Upload
independent
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án:
Kể từ sau cuộc chiến tranh Thế giới lần thứ 2,
Du lịch trên phạm vi toàn cầu đã phát triển nhanh
chóng và trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến,
ngành Du lịch thế giới có tốc độ tăng trưởng cao hơn
so với nhiều ngành kinh tế khác. Du lịch được coi là
ngành kinh tế quan trọng giúp các nước đang phát
triển đẩy nhanh mục tiêu phát triển kinh tế, xóa đói
giảm nghèo và cải thiện đời sống cho người dân. Du
lịch góp phần tạo ra hàng triệu cơ hội việc làm trực
tiếp hay gián tiếp đối với các ngành có liên quan
khác như vận tải, tài chính, nông nghiệp... Trong
thời đại toàn cầu hóa, Du lịch đang trở thành nhịp
cầu kết nối, giải quyết những bất đồng về ngôn ngữ,
văn hóa và tôn giáo của các dân tộc trên toàn thế
giới.
Tại Việt Nam, Du lịch đã được Đảng và Chính phủ
xác định là ngành kinh tế mũi nhọn. Du lịch Việt Nam
đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nhiều
năm qua. Năm 2001, Việt Nam mới thu hút được khoảng
2,3 triệu lượt khách quốc tế, thì đến năm 2008, con
7
số này đã đạt 4,25 triệu lượt khách. Việt Nam hiện
được xếp hạng thứ 8 trong 10 nước dẫn đầu về tốc độ
tăng trưởng du lịch. Dự kiến năm 2010, du lịch Việt
Nam đón khoảng 4,5 – 4,6 triệu lượt khách du lịch
quốc tế, phục vụ 28 triệu lượt khách du lịch nội
địa, thu nhập du lịch đạt khoảng 80 ngàn tỷ đồng.
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, mang nội
dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành liên vùng
và xã hội hoá cao. Chất lượng của hoạt động du lịch
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tiềm năng tài nguyên
du lịch, chất lượng của hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật ngành Du lịch và kết cấu hạ tầng, chính sách
phát triển ngành Du lịch của Nhà nước, tình hình an
ninh chính trị của đất nước, mức độ mở cửa và hội
nhập của nền kinh tế. Ngoài ra, với đặc thù của hoạt
động du lịch là khách du lịch muốn thụ hưởng các sản
phẩm và dịch vụ du lịch thì phải thực hiện chuyến đi
đến những điểm cung cấp dịch vụ; quá trình sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm các dịch vụ du lịch diễn ra
đồng thời, thông qua đội ngũ lao động phục vụ trực
tiếp, nên chất lượng của nguồn nhân lực ảnh hưởng
trực tiếp, quyết định đến chất lượng của sản phẩm và
dịch vụ du lịch. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
8
ngành Du lịch là vấn đề mang tính sống còn đối với
sự phát triển du lịch của mỗi quốc gia, vùng miền.
Phát triển du lịch nhanh và bền vững, thu hẹp
dần khoảng cách với những quốc gia có ngành Du lịch
phát triển trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu và
toàn diện là yêu cầu cấp bách đặt ra cho ngành Du
lịch Việt Nam. Điều này chỉ có thể thực hiện được
nếu chúng ta có đội ngũ lao động chất lượng cao, số
lượng đủ, cơ cấu hợp lý gồm đông đảo những nhà quản
lý, những nhân viên du lịch lành nghề, những nhà
khoa học công nghệ du lịch tài năng, giỏi chuyên môn
nghiệp vụ, tháo vát và có trách nhiệm cao. Phát
triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa
lâu dài quyết định tương lai phát triển của ngành Du
lịch.
Khu vực duyên hải Nam Trung Bộ (DHNTB) và Tây
Nguyên bao gồm 5 tỉnh duyên hải (Bình Định, Phú Yên
Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận) và 5 tỉnh Tây
Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm
Đồng). Khu vực này có một vị trí hết sức quan trọng
trong chiến lược phát triển du lịch của Việt Nam,
không chỉ có tiềm năng tài nguyên rất phong phú, đa
dạng, có giá trị, có thể phát triển các loại hình và
9
sản phẩm du lịch đa dạng chất lượng cao, đáp ứng
được nhu cầu của cả khách du lịch trong nước và quốc
tế; khu vực này còn có vị trí địa, chính trị hết sức
thuận lợi để kết nối, phát triển du lịch với các
vùng miền trong cả nước và với các nước trong khu
vực Đông Nam Á.
Trong những năm qua, ngành Du lịch các tỉnh khu
vực DHNTB và Tây Nguyên có sự phát triển khởi sắc.
Lượng khách du lịch đến khu vực tăng nhanh, năm sau
cao hơn năm trước, đến năm 2009 lượng khách du lịch
của khu vực chiếm 6,7% tổng lượng khách du lịch quốc
tế và 12% tổng lượng khách du lịch nội địa của cả
nước. Thu nhập du lịch của khu vực đạt gần 7.500 tỷ
đồng với tốc độ tăng trưởng về thu nhập của giai
đoạn 2001 – 2009 đạt bình quân 26,5%/ năm. Du lịch
phát triển đã góp phần thay đổi diện mạo của khu
vực, hình thành nên nhiều khu du lịch nghỉ dưỡng cao
cấp, tạo nhiều công ăn việc làm cho lao động địa
phương; nhiều địa danh du lịch như Nha Trang, Phan
Thiết, Đà Lạt đã trở thành những điểm du lịch nổi
tiếng không chỉ trong nước mà cả quốc tế và thu hút
ngày càng nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch đã
tạo ra một trong những nguồn thu ngoại tệ lớn và
10
đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách, nhiều tỉnh
trong khu vực đã xác định Du lịch là ngành kinh tế
số 1 của địa phương mình và chú trọng đầu tư để phát
triển du lịch.
Bên cạnh những thành công, ngành Du lịch các
tỉnh khu vực DHNTB & Tây Nguyên cũng còn có khá
nhiều bất cập như hạ tầng du lịch yếu kém, hạn chế
khả năng tiếp cận của khách du lịch đến các khu điểm
du lịch; sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chất lượng
của dịch vụ chưa cao, giá cả chưa tương xứng với
chất lượng; tài nguyên du lịch bị khai thác một cách
lãng phí, môi trường du lịch nhiều nơi bị xuống cấp
nghiêm trọng; du lịch phát triển thiên về chiều rộng
theo hướng khai thác cạn kiệt tài nguyên và nguồn
nhân lực giá rẻ, làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền
vững của ngành Du lịch. Vấn đề này có nhiều nguyên
nhân nhưng một trong những nguyên nhân gây tác động
mạnh nhất chính là chất lượng của nguồn nhân lực
ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, thể hiện ở chỗ
nguồn nhân lực ngành Du lịch vừa yếu vừa thiếu ở
những khâu then chốt, chưa đáp ứng yêu cầu công
việc; tỷ lệ lao động được đào tạo còn chiếm tỷ lệ
11
khiêm tốn trong tổng số lao động ngành Du lịch,
trong số lao động được đào tạo thì số lao động được
đào tạo đúng chuyên môn du lịch còn thấp, lao động
sử dụng thành thạo ngoại ngữ còn ít; kỹ năng làm
việc và tính chuyên nghiệp của đội ngũ lao động chưa
cao.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Du
lịch của các tỉnh khu vực duyên hải Nam Trung Bộ và
Tây Nguyên đưa ngành Du lịch phát triển tương xứng
với tiềm năng và lợi thế so sánh, cần thiết phải có
nghiên cứu toàn diện để từ đó đề ra những giải pháp
đồng bộ phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch.
Từ những đánh giá, nhìn nhận như trên, nhằm tăng
cường hiệu quả cho việc hoạch định chính sách và xây
dựng phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch đến năm
2020 cho các tỉnh khu vực duyên hải Nam Trung Bộ và
Tây Nguyên, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch khu vực duyên hải Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên” để thực hiện Luận án chuyên ngành Quản lý
hành chính công, với mong muốn góp phần nhỏ bé vào
việc giải quyết bức xúc về cả lý luận và thực tiễn
cho công tác phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
nói chung và công tác phát triển nguồn nhân lực
12
ngành Du lịch các tỉnh khu vực duyên hải Nam Trung
Bộ và Tây Nguyên nói riêng, qua đó thúc đẩy ngành Du
lịch của khu vực phát triển.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát, tổng
kết thực tiễn, Luận án đề xuất giải pháp góp phần
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch, đáp ứng yêu
cầu phát triển du lịch đến năm 2020 của các tỉnh khu
vực DHNTB và Tây Nguyên.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá chọn lọc, có phát triển những
khái niệm và vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch, hình thành cơ sở lý luận cho việc
nghiên cứu luận án.
- Phân tích thực trạng nguồn nhân lực ngành Du
lịch về số lượng, chất lượng, cơ cấu và quản lý phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch các tỉnh khu vực
DHNTB và Tây Nguyên.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB
và Tây Nguyên đến năm 2020.
4. Đối tượng nghiên cứu
13
Luận án tập trung nghiên cứu phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch trong hệ thống cơ quan quản
lý nhà nước về du lịch và các đơn vị kinh doanh du
lịch ở các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề về cơ sở lý
luận và thực tiễn phát triển nhân lực ngành Du lịch
nhằm đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch.
- Về không gian: Phạm vi nghiên cứu là các tỉnh
thuộc khu vực DHNTB (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,
Ninh Thuận, Bình Thuận) và Tây Nguyên (Kon Tum, Gia
Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng).
- Về thời gian:
+ Các số liệu phục vụ đánh giá thực trạng nguồn
nhân lực ngành Du lịch trên địa bàn các tỉnh khu vực
DHNTB và Tây Nguyên: sử dụng các số liệu từ năm 2001
đến 2009;
+ Phần định hướng và các giải pháp phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch: phục vụ cho giai đoạn
đến năm 2015 và 2020.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
14
- Phương pháp luận: Luận án sử dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên
cứu nguồn nhân lực ngành Du lịch trong mối quan hệ
tương quan với hệ thống chính sách phát triển nguồn
lực tổng thể, hoạt động du lịch với các hoạt động
kinh tế - xã hội, và dân sự… quan hệ giữa khai thác
tự nhiên, bảo tồn tự nhiên bền vững với năng lực của
con người.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận án lựa chọn phương
pháp tiếp cận, nghiên cứu dưới góc độ Quản lý hành
chính Công. Với cách tiếp cận này những phương pháp
chủ yếu được sử dụng gồm:
+ Phương pháp tiếp cận hệ thống,
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp,
+ Phương pháp điều tra khảo sát và điều tra xã
hội học,
+ Phương pháp chuyên gia.
Ngoài ra, Luận án còn kế thừa các công trình
nghiên cứu, các số liệu thống kê và các tài liệu có
liên quan.
7. Một số điểm mới của Luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu
đầu tiên về vấn đề phát triển nguồn nhân lực ngành
15
Du lịch trên địa bàn thuộc 5 tỉnh DHNTB và 5 tỉnh
Tây Nguyên bằng cách tiếp cận liên ngành giữa phương
pháp luận nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực,
phương pháp luận nghiên cứu phát triển ngành du
lịch, và phương pháp luận nghiên cứu phát triển vùng
của khoa học vùng (Regional Science). Trong bối cảnh
Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển đất nước
thông qua phát triển vùng, điển hình là ba vùng kinh
tế trọng điểm Bắc – Trung - Nam, thì việc kết hợp
giữa phát triển ngành và phát triển vùng là đặc biệt
có ý nghĩa mới đối với chiến lược quản lý hành chính
công trong tương lai gần của đất nước.
- Làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản liên quan
đến phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch như khái
niệm, các đặc điểm đặc trưng của nguồn nhân lực
ngành Du lịch, cơ cấu lao động, nội dung quản lý nhà
nước đối với phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch.
- Lần đầu tiên tiến hành điều tra khảo sát và
điều tra xã hội học trên địa bàn của cả 10 tỉnh
thuộc khu vực DHNTB và Tây Nguyên, sử dụng các kết
quả điều tra xã hội học làm minh chứng cho các nhận
định, đánh giá, làm tăng thêm cơ sở pháp lý và giá
16
trị thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên;
- Đề xuất hệ thống các giải pháp đồng bộ nhằm
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch tại khu vực
khảo sát; đồng thời đề xuất những kiến nghị cụ thể
đối với các bên có liên quan đến phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch như Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Tổng cục Dạy nghề - Bộ Lao động, Thương Binh và Xã
hội, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, UBND các tỉnh
trong khu vực để các giải pháp có tính khả thi, mang
lại hiệu quả như mong muốn.
8. Bố cục Luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên
cứu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận án có kết cấu 3 chương gồm:
Chương 1. Cơ sở lý luận và một số kinh nghiệm
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch.
Chương 2. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch các tỉnh khu vực duyên hải Nam Trung
Bộ và Tây Nguyên giai đoạn 2001 -2009.
Chương 3. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch các tỉnh khu vực duyên hải Nam
Trung Bộ và Tây Nguyên.
17
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1 Tình hình nghiên cứu trong nước:
Trong những năm qua, vấn đề phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch đã có nhiều công trình nghiên
cứu của nhiều tác giả đề cập. Các công trình nghiên
cứu đều nhấn mạnh về tầm quan trọng của phát triển
nguồn nhân lực, trong đó có nguồn nhân lực ngành Du
lịch; đồng thời đưa ra những kiến nghị khoa học về
các định hướng và giải pháp đối với vấn đề này.
Nhiều nội dung đã khẳng định về lý thuyết khoa học
mang tính tổng quan giải quyết những vấn đề ở tầm
vĩ mô, đặc biệt đối với phát triển nguồn nhân lực
nói chung, đồng thời cũng cho thấy những vấn đề phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch có tính đặc thù,
còn nhiều khoảng trống cần lý giải kịp thời. Các
công trình cũng đã đề cập và lý giải những vấn đề về
kinh tế nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của hội nhập
quốc tế và đổi mới sâu rộng của nền kinh tế trong
nước. Các công trình cũng đã phần nào cập nhật kiến
thức hiện đại, tiếp thu các phương pháp kinh tế và
quản lý nguồn nhân lực tiên tiến.
1.1. Các công trình nghiên cứu dưới dạng các báo cáo khoa học, các
bài viết đăng trên các báo, tạp chí
18
Có khá nhiều báo cáo khoa học, các bài viết đăng
trên các báo, tạp chí đề cập đến những vấn đề liên
quan đến phát triển nguồn nhân lực.
- Bài viết của GS. TS. Hoàng Văn Châu, Hiệu
trưởng trường Đại Học Ngoại thương đăng trên Tạp chí
kinh tế đối ngoại số 38/2009: “Phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao cho hội nhập kinh tế - vấn đề cấp
bách sau khủng hoảng”. Nội dung chủ yếu đề cập đến
những bất cập của thị trường lao động của nước ta.
Tác giả nhận định thị trường lao động Việt Nam sẽ
tiếp tục thiếu hụt và khan hiếm nguồn nhân lực cao
cấp quản lý trở lên. Sau khi cuộc khủng hoảng tài
chính qua đi, khi các doanh nghiệp tiến hành tái cấu
trúc và nhu cầu nhân lực có chất lượng cao tăng lên
thì chắc chắn sự mất cân đối cung - cầu trên thị
trường lao động sẽ diễn ra ngày càng trầm trọng hơn
nếu như Việt Nam không có những biện pháp hữu hiệu
giải quyết vấn đề này. Nguyên nhân của việc này là
do các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị trường
lao động và chưa tiếp cận một cách hiệu quả được với
các dịch vụ đào tạo; nhiều doanh nghiệp chưa tích
cực tham gia vào các chương trình đào tạo; các sinh
viên đã không được định hướng tốt trong việc chọn
19
trường, chọn ngành nghề theo học. Từ đó tác giả đã
đề xuất 10 giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao trong thời gian tới. các giải pháp tập
trung chủ yếu vào việc nâng cao chất lượng đào tạo .
- Suy nghĩ về phát triển nguồn nhân lực ở nước
ta
www.viet-studies.info/NguyenTrung/NTrung_GiaoDuc.htm
. (Tác giả: Nguyễn Trung, cựu Đại sứ Việt Nam tại
Thái Lan).
Nghiên cứu về nguồn nhân lực, tác giả cho rằng
cần phải nhìn nhận nguồn nhân lực bao gồm tất cả mọi
người thuộc mọi tầng lớp xã hội và nghề nghiệp khác
nhau, mọi địa vị xã hội từ thấp nhất đến cao nhất -
kể từ người làm nghề lao động đơn giản nhất, nông
dân, công nhân, người làm công việc chuyên môn,
người làm khoa học, người làm nhiệm vụ quản lý, nhà
kinh doanh, người chủ doanh nghiệp, giới nghệ sỹ,
người hoạch định chính sách, quản lý đất nước... Tất
cả đều nằm trong tổng thể của cộng đồng xã hội, từng
người đều phải được đào tạo, phát triển và có điều
kiện để tự phát triển. Với cách tiếp cận này, tác
giả đã coi vấn đề phát triển nguồn nhân lực thực
chất là ngày càng làm tốt hơn việc giải phóng con
20
người. Điều này đòi hỏi cùng một lúc đặt ra hai yêu
cầu: tập trung trí tuệ và nguồn lực cho phát triển
nguồn nhân lực và thường xuyên đổi mới, cải thiện
môi trường chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, giữ
gìn môi trường tự nhiên của quốc gia.
Chất lượng của công tác giảng dạy ở nước ta được
tác giả đánh giá thông qua chương trình giảng dạy,
người dạy, chất lượng nhà trường. Trong bài viết này
tác giả cung cấp cho người đọc thông tin đáng chú ý
về chất lượng đào tạo ở nước ta thông qua đánh giá
của các chủ doanh nghiệp Việt Nam đối với những lao
động được đào tạo qua các cơ sở đào tạo trong nước:
(a) họ phải đào tạo lại hầu hết mọi người ở mọi cấp
bậc – học nghề, đại học, sau đại học - mà họ nhận
vào doanh nghiệp của mình, (b) họ không tin tưởng
vào hệ thống đại học và các viện nghiên cứu của
trong nước, vì chất lượng giảng dạy thấp; nội dung
thấp và lạc hậu; khả năng nghiên cứu nghèo nàn; sách
vở và thiết bị đều thiếu, không đồng bộ, cũ kỹ, rất
yếu về ngoại ngữ, năng lực tổ chức và quản lý thấp…
Không đưa ra các giải pháp cụ thể nhưng có ba
kiến nghị rất đáng quan tâm được tác gải đề xuất để
khắc phục những bất cập của nguồn nhân lực ở nước ta
21
là: (a) Bất luận lựa chọn và quyết định giải pháp gì
và trong bất cứ hoàn cảnh nào, ý chí muốn học, tinh
thần ham học và học cho đến cùng của người dân nước
ta, là cái vốn vô giá của quốc gia. Tinh thần này, ý
chí này cần được gìn giữ, nâng niu, cổ vũ. (b) Sự
phát triển ồ ạt theo số lượng về giáo dục ở nước ta
đặt ra vấn đề là chất lượng của những loại trường
nhìn chung là thấp, nguồn lực có thể huy động được
lại cực kỳ eo hẹp. Giải pháp nào cũng phải hạn chế
xuống mức thấp nhất gánh nặng dồn lên vai học sinh.
(c) Bình đẳng về cơ hội cho mọi người là một trong
những tiêu chí quan trọng nhất của xã hội văn minh,
trong đó bình đẳng về cơ hội trong giáo dục là quan
trọng bực nhất. Song lực và trí nước ta có hạn, nước
ta phải đi từng bước, điều kiện cho phép đến đâu thì
làm đến đấy, nỗ lực hết mức làm đến đấy.
- Trong báo cáo Khoa học tại Hội thảo quốc tế
Việt Nam học lần thứ ba với chủ đề: "Việt Nam: Hội
nhập và phát triển", tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam,
tháng 12-2008; PGS. TS. Đức Vượng, Viện trưởng Viện
Nghiên cứu nhân tài, nhân lực, Chủ nhiệm đề tài NCKH
cấp nhà nước: “Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam
Giai đoạn 2011 – 2020” (Mã số: KX.04.16/06-100) đã
22
viết về thực trạng và giải pháp phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam. Trong đó, nguồn nhân lực Việt
Nam được xác định gồm nguồn nhân lực từ nông dân,
công nhân, trí thức, công chức viên chức và có những
đặc điểm chung là Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi
dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức, chưa được
quy hoạch, chưa được khai thác, còn đào tạo thì nửa
vời, nhiều người chưa được đào tạo; Chất lượng nguồn
nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa
lượng và chất; Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa
nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức,…
chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng
nhau thực hiện mục tiêu chung là xây dựng và bảo vệ
đất nước.
Từ đó, tác giả đã đề xuất 10 giải pháp phát
triển nguồn nhân lực Việt Nam (Cần coi nguồn nhân
lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam; nâng
cao chất lượng con người và chất lượng cuộc sống;
Nhà nước phải có kế hoạch phối hợp tạo nguồn nhân
lực từ nông dân, công nhân, trí thức; có kế hoạch
khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng các nguồn
nhân lực cho đúng; hằng năm, Nhà nước cần tổng kết
về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực ở Việt
23
Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời
rút ra những kinh nghiệm, trên cơ sở đó mà xây dựng
chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về
nguồn nhân lực ở Việt Nam...) Tác giả cũng kiến nghị
Chính phủ và các cơ quan chức năng phải có chính
sách, biện pháp kết hợp thật tốt giữa đào tạo và sử
dụng trong tổng thể phát triển kinh tế của đất nước,
đáp ứng có hiệu quả nguồn lao động có chất lượng cao
cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
- Trong vài năm gần đây, ý thức được sự bất cập
của công tác đào tạo nói chung, đào tạo du lịch nói
riêng, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch đã chủ trương phát triển
đào tạo theo nhu cầu xã hội để thu hẹp dần khoảng
cách giữa đào tạo và nhu cầu của người sử dụng, đưa
công tác đào tạo tiệm cận dần với nhu cầu thực tế
của xã hội. Các cuộc hội thảo về vấn đề này đã được
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức tại thành
phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
+ Hội thảo quốc gia lần thứ nhất đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch theo nhu cầu xã hội được tổ
chức vào tháng 3 năm 2008 tại thành phố Hồ Chí Minh
với sự tham gia của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn
24
hoá, Thể thao và Du lịch, các cơ sở đào tạo du lịch,
các Sở quản lý du lịch, các doanh nghiệp du lịch.
Mục tiêu của Hội thảo là để các cơ sở đào tạo thấy
được sự đòi hỏi tất yếu khách quan của doanh nghiệp,
nhà tuyển dụng về chất lượng nguồn nhân lực qua đào
tạo, sự cần thiết phải đổi mới nội dung, chương
trình, cơ cấu đào tạo; ngược lại doanh nghiệp, các
nhà tuyển dụng cũng đổi mới phong cách quản lý, điều
hành, cam kết cung úng các dịch vụ hỗ trợ đào tạo,
tạo môi trường thuận lợi cho sinh viên các trường
thực hành, thực tập, làm quen với môi trường lao
động nghề nghiệp; sau hội thảo các cơ sở đào tạo có
sự chuyển biến mạnh mẽ hơn theo hướng triển khai đào
tạo ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp
và chuyển đổi mạnh mẽ hoạt động tự chủ của trường.
Với mục tiêu như vậy, các bài tham luận và những vấn
đề chính được đặt ra tại Hội thảo này liên quan trực
tiếp đến công tác đào tạo du lịch theo nhu cầu xã
hội.
+ Hội thảo quốc gia lần thứ 2 về đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch theo nhu cầu xã hội được tổ
chức vào tháng 8 năm 2010 tại Hà Nội. Do có nhiều
nhân tố mới xuất hiện, nhu cầu về nhân lực du lịch
25
cũng có những thay đổi, nhất là sau khủng hoảng kinh
tế toàn cầu, nhu cầu du lịch hồi phục, đào tạo nhân
lực ngành Du lịch cũng phát sinh nhiều vấn đề. Hội
thảo toàn quốc lần thứ 2 là để đánh giá tình hình
đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch theo nhu cầu xã
hội từ sau Hội thảo lần 1, đề ra phương hướng, mục
tiêu và các giải pháp đẩy mạnh đào tạo nhân lực
ngành Du lịch theo nhu cầu xã hội trong bối cảnh
mới.
- Một số bài viết khác nhìn nhận vấn đề phát
triển nguồn nhân lực dưới những góc độ khác nhau:
hoặc giải quyết những vấn đề cụ thể của “bài toán
nguồn nhân lực” trên bình diện tổng quát (Nhận thức
về đào tạo trong du lịch, Trịnh Xuân Dũng, Báo Tuần
Du lịch, số 25, 26) hoặc đối với một lĩnh vực, khu
vực nào đó (Xây dựng hình ảnh doanh nghiệp du lịch,
Lưu Kiếm Thanh, Tạp chí Du lịch, số 01/2007; Kinh
nghiệm đào tạo nhân lực cho du lịch Việt Nam từ các
nước liên minh châu Âu, Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Văn
Mạnh, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 11/2000.
1.2. Các công trình nghiên cứu dưới dạng các dự án, chương trình
Trong khuôn khổ hợp tác với Cộng đồng Châu Âu,
Tổng cục Du lịch đã tiến hành Dự án “Phát triển
26
nguồn nhân lực Du lịch Việt Nam” (Mã số: VNM/B7-301/
IB/97/0234). Mục tiêu tổng thể của Dự án nhằm nâng
cao tiêu chuẩn và chất lượng nguồn nhân lực trong
ngành Du lịch Việt Nam, giúp Chính phủ và các doanh
nghiệp du lịch có khả năng duy trì bền vững chất
lượng và số lượng đào tạo sau khi Dự án kết thúc.
Mục tiêu của Dự án là: Xây dựng một cơ cấu tổ
chức thống nhất cấp quốc gia để triển khai hệ thống
công nhận kỹ năng nghề tại các doanh nghiệp du lịch
theo đúng định hướng của ngành; hình thành một bộ
tiêu chuẩn kỹ năng nghề cho 13 nghề được công nhận
trong Du lịch và Lữ hành, đồng thời triển khai, quản
lý hệ thống chứng chỉ Quốc gia; xây dựng, áp dụng và
triển khai chương trình phát triển đào tạo viên được
công nhận đối với một số kỹ năng nghề quan trọng; hỗ
trợ phát triển một chương trình công nhận khu vực
nhằm tạo điều kiện thúc đẩy quá trình tiến tới công
nhận chung các kỹ năng nghề của các quốc gia trong
khu vực; tăng cường hợp tác khu vực trong lĩnh vực
đào tạo du lịch; đào tạo cán bộ quản lý du lịch nhà
nước về kỹ năng quản lý du lịch và các nội dung liên
quan tới phát triển du lịch.
27
Như vậy dự án này đi theo hướng chính là tập
trung nghiên cứu đánh giá để đưa ra các chương trình
đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch ở cấp độ quốc
gia và doanh nghiệp cho các lao động trực tiếp tại
các doanh nghiệp du lịch.
1.3. Các công trình nghiên cứu dưới dạng các giáo trình, tài liệu
tham khảo.
- Các giáo trình đề cập đến vấn đề phát triển
nguồn nhân lực nói chung:
+ “Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội”, chỉ đạo
biên soạn: TS. Nguyễn Ngọc Hiến, NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội, 2007. Giáo trình dành toàn bộ chuyên
đề 23 để nói về vấn đề quản lý nguồn nhân lực xã
hội. Những vấn đề chính được đề cập trong chương này
gồm các khái niệm và thuật ngữ có liên quan đến quản
lý nguồn nhân lực xã hội; cơ chế và chính sách phát
triển nguồn nhân lực, quản lý nhà nước đối với nguồn
nhân lực xã hội.
+ “Quản lý nguồn nhân lực xã hội”, chủ biên: GS.
TS. Bùi Văn Nhơn, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội,
2008. Giáo trình này có mục đích cung cấp kiến thức
cơ bản về nguồn nhân lực xã hội và quản lý nguồn
nhân lực xã hội, làm cơ sở phương pháp luận cho việc
28
tham gia hoạch định và phân tích các chính sách về
nguồn nhân lực xã hội. Những vấn đề liên quan trực
tiếp đến đề tài của Luận án gồm: tổng quan về nguồn
nhân lực và những đặc điểm của nguồn nhân lực Việt
Nam, phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sử dụng có hiệu quả
nguồn nhân lực xã hội.
- Các giáo trình đề cập đến nguồn nhân lực ngành
Du lịch:
+ Giáo trình “Kinh tế du lịch”, Chủ biên: GS.TS.
Nguyễn Văn Đính; PGS.TS. Trần Thị Minh Hòa. – Hà
Nội: NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2008.”, trong đó
các tác giả đã dành Chương 6 để mô tả và phân tích
về “Lao động trong du lịch” (tr. 119-166). Công
trình đã mô tả bản chất của nguồn nhân lực du lịch;
vai trò và đặc trưng của nhóm lao động chức năng
quản lý nhà nước về du lịch, của nhóm lao động chức
năng sự nghiệp ngành Du lịch và nhóm lao động chức
năng kinh doanh du lịch. Những nội dung cơ bản của
quản lý nhà nước về phát triển về nguồn nhân lực
ngành Du lịch cũng được đề cập, như quản lý, sử dụng
hiệu quả nguồn nhân lực ngành Du lịch góp phần thực
hiện đường lối, chính sách và phát triển con người;
29
thúc đẩy sẽ phát triển, tạo việc làm, giữ vững an
ninh, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo xã hội ổn định
và phát triển). Một số vấn đề về nội dung cơ bản của
quản lý phát triển nguồn nhân lực ở doanh nghiệp du
lịch như: tuyển chọn và bố trí lao động; tổ chức
hiệp tác và phân công lao động trong doanh nghiệp;
cải thiện điều kiện lao động và chế độ nghỉ ngơi cho
người lao động; thiết lập kỷ luật lao động ; đào tạo
và nâng cao trình độ chuyên môn; nâng cao đạo đức
nghề nghiệp; đánh giá kết quả lao động và trả công…
đã được trình bày khá rõ ràng.
+ Trong khung khổ Dự án Phát triển nguồn nhân
lực du lịch Việt Nam, cuốn sách “Quản lý và vận hành
khách sạn” được biên dịch từ cuốn “Hotel management
and operations” của các tác giả Denney G. Rutherford
và Michael J. O’Fallon. Cuốn sách này đã dành toàn
bộ chương 9 nói về quản lý chính sách nguồn nhân
lực, trong đó những vấn đề chính được đề cập là
nguyên nhân và hậu quả của việc thay thế nhân viên
trong ngành công nghiệp khách sạn; những vấn đề hiện
thời trong luật sử dụng lao động khách sạn nhà hàng;
các vai trò vận hành và chiến lược của nguồn nhân
lực - một mô hình mới xuất hiện. Như vậy, vấn đề
30
quản lý chính sách nguồn nhân lực của cuốn sách này
cũng chỉ tập trung vào nguồn nhân lực du lịch làm
việc trong ngành khách sạn, trong khi nguồn nhân lực
ngành Du lịch còn liên quan đến nhiều lĩnh vực hoạt
động khác như lữ hành, vận chuyển khách, hướng dẫn
viên.
2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài:
Ở nước ngoài đặc biệt là ở những nước có ngành
Du lịch phát triển, vấn đề phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch được nghiên cứu khá toàn diện và kỹ
lưỡng. Một số nghiên cứu đã được chuẩn hoá thành các
quy tắc áp dụng chung cho những quốc gia đồng thuận
áp dụng (ví dụ bộ tiêu chuẩn chung áp dụng cho các
nước thuộc khối EU, trong đó có những yêu cầu cơ bản
về đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch).
Khó khăn chính của việc áp dụng các nghiên cứu
nước ngoài là điều kiện của Việt Nam chưa cho phép
áp dụng, hoặc họ chỉ đưa ra “sản phẩm”, trong khi
cái mà Việt Nam cần là “Công nghệ để sản xuất ra sản
phẩm đó” thì lại không có.
Một số nghiên cứu khác cũng được các dịch giả
dịch sang tiếng Việt làm tài liệu giảng dạy, tham
khảo tại một số cơ sở đào tạo du lịch, chủ yếu là
31
phục vụ cho nghiên cứu tổng quan về nguồn nhân lực
du lịch. Xuất phát từ đặc điểm của ngành du lịch có
lực lượng lao động đông đảo làm việc trong lĩnh vực
kinh doanh lưu trú, với loại hình lưu trú chủ đạo là
khách sạn, nên phần lớn các dịch giả ũng chọn những
cuốn sách viết về kinh doanh khách sạn để dịch sang
tiếng Việt:
- “Quản lý khách sạn” (Nguyên tác: Managing
Hotels Effectively – Eddystone C. Nebel III. Van
Nostrand Reinhold - Newyork), NXB Trẻ, TP HCM, 1997,
dành toàn bộ chương 7 nói về nhân sự khách sạn,
trong đó các vấn đề được giới thiệu là: phác hoạ
công việc, tuyển chọn nhân viên, huấn luyện và phát
triển, đánh giá quá trình công tác.
- “Quản lý khách sạn hiện đại” (Chủ biên: Lục
Bội Minh, NXB Thượng Hải, 1996), Viện Nghiên cứu
phát triển Du lịch và NXB Chính trị Quốc gia dịch và
xuất bản năm 1997. Toàn bộ chương XV (từ trang 1012
đến trang 1042) nói về công tác bồi dưỡng, đào tạo
và sát hạch. Những vấn đề chính gồm bồi dưỡng, đào
tạo vào nghề; bồi dưỡng kỹ năng phục vụ; bồi dưỡng,
đào tạo ngoại ngữ; bồi dưỡng, đào tạo người quản lý;
32
quy định về việc khách sạn đài thọ kinh phí bồi
dưỡng, đào tạo.
- “Kinh tế du lịch và du lịch học”, Đổng Ngọc
Minh, Vương Lôi Đình, NXB Trẻ. TP HCM, 2000. Quan
điểm của các tác giả là các ngành, lĩnh vực cần có
nhân tài để phát triển, do đó đã đề cập đến vấn đề
bồi dưỡng nhân tài du lịch. Các nội dung bồi dưỡng
nhân tài du lịch gồm: nâng cao tố chất tư tưởng
chính trị; nâng cao kiến thưc văn hoá, nghiệp vụ;
bồi dưỡng năng lực công tác. Các tác giả cũng xác
định 2 con đường chính để bồi dưỡng nhân tài du lịch
là giáo dục chuyên nghiệp và huấn luyện.
3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu và những
vấn đề đặt ra cho đề tài Luận án:
Những nghiên cứu kể trên mới dừng lại ở các
nghiên cứu chung về nguồn nhân lực ở tầm vĩ mô, hoặc
chỉ đề cập đến một số khía cạnh của việc phát triển
nguồn nhân lực, trong đó công tác đào tạo nguồn nhân
lực được phân tích mổ xẻ kỹ lưỡng nhất. Chưa có một
công trình nghiên cứu nào (kể cả trong các giáo
trình của các cơ sở đào tạo chuyên ngành du lịch và
Dự án phát triển nguồn nhân lực du lịch của Tổng cục
Du lịch) đề cập một cách có hệ thống về cơ sở lý
33
luận của công tác phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch.
Một khía cạnh khác ít được các công trình quan
tâm nghiên cứu là nội dung quản lý nhà nước đối với
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch. Đây là một
nội dung rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng của sự phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch
nhưng các nghiên cứu hoặc chỉ đề cập đến công tác
quản lý nhà nước đối với giáo dục đào tạo hoặc quản
lý nhà nước về du lịch.
Hệ thống các giải pháp của các nghiên cứu trên
cũng dừng lại ở tầm vĩ mô, phần lớn được đề xuất cho
phát triển nguồn nhân lực nói chung, nếu áp dụng cho
ngành Du lịch thì sẽ rất khó phát huy hiệu quả.
Điều đáng nói nhất là chưa có những nghiên cứu
cụ thể về phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
cho các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên. Do đó, đề
tài Luận án là hoàn toàn mới, có tính cấp thiết cao
xét từ nhiều phương diện. Luận án này có nhiệm vụ hệ
thống hoá, chọn lọc, phát triển những khái niệm và
vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân lực du lịch;
phân tích thực trạng phát triển và quản lý phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch các tỉnh khu vực
34
DHNTB và Tây Nguyên; đề xuất một số giải pháp chủ
yếu phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch các tỉnh
khu vực DHNTB và Tây Nguyên đến năm 2020.
35
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH1.1. Nguồn nhân lực ngành Du lịch
1.1.1. Nguồn nhân lực:
1.1.1.1. Khái niệm: Thuật ngữ nguồn nhân lực được sử dụng
rộng rãi ở các nước có nền kinh tế phát triển từ
những năm 80 của thế kỷ XX với ý nghĩa là nguồn lực
con người, phản ánh sự đánh giá lại vai trò yếu tố
con người trong quá trình phát triển. Sự xuất hiện
của thuật ngữ “nguồn nhân lực” thể hiện sự công nhận
của phương thức quản lý mới trong việc sử dụng nguồn
lực con người.
Khái niệm nguồn nhân lực có nguồn gốc từ bộ môn
kinh tế học và kinh tế chính trị, được gọi một cách
truyền thống là lao động - một trong bốn yếu tố của
sản xuất.
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về nguồn
nhân lực. Có định nghĩa tiếp cận theo hướng coi
nguồn nhân lực là nguồn lực với yếu tố vật chất,
tinh thần tạo nên năng lực, sức mạnh phục vụ cho sự
phát triển chung của các tổ chức, với cách tiếp cận
này nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người
36
của các tổ chức có quy mô, loại hình, chức năng khác
nhau, có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá
trình phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển
kinh tế - xã hội của quốc gia, khu vực và thế giới.
Báo cáo đánh giá về những tác động của toàn cầu hoá
đối với nguồn nhân lực của Liên hiệp quốc đã định
nghĩa nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, kiến
thức và năng lực thực có và những năng lực tiềm tàng
của con người. Cách tiếp cận này đánh giá cao tiềm
năng của con người, đồng thời mở ra khả năng xây
dựng các cơ chế thích hợp trong quản lý, sử dụng
nguồn nhân lực.
Tuy có những định nghĩa khác nhau tuỳ theo góc
độ tiếp cận, nhưng các định nghĩa về nguồn nhân lực
đều đề cập đến các đặc trưng chung là:
- Số lượng nguồn nhân lực, trả lời cho câu hỏi
là có bao nhiêu người và sẽ có thêm bao nhiêu nữa
trong tương lai. Sự phát triển về số lượng nguồn
nhân lực dựa trên hai nhóm yếu tố bên trong, bao gồm
nhu cầu thực tế công việc đòi hỏi phải tăng số lượng
lao động; và các yếu tố bên ngoài của tổ chức như sự
gia tăng về dân số hay lực lượng lao động do di dân.
37
- Chất lượng nhân lực, là yếu tố tổng hợp của
nhiều yếu tố bộ phận như trí tuệ, trình độ, sự hiểu
biết, đạo đức, kỹ năng, sức khoẻ, năng lực thẩm
mỹ,... của người lao động. Trong các yếu tố trên thì
trí lực và thể lực là hai yếu tố quan trọng trong
việc xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
- Cơ cấu nguồn nhân lực: đây là yếu tố không thể
thiếu khi xem xét đánh giá về nguồn nhân lực. Cơ cấu
nhân lực thể hiện trên các phương diện khác nhau: cơ
cấu về trình độ đào tạo, dân tộc, giới tính, độ
tuổi,…
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực
đó được xem xét ở hai khía cạnh. Trước hết, với ý
nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực.
Nguồn nhân lực nằm ngay trong bản thân con người, đó
cũng là sự khác nhau cơ bản giữa nguồn lực con người
và các nguồn lực khác. Thứ hai, nguồn nhân lực được
hiểu là tổng thể nguồn lực của từng cá nhân. Với tư
cách là một nguồn lực của quá trình phát triển,
nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng
sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã
hội, được biểu hiện ra là số lượng và chất lượng
nhất định tại một thời điểm nhất định.
38
Với cách hiểu như vậy, nội hàm nguồn nhân lực
không chỉ bao hàm những người trong độ tuổi lao
động, cũng không chỉ bao hàm về mặt chất lượng, mà
còn chứa đựng các hàm ý rộng hơn, gồm toàn bộ trình
độ chuyên môn mà con người tích luỹ được, có khả
năng đem lại thu nhập trong tương lai. Trong lý
thuyết về tăng trưởng kinh tế, con người được coi là
phương tiện hữu hiệu cho việc đảm bảo tốc độ tăng
trưởng kinh tế bền vững.
Nguồn nhân lực cũng được nhìn nhận về khía cạnh
số lượng, không chỉ những người trong độ tuổi mà cả
những người ngoài độ tuổi lao động. Nguồn nhân lực
là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay
một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc lao
động nào đó; nguồn lực con người được thể hiện thông
qua số lượng dân cư, chất lượng con người (bao gồm
thể lực, trí lực và năng lực phẩm chất), tức là
không chỉ bao hàm số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn
nhân lực hiện tại, mà còn bao hàm của nguồn cung cấp
nhân lực trong tương lai của mỗi tổ chức, mỗi địa
phương, mỗi quốc gia, khu vực và thế giới.
Nguồn nhân lực được hình thành trên cơ sở các cá
nhân có vai trò khác nhau và được liên kết với nhau
39
theo những mục tiêu nhất định. Nguồn nhân lực là
toàn bộ vốn kiến thức, kỹ năng và sức người cần đầu
tư vào công việc để đạt được thành công.
Từ những phân tích trên, trong Luận án này khái
niệm nguồn nhân lực được hiểu như sau: Nguồn nhân lực
là một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn của dân cư, khả năng
huy động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần
cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh và khả
năng đó được thể hiện thông qua số lượng, chất lượng và cơ cấu dân
số, nhất là số lượng và chất lượng con người cơ sở đủ điều kiện tham
gia vào nền sản xuất xã hội.
Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng, có tính
chất quyết định đến sự thành bại của tổ chức. Bất kể
một tổ chức nào dù mạnh hay yếu thì yếu tố con người
vẫn là yếu tố đầu tiên và cơ bản nhất. Trước xu thế
toàn cầu hóa hiện nay, các thay đổi là cần thiết
trong lực lượng lao động của mỗi quốc gia nhằm định
hướng, giúp cho các nhà hoạch định chính sách, các
doanh nhân thấy được và định hướng sự phát triển
nguồn nhân lực của mình và từ đó đáp ứng các cơ hội
và thách thức do hội nhập quốc tế mang lại.
1.1.1.2. Thị trường lao động
40
Sức lao động được xem là một loại hàng hoá đặc
biệt. Để loại “hàng hoá” này lưu thông, trao đổi cần
có thị trường, đó chính là thị trường lao động. Thị
trường lao động không chỉ là nơi giải quyết nhu cầu
của người “mua” và người “bán” mà còn là một trong
những yếu tố quan trọng để phát triển nguồn nhân
lực.
- Khái niệm thị trường lao động: Lao động, trong kinh tế
học, được hiểu là một yếu tố sản xuất do con người
tạo ra và là một dạng dịch vụ hay hàng hóa. Người có
nhu cầu về hàng hóa này là người sản xuất. Còn người
cung cấp hàng hóa này là người lao động. Như mọi
hàng hóa và dịch vụ khác, lao động được trao đổi
trên thị trường, gọi là thị trường lao động. Thị trường
lao động là nơi cung và cầu về lao động gặp nhau.
Ngày nay, ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi, song
song với việc mở rộng tự do kinh doanh, phát triển
thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường vốn và
chứng khoán, thì thị trường lao động cũng đang được
hình thành.
Có nhiều khái niệm về thị trường lao động, mỗi
một thị trường lao động lại có những đặc điểm riêng
của mình. Nói đến “thị trường lao động”, trong các
41
ấn phẩm khoa học và các phương tiện thông tin đại
chúng có thể thấy có những cách diễn đạt khác nhau
như: “thị trường lao động”, “thị trường sức lao
động”, “thị trường dân số tích cực kinh tế”, “thị
trường nguồn nhân lực”…
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: “Thị
trường lao động là thị trường trong đó có các dịch
vụ lao động được mua và bán thông qua quá trình để
xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như
mức độ tiền công”. Khái niệm này nhấn mạnh đến các
dịch vụ lao động được xác định thông qua việc làm
được trả công.
Khái niệm “thị trường lao động” có nhiều cách
hiểu do xuất phát từ chính tính đa dạng và sự đặc
biệt của bản thân thị trường lao động. Mỗi khái niệm
nêu trên đều có những khía cạnh đúng, nhưng theo
quan điểm của chúng tôi, các phương pháp tiếp cận
nêu trên cần có những điều chỉnh, bổ sung cần thiết
dựa vào những gì thị trường lao động tồn tại và nó
hoạt động trong bối cảnh không gian nào để hiểu rõ
hơn về sự hình thành và phát triển của thị trường
lao động trong nền kinh tế đang chuyển đổi mạnh mẽ
sang quan hệ thị trường.
42
Thống nhất quan điểm với tác giả Phạm Đức Chính,
chúng tôi cho rằng: Khái niệm “thị trường lao động”
mà nhà khoa học kinh tế Nga Kostin Leonit
Alecxeevich đưa ra là tương đối đầy đủ: “Thị trường lao
động là một cơ chế hoạt động tương hỗ giữa người sử dụng lao động
và người lao động trong một không gian kinh tế xác định, thể hiện
những quan hệ kinh tế và pháp lý giữa họ với nhau”. Hay nói chi
tiết hơn, thị trường lao động là tập hợp những quan
hệ kinh tế, pháp lý, xuất hiện giữa người sở hữu sức
lao động (người lao động) và người sử dụng nó (người
thuê lao động) về vấn đề chỗ làm việc cụ thể, nơi và
hàng hóa và dịch vụ sẽ được làm ra. Quá trình sử
dụng sức lao động, lao động sẽ được hình thành trong
sản xuất chứ không phải trên thị trường.
- Bản chất của thị trường lao động: Thị trường nói chung
và thị trường lao động nói riêng là một khái niệm
rất tổng hợp, nhưng thường được xác định rất cụ thể
đối tượng mua và bán. Đối tượng mua và bán của thị
trường lao động là “lao động”, hoặc “sức lao động”.
Nhà kinh tế người Mỹ Ronald Erenberg và Robert Smith
khẳng định: trên thị trường lao động được mua và bán
“dịch vụ lao động”.
43
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động là
một loại hàng hóa, được mua, được bán, có giá cả,
giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng loại hàng này có
những đặc điểm: Khi mua và bán giá trị của hàng hóa
được thanh toán, còn giá trị sử dụng được trưng tập,
mặt hàng đó được chuyển thành sở hữu của người mua.
Tuy nhiên, người chủ sở hữu sức lao động vẫn là chủ
sở hữu sức lao động của mình, sức lao động không bị
tách rời và không thể bị tách rời. Vì vậy có hai
loại ý kiến về vấn đề này. Một là, các nhà nghiên
cứu theo lý thuyết kinh tế thị trường của C.Mác thì
cho rằng, trên thị trường lao động chỉ có mua và bán
sức lao động. Hai là, các nhà kinh tế theo trường
phái “tổng hợp tân cổ điển hiện đại” đưa ra những
khái niệm khác nhau về vấn đề này là sức lao động
không bán được, mà là bán dịch vụ lao động; sức lao
động không bán được, mà được cho thuê trong điều
kiện các bên cùng có lợi; sức lao động không bán
được, mà chỉ bán quyền sử dụng nó.
Khái niệm “sức lao động” liên quan tới không chỉ
một người, mà cả cộng đồng người lao động. Cộng đồng
đó khác hẳn với nguồn nhân lực và dân số tích cực
kinh tế không chỉ về bản chất, mà cả về định lượng.
44
Sức lao động chỉ là một phần của nguồn lao động, mà
chính phần này được bán trong thị trường lao động
(hay còn gọi là lao động làm thuê), nếu xét về mặt
định lượng thì ít hơn phần dân số tích cực kinh tế ở
các nước phát triển, phần lao động làm thuê chiếm
khoảng 80-85% dân số tích cực kinh tế, phần còn lại
là các nhà doanh nghiệp, chủ ngân hàng, chủ trang
trại và những người hoạt động lao động cá thể.
Trên thị trường lao động, đối tượng để xem xét
mua và bán là chỗ làm việc xác định, những điều kiện
lao động kèm theo và tiền công được đặt ra, và cuối
cùng là xác định người nào vào chỗ làm việc đó, vấn
đề sẽ được người thuê lao động quyết định. Khi đó
người thuê lao động luôn có thể không chấp nhận hoặc
sa thải bất kỳ người công nhân nào mà anh ta cảm
thấy không có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình. Vì vậy, người công nhân về mặt kinh tế
luôn phải phụ thuộc vào ông chủ, tức là không có sự
bình đẳng nào ở đây cả.
Vì lao động không thể trở thành hiện thực, nếu
không có sức lao động và muốn sức lao động được thực
hiện, thì phải có lao động. Lao động, đó là một quá
trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần, cùng các
45
loại dịch vụ. Quá trình này được bắt đầu sau khi sự
giao dịch trên thị trường lao động đã được ký kết,
quan hệ thị trường kết thúc và quá trình sản xuất
được bắt đầu. Để trở thành hàng hóa thì đối tượng
phải có sẵn trước khi bán, nhưng đối với lao động
thì lại không diễn ra như vậy. Khi bán thì hàng hóa
sẽ chuyển từ người bán sang người mua. Với lao động,
chúng ta cũng không thấy sự chuyển đổi này. Vì vậy,
quan điểm cho rằng, trên thị trường lao động được
bán chính bản thân “lao động” là không chính xác hay
nói cách khác là không có cơ sở khoa học. Trong
tuyên bố Philadelphia - một phần cấu thành của điều
lệ ILO-cũng đã viết, “Hội nghị một lần nữa khẳng
định những nguyên tắc cơ bản, mà ILO đã dựa vào đó
để ra tuyên bố rằng, lao động không phải là hàng
hóa”.
Xuất phát từ quan điểm, đối tượng mua và bán
trên thị trường lao động là “sức lao động”, vì vậy,
nếu xét về phương diện lý thuyết thì thị trường đó
phải được gọi là “thị trường sức lao động”. Nhưng
trên thực tế, trong các văn bản chính thống của ILO,
cũng như ở nhiều nước phát triển và ở Việt Nam
thường được dùng tên gọi “thị trường lao động”, do
46
đó để thống nhất cách gọi, ở đây thuật ngữ “thị
trường lao động” được dùng như là một khái niệm đồng
nhất với “thị trường sức lao động”.
Thị trường lao động là biểu hiện kinh tế - xã
hội phức tạp. Tại đó hàng ngày có tới hàng chục ngàn
người lao động và thuê lao động (hoặc đại diện của
họ) gặp nhau và tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Những
quyết định của họ phụ thuộc không chỉ vào các yếu tố
khách quan, mà còn rất nhiều yếu tố chủ quan. Những
yếu tố cơ bản của thị trường lao động là: cầu sức
lao động; cung sức lao động; giá cả của sức lao động
(tiền lương); cạnh tranh trên thị trường lao động;
cơ sở hạ tầng của thị trường lao động.
Thị trường lao động bao gồm những chủ thể sau:
Những người thuê lao động (người mua) và đại diện
của họ; những người làm thuê (người bán) và đại diện
của họ; nhà nước và các đại diện của mình; các tổ
chức môi giới trung gian.
Một quan điểm khác về bản chất của thị trường
lạo động đang gây tranh cãi lớn là: Thị trường lao
động bao gồm cả “thị trường chỗ làm việc”, là sự
thống nhất biện chứng của hai thị trường: chỗ làm
việc và sức lao động. Tuy nhiên dễ thấy là: Chỗ làm
47
việc thì không thể bán được và cũng không có giá cả,
đó chỉ là một phần không thể tách rời của thị trường
sức lao động, nếu không có nó thì người thuê lao
động không thể thuê công nhân được. Hay nói cách
khác, sức lao động là chủ thể của việc làm, còn chỗ
làm việc - là đối tượng của việc làm.
- Những đặc trưng của thị trường lao động: Thị trường lao
động, cũng giống như loại thị trường khác, cũng có
những nguyên tắc và cơ chế hoạt động, nổi bật là
quan hệ cung-cầu là phương Tuy nhiên, thị trường lao
động có những đặc trung gắn với tính chất và những
đặc thù của quá trình tái sản xuất sức lao động, chủ
yếu là:
+ Không tách rời quyền sở hữu hàng hóa (sức lao
động) khỏi chủ sở hữu. Trên thị trường lao động,
người mua chỉ có quyền sử dụng và làm chủ từng phần
khả năng lao động - sức lao động, trong một khoảng
thời gian nhất định. Người mua không đơn giản là mua
sức lao động như những loại hàng hóa khác, mà có
quan hệ với người có những quyền hạn nhất định như
một cá nhân tự do mà anh ta phải tuân thủ. Nếu vi
phạm những quyền hạn đó, người mua phải chịu trách
nhiệm pháp lý và có thể có những tổn thất về kinh
48
tế. Người mua này được gọi là người thuê lao động
(người sử dụng lao động);
+ Giữa người bán và người mua có trách nhiệm
phối hợp hành động với nhau tương đối dài so với thị
trường hàng hóa, lương thực và thực phẩm. Điểm này
đặt một dấu ấn trong mối quan hệ tương hỗ hai bên và
đóng một vai trò không ít quan trọng trong khả năng
cạnh tranh của công ty. Người lao động, với tư cách
là một cá thể, có thể tự kiểm soát chất lượng công
việc của mình với những nỗ lực khác nhau, thể hiện
mức độ trung thực khác nhau với công ty đã thuê họ.
Người thuê phải tính đến những yếu tố đó để quản lý
sản xuất, nghĩa là phải xây dựng một cơ chế đãi ngộ,
kích thích, tạo động lực đối với người lao động một
cách phù hợp như: điều kiện làm việc, tiền lương,
tiền thưởng và các phúc lợi xã hội khác;
+ Tồn tại những cấu trúc, thể chế loại đặc biệt
(hệ thống pháp luật phân nhánh, những chương trình
kinh tế-xã hội, dịch vụ việc làm các tổ chức công
đoàn, liên hiệp hội các nhà doanh nghiệp...) sinh ra
đặc thù quan hệ giữa các chủ thể của thị trường lao
động. Vì vậy, cần phải thể chế hóa thật chi tiết mọi
hướng hoạt động của họ;
49
+ Chất lượng lao động ở từng người lao động có
khác nhau theo giới tính, tuổi tác, thể lực, trí
tuệ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác, động
lực làm việc... Vì vậy, mức độ cá thể hóa cao khi ký
kết giao kèo, gắn với trình độ chuyên môn khác nhau
của sức lao động, sự đa dạng của công nghệ và tổ
chức lao động, nên việc đánh giá chất lượng lao động
khi tuyển dụng, trả công phù hợp cho từng người gặp
nhiều khó khăn và phức tạp;
+ Nhiều điểm độc đáo trong trao đổi sức lao động
so với trao đổi hàng hóa vật chất. Quá trình trao
đổi hàng hóa vật chất được bắt đầu trong lĩnh vực
lưu thông, còn quyền sử dụng khả năng lao động được
chuyển sang người mua theo những gì đã được ấn định
trong hợp đồng hay thoả ước tập thể. Quá trình trao
đổi được tiếp tục trong sản xuất dưới hình thức trao
đổi sức lao động đang hoạt động, lao động thực tế
thành lương danh nghĩa và kết thúc trong lĩnh vực
lưu thông của cải vật chất, có nghĩa là trên thị
trường hàng hóa và dịch vụ được trao đổi lương danh
nghĩa thành phương tiện sống. Việc trao đổi hàng hóa
vật chất được bắt đầu và kết thúc trong lĩnh vực lưu
thông hàng hóa vật chất. Từ đặc điểm này đưa đến 2
50
kết quả: thứ nhất, thị trường lao động liên kết xung
quanh mình các thị trường khác nhau; thứ hai, tiền
công lao động thực tế được thực hiện tương ứng với
kết quả cuối cùng, có nghĩa là với giá sản phẩm mà
lao động đó làm ra. Điểm này đặt cầu sức lao động
phụ thuộc vào cầu hàng hóa và dịch vụ cuối cùng.
+ Đối với người lao động, vấn đề quan trọng
không chỉ là tiền công và tiền lương, mà còn là nội
dung và điều kiện lao động, bảo đảm duy trì chỗ làm
việc, tương lai công việc và triển vọng thăng tiến
trong nghề nghiệp, bầu không khí làm việc trong tập
thể và quan hệ giữa người lao động với người thuê
lao động...
1.1.2. Nguồn nhân lực ngành Du lịch
1.1.2.1. Các khái niệm cơ bản về Du lịch:
Du lịch là một ngành kinh tế có tốc độ phát
triển nhanh chóng và mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu.
Từ chỗ ban đầu là hoạt động mang tính tâm linh của
giới quý tộc, tầng lớp thượng lưu, đến nay du lịch
đã trở thành một hiện tượng phổ biến và là nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống của mọi người dân. Du
lịch phát triển góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho
các quốc gia và giải quyết nhiều công ăn việc làm
51
cho xã hội; thúc đẩy sự phát triển của các ngành có
liên quan như xây dựng, thương mại, sản xuất hàng
tiêu dùng, bảo hiểm, giao thông vận tải, bưu chính -
viễn thông... Hiện nay, hằng năm trên toàn cầu trung
bình có trên 900 triệu lượt người đi du lịch. Con số
này sẽ đạt hơn 1 tỉ vào năm 2010 và 1,6 tỉ vào năm
2020, trong đó 60% dòng khách đi du lịch có mục đích
tìm hiểu nền văn hóa khác so với nền văn hóa nơi họ
sinh sống. Theo thống kê của Tổ chức Du lịch thế
giới (UNWTO) năm 2008, lượng khách du lịch quốc tế
trên toàn cầu đạt 922 triệu, du lịch toàn cầu đã đem
lại nguồn thu tới 944 tỉ USD, tạo việc làm cho trên
300 triệu người [55]. Du lịch đã trở thành ngành
kinh tế quan trọng bậc nhất thế giới, xuất khẩu du
lịch chiếm khoảng 30% xuất khẩu dịch vụ thương mại
thế giới và 6% tổng xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
“Với tư cách là ngành xuất khẩu, hiện nay du lịch đã
vươn lên đứng vị trí thứ 4 sau ngành nhiên liệu, hoá
dầu và sản xuất ô-tô” [21, Tr 5-6].
Vì hiệu quả to lớn đó, nhiều nước trên thế giới
đã chọn Du lịch là ngành ưu tiên phát triển số 1
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
mình. Hội nghị Bộ trưởng Du lịch thế giới năm 1994
52
tại Osaka (Nhật Bản) đã khẳng định: “Du lịch là
nguồn lớn nhất tạo ra GDP và việc làm của thế giới,
chiếm tới 1/10 mỗi loại, đồng thời đầu tư cho Du
lịch và các khoản thu từ thuế liên quan tới Du lịch
tương ứng cũng tăng cao. Những sự gia tăng này cùng
với các chỉ tiêu khác của Du lịch dự đoán sẽ tiếp
tục tăng trưởng một cách vững chắc và như vậy Du
lịch sẽ là đầu tàu kéo nển kinh tế thế giới trong
thế kỷ 21”.
Mặc dù hoạt động du lịch có nguồn gốc hình thành
từ lâu và phát triển với tốc độ rất nhanh, nhưng
khái niệm “du lịch” lại được hiểu rất khác nhau, như
Giáo sư, Tiến sỹ Berneker nhận định “Đối với du
lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy
nhiêu định nghĩa”[31, Tr 6]. Lý do chính của hiện
tượng này là mãi đến thế kỷ thứ 19, du lịch mới trở
thành một hiện tượng đại chúng nên khoa học du lịch
ra đời muộn hơn so với một số ngành khoa học khác;
tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau của các tác
giả và do tính chất đặc thù của hoạt động du lịch.
Thuật ngữ Du lịch trong ngôn ngữ nhiều nước bắt
nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa đi một vòng. Thuật
ngữ này được La tinh hoá thành tornus và sau đó thành
53
tourisme (tiếng Pháp), tourism (tiếng Anh) [40, tr 6-
7].
Cho đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm Du lịch, có những tác giả tập trung giải
thích du lịch như một hiện tượng di chuyển, lưu trú
ngoài nơi cư trú thường xuyên; nhóm khác lại tập
trung vào bản thân du khách và khía cạnh kinh tế của
Du lịch.
Giáo sư, tiến sĩ Hunziker và giáo sư, tiến sĩ
Krapf – Hai người được coi là đặt nền móng cho cho
lý thuyết về cung du lịch đưa ra định nghĩa như sau:
“Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện
tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú
của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú
đó không thành cư trú thường xuyên và không dính
dáng đến hoạt động kiếm lời” [31, tr 13].
Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), một tổ chức
thuộc Liên Hiệp Quốc, đưa ra định nghĩa: “Du lịch
bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du
hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và
tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi,
giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và
những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục
54
nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống
định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích
chính là làm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ
ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi
định cư.”
Hội nghị quốc tế về du lịch và lữ hành được tổ
chức ở Ottawa, Canada vào tháng 6/1991 đã thống nhất
đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch bao
gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành,
tạm trú, với mục đích tham quan, khám phá hoặc với
mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục
đích kinh doanh và những mục đích khác nữa, trong
thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên
ngoài môi trường sống định cư.”
Ngành Du lịch Việt Nam có lịch sử phát triển 50
năm, nhưng chỉ thực sự phát triển nhanh vào những
năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Nếu so sánh
với các ngành kinh tế khác, Du lịch được xếp vào một
trong những ngành mới. Do đó, hệ thống các thuật
ngữ, khái niệm cơ bản của ngành Du lịch chỉ mới được
chuẩn hoá trong thời gian gần đây.
Trước khi Luật Du lịch được Quốc hội nước Cộng
hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2005, ở
55
nước ta khái niệm “du lịch” cũng được hiểu theo
nhiều cách khác nhau, tuỳ thuộc cách tiếp cận mỗi
tác giả. Từ khi có Luật Du lịch, khái niệm du lịch ở
nước ta được sử dụng tương đối thống nhất theo cách
giải thích thuật ngữ của Luật. Luật Du lịch giải
thích khái niệm du lịch như sau: “Du lịch là các hoạt động
có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường
xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí,
nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [22 . tr, 10].
Đây là một định nghĩa súc tích, mang tính khái
quát, bao hàm được cả 2 khía cạnh cơ bản của du lịch
là chuyến đi ngoài nơi cư trú với mục đích tham quan
nghỉ dưỡng và các hoạt động liên quan đến chuyến đi
đó. Do vậy, Luận án chọn cách định nghĩa này của
Luật Du lịch.
Luật Du lịch cũng giải thích một số thuật ngữ
liên quan khác của Du lịch như sau [22 . tr, 10-11]:
- Hoạt động du lịch: Là hoạt động của khách du
lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng
dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến
du lịch.
- Tài nguyên du lịch: Là cảnh quan thiên nhiên,
yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, công
56
trình lao động sáng tạo của con người với các giá
trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng
nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các
khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du
lịch.
- Tham quan: Là hoạt động của khách du lịch
trong ngày tới thăm nơi có tài nguyên du lịch với
mục đích tìm hiểu, thưởng thức những giá trị của tài
nguyên du lịch.
- Sản phẩm du lịch: Là tập hợp các dịch vụ cần
thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong
chuyến đi.
- Dịch vụ du lịch: Là việc cung cấp các dịch vụ
về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi
giải trí, thông tin hướng dẫn và những dịch vụ khác
nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
1.1.2.2. Nguồn nhân lực ngành Du lịch:
- Khái niệm:
Trong hoạt động du lịch, từ phía “cung du lịch”
có nhiều thành phần tham gia vào hoạt động phục vụ
khách du lịch là:
+ Tại các đầu mối giao thông: Một loạt các hoạt động
phục vụ khách du lịch đi qua bằng phương tiện giao
57
thông đường hàng không, đường bộ, đường sắt, đường
biển để đến điểm du lịch của họ được tổ chức tại hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật đặc thù như: sân bay,
nhà ga, mạng lưới đường xá, cảng, các kho nhiên
liệu, các phương tiện máy móc và sửa chữa,… Các dịch
vụ và phương tiện phục vụ khách du lịch bao gồm: nhà
hàng, quầy bar, cơ sở lưu trú, ngân hàng, viễn
thông, các cửa hàng bán lẻ, của hàng sách…, và hoạt
động của một số cơ quan quản lý nhà nước liên quan
đến phục vụ khách du lịch như: biên phòng, xuất nhập
cảnh, hải quan cũng được tổ chức tại đây.
+ Tại điểm đến du lịch:
a) Hoạt động của các doanh nghiệp phục vụ du
lịch tuyến trước hay các doanh nghiệp có giao dịch
trực tiếp với du khách bao gồm: Dịch vụ lưu trú -
khách sạn, nhà nghỉ, khu nghỉ mát; dịch vụ ăn uống -
nhà hàng, quán Bar; dịch vụ vui chơi giải trí - các
phương tiện thể thao, rạp hát, sòng bạc, công viên
giải trí, viện bảo tàng, các sự kiện và hoạt động lễ
hội; dịch vụ lữ hành, vận chuyển-các hãng lữ hành,
phòng bán vé hàng không, xe tuyến, tàu hỏa, tàu
thủy, taxi, xe cho thuê.
58
b) Hoạt động của các doanh nghiệp và dịch vụ hỗ
trợ du lịch tuyến sau bao gồm các doanh nghiệp cung
cấp hàng hóa và dịch vụ cho các doanh nghiệp phục vụ
du lịch tuyến trước như: công ty xây dựng, kiến
trúc, công ty quảng cáo, công ty bia rượu, nước giải
khát, công ty phát hành thẻ tín dụng, công ty vận
tải, thương mại bán buôn, bán lẻ hàng hóa, vệ sinh
môi trường, cung cấp điện , nước, kỹ thuật, sức
khỏe, y tế…
c) Hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước
chuyên ngành có liên quan đến hoạch định chính sách,
điều hành, kiểm soát, quản lý các dịch vụ phục vụ du
lịch như: cơ quan cấp phép, đăng ký kinh doanh, cơ
quan bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, cơ
quan quản lý rừng quốc gia, bảo tồn thiên nhiên, cơ
quan quản lý văn hóa…
d) Hoạt động của cộng đồng dân cư liên quan đến
phục vụ du lịch, như: các gia đình, cá nhân, các tổ
chức cộng đồng của dân tộc ít người tham gia quá
trình phục vụ khách du lịch một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp.
59
e) Hoạt động của các đơn vị đào tạo cung cấp
nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp du lịch tuyến
trước và tuyến sau.
Như vậy, xét một cách tổng quát, nguồn nhân lực
ngành Du lịch bao gồm toàn bộ lực lượng lao động
trực tiếp và gián tiếp liên quan đến quá trình phục
vụ khách du lịch. Do đó, khi đề cập đến khái niệm
nguồn nhân lực ngành Du lịch thì không chỉ đề cập
đến các lao động nghiệp vụ phục vụ khách một cách
trực tiếp mà còn cả các lao động ở cấp độ quản lý,
lao động làm công tác đào tạo và các lao động gián
tiếp khác phục vụ khách du lịch. Căn cứ vào mối liên
hệ với đối tượng lao động (khách du lịch), lao động
du lịch được chia thành hai nhóm: lao động trực tiếp
và lao động gián tiếp. Lao động trực tiếp bao gồm
những công việc trực tiếp phục vụ khách du lịch như
trong khách sạn, nhà hàng, lữ hành, các cửa hàng bán
lẻ phục vụ khách du lịch, cơ quan quản lý du lịch,…
Lao động gián tiếp bao gồm những công việc cung ứng,
hỗ trợ cho các hoạt động trực tiếp phục vụ khách du
lịch như: cung ứng thực phẩm cho khách sạn nhà hàng,
cung ứng hàng hoá cho các cửa hàng bán lẻ phục vụ
khách du lịch, các dịch vụ của Chính phủ hỗ trợ phát
60
triển du lịch, đào tạo nhân lực du lịch, xây dựng
khách sạn, sản xuất máy bay, các trang thiết bị phục
vụ khách du lịch… Tất nhiên các lao động trực tiếp
phục vụ khách du lịch bao giờ cũng có ảnh hưởng trực
tiếp và lớn nhất đến chất lượng dịch vụ, từ đó đến
chất lượng sản phẩm du lịch.
Từ những phân tích trên, nguồn nhân lực ngành Du lịch được
hiểu là lực lượng lao động tham gia vào quá trình phát triển du lịch,
bao gồm lao động trực tiếp và lao động gián tiếp.
Trong phạm vi nghiên cứu của Luận án này chỉ đề
cập đến lực lượng lao động trực tiếp trong ngành Du
lịch.
- Vai trò và đặc điểm của nguồn nhân lực ngành
Du lịch: Lực lượng lao động trong ngành Du lịch được
chia thành 3 nhóm với những vai trò khác nhau:
a) Nhóm lao động chức năng quản lý nhà nước về
du lịch, nhóm này có vai trò quan trọng trong việc
xây dựng chiến lược phát triển du lịch của quốc gia
và từng địa phương, tham mưu hoạch định chính sách
phát triển du lịch. Họ đại diện cho Nhà nước để
hướng dẫn, giúp đỡ tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp du lịch kinh doanh có hiệu quả; khiểm tra,
giám sát các hoạt động kinh doanh.
61
b) Nhóm lao động chức năng sự nghiệp ngành Du
lịch. Đây là bộ phận có trình độ học vấn cao, có
kiến thức chuyên sâu về ngành Du lịch, có chức năng
đào tạo, nghiên cứu khoa học về du lịch và có vai
trò to lớn trong việc phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch, tác động lớn đến chất lượng và số
lượng của nguồn nhân lực ngành Du lịch hiện tại và
trong tương lai.
c) Nhóm lao động chức năng kinh doanh. Nhóm lao
động này chiếm số lượng đông đảo nhất trong hoạt
động của ngành Du lịch và cần được nghiên cứu kỹ
lưỡng nhất.
Nhóm lao động chức năng kinh doanh có một số đặc
điểm riêng là:
+ Cơ cấu độ tuổi trẻ, tỷ lệ lao động nữ cao hơn so với lao động
nam: xuất phát từ tính đặc thù của ngành Du lịch đòi
hỏi phải có lực lượng lao động có sức khoẻ, trẻ
trung và nhanh nhẹn, nên hình thành lực lượng lao
động có cơ cấu độ tuổi trẻ. Nhiều lĩnh vực phục vụ
khách du lịch như lễ tân, bàn, bar, buồng đòi hỏi có
sự duyên dáng, cẩn thận và khéo léo của người phụ
nữ, vì vậy tỷ lệ lao động nữ thường cao hơn lao động
nam.
62
+ Không đồng đều về chất lượng và cơ cấu: Có sự phân bố
không đồng đều theo lãnh thổ và các nghiệp vụ du
lịch. Xuất phát từ tính định hướng tài nguyên rõ nét
của ngành Du lịch, các hoạt động du lịch thường diễn
ra tại các khu, điểm du lịch, những nơi có nhiều tài
nguyên du lịch và được đầu tư đồng bộ về hạ tầng, cơ
sở vật chất kỹ thuật ngành, vì vậy phần lớn lao động
đã qua đào tạo đều làm việc tại những khu du lịch,
trung tâm du lịch lớn, ở những khu vực còn lại
thường thiếu lao động.
Trong ngành Du lịch có nhiều công việc với yêu
cầu lao động giản đơn, không đòi hỏi phải đào tạo ở
trình độ cao mới thể hiện được, dẫn đến tình trạng
tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp phổ thông trung học
khá cao. Ngược lại, ở những bộ phận tiếp xúc trực
tiếp với khách du lịch, đội ngũ lao động thường được
trang bị đầy đủ các kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ,
giao tiếp và tỷ lệ thông thạo ngoại ngữ tương đối
cao.
+ Có sự biến động mạnh về số lượng theo thời gian trong năm:
Do ảnh hưởng của tính thời vụ du lịch các hoạt động
du lịch thường diễn ra sôi động trong một thời gian
nhất định của năm (còn gọi là mùa cao điểm), vào
63
thời điểm cao điểm của mùa du lịch, các doanh nghiệp
du lịch thường phải tuyển dụng thêm các lao động
thời vụ để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, phục vụ khách
của mình. Đến mùa thấp điểm, doanh nghiệp du lịch
chấm dứt hợp đồng lao động với những lao động thời
vụ.
Lực lượng lao động làm việc trực tiếp trong các
doanh nghiệp du lịch lại được chia thành 4 nhóm cơ
bản với vai trò và đặc trưng khác nhau trong quá
trình hoạt động kinh doanh du lịch:
a) Nhóm lao động chức năng quản lý chung: Nhóm này gồm
những người đứng đầu các đơn vị kinh tế cơ sở (doanh
nghiệp kinh doanh khách sạn, hãng lữ hành du lịch,
vận chuyển du lịch, là tổng giám đốc, giám đốc, phó
giám đốc hoặc các chức danh tương đương). Lao động
của người lãnh đạo trong lĩnh vực kinh doanh du lịch
có những điểm riêng biệt, bởi đối tượng, công cụ và
sản phẩm lao động của họ có tính đặc thù, thể hiện:
- Là loại lao động trí óc đặc biệt: Trong quá trình ra
quyết định và tổ chức thực hiện quyết định thể hiện
rõ nét nhất đặc điểm lao động trí óc của người lãnh
đạo trong lĩnh vực kinh doanh du lịch.
64
- Là loại lao động tổng hợp: Với tư cách là một nhà
chuyên môn, lao động của lãnh đạo là lao động của
người tìm kiếm nhân tài, sử dụng người giỏi, tổ chức
và điều hành công việc một cách trôi chảy cho mục
đích kinh doanh có hiệu quả cao. Với tư cách là nhà
hoạt động xã hội, người lãnh đạo trong kinh doanh du
lịch còn tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội
khác trong đơn vị và theo yêu cầu của địa phương,
ngành và đất nước (các tổ chức đoàn thể quần chúng,
các hiệp hội khoa học, kinh tế, kinh doanh, chính
trị, thể thao, văn hoá...).
Những đặc điểm trên đòi hỏi người lãnh đạo phải
được đào tạo chu đáo, bài bản, có bằng cấp quản lý
và quản lý du lịch.
b) Nhóm lao động chức năng quản lý theo các nghiệp vụ kinh tế:
Nhóm này bao gồm lao động thuộc phòng kế hoạch đầu
tư và phát triển; lao động thuộc phòng tài chính-kế
toán (hoặc phòng kinh tế); lao động thuộc phòng vật
tư thiết bị, phòng tổng hợp; lao động thuộc phòng
quản lý nhân sự... Nhiệm vụ chính của lao động
thuộc các bộ phận này là tổ chức hạch toán kinh
doanh, tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp, tổ chức
lao động, tổ chức các hoạt động kinh doanh, hoạch
65
định quy mô và tốc độ phát triển doanh nghiệp. Lao
động thuộc nhóm này có khả năng phân tích các vấn
đề, đang hoặc sắp xảy ra trong doanh nghiệp của
mình, các tác động của các biến số vĩ mô của nền
kinh tế, ảnh hưởng tới nhiệm vụ của mình hoặc doanh
nghiệp. Họ phải có khả năng “tổng hợp” tốt, việc
“phân tích” tình hình và nghiệp vụ của mỗi lao động
không giống nhau, nhưng kết quả cuối cùng của việc
“phân tích” đó phải cung cấp được “thông tin” cho
lãnh đạo xử lý và đề ra được quyết định quản lý đúng
đắn trong kinh doanh. Do đó, để có được những thông
tin này, mỗi lao động thuộc các bộ phận quản lý chức
năng đồng thời phải có khả năng biết “tổng hợp” vấn
đề. Bản tổng hợp vấn đề đòi hỏi phải chính xác, có
giá trị thực tiễn và có thể dùng để tham mưu cho lãnh
đạo. Lao động quản lý chức năng phải được đào tạo
theo đúng chuyên ngành và có những kiến thức, hiểu
biết về các lĩnh vực kinh doanh du lịch.
c) Nhóm lao động chức năng đảm bảo điều kiện kinh doanh của
doanh nghiệp du lịch: Lao động thuộc nhóm này gồm nhân
viên thường trực bảo vệ; nhân viên làm vệ sinh môi
trường; nhân viên phụ trách công tác sửa chữa điện
nước; nhân viên cung ứng hàng hoá; nhân viên tạp
66
vụ... trong các công ty, khách sạn hoặc các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch. Họ không trực tiếp cung
cấp sản phẩm và dịch vụ cho du khách. Nhiệm vụ chính
của họ là cung cấp những nhu yếu phẩm, phương tiện
làm việc cho những lao động thuộc các bộ phận khác
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đòi hỏi bộ phận lao
động này phải luôn trong tình trạng sẵn sàng nhận và
hoàn thành nhiệm vụ; có những quyết định kịp thời,
giải quyết tốt mọi công việc hàng ngày cũng như
những việc đột xuất; năng động và linh hoạt trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ.
d) Nhóm lao động trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách: Đây
là những lao động trực tiếp tham gia vào quá trình
kinh doanh du lịch, trực tiếp cung cấp dịch vụ và
phục vụ cho du khách. Nhóm lao động này rất đông
đảo, thuộc nhiều ngành nghề khác nhau và đòi hỏi
phải tinh thông nghề nghiệp. Trong khách sạn có lao
động thuộc nghề lễ tân; nghề buồng; nghề chế biến
món ăn; nghề bàn và pha chế đồ uống; Trong kinh
doanh lữ hành có lao động làm công tác điều hành
chương trình du lịch, marketing du lịch và đặc biệt
có lao động thuộc nghề hướng dẫn du lịch... Trong
ngành vận chuyển khách du lịch có lao động thuộc
67
nghề điều khiển phương tiện vận chuyển du lịch...
Các nghề trên lại được chi tiết hoá thành từng việc
cụ thể, phân công cho từng chức danh nghề nghiệp
khác nhau và số lượng tuỳ theo quy mô của các doanh
nghiệp mà có thể thêm bớt lao động ở các vị trí,
hoặc bố trí một người kiêm nhiều việc.
Kinh doanh du lịch là chủ yếu nhằm cung cấp các
dịch vụ và giải quyết các mối quan hệ giữa con người
với con người, nên đòi hỏi nhân viên phải có các kỹ
năng giao tiếp, sự thân thiện và hình thức hấp
dẫn... Đặc biệt, một số công việc trong ngành khách
sạn và nhà hàng tương tự như các hoạt động nội trợ
trong gia đình. Do các đặc điểm này, lực lượng phụ
nữ tham gia lao động trong ngành Du lịch thường
chiếm tỷ trọng cao.
Ngoài ra, kinh doanh du lịch nhằm thoả mãn nhu
cầu tiêu dùng của du khách về nhiều loại hàng hoá,
dịch vụ mang tính chất đơn lẻ hoặc tổng hợp (như các
tour du lịch trọn gói), ở bất cứ địa điểm nào và vào
bất kỳ thời gian nào. Các đặc điểm sản phẩm và tiêu
dùng du lịch này tạo ra nhiều loại công việc có thể
thu hút sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của
nhiều loại, nhiều bộ phận lao động trong xã hội. Do
68
đó, càng làm tăng khả năng cung (về số lượng) lao
động du lịch trên thị trường và sự tham gia lao động
trong ngành Du lịch là rất cao. Vấn đề này có ý
nghĩa rất lớn đối với các nước kém phát triển, vì
các nước này có nguồn lao động dồi dào và dân số
trong độ tuổi lao động nhưng lại có trình độ chuyên
môn thấp.
1.2. Phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
1.2.1. Khái niệm:
Thuật ngữ phát triển nguồn nhân lực gắn liền với
sự hoàn thiện, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
được thể hiện ở việc nâng cao trình độ giáo dục quốc
dân, trình độ kỹ thuật, chuyên môn, sức khoẻ và thể
lực cũng như ý thức, đạo đức của nguồn nhân lực.
Con người muốn tồn tại và phát triển cần phải
được thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu về sản phẩm
vật chất và tinh thần. Muốn sản xuất, con người phải
có cơ sở nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính,
nguồn lực công nghệ... và hợp thành các nguồn lực
cho sự phát triển, trong đó nguồn lực con người là
yếu tố cách mạng nhất và động nhất. Để có được những
sản phẩm đó con người phải tiến hành sản xuất ra
chúng. Chính bởi vậy, bản thân con người trở thành
69
mục tiêu của sự phát triển. Nhu cầu con người ngày
càng phong phú về số lượng và nâng cao về chất lượng
thì sản xuất càng được cải tiến để tạo ra những sản
phẩm phù hợp. Để thực hiện được việc đó, nguồn nhân
lực phải được phát triển. Nguồn lực con người như
vậy không chỉ là đối tượng mà còn là động lực của sự
phát triển.
Con người được xem là nguồn lực căn bản và có
tính quyết định của mọi thời đại. Trong các cách để
tạo ra năng lực cạnh tranh, thì lợi thế thông qua
con người được xem là yếu tố căn bản. Nguồn lực nhân
lực là yếu tố bền vững và khó thay đổi nhất trong
mọi tổ chức.
Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình
thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn
thiện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng
giai đoạn phát triển, nhất là trong bối cảnh dân số,
lao động và kinh tế của nước ta [3. Tr 85].
Phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch là tổng
thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện
pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho
nguồn nhân lực (trí tuệ, thể chất và phẩm chất tâm
70
lý – xã hội) làm gia tăng số lượng và điều chỉnh cơ
cấu nguồn nhân lực ngành Du lịch cho phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội và phát triển du
lịch trong từng giai đoạn phát triển.
Phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch bao hàm
quá trình đào tạo nhân lực về kiến thức chung liên
quan đến nghề nghiệp, kiến thức nghề nghiệp, kỹ năng
nghề nghiệp, văn hóa và sức khỏe nghề nghiệp.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành
Du lịch:
- Trình độ phát triển kinh tế và phát triển du lịch: Trình độ
phát triển kinh tế tạo nên nền tảng vật chất để giải
quyết các vấn đề về nguồn nhân lực. Ở những quốc gia
có trình độ kinh tế phát triển cao, mặt bằng chung
của đời sống nhân dân và các thiết chế xã hội đạt
mức cao, Nhà nước có điều kiện đầu tư giải quyết tốt
vấn đề giáo dục, đào tạo ngồn nhân lực, các chính
sách xã hội, do vậy chất lượng nguồn nhân lực cũng
được nâng cao.
Trình độ phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển du lịch và đến lượt mình,
trình độ phát triển du lịch sẽ quyết định đến số
71
lượng, chất lượng và xu thế phát triển của nguồn
nhân lực ngành Du lịch.
- Trình độ phát triển của giáo dục đào tạo: Giáo dục đào
tạo là yếu tố cấu thành quan trọng của phát triển
nguồn nhân lực; chất lượng của giáo dục đào tạo ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực, thông
qua giáo dục đào tạo các quốc gia hình thành nguồn
nhân lực của mình với trình độ đào tạo, cơ cấu ngành
nghề phù hợp với yêu cầu phát triển. Trình độ phát
triển của đào tạo du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng của nguồn nhân lực ngành Du lịch.
- Tốc độ gia tăng dân số: Ở những nước đang phát
triển, quy mô dân số lớn, tốc độ gia tăng cao chính
là lực cản đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế và
phát triển nguồn nhân lực. Tốc độ gia tăng dân số
cao gây sức ép lên các cơ sở hạ tầng xã hội, ảnh
hưởng đến việc hoạch định các chính sách xã hội của
nhà nước, trong đó có chính sách về giáo dục đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực. Để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cần hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số ở
mức hợp lý.
- Các chính sách kinh tế - xã hội vĩ mô: Các chính sách
kinh tế - xã hội vĩ mô của Nhà nước như chính sách
72
giáo dục đào tạo; chính sách tuyển dụng, sử dụng lao
động, lao động tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hộ
lao động... đều có tác động trực tiếp đến nguồn nhân
lực.
Chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước không
chỉ tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực mà còn
hạn chế các tác động tiêu cực đến sự phát triển của
nguồn nhân lực thông qua những công cụ điều tiết vĩ
mô.
Chính sách phát triển du lịch của Nhà nước tác
động đến sự phát triển du lịch, trong đó chính sách
đào tạo phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch.
- Các nhân tố tác động từ bên ngoài:
+ Toàn cầu hoá: Quá trình toàn cầu hoá đã thúc
đẩy cuộc chạy đua phát triển nguồn nhân lực tại các
quốc gia, khu vực trên thế giới. Toàn cầu hóa đã làm
cho các nền kinh tế phát triển nhanh chóng hơn và
trở thành một thị trường toàn cầu, tương tác và phụ
thuộc lẫn nhau, cạnh tranh gay gắt với nhau. Khả
năng cạnh tranh được quyết định bởi năng lực tạo ra
giá trị tăng thêm của các sản phẩm, dịch vụ và các
73
quá trình hoạt động của mỗi quốc gia và của từng
doanh nghiệp. Đóng góp chủ yếu vào điều này phụ
thuộc vào kiến thức và các kỹ năng của lực lượng lao
động. Trên thực tế, sự nghiệp giáo dục và đào tạo và
các kỹ năng của lực lượng lao động là vũ khí cạnh
tranh quan trọng trong thế kỷ XXI.
+ Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt
là công nghệ thông tin và truyền thông: Tiến bộ của
công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo ra những
thay đổi lớn trong các tổ chức và xuất hiện cách
thức thực hiện công việc mới. Nhiều ngành nghề mới,
công nghệ mới và phương thức quản lý mới xuất hiện,
đòi hỏi người lao động phải được trang bị những kiến
thức, kỹ năng mới để đảm nhận các công việc mới.
Những biến đổi trong các tổ chức cũng làm thay đổi
vai trò của người lao động, họ có nhu cầu trong việc
ra quyết định và thực sự cần thiết trong việc mở
rộng hơn các kỹ năng làm việc. Người nhân viên cần
bổ sung nhiều hơn các kỹ năng so với trước đây làm
việc với cấp bậc tổ chức chậm thay đổi với một chuỗi
mệnh lệnh rõ ràng với người nghĩ ở trên, còn người
làm ở phía dưới. Những điều này làm thay đổi mạnh mẽ
về chất đối với nguồn nhân lực.
74
+ Xu thế thay đổi về cách thức đi du lịch và các
nhu cầu trong khi đi du lịch: Kết cấu hạ tầng, đặc
biệt là hệ thống giao thông được cải thiện vượt bậc
cho phép khách du lịch rút ngắn thời gian đi lại,
tiếp cận đến nhiều điểm đến du lịch, tạo nên xu thế
khách du lịch rút ngắn thời gian lưu trú tại mỗi
điểm du lịch và thực hiện nhiều chuyến đi du lịch
đến các điểm đến du lịch khác nhau trong thời gian
trong năm.
Các dịch vụ du lịch được chia thành 2 nhóm chính
là nhóm dịch vụ chính (gồm ăn uống và lưu trú) và
nhóm dịch vụ bổ sung (nghỉ dưỡng, tham quan, tìm
hiểu, vui chơi giải trí, chăm sóc sức khoẻ, tham gia
các hoạt động thể thao, văn hoá - xã hội...). Cùng
với xu thế đi du lịch nhiều lần trong năm thì khách
du lịch ngày càng có nhu cầu nhiều hơn với các dịch
vụ thuộc nhóm dịch vụ bổ sung. Những thay đổi của
“cầu du lịch” đã làm thay đổi “cung du lịch” và qua
đó tác động trực tiếp, làm thay đổi sự phát triển
của nguồn nhân lực ngành Du lịch.
1.3. Quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch
75
Quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch là quá trình hoạch định, tổ chức
thực hiện và kiểm tra, đánh giá các hình thức,
phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Du lịch,
đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trong từng giai
đoạn phát triển.
1.3.1. Chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch:
Những chính sách vĩ mô phát triển nguồn nhân lực
ở các nước nói chung và nước ta nói riêng gồm: Chính
sách về giáo dục-đào tạo; chính sách bảo vệ - chăm
sóc sức khoẻ nguồn nhân lực và chính sách phát triển
thể dục thể thao cộng đồng.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch là một bộ phận trong hệ thống các chính sách
của Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực. Những
chính sách cơ bản phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch gồm:
- Chính sách về quản lý phát triển du lịch: Quy
định những tiêu chuẩn nghề nghiệp du lịch, chương
trình đào tạo chuyên ngành...
- Chính sách về giáo dục, đào tạo du lịch: Quy
định về cơ sở đào tạo du lịch, chương trình đào tạo,
76
tiêu chuẩn giáo viên, chế độ với giáo viên và học
viên, học phí...
- Chính sách thu hút và sử dụng lao động (quy
định chế độ làm việc , điều tiết quan hệ và điều
kiện lao động, chế độ dãi ngộ, bảo hiểm tiền
lương...),
- Chính sách đặc thù (chính sách phát triển
nguồn nhân lực khu vực quản lý nhà nước),
- Chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học
- công nghệ, chính sách phát triển đội ngũ doanh
nhân.
1.3.2. Nội dung quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch:
Quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch bao gồm các nội dung sau:
- Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch:
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
giữ một vị trí hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của ngành Du lịch, nó là sự cụ thể hoá đồng
thời là mục tiêu, động lực của chiến lược phát triển
ngành Du lịch. Ở nước ta, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du
lịch là cơ quan duy nhất có chức năng hoạch định
77
chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
trên phạm vi toàn quốc.
Những tiêu chí cơ bản cần có của chiến lược phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch gồm số lượng
nguồn nhân lực cần có, tỷ lệ lao động được đào tạo,
cơ cấu trình độ và cơ cấu lao động giữa các ngành
nghề thuộc ngành Du lịch. Chiến lược phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch trên phạm vi toàn quốc
cần được cụ thể hoá thông qua chiến lược phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch ở các địa phương.
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch là cơ sở để xây dựng các kế hoạch, chương trình phát
triển nguồn nhân lực ngành D u lịch trên phạm vi toàn quốc;
chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch, các
chương trình, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch ở từng địa phương, vùng miền, khu vực.
- Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tạo
hành lang pháp lý cho phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch: Cơ
quan quản lý nhà nước về du lịch cùng các cơ quan có
liên quan khác sử dụng công cụ pháp luật và các
chính sách vĩ mô tác động vào các mối quan hệ sản
xuất, quan hệ lao động và quản lý để điều chỉnh,
78
định hướng cho sự phát triển của nguồn nhân lực
ngành Du lịch phù hợp với mục tiêu phát triển.
Hệ thống các văn bản pháp lý điều chỉnh sự phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch do nhiều cơ quan
khác nhau ban hành. Vấn đề là những văn bản này phải
được tập hợp trong một thể thống nhất, giải quyết
được những nội dung quản lý giao thoa, tránh tình
trạng chồng chéo, phủ định lẫn nhau và phải tạo được
cơ chế phối hợp, lồng ghép các nội dung liên quan
đến phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch.
- Xây dựng và ban hành các chính sách về tuyển dụng lao động
trong ngành Du lịch: Chính sách quản lý nhà nước đối với
tuyển dụng lao động trong ngành Du lịch có nhiều nội
dung, trong đó xây dựng hệ thống tiêu chuẩn nghiệp
vụ, tiêu chuẩn chức danh cho lao động ngành Du lịch
là một nội dung có ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho
các cơ quan, doanh nghiệp du lịch có căn cứ để nhận
xét, đánh giá, bố trí tuyển chọn lao động vào làm
việc trong ngành du lịch, đảm bảo quyền lợi và nghĩa
vụ cho cả người lao động và người sử dụng lao động.
Hệ thống tiêu chuẩn nghiệp vụ, tiêu chuẩn chức
danh cho lao động ngành Du lịch cần tính đến đặc
79
điểm lao động và cơ cấu lao động của ngành Du lịch
để tuyển dụng được đội ngũ lao động phù hợp.
Nhà nước, ngoài việc ban hành hệ thống tiêu chuẩn
nghiệp vụ, tiêu chuẩn chức danh cho lao động ngành Du
lịch, còn cần phải thường xuyên thực hiện công tác kiểm
tra giám sát, tránh tình trạng tuyển dụng và sử dụng lao
động một cách tuỳ tiện, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho
người lao động, đồng thời tạo điều kiện cho du lịch phát
triển bền vững.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch: Xây dựng và hoàn thiện các chính
sách về giáo dục đào tạo, đào tạo du lịch, thu hút
và sử dụng lao động. Ban hành, hướng dẫn thi hành
các chính sách đảm bảo lợi ích vật chất và động viên
tinh thần đối với lao động ngành Du lịch. Ban hành
quy chế về thu hút, tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ
nguồn nhân lực ngành Du lịch.
- Mở rộng quan hệ hợp tác, thúc đẩy sự giao lưu hợp tác về
nguồn nhân lực ngành Du lịch giữa các vùng miền và các quốc gia:
Giao lưu hợp tác về nguồn nhân lực là một trong
những biện pháp nhanh nhất khắc phục những mâu
thuẫn, bất hợp lý của nguồn nhân lực ngành Du lịch,
quá trình này không chỉ phát huy thế mạnh của mỗi
80
vùng miền mà còn giúp thay đổi phong cách, thói
quen, tinh thần kỷ luật và đổi mới tiêu chí đánh giá
chất lượng nguồn nhân lực ngành Du lịch, tạo mặt
bằng chất lượng nguồn nhân lực thống nhất giữa các
vùng miền và các quốc gia.
- Hoàn thiện bộ máy tổ chức, chỉ đạo thực hiện đưa các chiến
lược chính sách phát triển nguồn nhân lực vào cuộc sống: Đây là
một trong những nội dung quan trọng nhất của công
tác quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch. Việc tổ chức thực hiện phụ thuộc
rất nhiều vào tổ chức bộ máy, cách thức tiến hành và
các nguồn lực để phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch. Để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về du
lịch, cần tăng cường bộ máy quản lý nhà nước về du
lịch đủ mạnh từ Trung ương đến địa phương, bổ sung
thêm lực lượng, tăng cường chất lượng của đội ngũ
cán bộ làm công tác quản lý.
Công tác thanh kiểm tra tình hình thực hiện cần
được tiến hành thường xuyên, liên tục để có những
điều chỉnh kịp thời, đảm bảo các chiến lược, chính
sách phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch thực sự
đi vào cuộc sống, phù hợp với nhu cầu phát triển
ngành Du lịch.
81
1.3.3. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch ở nước ta giai đoạn hiện nay:
Theo lý thuyết về khoa học quản lý thì hệ thống
tổ chức quản lý phát triển nhân lực ngành Du lịch
bao gồm chủ thể và khách thể quản lý, được phân cấp
theo thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ và vai trò, vị
trí của mỗi nhân tố trong hệ thống quản lý. Tuy
nhiên, việc phân định giữa chủ thế và khách thể quản
lý rất khó khăn, bởi lẽ chủ thể quản lý cũng đồng
thời có thể là khách thể quản lý và ngược lại.
1.3.3.1. Hệ thống quản lý phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
hiện nay ở nước ta :
- Ở Trung ương: Tổ chức quản lý về phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch được phân thành các đầu mối
quản lý do các cơ quan quản lý nhà nước đảm nhiệm, ở
nước ta có Bộ Giáo dục - Đào tạo quản lý nhà nước về
giáo dục đào tạo, trong đó có giáo dục đào tạo du
lịch; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có chức
năng quản lý nhà nước về lao động và đào tạo nghề;
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có chức năng quản lý
nhà nước về du lịch.
Nhà nước Trung ương giữ vai trò định hướng và
tạo các nguồn lực, điều kiện cho sự phát triển nguồn
82
nhân lực xã hội nói chung, nguồn nhân lực ngành Du
lịch nói riêng.
- Ở địa phương: Theo phân cấp quản lý, các cơ quan
quản lý nhà nước liên quan đến phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch ở địa phương gồm: UBND tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương với các cơ quan chuyên môn
là: Sở VH,TT&DL, Sở GD&ĐT, Sở LĐTB&XH, Sở Nội vụ;
chính quyền địa phương các cấp và các phòng đào tạo
trực thuộc.
Chính quyền địa phương giữ một vai trò hết sức
quan trọng đối với sự phát triển nguồn nhân lực.
Chính quyền địa phương cụ thể hoá các chủ trương,
chính sách phát triển nguồn nhân lực của Nhà nước
thành những quy định cụ thể, áp dụng trong việc phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch ở địa phương phù
hợp với điều kiện thực tiễn; thu hút, quản lý sử
dụng nguồn nhân lực ngành Du lịch; quản lý các cơ sở
đào tạo nguồn nhân lực (trừ các cơ sở đào tạo cấp
đại học do bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý).
- Cấp cơ sở: Là bộ phận quản lý phát triển nguồn
nhân lực của mỗi tổ chức, đơn vị hoạt động trong
lĩnh vực du lịch (thường là Phòng tổ chức hành hành
chính, tổ chức nhân sự). Cấp cơ sở có tác động đến
83
sự phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch của mỗi
đơn vị kinh doanh du lịch và do vậy, có vai trò nhất
định tác động đến sự phát triển chung của nguồn nhân
lực ngành Du lịch.
- Hệ thống đối tác: Là những cơ sở đào tạo, đơn vị
nghiên cứu thường xuyên cung cấp dịch vụ đào tạo,
nghiên cứu phục vụ cho việc phát triển nguồn nhân
lực của ngành Du lịch, bao gồm đào tạo mới và đào
tạo lại, bồi dưỡng theo nhu cầu xã hội và yêu cầu
của các tổ chức, đơn vị trong ngành Du lịch. Hệ
thống đối tác này giữ vai trò quan trọng đối với
chất lượng của nguồn nhân lực ngành Du lịch. Hiện
nay còn có khoảng cách khá xa giữa chất lượng đào
tạo và nhu cầu sử dụng, do đó cần tăng cường sự phối
kết hợp giữa hệ thống đối tác với bên sử dụng nguồn
nhân lực và chú trọng hơn nữa công tác đào tạo theo
nhu cầu.
- Đội ngũ chuyên gia, giáo viên, giảng viên: Là lực lượng
cung cấp dịch vụ tư vấn, kinh nghiệm, chất xám, thực
hiện việc giảng dạy, huấn luyện, trực tiếp tác động
vào quá trình nâng cao năng lực cho người học. Cùng
với hệ thống đối tác, đội ngũ chuyên gia, giáo viên,
84
giảng viên cũng giữ vai trò quan trọng đối với chất
lượng của nguồn nhân lực ngành Du lịch.
Trong hệ thống quản lý phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch phải kể đến vai trò của đội ngũ làm
công tác phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch từ
việc cụ thể hoá chính sách của nhà nước, hoạch định
chính sách và tổ chức thực hiện các hoạt động phát
triển nguồn nhân lực của ngành Du lịch, bao gồm:
+ Đội ngũ làm công tác phát triển nguồn nhân lực
và liên quan của cơ quan quản lý nhà nước về du
lịch, là cán bộ làm công tác phát triển nguồn nhân
lực của Tổng cục Du lịch, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch.
+ Đội ngũ làm công tác phát triển nguồn nhân lực
và liên quan của các Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch
ở địa phương.
+ Đội ngũ làm việc trong bộ máy hoạt động của các
cơ sở đào tạo du lịch.
+ Đội ngũ chuyên gia, giảng viên, giáo viên,
huấn luyện viên trong các cơ sở đào tạo du lịch, các
tổ chức, đơn vị kinh doanh du lịch.
1.3.3.2. Nội dung phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch ở nước ta
85
Yêu cầu về nguồn nhân lực ngành Du lịch ngày
càng cao, đặc biệt yêu cầu về chất lượng, kỹ năng
nghiệp vụ, trình độ quản lý, ngoại ngữ, cũng như cơ
cấu lao động hợp lý. Thực tế đó đòi hỏi ngành Du
lịch phải có khung chính sách và chiến lược phát
triển nguồn nhân lực phù hợp với mục tiêu chung của
chiến lược phát triển du lịch. Các nước có du lịch
phát triển đều quan tâm vấn đề này và đầu tư cho
việc nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực. Nhằm tăng
cường hiệu quả cho việc hoạch định chính sách và xây
dựng chương trình phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch dài hạn, công tác quản lý nhà nước về du lịch
phải chú trọng hơn nữa đến kế hoạch hóa phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch.
Quá trình hội nhập kinh tế thế giới là một quá
trình giao lưu, trao đổi giữa Việt Nam và các nước
trên thế giới về hàng hoá, dịch vụ, tiền tệ, công
nghệ mới, nguồn nhân lực... theo hai chiều ra, vào.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài và công nghệ mới vào
Việt Nam kéo theo công việc làm, các nghề mới, kinh
nghiệm và kỹ năng quản lý... Những diễn biến này tác
động trực tiếp vào nguồn nhân lực và phát triển
nguồn nhân lực của Việt Nam. Đồng thời, quá trình
86
hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi hàng hoá, dịch vụ
của Việt Nam phải có sức cạnh tranh trên thị trường
thế giới.
Nhằm có được nguồn nhân lực ngành Du lịch đáp
ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn hiện nay, các
nội dung phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch cần
được tiến hành là:
- Tổng điều tra nguồn nhân lực ngành Du lịch
trong toàn quốc; tham gia, góp phần kiện toàn các vụ
chức năng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
của cơ quan quản lý du lịch và các đơn vị sự nghiệp
của ngành;
- Ban hành hệ thống tiêu chuẩn chức danh ngành
Du lịch làm cơ sở cho công tác đào tạo du lịch;
- Xây dựng và tập huấn triển khai quy trình đào
tạo lại, bồi dưỡng nâng cao năng lực lao động ngành
Du lịch và xây dựng chương trình khung đào tạo lại,
bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ
cho lao động trong các cơ sở lưu trú du lịch; triển
khai các hội nghị đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du
lịch; và tổ chức bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước về du lịch cho cán bộ quản lý du lịch.
87
- Xây dựng và ban hành các chính sách nhằm hoàn
thiện và nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực, làm
gia tăng số lượng và điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân
lực ngành Du lịch cho phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội và phát triển du lịch trong từng
giai đoạn phát triển.
1.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
1.4.1. Thái Lan:
Chính phủ Thái Lan luôn coi việc phát triển
nguồn nhân lực là một trong các vấn đề ưu tiên hàng
đầu trong kế hoạch phát triển quốc gia. Kế
hoạch phát triển du lịch tập trung giải quyết nhóm
vấn đề về giáo dục nghề nghiệp du lịch xuất phát từ
yêu cầu nhiệm vụ của ngành Du lịch Thái Lan.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội lần 1
(1961-1967) đã nhấn mạnh việc phát triển kinh tế
quốc gia chỉ có thể đạt được khi có sự chuẩn bị sẵn
sàng nguồn nhân lực được giáo dục, đào tạo, dạy
nghề. Kế hoạc lần 2 (1967-1971) đặt phát triển công
nghiệp lên ưu tiên hàng đầu và nhấn mạnh đào tạo về
kỹ thuật, nông nghiệp, khoa học và y khoa. Kế hoạch
lần 3 (1972-1976) một lần nữa công bố sự chú trọng
88
của Chính phủ trong đào tạo kỹ sư, các nhà khoa học,
bác sỹ, y tá và giáo viên. Kế hoạch lần 4 (1977-
1981) và lần 5 (1982-1986) với sự cam kết tiếp tục
tăng cường phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực
kỹ thuật và công nghệ; đáng lưu ý là sự bùng nổ kinh
tế bắt đầu vào cuối năm 1980. Kế hoạch lần 6 (1987-
1991) đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lĩnh
vực phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch.
Kế hoạch lần 7 (1992-1996) nhằm chuẩn bị để Thái
Lan trở thành một nước công nghiệp mới thì "nguồn
nhân lực có chất lượng" được coi là một điều kiện
tiên quyết và được đưa lên hàng đầu trong các danh
mục phát triển.
Kế hoạch lần 8 (1997-2001) vẫn duy trì tầm quan
trọng của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp
hoá. Kế hoạch cũng nhằm nâng cao nhận thức của xã
hội về phát triển nguồn nhân lực và phát triển bền
vững. Phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch phải
được tăng cường thêm một bước.
Chính sách về phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch được thực hiện nhằm phục vụ quá trình công
nghiệp hoá ở Thái Lan, được thực hiện bằng những
chương trình chủ yếu sau: Tăng cường giáo dục dạy
89
nghề và kỹ thuật nghiệp vụ du lịch; nhấn mạnh việc
đào tạo kỹ năng thực hành, phục vụ du lịch; khuyến
khích đào tạo nội bộ (đào tạo tại doanh nghiệp du
lịch); Các chương trình trợ giúp của nước ngoài
trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch.
Ở Thái Lan, các chương trình phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch được thực hiện với sự hợp tác
giữa Chính phủ và khu vực tư nhân. Quá trình hợp tác
này phản ánh sự liên kết giữa giáo dục và đào tạo
nghề, liên kết giữa các hệ thống trường học và nhà
máy. Có sự liên kết giữa Chính phủ và thành phần tư
nhân, trường tư trong các lĩnh vực đào tạo nghề du
lịch
1.4.2. Nhật Bản:
Hệ thống phát triển nguồn nhân lực ở Nhật Bản
được gọi là hệ thống phát triển nhân lực suốt đời.
Việc phát triển nguồn nhân lực, được tiến hành từ
dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ đào tạo cơ
bản đến ứng dụng, thực hiện một cách liên tục và
phù hợp với các nhóm người lao động. Các hoạt động
này đảm bảo sự thăng tiến nghề nghiệp một cách vững
chắc theo thời gian, đồng thời làm cho người lao
90
động có được các năng lực thích ứng với những biến
đổi trong thị trường lao động.
Quá trình phát triển nhân lực ngành Du lịch được
thực hiện trong một hệ thống gồm ba hình thức đào
tạo công cộng, đào tạo doanh nghiệp và tự đào tạo.
Đào tạo tại doanh nghiệp du lịch tại Nhật Bản rất
được coi trọng. Đối với những nghề giản đơn, như
phục vụ buồng, giặt là, phục vụ nhà hàng... khâu
huấn luyện tại vị trí công việc là chính, đồng thời
có cơ chế khuyến khích tự học, tự vươn lên, học suốt
đời và gắn suốt đời với doanh nghiệp cộng đồng. Vai
trò của Chính phủ thể hiện rõ nhất trong đào tạo
công cộng, nhưng không chỉ giới hạn trong đó, mà còn
thể hiện qua các mối quan hệ với doanh nghiệp và
người lao động, cũng như qua việc xây dựng khuôn khổ
luật pháp, thể chế và kế hoạch nhằm hỗ trợ quá trình
phát triển năng lực của người lao động.
Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực: Bộ Lao động
chuẩn bị kế hoạch cơ bản làm cơ sở cho việc đào tạo
nghề nghiệp, kiểm tra tay nghề và phát triển các
năng lực nghề nghiệp khác phù hợp với đòi hỏi của
thị trường lao động, bảo đảm thoả mãn những yêu cầu
91
và nguyện vọng của người lao động trong một môi
trường thường xuyên biến đổi.
Hệ thống tổ chức quản lý phát triển nguồn nhân
lực ở Nhật Bản được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc
ở cả hai cấp độ quốc gia và địa phương (tỉnh). Cục
phát triển nguồn nhân lực thuộc Bộ Lao động Nhật Bản
chịu trách nhiệm toàn bộ về quản lý hệ thống phát
triển nhân lực và hợp tác quốc tế. Các tổ chức thực
hiện các hoạt động phát triển nhân lực mà Cục quản
lý và phối hợp có: 1) 47 trung tâm khuyến khích việc
làm và phát triển nguồn nhân lực ở 47 tỉnh và một hệ
thống các trường đào tạo thực hiện các dự án của
Chính phủ về phát triển nguồn nhân lực và khuyến
khích việc làm; 2) Các hội đồng phát triển nhân lực
và hệ thống các trường đào tạo thuộc chính quyền cấp
tỉnh; 3) Hội đồng khuyến khích năng lực nghề nghiệp
Nhật Bản (JVADA) chịu trách nhiệm chính trong việc
kiểm tra và đánh giá kỹ năng nghề nghiệp; 4) Trung
tâm phát triển nguồn nhân lực cho người tàn tật và
Hiệp hội quốc gia khuyến khích việc làm của những
người tàn tật.
Phát triển nguồn nhân lực ở khu vực tư nhân:
Hoạt động phát triển nguồn nhân lực được các công ty
92
lớn tiến hành tương đối độc lập. Các công ty thường
có cơ sở đào tạo và các chương trình phát triển nhân
lực một cách hệ thống.
Hệ thống phát triển nguồn nhân lực trong các xí
nghiệp Nhật Bản có những đặc điểm cơ bản: 1) Đào tạo
tại chỗ là hình thức chủ yếu, trong đó có đào
tạo tại chỗ chính thức (thường dành cho những người
mới vào nghề) và phi chính thức, được thực hiện
trong suốt cuộc đời làm việc của người lao động
thông qua kèm cặp và hướng dẫn của thợ lâu năm và
lành nghề đối với những người có tay nghề thấp hơn;
2) Nội dung của đào tạo tại chỗ phi chính thức rất
rộng, mang tính chất dài hạn và được thực hiện từng
bước, theo các giai đoạn và có hệ thống; 3) Đào tạo
tại chỗ được áp dụng rộng rãi trong các công ty lớn
và ở một phạm vi nhỏ hơn đối với các công ty vừa và
nhỏ; d) Đào tạo tại chỗ được bổ trợ bằng đào tạo
chuyên tu.
Tổ chức đào tạo tại các cơ sở công cộng: Chính
sách đào tạo nghề nghiệp công cộng hiểu theo nghĩa
rộng bao hàm cả những hỗ trợ cho đào tạo tại doanh
nghiệp và tự đào tạo của người lao động. Hệ thống
các cơ sở phát triển nhân lực này bao gồm các trung
93
tâm phát triển việc làm và nguồn nhân lực, các
trường cao đẳng và trung học dạy nghề.
Các hoạt động này bao gồm: đào tạo cơ bản cho
lớp trẻ là những người muốn trở thành công nhân có
tay nghề trong các xí nghiệp vừa và nhỏ; đào tạo
nâng cấp cho công nhân hạng trung trong các xí
nghiệp vừa và nhỏ; đào tạo cơ bản cho những người
khó tìm việc làm, bao gồm cả những người tàn tật;
đào tạo nghề mới cho những người mất việc do suy
thoái kinh tế; đào tạo lại cho phụ nữ khi họ muốn
tham gia thị trường lao động.
Các hoạt động phát triển nguồn nhân lực tại các
cơ sở của Nhà nước được thực hiện và điều phối chủ
yếu thông qua Tổ chức xúc tiến việc làm và phát
triển nguồn nhân lực Nhật Bản (EHDO), thành lập từ
năm 1951. Với số vốn khoảng 15 tỉ USD và ngân sách
hàng năm khoảng 7 tỉ USD, tổ chức này đã thực hiện
các dự án bằng tiền của Chính phủ dành cho khuyến
khích việc làm và phát triển nguồn nhân lực. Tổ chức
này có cơ sở ở mỗi tỉnh, cùng với các tổ chức do
chính quyền cấp tỉnh quản lý, tạo thành một mạng
lưới rộng khắp thực hiện các hoạt động phát triển
nguồn nhân lực một cách đa dạng. Chính phủ còn tổ
94
chức các hệ thống đào tạo qua vệ tinh và bất kỳ ai
có nhu cầu đều có thể đến tham dự tại các cơ sở công
cộng ở các trung tâm xúc tiến việc làm và phát triển
nguồn nhân lực công cộng.
Thúc đẩy phát triển năng lực nghề nghiệp một các
tự nguyện của người lao động: Phát triển năng lực
nghề nghiệp một cách tự nguyện. Người lao động tự
phát triển nhằm những mục đích khác nhau: 1) Thu
nhận thông tin và kỹ năng ở mức cao đối với nghề
nghiệp hiện tại; 2) Thu nhận kiến thức và kỹ năng để
đổi sang công việc ở mức cao hơn tại cùng xí nghiệp;
3) Thu nhận kiến thức và kỹ năng để chuyển sang làm
việc ở công ty khác.Theo một nghiên cứu điều tra thì
những người được hỏi cho biết họ tự phát triển thông
qua các lớp tại công ty (39,5%), dự các khoá đào tạo
tại cơ sở tư (27,7%), tham gia các khoá đào tạo tại
các cơ sở đào tạo công cộng (7,4%), dự các khoá học
từ xa (36%), dự các khoá học tại các trường đại học
và trường chuyên (2,9%) và các hình thức khác
(24,5%).
Chính phủ đã trợ cấp cho các hoạt động này dưới
hình thức trợ cấp phát triển nhân lực (từ 1/3 đến
1/2 mức chi phí hoạt động; 1/3 - 1/2 học phí); trợ
95
cấp những người tự phấn đấu, bao gồm học phí và trợ
cấp lương (1/4 lương tháng ở các công ty lớn và 1/3
với người lao động ở các công ty vừa và nhỏ).
Hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực:
Hợp tác kỹ thuật giữa các chính phủ được thực hiện
thông qua Hiệp hội hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA)
theo các hiệp định liên chính phủ, như: hợp tác
trong việc thành lập và vận hành các cơ sở đào tạo
nghề nghiệp ở nước ngoài, cử chuyên gia đi giúp đào
tạo nghề, thực hiện chương trình phát triển kỹ năng
quốc tế.
Hợp tác kỹ thuật thông qua hợp tác quốc tế, như
hợp tác phát triển nguồn nhân lực trong khuôn khổ
APEC và trong Chương trình châu Á - Thái Bình Dương
của Tổ chức Lao động Thế giới (APSDEP).
1.4.3. Cộng hoà Liên bang Đức:
Đầu tư cho giáo dục ở Cộng hoà Liên bang Đức rất
lớn, chiếm khoảng 5-6% thu nhập quốc dân, do đó các
điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và giáo viên cho
hệ thống giáo dục-đào tạo Cộng hoà Liên bang Đức rất
tốt so với các nước khác. Việc đóng góp để đầu tư
cho giáo dục, chủ yếu là từ ngân sách của chính
quyền địa phương (các bang).
96
Cộng hoà Liên bang Đức xác định mục tiêu của
giáo dục đại học và đào tạo nghề nghiệp nhằm cung
cấp nhân lực theo hướng thiên về khoa học, công nghệ
và nghề nghiệp cụ thể để đáp ứng nhu cầu phát triển
của lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong
nền kinh tế phát triển và cạnh tranh gay gắt.
Thông thường, người theo hướng học nghề bắt đầu
được đào tạo từ sau năm học lớp 9 hoặc lớp 10 hệ phổ
thông. Thời gian học nghề thường là 3 năm. ở tuổi
này, có tới 75% số người chọn con đường học nghề,
trong đó 3/4 là đi theo hệ thống đào tạo nghề theo
phương thức đào tạo tại xí nghiệp và trường học (gọi
là hệ thống song hành- Dual System), 1/4 còn lại học
tại các trường dạy nghề thuần tuý. Về nguyên tắc,
người học nghề theo hệ song hành không bắt buộc phải
có một trình độ văn hoá nào, nó được chấp nhận cho
mọi người trên 15 tuổi; do đó, chỉ có khoảng 15% số
người học nghề theo hệ thống này đã có bằng tú tài
(học hết lớp 12 hoặc 13). Các trường dạy nghề thường
được tổ chức và phân theo những ngành chính như: sản
xuất, thương mại, thủ công, nông nghiệp... Các
trường dạy nghề du lịch điển hình trong việc áp dụng
97
hệ thống song hành trong đào tạo nghề như Trường
Hotelberufschule Bavaria.
Phần lớn chi phí cho việc dạy nghề theo hệ thống
song hành là do các xí nghiệp đài thọ (87%), chi phí
này lớn gấp 2,8 lần ngân sách do Chính phủ chi cho
các trường dạy nghề. Lợi thế của hình thức đào tạo
này là do quá trình đào tạo có chất lượng cao cùng
với những tiêu chuẩn đào tạo linh hoạt và thích ứng
với nhu cầu của nền kinh tế; khuyến khích đề cao
tính độc lậo của người thợ trong việc lập kế hoạch,
thực hiện và kiểm soát công việc sau này.
Bên cạnh đào tạo nghề, việc bồi dưỡng, bổ túc
tay nghề cũng được tổ chức rộng rãi bởi một hệ thống
trường lớp đa dạng, hoạt động trên nguyên tắc thị
trường. Các xí nghiệp, hiệp hội cũng như các cơ sở
tư nhân và nhà nước cùng cạnh tranh bình đẳng trong
việc đáp ứng nhu cầu dạy nghề trong xã hội. Năm
1991, khoảng 21% số lao động tham gia vào đào tạo bổ
túc. Số tiền các xí nghiệp bỏ vào việc đào tạo bổ
tục cho nhân viên của họ lên đến 36,5 tỉ DM, gấp 1,5
lần số tiền dùng cho đào tạo cơ bản.
Ngoài hệ thống đào tạo nghề, Cộng hoà Liên bang
Đức rất chú trọng loại hình đào tạo kỹ sư thực hành.
98
Đối với đào tạo du lịch, tồn tại loại hình đào tạo
này thông qua hệ thống trường cao đẳng chuyên nghiệp
(Hotelberufschule hay Fachhochschule); đào tạo hướng
vào thực hành, triển khai vận dụng, có trình độ thấp
hơn kỹ sư đại học. Thời gian đào tạo của các ngành
khoa học kỹ thuật công nghiệp của các trường
Hotelberufschue là 4 năm, các ngành khác của trường
loại này có thời gian đào tạo ngắn hơn. Các trường kỹ
sư chuyên nghiệp Hotelberufschule ở Cộng hoà Liên
bang Đức hiện nay có trình độ đào tạo tương đối cao;
với thời gian đào tạo 4 năm thì những người tốt
nghiệp trường Hotelberufschule ở Đức hiện nay có
trình độ thực hành chuyên môn mạnh hơn so với các
nước khác.
Cộng hoà Liên bang Đức có nền giáo dục kỹ nghệ
tốt nhất. Nền giáo dục này đã tạo ra khả năng đáp
ứng, thích ứng rất linh hoạt và có chất lượng cao
với nền kinh tế phát triển. Hoa Kỳ, các nước châu Âu
chịu ảnh hưởng của loại hình giáo dục cao đẳng, đại
học ngắn hạn ở các ngành kỹ thuật này của Đức từ
cuối thế kỷ trước. Gần đây các nước Trung Đông và
châu Phi, châu Mỹ La-tinh và một số nước Đông Nam Á
cũng mở loại hình đào tạo này.
99
1.4.4. Một số bài học cho phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
ở Việt Nam và khu vực DHNTB và Tây Nguyên:
Từ kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ngành
Du lịch ở các nước nói trên có thể rút ra một số bài
học như sau:
- Bài học thứ nhất là tăng cường quản lý nhà nước đối với
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch: Ngành Du lịch là
ngành kinh tế dịch vụ, chất lượng của nguồn nhân lực
ngành Du lịch giữ vai trò quyết định đối với chất
lượng của sản phẩm và dịch vụ du lịch, qua đó quyết
định sự phát triển của ngành Du lịch. Nhà nước cần
đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục nghề
nghiệp, coi đó là chìa khoá cho thành công của sự
phát triển du lịch. Để phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch đáp ứng với yêu cầu phát triển cần
tăng cường công tác quản lý nhà nước về phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch thông qua những công cụ
như xây dựng và ban hành các chính sách phát triển;
xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển du lịch và
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch. Nhà nước
cần chủ động xây dựng hệ thống đào tạo du lịch cùng
hệ thống luật về giáo dục, luật dạy nghề, luật lao
động...
100
- Bài học thứ hai là phát huy vai trò của các bên có liên quan
trong phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch: Hầu hết các
nước đều đã chuyển vai trò của chính phủ, từ người
thực hiện chính sang vai trò tạo điều kiện là chính;
cùng với đó là phát huy tối đa vai trò của các cấp
chính quyền địa phương, thông qua việc tạo các cơ
chế và phân cấp mạnh hơn cho chính quyền địa phương.
Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh du lịch và
khu vực tư nhân tham gia đào tạo du lịch được thực
hiện theo cả hai hướng: hình thành cơ sở đào tạo
trong doanh nghiệp và thành lập các cơ sở đào tạo tư
nhân; phát huy vai trò của các hiệp hội nghề, tăng
cường liên kết giữa các địa phương và giữa các bên
có liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
ngành Du lịch là nhà nước, cơ sở đào tạo và doanh
nghiệp sử dụng lao động du lịch. Nhà nước cần thành
lập Hội đồng phát triển nguồn nhân lực để điều hành,
quản lý sự phát triển của hệ thống theo một quy
hoạch thống nhất.
- Bài học thứ ba là nguồn tài chính cho phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch: Nhà nước thành lập Quỹ phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch và trực tiếp cung cấp
tài chính, chủ yếu cho cấp giáo dục bắt buộc thông
101
qua phát triển và điều hành hệ thống trường công lập
và đóng góp một tỉ lệ ban đầu cho quỹ phát triển
nguồn nhân lực. Các doanh nghiệp du lịch đóng góp
bằng nộp thuế đào tạo, đóng góp cho quỹ phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch hoặc ký hợp đồng với
các cơ sở đào tạo. Nhìn chung, những cơ sở đào tạo
nghề nghiệp nói chung, cơ sở đào tạo du lịch nói
riêng đều hoạt động theo nguyên tắc bồi hoàn kinh
phí.
- Bài học thứ tư là cần xác định đào tạo du lịch là đào tạo
nghề, cần chuyển hướng sang đào tạo chuyên sâu, tăng cường kỹ
năng thực hành; đào tạo theo nhu cầu xã hội: Do tác động
mạnh mẽ của tiến bộ kỹ thuật và công nghệ trong bối
cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, các nước đều chuyển
hướng mạnh từ đào tạo đại trà sang đào tạo chuyên
sâu, chú trọng đến kỹ năng thực hành trong du lịch;
nhu cầu đào tạo du lịch phải bám sát nhu cầu của thị
trường lao động. Đối với đào tạo du lịch, hai mô
hình đang được áp dụng hiệu quả có thể vận dụng tốt
đó là đào tạo song hành theo mô hình của Đức và đào
tạo tại doanh nghiệp theo mô hình của Nhật Bản.
102
Tiểu kết chương 1:
Chương 1 giới thiệu hệ thống cơ sở lý luận về
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch và kinh
nghiệm của của một số quốc gia trong phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch
Hệ thống các khái niệm cơ bản được trình bày gồm
nguồn nhân lực, nguồn nhân lực ngành Du lịch, phát
triển nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch. Các đặc điểm đặc trưng của nguồn nhân
lực ngành Du lịch cũng đã được đề cập đến trong
chương này trong mối quan hệ với thị trường lao
động.
Công tác quản lý nhà nước đối với phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch là một trong các yếu tố
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực
ngành Du lịch. Do đề tài liên quan đến phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch, nên Luận án đã cố gắng
xác định những nội dung chính của quản lý phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch làm cơ sở cho các phân
tích, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch ở những
chương sau.
103
Chương 1 cũng đã nghiên cứu kinh nghiệm phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch của Thái Lan,
Nhật Bản và CHLB Đức. Thái Lan là một quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á, có điều kiện tương đồng với Việt
Nam, có ngành Du lịch phát triển, vì vậy nghiên cứu
kinh nghiệm của Thái Lan là phù hợp và khả năng áp
dụng vào thực tiễn Việt Nam là tương đối cao trong
thời gian trước mắt. Nhật Bản và CHLB Đức là các
nước công nghiệp phát triển, nên những kinh nghiệm
của họ có thể nghiên cứu áp dụng cho giai đoạn phát
triển dài hơn. Từ những kinh nghiệm đó, chương 1
luận án đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm để Việt
Nam và khu vực Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên
có vận dụng trong phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch.
104
Chương 2.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH
CÁC TỈNH KHU VỰC DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ
VÀ TÂY NGUYÊN GIAI ĐOẠN 2001 - 2009
2.1. Khái quát tình hình phát triển du lịch các tỉnh
khu vực duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên
2.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội các tỉnh khu
vực duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên:
2.1.1.1. Duyên hải Nam Trung Bộ:
Có nhiều quan điểm về phân vùng lãnh thổ cho khu
vực DHNTB. Theo Nghị định 92/2006/NĐ-CP, ngày
07/09/2006 của Chính phủ, lãnh thổ Việt Nam được
chia thành 6 vùng kinh tế xã hội: Vùng Trung du và
miền núi phía Bắc (15 tỉnh), vùng đồng bằng sông
Hồng (12 tỉnh), vùng duyên hải Trung Bộ và Nam Trung
Bộ (14 tỉnh), vùng Tây Nguyên (5 tỉnh), vùng Đông
Nam Bộ (6 tỉnh) và vùng đồng bằng sông Cửu Long (13
tỉnh). Các tỉnh, thành thuộc vùng Duyên hải Trung Bộ
và Nam Trung Bộ là: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hoà, Bình Thuận và Ninh thuận. Từ điển Bách khoa
Việt Nam, Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam đều xác
105
định Duyên hải Nam Trung Bộ (DHNTB) gồm 8 tỉnh thành
là Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh
Hòa, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận [44]. Tổng cục
Thống kê lại xếp Bình Thuận và Ninh Thuận vào Đông
Nam Bộ [43].
Du lịch là một ngành mang tính định hướng tài
nguyên rõ nét và có tính liên ngành liên vùng cao,
phân vùng du lịch dựa chủ yếu vào đặc điểm tài
nguyên du lịch, điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng
liên kết để tạo sản phẩm du lịch, do đó phân vùng du
lịch thường không trùng khớp với phân vùng kinh tế -
xã hội. Quy hoạch Tổng thể phát triển du lịch Việt
Nam giai đoạn 1995-2010 được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt năm 1995 xác định DHNTB bao gồm 5 tỉnh Bình
Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận.
Luận án này với đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực du
lịch, vì vậy dựa vào cách phân vùng của Quy hoạch
Tổng thể phát triển du lịch Việt Nam. Theo đó, khu
vực DHNTB gồm 5 tỉnh là Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận với diện tích là
27.486,2 km2 . Phía Đông giáp biển Đông, phía Bắc
giáp Quảng Ngãi, phía Tây giáp Tây Nguyên, phía Nam
giáp Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu. Dân số là
106
5.412.100 người (số liệu năm 2008). Mật độ dân số
197 người/km2.
DHNTB có lợi thế về vị trí và cơ sở hạ tầng: Nằm trên trục
giao thông đường bộ, sắt, hàng không và biển; nằm
gần trọng điểm kinh tế miền Trung và trọng điểm phát
triển kinh tế phía Nam, là cửa ngõ ra biển của khu
vực Tây Nguyên, của đường xuyên Á ra biển nối với
đường hàng hải quốc tế; có các cảng hàng không như
Phù Cát, Đông Tác, Nha Trang, Cam Ranh, trong đó sân
bay Cam Ranh đang được đầu tư trở thành sân bay quốc
tế; cùng hàng ngàn km đường bộ đường sắt. Về đường
biển có các cảng Nhơn Hội, Vân Phong, Nha Trang, Cam
Ranh với cơ sở hạ tầng tương đối hiện đại.
Kinh tế biển là thế mạnh lớn nhất của khu vực,
bao gồm nguồn lợi hải sản, vận tải biẻn trong nước
và quốc tế, các cảng nước sâu đảm bảo cho tàu có
trọng tải lớn vào được, có sẵn cơ sở hạ tầng để xây
dựng các khu công nghiệp tập trung gắn với cảng nước
sâu, làm cửa ngõ ra biển cho đường xuyên Á (Vịnh Vân
Phong được chọn là cảng trung chuyển container của
Việt Nam).
Thế mạnh về nhân lực: Dân số đông, nguồn lao động
dồi dào, trình độ dân trí cao, một bộ phận lao động
107
có kinh nghiệm về sản xuất công nghiệp, đánh bắt
thuỷ sản, thương mại và dịch vụ, bước đầu tiếp cận
được với sản xuất hàng hoá, nguồn lao động sẵn sàng
đáp ứng nhu cầu tại chỗ và hợp tác quốc tế về lao
động
Khu vực DHNTB có tài nguyên du lịch phong phú,
tập trung nhiều bãi biển đẹp như Quy Nhơn, Vân
Phong, Nha Trang, Cam Ranh, Ninh Chữ, Mũi Né; quanh
năm nắng ấm, hệ sinh thái biển đa dạng, có nhiều
suối nước nóng . Ngoài khơi có nhiều đảo lớn nhỏ,
với sự kết hợp hài hoà giữa núi và biển tạo nên
nhiều vịnh đẹp như Nha Trang, Vân Phong, Cam Ranh.
Khu vực này cũng là nơi giao thoa của 2 nền văn
hoá Chăm Pa và Đại Việt với sự tụ cư và quần cư của
nhiều tộc người: Kinh, Chăm, Bana, Cơho, Hrê,
Raglai, Êđê… Trong đó, tộc người Kinh có số dân đông
nhất, sau đến tộc người Chăm. Địa hình của vùng đa
dạng với biển xen lẫn núi đồi và đồng bằng. Do chiều
dài Bắc-Nam của khu vực khá lớn nên sự phân bố khí
hậu không đồng đều, nếu như Bình Định, Phú Yên, Nha
Trang có khí hậu nóng nhưng ôn hòa thì Bình Thuận,
đặc biệt là Ninh Thuận là vùng đất khô hạn nhất
nước. DHNTB được hình thành trên con đường phát
108
triển về phương Nam của các thế hệ người Việt. Vùng
đất này có một lịch sử hào hùng, vàng son rực rỡ
phát triển liên tục từ văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa
Chămpa, và tiếp nối, hòa nhập vào nền văn hóa Đại
Việt. Trong qúa trình phát triển, vùng đất này vẫn
còn thấm đẫm những giá trị truyền thống bản địa buổi
sơ khai.
Đến nay, du lịch DHNTB đã phát triển, nhưng chưa
đồng đều giữa các địa phương và vẫn chưa tương xứng
với tiềm năng vốn có của vùng. Trong xu thế mở cửa,
hội nhập, giao lưu quốc tế, vùng đã có những chủ
trương, chính sách thông thoáng kêu gọi và tạo điều
kiện thuận lợi đầu tư như một số khu du lịch: khu du
lịch Hầm Hô, Tân Thanh, Vĩnh Hội (Bình Định), khu du
lịch Vân Phong, Bắc Cam Ranh (Khánh Hòa), Ninh Chữ,
Cà Ná (Ninh Thuận)…
2.1.1.2. Tây Nguyên:
Khu vực Tây Nguyên nằm ở phía Tây Nam Việt Nam,
gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và
Lâm Đồng. Khu vực này có 3 nhóm địa hình chính là
địa hình núi cao trên 2.000 mét (Ngọc Linh ở phía
Bắc với độ cao 2.598m và Chư Yang Sin ở phía Nam với
độ cao 2.406m); địa hình cao nguyên (cao nguyên Kon
109
Plông, Kon Hà Nừng, Mdrak, Đắk Nông, Di Linh Plâyku,
Buôn Ma Thuột), tất cả các cao nguyên này đều được
bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi
cao (chính là Trường Sơn Nam); địa hình thung lũng
(cánh đồng An Khê, bình nguyên Ea súp, vùng trũng
Cheo Reo, Phú Túc). Tây Nguyên còn có nhiều sông
suối, là đầu nguồn của nhiều dòng sông chảy sang đất
Lào, Campuchia, xuống vùng Nam Trung Bộ và Đông Nam
Bộ (Pô Cô, Sa Thầy, Bla, Đắc Crông, Ia Jun, Ba, Đắc
Nhim…) và nhiều ngọn thác (Yaly, Đray, Hlinh) các hồ
nước như hồ Lắc, Suối Vàng, Biển Hồ.
Tây Nguyên có diện tích 54.640 km2, hiện còn
3.140 nghìn ha rừng các loại, trữ lượng gỗ 238,9
triệu m3, chiếm đến 31,9% diện tích rừng và 36,3%
trữ lượng rừng toàn quốc (trong đó rừng giàu chiếm
41,2%, rừng trung bình chiếm 51,2% so với tổng trữ
lượng rừng cùng loại của cả nước).
Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đá bazan ở độ cao
khoảng 500-600 mét so với mặt biển, Tây Nguyên rất
phù hợp với cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ
tiêu, dâu tằm. Cây điều và cây cao su cũng đang được
phát triển. Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số
một ở Tây Nguyên. Tây Nguyên cũng là vùng trồng cao
110
su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ. Tây Nguyên là khu
vực còn nhiều diện tích rừng với thảm sinh vật đa
dạng, trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa
khai thác và có tiềm năng du lịch lớn.
Khí hậu ở Tây Nguyên được chia làm hai mùa: mùa
mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 và mùa khô từ tháng
11 đến tháng 4, trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai
tháng nóng và khô nhất. Do ảnh hưởng của độ cao nên
trong khi ở các cao nguyên cao 400-500 m khí hậu
tương đối mát và mưa nhiều, riêng cao nguyên cao
trên 1.000 m (như Đà Lạt) thì khí hậu lại mát mẻ
quanh năm như vùng ôn đới.
Bảng 2.1. Dân số, diện tích và mật độ dân số củacác tỉnh
duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên
Các vùng
Dân số trung bình (Nghìnngười)
Diệntích(km2)
Mật độ dân số
(Người/km2
)Cả nước 86.210,8 331.150,4 260
Duyên Hải Nam Trung Bộ 5.412,1
27.486,2 197
111
- Bình Định 1.592,6 6.039,6 264- Phú Yên 8855 5.060,6 175- Khánh Hoà 1.162,1 5.217,6 223- Ninh Thuận 583,4 3.358,0 174- Bình Thuận 1.188,5 7.810,4 152Tây Nguyên
5.004,254.640,
3 92- Kon Tum 401,5 9.690,5 41- Gia Lai
1.188,515.536,
9 76- Đắk Lắk
1.777,013.125,
4 135- Đắk Nông 431,0 6.515,3 66- Lâm Đồng 1.206,2 9.772,2 123Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây nguyên 10.416,3 82.126,
5 127
Tỷ lệ % so với cả nước 12,08 24,80 48,78 Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2008. NXB Thống kê.
Về tộc người, Tây Nguyên có 2 bộ phận khác nhau
là những cư dân bản địa và những người đến cư trú
sau. Khối cư dân bản địa gồm nhiều tộc người, mỗi
tộc người lại gồm nhiều nhóm địa phương, phân chia
theo nhóm ngôn ngữ gồm: Các dân tộc thuộc nhóm ngôn
ngữ Môn Khơme (9 tộc người là Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho,
112
Mnông, Gié Triêng, Mạ, Brâu, Rơ Măm và Hrê), các dân
tộc thuộc nhóm ngôn ngữ malyo – Polinedia (4 tộc
người là Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru và Ra Glai).
Dân số của khu vực Tây Nguyên là hơn 5 triệu
người (số liệu thống kê năm 2008). Những năm qua tốc
độ tăng trưởng kinh tế của khu vực Tây Nguyên là
12,12%, trong đó khối Nông - Lâm - Thuỷ sản là 9%,
khối Công nghiệp - Xây dựng là 21,2%, khối dịch vụ
là 15,5%. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 2,85
triệu đồng năm 2001 lên 11,5 triệu đồng năm 2008.
Tính chung khu vực DHNTB và Tây Nguyên có tổng
dân số là 10,416 triệu người (số liệu năm 2008), tỷ
lệ dân trong độ tuổi lao động lớn, đủ để đáp ứng cho
nhu cầu tại chỗ, thậm chí phục vụ cả cho xuất khẩu
lao động.
2.1.2. Tài nguyên du lịch:
2.1.2.1. Duyên hải Nam Trung Bộ:
Tài nguyên du lịch của DHNTB phong phú và đa
dạng, nổi bật nhất chính là tài nguyên du lịch biển.
DHNTB là dải đất chạy dọc biển Đông, có đường bờ
biển dài gần 800 km. Các bãi biển, bãi tắm ở đây khá
đẹp, đã trở nên nổi tiếng không chỉ trong nước mà cả
với khu vực như Ghềng Ráng, Tuy Hoà, Vũng Rô, Vân
113
Phong, Dốc Lết, Nha Trang, Cam Ranh, Ninh Chữ, Cà
Ná, Phan Thiết – Mũi Né. Nổi bật là dải ven biển Nha
Trang - vịnh Vân Phong (Khánh Hoà), với vịnh Nha
Trang được chính thức xếp hạng là một trong 29 vịnh
đẹp nhất thế giới vào tháng 7/2003 và khu vực Phan
Thiết - Mũi Né (Bình Thuận), trong đó Phan Thiết
được công nhận là đô thị du lịch. Cam Ranh là vịnh
nước sâu tốt nhất của nước ta, trước đây được giao
cho quân đội quản lý phục vụ mục đích quốc phòng,
hiện nay được chuyển về phục vụ cho dân sự, mở ra
triển vọng rất lớn để phát triển thành một khu du
lịch có tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Đặc điểm của dải
ven biển và các bãi tắm của khu vực DHNTB là độ tinh
khiết của nước biển và độ mịn thoải của bãi cát
trắng, khí hậu nóng ấm quanh năm nên rất thuận tiện
cho việc tổ chức khai thác loại hình du lịch biển
với những sản phẩm du lịch độc đáo như: tắm biển,
lặn biển, tắm bùn, tắm nước khoáng nóng, và tham gia
các môn thể thao biển: nhảy dù, lướt ván, canoeing,
kayaking, bóng chuyền bãi biển.
DHNTB là vùng đất xa xưa của người Chăm, đến
nay, vùng đất này vẫn còn lưu dấu những dải tháp
Chăm thể hiện tín ngưỡng tâm linh và nghệ thuật kiến
114
trúc độc đáo. Trong đó nổi bật nhất là Tháp Bà (Tháp
Pô Nagar) - đền thờ Nữ thần mẹ xứ sở Pô Inư Nagar
của người Chăm. Tháp là công trình tiêu biểu cho
nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc của dân
tộc Chăm. Trên thân tháp đắp những tượng và phù điêu
bằng đất nung như thần Pô Nagar, thần Jênêxa, các
loài thú…
DHNTB cũng là vùng đất của những lễ hội của
người Chăm. Với những lễ hội như lễ hội Katê (tưởng
niệm đấng Cha), lễ hội ChaBun (tưởng niệm đấng Mẹ),
lễ hội Rija Nưga (tưởng niệm thần xứ sở và các thần
linh khác) cùng các nghi lễ múa linh thiêng, huyền
bí đã thu hút không chỉ cộng đồng người Chăm của
vùng đất này mà còn là điểm hẹn của du khách bốn
phương. Tài nguyên du lịch nhân văn của vùng không
đa dạng như một số vùng khác nhưng lại mang tính độc
đáo, hấp dẫn du khách với các loại hình du lịch như
du lịch tham quan, du lịch lễ hội, du lịch tâm linh…
2.1.2.2. Tây Nguyên:
Các tỉnh Tây Nguyên đều có tiềm năng du lịch khá
phong phú và đa dạng cả về tài nguyên du lịch tự
nhiên và nhân văn. Nói đến Tây Nguyên là nói đến núi
rừng hùng vĩ với những vườn quốc gia, khu bảo tồn
115
thiên nhiên như Tou Mơ Rông, Chư Mom Ray, Kon Ka
Kinh, Yokdon, nơi có hệ sinh thái đa dạng và quỹ
Gien được coi là lớn nhất của nước ta hiện nay. Điểm
nổi bật của tài nguyên du lịch tự nhiên khu vực Tây
Nguyên là hệ sinh thái rừng khộp (điển hình là vườn
quốc gia Yokdon) và hệ sinh thái núi cao (điển hình
là khu bảo tồn tự nhiên Ngọc Linh), có giá trị không
chỉ thu hút các nhà khoa học mà cả với những du
khách ưa thích thiên nhiên. Bên cạnh đó hệ thống các
hồ nước, thác nước rất nổi tiếng như Ealy, Biển Hồ,
Đa Nhim, Suối Vàng, Đray Sáp, Trinh Nữ, Gia Long, Ba
Tầng, Đăk G’Lun, Thác Liêng Nung… là nguồn tài
nguyên du lịch tự nhiên quý giá để phát triển loại
hình du lịch xanh ở khu vực Tây Nguyên.
Một thế mạnh khác rất đặc trưng của Tây Nguyên
là giá trị văn hoá bản địa đa dạng, đặc sắc mà tiêu
biểu là “Không gian Cồng Chiêng Tây Nguyên” đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của
thế giới. Các tộc người bản địa ở Tây Nguyên đều có
những nét văn hoá rất riêng của mình và vẫn còn được
bảo tồn gần như nguyên vẹn, thể hiện qua tập quán ăn
uống, nhà cửa và hình thái cư trú, trang phục, công
cụ dụng cụ, các lễ hội, văn học dân gian, ca múa
116
nhạc, nghệ thuật tạo hình trang trí dân gian, các
công trình kiến trúc, di sản văn hoá… Những giá trị
của văn hoá đặc sắc này có thể khai thác phục vụ du
lịch với mô hình đưa khách du lịch tham dự trực tiếp
và cảm nhận văn hoá dân tộc trong chính môi trường,
không gian văn hoá của họ.
Tây Nguyên có thế mạnh phát triển du lịch và
liên kết hoạt động du lịch với các khu vực khác, đặc
biệt là với miền Trung. Nằm trên trục nối liền các
“điểm đến” đầy hấp dẫn, các tỉnh, thành phố miền
Trung và Tây Nguyên đang tiến theo hướng đi đầy
triển vọng cho ngành công nghiệp không khói - liên
kết vùng trong phát triển du lịch. Do những yếu tố
địa lý, nhân văn, đặc trưng văn hóa mà tiềm năng du
lịch miền Trung - Tây Nguyên có sự gắn kết rất chặt
chẽ. Vì vậy, trong xu thế phát triển du lịch hiện
nay, việc liên kết giữa các tỉnh, thành phố ở khu
vực này là hướng đi đúng và đầy triển vọng. 14 tỉnh,
thành phố tại khu vực này, từ Thừa Thiên - Huế đến
Ninh Thuận và Tây Nguyên, đều có tiềm năng du lịch
rất lớn, phù hợp phát triển nhiều loại hình du lịch
như du lịch biển, sinh thái rừng, mạo hiểm, du lịch
hội nghị, hội thảo, nghỉ dưỡng và du lịch văn hóa.
117
Với những tuyến du lịch độc đáo như “Con đường di
sản miền Trung” hay “Con đường xanh Tây Nguyên”,
khách du lịch có dịp đi xuyên suốt các tỉnh, thành
phố trong vùng, thưởng thức những cảnh quan thiên
nhiên quyến rũ cùng những di sản văn hóa-lịch sử quý
giá như cố đô Huế cổ kính, phố cổ Hội An, khu di
tích Mỹ Sơn, Vịnh Nha Trang và tham gia những hoạt
động đầy hấp dẫn như cưỡi voi, săn thú trên cao
nguyên Lâm Viên, uống rượu cần và nghe kể sử thi Tây
Nguyên ở Đắk Lắk. Du khách cũng có nhiều sự lựa chọn
với các tour liên kết khu vực như tuyến “Đà Lạt -
Nha Trang: Lên rừng xuống biển” hay “Theo dấu chân
Yersin”.
2.1.2.3. Vị trí của các tỉnh khu vực duyên hải Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam”
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn
2001 - 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định số 97/2002/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm
2002 đã xác định không gian phát triển du lịch Việt
Nam gồm 3 vùng: Vùng du lịch Bắc Bộ, Vùng du lịch
Bắc Trung Bộ và Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Trong vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ, khu vực
Nha Trang - Ninh Chữ - Đà Lạt thuộc DHNTB và Tây
118
Nguyên được xác định là địa bàn hoạt động du lịch
chủ yếu với các dự án kết hợp giữa khu nghỉ biển và
núi. Trong việc phát triển địa bàn tăng trưởng này
cần gắn kết với các điểm tham quan, nghỉ dưỡng thuộc
khu vực DHNTB và Tây Nguyên với các cảnh quan vùng
ven biển Phú Yên, Khánh Hòa như Vũng Rô, Dốc Lết,
Bãi Tiên Đồng Đế (Nha Trang), Hòn Chũ, các bãi biển
như Ninh Chữ, Cà Ná (Ninh Thuận), Phan Thiết - Mũi
Né (Bình Thuận), các cảnh quan vùng núi và cao
nguyên thuộc một số tỉnh Tây Nguyên như Lâm Đồng,
Kon Tum, Đắk Lắk với các hệ sinh thái núi, hồ, thác,
hang động, thực vật rừng gắn với các di tích lịch
sử, văn hóa cách mạng. Sản phẩm du lịch đặc trưng
của vùng là du lịch tham quan, nghỉ dưỡng biển và
núi để khai thác thế mạnh du lịch của dải ven biển
Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Trong Dự án VIE 89/003 (do Tổ chức Du lịch Thế
giới - UNWTO, Chương trình Phát triển du lịch Liên
hiệp quốc - UNDP và Viện Nghiên cứu Phát triển du
lịch phối hợp thực hiện), các chuyên gia của Tổ chức
Du lịch Thế giới đánh giá khu vực DHNTB và Tây
Nguyên hội tụ đầy đủ các điều kiện để phát triển trở
thành một vùng du lịch độc lập (Lãnh thổ Việt Nam có
119
thể chia thành 4 vùng du lịch, trong đó khu vực
DHNTB và Tây Nguyên trở thành vùng du lịch số 3), đã
cho thấy sự đánh giá rất cao của các chuyên gia
quốc tế đối với khu vực này. Do điều kiện hạ tầng
còn nhiều bất cập, đặc biệt là chưa có cảng hàng
không quốc tế để đón khách du lịch quốc tế trực tiếp
từ các thị trường du lịch nguồn nên Quy hoạch Tổng
thể phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 1995-2010
tạm ghép khu vực DHNTB và Tây Nguyên vào vùng du
lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Tuy nhiên, dù ghép hay
đứng độc lập thành một vùng thì khu vực DHNTB và Tây
Nguyên vẫn luôn có vị trí hết sức quan trọng trong
chiến lược phát triển du lịch Việt Nam. Đây sẽ là
địa bàn hoạt động du lịch sôi động nhất của nước ta
trong thời gian tới.
2.1.3. Tổng quan về tình hình phát triển du lịch các tỉnh khu vực
duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên giai đoạn 2001- 2009:
2.1.3.1. Khách du lịch:
- Khách du lịch quốc tế: Những năm qua lượng khách
quốc tế đến các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên
tăng trưởng liên tục từ hơn 308 ngàn lượt khách năm
2001 lên trên 550 ngàn lượt khách năm 2005 tốc độ
tăng trưởng bình quân đạt 15,6%/ năm. Giai đoạn từ
120
sau 2006, do có sự đầu tư tương đối đồng bộ, nên
lượng khách du lịch, trong đó có lượng khách quốc tế
đã có mức tăng đáng kể: năm 2008 đạt 802,6 ngàn lượt
người, tăng hơn 1,6 lần so với năm 2001; đặc biệt
năm 2009 là năm mà ngành Du lịch các nước, kể cả
Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng
trên kinh tế thế giới nên lượng khách du lịch quốc
tế bị suy giảm mạnh, khách du lịch quốc tế đến nước
ta cũng bị giảm trên 10% so với năm 2008, trong khi
đó lượng khách quốc tế đến các tỉnh khu vực DHNTB và
Tây Nguyên vẫn tăng 14,4% so với năm 2008 và đạt
918,5 ngàn lượt khách. Tính chung giai đoạn 2005-
2009 tốc độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế đạt
14,8%/ năm. Năm 2001 lượng khách quốc tế đến các
tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên chiếm 5,92% tổng
lượng khách du lịch quốc tế của cả nước, năm 2005
tăng lên 6,44% và năm 2009 tăng lên 6,69%.
Bảng 2.2. Lượng khách du lịch quốc tế đến các tỉnhkhu vực DHNTB
và Tây Nguyên (giai đoạn 2001 – 2009)Đơn vị: Lượt
kháchST
TTên tỉnh 2001 2005 2006 2007 2008 2009
1. Kon Tum 1.337 4.055 8.305 19.703 32.051 45.000
121
2. Đắc Lắc 5.759 14.540 19.521 18.888 22.069 25.000
3. Đắk Nông 0 6.200 10.600 10.000 8.000 12.000
4. Gia Lai 2.969 3.735 4.346 6.508 8.201 11.000
5. Lâm Đồng 78.000100.60
097.000
120.00
0120.000 200.000
6.Bình
Định20.336 28.373 35.000 42.000 57.018 64.000
7. Phú Yên 1.580 2.700 2.600 4.773 6.517 10.000
8.Khánh
Hoà
141.46
8
248.57
8
255.28
7282.27
2315.585 300.000
9.Ninh
Thuận11.839 14.067 23.833 33.000 38.000 51.480
10
.
Bình
Thuận44.838
128.02
9
150.70
7
178.25
1195.156 200.000
DHNTB&TN308.12
6
550.87
7
607.19
9
715.39
5802.597 918.480
Trong đó
Tây Nguyên 88.065 100.872 80.645 106.893 129.130 139.772
DHNTB 220.061 290.935 293.627 346.541 421.747 467.427
Cả nước5.204.
300
8.557.
901
9.671.
281
117182
87
13.037.
420
13.730.
367Tỷ trọng (%) 5,92 6,44 6,28 6,10 6,16 6,69
Nguồn: - Số liệu báo cáo của các Sở VH, TT&DL,
- Số liệu tổng hợp của Viện NCPT Du lịch
Các tỉnh có số lượng khách du lịch quốc tế lớn
nhất là Khánh Hoà, Bình Thuận và Lâm Đồng; khu vực
122
Tây Nguyên đón được ít khách quốc tế hơn, chỉ bằng
46,8% so với lượng khách du lịch quốc tế của khu vực
DHNTB. Khách du lịch quốc tế đến khu vực bằng nhiều
phương tiện khác nhau nhưng chủ yếu là bằng đường
hàng không thông qua các cảng hàng không quốc tế Nội
Bài, Đà Nẵng và Tân Sơn Nhất, nối chuyến bay đến các
sân bay nội địa của khu vực hoặc bay trực tiếp đến
sân bay Cam Ranh; có một lượng nhỏ khách du lịch đến
bằng tầu biển thông qua các cảng Quy nhơn và Nha
Trang. Những điểm du lịch mà khách quốc tế ưa thích
của khu vực là các bãi biển như Phan Thiết - Mũi Né,
Nha Trang, cao nguyên Liangbiang, các vườn quốc gia,
khu bảo tồn thiên nhiên và các bản làng dân tộc.
- Khách du lịch nội địa: Các tỉnh khu vực DHNTB và Tây
Nguyên có sức hút khách du lịch nội địa mạnh mẽ.
Trong bối cảnh hạ tầng của khu vực được cải thiện,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
nâng cao, nhu cầu đi du lịch ngày một lớn thì khu
vực này trở thành địa chỉ du lịch của phần lớn khách
nội địa. Năm 2001, khu vực DHNTB và Tây Nguyên đón
2,05 triệu lượt khách du lịch nội địa, đến năm 2005
đã tăng lên 4,289 triệu lượt và năm 2009 là 7,827
123
triệu lượt, tăng hơn 3,8 lần so với năm 2001; tăng
trưởng bình quân 18,23%/năm.
DHNTB và Tây Nguyên là khu vực có tốc độ tăng
trưởng du lịch ấn tượng nhất so với các khu vực khác
của nước ta. Tỷ trọng khách du lịch nội địa so với
toàn quốc cũng tăng lên nhanh chóng từ 9,52% năm
2001 lên 11,23% năm 2009. Đà Lạt, Nha Trang, Phan
Thiết đã trở thành những điểm du lịch ưa thích nhất
của khách du lịch nội địa.
Khách du lịch nội địa đến từ mọi miền của đất
nước, nhiều nhất là khách du lịch đến từ thành phố
Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận. Xu thế khách du
lịch từ các tỉnh phía Bắc như Hà Nội và các tỉnh
thuộc đồng bằng sông Hồng đến các tỉnh khu vực DHNTB
và Tây nguyên cũng tăng lên rõ rệt. Mục đích của
khách du lịch đến khu vực này khá đa dạng nhưng chủ
yếu là nghỉ dưỡng biển ở khu vực DHNTB và nghỉ dưỡng
núi ở khu vực Tây Nguyên.
Bảng 2.3. Lượng khách du lịch nội địa đến cáctỉnh khu vực DHNTB
và Tây Nguyên (giai đoạn 2001 – 2009)
124
Đơn vị tính: Lượt
kháchSTT Tên tỉnh 2001 2005 2006 2007 2008 2009
1. Kon Tum 15.930 27.786 33.831 40.303 46.147 53.0002. Đắc Lắc 93.690 199.609 188.881 221.769 229.813 275.0003. Đắk Nông 0 93.800 99.400 120.000 124.000 138.0004. Gia Lai 53.721 93.407 97.448 120.870 137.791 189.000
5. Lâm Đồng 725.0001.460.3
00
1.751.0
00
2.080.0
002.180.0
00
2.400.0
00
6.Bình
Định126.060
351.627 415.000 518.000 655.782 771.0007. Phú Yên 51.090 77.800 92.400 115.327 158.795 220.000
8.Khánh
Hoà353.156
653.890 832.861
1.081.2
70
1.281.6
13
1.300.0
00
9.Ninh
Thuận87.138
208.633 288.694 337.000 406.000 481.320
10.Bình
Thuận544.864
1.122.9
07
1.401.5
90
1.623.1
25
1.805.1
29
2.000.0
00
DHNTB&TN
2.050.6
49
4.289.7
59
5.201.1
05
6.257.6
64
7.025.0
70
7.827.3
20Trong đóTây Nguyên 888.341 1.874.902 2.170.560 2.582.942 2.717.751 3.055.000
DHNTB 1.162.308 2.414.857 3.030.545 3.674.722 4.307.319 4.772.320
Cả nước
21.534.
866
40.206.
503
47.410.
719
55.533.
758
60.226.
922
69.674.
581Tỷ trọng (%) 9,52 10,67 10,97 11,27 11,66 11,23
Nguồn: - Số liệu báo cáo của các Sở VH, TT&DL,
125
- Số liệu tổng hợp của Viện NCPT Du lịch
2.1.3.2. Doanh thu du lịch: Doanh thu du lịch của các tỉnh
khu vực DHNTB và Tây Nguyên cũng có sự gia tăng
nhanh chóng từ 1.135 tỷ đồng năm 2001 lên 7.496 tỷ
năm 2009, gấp 6,6 lần so với năm 2001; tăng trưởng
bình quân cả giai đoạn 2001-2009 đạt 26,6%/ năm, cao
hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng khách du lịch.
Sở dĩ có sự tăng trưởng cao về doanh thu du
lịch, ngoài yếu tố trượt giá có thể thấy là dịch vụ
du lịch của khu vực này đã tương đối đa dạng, kích
thích mức chi tiêu bình quân của du khách lên cao,
kéo dài thời gian lưu trú của khách du lịch, kéo
theo sự tăng nhanh của doanh thu du lịch. Tuy nhiên,
tỷ trọng doanh thu du lịch của khu vực so với toàn
quốc vẫn đứng ở mức khá khiêm tốn 8,33% năm 2009,
khả năng tăng doanh thu du lịch của khu vực vẫn còn
rất lớn, nếu tổ chức bổ sung thêm các loại hình du
lịch và các loại dịch vụ du lịch hấp dẫn như thể
thao biển, thể thao mạo hiểm ở khu vực rừng núi...
Bảng 2.4. Doanh thu du lịch các tỉnh khu vực DHNTB
và Tây Nguyên
(giai đoạn 2001 – 2009)Đơn vị tính: Tỷ
đồng
126
ST
TTỉnh 2001 2005 2006 2007 2008 2009
1. Kon Tum 6,77 12,28 16,84 21,50 26,89 45,002. Đắc Lắc 43,05 90,73 102,13 125,17 152,45 165,003. Đắk Nông 0 3,00 4,50 7,60 12,00 14,50
4. Gia Lai 24,62 43,40 59,18 78,32 93,93 130,00
5. Lâm Đồng 482,001.405,
00
1.663,
00
3.000,
00
3.220,
00
3.400,0
0
6.Bình
Định50,10 90,00 110,00 142,80 187,42 212,00
7.Bình
Thuận199,03 611,32 803,41
1.060,
77
1.424,
09
1.650,0
0
8.Khánh
Hoà246,11 643,14 834,21
1.027,
00
1.357,
00
1.500,0
0
9.Ninh
Thuận75,25 120,00 154,00 184,00 222,00 240,00
10. Phú Yên 8,20 20,50 31,70 47,44 90,10 140,00DHNTB&TN 1.135,12 3.039,35 3.778,95 5.694,61 6.785,88 7.496,50
Trong đó
Tây Nguyên 556,441.554,
40
1.845,
64
3.232,
59
3.505,
27
3.754,5
0
DHNTB 578,681.484,
95
1.933,
32
2.462,
02
3.280,
61
3.742,0
0
Cả nước13.706
,24
37.078
,94
45.420
,21
56.000
,00
60.000
,00
68.000,
00Thị phần 8,28% 8,20% 8,32% 9,40% 8,44% 8,33%
Nguồn: Số liệu báo cáo của các Sở VH, TT & DL,
127
- Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: Trong những năm qua, hệ
thống cơ sở lưu trú của các tỉnh khu vực DHNTB và
Tây Nguyên có sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng
và chất lượng. Năm 2001 toàn khu vực mới có 757 cơ
sơ lưu trú với tổng số 12.269 buồng ( bình quân 1 cơ
sở lưu trú có 16 buồng) thì đến năm 2008 đã tăng lên
1.616 cơ sở lưu trú với tổng số 34.194 phòng, bình
quân 1 cơ sở lưu trú có trên 21 buồng. Các cơ sở lưu
trú cũng trở nên đa dạng hơn, rất nhiều với các loại
hình như khách sạn, nhà khách biệt thự, bung ga
lâu... Chất lượng của các cơ sở cũng được nâng lên
rõ rệt, số lượng các khách sạn được xếp hạng sao,
đặc biệt là hạng cao sao (3-5 sao) đã tăng lên
nhiều, với dịch vụ đa dạng, chất lượng cao, đội ngũ
nhân viên được đào tạo bài bản, phục vụ chuyên
nghiệp, đủ sức phục vụ cho cả các sự kiện quốc tế
lớn.
Bảng 2.5. Hệ thống cơ sở lưu trú các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên (giai đoạn 2001 – 2008)
STT Tỉnh 2001 2006 2008
KS Buồng KS Buồng KS Buồng1 Đắc Lắc 21 482 68 1.484 113 2.1902 Đắc Nông 28 250 38 5053 Gia Lai 14 409 33 923 39 1.0144 Kon Tum 13 221 20 380 25 520
128
5 Lâm Đồng 400 4.800 725 10.000 675 11.0006 Bình Định 19 550 56 1.478 90 2.190
7 Bình Thuận 37 1.287 125 4.240 134 5.006
8 Khánh Hoà 202 3.707 349 8,279 397 9.400
9 Ninh Thuận 38 511 65 1.224 61 1.436
10 Phú Yên 13 302 32 739 44 933
DHNTB&TN 75712.26
9 1.501 28.997 1.616 34.194Trong đóTây Nguyên 448 5.912 874 13.037 890 15.229DHNTB 309 6.357 627 15.960 726 18.965
Cả nước 4.33686,.0
9 8.516168.31
510.63
8205.97
9Tỷ trọng (%) 17.46 14.13 16.70 17.63 17.56 15.19
Nguồn: báo cáo của các Sở VH, TT & DL,
Một đặc điểm dễ nhận thấy của hệ thống cơ sở lưu
trú tại khu vực này là còn nhiều cơ sở lưu trú có
quy mô nhỏ (chỉ trên dưới 10 buồng, trang thiết bị
không đồng bộ, mới chỉ có khả năng cung cấp dịch vụ
lưu trú đơn thuần). Sự phân bố của các cơ sở lưu trú
cũng không đồng đều: thông thường hệ thống cơ sở lưu
trú tập trung ở các đô thị lớn thuộc những tỉnh có
ngành Du lịch phát triển: Lâm Đồng 675 cơ sở lưu trú
với 11.000 buồng; Khánh Hoà 397 cơ sở lưu trú với
9.400 buồng; Bình Thuận 134 cơ sở lưu trú với 5.006
buồng (số liệu năm 2008).
129
Bên cạnh hệ thống cơ sở lưu trú du lịch, ở các tỉnh khu
vực DHNTB và Tây Nguyên đã hình thành một số các khu du
lịch nổi tiếng, trở thành điểm đến hấp dẫn đối với du khách
trong và ngoài nước như khu du lịch Hầm Hô (Bình Định), khu
du lịch Hòn Ngọc Việt (Khánh Hòa), khu du lịch Vũng Rô (Phú
Yên), khu du lịch Mũi Né (Bình Thuận), khu du lịch Cà Ná
(Ninh Thuận)… Các khu du lịch này đều là những khu du lịch
mới được đầu tư nên cơ sở vật chất hiện đại, trang thiết bị
đồng bộ và đội ngũ nhân viên lành nghề.
2.1.3.3. Đầu tư du lịch: Các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên
trong giai đoạn 2006-2010 được Nhà nước hỗ trợ đầu tư cơ sở
hạ tầng du lịch với tổng mức hỗ trợ là 1.177 tỷ đồng, mức
bình quân hỗ trợ hàng năm mỗi tỉnh, thành phố trong khu vực
đạt khoảng 23,5 tỷ đồng. Nguồn vốn hỗ trợ hạ tầng đã thực
sự tạo nên những chuyến biển tích cực, đóng vai trò là
nguồn vốn mồi thu hút các thành phần kinh tế đầu tư cho du
lịch, góp phần tạo nên diện mạo mới cho du lịch các tỉnh
khu vực DHNTB và Tây Nguyên. Những tỉnh trong khu vực thu
hút được nhiều dự án đầu tư vào du lịch là Khánh Hoà và Bình
Thuận với tổng mức vốn đầu tư lên đến hàng ngàn tỷ đồng.
Đầu tư du lịch đã tạo ra sự đột phá, một bước
nhảy vọt về chất, làm chuyển biến nhận thức và hành
động của các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương và
130
toàn xã hội, huy động nhiều nguồn lực cho sự nghiệp
phát triển du lịch Việt Nam, tạo đà tăng trưởng cao
cho thời gian tiếp theo, góp phần làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn đối với các đảng bộ địa phương,
Đại hội Đảng toàn quốc trong việc tổng kết và xác
định phương hướng, chủ trương, biện pháp phát triển
du lịch, đưa du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn. Hoạt động du lịch khởi sắc đã tạo ra khả
năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hoá và dịch vụ sản
xuất , góp phần thúc đẩy các ngành sản xuất vật chất
và dịch vụ phát triển, tăng tỷ trọng dịch vụ trong
tổng thu nhập quốc dân; khôi phục nhiều nghề thủ
công truyền thống; góp phần vào sự phát triển của
Hàng không, Văn hoá - Thông tin và các ngành khác
liên quan đến du lịch. Những hiệu quả trên lại tác
động tích cực thúc đẩy toàn xã hội tham gia vào sự
nghiệp phát triển du lịch, tạo nhiều việc làm mới,
góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả nước
và từng địa phương, thực hiện chính sách xóa đói
giảm nghèo, mở rộng giao lưu giữa các vùng, miền
trong nước và quốc tế.
131
2.2. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch các tỉnh khu vực duyên hải Nam Trung bộ và Tây
Nguyên
2.2.1. Thực trạng nguồn nhân lực ngành Du lịch các tỉnh khu vực
DHNTB và Tây Nguyên:
2.2.1.1. Số lượng nguồn nhân lực:
Tính đến tháng 6 năm 2009, các tỉnh khu vực
DHNTB và Tây Nguyên có 73.889 lao động làm việc
trong lĩnh vực du lịch, trong đó 24.548 lao động
trực tiếp và 49.341 lao động gián tiếp. Các tỉnh
DHNTB có lực lượng lao động vượt trội hơn khi có
16.768 lao động trực tiếp và 33.705 lao động gián
tiếp. Trong khi Tây Nguyên chỉ có 7.779 lao động
trực tiếp và 15.636 lao động gián tiếp. Những tỉnh
có số lượng khách du lịch dẫn đầu của khu vực cũng
là những tỉnh có số lượng lao động đông đảo nhất
(Khánh Hoà 7.565 lao động trực tiếp, 15.205 lao động
gián tiếp; Bình Thuận 5.492 lao động trực tiếp và
11.040 lao động gián tiếp; Lâm Đồng 5.385 lao động
trực tiếp và 10.823 lao động gián tiếp). Số lượng
nguồn nhân lực ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB
và Tây Nguyên được phản ánh trong bảng 2.6 dưới đây.
132
Bảng 2.6. Lực lượng lao động trong ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên
Đơn vị tính:
Người
STT Tỉnh Số lượngTrực tiếp Gián tiếp
Tây Nguyên 7.779 15.636
1. Đắk Lắk 923 1.8552. Đắk Nông 224 4503. Gia Lai 585 1.1754. Kon Tum 663 1.3335. Lâm Đồng 5.385 10.823
DHNTB 16.768 33.705
1. Bình Định 1.276 2.5652. Khánh Hòa 7.565 15.2053. Phú Yên 1.285 2.5824. Ninh
Thuận1.151 2.313
5. Bình
Thuận5.492 11.040
DHNTB&TN 24.548 49.341
Ghi chú: Số liệu tính đến tháng 6/2009,
Nguồn: Báo cáo của các Sở VH, TT & DL.
2.2.1.2. Chất lượng nguồn nhân lực:
133
Chất lượng lao động của ngành tuỳ thuộc vào
trình độ chuyên môn và sự phân công lao động trong
ngành. Trong những năm qua, cùng với thành tựu của
cả nước về việc nâng cao mặt bằng dân trí của dân
cư. Số người lao động biết chữ nói chung và của
ngành Du lịch nói riêng đã tăng nhanh và chiếm tỷ lệ
khá cao trong tổng số lao động. Tuy nhiên, do tính
chất và đặc điểm của ngành đã có ảnh hưởng rất lớn
đối với đặc điểm lao động trong ngành. Với đặc thù
là một ngành dịch vụ, trong đó có những bộ phận trực
tiếp phục vụ khách du lịch những cũng có nhiều bộ
phận gián tiếp, không đòi hái đào tạo ở trình độ cao
mới có thể thực hiện được, ví dụ: bộ phận buồng, tạp
vụ, quét dọn, vệ sinh, cây cảnh, bảo vệ ...vì thế
theo số liệu tổng hợp được, tỷ lệ lao động có trình
độ văn hoá chưa tốt nghiệp phổ thông trung học khá
cao, chiếm khoảng 19,95% trong tổng số lao động.
Mặc dù công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực
ngành Du lịch đã được quan tâm và đẩy mạnh. Tuy
nhiên, do ảnh hưởng của tính mùa vụ du lịch, vào
những mùa cao điểm các doanh nghiệp du lịch phải sử
dụng một lực lượng lao động mùa vụ khá lớn, lực
lượng lao động này thường ít được đào tạo chuyên về
134
du lịch hoặc được đào tạo nhưng trình độ chuyên môn
thấp đã ảnh hưởng đến tỷ lệ lao động có chuyên môn
nghiệp vụ về du lịch, ngoài ra, năng lực đào tạo của
các cơ sở đào tạo chuyên môn nghiệp vụ còn nhiều hạn
chế cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tỷ lệ lao
động có chuyên môn, nghiệp vụ về du lịch còn thấp.
Kết quả phân tích số liệu thống kê cho thấy số
lượng lao động trong ngành Du lịch chưa qua đào tạo
chiếm hơn 70% tổng số lao động toàn khu vực. Lao
động được đào tạo về du lịch có trình độ từ sơ cấp
đến trung cấp và cao đẳng còn chiếm tỷ trọng thấp
trong tổng số lao động của ngành. Lực lượng lao động
này đóng vai trò quan trọng trong việc trực tiếp
cung cấp sản phẩm đến người tiêu dùng, vì vậy yêu
cầu đặt ra đối với ngành Du lịch là cần tiếp tục đẩy
mạnh công tác đào tạo đội ngũ lao động này trong
thời gian tới. Ngoài ra ngành Du lịch cần tiếp tục
đẩy mạnh công tác đào tạo ở cấp đại học và trên đại
học cho lao động trong ngành có kiến thức, kỹ năng ở
trình độ cao, có khả năng giám sát bộ phận, điều
hành quản lý doanh nghiệp du lịch và hoạch định
chính sách ở trình độ cao hơn nữa.
135
Với đặc thù của ngành Du lịch là nhiều bộ phận
trực tiếp giao tiếp với khách nước ngoài nên tỷ lệ
lao động sử dụng được ít nhất một ngoại ngữ trong
ngành Du lịch là rất cao, chiếm khoảng 48% trong
tổng số lao động, ở những bộ phận tiếp xúc trực tiếp
với khách du lịch như lễ tân khách sạn, hướng dẫn
viên, bộ phận thông tin khách hàng …tỷ lệ này còn
cao hơn nhiều.
Hiện nay lao động quản lý ngành (gồm cả quản lý
hành chính nhà nước và quản lý kinh doanh) có tỷ
trọng khá cao, chiếm 25% và lao động phục vụ trực
tiếp ở các ngành nghề chuyên sâu chiếm 75% tổng số
lao động của ngành. Nếu so sánh với kinh nghiệm các
nước có ngành Du lịch phát triển thì nhân lực ngành
Du lịch Việt Nam nói chung, du lịch khu vực DHNTB và
Tây Nguyên nói riêng có quá nhiều lao động làm công
tác quản lý, giám sát, trong khi đó nếu theo một cơ
cấu phù hợp thì con số này chỉ chiếm khoảng 15% tổng
số lao động của ngành.
2.2.1.3. Cơ cấu nguồn nhân lực:
Về mặt cơ cấu thì lao động nữ vẫn chiếm tỷ lệ
cao hơn so với nam giới. Lao động nữ chiếm tới
136
55,60%, trong khi đó lao động nam chỉ là 44,40%
trong tổng số lao động du lịch.
Sự phát triển của du lịch trong những năm gần
đây đòi hỏi các tỉnh khu vực cần phải có sự phát
triển mạnh về nhân lực ngành Du lịch và cần cải tạo
tốt về cơ sở hạ tầng. Công tác quản lý về đào tạo
nguồn nhân lực ngành Du lịch cũng là một vấn đề cần
chú ý đối với các tỉnh trong khu vực, đặc biệt là
các tỉnh Tây Nguyên vì những tỉnh này gặp rất nhiều
khó khăn trong công tác đào tạo và quản lý nhân lực.
Cần có sự quan tâm hơn nữa của các cơ quan quản lý
về Du lịch để Tây Nguyên thực sự có sự phát triển du
lịch đúng đắn.
Nguồn nhân lực ngành Du lịch ở các tỉnh khu vực
DHNTB và Tây Nguyên mới hình thành và trong quá
trình phát triển với nhiều biến động. Các cơ quan
quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương chưa hình
thành được hệ thống thông tin về thị trường lao động
trong lĩnh vực du lịch, để có những phân tích, đánh
giá khách quan và chính xác về thực trạng chất lượng
nguồn nhân lực ngành Du lịch ở các tỉnh khu vực
DHTNB và Tây Nguyên, tác giả Luận án đã tiến hành
khảo sát trên địa bàn tất cả các tỉnh thuộc phạm vi
137
nghiên cứu. Việc khảo sát được tiến hành cả với cán
bộ quản lý doanh nghiệp và người lao động trực tiếp.
Phiếu khảo sát được thiết kế trên cơ sở tham khảo
mẫu phiếu của một số cơ sở đào tạo và xin ý kiến
đóng góp của nhiều cán bộ quản lý, cán bộ làm việc
lâu năm trong ngành Du lịch.
Tác giả đã tiến hành gửi 124 phiếu đến cán bộ
quản lý (81 phiếu ở DHNTB và 43 phiếu ở Tây
Nguyên); 528 phiếu đến nhân viên các doanh nghiệp
( 423 phiếu ở DHNTB và 105 phiếu ở Tây Nguyên). Sau
khi thu thập, xử lý các thông tin có liên quan, kết
quả xử lý phiếu điều tra như sau:
a) Đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp:
138
Bảng 2.7. Cơ cấu cán bộ quản lý doanh nghiệp dulịch các tỉnh
DHNTB theo giới tính và năm sinh (Tính đến cuối tháng 6 năm 2009)
Địa phương Giới tính Năm sinhBình Định Nam Nữ Trước
19601961 -1970
1971 -1980
1981 -1990
Người 4 0 0 2 2 0Tỷ lệ % 100,
00 0 0 50,00 50,00 0
Tổng số 4Phú YênNgười 12 8 4 7 5 4
Tỷ lệ % 60,00
40,00 20,00 35,00 25,00 20,00
Tổng số 20Khánh HoàNgười 17 17 7 16 12 1
Tỷ lệ % 50,00
50,00 20,58 41,17 35,29 2,94
Tổng số 34Ninh Thuận
Người 5 5 3 4 1 2Tỷ lệ % 50,0
050,00 30,00 40,00 10,00 20,00
Tổng số 10Bình Thuận
Người 9 4 6 5 1 1Tỷ lệ % 69,2
330,77 46,15 38,46 7,69 7,69
Tổng số 13Toàn khuvực DHNTB
139
Người 47 34 20 32 21 8Tỷ lệ % 58,0
241,98 24,69 39,50 25,92 9,87
Tổng số 81
Về giới tính: Kết quả khảo sát cho thấy số lượng cán
bộ quản lý là nam (Nam Trung Bộ: 58%; Tây Nguyên:
69% - Bảng 2.7 và Bảng 2.8) nhiều hơn nữ. Về độ
tuổi, phần lớn trong khoảng 40-50 (Nam Trung Bộ:
65,42%; Tây Nguyên: 53,83%).
Bảng 2.8. Cơ cấu cán bộ quản lý doanh nghiệp du lịchcác tỉnh
Tây Nguyên theo giới tính và năm sinh(Tính đến cuối tháng 6 năm 2009)
Địa phương Giới tính Năm sinhKon Tum Nam Nữ Trước
19601961 -1970
1971 -1980
1981 -1990
Người 8 2 1 5 2 2Tỷ lệ % 80,0
020,00 10,00 50,00 20,00 20,00
Tổng số 13Gia LaiNgười 7 3 2 5 1 0
Tỷ lệ % 70,00
30,00
20,00 50,00 10,00 00,00
Tổng số 10Đắk LắkNgười 6 7 2 4 3 4
Tỷ lệ % 46,15
53,85 15,38 30,76 23,07 30,76
140
Tổng số 13Đắk NôngNgười 4 1 0 4 1 0
Tỷ lệ % 80,00
20,00
00,00 80,00 20,00 00,00
Tổng số 5Lâm ĐồngNgười 5 0 1 3 1 0
Tỷ lệ % 100,00
00,00
20,00 60,00 20,00 00,00
Tổng số 5Toàn khu vực Tây nguyên
Người 30 13 6 21 8 6Tỷ lệ % 69,7
630,23
13,95 48,83 18,60 13,95
Tổng số 43Đặc biệt, số lượng cán bộ trong độ tuổi trên 50
khá nhiều (Nam Trung Bộ: 24,69%; Tây Nguyên:
13,95%). Những người ở độ tuổi dưới 30 không nhiều
(Nam Trung Bộ: 9,87%; Tây Nguyên: 13,95%). Như vậy,
vấn đề trẻ hóa phải được đặt ra đối với cán bộ quản
lý doanh nghiệp du lịch.
Về thành phần kinh tế: Các cán bộ quản lý được
khảo sát thuộc các doanh nghiệp du lịch nhà nước,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh
nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Trong đó, ở các tỉnh khu vực DHNTB chủ yếu là
công ty nhà nước, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư
141
nhân, còn tại các tỉnh Tây Nguyên - là công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư
nhân.
Bảng 2.9. Cơ cấu cán bộ quản lý doanh nghiệp du lịchcác tỉnh
DHNTB theo loại hình doanh nghiệp(Tính đến cuối tháng 6 năm 2009)
TỉnhBình
ĐịnhPhú Yên
Khánh
Hòa
Ninh
Thuận
Bình
ThuậnTổng
Tổng
số
(Người
)
4 20 34 10 13 81
SL % SL % SL % SL % SL % Tổng %
Nhà
nước
1 25,
00
5 25,0
0
12 35,2
9
2 20,0
0
2 15,
38
22 27,
16TNHH 0 0 0 0 2 5,88 1 10,0
0
4 30,
76
7 8,6
4Cổ
phần
1 25,
00
6 30,0
0
9 26,4
7
4 40,0
0
1 7,6
9
21 25,
92Tư
nhân
1 25,
00
9 45,0
0
6 17,6
4
2 20,0
0
4 30,
76
22 27,
16ĐTNN 1 25,
00
0 0 4 11,7
6
0 0 2 5,3
8
7 8,6
4
142
Bảng 2.10. Cơ cấu cán bộ quản lý doanh nghiệp dulịch các tỉnh
Tây Nguyên theo loại hình doanh nghiệp(Tính đến cuối tháng 6 năm 2009)
Tỉnh Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông LâmĐồng
Tổngtiểuvùng
Tổngsố
(Người)
10 10 13 5 5 43
Sốlượng
%Sốlượng
% Sốlượng % Số
lượng % Sốlượng % Tổng
số %
Nhà nước
0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
TNHH1
10,
002
20,0
04
30
,761
20,0
01
20,
009
20,
93
Cổ
phần8
80,
007
70,0
04
30,
763
60,0
02
40,
0024
55,
81
Tư
nhân1
10,
001
10,0
05
38,
461
20,0
02
40,
0010
23,
25
ĐTNN 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Bảng 2.11. Cơ cấu cán bộ quản lý doanh nghiệpdu lịch
các tỉnh khu vực DHNTB theo trình độđào tạo
(tính đến cuối tháng 6 năm 2009)
144
DHNTB
(Người)
Trình độ đào tạo Chuyên ngànhDướiTHPT
Trunghọc PT
Caođẳng
Đạihọc Sau ĐH Du lịch Khác
0 16 8 55 0 29 52% 0 19,75 9,87 67,90 0 35,80 64,19
LLCT QLNN Ngoại ngữ (E) Tin họcSC TC CC SC TC CC A/B C >C A/B C >C27 9 3 6 3 0 39 8 21 53 3 5
% 33,33
11,11
3,70
7,40
3,70 0 48,
149,87
25,92
65,43
3,70
6,17
Tổngsố
(Người)
81
Về trình độ và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng:
* Đối với khu vực DHNTB: phần lớn cán bộ quản lý
du lịch có trình độ đại học và chỉ khoảng 1/3 được
đào tạo chuyên ngành du lịch (35,80%). Tuy nhiên,
chưa có cán bộ có trình độ trên đại học. Về lý luận
chính trị chủ yếu đã qua các lớp sơ cấp (33,33%),
còn về quản lý nhà nước thì hầu như chưa được đào
tạo. Về ngoại ngữ, hầu như đều biết tiếng Anh ở
trình độ A/B (48,14%). Có tới 25,92% có trình độ
trên C. Đặc biệt có một số cán bộ biết 2 ngoại ngữ
(4 người); hoặc 3 ngoại ngữ (2 người) và chủ yếu tập
trung ở Khánh Hòa.
Tin học phần lớn có trình độ A/B (65,43%), có
khoảng 10% có trình độ C và trên C.
145
Ở các tỉnh Tây Nguyên, phần lớn cán bộ quản lý
du lịch có trình độ đại học và chỉ khoảng 1/3 được
đào tạo chuyên ngành du lịch (30,23%). Tuy nhiên,
chưa có cán bộ có trình độ trên đại học. Về lý luận
chính trị, chủ yếu đã qua các lớp trung cấp
(37,20%), còn về quản lý nhà nước thì chưa được đào
tạo. Về ngoại ngữ, hầu như đều biết tiếng Anh ở
trình độ A/B (51,16%). Chỉ có số ít có trình độ trên
C (4,65%). Đặc biệt cũng có cán bộ biết 2 ngoại ngữ
(1 người); hoặc 3 ngoại ngữ (1 người) và chủ yếu tập
trung ở KonTum. Về tin học phần lớn có trình độ A/B
(53,48%), có khoảng 5% có trình độ C và trên C.
Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của các tỉnh khu vực
DHNTB tập trung vào quản lý kinh doanh tổng hợp (kỹ
năng lãnh đạo doanh nghiệp; lập chiến lược và kế
hoạch kinh doanh; đàm phán ký kết hợp đồng; chiến
lược phát triển kinh doanh, lập kế hoạch sản xuất,
kinh doanh; vv...) chiếm phần lớn (43,20%); sau đó
đến ngoại ngữ (34,56%, mặc dù phần lớn cán bộ quản
lý đã có trình độ nhất định) và quản trị nhân sự
(34,56%). Đối với các lớp ngắn hạn thì nhu cầu phần
lớn thuộc về các khóa quản lý khách sạn (44,44%) và
nhà hàng (24,69%).
146
Đối với các tỉnh khu vực Tây Nguyên, nhu cầu đào
tạo bồi dưỡng về ngoại ngữ và quản trị nhân sự chiếm
đa phần (đều là 55,81% và 41,86), đó cũng do đặc thù
của các tỉnh khu vực Tây Nguyên so với các tỉnh
DHNTB. Nhu cầu hiểu biết về quản lý kinh doanh tổng
hợp (kỹ năng lãnh đạo doanh nghiệp; lập chiến lược
và kế hoạch kinh doanh; đàm phán ký kết hợp đồng;
chiến lược phát triển kinh doanh, lập kế hoạch sản
xuất, kinh doanh; vv...) và các quy định hiện hành
của Nhà nước về thành lập và hoạt động của doanh
nghiệp du lịch cũng được khá nhiều người quan tâm
(đều khoảng trên 30%). Kiến thức quản lý nhà nước
được quan tâm hơn so với các tỉnh khu vực DHNTB, khi
có tới 34,88% thể hiện mong muốn, ngang với nhu cầu
về kỹ năng giao tiếp (32,55%) và ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý (34,88%).
Đối với các lớp ngắn hạn, cũng giống như các
tỉnh khu vực DHNTB, phần lớn nhu cầu hướng tới các
khóa về quản lý khách sạn (39,53%) và nhà hàng
(20,93%).
b) Đối với nhân viên các doanh nghiệp du lịch:
Về giới tính và độ tuổi: Kết quả khảo sát cho thấy số
lượng nhân viên nam (DHNTB: 42,08%; Tây Nguyên:
147
27,62% ít hơn nữ (xu hướng này ngược lại với cơ cấu
của cán bộ quản lý đã được mô tả ở trên). Về độ
tuổi, phần lớn trong khoảng 30-40 (DHNTB: 40,19%;
Tây Nguyên: 60,46%). Đặc biệt, số lượng nhân viên
trong độ tuổi 50 không đáng kể (DHNTB: 1,65%; Tây
Nguyên: 6,66%), đặc điểm này ngược lại với đặc điểm
cơ cấu của cán bộ quản lý đã được mô tả ở trên.
Về thành phần kinh tế: Các nhân viên được khảo sát
thuộc các doanh nghiệp du lịch nhà nước, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp
tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
trong đó chủ yếu là công ty cổ phần và công ty nhà
nước ở các tỉnh khu vực DHNTB, còn tại các tỉnh Tây
Nguyên - là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn.
Về trình độ và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng:
* Đối với khu vực DHNTB:
Về trình độ đào tạo, gần một nửa số nhân viên có
trình độ đại học (39,95%) và chỉ khoảng 1/2 được đào
tạo chuyên ngành du lịch (47,99%). Tuy nhiên, vẫn
còn nhiều người vẫn đang ở trình độ trung học phổ
thông (38,77%) và chưa có ai có trình độ trên đại
học.
148
Về lý luận chính trị và quản lý nhà nước thì hầu
như chưa có mấy người đã qua các lớp đào tạo, bồi
dưỡng.
Về ngoại ngữ, hầu như đều biết tiếng Anh ở trình
độ A/B (59,80%). Cũng có số lượng người có trình độ
C (11,50%) và trên C (16,90%). Đặc biệt có một số
ít người biết nhiều ngoại ngữ (và cũng tương tự như
đối với cán bộ quản lý, chủ yếu tập trung ở Khánh
Hòa). Ngoài tiếng Anh, các nhân viên còn biết tiếng
Pháp, Hoa, Nhật, Nga.
Về tin học phần lớn có trình độ A/B (49,64%), có
khoảng 7% có trình độ C và trên C.
* Đối với khu vực Tây Nguyên:
Về trình độ đào tạo, phần lớn nhân viên có trình
độ phổ thông trung học (46,66%) và khoảng 1/2 được
đào tạo chuyên ngành du lịch (43,8%). Tuy nhiên, vẫn
còn một số nhân viên ở trình độ dưới phổ thông trung
học (0,95%), và cũng chưa có cán bộ có trình độ trên
đại học. Về lý luận chính trị và quản lý nhà nước
thì hầu như chưa hề được đào tạo. Về ngoại ngữ, hầu
như đều biết tiếng Anh ở trình độ A/B (55,23%). Cũng
có số ít có trình độ trên C (0,95%). Đặc biệt cũng
có cán bộ biết 2 ngoại ngữ (1 người). Về tin học
149
phần lớn có trình độ A/B (41,90%), có khoảng 7% có
trình độ C và trên C.
Kết quả phân tích cũng cho thấy nhu cầu đào tạo
bồi dưỡng về ngoại ngữ chiếm phần lớn (54,13%), sau
đó đến kỹ năng giao tiếp (38,29%). Đối với các lớp
ngắn hạn thì nhu cầu phần lớn cũng như đối với cán
bộ quản lý, thuộc về các khóa quản lý khách sạn
(41,37%) và nhà hàng (17,96%) . Số người quan tâm
đến nghiệp vụ nhà hàng - khách sạn cũng rất đáng kể
(22,45%).
Trong khi đó, nội dung về quản lý nhà nước
(4,72%) và hiểu biết về các quy định của Nhà nước đối
với hoạt động du lịch rất ít được quan tâm (8,03%).
Nhu cầu đào tạo bồi dưỡng về ngoại ngữ và kỹ
năng giao tiếp chiếm đa phần (đều là 37,14%), đó
cũng do đặc thù của các tỉnh Tây Nguyên so với các
tỉnh DHNTB. Nhu cầu hiểu biết về quản lý quản trị
nhân sự, quản trị tài chính-kế toán doanh nghiệp
cũng được khá nhiều người quan tâm (khoảng trên dưới
15%). Kiến thức quản lý nhà nước cũng ít được quan
tâm giống các tỉnh khu vực DHNTB, khi chỉ có 3,8% số
người thể hiện mong muốn.
150
Đối với các lớp ngắn hạn thì cũng giống như các
tỉnh khu vực DHNTB đa phần nhu cầu hướng tới các
khóa về quản lý khách sạn (16,19%) và nhà hàng
(15,23%). Tuy nhiên, số người quan tâm đến nghiệp vụ
nhà hàng - khách sạn thì vượt trội (32,38%)..
2.2.2. Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành Du
lịch :
Theo thống kê chưa đầy đủ thì cả nước hiện có
284 cơ sở tham gia đào tạo du lịch, gồm 62 trường
đại học; 80 cao đẳng (trong đó có 8 trường cao đẳng
nghề); 117 trung cấp (trong đó có 12 trung cấp
nghề); 02 công ty đào tạo và 23 trung tâm, lớp đào
tạo nghề. Hiện nay mỗi năm cả nước tuyển sinh khoảng
22.000 học sinh, sinh viên du lịch (tăng 22,2% so
với năm 2007), trong đó tuyển sinh đào tạo đại học
là 3.870 sinh viên (1.770 sinh viên đại học, cao
đẳng chuyên nghiệp và 2.100 sinh viên cao đẳng nghề
du lịch); trung cấp là 18.190 học sinh (tăng gần 30%
so với năm 2007; gồm 14.495 học sinh trung học
chuyên nghiệp và 3.695 học sinh trung cấp nghề du
lịch); sơ cấp nghề và đào tạo du lịch dưới 3 tháng
chưa có số liệu thống kê đầy đủ, ước khoảng 5.000
học viên. Số lượng học sinh, sinh viên tốt nghiệp
151
hàng năm khoảng 20.000. Đào tạo nghề sơ cấp, ngắn
hạn có xu hướng tăng hơn so với 2 năm trước. Tuyển
sinh thạc sỹ và tiến sĩ với các đề tài về du lịch,
nhưng quy mô còn hạn chế.
Trên địa bàn các tỉnh khu vực DHNTB và Tây
Nguyên có các trường đại học là Trường Đại học Nha
Trang, Trường Đại học Thái Bình Dương, Trường Đại
học Phan Thiết, Trường Đại học Quy Nhơn, Trường Đại
học Đà Lạt, Trường Đại học Yersin Đà Lạt và các
trường cao đẳng là Trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ
thuật và Du lịch Nha Trang, Trường Cao đẳng Sư phạm
Trung ương Nha Trang, Trường Cao đẳng Sư phạm Nha
Trang, Trường Cao đẳng Bình Định, Trường Cao đẳng Sư
phạm Kontum tham gia đào tạo trình độ đại học, cao
đẳng du lịch với tổng lượng sinh viên hàng năm gần
3.250 sinh viên
Ở cấp đào tạo trình độ trung cấp du lịch có 09
trường Trung cấp, 03 trường cao đẳng và 02 trường
đại học tham gia đào tạo với tổng lượng sinh viên
hàng năm là 3.560. Trường Trung cấp Du lịch Đà Lạt
và Trường Trung cấp Du lịch Nha Trang được ngành Du
lịch đầu tư đi vào hoạt động năm 2007. Tổng quy mô
của các cơ sở đào tạo du lịch các cấp đào tạo với
152
6.800 sinh viên là con số quá ít nếu xét theo nhu
cầu về nguồn nhân lực ngành Du lịch của khu vực.
Trên địa bàn của khu vực còn một số cơ sở đào
tạo, trong đó có đào tạo nghề có liên quan đến du
lịch, nhưng ngoại trừ Trường Trung cấp Du lịch Nha
Trang là trường nghiệp vụ chuyên nghiệp nhất của khu
vực (được Tổng cục Du lịch thành lập, đầu tư năm
2007, dự kiến hoàn tất khâu xây dựng trong năm 2010,
năm học 2008 – 2009 tuyển sinh khoá đầu tiên được
gần 300 sinh viên), nên cơ sở vật chất kỹ thuật đồng
bộ, đáp ứng các tiêu chuẩn đào tạo nghề của châu Âu,
có với cơ sở thực hành là khách sạn 3 sao; những cơ
sở đào tạo còn lại thường đào tạo không chuyên sâu
về du lịch: Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang (đào
tạo ngoại ngữ du lịch, địa lý du lịch và văn hoá du
lịch), Trường Cao đẳng nghề Nha Trang (đào tạo ngành
Du lịch với trình độ trung học chuyên nghiệp và công
nhân kỹ thuật bậc 2/7 và 3/7); Trường Cao đẳng nghề
Việt Mỹ - chi nhánh Nha Trang chủ yếu là đào tạo về
ngoại ngữ, do vậy năng lực và chất lượng đào tạo
chuyên ngành du lịch vẫn còn nhiều hạn chế.
Hiện nay, ngành Du lịch cả nước nói chung và các
tỉnh DHNTB và Tây Nguyên nói riêng vẫn chưa có
153
chương trình khung thống nhất ở các cấp đào tạo; dẫn
đến tình trạng mỗi cơ sở đào tạo đều có những giáo
trình riêng, thậm chí giáo trình của một số cơ sở
đào tạo còn chưa tiêu chuẩn. Trong ngành Du lịch mới
chỉ có 5 môn cơ sở ngành hệ trung học chuyên nghiệp
là (1) Tổng quan du lịch ; (2) Tổng quan cơ sở lưu
trú du lịch ; (3) Marketing du lịch ; (4) Tâm lý
khách du lịch và (5) Kỹ năng giao tiếp là có giáo
trình chuẩn. Thực trạng giáo trình của các trường
đại học, cao đẳng đào tạo du lịch ở khu vực DHNTB và
Tây Nguyên cũng nằm trong tình trạng chung này; tính
liên thông giữa các cấp học bậc học của chương trình
và giáo trình đào tạo du lịch đang là vấn đề cần
giải quyết. Cụ thể, về chương trình, giáo trình đào
tạo nghề du lịch cho đến nay vẫn chưa được giảng dạy
đồng bộ tại các trường.
Do cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục - đào
tạo cũng như cơ quan quản lý nhà nước về du lịch
chưa xây dựng những tiêu chí cụ thể về chuyên môn
làm căn cứ cho các cơ sở đào tạo xây dựng chương
trình, giáo trình dẫn đến nội dung đào tạo của các
cơ sở không thống nhất, không có quy chuẩn tối thiểu
về nội dung chương trình đào tạo chuyên ngành du
154
lịch cho từng bậc học, từng ngành học; học sinh,
sinh viên tốt nghiệp ra trường khó xác định trình độ
tay nghề hoặc trình độ quản lý. Việc bổ sung cập
nhật kiến thức và phương pháp giảng dạy cũng phụ
thuộc chủ yếu vào từng cơ sở đào tạo.
Đội ngũ giáo viên, giảng viên tại các cơ sở đào
tạo đã tăng nhưng không nhiều. Số giáo viên được đào
tạo bài bản về du lịch vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp ;
nhìn chung kiến thức chuyên sâu về du lịch của giáo
viên, giảng viên được tích luỹ chủ yếu thông qua các
lớp bồi dưỡng và tự học, chưa được trang bị một cách
tổng thể, bài bản ; phương pháp giảng dạy phần nhiều
vẫn mang tính thuyết trình.
Ở đào tạo du lịch bậc đại học, cao đẳng, trình
độ giáo viên đại học được nâng cao và lực lượng giáo
viên trẻ cũng đã tiếp cận với kiến thức mới, được
bồi dưỡng và đào tạo thêm tại một số nước có ngành
du lịch phát triển. Nhưng lực lượng này còn quá ít,
số lượng đào tạo tại nước ngoài chưa nhiều và vẫn
thiếu về kinh nghiệm giảng dạy lẫn kinh nghiệm thực
tiễn. Chính vì vậy, các giáo viên mới đều trong tình
trạng truyền đạt lý thuyết đơn thuần, kinh nghiệm
nghề nghiệp và quản lý thực tế còn thiếu.
155
Ở đào tạo du lịch bậc trung cấp và đào tạo nghề,
phần lớn giáo viên, giảng viên giảng dạy đều có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm giảng dạy
và kiến thức thực tế. Nhiều cơ sở đã có bề dày kinh
nghiệm trong đào tạo nghiệp vụ. Tuy nhiên, năng lực
ngoại ngữ, năng lực tin học… vẫn còn những hạn chế
nhất định, nhất là ở những giáo viên có tuổi.
Cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo du lịch đã
được đầu tư và trang bị phục vụ cho công tác thực
hành cũng như phục vụ học tập nhưng hệ thống cơ sở
vật chất, trang thiết bị vẫn còn thiếu đồng bộ và
lạc hậu. Hệ thống giáo trình đã được cải thiện
nhiều, đưa vào hệ thống giáo trình trực tuyến nhưng
vẫn còn ở mức độ sơ khai. Các trang thiết bị phục vụ
giảng dạy và học tập còn thiếu.
Cơ sở vật chất kỹ thuật đào tạo du lịch ở hầu
hết các trường đào tạo nghề du lịch khác trong khu
vực còn rất thiếu thốn, chắp vá; mới chỉ có phòng
học lý thuyết, hầu như không có cơ sở thực hành,
thường đi thuê hoặc sử dụng một số buổi tại các cơ
sở kinh doanh trong thời gian kinh doanh thấp điểm.
Bởi vậy, nhiều trường mang tên đào tạo các chuyên
ngành du lịch nhưng khi tham gia vào hệ thống đào
156
tạo nghề du lịch chưa có hoạt động, chưa tích cực và
không hòa đồng với các cơ sở đào tạo du lịch chuyên
nghiệp, chưa đạt được mức chất lượng đào tạo trung
bình.
Nhìn chung hệ thống cơ sở đào tạo nghề du lịch ở
khu vực còn nhiều hạn chế, bước đầu hình thành mạng
lưới đào tạo nghề trên cơ sở các trường đào tạo
chuyên nghiệp du lịch. Để hình thành và phát triển
mạng lưới đào tạo nghề du lịch thực thụ, cần phải mở
rộng thành lập các cơ sở đào tạo mới ở các vùng du
lịch trọng điểm và tăng cường hợp táp giữa các
trường, thống nhất chương trình, giáo trình đào tạo
và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên.
Mặc dù nguồn nhân lực ngành Du lịch của khu vực
chưa đáp ứng cả về chất lượng và số lượng, nhưng chỉ
trên 60% số lượng học viên sau khi được đào tạo, bồi
dưỡng về du lịch ở các bậc tại các cơ sở đào tạo du
lịch trong khu vực, tìm kiếm được việc làm tại các
cơ sở kinh doanh du lịch và cơ quan có hoạt động
liên quan đến du lịch. Theo phản ánh, các cơ sở kinh
doanh du lịch sau khi nhận về, vẫn phải tổ chức đào
tạo lại cho các học viên trước khi giao cho họ những
công việc cụ thể tại doanh nghiệp của mình, do còn
157
có khoảng cách giữa những gì học viên được trang bị
từ các cơ sở đào tạo du lịch với nhu cầu thực tiễn
của công việc mà học viên được giao.
Một thực tế khác khiến cho công tác đào tạo, bồi
dưỡng du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn là
hầu hết các doanh nghiệp du lịch đứng ngoài cuộc,
không tham gia vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng du
lịch. Có nhiều lý do, nhưng vấn đề chính là ngay bản
thân các doanh nghiệp cũng chưa ý thức hết được vai
trò của nguồn nhân lực ngành Du lịch đối với sự phát
triển của doanh nghiệp, nên chưa có chiến lược phát
triển nhân sự, và vì vậy họ ít quan tâm đầu tư cho
phát triển nguồn nhân lực cũng như hợp tác với các
cơ sở đào tạo du lịch.
Ở các doanh nghiệp du lịch có yếu tố nước ngoài
hoặc doanh nghiệp liên doanh với các hãng du lịch
danh tiếng (ví dụ Saigontourist), công tác đào tạo
nguồn nhân lực ngành Du lịch được chú trọng hơn
thông qua hệ thống đào tạo riêng, có chiến lược thu
hút, bồi dưỡng, sử dụng riêng nên chất lượng nguồn
nhân lực ngành Du lịch thường có chất lượng cao hơn
so với mặt bằng chung của khu vực.
158
2.2.3. Công tác quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên:
2.2.3.1. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch:
Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch ở nước ta đã từng bước
được hình thành. Trước năm 2007, với tư cách là cơ
quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương, Tổng cục
Du lịch đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Nội vụ, Bộ Giáo
dục và Đào tạo và Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội (Tổng cục Dạy nghề) thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
trong cả nước. Tại khu vực nghiên cứu, có 01 Sở Du
lịch (tỉnh Bình Thuận), 02 Sở Du lịch - Thương mại
(tỉnh Khánh Hoà và Lâm Đồng) và 07 Sở Thương mại -
Du lịch ở các tỉnh còn lại. Đây là những cơ quan
chuyên môn có chức năng tham mưu cho Ủy ban Nhân dân
các tỉnh, thành phố thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về du lịch và phát triển nhân lực ngành Du lịch
trên địa bàn khu vực.
Từ năm 2007, Tổng cục Du lịch, cùng với Uỷ ban
Thể dục và Thể thao sáp nhập vào Bộ Văn hóa – Thông
tin thành Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch theo quy
159
định của Nghị định 185/2007/NĐ-CP, ngày 25 tháng 12
năm 2007. Theo đó, Bộ Văn Hóa, Thể thao và Du lịch
là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
du lịch ở Trung ương. Theo tinh thần của Nghị định
này, tại tất cả các tỉnh, thành phố trong nước, các
Sở Văn hóa-Thông tin, Sở Thể dục và Thể thao, Sở Du
lịch (hoặc phòng Quản lý Du lịch của các Sở Du lịch-
Thương mại, Thương mại-Du lịch) cũng sáp nhập thành
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Ở các tỉnh khu vực
DHNTB và Tây Nguyên có 10 Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch là cơ quan chuyên môn có chức năng tham mưu cho
Uỷ ban Nhân dân các tỉnh thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về du lịch và quản lý nhà nước đối với phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch ở khu vực.
2.2.3.2. Thực trạng quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch:
- Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch:
Do ở cấp Trung ương (Bộ VH,TT&DL) chưa xây dựng chiến lược
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch (hiện nay Bộ
VH,TT&DL đang triển khai xây dựng chiến lược phát triển
nguồn nhân lực VH,TT&DL) nên các tỉnh trong khu vực cũng
chưa có căn cứ để xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch.
160
- Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tạo
hành lang pháp lý cho phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch: Ở
Trung ương, trước đây Tổng cục Du lịch, nay là Bộ
VH,TT&DL, phối hợp với các cơ quan liên quan đã ban
hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Thông tư
hướng dẫn thực hiện Nghị định 92/2007/NĐ-CP quy định
chi tiết một số điều của Luật Du lịch (Thông tư
hướng dẫn về kinh doanh lữ hành, chi nhánh văn phòng
đại diện của doanh nghiệp nước ngoài, hướng dẫn du
lịch và xúc tiến du lịch; và Thông tư hướng dẫn về
hoạt đông kinh doanh lưu trú du lịch). Phối hợp với
Ban Kỹ thuật, Tổng cục Đo lường chất lượng tiếp tục
hoàn thiện tiêu chuẩn xếp hạng các loại hình cơ sở
lưu trú du lịch. Hoàn chỉnh dự thảo Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế về thí điểm tổ
chức và quản lý phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ của người nước ngoài đưa vào và sử dụng trên lãnh
thổ Việt Nam trong thời gian tham quan, du lịch. Đề
xuất Bộ Giao thông - Vận tải cùng phối hợp xây dựng
Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện điều 20 Nghị
định 92/2007/NĐ-CP ngày 1/6/2007 của Chính phủ quy
định về cấp biển hiệu đạt tiêu chuẩn phục vụ khách
du lịch và Điều 10 Nghị định số 110/2006/NĐ-CP ngày
161
28/9/2006 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh
doanh vận tải khách du lịch nhằm tạo hành lang pháp
lý và điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh doanh
vận chuyển khách du lịch. Phối hợp với Bộ Công An
xây dựng và hoàn thiện dự thảo Thông tư liên tịch
giữa Bộ Công An và Bộ VH,TT&DL về bảo vệ an toàn
quốc gia và trật tự an toàn xã hội trong hoạt động
du lịch. Những văn bản hướng dẫn này có ý nghĩa quan
trọng, góp phần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp
quy, tạo môi trường pháp lý ổn định cho các hoạt
động du lịch, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về
du lịch trong bối cảnh du lịch Việt Nam ngày càng
hội nhập sâu, rộng, toàn diện với khu vực và thế
giới. Việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ
chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức, viên chức lãnh
đạo được tiến hành đúng tiêu chuẩn, trình tự, thủ
tục theo quy định tại Quyết định 27/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ và các quy định tại các văn bản
hướng dẫn của các bộ, ngành liên quan.
Ở khu vực địa phương, cơ quan quản lý nhà nước
về du lịch là UBND các tỉnh. Hệ thống các văn bản
quản lý phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch dựa
162
chủ yếu vào văn bản quy phạm pháp luật do các bộ
ngành ở Trung ương ban hành.
- Hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch:
Hệ thống chính sách về phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch bao gồm: Chính sách về quản lý phát
triển du lịch: quy định những tiêu chuẩn nghề nghiệp
du lịch, chương trình đào tạo chuyên ngành; Chính
sách về giáo dục, đào tạo du lịch: về cơ sở đào tạo
du lịch, chương trình đào tạo, tiêu chuẩn giáo viên,
chế độ đối với giáo viên và người học, học phí;
Chính sách về lao động du lịch: quy định chế độ làm
việc, thời gian làm việc, chế độ bảo hiểm, tiền
lương, đào tạo nghề. Hệ thống này được ban hành chủ
yếu ở cấp Trung ương; các tỉnh trong khu vực thường
áp dụng những chính sách này mà không ban hành chính
sách riêng của mình.
- Quản lý nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực ngành Du lịch: Chủ thể quản lý nhà nước về đào
tạo và hoạt động phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch bao gồm nhiều bộ, ngành và địa phương dưới sự
phân công trách nhiệm của chính phủ. Ở đây, công tác
quản lý nhà nước về đào tạo trong lĩnh vực du lịch
có sự tham gia phối hợp của nhiều cơ quan. Trong đó,
163
cơ quan chịu trách nhiệm chính gồm: Bộ GD&ĐT, Bộ
VH,TT&DL (Tổng cục Du lịch) với vai trò là cơ quan
quản lý ngành, và các bộ ngành liên quan khác như Bộ
LĐ,TB & XH (Tổng cục dạy nghề), Bộ KH & ĐT, Bộ Tài
chính…. Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, Bộ VH,TT&DL phối hợp với Bộ Nội vụ thực
hiện.
Ở các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên, Bộ
VH,TT&DL quản lý trực tiếp một trường cao đẳng và
hai trường trung học nghiệp vụ du lịch (Trường Trung
cấp du lịch Nha Trang và Đà Lạt mới thành lập năm
2007); Bộ GD & ĐT và các bộ, ngành khác quản lý các
trường đại học, trung học, trường và trung tâm dạy
nghề chuyên ngành du lịch; Ủy ban Nhân dân các tỉnh
quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên, các
trường trung học, trung tâm dạy nghề; ở một số doanh
nghiệp có các trường trung học, trung tâm dạy nghề.
Công tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng
nhân lực ngành Du lịch được tăng cường thông qua
việc xây dựng và thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về giáo dục và đào tạo được Tổng cục Du lịch
(nay là Bộ VH,TT&DL) cụ thể hóa cho phù hợp với
ngành, như quy chế tổ chức và hoạt động của các
164
trường cao đẳng, trung học nghiệp vụ du lịch trực
thuộc Tổng cục Du lịch; các quy định về tiêu chuẩn
hướng dẫn viên du lịch quốc tế, tiêu chuẩn nhân viên
phục vụ khách sạn,... đã tổ chức xây dựng chương
trình khung trung học chuyên nghiệp ngành Du lịch,
tập huấn và triển khai quy trình đào tạo lại, bồi
dưỡng nâng cao năng lực lao động của ngành. Việc bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn
nhiệm cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo được
tiến hành đúng tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục theo
quy định tại Quyết định 27/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ và các quy định tại các văn bản hướng dẫn
của các bộ, ngành liên quan. Công tác kiểm tra,
thanh tra đào tạo du lịch bước đầu được quan tâm, đã
tiến hành thanh tra việc sử dụng và cấp văn bằng,
chứng chỉ không hợp pháp. Hàng năm đều tổ chức kiểm
tra, thanh tra công tác tuyển sinh.
Các cơ sở giáo dục và đào tạo về du lịch trực
thuộc các cơ quan chủ quản khác nhau như các bộ (Bộ
GD & ĐT, Bộ Công thương…), ngành, và địa phương khác
nhau … Sự khác biệt về cơ quan chủ quản và ảnh hưởng
của cơ quan chủ quản rất lớn tới các cơ sở đào tạo
nên cũng gây ra những khó khăn nhất định để có được
165
liên thông giữa các bậc học, công nhận văn bằng
chứng chỉ, công nhận chất lượng đào tạo chung giữa
các ngành nghề đào tạo trong các truờng, cơ sở đào
tạo du lịch.
Mỗi cơ sở đào tạo chịu tác động của 4 cơ quan
trực tiếp liên quan đến quản lý nhà nước về đào tạo:
1) Cơ quản chủ quản (quản lý về nhân sự, tổ chức,
phân phối tài chính, trực tiếp giao chỉ tiêu đào
tạo); 2) Cơ quan quản lý nhà nước về đào tạo (Bộ
GD&ĐT, Bộ LĐ&TBXH ra các quy định quy chế quản lý
hoạt động tổ chức đào tạo ở các cấp đào tạo thuộc
quyền); 3) Cơ quan quản lý tài chính (Bộ Tài chính
và các cơ quan theo ngành dọc theo dõi và phối hợp
ra các quy định về chế độ tài chính); và 4) Cơ quan
quản lý về kế hoạch (Bộ KH & ĐT chủ trì, lập kế
hoạch chỉ tiêu đào tạo). Riêng đối với cơ sở đào tạo
công lập có sử dụng lao động thuộc biên chế nhà nước
của chịu sự quản lý nhà nước về nhân sự từ Bộ Nội
vụ.
Mặc dù Chính phủ có quy định phân công, phân cấp
cho các bộ ngành quản lý theo Nghị định 166/2004/NĐ-
CP ngày 16/9/2004 nhưng chưa thể chi tiết hoá trong
từng sự vụ. Vì vậy, để giải quyết các vấn đề có liên
166
quan đến nhiều cơ quan quản lý, các cơ sở đào tạo
thường mất nhiều thời gian và gặp không ít khó khăn.
Cụ thể: Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm quản
lý nhà nước về giáo dục của UBND cấp tỉnh, Sở GD&ĐT,
UBND cấp huyện, Phòng GD&ĐT, UBND cấp xã nhưng không
đề cập đến các sở quản lý chuyên ngành. Chính vì
vậy, vai trò của các Sở VH, TT & DL rất khiêm tốn
trong việc phối hợp với các cơ quan chức năng của
địa phương theo phân công của UBND tỉnh trong quản
lý giáo dục.
Đối với công tác phát triển nguồn nhân lực, bản
thân nhiệm vụ này nằm trong chiến lược phát triển
nhân lực của từng địa phương và khi thực hiện có sự
phối hợp của nhiều cơ quan chức năng (Sở Nội vụ, Sở
GD&ĐT, Sở Lao động…) trong đó vai trò của Sở quản lý
về du lịch rất mờ nhạt. Ngay trong nội bộ Sở
VH,TT&DL ở mỗi địa phương, vai trò của bộ phận du
lịch cũng bị hạn chế về chức năng nhiệm vụ do trong
mỗi Sở thường chỉ có 1 phòng quản lý du lịch hoặc
phòng nghiệp vụ du lịch.
Vai trò của các cơ quan theo ngành dọc về du
lịch tại các quận huyện cũng rất mờ nhạt. Không ít
167
quận huyện ở các địa phương trong cả nước thậm chí
cũng không có cán bộ chuyên trách về du lịch.
Chính vì vậy, vai trò của Bộ VH,TT&DL - Tổng cục
Du lịch đối với quản lý nhà nước về đào tạo cũng như
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch, nếu xét
trên góc độ các cơ quan quản lý theo ngành dọc, cũng
còn nhiều hạn chế (mới chỉ phát huy vai trò của cơ
quan chủ quản của các trường trực thuộc, chưa phát
huy được thế mạnh của vai trò quản lý ngành).
Hệ thống văn bản quản lý nhà nước về đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch được xây
dựng từ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý
nhà nước ở cấp Trung ương, địa phương; các văn bản
quy định, hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ của các cơ
sở đào tạo, các bên tham gia vào phát triển nguồn
nhân lực; các văn bản về chiến lược, quy hoạch như
chiến lược giáo dục, chiến lược du lịch; các văn bản
quy định chi tiết các hành vi, hoạt động của các đối
tượng chịu sự quản lý nhà nước như hoạt động tổ chức
đào tạo, tuyển sinh, công nhận tốt nghiệp; học phí,
lệ phí…. Các văn bản quy định và hệ thống chính sách
chủ yếu gồm: Luật Giáo dục, Luật Du lịch, Chiến lược
168
phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 và
các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Mặc dù có nhiều luật và các chiến lược đang được
xây dựng và hoàn chỉnh nhưng thiếu các văn bản hướng
dẫn thực thi. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc
triển khai áp dụng trong thực tiễn.
2.3. Đánh giá chung về thực trạng phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây
Nguyên
2.3.1. Những ưu điểm và nguyên nhân:
2.3.1.1. Những ưu điểm:
- Trong những năm qua, nguồn nhân lực ngành Du
lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên có sự tăng
trưởng nhanh chóng về số lượng, cùng với đó chất
lượng đội ngũ lao động ngành Du lịch cũng được nâng
cao đáng kể, phần nào đáp ứng được nhu cầu sử dụng
của các doanh nghiệp du lịch và yêu cầu phát triển
ngành. Điều đáng ghi nhận nhất là đội ngũ lao động ở
các doanh nghiệp du lịch có yếu tố nước ngoài hoặc
liên doanh với các hãng du lịch danh tiếng có chất
lượng tương đối cao và đồng đều.
- Hệ thống các cơ sở đào tạo đã có sự phát triển
nhanh chóng với nhiều ngành nghề đào tạo phục vụ cho
169
ngành Du lịch. Nhiều cơ sở đã có cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại, đội ngũ giáo viên được đào tạo bài
bản, chương trình giáo trình được chuẩn hoá, tiệm
cần dần với tiêu chuẩn của các nước có ngành Du lịch
phát triển. Công tác đào tạo mới được tăng cường kể
cả về quy mô, chất lượng và năng lực đào tạo, cơ cấu
ngành nghề đào tạo chuyển dịch theo hướng tích cực;
công tác đào tạo lại, bồi dưỡng nhân lực được chú
trọng hơn; hoạt động liên kết đào tạo, bồi dưỡng
nhân lực du lịch chặt chẽ hơn.
- Công tác quản lý nhà nước đối với phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch được củng cố. Tổ chức
bộ máy quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch được kiện toàn; các văn bản
quy phạm pháp luật về quản lý nguồn nhân lực, giáo
dục và đào tạo, đạo tạo nghề được cụ thể hoá một
bước vào ngành Du lịch; bước đầu tổ chức điều tra
thu thập thông tin nhân lực ngành Du lịch.
2.3.1.2. Những nguyên nhân:
- Ngành Du lịch của khu vực có sự phát triển
khởi sắc với nhiều cơ sở kinh doanh du lịch có quy
mô lớn như các khu resort, khách sạn cao cấp với
trang thiết bị đồng bộ, có khả năng cung cấp các
170
dịch vụ du lịch chất lượng cao đã thu hút một lượng
lớn lao động với những đòi hỏi tương đối cao về
trình độ đào tạo, trình độ chuyên môn.
- Công tác đào tạo du lịch được các cấp, các
ngành, các địa phương quan tâm hơn, lực lượng giảng
viên, giáo viên đã chủ động cập nhật kiến thức mới
để nâng cao năng lực giảng dạy; nhiều doanh nghiệp
đã chủ động đặt hàng cơ sở đào tạo, giúp cho công
tác đào tạo du lịch tiệm cận với nhu cầu xã hội. Sự
đầu tư của nhà nước cho các cơ sở đào tạo du lịch
trong giai đoạn trước đã bắt đầu phát huy hiệu quả.
- Công tác quản lý nhà nước đối với phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch được tăng cường, đội
ngũ làm công tác quản lý phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch trong các cơ quan quản lý đang dần
được bổ sung và nâng cao chất lượng và chuẩn hoá; hệ
thống các chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành
Du lịch dần được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý
thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân:
2.3.2.1. Những hạn chế:
171
- Nguồn nhân lực ngành Du lịch đã có những bước phát triển
nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh và bền vững
của ngành Du lịch khu vực:
+ Lực lượng lao động ngành Du lịch của khu vực
có trình độ văn hoá và chuyên môn không đồng đều,
hạn chế về nhiều mặt, nhất là về ngoại ngữ và chuyên
môn kỹ thuật cao, tỷ lệ lao động sử dụng thành thạo
ngoại ngữ còn thấp; có sự chênh lệch khá lớn về chất
lượng của đội ngũ lao động du lịch trong các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và
theo các lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ khác nhau, sự
khác biệt không chỉ thể hiện ở chuyên môn được đào
tạo mà còn thể hiện ở ý thức và thái độ làm việc.
+ Sự phân bố về lao động ngành Du lịch không
đồng đều trong các tỉnh của khu vực. Nguồn nhân lực
ngành Du lịch tập trung chủ yếu ở những tỉnh có
ngành Du lịch phát triển như Khánh Hoà, Bình Thuận
và Lâm Đồng. Ngay ở những tỉnh này thì nguồn nhân
lực ngành Du lịch cũng thường tập trung ở những đô
thị phát triển du lịch như Nha Trang, Phan Thiết và
Đà Lạt,
+ Chưa có sự ổn định cao về đội ngũ lao động
trực tiếp phục vụ du lịch. Tỷ lệ lao động chuyển từ
172
doanh nghiệp du lịch này đến doanh nghiệp du lịch
khác hoặc chuyển ra khỏi ngành có xu hướng tăng.
+ Chất lượng của nguồn nhân lực ngành Du lịch
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển: người lao động
chưa được trang bị đầy đủ các kỹ năng và kiến thức
cần thiết cho công việc mà mình đảm nhận. Thiếu các
kỹ năng phụ liên quan đến công tác phục vụ khách du
lịch như kiến thức về tâm lí của du khách, kỹ năng
giao tiếp, ngoại ngữ, khả năng xử lí tình huống.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng còn nhiều bất cập, nhu cầu đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành Du lịch là rất lớn song hệ thống
các cơ sở đào tạo du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở đào
tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch còn nghèo nàn, hạn
chế, chắp vá; chỉ có phòng học lý thuyết là chủ yếu,
có ít các cơ sở thực hành – một trong những cơ sở
quan trọng để thực hành các kỹ năng cần thiết.
+ Năng lực đào tạo của các cơ sở đào tạo du
lịch trên địa bàn của khu vực còn hạn chế. Các cơ sở
đào tạo du lịch trong khu vực chỉ đáp ứng trên 50%
nhu cầu lao động, số còn còn lại các doanh nghiệp du
lịch, cơ sở sử dụng lao động du lịch phải thu hút từ
các cơ sở đào tạo du lịch khu vực phía Nam (TP Hồ
173
Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu), khu vực miền Trung
(Huế, Đà Nẵng), thậm chí của các cơ sơ phía Bắc (Hà
Nội, Hải Phòng).
+ Chưa có chương trình, giáo trình thống nhất
phục vụ cho giảng dạy ở tất cả các cấp độ, mỗi cơ sở
lại giảng dạy theo những chương trình, giáo trình
không phải là tốt nhất, đạt tiêu chuẩn quốc tế mà
đơn giản là họ chỉ có thể tiếp cận và sử dụng những
chương trình, giáo trình đó.
+ Lực lượng giáo viên cơ hữu của các trường
quá ít; chất lượng của đội ngũ giảng viên, giáo viên
không đồng đều, phương pháp giảng dạy còn dùng nhiều
đến biện pháp dạy chay, nặng về lý thuyết và những
vấn đề hàn lâm.
+ Còn khoảng cách khá xa giữa những kiến thức do
các cơ sở đào tạo trang bị cho người học với đòi hỏi
của công việc tại các doanh nghiệp kinh doanh du
lịch. Phần lớn các doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại
người lao động trước khi đưa vào sử dụng.
- Công tác quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch mặc dù đã được quan tâm, nhưng vẫn còn nhiều hạn
chế, bất cập, biểu hiện rõ nhất là:
+ Bộ máy quản lý nhà nước về phát triển nguồn
174
nhân lực ngành Du lịch chưa đủ mạnh cả ở Trung ương
và địa phương. Các Sở VH,TT & DL tại các địa phương
thực hiện các hoạt động quản lý và phát triển nguồn
nhân lực tại các địa phương, trên cơ sở kiểm tra
giám sát sự hoạt động của các doanh nghiệp du lịch
trên cơ sở các văn bản pháp lý liên quan. Do việc
sáp nhập nên bộ phận chuyên trách về công tác phát
triển nhân lực ngành Du lịch gặp nhiều khó khăn.
+ Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch rất mỏng, chủ yếu
làm việc kiêm nhiệm, năng lực hạn chế nên hiệu quả
và hiệu lực quản lý thấp.
+ Đã có định hướng chung cho công tác đào tạo,
bồi dưỡng nhân lực ngành Du lịch tuy nhiên định
hướng cụ thể vẫn chưa có nên các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng nhân lực ngành Du lịch hoạt động tự phát, chưa
được kiểm tra, chấn chỉnh thường xuyên.
+ Thiếu các văn bản hướng dẫn cụ thể của cơ
quan quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo và của
ngành Du lịch đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng
nhân lực ngành Du lịch; chưa ban hành kịp thời và tổ
chức thực hiện chưa tốt các văn bản hướng dẫn về chủ
175
trương xã hội hoá đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành
Du lịch.
+ Có sự chồng chéo trong quản lý của các chủ
thể quản lý đối với hoạt động đào tạo phát triển
nguồn nhân lực. Chủ thể quản lý nhà nước về đào tạo,
hoạt động phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
bao gồm nhiều bộ, ngành, địa phương dưới sự phân
công, phân cấp của chính phủ. Mỗi cơ sở đào tạo chịu
tác động của nhiều cơ quan trực tiếp liên quan đến
quản lý nhà nước.
+ Thiếu đồng bộ trong quản lí, quy hoạch và
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch: Chưa xây
dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu của nguồn nhân lực
ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên
để có cơ sở vững chắc quản lý, phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch. Do thiếu hệ thống cơ sở dữ liệu
nên chưa xây dựng được chiến lược phát triẻn nguồn
nhân lực ngành Du lịch với những lộ trình cụ thể. Từ
việc chưa xây dựng được chiến lược phát triển nguồn
nhân lực nên công tác quy hoạch và quản lý phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch gặp nhiều khó
khăn. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đào tạo
bồi dưỡng nhân lực ngành Du lịch rất mỏng, chủ yếu
176
làm việc kiêm nhiệm, thiếu kiến thức và hiểu biết về
quản lý đào tạo, bồi dưỡng và về đào tạo bồi dưỡng
trong du lịch. Chưa có định hướng cụ thể cho công
tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành Du lịch nên
các cơ sở đào tạo bồi dưỡng nhân lực ngành Du lịch
bung ra hoạt động tự phát, chưa được kiểm tra, chấn
chỉnh.
+ Cơ quan quản lý nhà nước về đào tạo cũng như
cơ quan quản lý chuyên ngành chưa xây dựng những
tiêu chí cụ thể về chuyên môn làm căn cứ cho các cơ
sở đào tạo xây dựng chương trình, giáo trình dẫn đến
nội dung đào tạo của các cơ sở không thống nhất,
không có quy chuẩn tối thiểu về nội dung chương
trình đào tạo chuyên ngành Du lịch cho từng bậc học,
từng ngành học. Học viên tốt nghiệp ra trường khó
xác định trình độ tay nghề hoặc trình độ quản lý.
Việc bổ sung cập nhật kiến thức và phương pháp giảng
dạy cũng phụ thuộc chủ yếu vào từng cơ sở đào tạo.
+ Chưa phát huy được vai trò của chính quyền địa
phương các cấp ; việc phát triển nguồn nhân lực chủ
yếu phó mặc cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch,
trong khi đó hầu hết các doanh nghiệp du lịch chưa
có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho mình kể
177
cả trong dài hạn và ngắn hạn; sự phối kết hợp của
các chủ thể phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
yếu, thiếu sự kết hợp giữa các tỉnh trong khu vực để
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch.
2.3.2.2. Nguyên nhân của các hạn chế:
- Ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây
Nguyên có sự tăng trưởng quá nhanh, khiến cho các
yếu tố cần thiết cho sự tăng trưởng này không theo
kịp và không đáp ứng được. Nguồn nhân lực ngành Du
lịch đòi hỏi những điều kiện và thời gian nhất định
để phát triển nên đã không theo kịp với tốc độ phát
triển của ngành Du lịch.
Sự tăng trưởng nóng cũng khiến cho nhu cầu về
nguồn nhân lực ngành Du lịch tăng cao, trong khi thị
trường lao động không có khả năng đáp ứng, ngoài ra
do ảnh hưởng của tính mùa vụ du lịch, xu hướng thuê
lao động có tính chất mùa vụ khá phát triển ở nhiều
khu, điểm du lịch là những nguyên nhân chính gây ra
tình trạng chất lượng nguồn nhân lực ngành Du lịch
chưa cao và không đồng đều.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng yêu
cầu của xã hội : Có khoảng cách khá lớn giữa qui mô,
cơ cấu, và chất lượng đào tạo với nhu cầu sử dụng
178
lao động của các doanh nghiệp du lịch. Chương trình
đào tạo tại các trường khá lạc hậu, đào tạo nặng về
lý thuyết, việc đổi mới khá chậm chạp do thiếu cơ sở
vật chất, thiếu kinh phí đào tạo.
Các bên liên quan đến đào tạo chưa tìm được
tiếng nói chung và chưa phát huy vai trò của mình.
Việc đào tạo được phó thác cho các cơ sở đào tạo,
đang gặp nhiều hạn chế về năng lực và khả năng đào
tạo chuyên ngành du lịch.
- Công tác quản lý nhà nước đối với phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch còn nhiều bất cập: Tổ
chức bộ máy thiếu ổn định qua nhiều lần tách nhập,
lực lượng mỏng, thiếu bộ phận chuyên trách về công
tác phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch ; chưa
xây dựng được chiến lược và các chính sách phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch ; hệ thống các
văn bản về phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch thiếu đồng bộ, đôi khi còn phủ nhận nhau và
chưa tạo điêu kiện tốt nhất để phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch.
- Nhiều doanh nghiệp du lịch chưa có chiến lược
phát triển nguồn nhân lực, các tiêu chuẩn trong
ngành Du lịch chậm được ban hành. Nhiều doanh nghiệp
179
chưa có đội ngũ giám đốc nhân sự có tính chuyên
nghiệp cao tại các doanh nghiệp, chưa xây dựng được
tiêu chuẩn công việc, chưa thực hiện đúng qui trình
tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, chưa
quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa sử dụng và
bồi dưỡng lao động.
- Thiếu các chính sách phù hợp để huy động các
nguồn tài trợ và thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các
đối tác liên quan để phát triển nguồn nhân lực ngành
Du lịch.
- Vai trò của các hiệp hội, tổ chức nghề nghiệp
chưa cao trong các hoạt động đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch.
180
Tiểu kết chương 2 :
Chương 2 giới thiệu khái quát về địa bàn và thực
trạng phát triển du lịch của các tỉnh khu vực duyên
hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên; phân tích thực trạng
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch.
Thực trạng phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch của các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên được
phân tích trên nhiều góc độ, trong đó tập trung vào
đánh giá bản thân nguồn nhân lực ngành Du lịch; công
táo đào tạo, bồi dưỡng nhân lực và công tác quản lý
nhà nước về phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
trên địa bàn nghiên cứu. Các phiếu điều tra khảo sát
về thực trạng lao động quản lý và lao động trong
doanh nghiệp trong khu vực được sử dụng để minh
chứng cho các nhận xét đánh giá về lực lượng lao
động du lịch của khu vực.
Những ưu điểm của thực trạng phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây
Nguyên là đã có sự phát triển cả về lượng và chất,
phần nào đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch; hệ
thống các cơ sở đào tạo đã có sự phát triển nhanh
chóng với nhièu ngành nghề đào tạo phục vụ cho ngành
du lịch, công tác đào tạo mới được tăng cường kể cả
181
về quy mô, chất lượng và năng lực đào tạo, công tác
đào tạo lại, bồi dưỡng nhân lực được chú trọng hơn;
công tác quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch được củng cố.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực và công tác đào tạo
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch các tỉnh khu
vực DHNTB và Tây Nguyên có những hạn chế tồn tại
chính là thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, bất
hợp lý về cơ cấu. Chất lượng của nguồn nhân lực
ngành Du lịch chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển,
người lao động chưa được trang bị đầy đủ các kỹ năng
và kiến thức cần thiết cho công việc mà mình đảm
nhận. Tỷ lệ lao động được đào tạo chuyên ngành Du
lịch còn quá ít, lao động phổ thông chưa qua đào tạo
còn nhiều ; khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ và
các công nghệ còn thấp. Sự thiếu hụt lực lượng lao
động dẫn đến tình trạng tranh dành, lôi kéo lao động
giữa các doanh nghiệp làm cho thị trường lao động
mất cân đối cung cầu, doanh nghiệp chưa chú trọng
đúng mức công tác đào tạo nguồn nhân lực. Người lao
động chưa có ý thức tự đào tạo, bồi dưỡng cho bản
thân. Công tác quản lý nhà nước đối với phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch gặp nhiều khó khăn, đặc
182
biệt là công tác đào tạo. Vai trò của các sở quản lý
du lịch trong quản lý nguồn nhân lực ngành Du lịch
khá mờ nhạt; thiếu một chiến lược tổng thể phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch. Các cơ sở đào
tạo có quy mô nhỏ, giáo trình, chương trình, nội
dung đào tạo thiếu thống nhất, chất lượng của đội
ngũ giáo viên còn hạn chế, chất lượng đào tạo chưa
cao, chưa theo sát với nhu cầu của xã hội. Còn
khoảng cách khá xa giữa những kiến thức do các cơ sở
đào tạo trang bị cho người học với đòi hỏi của công
việc tại các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, phần
lớn các doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại người lao
động trước khi đưa vào sử dụng; chưa thiết lập được
hệ thống cơ sở dữ liệu về nguồn nhân lực ngành Du
lịch phục vụ cho quản lý và phát triển. Các bên có
liên quan đến công tác đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch chưa tìm được tiếng nói
chung. Chưa phát huy được vai trò của chính quyền
địa phương các cấp; việc phát triển nguồn nhân lực
chủ yếu phó mặc cho các doanh nghiệp kinh doanh du
lịch, trong khi đó hầu hết các doanh nghiệp du lịch
chưa có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho
mình kể cả trong dài hạn và ngắn hạn; sự phối kết
183
hợp của các chủ thể phát triển nguồn nhân lực ngành
Du lịch yếu, thiếu sự kết hợp giữa các tỉnh trong
khu vực để phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch.
Chưa thu hút được các nguồn lực xã hội phục vụ phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch ; chưa có chính
sách thu hút, tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ hợp lý
nên chưa thu hút được nguồn nhân lực ngành Du lịch
chất lượng cao.
184
Chương 3.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH
DU LỊCH CÁC TỈNH KHU VỰC DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ
VÀ TÂY NGUYÊN
3.1.Bối cảnh và định hướng phát triển du lịch các
tỉnh khu vực duyên hải Nam Trung Bộ (DHNTB) và Tây
Nguyên đến năm 2020
3.1.1. Bối cảnh phát triển du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây
Nguyên:
3.1.1.1. Những thuận lợi và cơ hội phát triển :
- Bối cảnh quốc tế : Bối cảnh quốc tế trong thời gian
tới có nhiều thời cơ lớn đan xen với nhiều thách
thức lớn. Toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới là xu
thế tất yếu khách quan không thể đảo ngược, làm tăng
tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế
giới. Để phát triển, các nước phải tăng cường hợp
tác và cạnh tranh lẫn nhau với lợi thế nghiêng về
những nước có nền kinh tế và khoa học công nghệ phát
triển. Điều này làm cho sự cách biệt giàu nghèo giữa
các quốc gia ngày càng lớn. Khoa học và công nghệ,
đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh
học tiếp tục có những bước nhảy vọt, ngày càng trở
185
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Các nước đang phát triển, trong đó
có nước ta, đang đứng trước cơ hội thu hẹp khoảng
cách so với các nước phát triển, cải thiện vị thế
của mình; đồng thời cũng đối mặt với nguy cơ tụt hậu
xa hơn nếu không tranh thủ được cơ hội, khắc phục
yếu kém để vươn lên.
Song song với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
và toàn cầu hóa, nhu cầu du lịch cũng tăng lên rất
mạnh. Xu hướng xóa bỏ các rào cản ngăn cách giao lưu
văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc đã thúc đẩy nhu
cầu giao lưu văn hóa. Bên cạnh đó, những tiến bộ về
khoa học công nghệ, giao thông vận tải cũng góp phần
thúc đẩy du lịch quốc tế phát triển.
Du lịch là ngành kinh tế có sự tăng trưởng cao
và ổn định. Theo thống kê của Tổ chức Du lịch Thế
giới (UNWTO), mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới, nhưng năm 2008 ngành
Du lịch toàn cầu đã đem lại nguồn thu tới 944 tỷ
USD, tạo việc làm cho trên 300 triệu người. Du lịch
được coi là ngành kinh tế quan trọng giúp các nước
đang phát triển đẩy nhanh mục tiêu phát triển kinh
186
tế, xoá đói giảm nghèo. Theo dự báo của UNWTO, đến
năm 2020, tổng mức chi tiêu của du khách quốc tế sẽ
tăng gấp đôi so với con số 800 tỷ USD/năm như hiện
nay. Nhiều nước trên thế giới đã coi du lịch là một
trong những nguồn thu ngoại tệ lớn nhất, riêng tại
các nước vùng Caribê, 50% GDP là từ du lịch. Hiện
nay, Pháp đang là quốc gia đón nhiều du khách nước
ngoài nhất (khoảng 75 triệu lượt), tiếp đó là Tây
Ban Nha (53 triệu lượt), Mỹ (41,9 triệu lượt). Trong
chiến lược phát triển kinh tế, du lịch luôn được coi
ngành kinh tế quan trọng, giúp các nước đang phát
triển đẩy nhanh mục tiêu xóa đói giảm nghèo và cải
thiện đời sống cho người dân.
- Tình hình trong nước: Việt Nam có tài nguyên du lịch
phong phú, đa dạng với nhiều di sản được UNESCO công
nhận là di sản thế giới. Kể từ Đại hội Đảng lần thứ
VI, nước ta kiên trì đi theo đường lối đổi mới, hội
nhập kinh tế quốc tế, phát triển nền kinh tế mở, do
đó du lịch có điều kiện để phát triển. Việt Nam
phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa, liên tục tăng trưởng với tốc độ cao; cơ
cấu kinh tế đang chuyển đổi nhanh theo hướng tăng
dần tỷ trọng của khối công nghiệp và dịch vụ; kết
187
cấu hạ tầng ngày càng được đầu tư phát triển; đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải
thiện; nhận thức về ngành Du lịch thay đổi theo
hướng tích cực; nhu cầu du lịch tăng nhanh. Uy tín
của Việt Nam đang tăng nhanh trên trường quốc tế.
nước ta đã đăng cai tổ chức thành công nhiều sự kiện
lớn của thế giới như ASEM, APEC, hiện đang là chủ
tịch ASEAN.
Năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành
viên thứ 150 của tổ chức WTO. Đây là điều kiện thuận
lợi để du lịch Việt Nam xúc tiến mở rộng thị trường
thu hút du khách. Cơ hội lớn thứ hai từ việc hội
nhập với nền kinh tế quốc tế là tăng thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài vào du lịch để phát triển hạ
tầng, nâng cao năng lực phục vụ khách trong và ngoài
nước. Theo số liệu thống kê của Cục Đầu tư Nước
ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến năm 2008 có trên
9 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào
lĩnh vực du lịch - dịch vụ, còn trong năm 2009, chỉ
tính riêng 02 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
lĩnh vực du lịch là dự án Bãi biển Rồng (Quảng Nam)
và dự án Hồ Tràm (Bà Rịa - Vũng Tàu) đã có số vốn
đăng ký lên đến trên 8 tỷ USD. Các chuyên gia nhận
188
định, trong thời gian tới đây, làn sóng đầu tư vào
du lịch - dịch vụ sẽ tiếp tục gia tăng, đặc biệt là
trong lĩnh vực khách sạn nhà hàng. Theo cam kết gia
nhập WTO về du lịch, Việt Nam sẽ mở cửa hơn nữa cho
các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào lĩnh vực
khách sạn, nhà hàng và dịch vụ đại lý lữ hành, tạo
nên sự cạnh tranh về thương hiệu và chất lượng trong
phát triển triển du lịch.
Nước ta có chế độ chính trị ổn định, an ninh đảm
bảo; đất nước, con người Việt Nam mến khách; Việt
Nam được đánh giá là một trong những điểm đến an
toàn, thân thiện nhất của châu Á. Hệ thống pháp luật
đang từng bước được hoàn thiện; chính sách đổi mới,
mở cửa và hội nhập với việc gia nhập các tổ chức
kinh tế khu vực và thế giới đã và đang tạo điều kiện
thuận lợi cho kinh tế đối ngoại, trong đó có du lịch
phát triển.
Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến phát triển du
lịch, thể hiện rõ nét trong văn kiện Đại hội Đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX: … ”Phát triển du
lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”…,
Chính phủ phê duyệt chương trình đầu tư hỗ trợ hạ
tầng du lịch; bỏ chế độ VISA đối với công dân một số
189
nước thị trường tiềm năng như: ASEAN, Nhật Bản, Đan
Mạch… mở thêm các đường bay trực tiếp Việt Nam - Hoa
Kỳ, Việt Nam - Hàn Quốc, Việt Nam- Nhật Bản…
Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
cải thiện rõ rệt, điều kiện đi lại dễ dàng, thời
gian rỗi tăng lên đã kích thích nhu cầu đi du lịch
của đa số người dân. Hạ tầng du lịch được cải thiện
giúp cho người dân đi du lịch được nhanh chóng thuận
lợi.
Khung pháp lý và các chuẩn mực về du lịch và
liên quan bước đầu được hình thành, từng bước tạo
điều kiện đưa ngành Du lịch phát triển theo hướng
hiện đại, đáp ứng những yêu cầu, chuẩn mực quốc tế.
- Các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên: Các tỉnh khu vực
DHNTB và Tây Nguyên có vị trí thuận lợi, nằm ở gần
các vùng kinh tế phát triển trọng điểm phía Nam và
miền Trung; hội tụ đầy đủ các nguồn lực để phát
triển kinh tế - xã hội và du lịch: có các hệ thống
cửa thông thương trong nước và quốc tế, là cửa ngõ
ra biển của khu vực Nam Lào và Đông Bắc Thái Lan; có
tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng, phân bố tập
trung, thuận lợi cho việc khai thác và phát triển
các loại hình du lịch biển, du lịch văn hoá, sinh
190
thái, đáp ứng nhu cầu đa dạng cả của khách du lịch
quốc tế và nội địa. Lợi thế so sánh về tài nguyên du
lịch và vị trí địa lý cho phép các tỉnh khu vực
DHNTB và Tây Nguyên lựa chọn du lịch để phát triển
thành ngành kinh tế chủ lực, làm động lực thúc đẩy
các ngành khác cùng phát triển.
Kinh tế của các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên
tăng trưởng ổn định, đầu tư trong nước và nước ngoài
tăng, cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông đường
bộ, đường thủy, bến cảng, sân bay, được đầu tư nâng
cấp góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch
phát triển. Khách du lịch quốc tế đã có thể tiếp cận
trực tiếp đến khu vực thông qua các cảng hàng không
Cam Ranh, cảng biển Quy Nhơn, Nha Trang. Các sân bay
nội địa Liên Khương (Lâm Đồng), Pleiku (Gia Lai),
Ban Mê Thuật (Đắk Lắk), Tuy Hoà (Phú Yên), Quy Nhơn
(Bình Định) cho phép khách du lịch thực hiện các
chuyến bay 2 trung tâm phân phối khách du lịch lớn
nhất của cả nước là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đến
khu vực dễ dàng, nhanh chóng.
Ngành du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây
Nguyên được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của
Tỉnh uỷ, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh
191
trong khu vực; sự hỗ trợ, giúp đỡ của Ban chỉ đạo
Nhà nước về du lịch ; Bộ VH,TT&DL, Tổng cục Du lịch
cũng như các bộ, ngành Trung ương, sự phối hợp, hỗ
trợ của các ban, ngành trên địa bàn tỉnh. Ngành Du
lịch được xác định là ngành kinh tế chủ lực trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn đến
2020 và được tạo các điều kiện thuận lợi để phát
triển.
Một thuận lợi cơ bản nữa là các tỉnh khu vực
DHNTB và Tây Nguyên được Đảng, Chính phủ quan tâm
đặc biệt, tạo điều kiện để phát triển kinh tế - xã
hội, trong đó có du lịch, thể hiện qua Quyết định số
194/2005/QĐ-TTg, ngày 04 tháng 8 năm 2005 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phương hướng và giải
pháp đẩy mạnh phát triển du lịch khu vực miền Trung
– Tây Nguyên. Đề án này sau khi được phê duyệt đã là
cơ sở vững chắc để triển khai các dự án đầu tư, thúc
đẩy du lịch phát triển mạnh.
3.1.1.2. Những khó khăn, thách thức đối với phát triển du lịch :
Bên cạnh những thuận lợi to lớn để phát triển,
ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên
cũng phải đối mặt với nhiếu khó khăn thách thức:
192
- Tình hình thế giới và khu vực có những biến
động khó lường, Du lịch lại là một trong những ngành
dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài như dịch
bệnh, bất ổn về kinh tế - chính trị, nạn khủng bố
quốc tế. Những yếu tố bất ổn bên ngoài này tác động
rất mạnh đến dòng khách du lịch quốc tế, cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ thế giới năm 2008 là một
minh chứng rõ nét.
- Du lịch là ngành mang tính định hướng tài
nguyên rõ nét: tài nguyên du lịch là yếu tố cấu
thành cơ bản tạo nên các loại hình và sản phẩm du
lịch, trong khi tài nguyên và môi trường du lịch có
nơi đã và đang bị suy thoái do những bất cập trong
quản lý, bảo vệ, khai thác.
- Điều kiện thời tiết, khí hậu khắc nghiệt và
các hiện tượng thời tiết cực đoan của khu vực như
bão lụt, khô hạn... cũng là những yếu tố gây ảnh
hưởng tiêu cực đến các hoạt động du lịch của các
tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ.
- Kinh tế các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên,
đặc biệt là các tỉnh Tây Nguyên còn khó khăn do phải
đầu tư cho nhiều nhu cầu cấp thiết, nguồn vốn từ
Trung ương cũng hạn chế, nên chưa thể ưu tiên đầu tư
193
tập trung ngay cho ngành Du lịch. Đặc biệt là nhu
cầu phát triển hạ tầng ngành Du lịch là rất lớn
nhưng khả năng đáp ứng còn hạn chế, các tỉnh trong
khu vực chưa có khả năng tự cân đối các nguồn vốn
phục vụ cho đầu tư phát triển hạ tầng du lịch.
- Sự phát triển du lịch thời gian qua mới chỉ
phát triển theo chiều rộng, thiếu chiều sâu, xuất
hiện nhiều yếu tố tiêu cực như chất lượng và giá cả
của sản phẩm, dịch vụ du lịch bị thả nổi, cạnh tranh
không lành mạnh, hiện tượng chèo kéo, ép giá khách
du lịch xảy ra phổ biến... làm ảnh hưởng đến sự phát
triển bền vững của ngành Du lịch.
- Nguồn nhân lực ngành Du lịch chưa đáp ứng được
nhu cầu phát triển. Không chỉ thiếu đội ngũ cán bộ
quản lý mà ngay cả lực lượng lao động trực tiếp cũng
yếu và thiếu cả về số lượng và chất lượng. Công tác
quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch còn nhiều bất cập. Đây chính là một
trong những thách thức lớn nhất đối với sự phát
triển du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên.
3.1.2. Những định hướng chính phát triển du lịch của các tỉnh khu
vực duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên:
194
Du lịch Việt Nam đã xác định trong giai đoạn
2010 – 2020 cần phát huy các lợi thế so sánh để phát
triển nhanh và bền vững ngành Du lịch, trong đó các
tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên là một trong những
địa bàn động lực phát triển du lịch của cả nước với
tam giác tăng trưởng du lịch: Nha Trang – Ninh Chữ -
Đà Lạt. Căn cứ đặc điểm tài nguyên du lịch và các
nguồn lực phục vụ phát triển du lịch, căn cứ vào các
định hướng chính phát triển Du lịch Việt Nam đến năm
2020, một số định hướng chính phát triển du lịch các
tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên được xác định là:
- Khai thác lợi thế về văn hoá - lịch sử - sinh
thái - nghỉ dưỡng của các tỉnh khu vực DHNTB và Tây
Nguyên theo hướng bảo tồn và phát huy di sản văn hoá
địa phương, văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu
số để phát triển du lịch và coi đây như là nguồn lực
đặc biệt để phát triển du lịch; chú trọng giữ gìn và
bảo vệ bản sắc văn hoá độc đáo, riêng biệt của từng
địa phương, từng dân tộc, phát triển sự đa dạng văn
hoá du lịch, khắc phục xu hướng đơn điệu, trùng lắp
giưa các địa điểm và sản phẩm du lịch.
- Các tỉnh khu vực DHNTB: Phát triển du lịch dựa
trên việc phát huy tiềm năng và lợi thế về du lịch
195
biển, đầu tư xây dựng các khu du lịch biển quy mô
lớn với trang thiết bị hiện đại, đáp ứng được yêu
cầu của khách du lịch có thu nhập cao. Phát triển
các loại hình du lịch có khả năng đáp ứng được nhu
cầu đa dạng với thời gian dài cho khách du lịch,
thông qua việc xây dựng các chương trình du lịch,
tạo được sự gắn kết giữa sinh thái biển của các tỉnh
DHNTB với sinh thái rừng núi, cao nguyên và bản sắc
văn hoá của các dân tộc Chăm và Tây Nguyên. Trung
tâm của khu vực là thành phố Nha Trang, thành phố
Phan Thiết và các vùng phụ cận .
- Các tỉnh Tây Nguyên: Đẩy mạnh phát triển du
lịch theo hướng phát huy tiềm năng và lợi thế về du
lịch sinh thái rừng núi, hang động, thác, hồ nước…
và văn hoá truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên
gắn với văn hoá các tỉnh DHNTB. Trung tâm du lịch là
thành phố Ban Mê Thuột và thành phố Đà Lạt.
- Phát triển kết cấu hạ tầng du lịch: Ngoài việc
đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông phục vụ
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tuyến
đường được xác định là lộ trình du lịch với hành
trình dài cần được xây dựng và hình thành các trạm
dịch vụ (bãi đỗ, trạm bảo dưỡng xe kết hợp ăn uống,
196
giải khát, bán các sản phẩm lưu niệm…) dọc theo các
tuyến đường bộ với khoảng cách hợp lý.
Xây dựng lộ trình mở khai thác các tuyến bay
quốc tế đến khu vực và các tuyến bay nội địa trực
tiếp giữa các thành phố lớn đến khu vực; nâng cấp,
cải tạo nhà ga, phương tiện vận chuyển đường sắt,
đưòng bộ, nâng cao chất lượng dịch vụ để tăng lượng
khách du lịch bằng tàu hoả.
Nghiên cứu xây dựng các tuyến du lịch bằng đường
biển đến các tỉnh DHNTB, kể cả tuyến nối với các
nước ASEAN và các nước khác. Tăng cường cơ sở vật
chất kỹ thuật ở các cửa khẩu quốc tế để tạo điều
kiện thuận lợi đối với khách du lịch.
- Về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: Nâng cao
chất lượng dịch vụ tại các cơ sở lưu trú. Quy hoạch
phát triển các các khách sạn nghỉ dưỡng cao cấp tại
các khu du lịch biển, đô thị du lịch. Khuyến khích
tạo điều kiện cho cộng đồng dân cư tại địa phương
tham gia phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
du lịch cũng như đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về đặc thù
văn hoá Việt Nam của khách du lịch, đồng thời tạo
khả năng khắc phục khó khăn về cơ sở lưu trú theo
thời vụ, tạo việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân
197
địa phương. Tại các trung tâm du lịch lớn cần có các
khu vui chơi giải trí đa dạng, quy mô lớn.
Triển khai xây dựng các khu Trung tâm Hội chợ
Triển lãm, Trung tâm mua sắm, Khu phức hợp thương
mại - khách sạn; xây dựng các Công viên Văn hóa Lịch
sử Dân tộc, Bảo tàng Lịch sử thiên nhiên, Khu đô thị
du lịch sinh thái.
- Về quy hoạch và quản lý phát triển du lịch:
Các tỉnh trong khu vực cần chủ động điều chỉnh, bổ
sung quy hoạch phát triển du lịch theo nguyên tắc
gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước, phù hợp với quy hoạch tổng thể phát
triển Du lịch Việt Nam. Quy hoạch phát triển du lịch
của địa phương phải gắn với quy hoạch phát triển du
lịch vùng, liên vùng, gắn với bảo tồn thiên nhiên,
bảo vệ môi trường sinh thái và gắn với quy hoạch sử
dụng đất. Các khu du lịch quốc gia phải có quy hoạch
chi tiết và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt
trước khi thực hiện. Đối với các quy hoạch khu du
lịch lớn, hiện đại, quy hoạch các địa bàn trọng điểm
phát triển du lịch đòi hỏi phải có chất lượng cao và
có tầm chiến lược trong phát triển du lịch quốc gia
198
cũng như phát triển kinh tế - xã hội của từng địa
phương, toàn vùng và cả nước nếu khả năng trong nước
chưa đáp ứng được thì có thể thuê nước ngoài thực
hiện.
- Về đầu tư phát triển du lịch: Có cơ chế, chính
sách thích hợp về vốn, nhân lực, đất đai, thuế, huy
động đầu tư nước ngoài, phát hành trái phiếu công
trình và cải tiến các thủ tục hành chính để mọi
thành phần kinh tế, cả trong và ngoài nước đầu tư
phát triển du lịch.
3.2. Những định hướng cơ bản phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB – Tây
Nguyên
3.2.1. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (Phân
tích SWOT) đối với phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch các
tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên
a) Điểm mạnh :
- Các tỉnh khu vực DHNTB và Tây nguyên có nguồn
nhân lực dồi dào, không chỉ có khả năng đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của khu vực, trong
đó có ngành du lịch mà còn đáp ứng cả nhu cầu xuất
khẩu lao động.
199
- Cơ cấu về độ tuổi lao động trẻ, người dân có
truyền thống cần cù, chịu khó, ham học hỏi, mến
khách, nếu được đào tạo bài bản, đúng hướng sẽ hoàn
toàn có khả năng đáp ứng những yêu cầu đặc trưng của
lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực du lịch.
- Nền kinh tế của khu vực đang chuyển dịch theo
hướng tăng dần tỷ trọng của khối dịch vụ. Quá trình
này giải phóng một lượng lao động đáng kể từ khối
Nông – Lâm nghiệp làm lực lượng dự trữ cho nguồn
nhân lực ngành Du lịch. Lao động trong ngành Du lịch
có mức thu nhập tương đối cao so với các ngành dịch
vụ khác cũng là thuận lợi cơ bản để thu hút, phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch.
- Tổ chức bộ máy quản lý, hệ thống các chính
sách, công cụ phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch, các cơ sở đào tạo đã bước đầu được hình thành,
đang trong quá trình hoàn thiện, củng cố sẽ phát huy
năng lực trong giai đoạn phát triển tới.
b) Điểm yếu :
- Nhận thức của các cấp các ngành về vị trí vai
trò của ngành Du lịch trong tổng thể nền kinh tế còn
nhiều bất cập. Ngay trong ngành Du lịch, vai trò của
nguồn nhân lực ngành đối với sự phát triển du lịch
200
cũng chưa được đánh giá cao. Doanh nghiệp và người
lao động chưa có ý thức về đào tạo bồi dưỡng du
lịch.
- Thiếu chiến lược chung phát triển nguồn nhân
lực cho sự phát triển kinh tế xã hội và cho sự phát
triển ngành Du lịch. Vấn đề phát triển nguồn nhân
lực ít được đề cập hoặc đề cập rất mờ nhạt trong các
quy hoạch, kế hoạch phát triển.
- Chưa có những chính sách riêng cho phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch cho toàn khu vực, từ
chính sách đào tạo, bồi dưỡng tuyển dụng và sử dụng
lao động ngành Du lịch nên chưa thu hút được nhiều
lao động có chuyên môn nghiệp vụ cao, có trình độ
quản lý và tay nghề giỏi.
- Tổ chức bộ máy quản lý, hệ thống các chính
sách, công cụ chưa thực sự phát huy vai trò của mình
đối với sự phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch;
các cơ sở đào tạo có quy mô nhỏ bé, năng lực đào tạo
thấp, chất lượng đào tạo chưa cao.
c) Cơ hội:
- Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên
đang đứng trước những cơ hội hết sức thuận lợi để
phát triển, đặc biệt xu thế phát triển du lịch tập
201
trung vào các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên đã
thu hút một lượng lớn các nguồn đầu tư trong và
ngoài nước vào các cơ sở kinh doanh du lịch. Những
cơ sở kinh doanh du lịch này khi đi vào hoạt động có
nhu cầu rất lớn về nguồn nhân lực.
- Du lịch là ngành rất khó áp dụng việc cơ giới
hoá; quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dịch
vụ du lịch xẩy ra đồng thời, được thực hiện bởi đội
ngũ nhân viên đông đảo, lành nghề, do đó nhu cầu về
nguồn nhân lực ngành Du lịch là rất lớn, tỷ lệ thuận
với quy mô phát triển du lịch.
- Hầu hết các tỉnh trong khu vực đều đã nhận
thức được vai trò quan trọng của ngành Du lịch đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội nên có sự đầu tư
đáng kể cho ngành Du lịch.
- Hệ thống các cơ sở đào tạo du lịch trong khu
vực và ở những khu vực lân cận đang được cải thiện
dần cả về quy mô và chất lượng đào tạo nguồn nhân
lực ngành Du lịch. Mô hình đào tạo tại chỗ, đào tạo
qua công việc đang ngày càng phát huy hiệu quả và
được nhiều doanh nghiệp áp dụng. Các doanh nghiệp có
yếu tố nước ngoài sử dụng mô hình này cùng với những
chính sách đãi ngộ hợp lý nên đã thu được những
202
thành công nhất định trong việc đào tạo phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng cao cho doanh nghiệp
của mình.
d) Thách thức :
- Thiếu định hướng phát triển du lịch cho toàn
khu vực nói chung, định hướng phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch nói riêng. Các đề án, quy hoạch
phát triển du lịch cho toàn khu vực chỉ dừng lại ở
định hướng chung chung, thiếu các điều kiện áp dụng,
tính khả thi không cao.
- Công tác quản lý nhà nước đối với phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch ở khu vực còn nhiều bất
cập và chưa thể khắc phục được trong thời gian trước
mắt, ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch.
- Quy mô và chất lượng đào tạo ngồn nhân lực
ngành Du lịch chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.
- Vai trò của doanh nghiệp du lịch và hiệp hội
du lịch chưa được đề cao, phần lớn các doanh nghiệp
vẫn đứng ngoài cuộc, không tham gia vào quá trình
đào tạo nguồn nhân lực, thậm chí nhiều doanh nghiệp
còn chưa có chiến lược phát triển nguồn nhân lực của
riêng mình.
203
3.2.2. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch các tỉnh
khu vực DHNTB và Tây Nguyên:
- Phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch các
tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên đảm bảo quy trình:
chiến lược - quy hoạch - kế hoạch ; có lộ trình cụ
thể; phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của khu vực và chiến lược phát triển du lịch của
cả nước.
- Phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch có
chất lượng cao, toàn diện, đáp ứng yêu cầu về số
lượng, chất lượng ; hợp lý về cơ cấu ngành nghề và
trình độ đào tạo để đảm bảo tính chuyên nghiệp, đủ
sức cạnh tranh và hội nhập khu vực; góp phần nâng
cao chất lượng dịch vụ du lịch, đáp ứng nhu cầu xã
hội.
- Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng du
lịch; đa dạng hoá các loại hình đào tạo; thực hiện
đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch theo nhu cầu xã
hội, phù hợp với yêu cầu của thị trường; đẩy mạnh xã
hội hoá hoạt động đào tạo, bồi dưỡng du lịch ; tăng
cường hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý nhà nước
đối với phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch.
204
- Phát huy tính chủ động của các bên có liên
quan là nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp du lịch
và bản thân người lao động; tăng cường vai trò cảu
các hiệp hội ngành nghề và các doanh nghiệp du lịch.
Chú ý đúng mức tới công tác quản lý nhà nước cả ở
cấp vĩ mô là nhà nước Trung ương và địa phương,
doanh nghiệp, xã hội trong công tác phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch ở các tỉnh DHNTB và Tây
Nguyên; quan tâm đến tính đặc thù và tính liên kết
vùng, liên kết quốc tế trong hội nhập để phát triển
nguồn nhân lực.
- Tăng cường nghiên cứu khoa học, liên kết, hợp
tác, hợp tác quốc tế về đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực Du lịch.
3.2.3. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch các tỉnh
khu vực DHNTB và Tây Nguyên :
Qua phân tích SWOT đối với phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây
Nguyên; căn cứ những định hướng phát triển du lịch
của khu vực trong thời gian tới và những quan điểm
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch của khu vực,
các mục tiêu phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
205
của các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên được xác
định là:
3.2.3.1. Mục tiêu tổng quát:
Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
khu vực đến năm 2020 là xây dựng lực lượng lao động
ngành Du lịch đủ về số lượng (tương ứng với số lượng
khách du lịch quốc tế cũng như nội địa được dự báo),
cân đối về cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo,
đảm bảo về chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
phát triển du lịch nhanh, bền vững, đủ sức cạnh
tranh và hội nhập khu vực, góp phần đưa du lịch các
tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên trở thành khu vực
có ngành Du lịch phát triển nhanh và toàn diện nhất
của cả nước; đổi mới cơ chế chính sách phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch, tăng cường năng lực
cho hệ thống cơ sở đào tạo du lịch và thực hiện
chương trình đào tạo lại và bồi dưỡng chuyên nghiệp
du lịch.
Để đáp ứng mục tiêu nêu trên, đội ngũ lao động
trong ngành Du lịch phải được kiện toàn cả về số
lượng và chất lượng, trong đó chú trọng đến tính
chất chuyên nghiệp của đội ngũ này. Điều này thể
hiện ở việc, từ đội ngũ quản lý nhà nước, đội ngũ
206
quản lý tại các doanh nghiệp và đội ngũ lao động
trực tiếp phải được trang bị kiến thức chuyên môn
sâu về du lịch, đảm bảo tạo lên một đội ngũ mạnh về
nghiệp vụ chuyên môn góp phần nâng cao chất lượng
của sản phẩm du lịch và đảm bảo cho sự phát triển
của ngành.
3.2.3.2. Mục tiêu cụ thể
Bảng 3.1. Dự báo nhu cầu nhân lực ngành Du lịch
theo khu vực
trên cả nước đến năm 2015, tầm nhìn 2020Đơn vị: Người
TT Chỉ tiêu Năm2015
Năm2020
% tăngTB
2009 -2015
% tăngTB
2015 -2020
1 Tổng số lao động
du lịch
503.20
2
752.33
4
13,1 9,9
Trong đó số lao động nghiệp vụ (yêu cầu qua đào tạo nghề du lịch)
303.83
2
444.53
3
12,3 9,3
2 Phân theo từng khu
vực2.1 Hà Nội và phụ cận 92.841 140.81
7
10,7 10,3
2.2 Đông Bắc 20.115 28.896 17,7 8,72.3 Tây Bắc 9.284 12.918 8,3 7,8
207
2.4 Bắc Trung bộ 29.400 36.100 15,9 6,42.5 DHNTB 27.852 44.427 12,8 11,92.6 Tây Nguyên 13.524 19.205 11,6 8,42.7 TP. HCM và phụ cận 92.841 134.23
5
9,1 8,9
2.8 Đồng bằng Sông Cửu
Long
20.115 27.935 18,6 7,8
Nguồn: [3].
- Phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch đảm bảo về số lượng
và chất lượng, nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo: Giải quyết
nguồn nhân lực ngành Du lịch đủ về số lượng và đảm
bảo về chất lượng với cơ cấu hợp lý là để đảm bảo sự
phát triển bền vững của ngành Du lịch; muốn vậy, đội
ngũ lao động trong ngành Du lịch phải được kiện toàn
về số lượng và chất lượng, trong đó nâng cao đội ngũ
người làm công tác quản lý có trình độ chuyên môn
cao, sự phù hợp giữa nghề được đào tạo và công việc
họ đảm trách để đảm bảo chất lượng công việc.
Mục tiêu này được thể hiện như sau:
+ 100% đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về du
lịch ở các cấp được đào tạo chuyên môn, đáp ứng
yêu cầu của công việc.
208
+ 100% đội ngũ cán bộ quản lý ở doanh nghiệp và
giám sát được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về
du lịch.
+ 100% lao động phục vụ du lịch được đào tạo,
bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn du lịch, ngoại
ngữ, tin học.
+ 100% cơ sở đào tạo du lịch đào tạo chương
trình đáp ứng yêu cầu thực tiễn với 100% giáo
viên được đào tạo và chuẩn hoá; cơ sở vật chất,
thiết bị giảng dạy được trang bị, nâng cấp đồng
bộ đảm bảo cơ sở đào tạo hiện đại.
- Hình thành hệ thống các cơ sở đào tạo du lịch mạnh về năng
lực cũng như chất lượng để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch: Đối
với các các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực việc đào
tạo phải dựa vào nhu cầu của xã hội ở từng địa
phương cụ thể. Đổi mới nội dung đào tạo theo hướng
hiện đại, cập nhật, “xã hội cần gì đào tạo nấy”,
thoả mãn nhu cầu người học “cần gì học nấy”. Xây
dựng nội dung chương trình đào tạo cho các trường
chuyên nghiệp (Đại học, Cao Đẳng, TCCN và Dạy nghề)
theo hướng thống nhất nhưng linh hoạt mềm dẻo, ứng
dụng Mô đun hoá (Module) cho một số chuyên ngành
thích hợp. Xây dựng cơ sở đào tạo du lịch ở khu vực
209
hướng tới đủ năng lực cạnh tranh, tồn tại song song
với các cơ sở đào tạo khác tại Việt Nam. Không những
thế, cơ sở đào tạo du lịch của khu vực còn đủ năng
lực, uy tín về chất lượng đào tạo để vươn ra nước
ngoài hợp tác, liên kết đào tạo.
Bảng 3.2. Dự báo về cơ cấu nguồn nhân lực ngành Dulịch
Đơn vị: người
TT Chỉ tiêu
Dự báo theo nămNăm2015
Tỷlệ(%)
Năm2020
Tỷlệ(%)
1 Tổng số lao động du lịch 503.202 100 752.3
34 100
Phân theo trình độ đào tạo2 Trình độ trên đại học 2.804 0,55 4.255 0,56
3 Trình độ đại học, cao đẳng 71.570
14,22
150.832
20,05
4 Trình độ trung cấp 75.716
15,05
191.886
25,51
5 Trình độ sơ cấp 103.862
20,64
147.576
19,62
6Trình độ dưới sơ cấp (qua đào tạo tại chỗ hoặc huấn luyện nghiệp vụ ngắn hạn)
250.250
49,73
257.785
34,26
Phân theo loại lao động7 Đội ngũ quản lý của cơ quan
quản lý nhà nước về du lịch 3.110 0,62 7.298 0,97
8Lao động quản lý tại các doanh nghiệp (cấp trưởng, phóphòng trở lên)
33.156 6,59 87.71
111,6
6
9 Lao động nghiệp vụ 466.93 92,7 657.32 87,3
210
6 9 5 71-Lễ tân 36.114 7,18 49.920 6,64
2-Phục vụ buồng 65.318 12,98 97.120 12,9
1
3-Phục vụ bàn, bar 82.432 16,38
126.554
16,82
4-Nhân viên nấu ăn 41.768 8,3 58.215 7,74 5-Hướng dẫn viên
Đã cấp thẻ 28.450 5,65 41.235 5,48Chưa cấp thẻ
6-Nhân viên lữ hành, đại lý du lịch 28.674 5,7 45.481 6,05
7-Nhân viên khác 184.180 36,6 238.80
034,7
4Phân theo ngành nghề kinh doanh10 Khách sạn, nhà hàng 240.0
7047,7
1360.685
47,94
11 Lữ hành, vận chuyển du lịch 63.76
212,6
783.84
811,1
512 Dịch vụ khác 199.3
7039,6
2307.801
40,91
Nguồn: [3].- Xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý, gắn kết đào tạo với sử
dụng trên cơ sở vừa đáp ứng yêu cầu ngành vừa thực hiện liên kết
vùng: Xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực ngành Du lịch
hài hoà, phù hợp, tránh hiện tượng “thừa thầy, thiếu
thợ”, tránh tình trạng mất cân bằng cung cầu lao
động trên thị trường, tránh gây lãng phí nguồn lực
xã hội. Theo kinh nghiệm của các quốc gia có ngành
Du lịch phát triển, tỷ lệ lao động hợp lý giữa khối
quản lý và khối lao động trực tiếp thường là 15: 85
(15% lao động quản lý và 85% lao động trực tiếp phục
211
vụ khách). Bên cạnh đó cơ cấu về trình độ đào tạo,
loại lao động và ngành nghề kinh doanh cũng cần được
cân đối theo dự báo chung về nhu cầu nguồn nhân lực
ngành Du lịch của cả nước.
- Nâng cao nhận thức cộng đồng về du lịch và vai trò của nguồn
nhân lực đối với sự phát triển của ngành Du lịch: Phát triển du
lịch trước hết phải nâng cao nhận thức của người dân
bản địa về du lịch và lợi ích từ hoạt động du lịch
mang lại. Làm cho người dân hiểu về du lịch một cách
đơn giản tự nhiên, hiểu được lợi ích du lịch tác
động đến cuộc sống của họ và có những hành động tích
cực đóng góp phát triển du lịch địa phương nói riêng
cũng như phát triển du lịch của toàn ngành.
Các doanh nghiệp và bản thân người lao động cần
phải hiểu rõ vai trò quyết định của chất lượng
nguồn nhân lực đối với chất lượng của sự phát triển
ngành Du lịch để từ đó có ý thức hơn trong việc tự
hoàn thiện mình và nâng cao các kỹ năng chuyên môn
nghề nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng của nguồn
nhân lực ngành Du lịch.
3.3. Đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lựcngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên3.3.1. Cơ sở để đề xuất các giải pháp:
3.3.1.1. Cơ sở khoa học: Các cơ sở khoa học để Luận án
212
đề xuất các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên
gồm:
- Xu thế chung của du lịch thế giới là phát
triển các dịch vụ du lịch với hàm lượng giá trị gia
tăng cao, qua đó nâng cao vai trò của yếu tố con
người đối với sự phát triển của ngành Du lịch.
- Hệ thống cơ sở lý luận về nguồn nhân lực và
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch đã được đúc
kết trong chương 1 của Luận án.
- Kết quả của các nghiên cứu khác có liên quan
đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch.
- Đặc điểm của nguồn nhân lực ngành Du lịch Việt
Nam.
- Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch của các quốc gia có ngành Du lịch phát triển và
những bài học vận dụng cho khu vực nghiên cứu.
3.3.1.2. Cơ sở thực tiễn: Ngoài các cơ sở khoa học, Luận án
còn dựa trên những cơ sở thực tiễn được đánh giá
tổng kết trong chương 2:
- Vị trí, tiềm năng và định hướng phát triển du
lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên trong mối
gắn kết với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
213
và chiến lược phát triển du lịch của cả nước.
- Thực trạng nguồn nhân lực ngành Du lịch các
tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên với những ưu điểm
và nguyên nhân, những bất cập hạn chế tồn tại cần
được giải quyết và nguyên nhân của nó đã được đúc
kết cuối chương 2.
- Kết quả phân tích SWOT đối với công tác đào
tạo phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch của địa
bàn nghiên cứu trong phần đầu Chương 3 của Luận án.
- Các nguyên tắc, quan điểm phát triển nguồn
nhân lực Việt Nam đến năm 2020; định hướng phát
triển và những yêu cầu đối nguồn nhân lực ngành Du
lịch của các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên giai
đoạn đến 2015 và 2020.
- Khả năng huy động các nguồn lực phục vụ quản
lý và phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch khu
vực.
- Kết quả điều tra khảo sát xác định nhu cầu đào
tạo bồi dưỡng du lịch trên địa bàn khu vực.
Nguồn nhân lực luôn giữ vai trò quyết định đối
với mọi quá trình phát triển, điều này lại càng quan
trọng đối với ngành Du lịch do bản chất của du lịch
là một ngành kinh tế dịch vụ, quá trình sản xuất và
214
tiêu thụ sản phẩm dịch vụ diễn ra đồng thời nên chất
lượng của sản phẩm và dịch vụ du lịch phụ thuộc rất
nhiều vào chất lượng của nguồn nhân lực. Du lịch các
tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên nói riêng, Du lịch
Việt Nam nói chung đang tụt hậu một khoảng cách khá
xa so với ngành Du lịch của các nước trong khu vực
và trên thế giới. phát triển, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực ngành Du lịch chính là một trong
những chìa khoá giúp ngành Du lịch Việt Nam xoá dần
khoảng cách đó để vươn lên đứng vào nhóm các nước có
ngành Du lịch phát triển ở khu vực Đông Nam Á.
Phát triển nhân lực chất lượng cao luôn là bài
toán khó, đòi hỏi sự đồng thuận của tất cả các cấp,
các ngành, các doanh nghiệp, mỗi người lao động và
hệ thống các giải pháp đồng bộ. Một số nhóm giải
pháp phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch các
tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên được đề xuất cụ thể
như sau:
3.3.2. Một sô giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên:
3.3.2.1. Nhóm giải pháp thứ nhất: Tăng cường quản lý nhà nước đối
với phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch.
1) Lập hệ thống cơ sở dữ liệu về nguồn nhân lực ngành Du lịch:
215
Hệ thống cơ sở dữ liệu về nguồn nhân lực ngành Du
lịch giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc
đánh giá số lượng, chất lượng, cơ cấu đào tạo của
nguồn nhân lực ngành Du lịch. Chuỗi dữ liệu theo
thời gian không chỉ dùng để đánh giá những biến động
về số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực ngành
du lịch mà còn cho phép hoạch định các chiến lược,
chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch phù hợp với yêu cầu phát
triển và các định hướng phát triển du lịch.
- Mục tiêu của giải pháp: Xây dựng, triển khai, vận
hành hệ thống cơ sở dữ liệu về nguồn nhân lực ngành
Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên. Hệ
thống cơ sở dữ liệu này sẽ đưa ra bức tranh toàn
cảnh về tình trạng của nguồn nhân lực ngành Du lịch
của khu vực, từ đó có những kế hoạch phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch của khu vực đáp ứng với
yêu cầu phát triển. Tạo điều kiện cho cán bộ làm
công tác phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch của
các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch có thể sử
dụng và vận hành cơ sở dữ liệu. Nâng cao hiệu quả
của công tác phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu. Hệ thống này cũng
216
cho phép kết nối toàn quốc và với Tổng cục Du lịch,
Bộ VH, TT & DL giúp cho việc hoạch định chiến lược
phát triển nguồn nhân lực chung của toàn ngành Du
lịch.
- Nội dung của giải pháp:
+ Tiến hành điều tra về nguồn nhân lực ngành Du
lịch của các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên.
Việc điều tra cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa
các Sở VH,TT&DL trên địa bàn khu vực với Tổng cục
Thống kê và Tổng cục Du lịch để xây dựng phương án
điều tra và nội dung của phiếu điều tra. Trước khi
điều tra cần tiến hành thống kê sơ bộ số lượng các
cơ quan quản lý và các doanh nghiệp, cơ sở kinh
doanh du lịch để xác định số lượng phiếu điều tra
cần phát ra.
Phiếu điều tra gồm 2 loại: loại dành cho cán bộ
quản lý ở các cơ quan quản lý, các cấp quản lý và
loại dành cho lao động trong các doanh nghiệp, cơ sở
kinh doanh du lịch. Chỉ tiêu nội dung của phiếu điều
tra gồm 2 nhóm: nhóm chỉ tiêu phản ánh về số lượng
(biểu hiển bằng con số) và nhóm chỉ tiêu phản ánh về
chất lượng (biểu hiện bằng mức độ; các chỉ tiêu này
phải được xác định để phản ánh năng lực, trình độ
217
cũng như khả năng đáp ứng của họ với tình hình thực
tế).
Những thông tin mà phiếu điều tra cần thu thập
về nguồn nhân lực ngành Du lịch bao gồm: độ tuổi
giới tính, nơi làm việc, công việc đang đảm nhân,
trình độ văn hoá, ngoại ngữ, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, những yêu cầu về đào tạo bồi dưỡng trong
thời gian tới. Phiếu điều tra được phát cho các
doanh nghiệp du lịch, cơ sở kinh doanh du lịch trên
địa bàn các tỉnh trong khu vực.
Về số lượng phiếu điều tra: Trong quá trình viết
luận án, do điều kiện thời gian và kinh phí có hạn
nên tác giả chỉ phát 286 phiếu cho cán bộ quản lý và
922 phiếu cho lao động tại doanh nghiệp. Để tăng độ
chuẩn xác của thông tin cần thu thập, cần phát hành
phiếu điều tra đến từng doanh nghiệp, cơ sở kinh
doanh du lịch trên địa bàn (phát đồng thời 2 mẫu
phiếu điều tra về lao động quản lý và lao động trực
tiếp). Muốn làm được điều này, trước hết cần thống
kê sơ bộ về số lượng doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh
du lịch trên địa bàn từng tỉnh để phát hành đủ số
lượng phiếu điều tra. Các Sở VH,TT&DL phối hợp với
các Sở LĐ,TB&XH , Cục Thống kê tỉnh và các chủ các
218
doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh du lịch để những
doanh nghiệp, cơ sở này có trách nhiệm kê khai đầy
đủ, chính xác những nội dung của phiếu điều tra.
+ Xây dựng phần mềm cập nhật và xử lý dữ liệu về
nguồn nhân lực ngành Du lịch: Các Sở VH,TT&DL thuê
viết phần mềm cập nhật, xử lý dữ liệu về nguồn nhân
lực ngành Du lịch. Phần mềm này cần được thống nhất
sử dụng chung để đảm bảo tính kết nối và tương thích
giữa các tỉnh trong khu vực.
Các bảng biểu phân tích đầu ra cũng cần được cân
nhắc để phục vụ tốt yêu cầu quản lý và phát triển.
Song song với các bảng biểu phân tích, các mẫu biểu
báo cáo về tình hình biến động nguồn nhân lực ngành
Du lịch cũng được thiết kế để phát hành và cập nhật
(hàng tháng, quý, 6 tháng và năm) sau khi đã có được
cơ sở dữ liệu ban đầu.
Sau khi đã có phần mềm, các tỉnh cần trang bị hệ
thống máy tính đủ mạnh, cài phần mềm, kết nối với
nhau và với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, với
Tổng cục Du lịch.
+ Đào tạo, tập huấn cho cán bộ phụ trách công
tác phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch: Xây
dựng tài liệu hướng dẫn sử dụng và tiến hành đào
219
tạo, tập huấn cho các cán bộ phụ trách nắm vững kỹ
thuật và quy trình vận hành, khai thác hệ thống
thông tin điện tử về nguồn nhân lực ngành Du lịch.
+ Vận hành, tổng kết đánh giá: Việc vận hành
thời gian đầu không thể tránh được những trục trặc
nhất định, do vậy cần có quá trình vận hành thử và
điều chỉnh phần mềm cho phù hợp với tình hình thực
tiễn.
Việc tổng kết đánh giá cần được tiến hành ngay
sau khi vận hành thành công hệ thống cơ sở dữ liệu
điện tử. Do đặc diểm của nước ta là không có cơ quan
quản lý vùng nên những thông tin về nguồn nhân lực
mỗi tỉnh và của toàn khu vực nên được tập hợp báo
cáo tỉnh và cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở
Trung ương kèm theo những kiến nghị, đề xuất cụ thể
để có những chính sách phù hợp phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch.
- Điều kiện để tiến hành xây dựng và vận hành hệ
thống cơ sở dữ liệu:
+ Các Sở VH,TT&DL chủ động xây dựng phương án
điều tra, mẫu phiếu điều tra trình các cấp có thẩm
quyền phê duyệt và cấp kinh phí điều tra.
220
+ Các Sở VH,TT&DL phối hợp với các Sở LĐ,TB&XH
, Cục Thống kê, công ty tư vấn về tin học có uy tín,
các chủ các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh du lịch
để tiến hành hoạt động điều tra.
+ Các Sở VH,TT&DL phối hợp tích cực với nhau
và kết nối với Tổng cục Du lịch để chia sẻ và sử
dụng hệ thống cơ sở dữ liệu. Thành lập bộ phận
chuyên theo dõi và phân tích dữ liệu của nguồn nhân
lực ngành Du lịch phục vụ cho việc hoạch định các
chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch.
+ Bộ VH,TT&DL, Tổng cục Thống kê, Uỷ ban Nhân
dân các tỉnh cấp kinh phí, tạo điều kiện thuận lợi
cho cuộc điều tra; bố trí nhân lực chuyên trách vận
hành hệ thống cơ sở dữ liệu.
2) Hoàn thiện cơ chế phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch:
- Mục tiêu của giải pháp: Cơ chế phát triển nguồn nhân
lực nói chung, nguồn nhân lực ngành Du lịch nói
riêng còn khá nhiều bất cập. Việc hoàn thiện hệ
thống cơ chế phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
cần được tiến hành một cách đồng bộ từ Trung ương
đến địa phương, cả đối với ngành Du lịch và với các
ngành khác có liên quan đến hoạt động du lịch.
- Nội dung giải pháp hoàn thiện cơ chế phát triển nguồn nhân
221
lực ngành Du lịch gồm:
+ Xây dựng, ban hành mới hoặc bổ sung, sửa đổi
văn bản quy phạm pháp luật quy định về đào tạo du
lịch liên quan trực tiếp đến: các cơ sở đào tạo du
lịch; hình thức đào tạo du lịch; đội ngũ giảng viên,
giáo viên, đào tạo viên; công tác tuyển sinh; chương
trình khung theo các bậc học; học phí; văn bằng,
chứng chỉ; tuyển dụng và sử dụng lao động du lịch.
Những quy định này sẽ tác động trực tiếp đến chất
lượng của công tác đào tạo du lịch, cũng như quy
trình tuyển dụng, sử dụng lao động đã qua đào tạo.
+ Xây dựng, ban hành tiêu chuẩn chức danh quản
lý và nghiệp vụ của ngành làm cơ sở cho việc đào tạo
và sử dụng nhân lực phù hợp với yêu cầu và điều kiện
thực tế.
+ Nghiên cứu áp dụng cơ chế quản lý, kiện toàn
và tăng cường năng lực hệ thống quản lý phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch.
Những nội dung chủ yếu của giải pháp này phụ
thuộc chủ yếu vào các cơ quan quản lý nhà nước ở
Trung ương (ví dụ nội dung xây dựng, ban hành mới
hoặc bổ sung văn bản quy phạm pháp luật quy định về
đào tạo du lịch; nội dung xây dựng, ban hành tiêu
222
chuẩn chức danh quản lý và nghiệp vụ của ngành). Đối
với Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh, Chính phủ đã có Nghị
định 166/2004/NĐ-CP, ngày 16 tháng 9 năm 2004 quy
định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục, theo
đó Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm về phát
triển sự nghiệp giáo dục của tỉnh với những nhiệm
vụ, quyền hạn tập trung vào việc quản lý các loại
hình trường, lớp học được giao theo thẩm quyền.
Theo Luật Tổ chức Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban
Nhân dân sửa đổi (ngày 26 tháng 11 năm 2003), thì Uỷ
ban Nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, để góp phần hoàn thiện hệ thống
cơ chế về phát triển nguồn nhân lực, các sở, ban
ngành ở địa phương như Sở VH, TT&DL, Sở Nội vụ, Sở
LĐ, TB & XH cần nghiên cứu tham mưu Uỷ ban Nhân dân
cấp tỉnh trong thẩm quyền của mình ban hành những cơ
chế kiện toàn và tăng cường năng lực hệ thống quản
lý phát triển nguồn nhân lực. Cụ thể:
+ Xây dựng văn bản quản lý hoạt động bồi dưỡng
du lịch trên địa bàn khu vực để phục vụ cho việc đảm
bảo tiêu chuẩn chức danh, nghề về du lịch có tính
thực thi liên tục.
+ Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các sở, ban
223
ngành có liên quan đến công tác đào tạo phát triển
nguồn nhân lực.
+ Trên cơ sở các văn bản có liên quan, nghiên
cứu xây dựng cơ chế chính sách thu hút và sử dụng
nguồn nhân lực ngành Du lịch ở khu vực DHNTB và Tây
Nguyên để vừa thu hút được lao động cho ngành Du
lịch vừa tránh được những biến động theo mùa vụ.
3) Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên: Xây dựng chiến lược
phát triển luôn là một trong những nội dung quản lý
nhà nước quan trọng của các ngành. Trong các chiến
lược thành phần của ngành Du lịch (những chiến lược
phát triển theo ngành hẹp), bên cạnh chiến lược về
đầu tư phát triển du lịch, chiến lược phát triển thị
trường sản phẩm, chiến lược phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch giữ một vai trò hết sức quan
trọng, cần được quan tâm xây dựng.
- Mục tiêu của giải pháp: Xây dựng chiến lược phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch khu vực với những
định hướng, lộ trình thực hiện cụ thể; xây dựng được
lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và
chất lượng; huy động các nguồn lực phục vụ cho sự
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch.
224
- Nội dung của giải pháp:
+ Tiến hành điều tra khảo sát thực trạng nguồn
nhân lực ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây
Nguyên.
+ Các Sở VH,TT&DL phối hợp với các sở, ban
ngành có liên quan xây dựng Chiến lược phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB
và Tây Nguyên, gắn với chiến lượng phát triển kinh
tế - xã hội của khu vực và chiến lược phát triển Du
lịch Việt Nam. Cụ thể:
. Nghiên cứu kỹ chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội của khu vực đã được các cấp có thẩm quyền
phê duyệt; chiến lược phát triển du lịch Việt Nam,
qua đó xác đinh vị trí vai trò của du lịch các tỉnh
DHNTB và Tây Nguyên đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội của khu vực và sự phát triển du lịch của cả
nước.
. Nghiên cứu dự báo về phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch của các tỉnh khu vực DHNTB và Tây
Nguyên, từ xu thế biến động, định hướng phát triển,
cho đến số lượng, cơ cấu trình độ đào tạo; số lượng
và các loại hình cơ sở đào tạo du lịch, sự phân bố
trên phạm vi toàn khu vực...
225
. Xác định quan điểm phát triển, mục tiêu
chiến lược, lộ trình phát triển nguồn nhân lực ngành
Du lịch của các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên,
các nguồn lực phục vụ cho sự phát triển.
. Xây dựng hệ thống các giải pháp khả thi để
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch của khu vực,
dự báo nhu cầu vốn đầu tư, nguồn vốn đầu tư, các dự
án đầu tư và phân kỳ đầu tư cho các mốc thời gian
2015, 2020.
. Xây dựng các chương trình, kế hoạch, lộ
trình hành động cụ thể để đạt được mục tiêu phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
3.3.2.2. Nhóm giải pháp thứ 2: Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực ngành Du lịch:
1) Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch:
- Mục tiêu của giải pháp: Xây dựng mạng lưới đào tạo
du lịch hiện đại, đào tạo chất lượng cao, phân bố
phù hợp với yêu cầu phát triển du lịch trong các
tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên, thông qua việc
thiết lập một số cơ sở đào tạo du lịch mới và tăng
cường cơ sở vật chất và năng lực cho các cơ sở đào
tạo du lịch đang có trong khu vực.
- Nội dung của giải pháp:
226
+ Đầu tư xây dựng cơ sở đào tạo mới trên cơ sở
xác định chính xác nhu cầu phải tổ chức xây dựng mới
cơ sở đào tạo, đảm bảo sự cân đối theo toàn khu vực,
phù hợp với chương trình phát triển hệ thống cơ sở
đào tạo du lịch của ngành Du lịch Việt Nam. Thành
lập và xây dựng trường trung cấp nghề Du lịch tại
Bình Thuận.
+ Đầu tư bổ sung, tăng cường trang thiết bị
phục vụ cho công tác đào tạo, tăng cường năng lực
cho cơ sở đào tạo du lịch hiện có tại khu vực là
Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Khánh
Hòa, Trường Trung cấp Du lịch Nha Trang, Trường
Trung cấp Du lịch Đà Lạt (trực thuộc Bộ VH, TT &
DL); Trường Trung học Kinh tế Kỹ thuật Tôn Đức Thắng
(tỉnh Bình Thuận).
+ Đào tạo cán bộ quản lý đào tạo cho các cơ sở
đào tạo góp phần nâng cao chất lượng đào tạo: Tổ
chức các khóa đào tạo về quản lý đào tạo cho cán bộ
lãnh đạo các trường chuyên nghiệp du lịch; tổ chức
các chuyến tham quan thực tế tại các cơ sở đào tạo
du lịch nước ngoài cho cán bộ lãnh đạo các trường
chuyên nghiệp du lịch.
+ Thiết lập mạng lưới đào tạo du lịch trong các
227
tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên có sự gắn kết chặt
chẽ trong việc triển khai công tác đào tạo: hình
thành tổ chức mạng lưới đào tạo và quy chế liên kết
của mạng lưới.
+ Thông tin, tuyên truyền quảng bá về chất
lượng và kết quả đào tạo của các cơ sở đào tạo du
lịch.Trao đổi thông tin, giảng viên, hợp tác liên
kết đào tạo trong khu vực.
- Tổ chức thực hiện:
+ Bộ VH,TT & DL chủ trì các dự án xây dựng
trường trực thuộc Bộ; tham gia, hướng dẫn, tư vấn
đối với các trường khác; tìm nguồn tài trợ và thực
hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng về quản lý cơ
sở đào tạo du lịch.
+ UBND cấp tỉnh chủ trì giao cho các sở, ban
ngành địa phương tham mưu, trong đó Sở VH,TT&DL đóng
vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các dự án xây
dựng trường trực thuộc địa phương.
+ Bộ GD&ĐT, Bộ KH&ĐT phối hợp trong việc phê
duyệt thành lập và đầu tư xây dựng các trường mới.
+ Các cơ sở đào tạo du lịch thuộc diện được đầu
tư nâng cấp, tăng cường năng lực có trách nhiệm tham
gia thực hiện nhiệm vụ thuộc phạm vi của mình .
228
2) Đào tạo giáo viên, giảng viên du lịch:
- Mục tiêu của giải pháp: Xây dựng đội ngũ giáo viên,
giảng viên du lịch đủ tiêu chuẩn, có trình độ chuyên
môn và phương pháp giảng dạy lý thuyết và thực hành
chuyên về du lịch đáp ứng các yêu cầu đối với giáo
viên, giảng viên du lịch, có đủ năng lực giảng dạy ở
các cơ sở đào tạo trong khu vực.
- Nội dung của giải pháp:
+ Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn du
lịch về từng lĩnh vực cho đội ngũ giảng viên đại
học, cao đẳng và giáo viên trung cấp chuyên nghiệp
du lịch với các lĩnh vực chuyên môn: Quản lý du
lịch, Quản trị khách sạn, Quản trị Lữ hành, Quản trị
Nhà hàng, Quản trị Dịch vụ, Hướng dẫn du lịch,
Nghiệp vụ lễ tân, Nghiệp vụ lưu trú, Nghiệp vụ phục
vụ nhà hàng, Kỹ thuật chế biến món ăn và Kỹ thuật
pha chế đồ uống.
+ Đào tạo ngoại ngữ và phương pháp giảng dạy
cho giảng viên và giáo viên: Bồi dưỡng, bổ túc kiến
thức sư phạm và phương pháp giảng dạy hiện đại tạo
ra đội ngũ nòng cốt. Những giảng viên, giáo viên
nòng cốt này sẽ tiếp tục truyền đạt cho đồng nghiệp
tại cơ sở đào tạo của mình. Tất cả các giáo viên,
229
giảng viên được đào tạo ngoại ngữ phụ vụ công tác
giảng dạy và nghiên cứu, đặc biệt là tiếng Anh.
- Tổ chức thực hiện:
+ Các Sở VH, TT & DL của các tỉnh trong khu vực
DHNTB và Tây Nguyên chủ trì xây dựng dự án trình Bộ
VH, TT & DL cấp kinh phí, nguồn tài trợ và tìm đối
tác tư vấn; tổ chức các khóa thí điểm, đánh giá và
chuyển giao cho một số trường thực hiện.
+ Các Sở VH, TT & DL xác định tiêu chí đánh
giá, lựa chọn đối tượng là giảng viên, giáo viên có
chuyên ngành phù hợp tham gia chương trình đào tạo,
bồi dưỡng; đồng thời có những cam kết bắt buộc để
sau khi những giáo viên, giảng viên sau khi được
tham gia khoá đào tạo bồi dưỡng sẽ phục vụ lâu dài
tại các cơ sở đào tạo du lịch trong khu vực và
truyền đạt lại cho các thế hệ giáo viên tiếp theo.
+ Các trường triển khai cử giáo viên, giảng viên
tham gia các khóa bồi dưỡng; một số trường được chọn
thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên có sự
tham gia của giảng viên nước ngoài dưới sự điều phối
của Bộ VH, TT & DL, Tổng cục Du lịch.
3) Phát triển chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo
lại nguồn nhân lực ngành Du lịch:
230
- Mục tiêu của giải pháp: Trang bị khung cơ bản về
chương trình, nội dung đào tạo và bồi dưỡng các
chuyên ngành đào tạo du lịch tương ứng với tiêu
chuẩn chức danh quản lý và tiêu chuẩn chức danh
nghiệp vụ ngành Du lịch, phù hợp với yêu cầu thực
tiễn để áp dụng trong các cơ sở đào tạo du lịch.
- Nội dung của giải pháp:
+ Trên cơ sở tiêu chuẩn chức danh quản lý du
lịch xây dựng và đưa vào áp dụng khung chương trình
và nội dung bồi dưỡng kiến thức quản lý du lịch đối
với từng đối tượng:
* Chương trình, nội dung bồi dưỡng kiến thức
quản lý nhà nước về du lịch cho cán bộ lãnh đạo các
Sở VH,TT & DL.
* Chương trình, nội dung bồi dưỡng kiến thức
quản lý nhà nước về du lịch cho công chức ngạch
chuyên viên.
* Chương trình, nội dung bồi dưỡng kiến thức
quản lý nhà nước về du lịch cho công chức ngạch
chuyên viên chính.
* Chương trình, nội dung bồi dưỡng kiến thức
quản lý du lịch cho giám đốc khách sạn, giám đốc lữ
hành, giám đốc nhà hàng.
231
* Chương trình, nội dung bồi dưỡng kiến thức
quản lý, giám sát bộ phận kinh doanh khách sạn, lữ
hành, hướng dẫn, nhà hàng du lịch, cơ sở vui chơi,
giải tí, thể thao, hội nghị.
+ Xây dựng và áp dụng khung chương trình và nội
dung đào tạo đối với các chuyên ngành đào tạo phù
hợp với mặt bằng chung của khu vực.
* Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo quản
lý du lịch
* Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo quản
trị khách sạn
* Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo quản
trị nhà hàng
* Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo quản
trị lữ hành
* Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo quản
trị giải trí, thể thao, hội nghị, lễ hội
* Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo hướng
dẫn du lịch
* Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo nghiệp
vụ lễ tân
* Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo nghiệp
vụ Nhà hàng
232
* Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo nghiệp
vụ lưu trú
* Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo chế
biến món ăn
* Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo phục
vụ giải trí, thể thao, hội nghị, lễ hội
* Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo pha
chế đồ uống
+ Ban hành các tài liệu hướng dẫn áp dụng chương
trình, nội dung đào tạo và bồi dưỡng du lịch, xuất
bản hoặc dịch và xuất bản một số sách chuyên môn du
lịch.
* Văn bản, tài liệu hướng dẫn áp dung chương
trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng
* Xuất bản, dịch và xuất bản một số đầu
sách về các lĩnh vực chuyên môn du lịch phục vụ
công tác đào tạo, bồi dưỡng.
- Tổ chức thực hiện:
+ Các Sở VH, TT & DL của các tỉnh trong khu vực
DHNTB và Tây Nguyên chủ trì xây dựng các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng lại trình Bộ VH, TT & DL
phê duyệt, cấp kinh phí; huy động huy động các
chuyên gia trong nước và chuyên gia nước ngoài tham
233
gia thực hiện xây dựng chương trình nội dung đào
tạo, bồi dưỡng đối với từng nghiệp vụ cụ thể.
+ Các cơ sở đào tạo và cơ sở sử dụng lao động du
lịch phối hợp tham gia ý kiến trong việc xây dựng
chương trình, và đưa vào áp dụng.
+ Các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp chủ động
bố trí thời gian cử các cán bộ, nhân viên của mình
theo học các lớp đào tạo, bồi dưỡng và đạo tạo lại.
4) Đào tạo nhân lực ngành Du lịch theo nhu cầu xã hội:
- Mục tiêu của giải pháp: Mục tiêu cơ bản của giải
pháp này là nâng cao chất lượng công tác đào tạo
nhân lực ngành Du lịch, đáp ứng nhu cầu của xã hội,
trang bị các kiến thức, kỹ năng hỗ trợ cho hoạt động
của đội ngũ lao động trong ngành Du lịch với nguyên
tắc: “ai làm việc gì thì học để làm việc đó cho
tốt”.
Hình thức đào tạo này thường gây tốn kém về
nguồn lực, tuy nhiên đây là hình thức rất hiệu quả,
do đáp ứng được nhu cầu thiết thực của xã hội, xoá
dần khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu sử dụng; các
doanh nghiệp và xã hội không phải bỏ thêm chí phí và
thời gian cho việc đào tạo lại, có thể sử dụn ngay
lao động vừa được đào tạo, đáp ứng nhu cầu bức xúc
234
về nguồn nhân lực có tay nghề phù hợp, vì vậy cần
được nghiên cứu áp dụng rộng rãi.
- Nội dung của giải pháp:
+ Xác định nhu cầu đào tạo: Các bước cần thiết
trong xác định nhu cầu đào tạo gồm: phân tích nhu
cầu của doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động; phân
tích công việc và phân tích cá nhân. Tránh bỏ sót
hoặc cắt ngắn các khâu để tránh trường hợp không đưa
ra được một danh sách nhu cầu cần đào tạo một cách
cụ thể và chi tiết. Sản phẩm của công đoạn này là
những nhu cầu chính cho các nhóm công việc tiêu biểu
trong doanh nghiệp du lịch, danh sách nhu cầu cụ thể
cho những nhóm người hoặc từng người cụ thể.
Trong điều kiện hiện nay của ngành Du lịch các
tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên thì phương pháp xác
định nhu cầu đào tạo theo vị trí công việc là phù
hợp nhất (đây là phương pháp được nhiều dự án du
lịch có yếu tố nước ngoài tại các tỉnh khu vực DHNTB
và Tây Nguyên đã thực hiện và đạt kết quả tốt).
Ngoài ra có thể kết hợp thêm các phương pháp khác
như phỏng vấn, đánh giá nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng
tại các dự án, cơ sở đào tạo. Điều này làm cho công
235
tác đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch phù hợp với
nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp du lịch.
+ Thiết kế chương trình đào tạo: Khâu đầu tiên
trong thiết kế chương trình đào tạo là cần xác định
mục tiêu đào tạo. Một mục tiêu đào tạo tốt cần phải
cụ thể, lượng hoá được, hiện thực và quan sát được.
Các mục tiêu cần cụ thể và lượng hóa được vì với
những mục tiêu không định lượng được sẽ gây nhiều
khó khăn cho việc đánh giá hiệu quả đào tạo sau này.
Một chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu
của công việc cần giải quyết được 3 nội dung đào tạo
là kiến thức, kỹ năng và thái độ. Ngoài ra cũng cần
cân đối hàm lượng kiến thức của các loại kiến thức,
do đó chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần chia kiến
thức thành 3 loại: loại mà người học phải biết, loại
cần biết và loại nên biết.
Loại phải biết là kiến thức nhất thiết phải được
trang bị trong các khoá đào tạo, bồi dưỡng theo nhu
cầu. Đó là các loại kiến thức, kỹ năng cần để thực
hiện đúng, đủ các nhiệm vụ được giao. Loại kiến thức
cần biết là loại kiến thức mà giảng viên có thể gợi
ý, giới thiệu cho học viên nghiên cứu, mở rộng tầm
hiểu biết để hỗ trợ cho việc thực hiện công việc.
236
Loại kiến thức nên biết là kiến thức bổ trợ, người
học có thể tự nghiên cứu, trang bị cho mình khi có
điều kiện tiếp cận.
Khâu thứ hai là thiết kế nội dung giảng dạy: cần
có sự trao đổi kỹ lưỡng giữa doanh nghiệp du lịch sử
dụng lao động với các cơ sở đào tạo du lịch, tránh
những chương trình có sẵn, và không theo sát được
nhu cầu của doanh nghiệp.
Hiện nay, nội dung đào tạo của đa số các cơ sở
đào tạo du lịch thường mang nặng tính lý thuyết, hàn
lâm. Nhiều bài giảng dành quá nhiều thời gian giảng
giải về định nghĩa, tầm quan trọng và các yêu cầu,
nguyên tắc, mà ít thời gian dành cho việc giải thích
làm gì, làm như thế nào, trong điều kiện hoàn cảnh
nào, v.v...Rất nhiều chương trình đào tạo chỉ chuẩn
bị nội dung giảng giải là chính, ít chuẩn bị phần
thực hành, phần kích thích suy nghĩ, sáng tạo và độc
lập của học viên. Để khắc phục bất cập này cần có sự
tham gia của các chuyên gia đầu ngành du lịch và các
doanh nghiệp du lịch trong khâu thiết kế nội dung
giảng dạy cho phù hợp với nhu cầu thực tế.
+ Thực hiện chương trình đào tạo: Phương pháp
giảng dạy một chiều vừa không gây hứng thú cho học
237
viên, không kích thích quá trình học tập của học
viên, vừa làm cả thày và trò mệt mỏi. Ngoài ra,
phương pháp này còn không phù hợp với đối tượng học
viên là người lớn đi học, cũng không quan tâm tới
phong cách học cá nhân của từng người. Việc ít trao
đổi giữa giáo viên và học viên trên lớp cũng làm
giáo viên có ít thông tin phản hồi để kiểm tra quá
trình học tập của học viên ngay trên lớp học, và ít
có sự điều chỉnh cần thiết. Việc không quan tâm tới
phong cách học tập của cá nhân khiến nhiều nhu cầu
và phương pháp học hữu hiệu đối với nhiều học viên
bị bỏ qua. Học viên không có nhiều hoạt động trên
lớp, không có điều kiện trao đi, đổi lại, và ít có
điều kiện học từ những người ngồi trong cùng lớp.
Đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu đòi hỏi giáo
viên được đào tạo về phong cách giảng dạy. Do đó,
việc thiết kế phương pháp giảng dạy là rất cần
thiết. Đa số giáo viên chuẩn bị bài giảng để lên
lớp, dành rất ít thời gian cho việc thiết kế phương
pháp, hoặc thậm chí không để ý tới thiết kế phương
pháp và chỉ sử dụng một phương pháp giảng dạy truyền
thống, giảng dạy một chiều, trong đó giáo viên nói,
học viên nghe. Đào tạo theo nhu cầu đòi hỏi phương
238
pháp giảng dạy phải phát huy được tính chủ động của
học viên, giảng viên chỉ giữ vai trò dẫn dắt.
Phương pháp giảng dạy của giáo viên cần tạo nên
một sự giao lưu thông tin 2 chiều giữa giáo viên và
học viên. Giáo viên giữ vai trò là người dẫn dắt để
học viên được thảo luận nhóm, trình bày những hiểu
biết, chính kiến và cách xử lý của mình, trao đổi
học tập lẫn nhau, kích thích suy nghĩ của học viên.
Cách làm này làm cho các chương trình đào tạo sôi
động và hấp dẫn hơn, cuốn hút người học, đồng thời
đem lại những lợi ích thiết thực cho cả người dạy và
người học.
Số lượng học viên trong một lớp học cũng là vấn
đề lớn trong thực hiện chương trình đào tạo. Thường
các lớp học có trên 40-50 học viên, thậm chí còn
nhiều hơn. Với số lượng học viên như thế, không cho
phép giáo viên sử dụng các phương pháp giảng dạy
tích cực như thảo luận nhóm, bài tập tình huống,
đóng vai... vì với số lượng học viên quá lớn, giáo
viên không kiểm soát nổi lớp học khi sử dụng những
phương pháp đó. Như vậy, kể cả khi giáo viên có biết
về các phương pháp giảng dạy tích cực, thì hoàn cảnh
cũng không cho phép họ áp dụng phương pháp đó.
239
+ Đánh giá hiệu quả đào tạo: Công tác đánh giá
hiệu quả của đào tạo cần phản ánh được: phản ứng của
học viên trong khóa học về nội dung, phương pháp và
công tác tổ chức lớp học; đánh giá mức độ học tập
của học viên, được tổ chức ngay trước và ngay sau
khóa học, rồi lấy kết quả so sánh với nhau; đánh giá
sự thay đổi hành vi của học viên trong công việc làm
hàng ngày, thường thực hiện sau khóa học vài ba
tháng, và đánh giá ảnh hưởng của khóa đào tạo tới
kết quả kinh doanh của công ty, tổ chức.
Việc đánh giá mức độ học tập của học viên tránh
làm theo kiểu hình thức. Khi việc đánh giá đào tạo
được tổ chức bài bản, chính thức, thì việc rút ra
bài học kinh nghiệm được đầy đủ và toàn diện cho
những lần kế tiếp. Ngoài ra, cần phải xem công tác
đào tạo như một hoạt động đầu tư, và cần phải đánh
giá xem hiệu quả của quá trình đầu tư như thế nào,
để có phương án đầu tư tiếp cho có lợi hơn.
3.3.2.3. Nhóm giải pháp thứ ba: Các giải pháp hỗ trợ:
1) Tăng cường sự liên kết và tính chủ động của các bên có liên
quan đến hoạt động đào tạo, bồi dưỡng: Để công tác đào tạo
bồi dưỡng đạt hiệu quả cao cần có sự liên kết của
các bên có liên quan là Nhà nước – Nhà trường và Nhà
240
sử dụng lao động (các doanh nghiệp và cơ sở kinh
doanh du lịch) và người lao động.
- Nhà nước ban hành hệ thống văn bản pháp luật
liên quan, tạo hành lang pháp lý hỗ trợ công tác đào
tạo bồi dưỡng; hoàn thiện tổ chức liên quan đến công
tác quản lý nhà nước về đạo tạo du lịch từ Trung
ương đến địa phương; đầu tư cơ sở vật chất cho các
cơ sở đào tạo du lịch; ban hành các tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp để định hướng cho công tác đào tạo
bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành Du lịch.
Quản lý nhà nước về đào tạo du lịch liên quan
đến nhiều cơ quan Trung ương (Quốc hội, Chính phủ,
Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ,TB&XH, Bộ VH,TT&DL, Tổng cục Du
lịch) và địa phương (UBND cấp tỉnh, Sở GD&ĐT, Sở
LĐ,TT&XH). Vì vậy cần có sự phân công rõ ràng về
chức năng nhiệm vụ của các cơ quan có liên quan. Các
văn bản luật và nghị định phải rõ ràng, nhất quán,
không được mâu thuẫn phủ định lẫn nhau và lấy lợi
ích của người học và người lao động lên hàng đầu.
Tăng cường sự phối hợp giữa các sở, ban ngành
địa phương đặc biệt là sự phối hợp giữa Sở LĐ,TB&XH,
Sở VH,TT&DL và Nhà trường; tranh thủ “chương trình hỗ
trợ đào tạo nghề cho người lao động nông thôn” của các Sở
241
LĐ,TB&XH để hỗ trợ đào tạo nghề cho người địa
phương.
- Các cơ sở đào tạo du lịch cần rà soát, chỉnh
sửa, bổ sung chương trình, giáo trình đào tạo,
phương pháp giảng dạy để đào tạo đáp ứng được nhu
cầu của xã hội về đào tạo nhân lực ngành Du lịch.
Tăng cường số lượng giáo viên cơ hữu của mỗi cơ sở,
ký hợp đồng giảng dạy với các giáo viên kiêm nhiệm
là những người công tác lâu năm trong ngành Du lịch,
có nhiều kinh nghiệm quản lý hoặc trình độ tay nghề
cao; tăng thời lượng thực hành và nghiên cứu xử lý
tình huống; tăng cường chất lượng của đội ngũ giáo
viên, giảng viên.
- Nâng cao tính chủ động của doanh nghiệp trong
chiến lược tuyển chọn và đào tạo, bồi dưỡng nhân
viên. Khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh loại
hình đào tạo qua công việc. Doanh nghiệp cần vào
cuộc, bắt tay với các cơ sở đào tạo, đặt hàng cho
các cơ sở đào tạo, cử những lao động giỏi của mình
tham gia giảng dạy trực tiếp các khoá đào tạo bồi
dưỡng; góp ý cho các cơ sở đao tạo bổ sung, chỉnh
sửa chương trình giáo trình đào tạo, bồi dưỡng du
lịch.
242
Các doanh nghiệp cần phải xây dựng qui trình
công nghệ chuẩn hoặc xây dựng chất lượng dịch vụ
theo tiêu chuẩn ISO. Trên cơ sở đó, mọi người lao
động, mọi bộ phận phải được học tập, bồi dưỡng và
thực hiện theo qui trình. Do đó,công tác đào tạo,
bồi dưỡng nhân viên phải là nhiệm vụ thường xuyên
của doanh nghiệp
Tăng cường sự liên kết, hợp tác với các cơ sở
đào tạo nhằm phát triển mô hình đào tạo tại các
doanh nghiệp theo đơn đặt hàng. Đây là mô hình đàotạo rất tiết kiệm và hiệu quả.
Mở rộng quan hệ và gắn bó với các tổ chức, hiệp
hội, tập đoàn khách sạn sẽ tạo được cơ hội đào tạo,
học hỏi cho đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp mình.
Đồng thời, thu hút và tuyển chọn được các nhân viên
giỏi.
Liên kết chặt chẽ với các trường nghề, cao đẳng,
đại học đào tạo về du lịch nhằm thu hút các học
viên, sinh viên giỏi thông qua các chương trình nhận
sinh viên thực tập, cấp học bổng tài năng trẻ… nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
243
Thành lập Quỹ đào tạo, bồi dưỡng và phát triển
nguồn nhân lực. Đẩy mạnh sự hợp tác với các doanh
nghiệp khác trong công tác đào tạo
- Người lao động cần có ý thức và được khuyến
khích tự nâng cao trình độ đào tạo cho mình thông
qua việc tạo điều kiện về thời gian và những phần
thưởng tương xứng.
Người lao động cần tìm hiểu những kiến thức, kỹ
năng mà mình cần được trang bị để hoàn thành tốt
công việc đảm nhận, chủ động đề xuất kế hoạch học
tập để trang bị kiến thứ, kỹ năng nói trên cho mình.
Trong quá trình học tập cần chủ động trao đổi nhóm
và với giảng viên, tránh tình trạng học thụ động
theo kiểu nghe và chép.
- Tăng cường vai trò của Hiệp hội du lịch: Hiệp
hội du lịch tăng số lượng các thành viên đóng vai
trò hạt nhân; xây dựng mối quan hệ cộng đồng nghề
nghiệp, tạo điều kiện để giữa các thành viên có thể
trao với nhau về kinh nghiệm quản lý, phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch thông qua các hội nghị,
hội thảo, …
Phát huy vai trò tiếp nhận và triển khai chính
sách, chủ trương của Nhà nước đến từng doanh nghiệp
244
hội viên; tiếp thu ý kiến đề xuất của hội viên về
hoạt động của các doanh nghiệp đến các cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền đề nghị tạo điều kiện giúp
đỡ và giải quyết kịp thời.
Duy trì và tranh thủ mối quan hệ với Sở
VH,TT&DL; Trung tâm Xúc tiến đầu tư - thương mại -
du lịch và hỗ trợ doanh nghiệp và các sở, ngành hữu
quan, Hiệp hội Du lịch Việt Nam để nắm bắt kịp thời,
đồng thời tham gia vào những chủ trương và các định
hướng lớn về phát triển du lịch của địa phương và cả
nước.
Liên kết với các đơn vị đào tạo, tranh thủ mọi
nguồn lực của các Ban, ngành của tỉnh, các tổ chức
trong nước và quốc tế để tổ chức các chương trình
đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho
đội ngũ lao động trong các doanh nghiệp du lịch của
Hiệp hội.
Liên kết trong Hội để tiến hành các hoạt động
đào tạo tại chỗ, phát triển nguồn nhân lực một cách
bền vững.
2) Xã hội hoá hoạt động đào tạo bồi dưỡng: Xã hội hoá
hoạt động đào tạo bồi dưỡng nhân lực ngành Du lịch
không chỉ là công việc của ngành giáo dục mà là sự
245
nghiệp của toàn dân, của mọi tổ chức kinh tế xã hội
dưới sự lãnh đạo của đảng và quản lý của nhà nước.
Xã hội hoá hoạt động đào tạo bồi dưỡng nhân lực
ngành Du lịch không là một giải pháp ngắn hạn trong
lúc ngân sách nhà nước dành cho giáo dục còn hạn hẹp
mà là một giải pháp lâu dài, mang tính chiến lược.
Xã hội hoá hoạt động đào tạo bồi dưỡng nhân lực
ngành Du lịch nhằm đến thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục, nhằm làm cho không chỉ thế hệ trẻ mà
là mọi người dân được hưởng các quyền lợi mà giáo
dục đem đến đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện
cho mọi người dân, mọi tổ chức chính trị - kinh tế -
văn hoá - xã hội phát huy cao nhất trách nhiệm và
năng lực của mình đóng góp cho cho sự nghiệp giáo
dục. Xã hội hoá hoạt động đào tạo bồi dưỡng nhân lực
ngành Du lịch còn nhằm đến mục tiêu xây dựng xã hội
học tập trên đất nước, hình thành thói quen học suốt
đời trong từng người dù là trí thức hay lao động
chân tay, dù trẻ hay cao tuổi.
- Mục tiêu của giải pháp: Huy động mọi nguồn lực
cho hoạt động giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng
giáo dục đào tạo.
246
- Nội dung của giải pháp: Xã hội hoá hoạt động
đào tạo bồi dưỡng với nội dung phong phú được biểu
hiện dưới rất nhiều hình thức.
+ Đa dạng hoá các hình thức đào tạo: Mở trường
ngoài công lập ở các cấp học bậc học. Ngoài trường
công lập ra, còn có thể mở các trường tư thục (do
một cá nhân đứng ra mở trường, đầu tư cho trường
hoạt động) hay dân lập (do một nhóm công dân hay do
tổ chức trong hoặc ngoài nước hoặc cùng kết hợp với
nhau đứng ra mở trường và đầu tư cho trường hoạt
động).
+ Các cơ sở đào tạo theo phương thức không chính
quy như các trường bổ túc văn hoá, các trung tâm
giáo dục ngoài giờ như trung tâm ngoại ngữ, tin học,
dạy nghề, … Tất cả hợp thành một mạng lưới các cơ sở
giáo dục đào tạo chuyên và không chuyên rất đa dạng
về hình thức và nội dung học tập để người học các
lứa tuổi có thể chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh
của mình.
+ Khuyến khích người có trình độ tham gia viết
sách giáo khoa, tài liệu tập huấn, tham gia giảng
dạy theo hình thức chính quy và không chính quy…
247
+ Liên kết với các trường nước ngoài trong công
tác đào tạo, mời chuyên gia giáo dục nước ngoài đến
giảng dạy hay quản lý trường, tham gia thiết kế
chương trình, sách giáo khoa. Mời người ngoài ngành
giáo dục đến tham gia giảng dạy trong trường, trong
trung tâm.
+ Nhà nước khuyến khích bằng chính sách tài
chính đối với các cá nhân và tổ chức có hoạt động
trong lĩnh vực giáo dục như giao đất làm trường,
không thu tiền sử dụng đất, miễn đóng thuế giá trị
gia tăng, ưu đãi thuế suất, ưu đãi tín dụng. Nhà
nước cho người đi học được vay tiền trong thời gian
đi học…
3) Xây dựng cơ chế thu hút nhân tài, đãi ngộ và sử dụng lao
động du lịch
- Mục tiêu của giải pháp: Thu hút được đội ngũ
lao động du lịch có chất lượng, sử dụng có hiệu quả
lực lượng lao động.
- Nội dung của giải pháp:
+ Hoàn thiện cơ chế tuyển dụng: Các đơn vị sử
dụng lao động cần dựa trên cơ sở các qui chế, chính
sách về tuyển dụng lao động, qui định về tiêu chuẩn
nhân viên của nhà nước, của ngành để xây dựng các
248
qui định, chính sách và tiêu chuẩn tuyển dụng phù
hợp với điều kiện thực tế của doanh nghiệp.
Mỗi bộ phận trong đơn vị cần hoạch định cho
mình kế hoạch tuyển dụng kèm theo tiêu chuẩn cụ thể
về trình độ, kinh nghiệm, ngoại ngữ, sức khoẻ, độ
tuổi và hình thức.
Mọi thông tin tuyển dụng, chế độ ưu tiên… cần
được thông báo công khai trên phương tiện thông tin
đại chúng. Quá trình thi tuyển phải được giám sát
chặt chẽ và bảo đảm tính công bằng.
+ Sử dụng lao động hợp lý: Vị trí làm việc là
một động lực thúc đẩy người lao động vận dụng được
khả năng trí tuệ của họ vào công việc mà họ đang đảm
nhiệm. Phải xem xét, đánh giá trình độ chuyên môn
của người lao động để bố trí đảm bảo “đúng người
đúng việc”. Việc bố trí người lao động phải căn cứ
vào tình hình thực tế về công việc, sao cho khối
lượng công việc mà mỗi cá nhân đảm đương phù hợp với
khả năng thực tế của họ. Cần mạnh dạn giao công việc
cũng như quyền hạn và trách nhiệm cho nhân viên để
họ có thể độc lập tự chủ trong công việc.
+ Hoàn thiện chế độ đãi ngộ, đánh giá và khen
thưởng người lao động: Hoàn thiện công tác tiền
249
lương của doanh nghiệp thông qua việc lựa chọn được
hình thức trả lương hợp lý vừa khuyến khích được
người lao động vừa bảo đảm các mục tiêu kinh doanh,
phát triển. Hình thức trả lương hiện nay phù hợp
nhất là hình thức khoán theo doanh thu hoặc thu
nhập. Đối với người lao động có thời gian gắn bó lâu
dài với doanh nghiệp thì nên sử dụng hệ số lương
theo thâm niên trong quá trình tính lương
Phát triển các hình thức thưởng và đãi ngộ khác
đối với người lao động như: Thưởng đối với những
nhân viên cung cấp đươc các dịch vụ có chất lượng
cho khách hàng như được khách hàng khen ngợi; thưởng
cuối năm, thưởng hoàn thành vượt kế hoạch, thưởng
sáng kiến…
+ Chế độ thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao:
Đối với nguồn nhân lực chất lượng cao, cần có chính
sách ưu đãi mạnh như tuyển dụng ngay dù chưa có biên
chế, có chính sách về chỗ ở, môi trường và điều kiện
làm việc trong khuôn khổ thẩm quyền và điều kiện có
thể mà không làm xáo trộn nguồn nhân lực hiện có.
Có chính sách thu hút các tổ chức có tiềm năng
về tri thức như các trường đại học, học viện, các
viện nghiên cứu về khu vực DHNTB và Tây Nguyên để tổ
250
chức đào tạo và nghiên cứu khoa học, ứng dụng ông
nghệ tại khu vực. Khi các trường đại học, học viện
đặt cơ sở tại khu vực để triển khai hoạt động của
mình, chắc chắn sẽ giúp ích rất nhiều cho việc đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cũng như việc áp
dụng khoa học công nghệ cho các cơ sở kinh doanh du
lịch tại khu vực.
Có kế hoạch tuyển chọn, cử các cán bộ trẻ đi học
tập tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành du lịch ở
trong và ngoài nước để sử dụng trong lâu dài và có
những chính sách đãi ngộ hợp lý đối với lực lượng
lao động này.
Mở rộng giao lưu hợp tác đào tạo và nghiên cứu
khoa học với các tổ chức quốc tế. Các cơ quan quản
lý nhà nước về giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ
cần chủ động đề xuất những kế hoạch cụ thể về việc
hợp tác giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ của khu
vực với quốc tế. Ngoài việc kiểm tra giám sát, cơ
quan quản lý nhà nước cũng cần có sự hướng dẫn, tư
vấn cho các cơ sở giáo dục đào tạo và doanh nghiệp,
tạo điều kiện thuận lợi và có chính sách thông
thoáng trong việc hợp tác.
3.4. Kiến nghị:
251
Để các giải pháp trên có tính khả thi, có thể áp
dụng và đem lại hiệu quả như mong muốn, Luận án xin
kiến nghị với các Bộ, ngành trung ương và các địa
phương liên quan một số vấn đề sau:
- Kiến nghị Bộ GD & ĐT phối hợp với Bộ VH, TT &
DL quy định mục tiêu, chương trình, nội dung, giáo
trình trong các cơ sở giáo dục và đào tạo du lịch;
chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chính sách
phát triển hệ thống trường đào tạo du lịch ở các cấp
đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Ban
hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật cho phép các cơ sở đào tạo trong nước có thể
hợp tác chặt chẽ với các đối tác nước ngoài trong
công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch. Quy
hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng du lịch bảo
đảm sự cân đối giữa các cấp bậc đào tạo, ngành nghề
và phân bổ hợp lý giữa các vùng miền trên cơ sở phối
hợp liên ngành và địa phương.
- Kiến nghị Tổng cục Dạy nghề (Bộ LĐ,TB&XH) phối
hợp với Bộ VH, TT & DL xây dựng hệ thống trường dạy
nghề du lịch trong hệ thống giáo dục quốc dân; thực
hiện chính sách liên thông trong hệ thống đào tạo
nghề và liên thông với các bậc đào tạo khác, tạo
252
điều kiện cho người học nghề được học tập, phát
triển không hạn chế trong tương lai. Phối hợp với
Tổng cục Du lịch thực hiện công tác đánh giá và dự
báo nhu cầu lao động trong ngành du lịch, trên cơ sở
đó xây dựng chương trình đào tạo nghề cho người lao
động. Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp có tổ
chức đào tạo nghề cho người lao động, cho phép các
cơ sở đào tạo nghề tại các doanh nghiệp được phép
chiêu sinh đào tạo ngoài chỉ tiêu của Nhà nước, có
thu phí theo quy định của Nhà nước và được miễn thuế
dạy nghề. Tham mưu cho các cơ quan có thẩm quyền ban
hành những chính sách khuyến khích học sinh học nghề
đi đôi với các chính sách khuyến khích phát triển
lao động có kỹ thuật, công nhân lành nghề, bậc cao,
làm thay đổi căn bản định hướng giá trị xã hội của
công tác đào tạo nghề, các chính sách ưu đãi đối với
giáo viên dạy nghề, nhất là với những nghề có tính
đặc thù cao như ngành Du lịch.
- Kiến nghị Bộ VH, TT & DL tiến hành rà soát
tổng thể các nhu cầu về đào tạo và bồi dưỡng lực
lượng lao động trong ngành Du lịch, hệ thống các cơ
sở đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch. Xây dựng
Chương trình phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
253
của cả nước đến năm 2020 làm cơ sở để các địa
phương, khu vực xây dựng chương trình phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch cho địa phương, khu vực
của mình. Hỗ trợ các cơ sở đào tạo du lịch trong cả
nước có điều kiện tham gia và hợp tác với các
trường, viện, các cở sở đào tạo du lịch của nước
ngoài nhằm mục đích giúp cho các cơ sở đào tạo trong
nước có thể trao đổi và học tập kinh nghiệm và tăng
cường năng lực giảng dạy và học tập trong đào tạo du
lịch. Xây dựng tiêu chuẩn chức danh chuyên môn
nghiệp vụ của các nghề trong ngành Du lịch làm mục
tiêu cho công tác đào tạo; đề xuất với Nhà nước cho
mở mã ngạch đào tạo đại học du lịch và ban hành
thang bảng lương riêng cho lao động trong ngành Du
lịch.
Bộ VH, TT & DL đề xuất với Chính phủ có quy định
tăng ngân sách đầu tư cho sự nghiệp Văn hoá, Thể
thao và Du lịch theo mức tăng trưởng kinh tế của các
tỉnh, của ngành để đảm bảo cho ngành Du lịch có điều
kiện phát triển với mục tiêu nâng cao hơn nữa chất
lượng và hiệu quả hoạt động.
- Kiến nghị Uỷ ban Nhân dân các tỉnh trong khu
vực DHNTB và Tây Nguyên nghiên cứu đề xuất với Bộ
254
Nội vụ bổ sung đủ lực lượng làm công tác quản lý
phát triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực
ngành Du lịch nói riêng trên địa bàn địa phương
mình, tránh tình trạng kiêm nhiệm; đồng thời phát
huy hơn nữa vai trò của các Sở quản lý du lịch trong
việc quản lý phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch. Chỉ đạo các cấp các ngành phối hợp với ngành
Văn hoá, Thể thao và Du lịch trong việc phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch.
- Kiến nghị các Sở VH,TT&DL trong khu vực xin
chủ trương của UBND các tỉnh, cùng nghiên cứu đề
xuất thành lập Hiệp hội du lịch các tỉnh khu vực
DHNTB và Tây Nguyên, nhằm phát huy hơn nữa vai trò
của Hiệp hội Du lịch trong việc tham gia hoạch định
chính sách phát triển du lịch và quản lý phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch.
Tiểu kết chương 3
Để các giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngành
Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên có sơ
sở, Luận án đã nghiên cứu bối cảnh và định hướng
phát triển du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây
Nguyên trong mối liên hệ với sự phát triển du lịch
của cả nước, đề xuất những định hướng cơ bản phát
255
triển du lịch và nguồn nhân lực ngành Du lịch của
khu vực đến năm 2020. Đồng thời cũng phân tích những
thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức đối với
việc phát triển nguồn nhân lực du lịch của khu vực
(phân tích SWOT) để đưa ra các giải pháp pháp triển
phù hợp với điều kiện thực tế hơn.
Cơ sở khoa học và thực tiễn để đề xuất các giải
pháp phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch các
tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên được khái quát
trong chương 3. Đây là những cơ sở vững chắc, đảm
bảo tính hệ thống, tính kế thừa và tính khả thi của
các giải pháp.
Phát triển nguồn nhân lực cho đất nước nói chung
và cho ngành Du lịch đối với một địa bàn nghiên cứu
luôn là vấn đề khó, đòi hỏi có những giải pháp đồng
bộ, đủ mạnh với sự tham gia của nhiều cấp nhiều
ngành và nhiều bên có liên quan. Chính vì sự liên
quan, phụ thuộc vào nhiều bên liên quan nên tác giả
Luận án đã phân thành 3 nhóm giải pháp cơ bản để
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch của khu vực,
đó là nhóm giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối
với phát triển nguồn nhân lực; nhóm giải pháp nâng
cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch
256
và nhóm giải pháp hỗ trợ.
Trong số các giải pháp, cần ưu tiên thực hiện
ngay giải pháp xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về
nguồn nhân lực ngành Du lịch của khu vực. Đây là
giải pháp có tính bản lề vì hệ thống cơ sở dữ liệu
này không chỉ cho phép đánh giá toàn diện về nguồn
nhân lực ngành Du lịch mà còn là cơ sở để xây dựng
chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
khu vực và đề xuất các chính sách phát triển phù
hợp.
Nhằm tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận
lợi cho việc phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
tại các tỉnh khu vực DNTB và Tây Nguyên, luận án đề
xuất một số kiến nghị cụ thể đối với các cơ quan có
liên quan, đặc biệt là các cơ quan quản lý nhà nước
ở Trung ương. Ngoài ra, việc thành lập Hiệp hội du
lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên cũng cần
được tiến hành sớm, do đặc điểm nước ta không có cấp
quản lý hành chính theo vùng, khu vực.
257
KẾT LUẬNDu lịch là một ngành kinh tế dịch vụ, có vai trò
ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của nhiều
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đặc điểm của ngành
Du lịch là tập hợp các hoạt động kinh doanh trên một
phạm vi rộng, sử dụng nhiều lao động, đồng thời cũng
tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội.
Các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên có vị trí
thuận lợi, nằm ở gần các vùng kinh tế phát triển
trọng điểm phía Nam và miền Trung; hội tụ đầy đủ các
nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội và du lịch
như có các hệ thống cửa thông thương trong nước và
quốc tế, là cửa ngõ ra biển của khu vực Nam Lào và
Đông Bắc Thái Lan; có tài nguyên du lịch phong phú
và đa dạng, phân bố tập trung, thuận lợi cho việc
khai thác và phát triển các loại hình du lịch biển,
du lịch văn hoá, sinh thái, đáp ứng nhu cầu đa dạng
cả của khách du lịch quốc tế và nội địa. Lợi thế so
sánh về tài nguyên du lịch và vị trí địa lý cho phép
các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên lựa chọn du
lịch để phát triển thành ngành kinh tế chủ lực, làm
động lực thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển.
258
Sự phát triển du lịch của các tỉnh khu vực DHNTB
và Tây Nguyên thời gian qua đã cho thấy những bất
cập rất lớn trong phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch. Nếu không được sớm giải quyết sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọng đến chất lượng của sự phát triển. Xuất
phát từ nhận thức đó nên đề tài: “Phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch khu vực duyên hải Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên” được chọn để nghiên cứu.
Sau quá trình nghiên cứu tài liệu, tư liệu; khảo
sát thực tế thu thập số liệu; và phân tích xử lý số
liệu, Luận án đã tập trung giải quyết những vấn đề
sau:
1. Tổng quan những vấn đề cơ bản đối với phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch. Luận án đã hệ thống
hoá một cách chọn lọc cơ sở lý luận về nguồn nhân
lực ngành Du lịch và phát triển nguồn nhân lực ngành
Du lịch, từ việc làm rõ các khái niệm có liên quan
đến các đặc điểm của nguồn nhân lực ngành Du lịch,
vai trò và nội dung của quản lý nhà nước đối với
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch. Một số bài
học kinh nghiệm của một số quốc gia có ngành Du lịch
phát triển cũng được đúc kết để bổ sung cho những
259
vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân lực ngành Du
lịch.
2. Phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên
thông qua những phân tích đánh giá về số lượng, chất
lượng, cơ cấu ngành nghề, đào tạo của nguồn nhân lực
ngành Du lịch và hệ thống đào tạo du lịch trên địa
bàn khu vực. Công tác quản lý nhà nước đối với phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch được đánh giá và
đặt ra như là một trong những vấn đề cần giải quyết
trong thời gian tới để khắc phục các bất cập, yếu
kém của nguồn nhân lực ngành Du lịch.
3. Luận án đã tổng quan, hình thành các quan điểm,
phương hướng, mục tiêu phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên
trong thời gian tới. Để phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch phù hợp với chủ trương chính sách của
Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển du lịch của
khu vực, Luận án đã đề xuất một số giải pháp như
tăng cường quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn
nhân lực; nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
ngành Du lịch. Luận án cũng đã kiến nghị với các Bộ,
260
ngành và địa phương để tạo điều kiện triển khai được
hệ thống các giải pháp nói trên.
Do hạn chế về thời gian và khả năng nghiên cứu
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích, đưa ra
những giải pháp, kiến nghị đối với những nội dung cơ
bản nhất, bức xúc nhất nhằm góp phần phát triển
nguồn nhân lực ngành Du lịch của các tỉnh khu vực
DHNTB và Tây Nguyên. Kính mong nhận được sự đóng góp
chân tình của các Thầy, Cô giáo và những người quan
tâm./.
261