54
ĐỀ CƯƠNG ÔN THI MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊ LỚP CAO CẤP CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH (Tài liệu không chính thức, chỉ mang tính chất tham khảo, bản quyền và lưu hành nội bộ tại lớp A114) Câu 1: Tính tất yếu và ý nghĩa của việc ra đời chủ nghĩa Mác-Lênin? 1. Điều kiện kinh tế-xã hội: vào những năm 40 của thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã trở thành hệ thống kinh tế thống trị ở các nước Tây Âu, giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài chính trị như một lực lượng độc lập. Mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giữa lực lượng lao động (bị bóc lột) và tư bản (bóc lột) trong xã hội tư bản ngày càng trở nên sâu sắc về tính chất xã hội của sản xuất và hình thức chiếm hữu tư nhân, mâu thuẫn này không thể điều hoà được giữa giai cấp vô sản và tư sản. Giai cấp vô sản đã ý thức được quyền lợi cơ bản của mình và tiến hành các cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, tuy nhiên các hình thức đấu tranh còn mang tính bột phát, có nơi và có thời gian đã rơi vào bế tắc. Yêu cầu phải có một lý luận dẫn đường. Vì vậy, những tiền đề kinh tế – xã hội trên đây dẫn đến sự ra đời của triết học Mác … để giải quyết đúng đắn những vấn đề lịch sử đặt ra. 2) Tiền đề lý luận a) C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng duy tâm và tư tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học để xây dựng nên phép biện chứng duy vật và mở rộng nhận thức

amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊ

LỚP CAO CẤP CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH

(Tài liệu không chính thức, chỉ mang tính chất tham khảo, bản quyền và lưu hành nội bộ tại lớp A114)

Câu 1: Tính tất yếu và ý nghĩa của việc ra đời chủ nghĩa Mác-Lênin?

1. Điều kiện kinh tế-xã hội: vào những năm 40 của thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã trở thành hệ thống kinh tế thống trị ở các nước Tây Âu, giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài chính trị như một lực lượng độc lập. Mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giữa lực lượng lao động (bị bóc lột) và tư bản (bóc lột) trong xã hội tư bản ngày càng trở nên sâu sắc về tính chất xã hội của sản xuất và hình thức chiếm hữu tư nhân, mâu thuẫn này không thể điều hoà được giữa giai cấp vô sản và tư sản. Giai cấp vô sản đã ý thức được quyền lợi cơ bản của mình và tiến hành các cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, tuy nhiên các hình thức đấu tranh còn mang tính bột phát, có nơi và có thời gian đã rơi vào bế tắc. Yêu cầu phải có một lý luận dẫn đường. Vì vậy, những tiền đề kinh tế – xã hội trên đây dẫn đến sự ra đời của triết học Mác … để giải quyết đúng đắn những vấn đề lịch sử đặt ra.

2) Tiền đề lý luận

a) C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng duy tâm và tư tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học để xây dựng nên phép biện chứng duy vật và mở rộng nhận thức sang cả xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để.

b) Kinh tế chính trị học Anh mà đặc biệt là lý luận về kinh tế hàng hóa; học thuyết giá trị thặng dư là cơ sở của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đó còn là việc thừa nhận các quy luật khách quan của đời sống kinh tế xã hội, đặt quy luật giá trị làm cơ sở cho toàn bộ hệ thống kinh tế và rằng, do đó chủ nghĩa tư bản là vĩnh cửu.

c) Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những dự đoán thiên tài mà trước hết là lịch sử loài người là một quá trình tiến hóa không ngừng, chế độ sau tiến bộ hơn chế độ trước; rằng sự xuất hiện các giai cấp đối kháng trong xã hội là kết quả của sự chiếm đoạt; đồng thời phê phán chủ nghĩa tư bản là ở đó con người bị bóc lột và lừa bịp, chính phủ không quan tâm tới dân nghèo. Khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội công nghiệp mà trong đó, công nông nghiệp đều được khuyến khích, đa số người lao động được bảo đảm những điều kiện vật

Page 2: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

chất cho cuộc sống v.v là cơ sở để chủ nghĩa Mác phát triển thành lý luận cải tạo xã hội.

3) Tiền đề khoa học tự nhiên.

a) Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lương đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động của chúng.

b) Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và thực vật;

c) Thuyết tiến hoá của Đác uyn đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật không có sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài. 

Tóm lại: Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ, do sự kế thừa những thành tựu trong lý luận và được kiểm chứng bằng các thành tựu của khoa học, mà còn do bản thân sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền đề khách quan cho sự ra đời của nó.

Ý nghĩa của sự ra đời chủ nghĩa Mác: tạo ra bước ngoặt, cuộc cách mạng trong tư tưởng khoa học của nhân loại, vì:

- Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, C.Mác và AG đã giải thích được quy luật phát triển của xã hội loại người một cách khoa học, khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể.

- Các quy luật vận động, phát triển của xã hội loài người đã được lý giải, phân tích trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Họ đã chứng minh sự ra đời cũng như diệt vong của CNTB là 1 tất yếu như nhau, đều do yếu tố kinh tế quy định.

- Làm cho chủ nghĩa xã hội không tưởng có căn cứ khoa học để trở thành CNXH KH.

- Làm cho giai cấp công nhân, người đại diện cho LLSX hiện đại, tiến bộ, có được lý luận khoa học, cách mạng dẫn dắt trong cuộc đấu tranh giải phóng bản thân và giải phóng nhân loại (tạo ra bước chuyển về chất của phong trào từ tự phát lên tự giác) CN Mác đã nhìn ra được sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản từ đó đề ra chiến lược, sách lược, con đường, biện pháp để giải phóng xã hội, giai cấp, dân tộc, con người khỏi áp bức, bóc lột bất công.

Page 3: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

- Thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phương pháp biện chứng, lý luận với thực tiễn, tính đảng với tính khoa học, là học thuyết mở, luôn tự đổi mới và phát triển cùng sự phát triển tư tưởng của nhân loại.

Câu 2. Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Anghen thực hiện ?

Thực chất của cuộc CM trong triết học do Mác và Anghen thực hiện

- Triết học Mác ra đời đã khắc phục được sự tách rời giữa TG quan duy vật và phép biện chứng; xác lập chủ nghĩa duy vật biện chứng nhờ một hệ thống lý luận khoa học chặt chẽ, thống nhất và hoàn chỉnh; cải tạo chủ nghĩa duy vật mang tính siêu hình, lẫn phép biện chứng trong cái vỏ duy tâm, thần bí để xây dựng nên một nền triết học mới – triết học duy vật biện chứng.

- Việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những phát hiện vĩ đại trong cuộc cách mạng do Mác và Ănghen thực hiện trong triết học. Đó là một cuộc c/mạng thực sự trong học thuyết về xã hội.

- TH Mác không chỉ giải thích TG mà chủ yếu là để cải tạo TG.

* Ý nghĩa:

- Sự ra đời của triết học Mác đã làm cho vai trò, vị trí của triết học và quan hệ giữa triết học với các KH khác có sự thay đổi.

- TH Mác còn là TG quan KH của giai cấp công nhân, nó chỉ ra cho giai cấp công nhân con đường đấu tranh để giải phóng, tạo nên một bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác

- TH Mác trở thành TG quan khoa học và phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển tiếp tục của các khoa học;

- TH Mác là cơ sở lý luận KH cho chiến lược và sách lược CM của g/c vô sản, là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản, cơ hội, giáo điều…

Câu 3. Tại sao nói CNDV Mác- xit là cơ sở lý luận của TG quan khoa học

a- Thế giới quan

- Thế giới quan là hệ thống các quan điểm (hay các quan niệm) của con người về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó làm cơ sở cho việc xác định phương châm, phương pháp hành động và phương thức sống cho con người.

Page 4: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

- Thế giới quan là sự thống nhất giữa tri thức và niềm tin, giữa lý trí và tình cảm, song tri thức là phần cơ bản nhất, quyết định đặc trưng, đặc điểm của thế giới quan.

b- Các loại hình thế giới quan (3 loại)

-Thế giới quan huyền thoại : Hình thành từ thời CS nguyên thủy, Đặc trưng là sự kết hợp giữa cái thực và cái giả (ảo) tạo nên sự pha trộn giữa thế giới con người và thế giới thần linh.

- Thế giới quan tôn giáo : Mần mống từ thời CSNT, chính thức ra đời trong xh chiếm hữu nô lệ và trở thành TGQ thống trị trong xh phong kiến. Phản ánh TGKQ một cách đặc biệt, dựa trên cơ sở của niềm tin mãnh liệt vào các lực lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối với con người. Điều đó được thể hiện qua các hoạt động của các tôn giáo. Tôn giáo được tạo nên bởi 3 yếu tố: Nghi lễ, Giáo lý, Tổ chức tôn giáo

- Thế giới quan triết học : TGQ được thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua các khái niệm, phạm trù, quy luật.

c- Vai trò của thế giới quan

Thế giới quan khác nhau có tác dụng khác nhau đối với hoạt động của con người:

- Các thế giới quan không khoa học có thể dẫn con người đến những sự mê lầm, tạo ra niềm tin mù quáng, hành động không có hiệu quả, thậm chí còn có thể gây ra những tổn hại to lớn cho con người.

- Thế giới quan khoa học giúp con người có thể cải tạo tự nhiên hoặc cải tạo xã hội một cách có hiệu quả, có thể tạo ra những biến đổi to lớn trong việc chinh phục tự nhiên và cải tạo xã hội của con người.

- Triết học Mác-Lênin là thế giới quan

+ CNDVBC và CNDVLS = triết học Mác-Lênin hợp thành thế giới quan khoa học triệt để, thế giới quan khoa học ấy được hình thành trong cuộc đấu tranh chống tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm, học thuyết Mác đối lập về căn bản với chủ nghĩa duy tâm triết học và những quan điểm tôn giáo, chúng lấy sự hoạt động tinh thần, của ý thức, của những lực lượng siêu tự nhiên, của thần thánh để giải thích vũ trụ, giải thích tất cả những hiện tượng tư nhiên và xã hội trên thế giới quan của chúng là phản khoa học.

+ Thế giới quan của triết học Mác-Lênin được xây dựng trên lập trường duy vật và biện chứng, nó biểu hiện những lợi ích của giai cấp vô sản và của tất

Page 5: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

cả những người lao động đang đấu tranh để tự giải phóng khỏi mọi hình thức áp bức.

+ Thế giới quan khoa học ấy có ý nghĩa không phải chỉ thuần túy về mặt lý luận và nhận tưức mà nó còn có ý nghĩa lớn lao về mặt tư tưởng nữa.

+ Triết học Mác-Lênin là thế giới quan duy vật triệt để, nó không phù hợp với các hiện tượng tự nhiên mà còn với cả thực tế lịch sử xã hội, điều này đã được thực tế xã hội chứng minh là đúng.

+ Triết học Mác-Lênin là thế giới quan của Đảng cộng sản, là nền tảng lý luận của Đảng cộng sản. Những kết luận rút ra trong phương pháp biện chứng và chủ nghĩa duy vật Mác xít có ý nghĩa lớn lao đối với hoạt động thực tiễn của Đảng cộng sản. Những kết luận ấy chứng tỏ rằng: lý luận và phương pháp Mác xít là vũ khí vô song để nhận thức và cải tạo thế giới bằng cách mạng và theo chủ nghĩa cộng sản.

Câu 4. Cơ sở lý luận, nội dung, ý nghĩa của quan điểm phát triển và quan điểm toàn diện. Liên hệ

Cơ sở lý luận, nội dung, ý nghĩa của quan điểm toàn diện:

Quan điểm toàn diện là quan điểm khi xem xét và nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải nghiên cứu tất cả các mặt, các yếu tố, kể cả các mặt khâu trung gian, trực tiếp và gián tiếp có liên quan đến sự vật, từ tri thức một mặt đến tri thức nhiều mặt về sv từ đó khái quát lại, rút ra cái bản chất nhất của nó.

Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. quan điểm toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác, tránh xem xét phiến diện một chiều. 

- Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

- Quan điểm toàn diện đối lập với cách nhìn phiến diện, một chiều; đối lập với chủ nghĩa chiết trung và thuật ngữ nguỵ biện. 

Yêu cầu:

Page 6: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

- Để nhận thức đúng đắn về sv, h/tg đòi hỏi chúng ta phải xem xét nó trong sự liên hệ, tác động qua lại với sv, h/tg khác chứ khg đc tách nó ra khỏi sv, h/tg khác.

- Xem xét toàn diện các mối liên hệ nhưng phải đ/giá đúng vị trí, vai trò của từng mối liên hệ, tránh xem xét 1 cách bình quân, dàn trải thiếu trọng tâm trọng điểm;

- Từ bàn chất của sv phải quay lại hiểu rõ toàn bộ sv trên cơ sở mối liên hệ bản chất chủ yếu với các mối liên hệ khác đảm bảo tính đồng bộ, tính hệ thống

Ý nghĩa: Khắc phục cách nhìn phiến diện (chỉ nhìn nhận một hoặc một vài liên hệ; đánh giá cào bằng những đặc trưng khác nhau); Khắc phục tình trạng nguỵ biện (biến cái không cơ bản thành cơ bản); Khắc phục tình trạng chiết trung (gắn kết những nhân tố không có liên hệ nội tại với nhau thành một chỉnh thể)

Trong cải tạo thế giới: việc quán triệt quan điểm toàn diện sẽ giúp cho việc đánh giá, nhận xét, nhìn nhận sự vật hiện tượng một cách hệ thống đồng bộ, đồng thời nắm vững bối cảnh, quá trình biến đổi của sự vật hiện tượng và xu hướng phát triển của sự vật hiện tượng, từ đó có hệ thống các chính sách, biện pháp, phương tiện tác động phù hợp, trong đó có những khâu đột phá, trọng tâm, trọng điểm; đồng thời có tính mềm dẻo, linh hoạt khi tình hình thay đổi.

Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và nhận thức

Quan điểm phát triển là phải xem xét sv ra đời trong bối cảnh nào, đã trải qua những giai đoạn tiến hóa cơ bản ra sao, trạng thái hiện có như thế nào từ đó dự báo được triển vọng của nó.

Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển là nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật. Theo đó, sự phát triển là vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn (tự nhiên, xh, tư duy). Phát triển là trường hợp đặc biệt của sự đặc biệt của sự vận động và trong sự phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó, làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự việc, hiện tượng cùng chức năng của nó ngày càng hoàn thiện hơn.

Yêu cầu:

- Quan điểm phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong trạng thái vận động, biến đổi chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại mà còn thấy được khuynh hướng phát triển

Page 7: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

của nó trong tương lai, nghĩa là phải phân tích để làm rõ những biến đổi của sự vật, hiện tượng.

- Sự vận động và phát triển của sv, h/tg là một quá trình chứa đựng mâu thuẫn. Việc gq mâu thuẫn làm cho sv vận động, p/triển vì vậy chúng ta phải biết phát hiện mâu thuẫn, tìm cách gq mâu thuẫn, xác định xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do sự phủ định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề cho sự ra đời của sự vật hiện tượng mới để thúc đẩy sự vận động, p/triển của sv, h/tg.

- Quan điêm phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau.

Ý nghĩa: Quan điểm phát triển giúp chúng ta hiểu được bản chất thực sự của sv, tìm được biện pháp cải tạo sv, h/tg theo đúng quy luật phát triển của chúng.

Giúp ta tránh tư tưởng hoang mang, dao động bi quan trước những bước thụt lùi tạm thời đi xuống của sv, xây dựng niềm tin vào cái mới nhấ định thắng lợi, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ, phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ.

Tránh tư tưởng ảo tưởng (vì sự p/triển của sv rất phức tạp), tránh tư tưởng bi quan chán nản, cái mới hợp quy luật thắng lợi là tất yếu, cái cũ, cái lạc hậu tồn tại chỉ tạm thời nó nhất định sẽ mất đi.

Liên hệ:

Câu 5: Ý nghĩa của cuy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập đối với việc giải quyết xung đột xã hội ?

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập(hay còn gọi là quy luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng.

Việc nhận thức quy luật này thông qua việc nhận thức các phạm trù cơ bản của nó:

Mặt đối lập: được hiểu là là những mặt, những yếu tố, những thuộc tính, những bộ phận có đặc điểm, hoặc có khuynh hướng vận động ngược chiều nhau,

Page 8: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

tồn tại trong cùng một sự vật, tác động qua lại lẫn nhau, tạo nên sự vận động và biến đổi của xã hôi).

Mâu thuẫn biện chứng: Chính những mặt đối lập, nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, tạo nên mâu thuẫn biện chứng. Hai mặt đối lập có khuynh hướng bãi trừ, phủ định lẫn nhau, nhưng cần có nhau, điều đó tạo nên mâu thuẫn.

Sự thống nhất của các mặt đối lập và sự đấu tranh giữa chúng:

Các mặt đối lập tuy có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau nhưng lại nương tựa vào nhau, bổ sung cho nhau, làm tiền đề tồn tại của nhau. Đó chính là sự thống nhất của các mặt đối lập. Sự thống nhất này còn được hiểu theo nghĩa thứ hai: đó là sự đồng nhất để phù hợp, tác động ngang nhau, chuyển hóa lẫn nhau).

Các mặt đối lập này lại có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, luôn bài trừ phủ định lẫn nhau, cho nên thường xuyên “đấu tranh” với nhau. Như vậy, thống nhất là tương đối, đấu tranh là tuyệt đối.

Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.

Về phân loại mẫu thuẫn:

Do các sự vật hiện tượng tồn tại đa dạng, phong phú và nhiều vẻ nên có nhiều loại mâu thuẫn tồn tại (bên trong, bên ngoài, chủ yếu, thứ yếu, cơ bản, không có bản, đối kháng – không đối kháng).

Mâu thuẫn đối kháng: là mâu thuẫn giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội (lợi ích đối lập nhau, không thể điều hòa được).

Mâu thuẫn là mối quan hệ của 2 mặt đối lập, trong mối quan hệ đó, một mặt 2 mặt đối lập thống nhất với nhau (nương tựa, tạo tiền đề cho nhau tồn tại, xâm nhập chuyển hoá lẫn nhau), mặt khác chúng đấu tranh với nhau (bài trừ, phủ định lẫn nhau). Đây là nguyên nhân, nguồn gốc và động lực của sự vận động và phát triển.

Mâu thuẫn xã hội là mâu thuẫn giữa các tập đoàn, cộng đồng người có lợi ích đối lập nhau

Mâu thuẫn xã hội biện chứng khách quan thúc đẩy xã hội phát triển;

Mâu thuẫn xã hội do sai lầm chủ quan kìm hãm sự phát triển của xã hội.

Page 9: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

* Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật mâu thuẫn:

Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn:

Nghiên cứu quy luật mâu thuẫn giúp chúng ta thấy được nguồn gốc “động lực bên trong của sự vận động phát triển”.

Khi phân tích mâu thuẫn: phải xem xét toàn diện các mặt đối lập, theo dõi quá trình phát sinh, phát triển của chúng để có biện pháp giải quyết mâu thuẫn một cách tốt nhất. Mâu thuẫn khác nhau thì biện pháp giải quyết khác nhau.

Mâu thuẫn chỉ được giải quyết bằng con đường đấu tranh, chứ không phải bằng con đường điều hóa mâu thuẫn.

Muâu thuẫn chỉ được giải quyết khi cá điều kiện đã chín muồi (chống tư tưởng chủ quan, nóng vội).

Như vậy, quy luật mâu thuẫn có vị trí hết sức quan trọng trong phép biện chứng duy vật, nó là hạt nhân của phép biện chứng, vì nó chỉ ra nguồn gốc bên trong của mọi sự vận động phát triển.

Để nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó.

Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.

Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Một mặt phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách

Page 10: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.

Ví dụ: + Trong khoa học có tư tưởng KH và phản KH.

+ Trong con người có ưu điểm và nhược điểm

Câu 6: Phủ định biện chứng? Phủ định của phủ định? Ý nghĩa đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, truyền thống và hiện đại ở nước ta?

Việc nhận thức quy luật này thông qua một số khái niệm, các phạm trù cơ bản của nó (các đồng chí phải năm rõ bản chất 3 khái niệm sau để cho ví dụ):

* Phủ định: Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không như vậy sự vật không thể phát triển được. sự thay thế đó được triết học gọi là phủ định.

* Phủ định biện chứng: Phủ định biênh chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới tiến bộ hơn sự vật cũ.

Phủ định biện chứng có 2 đặc trưng cơ bản:

+ Tự phủ định (Tất yếu khách quan): Sự vật hiện tượng luôn chứa đựng mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn đó làm sự vật biến đổi – tự thân phát triển.

+ Tính kế thừa (kế thừa, giữ lại cái tích cực của cái cũ tạo thành tiền đề cho sự ra đời của cái mới).

(Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không phải là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng của cái cũ, chúng không thể từ hư vô. Cái mới ra đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực. Do vậy, thông qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển)

* Quy luật Phủ định của phủ định:

Lưu ý: Phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một nấc thang trong quá trình phát triển.

Page 11: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình. Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó được bổ sung nhiều nhân tố mới. Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định.

Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những lần phủ định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng định bạn đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.

Kết quả của sự phủ định của phủ định là diểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo.

Phủ định biện chứng dẫn tới sự ra đời của cái mới, đến lượt nó cái mới lại bị phủ định. Cứ như vậy, sự vật ở trong quá trình vận động, phát triển không ngừng. Nhưng đến một lúc nào đó sẽ ra đời một sự vật mới mà ở đó có sự lặp lại một số đặc trưng cơ bản của điểm xuất phát nhưng ở một trình độ cao hơn. Đó là quy luật phủ định của phủ định. Phát triển biện chứng là sự thống nhất giữa tiến lên và lặp lại, tạo thành đường xoáy trôn ốc.

* Ý nghĩa :

- Chú ý: ý nghĩa quy luật phủ định của phủ định là phải biết phát hiện cái mới, nhân rộng và phát triển cái mới lên.

+ Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kì một sự vật nào cũng không bao giờ đi theo một đường thẳng, nó gồm có nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sao bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Do đó, chúng ta phải hiểu những đặc điểm đó để có cách tác động phù hợp với yêu cầu phát triển.

+ Theo đó, mọi sự vật luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay thế cái lạc hậu, cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố tích cực của cái cũ. Do đó, trong hoạt động của mình, con người phải biết kế thừa tinh hoa của cái cũ, tránh thái độ phủ định sạch trơn.

Page 12: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

+ Trong giới tự nhiên cái mới phát triển một cách tự phát, còn trong xã hội cái mới ra đời gắn liền với hoạt động có ý thức của con người. Chính vì thế trong hoạt động của chính mình con người phải biết phát hiện cái mới và ủng hộ nó.

Ví dụ tham khảo:

Con gà (1)---> quả trứng (1) ---> con gà (2) -----> quả trứng(2)quả trứng (1) phủ định con gà (1)Con gà (2) phủ định quả trứng (1)-----> con gà (2) là phủ định của phủ định với con gà (1).Ví dụ đơn giản nhì: Hạt thóc (1)-----> Cây lúa (1) ---------> hạt thóc (2) ----> cây lúa (2).bạn phân tích dễ dàng nhé.Nên nhớ con gà (2), quả trứng (2) hay hạt thóc ở lần xuất hiện sau không giống với lần 1. Mọi vật đều phát triển đi lên từ thấp đến cao do vậy con gà (2) hay hạt thóc (2) xuất hiện ở hình thái cao hơn hoàn thiện hơn.

- Vận dụng với quá trình đổi mới ở nước ta: Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo đường thẳng mà diễn ra quanh co, phức tạp trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Vì vậy, quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của nhà nước tạo tiền đề phủ định nền kinh tế tập trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.

Câu 7. Bản chất, biểu hiện, nguyên nhân, phương hướng khắc phục bệnh kinh nghiệm ở nước ta? Liên hệ bản thân?

Về bản chất:

Sử dụng kinh nghiệm là tốt nhưng tuyệt đối hóa kinh nghiệm là không tốt.

Là tư tưởng và hoạt động tuyệt đối hóa kinh nghiệm cá biệt, cá thể, biến chúng thành những kinh nghiệm phổ biến, hạ thấp, coi thường lý luận thực tiễn.

Biểu hiện:

Biểu hiện của căn bệnh này là coi thường lý luận, coi thường học tập lý luận, coi kinh nghiệm là yếu tố duy nhất quyết định thành công.

Page 13: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

Những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm:

- Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt tối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận.- Kinh nghiệm là rất quý, góp phần thành công trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định và là cơ sở để khái quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm một nơi, một lúc nào đó, xem thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm và sẽ thất bại trong thực tiễn khi điều kiện, hoàn cảnh thay đổi. Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm là do yếu kém về lý luận, cụ thể:

+ nguyên nhân chủ quan: dễ thỏa mãn với vốn kinh nghiệm bản thân, ngại học lý luận, không chịu nâng cao trình độ lý luận, coi thường khoa học kỹ thuật, coi thường giới trí thức, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ.+ nguyên nhân khách quan: sự tồn tại phổ biến nền sản xuất nhỏ, trình độ dân trí thấp, khoa học – kỹ thuật chưa phát triển, nho giáo phong kiến còn ảnh hưởng nặng nề.

Phương hướng khắc phục:

Thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khắc phục ảnh hưởng sản xuất nhỏ.

Khắc phục tư tưởng gia trưởng (coi thường trí thức).

Quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, phải hiểu mối quan hệ giữa lý luận luận và thực tiễn.

Bám sát thực tiễn, lý luận phải gắn liền với thực tiễn, thường xuyên kiểm tra trong thực tiễn và không ngừng phát triển cùng thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn.

Câu 8. Bệnh giáo điều - bản chất, biểu hiện, nguyên nhân, phương hướng khắc phục? Liên hệ bản thân?

Về bản chất:

- Là tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa lý luận, coi thường thực tiễn, hoặc là áp dụng các lý luận và kinh nghiệm nhưng không tính tới điều kiện lịch sử cụ thể.

- Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể, áp dụng kinh nghiệm một cách rập khuôn, máy móc.

Biểu hiện:

Page 14: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

- Tuyệt đối hóa lý luận (không hiểu bản chất vấn đề).

- Giáo điều không kinh nghiệm (vận dụng kinh nghiệm của người khác, ngành khác vào công việc của mình mà không dựa vào điều kiện lịch sử).

- Biểu hiện của bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ theo kiểu “tầm chương trích cú”; hiểu lý luận một cách phiến diện, hời hợt, biến lý luận thành tín điều và áp dụng lý luận một cách máy móc; vận dụng sai lý luận vào thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý luận.

- Nguyên nhân của bệnh giáo điều là do yếu kém về lý luận, cụ thể:+ Hiểu lý luận bằng kinh nghiệm, hiểu lý luận một cách đơn giản, phiến diện, cắt xén, sơ lược…

+ Xuyên tạc, bóp méo lý luận…

Nguyên nhân:

- Ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.

- Ảnh hưởng của tư tưởng tiểu tư sản (bệnh hình thức, bệnh thành tích).

Phương hướng khắc phục:

- Hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì kinh tế thị trường luôn vận động và biến đổi, đòi hỏi mọi thành phần, mọi chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo, phải thường xuyên bám sát thị trường để ứng phó cho phù hợp

- Khắc phục tư tưởng tiểu tư sản, bệnh hình thức thành tích.

- Quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, phải hiểu mối quan hệ giữa lý luận luận và thực tiễn.

- Bám sát thực tiễn, lý luận phải gắn liền với thực tiễn, thường xuyên kiểm tra trong thực tiễn và không ngừng phát triển cùng thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn;

- Phải coi trọng lý luận và công tác lý luận; nâng cao dân trí, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học – công nghệ…;

- Tăng cường tổng kết thực tiễn (tổng kết thực tiễn phải gắn với thực tế khách quan, tổng kết phải khái quát lý luận cao và phải có mục đích đúng đắn.

Page 15: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

Câu 9. Sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên? ý nghĩ đối với việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN lên CNXH.

- Con người muốn sống trước hết phải ăn, ở, mặc, rồi mới nói đến làm chính trị, khoa học. Muốn có cái để ăn, ở mặc thì phải nói đến SX vật chất. Từ quan niệm đó Mâc đã khẳng định rằng SXVC là cơ sở của sự tồn tại và phát triển XH, lịch sử PT của XH loài người là lịch sử phát triển của SXVC-sự biến đổi và tiến bộ không ngừng của các LLSX và theo đó là sự thay thế lẫn nhau của QHSX.

- Sự PT của XH - sự thay thế nhau của các hinh thái KT-XH tuân theo những quy luật khách quan vốn có của nó, Động lực PT của XH nằm trong lòng XH, đó là sự vận động của các mâu thuẫn XH mà trước hết là mẫu thuẫn giữa các LLSX và QHSX, mâu thuẫn giưũa CSHT và KTTT...

Tóm lại: Nếu đem quy các QHXH vào QHSX rồi quy QHSX vào trình độ PT của LLSX chúng ta sẽ thấy được trình độ lịch sử tự nhiên của sự PT các hình thái KT-XH.

Ý nghĩa của việc bỏ qua GĐ PT TBCN lên CNXH

Trong quá trình quá độ lên CNXH chúng ta cần phải biết tiếp thu và vận dụng sáng tạo tư tưởng của các nhà kinh điển MÁC-Lenin, nhất là tư tưởng của Lê nin về những khâu trung gian, những bước quá độ tất yếu để đưa một xã hội tiểu nông, lạc hậu lên CNXH; lại vừa biết tổng kết lịch sử của đất nước và của thế giới với những biến đổi to lớn của nó. Điều quan trọng là quá trình đi lên CNXH, chúng ta cần phải tuân thủ nghiêm ngặt những yêu cầu khách quan của sự phát triển, tuân theo những qui luật khách quan của sự phát triển từ xã hội nông nghiệp lạc hậu lên CNXH. Tuyệt đối không có những hành động chủ quan, duy ý chí, trái với qui luật khách quan. Phải hiểu rằng quá độ gián tiếp lên CNXH , bỏ qua chế độ TBCN là con đường phù hợp với điều kiện đất nước và thời đại ngày nay.

Câu 10. Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất (QHSX) phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX) làm rõ cơ sở triết học của đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN ở nước ta?

Trả lời:

Hình thái kinh tế xã hội dùng để chỉ xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của LLSX và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên quan hệ sản xuất đó.

Page 16: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

Phương thức sản xuất là biểu thị cách thức, phương thức mà con người thực hiện tiến hành trong quá trình sản xuất ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Bao gồm hai mặt quan hệ mật thiết với nhau là LLSX và QHSX.

- Lực lượng sản xuất: là biểu thị mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong hoạt động sản xuất, là phương thức kết hợp giữa con người với tư liệu sản xuất và kinh nghiệm lao động của họ. Cấu trúc gồm: con người và tư liệu lao động (công cụ lao động và đối tượng lao động).

- Quan hệ sản xuất: Là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất. Cấu trúc: Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; Quan hệ tổ chức quản lý (quá trình sản xuất), Quan hệ phân phối sản phẩm.

Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX

- LLSX suy cho cùng quyết định QHSX, thể hiện: LLSX thay đổi thì sớm muộn QHSX cũng thay đổi theo; Tư liệu sản xuất thế nào thì quy định quan hệ sở hữu như thế.Tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động quy định cách thức tổ chức quản lý sản xuất.

- QHSX có tính độc lập tương đối và tác động trở lại LLSX (tồn tại độc lập nhưng không tách rời): thể hiện mục đích xã hội của sản xuất; Quy định quy mô, tốc độ, hiệu quả, nhịp điệu, khuynh hướng của LLSX; Nếu phân phối hợp lý sẽ kích thích sự hăng say làm việc, cải tiến công cụ lao động, sáng chế phát minh làm công cụ lao động phát triển, LLSX phát triển.

Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX:

LLSX và QHSX tác động qua lại theo yêu cầu của sản xuất vật chất, tạo nên sự phù hợp biện chứng giữa QHSX với LLSX. Các yếu tố cấu thành QHSX tạo điều kiện thuận lợi, đầy đủ, tối ưu cho LLSX phát triển. Đến một giai đoạn nào đó LLSX chuyển sang một trình độ mới cao hơn, khi đó tình trạng phù hợp sẽ bị phá vỡ, mâu thuẫn ngày càng trở nên gay gắt, yêu cầu của sự phát triển xóa bỏ QHSX cũ lỗi thời, thay bằng một QHSX mới phù hợp. Từ đó mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.

- Sự không phù hợp thể hiện:QHSX lạc hậu, không đồng bộ so với sự phát triển của LLSX.

Sự vận dụng quy luật này ở nước ta:

* Thực trạng trình độ LLSX của nước ta hiện nay:

- Nhìn chung là thấp nhưng đa dạng, không đồng đều, thể hiện:

Page 17: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

+ Công cụ lao động thủ công bên cạnh đó ta đã có cơ khí hóa, tự động hóa đan xen nhau trong các nhà máy sản xuất.

+ Kỹ năng, trình độ phân công, ứng dụng khoa học công nghệ ở các cơ sở sản xuất khác nhau cũng khác nhau.

+ Trình độ khoa học kỹ thuật ở nước ta nhìn chung là thấp nhưng cũng đa dạng.

- Từ đó dẫn đến trong QHSX cũng phải đa dạng, thể hiện:

+ Kinh tế phải nhiều thành phần

+ Đa dạng trong các hình thức sở hữu, trong tổ chức quản lý, trong phân phối sản phẩm.

* Phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay:

- Phải phát triển khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ, cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối tượng lao động, phát triển nguồn lực đặc biệt là nguồn lực chất lượng cao, thông qua thực hiện CNH – HĐH, trấn hưng nền giáo dục nước nhà.

- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước.

- Mở rộng quan hệ quốc tế.

* Muốn xây dựng QHSX phù hợp:

- Phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN cần :

+ Giữ vững định hướng XHCN nền kinh tế thị trường.

+ Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp.

+ Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và có các loại thị trường.

+ Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.

Câu 11. Từ mối quan hệ biến chứng giữa KT và CT làm sáng tỏ vấn đề phát huy dân chủ chính trị ở nước ta hiện nay.

- Kinh tế: là toàn bộ những mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi sản phẩm (như: quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý, quan hệ trong phân phối sản phẩm). Nói đến kinh tế là nói

Page 18: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

đến toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi, làm cơ sở cho một chế độ kinh tế xã hội nhất định.

- Chính trị: là mối quan hệ giữa các giai cấp, tập đoàn người trong việc phân chia quyền lực chính trị, nhằm nâng cao ảnh hưởng, vị thế của giai cấp đó.

- Cơ sở hạ tầng là một kết cấu kinh tế, là kết cấu tổng hợp của tất cả các QHSX (được quy định bởi một QHSX đặc trưng), từ đó hình thành nên một KTTT (gồm các thiết chế về Nhà nước, đảng phái, Chính trị - xã hội, tôn giáo…). Nói cách khác Kinh tế là nhân tố, nền tảng quyết định nội dung của KTTT (trong đó có các thiết chế mang yếu tố chính trị như: Nhà nước, tư tưởng, đảng phái…).

Như vậy, mối quan hệ giữa CSHT và KTTT về bản chất là mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.

Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị:

- Kinh tế quyết định chính trị, chính trị là sự phản ánh, là sự biểu hiệu tập trung của kinh tế:

+ Xét một kết cấu kinh tế - xã hội gồm: một kiểu QHSX đặc trưng phù hợp với trình độ nhất định của LLSX với một KTTT tương ứng được xây dựng trên QHSX đó. Như vậy, QHSX quyết định việc hình thành một KTTT tương ứng với nó, hay CSHT quyết định KTTT (kinh tế quyết định chính trị).

+ Xét đến cùng, kinh tế là nhân tố quyết định toàn bộ lịch sử chính trị.

+ Coi chính trị là sự phản ánh, là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, vì kinh tế là gốc của chính trị, bởi xét đến cùng, kinh tế là cái quyết định. Việc tăng quy mô và trình độ phát triển kinh tế ở một góc độ nào đó còn là động lực, là mục tiêu của chính trị phát triển, là thước đo sự phù hợp của chính trị đối với kinh tế.

+ Sự hình thành, tồn tại và phát triển của chính trị, các hình thức hoạt động của chính trị như là kết quả tất yếu của sự vận động của kinh tế.

+ Kinh tế thay đổi kéo theo sự thay đổi về chính trị. Lực lượng nào, giai cấp nào nắm về kinh tế thì lực lượng đó, giai cấp đó nắm quyền lực chính trị.

- KTTT hình thành trên CSHT nhưng nó cũng tác động trở lại CSHT, bảo vệ cho sự tồn tại của CSHT của nó. Tức là bảo vệ kết cấu về mặt kinh tế (củng cố kinh tế). Vai trò của chính trị và sự cần thiết ưu tiên chính trị đối với kinh tế, thể hiện:

+ Thông qua tổ chức, chức năng và những năng lực vật chất và tinh thần của chính trị nói chung, đặc biệt của nhà nước nói riêng, cũng có thể nhận thức

Page 19: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

vượt trước so với kinh tế, có thể tiên đoán được tương lai vận động của đời sống kinh tế.

+ Chính trị có thể tạo ra những nhân tố, những hình thức, điều kiện (như: chiến lược phát triển kinh tế, môi trường pháp lý, cơ sở hạ tầng, vấn đề phát triển văn hóa…) tác động vào kinh tế, định hướng phát triển kinh tế theo những mục tiêu nhất định của chính trị.

+ Trong giai đoạn lịch sử đặc biệt, như giai đoạn chiến tranh và cách mạng, những giai đoạn mà vấn đề giành chính quyền trở thành vấn đề cơ bản, hàng đầu, thì phát triển kinh tế chỉ là nhân tố phục vụ cho các mục tiêu chính trị. Tuy nhiên, trong những giai đoạn đó thì chính trị cũng chỉ là phương tiện để đi đến mục tiêu kinh tế.

Ý nghĩa của nó trong đổi mới kinh tế và chính trị ở nước ta hiện nay?

- Kinh tế phát triển là cơ sở đảm bảo vững chắc cho ổn định chính trị XH, ngược lại sự ổn định chính trị XH là tiền đề, điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế.

Xuất phát từ tư duy và nhận thức đổi mới, Đảng ta từng bước vận dụng đúng đắn và giải quyết sáng tạo quan hệ giữa kinh tế và chính trị, nhờ đó sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

- Thực chất của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là việc xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa với xây dựng, hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ Xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Qua đó, đảm bảo mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, phát huy khối đại đoàn kết dân tộc cũng như hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.

- Trong mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cần phát huy hơn nữa sức mạnh của dân tộc, của thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đổi mới chú trọng việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Câu 12. Từ quan điểm triết học Mac-Lenin về quan điểm giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại phân tích mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng GPDT trong tư tưởng HCM.

Page 20: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

- Giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về địa vị trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định, cơ bản nhất là khác nhau (giữa các tập đoàn) về sở hữu tư liệu sản xuất; do sự khác nhau đó, tập đoàn người này có thể chiếm hữu kết quả lao động của tập đoàn người khác.

- Dân tộc: là cộng đồng xã hội, tộc người ổn định bền vững, cộng đồng về ngôn ngữ, lãnh thổ, kinh tế, cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách…

Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc

- Giai cấp chi phối dân tộc, và vấn đề dân tộc bao giờ cũng được chỉ đạo bởi một quan điểm giai cấp nhất định (giai cấp thống trị). Đó là chi phối sắc thái, tâm lý, xu hướng phát triển dân tộc… bản chất xã hội của dân tộc được quy định bởi phương thức sản xuất thống trị trong dân tộc, bởi quan hệ giai cấp do phương thức sản xuất ấy sinh ra, do đó giai cấp thống trị đại biểu cho dân tộc.

+ Áp bức giai cấp là cơ sở, nguyên nhân của áp bức dân tộc. làm cho áp bức giai cấp ở dân tộc đi áp bức trầm trọng thêm. Đấu tranh giai cấp đẩy mạnh đấu tranh dân tộc và ngược lại, đấu tranh dân tộc có tác động tích cực đến đấu tranh giai cấp.

+ Nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc.

- Vai trò của dân tộc đối với giai cấp: Đặc điểm của dân tộc ảnh hưởng đến đặc điểm giai cấp; Trình độ phát triển dân tộc là cơ sở phát triển giai cấp; Dân tộc là cơ sở của giai cấp, nuôi dưỡng đấu tranh giai cấp, tạo cơ sở sức mạnh giai cấp.

Trong tình hình nước ta trong những năm vừa qua và hiện nay:

- Trong nước: Trình độ LLSX thấp kém, đời sống khó khăn, tình hình phức tạp về dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền đan xen,…

- Quốc tế: khủng hoảng CNXH, quan hệ giữa các nước mang màu sắc kinh tế thực dụng; Quan hệ giai cấp, dân tộc hiện nay chịu ảnh hưởng của toàn cầu hoá: về tích cực, tạo điều kiện, động lực thúc đẩy phát triển, xác lập củng cố và nâng cao vị thế trên trường quốc tế; Về tiêu cực, làm giảm vai trò dân tộc, suy giảm biên giới chủ quyền quốc gia về kinh tế, đề cao dân chủ nhân quyền hơn chủ quyền quốc gia dân tộc. Mặt khác cũng tạo điều kiện cho phong trào dân tộc, công nhân và CNXH mở rộng.

Do đó đòi hỏi phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và có chính sách mềm dẻo để kết hợp sức mạnh dân tộc, đại đoàn kết toàn dân. Đảng ta đã đề ra phong trào chống diễn biến hoà bình, thực chất là chống

Page 21: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và các thế lực thù địch với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ đó xác định đối tượng chuyên chính trong đấu tranh giai cấp là mọi lực lượng, xu hướng, cá nhân, giai cấp, … chống lại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thống nhất liên minh công nông trí thức; quan hệ giai cấp trong dân tộc là quan hệ trong nội bộ nhân dân, có đấu tranh, có đoàn kết, đấu tranh để đoàn kết thực hiện đại đoàn kết vì mục tiêu chung của dân tộc là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Bên cạnh đó giải quyết mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc với tranh thủ sức mạnh của thời đại mới.

Câu 13: Từ quan điểm triết học Mác- Lênin về bản chất Nhà nước, Phân tích làm rõ vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Nguồn gốc

+ Lịch sử xã hội loài người đã có thời kỳ chưa có nhà nước. Đó là thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ. Nhà nước ra đời khi xã hội đã phân chia g/c.

+ Nguồn gốc sâu xa của nhà nước chính là do sự phát triển của llsx, trước hết là công cụ lao động. LLSX phát triển đã làm cho chế độ sở hữu tư nhân ra đời, các g/c bóc lột và bị bóc lột xuất hiện. Cuộc đấu tranh giữa chủ nô và nô lệ-hai g/c đối kháng đầu tiên trong lịch sử-dẫn đến nguy cơ huỷ diệt luôn cả xã hội. Để điều này không xảy ra, một cơquan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước.

+ Nguồn gốc trực tiếp xuất hiện nhà nước chính là mâu thuẫn g/c gay gắt không điều hoà được.

Như vậy, sự ra đời của nhà nước là một yếu tố khách quan để làm cho mâu thuẫn g/c diễn ra trong vòng "trật tự" có thể duy trì chế độ kinh tế -xã hội và g/c thống trị mới.

Bản chất

+ Là nền chuyên chế của g/c này đối với g/c khác và đối với toàn xã hội. Nói khác đi, nhà nước là tổ chức trính trị của g/c thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành phù hợp với lợ ích của mình và đàn áp sự phản kháng của các g/c khác.+ Trong xã hội có g/c đối kháng, g/c nào thống trị về kinh tế sẽ nắm chính quyền nhà nước trong tay vì chỉ có g/c ấy mới có khả năng vật chất, để tổ chức, duy trì bộ máy nhà nước. G/c bị trị xét về bản chất không có nhà nước.

Page 22: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

+ Xét về bản chất, nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một g/c, không có nhà nước đứng trên g/c, đứng ngoài g/c, là công cụ bảo vệ lợi ích của g/c thống trị về kinh tế nhằm trấn áp các g/c khác và toàn xã hội.

Nhà nước pháp quyền:

a/ Nhà nước pháp quyền: "Nhà nước pháp quyền là một hình thức tỏ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật với nội dung thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân.

b/ Những đặc điểm tiêu biểu:- Ngự trị cao nhất của pháp luật, ko ai được đứng trên luật pháp.

- Quyền lực nhà nước thể hiện lợi ích và ý chí đại đa số nhân dân- Bảo đảm thực tế quan hệ hữu cơ về quyền và trách nhiệm giữa nhà nước và công dân .

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam:

a/ Bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam:

Là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của một đảng, đó là Đảng cộng sản VN; trên cơ sở liên minh vững chắc giữa g/c cn với g/c ndân và đội ngũ trí thức; là công cụ quyền lực chủ yếu để nhân dân xây dựng một quốc gia dân tộc độc lập XHCN theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.

b/ Xây dựng hoàn thiện nhà nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường... Tính chất xã hội dân sự yêu cầu tự do và sáng tạo của từng cá nhân, là cạnh tranh thực hiện lợi ích kinh tế nên các khế ước các hợp đồng phải được tôn trọng.. Tuy nhiên, sự phân hoá giai cấp giầu nghèo ko thể tránh vì vậy phải có sự giải quyết thích hợp.

Những đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam

Dựa trên tư tưởng của các nhà lý luận trên thế giới về nhà nước pháp quyền nói chung; quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng về nhà nuớc pháp quyền, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có 5 đặc trưng chủ yếu sau:

Một, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.

- Hai, trong Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nuớc là thống nhất, nhưng có sự phân công rành mạnh, phối hợp chặt chẽ giữa

Page 23: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

các cơquan nhà nuớc là trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.- Ba, Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đuợc tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp, pháp luật. Ở đó hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thợng trong việc điều chỉnh cácquan hệ trên tất cả mọi lĩnh vực đời sống xã hội.- Bốn , Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà nuớc và công dân, thực hành dân chủ đồng thời tăng cường kỷ luật, kỷ cương.- Năm , Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Chính quyền nhà nước chịu sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thuộc Mặt trận.

5 đặc trưng trên là kết luận đã được rút ra từ việc thực hiện Chuơng trình "Tổng kết 20 năm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

Câu 14: Từ quan điểm triết học Mác- Lênin về bản chất con người, Phân tích làm sáng tỏ chiến lược phát triển con người ở Việt Nam hiện nay:

Nguồn gốc và bản chất của con người theo quan niệm của của triết học Mac-Lênin.

Triết học Mác-Lênin xem xét con người một cách toàn diện trong tính hiện thực va trong sự phát triển thống nhất của mặt sinh học và xã hội. Trong đó mặt xã hội quy định bản chất của con người.

Khái niệm con người.

Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.

Bản chất con người theo quan niệm của chủ nghĩa Mac-Lênin:

Con người là một thực thể sinh học xã hội:

- Mặt sinh học của con người thể hiện ở chỗ : Con người tồn tại được trước tiên phải có cơ thể sống. Cơ thể sống là một bộ phận của tự nhiên, là sản phẩm của sự tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. Con người phải đấu tranh để tồn tại, để sống và chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên, các quy luật sinh học (quy luật sinh tử, quy luật về quan hệ giữa cơ thể và môi trường, quy luật dinh dưỡng .v.v..) quy luật di truyền và biến dị, quy luật đồng hóa, dị hóa. Con người

Page 24: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

có quan hệ với tự nhiên. Con người không chỉ sống dựa vào tư nhiên mà còn cải biến tự nhiên.

Ví dụ: con người muốn tồn tại và phát triển thì cần phải có nhu cầu sinh hoạt hằng ngày như: ăn uống, mặc ở và duy trì nòi giống. Tuy nhiên triết học Mác-Lênin không thừa nhận quan niệm cho rằng cái duy nhất tạo nên con người là đặc tính sinh học.

- Mặt xã hội của con người thể hiện con người là sản phẩm của xã hội đồng thời là chủ thể của lịch sử.

+ Con người là sản phẩm của các quan hệ xã hội thể hiện ở chỗ con người là con người của lịch sử, con người của giai cấp trong xã hội có giai cấp, con người của dân tộc nhất định. Hoàn cảnh xã hội tạo ra con người. Con người chịu sự chi phối của các quy luật xã hội.

+ Tuy nhiên, con người không chỉ phụ thuộc một cách giản đơn vào hoàn cảnh sống mà trong chừng mức nhất định con người có thể tác động trở lại hoàn cảnh để cải biến hoàn cảnh sống làm cho hoàn cảnh sống ngày càng thuận lợi hơn, làm cho xã hội ngày càng phát triển. Bởi vì con người có lao động, có ý thức, có văn hóa.

Mac viết:  "Hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mức con người cải tạo hoàn cảnh"

-         Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội. Hai mặt này vừa đối lập nhau, vừa quy định ràng buộc nhau, chúng quy định và làm tiền đề cho nhau , trong đó mặt tự nhiên  quyết định sự tồn tại của con người, còn mặt xã hội quyết định bản chất con người.

Ví dụ: trước kia công cụ lao động của con người chỉ là những phương tiện lao động thô sơ, ngày nay con người đã biết tạo ra những công cụ lao động hiện đại.

Bản chất xã hội của con người

Con người có bản tính xã hội vì con  người khác về chất với động vật ở nhiều điểm, trong đó sự khác nhau cơ bản nhất là con người có lao động sản xuất, con người có hoạt động thực tiễn còn con vật thì không. Bản thân hoạt động sản xuất của con người là hoạt động mang tính xã hội. Hoạt động của con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho xã hội. Tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm con người khác con vật.  Con người có lao động và giao tiếp xã hội. Từ đó con người có ngôn ngữ, có  ý thức và sáng tạo ra văn hóa. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm cho bản chất đời sống mang tính xã hội đồng thời làm

Page 25: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

nên lịch sử của  bản thân mình. Trong thực tiễn, con người tiếp nhận các quan hệ xã hội và từng bước chuyển hóa thành bản chất xã hội của mình.

- Ở con người bản năng sinh vật được thu hút và hòa nhập với tiến bộ xã hội làm cho tính sinh vật trở nên tính người, không đơn thuần là bản năng sinh vật nữa. Bằng lao động sáng tạo, con người vượt lên trên khỏi loài động vật cả về quan hệ xã hội và quan hệ sinh học. Văn hóa làm cho con người khác về chất với con vật.

- Bản chất xã hội của con người không phải được hình thành một lần là xong mà nó cũng biến đổi và không ngừng được hoàn thiện trong quá trình con người lao động cải biến tự nhiên và xã hội. Qua đó, con người cũng cải tạo bản thân mình.

Do vậy bản chất con người là bản chất xã hội trên nền tảng sinh học. Mac viết : "Trong tính hiện thực của nó, con người là tổng hòa các quan hệ xã hội".

Ví dụ: Để trở thành một con người trưởng thành như hiện nay, thì từ lúc sinh ra  phải trải qua các giai đoạn: trườn, bò, tập đi, chạy, nhảy. Và phải qua quá trình học tập lâu dài, học nói, đến trường.

Quan niệm đúng đắn của triết học Mác-Lênin về bản chất con người đã chống lại quan niệm thần thánh hóa con người của chủ nghĩa duy tâm, khắc phục quan niệm siêu hình coi con người chỉ thấy mặt tự nhiên mà không thấy mặt xã hội. Nhưng phải thấy rằng bản chất xã hội là cái chung nhất, sâu sắc nhất quyết định sự vận động và phát triển của con người, chứ không phải là cái duy nhất. Nếu tuyệt đối hóa mặt xã hội mà xem nhẹ mặt sinh học của con người cũng là sai lầm.

* Ý nghĩa phương pháp luân:

- Phương pháp nghiên cứu con người: Quan niệm đúng đắn của triết học Mác về bản chất con người đã chống lại quan niệm thần thánh hóa con người của chủ nghĩa duy tâm, khắc phục quan niệm siêu hình coi con người chỉ thấy mặt tự nhiên mà không thấy mặt xã hội. Nhưng phải thấy rằng  bản chất xã hội là cái chung nhất, sâu sắc nhất quyết định sự vận động và phát triển của con người, chứ không phải là cái duy nhất.  Nếu tuyệt đối hoá mặt xã hội mà xem nhẹ mặt sinh học của con người cũng là sai lầm.

-  Về con đường giải phóng con người: phải tạo ra các quan hệ xã hội tiến bộ.

- Về phát triển con người tạo động lực phát triển xã hội; liên hệ thực tiễn chiến lược phát triển con người ở Việt Nam hiện nay.            

Page 26: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

(Chú trọng phát triển con người toàn diện cả về thể chất, trí tuệ và nhân cách. Đảng ta chủ trương muốn giải phóng con người và phát triển con người toàn diện phải xây dựng xã hội ở đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của mọi người. Đó là xã hội không có bóc lột, không có áp bức giai cấp: xã hội công bằng, dân chủ, văn minh).

 NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM:

Phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể, mỹ.

Phát triển con người toàn diện ở Việt Nam là con người biết làm chủ tập thể, lao động,yêu nước, yêu CNXH và tinh thần quốc tế vô sản.

Để đào tạo con người Việt Nam trở thành con người phát triển toàn diện tức là xây  dựng con người mới CNXH phát triển toàn diện về mọi mặt là thể, trí ,đức, mỹ.

Về trí tuệ đó là những người có khả năng nắm được các quy luật khách quan của lịch sử, xem xét và giải quyết đúng đắn vấn đề hiện thực,biết xác định lí tưởng cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh của tạo tư và xã hội.

 Là con người có một kiến thức sâu rộng có năng lực làm chủ các lĩnh vực hoạt động xã hội có sự phát triển cân đối giữa thể chất và tinh thần, giữa phẩm chất và năng lực. Từ đó con người làm chủ tự nhiên, làm chủ chính mình trở thành con người tự do.

Bồi dưỡng thanh niên có lý tưởng cao đẹp, có khí phách anh hùng, sống chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại.

Tăng gấp đôi GDP, xóa đói giảm nghèo, tăng tuổi thọ, phổ cập trung học cơ sở là những mục tiêu chính trong chiến lược phát triển kinh tế 10 năm từ (2001-2010). Nhấn mạnh việc xây dựng và nâng cao năng lực cho người dân cũng như tạo điều kiện cho người dân sử dụng năng lực của mình. Bên cạnh đó những chiến lược phát triển như y tế, dinh dưỡng, khoa học công nghệ, chăm sóc sức khỏe,… Cũng được vạch ra nhằm phục vụ nhân dân và phát triển con người.

Muốn giải phóng con người và phát triển con người, phải xây dựng xã hội không có bốc lột, công bằng, dân chủ, văn minh.

- Xã hội mà Đảng và nhà nước ta đang xây dựng là một xã hội hướng đến mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Quan điểm phát triển con người toàn diện thể hiện ở những đặc trưng sau:

Page 27: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

- Con người được coi là trung tâm của sự phát triển, những vấn đề cần được nhận thức trên cơ sở lợi ích và sự tham gia đóng góp của người dân.

- Người dân không chỉ là phương tiện mà con là mục tiêu của phát triển. Ví vậy phát triển con người gắn với nguồn vốn con người hay nguồn nhân lực.

- Nâng cao vị thế của người dân. Người dân không chỉ đơn thuần hưởng thụ một cách thụ động thành quả của sự phát triển, mà còn là những thành viên tham gia tích cực, chủ động váo các hoạt động và quá trình phát triển có ý nghĩa quyết định tới cuộc sống của họ.

- Phát triển con người hướng đến tạo lập sự bình đẳng về cơ hội cho mọi người dân, không phân biệt chủng tộc, tầng lớp, tôn giáo, giới tính, quốc tịch. Đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của sự công bằng giữa các thế hệ và tính bền vững về môi trường.

- Phát triển con người mang tính toàn diện vì đó là quá trình rộng mở cơ hội lựa chọn cho người dân về tất cả các mặt của cuộc sống như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường.

- Sự giải phóng con người nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó là phải hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế-xã hội.

- Để giải phóng con người và phát triển con người một cách toàn diện, điều căn bản nhất của cuộc cách mạng XHCN chính là mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế -xã hội áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội tự do công bằng, dân chủ,văn minh.

- Tư tưởng của Mác làm nổi bậc mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, những người lao động làm chủ tập thể những con người phát triển toàn diện sống ấm no hạnh phúc, bình đẳng tự do, những người vừa sáng tạo ra xã hội mới là sản phẩm của xã hội.

- Để phát triển con người toàn diện, công bằng, dan 6 chủ, văn minh, thì mỗi người lao động phải vì lợi ích chung của xã hội “mọi người vì mỗi người, mỗi người vì mọi người”.

 NHỮNG CHỦ TRƯƠNG LỚN CỦA ĐẠI HỘI X VỀ THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN:

Đại hội X Đảng ta chủ trương về thực hiện chiến lược phát triển con người toàn diện với các mặt cơ bản:

1.      Về mặt xã hội:

Page 28: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

- Có chính sách xóa đối giảm nghèo,thực hiện công bằng xã hội.Nhà nước tập trung đầu tư cho các chương trình mục tiêu quốc gia về đầu tư xã hội,phát huy tiềm năng trí tuệ,nguồn lực trong nhân dân…

- Xây dựng hệ thống an ninh xã hội đa dạng,phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế …tạo cơ hội cho người dân được bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe.

- Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe tầm vóc con người Việt Nam tăng tuổi thọ và cải thiện giống nồi.

2.      Về mặt văn hóa:

- Phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn,tôn tạo các di tích lịch sử và di sản văn hóa.

3.      Về mặt giáo dục và đào tạo

- Là quốc sách hàng đầu, cộng với đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

- Chuyển sang mô hình giáo dục mở-mô hình xã hội học tập, với hệ thống học tập suốt đời.

4.      Về mặt khoa học và công nghệ:

- Phấn đấu đến năm 2010, năng lực khoa học và công nghệ nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng. Phát triển khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ.

- Tiến hành đổi mới cơ chế quản lí khoa học và công nghệ.

LIÊN HỆ BẢN THÂN MỖI NGƯỜI TRONG HỌC TẬP VÀ RÈN LUYỆN NHÂN CÁCH:

- Tích cực tham gia các hoạt động vì sự tiến bộ và phát triển của quê hương đất nước nhân loại.

- Phát huy khả năng sáng tạo lịch sử hướng vào sự giải phóng con người phát triển con người một cách toàn diện nhằm xây dựng một xã hội không bóc lột công bằng, dân chủ, văn minh.

- Phát huy năng lực sáng tạo của mình trong học tập và rèn luyện nhân cách, góp phần thúc đẩy sự tiến bô và phát triển của xã hội.

- Trong học tập và rèn luyện nhân cách bản thân mỗi người cần phải phát triển toàn diện về thể chất nhằm hoàn thiên cơ thể, phát triển thể chất trí

Page 29: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

tuệ nhằm trang bị những tri thức khoa học, rèn luyện kỹ năng kỹ xảo, những tư duy sáng tạo về đạo đức nhằm xây dựng và bồi dưỡng những phẩm chất về đạo đức và thẩm mỹ nhằm phát huy năng lực sáng tạo sống theo quy luật của cái đẹp…

- Trong quá trình học tập cần phải nghiên cứu và nắm vững khối lượng kiến thức, phát huy tinh thần tự học để nâng cao sự hiểu biết của mình đồng thời rèn luyện đạo đức.

- Không nên tuyệt đối hóa vai trò của tự nhiên và xã hội.

- Trong học tập và phát triển nhân cách, để lý giải một cách khoa học những vấn đề không chỉ đơn thuần về phương diện bản tính tự nhiên mà phải dựa vào bản tính xã hội của nó từ những quan hệ kinh tế xã hội của nó.

- Thực hiện triết lý đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản  “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”.

Câu 15. : Từ quan điểm triết học Mác- Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, Phân tích làm sáng tỏ cơ sở triết học của việc xây dựng ý thức mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta:

*Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội:

Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất bao gồm các yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất,điều kiện tự nhiên-hoàn cảnh địa lý,dân số…trong đó phương thức sản xuất là quan trọng nhất.

Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội,bao gồm toàn bộ những quan điểm,tư tưởng cùng những tình cảm ,tâm trạng…của những cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội,trong những giai đoạn xã hội nhât định.

a, Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.

Tồn tại xã hội quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội, tồn tại xã hội có trước, ý thức xã hội có sau. Tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội như thế ấy. C.Mác và Ănghen đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, không thể tìm nguồn gốc của tư tương, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức

Page 30: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

của thời đại ấy. Chẳng hạn, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, mọi người còn làm chung, hưởng chung nên chưa có tư tưởng tư hữu xuất hiện. Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời, xã hội phân chia giàu nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người biến đổi căn bản; nảy sinh và phát triển tư tưởng tư hữu, ăn bám, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng chủ nô ra đời. Khi xã hội chiếm hữu nô lệ suy tàn, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng quan hệ sản xuất phong kiến thì hệ tư tưởng phong kiến chiếm giữ vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội, hệ tư tưởng chủ nô dần dần phá bị xoá bỏ. Khi quan hệ sản xuất phong kiến bị quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thay thế thì vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội của hệ tư tưởng phong kiến bị xoá bỏ, được thay thế bởi hệ tư tưởng tư sản.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản án tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hoá nghệ thuật sớm muộn sẽ biến đổi theo. Cho nên ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.Bởi vậy,khi xã hội phong kiến mất đi thì tư tưởng “vua bảo bề tôi chết bề tôi phải chết”,ý thức phục tùng cũng không còn nữa.

Quan điểm duy vật lịch sử còn chỉ ra rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Nghĩa là không phải bất cứ tư tưởng,quan điểm,lý luận hình thái ý thưc xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời dại,mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.

Như vậy,triết học Mác-Lênin đòi hỏi phải có thái độ biện chứng khi xem xét sự phản ánh tồn tại xã hội của ý thức xã hội.

b,Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định nhưng ý thức xã hội cũng có tính độc lập tương đối thể hiện ở:

Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội:

Page 31: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

Lịch sử cho thấy rằng,nhiều khi xã hội cũ đã mất đi,thậm chí đã mất rất lâu nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng ,đăc biệt trong lĩnh vực tâm lý xã hội(truyền thống,tập quán,thói quen…).Trong xã hội XHCN,nhiều hiện tượng ý thức có nguồn gốc sâu xa trong xã hội cũ vẫn tồn tại như lối sống ăn bám,lười lao động,tệ tham nhũng,v.v..

Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do những nguyên nhân sau:

Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ,thường xuyên và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người,thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu.

Do sức mạnh của thói quen,truyền thống,tập quán cũng như do tính lạc hậu,bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.

Ý thức xã hội luôn gắn với những nhóm,những tập đoàn người,những giai cấp nhất định vì vậy những tư tưởng cũ,lạc hậu thường được các lực lượng phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lưc lượng xã hội tiến bộ.

Vì vậy mà trong sự nghiệp xây dưng xã hội mới chúng ta phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng,đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của các lực lượng thù địch đồng thời ra sưc phat huy những truyền thống tốt đẹp.

Ý thức xã hội có thể vượt trội trước tồn tại xã hội.

Trong những điều kiện nhất định,tư tưởng của con người đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiến bộ có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội,dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức,chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người,hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra.

VD:Ngày nay con người đã có ý thức tìm ra những hành tinh mới có sự sống ngoài Trái đất như Sao hoả.

Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.

Ý thức xã hội mới có tính kế thừa ý thức xã hội cũ sau đó bổ sung hoàn chỉnh cho phù hợp với tồn tại xã hội đang phát triển.Lịch sử phát triển của tư tưởng cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoăc suy tàn của triết học,văn học,nghệ thuật.v.v.. nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh hay suy tàn của kinh tế,bởi vậy mà chúng ta cũng có thể giải thích được một nước tuy có trình độ kinh tế phát triển kém nhưng tư tưởng lại phát triển ở trình

Page 32: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

độ cao.VD:Ở nửa đầu thế kỷ XIX so với nước Pháp thì Đức có trình độ kinh tế lạc hậu hơn nhưng đứng ở trình độ cao về triết học.

Trong xã hội có giai cấp,tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó.Một khi giai cấp nào lên cầm quyền thì xã hội đó chỉ kế thừa những gì phục vụ cho quyền lợi của giai cấp đó và những giai cấp tiên tiến sẽ tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại.VD:Khi tiến lên xã hội chủ nghĩa chúng ta cũng vẫn kế thừa những tư tưởng tốt đẹp của xã hội phong kiến như truyền thống tôn sư trọng đạo,tinh thần yêu nước,những phong tục cưới xin mang đậm bản sắc dân tộc.v.v..nhưng bên cạnh đó thì những tư tưởng lac hậu như “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” hoặc những hủ tục lạc hậu sẽ dần dần bị bài trừ.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.Văn hoá xã hội chủ nghĩa cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hoá nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan mác xít.Bởi vậy,trong công cuộc xây dựng đất nước,Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,luôn luôn tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại,làm giàu thêm cho nền văn hoá Việt Nam nhưng phải trên tinh thần hoà nhập nhưng không hoà tan.

Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.

Ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác nhau, theo nguyên lý mối liên hệ thì giữa các bộ phận không tách rời nhau, mà thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau.Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho ở mỗi hình thái ý thức có những mặt,những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.Các hình thái ý thức xã hội như triết học, đạo đức,tôn giáo,nghệ thuật có tác động qua lại với nhau,trong đó ý thức chính trị có vai trò quan trọng nhất.Thông thường ở mỗi thời đại,tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác.

Chẳng hạn ở thời cổ đại Tây Âu thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt. Thời Trung Cổ ở Tây Âu thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật, pháp quyền...Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội.

Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.

Page 33: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Ph.Ăng ghen viết: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.

Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng và vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng. Chẳng hạn hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội các nước Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản trở thành vũ khí về mặt tư tưởng của giai cấp vô sản đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện qua hai chiều hướng. Nếu ý thức xã hội tiến bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ cản trở sự phát triển của tồn tại xã hội.Ý thức xã hội nếu phản ánh sai tồn tại xã hội thì sẽ kim hãm sự phát triển của tồn tại xã hội thông qua hoạt động của con người,trong đó thực tiễn đóng vai trò quyết định.

Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội, nó bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

*Ý nghĩa phương pháp luận:

Tồn tại tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội.Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ,xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.Cần thấy rằng,thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thưc xã hội;mặt khác cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những bến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.

Page 34: amo.gov.vnamo.gov.vn/content/a114/2011/DECUONG_MON TRIETHOC_FIN… · Web viewSự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy

Trong sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta, một mặt chúng ta phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hoá xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội XHCN trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.