25
VẤN ĐỀ NỢ XẤU Ở CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP XỬ LÝ TS. Trịnh Quang Anh Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế, Tập đoàn Đầu tư phát triển Việt Nam Khuyến cáo sử dụng: Nghiên cứu này thể hiện quan điểm cá nhân tác giả, do đó không nhất thiết liên hệ với quan điểm chính thức của Tập đoàn Đầu tư phát triển Việt Nam. © Bản quyền: Bài viết này để phục vụ cho Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân 2013 do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức. Ngoài mục đích này, từng phần hoặc toàn bộ bài viết không được sao chép, phát tán, lan truyền bằng bất cứ phương tiện gì khi chưa được sự cho phép của Tác giả. Mọi ý kiến trao đổi xin liên hệ trực tiếp với Trịnh Quang Anh qua Emai: [email protected] Dẫn nhập Không còn phải bàn cãi, nợ xấu ngân hàng (NH) đang ở mức độ nghiêm trọng, gây đình trệ tín dụng và làm rủi ro hệ thống tăng cao. Dù vấn đề thanh khoản hệ thống đã tạm ổn trở lại, nhưng nguy cơ đổ vỡ hệ thống vẫn luôn rình rập. Rất nhiều giải pháp linh hoạt, mạnh mẽ và quyết liệt được Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và một số bộ ngành liên quan đưa ra triển khai, tuy nhiên, do thường mang tính tình thế, thụ động và ngắn hạn, kết quả đạt được chắc chắn cũng nhất thời, chưa thể giải quyết được tận gốc vấn đề. Rõ ràng, với một chủ đề tưởng chừng rất cũ này, vẫn cần thiết có đánh giá lại cho đúng hơn thực trạng nợ xấu NH, vạch ra căn nguyên của vấn đề, trên cơ sở đó khuyến nghị một số giải pháp mang tính căn cơ hơn, đặt trong bối cảnh thực tiễn nền kinh tế và ngành NH, với kỳ vọng góp phần giải quyết triệt để vấn nạn nợ xấu, tạo tiền đề cho sự phát triển lành mạnh và bền vững của hệ thống NH VN.

hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

VẤN ĐỀ NỢ XẤU Ở CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAMVÀ GIẢI PHÁP XỬ LÝ

TS. Trịnh Quang Anh Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế,

Tập đoàn Đầu tư phát triển Việt Nam

Khuyến cáo sử dụng: Nghiên cứu này thể hiện quan điểm cá nhân tác giả, do đó không nhất thiết liên hệ với quan điểm chính thức của Tập đoàn Đầu tư phát triển Việt Nam.

© Bản quyền: Bài viết này để phục vụ cho Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân 2013 do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức. Ngoài mục đích này, từng phần hoặc toàn bộ bài viết không được sao chép, phát tán, lan truyền bằng bất cứ phương tiện gì khi chưa được sự cho phép của Tác giả.

Mọi ý kiến trao đổi xin liên hệ trực tiếp với Trịnh Quang Anh qua Emai: [email protected]

Dẫn nhậpKhông còn phải bàn cãi, nợ xấu ngân hàng (NH) đang ở mức độ nghiêm trọng,

gây đình trệ tín dụng và làm rủi ro hệ thống tăng cao. Dù vấn đề thanh khoản hệ thống đã tạm ổn trở lại, nhưng nguy cơ đổ vỡ hệ thống vẫn luôn rình rập. Rất nhiều giải pháp linh hoạt, mạnh mẽ và quyết liệt được Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và một số bộ ngành liên quan đưa ra triển khai, tuy nhiên, do thường mang tính tình thế, thụ động và ngắn hạn, kết quả đạt được chắc chắn cũng nhất thời, chưa thể giải quyết được tận gốc vấn đề.

Rõ ràng, với một chủ đề tưởng chừng rất cũ này, vẫn cần thiết có đánh giá lại cho đúng hơn thực trạng nợ xấu NH, vạch ra căn nguyên của vấn đề, trên cơ sở đó khuyến nghị một số giải pháp mang tính căn cơ hơn, đặt trong bối cảnh thực tiễn nền kinh tế và ngành NH, với kỳ vọng góp phần giải quyết triệt để vấn nạn nợ xấu, tạo tiền đề cho sự phát triển lành mạnh và bền vững của hệ thống NH VN.

Bài viết, trong khuôn khổ cho phép, cố gắng lần lượt giải quyết những vấn đề trên. Những phân tích, nhận định được rút ra từ các phần Thực trạng và Nguyên nhân, sẽ là căn cứ để đề xuất các Giải pháp cho phần tiếp theo. Một số hàm ý và thông điệp của tác giả sẽ được đưa ra thay cho Lời kết của bài viết.

Nợ xấu “xấu” đến mức nào?Cần thiết phải nói ngay, tất cả những con số đang sẵn có về nợ xấu NH, ở những

chừng mực nhất định, chỉ phản ánh những khía cạnh nhất định của vấn đề. Một bức tranh toàn diện về thực trạng nợ xấu NH chưa bao giờ được đưa ra. Một lý do dễ hiểu là ngay chính Cơ quan quản lý cũng không thể chắc chắn rằng nợ xấu chính xác hiện bao nhiêu. Thực tế, nợ xấu NH là một biến số nhạy cảm, gắn chặt với tình hình kinh tế vĩ mô, môi

Page 2: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

trường kinh doanh và diễn biến của thị trường. Nó thay đổi hàng giờ và phụ thuộc đáng kể vào góc nhìn của người báo cáo hay đánh giá, loại ra yếu tố chủ quan tiêu cực. Chấp nhận thực tế này, tác giả tiến hành chẩn đoán và đưa ra phác đồ điều trị cho căn bệnh “nợ xấu NH” dựa trên số liệu tương đối nhưng hợp lý và đáng tin cậy, kết hợp với những kết quả định tính được cho là phản ánh đúng bản chất vấn đề.

Nguồn: NHNN, Báo cáo từ các TCTD, Tác giả tổng hợp.

Theo số liệu đến 31/12/2012 từ các tổ chức tín dụng (TCTD), nợ xấu toàn hệ thống là 120 nghìn tỉ đồng, chiếm 4,1% so tổng dư nợ tín dụng.1 Số liệu này hiển nhiên thấp xa, bằng khoảng nửa so với con số NHNN nắm được qua hệ thống thanh tra giám sát của mình. Nếu cộng cả những khoản nợ xấu tiềm tàng, gồm nợ khoanh, nợ được cơ cấu lại theo Quyết định 780/QĐ-NHNN và nợ được cơ cấu lại của Vinashin, Vinalines, tổng nợ xấu NH được ước tính sẽ vọt tới tầm nửa triệu tỉ đồng, tương đương 18% tổng dư nợ tín dụng, gần 10% tổng tài sản toàn hệ thống hay khoảng 17% GDP danh nghĩa 2012. Đây rõ ràng là một con số đáng sợ, một minh chứng mạnh mẽ để giải thích tại sao tín dụng cho nền kinh tế rơi vào đình trệ, thanh khoản hệ thống NH bất ổn và nền kinh tế chìm sâu hơn trong suy thoái. Chưa hết, con số này có thể sẽ không dừng lại ở đó. Nó có thể ngày càng trở nên trầm trọng hơn bởi: (i) triển vọng kinh tế tiếp tục xấu đi làm các khoản nợ hiện đang được coi là đủ tiêu chuẩn hay chưa xấu nhanh chóng chuyển thành xấu; (ii) NHNN xiết chặt hơn các chuẩn mực về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN, theo đó nợ xấu được đánh giá lại sẽ tăng lên; (iii) các khoản nợ xấu được các TCTD che giấu trước đây, sẽ “bục” dần theo thời gian và sự tiến triển của chương trình tái cơ cấu hệ thống NH; và quan trọng hơn cả (iv) niềm tin của thị trường bị đổ vỡ, không thể dễ dàng được khôi phục bằng các gói giải pháp kích thích, hỗ trợ, tháo gỡ, giải cứu nhỏ lẻ, kém hiệu lực, kém hiệu quả và kém căn cơ của Chính phủ.

1 Nợ xấu cho vay nền kinh tế, hạch toán nội bảng, chưa bao gồm nợ xấu đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, ủy thác cấp tín dụng và mua trái phiếu doanh nghiệp. Các khoản nợ xấu lũy kế đến 31/12/2012 được các TCTD xử lý bằng nguồn dự phòng rủi ro đang theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán là trên 100 nghìn tỉ đồng, tập trung vào khối NHTMNN (80%) và khối NHTMCP (10%).

Page 3: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

Quay trở lại con số nợ xấu đến 31/12/2012 từ báo cáo của các TCTD, Phụ lục Bức tranh sơ bộ về nợ xấu NH đính kèm cuối bài viết, chỉ ra:

(i) Xét theo từng khối NH, nợ xấu tập trung chủ yếu ở khối ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMN), 40%, và khối ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), 41%.2 Khối ngoại3 khả dĩ hơn cả với thị phần nợ xấu chỉ chiếm hơn 4% tổng nợ xấu toàn hệ thống. Con số này ở khối các TCTD còn lại (chủ yếu là các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính) là 15%. Xét tỉ lệ nợ xấu so dư nợ cấp tín dụng của từng khối, số liệu cho 4 khối này lần lượt là: 3,3%, 4,7%, 2,5% và 8,8%.

Như vậy, nhìn con số tương đối, tình trạng nợ xấu ở khối các TCTD khác là tệ nhất. Thực chất, nhiều công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính đang trong tình trạng tài chính nghiêm trọng với tỉ lệ an toàn vốn CAR ở mức âm sâu, đe dọa an toàn hoạt động của nhiều TCTD khác.4 Xét con số tuyệt đối, nợ xấu nằm chủ yếu ở nhóm NHTMNN, trước hết là Agribank rồi đến BIDV - chiếm tới gần 1/3 tổng nợ xấu toàn hệ thống5. So năng lực tài chính, mức độ nợ xấu ở nhiều NHTMCP cũng rất đáng lo ngại, trước hết là nhóm NH yếu kém nằm trong diện phải tái cơ cấu năm 2012 - chiếm tới gần 1/5 tổng nợ xấu toàn hệ thống (chưa tính Habubank do đã được sáp nhập vào SHB).

Hiển nhiên, con số nợ xấu thực ở khối NHTMNN sẽ còn lớn hơn nhiều khi khối này cho vay hầu hết khu vực kinh tế nhà nước, đồng thời có động cơ và có điều kiện để che giấu nợ xấu mạnh mẽ nhất.6 Tiếp đến chắc chắn là nhóm các NHTMCP bị “lớn ép” trong hơn nửa thập kỷ qua.

(ii) Phân nợ xấu theo mức độ “xấu” - tức nhóm nợ,7 nợ dưới chuẩn (nhóm 3) chiếm 22%, nợ nghi ngờ (nhóm 4) 29%, còn lại là nợ có nguy cơ mất vốn (nhóm 5) chiếm 49% tổng nợ xấu.8 Chi tiết hơn, nợ nhóm 5 tập trung chủ yếu vào khối NHTMNN, với 42%, và khối NHTMCP, 32%. Ngoài ra, nợ cần chú ý (nhóm 2), tuy chưa tính vào nợ xấu, nhưng bản chất đã là nợ có vấn đề, cũng chiếm tới 6,8% tổng dư nợ cho vay hay gấp 1,6 lần tổng nợ xấu.

(iii) Quan sát kết quả phân loại tín dụng theo đối tượng khách hàng, nợ xấu của nhóm doanh nghiệp nhà nước (DNNN), bao gồm các tập đoàn kinh tế nhà nước 2 Thị phần tín dụng của Khối NHTMNN và khối NHTMCP đến 31/12/2012 lần lượt là 49% và 36%.3 Gồm các NH 100% vốn nước ngoài, NH lien doanh, chi nhánh NH nước ngoài tại VN.4 Tuy thuộc loại TCTD phi NH, trên thực tế, hoạt động của nhiều công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính đã vượt qua ranh giới luật định, hoàn toàn có thể đe dọa sự ổn định của hệ thống như các NHTM. Tình trạng nợ xấu lien NH đẩy thị trường tiền tệ rơi vào trầm lắng, đóng băng như vừa qua, có sự đóng góp quan trọng của các TCTD này, là một minh chứng. 5 Hệ thống TCTD nói đến trong bài viết không bao gồm Ngân hàng Phát triển Việt Nam.6 Đây là một trong những lý do thuyết phục để cần phải xem xét lại quan điểm “Nâng cao vai trò, vị trí chi phối của các NHTMNN; bảo đảm các NHTMNN thật sự là lực lượng chủ lực, chủ đạo của hệ thống các TCTD, có quy mô lớn, hoạt động an toàn, hiệu quả và có năng lực quản trị tiên tiến, khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế” (BI1 Đề án 254).7 Nợ cấp tín dụng hiện được phân thành 5 nhóm: (i) nợ đủ chuẩn; (ii) nợ cần chú ý; (iii) nợ dưới chuẩn; (iv) nợ nghi ngờ; và (v) nợ có nguy cơ mất vốn. Nợ xấu bao gồm nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5.8 Nếu so tổng dư nợ cho vay, nợ nhóm 3, 4 và 5 lần lượt chiếm 0,9%, 1,2% và 2%.

Page 4: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

(TĐKTNN) và tổng công ty nhà nước (TCTNN), chiếm tỉ lệ khoảng 18% tổng nợ xấu toàn hệ thống. Phần lớn số nợ xấu theo sổ sách còn lại thuộc về nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá nhân và hộ gia đình.

Con số khiêm tốn 18% vừa đề cập, tất nhiên chưa bao gồm nợ khoanh, nợ được cơ cấu lại của Vinashin, Vinalines9 và của các DNNN còn lại. Con số nợ xấu thực của nhóm khách hàng DNNN tiếp tục được nhân lên nếu ta bóc tách phần nợ thực chất đã “chết” đang còn “ẩn nấp” trong nhóm “nợ cần chú ý” để hạch toán sang đúng nhóm nợ. Thực trạng nợ xấu của khu vực tổ chức kinh tế này giải thích tại sao một trong ba nội dung trọng tâm của chương trình tái cấu trúc tổng thể nền kinh tế chính là cơ cấu lại DNNN, chủ yếu là các TĐKT và TCTNN.

(iv) Phân tín dụng theo ngành nghề, lĩnh vực kinh tế, nợ xấu tập trung chủ yếu ở ngành dịch vụ (66%) và ngành công nghiệp xây dựng (30%), cụ thể hơn là ở 7/21 ngành kinh tế cấp 2 sau đây (lần lượt tính theo tỉ lệ so tổng nợ xấu – tổng cộng 91%/100%, và so tổng dư nợ - tổng 3,25%/4,1%):

Công nghiệp chế biến, chế tạo: 19% và 1%;

Xây dựng: 10% và 0,5%;

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác: 18% và 0,6%;

Vận tải kho bãi: 14% và 0,5%;

Hoạt động kinh doanh bất động sản: 7% và 0,3%;

Hoạt động dịch vụ khác: 15% và 0,5%;

Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình: 8% và 0,3%.

Nợ xấu cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản (BĐS) và chứng khoán (trước đây được tính vào lĩnh vực phi sản xuất, bị hạn chế tăng trưởng tín dụng) chỉ chiếm 8% tổng nợ xấu. Đây rõ ràng là một con số rất đáng ngờ. Sự thực, rất nhiều khoản cấp tín dụng dưới các danh nghĩa khác nhau, được “luồn” vào lĩnh vực BĐS và chứng khoán hay “có liên quan” đến lĩnh vực phi sản xuất này.10 Nợ xấu từ số dư nợ cho vay trên, hiển nhiên sẽ được “che giấu” kỹ nhất. Đây là hệ lụy tất yếu của thị trường BĐS và thị trường chứng khoán bong bóng quá mức một thời.

(v) Xét với toàn hệ thống đến 31/12/2012, nợ xấu sổ sách của các khoản cấp tín dụng được bảo đảm bằng BĐS và BĐS hình thành trong tương lai ước tính chiếm 64% tổng nợ xấu. Như vậy, về danh nghĩa, tới 2/3 các khoản nợ xấu NH là có BĐS và BĐS hình thành trong tương lai bảo đảm, chưa tính đến các loại tài sản bảo đảm khác. Tỉ

9 Ước tính đến cuối 2012, con số nợ xấu thực của riêng 2 TĐKTNN này đã lớn gấp rưỡi con số báo cáo 18% của cả khu vực DNNN.10 Ước tính đến cuối 2012, trên ½ tổng dư nợ cấp tín dụng cho nền kinh tế là có lien quan đến lĩnh vực BĐS.

Page 5: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

lệ tổng giá trị tài sản bảo đảm ghi trên sổ sách so với số nợ xấu sổ sách có tài sản bảo đảm, đạt mức khá cao, tới 1,8 lần. Tuy nhiên vấn đề ở chỗ, giá trị tài sản bảo đảm cho các khoản nợ xấu cần được định giá lại theo thị trường. Trong bối cảnh thị trường BĐS tiếp tục đóng băng, sụt giá và chưa có dấu hiệu hồi phục ít nhất tới 2015, công việc định giá lại và phát mại tài sản thế chấp trở nên quá khó khăn, chưa tính đến yếu tố thủ tục, quy trình pháp lý. Điều này có nghĩa, ngay cả với những khoản nợ xấu có BĐS và BĐS hình thành trong tương lai bảo đảm, tỉ lệ thu hồi vốn trong ngắn hạn sẽ vẫn ở mức rất thấp.

(vi) Đánh giá khả năng chống đỡ nợ xấu bằng “vốn đệm” của hệ thống NH, tổng nợ xấu chiếm 20% tổng vốn chủ sở hữu cộng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng (DPRRTD) toàn hệ thống, tính đến 31/12/2012. Tỉ lệ này ở các khối NHTMNN, NHTMCP, nước ngoài và các TCTD khác lần lượt là 25%, 19%, 6% và 21%. Chi tiết hơn, vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống đến cuối năm 2012 là 550 nghìn tỉ đồng, giảm gần 2 nghìn tỉ so cuối tháng 11/2012 và tăng 65 nghìn tỉ so cuối năm 2011. Chi phí trích lập DPRRTD 12 tháng năm 2012 của toàn hệ thống là 56 nghìn tỉ đồng, riêng tháng 12 là 12 nghìn tỉ, chiếm hơn 1/5 tổng chi phí DPRRTD cả năm 2012. Quỹ DPRRTD sau khi đã xử lý tích cực nợ xấu trong tháng 12/2012, sụt xuống còn 67 nghìn tỉ đồng từ số dư 81 nghìn tỉ tính đến cuối tháng 11/2012. Lượng nợ xấu ước tính được xử lý bằng quỹ DPRRTD riêng trong tháng 12 là 26 nghìn tỉ đồng. Lợi nhuận trước thuế năm 2012 toàn hệ thống, sau khi trích lập DPRRTD tháng 12 sụt xuống còn 33 nghìn tỉ đồng từ mức 39 nghìn tỉ lũy kế 11 tháng đầu năm và chỉ còn bằng 1/2 mức lợi nhuận trước thuế của năm 2011. Sự sụt giảm lợi nhuận của hệ thống NH năm 2012 chủ yếu do bị sụt giảm thu nhập lãi từ hoạt động tín dụng, trong khi chi phí DPRRTD tăng mạnh. Lợi nhuận trước thuế của tất cả các khối đều giảm so với năm 2011, trong đó khối NHTMCP có mức giảm mạnh nhất, -79%, khối NHTMNN chỉ giảm -4%, còn khối nước ngoài giảm -27%.

Như vậy, dù đã nghiêm túc hơn trong việc trích lập DPRRTD và tích cực hơn trong việc dùng quỹ này để xử lý nợ xấu theo tinh thần chỉ đạo của NHNN, lượng vốn đệm của hệ thống vẫn còn khá mỏng và lượng nợ xấu theo sổ sách vẫn đe dọa “xuyên thủng lớp đệm vốn”, cho dù hệ số an toàn vốn CAR toàn hệ thống theo báo cáo vẫn vượt mức tối thiểu theo quy định. Thực ra, với số liệu ước tính đến cuối 2012 của toàn hệ thống như đã đề cập ở đầu phần 1, lượng nợ xấu thực có thể đã hoặc sắp “nuốt” trọn toàn bộ vốn liếng của hệ thống NH.11 Tức về lý thuyết, các NH đang tiến tới ranh giới mất khả năng thanh toán, nếu tỉ lệ thu hồi nợ xấu đạt mức quá thấp.

Căn nguyên của tình trạng nợ xấu?Rất nhiều nguyên nhân của tình trạng nợ xấu NH được các chuyên gia kinh tế hay

các cơ quan quản lý nhà nước chỉ ra, như: (1) môi trường kinh tế quốc tế lẫn trong nước bất lợi; (2) sự yếu kém về năng lực quản trị điều hành lẫn chuyên môn và sự xuống cấp về đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ NH; (3) tương tự như (2) nhưng đối với phía khách hàng vay vốn; (4) Lỗ hổng trong cơ chế, chính sách, quy định hiện hành và tính hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra giám sát; … Bài viết thay vì đi tiếp vào các

11 Hệ số đòn bẩy tài chính bình quân của hệ thống NH là 9,6 lần.

Page 6: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

nguyên nhân đã được bàn thảo nhiều và rất khó phủ nhận này, sẽ cố gắng gạn lọc, vạch ra một nguyên nhân được cho là cốt lõi, gốc rễ của vấn đề.

Không thể chối bỏ một sự thật là suốt gần thập kỷ qua, kinh tế vĩ mô Việt Nam luôn trong tình trạng bất ổn. Sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tích lũy và đầu tư lâu nay đã đẩy nền kinh tế luôn phải đối mặt với tình trạng thâm hụt cán cân thương mại, thâm hụt ngân sách nhà nước và nợ công tăng mạnh (xem “Thống đốc NHNN: Có cơ sở để đưa ra 3 gói bơm tiền”, 02/2013). Hệ lụy tất yếu là lạm phát dâng cao, theo đó là sự bất ổn của tỉ giá, lãi suất, rối loạn hoạt động NH và đình trệ kinh tế, tiếp theo là sự đổ vỡ lòng tin. Những thành quả kinh tế hình thức hoặc nhất thời trong những năm gần đây, nhanh chóng bị xóa nhòa bởi sự bất ổn vĩ mô dai dẳng. Nói cách khác, chính những nỗ lực “bóp lại cho tròn” những khuyết tật của nền kinh tế thời gian qua nhưng thiếu “thế, lực và tầm”, càng đẩy nền kinh tế chìm sâu hơn trong khó khăn, bế tắc (xem Góc nhìn Alan Phan và Vũ Quang Việt 2013). Trước bối cảnh này, các nhà hoạch định chính sách và các nhà chính trị đã chỉ ra được sự bất cập, lạc hậu của cấu trúc nền kinh tế và mô hình tăng trưởng hiện tại của Việt Nam. Kết luận của Hội nghị Trung ương 3, Khoá XI họp từ ngày 06-10/10/2011 tại Hà Nội và Nghị quyết số 11/2011/QH13 của Quốc Hội về Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2012, đã ra đời kịp thời, tiếc là công tác triển khai vẫn hầu như “giậm chân tại chỗ”.

Những yếu kém nội tại của nền kinh tế trong nước do năng lực bất cập trong điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ những năm qua, chính là căn nguyên của thực trạng nợ xấu NH ngày nay.

Tốc độ tăng cung tiền, tín dụng và lạm phát giai đoạn 2006 - 2011

Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

Tốc độ tăng tín dụng 25% 49% 23% 38% 31% 14% 8.91%

Tín dụng/GDP danh nghĩa 63% 90% 86% 105% 115% 103% 97%

Tốc độ tăng M2 32% 41% 20% 28% 30% 12% 22.4%

M2/GDP danh nghĩa 97% 116% 108% 123% 134% 115% 131%

Lạm phát 6.6% 12.6% 19.9% 6.5% 11.8% 18.1% 6.81%

        Nguồn: NHNN, GSO, Tác giả tổng hợp.

Page 7: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

0

20

40

60

12-2007 12-2008 12-2009 12-2010 12-2011 12-2012

% Tăng trưởng tín dụng và lạm phát

CPI - YoY Tăng tín dụng - YoYTăng trưởng tín dụng cực đại

CPI cực đại

Trễ 6 tháng

Trễ 5 thángTrễ 6 tháng

Trễ 5 tháng

Nguồn: GSO, NHNN, Tác giả tổng hợp.

Đi sâu thêm, Bảng Tốc độ tăng cung tiền, tín dụng và lạm phát giai đoạn 2006-2012 và Hình Tăng trưởng tín dụng và lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ đầu năm 2008 tới nay cùng chỉ ra, khi tín dụng tăng trưởng “nóng” vượt xa khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, lạm phát tất yếu sẽ bùng phát sau một “độ trễ” nhất định. Ngược lại, khi tín dụng suy giảm, nếu trầm trọng và kéo dài, sẽ dẫn tới nguy cơ giảm phát và đình trệ kinh tế, đi kèm là tình trạng nợ xấu nổi lên.

Thực tế những năm trước đây, khi chính sách tiền tệ (CSTT) khá lỏng lẻo, tín dụng tăng trưởng với tốc độ bình quân gần 30%/năm trong suốt thập kỷ 2000-2010, thậm chí đạt tới mức trên 50% trong năm 2007 và nửa đầu năm 2008, thành tích “tăng trưởng kinh tế thần kỳ” chủ yếu nhờ đó có được, đã phải trả giá bằng mức lạm phát cao và kinh tế vĩ mô bất ổn kéo dài sau đó. Nguồn vốn tín dụng dồi dào, dễ dãi, trong bối cảnh khả năng hấp thụ của nền kinh tế có hạn, tất yếu đã giúp thổi phồng “bong bóng” BĐS và chứng khoán. Một khi tốc độ tăng trưởng tín dụng tiếp tục cao từ năm này qua năm khác, nợ vay được “luân chuyển” và dòng tiền ra vào NH vẫn “bình thường” nên căn bệnh thanh khoản, đằng sau là nợ xấu, chưa bị bùng phát. Nó chỉ tạo nên những “cơn sốt” nhất thời trên thị trường tiền tệ và sớm thuyên giảm khi NHNN cho uống thuốc “hạ sốt” bằng cách tăng mạnh cung tiền qua các kênh như nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn, cho vay qua đêm, cung ra VND để mua vào ngoại tệ, … hoặc khi có dòng tiền quay lại hệ thống NH.

Năm 2011, CSTT chặt chẽ để kiềm chế lạm phát của NHNN (theo Nghị quyết 11/2011/NQ-CP) đã khiến cho vấn đề thanh khoản của các NH “nóng” hầu hết năm và trở nên “sốt cao” từ khi có sự kiện NHNN tái áp đặt trần lãi suất (Chỉ thị 02/CT-NHNN, tiếp theo là Thông tư 30/2011/TT-NHNN). Sau hơn 5 tháng thanh khoản hệ thống trao đảo, từ khoảng tháng 3/2012 tới nay, một tình trạng đối nghịch với “sốt cao” là “cảm

Page 8: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

lạnh” bất ngờ diễn ra. Thay vì phải cho uống thuốc “hạ sốt”, NHNN đã buộc phải cấp tập dùng thuốc “tăng huyết áp” nhằm ổn định lại “thể trạng” hệ thống.

Đằng sau hiện tượng “thanh khoản” trồi sụt vừa qua thực chất là vấn đề chất lượng tài sản ngân hàng – nợ xấu. Rõ ràng, “khối u” hay “cục máu đông” này đã làm ngẽn “mạch” tín dụng cho nền kinh tế. Ngược lại, khi thanh khoản của nền kinh tế bị ách tắc (thể hiện ở chỉ số hàng tồn kho tăng cao, tình trạng nợ nần, chiếm dụng vốn lẫn nhau gia tăng, …) lại làm cho các dòng tiền ra vào hệ thống NH trở nên bất bình thường.

Dấu hiệu rõ nét của sự “bất bình thường” ở trên là, tín dụng tăng trưởng âm suốt nửa đầu năm 2012 và vẫn trong tình trạng đình trệ tới nay, trong khi nhiều NH bị ứ thừa vốn khả dụng và chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm được NHNN giao cho gần như không được sử dụng.12 Những NH bị bế tắc “đầu ra” trên thị trường tín dụng và cả trên thị trường liên NH này, buộc phải tìm đến kênh đầu tư trái phiếu chính phủ (TPCP) và các loại giấy tờ có giá (GTCG) ít rủi ro khác.

Đáng lưu ý là hệ thống NH hiện đang nắm giữ ước tính tới trên 80% tổng lượng TPCP đang lưu hành. Điều này có 3 hàm ý: (1) Chính phủ đã động viên một nguồn tài lực lớn ngay từ hệ thống NHTM, thay vì từ các định chế tài chính khác, các tổ chức kinh tế và dân cư, để đầu tư cho khu vực công, làm nguồn vốn tín dụng dành cho khu vực tư bị thu hẹp;13 (2) NHNN, ở mức độ nhất định và giác độ nhất định, thực chất đã phải tài trợ gián tiếp cho thâm hụt ngân sách nhà nước (thông qua việc cho vay cầm cố, chiết khấu TPCP, … cho các NHTM), góp phần gây lạm phát cao thời gian qua; và (3) hệ thống NHTM đang đánh mất vai trò trung gian tài chính vốn có của mình – tập trung nguồn vốn tạm thời nhàn dỗi và dẫn vốn đó đến các dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Đây chính là nguy cơ tiềm ẩn, tiếp tục đẩy nền kinh tế chìm sâu hơn trong vòng xoáy bất ổn.

Giải quyết nợ xấu ra sao?Trước tiên cần thiết phải khẳng định lại, nợ xấu NH không còn là câu chuyện của

từng NH riêng lẻ; nó đã trở thành vấn đề của Hệ thống, vấn đề của Quốc gia, vì vậy nhất thiết phải được nhìn nhận, xử lý ở “tầm quốc gia” và cần xử lý một cách kiên quyết, dứt điểm để giảm thiểu phí tổn cho nền kinh tế.

Như đã trình bày ở các phần trước, “Khối u” nợ xấu NH chính là căn nguyên của thực trạng hệ thống NH và thị trường tiền tệ hiện nay. Cơ chế dẫn tới sự hình thành khối u này suy cùng nằm chính ở những khiếm khuyết trong hoạch định và điều hành kinh tế vĩ mô nhiều năm qua. Đây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của bộ máy nhà nước trong một thời gian dài, bên cạnh nguyên nhân khách quan đến từ môi trường quốc tế bất lợi. Và như vậy, hiển nhiên Chính phủ (đằng sau trước hết là NHNN) chứ không phải ai khác, vì sự an nguy của hệ thống các TCTD, vì sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, phải đứng ra chịu trách nhiệm “cắt bỏ khối u ác cũng như ngăn chặn nguy cơ hình thành trở lại khối u mới”. Nguồn tài lực để

12 Kết quả tăng trưởng tín dụng năm 2012, 8,91%, đạt được chủ yếu nhờ ở nhóm “tứ đại” – 4 NHTMNN, với sự hậu thuẫn của NHNN.13 Cái gọi là “hiệu ứng chèn lấn – crowding out effect”.

Page 9: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

xử lý nợ xấu trước hết phải là công quỹ quốc gia, trước khi tính đến chuyện quy kết, trừng phạt những tổ chức, cá nhân cụ thể nào đó đã làm bậy, gây ra hậu quả tệ hại như đã đề cập. Bằng chứng thực nghiệm quốc tế cũng như những tiền lệ đã có ở Việt Nam, chứng minh rất rõ điều này.

Công luận đã từng có rất nhiều ý kiến, quan điểm mang tính đa chiều xoay quanh việc xử lý nợ xấu NH, tập trung vào các khía cạnh như: chi phí thực hết bao nhiêu? lấy từ đâu? cơ chế và phương thức xử lý nợ? kỹ thuật định giá khoản nợ? tổ chức và hoạt động của đơn vị trực tiếp xử lý nợ xấu NH?… Tác giả cho rằng: không có phương án nào là hoàn hảo, chỉ có giải pháp “tốt thứ nhì”; nền kinh tế phải chấp nhận trả giá cho những sai lầm, yếu kém, buông lỏng của các cơ quan quản lý hữu trách; càng chần chừ, do dự, né tránh bao nhiêu, cái giá phải trả sẽ lớn bấy nhiêu.14 Chúng ta buộc phải đối diện với vấn đề gai góc này mà không có sự lựa chọn nào khác, cho dù thấy trước nguy cơ vỡ lở nhiều chuyện “khuất tất” đang còn ẩn giấu, khi tiến hành “phẫu thuật cắt bỏ khối u”.

Cũng đã có rất nhiều giải pháp năng nổ, linh hoạt để xử lý tình trạng nợ xấu NH được các chuyên gia kinh tế hay các hoạch định chính sách đưa ra thời gian qua, như: (i) buộc chính các NHTM phải chịu trách nhiệm và tích cực, chủ động xử lý nợ xấu của mình đi đôi với các biện pháp cần thiết để hạn chế nợ xấu phát sinh trong tương lai; (ii) Chính phủ hoặc NHNN phối hợp với các bộ ngành liên quan, ban hành các cơ chế chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho cả phía NH lẫn khách hàng của NH và thị trường,15 cũng như có các quy định chặt chẽ hơn nhằm ngăn chặn nguy cơ nợ xấu tái gia tăng; (iii) thành lập Công ty quản lý tài sản Quốc gia (VAMC) để xử lý nợ xấu; … Tương tự như với phần vạch ra căn nguyên sâu sa của thực trạng nợ xấu, Bài viết thay vì tiếp tục đề cập đến các giải pháp xử lý cụ thể và trực diện đang được bàn thảo nhiều, sẽ tập trung vào 5 giải pháp có vẻ hơi “xa đề” nhưng được cho là có tính căn cơ, dài hạn: 16 (1) thiết lập hạ tầng tài chính vững chắc; (2) xiết chặt lại các quy chế điều tiết; (3) vận hành tối đa thể chế thị trường; (4) tăng cường pháp chế; và (5) giải pháp sau cùng – “giải pháp của các giải pháp”, đề cập đến một khía cạnh sâu xa nhưng hết sức nhạy cảm, thường bị giới tham mưu, tư vấn và hoạch định, thực thi chính sách né tránh, đó chính là vấn đề “con người”.

Do khuôn khổ Bài viết có hạn, nhóm giải pháp được đề cập mới dừng lại ở mức lựa chọn cách tiếp cận đúng, chỉ ra các “huyệt đạo” và nêu quan điểm xử lý vấn đề. Để

14 Giá phải trả ở đây không chỉ là số tiền tuyệt đối phải bỏ ra, mà còn là chi phí cơ hội của số tiền đó và của toàn nền KT. Bên cạnh là sự mất mát có thể có về cán bộ và đặc biệt là sự khủng hoảng lòng tin của thị trường. 15 Xử lý nợ xấu gắn liền với giải phóng hàng tồn kho và quan trọng nhất là cho thị trường BĐS. Như vậy, để khơi thông dòng tiền đồng thời với dòng luân chuyển hàng hóa trong nền kinh tế, các giải pháp “kích mồi có kiểm soát” được cho là hữu hiệu nhất.16 Thực ra, theo logic của vấn đề, các giải pháp đề xuất cần tập trung xử lý căn nguyên gây ra nợ xấu như đã chỉ ra trong Phần II. Tuy nhiên, nếu làm vậy, đó phải là những chương trình, dự án cải tổ tầm quốc gia. Thay vì làm thế, Bài viết lựa chọn 5 khía cạnh lien quan, được cho là mang tính nền tảng, căn cơ, dài hạn để đề xuất thành các giải pháp của Bài.

Page 10: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

các giải pháp như vậy được bàn thảo một cách thấu đáo, đòi hỏi có thêm các nghiên cứu chuyên sâu hơn cho từng vấn đề riêng lẻ, nằm ngoài phạm vi Bài viết này.

(1) Thiết lập hạ tầng tài chính vững chắc

Hạ tầng tài chính bao hàm: các chuẩn mực, quy tắc, quy định về kế toán, kiểm toán, về quản trị doanh nghiệp; các hệ thống thanh toán; khuôn khổ pháp lý điều tiết và giám sát hoạt động của thị trường tài chính nói chung, thị trường tiền tệ nói riêng, … nhằm tới mục tiêu hỗ trợ cho hệ thống tài chính hoàn thành tốt vai trò trung gian tài chính của mình, bảo đảm về tốc độ và chi phí chu chuyển vốn, về khả năng truyền tải và phân tán rủi ro tài chính.

Một hạ tầng tài chính vững mạnh rõ ràng là điều kiện tiền đề quan trọng bảo đảm cho các định chế tài chính (quan trọng nhất là các NHTM) hoạt động tốt và các thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ) vận hành trôi chảy. Cũng như thế, các cơ quan điều tiết và giám sát tài chính-ngân hàng mới có môi trường hoạt động cần thiết để phát huy đầy đủ vai trò của mình. Ngược lại, như thành ngữ “dao sắc không bằng chắc kê”, thiếu một hạ tầng tài chính vững chắc, các cơ quan điều tiết và giám sát tài chính-ngân hàng dù cố gắng nhưng có thể vẫn thất bại khi thực thi sứ mệnh của mình. Không ai khác, chính Chính phủ và các cơ quan giúp việc liên quan như NHNN, Bộ Tài chính, … phải đảm đương vai trò thiết lập hạ tầng tài chính vững mạnh cho hệ thống TCTD có thể hoạt động an toàn, lành mạnh và hiệu quả.

(2) Xiết chặt các quy chế điều tiết

Vấn đề xiết chặt các quy chế điều tiết để bảo đảm “an toàn hệ thống” sẽ luôn được đặt lên trước hết bất kể khi nào hệ thống NH phải đối mặt với nguy cơ rủi ro cao, bao gồm cả các mối đe dọa như “hoảng loạn”, “đổ vỡ”, “khủng hoảng”.17

Nhằm ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ hệ thống xuất hiện tầm cuối năm 2011, Chính phủ đã nhanh chóng đưa ra tuyên bố “bảo vệ 100% các khoản tiền gửi của công chúng”. Đây là một phản ứng đúng, kịp thời và tối cần thiết. Tuy nhiên, động thái chính sách “bảo đảm không để bất kỳ một TCTD nào bị đổ vỡ” thì đã đến lúc cần phải được điều chỉnh lại. Có thể “tiền thuế của dân” cuối cùng phải đổ ra để trang trải mọi khoản tiền gửi của công chúng muốn được rút, nhằm tránh không để xảy ra một cuộc hoảng loạn NH – “hiệu ứng đô-mi-nô”. Nhưng khi thực trạng từng TCTD đã bị phơi bày, những định chế nào đã rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán (insolvent) mà không có khả năng hồi phục (trừ trường hợp “quá lớn không cho vỡ - too big to fail”), cần thiết phải bị “đóng cửa” (những “thây ma – zombie” phải được “chôn” để tránh làm hoại tử các phần còn lành mạnh khác của cơ thể).18

17 Chu kỳ có tính quy luật “Regulation – Deregulation – Reregulation”.18 Về mặt học thuật, NHTW chỉ tới cứu trợ các NH mất thanh khoản (illiquid) nhưng phải còn khả năng thanh toán (solvent). Tuy nhiên, trên thực tế, trong tình thế nguy nan và chưa thể phân biệt rành mạch

Page 11: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

Tiếp theo, mọi quy chế điều tiết quan trọng khác, như các quy định về tỉ lệ an toàn hoạt động NH (đặc biệt là hệ số an toàn vốn tối thiểu – CAR), về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, về cho phép lưu hành một sản phẩm, công cụ tài chính mới hay chấp thuận cho mở rộng quy mô, phạm vi, lĩnh vực hoạt động mà mức độ rủi ro của chúng chưa được lượng định đầy đủ và bảo đảm đủ năng lực kiểm soát (tình trạng “quá lớn để quản lý – too big to manage”),19 … đều cần được xem xét, đánh giá lại một cách nghiêm khắc và phải được xiết chặt hơn mức “bình thường”.20

(3) Vận hành tối đa thể chế thị trường

“Thế kiềng 3 chân” - quản trị doanh nghiệp tốt; cơ chế kỷ luật thị trường phát huy tác dụng đầy đủ; các cơ quan quản lý, giám sát thị trường tài chính-ngân hàng hoạt động hiệu quả, cần được phát triển một cách cân bằng. Việc quá dựa dẫm vào “tuyến phòng thủ số 1” – Hệ thống kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ/hệ thống quản lý rủi ro của từng TCTD (theo nguyên tắc quản trị doanh nghiệp tốt) trong khi năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan điều tiết và giám sát hữu trách còn yếu kém và thường “đi rất sau” thị trường, lại đặt trong bối cảnh “kỷ luật thị trường” chưa phát huy tác dụng thực sự, là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới hiện trạng yếu kém của hệ thống TCTD nói chung, nợ xấu nói riêng. Như đã trình bày, sự phát triển quá “nóng” trong một thời gian dài của hệ thống TCTD đối lập với năng lực quản trị điều hành nội bộ các TCTD và đặc biệt là tình trạng quản lý, thanh tra, giám sát yếu kém hoặc chủ quan, sơ hở, thiếu minh bạch, cùng với một thể chế thị trường “nửa vời”, đã dẫn tới sự tích tụ rủi ro hệ thống đủ lớn, tạo nguy cơ đổ vỡ dây chuyền mà chi phí cứu chữa nó sẽ vô cùng lớn.

Rõ ràng, trong khi năng lực quản trị điều hành nội bộ các TCTD lẫn năng lực điều tiết và giám sát NH của các cơ quan hữu trách chưa thể được cải thiện một sớm một chiều và đòi hỏi cần có nguồn tài lực lớn để đầu tư, cần thiết để cho cơ chế thị trường được vận hành một cách thực sự hơn, đầy đủ hơn. Đây là cách thực tế nhất, nhanh mang lại hiệu quả với chi phí thấp nhất.

(4) Tăng cường pháp chế

Pháp chế, như đã được biết, là một chế độ và trật tự pháp luật trong đó tất cả các chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Tăng cường pháp chế trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động NH là việc các cơ quan nhà nước liên quan, bao gồm NHNN và các đối tượng bị quản lý là các TCTD, chi nhánh NH nước ngoài, tổ chức có hoạt động NH, mọi tổ chức KT và công dân, đều phải tuân thủ nghiêm các quy định pháp luật về tiền tệ và hoạt động NH.

được 2 trạng thái này, đặc biệt ở những quốc gia mà sự phối hợp giữa các cơ quan hữu trách trong mạng lưới an toàn tài chính (safety net) là yếu kém, lỏng lẻo, các NHTW thường buộc phải ra tay bơm thanh khoản cứu trợ trước – “phương sách cho vay cứu cánh cuối cùng – Lender of last resort”.19 Một lĩnh vực nhạy cảm đang được bàn luận nhiều là hoạt động đầu tư (investment banking).20 Các bằng chứng thực nghiệm về xử lý khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu 2008 cũng như giải quyết cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu hiện nay, chứng minh rất rõ điều này.

Page 12: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

Ghi nhận một thực tế là chúng ta đã buông lỏng pháp chế một thời gian dài. Chưa bao giờ hoạt động tiền tệ - NH lại hỗn loạn, vô tổ chức như những năm vừa qua. Tình trạng “lách luật”, thao túng, lũng đoạn thị trường, hiện tượng gian dối số liệu sổ sách và báo cáo, … diễn ra phổ biến. Và cơ quan thanh tra giám sát NH nhiều lúc đã tỏ ra “bất lực”, “buông xuôi” hay bị “vô hiệu hóa”. 21 Hệ quả là lòng tin của thị trường bị đổ vỡ, đe dọa khủng hoảng NH.22 Thực ra, những yếu kém của hệ thống NH đã tồn tích một thời gian dài trước đây và tất yếu sẽ “bục” ra khi bối cảnh kinh tế vĩ mô xấu đi, bong bóng tài sản xì vỡ.

(5) Giải quyết vấn đề “con người”

Mọi yếu kém, mọi nguyên nhân suy cùng là ở vấn đề “con người”. Trong khi chúng ta chưa thể “thay được máu” hoặc thiết lập lại cơ chế “lọc máu” hữu hiệu, thì việc “làm loãng máu” hay “cô lập phần máu độc”, cần thiết phải làm ngay. Công khai minh bạch, tăng cường trách nhiệm giải trình, áp dụng tối đa công nghệ thông tin hiện đại trong mọi quy trình tác nghiệp, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro đạo đức có thể phát sinh, có thể được coi là “giải pháp của mọi giải pháp”. Các chủ trương, chính sách, giải pháp dù hay bao nhiêu vẫn có thể bị phi hiệu lực, phi hiệu quả, thậm chí phản tác dụng do lỗi của người thực thi – trình độ, năng lực hạn chế, thái độ hành xử không đúng, đạo đức nghề nghiệp thoái hóa.

Thay cho lời kếtChính phủ đang trong tình thế lưỡng nan để giải quyết các khó khăn ngày càng

chồng chất của nền kinh tế, trong đó có vấn đề nợ xấu. Các công cụ điều hành kinh tế vĩ mô chủ yếu là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đều đã được vận hành hết công suất, đang hoặc sắp cạn kiệt dư địa hoặc trở nên kém hiệu lực, hiệu quả. Các giải pháp về phía cung cũng đã được hoạch định và bước đầu thực thi nhưng kết quả dự kiến mang lại chắc chắn còn là câu chuyện trong dài hạn.

NHNN cũng trong tình cảnh tương tự - phải theo đuổi những mục tiêu xung đột với nhau hay phải thực thi một số nhiệm vụ bất khả thi. Nói một cách ví von cho tình thế này: “Con người ta không thể chạy nhanh bằng một chân”. Vì vậy, thông điệp “Giải quyết những khó khăn của nền kinh tế Việt Nam nói chung và xử lý nợ xấu nói riêng không chỉ là trách nhiệm của ngành NH mà là của toàn bộ hệ thống chính trị” mà NHNN mới phát đi đầu năm nay, cần được thấu hiểu và chia sẻ rộng rãi, làm điều kiện tiền đề để NHNN

21 Thống đốc NHNN đã phải thừa nhận như vậy tại Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII. Việc ra tay tái áp đặt trần lãi suất huy động vốn hồi đầu tháng 9/2011 là bước đi đầu tiên của NHNN nhằm khôi phục lại pháp chế trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động NH.22 Cung cách điều hành của NHNN gần đây đã có sự thay đổi cơ bản: “nói” đi đôi với “làm”; dứt khoát và quyết liệt; chủ động, bài bản và có lộ trình tương đối rõ ràng; có “dự lệnh” trước khi ra “động lệnh” nhằm hạn chế gây “sốc” cho thị trường; tính công khai, minh bạch được cải thiện đáng kể, … Những điều này cùng với thành tích giữ được tỉ giá bình ổn suốt từ cuối năm 2011 đến nay, đã giúp củng cố đáng kể lòng tin của công chúng. Đây là tư duy và chủ trương rất đúng, rất đáng trân trọng, cần được kiên định thực hiện, nếu nhà điều hành coi trọng lòng tin thị trường và thực sự muốn khôi phục nó, duy trì nó.

Page 13: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

nói riêng, toàn ngành NH nói chung, có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng, Quốc hội và Chính phủ giao.

Cuối cùng, vẫn cần thiết phải khẳng định lại rằng: Trong bối cảnh thể chế kinh tế-chính trị của Việt Nam rất chậm thay đổi, nói đúng hơn là chưa thể thay đổi trong ngắn hạn, ngay cả dù cấu trúc nền kinh tế và mô hình tăng trưởng kinh tế đang tỏ ra lỗi thời; với hiện trạng nền kinh tế thực yếu kém, năng lực điều hành kinh tế vĩ mô bất cập, đang ngày càng bộc lộ nhiều khuyết tật từ khi Việt Nam mở cửa và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, chúng ta cần dũng cảm chấp nhận sự tồn tại của một hệ thống NH “lành mạnh, hoạt động an toàn, hiệu quả” (với mức nợ xấu trong ngưỡng kiểm soát) theo nghĩa tương đối, phù hợp với thời kỳ quá độ chuyển đổi kinh tế của chúng ta. Mọi mục tiêu đặt ra cao hơn mức này đều mang tính huyễn hoặc, khẩu hiệu, sẽ làm phi khả thi hệ thống chính sách và giải pháp thực hiện.

Diễn đạt bằng cách khác, với việc lựa chọn cách tiếp cận “từ từ”, sẽ né tránh được sự đổ vỡ, tuy nhiên chi phí cũng như thời gian cần thiết cho sự phục hồi hẳn cũng sẽ rất “dài dài”./.

Tài liệu tham khảo1. Maritime Bank – các báo cáo Triển vọng kinh tế Việt Nam định kỳ.2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Báo cáo thường niên các năm từ 2004-2010. 3. Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia - Kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 – 2011 và Triển

vọng 2012 – 2015.4. Uỷ ban Kinh tế Quốc hội và UNDP tại Việt nam, tháng 05/2012 – Báo cáo kinh tế vĩ mô

Việt Nam năm 2012: “Bất ổn vĩ mô: cơ hội tái cơ cấu nền kinh tế”.5. Thống đốc NHNN: Có cơ sở để đưa ra 3 gói bơm tiền, 22/02/2013 http://cafef.vn/tai-

chinh-ngan-hang/thong-doc-nhnn-co-co-so-de-dua-ra-3-goi-bom-tien-20130222043152444ca34.chn

6. www. gocnhinalan .com/ 7. Vũ Quang Việt, 23/1/2013, Khủng hoảng và hệ thống tài chính tín dụng - Phân tích ứng

dụng với kinh tế Mỹ và Việt Nam.

Page 14: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

Phụ lục: Bức tranh sơ bộ về nợ xấu ngân hàng đến 31/12/2012

49%

36%

8%7%

Thị phần tín dụng ngành NH

Khối NHTMNN

Khối NHTMCP

Khối NNg

Các TCTD khác

Khối NHTMNN với lợi thế cho vay khu vực kinh tế nhà nước, uy tín danh nghĩa và cơ sở khách hàng tốt nên tín dụng của khối này chiếm tỉ trọng lớn nhất với thị phần đạt 49%. Khối NHTMCP cũng phát triển nhanh chóng với thị phần tín dụng chiếm 36%.

39.8%

40.8%

4.5%15.0%

Tỉ trọng nợ xấu toàn hệ thống

Khối NHTMNN

Khối NHTMCP

Khoi NNg

Các TCTD khác

Nợ xấu tập trung chủ yếu ở khối NHTMNN và khối NHTMCP với tỉ trọng nợ xấu tương ứng là 40% và 41%. Khối nước ngoài với hạn chế về quy mô nên tỉ trọng nợ xấu thấp nhất ở mức 4.5%.

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

90%

100%

Khối NHTMNN Khối NHTMCP Khối NNg Các TCTD khác Toàn HT

Cơ cấu nợ có vấn đề

Nợ cần chú ý Nợ dưới tiêu chuẩn Nợ nghi ngờ Nợ có khả năng mất vốn

Trong cơ cấu nợ có vấn đề (bao gồm nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5), nợ cần chú ý chiếm tỉ trọng cao nhất. Đây là nhóm nợ có nguy cơ tiềm ẩn chuyển thành nợ xấu. Nợ có khả năng mất vốn của nhóm các TCTD khác chiếm tỉ trọng rất cao 58%, gây rủi ro lớn cho hoạt động của nhóm này.

Page 15: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

Dịch vụ và công nghiệp, xây dựng là những ngành chiếm tỉ lệ dư nợ tín dụng cao nhất, đồng thời nợ xấu cũng tập trung chủ yếu ở 2 ngành này.

Tỉ lệ nợ xấu ngành công nghiệp chế biến, chế tạo/tổng dư nợ ngành công nghiệp chế biến chế tạo đạt mức cao nhất 18.86%, tiếp đến là ngành xây dựng, 9.44%.

Page 16: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

24.9%

19.6%

6.0%

21.2%19.5%

0%

5%

10%

15%

20%

25%

30%

Khối NHTMNN

Khối NHTMCP

Khối NNg Các TCTD khác

Toàn HT

Tổng nợ xấu/(VCSH+Quỹ DPRRTD) Tỉ lệ tổng nợ xấu so tổng vốn chủ sở hữu cộng quỹ DPRRTD cho thấy khả năng chống đỡ của vốn đệm của từng khối NH cũng như của toàn hệ thống.

13.1

9.8

6.5

4.4

9.6

0

2

4

6

8

10

12

14

Khối NHTMNN Khối NHTMCP Khối NNg Các TCTD khác Toàn HT

Tỷ lệ Tổng tài sản/Vốn và các quỹ của toàn hệ thống Hệ số đòn bẩy tài chính của toàn hệ thống khá cao chủ yếu do tỉ lệ này quá cao ở khối NHTMNN, tiếp đến là khối NHTMCP.

Page 17: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

LNTT tính đến hết tháng 12/2012 của toàn hệ thống đạt 32.6 nghìn tỉ đồng, giảm -6.5 nghìn tỉ so tháng trước chủ yếu do chi phí DPRRTD tăng mạnh.

So năm trước, LNTT của toàn hệ thống giảm trên 31 nghìn tỉ đồng, tương đương -49%.

LNTT của tất cả các khối đều giảm so với năm 2011, trong đó khối NHTMCP có mức giảm mạnh 79.2%, khối NHTMNN giảm 4.1%, khối ngoại giảm 26.7%.

1.1%

0.3%

1.2%

-0.8%

0.6%

-1%

-1%

0%

1%

1%

2%

Khối NHTMNN

Khối NHTMCP

Khối NNg Các TCTD khác

Toàn HT

ROA ROA của toàn hệ thống giảm mạnh so với năm 2011, từ mức 1.4% xuống còn 0.6%.

ROA của khối NHTMNN đạt mức cao nhất, 1.1%. Tỉ lệ này ở khối NHTMCP là 0.3%.

Page 18: hoangthachlan.files.wordpress.com€¦  · Web viewĐây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở, lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của

14.5%

3.1%

8.2%

-3.8%

6.4%

-5%

0%

5%

10%

15%

20%

Khối NHTMNN

Khối NHTMCP

Khối NNg Các TCTD khác

Toàn HT

ROE ROE của toàn hệ thống cũng giảm mạnh so với năm 2011, từ mức 14.8% xuống 6.4%. ROE của khối NHTMNN đạt mức cao nhất, 14.5%. Tỉ lệ này ở khối NHTMCP chỉ còn 3.1%.

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kế toán thống kê đến 31/12/2012 của các TCTD và các nguồn số liệu sẵn có khác, cùng tính toán của Tác giả.