Upload
phuc-minh
View
213
Download
1
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Một bài Pháp ngắn Đức Pháp vương Sakya Trizin Thứ Hai, ngày 24/9/1984, tại Bristol, Anh Bởi vậy mọi người cần phải thực hành. Tôi mong rằng mọi người đều có một con đường tâm linh thành công. Nguyện cầu chư Phật cùng chư Đạo sư gia hộ cho các bạn. Xin chân thành cảm ơn. Nguồn: http://www.szakja.hu/english/teachings/HH_SortDharmateaching.html
Citation preview
Một bài Pháp ngắn
Đức Pháp vương Sakya Trizin
Thứ Hai, ngày 24/9/1984, tại Bristol, Anh
Phật giáo Tây Tạng là một trong những truyền thống phong phú nhất bởi vì
nó chứa đựng rất nhiều những cấp độ giáo lý khác nhau được ban ra bởi đức Phật: Tiểu
thừa, Đại thừa và Kim Cương thừa. Các giáo lý ngày nay được truyền bá đến rất nhiều
nước và rất nhiều người đang thực hành chúng, điều này rất tốt khi đó là suối nguồn duy
nhất của lợi lạc và hạnh phúc. Thông qua hoạt động lớn lao của đức Phật, rất nhiều
trường phái khác nhau xuất hiện. Ở Tây Tạng, có bốn trường phái chính. Chúng giống
như một ngôi nhà có bốn viên ngọc quý, nếu thiếu đi một viên, sẽ là một tổn thất lớn. Bởi
vậy điều quan trọng là cả bốn truyền thống được bảo tồn và tiếp tục phát triển.
Đức Phật quyết tâm đạt đến giác ngộ vì tất thảy hữu tình chúng sinh. Ngài
đã tích lũy một lượng công đức và trí tuệ lớn lao trong ba vô lượng kiếp. Sau đó ngài xuất
hiện ở Ấn Độ là trưởng tử của quốc vương dòng Sakya [dòng họ Thích] và tiến hành 72
hoạt động lớn lao. Ngài là một tấm gương cho thấy rằng giác ngộ có thể đạt được bởi một
người bình thường thông qua việc đi theo con đường cao quý.
Mỗi hoạt động của đức Phật đều có ý nghĩa lớn lao, vĩ đại nhất là các hoạt
động về khẩu [hay âm thanh]. Thông qua sự chứng ngộ lớn lao của ngài, đức Phật đã ban
các giáo lý để cứu giúp chúng hữu tình khỏi khổ đau luân hồi. Bởi không có sự hạn chế
trong số lượng chúng hữu tình và họ lại có tâm rất khác biệt, sở thích khác nhau, thiên
hướng và hoàn cảnh khác nhau, bởi vậy một kiểu Pháp là không thể đủ. Như một loại
thuốc chỉ đủ để chữa một bệnh, đức Phật thông qua trí tuệ, từ bi, sức mạnh và phương
tiện thiện xảo vô cùng của mình, đã giảng dạy phù hợp với tâm và cho mỗi lỗi lầm. Lỗi
lầm của chúng ta giống như căn bệnh, Pháp giống như thuốc. Có rất nhiều kiểu lỗi lầm
khác nhau, nhưng nguồn gốc của chúng đến từ ba điều: tham, sân và si. Thuốc hay
phương thuốc đối trị cho chúng được biết đến là Tam Tạng. Phương cách đối trị cho tham
là Vinaya hay các hành động đạo đức [tức Luật Tạng], tạng miêu tả cách thức để thực
hành đức hạnh, với những cư sĩ, tăng và ni. Phương thức đối trị cho sân là các kinh điển
trong đó miêu tả cách thức vượt qua sự sân hận và những ý nghĩ liên quan được giải
thích. Phương thức đối trị cho ngu dốt [si] là Luận Tạng, các giáo huấn về trí tuệ, trí tuệ
để thấy được sự thật.
Các giáo lý Phật Đà chia thành hai trường phái hay truyền thống chính cho
hai kiểu đệ tử: Tiểu thừa và Đại thừa. Đại thừa là cỗ xe lớn, được chỉ ra thông qua tri kiến
nguyên nhân và tri kiến kết quả. Trong Đại thừa, mục tiêu là vĩ đại hơn. Tiểu thừa chỉ đạt
đến sự giải thoát cá nhân, trong khi Đại thừa đạt đến mục tiêu giải thoát chúng hữu tình.
Thông qua trí tuệ, người ta đạt đến vị tha của cá nhân và của các nhân tố của tồn tại. Để
đạt đến giác ngộ, nỗ lực lớn lao cần được duy trì trong ba vô lượng kiếp vì lợi ích của tất
thảy chúng hữu tình, và sau đó thông qua việc phát triển sự chứng ngộ trí tuệ, người ta
hoàn toàn thoát khỏi mọi sự bất tịnh của luân hồi. Đây là tri kiến nguyên nhân [nhân
thừa].
Kết quả là sự thành tựu Phật quả cuối cùng, với những phẩm tánh lớn lao,
vượt xa những phẩm tánh của Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa. Người ta không chỉ
đạt được những phẩm tánh lớn lao mà còn có thể chỉ ra cho người khác con đường dẫn
đến giác ngộ tối thượng.
Trong Đại thừa, có Đại thừa nguyên nhân và Đại thừa kết quả, hay Kim
Cương thừa. Người ta cũng có thể nói có ba thừa: Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và
Bồ Tát thừa, tức Đại thừa. Đại thừa và Chân ngôn thừa [hay Mật thừa] có cùng ý định
hay động cơ ban đầu – tâm Bồ đề hay ý định giác ngộ, và sự chứng ngộ sự thật tuyệt đối,
trí kiến thoát khỏi mọi thái cực. Sự thành tựu cuối cùng, mục tiêu cuối cùng, giác ngộ tối
thượng đều giống nhau, nhưng sự khác nhau nằm ở cách thức. Mật thừa lớn lao hơn Đại
thừa nói chung vì nó có các phương thức tiến bộ hơn. Thân, khẩu và ý được sử dụng
trong quán tưởng, trì tụng thần chú, và thực hành du già. Mật thừa cũng có nhiều phương
pháp hơn, và nó cũng dễ hơn để thực hành bởi mỗi hoạt động trong đời sống hàng ngày là
một phần của con đường. Nó có ý nghĩa với những người thông minh, người mà hiểu các
phương pháp tiến bộ và sâu sắc. Đại thừa nói chung được gọi là nhân thừa bởi vì nó tạo
ra nguyên nhân giác ngộ tối thượng. Người ta thực hành sáu ba la mật: bố thí, nhẫn nhục,
…và tích lũy vô lượng công đức và trí tuệ. Điều này đòi hỏi nỗ lực lớn lao. Kết quả là
Pháp thân và Sắc thân với những hoạt động vĩ đại và phẩm tánh của khẩu, thân và trí tuệ
siêu việt. Mật thừa hay Kim Cương thừa được gọi là quả thừa bởi vì đầu tiên kết quả dễ
dàng đạt được. Những người có nghiệp tốt và nỗ lực nhiều có thể đạt đến giác ngộ chỉ
trong một đời. Bởi vậy, đó là cách đáng ao ước hơn để đạt đến kết quả. Thứ hai trong
Kim Cương thừa, kết quả và nguyên nhân là như nhau, bởi vì ngay từ đầu việc thực hành,
người ta đã quán tưởng bản thân trong hình tướng một vị Bổn tôn, như hình tướng của
đức Phật. Bởi vậy trong khi người ta tạo ra nguyên nhân giác ngộ, họ đã ở trong hình
dạng của kết quả, bởi vậy nó được gọi là quả thừa.
Hiện tại, chúng ta sinh ra làm con người, thoát khỏi những nơi chốn bất ổn.
Chúng ta có những điều kiện thuận lợi – bên ngoài và bên trong. Chúng ta có cơ hội lớn
lao, bởi vậy điều quan trọng là thực hành Pháp vì hai lý do: chúng ta đều sở hữu hạt
giống Phật quả – bản tánh chân thật của tâm là thanh tịnh ngay từ đầu. Mọi chúng hữu
tình đều có hạt giống này. Thứ hai, mặc dù chúng ta có nó, ta không nhận ra nó, bởi vì nó
hoàn toàn bị che lấp bởi những lỗi lầm, thứ mà tạo ra tầm nhìn ảo mộng. Những lỗi lầm
và tầm nhìn ảo mộng không phải là bản tánh của tâm, chúng chỉ tạm thời; nếu chúng là
bản tánh của tâm, ta sẽ chẳng bao giờ đạt đến giác ngộ, như là bản chất của than là đen,
vì thế dù phương pháp gì bản sử dụng cũng không thể thành trắng. Vì thế, bởi những lỗi
lầm không phải bản tánh của tâm, chúng chỉ tạm thời, bản tánh của tâm là thanh tịnh.
Bởi vậy khi chúng ta có cơ hội lớn lao này để thực hành Pháp, khả năng để giác ngộ, điều
quan trọng là chúng ta phải tinh tấn. Ta không thể biến bao giờ sẽ có được thân người này
nữa cùng với những điều kiện để thực hành. Chúng ta đã biết được những cốt tủy của
giáo lý Phật Đà, các giáo lý Kim Cương thừa, nhờ đó mà vô số những vị đạo sư của bốn
trường phái chính ở Tây Tạng, 84 Đại thành tựu giả ở Ấn Độ và ở nhiều quốc gia châu Á
khác, tất cả đều giác ngộ
Cùng một giáo lý mà chúng ta thực hành ngày hôm nay, được trao truyền từ
đức Kim Cương Trì xuống vị đạo sư gốc của từng người. Dòng truyền thừa không gián
đoạn vẫn tiếp tục. Bởi vậy, nếu chúng ta giành đủ nỗ lực, đó là nguyên dó chúng ta có thể
trở nên giống các vị đại đạo sư và thành tựu giác ngộ tối thượng.