View
5.013
Download
1
Category
Preview:
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
-------------------
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO
CÔNG ƢỚC VIÊN 1980 – CISG.
Chuyên ngành: Luật thƣơng mại quốc tế.
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Uy Pháp
Dân tộc : Kinh
Lớp : LQT11-01
Khóa : 2011-2015
Năm thứ : 3/Số năm đào tạo: 4
Ngành học : Luật quốc tế.
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Toàn Thắng
Hà Nội, 04/2014.
MỤC LỤC
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
CHƢƠNG I: CÁC QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CÔNG ƢỚC VIÊN
1980 – CISG. ........................................................................................................ 5
1.Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. ........................... 5
2.Phạm vi áp dụng của CISG. ............................................................ 8
2.1 CISG đƣợc áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
trong trƣờng hợp nào? ................................................................................ 8
2.2 CISG không đƣợc áp dụng trong các trƣờng hợp sau. ............. 9
2.3 Những lƣu ý cần phải biết. ........................................................... 9
3. Các quy định chung. ................................................................................ 11
3.1 Nguyên tắc thiện chí trong giao kết, thực hiện hợp đồng và
giải quyết tranh chấp. ................................................................................ 11
3.2 Cách giải thích các tuyên bố và xử sự. ...................................... 12
3.3 Bằng chứng theo CISG. .............................................................. 14
3.4 Vấn đề về các bảo lƣu. ................................................................. 14
CHƢƠNG 2 : QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CỦA CISG. ................................... 16
I.KÍ KẾT HỢP ĐỒNG. ............................................................................... 16
1.Ký kết hợp đồng. ....................................................................................... 16
1.1Các loại hình thức hợp đồng. ....................................................... 16
1.2 Hình thức việc sửa đổi hợp đồng. ............................................... 17
2.Chào hàng có hiệu lực. ............................................................................. 18
2.1Về nội dung chào hàng. ................................................................ 18
2.2Cách thức tiến hành. .............................................................................. 19
3.Chấp nhận chào hàng có hiệu lực. ........................................................ 20
3.1Khái niệm về chấp nhận chào hàng. ........................................... 20
3.2 Cách thức chấp nhận chào hàng. ............................................... 21
4.Hủy bỏ chấp nhận chào hàng. ................................................................ 22
5.Thời điểm hợp đồng đƣợc ký kết. ......................................................... 23
II.NGHĨA VỤ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA BÊN BÁN. ............................ 24
1.Nghĩa vụ giao hàng. .................................................................................. 24
1.1Giao hàng đúng địa điểm. ............................................................ 24
1.2Thời gian giao hàng ...................................................................... 26
1.3Nghĩa vụ giao chứng từ kèm theo hàng hóa. .............................. 28
1.4Giao hàng đúng chất lƣợng, đúng đối tƣợng và
đúng số lƣợng. ............................................................................................ 29
1.5Giao hàng độc lập về quyền sở hữu . .................................................. 32
1.6 Bảo quản hàng hóa. ..................................................................... 33
2.Thời điểm chuyển rủi ro thành công. ................................................... 34
2.1Thế nào là chuyển rủi ro thành công? ........................................ 34
III.NGHĨA VỤ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA BÊN MUA. ......................... 36
1.Các nghĩa vụ liên quan đến việc nhận hàng........................................ 36
1.1 Nghĩa vụ nhận hàng ..................................................................... 37
1.2 Kiểm tra chất lƣợng hàng hóa. ................................................... 37
1.3 Nghĩa vụ khi từ chối nhận hàng. ................................................ 39
2 Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng. .............................................................. 40
2.2 Thanh toán đúng địa điểm đã quy định. ................................... 41
2.3 Thanh toán đúng thời hạn. ......................................................... 41
2.4 Thủ tục thanh toán. ..................................................................... 42
3 Bảo quản hàng hóa. ................................................................................. 43
CHƢƠNG III: BIỆN PHÁP XỬ LÝ VIỆC KHÔNG THỰC HIỆN
ĐÚNG HỢP ĐỒNG ......................................................................................... 45
1. Buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng. ............................................. 45
1.1 Đặt vấn đề. .................................................................................... 45
1.2 Điều kiện để buộc bên kia thực hiện đúng hợp đồng. .............. 45
1.3 Cách thức của việc buộc bên kia thực hiện đúng hợp đồng. ... 46
1.4 Hệ quả của việc yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng. ................... 47
2 Yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại. ................................................................. 48
2.1 Khái niệm. .................................................................................... 49
2.2 Điều kiện để yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại. ................................ 49
2.3 Cách thức yêu cầu đòi bồi thƣờng thiệt hại. ............................. 52
2.4 Hệ quả của việc yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại. ......................... 55
3 Hủy hợp đồng. ........................................................................................... 56
3.1Đặt vấn đề. ..................................................................................... 56
3.2 Điều kiện hủy bỏ hợp đồng. ........................................................ 57
3.3 Cách thức hủy hợp đồng. ............................................................ 60
3.4 Hệ quả của việc hủy hợp đồng. ................................................... 61
4 Một số biện pháp bảo hộ khác. .............................................................. 62
5 Các trƣờng hợp miễn trách nhiệm. ....................................................... 64
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 67
1. Cần hiểu tinh thần và nội dung của Công ƣớc. ................................. 67
2. CISG không vạn năng............................................................................. 67
3. Vấn đề CISG không điều chỉnh, pháp luật Việt Nam có thể hỗ
trợ? .................................................................................................................. 68
4. Kiến nghị về những nghiên cứu tiếp theo. .......................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO: ............................................................................. 70
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 72
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng Việt Tiếng Anh
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á CISG
Association of Southeast
CISG
Công ước Viên năm 1980
của Liên hợp quốc về hợp
đồng mua bán hàng hóa
quốc tế
United Nations Convention on
Contracts for International Sale
of Goods
CISG - AC Hội đồng tư vấn CISG CISG Advisory Council
EU Liên minh Châu Âu European Union
ICC
Phòng thương mại quốc tế International Chamber of
Commerce
INCOTERM
Các điều kiện thương mại
quốc tế
International Commercial Terms
HĐMBHHQT
Hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế
L/C Thư tín dụng Letter of credit
PECL
Bộ nguyên tắc pháp luật
hợp đồng Châu Âu
Principles of European Contract
Law
PICC Bộ nguyên tắc về hợp
đồng thương mại quốc tế
Principles of International
Commercial Contracts
TPP
Hiệp định Đối tác Kinh tế
Chiến lược xuyên Thái
Bình Dương
Trans-Pacific Strategic
Economic Partnership
Agreement
UCP
Tập quán và thực hành
thống nhất về tín dụng
chứng từ
Uniform Customs and Practice
for Documentary Credits
UNCITRAL
Ủy ban của Liên hợp quốc
về Luật Thương mại quốc
Uniform Customs and Practice
for Documentary Credits
tế
UNIDROIT
Viện nghiên cứu quốc tế
về thống nhất luật tư
International institute for the
unification of private law
VCCI
Phòng thương mại và
Công nghiệp Việt Nam
Vietnam Chamber of Commerce
and Industry
VIAC
Trung tâm Trọng tài quốc
tế Việt Nam
Vietnam International Arbitral
Centre
WTO
Tổ chức thương mại thế
giới
World Trade Organization
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài.
Hiện nay, Việt Nam đang trên đường hội nhập quốc tế sâu và rộng như tham
gia WTO, ASEAN, đang đàm phán tự do thương mại Việt Nam – EU, đang đàm phán
Hiệp định tự do thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP), đã ký và sẽ ký hiệp định
tự do thương mại với nhiều nước lớn trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Chilê, Nga….
Với tình hình hiện nay thì lượng hàng hóa xuất nhập khẩu sẽ ngày một tăng
mạnh tạo đà cho phát triển kinh tế nước ta. Tuy nhiên, với hành lang pháp lý về hợp
đồng của nước ta còn nhiều bất cập không đáp ứng được thực tế tình hình hội nhập
quốc tế. Theo Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam - VIAC tranh chấp liên quan đến
mua bán hàng hóa quốc tế chiếm chiếm 80% trong tổng các số tranh chấp. Trong đó
CISG điều chỉnh ba phần tư lượng hàng hóa toàn cầu1. Với những con số như vậy đủ
để mọi người tham gia vào thương mại quốc tế tự nhắc nhở bản thân mình rằng ―CISG
là rất cần thiết‖.
Để giả quyết vấn đề này thì Bộ Công Thương đã nghiên cứu và đề xuất việc
nước ta gia nhập CISG. Trước tình hình đó, ngày 14/01/2013, Văn phòng Chính phủ
đã gửi Công văn số 413/VPCP-QHQT đồng ý với đề xuất trên của Bộ Công Thương,
trong đó Thủ tướng Chính phủ đã đống ý với chủ trương Việt Nam gia nhập Công ước
Viên và giao các bộ ngành liên quan thực hiện các thủ tục gia nhập Công ước này.
Theo tiến độ gia nhập Công ước thì trong năm 2014 này Việt Nam sẽ trở thành
thành viên gia nhập Công ước chính thức.
Tuy nhiên, việc hiểu sâu sắc về CISG ở Việt Nam hiện nay chưa được ưu tiên
tìm hiểu, nghiên cứu cụ thể ngay cả trong các trường đào tạo luật lớn của nước ta cũng
chưa có chương trình giảng dạy cụ thể. Các nguồn tài liệu liên quan đến CISG vẫn còn
ít ỏi so với đòi hỏi thực tế của người nghiên cứu và áp dụng nó. Trên trang web
http://www.cisg.law.pace.edu/ - trang web lưu trữ dữ liệu về luật thương mại quốc tế,
có hàng chục ngàn nghiên cứu liên quan đến Công ước Viên, nhưng chỉ có 13 nghiên
1 VCCI, Báo cáo nghiên cứu: Đề xuất Việt Nam gia nhập Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế, 2010.
2
cứu đến từ Việt Nam – hầu hết là liên quan đến việc gia nhập Công ước, còn nội dung
thỉ chỉ có 3 nghiên cứu. Điều đó thể hiện việc chưa thực sự quan tâm đến nó, với nhiều
lý do như: Việt Nam chưa phải là thành viên, nó chỉ phù hợp với Châu Âu, nó quá
mới... Và đó là sai lầm khi các quan hệ hợp đồng vẫn thường xuyên áp dụng CISG
ngay cả khi Việt Nam chưa là thành viên.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu ―Các vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế theo CISG‖ là cần thiết.
Các nghiên cứu liên quan và mục tiêu của đề tài:
Chế định hợp đồng mua bán hàng hóa là một trong những vấn đề được ưu tiên
rất lớn từ các nhà làm luật, các chuyên gia bởi tính ứng dụng của nó diễn ra liên tục.
Trên thế giới, có rất nhiều công trình nghiên cứu về thương mại hàng hóa, đặc biệt là
Công ước Viên 1980 được đăng tải trên trang web http://www.cisg.law.pace.edu/ -
trung tâm cơ sở dữ liệu về thương mại quốc tế. Tại đó, hầu như mọi góc cạnh về Công
ước Viên 1980 đã được đề cập đến với nhiều hình thức như: Bình luận khoa học các
quy phạm pháp luật của CISG, bình luận bản án mà CISG là luật điều chỉnh, so sánh
các quy định của CISG với các nguồn luật như; Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ… Mọi tác
phẩm học thuật đó đều có giá trị tham khảo rất cao, nhưng nó vẫn giữ một khoảng
cách với các nhà nghiên cứu của nước ta. Bởi lẽ, về nhiều yếu tố khác nhau như; ngôn
ngữ, hệ thống luật khác nhau, tư duy luật thương mại quốc tế khác nhau, tư duy kinh
doanh quốc tế khác nhau . Vì vậy, mà nó khó có thể áp dụng một cách triệt để với
người Việt ta.
Ở Việt Nam, CISG chưa tâm quan tâm đúng mức so với giá trị của nó. Nó
thực sự được biết đến nhiều hơn một chút vào năm 2010 – khi Phòng thương mại và
công nghiệp Việt Nam nghiên cứu về việc Việt Nam gia nhập CISG. Và nó ngày càng
biết đến vào giữa năm 2013 khi Thủ tướng có quyết định Việt Nam gia nhập CISG.
Tuy nhiên, việc biết đến không có nghĩa là đã tìm hiểu mà chỉ đơn giản là có một
Công ước về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đang tồn tại. Để đáp ứng kịp thời về
việc nghiên cứu các quy định của CISG thì các cơ quan đã lập một trang web về CISG
cho người Việt đó là: http://cisgvn.wordpress.com/ . Tuy nhiên, nó còn quá non trẻ cho
một vấn đề đầy phức tạp. Ở đó, có một số bài phân tích về một vấn đề, nhìn chung nó
nặng về giới thiệu Công ước hơn là nghiên cứu nội dung về nó. Tương tự các trang
web như: http://www.trungtamwto.vn/ cũng có chuyên mục về Công ước Viên 1980
3
nhưng cũng không đề cập đến nhiều về nội dung, cách áp dụng của nó. Các đề tài
nghiên cứu trước đây thường đền cập đến việc gia nhập công ước của Việt Nam. Các
tác phẩm của VIAC thì thường đưa ra các điều khoản mẫu của hợp đồng chứ không
chú trọng vào việc phân tích nội dung của Công ước. Đối với các tạp chí khoa học gần
đây như : Nguyễn Minh Hằng, « Một vài suy nghĩ về việc áp dụng Công ước Viên
1980, về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế », Báo Diễn đàn doanh nghiệp, số 11 và
12 năm 2006 (ngày 08/02/2006 và 10/02/2006), chuyên mục Pháp luật kinh doanh;
Nguyễn Minh Hằng, « Việt Nam và việc gia nhập Công ước Viên 1980 năm 1980 »,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số tháng 9/2007, tr.59-62; Nguyễn Minh Hằng, Bàn về
khái niệm vi phạm cơ bản trong Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế,Tạp chí kinh tế đối ngoại, số 14/2005, tr.84-90. CISG cũng được đề cập nhiều
hơn , nhưng nó thật không đầy đủ và chưa được tập chung nên khó tiếp cận. Đối với
các giáo trình về Luật thương mại quốc tế của các trường đại học cũng chỉ giới thiệu
qua Công ước, nó giống như việc chép lại các điều luật, không làm nổi bật được tinh
thần của Công ước để từ đó đi tìm các quy định trong mỗi điều khoản. Thường các
nghiên cứu không có tính bao quát, chưa nghiên cứu toàn diện về Công ước.
Trong công trình này, tôi cố gắng làm rõ những quy định của Công ước Viên
1980. Việc nghiên cứu làm rõ các quy định cũng như nghiên cứu làm rõ những giải
pháp liên quan đến vấn đề hợp đồng. Để từ những quy định đó làm nổi bật được tinh
thần cũng như mục đích của CISG trong thương mại quốc tế. Ở đây, việc trình bày sẽ
làm rõ những gì ―đã có‖ trong Công ước và một số án lệ, bình luận khoa học được
quốc tế công nhận. Việc hiểu nội dung công ước không mang tính quyết định trong
việc áp dụng nó mà còn phải tìm hiểu kỹ hơn đó là mục đích của Công ước, tinh thần
của nó – vấn đề mà sinh viên hay người mới tìm hiểu thường bỏ qua hoặc quan tâm
một cách hời hợt.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Báo cáo sẽ làm rõ những quy định của Công ước và cố gắng để mọi người
hiểu quy định chung, mục đích của nó. Vì thế, việc tìm hiểu các điều luật theo từng
vấn đề được sắp xếp theo một trình tự từ lúc kí kết đến khi giải quyết tranh chấp hoàn
tất (nếu có).
Mỗi điều luật không đơn thuần là chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ của
mình mà trong nó còn bao hàm cả việc thúc đẩy ngoại thương.
4
Việc tìm hiểu tổng quát các quy định của Công ước sẽ làm cho những người
tiếp cận có một cách mình tổng quan nhất, để từ đó đưa ra những phán đoán về nó.
Bởi vậy, báo cáo này cố gắng tập trung trả lời câu hỏi: Các quy định của CISG có gì
đặc biệt? Và ý nghĩa của công ước là gì? Tinh thần của Công ước là gì?
Phƣơng pháp nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích: Tập trung phân tích các quy phạm pháp luật của
CISG.
- Phương pháp so sánh: Dựa trên cơ sở các quy định cụ thể của CISG với luật
hợp đồng của Việt Nam và bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc
tế, từ đó đưa ra những vấn đề mà CISG chưa đề cập hoặc đề cập đến nhưng khó áp
dụng. Qua đó tạo tiền đề để khắc phục những vấn đề mà CISG không quy định ở trong
một hợp đồng cụ thể.
- Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp các bản án, án lệ và các nghiên cứu trước
của những tác giả về hợp đồng để đưa ra những nhận định, chỉ dẫn hợp lý trong việc
soan thảo hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên cơ sở pháp luật của CISG.
5
CHƢƠNG I
CÁC QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CÔNG ƢỚC VIÊN 1980 – CISG.
1. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Về mặt pháp lý, nhìn chung một hợp đồng có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Hợp đồng là một hành vi pháp lý thể hiện ý chí của các bên và từ đó làm
phát sinh hệ quả pháp lý.
- Hợp đồng là sự thỏa thuận tự nguyện giữa các bên, sự thỏa thuận này thể
hiện ở sự thống nhất ý chí là phát sinh nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
- Căn cứ pháp lý xác lập hợp đồng đó là sự tự do ý chí của các bên tham
gia hợp đồng, với điều kiện sự tự do ý chí đó phải thỏa mãn các điều kiện của pháp
luật quy định.
Tuy nhiên, không phải hợp đồng mua bán hàng hóa nào đáp ứng được các quy
định trên cũng được CISG điều chỉnh. CISG cũng đã quy định phạm vi áp dụng rất rõ
ràng về các đối tượng hàng hóa như thế nào thì mới đáp ứng được CISG điều chỉnh.
Các mặt hàng mang yếu tố quá đơn giản như việc mua hàng cho việc sử dụng của cá
nhân, gia đình hoặc nội trợ - những mục đích mua hàng này chỉ vì mục đích sử dụng
cá nhân chứ không mang yếu tố sinh lợi nhuận. Trừ khi người bán không biết hoặc
không cần phải biết rằng hàng hóa đã được mua để sử dụng như thế (điểm a điều 2
CISG). Phải chăng CISG đã để độ mở này cho pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng
của quốc gia điều chỉnh. Ngay cả khi mua hàng hóa theo quy định như điều 1 về yếu tố
quốc tế. Như khi công dân nước A đi du lịch tại nước B và mua một số hàng hóa để
phục vụ nhu cầu cá nhân. Yếu tố hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình không được
CISG điều chỉnh cũng bắt nguồn từ yếu tố thương mại, vì bản thân nó không phải là
loại hình trao đổi hàng hóa để sinh lợi nhuận của bên mua kinh doanh nó.
Ngoài hàng hóa dùng cho cá nhân tiêu dùng thì CISG cũng chỉ rõ những mặt
hàng như điện năng, tàu thủy, máy bay, thiết bị máy bay, tàu chạy trên nệm khí, nệm
điện, các loại cổ phiếu, trái phiếu, thương phiếu, tiền tệ (Điểm b, c, d, e, f điều 2
CISG). Do tính chất của hàng hóa tác động đến người dùng rất phức tạp. Hơn nữa mỗi
loại hàng hóa này đều được quy định rất chặt chẽ phù hợp với mỗi quốc gia, bởi không
có một quốc gia nào có nền kinh tế, cơ sở hạ tầng đều như nhau cả. Chính vì thế mà
6
CISG chỉ điều chỉnh trong phạm vi kinh doanh thương mại, chỉ tập chung vào một
mảng nhiệm vụ chính. Bởi chính yếu tố này mà nó ngày càng thành công.
Theo điều 3 CISG thì những hợp đồng mua bán hàng hóa để chế tạo, sản xuất
chỉ được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa khi bên đặt hàng không có nghĩa vụ cung
cấp phần lớn các nguyên liệu cần thiết cho việc chế tạo hay sản xuất đó.
CISG cũng quy định về việc hợp đồng cung ứng dịch vụ, công việc và hàng
hóa cùng một hợp đồng. Có thể hiểu các công việc và dịch vụ trong hợp đồng chỉ
mang tính chất hỗ trợ các hàng hóa của nó thì mới được coi là hợp đồng mua bán hàng
hóa. Nếu một hợp đồng mà phần dịch vụ, công việc lại là phần chính – phần vượt trội
của nó thì CISG hoàn toàn không điều chỉnh (khoản 2 điều 3 CISG). Tuy nhiên cần
phải hiểu thế nào là phần vượt trội, theo Hội đồng tư vấn của UNCITRAL về CISG thì
phần vượt trội được xác định bằng giá trị kinh tế của nó trong hợp đồng2. Nó được dựa
trên phần trăm giá trị của phần dịch vụ so với phần giá trị hàng hóa hay trên tổng giá
trị của hợp đồng. Thuật ngữ vượt trội hay phần lớn đều có thể hiểu về yếu tố định
lượng dựa trên tổng số giá trị của hợp đồng. Chính vì thế khi giải thích về vấn đề này
hoàn toàn dễ dàng chấp nhận của các bên.
Tóm lại, hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng được kí kết tự nguyện dựa
trên nguyên tắc thỏa thuận giữa các bên. Đối tượng hàng hóa của nó phải là các mặt
hàng không bị cấm ngoài ra các hàng hóa trong khoản b, c, d, e, f của điều 2 CISG
cũng nằm ngoài sự điều chỉnh của nó. Hợp đồng mua bán hàng hóa có phần dịch vụ thì
phần này chỉ được mang tính chất hỗ trợ và là thứ yếu thì mới được CISG điều chỉnh.
Việc mua hàng dùng cho cá nhân cũng là hình thức không được CISG chấp nhận .
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là…
Công ứơc Viên 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế chỉ đưa ra một tiêu chuẩn khẳng định tính chất quốc tế của HĐMBHHQT, đó là các
bên kí kết hợp đồng có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau (Khoản 1 - Điều 1
CISG) . Công ước không quan tâm đến vấn đề quốc tịch, quy chế dân sự, quy chế
thương mại của các bên khi xác định yếu tố quốc tế của HĐMBHHQT. Tiêu chí về trụ
2 CISG Advisory Council Opinion No. 4 - Contracts for the Sale of Goods to Be Manufactured or
Produced and Mixed Contracts (Article 3 CISG): Địa chỉ truy cập ngày 23/02/2014:
http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/CISG-AC-op4.html
7
sở thương mại hiện nay đã trở thành một một tiêu chí được áp dụng phổ biến, nhất là
khi số lượng các quốc gia của Công ước Viên ngày càng tăng.
Công ước Viên đưa ra tiêu chí trên hoàn toàn rõ ràng và mang một nghĩa rộng,
bao gồm được cả những quy định của Luật Thương mại Việt Nam năm 2005. Luật
Thương mại Việt Nam năm 2005 không trực tiếp đưa ra khái niệm về HĐMBHHQT
mà chỉ quy định mua bán hàng hóa quốc tế như sau ―được thực hiện dưới các hình
thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu
(Khoản 1 điều 27 LTM 2005) đó là cách hiểu về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
thông qua các hình thức như trên.
Tại sao lại cần xác định tính chất quốc tế của HĐMBHHQT một cách rõ ràng?
Bởi vì, tính chất quốc tế sẽ tạo ra những đặc điểm khác biệt của một HĐMBHHQT với
các hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường. Tính chất về trụ sở thương mại tại các
quốc gia khác nhau thể hiện ở đặc điểm sau:
Chủ thể của HĐMBHHQT là các bên có trụ sở thương mại đặt ở các nước
khác nhau. Nếu một bên có hơn một trụ sở thương mại thì sẽ tính đến trụ sở thương
mại thì sẽ tính đến trụ sở thương mại có mối liên hệ chặt chẽ nhất đối với hợp đồng và
đối với việc thực hiện hợp đồng đó. Nếu một bên không có trụ sở thương mại thì lấy
nơi cư trú thường xuyên của họ (điều 10 CISG).
Các yếu tố khác không liên quan đến trụ sở thương mại nhưng có liên quan
đến yếu tố quốc tế mà bấy lâu nay giới kinh doanh hay học giả vẫn chấp nhận cũng
không được CISG công nhận như:
- Hàng hóa là đối tượng hợp đồng được chuyển qua biên giới của một
nước, tức là có thể được chuyển qua nước này sang nước khác.
- Đồng tiền thanh toán không nói lên điều gì, nếu mà xác định tính chất
của HĐTMHHQT theo luật Việt Nam nó sẽ dẫn đến một số hệ quả. Ví dụ như khi bên
bán là Việt Nam kí HĐ với một bên có trụ sở thương mại tại Nhật Bản nhưng hàng
không được chuyển qua biên giới hay vào khu vực hải quan mà hàng lại chuyển cho
một cơ sở của phía Nhật Bản tại Việt Nam (không phải trụ sở thương mại) thì lúc này
đồng tiền thanh toán chỉ có thể là đồng Việt Nam. Tuy nhiên, nếu tiếp cận theo CISG
thì đây hoàn toàn là HĐMBHHQT vì các bên tham gia ký kết HĐ đều có trụ sở
thương mại tại quốc gia thành viên CISG khác nhau, và cách xác định như vậy sẽ lại
được điều điều chỉnh bởi CISG.
8
- Cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên xung quanh việc kí
kết và thực hiện hợp đồng.
- Luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mang tính chất
phức tạp, đa dạng: yếu tố quốc tế theo cách hiểu này cũng không bao quát như quy
định của CISG vì nó phải quy định thỏa thuận trong hợp đồng mà không có biện pháp
áp dụng trực tiếp như CISG.
Như vậy, chỉ khi mỗi bên tham gia ký kết hợp đồng có trụ sở có mối liên hệ
với hợp đồng tại các quốc gia khác nhau.
2. Phạm vi áp dụng của CISG.
2.1 CISG đƣợc áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong
trƣờng hợp nào?
Thứ nhất, nếu trong hợp đồng có điều khoản chọn luật áp dụng dẫn chiếu đến
CISG, thì CISG sẽ được áp dụng. Vì hợp đồng luôn đề cao nguyên tắc thỏa thuận tự
do của các bên chính vì vậy mà các cơ quan tài phán hoàn toàn tôn trọng quyền tự do
này. Bởi vậy các bên trong HĐMBHHQT tự do lựa chọn CISG là luât điều chỉnh hợp
đồng mua bán của họ.
Thứ hai, nếu các bên tham gia hợp đồng không thỏa thuận rõ ràng hoặc thỏa
thuận ngầm về việc coi luật áp dụng cho hợp đồng là CISG, thì lúc đó CISG sẽ được
áp dụng theo khoản 1 (a) Điều 1. Với điều khoản này thì khi các bên tham gia kí kết
HĐ không dẫn chiếu đến quy phạm tư pháp quốc tế nào thì CISG sẽ tự động được áp
dụng với điều kiện hai bên kí kết có trụ sở tại quốc gia là thành viên CISG.
Thứ ba, hai bên tham gia không phải cả hai là thành viên của Công ước, ký kết
hợp đồng có thỏa thuận áp dụng một số tập quán quốc tế như Incoterm và UCP của
ICC, nhưng không có thỏa thuận luật áp dụng. Khi vụ việc được đưa ra cơ quan giải
quyết tranh chấp tại nước thành viên của Công ước. Với trường hợp này trọng tài nhận
định việc dẫn chiếu đến Incoterm, UCP cho thấy ý định của các bên là hợp đồng sẽ
được điều chỉnh bởi các tập quán thương mại quốc tế. Mà Công ước Viên được soạn
thảo dựa trên các tập quán quốc tế và phản ánh các tập quán quốc tế thường được áp
dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế. Ví dụ như Phán quyết trọng tài ICC số 8502
tháng 11/1996 giải quyết tranh chấp giữa người bán Việt Nam và người mua Pháp. Hai
9
bên đã thỏa thuận áp dụng Incoterms 1990 và UCP 500 của ICC. Trọng tài đã quyết
định áp dụng Công ước Viên3.
Như vậy, với trường hợp hai bên tham gia ký kết hợp đồng không cùng là
thành viên của Công ước nhưng các bên lại thỏa thuận những tập quán quốc tế mang
tầm ảnh hưởng đến CISG thì việc cơ quan giải quyết tranh chấp tại quốc gia là thành
viên của CISG thường áp dụng CISG để giải quyết. Bởi lẽ, các bên đã thông hiểu và
áp dụng những tập quán – cơ sở để hình thành lên Công ước. Chính bởi lý do này mà
CISG ngày càng được phổ biến ngay cả với những quốc gia không phải là thành viên
của Công ước.
2.2 CISG không đƣợc áp dụng trong các trƣờng hợp sau.
Ngay cả khi tuân thủ các điều kiện như phần 2.1, thì CISG cũng loại trừ do
những lý do đã được bình luận ở phần 1.
Thứ nhất, không được áp dụng CISG để điều chỉnh một số giao dịch liên quan
đến quy định của Điều 2, từ (a) đến (d) – mua bán hàng hóa tiêu dùng, hàng bán đấu
giá, hoặc nhằm thực thi pháp luật hoặc quyền lực khác theo luật, và mua bán chứng
khoán.
Thứ hai, không được dùng CISG để điều chỉnh một số giao dịch liên quan đến
những mặt hàng hóa theo quy định tại Điều 2 từ (e) đến (f) và Điều 3 – tàu thủy, máy
bay, điện, bất động sản; và các hợp đồng trong đó có phần nghĩa vụ về dịch vụ và công
việc chiếm phần lớn.
Thứ ba, không áp dụng CISG để điều chỉnh một số vấn đề quy định tại Điều 4
và Điều 5 – tính hiệu lực của hợp đồng, sự tác động có thể phát sinhtừ hợp đồng đối
với quyền sở hữu hàng hóa đối tượng của hợp đồng mua bán, trách nhiệm của người
bán đối với thiệt hại mà hàng hóa gây ra cho bất kì người nào.
2.3 Những lƣu ý cần phải biết.
Tuân thủ các quy định như trên để đảm bảo rằng chắc chắn CISG đã điều
chỉnh hợp đồng đã kí kết. Tuy nhiên, cần phải lưu ý một số vấn đề sau.
3 Xem phán quyết tại http://www.unilex.info/case.cfm?pid=1&do=case&id=395&step=FullText ,truy cập
ngày 15/02/2014.
10
- Ngoài việc tìm hiểu xem những quốc gia nào là thành viên của CISG4
thì khi áp dụng CISG vào trong một hợp đồng cụ thể cần phải biết xem quốc gia đó
bảo lưu điều khoản nào của công ước.
- Không phải quốc gia nào là thành viên của Công ước Viên 1980 thì cũng
áp dụng CISG là như nhau. Ngay tại Công ước thì cũng nhận thấy được một số quy
định cho phép quốc gia quyền bảo lưu những điều khoản nhất định nhằm phù hợp với
pháp luật trong nước với điều kiện tuân thủ điều 12 CISG ( điều 6 CISG). Nguyên tắc
cuả hợp đồng là tự do thỏa thuận giữa các bên và điều 6 đã thể hiện sự khẳng định
mạnh mẽ của nguyên tắc này khi cho phép các bên có quyền loại trừ việc áp dụng
CISG.
- Trong điểm b, khoản 1, điều 1 và điều 95 cho phép quốc gia bảo lưu, vì
quy định của nó nhằm lật đổ pháp luật hợp đồng trong nước. Đối với một số nước có
nền pháp luật hiện đại như Mỹ, Anh thì điểm b, khoản 1 điều 1 như là một sự cố gắng
đạp đổ nền pháp luật hợp đồng quốc gia. Chính vì thế khi xác định quy tắc tư pháp
quốc tế mà dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của một quốc gia là thành viên của Công
ước là hoàn toàn không có giá trị khi họ đã bảo lưu điểm b, khoản 1, điều 1 này.
Ngoài việc bảo lưu của quốc gia thì mỗi bên khi tham gia kí kết hợp đồng
cũng có quyền sửa đổi hoặc đình chỉ các điều 1, điều 29 và phần thứ hai của Công ước
(điều 12 CISG). Bởi vậy xem xét yếu tố bảo lưu là một cách khôn ngoan và thận trọng
cho thành công của hợp đồng. Đó chính là vấn đề liên quan đến sự tự chủ của các bên,
liệu rằng các bên có thể lựa chọn CISG trong những trường hợp không được dự tính
bởi Điều 1. Tuy nhiên, trong kinh doanh nó phức tạp hơn pháp luật rất nhiều, và không
khó để nghĩ rằng doanh nhân hai nước không có nhu cầu sử dụng CISG để họ có thể tự
ý thỏa thuận với nhau cho phù hợp với điều kiện của mỗi bên về pháp luật cũng như về
vị thế kinh doanh. Nhưng CISG cũng là một ―tác phẩm‖ mang nhiều ưu điểm cho
nhiều đối tượng doanh nhân khác nhau, đồng thời tính dự báo của nó cũng rất rộng nên
những vấn đề lo ngại về khả năng áp dụng của nó không là vấn đề lớn để có thể sử
dụng nó.
4 Xem phụ lục 1: Danh sách các quốc gia là thành viên của Công ước Viên 1980.
11
3. Các quy định chung.
3.1 Nguyên tắc thiện chí trong giao kết, thực hiện hợp đồng và giải quyết
tranh chấp.
Công ước đạt được tầm cỡ rộng rãi – tính quốc tế thì nó cần phải có những
chuẩn mực nhất định mà các bên phải tuân thủ, chấp hành một cách làm sao để các bên
đạt được lợi ích nhiều nhất. Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào cũng là tinh thần
hợp tác, mà nhiều khi lại là vì lợi ích mà sẵn sàng vi phạm sự thỏa thuận. Chính vì vậy
mà CISG đã đưa yếu tố thiện chí và thống nhất lên mực cao nhất cho việc giải thích
Công ước. Tính thống nhất và thiện chí hoàn toàn bổ sung cho nhau, các nhà lập pháp
đã tính đến việc giải thích ngầm của các tòa án mỗi quốc gia sẽ dựa vào yếu tố văn
hóa, hệ thống pháp luật mà làm cho việc áp dụng trở nên không thống nhất với các tòa
án nơi khác. Nếu sự thiện chí là mềm mỏng để giải thích cho pháp luật thì tính thống
nhất buộc các bên phải tuân thủ nghiêm ngặt thực tại để có thể giải thích nó phù hợp
nhất, chứ không phải chỉ thiện chí không mà bỏ qua tính thống nhất đó có được chấp
nhận rộng rãi hay không.
Tòa án, trọng tài có thể thông qua cách giải thích linh hoạt (ví dụ như thời gian
trả lời đề nghị bao lâu là hợp lý, cân nhắc tiền lệ giao dịch của các bên để áp đặt trách
nhiệm cảnh báo của bên bán, chấp nhận thông tin bằng văn bản hay băng miệng) để
xác định thời điểm hợp đồng được hình thành cũng như đề nghị của bên nào mang giá
trị ràng buộc. Họ được phép dùng nguyên tắc thiện chí để ngăn cản các ý đồ xấu, bất
hợp tác của các bên khiến tình hình trở nên ngày càng xấu, đó là một biện pháp ngăn
chặn sự vượt quá giới hạn làm ảnh hưởng đến sự phát triển thương mại
Hơn nữa, cũng chính vì tính quốc tế nên có rất nhiều sự kiện không thể dự
đoán được mà Công ước để phần yếu tố thiện chí cho các bên xử sự với nhau, và sau
cùng nó được cơ quan giải quyết tranh chấp sử dụng đến để giải quyết vụ việc sao cho
hợp lý nhất có thể. Một nguyên tắc có lợi cả về mặt áp dụng hợp đồng lẫn việc giải
quyết tranh chấp, chính vì thế mà cần phải hiểu và tôn trọng nguyên tắc này, để có
những ứng xử phù hợp trong ngoại thương.
Nguyên tắc thiện chí này đòi hỏi các bên tham gia ký kết cũng như thực hiện
cần phải đưa lợi ích của bên kia lên chứ không chỉ xử sự cho riêng phần mình những
lợi thế. Ranh giới giữa thiện chí và vi phạm là rất mỏng manh, và các luật sư, tòa án và
trọng tài đều có thể dựa vào nó đê giải thích. Chính vì thế mà những hành vi của bên
12
kia làm tổn hại không tốt tới mục đích của hợp đồng thì đó cũng là một trong những
bằng chứng buộc họ phải nhận trách nhiệm bất lợi.
Ví dụ trong tranh chấp về sửa đổi giá trong hợp đồng5.
Trọng tài đã đưa ra thuyết về sự kiện không lường trước phát sinh và trong
những trường hợp như vậy sẽ áp dụng những nguyên tắc cao hơn, đó là nguyên tắc
thiện chí. Hội đồng trọng tài không chỉ quy định các bên phải hoàn thành nghĩa vụ của
mình phù hợp với nguyên tắc thiện chí mà còn cấm lạm dụng luật.
Trong khoản 2 Điều 7 cũng chỉ ra rằng nếu CISG không quy định rõ ràng thì
sẽ được giải quyết theo các nguyên tắc chung, mà từ đó Công ước được hình thành
hoặc nếu không có các nguyên tắc này thì theo luật được áp dụng các quy phạm của tư
pháp quốc tế6. Với những quan điểm của CISG thì những yếu tố, nguồn bổ trợ trong tư
pháp quốc tế hoàn toàn có thể được đưa ra để giải thích, xử lý các vụ tranh chấp. Hơn
thế nữa cơ quan tài phán hoàn toàn được quyền áp dụng những nguyên tắc chung nhất
của việc hình thành lên Công ước – thúc đẩy sự phát triển thương mại quốc tế. Chính
vì thế mà nguyên tắc thiện chí sẽ vô cùng quan trọng cho các bên linh hoạt xử sự các
hành vi của mình cho phù hợp với thực tiễn chứ không chỉ dừng lại là việc áp dụng
một cách máy móc các quy định pháp luật.
3.2 Cách giải thích các tuyên bố và xử sự.
- Nếu bên kia đã biết hoặc không thể không biết về ý định về một vấn đề,
thì tuyên bố và xử sự khác sẽ được diễn giải theo ý định của họ7.
Như vậy chỉ được phép giải thích cách xử sự khác biệt – chưa từng có sử dụng
trong quan hệ hợp đồng của hai bên, khi bên kia đã trực tiếp hoặc gián tiếp biết đến
mục đích của xử sự đó liên quan đến mục đích chung của hợp đồng cũng như với mục
đích của CISG.
- Trong trường hợp cả hai bên không xác định được việc biết hay không
thể không biết đến mục đích của bên kia thì sẽ được giả thích theo nghĩa mà một người
5 Phán quyết số 38, 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc. VÍAC. Hà Nội, 2002: Trong phần trình bày
vụ việc là theo quan điểm riêng của tác giả. 6 Điều 7 CISG.
7 Khoản 1, Điều 8 CISG.
13
thường có cùng phẩm chất với bên kia được đặt trong hoàn cảnh tương tự cũng sẽ hiểu
như thế8.
Vấn đề xác định bên kia hiểu như thế nào lại được cơ quan tài phán quyết định
thông qua việc chứng minh của bên kia. Tuy nhiên, trong trường hợp này cũng khó
tránh khỏi bên giải thích dựa vào một bên có quan hệ tốt để đạt được mục đích của
mình, vấn đề người cùng phẩm chất tương tự cũng khó xác định vì không phải chủ thể
nào cũng có cách xử lý vấn đề như nhau. Có trường hợp không thể tìm được quan
điểm chung hay vì mục đích riêng mà xử sự khác đi rồi nhắm đến mục giải thích theo
hướng có lợi cho mình. Yếu tố này cần sự công bằng và vô cùng sáng suốt của cơ quan
tài phán mới đưa ra quyết định vô tư và chính xác. Bởi vậy, mà việc thiện chí và thống
nhất một lần nữa lại có tác dụng trong trường hợp này nhằm giữ cho các hành xử của
các bên được phù hợp với các nguyên tắc chung của quốc tế.
- Khi xác định ý kiến của một bên hoặc cách hiểu của một người bình
thường, ngoài ý kiến chủ quan của các bên ra thì CISG cũng đã tính đến các tình tiết
liên quan đến hành vi, thói quen hay những tập quán đã được thỏa thuận trước đó hay
đã thực hiện trước đó để giải thích – quá trình đàm phán, thói quen các bên, mọi hành
vi có mối liên hệ với nhau đều có thể được đem ra giải thích9.
Các hành vi của các bên đều sẽ liên quan đến mục đích của mình, mục đích
của hợp đồng. Vì thế mà mọi hành vi này sẽ được bên kia hiểu theo nghĩa bình thường.
Tuy nhiên, trong trường hợp cố tình hiểu sai cũng sẽ không thể có tác dụng khi hành vi
liên quan sau đó của họ lại mâu thuẫn với việc họ giải thích, theo các nguyên tắc phổ
biến của thương mại quốc tế thì việc cấm tự mâu thuẫn là bắt buộc10
, mà việc dựa vào
nguyên tắc chung của thương mại quốc tế hoàn toàn được công nhận nếu CISG không
quy định rõ ràng như khoản 2 Điều 7 đã quy định.
Chính vì vậy mà thói quen trong quan hệ kinh doanh của hai bên cũng là một
trong những bằng chứng để giải thích cách tuyên bố và xử sự của mình. Bởi lẽ, các
thói quen là nhằm mục đích cho sự hợp tác lâu dài của các bên, và điều đó là thúc đẩy
sự phát triển thương mại. Thói quen và các tập quán chung đều ràng buộc các bên
trong việc thực hiện hành vi của mình.
8 Khoản 2, Điều 8 CISG.
9 Khoản 3, Điều 8 CISG và khoản 1 Điều 9 CISG.
10 Điều 2.2.2 UNIDROIT – Bộ Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế.
14
- Những ngụ ý áp dụng những tập quán mà họ đã biết hoặc cần phải biết –
những tập quán có tính chất phổ biến trong thương mại quốc tế hoặc được các bên áp
dụng một cách thường xuyên đối với hợp đồng cùng chủng loại trong lĩnh vực buôn
bán hữu quan để điều chỉnh giao kết hay thực hiện hợp đồng đó11
.
Vấn đề sẽ thường xuyên xảy ra xung đột khi một bên đã đưa ra thông báo, xử
sự của mình có liên quan đến những thói quen của hai bên hay đó là những tập quán
chung cho khu vực hoặc quốc tế. Thì bên được thông báo phải có nhiệm vụ tìm hiểu
bằng mọi cách ngay cả với cách hỏi cặn kẽ để cho phù hợp với trường hợp của mình.
Nếu bên được thông báo không hiểu trong trường hợp của mình, nhưng thực tế lại xảy
ra nhiều trong thương mại quốc tế thì đó lại là nghĩa vụ của bên được thông báo. Vì
cẩu thả mà không tìm hiểu rất có thể lại là một yếu tố bất lợi khi xảy ra tranh chấp.
CISG muốn hướng các bên xử sự với nhau một cách thông thường và tương trợ lẫn
nhau chứ không phải là chỉ bắt bẻ những lỗi cơ bản. VÌ mục đích cuối cùng là để đảm
bảo tính an toàn cho HĐMBHHQT. Một sự việc cần phải được hiểu theo hướng tích
cực cho cả hai bên chứ không chỉ dành cho bên nào cả. Nếu không rõ ràng thì phải tìm
hiểu, và thông báo cho bên kia về vấn đề cần giả quyết đó, khi đấy thì mới có thể viện
dẫn cho sự thiện chí của mình.
3.3 Bằng chứng theo CISG.
Từ các quy đinh cảu Điều 8, Điều 9 thì bất cứ gì cũng có thể được đem ra
chứng minh cho việc xử sự khác của mình. Nó bắt nguồn từ nguyên tắc thiện chí,
nhằm đảm bảo cho việc hợp tác của các bên được thuận lợi hơn. Chính điều này đã
khiến khoảng cách về vị thế, tiềm lực kinh tế, sức ảnh hưởng hay từ các quốc gia lớn
được thu hẹp hơn. Mọi lời nói, mọi thói quen, mối quan hệ trước đó, sự trao đổi qua lại
đều được hiểu là những hành vi ràng buộc và làm cho bên kia hiểu theo cách hiểu
thông thường nhất. Trên thực tế các thẩm phán, trọng tài và luật sư vẫn chưa thống
nhất cách giải thích của Điều 7 về nguyên tắc thiện chí và áp dụng những nguyên tắc
của tư pháp quốc tế12
.
3.4 Vấn đề về các bảo lƣu.
11 Khoản 2 Điều 9 CISG.
12Xem bài viết: The CISG—Successes and Pitfalls, Tạp chí luật so sánh Hoa Kỳ số 57 năm 2009, trang
457-478. http://comparativelaw.metapress.com/content/6444g20345133809/ Địa chỉ truy cập ngày 15/02/2014.
15
Theo Điều 99 Công ước thì các nước tham gia hay gia nhập Công ước này
không có quyền đưa ra các bảo lưu riêng và nếu có bảo lưu thì chỉ bảo lưu trong các
trường hợp mà Công ước cho phép.
Cụ thể, CISG cho phép các quốc gia thành viên thực hiện một số bảo lưu sau:
- Bảo lưu phần thứ hai hay phần thứ ba của CISG (Bảo lưu theo Điều 92):
Bảo lưu này cho phép một quốc gia thành viên không áp dụng CISG cho vấn đề thiết
lập hợp đồng (phần thứ hai của CISG) hoặc thực hiện hợp đồng (phần thứ ba của
CISG). Việc đưa ra bảo lưu này nhằm mục đích dành cho các quốc gia là thành viên
của hai Công ước La Haye năm 1964 về mua bán quốc tế các động sản hữu hình quyền
quyết định việc từ bỏ một trong hai Công ước nói trên và tham gia vào CISG.
- Bảo lưu chỉ áp dụng CISG trên một số phần lãnh thổ của quốc gia thành
viên (Bảo lưu theo điều 93). Bảo lưu được thiết kế chủ yếu dành cho các quốc gia liên
bang (với các khu vực lãnh thổ tương đối độc lập với nhau). Là quốc gia đơn nhất về
hành chính và kinh tế, Việt Nam không cần thực hiện bảo lưu này.
- Bảo lưu không áp dụng CISG đối với các quốc gia đã có luật chung
thống nhất về mua bán hàng hóa quốc tế (bảo lưu theo điều 95).
Hiện tại với hệ thống pháp luật của Việt Nam thì theo các chuyên gia chỉ nên
bảo lưu về hình thức của hợp đồng để phù hợp với Điều 27 Luật Thương mại 200513
.
13 Xem VCCI, Báo cáo nghiên cứu: Đề xuất Việt Nam gia nhập Công ước Viên về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, 2010.
16
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CỦA CISG.
I. KÍ KẾT HỢP ĐỒNG.
1. Ký kết hợp đồng.
Để đáp ứng nhu cầu ký kết hợp đồng xuyên quốc gia – tính chất quốc tế, CISG
đã đề cập đến các hình thức phổ biến. Đó là ký kết hợp đồng giữa các bên có mặt –
trực tiếp tham gia ký vào hợp đồng trong một thời điểm được hai bên ấn định (mọi
thỏa thuận có thể được đàm phán trước đó hoặc ngay khi đó), và ký kết hợp đồng giữa
các bên vắng mặt.
Ký kết hợp đồng giữa các bên vắng mặt là hình thức ký kết mà các bên không
nhất thiết phải gặp mặt nhau tại một địa điểm trong một thời điểm nhất định. Theo
hình thức này các bên có thể thông qua các phương tiện thông tin liên lạc để bày tỏ ý
định của mình nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên đối với nhau. Trình tự ký
kết hợp đồng giữa các bên vắng mặt được tiến hành thông qua chào hàng và chấp nhận
chào hàng.
CISG đã quy định cụ thể đến trình tự chào hàng và chấp nhận chào hàng một
cách cụ thể.
CISG cũng đề cập đến các hình thức của hợp đồng, thế nào là văn bản cũng
được chỉ ra rất rõ.
1.1 Các loại hình thức hợp đồng.
Hình thức của hợp đồng là dạng vật chất nhất định chứa đựng những điều thỏa
thuận của các bên chủ thể14
. Theo quy định của CISG thì hợp đồng không cần phải
tuân thủ theo bất cứ yêu cầu nào về hình thức. Hợp đồng có thể được chứng minh với
bất cứ cách nào, kể cả nhân chứng15
. Như vậy, các dạng để biểu hiện sự thỏa thuận
mua bán của các bên rất là đa dạng : Có thể giao kết hợp đồng bằng lời nói, bằng văn
bản, bằng hành vi chấp thuận.
Tuy nhiên, tại Điều 96 của Công ước quy định nếu luật một quốc gia thành
viên nào quy định hợp đồng, chào hàng hoặc chấp nhận chào hàng phải được kí kết
14 Giáo trình luật thương mại quốc tế, Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND, 2012. Trang 243.
15 Xem Điều 11 CISG.
17
dưới hình thức văn bản mới có giá trị thì quy định này phải được tôn trọng ngay cả khi
một bên có trụ sở tại quốc gia này nếu quốc gia đó bảo lưu điều 11, 12, 29.
Chính vì vậy trước khi ký kết hợp đồng các bên nên xem xét việc gia nhập
CISG của quốc gia mà có nơi trụ sở kinh doanh đang là đối tác của mình, việc họ gia
nhập CISG như thế nào, có bảo lưu điều khoản nào không. Để tránh việc hợp đồng bị
vô hiệu về mặt hình thức theo quy định tại luật quốc gia đó.
Về mặt hình thức hợp đồng thì CISG không yêu cầu về bất cứ hình thức nào,
tuy nhiên việc sửa đổi, bổ sung hay chấm dứt hợp đồng thì phải tuân thủ theo những
nguyên tắc nhất định.
1.2 Hình thức việc sửa đổi hợp đồng.
Mặc dù CISG luôn tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên. Khoản 1 Điều 29
duy định rằng « một hợp đồng có thể được sửa đổi hay chấm dứt bằng thỏa thuận đơn
thuần giữa các bên ». Nhưng trong những trường hợp hai bên không thể thỏa thuận
với nhau được thì lúc này lại phải xem hợp đồng có chứa đựng những quy định về việc
sửa đổi không, khi đã có quy định trong hợp đồng thì không được làm trái16
. Tuy
nhiên, hành vi của mỗi bên có thể không cho phép họ được viện dẫn điều khoản này,
nếu bên kia đã có hành động căn cứ vào hành vi ấy. Mục đích của Khoản 2 Điều 29 là
nhằm loại bỏ sự gian lận trong việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng.
Ví dụ :Một lời chào hàng của người mua đến người bán sản xuất 10.000 sản
phẩm theo thông số kĩ thuật của bên mua đặt ra và được quy định trong hợp đồng.
Hợp đồng có nêu rõ « hợp đồng này chỉ có thể được sửa đổi bởi một văn bản có chữ kí
của hai bên ». Trước khi bắt đầu sản xuất, các bên đã thống nhất qua điện thoại thay
đổi thông số kĩ thuật. Người bán đã cung cấp 2000 sản phẩm theo thông số mới, người
mua không chấp nhận các sản phẩm khác không phù hơp với thông số kĩ thuật trong
hợp đồng văn bản.
Trong ví dụ trên chúng ta thấy, thỏa thuận sửa đổi bằng miệng tự nó không có
giá trị pháp lý. Tuy nhiên, thỏa thuận bằng miệng của người mua có thể được xây
dựng nên để tạo nên một gợi ý mới hay một sự hướng dẫn cho bên bán, theo khoản 2
điều 29 thì hành vi này của bên mua đã gây việc cố ý hiểu sai cho bên bán. Người mua
chỉ được loại trừ hành vi của mình trong phạm vi sự phụ thuộc của các sản phẩm mới
16 Xem khoản 2 ĐIều 29 CISG.
18
có khác biệt rõ rệt với sản phẩm có thông số ban đầu. Vì hành vi thỏa thuận miệng của
họ đã làm họ không được quyền dẫn chiếu đến điều này17
.
Như vậy, việc sửa đổi hay bổ sung hợp đồng phải tuân thủ những quy định mà
các bên đã thỏa thuận với nhau, tuy nhiên hành vi của bên này mà làm ảnh hưởng xấu
tới sự thỏa thuận trước đó thì hành vi đó phải chịu trách nhiệm, nó có thể dẫn đến việc
không được viện dẫn theo khoản 2 Điều 29 này.
Theo Điều 6 thì các bên có thể loại bỏ bất cứ điều luật nào, như vậy phạm vi
của điều 29 sẽ được các bên thu hẹp lại thông qua việc loại trừ nó.
Theo điều 13 của Công ước thì văn bản là hình thức có thể lưu trữ được thông
tin như : điện báo, thư, telex. Những hình thức này đều được coi là văn bản, có những
trường hợp về việc thông báo việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng phải thực hiện bằng văn
bản. Nó không giống như hình thức hợp đồng là bất ký hình thức nào, việc này nhằm
thể hiện sự rõ ràng sau khi đã phải chỉnh sửa những khiếm khuyết trước đó.
2. Chào hàng có hiệu lực.
2.1 Về nội dung chào hàng.
Chào hàng hành vi đề nghị của một chủ thể đã thể hiện ý chí của mình cho
nhiều người hoặc một người về việc ký kết hợp đồng, và sẵn sàng chịu mọi sự ràng
buộc của mình vào ý chí đó18
.
Một đề nghị chào hàng được coi là đầy đủ và chính xác – có hiệu lực khi nó
được nêu rõ về thông tin hàng hóa, số lượng hàng hóa, giá cả một cách trực tiếp hoặc
gián tiêp của hàng hóa hoặc những cơ sở để xác định những yếu tố này.
Tại điều 14 nhắc đến đề nghị phải ấn định giá một cách gián tiếp hoặc trực tiếp
thì mới thành một đề nghị có hiệu lực pháp lý, tức là phải rõ ràng về tất cả những yếu
tố trong khoản 1 điều này. Tuy nhiên tại Điều 55 CISG lại quy định về trường hợp HĐ
được kí kết hợp pháp nhưng không có ấn định giá thì các bên được phép suy đoán rằng
« giá sẽ được ấn định cho loại hàng hóa này khi được đem bán trong điều kiện tương
tự của nghành buôn bán hứu quan ». Phải chăng hai điều khoản này trái ngược nhau,
Điều 14 quy định đề nghị giao kết hợp đồng phải được ấn định giá, còn Điều 55 lại
quy định trong trường hợp hợp đồng được ký kết "validly concluded" – tạm dịch là
17 Bình luận điều 29 của Giáo sư John O. Honnold (Hoa kỳ): Địa chỉ truy cập 12/02/2014
http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/ho29.html 18
Khoản 1 Điều 14 CISG.
19
bản ký kết đúng pháp luật nhưng không ấn định giá thì được quyền suy đoán. Phải
chăng hai điều luật này trái ngược nhau, Điều 14 chỉ ra rằng phải có quy định giá ít
nhất là ngầm định thì đề nghị hợp đồng mới có hiệu lực, còn Điều 55 chỉ ra rằng hợp
đồng được ký hợp đồng đúng theo quy định nhưng không ấn định giá thì được suy
đoán. Theo giáo sư J. Honnold thì trong nghệ thuật kinh doanh việc không ghi giá
không có nghĩa là không có tính xác định giá19
. Như vậy, việc xác định giá theo Điều
14 hay theo Điều 55 lại một lần nữa được các bên, tòa án và trọng tài xác định dựa trên
các tình tiết có liên quan. Vấn đề về sự vô hiệu của hợp đồng nếu xác định giá theo
điều 14 hoàn toàn có thể xảy ra nếu tòa án của quốc gia hay trọng tài chỉ dựa vào các
yếu tố pháp lý để phán quyết và khi hiểu điều 55 theo nghĩa hẹp. Tuy nhiên, hầu hết
các phán quyết đều không áp dụng Điều 55, với lý do giá được chứng minh qua ý định
của bên mua, bên bán tại thời điểm ký hợp đồng20
. Vì vậy, giá thường được tính giá
theo hàng hóa có liên quan tại thời điểm ký hợp đồng. Trên thực tế do sự biến động giá
của thị trường nên các bên có thể lợi dụng sự linh hoạt của Công ước mà bỏ mặc điều
khoản giá sẽ trở nên rất tai hại vì nó bị kẹt giữa hai điều luật có vẻ mâu thuẫn này.
Chính vì vậy để tránh rủi ro về mặt pháp lý các bên cần ngầm định xác định giá, có thể
không cụ thể nhưng đủ để chứng minh rằng đã có sự ngầm định này.
2.2 Cách thức tiến hành.
Khi nội dung của chào hàng đã đủ các yếu tố được quy định bắt buộc thì chào
hàng phải tới nơi người được chào hàng thì nó mới có hiệu lực ràng buộc bên chào
hàng (theo quy định tại khoản 1 Điều 18). Trong trường hợp, đề nghị gửi đi cho nhiều
người không xác định thì đó chỉ được coi như một lời giới thiệu về chào hàng chứ
không phải là một chào hàng có giá trị pháp lý, trừ khi người gửi chào hàng tuyên bố
đó là chào hàng thật sự21
. Khi chào hàng đã tới tay ngừoi được chào hàng thì chào
hàng không thể hủy trong các trường hợp như đã nêu rõ, bằng cách ấn định một thời
19 Xem J. Honnold, Uniform Law for International Sales Under the 1980 United Nations Convention,
1999, trang 163-164 : Địa chỉ tài liệu, truy cập ngày 12/02/2014.
http://books.google.com.vn/books/about/Uniform_Law_for_International_Sales_Unde.html?id=8q2t8N9-
we4C&redir_esc=y 20
Xem Bài tóm tắt các án lệ liên quan đến Điều 14, được xuất bản dưới sự cho phép của UNCITRAL
(2012 UNCITRAL Digest of case law on the United Nations Convention on the International Sale of Goods,
Digest of Article 14 case law). Địa chỉ truy cập, ngày 13/03/2014: http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/text/digest-
2012-14.html (trong bản tóm tắt đó có chứa nhiều án lệ liên quan đến Điều 14 và Điều 55)
21 Xem khoản 2 Điều 14 và khoản 1 Điều 15 CISG.
20
gian xác định rằng nó không bị hủy, hoặc thực tế mà ngừoi nhận chào hàng đã thực
hiện hành vi theo chiều hướng mà chấp nhận chào hàng.
Như vậy, chào hàng sẽ không có giá trị pháp lý trong trường hợp
+ Chào hàng không tới tay người được chào hàng. Vì vậy, lý do sai địa chỉ
làm chào hàng không thể tới tay người được chào hàng thì chào hàng đó sẽ không có
giá trị ràng buộc người chào hàng.
+ Trước khi hoặc cùng lúc chào hàng tới tay ngừoi được chào hàng mà thông
báo thu hồi hay hủy bỏ chào hàng đã đến với ngừoi được chào hàng22
.
+ Người chào hàng nhận được thông báo việc từ chối chấp nhận chào hàng
của người được chào hàng ( Điều 17).
Chú ý : Thông báo hủy chào hàng khi chào hàng đã tới tay người được chào
hàng trước khi họ chấp nhận chỉ có hiệu lực đối với loại chào hàng có thể hủy. Chào
hàng có thể bị hủy tức là bên nhận chào hàng chưa có một hành vi nào dẫn đến việc
thực hiện hợp đồng, nếu họ đã có hành vi và chứng minh được hành vi đó là thuận
theo lời chào hàng thì bên chào hàng phải chịu sự ràng buộc đối với chào hàng của
mình và không thể thông báo hủy bỏ. Việc thông báo hủy bỏ có hiệu lực khi chào hàng
tới tay người được chào hàng, mà ngừoi được chào hàng không có hành vi nào để thực
hiện chào hàng đó23
.
3. Chấp nhận chào hàng có hiệu lực.
3.1 Khái niệm về chấp nhận chào hàng.
Chấp nhận chào hàng la sự thể hiện ý chí đồng ý của người được chào hàng
với những đề nghị của người chào hàng.
Chấp nhận chào hàng sẽ có hiệu lực khi người chào hàng nhận biết được sự
chấp nhận của người được chào hàng.
Theo Điều 18 CISG, sự thể hiện ý chí đồng ý của người được chào hàng chỉ
có giá trị pháp lý khi nó được thể hiện bằng lời tuyên bố hoặc bằng một hành vi biểu
thị một sự đồng ý của mình đối với nội dung của chào hàng. Mặc dù bên được chào
hàng không đưa ra một tuyên bố, nhưng trên thực tế đã đã có một hành vi cụ thể như
là : gửi hàng, trả tiền, mua bảo hiểm hàng hóa, lập chứng từ thanh toán… thì đó được
22 Xem khoản 2 Điều 18 CISG.
23 Xem Vấn đề chào hàng, Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Đại học luật HN, NXB CAND, 2012.
Trang 247.
21
coi là đã có hành vi chấp nhận chào hàng. Bất cứ những hành vi cấu thành nên việc
chấp nhận chào hàng đều sẽ là cơ sở đề ràng buộc họ đối với chào hàng đó.
Đối với những chào hàng bằng lời nói thì phải được chấp nhận ngay thì mới
có hiệu lực. Ở đây CISG muốn khẳng định việc thói quen của các bên đã được hình
thành thì cần phải tôn trọng nhau, thúc đẩy sự thiện chí hợp tác. Vì khi đã là bạn hàng
những quan hệ trước đó cũng đã được ghi nhận như những chứng từ quan trọng nên
việc chấp nhận ngay khi một bên đưa ra đề nghị chào hàng bằng lời nói. Trừ trường
hợp trong đề nghị chào hàng bằng lời nói đó đã ngăn chặn việc chấp nhận ngay lập
tức, thì nó sẽ có hiệu lực khi bên được chào hàng chấp nhận vào một thời điểm khác.
CISG cũng quy định rằng sự im lặng hoặc việc không có hành vi liên quan đến
nội dung chào hàng thì sẽ không mặc nhiên được hiểu là đã chấp nhận. Sự im lặng
không mặc nhiên thể hiện được bất cứ ý chí nào của các bên, bởi vậy nó không tự
mình có hiệu lực hay ràng buộc bên nào cả.
3.2 Cách thức chấp nhận chào hàng.
Theo khoản 2 Điều 18, châp nhận chào hàng chỉ có giá trị pháp lý khi nó được
gửi tới tay người chào hàng. Và nó phải thỏa mãn các điều kiện sau.
+ Chấp nhận phải được gửi cho người chào hàng trong thời hạn đã ghi trong
chào hàng hoặc trong thời gian hợp lý (khoản 2 Điều 18).
Khoảng thời gian hợp lý chỉ có hiệu lực khi chào hàng không quy định một
thời gian cụ thể. Thời gian hợp lý được dựa vào các yếu tố hoàn cảnh như : tốc độ của
các phương tiện để giao dịch, hàng hóa có tính chất đặc biệt, thời vụ, thị trường… nói
chung thời gian hợp lý cho phép bên chấp nhận và bên chào hàng đủ để hai bên thực
hiện hợp đồng. Trên thực tế, các tình tiết trong giao dịch sẽ nói lên việc trả lời trong
thời gian như thế nào là phù hợp cho cả hai bên và nó sẽ được bên kia chứng minh.
Cách tính thời hạn để chấp nhận chào hàng được người chào hàng quy định
trong điện tín hay thư được xác định bằng ngày ghi trên thư hoặc ngày bưu điện đóng
dấu trên phong thư hoặc kể từ ngày bức điện được giao để gửi đi. Các ngày lễ, ngày
nghỉ rơi vào khoảng thời gian được quy định chấp nhận chào hàng sẽ không được trừ
khi tính thời hạn đó. Trừ trường hợp, thông báo chấp nhận được gửi đi nhưng không
22
thể đến địa chỉ người chào hàng vì ngày cuối cùng trong thời hạn là ngày nghỉ, thì thời
hạn chấp nhận chào hàng được kéo dài tời ngày làm việc kế tiếp đầu tiên24
.
Một chào hàng hay chấp nhận chào hàng tới được người nhận thì mới có hiệu
lực - tới được người nhận khi : nếu bằng lời nói thì phải được nói với người chào hàng,
nếu được giao bằng phương tiện khác thì chấp nhận chào hàng phải tới nơi địa chỉ của
người chào hàng ( trụ sở thương mại, địa chỉ bưu chính, nơi thường trú). (Điều 24)
+ Chấp nhận chào hàng phải vô điều kiện ?.
Theo khoản 1 điều 19 CISG thì những bổ sung, bớt đi hay các sửa đổi của
việc chấp nhận chào hàng thì được coi là từ chối chào hàng và đồng thời nó cấu thành
một chào hàng mới. Tuy nhiên, không phải bất cứ bổ sung, bớt đi hay sửa đổi nào
cũng là từ chối chào hàng.
Một số trường hợp mặc dù người được chào hàng không chấp nhận toàn bộ
nội dung chào hàng, mà đưa ra một số điều kiện mới thì việc chấp nhận này có giá trị
như chấp nhận vô điều kiện, khi những điều kiện mới đó không làm thay đổi nội dung
cơ bản của chào hàng. Trừ khi người chào hàng phản đối bằng miệng ngay lập tức, sở
dĩ CISG quy định việc phản đối bằng miệng ngay lập tức là do tính chất của việc
truyền thông điệp bằng lời nói là nhanh nhất, và nó sẽ hạn chế việc đi sâu vào thực
hiện hợp đồng của bên chấp nhận.
Nội dung cơ bản của chào hàng là liên quan đến : điều kiện về giá, cách thức
thanh toán, phẩm chất và số lượng hàng hóa, địa điểm và thời hạn giao hàng, phạm vi
trách nhiệm đến các bên, việc giải quyết tranh chấp25
.
Như vậy, theo Điều 19 thì những chấp nhận chào hàng có hiệu lực khi người
được chào hàng chấp nhận toàn bộ chào hàng hoặc nếu có sửa đổi, bổ sung, bớt đi thì
những yếu tố này không được làm ảnh hưởng đến nội dung cơ bản của hợp đồng như
đã nêu trên.
4. Hủy bỏ chấp nhận chào hàng.
Mặc dù chấp nhận chào hàng đã được gửi đi đúng theo quy định pháp luật,
nhưng nó có thể bị thu hồi. Với điều kiện việc thông báo thu hồi đó phải tới trước hoặc
cùng lúc với thông báo chấp nhận chào hàng (Điều 22).
24 Xem Điều 20 CISG
25 Xem khoản 3 Điều 19 CISG.
23
Quy định tại điều 22 CISG này, được áp dụng trong trường hợp mà trước đó
người được chào hàng đã chấp nhận chào hàng và bày tỏ quan điểm chấp nhận đó
bằng một thông báo chính thức. Nhưng sau đó đã thay đổi ý kiến của mình là không
chấp nhận chào hàng và đã gửi thông báo hủy chấp nhận chào hàng mà họ đã gửi đi.
CISG có quy định về việc chấp chào hàng có thể bằng một hành vi hoặc một
tuyên bố (Điều 18 CISG). Nhưng Điều 22 chỉ đề cập đến việc hủy chấp nhận chào
hàng bằng tuyên bố, còn vấn đề chấp nhận chào hàng bằng một hành vi thì làm thế nào
để hủy bỏ nó? Vấn đề này CISG không có quy định rõ ràng, nhưng nhìn từ câu (b)
khoản 2 Điều 16 thì chào hàng không thể bị hủy nếu một cách hợp lý người nhận coi
chào hàng là không thể hủy được và hành động theo chiều hướng đó. Như vậy, liệu có
trường hợp được áp dụng tương tự đối với việc chấp nhận chào hàng không ? Theo
khoản 1 Điều 7 thì các bên phải ứng xử với nhau một cách thật thiện chí. Xét về yếu tố
thiện chí thì hành vi thể hiện sự chấp nhận này nếu không gây ảnh hưởng đến việc
thực hiện chào hàng của bên chào hàng thì nó có thể được rút bằng một thông báo kịp
thời với một thời gian hợp lý. Tuy nhiên, cũng có thể trong trường hợp này áp dụng
các nguyên tắc chung của pháp luật quốc tế hoặc giải quyết theo quy phạm xung đột
như Khoản 2 điều 7 đã nêu trong trường hợp CISG không rõ ràng.
5. Thời điểm hợp đồng đƣợc ký kết.
Hợp đồng được ký kết trực tiếp tại thời điểm hai bên đều có mặt và cùng kí
vào hợp đồng thì ngay lập tức nó sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với các bên. Với
điều kiện nội dung của hợp đồng và thẩm quyền phải hợp lý26
.
Trong trường hợp ký kết hợp đồng giữa các bên vắng mặt – chào hàng, thì
hợp đồng chính thức phát sinh hiệu lực khi có sự chấp nhận chào hàng theo quy định
của Công ước (Điều 23).
Khi hợp đồng đã phát sinh hiệu lực, thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ đã
thỏa thuận trong hợp đồng, trong chào hàng trước đó. Việc chấp nhận chào hàng cũng
giống như việc ký trực tiếp vào hợp đồng, vì bản thân hành vi này tự nó xác lập các
ràng buộc của mỗi bên, nó là một sự đồng ý cho một bản dự thảo hợp đồng.
26 Về vấn đề thẩm quyền ký kết hợp đồng CISG không có quy định. Tuy nhiên, CISG đã để độ mở cho
các vấn đề không được quy định rõ tại Công ước thì được phép sử dụng các quy định của tư pháp quốc tế.
24
II. NGHĨA VỤ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA BÊN BÁN.
Nghĩa vụ của người bán tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Khi hợp đồng không có quy định cụ thể về nghĩa vụ
của người bán thì nghĩa vụ của người bán sẽ được xác định theo luật áp dụng cho hợp
đồng theo sự lựa chọn của các bên hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Điều này có nghĩa là nghĩa vụ của người bán có thể được xác định căn cứ các quy
định của Công ước27
.
Theo quy định của Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế thì nghĩa vụ của người bán là : Giao hàng, giao chứng từ có liên quan đến hàng hóa
và chuyển giao quyền sở hữu về hàng hóa. Các nghĩa vụ này phải thực hiện đúng theo
quy định của hợp đồng và của Công ước này.
1. Nghĩa vụ giao hàng.
Giao hàng được coi là nghĩa vụ cơ bản nhất của người bán trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế. Việc thực hiện các nghĩa vụ khác của người bán đều có liên
quan đến và nhằm mục đích hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho người mua. Khi thực
hiện nghĩa vụ giao hàng đúng đối tượng, đúng chất lượng tại địa điểm và theo thời
gian giao hàng thỏa thuận trong hợp đồng. Với các đặc điểm của giao hàng thì ta có
thể định nghĩa giao hàng như sau :
Giao hàng là một hành vi vật lý mà người bán phải thực hiện để hoàn thành
nghĩa vụ của mình được quy định trong hợp đồng và trong Công ước, nó được thể hiện
qua việc bàn giao cho bên mua mọi thứ liên quan đến hàng hóa.
1.1 Giao hàng đúng địa điểm.
1.1.1 Giao hàng tại địa điểm trong hợp đồng.
Sau khi đã ký kết hợp đồng hợp pháp – hợp đồng có hiệu lực, thì hai bên phải
thực hiện những nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Về phần nghĩa vụ giao hàng
của bên bán thì bên bán phải giao hàng cho bên mua đúng địa điểm mà đã chỉ rõ trong
hợp đồng. Việc xác định địa điểm trong hợp đồng là việc làm tối thiểu phải có của hai
bên và đặc biệt là bên bán. Tuy nhiên, có những trường hợp hai bên không thỏa thuận
địa điểm giao hàng thì CISG cũng đã quy định rõ như sau :
1.1.2 Hợp đồng không quy định địa điểm giao hàng.
27 Giáo trình Pháp luật Kinh doanh quốc tế, Đại học Ngoại Thương HN, NXB Đại học quốc gia Hà Nội,
2012, Trang 224.
25
+ Trường hợp hợp đồng mua bán liên quan đến việc vận chuyển, nguyên tắc
xác định nghĩa vụ giao hàng của người bán là giao hàng cho người chuyên chở đầu
tiên để chuyển giao cho người mua (Mục a, ĐIều 31)
Ở quy định này ta thấy việc chuyển giao hàng hóa cho người vận chuyển đầu
tiên được người mua thuê. Nó có thể là bất cứ phương tiện nào không nhất thiết là
một loại phương tiện xác định.
Các hợp đồng mua bán hang hóa liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa nếu
người bán được yêu cầu hoặc được ủy quyền gửi hàng hóa cho người mua. Ví dụ như
hợp đồng gửi hàng thông qua các điều kiện của INCOTERM . Đó được xác định là
hợp đồng mua bán hàng hóa có liên quan đến việc vận chuyển.
Nếu hợp đồng có quy định về nghĩa vụ của người bán về việc đặt hàng dưới
quyền định đoạt của người mua tại nơi đến. Giống như quy định về việc giao hàng
theo điều kiện FOB, CIF – Incoterm 2010. Như vậy theo hợp đồng nghĩa vụ của người
bán phải đặt hàng trên tàu tại cảng gửi hàng mà nơi đó có phương tiện đầu tiên của
người mua. Đây là trường hợp mà người bán phải vận chuyển từ một điểm nội địa cho
tới cảng bốc hàng, thì mới đảm bảo được hàng hóa dứoi quyền định đoạt của ngừoi
vận chuyển.
1.1.3 Những trƣờng hợp đặc biệt.
- Đối tượng mua bán hàng hóa là hàng đặc định, hàng đồng loại.
Nếu tại thời điểm ký kết hợp đồng, các bên biết rằng hàng hóa đã được sản
xuất tại một địa điểm cụ thể và hợp đồng không yêu cầu hay ủy quyền cho việc vận
chuyển hàng hóa. Thì nghĩa vụ của người bán phải đặt hàng dưới sự định đoạt của bên
mua tại địa điểm sản xuất đó, hay tại địa điểm mà người bán đã giới thiệu về sản phẩm
đó.
Trong trường hợp này cả hai bên phải biết về vị trí cụ thể của hàng hóa sẽ
được lấy ra từ một kho nào đó, hay được được sản xuất tại một nơi cụ thể. Hai bên
phải biết rằng hàng hóa đã tồn tại trên thực tế và có thể kiểm chứng luôn khi giao kết
hợp đồng.
Chính vì vậy mà địa điểm giao hàng chính là nơi mà hàng hóa được lấy ra từ
nơi nguồn gốc của nó – ngay từ lúc giới thiệu về hàng hóa trước khi ký hợp đồng.
- Trường hợp không quy định ở mục a, b Điều 31. (Không buộc giao hàng
tại nơi nhất định)
26
Nghĩa vụ của người bán là đặt hàng dưới quyền định đoạt của người mua tại
nơi người bán có trụ sở thương mại vào thời điểm giao kết hợp đồng. Nếu bên bán có
hơn một trụ sở kinh doanh thì nó được xác định theo Điều 10 CISG.
Mặc dù mục (c) là một quy định nhằm bổ sung cho những tình huống không
được nêu trong mục (a), (b). Nó không có nghĩanlà quy định cho mọi trường hợp khác.
Đặc biệt là khi các hợp đồng được giao kết tại trụ sở kinh doanh của người mua hoặc
tại một số địa điểm khác mà không liên quan đến trụ sở, nơi cư trú của người bán.
Chính vì vậy, việc đặt hàng tại trụ sở của người bán vào lúc giao kết hợp đồng là rất
bất tiện trong thương mại hiện đại.
Đối với việc giao kết hợp đồng vắng mặt – thông qua chào hàng. Thì quy định
tại mục ( c ) không thể áp dụng vì nó. Mà trường hợp này người bán phải xác định vào
các yếu tố liên quan của hợp đồng để có thể giao hàng tại địa điểm hợp lý nhất cho bên
mua. Tuy nhiên, nếu chào hàng không quy định địa điểm giao hàng thì đó không phải
là một chào hàng có hiệu lực theo khoản 3 Điều 19. Vì địa điểm giao hàng là một yếu
tố cơ bản cấu thành nên nội dung của hợp đồng.
- Hiểu thế nào là đặt dưới quyền định đoạt của người mua.
Hàng hóa được đặt dưới quyền định đoạt của người mua khi người bán đã
thực hiện nghĩa vụ cần thiết của mình để bảo đảm cho người mua quyền sở hữu hàng
hóa đó. Thông thường, điều này sẽ bao gồm việc xác định các hàng hóa được giao và
việc đưa ra tuyên bố nhằm cho phép người mua sở hữu hàng hóa đó.
1.2 Thời gian giao hàng
1.2.1 Giao hàng đúng thời hạn.
Bên cạnh nghĩa vụ giao hàng đúng địa điểm, người bán phải có nghĩa vụ giao
hàng theo đúng thời gian đã quy định trong hợp đồng. Nếu hợp đồng không quy định
cụ thể về thời gian giao hàng thì người bán có nghĩa vụ giao hàng trong một thời gian
hợp lý sau khi hợp đồng được ký kết.
Điều 33 CISG có quy định về việc xác định thời gian giao hàng trong hợp
đồng. Nếu hợp đồng có quy định rõ về thời gian thì đó là một sự chu đáo trong việc ký
kết hợp đồng. Trong nhiều trường hợp hợp đồng đã bỏ qua vấn đề này. Tuy nhiên,
CISG cũng đã đề cập đến yếu tố liên quan trong vấn đề về thời gian giao hàng. Khi
không có quy rõ ràng trong hợp đồng thì có thể xác định bằng các yếu tố như khi đàm
27
phán, các cuộc trao đổi, giấy tờ liên quan, hành vi của bên kia để xác định thời gian
hợp lý cho việc giao hàng28
.
Cần chú ý đến các tình tiết mà có thể xác định rằng người mua là người có
quyền ấn định thời gian giao hàng29
, vì nó được coi là một trong các yếu tố hợp pháp
và có lợi cho người mua. Đây hẳn là một quy định rất có lợi cho người mua, vì nhiều
lý do mà người mua đã cài nhiều yếu tố có thể chứng minh sau, để đảm bảo quyền cho
mình về thời gian giao hàng. Chính vì thế mà người bán sẽ phải lệ thuộc vào người
mua nếu hai bên không quy định rõ ràng về thời gian giao hàng. Từ điểu khoản này mà
rủi ro cho bên bán cao lên rất nhiều, khi các bên không phải lúc nào cũng thiện chí hợp
tác, mà quyền lợi mới là vấn đề quan tâm của các bên trong hợp đồng.
Vấn đề xác định thời gian hợp lý, nó chỉ có thể được xác định một cách rõ
ràng khi hai bên hợp tác thiện chí với nhau hoặc thông qua cơ quan tài phán quyết định
cho mỗi vụ việc tranh chấp. Như vậy, để xác định một thời gian hợp lý để giao hàng
không phải là việc của một bên nữa. Vì khi xác định thời gian của một bên không
khách quan khi họ chỉ nhằm mục đích có lợi cho mình. Chính vì thế mà quyền lợi của
bên kia có thể bị ảnh hưởng, và đương nhiên không ai có thể chấp nhận bị thiệt hại.
Bởi vậy, quy định giao hàng trong một thời gian hợp lý tính từ thời điểm hợp đồng
được giao kết ( Mục ( c ) Điều 33 là một quy định mở để cho Tòa án, trọng tài có cơ sở
để đưa ra phán quyết với sự bế tắc của các bên khi không thể thỏa thuận, không đưa ra
được những chứng cớ có liên quan.
1.2.2 Trong trƣờng hợp giao hàng trƣớc thời hạn:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 52 thì người mua có quyền chấp nhận hoặc từ
chối việc giao hàng trước thời hạn quy định trong hợp đồng. Trên thực tế thì bên mua
thường nhận hàng ngay khi có thể vì việc vận chuyển trong thương mại quốc tế luôn
luôn có nhiều sự biến, nó không hề đảm bảo một cách chắc chắn hàng hóa sẽ đến đúng
một thời hạn nhất định. Khi bên mua đã đồng ý nhận hàng trước thời hạn như vậy thì
trong thời hạn chưa hết hạn giao hàng bên bán có thể giao hàng mới để thay cho hàng
đã giao không phù hợp với hợp đồng, hoặc khắc phục sự không phù hợp của hàng đã
giao. Với điều kiện việc khắc phục này không gây ra một phí tổn nào đối với người
28 Xem khoản 1 Điều 33.
29 Xem khoản 2 Điều 33.
28
mua30
. Trên thực tế quy định này làm cho việc giao hàng của người bán được trở nên
nghiêm túc hơn, và cẩn trọng hơn vì mọi hành ci của bên này có thể dẫn tới những hậu
quả gây tổn thất cho bên kia, vì việc giao hàng trước có thể gây ra sự chuẩn bị không
tốt hoặc dẫn tới nhầm lẫn trong kinh doanh chính vì thế mà quyền đòi bồi thường của
người mua được CISG cho phép. Khi chứng minh được thiệt hại hợp lý dựa trên cơ sở
thực tế và dựa trên quy định của CISG thì đó là một khoản bồi thường mà bên bán
phải chấp nhận.
1.3 Nghĩa vụ giao chứng từ kèm theo hàng hóa.
Chứng từ của hàng hóa là một phần của hàng hóa, nó làm cho hàng hóa được
trở nên hợp pháp, chính vì vậy việc chuyển giao giấy tờ đúng quy định của hợp đồng
và của luật áp dụng được coi là một hành vi quan trọng trong nghĩa vụ của người bán.
Việc giao chứng từ được thực hiện với các trách nhiệm như:
1.3.1 Giao đúng thời gian:
Giao chứng từ đúng thời hạn cũng quan trọng như giao hàng đúng thời hạn.
bởi lẽ, nếu đã giao hàng mà không giao chứng từ thì hàng hóa cũng không thể lưu
thông trên thị trường. Chính vì vậy cũng phải quan trọng vấn đề về thời gian trong việc
giao chứng từ hàng hóa cho bên mua đúng thời hạn đã quy định. Mặc dù hai việc giao
hàng hóa và giao chứng từ là hai hành vi hoàn toàn độc lập. Tuy nhiên, hai hành vi này
lại cùng chung một mục đích đó là làm cho hàng hóa được chuyển giao hoàn hảo cho
bên mua và kể từ đó trách nhiệm của hàng hóa được chuyển về cho bên mua.
1.3.2 Giao đúng địa điểm:
Chứng từ cũng là một dạng vật chất, chính vì thế nó cũng có thể bị phá hủy
hay bị thất lạc. Bởi vậy, việc giao giấy tờ cũng phải thực hiện một cách nghiêm ngặt
giống như việc giao hàng hóa. Nó được thể hiên qua cách người bán thể hiện qua các
hành vi thực tế của mình. Và địa điểm giao hàng quan trọng như nào thì địa điểm giao
chứng từ cũng quan trọng như vậy, trong trường hợp chứng từ giao sai địa chỉ thì việc
nó mất mát hoàn toàn khó khắc phục hơn là việc giao sai địa điểm của hàng hóa. Vì sai
địa điểm giao chứng từ có thể vĩnh viễn mất đi, còn hàng hóa giao sai địa điểm chỉ có
thể là mất công vận chuyển và dẫn đến giao hàng chậm chễ.
1.3.3 Giao chứng từ đúng hình thức:
30 Xem điều 37, CISG : Giao hàng trước thời hạn.
29
Đúng hình thức là gì? Đó là việc giao chứng từ theo đúng thủ tục hai bên đã
quy định: Ví dụ, giao chứng từ phải qua bưa tín, hay giao chứng từ phải giao tại trụ sở
kinh doanh của người mua, giao cho người vận chuyển…
Việc giao chứng từ ít khi được đề cập đến so với hàng hóa, nhưng tầm quan
trọng của nó cũng không hề thua kém gì hàng hóa. Nó là một điều kiện của hàng hóa
cho việc đúng phẩm chất, đúng chất lượng. Bởi vậy, việc thực hiện đúng theo thủ tục,
đúng theo hình thức cũng là một phần thể hiện sự thiện chí của hai bên.
1.3.4 Trong trƣờng hợp giao chứng từ trƣớc thời hạn quy định.
Khi chưa đến thời hạn giao chứng từ mà bên bán đã giao đầy đủ cho bên mua
thì có ảnh hưởng gì đến việc kinh doanh của bên mua không?
Theo CISG thì nếu việc làm này nếu gây thiệt hại cho bên mua thì đó là hành
vi vi phạm và phải bồi thường. Xét cho cùng thì quy định này làm hạn chế việc cố tình
xử sự xấu của bên bán, nếu không có sự ràng buộc vào hành vi của mình thì bên bán
có thể gây ra sự chuẩn bị không tốt của bên mua và dẫn tới họ sẽ mất những chi phí
không đáng có. Hơn nữa, nó cũng nói lên sự kỹ lưỡng và thiện chí của bên bán cần
phải có khi thực hiện hành vi của mình. Trong trường hợp này bên mua phải chứng
minh được hành vi của bên bán gây thiệt hại cho mình, nếu hành vi của bên mua là do
sự thiếu cẩn trọng thì đó cũng rât khó để được dẫn chiếu theo điều khoản này. Vì tinh
thần của Công ước đề cao tính thiện chí của hai bên.
1.4 Giao hàng đúng chất lƣợng, đúng đối tƣợng và đúng số lƣợng.
1.4.1 Giao hàng đúng đối tƣợng và đúng chất lƣợng.
Đối tượng và chất lượng hàng hóa là những nội dung quan trọng của hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế. Người bán phải thực hiện giao hàng đúng đối tượng và chất
lượng theo thỏa thuận và theo quy định của Công ước. Trong việc giao nhận hàng hóa,
vấn đề xác minh hàng hóa có phù hợp với hợp đồng về đối tượng và chất lượng hay
không có ý nghĩa rất quan trọng. Về nguyên tắc, phải căn cứ nội dung cụ thể của hợp
đồng để xác định vấn đề này. Trong trường hợp không thể xác định được theo hợp
đồng thì căn cứ vào quy định của pháp luật – đó là theo CISG.
Điều 35 Công ước Viên 1980 quy định nếu hợp đồng không quy định cụ thể
về phẩm chất hàng hóa thì hàng hóa không được coi là đủ quy cách phẩm chất khi:
Hàng không thích hợp cho mục đích sử dụng mà các hàng hóa cùng loại
vẫn thường đáp ứng hoặc;
30
Hàng không thích hợp với bất cư mục đích nào mà người bán đã cho
người mua biết một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào lúc kí kết hợp đồng hoăc;
Hàng hóa không phù hợp với các tính chất của hàng mẫu (trong trường
hợp bán hàng theo mẫu) mà người bán đã cung cấp cho người mua hoặc;
Hàng không được đóng trong bao bì theo cách thông thường để bảo vệ
hàng hóa.
Việc xác định về mục đích sử dụng của mặt hàng cùng loại trên thị trường
thường thì không hề dễ dàng vì mỗi mặt hàng lại có những đặc tính khác biệt và nó có
thể phù hợp với thị trường này nhưng lại không phù hợp với thị trường khác, việc chọn
mặt hàng nào để dẫn chiếu cũng là sự tranh cãi của các bên. Chính từ sự phức tạp, khó
khăn trong việc xác định chất lượng hàng hóa nên trong thực tiễn điều khoản này
thường xảy ra tranh chấp. Để hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra các bên trong hợp
đồng cần lưu ý thỏa thuận và phải ghi rõ trong hợp đồng về:
+ Phương pháp xác định chất lượng như: mô tả chất lượng; dẫn chiếu đến
hàng hóa lưu thông trên thị trường hoặc theo một mẫu hàng;
+ Các phương pháp, phương tiện thiết bị, tiêu chuẩn để xác định chất lượng
hàng hóa;
+ Giấy chứng nhận chất lượng hàng hóa do cơ quan nào cấp, thẩm quyền của
cơ quan cấp giấy, giá trị pháp lý của giấy chứng nhận chất lượng đó;
+ Biên bản và thời hạn giám định chất lượng hàng hóa không thể chậm trễ hơn
thời hạn cho phép trong hợp đồng ; biên bản giám định phải do cơ quan có thẩm quyền
do pháp luật quy định hoặc được các bên thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng, nếu không
khi tranh chấp xảy ra thì sẽ lại gây tranh cãi một vấn đề nữa và đương nhiên bên kia sẽ
không chấp nhận biên bản giám định đó31
.
Khi việc giao hàng của bên bán có một phần hàng không phù hợp với hợp
đồng thì người bán sẽ phải chịu các biện pháp xử lý của người mua được quy định
trong điều 46 đến điều 50 của Công ước Viên 1980 – giao hàng thay thế, hủy hợp
31 Xem Nguyễn Ngọc Lâm, Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế. Nhận dạng tranh châp,
biện pháp ngăn ngừa và phương pháp giải quyết, NXB Chính trị quốc gia, 2010, trang 60, tranh chấp về chất
lượng hàng hóa trong hợp đồng.
31
đồng, giảm giá hàng hóa đối với phần hàng không phù hợp với hợp đồng (Điều 51
CISG)32
.
Thời gian và địa điểm kiểm tra phẩm chất hàng hóa có thể được quy định
trong hợp đồng. Nếu hợp đồng không quy định thì người mua phải kiểm tra hàng hóa
và đảm bảo sự kiểm tra hàng hóa trong một thời gian ngắn nhất mà thực tế có thể làm
được33
. Thời gian hợp lý là tùy theo từng loại hàng hóa hoặc nó được xác định theo tập
quán, thói quen của các bên.
Địa điểm kiểm tra phẩm chất hàng hóa có thể được quy định khác nhau khi
dựa vào các yếu tố khác nhau trong hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng có quy định
về việc chuyên chở hàng hóa, thì việc kiểm tra hàng hóa có thể dời lại đến lúc hàng tới
nơi đến34
. Nếu địa điểm đến của hàng bị thay đổi trong thời gian đang trên đường vận
chuyển hoặc hàng được người mua gửi đi tiếp và khi đó người mua không có khả năng
hợp lý để kiểm tra hàng hóa, còn người bán đã biết hay đáng lẽ phải biết khi giao kết
hợp đồng về khả năng đổi lộ trình hay gửi tiếp đi, thì việc kiểm tra hàng được dời đến
khi hàng tới nơi đến mới35
.
Trong những trường hợp bên bán giao hàng cho người chuyên chở nhưng mặt
hàng đó không được quy định chi tiết với mục đích của hợp đồng bằng cách ghi ký
hiệu trên hàng hóa, bằng các chứng từ chuyên chở hay bằng một cách nào đó, thì
người bán phải có nghĩa vụ thông báo những thay đổi, những chỉ dẫn về hàng hóa đã
gửi kèm theo cho người mua biết để họ có thể kiểm tra hàng hóa tốt nhất (Điều 32
CISG). Nếu hiểu theo trách nhiệm của người tham gia giao dịch thì việc làm gây có lợi
ích cho cả hai bên về mặt giao dịch thì luôn được coi trọng và nó làm tăng thêm gắn
bó trong quan hệ thương mại.
Những trách nhiệm như cung cấp giấy tờ để bảo hiểm cho hàng hóa hay chuẩn
bị, thu xếp cách tốt nhất có thể để bên mua vận chuyển hàng hóa trong trường hợp hợp
đồng không quy định , thì đó là những hành động tối thiểu cần phải có trong quan hệ
đối tác và CISG cũng đã quy định chi tiết đó là nghĩa vụ phải có36
.
1.4.2 Giao hàng đúng số lƣợng.
32 Xem Chương II Phần V: Biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong báo cáo này.
33 Xem khoản 1 ĐIều 38 CISG.
34 Xem Khoản 2 Điều 38 CISG.
35 Xem Khoản 3 Điều 38 CISG.
36 Xem khoản 2 và khoản 3 Điều 32 CISG.
32
Đối với số lượng hàng hóa thì bên bán phải đảm bảo giao đủ số lượng đã quy
định trong hợp đồng. Trong trường hợp giao hàng thiếu thì người bán đã không thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình và dẫn đến việc phải chịu một số biện pháp xử lý của
người mua được quy định từ điều 46 đến điều 50 của CISG (Khoản 1 điều 51 CISG)
37.
Vấn đề phức tạp hơn khi bên bán giao hàng vượt số lượng: Trong trường hợp
này người mua có quyền lựa chọn chấp nhận hay từ chối lượng phụ trội đó. Tùy thuộc
vào hoàn cảnh kinh doanh hay mối quan hệ của các bên mà bên mua sẽ quyết định
việc chấp nhận hay không. Việc không chấp nhận thì bên bán phải chuyển hàng về và
chỉ được thanh toán tiền hàng đúng với số lượng đã thỏa thuận, nếu việc giao hàng
vượt số lượng này gây ra một khoản phí tổn không đáng có nào đó (phí vận chuyển,
phí bảo hiểm..) thì bên bán phải hoàn toàn chịu.
Nếu bên mua chấp nhận nhận số hàng phụ trội có thể là toàn bộ hoặc một phần
đó thì người mua phải thanh toán đầy đủ tiền hàng đối với số hàng phụ trội đó theo giá
quy định của hợp đồng38
.
1.5 Giao hàng độc lập về quyền sở hữu .
Quyền sở hữu độc lập đối với một tài sản đó là bao gồm các quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp
luật39
. Như vậy, khi người mua thực sự là chủ sở hữu đối với hàng hóa mình mua thì
họ phải có được những quyền hạn về chiếm hữu, định đoạt và sử dụng.
Để đảm bảo những quyền hạn đó cho người mua thì người bán phải giao
những hàng hóa không bị ràng buộc bởi bất cứ quyền hạn nào của người thứ ba trên cơ
sở các quyền sở hữu công nghiệp hay các quyền về sở hữu trí tuệ khác mà người bán
đã biêt hoặc không thể không biết vào thời điểm giao kết hợp đồng40
.
Một hàng hóa không bị ràng buộc của bên thứ ba về quyền sở hữu công
nghiệp và quyền sở hữu trí tuệ khi hàng hóa đó đã tuân thủ các quy định về quyền sở
hữu trí tuệ của pháp luật quốc gia người bán, của pháp luật về sở hữu trí tuệ quốc tế và
37 Xem Chương II Phần V: Biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong báo cáo này.
38 Xem Khoản 2 Điều 52 CISG.
39 Xem Điều 164 Luật Dân sự Việt Nam 2005.
40 Xem Khoản 1 Điều 42 CISG.
33
pháp luật sở hữu trí tuệ của quốc gia người mua41
. Bất cứ một vi phạm nào liên quan
đến quyền sở hữu trí tuệ đều được coi là hàng hóa vi phạm về quyền sở hữu. Trong
trường hợp mà bên bán không thể làm cho hàng hóa độc lập về quyền sở hữu trí tuệ thì
phải thông báo cho bên mua biết và việc họ có chấp nhận sự thay đổi đó hay không
còn tùy thuộc vào sự thỏa thuận tiếp theo.
Và như vậy việc không chịu trách nhiệm của bên bán về quyền sở hữu chỉ đối
với các trường hợp sau42
:
+ Vào lúc giao kết hợp đồng, người mua đã biết hoặc không thể không biết về
sự tồn tại của quyền hay những yêu sách về quyền sở hữu trí tuệ; hoặc
+ Quyền lợi hay những yêu sách bắt nguồn tự sự kiện người bán đã tuân theo
các bản thiết kế kỹ thuật, hình vẽ, công thức hay nhũng chỉ dẫn tương tự do người mua
cung cấp.
Trong những trường hợp hàng hóa bị người thứ ba tranh chấp thì người bán
đứng về phía người mua để bảo vệ quyền lợi của người mua43
.
Nếu người thứ ba có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản mua bán thì
người mua có quyền hủy hợp đồng và yêu cầu người bán bồi thường thiệt hại. Điều 41,
42, 43 Công ước Viên có quy định rõ về nghĩa vụ này cả người bán44
. Tuy vậy, Công
ước không quy định rõ về thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa từ ngừơi bán
sang người mua.
1.6 Bảo quản hàng hóa.
Khi viêc vận chuyển đến đúng địa điểm và đúng thời gian giao hàng nhưng
bên mua đã chậm trễ nhận hàng hay không trả tiền hoặc việc nhận hàng và trả tiền
được tiến hành cùng một lúc. Khi này hàng hóa nằm dưới quyền kiểm soát của người
bán và người bán phải có nghĩa vụ bảo quản hàng hóa cho đến khi thực hiện các biện
pháp buộc bên mua phải thực hiện đúng hợp đồng. Với sự bảo quản hàng hóa của
mình người bán hoàn toàn có quyền giữ hàng hóa và buộc bên mua phải thực hiện
nghĩa vụcủa mình và hoàn trả những chi phí phát sinh từ việc hàng hóa phải bảo quản
(Điều 85 CISG).
41 Xem điểm a, b Khoản 1 Điều 42.
42 Xem khoản 2 Điều 42 – CISG.
43 TS. Nguyễn Minh Hằng (Chủ biên), Giáo trình Pháp Luật Kinh Doanh Quốc Tế - ĐH Ngoại thương
HN, NXB Đại học Quốc gia HN, năm 2012; trang 232. 44
Xem Chương II. Phần 5.2 - Bồi thường thiệt hại trong báo cáo này.
34
Việc bảo quản có thể được tiến hành theo nhiều phương thức như: Lưu vào
một kho bãi của bên thứ ba, tự bảo quản trên phương tiện vận chuyển. Tuy nhiên, với
cách thức lưu trữ như vậy thì người bán có quyền lưu trong một thời hạn nhất định để
bên mua thực hiện các nghĩa vụ của mình để nhận hàng. Trong trường hợp nếu bên
mua có nhiều sự vi phạm một cách phi lý, hay có ý định không thanh toán, không nhận
hàng thì bên mua được phép xử lý hàng hóa bằng cách bán số hàng đó đi hay thu hàng
về, với các thiệt hại được chứng minh để bên mua phải chịu. Khi hàng hóa thuộc loại
mau hỏng hay việc bảo quản gây ra những khoản chi phí thì có thể được phép bán
hàng đi. Khi có hành vi thu hàng về hay bán hàng đi thì phải thông báo trước cho bên
mua với những lý do hợp lý (Điều 88 CISG).
2. Thời điểm chuyển rủi ro thành công.
Việc xác định thời điểm chuyển rủi ro thành công là một nhiệm vụ tối quan
trọng của cả bên bán lẫn bên mua. Bởi lẽ, nếu chuyển rủi ro thành công thì bên bán
mới hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của mình45
. Và người mua phải có nghĩa vụ thanh
toán khi người bán chuyển rủi ro thành công hay không?
2.1 Thế nào là chuyển rủi ro thành công46
?
- Trường hợp không buộc giao hàng tại nơi xác định: Rủi ro được chuyển
cho người mua kể từ lúc hàng hóa được giao cho người vận chuyển đầu tiên của bên
mua theo quy định của hợp đồng. Trong trường hợp này cần chú ý đến người vận
chuyển đầu tiên – người vận chuyển đầu tiên là người thứ nhất trực tiếp tiếp cận hàng
hóa và đại diện của người bán. Nhiều trường hợp có nhiều người vận chuyển thì xác
định chuyển rủi ro thành công không phải là khi người cuối cùng nhận hàng mà là kể
từ khi người đầu tiên nhận hàng. Kể từ khi đó người đầu tiên vận chuyển phải có trách
nhiệm bảo quản hàng hóa cho người mua.
- Trường hợp buộc giao hàng tại nơi xác định: Người bán có trách nhiệm
giao hàng cho một người vận chuyển tại nơi đó. Như vậy chỉ có địa điểm thỏa thuận
đó mới được xác định việc chuyển rủi ro. Nếu người bán muốn thay đổi địa điểm giao
hàng thì hai bên phải thỏa thuận lại bằng văn bản.
- Trường hợp mua hàng hóa đang trên đường vận chuyển: Thì rủi ro được
chuyển sang cho người mua ngay tại thời điểm kí kết hợp đồng. Trong trường hợp này,
45 Xem phần Nghĩa vụ giao hàng của bên mua –Phần 1 Chương II trong báo cáo này.
46 Xem Khoản 1 Điều 67 Công ước Viên 1980.
35
người bán phải khai báo mọi thông tin chất lượng về hàng hóa tại thời điểm mà người
bán chuyển cho người chuyên chở đầu tiên. Mọi thông tin liên quan đến việc hàng hóa
không đúng như mục đích hợp đồng mà bên bán đã biết hoặc không thể không biết mà
không thông báo cho người mua biết thì người bán phải chịu những khiếm khuyết của
hàng hóa. Tuy nhiên, nếu do điều kiện hoàn cảnh mà hàng hóa gặp rủi ro thì người
mua phải chịu kể từ khi người vận chuyển phát chứng từ xác nhận một hợp đồng vận
chuyển47
.
Rủi ro sẽ không được chuyển cho người mua: Khi người bán giao hàng không
được đặc định hóa rõ ràng cho mục đích của hợp đồng hoặc bằng cách ghi các ký mã
hiệu trên hàng hóa, bằng các chứng từ chuyên chở, bằng một thông báo cụ thể gửi cho
người mua hoặc bằng bất cứ phương pháp cụ thể nào khác để người mua có thể người
mua biết rõ về hàng hóa (Khoản 2 Điều 67).
Trong thông lệ thương mại quốc tế thì có nhiều phương thức giao hàng khác
nhau, mỗi phương thức lại có thời điểm chuyển rủi ro khác nhau. Chính vì vậy các bên
cần xác định rõ phương thức lựa chọn của mình có những đặc thù riêng nào để xác
định thời điểm cụ thể việc chuyển giao rủi ro thành công: Ví dụ như phương thức giao
hàng theo điều kiện FOB – Incoterm 2010 thì chuyển rủi ro thành công khi hàng được
đặt lên tàu do người mua chỉ định tại một cảng xác định, hay theo điều kiên DAT –
Incoterm 2010 thì người bán phải rỡ hàng khỏi phương tiện vận chuyển và đặt dưới sự
định đoạt của người mua. Như vậy, ngoài việc xác định nguyên tắc chung của Công
ước Viên 1980 về chuyển rủi ro thì các bên cần xác định rõ phương thức giao hàng cụ
thể có những quy định gì để có những hành vi thực hiện nghĩa vụ một cách hoàn thiện
và thiện chí.
Chú ý: Ngoài những trường hợp của Điều 67 và 68 kể trên thì rủi ro sẽ được
chuyển cho người mua khi người mua nhận hàng – tức là chấp nhận những đặc tính
của hàng hóa hoặc, nếu người mua không nhận hàng khi hàng hóa đã dưới sự định
đoạt của người mua và khi người mua vi phạm hợp đồng khi không chịu nhận hàng.
Việc hàng hóa đã dưới quyền định đoạt của người mua vào đúng thời điểm giao hàng
47 Xem Điều 68 Công ước Viên 1980.
36
thì hàng hóa được chuyển rủi ro thành công sang cho người mua nếu hàng hóa đó đúng
quy định của hợp đồng48
.
Tại điều 66 CISG, có quy định về những mất mát hay hư hỏng của hàng hóa
xảy ra sau khi rủi ro chuyển sang cho người mua thì người mua vẫn phải thực hiện
nghĩa vụ thanh toán tiền hàng, trừ khi việc mất mát hay hư hỏng đó là do hành động
của người bán gây ra. Do vậy, việc giám định hàng hóa là vô cùng quan trọng đối với
bên mua khi nhận hàng.
Nếu mà người mua có một hành vi vi phạm đến nội dung cơ bản của hợp đồng
thì các quy định trên không ảnh hưởng đến quyền sử dụng các biện pháp bảo hộ của
người mua khi có những vi phạm đó xảy ra49
.
Khi chuyển rủi ro thành công thì bên mua có phải thanh toán luôn không?
Trong khoản 1 Điều 67 có quy định việc người bán được phép giữ lại các chứng từ
nhận hàng. Khi hợp đồng không thỏa thuận rõ thời hạn thanh toán tiền hàng thì thời
điểm chuyển giao rủi ro thành công đồng thời cũng là thời điểm mà bên bán có quyền
đặt điều kiện thanh toán để đổi lại việc họ giao chứng từ50
. Ngay tại thời điểm này, thì
quyền được thanh toán của bên bán được xác lập và nghĩa vụ thanh toán cũng phải
được thực hiện, việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán là tự động đối với người mua mà
không cần một yêu cầu nào của người bán (Điều 59 CISG).
III. NGHĨA VỤ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA BÊN MUA.
Nếu việc giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hóa là nghĩa vụ của bên bán,
thì nhận hàng và thanh toán tiền hàng là nghĩa vụ cơ bản của bên mua. Trong quá trình
thực hiện hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của người mua luôn gắn liền với việc nhận
hàng và thanh toán tiền hàng.
1. Các nghĩa vụ liên quan đến việc nhận hàng.
Nhận hàng là việc người mua tiếp nhận trên thực tế hàng hóa từ bên bán. Bên
mua hàng hóa có nghĩa vụ nhận hàng theo thỏa thuận và thực hiện các công việc hợp
lý để giúp bên bán giao hàng. Người mua sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng nếu người
mua không nhận hàng theo đúng như quy định trong hợp đồng. Mặt khác, đó lại là
48 Xem Điều 69 Công ước Viên 1980.
49 Điều 70 Công ước Viên 1980.
50 Xem Khoản 1 Điều 58 Công ước Viên 1980.
37
quyền lợi của người mua được nhận hàng để đạt được mục đích của mình khi ký kết
hợp đồng, phục vụ cho mục tiêu kinh doanh của mình.
1.1 Nghĩa vụ nhận hàng
Nghĩa vụ nhận hàng là nghĩa vụ theo đó mà người mua phải chuẩn bị đầy đủ
phương tiện đồng thời thực hiện những thủ tục cần thiết để người bán thực hiện nghĩa
vụ giao hàng và bên mua phải tiếp nhận hàng51
. Khi người bán mang hàng tới địa điểm
đúng quy định và đặt hàng dưới sự định đoạt của người mua thì người mua phải thực
hiện nghĩa vụ của mình là nhận hàng. Để thực hiện việc sẵn sàng tiếp nhận hàng hóa,
người mua phải tiến hành chuẩn bị mọi cơ sở vật chất như phương tiện bốc dỡ, chuẩn
bị kho bãi…
Trong những trường hợp đặc biêt thì việc nhận hàng trên thực tế không đồng
nghĩa với việc người mua đã chấp nhận về hàng hóa được giao. Theo quy định tại Điều
66 - CISG thì việc mất mát hay hư hỏng hàng hóa xảy ra sau khi rủi ro chuyển sang
cho người mua được sẽ miễn trừ cho người mua nghĩa vụ phải trả tiền khi việc mất
mát hay hư hỏng đó là do hành động của người bán gây ra. Như vậy, sau khi hoàn
thành nghĩa vụ giao nhận, người bán vẫn phải chịu trách nhiệm về những khiếm
khuyết của hàng hóa được giao. Nếu các khiếm khuyết đó do không thể kiểm tra lúc
giao nhận hoặc có những lỗi mà bên bán đã không thông báo cho bên mua biết.
Khi người bán đã sẵn sàng giao hàng theo đúng hợp đồng mà người mua
không tiếp nhận thì bị coi là vi phạm hợp đồng và phải chịu các biện pháp chế tài theo
thỏa thuận hoặc theo quy định của Công ước52
. Trường hợp này, người bán phải áp
dụng các biện pháp cần thiết trong khả năng có thể, với chi phí hợp lý để lưu trữ, bảo
quản hàng hóa và có quyền yêu cầy người mua thanh toán chi phí đã bỏ ra. Đối với
những hàng hóa có nguy cơ bị hư hỏng thì người bán có quyền bán hàng hóa và yêu
cầu người mua bồi thường chênh lệch giá và các chi phí hợp lý khác.
1.2 Kiểm tra chất lƣợng hàng hóa.
Kiểm tra hàng hóa là một bước không thể thiếu của người mua khi nhận hàng.
Đây không phải là một nghĩa vụ của người mua để nhận hàng thế nhưng đó là việc
đảm bảo quyền lợi cho mình.
51 Xem Điều 60 Công ước Viên 1980.
52 Xem CISG - Chương II - Mục 3. Các biện pháp người bán được áp dụng trong trường hợp người mua
vi phạm hợp đồng.
38
1.2.1 Thông báo về sự không phù hợp của hàng hóa:
Sau khi kiểm tra và phát hiện sự không phù hợp của hàng hóa, người mua phải
thông báo sự không phù hợp đó trong một thời hạn hợp lý kể từ khi người mua phát
hiện ra sự không phù hợp đó. Nếu không thông báo kịp thời, người mua sẽ mất quyền
khiếu nại người bán về sự không phù hợp đó của hàng hóa. Trong mọi trường hợp, dù
là lỗi của bên bán về sự không phù hợp của hàng hóa mà người mua không thông báo
cho bên bán biết về việc không phù hợp đó trong vòng 2 năm kể từ ngày hàng hóa đã
thực sự được giao cho người mua thì người mua sẽ bị mất quyền khiếu nại53
. Như vậy,
quyền lợi về việc đảm bảo cho hàng hóa được giao cho bên mua theo đúng hợp đồng
mà bên mua không phát hiện được những thiếu sót của bên bán thì đó cũng là một bất
lợi cho mình, khi mà thời hiệu khiếu nại cho sự không phù hợp đó chỉ là hai năm. Đối
với những hàng hóa có giá trị cao, như các thiết bị máy móc hiện đại thì khoảng hai
năm không là gì cả so với giá trị và thời gian vận hành của nó. Chính vì vậy, mà khi
giao kết hợp đồng đặc biệt là đối với các mặt hàng có giá trị cao và có hiệu quả sử
dụng lâu dài thì các bên phải chú ý đến điều khoản bảo hành. Vì trong CISG có quy
định nếu có điều khoản bảo hành thì sẽ thuân theo điều kiện bảo hành chứ không theo
quy định tại điều 39 CISG nữa. Tuy nhiên, vấn đề về bảo hành CISG lại không có quy
định rõ ràng như các nguồn luật khác.
1.2.2 Khi bên mua không thực hiện kiểm tra hàng hóa:
Việc kiểm tra hàng hóa về hình dáng, kích thước hay những đặc trưng khác là
một trong những quyền lợi của bên mua. Nếu bên mua không thực hiện vào thời gian
đã thỏa thuận hay trong thời gian hợp lý, thì quyền lợi này sẽ được bên bán thay cho
bên mua thực hiện xác minh dựa theo nhu cầu của người mua. Nhu cầu ở đây được
hiểu theo mục đích của hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận chứ không phải là theo
nguyện vọng của bên mua khi không thực hiện được việc xác minh này. Những nhu
cầu của người mua có thể bao gồm cả những yếu tố cần thiết để đảm bảo cho việc thực
hiện mục đích của mình mà bên bán đã biết được trong quá trình đàm phán, thói quen
của hai bên hay những quan hệ trước đó54
.
Tuy nhiên, khi người mua không trực tiếp xác định hàng hóa thì không có
nghĩa mọi quyền lợi xác định hàng hóa thuộc về bên bán. Mà bên mua vẫn có quyền
53 Xem khoản 2 Điều 39 CISG.
54 Xem Khoản 1 Điều 65.
39
đòi bên bán phải có những hành vi chuẩn mực để đảm bảo cho quyền lợi của mình
được thực hiện tốt nhất. Đó là, bên bán phải thông báo chi tiết về nội dung các công
việc trong quá trình xác minh hàng hóa trong một thời gian hợp lý nhất. Theo CISG thì
thời gian hợp lý này được hiểu là nó đủ cho người mua có thể thực hiện một xác minh,
kiểm tra khác nếu họ không hài lòng với kết quả của bên bán55
. Trong trường hợp, sau
khi nhận được thông báo từ bên bán mà bên mua không có sự hồi đáp, thì sự xác định
hàng hóa do bên bán thực hiện sẽ có hiệu lực bắt buộc mà bên mua không còn quyền
viện dẫn về việc xác minh hàng hóa có hợp hay không. Tuy nhiên, bên mua vẫn còn có
thể dựa vào việc xác định hàng hóa đó của bên bán có thực hiện theo mục đích của
hợp đồng hay không có đúng cơ quan giám định, cơ quan giám định có độc lập không?
Về việc xác minh hàng hóa mà do bên bán thực hiện, thì theo tập quán thường
là phải giám định ngay tại nơi tập kết hàng đầu tiên sau khi dỡ hàng khỏi phương tiện
vận tải chính. Đối với các hàng hóa mau hỏng như hàng tươi sống, thực phẩm … thì
phải tiến hành giám định ngay sau khi dỡ hàng. Trừ khi hai bên quy định khác, chi phí
giám định này do người mua chịu. Tuy nhiên nếu hàng hóa không phù hợp hoặc bị
người mua từ chối thì người bán sẽ phải bồi hoàn toàn bộ những chi phí này cho người
mua56
.
1.3 Nghĩa vụ khi từ chối nhận hàng.
Sau khi giám định hàng hóa, nếu hàng hóa không phù hợp với hợp đồng,
người mua có quyền từ chối cả lô hàng, từ chối một phần và nhận một phần, hoặc chấp
nhận cả lô hàng. Trong trường hợp người mua chấp nhận một phần lô hàng thì phải
chấp nhận cả một đơn vị hàng, không được chia nhỏ đơn vị hàng ra. Một đơn vị hàng
là một khối lượng hàng có tính thương mại mà việc chia nhỏ khối lượng này ra sẽ làm
cho hàng hóa đó bị giảm giá trên thị trường.
Hiểu theo khoản 1 Điều 51 thì đối với một phần hàng hóa không phù hợp đã
được giao thì các điều từ 46 đến 50 sẽ được áp dụng đối với hàng hóa không phù hợp
với hợp đồng. Chính vì vậy khi xác định được hàng hóa không phù hợp thì bên mua
55 Xem Khoản 2 Điều 65.
56 TS Nguyễn Minh Hằng (chủ biên), Giáo trình Pháp luật kinh doanh quốc tế, Đại học Ngoại thương Hà
Nội, NXB Đại học quốc gia HN, 2012; trang 241.
40
nên tuân theo nguyên tắc thiện chí, đó là cho người bán một khoảng thời gian hợp lý
để ngừời bán thực hiện nghĩa vụ57
.
Người mua cũng không có quyền tuyên bố hủy toàn bộ hợp đồng khi một
phần hàng không phù hợp đó không tạo nên sự vi phạm cơ bản của hợp đồng58
. Ngay
cả khi bên bán vi phạm hợp đồng thì bên mua muốn hủy hợp đồng đó thì cũng phải
thông báo cho bên bán một cách hợp lý để cho phép họ cung cấp những bảo đảm đầy
đủ rằng họ sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình, nếu có đủ thời gian59
. Tuy nhiên, ý nghĩa
của cụm từ ―If times allows” được hiểu phổ biến là (nếu có đủ thời gian). Bởi nó có
nghĩa rộng như vậy, nên khi áp dụng sẽ được các bên đặt ra nhiều cách bào chữa để
trốn tránh nghĩa vụ thông báo của mình, và dẫn đến lạm dụng60
.
Như vậy, việc kiểm tra hàng hóa phải đảm bảo thực hiện trong thời gian ngắn
nhất ( Khoản 1 Điều 38) và việc từ chối hàng hóa phải nằm trong một khoảng thời
gian nhất định sau khi giao hàng hoặc yêu cầu giao hàng và người mua phải thông báo
kịp thời cho người bán và phải nêu cụ thể những khiếm khuyết của hàng hóa đó đê
người bán coi vào đó để kiểm chứng và có biện pháp xử lý tốt nhất có thể. Đồng thời
nó cũng có ý nghĩa về sự nghiêm túc của bên mua và họ phải chịu sự ràng buộc của
mình đối với thông báo đó. Nếu không có một thông báo đúng đắn thì việc từ chối
hàng hóa được coi là không có hiệu lực. Sau khi đã từ chối hàng hóa, quyền sở hữu
hàng hóa được chuyển lại cho người bán và người mua phải thực hiện những nghĩa vụ
của mình sau khi từ chối hàng hóa, đó là đảm bảo an toàn cho hàng hóa theo yêu cầu
của người bán trong một thời gian để người bán xử lý hàng hóa đó. Mọi chi phí liên
quan đến bảo quản hàng hóa do bên bán chịu.
2 Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng.
Thanh toán tiền hàng của bên mua cũng quan trọng như việc giao hàng của
bên bán, công việc này cần đảm bảo về địa điểm, về thời hạn và về thủ tục thanh toán
phải được thực hiện chuẩn mực theo thỏa thuận của hợp đồng. Nghĩa vụ thanh toán
57 Xem khoản 1 Điều 47 Công ước Viên 1980.
58 Xem Khoản 2 Điều 51 Công ước Viên 1980.
59 Xem Khoản 2 Điều 72 Công ước Viên 1980.
60
Xem bài Summary Records of Meetings of the First Committee, 38th meeting, 7 April 1980, Monday,
at 3 p.m, Chairman: Mr Loewe. Địa chỉ truy cập, ngày 02/04/2014:
(http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/firstcommittee/Meeting38.html )
41
tiền hàng của người mua bao gồm việc thực hiện các biện pháp và các thủ tục mà hợp
đồng hoặc theo pháp luật quy định để có thể thanh toán tiền hàng61
.
2.2 Thanh toán đúng địa điểm đã quy định.
Người mua phải có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng theo đúng địa điểm đã thỏa
thuận trong hợp đồng. Nếu hợp đồng không quy định cụ thể về địa điểm thanh toán thì
việc xác định trụ sở kinh doanh có liên quan chặt chẽ nhất với hợp đồng của người bán
sẽ được coi là địa điểm thanh toán.
Trụ sở kinh doanh của người bán được xác định vào thời điểm giao kết hợp
đồng, nếu không có trụ sở kinh doanh thì tại nơi cư trú của người bán. Trong trường
hợp trụ sở kinh doanh của bên bán đã thay đổi sau khi kí kết hợp đồng thì chi phí gia
tăng do liên quan đến việc này bên bán phải chịu62
.
Cũng có thể việc thanh toán sẽ được thực hiện tại nơi giao hàng, giao chứng từ
hàng hóa. Nếu việc thanh toán được tiến hành đồng thời với việc giao hàng hoặc giao
chứng từ.
2.3 Thanh toán đúng thời hạn.
Người mua phải thanh toán tiền hàng theo đúng thời gian quy định trong hợp
đồng. Nếu các bên không có thỏa thuận về thời hạn thanh toán, thời hạn thanh toán sẽ
được xác định như sau:
Khi người mua đã đặt hàng hoặc chứng từ nhận hàng dưới sự định đoạt của
người mua (chiếu theo hợp đồng hoặc theo Công ước Viên 1980). Đặt hàng dưới sự
định đoạt của người mua tức là bên bán đã giao hàng đúng theo hợp đồng và quy định
của Công ước cho bên mua. Việc kiểm tra hàng hóa trước khi thanh toán tiền hàng là
bắt buộc63
. Nếu việc kiểm tra đã hoàn tất và không có dấu hiệu vi phạm của bên bán
mà bên mua cố tình không nhận hàng thì bên mua đã vi phạm nghĩa vụ của mình.
Chính vì vậy khi hàng hóa đã trong tầm kiểm soát của mình thì bên mua phải có nghĩa
vụ thanh toán tại thời điểm này64
.
61 Xem Điều 54 Công ước Viên 1980.
62 Xem Khoản 1 Điều 58 Công ước Viên 1980.
63 Xem Khoản 3 Điều 58 Công ước Viên 1980.
64 Xem Điều 58 Công ước Viên 1980.
42
Trong trường hợp hợp đồng quy định việc chuyên chở hàng hóa, người bán có
thể gửi hàng đi với điều kiện là hàng hay chứng từ nhận hàng chỉ được giao cho người
mua khi người mua thanh toán tiền hàng65
.
Theo quy định tại Điều 30 và Điều 34 của Công ước, người bán phải có nghĩa
vụ chuyển giao bất kỳ tài liệu nào liên quan đến hàng hóa . Ví dụ về các tài liệu liên
quá đến hàng hóa như tài liệu liên quan trực tiếp đến sự tồn tại của hàng hóa và những
tài liệu khác liên quan đến hàng hóa như: chứng nhận xuất xứ, chứng nhận chất lượng,
vệ sinh và giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật… Các bên có thể thỏa thuận rõ ràng
hoặc ngụ ý về các tài liệu phải được bàn giao cho người mua trước khi người mua
thanh toán tiền hàng. Ngược lại tại Khoản 1 Điều 58 Công ước Viên quy định người
bán có thể đặt điều kiện chuyển giao chứng từ để đổi lại việc phải thanh toán.
Trong quy định của Điều 30, Điều 34 với Điều 58 tuy có một phần không rõ
ràng thống nhất, tuy nhiên nghĩa của Điều 30, Điều 34 mang một phạm vi rộng hơn vì
đó là nghĩa vụ bắt buộc. Và chỉ khi một bên thực hiện nghĩa vụ của mình thì mới có
quyền đòi hỏi bên kia thực hiện nghĩa vụ.
Theo ý kiến của hội đồng tư vấn CISG - AC66
thì quy định tại Điều 58 chỉ có ý
nghĩa thực sự khi các bên thỏa thuận thanh toán không phải là thanh toán bằng thư tín
dụng. Nếu việc thanh toán bằng thư tín dụng, bên mua có thể yêu cầu trình bày bất cứ
loại tài liệu nào như một kiểu điều kiện để thanh toán67
.
2.4 Thủ tục thanh toán.
Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng của người mua bao gồm việc thực hiện các biện
pháp và các thủ tục mà hợp đồng hoặc luật lệ đòi hỏi để có thể thực hiện thanh toán
tiền hàng (Điều 54).
Nếu hợp đồng không có quy định thủ tục thanh toán dưới bất kỳ một hình thức
nào, thì người mua được quyền chọn cho mình một cách thức thanh toán nào hợp lý
nhất với mình, và đảm bảo việc thanh toán bằng thủ tục đó không gây bất lợi cho
65 Xem khoản 2 Điều 58 Công ước Viên 1980.
66 Hội đồng tư vấn Công ước về thương mại quốc tế (CISG – AC) là một tổ chức độc lập được hỗ trợ bởi
Viện Luật thương mại quốc tế tại Đại học Pace - Hoa Kỳ và Trung tân nghiên cứu Luật thương mại quốc tế của
Trường Luật Queen Mary thuộc Đại học London - Anh. CISG – AC được thành lập để hỗ trợ sự hiểu biết của
Liên Hiệp Quốc đối với Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) và thúc đẩy việc
giải thích thống nhất CISG. Để biết thêm thông tin chi tiết vui lòng truy cập đại chỉ . http://www.cisg-ac.org/ 67
Xem ý kiến của Hội Đồng Tư vấn CISG, CISG Advisory Council Opinion No. 11, CISG – AC,
địa chỉ truy cập ngày 03/03/2014: http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/CISG-AC-op11.html
43
người bán. Đồng thời việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán này thì người mua cũng phải
tuân theo bất cứ quy định pháp luật liên quan đến việc thanh toán để nhằm đảm bảo
việc thanh toán được thực hiện. Các hành vi sau có thể được áp dụng để hanh toán như
mở một thư tín dụng, thanh toán qua ngân hàng bảo lãnh, mua ngoại hối, xin phép để
chuyển tiền ra nước ngoài, mọi chi phí này người mua đều phải thực hiện để việc thực
hiện nghĩa vụ của mình được hoàn tất68
. Việc thanh toán tiền hàng là nghĩa vụ quan
trọng nên bên mua cần được thực hiện với tinh thần thiện chí đúng với tinh thần của
Công ước.
Việc xác định giá.
Điều kiện về giá cả hàng hóa được ấn định trong hợp đồng – đây là một nội
dung cơ bản để xây dựng nên hợp đồng69
, nó tạo nên một trong các yếu tố để hợp đồng
có hiệu lực. Tuy nhiên, có nhiều cách xác định giá, mỗi cách xác định lại có những ưu
thế và khó khăn riêng, CISG cũng đã dự báo được việc này.
Tại Điều 56, quy định về Đối với giá cả được ấn định theo trọng lượng của
hàng hóa thì trong trường hợp có nghi ngờ, giá sẽ được xác định theo trọng lượng
tịnh. Trọng lượng tịnh là khối lượng của sản phẩm có trong bao bì, phần khối lượng
bao bì không được tính. Như vậy, để xác định trọng lượng là bao nhiêu để thanh toán
tiền hàng thì người mua cần xác mịnh xem khối lượng bao bì sản phẩm là bao nhiêu để
không phải thanh toán phần đó.
3 Bảo quản hàng hóa.
Việc nhận hàng đúng theo hợp đồng và Công ước Viên, tuy nhiên sau đó phát
sinh một số sự không phù hợp làm mất đi mong muốn ban đầu khi giao kết hợp đồng
thì bên mua vẫn có quyền từ chối hàng hóa (trả hàng về). Trong khi hàng hóa chưa
được chuyển giao cho người bán thì người mua phải có nghĩa vụ bảo quản hàng hóa
một cách hợp lý, hoặc giữ hàng hóa cho đến khi bên bán hoàn trả các chi phí hợp lý
phát sinh từ khi bảo quản hàng hóa.
Hàng hóa dưới sự định đoạt của người mua khi hàng đã được nhận hoặc hàng
được giao cho người vận chuyển của bên mua. Khi từ chối hàng hóa trong trường hợp
này thì người mua phải nhận hàng rồi sau đó có những biện pháp đối với hàng hóa cho
68 Xem hướng dẫn Điều 54 – CISG của Ban thư ký UNCITRAL về Dự thảo 1978 của CISG. Địa chỉ truy
cập: http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/text/secomm/secomm-54.html. ngày 03/03/2014: 69
Xem Khoản 3 Điều 19 Công ước Viên 1980.
44
đến khi hàng được chuyển giao cho người bán. Khi có lý do hợp lý để từ chối hàng
hóa thì người mua không mất trách nhiệm với hàng hóa mà còn phải bảo quản hàng
hóa một cách tốt nhất có thể bán hàng đi để giảm sự thiệt hại cho bên bán nếu hàng đó
là loại hàng mua hỏng. Khi bán hàng hoặc khi gửi trả lại hàng thì phải có thông báo để
ngừoi bán có biện pháp tiếp nhận hoặc sử lý khác phù hợp hơn, nhằm bảo đảm lợi ích
cho bên bán. Mọi chi phí phát sinh bên bán phải chịu (Điều 86 và điều 87, 88).
45
CHƢƠNG III
BIỆN PHÁP XỬ LÝ VIỆC KHÔNG THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG
Trong mỗi hệ thống pháp luật thì bên có quyền – bên không được thực hiện
đúng hợp đồng, được trang bị nhiều biện pháp mà họ có thể sử dụng tùy thuộc vào mỗi
hoàn cảnh. Công ước Viên 1980 có những biện pháp như vậy đối với bên có quyền.
Bên cạnh đó, CISG còn dự liệu những biện pháp mà bên có nghĩa vụ có thể sử dụng
trước việc không thực hiện đúng hợp đồng.
Mỗi biện pháp xử lý mà CISG dự liệu cho bên có quyền được áp dụng tùy vào
mỗi hoàn cảnh. Chính vì vậy, các biện pháp mà bên có quyền có thể sử dụng được
trình bày theo logic sau: Biện pháp nào đạt được mục đích mà họ mong đợi khi giao
kết hợp đồng được ưu tiên đề cập trước và khuyến nghị bên có quyền sử dụng trước70
.
1. Buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng.
1.1 Đặt vấn đề.
CISG không nói về thế nào là buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng mà chỉ
để cập đến việc khiếu nại. Tuy nhiên hiểu theo tinh thần của CISG là việc giải thích
một vấn đề không rõ ràng thì sẽ được giải thích theo nghĩa mà một người bình thường
có cùng phẩm chất với bên kia và được đặt vào hoàn cảnh tương tự cũng hiểu như vậy
(Khoản 2 Điều 8 CISG). Như vậy, ta hiểu buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị
vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác
để hợp đồng được thực hiện ( Khoản 1 Điều 297 Luật thương mại Việt Nam 2005).
Hay tại Điều 7.2.2 – Bộ nguyên tắc Unidroit 2004 có quy định ―khi một bên có nghĩa
vụ thực hiện một công việc nhưng không thực hiện, bên kia có thể yêu cầu bên vi
phạm phải thực hiện‖. Theo tinh thần của CISG thì ―không thực hiện‖ bao gồm việc
thực hiện không đúng hợp đồng, thực hiện không đầy đủ, không thực hiện một nghĩa
vụ hay không thực hiện trong trường hợp hợp không được miễn trách hoặc không thực
hiện nghĩa vụ của mình do người thứ ba mà họ nhờ thực hiện toàn phần hay một
phần71
.
1.2 Điều kiện để buộc bên kia thực hiện đúng hợp đồng.
70 PGS.TS. Đỗ Văn Đại, Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt
Nam, NXB Chính Trị Quốc Gia, năm 2013, trang 48. 71
Xem Chương V – Mục 5: Miễn trách nhiệm, trong báo cáo này.
46
Theo những nguyên tắc chung về tính ràng buộc của hợp đồng, bên có quyền
yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện một công việc nào đó theo hợp đồng hoặc thực
hiện một công việc do tòa án hay trọng tài phán quyết. Khi bên kia vi phạm nghĩa vụ
của mình – không thực hiện nghĩa vụ, thực hiện nghĩa vụ không đầy đủ, thực hiện trái
với hợp đồng với pháp luật. Thì lúc này cũng bắt đầu phát sinh việc buộc bên kia thực
hiện hợp đồng là có hiệu lực, trong các trường hợp sau:
- Khi người bán giao hàng, chứng từ không phù hợp một phần hoặc toàn
bộ72
.
+ Giao hàng không phù hợp với hợp đồng.
+ Giao hàng bị ràng buộc bởi bên thứ 3.
+ Giao thiếu chứng từ.
+ Giao hàng sai địa điểm.
+ Có những dấu hiệu của việc không thực hiện đúng hợp đồng.
- Khi người người mua không nhận hàng, thanh toán tiền hàng, bảo quản
hàng hóa khi dưới sự định đoạt của mình, hay hàng hóa bị ràng buộc về quyền hạn hay
yêu sách của bên thứ ba73
.
Với điều kiện là bên có quyền phải thông báo cho bên kia – phải tới tay bên
kia và không hề biết về những sự không phù hợp của hàng hóa liên quan đến yếu tố
mà bên có quyền đã biết hoặc không thể không biết74
.
Khi áp dụng biện pháp buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng, bên yêu cầu
không cần chứng minh là mình có thiệt hại. Như các quy định chung, buộc tiếp tục
thực hiện đúng hợp đồng chỉ là một hệ quả của hiệu lực ràng buộc thực hiện hợp đồng
hợp pháp. Họ chỉ cần chứng minh rằng lợi ích họ mong đợi chưa được bên có nghĩa vụ
cung cấp. Ngay cả trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng thì biện pháp này vẫn có
thể được áp dụng và hợp đồng vẫn có thể tiếp tục được thực hiện chứ không bị hủy bỏ.
1.3 Cách thức của việc buộc bên kia thực hiện đúng hợp đồng.
1.3.1 Về hình thức:
Theo như quy định của Công ước thì hình thức của hợp đồng được chứng
minh bằng mọi hình thức kể cả bằng nhân chứng. Tuy nhiên, đối với việc sửa đổi hợp
72 Xem Chương II, Phần 2 - Nghĩa vụ của người bán trong báo cáo này.
73 Xem Chương II, Phần 3 – Nghĩa vụ của người mua trong báo cáo này.
74 Khoản 4 Điều 48 và Điều 41 Công ước Viên 1980.
47
đồng có hình thức là văn bản thì việc sửa đổi, bổ sung phải bằng văn bản. Chính vì
vậy, hiểu theo nghĩa rộng thì mọi hình thức thông báo đều có thể chấp nhận được.
Nhưng để đảm bảo cho sự chắc chắn thì khi có yêu cầu các bên nên thông báo bằng
văn bản, vì hiện tại với sự phát triển về công nghệ về thông tin việc thông báo bằng
văn bản là vô cùng đơn giản. Trong nhiều trường hợp các bên cũng có thể dựa vào thói
quen của hai bên, những mối quan hệ trước đó, vì những hành vi đó đều có thể được
viện dẫn để chứng minh cho hành vi của mình.
1.3.2 Thời gian thông báo:
Thời gian thông báo thường là sau khi phát hiện được những hành vi của bên
có nghĩa vụ là làm trái hợp đồng, pháp luật, thực hiện nghĩa vụ không đầy đủ hay
không thực hiện nghĩa vụ của mình. Vì cả hai bên đều mong muốn mục đích của mình
được thực hiện. Chính bởi vậy, bên có quyền cũng phải tạo những điều kiện thuận lợi
nhất định cho bên kia; như giải quyết vấn đề kịp thời vì nếu càng kéo dài thời gian thì
việc khắc phục càng khó. CISG đưa ra phạm vi thời gian thông báo tại Điều 39 đó là
―thời gian hợp lý‖ thời gian hợp lý có thể được chứng minh bằng những tình tiết của
hoàn cảnh với tính thiện chí được nêu cao. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp phức tạp
thì Công ước Viên cũng đưa một phạm vi có tính bắt buộc cao đó là ―trước 2 năm kể
từ khi bên mua nhận hàng‖.
1.3.3 Nội dung thông báo:
Phải chỉ rõ những sai phạm của bên không thực hiện nghĩa vụ về những thông
tin, về những tính chất, mức độ vi phạm. Hay về những tính chất của quyền hạn hoặc
yêu sách của bên thứ ba75
. Khi thông báo càng chi tiết về việc không thực hiện nghĩa
vụ thì càng làm cho bên kia có được biện pháp tốt nhất để họ thực hiện đúng và đủ
những hành vi vi phạm trước đó.
1.4 Hệ quả của việc yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng.
- Khi một yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng được thông báo có hiệu lực
thì bên được thông báo phải có trách nhiệm xác minh những thông tin đó. Nếu không
chứng minh được những thông tin đó là không đúng, thì bên được thông báo yêu cầu
phải có nghĩa vụ thực hiện đúng theo hợp đồng hoặc thực hiện đúng trong thời hạn bên
kia cho phép (nếu có) trong thông báo yêu cầu.
75 Xem Điều 43 Công ước Viên 1980.
48
- Mọi chi phí để khắc phục, thực hiện đúng hợp đồng là do bên vi phạm
phải chịu trách nhiệm.
- Đồng thời bên có quyền yêu cầu cũng phải có nghĩa vụ hỗ trợ, tạo điều
kiện trong phạm vi cho phép đối với quá trình hoàn thiện hợp đồng của bên kia.
- Khi đã có một biện pháp bảo hộ không thích hợp với những yêu cầu
buộc thực hiện hợp đồng thì họ không được quyền yêu cầu bên kia thực hiện hợp đồng
(khoản 1 Điều 46 và Điều 62).
- Khi một bên đã sử dụng đến biện pháp bảo hộ này một cách đúng pháp
luật thì bên bị yêu cầu không được trì hoãn bất cứ một thời gian nào kể cả việc Tòa án
hay Trọng tài cho phép. Theo khoản 3 Điều 45 và khoản 3 Điều 61 CISG quy định thì
Tòa án và trọng tài không được can thiệp vào vấn đề này.
- Tòa án không bị bắt buộc phải đưa ra phán quyết buộc bên kia thực hiện
thực sự hợp đồng trừ trường hợp pháp luật của quốc gia đó có quy định đối với những
hợp đồng không do Công ước Viên 1980 điều chỉnh (Điều 28 CISG). Bởi lẽ, bản chất
của hợp đồng là dựa trên ý trí tự nguyện của hai bên nhằm mục đích lợi nhuận, cho
nên khi họ nhận thấy cơ hội bị mất đi thì họ chấp nhận vi phạm hợp đồng chứ không
thực hiện hợp đồng.
2 Yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, khi xảy ra hành vi vi phạm hợp
đồng, một trong những chế tài được áp dụng phổ biến là bồi thường thiệt hại, theo các
án lệ thì 100% vụ tranh chấp các bên đều có yêu cầu bồi thường thiệt hại76
. Đây là một
chế tài mà tất cả các hệ thống pháp luật đều quy định rất rõ như Luật Thương Mại Việt
Nam 2005 đã quy định tại điều 302, Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại
quốc tế đã dành Mục IV Chương 7 để thống nhất về vấn đề bồi thường thiệt hại và
Công ước Viên 1980 cũng đã dành Mục II Chương 5 cho chế tài bồi thường thiệt hại.
Với một chế tài quan trọng và có phần phức tạp, bởi vậy đòi hỏi chúng ta cần
phải hiểu rõ những quy định và cách giải thích và trong thực tế áp dụng về vấn đề này.
76 Xem 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc, Trung tâm trọng tài quốc tế VIAC, Hà Nội, 2002.
49
2.1 Khái niệm.
Việc không thực hiện đúng hợp đồng thường phát sinh thiệt hại và vấn đề bồi
thường thiệt hại được đặt ra. Thuật ngữ bồi thường thiệt hại rất quen thuộc trong các
văn bản cũng như khoa học pháp lý liên quan đến hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm do không thực hiện hay thực
hiện khôg đúng nghĩa vụ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Khái niệm này được
nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới áp dụng77
. Công ước Viên 1980 không đưa ra
một khái niệm cụ thể nào về bồi thường thiệt hại, tuy nhiên tại điều 74 của Công ước
đã đưa ra khung cơ bản cho việc đền bù thiệt hại: ―Thiệt hại do vi phạm hợp đồng của
một bên là tổng số các tổn thất kể cả khoản lợi bị bỏ lỡ, mà bên kia phải chịu hậu quả
của việc vi phạm hợp đồng‖.
Với quy định trên thì bồi thường thiệt hại là ―bồi thường những tổn thất đã
gánh chịu‖. Tuy nhiên, về vấn đề miễn trách được đặt ra, bởi vậy mà chúng ta cần xác
định khi nào trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh trong hợp đồng? Đồng thời cần
xác định nhưng thiệt hại nào được bồi thường khi thiệt hại phát sinh? Và bồi thường
phải theo nguyên tắc nào?
2.2 Điều kiện để yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại.
Công ước Viên 1980 đã quy định về cách xác định các căn cứ phát sinh yêu
cầu bồi thường tại Điều 74 dựa trên các yếu tố như sau:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng.
- Có tổn thất đã gánh chịu và khoản lợi bị bỏ lỡ.
- Tổn thất là hậu quả của hành vi vi phạm.
Ngoài những quy định tại Điều 74 thì cũng cần chú ý đến việc thỏa thuận ngay
từ đầu về biện pháp khắc phục khi vi phạm hợp đồng. Ví dụ, các bên có thể giới hạn
phạm vi trách nhiệm trong trường hợp một bên chấm dứt hợp đồng vì các sự kiện nhất
định. Ngoài ra các bên còn có thể thỏa thuận một điều khoản bồi thường thiệt hại về
việc thanh lý, một khoản tiền phạt vi phạm khi một bên có hành vi vi phạm.
2.2.1 Có hành vi vi phạm hợp đồng.
Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của một bên thì phải xác định
được bên đó đã có ―hành vi vi phạm hợp đồng‖ (tức là một trường hợp nghĩa vụ của
77 Xem Giáo trình luật hợp đồng thương mại quốc tế, NXB Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
2007, trang 57.
50
hợp đồng không được thực hiện đúng với nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng).
Trách nhiệm này chỉ được đề cập đến một cách minh thị đối với một số loại nghĩa vụ
cụ thể.
Khi bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa và chứng từ liên quan đến hàng hóa thì
họ phải thực hiện nghĩa vụ đúng thời gian, đúng địa điểm và đúng hình thức như quy
định trong hợp đồng, hoặc giao hàng, giao chứng từ trước thời hạn nhưng tồn tại
những điểm không phù hợp78
. Nếu người mua không thực hiện hoặc thực hiện một
cách chậm trễ hay thực hiện không đầy đủ một nghĩa vụnào đó theo hợp đồng mua bán
hay theo Công ước thì hành vi đó cũng làm căn cứ để xác định cho việc yêu cầu thiệt
hại. Ở đây căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là không thực hiện một
công việc mà mình phải thực hiện.
Một hành vi vi phạm đã được loại trừ nhưng vẫn dẫn đến một thiệt hại bất kể
nào cho bên mang quyền yêu cầu bồi thường thì bên vi phạm vẫn phải bồi thường nếu
bên mang quyền yêu cầu chứng minh được khoản tổn thất từ hành vi đó gây ra (Điều
48 CISG).
2.2.2 Có tổn thất đã gánh chịu và những khoản lợi bị lỡ.
Tổn thất đã phát sinh: Việc không thực hiện đúng hợp đồng thường làm
phát sinh thiệt hại nhưng thiệt hại không luôn luôn tồn tại khi có việc không thực hiện
đúng hợp đồng79
. Trong thực tế, không hiếm trường hợp có việc không tuân thủ đúng
hợp đồng nhưng không có thiệt hại.
Ví dụ, “bên bán đã vận chuyển hàng tới địa điểm giao hàng cho bên mua tại
nước A, nhưng vì tình hình tài chính của bên mua đang gặp khó khăn, nên không nhận
hàng. Nhưng bên mua đã giới thiệu cho bên bán một đối tác mới và bên bán đã bán
được lô hàng đó với giá cao hơn giá bán cho bên mua ban đầu‖. Như vậy, việc bên
mua hàng không thực hiện nghĩa vụ nhận hàng này là bị coi là không thực hiện đúng
hợp đồng. Tuy nhiên, bên bán đã bán được lô hàng đó với giá cao hơn nên không có
một thiệt hại nào gây ra cho bên bán. Bởi vậy, ngoài việc xác định tồn tại việc không
thực hiện đúng hợp đồng, cần phải xác định thêm là có tồn tại thiệt hại hay không?
78 Xem Điều 34 và 51 Công ước Viên 1980.
79 Xem PGS.TS Đỗ Văn Đại, Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật
Việt Nam, NXB Chính Trị Quốc Gia, 2013, trang 79.
51
Vậy như nào là có tồn tại thiệt hại? Ở Điều 74 thì thiệt hại là tổn thất đã gánh
chịu và các khoản lợi bị bỏ lỡ.
Điều kiện tổn thất đã gánh chịu không được minh thị tại Công ước. Theo tinh
thần của Công ước thì thiệt hại chỉ liên quan đến việc thiệt hại về kinh tế còn về thân
thể thì Công ước không điều chỉnh – vấn đề liên quan đến con người là không được
tính để xác định thiệt hại (Điều 5 CISG). Như vậy, chỉ cần chứng minh (bằng mọi
cách) thiệt hại về lợi ích kinh tế - lợi ích mà họ mong muốn trong hợp đồng là đủ để
yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại.
Các khoản lợi bị bỏ lỡ: Vấn đề tương tự đã được quy định trong bộ nguyên
tắc hợp đồng thương mại quốc tế Unidroit có quy định về khả năng dự đoán trước đó
là những thiệt hại có thể lường trước hoặc dự đoán trước vào lúc thời điểm giao kết
hợp đồng80
. Còn đối với Công ước Viên tuy không có quy định cụ thể nhưng tại Điều
25 có quy định khoản lợi bị bỏ lỡ nó được hiểu như là quyền chờ đợi trên cơ sở của
hợp đồng. Như vậy, với quy định của CISG và theo nguyên tắc phổ biến – CISG cho
phép giải thích theo cách hiểu của người bình thường, thì các khoản lợi bị bỏ lỡ là
những gì mong muốn, mục đích của họ khi hai bên thực hiện hợp đồng. Để nó được rõ
ràng hơn thì bên bị thiệt hại phải chứng minh được các khoản thiệt hại mình đã gánh
chịu và mất cơ hội nhận lợi ích một các trung thực, rõ ràng dựa trên căn cứ của hợp
đồng, thực tế thị trường, thói quen và mối quan hệ của hai bên.
Tổn thất là hậu quả của hành vi phạm.
Không phải cứ có thiệt hại là phát sinh trách nhiệm bồi thường và cũng không
phải cứ có việc không thực hiện đúng hợp đồng là trách nhiệm này phát sinh. Hai khía
cạnh này là hoàn toàn độc lập trong việc chứng minh thiệt hại, và người bị tổn thất
phải có nghĩa vụ chứng minh sao cho chúng có mối liên hệ mật thiết thì mới được bồi
thường thiệt hại.
Tổn thất đã gánh chịu và khoản lợi bị bỏ lỡ đối với bên khia là hậu quả của sự
vi phạm hợp đồng – một cách gọi về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi với tổn thất.
Đây là một trong những yếu tố để xác định các khoản bồi thường được quy định tại
điều 74. Như vậy, để một yêu cầu bồi thường thiệt hại đúng thì trước hết cần xác định
những hành vi vi phạm nghĩa vụ và vì không thực hiện đúng nghĩa vụ đó dẫn tới
80 Xem Điều 7.4.4 Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế - Unidroit 2004.
52
những tổn thất, khoản lợi bị lỡ. Hai yếu tố trên phải gắn liền với nhau, từ việc này dẫn
tới việc kia thì đó mới là sự tổn thất được bồi thường. Cũng có thể hiểu là hành vi vi
phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
2.3 Cách thức yêu cầu đòi bồi thƣờng thiệt hại.
Mỗi khi áp dụng một biện pháp bảo hộ nào, thì bên áp dụng cần có những
hành động phù hợp theo quy định của CISG. Không thể có những hành vi tùy tiện,
ngay cả khi những hành vi đó không trái pháp luật, nhưng CISG muốn các bên đối xử
với nhau một cách thiện chí nhất có thể. Và việc làm đúng các quy tắc thì sẽ giúp cho
bên đã có những hành vi không phù hợp sẽ có biện pháp xử lý tốt và đảm bảo về thời
gian. Để đáp ứng được việc yêu cầu bồi thường thiệt hại thì cần chú ý các vấn đề sau.
2.3.1 Thông báo:
Khi bên mang nghĩa vụ có những hành vi vi phạm và bên mang quyền phát
hiện thì phải thông báo ngay khi phát hiện những sai phạm đó. Theo quy định tại điều
39 thì phải thông báo trong thời gian hợp lý, và chậm nhất là 2 năm đối với những sự
không phù hợp mà mới phát sinh và cả hai bên đều không biết trước đó. Còn khi việc
người bán đã phát hiện những sự không phù hợp của hàng hóa mà không thông báo
cho ngừoi mua biết thì thời gian thông báo của người mua không quan trọng nữa mà
chỉ quan trọng đến mức độ của vi phạm (Điều 40).
Để yêu cầu bồi thường với những khoản lợi bị lỡ thì điều tin quyết trong mọi
trường trường hợp bên bị vi phạm phải thông báo ngay khi có thể cho bên vi phạm
biết81
. Điều này nhằm cho bên vi phạm có biện pháp xử lý để giảm thiểu thiệt hại.
Khoản lợi bị lỡ thường liên quan đến cơ hội, trong phạm vi thời gian để nắm lấy cơ hội
nếu các sự không phù hợp được giải quyết thì việc các khoản lợi được đảm bảo.
Như vậy, trước khi có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì bên yêu cầu cần phải
thông báo tin tức về sự không phù hợp liên quan đến nghĩa vụ của bên kia trong một
thời gian ngắn nhất có thể. Điều này nhằm đảm bảo quyền được sửa đổi, khắc phục
của bên mang nghĩa vụ kia. Nếu sau khi được thông báo mà bên vi phạm không có
những biện pháp nhằm ngăn chặn những thiệt hại xảy ra thì bên mang quyền được
quyền yêu cầu bồi thường hại với những khoản thiệt hại được chứng minh.
81 Điều 44 CISG: Bất chấp những quy định của Khoản 1 ĐIều 39 và khoản 1 Điều 43, người mua có thể
giảm giá chiếu theo Điều 50 hay đòi bồi thường thiệt hại, ngoại trừ khoản lợi bị bỏ lỡ, nếu người mua có lý do
hợp lý để giải thích vì sao họ không thông báo tin tức cần thiết cho người mua.
53
2.3.2 Chứng minh thiệt hại.
Thiệt hại chỉ được bồi thường khi hành vi vi phạm của một bên dẫn tới thiệt
hại có thực và khoản lợi bị lỡ (Điều 74). Chính bởi vậy, mà việc chứng minh các thiệt
hại là việc làm bắt buộc. Vì không thể đòi bên vi phạm bồi thường những thiệt hại mà
thực tế không xảy ra hoặc không bao giờ xảy ra. Để khôi phục thiệt hại do vi phạm
hợp đồng, bên vi phạm phải chứng minh rằng mình đã chịu một mất mát từ kết quả
của sự vi phạm.
Điều 74 cho phép việc bồi thường gồm cả thiệt hại sẽ xảy ra, có nghĩa là
những thiệt hại vẫn chưa xảy ra – mà đã dự liệu vào lúc giao kết, những khả năng xảy
ra gần như chắc chắn. Sự tồn tại của các thỏa thuận liên quan đến việc chứng minh
thiệt hại có thể dẫn đến việc xử sự khác biệt của các bên vơi mỗi hoàn cảnh. Ví dụ,
người mua cố gắng để chứng minh thiệt hại trong tương lai thường dựa trên những giả
định về giá cả thị trường và số lượng bán hàng trong tương lai. Nếu người bán vi phạm
việc cung cấp sản phẩm – sản phẩm mới hoặc sản phẩm mà người mua trước đây
không kinh doanh, thì rất ít bằng chứng cụ thể về việc người mua bị thiệt hại để yêu
cầu bồi thường của mình mà chủ yếu là khoản lợi nhuận.
Trong trường hợp này, nếu chỉ quá phụ thuộc vào bằng chứng liên quan đến
thực tế thì bên bị vi phạm sẽ phải chịu một mất mát mà không thể đòi bên kia bổi
thường. Như vậy, là đi trái ngược lại với Công ước, vì nhằm đảm bảo cho sự thống
nhất về hợp đồng mua bán hàng hóa thì ngoài việc căn cứ pháp lý còn cần sự thiện chí
của các bên để thúc đẩy việc giao thương.
Việc chứng minh tổn thất này phải nằm trong phạm vi khả năng xảy ra chứ
không thể viện vào vi phạm của bên mang nghĩa vụ để đòi bồi thường những khoản
bất hợp lý. Ví dụ, ―nếu chiếc xe đua được giao cho người mua quá chậm trễ dẫn đến
không thể tham gia cuộc đua với tay đua nổi tiếng nhất mùa giải thì người mua không
thể yêu cầu người bán bồi thường số tiền đoạt giải cho dù tay đua có nổi tiếng thế
nào”.
Bên bị vi phạm có trách nhiệm chứng minh sự thiệt hại một cách hợp lý mà đã
phải chịu, sẽ phải chịu. Tuy nhiên, không cần phải chứng minh với độ chính xác toán
học. Công ước không hướng dẫn cụ thể về cách tính lợi nhuận bị mất. Tòa án, trọng tài
được trao quyền để xác định tính toán đối với mỗi trường hợp cụ thể. Dựa trên nguyên
tắc của Điều 74 – có nghĩa là, mục tiêu của hợp đồng và đặt bên bị vi phạm ở vị trí
54
tương tự đã có trong nền kinh tế tương ứng nếu hợp đồng được thực hiện. Việc đặt vào
một thị trường khác với thị trường mong muốn của bên bị vi phạm – xác định dựa vào
hợp đồng, nhằm hạn chế thiệt hại lợi mhuận bị mất là không được áp dụng82
.
2.3.3 Các khoản bồi thƣờng.
Theo điều 74 các khoản bồi thường bao gồm tổn thất đã gánh chịu và khoản
lợi bị bỏ lỡ.
Tổn thất đã gánh chịu. Bao gồm những chi phí liên quan đến việc ký kết
hợp đồng, việc xử lý hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ như bảo quản hàng hóa,
khoản chênh lệch giá cả khi phải mua, bán hàng thay thế do bên kia không thực hiện
nghĩa vụ của mình, tiền lãi trả chậm và việc bồi thường cho bên thứ ba kiện tụng – là
kết quả của sự vi phạm. Tuy nhiên, đối với chi phí luật sư trong kiện tụng thì theo ý
kiến số 6 của Hội đồng tư vấn CISG đã cho rằng đó là một phần của thủ tục chứ không
phải là luật định.
Khoản lợi bị lỡ. Có những thiệt hại chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng rất khó
xác định mức độ thiệt hại. Chẳng hạn trường hợp bỏ lỡ cơ hội ví dụ như trong mùa hè
lượng tiêu thụ sản phẩm điều hòa sẽ tăng lên – khả năng thu được lợi nhuận là có thể
dự đoán được. Như vậy, việc bị bở lỡ cơ hội thu lợi nhuận phải tỉ lệ với khả năng xuất
hiện những cơ hội đó.
Bên việc xác định các khoản bồi thường hợp lý thì bên yêu cầu bồi thường
cũng phải tính toán tổng mức bồi thường cũng phải hợp lý. Theo Điều 74 thì tổng số
tiền bồi thường phải nhỏ hơn hoặc bằng tổn thất và khoản lợi bị lỡ mà bên bị vi phạm
đã dự liệu vào lúc giao kết hợp đồng. Việc yêu cầu bồi thường không làm quá lợi cho
bên bị vi phạm, vì mục đích của hợp đồng là đáp ứng được mục đích của hai bên,
không chỉ vì một phía mà bỏ qua quyền lợi của bên kia. Việc xảy ra vi phạm chỉ yêu
cầu bên vi phạm khắc phục những hậu quả đã gây ra chứ không thể bắt buộc phải thêm
điều kiện lợi nhuận cho bên bị vi phạm.
2.3.4 Tiền lãi và cách xác định giá.
Tiền lãi: Khi bên mua không thanh toán đủ hoặc gia hạn việc thanh toán thêm
một khoản thời gian để hoàn thành việc thanh toán tiền hàng hay mọi khoản tiền thiếu
khác (Điều 78). Việc không thanh toán đúng hạn đã gây ra khó khăn về việc sử dụng
82 Xem CISG Advisory Council Opinion No. 6 - Calculation of Damages under CISG Article 74. Địa
chỉ truy cập ngày 13/04/2014: http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/CISG-AC-op6.html#opinion
55
vốn của bên bán, chính vì vậy mà bên mua phải có trách nhiệm khắc phục những khó
khăn, bất lợi từ hành vi mình gây ra cho bên bị vi phạm nếu bên bị vi phạm có yêu
cầu. Công ước Viên 1980 không có quy định về việc xác định tiền lãi theo cách thức
nào. Theo phán quyết số T-5/08 của Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế thuộc
Phòng thương mại Serbia ở Belgrae83
, hội đồng trọng tài đã quyết định tính lãi xuất
theo quy định của Ngân hàng trung ương Châu Âu – nơi có trụ sở của bị đơn (người
Italy). Tính lãi xuất theo ngân hàng tối cao tại nơi người mua nhằm đảm bảo cho cả
hai bên, vì theo nguyên tắc của điều 74 thì các khoản bồi thường phải nhỏ hơn tổn thất
thực tế hoặc cùng lắm là bằng. Bởi vậy, việc xác định lãi xuất các trọng tài thường
quyết định tính lãi xuất theo ngân hàng quốc gia của nơi bị đơn hoặc nguyên đơn miễn
sao là có lợi cho nguyên đơn nhất. Về vấn đề này Hội đồng cố vấn CISG (CISG – AC)
cũng chuẩn bị ra Hướng dẫn số 14 về tiền lãi trong năm 2014 này84
.
Xác định giá hàng hóa khi hủy hợp đồng:
Khoản tiền chênh lệch giá giữa thời điểm ký kết hợp đồng với thời điểm hủy
hợp đồng là một trong các khoản có thể yêu cầu bồi thường theo điều 74. Để tính
khoản chênh lệch này thì giá hiện hành vào lúc tiếp nhận hàng hóa chứ không giá hiện
hành vào lúc hủy hợp đồng (khoản 1 Điều 76). Tại khoản 2 Điều 76 có quy định giá
hiện hành là giá ở nơi mà việc giao hàng đáng lẽ phải được thực hiện, trong trường
hợp không có giá hiện hành một cách cụ thể thì có thể tham chiếu một cách hợp lý tại
một nơi thích hợp nhất, tuy nhiên cần chú ý đến khoản chênh lệch trong chi phí vận
chuyển.
2.4 Hệ quả của việc yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại.
Với ý nghĩa khắc phục những thiệt hại thì việc yêu cầu bồi thường thiệt hại chỉ
là một trong các biện pháp bảo hộ mà bên bị vi phạm có thể yêu cầu bên vi phạm thực
hiện. Không giống như yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng, chỉ được dử dụng biện pháp
bảo hộ này mà không được sử dụng thêm biện pháp bảo hộ nào. Đối với việc một bên
yêu cầu bồi thường thiệt hại thì vẫn có quyền sử dụng các biện pháp bảo hộ khác
(Khoản 2 điều 45 và khoản 2 Điều 61).
83 Xem phán quyết tại địa chỉ: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/090105sb.html truy cập ngày 16/04/2014.
84 Theo thông tin của Viện thương mại quốc tế thuộc trường đại học Pace thì Hướng dẫn số 14 về Lãi xuất
của CISG-AC sẽ phát hành trong năm 2014. Truy cập vào địa chỉ sau để biết thêm thông tin:
http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/CISG-AC-op.html, truy cập ngày 17/04/2014.
56
Khi một yêu cầu bồi thường thiệt hại hợp pháp tức là bên vi phạm đã hết
những thời gian có thể làm giảm thiệt hại hoặc làm mất đi những thiệt hại. Chính bởi
vậy tại khoản 3 Điều 45, khoản 3 Điều 61 có quy định khi được yêu cầu bồi thường thì
bên bị yêu cầu không được trì hoãn việc thực hiện bồi thường, khi vụ việc được đưa ra
Tòa án hoặc Trọng tài thì các vị có thẩm quyền cũng không được gia hạn thêm khoản
thời gian nào. Chỉ khi bên yêu cầu đồng ý cho phép trì hoãn thì mới được.
Nếu bên yêu cầu bồi thường không cho bên phải bồi thường một thời gian hợp
lý thì rất có thể việc bên phải bồi thường để mặc cho sự không phù hợp đó tồn tại và
làm cho thiệt hại một tăng lên. Điều này không hề có lợi cho cả hai bên và không
đúng với tinh thần thiện chí của Công ước, bởi vậy mà các bên cần cân nhắc thật lỹ
lưỡng khi đưa ra những xử sự phù hợp, hợp với thực tế, hợp với hợp đồng và hợp với
Công ước.
3 Hủy hợp đồng.
3.1 Đặt vấn đề.
Trong các biện pháp xử ý việc không thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng là
biện pháp nặng nhất: triệt tiêu hợp đồng nên hợp đồng sẽ không thực hiện và ít nhất là
một bên không đạt được những gì họ mong đợi. Hủy hợp đồng chỉ là biện pháp cuối
cùng khi mà không thể còn biện pháp nào khác để tiếp tục hợp đồng cho dù là một
phần. Chính vì vậy mà pháp luật nói chung và Công ước nói riêng đã hạn chế cho phép
áp dụng biện pháp này.
Khi đã có đầy đủ căn cứ để hủy hợp đồng, bên có quyền sẽ tiến hành hủy hợp
đồng. Để bảo vệ người có nghĩa vụ, trong một số trường hợp bên có quyền phải thông
báo hủy hợp đồng và thông báo phải tiến hành trong một thời gian hợp lý kể từ thời
điểm có việc không thực hiện đúng hợp đồng (khoản 2 Điều 72). Bộ nguyên tắc Châu
Âu về hợp đồng cũng có quy định tương tự tại Điều 7.3.2.
Công ước Viên 1980 cũng cho phép tuyên bố hủy hợp đồng trước ngày thực
hiện hợp đồng nếu thấy rõ những hành vi, điều kiện của bên thực hiện nghĩa vụ sẽ gây
ra một vi phạm cơ bản đến hợp đồng. Nhưng để xác định những hành vi có thể gây ra
sự vi phạm đến nội dung cơ bản lại rất phức tạp vì mỗi bên có những điều kiện khác
nhau và không thể dựa vào những đánh giá chủ quan mà đưa ra những kết luận không
tạo điều kiện cho bên kia.
57
3.2 Điều kiện hủy bỏ hợp đồng.
3.2.1 Chấm dứt hợp đồng trong những trƣờng hợp miễn trách.
Quy định của CISG cho phép hủy hợp đồng cho cả hai trường hợp khi bên
không thực hiện chịu trách nhiệm (được gọi chung là vi phạm hợp đồng) và trường
hợp khi bên không thực hiện được do có những sự kiện bất khả kháng mà việc không
thực hiện đó tạo nên sự vi phạm cơ bản đến nội dung hợp đồng. Vì thế bên thiệt hại
không thể yêu cầu thực hiện một công việc hay một nghĩa vụ cụ thể hoặc đòi bồi
thường do không thực hiện hợp đồng.
Ví dụ: Một công ty A ở nước Pháp mua hoa quả của công ty B ở Phần Lan.
Nhưng sau đó dùng bùng nổ dịch tiêu chảy, chính phủ nước Pháp cho rằng là do các
mặt hàng nông sản xuất phát từ Phần Lan gây ra và đã áp dụng việc cấm nhập khẩu
những mặt hàng nông nghiệp từ nước Phần Lan. Mặc dù không do bên nào vi phạm
nhưng A, B vẫn có quyền hủy hợp đồng.
3.2.2 Quyền chấm dứt hợp đồng khi một bên vi phạm những nghĩa vụ cơ
bản.
Quyền chấm dứt hợp đồng khi một bên vi phạm nghĩa vụ tùy thuộc vào một số
yếu tố: Việc thực hiện nghĩa vụ quá trễ, không giao hàng, giao hàng không đúng quy
định theo hợp đồng, không trả tiền hoặc không nhận hàng trong một thời hạn đã được
bổ sung. Hay một bên đã có quá nhiều sai phạm dẫn đến bên bị thiệt hại không thể đạt
được mục đích đặt ra khi giao kết hợp đồng, hoặc hành vi của bên vi phạm hợp đồng
trong một hoàn cảnh cụ thể dẫn đến việc cho phép bên bị vi phạm có quyền chấm dứt
hợp đồng (điều 49 và điều 61).
- Các yếu tố quan trọng để xác định việc vi phạm hợp đồng là nghiêm trọng
hay không.
Việc vi phạm hợp đồng làm bên kia không đạt được mục đích của hợp
đồng. Các bên có quyền mong đợi những lợi ích từ hợp đồng và việc dự liệu này hoàn
toàn xác định được khi giao kết hợp đồng. Theo tinh thần của điều 78 thì sự mong đợi
một lợi ích khi ký hợp đồng là việc hợp pháp và hợp thực tế.
Không tuân thủ chặt chẽ nghĩa vụ. Theo điều 72 thì không những quan
tâm đến mức độ vi phạm mà còn lưu ý đến đặc tính của nghĩa vụ ví dụ như những
nghĩa vụ cơ bản xây dựng nên hợp đồng. Trong các hợp đồng thương mại thường có
những nghĩa vụ yêu cầu thực hiện nghiêm ngặt theo hợp đồng. Ví dụ, trong hợp đồng
58
mua bán hàng hóa, thời điểm giao hàng được xem là cực kỳ quan trọng, và trong giao
dịch về tín dụng chứng từ thì bộ hồ sơ phải tuân thủ theo những điều khoản ghi trong
thư tín dụng (L/C).
- Cố ý vi phạm hợp đồng.
Đối với những dấu hiệu mà một bên được quyền mong đợi bên thực hiện
nghĩa vụ nhận thấy hiển nhiên là vi phạm đó gây ra một vi phạm cơ bản đến hợp đồng.
Việc chấm dứt hợp đồng khi một bên có chủ ý làm những điều gây thiệt hại cho bên
kia đã vi phạm nguyên tắc thiện chí tại Điều 7. Tại khoản 3 Điều 72 quy định khi một
bên tuyên bố không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên có quyền được phép hủy hợp
đồng mà không cần phải thông báo mà tuyên bố hủy hợp đồng luôn.
- Mất lòng tin vào việc tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Theo khoản 1 Điều 72 một yếu tố quan trọng nữa là việc vi phạm hợp đồng
khiến bên bị vi phạm có quyền khẳng định rằng họ đã thấy những hành vi của bên phải
thực hiện nghĩa vụ gây một vi phạm đến nội dung cơ bản của hợp đồng. Từ những
hành vi của bên phải thực hiện nghĩa vụ đã làm cho bên có thể bị vi phạm mất đi sự tin
tưởng vào việc tiếp tục thực hiện hợp đồng của bên kia nữa. Nếu một thực hiện nghĩa
vụ làm nhiều lần, và những lần thực hiện hợp đồng trước đó đều có sai sót, bên bị vi
phạm có thể chấm dứt hợp đồng, thậm chí nếu như sai phạm trong những lần trước dù
là nhỏ nhặt nhưng những sự đó đã góp phần vào việc xây dựng nên nội dung của hợp
đồng.
3.2.3 Hủy hợp đồng trong trƣờng hợp giao hàng từng phần vi phạm.
Khoản 1 Điều 73 quy định: Nếu hợp đồng quy định giao hàng từng phần và
nếu sự kiện một bên không thực hiện một nghĩa vụ có liên quan đến một lô hàng cấu
thành một sự vi phạm cơ bản hợp đồng về một lô hàng đó thì bên kia có thể tuyên bố
hủy hợp đồng về phần lô hàng đó. Như vậy, với nhiều lô hàng nhưng một bên vi phạm
đến một trong số các lô hàng đó mà sự vi phạm này dẫn đến sự vi phạm nội dung cơ
bản của hợp đồng về lô hàng đó thì bên bị vi phạm được phép hủy hợp đồng.
Đối với việc vi phạm cơ bản tới một lô hàng mà sự kiện đó làm ảnh hưởng đến
những lô hàng sẽ được giao trong tương lai. Khi có được những chứng cớ chứng minh
rằng hành vi đó sẽ dẫn tới những lô hàng tiếp theo những bất lợi thì bên bị vi phạm có
thể hủy luôn những lô hàng tương lai (Khoản 2 Điều 73). Việc hủy này phải thực hiện
trong một thời gian hợp lý, không dài quá – nếu dài quá sẽ dẫn đến cho bên kia sẽ
59
chuẩn bị nhiều hơn về lô hàng đó mà không có những biện pháp khác, không ngắn quá
vì họ còn có thể có biện pháp tốt để hai bên đạt được mục đích hợp đồng. Quy định tại
khoản 2 Điều 73 này hoàn toàn khớp với ý nghĩa của Khoản 1 Điều 72 về việc dự
đoán sự rủi ro có thể thấy trước.
Với những lô hàng có tính liên kết với nhau, và chúng chỉ đạt được mục đích
hợp đồng của bên kia khi chúng kiên kết tốt với nhau. Vì vậy chỉ cần một lô hàng
trong số đó bị vi phạm thì bên kia không chỉ có quyền hủy lô hàng đó mà còn có quyền
hủy các lô hàng còn lại vì một lô bị vi phạm làm ảnh hưởng đến giá trị các lô khác
(khoản 3 Điều 73).
3.2.4 Mất quyền tuyên bố hủy hợp đồng khi nào?
Đối với ngƣời mua: Người mua hoàn toàn mất quyền hủy hợp đồng khi người
mua đã biết hoặc không thể không biết về những vi phạm nghĩa vụ của người bán hoặc
đã biết về những tuyên bố không thực hiện hợp đồng trước khi việc giao hàng xảy ra,
nhưng lại nhận hàng thì quyền hủy hợp đồng đã mất (Khoản 2 Điều 49).
Trong trường hợp hủy hợp đồng và các bên phải hoàn trả nhau những gì đã
nhận, nhưng bên mua không thể hoàn trả lại hàng hóa trong tình trạng về thực chất
giống như ban đầu khi họ nhận hàng (Điều 82). Nếu việc hàng hóa mất đi tình trạng
ban đầu do lỗi của người mua thì việc tuyên bố hủy hợp đồng là không được phép, nó
chỉ được phép khi mà hàng hóa bị thay đổi với tình trạng ban đầu là do lỗi của người
bán và người mua phải chứng minh điều đó.
Đối với ngƣời bán: Người bán cũng hoàn toàn mất quyền hủy hợp đồng khi
người bán đã biết trước về những vi phạm hợp đồng của người mua hoặc tuyên bố
không thực hiện một phần nghĩa vụ nào đó, nhưng lại chấp nhận sự thanh toán của
người mua thì kể từ khi nhận tiền hàng đó người bán mất quyền tuyên bố hủy hợp
đồng (Khoản 2 Điều 64).
Như vậy, việc biết trước về những vi phạm của bên kia, và không có phản ứng
gì về những vi phạm hợp đồng đó trước khi việc giao hàng và thanh toán được thực
hiện, thì đồng nghĩa với việc có thể chấp nhận những hành vi đó thể hiện qua việc
nhận hàng và nhận tiền thanh toán. Tại hai điều khoản này không hề mâu thuẫn với
nguyên tắc ―im lặng hoặc bất tác vi là đồng ý‖ quy định tại Khoản 1 điều 18. Bởi lẽ,
hành động nhận tiền và nhận hàng là những hành vi được xây dựng trên ý chí chủ quan
của các bên, vì vậy không thể nói ở đây các bên đã im lặng mà là đã ngầm cho rằng
60
những vi phạm của bên kia không dẫn tới sự ảnh hưởng tuyệt đối đến mục đích của
hợp đồng.
3.3 Cách thức hủy hợp đồng.
- Trường hợp phải thông báo trước.
Trong những trường hợp mà bên bán hoặc bên mua đã biết về những vi phạm
hợp đồng của bên kia hoặc đã nhận được tuyên bố rằng họ không thực hiện nghĩa vụ.
Mà những vi phạm đó đã làm ảnh hưởng đến nội dung cơ bản của hợp đồng nhưng
trước khi hàng hóa được giao hay việc thanh toán được diễn ra thì phải có tuyên bố
(thông báo) hủy hợp đồng cho bên kia biết. Thông báo này thể hiện sự không đồng ý
với những vi phạm và tuyên bố làm ảnh hưởng đến mục đích của hợp đồng. Bởi vậy,
việc thông báo hủy hợp đồng cần phải đúng lúc, trước khi cả hai bên đi quá sâu và dẫn
đến thiệt hại không cần thiết. Đồng thời việc thông báo còn ngăn không cho bên bị vi
phạm làm phương hại đến bên vi phạm khi tăng hoặc giảm giá trị của việc thực hiện.
Nó hoàn toàn đúng với tinh thần của Công ước đó là hợp tác thiện chí giữa các bên.
Trong những trường hợp khác mà khi nhận biết được những vi phạm của bên
kia nhưng vi phạm đó chưa làm ảnh hưởng đến lợi ích hoặc có thể làm giảm hay mất
đi sự không phù hợp đó của bên bị vi phạm thì bên bị vi phạm cần phải thông báo cho
bên vi phạm trong thời gian hợp lý để tạo cơ hội cho bên vi phạm sửa đổi, khắc phục
những sự không phù hợp đó để hợp đồng được tiếp tục thực hiện (Khoản 2 Điều 72),
nó chỉ không áp dụng trong trường hợp bên vi phạm đã tuyên bố không thực hiện
nghĩa vụ của mình (khoản 3 Điều 72.
- Trường hợp không phải thông báo trước.
Một vi phạm cơ bản đến nội dung cơ bản của hợp đồng hay một tuyên bố
không thực hiện nghĩa vụ hoặc kết thúc thời gian gia hạn cho việc khắc phục những vi
phạm đã hết thì lúc này bên bị vi phạm hoàn toàn có quyền hủy hợp đồng mà không
phải thông báo trước cho bên vi phạm. Hơn ai hết, người vi phạm hoàn toàn ý thức
được hậu quả của việc vi phạm đến nội dung cơ bản của hợp đồng là việc đã làm giảm
hoặc mất đi mục đích của hợp đồng. Khi một bên không đạt được mục đích khi giao
kết hợp đồng thì việc thực hiện tiếp hợp đồng không mang lại cho họ một lợi ích nào
cả. Bởi vậy, việc hủy hợp đồng mà không cần thông báo trước là hoàn toàn được phép.
61
3.4 Hệ quả của việc hủy hợp đồng.
- Việc giải quyết tranh chấp và các quyền nghĩa vụ của hai bên trong trường
hợp hợp đồng bị hủy.
Điều khoản giải quyết tranh chấp được hiểu như một điều khoản độc lập với
hợp đồng. Nó là việc quan trọng cuối cùng của hợp đồng, vì khi phát sinh hủy hợp
đồng thì bắt đầu phát sinh một bên có lỗi, một bên không có lỗi hay một bên lỗi ít, một
bên lỗi nhiều. Hủy hợp đồng thì không có nghĩa sẽ chấm dứt quan hệ giữa hai bên mà
sẽ bắt đầu phát sinh một số quan hệ mơi như quan hệ bồi thường, và để cho các quan
hệ đó tiếp tục được bảo vệ thì điều khoản tranh chấp không mất giá trị pháp luật.
Những quyền và nghĩa vụ trong trường hợp hợp đồng bị hủy cũng không bị
hủy theo hợp đồng. Vì đây là thảo thuận nhằm giải quyết sau khi hợp đồng bị hủy. Nó
làm cho các bên rõ ràng và thống nhất về việc xử lý các hậu quả của hủy hợp đồng
(Khoản 1 ĐIều 81)
- Các bên phải hoàn lại cho nhau những gì đã nhận từ bên kia, như tiền thanh
toán, chứng từ hàng hóa, hàng hóa. Trong trường hợp một bên phải hoàn lại những gì
đã nhận thì phải hoàn trả vào thời gian theo thỏa thuận hoặc vào thời gian theo phán
quyết của Tòa án, Trọng tài. Khi cả hai bên đều bị buộc phải thực hiện việc hoàn lại,
thì họ họ phải làm việc này cùng lúc (Khoản 2 Điều 81).
- Hủy hợp đồng vẫn có thể sự dụng biện pháp bảo hộ khác.
Khi tuyên bố hủy hợp đồng thì bên tuyên bố không thể yêu cầu bên vi phạm
thực hiện đúng hợp đồng, hay giao hàng thay thế. Ma chỉ được sử dụng biện pháp bảo
hộ yêu cầu bồi thường thiệt hại do những hành vi của bên vi phạm làm ảnh hưởng đến
những lợi ích của họ hay những tổn thất mà họ đã phải gánh chịu hoặc sẽ phải gánh
chịu.
- Trách nhiệm khi hoàn tiền hàng.
Nếu như người mua phải hoàn trả hàng hóa về tình trạng ban đầu, thì ngừoi
bán cũng phải hoàn trả tiền đã nhận đồng thời trả tiền lãi trên tổng số tiền hàng đã
nhận kể từ ngày thanh toán (khoản 1 Điều 84). Điều này là hoàn toàn hợp lý vì khi một
khoản tiền lớn đã không sinh được lợi theo mong muốn trong một thời gian dài thì
việc yêu cầu trả lãi chỉ là việc làm khắc phuc một phần thiệt hại mà thôi.
Không chỉ người bán được sử dụng tiền hàng trong một thời gian dài mà
người mua cũng có thể được hưởng từ hàng hóa của người bán. Và chỉ khi nào người
62
bán chứng minh được sự hưởng lợi đó là có thể và đã được người mua sử dụng. Bởi lẽ,
hàng hóa không giống như tiền nó chỉ có thể thu được lợi ích khi trực tiếp đem ra sử
dụng, còn tiền không cần đầu tư mà chỉ cần gửi ngân hàng là cũng có khoản lợi. Vì
thế, người mua nếu được hưởng lợi từ hàng hóa thì cũng phải trả lại cho người bán
những khoản lợi đó (khoản 2 Điều 84).
4 Một số biện pháp bảo hộ khác.
- Thay thế việc thực hiện của bên có nghĩa vụ.
Khi một bên có quyền thực hiện một công việc và từ đó nghĩa vụ của bên kia
được hoàn thành. Nếu bên có quyền không thực hiện trong một thời gian cho phép thì
bên kia được phép thay cho bên có quyền thực hiện công việc đó.
Với điều kiện bên thực hiện thay thế phải tuân thủ những quy định cụ thể:
Trong việc giám định hàng hóa nếu bên bán thực hiện công việc này thì người bán
phải báo cho người mua về cái quyền mà họ được làm và khi họ không làm thì không
có nghĩa cái quyền đó mất đi. Mà họ vẫn phải thực hiện dựa trên ý chí của bên có
quyền để việc làm thay thế đó không làm ảnh hưởng đến các quyền lợi khác của người
mua.
Khi bên bán tự mình xác minh hàng hóa thì người bán phải báo chi tiết cho
người mua biết nội dung việc xác định và cho người mua một thời gian hợp lý để
người mua có thể xác định bằng một cách khác. Nếu sau khi người bán đã thông báo
về việc xác minh cho bên mua biết mà bên mua không có một biện pháp xác định nào
khác thì việc xác minh của bên bán là bắt buộc bên mua chấp nhận.
Việc làm thay thế một công việc cho bên có quyền được hưởng cần phải có
tính khách quan chứ không thể dựa vào lợi ích của mình để làm ảnh hưởng lợi ích của
bên được hưởng quyền lợi. (Xem điều 65)
- Gia hạn thời gian bổ sung.
Việc gia hạn một thời gian để cho một bên có cơ hội để khắc phục hay thực
hiện nghĩa vụ của mình, với mục đích hợp đồng được thực hiện. Tuy nhiên, việc yêu
cầu phía bên kia gia hạn thêm một khoản thời gian có thể được chấp nhận hay không.
Với các quy định tại điều 63, 47 thì việc gia hạn thêm thời gian là không bắt buộc, việc
này tùy thuộc vào ý chí của bên có quyền. Tuy nhiên, theo tinh thần của Công ước thì
việc cố gắng làm cho hợp đồng được thực hiện đều tùy thuộc vào sự mong muốn hợp
đồng đem lại lợi ích cho mình. Chính vì thế khi một bên yêu cầu bên kia gia hạn thêm
63
thời gian thì họ cũng cần phải tỏ thái độ thiện chí cho bên kia với mong muốn để lợi
ích của họ được đảm bảo.
- Ngừng thực hiện hợp đồng.
Việc ngừng thực hiện nghĩa vụ đúng quy định nhằm giảm thiểu thiệt hại cho
cả hai bên. Tuy nhiên, việc ngừng thực hiện hợp đồng phải tuân theo những quy định
và điều kiện như sau85
:
Khi cung cách ứng xử của bên kia không phù hợp với thói quen của hai
bên, mối quan hệ trước đó, hay tập quán trong khu vực. Những cách ứng xử đó tỏ rõ
thái độ bất hợp tác, không thiện chí trong việc chuẩn bị thực hiện hợp đồng hoặc khi
thực hiện hợp đồng.
Khi một sự khiếm khuyết nghiêm trọng trong khả năng thực hiện hợp
đồng. Và từ sự khiếm khuyết đó mà dễ nhận thấy khả năng thực hiện tiếp hợp đồng là
mong manh. Bởi vậy, việc nhận ra và dừng lại là hoàn toàn phải dựa trên những cơ sở
thực tế hay đòi bên ngừng hợp đồng phải chứng minh điều đó.
Việc phát hiện những khiếm khuyết hay cách ứng xử có thể xảy ra sau
khi hàng hóa đã được chuyển. Thì vẫn có thể dùng mọi biện pháp để ngăn lại kể cả khi
đã thực hiện một số nghĩa vụ.
Việc dừng thực hiện nghĩa vụ hợp đồng phải được thông báo cho bên kia biết
về lý do mình ngừng thực hiện trong thời gian hợp lý nhất – ngay khi có thái độ ngừng
thực hiện. Nếu bên thực hiện đưa ra những lý do để ngừng thực hiện hợp đồng được
bên kia đảm bảo đầy đủ - bằng cách chứng minh những lý do đó là không hợp trong
hoàn cảnh của họ thì việc ngừng hợp đồng không được tiếp tục diễn ra. Mà các bên
buộc phải thực hiện tiếp đúng theo quy định của hợp đồng và pháp luật.
Ngừng thực hiện hợp đồng hiểu theo về mặt ngôn ngữ thì nó là dừng lại một
công việc nào đó trong một khoảng thời gian nhất định chứ không thể ngừng hẳn lại.
Vì lý do ngừng hợp đồng là bởi sự không chắc chắn của phía bên kia, khi họ chứng
minh được lý do đó là không phù hợp thì việc ngừng đó phải tiếp tục được diễn ra
nhằm đảm bảo lợi ích cho cả hai bên.
- Yêu cầu giảm giá.
85 Xem điều 71 Công ước Viên 1980
64
Khi một bên đã thực hiện nghĩa vụ với những sự không phù hợp và đã được
thông báo chi tiết về sự không phù hợp đó. Và những sự không phù hợp đó đã không
được khắc phục trong một thời gian hợp lý, hay bên kia đã từ chối sự khắc phục đó
(Điều 50). Ngoài những biện pháp bảo hộ khác thì việc yêu cầu giảm giá là hoàn toàn
được phép (Điều 44).
Việc giảm giá có thể được thỏa thuận hoặc có thể được tự xác định theo tỉ lệ
sự khác biệt về giá trị thực của hàng hóa vào lúc giao kết với hành hóa không phù hợp
lúc giao hàng (Điều 50). Trên thực tế, thì bên bán không hề muốn giảm giá, và bên
mua không muốn tăng giá nhưng dựa trên những vi phạm của một bên để căn cứ vào
thiệt hại mà họ đã gánh chịu.
Chú ý: Việc giảm giá có làm ảnh hưởng đến yêu cầu bồi thường thiệt hại
không?
Về bản chất cả hai biện pháp này đều nhằm khắc phục tổn thất mà bên vi
phạm gây ra cho bên bị vi phạm, nhưng mức độ của mỗi trường hợp lại khác nhau.
Nếu việc giảm giá được hai bên thỏa thuận một tỉ lệ hợp lý thì là điều mong muốn
nhất, còn khi không đi đến một thỏa thuận nào thì việc bồi thường được các lập. Tránh
trường hợp, bồi thường kép – vừa giảm giá, vừa yêu cầu bồi thường vì nó không đúng
bản chất của việc khắc phục tổn thất.
5 Các trƣờng hợp miễn trách nhiệm.
Trường hợp miễn trách nhiệm được đặt chỉ khi một nghĩa vụ được chứng
minh nghĩa vụ này nằm ngoài sự kiểm soát của họ và không thể thực hiện được. Điều
79 giải quyết vấn đề bất khả kháng song mục đích của nó vẫn chưa rõ ràng. Câu đầu
tiên của khoản 1 Điều 79 đề cập đến việc người bán hoặc người mua ―không thể thực
hiện bất kỳ nghĩa vụ nào của họ…‖. Với những ý nghĩa của nó, giáo sư Honnold kết
luận rằng, đó là thứ ngôn ngữ rất rộng ―không thể áp dụng cho thiếu sót trong việc
thực hiện hợp đồng. Ví dụ như việc giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng‖86
.
Thông thường có thể hiểu sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách
khách quan mà bên vi phạm không thể kiểm soát được, không thể lường trước được và
không thể tránh được, mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho
phép. Sự kiện bất khả kháng có thể là các hiện tượng tự nhiên (bão, lốc, lũ lụt, sấm sét,
86 J. Honnold, Uniform Law For International Sales under the 1980 United Nations Convention, 1999.
65
hạn hán, động đất, sóng thần, núi lửa phun…) hay các sự kiện xã hội (chiến tranh, phá
hoại, đình công, lệnh cấm của Chính phủ…) và các trường hợp khác theo quy định của
pháp luật.
Như vậy, để được công nhận là một sự kiện bất khả kháng thì sự kiện đó phải
hội đủ 3 điều kiện: Thứ nhất, đây phải là ―sự kiện xảy ra một cách khách quan‖, tức là
xảy ra mà không phụ thuộc vào ý chí của các bên trong hợp đồng. Thứ hai, đây phải là
sự kiện ―không thể lường trước được‖. Thứ ba, sự việc xảy ra ―không thể khắc phục
được‖ mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết..
Để sử dụng tốt điều 79, bên không thực hiện phải có nghĩa vụ chứng minh
rằng việc không thực hiện hợp đồng của mình là do trở ngại ngoài tầm khiểm soát của
anh ta. Hơn nữa, anh ta cũng phải chứng minh rằng không biết được một cách hợp lý
rằng họ phải tính đến trở ngại đó vào lúc ký hợp đồng hay sau khi bị ràng buộc bởi
hợp đồng hoặc tránh được hay khắc phục hậu quả của nó. Nếu như việc không thực
hiện hợp đồng là do lỗi của bên thứ ba , người cam kết với bên vi phạm hợp đồng
thực hiện toàn bộ hay một phần nghĩa vụ của hợp đồng thì bên vi phạm hợp đồng phải
chứng minh rằng bên thứ ba được miễn trách pháp lý theo cùng tiêu chuẩn – cũng do
trở ngại nằm ngoài kiểm soát.
Điều 79 loại trừ cho bên phải thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp miễn trách
khỏi những trách nhiệm pháp lý đối với các tổn thất nhưng nó không loại bỏ những
biện pháp khắc phục khác theo CISG như giảm giá, phòng tránh, thay thế hàng hóa,
hủy bỏ vi phạm87
.
Sự miễn trách nhiệm được áp dụng khi thời gian tồn tại của những trở ngại đó
có liên quan đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ, nếu trong thời hạn được bổ sung mà trở
ngại đã mất thì vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình.
Việc miễn trách nhiệm dựa trên những chứng minh về những trở ngại nằm
ngoài kiểm soát bởi vậy khi gặp phải một trở ngại như vậy thì phải thông báo ngay cho
bên kia biết về trở ngại đó và những ảnh hưởng của trở ngại đến khả năng thực hiện
87 Xem John P.McMahon, Hướng dẫn áp dụng CISG cho các nhà quản lý kinh doanh và luật sư, Hiệu
đính tháng 11/2009, do Website trungtamwto.vn dịch, địa chỉ tải tài liệu:
http://trungtamwto.vn/sites/default/files/Applying%20CISG%20%20Guide%20for%20Managers%20and%20Co
unsel%20(VN).doc
66
nghĩa vụ. Và thông báo này phải đến được tay người nhận trong một thời gian hợp lý
nhất. Nếu việc thông báo không kịp thời thì những tổn thất không được miễn.
Đối với lỗi của chính mình mà làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ của
bên kia thì không thể viện dẫn việc không thực hiện nghĩa vụ đó. Bởi lẽ, việc không
thực hiện nghĩa vụ được bắt nguồn từ nguyên nhân của việc không thực hiện của bên
kia trước nó làm gián đoạn, ảnh hưởng đến khả năng thực hiện. Và lỗi khi đó được coi
là một phần tạo ra sự không thực hiện nghĩa vụ đó. Ví dụ: trong trường hợp phải đặt
cọc tiền hàng nhưng bên mua không thực hiện dẫn đến bên bán không gom đủ tiền để
có thể lấy hàng giao cho bên mua.
67
KẾT LUẬN
1. Cần hiểu tinh thần và nội dung của Công ƣớc.
Qua tìm hiểu các quy định của Công ước, một điều dễ nhận thấy rằng CISG
còn nhiều vấn đề chưa được giải thích một cách thống nhất. Tuy nhiên, cách giải thích
nào cũng phải dựa trên các nguyên tắc thiện chí hay dựa trên tính chất quốc tế của nó.
Chính vì vậy, khi áp dụng Công ước không chỉ nắm rõ các quy định về các điều khoản
mà còn cần chú trọng đến tinh thần của Công ước, mục đích của Công ước. Chú trọng
đến tính chất quốc tế, và thúc đẩy việc áp dụng thống nhất Công ước, các bên cần quan
tâm đến sự thiện chí, mong muốn sự phát triển giao thương một cách phát triển nhất có
thể. Tránh trường hợp lợi dụng những thói quen của đối tác để đạt được lợi ích mà đi
ngược với tinh thần của Công ước. Nhằm định hướng đúng tinh thần của Công ước thì
các bên phải đặt địa vị của mình vào địa vị của đối tác, xem mình có đi ngược với mục
đích chung của hai bên không và mong muốn cũng như thực hiện hợp đồng diễn ra
một cách đúng theo thỏa thuận để hai bên cùng có lợi.
2. CISG không vạn năng.
Thứ nhất, Các quy định của CISG không bao trùm mọi vấn đề pháp lý có
liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Dù rất hữu ích, với phạm vi hiện tại của mình, CISG không giải quyết tất cả
các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Vì vậy, để
những hợp đồng như thế này được ký kết và triển khai thuận lợi và an toàn về pháp lý,
các bên ký kết hợp đồng vẫn đồng thời phải quan tâm đến các nguồn luật khác.
Việc hiểu lầm về CISG cần phải được thay đổi để tránh việc dẫn tới những
lầm tưởng ở cả doanh nghiệp lẫn người làm luật, khiến các chủ thể này không quan
tâm trong việc tìm hiểu và áp dụng các văn bản pháp luật cần thiết khác, và kết quả là
có thể bị động khi xảy ra tranh chấp liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
ngay cả khi đã có CISG.
Thứ hai, CISG chƣa có các quy phạm điều chỉnh các vấn đề pháp lý mới
phát sinh trong thƣơng mại quốc tế
Được soạn thảo và thông qua từ cách đây 34 năm, CISG chưa dự đoán và do
đó chưa đưa vào các quy định của mình những vấn đề pháp lý mới phát sinh sau này,
ví dụ các quy phạm pháp lý liên quan đến thương mại điện tử.
68
Để có thể đảm bảo tính chủ động và an toàn về mặt pháp lý cho các hợp đồng
thương mại quốc tế thì các nhà quản lý, luật sư, người áp dụng không chỉ cần nắm rõ
tinh thần và nội dung của Công ước mà còn nắm rõ các quy định của một số nguồn
pháp luật có uy tín và đang được các luật sư, nhà quản lý kinh doanh áp dụng như Bộ
Nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và các Nguyên tắc về
luật hợp đồng Châu Âu (PECL).
3. Vấn đề CISG không điều chỉnh, pháp luật Việt Nam có thể hỗ trợ?
Với các vấn đề CISG không điều chỉnh như thương mại điện tử, về chủ thể
giao kết hợp đồng, điều kiện về hiệu lực hợp đồng hay chuyển quyền sở hữu hàng hóa
hay hợp đồng mua bán hàng hóa có bảo hành đây là các vấn đề mà CISG không quy
định bởi các lý do:
Nó được xây dựng sớm nên chưa dự đoán được những vấn đề phát sinh theo
sự phát triển của thương mại quốc tế.
Với tinh thần của Công ước là mối quan hệ giữa các bên phải được xây dựng
trên cơ sở thiện trí. Chính bởi vậy, việc tin tưởng hay thói quen của các bên cho phép
sự bỏ qua về vấn đề khắt khe của những điều có thể biết được dựa trên kinh nghiệm
của các luật sư, của các nhà đàm phán hợp đồng.
Những vấn đề này CISG không điều chỉnh nhưng các nguồn luật khác có thể
điều chỉnh rất rõ ràng. Pháp luật Việt Nam cũng đã quy định những vấn đề đó rất rõ
thông qua các văn bản pháp luật Dân sự 2005, Luật sở hữu trí tuệ 2005, Luật Thương
mại 2005.
4. Kiến nghị về những nghiên cứu tiếp theo.
Việc tìm hiểu kỹ về nội dung và tinh thần của Công ước là vô cùng quan trọng
trong lĩnh vực luật thương mại quốc tế. Tuy nhiên, đó không phải là tất cả những gì
chúng ta cần làm, bởi chính bản thân Công ước còn tồn tại những khó khăn, những bất
lợi và cả những sự chưa rõ ràng. Chính vì thế, việc tìm hiểu các nguồn luật khác trên
thế giới để làm sáng tỏ những quy định của Công ước – những ưu điểm, khiếm khuyết.
Qua đó, sẽ tìm ra những điều khoản mẫu cho hợp đồng một cách chắc chắn và an toàn
pháp lý. Hay sự đảm bảo bổ trợ cho những rủi ro pháp lý thông qua một nguồn luật
khác.
Bởi vậy, việc so sánh CISG với luật hợp đồng Việt Nam, luật hợp đồng Châu
Âu, bộ nguyên tắc thống nhất thương mại quốc tế của PICC, hay vấn đề áp dụng CISG
69
trên thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam… để đưa ra những sai làm dễ mắc phải và
tìm cách khắc phục là vô cùng quan trọng trong bối cảnh nước ta đang có sự giao
thương phát triển mạnh mẽ mà sự hiểu biết về thương mại quốc tế còn yếu kém.
Hiểu biết về pháp luật quốc tế không những thúc đẩy nền pháp luật nước nhà
mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế. Tạo một môi trường kinh doanh an toàn, thu hút
nhiều dự án đến với đất nước.
Thay cho lời kết tôi xin trích dẫn một câu nói vô danh: ―Tôi càng sống lâu,
đọc nhiều, kiên nhẫn hơn và lo lắng tìm hiểu nhiều hơn, tôi dường như càng biết ít đi...
Nhưng sẽ làm cho thế giới hiểu nhiều hơn”.
70
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
VĂN BẢN PHÁP LUẬT:
1. Công ước Viên của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế năm 1980.
2. Bộ Nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004.
3. Nguyên tắc về luật hợp đồng Châu Âu (PECL).
4. Luật dân sự Việt Nam 2005.
5. Luật thương mại Việt Nam 2005.
SÁCH
1. Giáo trình luật hợp đồng thương mại quốc tế, NXB Đại học quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, 2007.
2. TS Nguyễn Minh Hằng (chủ biên), Giáo trình Pháp luật kinh doanh quốc
tế, Đại học Ngoại thương Hà Nội, NXB Đại học quốc gia HN, 2012.
3. Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Đại học luật HN, NXB Công an
nhân dân, 2012.
4. 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc, Trung tâm trọng tài quốc tế
VIAC, Hà Nội, 2002.
5. Nguyễn Ngọc Lâm, Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế.
Nhận dạng tranh châp, biện pháp ngăn ngừa và phương pháp giải quyết, NXB
Chính trị quốc gia, 2010.
6. PGS.TS Đỗ Văn Đại, Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng
hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, NXB Chính Trị Quốc Gia, 2013.
7. VCCI, Báo cáo nghiên cứu: Đề xuất Việt Nam gia nhập Công ước Viên
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 2010.
8. VCCI, Cẩm nang hợp đồng thương mại, 2010.
9. J. Honnold, Uniform Law For International Sales under the 1980 United
Nations Convention, 1999.
TẠP CHÍ
1. Tạp chí luật so sánh Hoa Kỳ số 57 năm 2009.
2. Tạp chí kinh tế đối ngoại số 14 năm 2005.
3. Tạp chí luật học số 5 năm 2012.
4. Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 9 năm 2007.
71
5. Báo diễn đàn doanh nghiệp số 11 và 12 năm 2007
WEBSITE
1. http://www.cisg.law.pace.edu/
2. http://www.cisgac.com/
3. https://www.uncitral.org/
4. http://cisgvn.wordpress.com/
5. http://www.trungtamwto.vn/
72
PHỤ LỤC
BẢNG CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN CỦA CISG, Tính đến ngày 26/09/2013 đã
có 80 quốc gia là thành viên.
Tên quốc gia Bảo lƣu Ngày ký
Phê chuẩn, gia nhập
(*), chấp thuận (†),
chấp nhận (‡), kế thừa
(§)
Ngày có hiệu
lực
Albania
13/05/2009 (*) 01/06/2010
Argentina (A) 19/07/1983 (*) 01/01/1988
Armenia (A), (B) 02/12/2008 (*) 01/01/2010
Úc
17/03/1988 (*) 01/04/1989
Áo
1980/11/04 29/12/1987 /01/01/1989
Bahrain
25/09/2013 (*) 01/10/2004
Belarus (A) 09/10/1989 (*) 01/11/1990
Bỉ
31/10/1996 (*) 01/11/1997
Benin
29/07/2011 (*) 01/08/2012
Bosnia và
Herzegovina 12/01/1992 (§) 06/03/1994
Brazil
04/03/2013 (*) 01/04/2014
Bulgaria
09/07/1990 (*) 01/08/1991
Burundi
04/09/1998 (*) 01/10/1999
Canada (C) 23/04/1991 (*) 01/05/1992
Chile (A) 1980/11/04 07/02/1990 01/03/1991
Trung Quốc (B) 30/09/1981 11/12 /1986 (†) 01/01/1988
Colombia
10/07/2001 (*) 01/08/2002
Croatia
08/06/1998 (§) 08/10/1991
Cuba
02/11/1994 (*) 01/12/1995
Síp
07/03/2005 (*) 01/04/2006
Cộng hòa Séc (B) 30/09/1993 (§) 01/01/1993
Đan Mạch (D) 26/05/1981 14/02/1989 01/03/1990
Cộng hòa Dominica
07/06/2010 (*) 01/07/2011
Ecuador
27/01/1992 (*) 01/02/1993/
Ai Cập
06/12/1982/ (*) 01/01/1988
El Salvador
27/11/2006 (*) 01/12/2007
Estonia
20/09/1993 (*) 1994/01/10
Phần Lan (D) 26/05/1981 15/12/1987 1989/01/01
Pháp
27/08/1981 06/08 /1982/ (†) 01/01/1988
Gabon
15/12/2004 (*) 01/01/2006
Georgia
16/08/1994 (*) //01/09/1995
Đức (E) 26/05/1981 21/12/1989 01/01/1991/
73
Ghana
11/04/1980
Hy Lạp
12/01/1998/ (*) 01/02/1999/
Guinea
23/01/1991 (*) 01/02/1992/
Honduras
10/10/2002 (*) 01/11/2003/
Hungary (A), (F) 1980/11/04 16/06/1983 01/01/1988
Iceland (D) 10/05/2001 (*) /01/06/2002
Iraq
05/03/1990/ (*) /01/04/1991
Israel
22/01/2002 (*) 01/02/2003/
Italia
30/09/1981 /11/12/1986 01/01/1988
Nhật Bản
01/07/2008 (*) 01/08/2009
Kyrgyzstan
/11/05/1999 (*) /01/06/2000
Latvia
31/07/1997 (*) 01/08/1998/
Lebanon
21/11/2008 (*) 01/12/2009
Lesotho
18/06/1981 18/06/1981 01/01/1988
Liberia
16/09/2005 (*) 01/10/2006
Lithuania (A) 18/01/1995 (*) /01/02/1996
Luxembourg
30/01/1997 (*) /01/02/1998
Mauritania
20/08/1999 (*) /01/09/2000
Mexico
29/12/1987 (*) 01/01/1989
Mông Cổ
31/12/1997 (*) 01/01/1999
Montenegro
23/10/2006 (§) 03/06/2006
Hà Lan
29/05/1981 13/12/1990 (‡) 01/01/1992
New Zealand
22/09/1994 (*) 01/10/1995
Na Uy (D) 26/05/1981 20/07/1988 01/08/1989
Paraguay (A) 13/01/2006 (*) 01/02/2007
Peru
25/03/1999 (*) 01/04/2000
Ba Lan
28/09/1981 19/05/1995 01/06/1996
Hàn Quốc
17/02/2004 (*) 01/03/2005
Cộng hòa Moldova
13/10/1994 (*) 01/11/1995
Romania
22/05/1991 (*) 01/06/1992
Liên bang Nga (A) 16/08/1990 (*) 01/09/1991
Saint Vincent và
Grenadines (B) /12/09/2000 (*) 01/10/2001
San Marino
22/02/2012 (*) 01/03/2013
Serbia
12/03/2001/ (§) 27/04/1992
Singapore (B) 1980/11/04 16/02/1995 01/03/1996
Slovakia (B) 28/05/1993 (§) 01/01/1993
Slovenia
/07/01/1994 (§) 25/06/1991
Tây ban nha
24/07/1990 (*) 01/08/1991
Thụy Điển (D) 26/05/1981 15/12/1987 01/01/1989
Thụy Sĩ
21/02/1990 (*) 01/03/1991
74
Syrian Arab
Republic 19/10/1982 (*) 01/01/1988
Cộng hòa
Macedonia 22/11/2006 (§) 17/11/1991
Thổ Nhĩ Kỳ
07/07/2010 (*) 01/08/2011
Uganda
/12/02/1992 (*) 01/03/1993
Ukraina (A) /03/01/1990 (*) 01/02/1991
Hoa Kỳ (B) 31/08/1981 /11/12/1986 01/01/1988
Uruguay
25/01/1999 (*) 01/02/2000
Uzbekistan
27/11/1996 (*) 01/12/1997
Venezuela
28/09/1981
Zambia
06/06/1986 (*) 01/01/1988
Giải thích các bảo lƣu.
(A) Quốc gia này, tuân theo các điều 12 và điều 96 của Công ước, tuyên bố rằng các
quy định tại Điều 11, Điều 96 hay Phần II của Công ước cho phép hợp đồng mua
bán, việc sửa đổi hay kết thúc hợp đồng theo thỏa thuận, chào hàng, chấp nhận
hay tuyên bố có thể được làm dưới mọi hình thức ngoài hình thức văn bản, sẽ
không áp dụng nếu một trong các bên có trụ sở trên lãnh thổ nước này.
(B) Vào thời điểm gia nhập, Canada tuyên bố, tuân theo điều 93, rằng Công ước sẽ
được áp dụng tại Alberta, đảo Hoàng tử Edouard, Manitoba, New Brunswick,
Newfoundland và Labrador, Nova Scotia, Ontario và các cùng lãnh thổ ở Tây
Bắc. Trong một tuyên bố ngày 09/04/1992, Canada đã mở rộng áp dụng Công
ước tại Quebec và Saskatchewan. Trong một tuyên bố ngày 29/06/1992, Canada
mở rộng them Yokun. Trong một tuyên bố ngày 18/06/2003 Canada đã mở rộng
áp dụng Công ước tại Nunavut.
(C) Vào thời điểm gia nhập, dựa trên quy định của Hiến pháp về quyền tự chủ và độc
lập của Cộng hòa Croatia ngày 05/06/1001 và Quyết định của Quốc Hội Croatia
ngày 08/10/1991, với tính chất kế thừa từ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Liên banf
Yougoslavi, Croatia đã quyết định trở thành thành viên của Công ước kể từ ngày
08/10/1991, ngày mà Croatia cắt đứt tất cả các mối liên hệ mang tính Hiến pháp
và pháp lý với Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Liên banf Yougoslavi và bắt đầu gánh
vác các nghĩa vụ quốc tế của mình.
(D) Tiệp Khắc đã ký Công ước ngày 01/09/1981 và đã đệ trình văn bản phê chuẩn
ngày 05/03/1990; Công ước đã có hiệu lực tại Tiệp Khắc ngày 01/04/1991.
75
Slovakia và Công hòa Séc đã đệ trình các văn bản kế thừa lần lượt vào ngày
28/05/1993 và ngày 30/09/1993, với hiệu lực bắt đầu từ ngày 01/10/1993, ngày
mà hai quốc gia này kế thừa từ Tiệp Khắc cũ.
(E) Quốc gia này tuyên bố không bị ràng buộc bởi điều khoản 1.b của Điều 1.
(F) Vào thời điểm phê chuẩn, tuân theo khoản 1 điều 92, Đan Mạch, Phần Lan, Na
Uy và Thụy Điển đã tuyên bố rằng các quốc gia này sẽ không bị ràng buộc bởi
phần thứ hai của Công ước (thành lập hợp đồng). Vào thời điểm phê chuẩn ,
tuân theo khoản 1 và khoản 2 điều 94, Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Điển, Na Uy
và Thụy Điển đã tuyên bố rằng Công ước sẽ không được áp dụng cho các hợp
đồng mua bán được thiết lập giữa các bên có trụ sở tại Đan Mạch, Phần Lan,
Thụy Điển, Na Uy và Thụy Điển hay Aixlen. Trong một thông báo ngày
12/03/2003, Aixlen đã tuyên bố rằng Công ước sẽ không áp dụng cho các hợp
đồng mua bán hay cho việc thành lập hợp đồng khi các bên có trụ sở tại Đan
Mạch, Phần Lan, Thụy Điển, Na Uy và Thụy Điển (theo khoản 1 Điều 94).
(G) Ngày 09/03/2004, Estonia đã rút lại bảo lưu được nêu tại ghi chú (A) mà quốc
gia này đã tuyên bố khi phê chuẩn.
(H) Cộng hòa Dân chủ Đức (cũ) đã ký Công ước ngày 13/08/1981 và phê chuẩn
Công ước ngày 23/02/1989. Công ước có hiệu lực tại quốc gia này ngày
01/03/2990.
(I) Vào thời điểm phê chuẩn, Đức tuyên bố rằng quốc gia này sẽ không áp dụng
khoản 1.b Điều 1 đối với tất cả các quốc gia đã tuyên bố bảo lưu Điều này.
(J) Vào thời điểm phê chuẩn, Hungari tuyên bố coi các Điều kiện chung giao hàng
giữa các tổ chức thuộ các quốc gia thành viên Hội đồng Tương trợ Kinh tế là có
liên quan đến các quy định tại Điều 90 của Công ước.
(K) Từ ngày 24/12/1991, Liên Bang Nga đã thừa kế Liên Xô cũ để trở thành quốc gia
thành viên của Liên hợp quốc và từ ngày này sẽ gánh vác mọi quyền và nghĩa vụ
của Liên Xô cũ theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc và trong các điều
ước đa phương có liên quan.
(L) Yougoslavi cũ đã ký kết Công ươcs vào ngày 11/04/1980 và phê chuẩn Công ước
vào ngày 27/05/1985. Ngày 12/03/2001, nước Công hòa Liên bang Yougoslavi
đã tuyên bố như sau:
76
―Chính phủ nước Cộng hòa Liên bang Yougoslavi, sau khi nghiên cứu Công ước,
đã quyết định kế thừa Công ước này và chính thức cam kết sẽ tuân theo các quy
định của Công ước từ ngày 27/04/1992, ngày mà nước Cộng hòa Liên bang
Yougoslavi gánh vác nghĩa vụ trong quan hệ quốc tế.”
Recommended