205

ệ ươ ạ ễ tranh T - ducavn.nl€¦ · những thành viên khác trong Ban Trầm Ca chính thức thành lập Phong trào Du ca Việt Nam – một tổ chức thanh niên

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

“Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ”

Tưởng Niệm

Người Du Ca Muôn Thuở

Tuyển Tập

Nhóm thân hữu thực hiện

2011

 

Tưởng Niệm Người Du Ca Muôn Thuở

Bìa : tranh Tạ Tỵ

Cung cấp hình ảnh : Hoàng Kim Châu Nguyễn Đức Tường Nguyễn Thị Minh Nhiên

Liên lạc: Quang Nguyen Điện thoại: 206-841-2728 Email: [email protected] In lần thứ ba tại : EE Printing, Kent, WA Điện thoại: 425-656-1250 Email: [email protected]

Tiểu Sử Tóm Tắt

Cố Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang

Nguyễn Đức Quang sinh ngày 11 tháng 2 năm 1944 tại Sơn Tây

Tháng 4 năm 1954: Theo gia đình vào miền Nam

Theo học tại Trường Trung học tư thục Huỳnh Khương Ninh - Sài gòn

1959-1961: Về Đà Lạt, tiếp tục học trung học đệ nhất cấp tại Trường Bồ Đề

1961-1964: Học trung học đệ nhị cấp tại Trường Trung học Trần Hưng Đạo Đà Lạt

1964-1968: Sau khi đỗ Tú tài toàn phần (Tú tài II), theo học tại Trường Chính trị - Kinh doanh thuộc Viện Đại học Đà Lạt, tốt nghiệp khóa I Chính trị Kinh doanh

Tham gia sinh hoạt Hướng đạo tại Đạo Lâm Viên - Đà Lạt năm 1959. Đội Trưởng của Đội Voi, đạt được đẳng hiệu Hướng Đạo Hạng Nhất, Đội Trưởng Nhất của Thiếu Đoàn Lê Lợi. Bầy trưởng Bầy Ngàn Thông 1964

Bắt đầu sáng tác nhạc từ năm 1961, ca khúc đầu tay là một bài hát dành cho Hướng Đạo có tên là Gươm thiêng hào kiệt. Từ 1963-1964 chuyển hướng sang các ca khúc có chủ đề “Tuổi trẻ, Quê hương, Dân tộc”.

Trong những năm 1964-1965, tham gia phong trào công tác xã hội. Sau mùa hè năm 1965, cùng với một số bạn đồng môn là cựu học sinh trường Trần Hưng Đạo thành lập một ban nhạc chuyên trình bày các bài hát dân ca, các bài ca sinh hoạt thanh niên và những bài “nhận thức ca” (sau này được gọi tên là trầm ca, “những bài hát trầm tư”).

Ngày 19-12 năm 1965, Ban Trầm ca chính thức ra mắt trong một buổi công diễn tại giảng đường Spellman - Viện Đại học Đà Lạt. Ca sĩ Phương Oanh gia nhập Ban Trầm Ca nhân dịp này.

Trong năm 1966, Ban Trầm Ca đã cùng với nhạc sĩ Phạm Duy lưu diễn tại nhiều tỉnh thành ở miền Nam.

Cuối năm 1966, được sự hỗ trợ của một số huynh trưởng hoạt động thanh niên tại Sài-gòn, Nguyễn Đức Quang và

những thành viên khác trong Ban Trầm Ca chính thức thành lập Phong trào Du ca Việt Nam – một tổ chức thanh niên có mục đích thông qua các hoạt động văn nghệ và sinh hoạt cộng đồng để giáo dục thế hệ trẻ. Là Trưởng xưởng Du ca (bộ phận sáng tác của Phong trào Du ca Việt Nam) từ 1966 đến 1972.

Năm 1979, cùng gia đình đến Hoa Kỳ, định cư tại Little Saigon - California. Hoạt động liên tục trong ngành truyền thông tại hải ngoại - nhất là báo chí:

- Giám đốc trị sự và chủ bút báo Người Việt và là tổng giám đốc đầu tiên của công ty Người Việt từ 1984 đến 1988.

- Sáng lập nhật báo Viễn Ðông. Sau khi rời báo Viễn Ðông, cộng tác với bạn bè lập công ty báo chí QMS Media, xuất bản báo Chí Linh, Phụ Nữ Diễn Ðàn, đài phát thanh và truyền hình VOC.

- Sáng lập viên, giám đốc Trại hè Project Vietnam Foundation.

Mất ngày 27-3-2011 (nhằm ngày 23 tháng 2 năm Tân Mão) tại Bệnh viện Fountain Valley Hospital, California, Hòa Kỳ, hưởng thọ 68 tuổi.

Được Hội Ðồng Trung Ương Hướng Ðạo Việt Nam truy tặng Bắc Đẩu Huân Chương, huy chương cao quý nhất của phong trào Hướng Ðạo Việt Nam dành cho Trưởng có công gìn giữ và xây dựng một phương pháp giáo dục thanh thiếu niên.

Hoàng Kim Châu

Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Lời Mở Đầu

Sáng sớm Chủ Nhật 27 tháng 3 năm 2011, những dòng chữ trên email của chị Cúc khiến chúng tôi buồn tê tái : Vĩnh biệt Quang Thôi thì, thì thôi anh đi

Lời giã biệt buồn như mùa Đông cuối,

Cầm tay anh gầy guộc,

Hơi ấm này

Còn sót lại bao lâu?

Bản nhạc tình

Anh dang dở viết

Dòng nhạc buồn..

Như cánh nhạn đơn côi….

Vĩnh biệt anh,

Thì thầm lời nói cuối

Thôi thì..

Thì thôi ...Quang đi,

Anh Quang đã vĩnh biệt chúng ta lúc 4:00am today .

Cúc

Lời thơ của chị Cúc như những giọt nước mắt rơi từng giọt, từng giọt thật buồn. Quang Du Ca đi quá sớm. Anh : Một Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước Một Nhạc Sĩ Du Ca Một Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt Một Huynh Trưởng Hướng Đạo Một Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Anh Mang Theo Anh Một Quê Hương Việt Nam Mênh Mông. Quang Du Ca là cựu Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt. Anh tốt nghiệp cử nhân Chính Trị Kinh Doanh, Khóa I. Viện Đại Học Đà Lạt có những điểm độc đáo: Đại đa số giáo sư và sinh viên là những người từ địa phương khác đến, sinh viên gắn bó thân thiết với nhau. Viện Đại Học Đà Lạt yên tĩnh, xinh đẹp, hiền hòa tạo ra một khung cảnh thật trí thức. Viện đại học Đà Lạt là Viện Đại Học Công Giáo, nhưng đa số sinh viên thuộc các tôn giáo khác, cùng thể hiện được tinh thần tự do và bao dung. Nguyễn Đức Quang Du Ca được sống và học trong môi trường Viện Đại Học Đà Lạt nên anh thấm nhuần và tích lũy được ít nhiều tinh thần của Viện Đại Học Đà Lạt. Đó là tinh thần THỤ NHÂN. Nhờ đó, anh đã thực hiện đuợc nhiều điều tốt đẹp cho xã hội.

Ngày nay Viện Đại Học Đà Lạt không còn nữa, nhưng cựu sinh viên vẫn khắc sâu trong lòng tinh thần Thụ Nhân và hình ảnh Viện Đại Học Đà Lạt, quê hương tinh thần của họ. Chúng tôi, một số bạn đồng môn của Quang Du Ca tại Viện Đại Học Đà Lạt. Chúng tôi gom những bài viết về Quang Du Ca của anh chị cựu sinh viên Viện Đại Học và các bạn thân thiết của Quang vào tuyển tập “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” Tưởng Niệm Người Du Ca Muôn Thuở như một lời cảm ơn Quang Du Ca, một trong những người đã gây được tiếng thơm cho Viện Đại Học Đà Lạt chúng tôi. Đồng thời qua tuyển tập, chúng tôi cũng muốn gởi đến quí độc giả tinh thần tự do và bao dung của Viện Đại Học Đà Lạt, tinh thần sẵn sàng giúp ích tha nhân của Hướng Đạo, lòng hăng say nhiệt tình của tuổi trẻ thập niên 60, 70 trong việc hiến dâng cho đất nước tấm lòng trong sáng vô vị lợi Chúng tôi xin chân thành cám ơn các anh chị tác giả

của những bài viết trong tuyển tập “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” Tưởng Niệm Người Du Ca Muôn Thuở.

Nhóm Thân Hữu Của Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang

MỤC LỤC

Tiểu sử tóm tắt 5

Lời mở đầu. 8

Hoàng Ngọc Tuệ

Con chim đầu đàn của Du Ca Việt Nam 15

Mai Thái Lĩnh

Người nhạc sĩ du ca đã ra đi mãi mãi … 23

Nguyễn Xuân Hoàng

NhạcNĐQ, tuổi trẻ, mặt đất và hiện tại 35

Mai Kim Đỉnh

Dòng nhạc như thế 42

Hoàng Kim Châu

Tuổi trẻ chúng tôi 57

Có Mười Ba Trại Sinh 82

Vịt Mùng Năm 90

Chuyện của Quang, không nói hết .. 99

Phan Ni Tấn

NĐQ, người yêu tôi bệnh 108

Trần Trọng Thảo

Chuyện nhớ, Chuyện quên … 112

Hoàng Ngọc Nguyên

Nơi đến miền vĩnh cửu 124

Nguyễn Quang Tuyến

NĐQ hát giã từ Đà Lạt 138

Tưởng niệm NĐQ 151

15

HOÀNG NGỌC TUỆ Du Ca

Con Chim Đầu Đàn Của Du Ca Việt Nam Nhạc Sĩ Nguyễn Ðức Quang, người Trưởng sáng tác đầu đàn của Phong Trào Du Ca Việt Nam vừa vĩnh viễn ra đi, để lại nhiều thương tiếc cho thân quyến, bằng hữu, giới trẻ cũng như cộng đồng trong và ngoài nước Vào dịp này, người viết về Du ca, cũng như tài liệu về Nguyễn Ðức Quang cũng đã được phổ biến khá nhiều, tôi chỉ xin thêm những phần liên quan mà tôi có biết vì đã tham dự để độc giả biết rõ thêm về một phong trào hoạt động trong nước hơn 40 năm trước nhưng có những điều chưa được sáng tỏ.

Bối cảnh 11, 1963 Sau chính biến 11/63, thanh niên, sinh viên, hướng đạo cũng như các đoàn thể thanh niên đang hoạt động, đặc biệt tại Saigon, đã cảm thấy có bầu không khí cởi mở.

16

Chính quyền quân sự cũng mong muốn giới trẻ tham gia các công tác cứu trợ, xã hội, ủy lạo chiến sĩ tiền tuyến.

Du Ca họp mặt tại tư gia Nguyễn Ðức Quang, cuối thập niên 1980s, tại California. Từ trái, hàng đứng: Ðỗ Ngọc Yến, Ngô Lê Trọng Tú, Nguyễn Thiện Cơ, Hoàng Ngọc Tuệ, Lý Văn Chương, một thân hữu, Nguyễn Khả Lộc, một thân hữu, Phạm Thị Thân, Trần Văn Ngô, một thân hữu. Từ trái, hàng ngồi: Nguyễn Thị Nhuận, Phan Huy Ðạt, Tống Hoằng, Võ Thành Ðiểm, một thân hữu (áo sẫm), Nguyễn Ðức Quang (phía trước), Nguyễn Thượng Hiệp, Lê Ðình Ðiểu, một thân hữu, Phạm Quốc Bảo, một thân hữu.

Ðầu năm 1964, sinh viên hầu hết các phân khoa ở Saigon đều có bầu cử ban đại diện để ra làm việc như đứng ra làm nội san, liên lạc các giáo sư phụ trách in bài vở cho các bạn cùng lớp, tổ chức văn nghệ cuối mùa học v.v...Cũng trong năm 1964 này, Saigon xảy ra 3 biến cố có ý nghĩa trong lĩnh vực thanh niên và sinh viên.

Về lĩnh vực sinh viên: Sau hơn 8 năm, các hoạt động của sinh viên bị bỏ quên, đúng ra là không có hoạt động, một Tổng Hội Sinh Viên Saigon mới được thành lập và một cuộc bầu cử tự do, công khai được tổ chức giữa 3 liên danh để gần 8 ngàn sinh viên thuộc 7 phân khoa chính ở Saigon cùng bầu ra một ban chấp hành. Năm

17

này, hơn 11 ngàn sinh viên ghi danh bầu cử. Liên danh Lê Hữu Bôi thắng cử.

Hai biến cố còn lại nằm trong lĩnh vực hội đoàn.

Một là sự ra đời một đoàn thể thanh niên mới mang tên Phong Trào Học Ðường Phục Vụ Xã Hội mà mục đích đã quá rõ qua danh xưng của tên gọi. Phong trào này do chính tôi đứng ra vận động thành lập với thành phần trưởng là các giáo sư các trường trung hoc. Hai năm sau, 1966, khi Phong Trào Du Ca được thành lập và hoạt động, chính các Trưởng của Phong Trào Học Ðường trở thành cố vấn và bảo trợ viên cho Phong Trào Du Ca mới thành lập.

Hai là sự ra đời một dự án công tác trại tại Thủ Ðức, phối hợp thực hiện chung giữa nhiều đoàn thể như Hướng Ðạo, Sinh Viên Phật Tử, Sinh Viên Công Giáo, Thanh Niên Thiện Chí v.v... Dự án trại này mang tên Liên Hội Công Tác Nông Thôn. Dự án chỉ thực hiện công tác được một ngày Chủ Nhật trong năm 1964, không giúp ích cho đồng bào nghèo được điều gì cụ thể, nhưng lại tiềm ẩn lợi ích cho việc vận động một dự án lớn hơn vào năm sau.

Dự án Liên Hội Công Tác Nông Thôn vừa nói trên dạy cho anh em chúng tôi ba điều:

Thứ nhất: Ðược biết chính quyền quân sự không còn e ngại thanh niên, sinh viên, và rất dễ dãi cho chúng tôi hoạt động trong lĩnh vực xã hội.

Thứ hai: chúng tôi được biết việc huy động thanh niên, sinh viên hay việc kết hợp các “lãnh tụ” sinh viên các trường đại học và các “lãnh tụ” sinh viên khác tôn giáo là có thể được.

Thứ ba: Với các “lãnh tụ” trẻ của chúng ta lúc bấy giờ, họ hiểu được rằng, muốn làm công tác xã hội thành công cũng cần có phương tiện, và ở đây là tiền.

18

Vào cuối năm 1964, đã bắt đầu có cuộc vận động cho một dự án công tác xã hội lớn do 33 “lãnh tụ” sinh viên thanh niên sáng lập. Ðó là công tác liên hội đoàn trong mùa Hè 1965 lấy tên “Chương Trình Công Tác Hè 1965.”

Chương Trình Hè 65 Trước hết, cần phải nói về sự xuất hiện của ban Trầm Ca.

Tôi phải thưa ngay là, nếu không có Ban Trầm Ca xuất hiện ngay lúc này thì công việc thành lập Phong Trào Du Ca không được thuận lợi như sẽ được trình bày sau đây.

Ban Trầm Ca được thành lập năm 1965 với buổi ra mắt chính thức trình diễn tại giảng đường Spellman, Viện Ðại Học Ðà Lạt đêm 19 tháng 12, 1965.

Ban Trầm Ca gồm 7 thành viên, sáu nam, một nữ: Trần Trọng Thảo, Hoàng Kim Châu, Nguyễn Ðức Quang, Nguyễn Quốc Văn, Hoàng Thái Lĩnh, Ðinh Gia Lập và Ðỗ Thị Phương Oanh.

Ban Trầm Ca hát nhạc trầm ca, khai phá, loại nhạc phối hợp nhận thức và tình tự dân tộc, sau này được gọi là Du Ca.

Tôi trình bày hơi dài dòng về các hoạt động của thời kỳ này để độc giả được biết, vì chính Nguyễn Ðức Quang đã chọn cái hướng đi về tương lai từ đây, như được Hoàng Thái Lĩnh kể lại trong tuyển tập “Em Ðã Ðến” dưới đây:

“Lúc bấy giờ, vào khoảng 1965, trong dịp Hè, tôi về thăm gia đình ở Ðà Lạt và gặp Quang. Sau đó tôi và vài anh bạn theo dự một kỳ trại công tác (Quang làm trại trưởng) tại một ngôi làng Thượng nằm cách Ðà Lạt khoảng hai, ba chục cây số đường về hướng Nam. Kỳ trại này nằm trong một chương trình lớn là “Chương

19

Trình Công Tác Hè 1965.” Ðây là lần đầu tiên tôi tham dự một kỳ trại công tác, và do đó, mọi sự đều mới mẻ đối với tôi. Những kỷ niệm hào hứng của kỳ trại công tác đó đã lôi kéo tôi vào cái trào lưu “công tác xã hội” đang lớn mạnh hồi bấy giờ. Tôi về Saigon với Quang và sau đó tham gia trại công tác, gặp gỡ Phạm Duy để rồi bắt đầu bước vào con đường du ca.”

Sau khi Chương Trình Hè 1965 kết thúc qua năm 1966, tác giả bài viết này được đổi về làm tại Bộ Thanh Niên phụ trách kế hoạch và huấn luyện. Dựa vào ngân sách của bộ có sẵn, tôi mời Ban Trầm Ca cộng tác soạn một chương trình huấn luyện ngắn ngày, lấy tên là Chương Trình Huấn Luyện Thanh Ca và Tác Ðộng gồm tám khóa.

Khóa Thanh Ca Tác Động tổ chức tại Vùng IV Chiến Thuật

Các đề tài huấn luyện gồm: phương pháp tổ chức hội nghị, phương pháp hàng đội tự trị, dân ca, nhạc sinh hoạt, trò chơi, băng reo, động tác ca và các bài ca khai phá của Nguyễn Ðức Quang được đem vào chương trình để giảng dạy. Các khóa huấn luyện Thanh Ca & Tác Ðộng này được tổ chức tại Saigon, Huế, Ðà Lạt và một số tỉnh thành khác.

20

Sự xuất hiện của Ban Trầm Ca cùng cách tổ chức mới mẻ do các Trưởng thanh niên, đa số xuất thân từ các đoàn thể, đã có thành tích trong tổ chức công tác cũng như quá trình làm việc tập thể, đã tạo được nể nang của học viên và uy tín cho chương trình.

Các khóa huấn luyện này cũng có sự cộng tác giảng dạy của nhóm nhạc sĩ Anh Việt Thu, Phạm Minh Cảnh, Ngọc Hoài Phương hồi bấy giờ.

Sự kết hợp tiền định

Thời gian mấy tháng hợp tác phụ trách 8 Khóa Thanh Ca Tác Ðộng đã đẩy Ban Trầm Ca cũng như các Trưởng vòng ngoài, trong số đó có Ðỗ Ngọc Yến và chúng tôi, đi đến quyết định mau chóng là phải thành lập một tổ chức hợp pháp, có qui mô toàn quốc, để tiếp tục công việc tác động giới trẻ.

Ban Trầm Ca đề cử ba nhân sự đứng tên thành lập hội (Phong Trào Du Ca Việt Nam).

Chủ tịch đầu tiên: Ðinh Gia Lập

Tổng thư ký kiêm thủ quỹ: Nguyễn Ðức Quang

và 1 thành viên: Hoàng Thái Lĩnh

Trụ sở khai báo để xin phép để ở đâu tôi không được rõ, nhưng thư từ liên lạc đề về số 114 đường Sương Nguyệt Anh, Saigon. Cho đến gần hết năm 1972 thì trụ sở được dời về một địa chỉ đường Lê Lai.

Không ai trong chúng tôi biết trước nhưng ngày nay nhìn lại sự kết hợp và chuyển hóa giữa Thanh Ca Tác Ðộng, Trầm Ca và Du Ca thì thấy rõ như một tiền định kỳ diệu.

Tổ chức và phát triển Du Ca Việt Nam Theo cơ cấu tổ chức, phong trào gồm 2 khối: Một chủ tịch phụ trách hành chánh, pháp lý, tổ chức đoàn viên và

21

yểm trợ; và một trưởng xưởng phụ trách sáng tác, ca mục, huấn luyện, tổ chức sinh hoạt.

Phương pháp tổ chức thì đơn giản. Ðơn vị căn bản, nhỏ nhất là Toán từ 5, 7 đến 15 hay 25 đoàn viên. Có nhiều Toán thì lập thành Ðoàn.

Lấy việc huấn luyện Toán Trưởng nòng cốt làm chiến lược tổ chức phát triển.

Phát triển trước tiên là phát triển sự sáng tạo và tự trị.

Sinh hoạt toán, đoàn tại địa phương hoàn toàn tự túc, tự nguyện với sự giúp đỡ của các giáo sư cố vấn hay huynh trưởng bảo trợ. Các vị hiệu trưởng hay Ty Thanh Niên được yêu cầu giúp đỡ về hành chánh hay tiếp vận nếu có thể.

Trung ương phụ trách đài thọ các khóa huấn luyện, ca mục, tài liệu, giảng viên, phụ trách tổ chức các đại hội thường niên.

Các ca khúc mới do đoàn viên sáng tác được trình bày và phổ biến rộng rãi.

Xưởng Du Ca sẽ đưa vào ca mục những ca khúc hay và phù hợp với chủ trương lành mạnh của phong trào.

Tài năng Nguyễn Ðức Quang Cho đến tận bây giờ, 45 năm sau, tài năng ấy cũng đã làm triển nở nhiều tài năng sáng chói khác để đóng góp cho tương lai đầy hứa hẹn của một Phong Trào Du Ca đại chúng mới.

Vì giới hạn của đề tài hôm nay, vấn đề cao trào sáng tác ca khúc mới do ảnh hưởng Nguyễn Ðức Quang, qua Phong Trào Du Ca, sẽ được nghiên cứu trình bày trong một dịp khác.

Vai trò hệ trọng trao cho thế hệ Du Ca Mới đang thành hình để góp sức với Du Ca trong nước tìm cơ hội gây dựng lại phong trào cho nhu cầu lịch sử sẽ phải cần đến.

22

Các bài Du Ca của Nguyễn Ðức Quang cũng như của nhiều Trưởng Du Ca khác vẫn còn sức hấp dẫn giới trẻ trong và ngoài nước.

Cám ơn những Du Ca đã khuất Hơn 45 năm đã đi qua, phong trào để lại trong tôi nhiều kỷ niệm vui buồn lẫn lộn. Là Du Ca, chúng ta luôn cố gắng sống như một công dân tốt. Nhưng không chỉ có thế là chúng ta tự thỏa mãn, chúng ta còn biết lo toan cho người bên cạnh, bênh vực cái hay, chống lại cái xấu. Chúng ta hy vọng sự trường tồn những ca khúc mà chúng ta đã và đang hát vang vang sẽ cung thêm nguồn sinh khí cho dân tộc Việt được cường thịnh.

Du Ca còn mãi mãi và dân tộc vẫn trường tồn.

Tưởng nhớ với lòng mến thương vô biên Trưởng Nguyễn Ðức Quang, cùng các Trưởng đã lìa bầy trong những năm tháng trước đây: Nguyễn Quốc Văn, Nguyễn Tri Bình, Giang Châu, Huỳnh Trọng Ðạt, Nguyễn Ðình Cường, Nguyễn Tất Nhiên, Lê Ðình Ðiểu, Nguyễn Ðức Dziên, Hồ Văn Nuôi, Nguyễn Ðức Tấn, Trần Ðại Lộc, Trần Ðình Quân, Trầm Tử Thiêng, Lý Văn Chương, Nguyễn Thanh Hùng, Ðỗ Ngọc Yến, Nguyễn Ngọc Thạch.

Xin quý trưởng hãy phù hộ cho chúng tôi được đủ sức gánh vác.

Friday, April 01, 2011 4:41:39 PM

23

MAI THÁI LĨNH

tức HOÀNG THÁI LĨNH Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Người Nhạc Sĩ Du Ca Đã Ra Đi Mãi Mãi... Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang – cánh chim đầu đàn của Ban Trầm Ca và Phong trào Du Ca Việt Nam, đã vĩnh viễn ra đi. Là một người bạn, tôi muốn nhân dịp này phác họa lại một số nét về cuộc đời của người nhạc sĩ du ca này – người đã để lại cho đời những bài hát nói lên ước vọng, tâm tình của cả một thế hệ sinh ra và lớn lên trong chiến tranh.

Nguyễn Đức Quang sinh ngày 11 tháng 2 năm 1944 tại Sơn Tây, là con trai thứ trong một gia đình có 6 anh chị em – ba trai, ba gái.

Tháng 4 năm 1954, cha anh – một viên chức trong ngành giáo dục, được điều động vào Sài Gòn. Nguyễn Đức Quang – lúc đó mới 10 tuổi, theo cha mẹ vào Nam. Sau hiệp định Genève (tháng 7 năm 1954), đất nước bị

24

chia đôi, gia đình Quang cũng bị chia cắt: người anh cả cùng ba người chị gái ở lại miền Bắc, chỉ có anh và đứa em trai út sống ở miền Nam cùng với cha mẹ cho đến tháng 4 năm 1975.

Năm 1959, cha anh được điều động lên công tác tại Ty Tiểu học Đà Lạt. Yêu mến cảnh vật và con người nơi đây, mẹ anh quyết định chọn nơi này làm quê hương và mua lại căn nhà số 33 đường Calmette (nay là đường Phạm Ngọc Thạch) làm nơi cư ngụ lâu dài của gia đình. Thành phố Đà Lạt chính là nơi Nguyễn Đức Quang đã sống một thời tuổi trẻ và cũng là nơi để lại những kỷ niệm sâu đậm nhất, in dấu ấn vào nhiều bản tình ca của anh sau này.

Tại Đà Lạt, sau hai năm theo học tại Trường Bồ Đề, kể từ năm đệ tam Quang vào học tại trường Trung học Trần Hưng Đạo. Sau khi tốt nghiệp Tú tài II (năm 1964), Quang theo học tại Viện Đại học Ðà Lạt và tốt nghiệp khóa 1 Chính trị Kinh doanh vào năm 1968.

Từ tuổi thiếu niên, Quang đã ham mê các sinh hoạt đoàn thể, nhất là phong trào Hướng đạo. Những người bạn thân thiết đầu tiên của anh như các anh Hoàng Kim Châu, Đoàn Chiêm, v.v... về sau đều trở thành những huynh trưởng Hướng đạo nổi tiếng. Là một thiếu sinh, anh trở thành Đội trưởng Đội Voi, và sau đó là Đội trưởng Nhất thuộc Thiếu đoàn Lê Lợi. Năm 1964, anh đảm nhiệm chức Bầy trưởng Bầy Ngàn Thông của Đạo Lâm Viên. Tinh thần Hướng đạo ấy, Nguyễn Đức Quang đã giữ mãi trong suốt cuộc đời, thể hiện trong nhiều sáng tác âm nhạc cũng như các hoạt động nhiều mặt của anh.

Vốn có năng khiếu về âm nhạc, Nguyễn Đức Quang đã ham mê sáng tác các ca khúc ngay từ thời còn trẻ.

25

Nhưng khác với các nhạc sĩ khác - thường bắt đầu quá trình sáng tác âm nhạc của mình bằng các bản tình ca, ca khúc đầu tay của anh là một bài hát dành cho Hướng đạo có tên là “Gươm thiêng hào kiệt” (1961).

Trong những năm 1963-1964, những biến cố chính trị dồn dập xảy ra ở miền Nam đã khiến Nguyễn Đức Quang bắt đầu quan tâm đến những vấn đề chung của đất nước. Không chỉ dừng lại ở những bài hát tập thể dành cho các sinh hoạt thanh thiếu niên, Quang bắt đầu chuyển hướng sang các ca khúc có chủ đề “Tuổi trẻ, Quê hương, Dân tộc”. Những suy tư của cả một thế hệ thanh niên sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, những ưu tư đối với vận mệnh của dân tộc, sứ mệnh của những người thanh niên yêu nước được chất chứa trong một loạt bài hát về sau được gọi tên là Trầm ca (những bài hát trầm tư) . Bài hát tiêu biểu cho thể loại này là bài “Nỗi buồn nhược tiểu”.

Trong những năm 1964-1965, khi phong trào công tác xã hội bùng lên ở miền Nam, Quang cùng các bạn tham gia các hoạt động xã hội như: làm công tác xã hội, cứu trợ nạn nhân bão lụt, nạn nhân chiến tranh, ... Những bài hát của anh bắt đầu được phổ biến trong các trại công tác xã hội, trong các đoàn thể thanh thiếu niên như Hướng đạo, Gia đình Phật tử, Thanh sinh công, v.v... đặc biệt là trong Chương trình Công tác hè năm 1965.

Sau mùa hè năm 1965, cùng với một số bạn đồng môn là cựu học sinh trường Trần Hưng Đạo (Hoàng Kim Châu, Trần Trọng Thảo, Nguyễn Quốc Văn, Hoàng Thái Lĩnh), Nguyễn Đức Quang thành lập một “ban nhạc”. Đây là một “ban nhạc” cực kỳ gọn nhẹ: chỉ với một cây đàn ghi-ta thùng và những giọng hát không chuyên

26

nghiệp của những sinh viên gốc Đà Lạt, ban nhạc này đã nhanh chóng chinh phục được nhiều người hâm mộ. Phong cách biểu diễn hoàn toàn mới mẻ: người đến tham dự không chỉ để nghe hát và vỗ tay hoan hô mà cùng hát với những người trên sân khấu theo tinh thần “hát hay không bằng hay hát”, “hát với nhau”, “cùng nhau hát”. Trong nửa cuối năm 1965, ban nhạc này vẫn chưa có tên chính thức mặc dù đã đi hát ở nhiều nơi và được hoan nghênh nhiệt liệt Tháng 12 năm 1965, ban nhạc của Nguyễn Đức Quang trở về thành phố quê nhà. Đêm 19-12-1965, ban nhạc đã chính thức ra mắt tại giảng đường Spellman – Viện Đại học Đà Lạt; cùng tham gia chương trình có nhạc sĩ Phạm Duy với những bài “tâm ca” vừa mới sáng tác. Đêm kế tiếp (20-12) ban nhạc lại trình diễn một buổi thứ hai tại giảng đường Thụ Nhân và lần này có sự tham gia của Phương Oanh – ca sĩ hát dân ca tài năng nhất của miền Nam thời đó. Sau lần trình diễn chung đó, Phương Oanh gia nhập ban nhạc và trở thành giọng ca nữ duy nhất của ban nhạc hình thành từ ngẫu hứng này. Sau thời điểm lịch sử đó, ban nhạc lấy tên là Trầm Ca. Ngày 19-12-1965 có thể được xem là ngày ra đời của Ban Trầm Ca và cũng là sự khởi đầu của Phong trào Du Ca về sau này.

Bước qua năm 1966, Ban Trầm Ca đã cùng với nhạc sĩ Pham Duy đi lưu diễn ở một số tỉnh thành ở miền Nam. Được sự hỗ trợ của một số huynh trưởng hoạt động thanh niên tại Sài-gòn, Nguyễn Đức Quang và Ban Trầm Ca đã tổ chức 8 khóa Thanh ca Tác động nhằm đào tạo hạt nhân để phát triển phong trào. Cuối năm 1966, Phong trào Du ca Việt Nam được chính thức thành lập như một tổ chức thanh niên tự nguyện với mục đích giáo dục thế hệ trẻ thông qua các hoạt động văn

27

nghệ và sinh hoạt cộng đồng. Đinh Gia Lập – một hướng đạo sinh, cựu học sinh Trường Trần Hưng Đạo, cũng là một thành viên của Ban Trầm Ca mặc dù không tham gia trình diễn, đã trở thành Chủ tịch lâm thời của Phong trào Du Ca.

Năm 1967, Phong trào Du Ca tổ chức Đại hội lần đầu tiên tại Sài Gòn. Dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ được bầu làm Chủ tịch và đã giữ chức vụ này cho đến khi được thay thế bởi nhà báo Đỗ Ngọc Yến (năm 1972). Tổ chức thanh niên mới mẻ này đã phát triển rộng khắp trên khắp các tỉnh thành ở miền Nam Việt Nam cho đến tận tháng 4 năm 1975 mới ngưng hoạt động tại quốc nội.

Từ trái sang phải: Hoàng Thái Lĩnh, Trần Trọng Thảo,

Nguyễn Thạc (một thân hữu), Hoàng Kim Châu và Nguyễn Đức Quang.

Có một chi tiết thú vị cần được nhắc đến: nhà để xe (garage) và nhà bếp của ngôi biệt thự số 114 đường Sương Nguyệt Anh – Sài Gòn (tư gia của anh Tuệ) chính là “tổ ấm” của Ban Trầm Ca ngay từ lúc ban nhạc chưa có tên. Nói cách khác, huynh trưởng Hoàng Ngọc Tuệ chính là vị “mạnh thường quân” đã cưu mang Ban

28

Trầm Ca và Phong trào Du ca ngay từ thời còn trứng nước.

Là một tổ chức thanh niên, Phong trào Du ca Việt Nam bao gồm nhiều bộ phận, trong đó phần sáng tác âm nhạc được giao cho “Xưởng Du ca” , do Trưởng Xưởng Du Ca phụ trách. Nguyễn Đức Quang là Trưởng Xưởng Du Ca đầu tiên kể từ năm 1966 cho đến khi giao lại trách nhiệm cho nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu tức Trần Tú vào năm 1972.

Sau biến cố 30-4-1975, mặc dù chiến tranh chấm dứt nhưng gia đình của Nguyễn Đức Quang vẫn không có cơ hội đoàn tụ. Do thời gian phục vụ trong quân đội VNCH, mặc dù đã được biệt phái về ngành ngân hàng, Quang phải trải qua một thời gian “học tập cải tạo” khoảng 3 năm. Năm 1979, sau khi từ trại học tập cải tạo trở về, Nguyễn Đức Quang cùng vợ con vượt biên đến tị nạn tại Hoa Kỳ. Như vậy là gia đình anh lại ly tán một lần nữa. Đó chính là lý do chúng ta thấy Nguyễn Đức Quang cho đến trước khi lìa đời vẫn mang một tâm sự buồn, và vẫn hoài vọng một sự đoàn tụ thật sự của cả dân tộc trong tương lai.

Kể từ khi định cư tại Little Saigon - California, Nguyễn Đức Quang hoạt động liên tục trong ngành truyền thông. Trong những năm 1984-1988, anh đã từng là Giám đốc trị sự, Chủ bút và Tổng giám đốc của Báo Người Việt - tờ nhật báo nổi tiếng nhất của người Việt hải ngoại phát hành tại California – Hoa Kỳ. Thời gian sau đó, anh sáng lập nhật báo Viễn Đông. Sau khi rời báo Viễn Đông, anh còn cộng tác với bạn bè lập công ty truyền thông và làm một số tờ báo khác. Trong thập niên cuối cùng của đời mình, anh tìm cách nối lại vòng tay thân ái

29

giữa những thanh niên Mỹ gốc Việt với thanh niên trong nước thông qua các trại hè do Project Vietnam Foundation tổ chức.

Nhưng cho dù hoạt động trong bất cứ ngành nghề nào, dòng máu âm nhạc vẫn còn chảy mạnh mẽ trong con người Quang. Vì thế, trong khoảng một thập niên cuối đời, anh trở lại với sáng tác ca khúc và gắn bó với hoạt động của Phong trào Du ca Việt Nam - được hồi sinh tại hải ngoại từ hơn một thập niên trở lại đây. Anh đã đi lưu diễn ở nhiều nơi trên thế giới, từ Bắc Mỹ cho đến châu Úc, châu Âu, đồng thời tiếp tục sáng tác ca khúc mới.

Sau khi người vợ thân yêu của anh qua đời (tháng 3-2009) và sau hai lần vượt qua bệnh tật, vào tháng 2 năm 2010, Quang đã về ăn Tết tại quê nhà. Anh đã có dịp thăm lại gia đình các anh chị ở miền Bắc, có dịp thăm lại căn nhà cũ, nơi gia đình của người em trai là Nguyễn Đức Vinh đang cư trú. Vào đêm 19-2-2010, trên căn gác thân thương, anh đã hát cho các em, các cháu và những người bạn thân thiết ngày xưa nghe một số bài hát mới do anh sáng tác trong những năm cuối đời.

Hoàng Thái Lĩnh và Nguyễn Đức Quang

(Đà Lạt - Tết Canh Dần 2010)

30

Đó cũng chính là lần cuối cùng anh trở về thăm Đà Lạt để rồi ra đi vĩnh viễn, không bao giờ trở lại với thành phố thân thương – nơi có “con phố xưa”, có “con dốc nhỏ” đã ghi lại dấu tích của tình yêu và những cảm xúc đầu đời.

Sau chuyến đi châu Âu (tháng 9 năm 2010), Nguyễn Đức Quang trở lại Hoa Kỳ để chuẩn bị cho những buổi trình diễn nhạc du ca. Chính trong quá trình tích cực chuẩn bị cho một buổi sinh hoạt âm nhạc dự kiến tổ chức vào hạ tuần tháng 2 năm 2011, Quang bị đột quỵ vì tai biến mạch máu não. Ngày 11-2-2011, Quang được đưa vào bệnh viện và một tháng rưỡi sau đó, anh ra đi vĩnh viễn vào 4 giờ sáng ngày 27-3-2011 (giờ California – Hoa Kỳ) nhằm ngày 23 tháng 2 năm Tân Mão, hưởng thọ 68 tuổi (tính theo âm lịch). Ngay buổi chiều hôm đó, anh được Hội đồng Trung ương Hướng Ðạo Việt Nam truy tặng Bắc Đẩu Huân Chương, huy chương cao quý nhất của phong trào Hướng Ðạo Việt Nam dành cho trưởng có công gìn giữ và xây dựng một phương pháp giáo dục thanh thiếu niên.

Là con chim đầu đàn của Phong trào Du ca, Nguyễn Đức Quang đã để lại cho chúng ta một di sản âm nhạc phong phú thuộc nhiều thể loại, từ tình ca cho đến các bài hát sinh hoạt cộng đồng, nhưng đáng chú ý nhất là những bài hát “nhận thức” - chất chứa tình tự dân tộc, lòng yêu quê hương, những suy tư của người dân một nước nhược tiểu muốn vươn lên để làm thay đổi số phận của dân tộc mình. Trong số các bài hát do anh sáng tác, nhiều bài hát đã được phổ biến rộng rãi trong nhiều thế hệ thanh niên, đến mức ngay cả những người yêu thích cũng không hề biết rõ xuất xứ của bài hát. Cuối năm 2007, bài “Việt Nam quê hương ngạo nghễ” đã được các thanh niên sinh viên học sinh yêu nước hát lên trong dịp

31

tổ chức biểu tình để phản đối việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa nhưng mãi về sau, người ta mới biết đó là một bài hát do Nguyễn Đức Quang sáng tác vào giữa thập niên 1960.

Trong những ngày này, tưởng niệm Nguyễn Đức Quang, chúng ta – những thân quyến và bằng hữu của anh, và cả những người ái mộ anh thuộc nhiều thế hệ, trong đó có những người đã sát cánh cùng anh từ gần nửa thế kỷ qua, không khỏi bùi ngùi xúc động khi nhớ đến anh với dáng người cao nghều, với giọng hát dũng mãnh không cần đến micro, chỉ với cây đàn và tiếng hát đã đi đến khắp nơi, từ những nơi đầy khói lửa chiến tranh đến tận những xóm nghèo trong các đô thị, từ các sân khấu ngoài trời trong khuôn viên các trường đại học cho đến tận các vùng quê cằn cỗi, để dùng tiếng hát, lời ca nói lên những tâm tình của một thế hệ thanh niên sinh ra và lớn lên cùng chiến tranh nhưng trong tận đáy lòng vẫn mong ước đến hòa bình.

Trong một đất nước mà dân tộc bị phân ly, trải qua một cuộc nội chiến kéo dài, nguyện vọng sau cùng của Quang vẫn là hàn gắn vết thương lòng của dân tộc, như lời hát của bài “Trên đồi Arlington” – một trong những sáng tác sau cùng của anh. Xin trích dẫn một số đoạn:

“... Làm sao tin thế được?

Làm sao gọi là vinh quang?

Cuộc chiến vùi sâu dân tộc,

khơi dậy những hờn căm

Thắng ngoáy dài mũi kiếm

Thua xuống cuối biển đông

32

Sao gọi anh hùng được

Hồn lệ sử thấu chăng?

Đã bảo vết thương không nhắc nữa

Vì ai khoe sẹo khiến bâng khuâng

Ừ nhỉ xưa kia thành quách đổ

Thắng bại anh hùng có xứng chăng?”

Nhưng Nguyễn Đức Quang không dừng lại với cái nhìn bi quan, với tâm trạng yếm thế. Bước ra khỏi cuộc nội chiến, anh vẫn hy vọng vào tương lai, mong ước đến sự hàn gắn vết thương vô cùng lớn, vô cùng sâu mà chiến tranh đã để lại trong lòng mỗi gia đình cũng trong lòng toàn dân tộc. Nhìn vào những nấm mộ chiến sĩ vô danh trong nghĩa trang Arlington - tượng trưng cho những người lính Mỹ của cả hai phía trong cuộc nội chiến Nam-Bắc, anh vẫn nuôi hy vọng đến một lúc nào đó, những người lính Việt Nam đã hy sinh trong chiến tranh dù là ở Nam hay ở Bắc cũng đều có thể nằm cạnh nhau. Đó chính là lúc khép lại quá khứ, khép lại một giai đoạn lịch sử để mở đường cho một tương lai mới, như lời kêu gọi của những tử sĩ muốn nhắn gửi qua lời ca của người nhạc sĩ du ca:

...Này bạn, cùng chiến đấu,

cùng gục ngã viên đạn ngược đường bay

Về đây, cùng tới đây, chia nhau nghĩa trang này

không lời hờn oán đắng cay

...Bắc Nam cùng mạch sống!

Thắng thua đều anh hùng !

33

Bốn mùa hoa nở rộ, dưới mộ đài hùng tráng

chung dòng “Tổ Quốc Ghi Công”

Mặc dù Nguyễn Đức Quang đã ra đi giữa lúc những vết thương do nội chiến gây ra vẫn chưa được hàn gắn, chúng ta có thể tin tưởng rằng nguyện vọng của anh – cũng là nguyện vọng chung của cả một dân tộc đã trải qua chiến tranh, đau thương, ly tán, nhất định sẽ trở thành hiện thực. Nếu thế hệ của Nguyễn Đức Quang không làm được điều đó thì chúng ta cũng có thể tin chắc một điều: các thế hệ mai sau của người Việt Nam sẽ làm được điều đó!

Xin hãy cùng nhau tưởng nhớ đến một người đã cùng chia sẻ với chúng ta những kỷ niệm của một thời chiến tranh, một thời ly tán - thời của những hy vọng và thất vọng, thời của sự đan xen giữa lý tưởng trong sáng và thực tế khắc nghiệt. Nhưng đó cũng là một thời của những sinh hoạt thanh niên sôi nổi, thời của những tình cảm đầm ấm, những mối liên hệ thân thiện đã nảy sinh từ trong khói lửa chiến tranh và từ những nỗi buồn ly biệt. Cũng chính từ trong đau thương và mất mát, đã nảy sinh tình thân yêu giữa những người hoạt động thanh niên, những người yêu âm nhạc và yêu sinh hoạt cộng đồng, yêu lời ca và tiếng hát, yêu đời và yêu người, những người tin vào chính mình đồng thời luôn hướng đến tha nhân, những người luôn nuôi dưỡng những niềm “hy vọng đã vươn lên”, đang vươn lên và mãi mãi sẽ vươn lên như những lời ca, tiếng nhạc mà Nguyễn Đức Quang đã để lại cho đời, cho người và cho cả dân tộc...

Đà Lạt ngày 3-4-2011

34

CHÚ THÍCH [1] Trầm trong tiếng Hán-Việt có nghĩa là “chìm xuống, sâu kín”. Trầm tư: suy nghĩ sâu xa. [2] Sương Nguyệt Anh là bút hiệu của bà Nguyễn Ngọc Khuê, còn gọi là bà Năm Hạnh, người con gái thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu (tức cụ Đồ Chiểu). Bà là người phụ nữ đầu tiên của Việt Nam làm chủ bút một tờ báo.Thời chúng tôi tạm trú ở đó, bảng tên đường ghi là Sương Nguyệt Ánh nên chúng tôi quen gọi là đường Sương Nguyệt Ánh. [3] Xưởng là một thuật ngữ có nguồn gốc từ Hướng đạo, dùng để chỉ một bộ phận chuyên ngành chuyên nghiên cứu hoặc sáng tác nhằm phục vụ các sinh hoạt thanh thiếu niên.

35

NGUYỄN XUÂN HOÀNG Văn khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Nhạc Nguyễn Đức Quang, Tuổi Trẻ, Mặt Đất và Hiện Tại I. Cho dù các ca khúc của Nguyễn Đức Quang được viết cách đây hơn 30 năm ở trong nước, âm nhạc của anh mỗi khi vang lên bao giờ cũng thổi đến trong lòng người nghe hơi nóng của một trái tim bốc lửa.

Tuổi trẻ, đó là hơi thở trong toàn bộ những sáng tác của anh. Và quê hương là hình ảnh đẹp đẽ trong tiếng nói của anh. Các ca khúc của Nguyễn Đức Quang có thể nói tràn ngập những lời tình tự dân tộc.

Có người nói, âm nhạc của Nguyễn Đức Quang không thiếu những tình khúc. Điều này không sai, nếu tình khúc được hiểu như những khúc ca viết cho một mối tình khổ đau, chia ly, tan vỡ. Những Vì Tôi Là Linh Mục, Thiên Thu (phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên)… chỉ là một chút màu xanh trong bức tranh hoành tráng của tuổi trẻ trong âm nhạc của anh.

Nguyễn Đức Quang viết và hát và anh biết rõ anh đang viết gì, hát gì!

36

Vào giữa thập niên sáu mươi, bẩy mươi, trong khi Sài Gòn và các tỉnh trong Nam vang lên một số những ca khúc não nuột, sướt mướt, những khúc bi ca nấc lên từ một trầm tư siêu hình, bốc hơi từ một thứ triết học trên mây,… Nguyễn Đức Quang – dù mới vừa bước vào tuổi hai mươi – đã chọn mặt đất, thực tại xã hội, dân tộc và quê hương làm hướng đi của anh.

Ban Trầm Ca sinh họat trên Đồi Cù, Dalat 1966

Nhạc Nguyễn Đức Quang đã đánh thức một tuổi trẻ bị chìm đắm trong cơn mê dài của những dòng nhạc ru ngủ. Những ca khúc của anh mang tên Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương, Xương Sống ta Đã Oằn Xuống, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, Không Phải Là Lúc…, Hy Vọng Đã Vươn Lên,…. Đã làm nên một Nguyễn Đức Quang khoẻ mạnh và vạm vỡ.

Không phải là lúc ngồi đặt vấn đề nữa rồi, phải dùng bàn tay mà làm cho tươi mới… Nguyễn Đức Quang đã nói như thế với những người cùng trang lứa với anh, và cái thông điệp ấy không phải chỉ riêng cho một tuổi trẻ Việt Nam. Thông điệp ấy anh đã gửi đến cho toàn thể con người Việt Nam trong một xã hội đang tan rã, trong một đất nước đang bị chia cắt từ đất đai đến tấm lòng…

37

Nếu xem những khúc bi ca làm đẫm ướt trái tim là bóng tối thì những ca khúc của Nguyễn Đức Quang là ánh sáng.

Nếu xem những tình khúc nức nở, nghẹn ngào là quá khứ thì nhạc của Nguyễn Đức Quang bao giờ cũng là của hiện tại.

II. Tôi muốn nói nhạc của Nguyễn Đức Quang sẽ thuộc về hiện tại và mặt đất bao lâu mà xã hội chúng ta vẫn còn những con buôn (ở khắp nơi), còn những em bé ngồi khóc bên vỉa hè, còn những đứa trẻ lang thang ngoài đường phố, không nhà cửa, không người thân; bao lâu vẫn còn quanh quẩn đâu đây những ruồi nhặng và kên kên… thì nhạc Nguyễn Đức Quang vẫn còn tác động trên cuộc sống chúng ta.

Hãy nghe Nguyễn Đức Quang hát:

Anh ơi, mau đi coi món hàng chúng bán

Trên Bến Chương Dương,

Bên đường Tự Do, giữa nơi rừng già,

Buôn trong Chùa, Phật không tha,

thần không qua, buôn cả Thánh Chúa.

(Bọn Lái Buôn Ở Khắp Nơi)

Một lời phỉ báng đốt cháy một đời như là cây đuốc

một lời đàm tiếu cũng khiến họ hàng xa gần nhơ nhuốc

vậy mà một nước có mỗi ngày hàng trăm tờ tin tức

toàn lời nhục nhã mắng nhiếc phẩm bình chê bai không dứt

đó anh!

38

Xem đây quê hương tôi một thùng rác lớn

Nơi đây đang vây quanh một đàn ruồi xanh

Đàn ruồi xanh

ruồi xanh….

(Ruồi và Kên Kên)

Nhưng nhạc Nguyễn Đức Quang không chỉ đưa ra những mặt tiêu cực của cuộc sống. Nhạc của anh còn chứa đựng một tình yêu tràn trề về quê hương và hy vọng cho những ngày tới. Đó là những khúc hoan ca: Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương, Bầu Trời Quê Hương Ta, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ…cho thấy một Nguyễn Đức Quang tích cực trước cuộc sống:

Này người yêu, người yêu tôi ơi,

Bên kia sông là ánh mặt trời

Này người yêu người yêu anh hỡi,

Bên kia đời cỏ hoa đan lối…

(Bên Kia Sông – Thơ My Sơn)

Hy vọng đã vươn lên trong màn đêm bao ưu phiền

Hy vọng đã vươn lên trong lo sợ mùa chinh chiến

Hy vọng đã vươn lên trong nhục nhằn, tràn nước mắt

Hy vọng đã vươn lên như làn tên

Đang rực lên trong màn đêm….

(Hy vọng Đã Vươn Lên)

Và một trong những ca khúc đã làm Nguyễn Đức Quang trở nên người của quần chúng, của đám đông, có lẽ là Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ. Ở ca khúc này, âm

39

nhạc của Quang như một cơn lũ cuốn phăng đi mọi rác rưởi, phá tan đi xích xiềng, đốt cháy đi ô nhục….

Ta như nước dâng, dâng tràn có bao giờ tàn

đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang

lê sau bàn chân gông xiềng của thời xa xăm

đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang…

(Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ)

Tôi hiểu âm nhạc của Nguyễn Đức Quang phải gắn liền với xã hội, con người, quê hương, đất nước của chúng ta. Âm nhạc của anh phải được đập theo nhịp đập của những trái tim sôi nổi của một tuổi trẻ không bằng lòng với hiện tại. Âm nhạc của anh phải được vang lên trên vỉa hè thành phố từ Bắc chí Nam, vang lên trên các sân trường đại học, trên cánh đồng, trong khu rừng bập bùng ánh lửa, ở những nơi mà đồng bào ta cần những bàn tay, những cánh tay… Có thể nói nhạc của Nguyễn Đức Quang không thích hợp trong không khí của một phòng trà, nơi mà những ly cà phê đắng, những mịt mù khói thuốc và hơi rượu cay đốt cháy một đời tuổi trẻ….

Như tên một ca khúc của anh, nhạc của Nguyễn Đức Quang là những tiếng rống của những đàn bò:

“Sao chúng tôi phải làm mãi thân bò sát, trườn mình đi trong vũng tối mất tương lai?

Sao chúng tôi phải làm mãi loài lạc đà, mang niềm đau của một người nô lệ già?...”

(Tiếng Rống Đàn Bò)

Nguyễn Đức Quang không phải là người nói nhiều. Anh tin người và yêu đời.

Trong những năm ở Quận Cam, chúng tôi từng có những buổi sáng thứ Sáu ngồi bên nhau trong tiệm ăn có

40

tên Spires ở góc đường McFadden-Brookhurst – và lúc đó tôi thấy một Nguyễn Đức Quang hoạt bát khi anh nói về quê hương, xã hội và âm nhạc. Tôi nói, nhạc của anh chưa mất tính hiện tại, nhạc của anh vẫn còn nguyên vẹn tính chất thời sự của nó khi được vang lên trên đường phố Việt Nam hiện tại.

Tôi cho rằng sở dĩ nhạc của Quang đi vào trái tim người trẻ dễ dàng và mạnh mẽ như vậy bởi vì nhạc của anh đi thẳng từ một trái tim lọc qua một khối óc tinh nhạy. Nguyễn Đức Quang suy nghĩ trên lời nhạc trước khi ghi lại những suy nghĩ ấy bằng âm thanh. Và cũng có thể ngược lại. Tôi nhớ có lần nhạc sĩ Phạm Duy nói với tôi: Nếu Lê Uyên Phương viết bằng da thịt thì Nguyễn Đức Quang viết bằng lý tưởng. Tôi không hiểu nhận định ấy của Phạm Duy đã gây cho Lê Uyên Phương và Nguyễn Đức Quang những suy nghĩ gì? Tôi chỉ có thể lập lại một điều: Nhạc của Nguyễn Đức Quang trước hết thuộc về Mặt Đất và Hiện Tại.

Là học trò của nhạc sĩ Lê Thương, nhưng âm nhạc của Nguyễn Đức Quang là một kết hợp kỳ lạ của ba dòng sông: âm hưởng của Nga qua những khúc dân ca, như Hò Kéo Gỗ Trên Sông Volga [lời Phạm Duy], những bài nhạc Do Thái [He-Sha-Luz] sáng tác cho những kibbutz, và sau cùng cốt lõi của nó chính là dân ca Việt Nam.

Những buổi sáng thứ Sáu, từ quán ăn Spires trong thị xã Garden Grove, California, chúng tôi đã hình thành một tình bạn không bằng lời nói. Cũng như những dấu lặng trong âm nhạc, sự im lặng trong tình bạn chính là một thứ ngôn ngữ chứa nhiều ý nghĩa nhất.

Tôi thích nhạc Nguyễn Đức Quang, nhưng có thể tôi còn thích anh nhiều hơn ở nhân cách của anh.

III. Bắt chước một nhà nghiên cứu phê bình văn học, chúng ta có thể nói: Nhân vật trung tâm của âm nhạc là người nhạc sĩ, nhưng sự phát triển của âm nhạc tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác. Đó là tài năng và nhân

41

cách. Tài năng là cái trời cho, chỉ có thể bồi đắp chứ không thể đào tạo. Nhưng nhân cách thì ai cũng cần phải có. Đôi khi nhân cách còn quan trọng hơn cả tài năng. Và người ta chỉ thật sự có nhân cách khi biết sống vì những lẽ phải lớn, biết giữ được lòng trong sáng, và biết trung thực trước mỗi thử thách của cuộc sống. Không có nhân cách thì sẽ hoặc ngông nghênh vô lối, hoặc khúm núm xu thời….

Nguyễn Đức Quang, hơn là một nhạc sĩ tài năng, anh là một con người nhân cách.

Điều đó làm âm nhạc anh lớn hơn cái chiều cao nó vốn có. Điều đó làm cho người ta càng quý Nguyễn Đức Quang hơn và yêu âm nhạc của anh nhiều hơn.

Phần lớn những ý tưởng trong bài viết này đã là tựa cho tập nhạc Nguyễn Đức Quang Dưới Ánh Mặt Trời, xuất bản vào tháng Tám 1995.

42

MAI KIM ĐỈNH Chính Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt

Dòng Nhạc Như Thế...

Quang Bê thân quý:

Ngày nào cũng vậy, Mộng Vân luôn “question” : Viết cho anh Quang chưa?

Sáng nay khá rét. Ra vườn sau ngắm chùm hoa hồng đầu mùa. Mân mê từng stem hoa Iris vàng hàm tiếu. Quang ơi, càng thấm thía ý thơ đậm chất Thiền :

“ Sáng sớm ra vườn choàng thêm áo

Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh ….”

Phấn đấu với cái “ self “ nhỏ bé. Switch on PC. Mười ngón tay khẽ chạm keyboard. Lâu rồi, không còn nhớ bao nhiêu niên tàn, nguyệt tận.

Quang ơi giúp editing nhé.

Khỏe bao nhiêu, viết bấy nhiêu.

Hôm nay gửi Quang và tiếp tục viết cho đến cuối.

Kiên nhẫn giúp nhé Quang ..

43

Nhắc Quang với cả tấm lòng : Editing, Censoring và nếu không hợp với tập sách, giữ riêng cho Quang Bê.

Thân lắm

Tư Liệt

Bốn mươi chín ngày rong chơi

Bảy tuần thất siêu độ

Chừ mới thật phá chấp cái nhục thân ba chiều

Chừ mới thật đồng qui cái “ own-self “ với “đại ngã “ vũ trụ.

Không còn kiêu tâm … Quê hương … ngạo nghễ

Không còn xa vọng … Quê hương … bên kia sông.

Chỉ còn … Quê hương … mênh mông một cõi đi về.

44

I. Du Ca … Lần Đầu Bao giờ … ban đầu nào dễ quên. Hai năm đầu Chính Trị Kinh Doanh chỉ phân biệt Nguyễn Đức Quang Hà Nội với Nguyễn Đức Quang Sơn Tây. Mãi giữa năm thứ ba, tham dự trại công tác Dampao qua “ dụ khị “ của Nguyễn Tường Cẩm, đồng chủ quán café T2 Sinh viên Đại học Đà Lạt với Nguyễn Lập Chí : “ Có người đẹp Long Xuyên “. Trưa đi học về, ghé hội quán Thanh Niên Thiện Chí Đà Lạt, réo Trương Duy Hào ghi danh kèm trại phí. Hậu kiểm sổ sách. Đành rành mỹ danh Từ Thị Hoàng ! Giọng đặc sệt cơm cao lâu Hội An, Trương Duy Hào “ ban ơn “ : “ Lẽ ra đã khóa sổ, đặc cách cho ghi danh vì lần đầu tham dự trại công tác Thanh Niên Thiện Chí.”

Nộp tiền lòng tiếc hùi hụi, trị giá cả tuần cơm Lữ Quán Thanh Niên, trú sở đoàn Sinh Viên Công Tác Xã Hội của Hoàng Văn Lộc. Hình dung cái sóc thượng, lâu nay là “đất thánh “ của Trần Khánh Tuyết và Chris Jenkins. Ớn da gà. Bù lại có Từ Hoàng trắng xinh như bông bưởi tứ giác Long Xuyên.

Không quên chuẩn bị đồng hồ báo thức. Sáng tinh sương, lần đầu vệ sinh răng miệng kỹ càng. Cười thầm trong bụng : Công tác Dampao, dơ như … trâu. Đánh răng tốn tiền mua kem Hynos. Không quên khăn gói mang theo, chủ yếu kem “dưỡng da” Thorakao gia đình Lê Thị Hảo sáng chế.

Sáng hôm ấy dẫu không lá rụng ngập đường, cũng không có áng mây bàng bạc, rời nhà trọ 48 Võ Tánh đến điểm hẹn Thanh Niên Thiện Chí với tất cả hăm hở như cậu bé Thanh Tịnh buổi đầu theo mẹ đến trường.

45

Giúp Trương Duy Hào và Hồ Phán bê nồi niêu, song, chảo dùng phục vụ khâu nấu nuớng do các chị đảm đương trong hai ngày công tác. Vẫn không quên đảo mắt nhìn từng trại viên nữ nhập đoàn. Ray rứt chưa thấy bóng dáng ai đó. Trại trưởng Hồ Phán đối chiếu danh sách và nói với đoàn công tác : “ Xe dừng trước lò bánh mì Vĩnh Chấn. Chờ các chị ở đại học xá và mua thêm bánh mì ăn sáng trên xe “.

Lần lượt các tiểu kiều, đại kiều leo lên xe. Vẫn chưa thấy ! Bất chợt thấp thoáng từ xa, Nguyễn Việt Anh, Lê Thị Thủy … không theo nhóm, vậy là sẽ hiện diện. Chờ và đợi ! Xe chuyển bánh. Chỉ muốn phóng khỏi xe, nhưng đành ngồi bó gối cạnh Bùi Ngọc Nga.

Để lại phía sau cây xăng Kim Cúc, xe đổ dốc đèo Prenn. Thấp thoáng trang trại mận. Mận đèo Prenn chất lượng cạnh tranh ngang ngửa mận Trại Hầm.

Bầu không khí vui nhộn khi các “ thợ “ hát hò nhạc công tác bắt đầu quậy : “ Tích tích tích tình tang tang, đời anh chị em mình nào khác thuyền nan … trôi nó trôi bồng bềnh … “. Xen vào bài hát trêu Ngọc Nga : “ Con gì kia nó ngồi, ngồi trong xe, nó đưa cái lưng ra ngoài … ấy là Ngọc Nga … “ Nhìn Ngọc Nga cười an nhiên, lòng thêm quí bạn. Ngọc Nga và nhóm nữ Trần Thị Hạnh, Phạm Thị Sáng, Lạc Kim Anh, Nguyễn Thiện Nhiên, Nguyễn Phương Lan, Nguyễn Kim Xuyến, Hoàng Lan Anh, Trần Khánh Tuyết, Lê Ngọc Sương … không chút tiểu thư đài các, cùng chung nhóm Trâu Bò, Thanh Niên Thiện Chí và Đoàn Sinh Viên Công Tác Xã Hội đã thiết đặt nền móng trại công tác xã hội.

Bỗng nghe : “ Ta như nước dâng, dâng tràn có bao giờ tàn … vẫn nụ cười vang vang …” Dầu không tiếng đàn

46

mộc Tây Ban Cầm, không tiếng trống rộn rã; vẫn lồng lộng như mây trời; vẫn ngút ngàn tiếng gió chiều cô thôn êm ả. Cuốn hút theo dòng nhạc chuyển tải qua lời ca không trau chuốt như Lưu Hữu Phước, không mượt mà như Phạm Duy, không ấn tượng như Phạm Đình Chương. Phải nói là … điền dã, là chân quê.

Hỏi Ngọc Nga :” Ai đã dàn dựng khúc nhạc ? “ Ngọc Nga trả lời : “ Anh Đỉnh không biết Quang Du Ca ?” Ngọc Nga nói tiếp : “ Quang Du Ca là Quang Sơn Tây“. Không hỏi gì thêm.

Dàn trải tâm tình qua dòng nhạc, không rõ bản thân Quang Sơn Tây hoặc ai đó gọi tên Du Ca. Chỉ biết bềnh bồng trong tâm thức dòng nhạc thôi thúc, không phải vùng lên hay đứng dậy đáp lời sông núi hoặc ra đi mùa thu theo tiếng kêu sơn hà nguy biến. Ngạo nghễ chìm lắng trọn vẹn trong chiều sâu chịu đựng vô vàn đắng cay …. Anh em ta hơn trăm năm nằm gai uống chai … mật đắng … vậy mà vẫn nhìn thấy cuối trời niềm tin bất biến về một tên gọi Việt Nam … With the eyes of faith, it can be seen that pain and suffering are the presence of Hope.

Dampao trước mặt. Quạnh quẽ. Đìu hiu. Nghèo. Không chỉ dấu phát triển; dẫu rằng có Bộ chuyên trách sắc tộc.

Không phải lần đầu Thanh Niên Thiện Chí Đà Lạt triển khai công tác xã hội góp phần phát triển Dampao. Trại viên kỳ cựu cho biết bản thân Trần Khánh Tuyết và Chris Jenkins đã sớt chia tuổi thanh xuân lứa đôi cho bản làng.

Tranh thủ thời gian, trại trưởng Hồ Phán “chỉ thị” phân nhiệm từng tổ thi công : Lợp tôn các lớp học, cắt tóc trẻ

47

em và lão ông, tổng vệ sinh bản làng. Không kém quan trọng là khâu ẩm thực và lửa trại.

Đoàn Công Chánh Phú Lộc làm quản trò buổi lửa trại. Lần đầu tiên thực chứng sinh hoạt trại đêm càng thêm thấu suốt tấm lòng Thụ Nhân. Sống. Cười. Hát hay không bằng hay hát. Nối vòng tay lớn ! Không lằn ranh chị - anh - tôi. Không lộ tuyến tôn giáo, chính trị. Bà lão đang cuốc bên hè; từng nhát (cuốc) gieo sao nhọc ghê … Bà mẹ Gio Linh ! Bà mẹ Du Ca vô danh ! Ơi mẹ Việt Nam nghèo nàn muôn thuở ?

Trại đêm kết thúc. Lưu luyến chia tay dân bản làng cũng chính là từ biệt từng Thụ Nhân với hứa hẹn : Shalom ! Shalom ! Nous nous reverrons !

Đất nước chiến tranh; cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. What will be will be ! Nhìn lần cuối ánh lửa bập bùng sót lại. Đâu đây róc rách suối nước cạn giữa hè. “Người đi lâu chửa thấy về; nhớ người dòng suối Damê gợn sầu …” (Bùi Khánh Đản, Khóc Nhất Linh).

Mai này trở lại trường lớp. Khác gì đà điểu chui đầu tìm quên thực trạng chiến tranh khốc liệt qua các giáo trình hầu như “ lòe loẹt “ trong bối cảnh tiếng pháo vọng về từng đêm. Kế toán. Tiếp thị. Điều hành xí nghiệp. Phát triển kinh tế. Thật hiện đại. Rất cập nhật từ giáo dục Âu Mỹ … Nhưng cơ hồ lạc lõng như vấn nạn Nguyễn Khuyến : Sách vở ích gì cho buổi ấy ….

Ngả lưng trên mấy tấm ván bìa mà sáng mai đóng vách cho lớp học. Mắt thật cay trong đêm sâu. Trí não đông đặc. Tất cả chừng như nothingness. Chỉ còn tiếng trở mình, tiếng thở Thụ Nhân. Chập chờn bóng dáng Quang Sơn Tây. Bóng dáng lêu nghêu vói chiếc cổ dài

48

đong đưa, với nụ cườì thật rộng, thật ấm áp dành cho bạn bè. Trừ đôi mắt Sơn Tây u uẩn dành cho Minh Thông …

II. Du Ca Koinonia

Dư chấn trại Dampao thôi thúc kiếm tìm động lực phía sau tạo hình dòng nhạc Du Ca. Bao nhiêu câu hỏi bấy nhiêu cái mũ sẵn sàng chụp phủ đầu người trong cuộc. Có thể xác lập chỉ riêng Việt Nam mới có tình ca quê hương với chiều kích “ macro “. Ngay như Mỹ, country music không quán xuyến, không chở chuyên tâm tình toàn bộ liên bang. Hạn hẹp ở một dòng sông, ở một thị trấn … Nói gì Anh quốc hay toàn lục địa Châu Âu.

Giáp mặt cuộc chiến vượt ngoài khung khổ chữ S, bởi gắn liền thế trận tam giác chiến tranh gọi là lạnh, nhưng thật nóng giữa ba trung tâm quyền lực : Nhà Trắng - Điện Cẩm Linh – Trung Nam Hải, khó lòng dấy lên thành phong trào, dẫu thuần túy mang danh nghĩa nhạc ngợi ca tình tự quê hương. Chế độ Ngô Đình Diệm đích thực là bà đỡ khai sinh hàng loạt tình ca quê hương, đúng hơn là Miền Nam. Về dưới mái nhà; Chiếc đò vĩ tuyến; Giấc ngủ cô đơn; Người từ là từ phương Bắc, đã qua dòng sông, sông dài ( Khúc hát ân tình )… Đáng quý và thán phục là các nhạc sĩ hoàn toàn tự do chuyên chở tâm tình quê hương qua năm dòng kẻ .

Đôi lần gặp nhau ở giảng đường, vẫn không hỏi bạn. Cho đến buổi chiều giải lao giữa giờ, Quang Du Ca tiến đến thân ái mời về nhà ăn tối. Trong khi chờ cơm, Quang Du Ca dẫn đến phòng riêng. ngổn ngang sách vở. Quang nói :’’ Mình viết Du Ca ở đây và vài nơi khác “. Hỏi :” Cảm hứng nào tạo hình dòng nhạc Du Ca ?”. Quang từ tốn :” Đây chỉ là lối ra khác mà thôi. May mà

49

nó đứng được và bước tới. “ Quang không nói gì thêm. Giây lâu sau, Quang Sơn Tây khẽ đập vai :” Ông bà già chờ mày ăn tối “.

Ngôi nhà cũ số 33 đường Calmette (nay là đường Phạm Ngọc Thạch) nơi Nguyễn Đức Quang sống quãng đời thanh niên.

Căn nhà gỗ phía sau ngôi nhà cũ số 33 đường Calmette nơi

Nguyễn Đức Quang sáng tác những bản nhạc đầu tay.

Mẹ của Quang thật dịu dàng, gắp thức ăn cho bạn của con. Sắp gác đũa, bà nhìn con trai thật sâu và nói :” Hai bác lo cho cái ông du ca, du tử này. Quân dịch ruợt sau

50

lưng, vẫn đi hoang hát hò …” Từ mẫu thủ trung tuyến; Du tử thân thượng y; Lâm hành mật mật phùng; Ý khủng trì trì qui … “ (Mẹ hiền ngồi may áo; Con trẻ mặc đi hoang; Ra đi khó mong gặp; Muộn bước quay trở về…)

Tạm gác tìm hiểu thêm Du Ca và dòng nhạc của Quang Sơn Tây, bởi một phần do yêu cầu bức bách hoàn tất hai phúc trình tập thể kèm hai luận văn cá nhân hầu thỏa mãn yêu cầu tốt nghiệp chuyên ban chính trị và kinh doanh. Nhưng chủ yếu xuất phát từ hệ lụy chiến sự Miền Nam ngày càng leo thang khốc liệt. Cũng do yêu cầu sưu tập dữ liệu cho nghiên cứu kết khóa nên có dịp ở lại Sài Gòn dài ngày hơn các năm trước. Nhờ vậy, những lúc rảnh việc thường đi đến các hiệu sách Khai Trí, Xuân Thu cùng hàng loạt thư quán ven phố Lê Lợi - Tự Do … Lý thú vẫn là tìm đến các nhà xuất bản tầm cỡ như Lá Bối, An Tiêm, Giao Chỉ, Trình Bày … không kể Phủ Quốc Vụ Khanh Văn Hóa tái xuất bản các công trình biên tập của Lê Quí Đôn, Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên … Cơ quan Văn Hóa Á Châu (Asia Foundation) tài trợ hình thành ấn quán Hiện Đại, nhằm mục tiêu phổ cập văn hóa Mỹ song hành kế hoạch viện trợ “thương mại hóa”. Ngạc nhiên trước khối lượng sách báo xuất bản hàng loạt, biên khảo công phu từ nhiều cây bút nổi danh như (Thích) Nhất Hạnh, Bửu Ý … cộng thêm biết bao nhiêu sách, truyện dịch từ những tác phẩm lừng danh quốc tế. Sách báo tạp chí đa dạng như thế, đầu sách gián tiếp hay trực tiếp đặt vấn đề chiến tranh Việt Nam, hiện tình Miền Nam … cơ hồ như vắng bóng. Ngụp lặn trong dòng xoáy văn hóa 12 tháng trước sự cố Tết Mậu Thân, bảy năm trước khi Miền Nam đổ sụp, các vấn đề đặt ra qua dung lượng đồ sộ đầu sách được

51

xuất bản khó tìm thấy quan hệ biện chứng số phận con chốt Miền Nam trong ván bài chính trị quốc tế. Mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh (truyện dịch A l’ouest rien nouveau), bối cảnh thế chiến I không là Khe Sanh, Đồng Dã hay Đường 9 Hạ Lào … Lướt qua toàn bộ sách báo “ ra lò “ tính từ thời điểm trước Hiệp định Paris đến tháng 4 năm 1975, lác đác dăm ba đầu sách gọi là mang tính chính luận cung ứng góc nhìn về tương lai hay số phận Miền Nam. Tiêu biểu : Chính đề Việt Nam (Tùng Phong) , Giải pháp cho vấn đề Việt Nam (Đại tá Hoàng Văn Lạc) , Đóng góp 1 & 2 (Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo) … tựu trung chỉ phác thảo cuộc chiến khốc liệt thật giản đơn khác nào bố cục tranh thủy mặc. Nếu lượng giá, có lẽ chỉ Nguyễn Văn Hảo xem là thành công khi “marketing“ và được thử nghiệm cơ chế hành chánh mới tạm gọi “ mô hình “ phó tỉnh trưởng kinh tế, cạnh bên đồng cấp chuyên trách hành chánh, bên dưới tỉnh trưởng cấp bậc hai hoặc ba mai trắng (Trung /Đại tá).

Ngụp lặn trong “ lò cừ “ cuộc chiến, một số không nhỏ tìm đến thế giới “ hình nhi thượng “ qua hàng loạt sách thiền đa phần chuyển dịch (Thiền luận của Suzuki). Dòng nhạc chở chuyên tình tự đất Việt, người Việt không vượt thoát bước chuyển trì trệ tinh thần. Tâm Ca, Du Ca chỉ âm vang trong các trại công tác xã hội, thiện nguyện. Nỗ lực đáng kể là dự án CPS (Chương trình phát triển sinh hoạt nhằm đối tượng học sinh, sinh viên) do một số thầy cô giáo tâm huyết điều hành ( Hà Tường Cát, Trần Đại Lộc …) dấy lên phong trào trại hè sinh hoạt cộng đồng học sinh cấp 2, cấp 3 và sinh viên.

Đáng tiếc chính quyền Sài Gòn đã không tiếp sức mà còn quá nặng tay càn quét dòng sinh hoạt tinh thần trí

52

tuệ. Chụp mũ đối lập, thành phần thứ ba. Hoạt cảnh náo loạn gần như diễn ra mỗi ngày trước khi báo phát hành. Phủ “đầu rồng “ ra sức tịch thu hay niêm phong giờ thứ 25, khi phát hiện sở kiểm duyệt (gọi tên rất ấn tượng Sở phối hợp “ nghệ thuật “) đã sơ sót cho qua bài báo nào đó không hợp khẩu vị “ bề trên” . Lý thú là biếm họa phản ánh một ông tướng đội vương miện đăng quang sau màn “độc diễn “ tranh cử. Vương miện tạo hình ba cái trách (niêu đất dân quê dùng kho cá) chồng lên nhau. Giúp người xem thấu hiểu, họa sĩ ký tên BA TRÁCH kề bên vương miện. Hàm ý đầu đội BA TRÁCH (của quý hiếm phụ nữ Mỹ Tho khá đồ sộ do màu mỡ phù sa sông Tiền vun bồi, nên “ sách “ có câu : Gái Mỹ Tho … kho ba trách. Đệ nhất phu nhân đích thị quê quán Định Tường)

Chiến tranh giờ đây không còn khoanh vùng ở tuyến đầu Bến Hải, Thạch Hãn, Cổ thành Quảng Trị, Đồng chó ngáp, An Lộc, U Minh … Chiến tranh không chỉ tiếp cận. Sừng sững trước mắt khi Sài Gòn giáp mặt đạn súng cối, tên lửa 122 ly phóng không cần tọa độ. Sài gòn trở thành vùng pháo kích tự do. Sài Gòn giới nghiêm. Sài Gòn thiết quân luật. Vậy mà Sài Gòn vẫn sống hối hả theo từng giọt cà phê đậm đặc, mặc cho công sự chiến đấu, giao thông hào đào xới loang lở khắp nơi.

Hoàng hôn phủ dần trên từng mặt trận. Sài Gòn cuống quít dàn dựng năm ba bích chương vinh danh Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn Văn Đương … Đếm không trọn mười ngón tay. Réo rắt. Ra rả suốt đêm ngày dòng nhạc ma trơi … Anh trở về trên đôi nạng gỗ, trên chiếc

53

xe tang. Ngày mai đi nhận xác chồng … Du Ca ở đâu hỡi Quang Sơn Tây ?

Đến với Du Ca từ ánh lửa Dampao. Gần nửa thế kỷ, giờ đây nhìn lại dòng nhạc Du Ca, thai nghén từ cẩm vực Viện Đại Học Đà Lạt, định hình từ mây trời Lâm Viên bạt ngàn. Phải chăng những gì còn đọng lại trong tâm thức thiên ma bách chiếc của thế sự du du mới thật là Du Ca, mới thật là Quang Sơn Tây. Khác nào người tạc tượng, phải ra khỏi tượng, rời bỏ tượng, mới thấy tượng toàn bích. Để rồi nhận ra điều giản đơn : Xã hội ít khi biết trân quý những gì hay những ai được đánh giá, được tiếp nhận qua trái tim.

Thời thượng chỉ đo lường tài năng nhạc sĩ qua định lượng giờ được hát trên các sóng âm thanh, truyền hình. Du Ca không nằm trong khuôn khổ cân đo ấy. Chỗ đứng Du Ca không ở các studio phát sóng hiện đại; càng không phải thính phòng dành cho nhà giàu mới phất lên từ “lợi nhuận” chiến tranh. Chỗ đứng đích thực của Du Ca là nông thôn, rừng núi qua tiếng hát học trò, vươn lên từ niềm tin bất biến vô cùng thanh sạch của tuổi đôi mươi mộng mơ hai chữ Việt Nam.

Tập sách nhỏ này không nhằm vinh danh hay ngợi ca. Càng không phải truy tặng hay “ tribute “ Quang Du Ca, Quang Sơn Tây. Quang Già Cơ Hà Nội là cầu nối nhóm thân hữu từng biết, từng học, từng sớt chia đời lính, từng hát hò thỏa thích … Bà lão đang cuốc sau hè tục biên thành Bà lão đang … đái sau hè. Và chị, anh, tôi cùng chơi vơi tiếng cười quanh ánh lửa trại bập bùng giữa đêm sâu.

Bản thân là đà điểu vùi đầu tìm quên thực tại đắng cay dòng sống dân tộc, không chút kiến văn về nhạc hay

54

nghệ thuật. Thật thà tìm đến Du Ca, Quang Sơn Tây qua con tim học hát ngây ngô, qua ánh mắt “ khai môn kiến sơn “. Thương quý bạn đồng song. Cảm nhận hơi thở Quang Sơn Tây qua dòng nhạc Du Ca không bởi finger-tip. Nghêu ngao đôi dòng Du Ca ưa thích nhất. Hạnh phúc bình an khác nào con chiên hoan hỉ tiếp nhận Mình Thánh Chúa qua Koinonia- hiệp thông communion.

Phát biểu ngắn gọn của Nelson Mandela cảm ơn ca nhạc sĩ Anh Quốc hát tặng ông già thật quê mùa, chân chất ở quảng trường Trafalgar khi vừa trút bỏ mũ miện President of South Africa … Music … capable of nourishing and encouraging the “ KOINONIA “, i.e. “COMMUNION“ that poured forth from a HEART which gave itself on the “ JOURNEY “ … (thoát dịch : Nhạc nào khác dưỡng chất thúc đẩy “Koinonia”, hàm nghĩa “Hiệp thông”, phún xuất từ TÂM chỉ biết “hiến dâng” suốt “Hành trình”)

III. Quê Hương Mênh Mông...Xa Thật Xa Cộng Đồng Dân Tộc … Gần Thật Gần …

Du ca hành trình theo biến thiên dòng sống quê hương - dân tộc. Đi và đi mãi. Bờ đông hay bờ tây biển Thái Bình. Vẫn Du Ca. Vẫn Quang Sơn Tây. Vẫn Bá Nha luôn vọng Tử Kỳ. Vẫn trăn trở thế sự du du.

Biết ơn sân khấu chính trường Miền Nam thay đào đổi kép giúp khai phóng tầm nhìn. Không nhất thiết “ bế môn tỏa cảng “ ở lằn ranh nam - bắc vĩ độ 17. Chữ số 17 mang tính định lượng, thai nghén từ một hiệp định các bên ký kết sẵn sàng phủ nhận.

55

Đất khách quê người. Có lẽ hơn ai hết, Quang Du Ca “đốn ngộ“ về cái gọi là tướng – pháp quê hương. Tướng và pháp khác nào sắc với không. Cốt lõi là “ trụ nhi bất trụ “, là buông thả không cầu níu giữ để thấu suốt cái mới tinh muôn đời vũ trụ.

Phải chăng “trong tôi hoang phế chiến trường …“, trước khi vĩnh viễn ra đi, Quang Sơn Tây yêu cầu Quang Hà Nội cùng nhau đi tìm đàn cá hồi. Dẫu ra đi, dẫu rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, vong thân ở môi trường xa lạ … Cuối cùng khát khao tìm về cội nguồn, hoàn tất chu vận “ gìn vàng giữ ngọc nòi giống “ .

Qua sóng viễn liên, Quang Hà Nội vắn tắt cho biết Quang Du Ca hăm hở tìm đến suối nguồn bang Washington để tận mắt chứng kiến “cá lội từng đàn“ như trường ca Chinh phu trở về của Lê Thương. Lẽ ra chỉ cần “download” vô số tư liệu BBC, Discovery, tha hồ ngắm nhìn cá hồi vượt vũ môn về nguồn; Quang Sơn Tây muốn tái hiện hình ảnh Lev Tolstoi lặn lội quay về từng bìa rừng, vuông đất mồ chôn biết bao chiến sĩ Nga – Pháp để dàn dựng danh tác Chiến tranh & Hòa bình.

Lần nữa và cũng là sau hết, Quang Sơn Tây khát khao đưa dòng sống cộng đồng dân tộc, hóa thân từng đàn cá hồi qui nguyên, đồng vọng khúc nhạc trữ tình vô cùng khoáng đãng Hàng hàng lớp lớp quay về … của Nguyễn Văn Đông. Và Quang Sơn Tây minh danh bước chuyển Du Ca từ cảm tính “ngạo nghễ “ sang giải phóng vĩ mô “Quê hương mênh mông “.

Non nửa thế kỷ tính từ ngày chập chững bước vào Du Ca đêm lửa trại Dampao. Ba mươi sáu năm Miền Nam khuất chìm. Vô cùng hân nhiên nhận biết Quang Sơn

56

Tây không còn trụ ở cảm ứng tự phát. Đích thực tẩy xóa cái “ self “ hòa nhập mênh mông vô thường vũ trụ.

Quê hương mênh mông. Quê hương không nhất thiết định vị ở chân mây góc biển. Không hạn hẹp ở kinh độ đông tây, vĩ độ nam bắc. Quê hương giờ đây vượt thoát không gian GPS. Quê hương không cách điệu là chùm hoa trái. Quê hương tự đáy lòng mỗi chúng ta, mỗi cá thể cộng đồng Việt tộc.

Song hành quê hương mênh mông, tất yếu sản sinh yêu cầu bức xúc được J. J. Rousseau chỉ danh “ý chí chung” qua luận cương “Khế ước xã hội” (le Contrat social). Từ ý chí chung đó, cộng đồng dân tộc được bào thai.

Kiến lập “cộng đồng” , chỉ cần chiết tự : COMMUNITY = COMMON + UNITY. Bao lâu cộng đồng Việt chỉ nối kết bởi từng đơn thể, dẫu sát kề nhau, vẫn là từng thân xác tuy gần trong gang tấc lại xa nghìn trùng … và Quê hương Việt Nam vẫn mênh mông xa vời …

May 2011, the Most Blessed Lady of Fatima

57

HOÀNG KIM CHÂU Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Tuổi Trẻ Chúng Tôi

NĐQuang, HK Châu, P.Oanh, H T Lĩnh, Tr Tr Thảo , N Q

Văn (Dalat 1965)

Một số trong rất nhiều mẩu chuyện về Nguyễn Đức Quang và bạn bè thuở thiếu niên “cắp sách vô lớp” và thuở thanh niên của thời “tay không đến giảng đường” và “lê gót giang hồ” trên khắp nẻo “Đường Việt Nam”. Từ thuở thiếu thời đã học cùng lớp cùng trường, cùng sinh hoạt và cùng lang thang, vừa chơi cho thỏa mãn

58

tính “phiêu lưu” để làm nên một Phong Trào ca hát ảnh hưởng đến việc nhận thức về con người, xã hội và đặc biệt là thấy được “Kịch Bản Việt Nam” thời chiến của hàng triệu thanh thiếu niên Miền Nam Việt Nam.

Trước năm 1975 rất ít người biết Nguyễn Đức Quang ngoài những bạn bè ở Đàlạt, anh em Hướng Đạo Đàlạt, kế đến là anh chị em sinh viên của phân khoa Chính Trị Kinh Doanh Đàlạt, các nhóm Thanh Niên Sinh Viên Học Sinh Công Tác Hè 1965, Chương Trình Phát Triển Sinh Hoạt Học Đường, một số sinh viên các phân khoa của Viện Đại Học Sàigòn, một số tổ chức văn hóa và các nhà hoạt động thanh niên, dĩ nhiên là các thành viên Phong Trào Du Ca khắp Miền Nam, sau cùng là các đơn vị trong Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa khi Nguyễn Đức Quang phục vụ tại Cục Chính Huấn. Cho đến khi ra hải ngoại thì tên tuổi Nguyễn Đức Quang mới được nhắc nhở đến nhiều, các bài hát do anh sáng tác được hát khắp nơi. Anh được mời đến hát cho nhiều Cộng Đồng Người Việt ở Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Châu…và các trại hè của sinh viên học sinh khắp nơi. Trong các ngày kỷ niệm có tính cách lịch sử, Nguyễn Đức Quang đều có mặt với những bài ca của anh với cây đàn thùng muôn thuở.

Những mẩu chuyện được kể để tưởng nhớ Nguyễn Đức Quang là một người em kết nghĩa, một người bạn từ thuở thiếu thời của kẻ viết bài này.

Gặp Nguyễn Đức Quang Lần Đầu Dạo ấy, mùa hè 1959 vào một buổi chiều thứ năm, đội Voi chúng tôi họp tại đồi thông nằm phía trên đường Trương Vĩnh Ký, sau này nơi đó có khách sạn Thủy

59

Tiên II cũng là nơi có đại-học-xá dành cho nữ sinh viên Đại Học Đalạt. Thường chúng tôi họp vào lúc hai giờ cho đến bốn giờ chiều. Buổi họp kết thúc, chúng tôi gồm bảy Hướng Đạo Sinh tay trái đặt lên tay phải đứng thành vòng tròn hát bài “ Lúc thú vui này lòng còn quyến luyến…” trước khi ra về. Khi tan hàng, Truyện là một đội sinh còn nấn ná đưa mắt nhìn quanh như muốn tìm ai. Cuối cùng Truyện chạy đến phía sau một cây thông to, nơi đó có một người bạn đang chờ. Anh chàng này cỡ tuổi chúng tôi. Truyện đưa anh chàng mặt hơi ngô ngố, gầy gò, nước da trắng, có cái miệng vêu vêu ra phía trước đến giới thiệu với tôi và muốn xin cho anh chàng gia nhập Hướng Đạo. Tôi bèn lấy sổ tay ra ghi. Bồ tên gì? Nguyễn Đức Quang. Học ở đâu? Bồ Đề. Lớp mấy? Đệ ngũ. Nhà ở đâu? Calmette. Số nhà? 33. Sau đó Truyện và tôi đạp xe theo Quang về tận nhà ở đường Calmette để biết thêm về gia đình của Quang. Đó là một trong những cách mà một Hướng Đạo Sinh “đàn anh” như tôi phải làm khi tiếp nhận một “đội sinh” mới vì khi đó tôi là “đội trưởng”. Về đến trước nhà Quang, đưa xe xuống mấy bậc cấp bằng xi măng, chúng tôi dựng xe ở trước sân để theo Quang vào nhà. Bố của Quang đi làm chưa về, Quang đưa hai đứa tôi ra nhà sau chào mẹ của Quang. Đây là ngôi nhà xây từ thời Pháp, không lớn lắm nhưng khang trang, có sân trước và một lối nhỏ bên hông phải đi ra phía sau, bước lên mấy bậc cầu thang bằng gỗ để vào “căn nhà sàn” của Quang. Chính căn nhà sàn này là nơi chúng tôi tụ tập sinh hoạt, vui chơi, ca hát và bàn tính công việc của cả một thời tuổi trẻ không sao quên được.

60

Sinh Hoạt Hướng Đạo

Nguyễn Đức Quang bên phải, kế đó là Hoàng Kim Châu

Sau vài buổi đến sinh họat với đội “Voi” ở thiếu đoàn “Lê Lợi”, Quang đã chứng tỏ là một thiếu niên ham hoạt động và có tài. Các giờ học chuyên môn, Quang thu nhận rất nhanh đồng thời với tính tháo vát và luôn luôn tham gia các công tác xã hội trong phạm vi châm ngôn “giúp ích” của Hướng Đạo. Lần dự trại đầu tiên, Quang xử dụng chiếc harmonica biểu diễn những bài ca vui khiến cho các bạn rất hâm mộ. Quang thường làm “quản ca” “quản trò” hoặc “náo hoạt viên” trong các kỳ trại đoàn và các buổi sinh hoạt chung với bạn bè. Là một đội sinh giỏi, Quang được đề cử làm “đội phó” rồi “đội trưởng” đội Voi khi tôi giữ trách vụ của một “đội trưởng nhất”. Thời gian sau đó Quang được phong nhậm làm “đội trưởng nhất” khi đạt được đẳng hiệu “Hướng Đạo Hạng Nhất”. Khi làm đội trưởng đội Voi, có lần Quang dắt hai đội đi trại, mà theo quy định thì trại đội chỉ kéo dài trong ngày mà thôi, nghĩa là sáng đi chiều về (trại đội không có Trưởng đi theo). Nhưng cho đến chiều tối khuya mà Quang và các đội sinh vẫn chưa trở về khiến

61

cho các Trưởng ở Đàlạt phải nhờ Ty Công An và An Ninh Quân Đội điều động nhân viên vào rừng để tìm kiếm (1). Năm 1961 chúng tôi thành lập Ban Văn Nghệ Hướng Đạo Lâm Viên để thực hiện các buổi phát thanh trên đài Đàlạt phát vào mỗi tối thứ tư từ 7 giờ do Quang làm trưởng ban. Chúng tôi còn diễn kịch với nhau trên sân khấu trong những buổi lễ phát thưởng của trường, trong những ngày lễ và trại lớn của Hướng Đạo và các ngày lễ hội ở chùa Linh Sơn có đông dân chúng đến xem. Có một lần diễn kịch trước sân trường Bồ Đề nhân ngày Phật Đản, tôi và Quang cùng một người bạn Hướng Đạo tên Phan Văn Ngữ diễn một vở kịch, trong đó có đoạn chúng tôi tát tai Ngữ. Khi tập chỉ tát nhẹ nhưng khi diễn, tôi và Quang đóng như thật nên hai đứa cùng tát Ngữ hai cái nẩy lửa. Kịch chấm dứt, cả ba rời sân khấu. Vừa bước xuống bục gỗ thì thấy ông già – ba của Ngữ chận tôi và Quang lại với vẻ mặt hầm hầm tức giận, trợn mắt nhìn trừng trừng vào hai đứa tôi: “Tại sao hai đứa bay đánh thằng Ngữ mạnh quá vậy?…”. Tôi và Quang ú ớ hoảng sợ và nhìn trên má của Ngữ, thấy có dấu đỏ của mấy ngón tay…Quang thậm thụt trả lời “dạ… mấy anh huynh trưởng bảo tụi con phải đóng như thật…”. Ông già của Ngữ bỏ đi vào đám đông. Mấy hôm sau ông già của Ngữ nhắn hai chúng tôi đến nhà cho ăn một bữa khoái khẩu!

Chèo Thuyền Qua Đảo Hoang Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của Đàlạt kích thích óc mạo hiểm của chúng tôi. Trong nhiều chuyến thám du vào tận những nơi mà dân thành thị không bao giờ dám đặt chân đến, nhiều khi hai ba đứa rủ nhau đi riêng lẻ chứ không phải đi cắm trại với Hướng Đạo. Đối với

62

ngọn núi Langbian mà dân Đàlạt thường gọi là núi Bà thì chúng tôi đã từng lên tận đỉnh của ngọn núi cao năm bảy lần, không đi theo đường mòn hoặc đường bậc cấp có từ năm 1956 do ty công chánh Đàlạt làm để cho tổng thống Ngô Đình Diệm lên thăm đỉnh Langbian. Mùa hè năm 1963 không hiểu do tin từ đâu mà làn sóng người từ Sàigòn, Miền Trung, Miền Tây ùn ùn kéo về Đàlạt rồi lên tận Núi Bà lấy “nước” về chữa bệnh. Người ta kéo nhau đi bất kể ngày đêm leo lên tận đỉnh rồi xuống phía bên kia núi lấy nước, sau đó leo lên lại đỉnh rồi xuống núi trở về. Thấy vậy một số anh em Hướng Đạo chúng tôi cắm trại ở Núi Bà để giúp đưa người lên núi xuống núi. Chúng tôi chia nhiều nhóm giúp bà con lên xuống núi, tháng năm tháng sáu ở Đàlạt là mùa mưa nên chúng tôi cũng khá vất vả nhưng hết sức vui. Không biết “nước thánh nước thần” có chữa bệnh được cho ai không chứ thấy thiên hạ bỏ công bỏ tiền để lặn lội mang về những chai nước đỏ ngầu cáu bẩn chúng tôi cũng ái ngại ra mặt. Những địa danh như Suối Tía, Núi Voi, Cam Ly Thượng, Mang Linh, Số Chín, Suối Vàng, Suối Bạc, Ankroet, Đơn Dương, Di Linh, Bảo Lộc, Krong pha…không nơi nào không có dấu chân chúng tôi. Có một lần vào sáng sớm chủ nhật, Quang đạp chiếc xe “court” đến nhà tôi và rủ tôi cùng đạp xe lên hướng núi Bà để vào buôn Thượng cưỡi ngựa. Tôi đồng ý. Chúng tôi ghé quán mua mấy ổ bánh mì và mấy bịch muối đem theo. Tôi cũng có một chiếc xe đạp “court”, hai đứa phóng lên ngựa sắt hướng về chân núi Langbian. Chúng tôi đến buôn Mang Linh và thấy hai người đàn ông đang phác cỏ xén bờ nương với những chiếc “xà gạc”, chúng tôi chào hỏi nói chuyện và cho biết chúng tôi muốn thuê ngựa để cưỡi. Chúng tôi đưa mỗi người hai ổ bánh mì và

63

hai bịch muối. Hai người đàn ông đi ra phía bìa rừng dắt hai con ngựa, buộc khớp và dây vào mồm rồi vẫy tay gọi chúng tôi đến giao hai con ngựa. Họ dắt hai chiếc xe đạp vào dựng ở dưới nhà sàn. Những con ngựa của người Thượng không to cao và đẹp như những con ngựa của Trường Võ Bị Đàlạt mà chúng tôi thường thấy nên chúng tôi nắm bờm leo lên lưng chúng khá dễ dàng. Không có yên ngựa, không có vòng để chân nên chúng tôi chỉ dám để cho ngựa đi lửng thững, muốn ngựa chạy nhanh hơn cũng chẳng biết phải làm sao, cương ngựa là một đọan dây thừng, nắm dây giật giật cũng chỉ làm cho chúng ngoẹo cổ qua bên trái rồi ngoẹo qua phải mà thôi, nếu giật hai bên dây cùng một lúc thì chúng dừng lại. Dùng chân húc mạnh vào bụng cũng vô ích. Chúng tôi đành buông cương chịu trận để chúng đi cứ đi tà tà băng qua mấy ngọn đồi cỏ xanh, hết đồi này sang đồi khác. Đi khoảng gần một tiếng đồng hồ, từ trên đồi nhìn xuống chúng tôi thấy một hồ nước rộng mênh mông. Thì ra đó là hồ Suối Bạc, tức là hồ lớn cách đập Suối Vàng khoảng hơn một cây số. Chúng tôi quyết định thả hai con ngựa cho chúng tìm đường chạy về Mang Linh và bắt đầu một trò khác: chèo thuyền. Thấy một chiếc thuyền bềnh bồng ở mạn hồ, quan sát không thấy có ai gần đó, chúng tôi bước xuống chiếc thuyền dài khoảng hơn hai mét, rộng hơn một mét với một chiếc dầm chèo ở trong lòng thuyền. Bẻ thêm một nhánh cây làm dầm chèo, chúng tôi nhắm hướng bên kia hồ để chèo tới. Chúng tôi lấy bánh mì ra ăn rồi tiếp tục chèo gần cả tiếng đồng hồ mới bước lên bờ bên kia. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên và thích thú vì đi thêm một khoảng xa vài trăm thước thì thấy xác bốn năm chiếc xe jeep nhà binh đã sét rỉ nằm ngổn ngang dưới đám cỏ cao. Lấy

64

làm lạ, chúng tôi đến gần để nhìn thì thấy bên hông xe có ghi mấy hàng chữ mà chúng tôi đoán là chữ Nhật. Điều này được xác nhận là đúng khi trở về hỏi những người lớn tuổi, họ cho biết đó là một trong những căn cứ của Nhật, nơi đây, một mặt quân đội Nhật dùng để dấu vũ khí, một mặt chúng đi tìm vàng. Không hiểu có ai từng đến đảo này chưa sau khi quân đội Nhật rút lui nhưng khi hai đứa tôi tình cờ mạo hiểm đến đó thì nơi này hoàn toàn hoang vắng, không một dấu tích gì cho biết là có người thường đến. Về sau chúng tôi cũng nghe được một số câu chuyện về những địa điểm bí mật mà quân đội Nhật đã xây dựng những cơ sở quân sự nhiều nơi ở Đàlạt để yểm trợ cho việc tìm kiếm mỏ vàng. Tôi và Quang cứ thế tò mò đi hết khu này sang khu khác và thấy rất nhiều dụng cụ bằng kim loại hư sét, những đống đồ vụn khắp nơi không định hình được thứ gì ra thứ gì cả. Gió ở hồ lùa vào đảo khiến chúng tôi cảm thấy lạnh nên quyết định rời đảo. Nhắm hướng cũ chèo thuyền trở lại nhưng chúng tôi không ngờ là khi chèo về bị ngược gió, mãi lay hoay với một chiếc dầm và một khúc cây, chiếc thuyền bé xíu không di chuyển được bao nhiêu trên hồ ngược gió. Hai đứa càng chèo càng thấm mệt và bắt đầu lo sợ. Nếu không về được bên kia trước khi trời tối thì rất nguy, có thể gió mạnh làm thuyền dạt lui vào đảo. Trời tối làm sao trở lại Mang Linh để lấy xe đạp! Còn một điều nữa là hai con ngựa, không hiểu đã về buôn hay chưa? (Chúng tôi biết được rằng loài ngựa dù bị đưa đi xa hằng trăm cây số vẫn nhớ đường về). Chúng tôi bảo nhau là phải liên tục chèo mới trở về được. Bụng đói, gió lạnh nhưng cũng toát mồ hôi vì sợ! Cuối cùng thì chúng tôi lên được bến cũ , nhắm hướng về chân Núi Bà chạy bộ về buôn Mang Linh khi trời đã ngả về chiều.

65

Thấy hai con ngựa đứng ở bãi cỏ trước mấy ngôi nhà sàn, chúng tôi yên tâm nhìn nhau cười mừng ra mặt. Mấy người Thượng thấy chúng tôi về và thấy cả hai con ngựa nên họ đều cười vui vẻ. Leo lên xe đạp thì mới thấy đói lả, muốn dừng lại hái vài trái dưa leo bên bờ nương để ăn nhưng không dám vì chúng tôi từng nghe rằng nếu ăn cắp bất cứ thứ gì của người Thượng sẽ bị “thư”. Cũng may dọc đường sau đó nhặt được mấy củ cà rốt nhỏ do xe ngựa chở rau cải từ các nhà vườn đánh rơi. Chúng tôi phủi sạch đất và nhai một cách ngon lành. Đạp về đến Dòng Chúa Cứu Thế thấy dưới phố Đalạt đã lên đèn.

Năm Anh Em Thời gian đầu Quang là đội sinh của tôi sinh hoạt chung trong thiếu đoàn Lê Lợi nên rất thân. Sự lanh lợi tháo vát, tinh thần kỷ luật và kỹ năng Hướng Đạo rất cừ nên được các Trưởng mến và thường giao cho nhiều trọng trách trong đoàn. Thiếu đoàn Lê Lợi là một thiếu đoàn có nhiều Hướng Đạo Sinh giỏi. Ngoài việc trông coi Đội và giúp đoàn, chúng tôi cũng chơi thân với một số HĐS khác đơn vị. Chúng tôi thường tụ tập tại nhà sàn ở phía sau, nơi đây là giang sơn của Quang, chúng tôi dù có quậy phá đến đâu cũng không làm phiền đến Ông Bà Cụ của Quang. Hai Cụ cũng thương yêu tụi tôi nhất mực. Cậu em trai út của Quang – Nguyễn Đức Vinh ít khi được đặt chân lên nhà sàn mặc dầu khi đó Vinh cũng là một Sói Con. Năm 1962, Quang và một người bạn thân khác là Đoàn Chiêm cùng phụ tá cho anh Nguyễn Ngọc Phước là bầy trưởng bầy Ngàn Thông. Đồng thời với bầy trưởng bầy Lê Lai là Hà Thái Trường và tôi lúc đó là thiếu phó thiếu đoàn Lê Lợi, năm anh em chúng tôi

66

sinh hoạt rất gắn bó và thương mến nhau. Để tình anh em ngày càng bền chặt, chúng tôi quyết định “kết nghĩa” để dù trong hoàn cảnh nào chúng tôi cũng không rời bỏ nhau. Một buổi tối, trong căn nhà sàn của Quang, ngoài năm anh em còn có sự hiện diện của một số bạn, đặc biệt là các bạn Nữ Hướng Đạo thường xuyên sinh họat văn nghệ với chúng tôi trong đó có cả người yêu của Quang.

Chúng tôi, mỗi người tự viết tên và tháng năm sanh của mình vào một mảnh giấy và gấp lại. Sau đó một cô bạn tuần tự mở các mảnh giấy và đọc ngày sanh tháng đẻ của từng người để biết thứ tự ai huynh ai đệ. Kết quả thứ tự anh em như sau: Nguyễn Ngọc Phước, Hà Thái Trường, Đoàn Chiêm, Hoàng Kim Châu, Nguyễn Đức Quang. Từ đó trở đi chúng tôi luôn có mặt bên nhau trong mọi công việc và một người cần thì bốn người khác đều có mặt. Đời sống Hướng Đạo đã tạo cho chúng tôi thành những người thân thiết như anh em ruột thịt. Chúng tôi “cố gắng” giữ mối dây liên hệ anh em có được trong thời tuổi trẻ cho đến mãi về sau dù mỗi người một nơi, mỗi người một công việc. Tôi và Quang có nhiều thời gian sinh họat với nhau hơn ba Trưởng đàn anh. Năm 1963 anh Nguyễn Ngọc Phước đi Thủ Đức và tử trận năm 1969, anh Hà Thái Trường đi Thủ Đức năm 1966 và tử trận năm 1973, anh Đoàn Chiêm vẫn còn ở Đàlạt, Quang vượt biên và đến Mỹ 1981, năm 1992 tôi cũng qua Mỹ theo diện tị nạn. Hôm Nguyễn Đức Quang nằm xuống, người bạn gái ngày xưa của Quang định cư ở California gọi cho tôi nhắc lại chuyện “Năm Anh Em” và cô khóc…

67

Quái Kiệt Ăn Uống Lúc còn trẻ Quang và tôi thuộc loại gầy. Câu tục ngữ rất đúng trong trường hợp của chúng tôi là “Gầy Thầy Cơm”. Nói ra xấu hổ! Không hiểu cơ duyên nào lại đưa đẩy cho chúng tôi gặp nhau cùng với Đoàn Chiêm đã trở thành những tay cự phách về ăn uống của Hướng Đạo Lâm Viên. Bình thường trong gia đình, tôi cũng xơi đến bảy tám bát cơm rồi. Nhà nghèo, thức ăn chẳng có món ngon món lạ nên cơm là chính. Hơn nữa ở lứa tuổi đang lớn và hoạt động nên ăn uống thiếu phần “khiêm nhường” cũng là điều chẳng có gì lạ! Quang và Chiêm cũng vậy. Chúng tôi mỗi lần ghé nhà nhau là các Cụ biết ý lấy thêm gạo cho vào nồi. Điều đáng nói ở đây là khi Quang và Chiêm ghé nhà tôi hoặc Quang và tôi ghé nhà Chiêm thì chúng tôi ăn thoải mái nghĩa là các Cụ không o ép vì biết chúng tôi ăn rất “thật tình”. Trái lại khi Chiêm và tôi ăn cơm nhà Quang thì Bà Cụ ngồi gần chỗ chúng tôi để “canh me”. Canh me cái gì? Canh me hễ chúng tôi vừa sạch chén là Cụ giành lấy để lấy cơm cho chúng tôi. Vừa lấy cơm, Cụ vừa dùng muỗng ấn cơm xuống cho chặt và bên trên chén thì vun cao lên. Vậy nên khi ăn đến chén thứ ba thì chúng tôi đã thấy quá vững bụng. Nhiều lần chúng tôi bị ép xơi đến những năm sáu chén như thế. Nhớ lại không khỏi hãi hùng.

Mùa hè năm 1961 thiếu trưởng thiếu đoàn Lê Lợi là Trưởng Lê Thuần đậu khóa Bằng Rừng nên mừng đãi một số Trưởng và vài đoàn sinh chúng tôi. Có Trưởng Nguyễn Văn Võ, Nguyễn Minh Hoàng và ba anh em chúng tôi Chiêm - Châu - Quang. Buổi sáng Trưởng Thuần dắt đến tiệm mì quảng Tân Bình ở con hẻm đường Phan Đình Phùng gần rạp ciné Ngọc Hiệp. Mỗi

68

người một tô, ăn xong Trưởng Thuần bảo “mấy chú ăn nữa đi”. Ba đứa nhìn nhau cười, ba tô nữa. Ăn hết tô thứ hai, Trưởng Võ bảo “mấy chú ăn nữa đi”. Tô thứ ba đưa ra. Chúng tôi “lặng lẽ làm láng”. Trưởng Hoàng vừa cười vừa bảo: “mấy chú ăn nữa đi” (Trưởng Hoàng là người biết chúng tôi thuộc những tay hảo hớn vế ăn uống). Tô thứ tư. Và cứ thế, các Trưởng có ý thách thì chúng tôi cũng cứ bình tình xơi cho đến tô thứ bảy mới chấm dứt buổi ăn sáng hôm đó! Kể từ đó chuyện ăn uống kiểu “Tạ Hồ Đôn” của chúng tôi được loan truyền nhanh chóng trong Đạo Lâm Viên …

Một lần ăn uống nhớ đời khác nữa là mùa hè năm 1962 anh Nguyễn Ngọc Phước mở khóa huấn luyện dự bị cho các Trưởng ngành Ấu của Đạo Lâm Viên tại trại trường Tùng Nguyên cạnh Hồ Than Thở. Hà Thái Trường, Đoàn Chiêm và Nguyễn Đức Quang tham dự trại vì họ sinh hoạt ngành Ấu. Tôi sinh hoạt ngành Thiếu nhưng do sự rủ rê của ba người anh em nên tôi cũng ghi danh dự trại trong vòng ba ngày. Kỷ luật và giờ giấc của những trại huấn luyện lúc nào cũng chặt chẽ nên chúng tôi rất vất vả vì bị “hành” tối đa. Ngày thứ ba của trại như thường lệ là chúng tôi dự các giảng khóa do các Trưởng phụ trách, đến gần mười hai giờ trưa thì Trưởng trực thông báo là giảng khóa sẽ chấm dứt vào lúc mười hai giờ và đúng một giờ trại sinh phải có mặt để tham gia trò chơi cuối trại. Như vậy, chúng tôi có đúng sáu mươi phút để nấu nướng ăn uống cho xong, nếu Đàn (2) nào tập họp trễ sẽ bị trừ điểm. Phải nói rằng chúng tôi cũng thuộc hàng những Hướng Đạo Sinh tài ba về nấu ăn ngoài trời. Vì quá đói, chúng tôi nấu một nồi cơm thật lớn và làm thức ăn xong trong vòng 45 phút, còn 15 phút để ăn cho kịp giờ tập họp. Thế là bốn anh em

69

chúng tôi sau khi làm thủ tục “đứng trước cơm canh…” rồi mời nhau cùng ăn. Hà Thái Trường là người ăn xong sớm nhất với chỉ năm hoặc sáu chén mặc dầu anh cũng “gầy “ như tôi và Quang. Vừa ăn Trường vừa đếm xem ba đứa chúng tôi ăn mỗi đứa bao nhiêu chén. Ba đứa ăn rất nhanh và khi cơm trong nồi không còn nữa thì Trường cho biết rằng mỗi đứa trong chúng tôi xơi được mười sáu (16) chén! Thực ra thì chúng tôi đã ăn quá tải so với những bữa ăn khác. Vừa xong bữa ăn vội vã thì tiếng còi tập họp đã vang lên từ phía dưới Hồ Than Thở. Bốn anh em xách cờ chạy xuống điểm trình diện. Các Đàn khác cũng có mặt. Bắt đầu trò chơi, mỗi Đàn nhận một chiếc thuyền nhỏ để chèo đến trạm thử thách đầu tiên. Chiếc thuyền nhỏ với hai chiếc dầm nên hai đứa chèo và hai đứa dùng tay khoát nước ra phía sau để giúp cho thuyền chạy nhanh hầu vượt qua các chiếc thuyền của các Đàn khác. Có ngờ đâu những chiếc dầm tay làm cho thuyền chòng chành, lúc nghiêng qua phải lúc nghiêng qua trái. Tiếng hò hét để tự cổ vỏ càng làm cho thuyền đi chậm thêm, có lúc quay mũi thuyền trở lại. Thế rồi thuyền bị quay xà mòng và đứa nào cũng mệt vì có ba cái bụng vô cùng nặng nề. Càng cố chèo thuyền càng lạc hướng, quay vòng vòng rồi lật úp! May mà gần chỗ cạn nên Hà Thái Trường lội vào bờ được vì Trường không biết bơi. Coi như Đàn chúng tôi đã biết kết quả khi trò chơi mới bắt đầu. Đó là do hậu quả của mười sáu chén cơm mà ba đứa đã ăn như những con ma đói!

Anh Nguyễn Ngọc Phước là anh cả và có gia đình nên không tham gia các trò láo lếu và vui nhộn của chúng tôi. Năm 1964 trên Hồ Xuân Hương xuất hiện ba chiếc thuyền gỗ lớn sơn ba màu Hướng Đạo vàng-xanh-đỏ. Những chiếc thuyền này là sở hữu của Trưởng Lê Phỉ,

70

hiệu trưởng trường Việt Anh giao cho chúng tôi quản lý. Bốn anh em chúng tôi thường chèo thuyền lên tận phía Cầu Sắt gần vườn ương hoa thành phố, ban đêm bất kể trăng tối trăng sáng chúng tôi thường lên thuyền chèo ra giữa hồ hát hò cùng với các bạn Hướng Đạo. Kỷ niệm độc đáo nhất của bốn anh em chúng tôi tại đạo quán Hướng Đạo Lâm Viên là ngày Tết Đoan Ngọ bắt vịt trên Hồ Xuân Hương (3)

Trứng Gà Scala Cư dân Đàlạt biết đến trại gà Scala của Dòng Chúa Cứu Thế như là trại gà đầu tiên ở Đàlạt nuôi theo phương pháp công nghiệp để cung cấp thịt và trứng cho một số đơn vị thuộc quân đội Hoa Kỳ đóng ở Cam Ranh và Nha Trang. Ban Trầm Ca lúc ở Sàigòn lúc về Đàlạt, khi có mặt ở Đàlạt chúng tôi thường gặp các nhóm bạn bè, đặc biệt là những nhóm anh em thuộc Viện Đại Học Đàlạt mà trong đó có nhóm của thầy Nguyễn Tiến Lộc cũng là một Trưởng Hướng Đạo và thầy Nguyễn Đức Mầu khi đó chưa thụ phong linh mục. Chúng tôi được mời đến Dòng Chúa Cứu Thế để sinh hoạt cũng giống như đến sinh hoạt với những nhóm khác nhưng có điều đặc biệt là đáp lại, chúng tôi được nghe những bài hát do thầy Tiến Lộc và Đức Mầu sáng tác mà giai điệu và lời ca vượt ra ngoài âm hưởng của các bài Thánh Ca mà chúng tôi thường nghe. Có một lần, sau giờ sinh hoạt, chúng tôi được đưa đi thăm trại gà Scala nằm ở phía dưới chân núi Dòng Chúa Cứu Thế. Trên đường trở lại Nhà Dòng, Trưởng Tiến Lộc xách theo một giỏ trứng gà đem về luộc và mời chúng tôi ăn. Hình như Trưởng Tiến Lộc có nghe đâu đó rằng trong chúng tôi có những “hạm ăn” nên đã luộc hết cả giỏ trứng khoảng năm chục cái!

71

Trứng gà chấm muối tiêu ăn khơi khơi cũng khoái khẩu lạ thường! Có bao giờ chúng tôi được ăn nguyên cái trứng vịt chứ đừng nói chi đến trứng gà! Lại được ăn nhiều! Thế là cả bọn hết sức tự nhiên, vừa ăn vừa chuyện trò râm rang vui vẻ. Ăn khoảng bốn năm trứng thì Hoàng Thái Lĩnh, Trần Trọng Thảo, Nguyễn Quốc Văn và Nguyễn Thạc (con giáo sư Nguyễn Đăng Thục, thân hữu Trầm Ca) ngồi nhìn Nguyễn Đức Quang và tôi vẫn tiếp tục ăn với sự khích lệ của Trưởng Tiến Lộc và thầy Đức Mầu. Sau khi hai chúng tôi lùa hết giỏ trứng vào bao tử, Trưởng Tiến Lộc xoa tay cười tuyên bố …Quang và Châu thanh toán trên ba chục trứng!

Dấn Bước Giang Hồ Khi không còn ngày hai buổi cắp sách đến trường trung học, thì năm anh em chúng tôi cũng không còn cơ hội để sinh hoạt với nhau trừ tôi và Nguyễn Đức Quang. Thời kỳ này hai chúng tôi và một số bạn thân khác cũng đều là Hướng Đạo lập thành một nhóm mới để sinh hoạt song song với sinh hoạt Hướng Đạo, khi đó Nguyễn Đức Quang chính thức là bầy trưởng còn tôi là thiếu trưởng. Các bạn đó là Trần Trọng Thảo, Đinh Gia Lập, Hoàng Thái Lĩnh và Nguyễn Quốc Văn. Căn nhà sàn bằng gỗ của Quang là nơi chúng tôi thường tụ tập vui chơi ca hát. Thành phố Đalạt vẫn là một thành phố khép kín trong sương mù với những dáng nét thiên nhiên hết sức đáng yêu, nhưng chúng tôi muốn nhìn xa hơn khỏi hai ngọn núi Langbian, muốn bơi ra sông ra biển chứ không còn thích chèo những chiếc thuyền con trên Hồ Xuân Hương nữa…

Sau khi bàn tính và do đề nghị của Trần Trọng Thảo, chúng tôi kéo về Sàigòn nhưng ngặt một nỗi là không có

72

chỗ ăn chỗ ở. Chúng tôi không thể ở nhà của Thảo, thỉnh thoảng kéo nhau đến để Bà Cụ cho ăn một bữa cơm, còn thì mạnh ai nấy đi tìm nhà quen để ở và tự lo liệu lấy. Đinh Gia Lập thi đậu vào Phú Thọ có thuê một căn gác ở Ngả Bảy, chúng tôi lại túm tụ vào đấy nhưng rồi cũng có nhiều bất tiện. Hoàng Thái Lĩnh lúc đầu ghi danh học ở Sàgòn và thuê một phòng ở hotel để ở, chúng tôi đến chơi vài tiếng đồng hồ thì được. Ba đứa lêu bêu nhất trong nhóm là Quang, Văn và tôi. Đầu tiên chúng tôi tìm đến chơi với các nhóm Hướng Đạo mà chúng tôi quen và cùng nhau ca hát và dự các trại Hướng Đạo. Được sự mến mộ và giới thiệu của bạn bè, chúng tôi được tiếp xúc nhiều hơn với nhiều đối tượng khác nhau. Đặc biệt là giới sinh viên. Đại học kiến trúc là nơi chúng tôi có buổi sinh hoạt đầu tiên tại khuôn viên trường ở đường Duy Tân khi vụ xung đột diễn ra giữa sinh viên và nhà trường. Chúng tôi có mặt để sinh hoạt ở Sàigòn vài tuần rồi trở về Đàlạt cũng để tham gia những sinh hoạt với các nhóm bạn ở đại học Đàlạt. Hoàn cảnh sống lêu bêu của chúng tôi sau đó có thay đổi vì những cơ duyên hi hữu.

Từ Chuồng Cu Đến Garage Bố của Thảo là một huynh trưởng Hướng Đạo kỳ cựu lúc đó đang làm việc tại văn phòng Hội Hướng Đạo Việt Nam ở số 18 Bùi Chu quận nhất, thấy hoàn cảnh lêu bêu của mấy anh em chúng tôi nên đã thu xếp cho chúng tôi được ở tạm trên chuồng cu của trụ sở hội, nơi để bàn ghế lều trại và các dụng cụ Hướng Đạo. Lập và Lĩnh cũng kéo về đây. Buổi sáng chúng tôi rời chuồng cu sớm và tối mới trở về để ngủ, trong ngày chúng tôi không được ra vào chỗ trọ! Chúng tôi đi sớm về khuya đã

73

khiến cho một số Trưởng trong hội không bằng lòng nên quyết định mời chúng tôi đi chơi chỗ khác. Lại lêu bêu tiếp cho đến khi khi chúng tôi kéo nhau đi dự trại công tác xã hội ở Công Trường Thanh Niên Tự Do Thạnh Lộc Thôn. Trong trại này, chúng tôi làm việc như bao nhiêu trại sinh khác, đêm về chúng tôi quay quần bên nhau ca hát và được nhiều trại sinh cùng đến tham dự. Chúng tôi trình diễn những bài dân ca quan họ Bắc Ninh, các bài nhận thức và sinh hoạt do Quang sáng tác, hướng dẫn cho trại sinh những trò chơi và tập cho họ hát… Nhóm chúng tôi nổi bật trên Công Trường Thanh Niên Tự Do. Sau đêm sinh hoạt cuối của trại, một trong những thành viên ban tổ chức đến tìm gặp chúng tôi hỏi chuyện và bày tỏ sự hâm mộ của anh đối với chúng tôi. Anh hỏi nguồn gốc lai lịch và đời sống của nhóm. Sau khi nghe tình cảnh khó khăn của nhóm, anh có đưa ra đề nghị là sẽ tìm cho chúng tôi một chỗ ở tạm tại Sàigòn để tiếp tục sinh hoạt. Sau trại, anh tìm chúng tôi và báo cho hay là anh đã tìm cho chúng tôi được một chỗ ở, đó là garage của dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ ở số 114 Sương Nguyệt Anh. Người tìm cho chúng tôi nơi ở và cũng là một trong những người tận tình tận lực yểm trợ chúng tôi không ai khác hơn là anh Đỗ Ngọc Yến, một Trưởng Hướng Đạo. Có thể nói rằng hai anh Hoàng Ngọc Tuệ và Đỗ Ngọc Yến là những người đã cưu mang chúng tôi và là tác nhân chính trong việc vận động để hình thành Phong Trào Du Ca.

Đường Sương Nguyệt Anh Sàigòn có những con đường được coi là đẹp. Đẹp không phải vì đường lớn hay có nhiều dinh thự đồ sộ. Cũng không phải đẹp vì có phố xá đông vui tấp nập. Đẹp vì

74

con đường trải dài trong một khoảng không gian im ắng, trầm khuất được che phủ bằng những hàng cây cao và các ngôi nhà khiêm tốn nằm ẩn mình trong những tiếng động vọng lại từ trung tâm thành phố. Sương Nguyệt Anh là con đường ngắn nằm giữa hai đường Lê Văn Duyệt và Bùi Chu là một trong vài con đường mà chúng tôi cho là đẹp. Đứng ở đầu đường phía Lê Văn Duyệt nhìn thấy đầu đường phía Bùi Chu. Những ngôi nhà trên con đường này tuy khiêm tốn nhưng cũng thuộc loại “kín cổng cao tường”, không có tiệm buôn hay hàng quán trừ một tiệm ăn có che thêm mái tôle thấp ở đầu đường giáp với đường Lê Văn Duyệt của một người Tàu mà chiều chiều ông ta ngực trần quần xà loỏng đứng trước những cái chảo phừng phực lửa nấu những món ăn rất ngon mà trong suốt thời gian làm cư dân Sàigòn “không sổ gia đình”, chúng tôi cũng có ghé lại khi rủng rỉnh đôi chút. Block gồm năm căn trong đó có nhà dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ. Phía trái của căn số 116 có một lối bên hông rộng để cho xe hơi chạy vào dãy garage ở phía sau.

Khi anh Đỗ NgọcYến giới thiệu nhóm chúng tôi với dược sĩ Hoàng Ngoc Tuệ thì anh Tuệ lúc ấy đang còn trong quân đội phục vụ tại Pleiku và sắp giải ngũ. Anh Đỗ Ngọc Yến xin anh Tuệ cho chúng tôi ở trong garage nhưng khi anh Tuệ gặp chúng tôi thì ngoài việc anh cho chúng tôi xử dụng garage, anh còn cho chúng tôi ở một góc nhà phía sau gần cầu thang lên lầu. Nơi đây anh Tuệ đã từng dùng để dạy kèm cho sinh viên đại học dược khoa. Trong nhà còn có anh Trọng là em anh Tuệ ở phía dưới, trên lầu là nơi ở của chị Quỳ là em; Thảo, Quy và Xuân là cháu anh Tuệ. Chúng tôi đã có một chỗ ở ổn định ngoài dự liệu và một nơi sinh hoạt rất thuận tiện.

75

Chúng tôi được toàn quyền xử dụng cái không gian cho phép để làm chỗ đi về ngủ nghê. Nơi này có sẵn một chiếc divan, một ghế bố xếp, mấy chiếc ghế và một tủ đựng quần áo có nhiều ngăn. Cả sáu đứa chúng tôi thực sự chấm dứt những ngày lêu bêu ở Sàigòn để sắp xếp công việc và đời sống hầu tiếp tục theo đuổi con đường phiêu lãng đã định mà Nguyễn Đức Quang là Con Chim Đầu Đàn.

Khi cho chúng tôi xử dụng garage, anh Tuệ đậu xe ở trước nhà. Đã có một chỗ ở “ngon lành”, chúng tôi lo sửa sang quét dọn lại garage cho tử tế để làm nơi sinh họat và tiếp đón bạn bè. Garage mỗi bề khoảng ba mét có mái tôle, cửa garage làm bằng những nẹp gỗ đơn sơ. Chúng tôi kiếm được mấy cái ghế sắt, một chiếc bàn cũ bỏ vào garage rồi quét vôi lại cho sạch sẽ. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng tiếp bạn bè hoặc tổ chức những buổi sinh hoạt bỏ túi ở phòng khách nhà anh Tuệ cho các bạn thân từ Đàlạt xuống, đặc biệt là các bạn là sinh viên Đại Học Đalạt. Biết chúng tôi đã có chỗ ở nhất định nên bạn bè đến thăm viếng càng ngày càng đông, lại có những người đến ở với anh em chúng tôi một hai hôm, năm ba hôm là chuyện thường. Vài người bạn ở Đàlạt về Sàigòn không có chỗ trọ thì ghé với chúng tôi. Vì cần có thêm chỗ cho bạn bè ở lại nên chúng tôi mua vật liệu để tự làm một cái gác lửng. Kể từ đó lúc nào cũng có bạn bè đến chơi và ở lại.

Gia Đình Trầm Ca Ngoài việc đi “Du Ca” khắp bốn vùng chiến thuật, tham dự các trại công tác xã hội, chúng tôi sắp xếp lại đời sống cho tươm tất hơn. Chúng tôi đồng ý giao trọng trách “quản gia” cho Trần Trọng Thảo vì Thảo vốn là

76

dân Sàigòn, rành đường đi nước bước. Tiền bạc giao cho Thảo quản lý và toàn quyền quyết định mọi chi tiêu của anh em kể cả việc ăn uống hàng ngày hay mua sắm các vật dụng cần thiết. Thảo sắm cho anh em mỗi đứa hai bộ bà ba đen, hai quần kaki màu vàng và hai chemise trắng. Phương Oanh cũng có hai bộ bà ba đen. Khi đi trình diễn chúng tôi mặc bà ba đen. Thảo giao cho chúng tôi mỗi đứa một ngăn tủ đựng áo quần và luân phiên nhau giặt những áo quần dơ cho cả đám. Quang là người lười có hạng, một bộ đồ mặc hai ba bữa cần thay thì chờ cho lúc anh em đi đâu đó hoặc bận việc thì chàng ta bèn kéo ngăn áo quần của anh em khác lấy ra mặc vì chúng tôi có size áo quần gần như nhau. Khi bị phát hiện thì Quang chỉ cười trừ là xong. Đến phiên Quang phải giặt áo quần thì chàng ta gom lại bỏ vào thau, cho nuớc vào với xà phòng rồi để đó, vài ba ngày sau cả đám hết áo quần mặc mới phát hiện thau áo quần đã lên mốc…Quang lại cười hề hề…Anh em cũng biết Quang chú tâm vào việc sáng tác nên ít khi quan tâm những chuyện khác dù những chuyện ấy có liên quan đến Quang. Mọi chuyện đều do Thảo và anh em khác lo...

Thảo tìm được một quán cơm bình dân ngay góc đường Bùi Thị Xuân và Ngô Tùng Châu mà chúng tôi gọi là “Quán Chị Tư”. Từ Sương Nguyệt Anh đến quán cơm chỉ mất độ năm phút đi bộ. Lúc đầu chúng tôi thanh toán tiền ăn từng bữa, nhưng nhiều lúc kẹt tiền phải ghi nợ, mãi rồi chị Tư xem bọn tôi như người nhà nên lúc nào trả tiền ăn cũng được, không bao giờ chị đòi tiền hoặc nhắc nhở tiền bạc với chúng tôi, có nhiều lần chúng tôi đi đâu về trễ quán đã đóng cửa thì chị cũng nấu cơm cho chúng tôi ăn mà không ghi sổ. Mãi rồi chị coi chúng tôi như những đứa em trong gia đình. Những ngày giỗ tết

77

chị mời chúng tôi đến dự với những bữa ăn đặc biệt ngon… Chị và mấy người em trong gia đình mến chúng tôi vì chúng tôi vui vẻ và chị biết chúng tôi đang học tại Đalạt và về Sàigòn ca hát. Sau năm 1975 tôi và Thảo có ghé thăm chị một lần thì chị cho biết lúc đó nhà chị có chứa VC, những ông nằm vùng này hỏi chị về gốc gác của chúng tôi nhưng chị cũng chỉ biết chúng tôi là sinh viên đi sinh hoạt ca hát vì rất nhiều lần chúng tôi đến quán với những bộ bà ba đen – dĩ nhiên là có cây đàn. Khi chúng tôi nợ chị hai ba tháng liền tiền ăn mà vẫn chưa có tiền trả thì anh Đỗ Ngọc Yến biết được lại xuất tiền cho Thảo để thanh toán cho chị Tư. Ngoài số tiền của mỗi anh em đóng góp, thỉnh thoảng chúng tôi cũng nhận được vài món tiền tặng làm lộ phí khi đến sinh hoạt với các cơ quan thông tin văn hóa Hoa Kỳ. Riêng Phương Oanh thì có gia đình ở Sàgòn nên đến sinh hoạt, tập hát, đi đây đi đó với chúng tôi, thỉnh thoảng cũng có ăn cơm chung ở quán chị Tư.

Chúng tôi cũng làm một tờ báo in ronéo lấy tên Phù Sa để trình bày quan điểm của nhóm khi đã định hình được mục đích và phương pháp làm việc. Một số thân hữu tại Sàgòn giúp phần đánh máy và trình bày, bìa báo được làm cliché hai màu và in tại một nhà in nhỏ ở đường Ngô Tùng Châu. Phần lý thuyết Du Ca do Châu và Lĩnh phụ trách, Quang lo phần sáng tác nhạc, anh em khác trông coi kỹ thuật và chạy tiền để in. Phần thơ văn cũng đều do anh em viết. Tờ Phù Sa chỉ ra được bảy số rồi khai tử, lý do hết tiền!

Năm 1967 có cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội. Trong khi chúng tôi sống ở Sàigòn tại nhà anh Tuệ, nhiều bạn bè thời trung học cũng ghé lại sinh hoạt, thăm

78

viếng. Trong số đó có Trương Sỹ Thực đang học ở Phú Thọ. Thực có quen với gia đình ông Nguyễn Đình Quát là một nhân vật mà tên tuổi dính liền với các đồn đìền cao su ở Miền Nam. Thực theo một trong các cô con gái của ông Nguyễn Đình Quát. Ông Quát là thụ ủy một liên danh để ra ứng cử vào chức vụ tổng thống, đối đầu với liên danh của Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ. Một hôm Thực đến chơi và đề nghị chúng tôi giúp đi dán bích chương quảng cáo cho liên danh của ông Quát với một số thù lao. Chúng tôi đồng ý. Hôm sau Thực chở một đống bích chương, một thùng hồ và mấy cây cọ lớn đến giao cho chúng tôi với số tiền đủ trả cho ba tháng cơm “Quán Chị Tư”. Ngay tối hôm đó sáu đứa chúng tôi hì hục ôm một số bích chương, khiêng thùng hồ và mấy cây cọ đến những nơi không có đèn đường và các con hẻm tối om quanh khu vực đường Sương Nguyệt Anh, Bùi Chu, Bùi Thị Xuân… để dán vào những gốc cây và tường nhà. Chúng tôi chỉ dán được khoảng một phần tư, còn bao nhiêu cất kỹ. Chiều hôm sau Trương Sỹ Thực đến với bộ mặt hầm hầm hỏi tụi tôi dán bích chương chưa thì chúng tôi nói xong rồi. Thực bảo… “mấy ông dán có mấy tờ mà toàn là dán trong hẻm tối hù ai thấy được…”. Chúng tôi chỉ biết cười trừ chứ chẳng biết nói sao hơn. Chắc chắn Trương Sỹ Thực mất điểm với ông Nguyễn Đình Quát có mấy cô con gái từ dạo đó. Cũng cần nhắc lại vụ mấy người con gái ông Quát lái xe hơi đi chơi Vũng Tàu và xe lao xuống cầu Rạch Hào chỉ còn một người sống sót.

Thời gian lưu diễn khắp nơi chúng tôi nhiều lần đến với các đơn vị quân đội ở hậu cứ. Có lần trung úy Kham là sĩ quan liên lạc của một chi đoàn thiết giáp đóng ở Định Tường biết chúng tôi đến hát tại sư đoàn 7 trong căn cứ

79

Đồng Tâm nên mời đến trình diễn cho các binh sĩ đang hành quân ở Bến Tre. Khi chúng tôi có mặt tại bộ chỉ huy chi đoàn, thay vì lên xe qua Bến Tre tối hôm đó thì được yêu cầu ở lại để trình diễn cho các sĩ quan tại đây nghe. Chúng tôi gặp mấy phóng viên chiến trường cũng đang chờ lệnh lên đường trong đó có nhà báo Nguyên Vũ. Sau buổi trình diễn chúng tôi được đãi ăn cháo vịt rồi mới trở lại hội trường để ngủ. Vào khoảng ba giờ sáng, trung búy Kham vào hội trường đánh thức chúng tôi dậy để báo tin là lúc hai giờ sáng Việt Cộng đã tấn công đoàn thiết giáp ở Bến Tre. Sáng hôm sau chúng tôi được lên những chiếc hobo để chạy ngắm cảnh sông Tiền Giang. Lại một lần đang trình diễn trong hội trường của một quân trường gần phi trường Phú Bài-Huế thì bị pháo kích. Thính giả toàn là quân nhân nên họ chạy ra các vị trí chiến đấu, riêng chúng tôi thì cứ lớ ngớ, ra đứng ngay trước cửa hội trường nghe ngóng. Chúng tôi chưa biết súng đạn là gì. May mà không ai dính pháo cả! Dạo chúng tôi trình diễn ra mắt Ban Trầm Ca tại Viện Đại Học Đàlạt vào dịp Lễ Giáng Sinh 1965. Sau vài hôm nghỉ ngơi thăm nhà, chúng tôi theo xe Minh Trung về lại Sàigòn. Xe chạy đến Maragui vào khoảng hai giờ chiều thì bị chận lại bởi mấy nhí du kích xà loỏng dép râu vác AK lùa mọi người vào rừng. Đi khoảng vài trăm mét thì được lệnh dừng lại để trình giấy tờ. Sau khi xem xong (không biết có đọc được hay không!) còn hỏi chúng tôi làm gì. Tất cả trả lời là sinh viên đi học nên được thả cùng với những người khác, đa số là phụ nữ. Những lần kế tiếp chúng tôi không dám đi đường bộ mà xử dụng máy bay quân sự Mỹ hoặc máy bay của Usaid – Usom do anh Đỗ Ngọc Yến xin. Có lần anh em chúng tôi vào phi trường leo lên một chiếc C47 để về Đàlạt thì

80

nhìn ra cửa thấy Nguyễn Thạc xách túi đuổi theo máy bay. Thạc là con của giáo sư Nguyễn Đăng Thục, thân hữu của nhóm có ngón guitar classic rất nhuyễn nhất định xin theo ở với nhóm chúng tôi. Ngồi trên máy bay chúng tôi đưa tay vẫy Nguyễn Thạc cho đến khi máy bay cất cánh rời phi đạo. Chúng tôi về nhà sàn của Quang khoảng ba tiếng đồng hồ sau thì đã thấy Nguyễn Thạc xách túi leo lên nhà sàn với miệng cười toe như kẻ chiến thắng. Thạc đi bằng xe Minh Trung sau khi rượt theo máy bay không kịp!

Một lần khác lên Đàlạt, sau khi trình diễn, chúng tôi ghé thăm hàng quán đêm ở góc đường Trương Vinh Ký – Duy Tân rồi thả bộ xuống Phan Đình Phùng để đi về hướng Mả Thánh. Trong nhóm lúc đó có thêm Huyền Trân là người ngâm thơ trong một số chương trình văn nghệ trên đài phát thanh Sàigòn và đài quân đội. Trời hôm đó tối mù và rất lạnh. Tôi không nhớ ai là người đưa ra ý kiến đi lên Mả Thánh để ngắm cảnh Đàlạt ban đêm. Trên đường đi chúng tôi chuyện trò vui vẻ. Hai cô nàng Phương Oanh và Huyền Trân đâu có ngờ là chúng tôi đưa hai nàng vào nghĩa địa để nhát ma. Chúng tôi theo con đường đất gập ghềnh băng ngang nghĩa trang. Những ngôi mộ có ánh đèn leo lét cùng với tiếng gió rít gào nghe thật ớn lạnh! Khi phát hiện ra là mình bị mấy ông quỷ sứ rủ đi coi ma với những nấm mồ cũ mồ mới lập lòe đom đóm thì hai nàng la ré lên, run cầm cập mà bám lấy mấy ông quỷ sứ ba chân bốn cẳng kéo chạy lui và năn nỉ cho xuống núi. Nàng nào nàng nấy mặt tái mét cắt không còn giọt máu. Mấy ông quỷ sứ chúng tôi thì cười khoái trá…

81

Hôm nay ngồi ghi lại vài mẩu chuyện trong số rất nhiều mẩu chuyện thời tuổi trẻ của chúng tôi mà Nguyễn Đức Quang như một đóa hoa lạ rực rỡ bừng nở trên những chuỗi kẽm gai rớm máu. Từ những hạnh phúc và khổ đau của một chặng đường đời, đóa hoa lạ vẫn cứ vươn lên đem hương thơm tỏa khắp đời…hôm nay và cho cả mai hậu.

Nhiều lần kẻ viết bài này và Quang ngồi nhắc lại những chuyện trên và cùng cười với nhau.

Quang có nhớ là đã hẹn với tôi mùa hè năm 2012 cùng đi du thuyền đấy chứ? Nhưng thôi, hãy an nghỉ đi Quang…hãy yên giấc đi Quang…

Texas Tháng 5 -2011

Ghi chú:

(1) Xin đọc “Mười ba trại sinh”

(2) Trong Bầy có 4 đến 6 Đàn, mỗi Đàn có 6 Sói Con

(3) Xin đọc “Vịt Mồng Năm”

82

HOÀNG KIM CHÂU Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Có … Mười Ba Trại Sinh

Có thể nói không ngoa là dân Hướng Đạo Đà Lạt chúng tôi được thiên nhiên ưu đãi vô cùng. Thật vậy, bối cảnh thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa nên thơ là một hấp lực hết sức mãnh liệt đối với chúng tôi là đám thiếu niên đang lớn, đầy sinh động, hiếu kỳ và háo thắng …

Đà Lạt hùng vĩ với đỉnh núi Langbian mây trắng phủ quanh năm ở về phía bắc thành phố. Còn về phía nam thì có một dãy núi với hình dáng của một ông voi khổng lồ nên được gọi là núi Voi. Rất nhiều địa danh khác chẳng xa lạ gì với chúng tôi. Nếu là thác thì nào là thác Prenn, thác Datanla, thác Cam Ly, thác Gougah, thác Pongour … Suối thì có suối Tía, suối Tiên, suối Vàng, suối Bạc, suối Thông … Hai ngọn đồi nổi tiếng Lappe’ Nord, Lappe’ Sud rồi hồ Than Thở, thung lũng Tình Yêu, rừng Ái Ân, Tour de Chasse …

Nếu nói là dân Hướng Đạo Đà Lạt mà chưa một lần leo lên tận đỉnh Langbian để chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoành

83

tráng và thiêng liêng như cụ BP đã tả trong cuốn Đường Thành Công ở đoạn “ Một mình trên dãy núi Andes “ là một sự thiếu may mắn.

Một số đoàn sinh chúng tôi đã từng vượt lên đỉnh núi nhiều lần. Mỗi lần được đứng trên đỉnh núi là mỗi lần chúng tôi tự hào như những kẻ chiến thắng. Chiến thắng là vì đã chinh phục được hiểm trở, khó khăn. Đó cũng là những thử thách về thể chất lẫn tinh thần, vào tuổi đầu đời của tuổi niên thiếu. Nhưng óc hiếu kỳ và tinh thần mạo hiểm của chúng tôi vào thời đó đôi khi cũng đã làm phiền lòng đến những người chung quanh không ít.

Thám Du Langbian 1958 : Nguyễn Đúc Quang, Hoàng Kim

Châu, Nguyễn Truyện, Cao Duy Tuấn.

Khi mới chân ướt chân ráo vào Hướng Đạo, tôi đã nghe nhiều trưởng và các anh thiếu sinh lớn kể câu chuyện về một thiếu sinh tên Lâm Anh của thiếu đoàn Quang Trung vì có óc mạo hiểm nên khi tham dự trò chơi lớn ban đêm đã bị thất lạc trong rừng Suối Tía và phải mất hai ngày hai đêm mới tìm được đường trở về. Một thời gian sau tôi gập anh Lâm Anh và được chính anh kể lại câu truyện trên. Trong thiếu đoàn Lê Lợi chúng tôi cũng có một trường hợp đã xảy ra, tuy tính cách có khác với

84

trường hợp của thiếu sinh Lâm Anh nhưng khi sự việc xảy ra cũng đã gây “ tiếng vang “ cho Hướng Đạo ở Đà Lạt vì sự mất tích của mười ba Hướng Đạo Sinh khi đi cắm trại.

Vào khoảng tháng 3 năm 1959, Đội Trưởng Nguyễn Đức Quang tổ chức trại liên đội Voi và Sóc. Theo qui định thì trại đội chỉ được phép tổ chức để đưa đội sinh đi cắm trại trong ngày mà thôi, nghĩa là sáng sớm đi, chiều tối về chứ không được ở lại qua đêm như trại đoàn. Trại do đội trưởng và đội phó tổ chức. Địa điểm, thời gian và chương trình sinh hoạt trại phải nộp cho Thiếu trưởng hai tuần trước ngày lên đường. Đội trưởng Nguyễn Đức Quang và Cao Duy Tuấn đã làm đủ mọi thủ tục cần thiết cho cuộc cắm trại liên đội mà nhân số lên đến mười ba người.

Đúng sáu giờ sáng tất cả mười ba trại sinh đều có mặt tại bùng bình phun nước cạnh đồi Cù với ba lô, dụng cụ đầy đủ. Trưởng Nguyễn Minh Hoàng là Thiếu Phó và tôi là Đội Trưởng Nhất đều có mặt lúc mười ba Hướng Đạo Sinh trong bộ đồng phục áo vải màu nâu quần soọc xanh, vớ cao và nón rộng vành lên yên xe khởi hành về phía nam thành phố để đổ đèo về hướng thác Prenn.

Thiếu Trưởng Nguyễn Văn Võ, hai Thiếu Phó Lê Thuần và Nguyễn Minh Hoàng cũng như tôi rất yên tâm và tin tưởng vào hai Đội Trưởng giỏi Nguyễn Đức Quang và Cao Duy Tuấn, chỉ chờ đến chiều để biết mười ba trại sinh về nhà vui vẻ và an toàn. Khoảng bốn giờ chiều hôm ấy tôi đạp xe đến nhà Trưởng Nguyễn Văn Võ ở đường Minh Mạng, một lát sau, hai Trưởng Lê Thuần và Nguyễn Minh Hoàng cũng có mặt. Chúng tôi chờ sự xuất hiện của Nguyễn Đức Quang hay Cao Duy Tuấn để

85

biết diễn tiến của kỳ trại. Bình thường thì khoảng năm sáu giờ chiều thì các trại sinh đã về đến thành phố và Đội Trưởng phải đến nhà Thiếu Trưởng để cho biết việc “đi đến nơi về đến chốn” trước khi về nhà mình.

Sáu giờ chiều, trời bắt đầu sụp tối mà chúng tôi chưa thấy bóng dáng Nguyễn Đức Quang hay Cao Duy Tuấn. Chờ cho đến bẩy giờ thì Trưởng Nguyễn Văn Võ bảo tôi lấy xe đạp đến nhà Quang xem anh ta về chưa. Tôi vâng lời và chỉ trong độ mười phút sau là tôi đã đến nhà Quang, gập bà cụ. Thấy tôi, cụ hỏi :” Không đi trại với Quang?” Tôi trả lời :” Dạ thưa không?”. Thế là tôi biết Quang chưa về đến nhà. Cụ bảo tôi ở lại chơi, chờ Quang về cùng ăn cơm luôn. Tôi xin phép đi và hứa chốc nữa Quang về sẽ ghé. Tôi trở lại nhà Trưởng Võ và đề nghị cho tôi đạp xe đến nhà vài trại sinh nữa xem sao nhưng các Trưởng nói là không nên. Đã gần tám giờ, tôi thấy cả ba Trưởng đều tỏ vẻ lo lắng và rồi hội ý với nhau những gì tôi không rõ. Tôi đứng chờ các Trưởng nhờ việc gì là tôi làm việc đó mà thôi. Trưởng Hoàng rủ tôi lấy xe đạp đi theo Trưởng. Chúng tôi đạp xe ngang qua nhà của Cúc ở gần Toà Án rồi đạp ngược lên đường Phan Đình Phùng để đến ngã ba chùa rồi xuống xe dắt bộ lên đường Hàm Nghi, đi ngang qua nhà của Tuệ. Chúng tôi không vào nhà của hai trại sinh Cúc và Tuệ, chỉ đi ngang nhìn vào mà thôi. Nhà nào cũng đóng cửa nên chúng tôi chẳng thấy gì.

Khi Trưởng Hoàng và tôi về đến nhà Trưởng Võ thì chị Võ nói :” Anh dặn các chú chờ ở đây, anh và Thuần đã đi lên ty Công An và An Ninh Quân Đội để báo cho họ biết và nhờ họ giúp đỡ tìm kiếm các em.” Vừa khi đó thì phụ huynh lấp ló ngoài cửa. Trưởng Hoàng ra mời

86

họ vào nhà và cho họ biết là các em đi lạc và chúng tôi đã nhờ chính quyền tìm kiếm. Trưởng Hoàng cũng khuyên phụ huynh hãy trở về nhà và bằng mọi cách sẽ tìm các em và đưa về an toàn … Sau đó Trưởng Hoàng và tôi đạp xe đến nhà các phụ huynh khác để tin cho họ biết. Trưởng Võ và Trưởng Thuần đã cùng một số nhân viên của ty Công An và An Ninh Quân Đội xuống thác Prenn và các khu vực kế cận để tìm kiếm. Những cơ quan này đều có phương tiện truyền tin để báo động và yêu cầu các cơ quan trực thuộc của các địa phương như Finom, Tùng Nghĩa, Laba, đồn điền Fareaux và các nhân viên thuộc cơ quan bảo vệ rừng ra sức tìm kiếm mười ba Hướng Đạo Sinh bị mất tích.

Dạo đó rất ít gia đình có được điện thoại nên chúng tôi đành bó tay ngồi một chỗ để chờ… Anh Đạo Trưởng và một số Trưởng của các đơn vị khác cũng có mặt tại nhà của Trưởng Võ. Trong khi lo âu chờ đợi, tôi đã được nghe các Trưởng đưa ra nhiều giả thiết thứ nhất là có một hai em đi lạc nên các em còn lại đổ xô đi tìm, rồi mỗi em một hướng chưa tập họp lại đủ. Giả thiết thứ hai là có trại sinh bị thú dữ vồ mang đi. Giả thiết thứ ba là bị Việt Cộng bắt lùa cả đám vào rừng sâu …

Chín giờ, mười giờ rồi mười một giờ đêm trôi qua. Trời Đà Lạt ban đêm rất lạnh, chị Võ pha cà phê và trà cho các Trưởng uống. Lại có vài phụ huynh sốt ruột nên ghé lại nhà Trưởng Võ để cùng chờ và bàn luận sự việc. Sự lo âu càng lúc càng hiện rõ lên mặt các Trưởng và phụ huynh. Phần tôi, ngồi một góc để nghe và chờ chứ chẳng biết làm gì hơn. Đồng hồ treo tường điểm mười hai giờ, vài Trưởng đứng lên đi ra khỏi nhà nhìn quanh quất rồi bước vào nói chuyện tiếp. Tôi vẫn không thấy

87

buồn ngủ khi đồng hồ điểm một giờ sáng. Tôi bước ra ngoài ngó quanh, sương khuya bao trùm phố xá và cái lạnh cố hữu tràn về khắp nơi. Các Trưởng lại mời mấy phụ huynh về nhà nghỉ ngơi nhưng họ bảo để ngồi nói chuyện với các anh cho vui …

Khoảng mười lăm phút sau một chiếc xe Jeep của ty Công An đỗ trước nhà, Trưởng Võ và Trưởng Thuần nhẩy xuống xe, bước vào nhà, chiếc xe đổ dốc Minh Mạnh. Mọi người đứng dậy đón hai Trưởng. Không để mọi người kịp hỏi, Trưởng Võ nói ngay :” Nhờ sự giúp đỡ của nhân viên Ty Công An và An Ninh Quân Đội, một cuộc tìm kiếm mười ba Hướng Đạo Sinh mất tích trong một phạm vi khá lớn, lấy thác Prenn làm trung tâm điểm. Cuộc tìm kiếm tại thác Datanla, thác Prenn, Finom và Tùng Nghĩa, quanh thác Gougah và Pongour, khu vực núi Voi và quận Đơn Dương nữa.” Vài phụ huynh nói chuyện với Trưởng Võ và Thuần, hai Trưởng trả lời cho họ một số chi tiết và cho biết cuộc tìm kiếm vẫn tiếp tục. Trưởng Võ khuyên mọi người trở về nhà sau khi cho hay rằng sáng sớm mai một số Trưởng sẽ tháp tùng với nhân viên Công An và An Ninh Quân Đội để mở rộng phạm vi tìm kiếm.

Tôi đạp xe về đến nhà thì cũng đã quá hai giờ sáng. Vừa lên giường kéo chăn để chống với cái lạnh về sáng thì tai tôi chợt nghe có tiếng nói vọng vào từ ngoài đường trước nhà. Tôi nín thở lắng nghe, những tiếng xì xào mỗi lúc một rõ hơn của nhiều người và tôi nhận ra tiếng nói của Quang, của Tuấn, của Cúc, của Du, của Bảo … Tôi hất tung chăn nhẩy ra khỏi giường và chạy ra mở cửa. Thì ra mười ba chàng Thiếu Sinh của hai đội Voi và Sóc chẳng biết từ đâu xuất hiện trước sân nhà tôi.

88

Tôi không khỏi ngạc nhiên và cũng không dấu được nỗi vui mừng ! Tôi mở cửa cho tất cả vào nhà. Câu hỏi đầu tiên của tôi là :” Có bao nhiêu em trở về?” Nhiều tiếng trả lời :” Mười ba người “. Trông các em mặt mày hốc hác, mệt nhọc nhưng vẫn còn ba lô trên lưng, lều, dây cọc buộc sau xe và nồi niêu xoong chảo, đèn đuốc đã rơi đâu mất ở dọc đường. Tôi biết các em đói lắm, nhưng các em bắt đầu kể chuyện vui vẻ, ba chiếc xe đạp bị gãy, chiếc thì gẫy tay lái, chiếc thì gẫy phuộc, chiếc thì gẫy sườn, nhiều bánh xe chẳng còn tí hơi. Và như thế các em đã dắt díu đưa nhau về.

Tôi hỏi Quang và Tuấn :” Cắm trại ở thác Prenn, sao giờ này mới về và về ở hướng này?” Quang cười nhăn cả mặt :”Thay vì đi thác Prenn, bọn tôi hứng chí nên đổi hướng đông ngang qua hồ Than Thở rồi bọc lên hướng bắc ra phía sau chân núi Langbian, định leo núi rồi xuống núi trở về, ai ngờ đường quá xa nên phải theo sườn núi trở về nhà mà cũng chẳng kịp, không có thức ăn, xe bị hỏng …”

Tôi đánh thức mẹ tôi dậy và nhờ bà nấu ngay cho một nồi cơm thật lớn để cho các em ăn trước khi đưa các em về tận nhà. Mẹ tôi đã có sẵn một nồi cá kho mang ra. Chỉ trong vòng mười phút là nồi cơm và nồi cá hết sạch. Trong khi các em ăn cơm, tôi lo vá và sửa các xe bị hỏng trừ các xe bị gẫy như đã nói trên. Xong, tôi hối thúc các em đèo nhau trở về nhà kẻo cha mẹ các em trông. Phần tôi vì vui quá nên quên cả việc phải cấp báo cho các Trưởng biết việc các em đã về đến nhà tôi. Cũng cần nói thêm là nhà tôi ở phía bắc thành phố Đà Lạt, muốn đi lên núi Langian thì phải đi ngang nhà tôi. Vì vậy khi các em từ núi Langbian muốn về thành phố

89

cũng phải đi ngang qua nhà tôi. Vì lý do đó mà mẹ tôi hân hạnh được đãi mười ba Thiếu Sinh một bữa cơm ngon “ vô tiền khoáng hậu” như lời phát biểu của các em.

Bốn giờ sáng tất cả đều đã rời khỏi nhà tôi. Tôi cũng lật đật đạp xe xuống nhà Trưởng Võ để tường trình mọi việc xẩy ra sau khi tôi từ nhà Trưởng Võ trở về.

Tối Chủ Nhật tuần đó, một cuộc họp Hội Đồng Đoàn với sự hiện diện của các Trưởng và các Đội Trưởng, Đội Phó. Các Đội Trưởng Nguyễn Đức Quang và Cao Duy Tuấn lần lượt trả lời những câu hỏi về việc thay đổi lộ trình và địa điểm cắm trại. Các Trưởng không nghiêm khắc khiển trách Quang và Tuấn nhưng nhắc nhở nên tôn trọng luật chơi đã được qui định để tránh mang lại sự phiền hà lo lắng cho phụ huynh và những người liên hệ.

Sau buổi họp, các Trưởng dắt chúng tôi đi uống sữa đậu nành nóng trước khi chia tay ra về.

Những ngày sau Nguyễn Đức Quang kể cho tôi một số chi tiết ly kỳ của cuộc phiêu lưu đưa mười ba Thiếu Sinh thám hiểm núi Langbian. Nghe xong tôi nói với Quang :” Chỉ có một lần trong đời Hướng Đạo, có một cuộc mạo hiểm, như thế đã là một Hướng Đạo Sinh giỏi.”

Về sau Quang cũng là Đội Trưởng Nhất của Thiếu Đoàn Lê Lợi.

90

HOÀNG KIM CHÂU Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Vịt Mồng Năm

Tôi và Hà Thái Trường cùng đi dạy học tại một trường tư thục. Đó là tư thục Việt Anh mà hiệu trưởng là thầy Lê Phỉ. Cả hai chúng tôi đều là dân Hướng Đạo. Tôi là thiếu trưởng thiếu đoàn Lê Lợi còn Trường là bầy trưởng Ấu đoàn Lê Lai. Sau khi thành phố Đàlạt giao cho đạo Lâm Viên căn nhà nổi bằng gỗ màu xanh trên hồ Xuân Hương để đổi ngôi nhà lâu nay là đạo quán ở số 28 đường Lý Thái Tổ thì tôi và Trường được anh đạo trưởng lúc bấy giờ là trưởng Phan Như Ngân và các trưởng trong đạo giao cho chúng tôi quản lý.

Người Đàlạt và những ai đã từng đặt chân đến đây chắc chắn không thể nào không nhớ đến căn nhà nổi bềnh bồng trên mặt nước hồ Xuân Hương này. Nó nằm ngay cạnh bùng binh có vòi phun nước đầu Đồi Cù và con đường chạy ven đồi dẫn lên viện đại học Đàlạt. Cũng có một đoạn đường dài độ hai trăm mét từ vòi phun nước chạy đến một ngả ba thì chia làm ba nhánh; nhánh bên

91

trái chạy lên đường Phan Bội Châu để đến khu Hòa Bình; nhánh giữa trở thành đường Cộng Hòa – một con đường hết sức thơ mộng chạy ôm theo triền đồi lúc nào cũng rợp bóng mát. Đường Cộng Hòa có một thời được chọn là con đường đẹp và thơ mộng nhất của thành phố Hoa Anh Đào dẫn đến tư dinh của những vị thị trưởng thành phố. Nhánh thứ ba của đoạn đường ngắn nói trên nằm dưới thấp là đường Võ Tánh quanh co mấy khúc rồi chạy ngang qua trường nữ trung học Bùi Thị Xuân để đụng với đường Phù Đổng Thiên Vương nằm dưới chân đồi viện đại học Đàlạt.

Những khách nhàn du dạo bờ hồ đi từ khu Hòa bình xuống hay từ trong chợ ra đều phải đi ngang qua nhà hàng Thanh Thủy nằm che mình dưới những tàn thông già vươn ra mặt hồ soi bóng nước. Đi thêm vài mươi bước sẽ là vòi phun nước và chỉ cần bước xuống bờ cỏ đi vài bước nữa là đến đạo quán của Đạo Lâm Viên mà chung quanh toàn bằng kiếng. Đứng bên ngoài nhìn vào cũng thấy được những hình vẻ trên kiếng trình bày những hình ảnh sinh hoạt và hoa văn Hướng Đạo nhiều màu sắc tươi vui.

Các trưởng thường hay ghé đạo quán chơi với chúng tôi ngoài những lần họp định kỳ mỗi tháng hay những ngày lễ hội của Hướng Đạo. Những trưởng trẻ độc thân thường ghé đến trò chuyện, ăn uống và ở lại đêm. Trong số đó đặc biệt có Nguyễn Đức Quang bầy trưởng Ngàn Thông và Đoàn Chiêm là Baloo của bầy.

Bốn chúng tôi là anh em kết nghĩa. Thực ra chúng tôi có đến năm anh em. Anh cả là Nguyễn Ngọc Phước cũng là bầy trưởng Ngàn Thông trước khi vào Thủ Đức, anh hai là Hà Thái Trường, bầy trưởng bầy Lê Lai, anh ba là

92

Đoàn Chiêm, tôi là thứ tư và Nguyễn Đức Quang là em út. Ngoài cái tình Hướng Đạo sẵn có, chúng tôi đã tạo được một tiểu gia đình để sinh hoạt và nâng đỡ nhau như anh em ruột thịt thật sự.

Đạo Quán Hướng Đạo Đà Lạt

Tôi nhớ rất rõ. Hôm ấy là ngày chủ nhật, giữa tháng sáu 1964, nhằm ngày mồng năm tháng năm âm lịch tết đoan ngọ năm giáp thìn.Vào khoảng một giờ trưa, bốn anh em chúng tôi đang ngồi ăn cơm, vừa ăn vừa chuyện trò vừa nhìn ra ngoài cửa kiếng ngắm mặt hồ trong xanh. Bên kia hồ là con đường nhựa chạy men theo bờ hồ từ chợ Đàlạt để đi về hướng ga xe lửa, ấp Cô Giang, hồ Than Thở…Vào giờ đó người đi lên đi xuống vẫn còn khá tấp nập dưới bầu trời xanh có nắng ấm. Hơn nữa, đó lại là ngày chủ nhật mà cũng đúng vào ngày “mồng năm tháng năm”. Những chiếc áo dài, những chiếc dù đủ màu di động càng làm cho cảnh sắc bên hồ trở nên vui tươi và sinh động.

Ở Đàlạt dạo ấy rất nhiều gia đình còn giữ lệ cúng vào ngày mồng năm tháng năm tức là tết đoan ngọ nên họ đi chợ mua sắm hàng quà rất đông. Số lượng người đi chợ

93

gia tăng thấy rõ mà phần lớn là đi bộ. Từ nhà lội bộ đến chợ năm ba cây số là chuyện rất thường đối với các bà nội trợ. Đám nam thanh nữ tú vào ngày chủ nhật kéo nhau xuống phố cũng là chuyện thường tình. Họ đi để mà đi, lang thang quanh phố Hòa Bình hay vào lầu chợ, mua sắm thì ít mà để ngắm nhau thì nhiều. Có nhiều anh chị cứ đi vòng vòng khu Hòa Bình suốt cả buổi mà không biết chán, đi một mình cũng có, cặp hai cặp ba cũng có, đi toàn phái nam cũng có, toàn phái nữ cũng có. Họ đi như đuổi bắt nhau, chạm mặt nhau, nhìn nhau cười, liếc nhau, ngắm trộm nhau. Các cô gái má hồng lúc nào cũng duyên dáng dễ thương và kín đáo trong những chiếc áo dài với chiếc áo laine bên ngoài. Các bà nội trợ đi chợ lúc nào cũng áo dài tươm tất như những cô gái thanh xuân. Đối diện với căn nhà gỗ nhỏ bé của chúng tôi, bên kia hồ, là ngôi biệt thự nằm trên triền đồi. Ngôi biệt thự sơn toàn máu trắng nổi bật ở giữa đồi thông xanh. Đó là biệt thự của dược sĩ Trang Hai, sau này là dân biểu hạ viện. Trên đường chúng tôi thấy có nhiều bà nhiều cô đi chợ về tay xách những giỏ thức ăn đầy ắp. Trong đám người đó, chúng tôi thấy có một bà trông đã đứng tuổi, mặc áo dài màu lam nhạt, tay phải xách giỏ thức ăn và tay trái xách một cặp vịt màu trắng. Bà đi về hướng sân vận động. Khi đến trước ngôi biệt thự màu trắng thì bà ta dừng lại, để giỏ thức ăn xuống vệ đường và lay hoay với cặp vịt không biết để làm gì. Chúng tôi đoán có lẽ dây buộc vịt bị lỏng hay sao đó nên bà phải dừng chân, ngồi xuống buộc lại cho chặt. Rồi không biết bà làm ăn thế nào mà một chú vịt đã vuột ra khỏi tay bà, chạy một quảng ngắn rồi nhảy tòm xuống nước! Bà lính quýnh đứng lên rượt bắt chú vịt. Chỉ trong giây lát, chú vịt thứ hai cũng vuột khỏi tay bà và nhảy

94

tòm xuống nước luôn! Hai chú vịt cùng kêu lên mấy tiếng cạp cạp, bơi lại gần bên nhau rồi cùng vỗ cánh ra điều khoái chí, quay đầu hướng về giữa hồ bắt đầu bơi một cách nhẹ nhàng. Trên hồ nước trong xanh của mùa hè Đàlạt, có hai chú vịt trắng thong thả bơi trông thật nên thơ! Chúng tôi cũng vừa ăn cơm xong. Bên kia hồ nhiều người hiếu kỳ bu quanh bà nội trợ mất vịt và dĩ nhiên họ chẳng làm được gì để giúp bà bắt lại hai chú vịt. Bà nội trợ đứng phân bua một lát rồi đành xách giỏ thức ăn đi vào trong đám đông.

Hồ Xuân Hương Đà Lạt

Dạo đó chúng tôi còn quá trẻ. Tôi và Quang ở tuổi hai mươi. Chiêm hai mươi mốt và Trường hai mươi hai. Tất cả đều ham vui và hiếu động. Chúng tôi đoán già đoán non rằng thế nào bà nội trợ khéo tay cũng kêu con cháu ra hồ để bắt lại hai chú vịt nhưng chúng tôi đã đoán sai vì gần hai tiếng đồng hồ sau, chúng tôi vẫn còn thấy hai chú vịt bơi nhởn nhơ trên mặt hồ. Trường nẩy ra ý nghĩ và nói : “Tại sao chúng ta không bơi ra hồ bắt hai chú vịt ấy lên để chiều nay làm một bữa tiệc đoan ngọ như ai…”. Tôi, Quang và Chiêm cười rộ lên như biểu đồng tình với lời đề nghị rất thông minh và thực tế của

95

Trường. Có một điều éo le là cả ba chúng tôi đều biết bơi, còn Trường thì không! Cũng chả sao. Ba tay bơi cũng đủ rồi. Thế là, với quyết tâm cao, ba chúng tôi bỏ áo, chỉ mặc xà loỏng nhảy xuống nước vào khoảng ba giờ chiều hôm ấy – một buổi chiều của Tết Đoan Ngọ. Chúng tôi nhắm thẳng hướng giữa hồ bơi ra nơi có hai chú vịt vừa thoát ra khỏi lưỡi dao của ngày mồng năm tháng năm đang nhởn nhơ trong làn nước trong xanh. Lúc còn ở trên bờ, chúng tôi những tưởng chỉ việc bơi ra tóm cổ hai chú, xong bơi vào một cách nhẹ nhàng thoải mái, sau đó là ngửi thấy mùi thơm của nồi cháo bốc khói, những miếng thịt vàng ngậy khoái khẩu. Nào ngờ đâu… khi cả ba chúng tôi xoải tay bơi ra giữa hồ, khi đến gần, chỉ còn cách độ hai thước thì hai chú vịt bèn lên tiếng kêu cạp cạp như để chào đón chúng tôi. Chúng tôi nhìn nhau cười đắc chí và thấy chắc ăn chư bắp, chỉ cần một cái với tay nữa là chúng tôi vớ được cả hai chú ngay. Khi chúng tôi vừa đưa những cánh tay lên định vồ lấy cổ chúng thì lập tức và đồng loạt, hai chú rúc đầu xuống nước và biến dạng. Cả ba chúng tôi vô cùng bàng hoàng, ngẩn người ra một lúc rồi cười ầm lên như ba thằng khùng. Lúc đó chúng tôi mới chợt nhớ ra rằng loài vịt chẳng những biết bơi mà chúng còn biết lặn rất tài tình nữa! Chẳng thấy hai chú vịt đâu cả. Chẳng lẽ chúng đã rủ nhau chui tọt xuống dưới đáy hồ! Không phải thế. Chừng một phút sau hai chú vịt đã trồi lên khỏi mặt nước cách chỗ chúng tôi độ chục thước. Cả ba nhìn về hướng hai chú vịt rồi lại nhìn nhau há miệng cười ngất vì thấy mình quê một cục. Hai chú vịt há mồm kêu cạp cạp thật to như ra điều thách đố chúng tôi. Trên bờ, Trường đang đứng nhìn ra phía chúng tôi cười ngặt nghẽo và đưa tay ra dấu cho chúng tôi tiến tới. Thế là ba

96

đứa nhắm hướng hai chú vịt sải tay vươn người tới. Chưa bao giờ chúng tôi lại bơi lẹ làng như thế. Cũng như lần đầu tiên, hai chú vịt mắc gió chờ cho chúng tôi đến gần chỉ còn độ một sải tay là chúng lại rúc đầu xuống nước và biến mất.. Vài chục giây sau chúng lại ở ngay sau phía chúng tôi và cất tiếng kêu như báo cho chúng tôi biết là chúng đang ở đâu. Chúng tôi xoay mình lại và mặc dù đang ngâm mình dưới nước, chúng tôi cũng cảm thấy nực nên cố trườn mình với tốc độ nhanh hơn trước. Thế nhưng lần này chúng tôi vẫn phải nhìn hai chú vịt khuất dạng dưới làn nước trong xanh. Ba đợt tấn công đều thất bại! Ba thằng cùng có ý nghĩ bỏ cuộc vì mười phần đã thấy chín phần thua. Trời về chiều, gió hiu hiu thổi, sóng lăn tăn trên mặt hồ đã khiến chúng tôi cảm thấy lạnh. Nhìn mặt đứa nào cũng tái, môi bắt đầu chuyển sang màu “tím hoa sim”. Chúng tôi đã từng bơi qua hồ Xuân Hương nhiều lần nhưng chưa bao giờ lại có cái kiểu bơi vòng vòng mãi trên hồ như thế.

Mặt trời đã đụng đồi cù. Còn nước còn tát! Còn nước còn bơi! Chúng tôi hội ý đưa kế hoạch là ba thằng không xuất phát cùng một chỗ mà chia ra làm ba mũi dùi rồi cùng một lúc tấn công vào chúng. Ngoài ra khi vịt lặn xuống nước thì chúng tôi cũng lặn theo rượt đuổi để chúng mất tinh thần. Từ độ xa gần chục thước, chúng tôi đồng lọat sải tay vươn tới, hai chú vịt lại rúc đầu xuống nước. Chúng tôi phóng theo. Nhờ nước trong nên chúng tôi thấy rõ hai chú đang đạp chân chúi đầu xuống, thân chúng hình như được thu nhỏ lại để lao xuống cho nhanh. Chúng cũng thấy được sư an nguy cận kề nên lách mình lia lịa, lúc quẹo sang trái, lúc quẹo sang phải, lúc trườn mình lên, lúc nhủi đầu xuống.

97

Cuối cùng thì hai chú vịt cũng trồi đầu lên mặt nước. Chúng tôi mừng vì thấy khoảng cách giữa chúng tôi và hai chú vịt gần hơn trước. Rút kinh nghiệm, chúng tôi liên tục phóng mình rượt đuổi để gây ra tình trạng hoảng loạn. Sau ba bốn đợt tấn công như thế, hai chú vịt mất tinh thần thấy rõ. Chúng vừa trồi lên mặt nước là chúng tôi đã nhào tới khíến chúng bị tách ra làm hai hướng. Chúng tôi nhanh trí đưa ra kế hoạch là phải dứt điểm từng chú một. Vài người đi đường thấy trò chơi bắt vịt lạ lùng của chúng tôi cũng dừng lại xem và đưa tay chỉ chỏ như muốn chúng tôi phải làm theo ý của họ. Vài người đang uống cà phê trên nhà thủy tạ cũng dồn ra phía ngoài đứng xem chúng tôi. Mặt trời khuất sau đồi cù. Chẳng còn tia nắng nào rọi xuống mặt hồ và chúng tôi đã bắt đầu thấm lạnh. Chúng tôi ra dấu để cả ba cùng lao vào một chú đang kêu quác quác như để cầu cứu. Chú chúi đầu xuống nước, hai chân duỗi thẳng, mình lách qua lách lại trông chẳng khác nào chiếc tiềm thủy đỉnh bị săn đưổi. Chú vịt thứ hai lo âu thấy bạn mình bị nạn cũng há mồm kêu ầm ĩ liên hồi. Chỉ sau vài đợt liên tiếp tấn công, chúng tôi tóm được được chú vịt đã đuối sức. Chú đành thúc cánh trước sức tấn công vũ bão của ba chúng tôi. Tôi cầm cổ chú vịt nhấc lên cao và ra dấu cho Trường đang đứng trên bờ vỗ tay hoan hô. Nguyễn Đức Quang có nhiệm vụ tải chú vịt vào bờ giao cho Trường rồi bơi ra lại để cùng tôi và Chiêm đứt điểm chú thứ hai.

Tội nghiệp cho chú này, thấy bạn mình bị hốt đưa lên cạn, chú lại càng gào to hơn nữa. Cũng vẫn chiến thuật cũ, liên tục và nhanh nhẹn, chúng tôi lặn hụp rượt đuổi làm cho chú vịt mất tinh thần, không còn định hướng được nữa để rồi phóng vào ngay về hướng chúng tôi. Ba thằng cùng đưa tay vớ và chú vịt đã dính chặt trong tay

98

Chiêm. Chúng tôi cười đắc thắng. Trời cũng đã sụp tối. Chúng tôi bơi vào bờ trao chú vịt thứ hai cho Trường rồi vào nhà thay quần mặc áo, xong chạy lên đồi cù trước mặt gom lá thông khô đốt lên sưởi ấm.

Tính lại, chúng tôi đã mất gần ba tiếng đồng hồ để quần thảo với hai chú vịt tưởng đã thoát được vòng dây oan nghiệt của bà nội trợ lại lọt vào vòng vây oan khiên của ba chàng “ngự lâm pháo thủ” chúng tôi! Tối hôm ấy cả bốn thằng chúng tôi mất thêm gần hai tiếng đồng hồ nữa để vặt sạch lông hai chú vịt can trường. Hà Thái Trường được giao cho nhiệm vụ đạp xe đi gọi mấy đứa bạn thân nữa đến thưởng thức món vịt luộc chấm muối tiêu và những cà mèn cháo bốc mùi thơm của nước Hồ Xuân Hương trong một mùa tết đoan ngọ vô tiền khoáng hậu.

99

HOÀNG KIM CHÂU Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Chuyện Của Quang

Không Nói Hết...

Ngày bước chân vào ngưỡng cửa đại học, Quang đã bỏ lại sau lưng nhiều bạn bè. Chuyện đó bình thường. Đời người có nhiều lần đi đến một khúc quanh hay đến ngã ba ngã tư, thậm chí ngã sáu ngã bảy thì đường ai nấy đi. Mỗi người một số phận. Mỗi người một con đường. Ai cũng phải chọn cho mình đoạn đường kế tiếp để đi. Cũng có khi là tình cờ run rủi, có khi là sự an bài. Quang may mắn có cơ hội chọn cho mình đường đi và hướng đi. Quang có những năm ở đại học thật sinh động vì đã thật sự sống với tất cả ý nghĩa của nó. Một thanh niên bình thường như hàng triệu thanh niên khác tại Miền Nam Việt Nam, Quang còn một số bạn bè đi chung thêm một đoạn đường, và vượt trội hơn mọi người với tài năng, bản lãnh và nhận thức trực diện ngoại cảnh vượt ra không gian các giảng đường hay thành phố quanh co

100

dốc đồi Đàlạt. Bạn bè thời đại học, đặc biệt là các bạn cùng khóa chính trị kinh doanh không ai mà không biết Quang dù còn trong bốn năm học hay sau này đã lao vào đời.

Ban Văn Nghệ Trường Trung Học Trần Hưng Đạo 1962

(Quang: người thứ 5 bên trái phía sau. Châu: thứ ba bên phải)

Ngoài quãng thời gian cùng các bạn thời trung học thành lập Ban Trầm Ca và Phong Trào Du Ca, Quang ít có cơ hội gặp lại một số bạn cũ thời trung học. Lúc đã định cư ở Mỹ cũng vậy, bạn bè trung học của Quang thường gặp chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ngay những người ở cùng thành phố cũng ít có cơ hội gặp Quang. Lý do dễ hiểu. Ai cũng bận bịu làm ăn, chạy theo cho kịp với nhịp sống của xã hội Mỹ, rồi gia đình con cái với trách nhiện nặng nề của bậc cha mẹ. Quang thường sinh hoạt gặp gỡ giới truyền thông báo chí, văn nghệ sĩ và một số bạn chính trị kinh doanh hơn. Có những lời than phiền là Quang ít gặp bạn bè Đalạt.

Tôi không ở chung thành phố hay tiểu bang với Quang nhưng có lẽ tôi là người gặp Quang khá nhiều so với một số bạn ở cùng thành phố, ngay cả chung zip code.

101

Tôi sang Mỹ năm 92. Năm 93 tôi sang Cali thăm Quang và một số bạn bè Đalạt. Đến thăm Quang và Minh Thông trong ngôi nhà ở đường Hazard hàn huyên bao nhiêu chuyện người cũ việc cũ. Khi đó Quang vừa rời báo Người Việt để lập tờ Viễn Đông Kinh Tế Thời Báo, Quang đưa tôi đến thăm cơ sở Viễn Đông lúc đó chỉ mới có vỏn vẹn một tấm banner treo phía trước. Hai đứa chụp chung một tấm hình rồi kéo nhau về tòa soạn báo Người Việt ở đường Moran gặp một số anh em quen xưa ở Sàigòn như các anh Hoàng Ngọc Tuệ, Lê Đình Điểu, Hà Tường Cát, Trần Đại Lộc, Đỗ Ngọc Yến, Phạm Phú Minh... Những lần họp mặt nhà bạn bè cũ Đàlạt ở California tôi đều gặp Quang và Minh Thông, chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm của thời còn ở Đàlạt.

Lần đầu tiên Quang qua Houston để cùng tôi dự trại của anh chị em sinh viên năm 1996. Cả gia đình tôi đi đón Quang về nhà và rồi cùng kéo nhau đi trại. Quang được giới thiệu để hát những ca khúc nổi tiếng do anh sáng tác trước năm 75. Sau đó nhiều lần tôi cũng đón Quang qua Houston để trình diễn ở trại hoặc trong những dịp lễ kỷ niệm những ngày lễ của Việt Nam Cộng Hòa. Có đôi lần hội đoàn hoặc bạn bè phỏng tay trên bắt cóc Quang ở ngay phi trường. Một lần tôi đưa Quang đến hát trước khuôn viên siêu thị Hồng Kông nhân ngày 30 tháng tư, vừa hát xong là tôi đưa Quang về nhà Nguyễn Quốc Thắng (khóa 10 CTKD) lúc đó là chủ tịch Thụ Nhân Houston để hát riêng cho anh em Thụ Nhân nghe. Hôm ấy Quang được yêu cầu chỉ hát nhạc tình và Quang đã chiều ý anh em. Mãi đến gần một giớ sáng chúng mới chia tay ra về.

102

Quang và Châu dự trại hè sinh viên Texas

Quang đến đâu cũng có anh em đón tiếp và tổ chức cho Quang hát (Quang không thích hai chữ “trình diễn”). Từ Orange County, San José, Washingtoin DC đến Houston, nơi nào cũng có bạn bè và anh chị em thiện nguyện hoặc các hội đoàn sẵn sàng đứng ra tổ chức mời mọc. Ở Pháp có anh Trần Văn Ngô và chị Phương Oanh, đến Hòa Lan có Nguyễn Quyết Thắng, qua Úc đã có anh Nguyễn Văn Thuất – một trưởng Hướng Đạo rất mến mộ tài năng của Quang… Trong lúc trông coi tờ Viễn Đông và một số cơ sở báo chí khác, Quang vẫn vác đàn đi hát khắp nơi mà nhiều khi sức khỏe không cho phép. Quang có vấn đề ở phổi, đã phải lấy nước trong phổi ra. Tính Quang ưa nể nang bạn bè, sợ anh em buồn lòng nên vẫn vui vẻ lên đường khi có lời yêu cầu và đã thu xếp được công việc. Trong khi đi Du Ca như thế, Quang thường quên mang thuốc men và quên cả lời dặn dò của vợ con về vấn đề giữ gìn sức khỏe. Mãi rồi Minh Thông cũng chỉ biết lắc đầu chịu thua. Nhiều lần Minh Thông cũng không biết Quang đang ở đâu cho đến lúc chàng ta trở về nhà với “nụ cười cầu tài” là xong mọi chuyện. Trong lễ phát tang Quang hôm 2 tháng tư, một

103

Trưởng Hướng Đạo hỏi người con trai của Quang là cháu Nguyễn Đức Tường về chuyện Du Ca của Quang thì cháu Tường nói rằng “con không biết ba của con làm gì!”. Minh Thông là người vợ đảm đương, lanh lợi, có cơ sở làm ăn và một tay thu xếp mọi sinh hoạt trong gia đình. Đến khi về hưu, Quang mới bắt đầu đưa vợ đi du lịch nhiều nơi, kể cả về thăm Việt Nam. Trước đó Quang cũng đã có chuyến về sau hơn ba mươi năm xa xứ, Quang đã mở toang ký ức nhìn sâu vào tận dĩ vãng sâu thẳm của mình. Trở về thăm căn nhà cũ có căn nhà sàn bằng gỗ nằm không xa một con dốc nhỏ là chứng nhân lặng lẽ của mối tình đầu tưởng chừng hạnh phúc đã ở trong tầm tay. Nhưng người nghệ sĩ tài ba trẻ tuổi cũng không khuất phục được định mệnh khắc nghiệt bủa vây. Có lần tưởng chừng “gương vỡ lại lành” nhưng rồi gương lại vỡ tan hoang! Cũng rất lạ khi một thanh niên bị cơn sốc tình với cường độ của con sóng “tsunami” mà Quang vẫn đứng vững! Chẳng những thế, Quang vẫn lao vào con đường khai phá trong lãnh vực âm nhạc với bản lãnh và tài năng cá biệt của mình để đứng đầu một phong trào có chiều dài đã gần nửa thế kỷ.

Minh Thông vĩnh viễn ra đi vào mùa xuân năm 2009 và chỉ sau vài tháng Quang khẩn cấp được đưa vào bệnh viện để điều trị bệnh tim. Sức khỏe hao hụt thấy rõ cùng với nỗi cô đơn dằn vặt trong ngôi nhà đã sửa sang lại rất khang trang.

Cho đến nay, tôi vẫn còn nghe âm thanh và thấy hình ảnh Quang ôm đàn đứng hát trên các sân khấu, hội trường, sân cỏ, đất trại hay trong những căn phòng của thân hữu. Không màu mè, không khẩu hiệu, không đèn xanh đèn đỏ. Những cặp mắt mở to để nhìn, tai lắng

104

nghe từng chữ từng lời Quang nói và hát. Quang không cần MC. Quang không cần hoa hòe hoa sói vẽ vời giả tưởng về những bài hát do mình sáng tác. Nói cách khác, không ai đủ thẩm quyền giải thích về nội dung những bài hát của Quang, ngay cả những bản nhạc viết về tình yêu. Quang không dùng thứ ngôn ngữ ẩn dụ để đánh tráo thính giác người nghe. Nhưng khi nghe, thính giả phải động não và đôi khi phải xử dụng trực giác để bắt kịp từng lời từng chữ của bài hát. Khi Quang buông phím, thính giả vẫn còn thấy cả cái khung cảnh, cái tình huống mà Quang đã nói đến trong các bài hát của mình, nó có sức tác động vào tâm thức người nghe, bắt người nghe phải suy nghĩ. Lối trình bày bài hát của Quang rất giản dị nhưng thể hiện được những cảm xúc qua từng chữ từng lời đều có nghĩa chứ không bằng thứ ngôn ngữ phù phiếm “nước chảy hoa trôi”. Tôi đã nhiều lần nghe đám đông hát bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ và bài Không Phải Là Lúc…Đây là những bài hát thuộc loại “hát cộng đồng” nhưng nhiều người đã cố sức để la lên thật lớn khiến người nghe khó cảm nhận được nội dung của bài hát. Nhớ Quang, tôi thường mở bài “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” để nghe do ban hợp xướng Ngàn Khơi trình bày. Đây là một trong những bài hát mà Ban Trầm Ca trước đây đã tập dượt lần đầu trong garage của dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ khi lời của bài hát mới được Quang thảo ra chưa hoàn chỉnh.

Không phải người Đàlạt nào cũng biết Quang là một nhạc sĩ Du Ca. Không phải những học sinh ngày xưa của trường trung học Bồ Đề hay Trần Hưng Đạo cũng biết Quang là một nhạc sĩ Du Ca. Trái lại những cựu sinh viên đại học Đàlat, đặc biệt sinh viên trường chính trị kinh doanh những khóa đầu tiên đều biết Quang. Rất

105

dễ hiểu. Quang hát cho anh chị em chính trị kinh doanh nghe nhưng chưa bao giờ hát riêng cho người Đàlạt hay bạn bè của hai trường trung học mà Quang đã trải qua những năm tháng theo học ở đó nghe. Họa hoằn đâu đó trong những buổi sinh hoạt, dăm ba người Đàlạt có tham dự nhưng lại không biết Quang vốn xuất thân từ Đàlạt. Nói một cách nào đó, Quang là người của cả Miền Nam chứ không phải người của riêng Đalạt. Nếu nói rằng Quang được “quần chúng hóa” cũng không ngoa. Quang sinh hoạt với ai, với đoàn thể nào thì tự thân những người ấy, đoàn thể ấy cũng biết Quang nhưng không mấy ai hoặc đoàn thể nào biết Quang một cách tường tận (biết tên, thấy mặt chứ không biết người!). Họ cũng tự nhận Quang là người “nhà”, người của “tổ chức mình, trường mình”! Khi Quang đang còn chạy chữa trong bệnh viện đã có một “tập thể” lên sân khấu dõng dạc tuyên bố “Nguyễn Đức Quang là người của chúng tôi… gốc gác cùng chúng tôi…đã từ trần…lúc 4 giờ chiều ngày 21 tháng 3!”. Có tờ báo ở California và ngay cả một đài truyền hình tiếng Việt cũng đưa tin thất thiệt về Quang khiến lắm người hoang mang khi Quang đang nằm trong bệnh viện! Lại có một anh Du Ca nào đó khi nói đến Quang đã không biết gì về tiểu sử của Quang thì chớ, lại tự khen và đánh bóng mình! Người Du Ca này theo Quang kể, đã lấy một số tác phẩm của Quang in thành một tập nhạc mà không hỏi qua Quang, sau đó đưa cho Quang bảy mươi đô la ($70.00)! khi Quang vừa định cư ở Mỹ. Quang là người xuề xòa dễ tính, không bao giờ đôi co với bất cứ ai.

Một số rất ít người Đàlạt xuất thân từ hai trường trung học công lập Bùi Thị Xuân và Trần Hưng Đạo biết rõ mối tình của Quang mô tả rất thực trong bài “Tình Tôi

106

Con Dốc Nhỏ” và “Tôi Có Một Mối Tình”. Nửa thế kỷ trôi qua với tháng ngày tiếp nối buồn vui như những hòn sỏi cứ lăn và lăn mãi trên con dốc đời, Quang được đám đông tung hê cổ võ và vinh danh. Những khi chiếc đàn đã nằm im trong chiếc hộp bịt bùng thì Quang lủi thủi trở về với tâm trạng cô đơn và luôn vẫy vùng với những tảng băng ký ức trong đó mối tình đầu vẫn là con sóng ngầm xoáy mãi vào mạn tim Quang.

Mùa hè 2010 tôi mời Quang sang Houston để dự đại hội cựu học sinh trung học Bùi Thị Xuân – Trần Hưng Đạo Đàlạt lần thứ ba nhưng Quang không sang được. Đến tháng mười tôi sang California cùng Quang tiễn đưa Nguyễn Mùi, một cựu sinh viên chính trị kinh doanh về nơi an nghỉ cuối cùng. Dịp này Quang nhận lời mời đến dự buổi họp tại nhà giáo sư Nguyễn Đình Cường và Đỗ Thị Tiến (GS Tiến là bạn chí thân của Minh Thông thời trung học, đã vĩnh viễn ra đi trước Quang vài tuần) để thành lập ban tổ chức đại hội cựu học sinh trung học Bùi Thị Xuân - Trần Hưng Đạo lần thư tư tại California vào mùa hè 2012. Đêm hôm đó Quang mang theo đàn và hát cho toàn những người Đalạt nghe. Trừ tôi và hai vợ chồng giáo sư Nguyễn Đình Cường – Đỗ Thị Tiến, thính giả hôm đó là những người lần đầu tiên được nghe Quang hát trực tiếp. Quang không hát nhiều. Chỉ vài bài với Chiều Qua Tuy Hòa, Bên Kia Sông, Mùa Thu Lại Đi. Quang không hát Tình Tôi Con Dốc Nhỏ hay Tôi Có Một Mối Tình. Ngoài ra Quang còn nhận giúp tôi lay out và in tờ đặc san đại hội. Ban tổ chức đại hội dự trù dành riêng cho Quang một buổi để trình bày các tác phẩm của mình trên du thuyền với khoảng hai trăm thính giả toàn là những cư dân Đàlat ngày xưa. Quang và tôi hẹn gặp nhau trong lần họp đầu tháng bảy 2011.

107

Thời tiết đang trong mùa xuân. Đám cựu học sinh Đàlạt chúng tôi vô cùng bàng hoàng vì chỉ trong ba tháng đã mất đi bốn người bạn.

Sáng ngày 11 tháng ba, tôi nhìn thấy trên màn ảnh cơn sóng thần khủng khiếp đánh vào miền bắc nước Nhật. Liền sau đó nhận được tin Quang được các con đưa vào bệnh viện, nằm phòng ICU. Tin loan ra nhanh khắp thế giới. Tin loan trên báo chí, truyền thanh, truyền hình. Điện thoại bạn bè, người quen thăm hỏi chờ đợi. Kẻ ở gần đến thăm, người ở xa ngóng nghe. Lúc tỉnh lúc mê rồi vĩnh viễn ra đi ngày 27 tháng ba. Bàng hoàng và thương tiếc! Đám tang hôm ấy trời không có nắng cũng chẳng có mưa. Người tiễn đưa đông như đến để nghe Quang hát. Bài ca buồn không lời. Không ai khóc. Đầu bạc nhấp nhô. Mắt thoáng ngậm ngùi…

Viết Cho Giỗ 100 Ngày Nguyễn Đức Quang

108

PHAN NI TẤN Du Ca

Nguyễn Đức Quang Người Yêu Tôi Bệnh

Hà Huyền Chi, Nguyễn Đức Quang, Phan Ni Tấn

A ha! Ê hê!

Sáng nay nghe tin người bạn già của tôi

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang

vừa bị đứt mạch máu não

nằm mê mang như cây đàn vừa đứt một dây trầm

109

Sáng nay chính câu thơ tôi thả bay trong nắng

hỏi tôi còn nhớ từng ngày xưa

Ừ thì nhớ người du ca muôn thuở

người du ca của mọi người, của cả nắng và mưa

Trời sinh anh ra đôi chân lặn lội

đi tác động khắp nẻo quê hương

bản du ca mở ra những con đường đất

gọi người về sống với yêu thương

Trời sinh anh ra một đôi môi hát

tiếng hát bay xa đến tận lòng người

nhìn vào câu ca đã trông thấy phố

thấy cả nông thôn nhà máy vươn mình

Câu anh hát mọi người cùng hát

hy vọng vẫn vươn lên như khói lan xa

hát khúc du ca mắt người thắp lửa

sáng trong lòng cứ mãi hắt ra

Đẹp đến nỗi em bé đánh giày bên hè phố cũng biết hát

chị bán lạc soong nghe cũng nở môi cười

anh xích lô hát bằng đôi chân chở khách

chị nông dân thắm tháp khúc tình người

110

Đẹp đến nỗi cây lúa thở ra khói trắng

cũng biết kêu và hát ngêu ngao

em rót câu ca chị gặt khúc hát

người gọi người trên một phong trào

Đứng cạnh người nghệ sĩ du ca

ôm cây đàn cùng cất cao tiếng hát

câu thơ tôi ngày xưa cũng trôi theo dòng nhạc

trái tim xanh thắp lửa niềm tin

Sáng nay lục lại ngày thơm trang bản thảo

thấy dòng đời lặng lẽ trôi qua

thấy máu nhỏ xuống nền bệnh viện

loan thành tin người nằm bệnh phương xa

Nghĩ mà giận người bạn già thiệt ngặt

giận mà mong anh bạn sớm được bình an

thức dậy lần này chẳng còn ai thèm nghe anh hát

mà chính lần này chúng tôi hát anh nghe

Này huynh trưởng, này bạn già, bạn lớn

là người yêu của mọi đồng bào

đất nước lâm nguy như người lâm trọng bệnh

vẫn còn nghe văng vẳng khúc hư hao

111

Nghe gì đây - khà khà…nghe tôi hát

bản du ca cuối cùng:

“Nguyễn Đức Quang, người yêu tôi bệnh”

15/02/2011

112

TRẦN TRỌNG THẢO Trầm Ca

Chuyện Nhớ

Chuyện Quên … Vào mùa hè năm 1965 tại Thanh Lộc Thôn, nhóm anh em Đà Lạt chúng tôi kéo nhau về Sàgòn tham dự trại “Công Trường Thanh Niên Tự Do “ (tiền thân của Chương trình Phát triển Sinh hoạt học đường “ CPS ”) với những công việc đào ao, đào giếng, xây dựng nhà ở, lập trại chăn nuôi, làm ao thả cá, trồng trọt rau quả….cho những người tỵ nạn chiến tranh từ các nơi kéo về, đang sống trong hoàn cảnh hết sức chật vật khó khăn.

Sau kỳ trại, mấy anh em thân thiết bao lâu nay tại Đà Lạt gồm Châu - Quang -Văn -Lập -Lĩnh và Thảo đã đồng lòng chọn Sài gòn làm nơi “dụng võ ”.

Tôi gặp và quen biết Châu - Quang qua trại họp bạn toàn quốc Hướng Đạo Việt Nam - trại Phục Hưng tại Trảng Bom- Biên Hòa năm 1959. Tôi sinh hoạt trong thiếu đoàn Tây Hồ, đạo Cửu Long, châu Gia Định. Châu và

113

Quang sinh họat trong đạo Lâm Viên Đà Lạt, thiếu đoàn Lê Lợi mà anh Nguyễn Văn Võ là thiếu trưởng. Anh Võ nguyên là khóa sinh khóa Thiếu tại Trại Trường huấn luyện Hồi Nguyên-Bảo Lộc mà khi đó ba tôi làm khóa trưởng. Tôi là một “thiếu già” được điều động để phục vụ trại. Tôi và anh Võ quen biết nhau từ đó. Sau này, mỗi khi có dịp đến Đà Lạt, nhà của anh chị Võ ở đầu dốc Minh Mạng là nơi tôi thường tạm dừng chân. Những năm 63-64….nhiều biến cố chính trị liên tiếp xảy ra tại Sài Gòn, tôi phải tạm rời xa Sài Gòn để lên Đà Lạt và ngụ tại nhà của anh chị Võ.

Ba tôi lúc đó đang là một huynh trưởng trong Phong Trào Hướng Đạo Việt Nam đã gửi gắm tôi với các Trưởng tại Đàlạt: Trưởng Trần Văn Khắc, Trưởng Phan Như Ngân, Trưởng và chị Lê Xuân Đằng, Trưởng Lê Phỉ, Trưởng và chị Nguyễn Văn Võ.

Từ đây, ngoài những lúc sinh họat Hướng Đạo tại đạo Lâm Viên, tôi và Quang còn có dịp gắn bó với nhau trong duyên văn nghệ qua những năm học cuối tại trường trung học Trần Hưng Đạo.

Vào một ngày đẹp trời, tôi đến thăm gia đình Trưởng Trần Văn Khắc ở đường Trần Bình Trọng và được gặp chị Trần Phương Thu là trưởng nữ của Trưởng Khắc. Chị là giáo sư dạy sinh ngữ của hai trường trung học Bùi Thị Xuân và Trần Hưng Đạo. Có lần đến thăm và gặp chị, chị đem chuyện văn nghệ ra bàn bạc và cho chúng tôi biết, trường Bùi Thị Xuân sẽ tổ chức hai đêm văn nghệ gây quỹ nhân lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng. Đêm văn nghệ sẽ được tổ chức tại rạp hát Hòa Bình. Chị cần anh em chúng tôi giúp ban nhạc, người đệm đàn cho các

114

giọng ca và nhất là giúp chị thực hiện nhạc cảnh “ Đi Chùa Hương”, theo nhạc phẩm của nhạc sĩ Nguyễn Nhược Pháp. Chị Phương Thu vừa là đạo diễn vừa lãnh xướng bài ca để các học sinh trình diễn. Quang lo phần đệm đàn, tôi tiếp tay lo phần dàn dựng sân khấu và hóa trang. Cách thực hiện màn nhạc cảnh của chị Phương Thu khá đặc biệt. Phông cảnh và các diễn viên đều ở phía sau một màn ảnh trắng được đèn chiếu lên cũng từ phía sau. Khán giả chỉ nhìn thấy bóng hiện lên trên màn ảnh. Cuối phần trình diễn, màn ảnh được kéo lên, khi đó khán giả mới được thấy phông cảnh và các diễn viên.

Năm sau cũng vào dịp lễ Hai Bà Trưng, bà thị trưởng Đà Lạt yêu cầu trường Bùi Thị Xuân tổ chức hai đêm văn nghệ cũng tại rạp hát Hòa Bình. Anh em chúng tôi lại được chị Phương Thu triệu tập. Thêm một lần nữa, tôi và Quang cùng mấy anh em lại có dịp được ra vào thảnh thơi nơi ngôi trường kín cổng cao tường chỉ dành riêng cho các nữ sinh.

Chị Phương Thu thường tổ chức những buổi picnic và mời mấy anh em chúng tôi tham dự. Chị cũng hay tổ chức picnic cho các lớp nữ mà chị có giờ giảng dạy. Mỗi lần như vậy, chị Phương Thu đều mời tôi và Quang đi để giúp chị phần sinh hoạt vui chơi ca hát. Trong những dịp gặp gỡ sinh hoạt như thế, Quang ta có dịp trổ tài với những ca khúc của mình mà sau này, khi sống nơi đất khách quê người, anh đã đặt tên cho những ca khúc này là “Chuyện Chúng Mình”. Qua dòng thời gian, do thất lạc, mất mát….Quang chỉ còn nhớ và ký âm lại được vài bài như Chỉ Tại Anh (Tôn Ngôi Hoàng Hậu), Chuyện Con Gái (Tuổi Mười Sáu), Khôn Hồn Có Cánh Thì Bay, Cần Nhau, Hờn Dỗi!.....

115

Những ca khúc của Quang lúc đó, ngoài phần Quang trình diễn, cả thầy lẫn trò đều tập hát theo và chép lại lời ca để chuyền tay nhau. Hồng Đức, cô nữ sinh có giọng ngâm thơ và ca hay luôn có mặt trong những lần sinh họat này (hiện Hồng Đức sinh sống tại Sài Gòn). Đây là một thời vang bóng của chàng ca sĩ “có hương ” trước khi xuất hiện cùng Trầm Ca.

Chuyện của Trầm Ca như đã kể trên, sau trại hè công tác năm 1965, anh em chúng tôi gồm Châu, Quang, Lập, Lĩnh,Văn,Thảo đã tạm ổn định được chỗ ở tại Sài Gòn. Lúc đầu là nhà để xe, sau đó tiến lên nhà trên. Căn phòng là nhà bếp, được tu sửa lại tạm làm phòng thực tập cho các sinh viên Dược sau khi anh Hoàng Ngọc Tuệ giải ngũ và từ Pleiku về.

Tôi được giao làm quản lý của nhóm, vừa là anh nuôi, vừa là chị nuôi, chăm lo cho mấy gã con trai lớn tồng ngồng! Ăn thì tốn kém nhiều, chứ ở thì không tốn kém bao nhiêu! Căn phòng tuy nhỏ, chứa từng đó người nhưng có chứa thêm nữa cũng vẫn đủ!

Căn phòng tuy có chật, song thoáng mát, luôn có gió, nhờ khoảng sân nhỏ ở giữa nhà trên và nhà bếp. Ngoài ra, còn một khoảng sân rất rộng phía sau, chạy dài theo dãy phố 5, 6 căn. Ngăn cách, nhà để xe với dãy nhà trên, bề rộng hơn 5 thước.

Nơi đây, ngoài mấy anh chị giúp việc thường có mặt và xe hơi của các chủ phố ra vào. Giờ còn lại, hoàn toàn là nơi tự do dành cho mấy chàng trai Trầm Ca ra vào sinh họat, cùng các nhóm bạn đến thăm. Xe của anh Tuệ thường để ngoài đường nên nhà để xe được dùng làm phòng tiếp khách và tạm trú cho đám bạn bè lỡ bước.

116

Nhờ tài giao tiếp và tự quản lý lẫn nhau, anh em chúng tôi sớm gây được thiện cảm với các anh chị giúp việc cho các nhà chủ. Thường anh em chúng tôi thức rất khuya. Trong những lúc tập hát hoặc tranh luận khi sáng tác. Nhất là những khi đi trình diễn về….thường có những cuộc tranh luận, kéo dài sáng đêm….Rất may, đều được mọi người xung quanh thông cảm mà không phiền trách.

Người có nhiều thiện cảm và tận tình giúp đỡ chúng tôi rất nhiều là chị Tám, người giúp việc cho căn hộ chủ dãy phố này. Những lúc chúng tôi đi sớm về khuya, không còn gì để ăn, chị Tám luôn là người quan tâm, sang hỏi thăm và sẵn sàng viện trợ thức ăn, đồ uống….chị cũng giúp chúng tôi, là ủi quần áo trước khi đi trình diễn. Đồng phục đi diễn mỗi người có hai bộ bà ba đen. Đồng phục mặc của nhóm là mỗi người hai bộ: quần dài kaki, áo sơ mi trắng dài tay và ngắn tay. Đồ lót mỗi người ba bộ: quần đùi, áo thun ba lỗ. Cũng cần nói thêm là ông Quang là người lười biếng và ở dơ nhất, thường tráo đồ lót của anh em, mặc dầu tôi đã đánh dấu cho từng người!. Hàng tuần anh em chia phiên trực dọn vệ sinh phòng ở và giặt quần áo. Phiên giặt của Quang thường được chị Tám cưu mang, vì làm biếng nên tới phiên Quang, chàng ta dồn quần áo vào thau ngâm đến hai ba ngày. Cho đến lúc bị anh em phát hiện và cư nự, Quang bèn nhúng vô nước xà bông rồi đem phơi!

Sau này, nhà chủ của dãy phố đã di tản ra sống nơi hải ngoại, tôi thường gặp lại chị Tám ra sống buôn bán nơi vỉa hè đường Sương Nguyệt Ánh. Lâu rồi, tôi mất liên lạc với chị.

117

Người thứ hai chúng tôi luôn ghi nhớ là chị Tư có quán cơm ở đường Ngô Tùng Châu góc Bùi Thị Xuân. Gia đình chị Tư đã cưu mang anh em chúng tôi trong việc ăn uống. Chúng tôi ăn cơm tháng tại quán chị Tư lúc bắt đầu có Ban Trầm Ca cho đến khi Phong Trào Du Ca ra đời và sinh hoạt mạnh. Chúng tôi ghi sổ nợ hết tháng này sang tháng khác cho đến ngày chúng tôi phải phân tán xa nhau, chỉ còn lại Nguyễn Đức Quang cùng Trần Trọng Thức (nhóm Trâu Bò, thiện chí Đà Lạt) tiếp tục ở lại đây và tiếp tục đến quán chị Tư ăn cơm.

Sau 75 tôi trở lại thăm, chị Tư đang chuẩn bị cùng chồng đi định cư tại Hoa Kỳ. Gia đình người em, Cô Út đã sang lại căn phố ra mua đất ở ngoại thành, bên Thủ Thiêm để sản xuất giầy dép gửi đi Hoa Kỳ cho chị Tư bán.

Phải kể lại rằng nhờ có những tháng năm, anh em chúng tôi đã cùng nhau chung sống, làm việc và sinh hoạt đêm ngày trong căn phòng nhỏ, nơi căn phố 114 Sương Nguyệt Ánh, một con đường rất ngắn, khang trang, đầy bóng mát và yên tỉnh nhất Sàgòn…anh chị em Trầm Ca đã dồn hết công sức, bằng mọi phương tiện, mọi điều kiện có được để gầy dựng được dòng nhạc TRẦM CA = NHẬN THỨC đến với mọi từng lớp, nhất là giới Trẻ - thanh thiếu niên Việt Nam.

Công việc đến dồn dập, chúng tôi làm việc không kể ngày đêm. Phải cùng nhau tập dợt, phải chuẩn bị tài liệu sinh hoạt để phân phối cho khán giả: đánh máy, trình bày, quay Ronéo…cho các cuộc lưu diễn gần khắp 46 đô tỉnh thị, chưa kể các khuôn viên đại học, các lưu học xá sinh viên trong khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia

118

Định…sinh viên các khóa học hạ sĩ quan, sĩ quan nơi quân trường, trung tâm dưỡng quân của các quân binh chủng có lòng ưu ái, hâm mộ đến Trầm Ca. Qua các buổi lưu diễn liên tục đó, Trầm Ca đã nhận được nhiều thiện cảm trong mọi giới, mọi đối tượng. Đồng thời, chúng tôi cũng đã nhận được sự hưởng ứng, ủng hộ, đóng góp trợ giúp của nhiều mạnh thường quân quan tâm đến nhũng sinh họat lành mạnh, trong sáng trong một khung cảnh “bất ổn” của một xã hội đang ở trong tình trạng chiến tranh. Kỷ niệm đáng nhớ và gây ấn tượng mạnh đối với Trầm Ca là khi sinh hoạt, trình diễn tại các trung tâm Chiêu Hồi và trại tù binh là, hầu như các đối tượng này đều có một mẫu số chung, qua phần mở đầu của chương trình, từ dân ca, dân ca phát triển đến sinh hoạt ca …những khuôn mặt đều lầm lì, nếu không muốn nói là coi thường, không đáng nghe… nhưng khi qua phần Trầm Ca với những bài: Anh Em Chúng Tôi, Tiếng Rống Đàn Bò, Nỗi Buồn Nhược Tiểu….thì mọi khuôn mặt đều ngẩng lên hướng về chúng tôi với những tràng pháo tay thật lớn và liên tục, thậm chí có lúc đang ngồi xệp dưới sàn nhà, mọi người đều vùng đúng dậy để vỗ tay. Khi đó chúng tôi mới hiểu thêm ý nghĩa của hai chữ “Trầm Ca”

Sau một thời gian ngắn đi lưu diễn, anh chị em Trầm Ca đồng quyết tâm là đã đến lúc phải nhân rộng hình thức sinh hoạt này và cần có thêm các lớp bạn đàn anh, đàn chị, các đàn em… cùng chung tay tiếp bước với Trầm Ca để cùng nhau tạo một sinh khí sinh hoạt ca hát lành mạnh ở khắp các vùng đất nước.

Tám khóa “ Thanh Ca Tác Động ” đã được tổ chức. Khóa 1-3-5 và 6 được tổ chức tại Sài Gòn - Chợ lớn -

119

Gia Định; khóa 2 tại Đà Lạt, khóa 4 tại Vĩnh Long, khóa 7 và 8 tại Huế. Mỗi đơn vị tham dự được cử về 10 học viên. Mọi sự vận chuyển do Bộ Thanh Niên và các Ty Thanh Niên địa phương yểm trợ. Trầm Ca lo địa điểm, nơi ăn chốn ở và tổ chức các khóa huấn luyện sinh hoạt với nội dung do Trầm Ca trách nhiệm. Mỗi khóa Thanh Ca Tác Động kéo dài trong một tuần lễ.

Trong vòng ba tháng, các khóa huấn luyện Thanh Ca Tác Động hoàn tất. Tại các địa phương, các học viên đi học về đã nhanh chóng tổ chức các toán , mỗi toán 10 người, có nơi đã thành đoàn từ 40 đến 50 người trở lên. Số đoàn viên tham gia sinh hoạt đã phát triển thật nhanh.

Anh chị em Trầm Ca lại thêm một lần nữa vất vả, gấp rút ngồi lại cùng với các thân hữu, tìm giải pháp nâng cao tổ chức lên thành một Phong Trào để kịp đáp ứng với nhu cầu phát triển đang lan rộng khắp mọi nơi. Chúng tôi cũng đồng thời hệ thống hóa tổ chức để có đầy đủ tư cách pháp nhân: Phong Trào Du Ca ra đời.

Các thân hữu và Mạnh Thường Quân lâu nay gần gũi với Trầm Ca đã trở thành như một gia đình với: anh Hai Hồ Ngọc Nhuận, anh Ba Hoàng Ngọc Tuệ, anh Tư Trần Văn Ngô, anh Năm Đỗ Quý Toàn và anh Sáu Én - Đỗ Ngọc Yến.

Không chỉ đơn thuần sinh hoạt ca hát mà Trầm Ca còn phát triển nhiều mặt sinh hoạt để làm gương cho các Toán Du Ca sau này ra đời và tiếp bước sinh hoạt. Anh em Trầm Ca, đã hình thành một toán Hướng Đạo Tráng Sinh: Toán Sóng Việt, trực thuộc tráng đoàn Nguyễn Trung Trực, Đạo Cửu Long, Châu Gia Định Sài gòn.

120

Toán Sóng Việt ngoài Quang – Châu- Thảo – Văn- Lập- Lĩnh của Trầm Ca, còn có thêm Nguyễn Thạc –một tay đàn guitar classic, Đinh Quang Chấn, Phún Tắc Ón, Cao Duy Tuấn, Đặng Hưng Vượng và Lê Tấn Đạt. Vượng và Đạt là hai người đánh máy và trình bày tập văn nghệ Phù Sa của Trầm Ca, ra được 7 số, phải ngưng vì thiếu tiền.

Công cuộc phục vụ, giúp ích thường xuyên của Toán Sóng Việt là chương trình phát triển quận 8 và quận 6 - xóm củi- bên kia con Sài Gòn, ngoại thành Sài Gòn. Ca khúc Bên Kia Sông của Quang ra đời vào thời điểm này.

Các thành viên của Toán: Lập, Ón, Tuấn, Lĩnh… lập đội bóng rổ cho Toán. Sân tập thường xuyên của Toán là sân vận động Phan Đình Phùng. Toán thường giao đấu với sinh viên các phân khoa trong các khuôn viên Đại Học.

Toán Sóng Việt, cùng với một số thân hữu của Toán đã từng xuất du đi bộ từ cầu Phan Thanh Giản đến đình Phong Phú Thủ Đức, đường dài khỏang 15 cây số. Đi từ chiều thứ bẩy đến chiều chủ nhật về.

Qua đời sống tập thể trong một mái ấm gia đình nho nhỏ, Trầm Ca đã phần nào tạo được cho những chàng trai có một nếp sống giản dị, thân ái chan hòa cùng nhau trong lối sống khá thiếu thốn về cơ sở vật chất. Song tinh thần anh em khá vững, sống vui với công việc tập thể, luôn luôn sẵn sàng tha thứ cho nhau. Anh em luôn đồng tâm hiệp lực hầu mang được sắc thái sinh hoạt đặc thù đến với mọi người.

121

Cách sáng tác của Quang cũng là một đặc thù, không giống bất cứ ai. Không mấy khi Quang ôm đàn hay ngồi yên vào bàn để sáng tác. Quang hay đi loanh quanh trong căn phòng nhỏ như “gà mắc đẻ” - danh xưng anh em đặt cho Quang. Hoặc đi tới đi lui, vòng quanh trong khu sân rộng trước dãy nhà để xe. Thói quen của anh chàng ta là mặc quần xà lỏn, áo thun ba lỗ thường xắn lên phanh bụng….vừa đi vừa lẩm bẩm một mình, hai cánh tay lỏng khỏng luôn múa may trước ngực, như người ca trưởng đang đánh nhịp. Khi hình thành được một đoạn, Quang đứng khựng lại hát cho anh em nghe. Ai không muốn nghe Quang cũng cứ gào rất tự nhiên…Lâu rồi, anh em cũng quen dần với lối sáng tác của Quang.

Quang thường suy nghĩ và sáng tác rất nhanh. Hình như trời đã phú cho Quang một ngăn âm nhạc có sẵn trong đầu, khi cần, chỉ lôi nó ra và sắp xếp lại. Một khi đã ôm đàn lên là thành ca khúc. Lúc đó anh em Trầm Ca mới ngồi lại để nhận xét, mổ xẻ bài hát…Những lúc không vừa ý với những nhận xét, cậu ta chỉ nhe răng ra cười khì. Cũng từ đó, các ca khúc dù cũ hay mới sáng tác của Quang, sau mỗi lần đi trình diễn về, anh em lại thức thâu đêm trong căn phòng nhỏ, kẻ ngồi, người nằm…ồn ào, mổ xẻ, phân tích từ lời ca đến tiếng hát: Đó là tiếng nói chung của ban Trầm Ca.

Những bản nhạc do nhóm hát chung được chép lại, trao tay cho mỗi người học thuộc để trình diễn. Riêng Quang, khi cậu ta lãnh xướng một mình, thường thay đổi nhiều chữ trong bài hát theo cảm hứng hoặc do không thuộc lời mình đã viết. Chuyện này cũng bị anh em cự cự. Quang cười là huề mọi chuyện.

122

Gia đình Trầm Ca, cùng nhau chung sống, cùng nhau làm việc, vui buồn có nhau…không quá hai năm. Gia đình Trầm Ca, phần nào đã gây được khá thiện cảm với mọi từng lớp, nhất là giới trẻ qua các bài ca hát nhận thức, Trầm Ca với tình tự quê hương dân tộc, gây dựng lên Phong Trào Du Ca Việt Nam.

Rồi thời cuộc, xã hội biến động và hoàn cảnh gia đình của mỗi anh em, chúng tôi rời xa mái ấm gia đình Trầm Ca. Nguyễn Đức Quang một mình ở lại, không còn những anh em ruột cật như Trầm Ca. Thời gian sau, mỗi lần tôi hay Châu được đi phép về Sài Gòn cũng chẳng gặp được Quang nhiều. Thời gian thật phù du!

Quang luôn luôn bận rộn và phải hội nhập vào vòng quay của lớp văn nghệ sĩ mới quen: binh xập xám, xì phé, nhậu và hút thuốc như điên! Chẳng bù cho những lúc phải sống nguyên tắc cùng nhau trong gia đình Trầm Ca. Phải chăng đó mới là một nếp sống của con người nghệ sĩ!

Thời gian trôi qua quá mau! Hơn ba mươi năm xa cách, Quang đã cùng gia đình định cư nơi đất khách quê người. Riêng tôi ở lại để ngày tháng nhìn ngắm thân phận mình trên quê hương Việt Nam. Vài Ghi Nhận Thêm: Khi được tin Nguyễn Đức Quang vĩnh viễn rời xa anh em, Nhật Báo Người Việt, Hội Đồng Trung Ương Hướng Đạo Việt Nam, Anh Chị Em Du Ca và thân hữu tại hải ngoại đã tổ chức Lễ Tưởng Niệm. Trong nước, mấy anh em Trầm Ca là Trần Trọng Thảo, Hoàng Thái Lĩnh, Đinh Gia Lập… em ruột của Quang là Nguyễn Đức Vinh cùng thân hữu cũng đã tổ

123

chức cầu siêu và tưởng niệm. Dịp 49 ngày của Quang cũng có cuộc họp mặt tưởng nhớ. Đặc biệt, nhân 100 ngày của Quang, Trần Trọng Thảo và Linh Mục Nguyễn Tiến Lộc đã tổ chức tại Sàigòn “ĐÊM HÁT DÒNG NHẠC 30-60-90”. Trong đó có chương trình tưởng niệm Nguyễn Đức Quang và trình bày những nhạc phẩm do Quang sáng tác. Buổi sinh họat có trên 100 người tham dự. Đặc biệt có sự hiện diện của ba thành viên Trầm Ca là Trần Trọng Thảo (Sàigòn), Hoàng Thái Lĩnh (Đalạt) và Hoàng Kim Châu ( Hoa Kỳ).

Trần Trọng Thảo – Hoàng Thái Lĩnh – Hoàng Kim Châu và

Linh Mục Nguyễn Tiến Lộc

Trầm Ca Trần Trọng Thảo Tháng 12 năm 2011

124

HOÀNG NGỌC NGUYÊN Chính Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt

Nơi Đến Miền Vĩnh Cửu

Hoàng Ngọc Nguyên, Nguyễn Đức Quang

I. Nhớ lời một bài ca không phải là khó. Nhưng cũng chẳng là chuyện dễ. Thông thường bài nào người ta hay hát, hoặc hát cho chính mình nghe, hoặc hát cho người thân nghe, như Mùa Thu Paris, Lá Đổ Muôn Chiều, Như Cánh Vạc Bay… những bài như thế sẽ ở yên mãi mãi trong trí nhớ. Những bài ca từ trong tâm

125

cảm của một thời, như Tạ Từ của Tô Vũ hay Sầu Lữ Thứ của Hùng Lân hay Tình Quê Hương của Hoàng Lang…chỉ có chết đi chúng ta mới không còn nghe vang vọng bên tai. Hay những bài hát có tính cách cộng đồng, tập thể người ta thường hát chung, ví dụ như bài quốc ca, hay bài Việt Nam, Việt Nam, hay những bài dân ca như “Trèo lên quán dốc…” hay “Tình bằng có cái trống cơm…”. Ngay cả bài Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây hay Nhạc Rừng, ở mãi trong các trại cải tạo, đếm mãi từng ngày, trong nỗi buồn vì hết ngày dài lại đến đêm thâu mà những bài hát này nhập tâm..

Thời còn trẻ thường thuộc thành phần MIA (missing in action) tôi không có dịp sinh hoạt tập thể nhiều, mặc dù cũng không ít lần đã tham gia các trại công tác của Hội Thanh Niên Thiện Chí Dalat. Tôi có đi nghe Nguyễn Đức Quang hát du ca một hai lần gì đó, một lần ở Dalat, một lần có thể ở Saigon hay Long Xuyên. Có nhiều người có thể nhớ vanh vách những chuyện ngày xưa, từng chi tiết, viết lên tưởng như thật. Từ lâu tôi đã biết trí nhớ mình kém, cái gì nên giữ, phải giữ, cái gì bỏ bớt đi, viết chuyện gì cũng phải có sách vở hay google hỗ trợ. Thế nhưng những bài hát của Nguyễn Đức Quang, chẳng phải là loại tôi hát vu vơ một mình, chẳng phải bài hát tôi vẫn âu yếm dành cho vợ mình, chẳng phải là bài ru cho con hồi nhỏ, cũng chẳng có những tác động tâm tình lớn đối với tôi – ngoài bài Bên Kia Sông mà nhờ nó nữ ca sĩ Thái Hiền đã thành danh với tôi - những bài hát của Nguyễn Đức Quang, lạ thay, tôi lại nhớ một cách “căn bản”, đến mức có thể viết bài “lưu bút ngày xanh” này mà chẳng cần bất cứ bài hát nào của Quang trước mặt.

126

Một trong những kỷ niệm với Quang trong những ngày còn “mài đũng quần ở ghế nhà trường” của Viện Đại học Dalat nổi bật trong ký ức của tôi chẳng phải là lần đầu tiên nghe Quang hát hay những lần có thể gặp Quang ở trụ sở 75 Võ Tánh của Hội Thanh Niên Thiện Chí Dalat. Kỷ niệm này nằm ở Trường Võ bị Quốc gia Dalat, khi đang học lớp báo chí ở Việt Tấn Xã Saigon tôi phải bay lên Dalat để thụ huấn quân sự hai tuần ngay trong viện sau vụ tấn công Mậu Thân. Người huấn luyện là các sinh viên sĩ quan “hắc ám” của trường võ bị này. Vào buổi tối “ra trường”, chúng tôi có dịp vào trường võ bị làm “lễ tốt nghiệp”. Trên sân khấu, trước cử tọa có cả mấy trăm người bên dưới, trong đó dĩ nhiên nhiều tướng tá và các “thân hào nhân sĩ” của thành phố, Nguyễn Đức Quang trong bộ đồng phục “quân sự học đường” ka ki màu vàng nhạt, tay cầm cây đàn thùng, đứng hát và hai tay dang rộng ra phía trước, vẩy lên vẩy xuống mời mọi người hát theo:

Một hai ba chúng ta đi lính Cộng Hòa

Vì quê hương chúng ta còn quá nghèo nàn

Và bao nhiêu máu xương đổ xuống ruộng đồng

Vì tương lai chúng ta phải giết Cộng quân…

Bài này có thể của Phạm Duy. Hay của Nguyễn Đức Quang. Trong bối cảnh của một vụ Mậu Thân đang làm đất nước tan hoang, rã rời, cùng những kêu gọi day dứt dùng dằng của bổn phận “trai thời loạn”, làm sao tôi quên được tối hôm đó, bài hát đó, dù chỉ nghe đúng một lần duy nhất trong đời.

II. Năm nào ngày 30-4 cũng đến, và năm nay đã đến, với ký ức rủ nhau trở lại từ một thời xa xưa. Năm

127

nay là Tân Mão. Có một năm con mèo khác, năm Ất Mão cách đây đúng ba giáp chứng kiến sự sụp đổ của miền nam Quốc gia nói chung và nền Đệ nhị Cộng hòa nói riêng, một biến cố khiến cho đất nước chẳng bao giờ có thể lại như cũ. Và một năm Quý Mão cách đây bốn giáp, gần nửa thế kỷ, được đánh dấu bằng sự sụp đổ của nền Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nay nếu nhìn lại những gì xảy ra mười hai năm sau đó trên đất nước miền nam, chúng ta có thể ngậm ngùi ít nhiều: ông Diệm ra đi, và thế là hết! Và trong năm 2011 này, chắc chắn nhiều người cũng có thề nhớ lại 40 năm trước, chiến dịch Lam Sơn 719 đánh qua Hạ Lào với những tổn thất nặng nề cho thấy những giới hạn nghiêm trọng trong khả năng quốc phòng của miền nam, trước hết là ở nơi ngưòi lãnh đạo cả chính trị và quân sự. Những biến cố lịch sử hiển nhiên đều có liên quan chặt chẽ với nhau mặc dù nhiều khi chúng ở ngoài tầm mắt của những người có trách nhiệm phải thấy.

Vào đầu tháng tư, chúng ta còn cả một tháng giông dài chẳng để nghỉ ngơi mà để nghĩ ngợi, thế nhưng ngày 27-3 có tin Nguyễn Đức Quang đã qua đời tại một bệnh viện vùng Orange County sau cả một tháng hôn mê, hưởng thọ 68 tuổi. Sinh ký tử qui. Hơn nữa hiền thê của anh, chị Minh Thông , qua đời cách đây hai năm. Chúng ta cứ tưởng tượng những nỗi mừng mừng tủi tủi trong cuộc trùng phùng này như thấy được có sự sắp xếp ở trên. Nhưng bỗng nhiên những người thuộc thế hệ của anh - được sinh ra và lớn lên trong những năm đất nước khói lửa từ cuộc chiến Đông Dương lần đầu (1945-53) qua cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-75) – nhất là những người đã từng chung mái trường với anh tại Viện Đại học Dalat chợt cảm thấy ngày 30-4 đang trở

128

lại theo một lối vào riêng tư. Người ta không cần tìm đâu cho xa xôi nguyên do của sự sụp đổ của miền Nam. Chẳng cần nói đến Mỹ “đồng minh tháo chạy”. Đến những người lãnh đạo mê sảng quyền hành đến không thấy được quyền lợi đất nước. Đến sự bất lực muôn thuở của các đảng phái chính trị. Đến những nhà tu làm cho người ta quên đi nguy cơ sống còn của đất nước. Đến sự buông xuôi, thụ động của tầng lớp trí thức và “kỷ trị” (technocrats). Chúng ta nhìn lại chính mình, thế hệ của mình như một thành phần quần chúng. Thậm chí một thành phần quần chúng có thể năng động nhất, quyết định nhất cho sự tồn tại hay suy vong của đất nước - lớp trẻ trong lứa tuổi 20-40 trong những năm chiến tranh đó.

Chế độ Đệ nhất Cộng hòa ở miền nam bắt đầu với sự chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kéo dài chín năm (1945-54) và sự chia cắt đất nước ra làm hai miền bắc và nam vào năm 1954 - miền bắc cộng sản, miền nam quốc gia. Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã lật đổ Quốc trưởng Bảo Đại và thiết lập tổng thống chế, mở ra một giai đoạn “thái bình thịnh trị” của một xã hội tương đối tự do dân chủ, lành mạnh và nề nếp trước đây chưa từng có và sau này càng không còn thể có nữa – ít nhất là ngoài bề mặt hay trong ấn tượng của nhiều người. Thế nhưng từ đầu những năm 60, chiến tranh đã tìm cách trở lại, trong khi chế độ của Tổng thống Diệm không đáp ứng được những thách đố của một thời đại mới phức tạp ở miền nam: những đòi hỏi dân chủ và công bằng xã hội từ các tôn giáo, các địa phương… Chế độ ông Diệm sụp đổ, như các cổng chắn lũ bị cuốn đi, và miền nam nói chung, tầng lớp trẻ nói riêng, và nhất là tầng lớp trẻ, hoặc đang còn đến trường, hoặc đang vào lứa tuổi quân dịch, hoặc mới chập chững vào đời, có

129

cảm tưởng như hụt hẫng, lạc lõng, lạc loài, lạc lối trước thời cuộc. Một thời cuộc không chỉ là chiến tranh. Một thời cuộc đậm nét tan hoang của xã hội vì sự có mặt của cả 600.000 lính Đồng Minh, vì sự tranh giành quyền lực vô trách nhiệm của những tướng lãnh, vì sự khuấy động của các nhà tu từ hai ba phía thay vì đem lại sự bình an cho tín đồ, vì sự tê liệt có tính cách kinh niên, mãn tính của các đảng phái khiến họ chẳng học hỏi được gì mấy từ những kinh nghiệm chua cay, đắt giá của lịch sử, vì sự vướng vất của di sản phân hóa nơi địa phương làm cho quốc gia không nhất thể nổi.

Nhìn lại quá khứ thường là chuyện nhức nhối. Rất ít khi quá khứ là con đường giải thoát cho những ưu phiền trong cuộc sống ngày nay. Tuy nhiên, nhức nhối hay giải thoát, tháng tư đang đến và chẳng có thể nào tránh được sự trở lại của quá khứ. Bởi vì sự trùng hợp trong cái chết của Nguyễn Đức Quang. Quang thuộc thế hệ tuổi trẻ lớn lên giữa khi cuộc chiến tranh Việt Nam lên đến cao điểm, Mỹ đã phải gởi quân đến tham chiến từ tháng ba năm 1965, làm cho chiến trường thêm ác liệt từ Khe Sanh, A-Shau ở phía cực bắc đến vùng biên giới tây nam và cực nam là Cà Mâu. Tuổi trẻ nói chung, và giới sinh viên thời đó nói riêng, đang ít nhiều rơi vào một tâm trạng cảm thấy bế tắc trong tương lai của mình và tuyệt vọng trước tình hình đất nước: chiến tranh, chính trị, và xã hội có vẻ như tan nát, rã rời. Khi nhìn lại, chúng ta không thấy có một nền giáo dục ở nhà trường hay văn hóa xã hội làm rõ được mệnh lệnh bằng mọi giá phải chiến đấu trước quân thù cho sự vẹn toàn của đất nước.

130

Thiếu nền giáo dục đó, không sống hàng ngày trong nền văn hóa đó, cho nên dòng nhạc Tâm Ca của Phạm Duy và ca khúc Da Vàng của Trịnh Công Sơn đã vang lên giảng đường Spellman của Viện Đại học Dalat, là nơi Quang và vợ anh, chị Minh Thông, đã theo học bốn năm trong trường Chính trị Kinh doanh – anh theo ngành chính trị, chị đi theo kinh doanh – sau khi đã cùng học chung ở cấp trung học trên vùng đất cao nguyên, và có lẽ đã cùng sinh hoạt với nhau trong những đoàn thể hướng đạo thời đó. Tâm Ca của Pham Duy hát chung với Steve Addis (The Rain on the leaves, are the tears of joy, of a girl whose boy, returns from the war - Giọt mưa trên lá, Nước mắt mẹ già, Lả chả đầm đìa, Trên xác con lạnh giá…) làm cho cuộc chiến trong mắt tuổi trẻ vừa là một số phận không tránh được cho Việt Nam vừa có tính vô nghĩa và tàn phá mãnh liệt đối với dân tộc với xã hội với con người. Những bài Tiếng Hát To (Tôi sẽ hát to hơn súng nổ bên bờ ruộng già, Lời tôi ca, lời tôi ca như suối rừng thu… Tôi sẽ hát to cho em bé nhỏ đang ngồi vỉa hè, trẻ thơ ơi trẻ thơ ơi xin đến gần tôi, Hỏi thăm em em có mẹ cha, Hỏi thăm em em có ông bà, Hỏi thăm em em có cửa nhà, Một ngày qua em mất cả ba…) là sự phản kháng uất hận với chiến tranh. “Để Lại Cho Em” làm cho người ta thấy sự mất mát quá lớn khiến cho cuộc sống chẳng còn ý nghĩa gì đáng nói, và “Giọt Mưa Trên Lá” chỉ làm cho con người thấy thêm bùi ngùi, đau đớn và chẳng có thấy tia sáng nào trong cuộc sống.

Quả thật những bài Tâm Ca không thể đau đớn hơn, sâu sắc hơn. Nó làm cho chúng ta đau buồn, thương cảm cho đất nước, cho dân tộc, cho những đứa trẻ đang ngồi vỉa hè, cho những thiếu nữ đi vào chốn bùn nhơ, cho những

131

thiếu phụ đơn chiếc, lạnh lẽo trên đường quê về nhà với một bếp lạnh tro đang chờ, cho những bà mẹ già mất con, những người vợ mất chồng, người con mất cha, cho tuồi trẻ bị đốt cháy, cho những vùng quê bom đạn cày nát, cho những ước mơ không được nói thẳng ra… Nhưng cuối cùng trong cái toàn cảnh tan hoang đổ nát của cuộc chiến là sự tuyệt vọng, bế tắc mà dường như chúng ta phải cam chịu, không vùng vẫy được, chẳng có lối thoát. Phạm Duy và Steve Addis lên sân khấu trong bộ bà ba đen của người dân nam bộ - như cán bộ Xây dựng Nông thôn của Trung tá Nguyễn Bé ở Trung tâm Chí Linh ngoài Vũng Tàu, như thể họ mang tiếng nói của mười mấy triệu quần chúng nông dân, nhưng còn lâu lời ca của họ mới đến với những người dân quê lam lũ thiếu ăn thiếu mặc và lo sợ bom đạn hàng ngày ở miền trung hay vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nó chỉ làm rung chuyển con tim của lớp trẻ yếm thế thời đó mà thôi.

Tính cách phản chiến còn nặng nề hơn ở Ca khúc Da Vàng của nhạc sĩ họ Trịnh mà lẽ ra ông chỉ nên tự giới hạn trong những bài như Phôi Pha, Tình Xa, Tình Nhớ, Như Cánh Vạc Bay, Một Ngày Như Mọi Ngày và biết bao nhiêu bài khác tương tự vẫn còn nằm trong con tim của nhiều thế hệ đã qua… Vấn đề vào thời đó, là ở chỗ dường như chẳng có gì sai khi lên án chiến tranh gây ra chết chóc, loạn lạc, cùng khổ, mất mát, nhưng những lời chỉ trích đó chỉ nhằm một phía, hoặc là vì người ta nghĩ phía kia sẽ không nghe, không đón nhận, hoặc là vì tính cách “miễn nhiễm” hay “bất khả xâm phạm” của những người gây ra cuộc chiến và có khả năng kéo dài cuộc chiến bởi “bể người vô tận” ở miền bắc, cho nên những phê phán về cuộc chiến lại có vẻ như chỉ nhằm vào

132

chính mình để cho sức công phá mạnh mẽ hơn. Những bài ca của Trịnh Công Sơn không nói lên được sự vô nghĩa của chiến tranh, mà chỉ làm cho người ta thấy thêm hoang mang trước những điều ông muốn nói lên - rốt cuộc có thể kết luận ngay chính ông, ông cũng chẳng hiểu mình thực sự muốn nói gì! Những bài “Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu” (Gia tài của Mẹ), hay “Người con gái Việt Nam da vàng” hay “Chiều đi qua bãi dâu hát trên những xác người”… có môt vẻ phản chíến “Nước Mắt Mẹ” làm dáng, ngụy thiện, ngụy tín, tuy được lớp trẻ thời đó vang tiếng hát theo, nhưng chẳng có gì có thể nghĩ thêm được từ đó.

III. Tuổi trẻ thời đó đang muốn gục ngã. Chúng tôi đang thiếu, đang mong chờ một tiếng nói chính thức, một sự động viên mạnh mẽ có tính cách soi sáng để cho người ta không cảm thấy đứng ngoài, thụ động, tiêu cực, chấp nhận. Dòng nhạc du ca của Nguyễn Đức Quang nổi lên trong giai đoạn đó – như một alternative. Một sự lựa chọn khác dành cho sinh viên Dalat của chúng tôi thời đó - nhất là giữa khi sinh viên ở Saigon, Huế, Dalat đang xuống đường biểu tình với mục đích mơ hồ nhưng không đủ sức thuyết phục thành một phong trào quần chúng, mà chỉ bị xem là những người nổi loạn vô nghĩa (rebels without a cause) và chế độ Saigon còn kém sức thuyết phục hơn nữa vì chỉ có môt cách đáp ứng đơn giản là lựu đạn cay. Chín mười giờ tối, khi rời Spellman sau khi nghe Phạm Duy, hay Trịnh Công Sơn, trên con đường tối thăm thẳm hai bên là rừng thông rời khỏi campus của Đại hoc Dalat, chúng tôi mang một tâm trạng nặng trĩu những muộn phiền trong ám ảnh của câu thơ của Vũ Hoàng Chương “Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ”. Và khi nghĩ đến vài năm sắp đến, người ta chỉ

133

tính đến chuyện đi tìm “một chỗ nào khác”, một con đường an toàn không dính líu gì đến trận địa. Thế nhưng sau những “xuất diễn” của Nguyễn Đức Quang, người ta ra về mà như còn thấy ánh đèn sáng choang của sân khấu ở trước mặt mình. Bên tai người ta vẫn còn nghe tiếng ồn ào của đám đông kêu gọi lẫn nhau, và trong đầu vẫn là những lời nhạc có tác động cổ vũ mạnh mẽ.

Những bài nhạc của Quang, như vẫn được gọi là du ca, chắc chắn nơi trình diễn thích hợp nhất không phải là sân khấu mà trong những đám đông tuổi trẻ cất tiếng ca hòa cùng với dân chúng - trong những năm đó, tại những sinh hoạt như cắm trại, công tác hè ở Suối Thông A, Suối Thông B, hay An Giang, hay Cam Lộ, làm đường lên nhà xác ở Hai Bà Trưng, sơn quét lại cho trường tiểu học Xuân An ở dốc Nhà Chung dưới chân Đài Phát Thanh Dalat, làm nhà cho dân chúng, đến với những người đồng bào thiểu số ở những buôn làng xa xôi… Đó là loại nhạc mà tuổi trẻ chúng tôi hát với nhau để cho tăng sức, lên tinh thần trong công tác và thấy cùng nhau chia sẻ một niềm tin nào đó. Trong khi người ta muốn bàn cãi về chuyện chiến tranh và chính trị và đi tìm giài pháp như thể đó là chuyện khả thi, cứ tìm cách nói mà không ra lời và còn lâu mới trở thành hành động, Quang nói “Không phải là lúc ta ngồi mà đặt vấn đề nữa rồi”. Giữa khi chúng ta thấy trước mặt là u ám hơn là tia sáng, Quang nhấn mạnh “Hy vọng đã vươn lên trong màn đêm bao ưu phiền. Hy vọng đã vươn lên trong lo sợ mùa chinh chiến”… Trong khi chúng ta có cảm tưởng đang chĩu nặng trước sự can thiệp của ngoại bang từ bắc vô nam, Quang nhắc nhở chúng ta có một “Việt Nam quê hương ngạo nghễ” và phải nhớ phải chấp nhận sự thách đố của lịch sử cho dù “cờ tự do cắm lên nấm mồ”..

134

Những bài ca của Nguyễn Đức Quang mới nghe qua, có phần nào như nhạc cộng đồng sinh hoạt của đoàn thể Hướng Đạo. Và có thể nhìn lại, ta dễ nghĩ rằng lời ca chứa đựng tâm trạng bồng bột của thanh niên. Thế nhưng tuổi thanh niên mà không bồng bột, mà toan tính hơn thiệt quá thì làm sao có hành động. Tuổi thanh niên mà không biết nhìn vào xã hội để phê phán sự ù lì, sự bế tắc, sự tê liệt… thì ai đây sẽ đi tới. Và làm sao người ta có thề đi tới nếu không có niềm tin, không có sự hy vọng và tự hào vào dân tộc, vào sứ mệnh đấu tranh không ngưng nghỉ để tồn tại trong thế giới này. Làm sao một dân tộc có thể tiến về phía trước nếu không ngoái nhìn lại lịch sử đất nước không thể bỏ lại sau lưng để dễ ngoảnh mặt mà phải luôn luôn là hành trang theo mình như một nhắc nhở về sứ mệnh của người Việt.

Những bài ca của Nguyễn Đức Quang sau đó đã xâm nhập được vào Bộ Thanh Niên trong thời Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (thủ tướng), nhưng vẫn chưa phải là thánh ca của tuổi trẻ. Nó vẫn vang lên trong những sinh hoạt thanh niên có tính cách như hướng đạo, nhưng phần lớn bị lướt qua bởi thời cuộc. Với biến cố Mậu Thân năm 1968 và sau đó là hòa đàm Paris vào đầu năm 1969, nhạc du ca bị chìm đi. Tất cả đều phải tùng chinh, và người ta hát bài “Where have all the young boys gone” một thời của Norah Jones. Tất cả đều ra trận, cuốn theo chiều gió như những người trẻ ở Mỹ trong cuộc Nội chiến cách đây 150 năm. Tâm trạng mơ hồ bất định về cuộc chiến đấu của mình, về lẽ chiến thắng của mình. Về khả năng chiến thắng, và quyết tâm không thể để thua. Hiệp định Paris 1973 làm tất cả mong đợi mong manh trở thành vô nghĩa. Tuổi trẻ còn bài gì để ca khi chẳng ai còn nhìn đến họ?

135

Nay thì thế hệ trẻ thời đó đã trở thành thế hệ đi trước thời nay - đủ già để có thể nói với lớp trẻ ngày nay, dù ở trong nước hay ở nước ngoài, nhất là lớp trẻ ở Mỹ mà hội nhập (integration) là một nhu cầu tất yếu: đứng trước những biến động chính trị, kinh tế mãnh liệt hiện nay ở Mỹ, chúng ta không thể chấp nhận như sự đã rồi những gì chúng ta đang thấy những gì chúng ta đang có. Chúng ta cần hiểu, cần nghĩ, cần có tiếng nói, cần có hành động… Không được như thế, chúng ta chẳng bao giờ có thể biện minh được sự hiện hữu của mình ở đây hay ở “một nơi nào khác”..

Khi so sánh người Việt ngày nay với nhiều dân tộc khác trong vùng Đông Á hay Đông Nam Á, chúng ta đau buồn trong cảm nhận chúng ta đã không còn gì mấy, bởi vì chúng ta vốn liếng thì ít, mất mát thì nhiều, phí phạm lại càng không kiểm soát được - từ trong nước đến hải ngoại. Thế hệ nào nay cũng thấy mất nhiều hơn được, giữ thì khó mà mất quá dễ. bởi vì chẳng xác định được trách nhiệm bảo tồn là của ai. Điều mà thế hệ của Quang hay những thế hệ chung quanh đó còn giữ được có lẽ chính là những lời kêu gọi từ thời còn trẻ đó nay vẫn còn khả năng cho chúng ta một niềm vui trong cuộc “tìm kiếm một thời đã mất”. Bởi thế mà khi Quang đến Salt Lake City vào một mùa đông cách đây 5-6 năm, “già trẻ lớn bé” đi photocopy những bài hát cũ để đến với anh để có ít nhất một đêm vui lấp đầy những khoảng trống trong đầu trong đời người ta có những dịp như thế này mới nhận ra. Khi nhìn những lớp người lớn tuổi phải gom hết sức tàn để hát cho lớn bài “Việt nam Quê Hương Ngạo Nghễ”, chúng ta mới thấy được sự tuyệt vọng của thế hệ đi trước ngày nay, và khoảng trống to lớn trong thế hệ tuổi trẻ hiện nay của đất nước, trong

136

nước cũng như ngoài nước, do sự lạc lõng của những bài ca này thời nay.

Đó không phải là dịp cuối cùng tôi gặp Nguyễn Đức Quang. Nhưng là lần đầu tôi gặp lại Quang sau cả gần 40 năm! Nghe một vài người ở đó nói người bạn cũ của anh đang ở nơi xa xôi này, Quang tìm cách liên lạc với tôi. Và anh chợt nhớ lại một người chỉ thực sự sống nếu có máy chữ trước mặt lại đã không đụng đến nó trong biết bao nhiêu năm. Quang lúc đó đang có tờ Chí Linh và Diễn đàn Phụ nữ. Anh bảo: “Ông về giúp tôi”. Tôi về với anh – qua email. Nguyễn Đức Quang đã giúp gây lại nơi tôi ngọn lửa của một thời từng viết cho tờ Saigon Post của ông Bùi Diễm, Vietnam Report của Nguyễn Ngọc Linh, cho Trình Bầy của Thế Nguyên, Diễm Châu, cho Đất Mới (của nhóm ký giả Việt Tấn Xã), cho Nghệ Thuật của Viên Linh, cho Văn Học của Phan Kim Thịnh, cho tờ Văn của Trần Phong Giao… . Nhưng báo chí không thực là mối đam mê của anh, cho dù tên tuổi anh thường đi với tờ Người Việt, Viễn Đông …

Minh Thông mất được hơn ba năm. Trong hơn ba năm đó, trong nỗi cô đơn càng thêm khủng khiềp khi tuổi già ập đến, lứa tuổi bắt đầu phải mang thẻ Medicare trong người, anh đã can đảm và bất cẩn dấn thân vào cuộc tìm kiếm những gì đã mất vì những cuộc bể dâu trong quá khứ, anh trở lại quê cũ và tìm kiếm trên vùng đất mới. Cách đây không lâu, anh đã một lần thập tử nhất sinh, phải vào cấp cứu, nhưng anh lại cố ngồi dậy, gượng bước ra ngoài, thế mà vẫn tiếp tục cuộc hành trình đó, có lẽ sự sợ hãi không lớn hơn được nỗi háo hức cái cuối cùng anh có thể tìm thấy. Có thể trong những đe dọa của sức khỏe đang ngày càng trở nên mong manh, anh thấy

137

trong tầm mắt hình ảnh của Minh Thông. Và có lẽ anh ngừng lại khi thấy cuối cùng, không có mất mát gì lớn hơn là sự vắng mặt của người hiền thê trên cõi đời tạm bợ này. Anh ra đi để lại sự tiếc thương cho bạn bè khi từ nay tiếng hát bỗng trở nên lạc lõng, nhưng chúng ta vẫn mừng anh đã về lại bên chị. Ai chẳng đi tìm sự an ủi trong lẽ Sinh ký tử qui!

138

NGUYỄN QUANG TUYẾN Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Nguyễn Đức Quang

Hát Giã Từ Đà Lạt (Đêm mùng 6 Tết Canh Dần, 2010 ở Đà Lạt)

Bây giờ thì tấm thân xác mang tên chàng nhạc sĩ tài hoa của xứ sở sương mù không còn nữa. “Cái thân xác ấy” nó đã đến từ đâu? Nay nó đi về đâu? Trong lòng tôi - quờ quạng tay vào hư không chẳng thấy cái xác thân ấy - mà mình thì thấy như “sờ sờ” ra đó, vẫn như còn nóng hổi, vẫn như còn nụ cười ngạo nghễ của người bạn thân thương Nguyễn Đức Quang ôm cây guitare thùng, mắt nhắm lại, nhả từng từ: ”Về đây nhé… hồn như còn đang quanh quất ngoài sân đợi…tới ngày chia cách, chim về núi sâu, ta về cõi sầu …”

Lần cuối quay về Đà Lạt, là khoảng thời gian dài trước và sau Tết Canh Dần năm 2010, Quang đã cùng gia đình, các con làm một chuyến viễn du từ Bắc chí Nam đất nước, như có một dự báo “đi để vĩnh biệt thân

139

thương”. Sau khi người vợ yêu quý Minh Thông mất, chuyến về này Quang muốn một lần đưa các con về nối kết chúng với đời sống quê hương. Quang muốn lãng du khắp mọi miền đất nước với một quả tim đập rời rạc, đập lùng bùng, đến đâu cũng với tâm trạng viếng thăm và vĩnh biệt: vừa háo hức, vừa u buồn.

Nguyễn-Đức-Quang hát tại 33 Phạm-Ngọc-Thạch

Dalat

Và Tết ấy (2010) Quang ăn Tết ở Đà Lạt, Quang lang thang với tôi mọi nơi để “chạm lòng mình” và nâng niu “từng kỷ niệm” như một dự báo. Chúng tôi như những ngày tháng trẻ tuổi của năm I năm II Khoá đầu Trường Chính Trị Kinh Doanh, chúng tôi đi giữa Đà Lạt mà “không thấy phố, không thấy nhà”… chỉ thấy con tim ngày ấy, chỉ thấy mấy ổ bánh mì baguette Vĩnh Chấn, cả bọn ngồi trước rạp hát Hòa Bình nhai rôm rốp cười nói rôm rả với bao mơ ước tương lai…

Có hai ông già lẩm cẩm tuổi cận 70, ngơ ngơ ngác ngác trước bao thay đổi của Đà Lạt hôm nay, ngồi đây mà nhớ những người bạn cũ ngày ấy nay đâu? Các bạn tôi ơi: đâu rồi Trần Đại, Nguyễn Lập Chí, Lê Kim Lợi,

140

Trương Duy Hào, Nguyễn Khải… Đâu rồi La Vang, Thạch Trúc, Kim Lan, Phùng Bích Sơn, Thiên Thơ, Ngọc Sương, Mai Kim Đỉnh… cứ nhắc đến từng người là như vỡ òa ra biết bao là kỉ niệm, như thấy dáng dấp từng người đi qua phố xưa .. .

Như cuốn phim cũ đứt khúc, chắp nối… có hai ông già “ mắt lão không vầy cũng đỏ hoe “ quanh quẩn một góc phố Đà Lạt buổi chiều đông ấy? Có ai biết gì đâu? Có ai biết gì không? Sóng gió của biển cả đâu có lớn bằng sóng gió câm nín xót xa trong lòng mấy con ốc dật dờ bên bờ hốc đá biển khơi!!

Tôi không nghĩ Nguyễn Đức Quang là một nghệ sĩ lớn trong nền âm nhạc nước nhà, và cũng không phải Quang quá tài hoa để chúng ta xem như một thần tượng, một nghệ sĩ lớn. Nguyễn Đức Quang không muốn là như thế, và với chúng ta Quang lớn hơn và sâu sắc hơn như thế.

Với Đà Lạt, Nguyễn Đức Quang là người của Đà Lạt, là sản phẩm thuần túy Đà Lạt. Anh sống và trưởng thành ở Đà Lạt từ thời trung học, đến đại học, gắn bó với người yêu là vợ anh hôm nay cũng là người Dalat… tất cả là của Đà Lạt, và âm nhạc của anh cũng là sản phẩm mang tính Đà Lạt. Tôi không mường tượng được toàn bộ đời sống của anh, sinh hoạt văn nghệ của anh và bạn bè có thể tách rời khỏi Đà Lạt. Thành phố ấy, môi trường sống ấy, là nơi chốn để có Nguyễn Đức Quang, như là Quang hôm nay.

Với bạn bè đầy chất nghệ sĩ của anh ở Đà Lạt như Hoàng Kim Châu, Đinh Gia Lập, Trần Trọng Thảo, Hoàng Thái Lĩnh, Nguyễn Quốc Văn, Phương Oanh… cùng với Quang là một tập thể gắn bó. Họ tạo dựng nên sự nghiệp âm nhạc, họ cùng vui chơi, và tình cảm của họ

141

với nhau là chỗ êm ấm để trở về khi những bi kịch của xã hội vùi dập; những hiểm họa, tai ương rình rập. Nguyễn Đức Quang và bạn bè vượt lên tất cả, bay cao hơn, bay gần lòng người hơn, gần bạn bè hơn. Anh và bạn bè vốn là người Đà Lạt, thấm đẫm tâm hồn Đà Lạt, nên Đà Lạt luôn luôn là chỗ trở về của các anh sau những nhọc nhằn, mỏi mệt.

Tôi đưa Quang đến thăm trường trung học Trần Hưng Đạo, nơi đây 50 năm xưa chúng tôi cùng ngồi học một mái trường; mọi sự đã đổi thay nhiều. Người ta không muốn và không cho phép giữ một chút gì của quá khứ, làm như rằng người ta hiện hữu và có mặt mà chẳng cần chút gì của quá khứ. Cũng rừng thông cũ, cũng lối đi xưa, cũng gò đồi cao thấp, nhưng “ngõ cũ lâu đài” giờ đây tê tái trong câm nín, yên ắng đến lạnh người. Đâu rồi những thầy xưa? Cô giáo cũ? Bạn bè ngày nào? Quang ngậm ngùi “sóng sau xô sóng trước, bãi bể nương dâu.. cậu Tuyến có cố giữ ba chữ THĐ bên bệ hàng rào, cũng chỉ là một chút lay lắt khói sương”. Ừ nhỉ, thật cũng chỉ là một chút lay lắt khói sương, giữa trời hoang nắng bàng bạc hoàng hôn của Đà Lạt.

Chợt xót xa nhớ câu” Lạc hà dữ cô lộ tề phi”, tuổi già ru trong cô đơn giữa bao la, bàng bạc sương chiều, ráng đỏ Đà Lạt sao mà nó giống hình ảnh cánh chim nhạn lẻ loi thẳng cánh bay về vô cùng…

Tôi cùng Quang vào thăm khu vườn “Đà Lạt xưa” của tôi, tôi gom góp công sức đã 25 năm qua - nơi ấy tôi trồng đủ các loài cây “Đà Lạt ngày ấy” như mimosa, violet, anh đào, phù dung, penseé, tím Huế, tầm xuân, thiên lý, tường vi… Quang như lặng đi trước hương sắc ngày xưa ấy. Tết này lạnh nhiều, cả vườn tôi, hoa anh

142

đào Dalat rực rỡ, màu hồng chập chờn dưới mặt hồ cau mày trong gió lạnh.. Người bạn thân của tôi và Quang là nhà văn Lê Thiệp ở Mỹ gởi cho tôi hơn hai trăm gốc anh đào Nhật ở Washington, tôi chỉ cho Quang thấy hàng cây chăm bón kỹ mà lớp búp hoa như đám ong ruồi, lông tơ mơn mởn mà chẳng chịu nở. Hoa búp cứ khô héo dần, chẳng thấy nở hoa. Quang cười: “Cậu và thằng Thiệp thật là ngây thơ. Khí lạnh Đà Lạt làm sao đủ độ kết nhựa cho anh đào giống Mỹ nở giống như sau mùa đông tuyết lạnh ở Washington”. Cây vẫn tốt, lá vẫn xanh mà sao hoa cứ ngập ngừng, héo hắt, chẳng chịu nở một nụ cười “đào hoa y cựu tiếu đông phong”? Tôi vẫn tin sẽ có lúc những cây anh đào xứ ấy sẽ quen dần và nở đầy hoa dưới mây trời Đà Lạt.

Trước khi Quang từ giã Đà Lạt, từ giã những người bạn thân để lên đường, Quang tổ chức một đêm Quang hát những bản nhạc sáng tác sau này, sau năm 1995 . Đã hơn 50 năm, đã hơn nửa đời người, tôi nghe lại bạn tôi hát, bạn tôi trầm buồn nhắc lại những đoạn đường đã đi, những nơi đã hát… nói như một dòng nước mắt chảy xuôi, đoạn sau của một thời du ca rực rỡ.

Đêm ấy mùng 6 Tết, ngày 19/02/2011, tôi nghe Quang hát và sau đó Quang rời Dalat và ra đi vĩnh viễn ngày 27/3/2011 tại Hoa Kỳ. Đêm ấy, đứa con Đà Lạt hát lời vĩnh biệt Đà Lạt, miền đất thương yêu nhất của chàng.

Chàng nghẹn ngào hứa với Đà Lạt sẽ về đây nhé và cũng từ đó, chàng -“…con thuyền viễn dương cũng vừa lên đường”.

Đêm nhạc ấy Quang lấy tên là “Về đây nhé”, Quang mơ ước về Đà Lạt sống những ngày cuối đời. Quang thiết tha nhìn từng gốc cây, ngọn cỏ của ngày xưa,

143

Quang chậm từng bước đi từ cổng nhà 33 đường Calmette cũ, xuống căn nhà em Vinh mới xây lại, đó là nơi căn gác gỗ tụ tập anh em du ca ngày nào. Tôi còn nhớ năm 1967, Quang mời tôi và Trần Trọng Thức đến dự một buổi thảo luận nhóm của khóa I trường Chính Trị Kinh Doanh, trong đó có Minh Thông vợ Quang sau này, là một thành viên trong nhóm. Căn gác gỗ ở góc vườn, tách hẳn sinh hoạt của ông bà Cụ thân sinh Quang, đó là cái nôi ru cho chàng nghệ sĩ tài hoa trưởng thành.

Đêm ấy, trăng non trời cao và tối.. vài ngôi sao thưa xanh xao nhấp nháy trên đỉnh núi Bà như thổn thức cho giấc cô liêu. Tôi đi chầm chậm trên con đường vắng đến nhà Quang, trên đồi nhà thờ Domaine de Marie, lặng lẽ lắng nghe các ngôi sao trở mình – tôi thích cây thông như chiếc dù trước cổng nhà Quang. Có lẽ đã hơn trăm năm cây thông sần sùi vẫn đứng đó nhìn lớp lớp phế hưng .

Mùng sáu Tết, trời Đà Lạt giá lạnh, góc trời phía Cam Ly một mảnh trăng lưỡi liềm xanh xao, hao gầy trong gió vun vút . Nguyễn Đức Quang ngồi lặng lẽ, cùng bạn bè trên sàn gỗ. Có vợ chồng Hoàng Thái Lĩnh – Chi Minh; có vợ chồng Đoàn Chiêm - Lê Thảo cùng 2 con Hà - My và các cháu; có vợ chồng gia chủ Nguyễn Đức Vinh và vợ Phan Thị Sen cùng hai con trai của Vinh là Hiển và Độ; có các bạn trẻ chơi guitare classique, bạn của Vinh là: Phan Hải, Tuấn,Thi ... và Hoàng Lâm, gần hai chục người vây quanh nhau trên sàn gác gỗ …

Gác xép gỗ tuềnh toàng ngày xưa nay được em Vinh xây dựng thành một ngôi nhà gỗ, lát sàn gỗ, đẹp ấm cúng và nền nã nét xưa. Chúng tôi cùng Quang ngồi trên

144

sàn gỗ ở tầng gác, ngoài khung cửa kính là thành phố Đà Lạt dưới thung lũng Phan Đình Phùng lao xao ánh đèn, bên kia triền đồi, chùa Linh Sơn trang nghiêm trầm tư. Mọi người nói thật khẽ, như nghe cả tiếng đập của nhịp tim, như nghe cả một thời rộn rã đầy sức sống của thuở du ca đang được ủ lại dưới vẻ đăm chiêu trầm lắng của Quang. Quang ngồi yên một góc trong vòng tròn của bạn bè, thân hữu. Tiếng guitare cổ điển của 2 anh em Tuấn, Thi nhả khúc Duo mở đầu… Phan Hải với tiếng đàn tinh khôi, cất tiếng hát bài “Ly champagne ngọt ngào” do chính Hải sáng tác.

Lâu lắm tôi mới thấy một hình ảnh Đà Lạt rất xưa quay về . Đà Lạt rất xưa và rất mong manh đã vỡ tan lâu rồi, nay tôi mới gặp lại không có chút điệu đàng, không có chút ồn ào khoe mẽ, không có người khác, không làm bộ hờ hững suy tư trong khi mặt đanh lại các tính toán bon chen…, cởi bỏ mọi thứ y phục mới khoác vào trong vài chục năm qua, giờ đây, nơi này, trước những người bạn trẻ Đà Lạt, tôi đã gặp lại Đà Lạt ngày nào. Tôi còn nhớ khung cảnh thế này Đà Lạt ngày xưa: một đêm giá buốt trước sân phòng trọ của Trương Duy Hào, bên cạnh đống lửa nho nhỏ, gần ba mươi sinh viên trẻ chúng tôi vây quanh Phạm Duy, Đỗ Long Vân và thầy Lý Chánh Trung để nghe Phạm Duy vừa đàn guitare, vừa hát Tâm Ca. Cũng khung cảnh thế này, chúng tôi ngồi vây quanh Trịnh Công Sơn ở nhà số 7 Trần- Bình Trọng, nhà chị Thanh Sâm hoặc ở Dòng Chúa Cứu Thế để nghe những bản nhạc mới sáng tác của Trịnh Công Sơn… Biết bao lần, biết bao nơi, khi thì ở Sân cù, khi ở trại Thanh niên thiện chí, khi ở Đam Pao, lúc ở Suối Thông A… tất cả chợt như gần gũi. Giờ đây không còn người

145

nào, không còn ai, không còn công danh sự nghiệp, chỉ còn tiếng đàn, từng giọt, từng giọt rót vào thân phận con người… lúc này, sau bao năm tháng bươn chải tơi tả trên đường đời. Trở về với Đà Lạt, trở về nghe tiếng guitare thùng rơi rụng trong đêm vắng sao mà thanh thoát và êm đềm đến vậy!

Đã lâu lắm rồi, tôi mới được nghe lại - đúng là từng giọt âm thanh rơi xuống khoảng yên ắng nghiêm cẩn. Âm thanh, âm nhạc ở Đà Lạt, nghe khác hẳn ở nhiều nơi, hình như không gian tinh khiết xen lẫn với môi trường tĩnh lặng không có những tạp âm đan chen, từng giọt, từng giọt, nhả ra thánh thót như nỉ non tình tự, như sự giải bày chậm rãi, cho đến khi đã ngừng mà cả phòng vẫn ngẩn ngơ lặng im, như chết lịm… như có tiếng gió thở qua khe cửa sổ, như có tiếng va chạm rất khẽ của một bàn tay đang khẽ nắm một bàn tay…

Nguyễn Đức Quang, ôm đàn ngồi trên ghế cao khẽ khàng tâm sự :”Có lẽ bạn bè quanh tôi hỏi, vậy chứ NĐQ đi qua xứ người bao năm có còn tiếp tục sự nghiệp ca hát … Từ 75 đến 2001, hơn 20 năm quần quật nợ áo cơm , lu bu làm báo, quần quật kiếm sống …Năm 2001 lần đầu tiên nhận lời mời qua Úc hát lại những bản nhạc xưa Trầm ca, Du ca. Hơn 20 năm đã qua đi, lần đầu tiên tôi trình bày một đêm nhạc với hơn 800 thính giả, một đêm thành công ngoài dự liệu. Chuyến đi ấy tôi đi hát cả 3 bang ở Úc, đều thành công. Sau đó , tôi đi Úc, Âu châu, Mỹ … vẫn hát Du ca, và vẫn nhiều thính giả trẻ đón nghe . Năm 2003 , tôi một lần nữa qua Úc, thấy mình vẫn hát những bài Du ca cũ thì quê quá, nên tôi sáng tác một số bài mới . Từ ấy đến nay, tôi đi khắp nơi, trên cả 14 tiểu bang của Mỹ, hát cả du ca cũ và các

146

sáng tác mới trên 60 buổi trình diễn. Vẫn chỉ một mình với một cây guitare ôm cả đêm trình diễn... Mình tự hỏi vậy mình đã già chưa, và tự nghĩ mình vẫn chưa già…

…Hôm nay, tôi thử sức hát mấy bài. Tôi hát, trước tiên bài Về đây nhé. Tôi ước mơ trở về đây, về Đà Lạt, với trái tim của mình, về mà không ai ngăn cấm, không ai ra lệnh phải đi chỗ khác… “

Quang cúi đầu trên cung đàn, mắt nhắm – y hệt hình ảnh ngày xưa – miệng như cười - giọng chùng xuống và cao vút lên với ca từ “về đây nhé !!” .. tôi tưởng như nghe lời nguyện cầu nức nở, lời rú lên của tù trưởng một bộ lạc hoang sơ … xin đất trời cho mang lửa đến nhân gian …

“ Về đây nhé, người em phong ba, đã quên ân tình

xưa

Về đây nhé, tựa trăng sao khuya quen một mái nhà

Những ngày thao thức, đêm nối mong chờ,

Thấy lòng nô nức như sắp sang bờ

Hồn còn như quanh quất ngoài sân đợi, cơn mộng

……………

Về đây nhé, thèm nghe tiếng chân , bước êm như nụ

hôn

Về đây nhé, con thuyền viễn dương cũng vừa lên

đường

…Về đây ta nuôi tiếp mộng xưa, một chốn nào …”

147

Quang búng mạnh 6 dây đàn, mặt ngẩng lên, nét gãy khúc như một bức tượng đồng rỉ. Không gian khán phòng như chùng xuống, dù một tiếng vỗ tay hay lời khen ngợi đều dư thừa. Tôi cảm thấy như Đà Lạt phủ xuống ôm chầm đôi vai gầy của Quang. Mảnh đất nào từ khước những đứa con lưu lạc nơi xa trở về; mảnh đất nào không dung chứa hết ngàn vạn khổ đau, oan khiên, của các con mình lưu lạc tứ xứ? Hãy về đi , về đây nhé: ”Dẫu sớm hồng phai, dẫu chiều xanh úa, cứ hoan ca…”

Nhìn Quang như gục xuống sau bài hát với cảm xúc mãnh liệt, tôi ái ngại cho con tim của bạn mình!!

Quang xa Đà Lạt, Quang da diết nhớ thành phố này, thành phố có bạn bè , có quá khứ, có người mình yêu… nó là nôi, là tả lót, là hương sữa của một thời trai trẻ. Nếu bản nhạc “Về đây nhé” như một lời ước hẹn, thì “Tình tôi con dốc nhỏ “ mới chính là tình cảm tha thiết gắn bó với Đà Lạt. Những ai sống ở Đà Lạt, yêu thành phố này thì sẽ thấy như những đôi bàn tay quấn quýt của các đôi tình nhân thế nào thì những con dốc nhỏ quấn quýt với người yêu Đà Lạt thế ấy. Đà Lạt là một không gian xanh kết nối bởi bao con dốc nhỏ, với mỗi người, mỗi con dốc là một sử thi tình cảm của riêng mình. Từng phiến đá lát đường, từng mảng rêu xanh trên con dốc nhỏ là cả bao kỉ niệm, bao vui buồn… Anh phải yêu người yêu anh đến thế nào mới cảm được nổi u sầu của nàng thoáng gợn trong một ánh nhìn xa xăm… Anh phải yêu, phải nhớ Đà Lạt đến da diết thế nào, để mà anh nhớ về Đà Lạt là anh nhớ “Tình tôi con dốc nhỏ“. Nghe bản nhạc này của Quang, tôi càng thấy bạn tôi yêu Đà Lạt biết bao. Mỗi con dốc gói bao ước mơ, bao yêu

148

thương, bao buồn vương trong bao mối tình ngây thơ, khờ khạo ngày mới lớn…

Quang nói: ”Năm 2004 tôi viết bài “Tình tôi con dốc nhỏ “ dành cho thành phố thân thương Đà Lạt của tôi. Nhớ quá Đà Lạt của tôi, bởi: ”Nay tôi ở rất xa một con đường“…

Nói đến đây, tôi thấy như Quang nhìn Vinh, cậu em trai bé nhỏ của mình ngày nào mình vẫn dắt tay đi qua từng con dốc nhỏ; như Quang nhìn ra ngoài cửa sổ, ngoài trời đêm hun hút gió tê buốt , trên khung trời đầy sao như thấy Minh Thông đang lắng nghe tình anh: ”Em bước cạnh thôi có chi mà ấm lạ, mưa mãi tình ơi tim tôi nhóm lửa thật rồi “.

Tôi nghe Quang hát từng lời…và trước mắt tôi là những con dốc, là thời trai trẻ ở phố núi:

Nơi tôi ở rất gần một con đường

Con dốc nhỏ đắm mình giữa mù sương

Thành phố âm u nhìn con dốc đứng

Nhà cũ vây quanh tường vôi nứt rạn

Khung cửa lầu cao có em ánh đèn sáng

Con dốc nhỏ thích tôi người đứng chờ

Trông ngây dại giữa chiều nắng , chiều mưa

…………..

Hàng xóm chung quanh nhìn tôi cố gượng

Con dốc nhìn tôi, bước đi bằng vết thương

Nay tôi ở rất xa một con đường

149

Với hai bản nhạc trên, với đêm giã biệt này, Quang đã nói hết lòng mình với Đà Lạt. Tôi thấy như Quang buồn hơn vui, dù nụ cười luôn không tắt trên môi, từ sâu thẳm tôi như thấy Đà Lạt đang run run từ giã Quang.

Đêm ấy Quang hát bốn bài, trong nội dung bài viết này tôi chỉ trích dẫn hai bài về Đà Lạt, Quang hát nhiều cảm xúc nên có vẻ mệt; xen giữa Quang là sự góp mặt của các tay guitarist trẻ bạn của Nguyễn Đức Vinh, em Quang. Vinh nối chí Anh, có trình bày bài do mình sáng tác. Bản nhạc “Nợ” của Vinh là một bản nhạc xuất sắc (Vinh phổ thơ Cao Bá Hưng ).

Nửa khuya tôi từ giã Quang và đêm ca nhạc, lên xe về Saigon để sáng mai đi làm. Mảnh trăng non đã khuất núi, bầu trời xanh và cao thăm thẳm đầy những sao, Quang đưa tôi đến bậc thềm nhà, cây anh đào cạnh cổng hàng xóm vẫn còn lác đác vài cánh hoa tím tái. Đó là giây phút cuối cùng tôi vĩnh biệt Quang, hai chúng tôi vẫn ngỡ có lúc còn gặp lại nhau.

Quang luôn ước mơ có ngày sẽ trở về, có ngày sẽ về Đà Lạt. Sẽ ôm mảnh đất này đẫm trong nước mắt yêu thương, sẽ nằm mãi, nằm mãi tan rã ra , để trở thành cỏ xanh, thành hoa đỏ. Thành hơi thở tái tê lạnh của nơi này.

Quang là người của bạn bè, của xã hội, Quang muốn về Đà Lạt để ngất ngư lịm chết trong vòng tay thân hữu, trong vòng nguyệt quế lung linh của kỷ niệm, của tuổi biết yêu và đã yêu thật đắm say. Quang mong ước trở về trên từng con dốc nhỏ, dắt tay cậu em thơ đi lại như ngày nào…

150

Quang muốn để bao vinh quang, danh tiếng, gán cho mình vào một góc và ở đó chính thời gian sẽ tắm gội để chỉ còn giữ lại những giá trị gì mà thời gian không gặm nhấm được. Quang muốn mình thênh thang, trần trụi với một quả tim ngây ngất yêu thương đi trở về Đà Lạt, trở về thánh địa của tuổi trai trẻ ngày nào. Xin đi lại từ đầu, không đi vội về sau!

Đà Lạt ơi, Nguyễn Đức Quang muốn “về đây nhé” mà nào có với tới được giấc mơ cuối đời, Quang muốn “Về đây nhé” mà quả tim mong manh của chàng đã ngừng đập mất rồi!!. Trước khi Quang có thể về úp mặt khóc như chưa bao giờ được khóc; vì có hạnh phúc nào hơn là tan hòa từng tế bào sống của mình trên mảnh đất Đà Lạt mà mình yêu thương.

“Về đây nhé“ là một lời hẹn ước, là một ước mơ cuối đời của Quang với Đà Lạt.

Biết đâu Quang đã về? Vì trên bầu trời đêm thăm thẳm, Đà Lạt đã có thêm một vì sao nho nhỏ, xanh xao nhấp nháy như thầm kêu: “Đà Lạt ơi tôi đã về”. Biết đâu được? Có lẽ nào một người yêu Đà Lạt như Quang mà bỗng dưng mất hút, tan biến trong vô cùng thăm thẳm mà chẳng có một dấu hiệu nào trở về? Quang đã hẹn với Dalat “Về đây nhé“, nên Quang đã và sẽ trở về dù chỉ là một dấu hiệu hiển linh: chút nháy sáng của một vì sao xa xăm trên lưng chừng trời đêm Đà Lạt …

(15/5/2011)

151

NGUYỄN QUANG TUYẾN Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Tưởng niệm Nguyễn Đức Quang

Một người bạn hiền

Một nhạc sĩ du-ca trĩu nặng tình quê hương.

Nguyễn Quang Tuyến phát biểu trong buổi Tưởng Niệm Nguyễn Đức Quang tại Việt Nam

152

Mỗi một cuộc đời đều có một ngày giờ định mệnh đến gõ cửa. Cái giờ ấy , ngày ấy như một lời hẹn mà không có ai có thể chối từ, trốn chạy. Nó sẽ đến sớm hay muộn, đến với một tâm trạng hoảng hốt hay bình thản, êm đềm đón nhận …

Đúng 04 giờ sáng ngày Chủ nhật 27/03/2011 tại Cali, Mỹ, giờ định mệnh ấy đã đến với Nguyễn Đức Quang (NĐQ), người bạn hiền của chúng ta đã bình thản, âm thầm ra đi, đi xa mãi vào cõi vô cùng.

Hôm nay đây, chúng ta tưởng niệm NĐQ, một người bạn của bao nhiêu người thân quen anh. Một nhạc sĩ du-ca nặng tình quê hương của bao trái tim thanh niên dâng trào nhiệt huyết của thập niên 60 thế kỷ trước (1960-1970).

Nguyễn Đức Quang ơi! Người bạn thân thương của anh em Dalat với Trung học Trần Hưng Đạo và với Đại học Dalat : Thụ Nhân khóa 1-2. Anh là người thủ lĩnh chủ xướng của Trầm ca, Du ca ngày nào, mắt sáng ngời trong các đêm bập bùng lửa trại, các đêm hỏa châu ngút trời thắp sáng đêm đen. NĐQ nay đã từ giã tất cả và ra đi như một vì sao xẹt ngang bầu trời tăm tối. Anh xuất hiện trong một giai đọan lịch sử lạ lùng của đất nước, của cả thế hệ chúng ta: “mò mẫm đấu tranh! Mò mẫm tồn tại! Mò mẫm tìm một chốn yên thân cho thân phận làm người!”

Những ai tuổi đôi mươi trong thập niên 60 ở Miền Nam vang rền đạn bom, khói lửa ngút trời mà chẳng biết đến

153

NĐQ. Thế hệ chúng ta ngày ấy đã thấy gì? Đã nghe gì? Đã mơ ước ra sao? Trước mắt chúng ta hàng hàng lớp lớp gục ngã, bao làng quê rực lửa ấy, bao mẹ già, em bé …. Tuyệt vọng cùng cực tuyệt vọng! Bao giấc mơ tuổi trẻ chóng mắt trong đêm đen mò mẫm mong chờ!

Và trong đêm đen đó, NĐQ đã ca vang :”Hy vọng đã vang lên trong màn đêm bao ưu phiền. Hy vọng đã vươn lên lo sợ mùa chinh chiến. Hy vọng đã vươn lên trong nhọc nhằn tràn nước mắt . .. đang rực lên trong màn đêm”

Dù chân trời vẫn mịt mù; dù “không phải là lúc ta ngồi mà đặt vấn đề”; dù Việt Nam chưa được ngạo nghễ như ước mơ...nhưng tất cả chúng tôi, tất cả những bạn trẻ đã thấy ấm lòng; đã thấy chân trời rạng sáng và âm thầm chờ đón bình minh.

Hình ảnh NĐQ với cây đàn guitar thùng bên ánh lửa trại bập bùng, vây quanh hình ảnh và âm thanh đó là hàng ngàn đôi mắt ngời sáng trong hy vọng, trong ước mơ; dẫu rằng quanh ta vẫn còn bừa bộn tăm tối, đau thương.

NĐQ của những năm tháng ấy là trái tim, là khát vọng, là nghệ sĩ đem đến cho thanh niên một cuột đời khác, niềm vui khác bên cuộc đời tù hãm vô vọng trong chiến tranh tham nhũng, sa đọa … tù hãm bởi lừa đảo chính trị, bởi tuyệt vọng không lối thoát!

Ta như nước dâng, dâng tràn có bao giờ tàn

Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang

154

Lê sau bàn chân gông xiềng một thời xa xăm

Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loàng xoàng

(Nguyễn-Đức-Quang : VN quê hương ngạo nghễ )

Ai đã trải qua những ngày tháng ấy, đã thấy hàng ngàn đôi bàn tay tuổi trẻ vỗ cầm nhịp quanh đống lửa hát vang. Hy vọng đã vươn lên! – VN quê hương ngạo nghễ – đường Việt Nam … mới thấy được bạn chúng ta, NĐQ có vai trò nào trong lòng tuổi trẻ ngày tháng ấy!!

Vai trò của NĐQ ngày ấy nó lớn hơn những gì mà nhiều người chưa nghĩ về anh! Nó lớn hơn cả phong trào du-ca, các phong trào thanh niên sau này . .. vì đã mấy mươi năm đã qua đi mà trong tâm tưởng thế hệ chúng ta vẫn còn như mới tinh khôi: “Con người ấy, lời ca ấy, dáng đứng ấy, trong một thời buổi ấy!”

NĐQ chưa đi đâu hết! Chưa đi xa nơi nào hết! Mà vẫn còn trong mỗi chúng ta . . và hôm nay, chúng ta ngồi bên nhau tưởng nhớ đến anh.

Nguyễn Đức Quang sinh năm 1944, tại Sơn Tây, Bắc Việt. Nơi ấy có Núi Tản Sông Đà, nơi có những thi sĩ tài danh như Tản Đà, Quang Dũng. Nguyễn Đức Quang sinh trưởng trong một gia đình công chức ngành giáo dục mẫu mực, anh cùng gia đình về sinh sống tại Đà Lạt năm 1959,thời Trung học – học Trung học Trần Hưng Đạo Đà Lạt và năm 1964 vào đại học Đà Lạt khóa I Trường Chánh Trị Kinh Doanh.

155

Đà Lạt với khung cảnh thơ mộng là cái nôi để Nguyễn Đức Quang cùng các bạn bè thời trung học ru tuổi thơ mình thấm đẫm trong niềm vui âm nhạc. Các bạn bè Đà Lạt của anh lúc ấy cũng chưa định hình sở thích và khuynh hướng ca nhạc của mình sẽ về đâu . Anh là một hướng đạo sinh nên ban đầu anh làm nhạc cho sinh họat hướng đạo. Chính tuổi trẻ và âm nhạc hòa quyện nhau trong một sân khấu vĩ đại làm nền đó là TP. Đà Lạt thơ mộng trong những tháng năm đầu năm 60. Thành phố Dalat đã là vườn ươm cho bao tài hoa âm nhạc, trong đó có NĐQ.

Theo Nguyễn Đức Quang, bước rẽ quan trọng cho năng khiếu âm nhạc của anh là vào năm 1965 khi gặp Phạm Duy tại Thạnh Lộc Thôn , tỉnh Bình Dương bây giờ.

Nguyễn Đức Quang tâm sự: “nhạc của tôi sau này người ta gọi là nhạc cộng đồng, nhạc sinh hoạt…Một thứ tình cảm không phải chỉ dành cho hai người đang yêu nhau mà là một thứ tình cảm thiết tha nói lên mối liên hệ giữa vùng đất và con người” .(1)

Nhạc của Nguyễn Đức Quang gắn liền với công tác xã hội, với tuổi trẻ, với lửa trại…Với bừng bừng sức sống. Trước đó đầu năm 1965 là trại suối Thông A ở Đơn Dương Đà Lạt, và tiếp đến giữa năm 1965 là trại Thạnh Lộc Thôn hơn 300 trại viên… và tiếp theo là trại CPS ở Mỹ Tho…

Và dưới ánh lửa trại bập bùng, dưới trời đầy trăng sao, hàng trăm đôi mắt rực sức sống … có một cuộc gặp

156

quan trọng trong sự nghiệp âm nhạc trong đời Nguyễn Đức Quang: Tại đây Quang gặp Phạm Duy. Phạm Duy đang phổ biến 10 bài Tâm Ca lần đầu. Nguyễn Đức Quang tâm sự : “ Dịp này nhạc sĩ Phạm Duy đến sinh họat với toàn thể sinh viên chúng tôi. Ông đang làm loại nhạc mới mà ông gọi là 10 bài tâm ca, lúc đó chỉ xong có 7-8 bài. Ông hát những ca khúc này và tôi bị choáng ngợp vì bởi nhạc và lời của những bản tâm ca này. Ông hát một hơi năm bài và trong giờ nghỉ của ông tôi được anh em của nhóm đẩy ra trình diễn một số ca khúc của tôi. Chỉ là vài bài ca sinh họat mà thôi.

Tôi bị nhạc của Phạm Duy hớp hồn thế nào thì ông ngạc nhiên về những ca khúc của tôi như thế. Sau đó, hai bên gặp gỡ nhau, với Phạm Duy ông cho tôi là một khám phá mới… Do đó, Phạm Duy đề nghị mỗi tuần gặp nhau 1 lần vào tối thứ năm để hát cho nhau nghe những sáng tác mới… Tôi đã trình bày cho Phạm Duy nghe toàn bộ những ca khúc trong tập trầm ca. Nội dung những ca khúc này là đặt vấn đề thanh niên đối với vận mạng đất nước, đưa ra những suy nghĩ tuổi trẻ như các sáng tác nổi buồn “nhược tiểu” , “ tiếng hát tự do”, ‘lìa nhau”. (1)

Ý tưởng trên của anh Quang và nhóm bạn bè Dalat lúc ấy có lẽ cũng là cương lĩnh của du ca sau này: ca hát nói lên những vấn đề của cuộc sống, của thanh niên trước vận mệnh đất nước. Những ai đã sống qua thời kỳ ấy, những ai còn nhớ lại thời kỳ ấy sẽ thấm thía hình

157

ảnh người nghệ sĩ dáng gầy gầy ôm cây ghi-ta nhắm mắt mà hát về thân phận giống nòi!! Anh Nguyễn Đức Quang đã làm như thế!

Những năm 65-70 rộ lên những trại hè, trại công tác xã hội, trại cứu trợ thiên tai chiến tranh … Có thể có nhiều khuynh hướng chính trị lợi dụng tuổi trẻ và hình thức “hội trại” để có các ý đồ khác. Nhưng lúc ấy, chính đàn hát và họat động cộng đồng đã kết nối tuổi trẻ khắp nơi. Và cũng từ duyên lành đó mà Du ca ra đời, có giấy phép họat động từ năm 1966, chỉ là hợp thức hóa một phong trào đã có từ năm 1965 mà thủ lĩnh là nhạc sì Nguỵễn Đức Quang và các bạn bè hợp tác.

Du ca không là ca nhạc “phản chiến” như ý nghĩa phản đối chiến đấu của phe này mà chấp nhận sự chiến đấu của phe khác. Phản chiến của du ca là phản đối chiến tranh, chết chóc bom đạn đến bất cứ từ đâu. Xin hãy trả lại yên lành cho quê hương, cho con người, cho thân phận 1 con người!!

Hôm nay tiễn đưa Nguyễn Đức Quang, ta nói nhiều đến người nhạc sĩ Du ca nơi anh, nói nhiều đến một thời anh đã cùng bạn bè làm hàng triệu trái tim thanh niên lúc ấy rộn rã, dồn dập cuốn theo lời ca, nhạc điệu của Du ca :

Cùng đi xoay Hoành Sơn,Cùng đi lay Trường

Sơn.

Cùng đi biến đồng hoang ra lúa thơm.

Vượt khơi ra đảo xa, lướt ngàn nước sông nhà

158

Ta đắp bồi cho Mẹ Cha.

Đến năm 1975, du ca không còn, Nguyễn Đức Quang , rời quê hương đi tìm một nơi sống khác. Đành phải vậy thôi, cũng những con người xưa ấy, nơi xa xứ, khó mà cất lên tiếng hát du ca, khó mà ngồi lại bên nhau để sáng tác một cái gì như thuở cũ, vì như anh nói: “ngày xưa tôi sống thật trên quê hương tôi. Tôi đau từng nỗi đau của những người lính, những bà mẹ, những người vợ, những nông dân, những người lao công, những em bé, những người già… Ngày nay, tôi không có cơ hội tích lũy những chất liệu vừa kể. Tôi cũng có thể nặn được những điều đó, nhưng những sáng tác thuần kĩ thuật và trí tuệ cho dù có hay vẫn có một cái gì đó không thật mà thành thử nó cứ gượng mà không đi vào lòng người”. (1)

Anh đã để Du ca ngủ yên. Anh đã đi vào hoạt động báo chí, anh là chất kết nối bạn bè Thụ Nhân khắp nơi… Anh vẫn ôm đàn hát, nhưng không còn hát du ca!!

Ở nơi xa ấy, anh vẫn mơ: “Chúng tôi tin rằng có lúc … anh em chúng tôi còn sống cho dù chỉ thoi thóp thở, chúng tôi cũng sẽ trở về để nhắm mắt trên mãnh đất chúng tôi đã sinh ra, đã lớn lên.”(1)

Và Anh Quang đã ra đi lúc 4 giờ sáng ngày 27/03/2011 tại Cali, chưa kịp trở về thoi thóp, ngưng thở trên mảnh đất quê hương mà anh đã nặng tình. Anh chưa kịp trở về nhưng cả sự nghiệp của anh, cả một đời nhạc sĩ mãi mãi đã trở về, mãi mãi con tim nóng hổi đó vẫn còn hòa nhịp sống trong dòng chảy của quê hương.

159

Tưởng niệm Nguyễn đức Quang cũng là xác tín với anh về các giá trị mà anh đã để lại trong lòng bạn bè anh trên quê hương anh đã một thời và mãi mãi trong 1 góc con tim của mọi người biết đến anh.

Ghi chú: (1)Hoàng Khởi Phong: “Nói chuyện với Nguyễn Đức Quang” – 1998, in ở Báo Việt, Cali. Xin đọc cùng trong tập sách này.

160

ĐỖ QUÝ TOÀN

Chính Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt

Nguyễn Đức Quang: Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ “Đường Việt Nam ôi vô cùng vô tận!” Đó là câu đầu một bài hát thời rất trẻ. Nguyễn Đức Quang kể đã đặt bài ca Đường Việt Nam trong lúc đang đi, trên con đường từ Đà Lạt xuống Sài Gòn. Đi một mình, vừa ngắm cảnh núi đồi, làng mạc, vừa hát lên từng câu, sửa, chọn từng tiếng, cho đến khi hoàn thành ca khúc, trên chiếc xe đạp cũ, chiếc xe đi học không phải loại xe leo núi. Vừa đi vừa hát, gọi đúng tên là du ca. “Đi dựng lấy huy hoàng! Giống da vàng này là vua đấu tranh!” Bài hát kết thúc như vậy.

Với tốc độ đạp xe của một thanh niên 16, 17 tuổi, chuyến đi chắc phải kéo dài 15 hay 20 tiếng đồng hồ. Đến khi hát những câu sau cùng này, chắc chàng nhạc sĩ đã thở hào hển, đẫm mồ hôi. Nhưng vẫn nhất định đi dựng lấy thiên đường. Vẫn tự nhận giống dân mình là vua đấu tranh!

161

Câu chuyện này là tiêu biểu cho nguồn cảm hứng và lối sáng tác của Nguyễn Đức Quang. Cảm hứng đến trong khi Quang đang sống. Sống thật, sống khỏe mạnh. Sống hết mình và sống cùng với núi sông đất nước, sống giữa bè bạn, quê hương, đồng bào. Sống và sáng tác, đối với Nguyễn Đức Quang, tuy hai mà một. Năm 1964 Nguyễn Đức Quang hát bài “Tôi trót sinh ra làm thân nhược tiểu…” Một người bạn tôi nghe rồi phê bình: Tại sao lại nói “trót sinh ra”? Phải hãnh diện được sinh ra làm người Việt Nam chứ? Nhưng Nguyễn Đức Quang không phải là một nhạc sĩ “lên gân.” Không tự kiểm duyệt. Không sáng tác theo một lập trường, quan điểm, hay chủ trương giai đoạn nào cả. Không ai được chọn nơi mình sinh ra. Người nghệ sĩ ý thức thân phận một người Việt Nam, một thanh niên lớn lên trong một quốc gia đã bị các cường quốc bắt tay nhau đem cắt đôi, để phân chia ảnh hưởng. Và ý thức số phận đồng bào mình đang giết nhau, quê hương bị chiến tranh đang tàn phá. Ý thức như vậy, nhưng không để thở than, trách móc. Vì cuối cùng, mỗi người sinh ra ở nước Việt Nam đều hãnh diện “chọn nơi này làm quê hương.” Một lựa chọn có ý thức. Rồi ngẩng đầu lên hát “Việt Nam Quê hương ngạo nghễ!” Bây giờ các thanh niên người Việt ở khắp nơi vẫn còn vỗ tay mà hát: “Ta như nước dâng, dâng chẳng có bao giờ tàn! Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang!”

Thế hệ thanh niên lớn lên ở các thành phố trong miền Nam Việt Nam trong thập niên 1960 đều chia sẻ tâm trạng “thân nhược tiểu” này. Một dân tộc vừa giành được độc lập đã bị cắt đôi, kẹp giữa hai khối tư bản và cộng sản. Và đang được hai khối đó đưa cho khí giới giết lẫn nhau, nhân danh những chủ nghĩa, những thiên đường! Trong khung cảnh đó có hai phản ứng khác nhau.

162

Nhiều người chỉ thở than, tuyệt vọng, hoặc tìm lãng quên. Nguyễn Đức Quang có một tâm hồn tích cực, vẫn tìm thấy con đường sống lạc quan, yêu đời. Một phần có thể vì từ thuở nhỏ Quang đã thuộc điều luật thứ 8: “Hướng đạo sinh gặp nỗi khó khăn vẫn vui tươi!” Nhưng không phải chỉ có thế. Toàn thể con người Nguyễn Đức Quang ngập đầy sức sống; không còn chỗ nào cho những tình cảm tiêu cực chen vào. Sống trong cảnh “Xương sống ta đã oằn xuống” Nguyễn Đức Quang không chịu thua, không buông xuôi, không ủ rũ tìm nguồn vui trong mơ mộng siêu hình. Vì bản chất Quang rất mạnh. Tâm hồn Quang tràn đầy nam tính, nam tính chiếm hết chỗ rồi, không còn chỗ chứa những trạng thái u sầu, ủy mị nữa. Ngay cả khi viết một điệu hát buồn, như khi nhớ đến những “đàn bé em biến đâu rồi, này bé sao không đùa chơi”, thì Nguyễn Đức Quang vẫn mở đầu bài ca bằng ánh sáng tin tưởng: “Trời sáng tươi đã lên rồi! Trời sáng tươi trong lòng tôi!” Bởi vì “Cặp mắt sâu sau đêm dài, tìm quanh đây một ngày vui!”.

Một điều may mắn là con người với bản chất tích cực như Quang lại gặp được một môi trường đúng với bản chất tích cực lạc quan để phát triển dòng nhạc của mình.

163

Đúng khi Quang bước vào tuổi 20 thì xã hội miền Nam đang thay đổi. Từ năm 1964, một phong trào thanh niên nổi lên ở các thành phố, họ rủ nhau đi làm công tác giúp đồng bào. Đặc biệt là những đồng bào ở nông thôn và những nạn nhân chiến tranh. Giúp ích, một khẩu hiệu của Hướng Đạo, không phải là một hiện tượng mới. Ngay trong những năm 1950, mỗi lần có đám cháy lớn ở Sài Gòn là người ta thấy từng đoàn hướng đạo mặc đồng phục đến tiếp tay các anh “lính cứu hỏa” và giúp đỡ các nạn nhân. Sau đó, các đoàn hướng đạo và học sinh đi xây dựng lại nhà cho các nạn nhân; vật liệu và dụng cụ do bộ Xã hội cung cấp. Những “công tác xã hội” tự nguyện đó là hình thức cộng tác giữa nhà nước và xã hội công dân, gồm các tổ chức tư hoàn toàn tự nguyện. Kể từ năm 1964, một phong trào thanh niên bột phát. Người ta thành lập các hội đoàn, đặc biệt là trong giới trẻ, và đặc biệt với mục đích giúp ích. Bắt đầu từ những tổ chức thanh niên trong tôn giáo; rồi tới các hội tự nguyện của học sinh, giáo chức và sinh viên. Rồi những thanh niên thuộc nhiều hội gặp gỡ nhau lập ra từng chương trình chung, như “Liên hội công tác nông thôn.” Khi bão năm Thìn đánh vào miền Trung vào cuối năm 1964, các hội cùng nhau tổ chức chương trình “Cứu Lụt,” đưa học sinh, sinh viên ra các tỉnh từ Bình Định ra Quảng Nam. Chính quyền lúc đó là cụ Phan Khắc Sửu, bộ Xã hội do Bác sĩ Phan Quang Đán cầm đầu, họ tiếp các sinh viên, nghe trình bầy dự án, rồi tận tâm giúp đỡ mà không đặt một điều kiện nào cả. Không cần bộ máy chính quyền thúc đẩy hay “hướng dẫn,” các thanh niên đi tìm cơ hội phục vụ đồng bào.

Những sinh hoạt thanh niên này cần những điệu ca tập thể mới. Nguyễn Đức Quang đã trở thành tiếng hát của phong trào này. “Người thanh niên Việt Nam quay về với xóm làng, tiếng reo vui rộn trong lòng!... Cùng đi biến ruộng hoang ra lúa thơm! … Ta đắp bồi cho mẹ cha”.

164

Rồi tới Chương trình hè 65, một tổ chức quy mô trên tất cả 40 tỉnh toàn quốc. Với hàng chục hội đoàn tham dự, huynh trưởng phần lớn là các giáo sư, họ huy động hàng chục ngàn học sinh đi giúp ích. Tất cả mọi người tham dự đều tự nguyện, không ai được thù lao, không ai bị ép buộc. Hoàn toàn đứng ngoài chính quyền, không thuộc một khuynh hướng chiến tranh hay tôn giáo nào (nhưng vẫn bị chính quyền ngầm theo dõi).

Chưa bao giờ có một phong trào thanh niên tự nguyện, vô vị lợi, phi chính phủ hoạt động với quy mô lớn như vậy; và khi kết thúc chương trình thì giải tán. Sang năm 1966, bộ giáo dục đã tiếp tục nuôi dưỡng phong trào này với Chương trình Phát Triển Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường (viết tắt CPS). Ngoài việc huấn luyện tính khí và phương pháp tổ chức công việc, một mục tiêu chính của các sinh hoạt thanh niên này, là huấn luyện lối sống dân chủ tự do cho thanh thiếu niên. Đó chính là một phương pháp xây dựng nền tảng cho một xã hội công dân, mà bất cứ quốc gia tự do dân chủ nào cũng cần phát triển.

Chính khi dấn thân trong môi trường những công tác thanh niên tự nguyện đó, Nguyễn Đức Quang đã có cảm hứng viết những bài ca tập thể mà chúng ta đang hát hôm nay. Khi Quang hát “những nhát cuốc …” thì thật sự Quang đã đi cuốc đất hay sống giữa đám bạn bè đang cuốc đất. Trong khi đổ mồ hôi tại trại công tác tên là “Công trường Cam Lộ” kéo dài mấy tháng ở Quảng Trị Nguyễn Đức Quang đã hát “Đường về công trường là đường vào quê hương”. Trong khung cảnh tự do phục vụ đó, người thanh niên yêu đời, tự yêu mình, và yêu đồng bào. Họ ngẩng đầu lên hát Việt Nam quê hương ngạo nghễ!

Khi các bạn thanh niên sau này hát lại những ca khúc của Nguyễn Đức Quang, xin các bạn hãy nhớ những thế hệ đàn anh trong thời gian 1965 đã hát những bài hát đó trong khi đi xây dựng quê hương bằng bàn tay của mình.

165

Hoàn toàn tự nguyện. Hoàn toàn tự do. Không vì lợi, không vì danh, không nhắm đến quyền hành chính trị. Những bài ca của Nguyễn Đức Quang là tiếng nói của thế hệ thanh niên đó. Ước chi, đó cũng là tiếng nói của các thế hệ thanh niên Việt Nam bây giờ và mai sau. Chúng ta sẽ cùng nhau hát mãi: Việt Nam quê hương ngạo nghễ!

166

CAO HOÀNG

Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Cây Đàn Trong Tù

Tôi phải bắt đầu từ con ngõ nhỏ ấy và vào thời điểm mùa xuân 1975 khi tôi đứng đầu ngõ xem “anh em ta về”*1. Đó là một cái ngõ cụt bên hông chùa Dược Sư đường Lê Quang Định - Gò Vấp.

Ngày xưa còn bé học sử nước nhà thấy vua Quang Trung tiến binh thần tốc. Ngài lệnh: cứ hai anh khiêng một anh trên võng thay phiên nhau đi ngày đêm không nghỉ. Quân Tàu không lượng được sức tiến quân vũ bão đó, nên thảm bại:

“Sĩ Nghị đang đêm trốn khỏi thành

Sông Hồng cuốn xác vạn quân Thanh”

Hồi 17, 18 tuổi, tôi và hai thằng bạn khỏe mạnh nhất đã làm lại cái lối di chuyển thần tốc đó vào một buổi chiều trong trường đua Phú Thọ.

167

Chúng tôi kiên nhẫn đi được đúng một tiếng đồng hồ thì cả ba mệt tưởng đứt hơi, không kham nổi nữa. Một tiếng đồng hồ thì cao lắm đi được 3,4 cây số. Các chiến binh hồi ấy còn phải mang theo vũ khí, lương thực oằn vai nữa chứ, mà còn phải đi trên đường núi, đường rừng nữa chứ, làm gì có đường tráng nhựa phẳng phiu. Hai thằng bạn tôi nằm lăn ra đất quả quyết rằng mấy thằng cha sử gia mắc dịch của mình bịa đặt ra cái lối tiến binh thần tốc ấy. Hai đứa chúng nó bảo rằng chúng đã được xem những tấm ảnh của gần trăm năm trước, thấy ông bà cố tổ của mình nhỏ bé ốm o và nghèo đói lắm, không thể cao lớn khỏe mạnh như tụi nó được. Vả lại, cũng theo chúng, các thành tích thể lực của nhân loại càng ngày càng cao hơn trước, vậy có thể nào người xưa lại khỏe ghê gớm vậy ( cứ ba anh khiêng nhau đi không nghỉ từ Nam ra Bắc. Giời ạ !) Hai chúng nó cho rằng cái gì cũng phải trông tận mắt sờ tận tay mới tin được cơ chứ! Nhưng cũng có cái trông tận mắt sờ tận tay mà vẫn cứ sai như thường như chuyện Nồi Cơm Khổng Tử hay chuyện Thầy Bói Sờ Voi.

Vậy mà buổi trưa 30 tháng 4 tôi thấy tận mắt một lối tiến binh còn thần tốc hơn của vua Quang Trung nhiều lần. “Anh em ta về” cứ hai anh đèo nhau trên một chiếc xe Honda hai bánh (loại của phụ nữ). Anh ngồi sau thủ 2 khẩu AK cho anh trước rảnh tay mà lái. Rất ít anh chạy xe Honda đàn ông. Xe Honda ở đâu mà lắm vậy, cứ nối đuôi nhau tiến vào Sàigòn như cơn lũ tiến vào miền Trung. Tiến quân kiểu này thì binh đoàn hùng mạnh nào cũng phải tan vỡ thôi!

Sau đó ít lâu cha tôi từ Đà lạt xuống trấn an: dù có dính tí máu nhân dân; 1,2 mai trên vai cũng chỉ cải tạo 3,4

168

năm; miễn là đừng có dính vào chính trị. Còn như ổng, hồi chánh năm 52, nếu họ tóm được thì đi luôn, khỏi về. Thế là tôi an tâm lên đường đi cải tạo cũng như đã vui vẻ gia nhập quân đội VNCH 6,7 năm trước. Thôi giã từ tổ ấm tôi ra đi. Giã từ vợ hiền con thơ ngây, giã từ bảng đen phấn trắng, giã từ con ngõ nhỏ, giã từ những người bạn nhỏ ngày ngày qua dạo đàn hay xem tôi chế tạo những cây đàn guitar cổ điển. Từ nay chẳng còn được làm ồn ào lối xóm bằng tiếng đàn hay tiếng cưa tiếng bào. Từ nay chẳng còn được nghe tiếng ho húng hắng của Thạch giáo sư*2 kiên trì ngồi viết Nhất Nguyên Thế Giới bên cạnh một bác thợ đàn rất ồn.

Người xưa nói ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Câu nói đó hồi còn nhỏ đứa bé VN nào cũng học rồi. Ý nghĩa của nó có thể hiểu xa hơn. Thanh niên hai miền trở thành Việt Cộng hay thành Ngụy cũng là vì hoàn cảnh đất nước chia đôi, thật ra không có nhiều người chiến đấu vì lý tưởng. Kẻ làm chính trị biết rõ điều này nên ra sức trói buộc các tài nguyên nhân lực quốc gia vào trong các đoàn thể. Thanh niên khỏe mạnh thì vào quân đội; già yếu hơn thì vào các đoàn thể phụ lão; phụ nữ, thiếu nhi cũng có chỗ của họ. Mục đích là để kiểm soát lẫn nhau, thúc đẩy nhau làm việc cho ý đồ của lãnh đạo. Chính quyền miền Bắc và đệ nhất cộng hòa của miền Nam hiểu rõ điều này hơn cả. Thế nhưng khi miền Bắc chiến thắng, họ không chịu nghĩ rằng thanh niên hai miền đi chiến đấu chỉ vì hoàn cảnh địa lý. Họ tiếp tục “ngoáy mũi gươm sâu hơn vào kẻ chiến bại”. Đầu tiên là cả nước đi cải tạo, sau đó dân thành phố đi kinh tế mới và màn quật mồ tất cả miền Nam, dù lúc đó chưa cần đất để xây nhà cao cấp hay làm sân golf như bây giờ.

169

Chế độ hà khắc của thực dân tạo ra Cộng Sản, nhưng việc thực hiện những ý tưởng ti tiện trên đã làm cho miền Nam trở nên có chính nghĩa hơn, làm cho màu cờ vàng càng thắm hơn. Ngày nay lá cờ đó không tung bay trong nước nhưng xuất hiện trên khắp thế giới, đẹp đẽ hơn, vững vàng hơn.

Đó là chuyện của mấy chục năm sau.

Buổi sáng hôm đó sau khi được đổ xuống từ những xe molotova bít bùng, việc đầu tiên của đám binh sĩ miền Nam chúng tôi là tìm những vũng nước mưa để đánh răng súc miệng, sau đó nhặt nhạnh tất cả mọi thứ trông thấy như gỗ thùng, ván ép, bìa carton hay nylon để làm chỗ nằm. Khoảng 5, 6 trăm người được quây lại trong một diện tích mỗi bề chừng 1,2 trăm thước, chung quanh là rào kẽm gai của căn cứ Trảng Lớn, Tây Ninh. Rồi thì ai cũng phải quen dần với trật tự mới. Bí số của đơn vị là L1T3, thêm chữ “hòm thư” ở đằng trước, nhưng không phải để gửi thư ngay về nhà.

Tôi được ở trong một cái nhà nhỏ và thấp, tường mái được chắp vá bằng những miếng ván, mảnh tôn kỳ dị. Có lẽ là một nhà bếp của một đơn vị trinh sát mà tôi đọc được những dòng chữ viết bằng than trên tường. Những ngày đầu chưa phải làm gì cả, mọi thứ rất lộn xộn nên tha hồ đi loanh quanh tìm người quen. Có khi lách rào kẽm gai qua hẳn những đơn vị khác để thấy mọi nơi đều khá giống nhau mang chung một vẻ lầm than đói rách và chán chường. Buổi chiều tôi hay leo lên mái căn nhà dị hình đó để nhìn qua phía núi Bà, núi Cậu. Xa lắm trong ánh hoàng hôn có phải vườn mía nhà ai đang trổ bông trắng xác. Hình như có khói lam chiều tỏa ra trên chái

170

bếp; và hình như có cả một cái xe bò chở đầy rơm khô đang khắc khoải lắc lư đi trên đường quê?...Cứ vào một giờ nhất định, một đàn chim trắng nhịp nhàng nối nhau bay qua sườn núi. Tôi nhìn mãi cảnh đó cho tới khi trăng lên, mắt tôi nhòa đi và vạn vật chìm dần vào bóng tối. Cái cảnh đó bây giờ tôi gọi là bên kia cuộc đời.

Ở tù mới có một tuần lễ tôi đã ngứa ngáy tay chân - thiếu một cái gì ghê gớm lắm như thiếu thuốc phiện hay thuốc lào. Vâng , đó là thiếu một cây đàn. Cả đơn vị đang quản chế chúng tôi chắc gì đã có một cây đàn. Ừ, mà sao tôi không làm ra một cái đàn nhỉ? Năm 1972 hoàn toàn không có một kiến thức gì về nghề mộc cũng như không hề được ai chỉ dẫn, tôi đã làm được cây đàn đầu tiên. Nay sao không làm cây đàn đầu tiên của trại tù? Thế là ngục cầm bắt đầu thành hình trong tưởng tượng.

Đọc sách thấy người ta nói cá lớn nuốt cá bé. Mới hỏi cá bé nuốt gì để sống. Có người trả lời cá bé nuốt cá bé hơn và cuối cùng thì con cá bé nhất nuốt những vi sinh vật. Vi sinh vật thì nhìn thấy thế nào được? thế là hết ý! Thời đại bây giờ là thời đại của máy móc làm ra các sản phẩm cho ta tiêu dùng. Nhưng cái gì làm ra những cái máy ấy? Xin thưa chắc cũng là những cái máy chế tạo máy. Cuối cùng của cái máy chế tạo ra máy là cái gì? và đó cũng là câu hỏi tôi đặt ra cho việc làm một cây đàn mà hiện giờ không có một dụng cụ chế tạo nào cả, kể cả con dao.

Thực hiện cây đàn ở đây thật là nan giải. Gỗ thông thùng đạn có nhiều, ván ép cũng có, sắt thép dây đồng cũng tìm được, nhưng dụng cụ như cưa bào đục hoàn toàn không có; và phải tìm ra cái khí cụ đầu tiên để chế

171

tạo ra cưa bào đục...Cái đó chính là những vi sinh vật của biển, nuôi sống loài thủy tộc, hay là những máy đầu tiên chế tạo ra máy móc.

Đi lang thang lên khu 1, còn gọi là nhà lồng. Đó là một kiến trúc cao lớn, có lẽ là bộ chỉ huy hay chỗ giải trí của căn cứ. Tôi thấy có cả bar rượu, bàn bi-a...Những thứ nặng lắm nên thoát khỏi bàn tay dân chúng vào hôi của, mà thật ra một cái bóng đèn điện cũng chẳng còn. Một anh tìm được mấy cây cơ bi-a khúc đuôi bằng gỗ quí. Từ gỗ này với một lưỡi dao nhỏ anh làm ra một bộ ống điếu 12 cái tuyệt đẹp; trông cứ như những ống điếu bày trong cửa hàng sang trọng. Một anh khác tìm được cái áo giáp. Bên trong áo giáp là một tập hợp của những miếng vải nylon dầy và chắc. Anh ta làm một cái nón kết với cây kim tự chế từ một cọng thép được mài nhọn một đầu, đầu kia đập dẹp và dùi một lỗ nhỏ. Tôi hỏi dùi lỗ kim bằng cái gì thì anh ta cho xem một cục thép cứng ,hình dáng giống hệt quả bom nhưng chỉ nhỏ bằng đầu đũa. Hình như đó là một viên bi trong quả bom bi. Những ống điếu và cái nón kết này đã thúc đẩy tôi phải làm cho được cây đàn guitar. Hôm sau tôi tìm được một nửa con dao bằng thép rất cứng nằm trong máng nước của căn nhà tôi đang ở. Đó là một nửa con dao đi rừng của quân đội. Tôi nhớ tới Hải Mã Tấu, có lần nó khoe đánh cận chiến bằng loại dao này. Mài thật bén trên nền ciment, tôi biết nó là khí cụ đầu tiên để tạo ra cưa, bào, đục..v.v..Hai miếng sắt vắt chéo nhau hình chữ x, mặt lưng của ba lô, một cái biến thành lưỡi bào, một cái biến thành lưỡi cạo. Nẹp thùng là lưỡi cưa; dây kẽm chặt xéo, một đầu đập dẹp là những cái đinh quí hóa thay cho keo dán gỗ.

172

Thế là đàn thành hình ngay với sự góp sức của Lại Đức Thành và vài anh ham chơi khác, hình dáng thô nhám như đàn của mấy ông thượng cổ. Con ngựa được vặn hai con ốc vào mặt đàn. Phím đàn làm bằng những miếng nhôm cứng lấy từ băng đạn M16. Trục lên dây làm bằng gỗ, giống như của vĩ cầm nhưng đâm ngược từ sau ra trước ( những cây đàn flamenco của Tây Ban Nha cũng làm theo kiểu này). Phải nhớ rằng những trục này tuy tròn nhưng có một đầu lớn một đầu nhỏ hơn. Có như thế dây mới không bị tụt. Khi phân phím đàn tôi mới hoảng hồn! Từ trước tới giờ khi làm phím đàn tôi chỉ dựa vào một cây đàn mẫu của ngoại quốc; nay không có mẫu thật là kẹt. Nhưng tôi vẫn còn nhớ được vài điểm quan trọng.

- Dây đàn dài nhất gần ba gang tay tôi (26”)

- Các phím đàn không cái nào bằng nhau. Trên dài dưới ngắn theo một luỹ thừa thoái.

- Phím thứ 12 ngay giữa dây đàn.

- Phím 0-7 = 7-19 = 19 đến con ngựa.

nghĩa là dây đàn được chia làm 3 phần bằng nhau ở các phím 7, 19, và con ngựa.

Phím 0 đến 5 = 5 đến 12 có nghĩa dây đàn chia làm 4 ở các vị trí sau: Phím 5, phím 12 và một phím ở dưới tâm lỗ thùng đàn ( phím này không xuất hiện trên đàn guitar classic; guitar classic chỉ có tới phím 19)

Biết được những vị trí của phím 5, 7, 12, 19 khá chính xác rồi, tôi dùng giai điệu của những bản nhạc như Rommance để mò ra những vị trí các phím khác*3.

173

Tới phần làm dây đàn mới gay go. Xưa nay chỉ quen dùng dây nylon; bây giờ phải quay trở lại thời kỳ dây sắt. Cũng may đơn vị này có không biết bao nhiêu là dây điện thoại, dây bằng kim loại bóng láng và các máy biến điện nhỏ. Tôi dùng dây bằng thép để làm dây 1 và 2. Nhưng các dây phát âm trầm 3, 4, 5, 6 phải được quấn chung quanh sợi dây bằng dây đồng. Những dây càng trầm cần phải càng nặng hơn. Một máy quay tay rất đơn giản gồm 2 cọng dây thép uốn thành hình tay quay máy xe hơi, đặt trên một miếng gỗ dài hơn dây đàn một chút. Thành quay một đầu, tôi quay một đầu từng vòng đều nhau. Dây đồng nhỏ từ từ quấn vào sợi dây thép căng thẳng hai đầu tay quay. Lâu lắm chúng tôi mới quay đủ 4 sợi dây đàn.

Khi những âm thanh lảnh lót của bài tình ca Romance vang lên thì các bạn mới giật mình, bao vây chung quanh mà hết lòng ca ngợi. Tôi nhớ hôm đó là ngày thứ 14 của đời tù binh. Tôi không hiểu tại sao các bạn tù của tôi lại vui mừng đến thế, cả đến ông Nguyễn Trường Phát chánh sự vụ sở Sổ Số Kiến Thiết nằm bên cạnh (Lại đức Thành đặt tên là Phát Cam Tích hàng Bạc, vì có cái bụng rất to) mặt mũi khó đăm đăm cũng nở một nụ cười. Có thể họ đã linh cảm đang rơi vào một cuộc sống lưu đầy thê thảm, dài lâu, nên cây đàn tự chế là một tặng vật, một an ủi lớn lao cho những ngày kế tiếp.

Sáng hôm sau người khách đầu tiên của khu nhà lồng ghé thăm. Đó là một ông bảnh trai, có cái áo chemise rất đẹp. Ông đưa bàn tay ấm áp bắt tay tôi và tự giới thiệu “Tôi là Đỗ Tiến Đức làm điện ảnh”. Thế ra đây là người vừa đoạt giải văn chương toàn quốc với truyện Má Hồng. Anh ngắm nghía cây đàn kỹ lắm, không biết có

174

thất vọng không vì thật thà mà nói nó như cây đàn của người tiền sử. Tôi định hỏi anh về cô Huyền, nhân vật nữ khá bí ẩn trong truyện Má Hồng; không biết là Huyền của trường Bồ Đề hay trường Nguyễn Huệ? nhưng lại thôi, vì trộm nghĩ nhân vật tiểu thuyết chỉ là hư cấu nhiều phần. Định bàn với anh về nhân vật của tiểu thuyết thì ít lâu sau anh đã đi biên chế, chẳng bao giờ gặp lại.

Buổi trưa đang nằm khoèo, gảy đàn lơ mơ thì cửa mở ra, một ông tù phải khom lưng cúi đầu bước qua ngạch cửa*4của một cái cửa rất thấp. Giời ạ! đó là ông đồng viện và đồng nghiệp đánh đàn Nguyễn Đức Quang. Câu đầu tiên ông thốt ra:

- Ôi! còn gặp nhau là mừng rồi!

Trong bài Chiều qua Tuy Hòa (1968) ông có viết “ Cầu xưa xơ xác qua cơn bão tố (còn) người dân tan tác bên đường ngẩn ngơ”, có lẽ năm 1975, ông ấy tưởng tôi không chạy kịp qua cầu Đà Rằng dài tới 2 cây số hoặc là đã phơi xác trên quốc lộ số 1 cùng với bao nhiêu ông già bà cả, thiếu nữ, trẻ thơ. Câu thứ 2 ông ấy nói:

- Ơ lạ nhỉ? sao lại có cái đàn quái quỷ này?

Sau khi nghe giải thích ông vẫn chưa tin còn hỏi xem đã nhờ tay bộ đội nào mua dùm dây đàn; đến khi cho ông ấy xem cái “máy quay ma-ni-ven” để quay dây đàn thì ông ấy mới chịu tin.

Tối hôm ấy Lại Đức Thành thắp sáng căn nhà nhỏ bé dị hình ấy bằng nến. Mà không phải bằng nến đâu; nó vào được nhà kho chứa súng và lấy được rất nhiều giấy hay

175

vải tẩm sáp bọc súng. Những cây nến bằng giấy sáp này cho một ngọn lửa đục ngầu và một mùi khen khét! Không sao đâu, lão Đam già đã nấu một nồi trà vĩ đại toàn dây nhãn lồng với cam thảo nam (chính là cái cây để làm chổi chà). Lão Đam bảo rằng đó là danh trà Thái Đức (nói lái). Một bạn khác dành dụm được ít cơm nguội, nghiền ra với đường tán rồi gói lá chuối vuông vức từng cái như bánh xu xê. Lúc đó đã qua nửa tháng, đồ ăn mang theo đã cạn, cà phê cũng chẳng còn; vài anh ghiền còn ít thuốc lá. Nhưng hút kiểu này hao lắm nên chúng tôi bắt đầu chế điếu cầy. Chỉ cần tí ti thuốc lá nếu hút tận tình, hút cho tụt nõ thì cũng có thể say bật ngửa ra đấy.

“Danh ca” Nguyễn Đức Quang bắt đầu hát trước. trong ánh sáng lung linh, trong khói thuốc mịt mù chúng tôi nghe lại Bên kia sông, Chiều qua Tuy Hòa, Vì tôi là linh mục, Như mây trên cao mà hầu hết là những tình ca được Quang phổ nhạc. Trước kia nhạc du ca của Nguyễn Đức Quang được hát trong rừng sâu, nơi ruộng đồng, sân trường đại học với khí thế bừng bừng của người hát lẫn người nghe. Hôm nay Quang cũng hát những bài cũ với cây đàn tự chế. Những người nghe vẫn yêu mến anh nhưng thấp thoáng chút ngậm ngùi, vì chúng tôi cũng như Quang đều hiểu rằng tình trạng ca hát thoải mái này sẽ không có nữa.

Vài tay đàn nhạc trẻ tham dự, vài ca sĩ nghiệp dư làm cho không khí vui tươi hơn, còn tôi hát Santa Lucia với lời Việt :

Một ngày giữa phố sương bay

Lạnh đầy chiếc lá xa cây

176

Nàng đã xa tôi nơi đây

Ven hồ cuối thu

Một ngày bóng đã im hơi

Trở về góp lấy tưoi vui

Tình đã se duyên chung đôi

Có bao giờ cách xa

Vớt nước lên bên ven hồ vắng

Thấy bóng em xa xôi chìm đắm

Tóc bay bay trên môi nụ cười héo hắt

Đâu bóng năm xưa trong mơ

Anh Lâm Chấn Hùng thích quá hát theo : wuớc nước lên bên wueng hồ wuắng , làm tôi nhớ tới những ngày nắng đổ lửa ở trung tâm huấn luyện Quang Trung . Các bà mẹ Tầu tay xách nách mang, vừa khóc vừa chạy theo những đứa con trai , đang ngơ ngác cuốn theo đoàn thanh nìên nhập ngũ . Cuộc chiến hung tàn ấy ngốn đi bao nhiêu thanh niên Việt mà còn tai bay vạ gió tới bao nhiêu di dân khác nữa. Người cuối cùng đến xem cây đàn là chính trị viên trung đoàn. Lúc này tôi đã làm cây đàn khác đẹp hơn và chính xác hơn nhiều. Đàn có một bộ trục lên dây bằng sắt còn khá tốt mà tôi đã tìm được trong lúc đào bới một giao thông hào. Có trời mới hiểu tôi được đãi ngộ một cách lạ lùng!...Chính trị viên trung đoàn cầm cái đàn một tay ngắm nghía:

177

- Các anh thế mà tài nhỉ! Cứ phát huy nhá!

Thế rồi phong trào làm đàn bùng lên mạnh mẽ không thua gì phong trào du ca! Anh khéo tay cũng làm mà anh tay ngang như cua cũng đòi làm. Có những cây đàn rất đẹp ra đời nhưng cũng có những cái đàn kỳ lạ: chỉ là 2 miếng gỗ hình chữ nhật như cái cặp táp học trò; có cái hình tam giác cân gắn thêm cần giống hệt đàn Balalaika của nước đàn anh Liên Xô vĩ đại. Balalaika là đàn có 3 dây sắt, lỗ phóng thanh chỉ bằng đồng xu, đánh lên nghe tức anh ách. Tôi tin rằng đàn này của mấy anh tù Nga bị lưu đày ở Tây Bá Lợi Á chế tạo ra; nó có cái hình dạng dị hợm như vậy chẳng qua là thiếu gỗ, y hệt như anh trường hợp anh Tù ở L1T3 này.

Bây giờ không phải chỉ có guitar. Mandoline đã xuất hiện khá nhiều, có cả đại hồ cầm làm bằng can xăng mà tiếng rất hay. Thỉnh thoảng một đêm đẹp trời chúng tôi hòa tấu. Hàng chục cây đàn rên rỉ những bài Célèbre Valse hay Chiều Mát-cơ-va. Bộ đội đứng gác gần đó nghe cũng “sướng tè” luôn. Mặc dù được học “lao động là vinh quang” nhưng chúng tôi chưa phải lao động gì cả. Sáu nguời lo một luống rau muống. Tôi có thêm nhiều bạn mới: nhạc trưởng quân đội Nguyễn Phùng, không quân Nguyễn Thành và nhà văn Nguyễn Quang Hiện. Có ai thấy ông già Phùng cầm cây đũa điều khiển dàn hợp ca mới thấy quả thật là cần có một nhạc trưởng. Chất si mê của ông truyền từ đũa qua ánh mắt xuống tất cả mọi người cái hồn bản nhạc. Dạo ấy tôi đã bàn với Nguyễn Thành vấn đề vượt biển bằng thuyền... đóng thuyền kiểu nào, đi biển ra sao với hải bàn... Chính Thành về sau này đã thúc đẩy tôi làm được con thuyền vượt biển thành công. Đơn vị này không phải chỉ có

178

Nguyễn Quang Hiện – trông rất an nhàn như một ông thông ông phán thời Tây thuộc địa, thường tới nghe đàn hay nói chuyện âm nhạc với tôi- mà còn có nhà văn tên tuổi Thế Uyên. Vẫn biết Thế Uyên tên thật là Nguyễn Kim Dũng nhưng theo Nguyễn Đức Quang còn có biệt hiệu khác là Dũng Ba Bi. Vẫn theo N. Đ.Q, Thế Uyên thích hút thuốc lào và tuyên bố phải hút ba bi liền mới đả. Nhưng một sáng sớm, Thế Uyên ngồi trước bếp lò nóng hực những lửa than để hút thuốc, mới hút có một bi đã ngất ngư muốn nhào vô bếp lò, Quang phải nhanh tay kéo lại.

Rồi Quang cũng tấp tểnh làm đàn, luôn luôn có anh bạn trẻ tuổi tên Bạch cùng “kéo cưa lừa xẻ”*5. Tôi đi ngang qua đội 2 thấy Quang và Bạch đang hì hục kéo cưa, mong xẻ làm hai một miếng ván thông, miệng thì lẩm nhẩm đếm. Tôi hỏi : bao nhiêu rồi? Quang đáp : mới có 8000 nhát, (thế mới hiểu là cái cưa tốt lắm). Buổi trưa Quang lại đến tay lăm lăm một cái kìm mới toanh trông rất hiện đại.

- Làm ơn cho xin mấy cái đinh dép.

Theo ngón tay trỏ của Quang tôi mới thấy ngay chỗ tôi nằm, không biết ai đã “huởn” mà đóng lên tường gỗ cả trăm cái đinh nhỏ. Thế ra đàn của mình phải đóng bằng đinh dây thép, còn đàn của Quang lại được đóng bằng những cái đinh thật có mũ mão đàng hoàng. Thôi lỡ rồi, biết làm sao...Cầm nắm đinh trên tay thơ thới ra về có lẽ Quang cho tôi là người hào sảng nhất trên đời!

Bây giờ chúng tôi làm đàn đã tiến bộ hơn nhiều. Máy quay dây đàn được sáng chế. Chỉ cần một người làm cứ mỗi phút có thể sản xuất ra một sợi dây! một bạn khác,

179

kỹ sư An đã tìm ra công thức phím đàn vô cùng chính xác. Nhưng bây giờ đã vào học tập, chuyện làm đàn phải gác lại. Mỗi anh tự đóng một cái ghế con, xách theo lên hội trường. Cán bộ Cộng Sản làm việc rất tùy tiện, nhưng bài bản “lên lớp”, nói năng thì giống hệt nhau. Những bài như Ba dòng thác Cách Mạng, Đế quốc Mỹ là con đỉa hai vòi... mà tôi đã nghe qua khi đi ngang các phường khóm được nói lại y hệt ở đây. Họ là những con vẹt, những con vẹt rất yếu đuối và rất sợ hãi con vẹt chính trị viên. Sau này ở một trại tù khác tôi đã kiểm nhận điều đó. Một quản giáo tên Trọng có nhờ tôi khắc lên cái điếu thuốc lào của anh ta 4 chữ: Phía Nam Tổ Quốc. Ngay hôm sau anh ta mang lại bảo tôi xóa đi. Tôi nói mấy chữ này hay lắm mà. nhưng anh ta bảo cứ xóa đi, tôi sợ thằng chính trị viên nó nạo,lôi thôi lắm!. À ra thế, địch thủ của chúng tôi đánh đấm cũng “ngoan cường” lắm, té ra chỉ vì sợ. Có thằng bạn sống sót ở Darkto trở về, nó bảo tôi còn vì chúng nó đói nữa. Lúc nào “oánh” thua, chúng nó đuổi rát quá cứ tháo balô quăng mẹ nó đi là thoát chết. Mà balô có đếch gì đâu, gạo sấy, mấy hộp thịt ba lát, bao thuốc quân tiếp vụ, tao chỉ tiếc cái bật lửa Zippo của con bồ mới tặng. Ôi sao tội nghiệp quá. Dần dần tôi bớt ghét những thằng bộ đội, chỉ thấy thương; rồi “giật mình, mình lại thương mình xót xa”.

Nguyễn Đức Quang được bầu làm quản ca, Ở đây những chức vụ như đội trưởng, bếp trưởng nếu không là thằng bon chen xin xỏ thì cũng là vì nổi tiếng quá ở ngoài đời. Lúc này Quang săn nhặt ở đâu được một cái áo nâu ngắn cũn cỡn. Anh ta mặc vào, xương ngực gồ ra, hai bàn tay dài ngoằng thò rất xa ra khỏi cổ tay áo. Hai bàn tay ấy

180

chỉ quen đệm đàn, nào có học múa đũa bao giờ, bây giờ trông vụng về khổ sở. Đầu tóc lại hớt rất cao, gò má xương xẩu, chỉ có hai con mắt là sáng quắc; nên trông giống hệt một “nhân dân nhạc trưởng”.

Một tháng trời lang thang trên chiếc xe đạp cà tàng mới tậu được trước khi lên đường đi cải tạo, tôi có dịp đọc rất nhiều tấm bảng và biểu ngữ. Cái nào cũng sơn đỏ, viết chữ vàng đậm. đặc biệt chữ nhân dân được lặp lại nhiều lần: quân đội nhân dân, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, chiến tranh nhân dân, hiệu sách nhân dân, nghĩa trang nhân dân..v..v..Nhưng ngân hàng quốc gia Việt Nam thì được đổi thành kho bạc nhà nước! Vâng, tiền nó liền với ruột, không nên để cho nhân dân nó giữ!

Nhạc trưởng nhân dân Nguyễn Đức Quang tuy không múa đũa tài tình như nhạc trưởng Nguyễn Phùng, nhưng vẫn có cái phong độ của ngày xưa, rõ ràng minh bạch của một trưởng hướng đạo. Có điều phải cám ơn quản ca NĐQ vì chúng tôi chỉ phải hát những bài vô thưởng vô phạt: Bắc Sơn, Bạch Đằng Giang, Kết Đoàn..v..v..Quang tránh né không cho hát những bài vừa hát vừa chửi cha mình.

Riêng bài Kết Đoàn nghe khá bực bội:

1- Kết đoàn chúng ta là sức mạnh

2- Kết đoàn chúng ta là thép gang

3- Đoàn kết ta bền vững

4- Là thép hay là gang

181

5- Mà thép với gang còn kém bền vững

Chúng ta thề phá tan quân thù

Đập tan đế quốc sài lang

với phe phản động ta đập tan hoang...

Câu 2,3,4 bảo rằng đoàn kết thì có sức mạnh và bền vững như thép với gang. Nhưng câu 5 phủ nhận sự bền vững của thép với gang ngay lập tức. Tôi nói với thằng Trí, một đứa ở cùng tổ: Quân chúng nó thật là tráo trở; vừa mới nói thép gang là bền nhất rồi, thế mà câu sau nó đã chối ngay lập tức. Đúng là đồ vô liêm sỉ. Thằng Trí lấy hai tay bịt tai lại, ngoác mồm ra cười, hai chân di chuyển nhanh ra chỗ khác: Đó là mày nói, tao không nghe thấy, tao không có nghe!. Tôi vốn được bạn bè thương nên ở L1T3 tôi chưa bị mập đòn.

Những ngày tù an nhàn bên bạn bè thân thương rồi cũng qua mau. đã đến lúc phải chia tay thôi. Tôi không còn được làm đàn hay đánh đàn cho Quang và các bạn tù nghe nữa; tất cả trong tình trạng chuẩn bị biên chế đi chỗ khác.

Thế rồi Quang có tên trong danh sách đi trước cùng với những thành phần “ác ôn”. Buổi chiều trong lúc đứng ngoài cửa, tôi thấy Quang bịn rịn chia tay các anh em cùng tổ ở trong phòng. Lúc sau nhân mọi người sơ ý, tôi thấy Quang rút trong sắc tay một hộp sữa đặc len lén bỏ lại. Năm đó ở ngoài đời, sống đồng bào vô cùng cơ cực, thì phải hiểu rằng những thằng tù chúng tôi còn khó khăn gấp bội. Thế mà bạn tôi, không hiểu xoay ở đâu được một hộp sữa, lại đem bỏ lại cho anh em.

182

Năm 2001 tôi có kể chuyện cảm động này tại nhà tôi cho nhiều văn nghệ sĩ nghe: Ngô Mạnh Thu, Vũ Ánh, Huy Quang Vũ Đức Vinh, Nhất Tuấn, Hà Huyền Chi, Nguyễn Thị Nhuận, Trần Mộng Tú, Nguyễn Thiện Cơ, hai Nguyễn Đức Quang-Du Ca và Già Cơ*6-, và nhiều người nữa không nhớ hết. Một ông trong bọn dưới hàng ghế hỏi vọng lên: hộp sữa đó là hộp sữa gì? Tôi trả lời: sữa con chim. Thế là cứ lăn ra mà cười. Ô lạ nhỉ, thế mà cười à? Annam ta gì cũng cười!

Hôm nay ngồi đây, trên cái sân khấu nhỏ của hội quán Lá Phong- nơi Quang thường lui tới hát cười- để viết đôi dòng tưởng nhớ; tôi còn nghe tiếng người du ca lanh lảnh bên kia rào kẽm gai gọi tên tôi nói lời từ biệt. Giọng nói rất lớn, rất vang, nhưng cũng chìm dần vào những tiếng ồn ào khác, tiếng bước chân chuyển động và tiếng rền của những chiếc molotova xấu xí ở đằng xa đang nổ máy chờ đợi. Ôi những chiếc molotova, những hung thần đem bao tuổi trẻ miền Bắc vào Nam nướng trên ngọn lửa thiêu; tối hôm đó lại chở các bạn tôi về một nơi xa xôi vô định, lành ít, dữ nhiều.

Hàng triệu thanh niên hai miền lăn vào chém giết nhau, hàng triệu gia đình, hàng triệu mối tình tan nát. Nếu đau khổ mà những gia đình VN phải gánh chịu có thể cân được, sợ rằng có thể nghiêng được quả đất này. Ba chữ Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc như lời một lãnh tụ lúc nào cũng muốn làm cha thiên hạ, thường thều thào nói, càng ngày càng mơ hồ không rõ nét. Bao nhiêu chủ nghĩa vĩ đại, bao nhiêu hy sinh vô bờ bến cuối cùng hiện nguyên hình một bọn tranh ăn, bám chặt lấy quyền lực.

183

Nguyễn Đức Quang người tha thiết yêu quê hương dân tộc này. Anh đã xin chọn cái miền đất khó khăn chưa ấm êm, chưa thanh bình ấy để làm quê hương. Nhưng bọn cầm quyền không cho anh chọn. Họ bắt bỏ tù anh và cấm tất cả những bài hát của anh; anh còn có quê hương nào để mà về? Ở tuổi hai mươi, sống trong một đất nước tan hoang vì chiến tranh anh đã vội đưa ra lời cảnh báo nghiêm trọng: “Giờ còn có nhau, giúp nhau cho thật nhiều. Ngày nào mất nhau sớt chia không được đâu”. Cái thông điệp ấy không phải anh chỉ gởi cho những người đồng trang lứa với anh, trong thời đại của anh. Ngày nay hướng về tổ quốc, Việt Nam không còn phải là “một xã hội đang tan rã, một đất nước đang bị chia cắt từ đất đai đến tấm lòng” như Nguyễn Xuân Hoàng đã viết trong bài tựa tuyển tập Dưới Ánh Mặt Trời của NĐQ; mà là một đất nước mục nát của bọn Quỷ Ma. Cuộc chiến đấu nếu có bây giờ thì chỉ là cuộc chiến đấu của Người chống lại Ma Quỷ. Hỡi những người trẻ sao

184

cứ mãi lặng thinh, có muốn nghe bài “Im lặng là đồng lõa” của NĐQ không? Nếu không tiện nghe thì xin gửi bài kệ nhỏ của Đặng Thế Tiến, một bạn đồng môn của NĐQ :

Đại hồng - Quỷ

Tiểu hồng - Ma

Tâm bất lương

Diện vô sỉ

Thượng mãi quốc

Hạ mãi dân

Nam nô tài

Nữ nô tỳ.

Nhưng tôi phải thay mặt cho Đặng Thế Tiến xin lỗi tất cả người ở VN, còn nghĩ mình là người Việt, còn yêu quê hương, “yêu khiến lòng chẳng biết sao nguôi”!!

Seattle 5/30/2011

Chú thích.

*1- “ Anh em ta về” : Tác giả không cố ý mỉa mai Trịnh Công Sơn.

*2- Giáo sư Thạch Trung Giả.

*3- Thật ra đây chỉ là sự trùng hợp tình cờ không mấy chính xác giữa thang âm tây phương( chia lẻ theo luỹ thừa thoái) và ngũ cung chia đều. Muốn hiểu rõ hơn về

185

phím đàn, xin tìm đọc “ Những cây đàn của tôi”, một hành trình 30 năm chế tạo guitar cổ điển sắp phát hành.

*4- Sau này tôi có đọc sách của một nữ lưu tài giỏi là cô Lê Thị Huệ. Cô chúa ghét cái ngạch cửa của các căn nhà ở thôn quê VN. Có thể cô cũng bị vấp té u đầu vì cái ngạch cửa mắc dịch này. Thật ra tôi biết lý do là các đàn bà VN rất sợ chuột chù nó chui vào nhà nên ra lệnh cho các ông thợ mộc phải làm ngạch cửa thật cao để bọn này không thể lôi thôi tự tiện xâm phạm tư gia ? Nếu không phải lý do này thì là vì bọn chủ nhà nó láo lắm. Nó đặt bàn thờ gia tiên ngay bức tường đối diện cửa. Khách bước vào phải tự động cúi đầu nhìn ngạch cửa, không thì ngã trợn mắt ra đấy chứ! Lại còn cái cửa rất thấp nên phải khom lưng nữa cơ. Cúi đầu, khom lưng trước bàn thờ gia tiên nhà họ, là điều họ muốn khách làm.

*5- Đồng dao:

Kéo cưa lừa xẻ

Ông thợ nào khỏe

Về ăn cơm vua

Ông thợ nào thua

Về bú tí mẹ !

*6- Già Cơ: Tôi có cái hân hạnh là quen cả hai Nguyễn Đức Quang. Người sau xui xẻo hơn nên bị người trước lấy mất tên; chỉ còn một chữ Già Cơ, thế mà không oán trách; còn viết một bài rất dài bao sân cho quyển sách này, đủ biết anh là người đại lượng và tốt với bạn bè. Cũng có lúc anh than: mặt mũi mình không giống con

186

Già cơ, mình cũng chưa từng cờ gian bạc lận, sao chúng nó lại đặt chết một cái tên như vậy. Thật ra chữ Già Cơ cũng có thể hiểu ngược lại với non cơ hay cao cơ, thấp cơ! Người ta khen đấy chứ.

187

NGUYỄN HỮU NGHĨA Du Ca

Nghĩ Về Anh, Nguyễn Đức Quang

Tôi nhỏ hơn Nguyễn Đức Quang 7 tuổi, gọi anh bằng “anh”, xưng “em”, từ khi tôi mới được 15. Tôi học ở Tây Ninh, cuối tuần về Sài Gòn sinh hoạt du ca. NĐQ từ Đà Lạt về, và ở luôn Sài Gòn, thỉnh thoảng mới về Đà Lạt thi cử ở trường Chính trị Kinh doanh và thăm gia đình. Hai anh em ngụ ở cái gác xép trong nhà để xe của anh Hoàng Ngọc Tuệ, số 114 đường Sương Nguyệt Anh.

Con đường này ngộ lắm. Đường nhỏ và ngắn, song song

188

với đường Bùi Thị Xuân (có nhà anh Đỗ Ngọc Yến) và Hồng Thập Tự, nối hai đường Lê Văn Duyệt và Bùi Chu (có trụ sở Hướng Đạo Việt Nam. Cái ngộ nhất của đường này là phía bên Bùi Chu, bảng tên đường ghi là “Sương Nguyệt Ánh”, trong khi phía bên Lê Văn Duyệt, bảng ghi “Sương Nguyệt Anh”. Đâu mất tiêu cái dấu sắc, và kiểu chữ, cỡ chữ cũng khác, rõ ra là bảng được thực hiện vào hai lúc khác nhau, do hai người khác nhau.

Tôi thắc mắc hỏi anh Quang: “Anh hay Ánh?” Có lẽ đang bực điều gì đó, hoặc nghĩ rằng tôi còn con nít mà đã lẩm cà lẩm cẩm, nên anh lầm bầm đáp bừa: “Chả biết là con mụ nào!” Lát sau, anh trả lời nghiêm chỉnh: “Sương Nguyệt Ánh”.

Cho đến ngày nay, rất nhiều người vẫn nghĩ như anh Quang. Ngay trong cuốn “Sài gòn vang bóng” (2011) mà tôi đang lên trang giúp ông Hoàng Hải Thuỷ, cũng ghi là “Sương Nguyệt Ánh”, mặc dù tác giả biết “con mụ nào đó” là con gái cụ Đồ Chiểu, và viết rằng (đại ý): con gái ở đây mà ông bố (tức đường Nguyễn Đình Chiểu) ở tuốt bên Tân Định, làm sao mà đi thăm!

Nhân đây, cũng xin nói lại cho đúng: Sương Nguyệt Anh, không có dấu sắc, tên thật là Nguyễn Xuân Khuê, con gái thứ năm của Nguyễn Đình Chiểu, bút hiệu là “Nguyệt Anh”, sau khi chồng mất, bà ghi thêm chữ “Sương” (goá phụ) vào trước bút hiệu. Sương Nguyệt Anh là bà chủ báo đầu tiên của Việt Nam , tờ “Nữ giới chung”.

Đường Sương Nguyệt Anh rợp bóng mát của hai hàng cây rất cao rất to. Hỏi “cây gì?”, có người bảo là cây sao, có người nói là cây dầu; sau tôi mới biết, “sao” hay“dầu” cũng vẫn là một cây, “sao” là chi, “dầu” là họ, tên khoa học của nó là Hopea odorata. Mùa lá rụng, tôi thường thơ thẩn nhìn lá khô đuổi nhau bay lăng quăng trên mặt đường, nhìn quả khô “nhảy dù” xuống với hai

189

nhánh quay tít như chong chóng. Nhưng, thích mắt nhất không phải là lá bay hay quả rụng, mà có lẽ là những tà áo trắng trường Nguyễn Bá Tòng bên đường Bùi Thị Xuân, tan lớp Chủ nhật, chiều chiều lũ lượt về ngang…

Trở lại với anh Quang và gác xép nhà để xe ở đường Sương Nguyệt Anh.

Anh có một chiếc Veloz Solex làm chân. Khi anh về Đà Lạt hay đi đâu xa, tôi lấy xe anh đi chơi khắp Sài gòn, Chợ lớn,.. cho tới khi hết xăng thì kéo cần máy lên, biến thành xe đạp, è ạch đạp về. Ít khi tôi có đủ tiền để đổ xăng. Sau đó anh Quang lại phải è ạch đạp xe ra đường Lê Văn Duyệt mua xăng, khi anh cần tới nó. Anh không rầy rà gì cả, chỉ ghim một tờ tiền vào mảnh giấy, để lên chiếc bàn nhỏ: “Chỉ được dùng để đổ xăng!” Từ đó không ai phải tháo mồ hôi ra đạp xe nữa.

Anh Quang chỉ có một cậu em – Vinh, ở Đà Lạt. Anh có rất nhiều bạn và rất nhiều đàn em, nhưng có lẽ thân với tôi hơn cả, vì ở chung “nhà”. Tôi dùng xe anh, thỉnh thoảng mặc áo của anh, xài tiền anh cho và … đọc trộm nhật ký của anh (nói ra thì mắc cỡ với mọi người, nhưng không nói ra, tôi mắc cỡ với chính tôi!) Nhật ký anh để ngay trên bàn, và ít khi gấp lại; khi cần bàn viết, tôi lại “phải” giở ra đọc. Đọc đi đọc lại, đọc tới đọc lui, thuộc lòng còn hơn thuộc Kiều. Tất nhiên là tôi không bao giờ tiết lộ những điều anh Quang viết; tôi chỉ có thể nói rằng văn chương của anh trong sáng, lạc quan, yêu đời, kể cả những lúc anh buồn, giống như thơ tình Nhất Tuấn mà anh rất thích.

Cũng năm 15 tuổi, tôi bắt đầu viết ca khúc, và anh Quang là người sửa cho tôi những bài đầu tiên: Một ngày công tác, Lời một ánh lửa,.. Anh sửa tài ở chỗ là giúp cho bài hát hay hơn mà không làm mất bản sắc của nó. Có lần tôi thử đưa cùng một bài cho hai người sửa, bài Cờ dân chủ, phổ thơ Quách Thoại. Kết quả, bài anh Quang sửa hay hơn bài do Phạm Duy cải biên. Tôi giữ

190

cả hai bài, khi thì trình diễn bài này, khi thì sinh hoạt bằng bài kia; nhiều người cũng bảo tôi, bài do anh Quang sửa “hay hơn.” Đến lúc vượt biên, tôi mất cả hai bài. Anh Quang cũng vượt biên, bài của anh cũng mất, cứ gì bài của tôi. Có lúc đến chơi nhà Phạm Duy khi ông chưa về Việt Nam , hỏi, ông bảo “Còn giữ chứ, để anh tìm xem”; nhưng sau đó không thấy ông nói gì nữa.Ít ai biết NĐQ làm thơ. Tôi biết. Tôi phổ bài “Em đã đến” của anh thành ca khúc. Nhiều người hỏi anh Quang: “Em nào vậy?” Anh cười cười, nói lảng. Hỏi tôi, tôi lặp lại câu nói mà anh từng lầm bầm về cái tênđường: “Chả biết con mụ nào!”

Bóng hồng cai trị đời anh là chị Minh Thông, bạn cùng lớp và cùng nhóm với anh ở Chính trị Kinh doanh Đà lạt. Anh Quang sinh hoạt thanh niên thì hăng hái nhưng học thì lười …gần bằng tôi. Bài làm tập thể, có chị Minh Thông lo. Đi thi thì, như anh kể, có “thằng” Nguyễn Đức Quang khác “học khiếp lắm” ngồi bên cạnh gà bài. Đúng là thân cư thê và cung nô bộc, bằng hữu toàn sao sáng tụ hội! Rồi anh và chị Minh Thông cùng tốt nghiệp. Tôi chúc mừng anh, dò dẫm: “Đậu là quí rồi, cầm đèn đỏ thì đã sao!” Anh chống chế: “Đâu có tệ thế! Ít nhất cũng trên dăm ba người chứ!”

Chị Minh Thông được sở làm gửi đi Phi Luật Tân tu nghiệp một năm. Năm đó, chúng tôi sống rất kỷ luật theo đúng chương trình chị đã soạn sẵn cho 365 ngày: ngày nào, giờ nào làm việc gì, ăn cơm ở đâu, cuối tuần xem xi nê rạp nào, v.v. và và v.v. Hai anh em rất thuộc bài. Tới giờ, nhìn nhau hô lên một lượt: “Cơm tấm Trần Cao Vân!” hay “Xi nê Vĩnh Lợi!” Thế là phóng lên xe, cứ thế mà đi, khỏi phải nghĩ ngợi, sắp xếp làm chi cho lôi thôi mệt óc!.. Anh Quang nhập ngũ trước, làm quản ca trong đại đội SVSQ, và trưởng ban Văn nghệ của tiểu đoàn, ra trường về Cục Chiến tranh chính trị. Tôi nhập ngũ sau, cũng làm quản ca trong đại đội SVSQ, và trưởng ban văn

191

nghệ tiểu đoàn, về tác chiến ở Kiến Hoà, chờ giấy tờ gọi về làm ty Dân vận như Vũ Thành An, Đỗ Việt Anh. Chưa về đâu cả thì tới ngày miền Nam sụp đổ, tôi từ chiến trường về Sài Gòn, trốn cho tới ngày xuống thuyền, mang bà ngoại và vợ con vượt biên…

Cái nhà xe của anh Tuệ, ngoài anh Quang và tôi, đôi khi có thêm các anh Trần Trọng Thức (sĩ quan Hải quân, ký giả Việt tấn xã, sau này có lúc là chồng của kịch sĩ Kim Cương), Trương Lộc (ký giả, sau 1975 tôi mới biết là cán bộ nội thành) ngụ ở tầng dưới. Khách khứa thì lu bù, toàn là chính khách và ký giả, ở nhà trên là khách của anh Tuệ, sau nhà xe, là khách của anh Thức. Anh Quang ít giao du với khách của anh Thức, nhưng qua lại thân mật với khách của anh Tuệ. Anh Thức gọi anh Quang là Nguyễn Đứt Cu. Có gì đâu, chữ Q, người miền Nam đọc là “cu” để khỏi phải chúm môi chúm miệng chi cho vất vả, còn /đức/ hay /đứt/, Trung và Nam kỳ phát âm như nhau!

Cũng ở cái nhà xe, Trịnh Công Sơn và Tôn-thất Lập thỉnh thoảng tới chơi, rủ rê tôi làm nhạc cách mạng, nhưng thấy không hợp, tôi không làm. Khác với cách tôi xưng hô “anh, em” với NĐQ, không hiểu sao tôi không xưng “em” với TCS và TTL, dù tuổi tác của hai người này lớn hơn anh Quang 5, 6 tuổi. Họ gọi tôi bằng tên, xưng tên hay xưng “mình”, và bảo tôi cũng xưng hô như vậy. Có lần Tôn-thất Lập khoe với tôi một bài hát anh mới viết xong, đã chép lại tử tế; nhưng không phải khoe bài hát, mà khoe thứ mực đen anh dùng, màu mực đen nhánh, khi khô thì nổi lên, và đặc biệt, không bao giờ lấm lem. Để chứng minh, anh dấp nước bọt lên đầu ngón tay, bôi lên mực cho xem. Quả thực không lem, không nhoè! Tôi khen mực tốt, nhưng đùa: “Ai lại đi phun nước bọt lên tác phẩm của mình như thế!” Anh Quang quay mặt chỗ khác, phì cười…

Nhà trên của anh Tuệ chỉ có hai phòng, một phòng cho

192

anh và một phòng cho hai người: em gái và cháu gái của anh. Khi hai cô xuất giá, phòng trống; và anh Quang đã nhập ngũ, anh Tuệ lấy lại nhà xe để cất xe, gọi tôi lên ở trong khuê phòng trước đây của hai cô. Khi tới phiên anh Tuệ cưới vợ, tôi dọn về căn gác của anh chị Ngô Mạnh Thu, cùng ngụ với nhạc sĩ Giang Châu, một bạn thân của anh Thu, cho tới ngày tôi nhập ngũ.

Từ khi NĐQ vào lính, ít khi tôi gặp lại anh. Từ khi tôi vào quân trường, rồi ra chiến trường, chẳng bao giờ tôi gặp lại anh. Cho tới sau 1975, anh đi tù cộng sản, rồi ra tù, anh em mới bàng hoàng gặp lại nhau. Anh Quang và anh Tuệ mua xe đò, chở khách kiếm sống. Tất cả chúng tôi đều tìm đường vượt biên, nhưng mỗi người một lối. Anh Quang mang tặng tôi cây tây-ban-cầm 12 giây mà anh thích và anh biết thuở nhỏ tôi cũng thích. Tôi hiểu là anh sắp đi, và chúc anh may mắn. Rồi tới phiên tôi, mua giấy tờ người Hoa, mang cả nhà xuống Cà mau nằm chờ, qua nhiều sự lôi thôi, cuối cùng rồi cũng ra khơi, sang tới đảo Bidong. Tôi gặp lại gia đình anh Quang, chị Thông cùng các cháu Tường và Nhiên, ở đó. Anh được nhận sang Mỹ. Gia đình tôi đi Canada . Lại một lần nữa chia tay.

Gia Đình Nguyễn Đức Quang

Khi biết tin anh Quang bị lao phổi cấp tính, tôi và

193

Nguyên Hương đến thăm, nhân dịp đi California . Rồi anh khỏi. Sau đó, trong một lần cùng Hưng Ca sinh hoạt 30 tháng 4 ở Sacramento, ngụ ở nhà bạn du ca Hoàng Gia Hùng, tôi gặp lại anh Quang. Đó là lần cuối cùng tôi gặp lại anh. Tôi thấy anh khoẻ mạnh, nhiệt tình dù hơi mệt mỏi về tinh thần, nhưng không có dấu hiệu gì sẽ lìa nhau ở tuổi 68, dù trước đó, những người bạn du ca của anh, và là bạn bè hay đàn anh của tôi, như Giang Châu, Lê Đình Điểu, Trần Đại Lộc, Trần Đình Quân, Lý Văn Chương,Trầm Tử Thiêng, Ngô Mạnh Thu,.. đã ra đi khá sớm,chưa ai tới tuổi 70, thậm chí, phần lớn chưa tới 60!

Viết về anh, chỉ bấy nhiêu, nhưng lòng tôi ở với anh. Đường đời muôn vạn nẻo, nhưng chỉ có một nẻo để chúng tôi, chúng ta, mọi người, gặp lại nhau.

Hẹn gặp lại anh,anh Quang!

194

195

TRẦN VĂN LƯƠNG Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Vĩnh Biệt Anh Được tin anh giũ sạch trần sa, Biết trước, nhưng sao mắt vẫn nhòa. Ngạo nghễ quê hương còn đứng đó, Âm thầm cát bụi đã bay xa. Lòng son một mảnh luôn sừng sững, Nhạc cũ muôn đời mãi thiết tha. Lặng lẽ anh qua miền vĩnh cửu, Đất người mòn mỏi khúc du ca. Cali, 3/27/2011

196

LÊ ĐÌNH THÔNG Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang

I. Bên Kia Sông Thư của anh Võ Thành Xuân trên TN1+2 nhắc nhở ‘‘ACE đến đúng giờ để chúng ta cùng viếng Quang và đồng ca tiễn bạn’’. Chúng ta là thế hệ Nguyễn Đức Quang : từ tuổi đời, thăng trầm thế sự, đến nghiệp du ca. Có phải mỗi chúng ta là một nốt nhạc du ca trường đời. Có khác chăng là nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang vừa hát xong chung khúc, giờ này ngạo nghễ gác cây đàn guitare, trầm ngâm nghe ta hát : Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người ; Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam. Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian. Hỡi những ai gục xuống ngồi dậy hùng cường đi lên. Tuy là hùng ca mà nghe trong tiếng hát có lời nghẹn ngào tiễn bạn.

Chúng tôi ở tận bên này Thái Bình Dương, ở bên kia Đại Tây Dương không thể đến đúng giờ để đồng ca tiễn bạn. Ngăn cách không gian khiến chúng tôi nghẹn ngào. Các bạn ở gần bên tiễn bạn bằng hành khúc Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ. Anh Quang là nhạc sĩ. Tiễn biệt

197

anh không gì bằng cung đàn tiếng hát, kết lại thành vòng hoa tiễn biệt. Trong tâm tưởng, chúng tôi sẽ hát cho anh nghe ca khúc ‘‘Bên Kia Sông’’, vì chúng tôi ở bên kia Đại Tây Dương. Xa xôi quá phải không Quang ?

Vậy mà mấy tháng trước, anh Nguyễn Đức Quang lặn lội sang Paris hát du ca. Lời ca anh mạnh khỏe làm tan biến sương mù mùa thu, giăng mắc tâm hồn. Tiếng hát anh trầm ấm lắng đọng trong tâm can mỗi người.

Chúng tôi làm sao quên được ‘‘Bên Kia Sông’’, lời thơ trữ tình, nhạc khúc dịu dàng : ‘‘Này người yêu, người yêu anh ơi! Bên kia sông là ánh mặt trời. Này người yêu, người yêu anh hỡi! Bên kia đồi, cỏ hoa đan lối. Bên kia núi, núi cao chập chùng. Bên kia suối, suối reo lạnh lùng. Là bài thơ, toàn chữ hư vô’’. Có phải là anh đã mượn hoa, mượn nắng làm chất liệu vẽ nên chân dung người yêu. Vậy mà mấy câu cuối đã là non, là suối, là lạnh lùng hư vô.

Đám Cưới Nguyễn Đức Quang và Nguyễn Thị Minh Thông

Ta lắng nghe lời tự tình của người nghệ sĩ : ‘‘Này người yêu anh ơi! Cho anh nồng ấm cuộc đời. Hoa thơm có ánh mặt trời. Như núi mừng vì mây đến rồi’’. Tuy vẫn là hoa, là mây là núi, nhưng còn có nắng ấm.

198

Chúng tôi tiễn bạn bằng ‘‘Bên Kia Sông’’ với lời kinh bát nhã : '" Yết-đế, yết-đế , Ba-la yết-đế . Ba-la-tăng yết-đế Bồ-đề tát-bà-ha " : Tâm kinh Hán-Việt chuyển ngữ từ chữ Phạn : Gate gate Pàragate Pàrasamgate Bodhi svàhà (Vượt qua, vượt qua. Vượt qua bờ bên kia. Vượt qua hoàn toàn. Tuệ giác Thành tựu).

Đời người là những dòng sông. Sông núi ngăn cách không gian thì nhiều nhưng sông dài yết đế chỉ là một. Dòng sông yết đế có bờ đâu mà âm dương cách biệt, có nước đâu mà chan hòa nước mắt, tuy lặng thinh mà tung niệm trầm buồn.

Anh Nguyễn Đức Quang ơi, có phải là anh đã hát : Bên kia suối, suối reo lạnh lùng. Là bài thơ, toàn chữ hư vô. Bên kia sông nay hóa thân thành tâm kinh yết đế. Anh đã vượt qua bến bờ tuệ giác. Bên này sông chỉ là mịt mờ ngấn lệ. Xin anh lắng nghe tâm kinh tụng niệm : Gate gate Pàragate Pàrasamgate Bodhi svàhà

II. Viết về Nguyễn Đức Quang Trong những năm 60, Nguyễn Đức Quang hát du ca ở giảng đường Spellman Dalat. Sau biến cố 75, mỗi người đi một ngả. Tôi gặp lại Quang ở Nam Cali lúc Quang làm báo. Bữa đó có cả Đoàn Thanh Liêm. Năm ngoái, tôi lại gặp Quang trong ngôi trường Teilhard de Chardin ở ngoại ô Paris. Quang lặn lội từ Mỹ sang Pháp hát du ca.

Sau nhiều năm xa cách, mái tóc năm xưa nay đã bạc màu, nhưng tiếng hát vẫn còn sang sảng. Quang say sưa hát, nhất là hát cho bạn bè nghe. Bữa đó, Quang bỏ qua chương trình, bắt tôi nói vài lời. Tôi chỉ nhớ là đã nói với Quang bằng cả trái tim. Và sau đó Quang đã say sưa hát bằng cả tâm hồn.

Trước Quang chưa có du ca. Sau Quang, tuy vẫn còn phong trào du ca, nhưng sẽ lịm tắt tiếng hát đầu đàn.

199

Du ca (游 歌) là cung đàn nổi trôi, tiếng hát lang bạt kỳ hồ. Nhạc Pháp có ballade, mượn từ balader : rày đây mai đó. Nhạc ballade mặn nồng ý thơ. Nhạc du ca của Quang giàu cả nhạc điệu và lời thơ. Quang soạn nhạc mấy bài thơ của Nguyễn Ngọc Thạch, Nguyễn Tất Nhiên ; bài nào cũng được nhiều người ưa thích.

Trong một chuyến du ca ở Paris, Nguyễn Đức Quang hát ở nhà Lưu Văn Dân. Tôi còn nhớ Quang kể chuyện tình của Nguyễn Ngọc Thạch và một cô sinh viên Tân Tây Lan. Năm đó, Thạch là chủ tịch Tổng hội Sinh viên Dalat, sang Auckland dự hội nghị sinh viên quốc tế. Thạch làm quen một nữ sinh viên Tân Tây Lan. Hai người dẫn nhau lên ngọn đồi cỏ xanh, trông xuống là sông Viviane nước biếc. Vì vậy mới có mấy câu thơ : Này người yêu, người yêu anh ơi! Bên kia sông là ánh mặt trời Này người yêu, người yêu anh hỡi! Bên kia đồi, cỏ hoa đan lối. Bên kia núi, núi cao chập chùng. Bên kia suối, suối réo lạnh lùng. Là bài thơ, toàn chữ hư vô.

Quang ơi, vẫn biết là trong mấy ngày này, Quang vẫn còn vẩn vơ với bài thơ toàn chữ hư vô. Nhưng Bên kia sông còn là cung đàn : Này người yêu, người yêu anh ơi! Bên kia sông đường vẫn còn dài. Này người yêu, người yêu anh hỡi! Bên kia đồng cỏ non đan lối. Trong cơn gió thoáng nghe nụ cười. Trong khe núi thánh thót lòng người. Bên kia sông đường vẫn còn dài. Và lòng người Thụ Nhân từng ngày trông ngóng tin Quang sớm trở lại đường dài du ca.

Roma, tối ngày 20/2/2011

III. Bên ni bên nớ

Chiều ngày 28-4-2011, anh Nguyễn Đức Quang (Quang Già Cơ) gọi điện thoại cho biết nhóm Thụ Nhân Seattle dự định in tuyển tập Nguyễn Đức Quang (Du Ca), gọi là ‘‘Của tin còn một chút này làm ghi’’. Anh Quang Già Cơ còn cho biết sẽ in hai bài ngắn của tôi viết về anh

200

Quang Du Ca. Tôi còn nhớ đã mượn ca khúc Bên Kia Sông để viết một bài tiễn biệt anh. Tôi thiết nghĩ cũng nên viết thêm một bài nữa cho đủ ba bài. Vì hai bài trước đã nói nhiều về ‘‘bên nớ’’, bài viết này chỉ nói về ‘‘bên ni’’. Anh Quang còn dặn tôi nhớ gửi tấm hình chụp chung với anh Quang Du Ca. Tôi không mất công lục lọi. Cuối 2010, anh Quang sinh hoạt du ca ở Paris, chúng tôi chụp chung với nhau tấm hình kỷ niệm, nào ngờ đâu lại là di ảnh.

Lê Đình Thông - Nguyễn Đức Quang

Nếu ‘‘bên nớ’’ là ‘‘Bên kia sông’’, ‘‘bên ni’’ là ‘‘cõi người ta’’, ở bên này sông. Nhạc du ca trước hết là những ca khúc ‘‘bên ni’’, hát trong giảng đường đại học, hát ngoài sinh hoạt hướng đạo. Trong thập niên 60, nhiều người nghêu ngao bài khúc thúc giục : ‘‘Không phải là lúc ta ngồi mà đặt vấn đề nữa rồi. Phải dùng bàn tay mà làm cho tươi mới. Hàng chục năm qua ta ngồi ngó nhau, nghi ngờ nhau, khích bác nhau cho cay cho sâu, cho thật đau.’’ Mỗi khi hát lại câu ca này, có lẽ ta sẽ bớt khích bác nhau, hoặc giả có khích bác nhau thì cũng bớt cay, bớt sâu. Chỉ bằng ca khúc du ca, nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang nhắc nhở mỗi người đừng quên ‘‘dùng bàn tay mà làm cho tươi mới’’.

201

Ngoài ‘‘bàn tay’’, nhạc du ca còn vận dụng cả đôi chân, qua đoạn điệp khúc là đã đi từ ‘‘bước âm thầm’’ ngoại cảnh vào tận trái tim tan nát: ‘‘Ai từng đi trên đường Việt Nam. Bước âm thầm và tim nát tan. Bao lòng tham chất chứa đầy những mưu đồ bạo tàn đang ngăn lối. Nhưng càng dù mưa giông càng vươn tới. Bước chân hùng còn đi rất hăng. Đi dựng lấy quê hương nhà. Giống da vàng này là vua đấu tranh. Đường của ta đưa ta về thanh bình. Đường an lành, đường thảnh thơi những ngày vui. Đường Việt Nam mời những bước chân rời. Sát nhau lại vì đường vẫn còn dài.’’

Nhạc du ca là nhạc cộng đồng. Khúc nhạc này không còn ‘‘những bước chân rời’’, nhưng chen vai sát cánh bên nhau, ‘‘vì đường vẫn còn dài’’. Đường Việt Nam hẳn còn dài, nhưng đường đời thu đông đã rút ngắn rất nhiều.

Trong số các ca khúc ‘‘bên ni’’, Việt Nam Quê hương Ngạo nghễ là chung khúc tuyệt vời. Ngoài đôi tay, đôi chân, Nguyễn Đức Quang còn điểm xuyết đôi mắt, nụ cười, vận dụng cả da thịt, máu xương để kết thành cả triệu con tim, hùng cường đứng lên :

Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn. Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang. Lê sau bàn chân gông xiềng một thời xa xăm. Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loàng xoàng. Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người. Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi. Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi. Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.’’

Trong tang lễ tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đi về ‘‘bên nớ’’, ‘‘đoàn người (Thụ Nhân) hiên ngang’’ pha chút nghẹn ngào, đồng ca Việt Nam Quê hương Ngạo nghễ, thay cho bài ca tiễn biệt của những người còn ở lại ‘‘bên ni’’, quanh quẩn mãi chốn này.

Paris, ngày 1 tháng 5 năm 2011

202

PHẠM PHÚ MINH Nhà văn

Ca Khúc Nguyễn Đức Quang Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang

Đỗ Ngọc Yến, Hoàng Ngọc Tuệ, Nguyễn Đức Quang, Trần Đại Lộc, Phạm Phú Minh, Hà Tường Cát, Vợ chồng Hoàng

Kim Châu

Mùa hè năm 1965 đã có một cuộc vận động rất lớn để gây nên một phong trào hoạt động thanh niên tại miền Nam Việt Nam, đó là Chương trình Công Tác Hè 1965 dành cho thanh niên, sinh viên, học sinh. Chương trình

203

quy tụ nhiều huynh trưởng thuộc các hội đoàn thanh niên thời đó như Hướng Đạo, Thanh Sinh Công, Gia Đình Phật Tử... và rất nhiều giáo chức trẻ, và được tổ chức tại khắp các tỉnh của VNCH, với sinh hoạt chính là tổ chức các trại công tác, trại hội luận cùng nhiều loại sinh hoạt khác.

Chương trình phải lo soạn nhiều tài liệu hướng dẫn để cung cấp cho các ban điều hành địa phương, trong đó có việc thực hiện một tập bài hát thích hợp với sinh hoạt thanh niên. Khi ngồi xuống cùng làm việc đó, anh em mới nhận ra rằng nhạc dành cho tuổi trẻ của thời đó rất nghèo nàn, cả tập nhạc chỉ có bài “Việt Nam! Việt Nam!” của Phạm Duy là mới sáng tác, có mang hơi thở của thời đại, còn lại là những nhạc phẩm vẫn được hát đi hát lại trong các hội đoàn mấy chục năm qua: Đêm Trong Rừng, Trên Sông Bạch Đằng, Bóng Cờ Lau, Tiếng Chim Gọi Đàn, Nước Non Lam Sơn, Nắng Tươi của Hoàng Quý; Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Lên Đàng, Reo Vang Bình Minh, Hội Nghị Diên Hồng của Lưu Hữu Phước; Anh Hùng Xưa và một số các bài hát nghi thức và bài hát vui của sinh hoạt Hướng Đạo. Chỉ có thế.

Bây giờ nhìn lại mới thấy từ sau 1954 trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa phong trào sáng tác ca khúc khá phong phú nhưng lại vắng bóng hẳn loại nhạc dành cho hoạt động thanh niên. Thời ấy việc sáng tác âm nhạc thường nghiêng về các chủ đề: nhớ thương đất Bắc, ca ngợi cuộc sống yên lành của miền Nam, và nhạc tình. Tôi không rõ trong một đoàn thể của chính quyền là Thanh niên và Thanh nữ Cộng Hòa, người ta có dùng bài hát trong sinh hoạt hay không, và nếu có thì hát loại bài gì, nhưng trong Hướng Đạo và các hội đoàn khác thì vẫn dùng các ca khúc từ trước 1945. Đó là những bài hát ca ngợi lịch sử Việt Nam nhằm khơi lại lòng yêu nước của lớp trẻ đang sống dưới ách đô hộ của người Pháp, ca ngợi những tình cảm trong sáng đối với quê hương, với

204

thiên nhiên để vực dậy tinh thần mạnh mẽ và lý tưởng của thanh niên. Đó là những ca khúc có giá trị, nhưng sức tác động của nó đối với tinh thần người trẻ tuổi trong các sinh hoạt của họ thì càng lâu về sau càng yếu dần. Những ca khúc đó rất mới mẻ và gây phấn khởi trong thời của nó là khoảng đầu thập niên 1940. Nhưng Việt Nam giữa thập niên 1960 thì đã khác lắm rồi: hoàn cảnh lịch sử, xã hội đã thay đổi hoàn toàn, các vấn đề của thời đại dĩ nhiên cũng khác, đó là chưa nói ảnh hưởng của văn hóa, trong đó có các giai điệu của âm nhạc, cũng có nhiều nét mới. Dùng những bài hát cũ hơn hai mươi năm trước cho các sinh hoạt ngày nay thì rõ ràng không ít thì nhiều cũng lỗi thời, vì không đáp ứng với trạng thái tinh thần cùng nhu cầu của lớp trẻ ngày hôm nay nữa. Nhưng không có bài mới thì đành phải dùng bài cũ vậy. Chương trình Công tác hè 1965 khởi đi với những giai điệu cũ kỹ như vậy.

Nhưng cũng chính qua những trại công tác mùa hè năm ấy, một hiện tượng âm nhạc mới đã xuất hiện. Một thanh niên gầy gò ở tuổi hai mươi, mang đàn ghi ta vào ca hát ở các sinh hoạt trại. Giọng hát của anh cao và thanh với tiếng ngân dài khỏe mạnh, anh hát các ca khúc ngắn vui tươi và mới mẻ, thu hút ngay sự chú ý và tham gia của trại sinh. Người ấy đang là sinh viên khóa 1 của trường Chính Trị Kinh Doanh viện Đại học Đà Lạt, tên anh ta là Nguyễn Đức Quang. Anh đã xuất hiện giữa lúc trại công tác thanh niên đang ào ạt được tổ chức tại miền Nam, như một làn gió, một cơn sóng mới mẻ tràn ngập khắp nước. Trong không khí ấy, chính người này, Nguyễn Đức Quang, đã tạo lập nên một nền ca nhạc hoàn toàn mới mẻ để làm hành trang cho một phong trào thanh niên vừa thành hình. Phong trào Du Ca ra đời.

Từ đó, trong vòng một thập niên, Nguyễn Đức Quang và bạn hữu đã liên tục cho ra đời những ca khúc mới. Trong các sinh hoạt của mình, người thanh niên không

205

còn hát những câu như “Nước non Lam Sơn, nước non Lam Sơn, bóng cờ bay phấp phới...” mà là:

Từ Nam Quan Cà Mau

Từ non cao rừng sâu

Gặp nhau do non nước xây cầu

Người thanh niên Việt Nam

Quay về với xóm làng

Tiếng reo vui rộn trong lòng...

Xã hội chung quanh bộn bề công việc, những người trẻ tuổi đang cố gắng góp phần giải quyết với bàn tay làm việc và đầu óc tính toán của mình, đâu còn tâm dạ nào mà ngồi ca hát về những toán quân khởi nghĩa của Lê Lợi từ bao thế kỷ trước! Đối với tiền nhân thì lịch sử hãy còn đấy, chúng con xin nghiêng mình trân trọng, nhưng chúng con cần hát về những vấn đề, về những tâm tình của chúng con hôm nay. Tiếng hát sẽ giúp người thanh niên khẳng định chính mình. Nhìn quanh: chiến tranh mỗi lúc mỗi tàn khốc, ruộng đồng đang tan nát, người dân quê hoảng hốt chạy loạn, cần giúp đỡ về y tế, về thực phẩm, cần xây dựng gấp trại tị nạn để đón mọi người... Từ trại Công trường Thanh niên Giới tuyến, tại Cam Lộ, Quảng Trị, Nguyễn Đức Quang đã viết:

Đường về công trường là đường về quê hương...

1. Này những miếng đất như bấp bênh dưới cơn mưa tràn

Hoặc đã nứt vỡ và khô cứng đến tê bàn chân

Là những miếng đất đã bao năm chan hòa nước mắt

Là quê hương tôi, là quê hương tôi

2. Này những khốn khó ta có nhau lúc vui hay buồn

Mồ hôi rơi tuôn tựa như nước tưới lên mầm ươm

206

Tình như cây non đã vươn lên trong niềm yêu mến

Là quê hương tôi, là quê hương tôi

3. Tình thân anh em đã đắp nên biết bao công trường

Vì ta thương nhau là thương hết đám dân khổ đau

Tìm đâu yên vui trên quê tôi dẫu chiều, mai, tối

Là quê hương tôi, là quê hương tôi.

Nếu Trịnh Công Sơn đã viết Kinh Việt Nam mô tả sự tàn phá của chiến tranh và niềm mơ ước hòa bình với những lời lẽ xúc động nhưng xa xôi mơ hồ, thì bản Tìm Về Công Trường trên đây và nhiều bài khác nữa của Nguyễn Đức Quang tôi nghĩ cũng là những bài Kinh Việt Nam nhưng dành cho giờ tĩnh tâm của những người trẻ tuổi suốt ngày làm việc cực nhọc mong làm vơi bớt nỗi khốn khổ của đồng bào mình. Một bài kinh để hành động chứ không để tụng niệm. Những người biết xông vào làm việc giúp kẻ khác và coi đó là lý tưởng thì cần những món ăn tinh thần nuôi dưỡng lòng thương yêu và hướng dẫn hành động, chứ không cần những lời ru ngủ trong quán cà phê đèn mờ. Người thanh niên đứng trên “miếng đất đã bao năm chan hòa nước mắt”, đã đổ mồ hôi của mình “tựa như nước tưới lên mầm ươm”, đã tập “thương yêu nhau” và “thương hết đám dân khổ đau”, và ở cuối mỗi tiểu đoạn của bài hát lại lặp lại tám chữ với giọng điệu trầm trầm thật thiết tha trìu mến: “Là quê hương tôi, là quê hương tôi”. Đó là lời kinh xác định lòng quyết tâm cho những mong muốn đơn sơ: góp bàn tay cứu giúp quê hương hoạn nạn. Mọi chuyện lớn lao đều phải bắt đầu từ việc làm tốt đẹp nhỏ bé nhưng cụ thể: đó là hành trình đúng nhất cho một thanh niên.

Nhờ đi sát với thực tế cuộc sống, chàng nhạc sĩ Du Ca của chúng ta đã có dịp nhìn thấy những mặt thật của xã hội, từ đó nảy ra những sáng tác về nhận thức, lên án những hiện tượng tiêu cực, và đề nghị thái độ của người trẻ tuổi. Nhận thức về thân phận và về quê hương,

207

Nguyễn Đức Quang đã viết những bản Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Anh Em Tôi, Cho Đồng Bào Tôi, Bầu Trời Quê Hương Ta v.v... Và chúng ta sẽ gặp một Nguyễn Đức Quang phẫn nộ với Bọn Lái Buôn Ở Khắp Nơi, Ruồi Và Kên Kên... Có buồn, có giận về những thực tại xấu xa trước mắt, nhưng thái độ của Quang vẫn là luôn luôn tích cực: Không Phải là Lúc, Đoàn Ta Ra Đi, Đuốc Hồng Tuổi Trẻ, Người Yêu Tôi Bệnh... Nhận thức không phải để nản chí, ngồi một chỗ mà than vãn, không, Nguyễn Đức Quang lúc nào cũng đứng thẳng và kêu gọi mọi người.

Không phải là lúc ta ngồi mà đặt vấn đề nữa rồi

Phài dùng bàn tay mà làm cho tươi mới

Hàng chục năm qua ta ngồi ngó nhau, nghi nhờ nhau, khích bác nhau cho sâu cho cay cho thật đau...

Hơi nhạc đi luôn một hơi dài, như vội vàng, như thúc bách nói ra cho hết các triệu chứng tích lũy quá nhiều. Chẩn bệnh cho con bệnh xã hội chúng ta bằng những câu như thế thì quả là một thầy thuốc giỏi, tinh tường. Và thầy cũng biên toa cho thuốc luôn:

Làm việc đi không lo khen chê

Làm việc đi hãy say và mê

Cứ bắt tay gan lì chúng ta giải quyết.

Mình chậm chân đi sau người ta

Còn ngồi đây nghĩ lo viển vông

Thắc mắc ngại ngùng đến lúc nao mới làm xong.

Thật ra đó là những lời vừa tâm tình vừa khích lệ với những người đồng đội của mình được viết năm Quang mới 22 tuổi. Cái tuổi chưa gia đình vợ con, coi tập thể quanh mình như anh em một nhà:

Đoàn chúng tôi băng rừng sâu suối xanh qua nương đồi

208

Một sớm mai sương bình minh hãy còn vương trên cây

Ra đi hăng hái tiếng chim lừng đó đây

Đoàn chúng tôi đem tình thương đến gieo cho muôn người...

Nhạc sĩ coi sự dấn thân ra đi ấy như là ngọn đuốc hồng của tuổi trẻ:

Một người đi một bước

Ngàn người cùng đi muôn bước

Đi làm đuốc soi quê hương ta đập tan bóng tối.

Ngày này qua đêm khác

Người này người sau liên tiếp

Vươn mình lên đánh nhau với quân khổ đau.

Hơn bốn mươi năm đã trôi qua từ ngày chàng tuổi trẻ Nguyễn Đức Quang viết ra những ca khúc ấy. Bây giờ Quang đã đi hết con đường trần của mình, nhìn lại chúng ta thấy trong suốt cuộc chiến Việt Nam không một nhạc sĩ nào có một thái độ tích cực, nhất quán với tuổi trẻ như Quang. Các ca khúc của anh đã nâng tinh thần cho cả một thế hệ thanh niên, cho họ thấy trong thảm cảnh của đất nước mình phải có thái độ như thế nào. Anh cho họ sự tự hào về dân tộc và đất nước (dẫu cho khó thương), anh hun đúc lòng yêu nước không bằng những câu khẩu hiệu sáo mòn mà với một tình cảm chứa chan hoặc ngọn lửa hừng hực nóng. Anh truyền cho thế hệ tuổi trẻ của anh rằng Việt Nam là một quê hương ngạo nghễ, dân tộc Việt dù cay đắng thế nào vẫn có thể bứt tung xiềng xích và cười dưới ánh mặt trời. Lời truyền đạt ấy đã ngấm vào nhiều thế hệ trong lòng dân tộc Việt Nam. Năm 2007 thanh niên Việt Nam biểu tình chống Trung Quốc xâm lăng Hoàng Sa và Trường Sa đã hát vang Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ tại Sài Gòn, dù họ không biết rõ tác giả của bài này là ai.

209

Năm 21 tuổi, anh đi xe đạp suốt 300 cây số từ Đà Lạt đến Sài Gòn để nhìn thấy con đường Việt Nam dài vô cùng vô tận trong không gian và thời gian, con đường lắm đoạn gập gềnh nhưng mà sẽ:

Đường của ta đưa ta về thanh bình

Đường an lành đường thảnh thơi những ngày vui

Đường Việt Nam mời những bước chân rời

Sát nhau lại vì đường vẫn còn dài...

Đó là tiên tri và cũng là ao ước của người nghệ sĩ, đặt vào lòng tất cả người Việt Nam không những trong thời của anh, mà còn mãi mãi về sau.

210

HOÀNG KHỞI PHONG

Nhà văn

Tâm Thức Dân Tộc và Phong Trào Du Ca 1966 - 1975 (nói chuyện với Nguyễn Đức Quang1998, báo Việt, Cali)

I. Chúng tôi quen biết với nhau đến nay là 15 năm chẵn. Mới đó mà một thời gian dài như thời gian của nàng Kiều phải truân chuyên trong các thanh lâu đã bị bỏ lại đằng sau tuổi trẻ của chúng tôi. Mới đó mà cả hai chúng tôi nhẩy một cái từ những năm cuối của tuổi “tam thập nhi lập”, vọt tới tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh”.

Quả là cả hai chúng tôi đều lập chí rất sớm, từ trước khi bước vào tuổi ba mươi, nhưng bước vào tuổi năm mươi, chúng tôi rất mù mờ về thiên mệnh của chính chúng tôi, huống hồ thiên mệnh của nhiều con người, của một đoàn thể, của cả một dân tộc thì hoàn toàn nằm ngoài khả năng suy nghĩ của chúng tôi. Khi nói chúng tôi lập chí rất sớm, chúng tôi không có một chút kiêu ngạo nào. Bởi vì năm 22 tuổi anh đã có tác phẩm, một số không ít những ca khúc đủ hoàn thành tập “Trầm Ca”. Anh đã là một trong những nhân vật đầu não, thành lập và điều hành một đoàn thể sinh hoạt có ảnh hưởng suốt bốn

211

Vùng Chiến Thuật. Phần tôi, bắt đầu viết văn, làm thơ từ năm 20 tuổi, có tác phẩm đầu tay vào năm 24 tuổi, tất nhiên tôi cũng có cái chí của tôi trên con đường văn nghiệp.

Lẽ ra chúng tôi có thể gặp nhau sớm hơn mươi, mười lăm năm, nhưng cuộc chiến đẩy chúng tôi mỗi người về một phương, thành thử trên cái phần đất miền Nam của tổ quốc, chúng tôi tuy cùng một hàng ngũ, cùng xê dịch như những con thoi mà không có cơ duyên gặp gỡ.

Mãi cho tới mười lăm năm sau, chiến tranh đã tàn, anh và tôi cùng đứng chung trong một chiến tuyến bị đổ vỡ. Chúng tôi cùng là những kẻ chạy trốn tổ quốc của mình. Tôi thoát đi được ngay từ khi phần đất miền Nam ngã quỵ, năm năm sau anh ra khỏi nhà tù, vượt biên cùng gia đình một vợ hai con, cư ngụ tại một địa chỉ có tên là Pulau Bidong một thời gian, trước khi chúng tôi gặp gỡ nhau nơi quê người. Mãi cho tới thời điểm đó, chúng tôi mới có cơ hội gặp nhau trong một góc nhỏ của xứ người. Góc nhỏ xứ người đó có tên là Little Saigon, anh tên là Nguyễn Đức Quang, và phong trào anh góp toàn bộ cái sung mãn của tuổi hai mươi có tên là “Phong Trào Du Ca”.

Anh tiếp tôi trong tòa soạn của tờ báo do anh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút: Tờ “Viễn Đông Kinh Tế Thời Báo”. Cả hai chúng tôi là những người ít chú ý tới hình thức, không câu nệ tiểu tiết. Câu chuyện ba mươi năm cũ dường như đã làm cho có một lúc nào đó, tuổi thanh xuân từ quá khứ vọng về, tràn đầy căn phòng. Trong phòng riêng của anh, chúng tôi bỏ giầy tháo vớ, gác chân lên bàn, tất nhiên để nói về tuổi trẻ của chính chúng tôi, thì nào có gì mà phải nghiêm trang đạo mạo. Bằng một giọng nói mạch lạc, anh nói về tuổi thơ của anh. Anh có một tuổi thơ khá đặc biệt, một tuổi thơ tiền

212

định cho đời sống “Du Ca” sau này của anh. Khi nói về tuổi thơ mắt anh nhìn qua cửa sổ, như lạc vào một cõi xa xăm nào đó: “Nguyễn Đức Quang là tên thật do cha mẹ đặt cho...

II. ... Tôi sinh năm 1944, tại Sơn Tây. Nơi tôi sinh ra hình như có núi Tản, sông Đà, do đó trước khi tôi ra đời có một bút hiệu Tản Đà, một hào quang khá rực rỡ do cây bút này phát ra trong tiền bán thế kỷ 20. Đất này chính là một trong những địa danh phát tích của nước Việt. Sông và núi đó trôi trong dòng lịch sử Việt Nam, và đã sản xuất không biết bao nhiêu là anh hùng, liệt nữ, danh nhân. Nói như thế không có nghĩa là tôi hỗn, dám ví mình với các tiền bối. Tôi làm một số công việc trong đời sống của tôi. Định giá nó là những người đồng thời với tôi. Cũng có thể sau này khi nhắc tới phong trào du ca, những lớp người sau tôi có thể sẽ đánh giá những đóng góp của phong trào, và của riêng tôi với xã hội đương thời.

Trước và sau Tản Đà, cũng từ đất này dấy lên những tên tuổi lẫy lừng khác. Tôi xin kể những người sau thi sĩ của núi Tản, sông Đà và trước tôi, những người rất gần với chúng ta, những người mà bất cứ ai sinh hoạt trong lãnh vực văn học nghệ thuật đã có đôi lần nghe danh, biết tiếng: Một thi sĩ Quang Dũng với những bài thơ tiền chiến tuyệt tác. Một Phạm Đình Chương, người đưa thơ của Quang Dũng vào nhạc. Đây chỉ là hai ví dụ nhỏ của các danh sĩ cận đại đất Sơn Tây. Tất nhiên địa linh sinh nhân kiệt, nhưng mà bên cạnh những con người kiệt hiệt này, cũng không thiếu gì những con người khi nhắc đến làm cho người đồng hương xấu hổ. Thế cho nên tôi xin miễn nhắc đến những vị này, tuy họ có lưu tên trong sử sách.

213

Cha tôi là một công chức trong ngành giáo dục. Tôi không có ý đề cao cha tôi, nhưng có lẽ ông là người không thích những điều gò bó, nên thay vì làm một nhà giáo định cư tại một chỗ, có lợi cho việc học hành của chúng tôi. Tôi không hiểu vì sao ông xê dịch rất nhiều nơi. Tôi nhớ ngày tôi còn nhỏ xíu, tôi đã theo ông đi làm việc tại Chapa, tuốt nơi biên giới Hoa Việt. Thế rồi vài năm sau, một thời gian ngắn trước cuộc di cư vĩ đại của gần một triệu người từ Bắc vào Nam, cha tôi đổi vào làm Tổng Thư Ký cho Bộ Giáo Dục trong Sài Gòn, thành thử vô hình chung gia đình tôi di cư trước. Mới tháng Tư năm 1954, gia đình tôi đã có mặt tại Sài Gòn. Tôi không có cơ hội làm một chứng nhân nhỏ bé của biến cố lịch sử này. Thời gian này tôi theo học tại Trường Trung Học Tư Thục Huỳnh Khương Ninh, Tân Định. Tôi nhớ là trường này dậy chương trình Pháp, mà tôi chữ Tây, chữ U đâu có bao lăm, thành thử cứ chúi đầu vào học. Thật đúng là học như cuốc kêu mùa hè.

Năm 1958, cha tôi lại đổi ra làm Trưởng Ty Tiểu Học ngoài Côn Đảo. Lạ một điều là đi đâu ông cụ cũng lôi tôi theo. Năm đó tôi đã lên Trung Học được hai năm, mà tại Côn Đảo thì trường học chỉ có tới lớp Nhất, thành thử suốt ngày tôi lêu bêu nơi đầu ghềnh cuối bãi. Trong đời tôi có lẽ chưa có nơi nào bãi biển đẹp như Côn Sơn, đã thế hòn đảo lại không có gì là to, và lại không bị đi học. Thử hỏi tuổi thiếu niên đã có ai sướng hơn tôi trong giai đoạn này. Đến bây giờ tôi còn nhớ được vài địa danh tại hòn đảo ngục tù này.

Những địa danh này luôn luôn kèm theo một vài cố sự của các danh nhân Việt Nam, đặc biệt là những người chống Pháp, thông thường có ghi danh trong những trang sử cận đại, và bị lưu đầy ra ngoài này.

214

Suốt ngày tôi thơ thẩn, lang thang theo các tù nhân được làm việc bên ngoài khu giam. Tôi đã tần ngần tại một nơi gọi là Ma Thiên Lãnh, nơi có mộ chôn ông Nguyễn An Ninh. Tôi đã nghịch ngợm tại một địa danh là Hòn Đá Trắng, nơi các ông Nghè Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng đã từng đập đá làm đường, và một trong hai cụ (tôi không nhớ cụ nào) đã cảm tác bài thơ Đập Đá Côn Sơn. Cũng nơi này, xưa hơn một thời gian ngắn là chỗ lưu đầy các yếu nhân của Đông Kinh Nghĩa Thục như các cụ Huấn Quyền, Lê Đại, Dương Bá Trạc, Võ Hoành... Hai, ba chục năm sau, vào những năm của thập niên 40, đây cũng là chỗ mà Lê Duẫn, cùng hàng trăm đồng chí, những người tiền phong của Đảng Cộng Sản Việt Nam bị Thực Dân Pháp cầm tù tại đây. Lúc đó tôi là một thiếu niên hiếu động, tò mò nghe các tù nhân nói về đủ thứ tù nổi danh của hòn đảo này.

Cha tôi thấy tôi chơi suốt ngày, nên ông cụ mang mấy người tù thường phạm, có học lực cao về dậy tôi Anh và Pháp Văn (Trong số những người này có nhạc sĩ Hoàng Nguyên, lúc đó cũng bị tù vì hoạt động chính trị. Tôi không học Hoàng Nguyên, và sau này trời lại dun dủi để trở thành một người bạn thân với Hoàng Nguyên, vì cả hai chúng tôi cùng sinh hoạt trong ngành Nhạc).

Năm 1959 cha tôi đổi về Đà Lạt, đây là lần thứ hai, lần thứ nhất từ năm 1928 khi tôi chưa ra đời. Tôi theo học trường Bồ Đề cho tới năm 61 mới vào học tại Trường Trung Học Trần Hưng Đạo, một trường công lập lớn nhất của tỉnh Đà Lạt. Năm 1964 tôi đậu Tú Tài, và theo học Khóa I Chính Trị Kinh Doanh của Viện Đại Học Đà Lạt, khi ngành này vừa mới thành lập.

III. Đời nhạc của tôi có một bước rẽ quan trọng: Đó là lần gặp gỡ với anh Phạm Duy. Trước khi gặp anh Phạm Duy, tôi đã có soạn khá nhiều ca khúc. Tôi có một

215

nhóm bạn học thật thân trên Đà Lạt, cùng ngồi một năm, chia sẻ với nhau từ những điều nhỏ nhặt trong lớp cho tới những điều lớn hơn như đời sống. Cái đó cũng không có gì là lạ, bởi vì Đà Lạt là một thành phố yên tĩnh quá. Chúng tôi đang ở vào cái tuổi thành niên, tương đối là những người mà xã hội Việt Nam tạm gọi là có học. Chúng tôi học hành với nhau, chơi đùa với nhau, ca hát với nhau và làm việc với nhau.

Dưới bóng của những cội thông già, cái mầm âm nhạc của riêng tôi, làm như được tiếng thông reo réo gọi, và dần dần hình thành trong tôi một con người sáng tác. Các bạn trong nhóm tôi không có ai sáng tác, chỉ có mình tôi làm nhạc, hát cho các bạn tôi nghe. Chỉ lạ một điều: Tôi không đi vào những con đường cũ của các nhạc sĩ đàn anh. Hầu hết những người làm thơ, viết nhạc đầu đời là những bài thơ tình, nhạc tình, và sống mãi với dòng nhạc đó. Phần tôi, sau những ngày tập tễnh với nhạc tình trẻ con, tôi quay hẳn sang một hướng khác không có mấy người làm. Nhạc của tôi sau này người ta gọi là nhạc cộng đồng, nhạc sinh hoạt, hay là một loại nhạc nào đó, một thứ tình cảm khác, một thứ tình cảm không phải chỉ dành cho hai người đang yêu nhau, mà là một thứ tình cảm thiết tha nói lên cái liên hệ giữa vùng đất và con người.

Nhóm chúng tôi tham gia nhiều công tác xã hội, Đầu năm 1965, chúng tôi dự phần vào một công tác dài ngày. Chúng tôi dựng 200 căn nhà cho đồng bào Thượng, nạn nhân chiến cuộc. Trại Suối Thông, lập ở Phi Nôm, và nhóm chúng tôi phải nằm tại đây trong hai tháng trời. Giữa năm 1965, nhóm chúng tôi tham gia một trại khác của sinh viên toàn quốc. Địa điểm sinh hoạt là Thạnh Lộc Thôn. Trại có tới hai, ba trăm trại viên, lập thành một địa điểm như một cái làng nằm trong tỉnh Bình Dương. Chính trong kỳ sinh hoạt này tôi được gặp nhạc sĩ Phạm Duy.

216

Dịp này nhạc sĩ Phạm Duy đến sinh hoạt với toàn thể sinh viên chúng tôi. Ông đang làm loạt nhạc mới mà ông gọi là 10 bài Tâm Ca, lúc đó mới chỉ xong có 7, 8 bài. Ông hát những ca khúc này, và tôi bị choáng ngợp bởi nhạc và lời của những bản Tâm Ca này. Ông hát một hơi năm bản, và trong giờ nghỉ của ông, tôi được anh em của nhóm tôi đẩy ra trình diễn một số ca khúc của tôi. Chỉ là vài bài ca sinh hoạt mà thôi.

Tôi bị nhạc của Phạm Duy hớp hồn như thế nào, thì ông ngạc nhiên về những ca khúc của tôi như thế. Sau đó hai bên gặp gỡ, với Phạm Duy, ông cho tôi là một khám phá mới. Nó khác hẳn những dòng nhạc của những người đi trước và cùng thời với ông. Do đó Phạm Duy đề nghị mỗi tuần gặp nhau một lần vào tối Thứ Năm, để hát cho nhau nghe những sáng tác mới. Nếu không có sáng tác mới thì đàm đạo chuyện văn nghệ. Tôi đã trình bầy cho Phạm Duy nghe toàn bộ những ca khúc trong tập Trầm Ca. Nội dung những ca khúc trong tập nhạc này, là đặt vấn đề thanh niên đối với vận mạng đất nước, đưa ra những suy nghĩ của tuổi trẻ như những sáng tác trong bài ”Nỗi Buồn Nhược Tiểu” hay ”Tiếng Hát Tự Do” hay “Lìa Nhau”, và ban Trầm Ca đã ra đời trong dịp này, với thành phần nồng cốt là phần lớn bạn bè ở Đà Lạt. Mà những người bạn này không bao giờ là ca sĩ, họ chỉ là những thanh niên thích sinh hoạt, yêu lý tưởng chung. Từ đó chúng tôi được đi hát với Phạm Duy.

Chúng tôi tạo được một ảnh hưởng khá lớn. Cuối năm 1965, nhóm chúng tôi được mời tham dự các sinh hoạt các kỳ trại, và đặc biệt là các khóa huấn luyện thanh niên, của các hội đoàn thanh niên tại khắp bốn Quân Khu. Giai đoạn này nghĩ lại là một giai đoạn lạ lùng nhất. Chúng tôi làm việc như điên cuồng, sáng tác, tập tành, đi trình diễn, đi huấn luyện. Chúng tôi không còn biết đến một điều gì khác ở cái tuổi 20 lúc đó. Tôi không hiểu nhóm tôi sống bằng cách gì, chỉ biết nghề của tôi là

217

”Vác Ngà Voi” và địa điểm hành nghề là khắp Bốn Vùng Chiến Thuật. Hễ có nơi nào ”Ới một tiếng”, là chúng tôi khăn gói lên đường. Về phương tiện di chuyển thì nơi nào ới, nơi đó chịu trách nhiệm. Còn ăn uống thế nào cũng xong, ngủ nghê chỗ nào mà chả được. Giai đoạn này một số bạn bè đã phải đóng góp cho nhóm của chúng tôi có một chút tiền dằn túi, mỗi khi đi xa.

Năm 1965, tôi mới 21 tuổi, mới xong năm thứ I Đại Học, ai cũng tưởng rằng đời mở ra cho chúng tôi những con đường thênh thang. Thế hệ chúng tôi quả là có muôn vạn ngả đường. Có điều chúng đồng quy tại vài điểm: Đó là các quân trường, bởi vì chiến tranh đã mỗi ngày mỗi trở nên khốc liệt. Những chuyến ăn cơm nhà, vác ngà voi đó bề gì cũng cho chúng tôi một cơ hội nhìn ngó lại mặt mày của chính chúng tôi, và đồng thời chúng tôi cũng có cơ hội được nhìn ngó cái mặt trái của chiến tranh, và của dân chúng Việt Nam ở những chỗ giáp vòng lửa đạn, và tận cùng khổ đau.

Chúng tôi đã nhìn thấy những ngôi nhà tan hoang, những thôn xóm trống trải, những làng mạc tiêu điều và đặc biệt là những đôi mắt vô hồn của con người, sau khi chiến trận như một cơn lốc tràn qua. Chính những chuyến đi này, đã thổi vào tâm hồn tôi những trận gió nóng hừng hực. Những sáng tác của tôi, nếu anh để ý thì hình như ít có những hoa và bướm, chỉ toàn là những tiếng kêu. Nhiều khi tôi muốn rú lên trong những ca khúc của tôi. Những thanh âm của sự khổ đau làm sao mà êm ả được. Trong những vùng tương đối có an ninh, nơi các thành phố tôi bắt gặp những hình ảnh đau lòng khác của chiến tranh: Những hố ngăn cách giữa giầu và nghèo, những bất công, những sa đọa của một xã hội trong thời chiến... Đó là một trong những lý do khiến những ca khúc của tôi có được những hình ảnh, tâm tình và những suy nghĩ mới sống động, sát với thực tế xã hội. Những hình ảnh đó hầu như ai ai cũng bắt gặp trong đời

218

sống hàng ngày, nó quen thuộc đến độ nhàm chán, nhưng chưa có một ai dùng âm nhạc để ghi lại. Chính vì vậy mà nhạc sĩ Phạm Duy coi tôi là một khám phá mới.

Suốt hơn một năm trời đi và sinh hoạt như thế, tổng kết lại có hơn ba mươi tỉnh liên lạc với nhóm chúng tôi, tự động đề nghị giúp họ tiếp tục có điều kiện sinh hoạt, có bài hát, có trò chơi, có công tác xã hội, lập thành một đơn vị gì đó. Đó là một kết quả đầy xúc động, và bởi vậy chúng tôi không ngừng lại được. Những sợi dây liên lạc đầu tiên này chính là những mắt lưới chắc chắn, và nương vào đó phong trào du ca hình thành. Chúng tôi phải nghĩ đến một địa chỉ để liên lạc, một nơi chốn để sinh hoạt, một tổ chức nhân sự để điều hành guồng máy.

Giải quyết những vấn đề này xong thì phong trào du ca chính thức có giấy phép hoạt động từ năm 1966. Nhưng thật ra nó đã sớm có mặt với đời từ đầu năm 1965. Khi phong trào đã có một danh xưng, bên cạnh những người bạn của nhóm chúng tôi từ ngày còn ở Đà Lạt, như Đinh Gia Lập, Hoàng Kim Châu, Nguyễn Quốc Văn, Phương Oanh, Trần Trọng Thảo, ngay lập tức nó quy tụ được những khuôn mặt khác: Ngô Mạnh Thu, Đỗ Ngọc Yến, Hoàng Ngọc Tuệ... là vài khuôn mặt quen thuộc có mặt với du ca ngay từ khi trứng nước này.

IV. Đó là bối cảnh riêng của phong trào du ca, nằm trong bối cảnh chung của một xã hội. Người ta có thể coi Du Ca là một phong trào thanh niên, hay một phong trào sinh viên, học sinh, hay là một nhóm người hoạt động xã hội, hay là một ban văn nghệ, hay là cái gì đó, nhưng có một điều dứt khoát trong tôn chỉ (nếu có) của chúng tôi, thì Du Ca không làm chính trị. Tôi không phủ nhận trong anh em chúng tôi sau này cũng có người hoạt động chính trị, nhưng đó là một mặt khác của mỗi người trong anh em chúng tôi. Tôi sẽ trở lại vấn đề này sau.

219

Giờ đây hãy nói về Du Ca trong lúc từ KHÔNG trở thành CÓ.

Trước tiên về tổ chức, không thể tiện đâu làm đó. Nơi nào ới một tiếng là lại hăm hở khăn gói lên đường. Giờ đây phải có đường lối, kế hoạch, phải có tôn chỉ rõ ràng. Chúng tôi không quan niệm đoàn thể trong một bộ đồng phục. Cái gì có đồng phục là bắt đầu có khác biệt với quần chúng, có ngăn cách với những người của đời thường. Mà nghiệm lại chúng tôi chỉ là những người trẻ, trẻ cả tâm hồn lẫn thể xác, muốn tìm một con đường để phụng sự xã hội, khác với mọi con đường đã có sẵn. Chúng tôi tự nhìn lại chúng tôi, chúng tôi cũng là những con người thường như hàng triệu những con người của xã hội, thì hà cớ chi phải mặc đồng phục cho khác với người đời. Chúng tôi muốn phục vụ xã hội nhiều hơn là mưu đồ một việc gì đó cho mỗi anh em chúng tôi. Do đó chúng tôi thu hẹp mục đích vào trong tầm tay, trong khả năng của chúng tôi. Chúng tôi chọn thanh niên làm đối tượng chính cho mọi sinh hoạt của chúng tôi, kế đó là những hoạt động trong phạm vi xã hội, đặc biệt là cứu trợ, bởi vì đất nước đang trong thời chiến, nạn nhân của chiến tranh đã lắm, mà thiên tai, hỏa hoạn, lụt lội, bão tố còn đóng góp thêm không ít khổ ải cho dân tộc Việt Nam.

Để có thể đáp ứng những mục tiêu này, những người anh em của chúng tôi cũng phải được huấn luyện. Nói rõ ra là phải được tập để sống trong một môi trường hết sức động. Phải tập để bớt nghĩ cho riêng mình, phải tập để sinh hoạt với một số người, trong một số công tác, thường xuyên kham khổ và đôi khi nguy hiểm. Ca hát không phải là điều cần thiết nhất trong huấn luyện của chúng tôi. Mở lòng đến với mọi người mới là cái mà chúng tôi nhắm tới. Chỉ như thế, người du ca mới có thể quên bớt những thú vui thành thị, để đi về những thôn xóm xa xôi, hát cho đồng bào nghe. Phải biết quên mình

220

đi, mới có thể phục vụ cho người, nhất là phục vụ không nhận thù lao, hoặc giả thù lao là những bữa ăn đạm bạc, những chỗ nằm vạ vật.

Nói khôi hài một chút thì ngay từ khi mới ra đời, phong trào du ca nổi lên như một bầy ong vỡ tổ, nhao nhao khắp mọi nơi. Chỉ trong một khoảng thời gian không đầy một năm, trên toàn quốc có cả trăm toán du ca, chỉ riêng Vùng Một Chiến Thuật, Đà Nẵng và Huế không mà thôi đã có hơn ba chục toán. Một toán du ca địa phương thường do một nhóm bạn trẻ địa phương tự phát động, khi đủ nhân số tới một mức độ nào đó, thì Văn Phòng Trung Ương của Phong Trào Du Ca, cử người tới huấn luyện. Các khóa toán trưởng là mối quan tâm lớn nhất của Phong Trào, và sẽ phải tới sinh hoạt với toán mới thành lập một thời gian, dài ngắn tùy theo nhu cầu tại chỗ.

Khi nào nhắm thấy đoàn đã có thể tự sinh hoạt thì việc huấn luyện chấm dứt, và một đoàn du ca nữa lại lên đường, hòa nhập vào xã hội. Thỉnh thoảng Phong Trào Du Ca tổ chức những trại huấn luyện đặc biệt, các đoàn địa phương gửi người về tham dự. Mỗi hai năm lại có một đại hội để các nơi về dự.

Con số đoàn viên của Phong Trào Du Ca trên toàn quốc vào khoảng từ 4,000 cho tới 5,000 người. Đến bây giờ nghĩ lại tôi thấy chắc chắn chúng tôi đã tìm được một chất keo nào đó, để buộc được mấy ngàn con người, cùng một nhịp đập của trái tim, một nhịp thở của buồng phổi, một hướng sinh hoạt chung. Tôi rất khiêm tốn nêu một câu hỏi: Trước và sau chúng tôi, đã có một phong trào thanh niên, sinh viên, học sinh nào như thế chưa? Người du ca chỉ không còn chính thức xuất hiện trong xã hội Việt Nam sau năm 1975, nhưng tôi tin rằng con người du ca bên trong của những anh em chúng tôi, con

221

người thứ hai sẽ sống mãi trong lòng anh em chúng tôi, cho dù anh em chúng tôi sinh sống ở bất cứ một nơi nào, một xó xỉnh nào trên thế giới mỗi ngày mỗi chật này

Đã đến lúc tôi phải trả lời câu hỏi của nhiều người, một câu hỏi mà đôi khi người du ca khá lúng túng do hoàn cảnh chính trị, xã hội lúc phong trào đang cực thịnh: Chúng tôi tuyệt đối không nhận bất cứ một tài trợ tiền bạc nào, của bất cứ ai, kể cả chính quyền và kể cả người Mỹ.

Câu hỏi này đã được nêu lên ngay từ thời còn ở trong nước. Tôi hiểu vì sao những câu hỏi này được nêu lên. Bởi vì khi chúng tôi còn là một nhóm nhỏ, thì bất quá chúng tôi cũng chỉ là một vài cá nhân đôi khi có vẻ hơi lập dị. Có không ít người đã dè bỉu những ca khúc sinh hoạt của chúng tôi. Làm sao được, khi viết nhạc, anh em chúng tôi ngoài việc nghĩ ngợi là của riêng mỗi người, nhưng hình ảnh mà chúng tôi phục vụ ít khi nào là hai người, mà là đám đông. Nhạc như thế thì làm sao mà đi vào các vũ trường của các vương tôn công tử? Làm sao mon men được tới những chỗ cửa quyền? Làm gì có nhà xuất bản nào nghĩ đến chuyện ấn hành một tập nhạc không giống ai, để mà bán cho ai?

Nhưng một khi phong trào đã dấy lên, tại tỉnh nào cũng có một đoàn du ca, không lớn thì nhỏ. Với hàng ngàn đoàn viên trên toàn quốc thì không một ai có thể phủ nhận anh em chúng tôi là một sức mạnh. Đó là một lực lượng nhân sự lớn lao mà ngay cả các đoàn thể do chính quyền thành lập cũng không hơn được. Hơn thế nữa, lực lượng đó còn đang độc lập, không bị chi phối bởi bất cứ một phe nhóm chính trị nào. Nếu giả dụ như một nhân vật chính trị nào đó, có thể ảnh hưởng đến cái nhân của phong trào du ca này, thì ảnh hưởng của số đông tất nhiên là đáng kể. Vả lại một sinh hoạt nặng tính văn

222

nghệ, đi kèm cho những hoạt động chính trị thì kết quả sẽ lớn lao vô cùng. Chính vì vậy mà rất nhiều phe nhóm muốn thâm nhập vào phong trào du ca, chính vì vậy mà cả hai phe tham chiến, và có thể cả người Mỹ đứng sau lưng một vài nhân vật nào đó, nhìn anh em chúng tôi như một miếng mồi.

Tôi nghĩ là đã có một dạo, tất cả các phe nhóm đều cài người vào làm đoàn viên du ca. Nhất là tại các địa phương, vì du ca là một phong trào tự phát, phần lớn là sinh viên học sinh, thành thử làm sao chúng tôi có thể phòng gian như các lực lượng an ninh của quốc gia, còn bảo mật thì du ca làm gì có cái gì cần phải bảo mật. Chúng tôi ca hát giữa trời, trong thanh thiên bạch nhật, hay giữa những ánh lửa bập bùng của các sinh hoạt lửa trại. Chúng tôi có giao tranh với ai đâu mà phải phòng gian bảo mật. Chúng tôi cần tiền để sinh hoạt, nhưng đâu có cần bạc triệu, và các anh em chúng tôi nghĩ bên cạnh những điều mà tuổi trẻ muốn nói thẳng, nói thật trong các ca khúc của anh em chúng tôi viết ra, thì việc sinh hoạt cũng là một thú vui lành mạnh và bổ ích. Đi coi xi nê thì cũng tốn tiền như đi hát một buổi du ca. Nào có gì quá tốn cho túi tiền của anh em chúng tôi. Phương tiện trong khi đi xa, thì đã có các cơ quan hành chánh, hay các đơn vị quân đội giúp đỡ. Còn trong phạm vi của các thị xã, anh em chúng tôi lội bộ đến nhà nhau, đèo nhau trên xe đạp, sang cả hơn thì có xe Honda. Chính bởi vậy mà một số anh em chúng tôi trong Văn Phòng Trung Ương quả là có được một số phe nhóm tiếp xúc, nhưng chúng tôi hãnh diện nhìn thẳng vào mắt người hỏi, và dõng dạc trả lời cho rõ: ”Chúng tôi không hề nhận bất cứ một yểm trợ tài chánh của bất kỳ ai, và cũng không bao giờ lệ thuộc vào bất cứ một phe nhóm nào”. Chính vì tính độc lập này cũng đã gây không ít phiền lụy cho chúng tôi sau này.

223

V. Năm 1967, sau một năm hoạt động, anh em chúng tôi quyết định tổ chức Đại Hội Du Ca Kỳ I. Địa điểm tổ chức đại hội được CPS cho mượn và thời gian sinh hoạt kéo dài trong ba ngày, với sự tham dự của rất nhiều anh em đại diện các đoàn du ca từ khắp nơi về tham dự. Có tới hàng trăm con người từ tứ phương đổ về, thế mà moi lại túi của tất cả các anh em trong Văn Phòng Trung Ương có được một số tiền khiêm tốn. Với số tiền này cho dù có dè xẻn lắm cũng chỉ có thể chu cấp cho mươi, mười lăm người... ăn cơm xã hội.

Tôi không lo khoản ngủ, bởi vì đã là anh em du ca thì ngủ đâu là nhà, ngã đâu là giường. Nhưng cái khoản tiền ăn của anh em thì dứt khoát chúng tôi phải lo. Không cơm gà, cá gỏi, bíp tết, súp vi cá... thì cũng phải cơm tấm bì sườn. Với hàng trăm anh em thì tiền ăn không mà thôi, một ngày cũng tốn cỡ 2000$. Ba ngày vị chi là 6000$, tiền linh tinh các khoản cho là eo hẹp thì cũng phải có 10,000$ trong tay mới có thể ăn nói không...lúng búng.

Tôi đi mượn được 50 chục cái ghế bố nhà binh, kê la liệt trong các phòng của CPS, tất nhiên là không đủ, nhưng với anh em trong nhà, có bao nhiêu xài bấy nhiêu. Ban ngày sinh hoạt, tối chia nhau đi ngủ nhờ các anh em du ca của các đoàn trong Sài Gòn. Tôi mất ăn, mất ngủ về ngân khoản trong vài ngày cho tới khi gặp Đỗ Ngọc Yến.

Sau khi thở hắt ra, tả oán, ông Yến nói để đó tôi lo khoản ”tài chánh” này cho ông. Ba ngày sau ông Yến mang cho tôi một gói tiền, khoảng hơn 10,000$. Mãi về sau này tôi mới biết đó là đồ tế nhuyễn của bà Yến, khi đó ông Yến mới lập gia đình, sau khi đi dạm hỏi vài nơi không có. Chàng chơi bạo, mang đồ tế nhuyễn của vợ đi cầm đồ, để chơi xả láng với anh em. Để anh em không

224

”mất vui”, trong kỳ đại hội đầu tiên của anh em. Tôi biết chắc chắn ông Yến sẽ chuộc lại những đồ này, nhưng bao lâu sau thì tôi không biết.

Tôi có một kỷ niệm rất vui trong kỳ Đại Hội này. Buổi chiều trước ngày đại hội khai diễn, tôi đang nằm dài trong ghế bố kê sát với bàn ghi danh. Một vài anh em trẻ cỡ khoảng 16, 17 tuổi, quần áo còn vương bụi đường xa, tóc tai còn lấm tấm đỏ rụt rè bước vô. Mấy người anh em này cho tôi biết họ thuộc Toán Du Ca Lòng Mẹ, từ Ban Mê Thuột về tham gia đại hội. Trong toán này có Nguyễn Quyết Thắng. Họ vừa từ bến xe đò về đây. Tôi nói với họ làm thủ tục ghi danh, tôi chỉ cho họ mấy cái ghế bố còn trống, nói với họ đi nằm dưỡng sức, ngày mai mới là ngày đại hội. Tôi còn nhớ Nguyễn Quyết Thắng có vẻ bồn chồn, nóng nẩy. Anh đi ra vào, nhìn trước nhìn sau. Thấy tôi có vẻ sẵn sàng trả lời Thắng hỏi:

- ”Thưa anh, cụ Nguyễn Đức Quang có đây không ạ?”

Tôi muốn phá ra cười, nhưng cái máu du ca trong người dằn tôi lại. Tôi trả lời Thắng:

- ”Có nhưng ngày mai mới tới trong đại hội”.

Thế rồi ba ngày sinh hoạt trôi qua, hôm chia tay để lên đường về lại bản quán, Nguyễn Quyết Thắng lại một lần bồn chồn, đi ra đi vào. Sau cùng anh đến trước mặt tôi nói:

- ”Tụi em ở xa, đọc báo thấy anh là bạn của Nhạc sĩ Phạm Duy, tụi em nghĩ anh cũng phải 50, 60 tuổi”.

Nói xong Thắng mở ba lô, lấy ra một bức tranh vẽ một ông già râu tóc bạc phơ, Thắng đưa cho tôi và nói:

225

- ”Em cứ tin là anh già khú đế, cho nên vẽ theo trí tưởng tượng. Vẽ thì cũng đã vẽ rồi, mong anh nhận”.

Cho tới bây giờ toán Du Ca Lòng Mẹ của tỉnh Ban Mê Thuột là toán tôi nhớ nhất, trong hơn một trăm toán du ca trên toàn quốc. Không phải chỉ vì bức tranh ”ông già”, mà vì một chuyện đau lòng, với hai nhân mạng con người, mà một trong hai người này là Nguyễn Tri Bình, con cháu của dòng họ Nguyễn Tri Phương.

Năm đó là năm 1970, Nguyễn Quyết Thắng đã không còn ở Ban Mê Thuột, nhưng những anh em du ca của đoàn Lòng Mẹ thì vẫn còn đầy đủ. Chỉ có một điều hơi bất thường là trong các anh em nòng cốt của đoàn này, có vài người ”nhẩy núi”, theo phe bên kia. Có hai điều có thể xẩy ra với những người này. Một là họ bỏ theo bên kia, vì cảm thấy chính quyền của miền Nam càng ngày càng bết. Thời điểm này chiến tranh đã kinh khiếp vô cùng, và ít nhất họ cũng là người can đảm, dám đi theo lý tưởng của họ (Tôi nhấn mạnh đây là lý tưởng của một số nhỏ đoàn viên du ca, chứ không phải của đại đa số các anh em du ca). Thứ hai họ có thể là người của bên kia, cài vào sinh hoạt trong phong trào, để rồi từ đó hoạt động trí vận.

Bây giờ nghĩ lại chuyện đau lòng này, tôi tin là có phép lạ. Bởi vì nếu không có phép lạ thì con số người chết phải cao hơn. Một trái B40, bắn trực xạ trong tầm gần có thể sát hại cả một tiểu đội lính là thường, thế mà chiếc xe chở anh em Đoàn Du Ca Lòng Mẹ chất đầy như cá hộp. Trái B40 trúng đích, thế mà chỉ có hai người chết, một người bị cụt tay và vài người bị thương nhẹ. Khi bị nạn Nguyễn Tri Bình chưa chết ngay, anh được chở về nhà thương lớn trong Sài Gòn, để nơi đây có nhiều phương tiện chạy chữa cho anh. Hai ngày sau Nguyễn Tri Bình chết. Mang xác anh về trả cho gia đình là một

226

trọng trách của chúng tôi, và tất nhiên đây không phải là một công tác dễ dàng gì. Tôi nhớ người tình nguyện lãnh nhiệm vụ này lại vẫn là anh Đỗ Ngọc Yến.

Hôm tiễn đưa anh về lại Ban Mê Thuột, mấy người chúng tôi đi cùng anh Yến ra bến xe, chúng tôi không một ai nói lời nào, bởi vì có nói gì bây giờ cũng vô ích. Chúng tôi nhìn Đỗ Ngọc Yến một mình thui thủi chui vào lòng xe, với cỗ quan tài. Chúng tôi thuê một chiếc xe lô nhỏ, một mình Đỗ Ngọc yến ngồi bên tài xế, một mình Nguyễn Tri Bình nằm trong quan tài choán trọn đằng sau xe. Anh Yến cho biết vì chiến tranh đã không cho phép xe đi thẳng từ Sài Gòn lên Ban Mê Thuột, do đó hành trình phải vòng qua Nha Trang, khi tới Nha Trang đã xế chiều. Anh Yến quyết định đi luôn, và ông tài xế cũng không cản. Mãi cho tới 1 giờ khuya mới tới được Ban Mê Thuột.

Anh Yến tin rằng Nguyễn Tri Bình đã phù hộ cho anh trên con đường thăm thẳm này đã không gặp bất cứ một tai họa nào, và cũng không một ai lại liều lĩnh băng rừng, vượt núi trong lúc chiến tranh đã ngự trị trên khắp nẻo đường đất nước. Hôm đi chôn Nguyễn Tri Bình, Đỗ Ngọc Yến cho biết tất cả các anh em trong đoàn du ca Lòng Mẹ đều tề tựu đủ, kể cả mấy người nhẩy núi cũng mò về. Họ mặc quần áo đen, đi lặng lẽ sau quan tài.

Họ là những người du ca nhẩy núi, đã đứng trong một trận tuyến khác, và chúng tôi những người du ca không nhẩy núi đã từng biết nhau. Chúng tôi nhìn rõ mặt nhau, nhưng cả hai bên đều cố tình lạ mặt, bởi vì không có một ngôn ngữ nào có thể làm cho chúng tôi xích lại gần nhau. Chúng tôi biết sau này giữa họ và chúng tôi, có thể gặp nhau nơi trận tuyến, chỉ cầu mong cho những người du ca sẽ đứng trong hai lằn ranh, không phải trực diện với nhau ngoài mặt trận.

227

Vì sự việc xẩy ra ở quá xa chúng tôi, nên tôi không thể biết được cái gì đã xẩy ra nơi đó, nhưng trong lòng tôi là vô vàn ân hận. Vả lại thời gian này tôi đã nhập ngũ, đã ra trường và được phục vụ tại TCCTCT. Cho dù tôi có muốn làm một cái gì đó cho người nằm xuống thì tôi không có hoàn cảnh thực hiện.

Khi phong trào thành lập và hoạt động được hai năm thì tôi tin rằng phong trào sẽ không bao giờ tan vỡ, bởi vì những người du ca chúng tôi đáp ứng cho một nhu cầu xã hội lúc bấy giờ. Chúng tôi không làm chính trị, nhưng không một ai có thể chối cãi sinh hoạt của du ca có một ý thức chính trị cao. Chỉ nội một điều chúng tôi ca tụng tự do, hô hào cho tự do đã đủ làm cho cả hai phe tham chiến không lấy gì hài lòng. Bởi vì tự do là một cái gì hoàn toàn lạ mặt đối với phía Cộng Sản, còn đối với chính phủ miền Nam, chúng ta có một thứ tự do bị hạn chế khá nhiều. Chúng tôi không muốn dính dự vào chính trị, nhưng những người làm chính trị thì lại muốn chúng tôi. Thành thử đã có nhiều lần người ta tìm cách vận dụng chúng tôi.

Một trong những người đã nhìn du ca khá trịnh trọng là Nguyễn Cao Kỳ. Lần đó chúng tôi có một sinh hoạt đặc biệt nơi rạp Thống Nhất, ông Kỳ khi đó là Chủ Tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương, nói gọn ra là Thủ Tướng. Hình thức sinh hoạt của du ca làm cho ông Kỳ bị kích thích. Sau khi buổi sinh hoạt tan, ông Kỳ nói với tôi: “Toa tới gặp Nguyễn Bảo Trị, ông Trị sẽ lo liệu cho du ca”.

Trong bụng tôi nghĩ du ca đâu có phải là một mình tôi, và cũng đâu có phải là một món đồ, tùy thích muốn mang đi đâu thì đi. Nhưng tôi cũng thử đến gặp ông Nguyễn Bảo Trị, từ ông Trị tôi được đẩy xuống gặp Nhạc Sĩ Phạm Đình Chương. Nhờ vậy mà tôi được gặp

228

một nhạc sĩ mà tôi hết sức khâm phục, tác giả của những bài ca tôi đã từng hát hoài hoài trong những năm niên thiếu. Câu chuyện giữa tôi và nhạc sĩ Phạm Đình Chương sau cùng là chuyện văn nghệ, văn gừng. Và rồi không có gì xẩy ra giữa du ca và chính quyền, và rồi một thời gian ngắn sau ông Kỳ không còn làm Thủ Tướng, ông Trị không còn làm Tổng Trưởng Thông Tin, nhưng Du Ca thì còn đó mãi, sống còn với miền Nam và chỉ không thể hoạt động kể từ tháng Tư năm 75.

Nói về những người du ca ”nhẩy núi”, thì không thể không nhắc tới Tôn Thất Lập, một người viết khá nhiều ca khúc cho phong trào du ca. Trước tiên phải nói tới Tôn Thất Lập đến với du ca khá muộn màng, năm 1968 sau Tết Mậu Thân anh mới tham gia, và đóng góp một loạt ca khúc có chất lượng. Anh có tìm tôi vài lần, và một lần sau cùng trước khi anh bỏ hẳn ra ngoài bưng, anh có đến nằm tại nhà tôi ba ngày liền. Trong câu chuyện khi nói tới mục đích chung, cũng như con đường của mỗi người, đã nhiều lần Tôn Thất Lập mấp mé đến cái chuyện ra bưng, nhưng tôi không bao giờ tỏ một chút hưởng ứng nào, hễ cứ gần tới đó thì tôi gạt đi và nói chuyện khác, chẳng phải tôi không đủ lý lẽ tranh cãi, nhưng tranh cãi nghĩ cho cùng cũng vô ích mà thôi. Tôi không bao giờ coi thường những người dám chọn lựa cho mình một lý tưởng và quan trọng hơn nữa là dám thực hiện lý tưởng của mình cho dù nguy hiểm. Phần tôi tôi có ý thức chính trị, song tôi không hoạt động chính trị, và lý tưởng của riêng tôi là ca hát cho đời, thiết tha nói lên những suy nghĩ của tuổi trẻ chúng tôi, kêu gọi mọi người hãy yêu thương nhau, hãy xắn tay áo và làm việc, không phải là lúc ngồi đặt vấn đề, mà là lúc bắt tay vào việc. Làm những việc nhỏ thôi, trong tầm tay của mình, làm tốt cho một số người ngay bên cạnh mình mà thôi.

229

Cuối cùng Tôn Thất Lập không thể không nói: Anh đề cập thẳng với tôi về việc đóng góp cho dân tộc. Tôi trả lời cho anh: Mỗi người trong chúng ta phải chọn cho mình một cách chọn lựa. Tôi yêu chuộng và kêu gào Tự Do cho mọi con người, trong thân phận của một nhạc sĩ sáng tác, tôi chọn sự độc lập”. Bây giờ nghĩ lại cuộc tiếp xúc của anh Tôn Thất Lập với tôi, chẳng giúp gì được cho cả hai người, riêng phần tôi thì vô hình chung tôi sẽ nhận tác hại từ cả hai phe. Năm 1968, phía bên kia dành cho tôi một cái án miệng.

Dường như năm 1972, cái án miệng này tăng giá.

Những người anh em du ca chúng tôi hãnh diện làm được khá nhiều việc. Thổi được một luồng gió mới sinh động qua các trường học, đặc biệt là tạo được một ảnh hưởng đối với học sinh sửa soạn bước vào Đại Học, tạo một cơ hội cho tuổi trẻ nhìn lại chính thân phận của mình, và hoàn cảnh của đất nước, của dân chúng, của xã hội. Đó là một cái nền của một bức họa, và rồi anh em chúng tôi, mỗi người tùy khả năng mà dệt gấm thêu hoa.

Phía Cộng Sản, họ chuyên trị hoạt động đoàn thể, nên hình như họ nhìn vấn đề sinh hoạt cộng đồng, họ nhìn Phong Trào Du Ca nghiêm trọng hơn chính quyền miền Nam. Cũng trong năm 1968, khi đó tôi đã nhập ngũ, một hôm có một anh xích lô máy ngừng xe trước cửa nhà tôi. Anh mang đến cho tôi ba tờ giấy ghi tên xin tham gia các hội đoàn văn nghệ... ở ngoài bưng.

VI. Tôi có bốn đợt sáng tác, mỗi đợt có thể coi như là một tập ca khúc: Trầm Ca, Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Tiếng Hát Tự Do, Ruồi và Kên Kên”. Tuy là bốn đợt sáng tác trong bốn thời điểm khác nhau, song tinh thần của những ca khúc không có gì thay đổi nhiều. Có nhiều người kết tội tôi là làm những ca khúc phản chiến. Tôi

230

xác nhận trong những ca khúc của tôi quả có một số bài phản chiến. Nhưng tôi nghĩ bất cứ một người dân thường nào cũng yêu hòa bình, và chán ghét chiến tranh. Hòa bình có phải chăng là niềm khát khao của toàn thể dân tộc, bởi vì trên thế giới này, không có một dân tộc nào chịu nhiều khổ đau vì chiến tranh cho bằng dân tộc Việt Nam.

Từ đời cha sang tới đời con, từ đời ông xuống tới đời cháu. Chiến tranh là một gia tài truyền tử lưu tôn, và kéo dài suốt ba thế kỷ liền. Kể từ khi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ nẻo cho Chúa Nguyễn Hoàng: ”Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, lấy sông Gianh làm biên giới Bắc Nam cho tới nay, thì hình như dân tộc Việt ít có cơ hội ngơi nghỉ chiến tranh. Những thế kỷ trước quân Trịnh vượt sông Gianh bẩy lần, rồi quân Nguyễn đáp lễ hai lần, mỗi lần để sửa soạn chinh chiến thì bao nhiêu sinh lực dân tộc lại ném vào chiến trận trong một hai chục năm ròng rã. Ấy là chưa kể đến những trận đánh ở phía Nam, Chúa Nguyễn đã xóa đi hình thể quốc gia Champa trên bản đồ thế giới. Còn phía Bắc thì giặc giã nổi lên tứ phương, tám hướng. Thế rồi nhà Tây Sơn nổi lên, diệt Trịnh phương Bắc, diệt Nguyễn phương Nam. Thế rồi quân Thanh xâm lược, và kế đó là Gia Long thống nhất sơn hà, để rồi mở đường cho người Pháp thôn tính Việt Nam.

Sau đó nào là Cần Vương, nào là Văn Thân, và rồi toàn thể dân tộc đắm mình trong chiến tranh dành độc lập. Độc lập thì có nhưng đất nước lại một lần chia hai, lần này với con sông Bến Hải làm ranh giới giữa hai mạch sống. Và rồi sau cùng là trận chiến có tôi tham dự. Tôi nghĩ rằng sau ba thế kỷ chiến tranh ròng rã, khát khao hòa bình là một khát khao chính đáng của toàn dân. Tôi cũng hiểu cái giá của hòa bình, nên vì vậy mà tôi thi hành bổn phận của một công dân như hàng triệu thanh niên khác trong lứa tuổi của tôi. Là một người lính, tôi

231

nghĩ rằng tôi cũng như mọi người được quyền ao ước hòa bình.

Những ca khúc của tôi đâu phải chỉ có toàn những lời ca rên xiết vì hòa bình. Con số những ca khúc mà người ta coi là phản chiến thật ra rất ít. Tôi chống lại mọi áp đặt, mọi bất công, mọi tệ trạng, mọi điều xấu làm con người tha hóa, thành thử có một dạo chính quyền miền Nam cũng nhìn tôi bằng một con mắt nghiêm khắc. Bởi vì tôi là một trong những người đã viết những ca khúc nói lên tệ trạng tham nhũng của miền Nam. ”Ruồi và Kên Kên” là một tập gồm những ca khúc khiến tôi trở thành một cái gai cho cả hai phe tham chiến. Phe nào cũng là ruồi, và phe nào cũng có hình ảnh của kên kên.

Những năm cuối cùng của trận chiến, là những năm thê thảm nhất. Tôi đã đưa hàng trăm bạn bè, đồng đội đi về nơi yên nghỉ cuối cùng. Tôi vẫn khát khao hòa bình, nhưng trong tâm khảm tôi, tôi tin rằng nếu miền Nam hoàn tất được nhiệm vụ đối với dân tộc, thì lịch sử sẽ trôi êm đềm hơn. Trong trường hợp ngược lại thì nhiều khi tôi sợ, không dám nghĩ tới. Thế rồi cái gì tôi sợ nhất, chính cái đó đến với tôi, đến với mọi người trong năm 1975.

Cũng như mọi người, tôi đi tù cải tạo. Nhờ cấp bậc không cao nên tôi được thả về khá sớm. Tôi đã trả giá cho những năm quân đội, những năm du ca bằng ba năm tù. Tôi không hiểu những người khác được về sớm như tôi nghĩ gì? Riêng tôi đã có lúc tôi chỉ mong vào tù trở lại, vì cái xã hội của miền Nam vào khoảng 1975-1980 là một xã hội kỳ lạ, ngộp thở. Những người được thả về sớm, bị chỉ định cư trú, gặp phải những người công an ít học, còn khổ hơn trong những trại tù. Trong tù người ta còn những thứ người Cộng Sản không bao giờ tiêu diệt nổi: Đó là tình bằng hữu, tình đồng đội.

232

Tôi cũng nghe nói tới những người làm ”ăng ten” cho quản giáo, con số này không nhiều và có lẽ những người yếu lòng, cam tâm làm ăng ten với mục đích sẽ được tha về sớm, sau hai ba năm thấy mình cũng như ai, thì hà cớ gì mà gánh chịu những áp lực từ hai phía: Phía quản giáo và phía bạn đồng tù. Trong tù, chúng tôi không cảm thấy cái lưng của chúng tôi trống trải, nhưng khi được thả ra ngoài xã hội, lúc nào chúng tôi cũng phải ngó chừng bốn hướng, tám phương. Lúc nào cũng có cảm giác lưng mình sắp bị một người nào đó chém trộm. Đến độ gia đình tôi bị đẩy đi vùng kinh tế mới tôi cũng không lấy đó làm buồn.

Khi nhìn vào tờ giấy phải đi kinh tế mới, tôi phát giác được người ký tên trục xuất tôi ra khỏi thành phố, nào phải ai xa lạ. Anh ta là một trong những người đã từng sát cánh với tôi trong phong trào Du Ca. Tôi không trách gì anh ta. Chỉ lạ một điều cho dù anh ta có can đảm vì lý tưởng, cho dù anh ta dẵm lên tình bạn thì ít ra anh ta cũng phải có can đảm, nhìn thẳng vào thực tế, nhìn sâu vào mắt tôi trong một lần tiếp xúc nào đó. Anh ta thuộc vào phe thắng trận, và cứ cho là anh đang thực hiện lý tưởng của riêng anh, anh ta có thể thí nghiệm lý tưởng trên số phần của những người bạn cũ. Không sao, có điều anh ta không được sòng phẳng khi không dám nhìn lại, không dám đối thoại với bạn cũ một lần.

Sau năm 1975, phong trào du ca tất nhiên cũng như mọi đoàn thể và đảng phài của miền Nam tự động ”đóng cửa tiệm”. Các phong trào như Hướng Đạo, Phật Tử, Thanh Sinh Công còn không dám nhúc nhích thì làm sao những người Du Ca dám sinh hoạt. Hơn thế nữa đối với người Cộng Sản, những ca khúc của du ca thật là phản động, thành thử có muốn ca hát đến đâu chăng nữa những người du ca chỉ dám ca thầm cho chính mình nghe, vả lại những năm đầu ai nấy đều cúi gầm xuống để tiết kiệm từng hơi thở, thì không nên phí sức cho một hành

233

động chỉ mang lại những nguy hiểm, mà rút cục cũng không thay đổi được một chút tình thế nào. Do đó mọi thành viên của du ca còn sống trong nước, rút vào trong bóng tối.

Một số nhỏ thoát đi được sang nơi xứ người, việc trước tiên là làm lại cuộc đời. Đất nước người mông mênh, xa lạ quá. Mỗi người thui thủi một nơi, muốn hàn huyên đã có điện thoại, muốn thăm hỏi nhau thì một năm may ra được một đôi lần. Thành thử có muốn sinh hoạt lại cũng không thể nào thực hiện được. Theo tôi biết có đến một nửa số đoàn viên du ca đã ra khỏi nước. Một nửa có nghĩa là hàng ngàn người đang sinh sống trong những quốc gia xa lạ. Con số thì to, nhưng việc quy tụ không phải là một điều dễ dàng gì. Thành thử đã nhiều năm nay, anh em chúng tôi lòng muốn tập họp lại nhưng hoàn cảnh thực tế không cho phép.

Về điều kiện xã hội tại những nơi mà anh em du ca đang tạm sống tạm, nói chung các cộng đồng Việt Nam ở Mỹ đa dạng quá. Tuy lòng quyến cố quá mạnh, lôi cuốn phần đông thanh niên đi vào các sinh hoạt chính trị nhiều hơn là sinh hoạt thanh niên thuần túy. Và quan trọng hơn nữa, tuổi trẻ trưởng thành bên ngoài Việt Nam, do môi trường giáo dục của Hoa Kỳ thường thích những sinh hoạt của xã hội Hoa Kỳ, nhiều hơn là một sinh hoạt đặc thù Việt Nam. Thành thử nếu có lập lại được phong trào du ca thì cũng sẽ không có được những đợt người kế tiếp, ngoại trừ một số rất nhỏ con cháu trực hệ của anh em chúng tôi.

Về những sáng tác mới. Tôi nhớ có lần tôi và anh nói chuyện này. Anh đã từng có lần tiếc cho tôi trong hơn mười năm không viết một ca khúc nào. Tôi chỉ muốn nói một điều: Ngày xưa tôi sống thật trên quê hương tôi. Tôi đau từng nỗi đau của những người lính, những bà

234

mẹ, những người vợ, những người nông dân, những người lao công, những em bé, những người già... Ngày nay tôi không có cơ hội tích lũy những chất liệu vừa kể. Tôi cũng có thể nặn được những điều đó, nhưng những sáng tác thuần kỹ thuật, và trí tuệ cho dù có hay nó vẫn có một cái gì đó không thật, thành thử nó cứ gượng và vì vậy mà không đi được vào lòng người. Không cứ gì trường hợp của tôi, tôi biết nhiều nhạc sĩ sang đây khổ công sáng tác, nhưng trong hai chục năm nay, con số những ca khúc đi được vào lòng người quả là hiếm hoi.

Bởi không sáng tác thêm những ca khúc mới, trong những dịp nhàn hạ, tôi thường vấn lại lòng mình, hồi tưởng lại con đường ngày xưa anh em chúng tôi đi, mặt ngước lên, mắt nhìn thẳng và lời ca vang đi từ trong buồng phổi, vọt thẳng tới cuộc đời. Giờ đây mỗi người một xó nơi quê người, lòng muốn làm nhiều điều nhưng tuổi đã bắt đầu cao, sức đã bắt đầu yếu, chỉ sợ rằng định vẽ một con voi, khi hoàn tất nó hóa ra con mèo, tuy có lớn hơn con chuột một chút, nhưng vẫn không phải là con voi. Sinh hoạt thanh niên phải luôn luôn được bồi đắp bởi những lớp người mới, và những sáng tác mới cho phù hợp với nhu cầu xã hội. Thiếu sự liên tục của các lớp người trẻ thì thật giống như một cái cây mỗi ngày mỗi cằn cỗi. Đó là một lý do khác khiến anh em chúng tôi tuy đã có mặt nơi đây khá đông, nhưng còn ngần ngại trước khi chính thức bắt tay vào việc gây dựng một phong trào sinh hoạt thanh niên khác.

Lớp người khai phá phong trào du ca bây giờ đã bước vào tuổi già. Vài người ở ngưỡng cửa 60, số đông anh em trên 50. Tinh thần của chúng tôi tuy vẫn còn, nhưng thể chất có lẽ sẽ không còn được dẻo dai, bền bỉ như 30 năm trước. Vả lại nếu bây giờ hình thành một sinh hoạt thanh niên thì đó có thể không phải là Phong Trào Du Ca” của 30 năm trước, và tại quê nhà. Chỉ có thể tựa vào đó như một chất keo, hàn gắn lại anh em sau ba chục

235

năm rời rã, kế đó phải có một tinh thần sinh hoạt mới, phù hợp với hoàn cảnh mới, và những con người mới. Tinh thần của du ca phải là một tinh thần sinh động, không đóng chấu với bất cứ một hoàn cảnh chính trị hay xã hội nào, ngoại trừ sự hữu hiệu.

Dù muốn hay không cuộc chiến cũ đã mang tới cho chúng ta quá nhiều mất mát và đổ vỡ. Khi chiến tranh tàn thì tiếng than oán vang lên khắp nơi, kế tới những âm thanh hoảng loạn, liền sau đó là một khoảng thời gian dài im lặng. Và bây giờ lẫn với tiếng gió, hòa với tiếng sóng dường như chúng tôi nghe được những tiếng động của lịch sử, báo hiệu sự đổi thay. Chúng tôi vẫn tin vào trực giác của chúng tôi, trực giác nhậy cảm của những người làm văn nghệ, và chúng tôi tin rằng sẽ có một lúc nào đó chúng tôi sẽ trở về, dựng lại nhà trên một cái nền đổ nát, hệt như lời của một bài thơ, của một ca khúc nào đó của anh em chúng tôi.

Ngày đó bắt buộc sẽ phải đến. Nó có thể là sáng mai, nó có thể là năm tới, nó có thể là năm năm, mười năm. Nếu tới ngày đó, và anh em chúng tôi còn sống, cho dù chỉ còn thoi thóp thở chúng tôi cũng sẽ trở về. Trở về để nhắm mắt trên mảnh đất chúng tôi đã sinh ra, đã lớn lên, đã bảo vệ và đã phải bỏ đi chỉ để trở về.

236

HOÀNG KHỞI PHONG Nhà văn

Tưởng Nhớ Nguyễn Đức Quang

(bài đọc trong lễ tưởng niệm NĐQ tại Sài Gòn ngày 02/04/2011)

Nhà văn Hoàng Khởi Phong trong buổi tưởng niệm nhạc sĩ NĐQ

Với những ai giao tình với NĐQ trên nửa thế kỷ, nhũng người bạn học thời Trung Học, dưới mái Trần Hưng Đạo Đà Lạt, thì NĐQ là một thiếu niên hiếu động, cực

237

kỳ trong sáng, lành mạnh. Vào quãng thời gian theo học trung học Trần Hưng Đạo Đà Lạt, NĐQ đã cho thấy lòng yêu thiên nhiên trong những đêm lửa trại bập bùng trên vùng đồi núi, các bạn của ông sẽ sớm biết sau này ông sẽ trở thành một người muốn mang tiếng hát đến cống hiến cho cuộc đời…

Với những ai giao tình với NĐQ 40, 50 năm, trong tuổi thanh niên tràn trề sinh lực của những chàng sinh viên trường Đại Học Chính Trị Kinh Danh, NĐQ là một sinh viên đầy nhiệt huyết, và lý tưởng. Ông đã bắt đầu con đường sáng tác âm nhạc trên một con đường ông tự chọn cho riêng mình. Hầu như mọi thi sĩ và nhạc sĩ thường bắt đầu sự nghiệp với những bài thơ, bản nhạc tình, ca tụng tình yêu nam nữ, thì NĐQ lên đường với một nhóm bạn mà ông đặt tên là TRẦM CA. Ông và các bạn hữu cảm nhận thấy những điều bất ổn trong xã hội, đặc biệt là trong thời chiến tranh. Ông cùng các bạn đã lớn tiếng hát vang để đánh thức, báo nguy cho mọi con người. Ngay từ thời đó vừa mới qua tuổi hai mươi, ông đã thấy phải bắt tay vào làm và sửa sai lại nhiều việc, chứ không phải là lúc để ngồi tranh cãi từng vấn đề.

Những ca khúc trong giai đoạn này cho thấy ông là người có tinh thần xã hội cao, mong ước xây dựng một cuộc đời đẹp đẽ hơn, lành mạnh hơn, thân ái hơn… và quan trọng hơn nữa là mọi chính quyền phải tôn trọng dân chúng, mọi con người phải được cư xử tử tế hơn.

Ông là người sáng lập phong trào Du Ca, tên tuổi ông gắn liền với hai chữ Du Ca. Về phong trào này có quá nhiều bằng hữu của ông đã ghi lại, và không phải là mục đích của bài viết này. Những sáng tác của ông trong giai đoạn này bừng bừng khí thế, hệt như tuổi thanh xuân của ông. Khi cuộc nội chiến bùng lên cao độ qua ngọn lửa Mậu Thân, cũng như hàng triệu thanh niên khác ông

238

phải lên đường nhập ngũ, và trở thành một sĩ quan của Cục Chính Huấn QLVNCH. Ca khúc Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của ông là một bài hát được cả triệu người lính miền Nam học thuộc, hát vang từ các quân trường cũng như trong các buổi sinh hoạt của các đại đơn vị.

Tôi là người không được may mắn giao tình với ông trên dưới nửa thế kỷ, trong giai đoạn đẹp đẽ nhất trong cuộc đời của ông. So với quý vị hiện diện nơi đây trong buổi tưởng niệm này, giao tình của tôi với NĐQ ngắn nhất, chỉ có ba chục năm từ những ngày đầu tiên ông tới định cư ở Mỹ. Tôi còn nhớ như in lần gặp đầu tiên giữa hai chúng tôi, trong một căn chung cư nghèo nàn của thành phố Santa Ana. Khi đó ông vừa chân ướt chân ráo tới Mỹ, và đã được một người bạn đưa đi thăm viếng vài nơi, trước khi quyết định sẽ đem gia đình tới định cư ở một vùng nào đó có đông người Việt. Ngay trong lần gặp mặt này, trong thâm tâm tôi biết, tôi đã gặp một người bạn tâm giao nơi đất lạ quê người.

Nói cho cùng giao tình của NĐQ và tôi là tình bạn giữa hai người trung niên bất đắc chí, đã cùng trải qua một cơn hồng thủy của lịch sử. Nhưng không vì thế mà hai chúng tôi trở thành những người buồn bã. Cả ông và tôi lúc nào cũng vẫn lạc quan, không phải cho cá nhân mình, mà cho cả cuộc đời, vẫn tin tưởng vào lịch sử của đất nước mình, cho dù chúng tôi không còn được sống nơi quê nhà xa vạn dậm.

Vào thời điểm cả hai cúng tôi đặt chân tới nước Mỹ, nước Mỹ có một chính sách khá rộng rãi về xã hội, và nếu muốn chúng tôi có thể không phải đi làm, chỉ cần đi học những tín chỉ vớ vẩn trong một ngôi trường nào đó, là chúng tôi có thể sống một cách tạm đủ. Thế nhưng chúng tôi vẫn làm việc để nuôi sống bản thân mình, và

239

gia đình mà không bao giờ ngửa tay lãnh tiền trợ cấp xã hội, không bao giờ trở thành một gánh nặng cho xã hội đã cưu mang chúng tôi. Khi đi học, chúng tôi được dậy dỗ để trở thành một công dân lương hảo, thì sống ở bất kỳ nơi đâu, chúng tôi cũng có những bổn phận với chính mình, với gia đình và với xã hội.

Tôi đã chứng kiến cảnh NĐQ về tiếp tay với các bằng hữu khác dựng lại tờ báo Người Việt, một tờ báo được dựng lên từ trong garage nhà Đỗ Ngọc Yến, một thân hữu đã sát cánh với ông trong phong trào Du Ca. Tờ báo này được thành lập từ tháng 12 – 1978, nhưng nếu không có sự đóng góp của NĐQ, thì tờ Người Việt vẫn có thể phát triển, nhưng hướng đi chắc sẽ khác. Với nhãn quan của một người được đào tạo về chính trị và kinh doanh, ngay từ đầu thập niên 80, NĐQ cho là tờ Người Việt phải có một tòa soạn nằm trong khu thương mại của cộng đồng VN. Mặc dù vẫn là tờ báo nặng về thương mại và quảng cáo, nhưng nó vẫn phải là một tờ báo cung ứng tin tức trung thực cho những ai còn thích đọc báo chữ Việt. Từ khi tòa soạn báo Người Việt dời từ garage nhà Đỗ Ngọc Yến ra khu thương mại Bolsa, tờ báo tuần tự có những bước phát triển từ mỗi tuần một số báo khổ tabloid, lên hai rồi ba, bốn số mỗi tuần. Kế đó để sửa soạn thành nhật báo, tờ Người Việt đổi khổ tabloid thành khổ nhật báo, với ba số mỗi tuần, đồng thời quy tụ một số nhà văn và nhà báo chuyên nghiệp đủ để thành lập một ban biên tập. Số nhân viên cũng gia tăng đáng kể.

Năm năm sau khi NĐQ làm giám đốc điều hành, tờ Người Việt lột xác một lần nữa khi dời trụ sở về địa chỉ mới, với năm số báo phát hành một tuần. Số nhân viên toàn thời gian và bán thời gian đã lên đến ba, bốn chục người. Thời gian này tôi vẫn còn đi làm thợ tiện, nhưng vốn là thân hữu và được mời cộng tác từ lúc tờ báo mới thành lập, tôi đóng tiền ăn cơm trưa với toàn thể anh em

240

trong tòa soạn, nên đã mục kích NĐQ và Đỗ Ngọc Yến thường xuyên đi mua bàn ghế, máy móc đã dùng về trang bị cho tờ báo. Điều đáng nói nhất về hai nhân vật đầu não của tờ báo này, là cả hai có chung một đức tính: lo lắng cho nhân viên trước, rồi mới tới chính mình. Chính vì vậy mà cả hai bà vợ của NĐQ và Đỗ Ngọc Yến đều đi làm ở sở Mỹ, để bảo đảm cho việc chi dụng của gia đình mình. Chị Quang làm cho Sở Bưu Điện Hoa Kỳ, một công việc khá tốt cho người Việt tị nạn, lương đã cao mà phúc lợi xã hội lại dồi dào hơn bất kỳ một hãng điện tử nào.

Cuối thập niên 80, để phát triển tờ báo mạnh mẽ hơn, chị Quang một cựu sinh viên đã tốt nghiệp chính trị kinh doanh khóa một, bỏ Bưu Điện Hoa Kỳ, về phụ với NĐQ chăm sóc cho tờ Người Việt. Chỉ tiếc là thời gian chị Quang cộng tác với tờ Người Việt không lâu, đâu chừng một năm thì nội bộ tờ báo có nhiều dị biệt. Cả hai vợ chồng NĐQ dời Người Việt, để từ đây cả hai bước vào một ngành kinh doanh mới: Mở tiệm cho thuê video. Trong ba năm liền tôi là khách thường xuyên của NĐQ, vì cửa tiệm của ông chỉ cách nhà tôi không đầy ba phút lái xe. Lại một lần nữa tôi chứng kiến vợ chồng NĐQ chăm bẵm cho cửa tiệm của mình như chăm con mọn.

Khoảng giữa thập niên 90, vợ chồng ông sang lại tiệm video, để có vốn cho NĐQ một mình gây dựng tờ Viễn Đông. Với sự cộng tác của vài thân hữu tờ Viễn Đông từng bước một, tiến lên so vai với các tờ báo khác. Từ một tuần báo, chưa đầy sáu tháng sau ra hai số một tuần, và khi tròn một tuổi thì ra ba số một tuần. Tôi vẫn thường đùa thân ái với NĐQ và các bạn chủ trương, khi gọi tờ Viễn Đông là “cách nhật báo”. Với một mình chèo chống cho con thuyền Viễn Đông, NĐQ cũng cưu mang thêm khoảng mười người vừa toàn thời gian, vừa bán thời gian. Phần lớn những anh em sang sau thường coi các tờ báo như những trạm dừng chân, làm những

241

công việc vặt cho một tòa soạn, vừa có chút tiền thu nhập trong lúc chân ướt chân ráo mới tới, vừa có thêm nhiều thông tin để nghe ngóng, tìm hiểu nơi cư trú mới, trước khi quyết định đi theo một ngành nghề nào. Là một tờ báo sinh sau đẻ muộn, nhưng NĐQ là một người quảng giao, do đó tờ báo nhận được rất nhiều trợ giúp của bằng hữu từ khắp nơi, và nhờ vậy dần dần đứng vững.

Đầu thập niên 2000, “cách nhật báo” Viễn Đông tiến một bước thật dài, trở thành tờ nhật báo thứ ba của cộng đồng Việt Nam ở Quận Cam, với sự hợp tác của hai thành viên mới, vốn là hai nhân vật kỳ cựu của tờ Người Việt. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, NĐQ đã nhượng lại toàn bộ cổ phần của ông cho các thành viên mới của tờ Viễn Đông. Sau vụ chuyển nhượng này tôi đinh ninh NĐQ đã hoàn toàn rửa tay gác kiếm với nghề báo. Bản thân tôi vào thời điểm này cũng ngán ngẩm nghề báo của người Việt tị nạn, do đó NĐQ và tôi gặp nhau thường xuyên hơn trước. Trong tình thân ái của hai người bạn tâm giao, tôi nói với ông là tôi tiếc thời gian ông không sáng tác, vì phải dồn hết tâm trí cho những tờ báo. NĐQ nói như đinh đóng cột với tôi là ông sẽ viết nhạc lại.

Những đêm trăng sáng, NĐQ và tôi, thỉnh thoảng có thêm một vài bằng hữu lôi nhau lên một chiếc xe, với vài dây bia, hay một chai rượu cùng một ít đồ nhậu mua sẵn. Chúng tôi thường lái thẳng lên các khu cắm trại trên các rặng núi chung quanh khu vực quận Cam. Ở đó chúng tôi nói với nhau về những người đã khuất. Những người đã nằm xuống đâu đó trong cuộc chiến, những người nằm xuống nơi xứ người. Chúng tôi nhắc nhở nhau về những dự định của mỗi người, và sau cùng chúng tôi cũng nói tới những người còn sống mà như thể đã chết. Nói một cách khác đó là những thây người biết

242

đi, biết ăn uống, hít thở khí trời , thậm chí làm giầu và cả làm tình.

Bạn tôi NĐQ hôm nay nằm xuống, ngủ một giấc thiên thu. Anh không còn hiện diện với chúng ta, không còn cười đùa, trửng giỡn với chúng ta. Nhưng tâm hồn anh, tiếng hát của anh, lời ca của anh, tác phẩm của anh còn sống mãi với chúng ta, với cuộc đời. Đúng vậy, hơn lúc nào hết khi mà cuộc đời này còn quá nhiều khiếm khuyết, quá nhiều bất công, quá nhiều cay đắng thì tiếng hát của anh vẫn vang lên từ hải đảo, nơi thời niên thiếu anh theo thân phụ ra làm việc ở nơi đây. Tiếng hát của thời niên thiếu đó vang lên to hơn nơi núi đồi Đà Lạt, to hơn nữa trong các quân trường. Dường như tiếng hát đó đang vang lên trong căn phòng này.

243

BẢO TRÂN Thụ nhân B PHI NGHIÊM Chính Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt

Vĩnh Biệt Anh Biết trước, nhưng mà lệ vẫn sa Đón nhận hung tin, mắt nhạt nhòa Nỗi Buồn Nhược Tiểu, còn đâu đó Hy Vọng Vươn Lên, vẫn chẳng xa Quê Hương Ngạo Nghễ, lòng sừng sững Dốc Nhỏ Tình Tôi, dạ thiết tha Vỗ Cánh Chim Bay, về vĩnh cửu Gươm Thiêng Hào Kiệt, vẳng lời ca CA 3/28/11 * Những chữ in nghiêng là sáng tác

của Nguyễn Đức Quang.

244

PHAN THẠNH Chính Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt

Còn Một Chút Gì... Hồi ức tản mạn Tôi và Quang

Trước nhà Phan Thạnh, Spokane WA

Nguyễn Đức Quang thứ ba từ trái, vợ chồng Phan Thạnh thứ hai và ba từ phải

Nào lên tiếng, nói cho cùng,

Lặng im lâu sẽ nuôi gian hùng,

Để chúng leo lên trên thân mình,

Rồi tràn lan, cười vui sướng.

245

Gọi lương tâm khắp nơi thức dậy,

Nhìn chúng ta tan hoang rã rời.

Lịch sử nào mà tha thứ cho ngày hôm nay.

- - - - - - -

Một đoạn trong bài hát "im lặng là đồng lõa" của Nguyễn đức Quang viết năm 1970, đến nay đã bốn mươi mốt năm và hầu hết những ca khúc khác viết trong khoảng bốn mươi năm trước, nếu bây giờ được hát lên tại quê hương thì vẫn coi như anh viết cho hiện tại, cho ngày hôm nay. Nguyễn Đức Quang đã nằm xuống, yên nghỉ, nhưng tôi tin anh linh của anh vẫn còn lẩn khuất trong hồn nhạc, trong dòng nhạc trầm ca hùng mạnh, dõng dạc như hịch truyền, thôi thúc tuổi trẻ Việt Nam cố gắng thực hiện cho được hoài bảo của dân tộc mà anh đã từng mơ ước, nhập cuộc, thể hiện... nhưng vẫn còn dở dang.

Tôi biết Nguyễn Đức Quang đã hơn bốn mươi sáu năm. Mùa thu 1964, nhập học khóa I Chánh Trị Kinh Doanh-Viện Đại Học Đà Lạt chúng tôi đã là bạn đồng môn đồng khóa. Rồi đến mùa đông năm đó, trên một khu đất nhỏ trước chợ Đàlạt, bên ánh lửa bập bùng, một anh chàng thanh niên dong dỏng cao, gầy, ôm cây đàn ghi ta hát say mê, hát với tất cả tâm hồn, với tất cả nội lực, đồng thời hướng dẫn chúng tôi cùng hát những bài ca sinh hoạt... Vào lúc ấy anh chưa sáng tác nhiều, nên trong đêm hôm đó anh đã hát hầu như toàn bộ trường ca "Con Đường Cái Quan"và "Mẹ Việt Nam "Của nhạc sĩ Phạm Duy. Từ ấy, đối với tôi, đúng hơn là với chúng tôi, một Nguyễn đức Quang đã rõ nét và trở nên bạn bè thân thiết.

246

Cũng từ dạo ấy, trong những trại sinh hoạt, trại công tác xã hội của thanh niên, sinh viên học sinh Đàlạt ít khi thiếu vắng anh. Vào khoảng giữa năm 1965, anh cùng một nhóm bạn hữu đã thành lập nhóm Du Ca và sau đã trở thành phong trào Du Ca phát triển mạnh ra cả nước từ năm 1966. Vào thời điểm này anh đã sáng tác được nhiều, đặc biệt những ca khúc "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ", "Nỗi Buồn Nhược Tiểu", Tiếng Hát Tự Do", "Tiếng Rống Đàn Bò", "Hy Vọng Đã Vươn Lên"... như những hịch truyền, như cơn lốc xoáy cuốn hút, thôi thúc tuổi trẻ nhập cuộc. Lúc ấy tôi đang sinh hoạt trong phong trào thanh niên "Tự Tin", có cả Nguyễn đức Quang và người điều hành là Trần Vịnh, sinh viên năm cuối Quốc Gia Hành Chánh. Hè 1966, phong trào tổ chức một trại hè lấy tên là trại TỰ TIN cho học sinh lớp 11 và 12, đại diện 15 tỉnh miền Đông và miền Tây. Lúc ấy chúng tôi đã hát say mê những ca khúc của Nguyễn đức Quang và cảm nhận những lời ca đó như chính tâm sự của mình, của tuổi trẻ Việt Nam. Nó như chất kích thích lành mạnh thôi thúc tuổi trẻ dấn thân, làm chúng tôi hưng phấn và tự tin hơn.

Trong hồi ức về những ngày sinh hoạt với Nguyễn đức Quang có một kỷ niệm đậm nét nhất mà chúng tôi (tôi và bà xã) không bao giờ quên được.

Tháng 10 năm 1968, sau khi tốt nghiệp khóa I CTKD và một tháng trước khi nhập ngũ khóa 9/68 Sĩ quan trừ bị, tôi và bà xã làm đám cưới. Đám cưới đơn sơ được tổ chức tại sân nhà, khách mời 6 giờ chiều. Khoảng 2 giờ 30 anh bạn Nguyễn đức Quang của tôi đã tới với cây đàn trên tay. Vừa gặp mặt Quang đã nói ngay:

247

- Tôi biết cậu ngạc nhiên lắm phải không. Sao lại có người khách nhiệt tình đến thế này?

Rồi Quang tiếp luôn:

- Khỏi dông dài, tôi đến sớm là muốn tặng vợ chồng cậu một món quà đặc biệt, sáng tác ngay tại chỗ, bây giờ cậu cho tôi mấy tờ giấy trắng và cây viết rồi cứ để mặc tôi, cậu cứ lo việc của cậu, tôi biết giờ nầy cậu rất bận rộn.

Lúc ấy trong lòng tôi rất vui, vì thật sự không nghĩ ra là anh bạn nghệ sĩ nầy lại tặng tôi một món quà bất ngờ và lý thú như vậy. Tôi lấy giấy bút và không quên một chai nước để lên bàn trong cái phòng nhỏ của tôi rồi khép cửa lại, không quấy rầy anh bạn nghệ sĩ đang tìm cảm hứng sáng tác. Rồi trong tiệc cưới của chúng tôi, hình ảnh một anh chàng cao gầy ôm đàn hát với tất cả tâm tình một ca khúc vừa mới sáng tác xong còn nóng hổi "Lũ chén dĩa có tội tình gì " là hình ảnh mà vợ chồng tôi không bao giờ quên được trong suốt cuộc đời, dù lúc anh đang sống hay bây giờ anh đã ra đi vào cõi vĩnh hằng.

Thời gian tiếp theo sau đó chúng tôi còn rất nhiều dịp gặp gỡ và sinh hoạt chung với nhau trong quân trường vì anh cùng nhập ngũ chung khóa 9/68 sĩ quan trừ bị.

Tháng 4-1975... . tan tác, mỗi người mỗi ngã... nhưng tôi lại gặp anh trong trại tù cải tạo Long Giao 1977. Vì không chung trại, nên chỉ gặp nhau trên đồng hoặc trên đường đi lao động khổ sai. Lúc ấy một Nguyễn đức Quang du ca cao gầy lại càng gầy hơn, nhưng lúc bấy giờ thì chân chẳng còn tự do để "du" và miệng chẳng còn tự do để "ca"... Khi ấy tôi chợt nghĩ, đối với một nghệ sĩ, đặc biệt lại là anh, một con người của quần

248

chúng, của tuổi trẻ thì sự mất mát tự do để thể hiện mình là một nỗi đau, còn đau hơn cả bị hành hạ, dày vò thể xác trong các trại tù lao động khổ sai.

Thời gian trôi qua một quãng dài không gặp, mãi đến năm 1995 khi tôi sang định cư ở Mỹ, tại tiểu bang Washington, mới biết tin anh đang ở Nam Cali.

Đầu năm 1996 tôi xuống Nam Cali và gặp lại anh. Lúc đó anh đang làm tờ báo Kinh Tế Viễn Đông. Tôi đã lấy chỗ tòa soạn báo của anh để làm điểm hẹn gặp gỡ và đi chơi với bạn bè. Buổi tối, thường là gần nửa đêm tôi theo anh về nhà. Thời gian ban đêm anh không bận rộn với công việc của tòa soạn và là lúc yên tĩnh để có thể kể lại cho nhau nghe những kỷ niệm sinh hoạt ngày xưa. Câu chuyện cứ lan man không dứt, có khi gần ba, bốn giờ sáng mới đi ngủ. Ngày ấy tôi có hỏi Quang về những sáng tác mới, anh có vẻ buồn, trầm lặng, sau đó mỉm cười và đáp khe khẽ:

- Con tằm đã mang nghiệp thì phải nhả tơ thôi, nhưng có lúc vì tâm trạng và hoàn cảnh không tìm được cảm hứng nên bị tắc. Nhưng chắc chắn phải có lúc được thông thôi!

Những năm sau đó, thỉnh thoảng anh có tham gia những trại sinh hoạt với lớp trẻ Việt Nam hải ngoại.

Năm 2005, kỷ niệm 30 năm mất Nước và 30 năm viễn xứ đối với những người tị nạn đầu tiên, tôi mời anh lên Spokane, tiểu bang Washington để tham gia một buổi sinh hoạt Hè với Hội Cao Niên do tôi tổ chức tại Mission Park gần trung tâm thành phố, ngày 17 tàng 7 năm 2005. Cùng đi vói anh lúc đó có một số bạn hữu Thụ Nhân, CTKD khóa I như: vợ chồng Nguyễn Đức Quang (Già Cơ), vợ chồng Đinh Văn Chính, Nguyễn

249

Cửu Diệp, Lê Trọng Huấn... Và lúc đó những ca khúc "Tiếng Hát Tự Do" Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ"... lại được anh cất lên với tất cả nhiệt tình, lôi cuốn mọi người cùng hát theo, mặc dù không tạo được bầu không khí sục sôi, hừng hực như sinh hoạt với tuổi trẻ Việt Nam ngày xưa ở trong nước, nhưng một Nguyễn Đức Quang khi thể hiện mình vẫn là một Nguyễn Đức Quang của quần chúng.

Hôm đó Quang có nói đùa với tôi và bạn bè:

- Hồi nào tới giờ mình vẫn chuyên hát cho thanh niên, cho lớp trẻ, hôm nay Phan Thạnh đổi khẩu vị cho mình hát với những người cao niên, mà thường cao niên, cao tuổi thì hơi nặng tai nên mình phải bung hết nội lực, khan cả cổ.

Tất cả chúng tôi cùng cười và tôi đáp lại:

- Chẳng phải chỉ có đối tượng là cao niên mà chính người hát và hướng dẫn cũng chẳng "thấp niên" gì cho nên hát hụt hơi là phải rồi.

Tối hôm đó Quang đã hát cho bạn bè nghe, khoảng gần vài chục người, tại nhà tôi, và ca khúc anh mới sáng tác "Trên Đồi Arlington" đã được đề nghị hát lại lần hai, trong đó có một câu mà tôi vẫn nhớ mãi" Đã nói chuyện xưa không nhắc nữa, sao nhìn thấy sẹo vẫn bâng khuâng".

Tháng 8 năm 2008, chúng tôi lại gặp nhau trong trại sinh hoạt họp mặt Hè có tên là "Hồn Nước - Trại họp bạn 2008 - Tây Bắc Hoa Kỳ và Gia Nã Đại" do vợ chồng Dương-Yến Spokane, một cặp song kiếm hợp bích, rất nhiệt tình và cũng rất ngưỡng mộ, người đàn anh vang bóng một thời Du Ca và sẽ sống mãi mãi trong lòng mọi

250

người, chủ xướng và tổ chức. Lần nầy, hay nói đúng hơn là mỗi lần nhìn Nguyễn Đức Quang sinh hoạt, hướng dẫn trò chơi, ca hát với tuổi trẻ tôi lại thấy anh năng động và trẻ trung hơn mặc dầu bây giờ tuổi tác đã cao. Trong trại họp bạn nầy anh còn nói chuyện, chia sẻ với lớp trẻ về quan niệm "Một Tổ Quốc Mênh Mông..." có lẽ đây là một hoài bảo mà anh đã ôm ấp trong lòng từ lâu.

Đầu năm nay, vào dịp Tết âm lịch 2011, hai vợ chồng tôi lại xuống Cali thăm anh và bạn bè. Thứ bảy 5 tháng 2 ngày mồng bốn Tết, chúng tôi cùng anh và một số bạn bè khóa I CTKD gặp nhau gần cả buổi sáng. Đồng môn, thỉnh thoảng gặp lại, chuyện trò nổ ran, lan man không dứt. Lúc đó có người còn chọc anh:

- Nguyễn Đức Quang bây giờ đang có giá nhất ở đây: độc thân - nổi tiếng - có xe lexus mới toanh...

Đến trưa anh đưa vợ chồng tôi về chỗ trọ, chúng tôi còn khen anh: Lúc nầy thấy ông trẻ trung ra, khỏe mạnh và đầy công lực, có dịp sẽ lôi ông lên Seattle sinh hoạt với anh em vài buổi. Anh cười to:

- Sẵn sàng, lúc nào các cậu ới là tớ lên ngay thôi.

Thứ hai 7 tháng 2 chúng tôi trở về Spokane và trong lòng đã có dự tính là năm nay sẽ mời anh lên sinh hoạt.

Đến cuối tuần được tin anh bị đột quỵ và đang nằm hôn mê trong bệnh viện. Tôi hỏi thăm bạn bè thì được anh Võ Thành Xuân, với một giọng trầm buồn cho biết: Mầy hãy coi như sắp mất một người bạn thân thiết nữa rồi! Lần nầy Quang bị stroke rất nặng, lại thêm sưng phổi, vẫn hôn mê... và không có hy vọng qua khỏi.

251

Tôi sững sờ, thấy mặn chát ở cổ... mới tuần trước chúng tôi còn khen anh khỏe mạnh và đầy công lực, không ngờ đó chỉ là lúc ngọn đèn lóe sáng trước khi tắt lịm. Cũng không ngờ, sáng thứ bảy 5 tháng 2 năm nay là lần chúng tôi gặp gỡ anh sau cùng... Anh đã miên viễn đi về miền vĩnh cửu, đi vào cõi bình an không còn gặp "Bọn lái buôn ở khắp nơi" không còn thấy "Ruồi và kên kên" nữa.

Bây giờ nghĩ về Nguyễn đức Quang, nhớ đến anh, người bạn hiền chỉ còn là những kỷ niệm... Thôi ít ra cũng còn lại một chút gì để nhớ để thương.

Spokane, tháng5-2011

252

HOÀNG KIM CHÂU

Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Thơ Cho Quang Đà lạt gầy gò nắng

Chờ em về ban trưa

Dốc nhỏ chiều xa vắng

Cuộc tình đẫm ướt mưa

Ta ôm đàn ngồi hát

Giữa núi rừng ban sơ

Chân hoang đàng khắp nẻo

Dẫm mòn tình ước mơ

Tóc xanh rồi tóc bạc

Bè bạn cổ tích xưa

Cheo leo đầu tuổi hạc

Tình hết buồn hay chưa

253

Ta cô đơn đầu núi

Em lệ nhỏ cuối sông

Trăm năm đời ngắn ngủi

Đồi hoang ai chờ mong

Chiều nay gió về đâu

Có qua căn gác nhỏ

Cuộc tình xưa nơi đó

Thương người em mắt nâu

Tim ta giờ thinh lặng

Tro bụi là trăng sao

Mừng cuộc tình lận đận

Hồn phách bỗng nao nao

20 tháng 5- 2011

254

HOÀNG KIM CHÂU

Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Tình Tôi Con Dốc Nhỏ

Quang đi đầu trên lối về Con Dốc Nhỏ

Ta trở về thăm con dốc nhỏ

Kỷ niệm rong rêu đã phủ đầy

Đêm cúi xuống hôn từng ngọn cỏ

Giọt sương khuya cào cấu đôi tay

255

Khẽ hỏi thì thầm từng phiến đá

Dấu chân xưa lạc khuất nơi đâu

Em hiện hữu một đời xa lạ

Ta xa xôi nửa kiếp tình sầu

Guốc mộc sáng reo vui dốc nhỏ

Áo dài chiều nắng vạt tung bay

Giờ ta cổ thụ nằm trơ gốc

Lời tình phai trên đá ai hay

Ta hát tình đầu – con dốc nhỏ

Lời điên cuồng của kẻ u mê

Em ra đi hồn ta bỏ ngỏ

Con dốc buồn loài dế tỉ tê

Thôi nhé giã từ con dốc nhỏ

Hẹn trăm năm với gió cùng mây

Còn yêu ta – em nhỏ vai gầy

Xin nhỏ lệ mừng vui - vĩnh biệt! Tháng 6 – 2011

Tình Tôi Con Dốc Nhỏ là tựa đề của một ca khúc của Nguyễn Đức Quang viết về mối tình đầu đời của anh. Về thăm Đà Lạt, chúng tôi gồm Hoàng Kim Châu, Nguyễn Quang Tuyến, Hoàng Thái Lĩnh, Đinh Gia Lập,

256

Nguyễn Đức Vinh, Nguyễn Thạc và một số bạn bè đã trở lại thăm Con Dốc Nhỏ để mọi người nhớ lại mối tình đầu đời của Quang. Con Dốc còn đó, người đã ở phương xa …

257

ĐỖ THỊ PHƯƠNG OANH Du Ca Giáo Sư Âm Nhạc Vĩnh Biệt Quang

Quang và Phương Oanh bên phải – Paris 2010

Sáng Chủ Nhật 27/3/2011, tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, tự nhiên thấy tâm hồn chao động … không hiểu tại sao? Quang có biết đó là ngày sinh nhật tôi không? Quang khôn lắm nghe, chọn đúng ngày sinh tôi để ra đi, có như thế, tôi sẽ không bao giờ quên Quang được. Vì ngày sinh nhật của tôi, lại là ngày tử nhật của Quang.

258

Kể từ bây giờ Quang sẽ trường sinh bất tử, vì Quang sẽ sống trong tim của tất cả mọi người Việt Nam yêu Quê Hương yêu dân tộc ở trên toàn thế giới. Quang có biết, cách đây mấy hôm, tôi nhận được mail của Trần Quang Hải gửi cho bè bạn, báo tin nói Quang đã qua đời sau một thời gian dài nằm trong coma … Tôi giật bắn người … vì đêm hôm qua, ngày hôm qua, và những ngày trước, tôi vẫn còn đang mong chờ, vẫn tin Quang sẽ hồi phục … Thế là từ nay tụi mình sẽ chỉ còn gặp nhau trong mơ mà thôi …. Cuộc đi thăm bè bạn hồi năm ngoái của Quang là một kỷ niệm đẹp đối với mọi người. Tôi nhớ mãi khi gặp Quang ở cửa phòng sinh hoạt, câu đầu tiên Quang nói với tôi là tưởng đã chết năm trước rồi, chứ đâu có ngờ được gặp lại Oanh ở đây. Hôm đó, tình thật tôi rất bận, nhưng cố thu xếp mọi việc, nhờ con trai chở mẹ đến thăm bác Quang .. và phải về ngay, vì có người chờ đợi tôi ở nhà. Nhìn da mặt hồng hào, dáng người nhanh nhẹn của Quang, vẫn như cách đây 40 năm, tôi không nghĩ Quang bỏ cuộc chơi quá sớm, bỏ bạn bè quá nhanh để đi vào cõi vĩnh hằng. Trong suốt thời gian Quang nằm bệnh viện, tôi vẫn hằng nghe ngóng tình hình Quang qua bạn bè, nhất là qua trang Du Ca để xem thông báo tin tức của Quang … Tôi vẫn hy vọng Quang đứng dậy với mọi người, tôi vẫn hy vọng Quang nghe lời cầu nguyện của mọi người cho Quang mau tỉnh lại. Nhưng lần này, thì Quang đã bỏ cuộc hẳn, để làm cuộc hành trình mới với những bè bạn đã về bên kia thế giới … và Quang cứ việc tiếp tục cuộc chơi nhé, sẽ có ngày chúng ta lại gặp nhau và sẽ cùng nhau hát lại những bài ca khai phá tự thuở nào.

259

Trần Đại Lộc, Phương Oanh, Nguyễn Đức Quang

Sư Phạm Sài Gòn 1970 Khi tôi viết những giòng chữ này cho Quang, thì chắc là Minh Thông đã đến bên Quang, để hai người trở lại với nhau như lúc bắt đầu yêu nhau. Và tình yêu này, đã là nguồn hứng để Quang sáng tác, cho bè bạn được nghe những lá thư tình đặc biệt mà Quang đã đọc trong buổi sinh hoạt tại sân trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn năm nào : … Thông, anh nhớ em … vo tròn một cục … Thôi tôi ngưng, để Quang còn được nghe những lời tâm tình khác của bè bạn. Nhớ phù hộ cho con cháu và luôn nhắc nhở các bạn Du Ca khắp nơi tiếp nối con đường Quang đã đi qua ở hai thế giới của tử và sinh nhé. Và mỗi khi du ca cất tiếng hát, thì Quang phải có mặt bên cạnh nhé. Người sáng lập ban Trầm Ca đã tách rời nhóm để đi tìm một chân trời mới. Phong trào Du Ca mất đi người trưởng sáng lập tài ba. Tất cả chúng ta tiếc nuối một người bạn thân thiết vừa qua đời. Phượng Ca Dân Ca Quốc Nhạc luôn nhớ tới người bạn đã đặt tên cho mình khi vừa mới thành hình CHIM PHƯỢNG. Thương yêu Phương Oanh

260

TRẦN KHÁNH TUYẾT Chính Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt

Hy Vọng Vươn Lên Đôi Dòng Nhựt Ký

Đà Lạt, khuya 29/12/1966 (#7 TBT) Đêm nay, buổi trình diễn "Trầm Ca" khá thành công, tuy việc tổ chức có vẻ miễn cưỡng, không thật chuẩn bị. Chỉ đêm về, khi mọi việc tạm xong xuôi, tôi mới cảm thấy nhẹ người hơn. Khi sáng, tôi đã "nổi sùng" Trần Đại lúc Nguyễn Đức Quang vào gặp bọn tôi ở trụ sở Thanh Niên Thiện Chí. Phán, rồi Trần Đại, nhất là Trần

261

Đại tự dưng "lên nước" xài xể anh em cái việc không báo trước ngày giờ lên Đà Lạt. Tôi nghĩ Đại có thể quên hay không thể thông cảm được việc các bạn Trầm Ca cũng đã phải cực nhọc "xin xỏ", "chờ đợi" cho mấy chỗ trên máy bay USAID. Tôi đâm ra hoang mang về cái gọi là "thiện chí" của chúng tôi; mình làm việc thiện chí cho mình hay cho người? Và thật tình tôi không muốn mình cứ phải tiếp tục mỉa mai ca bài: "Cái nhà là nhà của ta. USAID, USOM (chứ không phải Ông Cha ta) lập ra....!!!" Tôi không nghe được hết buổi trình diễn Trầm Ca, vì phải bận chạy đi tìm Nhạc sĩ Phạm Duy đàng Thao Trường. Nhưng buổi trình diễn của ông cũng đã chấm dứt vào khoảng 9 giờ tối. Tôi lại phải chạy lên Lữ Quán Thanh Niên để nghe ông Âu Như Thụy, nhưng đến nơi thì ông đã lên giường trùm chăn rồi! Quay về lại nhóm Trầm Ca thì các bạn cũng vừa chấm dứt. Tôi gặp anh em Hướng Đạo. Lê Đường nói với tôi, "Tuyết nhờ thì ai mà không sẵn lòng giúp Tuyết!" Một niềm an ủi như nhẹ nhàng thoáng qua. Nếu khi sáng không có mấy bạn Nghĩa, Mạng ghé qua trụ sở mang "affiche" đi dán hộ ở khu Hòa Bình và anh em Sinh Viên Công Giáo không ghé lấy mấy thiệp đi mời hộ, có lẽ tôi "nản chí" cho cái gia đình Thanh Niên Thiện Chí của mình đến muốn bỏ cuộc. ........... Dalat, 8/1/l967 (#7 TBT) Đến giờ đưa nhóm Nguyễn Đức Quang/Trầm Ca và Nhóm Thơ ra phi trường Cam Ly bay về Sàigòn. Tôi không bắt kịp chuyến xe cùng anh em và Khải tiễn đưa họ, nên đành phải mướn xe "lam" đi riêng. Họ đến sau tôi độ 10 phút vì phải đi rước Nguyễn Đức Quang. Đợi

262

chờ máy bay hơn 4 tiếng đồng hồ không được, hai Nhóm Trầm Ca và Nhóm Thơ lại phải quay về Đà Lạt. ....... Các anh nhà thơ kéo nhau chui rút vào phòng trọ của Trần Trọng Thức và Nguyễn Quang Tuyến. Chị Nhã Ca đến ở với Mai Tâm; phòng trọ của tôi quá nhỏ hẹp và cái WC quá xa, bất tiện và có lẽ quá ư thiếu.... Trần Trọng Thức bắc ấm nước đun sôi chế trà. Các anh chơi đàn và hát với nhau. Tú Kếu "ứng khẩu" đặt một bài ca phỏng theo "Clementine" vì suốt 4 tiếng đồng hồ chờ đợi hụt máy bay "Caribou" của USAID! Caribou này, Tiên sư cha mày. Trời mưa gió, Ôi Caribou. "Vu" tới đó, "vu" đã bay vù. Chờ hết hơi rồi. Sư bố bu! ............. Saigon, tối 12/3/1967 (455 P.Ký) Buổi tối Phương Oanh và Trần Trọng Thảo/Trầm Ca đến chơi. Thảo nói về sự "rã rời" của Nhóm Trầm Ca, chung qui lỗi về phần Nuyễn Đức Quang nhiều hơn hết, rằng "hắn" đang "lên", rằng nhạc của "hắn" có thể dùng để tạo một phong trào, rằng "hắn" đang đổi mới, sống bất cần đời, coi mọi người như cây cỏ, chỉ mình "hắn" là người; rằng anh em giận "hắn" quá leo thang đến nỗi cùng chuẩn bị sẵn....đống rơm cho "hắn" để khi té không đau lắm. Phương Oanh ngồi yên, im lặng. Hoàng Thái Lĩnh, Nguyễn Thạc, Hoàng Kim Châu có cùng lo nghĩ như thế không?

263

Saigon, 25/2/2011 (455 LHP) Tôi trả lời Bích-Cúc khi đọc mail về tình trạng còn hôn mê của Nguyễn Đức Quang...."Ngôi nhà này đã có lần đón tiếp anh em Nhóm Trầm Ca vào cuối năm l966 hay đầu năm l967. Vậy mà cũng đã hơn 43-44 năm qua!" (Các bạn vào nhà để mượn cái máy thu âm tôi mang từ Nhật về. Cái thuở mà bạn bè giúp cho nhau từng 1-2 bửa cơm bình dân 30$ -Khải đưa lại cho tôi và nói, "tôi cho chị 30$, tôi cho chị 30$ nữa là 60$"- khi mình cạn túi; hay bữa cơm chỉ có nồi "xúp" ca-rốt, khoai tây, củ dền, hoặc một bữa cơm hay một chầu ciné với bạn bè...) Sau Tết Mậu Thân, tôi rời Đà Lạt, rồi Việt Nam vào tháng 10, 1968. Mãi đến khi về tham dự TNHN 40 Năm vào năm 2008, trong đêm Gala, anh bạn Nguyễn Văn Lai (Văn khoa) trong "Nhóm Chuồng Số 3" ở Lữ Quán Thanh Niên hát bài "Bên Kia Sông", một bài thơ tình rất dễ thương của Nguyễn Ngọc Thạch (Sư Phạm) đã được Nguyễn Đức Quang phổ nhạc và thêm vài câu. Một điều khám phá khá thú vị về Nguyễn Đức Quang là bạn đã có những bài tình ca "để đời"! (Trong một bài viết về Nguyễn Ngọc Thạch, Quang cũng có nói đến những tháng năm thiên hạ hãy còn chưa tin tưởng nhạc trữ tình của bạn.) Berkeley, 3/29/2011 (1637 Bel.) Đọc lại những trang nhựt ký này, tôi càng thấm thía hơn. Như Nguyễn Quang Tuyến có nhắc nhở, "Anh xuất hiện trong một giai đoạn lạ lùng của đất nước, của cả thế hệ chúng ta "mò mẫm đấu tranh! Mò mẫm tồn tại! Mò mẫm tìm một chốn yên thân cho thân phận làm người". Sự mò mẫm nào đó đã đưa nhạc và tiếng ca của Nguyễn Đức Quang thật sự thành một Phong Trào, như Nguyễn Đức Quang đã phóng tầm nhìn cho thế hệ chúng ta từ những năm 1960s.

264

Trong nhóm Trầm Ca, Quang là người bạn từng tham gia nhiều trại công tác của Thanh Niên Thiện Chí ở những làng Thượng gần Đà Lạt. Những đêm giá lạnh giữa các rừng thông, quanh các buổi lửa trại cao ngút đầu người, tiếng ca của Quang trĩu nặng tình yêu quê hương, ánh mắt với một "vision" nào đó như xuyên thấu màn đêm của lịch sử. Tiếng ca của Quang vượt qua được "nỗi buồn nhược tiểu", nỗi vô vọng của một cuộc chiến tranh vô lý, của "những sự lừa đảo chính trị, hay "mơ ước hòa bình", như nhắc nhở người ta nên thương cảm nhau hơn đồng khơi nguồn cho tinh thần trách nhiệm, cho ý chí quật khởi. Một thế hệ đòi quyền "có mặt".

Có lẽ tuy không hẳn chỉ là một sự "mò mẫm tìm một chốn yên thân cho thân phận làm người "của mình, và tuy cùng định cư trên xứ Mỹ phía bên này Biển Thái Bình Dương trong mấy mươi năm qua, tôi chỉ may mắn gặp lại Nguyễn Đức Quang vào dịp TNHN 40 Năm 2009 ở Nam Cali. Nhận dạng hình hài đổi thay trong hơn 40 năm của nhau vẫn không thể làm bạn chùn bước, Quang dang rộng hai cánh tay ôm chầm lấy tôi thật thân thiết như thuở nào. Như một chút tâm tư lắng đọng về thái độ chính trị, về những khoảng cách hay bất tương đồng trong cuộc đổi đời của nhau trong gia đình Thụ Nhân, tôi biết sự "lìa nhau" hay "rã rời" mà năm xưa Thảo lo sợ cho Quang, hay có lẽ cho bạn ấy và cho một khối anh chị em chúng ta thuở ấy chỉ là giai đoạn, nhất thời, không có thật. Tiếng ca của Nguyễn Đức Quang Du Ca sẽ còn tiếp tục thúc dục thế hệ chúng ta và thế hệ con cháu chúng ta đòi quyền "có mặt". Cho tiếng gọi của hồn thiêng sông núi. Cho tiếng gọi của dân-tộc-trường-tồn. Hoàng Thái Lĩnh vẫn kiên trì vẫy vùng trên khung-trời-mơ-ước-tự-do-dân-chủ. Trần TrọngThảo và những bạn Du Ca vẫn kiên trì "vác ngà voi" đêm ngày chạy lo "vá víu" túi cơm của

265

những người dân đen còn quá cơ cực lầm than. Phương Oanh vẫn còn hăng say đeo đuổi nghiệp cầm ca của một nghệ sĩ thuần túy Việt Nam thổi hồn dân tộc vào nhiều thế hệ Việt Kiều đang sinh sống trên một đất nước đã từng đày đọa ông cha mình dưới cái ách nô lệ ác nghiệt khôn cùng. Tôi viết cho cháu Minh Nhiên: "Bây giờ bác mới khóc được đây! Hơn 40 năm mới gặp lại nhau, chỉ một lần nghe bố cháu hát trong dịp TNHN40NĂM/2009, và bác hẹn sẽ thế nào cũng phải đến San Jose khi bố lên đây. Nào ngờ bố đã về với mẹ cháu!" Nguyễn Đức Quang đã đòi quyền "có mặt", vượt thời gian, vượt không gian.

266

LÊ TRỌNG HUẤN Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt

Tình Cờ Một Buổi Chiều

Nguyễn Đức Quang thứ nhất, Lê Trọng Huấn, thứ ba từ trái.

Quang,

Sáng nay Quang Già Cơ ra lệnh: “Mày viết một bài về thằng Quang để tao cho vào tuyển tập Nguyễn Đức Quang”.

Quang Già Cơ đưa tao vào thế kẹt quá vì tao viết gì về mày bây giờ? Nhưng một khi Quang Già Cơ đã ra lệnh thì khó ai dám từ chối!

267

Mày biết không kể từ ngày mày nằm xuống, nhan nhản trên báo chí, TV, Blog vvv ... chỗ nào cũng có tin về mày, khen ngợi, tiếc thương ... Số người Việt đọc tin về mày nhiều hơn tin về Bin Laden! Không những là bây giờ nhưng còn mãi mãi về sau.

Tao định viết một bài tràng giang đại hải ca ngợi mày, nhưng thấy rằng khen mày thì chẳng khác gì khen thầy chùa cạo đầu láng! Dẫu lời khen của tao có văn hoa bóng bẩy nhất thế giới tự do chăng nữa thì cũng chẳng khác gì bỏ thêm một đóa hoa trong một rừng hoa. Thôi thì tao chọn trang này để tâm sự vụn với mày vậy!

Tao còn nhớ như vừa mới hôm qua khi Trường CTKD khai giảng, trừ mày và một số nhỏ gốc Đà Lạt, còn đa số tụi tao đều đến từ bốn vùng chiến thuật, không những từ Bến Hải đến Cà Mâu, mà còn từ “ngoại quốc”– Tao đến từ một nơi khỉ ho cò gáy: Lào, (còn một anh bạn nữa cũng đến từ Lào một lượt với tao, anh ta là người Lào gốc An Nam: anh chàng Khouane Nethavong có tên Việt là Nguyễn Minh Khôi, hiện đang sống ở Paris). Đối với tao, một thằng nhà quê, Đà Lạt là một cái gì thật tuyệt vời: từ khí hậu, khung cảnh, con người - khí trời luôn luôn mát mẻ, đàn ông thì luôn luôn tề chỉnh trong bộ vét tông chững chạc, thiếu nữ thì má đỏ môi hồng - ôi thật giống như “Tây”; mặc dầu tao chưa bao giờ thấy Tây tròn hay méo cả. Ngay cả khung cảnh Viện cũng làm tao choáng ngợp: những con đường nhỏ với hàng anh đào dẫn đến các giảng đường hoặc đến nhà nguyện; nhất là nhà nguyện, kiến trúc sao mà sang trọng thế! Sau này tao có dịp ghé qua vài Campus của các đại học Hoa Kỳ thật sang trọng, nguy nga đồ sộ, nhưng mãi mãi

268

trong tao Viện Đại Học Đà Lạt vẫn là nhất, vẫn chiếm trọn cả tâm hồn tao. Có thể vì đó là mối tình đầu chăng?

Tao ghi danh vào Văn Khoa Pháp, còn CTKD chỉ là phụ, thứ nhất vì lòng yêu thích văn chương Pháp, thứ hai vì lo sợ vốn liếng chữ Việt của tao không đủ để theo các lớp Kinh Tế, Chính Trị ... Tao và Cao Bá Quát khác nhau một tí. Đối với ông ta, cả nước có 3 bồ chữ thì ông ta lấy mất hai bồ, còn lại một bồ chia cho Vua và cả nước. Phần tao cả nước có 3 bồ chữ thì thiên hạ lấy hết riêng tao có lẽ chỉ nhặt được vài ba chữ rơi rớt bên bờ ruộng! Vả lại, trong lúc các giảng đường CTKD ồn ào náo nhiệt bao nhiêu - mỗi sáng phải dành chỗ, nếu không kịp đành đứng ngoài hành lang - thì bên văn khoa Pháp thật êm đềm và thanh thoát. Từ phòng học được nhìn ra vườn ngắm mimosa vàng huyền ảo nở trên hàng lá bạc, hoặc sương mờ lãng đãng, tha hồ thả hồn vào thế giới ngọt ngào của Verlaine, Rimbaud …

Khung cảnh Đà Lạt và của Viện tạo cho tao một cảm giác thật bình an. Những biến động chính trường ở Saigon: thay đổi chính phủ, Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát, Nguyễn Khánh chỉnh lý, Phật Giáo biểu tình, Công Giáo xuống đường, Hội Đồng Quân Lực v.v.v hình như đang xảy ra ở một thế giới nào khác, chả có gì liên quan đến Đà Lạt cả! Tao vẫn dạo chơi dưới mưa với Verlaine, hoặc chèo thuyền trên hồ Geneve (không phải hồ Xuân Hương) với Lamartine mặc cho mọi ồn ào náo loạn chung quanh.

Và cứ thế “dòng đời (sẽ) trôi lặng lẽ”, nếu, nếu không có một buổi chiều. Với tao chiều Đà Lạt là một cái gì thật tuyệt vời, thật nhiệm mầu, và phải viết bằng chữ hoa: CHIỀU ĐA LẠT mới đúng. Tao vẫn không hiểu tại sao

269

chưa có nhạc sĩ nào cảm hứng về CHIỀU Đà Lạt cả; lẽ dĩ nhiên phải loại trừ mày ra, vì mày là dân Đà Lạt nên Bụt nhà không thiêng! Không khí mát lành lạnh của buổi chiều, cảnh thiên nhiên thật nên thơ với hàng thông lác đác, tầm mắt không vướng mắc, xa xa là ngọn Lâm Viên mời gọi … tất cả làm con người cảm thấy thật bình an.

Một buổi chiều, cũng như nhiều buổi chiều khác, tao hay lang thang thả hồn theo Musset, Beaudelaire và nghĩ đến người yêu … thì một sự tình cờ định mệnh chợt đến. Và như một câu thơ nào đó tao không nhớ tác giả “và chiều nay khi rừng thông vừa chín, và sự tình cờ đưa chàng đến đó, và cũng sự tình cờ đưa (giọng hát) đến đâỵ” Thật vậy, lúc chưa ra khỏi Đại Học Xá, bỗng đâu tao nghe một giọng hát thật lạ, không phải Duy Khánh, không phải Trần Thiện Thanh, không phải là Từ Công Phụng với kinh nhật tụng Bây Giờ Tháng Mấy Rồi Hỡi Em, mà một giọng hát thật lạ, đúng ra thì không phải là một giọng hát mà là một tiếng gào thét, một tiếng la, một tiếng nói trầm ấm nhắc nhở, một tiếng nấc nghẹn ngào với ngôn từ thật mới mẻ:

Tôi trót sinh ra làm dân nhược tiểu vú mẹ gầy cơm chẳng nuôi thân

……………………………………………..

Tôi trót sinh ra làm dân nhược tiểu nghe xung quanh nghiêng ngã cợt cười

cạnh chén cơm chan máu dân tôi…

…………………………………………….

270

Anh nghĩ gì núi sông này? em nghĩ gì nước non này?

……………………………………

Giọng ca và lời ca như tiếng sấm nổ trong tai. Tao chơi vơi, bàng hoàng. Một cảm giác hụt hẫng xâm chiếm cả tâm hồn. Tao cảm giác như người vừa ngủ mê thức giấc, thấy mình đúng là “Ta rong chơi suốt đời biết đâu nguồn cội”. Tự nhiên bầu trời như rực sáng, Tự nhiên tao thấy rõ mình phải làm gì. Chỉ trong một sát na tao thông cảm với ngài Ca Diếp khi nhìn thấy Đức Phật cầm cánh hoa và mỉm cười.

Tao trở về phòng với tư duy đổi chiều 180 độ nhưng lòng thì trĩu nặng vì biết rằng con đường trước mặt rất nhiều chông gai. Mặc, mình phải dấn thân vì có như vậy cuộc đời mới có ý nghĩa. Tao tự nhủ lòng.

Lòng tao tràn ngập niềm cảm ơn đối với người nhạc sĩ tao chưa biết tên!

Năm mươi năm nhìn lại tao vẫn cảm ơn mày như thường vì:

Nào ai tỉnh… Nào ai say… Chí ta, ta biết

Lòng ta, ta hay Nam nhi sự nghiệp ư…

Hồ thỉ Hà tất

cùng sầu với cỏ cây.

Nguyễn Bá Trác

Tao muốn mày nhận được lời cảm ơn này, nhưng không chắc là Quang Già Cơ chịu đăng, vì tao viết với niềm xúc cảm, không gọt dũa, không sắp đặt nên rất luôm thuộm. Tao biết mấy nhà văn bao giờ cũng khó tính lắm.

271

Nhưng không sao, nếu không có trong tuyển tập tao vẫn có thể gởi đến tận tay mày như thường bằng cách tao sẽ in lên giấy hoa tiên thật trang trọng, và sẽ đốt trong một đêm trăng đẹp như đêm trăng sáng chúng mình qua phà trên vịnh Puget Sound ở Seattle trước đây. Thượng hưởng.

05/31/2011

272

BÙI NGỌC NGA Chính Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt

Bước Chân Tuổi Trẻ

Tôi nhớ đã quen với Minh Thông, vợ Nguyễn Đức Quang năm học lớp Đệ Nhất trường Gia Long. Tôi ở lớp B1 Anh Văn, Thông ở B2 Pháp Văn. Chúng tôi cùng vào Gia Long năm cuối của Trung học nhưng những buổi biểu tình bãi khóa, bầu cử ban đại diện trong trường đều không thiếu vắng hai chúng tôi.

Lên Đàlạt gặp lại Minh Thông, những ngày ở trại Suối Thông tôi nghe các bạn chọc ghẹo anh Nguyễn Đức

273

Quang với Minh Thông. Trại công tác Suối Thông tại Đàlat (cách Đà Lạt 30 km) được tổ chức bởi Chương Trình Thanh Niên Sinh Viên Công tác Hè 1965 do anh Hoàng Ngọc Tuệ đại diện. Anh Nguyễn Tường Cẩm, Tổng Ủy Viên Thanh Niên Đàlạt – Lâm Đồng của Chương trình Hè, cùng Nguyễn Khải, anh Minh đi xin tiền tài trợ từ Tòa Tỉnh, Asia Foundation, USIS, Cha Viện Trưởng, ... để có thể tổ chức hai trại dài hạn, mỗi trại một tháng xây dựng nhà, ổn định chỗ ở cho đồng bào tỵ nạn mà nhân lực là bàn tay và sức lực của những sinh viên của Viện Đại học Đà Lạt.

Nhóm chủ lực của trại Suối Thông gồm anh Nguyễn Đức Quang, Ủy viên Công tác, và là trại trưởng, các anh Lĩnh, Châu, Thảo, Ý... đều là những Hướng Đạo sinh tại Đàlạt, rất có kinh nghiệm đi trại công tác. Tôi và chị KhánhTuyết là hai người nữ ở trong trại suốt thời gian, lo việc ẩm thực cho tòan trại. Ban ngày các anh trại viên phụ trách công việc xây dựng nhà. Công việc rất nặng nhọc như vác tre, vác gỗ, trộn hồ, chuyển hồ, dựng mái, lợp mái.... Tối về sau bửa cơm tất cả chúng tôi quây quần bên nhau ca hát ; trời lạnh và mưa ngồi trong nhà (nhà sàn cao cẳng), nếu không mưa chúng tôi đốt lửa ngồi ngoài trời, có khi đến một , hai giở sáng (tuổi trẻ có khác !) Anh Quang đàn hát liên miên, chúng tôi hát những bài ca của trẻ em, của Hướng đạo và những bài ca lịch sử (Bạch Đằng Giang, Bóng Cờ lau,......,), nhạc tiền chiến. Mặc dù chỉ có hai người nữ (có khi chỉ có một mình tôi, khi chị Tuyết cần về Đàlạt lấy thêm tiền, mua thêm thức ăn) chúng tôi luôn tham dự sinh hoạt cùng các anh. Riêng tôi vì đã là đoàn sinh Gia Đình Phật tử đã tham dự rất nhiều trại sinh hoạt ở học đường, cũng như trại công tác vệ sinh, trại Cứu thương, trại Cứu hỏa với đoàn hướng đạo Đạo Cửu Long ở Saigon, nên tôi rất thông thạo, dạn dĩ khi tham dự trại công tác của sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt. Lại nữa tôi thuộc lòng và rất mê hát những bài hát lịch sử,

274

những bải hát thanh niên, nhạc tiền chiến nên không bao giờ chịu bỏ cuộc những buổi hát hò tập thể này. Ngoài ra tôi có đưa cho anh Nguyễn Đức Quang mượn tuyển tập nhạc những bài dân ca Mỹ (một IVS đã tặng tôi trước khi về Hoa Kỳ).

Tôi nhớ anh Quang thường đem ra đàn và tập cho chúng tôi hát. Tôi có đòi anh Quang quyển tập nhạc này, nhưng lần nào anh cũng quên trả và tôi cũng quên đòi luôn. Có điều chắc chắn là tập nhạc này có giá trị và hữu ích cho anh Nguyễn Đức Quang hơn là ở trong tay tôi.

Điều đáng nói về trại công tác là chúng tôi sống cả tháng trời trong làng Thượng, không hề về lại Đàlạt; sống trong tiện nghi tối thiểu, thức ăn, nước uống rất hạn chế, chẻ củi , lặt rau, nhóm lửa (viết đến đây tôi nhớ anh Nghiêm Hữu Ý, đã mất khi vượt biên, chổng mông thổi lửa phù phù)...làm việc rất nặng, thời tiết vừa lạnh, vừa mưa, đất bùn, đất đỏ, trơn trợt... nhưng tôi không hề nghe một lời than vãn, gây gổ hay cãi vả nhau. Nam nữ sống chung trong căn nhà sàn không hề có những sàm sỡ hay bậy bạ, có trêu ghẹo nhau nhưng không bao giờ quá lời, rất vui vẻ và thân ái với nhau trong tình anh em một nhà.

Kết thúc những ngày trại anh em chúng tôi mỗi người có một tên mới : K’Quang, K’Lĩnh, K’Châu, K’Tuyết, K’Ý, K’Nga... (theo cách thức đặt tên của một làng Thượng, K là họ của một giòng tộc, sinh sống rải rác tại Đà Lạt, Pleiku...)

Trại Suối Thông là một trong những trại thành công của Chương trình Thanh Niên Sinh Viên Công tác Hè 1965, công đầu của anh Nguyễn Đức Quang và có thể nói chính nơi đây cũng là cái nôi sản xuất ban Trầm Ca và sau này là Nhóm Du Ca do anh Quang làm trưởng xưởng, họp cùng nhóm các anh trại sinh của trại Suối Thông dựng nên.

275

Năm 1972, tại Sàigon nhóm Du Ca của Nguyễn Đức Quang cùng với anh Hoàng Ngọc Tuệ có dự tính chương trình phát động phong trào Du Ca rầm rộ hơn để đáp ứng nhu cầu của thế hệ thanh niên, sinh viên nơi học đường cũng như ngoài xã hội. Việc đầu tiên là in ấn và phổ biến rộng rãi những sáng tác của Nguyễn Đức Quang và ban Trầm Ca, cùng những bài nhạc thanh niên, tuổi trẻ, dân ca của các quốc gia khác ca ngợi tự do, nhân quyền khi giới thanh niên, sinh viên Việt nam chúng tôi có dịp tham dự những trại hội nghị, công tác quốc tế. Anh Ngô Mạnh Thu và tôi được giao phó làm Thủ quỹ của Phong trào.

Tiếc thay năm 1975 tan hàng, chúng ta đã tan tác mỗi người một nơi, một chốn. Nhưng không ai có thể phủ nhận rằng thế hệ chúng ta đã được hun đúc từ một môi trường tự do, nhân bản đạo đức từ tiểu học, trung học cho đến đại học, trong gia đình, cũng như ngoài xã hội. Chúng ta, một lớp người sống có lý tưởng, một thế hệ mà khát vọng tràn trề sẵn sàng ‘đứng lên đáp lời sông núi’ qua những ca khúc của Trầm Ca , của Du Ca vừa hùng hồn, vừa mời gọi, để xây dựng, để góp lời, cho quê hương , cho dân tộc....

Năm 1980, anh Nguyễn Đức Quang có ghé thăm chúng tôi tại Portland; nói chuyện về làm báo và Du Ca....

Năm 1996, chồng trước của tôi, anh Dương Mạnh Hùng mất. Anh Lê Đình Điểu an ủi: Trần Đại Lộc và Dương Mạnh Hùng đi trước là để tìm đất trại, tổ chức trại, chúng ta sẽ cùng tham dự một trại thật lớn.

Lê Đình Điểu đã đi, Đỗ Ngọc Yến đã đến nơi, nay Nguyễn Đức Quang lên đường.... vẫn là để nhận công tác làm Trại trưởng (chăng ?), một công việc mà Nguyễn Đức Quang đã từng vác ngà voi rất nhiều lần ở cõi Ta Bà...

276

Tiễn Anh Nguyễn Đức Quang lên đường ... anh đi, anh Quang nhé, ‘đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang’..... nơi đến MIỀN CỰC LẠC MIÊN VIỄN.

Nam mô Tiếp Dần Đạo Sư A Di Đà Phật

San Jose, mưa bão tháng ba, 2011

277

NGUYỄN TÂM TRỰC Cựu Sói con Bầy Ngàn Thông - Lê Lai, Đà Lạt Chính Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt

Không Thể Nào Quên …..

Bagheera Nguyễn Đức Quang

Một ngày cuối tháng 03 năm 2011, tôi đang ngồi một mình trong Patio phía sau nhà, lưng quay lại với cái TV cũ mà âm thanh đang phát ra bằng tiếng Việt, giọng của một xướng ngôn viên đài SET đang đọc bản tin: nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã vĩnh viễn ra đi. Tôi quay phắt lại để nghe thêm cho rõ hơn ... Ôi thôi! Đúng là anh Quang đã thực sự lìa bỏ cõi trần này!

278

Cả tuần nay, đã nhiều lần tôi muốn đi thăm anh Quang nhưng bạn bè và diễn đàn TNIC đã cho tin về tình trạng sức khỏe của anh đang trong cơn nguy kịch nên tôi lại thôi, không đi nữa. Nếu có đến thăm anh thì anh cũng không nhận biết được ai với ai vì, từ mấy tuần nay, anh vẫn ở trong tình trạng cô-ma!

Vói tay lấy bật lửa trên bàn, tôi châm điếu thuốc lá và trầm tư nhìn làn khói thuốc quyện lẫn vào những tia nắng chiều đang gay gắt của vùng Westminster, Orange County. Một điều gì đó đang “vương vướng” trong lòng mà tôi chưa hình dung hay nhận biết được thì ... chính tôi đã phải tự chủ động phun mạnh ra một luồng khói thuốc hầu che đậy sự dâng trào cảm xúc đang bừng lên đôi mắt. Tôi thấy cay cay trong hóc mũi và không còn nhìn rõ cảnh vật chung quanh nữa.

Tôi đã khóc! Và cứ như thế, tôi ngồi yên, thả lỏng cho ký ức đưa tôi về ...

Khung trời của những năm 1957-1963, tôi là Sói Con (cấp nhỏ tuổi trong sinh hoạt Hướng Đạo, còn gọi là Ấu sinh) thuộc bầy Ngàn Thông (vài năm sau được tách ra, có thêm bầy Lê Lai), Đạo Lâm Viên, Châu Trường Sơn, Đà Lạt. Các anh Trưởng Hướng Đạo “chăn dắt” chúng tôi gồm có anh Phước Akela(1), anh Kim Baloo(2) và anh Quang Bagheera(3). Từ buổi đầu, các anh thay phiên nhau dạy và “khảo bài” chúng tôi, nhất là lời Hứa Sói Con(4) , luật Hướng Đạo (5), hướng dẫn chúng tôi cách thắt các loại nút trên giây, cách lấy lửa từ hai viên đá hoặc từ hai thanh tre, cách nấu cơm ngoài trời, cách tìm phương hướng không có la-bàn (ban ngày & ban đêm), cách lần tìm dấu vết của thú vật hoặc của người qua các trò chơi trong rừng ..v.v..

Riêng đặc biệt anh Ba-Ghê-Ra Nguyễn Đức Quang, anh dạy chúng tôi hát các bài ca Sói con (“Sói Con VN Hành Khúc”) và anh luôn luôn mang theo cây đàn ghi-ta mỗi ngày họp đàn Sói Con vào cuối tuần (thường là Chúa

279

Nhật). Qua đôi mắt của tôi lúc bấy giờ (8-10 tuổi), anh Quang là thần tượng của tôi vì anh giỏi về mọi mặt trong sinh hoạt Hướng Đạo, sẵn sàng giúp đỡ mọi người, bình dân, đàn giỏi, hát hay, tính tình vui vẻ và nhất là anh lúc nào cũng hào hứng trong sinh hoạt hướng dẫn bầy Sói Con Lê Lai chúng tôi.

Khoảng thời gian này, tôi ở với Bác tôi tại đường Hai Bà Trưng, Đà Lạt (nhà Bác tôi nằm trên đồi, một trong những căn nhà quét vôi màu hồng/đỏ trong khu Nhà Thương Đà Lạt). Mỗi kỳ nghỉ hè, các anh con Bác tôi và tôi - đồng trang lứa - hay đi lang thang tìm bắt dế. Tôi nhớ mãi một buổi sáng, khoảng 10 giờ, tay trái tôi cầm một hộp cạc-tông (đựng dế), tay phải cầm một que cây (để vẹt cỏ, thọc vào hang, lùa bắt dế), tôi mon men đi qua khỏi Nhà Thương, quẹo phải trên đường Calmette, mắt dáo dác nhìn hai bên đường tìm ổ dế. Khi đang lần mò đi về hướng Đông thì chợt nghe tiếng đàn ghi-ta ở gần đó vẳng lại. Ngước nhìn về phía có tiếng đàn thì tôi nhận ra ngay anh Ba-Ghê-Ra Nguyễn Đức Quang! Anh đang ôm đàn ngồi trên lan can hiên nhà, nghêu ngao hát. Tôi chạy vù đến chào anh, được anh ân cần hỏi han, vỗ vai và cho cầm đàn. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi được ôm cây đàn ghi-ta vào lòng, dù – lúc bấy giờ - tôi chưa biết nốt nhạc là gì !?!

Đến năm 11 tuổi, tôi đã leo đến bậc cao nhất của Sói Con (đầu đàn nhứt bầy Lê Lai), tôi lại được chính anh Quang làm lửa trại tiễn Sói con và đưa lên “Thiếu” (6) của Hướng Đạo Lâm Viên. Có một điểm đặc biệt của đêm lửa trại lên Thiếu đã làm tôi nhớ mãi: anh Quang lấy khăn quàng bịt mắt tôi và dẫn đi lòng vòng trong bóng đêm, đến lúc dừng lại, anh bảo, khi nào nghe anh đếm xong 1, 2, 3 thì cố gắng nhận định hướng phát ra tiếng kêu của bất cứ anh Thiếu nào chung quanh đó (mỗi anh bắt chước tiếng kêu của một loài thú) và tôi phải ráng chụp bắt cho được một anh thì mới chính thức được gia nhập đoàn Thiếu niên, Hướng Đạo Lâm Viên. Ở lứa

280

tuổi đó, tôi rất nhanh nhẹn, nhưng thật là mệt nhọc và khá lâu mới túm được một anh Thiếu! Cuối cùng, anh Quang và các anh Thiếu đã công kênh tôi lên chúc mừng tôi được vào đội “Thiếu”, rồi tất cả nắm tay nhau, đứng vòng tròn quanh lửa trại để đồng ca bài “Hướng Đạo Hành Khúc”.

Từ năm 1964 đến 1968, tôi theo gia đình về NhaTrang học nốt trung học. Đó cũng là lý do khiến tôi không tiếp tục sinh hoạt Hướng Đạo Đà Lạt nữa. Xong Tú Tài II, loay hoay thế nào tôi lại quyết định ghi danh vào học Trường Chính Trị Kinh Doanh (Khóa 6), Viện Đại Học Đà Lạt. Những ngày tháng đầu của Đại Học, tôi cũng được nghe về anh Quang qua Phong Trào Du Ca. Sau đó, được biết Anh cũng học Khóa 1 CTKD. Thời gian sau này, tiếng tăm nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã vang dội khắp miền Nam Việt Nam và anh thường đi đây đi đó với sinh hoạt Du Ca nên tôi không còn dịp gặp anh nữa. Phải chăng tính nghệ sĩ cộng với tinh thần Hướng Đạo trong con người anh đã thúc đẩy anh trở thành sáng lập viên Phong Trào Du Ca (1966) ?

30-04-75 bỗng ập đến! Vì gia đình, tôi kẹt lại Saìgòn. Không lâu sau 75, do duyên Trời đưa đẩy, tôi quen thân với anh Ngô Mạnh Thu (nhạc sĩ, qua đời năm 2004 tại O.C., Cali.). Anh Thu là bạn anh Quang và cùng sinh hoạt chung trong phong trào Du Ca. Qua tình thân và liên lạc giữa hai anh, tôi lại được biết tin, anh Quang và gia đình đã vượt biển tìm tự do và đang sinh sống tại Hoa Kỳ.

Giữa tháng Giêng năm 1990, tôi theo hồ sơ đoàn tụ gia đình đến định cư tại Quận Cam (Orange County), California, Hoa Kỳ. Trong những ngày tháng đầu tiên trên xứ lạ, tôi rất vui khi được các bạn K6 và nhiều anh chị trong gia đình Thụ Nhân gọi điện thoại thăm hỏi cũng như trấn an và hướng dẫn về nếp sống mới. Và anh Nguyễn Đức Quang cũng là người anh đầu tiên đã gọi

281

điện thăm tôi. Chắc hẳn anh vẫn nhớ đứa em Sói Con, bầy Lê Lai ngày nào!

Vài tuần sau, anh Quang – đương kim Chủ Tịch Hội Thụ Nhân California - đã tổ chức một đêm Họp Mặt Gia Đình Thụ Nhân tại quận Cam (Mừng Xuân năm 1990 ?) và có mời tôi đến tham dự. Trong buổi tiệc, anh đã giới thiệu tôi lên chia sẻ tình hình sinh hoạt của anh chị em Thụ Nhân tại quê hương từ sau 1975 đến lúc tôi xuất ngoại (kể lại những gì mà tôi biết).

Riêng đối với tôi, điều đặc biệt hơn cả là khi anh ngỏ ý hỏi tôi có muốn kiếm “tí tiền còm” trong thời gian đầu chuẩn bị hành trang để hòa nhập vào đời sống Hoa Kỳ hay không ?

- “Dạ, em rất muốn”. Tôi đã trả lời anh.

Thế là anh lôi tôi đến phụ giúp việc cho thuê băng Video các loại Phim ảnh Hoa Kỳ của gia đình anh tại miền Nam quận Cam. Tôi đến giúp anh được 3, 4 tháng. Buổi sáng, đi học ESL, Accounting ... Buổi chiều, đến phụ anh 3 giờ đồng hồ với tiền công trả bằng tiền mặt. Một tuần thanh toán một lần. Tuy số tiền không nhiều, nhưng cũng giúp gia đình tôi vượt qua các khó khăn trong thời gian đầu sống tại Hoa Kỳ. Về sau, tôi được biết nhân lực trong gia đình anh cũng tạm đủ để có thể thay phiên nhau trông nom tiệm Video, không cần sự trợ giúp của tôi (chị Thông + hai cháu đã 15, 17t).

Ôi! Tình nghĩa của anh đối với tôi sao mà bảo bọc, thân thương đến thế! Anh vẫn là Ba-Ghê-Ra và tôi vẫn là Sói con dưới sự che chở của anh như ngày nào, nhưng giờ đây là cuộc sống thực tế. Anh đã luôn sống đúng với lời Hứa Hướng Đạo (điều 2 & 3) và Luật Hướng Đạo sinh của mình (điều 3, 4 & 10 - Xin xem thêm phần Phụ chú). Tôi xin ngả mũ kính phục anh.

Khoảng cuối năm 1997, tôi rủ anh Ngô Mạnh Thu cùng đến thăm anh Quang tại Tòa Báo Viễn Đông. Sau vài

282

phút hàn huyên, anh dẫn tôi vào văn phòng riêng. Anh lấy tuyển tập “Dưới Ánh Mặt Trời”, gồm 69 ca khúc của anh (do các anh Thu & Cơ thực hiện cho anh Quang), ký tên tặng tôi. Cử chỉ này của anh đã làm tôi thật sự cảm động và hãnh diện lắm lắm! Những năm sau này trước khi anh mất, tôi vẫn thỉnh thoảng gọi điện thoại mời anh đi uống cà-phê, ăn sáng. Cho đến giờ phút này, tôi vẫn còn giữ số cell phone của anh (714-414-8462). Giọng anh vẫn cứ thân mật, oang oang ... “Chào em” như ngày nào ! Có một lần tôi hỏi thẳng anh:

-“Khi em mới đến Mỹ, sau bao nhiều năm không gặp nhau, anh có còn nhớ em là Sói con trong bầy Ngàn Thông, rồi sau đó là bầy Lê Lai ở Đà Lạt không ?”. Anh trả lời:

-“ Nhớ chứ! Ấy ... mấy cậu ở căn nhà đo đỏ, phía sau Nhà Thương Đà Lạt đều đi Hướng Đạo cả mà! À ... mà anh trưởng bầy Sói thời gian đó, anh Phước, đại úy thì phải, đã chết trong chiến tranh rồi !”...

Hình ảnh anh Quang (và cả anh Thu nữa) trong lòng tôi vẫn luôn là những hình ảnh đẹp của những người anh thân thương, đáng quí trọng vì trong cuộc sống các anh đã thể hiện trọn vẹn nhân cách của con người!

Phải chăng cái “duyên” được gặp anh từ thuở thơ ấu (Sói con), trải dài cho đến khi trưởng thành (Đại học Đà Lạt), từ nơi chôn nhau cắt rún (Đà Lạt-VN), giăng kết cho đến hải ngoại (Quận Cam, Hoa Kỳ) đã thực sự chấm dứt (?) sau khi anh để lại thân xác, ra đi về miền miên viễn ?

Thật lòng, tôi nghĩ và tin rằng: tôi sẽ được gặp lại các anh sau ngày tôi nhắm mắt.

Ghi chú: (1), (2) & (3): Đọc theo âm tiếng Việt là A-Kê-la, Ba-Lu và Ba-Ghê-ra. Sách Rừng xanh (1894) của Rudyard Kipling kể về một em bé bị cọp đuổi bắt đã chạy thoát được và lọt vào

283

trong hang của sói. Gia đình Sói Mẹ và Sói Cha bảo vệ và nuôi nấng bé. Sói Mẹ đã gọi bé con trần truồng ấy là Mowgli (có nghĩa là ếch nhái). Cũng như các sói con nào mới chào đời, Mowgli được xem như con của nhà Sói, sẽ được trình bầy (hay trình Làng) khi có họp định kz trên Tảng đá của Đại Hội đồng dưới sự chủ tọa của Akela tức Sói Già là lãnh đạo tất cả các gia đình sói cùng sống trong rừng Seeonee. Những con thú khác như Gấu Baloo, Báo Đen Bagheera, là những vị lo dạy dỗ cho Mowgli cũng như các sói con khác về luật lệ, bí quyết của "Rừng" để chúng đến lúc nào đó có thể tự một mình đi săn mồi. Ngoài ra trong chuyện còn có các con thú khác như voi Hathi, rắn Kaa, hay bọn khỉ vô kỷ luật Bandar-Log. (trích từ Wikipedia.org)

(4) Lời hứa Sói Con và Hướng Đạo Sinh (HĐS):

Tôi lấy danh dự hứa cố gắng hết sức:

1. Trung thành với Tổ Quốc, tâm linh và tín ngưỡng

2. Giúp ích mọi người bất cứ lúc nào.

3. Tuân theo luật Hướng đạo.

(5) Luật Hướng đạo Việt Nam 1. HĐS trọng danh dự để ai cũng có thể tin lời nói của HĐS

2. HĐS trung thành với Tổ quốc, cha mẹ và người cộng sự

3. HĐS giúp ích mọi người bất cứ lúc nào

4. HĐS là bạn của mọi người và coi Hướng Đạo Sinh khác như anh em ruột thịt

5. HĐS lễ độ và liêm khiết

6. HĐS yêu thương các sinh vật

7. HĐS vâng lời cha mẹ, huynh trưởng mà không biện bác

284

8. HĐS gặp khó khăn vẫn vui tươi

9. HĐS cần kiệm của mình và của người

10. HĐS trong sạch từ tư tưởng, lời nói đến việc làm

Trước 1975, Luật Hướng Đạo thường được gói ghém trong các từ ngữ sau đây:

Danh Dự – Trung Thành – Giúp Ích tha nhân. Thân Hữu – Lịch Sự – Kết Thân mọi người. Nhân Ái – Vâng Lời – Vui Tươi – Gắng Sức. Cần Kiệm – Trong Sạch là lề luật Hướng Đạo sinh. Luôn Sắp sẵn, Hiên ngang can trường rèn luyện bản thân để ngày mai lên đường vui sống. Hy Sinh không sờn, vì tha nhân, vì non sông vì tín ngưỡng.

(6) Các ngành (nhóm tuổi) trong Hướng Đạo Việt Nam: Ấu sinh: từ 7 đến 11 tuổi

Thiếu sinh: từ 11 đến 15 tuổi

Thanh sinh (có khi gọi là Kha): từ 15 đến 18 tuổi

Tráng sinh: từ 18 đến 25 tuổi

285

Lisa Cúc Thụ Nhân B

Phạm Ngọc Bích

Chính Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt

Vĩnh Biệt Quang

Quang Du Ca, Cao Đình Phúc, Lisa Cúc, Diệu Thanh,

Quang Già Cơ, Vũ Trọng Thức

286

Thôi thì, thì thôi anh đi

Lời giã biệt buồn như mùa Đông cuối,

Cầm tay anh gầy guộc.,

Hơi ấm này

Còn sót lại bao lâu?

Bản nhạc tình

Anh dang dở viết

Dòng nhạc buồn..

Như cánh nhạn đơn côi….

Vĩnh biệt anh,

Thì thầm lời nói cuối

Thôi thì..

Thì thôi ...Quang đi...

287

288

QUANG GIÀ CƠ Chính Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt

Nhớ Về Nguyễn Đức Quang Du Ca

Nguyễn Thiện Cơ, Nguyễn Thị Nhuận, Nguyễn Đức Quang,

Ngô Mạnh Thu hát tại nhà Quang Già Cơ.

Tôi và Nguyễn đức Quang tình thân thì có, nhưng thông cảm, hiểu biết nhau thì không. Có nhiều lý do để tôi và Quang thân nhau. Thứ nhất vì tôi và Quang là bạn học. Chúng tôi học với nhau bốn năm tại trường CTKD thuộc

289

viện đại học Đà Lạt. Thứ hai vì tôi và Quang cùng là sinh viên sĩ quan trừ bị khóa 9/68 Thủ Đức. Trong thời gian ở trường Võ Bị, tôi và Quang ở trong một nhóm 10 người được biệt phái 2 tuần về trường Trung Học Đệ Nhất Cấp Võ Khoa Thủ Đức. Tại trường này, chúng tôi có nhiệm vụ tổ chức cho trường có những đơn vị Thiếu Sinh Quân Đội và huấn luyện cho các em học sinh những kỹ năng của Hướng Đạo. Lý do thứ ba, tôi và Quang là khóa sinh của một khóa Cơ Bản CTCT của Trường CTCT thuộc Cục Chính Huấn trong ba tháng. Lý do thứ tư, tôi và Quang cùng làm việc tại phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt thuộc Cục Chính Huấn trong thời gian một năm. Lý do thứ năm là mỗi lần lên thăm Seattle, Quang đều ở lại nhà tôi mặc dầu Quang được rất nhiều người mời đến ở lại nhà của họ. Mặc dầu quen biết nhau một thời gian khá lâu, nhưng chúng tôi vẫn không trở thành đôi bạn thân thiết . Lý do không phải vì khác tính tình, khác chính kiến … Lý do chính có lẽ là chúng tôi ít có dịp làm việc chung với nhau và khả năng khác nhau. Chúng tôi là bạn nhưng không chung bè. Tôi không có bè, Quang thì có. Quang không những có bè mà còn chèo lái cái bè Du Ca to tướng. Trong suốt bốn năm trường tại Viện Đại Học Đà Lạt, chúng tôi gập nhau rất ít. Năm 1964 đến năm 1968 là những năm hoạt động sôi nổi của các phong trào thanh niên. Quang là người sáng lập Phong Trào Du Ca thì làm gì có nhiều thời giờ để đến lớp. Trong bốn năm, tôi và Quang ngồi cạnh nhau trong bốn kỳ thi cuối khóa của bốn năm học. Những lần gập nhau trong những kỳ thi thì chắc chắn chúng tôi không nói chuyện với nhau nhiều. Nói nhiều sợ quên hết chữ. Lúc chờ phát đề thi thì mặt ai cũng nghiêm và buồn, tâm trí đâu mà nói chuyện với nhau.

290

Chúng tôi không cùng nộp bài thi một lần. Nộp bài thi xong thì mạnh ai nấy biến. Ngoài những lần gập nhau trong các kỳ thi, có lẽ số lần chúng tôi gập nhau chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Tôi chỉ nhớ trong bốn năm học tôi nghe Quang hát ba lần: một lần tại Giảng Đường Spellman, một lần tại Giảng Đường Thụ Nhân và một lần tại quán T2 của Nguyễn tường Cẩm và Nguyễn lập Chí.

Trong thời gian thụ huấn tại quân trường Quang Trung và Thủ Đức chúng tôi không ở cùng đại đội. Trong hai tuần sinh hoạt tại trường trung học Võ Khoa, tôi chỉ nói chuyện với Quang hai lần. Một lần chúng tôi tụ họp để nghe Thiếu Tá Thùy, trưởng phòng CTCT trường Võ Khoa Thủ Đức, chỉ thị về công tác của chúng tôi trong hai tuần tại trường trung học Võ Khoa và một lần chúng tôi họp để bàn về buổi lễ bế giảng khóa huấn luyện. Buổi bế giảng khóa huấn luyện có những mục thi cắm lều nhanh, thi cứu thương, hợp ca và kết thúc bằng một màn vũ của người da đỏ nhảy múa quanh totem. Màn vũ này do Quang sáng tác và tập cho các em. Trong hai tuần công tác, tôi và Nguyễn mạnh Phước phụ trách thành lập và huấn luyện một thiếu đoàn. Quang làm việc trong ban chỉ đạo công tác cùng với anh Thùy và anh Nguyễn Minh Triết.

Khóa học Căn Bản CTCT, tôi chỉ nói chuyện với Quang có một lần. Quang chỉ học có một tuần rồi biến mất, không một lời từ giã . Quang được cử đi Pháp và một số nước Âu Châu trong một phái đoàn văn nghệ do chính phủ VNCH tổ chức.

Thời gian tôi làm việc chung với Quang dài một năm tại Cục Chính Huấn từ năm 1970 đến năm 1971. Trong

291

thời gian một năm đó, tôi và Quang cũng ít khi gặp nhau trong giờ làm việc vì chúng tôi phải đi công tác luôn. Tôi chưa bao giờ được đi công tác chung trong một toán công tác với Quang. Chỉ có hai lần, hai toán công tác của chúng tôi gập nhau : Một lần tại An Thới Phú Quốc, một lần tại Nha Trang. Ngoài giờ làm việc chúng tôi không đi chơi chung với nhau. Quang thì bận rộn với phong trào Du Ca. Vô công vô nghệ như Hồ Phán, Nguyễn Duy Linh, Đặng Đình Tiến và tôi thì thỉnh thoảng chúng tôi ra Pagoda, Mai Hương hay Grival, ngồi ngắm thiên hạ qua lại. Trước năm 1975, lần cuối cùng tôi gập Quang là lần Quang ở trong toán công tác của Cục Chính Huấn đến huấn luyện cho các trung đội Chính Huấn của đơn vị tôi, Tiểu Đoàn 20 CTCT tại Pleiku. Sau đó tôi nghe tin Quang được biệt phái về làm việc tại Ngân Hàng Phát Triển Nông Thôn . Tôi gập lại Quang vào năm 1995 nhân dịp Quang lên Seattle trình diễn vào dịp Tết Âm Lịch do lời mời của Hội HO Seattle.

Năm 2000 Quang tặng tôi tập nhạc Dưới Ánh Mặt Trời nhân dịp Quang lên Seattle để nhận cây đàn Guitar do anh Cao Hoàng tặng, với lời đề tặng :

Nguyễn đức Quang

tặng

Nguyễn đức Quang

Seattle 05 . 28 . 00

Nhiều người mới đọc lời đề tặng cho là lời tặng kỳ quái

Hôm nay tôi viết một câu truyện có đề tựa:'' Nguyễn đức Quang Già Cơ nhớ về Nguyễn đức Quang Du Ca''.

292

Những Trớ Trêu. Tôi thực sự gập nhiều sự trớ trêu vì trùng họ tên, trùng chữ lót, năm sinh, cùng lớp học, cùng trường học với một người nổi tiếng. Sau khóa huấn luyện cơ bản về CTCT, tôi được bổ nhiệm về Cục Chính Huấn. Tôi cầm sự vụ lệnh vào trình diện đại tá Cao Đăng Tường. Đại tá Tường là một người cao lớn, hồng hào, đẹp trai, mặt mày phúc hậu. Ông ta vui vẻ mời tôi ngồi. Tôi chưa ngồi được xuống ghế, tôi nghe ông hỏi :

- Anh đi Pháp có vui không ?

- Thưa không

Do phản ứng vội vàng nên câu trả lời của tôi không chính xác và vụng về. Thật ra, tôi chỉ muốn nói tôi không phải là anh Nguyễn Đức Quang được chính phủ cử đi Pháp. Đại tá Tường thân mật hỏi tiếp :

- Sao lại không vui ? đi Pháp mà lại không vui sao ?

- Thưa không, đại tá.

Lại một câu trả lời không chính xác và ngớ ngẩn, nhưng lần này tôi đính chính ngay :

- Thưa đại tá tôi không phải là Nguyễn đức Quang

Câu trả lời này đúng là câu trả lời ngớ ngẩn và ngu đần, khiến đại tá Tường nhìn tôi rồi nhìn tờ trình của phòng nhân viên để trên bàn :

- Anh không phải là Nguyễn đức Quang ?

- Thưa đại tá tôi là Nguyễn đức Quang, nhưng tôi không phải là anh Nguyễn đức Quang nhạc sĩ

293

Lần này thì tôi đã trả lời chính xác. Đại tá Tường nhìn tôi , nhìn vào tờ trình của phòng nhân viên rồi nói với tôi bằng giọng không mấy vui :

- Chuẩn úy cứ xuống trình diện tại phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt

Đến gần phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt, tôi nghe vọng ra từ trong phòng tiếng hát của một ban đại hợp xướng. Khi tôi bước vào phòng thì phòng bỗng im phăng phắc. Hơn bốn mươi cô ca sĩ đang được một anh quân nhân tập hát ( trung sĩ nhất Nguyễn văn Nụ) đưa mắt nhìn tôi . Lần đầu tiên trong đời tôi được một đám đông mỹ nhân chiêm ngưỡng khiến tôi bối rối. Tôi lúng túng bước theo chân trung uý Lê Minh Đức vào trình diện thiếu tá Phó Đức Toàn. Thiếu tá Toàn giới thiệu tôi với sĩ quan trong phòng rồi đưa tôi ra phòng tập hát để giới thiệu tôi với các cô ca sĩ . Sau đó thiếu tá Toàn ra lệnh cho tôi tự giới thiệu với các sĩ quan và các cô ca sĩ . Tôi nói :

- Thưa thiếu tá trưởng phòng, thưa quí vị sĩ quan, thưa các cô. Thiếu tá trưởng phòng bảo tôi tự giới thiệu tôi với quí vị. Nhưng sự việc vừa xẩy ra cách đây nửa tiếng tại phòng đại tá Cục Trưởng khiến tôi nghi ngờ tên thật của tôi . Tại sao ? tôi xin kể cho quí vị nghe một câu truyện : Năm 1967 tôi đi từ Đà Nẵng ra Huế (Tôi không kể chi tiết sau đây Năm 1967 chị Nguyễn Thi Minh Nguyệt, Trần Minh Châu, Phạm Văn Răng và tôi đi công tác tại tỉnh Quảng Nam cho chương trình Kinh Tế Hậu Chiến của giáo sư Vũ Quốc Thúc. Sau khi hoàn thành công tác, tôi đi Huế để thăm người con gái tôi yêu ở ga Huế, Phạm Văn Răng xin đi theo tôi để thăm xứ Huế mà anh chưa biết). Trên đường đi

294

Huế phải vượt qua đèo Hải Vân. Trước đó vài ngày, Việt Cộng đã giật xập một cây cầu trên đèo và còn đóng một chốt trên đèo Hải Vân. Từ cái chốt này họ bắn vào các xe chạy qua đèo. Ai muốn đi qua đèo phải đi bộ vì cầu gẫy và đang được một toán công binh Mỹ sửa chữa, nhưng chưa xong. Họ phải đi bộ khoảng ba mươi lăm cây số từ chiếc cầu gẫy ra đến Lăng Cô mới có xe đi Huế. Xe của tôi đến nơi cầu gẫy từ sáng sớm và vẫn chờ với hy vọng cầu sửa xong và sẽ đi Huế được. Đến quá trưa có nhiều xe đã bỏ cuộc quay trở về Đà Nẵng. Hành khách trên xe kiên trì chờ cầu sửa xong, chỉ có vài người theo xe khác để trở về Đà Nẵng. (tôi bỏ qua chi tiết, xe tôi kiên trì chờ đợi vì bác tài xế và hành khách ba hôm nay không về nhà của họ ở Huế được. Còn tôi, nếu không có Phạm văn Răng, tôi đã theo một toán người đi bộ để đến Lăng Cô. ) Đến khoảng năm giờ chỉ còn một mình xe tôi, tất cả các xe khác đã trở lại Đà Nẵng. Bác tài xế là người thiếu kiên nhẫn hơn cả. Bác ta lên xe, xuống xe, mở máy xe, tắt máy xe không biết bao nhiêu lần . Bác tài chỉ tôi rồi nói như ra lệnh : '' Anh này biết tiếng Mỹ, anh lên hỏi xem có qua cầu được không ?'' (Ngồi bên cạnh tôi là Phạm Văn Răng đeo kiếng trắng, người cao to trông trí thức hơn tôi nhiều . Tại sao bác tài không sai Răng mà lại sai tôi . Tiếng tây tiếng u của tôi không ra gì nên tôi lưỡng lự. Bác tài bồi thêm một câu :'' Cậu đi hỏi giúp bà con một chút đi . Không biết sắp nhỏ của tôi ra răng ?'' Một bà lên tiếng :'' Thằng con tôi bệnh mấy hôm nay. Hôm tôi đi đã thấy hắn biếng ăn ''. Tôi rủ Răng đi với tôi. Răng từ chối, tôi đành phải xuống xe đi về phía cây

295

cầu gẫy với dáng điệu không mấy tự tin .) Khi đi đến cây cầu, tôi dõng dạc hỏi thằng Mỹ :'' Xe của chúng tôi qua cầu được không?''. Tụi Mỹ không trả lời câu tôi hỏi. Một thằng Mỹ trắng to lớn đi về phía tôi. Nó lớn giọng nói với tôi :'' con cóc ''. Tôi không hiểu nó nói gì . Tôi nói với nó :'' Tôi không hiểu '' . Nó tiến đến gần tôi, nó lớn tiếng nhắc lại :'' Con cóc ''. Tôi thật sự lúng túng . Lúc ấy tôi mới thấy dốt tiếng Anh thật tai hại. Bỗng nó chụp lấy vai tôi. Nó lôi tôi lên chỗ đất cao hơn. Mặt tôi tái đi . Tôi như một con nhái bị một con rắn lồng tha đi. Nó hất hàm nhìn tôi nói lớn :'' con cóc ''. Bọn lính Mỹ ngừng công việc. Chúng nhìn xem thằng bạn chúng làm tình làm tội tôi . Chúng cười ha hả. Một vài thằng nói lớn :'' Con cóc '' . Bỗng thằng Mỹ rút cây súng colt. Một tay nó vẫn giữ vai tôi, một tay nó lên đạn. Nó chĩa súng vào đầu tôi. Bọn Mỹ đang cười bỗng im lặng. Cái im lặng để chờ đợi một điều bất hạnh xẩy ra Lúc ấy tôi bình tĩnh lạ lùng. Tôi đưa mắt nhìn lên trời xanh và những cụm mây trắng, tôi đưa mắt nhìn xuống biển xanh thật êm ả, tôi đưa mắt nhìn về vịnh Thanh Bình xa xa, bờ biển ngày thơ ấu của tôi. Bỗng tôi đưa tay vào túi quần, tôi rút ví, lấy thẻ căn cước và đưa cho thằng Mỹ. Thằng Mỹ nhìn căn cước rồi nhìn tôi. Nó buông tôi ra, vỗ vai tôi và nói :'' Ok, Ok ''. Bọn Mỹ cười ha hả, chúng trở lại với công việc của chúng. Tôi hỏi thằng Mỹ :'' Xe của chúng tôi có thể qua cầu được không ?'' Thằng Mỹ cười :'' yes ''. Tôi vẫy tay ra hiệu cho bác tài lái xe lên. Tối hôm đó chúng tôi có mặt tại Huế. Quí vị thấy, chỉ vì tôi hiểu lầm thằng Mỹ nói tiếng Mỹ, nhưng thật ra nó lại nói

296

tiê'ng Việt mà khiến suýt nữa tôi mất mạng trên đèo Hải Vân. Thằng Mỹ chỉ muốn xem thẻ căn cước của tôi. Vậy mà tôi tưởng hắn nói con cóc là một danh từ tiếng Mỹ mà tôi không biết nghĩa. Trước đây nửa tiếng đồng hồ đại tá Tường tưởng lầm tôi là nhạc sĩ Nguyễn đức Quang mà tôi có duyên được làm việc cùng quí vị tại phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt. Tôi tự giới thiệu tôi là Nguyễn Đức Quang nhưng không phải là nhạc sĩ danh tiếng Nguyễn Đức Quang.''

Trong phòng gọi tôi là Quang A vì tôi vào làm việc trước, còn gọi Quang là Quang B vì Quang vào làm việc sau. Các cô coi tôi như người anh và gọi tôi bằng anh Quang. Các cô thì coi Quang như bậc thầy và gọi Quang là Thầy Quang. Cách đối xử của các cô với Quang có phần cung kính và nể nang, trọng vọng hơn là đối với tôi. Thời gian phục vụ tại Cục Chính Huấn, tôi thường được các cô mời dự sinh nhật, các buổi họp mặt bạn bè, gia đình. Không khí làm việc tại Phòng Sinh Hoạt rất là thân tình và vui vẻ. Tôi làm việc tại Cục Chính Huấn, mẹ tôi rất lo lắng. Mẹ tôi sợ con dâu tương lai của bà sẽ là cô ca sĩ chính huấn. Thấy tôi gói quà để đi dự sinh nhật, hay dự tiệc gì đó của các cô ca sĩ chính huấn, mẹ tôi thường nhắc tôi :’’ Cẩn thận đấy nghe con, vướng phải ca sĩ thì khổ vào thân ‘’. Mẹ tôi là phụ nữ Việt Nam cổ nên vẫn còn quan niệm xướng ca vô loài. Nhưng theo tôi các cô cán bộ Chính Huấn này rất đàng hoàng và tình nghĩa. Tôi biết các cô có chồng và gia đình đều rất đàng hoàng vững vàng … Nếu có gia đình nào không ổn thì nguyên nhân là từ phía ông chồng gây ra cả. Phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt không lớn nhưng rất nhiều nhân viên, cả sĩ quan và cán bộ có tới trên năm

297

mươi người. Là một một đơn vị nhỏ trong Cục Chính Huấn, nhưng công tác họ thực hiện đã nâng Cục Chính Huấn lên một mức rất hãnh diện thời đó. Tôi không ở lâu tại đây, tôi cũng không nghe Quang Du Ca khoe những thành tích đóng góp của anh cho đơn vị Chiến Tranh Chính Trị này như thế nào. Tôi chỉ biết Quang rất đươc mọi người trong Cục Chính Huấn quý mến. Không những các cô cán bộ phục lăn cái tài sinh hoạt của Quang mà cả các sĩ quan từ trưởng phòng tới trưởng khối và cả cục trưởng đều “cưng” Quang ra mặt. Sau này một lần Quang có kể cho tôi nghe cái mức độ “cưng” đó như thế nào.

Trở lại đơn vị lính đầu tiên của tôi là Cục Chính Huấn. Tôi không thể không đi xa ra đề tài đôi chút để nói về Cục Chính Huấn. Các cán bộ là thành phần khổ nhất vì họ không phải lính mà cũng không phải là sĩ quan. Họ chỉ là dân chính nên họ chẳng có quyền lợi gì, trong khi công tác thì rất cực nhọc, thường xuyên phải đi công tác xa Sài Gòn, theo chân các đơn vị tác chiến mỗi tháng chừng hai, ba tuần, sống không khác gì lính tác chiến. Khi di tản, phải nói là họ bị bỏ rơi vì chẳng có quyền lợi gì. Vậy mà sau 1975 tôi thấy họ đã làm được một việc hết sức ngoạn mục. Tại Mỹ nhân viên thuộc phòng Chính Huấn thỉnh thoảng tập họp vui chơi ăn uống là một việc tốt nhưng bình thường. Tại Việt Nam nhân viên phòng Chính Huấn còn liên lạc được với nhau để thăm hỏi, giúp đỡ nhau là một việc làm thật đáng quý và đáng phục. Chính Huấn, Chiến Tranh Chính Trị, An Ninh Tình Báo, Nhân Viên Biệt Phái là thứ ác ôn, tôi học được điều này ngay ở trong tù. Tôi là một Trung Úy, nhưng vì tôi là trung úy trung đội trưởng trung đội Tâm Lý Chiến nên phải ngồi tù hơn sáu năm… Vậy mà

298

ngày nay các cán bộ Chính Huấn trong nước và ngoài nước đã liên lạc với nhau, thăm hỏi nhau và giúp đỡ nhau rất tận tình. Điều này làm chính tôi cũng kinh ngạc lẫn xúc động.

Cách đây vài tháng Quang điện thoại cho tôi. Quang hỏi tôi :” Mày có biết tin thằng Hoài chết chưa ?” Hoài là Đại Úy chánh văn phòng Cục Trưởng Cục Chính Huấn. Quang kể cho tôi nghe về cái chết của Hoài. Hoài chết thật lạnh lùng, một cái chết mòn mỏi, kéo dài và cô đơn. Vợ con mệt mỏi nên bỏ bê chẳng ai còn sức đoái hoài. Trước ngày Hoài chết có ba người cùng đơn vị cũ thiếu tá Nguyễn Kế Nghiêu, đại úy Lê Minh Đức, đại úy Nguyễn Văn Ruy đến thăm. Ba người nhìn Hoài nằm bất động, thân hình gầy đét trên chiếc giường trong phòng vắng vẻ, chờ ngày ra đi mà nước mắt chẩy dài. Đau khổ nhất là bà mẹ già của Hoài . Hoài được đi Mỹ, chắc hẳn bà cụ hy vọng thằng con trai sau này nếu không bảo lãnh bà qua Mỹ để bà được sống bên con cháu thì cũng gởi ít tiền cho bà sống bớt khốn khó ở quê nhà. Vậy mà từ ngày Hoài đi cho đến lúc qua đời, có lẽ vì bất đắc chí với cuộc sống, Hoài đã không làm được điều gì ưng ý. Nhóm Chính Huấn ở ngoài hỏi địa chỉ của bà cụ thì chỉ biết bà cụ vẫn còn sống ở Nha Trang. Ở ngoài bèn liên lạc với trong nước. Lập tức có người lặn lội ra Nha Trang và tìm được bà cụ. Bà cụ cầm phong thư tiền nhưng không phải tiền của con trai. Niềm đau khổ nào lớn hơn ? Tôi nói với Quang :’’ Thằng này thật quá đáng, có mẹ già mà không chịu sống để nuôi bà mà lại chết đi. Thật là giận’’ .

Năm 1995 tôi và vợ tôi đưa thằng con trai đi CA. Mặc dù lúc bấy giờ chúng tôi còn khó khăn, nhưng chúng tôi

299

cố gắng cho thằng con trai được hưởng cái mơ ước của tất cả các trẻ em Mỹ cùng tuổi với nó. Đó là đi xem Disney Land, Studio Hollywood, Sea World, San Diego Zoo. Chúng tôi nghĩ rằng vài ba năm nữa, nó đi Disney Land thì cái thú vị mà nó được hưởng sẽ không trọn vẹn bằng lúc mới mười hai tuổi. Chuyến đi đó, chúng tôi được thiếu tá Nguyễn Kế Nghiêu mời tới ở nhà của ông ta. Trung úy Nghiêu đến làm việc tại phòng Sinh Hoạt sau tôi sáu tháng. Tôi chỉ làm việc với ông chỉ trong vòng có sáu tháng rồi tôi bị đưa ra Pleiku. Đến phi trường Los, chúng tôi đứng chờ hơn nửa tiếng mà cũng chưa thấy thiếu tá Nghiêu đến đón. Thằng con tôi hỏi :”Bố còn nhớ mặt ông ấy không?”. Một tiếng sau anh Nghiêu chạy đến. Chúng tôi nhận ra nhau ngay. Anh Nghiêu nói :’’ Tôi chờ ông hơn một tiếng đồng hồ ở tầng trên’’. Nỗi lo của tôi tan biến. Anh Nghiêu không đến thì tôi làm sao tôi trả lời vợ con tôi về những điều tôi nói về tình nghĩa của nhân viên Cục Chính Huấn. Chúng tôi được vợ chồng anh Nghiêu tiếp đón rất thân tình. Anh Nghiêu còn tổ chức một buổi họp mặt cựu nhân viên phòng sinh hoạt cục Chính Huấn tại nhà Quang. Hôm đó tôi gập những anh em tôi biết mặt và cả những anh em tôi chưa biết mặt. Chúng tôi nói chuyện rất thân mật và chan hòa với người quen và những người mới quen.

Trớ trêu tôi vừa kể làm cuộc đời tôi lao đao thì trớ trêu sau đây khiến tôi suýt mất vợ . Năm 1970 tôi hứa hôn với một cô gái Huế . Người vợ chưa cưới của tôi học năm thứ nhất tại Đại Học Luật Khoa Huế . Một số rất ít người ở Huế không thích Quang đã có ý kiến với người vợ chưa cưới của tôi về việc định lấy tên Nguyễn Đức Quang. Vợ chưa cưới của tôi phải đính chính rằng tôi

300

không phải là anh chàng Nguyễn Đức Quang nhạc sĩ. Số ít người này cho rằng phong trào Du Ca là của chính quyền. Nhưng thực sự không phải. Quang có nhiều bài hát tố cáo những thối nát của xã hội miền Nam còn mạnh hơn cả những Tôn Thất Lập, Trịnh Công Sơn như những bài Ruồi và Kên Kên, Bọn Lái Buôn Ở Khắp Nơi, Chuyện Buồn Bé Năm, Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Chuyện Quê Ta… Sinh viên tranh đấu Huế đã dùng bài Nỗi Buồn Nhược Tiểu để khích động lòng yêu nước của đồng bào Huế, Phât giáo tranh đấu Huế đã bùng lên sau khi nghe Quang hát bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ. Sau này đi tù cải tạo tôi mới biết rằng: '' Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa. Ai không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu nước.'' Một lý luận hết sức ngây ngô và độc đoán. Lời kể của nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu làm tôi hiểu rõ hơn tại sao người Cộng Sản không ưa Phong Trào Du Ca. Nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu là một nhân vật nòng cốt của phong trào Du Ca. Anh là người thay Quang giữ chức Trưởng Xưởng của phong trào Du Ca. Nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu kể :''…….Vào một đêm cuối năm 1975, tôi nhận được một thư mời đi dự một buổi hội thảo về đề tài Văn Nghệ Với Chế Độ Thực Dân Mới. Thư mời do ông Lưu Hữu Phước, Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Âm Nhạc Việt Nam ký. Thuyết trình viên hôm đó là ông Tô Hải, phó viện trưởng Viện Nghiên Cứu Âm Nhạc Việt Nam. Ông Tô Hải đã nói rằng:’’ Có bốn nhóm Văn Hóa Văn Nghệ là sản phẩm của chế độ thực dân mới. Bốn nhóm đó là :

1. Nhóm Tâm Lý Chiến : Nhóm này gồm tâm lý chiến quân đôi, tâm lý chiến dân sự, xây dựng nông thôn. Nhóm này nói dối nhân dân để lôi cuốn họ theo đế quốc Mỹ.

301

2. Nhóm Nhạc Trẻ : Nhóm này được dựng nên để tha hóa, sa đọa hóa thanh niên

3. Nhóm Dân Tộc Giả Hình : gồm những nhóm văn nghệ phục hưng âm nhạc cổ truyền

4. Nhóm Du Ca

Ba nhóm Tâm Lý Chiến, Nhạc Trẻ, Dân Tộc Giả Hình không đáng kể. Riêng nhóm Du Ca rất nguy hiểm. Thứ nhất là bọn Du Ca đã dùng đúng chiến thuật của ta (Việt Cộng) là chiến thuật Đồng Khởi. Trong vòng từ năm 1965 đến 1967, chỉ hai năm từ một nhóm chỉ có sáu bẩy người đã phát triển thành gần ba mươi đơn vị khắp miền Nam. Thứ hai về kỹ thuật thì nhóm Du Ca không cần sân khấu. Chỗ nào nhóm này cũng dùng làm sân khấu được. Nhóm Du Ca không dùng đến dụng cụ âm nhạc cồng kềnh như trống, đàn điện. Họ chỉ dùng đàn guitar nhẹ nhàng. Thứ ba là đội ngũ sáng tác của nhóm này rất hùng hậu …’’

Nhưng theo tôi không phải những lý do mà ông Tô Hải đưa ra khiến cho Việt Cộng liệt nhóm Du Ca là sản phẩm văn hóa văn nghệ nguy hiểm của thực dân mới. Chỉ có lý do duy nhất mà Việt Cộng không ưa Du Ca là Du Ca không chịu xóa tên và nhập vào nhóm Cộng Đồng Thiên Tả của Tôn Thất Lập. Nghĩa là nhóm Du Ca không chịu theo Cộng Sản.

Đó là hai trục trặc lớn do sự trùng tên trùng họ với Quang gây ra, nhưng không phải chỉ có thế, những truyện hiểu lầm lặt vặt xẩy thì rất nhiều và miên man cho đến bây giờ vẫn chưa dứt, nên thỉnh thoảng tôi vẫn phải đính chính muốn đứt hơi. Tôi nhớ năm 1964 là niên khoá đầu tiên của chúng tôi tại trường CTKD. Lúc đó thì Quang chưa nổi tiếng. Để phân biệt tôi và Quang,

302

trong lớp gọi tôi là Quang Hà Nội còn anh ta là Quang Sơn Tây. Lý do là tôi sinh tại Hà Nội, còn Quang sinh tại Sơn Tây. Tôi rất bằng lòng tên bạn bè đặt cho chúng tôi vì Hà Nội oai hơn Sơn Tây. Đến năm thứ hai bỗng Quang nổi tiếng. Quang trình làng ban Trầm Ca rồi Du Ca tại giảng đường Spellman, giảng đường Thụ Nhân. Trong hai buổi trình làng có cả đại nhạc sĩ Phạm Duy đi hát với Quang. Bạn bè không gọi anh là Quang Sơn Tây nữa mà gọi anh là Quang Du Ca. Từ tỉnh Sơn Tây nhỏ bé, Quang bước lên không gian to lớn là cả nước. Còn tôi thì ngược lại, từ một Hà Nội thanh lịch, Paris của phương Đông, tôi bi đẩy xuống chốn của những tên cờ gian bạc lận. Bạn bè trong Đại học xá đặt cho tôi tên mới : Quang Già Cơ. Từ đó bạn bè gọi Quang là Quang Du Ca nghĩa là Quang vẫn còn giữ được tên cha mẹ đặt cho :''Quang.'' Còn tôi thì bạn bè quên hẳn tên Quang của tôi. Gọi tôi đi ăn cơm :''Già Cơ đi ăn cơm'', gọi tôi đi chơi :'' Già Cơ đi ra phố không ?'' ; gập nhau ngoài phố :'' Ê Già Cơ '' …. Từ nay tôi là Già Cơ không còn là Quang nữa. Giống như thời thơ ấu tại xóm ga Đà Nẵng, tôi là thằng Cu Đen không còn là thằng Quang. Ai đến xóm ga Đà Nẵng hỏi nhà thằng Quang ở đâu thì có lẽ ít ai biết, nhưng nếu hỏi nhà thằng Cu Đen ở đâu thì mọi người chỉ được ngay, kể cả những người lớn.

Qua đến Mỹ, bạn bè quên hẳn trong lớp CTKD I có hai Nguyễn đức Quang. Mỗi khi điện thoại cho chúng, tôi lại phải nhắc cho chúng nhớ :'' Tao là Quang Già Cơ đây''. Khi gia nhập THUNHAT.NET tôi nhận được nhiều điện thư nồng nhiệt thăm hỏi hết sức thân tình. Có điện thư hỏi đang ở Cali sao lại bỏ đi lên xứ mưa dầm, mưa dề và đi khi nào ? Có điện thư mong được nghe lại những bài hát ngày xưa như Bên Kia Sông, Nỗi

303

Buồn Nhược Tiểu …, có điện thư viết ông đại nhạc sĩ sao ông lặn sâu thế, bây giờ ông mới chịu trồi lên … Tôi nghĩ mình phải làm sống lại cái tên Già Cơ trong nhóm cựu sinh viên Đà Lạt . Thế là tất cả điện thư tôi gửi đi, tôi đều ký tên Quang Già Cơ . Phương pháp này quả là rất hiệu nghiệm. Mọi người nay công nhận có một Nguyễn đức Quang Già Cơ. Nhưng cũng có một điều không mấy tốt đẹp xẩy ra cho tôi từ cái tên Già Cơ ấy. Mặc dầu Châu tấn Xuyên đã đưa ra một lý do tuy không đúng sự thật, nhưng cũng không kém hấp dẫn rằng:'' Mặt anh Quang này giống hình già cơ trong bộ bài tây, nên anh em đặt là Quang Già Cơ để phân biệt với anh Quang kia là Quang Du Ca '', Phần đông anh em vẫn cho tôi là tên cờ bạc gạo nên mới bị đặt tên là Già Cơ. Tôi nhận được điện thư của một anh khoá 8 viết rất là thách thức :'' Em sẽ lên Seattle gập anh với một bộ bài. Được đụng với cao thủ đàn anh là một mơ ước ' . Phan bá Phi trong một loạt bài viết để tâm tình với cha Lập (Linh Mục Nguyễn văn Lập, Viện Trưởng Viện Đại Học Đà Lạt thời chúng tôi) lúc ngài sắp qua đời có đoạn viết :'' Ở Seattle của chúng con có anh Quang Già Cơ. Sở dĩ anh em đặt anh là Già Cơ vì anh đánh phé nhiều hơn học bài. Xin cha tha tội cho anh ấy và xin cha tha tội cho mọi lỗi lầm của tất cả chúng con …''.

Hai truyện sau đây còn cho thấy mọi người còn có những ý tưởng ghê ghớm hơn nữa: Người ta hình như không muốn ai có tên Nguyễn đức Quang ngoài anh ta. Truyện thứ nhất là vợ chồng tôi và vợ chồng ông Trần văn Đức (ông Đức là bà con vai cậu của vợ tôi) đi PortLand dự đám cưới con trai chị Bùi thị Ngọc Nga (bạn cùng lớp ở Viện Đại Học Đà Lạt). Buổi tiệc tan sớm nên chúng tôi nhận lời mời của vợ chồng người bạn

304

với ông cậu vợ tôi là nhạc sĩ Từ công Phụng đến chơi nhà ông ta. Nhạc sĩ Từ công Phụng tặng chúng tôi hai CD nhạc của ông. Viết lời tặng cho cậu mợ tôi xong, ông Phụng hỏi tôi :'' Xin lỗi anh tên gì để tôi viết lời tặng''. Tôi trả lời :'' Tôi tên Nguyễn đức Quang '' Ông cậu vợ tôi buột miệng xác định ngay :'' Nguyễn đức Quang giả hiệu ''. Câu truyện thứ hai : năm 2002 vợ chồng tôi đi dự trại THẲNG TIẾN 7 ở Houston. Tại cổng trại có dựng một bảng chương trình lớn . Tôi nói với vợ tôi :'' Tối mai được nghe thằng Quang và Nguyệt Ánh hát ''. Chúng tôi vào văn phòng để làm thủ tục nhập trại. Trưởng Kim Thoa hỏi tôi :'' Tên họ của trưởng ?'' Tôi vừa trả lời :'' Nguyễn đức Quang ''. Mọi người chung quanh nhìn tôi. Một trưởng đưa tay trái ra cho tôi. Tôi bắt tay một cách rất miễn cưỡng . Trưởng ấy còn nói :'' Các em thiếu đoàn tôi hát nhiều bài hát của Trưởng. Tôi sẽ nói với các em : Tối mai các em sẽ được nghe chính tác giả hát …'' Tôi nói :'' Thưa trưởng, tôi chỉ biết rống chứ không biết hát. Tôi không phải là trưởng Quang nhạc sĩ. Tôi chỉ trùng tên họ với trưởng Quang thôi ''. Hôm đó xui xẻo cho tôi và nhiều người khác là ban điều hành trại không tìm thấy đơn xin dự trại và check đóng trại phí của chúng tôi. Chúng tôi phải chờ nhân viên ban điều hành tìm trong đống hồ sơ không mấy ngăn nắp, trong căn phòng nhỏ và đầy người ra vào. Mỗi lần tôi được ban điều hành hỏi tên là hầu như mỗi lần tôi phải hô to tên mình lên và kèm theo một câu đính chính. Từ đó, trong phòng nhiều người được biết tôi là '' Nguyễn đức Quang giả hiệu ''. Rồi tôi được nhân viên trại hỏi tên. Lại có một trưởng mới tới vừa bước vào thế là lại hiểu lầm . Tôi chưa kịp đính chính thì một trưởng đứng gần nói :'' Biết rồi khổ lắm nói

305

mãi''. Tôi nói với trưởng Kim Thoa :'' Trưởng cứ cho tôi nhập trại và nhận chỗ, chiều nay tôi sẽ trở lại ''. Trưởng Kim Thoa bằng lòng cấp cho tôi giấy nhập trại tạm. Chúng tôi vào trại và tôi thoát được cảnh " Biết rồi khổ lắm nói mãi " vì cái miệng luôn phải trả lời.

Tôi gập nhiều cái trớ trêu đã đành. Quang cũng gập một trớ trêu chỉ vì trùng tên với tôi. Theo trí tưởng tượng của tôi, nếu Quang không gập may mắn thì đời Quang đã tàn và có khi hiện nay Quang bị giam trong nhà thương tâm thần nào đó. Truyện này do chính Quang kể trước mặt tôi và bạn bè Đà Lạt. Hôm 16 tháng 8 năm 2003, tôi tổ chức một tiệc đón tiếp Quang tại nhà tôi. Hôm đó Hoàng minh Châu khoá 10 CTKD nói :'' Em nghi lắm anh Quang à . Em nghi chỉ có một người đi thi thôi '' Quang nói liền :'' Thôi cha nội đừng có khơi lại nỗi đau khổ của thằng già này nữa”. Quang nói tiếp :” Thi xong cuối năm thứ ba, tôi điện thoại lên Đà Lạt hỏi kết quả . Mấy thằng bạn trả lời ngon lành: "Đậu rồi, đậu hạng hai, cứ vui chơi ca hát cho thỏa thích " . Tuần sau nghĩ lại, mình làm bài kỳ này có gì xuất sắc lắm đâu mà đậu á khoa. Tốt nhất là điện thoại hỏi lại cho chắc ăn. Mấy thằng bạn trả lời :'' Hỏi hoài vậy cha nội. Chắc chắn rồi, tụi này coi đi coi lại . Nhân viên văn phòng cũng xác nhận mày đậu. Lo sáng tác đi ". Hơn một tháng sau, nhận điện thoại của ông bà già :'' Về Đà Lạt gấp. Tên trên bảng vàng là tên của thằng Quang khỉ gió nào, chứ không phải là mày đâu ". Về đến Đà Lạt đúng là ngày chót hết hạn ghi danh thi kỳ hai . Vôi vàng then cài đóng cửa, thức đêm thức hôm, dùi kinh mài sử ". Tôi tưởng tượng rằng nếu ông bạn nào của Quang không phát hiện sự lầm lẫn đó kịp thời, rồi báo cho ông bà già Quang biết thì đời anh ta có thể rất thê thảm. Quang sẽ

306

bị ở lại năm thứ ba. Người yêu Quang là Nguyễn Thị Minh Thông đương nhiên trở thành đàn chị của anh ta. Ở đời chỉ có đàn anh yêu đàn em, hiếm khi đàn chị yêu đàn em. Nên nàng sẽ cho chàng de. Quang sẽ đi lang thang và làm những bài nhạc vàng khè để trách móc người tình phụ bạc. Những bài nhạc sến này làm sao hợp với phong trào du ca mà Quang là giáo chủ. Đại hội Du Ca sẽ đồng thanh truất phế Quang và tôn một tân giáo chủ mới cho phong trào. Dĩ nhiên tôi sẽ phải vào nhà thương Chợ Quán để tạ tội với thằng bạn trùng tên họ vì dù sao tôi cũng là một phần nguyên nhân gây nên thảm cảnh này. Nhưng may mắn cho Quang là điều tôi tưởng tượng không xẩy ra. Ngày nay con cái Quang đã công thành danh toại, gia thất ổn định. Tình duyên của Quang với Nguyễn Thị Minh Thông bền chặt, đằm thắm.

Đã Mang Lấy Nghiệp Vào Thân

Quang mang nghiệp hát xướng vào thân từ ngày còn thơ ấu. Ông thân sinh của Quang làm hiệu trưởng một trường học ngoài đảo Côn Sơn, lúc Quang còn học tiểu học. Hai năm ngoài Côn Đảo, bạn của Quang là những người tù. Ông cụ tìm những người tù giỏi toán, sinh ngữ

307

và âm nhạc để dạy dỗ Quang. Những ông thầy dạy nhạc chẳng có ai là nhạc sĩ nổi danh. Sau khi vào đất liền, Quang tự học nhạc. Thời học trò ở Đà Lạt, Quang ở trong ban phụ trách một chương trình phát thanh của Hướng Đạo trên Đài Phát Thanh Đà Lạt. Những tháng đầu, ban nhạc của Quang chỉ hát những bài hát Hướng Đạo của Hoàng Quí, Lưu Hữu Phước … Sau này ban phát thanh cho hát cả những bài nhạc Quang sáng tác. Những sáng tác trong thời gian học trò này đa phần đã bị tiêu hủy sau ngày 30 tháng tư, năm 1975. Quang chỉ tìm được một bài hát mà anh sáng tác trong thời gian này là bài Gươm Thiêng Hào Kiệt năm 1961. Bài này viết về ông thánh bổn mạng của Hướng Đạo Saint Georges.

Quang kể lại trong một cuộc phỏng vấn rằng: “ Khi ông cụ thân sinh trao cho tôi cây đàn guitar sau khi tôi đậu trung học đệ nhất cấp để gọi là mừng cho cậu con. Chắc chắn cụ không nghĩ rằng mình đã làm một điều tai hại : Tôi cứ thế nhảy vào trò chơi âm nhạc. Chỉ sau mùa hè ấy, tôi vào trường Trần Hưng Đạo, đang từ một học sinh xuất sắc của thành phố, tôi thành ông trưởng ban văn nghệ trường trung học này. Có nghĩa là tôi giảm thiểu tối đa việc học, dành tối đa cho việc đàn hát và còn lõm bõm viết nhạc. Chính trong hai năm trời ở đây, tôi viết mấy chục bản nhạc hầu hết là tình ca. Tiếc rằng tôi chỉ dấu dấu giếm giếm, lâu lâu mới có dịp hát chút đỉnh cho bạn bè nghe, nhất là khi có dịp qua trường nữ. Đáng tiếc hơn nữa là tập nhạc này đã mất biệt cùng với rất nhiều bản thảo của một loạt nhạc dịch và nhiều loạt bài khác”.

Sự nghiệp sáng tác và xướng ca của Quang bắt đầu từ ngày ấy.

308

Chuyến Đi Khai Phá.

Bên trái Nguyễn Đức Quang, bên phải Hoàng Kim Châu

Năm 1965 Quang thực hiện một chuyến đi đầy liều lĩnh từ Đà Lạt đến Sài Gòn bằng xe đạp. Một mình đạp xe trên đoạn đường 325 cây số nhiều đèo lắm dốc thì chắc chắn phải có một cái gì thôi thúc để Quang đủ ý chí thực hiện chuyến đi táo bạo này. Quang kể rằng: Những nhọc nhằn, khó khăn trên đường đi đã không để lại cho Quang ấn tượng hay dấu ấn bằng một buổi tối tại Sài Gòn, một buổi sinh hoạt văn nghệ tại nhà một nữ huynh trưởng Hướng Đạo. Người tham dự được phát một tập nhạc quay roneo hai bản trường ca Mẹ Việt Nam và Con Đường Cái Quan của Phạm Duy. Người thì ngồi, người thì nằm quanh một cái máy Akai. Máy Akai quay đi quay lại những đoạn bài hát của hai trường ca. Mọi người hát theo một cách say mê như điên, như cuồng. Quang đi ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Một hình thức ca nhạc mới lạ, khác hẳn với những buổi trình diễn đại nhạc hội, những buổi phụ diễn văn nghệ trong một xuất chiếu phim mà chúng ta thường được xem lúc bấy giờ. Hình thức này mở đầu cho những buổi hát

309

cộng đồng sau này. Hình thức đã lạ mà nội dung các bài hát hỡi anh đi đường cái quan, dừng chân đứng lại ….. đã rung động, đã làm Quang say mê. Quang đã tìm được đúng cái sở trường của anh, đúng cái mơ ước của anh.

Về Đà Lạt, Quang làm một màn trình diễn thật táo bạo. Một buổi chiều cuối năm 1965, Quang xách cây đàn guitar ra bồn hoa trước chợ Đà Lạt. Quang đứng dưới cây cột điện của bồn binh và cất tiếng hát. Quang hát một mình, hết bài này đến bài khác của hai trường ca Mẹ Việt Nam và Con Đường Cái Quan. Hơn một trăm người đứng nghe Quang hát. Quang hát say mê và người nghe cũng mê say nghe anh hát. Một buổi trình diễn thật là tuyệt vời theo như Quang kể. Đó là đêm Lửa Quê Hương năm 1965, lần đầu tiên Quang hát một mình trước công chúng.

Hiện nay mơ ước của Quang là thực hiện những buổi hát cộng đồng cho đồng bào người Việt ở Hải Ngoại. Quang đã thực tập hát cộng đồng ngay tại phòng khách nhà tôi. Vào buổi chiều năm 2000, tôi mời bạn bè đến nhà tôi để tiếp đãi Quang nhân dịp anh lên chơi Seattle. Đi cùng với Quang có cả ba đại kiện tướng của phong trào du ca là anh Ngô Mạnh Thu, anh Nguyễn Thiện Cơ và một người nữ, bác sĩ Nguyễn Thị Nhuận. Lúc đầu chúng tôi ngồi nghe ban Du Ca hát. Sau đó thì chúng tôi cùng nhau hát. Chúng tôi rụt rè ngượng nghịu vì không quen hát và cũng vì đã luống tuổi giọng rè, hơi ngắn. Sau khi máy đã nóng, mọi người hát to như sợ bị người khác át giọng. Tiếng hát vang vọng gợi lại hình ảnh của thời quá khứ trước năm 1975 :

Trời sáng tươi đã lên rồi

310

Trời sáng luôn trong lòng tôi

Cập mắt khô sau đêm dài

Tìm quanh đây một ngày vui

(Dưói Ánh Mặt Trời)

Chuyến Đi Làm Nên Lịch Sử. Tôi gọi chuyến đi sau đây của Quang là chuyến đi làm nên lịch sử vì tôi chắc chắn sau này tên Quang sẽ có trong sử sách. Trong lịch sử âm nhạc tên anh sẽ được nhắc đến trong một chương. Số lượng sáng tác của Quang chỉ sau có Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Chất lượng sáng tác của Quang lại nổi bật về thanh niên ca đã làm tỉnh thức và xúc động được cả một thế hệ thanh niên. Còn trong cuốn Lịch Sử Việt Nam thì ít ra cũng có hai ba giòng để nhắc đến Quang. Anh là người sáng lập ra phong trào Du Ca. Phong trào của Quang đã tác động vào xã hội miền Nam lúc bấy giờ khiến thế lực Cộng Sản cũng như Tư Bản phải quan tâm. Lúc đầu thì lôi kéo phong trào đi vào quỉ đạo của mình. Sau này thì theo dõi canh chừng.

Hoàng Kim Châu, một trong những người tham gia từ ngày đầu và là một thành phần của Ban Trầm Ca, sống chung với Nguyễn Đức Quang ở Sài Gòn suốt thời gian đầu, kể về chuyến đi đó :”… Những chàng trai trẻ rời thành phố sương mù lạnh lẽo về thủ đô để tìm cho họ những hình thái sinh hoạt mới mà họ khao khát được tham gia. Mặc dầu ở Đà Lạt những chàng trai trẻ này đã tham gia các hoạt động thanh niên xã hội. Họ đều là những Hướng Đạo Sinh ở vào tuổi Tráng với đường dài trước mặt đầy chông gai và thử thách. Họ muốn thực hiện châm ngôn của người Tráng Sinh là "Giúp Ích" nên

311

họ đã thực hiện một chuyến viễn hành liều lĩnh có tính toán và từ đó cho đến mãi về sau, tiếng hát của họ đã vang khắp mọi miền đất nước và đã đánh động được con tim và khối óc của hàng vạn bạn trẻ, để hăng hái lên đường phục vụ tha nhân, và tạo sinh khí khiến cho cuộc đời đáng yêu hơn, mặc dù chiến tranh đã trở thành khốc liệt, và bi thảm trên mảnh đất thân yêu của miền Nam Việt Nam…”

Quang kể rằng năm người (Nguyễn Đức Quang, Hoàng Kim Châu, Hoàng Thái Lĩnh, Trần Trọng Thảo, Nguyễn Quốc Văn, ….) về đến Sài Gòn vào chiều ba mươi tết và đi đến quyết định là dồn về một căn nhà thuê để sống chung với nhau. Nhưng đi đến căn nhà thuê chờ cả buổi mà chẳng có ai mở cửa. Cả bọn phải thuê xe ba gác chở đồ đạc đến nhà một người khác, một người mà họ chưa quen, nhưng sau này là một người đóng góp quan trọng trong việc hình thành Phong Trào Du Ca: anh Hoàng ngọc Tuệ, nhà ở đường Sương Nguyêt Ánh. Anh Tuệ là một dược sĩ, anh cho sáu người ở trong phòng bào chế thuốc, đúng hơn là căn phòng Lab, nơi thực tập của các sinh viên dược. Căn phòng này nằm phía sau nhà anh Tuệ. Bọn Quang ở căn phòng đó một thời gian, sau này lại dọn ra mái lầu của garage nhà này đến tận năm 1971. Thời gian sau, trụ sở Phong Trào Du Ca dời ra đường Lê Lai là nhà của anh Nguyễn Thanh Hùng …

Cuộc hội ngộ của sáu Tráng Sinh này, ban đầu lập nên một Toán Hướng Đạo, toán Sóng Việt. Toán có một bài hát chính thức là bài Sóng Việt. Bài hát mạnh mẽ tuôn tràn như những lớp sóng. Sóng dữ vơi những cái xấu: bạo tàn, nghèo đói ngu dốt. Sóng hiền với con dân nước

312

Việt. Tôi ngạc nhiên ở độ tuổi hai mươi, hai mốt mà sáu tráng sinh đã có những ý tưởng đội đá vá trời .

Sóng Việt về

Sóng Việt về

Trôi từ lẻ loi non cao xa xôi trôi mãi

Trôi từ lạch kinh trôi ra sông con

Rồi từ sông con trôi đi xa hơn về tới bể khơi

Sóng trôi trên Bạch Đằng

Sóng reo trên Nhị Hà

Trôi bao giấc mộng cuồng xâm của ngoại bang

Hồng Hà, Cửu Long Giang

Về ruộng đồng quê hương

Để từng thỏi đất biến ra thỏi vàng

Triều dâng sóng Việt trôi đi điêu tàn

Trôi đi những mảnh đời nát tan

Nghèo đói cơ hàn dốt tối ngu hèn

Sẽ tan tành trước làn sóng Việt Nam

Lời nhạc nhiều chất thơ êm đềm và mạnh mẽ của sóng biển.

Sau Toán trở thành ban Trầm Ca rồi giữa năm 1966 thì ra đời Phong Trào Du Ca được cấp giấy phép ngày 19 tháng 12 năm 1966 của Bộ Thanh Niên

Cuộc Hội Ngộ Lịch Sử Tôi gọi cuộc gập gỡ của Quang và nhạc sĩ Phạm Duy vào năm 1965 tại trại Công Trường Thanh Niên Tự Do

313

tổ chức ở Thạnh Lộc Thôn, Thủ Đức là một hội ngộ lịch sử vì nhờ cuộc gập gỡ này mà ban Trầm Ca mau chóng được thành hình một cách chính thức. Sở dĩ tôi nói được thành hình một cách chính thức là vì từ khi sáu chàng Tráng Sinh từ rừng Lâm Viên đi xuống rừng Gia Định thì đã thành hình một toán Hướng Đạo mà bên trong đã có những bài Trầm Ca. Nhưng toán Trầm Ca đó chưa chính thức ra mắt quần chúng cho tới sau cuộc hội ngộ lịch sử ở Thạnh Lộc Thôn này. Rồi phong trào Du Ca được thành lập và hiện nay mối thâm tình của Quang và nhạc sĩ Phạm Duy vẫn bền chặt . Không biết sẽ có một điều gì xẩy ra nữa không trước khi nhạc sĩ Phạm Duy qua đời hay là phải chờ một cuộc hội ngộ khác của Quang với ai đó, chúng ta mới lại có một phong trào ca nhạc khác ? Tôi nghĩ sẽ không có một may mắn nào cho Quang và Phạm Duy nữa. Cuộc hội ngộ đó không những là một may mắn cho Quang và cho Phạm Duy mà may mắn cho cả dân tộc nữa. Tôi không nói quá đáng. Đó là sự kết hợp tuyệt vời. Kết hợp của những con người nghệ sĩ tài hoa sẵn sàng hiến thân cho đất nước, cho nghệ thuật. Kết hợp của một người từng trải trong cuộc sống lịch sử của đất nước và những thanh niên đầy sức sống đang khao khát một lý tưởng vào giai đoạn đó. Kết hợp của Tâm Ca và Trầm Ca và Những Bài Ca Khai Phá.

Quang kể về cuộc gặp gỡ với nhạc sĩ Phạm Duy như sau: Năm 1965, Quang dự trại Công Trường Thanh Niên Tự Do tại Thạnh Lộc Thôn Thủ Đức. Chiều hôm đó trên sân khấu được dựng lên giữa cánh đồng, Phạm Duy đến hát 10 bài Tâm Ca cho hơn ba trăm thanh niên sinh viên tham dự trại. Đó là lần đầu tiên Quang nhìn thấy tận mắt người nhạc sĩ vĩ đại. Theo Quang kể lúc đó

314

Phạm Duy chỉ mới xong có 7 bài Tâm Ca, còn thiếu ba bài. Nhưng những lời của mấy bài tâm ca này làm Quang run lên, bởi vì chưa ai nói với Quang những lời như vậy :'' Sáng nay vừa thức dậy nghe tin em gục ngã nơi chiến trường nhưng trong vườn tôi, vô tình đóa Tường Vi vẫn nở thêm một đóa…. Bao giờ tôi mới nói được những điều tôi ước mơ ". Quang chăm chú nghe Phạm Duy nói chầm chậm để giảng giải, giải thích những bài hát trước khi ông ta hát. Hát được ba bốn bài, Phạm Duy mời trại viên lên hát để ông nghỉ. Các bạn Quang đẩy Quang lên sân khấu. Quang hát những bài của mình sáng tác như Đường Vào Công Trường, Về Với Mẹ Cha… Đến lượt ông đại nhạc sĩ sửng sốt. Có lẽ lâu lắm ông không được nghe ai hát những lời hát mạnh như vũ bão như vậy : “ Cùng đi xoay Hoành Sơn, cùng đi lay Trường Sơn, cùng đi biến rừng hoang ra lúa thơm … Vượt khơi ra đảo xa, lướt ngàn nước sóng nhà ta đắp bồi cho mẹ cha “ Sau buổi hát, Phạm Duy kêu Quang :"Này cậu kia, lại đây tôi bảo. Từ nay mỗi thứ sáu hàng tuần, các cậu đến nhà tôi. Chúng ta cùng hát, các cậu cho ý kiến về những sáng tác của tôi. Chúng ta sẽ nói chuyện về âm nhạc, về văn nghệ”. Quang kể lại là anh sướng run cả người, thật là trúng số cũng không bằng. Quang được một đại nhạc sĩ mà anh mến phục mời đến nhà để nghe ông hát, lại còn được ông ta hỏi ý kiến về các nhạc phẩm ông ta mới sáng tác, bàn chuyện văn nghệ… Thật đúng là nằm mơ.

Mỗi chiều thứ sáu tại căn phòng, trên lầu ba nhà của nhạc sĩ Phạm Duy trên đường Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận, những chàng trai Đà Lạt và Phạm Duy cùng hát với nhau bên máy Akai. Họ nghe Phạm Duy nói về nghệ thuật sáng tác, nghệ thuật vì nghệ thuật, nghệ thuật vì

315

nhân sinh .v.v… Phạm Duy đề nghị nhóm trẻ hát những bài hát họ sáng tác, dĩ nhiên là những bài của Quang. Hôm ấy Quang mạnh bạo hát bài Nỗi Buồn Nhược Tiểu, một bài hát phổ từ thơ của một người mà anh ta chẳng quen biết, Nguyễn Văn Hoàn. Bài thơ này đăng trên tập san Lửa Việt của Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn năm 1964. Mãi khoảng năm 1971, 1972 Quang mới nhận được một lá thư của tác giả bài thơ. Bức thư đưọc viết từ Quân Trường Đồng Đế, Nha Trang. Trong thư, anh Hoàn hỏi có phải Quang đã phổ nhạc bài thơ của anh ta không? Quang xác nhận là đúng, nhưng cũng từ đấy hai người không có dịp liên lạc với nhau nữa. Khi Quang hát xong. Nhạc sĩ Pham Duy đến gần Quang. Ông đưa bàn tay run run nắm lấy cánh tay Quang. Quang xúc động vì lần đầu tiên anh mới nhận được phản ứng đầy xúc động của một người nghe nhạc phẩm này. Từ ngày viết nhạc phẩm này cho đến lúc đó Quang chưa có dịp hát bao giờ. Phạm Duy nói với Quang :" Cậu viết thế này hay hết chỗ nói rồi. Hãy bỏ hết mọi việc và viết nhạc rồi đi hát với anh ". Phạm Duy quay qua nói với nhóm của Quang :" Từ nay các cậu đi hát với tôi. Tôi đi đâu, các cậu đi đó ". Suốt ba năm trời sau đó, họ đi hát chung với nhau trên khắp các nẻo đường đất nước. Có hai chuyến đi vòng từ Bắc (Huế) vào Nam. Đó là thời kỳ cực thịnh thành hình những bài ca yêu nước ở miền Nam. Phạm Duy có 10 bài Tâm Ca, nhóm Quang có 10 bài Trầm Ca. Sau đó Phạm Duy có thêm Tâm Phẫn Ca và Nguyễn Đức Quang đã chuyển sang Những Bài Ca Khai Phá …

316

Ra Mắt Ban Trầm Ca

Ban Trầm Ca thực sự ra đời ngày nào thì đến chính Nguyễn Đức Quang cũng không trả lời cho chính xác được. Quang chỉ nhắc lại được rằng: Đi theo Pham Duy hát một khoảng thời gian không lâu, chừng vài tháng thì anh thấy cần phải có một cái tên chung cho nhóm. Lúc đó Phạm Duy đã hoàn tất 10 bài Tâm Ca, và Quang cũng viết gần đầy đủ 10 bài Trầm Ca. Thời gian này vào khoảng cuối năm 1965. Lúc bấy giờ Quang và các bạn trong nhóm tự hỏi tại sao không lấy tên Trầm Ca làm tên nhóm. Như vậy khi đi đâu trình diễn Phạm Duy hát Tâm Ca, còn ban hát này mang tên Trầm Ca thế là rất chỉnh. Nhưng có một người nói rằng Ban Trầm Ca chính thức ra mắt tại giảng đường Đại Học Văn Khoa, Anh Phạm Quốc Bảo, chủ tịch ban đại diện Văn Khoa thời gian đó, kể lại buổi ra mắt như sau:

“Năm 1965 một phái đoàn đại diện sinh viên viện đại học Nhật sang thăm Việt Nam. Ông Tổng Trưởng bộ Quốc Gia Giáo Dục giao trách nhiệm đón tiếp phái đoàn sinh viên Nhật cho ban đại diện Đại Học Luật

317

Khoa và Đại Học Văn Khoa đảm trách. Anh Tô lai Chánh, đại diện sinh viên Luật, dẫn sinh viên Nhật đi thăm những cơ sở của Viện Đại Học Sài Gòn, những cơ sở văn hóa nghệ thuật, kinh kế kỹ thuật, những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử… Ban đại diện Văn Khoa tổ chức một buổi văn nghệ tại giảng đường Văn Khoa. Ban Trầm Ca được mời đảm trách buổi văn nghệ đó. Đêm đó mục đích chính là để đón tiếp phái đoàn sinh viên Nhật và đồng thời cũng là đêm ra mắt của ban Trầm Ca.

Rủi thay trước giờ trình diễn điện lại bị cúp. Họ quyết định thắp đèn cầy để soi sáng cho căn phòng chật ních người. Trời thì nóng bức, không có sân khấu, chỉ có một dàn bục thấp nơi giữa phòng, không có micro. Mọi người ngồi bệt trên sàn nhà. Ban Trầm Ca gồm sáu chàng trai, Phương Oanh và Phạm Duy đều mặc quần áo nông dân mầu đen, thật là kinh khủng trong ánh sáng loe loét của đèn cầy. Ban tổ chức vừa lo, vừa ngượng, nhưng mọi người thì lại tán thưởng vì cứ tưởng rằng ban tổ chức cố ý thắp đèn cầy thay vì dùng điện. Trong khung cảnh đặc biệt này mọi người không những đi từ ngạc nhiên sững sờ đến xúc động, hào hứng, say sưa nghe ban Trầm Ca hát mà còn nhiệt tình hát với ban Trầm Ca, với Phạm Duy, với Phương Oanh (thiếu nữ đánh đàn tranh và hát dân ca này đã trở thành toán viên của ban Trầm Ca trước ngày ấy). Đêm văn nghệ đó kéo dài ba tiếng đồng hồ. Sinh viên Nhật không muốn về. Họ nghe dịch lõm bõm về mấy bài hát, nhưng họ nói rằng họ bị kích thích vì lời ca lạ lùng và những ý nghĩa của các bài hát trong chương trình Tâm Ca, Trầm Ca và Dân Ca. Họ nói với anh Phạm Quốc Bảo rằng buổi trình diễn cho họ thấy xã hội miền Nam là xã hội tự do,

318

cởi mở đầy tính nhân bản. Buổi trình diễn hôm đó đã gây một ấn tượng tốt về miền Nam cho phái đoàn sinh viên Nhật.”

Quang nói về sự ra đời của ban Trầm Ca :’’ Vào năm 1965 trong thời điểm mà các sinh hoạt của thanh niên tại miền Nam bùng lên như những cơn bão lớn. Các trường, các hội đoàn, các tổ chức thanh niên lúc bấy giờ họ xúm xít nhau lại để muốn làm một cái gì cho xã hội, cho quần chúng, cho đất nước. Anh em trẻ rủ nhau nào là hướng về nông thôn, nào là lập những chương trình cứu trợ hoặc tổ chức những phong trào giáo dục thanh niên hoặc đi về làng xã để làm công tác xã hôi hoặc tổ chức hội thảo từ chính trị văn hóa cho đến rất nhiều thứ. Tôi chưa bao giờ thấy trong sinh hoạt thanh niên Miền Nam mà có một cao trào nhập cuộc lớn lao và toàn diện như thế. Lúc bấy giờ chúng tôi chỉ là một nhóm thanh niên mới bước chân vào đại học. anh em chúng tôi khoảng 5, 6 anh em ở Đà Lạt kéo nhau đi về Sài Gòn gồm những người ban đầu như là anh Hoàng Kim Châu, Hoàng thái Lĩnh, Trần trọng Thảo, Nguyễn Quốc Văn. Đến Sài Gòn chúng tôi lại kết hợp thêm với một số anh em khác như chị Phương Oanh, giáo sư dân ca quốc nhạc ở trường Quốc Gia Âm Nhạc. Chúng tôi được tiếp xúc với anh Phạm Duy năm 1965 tại trại Thành Lộc Thôn cách Sài Gòn khoảng 10 cây số. Phạm Duy lần đầu tiên đến với Sinh Viên qua một trại lớn toàn quốc……như đã kể trên ……… …. Sau lần gập gỡ tại Thành Lộc Thôn và hát chung với nhau vào thứ sáu tại nhà anh Duy, anh Duy và chúng tôi quyết định bắt đầu đi hát chung với nhau. Chúng tôi bỗng nhiên trở thành một ban hát. Chúng tôi đặt tên cho ban hát là ban Trầm Ca để đi hát chung với anh Duy. Anh Duy hát Tâm Ca.

319

Chúng tôi hát Trầm Ca, những bài hát đầy sự suy nghĩ, những trầm tư của tuổi trẻ Việt Nam. Buổi trình diễn đầu tiên của Phạm Duy và nhóm ca hát ngo ngheo, nhưng lại vô cùng lôi cuốn này là do lời mời của Ban Đại Diện cư xá nữ sinh viên Thanh Quan trên đường Hồ Xuân Hương. Trên thảm cỏ xanh mướt trước cửa cư xá, hàng trăm nữ sinh viên ngồi nghe một ông nhạc sĩ vĩ đại cùng với một nhóm thanh niên chưa có tên tuổi hát những bài không giống ai. Nhưng tất cả mọi người đã tê dại thẫn thờ nghe các bài hát, để rồi cùng họ hát lên với xúc động mạnh sau từng bài hát …”

Ra Mắt Phong Trào Du Ca

Quang kể về sự ra đời của phong trào du ca :’’ … không thễ tưởng tượng sự đón nhận của các bạn trẻ nồng nhiệt đến như thế nào khắp tất cả các nơi từ Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Mỹ Tho, Nha Trang, Đà Lạt đều rần rần tạo nên một trào lưu người ta say mê loại nhạc mới mang nhiều nôi dung, trong đó có thông tin về đời sống, về những suy tư trước tình hình đất nước, về thân phận con người Việt Nam trong chiến tranh, trong hy vọng, cũng như trong thất vọng. Trầm Ca đưa ra những thông điệp quá hấp dẫn đối với họ. Trong một cơ hội lạ lùng

320

thời đó, anh Hoàng Ngọc Tuệ, chủ nhà của ban Trầm Ca làm việc tại Nha Kế Hoạch của Bộ Thanh Niên dưới thời ông Võ Long Triều. Anh em kéo nhau vào giúp cho anh Tuệ một tay, mặc dù chúng tôi không phải là nhân viên hay công chức của bộ này. Anh Tuệ nghĩ ra một chương trình huấn luyện cho các đoàn thể thanh niên ở khắp bốn vùng và khu vực Sài Gòn. Huấn luyện thanh niên thì phải huấn luyện những gì, huấn luyện thế nào?

Anh em suy nghĩ và đồng ý là huấn luyện cách sinh hoạt, cách làm sống tinh thần sống chung với nhau, học hỏi được nơi nhau và làm cho đám đông trở nên yêu thương nhau, chia xẻ với nhau, tức là một nghệ thuật tác động. Ban Trầm Ca được nhờ giúp huấn luyện phần chính. Các khóa huấn luyện Thanh Ca Tác Động ra đời dành cho các bạn trẻ, các trưởng của các đoàn thể, các trường học, lần lượt thực hiện ở khắp nơi …Năm khóa học chấm dứt vào cuối hè 1966, lập tức ý kiến đến từ các nơi đã ra ngoài dự tính của chương trình. Mọi người gửi về Ban Trầm Ca lời yêu cầu giúp họ tiếp tục làm công việc như Ban Trầm Ca…

Quang nói :’’Tự nhiên họ nẩy ra nhu cầu, chúng tôi cũng muốn hát như vậy, các anh hãy giúp cho chúng tôi có thể hát được như các anh, giúp chúng tôi thành lập những nhóm để cùng hát với các anh. Họ viết thơ về yêu cầu như vậy, và họ đề nghị coi Sài Gòn là trung ương. Các anh lập một cơ chế gì đó, một tổ chức gì đó để giúp chúng tôi làm được như các anh. Chúng tôi suy nghĩ và cuối cùng đi đến quyết định giúp các anh em bằng cách lập ra Phong Trào Du Ca. Năm 1966 phong trào du ca ra đời. Đây là lần đầu tiên một phong trào thanh niên dùng ca nhạc văn nghệ làm sinh hoạt chính, một phong

321

trào tự phát, tự dưỡng. Ngay từ đầu đã có ba mươi ba tỉnh trên miền Nam tham gia...”

Hoàng kim Châu kể lại đêm ra mắt phong trào Du Ca :"… Do các sinh viên của Viện Đại Học Đà Lạt khởi xướng, cho nên khi quyết định thành lập phong trào Du Ca , và làm lễ ra mắt phong trào, các chàng trai đã trở về xin phép Linh mục Viện trưởng để tổ chức đêm văn nghệ ra mắt phong trào Du Ca tại giảng đường Spellman. Ngày 19 tháng 12 năm 1966 là ngày thành lập phong trào Du Ca. Đêm hôm đó tại giảng đường Spellman, rất đông quan khách, giáo sư, sinh viên và một số đông đồng bào Đà Lạt đã đến để nghe những sinh viên của trường hát với một bầu không khí vui khoẻ, đầy ý thức và tình tự dân tộc. Trong cái lạnh cắt da của Giáng Sinh Đà Lạt, những ánh đuốc bập bùng kéo dài từ cổng Viện vào đến giảng đường do những anh sinh viên mặc đồ đen cầm đuốc soi đường. Ban tổ chức là một số anh chị em tự nguyện của trường Chính Trị Kinh Doanh Khóa I như Trần Văn Chang, Trần Văn Hùng, Trần Phú Hữu, Nguyễn Quang Tuyến, Trần Trọng Thức, Đoàn Công Chánh Phú Lộc, Trần Tiễn Tuấn, và các chị Trần Khánh Tuyết, Hoàng Lan Anh, Bùi Ngọc Nga … Ngoài các thành viên sáng lập phong trào, còn có sự hiện diện của các nhà thơ Đỗ Quý Toàn, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Viên Linh, Tú Kếu và nhà báo Nguyễn Ngu Ý cùng các anh Hoàng Ngọc Tuệ, Đỗ Ngọc Yến, Hà Tường Cát trong giới sinh hoạt thanh niên đến dự … Ngoài sự yểm trợ tinh thần và vật chất của cha Viện Trưởng, còn có sự yểm trợ rất đắc lực của anh Phương Thảo, Đào Văn Hòa giám đốc cơ quan USIS Đà Lạt. Bẩy thành viên sáng lập trình diễn ca nhạc, kịch ngắn, thơ. Các nhà thơ Đỗ Quý Toàn, Trần Dạ Từ, Nhã

322

Ca, Viên Linh, Tú Kếu đã diễn đọc những bài thơ "rất nóng" của chính họ cùng với tiếng đàn dương cầm của Thanh Thoại. Không khí ấm cúng, thân tình, chứa chan tình dân tộc qua các bài ca cổ, dân ca ba miền, và các sắc tộc, các bài nhận thức ca … khiến cho khán giả đa số là các anh chị em sinh viên nhận thấy rằng đang có một thứ văn nghệ lành mạnh, ý thức, mời gọi, thúc giục rất hợp với tâm tình của thanh niên lúc ấy. Anh chị em sinh viên đã nhiệt tình cổ võ khích lệ. Cũng từ đêm hôm đó, những tiếng hát lời ca của sáu chàng trai Đà Lạt và các đoàn viên Du Ca mỗi ngày một lan rộng khắp mọi miền đất nước và không một bạn trẻ nào vào thời đó lại không một lần nghe đến hai tiếng Du Ca …"

Hồi Sinh Của Giòng Máu Nóng. Quang viết nhạc từ năm 1961. Thời gian Quang sáng tác mạnh nhất là từ năm 1961 đến 1972. Quang chấm dứt sáng tác từ ngày Quang lấy vợ. Có một lần tôi hỏi anh :'' Từ ngày lấy vợ, mày có sáng tác thêm được nhạc phẩm nào không ?''. Quang lắc đầu. Nghe anh trả lời trong lòng tôi thấy buồn lâng lâng. Tôi không dám hỏi thêm vì sợ Quang buồn. Ngày Quang cùng ba đại kiện tướng của phong trào Du Ca lên Seattle để nhận cây đàn Cao Hoàng tặng anh, tôi tổ chức một buổi họp mặt tại nhà tôi. Vào cuối buổi tiệc, tôi nói với Quang :'' Lần sau nếu không có sáng tác mới thì đừng lên Seattle. Tụi tao không tiếp mày nếu mày không có sáng tác mới ". Cao Hoàng tiếp lời tôi :'' Tôi tặng Quang cây đàn là có mục đích để hắn sáng tác, đừng lo, lần sau thế nào cũng đươc nghe sáng tác mới của Nguyễn đức Quang ".

Năm 2003 tôi nghe đài VOA, tôi rất sung sướng nghe Quang trả lời một cô phóng viên về chuyến đi Úc thứ

323

hai của anh. Quang nói rằng :'' … Khác với lần đi trước. Lần đi thứ nhất tôi hát những bài như Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Ruồi và Kên Kên, Vì Tôi Là Linh Mục… Lần đi thứ hai này tôi hát tình ca do tôi mới sáng tác …'' và :"Chuyến đi thứ hai này rất thành công. Khán giả đón nhận những bản tình ca mới của tôi rất là nồng nhiệt và thích thú. Ba buổi trình diễn đã đem về cho ban tổ chức 20 ngàn đô để giúp cho bệnh viện nhi đồng Úc, hội Hướng Đạo VN hải ngoại và các trẻ em nghèo và tật nguyền ở Việt Nam.'' Đến cuối cuộc phỏng vấn tôi không được nghe một đoạn nhạc mới nào của Quang mà tôi nghĩ đáng lẽ phải có trong cuộc phỏng vấn vì cô phóng viên và Quang đều nhấn mạnh về sự chuyển hướng sáng tác từ Du Ca qua Tình Ca vào lúc Quang đã lục tuần. Tôi bốc điện thoại gọi Quang. Tôi nói :'' Tao vừa nghe đài VOA, tao rất vui mừng mày đã có những sáng tác mới. Nhưng tao giận cô phóng viên của đài VOA đã không cho thính giả nghe được một đoạn nào của một sáng tác mới của mày. Mày gởi cho tao CD có những bài hát mới của mày”. Quang nói :" Lần nào đi trình diễn xa, tao cũng lên Seattle để rà lại, khởi động trước khi đi . Lần này gấp quá, không lên Seattle được. Nhưng chắc chắn tao sẽ lên Seattle một ngày rất gần."

Tháng sau, Quang gọi điện thoại thông báo anh đã mua vé máy bay đi Seattle trong ba ngày. Tại sân sau nhà tôi, Quang đã hát cho chúng tôi nghe 10 trong số 12 bài anh vừa sáng tác và dĩ nhiên có cả một lô tình ca ngày xưa...

Trả lời phỏng vấn của đài RFA ngày 25/05/2004 Quang nói :” Tại hải ngoại khi chúng tôi và lứa trưởng đầu tiên của phong trào đến đây vào những năm 80, 81, 82 được

324

ba, bốn người, anh em chúng tôi xúm lại với nhau. Một số anh em khác lần lượt qua trong các cuộc vượt biên sau này, số huynh trưởng có được trên dưới mười người. Tất cả các anh em đó vẫn khắng khít làm việc với nhau. Chỉ có điều không phải là hoạt động trong nghành ca hát và sinh hoạt thanh niên như xưa nữa mà phần lớn là trong nghành truyền thông, nhất là trong nghành báo chí. Đó cũng là dấu hiệu rất tích cực cho tất cả các anh em khi đến đây, họ không có sân khấu nào thuận tiện hơn để phổ diễn sự đóng góp những quan tâm và tâm tình của họ bằng những phương tiện truyền thông. Còn về hoạt động phong trào Du Ca trên phương diện ca hát, mãi cho đến năm 2000, anh em mới thúc đẩy nhau thành lập một trang Web Du Ca làm địa điểm trung tâm cho các anh em ở các nơi có thể tìm lại được với nhau trên một sân khấu rộng lớn nghĩa là bất cứ nơi nào cũng tham gia được. Cho đến ngày hôm nay thì sinh hoạt trên Web đó rất rầm rộ. Tất cả các khuôn mặt cũ, cũng như mới đang làm sống lại sinh hoạt Du Ca. Rất đông anh em và rất nhiều các bạn trẻ bây giờ họ tỏ tình cảm với nhau bằng những ca khúc. Lối viết mới, lối hòa âm mới, kỹ thuật mới, họ viết trên nhiều khía cạnh, trên nhiều lãnh vực. Chúng tôi rất vui mừng sinh hoạt Du Ca đạt trở lại được mức hiện nay. Còn ước mơ ngày sinh hoạt thật rộng lớn, để tất cả các anh em chúng tôi lại gập nhau, lại cùng cất tiếng hát. Một số anh em thỉnh thoảng vẫn đi công tác với các bạn bè, trình diễn vẫn có, sáng tác vẫn có, nhưng sự aò ạt lớn mạnh như những năm trước 1975 thì chưa có tại hải ngoại. Những năm gần đây, tôi có thời gian thoải mái hơn, tôi bắt đầu một số những công cuộc đi các nơi, đi vòng qua các tiểu bang, những chuyến đi ra khỏi nuớc Mỹ, đi qua Úc, đi

325

qua Âu Châu ..vv.. .Tất cả những sinh hoạt đó làm tôi có lại những cảm hứng. Những cảm hứng lần này nhẹ nhàng hơn . Những ca khúc đầy lời kêu gọi thiết tha của tình yêu thương. Đây là đợt tôi viết mới và lạ không giống như những ca khúc mà tôi đã viết trước năm 1975. Vào mùa hè năm nay tôi sẽ cho ra album Về Đây Nhé gồm từ 12 đến 15 ca khúc mới mà tôi viết trong hai năm nay. Album này là sự mời gọi những tình cảm xưa cũ nhiều hơn. Năm sáu bài đã có trong tập Bên Kia Sông rồi, còn những bài mới chắc chắn sẽ làm nhiều người ngạc nhiên hơn nữa bởi vì mới không chỉ vì thể nhạc mà mới trong ngôn ngữ mà tôi rất chọn lựa. Tôi nghĩ rằng những ca khúc này cũng đem lại nhiều mầu sắc. Thể nhạc này là để làm quen với một số những rung động mới trước khi đưa tất cả những cái đó trở lại với đề tài về quê hương về người dân về đất nước của mình. Tôi rất ước mong đi trở về một chặng đường nữa về quê hương về đất nước”.

Về Đây Nhé Trong chuyến đi, Quang mang theo một loạt nhạc tình của một album mà Quang viết từ cuối năm 2002 mang tên là tập nhạc Về Đây Nhé. Bài hát mang tên của tập nhạc này cũng là một lời kêu gọi, một cuộc tìm kiếm những mối tình đã đi xa. Ngay cả tình cảm đã mất rồi, đã phũ phàng với ta, cũng lấy lời phù du để làm lại một cái gì mới :

Về đây nhé, người em phong ba, đã quên ân tình xưa

Về đây nhé, tựa trăng sao khuya quen một mái nhà

Những ngày thao thức, đêm nối mong chờ

Thấy lòng nao nức như sắp sang bờ

326

Hồn còn như quanh quất ngoài hiên đợi cơn mộng cũ

Về đây nhé, người em mong manh, gót chân vương lụa nắng

Về đây nhé, chìm con sông xanh, xô giạt kinh thành

Về đây nhé, em kiếm muôn trùng

Về đây nhé, anh vẫn ngập ngừng

Cùng nhau khua tiếng guốc buồn tênh lòng phố vắng

Về đây nhé, hẹn em rất ngoan, rất hiền khô

Nắm áo người xưa bước vào chốn cũ cứ mơ hồ

Về đây với chiều hôm sớm mai, đón lẻ loi

Về đây với muôn ngàn ước mơ còn chưa tới

Và Quang kết luận:

Về đây nhé, thèm nghe tiếng chân, bước êm như nụ hôn

Về đây nhé, con thuyền viễn dương cũng vừa lên đường

Đó lần em đã không nói câu nào

Đó lần em lỡ quên vẫy tay chào

Về đây ta nuôi tiếp mộng xưa, một chốn nào

Tôi không sành sõi lắm về âm nhạc nên không bàn được gì về chuyện này thật là điều đáng tiếc. Chỉ biết rằng khi Quang hát những bài tình ca này, anh cũng “nhập vai” một cách rất say sưa. Quang hát, chúng tôi những người nghe, như thuở nào anh hát nhạc quê hương và nhạc đấu tranh vậy.

Ngoài những bài Về Đây Nhé, Có Những Khi, Một Lần Thôi, Mùa Thu Lại Đi, Về Con Phố Xưa, Quang còn viết một số bài khá trẻ trung. Gần như những bài …

327

dành cho tuổi trẻ thật, vui nhộn và bông đùa như Tôi Chờ Điều Ấy, Vắng Em, Nàng Bên Tôi …Thành ra nghe một chương trình nhạc tình của Quang hôm đó, tâm trạng người nghe cũng thay đổi liên tục. Từ buồn bã nhớ nhung đến hoang liêu xa vắng và rồi cũng nhiều lúc cười vang …

Tình Tôi Con Dốc Nhỏ Tôi xin nhắc đến bài một bài hát mới trong Album này: Tình Tôi, Con Dốc Nhỏ. Tôi không có những hò hẹn nào trên những con đường dốc Đà Lạt. Nhưng những con đường Đà Lạt đều nhắc tới những kỷ niệm của thời sinh viên đẹp của tôi. Tôi yêu từng góc phố, những hàng cây của thị xã Đà Lạt.

Trước khi hát bài Tình Tôi Con Dốc Nhỏ, Quang nói rằng Quang rất yêu những con dốc của thành phố Đà Lạt mù sương. Nhưng nghe xong Quang hát, tôi nghĩ rằng bài Tình Tôi Con Dốc Nhỏ diễn tả một sự luyến tiếc về một mối tình thời học trò ngày xưa. Tỏ nỗi nhớ thương con dốc nhỏ thì chẳng bao nhiêu, nhưng tả sự nuối tiếc về một mối tình đã chiếm trọn bản nhạc. Con dốc chỉ là điểm hẹn, con dốc chỉ là chứng nhân của một mối tình, con dốc chỉ là nơi cất giữ những hình ảnh của mối tình. Trong tám đoạn của bản nhạc không có đoạn nào là không nói nên sự hoài niệm, sự luyến tiếc mối tình thời xa xưa. Chỉ vì những lý do tôi vừa nói mà Quang yêu con dốc. Tôi chợt nhớ tới cuốn phim Titanic, xem xong phim chẳng ai bận tâm chiếc tầu Titanic là gì? nó đắm như thế nào? người ta chết ra sao? Người ta chỉ nhớ câu chuyện tình kỳ dị được lồng trong chuyến đi định mệnh đó. Con Dốc Nhỏ cũng vậy chăng?

328

Nơi tôi ở rất gần một con đường

Con dốc nhỏ đắm mình giữa mù sương

Thành phố âm u nhìn con dốc đứng

Nhà cũ vây quanh tường vôi nứt rạn

Khung cửa lầu cao có em ánh đèn sáng

Con dốc nhỏ thích tôi người đứng chờ

Trông ngây dại giữa chiều nắng chiều mưa

Chờ bước chân quen, gập ghềnh đất đỏ

Chờ những hoang liêu một mùi phấn nhẹ

Tôi đưa nàng bước lên tuổi xuân thì

Phố xóm nghèo sớm lan chuyện chúng mình

Những mái nhà liếc trộm bước tình duyên

Chuyện lúc hai tôi ngồi chân dốc vắng

Mặt đất ngây ngây mùi thơm bắp nướng

Vai sát bờ vai gờn gợn những trầm hương

Chân dốc nhỏ dẫn đi quanh bóng hồ

Môi em mềm hút cạn cánh bụi mưa

Hàng liễu giang tay bầy chim trốn gió

Từng bưóc em rung người trong tiếng thở

Em cắn bờ vai: lắm khi lòng bất ngờ …

Từng đêm từng đêm, con dốc vàng ánh đèn

Điệu sáo thần tiên gọi vang tận cõi trên

Cuộc tình ngơ ngác không hứa hẹn thêm

329

Nào trời hạnh phúc đâu biết gì hơn

Vui với cuộc vui bước khuya tình len lén

Để có nhiều hôm phố núi gọi mưa về

Đường dốc trợt trơn, lòng vang lừng khúc ca

Em bước cạnh thôi có chi mà ấm lạ

Mưa mãi tình ơi con tim tôi nhóm lửa thật rồi

Nhưng một chiều bỗng em đổi hướng đời

Vắng một người dốc mòn cũng lẻ loi

Nhịp trống cao nguyên từng cơn buốt nhói

Chờ mãi nơi đây lòng tôi thấm mỏi

Em nơi nào, đã thênh thang lộ mới

Trong thinh lặng có tôi chờ rất dài

Bông hoa cỏ cắn chặt giữa đầu môi

Ngàn cánh hoa bay ngập con ngõ vắng

Hàng xóm chung quanh nhìn tôi cố gượng

Con dốc nhìn tôi bước đi bằng vết thương

Nay tôi rất xa một con đường

Quang khởi hành trở lại bằng một loạt tình ca. Anh nói với tôi rằng: Tình ca quan trọng cho con người và nhờ có Tình Người mới mang theo được Mối Tình Lớn thành ra hành trình của một người Việt Nam.

330

Hành Trình Của Một Mối Tình

Quê Hương Mênh Mông Quang thực hiện ước mong đi một chặng đường nữa về quê hương, về đất nước. Sau khi không còn làm chủ nhiệm tờ nhật báo Viễn Đông, Quang làm hai chuyến du hành dài ngày. Một chuyến đến Washington DC và Florida, một chuyến đến Washington State và Vancouver BC. Quang đặt tên cho cuộc hành trình này là Hành Trình Của Một Mối Tình. Trong chuyến đi này Quang trình bày ba sáng tác mới : Tôi Có Một Mối Tình, Nào Ai, Trên Đường Phố San Francisco trong tập nhạc Quê Hương Mênh Mông mà Quang bảo là viết chưa xong hết.

Hầu hết anh em đều cho rằng: Đi trên đất Mỹ để tìm cảm hứng cho những bài ca về tình tự quê hương thì chắc chắn thất bại. Tôi nghĩ ngay cả khi Quang làm cuộc du hành trên đất nước thì Quang cũng khó cho ra đời những bài hát hay như trước năm 1975. Trịnh Công Sơn, sau năm 1975 cũng không có những bài xuất sắc của thời trước đó. Nhưng tôi tin Quang sẽ làm được. Tôi tin Quang sẽ làm được vì quan niệm về nước Việt Nam của Quang đã thay đổi. Nước Việt Nam mới của Quang không còn là nước Việt Nam nhỏ bé chạy từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu. Nước Việt Nam của Quang được trải rộng, trải dài đến những vùng đất Âu Châu, Bắc Mỹ, Úc Châu … Một Dân Tộc, Một Quê Hương Nhiều Chính Kiến. Cho nên Quang đặt tên cho tập nhạc sắp tới của Quang là Quê Hương Mênh Mông. Ta hãy nghe một số câu trong những bài hát mới ấy:

331

Tôi Có Một Mối Tình

Nhưng có lần mối tình

Chết lịm hồn tôi một cuộc phân ly

Cõi lòng khổ đau ngàn dậm ra đi

Đại dương ơi, bao giờ ?

Tôi trĩu nặng mối tình

Những lần ngỡ ngàng lúc khởi đầu cuộc đời trái ngang

Gồm từng vỡ vụn xoa dịu từng hồn oan ray rứt

Thắp dần hy vọng từng mảnh đời dung mang quê xa …

Quang kết luận:

Tôi vẫn có một mối tình

Trên đê sông Hồng nhớ đàn diều lượn lờ Cửu Long

Nối ngàn con đường mới trẻ trung nhìn không biên giới

Hôm nay mối tình tôi: Một Quê Hương Rất Mênh Mông

Trong chuyến đi đến Seattle, Quang yêu cầu tôi đưa Quang đi xem cá hồi trên đường quay về nơi chôn nhau cắt rốn. Đàn cá trở về sinh quán đã gây ấn tượng về cuộc hành trình trở về quê cho Quang. Ấn tượng đó đang nằm trong tiềm thức Quang. Tôi đưa Quang đến Issaquah. Tháng bẩy cá chưa trở về, nên trại cá Issaquah không có người, cũng chẳng có cá, nhưng vẫn còn giòng nước mát và trong vắt của con suối nhỏ. Con suối là con đường trở về nơi chôn rau cắt rốn của đàn cá Hồi. Tôi không biết cảnh tượng hôm đó khiến Quang có thêm một ý nào cho những ca khúc đường về quê tương lai của Quang hay không?

332

Tuy đã có trong đầu một ý niệm cho tập nhạc Quê Hương Mênh Mông, nhưng Quang cũng không khỏi không có những lúng túng băn khoăn về khó khăn của những người Mỹ gốc Việt trong việc sáng tác. Trả lời một cuộc phỏng vấn, Quang nói : ‘’Chúng ta viết về quê hương thì chúng ta viết cái gì ? Chúng ta đứng ở đâu và nhìn quê hương là đâu ? Câu hỏi này không đơn giản. Nếu không có một quê hương thì chúng ta đang xây cái gì ? xây cho ai ? hoăc chống cái gì ? Và chúng ta sẽ chọn lựa ra sao ? Người nào là đồng bào chúng ta ? Những người bên cạnh chúng ta chốn xa xăm này hay ở tại nơi mà ta gọi là quê nhà kia ? Những người chung quanh chúng ta mà chúng ta không coi họ là đồng bào thì chúng ta ra ứng cử, chúng ta làm việc, chúng ta căng sức đóng góp tài năng, công lao, tiền bạc, chia sẻ thuế má với họ thì gọi là làm … gì ??? Còn nếu chúng ta coi những người cùng màu da ở xa tít mù tắp kia là đồng bào thì chúng ta có gì là đóng góp hay giúp đỡ gì người ta không ? … Tôi cho là chúng ta đứng trước nan đề rất lớn nếu không giải thích được thì không thể viết được. Nếu không trả lời được câu này thì tất cả các đề tài khác đều vô nghĩa. Chẳng hạn không kêu gọi tuổi trẻ rằng tiến lên, cố gắng, hy sinh, chờ ngày … cho những điều hư ảo nữa. Đấy là những thao thức mà đã nhiều lúc người ta có cảm tưởng bế tắc. Tôi đang cố gắng suy nghĩ trở lại về những điều chính yếu ấy và rồi giàn trải nó ra trên cung bậc…’’

Nào ai Nhạc phẩm Nào Ai có lẽ là lời kêu thống thiết nhất của Quang. Tôi nghĩ cần đến hàng chục trang giấy để giải thích từng câu từng chữ trong bài này. Xin hãy đọc:

333

Nào ai đứng trước tôi – Nào ai bên cạnh tôi

Nào ai chỉ tôi biết tên con đường về ngày mai

Đường cao theo bóng bay- Đường gần xương máu đầy

Những đường này quen biết tôi từng đắng cay

Nào ai đang gấm hoa – Nào ai đang ước mơ

Nào ai hồn thao thức thấy quê nhà ngày mỗi xa

Ngàn phương vẫn cứ đi đường ơi không bến bờ

Ngựa hồ ngày mỏi vó cũng quay về chốn quê nhà

Người muôn nơi trên thế giới, ai có cùng ước mơ này

Nói cùng tôi cất tiếng cùng tôi, tha thiết đắm say

Từng bờ nương từng con phố hãy yên lòng hãy mong chờ

Tình người nở hoa tìm ra lối ngõ, không hẹn hò cũng bước về

Rồi cùng tôi ngày mai đi hái, những chân thành, những tin mừng

Từng đoàn xe lượn qua cuối bãi, những con đường vui mé sông

Chuyện ngày qua ngày xa xưa ấy, đã phai nhạt trước tấm lòng

Lúc ấy chân đi, đi từ muôn phía, và đi rất nhẹ

Nào ai chỉ dùm tôi, tình nào mãi thắm tươi

Chiều mưa cùng bằng hữu cứ reo cười chờ nắng soi

Đường xa bước ngắn dài, đường bâng khuâng cuối trời

Nào ai chỉ dùm tôi một đường tới

334

Lời kêu gọi không còn là lời gào, lời thét, không còn là những cú đấm mạnh vào mục tiêu rõ ràng của những bài Ruồi Và Kên Kên, Im Lặng Là Đồng Lõa, Xương Sống Ta Đã Quằn … Máu tuổi trẻ sục sôi, máu tuổi già nguôi lạnh chăng ? Đối với Quang chắc không phải. Làm người Mỹ gốc Việt quả quá khó khăn. Quang nuối tiếc một thời tuổi trẻ đầy hào hùng coi tử sinh nhẹ tựa lông hồng:

Thời gian cuộn chỉ xanh, nào ai sẽ kéo nhanh

Đường lui về giây phút không vướng lòng với tử sinh

Trả tôi lúc đắm say một thư sinh tóc dài

Làm thơ và yêu nước không ai sợ hãi, nghi ngại

Trên Đường Phố San Francisco Nguyễn Huy ghi lại lời Quang nói trong buổi tường trình chuyến du ca suốt Hoa Kỳ ngày 11 tháng mười năm 2004 tại phòng sinh hoạt Nguyễn Đình Điểu của nhật báo Người Việt :’’ Thể loại này kích thích tôi. Nó dính dáng đến con người Việt Nam, đến đất nước Việt Nam. Những hình ảnh tươi vui nhộn nhịp của cuộc sống, chan hòa hạnh phúc yêu thương nhau diễn ra trước mắt tôi, trên chốn đợi những chuyến tầu qua lại. Nhìn lại, là những những con người của mọi sắc dân. Sao họ yêu nhau thế. Sao họ quyến luyến nhau thế. Sao họ tin tưởng nhau thế. Những vòng tay ôm. Những nụ hôn vội. Ôi nhìn lại những con người Việt Nam chúng ta sao còn không xóa được hận thù, nghi kỵ mà cứ chất chứa mãi niềm đau, những giáo điều chết cứng …’’ Đó là lý do Quang viết Trên Đường Phố San Francisco

335

Dự định đã thành hình nhưng biết Quang còn có sự cam đảm để dấn thân hoàn tất mơ ước không ?

Nhưng có một số người đã chỉ cho tôi thấy mấy vần chữ vẩn vơ trong bài này. Họ giải thích rằng Quang đã tự nghĩ ra câu trả lời rồi chứ không phải chỉ đưa ra câu hỏi mù mờ với những tha thiết theo suốt bài hát trên đâu :

…………………….

Từng bờ nương, từng con phố hãy yên lòng hãy mong chờ

Tình Người Nở Hoa Tìm Ra Lối Ngõ, không hẹn hò cũng bước về……………………..

Lúc Quang hát bài này tại nhà tôi hồi tháng bẩy, tôi có cảm giác Quang cực kỳ xúc động. Gần như mắt Quang mờ đi trong hơi sương hay trong hơi nước mắt và giọng anh hơi run. Không ai có thể chia xẻ được cái tâm cam của tay viết nhạc này. Quang đã trải qua một quãng thời gian khá dài để lần mò theo với thăng trầm của dân tộc. Trưởng thành trong một cuộc chiến từ lúc hình thành tới lúc kết thúc, nhẩy vào trong cuộc rồi bứt ra khỏi cuộc chơi, bị tù đầy rồi cũng bị hất văng xa ra khỏi đất nước, Quang cho rằng có một thế hệ bị bỏ quên bên cạnh một dân tộc bị lợi dụng rồi cũng bị bỏ quên, bị băm vằm không thương tiếc … Ngày nay người ta chà đạp nhau, phế bỏ nhau, mặc cho người phương này, kẻ nơi kia … trong tình dân tộc, ai nói lời hối tiếc ?

Đường cao như bóng bay, đường gần xương máu đầy

Những đường này quen biết tôi từng đắng cay

336

Những Bài Hát Bất Hủ Trong mục Tác Giả và tác phẩm của web Du Ca đã liệt kê những ấn phẩm đã phát hành:

1. Chuyện Chúng Mình: 52 ca khúc, viết từ năm 1960 đến năm 1964, thời kỳ đầu sáng tác, hầu hết là các khúc tình ca tuổi học trò và thời gian sinh sống tại Đà Lạt.

2. Trầm Ca: 10 ca khúc cho thanh niên và thời cuộc, những thao thức lớn nhất về con người, đất nước. Những ca khúc này tạo nên cả một cao trào tuổi trẻ nhập cuộc vào các sinh hoạt.

3. Những Bài Ca Khai Phá: Trên 40 ca khúc sinh hoạt đặc biệt cho tuổi trẻ dung trong các buổi họp mặt công tác xã hội, các hoạt động đám đông.

4. Cần Nhau: 12 tình khúc được biết đến nhiều với: Bên Kia Sông, Vì Tôi Là Linh Mục, Cần Nhau, Như Mây Trên Cao

5. Lời Nguyện Cầu Hạnh Phúc: 18 bài sinh hoạt trong ngày hạnh phúc lứa đôi, hình thành 1969, nhiều bài hình như đã thành nếp trong các đám cưới như: Lời Nguyện Cầu Hạnh Phúc, Đám Cưới Chúng Mình, Lũ Chén Dĩa Có Tội Tình Gì

6. Khúc Nhạc Thanh Xuân: Khoảng 40 bài sinh hoạt thanh niên quốc tế. Nhiều nhất là các ca khúc trong thời lập quốc Do Thái, phong trào Kibbuz, những bài hát về nhân quyền, tự do từ Âu sang Á và Mỹ như: Về Miền Gian Nan, Bài Ca Hải Tặc

7. Hương Đồng Quê: Các khúc Dân Ca và nhạc đồng quê nổi tiếng trên thế giới chuyển dịch sang lời Việt, gần 200 bài, hầu hết bị thất lạc năm 1975

8. Phúc Ca Mùa Lễ: 25 bài đồng dao quốc tế hát trong mùa Giáng Sinh

337

9. Ruồi Và Kên Kên: Hoàn tất năm 1970, gồm 11 bài, là những ca khúc bi phẫn về những vấn đề lớn nhất trong một khung cảnh chính trị đen tối nhất của cả 2 miền đất nước.

10. Dưới Ánh Mặt Trời: Gồm các sáng tác trong các tập Trầm Ca, Những Bài Ca Khai Phá, Ruồi Và Kên, Chuyện Chúng Mình, Cần Nhau, Khúc Nhạc Thanh Xuân, Lời Nguyện Cầu Hạnh Phúc.

Nay Quang có thêm hai tập nữa là Về Đây Nhé gồm mười hai bài tình ca và tập Quê Hương Mênh Mông mới chỉ có ba bài.

Nguyễn Đức Quang và Phạm Công Ngân Sư Phạm Sài Gòn 1970

Sau đây là một số bài ca nổi tiếng của Quang trước năm 1975.

Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ Ta như nước dâng dâng chẳng có bao giờ tàn

Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang

……………………………………………………………….

Ta như giống dân đi tràn lên ngọn lửa hồng

338

Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm

………………………………………………………………..

Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại, xương da thịt này cha ông miệt mài. Từng ngày qua, cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi. Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang, trên bàn chông hát cười đùa vang vang. Còn Việt Nam triệu con tim này con triệu khối kiêu hùng.

Tôi được nghe chính Quang hát bài này với các em Thiếu Sinh của Liên Đoàn Việt Hùng tại buổi tối lửa trại tại sân nhà tôi vào năm 2004. Nhạc sĩ Ngô mạnh Thu kể lại, trong lần web Kicon phỏng vấn ông, rằng :" Bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ được hát lần đầu tiên tại trường Quốc Gia Âm Nhạc vào tuần lễ văn hóa do cụ Quốc Vụ Khanh Mai thọ Truyền tổ chức. Bài hát này được hát để kết thúc đêm trình diễn của Phong Trào Du Ca. Hơn 150 Du Ca viên từ khắp nước đứng chật sân khấu để hát bài này. Chúng tôi hát xong bản này, khán thính giả đứng dậy vỗ tay nồng nhiệt. Chúng tôi hát lại lần thứ hai rồi lần thứ ba, lần thứ tư , thứ năm . Mặc dầu tôi đã nói trên máy phóng thanh nhiều lần rằng buổi trình diễn của Phong Trào Du Ca đã chấm dứt, xin kính chào quý khán thính giả và xin chúc quý vị một đêm ngủ ngon. Nhưng họ không chịu ra về. Chúng tôi phải hát bài này đến lần thứ mười. Chưa lần nào tôi lại thấy một bài hát được khán giả cổ võ nồng nhiệt như vậy " .

Tôi được nghe ca sĩ Nguyệt Ánh hát bài này tại trại Thẳng Tiến VII tại Houston. Ca sĩ Nguyệt Ánh cũng dùng bài hát này để kết thúc đêm trình diễn Nguyệt Ánh. Ca sĩ Nguyệt Ánh yêu cầu chúng tôi hát theo. Nhạc sĩ cùng trình diễn chung với Nguyệt Ánh đêm hôm ấy đã

339

cầm cờ Việt Nam dẫn đầu, mọi người đi nối tiếp. Chúng tôi vừa đi vừa hát . Cảnh tượng hôm đó vừa hào hùng vừa cảm động. Vợ tôi nói với tôi :'' bài này đã biến anh Quang thành bất tử ''. Hãy nghe chính Nguyễn đức Quang nói về bài này để trả lời một cuộc phỏng vấn :''…. Bài VNQHNN ra đời vào năm 1966 … bài VNQHNN ra đời trong không khí bừng bừng sức sống của tuổi thanh niên. Tôi nhớ khi đó, tôi cần chấm dứt trầm ca, một bài hát cuối cùng chung khúc rất là cần thiết. Tập Trầm Ca là tất cả những suy tư của tuổi trẻ chúng tôi về quê hương đất nước, về chiến tranh hòa bình, về tự do cũng như về khát vọng thống nhất dân tộc, thống nhất đất nước. Nhưng bối cảnh đất nước lúc đó thê thảm quá, tôi nghĩ phải vùng lên từ thảm trạng, từ thực tế đó, phải NGẠO NGHỄ MÀ ĐI LÊN …''

Nỗi Buồn Nhược Tiểu Năm 1963 Quang đọc một bài thơ Nỗi Buồn Nhược Tiểu của Nguyễn Văn Hoàn đăng trong nội san Lửa Việt của Tổng Hôi Sinh Viên Sài Gòn lúc ấy do anh Lê Hữu Bôi làm chủ tịch. Quang đã phổ nhạc bài thơ này. Bài Nỗi Buồn Nhược Tiểu là một trong ba bài hát bài hát đã ảnh hưởng tới thời cuộc lúc bấy giờ. Quang tâm sự :”Cuộc đảo chánh 11 tháng 11 năm 1963 diễn ra khi tôi còn là một học sinh. Nhưng cũng đủ giao động để thấy trước mắt mình đã vỡ ra một khoảng chân trời mới : Những Chuyện Quê Hương. Tôi nghĩ rằng không riêng tôi mà cả thế hệ chúng tôi lúc đó như những người đang giật mình ra khỏi một cơn mộng dài, ai cũng thấy bỗng nhiên mình có bổn phận làm một cái gì đó cho đất nước, chứ không còn ngồi im trong góc nhà hay trong góc lớp học nữa. Tôi nhớ bài Lửa Từ Bi của Vũ Hoàng Chương

340

từng làm tôi rung động. Tôi có phổ nhạc bài thơ này, nhưng không đủ khả năng. Tiếng nhạc chỉ buột ra được ba câu thì ngưng lại. Nhưng nhờ vậy, một cái mầm âm thanh đã chờ sẵn trong tim tôi từ đó. Những cơn biến động diễn ra liên tục sau đó lại tăng thêm nỗi băn khoăn và suy nghĩ trong tôi. Ở Sài Gòn sinh viên và thanh niên liên tục nhảy vào nhiều hoạt động chính trị, khiến mọi quan tâm của tôi bị thu hút theo một cách triền miên. Năm 1964 trường Chánh Trị Kinh Doanh và Quản Trị Xí Nghiệp ra đời ở Viện Đại Học Đà Lạt đánh trúng ngay vào mộng ước của tôi, nên tôi ghi danh liền. Mùa hè năm đó, một tờ báo Lửa Việt của Tổng Hôi Sinh Viên ở Sài Gòn ra đời. Tờ Lửa Việt được tung lên Đà Lạt. Tôi bắt gập ngay trong tờ Lửa Việt một bài thơ mang tên Ca Hờn Nhược Tiểu, ký tên Nguyễn Văn Hoàn. Không chần chờ, tôi đặt ngay bài thơ ra trước mắt và mầy mò quyết phổ cho xong một bài nhạc. Tôi chưa từng thấy ai và nghe ai viết loại nhạc mầu sắc chính trị có tầm cỡ như bài thơ này. Tôi cũng không quen biết tác giả bài thơ này. Quan trọng là thấy bài thơ hay, đúng ý mình thì tôi phổ nhạc. Kết quả là tôi phổ nhạc xong bài thơ này vào tháng 10 năm 1964. Nhưng làm sao phổ biến đây? Bài hát này chưa một lần trình diễn trước một đám đông nào, nhưng tôi biết bài hát này rất là hay. Tháng 12 năm ấy, trong một buổi tụ tập của nhóm học tập J. M. Keynes của chúng tôi (sinh viên trường Chính Trị Kinh Doanh được tổ chức học thành từng nhóm, bắt chước lối tổ chức của trường Đại Học Havard) tại nhà máy nước bên cạnh Hồ Xuân Hương, tôi có hát bài này. Vừa hát vừa sợ vì cái mặc cảm hát ca khúc chính trị không xưng tụng chế độ có nghĩa là chống chế độ. Tôi chẳng thấy ai để ý khen chê gì cả. Mãi đến khi tôi quyết

341

định về Sài Gòn sinh hoạt, rồi gập anh Phạm Duy thì Nỗi Buồn Nhược Tiểu mới được dịp vang tiếng trước các nhóm sinh viên, nổ vang dội ngay từ lần trình diễn đầu tiên ở Sài Gòn. Bài hát đã đánh ngay vào trái tim của người nghe và nhẩy lên ngang hàng với những Kẻ Thù Ta Đâu Có Phải Là Người hay Giọt Mưa Trên Lá của Tâm Ca …’’

Suốt ba năm 1965 tới 1967, Nỗi Buồn Nhược Tiểu là bài hát hàng đầu đưa đến những xúc động chưa từng có trong lịch sử ca hát nếu tôi nói không quá lời. Khắp các giảng đường đại học, các sân trường, các phòng hội trung học từ lầu Morin hay sân trường Đồng Khánh ở Huế đến trường Phan Châu Trinh, trường Nữ Trung Học ở Đà Nẵng vào tới Nha Trang, Viện Đại Học Đà Lạt, trường Bùi Thị Xuân rồi tới trường Luật, Khoa Học, Sư Phạm, Văn Khoa ở Sài Gòn … Nỗi Buồn Nhược Tiểu gần như là tiếng hát của giới trẻ, giới trí thức đương đại. Quang nói anh không thể quên được lần trình diễn tại trường Phan Thanh Giản Cần Thơ . Học sinh bu nghẹt tất cả các cửa sổ không còn lối để thở, trong phòng là khăn mùi xoa và nước mắt. Hát xong bài Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Quang phải ngưng lại mười phút mới có thể cất tiếng cho bài kế tiếp.

Quang kể lại một kỷ niệm đáng nhớ nhất của Quang :’’Đó là lần tôi cùng anh Phạm Duy và Phương Oanh ra hát tại hội trường Morin cho sinh viên Huế. Tối hôm đó là một buổi tối hừng hực không khí đấu tranh, lại được châm thêm những thùng dầu xăng với những ca khúc Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Tiếng Rống Đàn Bò, Người Anh Vĩnh Bình. Tối hôm đó chúng tôi về nhà giáo sư Lê văn Hảo. Tôi nhớ tối hôm đó có cả Nguyễn đắc Xuân và

342

một vài khuôn mặt rực lửa tranh đấu lúc bấy giờ. Thú thật lúc ấy tôi còn quá trẻ và ngây ngô của một cậu sinh viên mới ngoài hai mươi tuổi. Được mời đi hát cho thanh niên sinh viên là lên đường ngay. Thành công trong buổi trình diễn, được tiếp đón nồng nhiệt nên chúng tôi trò truyện suốt cả đêm. Sáng hôm sau chúng tôi lên máy bay để về Sài Gòn rất sớm. Chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi chúng tôi dời Huế, một cuộc biểu tình lớn từ đại học Huế tràn ra đường phố. Những bài tối qua tôi hát được phát qua loa phóng thanh đặt trên xe hơi của đoàn biểu tình. Chúng tôi may mắn thoát được cơn sốt điên cuồng ngày đó. Cho đến một ngày của mấy năm sau đó, tại một buổi tiệc chính trị tại Sài Gòn, một anh Mỹ da đen đến bên tôi cười rất thân mật và nói bằng tiếng Việt :’’ Ông Quang, tôi giới thiệu với ông, tôi tên là R.. Trước đây tôi là trưởng cơ quan CIA vùng I. Ngày biểu tình ở Huế, tôi ra chậm một chút. Nếu hôm đó, ông ở lại mấy tiếng sau đó thì tôi đã bắt ông rồi ‘’

Quang kể một buổi trình diễn khác cũng liên quan tới bài Nỗi Buồn Nhược Tiểu. Quang và Phạm Duy đến trình diễn tại quân y viện Nguyễn tri Phương Huế. Quang hát xong bài Nỗi Buồn Nhược Tiểu thì tiếng ồn ào, hình như có cả tiếng đập phá. Đèn điện phụt tắt. Tiếng đập ầm ầm, bình bình. Quang không hiểu điều gì đã làm anh em thương bệnh binh nổi giận. Lúc đèn bật sáng, một cảnh tượng hãi hùng. Bàn ghế xô lệch, nạng gỗ cái nguyên, cái gẫy nằm bừa bãi trên sàn. Anh em thương bệnh binh đã dùng bất cứ cái gì có trong tay để đập phá. Bài hát Nỗi Buồn Nhược Tiểu đã có tác động, khiến anh em đã có phản ứng dữ dội. Họ cùng Quang cảm thấy buồn bã, nhục nhã, phẫn nộ trước tình trạng đất nước :

343

Tôi chót sinh ra làm dân nhược tiểu

Nỗi tủi hờn căm bừng trên tay

Nỗi nhục nhằn chĩu nặng đôi vai

Tôi chót sinh ra làm dân nhược tiểu

Ôi đau thương xâm kín hình hài

Niềm đau thương của kiếp đọa đầy

Tôi chót sinh vào nước chia cắt

Nỗi thù hằn còn đục lòng sông

Tôi chót sinh vào nước chia cắt

Tình anh em máu chảy thành dòng

Tôi chót sinh lầm trong thế kỷ

Súng bom trao đổi mất cuộc đời

Ôi thân tôi ! Ôi thân tôi !

Ơ sao lòng nước mắt đầy

Bóng tối trùm núi sông này

Giơ bàn tay gầy nheo bờ vai lặng nghe bài ca oan trái

Ơ hay Thượng Đế có buồn

Chứng giám giùm những linh hồn

Người dân tôi nhìn tương lai nước mắt tuôn tràn ngày

Tôi chót sinh làm dân nhược tiểu

Vú mẹ gầy cơm chẳng nuôi thân

Vắt tình này (thôi) máu mẹ nuôi con

Tôi chót sinh làm dân nhược tiểu

344

Nghe xung quanh nghiêng ngã cợt cười

Cạnh chén cơm chan máu dân tôi

Tôi chót sinh vào nước chia cắt

Khóc giang san hoài hoài gian nan

Tôi chót sinh vào nước chia cắt

Chờ mong tên nhược tiểu tạ tàn

Tôi chót sinh lầm trong u tối

Đếm tương lai say máu tủi buồn

Ôi quê hương! Ôi quê hương!

Sao giống nòi vẫn vương buồn

Sao giống nòi mãi nguy nàn

Bao giờ cho người không còn nghe

Lại tên Việt Nam nhược tiểu

Anh nghĩ gì núi sông này ?

Em nghĩ gì nước non này ?

Buồn hay vui, tình quê hương

Có nấu nung lửa hờn ?

Anh em thương bệnh binh hưởng ứng lời kêu gọi của Quang nên đã biểu hiện sự phẫn nộ trước tình trạng đất nước còn chiến tranh, nghèo đói :

Hãy đứng dậy hơi anh này

Hãy đứng dậy hỡi em này

Bao người con Việt Nam

Cùng tay cầm tay

345

Dựng xây đất nước

Cho đất Việt hết điêu tàn

Cho nước Việt hết nguy nàn

Cùng chung lưng nhìn quê hương

Tiến bước lên nhịp nhàng

Việt Nam! Ôi Việt Nam!

Để cho thấy sự quan trọng của bài hát này đối với cuộc đời và sự nghiệp của Quang, hãy nghe lời tâm sự của anh :’’ Tôi cũng không biết lúc đó tôi cảm xúc về bài thơ này như thế nào để có thể viết được một đoạn điệp khúc lạ lùng lôi cuốn với nét nhạc cuồn cuộn dũng mãnh :

Sao giống nòi vẫn vương buồn

Sao giống nòi mãi nguy nàn

Bao giờ cho người không còn nghe

Lại tên Việt Nam nhược tiểu

Anh nghĩ gì núi sông này ?

Em nghĩ gì nước non này ?

Buồn hay vui, tình quê hương

Có nấu nung lửa hờn ?

Hãy đứng dậy hơi anh này

Hãy đứng dậy hỡi em này

Bao người con Việt Nam

Cùng tay cầm tay

Dựng xây đất nước

Cho đất Việt hết điêu tàn

346

Cho nước Việt hết nguy nàn

Cùng chung lưng nhìn quê hương

Tiến bước lên nhịp nhàng

Việt Nam! Ôi Việt Nam!

Ngẫm nghĩ lại, tôi thấy mình viết bài này vào năm đúng hai mươi tuổi. Bài hát đã trở thành đường nét chính yếu trong nền nhạc của tôi. Ngay từ đó, tôi hiểu rằng mình không thể nào đi trở lại luồng nhạc phổ thông được nữa. Tôi cũng không thể trở thành nghệ sĩ làm vui hay làm đẹp cho mọi người như những bạn bè khác được. Tôi đã tự mình đào cho mình Một Con Đường Riêng …’’

Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương Quang trả lời phỏng vấn :"… Tôi còn nhớ lúc bấy giờ, anh bạn tôi là anh Nghi Sơn Nguyễn ngọc Thạch đưa cho tôi mấy bài thơ mà anh đã in trong một bản tin sinh hoạt của Chương Trình Phát Triển Quận Tám. Bài thơ Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương này tôi rất thích bởi vì nó là một ca khúc nói lên một cái nhìn thật hào hùng và lý tưởng của người đi làm công tác xã hội, một xúc động đặc biệt về những người có lòng tha thiết tới chuyện chung. Phải rất thành tâm thì mới viết ra được những câu thơ như thế. Xin đọc lại nội dung bài thơ để chúng ta đều thấy anh gởi gấm quá nhiều thứ và đều là những lời nồng nàn tuyệt vời :

Ta còn những người ngồi quanh đây trán in vết nhăn.

Đêm nằm nghe lòng quặn sôi lên giữa cơn mộng lành.

Ôi vì thâm tình cùng con dân giữa khi chiến tranh.

347

Ôi cùng đau lòng cùng hoang mang giữa khi khó khăn…..

Ta còn những người thật yêu nhau biết bao thiết tha.

Chưa gập bao giờ mà đã uống máu ăn thề.

Giam mình trong lòng thành đô kia, sống nơi ấp quê.

Nhưng tình cao vời đòi yêu thương khắp luôn thế gian’’

Năm 1966, 1967 chúng ta đón nhận một thông điệp như vậy, tôi cho rằng đối với tuổi trẻ chúng tôi nó đẹp biết chừng nào. Nó cho người ta một nghĩa sống thú vị dù có bao nhiêu phiền nhiễu chung quanh, bao nhiêu u ám chung quanh. Tôi cho rằng giá trị con người trong bài này quá lớn, tôi viết ra ngay thành bài Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương. Chúng tôi thích ca khúc này ghê lắm. Các bạn trẻ hát ngày đêm. Đó là cái thời chúng tôi không bao giờ …."

Năm 1970 tôi được xem buổi ra mắt phim Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương tại rạp REX . Tôi nhớ phim này do nữ ca sĩ Ngọc Minh đóng. Sau này trong một lần nói chuyện với Quang. Tôi nói với Quang :" Người ta làm nhạc thì ra tiền còn mày làm nhạc chẳng kiếm được xu nào ". Quang nói :" Có một lần tao xuýt được một số tiền lớn. Ông đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc hứa trả cho tao bốn mươi ngàn đồng sau khi làm xong cuốn phim Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương. Sau khi phim chiếu được vài tháng, tao nhờ Phạm chí Thành nhắc dùm. Thằng Thành trả lời rằng :" Hắn chơi mày rồi. Hắn nói rằng tiền đã chia hết rồi, chẳng còn xu teng nào cả ". Quang nhắc lại câu chuyện với một tràng cười sảng khoái, không một chút bận tâm. Quang chỉ để ý đến lúc khởi đầu câu chuyện dựng bài hát này thành phim như

348

thế nào. Quang tin Hoàng Vĩnh Lộc không có ý gạt ai bao giờ. Quang kể rằng trong một buổi anh hướng dẫn sinh hoạt cho Bộ Thông Tin tại hội trường của Bộ. Quang tập vài bài hát cho gần sáu trăm nhân viên Bộ ngồi chật bên dưới, trong đó có bài Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương. Hết giờ, bỗng có một người cao lòng khòng giơ tay xin phát biểu :” Thưa giảng viên, tôi là Hoàng Vĩnh Lộc, tôi nghe bài hát Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương hay quá, nên tôi có ý dựng thành một cuốn phim. Xin giảng viên cho tôi được phép dùng bài hát này. “ Dĩ nhiên là Quang gật đầu. Lúc đó hai bên có nói chuyện thù lao hoặc tiền bạc gì đâu. Xong chuyện Quang vào Thủ Đúc nhập ngũ. Lúc được đi phép hắn được Trần Trọng Thức báo tin là Hoàng Vĩnh Lộc có nhận sẽ trả tác quyền cho bài hát như trên. Sau này không có thì cũng là chuyện nói qua nói lại mà thôi, không có gì đáng kể. Chỉ có một chi tiết trong vụ này mà Quang lấy làm thú vị mãi. Đó là lúc Hoàng Vĩnh Lộc nói với Quang xin đổi chút xíu trong tựa đề : Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương, chứ không giữ nguyên là chữ Chọn. Anh Lộc nói : “Mình làm gì có quyền chọn, phải nhận thôi”.

Ngày 17 tháng 11 năm 2003, tôi nghe mục Chân Dung Thính Giả của đài BBC. Chị Nguyễn Thị Hoàng Oanh là người được đài BBC phỏng vấn. Chị Hoàng Oanh là người Quảng Nam. Sau năm 1975 chị và gia đình đi kinh tế mới tại tỉnh Đắc Lắc. Phóng viên Lê Hải của đài BBC hỏi chị :" Theo như chị nói những năm đầu tiên là những năm cực kỳ khó khăn của gia đình chị. Trong hoàn cảnh khó khăn khốn khó đó có nhiều người tìm cách bỏ trốn để vượt biên. Tại sao gia đình chị lại không làm như họ ". Chị Hoàng Oanh trả lời :" … Lúc

349

đó chúng tôi quá khó khăn. Chúng tôi không còn tài chánh hay còn một cái gì nữa để mà có phương tiện đi đến một nơi khác. Nói một câu ngắn gọn Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương …." Nghe chị Hoàng Oanh nói :" nói một câu ngắn gọn: xin nhận nơi này làm quê hương " mới thấy rằng bài hát Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương đã được phổ biến sâu rộng tại miền Nam. " Xin nhận nơi này làm quê hương " trở thành một câu nói rất phổ thông hay một thành ngữ để diễn tả phải chấp nhận một điều mà mình không muốn. Điều này có lẽ không đúng với ý mong muốn của tác giả. Ngày nay một người bỏ nước ra đi để tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn ở Việt Nam như tôi, tôi không bao giờ dám hát bài này. Nếu tôi hát bài này tại Mỹ, người ta sẽ nói :" Sao khôn vậy cha nội ?" . Nếu tôi hát bài này tại Việt Nam, người ta sẽ nói :" Thật vậy không cha nội ?". Sau này Quang có bổ túc cho tôi để giải quyết khó khăn trên. Quang nói rằng nhiều nơi các bạn trẻ vẫn hát bài này một cách mê say. Lúc Quang dẫn phái đoàn ca nhạc thanh niên đi Âu Châu năm 1969 có Khánh Ly, Thanh Lan đi sáu nước để hát cho kiều bào, Quang đã cho đổi hai chữ Nơi Này thành Nước Việt : Xin Chọn Nước Việt Làm Quê Hương. Bây giờ nếu mình cũng hát như vậy thì có điều gì sai trái nữa đâu. Chúng ta vẫn chọn Một Quê Hương, Một Dân Tộc Việt thì chúng ta vẫn “ còn những người ngồi quanh đây trán in vết nhăn, đêm nằm nghe lòng quặn sôi lên giữa cơn mộng lành, ôi cùng thâm tình, cùng con dân sống trong chiến tranh, ôi cùng đau lòng cùng hoang mang giữa khi khó khăn …” Vâng, duy nhất chỉ có hình ảnh chiến tranh là bị coi là lạc hậu trong bài hát này đối với ngày hôm nay.

350

Người Anh Vĩnh Bình Quang là người viết nhạc truyện hay nhất. Đó là lời nhận xét của Cao Hoàng. Tôi cũng đồng ý với Cao Hoàng sau khi nghe bài hát Người Anh Vĩnh Bình. Ngay những đại nhạc sĩ Phạm Duy, Lê Thương, Văn Cao cũng không viết được một câu truyện trọn vẹn, nhiều tình tiết, nhiều hình ảnh, bố cục thì chặt chẽ và lời thì hay, chuyện lại là một chuyện có thật như bài Người Anh Vĩnh Bình của Quang. So với những nhạc truyện nổi tiếng như Hồn Vọng Phu của Lê Thương, Người Mẹ Phù Sa của Phạm Duy, Những Đồi Hoa Sim của Dzũng Chinh, tôi vẫn thấy Người Anh Vĩnh Bình của Quang hay hơn.

Trên chuyến xe đò từ Vĩnh Long về Sài Gòn, Quang đã nghe được một câu truyện do một hành khách kể. Tất cả trở thành bài hát ngay. Câu chuyện Người Anh Vĩnh Bình không mới lạ lắm nhưng tình tiết thì thật nhiều và thật hay, nhất là lời ca. Nếu viết lời ca riêng ra ta có ngay một bài thơ :

Khi anh tôi đi không nói năng câu gì

Mang theo ba lô cây viết xanh nhỏ bé

Mai nơi xa xôi anh sẽ biên thơ về

Cho mẹ cho bà con, cho chị với cậu bé

Nhưng hai năm qua chưa thấy thư anh về

Con thơ năm xưa nay đã thôi bồng bế

Đêm nghe xa xa có tiếng ai ngang lệ

Con chờ nhé đơi nhé , con chờ mốt ba về

Anh tôi ra đi không nhắn anh lời nào

351

Nay không tin thư, ôi nhớ nhung làm sao

Anh ơi anh ơi, anh cách xa chừng nào

Có biết vợ úa héo

Hôm nao nghe tin mai mốt anh qua làng

Chao ôi hân hoan đôi mắt mẹ rực sáng

Chân đi bon bon quên thươt tha nhịp nhàng

Ra bờ sông chị đứng mắt ngời nét vui mừng.

Quang viết về niềm hân hoan của người về, niềm thương yêu tình tứ lãng mạng của người vợ đón chồng về, niềm hạnh phúc tràn ngập trong lòng người mẹ đón con về . Người về mang lại hạnh phúc cho mình, cho vợ, cho mẹ, cho con, cho em. Những hình ảnh thật đẹp qua lời thơ và giòng nhạc của Quang:

Bao nhiêu hân hoan anh bước chân qua làng

Tôi ra trông anh hơi khác xưa đầu mới

Da ngăm ngăm đen, anh ngó tôi xong gọi:

“A cậu mau lại đây, trông cậu lớn rồi đấy”

Nghe chân anh vô, chị trốn ra sau hè

Bâng khuâng lâng lâng, không dám ra ngoài ngó

Kêu con im đi, tai lắng nghe từng lời

Anh gọi :” Ơi mình ơi” Bước ra đứng khóc mùi

Tôi không quên khi anh bế con vào lòng

“ Con tôi ngoan ghê, sao giống ơi là giống “

Mẹ vui chân run, leo tuốt lên giường nằm

Nhắm mắt niệm lâm râm

352

Cơm hôm nay ngon, canh nấu chua rau ngọt

Me thương yêu anh, nên tiếp anh chẳng ngớt

Chơi vui bên con, anh nói với chị rằng:

“ Bây giờ anh phải đi, tối nay sẽ quay về “

Hình ảnh đẹp đẽ hạnh phúc trên đã làm nổi bật cảnh dã man kinh hồn của cuộc chém giết nồi da sáo thịt khiến người nghe phải đau buồn kinh hãi

Đêm nghe bơ vơ, tiếng súng xa đưa lại

Bên trong im hơi, cây nến xiêu mờ cháy

Tôi đang thiu thiu, nghe tiếng chân ai chạy

Xô mạnh cánh cửa lớn, tiếng người ngã ầm xuống

Qua khe phên thưa, tôi thấy anh giữa nhà

Tay cong sau lưng, quỳ trước dăm người nữa

“ Tên lưu manh kia, kêu hết cha mẹ già !

Ra mà lấy đầu mi, chết vì chống chúng ta !”

Mã tấu chớp loáng, anh rướn lên gục người

Máu bắn xuống dưới, và tưới lên mặt tôi

Bên trong lao ra, chị thét lên rụng rời

Ngã chúi, hồn chơi vơi

Đêm bao âm u, trên vách hiu hiu mờ

Bên thây anh tôi, Me ngất không dậy nữa

Con chơi ngây thơ, xoa tóc cha tung xòa

“ Bố ơi, bố dậy bố, bố ơi, má con kìa “

353

Những câu kết luận của bài Người Anh Vĩnh Bình vang vọng một hoài bảo để trả lời cho chiến tranh :

Trong ba lô anh, tôi thấy bao nhiêu quà

Đôi xăng đan xinh, đôi guốc cao đẹp quá

Hai đôi bông tai anh tính mua cho mẹ

Tôi tìm trong một gói, có tờ giấy mờ chữ

Run run đôi tay, tôi bóc xem tháng ngày

Thư anh xa xưa định viết vợ đấy

Riêng câu sau đây, theo ám tôi suốt ngày

“ Mong Được Thấy Đàn Bé, Sống Hạnh Phúc Lâu Dài “

Bài hát này là bài trễ nhất trong tập Trầm Ca, khoảng năm 1967 mới xong và khi Quang đi hát ở đâu cũng gây những giọt lệ thương cảm cho mọi người. Bài hát mở rộng vết thương soi mòn bên trong mọi con người, mọi gia đình của chiến tranh. Quang kể lại một lần hát ở Bộ Chỉ Huy Thủy Quân Lục Chiến. Hàng ngàn người lính đã rơi lệ. Họ thương cho chính họ, cho đồng đội và những người chung quanh. Chữ nghĩa trong bài thật đơn giản. Câu chuyện ai nghe cũng lọt vào tai và hiểu ngay không cần trình độ nào như những bài khác. Không phải Quang tự đặt ra cái hấp dẫn về tính chất thi ca qua lời ca của bài Người Anh Vĩnh Bình này. Quang kể có một lần xẩy ra một cuộc tranh cãi rất lý thú quanh câu chuyện. Số là đầu niên học 1967, trường Gia Long mời Quang tới hát. Giáo sư hướng dẫn văn nghệ của trường lúc đó là giáo sư Kim Oanh. Cô đã tới tận “biệt thự” của Quang lúc đó nằm ở trên garage phía sau nhà anh Tuệ để đưa lời mời. Cô Kim Oanh đã hỏi mua cho

354

trường 70 cuốn Những Bài Ca Khai Phá in roneo gần đủ con số 40 bài . Quang nghĩ đó là một cách trả tiền. Thế là một mình, trên vai cây đàn guitar, Quang cưỡi chiếc velo solex chạy thẳng vào bên trong trường, một trường vẫn cấm kỵ mấy anh chàng nam nhi bất kỳ loại gì. Trường cũng chưa bao giờ có chuyện tập họp học sinh trên sân trường để cho một anh nghệ sĩ nào đến hát. Lần này trường phá lệ. Nhưng khi vô trường Quang gập ngay một rắc rối. Một cô nữ sinh được giới thiệu là trưởng ban văn nghệ toàn trường tên là Đức Hạnh chận anh lại. Cô nữ sinh chìa ra một tờ giấy chép bài Người Anh Vĩnh Bình với câu hỏi hóc búa :’’ Xin nhạc sĩ cho biết bài thơ này là bài thơ của ai ?” Quang trả lời :”Lời ca của bài này do tôi viết, không phải là bài thơ ?” . Cô Đức Hạnh vẫn không đồng ý :”Nhất định đây là một bài thơ. Tôi nghĩ từ bài thơ này nhạc sĩ đã phổ thành bài hát, chứ đọc bài này không thể nói, bài này không phải là một bài thơ được”. Chưa vào buổi hát mà đã phải tranh cãi chỉ vì bài hát giống bài thơ. Cuộc tranh cãi không đi đến kết luận vì Quang phải lên ngay sân khấu để bắt đầu buổi trình diễn. Buổi hát dùng nhiều những bài hát cộng đồng của tập Những Bài Ca Khai Phá nên không dùng những bài Trầm Ca. Sau này Quang gặp lại cô nữ sinh này một lần nữa khi Quang được mời tới tư gia DT Quỳnh dùng bữa cơm gia đình. Lần gập này, Quang cũng không có dịp hỏi cô Đức Hạnh là đã đồng ý với câu trả lời của Quang chưa?

Chiều Qua Tuy Hòa Một trong những lý do Cao Hoàng và Quang trở thành đôi bạn tri kỷ vì là Cao Hoàng rất thích bài hát Chiều Qua Tuy Hòa. Cao Hoàng thích bài hát này vì anh ta coi

355

Tuy Hòa là quê hương thứ hai sau Hà Nội. Anh ta nói với tôi, người ta yêu quí mảnh đất không phải vì nó giàu hay lớn mà vì tình cảm của những người dân ở đó. Cao Hoàng yêu xứ Tuy Hòa và xem Tuy Hòa là quê hương thứ hai vì những năm Hoàng dạy học ở Thị xã Tuy Hòa, Hoàng thấy dân Tuy Hòa thật hiền hòa dễ thương. Cao Hoàng và Quang biết nhau vì thời thơ ấu hai người đều sống tại Đà Lạt. Biết nhưng không thân mặc dù thân phụ của hai người là cụ Nguyễn Đức Trung và cụ Huyền Vi là đôi bạn thơ. Thân phụ hai người thường gập nhau để ngâm thơ, bàn luận về thời cuộc và thơ văn. Hồi đó thân phụ của Quang có biệt danh là Tú Point vì cụ thích đủ mọi thứ và chuyên làm thơ trào phúng. Cụ làm thơ nhưng cụ lại thích đủ các loại thể thao mà cụ coi là các thứ trò chơi. Cụ đá bóng tới tối mịt, đấu quyền anh, đánh bóng bàn, chơi đua ngựa … Cụ thích đàn hát, đóng kịch và nhất là làm thơ như đã nói. Cuối đời cụ đem những chuyện ngụ ngôn và soạn cả các bài tập đánh vần, tập đọc thành thơ. Đó là lúc cụ qua lại rất mật thiết với cụ Huyền Vi vì hai cụ cùng sở thích. Còn Cao Hoàng, anh ta gập tác giả bài hát Chiều Qua Tuy Hòa tại trại học tập Trảng Lớn, Tây Ninh. Cao Hoàng không phải chỉ là một tay guitar classic có hạng mà anh ta còn có đủ tài văn nghệ khác. Theo Quang kể lại, Cao Hoàng là người đầu tiên làm ra cây đàn guitar trong trại tù cải tạo. Chỉ trong vòng nửa tháng đầu tiên vừa đặt chân tới Trảng Lớn, Cao Hoàng đã sáng chế ra chiếc đàn. Lúc đó, Quang ở trên khu Hội Trường, Hoàng ở khu vườn rau cách xa nhau chừng vài trăm mét. Quang có dịp đi tắt qua khu vườn rau, bỗng nghe tiếng đàn guitar thánh thót với một bản Carulli, nghe đến thót ruột. Phải là bộ đội hay cán bộ chứ dân cải tạo có ai được mang đàn vào

356

đây. Mở cửa bước vào, Quang thấy ngay một anh chàng nằm trên võng. Một ông tù cải tạo như mình đang đánh đàn. Nhìn cây đàn mới khiếp. Mấy miếng gỗ đóng lại thành một cái thùng. Một cái lỗ được đục giữa cái thùng. Một miếng gỗ dài làm cần đàn, không biết bằng cách nào mà Cao Hoàng gắn được vào thùng đàn, bằng thứ đinh gì ? Chỉ có hàng phím gắn khá tỉ mỉ và chính xác để cho tiếng đàn không sai. Bộ giây đàn thì Quang không hiểu nổi. Quang sờ và mân mê những sợi giây đàn, rồi Quang còn hỏi Cao Hoàng có còn nhớ tên anh bộ đội nào mua giùm những sợi giây đàn không? Quang ngạc nhiên khi nghe Cao Hoàng trả lời :” Không, chẳng nhờ ai cả, tôi làm lấy hết “. Dĩ nhiên là Nguyễn đức Quang phải thử đàn và sau đó là học hỏi cách làm đàn của Cao Hoàng. Từ đó hai người trở thành bạn thân thiết trong trại cải tạo Trảng Lớn. Suốt một năm trời ở đây, hai tay này làm ra ít nhất hai ba cây đàn cho mỗi người. Khi Nguyễn Đức Quang được thả về, anh mang cây đàn về làm kỷ niệm. Cây đàn ấy về sau chuyển sang tay Nguyễn Hữu Nghĩa, nay không biết cây đàn này đi về đâu.

Lần nào lên Seattle, buổi tối Quang cũng trình diễn tại hội quán Lá Phong ngay trong nhà Cao Hoàng. Hội Quán Lá Phong là nơi lui tới, tụ họp của các văn nghệ sĩ sống tại Seattle. Buổi chiều tại nhà tôi, Quang hát bài Chiều Qua Tuy Hòa.. Quang hát xong, tôi hỏi:" Các anh thấy thiếu gì không ?” Mọi người đang ngần ngừ tìm câu trả lời thì tôi tiếp :’’ Thiếu tiếng hút gió “. Chính tiếng hút gió của Quang làm cho bài Chiều Qua Tuy Hòa trở nên độc đáo và càng thêm hay. Lúc đó chưa có bài hát nào ngoài thị trường lại có tiêng hút gió. Bài Ngựa Hoang với Elvis Phương thì mãi sau này mới ra

357

đời … Bài hát Chiều Qua Tuy Hoà đem vào tâm hồn người nghe sự trầm buồn xa vắng của câu truyện cổ tích nàng Vọng Phu, sự êm ái của phong cảnh hữu tình. Biển trời thì mênh mông xanh ngắt, sông thì đem màu mỡ cho ruộng vườn, núi rừng thì êm ả. Nhưng lòng người thì vẫn buồn rười rượi vì người dân Tuy Hòa vẫn còn nghèo, trường lớp thì vắng bóng học trò và tiếng súng vẫn còn văng vẳng quanh đây. Người say mê bài Chiều Qua Tuy Hòa nhất phải là những người dân Tuy Hòa. Quang kể rằng mỗi tất niên, hội đồng hương Tuy Hòa thường mời Quang đến dự tiệc. Họ bắt chính Quang phải hát bài Chiều Qua Tuy Hòa không phải một lần mà nhiều lần. Có nhóm còn bắt Quang phải tập cho họ hát bài Chiều Qua Tuy Hòa này. Quang trở thành một CÔNG DÂN TUY HÒA DANH DỰ. Quang viết bài Chiều Qua Tuy Hòa vào khoảng năm 1967 trên đường đi ra Tuy Hòa. Khi đến Nha Trang thì Quang hoàn tất bài Chiều Qua Tuy Hòa và hát lần đầu tiên tại Nha Trang. Trong lần trình diễn đó có một người tên là Huỳnh Tân tham dự. Huỳnh Tân là mẫu người Quang rất thán phục. Anh ta thực hiện một chuyến đi xe đạp một mình từ Nha Trang đến Cà Mâu. Ở những nơi ngừng lại, anh ta tự tìm công việc lao động để kiếm ra đồng tiền sinh sống. Nhật ký về chuyến đi của anh được đăng trên tờ Chính Luận và Quang đã đọc say mê. Quang cũng thực hiện một chuyến đi một mình bằng xe đạp, nhưng chỉ đi được từ Đà Lạt đến Sài Gòn.

Ngày xưa tôi đã đi qua Tuy Hòa, trời xanh le lói bao mộng mơ. Đàn chim tung cánh bay bay đầu gió và đâu đây tiếng sông bồi phù sa. Ôi những chiều mây vắt ngang lưng đèo. Vọng Phu đưa mắt cũng buồn theo …………………………………………………………………

358

Ôi bước buồn theo với không gian buồn, một đêm qua biết bao sầu thương

Ai yêu thương TUY HÒA cho bằng người dân Tuy Hòa và anh chàng Du Ca này.

Bên Kia Sông

Dương trọng Cẩn kể rằng đại đội 18 của Cẩn và Quang đóng tại cầu Tân Thuận trong một lần đi chiến dịch của sinh viên sĩ quan Thủ Đức, đó là công tác thực tập sau cùng trước khi mãn khóa. Quang xuất hiện bất ngờ trước anh em và nói :" Đừng tưởng Nguyễn Đức Quang không biết làm nhạc tình ". Và Quang hát bài Bên Kia Sông cho anh em nghe. Tôi được nghe chính Quang hát bài này ba lần . Lần đầu tiên tại nhà hàng Quốc Tế đường Lê Lợi , lần thứ hai tại nhà Châu văn Chính, lần thứ ba tại nhà tôi. Quang hát tại phòng trà Quốc Tế nhân dịp họp mặt của khóa I CTKD. Hôm đó Quang hát bài Bên Kia Sông, Phong Râu hát bài Cúc Cù Ru Cù Ru. Khán thính giả nồng nhiệt hoan hô hai chàng ca sĩ tài tử. Có lẽ vì sự mới mẻ và trí thức của bản nhạc và của người trình diễn nên đã thu hút người nghe. Lần thứ hai, Quang hát theo lời yêu cầu của cô con gái Châu văn Chính. Lần thứ ba, Quang hát bài này sau khi hát cho chúng tôi nghe một số bài nhạc tình mới sáng tác của Quang. Tôi nói :" Tình hai mươi thì nhẹ nhàng, tình sáu mươi thì nồng nàn cuồng nhiệt ". Bên kia sông là bài thơ phổ nhạc từ bài thơ của của một thi sĩ cũng rất là tài tử tên là Nguyễn ngọc Thạch. Nguyễn ngọc Thạch là sinh viên sư phạm đại học Đà Lạt. Theo anh Huỳnh trung Trực CTKD I bài thơ này đặc biệt để ngợi ca cô nữ sinh Hồng Quế của trường Trung Học Bùi Thị Xuân. Dạo đó, Hồng Quế có ghé qua chỗ nhà trọ của anh

359

Thạch và anh Trực một hoặc hai lần. Về sau, Hồng Quế hạ sơn xuống Sài Gòn và làm vợ của một sĩ quan cấp tá VNCH, ngành CTCT. Thỉnh thoảng Hồng Quế xuất hiện trên chương trình truyền hình của quân đội dạo đó. Hiện nay anh Thạch vẫn còn ở Phú Nhuận Sài Gòn. Nhưng Quang thì nói với tôi rằng bài thơ này Nguyễn ngọc Thạch viết cho một cô nữ sinh trường Couvent des Oiseaux. Nàng tên Michell. Cô là một cô gái Việt lai Pháp. Nguyễn ngọc Thạch lấy biệt hiệu là Mi Sơn. Mi là phiên âm chữ Michell, còn Sơn là núi đá, núi đá là Thạch. Mi Sơn là lối ghép tên Michell Thạch. Trả lời một cuộc phỏng vấn, Quang nói :’’Nguyễn Ngọc Thạch cầm tập thơ quay ronéo với nhan đề Lời Trong Sương để nhờ tôi phổ một bài thành ca khúc. Anh thích làm chuyện này vì hai điều. Trước đây tôi đã phổ bài Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương khiến anh rất thích. Sau là anh muốn thử thách tôi phổ một bài thơ tình có được không ? Tôi cầm tập Lời Trong Sương, chọn mãi mới được bài đầu tiên của tập thơ. Một tuần lễ sau, tôi gửi lại anh bài hát Bên Kia Sông tức là tôi lấy bài đầu tiên chỉ có 8 câu phổ thành bài hát. Phổ xong thấy ngắn quá, tôi vội biến chế ra một lời thứ nhì . Tác giả bài thơ vô cùng thích thú. Lúc đó anh ký tên dưới tập thơ là Mi Sơn. Sau này anh nói nên bỏ bút hiệu đó đi và tôi đã thay bằng tên Nguyễn Ngọc Thạch. Bài nhạc quá hay theo như anh Thạch cho tôi biết. Anh nói nếu tôi đồng ý, anh sẽ đem ra thị trường nhạc và chắc chắn nó sẽ trở thành Top Ten ngay lúc ấy. Riêng tôi, bài này là một trong loạt bài bất hạnh như Vì Tôi Là Linh Mục, Như Mây Trên Cao ... Nó nằm trong loạt tình ca nên tôi gần như không mấy xử dụng. Tôi vất những bài này qua một bên vì còn bận với những Nỗi Buồn Nhược Tiểu,

360

Chiều Qua Tuy Hòa, Ruồi Và Kên Kên, Xương Sống Ta Đã Oằn Xuống, Cho Đồng Bào Tôi … Mãi cho đến khi ra hải ngoại, ở đây cần những bài hát êm ấm và trữ tình hơn nên tôi mới đem ra hát lại”

Này người yêu, người yêu anh ơi,

Bên kia sông là ánh mặt trời,

Này người yêu, người yêu anh hỡi,

Bên kia đồi cỏ hoa đan lối,

Bên kia núi, núi cao chập chùng,

Bên kia suối, suối reo lạnh lung,

Là bài thơ toàn chữ hư vô

Này người yêu anh ơi

Cho anh nồng ấm cuộc đời

Hoa thơm đón ánh mặt trời

Ôi núi mừng vì mây đến rồi,

Này người yêu anh hỡi

Yêu nhau mình đưa nhau tới

Bước nhẹ và nói êm xuôi

Nói cho vừa mình anh nghe thôi

Đoạn thêm của Quang:

Này người yêu, người yêu anh ơi,

Bên kia sông đường vẫn còn dài

Này người yêu người yêu anh hỡi

Bên kia đồng cỏ non đan lối

361

Trong cơn gió thoáng nghe nụ cười

Trong khe núi thánh thót lòng người

Lòng đòi tình vật vã khôn nguôi

Này người yêu anh ơi

Đêm đêm lòng vỡ tình dài

Dây xanh quấn quit vào đời

Cho trái tình nở trên tiếng cười

Này người yêu anh hỡi

Bên trong lòng nôi êm ấm

Rắc nhẹ từng cánh sao rơi

Sẽ âm thầm mình em nghe thôi

Vì Tôi Là Linh Mục Quang là người đầu tiên phổ nhạc thơ của Nguyễn tất Nhiên. Cuối năm 1969 đầu 1970, lúc ấy Quang mới đi Âu Châu về. Quang kể rằng : Một hôm Nguyễn tất Nhiên đến gập Quang, Nhiên nói :" Em có mấy bài thơ (thật ra là cả một tập thơ đầu tay của Nhiên lúc 17 tuổi mang tên là Thiên Tai. Tập thơ này đoạt giải thưởng Tổng Thống về thơ) anh xem rồi phổ nhạc dùm em để em đi hát với mấy đứa bạn." - " Đưa đây, tuần sau tới lấy ". Quang tìm trong tập thơ đó và chọn được một bài, đó là bài THIÊN THU. Bài thật buồn, thật đúng với định mệng của Nhiên. Nhưng chỉ tháng sau Nhiên lại đến tìm đến. Nhiên nói :'' Anh phổ cho em có một bài nên em hát, bọn nó bis, em không có bài nào để hát tiếp.” Cũng tìm trong tập Thiên Tai, Quang phổ bài thứ hai. Bài này được nhiều người biết ngay lập tức vì có

362

tựa đề nói đến một vấn đề nhậy cảm lúc bấy giờ đó là Tôn Giáo. Nhưng thực ra bài hát chỉ nói về một chàng trai thất tình. Không biết do đâu bài hát này vào tay Khánh Ly. Thế là bài hát được tung ra ở phòng trà Tự Do. Lệ Thu thích quá cũng mang bài hát vào cuốn băng Lệ Thu I từ năm 1970. Chuyện này Quang hoàn toàn không hay biết gì vì không ai nói cho anh biết. Vì thế Quang cũng ngạc nhiên khi thấy bài hát này nổi tiêng rất nhanh.

Vì tôi là linh mục, không mặc chiếc áo dòng

Nên suốt đời hiu quạnh, nên suốt đời lang thang

Vì tôi là linh mục, có được một tín đồ

Nhưng không phải là thánh thần nên tín đồ đi hoang

………………

Vì tôi là linh mục giảng lời tình nhân gian

Nên không còn tiếng khóc, nên không còn tiếng trách

Nên không biết kêu than, nên tôi rất bơ vơ, nên tôi rất dại khờ

Và sau cùng :

Vì tôi là linh mục chưa rửa tội bao giờ

Nên âm thầm qua đời, tội ác còn trong tôi

Vì tôi là linh mục, vì tôi là linh mục,

Người ơi một linh mục rất dại khờ

Hỏi Quang, anh có gập gì khó khăn với bên Công Giáo không thì được Quang trả lời : “ Chính thức thì không, nhưng thực tế lúc đầu thì có, sau này họ lại vui thú sau khi chính thức nghe, chứ không phải nghe qua người

363

khác. Một ngày đẹp trời, buổi trưa hè rất nóng, tôi đang ở trần trùng trục ở đằng sau cái garage nhà ông Tuệ, thì có ba vị linh mục mặc áo dòng hẳn hoi đến gõ cửa. Tôi tiếp chuyện ngay và lễ phép hỏi các vị đến có việc gì không. Ba vị linh mục nêu thắc mắc là hình như tôi có viết một bài nhạc gì báng bổ các linh mục công giáo. Nghe đến đây tôi thấy tình thế hơi gay. Tôi hỏi lại : Thế có vị nào nghe bài hát ấy chưa thì cả ba vị linh mục lắc đầu. Tôi nghĩ giải pháp hay nhất là mời ba vị linh mục nghe qua bài hát. Tôi lấy cây đàn và hát ngay. Hát xong tôi hỏi quý vị có ý kiến gì không? Bài hát có gì báng bổ các vị linh mục Công Giáo không? Cả ba vị đều rất tươi tỉnh, xin lỗi một cách nhẹ nhàng, rồi quay gót ra về. Sau này bài hát này được rất nhiều vị linh mục thích. Khi tôi hát ở Sydney lần thứ nhì, tôi được ngồi cạnh vị linh mục quản nhiệm giáo sứ tại đây. Đến lúc MC giới thiệu một anh bạn tôi trình diễn bài này, tôi hơi e dè. Tôi cứ nhìn xem vị linh mục thứ thiệt này sẽ lắc đầu lúc nào. Nhưng tôi ngạc nhiên vì thấy ông thưởng thức một cách say mê. Nghe hết bài vị linh mục quay qua nhìn tôi và hỏi làm mũi tôi nở to :” Bài này của ai hay quá, thế mà mình không biết?’’. Khi qua Brisbane lại gập một thú vị khác. Ban tổ chức ở đây mời ba cha xứ ở ba nhà thờ đến dự. Cả ba vị đã nán lại chờ cho đến khi một giọng hát địa phương rất hay lên sân khấu hát xong bản Vì Tôi Là Linh Mục thì ba vị mới ra về để lo lắng công việc cho con chiên chiều chủ nhật còn chờ đợi ở nhà thờ của mình.

Về Với Mẹ Cha Tôi rất thích bài hát này. Tôi hát bài này trong những dịp sinh hoạt cộng đồng. Bài hát ngắn gọn, mạnh, thắm

364

thiết. Bài hát mang nhiều hình ảnh, nhiều tình cảm đẹp và hào hùng của nam nữ thanh niên nước Việt trong công cuộc xây dựng một nước Việt Nam phú cường. Nơi cây cầu, trong xóm làng, trong rừng sâu, ngoài biển cả đã nở ra bao mối tình đẹp đẽ : Tình đồng đội, tình bạn bè, tình yêu nam nữ, tình đồng bào … Nơi đó bao nhiêu mộng lớn, mộng nhỏ được ấp ủ, được thực hiện với lòng can trường và trong sáng. Bài hát như được phổ từ những câu ca dao. Tiếng hát như tiếng vọng từ ngàn xưa

từ nam quan cà mâu, từ non cao rừng sâu,

gập nhau do non nước xây cầu,

người thanh niên Việt Nam quay về với xóm làng

tiếng reo vui rộn trong lòng,

cùng đi xoay hoành sơn , cùng đi lay trường sơn,

cùng đi biến rừng hoang ra lúa thơm

vượt khơi ra đảo xa lướt ngàn nước sóng nhà,

ta đắp bồi cho mẹ cha .

Quang kể lại mấy câu truyện chung quanh bài hát ngắn ngủi này khiến tôi càng thêm kinh ngạc. Trước tiên là ngày trình làng bài hát này tại Sài Gòn. Thật ra bài hát có sớm sủa, hình như vào 1964 hay đầu năm 1965. Nhưng bài hát xuất phát từ Đà Lạt nên phải chờ đến khi cả toán nhóm nhau tại Sài Gòn và có dịp rủ nhau đi công tác thì mới tung bài hát này ra. Trong một kỳ trại công tác tại Vũng Tàu. trại sinh được chở trên ba chiếc xe GMC, mỗi người được phát một tập bài hát trong đó bắt đầu bằng bài này. Thế là từ lúc khởi hành cho đến khi xe ngừng lại tại rừng Chí Linh, Vũng Tàu, mọi người đã

365

hát không ngừng trên đường đi và chỉ hát có một bài này mà thôi. Quang cũng cho biết sau khi đưa ra lời nguyên thủy này, Ban Trầm Ca lúc đó thấy bài hát ngắn quá nên xúm nhau lại để viết thêm hai lời nữa. Hát đi hát lại nhiều lần cả ba lời nhưng không thấy hay. Chỉ có lời đầu tiên là cao sang và đầy lý tưởng. Hai lời sau tầm thường quá. Chẳng hạn : …., nhìn quê huơng tả tơi, người thanh niên Việt Nam ngậm ngùi. Cho chí không vùng lên …” Sau mấy ngày thử thách như thế, cả ban quyết định bỏ hai lời sau, chỉ giữ lạ lời đầu. Thế nhưng một lần hát thử tại Hội An hay Đà Nẵng cả ba lời khiến cho cả ba lời của bản nhạc cứ vậy mà “tới luôn bác tài”. Hiện nay ở hải ngoại, các bạn sử dụng bài này trong các trại thanh niên từ miền Đông sang miền Tây đều có … ba lời !

Giai thoại thứ hai về bài hát này: Bài hát này đã khiến cho hai cao thủ Nguyễn Đức Quang và Viết Chung suýt chút nữa thì … lôi nhau ra tòa. Khoảng năm 1967, Quang nghe được trên đài phát thanh Sài Gòn có hát bài này rất hay, rất hùng mạnh. Đặc biệt là có thêm một đoạn khai đề hoàn toàn khác lạ. Quang liền viết thư về đài phát thanh Sài Gòn yêu cầu đài cho biết ban nhạc nào đã xử dụng bài này và ai là người đã thay đổi bản nhạc mà không hỏi ý kiến tác giả. Một tuần sau Quang được đài phát thanh Sài Gòn trả lời đó là nhạc hiệu của ban Xây Dựng Nông Thôn của ông Viết Chung. Ban này đã lấy hết phần chính của lời một Về Với Mẹ Cha rồi thêm một đoạn tiếp theo như một điệp khúc mới. Hai bên suýt lôi nhau ra tòa. Sau đó hai người nói chuyện thông cảm và trở thành hai người bạn thân.

366

Không Phải Là Lúc “Việt Nam bằng ba Nhật Bản. Nghĩa là ba người Nhật Bản họp lại thì mới bằng một người Việt Nam. Nhưng nếu ba người Việt Nam họp lại thì công việc nát bét, ba người Nhật Bản họp lại thì công việc tốt đẹp hơn “. Chia rẽ ở trong máu người Việt chăng? Chắc chắn là không. Nếu câu trả lời là đúng là phải thì làm sao chúng ta nhiều phen thắng giặc Tầu, giặc Nguyên, giặc Pháp. Như vậy có nghĩa là có lúc chúng ta chia rẽ, nhưng lúc cần là người Việt lại gắn bó thành một khối như sắt thép. Bài hát Không Phải Là Lúc của Quang là một thông điệp kêu gọi người Việt hãy đoàn kết và làm việc hết mình. Bài hát thật hay ở chỗ không chỉ trích, không lên mặt dậy đời. Lời bát hát là lời phân bua, giải thích, kêu gọi. Bài hát thật tình cảm và tha thiết. Bài hát được viết từ một trái tim đầy tình thương yêu đồng bào và đất nước, từ một trí óc sáng suốt hiểu rõ vấn đề nan giải của người Việt Nam chúng ta. Bài hát được viết từ một tấm lòng rộng lượng và khiêm nhượng. Bài Về Với Mẹ Cha và bài Không Phải Là Lúc là hai bài hát tôi rất thích và hát rất nhiều lần trong các buổi sinh hoạt cộng đồng. Chúng ta nghe những lời Quang trình bày, phân bua, giải thích và lý luận thật logic:

Không phải là lúc cứ ngồi đặt vấn đề nữa rồi

Phải dùng bàn tay mà làm cho tươi mới

Hàng chục năm qua ta ngồi ngó nhau nghi ngờ nhau khích bác nhau cho cay cho sâu cho thật đau

Không phải là lúc cứ ngồi mà cãi suông

Không tin nơi nhau thế ta định nhờ ai dắt đầu ?

367

Thế giới ngày nay không còn ma quái thần tượng tàn rồi

Còn anh với tôi chúng ta đi tới bằng cái tầm thường thôi

Không phải là lúc cứ ngồi chờ có được tốt đẹp

Mà phải khởi từ nhọc nhằn hay nát bét

Nhìn về xa xăm tin rằng tự chúng ta gây dựng nên

Chính chúng ta đi trong đêm đen ra bình minh

Không phải là lúc ta chờ người cứu luôn

Không ai cho ta cái sức mạnh mà ta chẳng còn

Thế giới này sống không toàn lý thuyết

Bằng lời phẩm bình miệng tranh đấu suông

Bước đi khi chính mình đã đầy tự tin

Công bằng nhân ái không phải là những điều nói hoài

Mà tự trời cao vội vàng bay ngay tới

Để tìm cho ra con đường thương mến nhau

Ngang bằng nhau, hãy bước ngay vô trong gian nan, trong khổ đau

Dân chủ tự quyết không phải là phép tiên

Đem ra rêu bốn năm ngày là ta có liền

Lo công lợi chung không phải cao hứng

Một ngày, vài ngày làm nên vẻ vang

Có chăng khi chúng ta hết sợ thời gian

Điệp khúc là lời kêu gọi thiết tha để giải quyết vấn nạn nêu trên:

Làm việc đi không lo khen chê

368

Làm việc đi hãy say và mê

Cứ bắt tay gan lì chúng ta giải quyết

Mình chậm chân đi sau người ta

Còn ngồi đây nghĩ lo viển vông

Thắc mắc ngại ngùng đến lúc nào mới làm xong?

Tiếng Hát Tự Do Tôi nghe Quang hát bài này tại giảng đường Thụ Nhân Viện Đại Học Đà Lạt. Quan niệm tự do của Quang rất rõ ràng:

………………………………………………..

Đừng xin chớ nhờ ai. Tự do mỗi con người ngay trong cõi lòng đầy vơi

………………………………………………………………….

Tự do nuôi lớn tâm nhau

Cùng nung đúc thêm tình vào

Người chung sông núi

Phải thương nhau với

Việc chi xâm lăng cho máu thịt rơi ?

………………………………….

Tự do khi non nước chia hai

Là chưa nói lên trọn lời

Tự do đem tới

Tình yêu vun sới

Để cho quê hương đất nước cùng vui

369

Tự do vì giống nòi

Thì không dứng than hoài

Hay phó mặc cho nước tả tơi

Phải vươn sức bàn tay

Để tay nói lên lời

Một nước Việt mà thôi

Lời kêu gọi thật thiết tha cảm động. Điệp khúc bài hát là một kêu gào đòi hỏi TỰ DO cho mọi người :

Tự do, tự do cho dân giàu cũng như dân nghèo khắp nơi. Tự do, tự do cũng như hơi thở người ơi.

Nghe Quang hát xong, tôi nói đùa với Quang :"Mày phải sửa lại câu cuối của bài hát cho đúng với nguyện vọng hiện nay của tao và của dân tộc Việt Nam đói khổ hiện nay : Tự do, tự do cũng như TÔ PHỞ người ơi. Tao đang thèm một tô phở Ngọc Hiệp ". Tự do quý hơn cơm áo thật. Nhưng cơm áo lại giam cầm được tự do không cho tự do có thể bay bổng đến với mọi người. Quang nói với tôi người mê bài hát này nhất là ông Đinh Thạch Bích. Ngày ấy, Đinh Thạch Bích là một tay hoạt động chính trị sôi nổi và cũng rất thích thanh niên. Ông ta lập ra một tổ chức tên là Thanh Niên Sinh Viên Tự Do. Ông Bích là một luật sư. Ông ăn nói hoạt bát và rất thông thạo tiếng Anh. Đinh Thạch Bích mê bài Tiếng Hát Tự Do đến nỗi ông đã dùng ngay bài này làm bài hát chính thức cho tổ chức thanh niên của ông. Ông rất quý anh chàng Quang Du Ca. Ông là người dịch nhạc của Quang cho ngài Phó Đại Sứ trong một cuộc đụng độ ly kỳ tại nhà một nhân viên tòa Đại Sứ Mỹ, tôi sẽ kể sau.

370

Đường Việt Nam Quang sáng tác bài Đường Việt Nam sau chuyến đi bằng xe đạp từ Đà Lạt xuống Sài Gòn. Đoạn đường từ một nơi nổi tiếng là thanh bình trong một đất nước chiến tranh đến thủ đô Sài Gòn chỉ dài 325 cây số. Năm 1965 đoạn đường này đã có nhiều bất ổn. Việt Cộng đã đắp mô và chận xe đò tại đèo Chuối, đã giật sập cầu La Ngà. Mỹ đã dựng chuyện tầu Madow để ném bom Miền Bắc. Trong chuyến đi xe đạp Đà Lạt – Sài Gòn, khi Quang đi đến cầu La Ngà thì đã được nhiều người khuyên nên trở về để tránh nguy hiểm vì chiến tranh đang gia tăng. Chiến tranh đã để lại nhiều dấu ấn trên đoạn đường này, mặc dù đoạn đường này không phải là đoạn đường tử thần như nhiều con đường khác ở vùng I, cao nguyên vùng II, vùng Bắc Bình Định … Không biết có phải cảm hứng sau chuyến đi bằng xe đạp Đa Lạt – Sài Gòn này mà Quang sáng tác bài Đường Việt Nam hay không?

Bài này có nhiều chất thơ, có nhiều hình ảnh đẹp, diễn tả được cái uy hùng của dân tộc Việt trong mọi cuộc tranh đấu cho đất nước thanh bình và ấm no. Con đường đó còn nhiều gian nan, nhiều khó khăn và còn rất dài :

Đường Việt Nam ôi vô cùng vô tận

Đường ngang tang ngoài biển Nam giữa Trường Sơn

Đường ngày qua đầy vết kinh hoàng

Mỗi xóm làng một dở dang

Đường ruộng ngô đến xóm dừa chưa cùng

Đường ngông cuồng đường trường chinh vẫn ruổi rong

Đường mồ hôi tràn đến lưng đồi

371

Lúa yêu người hẹn cùng bước rong chơi

Ai từng đi trên đường Việt Nam

Bước âm thầm và tim nát tan

Bao lòng tham chất chứa đầy

Những mưu đồ bạo tàn đang ngăn lối

Nhưng càng mưa giông càng vươn tới

Bước chân hùng còn đi rất hăng

Đi dựng lấy huy hoàng giống da vàng này là vua đấu tranh

Đường của ta đưa ta về thanh bình

Đường an lành đường thảnh thơi những ngày vui

Đường Việt Nam mời những bước chân rời

Sát nhau lại vì đường vẫn còn dài

Cuộc Săn Người Vĩ Đại Halloween năm 1990 là Halloween đầu tiên của gia đình tôi trên đất Mỹ. Đêm Halloween năm đó trời mưa, tôi dẫn thằng con trai tám tuổi đi xin kẹo như những trẻ con Mỹ. Chúng tôi tập tễnh hòa nhập vào cuộc sống Mỹ. Chúng tôi cũng đến nhiều nhà gõ cửa và lấy những viên kẹo. Mặc dù hôm đó trời mưa nặng hạt, trời cuối tháng mười tối và lạnh, nhưng có nhiều toán trẻ con đi ngoài đường. Có toán không có người lớn đi theo, có toán có . Những bước đi phấn khởi, tôi thường thấy trong những ngày hội trên đất nước tôi. Tối hôm đó cả gia đình tôi xúm lại để xem thằng con trai tôi đếm những viên kẹo. Halloween năm nay trời rất tốt và hơi lạnh. Trời trong cao và ít mây trắng. Một đêm Halloween hiếm thấy vì

372

đêm Halloween của những năm trước trời thường mưa và u ám. Để sửa soạn cho đêm Halloween chúng tôi thường mua kẹo ngon và nhiều loại kẹo để gia đình còn có thể ăn được số kẹo còn lại sau đêm Halloween. Năm nào tôi cũng mua trái bí lớn để trang hoàng trước sân. Năm nay con gái tôi mua thêm một trái bí, đục khoét thành mặt người và đốt đèn cầy bên trong. Trước sân nhà tôi có hai ngọn đèn. Một ngọn đèn 200 watt chỉ được bật sáng vào những đêm gia đình tôi tiếp đông khách. Ngọn đèn 60 watt thì thắp sáng suốt đêm. Tối Halloween tuy trời còn sáng, chúng tôi đã bật cả hai ngọn đèn để báo hiệu cho trẻ con biết chúng tôi sẵn sàng đón tiếp chúng. Trời sập tối lúc năm giờ ba mươi phút, tôi nhìn ra ngoài đường trông ngóng những con ma xinh tươi đẹp đẽ đến. Ngoài đường vắng, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe chạy qua. Tôi nhìn màn đêm rơi, rơi, rơi mà lòng buồn bâng khuâng. Tôi nói với vợ tôi :"Năm nay ít hơn năm ngoái, giờ này chưa thấy đứa nào tới. Hai bà trong Cul de Sac năm nay cũng không thấy dắt mấy đứa con đi xin kẹo ". Vợ tôi an ủi tôi :" Giờ này tụi trẻ con trong xóm đi tới xóm khác, rồi mới trở về xóm mình ". Tôi ra phòng khách đốt lò sưởi. Bỗng tôi nghe vợ tôi reo :" Chúng nó tới ". Tôi vội vàng chụp giỏ kẹo, phóng ra mở cửa trước khi chúng kịp bấm chuông. Nhìn ba đứa nhỏ trang điểm như ba cô tiên. Chúng thay nhau đưa những bàn tay nhỏ bé lựa kẹo. Một niềm vui tràn ngập tôi. Tôi nhìn theo cho tới lúc chúng đi tới người cha đang đứng chờ ngoài xa. Nửa giờ sau tôi mới được nghe tiếng bấm chuông. Một cô tiên bé nhỏ lựa kẹo xong. Cô chưa kịp bước ra, tôi đưa nhẹ giỏ kẹo về phía cô tiên. Cô tiên nhìn tôi :" More " , tôi gật đầu :" yes ". Cô tiên nhón thêm 2 viên kẹo thật lễ độ và không

373

tham. Sau đó chỉ có hai toán nữa viếng thăm nhà tôi. Chín giờ ba mươi tôi nghĩ rằng không còn đứa nào đến xin kẹo nữa nên tôi nằm dài trên sofa. Bỗng tôi nghe tiếng chuông. Tôi vội chụp rỏ kẹo và ra mở cửa. Tôi chưng hững trước mặt tôi là vợ chồng Dương trọng Cẩn. Tôi nói :" cũng đi xin kẹo à " Cẩn cười vui vẻ :" Ừ Halloween thì đi xin kẹo chứ sao ". Cẩn đến để báo cho tôi biết một tin liên quan tới công ty chuyển tiền Tic Tac. Cẩn bảo rằng FBI đang theo dõi những công ty chuyển tiền để tìm bắt những kẻ rửa tiền. Cẩn bảo tôi nên báo cho Châu biết để Châu đề phòng. Cẩn nói sau 911 mọi vấn đề trở nên khó khăn. Tôi trả lời Cẩn: Công ty của Châu là công ty làm ăn rất đàng hoàng nghiêm chỉnh. Châu không lo mà còn mừng. Vàng thật không sợ lửa, chỉ có rơm mới sợ lửa.

Tôi nhớ một lần tôi và Lê Trọng Huấn đưa Quang ra phi trường SeaTac để tiễn Quang trở về CA. Lê Trọng Huấn bám sát Quang nói chuyện . Hai đứa nói chuyện cho đến tận lúc Quang chìa Boarding Card cho ngườì soát vé. Tôi phải nhắc Huấn :" Mày muốn theo thằng Quang đi CA sao mà chưa chịu trở lại ?". Nhưng nay hoàn cảnh đã đổi thay, tôi nhớ hôm tôi đưa bà cụ mẹ vợ tôi đi Houston. Tôi đứng nhìn bà cụ đi qua cửa khám vũ khí lòng đầy lo âu không biết cụ có lên được phi cơ suông sẻ hay không ? Tôi phải chờ ở chỗ check- in một tiếng rưỡi đồng hồ. Tôi làm đúng theo lời vợ tôi dặn :" Anh phải ở lại đến lúc máy bay cất cánh mới được về. Nhỡ có chuyện gì xẩy ra thì sao ?".

Tôi nghe tiếng đàn guitar, tiếng hát buồn buồn chầm chậm của Quang từ máy computer :

Người bỏ nhau lúc bước vào đời

374

Rồi hằng đêm bơ vơ đưa người đi mãi

Những oán hờn dồn dập đè nén thêm sâu

Lúc thấy mình làm người được có bao lâu

Người rủ nhau, người rủ nhau đi săn loài người

Người rủ nhau đi săn loài người

Kèn gọi quân đêm đêm cho người thức mãi

Mỗi linh hồn dằn vặt cuộc sống lênh đênh

Có bao giờ người sợ loài thú non xanh

Mà giờ đây người thấy lo sợ nhau hơn

………………………………………………………

Người bị săn ngay trên lục địa

Cuộc đuổi xua mênh mông hãi hùng gian trá

Vũ khí nào người dùng để chống can qua

Vũ khí nào người dùng chẳng giết ngay ta

Người rào quanh, người tự giam trong đáy nhà mồ

…………………………………………………………………

Stalin, Hitler, Mao Trạch Đông, Lâm Bưu, Bin Laden, những Lãnh Tụ AlQueda, Kim Chính Nhất, Sharron … là những kẻ đi săn. Những kẻ bị săn chính là chúng ta.

Còn có những kẻ săn linh hồn con người. Đó là những lãnh tụ tôn giáo. Họ săn linh hồn con người từ khi con người mới lọt lòng đến lúc con người lìa trần và cả sau khi linh hồn con người vất vưởng trong hư vô.

Bọn săn người và bọn săn linh hồn người cấu kết với nhau. Chúng biến thế giới này thành nơi đầy sợ hãi.

375

Ruồi Và Kên Kên Ngay trong ngày đưa quan tài Trịnh Công Sơn tới nghĩa trang tại Sài Gòn. Tại quận Cam ở Cali, Quang đã đứng ra tổ chức một buổi tưởng niệm Trịnh Công Sơn. Giữa Quang và Sơn chắc chắn không có mối liên hệ thân tình gắn bó. Như vậy giữa Quang và Sơn phải có một mối thông cảm nào đó của hai nhạc sĩ đồng trang lứa và sống cùng trong thời điểm mà vận nước cực kỳ điêu đứng. Một số không nhỏ ở quận Cam kết tội Trịnh Công Sơn là thân Cộng, thậm chí là đảng viên Cộng Sản. Họ kết tội nhạc Trịnh Công Sơn là nhạc phản chiến, là nhạc ru ngủ, là nhạc của phòng trà với ly cà phê. Theo họ thì nhạc của họ Trịnh đã góp một phần không nhỏ làm sụp đổ miền Nam. Trong một bối cảnh chính trị nhậy cảm như vậy, việc tổ chức tưởng niệm nhạc sĩ họ Trịnh phải là một hành động khá liều lĩnh vì dễ bị chụp nón cối. Một bên Cộng Sản ca tụng đưa Trịnh Công Sơn lên tận trời cao để che dấu tội đã bóp chết và giam cầm văn hóa Việt Nam trong nhà giam Xã Hội Chủ Nghĩa. Còn một bên kết tội Trịnh Công Sơn để làm giảm nhẹ trách nhiệm và tội lỗi của họ trong sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam. Trong buổi tưởng niệm hôm đó, nhạc sĩ Phạm Duy đã khóc vì thương cho thân phận cô đơn của người nghệ sĩ .

Trong buổi gập mặt tại nhà tôi chiều ngày 25 tháng 7 năm 2004, Quang kể lại hai buổi trình diễn mà Quang cho là hai buổi trình diễn politic. Một buổi chiều Quang đang đi bộ trên đường Chi Lăng Phú Nhuận thì một xe quân cảnh chạy sát Quang. Hai anh quân cảnh nhẩy xuống và mời Quang lên xe. Mới đầu Quang hốt hoảng, nhưng sau đó Quang được hai anh quân cảnh trấn an và

376

cho biết là tướng Nguyễn Cao Kỳ mời Quang đến hát tại câu lạc bộ không quân trong phi trường Tân Sơn Nhất. Khi đến câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc, Quang thấy trong hội trường đã đầy người. Ngồi những hàng ghế đầu là ông Kỳ và những thượng nghị sĩ, dân biểu, chính khách thuộc phe ông Kỳ. Những hàng ghế sau là những sĩ quan không quân. Trên sân khấu, nhạc sĩ Phạm Duy đang giới thiệu Miên Đức Thắng, Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương. Quang lò dò đi vào hậu trường sân khấu. Quang vừa vào trong hội trường sân khấu thì Phạm Duy chắp tay nói với Quang :” Tao lậy mày. Mày đừng hát”. Phạm Duy đã biết Quang hát như thế nào vào một buổi hát trước đó cũng tại nơi này, ông hơi ớn nên mới có câu nửa đùa nửa thật đó. Quang đứng xớ rớ trong hội trường để nghe Trịnh Công Sơn, Miên Đức Thắng, Lê Uyên Phương hát. Hơn nửa tiếng sau bỗng hội trường vang lên một nhịp điệu như ta thường nghe thấy trong các cuộc thi đấu thể thao :”Nguyễn Đức Quang, Nguyễn Đức Quang …’’ tiếng la chỉ chấm dứt khi Quang xuất hiện trên sân khấu. Quang hát một loạt mấy bài trong tập Ruồi và Kên Kên. Khi Quang hát bài Ruồi và Kên Kên thì không khí hội trường thật xôi động. Phía hàng trên thì ngồi im lặng hoang mang, nhưng những ghế hàng sau thì thật là sôi nổi. Các sĩ quan trẻ dùng muổng gõ vào ly, vào chén, vào dĩa, vào bàn để cổ vũ sau mỗi bài hát. Gõ và vung tay, gõ và đứng lên ngồi xuống. Trên sân khấu Trịnh Công Sơn vung tay múa chân theo nhịp hát của Quang. Mỗi lần đến điệp khúc thì Trịnh Công Sơn hát hay nói đúng là gào theo, bất kể trúng trật lời của bài hát. Quang nói hôm đó Trịnh Công Sơn thật là nhiệt tình. Lê Uyên Phương thì tái mặt, Miên Đức Thắng thì đã bỏ ra về. Hát xong mấy bài, Quang chưa

377

chào khán giả thì ông Kỳ đứng dậy. Ông Kỳ chỉ thẳng vào Quang và nói với cử tọa :”Anh thanh niên kia nói đất nước là một thùng rác lớn. Đất nước đầy bọn ăn cướp, tham nhũng, nịnh hót, đầy bọn tay sai cho Mỹ, Nga, Tàu, Tây. Nhưng Kỳ này không phải là bọn người đó. Kỳ này là một quân nhân đã từng vào sinh ra tử. Kỳ này không hèn nhát. Kỳ này không tham nhũng. Kỳ này không làm tay sai cho thằng Jack thằng John. Và Kỳ này, Kỳ này …vân vân và vân vân …” Quang nhận xét đó có thể là một đòn vận động của ông Kỳ. Quang có ý kiến riêng rằng biết tổ chức vận động kiểu này phải nói là ông Kỳ khá cao tay. Ông Kỳ có cách giao du với nghệ sĩ đáng để ý hơn các tay lãnh đạo khác. Đó là một trong dăm ba lần hiếm hoi tập Ruồi và Kên Kên được hát đúng chỗ của nó : Một Salon Politic.

Sau đó không lâu ông phó Đại Sứ Mỹ Burger được mời đến nghe Quang hát tại nhà một nhân viên tòa Đại Sứ Mỹ. Hôm đó Quang cũng trình mấy bài hát Quang vừa sáng tác Ruồi và Kên Kên, Cuộc Săn Người Vĩ Đại, Im Lặng Là Đồng Lõa, Xương Sống Ta Đã Oằn Xuống. Quang nhờ anh D T Bích làm thông dịch. Khi Quang hát xong bài Bọn Lái Buôn Ở Khắp Mọi Nơi thì ông Phó Đại Sứ Mỹ đứng dậy và la lớn bằng tiếng Việt :”Anh kia, đứng lại. Miền Nam làm gì có tham nhũng mà anh dám nói là miền Nam là một thùng rác đầy bọn tham nhũng và ăn cắp …’’. Phản ứng bất ngờ của ông Phó Đại Sứ Burger làm Quang bối rối. Ngay lúc đó anh D T Bích nhẩy ra tranh luận với ông Phó Đại Sứ Mỹ. Hai bên cãi nhau bằng tiếng Mỹ. Họ cãi nhau rất găng như hai con gà trọi . Chủ nhà phải lên tiếng làm dịu đi cuộc đấu khẩu … Hai người cùng nghe Quang hát loạt bài Ruồi và Kên Kên đã biểu lộ hai thái độ khác nhau:

378

Thái độ khôn ngoan, biết dựa thế của ông Kỳ và thái độ hống hách thiếu hiểu biết của ông Phó Đại Sứ gây ngạc nhiên không ít cho Quang. Thái độ của ông Phó Đại Sứ Mỹ chỉ rộng lượng hơn ông Quan Thuộc Địa Pháp ngày xưa ở chỗ là ông ta không hô lính bắt nhốt ngay Quang và anh thông dịch vào xà lim … Quang nói: Ra về rồi, hắn vẫn còn ngẩn ngơ vì cái ngớ ngẩn của một nhân viên ngoại giao quyền lực và cao cấp như thế. Trong cuộc đời ca hát, có lẽ chỉ có mình Quang Du Ca được cái may mắn hát với những giới chức cao cấp, các trung tâm quyền lực của hành pháp, lập pháp, tôn giáo …v..v.. Cái kinh khủng của câu chuyện này là ở chỗ những bài hát của Quang luôn có thái độ, luôn bầy tỏ và khiêu khích họ trước mọi bất công, tệ nạn chính trị cũng như xã hội. Nhưng phản ứng của ông Phó Đại Sứ này thì Quang cho là một sự kỳ quái, gây thất vọng cho Quang.

Năm 1969 Quang được mời cầm đầu một ban văn nghệ thanh niên, một ban văn nghệ bỏ túi vỏn vẹn có bẩy người đi trình diễn quanh sáu nước Châu Âu trong thời gian ba tháng. Chuyến đi đó đã cho Quang một bài học thấm thía . Hắn đã tiếp xúc được với nhiều nhân vật rất cao cấp ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Quang kể lúc đến phi trường De Gaulle, trong số ba mươi người ra đón phái đoàn thì chỉ có một người ra đón Quang, còn hai mươi chín người kia bao vây quanh Khánh Ly, Thanh Lan, Phương Nga và Thanh Tâm. Nhưng ngày về thì ngược lại. Quang được dự một buổi tiếp tân khoản đãi duy nhất của Tổng Hội Sinh Viên ở Paris dành cho riêng Quang. Khi ra phi trường để trở về Việt Nam, hàng trăm sinh viên và kiều bào đã chạy theo hành lang vẫt tay chỉ để tiễn chân một người mà họ gọi là Người Thanh Niên Của Việt Nam.

379

Những gì nhìn lại đất nước từ một nơi xa xôi đó, tiếp xúc với những giới chức trong và ngoài xứ sở, niềm tin của Quang bị sói mòn hơn là tăng trưởng. Cho nên trở về Quang đọc lại cuốn sách Lối Thoát Cuối Cùng của Nguyễn Văn Phước tặng Quang lúc chia tay ở Thủ Đức. Quang nghiền ngẫm rồi anh viết liền một mạch xong tập Ruồi Và Kên Kên gồm 11 bài trong có hơn một tháng trời. Quang kết thúc tập Ruồi Và Kên Kên đúng mùa Giáng Sinh năm 1969 với bài Cho Đồng Bào Tôi.

Loạt bài trong tập Ruồi Và Kên Kên là sự phẫn uất tột độ của Quang đối với cuộc chiến và xã hội thối nát. Quang nói cả hai bên, không một nhân nhượng cho phía nào. Như tôi đã nói, mỗi bài hát trong tập này cần đến một bài viết dài để giải bày và phân tích. Với những đề tài sát cạnh hơn tập Trầm Ca, chúng ta có thể nhìn sơ qua để thấy tập hát có những gì : Im Lặng Là Đồng Loã, Người Gắn Lên Tôi, Người Đã Giúp Ta, Cuộc Săn Người Vĩ Đại, Phòng Thí Nghiệm Công Cộng, Bọn Lái Buôn Ở Khắp Mọi Nơi, Hoàng Hôn Của Một Lớp Người, Vụ Án Cuối Cùng, Xương Sống Ta Đã Oằn Xuống, Cho Đồng Bào Tôi … Chỉ đọc qua các tựa đề bài hát, chúng ta thấy hết những điều Quang muốn nói, những đề tài nó đã đập vào đầu óc Quang qua một loạt hình ảnh và tình hình của đất nước lúc bấy giờ.

Qua bài Ruồi Và Kên Kên chẳng hạn, chiến tranh và tệ nạn xã hội, buôn bán chủ nghĩa và buôn bán xác chết đã biến cả hai miền đất nước thành một thùng rác và một nghĩa địa. Tôi nghĩ không có lời tố cáo nào mạnh mẽ hơn:

Chỉ một kẻ cướp khắp xóm cùng làng lo sợ bối rối

Một người lừa dối sẽ khiến mọi người e ngại sớm tối

380

Vậy mà một nước có đến hàng ngàn nhân vật ăn cướp

Lường gạt tình nghĩa bán chức hại người buôn từng xác chết

……..

Một người bợ đỡ đã thấy đời mình ê chề quá lắm

Một đời đầy tớ thấm thía nhọc nhằn trăm ngàn cay đắng

Vậy mà cả nước có đến hằng ngàn tên hề nịnh hót

Nhục hình chồng chất đã mấy chục đời theo người liếm gót

……

Một chủ tịch đó cũng khiến mệt vì thi hành chính sách

Và một tổng thống cũng khiến mọi người trông chờ đỏ mắt

Lạ lùng một xứ có đến chục người lãnh đạo đất nước

Người Nhật, người Mỹ, Pháp, Đức, Đại Hàn, Nga, Tầu, Tiệp Khắc

…….

Chỉ cần một nước ngấp nghé là mình vất vả và nguy khó

Chỉ cần một nước cố vấn là mình khốn khổ trăm thứ

Vậy mà mình có đến những hằng chục nước bạn nâng đỡ

Hàng ngàn lời hứa cứu giúp hòa bình hưng thịnh kinh tế

…..

Một trận loạn đả cũng khiến mọi người trong ngoài lo lắng

381

Một ngày nổ súng đã khiến người sợ đến lòi mắt trắng

Vậy mà một nước có đến triệu người ném vào cuộc chiến

Từng ngày từng bữa sắp hết cuộc đời chưa hề ngưng bắn

Ta hãy nghe lời điệp khúc của bài này, để hiểu rõ vì sao mà Trịnh Công Sơn phẫn nộ gào thét theo Quang bất kể lời ca trúng trật trước các ông tai to mặt lớn ngồi ở dưới. Họ hát bằng tấm lòng yêu nước nồng nàn bất chấp mọi hiểm nguy. Tôi nghĩ từ hôm đó giữa hai người nhạc sĩ trẻ đã nẩy ra mối thông cảm nhau vì họ cùng có tấm lòng nhiệt thành và phẫn nộ trước vận nước tả tơi.

Đó anh, xem đây quê hương tôi một thùng rác lớn

Đó anh, xem đây quê hương tôi một thùng rác lớn

Đó anh, nơi đây đang vây quanh một đàn ruồi xanh

Đàn ruồi xanh, ruồi xanh, ruồi xanh

….

Đó anh, xem đây quê hương tôi một vùng xác chết

Đó anh, xem đây quê hương tôi một vùng xác chết

Đó anh, nơi đây đang vây quanh một bầy kên kên

Bầy kên kên, kên kên, kên kên

Im Lặng Là Đồng Lõa Tôi nghe Quang hát như một lời tâm sự, anh trình bày về thảm trạng đất nước gần như tới tàn cuộc. Nếu không nói ra được, nhắc nhau được thì những điều cao đẹp nhất cho một dân tộc coi như trôi đi luôn vì cái xấu và kẻ xấu đang thắng thế. Quang là một tiên tri cho vận

382

mệnh Việt Nam ? Hơn thế nữa, chúng ta sẽ thấy lời tiên tri rõ ràng hơn nữa trong bài Im Lặng Là Đồng Lõa.

Bài hát này bắt đầu bằng sự so sánh kể từ khi Do Thái lập quốc thì Việt Nam bắt đầu cuộc nội chiến để sau đó lôi kéo khắp nơi nhẩy vào dầy xéo :

Khi Chúa cho con hoang trở về, nhìn thấy quê hương vui tràn trề là Việt Nam, chịu ân oán cho cuộc tranh đua

Bao nước vây chung quanh đòi nợ, bị đóng đinh trên cây thập tự, một dân tộc trả bằng máu hai chục năm qua

….

Khi bỗng dưng giam trong ngục tù, Rồi bỗng dưng mang thân tội đồ, Phải gào lên, người còn trái tim cùng âu lo, Khi bỗng dưng lao đao đọa đầy, Nợ của ai đem ta trả hoài, Người dân mình bị dẫm nát như loài giun thôi

Khi bỗng dưng xô ta vào trận, Rồi bỗng dưng ăn bom chịu đạn, Để lầm than, cùng nỗi chết như rượu lên men, Khi chúng ta tim không hận thù, Rồi bỗng dưng chia đôi mịt mù, Cuộc tương tàn, được trút xuống đốt sạch quê hương

Khi chúng ta quay lưng im hơi, Khi chúng ta không buông thành lời, Bọn mưu toan, bọn gian ác quái vật lên ngôi, Khi chúng ta yên thân phận mình, Khi chúng ta không ai thật tình, Là kéo dài một cuộc sống trăm phần điêu linh.

Rồi Quang đã kêu gọi mọi người hãy đứng lên, hãy nói lên, hãy gào lên, hãy đòi hỏi, hãy tranh đấu. Bởi vì

383

không làm như vậy thì trái với lương tâm, lịch sử sẽ không tha thứ, là đồng lõa với bọn sát nhân, là kéo dài cuộc sống điêu linh. Phần trên, Quang trình bầy lý do tại sao phải lên tiếng. Phần điệp khúc là lời mời, lời kêu gọi vừa tha thiết và khẩn thiết : Hãy lên tiếng tức là hãy đấu tranh để đòi lại cho chúng ta những cái gì đã mất vào tay của bọn kẻ cướp.

….

Giờ lên tiếng nói cho cùng, vì lương tâm chúng ta chưa mòn, vì vẫn lo tương lai nguy nàn, bọn đầu cơ càng thêm lớn. Cuộc phiêu lưu đã bao ưu sầu, và đắng cay thương đau đã nhiều, tội không làm đền một kiếp chưa vừa hay sao

Nào lên tiếng, nói cho cùng, Lặng im lâu sẽ nuôi gian hùng, Để chúng leo lên trên thân mình, Rồi tràn lan, cười vui sướng, Gọi lương tâm khắp nơi thức dậy, Nhìn chúng ta tan hoang rã rời, Lịch sử nào mà tha thứ cho ngày hôm nay

Phải lên tiếng, tiếng oán hờn, Đòi cho ta những cơn gió hiền, Một thoáng ru trong đêm thanh bình, Đòi chồng con, được yên sống, Lừa ta trong chiến tranh thiên thần, Người chết đi hai bên thua trận, Sự im lặng là đồng lõa với bọn sát nhân.

Nào lên tiếng, nói cho cùng, Bị đi theo những tên điên khùng, Đời sống đu trên giây hãi hùng, Bị hàm oan và

384

tai tiếng, Bọn tham lam đã buôn nhân loài, Và sẽ che cho đêm thêm dài, Sự im lặng là đồng lõa với họ, ai ơi.

Tôi không thấy, không nghe một lời buộc tội nào đanh thép, thẳng thắn, hùng hồn và mạnh mẽ và một lời kêu gọi nào tha thiết và cam đảm hơn. Ngay những nhạc sĩ như Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng… cũng không thể nói được một phần. Nhà nước Cộng Sản hiện nay cũng không dám nhắc đến những bài hát này. Như Quang nói : “….Và kỳ lạ ở chỗ, đến bây giờ nếu chúng ta có hát ra, nó cũng như mới viết đâu đó.”

KẾT LUẬN

Phương Oanh, giáo sư âm nhạc : Từ lúc gặp ban Trầm Ca tôi thấy đường lối hoạt động của các bạn hợp với mình, nên "nhảy" vào. Ban Trầm Ca lúc đầu chỉ có năm anh chàng, bây giờ có thêm một giọng nữ nữa là sáu (Nguyễn Đức Quang, Trần Trọng Thảo, Hoàng Kim Châu, Đinh Gia Lập, Hoàng Thái Lĩnh, Nguyễn Quốc Văn và Phương Oanh) . Sau khi Quang và các bạn "di dân" từ Đà Lạt xuống Sài Gòn, lúc đó, thật sự chúng tôi đã đến sinh hoạt thường xuyên với các sinh viên, học sinh và trong môi trường này, tôi thường gặp Khánh Ly với Trịnh Công Sơn. Hai lối trình diễn, hai lối suy nghĩ khác nhau giữa Quang và Sơn, và hai cách xuất hiện trước công chúng khác nhau giữa tôi và Khánh Ly, đã làm sinh viên từ Sài Gòn đến Huế thích thú, say mê. Tình bạn chúng tôi đến bây giờ cũng vẫn như những ngày đầu gặp gỡ. Một lối viết nhạc, nói lên tâm trạng bi quan, về quê hương, cuộc đời, xã hội, ủy mị tìm quên qua ly cà phê, qua ly rượu đắng. Một lối viết nhạc, nói lên cái thao thức của một dân tộc bị chia xẻ, bị người ta

385

điều khiển giống như con tốt trên bàn cờ, dù bị trị, nhưng lời hát vẫn bộc lộ sự can cường, un đúc tinh thần để cùng đứng lên, lo cho tương lai đất nước. Trong lúc nhạc của Sơn được phổ biến rộng rãi tại các phong trà, quán nhạc, thì ngược lại, nhạc của Quang đã được giới sinh viên, học sinh biết tới, qua các trại làm công tác xã hội. Một số lớn nhạc của Quang và Sơn được giới trẻ đón nhận và xử dụng trong các dịp sinh hoạt chung, tạo nên một bầu không khí lành mạnh.

Ban Trầm Ca: Nguyễn Đức Quang không viết nhạc từ bốn bức tường khô ở thành phố. Hầu hết các nhạc của Nguyễn Đức Quang đã được viết ngay trên đường lưu diễn và công tác. Nhạc của Nguyễn Đức Quang không phải là những mây những gió, của quá khứ mà là những lưỡi dao cạo muốn nạo sạch những thảm cảnh của hiện tại và cũng là những ngọn giáo nhọn vạch thẳng hướng vào tương lai. Nhạc của Nguyễn Đức Quang không phải là những lời hô hào suông. Nguyễn Đức Quang không đứng đằng sau viễn vọng kính để nhìn những thảm cảnh. Nguyễn Đức Quang đã tham gia vào những công tác xã hội từ vùng giới tuyến hực lửa chiến tranh đến miền Trung khô cằn xơ xác và đi dài xuống đồng bằng phù sa Cửu Long. Chính Nguyễn Đức Quang đã cầm cuốc đắp nền, lợp mái, đắp đường, đốn cây, đào giếng, khuân đá, làm từng căn nhà vệ sinh cho đồng bào ta … và mồ hôi của Nguyễn Đức Quang đã trộn lẫn với đất cát nóng cháy cùng với cơm hẩm nghèo nàn.

Nguyễn Đạm Giang, nhà báo : Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, một người đã cống hiến tất cả tuổi trẻ của mình để gào thét cho một đất nước Việt Nam kiêu hùng

386

với nền dân chủ, tự do đích thực cho con người. Hơn nữa, bây giờ với tuổi đời còn lại, anh cũng vẫn sẽ làm như vậy và còn hiến dâng nhiều hơn nữa. "… Tự do là niềm khao khát sục sôi. Việt Nam thao thức hoài… Tự do cũng như hơi thở người ơi."

Đấy, con người đích thực của anh là ở chỗ đó. Và cũng vì đó mà anh đã được đón nhận của biết bao nhiêu người cùng và khác thế hệ. Sự thành công của anh trong mỗi lần xuất hiện, có lẽ cũng là một điều hiển nhiên thôi …

Nguyễn Xuân Hoàng, nhà văn : … Vâng, tôi muốn nói nhạc của Nguyễn Đức Quang sẽ thuộc về hiện tại và mặt đất bao lâu mà xã hội chúng ta vẫn còn những bọn lái buôn (ở khắp mọi nơi), còn những em bé ngồi khóc bên vỉa hè, còn những trẻ lang thang ngoài đường phố, không nhà cửa, không người thân; bao lâu vẫn còn quanh đây những ruồi (nhặng) và kên kên; … thì nhạc Nguyễn Đức Quang vẫn còn tác động trên cuộc sống chúng ta… Bắt chước một nhà nghiên cứu phê bình văn học, chúng ta có thể nói được điều này : Nhân vật trung tâm của âm nhạc là người nhạc sĩ. Nhưng sự phát triển của âm nhạc tùy thuộc vào nhiều nhân tố khác. Đó là tài năng và nhân cách. Tài năng là cái trời cho, chỉ có thể bồi đắp chứ không thể đào tạo. Nhưng nhân cách thì ai cũng cần phải có. Đôi khi nhân cách còn quan trọng hơn cả tài năng. Và người ta chỉ thực sự có nhân cách khi biết sống vì những lẽ phải lớn, biết giữ được lòng trong sáng, và biết trung thực trước mỗi thử thách của cuộc sống. Không có nhân cách thì sẽ hoặc ngông nghênh vô lối, hoặc khúm lúm xu thời … Nguyễn Đức Quang, hơn là một nhạc sĩ tài năng, anh là một con người nhân cách. Điều đó càng làm cho âm nhạc anh lớn hơn cái chiều

387

cao nó vốn đã có. Điều đó càng làm cho người ta càng quí Nguyễn đức Quang hơn và yêu âm nhạc của anh nhiều hơn.

Nguyễn Đình Toàn, nhà văn : Nguyễn Đức Quang là một trong những người có công xây dựng và làm lớn phong trào du ca ở miền Nam trước 1975. Du ca có nghĩa là đi đây đi đó để hát. Các buổi trình diễn như thế thường diễn ra tại các sân trường đại học, các giảng đường, sân vận động, các trại hè hay một nơi nào đó có những sinh hoạt cộng đồng và đám đông tụ tập, vào thời ấy có thể là một trại tị nạn, mục đích chính là để “hát cho nhau nghe”, cho đỡ buồn, để thắp lại hy vọng … Chiến tranh vừa xua đuổi vừa bao vây, người ta không còn biết chạy đi đâu cho thoát. Cũng không ai biết đến bao giờ chiến tranh mới chấm dứt. Phong trào du ca được hình thành trong những ngày khốn khổ đó ………….. Một trong những đặc điểm của loại nhạc du ca này là nội dung thường phản ảnh tâm sự của đám đông chứ không phải của cá nhân, giai điệu giản dị, một người xướng lên là những người khác có thể hát theo được ngay, và hầu hết bài nào cũng có vẻ gì đó giống như những bài kinh cầu nguyện………………. Nguyễn Đức Quang có đủ các điều kiện để thành công trong “thế giới du ca” của ông: đàn ngọt, hát hay, có duyên, nắm vững nghệ thuật nói trước đám đông, trình diễn nồng nhiệt……… Có lẽ vì khởi nghiệp như một ca sĩ du ca nên nhạc của Nguyễn Đức Quang có nhiều yếu tố thích hợp để đem trình diễn trước đám đông. Cũng có thể vì sự thành công của ông khiến người ta có ấn tượng như thế (tri’ch trong bài Nguyễn Đức Quang với du ca một thời).

388

Phạm Duy, nhạc sĩ : Giới trẻ còn hưởng ứng tâm ca một cách tích cực, nghĩa là chấp nhận tâm ca rồi tham gia vào việc sáng tạo. Một số anh em thành lập những nhóm ca hát ở nhiều nơi rồi sau này đặt tên là Phong Trào Du Ca. Phong trào này bành trướng trong giới trẻ về cả phương diện địa lý nữa, khi nó ra khỏi Sài Gòn để đi về các trường Đại Học trong nước, từ Miền Nam ra miền Trung lên Cao Nguyên, xuống Hậu Giang. Các Hội Đoàn lớn, các phong trào của người lớn cũng hưởng ứng theo. Phong trào du ca ra đời quy tụ một số nhạc sĩ trẻ, chấp nhận lối soạn những bài ca phi thương mại và nói thẳng vào xã hội Việt Nam, cũng như chấp nhận lối hát chung với nhau mà họ sẽ gọi là hát cộng đồng. Những du ca viên sau này sẽ trở thành những du ca trưởng như Nguyễn đức Quang, Giang Châu, Ngô mạnh Thu … đưa ra những bài ca mới, đi theo đường lối nhận diện lại quê hương của tâm ca. Đó là những bài mang tên Quê Hương Ta Đó, Đến Với Quê Hương, Đi Vào Quê Hương, Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương … Điểm son của Tâm Ca và những bài hát Du Ca là ở chỗ dám nói lên cái bi đát của thời đại nhưng không hề có sự tuyệt vọng. Nguyễn đức Quang khẳng định:

Xin nhận nơi này làm quê hương dẫu đang chiến tranh

Xin nhận nơi này làm quê huơng dẫu chưa thanh bình

……. dẫu đang khó khăn

……. dẫu chưa ấm êm

389

Và nói lên niềm hi vọng: Hi vọng đã vươn lên trong nhọc nhằn trong nước mắt … như làn tên đang rực lên trong màn đêm.

Quê hương đang rách nát, xã hội đang ngả nghiêng, những toán du ca rủ nhau đi khắp mọi nơi để mời mọi người cùng hát bài Về Với Mẹ Cha của Nguyễn đức Quang:

Cùng đi xoay Hoành Sơn

Cùng đi lay Trường Sơn

Cùng đi biến rừng hoang ra lúa thơm

Vượt khơi ra đảo xa

Lướt ngàn nước sông nhà

Ta đắp bồi cho mẹ cha..

Từ Nam Quan, Cà Mâu

Từ non cao rừng sâu

Cùng nhau do non nước xây cầu

Người thanh niên Việt Nam quay về với xóm làng

Tiếng reo vui rộn trong lòng …

Nói cho cùng, tâm ca hay du ca cũng chỉ là những bài tuyên truyền mà thôi, nhưng ở đây, người thanh niên tự nguyện làm công việc vận động quần chúng chứ không phải bị chính phủ hay một tổ chức chính trị nào ép buộc phải làm. Việc làm này cũng chẳng mang lại cho họ một quyền lợi tài chánh to nhỏ nào cả …

Trần Văn Chang, CTKD I : Tôi không nhớ rõ đã gặp Nguyễn Đức Quang lần đầu bên đống lửa nào.

390

Chúng tôi tham dự quá nhiều trại công tác, đi quá nhiều nơi trong thời gian theo học tại VĐHĐL. Tôi chỉ nhớ là chúng tôi đã ngồi bên đống lửa suốt đêm để hát hết trường ca " Con Đường Cái Quan ", " Mẹ Việt Nam " và một số những bài hát mới mà tôi không biết do Quang đã sáng tác. Tôi khâm phục chàng thanh niên tuy gầy như que nhưng dai sức hơn người, suốt ngày vác gỗ, vác tre, trộn hồ, dựng nhà, lợp mái .v.v… để lập làng định cư cho đồng bào tị nạn, tối đến lại ngồi đàn hát suốt đêm. Không bao giờ than mệt, chẳng bao giờ phàn nàn. Ngày cuối cùng, chúng tôi thường hẹn sẽ gập nhau ở trại khác. Sau đó, đứa có thể về trại Suối Thông, đứa đi ra đảo Bình Ba hoặc lúc tôi đang ở Long Xuyên thì Quang có thể đang ở Quảng Trị

Nguyễn Đức Quang Du Ca: Ruồi và Kên Kên là tập nhạc gắn liền với thân phận của con người và đất nước Việt Nam mà cho đến nay tôi vẫn nghĩ nó vẫn thế mà thôi. Đây là tập nhạc rất ít người được nghe. Và kỳ lạ ở chỗ đến bây giờ nếu chúng ta có hát ra, nó cũng như mới viết…….

……Tôi nhớ khi phát khởi phong trào Du Ca mà lo tổ chức sinh hoạt cho các bạn trẻ ở Việt Nam vào năm 1965 , 1967 chúng tôi đã phạm phải một sai lầm rất lớn. Lúc bấy giờ chúng tôi không bao giờ để ý đến kỹ thuật thời đại và những yếu tố thị yếu .Chúng tôi thích bó mình trong nơi lành mạnh sạch sẽ, thành ra chúng tôi ngồi ca hát với nhau, hát đơn giản với một cây đàn và một tâm hồn trong sáng. Chúng tôi không nghĩ làm sao để phổ biến những tác phẩm này. Chính vì lý do đó mà đến khi luồng nhạc kế tiếp và những phản ứng chung quanh tạo ra những anh em trẻ khác thì các anh em này

391

đi nhanh hơn anh em du ca. Phong trào nhạc trẻ, bạn Trịnh công Sơn, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên v.v… họ đều thành công bởi vì họ đều đi qua phương tiện chuyên chở của thời đại là máy cassett là những ca sĩ, những giọng hát, là sân khấu trình diễn. Rút từ những khuyết điểm đó cộng với những kinh nghiệm sau một thời gian đi sinh hoạt với các bạn trẻ thì mới biết rằng những tác phẩm nào qua được CD và Karoke thì lập tức có kết quả. Chúng ta muốn đưa những tác phẩm đến các bạn trẻ có lẽ chúng ta cũng phải nhờ đến các kỹ thuật âm thanh mới và tiếng hát chuyên nghiệp của bạn trẻ chuyên trở dùm để bài hát của mình có thể đi đến được với các bạn trẻ ở mọi nơi…."

Nguyễn Đức Quang Già Cơ: Trên đây tôi chỉ viết 1% về cuộc đời của Quang. Tôi chẳng biết gì về thời thơ ấu của Quang tại miền Bắc. Tôi chẳng biết gì thời học trò của anh tại trung học Bồ Đề và Trần Hưng Đạo Đà Lạt. Tôi chẳng biết gì về những hoạt động của Quang trong phong trào Du Ca. Tôi chẳng biết gì về hiện tại của Quang. Nhưng tôi biết anh mang những khối tình lớn trong tim:

1. Tình quê hương. Quang đã thể hiện mối tình này bằng lời nói, việc làm ngay từ lúc anh còn là một thiếu sinh cho đến ngày nay và có lẽ cho đến lúc hắn nhắm mắt. Quang thể hiện mối tình này với con tim nồng cháy và một trí óc minh mẫn, trong sáng và bất vụ lợi . Điều này rõ ràng, chắc không ai phủ nhận, bài bác được. Ngày nay mọi người ai cũng phải nói như tôi :" Nguyễn đức Quang là người có công với đất nước vì đã sáng lập ra phong trào Du Ca . Anh ta là một người yêu nước".

392

2. Tình gia đình. Trước khi lấy vợ Quang có tình ái lăng nhăng không? chắc chắn có. Lăng nhăng với bao nhiêu cô ? tôi không biết. Nhưng khi Quang làm đám hỏi với Minh Thông thì tôi không thấy và không nghe ai nói anh có tình ái lăng nhăng vụng trộm. Hôm ở nhà Châu văn Chi’nh, Quang đã hát cho chúng tôi nghe bài LY KEM. Theo anh bài LY KEM là bài hát anh sáng tác trong thời gian anh và Nguyễn thi Minh Thông yêu nhau. Quang sáng tác bài này sau lần Quang và Minh Thông ăn kem ở nhà Thủy Tạ trên Hồ Xuân Hương. Minh Thông vật ngã Quang tại trận với tám ly kem liền tù tì. Năm sáu mươi, Quang thổ lộ với chúng tôi lý do anh yêu người con gái đó và rồi nhất định cưới cho bằng được. Những bản nhạc tình Quang vừa mới sáng tác đều mang kỷ niệm về Đà Lạt . Quang đã hát cho Minh Thông nghe trước khi đi trình diễn tại Úc.

3. Tình bạn bè. Quang là một người giản dị. Bạn của Quang là du ca viên nhiều tinh thần phục vụ tha nhân. Bạn của Quang là Hướng Đạo viên nhiều tinh thần giúp ích. Bạn của Quang là sinh viên CTKD nghịch ngơm và trong sáng. Bạn của Quang là nhân viên phòng Hướng Dẫn Sinh Hoạt hiền hòa và chân thật. Quang đối với bạn nghèo cũng chân thật như bạn giầu. Một người thân thiết với Quang nhất có lẽ là nhạc sĩ Phạm Duy. Đối với Quang, Phạm Duy như một người anh. Từ lúc gập Phạm Duy lần đầu tại trại Công Trường Thanh Niên Tự Do cho đến bây giờ hai người vẫn gắn bó với nhau trong công việc phục vụ nghệ thuật. Một hình ảnh rất là cảm động giữa Phạm Duy và Quang mà tôi đọc được trong bản tin của tờ Việt Báo. Trong đêm nhạc thính phòng

393

để kỷ niệm sinh nhật thứ tám mươi tư của nhạc sĩ Phạm Duy. Trong buổi tối hôm đó một số bài Hương Ca và Minh Họa Kiều III của Phạm Duy được trình diển. Ngồi bên cạnh Phạm Duy tối hôm đó là ca sĩ Thái Thanh là giọng ca gắn bó với sự nghiệp âm nhạc của ông. Bên phải ông là nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đi cùng với ông từ thửa Quang mới hai mươi cho đến nay cả hai vẫn tiếp tục đi trong sự nghiệp phục vụ quê hương và dân tộc bằng tài năng âm nhạc. Ngày xưa là Tâm Ca và Trầm Ca. Ngày nay là Hương Ca và Hành Trình Của Một Mối Tình. Mong lắm thay.

Trong bài này phần lớn là tôi trích dẫn lời hoặc ý của người khác nhiều nhất là trên trang Web Du Ca. Tôi xin cám ơn những vị có lời hay ý mà tôi đã trích dẫn trong bài này.

394

QUANG GIÀ CƠ Chính Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt

Quê Hương Mênh Mông,

Giấc Mộng Dang Dở...

Quang Du Ca hát tại nhà Quang Già Cơ

Anh bạn nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, chúng tôi thường gọi là Quang Du Ca, có mộng ước sáng tác một tập nhạc mang tên Quê Hương Mênh Mông gồm 12 bài. Trong số 12 bài đó sẽ có một bài nói về con cá Hồi. Đến nay, Quang Du Ca mới viết được sáu bài : Tôi Có Một Mối

395

Tình, Trên Đồi Arlington, Thèm, Trên Đường Phố Sans Francisco, Nào Ai, Những Căn Nhà Mái Xanh. Còn bài về con cá Hồi anh chưa sáng tác được. Điều đó cũng dễ hiểu. Nhiều lần Quang Du Ca đến thăm Seattle, tôi đều dẫn anh đến những dòng sông Cedar, Green, Duwamish, Issaquah …. Quang Du Ca thường đến Seattle vào mùa hè nên không lần nào anh thấy con cá Hồi trở về quê hương. Tôi đưa anh vào Public Market và chỉ cho anh thấy những con cá Hồi đang nằm trên đống nước đá bào. Những con cá Hồi anh thấy là những con cá Hồi khỏe mạnh, thịt ngon thơm bị con người bắt trước khi về tới quê hương. Quang Du Ca chưa viết được, tôi ấp ủ viết một truyện về con cá Hồi thay anh. Năm này qua năm khác, tất cả năm năm, tôi đi bên bờ sông Cedar, dòng sông quê hương của những con cá Hồi. Dòng sông Cedar trở nên quen thuộc với tôi. Tôi thấy được dòng sông thay đổi bốn mùa, tôi cảm nhận được nỗi vui buồn của dòng sông, tôi nói chuyện được với dòng sông Cedar... Chưa bao giờ, tôi nói chuyện được với những con cá Hồi. Những con cá Hồi đang đem hết sức lực bơi ngược dòng nước chẩy xiết. Chúng không đủ sức lực và thời gian để kiếm ăn thì làm gì còn sức để nói chuyện với tôi. Năm năm tôi không viết được một một vài giòng về con cá Hồi cho đến khi cháu ngoại tôi ra đời. Tôi viết những lời tâm sự với cháu ngoại tôi.

Quang Du Ca yêu cầu tôi gửi cho anh bài viết Con Cá Hồi Cụt Đuôi của tôi. Anh nói với tôi :

- Mày gửi cho tao bài Con Cá Hồi Cụt Đuôi của mày. Tao sẽ gắn đuôi vào con cá hồi của mày.

396

- Tao sợ rằng bài viết của tao dở quá không đủ gây hứng cho mày sáng tác

- Cứ gửi ngay cho tao. Tao còn nợ Seattle nhiều lắm. Bạn bè giúp nhau.

- Tao sẽ gởi cho mày. Tao có đề nghị với mày. Tao đang viết một bài Tôi Có Một Ước Mơ. Tao nảy ra ý nghĩ cho tập nhạc Quê Hương Mênh Mông của mày. Phạm Duy kết thúc trường ca Mẹ Việt Nam bằng ca khúc Việt Nam Việt Nam. Mày mở đầu Quê Hương Mênh Mông bằng ca khúc Tôi Có Một Mối Tình, tao đề nghị mày kết thúc Quê Hương Mênh Mông bằng ca khúc Tôi Có Một Ước Mơ.

- Đề nghị cũng hay. Bây giờ mày gửi cho tao bài Con Cá Hồi Cụt Đuôi. Khi nào viết xong Tôi Có Một Ước Mơ thì gửi cho tao.

Hai tuần sau khi tôi gửi cho Quang Du Ca bài Con Cá Hồi Cụt Đuôi, tôi email cho Quang Du Ca để hỏi xem anh đã viết đươc chữ nào cho ca khúc về con cá hồi chưa. Quang Du Ca trả lời :

Fom: [email protected]

Sent: Mon 1/31/11 8:49 PM

To: [email protected]

Ông ơi, cá hồi chắc còn lâu mới viết được. Từ giờ tới tháng 4 là hết đ8ường làm ăn, khó ngối sáng tác vì bận rộn liên miên với các buổi sinh hoạt, tri82nh diễn ở dưới này.

397

Chị khó ăn tết với cá hồi xông khói đi. Cho thăm bà Diệu Thanh. Vẫn cứ ôm ấp ước mơ được lên đó chơi vào khoảng tháng 3.. Chưa dám chắc..

Nhận được email trả lời của Quang Du Ca, tôi rất vui mừng. Vui mừng vì tinh thần và sức khỏe của Quang Du Ca đã được phục hồi sau vụ mổ tim hai năm trước. Mấy tháng sau ngày mổ tim hai năm trước, Quang Du Ca đến Seattle ở nhà tôi bốn ngày, sau đó đi qua Vancouver BC ba ngày. Đi hộ tống anh là anh Ngân, người bạn nhà báo cuả Quang Du Ca. Buổi tối họp mặt bạn bè tại nhà tôi, Quang Du Ca từ chối hát vì lý do sức khỏe. Những tháng sau đó, anh cho tôi biết sức khỏe của anh rất khả quan. Anh thử làm một vài buổi trình diễn tại quận Cam, rồi sau đó Washington DC, rồi Hòa Lan, Paris … Tết năm nay theo email, anh rất bận rộn cho nhiều buổi sinh hoạt và trình diễn. Trong đó có hai buổi sinh hoạt và trình diễn tôi biết : Hội Ngô Thụ Nhân Nam Bắc Cali ngày 12 tháng 2 năm 2011 và buổi trình diễn Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ - Du ca Nguyễn Đức Quang và thân hữu ngày 26 tháng 2 tại San Jose. Quang Du Ca có sức khỏe, anh sẽ sáng tác và hoàn thành Quê Hương Mênh Mông. Vui mừng thứ hai là sau những buổi trình diễn dịp tết Nguyên Đán, anh sẽ lên Seattle. Có khi tôi được nghe những ca khúc mới của anh, biết đâu có thể có cả ca khúc về con cá hồi và tôi có một ước mơ. Nhưng chắc chắn, tôi sẽ yêu cầu anh hát bài Những Căn Nhà Mái Xanh. Bài này tôi chưa được nghe anh hát, năm bài khác trong tập Quê Hương Mênh Mông tôi đã được nghe anh hát tại nhà tôi. Bài Những Căn Nhà Mái Xanh anh sáng tác sau lần thăm Seattle. Seattle là thành phố anh yêu, lý do Seattle rất giống Đà Lạt. Đà Lạt là quê hương anh thân yêu và gần gủi hơn quê hương Sơn Tây nơi anh sinh ra đời. Có một lần anh lên thăm Seattle bẩy ngày. Anh đi một mình,

398

không có ai đi kèm anh như các lần khác. Tôi đưa anh đi thăm những dòng sông quê hương của cá hồi nhưng vắng bóng cá hồi vì lúc đó không phải mùa cá hồi trở về nơi sinh đẻ. Tôi dẫn Quang Du Ca vào chợ Cầu Ông Lãnh (Public Market) để xem những con cá Hồi nằm trên đống nước đá bào. Tôi đưa anh đi thưởng ngoạn hồ Xuân Hương (Lake Washington). Tôi đưa anh đi đến thác Datanla (thác Snoqualmie). Thác này mùa hè là thác Datanla, mùa đông trở thành thác Pongour. Tôi đưa anh đi lên đỉnh núi Lâm Viên (mount Rainier). Trong chuyến đi lên đỉnh Lâm Viên không hiểu vì lý do gì tôi lạc đường. Tôi lái xe lên đỉnh Lâm Viên ít nhất 10 lần trước đó. Chưa lần nào tôi bị lạc. Mỗi lần chỉ mất khoảng hai tiếng rưỡi lái xe từ nhà lên đỉnh Paradise. Lần này chúng tôi mất đến bốn tiếng rưỡi đồng hồ mới lên tới đỉnh Paradise. Xui nhưng lại hên. Trong hai tiếng đi lạc, chúng tôi được đi qua những làng quê thật đẹp, được ngồi ăn uống tại quán ăn ven đường. Chúng tôi dạo chơi trên đỉnh núi hơn hai tiếng đồng hồ. Cảnh đẹp trên đỉnh Lâm Viên Seattle gợi cảm hứng cho Quang Du Ca sáng tác ca khúc Những Mái Nhà Màu Xanh.

Vui mừng không được bao lâu. Ngày 11 tháng 2 năm 2011, tôi được tin Quang Du Ca được đưa khẩn cấp vào bệnh viện cấp cứu vì xuất huyết mạch máu não. Những tin tức của những ngày kế tiếp thật bi quan. Tất cả những tin tức về anh đều do chị Cúc cung cấp cho diễn đàn Thụ Nhân. Chồng chị Cúc là anh Bích, bạn học cùng lớp khóa I CTKD, Viện Đại Học Đà Lạt với chúng tôi. Chị Cúc và vợ Quang Du Ca Minh Thông thân nhau như hai chị em ruột thịt.

Sau đây là những email của chị Cúc

399

From: [email protected] on behalf of Bich/Cuc Pham ([email protected])

Sent: Tue 2/15/11 5:54 PM

Dear ACE,

Anh quang duoc chuyen qua isolation room vi bi nhiem trung tham vieng bi gioi han toi da. khi vao phai co ao choang va mask, rua tay ky voi soap truoc va sau khi vao tham(MUST. All visitors are being ask to being limited for their own protection). Xin cac ACE tam ngung chuyen tham vieng anh Quang, se cap nhat tin tuc sau

CUC

From:

[email protected] on behalf of Bich/Cuc Pham ([email protected])

Sent: Thu 2/17/11 2:30 PM

Dear ACE, Anh Quang duoc chuyen qua ICU tro lai tu ngay hom qua, anh bi nhiem trung va bay gio them sung phoi. tuy nhien anh " co ve" tinh hon, just in and out. tu ngay hom qua phai gan them may phu tho.please! tiep tuc cau nguyen cho anh Quang, Tham vieng van gioi han. CUC

400

From: [email protected] on behalf of Bich/Cuc Pham ([email protected])

Sent: Sun 2/20/11 3:15 PM

Dear ACE,

Hom nay tinh trang anh Quang stable van o trong ICU (ngay thu 9), tinh nhieu lan va nhan ra nguoi nha nhung anh van chua noi duoc. Bac si dang dieu tri su nhiem trung sau do den sung phoi. Control hai van de nay truoc thi ho moi tinh toi chuyen bi stroke . Tham vieng van gioi han

CUC

PS: neu cac ACE chua ngan tin A Quang , toi se tiep tuc update

Ngày 20 tháng 2 năm 2011 có một sự ngộ nhận sai sót buồn cười của nghành truyền thông. Sự lầm lẫn cũng phản ảnh sự mến mộ Quang Du Ca của mọi người. Đó là tâm lý muốn là cơ quan hay người biết tin sớm nhất về anh. Cáo phó của cụ thân sinh nhà văn Nguyễn Đức Nam là cụ Nguyễn Đức Quang từ trần khiến đài phát thanh tưởng lầm là Quang Du Ca nên đã phổ biến tin nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã từ trần và đọc tiểu sử của anh. Cũng thật là cảm động khi nghe được tin này, anh chị cựu sinh học sinh Bưởi và Chu Văn An đang hội họp. Họ ngưng buổi họp và cùng nhau hát bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ để tưởng nhớ và vinh danh anh. Họ đã hát bài này ba lần.

401

From: [email protected] on behalf of Bich/Cuc Pham ([email protected])

Sent: Sun 2/20/11 8:47 PM

Dear ACE,

Chieu nay vao khoang gan 4 gio, tren duong di den nha nguoi chau cua anh Quang de doc kinh Cau An cho anh Quang thi nghe duoc tren dai Radio little Saigon loan bao anh Quang qua doi. Toi thiet la buon cuoi, khong biet ho lay tin tuc o dau ??? khong kiem diem ma cu loan tin nhu vay that la khong co trach nhiem.!! tin tuc update and Quang la tin moi nhat , ca ACE yen chi..anh Quang van con "Song" nhan rang. Tu chieu den gio toi nhan duoc nhieu phone cua ban be. hoi tham xin duoc tra loi chung, neu co gi thay doi trong tinh trang suc khoe cua A Q toi se thong bao ngay , va khi vao tham duoc cung se thong bao ngay. Tanh anh Quang rat thich ban be, nen khi duoc bac si cho phep

Cac ACE vao tham anh Quang se vui lam.

Con mot thang nua la gio M Thong... Nho Thong lam !!!

CUC...

Email sau đây là tin thật buồn cho cựu sinh viên khóa I CTKD chúng tôi.

From: Bich/Cuc Pham <[email protected]> To:Thunhan1-2 Sent: Fri, February 25, 2011 1:34:29 PM Subject: Update anh Quang va them tin buon khac

Dear ACE,

Hom nay co hai chuyen bao tin cho cac ACE biet.

402

Chuyen thu Nhat:

Chi Do thi Tien vo anh Nguyen dinh Cuong, cac anh chi o Nam Cali biet anh chi nhieu hon. Chi Tien co ghi danh hoc K1 nhung sau do chuyen qua Van khoa thi phai, chi la cuu Bui thi Xuan Dalat. Chi Tien vua mat khoang 1 tieng truoc day. Chi vua ve huu thang 9 vua qua. den thang 10 thi phat giac cancer bao tu va dang o thoi ky cuoi. Chi mat tai nha.

Chuyen thu 2:

Toi vua o trong benh vien voi anh Quang, tinh trang anh Quang khong co gi thay doi, hom nay se lam MRI them nua, ong tho phu da lay ra tu mui va mieng , nhung ho cat mot lo nho o co hong de dat ong vao, anh tu tho duoc nhung co luc may detected duoc khong tho yeu, thi may se kick in. Bac si cho biet, ho cung khong biet luc nao anh se tinh ( hom nay la dung 2 tuan anh nam me man nhu vay) tham vieng van off

Toi that lo lam.....

Cuc

Hai điều tôi lo sợ nhất xẩy đến cho Quang Du Ca không phải là sự chết. Lo sợ anh bị coma và vẫn sống. Xấu hơn nữa là tỉnh mà nằm liệt không nói như hiện nay. Người nhạc sĩ phải hát, phải đàn, đôi khi phải nhẩy theo điệu nhạc thì ca khúc mới trào ra. Hàng ngày tôi vẫn cầu nguyện cho Quang Du Ca sớm được bình phục và hát ca : Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát xin cho bạn con là Nguyễn Đức Quang Du Ca được tai qua nạn khỏi, sức khỏe mau chóng bình phục.

Tôi là con cá hồi không đuôi hay có đuôi bây giờ không cần thiết nữa. Không đuôi thì bơi quanh quẩn lạc lõng trong đại dương và chờ ngày hóa sinh. Có đuôi thì bơi đến bến bờ mình muốn, nhưng không biết có còn đủ sức

403

lực và ý chí để bơi tới đích hay không. Giờ đây, chỉ mong Quang Du Ca không rơi vài hai tình trạng tôi lo sợ. Mong anh phục hồi sức khỏe. Phục hồi như lần mổ tim hai năm trước thì tốt. Phục hồi không đàn không hát và tự săn sóc được cho mình thì cũng được. Sống để gập bạn bè và nhớ lại “ thời thư sinh tóc dài làm thơ và yêu nước không ai sợ hãi, nghi ngại (Nào Ai – Quê Hương Mênh Mông). “ Sống để nghe bạn bè hay những người khác hát những ca khúc mình sáng tác cho chính mình nghe cũng là một hạnh phúc. Nhớ để ngậm ngùi, nuối tiếc và hãnh diện. Sống để nhìn đàn cháu đang lớn và không còn lo lắng sợ hãi băn khoăn như ngày xưa khi nhìn lớp đàn anh, nhìn mình và nhìn lớp đàn em và lo lắng :” Anh em tôi hơn trăm năm nằm nếm gai uống chai mật đắng, chê bước anh nhưng trông đến em lòng đầy lo lắng (Anh Em Tôi, Nguyễn Đức Quang Du Ca) . “

Đàn cháu chắt của anh sẽ là những con cá hồi có đuôi. Chúng nhìn vào sự nghiệp của anh, chúng sẽ là những con cá hồi đầy đủ đuôi. Những con cá hồi cháu chắt anh sẽ biết tìm về nẻo đường để đến nơi tự do hạnh phúc và cội nguồn. Quê Hương của chúng sẽ là một Quê Hương Việt Nam Mênh Mông bắt nguồn từ mảnh đất hình chữ S trải dài ra Mỹ Châu, Úc Châu, Âu Châu và vươn tới cả Phi Châu như anh mong ước. Sống thanh thản bình an và hưởng những nhân mà anh đã gieo trong thời gian anh sống trên trần thế bằng thiên tài trời cho anh, bằng đam mê và nhiệt huyết anh hiến dâng cho đất nước, cho tuổi trẻ và cho âm nhạc. Cháu chắt anh được hưởng những quả tốt do anh gieo. Sống Bình An Thanh Thản Quang Du Ca : Hy Vọng Đã Vươn Lên. Ánh sáng đã ở cuối đường hầm cho cháu chắt chúng ta và dân tộc Việt Nam.

Vừa nhận được email của chị Cúc. Lời cầu nguyện của chị Cúc như một tiếng gào tuyệt vọng cầu xin cho người bạn thân thương của mình, khiến tim tôi thắt lại

404

From: [email protected] on behalf of Bich/Cuc Pham ([email protected])

Sent: Fri 3/04/11 3:48 PM

Hom nay la dung 3 tuan, anh Quang nga benh. Tinh trang khong co gi tien trien, anh van o trong ICU, may hom nay anh hoan toan nho may tho. Bac si da khoan mot lo nho tren dau de rut mau ra. Toi co hoi chuyen bac si thi ho noi khong the lam bat cu surgery gi cho anh bay gio duoc het, chi cho co the tu heal ma thoi, con chung nao tinh thi ho cung khong biet , khi nao tinh trang anh on dinh ho se chuyen anh qua cho khac goi la "Acute Hosp" chuyen cham soc cho nhung benh nhan giong nhu anh. Tham vieng van OFF

CUC

Nam mo Cuu Kho Cuu Nan Dai Tu Dai Bi Quan The Am Bo Tat Xin ngai cuu ban con

Nhận được email sau đây của chị Cúc, nước mắt tôi trào ra. Tôi nghĩ chỉ có phép lạ mới cứu nổi Quang Du Ca. Tôi cầu nguyện phép lạ xẩy ra với Quang Du Ca : Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát xin phù hộ cho bạn con là Nguyễn Đức Quang Du Ca mau chóng hồi phục sức khỏe

From: [email protected] on behalf of Bich/Cuc Pham ([email protected])

Sent: Tue 3/08/11 1:12 PM

405

Sáng nay vào thăm a.Quang mang theo lá Bồ đề của Phi gởi xuống và tất cả lời cầu nguyện chân thành của các bạn anh, tôi cầm tay anh nói những lời mà tôi biết các ace muốn nói với anh, không biết anh có nghe được không ?? tình trạng vẫn không có gì tiến triển mà hình như chỉ tệ hơn, Nhìn anh nằm trên giường mà trong lòng tôi dâng lên một nỗi nghẹn ngào xót xa. Tôi tự thầm cầu nguyện trong đầu “let he go with destiny”. Tôi thật sự mất đi sự hy vong là anh sẽ bình phục.

Theo tôi biết anh Quang có ký “ADVANCE DIRECTIVES” do đó cũng giúp cho các cháu dễ dàng khi quyết định rút ống thở, hiện nay họ vẫn giữ anh trong ICU vì vẫn còn rút máu từ trong óc, cho đến khi bớt máu thi sẽ chuyền qua chỗ khác, bác sĩ cũng không còn hy vọng là anh sẽ tốt hơn. Mấy hôm nay tôi bắt đầu tụng kinh “Lương hoàng Sám” kinh này đối với đệ tử con Phật thì kinh rất mầu nhiệm giúp cho những người bệnh được ra đi nhẹ nhàng. Xin các ace tiếp tụp cầu nguyện cho anh.

Nam mô Cứu Khổ Cứu nạn Đại Từ Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát xin ngài rải nước Cam Lồ giải nghiệp cho bạn con

Năm ngày sau, Email của anh Nguyễn Văn Thái làm chúng tôi rúng động đến thót tim.

From: [email protected] on behalf of Yasushi Takasaki ([email protected])

Sent: Sun 3/13/11 8:14 AM

Gia đình của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang vừa quyết định rút ống trợ thở

406

Theo email của nhà văn Trần Việt Hải từ California gởi ra cho biết gia đình của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang vừa quyết định rút ống trợ thở vì vậy sẽ giảm thời gian chịu đựng của anh. Các chi tiết về cáo phó và tang lễ sẽ được NguoiVietBoston cập nhật nhanh chóng.

Theo tin tức sáng nay của các bạn thân với gia đình nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, tình trạng sức khỏe của người anh cả Phong Trào Du Ca cho đến hôm nay 12 tháng Ba, không cải thiện mà càng trầm trọng hơn theo thời gian mê man. Những người thân đang đứng trước một hoàn cảnh không thể làm gì khác hơn là cầu nguyện cho anh được bình an và nếu ra đi sẽ ra đi trong thanh thản. Theo các bác sĩ cho biết, tình trạng của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang không còn nhiều hy vọng.

NguoiVietBoston

Chúng tôi nhận được nhiều email chia buồn trên diễn

đàn Thụ Nhân

From: [email protected] on behalf of Xuyen Chau ([email protected])

Sent: Sun 3/13/11 8:42 AM

Ca Nha` than men ,

Chung ta hay cung nhau cau nguyen cho anh Quang ra di trong binh an , rest in peace .

Rat thuong men anh N D Quang .

Xc

407

From: [email protected] on behalf of [email protected]

Sent: Sun 3/13/11 9:38 AM

Huynh Thi Tam va cac chau xin cau nguyen cho anh NGUYEN DUC QUANG Ra di duoc BINH AN....Thong dang cho anh. Xin thanh that chia buon voi gia dinh va nhung nguoi than.

Tôi chờ chị Cúc lên tiếng. Đối với tôi, chị Cúc mới là phát ngôn viên chính thức, chính xác và nhanh chóng về tình trạng của Quang Du Ca. Chúng tôi thở nhẹ khi nhận được email của chị Cúc. Chúng tôi tiếp tục cầu nguyện một phép lạ đến với Quang Du Ca.

From: [email protected] on behalf of Bich/Cuc Pham ([email protected])

Sent: Sun 3/13/11 4:58 PM

Dear ACE,

Anh Quang hien van con benh vien , tinh trang cung khong co gi tien trien, sang nay toi co noi chuyen voi cac chau luc 10 gio sang, Cac ACE yen tam co tin tuc gi toi se cho hay lien."Cac chau rat cam on cac bac da quan tam nhung cac chau can danh thi gio san soc cho bo nen da khong tra loi phone" .

Cuc

Sáng sớm Chủ Nhật 27 tháng 3 năm 2011, những dòng chữ trên email của chị Cúc khiến chúng tôi buồn tê tái.

408

Thunhan1-2] Vinh biet Quang

From: [email protected] on behalf of Bich/Cuc Pham ([email protected])

Sent: Sun 3/27/11 7:06 AM

Thôi thì, thì thôi anh đi

Lời giã biệt buồn như mùa Đông cuối,

Cầm tay anh gầy guộc.,

Hơi ấm này

Còn sót lại bao lâu?

Bản nhạc tình

Anh dang dở viết

Dòng nhạc buồn..

Như cánh nhạn đơn côi….

Vĩnh biệt anh,

Thì thầm lời nói cuối

Thôi thì..

Thì thôi ...Quang đi,

ANH QUANG DA VINH BIET CHUNG TA LUC 4:00AM TODAY

CUC

Lời thơ của chị Cúc như những giọt nước mắt rơi từng giọt, từng giọt thật buồn. Tôi nhắm mắt và nước mắt trào ra. Quang Du Ca đi quá sớm – Gone Too Soon –

Anh :

Một Ngôi Sao Sáng

409

Một Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước

Một Nhạc Sĩ Du Ca

Một Thụ Nhân Viện Đại Học Đà Lạt

Một Huynh Trưởng Hướng Đạo

Một Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

Anh Mang Theo Anh Một Quê Hương Việt

Nam Mênh Mông.

Vĩnh Biệt Quang Du Ca.

Đỗ Quý Toàn

NĐQ,Việt Nam quê hương ngạo nghễ 160

Cao Hoàng

Cây đàn trong tù 166

Nguyễn Hữu Nghĩa

Nghĩ về anh, NĐQ 187

Em đã đến 194

Trần Văn Lương

Vĩnh biệt anh 195

Lê Đình Thông

Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang 196

Phạm Phú Minh

Ca khúc NĐQ, nhạc sĩ NĐQ 202

Hoàng Khởi Phong

Tâm thức dân tộc và phong trào

du ca 1966-1975 210

Tưởng nhớ NĐQ 236

Bảo Trân

Vĩnh biệt anh 243

Phan Thạnh

Còn một chút gì... 244

Hoàng Kim Châu

Thơ cho Quang 252

Tình tôi con dốc nhỏ 254

Đỗ Thị Phương Oanh

Vĩnh biệt Quang 257

Trần Khánh Tuyết

Hy vọng vươn lên 260

Lê Trọng Huấn

Tình cờ một buổi chiều 266

Bùi Ngọc Nga

Bước chân tuổi trẻ 272

Nguyễn Tâm Trực

Không thể nào quên... 277

Lisa Cúc

Vĩnh biệt Quang 285

Nguyễn Dy Loan

Lời nói cuối 287

Quang Già Cơ

Nhớ về NĐQ Du Ca 288

Quê hương mênh mông 394