toàn tất cả những gì ấn định
để chứng minh tình trạng thong dong (đ.1113), như hai lý do
đã nêu trên.
Tuy nhiên trách nhiệm chính thức này có thể được
đảm nhận giúp bởi cha khác, thuộc bên nam hay bên nữ.
Nếu chỉ có một người đã cư ngụ trong giáo xứ đã được
một tháng và không ai trong họ thuộc quyền cha sở, thì cha
sở cũng có quyền nhận chứng hôn cho họ và tất nhiên ngài
phải chịu trách nhiệm chính thức lo liệu hồ sơ hôn phối.
Nếu chứng hôn cho đôi hôn phối mà không ai cư ngụ
trong giáo xứ chưa đủ một tháng và không ai trong họ thuộc
quyền cha sở, nhưng có sự cho phép của cha sở hoặc Bản
Quyền riêng của họ, thì cha sở nơi cử hành hôn nhân phải
chịu trách nhiệm chính thức thụ lý hồ sơ. Cha sở của bên nam
hay bên nữ, chỉ có trách nhiệm giúp đở cha sở nơi cử hành
hoàn thành hồ sơ: cấp giấy giới thiệu, các chứng nhận ...
11
Trong hai trường hợp nói trên, tuy cha sở nơi cử hành
có trách nhiệm chính thức lập hồ sơ, nhưng ngài có thể yêu
cầu một trong hai bên xin cha sở của họ lo làm giúp tất cả hồ
sơ. Khi nhận được hồ sơ đã hoàn thành (do cha sở bên nam
hay nữ gởi đến), thì nếu thấy hồ sơ đầy đủ và bảo đảm, cha
sở có thể cử hành hôn phối.10
3.1.2. Hồ sơ hôn phối
1) Giấy giới thiệu kết hôn;
2) Giấy chứng nhận Rửa tội và Thêm sức;
3) Tờ khai trước khi kết hôn;
4) Giấy rao hôn phối;
5) Chứng chỉ giáo lý hôn nhân;
6) Giấy chứng nhận kết hôn dân sự ;
7) Giấy miễn chuẩn ngăn trở hay giấy phép kết hôn, nếu
cần thiết.
Giấy giới thiệu kết hôn: Giấy này cần có những xác
nhận: cư sở, chưa có kết hôn trong thời gian cư ngụ tại giáo
10 Ví dụ: Một đôi Việt kiều, cả hai đều ở Mỹ muốn xin cử hành
hôn phối tại Việt Nam, nếu cha sở chấp nhận cho cử hành tại giáo
xứ mình thì về hồ sơ có thể xảy ra hai trường hợp: (1) Cha sở lo
thành lập hồ sơ; (2) Cha bên Mỹ gởi đến cha sở Việt Nam.
Trong trường hợp (1) cha đòi có giấy cho phép (chứ không
phải giấy ủy quyền chứng hôn, vì chính cha sở mới có năng quyền
cử hành trong địa hạt mình) nếu người đó cư ngụ chưa được một
tháng, của cha sở hay Bản quyền riêng của họ và cha lo lập thủ tục
hồ sơ bằng cách yêu cầu họ xin các chứng nhận cần thiết hay ngay
cả tra vấn kết hôn nơi cha sở của họ và các giấy tờ dân sự cần thiết
khác. Nếu có ngăn trở mà có thể chuẩn được, Bản Quyền của họ
hoặc Bản Quyền nơi cử hành đều có thể ban miễn chuẩn. Nếu
muốn tha rao thì cha sở xin tha rao theo quy định thông thường.
12
xứ và chưa thấy có cấm hôn hay ngăn trở tiêu hôn, do cha sở
của bên kia cấp.11
Khi gởi giấy giới thiệu, cha xứ nên gởi kèm chứng thư
Rửa tội có giá trị 6 tháng trước ngày cưới và chứng thư Thêm
Sức.
Mục vụ: Cha xứ có bổn phận cấp giấy giới thiệu,
không được từ chối vì lý do đương sự chưa học giáo lý hôn
nhân, không đi lễ, v.v…
Đối với hôn nhân dị giáo:
Khuyên nên chỉ dẫn bên lương đến gặp cha sở nơi họ ở
với giấy giới thiệu sơ khởi của cha chứng hôn để xin ngài
giúp điều tra và sau đó báo lại kết quả sơ khởi cho cha chứng
hôn, để khởi đầu hồ sơ. Chú ý là chỉ nên xin cha sở nơi đó
giúp điều tra chứ không đòi ngài giới thiệu. Ngài có thể từ
chối giới thiệu với lý do không biết người lương đó là ai (mặc
dù lý do này là không đúng; xin xem dưới). Việc người lương
đến gặp cha sở nơi người lương ở và được giúp đở và tiếp
đón vui vẻ có nhiều lợi ích về mặt truyền giáo và mục vụ.
Nếu họ về cư ngụ nơi đó thì cha sở có dịp được biết con
chiên của mình.
Trong rường hợp có khó khăn, khi người lương không thể
gặp được cha sở nơi mình ở thì cha chứng hôn nên liên lạc
với ngài qua điện thoại hay thư từ để xin ngài giúp đở điều
tra sơ khởi. Sau đó mới tiến hành lập hồ sơ, rao báo ...
Cha sở nơi người lương cư ngụ, không được từ chối
cộng tác điều tra, lấy lý do là không biết đến người lương
trong địa hạt mình. Cha có thể nhờ các chức việc phụ trách
11 Có đến 12 ngăn trở tiêu hôn, cha sở không thể biết hết về
các bên là có ngăn trở hay không, vì vậy, không nên xác nhận rằng
“Không có ngăn trở” mà chỉ nói: “Chưa thấy có ngăn trở tiêu hôn
hay cấm hôn”.
13
khu vực điều tra và sau đó cho cha chứng hôn biết kết quả sơ
khởi bằng văn bản hoặc điện thoại và sau đó cha tiến hành
cho rao theo tờ rao của cha chứng hôn gởi đến.
Giáo huấn đối với người lương kết hôn: Theo giáo
huấn của Đức Thánh Cha Phaolô VI trong Tông huấn Loan
báo Tin Mừng,12 cha sở có bổn phận giúp đở người lương trong
địa hạt mình. Giáo luật cũng nói đến lý do của bổn phận này:
“vì việc coi sóc các linh hồn phải được nới rộng đến họ” (đ.
771§2).
Giấy chứng nhận Rửa tội và Thêm sức
Giấy chứng nhận Rửa tội phải ghi đầy đủ các chi tiết tên
tuổi, ngày tháng năm sinh, năm rửa tội, thêm sức.
Chứng thư Rửa tội phải không quá sáu tháng, để tránh sự
thiếu cập nhật những tình trạng nhân thân, vì một số tình trạng
nhân thân thay đổi như kết hôn, được giải gỡ hôn phối, chịu chức
thánh, khấn dòng ... buộc phải ghi chú vào chứng thư và sổ Rửa
tội.
Không chấp nhận bản sao sổ gia đình Công Giáo thay cho
chứng thư Rửa tội và Thêm sức, trừ khi biết chắc chắn là không
giả mạo và không có thay đổi về tình trạng nhân thân.13
12 x. đ. 771 § 2 ; PHAOLÔ VI, Tông huấn Loan báo Tin Mừng,
số 55-57. 13 “Đã được Rửa tội” mới là điều kiện hôn nhân thành sự, còn
việc có chứng thư Rửa tội không phải là điều kiện thành sự hay
sine qua non để cho kết hôn. Khi không thể có được chứng thư
Rửa tội, cha chứng hôn có thể chấp nhận là “đã được Rửa tội” qua
lời thề của đương sự với lời khai của hai nhân chứng đáng tin. Nếu
có hồ nghi thì có thể rửa tội với điều kiện (đ. 869). Nếu người này
được rửa tội ở tuổi thành niên thì lời chứng đáng tin cậy của một
người hay lời thể của chính đương sự thì đủ để làm bằng chứng
cho việc ban bí tích Rửa tội (đ. 876).
14
Tờ khai trước khi kết hôn
Tờ khai phải bao gồm những khai báo về những vấn đề:
- Ý thức, chấp nhận hôn nhân bất khả phân ly, đơn nhất,
sinh sản và giáo dục con cái.
- Không có ngăn trở tiêu hôn hay bất hợp luật
- Ưng thuận không bị hà tỳ: do khiến khuyết khả năng
phán đoán, khả năng tâm lý, bệnh tật, lầm lẫn, kết hôn giả
hình, đặt điều kiện, bị ép buộc, sợ hãi.
Người khai, vì vậy, không được dấu diếm những điều
mà có thể gây những nhiễu loạn đời sống hôn nhân như: bệnh
đồng tính, bệnh nan y, nghiện, vô sinh, có con riêng, nợ nần
lớn, đang có quan hệ nam nữ với người khác ...
Tờ khai phải được thực hiện bởi riêng từng người một
trước cha sở hay linh mục được ủy thác và được làm ngay từ
khi đăng ký kết hôn. Không được ủy thác cho giáo dân nhiêm
vụ làm tờ khai.
Mục vụ: Nên yêu cầu người lương hay tân tòng làm
thêm một bản lý lịch dân sự, để biết tình trạng nhân thân và
hoàn cảnh trong các thời gian sống của họ ở những nơi nào
đó. Trong lý lịch, yeu cầu họ ghi thêm số điện thoại của cha
mẹ và anh chị em, để cha chứng hôn có thể liên lạc và điều
tra thêm.14
Rao hôn phối
Rao hôn phối là một phương thức nhằm khám phá ra các
ngăn trở tiêu hôn và cấm hôn. Cha sở phụ trách chứng hôn tại
14 Nên khéo léo gọi điện thoại cho cha mẹ hoặc anh em đương
sự để điều tra thêm, nhất là trong trường hợp có những hồ nghi.
Chứng nhận đăng ký kết hôn của chính quyền có thể bị gỉa mạo
hay mua chuộc.
15
giáo xứ mình có bổn phận lập tờ rao và phải gởi để nhờ rao, đến
các cha xứ, nơi mà người kết hôn đang cư ngụ và nơi mà họ đã
cư ngụ trong một thời gian khá lâu.
Rao ba lần, thường được rao vào ba Chúa Nhật liên tiếp.
Cha xứ có quyền tha rao một lần, cha Quản hạt tha rao hai lần,
và Bản quyền địa phương tha rao ba lần.15
Các cha đã nhận tờ rao phải gởi lại tờ rao hôn phối cho
cha xứ nơi cử hành hôn phối sau khi hoàn thành việc rao, cùng
với lời ghi chú, nếu có, về vấn đề nghiêm trọng hay hoài nghi (đ.
1069).
Có gởi tờ rao đến cha sở bên người lương không; cha sở
bên người lương có phải rao không?
Giáo luật đã không có quy định rõ về việc này nên đã có
những ý kiến và thực hành khác nhau.
Có những ý kiến cho là không nên rao vì thấy đó là một việc
làm vô ích, do cộng đoàn giáo dân giáo xứ không biết đến người
lương đó.
Việc rao báo, theo Giáo Luật, có mục đích điều tra xem
trường hợp kết hôn có ngăn trở tiêu hôn hay cấm hôn không.
Không đơn giản là chỉ có ngăn trở dây hôn phối, cần phải điều
tra. Có đến 12 ngăn trở tiêu hôn, nhiều điều cấm hôn và đồng
thời có những gian trá che lấp. Nếu bỏ một cơ hội rao báo, thì
15. x. Bản năng quyền thập niên 1971-1980, tr. 67.87. Giáo
Luật điều 1067 trao cho HĐGM quy định những nguyên tắc về
việc rao. Ở VN hiện nay vẫn áp dụng theo Bản năng quyền thập
niên này.
16
nguy cơ bị sai lầm càng dễ xảy ra.16 Vì vậy, cha sở phải gởi giấy
và xin cha sở nơi người lương cư ngụ rao.
Cho lập tờ rao là để chuẩn bị cho kết hôn, không có nghĩa
là cho kết hôn. Việc rao báo có thể tiến hành trước khi đôi bạn
hội đủ những điều kiện khác của cử hành kết hôn. Tuy nhiên phải
thông báo rõ cho đôi bạn biết rằng chỉ cử hành kết hôn khi họ đã
chu toàn những điều kiện.17
Chứng chỉ giáo lý hôn nhân
Dạy giáo lý hôn nhân có mục đích bảo tồn hôn nhân trong
tinh thần Kitô giáo và tiến tới trong sự hoàn thiện. Giáo lý
hôn nhân phải được trình bày về: ý nghĩa hôn nhân Kitô Giáo
và về vai trò của người vợ người chồng cũng như bậc cha mẹ
(đ. 1063).
Mục vụ: Thông thường nên tổ chức những khóa Giáo
Lý hôn nhân riêng hay chung với giáo lý tân tòng, dài hạn
hay ngắn hạn và cấp chứng chỉ. Trong những trường hợp gấp
rút và cần thiết cũng có thể trình bày về hôn nhân trong vài
giờ hoặc trong một vài buổi học, thay cho khóa học.18
Giấy chứng nhận kết hôn dân sự
16 Xin kể một trường hợp điển hình: Chị A ở Cam Ranh theo đạo và kết hôn với
anh B. Sau mấy năm chung sống ở Cam Ranh, họ ly dị dân sự. Chị A vào Sài Gòn,
khai với cha sở ở đó là người lương, chưa có chồng. Chị đã được cha sở cho học
đạo, rửa tội và kết hôn với người có đạo. Như vậy, chị đã học đạo hai lần, rửa tội hai
lần và kết hôn hai lần! Nếu cha sở đã gởi giấy rao về giáo xứ nơi chị ở, sự sai lầm
này chắc đã không xảy ra.
Ngoài ngăn trở dây hôn phối, việc điều tra kỹ lưỡng sẽ giúp phát hiện ra những
trường hợp: giả danh, tội phạm, đã có đời sống chung ngoại hôn trước và có những
nghĩa vụ với nhau mà chưa được giải quyết, có con riêng, có ngăn trở họ máu, có
ngăn trở tội ác … 17 Ví dụ: Cho họ biết nếu đến ngày đã định mà chưa có giấy chứng nhận kết hôn
dân sự thì có thể sẽ phải hoãn lại cử hành kết hôn. 18 Xem phần đã được nêu ở trên: 2.1. c) Chuẩn bị gần.
17
Cần thiết phải có giấy chứng nhận kết hôn dân sự. Giáo
luật đòi phải xin phép Đấng Bản Quyền khi chứng hôn cho
những người không thể được công nhận hay không thể kết
hôn theo luật dân sự (đ. 1071§1n.2), vì vậy, giấy này buộc
phải có trước khi cử hành hôn phối.19
Giấy miễn chuẩn ngăn trở hay giấy phép kết hôn20
Trường hợp có ngăn trở tiêu hôn như kết hôn dị giáo, có
họ máu, có họ kết bạn ... thì cần phải xin miễn chuẩn ngăn
trở nơi Đấng Bản Quyền địa phương.21 Nếu không có miễn
chuẩn ngăn trở tiêu hôn, kết hôn vô hiệu.
Trường hợp bị luật hạn chế như thiếu giấy đăng ký kết
hôn dân sự, kết hôn hổn hợp... thì cần xin phép Đấng Bản
Quyền địa phương để được hợp luật.
19 Ngay từ khi chấp nhận cho đăng ký tại giáo xứ, khuyên họ
nên lo làm giấy kết hôn dân sự. Không đòi phải có giấy chứng
nhận kết hôn trước khi rao, mà chỉ đòi phải có trước khi chứng
hôn. Nếu sau cùng mà không có thì cha chứng hôn nếu muốn tiến
hành thì phải xin phép Đấng Bản Quyền. 20 Cha xứ chỉ giới thiệu đôi hôn phối xin chuẩn khác đạo sau
khi đã điều tra cẩn thận không thấy có ngăn trở nào khác. Hồ sơ
ghi cẩn thận đầy đủ, và phải cho ý kiến của mình về đôi ấy. 21 Trong Giáo phận, Đấng Bản quyền địa phương là Đức Giám
Mục giáo phận, Cha Tổng Đại Diện, Cha Đại Diện Giám Mục.
Đơn xin miễn chuẩn, vì vậy, nên gởi đơn đến vị nào thấy thuận
tiện nhất. Cha Tổng Đại Diện hay Cha Đại Diện Giám Mục thường
luôn hiện diện ở nơi làm việc. Nên chỉ dẫn giáo dân đến đó.
18
3.2. Thủ tục hôn nhân với ngoại kiều
3.2.1. Kết hôn với ngoại kiều Công Giáo
Những giấy tờ người ngoại kiều cần có khi đăng ký kết
hôn nơi cha sở:
1) Giấy giới thiệu của cha quản xứ bên người ngoại
kiều.22
2) Giấy chứng nhận bí tích Rửa tội, Thêm sức;
3) Giấy chứng chỉ giáo lý hôn nhân;
4) Giấy chứng minh tình trạng hôn nhân của người nước
ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người
đó là công dân cấp chưa quá 06 tháng.23
22 Giấy này có thể không buộc phải có nếu không thể có được.
Như ở một số giáo xứ bên Mỹ, cha xứ từ chối cấp giấy giới thiệu
vì không biết rõ về tình trạng của giáo dân. 23 Theo luật quốc gia Việt Nam, kết hôn có yếu tố nước ngoài,
đôi bạn cần có hồ sơ như sau:
- Tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu,
- Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân hoặc tờ khai đăng ký kết
hôn có xác nhận tình trạng hôn nhân của công dân Việt Nam, và
giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của người nước ngoài do
cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó là công dân cấp
chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận hiện tại
người đó là người không có vợ hoặc không có chồng;
- Giấy khám sức khỏe,
- Bản sao Hộ chiếu và các giấy tờ có giá trị như Giấy thông
hành hoặc Thẻ cư trú đối với công dân nước ngòai,
- Bản sao Sổ Hộ khẩu đối với công dân Việt Nam cư trú trong
nước
(x. Nghị định 24/2013/NĐ-CP Hướng dẫn Luật hôn nhân và
gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài).
19
5) Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân hoặc Tờ khai đăng
ký kết hôn có xác nhận tình trạng hôn nhân của công
dân Việt Nam.24
Trước khi cử hành hôn phối cần phải có:
6) Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn do chính quyền VN
cấp.25
3.2.2. Hôn nhân với ngoại kiều không Công Giáo
Ngoài những giấy tờ cần thiết như trường hợp ngoại
kiều Công giáo, cha xứ nơi cử hành hôn phối giúp làm giấy
xin miễn chuẩn hôn phối khác đạo (với người lương) hay xin
phép cử hành hôn nhân hổn hợp (với người Tin Lành, Anh
giáo ...).
Cha xứ chỉ đề nghị lên Đấng Bản Quyền để cho phép
hay miễn chuẩn ngăn trở sau khi đã điều tra cẩn thận và không
24 Nếu là người VN đang ở nước ngoài, do tạm trú, mới nhập
cư v.v. mà không thể có giấy chứng nhận của chính quyền nước
đó thì buộc phải có giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân của chính
quyền VN hay Đại Sứ Quán VN tại nước đó. 25 Khi có lý do chính đáng, ít nhất phải có giấy hẹn của Sở Tư
Pháp. Trường hợp nghi ngờ khả năng bảo lãnh để có thể chung
sống, thì phải có giấy nhập cảnh (visa).
Thủ tục đăng ký kết hôn tại Vỉệt Nam trải qua những giai đoạn
sau:
- Bước 1: Các bên tiến hành nộp hồ sơ đăng ký kết hôn tại Sở
tư pháp
- Bước 2: Sở Tư pháp sẽ tiến hành phỏng vấn hai bên nam, nữ
để làm rõ về nhân thân và sự tự nguyện kết hôn của hai bên nam,
nữ.
- Bước 3: Sở Tư pháp tiến hành thẩm tra hồ sơ, sau đó báo cáo
kết quả và trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định ký Giấy
chứng nhận đăng ký kết hôn.
- Bước 4: Sở Tư pháp tiến hành tổ chức Lễ đăng ký kết hôn
cho hai bên nam, nữ.
20
có nghi ngờ gì về cấm hôn hay ngăn trở tiêu hôn và sự thành
tâm của đương sự.26
Đối với người lương đã ly dị và sẵn sàng theo đạo để
hưởng đặc ân thánh Phaolô khi kết hôn thì cha quản xứ sẽ
không chấp thuận nếu đương sự đã không trãi qua thời gian
dự tòng là 6 tháng và nhận thấy họ có đức tin.27
4. Ngăn trở tiêu hôn
4.1. Khái niệm
Ngăn trở tiêu hôn làm cho người ta không có năng cách
để kết hôn thành sự (đ. 1073).
Một trong đôi bạn, nếu có ngăn trở tiêu hôn thì hôn
nhân họ cử hành là không thành sự.
Ngăn trở tiêu hôn thì khác với những cấm hôn. Nếu
chỉ vi phạm luật cấm hôn mà không mắc ngăn trở tiêu hôn
thì hôn nhân bất hợp luật nhưng vẫn thành sự.
26 Nếu có khó khăn về ngôn ngữ, nên nhờ một cha khác giúp
một số vụ việc, như hướng dẫn về giáo lý hôn nhân cho người
lương ngoại quốc, thẩm vấn về nhân thân và tình trạng hôn nhân
… 27 Không được rút gọn thời gian dự tòng với lý do là chỉ được
tạm trú ở VN trong thời gian ngắn. Có thể chấp nhận cho họ học
và theo đạo tại quốc gia quê hương họ và sau đó có giấy giới thiệu
của cha quản xứ nơi họ ở.
Cũng nên biết, một số giáo phận ở VN có thông báo là không
chấp nhận cho miễn chuẩn hôn nhân dị giáo hay cho hưởng đặc ân
Thánh Phaolô khi kết hôn với người ngoại kiều. Giáo Phận Nha
Trang không cấm nhưng đòi hỏi cần phải xem xét từng trường hợp
riêng biệt.
21
Ví dụ: hôn nhân dị giáo (người Công Giáo và người
lương) mắc ngăn trở tiêu hôn, cần phải có miễn chuẩn ngăn
trở để kết hôn thành sự, nếu không thì hôn nhân vô hiệu; hôn
nhân hổn hợp (người Công Giáo với Tin Lành ...) thì bị cấm,
cần phải xin phép Đấng Bản Quyền để kết hôn hợp luật.
4.2. Mười hai ngăn trở tiêu hôn
Trong các điều khoản về ngăn trở tiêu hôn, luôn xuất hiện
cụm từ xác định vô hiệu hay vô năng, như: không thành sự
như: vô hiệu, tiêu hủy, bất thành, không có khả năng ...
1) Tuổi: Người nam chưa đủ 16 tuổi, cũng như người nữ
chưa đủ 14 tuổi, không thể kết hôn thành sự (đ. 1063).
16-14 tuổi là điều kiện để kết hôn thành sự, nhưng để
kết hôn hợp thức thì phải theo quy định của HĐGMVN.
Đó là kết hôn theo luật quốc gia hiện hành: nam đủ 20
tuổi trọn, nữ đủ 18 tuổi.
2) Bất lực: Bất lực giao hợp có trước khi kết hôn và vĩnh
viễn, hoặc phía bên nam hoặc phía bên nữ, hoặc tuyệt đối
hoặc tương đối tự bản chất tiêu hủy hôn nhân (đ. 1084).
Bất lực giao hợp được xét định là không có khả năng
tiết tinh trong âm đạo. Bất lực gọi là tuyệt đối khi người này
không có khả năng đối với tất cả mọi người khác, tương đối
khi không có khả năng chỉ đối với một số người.
3) Dây hôn phối: Người đang ràng buộc bởi dây hôn phối
trước, dù chưa hoàn hợp, thì kết hôn cũng bất thành (đ.
1065).
Hôn nhân ngoài Công Giáo, dù là dân sự hay là tôn
giáo khác, khi được xã hội nói chung công nhận, cũng đã
thành sự và tạo nên dây hôn phối bất khả phận ly. Dây hôn
22
phối này vẫn tồn tại cho dù hai người đó đã ly dị và gây ngăn
trở tiêu hôn.
4) Khác đạo (dị giáo): Hôn nhân giữa một người đã được
Rửa tội công giáo với người không được Rửa tội thì bất
thành (đ 1086§1).28
5) Chức thánh: Những người đã lãnh nhận chức thánh kết
hôn cũng bất thành (đ. 1087).
6) Khấn dòng: Những người ràng buộc bởi lời khấn công
vĩnh viễn giữ đức khiết tịnh trong một hội dòng kết hôn
cũng bất thành (đ. 1088).
Ngăn trở chỉ áp dụng cho người đang bị ràng buộc bởi lời
khấn của một hội dòng (instituta religiosa). Nếu bị ràng buộc
bởi lời khấn vĩnh viễn trong tu hội đời (instituta secula) hay
tu đoàn tông đồ (societas vitae apostolicae) thì không mắc
ngăn trở khấn dòng.
7) Bắt cóc: Không thể có hôn nhân giữa một người nam và
một người nữ bị bắt cóc với chủ ý kết hôn với người ấy,
trừ khi người nữ tự ý lựa chọn cuộc hôn nhân ấy, sau khi
đã được tách rời ở một nơi an toàn và tự do (đ. 1089)
8) Tội ác: Kẻ chủ ý kết hôn với một người nào đó mà gây
cái chết cho người phối ngẫu của người ấy hay của mình
thì việc kết hôn này bất thành. Những người đã cộng tác
28 Hôn nhân dị giáo, giữa một người Công giáo và người
lương, mà chỉ có kết hôn dân sự và không có miễn chuẩn thì hôn
nhân vô hiệu, không ràng buộc bởi dây hôn phối. Trong trường
hợp này, nếu sự vô hiệu chưa được chứng minh rõ ràng thì phải
nhờ đến thẩm phán giáo phận xúc tiến thẩm tra.
Trong trường hợp người lương đã ly dị, nếu muốn kết hôn với
người Công Giáo thì người ấy phải kết hôn theo đặc ân Thánh
Phaolô (đ. 1143).
23
với nhau cách thể lý hay luân lý để giết người phối ngẫu
của họ, dù kết hôn với nhau cũng bất thành (đ. 1090).
9) Họ máu: Những người có họ máu hàng dọc kết hôn bất
thành. Trong họ máu hàng ngang, hôn nhân bất thành cho
đến hết bậc thứ 4 (đ. 1091).
Ví dụ: Anh em họ chú bác, có họ máu hàng ngang 4 bậc,
kết hôn vô hiệu. Tuy nhiên, một trong hai người này không
có ngăn trở họ máu để kết hôn với con của người kia.
Ngăn trở này có thể được miễn chuẩn nhưng chỉ tới mức
3 bậc. Không được miễn chuẩn, cho anh em ruột kết hôn.
10) Họ kết bạn (hôn thuộc): Họ kết bạn phát sinh do cuộc
hôn nhân thành sự và gây tiêu hôn ở bất cứ bậc nào ở hàng
dọc (đ. 1092).
Ví dụ: Sau khi vợ chết, chồng kết hôn bất thành với mẹ
hoặc con riêng hay cháu ngoại của vợ.
11) Công hạnh (liêm sĩ): Phát sinh từ một cuộc hôn nhân
bất thành, sau khi đã sống chung do tư hôn công khai hay
hiển nhiên; ngăn trở này tiêu hôn ở bậc thứ nhất thuộc
hàng dọc giữa người chồng với những người nữ có họ
máu với người vợ, và ngược lại (đ. 1093).
Ví dụ: Một ông đã tư hôn công khai với một bà thì ông
này kết hôn bất thành với mẹ hay con của bà ấy (cho dù bà
này vẫn còn sống hay chết).
12) Họ pháp lý: phát sinh do việc nhận con nuôi được pháp
luật công nhận, gây tiêu hôn ở hàng dọc hoặc bậc thứ hai
thuộc hàng ngang (đ. 1094).
Ví dụ: Con nuôi, có họ pháp lý, kết hôn bất thành với cha,
mẹ hoặc con của cha mẹ nuôi.
24
Việc nhận con nuôi nếu chưa được pháp luật công
nhận thì chưa có họ pháp lý nên
không gây ngăn trở tiêu hôn. Vì vậy, việc nhận con
thiêng liêng hay đỡ đầu không gây ngăn trở tiêu hôn.
4.3. Miễn chuẩn (dispensatio)
4.3.1. Khái niệm
Miễn chuẩn, hay là sự nới lỏng một luật thuần túy Giáo
Hội trong một trường hợp đặc biệt, có thể được ban do những
người có quyền hành pháp, trong giới hạn thẩm quyền của
mình, cũng như do những người minh nhiên hay mặc nhiên
có quyền miễn chuẩn, hoặc do chính luật, hoặc do ủy quyền
hợp pháp (đ. 85).
Chỉ có thể miễn chuẩn những luật thuần túy Giáo Hội:
như dị giáo, họ máu, lời khấn ... Không được phép miễn
chuẩn ngăn trở theo luật Chúa hay luật tự nhiên, như ngăn trở
dây hôn phối. Cũng không được miễn chuẩn: những luật ấn
định những yếu tố thiết yêu làm nên định chế hay các hành vi
pháp lý (đ. 86); luật hình sự hay tố tụng (đ. 87).
Những người có quyền hành pháp trong giáo phận:
Đức Giám Mục Giáo phận, cha Tổng Đại Diện, cha Đại Diện.
4.3.2. Quyền miễn chuẩn ngăn trở tiêu hôn
Đấng Bản quyền địa phương có quyền miễn chuẩn những
ngăn trở thuộc luật Giáo Hội cho những người thuộc quyền
mình và mọi người đang cư ngụ trong địa hạt của mình khỏi
mọi ngăn trở thuộc luật Giáo Hội (đ. 1078).
Đấng Bản Quyền không được miễn chuẩn:
25
- Ngăn trở dành riêng cho Tông Tòa: Khấn dòng, chức
thánh, tội ác (đ. 1087, 1088, 1090),
- Ngăn trở thuộc luật Chúa hay tự nhiên: Dây hôn phối, bất
lực (đ. 1085, 1084),
- Ngăn trở bị luật cấm miễn chuẩn: họ máu hàng dọc hay
họ máu hàng ngang bậc thứ hai (anh em ruột, đ. 1078§3).
4.3.3. Xin miễn chuẩn
Khi có ngăn trở tiêu hôn thuộc thẩm quyền của Đấng Bản
Quyền và cha sở nhận thấy có ý do chính đáng để đôi bạn
được miễn chuẩn thì giúp họ làm đơn lên Đấng Bản Quyền
(ĐGM Giáo Phận, hoặc Tổng Đại Diện, hoặc Đại Diện GM)
hoặc linh mục nào được Đức Giám Mục ủy quyền miễn
chuẩn trong phạm vi hôn phối. Đơn xin miễn chuẩn nên làm
thành 3 bản để có thể lưu lại Tòa Giám Mục và giáo xứ.
4.3.4. Cấm hôn
Trong một trường hợp đặc biệt. Đấng Bản Quyền địa
phương có thể cấm những người thuộc quyền mình đang ở
bất cứ nơi nào và mọi người hiện đang cư ngụ trong địa hạt
của mình không được kết hôn, nhưng chỉ trong một thời gian
mà thôi vì một lý do nghiêm trọng và bao lâu lý do ấy còn kéo
dài (đ. 1077§1).
Đấng Bản Quyền có quyền cấm hôn nhưng có giới hạn
trong một thời gian. Ngài không có quyền thiết lập một luật
cấm hôn hay tiêu hôn, chỉ có quyền bính tối cao của Giáo Hội
mới có quyền này (đ. 1075§1).29
29 Hai chủ thể có quyền bính tối cao trong Giáo Hội là: Đức
Giáo Hoàng và tập đoàn Giám Mục trên thế giới hiệp nhất với Đức
Giáo Hoàng.
26
Cha sở, vì vậy không được phép ra lệnh cấm hôn cho
một người dù trong một thời gian đó, càng không được phép
ban hành một luật về cấm hôn.
Mục vụ: Những quy định về chuẩn bị cho kết hôn:
đăng ký, học giáo lý, khảo hạch, rao hôn phối, ... cần phải
theo quy định chung của Giáo Phận. Cha quản xứ không được
phép đặt thêm quy định mà không có phép của Đức Giám
Mục giáo phận. Lưu ý là việc ban hành những quy định về
điều kiện kết hôn như: thời gian học giáo lý, số lượng kinh
phải thuộc lòng, thời gian phải đăng ký trước kết hôn ... quá
mức chung của giáo phận, có thể trở thành việc ban hành, bởi
cha xứ, một luật cấm hôn, vi phạm điều 1058, 1075, 1077.
4.4. Trường hợp bất hợp luật
Điều 1071:
§1. Trừ những trường hợp cần thiết, nếu không có phép
Đấng Bản Quyền địa phương, không ai được chứng hôn:
1) Hôn nhân của những người không có cư sở;
(Ví dụ: Người có cuộc sống lang thang)
2) Hôn nhân nào không thể được công nhận hay không
thể được cử hành chiếu theo quy tắc của luật dân sự;
(Ví dụ: Người không thể đăng ký kết hôn dân sự)
3) Hôn nhân của người mắc nghĩa vụ tự nhiên phát sinh
do cuộc phối hợp trước, đối với bên kia hay đối với con
cái;
(Ví dụ: Người không chịu cung cấp nuôi dưỡng cho
con sinh ra trong cuộc phối hợp trước)
4) Hôn nhân của người hiển nhiên chối bỏ đức tin Công
Giáo;
27
5) Hôn nhân của người đang mắc vạ;
(Ví dụ: Người đang bị vạ cấm chế, bị cấm lãnh nhận
các bí tích)
6) Hôn nhân của người vị thành niên (dưới 18 tuổi trọn),
khi cha mẹ không hay biết hay đã phản đối cách hợp
lý;
(Theo nguyên tắc, nếu cha mẹ biết và không phản đối
hôn nhân thì không cần xin phép, nhưng chiếu theo luật
về tuổi kết hôn thì phải xin miễn chuẩn tuổi để kết hôn
hợp luật)
7) Hôn nhân cử hành qua những người đại diện;
(Có thể xin phép được kết hôn qua người đại diện
nhưng phải theo những thủ tục rất chặc chẻ, xin xem
điều 1105).
§2. Đấng Bản Quyền địa phương không được ban phép
chứng hôn cho người đã hiển nhiên chối bỏ đức tin Công
Giáo, trừ khi đã giữ những quy tắc được nói đến ở điều 1125,
với những thích nghi cần thiết.
Khi chuẩn bị cho kết hôn, cần lưu ý đến những tình
trạng cần phải xin phép Đấng Bản Quyền. Nếu vị chứng hôn
không xin phép, việc cử hành bất hợp luật nhưng không vô
hiệu hóa hôn nhân.
Người đã hiển nhiên chối bỏ đức tin Công Giáo, cũng
có thể xin phép được kết hôn, nhưng phải được áp dụng theo
quy tắc của hôn nhân dị giáo, tức là đòi bên Công Giáo phải
hứa cố gắng hết sức tránh mọi nguy hiểm cho đức tin, cố gắng
rửa tội và giáo dục con cái (đ. 1125).
28
5. Cử hành hôn nhân
5.1. Thể thức giáo luật (forma canonica)
Điều 1108 §1 quy định về thể thức giáo luật:
Hôn nhân chỉ thành sự khi được kết ước trước mặt vị
chứng hôn, là Đấng Bản Quyền địa phương hay cha sở, hoặc
một tư tế hay một phó tế đã được một trong hai vị trên ủy
quyền, và trước mặt hai nhân chứng.
Được coi là thiếu thể thức, khiến hôn nhân vô hiệu,
khi thiếu sự hiện diện:30
1) Hai người kết ước hôn nhân;
2) Vị chứng hôn có năng quyền, do chức vụ hay do ủy
thác;
3) Hai nhân chứng.
Vai trò của vị chứng hôn: Người hiện diện để yêu cầu
hai bên kết ước biểu lộ sự ưng thuận và để nhân danh Giáo
hội chấp nhận sự biểu lộ ấy (đ. 1108 §1).
5.2. Năng quyền chứng hôn
Để chứng hôn thành sự, linh mục phải có năng quyền
chứng hôn, do chức vụ hoặc do ủy nhiệm (đ. 1108- 1111).
Nếu không có năng quyền, chứng hôn vô hiệu.
5.2.1. Năng quyền chứng hôn do chức vụ
a- Đấng Bản quyền địa phương, và cha quản xứ, do
chức vụ, chứng hôn thành sự trong giới hạn địa hạt của mình,
30 Tuy nhiên cũng có những trường hợp đặt biệt thì theo luật
trừ như khi nguy tử (đ. 1116) hay kết hôn qua người đại diện.
29
chẳng những cho những người thuộc quyền, mà còn cho cả
những người không thuộc quyền (đ. 1109).
Đấng Bản quyền địa phương hoặc cha quản xứ có
năng quyền chứng hôn nhưng chỉ giới hạn trong địa hạt của
mình. Nếu cử hành ở ngoài địa hạt, cho dù cho người kết hôn
có thuộc quyền mình, cha sở cũng không có năng quyền
chứng hôn; ngài hoặc một linh mục nào khác cần phải có sự
ủy năng quyền của cha sở nơi cử hành để chứng hôn hữu
hiệu.31
Cho dù cả hai nam hay nữ không ai có cư sở hai bán
cư sở trong giáo xứ, cha sở vẫn có năng quyền vẫn chứng hôn
thành sự tại địa hạt của mình. Nhưng nếu họ cư ngụ trong
giáo xứ chưa được một tháng, để hợp thức, cha sở xin phép
Đấng Bản quyền hay cha sở quyền riêng của họ (đ. 1115).32
b- Đấng Bản quyền và cha sở tòng nhân, chiếu theo
chức vụ, chứng hôn thành sự cho những đôi nào, mà ít ra một
người kết ước là người thuộc quyền mình, trong giới hạn
thẩm quyền của mình (đ. 1116).
31 Ví dụ đôi hôn phối thuộc Bắc Thành lại muốn cử hành tại
nhà thờ Chính Tòa. Bất cứ cha nào muốn cử hành tại Chính tòa,
ngay cả cha sở Bắc thành, trừ đều cần cha sở Chính Tòa cho phép
và ủy năng quyền.
Nguyên tắc về năng quyền chứng hôn là tòng địa, nghĩa là
năng quyền có giới hạn trong địa hạt của cha sở mà thôi. Cha sở
không có năng quyền để chứng hôn ở ngoài giáo xứ, dù là cho
người thuộc quyền mình. 32 Có năng quyền chứng hôn cho người đã cư ngụ trong giáo
xứ được một tháng, không có nghĩa là người kết hôn có quyền đòi
cha sở phải chứng hôn. Cha sở có thể thoái thác việc chứng hôn
cho người mới cư ngụ thời gian ngắn này vì lý do cha phải chuẩn
bị và “phải biết chắc không có gì cản trở cho việc cử hành bí tích
thành sự và hợp thức”(đ. 1066).
30
5.2.2. Năng quyền chứng hôn do ủy nhiệm
a- Ủy quyền tổng quát: Bản Quyền Địa phương và cha
sở có thể ủy quyền chứng hôn tổng quát (ủy chung) cho các
tư tế và phó tế, để chứng hôn trong giới hạn địa hạt của mình
và phải làm bằng văn bản để được hữu hiệu (đ. 1111).33
b- Ủy quyền riêng biệt: Bản Quyền Địa phương và cha
sở có thể ủy quyền chứng hôn riêng biệt cho các tư tế và phó
tế, để chứng hôn trong giới hạn địa hạt của mình. Để ủy quyền
này được hữu hiệu phải đòi phải minh nhiên ban cho một
người nhất định và chỉ có giá trị cho một đôi hôn nhân nhất
định (đ. 1111).34
Sự ủy quyền, chiếu theo nguyên tắc luật, sẽ vô hiệu
nếu người ủy vượt quá giới hạn mình. Vì vậy, trong chứng
hôn, ủy quyền cho linh mục hay phó tế cử hành hôn phối
ngoài phạm vi địa hạt của mình là vô hiệu.
Ví dụ: Cha sở Bắc Thành không thể ủy nhiệm hữu hiệu
cho cha phó Chính Tòa để cử hành đôi hôn phối thuộc Bắc
Thành tại nhà thờ Chính Tòa. Năng quyền chứng hôn hay ủy
năng quyền này là thuộc cha sở nơi cử hành hôn phối, tức là
cha sở Chính Tòa.
Ủy quyền tổng quát có thể chuyển ủy từng trường hợp
một. Ủy quyền riêng biệt không được chuyển ủy trừ khi vị ủy
quyền minh nhiên ban phép (đ. 137§3).
33 Ủy quyền tổng quát mà không có văn bản thì vô hiệu. 34 Ủy quyền riêng biệt cần phải rõ ràng, không được hàm ẩn,
suy đoán, tự hiểu, có thể bằng văn bản hoặc không. Cha sở chia
phiên chứng hôn cho cha phó hoặc không nói rõ về tên của đôi
hôn nhân đó cho từng vụ thì không được xem là ủy quyền riêng
biệt. Vì vậy nên ủy quyền tổng quát, ban bằng văn bản.
31
Vị chứng hôn cử hành bất hợp pháp, nếu không có sự
xác tín luân lý về tình trạng thong dong của những người kết
hôn cũng như về phép của cha quản xứ, nếu chứng hôn do ủy
quyền tổng quát (đ. 1114).
5.3. Giáo xứ, nơi cử hành
a- Giáo xứ
Hôn nhân phải được cử hành tại giáo xứ mà một trong
hai người kết hôn có cư sở hoặc bán cư sở hay đã cư ngụ một
tháng, hoặc nếu là những người không có cư sở, phải được
cử hành tại giáo xứ mà họ đang cư ngụ; hôn nhân có thể cử
hành tại nơi khác, khi có phép của Đấng Bản Quyền riêng
hay của cha sở riêng (đ. 1115).
Cư sở được thủ đắc không hệ tại bởi việc giáo dân
trình diện hay đăng ký nhập xứ, tuy đây là việc nên làm. Cư
sở được thủ đắc do một trong hai cách sau, theo điều 102§1:
- “Cư ngụ trong địa hạt một giáo xứ hay ít ra của một giáo
phận với ý định sẽ ở đó vĩnh viễn nếu không có gì thay
đổi”. Điều này chú trọng đến “ý định” và không kể đến
thời gian là bao lâu. Ý định ở vĩnh viễn này, dĩ nhiên, phải
được chứng tỏ, ví dụ như di cư đến ở, mua nhà ở giáo xứ,
người già về ở với con cái trong giáo xứ. Ý định này là
điều quyết định cho việc thủ đắc cư sở.
- “Việc cư ngụ đã kéo dài năm năm trọn”. Sự thủ đắc cư
sở này hệ tại chỉ do thời gian dài đã cư ngụ.
Bán cư sở được thủ đắc do một trong hai cách sau,
theo điều 102§2:
32
Cư ngụ trong địa hạt một giáo xứ hay ít ra của một
giáo phận với ý định sẽ ở đó 3 tháng nếu không có gì thay
đổi.
Việc cư ngụ đã thực sự kéo dài ba tháng trọn.
Cư ngụ đã được một tháng là đủ thời gian để cha có
quyền chứng hôn thành sự và hợp pháp. Tuy nhiên giáo dân
không thể buộc cha sở phải cử hành cho họ, vì cha phải chuẩn
bị và “phải biết chắc không có gì cản trở cho việc cử hành bí
tích thành sự và hợp thức”(đ. 1066).
b- Cử hành hôn phối trong hay ngoài nhà thờ?
Hôn nhân giữa hai người Công Giáo hoặc giữa một
người Công Giáo và một người được Rửa tội ngoài Công
Giáo (hôn nhân hổn hợp) phải được cử hành trong nhà thờ
giáo xứ. Nếu cử hành ở một nhà thờ khác hay nhà nguyện thì
phải có phép của Đấng Bản Quyền địa phương hay của cha
sở (đ. 1118§1). Cử hành hôn nhân tại một nơi khác ngoài nhà
thờ, nhà nguyện (Vd. Nhà tư, khách sạn, điểm du lịch) phải
xin phép Đấng Bản Quyền (đ. 1118§2).
Hôn nhân giữa một người Công Giáo và một người
không được Rửa tội (hôn nhân dị giáo) “có thể cử hành trong
nhà thờ hay một nơi thích hợp khác” (đ. 1118§3). Vì vậy, có
thể cử hành hôn nhân này tại nhà tư khi bên người lương
không muốn đến nhà thờ, mà không cần phải xin phép Đấng
Bản Quyền.
5.4. Cử hành hôn phối trong hay ngoài Thánh lễ?
Luật Phụng Vụ có những quy định về cử hành nghi thức
hôn phối trong Thánh lễ, được ghi trong sách “Nghi thức cử
33
hành hôn nhân” (phiên dịch từ ấn bản mẫu II, nhà in đa ngữ
Vaticano, 1991):
5.4.1. Hôn nhân giữa hai người Công Giáo
Thông thường, phải cử hành bí tích Hôn phối trong Thánh
lễ. Tuy nhiên cha xứ phải tùy theo nhu cầu mục vụ, tùy theo
cách thức đôi bạn và những người dự lễ đã tham gia như thế
nào vào sinh hoạt của Hội Thánh để xem cử hành Hôn phối
trong hay ngoài thánh lễ cho thích hợp hơn (số 29).
Một số quy định trong “Nghi thức cử hành hôn nhân”:
Phải sử dụng “Nghi Thức Cử Hành Hôn Phối Trong
Thánh Lễ” (Chương I, số 45-78);
“Phải dùng phẩm phục màu trắng hay màu phụng
vụ của ngày lễ” (số 34);
Vào “ngày lễ bậc 1-4 trong bảng xếp hạng các ngày
phụng vụ, thì sử dụng bản văn và các bài đọc của lễ
hôm ấy, tuy nhiên vẫn đọc lời nguyện chúc hôn và
tùy nghi cũng có thể sử dụng công thức ban phép
lành cuối lễ dành cho lễ hôn phối” (số 34);
“Các Chúa nhật mùa Giáng sinh và Thường niên,
khi cử hành hôn nhân trong thánh lễ dành cho Cộng
đoàn giáo xứ, thì phải cử hành lễ Chúa nhật” (số
34).
5.4.2. Hôn nhân hỗn hợp
Phải sử dụng nghi thức cử hành hôn nhân ngoài Thánh
lễ (số 79-117), trừ khi cần thiết và có phép của Đấng Bản
quyền địa phương (x. số 36). Về việc cho người không Công
Giáo rước lễ thì theo những quy định về việc ban và nhận một
số bí tích liên quan đến các Cộng đoàn hay Giáo Hội Kitô
giáo khác, được quy định ở điều 844.
34
5.4.3. Hôn nhân khác đạo
Phải sử dụng nghi thức cử hành hôn nhân khác đạo (số
152-178), ngoài Thánh lễ.
Khi cử hành hôn nhân ngoài thánh lễ (hôn nhân hổn hợp,
khác đạo, hợp thức hóa) không cấm việc cho người Công Giáo
được rước lễ trước hay sau nghi thức kết hôn.
Hôn nhân khác đạo có thể cử hành trong nhà thờ hay một
nơi thuận tiện (x. số 152). Trong trường hợp cử hành tại gia mà
có những khó khăn nghiêm trọng do người bên lương không
muốn cử hành nghi thức tôn giáo thì có thể giảm bớt những nghi
thức không chính yếu. Luôn phải giữ thể thức giáo luật chính
yếu bao gồm:
Cha chứng hôn và hai người làm chứng hiện diện;
Hai người kết hôn hiện diện;
Cử hành “Nghi thức cử hành hôn nhân” từ số 159-163,
bao gồm những câu hỏi trước khi tỏ bày ưng thuận, tỏ
bày sự ưng thuận, tiếp nhận sự ưng thuận. Có thể bỏ
phần làm phép và trao nhẫn tiếp theo sau đó (x. số 165).
Nếu có những khó khăn nghiêm trọng ngăn cản việc tuân
giữ thể thức giáo luật thì có thể xin Đấng Bản quyền bên Công
Giáo miễn chuẩn cử hành thể thức giáo luật, được quy định ở
điều 1127.
“Phép giao” là một thuật ngữ quen dùng riêng ở Việt
Nam, không có trong Giáo luật, để chỉ việc cử hành hôn phối
ngoài Thánh Lễ. Hôn nhân này có thể là bí tích hoặc không.
Đối với hôn nhân dị giáo nó là không là bí tích. Đối với hôn
nhân hổn hợp - giữa hai người được rửa tội, nó là bí tích.
Trong việc thành sự hóa (hợp thức hóa) hôn phối của hai
người Công Giáo, ngoài Thánh lễ, vẫn là cử hành hôn nhân
và hôn nhân này là bí tích, nhưng vẫn thường được gọi được
gọi là “phép giao”.
35
Về việc cử hành hôn phối trong thánh lễ cho hai người
Công Giáo, cha xứ cũng phải “tùy theo nhu cầu mục vụ, tùy
theo cách thức đôi bạn và những người dự lễ đã tham gia như
thế nào vào sinh hoạt của Hội Thánh để xem cử hành Hôn
phối trong hay ngoài thánh lễ cho thích hợp hơn” (số 29).
6. Hôn nhân hổn hợp, dị giáo, đặc ân
6.1. Hôn nhân hỗn hợp
Khái niệm: Hôn nhân hỗn hợp là hôn nhân giữa hai
người đã được Rửa tội, mà một bên thuộc Giáo hội Công giáo
và bên kia thuộc một Giáo hội hay một cộng đoàn Giáo hội
không hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo (đ. 1124).
Cần xin phép: Hôn nhân hỗn hợp chỉ hợp pháp khi có
phép minh nhiên của giáo quyền (đ. 1124).
Phải đặt vấn đề: Phép Rửa tội của bên không Công
Giáo có được Hội Thánh chấp nhận và đã cử hành thành sự
không? Trong trường hợp không, phải chuyển qua cử hành
hôn nhân khác đạo với miễn chuẩn hôn ngăn trở khác đạo,
chứ không phải là xin phép cử hành hôn nhân hổn hợp.
Đấng Bản Quyền có thể ban phép nếu có một lý do
chính đáng và phải hội đủ điều kiện (chung cho cả hôn nhân
hổn hợp lẫn khác đạo) theo điều 1125:
1) Bên Công Giáo phải tuyên bố mình sẵn sàng tránh
mọi nguy cơ mất đức tin và thành thật cam kết sẽ làm
hết sức để tất cả con cái được Rửa tội và được giáo
dục trong Giáo Hội Công Giáo;
2) Phải kịp thời thông báo thế nào cho bên không Công
Giáo biết những điều bên Công Giáo phải cam kết,
36
để họ ý thức thật sự về lời cam kết và nghĩa vụ của
bên Công Giáo;
3) Cả hai bên được giáo huấn về những mục đích và
đặc tính chính yếu của hôn nhân mà không bên nào
được phép loại bỏ.
Nghi thức kết hôn: Phải sử dụng nghi thức cử hành hôn nhân
ngoài Thánh lễ, trừ khi cần thiết và có phép của Đấng Bản
quyền địa phương.
Các vị chủ chăn phải lo liệu trợ giúp về phương diện thiêng
liêng bên Công Giáo và con cái để họ chu toàn nghĩa vụ
mình và giúp đôi bạn được hiệp nhất trong đời sống vợ
chồng (đ. 1128).
6.2. Hôn nhân khác đạo (dị giáo)
Khái niệm: Hôn nhân khác đạo hay dị giáo là hôn nhân giữa
một người Công Giáo và một người không được Rửa tội.
Phải được miễn chuẩn ngăn trở hôn nhân dị giáo thì mới kết
hôn thành sự. Sẽ không được miễn chuẩn nếu không chu
toàn những điều kiện nói ở điều 1125 nói ở trên (đ. 1086).
Nghi thức kết hôn: phải sử dụng nghi thức cử hành hôn phối
ngoài Thánh lễ.
Có thể cử hành trong nhà thờ hoặc một nơi thích hợp, như tại
tư gia (đ. 1118§3).
Thờ cúng tổ tiên: Người tân tòng trở về nhà cha mẹ
mình, hay người phối ngẫu sống trong gia đình bố mẹ vợ/chồng
ngoại giáo: 35
35 x. HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, Thông cáo về việc
tôn kính Ông bà Tổ tiên và các bậc Anh hùng Liệt sĩ, 20.10.1964 ;
Hội nghị Nha Trang, 14.11.1974, trong VĂN PHÒNG TỔNG
THƯ KÝ HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, Giáo Hội Công
37
được thực hành những việc đốt hương, nhang, đèn, nến
trên bàn thờ gia tiên;
được vái lạy trước bàn thờ gia tiên hay giường thờ tổ
tiên, vì là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính đối
với ông bà tổ tiên;
ngày “kỵ nhật” (tức ngày giỗ) được “cúng giỗ” trong
gia đình theo phong tục địa phương,
trong tang lễ được vái lạy trước thi hài người quá cố,
đốt hương vái theo phong tục địa phương,
được tham dự nghi lễ tôn kính vị Thành Hoàng quen gọi
là “phúc thần” tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn
những vị đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân
làng.
Mục vụ:
Nên lưu ý bên Công Giáo hay cha mẹ là chỉ có thể
khuyên chứ không được phép đòi bên lương phải theo đạo
như một điều kiện để kết hôn, vì kết hôn với điều kiện tương
lai thì hôn nhân vô hiệu, với điều kiện hiện tại hay quá khứ
thì phải có phép bằng văn bản của Đấng Bản Quyền (đ. 1102).
Cha xứ cần dành thời giờ tiếp xúc với đôi hôn phối và
nhất là cha mẹ bên ngoại giáo. Kinh nghiệm cho thấy thái độ
tiếp đón thân tình, tinh thần đối thoại và sự kiên nhẫn giảng
giải giúp giải tỏa được rất nhiều ngộ nhận và đôi khi còn đưa
người phối ngẫu ngoại giáo đến chỗ tự nguyện đón nhận đức
tin.
Cha xứ tránh thái độ áp đặt đối với người lương như
buộc phải học giáo lý hôn nhân trong một thời gian nhất định.
Nếu có khó khăn nghiêm trọng trong việc học, nên hẹn gặp
giáo Việt Nam, Niên giám 2004, Hà Nội 2004, “Giáo Hội Việt
Nam với việc thờ kính tổ tiên”, tr. 487-490.
38
đôi bạn một số giờ để giải thích về hôn nhân, nghĩa vụ vợ
chồng và sinh sản giáo dục con cái.
Đối với những đòi hỏi định ngày cưới của bên người
lương, không nên cho rằng họ mê tín dị đoạn, nhưng cần cũng
nên tôn trọng trong chừng mực nào đó, trong tinh thần tôn
trọng tự do tín ngưỡng, sao cho việc cử hành hôn nhân diễn
ra hợp luật vừa không xúc phạm đến niềm tin của họ.
6.3. Miễn chuẩn thể thức giáo luật trong hôn nhân
hổn hợp hay dị giáo
Hôn nhân hổn hợp hay dị giáo đôi khi cũng có thể được
miễn chuẩn thể thức giáo luật, chiếu theo điều 1127§2:
Nếu có những khó khăn nghiêm trọng ngăn cản việc tuân
giữ thể thức giáo luật, Đấng Bản Quyền địa phương bên
Công Giáo có quyền miễn chuẩn khỏi giữ thể thức ấy trong
những trường hợp, nhưng phải tham khảo ý kiến Đấng Bản
Quyền địa phương tại nơi cử hành hôn nhân và phải giữ một
thể thức cử hành công khai nào đó để hôn nhân được thành
sự; việc ấn định những quy tắc để ban phép chuẩn nói trên
một cách đồng nhất thuộc Hội Đồng Giám Mục.
Đấng Bản Quyền địa phương của bên Công Giáo có
quyền miễn chuẩn khỏi giữ thể thức chứ không phải là của
bên không Công Giáo.
“Phải giữ một thể thức cử hành công khai nào đó để
hôn nhân được thành sự”. Vì vậy, sẽ không thành sự nếu
không cử hành một nghi thức ưng thuận công khai nào đó.
Một thể thức công khai phải là có thể chứng minh ở tòa ngoài.
39
Đó có thể là thể thức dân sự theo pháp luật hay tục lệ hoặc là
tôn giáo khác như Tin lành, Anh Giáo ... 36
Miễn chuẩn thể thức hôn nhân giữa hai người Công
Giáo là không được phép. Trong trường hợp nghiêm trọng
phải xin Tòa Thánh.37 Trong trường hợp nguy tử thì vẫn phải
giữ thể thức nhưng đơn giản hơn là chỉ cần hai giáo dân làm
chứng cũng đủ (đ. 1116).
Mục vụ: Trong những trường hợp cử hành hôn nhân
dị giáo, nếu bên lương nhất định không chịu cử hành nghi
thức hôn phối theo luật đạo thì có thể xin Đấng Bản Quyền
bên Công Giáo miễn chuẩn thể thức giáo luật. Cũng nên lưu
ý là, cùng với việc xin miễn chuẩn thể thức, phải xin miễn
chuẩn ngăn trở hôn nhân dị giáo hoặc xin phép cử hành hôn
nhân hổn hợp, và phải làm thỏa mãn các điều kiện của điều
1125, tức là bên Công Giáo phải tuyên bố sẵn sàng xa tránh
mọi nguy cơ mất đức tin ...
6.4. Hôn nhân nhờ đặc ân thánh Phaolô
Đặc ân Thánh Phaolô hệ tại ở việc cho tháo gỡ hôn nhân
giữa hai không được Rửa tội (người lương) vì lợi ích đức tin
của một bên người lương trở lại đã được Rửa tội, do chính sự
kiện người ấy tái hôn, miễn là người không được Rửa tội chia
tay người ấy (đ. 1143).
Đặc ân có mục đích trợ giúp đức tin cho người tân
tòng, có nguồn gốc từ giáo huấn của Thánh Phaolô trong thư
1 Cr7, 12-13: Ai trong anh em có chồng hay vợ không tin mà
họ muốn sống chung thì không được chia tay, nhưng “nếu
36 X. BEAL J.P. et alii, New Commentary on the Code of
Canon Law, Paulist Press, New York 2000, 1127. 37 X. Ibid.
40
người không tin chia tay, thì hãy để họ chia tay” và người tin
không còn bị ràng buộc.
Theo đó, tiến trình thông thường để được đặc ân thời
thánh Phaolô là:
- Đã có kết hôn giữa hai người không được Rửa tội.
- Sau đó một người và chỉ một người trong hai người
đó, được Rửa tội.38
- Người không Rửa tội chia tay.39
- Người Rửa tội được phép chia tay, được tháo cởi dây
hôn phối và được tái hôn
Sự “chia tay” trong đặc ân không được hiểu theo nghĩa
thông thường, nhưng theo nghĩa của Giáo Luật quy định:
Người không chịu phép Rửa tội được kể là chia tay, nếu
không muốn sống chung với người đã được Rửa tội hay
không muốn sống chung hòa thuận mà không xúc phạm đến
Đấng Tạo Hóa, trừ trường hợp sau khi chịu phép Rửa tội,
người được Rửa tội đã gây ra nguyên nhân chính đáng để
người kia được chia tay (đ. 1143§2).
Điều kiện để “được kể là chia tay” phải được kiểm chứng
qua sự chất vấn, theo điều 1144§1 quy định: Để người được
Rửa tội tái hôn thành sự, thì luôn luôn phải chất vấn người
không chịu phép Rửa tội để biết:
1- người này có muốn được Rửa tội hay không;
38 Thời các Tông Đồ, họ là những người tân tòng, nghe rao giảng và đã theo
đạo. 39 Có lẽ vì không muốn vợ hay chồng mình là Kitô hữu hoặc chống lại việc giữ
đạo. Do đó bên người lương được hỏi là có muốn sống chung mà không xúc phạm
đến Chúa không. Trong trường hợp bên người lương vẫn muốn sống chung nhưng
chống lại việc giữ đạo của bên Công Giáo thì Giáo luật vẫn kể là chia tay
41
2- ít là người này có muốn sống chung hòa thuận với
người đã được Rửa tội mà xúc phạm đến Đấng Tạo
Hóa hay không.
Mục vụ:
- Sự ly dị của hai người lương ở tòa án dân sự, cho dù
có chứng thư ly dị cũng không đủ để kể là chia tay theo Giáo
luật. Vì vậy, phải hỏi như Giáo luật quy định: Có muốn Rửa
tội không, có muốn sống chung không mà không xúc phạm
đến Chúa không?
- Hiện nay, đa số trường hợp là hai người lương đã chia
tay hay li dị trước khi tiến hành cho hưởng đặc ân. Nếu đặt
câu hỏi như luật định thì thấy có những vô nghĩa hay dư thừa,
nên đề nghị được chuyển thành 2 câu hỏi tế nhị như sau:
1) Ông/bà có khi nào muốn theo đạo Công Giáo
không?
Câu trả lời thứ nhất nếu có kết cục là “có muốn theo đạo”
thì phải dừng việc ban đặc ân. Nếu là “không” thì mới hỏi
tiếp câu thứ hai.
2) Ông/bà còn có muốn tái hợp với ông/bà ... này nữa
không?
Nếu lần này trả lời là “không” nữa thì cho phép hưởng
đặc ân, nhưng nếu trả lời là “có” thì phải hỏi thêm:
3) Ông/bà vẫn muốn tái hợp nhưng có tôn trọng đạo
Công Giáo của chồng/vợ này không?
Nếu câu trả lời là “có” nữa thì không được phép áp dụng
đặc ân thánh Phaolô, nhưng nếu câu trả là “không” thì được
phép.
Chất vấn phải làm sau khi người lương đã Rửa tội.
Nếu vì lý do quan trọng phải làm trước thì phải xin phép Đấng
Bản Quyền (đ. 1144§2). Việc chất vấn có thể qua một thủ tục
42
đơn giản, ngoại tư pháp, do Đấng Bản Quyền, hoặc cha sở,
hay ngay cả bên trở lại làm riêng tư khi có khó khăn. Tuy
nhiên, trong mọi trường hợp sự kiện chất vấn và kết quả của
việc chất vấn phải được xác minh ở tòa ngoài (cha sở xác
minh và làm bản xác nhận, ký tên, lưu hồ sơ), (đ. 1145).
Xin miễn việc chất vấn: Nếu thấy rõ việc chất vấn
không thể thực hiện được hoặc có chất vấn cũng vô ích thì có
thể xin Đấng Bản Quyền miễn việc chất vấn. Việc này rất
quan trọng, vì nếu bỏ việc chất vấn mà không xin phép, hôn
nhân vô hiệu (đ. 1144).40
Nếu bên được chất vấn từ chối trả lời thì đặc ân vẫn
được ban (đ. 1144).
Người được Rửa tội, không giới hạn phải là Công
Giáo, cũng có thể là người theo và được Rửa tội trong một
Cộng đoàn thuộc một Giáo Hội hay một cộng đoàn Giáo Hội
không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội công giáo (Vd. Anh
Giáo, Tin lành).41
Bản Quyền sở tại, vì lý do nghiêm trọng, cũng có thể
cho phép tân tòng Công Giáo kết hôn với người Kitô giáo
khác (hôn nhân hổn hợp) hoặc cho miễn chuẩn để kết hôn
khác đạo (đ. 1147).
Cha sở tiến hành ban đặc ân Thánh Phaolô theo luật
quy định, không cần phải xin phép Đấng Bản Quyền, ngoại
trừ những trường hợp riêng có quy định xin phép hay xin
miễn chuẩn.
40 Giấy ly dị dân sự không thay thế được cho việc chất vấn.
Nếu không chất vấn và cũng không xin phép miễn chất vấn, hôn
nhân vô hiệu. 41 Trả lời của Bộ GLĐT, 30-8-1976, CLD 8, 837-840.
43
Mục vụ: Người lương theo đạo, để được hưởng đặc
ân, trước tiên phải là một tân tòng có đức tin. Vì vậy không
được chấp thuận rút ngắn thời gian dự tòng. Họ phải được
học giáo lý và trãi qua thời gian dự tòng là 6 tháng cho đầy
đủ.
7. Thành sự hóa hôn nhân
Việc “hợp thức hóa” các đôi rối hôn phối do kết hôn
không thành sự, vì có ngăn trở hoặc vì thiếu thể thức giáo
luật, được Giáo luật gọi là “thành sự hóa” hôn nhân, gồm việc
thành sự hóa đơn thuần (đ. 1156-1160) và điều trị tại căn (đ.
1161-1165).
7.1. Thành sự hóa đơn thuần
Một hôn nhân vô hiệu, thông thường, có thể do mắc ngăn
trở tiêu hôn hay do thiếu thể thức giáo luật.
7.1.1. Do mắc ngăn trở tiêu hôn
Điều 1156: §
§1. Để thành sự hóa một hôn nhân bất thành do một ngăn
trở tiêu hôn thì buộc ngăn trở chấm dứt hoặc được miễn
chuẩn, và ít là bên biết có ngăn trở phải lập lại sự ưng thuận
§2. Luật Giáo Hội buộc phải lập lại sự ưng thuận ấy để
việc thành sự hóa có hiệu lực, mặc dù cả hai bên đã biểu lộ
sự ưng thuận và sau đó không rút lại sự ưng thuận.
Thành sự hóa phải bao gồm hai điều: 1- hết ngăn trở
do chấm dứt hay được miễn chuẩn; 2- lập lại sự ưng thuận.
44
Ví dụ: Một người đang mắc ngăn trở lời khấn dòng, kết
hôn vô hiệu. Hôn nhân này có thể được thành sự hóa sau khi
ngăn trở được miễn chuẩn và phải lập lại sự ưng thuận.
Lập lại sự ưng thuận nghĩa là gì?
Nghĩa là không cần phải cử hành nghi thức ưng thuận kết
hôn, cũng có nghĩa là không cần phải cử hành nghi thức
mà hai bên kết ước nhận nhau làm vợ chồng, tức là nghi
thức kết hôn, hay ở Việt Nam gọi là phép giao. Tuy nhiên
Giáo Luật không nói bằng ngôn ngữ “thể thức kết hôn
theo giáo luật” (forma canonica) mà chỉ dùng chữ “ưng
thuận” vì nó chỉ cần một phần chính yếu của thể thức giáo
luật, đó là sự ưng thuận kết hôn, như trong trường hợp
ngăn trở còn kín đáo thì chỉ buộc bên biết hay nghĩ là có
ngăn trở lập lại sự ưng thuận, cách riêng tư và kín đáo là
đủ, miễn là bên kia không rút lại sự ưng thuận.
Lập lại sự ưng thuận phải như thế nào?
1) Lập lại sự ưng thuận phải là một hành vi mới của ý
muốn kết hôn mà bên lập lại sự ưng thuận ấy biết hay
quan niệm rằng hôn nhân đã không thành ngay từ đầu
(đ. 1157).
2) Có hai cách thức lập lại sự ưng thuận, tùy theo ngăn
trở là công khai hay kín đáo.
a) Nếu ngăn trở là công khai (public), nghĩa là ngăn trở
chứng minh được ở tòa ngoài, ví dụ ngăn trở khấn dòng là
một điều khá rõ ràng, chứng minh được, thì buộc cả hai bên
phải lập lại sự ưng thuận theo thể thức giáo luật (1158§1), tức
là: Đôi bên tỏ bày ưng thuận kết hôn trước vị chứng hôn và
hai nhân chứng.
b) Nếu ngăn trở là kín đáo (occult), nghĩa là ngăn trở
không chứng minh được ở tòa ngoài (chỉ có đương sự biết là
45
mình có ngăn trở khấn dòng và trong dân chúng không ai
biết), thì chỉ buộc bên biết hay nghĩ là có ngăn trở lập lại sự
ưng thuận, cách riêng tư và kín đáo là đủ, miễn là bên kia
không rút lại sự ưng thuận. Nhưng nếu cả hai vợ chồng biết
có ngăn trở đó và ngăn trở còn kín đáo thì cả hai buộc phải
lập lại ưng thuận cách kín đáo.
“Biết” ở đây phải là biết ngay từ đầu, lúc kết hôn. Sau này
mới biết thì không kể. Ví dụ: Một bà mà sau này mới biết
chồng có ngăn trở khấn dòng, và ngăn trở còn kín đáo, thì
không đòi bà phải lập lại sự ưng thuận. Chỉ cần bà không rút
lại sự ưng thuận.
Trong những trường hợp làm riêng tư và kín đáo này,
không đòi phải giữ một nghi thức nào riêng biệt.42
7.1.2. Do thiếu thể thức
Để thành sự hóa hôn nhân bất thành do thiếu thể thức
phải được kết ước lại theo thể thức giáo luật miễn là giữ
nguyên những quy định của điều 1127§2.
Ví dụ: Hai người Công Giáo chỉ kết hôn dân sự với nhau
do ông bị có ngăn trở dây hôn phối. Nay ông hết ngăn trở vì
vợ trước chết. Để được thành sự hóa, vì họ thiếu thể thức
giáo luật, phải cử hành sự ưng thuận hôn nhân theo thể thức
giáo luật.
42 X. BEAL J.P. et alii, New Commentary on the Code of
Canon Law, Paulist Press, New York 2000, 1382.
Trong trường hợp ngăn trở còn kín đáo thì một bên biết có
ngăn trở bên tỏ bày sự ưng thuận trước vị chứng hôn là đủ, không
cần có hai nhân chứng. Bên không biết có ngăn trở, không buộc
lập lại ưng thuận và có thể hiện diện hoặc không.
46
“Thiếu thể thức” (defect of form), có thể là hoàn toàn
thiếu, như trường hợp chưa có cử hành thể thức. Tuy nhiên,
nó cũng có thể là thiếu một phần chính yếu nào đó, ví dụ như
vị chứng hôn không có năng quyền hay chứng hôn mà thiếu
một người làm chứng.
Thành sự hóa hôn nhân hay là cử hành hôn nhân
ngay từ đầu?
Đây là một câu hỏi khá ý nghĩa đối với một đôi đã sống
chung với nhau như vợ chồng. Đến nay, họ muốn và được
phép hợp thức hóa. Vậy thì cha chứng hôn cử hành hôn nhân
như ngay từ đầu hay là hợp thức hóa hôn nhân đã có trước.
Cử hành hôn nhân ngay từ đầu, nếu chưa có kết ước hôn
nhân đạo hay đời nào cả, chỉ có tình trạng sống chung bất hợp
pháp. Với trình trạng này, buộc cha chứng hôn phải chuẩn bị
hôn nhân và làm thủ tục hồ sơ đầy đủ.
Thành sự hóa bao hàm ý nghĩa là hôn nhân đã hiện hữu
một cách nào đó, do một kết ước dân sự hoặc tôn giáo, nhưng
vô hiệu theo những nguyên tắc của Giáo Luật. Do đó khi
thành sự hóa hôn nhân, các việc chuẩn bị trước hôn nhân (như
rao, học giáo lý hôn nhân...) được phép giảm bớt nếu thấy
không cần thiết.
Vd. Khi họ đã có và chỉ có kết hôn ở chính quyền dân sự
thì cũng áp dụng thành sự hóa, không cử hành hôn nhân từ
đầu.
Về vấn đề này, người ta đặt câu hỏi liên quan: Sống chung
với nhau trong một hôn nhân theo luật dân sự và vô hiệu đối
với Giáo Hội thì có phải là sống trong tội dâm dục không?
Đức Gioan Phaolô II gải thích đó không chỉ là chuyện họ
sống dâm dục nhưng họ cũng có những ràng buộc vợ chồng,
47
khi họ đi tìm sự công nhận vợ chồng từ chính quyền hay xã
hội. (x. Familiaris Consortio, 82).
7.2. Điều trị tại căn
Khái niệm: Điều trị tại căn một hôn nhân bất thành là
việc thành sự hóa hôn nhân ấy mà không buộc lập lại sự ưng
thuận, do nhà chức trách có thẩm quyền ban, bao hàm việc
miễn chuẩn một ngăn trở, nếu có, và thể thức giáo luật, nếu
đã không được tuân giữ, cũng như sự hồi tố của những hiệu
quả giáo luật (đ.1161§1).
Điều trị tại căn khác với thành sự hóa đơn thuần ở
những điểm:
- Không đòi phải lập lại sự ưng thuận, miễn là họ đã có sự
ưng thuận và vẫn duy trì sự ưng thuận đó (đ.1162);
- Bao hàm (entail, comporta) việc miễn chuẩn một ngăn
trở, nếu có; và thể thức giáo luật, nếu thiếu;
- Hồi tố giá trị hôn nhân;
- Được ban cho bởi nhà chức trách có thẩm quyền: Đức
Giám Mục Giáo phận hay Tông Tòa.
Không buộc lập lại sự ưng thuận: không cần phải cử
hành nghi thức ưng thuận nào cả. Nghĩa là không cần phải cử
hành nghi thức mà hai bên kết ước nhận nhau làm vợ chồng,
tức là nghi thức kết hôn, hay ở Việt Nam gọi là phép giao.
Tuy nhiên, không thể điều trị tại căn nếu ngay từ đầu, thiếu
sự ưng thuận của cả hai bên hay một trong hai bên (đ. 1162).
Những thể thức kết hôn được xã hội công nhận, nghĩa là
những thể thức kết hôn mà trong đó có phần chính yếu là hai
người biểu lộ sự ưng thuận thành vợ chồng của mình bằng
một thể thức công (public forma). Kết hôn dân sự trước chính
quyền có cấp giấy chứng nhận kết hôn, kết hôn theo một thể
48
thức tôn giáo như Tin Lành, theo tục lệ làng xóm... được coi
như là đã trao ban sự ưng thuận kết hôn nó được hồi tố trong
điều trị tại căn. Vì vậy không cần lập lại sự ưng thuận.
Bao hàm (entail, comporta) việc miễn chuẩn một
ngăn trở, nếu có, và thể thức giáo luật, nếu đã thiếu. “Bao
hàm” không có nghĩa là bao gồm. Vì vậy, không đòi phải xin
miễn chuẩn từng ngăn trở hoặc thể thức giáo luật, với điều
kiện kèm theo cho từng ngăn trở hay trong miễn chuẩn thể
thức giáo luật.43 Trong đơn xin điều trị tại căn tất nhiên, cũng
cần phải nêu ra những ngăn trở hay thiếu thể thức giáo luật.
Tuy nhiên trong văn thư phúc đáp đơn xin (phúc chiếu) chấp
thuận của giáo quyền, không cần phải nếu rõ những miễn
chuẩn này.44
Ví dụ 1: Sau khi cử hành hôn phối cho hai người Công
Giáo, một trong hai bên được phát hiện ra là chưa được Rửa
tội. Hôn nhân, vì vậy, vô hiệu. Nên xin Đức Giám Mục Giáo
phận điều trị tại căn hơn là tiến hành cho thành sự hóa, để
được đơn giản và tránh những bất tiện luân lý.
Ví dụ 2: Sau khi cử hành hôn phối được nhiều năm, cha
sở được phát hiện là cha chưa chịu chức do ngài là cha giả
hoặc cha chưa được rửa tội (Vd. do lầm lẫn) nên ngài chịu
chức thánh bất thành. Những đôi cha đã chứng hôn đều vô
hiệu vì cha không có năng quyền chứng hôn. Nó được Giáo
Luật xếp vào loại tiêu hôn do thiếu thể thức vì thiếu một điều
43 Trong miễn chuẩn thể thức giáo luật, để hôn nhân thành sự,
bắt buộc phải cử hành một nghi thức ưng thuân khác, dân sự hay
tôn giáo khác, để thay thế. Trong điều trị tại căn thì không cần sự
thay thế này. Vì trong điều trị tại căn, luật chấp nhận sự ưng thuận
đã có từ đầu nay vẫn hữu hiệu, miễn là không rút lại sự ưng thuận
đó. 44 X. BEAL J.P. et alii, 1388.
49
chính yếu trong cử hành hôn phối là phải có một linh mục có
năng quyền chứng hôn.
Trong trường hợp trên, có nhiều đôi hôn phối vô hiệu do
cha sở không có năng quyền, thì có thể được điều trị tại căn
tất cả một lúc bởi Tòa Thánh. Đơn xin được làm bởi cha quản
xứ hoặc Đấng Bản quyền, không cần phải bởi những đôi hôn
phối, vì có thể điều trị tại căn ngay cả khi một bên hay cả hai
bên không biết (đ. 1164).
Ví dụ 3: Một bà Công Giáo đã kết hôn dân sự với một
người lương đã lâu. Nay bà xin giúp bà hợp thức hóa hôn
nhân để an tâm giữ đạo. Người chồng lương, tuy vẫn muốn
duy trì đời sống vợ chồng, nhưng lại không chấp nhận cử
hành nghi thức hôn nhân dù ở nhà thờ hay tại nhà tư. Trong
trường hợp này nên xin Đức Giám Mục Giáo phận điều trị tại
căn, bao hàm việc miễn chuẩn ngăn trở khác đạo và chuẩn
thể thức giáo luật. Tuy nhiên bà phải tuyên bố tránh xa nguy
hiểm đức tin ... theo quy định của điều 1125.
Không được ban điều trị tại căn:
Nếu không biết chắc là đôi bên muốn duy trì vợ chồng
(đ. 1161§3). Trong những ví dụ trên, những ai muốn chia tay,
thì Giáo Hội tuyên bố hôn nhân của họ bất thành và cho chia
tay, không tiến hành điều trị tại căn.
Nếu mắc ngăn trở tự nhiên (Vd. bất lực), luật Chúa
(Vd. dây hôn phối), hay bị luật cấm miễn chuẩn (Vd. Anh em
ruột), thì không được điều trị tại căn, trừ khi các ngăn trở
chấm dứt (đ. 1163§2). Trong trường hợp ngăn trở này chấm
dứt thì cũng phải xin Tông Tòa ban điều trị tại căn (đ.
1165§2).
50
Ngay cả khi cả hai bên hoặc một bên không biết, điều
trị tại căn có thể được ban thành sự, nhưng chỉ được tuân giữ
vì một lý do quan trọng (đ. 1164).
Việc điều trị tại căn có thể xảy ra mà không cần có sự xin
hay biết của một bên hay của hai bên. Thông thường, đó là vì
hôn nhân vô hiệu do lỗi của vị chứng hôn, như cử hành thể
thức bị thiếu hoặc thiếu năng quyền. Nếu tiết lộ ra, cha có thể
bị mất danh giá. Vì lý do quan trọng này, cha làm đơn xin
điều trị tại căn hôn phối mình đã cử hành, mà không cần cho
đôi hôn nhân biết.
Quyền ban điều trị tại căn:
1) Tông Tòa:
Khi hôn nhân có những ngăn trở dành riêng cho
Tông Tòa hoặc khi ngăn trở tự nhiên đã chấm dứt,
Vd. ngăn trở chức thánh, ngăn trở tội ác.
Ban cho nhiều trường hợp một lần, Vd. do cha
chứng hôn thiếu năng quyền nhưng đã chứng hôn
cho nhiều đôi trong những năm qua.
2) Giám Mục Giáo Phận:
Khi hôn nhân có những ngăn trở không dành riêng
cho Tông Tòa;
Ban cho từng trường hợp, ngay cả khi có nhiều lý
do bất thành, khi đã hội đủ điều kiện ở điều 1125,
tức là điều kiện bên Công Giáo phải tuyên bố sẵn
sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin... trong kết hôn
hổn hợp hay khác đạo.
Tại sao cần điều trị tại căn?
51
- Có những trường hợp, việc lập lại sự ưng thuận theo yêu
cầu của thành sự hóa đơn thuần là có bất tiện nặng; vì vậy,
không xin thành sự hóa đơn thuần mà lại xin điều trị tại
căn. Vd. Hôn nhân được cử hành bởi một cha sở giả mạo;
hoặc cha chứng hôn đã vì lỗi của mình không làm đầy đủ
các thể thức giáo luật. Trong những trường hợp này, có
phần lỗi về phía giáo quyền nên không bắt giáo dân phải
cử hành lại hôn phối. Hoặc như trường hợp chồng người
lương không muốn đến gặp gỡ các linh mục để thành sự
hóa hôn phối, người vợ có đạo lại muốn được sống hiệp
thông trọn vẹn với Hội Thánh, điều trị tại căn là một giải
pháp cho phép vượt qua được khó khăn này.
- Điều trị tại căn có tác dụng hồi tố giá trị hôn nhân, giúp
tránh sự đối chọi với luật dân sự. Vd. Trong cổ thời, một
hôn nhân dân sự, được xem là hữu hiệu đối với pháp luật
dân sự nhưng vô hiệu đối với Công Giáo. Vấn đề được
đặt ra là một vị hoàng tử được sinh ra trong cuộc hôn nhân
đó có phải là con hợp pháp không, có được kế vị hay được
thừa kế như con hợp pháp không. Điều trị tại căn giúp
Giáo Hội nhìn nhận là ngay từ lúc kết hôn dân sự vị hoàng
tử đó là con chính thức, hợp pháp và được kế vị ... Ví dụ
này cũng cho thấy điều trị tại căn hôn phối đã được áp
dụng từ xa xưa chứ không phải là điều mới mẻ.45 Hiện
nay, giá trị hồi tố của hôn nhân có ý nghĩa đặc biệt trong
các quốc gia mà luật pháp dân sự và Giáo Hội về vấn đề
hôn nhân có liên hệ mật thiết với nhau.
45 X. BEAL J.P. et alii, 1387.