Upload
ueh-vn
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƢỞNG
ĐỀ TÀI MÔN HỌC XUẤT SẮC
UEH500 - NĂM 2015
TÊN CÔNG TRÌNH: VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TÀI
KHÓA TRONG VIỆC ỔN ĐỊNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
THỰC ĐA PHƢƠNG
THUỘC KHOA: NGÂN HÀNG
Mã số đề tài:
TP. HỒ CHÍ MINH - 2015
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Trong thời đại toàn cầu hóa ngày này, việc tăng cường giao thương và hội nhập tài
chính giữa các nước là một vấn đề đang được rất nhiều nhà đầu tư, doanh nghiệp, và các
nước quan tâm. Những lợi ích to lớn do hội nhập tài chính mang lại là không thể phủ
nhận, tuy nhiên, cùng với những thuận lợi là những thách thức không nhỏ mà mỗi quốc
gia phải gánh chịu. Trong đó, tỷ giá hối đoái là một nhân tố vĩ mô quan trọng không thể
không kể đến. Bất kì một sự biến động nào của tỷ giá hối đoái thực đều có thể tác động
không tốt cho cân bằng chung của nền kinh tế. Để có thể hạn chế rủi ro đó, các nước đã
cố gắng áp dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong việc ổn định tỉ giá. Mặc
dù mỗi một chính sách có những công cụ và tuân thủ những quy luật riêng nhưng đều
hướng tới một mục đích chung là ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền
kinh tế. Như chúng ta đã biết, chính sách tiền tệ có mối quan hệ vô cùng mật thiết với tỷ
giá, một sự thay đổi trong chính sách tiền tệ, sẽ làm thay đổi lượng cung tiền trong nền
kinh tế, từ đó dẫn đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái. Vậy liệu chính sách tài khóa có một
mối liên hệ chặt chẽ nào với tỷ giá hối đoái hay không? Trên thực tế đã có một số bài
nghiên cứu tìm hiểu về sự thay đổi của tỷ giá hối đoái khi chính phủ các nước áp dụng
các chính sách tài khóa nới lỏng hoặc thắt chặt. Và Marialuz Moreno và Alex Segura-
Ubiergo là một trong số những tác giả đó. Họ đã có một bài nghiên cứu về chủ đề này: “
Vai trò của chính sách tài khóa trong việc ổn định tỷ giá hối đoái thực đa phương”.
Chúng tôi sử dụng mô hình vec-tơ hiệu chỉnh sai số VECM với kiểm định đồng liên
kết Trace Johansen để tìm hiểu tác động dài hạn và ngắn hạn của chính sách tài khóa lên
tỉ giá hối đoái thực đa phương ở Việt Nam (REER).
Chúng tôi sử dụng chuỗi dữ liệu tổng hợp theo tháng, trong giai đoạn từ tháng 1 năm
2010 đến tháng 1 năm 2012 để nghiên cứu mối tương quan giữa tỉ giá hối đoái thực đa
phương (REER) và GDP thực bình quân đầu người (GDPPC), Cán cân sản phẩm và dịch
vụ (TB), Cán cân cấu trúc (Structural Balance – SB), Đầu tư công của chính phủ (PI), Chi
tiêu công của chính phủ (PC), Tài sản có ngoại tệ ròng (NFA).
Kết quả cho thấy rằng trong ngắn hạn, cán cân hàng hóa và dịch vụ; chi tiêu dùng
và đầu tư của chính phủ là những yếu tố tác động chính đến REER. Cán cân hàng hóa và
dịch vụ (TB) có tương quan dương với REER. Nếu tăng chi đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực
phi ngoại thương (PI) thì REER sẽ tăng. Ngược lại, chi tiêu dùng của chính phủ (PC) có
khuynh hướng nghiêng về hàng hóa phi ngoại thương sẽ làm giảm REER.
Các kết quả cũng cho thấy những kì vọng về cấu trúc chi tiêu công của chính phủ
(SB) cũng ảnh hưởng đến REER. Kết quả cụ thể sẽ được trình bày ở phần 4 kết quả
nghiên cứu.
Từ các kết quả thực nghiệm có được, nhóm chúng tôi đưa ra một số kết luận cũng
như các đề xuất và hướng phát triển cho đề tài.
I
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU ............................................................................................... ii
DANH MỤC HÌNH VẼ .................................................................................................... iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................................... iv
1. PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1.1 Lý do chọn đề tài: ....................................................................................................... 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: ................................................................................. 1
1.3 Phương pháp nghiên cứu:........................................................................................... 2
1.4 Nội dung nghiên cứu: ................................................................................................. 2
1.5 Đóng góp của đề tài : ................................................................................................. 2
1.6 Hướng phát triển đề tài: ............................................................................................. 3
1.7 Kết cấu bài nghiên cứu: .............................................................................................. 3
2. LÝ THUYẾT NỀN TẢNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY ... 4
2.1. Các lý thuyết nền tảng ............................................................................................... 4
2.1.1. Tỉ giá thực đa phương và sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp nội địa . 4
2.1.2. Căn bệnh Hà Lan và biểu hiện của nó tại các khu vực mới nổi. ........................ 6
2.2. Các kết quả nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa chính sách tài khóa và tỉ giá
hối đoái thực đa phương. .................................................................................................. 8
2.2.1. Mối quan hệ giữa các biến tài khóa và tỉ giá hối đoái thực đa phương qua các
nghiên cứu dựa theo các mô hình thuộc trường phái Keynes. ..................................... 8
2.2.2. Mối quan hệ giữa các biến tài khóa và tỉ giá hối đoái thực đa phương qua các
nghiên cứu dựa theo các mô hình chu kì kinh doanh thực. .......................................... 9
2.2.3. Mối quan hệ giữa các biến tài khóa và tỉ giá hối đoái thực đa phương qua các
nghiên cứu dựa theo cách chi tiêu của chính phủ. ..................................................... 11
I
3. DỮ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................... 13
3.1. Mô tả dữ liệu các biến. ............................................................................................ 13
3.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 18
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................................................... 25
5. KẾT LUẬN .................................................................................................................. 31
5.1. Các kết quả nghiên cứu ........................................................................................... 31
5.2. Đề xuất chính sách: ................................................................................................. 33
5.3. Hạn chế và hướng phát triển của đề tài: .................................................................. 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. v
II
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1 Kỳ vọng về ảnh hưởng của các biến được xét lên REER ...................................... 18
Bảng 2 Bảng thống kê mô tả ............................................................................................. 21
Bảng 3 Xét tính dừng các biến trong mô hình VECM ....................................................... 22
Bảng 4 Bảng kiểm định đồng liên kết ............................................................................... 24
Bảng 5 Kết quả hồi quy VECM ......................................................................................... 26
Bảng 6 Kết quả về mối liên hệ đồng liên kết dài hạn của các biến ................................... 27
Bảng 7 Kết quả lựa chọn bước trễ tối ưu .......................................................................... 28
Bảng 8 Các ảnh hưởng trong ngắn hạn của các biến lên REER ...................................... 28
Bảng 9 Cơ cấu chi của NSNN ........................................................................................... 30
III
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1 Tỉ lệ phần trăm sụt giảm tỉ giá hối đoái thực đa phương ở các thị trường mới nổi
chủ chốt. ............................................................................................................................... 5
Hình 2 GDPPC của Việt trong giai đoạn 1995-2012 Nguồn: tự thống kê ....................... 14
Hình 3 Hàm phản ứng đẩy của mô hình. Phản ứng của REER với các biến còn lại ........ 31
IV
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
REER: Real effective exchange rate - Tỷ giá thực hiệu lực
RER: Real exchange rate – Tỷ giá thực
TGHĐ: Tỷ giá hối đoái
CSTK: Chính sách tài khóa
NK: Nhập khẩu
XK: Xuất khẩu
NHTW: Ngân hàng Trung Ương
NHTM: Ngân hàng Thương Mại
VECM: Mô hình ước lượng vector hiệu chỉnh sai số
GDP: Tổng sản phẩm nội địa
CPI: Chỉ số giá tiêu dùng
TB: Cán cân sản phẩm và dịch vụ
SB: Structural Balance - Cán cân cấu trúc
PI: Đầu tư công của chính phủ
PC: Chi tiêu công của chính phủ
NFA: Tài sản có ngoại tệ ròng
WB: World Bank – Ngân hàng Thế giới
IMF: International Monetary Fund – Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế
1
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài:
Trong thời đại toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, hầu hết các quốc gia đều thực hiện
chính sách mở cửa, hàng hóa các nước giao thương với nhau nhiều hơn, con người di
chuyển giữa các nước dễ dàng hơn. ―Cán cân thanh toán‖ , ―cán cân thương mại ― , ―tài
khoản vãng lai‖ , ―tỷ giá hối đoái‖ là các khái niệm , thuật ngữ được mọi người và đặc
biệt là các nhà làm chính sách quan tâm nhiều hơn.
Toàn cầu hóa mở ra nhiều cơ hội đầu tư, mở rộng thị trường cho tất cả các nước trên thế
giới. Bên cạnh những lợi ích to lớn mà toàn cầu hóa đem lại, cũng có nhiều khó khăn mà
các quốc gia, doanh nghiệp, nhà đầu tư phải đối mặt. Trong những khó khăn ấy, khó khăn
khi phải đối mặt với rủi ro do sự thay đổi, sự bất ổn của tỷ giá thường là vấn đề mà các
quốc gia, doanh nghiệp, nhà đầu tư và cả Chính phủ quan tâm hàng đầu.
Do đó tầm quan trọng của việc giữ ổn định tỷ giá hối đoái trong thời đại toàn cầu hóa
ngày nay là không thể phủ nhận. Nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ ổn định tỷ
giá trong phát triển kinh tế nhóm em chọn đề tài “ Vai trò của chính sách tài khóa trong
việc ổn định tỷ giá hối đoái thực đa phương”. Có nhiều nghiên cứu đã tìm hiểu về sự
thay đổi , vai trò của tỷ giá hối đoái và các chính sách để giữ ổn định tỷ giá. Nhóm em
chọn trình bày vai trò của chính sách tài khóa trong việc ổn định tỷ giá mong tìm được
mối quan hệ và những công cụ mới nhằm ổn định tỷ giá hối đoái thực phát triển ổn định
nền kinh tế.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Thông qua quá trình nghiên cứu đề tài, nhóm hướng đến xem xét ảnh hưởng của
việc định giá cao tỷ giá hối đoái thực (RER- Real Exchange Rate) đối với các nền kinh tế
mới nổi, trong đó bao gồm cả Việt Nam. Bên cạnh đó, nhóm tiến hành khảo sát mối quan
hệ một chiều giữa chính sách tài khóa của Chính phủ đến biến động tỷ giá hối đoái thực.
Hầu hết các nghiên cứu trước đó đều thừa nhận sự tồn tại của quan hệ trên ở những mức
độ khác nhau. Thông qua các chính sách mở cửa nền kinh tế, điều chỉnh cán cân thương
2
mại, gia tăng chi tiêu công,... chứng minh thực tế, chính sách tài khóa thật sự có những
tác động to lớn đến tỷ giá thông qua nhiều kênh truyền dẫn khác nhau. Nhưng cụ thể, mức
độ hữu ích trong việc sử dụng chính sách tài khóa để hỗ trợ cho biến động tỷ giá thực
được định lượng như thế nào? Hệ quả gián tiếp của nó đến các biến số quan trọng của
nền kinh tế ra sao? Ngoài ra bài nghiên cứu cũng đưa đến kết luận về việc tái cấu trúc
ngân sách, cụ thể là đầu tư, chi tiêu và tiết kiệm công, có thể làm giảm áp lực tăng giá của
đồng nội tệ.
1.3 Phƣơng pháp nghiên cứu:
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu theo tháng bắt đầu từ năm 2000 đến hết tháng 1 năm
2012. Với mục tiêu đưa ra được các tác động dài hạn và ngắn hạn của chính sách tài khóa
lên tỉ giá hối đoái thực đa phương, chúng tôi sử dụng mô hình hồi qui vec-tơ Var và mô
hình vec-tơ hiệu chỉnh sai số VECM.
1.4 Nội dung nghiên cứu:
Đã từng có nhiều bài nghiên cứu về tỉ giá hối đoái thực đa phương và sức cạnh tranh của
một quốc gia nhưng có rất ít bài nghiên cứu nói về sự tác động của các biến tài khóa lên tỉ
giá hối đoái thực đa phương (REER). Vì vậy, bài nghiên cứu này sẽ làm rõ các vấn đề
sau:
Thứ nhất, các biến tài khóa là chi đầu tư và chi tiêu dùng của chính phủ cũng như
các biến khác có tác động đến REER trong dài hạn và ngắn hạn hay không.
Thứ hai, các biến tài khóa trên tác động đến REER như thế nào trong ngắn hạn và
dài hạn.
1.5 Đóng góp của đề tài :
Về mặt lý luận nhóm đã thống kê được một số kết quả nghiên cứu về mối quan hệ
giữa chính sách tài khóa và tỷ giá hối đoái thực đa phương . Về mặt thưc tiến nhóm đã
đưa ra kết luận về mối quan hệ giữa 2 yếu tố trên và vai trò của chính sách tài khóa trong
việc ổn định tỷ giá hối đoái thực đa phương. Qua đó các nhà làm chính sách có thể sử
3
dụng các công cụ tài khóa để ổn định tỷ giá , phòng ngừa rủi ro, ổn định phát triển bền
vĩnh kinh tế quốc gia. Ngoài ra nhà đầu tư có thể quan sát động thái của các nhà làm
chính sách để dự báo tỷ giá, phòng ngừa rủi ro
1.6 Hƣớng phát triển đề tài:
Nhóm nghiên cứu tham khảo sử dụng dữ liệu từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(International Money Fund-IMF) với số lượng và chất lượng quan sát tương đối phù hợp
(các quốc gia quan sát được lựa chọn đều có tỷ trọng quan hệ thương mại tương đối với
Việt Nam) và các biến số kinh tế có độ chính xác cao. Sự khác biệt giữa dữ liệu trong
IMF và số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam khiến việc tìm kiếm và lựa chọn các
biến theo đúng định nghĩa đề cập trong các nghiên cứu tham khảo gặp nhiều khó khăn.
Một số dữ liệu nhóm tiến hành tính toán để tìm giá trị tương ứng của biến số cần thiết.
Tiếp theo đó, việc chọn lựa mô hình và thực hiện kiểm định chưa thể hiện hết được
những luồng ý tưởng khác nhau trong các nghiên cứu phản biện. Một hướng nghiên cứu
mới cho đề tài này chính là thực hiện kiểm định mối quan hệ giữa độ nhạy cảm tỷ giá
thực và nền kinh tế của các thị trường mới nổi trong hai giai đoạn độc lập mở rộng và thắt
chặt chính sách tài khóa. Từ đó, nghiên cứu có thể đưa ra bằng chứng khái quát về mối
quan hệ tồn tại giữa biến động tỷ giá và nền kinh tế của các thị trường mới nổi trong từng
thời kỳ. Thêm vào đó, từ sự khác nhau trong mối quan hệ trên giữa các quốc gia với
chính sách tài khóa đa dạng và riêng biệt, liệu Việt Nam có thể tiếp thu kinh nghiệm và
vận dụng vào quá trình tái cấu trúc hiện tại để thiết lập một chính sách công hiệu quả góp
phẩn kiểm soát biến động tỷ giá, ổn định vĩ mô, tạo nền tảng bền vững cho phát triển
kinh tế hay không?
1.7 Kết cấu bài nghiên cứu:
Phần 1: Phần mở đầu, giới thiệu sơ lược về vấn đề nghiên cứu
Phần 2: Lý thuyết nền tảng và các nghiên cứu trước đây. Trong phần lí thuyết nền
tảng, chúng tôi cung cấp định nghĩa và ý nghĩa của tỉ giá thực đa phương cũng như thông
qua kênh truyền dẫn là lý thuyết ―Căn bệnh Hà Lan‖ mà dòng vốn vào lớn hay thặng dư
4
thương mại có thể làm giảm tỉ giá thực đa phương, từ đó ảnh hưởng đến sức cạnh tranh
của quốc gia. Tiếp theo, chúng tôi trình bày các kết quả nghiên cứu trước đây về cách
thức sử dụng chính sách tài khóa để kiểm soát dòng vốn vào và thặng dư thương mại một
cách hiệu quả, từ đó làm giảm áp lực giảm REER.
Phần 3: Phương pháp nghiên cứu gồm: dữ liệu và phương pháp luận. Mô tả biến
nghiên cứu và kiểm định tính dừng, đồng liên kết. Chúng tôi lần lượt mô tả các biến sẽ
dùng trong mô hình nghiên cứu thực nghiệm, cách tính toán và nguồn số liệu của chúng
cũng như kì vọng về tác động của chúng lên REER.
Phần 4: Trình bày kết quả nghiên cứu của mô hình VECM.
Phần 5: Kết luận. Trình bày một số đề xuất chính sách được rút ra từ kết quả của
mô hình
2. LÝ THUYẾT NỀN TẢNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY
2.1. Các lý thuyết nền tảng
2.1.1. Tỉ giá thực đa phương và sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp nội địa
Với độ mở cửa ngày càng cao của các quốc gia trên thế giới hiện nay, sự biến
động của tỉ giá hối đoái luôn ảnh hưởng lớn đến hoạt động của hầu hết các ngành công
nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp sử dụng nguyên vật liệu nhập khẩu từ nước
ngoài hoặc xuất khẩu thành phẩm ra thị trường thế giới và cả các doanh nghiệp hoạt động
ở nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, để điều chỉnh chỉ số lạm phát của một quốc gia
so với một quốc gia khác, các nhà phân tích thường sử dụng tỉ giá thực (RER). Tỉ giá này
còn được gọi là tỉ giá thực song phương giữa hai quốc gia.
Chỉ số tỉ giá hối đoái thực đa phương (REER) được tính toán dựa trên tỉ giá thực
song phương, được tính toán nhằm xác định giá trị thực của đồng nội tệ so với một rổ
ngoại tệ của các đối tác thương mại chính của một quốc gia, từ đó cung cấp những thông
5
tin rất quan trọng liên quan đến sức cạnh tranh của quốc gia đó trong quan hệ các bạn
hàng chủ chốt trên thế giới.
Trong thời gian gần đây, nhiều thị trường mới nổi ở cả ba khu vực chính là Châu
Á, Châu Âu, Châu Mỹ La-tin đều nhận thấy đồng nội tệ của họ tăng giá mạnh làm giảm tỉ
giá hối đoái thực đa phương. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế các quốc gia
trên khi sức cạnh tranh của họ giảm sút lớn.
Hình 1 Tỉ lệ phần trăm sụt giảm tỉ giá hối đoái thực đa phương ở các thị trường mới nổi
chủ chốt. Nguồn: IMF. REER khu vực được tính dựa vào REER các quốc gia cùng với tỉ
trọng theo GDP của chúng. Các quốc gia trong mẫu: Asia excl. China: India, Indonesia,
Malaysia, Philippines, và Thái Lan; Các nước xuất khẩu dầu: Kazakhstan and Nga;
Châu Mỹ Latin: Argentina, Brazil, Chile, Colombia, Mexico, andPeru; Châu Âu:
Bulgaria, Hungary, Lithuania, Poland, Romania, and Turkey; Khu vực mới nổi khác
REER cung cấp cho chúng ta thông tin về sức cạnh tranh trung bình của một quốc
gia so với các đối tác thương mại chính. Để tính toán được chỉ số này đòi hỏi phải tính
được tỷ trọng thương mại của quốc gia đang xét so với các đối tác thương mại chủ yếu
của chúng. Theo bài nghiên cứu của chúng tôi, tỉ trọng thương mại của quốc gia đang xét
và một quốc gia khác được tính bằng cách lấy tổng xuất khẩu và nhập khẩu giữa hai quốc
gia chia cho tổng xuất nhập khẩu của quốc gia đó đối với các đối tác thương mại chủ yếu.
6
Chúng tôi sử dụng công thức trung bình nhân, công thức được sử dụng rộng rãi
bởi IMF, World Bank và các trung tâm dữ liệu kinh tế uy tín khác. Công thức tính REER:
1
itk w
t ittREER RER
RERi : tỷ giá hối đoái thực của đồng nội tệ so với ngoại tệ và được tính theo công thức
,
Wit : tỉ trọng thương mại đối với quốc gia i tại năm t
Trong bài nghiên cứu của chúng tôi, dựa vào thống kê xuất nhập khẩu trong giai
đoạn 2000 đến 2012 theo tháng được trình bày trong bảng ở phụ lục, chúng tôi lây rổ
tiền tệ gồm 8 quốc gia: Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc, Đức,
Malaysia và Hồng Kông để tính REER.
Tỉ giá hối đoái thực đa phương trong thời gian gần đây tại các thị trường mới nổi
đã giảm sâu làm ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của nhiều quốc gia mà nguyên nhân do
thặng dư thương mại cao của các nước này và dòng vốn chảy vào lớn. Dòng tiền từ xuất
khẩu hàng hóa, dịch vụ và từ dòng vốn lớn đổ vào có thể làm giảm mạnh REER theo cơ
chế căn bệnh Hà Lan, đặt ra thách thức cho các quốc gia mới nổi trong việc quản lí dòng
tiền này.
2.1.2. Căn bệnh Hà Lan và biểu hiện của nó tại các khu vực mới nổi.
2.1.2.1. Căn bệnh Hà Lan
Năm 1977, Trang tin The Economist đã đưa ra thuật ngữ ―Căn bệnh Hà Lan‖ để
miêu tả nguy cơ kinh tế khi đẩy mạnh xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên làm suy giảm
ngành các ngành công nghiệp sản xuất và chế tạo khác. Năm 1959, Hà Lan đã phát hiện
ra một mỏ khí đốt trữ lượng rất lớn. Nhờ vào tiền thu được từ xuất khẩu nguồn tài nguyên
này, chính phủ Hà Lan đẩy mạnh chi tiêu ngân sách, đầu tư vào các lĩnh vực kém hiệu
quả, sản xuất hàng hóa phi ngoại thương không có sức cạnh tranh.
7
Hau nhà kinh tế học M. Max Corden và J. Peter Neary đã đưa ra mô hình cổ điển
của căn bệnh Hà Lan trong một nền kinh tế gồm hai khu vực sản xuất hàng hóa ngoại
thương và hàng hóa phi ngoại thương. Trong đó, khu vực ngoại thương lại được chia
thành khu vực xuất khẩu tài nguyên và khu vực chế tạo. Nếu khu vực xuất khẩu tài
nguyên phát triển mạnh, nhân lực từ khu vực chế tạo sẽ đổ dồn qua khu vực này. Thu
nhập cho những nhân công trong khu vực khai thác tài nguyên ngày càng tăng dẫn đến
mặt bằng lương và chi phí nguyên vật liệu ngày càng tăng đối với khu vực chế tạo, làm
khu vực này suy yếu đi do mất sức cạnh tranh với giá cả hàng hóa ngoại thương trên thế
giới vốn luôn ít biến động. Bên cạnh đó, dòng tiền đi vào lớn từ xuất khẩu tài nguyên dẫn
cũng dẫn đến REER giảm mạnh, làm tổn thương đến tính cạnh tranh của khu vực chế tạo
rõ rệt.
Năm 1994, O De silva cũng đã tổng hợp lại các bài nghiên cứu về các mô hình
khác của căn bệnh Hà Lan như mô hình 4 khu vực theo các nghiên cứu của Krugman,
Ohyama,.. Trong đó sự di chuyển nguồn lực và sự yếu đi của khu vực chế tạo cũng giống
với mô hình cổ điển 2 khu vực.
2.1.2.2. Biểu hiện của căn bệnh Hà Lan tại các nước đang phát triển
Các nước đang phát triển là các quốc gia dễ bị ảnh hưởng bởi căn bệnh Hà Lan
nhất. Có thể kể đến các nước xuất khẩu dầu mỏ như Mexico, Indonesia, Nigieria, các
quốc gia Ả rập,..vốn thu được những dòng ngoại tệ khổng lồ từ xuất khẩu dầu mỏ. Bên
cạnh đó những quốc gia này thường xuyên nhận được các khoản viện trợ rất lớn từ các tổ
chức như IMF, World Bank làm nguy cơ nhiễm căn bệnh này ngày càng cao hơn. Tình
trạng xuất khẩu tài nguyên thô nhờ vào nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào cũng đã trở
thành đặc điểm nổi bật của các quốc gia này.
Theo nghiên cứu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam từ năm 2000
đến nay, công nghiệp khai khoáng đã đóng góp vào GDP hàng năm từ 10 đến 11%. Tính
trong năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu các loại khoáng sản đã đạt 9,6 tỉ đô la Mỹ,
chủ yếu là dầu thô và than đá. Bên cạnh đó, các ngành công nghiệp sử dụng các nguồn tài
8
nguyên đất, rừng,…ra đời với tần suất ngày càng nhiều cũng khiến cho nền kinh tế ngày
càng phụ thuộc vào tài nguyên hơ
2.2. Các kết quả nghiên cứu trƣớc đây về mối quan hệ giữa chính sách tài khóa và tỉ
giá hối đoái thực đa phƣơng.
Trong những khoảng thời gian dần đây, tỷ giá hối đoái luôn là một vấn đề nóng
bỏng và được rất nhiều giới tài chính cũng như nhà đầu tư quan tâm đến. Và khi nói đến
vấn đề ổn định tỷ giá, Chính sách tiền tệ được xem như là một công cụ khá tốt để Chính
phủ điều tiết và kiểm soát tỷ giá. Song bên cạnh đó, chính sách tài khóa cũng góp phần
không nhỏ trong việc giữ cho tỷ giá ở mức độ ổn định và hiệu quả. Để thấy r hơn điều
này, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những lý thuyết và mô hình nhằm minh chứng cho sự
đóng góp tích cực của ch nh sách tài khóa trong việc ổn định tỷ giá hối đoái này.
2.2.1. Mối quan hệ giữa các biến tài khóa và tỉ giá hối đoái thực đa phương qua các
nghiên cứu dựa theo các mô hình thuộc trường phái Keynes.
Có khá nhiều bài phân tích nhằm đưa ra mối quan hệ giữa chính sách tài khóa và tỉ
giá hối đoái thực đa phương dựa theo các mô hình thuộc trường phái Keynes. Trước tiên
là phải kể đến bài nghiên cứu “Capital Mobility And Stabilization Policy Under Fixed
And Flexible Exchange Rates ― (Mundell 1963) nhằm xem xét các chính sách ổn định
dưới cơ chế tỷ giá cố định và tỷ giá linh hoạt từ đó cho thấy ý nghĩa của việc tăng luân
chuyển vốn. Với việc đặt ra các giả định trong bài nghiên cứu như: tất cả chứng khoán
đều thay thế nhau hoàn hảo, mức giá cố định, trong khi nguồn cung sản lượng thì lại biến
đổi, tiết kiệm và thuế tăng cùng với thu nhập, cán cân thương mại chỉ phụ thuộc vào thu
nhập và tỉ giá hối đoái, đầu tư phụ thuộc vào lãi suất, cầu tiền phụ thuộc thu nhập và lãi
suất. Giả định cuối cùng không kém phần quan trọng là quốc gia nghiên cứu là một quốc
gia nhỏ, không đủ sức tác động đến mức lãi suất và thu nhập quốc tế. Kết quả bài nghiên
cứu được lập luận trên hai góc độ: (1) Dưới cơ chế tỷ giá cố định, chính sách tiền tệ
không có tác động đến tình trạng việc làm, còn chính sách tài khóa thì có một tác động
mạnh mẽ và đây cũng là một đồng kết luận của tác giả với Kynes, bên cạnh đó, chính
9
sách vô hiệu hóa cũng được Mundell nhắc đến, nó làm cho cơ chế tỷ giá cố định không
còn ý nghĩa, từ đó luận chuyển vốn hoàn hảo sẽ dẫn tới sự sụp đổ của hệ thống tỉ giá cố
định ; (2) Dưới cơ chế tỷ giá linh hoạt, chính sách tài khóa không có tác động đến tình
trạng việc làm; CSTT tác động mạnh đến tình trạng việc làm, một kết luận được rút ra ở
đây là chính sách tài khóa trở thành một công cụ làm thay đổi cán cân thương mại.
Tiếp theo, là bài nghiên cứu của Jeffrey Sachs và Charles Wyplosz (1984) về
―Real exchange rate effects of fiscal policy‖(Sachs and Wyplosz 1984). Với việc lấy ý
tưởng chính cho bài phân tích là phát triển một khuôn khổ trong phân tích tác động của
chính sách tài khóa lên tỷ giá hối đoái thực cũng như là xem xét sự ảnh hưởng của chính
sách tài khóa lên tỷ giá hối đoái thực có khác nhau khi thay đổi một số đặc điểm cấu trúc
(mức độ khả năng thay thế tài sản, kết cấu chi tiêu của chính phủ, mức nợ công ban đầu
và vị thế đối ngoại ròng) không? Bằng cách sử dụng mô hình Mundell—Fleming trong
trạng thái động gồm các biến: sản lượng nội địa, tiêu dùng cá nhân, chi tiêu công, cán cân
thương mại, tài sản tài chính, lãi suất, nợ công trong nước, trái phiếu nước ngoài, tỉ giá
hối đoái, chi tiêu nước ngoài.... Kết hợp xem xét 3 yếu tố: (1) sự tác động của thâm hụt
ngân sách đối với nợ công; (2) sự tác động của mất cân bằng tài khoản vãng lai lên việc
nắm giữ tài sản nước ngoài; (3) và các giải định trong quản lý tỷ giá hối hoái. Và một kết
quả không mấy khả quan khi với nguồn dữ liệu trong giai đoạn nghiên cứu cho thấy
chính sách tài khóa có tác động không r ràng đến tỉ giá hối đoái.
2.2.2. Mối quan hệ giữa các biến tài khóa và tỉ giá hối đoái thực đa phương qua các
nghiên cứu dựa theo các mô hình chu kì kinh doanh thực.
Một nghiên cứu của David K. Backus, Patrick J. Kehoe và Finn E. Kydland (1992)
nhằm hỗ trợ cho quan điểm về mô hình chu kỳ kinh doanh thực trong nghiên cứu gốc là
“Dynamics of the Trade Balance and the Terms of Trade: The J-Curve?”(Backus, Kehoe
et al. 1992) Trong bài này, nhóm tác giả đã xem xét mối quan hệ giữa cán cân thương
mại và tỷ lệ mậu dịch dựa trên việc đưa ra những lý luận và nhận định về: động lực của
cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch; thêm vào đó họ kiểm định mối quan hệ giữa xuất
khẩu ròng và sản lượng của một số quốc gia. Bằng việc theo d i những đặc điểm của các
10
biến động ngắn hạn trong cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch ở 11 quốc gia phát triển.
Backus, Kehoe và Kydland đã sử dụng bộ dữ liệu qua các quý mang tính chu kỳ của xuất
khẩu ròng kết hợp với các biến tỷ lệ xuất khảu ròng trên giá trị sản lượng đầu ra (nx);
logarit của sản lượng thực (y); logarit của tỷ lệ giảm phát trong nhập khẩu trên tỷ lệ giảm
phát trong xuất khẩu (p) từ đó chọn mô hình tăng trưởng ngẫu nhiên ở 2 quốc gia để kiểm
định. Kết quả kiểm định cho thấy luồng dịch chuyển ngược chu kỳ trong xuất khẩu ròng
và xu hướng trong cán cân thương mại có mối tương quan nghịch biến đến sự dịch
chuyển ở hiện tại và tương lai trong tỷ lệ mậu dịch; nhưng lại có tương quan đồng biến
với luồng dịch chuyển trong quá khứ. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu còn cho thấy chi tiêu
chính phủ tăng sẽ làm cho sản lượng tăng nhiều hơn và từ đó làm cho xuất khẩu ròng
được cải thiện. Khi có sự thuận lợi trong cú sốc năng suất,sản lượng trong nước tăng và
do đó làm giảm giá tương đối của nó dẫn tới làm tăng tỷ lệ mậu dịch để từ đó ảnh hưởng
tới cán cân thương mại.
Cùng góc nhìn trong mô hình chu kỳ kinh doanh thực, Mohsen Bahmani-Oskooee,
li Kutan và rtatrana Ratha đã phân tích về mối quan hệ giữa tỉ lệ mậu dịch và cán cân
thương mại cho các nước có nền kinh tế mới nổi trong bài viết “The S-Curve in
Emerging Markets”(Bahmani-Oskooee, Kutan et al. 2008). Nhóm ba tác giả đã kiểm
định mối liên hệ giữa cán cân thương mại với tỷ giá hối đoái thực tế hoặc giữa cán cân
thương mại với tỷ lệ mậu dịch bằng cách kiểm tra các điều kiện Marshall-Lerner, J-
Curve, và S-Curve. Sử dụng hàm tương quan chéo với bộ dữ liệu từ tháng 1/1990 đến
tháng 6/2005 trong mẫu gồm 10 nước. Qua đó, bài nghiên cứu cho thấy chức năng tương
quan chéo giữa tỷ lệ mậu dịch và cán cân thương mại tương tự như một đường cong chữ
S nằm ngang. Kết quả kiểm định đã giải thích được cho 4 nước Bulgaria, Croatia, Poland,
và Slovac như một bằng chứng mạnh mẽ; mức độ yếu hơn ở các nước Cộng hòa Séc,
Hungary và Thổ Nhi Kỳ , cuối cùng lý thuyết S-Curve không thể giải thích được ở các
nước như Cyprus, Romania, and Russia.
11
2.2.3. Mối quan hệ giữa các biến tài khóa và tỉ giá hối đoái thực đa phương qua các
nghiên cứu dựa theo cách chi tiêu của chính phủ.
Bên cạnh hai góc nhìn trên, còn có các bài nghiên cứu cũng tìm hiểu mối quan hệ
giữa các biến tài khóa và tỉ giá hối đoái thực đa phương nhưng lại phân tích dựa theo
cách chi tiêu của chính phủ. Trước tiên là bài nghiên cứu “Fiscal Policy and the Real
Exchange Rate” (Chatterjee and Mursagulov 2012)của hai tác giả Santanu Chatterjee và
Azer Mursagulov. Để tìm ra mối quan hệ giữa các biến tài khóa và tỉ giá hối đoái thực đa
phương, họ đã phân tích ở 2 khu vực thương mại và phi thương mại (trong mỗi khu vực
sẽ chú trọng vào 3 nhân tố sản xuất: nguồn vốn tư nhân, lao động và nguồn vốn công) và
phân tích độ nhạy (độ co giãn của sản lượng đầu ra từng khu vực đối với nguồn vốn
công, độ co giãn của sự thay thế trong sản xuất, chi phí điều chỉnh liên khu vực) cũng
như đưa ra các phương trình để phân tích, thông qua các tiêu chuẩn cân bằng, cú sốc
chính sách tài khóa, độ nhạy của tỷ giá thực với chính sách tài chính, sự ổn định của tỉ
giá, mối quan hệ ngắn hạn giữa chi tiêu chính phủ và tiêu dùng cá nhân. Với ý tưởng ban
đầu là phân tích các cơ chế mà qua đó chi tiêu công cho cơ sở hạ tầng có thể ảnh hưởng
đến sự biến động của tỷ giá hối đoái thực, họ đã đi đến kết luận rằng sự hiện diện của chi
phí điều chỉnh giữa 2 khu vực và các cú sốc chi tiêu chính phủ sẽ tạo ra một tác động đối
với đường cong chữ U của tỷ giá thực tế và mô hình đề xuất có thể dự đoán mối tương
quan dương ngắn hạn giữa chi tiêu chính phủ và tiêu dùng cá nhân.
Một nghiên cứu khác không thể không kể đến là “The Composition of
Government Spending and Real Exchange Rate” (Galstyan and Lane 2009) của Vahagn
Galstyan và Philip R. Lane. Với ý tưởng chính là tìm hiểu xem các thành phần của chi
tiêu chính phủ tác động như thế nào đến tỉ giá hối đoái thực trong dài hạn, tác giả đã áp
dụng mô hình 2 nhân tố trong nền kinh tế mở nhỏ ở ở 19 nước tiên tiến trong giai đoạn
1980-2004. Với các biến được tác giả sử dụng là: Mức giá tương đối của hàng hóa phi
thương mại (tính toán dựa trên tỷ lệ hệ số giảm phát của ngành dịch vụ trên ngành sản
xuất); Tỉ giá hối đoái thực (tính toán dựa trên chỉ số CPI và tỉ giá hối đoái trung bình
danh nghĩa Cán cân hàng hóa và dịch vụ); GDP bình quân đầu người; Chỉ số phát triển;
12
Tiêu dùng và đầu tư của chính phủ. Sau khi tiến hành kiểm định, tác giả đã đi đến kết
luận là: Tiêu dùng và đầu tư của chính phủ có tác động khác nhau đến tỉ giá hối đoái thực
và mức giá tương đối của phi mậu dịch. Cụ thể như sau: sự gia tăng trong tiêu dùng của
chính phủ dẫn tới tăng giá tương đối của khu vực phi mậu dịch, trong khi đầu tư của
chính phủ dẫn tới sự suy giảm giá tương đối của khu vực phi mậu dịch cho hầu hết các
nhóm nước.
Vào tháng 1/2008, Luca Antonio Ricci, Gian Maria Milesi-Ferretti và Jaewoo Lee
đã công bố bài nghiên cứu với chủ đề “Real Exchange Rates and Fundamentals: A
Cross-Country Perspective” (Ricci, Lee et al. 2008) nhằm phân tích mối quan hệ giữa
REER và các biến số vĩ mô khác ở nhiều nền kinh tế khác nhau. Cụ thể là tác giả đã sử
dụng mô hình dữ liệu bảng, nghiên cứu số liệu thương mại của 48 quốc gia ở các nền
kinh tế phát triển và các thị trường mới nổi trong giai đoạn từ năm 1980 đến 2004. Họ đã
xây dựng mô hình với các biến như sau: Tỷ giá thực đa phương (REER - tính theo CPI và
ngang giá đồng tiền của các quốc gia); Năng suất của hàng hóa thương mại và phi thương
mại giữa các quốc gia (đo lường bằng sản lượng trên mỗi công nhân); Mức tiêu thụ hàng
nội địa so với hàng xuất khẩu (đo lường bằng tỷ số giữa giá trung bình hàng xuất khẩu
chính với hàng nhập khẩu chính); Mức độ tài sản ngoại ròng trên tổng thương mại (đo
lường bằng tỷ số giữa tài sản ngoại ròng với trung bình hàng hóa và dịch vụ xuất nhập
khẩu trong cùng thời kỳ); Tiêu dùng chính phủ trên GDP (đo bằng tỷ số giữa tiêu dùng
của chính phủ (chi cho hàng hóa và dịch vụ với lương công chức) và GDP); Chỉ số hạn
chế thương mại (có giá trị 0 đối với các nước có tự do hóa thương mại và bãi bỏ các rào
cản); Mức độ ảnh hưởng giá của doanh nghiệp (dựa theo dữ liệu từ EBRD 2005, chỉ khả
dụng ở các quốc gia Đông Âu và Nga, mang giá trị 0 ở các nước khác). Qua kiểm định
thực nghiệm, các số liệu và kết quả đều có ý nghĩa thống kê. Sự khác biệt giữa hai
phương pháp tiếp cận số liệu năng suất của hàng hóa thương mại - phi thương mại và sản
lượng trên mỗi công nhân có ảnh hưởng nhất định đến REER, nhưng số liệu thu thập
được lại không chỉ ra được sự chênh lệch nên sản lượng trên mỗi công nhân có thể là một
biến thiếu chính xác để kiểm định hiệu ứng Balassa-Samuelson. Từ đó, họ đã đưa ra kết
13
luận là REER tương quan dương với các biến đối ngoại, như năng suất của hàng hóa
thương mại và phi thương mại giữa các quốc gia, mức độ hạn chế thương mại, tiêu dùng
của Chính phủ, và tương quan âm với mức độ ảnh hưởng giá của doanh nghiệp.
Cuối cùng, với “The Purchasing Power Parity Doctrine: A Reappraisal” (Balassa
1964), Bela Balassa đã sử dụng bảng thống kê kết hợp so sánh, phân tích ở 12 quốc gia
phát triển (bao gồm Mỹ, Canada, Bỉ, Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, nh, Đan Mạch, Na Uy,
Thụy Điển, Nhật Bản) để kiểm định lại và so sánh học thuyết ngang giá sức mua dưới hai
góc độ ―tương đối‖ và ―tuyệt đối‖ nhằm tìm ra mối quan hệ giữa tỷ giá và ngang giá sức
mua. Các biến được đề xuất bao gồm: Sản lượng tiêu dùng của từng quốc gia; Ngang giá
sức mua (tỷ số giữa giá của quốc gia thứ hai so với quốc gia thứ nhất, đo lường gián tiếp
thông qua cán cân thương mại); Năng suất quốc gia (đo lường bằng thu nhập trên vốn đầu
tư). Từ kết quả thực nghiệm, tác giả đã đưa ra bốn kết luận đáng ghi nhận: (1) Với giả
định không tồn tại các rào cản thương mại, tỷ giá sẽ bằng với tỷ lệ giá hàng xuất khẩu của
hai quốc gia. (2) Với giả định giá bằng với chi phí biên, sự khác biệt về lương kéo theo sự
chênh lệch về năng suất, từ đó kéo theo sự khác biệt về ngang giá sức mua và tỷ giá. (3)
Chênh lệch năng suất ở hàng hóa thương mại hai quốc gia càng lớn, tỷ giá và ngang giá
sức mua khác biệt càng gia tăng. Nếu ngang giá sức mua ở một nước được đánh giá cao
hơn, tương ứng sức mua của quốc gia còn lại bị định thấp hơn tỉ lệ. (4) Tồn tại mối quan
hệ tương quan dương giữa ngang giá sức mua, tỷ giá và năng suất quốc gia. Sử dụng chỉ
số giá để hiệu chỉnh, dự đoán tỷ giá trong một số trường hợp có thể sẽ dẫn đến sự thiếu
chính xác.
3. DỮ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mô tả dữ liệu các biến.
Dữ liệu của chúng tôi được lấy theo tháng trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2000
đến tháng 1 năm 2012. Lí do cho việc lựa chọn này ngoài giới hạn về nguồn dữ liệu trong
giai đoạn sau năm 2012 thì trong giai đoạn này việc giao thương với các đối tác mậu dịch
14
khá ổn định do đó tỉ trọng thương mại thay đổi không lớn tạo điều kiện tính toán REER
được dễ dàng.
GDP thực bình quân đầu người (GDPPC)
GDP thực bình quân đầu người được tính theo giá USD cố định 2005 của World
Bank. Biến này được tính bằng cách lấy GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam
chia cho trung bình theo trọng số là tỉ trọng thương mại của các đối tác thương mại chính.
Đây là biến đại diện cho chênh lệch về năng suất. Hiệu ứng Balassa - Samuelson
(Balassa, 1964; Samuelson, 1964) chỉ ra rằng năng lực sản xuất trong nước được tập
trung vào khu vực sản xuất hàng hóa ngoại thương và khu vực sản xuất hàng hóa phi
ngoại thương. Nếu năng lực sản xuất ở khu vực sản xuất hàng hóa ngoại thương tăng
nhanh hơn (so với các nước đối tác ngoại thương), REER sẽ tăng (Feyzioglu, 1997). Hơn
nữa Bergstand (1991) cũng đã chỉ ra rằng các quốc gia giàu có có khuynh hướng chi tiêu
nhiều hơn vào các dịch vụ có cầu co giãn theo thu nhập cao. Dẫn đến làm tăng REER. Do
vậy chúng tôi kì vọng biến có tương quan thuận với REER.
Hình 2. GDPPC của Việt trong giai đoạn 1995-2012 (Nguồn:
Hình 2 GDPPC của Việt trong giai đoạn 1995-2012
Nguồn: tự thống kê
15
Cán cân sản phẩm và dịch vụ (TB)
TB được đo lường theo phần trăm GDP danh nghĩa và được sử dụng như là một
biến đại diện cho vị thế thương mại của quốc gia trên trường quốc tế. Có nhiều quan điểm
trái lập về tác động của TB lên REER.Trong khi Edwards (1994) và Elbadawi (1994) chỉ
ra rằng khi TB càng lớn đại diện cho độ mở của nên kinh tế ngày càng cao thì người tiêu
dùng có khuynh hướng thay thế hàng phi ngoại thương bằng hàng ngoại thương, làm cầu
nhập khẩu tăng lên và từ đó làm tăng REER thì Connolly và Devereux (1995) lý giải
trong trường hợp TB tăng do giảm thuế xuất khẩu thì REER sẽ giảm. Fernandez (2006)
và Miyajima (2007) lại cho rằng trong trường hợp TB tăng lên được giải thích bởi tăng
trưởng kinh tế do tăng hoạt động ngoại thương và ít phụ thuộc vào cơ chế bảo hộ cũng
như tài khoản đối ngoại bị méo mó, thì tỷ giá thực sẽ giảm.
Như vậy, tác động của TB lên REER vẫn chưa thống nhất. Nguồn TB được lấy từ
World Bank.
Cán cân cấu trúc (Structural Balance – SB)
Những sự thay đổi trong nguồn thu và chi tiêu công không chỉ bị ảnh hưởng bởi
các chính sách chủ quan mà còn bởi sự thay đổi trong những điều kiện kinh tế thông qua
sự ảnh hưởng của các nhân tố cân bằng tự động bao gồm thuế và trợ cấp. Nếu GDP dưới
mức tiềm năng thì nguồn thu từ thuế sụt giảm trong khi đó trợ cấp xã hội cho người thất
nghiệp lại có xu hướng tăng. Hơi nữa, những sự thay đổi trong chi tiêu và nguồn thu cũng
có thể chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố chuyển tiếp phi chu kì như là những khoản trợ cấp
một lần (one-off transfers) cho những ngân hàng gặp khó khăn hoặc những khoản thuế
một lần (one-off taxes) đánh trên tài sản. Khi cần đánh giá về sự ổn định dài hạn hay cấu
trúc ngắn hạn của ngân sách, chúng ta thường phải điều chỉnh những yêu tố đó. SB cho ta
thấy ngân sách có thể đạt được độ lớn như thế nào nếu nền kinh tế đang ở giữa chu kì và
nếu ảnh hưởng chuyển tiếp phi chu kì được loại bỏ. Theo như cách tính toán của
16
European Commision thì SB được tính theo hai bước: loại bỏ các thành tố có tính chu kì,
là sản phẩm của lỗ hổng sản lượng và độ bán co giãn của ngân sách (budgetary semi-
elasticity), khỏi mức cân bằng ngân sách ban đầu; sau đó loại bỏ các yếu tố một lần (one-
off factors).
SB càng lớn chứng tỏ thâm hụt ngân sách thực tế cao hơn từ đó chính phủ phải
vay tài trợ thâm hụt ngân sách nhiều hơn làm cho REER giảm.
Đầu tư công của chính phủ (PI)
Biến được đo lường theo phần trăm GDP và tính bình quân có trọng số là tỉ trọng
thương mại đối với các đối tác thương mại chính. Theo như các nghiên cứu trên, nếu
chính phủ tăng cường đầu tư và làm tăng năng suất ở các lĩnh vực ngoại thương (tradable
sector) từ đó làm gia tăng lạm phát ở giá cả của mặt hàng phi ngoại thương (non-
tradables goods), làm giảm REER và ngược lại
Chi tiêu công của chính phủ (PC)
Biến được đo lường theo phần trăm GDP và tính bình quân có trọng số là tỉ trọng
thương mại đối với các đối tác thương mại chính. Theo như các nghiên cứu trên, nếu
chính phủ tăng cường chi tiêu các hàng hóa phi ngoại thương từ đó làm tăng cầu đối với
các hàng hóa nà, làm giảm REER.
Tài sản có ngoại tệ ròng (NFA)
Tài sản có ngoại tệ ròng (NFA) bao gồm giá trị tính bằng đồng bản tệ của (i) dự
trữ quốc tế chính thức ròng (bên tài sản có bao gồm vàng, ngoại tệ, vị thế dự trữ quốc gia
tại IMF, SDRs); ở bên tài sản nợ bao gồm các khoản nợ ngắn hạn của các NHTW nước
ngoài (tiền gửi của các ngân hàng nước ngoài, các giao dịch hoán đổi, các khoản thấu chi
và một số khoản nợ nước ngoài trung và dài hạn, ví dụ việc sử dụng tín dụng IMF của
quốc gia); (ii) các tài sản có và tài sản nợ ngoại tệ khác của NHTW mà không bao gồm
trong định nghĩa về dự trữ chính thức.
Về nguyên tắc, phần thay đổi trong tài sản có ngoại tệ ròng dù lấy từ cân đối tiền
tệ hay lấy từ các cấu phần của cán cân thanh toán đều phải bằng nhau. Tác động của tài
17
sản có ngoại tệ ròng lên REER được xem xét từ hai góc độ. Theo quan điểm cán cân
thanh toán, tình trạng thâm hụt hoặc biến động theo chiều hướng giảm của cán cân vãng
lai cần phải được tài trợ từ các nhà đầu tư nước ngoài. Trong trường hợp chênh lệch giữa
lãi suất trong nước và lãi suất trên thị trường quốc tế là không đổi, để được tài trợ, tức
NFA giảm, tỷ giá phải tăng để làm gia tăng lợi nhuận, thu hút các nhà đầu tư. Vì vậy, sự
tăng lên của NF thường tác động làm giảm REER và ngược lại.
.
Biến số Nội dung Cách tính toán/Chỉ
số đại diện Thời gian
Tác động
kỳ vọng
đến REER
Nguồn số
liệu
TB Độ mở nền
kinh tế
(Xuất khẩu + Nhập
khẩu) /GDP
T1/2000-
T1/2012 +/-
Xuất khẩu,
nhập khẩu từ
GSO, GDP
từ World
Bank
SB Cán cân
ngân sách
Cán cân ngân sách
trừ cho các yếu tố
chu kì và các yếu tố
một lần
2000-
2012 - UNCTAD
PC Chi tiêu
chính phủ
Tổng chi tiêu chính
phủ/GDP chia trung
bình GDP theo
trọng số là tỉ trọng
2000-
2012 +/-
Tổng chi tiêu
chính phủ từ
ADB
18
thương mại của các
đối tác chính
PI Đầu tư
chính phủ
Tổng đầu tư chính
phủ/GDP chia trung
bình GDP theo
trọng số là tỉ trọng
thương mại của các
đối tác chính
2000-
2012 +/-
Tổng đầu tư
chính phủ từ
ADB
GDPPC Năng lực
sản xuất
GDP thực/dân số
chia trung bình
GDP theo trọng số
là tỉ trọng thương
mại của các đối tác
chính
T1/2000-
T1/2012 + World bank
NFA
Tài sản có
ngoại tệ
ròng
Tài sản Có ngoại tệ
ròng/GDP
2000-
2012 -
Tài sản Có
ngoại tệ ròng
từ IFS
Bảng 1 Kỳ vọng về ảnh hưởng của các biến được xét lên REER
3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Mô hình VECM
Khi xem xét một chuỗi các biến không dừng chúng ta cần thận trọng khi mô tả mối quan
hệ giữa các biến này. Mối quan hệ này phụ thuộc nhiều vào tính chất dừng của mỗi biến.
Giả định nếu hai biến không dừng này đều là hai chuỗi tích hợp cùng bậc p, điều này có
thể hàm ý cho việc xem xét một mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa hai biến này. Khái
niệm đồng tích hợp (Cointegration) được đưa ra để mô tả cho mối quan hệ này. Về mặt
19
kinh tế lượng, hai hoặc nhiều biến quan sát có mối quan hệ đồng tích hợp với nhau có
nghĩa là các biến này có cùng bậc tích hợp (đều là các chuỗi I(p)) và tồn tại một tổ hợp
tuyến tính của các biến này là một chuỗi dừng (I(0)). Vì vậy, hai chuỗi {y1,t} và {y2,t} là
đồng tích hợp nếu :
{y1,t} và {y2,t} đều là chuỗi tích hợp bậc p: I(p)
Tồn tại một bộ số (a1,a2) không đồng thời bằng 0 sao cho: a1*y1,t +a2*y2,t là một chuỗi
dừng: I(0).
Bênh cạnh đó, mô hình VECM là một trong những mô hình được đưa ra để quan sát mối
quan hệ đồng tích hợp này giữa các chuỗi thời gian. Giả sử hai chuỗi y1,t và y2,t là 2 chuỗi
tích hợp bậc 1, ta sử dụng mô hình VAR dạng rút gọn ( reduced form V R) để mô tả mối
quan hệ giữa 2 biến này: Yt= A0+ A1*Yt-1+ A2*Yt-2+ Et (*).
Với Yt = là ma trận các biến
Ai = [
] là ma trận hệ số biến Yt-1 và Yt-2
Et = là ma trận sai số mỗi phương trình.
Từ đó, phương trình (*) được biến đổi thành:
∆Yt= A0+ (-I + A1 + A2)*Yt-1 - A2*∆Yt-1+ Et (**)
Với giả định rằng Et là chuỗi dừng, ta nhận thấy về trái của phương trình (**) là một
chuỗi dừng, các hạng tử bên phải cũng phải là chuỗi dừng. Vì vậy, (-I+A1A2)*Yt-1 phải là
chuỗi dừng hay một tổ hợp tuyến tính của y1,t và y2,t là một chuỗi dừng. Điều này dẫn đến
y1,t và y2,t có quan hệ đồng tích hợp.
Mô hình V R được biểu diễn dưới dạng phương trình (**) được gọi là mô hình VECM
và có thể được viết lại dưới dạng hệ phương trình như sau:
y1,t – y1,t-1= a1,0 + α1*(y1,t-1 + β*y2,t-1) +ɛ1,t
y2,t - y2,t-1 = a2,0 +α2*(y1,t-1 + β*y2,t-1) +ɛ2,t
20
Trong đó: Hệ số β trong ngoặc đơn biểu hiện mối quan hệ dài hạn giữa 2 biến y1,t và y2,t
và hệ số α1, α2 thể hiện cho cơ chế điều chỉnh trong ngắn hạn.
Dựa vào mô hình của Edwards (1988), Elbadawi (1998), Montiel (1999) và phân tích các
biến số kinh tế nền tảng của Việt Nam, nhóm tác giả xác định mô hình các nhân tố tác
động đến tỷ giá thực đa phương của Việt Nam với các biến giải thích (bảng 2) như sau:
REERt=α0 + β1.GDPPCt+ β2.TBt+ β3.SBt+ β4.PCt+ β5.PIt+ β6NF t+ εt (2)
21
REER GDPPC TB SB PC PI NFA
Mean 106.9061 693.6839 0.113217 -0.364593 0.172912 0.088200 0.215351
Median 107.0307 686.7051 0.104514 -0.382456 0.164939 0.087298 0.179710
Maximum 125.5632 1099.911 0.235913 -0.168222 0.339921 0.136946 0.376482
Minimum 93.34005 456.4414 0.046072 -1.232215 0.105558 0.050581 0.149447
Std. Dev. 6.744255 162.4496 0.047590 0.163205 0.060435 0.023270 0.075616
Skewness 0.190120 0.322986 0.573864 -1.247633 0.544167 0.348552 1.151457
Kurtosis 2.741955 1.881787 2.478936 7.101716 2.073725 2.612112 2.814202
Jarque-Bera 1.275818 10.07558 9.598930 139.2630 12.33984 3.844978 32.25003
Probability 0.528396 0.006488 0.008234 0.000000 0.002091 0.146243 0.000000
Sum 15501.38 100584.2 16.41649 -52.86594 25.07221 12.78896 31.22595
Sum Sq.
Dev. 6549.837 3800143. 0.326139 3.835544 0.525953 0.077974 0.823358
Observations 145 145 145 145 145 145 145
Bảng 2 Bảng thống kê mô tả
22
Biến Bậc sai phân Dạng hồi quy t-Statistic p-value
REER 1 C -12.64786 0.0000
GDPPC 1 N -18.61095 0.0000
TB 1 N -13.31440 0.0000
SB 1 N -5.486518 0.0000
PI 1 N -8.282386 0.0000
PC 1 N -8.166560 0.0000
NFA 1 T -14.554 0.0000
Ghi chú: là dạng hồi qui: N (none) là không có hằng số hệ số trục tung và biến xu
thế; C (constant, hệ số trục tung) là có biến hằng số hệ số trục tung và T (trend) là
có đủ hằng số hệ số trục tung và xu thế.
Bảng 3 Xét tính dừng các biến trong mô hình VECM
Các kết quả kiểm định nghiệm đơn vị ADF cho thấy rằng, giả thiết H0: có nghiệm đơn vị
được chấp nhận khi chuỗi là I(0) và bị bác bỏ với chuỗi I(1) ở mức ý nghĩa 1%, đồng
nghĩa rằng các biến đều dừng ở sai phân bậc nhất. Do đó, chúng tôi kết luận rằng tất cả
các biến tích hợp ở I(1) (mức ý nghĩa 1%), và do đó, có thể tồn tại một số đồng liên kết
giữa các biến được dùng, do đó, chúng tôi tiến hành kiểm định đồng liên kết Trace
Johansen.
23
Một sự kết hợp tuyến tính của hai chuỗi dữ liệu không dừng thông thường sẽ được kỳ
vọng là không dừng. Tuy nhiên, vì tính chất đặc biệt, trong một số trường hợp nhất định,
chúng ta kỳ vọng rằng chúng sẽ di chuyển cùng nhau và do đó sự kết hợp của hai chuỗi
này là dừng (phần dư trong mô hình hồi quy giữa các chuỗi thời gian không dừng là một
chuỗi dừng). Trong những trường hợp như vậy, ta gọi hai chuỗi dữ liệu này là có tính
đồng liên kết. Với mỗi nhóm các biến được đề cập trong bảng 4, chúng tôi tiến hành kiểm
định Trace Johansen. Kiểm định của Johansen là cách tiếp cận căn bản nhằm kiểm định
đồng liên kết trong một phương trình.
Giả thuyết H0: Có nhiều nhất r mối quan hệ đồng liên kết (r = 0, 1, 2, …, k-1)
H1: Có K mối quan hệ đồng liên kết
24
Date: 10/11/15 Time: 14:25
Sample (adjusted): 2000M04 2012M01
Included observations: 142 after adjustments
Trend assumption: Linear deterministic trend
Series: REER GDPPC TB SB PI PC NFA
Lags interval (in first differences): 1 to 2
Unrestricted Cointegration Rank Test (Trace)
Hypothesized Trace 0.05
No. of CE(s) Eigenvalue Statistic Critical Value Prob.**
None * 0.276985 139.7504 125.6154 0.0052
At most 1 0.200741 93.69614 95.75366 0.0687
At most 2 0.169135 61.87819 69.81889 0.1823
At most 3 0.113892 35.56725 47.85613 0.4184
At most 4 0.082592 18.39718 29.79707 0.5368
At most 5 0.042254 6.156412 15.49471 0.6770
At most 6 0.000183 0.025919 3.841466 0.8720
Trace test indicates 1 cointegrating eqn(s) at the 0.05 level
* denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level
**MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values
Bảng 4 Bảng kiểm định đồng liên kết
Dựa vào kết quả trên, ta thấy tồn tại 1 mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến, ta tiến
hành chạy mô hình VECM để xác định các mối quan hệ đồng liên kết này.
25
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả hồi qui thông qua mô hình VECM cho ta mối quan hệ đồng liên kết giữa các
biến:
Vector Error Correction Estimates
Date: 10/11/15 Time: 14:49
Sample (adjusted): 2000M04 2012M01
Included observations: 142 after adjustments
Standard errors in ( ) & t-statistics in [ ]
Cointegrating Eq: CointEq1
REER(-1) 1.000000
GDPPC(-1) -0.169789
(0.03513)
[-4.83254]
TB(-1) 559.1855
(77.6148)
[ 7.20462]
SB(-1) 3.236020
(30.7276)
[ 0.10531]
PI(-1) 576.4807
(186.100)
26
[ 3.09769]
PC(-1) -267.9327
(88.7540)
[-3.01883]
NFA(-1) 7.707307
(16.0955)
[ 0.47885]
C -57.96100
Bảng 5 Kết quả hồi quy VECM
Từ các kết quả trên ta có bảng kết quả về mối liên hệ đồng liên kết dài hạn của các biến
Hệ số ước lượng Độ lệch chuẩn Giá trị p
GDPPC
0.169789
0.03513
0.000
TB
-559.1855
77.6148
0.000
SB
-3.236020
30.7276
0.000
PI
-576.4807
186.100
0.000
27
PC
267.9327
88.7540
0.000
NFA
-7.707307
(16.0955)
0.000
Bảng 6 Kết quả về mối liên hệ đồng liên kết dài hạn của các biến
Theo như kì vọng GDP bình quân đầu người tăng dẫn đến làm tăng REER, Cán cân hàng
hóa và dịch vụ tăng cao do đó làm dòng ngoại tệ chảy vào lớn, dẫn đến làm giảm REER.
Trong dài hạn, chi đầu tư chính phủ làm giảm REER. Để lí giải điều này, chúng ta có thể
nhận thấy nguồn chi đầu tư của chính phủ ở các năm là khoảng 98% từ nguồn vay nước
ngoài. Chính nguồn vốn chuyển vào lớn này đã tác động làm cho REER giảm. Ngược lại,
chi tiêu dùng chính phủ lại làm cho REER tăng. Điều này có thể được lí giải bằng tỉ trọng
chi tiêu cho hàng hóa ngoại thương của chính phủ như nguyên vật liệu, công cụ dụng
cụ,…. từ nước để phục vụ cho quản lí nhà nước và thực hiện các dự án.
Tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét các tác động ngắn hạn của các biến đến REER. Với bước
trễ tối ưu là 2 theo tiêu chuẩn lựa chọn của AIC (Akaike Information Criterion), SC
(Schwarz Information Criterion) và HQ (Hannan-Quinn Information Criterion) (bảng 7).
Chúng tôi tiến hành ước lượng mô hình với p = 1, loại bỏ các biến không có ý nghĩa, kết
quả cuối cùng được trình bày trong bảng 8.
28
Bƣớc trễ AIC SC HQ
1 -15.06054 -14.04057* -14.64606*
2 -15.41709 -13.37716 -14.58814
3 -15.77767* -12.71776 -14.53425
Bảng 7 Kết quả lựa chọn bước trễ tối ưu
Hệ số ước lượng Độ lệch chuẩn Thống kê t Giá trị p
EC -0.045595 0.025994 -1.754057 0.0819
GDPPC t-1 -0.003101 0.139281 -0.022263 0.9823
TB t-1 8.74E-05 0.005876 0.014883 0.9881
SB t-1 25.61675 19.16008 1.336986 0.1836
PI t-1 22.58269 8.710542 2.592570 0.0107
PC t-1 304.1533 62.13904 4.894722 0.0000
NFA t-1 -5.913228 17.44224 -0.339018 0.7352
C 7.709121 11.45495 0.672995 0.5022
Bảng 8 Các ảnh hưởng trong ngắn hạn của các biến lên REER
29
Kết quả cho thấy rằng trong ngắn hạn, cán cân hàng hóa và dịch vụ; chi tiêu dùng
và đầu tư của chính phủ là những yếu tố tác động chính đến REER. Ảnh hưởng của cán
cân hàng hóa và dịch vụ không có một tác động r ràng theo như bài nghiên cứu của
Edwards (1994) và Elbadawi (1994) và các nhà kinh tế học có kết quả nghiên cứu đối
lập như Connolly và Devereux (1995) . Các kết quả cũng cho thấy những kì vọng về cấu
trúc chi tiêu công của chính phủ cũng ảnh hưởng đến REER. Trong ngắn hạn, nếu tăng
chi đầu tư thì REER sẽ tăng, điều này cho thấy chính phủ tập trung chủ yếu đầu tư vào
lĩnh vực phi ngoại thương thông qua cơ chế Balassa – Samuelson. Chính phủ nên cố gắng
tập trung phát triển các cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông, chú ý tăng đồng thời hiệu
quả của cả lĩnh vực ngoại thương và phi ngoại thương.
Ngược lại, trong ngắn hạn, chi tiêu dùng của chính phủ có thể thấy cũng làm tăng
REER. Có thể thấy chính phủ chi tiêu rất nhiều cho các dịch vụ phi ngoại thương như lễ,
các cuộc họp, dịch vụ công cộng,.. lẫn các hàng hóa ngoại thương khác phục vụ cho các
dự án phát triển và quản lí nhà nước. Tuy nhiên, bảng thống kê một số khoản mục chi
tiêu của chính phủ từ năm 2002 đến 2010 không cho chúng ta thấy r được cấu trúc chi
tiêu chính phủ qua các năm này.
30
Lĩnh vực 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
2010*
Chi theo dự toán
Quốc hội ( bao gồm
chi trả nợ gốc)
100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Chi đầu tư phát
triển 36,5 32,9 30,9 30,1 28,7 27,4 26,4 34,1 25,9
Chi thường xuyên 63,0 52,8 50,4 50,4 52,5 53,8 55,7
Chi trả nợ, viện trợ 0,0 14,0 16,0 15,4 15,6 15,2 12,9 12,1 13,7
Chi bổ sung quỹ dự
trữ tài chính 0,4 0,1 0,0 0,0 0,0 0,1 0,0
Hỗ trợ tài chính
cho doanh nghiệp
kinh doanh xăng
dầu
0,0 0,2 2,6 4,1 3,1 3,5 4,9
Chi tinh giản biên
chế 0,0 0,0 0,1 0,0 0,0 0,1 0,0
*Năm 2010 t nh toán từ cơ cấu chi theo chức năng số liệu quốc tế
Bảng 9 Cơ cấu chi của NSNN (Nguồn: Bộ tài chính)
REER sẽ điều chỉnh giảm (tăng) hướng về mức cân bằng khoảng 4.55% ở quý sau.
Ðây là mức điều chỉnh khá thấp của tỷ giá thực đa phương so với các nước đang phát
31
triển khác (Theo Edwards (1989) và Elbadawi (1994), mức điều chỉnh về cân bằng của tỷ
giá thực ở các nước đang phát triển trong khoảng 40-45%) vì tỷ giá và các biến tiền tệ rất
nhạy cảm ở các nước có thị trường tiền tệ chưa hoàn chỉnh và nhiều biến động do ảnh
hưởng tâm lý.
5. KẾT LUẬN
5.1. Các kết quả nghiên cứu
-2
-1
0
1
2
3
1 2 3 4 5
REER ± 2 S.E.
Response of REER to REER
-2
-1
0
1
2
3
1 2 3 4 5
GDPPC ± 2 S.E.
Response of REER to GDPPC
-2
-1
0
1
2
3
1 2 3 4 5
TB ± 2 S.E.
Response of REER to TB
-2
-1
0
1
2
3
1 2 3 4 5
SB ± 2 S.E.
Response of REER to SB
-2
-1
0
1
2
3
1 2 3 4 5
PI ± 2 S.E.
Response of REER to PI
-2
-1
0
1
2
3
1 2 3 4 5
PC ± 2 S.E.
Response of REER to PC
-2
-1
0
1
2
3
1 2 3 4 5
NFA ± 2 S.E.
Response of REER to NFA
Response to Cholesky One S.D. Innovations ± 2 S.E.
Hình 3 Hàm phản ứng đẩy của mô hình. Phản ứng của REER với các biến còn lại
32
Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi đã phân tích mối quan hệ của tỉ giá hối đoái thực đa
phương (REER) và GDP thực bình quân đầu người (GDPPC), Cán cân sản phẩm và dịch
vụ (TB), Cán cân cấu trúc (Structural Balance – SB), Đầu tư công của chính phủ (PI), Chi
tiêu công của chính phủ (PC), Tài sản có ngoại tệ ròng (NFA) ở Việt Nam trong giai đoạn
từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 1 năm 2012. Dựa vào hàm phản ứng đẩy từ mô hình ta có
thể rút ra được một số kết luận:
Thứ nhất, là trong ngắn hạn, cán cân hàng hóa và dịch vụ; chi tiêu dùng và đầu tư
của chính phủ là những yếu tố tác động chính đến REER. Cán cân hàng hóa và dịch vụ
(TB) có tương quan dương với REER, khi TB càng lớn nghĩa là độ mở của nền kinh tế
ngày càng cao thì người tiêu dùng có khuynh hướng thay thế hàng phi ngoại thương bằng
hàng ngoại thương, làm cầu nhập khẩu tăng lên và từ đó làm tăng REER.
Thứ hai, là trong ngắn hạn, nếu chính phủ tăng cường đầu tư và làm tăng năng
suất ở các lĩnh vực phi ngoại thương (non-tradable sector) từ đó làm gia tăng giá cả của
mặt hàng ngoại thương (tradables goods), nên làm tăng REER.
Thứ ba, là trong ngắn hạn, nếu chính phủ tăng cường chi tiêu các hàng hóa ngoại
thương từ đó làm tăng cầu đối với các hàng hóa này, làm tăng REER.
Thứ tư, trong ngắn hạn, khi SB càng tăng, có nghĩa là thâm hụt ngân sách thực cao
do chính phủ tăng chi tiêu dùng làm theo hướng trên làm cho REER tăng.
Cuối cùng là cấu trúc chi tiêu công của chính phủ (SB) cũng ảnh hưởng đến REER. Nếu
GDP dưới mức tiềm năng thì nguồn thu từ thuế sụt giảm trong khi đó trợ cấp xã hội cho
người thất nghiệp lại có xu hướng tăng. Do đó, thâm hụt ngân sách thực tế sẽ càng tăng
lên (SB càng lớn) từ đó làm REER tăng.
33
5.2. Đề xuất chính sách:
Phần trình bày về lý thuyết cũng như kiểm định mô hình đã cho thấy vai trò của chính
sách tài khóa trong việc ổn định tỷ giá hối đoái thực đa phương ( REER).Kết quả mô hình
cho thấy vai trò của đầu tư và chi tiêu chính phủ trong việc tác động làm tăng ( giảm )
REER.
Việt Nam là một quốc gia mới nổi, cũng giống như nhiều thị trường mới nổi khác ở
Châu Âu, Mỹ La-Tin đều nhận thấy đồng nội tệ tăng giá mạnh làm giảm tỷ giá hối đoái
thực đa phương. REER giảm sâu sẽ tác động không tốt đến sức cạnh tranh quốc gia, cán
cân thương mại và hạn chế sự phát triển của các quốc gia nói chung và đặc biêt là mới
nổi như Việt Nam. Do đó các chính sách hạn chế sự giảm sâu và giữ tính ổn định của
REER là hết sức cần thiết. Phần này sẽ chú trọng một số đề xuất chính sách tài khóa –
công cụ mới nhằm ổn định tỷ giá hối đoái thực, hạn chế sự giảm sâu REER.
Về lý thuyết REER có thể được cải thiện bằng hai cách tăng tỷ giá hối đoái
danh nghĩa hoặc kiểm soát lạm phát.
Đối với hướng cải thiện bằng cách tăng tỷ giá hối đoái thực thông qua can thiệp thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện, thứ nhất là vì cách
này không đem lại hiệu quả lâu dài ( giải thích bằng hiệu ứng tuyến tính J ở Việt Nam
của các tác giả Phan Thanh Hoàn và Nguyễn Đăng Hào (2007) , Phạm Thị Tuyết Trinh
(2011), Nguyễn Hữu Tuấn (2011)) thứ hai là vì thị trường Việt Nam tương đối nhạy cảm
về mặt tâm lý , việc tăng tỷ giá hối đoái danh nghĩa có thể gây tác động ngược.
Hướng cải thiện thứ hai là kiểm soát lạm phát. Việc kiểm soát lam phát được xem là giải
pháp tốt trong trường hợp tỷ lệ lạm phát Việt Nam được đánh giá ở mức khá cao như
hiện nay. Chính phủ tác động kiểm soát giảm lạm phát là vấn đề cấp bách có tác động lớn
đến kinh tế xã hội Việt Nam đồng thời cải thiện được REER theo hướng có lợi cho nền
kinh tế.
34
Dựa vào kết quả mô hình có thể đề xuất phương hướng cải thiện REER dựa
trên hai nhân tố :thứ nhất là tỷ giá hối đoái danh nghĩa ,thứ hai là giá cả hàng
hóa “phi thương mại”
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa như đã nói là khó để điều chỉnh, còn giá cả hàng hóa ― phi
thương mại‖ có thể được điều tiết kiểm soát mang lại hiệu quả trong việc hạn chế giảm
sâu REER.
Cải thiện REER thông qua giá cả hàng hóa phi thương mại:
Thứ nhất, sử dụng các công cụ điều tiết lạm phát để tác động điều tiết giá cả hàng
hóa phi thương mại.Như đã nghiên cứu để làm tăng REER chúng ta cần điều tiết giữ ổn
định , không làm tăng giá hàng hóa ―phi thương mại‖. Lạm phát cao có ảnh hưởng làm
tăng giá ― hàng hóa phi thương mại ― và ngược lại. Do đó việc kiểm soát lạm phát sẽ giúp
cải thiện được REER thông qua việc giữ giá hàng hóa phi thương mại ổn định. Như đã
nói Việt Nam là nước có tỷ lệ lạm phát khá cao do đó chính sách tài khóa liên quan đến
đầu tư và chi tiêu công của chính phủ góp phần tác động kiềm chế lạm phát sẽ có hiệu
quả lớn.
Thứ hai, xem xét chi đầu tư của chính phủ tác động đến giá cả hàng hóa phi
thương mại. Trong ngắn hạn, việc tăng chi đầu tư ( đặc biệt là cơ sở hạ tầng và giao
thông ) góp phần cải thiện chất lượng sản phẩm nói chung và ―hàng hóa phi thương mại‖
nói riêng từ đó có thể gây tác động giảm giá hàng hóa phi thương mại và làm tăng REER.
Tuy nhiên cần chú ý rằng tăng chi đầu tư cũng cần phải được xem xét , đảm bảo việc chi
có hiệu quả và mức chi phù hợp với mức thu, đảm bảo thâm hụt ngân sách ở mức hợp lý
có lợi cho toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa việc tăng chi đầu tư cần chú ý đảm bảo cải thiện
cả chất lượng hàng hóa thương mại và phi thương mại.
Thứ ba, xem xét thêm việc tác động thông qua ảnh hưởng của giá cả hàng hóa phi
thương mại đến REER có liên quan đến chi tiêu dùng của chính phủ. Chi tiêu dùng của
chính phủ đối với các hàng hóa phi thương mại có tác động đến giá cả loại hàng hóa
này.Do đó để đảm bảo giá cả loại hàng hóa này ổn đinh hay nói cách khác để đảm bảo ổn
35
định REER cần kiểm soát tốt chi tiêu của chính phủ về hàng hóa phi thương mại. Một sự
gia tăng chi tiêu chính phủ đối với các loại hàng hóa phi thương mại có thể làm tăng cầu
và dẫn đến tăng giá loại hàng hóa này từ đó góp phần làm giảm sâu REER.
Như vậy dựa vào các kết luận mô hình nhận thấy chính sách tài khóa có vai trò
quan trọng trong việc ổn định tỷ giá hối đoái thực đa phương. Hơn nữa có thể thấy viêc
chi tiêu công và đầu tư công của chính phủ có ảnh hưởng không chỉ thông qua việc tác
động đến lạm phát mà còn có ảnh hưởng trực tiếp đến lượng cầu và giá cả hàng hóa phi
thương mại từ đó ảnh hưởng đến REER. Ngoài việc chú ý các chính sách tài khóa kiềm
chế lạm phát chính phủ còn cần điều tiết chi tiêu công và tăng cường đầu tư công ở mức
hợp lý để đảm bảo giữ ổn định REER
5.3. Hạn chế và hƣớng phát triển của đề tài:
Mặc dù nhóm chứng minh được một vài yếu tố tác động chính đến REER ở các thị
trường mới nổi như cán cân hàng hóa và dịch vụ; chi tiêu dùng và đầu tư của Chính
phủ,... nghiên cứu của nhóm vẫn còn một số hạn chế có thể sẽ là cơ hội phát triển sâu hơn
cho các bài nghiên cứu sau về mối quan hệ giữa chính sách tài khóa và việc ổn định tỉ giá
hối đoái thực đa phương (REER). Kết quả nghiên cứu của nhóm chưa cho thấy sự ủng hộ
tuyệt đối với bất kỳ trường phái lý thuyết nghiên cứu trước đó nào.
Bài nghiên cứu chưa đo lường được chính xác tác động của chi tiêu dùng Chính
phủ lên REER do sự hạn chế về mức độ tiếp cận và minh bạch thông tin của cấu trúc chi
tiêu Chính phủ trong giai đoạn 2002-2010.
Dữ liệu được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như Ngân hàng Thế giới (World
Bank, Quỹ Tiền tệ Quốc Tế (International Money Fund-IMF), Ngân hàng Phát Triển
Châu Á (ASEAN Development Bank) nên có thể xuất hiện chênh lệch và không thống
nhất do sự khác biệt trong phương pháp tính giữa các tổ chức kể trên.
Việc chọn lựa mô hình và thực hiện kiểm định chưa thể hiện hết được những
luồng ý tưởng khác nhau trong các nghiên cứu phản biện.
36
Một hướng phát triển của đề tài là tiến hành kiểm định mối quan hệ giữa độ nhạy
cảm tỷ giá thực với sự thay đổi của chính sách tài khóa ở các thị trường mới nổi, cụ thể
trong hai giai đoạn: mở rộng và thắt chặt tài khóa. Từ đó, nghiên cứu có thể phát hiện
mối quan hệ tồn tại giữa biến động tỷ giá và chính sách tài khóa trong từng thời kỳ độc
lập. Từ đó, rút ra bài học để áp dụng linh hoạt sự kết hợp giữa thực hiện chính sách tài
khóa và kiểm soát tỷ giá ứng với từng thời kỳ phát triển khác nhau của nền kinh tế Việt
Nam.
V
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Backus, D., et al. (1992). Dynamics of the Trade Balance and the Terms of Trade: The S-
curve, National Bureau of Economic Research.
Bahmani-Oskooee, M., et al. (2008). "The S-curve in emerging markets." Comparative
Economic Studies 50(2): 341-351.
Balassa, B. (1964). "The purchasing-power parity doctrine: a reappraisal." The Journal of
Political Economy: 584-596.
Chatterjee, M. S. and M. A. Mursagulov (2012). Fiscal Policy and the Real Exchange
Rate, International Monetary Fund.
Galstyan, V. and P. R. Lane (2009). "The composition of government spending and the
real exchange rate." Journal of Money, Credit and Banking 41(6): 1233-1249.
Mundell, R. A. (1963). "Capital mobility and stabilization policy under fixed and flexible
exchange rates." Canadian Journal of Economics and Political Science/Revue canadienne
de economiques et science politique 29(04): 475-485.
Ricci, M. L. A., et al. (2008). Real exchange rates and fundamentals: A cross-country
perspective, International Monetary Fund.
Sachs, J. and C. Wyplosz (1984). Real exchange rate effects of fiscal policy, National
Bureau of Economic Research.