View
221
Download
0
Category
Preview:
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ HOA
VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ
VÀ NHỮNG GỢI MỞ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội năm 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ HOA
VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ
VÀ NHỮNG GỢI MỞ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
MÃ SỐ: 62 31 02 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS. LƯU VĂN AN
2.PGS,TS. TRỊNH THỊ XUYẾN
Hà Nội năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Phạm Thị Hoa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ......................... 8
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về vận động hành lang, vận động chính sách công
ở Anh, Pháp, Mỹ ................................................................................................... 8
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về vận động hành lang, vận động chính sách công
ở Việt Nam ......................................................................................................... 24
1.3. Đánh giá những công trình nghiên cứu .............................................................. 28
Chương 2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG .............. 33
2.1. Khái niệm và cơ sở vận đông chính sách công .................................................. 33
2.2. Mục đích và sự cần thiết vận động chính sách công .......................................... 42
2.3. Chủ thể, đối tượng và phương thức vận động chính sách công ......................... 47
2.4. Quy trình vận động chính sách công .................................................................. 54
Chương 3. VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ ................... 60
3.1. Pháp luật về vận động chính sách ở Anh, Pháp, Mỹ.......................................... 60
3.2. Chủ thể và đối tượng của vận động chính sách công ở Anh, Pháp, Mỹ ............ 73
3.3. Quy mô, tài chính cho vận động chính sách công ............................................. 86
3.4. Phương thức, phương tiện vận động chính sách công ....................................... 95
3.5. Một số nhận xét về vận động chính sách ở Anh, Pháp, Mỹ ............................. 102
Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GỢI MỞ VỚI VIỆT NAM.................................... 117
4.1. Quan niệm về vận động chính sách công ở Việt Nam hiện nay ...................... 117
4.2. Biểu hiện vận động chính sách công ở Việt Nam ............................................ 120
4.3. Điều kiện, thách thức và xu hướng phát triển vận động chính sách ở Việt Nam
thời gian tới ....................................................................................................... 133
4.4. Một số kiến nghị đối với Nhà nước nhằm ứng xử hợp lý với vận động chính
sách công ở Việt Nam hiện nay ........................................................................ 141
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................ 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 153
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Chữ viết tắt Tên đầy đủ
EU Liên minh Châu Âu
NGOs Các tổ chức phi chính phủ
PNTR Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn
VASEP Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam
VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VĐCS Vận động chính sách
VĐHL Vận động hành lang
VNGO Tổ chức phi Chính phủ Việt Nam
USD Đô la Mỹ
WTO Tổ chức thương mại thế giới
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hầu hết nhà nước đều có nhiệm vụ chung là nghiên cứu, đánh giá tình
hình thực tế, so sánh và đối chiếu với các luật, điều khoản Hiến pháp hiện hành,
đưa ra những lập luận chính xác để quyết định hướng giải quyết cho những vấn
đề cấp bách, quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh cũng như sự phát triển
của một quốc gia. Vì tính chất quan trọng của chúng, pháp luật thường đặt ra
những yêu cầu khắt khe, có thể trở thành rào cản khiến cho công dân của các
quốc gia gặp khó khăn trong việc nêu quan điểm, suy nghĩ của mình với các cơ
quan, quan chức nhà nước để đóng góp vào quá trình xây dựng những quy định,
quyết định hợp lý, hiệu quả, bảo đảm tính dân chủ của xã hội. Nhằm giảm thiểu
sự xuất hiện rào cản đó giữa các cơ quan nhà nước và công dân của quốc gia, cơ
chế vận động chính sách (VĐCS) công được hình thành và phát triển. Lịch sử
VĐCS công đã bắt đầu tư rất lâu và được coi là một phần tất yếu của hoạt động
chính trị trên thế giới tuy nhiên chỉ đến những năm cuối thế kỷ XIX, yếu tố này
mới được người dân biết đến một cách rộng rãi. Cho đến nay, VĐCS công đã trở
nên phổ biến ở nhiều quốc gia và ngày càng chứng minh được sự cần thiết khách
quan của nó trong đời sống chính trị nói chung, đặc biệt là trong quy trình chính
sách của các nước. Có thể hiểu một cách khái quát, VĐCS là hoạt động được tiến
hành bởi một cá nhân hay tổ chức nhằm thuyết phục các cơ quan xây dựng và
quyết định chính sách về sự cần thiết ban hành hay sửa đổi một chính sách nào
đó vì lợi ích của bản thân họ hoặc vì cộng đồng, xã hội.
Trong nền chính trị quốc tế đương đại, tồn tại nhiều loại hình thể chế chính
trị, nhiều mô hình tổ chức quyền lực, nhiều mô hình quy trình chính sách khác
nhau và vì vậy, sự tác động của VĐCS vào quy trình chính sách ở các nước khác
nhau cũng không hoàn toàn giống nhau. Nhưng có điểm chung là ở những quốc
gia có sự tham gia của VĐCS vào quy trình chính sách công và có khung pháp lý
cho hoạt động này thì về cơ bản, hoạt động hoạch định chính sách công diễn ra
công khai hơn, các thông tin liên quan đến chính sách công được mở hơn và chất
3
lượng các chính sách công cao hơn bởi lẽ các quyết định chính sách thường đúng
đắn hơn trên cơ sở những thông tin đa chiều và đã được tiếp cận, phân tích trên
nhiều bình diện. Điều này đặc biệt thấy rõ ở các nước tư bản phát triển, và ở tất cả
các mô hình thể chế chính trị. Vậy, liệu có mối liên hệ giữa các mô hình thể chế
chính trị khác nhau ấy với sự tác động của VĐCS công đến đời sống chính sách
công ở các quốc gia này?
Trên thế giới hiện nay tồn tại nhiều mô hình thế chế chính trị nhưng tựu
chung lại, về mặt hình thức hay tên gọi, có thể khái quát thành hai loại là thể chế
quân chủ và thể chế cộng hòa. Còn dưới góc độ bản chất của chế độ, và xét riêng
ở những nước tư bản phát triển, có thể tiếp cận thể chế chính trị theo ba mô hình:
mô hình nghị viện, mô hình tổng thống và mô hình hỗn hợp. Tiêu biểu cho các
mô hình ấy là các quốc gia Anh, Mỹ, Pháp. Đây cũng là những quốc gia mà hoạt
động VĐCS công có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quy trình chính sách công, tạo
thành một hoạt động, một phương tiệnquan trọng trong quy trình chính sách ở
các nước này. Đây cũng chính là một trong những lí do tác giả lựa chọn nghiên
cứu VĐCS công ở cả ba quốc gia này.
Vận động chính sách công đã được áp dụng và luật hóa ở nhiều quốc gia
trên thế giới từ lâu nhưng vẫn còn là một vấn đề mới ở Việt Nam. Trong xu thế
phát triển, hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống quốc tế, dù muốn hay
không, dù tích cực hay bị động thì chúng ta cũng luôn là một thành viên, một chủ
thể trong đời sống chính trị quốc tế. Do đó, việc phải nghiên cứu để tìm ra những
hướng gợi mở cho Việt Nam, tìm ra những bài học từ VĐCS công trong quy
trình chính sách công ở các nước phát triển là một điều hết sức cần thiết. Hơn thế
nữa, mặc dù cơ bản các chính sách công ở Việt Nam hiện nay đã bám sát và giải
quyết được những vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội nhưng phải thừa nhận vẫn
còn nhiều hạn chế, bất cập trong quy trình chính sách công cũng như chất lượng
hoạch định chính sách công ở nước ta. Điều đó càng cho thấy tính tất yếu của
việc nghiên cứu để làm rõ vai trò của VĐCS công ở một số nước tư bản phát
triển để từ đó tìm ra những giá trị có thể tham khảo cho Việt Nam.
4
Vậy thì, thực tiễn VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ có những điểm tương
đồng khác biệt gì? Tính chất thể chế chính trị và các yếu tố về kinh tế, văn hóa,
xã hội cũng như những quy định pháp lý có tác động như thế nào đến thực tiễn
chính sách của mỗi nước? VĐCS công có thực sự là nhu cầu tất yếu khách quan
của các chủ thể trong đời sống xã hội, và nếu như vậy thì nhà nước nên nhìn nhận
và ứng xử thế nào với VĐCS để vừa phát huy được những tác động tích cực của
VĐCS, vừa kiểm soát và kiềm chế được những ảnh hưởng tiêu cực của nó mà vẫn
khơi dậy được động lực phát triển của các chủ thể trong đời sống xã hội?Với
những đặc thù về thể chế chính trị và quy trình chính sách, Việt Nam có thể học
hỏi được kinh nghiệm của Anh, Pháp, Mỹ trong việc nhận thức và ứng xử với
VĐCS công không và nếu có thì kinh nghiệm ấy là gì? Đó là những vấn đề đặt ra
và sẽ được nghiên cứu trong luận án này.
Vấn đề được đặt ra cấp thiết như thế, nhưng cho đến nay, chưa nhiều công
trình khai thác trực tiếp hướng nghiên cứu này. Chính vì vậy, tác giả xác định đây
còn là một mảnh đất trống cần khai phá trong nghiên cứu khoa học. Và điều đó
cũng thôi thúc tác giả lựa chọn đề tài “Vận động chính sách công ở Anh, Pháp,
Mỹ và những gợi mở đối với Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận án chính trị
học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung hệ thống và làm rõ những vấn đề cơ bản về VĐCS công
như khái niệm VĐCS công, mục đích và sự cần thiết VĐCS công, chủ thể, đối
tượng và phương thức VĐCS công, khảo sát thực trạng hoạt động này ở ba nước
Anh, Pháp, Mỹ; từ đó đưa ra những đánh giá khái quát về hoạt động VĐCS công
ở ba quốc gia nêu trên; đồng thời đưa ra một số gợi mở cho VĐCS công ở Việt
Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục tiêu trên, đề tài tập trung thực hiện những nhiệm vụ cơ bản
như sau:
5
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về VĐCS công, trong đó hệ thốngvà
phân tích khái niệm chính sách công, xác định mục đích, sự cần thiết của VĐCS,
chủ thể, đối tượng, phương thức, phương tiện vận động, khái quát những bước cơ
bản trong quá trình VĐCS.
- Khảo cứuthực trạng VĐCS công ở Anh, Mỹ, Pháp hiện nay trêncác khía
cạnh pháp luật về VĐCS, chủ thể và đối tượng, quy mô hoạt động và tài chính
cho vận động, phương tiện và phương thức vận động của từng nước vàđưa ra
những nhận xét về thực tiễn hoạt động này ở từng quốc gia.
- Từ thực tiễn VĐCS của ba nước Anh, Pháp, Mỹ, luận án làm rõ quan
niệm và những biểu hiện của VĐCS ở Việt Nam, đưa ra những gợi mở cho chính
phủ Việt Nam trong đó chủ yếu tập trung vào những khuyến nghị để Nhà nước
ứng xử phù hợp và hiệu quả hơn với VĐCS.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu trực tiếp hoạt động VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ; những biểu
hiện của VĐCS ở Việt Nam và gợi mở đối với Việt Nam từ nghiên cứu trường
hợp Anh, Pháp, Mỹ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động VĐCS ở Anh, Mỹ, Pháp là
ba quốc gia đại diện cho ba mô hình thể chế chính trị điển hình. Đồng thời, luận
án cũng nghiên cứu quan niệm và biểu hiện của VĐCS ở Việt Nam hiện nay để
trên cơ sở những nhận xét rút ra từ VĐCS ở Anh, Mỹ, Pháp tìm ra những gợi mở
cho Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền lực chính trị của nhân
dân lao động, về quyền lực nhà nước, thực thi và kiểm soát quyền lực nhà nước;
6
- Một số lý thuyết chính trị học và chính sách công nhưlý thuyết về VĐCS
công, lý thuyết lựa chọn công cộng, lý thuyết nhóm, lý thuyết hành vi…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận Mác- Lênin, cụ thể
là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để có những nhìn nhận
khách quan, toàn diện về các biểu hiện của VĐCS ở các nước cũng như ở Việt
Nam.
- Phương pháp riêng: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng
tổng hợp các phương pháp như logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh,
nghiên cứu tài liệu trong đó phương pháp logic – lịch sử và phân tích – tổng hợp
kết hợp với nghiên cứu các tài liệu để tiếp cận lịch sử hình thành và phát triển của
VĐCS ở các nước, thao tác tư duy về những biểu hiện của thực tiễn VĐCS để
trên cơ sở trình bày những biểu hiện cụ thể sẽ khái quát lại để rút ra những nhận
định mang tính bản chất về VĐCS ở Anh, Pháp Mỹ và ở Việt Nam. Phương pháp
so sánh được sử dụng lồng trong các nội dung trình bày về những biểu hiện của
VĐCS trong thực tiễn chính trị và chính sách ở mỗi quốc gia, luận giải cụ thể
hơn những tương đồng và khác biệt nếu có giữa các quốc gia này để đưa ra
những đánh giá phù hợp, thuyết phục.
5. Những đóng góp mới của luận án
Nghiên cứu về VĐCS công và VĐCS ở từng quốc gia không còn là vấn đề
mới mẻ, nhưng nội dung được đặt ra trong luận án đảm bảo tính mới ở hai điểm
cơ bản:
Thứ nhất là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách công phu, chi tiết về
VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ dựa trên các biểu hiện mang tính hệ thống và logic
bao gồm pháp luật VĐCS, chủ thể và đối tượng, quy mô và tài chính, hình thức,
phương pháp và phương tiện vận động.
Thứ hai, một nghiên cứu so sánh được sử dụng để nghiên cứu cho cả ba
trường hợp Anh, Pháp, Mỹ như trong đề tài này cũng lần đầu tiên được thực hiện.
Trước đó cũng đã có một số công trình trên thế giới nghiên cứu theo hướng so
7
sánh nhưng chỉ tập trung vào một khía cạnh của VĐCS như những quy định về
VĐCS hoặc hiệu quả của VĐCS. Một công trình đề cập đến những vấn đề khá
căn cốt của VĐCS được khảo cứu qua bộ ba quốc gia Anh, Pháp Mỹ như trong
luận án này là hoàn toàn mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần luận giải và làm rõ những vấn đề về mặt lý luận có liên
quan đến hoạt động VĐCS ở ba nước Anh, Mỹ, Pháp, bước đầu có những đánh
giá một cách khoa học trên quan điểm mác xít về vấn đề này, đồng thời có những
tham chiếu đối với Việt Nam và làm rõ một số vấn đề có liên quan đến hoạt động
VĐCS công ở Việt Nam hiện nay.
Luận án được thực hiện sẽ là một đóng góp về mặt lý luận, làm rõ hơn về
hoạt động VĐCS công ở một số nước tư bản phát triển (Anh, Pháp, Mỹ) và kinh
nghiệm cho Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch
định chính sách của Việt Nam trong thời gian tới để có cái nhìn khách quan và
khoa học hơn đối với vấn đề VĐCS công ở Việt Nam.
Luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy và
nghiên cứu chính trị học.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án có 4 chương 16 tiết.
8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. NHÓM CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VẬN ĐỘNG HÀNH LANG,
VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về vấn đề lý luận
Trong nhóm công trình này, có những vấn đề sau đây đã được bàn đến ở
những mức độ khác nhau:
Trước hết, quan niệm về chính sách công và VĐHL, VĐCS công. Nhóm
này phổ biến với không chỉ các công trình nghiên cứu mà còn hệ thống giáo trình
phong phú như: Cuốn “Chính sách công của Hoa Kỳ giai đoạn 1935 - 2001” của
tác giả Lê Vinh Danh (2001); Giáo trình “Hoạch định và phân tích chính sách
công” (2006) của tác giả Phan Ngọc Tú; Giáo trình “Khoa học chính sách công”
(2008) của Khoa chính trị học, Học viện Báo chí và tuyên truyền; Tập bài giảng
“Chính sách công” (2010) của Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền; Giáo trình “Chính sách công” (2013) của Khoa Chính sách công,
Học viện Chính sách và Phát triển; cuốn sách “Đại cương về chính sách công”
của các tác giả Nguyễn hữu Hải và Lê Văn Hòa (2013); cuốn “Chính sách công -
Những vấn đề cơ bản” của tác giả Nguyễn Hữu Hải (2016)…Cho đến nay, khoa
học chính sách công đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ với những
quan niệm phong phú về chính sách công. Dù xuất phát từ những cách tiếp cận
khác nhau thì chính sách công nhìn chung vẫn được quan niệm là những quyết
định hành động của các chủ thể quyền lực nhà nước, thể hiện quan điểm, mục
tiêu, ưu tiên của nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể trong những
điều kiện cụ thể. Vì vậy, dù chưa phải đã hoàn toàn thống nhất nhưng tựu chung
lại, các quan niệm đều chỉ ranhững đặc điểm sau đây của chính sách công: 1)
CSC là các chính sách do nhà nước ban hành để thực hiện chức năng của nhà
nước là quản lý, điều hành kinh tế - xã hội theo những mục tiêu đề ra; 2) CSC là
kết quả quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước; 3) CSC là những quyết
9
định hành động, trước hết thể hiện dự định của các nhà hoạch định chính sách
nhằm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó và sau đó là những hành vi
thực hiện các dự định đó; 4) CSC tập trung giải quyết vấn đề đang đặt ra trong
đời sống xã hội theo những mục tiêu xác định; 5) CSC bao gồm những việc nhà
nước định làm hoặc không định làm, nghĩa là không phải mọi mục tiêu của chính
sách công đều dẫn tới hành động, mà nó có thể là yêu cầu chủ thể không được
hành động; 6) CSC tác động đến các đối tượng của chính sách - là những người
chịu sự tác động hay điều tiết của chính sách, bao gồm: đối tượng trực tiếp và đối
tượng gián tiếp; 7) CSC được nhà nước đề ra nhằm phục vụ lợi ích chung của
cộng đồng hoặc của quốc gia, gắn với việc phân phối và sử dụng các nguồn lực
công của nhà nước [27, tr. 6, 7, 8].
Về VĐHL và VĐCS công, dù vẫn còn là khái niệm khá mới mẻ nhưng
cũng có nhiều công trình đưa ra quan niệm về VĐHL, VĐCS công như “Những
cơ sở của nền chính trị Mỹ” của Gary Wassrman (bản dịch của thạc sỹ Đoàn Văn
Thắng), Longman - New York, 1997 đã đưa ra khái niệm VĐHL“Vận động hành
lang là khi các cá nhân hay nhóm lợi ích gây sức ép lên chính phủ để chính phủ
hành động theo ý muốn của họ” [13, tr. 220]. Một cách phát biểu khác về VĐHL
cũng được đưa ra “VĐHL là hoạt động bao gồm những tiếp xúc cả trực tiếp hay
gián tiếp của các nhóm có tổ chức (hoặc đại diện của họ) đến các quan chức hành
chính, những nhà hoạch định chính sách, những đại biểu dân cử nhằm gây ảnh
hưởng lên quá trình hoạch định và thực hiện các chính sách ấy” [94, tr.8] như
trong “Lobbying in Europe” (vận động chính sách ở châu Âu). Riêng trong
“Lobbying in the Dark? The Effects of Policy-Making Transparency on Interest
Group Lobbying Strategies in France and Sweden”(Vận động chính sách công
trong “bóng tối”? Những ảnh hưởng của môi trường hoạch định chính sách minh
bạch lên chiến lược vận động chính sách của các nhóm lợi ích ở Pháp và Thụy
Điển), tác giả xuất phát từ kết luận của một nghiên cứu trước đó rằng VĐHL có
thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau và một trong số những hình thức quan
trọng nhất là “VĐHL thông tin” (informational lobbying) được hiểu là việc
“thuyết phục các nhà hoạch định chính sách để có những hành động cụ thể thông
10
qua những điều khoản có tính chiến lược về thông tin nhằm gây ảnh hưởng đến
các cuộc tranh luận hay thông qua chính sách” [94, tr.26].
Theo bài viết “Contracts: Illegality: Lobbying” đăng trên California Law
Review thì tạiKhoản 35 điều IV, Hiến pháp bang California lại đưa ra quan điểm
VĐHL là việc tìm cách “gây ảnh hưởng đến việc bỏ phiếu cho một thành viên
của nghị viện bằng cách hối hộ, hứa tặng quà, đe dọa hoặc những cách thức
không trung thực khác” [56, tr.344]. Điều 89 của Luật Hình sự bang này lại coi
VĐCS là một loại tội danh giống như bất kỳ một tội danh nào khác và đề xuất
mức phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm với hoạt động này [56, tr.345].
Thứ hai là các công trình bàn đến chủ thể của VĐCS.“Những cơ sở của
nền chính trị Mỹ” của Gary Wassrman chỉ ra những chủ thể của VĐHL là “các
cựu Nghị sĩ hoặc những người đã từng làm trong ngành hành pháp, họ là những
người có kiến thức trong từng lĩnh vực nhất định, có kinh nghiệm chính trị và bản
thân cá nhân có quan hệ với những người hoạch định chính sách” [13, tr.220].
Cũng nói về VĐCS công ở Mỹ, “Societal Complexity and Interest-Group
Lobbying in the American States” (Sự phức tạp của xã hội và VĐCS của các
nhóm lợi ích ở các bang ở Mỹ) coi nhóm lợi ích là chủ thể chính của VĐCS và
phân chia các nhóm lợi ích tham gia vào VĐCS ở Mỹ thành 15 nhóm lớn dựa
trên lợi ích mà các nhóm này đại diện bao gồmnhóm sản xuất nông nghiệp; nhóm
hoạt động văn hóa; nhóm phát triển kinh tế; nhóm tài chính, bảo hiểm và bất
động sản; sản xuất công nghiệp; các cơ quan chính phủ; sản xuất khoáng sản; các
nhóm hỗ trợ công dân và phi lợi nhuận; nhóm theo ngành nghề; nhóm đại diện
cho ngành bán lẻ và bán buôn; nhóm những người có cùng hệ tư tưởng và những
người độc thân; giao thông vận tải; nghiệp đoàn và các tổ chức tương tự; nhóm
dịch vụ công; và các nhóm không xác định được [75, tr.490-491]. Thống nhất
quan điểm cho rằng các nhóm lợi ích là chủ thể chủ yếu tham gia VĐCS nhưng
từ thực tiễn châu Âu, tác giả của “Lobbying in Europe” đưa ra nhận định các
nhóm lớn như các tập đoàn thường chi nhiều tiền cho VĐCS hơn và cũng có
nhiều cơ hội tiếp cận các nhà hoạch định chính sách hơn các công ty nhỏ [94,
tr.18].
11
“Lobbying by the Insiders: Parallels of State Agencies and Interest
Groups” (1988) (VĐCS từ bên trong: so sánh giữa vận động của các cơ quan nhà
nước và các nhóm lợi ích) của Glenn Abney đề cập đến một phương diện khác
của VĐHL là VĐHL của chính các chủ thể trong bộ máy nhà nước và chỉ ra
những nét tương đồng và khác biệt cơ bản giữa các cơ quan nhà nước và các
nhóm lợi ích với tư cách là những chủ thể tiến hành VĐCS và đưa ra mười luận
điểm đối với VĐCS của các cơ quan nhà nước trong so sánh với các nhóm lợi
ích. Như vậy, công trình này nhấn mạnh chính các cơ quan hành pháp cũng là
một chủ thể quan trọng tiến hành VĐCS một cách hiệu quả với những lợi thế đặc
biệt mà các nhóm lợi ích bên ngoài không thể có được.
“Vận động hành lang của các hiệp hội kinh tế của các nước trên thế giới,
thực trạng và xu hướng phát triển tại Việt Nam” của tác giả Trần Hữu Quỳnh
(2009) đề cập đến ba vấn đề chính coi các hiệp hội kinh tế là một trong những
chủ thể quan trọng và tham gia có hiệu quả vào quá trình VĐCS.
“Vận động hành lang trong đời sống chính trị các nước phương Tây”
(2010) của PGS. TS. Lưu Văn An phân tích vai trò của VĐHL trong nền chính trị
các nước phương Tây dựa trên sự phân loại các chủ thể tiến hành vận động bao
gồm các nhóm lợi ích, các đảng chính trị, các cơ quan nhà nước và các công dân.
Qua đó phản ánh sự phong phú, đa dạng về của chủ thể VĐCS.
Bài viết “Về các công ty xuyên quốc gia và ảnh hưởng của chúng đối với
quyền lực nhà nước”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, tháng 3 năm 2014 nhấn
mạnh các công ty xuyên quốc gia có thể gây áp lực lên các chính sách của các
nước và vì vậy có thể coi các công ty xuyên quốc gia là một trong những chủ thể
tiến hành VĐCS.
- Bài viết “Tổ chức nghiên cứu, tư vấn chính sách trong lĩnh vực chính
sách công ở một số nước trên thế giới” của tác giả Nguyễn Trọng Bình đăng trên
tạp chí Tổ chức nhà nước số 2 năm 2015 phân tích vai trò của các tổ chức nghiên
cứu, tư vấn chính sách như một chủ thể quan trọng góp phần nâng cao năng lực
chính sách công của các chính phủ. Sự phát triển của các tổ chức tư vấn và việc
12
phát huy đầy đủ chức năng của chúng có tác dụng quan trọng góp phần thúc đẩy
quá trình hiện đại hóa quản trị công và nâng cao chất lượng thể chế và chính sách.
Cũng nhấn mạnh các tổ chức tư vấn như là chủ thể ngày càng tích cực VĐCS, bài
viết “Vai trò của các think tank trong hoạch định chính sách - kinh nghiệm cho
Việt Nam” của tác giả Trần Mai Hùng đăng trên tạp chí Quản lý nhà nước số 229,
tháng 2 năm 2015 phân tích vai trò của think tank trong hoạch định chính sách
thông qua nghiên cứu các trường hợp think tank ở Mỹ và ở Trung Quốc. Về cơ bản
tác giả khẳng định các think tank là nơi tập hợp những chuyên gia hàng đầu về tư
duy chiến lược, đóng góp cho việc hoạch định chính sách của chính phủ các nước.
Từ đó cũng đề xuất Việt Nam nên có cơ chế để tạo dựng và phát huy vai trò của
các nhóm think tank trong đời sống chính trị nói chung và trong xây dựng chính
sách nói riêng.
Thứ ba là các công trình đề cập đến đối tượng của VĐCS
“Lobbying Legislatures” (VĐCS đối với cơ quan lập pháp) của Morten
Bennedsen and Sven E. Feldmann tập trung vào hành động VĐCS của các nhóm
lợi ích đối với riêng nhánh lập pháp, theo đó, coi các nhà lập pháp chính là một
trong những đối tượng cơ bản mà các chuyên gia VĐCS hướng tới. Cũng tập trung
vào nhánh hành pháp như đối tượng chính của hoạt động VĐCS từ các nhóm lợi
ích, “The Role of Legislators in the Determination of Interest Group
Influence”(Vai trò của các nhà lập pháp trong quyết định gây ảnh hưởng của các
nhóm lợi ích) cho rằng các nhà lập pháp là những người đóng vai trò quan trọng
trong quyết định gây ảnh hưởng của các nhóm lợi ích để đạt được mục đích của
họ.“Presidential Power and White House Lobbying” (Quyền lực Tổng thống và
VĐCS ở Nhà Trắng) của John F. Manley cho chúng ta thấy chính Tổng thống
trong thể chế chính trị Mỹ là đối tượng mà các nhóm lợi ích rất quan tâm và luôn
muốn tiếp cận trong quá trình vận động.
Thứ tư là các công trình đề cập đến các hình thức, phương pháp, phương
tiện VĐCS.“Những cơ sở của nền chính trị Mỹ” của Gary Wassrman đưa rahai
phương phápVĐHL là vận động trực tiếp và vận động gián tiếp. Theo đó VĐHL
13
trực tiếp thường diễn ra trong các ủy ban của Quốc hội và trong các nhà lãnh đạo
hành pháp, VĐHL gián tiếp bao gồm các chiến dịch vận động viết thư ồ ạt, sử
dụng các ngân hàng điện thoại, VĐHL cơ sở. “Lobbying in Europe” tuy không đi
vào chi tiết nhưng cũng đề cập đến các phương thức cơ bản để VĐCS bao gồm vận
động trực tiếp và vận động gián tiếp, các hình thức biểu hiện cụ thể trong mỗi
phương thức vận động này.“Effective lobbying in Europe”(Hiệu quả của VĐCS
công ở châu Âu) có nội dung về các kênh gây ảnh hưởng đến quá trình vận động,
đặc biệt là các nguồn thông tin hữu ích, các kênh truyền thông trực tuyến, các kênh
truyền thông như mạng xã hội và các nguồn công nghệ số khác… được người dân
đánh giá là phù hợp nhất với họ và được sử dụng phổ biến hơn.“The Lobbying
Activities of Organized Interests in Federal Judicial Nominations”(Các hoạt động
VĐCS của các nhóm lợi ích đối với các thẩm phán tòa án liên bang) (2000) của
Gregory A. Caldeira, Marie Hojnacki, John R. Wright đã đề cập đến các kỹ thuật
hay phương thức VĐCS “Các kỹ thuật của VĐCS hiện đại cung cấp cho các nhóm
lợi ích có tổ chức thêm nhiều lựa chọn mang tính chiến thuật. Dù tiến hành vận
động đơn lẻ hay tập hợp trong một liên minh, các nhóm đều có thể tiến hành các
nghiên cứu, đưa ra cảnh báo cho các thành viên, tổ chức các chiến dịch viết thư tay
và gọi điện thoại, tiếp xúc với các nhà lập pháp thông qua các chuyên gia VĐCS,
cung cấp thông tin cho các phương tiện truyền thông, đăng các quảng cáo, và
nhiều kỹ thuật khác nữa” [68, tr.52, 53].
“Lobbying for Justice: Organized Interests Supreme Court Nominations,
and United StatesSenate” (VĐCS đối với ngành tư pháp: các nhóm lợi ích, thẩm
phán tòa án tối cao và các thượng nghị sĩ Mỹ)(1998) của Gregory A. Caldeira
and John R. Wright cũng đề cập đến ba dạng hoạt động hay nói đúng hơn là ba
hình thức mà các nhóm lợi ích sử dụng để gây ảnh hưởng đến số lượng cũngnhư
nội dung thông tin mà các nhà lập pháp sử dụng trong quá trình bỏ phiếu bao
gồm truyền đạt thông tin về chính sách đến các nhà lập pháp với hi vọng kết nối
quan điểm của họ với ưu tiên của mình; tạo điều kiện thuận lợi và tổ chức tập
hợp các quan điểm của dân chúng như gửi thư tay, gọi điện thoại, gửi thư tín;
14
cung cấp thông tin trực tiếp cho các nhà lập pháp về kết quả của các chính sách
mà họ ủng hộ.
Thứ năm là các công trình đề cập đến môi trường hay các yếu tố ảnh
hưởng đến VĐCS.
“Information and influence: lobbying for agendas and votes” (Thông tin và
ảnh hưởng: VĐCS trong giai đoạn xác lập nghị trình và bỏ phiếu thông qua) tập
trung bàn đến tính chất và mức độ ảnh hưởng của các nhóm lợi ích đến quá trình
xây dựng luật và các chính sách trong điều kiện hoạch định chính sách với những
thông tin không đầy đủ. Theo đó khẳng định quá trình VĐCS có thể được coi như
một trò chơi với việc truyền tải thông tin chiến lược. Theo đó, các nhóm lợi ích
sẽ có những lựa chọn chiến lược VĐCS khác nhau tùy thuộc vào môi trường và
mức độ thông tin họ nắm được. Họ có thể lựa chọn vận động trực tiếp ngay từ
giai đoạn xác lập nghị trình, có thể vận động ở cả giai đoạn xác lập nghị trình lẫn
giai đoạn thông qua chính sách, tuy nhiên ảnh hưởng của thông tin đối với việc
vận động mỗi giai đoạn này là không giống nhau. Cũng chú trọng vào mối quan
hệ giữa mức độ thông tin với VĐCS, luận án“Lobbying in the Dark? The Effects
of Policy-Making Transparency on Interest Group Lobbying Strategies in France
and Sweden” chỉ ra hai môi trường với mức độ công khai thông tin khác nhau
hoàn toàn giữa Thụy Điển (mức độ minh bạch thông tin cao) và Pháp (mức độ
minh bạch thông tin thấp) để đưa ra kết luận về hiệu quả của VĐCS và đưa đến
kết luận, sự minh bạch và công khai về thông tin, nhất là những thông tin hữu
dụng (actionable information) là điều kiện cần cho VĐCS tích cực.“Societal
Complexity and Interest-Group Lobbying in the American States” lại bàn đến
mối quan hệ giữa sự phức tạp của xã hội với hoạt động VĐCS của các nhóm lợi
ích qua nghiên cứu các bang ở Mỹ và đi đến khẳng định “xã hội ngày càng phức
tạp thì hoạt động VĐCS càng gia tăng” (… society becomes more complex,
lobbying should increase as well” [75, tr.489]). Lập luận được đưa ra ở đây là
“Nếu sự gia tăng hoạt động của nhóm lợi ích này là kết quả của những bất ổn lặp
đi lặp lại xuất phát từ sự phức tạp của xã hội hiện đại, thì hệ thống kinh tế, chính
trị, xã hội càng phức tạp, số lượng các nhóm lợi ích sẽ càng tăng lên, và hoạt
15
động của các nhóm lợi ích cũng ngày càng tăng theo. Tương tự như vậy, xã hội
tồn tại càng lâu, các bất ổn càng xuất hiện nhiều trong lòng hệ thống xã hội đó và
số lượng các nhóm lợi ích cũng như các hoạt động VĐCS của chúng cũng càng
tăng” [75, tr.489].“Interest Group Lobbying: Canada and the United
States”(VĐCS của các nhóm lợi ích: trường hợp Canada và Mỹ) trên cơ sở so
sánh hoạt động VĐCS của các nhóm lợi ích ở Mỹ và Canada đã khẳng định “văn
hóa chính trị và cấu trúc thể chế chính trị có tác động rõ rệt đến hiệu quả của
những nỗ lực của các nhóm lợi ích trong việc gây ảnh hưởng đến chính sách của
chính phủ” [90, tr. 71].
“Caps on Political Lobbying” tập trung phân tích tác động của tài chính
đối với các hoạt động VĐHL trong chính trị.Cũng coi tiền là một yếu tố tác động
mạnh đến đời sống chính trị và chính sách, “The Role of Legislators in the
Determination of Interest Group Influence”khẳng định, “thông thường, tiền được
coi như vật ngang giá trên thị trường chính trị nhưng những nỗ lực nhằm tìm
kiếm những bằng chứng về ảnh hưởng của tiền lên các lá phiếu thường thu được
những kết quả không thống nhất” [98, tr. 649].
“Tính công khai, minh bạch trong vận động hành lang” của GS. TS Lê
Minh Tâm, coi công khai, minh bạch là môi trường thuận lợi cho VĐHL tích cực
và bảo vệ quan điểm này bằng cách chỉ ra bốn căn cứ cho thấy sự cần thiết phải
công khai, minh bạch trong hoạt động VĐHL như:VĐHL là hoạt động mang tính
chuyên nghiệp, nhưng không mang tính chính thức vì nó được diễn ra bên ngoài
các phòng họp và làm việc chính thức của các cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định, chính sách;VĐHL là những hoạt động đa dạng và đa mục đích; VĐHL bao
gồm các hoạt động mang tính chất trung gian, VĐHL cần đến những nguồn lực
tài chính do khách hàng cung cấp, vì vậy nó có những mặt trái cần được tính đến,
đó là tình trạng ‘thiên vị” vì lợi ích kinh tế, nhằm phục vụ cho quyền lợi riêng
của cá nhân.
Thứ sáu, là các công trình đề cập đến những tác động của VĐCS
16
“The Effects of Lobbying: A Comparative Assessment” (Những tác động
của VĐCS: đánh giá so sánh) của Harmon Zeigler là công trình trực tiếp đề cập
đến những tác động của VĐCS dựa trên cách tiếp cận so sánh mà cụ thể là so sánh
ảnh hưởng của VĐCS ở bốn bang sau đây của Mỹ: Massachusetts, North Carolina,
Oregon, and Utah và ở mỗi bang này, lại tập trung vào tác động của nhóm lợi ích
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội.
“Caps on Political Lobbying” trong khi phân tích các tác động của tài
chính đến VĐCS đồng thời cũng đưa ra những nhận định về một số tác động của
VĐCS đến đời sống chính trị, xã hội như sự gia tăng những người có nhu cầu vận
động, sự thiếu hụt về thông tin, sự lãng phí các nguồn lực xã hội, gia tăng sự khác
biệt giữa giá trị cá nhân và xã hội…“Interest Group Politics” (Nền chính trị nhóm
lợi ích) cũng luận giải nguy cơ bế tắc chính sách do VĐCS gây ra.
Như một cách gián tiếp đề cập đến những tác động tích cực của VĐCS,
“Lobbying for Change: Women's Lobby” (VĐCS hướng đến sự thay đổi: vận
động cho nữ giới) (1992) của Babette Kabak tập trung vào quá trình nỗ lực
VĐCS của Ủy ban về Tình trạng pháp lý của phụ nữ (Women's LegalStatus
Committee(WLSC)) cho những quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của phụ
nữ, qua đó khẳng định VĐCS là một cách thức hữu hiệu để đấu tranh cho quyền
lợi và sự tiến bộ của phụ nữ.
“Lobbying in Europe” (VĐCS công ở châu Âu) dành một phần đề cập đến
tác động xã hội và những ảnh hưởng không mong muốn của VĐCS. Theo đó,
thông qua nghiên cứu các trường hợp ở Châu Âu, tác giả cho rằng “Khi VĐCS
không được quy định và vẫn nằm dưới sự giám sát của công chúng thì tiềm ẩn
nguy cơ gia tăng ảnh hưởng tiêu cực từ hoạt động này. Nếu không có một rào cản
mạnh mẽ về đạo đức giữa khu vực công và các nhà VĐCS, các quyết định có thể
được thực hiện không phục vụ lợi ích công cộng mà chỉ vì các lợi ích cá nhân.
Điều này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội như suy thoái môi
trường, sụp đổ hệ thống tài chính, lạm dụng quyền con người, và sự đe dọa sức
khỏe và sự an toàn của công chúng...” [94, tr.20].
17
“Living with Lobbying: A growth policy co-opted by lobbyists can be
better than no growth policy at all” (1993) của Knut Anton Mork phân tích mối
quan hệ giữa mô hình tăng trưởng với VĐCS và tỉ lệ tăng trưởng với phúc lợi xã
hội, làm rõ những tác động tích cực và tiêu cực của VĐCS trong đời sống chính
trị và khẳng định dù có những ảnh hưởng tiêu cực khó phủ nhận như lãng phí
nguồn lực xã hội nhưng khẳng định “VĐCS cũng có thể mang lại cho các nhà
hoạch định chính sách cơ hội để cải thiện phúc lợi xã hội mà lẽ ra có thể đã bị bỏ
qua. Vì vậy, mặc dù tốn kém, VĐCS với các chính sách về tăng trưởng có thể
được kì vọng sẽ nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như mức độ phúc lợi
xã hội” [78, tr. 605].
“Effective lobbying in Europe” (Hiệu quả của VĐCS công ở Châu Âu) là
một nghiên cứu công phu để làm rõ thế nào là VĐCS hiệu quả ở châu Âu, trong
đó đưa ra những gợi ý về những tác động tích cực và hạn chế của VĐCS theo
những tiêu chí khác nhau dựa trên đánh giá của người dân - những người được
điều tra trong nghiên cứu. Cụ thể, một số tác động tích cực của VĐCS được đề
cập bao gồm đảm bảo sự tham gia của các chủ thể kinh tế - xã hội và công dân
vào các quá trình chính trị, khả năng cung cấp những thông tin bổ ích và kịp thời,
nâng cao tầm quan trọng của vấn đề cả ở cấp quốc gia cũng như địa phương, ...
trong khi đó những tác động tiêu cực có thể là thiếu sự minh bạch dẫn đến thực
tiễn VĐCS không phát huy hiệu quả, tạo ra sức ép quá lớn trong suốt quá trình
chính sách đối với giới tinh hoa chính trị và những người giàu có trong xã hội, và
khả năng các thông tin được cung cấp không đảm bảo tính khách quan, trung
thực.
“Tính công khai, minh bạch trong vận động hành lang” của GS. TS Lê
Minh Tâm, trong khi coi công khai, minh bạch là môi trường thuận lợi cho
VĐHL tích cực và đưa ra những lập luận bảo vệ quan điểm này đồng thời cũng
nhấn mạnh VĐHL có những mặt trái cần được tính đến, đó là tình trạng ‘thiên
vị” vì lợi ích kinh tế, nhằm phục vụ cho quyền lợi riêng của cá nhân.
18
1.1.2. Những công trình bàn về pháp luật và thực tiễn vận động chính
sách công ở Anh, Pháp, Mỹ
Thứ nhất là các công trình đề cập đến pháp luật hay những quy định về
VĐCS
“Control of lobbying” (Kiểm soát VĐCS) tập trung bàn về những quy định
để kiểm soát hoạt động VĐCS từ khi các bang đầu tiên của nước Mỹ đưa ra
những quy định về việc này.Cũng tương tự, “Regulation of Pressure Groups and
Lobbyists” (Quy định đối với các nhóm áp lực và các chuyên gia VĐCS) (1958)
của Belle Zeller nghiên cứu trực tiếp về những quy định đối với các nhóm áp lực
và các chuyên gia VĐCS bắt đầu từ những quy định về VĐCS ở cấp bang ở Mỹ
từ khi mới chỉ có 31 bang thông qua những quy định cho hoạt động này đến khi
có quy định mới ở ba bang là Texas, Illinois và Wisconsin. Nghiên cứu cũng
trình bày lịch sử quy định VĐCS ở Quốc hội Hoa Kỳ và đưa ra những phê phán
đối với Luật VĐCS ở cấp liên bang.
“Lobbying - Registration” (VĐCS - Quy định về đăng ký) của John. A.
Lapp tập trung bàn đến bối cảnh ra đời cũng như nội dung của quy định mới về
VĐHL ở Mỹ mà tập trung là quá trình xây dựng và thông qua những quy định
này ở một số bang của nước Mỹ cũng như ở cấp liên bang.“Lobbying” (VĐCS)
của E. Watson Kenyon cũng đề cập đến những thay đổi trong quy định về VĐHL
của một số bang ở Mỹ. “The Regulation of Lobbying” (Quy định về VĐCS) của
James K. Pollock trình bày một cách có hệ thống về những quy định và luật
VĐHL của Mỹ nhưng chủ yếu theo hướng đề cập đến sự khác nhau trong quan
điểm và quy định cụ thể về VĐHL ở các bang của nước Mỹ.“Regulating
Lobbying: a global comparison” (Quy định về VĐCS: so sánh ở cấp độ toàn
cầu)của nhóm tác giả Raj Chari, Gary Murphy, và John Hogan, nghiên cứu một
cách công phudựa trên cách tiếp cận so sánh những quy định về VĐHL của các
nước trên thế giới, cụ thể là lựa chọn các quốc gia ở Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á và
Ốtxtrâylia (khoảng 40 nước và vùng lãnh thổ)với mong muốn đưa ra những đề
xuất để thúc đẩy sự minh bạch trong quy trình hoạch định chính sách công. Công
19
trình này đã xây dựng bộ chỉ số đánh giá 3 mức độ đối với các quy định về
VĐHLlà mức độ thấp (điểm từ 1 đến 29), mức trung bình (điểm từ 30 đến 59) và
mức cao (điểm từ 60 đến 100) đồng thời còn chỉ ra những đặc trưng về thể chế
của từng mức này, chỉ ra mối quan hệ giữa nhận thức về tham nhũng với mức độ
hoàn thiện của quy định về VĐHL, hơn nữa còn đưa ra những luận giải về
nguyên nhân của sự khác biệt về môi trường văn hóa, chính trị và thể chế cho
mỗi nhóm. “Lobbying in Europe” còn đề cập đến sự cần thiết phải có những quy
định đầy đủ và toàn diện về VĐCS bao gồm những tác động tiêu cực tiềm ẩn từ
VĐCS do môi trường vận động phức tạp ở châu Âu, những đòi hỏi ngày càng
cấp thiết về sự minh bạch và trách nhiệm giải trình của Chính phủ, sự công khai
về thông tin để có VĐCS tích cực… và khẳng định rằng dù sẽ phải đối mặt với
nhiều khó khăn và thách thức để luật hóa VĐCS nhưng một quy định đầy đủ về
VĐCS là thực sự cần thiết để ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của
VĐCS.“Societal Complexity and Interest-Group Lobbying in the American
States” cũng đề cập ở mức khái quát những quy định về VĐCS thông qua việc
chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong những luật quy định về việc đăng ký
đối với hoạt động VĐCS ở các bang của Mỹ. Bài viết “History of the Lobbying
Disclosure Act” (Sự hình thành Luật công khai VĐCS) diễn giải lịch sử các Luật
công khai hóa hoạt động VĐCS ở Mỹ thông qua việc trình bày những nỗ lực to
lớn và rất sớm ở cấp độ liên bang trong việc luật hóa hoạt động VĐCS. Cụ thể
hơn, bài viết đề cập đến hoàn cảnh ra đời cũng như những nội dung chính của
Luật đăng ký của các thể nhân nước ngoài năm 1938 (Foreign Agents
Registration Act of 1938), Những quy định của liên bang trong Luật VĐHL năm
1946 (Federal Regulation of Lobbying Act of 1946), Luật công khai hoạt động
VĐHL năm 1995 (Lobbying Disclosure Act of 1995) và một số bổ sung, hoàn
thiện từ các Luật đó cho phù hợp với sự thay đổi của môi trường chính trị thực
tiễn.Vẫn là những điều chỉnh về luật VĐCS, “Lobbying reform” (Cải cách VĐCS)
tập trung phân tích những điều chỉnh mới của Liên bang về Luật VĐCS, nhất là
sau bê bối chính trị của Jack Abramoff và một số bê bối khác trong thực tiễn
VĐCS ở Mỹ.
20
“Lobbying and transparency: A comparative analysis of regulatory
reform” (VĐCS và minh bạch: phân tích so sánh về thay đổi pháp lý) (2012) của
Craig HolmanEmail và William Luneburg cũng đề cập đến các quy định về
VĐCS ở một số quốc gia, đặc biệt đề cập đến mô hình tự điều chỉnh đối với
VĐCS ở Anh và chỉ ra hai nan giải của mô hình này trong thực tiễn dẫn đến yêu
cầu cấp thiết phải thay đổi nó, hướng tới một quy định chặt chẽ và mang tính bắt
buộc đối với VĐCS trong thời gian tới.
Gần đây nhất là công trình “Comparison of models of lobbying regulation
in EU countries”(So sánh các mô hình quy định về VĐCS giữa các quốc gia châu
Âu) (2015) là công trình nghiên cứu công phu dựa trên cách tiếp cận so sánh về
những quy định về VĐCS. Đóng góp đặc biệt của công trình này là dựa trên
những tiêu chí khác nhau đã đưa ra các cách phân loại về mô hình các quy định
VĐCS từ đó nghiên cứu hình thức quy định VĐCS ở một số nước châu Âu trong
đó có Pháp và Anh, theo đó Pháp đã xây dựng được Bộ quy tắc ứng xử đối với
VĐCS ở Thượng viện và Hạ viện năm 2009, 2010, còn Anh đã ban hành được
Luật minh bạch hoạt động VĐCS, chiến dịch vận động phi đảng phái và Luật
hành chính công đoàn năm 2014.
Thứ hai là những công trình đề cập đến thực tiễn hoạt động VĐCS ở Anh,
Pháp, Mỹ
Về VĐCS công ở Anh, có các công trình dưới đây:
“Lessons in lobbying for free trade in 19th - century Britain to concentrate
or not” (Những bài học về VĐCS cho tự do thương mại ở Anh trong thế kỷ XIX
nhằm tập trung hóa hay không) thừa nhận và áp dụng lý thuyết lựa chọn công
cộng để phân tích các hoạt động của các nhóm áp lực ở Anh trong thế kỷ XIX.
Trong số chín nội dung chính của cuốn “Lobbying: the art of political
persuasion” (VĐCS: nghệ thuật thuyết phục chính trị) (2008) củaLionel Zetter, tác
giả đã dành một chương (8)để tập trung đề cập những vấn đề rộng hơn và bao quát
bối cảnh vận động ở các tổ chức khác nhau trong phạm vi Vương quốc Anh bao
gồm Nghị viện Scotland, Nghị viện xứ Wales và Quốc hội Bắc Ireland, Chính
21
quyền Anh, và chính quyền địa phương (cũng như các hiệp hội khác nhau thuộc
chính quyền này), Cơ quan lập pháp và bộ máy tư pháp.
Các công trình sau đây bàn đến VĐCS công ở Pháp
“Lobbying in Europe” trong khi đề cập đến những tác động tiêu cực của
VĐCS đã dẫn chứng một vụ bê bối trong chính trị có liên quan trực tiếp đến
VĐCS của ngành dược phẩm ở Pháp.“Lobbying in the Dark? The Effects of
Policy-Making Transparency on Interest Group Lobbying Strategies in France
and Sweden” đã đề cập đến hoạt động VĐCS của các nhóm lợi ích trong lĩnh vực
lâm nghiệp ở Pháp trong tương quan so sánh với Thụy Điển để đánh giá hiệu quả
của sự minh bạch thông tin với chất lượng chính sách cũng như thúc đẩy VĐCS
tích cực. Luận án cũng đã đề cập đến các chiến lược liên minh của các nhóm lợi
ích ở Pháp trong VĐCS.
Trong các nghiên cứu về VĐCS ở châu Âu, cả Anh và Pháp đều là các
quốc gia được lựa chọn nghiên cứu. Cụ thể, ở cả hai công trình nghiên cứu về
VĐCS được tiến hành năm 2013 và 2015 mới đây về VĐCS ở châu Âu, cả Anh
và Pháp đều là những quốc gia được lựa chọn nghiên cứu. Cụ thể hơn, trong công
trình “Effective lobbying in Europe” (2013), các tác giả nghiên cứu để làm rõ
hiệu quả của VĐCS công thông qua việc lấy ý kiến của công chúng về mức độ
ảnh hưởng trên những bình diện cụ thể của VĐCS, những kết quả ở cả Anh và
Pháp đều được thống kê và bình luận. “Lobbying in Europe” (2015) lại là một
nghiên cứu tổng hợp hơn về VĐCS ở châu Âu, trong khi khảo sát các nước và
phân tích cũng đã chỉ ra những nội dung liên quan đến những quy định về VĐCS
ở Anh và Pháp, một số biểu hiện của VĐCS công ở hai quốc gia này.
VĐCS công ở Mỹ được nghiên cứu trong rất nhiều công trình:
“Rational Economic Behavior and Lobbying on Accounting
Issues:Evidence from the Oil andGas Industry”(Hành vi duy kinh tế và VĐCS
đối với những vấn đề về kế toán: Bằng chứng từ ngành công nghiệp dầu khí) đưa
ra những bằng chứng từ nghiên cứu điều tra về mối quan hệ giữa những hành vi
22
kinh tế duy lý với VĐCS đối với những vấn đề về kế toán kiểm toán từ nghiên
cứu trường hợp ngành công nghiệp dầu khí ở Mỹ.
“Interest Group Lobbying: Canada and the United States”(Các nhóm lợi ích
ở Mỹ và Canada) của Robert Presthus là tóm tắt kết quả của một nghiên cứu so
sánh về VĐCS của các nhóm lợi ích ở Mỹ và Canada trên cơ sở những điều tra
xuyên quốc gia và đưa ra kết luận mặc dù khác nhau về văn hóa chính trị, về cấu
trúc của thể chế chính trị, dù khác nhau về tính pháp lý hay mức độ phát triển của
VĐCS, các nhóm lợi ích đã đóng vai trò quan trọng như cầu nối để kết nối giữa
các chủ thể quyền lực công với các chủ thể khác trong đời sống xã hội các nước
Bắc Mỹ. Điều này ít nhiều gợi mở cho chúng ta về mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố đến thực tiễn VĐCS công ở các quốc gia.
“Lobbying by Ethnic Groups and Aid Allocation”(VĐCS của các nhóm
đại diện cho các tộc người và sự phân bổ nguồn hỗ trợ) (2000) của Sajal Lahiri
and Pascalis Raimondos-Moller nghiên cứu quyết định của chính phủ ở các quốc
gia viện trợ trong việc phân bổ nguồn viện trợ của mình cho các nước kém phát
triển và đang phát triển, làm rõ những yếu tố tác động đến quyết định đó, trong
đó đặc biệt chú ý đến vai trò của các nhóm lợi ích đại diện cho các nhóm dân tộc,
đồng thời cũng nghiên cứu để chỉ ra mức độ liên quan của 3 yếu tố là tình trạng
tham nhũng, sự cạn kiệt nguồn viện trợ và thành phần dân tộc.
“Societal Complexity and Interest-Group Lobbying in the American
States”cũng là một nghiên cứu công phu về thực tiễn VĐCS công ở Mỹ.
“The Lobbying Activities of Organized Interests in Federal Judicial
Nominations” tập trung vào các hoạt động VĐCS của các nhóm lợi ích được tổ
chức đối với các vị trí được bổ nhiệm của ngành Tư pháp liên bang. Thông qua
việc lựa chọn 15 vị trí được bổ nhiệm của ngành tư pháp liên bang đến từ Tòa án
tối cao, tòa kháng án, tòa án cấp quận và Bộ tư pháp, các tác giả tập trung khai
thác ở ba nhóm hình thức vận động chính là vị trí đảm nhiệm (position taking),
thu thập và truyền tải thông tin (gathering and transmitting information), huy
động sự ủng hộ từ cơ sở (grassroots mobilization).
23
“Presidential Power and White House Lobbying”của John F. Manley bàn
về quyền lực của Tổng thống Mỹ và vấn đề VĐCS ở Chính phủ Mỹ, đưa ra
những dẫn chứng về các phi vụ vận động xảy ra trong lịch sử một số đời Tổng
thống Mỹ.Coi Mỹ là cái nôi của VĐHL, “Lobbying: the art of political
persuasion” (2008) của Lionel Zetter đề cập đến VĐHL ở Mỹ tập trung vào việc
khái quát về Hiến pháp Mỹ, một số chế định như Tổng thống, cơ quan hành
pháp, cơ quan tư pháp, chính quyền địa phương và chỉ rõ sự đa dạng của VĐHL
trong các cơ quan này mặc dù những nội dung VĐHL được đề cập còn khá tản
mạn.
“Một số yếu tố ngoài chính phủ trong quá trình hoạch định chính sách đối
ngoại của Mỹ” của Diệu Anh, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 41- 2000 đã đề
cập tới VĐHL Quốc hội với tư cách là một yếu tố ngoài chính phủ tác động tới
việc hình thành và thực thi chính sách đối ngoại của Mỹ.“Vận động hành lang
trong hoạt động lập pháp các nước và xu hướng ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Chí Dũng đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 79, tháng 6-2009 khảo sát
sự tham gia của VĐHL trong hoạt động lập pháp của một số nước trên thế giới,
chủ yếu tập trung nghiên cứu ở Mỹ và hoạt động VĐHL của một số nước ngoài
tại Mỹ, từ đó chỉ ra xu hướng của hoạt động này ở Việt Nam.
“Vận động hành lang của các hiệp hội kinh tế của các nước trên thế giới,
thực trạng và xu hướng phát triển tại Việt Nam”(2009) của tác giả Trần Hữu
Quỳnh (2009) cũng đề cập đến VĐHL của các hiệp hội kinh tế ở Mỹ.
1.1.3. Các công trình đề cập đến những kiến nghị, giải pháp để thúc
đẩy tính tích cựccũng như hiệu quả của vận động chính sách
“Lobbying in Europe” sau khi phân tích và làm rõ các quy định về VĐHL
ở châu Âu đã đưa ra những kiến nghị đối với các nhà hoạch định chính sách, các
nhà VĐHL chuyên nghiệp, các tổ chức và các tổ chức muốn gây ảnh hưởng đến
chính sách, và các thể chế của châu Âu để đảm bảo môi trường cho VĐHL minh
bạch, liêm chính và bình đẳng trong tiếp cận thông tin cũng như các chủ thể
quyền lực công.“Lobbying in the Dark? The Effects of Policy-Making
24
Transparency on Interest Group Lobbying Strategies in France and Sweden” đưa
ra những khuyến nghị để nâng cao hiệu quả của VĐCS bao gồm:bắt đầu vận
động càng sớm càng tốt, nắm được càng nhiều thông tin càng tốt, và càng nhiều
người tham gia hoạch định và càng nhiều giai đoạn trong quá trình hoạch định thì
càng khó để thay đổi một quyết định chính sách. “Effective lobbying in Europe”
đưa ra 12 lời khuyên để VĐCS công một cách hiệu quả.
1.2. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG
VÀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM
Chính sách công ở Việt Nam được nghiên cứu trong các công trình sau
đây: “Đánh giá chính sách công ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp” (2012) của tác
giả Nguyễn Đăng Thành, trên cơ sở đưa ra những quan niệm cơ bản về chính
sách công và đánh giá chính sách công, tác giả bàn đến hai nội dung chính:
những trở ngại trong đánh giá chính sách công hiện nay và những giải pháp tăng
cường đánh giá chính sách công. Ở nội dung thứ nhất, những tác giả chỉ ra những
trở ngại, cũng là những khó khăn, hạn chế của đánh giá chính sách công ở Việt
Nam: Thứ nhất, nhận thức về đánh giá chính sách còn đơn giản, Thứ hai, các cơ
quan chức năng thường không quan tâm tổ chức đánh giá chính sách, Thứ ba,
việc xem xét lại chính sách đôi khi chỉ được thực hiện khi xuất hiện “vấn đề, Thứ
tư, thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học, Thứ năm, đánh
giá chính sách đôi khi mang tính một chiều, chỉ phản ánh nhận xét của các cơ
quan nhà nước mà không quan tâm đủ mức đến sự phản hồi từ xã hội, từ những
đối tượng mà chính sách hướng vào. Ở nội dung thứ hai, tác giả đưa ranăm giải
pháp tăng cường công tác đánh giá chính sách công ở Việt Nam: một là, đưa việc
đánh giá chính sách thành một nội dung bắt buộc đối với một số chính sách quan
trọng của Nhà nước; Hai là, xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách một cách
đầy đủ và đúng đắn; Ba là, quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của
nhân dân để thấy được các bất cập trong hoạch định và quá trình thực thi chính
sách; Bốn là, tổ chức nhóm đánh giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động với
tư cách chuyên gia đánh giá; Thứ năm, dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc
đánh giá chính sách.Bài viết“Quá trình hoạch định chính sách tại Việt Nam,
25
nghiên cứu trường hợp về luật phòng chống bạo lực gia đình”. Nghiên cứu nhằm
mô tả quá trình hoạch định luật phòng chống bạo lực gia đình tại Việt Nam, phân
tích 4 yếu tố liên quan bao gồm nhân lực, dịch vụ, xã hội dân sự và dịch vụ y tế.
Nghiên cứu được thực hiện thông qua rà soát tài liệu sẵn có và bổ sung các thông
tin còn thiếu bằng nghiên cứu định tính. Quá trình hoạch định Luật Phòng chống
Bạo lực gia đình tại Việt Nam được trình bày từ giai đoạn đầu đến khi được Quốc
hội thông qua. Bốn yếu tố nhân lực, dịch vụ, xã hội dân sự và dịch vụ y tế được
phân tích trong đó, lần đầu tiên trong quá trình hoạch định Luật Phòng chống
Bạo lực gia đình, yếu tố xã hội dân sự được đẩy mạnh và nổi bật trong quá trình
hoạch định chính sách. Nghiên cứu này nhăm mô tả chi tiết quá trình hoạch định
chính sách y tế cũng như tác động qua lại của các yếu tố liên quan (gồm nhân
lực, dịch vụ, xã hôi dân sự và dịch vụ y tế) đến quá trình hoạch định chính sách.
Thông qua phân tích các cơ chế hoạch định chính sách trong bối cảnh ở Việt
Nam, nghiên cứu này sẽ giúp xây dựng các mô hình lý giải và đánh giá các kết
quả của các chính sách y tế khác nhau. Luật phòng chống bạo lực gia đình được
chọn là trường hợp nhằm phản ánh quá trình chính sách vì tại thời điểm nghiên
cứu Luật đang được dự thảo và sửa đổi nên nghiên cứu có thể theo dõi quá trình
chính sách từ giai đoạn dự thảo cho tới giai đoạn thông qua luật.
Bài viết “Một số vấn đề về đổi mới hoạch định chính sách công ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Chung đăng trên tạp chí Tổ chức nhà nước, số 8
năm 2014 làm rõ hai nội dung cơ bản: nhận diện chính sách công và một số vấn
đề đổi mới hoạch định chính sách công. Đặc biệt, nói về đổi mới hoạch định
chính sách công, tác giả nhận định hoạch định chính sách công ở Việt Nam thời
gian qua có nhiều cải tiến và đổi mới tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập so với yêu
cầu và thực tiễn quản lý như việc hoạch định chính sách còn mang tính mệnh
lệnh và thiếu độ mở, từ đó đề xuất các hướng đổi mới như: vấn đề chính sách cần
phải xác định rõ ràng và có tính khả thi cao, hoạch định chính sách cần sự phối
hợp giữa các đơn vị tham gia và đảm bảo tính liên thông giữa các chính sách;
nâng cao tính minh bạch, tính giải trình trong hoạch định chính sách công; nâng
26
cao năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức
hoạch định chính sách công.
Bài viết “Sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội vào quá trình
hoạch định và thực thi chính sách công”của tác giả Trần Mai Hùng đăng trên tạp
chí Quản lý nhà nước số 228, tháng 1 năm 2015 tập trung vào ba vấn đề: chính
sách và chính sách công với các giai đoạn chính của quy trình chính sách; sự
tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội vào quá trình hoạch định và thực thi
chính sách công; đề xuất bốn phương hướng, giải pháp để phát huy vai trò của
các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt
Nam hiện nay.
Về VĐHL, VĐCS công ở Việt Nam có các công trình sau đây:
“Vận động hành lang trong hoạt động lập pháp các nước và xu hướng ở
Việt Nam”đề cập đến những cơ sở pháp lý cho quyền công dân được tham gia
vào quá trình lập pháp ở Việt Nam, ý nghĩa cũng như những xu thế và điều kiện
cho hoạt động này ở Việt Nam.
“Vận động chính sách ở Việt Nam - những vướng mắc và giải pháp tháo
gỡ” (2008) của Vũ Xuân Tiền, trên cơ sở đưa ra quan niệm VĐCS là việc tuyên
truyền, giải thích, động viên những người nghiên cứu, soạn thảo và ban hành các
chính sách tự nguyện xây dựng các chính sách theo nguyện vọng chính đáng của
người vận động, bài viết đã phân tích và đưa ra năm vướng mắc cũng là những
khó khăn lớn cần tháo gỡ đối với hoạt động VĐCS ở Việt Nam. Từ năm vướng
mắc này, bài viết cũng đề xuất năm giải pháp được xem là cấp bách nhằm tháo
gỡ những khó khăn đó.
“Vận động chính sách đối với doanh nghiệp kinh tế: cần một khung pháp
lý”(2009) của tác giả Vũ Thị Nhài bàn tới yêu cầu tạo một khung pháp lý cơ bản
cho hoạt động VĐCS của các doanh nghiệp dựa trên ba vấn đề: tiền đề pháp lý,
thực tiễn từ các doanh nghiệp và các Hiệp hội kinh tế, vai trò của các cơ quan
tham mưu và đưa ra các kiến nghị nhấn mạnh sự cấp thiết phải xây dựng và ban
27
hành khung pháp lý cho loại hình VĐCS của các doanh nghiệp kinh tế trong điều
kiện hội nhập.
“Vận động chính sách: "Gót chân Asin" của các hiệp hội doanh nghiệp”
(2013)của Hồ Hường tổng hợp kết quả của báo cáo nghiên cứu: “Thực trạng
năng lực hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam” do VCCI tổ chức
và chỉ ra trong số 5 khía cạnh đánh giá năng lực doanh nghiệp bao gồm năng lực
quản trị và định hướng chiến lược, năng lực tài chính và cơ sở vật chất, năng lực
phục vụ hội viên, năng lực VĐCS, năng lực xây dựng và phát triển cộng đồng
doanh nghiệp, điểm yếu lớn nhất của các hiệp hội ngành hàng quốc gia chính là
năng lực VĐCS, chỉ đạt ở cấp độ cơ bản (mức 2 trên thang điểm 4).
Bài viết “Tổ chức và hoạt động của hội, tổ chức phi chính phủ ở nước ta”
của tác giả Nguyễn Minh Phương đăng trên tạp chí Lý luận chính trị số 3 năm
2014 nêu lên ba vấn đề: khái niệm hội và tổ chức phi chính phủ; chủ trương và
quy định về tổ chức, hoạt động của hội; và thực trạng hoạt động của các hội quần
chúng. Trong số nhiều hoạt động và hình thức tham gia của các hội quần chúng,
tác giả chỉ ra đóng góp của các hội, liên hiệp hội trong việc đóng góp ý kiến xây
dựng chủ trương, chính sách, pháp luật, các chương trình dự án phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước và các địa phương cũng như tích cực tham gia vào các hoạt
động cụ thể thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương,
đất nước, vận động các tổ chức phi chính phủ nước ngoài vào Việt Nam hoạt
động tài trợ cho các chương trình… và đây được coi là những hình thức biểu hiện
của VĐCS ở Việt Nam.
Bài viết “Tác động của các nhóm lợi ích đến việc ban hành chính sách”
của tác giả Nguyễn Hữu Để tập trung vào nghiên cứu về tác động của các nhóm
lợi ích đến việc ban hành chính sách ở Việt Nam hiện nay bao gồm cả tác động
tích cực và tiêu cực. Cụ thể, tác giả phân tích tác động tích cực của các nhóm lợi
ích đến việc ban hành chính sách ở Việt Nam dựa trên tác động về kinh tế, chính
trị, xã hội, đồng thời cũng chỉ ra ba tác động tiêu cực của VĐCS là sự xuất hiện
của một số nhóm lợi ích độc quyền, lũng đoạn; sự bất công bằng giữa các nhóm
28
lợi ích, nhất là giữa các nhóm lớn với các nhóm yếu thế; nguy cơ của việc sử
dụng các phương thức phi pháp nhằm mua chuộc người ra quyết sách.
Cuốn “Vận động chính sách công, lý luận và thực tiễn” (2015), sách tham
khảo do GS, TSKH. Đào Trí Úc và PGS, TS. Vũ Công Giao đồng chủ biên tập
hợp 17 bài tham luận của các chuyên gia về VĐCScông trên thế giới và Việt
Nam đã được lựa chọn và trình bày trong Hội thảo cùng tên. Các bài viết đã đề
cập sâu hơn đến quan niệm cũng như thực tiễn VĐCS công ở một số quốc gia
trên thế giới, thực tiễn và kinh nghiệm cho Việt Nam. Đây có lẽ là công trình mới
nhất cũng là nghiên cứu tập trung nhất về VĐCS công, bao gồm thực tiễn và kinh
nghiệm VĐCS ở một số quốc gia trên thế giới, pháp luật về VĐCS của một số
nước, cũng bước đầu đề cập đến biểu hiện của VĐCS công ở Việt Nam. Tuy
nhiên vì chỉ là những tổng hợp những tham luận hội thảo nên những nội dung
được trình bày chưa thực sự sâu sắc và thuyết phục.
1.3. ĐÁNH GIÁ NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
1.3.1. Những kết quả đạt được
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu trên, có thể thấy, các công trình là
những nghiên cứu công phu, đáng tin cậy về những vấn đề cơ bản có liên quan
đến đề tài, cụ thể như sau:
Thứ nhất, nhóm công trình đầu tiên đã tập trung phân tích nhiều nội dung
liên quan đến VĐHL và VĐCS, trong đó về cơ bản có những nội dung sau đây đã
được thống nhất: khái niệm VĐHL, VĐCS, chủ thể và đối tượng, nội dung và
phương pháp VĐCS, môi trường và các nhân tố tác động đến VĐCS, những tác
động của VĐCS... Những nội dung được đề cập trong nhóm công trình này giúp
làm rõ hơn một số cách hiểu về VĐHL, VĐCS công, đồng thời giúp cho những
khái niệm này trở nên phổ biến hơn, quen thuộc hơn cả trong nghiên cứu khoa
học và trong thực tiễn đời sống.
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu về VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ là
những nghiên cứu công phu trình bày sâu sắc những nội dung liên quan đến pháp
luật hay những quy định về VĐCS và bước đầu phân tích bối cảnh cũng như
29
những thay đổi trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy định này
ở một số nước, trong đó có Anh, Pháp và đặc biệt phổ biến là Mỹ. Riêng về thực
tiễn VĐCS công ở từng nước, các công trình cũng đã đề cập ở những mức độ
khác nhau những biểu hiện của VĐCS thông qua việc tiếp cận chỉ ra quy mô của
hoạt động này, sự thay đổi rõ rệt về những đầu tư tài chính cho VĐCS, những
chủ thể, đối tượng và hình thức VĐCS đặc trưng của từng nước hoặc đưa ra
những nghiên cứu trường hợp về các vụ việc VĐCS cụ thể ở mỗi nước. Những
nghiên cứu này giúp cung cấp một bức tranh khá rõ nét giúp tác giả có những
hình dung ban đầu về VĐCS ở ba quốc gia được lựa chọn nghiên cứu trong luận
án của mình. Các phương pháp nghiên cứu được lựa chọn rất phong phú và
thuyết phục trong đó nhiều nghiên cứu lựa chọn cách tiếp cận so sánh giống với
luận án, nhất là đã có những nghiên cứu so sánh ở những mức độ và khía cạnh
nội dung khác nhau giữa từng cặp nước mà một hoặc cả hai trong số đó là những
quốc gia mà luận án nghiên cứu, đặc biệt, Anh và Pháp xuất hiện trong tất cả các
nghiên cứu về VĐCS ở châu Âu hiện nay. Một số phương pháp định tính và định
lượng được sử dụng thông qua những nỗ lực tiến hành điều tra xã hội học đã
cung cấp những cơ sở dữ liệu và dẫn chứng để làm tăng tính thuyết phục của các
kết luận nghiên cứu. Tác giả luận án kế thừa rất nhiều kết quả từ những nghiên
cứu dạng này trong luận án của mình.
Thứ ba, nhóm công trình nghiên cứu về Việt Nam đã phác họa một cách
tương đối chi tiết về những vấn đề chính sách công và VĐCS công ở Việt Nam
như làm rõ được đặc thù và những bất cập trong thực tiễn chính sách ở Việt Nam
xuất phát từ đặc thù của hệ thống chính trị và các điều kiện khác. Các công trình
nhóm này cũng đã đề cập đến cơ sở cho VĐCS ở Việt Nam hiện nay và nêu một
vài biểu hiện của VĐCS ở nước ta như thông qua hoạt động của các tổ chức phi
chính phủ, những nỗ lực trong VĐCS của các doanh nghiệp Việt Nam, hoạt động
VĐCS của chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài, từ đó cũng đã đề
xuất một số giải pháp để thúc đẩy VĐCS công tích cực ở Việt Nam.
1.3.2. Những khoảng trống chưa được nghiên cứu và những vấn đề
đặt ra, cần tiếp tục nghiên cứu
30
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, từ tổng quan tình hình nghiên cứu có
thể thấy còn một số khoảng trống sau đây cần tiếp tục nghiên cứu để làm rõ hơn:
Thứ nhất, mặc dù có khá nhiều công trình đề cập đến những nội dung cơ
bản về VĐCS như khái niệm, chủ thể, đối tượng, mục đích, phương thức, quy
trình… nhưng chưa có công trình nào tập trung vào phân biệt hai khái niệm:
VĐHL và VĐCS công để thống nhất cách hiểu cũng như phạm vi sử dụng hai
khái niệm trong thực tế còn nhiều tranh cãi này. Hơn thế nữa, dù từng vấn đề có
liên quan đến nội dung của VĐCS công đã được đề cập đến và trở đi trở lại ở
nhiều nghiên cứu nhưng một công trình tập hợp một cách hệ thống và phân tích
đầy đủ, sâu sắc và toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản về VĐCS công để làm
cơ sở khảo cứu và đánh giá thực tiễn hoạt động này ở Anh, Pháp, Mỹ là không
có. Đây chính là đóng góp đầu tiên mà luận án hướng tới thực hiện.
Thứ hai, đã có những công trình đề cập đến VĐHL, VĐCS ở Anh, Pháp và
Mỹ nhưng mới chỉ tiếp cận chung chung, khai thác ở những mức độ và chiều
cạnh nhất định, không đi sâu khảo sát và phân tích theo những nội dung mà luận
án xác định. Như trên đã chỉ ra, dù có nhiều nghiên cứu sử dụng phương pháp so
sánh nhưng đối tượng nghiên cứu không được xác định giống như trong luận án
này của tác giả. Một nghiên cứu so sánh về VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ tập
trung vào mối quan hệ giữa tính thể chế (đặc thù của hệ thống chính trị và quá
trình chính sách công) với thực tiễn VĐCS lần đầu tiên được thực hiện trong luận
án của tác giả. Đặc biệt, từ thực tiễn VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ, đưa ra những
đánh giá, nhận định và rút ra những giá trị và những kinh nghiệm có tính tham
khảo cho Việt Nam hiện nay là nội dung hoàn toàn mới. Riêng nội dung liên
quan đến VĐCS công ở Pháp còn rất hạn chế.Tóm lại, một công trình đề cập một
cách có hệ thống, đầy đủ và toàn diện về VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ dưới cách
tiếp cận so sánh để chỉ ra những tương đồng, đặc thù, những giá trị phổ biến và
gợi mở cho Việt Nam như trong luận án là hoàn toàn chưa có.
Riêng nhóm công trình về Việt Nam, hiện tại chưa có một công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về VĐCS công ở Việt Nam, nếu có cũng chỉ tản mạn
dừng lại ở những quy định có liên quan làm cơ sở cho hoạt động VĐCS công ở
31
Việt Nam hay một số biểu hiện của VĐCS ở Việt Nam nhưng cũng không mang
tính hệ thống và chưa sâu. Đặc biệt, từ việc nghiên cứu thực tiễn VĐCS ở các
nước và từ nhận thức về biểu hiện của VĐCS công ở Việt Nam hiện nay, đưa ra
những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, nhất là tập trung vào kinh nghiệm ứng
xử của Chính phủ các nước với VĐCS làm giá trị tham khảo cho Chính phủ Việt
Nam hiện nay là hướng nghiên cứu riêng của luận án này.
Từ những khoảng trống của các nhóm công trình được đề cập trong tổng
quan này, tác giả luận án sẽ tập trung vào mấy vấn đề chính: hệ thống và làm rõ
mối quan hệ giữa hai khái niệm VĐHL và VĐCS theo hướng coi VĐHL và
VĐCS là trùng nhau dựa trên bản chất và mục đích của nó; tiến hành một khảo
cứu về thực tiễn VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ dựa trên những vấn đề cơ bản
được trình bày trong cơ sở lý luận; đặt vấn đề và nghiên cứu một cách toàn diện
và hệ thống về VĐCS công ở Việt Nam bao gồm quan niệm và biểu hiện, những
quy định (nếu có) về VĐCS công và phân tích mối quan hệ giữa hệ thống chính
trị và quá trình chính sách ở Việt Nam cũng như kinh nghiệm từ VĐCS ở Anh,
Pháp, Mỹ, đề xuất những kiến nghị giúp Chính phủ Việt Nam có quan điểm đúng
đắn, khách quan và ứng xử hợp lý với VĐCS công hiện nay.
32
Tiểu kết chương 1
Có thể thấy, liên quan đến đề tài luận án, có nhiều công trình được khái
quát thành bốn nhóm chính bao gồm nhóm những công trình nghiên cứu về chính
sách công, quy trình chính sách công; nhóm công trình nghiên cứu về Anh, Pháp,
Mỹ đặc biệt là về thể chế chính trị, hệ thống chính trị của ba quốc gia này; nhóm
công trình đề cập đến VĐCS; và nhóm công trình nghiên cứu về chính sách công,
VĐCS ở Việt Nam. Mỗi nhóm công trình lại bao gồm các phân nhóm nhỏ hơn,
chứa đựng những giá trị, những thành công nhất định, cung cấp những nội dung
khá phong phú, thậm chí những cách tiếp cận có giá trị định hướng và gợi mở rất
hữu ích cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và triển khai luận án. Tuy nhiên,
dù đã cố gắng nghiên cứu chi tiết các công trình, nhóm công trình trên nhưng rõ
ràng vẫn còn những khoảng trống cơ bản về mặt khoa học để tác giả lựa chọn
“VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ và những gợi mở cho Việt Nam” như một hướng
nghiên cứu riêng, mới, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn mà hoàn toàn không
trùng lắp với bất kỳ công trình nào đã được thực hiện và công bố trước đó. Điều
này cũng là những thuận lợi, thách thức và động lực giúp tác giả luận án tận dụng
để khai thác triệt để thành công từ những kết quả nghiên cứu trước để phát triển
hướng nghiên cứu của mình với kỳ vọng có thể tạo thêm một cách tiếp cận mới,
một hướng nghiên cứu mới và một nguồn tri thức có thể không hoàn toàn mới
nhưng tương đối hệ thống về vấn đề được đề cập trong luận án này.
33
Chương 2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG
2.1. KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG
2.1.1. Khái niệm vận động chính sách công
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà nước không phải là
quyền lực tự có của Nhà nước mà quyền lực được nhân dân ủy quyền và giao
quyền. Nói cách khác, chính người dân đã ủy quyền cho nhà nước với mong
muốn nhà nước thay mặt mình thực thi quyền lực công một cách hiệu quả vì
những mục tiêu nhất định, quan trọng nhất làhoạch định và thực thi chính sách
công. Tuy nhiên, trên thực tế, quan hệ ủy quyền - đại diện luôn tồn tại những vấn
đề nhất định, tất yếu nảy sinh đòi hỏi tự nhiên và chính đáng là phải kiểm soát
quyền lực nhà nước. Mặt khác, khi ủy quyền cho Nhà nước, quyền lực nhà nước
lại có nguy cơ bị lạm dụng, tha hóa. Hơn nữa, quyền lực nhà nước là của nhân
dân giao cho các cơ quan nhà nước suy cho cùng là giao cho những người cụ thể
thực thi. Mà con người thì “luôn luôn chịu sự ảnh hưởng của các loại tình cảm và
dục vọng đối với các hành động của con người. Điều cũng khiến cho lý tính đôi
khi bị chìm khuất” [25, tr. 131]. Đặc biệt là khi lý tính bị chi phối bởi các dục
vọng, thói quen hay tình cảm thì khả năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực
nhà nước càng lớn. Chính vì vậy, trong những điều kiện nhất định, người dân và
các chủ thể trong xã hội có nhu cầu tác động đến quá trình chính sách của nhà
nước nhằm làm cho các chính sách này có lợi hoặc ít nhất cũng không làm thiệt
hại đến lợi ích của mình. Điều này góp phần giải thích tính tất yếu của VĐCS
trong đời sống chính trị. Thật khó để phủ nhận rằng, ngày nay, VĐCS công ngày
càng trở thành công cụ hiệu quả trong tiến trình dân chủ hóa, từng bước tiếp cận
với những người ra quyết định và cải thiện quá trình ra quyết định. Tuy nhiên,
cũng phải thừa nhận một thực tế, VĐCS vẫn là một khái niệm còn khá mới mẻ,
xung quanh khái niệm này còn nhiều quan điểm khác nhau. Có thể hệ thống các
quan niệm sau đây về VĐCS:
34
Nhóm thứ nhất, các quan niệmcho rằng VĐCS công đơn giản là cách thức
tác động hay gây ảnh hưởng đến quá trình chính sách thông qua những phương
thức, phương tiện khác nhau nhằm đạt mục đích là thay đổi chính sách theo
hướng có lợi cho chủ thể đi vận động.
Trước hết, VĐCS công được quan niệm là … “các hoạt động ảnh hưởng
đến hoạch định chính sách; hoạt động cụ thể tùy thuộc vào quy định; các loại tổ
chức phi lợi nhuận hoạt động trong việc định hình thông tin, chính sách và các
chương trình công cộng; và những lựa chọn để thay đổi xã hội và chính trị” [64,
tr.7].Quan niệm này nghiêng về tiếp cận VĐCS với tư cách là một hoạt động
được tiến hành bởi các tổ chức phi lợi nhuận.
VĐCS còn được định nghĩa là sự hỗ trợ tích cực, bí mật, hoặc vô tình cho
một chính sách cụ thể hoặc một nhóm các chính sách[79].
VĐCS được định nghĩa đơn giản là một quá trình chính trị do một cá nhân
hay một nhóm tiến hành nhằm gây ảnh hưởng lên những quyết sách hay việc
phân bổ nguồn lực trong phạm vi các thiết chế hay hệ thống chính trị, kinh tế hay
hệ thống xã hội.[119]. Cách tiếp cận này về VĐCS có nội dung rộng hơn, ngoài
việc chỉ ra mục đích của VĐCS là gây ảnh hưởng lên những quyết sách, còn bao
gồm cả việc phân bổ các nguồn lực trong những điều kiện nhất định.
Vận động được hiểu là tập hợp các hoạt động khác nhau nhằm phổ biến
thông tin tới các bên liên quan để gây dựng hỗ trợ cho một mục đích nào đó. Các
hoạt động đó có thể là phân phát tài liệu, diễu hành, tuyên truyền v.v… và đối
thoại với chính quyền.
“Vận động chính sách là hoạt động gây ảnh hưởng và thuyết phục cơ quan
nhà nước về giải pháp và nguồn lực nhằm giải quyết vấn đề lợi ích đặc thù thông
qua chính sách”[46, tr. 106].Cách tiếp cận này chỉ rõ mục đích của VĐCS là thay
đổi những lợi ích đặc thù bằng việc gây ảnh hưởng đến chính sách.
Vận động chính sách công là một quá trình gây ảnh hưởng tới chính phủ và cơ
quan chính phủ bằng cách cung cấp thông tin về chương trình nghị sự chính sách
công [81, tr.17]. Quan niệm này nhấn mạnh cách thức thực hiện VĐCS.
35
Vận động chính sách công là “thuyết phục người được vận động ban hành
chính sách theo ý muốn của người vận động” [40, tr.4].Cách tiếp cận này quá
chung chung bởi vì chỉ hiểu đơn giản vận động là thuyết phục.
Vận động chính sách cũng có thể được quan niệm là bất kỳ nỗ lực nào
nhằm ảnh hưởng đến chính sách công bằng cách cung cấp thông tin, nói chuyện
với các nhà hoạch định, thể hiện lợi ích đối với việc thay đổi chính sách và các
hoạt động tương tự khác nhằm tạo ra sự thay đổi chính sách như mong muốn [73,
tr.1].
Vận động chính sách công cũng có thể được hiểu là “quá trình mà các cá
nhân hay tập thể phải trải qua để ráp nối những mục tiêu, ưu tiên của họ vào với
quá trình quyết sách của các nhà chính trị để tạo ảnh hưởng tới các kết quả chính
sách” [128].
Vận động chính sách công là “việc đề đạt yêu cầu, nguyện vọng với chính
quyền để gây ảnh hưởng lên chính sách công” [46, tr. 327].
Vận động chính sách là hoạt động trong đó một tập thể cùng chia sẻ mối
quan tâm chung và cùng nhau thúc đẩy việc thực hiện mối quan tâm đó bằng
cách tác động vào cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ban hành chính sách phù
hợp với lợi ích của mình”[46, tr. 72, 200].Cách tiếp cận này chỉ ra khả năng liên
minh trong VĐCS khi cho rằng đó là mối quan tâm của “một tập thể”.
Nhóm thứ hai tiếp cận VĐCS công như là một hoạt động mang tính chất
tích cực với ý nghĩa giúp cho quá trình chính sách trở nên minh bạch và hiệu quả
hơn:
Vận động chính sách là việc tác động để giải quyết một vấn đề gây khó
khăn, mâu thuẫn hoặc cản trở sự phát triển về kinh tế - chính trị - xã hội của một
quốc gia [46, tr. 60].Hay VĐCS là những nỗ lực có tính hệ thống nhằm tác động
đến những người ra quyết định nhằm tạo ra những chính sách phù hợp hơn với
điều kiện thực tiễn.
Vận động chính sách còn được quan niệm “là một quá trình thuyết phục
kiên trì sử dụng các phương pháp tiếp cận khác nhau tác động vào các cơ quan
36
quyền lực đồng thời huy động cộng đồng nhằm hình thành chính sách mới hoặc
thay đổi chính sách đã lỗi thời”[32].
Vận động chính sách là quá trình tạo ra sự ủng hộ, xây dựng sự nhất trí,
hình thành bầu không khí thuận lợi và môi trường ủng hộ đối với một đường lối
hay một vấn đề cụ thể thông qua một hệ thống các hành động có kế hoạch và
được tổ chức tốt do một nhóm các cá nhân hay các tổ chức phối hợp với nhau
thực hiện[108].
Theo nhóm này, VĐCS theo nghĩa thông thường nhất được hiểu là quá
trình tác động vào những nhà hoạch định chính sách, những người ra quyết định
để tạo ra một chính sách phù hợp hơn, minh bạch và hiệu quả hơn.
Nhóm khác thì lại nhìn nhận VĐCS công như một hoạt động với nhiều
biểu hiện tiêu cực:
Vận động chính sáchđược quan niệm là các phương tiện mà các nhóm bị
gán cho là có ảnh hưởng tiêu cực sử dụng để thử thách và thay đổi luật, chính
sách và hệ thống cai trị.
Trong một số trường hợp, VĐCS còn được ví như “con quái vật tìm cách
luồn lách vào các phòng ban, hành lang Quốc hội của các quốc gia để lũng
đoạn”. Quan điểm này được hưởng ứng khi thực tế có nhiều vụ tai tiếng liên quan
đến các nghị sỹ ở một số nước có nguyên nhân từ các hoạt động vận động chính
sách đã được phanh phui [107].
Dù tiếp cận dưới cách nào cũng dễ nhận thấy, VĐCS có những đặc trưng
cơ bản sau :
Thứ nhất, VĐCS là quá trình tác động, gây ảnh hưởng đến các quá trình
chính sách thông qua các phương thức và phương tiện khác nhau nhằm thay đổi
chính sách theo hướng có lợi cho người vận động.
Thứ hai, chủ thể VĐCS có thể là cá nhân hay tổ chức nhưng họ hoặc là
những người thuê người khác đi vận động hoặc là những người được thuê để trực
tiếp tiến hành vận động. Đôi khi hai loại chủ thể này có thể là một nhưng trong
37
nhiều trường hợp và cũng là xu thế hiện nay là các chủ thể có xu hướng thuê các
công ty hoặc các cá nhân để tiến hành vận động thay mình. Điều kiện tiên quyết
là các chủ thể VĐCS phải có sức mạnh nào đó để sử dụng như những phương
tiện hữu hiệu trong vận động bao gồm tài chính, quan hệ, thông tin, chuyên gia…
Thứ ba, đối tượng được VĐCS có thể là các cá nhân hay cơ quan, tổ chức
nhưng phải có khả năng quyết định hoặc ảnh hưởng đến các quyết định chính
sách. Họ thường là nhưng không nhất thiết là các quan chức chính phủ, các nghị
sĩ, các cơ quan thuộc chính phủ, các ủy ban chuyên môn về chính sách… mà
cũng có thể là các tổ chức tư vấn chính sách chuyên nghiệp và các thiết chế khác
có khả năng thay đổi chính sách.
Thứ tư, vận động là các hành động được tính toán kỹ lưỡng. Có nghĩa
người đi vận động luôn phải hiểu mình muốn thay đổi chính sách nào, thay đổi
như thế nào, nhằm mục đích gì để từ đó xác định xem cần tác động đến những ai,
bằng cách nào cho hiệu quả. Chỉ khi trả lời được đầy đủ những câu hỏi này, quá
trình vận động mới có khả năng thành công cao.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm VĐCS, có thể đặt nó trong sự so sánh với
khái niệm khác là vận động hành lang (VĐHL). Thực tế hiện nay vẫn chưa có sự
thống nhất trong cách tiếp cận để phân biệt hai khái niệm này.
Cách quan niệm thứ nhất cho rằng VĐCS và VĐHL là hai khái niệm khác
nhau, và trong tiếng Anh, hai khái niệm này cũng được biểu hiện bằng hai thuật
ngữ khác nhau là Lobby (vận động hành lang) và Policy Advocacy (vận động
chính sách). Tuy nhiên ngay trong cách quan niệm này cũng chưa thống nhất. Ý
kiến thứ nhất cho rằng VĐHL rộng hơn so với VĐCS công bởi vì xét về mục
đích vận động thì VĐHL là quá trình tác động đến các cơ quan hay cá nhân có
thẩm quyền để có những lợi ích phù hợp với mình, và trong quá trình đó, nếu là
VĐHL trong quá trình chính sách để có những chính sách có lợi thì được gọi là
VĐCS. Nói cách khác, theo cách quan niệm này, VĐCSchính là VĐHL trong
quá trình chính sách. Còn ý kiến thứ hai thì lại cho rằng VĐCS rộng hơn VĐHL
vì hai lẽ, thứ nhất, VĐHLchỉ nhắm đến các lợi ích cụ thể và trước mắt trong khi
38
VĐCS hướng tới sự thay đổi những lợi ích mang tính hệ thống và tổng thể, lâu
dài; thứ hai, VĐHL chỉ là một trong những hình thức tiếp cận trong VĐCS.
Ngoài ra, cũng có cách quan niệm khác thì cho rằng VĐCS phản ánh tính đạo lý
có nghĩa là đôi khi các chủ thể trực tiếp vận động không chỉ vận động cho những
chính sách có lợi cho họ mà đơn giản họ sẽ vận động cho những chính sách họ
cho rằng cần và nên có cho một nhóm khác (thường là nhóm yếu thế trong xã
hội) trong khi VĐHL được hiểu làhoàn toàn vì lợi ích của chủ thể vận động và nó
phản ánh tính duy lý vị kỉ hơn là tính đạo lý.
Cách quan niệm thứ hai đồng nhất VĐCS với VĐHL. Đây được coi là
cách quan niệm cơ bản thống nhất được các tác giả của các bài tham luận trình
bày trong Hội thảo “Vận động chính sách công, lý luận và thực tiễn”. Ở đó, các
tác giả đương nhiên cho rằng VĐCS công và VĐHL là một. “Đó là lý do tồn tại
một cách hợp pháp các trung tâm, các văn phòng có mục đích vận động chính
sách hay còn gọi là vận động hành lang”[46, tr. 25].“Vận động chính sách công
(tiếng Anh là Lobby, còn gọi là vận động hành lang)…”[46, tr. 36].“Các hoạt
động vận động chính sách (có thể dùng thuật ngữ rất đặc thùlà lobby…”[46, tr.
106 - 107]. “… cơ chế vận động chính sách công (hay một số nơi gọi là vận động
hành lang)…”[46, tr. 137].Đặc biệt, trong bài “Pháp luật về vận động hành lang
của một số nước và một vài kinh nghiệm tham khảo”, tác giả Trương Thị Hồng
Hà đã đặt vấn đề trực tiếp “vận động hành lang hay vận động chính sách” và luận
giải như sau: “Xét ở khía cạnh lợi ích và đối tượng tác động, vận động hành lang
được xem như là sự vận động chính sách. Đó là sự tác động của các nhóm lợi ích
nhất định trong xã hội đến các nhà hoạch định chính sách công thông qua những
nhân vật trung gian. Như vậy, vận động chính sách có đối tượng tác động rộng
hơn cách hiểu về vận động hành lang thông thường, song nói chung cả hai cách
hiểu và cách gọi đều bao hàm nghĩa gốc của từ vận động hành lang (lobby)” [46,
tr. 168].
Trong luận án này, tác giả lựa chọn cách tiếp cận đồng nhất giữa VĐCS
với VĐHL. Và từ những phân tích ở trên, tác giả luận án đưa ra quan niệm sau đây
vềVĐCS công:VĐCS công là những nỗ lựcmang tính hệ thống và có chủ đích của
39
các chủ thể trong đời sống chính trị nhằm gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
đến các quyết định của cơ quan có thẩm quyền để thay đổi chính sách theo hướng
có lợi hơn cho mình trong những điều kiện cụ thể.
2.1.2. Cơ sở vận động chính sách công
2.1.2.1. Cơ sở kinh tế
Không phải ngẫu nhiên mà xã hội càng phát triển thì nhu cầu VĐCS càng
tăng và vì vậy, các vụ việc VĐCS ngày càng nhiều, quy mô của VĐCS ngày
càng mở rộng hơn. VĐCS được hình thành trong bối cảnh xã hội có nhiều nhóm
và lực lượng khác nhau, có lợi ích mâu thuẫn nhau và vì vậy có nhu cầu tác động
đến chính sách công để bảo vệ lợi ích cục bộ của mình. Do đó, chỉ khi kinh tế, xã
hội phát triển và có sự phân hóa đa dạng, xuất hiện nhiều nhóm chủ thể tương
ứng với nhiều loại lợi ích, cùng với đó là sự phát triển đầy đủ của kinh tế thị
trường thì VĐCS mới có điều kiện phát triển mạnh mẽ. “Xã hội càng phức tạp,
thị trường càng phát triển thì càng có nhiều nhóm hưởng lợi muốn đăng ký vào
trò chơi VĐHL. Các nhóm nhỏ này tin rằng họ cần được hỗ trợ tham gia trò chơi,
vì điều đó tạo ra kênh bổ sung thông tin cho chính trị gia và lĩnh vực nhà nước.
Nó không phải cơ chế cạnh tranh với các chính trị gia mà chỉ tạo ra cách làm việc
khác nhau giữa XHDS và Nhà nước”[41. tr.21]. Hơn thế nữa, VĐCS là một công
cụ, phương tiện và cao hơn là một công nghệ, do đó việc sử dụng hiệu quả công
nghệ này cần phải có nguồn lực to lớn, nhất là nguồn tài chính. Đằng sau các
chuyên gia, các công ty tư vấn, công ty VĐCS là những tập đoàn, những nhóm
lợi ích, những tổ chức và cá nhân mà có nhu cầu tác động đến chính sách công
nhằm thay đổi hay điều chỉnh chính sách theo hướng có lợi cho mình, nhưng hẳn
nhiên không phải cơ hội cho các nhóm là ngang nhau. Để có thể sử dụng công cụ
này một cách hiệu quả, các chủ thể cần đến sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố
bao gồm tri thức, quan hệ, năng lực chuyên môn và năng lực tài chính. Tất cả
những điều này không thể có hoặc nếu có cũng không thể đầy đủ nếu không phải
ở một môi trường kinh tế phát triển.
2.1.2.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
40
Cần phải nhìn nhận một cách khách quan, VĐCS bản thân nó là một nhu
cầu chính đángđể các chủ thể, các nhóm lợi ích tiếp cận và gây ảnh hưởng đến
chính sách công vì lợi ích của họ. Tuy nhiên, nguy cơ đối với chính sách công
như: bóp méo chính sách, bế tắc chính sách, trục lợi chính sách là có thật. Do đó,
cần thiết phải có những quy định để phát huy mặt tích cực, hạn chế những tiêu
cực của hoạt động này. Thực tế cho thấy, ở những quốc gia có quy định rõ ràng
về VĐCS, ở đó, hoạt động VĐCS diễn ra sôi nổi và hiệu quả, khả năng tác động
làm thay đổi chính sách rất cao. Tuy nhiên, muốn có quy định pháp lý cho nó, lại
phải xuất phát từ bối cảnh chính trị, bao gồm quan điểm chính trị, bối cảnh thể
chế chính trị cũng như các giá trị chính trị được định hình và theo đuổi. Không
thể có luật hay quy định về VĐCS nếu như từ trong quan niệm và thể chế chính
trị, nhu cầu được tiếp cận, tác động thay đổi chính sách, được phản ánh lợi ích
vào chính sách của các công dân và các chủ thể khác trong đời sống xã hội không
được coi như một trong những quyền cơ bản, chính đáng và hợp pháp. Do đó,
chính trị, pháp lý chính là điều kiện đầu tiên đảm bảo một môi trường thuận lợi
cho VĐCS phát triển. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là nhất thiết phải
thừa nhận VĐCS và có quy định cụ thể, chặt chẽ về VĐCS thì hoạt động này mới
phát triển. Trong công trình “Những xu hướng quốc tế trong quy định về vận
động hành lang: bài học cho Ai len” (International Trends in Lobbying
Regulation: Lessons Learned for Ireland), tác giả đã trình bày bảng thống kê
danh sách các nước có hay không có quy định về VĐCS, ở đó chỉ ra chỉ có 9
trong tổng số 40 quốc gia và vùng lãnh thổ được khảo sát có quy định về VĐCS
(không tính trường hợp Nghị viện Châu Âu và Đài Loan). Điều đó cũng có nghĩa
là, để đi đến xây dựng và hoàn thiện văn bản quy phạm cho VĐCS không phải là
vấn đề đơn giản và đương nhiên không dễ dàng.
2.1.2.3. Cơ sở văn hóa, xã hội
VĐCSsẽ phát triển nếu nó được đặt trong một môi trường văn hóa, xã hội
với đầy đủ những điều kiện thuận lợi như về trình độ dân trí, mức sống dân cư,
cơ cấu giai tầng, phân hóa xã hội, các giá trị xã hội… Một xã hội đa dạng các tôn
giáo, sắc tộc, nhóm và ngành nghề tất sẽ xuất hiện xung đột, khi đã xuất hiện
41
xung đột thì đòi hỏi nhà nước phải giải quyết theo mong muốn, quan điểm và ưu
tiên của nhà nước. Alexis de Tocqueville, trong cuốn “Nền dân chủ ở nước Mỹ”
(Democracy in America) (1835) đã cho rằng “Người Mỹ ở mọi lứa tuổi, mọi
hoàn cảnh và theo nhiều khuynh hướng thường tạo ra các hiệp hội” [1, tr. 128].
Đây có lẽ mà một khẳng định quan trọng về ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, xã
hội đến việc hình thành các hiệp hội, mà xã hội càng nhiều hiệp hội, lại được ra
đời từ sớm và có môi trường dân chủ, cởi mở để hoạt động tất yếu thúc đẩy
VĐCS bởi hoạt động này được thừa nhận là nhu cầu chính đáng của các nhóm,
các hiệp hội này, hoàn toàn phù hợp với các giá trị và chuẩn mực của xã hội Mỹ.
Ngoài ra, có thể thấy một số yếu tố thuộc về lịch sử, văn hóa cũng có thể là
những tác nhân thúc đẩy hay cản trở VĐCS. Chẳng hạn, ở Mỹ, có thể vì Mỹ khác
các nước châu Âu như Anh và Pháp là lịch sử phát triển thể chế chính trị của Mỹ
không qua chế độ phong kiến, do đó Mỹ không bị ảnh hưởng, kìm hãm bởi
những tác động tiêu cực của xã hội phong kiến đến nền dân chủ trong xã hội và
chính trị. Không qua xã hội phong kiến cũng có nghĩa là không có những tầng
lớp đặc quyền đặc lợi, nghĩa là tiếng nói của các nhóm trong xã hội được bình
đẳng hơn và đây chính là điều kiện khách quan để xây dựng và phát triển xã hội
dân sự, tạo ra nhu cầu và điều kiện để phát triển VĐCS từ sớm.Nếu xã hội đề cao
chủ nghĩa cá nhân, tôn trọng tính độc lập và tự do cá nhân, tôn trọng và bảo vệ lợi
ích của các cá nhân thì ở đó có nhiều khả năng VĐCS được chấp nhận hơn. Đồng
thời cũng trong môi trường ấy mới xuất hiện nhu cầu các cá nhân được tự do thể
hiện ý kiến, quan điểm, nguyện vọng và lợi ích của mình, miễn là chính đáng và
hợp pháp, từ đó khiến nhu cầu VĐCS trở nên thiết yếu hơn. Xã hội càng nhiều
sự cạnh tranh càng tạo thêm nhiều cơ hội và điều kiện để các chủ thể khẳng định
mình.
Ngoài ra, nếu trong xã hội mà người dân có niềm tin lớn lao vào hệ thống
chính trị, vào các giá trị dân chủ trong chính trị thì thường dễ chấp nhận VĐCS
hơn. Chẳng hạn như ở Mỹ, “Người Mỹ thường tin là “hệ thống chính trị dân chủ”
của họ là hơn hết, vì nó mang lại cho mọi công dân quyền và cơ hội để cố gắng
ảnh hưởng đến chính sách của chính phủ, vì nó bảo vệ công dân khỏi chịu những
42
hành động độc đoán của chính quyền. Họ cũng tin là hệ thống ấy hơn hẳn vì nó
được tự do kiện về bất cứ điều gì họ cho là sai đối với họ” … Do đó, người Mỹ
luôn muốn và sẵn sàng tự do bày tỏ chính kiến của mình, tác động tới quá trình
hoạch định và thực thi chính sách quốc gia. Điều này khiến cho công khai, minh
bạch ở Mỹ trở nên đặc trưng cho chính trị quốc gia này.
2.2. MỤC ĐÍCH VÀ SỰ CẦN THIẾT VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG
2.2.1. Mục đích vận động chính sách công
VĐCS có thể được thực hiện một cách chính thức hoặc không chính
thứcđể tác động đến những người có thẩm quyền ra quyết định. Tính không chính
thức ở đây được hiểu rằng, VĐCS tuy không phải là một thủ tục bắt buộc của quy
trình ra chính sách, quyết định nhưng lại có tác dụng bổ sung cho quá trình ra
chính sách, quyết định của người có thẩm quyền. Bởi lẽ, VĐCS mang đến cho
người có thẩm quyền cái nhìn toàn diện, đa chiều với đầy đủ thông tin, chứng cứ
cũng như ý kiến, kiến nghị của cử tri và xã hội về vấn đề đang được xem xét,
quyết định, trên cơ sở đó, họ đưa ra những quyết định có lợi cho xã hội, cử tri
hoặc các nhóm lợi ích, … Chính vì vậy, có thểnói VĐCS là hoạt động “hậu
trường”, nhưng có vai trò bổ sung, tác động mạnh mẽ đến tất cả các công đoạn
của quá trình ra quyết định. VĐCS là những nỗ lực của cá nhân hoặc nhóm, tổ
chức gây ảnh hưởng đến cơ quan nhà nướctrực tiếp hoặc gián tiếp theo hướng có
lợi cho mình hoặc cho xã hội. Nói cách khác, VĐCS bao gồm tất cả các giao tiếp
nhằm ảnh hưởng đến các thành viên cả cơ quan lập pháp, quan chức chính phủ
hoặc bất cứ ai có thể tham gia, tác động vào quá trình chính sách. Mục đích của
quá trình này là nhằm mang lại lợi ích từ các chính sách, những hợp đồng, dự án
có giá trị của Chính phủ cho nhóm hay tập đoàn mình.
VĐCS như là chiếc cầu nối giữa những người hoạch định chính sách và
những người thụ hưởng, chịu sự tác động trực tiếp của chính sách. Dưới một giác
độ nào đó, có thể nói, VĐCS là hoạt động chuyển tải những mong muốn, nguyện
vọng từ một nhóm lợi ích, tập đoàn nào đó đến với những người có quyền ra
quyết định. Những vấn đề vướng mắc, bất cập của chính sách trong thực tiễn sẽ
43
được phản hồi, thông tin tới các nhà hoạch định chính sách và trên cơ sở đó có
thể thay đổi, tháo gỡ những rào cản, khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động của nhà nước và nhân dân.
Như vậy, mục đích trực tiếp của VĐCS là có được các quyết định chính
sách từ các quan chức nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền theo hướng có lợi
cho mình. Để đạt được điều đó, VĐCScó thểtham gia vào tất cả các khâu, các
giai đoạn của quy trình chính sách.
Trước hết, VĐCS thuyết phục các nhà hoạch định chính sách rằng một vấn
đề nào đó nên được lựa chọn là vấn đề chính sách để đưa vào chương trình nghị
sự quốc gia cũng như nỗ lực nhằm ngăn chặn một vấn đề khác trở thành vấn đề
chính sách.
Thứ hai, VĐCS tác động vào giai đoạn thảo luận chính sách nhằm đưa ra
những phương án chính sách và lựa chọn tối ưu sau khi chính sách đã được đưa
vào chương trình nghị sự và đang trong quá trình bàn bạc, thảo luận trước Quốc
hội hay Nghị viện.
Thứ ba, VĐCS tác động vào giai đoạn ra quyết định chính sách nhằm thúc
đẩy việc ban hành các thủ tục pháp lý cần thiết để chính sách chính thức được
thông qua hoặc ngược lại, ngăn cản hoặc trì hoãn việc thông qua một chính sách
nào đó mà bất lợi cho chủ thể vận động.
Thứ tư, VĐCS tác động vào giai đoạn thực thi chính sách nhằm làm cho
quá trình thực thi chính sách đúng mục đích nếu việc thực hiện chính sách có lợi
cho chủ thể. Đôi khi VĐCS ở giai đoạn thực thi chính sách cũng là để ngăn cản
việc thực thi một chính sách nào đó hoặc gây áp lực để làm cho việc thực thi
chính sách đi chệch mục đích ban đầu nhưng lại có lợi cho chủ thể vận động.
Cơ sở quan trọng cho toàn bộ quá trình này chính là việc cung cấp thông
tin và phân tích, xử lý thông tin theo hướng có lợi cho nhóm vận động mà lại có
sức thuyết phục các chủ thể hoạch định và thực thi chính sách. Như vậy, VĐCS
có mục đích là cung cấp những thông tin, tư liệu cho các quan chức nhà nước có
thẩm quyền, các chính khách, ... từ đó tác động đến quá trình hoạch định chính
44
sách, ban hành những quyết định có lợi cho xã hội hoặc các cá nhân hay nhóm lợi
ích có liên quan. Theo nghĩa đó, VĐCS xuất hiện trong suốt cả quy trình chính
sách công nhưng đặc biệt quan trọng ở giai đoạn đầu, khi chính sách chưa được
chính thức ban hành. Mục tiêu cuối cùng của VĐCS là đạt được sự thay đổi cụ
thể trong các chính sách, các hoạt động, các chương trình và việc phân bổ nguồn
lực mang lại lợi ích cho những người tham gia vào quá trình. Nhưng trên thực tế,
tùy bối cảnh mà mục đích vận động có thể có sự điều chỉnh. Cụ thể là, khi chưa có
chính sách thì cần vận động để hướng tới việc soạn thảo, ban hành chính sách mới;
Khi đã có chính sách thì cần vận động nhằm vào việc tạo môi trường thuận lợi hay
ủng hộ việc thực thi chính sách ở tất cả các cấp; Khi chính sách đã được thực hiện
sau một giai đoạn thì cần vận động cho việc việc điều chỉnh, bổ sung để chính sách
sát với thực tế cuộc sống - hoặc thậm chí đề nghị chấm dứt chính sách đó.
2.2.2. Sự cần thiết của vận động chính sách công trong quy trình chính
sách công
Vận động chính sách là cần thiết trong các thiết chế dân chủ là vì:
Thứ nhất, xuất phát từ nhu cầu thông tin từ phía các nhà hoạch định chính
sách. Trong các xã hội hiện đại luôn tồn tại các lợi ích khác nhau, thậm chí mâu
thuẫn nhau. Thực chất hoạt động hoạch định và thực hiện chính sách là hoạt động
phân phối lại lợi ích thông qua công cụ pháp luật. Đó là công việc của các nghị
sỹ - thành viên của nghị viện. Các chính sách mà nghị viện ban hành đều liên
quan đến hàng hóa công, và đôi khi các quyết sách này có thể mang lại lợi ích
cho một cá nhân nào đó và đồng thời làm tổn hại đến lợi ích của cá nhân khác.
Đây là động cơ liên kết các cá nhân có cùng lợi ích tạo thành các nhóm áp lực
nhằm gây ảnh hưởng tới hoạt động hoạch định chính sách của nghị viện. Các
quyết định chính sách thực chất là những hành vi về việc làm hay không làm một
việc gì. Và ranh giới của hành vi làm hay không làm đó chính là nơi các nhà
VĐCS tham gia vào như một chất xúc tác quan trọng ảnh hưởng đến các hành vi
của nghị viện. Sự liên đới mật thiết giữa người ban hành chính sách và người thụ
hưởng chính sách chính là nhân tố khách quan cho sự ra đời và tồn tại của hoạt
45
động VĐCS.Một đề án, chính sách hay một phương án xã hội... được đưa ra
thường dựa trên những cơ sở lập luận nhất định của một nhóm chuyên gia luật
hoặc các thành viên có ảnh hưởng đặc biệt kháctrong xã hội. Nhưng do không
đồng nhất về lợi ích, quyền lợi, địa vị kinh tế, chính trị cũng như những khác biệt
về giới, nhóm dân tộc nên không phải tất cả các nhóm cư dân đều được hưởng lợi
như nhau trong quá trình ban hành và thực hiện các chính sách. Có nhóm thì
được hưởng nhiều, ngược lại có nhóm thì lại bị tác động tiêu cực, thua thiệt.
Trong bối cảnh đó, các nhóm lợi ích khác nhau luôn có xu hướng tìm cách vận
động nhà hoạch định chính sách để ban hành những quy phạm ngoại lệ, ưu đãi có
điều kiện hoặc chọn một giải pháp lập pháp hiệu quả hơn nhằm cân bằng lợi ích -
thiệt hại một cách tương đối cho nhóm mình.
Không chỉ vậy, bản thân các chủ thể hoạch định và thực hiện chính sách
cũng có nhu cầu được thông tin từ người dân và các chủ thể khác trong đời sống
xã hội.Những nhà lãnh đạo, quản lý và hoạch định chính sách chủ chốt thường rất
bận rộn với nhiều công việc cần giải quyết và họ có thể chưa nắm được đầy đủ
những thông tin cần thiết liên quan đến vấn đề vận động. Do đó, bản thân những
quan chức, những nhà hoạch định chính sách cũng cần tìm kiếm thông tin liên
quan để bổ sung đầu vào cho quá trình chính sách cũng như cần sự ủng hộ từ
công chúng. Các nghị sĩ cũng cần những thông tin nhiều chiều, chính xác để bổ
sung và tạo cơ sở cho các dự luật. Mặc dù các nghị sĩ có một số lượng nhân viên
phục vụ khá đông đảo, đội ngũ giúp việc tại các ủy ban và tiểu ban của quốc hội
cũng không ít nhưng trong một thế giới luôn phức tạp và đầy biến động hiện nay
thì tất cả số nhân viên đó cũng không thể đáp ứng được nhu cầu thông tin của các
nghị sĩ. Hơn thế nữa, quốc hội là cơ quan lập pháp đại diện cho quyền lợi cả
nước, do đó các vấn đề mà nó quan tâm rất rộng, các nghị sĩ không có đủ thời
gian và tiền bạc để thu thập thông tin về mọi vấn đề của cuộc sống. Điều này có
thể được bù đắp thông qua hoạt động của các cá nhân và những công ty VĐCS
chuyên nghiệp ở các quốc gia. Cái quý nhất họ có được là thông tin cũng như khả
năng tổng hợp, phân tích và xử lý các thông tin đó; trong nhiều trường hợp,
những thông tin này là rất quan trọng và cần thiết đối với các quan chức. Vận
46
động trung thực sẽ tạo diễn đàn thảo luận xã hội về chính sách. Các chuyên gia
VĐCS làm cho các nghị sĩ và các nhân viên của họ không có cảm giác bị "quấy
rầy" mà ngược lại, chính là sự hỗ trợ thông tin và củng cố lập luận cho nghị sĩ và
nhóm đảng phái của họ. Đây là sự tương tác giữa sự vận động một chiều và sự
cộng tác, tham gia của công chúng trong quá trình ra quyết định của chính phủ
thông qua cơ quan đại diện - một sự tham gia tích cực bổ sung cho quá trình ra
quyết định. Các chuyên gia vận động giúp nghị sĩ điều tra, thu thập thông tin và
huy động sự tham gia rộng rãi của công chúng đối với những vấn đề chính sách.
Đây cũng là lí do giải thích tại sao VĐCS là cần thiết.
Thứ hai, xuất phát từ nhu cầu tham gia vào quá trình chính sách để thực
hiện hiệu quả hơn quyền lực của công dân. VĐCS giúp cho quá trình thực hiện
quyền lực của người dân hiệu quả hơn. Trong các thiết chế dân chủ, quyền công
dân được quy định trong Hiến pháp rất lớn nhưng trên thực tế, họ không có đủ
điều kiện để thực hiện một cách hiệu quả những quyền luật định ấy của mình.
Nói đúng hơn là thiếu cơ chế thiết thực để người dân thực hiện hết quyền công
dân của mình. Để bày tỏ quan điểm hay nguyện vọng của mình, đôi khi, họ
không có khả năng tiếp cận chính thức với những cơ quan hay cá nhân có thẩm
quyền cũng như khả năng diễn đạt, thuyết phục, vì vậy, họ chỉ còn cách không
chính thức thông qua các cá nhân hay tổ chức trung gian. Và đây cũng chính là lý
do khiến cho hoạt động VĐCS cần thiết phải ra đời như là cầu nối giữa người
dân và chính quyền. Hoạt động VĐCS còn tạo ra trong xã hội một cơ chế tranh
luận dân chủ và rộng rãi, một mạng lưới liên kết giữa các chủ thể ngoài chính
quyền với chính quyền trong quá trình tiếp nhận, xử lý và phản hồi thông tin.
Thêm vào đó, bản thân những vấn đề ưu tiên phát triển xã hội cũng đang cạnh
tranh với nhau, nhất là trong bối cảnh tình trạng nguồn lực quốc gia có hạn.
Chính vì vậy, VĐCS là cần thiết để xác lập và lựa chọn những ưu tiên.
Thứ ba, VĐCS là phương tiện giúp củng cố quyền lực của các chủ thể cầm
quyền.Mặc dù đôi khi có sự căng thẳng giữa các chuyên gia VĐCS với các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nhưng giữa họ vẫn tồn tại mối quan hệ cộng sinh,
phụ thuộc lẫn nhau. Các nhà VĐCS cần chính sách có lợi cho thân chủ của mình
47
nên họ phải làm việc với các chủ thể quyền lực công, tác động tới quá trình ra
chính sách. Còn các chủ thể quyền lực công làm việc với nhà vận động là bởi họ
cần thông tin liên quan, bổ sung đầu vào cho thủ tục chính sách. Các nhà VĐCS
là những người kiểm soát được nguồn thông tin liên quan đến các vấn đề mà họ
vận động. Vì vậy, họ cung cấp tư liệu cho các chủ thể quyền lực công một cách
dễ dàng nhất - thông tin từ bên ngoài về những vấn đề mà các cơ quan công
quyền đang bàn hoặc có thể bàn tới. Trong khi đó các chủ thể quyền lực công lại
không có điều kiện để tập hợp thông tin. Do đó, họ phải dựa vào nhân lực ưu thế
của các nhà vận động để kiến nghị giải pháp cho các vấn đề, dự thảo luật, cung
cấp chứng cớ, phát triển chiến lược pháp luật, thuyết phục Quốc hội, Chính phủ
hay Toà án tán thành, đôi khi còn nêu những vấn đề khác nữa. Vì chịu áp lực từ
nhiều phía nên các cơ quan công quyền phải đáp ứng trước áp lực nào mạnh nhất.
Các chủ thể quyền lực công làm việc với các nhà vận động còn bởi đây là một
hình thức để củng cố quyền lực của họ, để tạo sự ủng hộ từ công chúng, để đánh
bóng hình ảnh của mình, chuẩn bị tiền đề thuận lợi cho sự tái cử vào nhiệm kỳ
sau, đặc biệt là để mang về những lợi ích vật chất nhất định từ hoạt động vận
động của chuyên gia VĐCS. Bởi vậy, các chủ thể quyền lực công cũng rất chú ý
“đầu tư quan hệ” với các chuyên gia này.
2.3. CHỦ THỂ, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG THỨC VẬN ĐỘNG CHÍNH
SÁCH CÔNG
2.3.1. Chủ thể vận động chính sách công
Do nhu cầu VĐCS trong xã hội phát triển mạnh mẽ nên tại nhiều nước phát
triển trên thế giới đã hình thành những nhóm người hoặc tổ chức chuyên nghiệp
giữ vai trò trung gian giữa cử tri, các nhóm lợi ích với nghị sĩ nhằm tác động tới
những chính sách và dự luật đang xem xét tại Nghị viện, những người này được
gọi là nhà VĐCS. Sự phát triển của xã hội hiện đại đã làm xuất hiện ngày càng
nhiều tổ chức, tập đoàn, hiệp hội và tầng lớp, nhóm lợi ích có cùng lợi ích, trên
cơ sở đó hình thành các mối quan hệ, lúc đầu là dựa vào sự quen biết để tác động
gây ảnh hưởng đến những người tham gia vào quá trình hoạch định chính sách.
Dần dần hoạt động vận động này được thực hiện một cách chuyên nghiệp và hơn
48
nữa còn thành một hoạt động, một nghề nghiệp phổ biến ở nhiều nước, nhất là
các nước phương Tây[3, 17-20]. Khi xã hội ngày càng phát triển, con người có
nhiều mối quan tâm hơn và nhu cầu VĐCS ngày càng tăng theo thì các chủ thể
VĐCS cũng ngày càng trở nên phong phú và đa dạng, có thể là các tổ chức hoặc
cũng có thể là các cá nhân, công dân, có thể là các chủ thể bên ngoài bộ máy nhà
nước hoặc cũng có thể là chính các cá nhân, tổ chức, các cơ quan thuộc chính
phủ… trong đó đặc biệt phải kể đến sự tham gia của các đảng chính trị, các nhóm
lợi ích và hạt nhân trong đó là các chuyên gia VĐCS.
Trước hết, chủ thể VĐCS hàng đầu phải nói đến các đảng chính trị, bao
gồm đảng lãnh đạo, đảng cầm quyền, đảng đối lập và các đảng chính trị khác.Từ
quan điểm phục vụ lợi ích, có thể coi Đảng chính trị như là một tổ chức cung cấp
ba loại dịch vụ cơ bản là: (1)giúp các ứng cử viên thắng cử, (2) giúp các nhà lập
pháp thông qua các dự luật, (3) giúp các thành viên của một tập thể tác động đến
cơ quan lập pháp.Ở các nước có chế độ đa đảng, đảng chính trị là một nhóm cá
nhân được tổ chức lại nhằm giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử, để điều
hành Chính phủ và quyết định chính sách công. Mục tiêu của đảng chính trị là
giành ghế trong Nghị viện và các vị trí quyền lực nhà nước khác. Các đảng chính
trị có thể trở thành đảng cầm quyền, lập Chính phủ từ hàng ngũ đảng viên của
mình, giữ các vị trí chủ chốt trong các cơ quan lập pháp, có ảnh hưởng và uy tín
lớn ở tất cả các tầng lớp khác nhau của xã hội. Các đảng chính trị thất cử, nhất là
thất cử với tỷ lệ phiếu bầu sít sao trở thành đảng đối lập, nắm giữ ít ghế hơn trong
cơ quan lập pháp, có ảnh hưởng ít hơn trong đời sống chính trị - xã hội của đất
nước.
Tùy thuộc từng loại đảng và các chế độ nhà nước mà các đảng có vai trò,
phương thức hoạt động khác nhau. Ở các nước đa đảng, hoạt động quan trọng
nhất của các đảng là hoạt động vận động tranh cử, con đường duy nhất để nắm
chính quyền. Ngoài ra, các đảng chính trị còn một số hoạt động khác như tác
động vào ngành lập pháp nhằm tạo lập liên minh, giành các vị trí lãnh đạo chủ
chốt trong Nghị viện để kiểm soát, tạo ảnh hưởng đến quá trình lập pháp và các
quá trình ra quyết định của cơ quan này. Đối với cơ quan hành pháp, mục tiêu
49
của các đảng chính trị là giành vị trí người đứng đầu hành pháp và các chức vụ
chính quyền, kiểm soát hệ thống quyền lực nhà nước và các chính sách. Đảng
chính trị là một đặc điểm nổi bật của nền chính trị hiện đại. Theo đó, VĐCS trở
thành nội dung quan trọng và bao trùm trong hoạt động của các đảng chính trị.
Nhóm áp lực, nhóm lợi ích được coi là chủ thể ngày càng quan trọng và
phổ biến của VĐCS. Đó là một tổ chức mà các thành viên của nó muốn tác động
đến các đạo luật và chính sách nhằm thay đổi chúng theo hướng có lợi cho các
thành viên của nhóm. Họ có thể là các nhóm của các nhà sản xuất, các liên minh
của người lao động, nghề nghiệp, chuyên môn, các công chức nhà nước, các nhà
hoạt động xã hội và môi trường, những người nộp thuế, những người tiêu dùng,
những người tiếp nhận các hàng hoá và dịch vụ công, v.v..Các nhóm lợi ích tìm
mọi cách tác động tới quá trình hoạch định chính sách của các cơ quan công
quyền nhằm chuyển những nhu cầu của mình thành các chính sách để phục vụ lợi
ích của nhóm có cùng quyền lợi mà họ là những người đại diện. Các nhóm này
tác động đến quan chức nhà nước bằng nhiều hình thức: cung cấp những thông
tin cần thiết trong quá trình thảo luận pháp luật hay cung cấp tài chính cho các
chương trình, chính sách của chính phủ để các chính sách khi ban hành có lợi cho
nhóm.
Có nhiều cách phân loại nhóm lợi ích nhưng căn cứ vào hoạt động của các
nhóm lợi ích, có thể chia ra làm ba loại: nhóm quan hệ với công chúng, nhóm
tham gia bầu cử và nhóm chuyên tiến hành VĐCS. Các nhóm lợi ích thuê chuyên
gia VĐCS đưa ra những mục tiêu chính trị của mình trực tiếp hơn những nhà làm
luật. Nhờ đó, thông tin về các vấn đề của đời sống xã hội dễ dàng đến với các
nghị sỹ hơn, những đạo luật sẽ phản ánh được nguyện vọng của nhân dân và nó
càng đem lại lợi ích cho đối tượng dân cư rộng rãi hơn. Các nhóm lợi ích ngày
càng quan trọng vì nhiều lẽ, đặc biệt là sự đóng góp của họ cho các quyết định
chính sách, đưa những thông tin phục vụ việc hoạch định chính sách, đồng thời
chuyển những thông tin ngược lại từ các nhà hoạch định chính sách đến các
nhóm lợi ích.
50
Trong nhóm chuyên gia VĐCS - những chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt
động vận động cũng có thể phân ra ba nhóm gồm: các nhà tư vấn VĐCS, doanh
nghiệp VĐCS và các tổ chức VĐCS. Trong số đó, các nhà tư vấn VĐCS được
xem là bất kỳ người nào mà công việc hay nhiệm vụ của họ chủ yếu, hoàn toàn
hay một phần liên quan đến VĐCS, nhân danh một cá nhân khác để có thù lao.
Doanh nghiệp VĐCS là bất kỳ tổ chức nào mà nghề nghiệp là thực hiện VĐCS
có thu phí trên danh nghĩa doanh nghiệp. Tổ chức VĐCS là bất kỳ người nào mà
nghề nghiệp hay nhiệm vụ của họ chủ yếu liên quan đến VĐCS nhân danh một
hội hay một tổ chức phi lợi nhuận. Các nhóm chuyên gia này có lợi thế về chuyên
môn, am hiểu hệ thống chính trị và quá trình chính sách, có đầy đủ những kỹ
năng cần thiết để tiếp cận và thuyết phục các nhà hoạch định chính sách cũng như
những người có khả năng tác động đến chính sách khác.
2.3.2. Đối tượng vận động chính sách công
Đối tượng của hoạt động VĐCS bao gồm các nghị sĩ, quan chức chính
phủ, thẩm phán, các công chức có thẩm quyền… đương nhiệm, thậm chí là cả
những người đứng đầu nhánh hành pháp ở các nước như Tổng thống hay Thủ
tướng. Họ chính là những người được nhân dân uỷ quyền, thay mặt cho nhân dân
trong việc thực thi quyền lực nhà nước trong đó có việc thảo luận và thông qua
các chính sách công. Tuy nhiên, những thành phần kể trên chỉ trở thành đối
tượng của hoạt động chính sách khi họ là những người được nhà nước giao cho
một thẩm quyền nhất định để có thể sáng kiến luật, thảo luận và thông qua luật,
thực thi luật pháp, tác động lên quá trình xây dựng chính sách pháp luật, thậm chí
có thể cung cấp thông tin.
Khái quát lại, có thể thấy, chủ thể của hoạt động VĐCS rất đa dạng, có thể
là các nhóm lợi ích, các doanh nghiệp, các chủ thể nước ngoài… Người trực tiếp
tiến hành các hoạt động này cũng hết sức đa dạng, từ các cựu nghị sĩ, các cựu
quan chức chính phủ, các luật sư, các doanh nhân, cho đến các giáo sư đại học…
Đối tượng mà hoạt động VĐCS hướng tới chính là các nghị sĩ, quan chức chính
phủ, các thẩm phán, công chức viên nhà nước… là những người nắm giữ quyền
51
lực nhà nước để thực hiện một chức trách nhất định. Trong đó, các nhóm lợi ích,
các doanh nghiệp… là những lực lượng có tiền, có tiềm lực vật chất; các chuyên
giaVĐCS có thông tin, có kỹ năng, thuyết phục; các chủ thể quyền lực công thì
có quyền lực nhà nước để có thể ban hành chính sách công.
2.3.3. Những phương thức chủ yếu vận động chính sách công
Phương thức VĐCS bao gồm truyền thông trực tiếp hoặc thông qua các
buổi điều trần công khai trong các quy trình tham vấn, các cuộc họp chính thức
với người ra quyết định, hoặctiếp xúc ngầm trong các mối quan hệ thân mật. Tuy
nhiên, các kỹ thuật VĐCS gián tiếp tinh vi hơn cũng đang đạt được những kết
quả khả quan, mà một trong số các kỹ thuật đó là đặt câu hỏi và cung cấp nguyên
nhân đối với những vấn đề cần quan tâm. Những kỹ thuật này bao gồm việc huy
động sự quan tâm của cộng đồng thông qua các chương trình quảng cáo, các
chiến dịch quan hệ công chúng, các tổ chức vận động gây quỹ hoặc các hiệp hội
tư vấn, và cả các chiến dịch vận động cơ sở cũng được sử dụng[64, tr. 281-
304].Dựa trên các tiêu chí cụ thể, có thể phân ra thành các phương thức VĐCS
như sau:
* Xét theo cách thức giao tiếp, bao gồm VĐCS trực tiếp và VĐCS gián
tiếp.
Vận động chính sách trựctiếp hay còn gọi là vận động bên trong chính là
quá trình trao đổi thông tin và tạo lập đầu vào. Nó phụ thuộc vào sự tiếp cận của
các cá nhân tới các quan chức và hoạt động của các cơ quan công quyền thông
qua việc trao đổi hai bên cùng có lợi giữa nhà VĐCS với chính trị gia. Do nội
dung các thông tin mà nhà VĐCS đưa ra không chỉ nhằm để thông tin đơn thuần
mà còn để thuyết phục, phần lớn các hoạt động diễn ra giữa các nhà VĐCS và
các nghị sĩ, quan chức chính phủ là nhằm tạo dựng lòng tin đủ để cho phép việc
trao đổi thông tin có lợi cho cả hai bên. Để tăng độ tin cậy của các thông điệp đưa
ra, các nhà VĐCS bố trí để các nhà khoa học hoặc học giả chứng thực tại những
phiên điều trầncủa Quốc hội nhằm hỗ trợ cho những xác nhận về mặt kỹ thuật với
bằng chứng từ những nguồn trung lập hơn. Các buổi chứng thực cũng cho phép
52
các nhà VĐCS đưa trường hợp của thân chủ của mình ra trước công luận và nếu
thành công thì sẽ giúp định hướng cho việc diễn giải luật của các toà án và cơ
quan hành pháp sau đó. Ngoài ra, các nhà VĐCS còn tiến hành việc tiếp xúc trực
tiếp với các chủ thể quyền lực công để trình bày quan điểm của nhóm, gặp gỡ với
các chủ thể này tại các buổi tiệc, trình bày những kết quả nghiên cứu hoặc thông
tin kỹ thuật, tư vấn cho các quan chức chính phủ để xây dựng chiến lược lập
pháp, thực hiện các công việc khác như soạn thảo các bài phát biểu, hỗ trợ các
chiến dịch vận động tranh cử cho các nghị sĩ…
Vận động chính sách gián tiếp: là phương pháp thuyết phục các tổ chức,
cá nhân đại diện quyền lực nhà nước không thông qua những cuộc tiếp xúc cá
nhân. Đặc điểm chung của loại hình này là nhằm tập hợp sự chú ý của công
chúng và các nhà chính trị đối với vấn đề được đưa ra. VĐCS gián tiếp bao gồm
vận động xã hội, vận động liên minh, vận động cơ sở, … Trong đó, vận động xã
hộithường được biết đến qua các buổi gây quỹ. Tại đó, các nhà vận động tiến
hành vận động quyên tiền cho các hoạt động tái cử của nghị sĩ, bởi các chính trị
gia cần tiền, còn các nhà vận động thì cần cơ hội tiếp cận nên họ đến với nhau
trên cơ sở những điều kiện nhất định.Vận động liên minh là việc hình thành liên
minh tạm thời giữa các nhóm vận động có lợi ích trái ngược nhau để thúc đẩy
hay bảo vệ một mục tiêu chung nhất thời. Nó mang lại nhiều thuận lợi như tăng
thêm nguồn lực, mối quan hệ và tài chính cho các nỗ lực vận động. Tuy nhiên, do
các liên minh chỉ là những kết hợp tạm thời vì những lợi ích cụ thể nên khó có
thể duy trì được hoạt động lâu dài của nó.Vận động cơ sở thực chất là hình thức
tập hợp công chúng để gây sức ép với các nghị sĩ, quan chức chính phủ. Đây là
một trong những phương pháp hiệu quả nhất song rất tốn kém cả về thời gian,
sức lực lẫn tiền bạc. Vận động cấp cơ sở nhằm làm cho các cử tri liên hệ với
người đại diện mà họ đã bầu ra từ tạo áp lực buộc các đại diện này phải quan tâm
đến những vấn đề thuộc phạm vi địa phương đó. Các cuộc biểu tình, diễu hành,
tập hợp bên ngoài là những thủ thuật vận động cơ sở rất có hiệu quảgiúp thu hút
sự chú ý của công chúng đối với vấn đề đang được đấu tranh đồng thời cũng cho
thấy mức độ ủng hộ rộng rãi của công chúng đối với vấn đề.
53
Để hỗ trợ VĐCS gián tiếp một cách hiệu quả, các chuyên gia vận động tập
trung khai thác triệt để hiệu quả của các phương tiện điện tử, truyền thông. Ngày
nay, các phương tiện điện tử, truyền thông đã trở thành công cụ không thể thiếu
trong hoạt động chính sách của các nhà vận động. Thông qua các loại hình máy
tính cá nhân, điện thoại di động, Internet, máy fax… chỉ cần một thao tác đơn
giản, các nhà vận động có thể chuyển tải vô số thông điệp đến các chủ thể quyền
lực công. Với tính chất tương tác nhanh chóng của các loại hình công nghệ điện
tử, các nhà vận động có thể liên lạc trực tiếp với những người ủng hộ quan trọng,
tuyển mộ những người làm việc tình nguyện, giao nhiệm vụ và nhận các phản hồi
nhanh chóng về các vấn đề…Các nhà VĐCS cũng sử dụng biện pháp quảng cáo
công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng nhằm thông báo cho toàn
quốc biết mục tiêu của họ, để tạo ra một bầu không khí ủng hộ hay ít nhất là thái
độ trung lập của công chúngnhằm gây áp lực lên chính phủ. Đây là cách làm khá
hiệu quả nhưng tốn kém và thường được áp dụng ở những môi trường hay sử
dụng các cuộc thăm dò dư luận, các cuộc trưng cầu dân ý về các vấn đề quan
trọng.
* Xét theo hình thức thể hiện, các phương thức vận động bao gồm gặp gỡ
tại phòng làm việc, mời các chủ thể quyền lực công tham dự hội thảo, tọa đàm,
tặng quà, mời ăn tối, hoặc vận động qua các ủy ban hành động chính trị (điển
hình là ở Mỹ). Trong đó, gặp gỡ tại phòng làm việc là người vận động sử dụng
các mối quan hệ quen biết để có được buổi gặp gỡ với các chủ thể quyền lực
công tại văn phòng làm việc. Mời các chủ thể quyền lực công tham dự hội thảo là
hình thức các chuyên gia vận động lựa chọn thời điểm thích hợp để các chủ thể
quyền lực công có thể tham dự, sau đó tự mình hoặc thông qua người khác tổ
chức một hoặc nhiều buổi hội thảo, từ đó có thể tác động lên tư tưởng, tình cảm,
chính kiến của các chủ thể này đối với vấn đề của nhà vận động. Việc tổ chức toạ
đàm trao đổi thông tin chủ yếu được tiến hành với các chính trị gia, các chuyên
gia, những người am hiểu và biết cách diễn đạt các vấn đề mà người vận động
quan tâm.Quà tặng có thể bao gồmtiền bạc, đồ vật, những chuyến đi du
lịch…Vận động thông qua các Uỷ ban hành động chính trịlà việccác nhóm lợi ích
54
sử dụng các Uỷ ban hành động chính trị để tác động gián tiếp tới quá trình hoạch
định chính sách công. Thực chất của phương pháp này là các nhà vận động thông
qua các ủy ban hành động để quyên góp tiền, tham gia vào quá trình vận động
tranh cử của các ứng cử viên quốc hội. Khi trúng cử, các nghị sĩ sẽ thực hiện
“chính sách trả ơn” đối với các ủy ban hành động bằng các quyết định chính
sách có lợi hoặc những ưu tiên khác cho các nhà vận động đã từng giúp đỡ họ.
Có thể nói, các phương thức VĐCS rất phong phú, đa dạng và giữa chúng
có sự đan xen lẫn nhau. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các nhà VĐCS sử dụng
các phương thức khác nhau, cũng có thể là kết hợp nhiều phương thức nhằm đạt
được kết quả như mong muốn.
2.4. QUY TRÌNH VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG
Phân chia các giai đoạn trong quy trình chính sách công đã phức tạp, để
thống nhất được các bước trong quy trình vận động còn khó khăn hơn nữa. Có
cách tiếp cận phân chia quy trình này thành chín bước:xác định vấn đề, xác định
mục tiêu, phân tích và thu thập thông tin, xác định đối tượng và các hình thức vận
động, xác định các dạng thông điệp vận động, xác định nguồn lực, xây dựng liên
minh, xác định các kế hoạch hoạt động, thực hiện theo dõi và đánh giá.
Cũng có cách tiếp cận khác phân chia các bước tiến hành VĐCS như sau:
Phân tích và xây dựng chiến lược; Nghiên cứu và khảo sát; Phát triển mạng lưới
và liên minh; Vận động hành lang, tranh thủ mối quan hệ cá nhân; Phát động
chiến dịch; Sử dụng thông tin đại chúng; Xuất bản phẩm, hội thảo, hội nghị, toạ
đàm v.v.. [32].
Lại có quan điểm nêu ra bảy bước cơ bản trong VĐCS: (i) Xác định và
phân tích vấn đề để vận động, (ii) xác định và phân tích đối tượng liên quan,
(iii)Thiết lập các mục tiêu vận động, (iv) Xây dựng và chuyển tải thông điệp
chính của vận động, (v) Xây dựng chiến lược/lựa chọn phương pháp và kỹ thuật
vận động, (vi) Xây dựng kế hoạch và tiến hành vận động và (vii) Giám sát và
đánh giá.
55
Tuy nhiên, khi tổng kết các nghiên cứu như đã nêu trên về cơ bản quy
trình VĐCS có thể khái quát thành sáu giai đoạn như sau theo cách tiếp cận của
nhóm nghiên cứu đến từ trường Đại học John Hopkins.
2.4.1. Phân tích vấn đề chính sách
Phân tích vấn đề chính sách là bước đầu tiên của quá trình vận động. Các
hoạt động hay các nỗ lực vận động được thiết kế nhằm có được ảnh hưởng vào
chính sách công bắt đầu với thông tin chính xác và sự hiểu biết thấu đáo vấn đề,
về người dân có liên quan, các chính sách, việc thực hiện hoặc không thực hiện
của chính sách, các tổ chức và các kênh tiếp cận những người có ảnh hưởng và
các nhà hoạch định chính sách. Cơ sở kiến thức càng vững chắc về các vấn đề
này thì việc VĐCS càng thuyết phục.
Những vấn đề chủ yếu của phân tích vấn đề chính sách bao gồm: trọng
tâm vấn đề, lịch sử pháp lý của vấn đề, hướng giải quyết vấn đề thông qua các
thay đổi trong chính sách, lựa chọn kiểu thay đổi chính sáchcần thiết, khả năng
đáp ứng nguồn lực tài chính, các chủ thể liên quan đến sự thay đổi chính sách,
xác định và phân loại đối tượng chính sách dựa trên thái độ của họ, chủ thể có
quyền ra quyết định, những người còn chưa quyết định và còn đang do dự, nội
dung và mức độ thay đổi trong các chính sách ở các cấp, những nhân tố ảnh
hưởng đến người quyết định chính sách, những lập luận có tính thuyết phục cao,
cơ cấu thông tin liên quan đến việc hoạch định chính sách, các kênh thông tin
tiếp cận đến các nhà hoạch định chính sách, xây dựng thông điệp tin cậy đối với
các nhà hoạch định chính sách này.Vấn đế chính sách có thể sinh ra từ các hoạt
động thực tế trong xã hội, từ những nguyện vọng của nhân dân hay từ những tác
động của môi trường bên ngoài xã hội. Phân tích theo các nguyên nhân xuất hiện
sẽgiúp chúng ta kết luận được về tính tất yếu khách quan của vấn đề chính sách.
2.4.2. Xây dựng chiến lược vận động chính sách
Các nỗ lực vận động cần có một chiến lược, giai đoạn lập chiến lược dựa
vào bước phân tích kế hoạch trực tiếp, tập trung vào các mục tiêu cụ thể để huy
động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhằm đạt mục tiêu đó. Xây dựng chiến
56
lược bao gồm việc lập ra một nhóm làm việc để lên kế hoạch hoạt động chi tiết;
xác định các đối tượng chính và phụ, xác định các mục tiêu dựa trên tiêu chí
SMART, xác định vấn đề một cách thuyết phục, lựa chọn một mô hình thay đổi
chính sách phù hợp với tình huống và các mục tiêu vận động, xác định nguồn lực
và xây dựng các liên minh, tìm kiếm và làm việc với các đối tác, những người tán
thành trong liên minh, những người phát ngôn và phương tiện truyền thông thích
hợp, xác định đối thủ, lên các kế hoạch hoạt động sao cho thích hợp nhất đối với
các đối tượng dự kiến nhằm đạt được sự đồng thuận cao nhất và giảm thiểu sự
chống đối, tìm kiếm và kết hợp các kênh tuyên truyền đa dạng, hiện đại, hiệu quả,
xây dựng các chỉ tiêu nhằm điều hành tiến trình và đánh giá tác động, đặt cho các
chính sách đang đề xuất hoặc đề nghị thay đổi một cái tên hấp dẫn, dễ hiểu để vận
động ủng hộ.
2.4.3. Xây dựng các liên minh, đưa ra các thông điệp vận động chính
sách
Xây dựng liên minh có tác dụng tăng cường VĐCS. Các sự kiện, các hoạt
động, các thông điệp và các tài liệu phải được thiết kế với các mục đích, đối
tượng, đối tác và nguồn lực một cách rõ ràng. Chúng phải có ảnh hưởng tích cực
nhất đối với các nhà làm chính sách, tranh thủ sự tham gia tối đa của các thành
viên trong liên minh, hạn chế tối thiểu phản ứng của lực lượng chống đối. Thông
thường, các bên có chung mục tiêu chính sách sẽ có động cơ liên minh với nhau
để tăng cường sức mạnh và chia sẻ chi phí. Một liên minh hiệu quả cần: Xây
dựng một kế hoạch hành động chi tiết vềtình hình, đối tượng dự kiến, đối tượng
chịu tác động; Khuyến khích tất cả các đối tác trong liên minh tham gia tích cực;
Xây dựng lịch trình và trình tự các hoạt động để có được ảnh hưởng tích
cực;Giao trách nhiệm rõ ràng cho các thành viên liên minh; Tổ chức mạng lưới
nhằm mở rộng các liên minh và gắn kết họ với nhau, tổ chức đào tạo và thực
hành vềVĐCS.
Ngoài ra, cần nhận biết, xác định và kết hợp các dữ kiện, dữ liệu chủ yếu
nhằm ủng hộ quan điểm của mình. Sau đó liên kết quan điểm của mình với
57
những quan tâm của các nhà làm chính sách, đưa ra thông tin một cách ngắn gọn,
ấn tượng và dễ nhớ. Nên kết hợp vấn đề được quan tâm với các giai thoại trong
các thông điệp, chỉ ra các hành động mong muốn một cách rõ ràng, nhấn mạnh
tính khẩn cấp và ưu tiên của hành động đưa ra. Cuối cùng, cần lập kế hoạch và tổ
chức chương trình tường thuật cho các phương tiện tuyền thông nhằm quảng bá
các sự kiện thích hợp, giới thiệu các dữ kiện mới và các nhân vật tin cậy chủ yếu,
tập hợp sự ủng hộ rõ ràng của các cơ sở.
2.4.4. Phối hợp hành động vận động chính sách
Kết nối tất cả các đối tác với nhau và kiên trì trong việc đưa ra tình huống
là điều quan trọng trong triển khai VĐCS. Để tăng hiệu quả phối hợp vận động
cần: Liên tục đưa ra thông điệp và sử dụng các tài liệu tin cậy được phát triển
nhằm duy trì mối quan tâm lo lắng về vấn đề đặt ra; Kiểm soát và phản ứng
nhanh với các quan điểm khác và các biểu hiện chống đối;Mềm dẻo, thực hiện
các hoạt động đã đề ra một cách liên tục và theo chương trình; Thiết lập một cách
thức để các thành viên liên minh được thông báo về các hoạt động và kết quả của
chúng; Xây dựng và duy trì sự ủng hộ của truyền thông với các tiếp xúc cá nhân,
ra báo, họp báo, hỗ trợ nghề nghiệp;Cần tránh bất cứ hoạt động nào trái với pháp
luật và vi phạm đạo đức; Nắm chắc số lượng các nhà làm chính sách có thể cam
kết được; Giữ một bản ghi các thành công và thất bại, kiểm soát dư luận và công
bố các thay đổi tích cực; Nhận thức và tin vào vai trò của các nhà làm chính sách
và các đối tác liên minh.
2.4.5. Đánh giá kết quả vận động
Các nỗ lực VĐCS cần phải được đánh giá một cách thận trọng.Vì VĐCS
luôn mang đến các kết quả từng bước, một đội ngũ VĐCS cần phải đánh giá
thường xuyên và khách quan cái gì đã được hoàn thành và cần phải làm những gì
nữa. Việc đánh giá tiến trình có thể còn quan trọng hơn và khó khăn hơn là đánh
giá tác động. Trong quá trình đánh giá kết quả vận động cần tập trung vào những
vấn đề chính như: Xây dựng và xác định các tiêu chí trung gian và cả tiến trình;
Đánh giá các sự kiện và các hoạt động cụ thể;Chú ý đến sự thay đổi tài liệu dựa
58
trên các mục tiêu SMART ban đầu; So sánh các kết quả cuối cùng với các chỉ
tiêu đo lường sự thay đổi; Xác định nhân tố chủ yếu đóng góp vào sự thay đổi
chính sách;Chú ý đến tài liệu về những thay đổi ngoài dự kiến, chia sẻ kết quả; và
cuối cùng công bố thành công theo cách rõ ràng và dễ hiểu nhất cho chủ thể có
liên quan.
2.4.6. Theo dõi kết quả chính sách (duy trì tính liên tục)
VĐCS cũng giống như tuyên truyền là một quá trình đang diễn ra hơn là
một chính sách riêng biệt hay là một phần của việc làm luật. Một kế hoạch có
tính liên tục có nghĩa là nó có mục đíchdài hạn rõ ràng, giữ các liên minh chức
năng với nhau, kết nối dữ liệu và các biện hộ phù hợp với điều kiện đang thay
đổi, đánh giá tình hình kết quả. Nếu các thay đổi chính sách mong muốn xảy ra,
phải kiểm soát thực hiện. Nếu các thay đổi chính sách mong muốn không xảy ra,
cần xem lại chiến lược và hành động trước, nhắc lại tiến trình vận động hoặc xác
định các hành động khác để đưa ra. Đặc biệt, phải kiên trì xây dựng các kế hoạch
nhằm duy trì và tăng cường sự thay đổi.
59
Tiểu kết chương 2
Có thể thấy, dù còn nhiều quan niệm, nhiều cách tiếp cận khác nhau về
VĐCS nhưng những vấn đề cơ bản liên quan đến VĐCS như chủ thể, đối tượng,
mục đích, nội dung, phương thức vận động… hiện nay là tương đối rõ ràng và
thống nhất. Theo đó, không còn nghi ngờ VĐCS đang ngày càng trở nên cần thiết
trong các thiết chế dân chủ và tác động mạnh mẽ đến các quá trình chính sách
công mặc dù VĐCS có lịch sử hình thành và phát triển của nó gắn liền với những
điều kiện cơ bản của đời sống kinh tế - xã hội cũng chính là những cơ sở hình
thành hoạt động này. Chủ thể và đối tượng VĐCS rất đa dạng, phương thức tiến
hành vận động có thể khác nhau nhưng nhìn chung, mục đích của các hoạt động
VĐCS đều hướng đến việc tạo ra những thay đổi chính sách theo hướng có lợi
hơn cho chủ thể vận động. Và dù ai vận động, vận động ai, vận động cho mục
đích gì thì một hoạt động vận động thông thường cũng phải được tiến hành thông
các bước cơ bản của nó. Nắm chắc và tuân thủ các bước cơ bản trong quá trình
vận động sẽ giúp các chủ thể vận động chủ động hơn trong việc xây dựng kế
hoạch, chiến lược vận động để đạt hiệu quả cao nhất, trong khi đó cũng sẽ giúp
cho nhà nước can thiệp nhằm kiểm soát VĐCS hoặc tạo ra những điểu kiện và cơ
chế để thúc đẩy VĐCS tích cực, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các quyết
định chính trị, các chính sách.
60
Chương 3
VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ
Vận động chính sách công như đã phân tích là một hoạt động đặc thù, một
công nghệ chính trị, được hình thành trong những điều kiện, những cơ sở nhất
định. Thực tiễn VĐCS công cũng như những ảnh hưởng của nó ra sao phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, trong số đó có mức độ thể chế hóa hoạt động VĐCS, quy mô
quốc gia, đặc điểm văn hóa chính trị và sự lớn mạnh của ngành công nghiệp
VĐCS [94, tr.16]. Như vậy, thực tiễn VĐCS công một phần được phản ánh qua
những quy định hay luật về VĐCS, ngược lại, mức độ hoàn thiện và đầy đủ của
luật hay những quy định này có tác động trở lại thực tiễn VĐCS của các quốc gia.
Chương này sẽ tập trung làm rõ thực trạng VĐCS công ở Anh, Mỹ, Pháp thông
qua việc phân tích những quy định hay luật về VĐCS của từng nước, từ đó làm nổi
bật thực tiễn VĐCS ở ba quốc gia dựa trên những biểu hiện về chủ thể, đối tượng
vận động, quy mô và tài chính cho vận động, phương tiện và phương thức vận
động. Quá trình phân tích cũng sẽ dựa trên những đặc thù về hệ thống chính trị và
quá trình chính sách của từng quốc gia để luận giải sâu sắc hơn những biểu hiện
VĐCS ở mỗi nước.
3.1. PHÁP LUẬT VỀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH Ở ANH, PHÁP, MỸ
Hai trong số ba quốc gia được nghiên cứu ở đây là Pháp và Mỹ đã thông
qua luật và các quy định của Chính phủ về VĐCS công. Còn ở Anh, các dự thảo
luật về VĐCS công hiện vẫn đang trong quá trình tranh luận [111, tr.2]. Dưới đây
sẽ đề cập chi tiết hơn đến những quy định về VĐCS ở Anh, Pháp và Mỹ.
3.1.1. Pháp luật về vận động chính sách ở Anh
Mặc dù không có Hiến pháp thành văn nhưng VĐCS công không phải là
vấn đề mới ở Anh. Thậm chí, Vương quốc Anh còn được coi là xuất phát điểm của
VĐCS công với vai trò của hành lang trung tâm của Điện Wesminster. Quyền kiến
nghị của người dân đối với chính quyền chính thức được ghi nhận trong bản Đại
61
Tuyên ngôn về các quyền tự do (Magna Carta) năm 1215 và sau này là trong bản
Tuyên ngôn về các quyền của Vương quốc Anh.
Với truyền thống VĐCS công lâu đời như vậy, nhà nước đã ban hành
nhiều quy định thành văn liên quan đến các quan hệ giữa các nghị sĩ với các
nhóm lợi ích. Tuy nhiên, những quy định này chủ yếu liên quan tới lợi ích tài
chính của chính bản thân các nghị sĩ cũng như hành vi cá nhân của họ hơn là về
việc kiểm soát các lợi ích của bên thứ ba. Cơ sở của bộ luật hiện hành được đề ra
vào tháng 10 - 1994, khi Thủ tướng John Major thành lập Ủy ban Nolan (Ủy ban
về các tiêu chuẩn trong đời sống công) để nghiên cứu các mối quan tâm hiện tại
về tiêu chuẩn hành vi của tất cả những lãnh đạo các cơ quan công quyền, bao
gồm việc vận hành các hoạt động tài chính và thương mại và đề xuất các thay đổi
cơ chế hiện nay để đảm bảo các tiêu chuẩn cao nhất về tính liêm khiết của công
chức trong bộ máy công quyền. Tại Thượng viện Anh không có bản đăng ký
chính thức hay danh sách công khai các chuyên gia VĐCS và không có quy tắc
hay bộ luật hành vi nào áp dụng cho những người vận động. Nói chung, Thượng
viện có cơ sở vật chất phục vụ cho các thượng nghị sĩ chứ không dành cho những
người VĐCS hay các nhóm lợi ích, mặc dù các nghị sĩ được các nhóm lợi ích hỗ
trợ để phục vụ cho các cuộc họp và thực thi chức năng của mình. Tháng 11-
1995, Thượng viện đồng ý lập Bản đăng ký các lợi ích của nghị sĩ theo đề xuất
của Ủy ban thủ tục, theo đó: 1) Bắt buộc các thượng nghị sĩ kê khai các khoản
tiền thu được do cung cấp tư vấn về các vấn đề Nghị viện cho bên ngoài; 2) Bắt
buộc các thượng nghị sĩ kê khai các lợi ích tài chính tại các công ty VĐCS; 3)
Các thượng nghị sĩ tùy chọn đăng ký và thể hiện các lợi ích khác. Bản đăng ký
này được xuất bản hằng năm. Để thực hiện Bản đăng ký này, một tiểu ban của
Ban đặc quyền Thượng viện được thành lập có chức năng giám sát các nghị sĩ.
Tiểu ban này sẽ điều tra tất cả các cáo buộc về một thượng nghị sĩ nào đó vi
phạm các quy định của Bản đăng ký.
Tại Hạ viện, báo cáo của Ủy ban Nolan được thông qua vào tháng 5 - 1995
đã không đề xuất việc đăng ký bắt buộc đối với các nhà VĐCS nhưng có đề nghị
cấm các hạ nghị sĩ tham gia các hợp đồng liên quan đến vai trò của họ để thực
62
hiện dịch vụ cho hoặc thay mặt các tổ chức cung cấp dịch vụ về các vấn đề Nghị
viện có thu phí. Tháng 11 -1995, tại “Hướng dẫn về các Quy tắc liên quan tới
hành vi của nghị sỹ”, Hạ viện đã đồng ý bổ sung thêm một chương về “Vận động
hành lang có tiền công hay lợi ích khác”và được cập nhật vào tháng 5 - 2002.
Hướng dẫn này nhấn mạnh rằng trách nhiệm cấm VĐCS để lấy tiền công hay lấy
các lợi ích khác thuộc về cá nhân nghị sĩ.
Tháng 12 -1995, sau khi có các quan ngại về việc các chuyên gia VĐCS
tiếp cận Hạ viện dưới vỏ bọc là nhân viên của các nghị sĩ, Hạ viện đã quy định
các nhà báo, nhân viên của các nghị sĩ phải đăng ký mới được làm việc tại cơ
quan quyền lực nhất nước Anh này. Các chuyên gia này không được cấp thẻ
riêng và không có quyền được cấp thẻ an ninh. Vì thế, vẫn chưa có danh sách
công khai hay bản đăng ký công khai các nhà VĐCS công tại Nghị viện Anh.
Các tổ chức phi chính phủ như Charter 88 (Một nhóm áp lực ở Anh chủ trương
vận động nhằm cải cách Hiến pháp và thể chế bầu cử) đã chỉ trích việc này, xem
đó là một thất bại trong quy định nội bộ của Nghị viện. Charter 88 cũng đề xuất
rằng, cần có một bộ luật quy định việc công khai những người VĐCS cũng như
mục tiêu, đối tượng và thời gian vận động của họ, đồng thời phải có hình phạt đối
với những ai không tuân thủ.Tuy nhiên, hai tổ chức VĐCS công tại Nghị viện
Anh là Hiệp hội các nhà tư vấn chính trị chuyên nghiệp và Viện quan hệ công
chúng đã cùng đưa ra một văn bản có tên là Bộ luật hành vi để tự điều chỉnh các
vấn đề của họ. Họ đã lập các bản đăng ký những nhà VĐCS chuyên nghiệp. Mặc
dù mới chỉ là các quy định và đăng ký tự nguyện do các tổ chức này tự đề ra, các
quy định này cũng giống như là lời thách thức đối với việc cần phải có một quy
định cụ thể hơn về VĐCS công tại Nghị viện[81].
Năm 1992, Chính phủ Vương quốc Anh đã ban hành Bộ quy tắc điều
chỉnh hành vi của Bộ trưởng, trong đó quy định “Bộ trưởng không được phép cố
ý lừa dối Quốc hội và công chúng và phải công khai trước Quốc hội và công
chúng các cuộc tiếp xúc với người vận động, chỉ giữ kín thông tin khi việc tiết lộ
sẽ không đem lại lợi ích cho cộng đồng, những điều cần được quyết định phải
phù hợp với quy ước của Quốc hội, quy định của pháp luật và quy tắc trong
63
Chính phủ có liên quan”. Năm 1999, Văn phòng Nội các đã ban hành Quy định
chi tiết về các giao dịch giữa cán bộ công chức và các nhà VĐCS công. Đến năm
2007, Thủ tướng Anh Tony Blair đã bổ sung vào Bộ quy tắc này các quy định
liên quan đến các cố vấn đặc biệt của Bộ trưởng, theo đó quy định: “Cố vấn đặc
biệt cần làm việc một cách công khai và trung thực; không được lạm dụng vị trí
chính thức của mình hoặc thông tin mình có được trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ chính thức để dùng vào lợi ích riêng của cá nhân mình hoặc vì lợi ích
cá nhân của người khác; không được nhận bất kỳ loại quà cáp nào được cho là
làm ảnh hưởng đến việc phán xét cá nhân của mình hoặc tập thể”.
Năm 2009, Ủy ban Lựa chọn các vấn đề công cộng của Hạ viện Anh đã
công bố một bản báo cáo có tên gọi: “Vận động hành lang: Tiếp cận và ảnh
hưởng ở Whitehall” trong đó chỉ ra rằng: Thực tiễn VĐCS để gây ảnh hưởng đến
các quyết định chính trị là chính đáng và là một phần không thể thiếu của các quá
trình dân chủ. Các tổ chức và cá nhân có lý khi muốn tác động đến các quyết
định có ảnh hưởng đến họ. Ngược lại, chính phủ cũng cần tiếp cận các thông tin
và quan điểm mà hoạt động vận động mang lại.
Báo cáo cũng đã khuyến nghị về nhu cầu phải có một bản đăng ký mang
tính bắt buộc đối với hoạt động VĐCS để mang lại sự minh bạch cao hơn cho các
giao dịch giữa các nhà hoạch định chính sách ở Whitehall với các nhóm lợi ích
bên ngoài. Báo cáo này cũng kết luận rằng việc tự điều chỉnh của các ngành công
nghiệp VĐCS chuyên nghiệp là phân tán, và ít liên quan đến các nội dung chi tiết
của việc vận động. Trong tháng 10 năm 2009, chính phủ đã thể hiện quan điểm
với báo cáo của PASC bằng cách từ chối yêu cầu phải có một bản đăng ký bắt
buộc đối với các nhóm VĐCS.Tuy nhiên, tất cả các Bộ sẽ phải công bố trực
tuyến các bản báo cáo hàng quý chi tiết về các cuộc tiếp xúc cấp bộ với các nhóm
lợi ích và những hỗ trợ nhận lại từ các bộ trưởng và các cố vấn của họ. Chi tiết về
các cuộc tiếp xúc giữa các quan chức với các nhóm lợi ích bên ngoài sẽ không
phải công bố.Danh sách các công chức, những người phải công bố chi tiết về
những hỗ trợ và các khoản chi phí sẽ được mở rộng.Ngành công nghiệp
VĐCScần thêm thời gian để tự điều chỉnh nhưngchưa đưa ra thời hạn cụ thể nào
64
cho vấn đề này. Liên minh vì sự minh bạch của ngành VĐCS đã chỉ trích những
quyết định này là “tự điều chỉnh cũng có nghĩa là không có quy định”, họ so sánh
với bối cảnh các bê bối trong chi tiêu của các nghị sĩ.
Gần đây nhất, một Đạo luật được cho là có quy định cụ thể hơn về VĐCS
được thông qua ở Anh nhưng lại chỉ được áp dụng từ ngày 19 tháng 9 năm 2014
đến ngày 07 tháng 5 năm 2015 nên được gọi là "giai đoạn điều chỉnh”, chủ yếu
đưa ra những quy định liên quan đến việc gây quỹ của các tổ chức từ thiện cho
các chương trình vận động tranh cử của các ứng cử viên và các đảng chính trị
trong cuộc tổng tuyển cử 2015. Điều này xuất phát từ thực tế, tại Anh, trong các
cuộc chạy đua vào Hạ viện, các đảng chính trị mà cụ thể là hai đảng lớn là Công
đảng và Bảo thủ cần rất nhiều điều kiện, trong đó tiền có vai trò quan trọng. Do
đó, cần thiết phải quy định chặt chẽ về VĐCS trước và trong mỗi kỳ bầu cử.
Tựu chung lại, ở Anh hiện nay vẫn vắng bóng một quy định hay luật chính
thức của Chính phủ về VĐCS. Những quy định hiện có lại không cụ thể, rõ ràng
và chi tiết, đặc biệt, do chính các tổ chức chuyên về VĐCS tự đặt ra, do đó, có
thể nói, ở bình diện quốc gia, Vương quốc Anh vẫn chưa có Luật chính thức về
VĐCS.
3.1.2. Pháp luật về vận động chính sách ở Pháp
Tại Pháp, thời điểm trước cuộc cách mạng tư sản năm 1789, các nhóm lợi
ích đại diện cho quyền lợi của người dân Pháp đã ra đời dựa trên sự phát triển
nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản và sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Anh, các hoạt
động vận động tại Nghị viện Pháp cũng bắt đầu manh nha. Tuy nhiên, đến khi
cuộc cách mạng Pháp năm 1789 nổ ra thì Jacobean cho rằng quốc gia cần loại bỏ
bất cứ sự can thiệp nào của các tập đoàn trong cuộc tranh luận công. Luật Le
Chapelier được ban hành vào ngày 14 tháng 6 năm 1791 đã nghiêm cấm các
nhóm lợi ích tham gia vào diễn đàn chính trị. Quan hệ giữa nhà nước và công dân
phải là quan hệ trực tiếp nhất và nó không được các tập đoàn tư nhân đứng trung
gian xen vào. Vì vậy, VĐCS không được công chúng ủng hộ. Ý tưởng Jacobean
xuất phát từ tư tưởng của Jean - Jacques Rousseau: “không gì nguy hiểm hơn là sự
65
tác động của lợi ích cá nhân lên chính sách công”. Và vì vậy, trong các Hiến pháp
của Pháp rất dễ nhận thấy sự coi thường các nhóm lợi ích, như Điều 3 của Hiến
pháp năm 1958 khẳng định: “Chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân thông qua các
đại biểu hoặc nghị viện và trưng cầu dân ý, không bộ phận người dân hay cá nhân
nào được chiếm lấy”. Không có quy định luật pháp nào thuộc về nhóm quyền lợi
riêng mặc dù trên thực tế chúng tồn tại. Tuy nhiên, việc thành lập Liên minh châu
Âu (EU) sau này đã có tác động lớn đến các hoạt động VĐCS tại Pháp.
Hiện nay, Pháp không có Luật về hành vi đối với những đại diện của các
nhóm lợi ích, Thượng viện Pháp không có Bản đăng ký hay danh sách các nhóm
áp lực. Các nhóm hay tổ chức chuyên nghiệp muốn tiếp xúc với Thượng viện cần
đệ đơn tới Ban Chủ tịch Thượng viện để xin phép. Ban Tổng thư ký của Chủ tịch
sẽ giải quyết yêu cầu này. Các hoạt động theo đó cũng không bị chế tài và không
được đề cập đến trong bất cứ điều luật hành vi đạo đức nào. Không có danh sách
hay bản đăng ký các nhóm áp lực, chỉ có 1 điều khoản duy nhất có liên quan là
các sắc lệnh chung của Ủy ban Quốc hội về việc đi lại trong Quốc hội. Yêu cầu
của các nhóm có thể được Ban Quaestor - Ủy ban quản lý vấn đề tài chính của
Quốc hội giải quyết. Ban này có thể cho phép tiếp cận với Thượng viện và các
hành lang của Thượng viện nếu các nhóm chuyên nghiệp này được xem là quan
trọng hay có tính chất đại diện lớn. Trên thực tế, mỗi năm, Ban Quaestor đã cấp
hơn 20 thẻ ra vào, khoảng hơn chục giấy ra vào hành lang của Thượng viện. Như
vậy, ở Pháp, tất cả những ai có thẻ đặc biệt được Chủ tịch Quốc hội hay các
Quaestor cung cấp thì mới được tiếp cận Quốc hội. Ngược lại, bất cứ ai có hành
vi không phù hợp đều phải chịu sự cảnh báo hoặc bị khiển trách theo yêu cầu của
thượng nghị sỹ.
Điều 79 Luật về thủ tục cấm các nghị sỹ sử dụng địa vị của mình hoặc cho
phép sử dụng địa vị của mình vào việc khác ngoài việc thực thi trách nhiệm của
nghị sỹ với các hình phạt cụ thể cho việc bất tuân thủ. Các nghị sĩ Pháp cũng bị
cấm tham gia vào các tổ chức hay nhóm bảo vệ lợi ích cá nhân, địa phương hay
nghề nghiệp hoặc có cam kết với các nhóm này trong hoạt động Quốc hội của họ.
66
Khung VĐCS ở Pháp đặc trưng bởi sự tồn tại của hai hệ thống khác nhau
trong Quốc hội: Một tạiHạ việnvà một tại Thượng viện và bởi sự vắng mặt gần
như các quy tắc ở các cơ quan có quyền ra quyết định công khác. Hơn nữa do
thiếu một khuôn khổ chung thống nhất nên quy định về sự tham gia của các nhân
vật chính trị khác nhau cũng không giống nhau. Với sự phân chia quyền lực
mang tính đặc trưng của nhà nước Pháp, các quy tắc về đạo đức áp dụng cho các
cơ quan công cộng khác với cho các nghị sĩ. Ngoài ra, hiện nay không có một
quy định cụ thể nào dành riêng cho hoạt động VĐCS đối với các chế định khác
của cơ quan nhà nước như chính quyền trung ương, các Bộ, Nội các, cố vấn của
Tổng thống Cộng hòa, các cơ quan chuyên môn, các cơ quan độc lập, chính
quyền địa phương. Nói cách khác, không có luật xác định và điều chỉnh các hoạt
động VĐCS ở Pháp. Điều này không phải chỉ xảy ra với riêng Nghị viện Pháp
mà còn đúng với tất cả các cơ quan nhà nước khác.Kể cả trong trường hợp nếu có
các quy tắc liên quan đến VĐCS tại Quốc hội và Thượng viện, thì Pháp cũng chỉ
coi đó là một phần nhỏ trong các mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích và các nghị
sĩ. Quan trọng hơn vẫn là sự kiểm soát việc tôn trọng các quy tắc trong thực tế và
thiếu cơ chế kích hoạt để khuyến khích công dân tham gia vào quá trình này.
Ở Pháp cũng không có quy tắc dành riêng cho các nghị sĩ sau khi hết
nhiệm kỳ. Họ có thể tiếp tục cung cấp các dịch vụ tư vấn và có vai trò như các
chuyên gia VĐCS với điều kiện trước khi nhận công vụ, họ đã được quyền cung
cấp các dịch vụ như vậy. Mặt khác, đối với công chức khác, có một khuôn khổ để
quản lý và kiểm soát việc họ tham gia vào khu vực tư nhân. Việc kiểm soát này
áp dụng cho tất cả các cơ quan công quyền bao gồm các cố vấn cấp Nội các và
các quan chức Chính phủ khác, đặc biệt là từ khi pháp luật về tính minh bạch
được ban hành và áp dụng với tất cả các thành viên của chính phủ và của các cơ
quan hành pháp ở địa phương. Tuy nhiên, trong thực tế, quy định về kiểm soát
này không phải luôn luôn được tôn trọng bởi vì khả năng áp dụng của nó trong
thực tế là tương đối phức tạp. Mặc dù vậy, Pháp vẫn có những nỗ lực đáng kể
trong việc xây dựng và cải tạo môi trường cho hoạt động VĐCS.
67
Gần đây nhất, Tổ chức minh bạch Pháp đã phát triển một bản hướng dẫn
thiết kế để tính toán chi phí VĐCS, điều mà lẽ ra cần phải được đề cập trong Luật
đăng ký của Quốc hội Pháp với sự hợp tác của một nhóm các công ty. Nhóm thí
điểm này gồm Sân bay Pari, Ngân hàng quốc gia Pari, Tập đoàn Cô ca - Cô la,
Ngân hàng tín dụng nông nghiệp, Công ty xổ số và tổ chức các trò chơi cá cược
thể thao, Ngành Bưu điện, Tập đoàn sản xuất rượu Pernod RICARD, Ngân hàng
Societe Generale và Văn phòng tư vấn về quan hệ công chúng và truyền thông
phối hợp trong nỗ lực thiết kế một bản hướng dẫn với mục tiêu chuẩn hóa các
phương pháp tính chi phí VĐCS nhằm hướng đến sự minh bạch hơn. Cho đến
nay, Quốc hội Pháp chỉ đòi hỏi các chủ thể VĐCS phải báo cáo ngân sách phân
bổ cho hoạt động VĐCS quốc hội nhưng điều này cũng không bắt buộc. Bên
cạnh đó, theo một đánh giá của báo cáo ngân sách cho thấy, do sự thiếu chuẩn
hóa trong báo cáo như vậy, các thông tin có thể rất khác nhau giữa các tổ chức và
do đó cũng rất khó để so sánh và phân tích. Bản hướng dẫn được coi như một tài
liệu tham khảo cho tất cả các tổ chức. Nó được xây dựng bởi các đối tác thuộc
khu vực tư nhân bao gồm các tổ chức như liên đoàn chuyên nghiệp, các hiệp hội,
các tổ chức phi chính phủ, công đoàn, các tổ chức tư vấn, … trong đó thiết lập
một cơ sở chung của các tiêu chuẩn cho các báo cáo ngân sách VĐCS tại nghị
viện. Nó được xây dựng và phát triển bằng cách thu thập ý kiến phản hồi đồng
thời có tính đến những thay đổi quy định có thể xảy ra trong tương lai. Đây chính
là nỗ lực mới mẻ và tích cực nhất hướng tới xây dựng các quy định và luật về
VĐCS ở Pháp thời gian tới.
3.1.3. Pháp luật về vận động chính sách ở Mỹ
Mỹ là quốc gia đứng đầu thế giới về sự “náo nhiệt” trong hoạt động
VĐCS. VĐCS là nghề ra đời dường như cùng với sự ra đời của nước Mỹ và trở
thành một thói quen chính trị, một nét đặc trưng của chính giới Hoa Kỳ hiện nay.
Cơ sở cho sự ra đời của hoạt động VĐCS được bắt nguồn từ chính Hiến
pháp Mỹ với quy định Quốc hội sẽ không xây dựng một đạo luật nào để hạn chế
quyền của dân chúng được hội họp ôn hoà và đưa lên Chính phủ các điều thỉnh cầu
68
bày tỏ nỗi bất bình của họ. Ở Mỹ, VĐCS được pháp luật thừa nhận và bảo vệ bằng
những quy định cụ thể. Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Mỹ đảm bảo tự do cá
nhân về vấn đề tôn giáo, ngôn luận, báo chí, hội họp trong hòa bình, và quyền
được tự do “kiến nghị với chính quyền sửa chữa những điều gây bất bình” [9]. Quy
định này rất quan trọng cho các nhà VĐCS.
Đạo luật đầu tiên được áp dụng cho hoạt động VĐCS làĐạo luật Vận động
hành lang (The Federal Regulation of Lobbying Act of 1946) được Quốc hội
thông qua năm 1946. Đạo luật này quy định các tổ chức, cá nhân hoạt động
VĐCS phải: đăng kí với Thư ký của Hạ viện và Thượng viện; thường xuyên giải
trình chi tiết về vấn đề tài chính; hàng quý phải gửi báo cáo về các hoạt động
VĐCS của mình cho Thư ký của Hạ viện và Thượng viện.
Tiếp đến là Đạo luật về Công khai hóa hoạt động VĐCS (Lobbying
Disclosure Act of 1995) điều chỉnh các mối quan hệ trong hoạt động lobby cả
trong và ngoài nước Mỹ. Luật này đã có những quy định cụ thể hơn so với luật
năm 1946. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, quy định “các hoạt động vận động hành lang” bao gồm việc lên
kế hoạch, chuẩn bị, nghiên cứu, tìm kiếm thông tin có chủ đích, thực hiện vận
động đúng thời điểm, phối hợp với hoạt động vận động của những người khác. Đó
là quá trình giao tiếp bằng văn bản hoặc bằng lời nói đối với quan chức thuộc cơ
quan lập pháp, hành pháp được thực hiện với danh nghĩa là đại diện cho khách
hàng nhằm thiết lập, sửa đổi hoặc thông qua pháp luật Liên bang; thiết lập, sửa đổi
hoặc thông qua quy tắc Liên bang, quyết định của Chính phủ hoặc bất kỳ chương
trình nào, chính sách nào khác của Chính phủ Hoa Kỳ; quản lý thực thi chương
trình, chính sách Liên bang; đề cử hoặc xác nhận cá nhân vào các vị trí liên quan
thuộc thẩm quyền của Thượng nghị viện.
Thứ hai, quy định bắt buộc những người hoạt động VĐCS phải đăng kí
chậm nhất là sau 45 ngày, kể từ khi người VĐCS thực hiện cuộc vận động đầu
tiên hoặc được thuê để thực hiện cuộc vận động, tại bất kì thời điểm nào trước
thời hạn này, người VĐCS phải đăng kí với Thư ký của Thượng viện và Thư ký
69
của Hạ viện. Ngoài ra, phải công khai hóa các khách hàng, các cuộc tiếp xúc, các
vấn đề VĐCS và số tiền công được chi trả, ….
Thứ ba, quy định những giới hạn cho những người VĐCS như việc cấm
các Thượng nghị sĩ và nhân viên văn phòng Thượng viện không được nhận quà
hoặc chiêu đãi trên 100 USD mỗi người mỗi năm, không được tham dự những
chuyến đi giải trí do tư nhân đài thọ (trừ 24 trường hợp ngoại lệ về thể lệ quà cáp
và chiêu đãi). Luật này cũng buộc những người VĐCS mỗi năm phải báo cáo với
nhà nước hai lần về số tiền họ nhận của các công ty, nhận để làm gì và thân chủ
của họ là ai; và quy định rằng, bất cứ ai được trả tiền để vận động các nhà lập
pháp và các quan chức chính phủ đều được coi là người VĐCS, nếu người ấy
dùng ít nhất 20% thì giờ của mình để đại diện cho thân chủ trong thời gian sáu
tháng. Luật này cũng yêu cầu cả những người VĐCS không chuyên nghiệp và
những người chỉ vận động với công nhân viên cấp dưới của Quốc hội hay nhà
nước cũng phải đăng kí, nếu vi phạm có thể bị phạt tới 50 ngàn USD.
Năm 2007, Luật Lãnh đạo trung thực và Chính phủ mở (The Honest
Leadership and Open Government Act of 2007) sửa đổi quy định cấm các hình
thức quà cáp “bồi dưỡng” cho các Nghị sĩ có giá trị từ 20 USD trở lên, tặng vé
máy bay, chiêu đãi các kỳ nghỉ, các chuyến đi thực tế của các Nghị sĩ theo lời
mời của các tổ chức, cá nhân, mời cơm thân mật, …; người VĐCS phải thường
xuyên giải trình chi tiết hoạt động của họ và đăng nội dung trên công báo; và quy
định hình phạt hình sự lên đến 5 năm tù giam.
Bản hướng dẫn Đạo luật về Công khai hóa hoạt động VĐCS năm 2011 của
Văn phòng Thư ký Hạ viện Mỹ quy định một hình phạt tiền lên đến 200 ngàn
USD, và hình phạt tù giam có thể đến 5 năm đối với bất kì nhà VĐCS nào không
tuân thủ thủ tục đăng kí và thủ tục báo cáo công khai [18].
Ngoài ra, liên quan đến hoạt động VĐCS còn có Bộ luật về ngân sách liên
bang (Internal Revenue Code - IRC) và Đạo luật Đăng ký đại diện cho nước
ngoài (Foreign Agents Registration Act of 1938 - FARA). Luật này quy định các
cá nhân, tổ chức đại diện cho các chính phủ nước ngoài tham gia vào các hoạt
70
động như phổ biến, tuyên truyền chính trị và bất cứ hoạt động nào gây ảnh hưởng
với dư luận Mỹ, với các cơ quan, quan chức của Chính phủ, Quốc hội Mỹ liên
quan đến việc hoạch định hoặc thay đổi chính sách đối nội, đối ngoại của Mỹ thì
đều phải đăng kí.
Từ những quy định về VĐCS ở ba nước Anh, Pháp, Mỹ như đã trình bày
trên đây, có thể nhận thấy một số điểm chính sau đây:
Một là, quy định về VĐCS có liên quan trực tiếp đến các yếu tố kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội như đặc điểm thành phần kinh tế, các giá trị văn hóa
chính trị, đặc điểm hệ thống chính trị và quy trình chính sách, ý thức chính trị của
công dân. Nghĩa là sự khác biệt trong quy định về VĐCS ở Anh, Pháp và Mỹ có
nguồn gốc từ những khác biệt về các vấn đề nêu trên giữa ba quốc gia này.
Chẳng hạn, Mỹ là quốc gia mà các nhóm lợi ích ra đời sớm và ngày càng lớn
mạnh, VĐCS được xem như nhu cầu chính đáng và khách quan của các nhóm
này nên được nhà nước tôn trọng, thúc đẩy. Hơn nữa một trong những đặc điểm
của hệ thống chính trị Mỹ là tính thương mại hóa cao độ. Nhu cầu hỗ trợ về
nguồn lực cho các cuộc bầu cử ở Mỹ luôn rất cao và hoạt động hợp pháp của các
nhóm lợi ích trong quá trình VĐCS ở đây là một hiển nhiên. Hoặc như ở Anh,
văn hóa chính trị Anh là yếu tố đóng vai trò khá quan trọng, có thể giải thích và
bổ sung, hoàn thiện cho hệ thống chính trị Anh. Văn hóa chính trị Anh thể hiệnở
niềm tin, giá trị, hy vọng và trên hết là thái độ tôn trọng chính quyền, xã hội và
chính trị của người dân.Gabriel Almond và Sidney Verba đã mô tả người Anh
vào những năm 50 của thế kỷ XX có một nền văn hóa công dân: đó là một chuỗi
các thái độưa thích sự cai trị theo luật, tự do cá nhân, phẩm chất con người
bìnhđẳng và sựđiều độ chính trị. Vương quốc Anh có văn hóa chính trị theo
nghĩa là truyền thống và cách thức mà ở đó chính trị được tiến hành, cũng là quốc
gia có văn hóa công dân lý tưởng. Một trong những yếu tốđó là sự kết hợp hoặc
cân bằng giữa các giá trị của việc tham gia chính trị và sự tự tin do có niềm tin
đối với giới tinh hoa; sự phản ứng đối với những luật được ban ra. Một kiểu văn
hóa như thế, tự nó cóảnh hưởng tới cách con người ứng xử trong chính trị.Việc tự
điểu chỉnh VĐCS cũng là một cách thể hiện ý thức chính trị trong quan niệm của
71
các chủ thể cầm quyền ở Anh ở chỗ tin tưởng và đề cao danh dự và lòng tự trọng
của các chủ thể vận động.
Không có nghiên cứu nào đưa ra kết luận một cách chắc chắn về mối liên
hệ giữa những quy định về VĐCS với sự phát triển của hoạt động này trong thực
tiễn, nghĩa là không phải cứ có quy định đầy đủ và chặt chẽ về VĐCS thì hoạt
động này diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ như ở Mỹ, cũng không phải thiếu quy định
về VĐCS thì hoạt động này được tự do diễn ra. Tuy nhiên, điều không thể phủ
nhận là, càng hoàn thiện các thể chế cho VĐCS càng giúp kiểm soát tốt và hạn
chế được những tác động tiêu cực do hoạt động VĐCS gây ra, đồng thời có thể
phát huy được những tác động tích cực của nó vào việc cải thiện và nâng cao chất
lượng chính sách công.
Hai là, Anh, Pháp, Mỹ, mỗi quốc gia theo đuổi mộtmô hình quy địnhvề
VĐCS khác nhau song thành công nhất là Mỹ, nơi mà các quy định về VĐCS
đầy đủ và hoàn chỉnh nhất, với những điều chỉnh liên tục cho phù hợp với thực
tiễn VĐCS.Sự hoàn thiện của hệ thống quy định về VĐCS ở Mỹ không chỉ ở cấp
liên bang mà cả ở cấp bang. Đa phần các bang ở Mỹ hiện nay đều đã có luật quy
định về VĐCS và sự hoàn thiện của hệ thống quy định về VĐCS ở cấp liên bang
có mối quan hệ mật thiết với sự hình thành và phát triển hệ thống quy định ở các
bang của Mỹ. Những quy định về VĐCS của Mỹ hiện nay cũng được nhiều nước
châu Âu trong đó có cả Anh và Pháp nghiên cứu, học hỏi. Ngay từ đầu việc lựa
chọn mô hình đã không giống nhau nhưng không có nghĩa là Anh và Pháp không
cần và không thể học hỏi từ kinh nghiệm này của người Mỹ.
Ba là, xu hướng ngày càng thắt chặt những quy định về VĐCS ở cả ba
nước Anh, Pháp, Mỹ. Ba quốc gia này đều phải đối mặt với những bê bối chính
trị lớn có liên quan trực tiếp đến những tác động tiêu cực của VĐCS và sau mỗi
bê bối ấy lại đặt ra yêu cầu cao hơn, chặt chẽ hơn đối với các quy định về hoạt
động này. Bản thân quá trình điều chỉnh liên tục và kịp thời những quy định về
VĐCS công ở Mỹ như đã trình bày ở trên đã phản ánh xu hướng thắt chặt quy
định về hoạt động này ở một quốc gia vốn rất mạnh về thể chế này. Còn đối với
72
Anh và Pháp, cả hai quốc gia này nằm trong danh sách 7 trên 19 quốc gia châu
Âu có luật hoặc những quy định cụ thể liên quan đến VĐCS [94, tr. 22] nhưng
hiệu lực thực thi các quy định này là một vấn đề lớn với các nước.
Đòi hỏi những quy định chặt chẽ hơn để điều chỉnh VĐCS vừa là yêu cầu
từ phía người dân, vừa là nhu cầu của chính những nhóm lợi ích, những chủ thể
VĐCS vì một môi trường thuận lợi để nâng cao hiệu quả của các hoạt động
VĐCS. Mô hình tự điều chỉnh đối với hoạt động VĐCS ở Anh hiện tại đang đối
mặt với hai nan giải lớn, một là sự không bình đẳng giữa các chủ thể trong khi
cùng muốn gây ảnh hưởng lên chính sách công. Cụ thể là theo quy định hiện nay
thì chỉ Ủy ban các vấn đề công cộng hoặc các thành viên của ba hiệp hội nghề
nghiệp ở Anh là bắt buộc phải thực hiện yêu cầu đăng ký trong quá trình vận
động. Trong khi đó rất nhiều chủ thể khác chọn cách không tham gia các tổ chức
này nhưng vẫn gây ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến các chính sách thì lại không bị
yêu cầu phải đăng ký và thực tế họ cũng không đăng ký vận động như các luật
sư, các công ty luật, các tổ chức tư vấn và các tổ chức khác... Hai là, xu hướng
giảm hiệu lực trong việc thực hiện Bộ quy tắc về đạo đức ứng xử của các Hiệp
hội nghề nghiệp hiện nay ở Anh. Khi có sai phạm thì chế tài xử lý chỉ là khiển
trách hoặc khai trừ khỏi Hội. Kết quả là việc tự điều chỉnh có xu hướng không
đạt được những kỳ vọng ban đầu. Theo kết quả của một nghiên cứu được tiến
hành năm 2013 về hiệu quả của VĐCS ở châu Âu, tỉ lệ những người được hỏi
cho rằng hoạt động VĐCS ở Anh hiện nay đã được quy định thông qua bản đăng
ký tự nguyện hay Bộ quy tắc ứng xử rất cao, ở mức 73%. Tuy nhiên, chỉ có 33%
số người được hỏi cho rằng những quy định hiện tại là đầy đủ và vì vậy, 63%
trông chờ vào những quy định chặt chẽ hơn nữa trong 3 năm tới [55, tr. 60]. Dù
vậy sau 3 năm kể từ khi nghiên cứu được thực hiện, đến nay Anh vẫn chưa có
một quy định mới nào về VĐCS và cũng chưa có những dấu hiệu cho thấy điều
này sắp được xem xét. Nghiên cứu cũng được tiến hành ở Pháp cho kết quả 67%
số người được hỏi ở Pháp tin rằng hoạt động VĐCS hiện không được quy định
một cách đầy đủ và tỉ lệ những người cho rằng một yêu cầu về việc bắt buộc phải
đăng ký của các nhà VĐCS là cần thiết [55, tr. 32]. Cũng cần thấy rằng, dù yêu
73
cầu phải kiểm soát chặt chẽ VĐCS bằng những quy định mang tính bắt buộc
nhưng điều này hoàn toàn không hàm nghĩa thể hiện quan điểm từ chối hay ngăn
chặn hoạt động VĐCS mà chính là yêu cầu đối với sự minh bạch trong các quá
trình chính trị và chính sách công [55, tr. 23].
Bên cạnh đó, một nghiên cứu về VĐCS ở châu Âu đã chỉ ra rằng: chính
các chuyên gia VĐCS cũng luôn ủng hộ việc phải có những quy định yêu cầu bắt
buộc đăng ký và công khai hóa hoạt động VĐCS nhằm hình thành một môi
trường minh bạch cho các hoạt động này của họ [125].Kết quả của một nghiên
cứu khác được thực hiện năm 2008 tập trung làm rõ quan điểm và thái độ của các
chuyên gia VĐCS ở Mỹ và châu Âu cũng cho thấy đa phần các chuyên gia
VĐCS (66, 2%) ủng hộ một quy định chặt chẽ mang tính bắt buộc về VĐCS
trong khi tỉ lệ ủng hộ mô hình đăng ký tự nguyện đối với VĐCS là 25, 7%, và chỉ
có 8, 1% số chuyên gia VĐCS được hỏi cho rằng không cần thiết phải có những
quy định bắt buộc đăng ký đối với hoạt động này [125].
3.2. CHỦ THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở
ANH, PHÁP, MỸ
3.2.1. Chủ thể và đối tượng của vận động chính sách ở Anh
Chủ thể gián tiếp của hoạt động VĐCS là những người không tham gia
trực tiếp vào quá trình VĐCS. Họ bỏ tiền thành lập văn phòng hay thuê công ty
VĐCS vận động cho lợi ích của nhóm mình hay công ty mình tại tất cả các cơ
quan trong bộ máy công quyền. Chủ thể gián tiếp của hoạt động VĐCS bao gồm:
các nhóm lợi ích, các doanh nghiệp và các chủ thể nước ngoài. Trong số các hiệp
hội, doanh nghiệp tiến hành VĐCS thành công tại Quốc hội và Chính phủ Anh có
thể kể đến như: Các hiệp hội trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại và các công
ty công nghệ thông tin, tập đoàn Thames và các công ty dầu khí như: Shell, BP…
Ngoài ra, các tổ chức Công đoàn Anh cũng rất mạnh trong việc vận động để bảo
vệ lợi ích của người lao động, đặc biệt các tổ chức Công đoàn Anh nhiều khi còn
kết hợp với các nhóm lợi ích đại diện nghề nghiệp để nhân đôi sức mạnh của hai
bên, tiến hành vận động không chỉ Nghị viện Anh mà còn mở rộng sang cơ quan
hành pháp và tư pháp.Cụ thể hơn, những tổ chức sau đây được cho là có nhiều
74
cuộc tiếp xúc với các nghị sĩ và quan chức chính phủ Anh: Liên đoàn công
nghiệp Anh, Công đoàn Nghị viện, Tập đoàn Barclays, Liên đoàn các doanh
nghiệp nhỏ, BAE Systems, Royal Dutch Shell, HSBC, Phòng thương mại Anh,
Các trường đại học Vương quốc Anh, … Các tổ chức sau đây được nhắc tên
nhiều ở Nghị viện, từ đó cũng cho thấy chúng có khả năng gây ảnh hưởng đến
các quyết định ở Nghị viện vương quốc Anh bằng cách VĐCS: Ngân hàng Anh,
Hiệp hội chính quyền địa phương, Trường kinh tế Luân đôn, Đại học Oxford, Cơ
quan về môi trường, Liên đoàn công nghiệp Anh, Trường đại học College
London, BBC…
Chủ thể trực tiếp của hoạt động VĐCS là những người trực tiếp tham gia
vào quá trình này. Họ là những người trực tiếp lên danh sách tiếp cận, lập hồ sơ
về thông tin, gửi thông điệp của khách hàng thuê mình đến các cơ quan công
quyền, và quyết định thành công hay thất bại của hoạt động VĐCS. Ở London,
thủ đô của nước Anh tồn tại các công ty tư vấn, có vai trò lớn về tư vấn và VĐCS
như: Hill & Knowton, Busson Marsteller; có các công ty luật nổi tiếng như:
Cleary Gottlieb, Linklaters. Đó chính là điểm đến lý tưởng của các hiệp hội,
doanh nghiệp tại Anh khi họ muốn tác động đến việc ban hành chính sách của
Chính phủ. Các công ty tư vấn và các hãng luật trên còn có văn phòng đại diện
của mình tại Brussels và luôn trong tư thế sẵn sàng cho các chiến dịch VĐCS cấp
quốc gia tại EU hay tham gia vào các hiệp hội, doanh nghiệp cấp châu Âu với các
quốc gia thành viên khác.
Ở Anh, các Thượng nghị sĩ cũng có thể là những nhà VĐCS. Các thượng
nghị sĩ Anh không được trả lương, họ chỉ nhận những khoản tiền trợ cấp khiêm
tốn. Vì vậy, nhiều người trong số họ phải làm thêm “nghề tay trái” bên ngoài và
gần như một nửa số thượng nghị sĩ làm công việc PR cho các vấn đề cộng đồng.
Chính thể chế không đồng nhất tạo ra điều này. Tổ chức APPC cấm các thành viên
của mình thuê các thượng nghị sĩ nhưng tổ chức CIPR và tổ chức GAG thấy rằng
nếu không được trả lương xứng đáng thì những thượng nghị sĩ không có lí do gì để
phải đánh đổi cuộc sống của mình, do đó, họ vẫn sử dụng đội ngũ các thượng nghị
sĩ như những cố vấn, những chuyên gia vận động, đồng thời, trong một số trường
75
hợp, các thượng nghị sĩ Anh còn được xem là một trong những nhóm đối tượng
mà các công ty, các chuyên gia vận động hướng tới. Nghiên cứu của Lionel Zetter
đã đưa ra kết quả thống kê, theo đó, hiện nay có 145 trên tổng số 743 thượng nghị
sĩ Anh khai báo làm tư vấn viên cho các công ty, 20 người trong số họ làm công
tác VĐCS [81].
Về quan hệ giữa các chủ thể vận động và các công ty, các nhóm, các
chuyên gia vận động chính sách ở Anh cũng có điểm cần lưu ý. Đó là, ở Anh,
thuật ngữ “thuê” đôi khi được sử dụng một cách cố ý, thay vì “duy trì”. Đó là bởi
vì có hai cách khác nhau để sử dụng các dịch vụ VĐCS. Cách thứ nhất, các chủ
thể vận động có thể trả chi phí để duy trì hoạt động vận động thường xuyên, hoặc
cũng có thể thuê trong một thời hạn cố định và trả tiền theo từng dự án cụ thể.
Trong quá khứ, hầu hết các tổ chức duy trìhình thức sử dụng và trả chi phí VĐCS
hàng tháng còn xu hướng ngày nay là trả tiền theo từng dự án [81]. Tuy nhiên,
cũng có một chút khác biệt ở quốc gia theo mô hình tự điều chỉnh VĐCS như ở
Anh khi có một xu hướng khác là các tập đoàn hay các doanh nghiệp thường ưu
tiên xây dựng và phát triển đội ngũ chuyên gia VĐCS riêng của mình hơn là tìm
đến các hợp đồng với các chuyên gia VĐCS bởi đây được xem là một trong
những cách thức để tránh việc công khai hóa hoạt động VĐCS.
Về đối tượng được vận động, ở Anh, hầu hết các cơ quan lập pháp đều
cấm các thành viên của mình có dính líu tới VĐCS. Tuy nhiên, do đặc thù trong
tổ chức bộ máy nhà nước, đặc biệt là cán cân quyền lực quá chênh lệch giữa hai
viện của Nghị viện, việc vận động các thượng nghị sĩ ở Anh có đôi chút khác
biệt. Các Thượng nghị sĩ đôi khi đóng vai trò như những chủ thể được các công
ty hay các nhóm lợi ích thuê để vận động, khi khác lại đóng vai trò như những
đối tượng được các nhóm lợi ích vận động nhằm tận dụng quan hệ và ảnh hưởng
của các thượng nghị sĩ này.
Các đảng chính trị cũng là đối tượng được VĐCS công ở Anh. Hầu hết các
đảng phái chính trị ở quốc gia này có một đặc điểm có thể nhận biết và phân biệt
khi đặt chúng trong các xu hướng chính trị - cả ở cánh tả, hữu, trung. Tuy nhiên,
76
họ không đánh đổi quan điểm chính trị, chiến lược và hệ tư tưởng của mình để tối
đa hóa sự ủng hộ từ cử tri. Các đảng phái chính trị cũng có nguyên tắc riêng của
mình, theo đó, các chính sách hoặc niềm tin được bắt nguồn từ trong lịch sửnhư
bản năng và rất ít thay đổi. Chẳng hạn, Đảng bảo thủ ủng hộthị trường tự do, Đảng
Lao động muốn mở rộng phúc lợi nhà nước còn Đảng dân chủ tự do hướng tới cải
cách bầu cử. Những niềm tin cốt lõi ảnh hưởng rất nhiều đến chính sách - nó là nền
tảng hình thành nên mọi cam kết chính sách quan trọng của các Đảng. Do đó, ở
Anh, các nhóm lợi ích luôn có xu hướng sẽ tìm đến vận động các đảng chính trị mà
về cơ bản, cương lĩnh, chủ trương của họ phù hợp với mong muốn chính sách của
các nhóm vận động, như vậy sẽ giúp khả năng thành công của các cuộc vận động
trở nên chắc chắn hơn, hiệu quả vận động cũng vì thế mà cao hơn. Tuy nhiên, xét
đến cùng, mục đích tồn tại của các Đảng chính trị là để giành được quyền lực - và
hoạt động để giữ quyền lực. Do đó, nếu các nhóm vận động có khả năng thuyết
phục các đảng rằng chính sách nào đó sẽ khiến Đảng họ thất bại trong cuộc bầu cử
thì chắc chắn họ sẽ xem xét lại xem có nên đưa chính sách đó ra hay không. Điều
này là nhân tố làm cho VĐCS công ở Anh trở nên nhiều màu sắc hơn [81].
3.2.2. Chủ thể và đối tượng của vận động chính sách công ở Pháp
Chủ thể VĐCS ở Pháp có thể là các nhóm lợi ích, các tổ chức, các cá nhân
có nhu cầu VĐCS để đạt được lợi ích, cũng có thể là các tổ chức, các công ty tư
vấn chuyên nghiệp và các cá nhân trực tiếp tham gia VĐCS để đạt lợi ích cho các
thân chủ của mình. Theo đó, các chủ thể có nhu cầu VĐCS ở Pháp cũng bao gồm
các công ty, các hiệp hội, các tập đoàn, doanh nghiệp đang hoạt động tại Pháp;
các chủ thể nước ngoài có nhu cầu tiếp cận và thuyết phục chính phủ Pháp, và kể
cả là Chính phủ Pháp trong hoạt động vận động tại liên minh châu Âu.
Bản thân các quan chức hành pháp ở Pháp cũng từng hoạt động với tư
cách là chủ thể tiến hành VĐCS. Điển hình là việc ông Aquilino Morelle, một
thanh tra công vụ nhà nước Pháp. Năm 2004, trang web báo chí điều tra Pháp
Mediapart tiết lộ việc ông Aquilino Morelle làm công việc tư vấn tư nhân cho
một công ty dược phẩm Đan Mạch trong khi ông đang làm thanh tra cho Thanh
77
tra công vụ nhà nước Pháp về xã hội, y tế, việc làm và chính sách lao động
(IGAS). Ông đồng thời là đồng tác giả một báo cáo có tựa đề "Khuôn khổ cho
các chương trình chăm sóc cho bệnh nhân tham gia điều trị liên quan đến thuốc,
tài trợ của các công ty dược phẩm” trong khi lẽ ra ông không được quyền để làm
tư vấn như vậy trong năm 2007.
Đối tượng được vận động ở Pháp chính là các nghị sĩ, các quan chức
chính phủ trong đó đặc biệt là Tổng thống, Thủ tướng và cố vấn của họ. Đối
tượng được vận động cũng có thể là các ủy ban tham vấn cả chính thức và không
chính thức, các chính quyền địa phương. Đôi khi đối tượng được vận động cũng
chính là công chúng Pháp cho những vấn đề nhất định của đời sống chính trị - xã
hội.
Những vụ việc VĐCS bị phanh phui và những cáo buộc liên quan đến các
Tổng thống Pháp cung cấp minh chứng khá thuyết phục rằng chính Tổng thống
Pháp là đối tượng chính được các nhóm lợi ích VĐCS. Đầu tiên phải kể đến là
trường hợp VĐCS liên quan đến cựu Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy. Trong
thời gian đương nhiệm, danh tiếng của tổng thống Sarkozy đã phần nào bị vẩn
đục bởi các vụ điều tra tư pháp liên quan đến những người thân cận và phe cánh
của ông. Những vụ bê bối này tuy được báo chí đề cập đến từ lâu nhưng do
những quy định của Hiến pháp nên nhiều chi tiết chưa được làm sáng tỏ. Cụ thể
là theo quy định Hiến pháp năm 1958, tổng thống được quyền tạm miễn truy tố
hình sự trong thời gian đảm nhiệm chức vụ đứng đầu nhà nước. Trong chiến dịch
tranh cử, đảng Xã hội đã nhiều lần cáo buộc ông Sarkozy tìm mọi cách để tái cử
hòng trốn tránh cơ quan tư pháp. Các cuộc điều tra độc lập của cơ quan tư pháp
cũng cho thấy sự dính líu rõ ràng của ông Nicolas Sarkozy trong phi vụ bán vũ
khí tai tiếng cướp đi sinh mạng của hơn chục công dân Pháp. Dù ông Sarkozy
phủ nhận các cáo buộc này một cách mạnh mẽ nhưng trong một quốc gia có nền
báo chí độc lập như ở Pháp thì những phủ nhận và biện hộ của ông Sarkozy chỉ
đủ sức thuyết phục với một số người thuộc đảng của ông.
78
Một vị Tổng thống khác của Pháp cũng được cho là có liên quan đến các
vụ VĐCS là Jacques Chirac. Hai tháng sau khi rời điện Elysée năm 2007, ông đã
phải đối mặt với thẩm phán để trả lời các câu hỏi liên quan đến vụ án lập hồ sơ
việc làm giả để gây quỹ tại tòa thị chính Paris thời ông làm thị trưởng. Sau đó,
năm 2011, ông Jacques Chirac bị kết án hai năm tù nhưng cho hưởng án treo vì
lý do sức khỏe. Ông trở thành tổng thống Pháp đầu tiên bị kết án và nguyên nhân
có liên quan đến việc đã nhận sự hỗ trợ từ các nhóm VĐCS ở Pháp.
Ngoài Tổng thống, nhiều Bộ trưởng Pháp cũng từng là đối tượng được
VĐCS ở Pháp, điển hình trong đó phải kể đến vụ bê bối Woerth-Bettancourt gắn
với tên tuổi của bộ trưởng ngân khố kiêm thủ quỹ của đảng cầm quyền UMP Eric
Woerth, Sarkozy lúc đó là bộ trưởng Nội vụ và một Bộ trưởng khác là Valérie
Pécresse.
Do sự bất đối xứng về quyền lực ngay trong lĩnh vực lập pháp giữa Quốc
hội và nhánh hành pháp, ở Pháp, các chủ thể của nhánh hành pháp, đặc biệt là
Tổng thống và Thủ tướng được vận động nhiều hơn là các Nghị sĩ. Nói cách
khác, nghị trình chính sách của chính phủ là chương trình nghị sự, và chính phủ
đề xuất đa số các luật. Điều này vẫn đúng kể cả khi Luật hiến phápsửa đổi nhằm
hiện đại hóa các thể chế của Pháp được thông qua vào năm 2008, Quốc hội có
quyền kiểm soát chương trình nghị sự của riêng mình trong những giới hạn nhất
định. Sự điều chỉnh này đã làm tăng khả năng một dự luật được đề xuất bởi thành
viên Quốc hội thực sự có thể được đưa đến nghị trình lập pháp và có thêm cơ hội
hợp lý để được xem xét song cũng không thay đổi được cục diện là ưu thế trong
hoạch định các chính sách vẫn thuộc về Chính phủ. Đồng thời, do không có một
quy định cụ thể và rõ ràng về việc Tổng thống hay Thủ tướng là người thực tế có
quyền cao hơn trong quá trình hoạch định các chính sách, các nhóm VĐCS ở
Pháp thường phải lên kế hoạch vận động cả Tổng thống và Thủ tướng, điều này
làm phân tán nguồn lực của các nhóm vận động. Ngoài ra, việc các nhóm lợi ích
lấy được các thông tin hữu dụng từ Chính phủ để lên kế hoạch cho việc vận động
là thực sự khó khăn nên các nhóm lợi ích thường tiếp cận các nghị sĩ với hi vọng
có thêm cơ hội cho mình. Theo quy định trong Luật về Tự do Thông tin, thành
79
viên của quốc hội có thể cố gắng để có được thông tin về những gì họ quan tâm
bằng các câu hỏi chính thức, bằng văn bản hoặc bằng miệng. Các câu trả lời được
công bố trên tạp chí Officiel. Các nhóm lợi dụng quyền này của các nghị sĩ bằng
cách kêu gọi các nghị sĩ đặt câu hỏi cho họ. Họ thậm chí có thể yêu cầu một số
nghị sĩ trình bày cùng một câu hỏi, một vấn đề cho chính phủ, nhằm gây áp lực
và tăng sự chú ý của các Bộ trưởng đến vấn đề đó[81].
Các thành viên của quốc hội cũng có thể thu được thông tin từ các bộ
trưởng chính phủ thông qua các ủy ban lập pháp của họ, thông qua việc sử dụng
các báo cáo viên của quốc hội, những người được giao nhiệm vụ tiếp nhận thông
tin từ chính phủ và biên tập nó thành mẫu báo cáo phục vụ hoạt động của quốc
hội. Đối với các ủy ban quốc hội, các thành viên ủy ban có quyền yêu cầu Chính
phủ phải cung cấp các thông tin một cách trực tiếp; còn đối với các báo cáo viên,
những người đóng vai trò liên lạc giữa bộ trưởng và quốc hội đối với các đề xuất
chính sách cụ thể, thì cơ hội tiếp cận thông tin chắc chắn và đầy đủ hơn thông
qua các cuộc thảo luận cả chính thức và không chính thức với các cơ quan hữu
quan thuộc Bộ. Tuy nhiên, cũng theo luật này, chỉ báo cáo viên làm việc về các
vấn đề ngân sách mới có quyền được thông tin đầy đủ và kịp thời.
Ngoài ra, cũng có một số loại hình tham vấn chính thức diễn ra trong chính
phủ Pháp. Một loại là ủy ban tư vấn bắt buộc đã được thiết lập trong nhiều lĩnh
vực chính sách. Tuy nhiên, hình thức này thường không hiệu quả bởi vì thực tế
không có cơ chế nào đảm bảo việc các ủy ban này sẽ nắm được đầy đủ các thông
tin về dự luật cho đến khi nó đã được hoàn thành một cách cơ bản ở mỗi Bộ.
Một loại tham vấn chính thức khác là các ủy ban dự phòng rủi ro chính
sách mà thỉnh thoảng được tạo ra bởi các nhân vật trong chính phủ. Những ủy
ban tham vấn này có xu hướng được thiết lập trước khi chính phủ quyết định về
một vấn đề chính sách cụ thể, và hoạt động một cách hiệu quả để cung cấp các
khuyến nghị về những điều Chính phủ nên làm. Rõ ràng, về hình thức, biết về
các ủy ban tham vấn như trên có thể sẽgiúp các nhóm đưa ra định hướng và chiến
lược hành động phù hợp để tác động vào chương trình nghị sự của chính phủ
80
nhưng trên thực tế, không có cơ chế đảm bảo hiện thực hóa điều này và vì vậy
cũng không có những dẫn chứng về việc Chính phủ Pháp bị chi phối bởi các ủy
ban này. Hệ quả là, các nhóm có thể đầu tư rất nhiều nguồn lực để tham gia vào
các ban tham vấn nhưng cuối cùng, nhận ra rằng các nguồn lực đã bị lãng phí mà
không mang lại hiệu quả gì như mong muốn.
Chính quyền địa phương cũng là đối tượng được các nhóm vận động ở
Pháp. Nhà nước Pháp cũng đã phân cấp việc thực hiện chính sách từ cơ sở với
những quy tắc và quy định cho các chính phủ vùng và địa phương. Chính quyền
của những lãnh thổ này có xu hướng quan tâm nhiều hơn trong việc quản trị có
sự tham gia, với sự tư vấn và hợp tác mạnh mẽ với các nhóm và các bên liên
quan. Điều này tăng thêm cơ hội cho các nhóm lợi ích để vận động chính quyền
địa phương trong quá trình thực hiện các chính sách.
3.2.3. Chủ thể và đối tượng vận động chính sách công ở Mỹ
Mỹ được biết đến là quốc gia mà hoạt động VĐCS diễn ra sôi nổi và
hiệu quả. Do đó, không ngạc nhiên khi Mỹ cũng là nơi tập trung nhu cầu vận
động hàng đầu trên thế giới. Các chủ thể VĐCS công ở Mỹ bao gồm các nhóm
lợi ích, các hiệp hội, các tập đoàn... có lợi ích liên quan và vì vậy mà có nhu cầu
gây ảnh hưởng đến các chính sách cũng như các công ty vận động, các tổ chức
tư vấn chính sách với đội ngũ các chuyên gia đông đảo và chuyên nghiệp nhất
thế giới. Các chuyên gia VĐCS ở Mỹ thường là các luật sư, các cựu nghị sĩ, các
cựu quan chức chính phủ, các cựu trợ lý, thư ký, nhân viên văn phòng Quốc
hội…Chủ thể VĐCS ở Mỹ còn bao gồm các tổ chức phi chính phủ, các trường
đại học, các tổ chức tôn giáo, các chủ thể nước ngoài có quan hệ với Mỹ, thậm
chí là cả các cá nhân đơn lẻ… Sự đông đảo và đa dạng của các chủ thể VĐCS
như vậy đã khiến cho Mỹ trở thành quốc gia mà “mọi người” VĐCS. Trong số
các chủ thể kể trên, các nhóm lợi ích, các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức
nước ngoài là các chủ thể cơ bản nhất của quá trình VĐCS ở Mỹ.
Nhóm lợi ích (Interest group) là tổ chức của những người có cùng quan
tâm, có cùng quan điểm riêng với các vấn đề xã hội khác nhau, có cố gắng tác
81
động tới việc xây dựng chính sách của chính phủ và đặc biệt là muốn chuyển
những nhu cầu của họ thành các chính sách để phục vụ lợi ích của nhóm dân cư
có cùng quan tâm với họ mà họ là những người đại diện. Nói chung ở Mỹ, số
người tham gia vào các nhóm lợi ích lớn hơn nhiều số người tham gia vào các tổ
chức đảng chính trị. Các số liệu thống kê cho biết rằng, nếu chỉ 25% số người lớn
tuổi đã làm việc cho một đảng chính trị hay cho một ứng cử viên của các câu lạc
bộ chính trị hay các tổ chức chính trị, thì có tới gần 60% những người dân Mỹ là
thành viên của các nhóm lợi ích chính trị [19; tr. 261]. Các loại hình nhóm lợi ích
hết sức đa dạng, bao gồm: nhóm thực hiện lợi ích các giai tầng; các nhóm theo
nghề nghiệp; các nhóm theo từng vấn đề; các nhóm lợi ích lãnh thổ; các nhóm
quan tâm cải cách…Sự đa dạng của các tổ chức này thể hiện tính đa dạng vốn có
của các nhu cầu, lợi ích trong xã hội.
Các loại hình hoạt động của các nhóm lợi ích cũng rất đa dạng và phức tạp
tuỳ theo mục tiêu và tiềm năng huy động nguồn lực của các nhóm lợi ích. Các hoạt
động của các nhóm lợi ích có thể chia ra làm 3 loại: quan hệ với công chúng, tham
gia vào bầu cử và VĐCS. Trong đó, VĐCS là hoạt động cơ bản, chi phối sự tồn tại
và phát triển của các nhóm lợi ích. Các nhóm lợi ích thuê những người VĐCS để
trực tiếp đưa những mục tiêu chính trị riêng của mình tới những chủ thể quyền lực
công. Nhờ hoạt động này của các nhóm lợi ích mà thông tin về các vấn đề của đời
sống xã hội dễ dàng đến với các nhà hoạch định chính sách. Richard Sachs, nhà
khoa học chính trị tại cơ quan nghiên cứu của Quốc hội Mỹ nói “các nhóm lợi ích
rất quan trọng vì nhiều lẽ, đặc biệt là sự đóng góp của họ cho các quyết định chính
sách - đưa những thông tin phục vụ việc hoạch định chính sách, đồng thời chuyển
những thông tin ngược lại từ các nhà hoạch định chính sách cho các nhóm lợi ích”
[18; tr. 284].
Tuy nhiên, các hoạt động VĐCS của các nhóm lợi ích trong nhiều trường
hợp cụ thể đã làm lũng đoạn chính trường Mỹ. Các nhóm lợi ích và những người
VĐCSchi phối việc biên soạn các dự luật, và trong quá trình này, đôi khi họ cũng
khiến cho quá trình thảo luận các dự thảo luật trong Quốc hội trở nên hình
thức.Hiện nay, các nhóm có hoạt động VĐCS mạnh và có ảnh hưởng lớn trong
82
cán cân quyền lực ở Mỹ là: Liên đoàn các trang trại; Tổ chức công đoàn AFL -
CIO; Hiệp hội các nhà chế tạo quốc gia; Liên đoàn người tiêu dùng Mỹ; Liên
đoàn toàn quốc của những người đóng thuế… Thông qua hoạt động VĐCS, ảnh
hưởng của các nhóm lợi ích ngày càng gia tăng, và không quá nếu gọi các nhóm
lợi ích là “Nghị viện thứ 3” của nước Mỹ, là hình thức bổ sung cho quyền đại
diện của người dân thông qua các nghị sĩ trong Quốc hội.
Các doanh nghiệp cũng là một bộ phận cấu thành nên các nhóm lợi ích,
song đây là bộ phận quan trọng có sức mạnh bậc nhất trong các loại hình nhóm
lợi ích, đặc biệt là Hội các giới chủ. Hiện tại ở Mỹ có khoảng 25 triệu chủ thể
kinh doanh, 7500 hiệp hội, 17000 nhà VĐCS trong đó có tới 72% phục vụ cho
các hiệp hội kinh doanh… [9; tr. 38]. Điều đó cho thấy, các doanh nghiệp chính
là những chủ thể cơ bản không những chỉ chi phối hoạt động VĐCS mà còn chi
phối cả nền chính trị Mỹ. Như Tổng thống thứ 28 của Hoa Kỳ, Woodrow
Willson đã từng nói: “Giả sử bạn đến Washington để tìm cách phê phán Chính
phủ, bao giờ bạn cũng thấy người ta lắng nghe bạn một cách rất lễ phép, trong
khi đó những người bạn thật sự cần hỏi lại là những người khác, vì họ đã góp
nhiều tiền hơn cả. Họ là những chủ ngân hàng, chủ nhà máy, những người cầm
đầu ngành thương mại… Chính phủ Mỹ hiện nay chỉ là những đứa con nuôi của
những tập đoàn đặc lợi ấy mà thôi” [19; tr. 49].
Các doanh nghiệp là những lực lượng có tiền và quyền lợi của họ dính líu
mật thiết với các hợp đồng từ nhà nước hay việc tăng giảm thuế của chính quyền.
Chênh lệch giữa phần vốn bỏ ra với phần lợi nhuận thu về là rất lớn - siêu lợi
nhuận. Vì vậy họ sẵn sàng bỏ ra một lượng tiền lớn để thuê một lực lượng hùng
hậu các nhà VĐCS để tác động đến chính sách của nhà nước về vấn đề liên quan
tới hoạt động của họ. Có một thực tế là, mỗi doanh nghiệp thường có xu hướng
thân với một đảng nhất định trong Quốc hội và thường là đảng cầm quyền. Ví
như, các doanh nghiệp chuyên kinh doanh về thiết bị quân sự, dầu lửa… thường
thân với Đảng Cộng hoà; các doanh nghiệp ở lĩnh vực y tế, bảo hiểm… thường
thân với Đảng Dân chủ. Có vô số loại hình vận động của doanh nghiệp như vận
động về dầu lửa - thứ công cụ mà thời Tổng thống Eisenhower gọi đó là “tổ hợp
83
công nghiệp quân sự”, vận động về thuốc lá, vận động về ôtô, vận động về y tế,
vận động về bảo hiểm, ngân hàng… nhưng hơn cả là vận động về dầu lửa và vận
động về trang thiết bị quân sự. Có bao nhiêu loại hình kinh doanh thì có bấy
nhiêu loại hình vận động, trong đó phần lớn doanh nghiệp dùng tiền để mua
chính sách khiến cho một số nhà nghiên cứu gọi đó là “nền chính trị kim tiền”.
Các chủ thể nước ngoài: Đạo luật VĐCS năm 1995 đã sửa đổi một số
điều khoản trong Đạo luật đăng ký các cơ quan đại diện nước ngoài năm 1938,
trong đó yêu cầu tất cả những người VĐCS cho các chính phủ nước ngoài, các
đảng chính trị đều phải đăng ký với Bộ Tư pháp. Đạo luật năm 1995 cũng mở
rộng về quy định cho các nhà VĐCS cho nước ngoài bao gồm cả các cá nhân
vận động cho các công ty kinh doanh thương mại nước ngoài. Yêu cầu những
người này phải đăng ký với thư ký của Hạ viện và Thượng viện. Hiện có
khoảng 2000 nhà VĐCS đã đăng ký với Bộ Tư pháp với tư cách là các “cơ
quan đại diện” cho các chính phủ nước ngoài hay các đảng phái nước ngoài, có
hơn ½ trong tổng số hơn 170 nước trên thế giới tổ chức VĐCS ở Mỹ với các
mức độ khác nhau. Ngay cả những nước có quan hệ thân thiện với Mỹ và có
văn hoá gần gũi với Mỹ như Anh, Đức, Pháp, Úc… cũng phải tiến hành các
hoạt động VĐCS chính giới Mỹ. Ở khu vực Châu Á, đi đầu trong nỗ lực VĐCS
ở Mỹ là Itx - ra - en rồi Nhật Bản, sau đó là Ấn Độ, Pakixtan, Trung Quốc, Ả
rập Saudi… Còn ở khu vực Đông Nam Á, tính đến năm 2004, chỉ có Việt Nam
và Lào là không có chi phí cho hoạt động VĐCS, còn các quốc gia và vùng
lãnh thổ như Campuchia, Hồng Kông, Inđônêxia, Malayxia, Mianma, Singapo,
Thái Lan, Philippin đều có các khoản chi phí từ vài chục nghìn đến hàng triệu
đô la cho các hoạt động VĐCS ở Mỹ [109].
Về đối tượng được vận động, do tính chất thể chế chính trị ở Mỹ, các đối
tượng được VĐCS ở Mỹ rất phong phú và đa dạng. Đó có thể là các quan chức
Chính phủ, bao gồm cả Tổng thống, cũng có thể là các nghị sĩ của Quốc hội bao
gồm cả các thượng nghị sĩ và các hạ nghị sĩ, các thẩm phán, các công chức có
thẩm quyền... đương nhiệm.Họ chính là những người được nhân dân uỷ quyền,
thay mặt cho quyền lực nhà nước để thảo luận và thông qua các chính sách công.
84
Tùy từng vấn đề chính sách mà các chủ thể vận động lựa chọn và tiếp cận với các
đối tượng vận động khác nhau, cũng có nhiều trường hợp, để vận động cho một
phi vụ, các công ty và chuyên gia VĐCS tiếp cận và vận động nhiều quan chức
cùng lúc.
Hạ viện Liên bang Mỹ có 435 đại biểu chính thức, 3 đại biểu dự khuyết,
Thượng viện gồm 100 thành viên, đó là chưa kể tới các nghị sĩ của Quốc hội các
bang. Chính phủ Mỹ là một trong những cơ quan công quyền có số lượng quan
chức, nhân viên đông nhất thế giới với 2000 ban, văn phòng, cơ quan và uỷ ban,
khoảng 2, 7 triệu nhân viên dân sự, chiếm 63% lực lượng lao động trong cơ quan
dân sự và sử dụng khoảng 78% của hơn 2, 2 nghìn tỷ đôla chính phủ liên bang
chi tiêu mỗi năm [28; tr. 330]. Tuy nhiên, những thành phần kể trên chỉ trở thành
đối tượng của hoạt động VĐCS khi họ là những người được nhà nước giao cho
một thẩm quyền nhất định để có thể sáng kiến luật, thảo luận và thông qua luật,
thực thi luật pháp, tác động lên quá trình xây dựng chính sách pháp luật, thậm chí
có thể cung cấp thông tin. Ở Mỹ có một điều đặc biệt là ngay cả những công
chức viên nhà nước bình thường, các trợ lý, thư ký cũng có thể trở thành đối
tượng của hoạt động này, bởi họ có thể cung cấp thông tin cho các nhà VĐCS, cố
vấn cho các nghị sĩ, quan chức chính phủ về các dự luật mà họ không có thời
gian, chuyên môn và lợi ích để giải quyết và các đại biểu Quốc hội đều có thư ký
riêng, có trợ lý. Chính những người này quyết định mỗi ngày những ai đến gặp
hay gửi thư cho đại biểu quốc hội, và đưa họ vào danh sách cho nhà vận động.
Từ việc nghiên cứu về chủ thể và đối tượng VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ
có thể nhận thấy một số điểm đáng lưu ý sau đây:
Do tính chất của thể chế chính trị, đặc biệt là cơ chế kiểm soát quyền lực
giữa Quốc hội và Tổng thống, Tổng thống Mỹ dù là người có quyền lực rất lớn
và đương nhiên trở thành đối tượng mà các chủ thể VĐCS, các nhóm lợi ích săn
đón tiếp cận nhưng bản thân Tổng thống cũng là người luôn cần vận động cho
những ý tưởng chính sách của mình. Trong khi đó, cũng do tính chất của thể chế,
đặc biệt là sự bất đối xứng quyền lực giữa thượng viện và hạ viện, các thượng
85
nghị sĩ Anh hiện nay không chỉ là đối tượng được các nhóm lợi ích vận động mà
phổ biến hơnlà trong vai trò là các chủ thể được chính các nhóm lợi ích thuê để
tiến hành vận động cho những lợi ích cụ thể của họ. Do đó, sự chuyển hóa vai trò
giữa chủ thể và đối tượng vận động là một hiện tượng khá phổ biến. Cũng do đặc
thù của thể chế chính trị, trong khi ở Mỹ, các chủ thể VĐCS thường rất chủ động
và luôn có đủ thông tin để can thiệp kịp thời và hiệu quả vào quá trình chính sách
nhằmgây ảnh hưởng đến các nhà hoạch định, các quan chức chính phủ, những
người có quyền và có khả năng giúp họ đạt được mục đích thì ở Pháp, do cơ chế
minh bạch về thông tin còn hạn chế, tính bắt buộc của Luật về VĐCS không cao
như ở Mỹ nên các nhóm lợi ích của Pháp rất thiếu khả năng và cơ hội tiếp cận các
chủ thể quyền lực công để vận động hiệu quả. Thêm vào đó, vì quy trình chính
sách không thực sự rõ ràng và ổn định, các chủ thể VĐCS ở Pháp có xu hướng can
thiệp vào quá trình thực hiện chính sách hơn là hoạch định chính sách; đồng thời
vận động chính quyền địa phương trong thực hiện chính sách cũng là một hướng
ưu tiên của các chủ thể VĐCS ở Pháp. Ở Anh, do duy trì mô hình tự điều chỉnh với
những quy định về sự tự nguyện đăng ký của các chuyên gia VĐCS dẫn đến sự bất
công bằng trong hoạt động VĐCS đồng thời cũng rất khó để thống kê một cách
đầy đủ các chủ thể, đối tượng VĐCS chủ yếu cũng như quan hệ giữa họ, khó để
nhận biết xem những ảnh hưởng mà các chủ thể tác động đến đối tượng và làm
thay đổi chính sách thực sự đã diễn ra như thế nào.
Không riêng ở Anh mà ở các nước châu Âu trong đó có Pháp và đương
nhiên cũng là xu hướng phổ biến ở Mỹ hiện nay là việc hình thành quan hệ giữa
chủ thể vận động là các nhóm lợi ích và chủ thể tiến hành vận động là những
chuyên gia VĐCS, những người được thuê để vận động vì lợi ích của thân chủ.
Theo đó, mô hình thuê các chuyên gia vận động cho những vụ việc vận động
dưới dạng các hợp đồng vận động là phổ biến hiện nay nhằm giảm chi phí duy trì
cho hoạt động xây dựng và phát triển quan hệ công chúng của các nhóm lợi ích.
Xu hướng này đặc biệt phù hợp với chủ thể mà nguồn lực còn hạn chế. Trong khi
đó, với các tập đoàn, các nhóm lợi ích lớn, các chủ thể có tiềm lực mạnh thì họ
thường ưu tiên xây dựng đội ngũ các chuyên gia VĐCS của riêng mình để vừa
86
đảm bảo chắc chắn và thường xuyên khả năng đạt được lợi ích, đồng thời đảm bảo
được tính bảo mật về thông tin trong những trường hợp cần thiết.Ngoài ra, một xu
hướng khác nữa trong quan hệ giữa các chủ thể VĐCS ở Anh, Pháp, Mỹ hiện nay
là xu hướng liên minh hay hợp tác giữa các nhóm lợi ích để vừa giảm chi phí, vừa
tăng hiệu quả vận động.
Mặc dù ở cả ba quốc gia, các chủ thể VĐCS đều rất đông đảo về số lượng
và đa dạng về thành phần nhưng vẫn phải khẳng định Mỹ vẫn là nơi tập trung
nhiều chủ thể VĐCS nhất và cũng nhất cả về tính chuyên nghiệp và hiệu quả vận
động. Một thực tế khác là vì cả ba quốc gia đều là những nước lớn, các quyết
định chính sách của chính phủ các nước này không chỉ có những ảnh hưởng nội
địa mà còn được rất nhiều chủ thể nước ngoài quan tâm bao gồm cả các chính
phủ của các nước khác. Trong đó, phải khẳng định, Oasinhtơn là nơi hoạt động
VĐCS diễn ra sôi nổi và nhộn nhịp nhất, các chủ thể nước ngoài cũng phổ biến
hơn.
3.3. QUY MÔ, TÀI CHÍNH CHO VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG
3.3.1. Quy mô, tài chính cho vận động chính sách công ở Anh
Sự ra đời của hoạt động VĐCS theo đúng nghĩa của nó đã kéo theo sự ra
đời của hàng loạt các nhóm lợi ích, những chủ thể đầu tiên của VĐCS tại Anh,
sau đó là sự vào cuộc của các doanh nghiệp và hiệp hội kinh tế Anh đã làm cho
hoạt động VĐCS của Anh phát triển nhất trong số các nước Tây Âu trước khi các
nước này gia nhập vào Liên minh châu Âu (EU). Vì còn thiếu những quy định
chính thức từ Chính phủ Anh, xã hội Anh đã phải chịu một cú sốc lớn vào năm
1994 khi các hoạt động VĐCS công phi pháp bị phanh phui. Điều này xảy ra
đúng thời điểm được coi là đỉnh cao phát triển của hoạt động VĐCS ở Anh, song
nó không vì thế mà khiến cho hoạt động VĐCS công tại Anh bị tan rã hay bị loại
bỏ khỏi đời sống chính trị. Thực tế không chỉ riêng nước Anh đã chứng minh, sau
mỗi vụ bê bối, hoạt động VĐCS lại có cơ hội để được điều chỉnh và quy định lại
hướng tới sự chặt chẽ, trong sạch và hiệu quả hơn. Do đó, có thể khái quát xu
87
hướng vận động của hoạt động này ở Anh cũng như các nước phát triển qua các
giai đoạn: hình thành - phát triển - bê bối - phát triển [46, 139].
Các ngành công nghiệp VĐCS chuyên nghiệp ở Anh đã phát triển nhanh
chóng kể từ giữa những năm 1990. Đến năm 2007 ước tính ngành công nghiệp
này trị giá 1, 9 tỷ bảng Anh, với đội ngũ chuyên gia lên đến 14.000 người. Không
giống như ở Mỹ, vì Chính phủ Anh không yêu cầu phải công khai chi tiêu cho
VĐCS cũng như nội dung của việc vận động nên cho đến nay, thiếu những thống
kê một cách chi tiết về tài chính được chi cho các vụ VĐCS công ở Anh cũng
như khó xác định chi tiết các lĩnh vực chính sách được vận động. Tuy nhiên, một
vài số liệu có liên quan sau đây có thể phần nào phản ánh mức độ chi tiêu tài
chính cho VĐCS công ở Anh. Liên quan đến vụ bê bối VĐCS có liên quan đến
các nghị sĩ và quan chức chính phủ Anh được Sunday Times công bố đầu năm
2009 cho thấy, Thượng nghị sĩ Lord Taylor, 79 tuổi (cựu tư vấn viên Tập đoàn
vũ khí Anh BAE Systems) đã đề nghị khoản tiền 120.000 bảng Anh/năm. Còn
Thượng nghị sĩ Lord Peter Snape thì đồng ý “sự giúp đỡ” với 24.000 bảng/năm.
Hai cựu thành viên chính phủ khác là Peter Truscott, cựu Bộ trưởng Năng lượng,
yêu cầu 72.000 bảng/năm và Lord Lewis Moonie, cựu Bộ trưởng Quốc phòng đòi
30.000 bảng/năm [5]. Thêm vào đó, việc các Thượng nghị sĩ Anh không được
hưởng lương nhưng họ đã có đời sống cao nhờ công việc VĐCS cho các công ty
cũng đã góp phần cho thấy mức độ chi tiêu tài chính cho hoạt động VĐCS ở quốc
gia này.
Xuất phát từ sự phát triển kinh tế - xã hội, các hoạt động VĐCS ở Anh
cũng trải dài trên nhiều lĩnh vực. Rất nhiều tổ chức ở Anh có nhu cầu thuê các
công ty tư vấn quan hệ xã hội, các công ty và các chuyên gia nhà VĐCS để đạt
được mục đích và lợi ích của họ. Không chỉ những doanh nghiệp lớn thuê VĐCS
- mà cả những công ty nhỏ hơn, tổ chức từ thiện, các hiệp hội thương mại, công
đoàn, cơ quan chuyên môn, và các cơ quan chính phủ. Mục đích chủ yếu của hoạt
động này là nhằm thay đổi pháp luật, nâng cao địa vị chính trị của một tổ chức,
giúp định hình nghị trình chính sách công, hoặc xây dựng mối quan hệ với đối
tác mà họ sẽ cần trong tương lai. Các ngành công nghiệp và lĩnh vực sau đây
88
được coi là có khả năng vận động thành công và gây ảnh hưởng mạnh mẽ ở Anh:
Dịch vụ tài chính, đầu tư ngân hàng, hàng không vũ trụ, sản xuất vũ khí, viễn
thông, dầu khí, công nghiệp quân sự, phần mềm máy tính, truyền thông đại
chúng. Trong đó, các công ty nước giải khát được coi là đã vận động rất thường
xuyên và hiệu quả, họ tham gia 130 cuộc họp với chính phủ trong khoảng thời
gian 2010-2013 và đã đạt được kết quả là một kế hoạch áp dụng mức giá tối thiểu
cho đồ uống có cồn.
3.3.2. Quy mô, tài chính cho vận động chính sách công ở Pháp
Mặc dù không phải là quốc gia mà VĐCS diễn ra sôi nổi, hiệu quả như ở
Mỹ, Canada hay một số nước châu Âu khác như Anh, Đức; thậm chí cũng là
quốc gia mà nền chính trị có vẻ tương đối khép kín và thiếu các quy định chính
thức thừa nhậnVĐCS, song, tất cả những điều đó không ngăn được một thực tế là
ở Pháp hiện nay, các hoạt động VĐCS vẫn diễn ra và biểu hiện ngày càng phong
phú chứng minh cho nhu cầu khách quan của nó trong đời sống chính trị quốc gia
này.
Sự phát triển về quy mô của hoạt động VĐCS ở Pháp biểu hiện trước hết ở
sự tồn tại và tăng lên đáng kể các tổ chức mang tính chất đại diện cho các nhóm,
các tổ chức VĐCS chuyên nghiệp. Tiêu biểu trong số đó có thể kể đến các tổ
chức, Hiệp hội như: Hiệp hội VĐCS Nội các Pháp, Mạng lưới các hoạt động kinh
doanh và chiến lược châu Âu, Hiệp hội quan hệ chuyên nghiệp với các nhà chức
trách (ARPP), và Hiệp hội VĐCS luật sư (AAL). Tính đến năm 2011, riêng
ARPP đã có 58 doanh nghiệp và 56 tổ chức chuyên nghiệp, còn ALL có 21 công
ty luật và luật sư. Ngoài ra cũng phải kể đến một số tổ chức khác như: Phòng
Công chứng, Thường trực Hội đồng các Phòng Nông nghiệp, Hiệp hội điện lực
Pháp, Hiệp hội khí đốt Pháp, v.v..
Theo thống kê từ Sổ đăng ký mới của Quốc hội được đưa lên mạng vào
ngày 01-01-2014 và được xác thực ngày ngày 01-9-2014, cho đến nay, ở Pháp đã
có 162 tổ chức bao gồm 40 doanh nghiệp, 37 hiệp hội doanh nghiệp, 27 công ty
tư vấn, 28 tổ chức đại diện, 17 tổ chức xã hội dân sự, 7 cơ quan công cộng hoặc
89
bán công cộng, 5 doanh nghiệp nhà nước và 1 tổ chức tư vấn đăng ký hoạt động
với Quốc hội. Cũng theo kết quả một nghiên cứu khác được công bố bởi Quốc
hội giữa năm 2007 và 2010, ở Pháp có 4.635 tổ chức, đại diện bởi 15.447 người
tham gia vào hoạt động vận động chính sách.
Sự tăng lên mạnh mẽ của các tổ chức, nhóm chuyên hoạt động đã phản ánh
một thực tế sinh động về sự gia tăng ảnh hưởng của VĐCS công ở Pháp.Điểm
thêm vào bức tranh ấy chính là sự gia tăng về chi phí, tài chính cho VĐCS công ở
quốc gia này.
Theo François Logerot, một công chức Pháp và cựu Chủ tịch Tòa án Kiểm
toán Pháp thì: Không giống như ở Mỹ, vấn đề lớn nhất với VĐCS ở Pháp là tham
nhũng. Ông chỉ ra rằng các vấn đề của VĐCS và tài chính cho các chiến dịch
tranh cử không tồn tại ở Pháp vì các quy định nghiêm ngặt về chi tiêu của chiến
dịch vận động tranh cử. Thay vào đó, hoạt động VĐCS của các Công ty dược
phẩm đặc biệt đang diễn ra rất mạnh mẽ tại Pháp và làm xuất hiện môi trường
cho sự tha hóa và tham nhũng.
Theo báo cáo ngân sách của Quốc hội Pháp, tổng ngân sách kê khai của
các tổ chức VĐCS ở Pháp tăng từ 14 đến 18, 2 triệu frăng với tổng số 733 người
có thể đại diện quyền lợi hoặc tham gia vào các hoạt động thuộc phạm vi quản lý
trong sổ đăng ký [92].
Theo một nghiên cứu mới được tiến hành ở Pháp, gần một nửa (48, 3%)
trong số 9.302 buổi điều trần liên quan xác định các đại diện của công chúng
hoặc các tổ chức bán công. Trong số đó gần một nửa (44, 8%) thuộc các cơ
quan dịch vụ dân sự khác nhau tham khảo ý kiến các chuyên gia về quản
trị. Như vậy, công chức đại diện cho 21, 6% các buổi điều trần. Theo sau là các
tổ chức đại diện, và cuối cùng là khu vực kinh tế tư nhân bao gồm các doanh
nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp (20, 9%). Bên cạnh đó là các doanh nghiệp công
cộng (2, 9%). So với tỷ lệ các tổ chức khác của xã hội dân sự (các hiệp hội phi
lợi nhuận và các quỹ khoảng 7, 5%), thì các doanh nghiệp dường như được các
nghị sĩ chú ý đến nhiều hơn [110].
90
Các tổ chức đại diện chủ yếu cho các vấn đề sau: giáo dục (53, 2%), dịch
vụ dân sự (45, 6%, tương đương với các cơ quan công cộng), thể thao (45, 5%)
và nữ (39, 4%). So với mức trung bình toàn cầu khu vực tư nhân chiếm tỷ lệ hiện
cao hơn trong các vấn đề liên quan đến Internet (44, 6%), kinh tế (37, 8%), năng
lượng (34, 3%), môi trường (29, 7%), phương tiện truyền thông (29, 2%), văn
hóa (28%) và giao thông (25, 5%). Đối với hai vấn đề đầu tiên, khu vực tư nhân
quan tâm đến trước. Các tổ chức xã hội dân sự xuất hiện nhiều hơn trong các vấn
đề đối phó với các cựu chiến binh (31, 6%), hỗ trợ phát triển (27, 6%), xã hội
(18, 5%) và nữ (15, 2%). 9, 3% là dành cho việc điều trần có liên quan đến các
vấn đề đối phó với môi trường. Các quan chức hành pháp và nghị sĩ thường ít
nghe nói về các vấn đề đối phó với nông nghiệp (5, 8%), kinh tế (5, 1%), quốc
phòng (2%), vận tải (2, 8%), lao động và việc làm (2, 8%), nghiên cứu (2, 1%)
[110].
Về cơ bản, các lĩnh vực VĐCS ở Pháp chủ yếu là nông nghiệp, lâm
nghiệp, xã hội, môi trường, và một số là vận động của Chính phủ Pháp đối với
Nghị viện Châu Âu để kiên trì bảo vệ quan điểm và mục tiêu quốc gia mà Pháp
theo đuổi. Thời gian gần đây, các vụ vận động liên quan đến các hiệp hội, các
doanh nghiệp ngày càng nhiều hơn, phản án thực tế là môi trường VĐCS ở Pháp
tuy chưa chính thức mở nhưng nhu cầu của các hoạt động VĐCS ở quốc gia này
là khá rõ rệt.
Ngoài ra, cũng cần chỉ ra một thực tế khác là, ở Pháp, mặc dù không thừa
nhận, thậm chí cấm các hoạt động VĐCS phát triển trong nước nhưng trước việc
một châu Âu thống nhất với rất nhiều các lợi ích đan xen và sau những thua thiệt
về lợi ích, người Pháp cũng đã phải tính đến các hoạt động VĐCS tại EU với một
số lượng khá lớn các chủ thể tham gia, đặc biệt là chính phủ Pháp. Trong đó,
trước hết phải kể đến việc Pháp vận động cho việc bãi bỏ các lệnh cấm vận Nga
sớm ngay khi thoả thuận Minsk về việc hoà giải ở Ukraine được thực thi. Tiếp đó
là việc Pháp tích cực vận động để tổ chức một hội nghị hòa bình quốc tế nhằm
vạch ra kế hoạch đưa Israel và Palestine trở lại bàn đàm phán, thúc đẩy chấm dứt
cuộc xung đột kéo dài hàng thập kỷ giữa hai nhà nước này.
91
3.3.3. Quy mô, tài chính cho vận động chính sách công ở Mỹ
Có thể thấy, từ những gốc rễ ban đầu, VĐCS ở Mỹ đã phát triển rất nhiều
về quy mô và sự tinh tế. VĐCS có thể được coi như một ngành công nghiệp tỉ đô
trên toàn cầu với một đội ngũ đáng kể các cá nhân hoạt động trong đó.
Ở cập độ bang, kết quả của một báo cáo công bố năm 1957 cho thấy số
lượng các chuyên gia VĐCS đã đăng ký ở Thượng viện ở các bang Nam Carolina
là 23, Rhode Island là 71, Vermont - 90, Kansas 370, California - 420, Florida là
587 và cao nhất là Nebraska với 779. Về chi tiêu cho VĐCS, báo cáo cũng đưa ra
kết quả thống kê về mức chi cho VĐCS của 283 chuyên gia VĐCS ở Ohio là
70.000 đô, 176 chuyên gia ở Nam Dakota chi 80.000 đô, 302 nhà vận động ở
Massachusetts chi 242.000 đô và 384 nhà vận động ở Wisconsin chi đến 320.000
đô [54, tr.97].Thu nhập của các chuyên gia VĐCS ở các bang cũng rất cao. Theo
một nghiên cứu điều tra về thu nhập của 10 chuyên gia VĐCS hàng đầu ở bang
Maryland, có đến 8/10 chuyên gia này có mức thu nhập trên 1 triệu đô 1 năm, 2
người còn lại ở mức gần 900.000 đô 1 năm [76].
Ở cấp độ liên bang, sự náo nhiệt của VĐCS thông qua hoạt động của đội
ngũ đông đảo các công ty cũng như các chuyên gia VĐCS và những khoản chi
tiêu lên đến hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu đô đã phản ánh bức tranh sinh
động và khắc họa rõ nét quy mô cũng như sự phát triển của VĐCS ở Mỹ.
Về sự lớn mạnh của đội ngũ các chuyên gia VĐCS, đếnnăm 2013, số
lượng chuyên gia VĐCS đã đăng ký ở cấp liên bang là 11.400, giảm nhẹ so với
con số kỷ lục là 14.800 đã được ghi nhận trong năm 2007; 34.785 là số văn
phòng VĐCS được ghi nhận tại Washington vào năm 2005, tăng hơn gấp đôi
trong vòng năm năm[112].
Về mức tổng chi phí cho VĐCS, theo kết quả thống kê trong báo cáo tài
chính cho VĐCS năm 1957, tổng chi phí cho VĐCS trong suốt 11 từ năm 1947
đến năm 1957 lên đến 64.479.749 đô và tổng chi phí trong từng năm trung bình ở
mức trên 4 triệu đô, riêng năm 1950 chi phí VĐCS tăng đột biến lên đến trên 10
triệu đô và 2 năm cuối cùng được khảo sát trong nghiên cứu là 1956 và 1957,
92
tổng mức chi có xu hướng giảm xuống và thấp nhất trong 11 năm lần lượt là
3.957.120 và 3.601.459 đô [54, tr.8]. Theo Washington Post, ngành công nghiệp
VĐCS ở Mỹ đã tăng đột biến kể từ những năm 1970, đặc biệt là ở Oasinh tơn.
Trong năm 2010, chi tiêu cho VĐCS ở cấp liên bang tại Mỹ đạt con số kỷ lục 3,
5 tỷ đô. Ước tính tổng chi tiêu cho VĐCS toàn liên bang năm 2011 lên tới trên 30
tỉ đô la. [93, p. 112]. Theo thống kê mới nhất cập nhật năm 2016, chi tiêu cho
VĐCS của các công ty VĐCS ở Mỹ hiện nay là từ hàng nghìn đến trăm nghìn đô
mỗi năm, riêng các công ty lớn, mức chi lên đến hàng trăm nghìn, cá biệt công ty
AT&T chi đến 12.660.000 đô [122]. Một thống kê về chi tiêu cho VĐCS hàng
năm của Mỹ tính từ năm 2008 đến nay cho thấy, mức chi tiêu bình quân cho hoạt
động này ở Mỹ cao ổn định và thường xuyên ở mức trên 1, 6 tỉ đô la, cá biệt
trong năm 2010 con số này lên tới trên 1, 8 tỉ đô, thậm chí theo số liệu mới nhất,
tổng số chi phí VĐCS của Mỹ hàng năm đã vào khoảng trên 2 tỷ đô la [122].
Điều đáng nói cũng theo số liệu thống kê trong Bảng tổng hợp này, mặc dù số
lượng các nhà VĐCS có giảm từ 13.180 người vào năm 2008 xuống còn 10.616
người vào năm 2015 thì chi tiêu cho VĐCS vẫn không giảm [122].
Chi tiêu của từng nhóm lợi ích và các công ty VĐCS ở Mỹ cũng luôn ở
mức cao. Mức chi tiêu cho VĐCS của từng nhóm lợi ích ở Mỹ được đưa ra trong
báo cáo được tiến hành năm 1957: nhóm kinh doanh là 2.031.933 đô, Các tổ
chức công dân là 395.865 đô, Nhóm người lao động là 748.320 đô, nhóm Nông
nghiệp là 435.093 đô, Nhóm ngành nghề là 292.571 đô và nhóm cựu binh là
143.338 đô. Tổng mức chi của các nhóm này trong năm 1956 lên đến 3.957.120
đô. (54, tr.8). Theo thống kê tổng chi tiêu cho VĐCS trên các lĩnh vực từ năm
1998 đến 2010, 3 nhóm ngành chi cao nhất cho VĐCS lần lượt là Tài chính, Bảo
hiềm và Bất động sản, Y tế và các doanh nghiệp kinh doanh đều ở mức trên 4 tỉ
đô, ba ngành cuối danh sách là nhóm ngành xây dựng và lao động chi ở mức trên
400 triệu đô và thấp nhất lại chính là vận động cho chính nhóm luật sư và các
chuyên gia VĐCS với mức chi trên 330 triệu đô [93, tr. 113].
Mức chi tiêu cho VĐCS của Phòng Thương mại Mỹ tăng từ khoảng 20, 6
triệu đôla năm 2001 lên thành 72, 7 triệu đôla vào năm 2006. Chi tiêu cho VĐCS
93
của giới sản xuất, kinh doanh dược phẩm cũng tăng lên 160 triệu đô la chỉ trong 1
năm lên mức 1, 76 tỷ USD vào năm 2002. Hai hãng nước giải khát hàng đầu thế
giới là Coca và Pepsi cũng đã rất mạnh tay nâng mức chi tiêu cho VĐCS trong đó
Coca chi khoảng 9, 4 triệu USD năm 2009 trong khi năm 2008 chỉ là 2, 5 tiệu đô
la; còn Pepsi cũng tăng chi phí vận động từ 1, 2 triệu USD năm 2008 lên đúng
bằng 9, 4 triệu USD năm 2009.Chi phí cho VĐCS cũng được cho là rất cao ở các
công ty và tổ chức hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe (264 triệu USD) cụ
thể, Hiệp hội các nhà sản xuất và nghiên cứu dược phẩm chi cho mục tiêu này 8
triệu USD, Công ty Merck: 4, 7 triệu USD, Eli Lilly & Co: 3, 8 triệu USD,
Glaxo: 2, 5 triệu, Bristol - Meyers: 2, 4 triệu, Pfizer: 1, 7 triệu...Một nhóm lợi ích
lớn nhất nước Mỹ là AARP trong năm 2003, mặc dù thu nhập lên tới 770 triệu
USD nhưng lại chi đến 689 triệu USD vào các chương trình và dịch vụ, bao gồm
cả 58 triệu USD cho “lập pháp, nghiên cứu và triển khai” - hạng mục chi phí dành
cho VĐCS trong ngân sách của hiệp hội.Các trường hợp khác như: Tập đoàn mẹ
General Dynamics và các công ty con đã chi cho việc VĐCS là 5, 7 triệu USD chỉ
riêng trong năm 2004. Năm 2005 lại ghi nhận mức chi cao cho VĐCS của Boeing
với mức 8, 5 triệu USD để giành được những phân bổ ngân sách đặc biệt từ Quốc
hội Mỹ. Tiếp đó là việc hai nhà sản xuất máy bay lớn một của Mỹ, một đến từ
châu Âu là Boeing và Airbus đã chi tổng cộng trên 100 triệu USD cho VĐCS ở
Mỹ, trong đó Boeing chi 52 triệu USD và Airbus chi 47 triệu USD riêng trong năm
2008. Tuy nhiên, VĐCS được tài trợ và tổ chức tốt nhất ở Mỹ là Hiệp hội Súng
trường Quốc gia (NRA). Ngân sách VĐCS hàng năm của nó trên khắp nước Mỹ
được ghi nhận là trong khoảng 100 triệu đô la [122].
Một nguồn lớn tài chính cho VĐCS của Mỹ cũng đến từ các chủ thể khác
bên ngoài nước Mỹ, trong đó phải kể đến Chính phủ nước ngoài. Theo thống kê
được Bộ Tư pháp Mỹ công bố giữa tháng 9-2011, các tổ chức chính phủ từ hơn
130 quốc gia đã chi gần 460 triệu USD năm 2010 để “chạy cửa sau” tại hành lang
Quốc hội cũng như các cơ quan hành pháp Mỹ… Trong số đó phải kể đến Ấn Độ
với mức chi 2, 5 triệu đô la từ 2005 đến 2009; Tình báo Pakistan chi hơn 4 triệu
USD để tạo ảnh hưởng lên chính sách Mỹ đối với vấn đề Kashmir riêng trong
94
năm 2011; cũng trong năm 2011, theo hồ sơ Bộ Tư pháp Mỹ, Tòa đại sứ Trung
Quốc đã chi cho Hãng lobby Patton Boggs 104.090 USD vào ngày 5-5-2011 và
105.000USD vào ngày 13-5-2011. Việt Nam cũng đã phải chi rất nhiều tiền cho
VĐCS để Quốc hội Mỹ thông qua PNTR cho Việt Nam.
Các công ty nước ngoài cũng được coi là đã chi rất mạnh tay cho VĐCS ở
Mỹ trong đó phải kể đến việc BP chi 8, 43 triệu để xử lý sự cố tràn dầu trên vịnh
Mêxico và Gazprombank, một ngân hàng lớn của Nga bị cấm huy động vốn dài
hạn trên thị trường nợ của Mỹ, đã dành 150.000 USD phí VĐCS trong 3 tháng, kết
thúc vào ngày 30-9-2014. Một công ty khác đến từ Nga là Công ty năng lượng
Novatek đã chi ít nhất 280.000 USD cho chiến dịch VĐCS nhằm tránh bị Thượng
viện Mỹ mở rộng lệnh trừng phạt về kinh tế….
Sự phát triển của ngành công nghiệp VĐCS ở Mỹ đã được hỗ trợ bởi thực
tế là việc được bầu cử tại Mỹ là một đầu tư vô cùng tốn kém, đặc biệt là ở Hạ
viện, nơi mà Nghị sỹ phục vụ nhiệm kỳ hai năm. Điều này có nghĩa rằng giây
phút họ được chọn, họ đã phải bắt đầu suy nghĩ về việc tái đắc cử chỉ trong hai
năm. Bởi vậy các ứng cử viên Mỹ được phép phát quảng cáo trên đài phát thanh
và truyền hình, và việc này đòi hỏi chi phí rất tốn kém. “Cơ bản, một ứng cử viên
vào Thượng viện phải huy động vốn và chi tiêu lên tới 10 triệu đô la, và một ứng
cử viên vào Hạ viện là khoảng 2 triệu đô la. Các ứng viên cho vị trí Tổng thống,
tất nhiên, chi phí phải lên đến 300 triệu USD [81]. Với tư cách cá nhân, các đảng
viên có thể đóng góp cũng như những người dân khác - nhưng phải mất rất nhiều
tờ 10 đô la để đạt tới mốc 2 triệu hoặc 10 triệu. Điều này có nghĩa là nguồntài trợ
lớn cần được ưu tiên - và họ thường đi kèm với những điều khoản qua lại. VĐCS
giúp Thượng nghị sĩ, Dân biểu và các ứng cử viên bằng một số cách: Một là, tạo
lập Uỷ ban hành động chính trị - có thể đóng góp 5000 đô la trong mỗi chu kỳ
bầu cử nếu nhiều ứng cử viên hoặc 2300 đô la nếu là một ứng cử viên; Hai là,
đóng góp cho Ủy ban Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa, Ủy ban Quốc gia và
Nhà nước, Hạ viện và Thượng viện, Dân chủ và Đảng Cộng hòa, Ủy ban chiến
dịch; Ba là, tham gia gây quỹ bữa sáng, bữa trưa và bữa tối với mức giá có thể
95
lên tới2000 đô la một người; Bốn là, thiết lập Ủy ban Chi tiêu độc lập (còn được
gọi là Ủy ban "527" dựa vào mã số thuế)” [81].
Một số nhận xét về quy mô và tài chính cho VĐCS ở Anh, Pháp, Mỹ:
Do thiếu các cơ chế báo cáo bắt buộc cả ở cấp độ Liên minh cũng như ở
hầu hết các quốc gia thuộc châu Âu, thật khó để biết được quy mô thực sự của
hoạt động VĐCS cũng như các khoản tiền chi phí cho hoạt động này[93, tr. 18].
Chính vì vậy, thông tin về tài chính cho VĐCS ở Anh và Pháp thiếu hụt rất nhiều
khi đặt trong sự so sánh hoàn toàn tương phản với những số liệu vô cùng phong
phú ở Mỹ. Một nguyên nhân khác dẫn đến điều này bắt nguồn từ tính chất của
thể chế chính trị. Nền chính trị Mỹ có thể nhận định là nền chính trị kim tiền với
mức độ thương mại hóa cao độ, kéo theo đó là nhu cầu cần tiền cho các cuộc vận
động tranh cử là vô cùng lớn. Bối cảnh ấy đặt các nghị sĩ Quốc hội và các quan
chức Chính phủ trước áp lực về việc huy động sự ủng hộ về tài chính để đảm bảo
cho những thành công của mình, chính vì vậy hoạt động VĐCS đôi khi như
những cuộc “mặc cả chính trị” ở Mỹ.
3.4. PHƯƠNG THỨC, PHƯƠNG TIỆN VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG
3.4.1. Phương thức, phương tiện vận động chính sách công ở Anh
Về phương thức và phương tiện vận động chính sách ở Anh, có thể nói,
tuy Nhà nước không có luật quy định về VĐCS nhưng trên thực tế, hoạt động
VĐCS công ở Anh vẫn diễn ra sôi nổi dưới nhiều phương thức và bằng các
phương tiện khác nhau trong đó bao gồm cả vận động cơ sở. Điển hình như trong
cuộc VĐCS của người dân London nói “không” với túi nhựa, Hội đồng thành
phố London kết hợp với các nhóm lợi ích về môi trường đã sử dụng chủ yếu các
hoạt động vận động cơ sở như thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng,
viết thư tay, dẫn chứng về một số tác hại của việc sử dụng túi nhựa và về các
thành phố khác đã nói “không” với túi nhựa như thế nào để thuyết phục Nghị
viện Anh đưa ra quyết định có lợi cho họ.
Báo chí truyền thông được coi là một trong những phương tiện được sử
dụng phổ biến và rất hiệu quả trong VĐCS. Ở Anh, một đạo luật chống chó dữ,
96
chó dại đã có hiệu lực năm 1991, sau một loạt tin tức trên báo về các vụ trẻ em bị
chó tấn công, kèm với đó là các bài xã luận đề nghị cơ quan lập pháp phải có luật
ngăn chặn những tai nạn kiểu này.
Trong thời đại điện tử, email được cho là có trọng lượng tương tự như thư
giấy. Một cuộc thăm dò bởi ComRes đã cho thấy rằng không có sự khác biệt về
mức độ chú ý tới một email so với một bức thư. Điều này làm cho chiến dịch trực
tuyến trở thành một công cụ hữu ích cho VĐCS. Các nguyên tắc đằng sau vận
động trực tuyến rất đơn giản: một cơ sở dữ liệu của mã thư tin được liên kết với
một cơ sở dữ liệu của các chính trị gia để giúp người vận động (và cử tri) liên lạc
trực tiếp với đại diện dân cử của họ. Các công cụ vận động tranh cử trực tuyến
được đưa vào một trang web của khách hàng thông qua một "I-frame", và tất cả
những gì những người vận động sẽ phải làm là nhập mã thư tin của họ một cách
chính xác. Theo quan điểm của một chính trị gia, email dễ dàng trả lời hơn so với
thư giấy. Họ cũng có thể lưu giữ địa chỉ email - với một lưu ý về các vấn đề mà
họ đang quan tâm để sử dụng trong tương lai. Đến thời gian bầu cử, họ có thể gửi
email cho các cử tri chỉ ra rằng họ đã hồi âm thông tin liên lạc trước đó, và đổi lại
yêu cầu hỗ trợ bầu cử. Đây là một hình thức vận động trực tiếp và hiệu quả. Nó có
thể được sử dụng để gây ảnh hưởng đến cách mà các chính trị gia bỏ phiếu cho
một điều luật, hoặc dùng cho các dự án cụ thể như thúc đẩy các chữ ký trên một
kiến nghị chính thức được đệ trình cho cuộc tranh luận ở Hạ Viện(Early Day
Motion (EDM)). Hiện chỉ có hai hệ thống vận động tranh cử trực tuyến có sẵn tại
Vương quốc Anh là Advocacy Online và Political Wizard [81]. Nếu chỉ sử dụng
vận động trực tuyến đơn lẻ thường không đạt được kết quả. Tuy nhiên, nếu biếtkết
hợp với các phương tiện khác, vận động trực tuyến lại rất hiệu quả.
3.4.2. Phương thức, phương tiệnvận động chính sách công ở Pháp
Hoạt động VĐCS ở Pháp tuy chưa phát triển mạnh mẽ như ở một số quốc
gia khác nhưng cũng xuất hiện khá đầy đủ các loại hình, phương thức VĐCS, bao
gồm cả những vận động trực tiếp và vận động gián tiếp, vận động từ trên xuống
và từ dưới lên… Đặc biệt, do đặc thù về tổ chức và hoạt động của các cơ quan
97
nhà nước, nhất là giữa nhánh lập pháp và hành pháp, điều trần được coi một
phương thức quan trọng được sử dụng trong quá trình VĐCS để tạo ra những nỗ
lực nhằm ngăn chặn, thúc đẩy, thay đổi hay điều chỉnh các chính sách.
Phương thức vận động dân chúng và vận động thông qua các chiến dịch
quảng cáo cũng đã được sử dụng hiệu quả ở Pháp bởi Hiệp hội sản xuất bánh mỳ
Pháp. Cụ thể, trước thực tế nhu cầu và thói quen sử dụng bánh mỳ của người
Pháp giảm sút nghiêm trọng bởi nhiều thanh niên Pháp hoặc bỏ bữa sáng hoặc
chuyển sang lựa chọn các thức ăn khác thay thế bánh mỳ, Hiệp hội sản xuất bánh
mỳ Pháp đã tổ chức các chiến dịch vận động dân chúng tập trung vào việc đưa
những thông điệp lên bảng thông báo và ghi vào túi bánh mì với hàm ý khi người
Pháp nhìn thấy từ “coucou”, họ sẽ có phản xạ phải mua bánh mì ngày hôm nay.
Các cuộc biểu tình, diễu hành, tập hợp bên ngoài là những thủ thuật vận
động cơ sở rất có hiệu quả giúp thu hút sự chú ý của công chúng đối với vấn đề
đang được đấu tranh. Phương thức vận động này cũng được sử dụng phổ biến ở
Pháp.Cuộc đình công diễn ra trong hai ngày của các nhân viên kiểm soát không
lưu Pháp dẫn đến một lời kêu gọi để đổi mới do nhóm VĐCS của các hãng hàng
không - Các hãng hàng không vì châu Âu (A4E) đưa ra cho kế hoạch hành động
để giảm thiểu thiệt hại trong trường hợp tranh chấp kéo dài hơn. A4E bao gồm
các hãng hàng không EasyJet, Ryanair, Air France-KLM, Tập đoàn Lufthansa,
Finnair, International Airlines Group, Norwegian và Finnair. Trong 2 ngày đình
công, các Hãng đã có 500 chuyến bay bị hủy bỏ và số lượng các chuyến bay bị
chậm còn nhiều hơn.
Mới đây nhất là cuộc biểu tình của công nhân các công đoàn tại Pháp trước
việc Nội các Pháp phê chuẩn việc dùng quyền đặc biệt để thông qua những thay
đổi mà không cần sự chấp thuận của Quốc hội, theo đó ban hành Luật cải cách
lao động theo hướng cho phép các công ty tư nhân có thêm căn cứ đề ra các điều
kiện lao động. Chính phủ Pháp cho rằng các cải cách lao động đưa ra là cần thiết
để giúp cắt giảm tỉ lệ thất nghiệp cao ở nước này. Cải cách cũng tạo điều kiện dễ
dàng hơn cho các chủ doanh nghiệp trong khâu tuyển dụng và sa thải. Tuy nhiên
98
những người phản đối cải cách lo sợ những thay đổi mới này đồng thời tạo điều
kiện cho chủ doanh nghiệp bỏ qua quyền công nhân về tiền lương, làm thêm giờ
và ngày nghỉ. Chính vì vậy, khoảng trên 150.000 người bao gồm sinh viên, các
công đoàn, thậm chí các thành viên trong chính đảng Xã hội cầm quyền của Tổng
thống đã biểu kiên trì biểu tình đòi điều chỉnh lại Luật cải cách theo hướng có lợi
cho người lao động.
3.4.3. Phương thức, phương tiệnvận động chính sách công ở Mỹ
Là nơi hoạt động VĐCS diễn ra sôi nổi và hiệu quả, Mỹ cũng chính là nơi
xuất hiện đầy đủ nhất các phương thức và phương tiện VĐCS, thậm chí phần lớn
trong số đó là phát minh của các nhà VĐCS Mỹ, là sản phẩm của nền chính trị
Mỹ.
Trước hết là VĐCS trực tiếp hay còn gọi là VĐCS bên trong chính là quá
trình trao đổi thông tin và tạo lập đầu vào. Nhu cầu về thông tin của chính trị gia
và nhóm lợi ích tạo ra cơ sở cho sự trao đổi hai bên cùng có lợi. Tầm quan trọng
của việc trao đổi thông tin đã được khẳng định khi các nhà lãnh đạo đại diện cho
175 tổ chức có văn phòng tại Washington được đề nghị nêu cụ thể những hoạt
động họ cho là quan trọng nhất thì trao đổi thông tin đứng đầu danh sách. Các
nhà VĐCS ở Mỹ dành rất nhiều thời gian chỉ để giữ liên lạc với các nghị sĩ, quan
chức chính phủ cùng đội ngũ nhân viên của họ liên quan tới các vấn đề mà họ
đưa ra để biết khi nào quyền lợi của họ bị đe doạ. Phần lớn công việc của họ là
đối phó trước những đề xuất hoặc hành động có liên quan tới quyền lợi của thân
chủ mình, và sự cảnh báo sớm là rất quan trọng để đối phó có hiệu quả. Các nhà
VĐCS cũng thu thập tin tức tình báo bằng cách thường xuyên đọc báo và những
ấn phẩm có tính chuyên môn hơn, trò chuyện với các quan chức chính phủ mà họ
sẽ cộng tác một ngày nào đó.
Để tăng độ tin cậy của các thông điệp đưa ra, các nhà VĐCS bố trí để các
nhà khoa học hoặc học giả chứng thực tại những phiên điều trầncủa Quốc hội
nhằm hỗ trợ cho những xác nhận về mặt kỹ thuật với bằng chứng từ những nguồn
trung lập hơn. Các buổi chứng thực cũng cho phép các nhà VĐCS đưa trường
99
hợp của thân ch mình ra trước công luận và nếu thành công thì sẽ giúp định
hướng cho việc diễn giải luật của các toà án và cơ quan hành pháp sau đó. Ngoài
ra, các nhà VĐCS còn tiến hành việc tiếp xúc trực tiếp với các chủ thể quyền lực
công để trình bày quan điểm của nhóm, gặp gỡ tại các buổi tiệc, trình bày những
kết quả nghiên cứu hoặc thông tin kỹ thuật, tư vấn cho các quan chức chính phủ
để xây dựng chiến lược lập pháp, thực hiện các công việc khác như soạn thảo các
bài phát biểu, hỗ trợ các chiến dịch vận động tranh cử cho các nghị sĩ… Theo báo
cáo từ cuộc khảo sát các nhóm lợi ích của Key Lehman, Schlozman và John T.
Tierney thì hoạt động VĐCS cơ bản của các nhóm lợi ích là chứng thực tại các
phiên điều trần (99% tham gia), tiếp xúc trực tiếp với các quan chức chính phủ để
trình bày quan điểm của nhóm (98%); tham gia các hoạt động tiếp xúc không
chính thức với quan chức chính phủtại các buổi họp, ăn trưa… (95%)…
Thứ hai là các phương thức VĐCS gián tiếp cũng được sử dụng đa dạng,
linh hoạt và rất hiệu quả.
Các nhà VĐCS tiến hành gửi quà tặng cho các nghị sĩ, quan chức chính
phủ miễn sao nó không trái với các quy định về quà tặng của Quốc hội. Một
phương pháp nữa mà các nhà vận động thường sử dụng là tổ chức cho các nghị
sĩ, quan chức chính phủ và các nhân viên của họ đi du lịch với nhiệm vụ “tìm
hiểu thực tế” hay diễn thuyết, nếu chúng có liên quan đến nhiệm vụ của họ. Các
nhà VĐCS thông qua các nhóm quyền lợi đặc biệt tổ chức cho các chuyến đi này
tới các địa điểm trên khắp nước Mỹ và thậm chí cả đi ra nước ngoài. Chỉ tính
riêng đối với các nhà lập pháp và các nhân viên của họ, các nhà VĐCS tạo điều
kiện cho khoảng “4000 chuyến đi mỗi năm từ những cánh đồng ở Florida cho
đến Paris hay Bắc Kinh” [4; tr. 539].
Tổ chức ăn tối với nghị sĩ hoặc những người có quyền quyết định chính
sách cũng được xem là một phương thức vận động hiệu quả ở Mỹ. Người được
mệnh danh là “vua lobby” ở Quốc hội Mỹ thế kỷ XIX, Samuel Ward từng nói
rằng “bữa ăn tối” là phương thức hiệu quả nhất để tiến hành VĐCS.
100
Một dạng đặc thù khác là các buổi gây quỹ. Bởi vì tiền có vai trò vô cùng
quan trọng trong các cuộc bầu cử ở Mỹ nên các buổi gây quỹ là một hình thức
phổ biến và hiệu quả mà các chuyên gia VĐCS sử dụng để tiếp cận các chính trị
gia hòng lấy lòng họ.Các chuyên gia vận động cũng tiến hành vận động thông
qua các Uỷ ban hành động chính trị (PAC). Các nhóm lợi ích sử dụng các Uỷ ban
hành động chính trị để tác động gián tiếp tới quá trình hoạch định chính sách
công. Thực chất của phương pháp này là các nhà VĐCS thông qua các PAC để
quyên góp tiền, tham gia vào quá trình vận động tranh cử của các ứng cử viên
quốc hội. Một khi trúng cử, các nghị sĩ sẽ thực hiện “chính sách trả ơn” đối với
các PAC bằng các quyết định chính sách có lợi hoặc đảm bảo lối vào cho các nhà
VĐCS đã từng giúp đỡ họ. Trung tâm phản hồi các vấn đề chính trị, một tổ chức
nghiên cứu phi lợi nhuận, đã phân tích 14 lá phiếu do sức nặng của việc VĐCS
mang lại và nhận thấy rằng “những công ty rót tiền vào Quốc hội cơ bản đã nhận
được những gì họ muốn” [27; tr. 547].
Các cuộc biểu tình, diễu hành, tập hợp bên ngoài là những thủ thuật vận
động cơ sở rất có hiệu quả. Các cuộc biểu tình giúp thu hút sự chú ý của công
chúng đối với vấn đề đang được đấu tranh. Các cuộc biểu tình tự do ở miền Nam
đã đưa vấn đề phân biệt chủng tộc tới từng gia đình người Mỹ ở khắp mọi nơi
thông qua các bản tin nóng trên truyền hình. Các cuộc biểu tình cũng cho thấy
mức độ ủng hộ rộng rãi đối với vấn đề. Trong những năm đầu thập niên 1970,
những người phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đã tập hợp hàng trăm
nghìn người biểu tình tại Washington vì mục tiêu này…
Mặc dù chưa được điều chỉnh phù hợp để sử dụng có hiệu quả trong hầu
hết các nền dân chủ khác, công cụ VĐCS mạnh mẽ nhất xuất hiện trong ba thập
kỷ qua ở Washington là việc huy động số lượng lớn các cử tri và các nhà lãnh
đạo cộng đồng. Các chuyên gia VĐCS ở Mỹ đã sử dụng hiệu quả chiến dịch vận
động cơ sở (grassroot campaign) để gây áp lực lên các thành viên của Quốc hội.
Với kỹ thuật này, các chuyên gia VĐCS tỉ mỉ nghiên cứu nhóm đối tượng là
những người có quan hệ thân thiết với các thành viên của Quốc hội như người
thân trong gia đình, lãnh đạo cộng đồng, linh mục, bác sĩ hoặc nha sĩ riêng. Thự
101
tế, những người phản đối dự luật Cải cách y tế năm 1994 của B.Clinton đã sử
dụng hàng trăm nhóm VĐCS cơ sở để huy động hàng triệu người dân bày tỏ sự
phản đối dự luật. Kiến trúc sư dự luật Ira Magaziner đã phát biểu sau khi dự luật
thất bại rằng: “Thủ đoạn hiệu quả nhất chống lại chương trình của chúng tôi
chính là việc huy động đông đảo dân chúng và vô số các cuộc điện thoại tại
những khu vực còn đang dao động”[76, tr. 73].
Cuộc vận động của Việt Kiều ở Mỹ có cho vấn đề tự do tôn giáo ở Cồn
Dầu, Đà Nẵng cung cấp thêm minh chứng cho sức mạnh và hiệu quả của việc kết
hợp các hình thức vận động bao gồm vận động quần chúng, vận động hậu trường
và liên minh vận động hậu trường ở các địa phương. Cụ thể chiến dịch thỉnh
nguyện thư với 150 nghìn người tham gia, phái đoàn 165 người vào Tòa Bạch Ốc
kèm với cuộc biểu dương gồm cả nghìn người ở trước Toà Bạch Ốc, và trên 500
người vận động chính sách ở Quốc Hội.
Ngoài các biện pháp hợp pháp, đôi khi nhóm lợi ích hay phong trào chính
trị còn dùng cả những biện pháp bất hợp pháp để gây tác động. Cách này thường
được sử dụng bởi các nhóm có quan điểm cực đoan hay những nhóm bị thất bại
do thiếu khả năng tuyên truyền qua các phương tiện thông tin, họ muốn tổ chức
một cuộc biểu tình với bạo lực hay tạo ra rối loạn. Nhờ cách này, quan điểm của họ
sẽ thu hút sự chú ý của công chúng và các nhà chính trị. Đây là một biện pháp tác
động khá nhanh bởi vì các phương tiện thông tin đại chúng thường đưa tin ngay về
bất cứ một cuộc bạo loạn nào. Những người da đỏ trong phong trào Mỹ - Indian đã
biểu tình và chiếm Cục phụ trách vấn đề người da đỏ vào tháng 12 năm 1972 để
phản đối chính sách của Chính phủ Liên bang đối với người da đỏ; những người
Mỹ gốc Tây Ban Nha biểu tình, đốt cờ Mỹ tại bang California vào năm 1995 để
chống lại dự luật 187 vì dự luật này đặt ra sự phân biệt đối xử đối với những người
nhập cư…
Một phương thức không mới nhưng lại được sử dụng với hình thức mới và
đang cho thấy hiệu quả của nó ở Mỹ hiện nay là “biểu tình ngồi” của các Hạ nghị
sĩ đảng Dân chủ. Khoảng 100 nghị sĩ Hạ viện thuộc đảng Dân chủ đã tham gia
102
cuộc biểu tình ngồi cạnh bục phát biểu trong trụ sở Hạ viện để phản đối đảng
Cộng hòa không hành động gì trước các vụ sử dụng súng gây bạo lực. Mục đích
của họ là yêu cầulãnh đạo đảng Cộng hòa đồng ý bỏ phiếu thông qua luật kiểm
soát súng nhằm hạn chế tình trạng bạo lực tràn lan được cho là xuất phát từ việc
tự do sử dụng súng của công dân Mỹ gây ra.
Các phương tiện được sử dụng trong VĐCS ở Mỹ cũng rất đa dạng và
đượckhai thác một cách triệt để hiệu quả trong đó đầu tiên phải kể đến là các
phương tiện truyền thông. Tại Mỹ, như trong hầu hết các nền dân chủ phát triển
khác, phương tiện truyền thông có tác động mạnh tới suy nghĩ của các chính trị
gia và do đó được các nhà VĐCS tận dụng để đạt được mục tiêu của họ. Mỗi
thành viên của Quốc hội, từ cả hai Viện đều dành sự quan tâm đặc biệt cho tờ báo
địa phương mình. Mỗi thành viên của Quốc hội, cả tổng thống và nội các đều phải
dành thời gian đọc các tờ báo lớn của Mỹ như Washington Post, The New York
Times và Wall StreetJournal. Họ cũng đặc biệt chú ý tới các chương trình tin tức
truyền hình, như ABC, CBS, CNN, MSNBC, NBC và Fox News. Phương tiện
truyền thông mới (blog và các trang web) cũng có ảnh hưởng mạnh đến tư duy của
các nhà lập pháp. Các cuộc thăm dò dư luận thường xuyên được sử dụng như là
một trong những vũ khí lợi hại của các nhà VĐCS. Trang web cũng có thể được sử
dụng trong VĐCS ở Mỹ. Những trang web có thể được sử dụng để thu thập chữ ký
cho thỉnh nguyện thư, và gửi email có mục tiêu cho các nghị sĩ. Blog cũng được sử
dụng rộng rãi, để truyền một thông điệp và khuyến khích tranh luận.
Như vậy, rõ ràng, các phương tiện, phương thức VĐCS ở Mỹ là thực sự đa
dạng và được khai thác triệt để nhằm nâng cao hiệu quả VĐCS.
3.5. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH Ở ANH, PHÁP, MỸ
Từ những phân tích về VĐCS ở Anh, Mỹ, Pháp, có thể rút ra những nhận
xét nhằm gợi mở cho việc nhìn nhận thực tiễn VĐCS công ở Việt Nam để có
những ứng xử phù hợp hơn như sau:
3.5.1.Vận động chính sách công mang lại những tác động cả tích cực
và tiêu cực
103
3.5.1.1. Những khía cạnh tích cực của vận động chính sách công
Thứ nhất, vận động chính sách là một kênh quan trọng cung cấp thông tin
cho các nhà hoạch định chính sách
Hoạch định chính sách là một khoa học, đòi hỏi phải thực hiện theo một
quy trình bao gồm nhiều công đoạn: xác định vấn đề, thu thập thông tin, xây
dựng phương án chính sách, lựa chọn phương án tối ưu, ra quyết định chính sách,
tổ chức thực hiện chính sách, kiểm tra thực hiện và tổng kết đánh giá chính sách.
Trong các khâu đó, thu thập thông tin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngày nay,
khi xã hội ngày càng phát triển, tính chuyên môn hoá ngày càng cao, sự bùng nổ
các phương tiện điện tử, truyền thông thì các thông tin ngày càng trở thành yếu tố
quan trọng bảo đảm cho thành công của quá trình hoạch định chính sách, nhưng
cũng chính điều này làm cho việc lựa chọn và xử lý các thông tin trở nên phức
tạp hơn rất nhiều. Các quan chức nhà nước do phải tập trung thời gian vào nhiều
công việc khác nhau nên việc cập nhật đầy đủ và toàn diện các thông tin là điều
không dễ dàng. Do đó, trong quá trình hoạch định chính sách, họ cần phải dựa
vào nguồn thông tin từ các nhóm VĐCS. Xuất phát từ lợi ích của mình, các nhóm
vận động đầu tư nhiều thời gian, tiền bạc để tập hợp tư liệu, thu thập thông tin
cung cấp cho các vị quan chức làm chính sách. Phần lớn nghị sĩ, bộ trưởng, quan
chức chính quyền địa phương phải dựa vào nhân lực ưu thế và tính chuyên
nghiệp của các nhà vận động hành lang để kiến nghị giải pháp cho các vấn đề, dự
thảo luật, cung cấp các chứng cớ, phát triển chiến lược pháp luật, thuyết phục
quốc hội tán thành theo phương án của mình. Nghiên cứu được tiến hành bởi
công ty Burson Marsteller cũng đã đưa ra kết quả thống kê cho thấy 28% số
người được hỏi ở châu Âu tin rằng VĐCS giúp cung cấp các thông tin hữu ích và
kịp thời chocác chủ thể quyền lực trong quá trình chính sách công [55, tr.9].
Thậm chí, nghiên cứu còn chỉ ra VĐCS còn có vai trò quan trọng trong việc
chuyển hóa các thông tin khoa học vốn khó hiểu trở nên dễ hiểu hơn [55, tr.9].
Các nhóm lợi ích tập hợp lại với nhau duy trì được ảnh hưởng to lớn, bởi
chúng là nguồn cung cấp thông tin chủ yếu về mặt kĩ thuật và chính trị giúp định
104
hình chính sách. Chính phủ càng làm nhiều việc thì các quan chức càng cần nhiều
thông tin, nhất là các cuộc bầu cử khiến cho thông tin chính trị trở nên thiết yếu.
Trong bối cảnh chính trị ngày càng phức tạp, các nhà VĐCS buộc phải mở
rộng lĩnh vực hoạt động, từ ủng hộ các chính sách và gây ảnh hưởng tới các quan
chức nhà nước đến thu thập và phân tích thông tin cho quá trình hoạch định chính
sách. Tuy nhiên, phải thấy rằng, VĐCS không chỉ tác động đến một khâu nào đó
trong quy trình hoạch định chính sách mà nó tác động vào tất cả các khâu trong
quy trình đó, làm cho chúng trở nên minh bạch và dân chủ hơn. Khi một vấn đề
nào đó được lựa chọn đưa vào chương trình nghị sự hoặc chuẩn bị được đưa ra
thảo luận tại quốc hội thì các nhóm lợi ích đều tiến hành vận động các nghị sĩ ở
những mức độ khác nhau để có được những quyết định hay dự luật có lợi cho
mình. Khi đó, các nghị sĩ sẽ nhận được nhiều nguồn thông tin khác nhau liên
quan đến vấn đề đang được bàn bạc. Các chính sách của nhà nước sẽ thúc đẩy xã
hội phát triển nếu như nó được ra đời đúng thời điểm và phù hợp với yêu cầu của
đa số nhân dân. Thêm vào đó, VĐCS sẽ cung cấp thông tin đa chiều giúp cho các
nhà hoạch định chính sách có một cái nhìn đầy đủ về xã hội, từ đó tránh được
nguy cơ ban hành những chính sách không phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Thứ hai, vận động chính sách công giúp cho ý chí, nguyện vọng của nhân
dân đến được với chính quyền
Tùy theo quy định của pháp luật và đặc trưng trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước của các quốc gia, tuy nhiên, về cơ bản, ở hầu hết các quốc
gia hiện nay, nguồn của sáng kiến luật là tương đối đa dạng và mở. Theo đó, các
chủ thể khác nhau trong đời sống cộng đồng như các tổ chức, các công ty, doanh
nghiệp hay thậm chí là các cá nhân đều có thể đề đạt ý nguyện của mình lên cơ
quan lập pháp. Tuy nhiên, sẽ là không thực tế nếu yêu cầu một vị dân biểu, một
nghị sỹ hay các nhân viên của họ dành thời giờ để nói chuyện với từng cử tri,
từng tổ chức hoặc đoàn thể hiện diện trong đơn vị bầu cử của họ. Hơn nữa, không
phải cử tri nào cũng có khả năng chuyển tải đến nghị sĩ những thông điệp rõ ràng,
chính xác, ngắn gọn và đi thẳng vào nội dung, mục đích cần đạt tới nhằm thu hút
105
sự chú ý của họ. Vì vậy, các tổ chức, công ty hay các nhóm cử tri có cùng lợi ích
phải nhờ đến các nhà VĐCS. Đây là những người ít nhiều gắn bó với hoạt động ở
nghị trường, có thể dành thời gian để tiếp xúc, tác động đến các nghị sĩ, có các
mối quan hệ cũng như kinh nghiệm trong việc vận động các chính khách. Một
chuyên gia VĐCS công có thể nói thay cho nhiều người khi trình bày các quan
điểm chính sách trước cơ quan lập pháp. Chuyên gia VĐCS công cũng biết sẽ
phải chuẩn bị nội dung thông điệp như thế nào, thông qua các phương thức gì để
có thể gây sức ép hay tác động có hiệu quả đến các nghị sĩ. Đây chính là cách
biến bức xúc của công chúng, của cử tri thành bức xúc của chính quyền để tranh
thủ sự ủng hộ của chính quyền đối với những vấn đề mà cử tri quan tâm.
Kết quả của nghiên cứu được thực hiện trên toàn châu Âu về VĐCS cho
thấy 37% số người được hỏi tin rằng VĐCS giúp đảm bảo sự tham gia của các
chủ thể kinh tế, xã hội và của công dân vào quy trình chính sách[55, tr. 9]. Tỉ lệ
này ở nước Pháp là 38%[55, tr.32].
Thứ ba, vận động chính sách góp phần giám sát và phản biện xã hội đối
với Nhà nước
Nhờ vào tính chuyên nghiệp hóa của hoạt động VĐCS, những vấn đề của
các nhóm lợi ích trong xã hội, bất kể đó là nhóm đa số hay thiểu số, đại diện cho
các lợi ích phổ thông hay chỉ là những lợi ích riêng lẻ trong xã hội đều có thể
được phản ánh một cách rõ ràng, chính xác đến các nhà lập pháp. Các cơ quan có
thẩm quyền không thể hoàn toàn tự do trong việc hoạch định chính sách mà họ
còn phải chịu nhiều áp lực từ các nhóm lợi ích trong xã hội. Và vì vậy, VĐCS
công trở thành một trong những cầu nối, là kênh liên lạc giữa các nhóm công
chúng thông qua đại diện với chính quyền. Đồng thời, VĐCS cũng sẽ góp phần
làm cho quá trình ra quyết định thêm minh bạch hơn bởi lẽ thông qua các kênh và
cách thức VĐCS, các vấn đề chính sách sẽ được xem xét, cân nhắc và lựa chọn
kỹ lưỡng hơn. Quá trình này cũng làm tăng cơ hội để các chủ thể trong đời sống
xã hội tham gia giám sát và phản biện các chính sách của nhà nước.
Thứ tư, vận động chính sách góp phần thúc đẩy dân chủ trong xã hội
106
Dù muốn hay không, VĐCS cũng sẽ thu hút sự tham gia của một bộ phận
dân chúng vào quá trình chính sách, thể hiện tính tự do, chủ động của nhân dân
trong quan hệ với nhà nước, củng cố tính dân chủ. Thông qua hoạt động VĐCS,
các chủ thể trong xã hội đề xuất ý kiến, trình bày quan điểm, phản ánh lợi ích của
mình vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật. Đó chính là một kênh hay
cách giúp cho các chủ thể có được môi trường thuận lội để phát huy được tính
dân chủ trong xã hội, là một bổ sung hợp lý và cần thiết cho thiết chế dân
chủ.Hơn nữa, các chính sách của nhà nước suy đến cùng là để tạo động lực cho
sự phát triển xã hội. Các chủ thể khác nhau sẽ theo đuổi những lợi ích khác nhau
nhưng sẽ có những lợi ích chính đáng buộc nhà nước phải quan tâm, đáp ứng. Có
những lợi ích chính đáng của các nhóm chủ thể riêng biệt trong xã hội nhưng lại
không mâu thuẫn, thậm chí phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng, xã hội.
Những lợi ích như vậy cần và nên được đảm bảo. Các chủ thể có quyền trong
việc bảo vệ lợi ích chính đáng đó của mình. Do đó, họ có quyền được vận động
nhà nước vì họ và cho họ. Trong trường hợp nhà nước ban hành chính sách để
thực hiện những ưu tiên, mong muốn của nhà nước nhưng đồng thời cũng mang
lại lợi ích cho các nhóm chủ thể nhất định trong xã hội, khi ấy, VĐCS công là
cần thiết và biểu hiện khía cạnh tích cực trong việc thúc đẩy chính sách.
3.5.1.2. Những khía cạnh tiêu cực của vận động chính sách công
Một là, vận động chính sách gây lãng phí nguồn lực xã hội
Thật khó có thể tưởng tượng hoạt động VĐCS có thể thực hiện được
không nếu như không có tiền. Tài chính đóng một vai trò vô cùng quan trọng
trong quá trình vận động, và trong nhiều trường hợp vai trò này có thể là quyết
định. Điều đó cũng có nghĩa là để duy trì hoạt động VĐCS, các chủ thể vận động
phải chi rất nhiều tiền. Không quá khi nói rằng vận động chính sách công bị chi
phối bởi tiền bạc. Tài chính cho VĐCS công ở các quốc gia trong thời gian qua
đều tăng lên nhanh chóng theo từng vụ việc vận động bao gồm cả chi phí cho vận
động và chi phí chi trả cho các chuyên gia vận động. Riêng ở Mỹ, liên tục từ năm
2008 đến 2015, chi phí cho VĐCS ở mức 1, 6 đến 1, 8 tỉ đô la. [46, tr. 148].
107
Tuy nhiên, trong cuốn “Vận động hành lang và thay đổi chính sách”,
Frank R. Baumgartner và các cộng sự đã chỉ ra kết quả từ một cuộc khảo sát
trước đó rằng 64% chiến dịch VĐCS gần đây đã thất bại trong việc thay đổi
chính sách, bất chấp hàng tỉ đô la chi phí đã bỏ ra. Điều đó có nghĩa là, chi tiêu
cho VĐCS có thể là một sự đầu tư khôn ngoan của các chủ thể vì nó có thể giúp
cho chủ thể nào đó có được lợi ích khổng lồ nếu như họ vận động thành công,
nhưng xét trên bình diện xã hội và tính tổng nguồn lực tài chính được sử dụng để
thúc đẩy hay ngăn cản một chính sách nào đó thì đó có thể là một sự lãng phí rất
lớn, nhất là có tính đến các chi phí cơ hội khác [98].
Hai là, vận động chính sách góp phần làm gia tăng bất bình đẳng trong xã
hội
Về lý thuyết, ở những quốc gia thừa nhận hoạt động VĐCS và luật hóa hoạt
động này thì tất cả các chủ thể đều có cơ hội tác động làm thay đổi chính sách theo
mong muốn của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, như đã phân tích, VĐCS công cần
rất nhiều nỗ lực và điều kiện như tài chính, quan hệ, hiểu biết... Do đó, tùy thuộc
vào vị thế của các chủ thể trong đời sống xã hội mà khả năng và cơ hội VĐCS có
sự khác nhau. Theo đó, đa phần các chủ thể có năng lực tài chính thì cũng có tiếng
nói trong xã hội, có điều kiện để thuê đại diện bảo vệ và vận động cho lợi ích của
mình. Trong khi đó, ở đầu kia, những chủ thể thuộc nhóm nghèo, nhóm yếu thế, dễ
bị tổn thương trong xã hội lại cũng là nhóm ít có điều kiện và cơ hội để phản ánh
và bảo vệ lợi ích của mình trong chính sách. Chính điều này đã khoét sâu và làm
gia tăng sự bất bình đẳng trong xã hội khi mà VĐCS trở thành công cụ thường
xuyên và hiệu quả trong tay những người giàu và bảo vệ lợi ích ngày càng nhiều
hơn cho họ, còn nhóm yếu thế trong xã hội ngày càng bị đẩy vào tuyệt vọng và bế
tắc.
Theo một thống kê về hoạt động VĐCS ở Mỹ, 72% số cá nhân và tổ chức
vận động đã đăng ký tại Quốc hội Mỹ đại diện cho các tổ chức và hiệp hội kinh
tế, 8% các tổ chức đại diện cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong khi chỉ có
khoảng 5% đại diện cho các nhóm bảo vệ nhân quyền, phúc lợi xã hội, 2% đại
108
diện cho người nghèo và 1% đại diện cho những nhóm yếu thế trong xã hội như
người già và người tàn tật [14, tr. 3].
Ba là, vận động chính sách là môi trường cho hối lộ, tham nhũng.
Hoạt động VĐCS một khi đã bị chi phối bởi yếu tố tiền bạc thì rất dễ dẫn
đến hậu quả là làm tha hoá đội ngũ quan chức, công chức viên nhà nước cả về
mặt đạo đức lẫn nghề nghiệp. Khi đó, đội ngũ này sẽ trở thành “tù nhân của các
nhà vận động”, sẵn sàng tham gia vào cuộc “mua bán chứng khoán chính trị”. Họ
sẽ không phải là những người đại diện cho tiếng nói cử tri, đại diện cho sức mạnh
quyền lực nhà nước mà là đại diện cho tiếng nói đồng tiền, sức mạnh của các tập
đoàn tư bản.
Mỹ là một ví dụ điển hình. Ở Mỹ, có một thực tế là phần lớn nhà lập pháp,
hành pháp sau khi nghỉ hưu vẫn có thể được trả lương cao khi họ chuyển sang
làm việc trong khu vực VĐCS. Cái đó gọi là “hối lộ để chiều lòng”. Vậy nên khi
còn đương nhiệm, những người này sẵn sàng đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích
công nhằm làm hài lòng các ông chủ trong tương lai. Không những thế họ sẵn
sàng nhận phong bì tiền mặt của các nhà VĐCS dưới danh nghĩa là các khoản
“đóng góp vào vận động” ngay tại văn phòng Quốc hội, Nhà Trắng… Họ lợi
dụng việc tham dự các buổi chiêu đãi, các buổi hội thảo, chơi gôn, đi du lịch…
để kiếm thêm thu nhập, đánh bóng tên tuổi… Rõ ràng đó là những hình thức và
có thể là những biến tướng của nạn tham nhũng. Những biện pháp kiểm soát
quyền lực mà Quốc hội Mỹ đưa ra như cấm các thượng nghị sĩ và nhân viên văn
phòng thượng viện không được nhận quà, hoặc chiêu đãi đáng giá trên 100 đô la
mỗi năm, cấm không được tham dự những chuyến đi giải trí do tư nhân đài thọ…
không những không làm hạn chế được tệ nạn trên mà còn làm cho nó được nguỵ
trang bởi những hình thức tinh vi hơn. Những bê bối trong hoạt động VĐCS của
tập đoàn Enron hay như của Jack Abramoff bị phơi bày ra khiến cho hàng chục
nghị sĩ, quan chức chính phủ phải vào vòng lao lý. Đó là những minh chứng rõ rệt
nhất cho sự tha hoá, biến chất về cả mặt đạo đức lẫn nghề nghiệp của những con
người này.
109
Trên bình diện châu Âu, kết quả của nghiên cứu về hiệu quả VĐCS cũng
cho thấy, điều người dân châu Âu lo ngại nhất về VĐCS chính là sự thiếu khách
quan về thông tin trong một môi trường thiếu minh bạch dẫn đến những tác động
tiêu cực trong quy trình chính sách và với đội ngũ những quan chức chính trị[55,
tr. 10].
Bốn là, vận động chính sách có thể dẫn đến nguy cơ bóp méo hay bế tắc
chính sách
Về lý thuyết chính sách công ra đời nhằm giải quyết các vấn đề đang tồn
tại hoặc mới phát sinh của đời sống xã hội, từ đó tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự
phát triển kinh tế - xã hội. Không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững
nếu không có một chính phủ có hiệu quả. Và hiệu quả của một chính phủ đạt
được khi chính phủ đó có khả năng đề ra và thực hiện các chính sách đáp ứng
những yêu cầu cơ bản cho sự phát triển của quốc gia. Có thể nói, khả năng đưa ra
và thực hiện được các chính sách đúng đắn, hiệu quả, hợp lòng dân, sẽ quyết định
một cách cơ bản tính chính đáng của quyền lực.
Trong khi đó, hoạt động VĐCS có thể làm tăng vai trò và sức mạnh của
các nhóm lợi ích cũng như quan chức được bầu đồng thời rất có thể sẽ làm suy
yếu đi quyền lực nhà nước. Chính đòi hỏi mạnh mẽ của các nhóm lợi ích cạnh
tranh với nhau dẫn đến những tranh cãi có thể kéo dài trong nhiều năm xung
quanh việc xây dựng và ban hành chính sách. Rõ ràng là một chính sách mà để
kéo dài trong nhiều năm tất sẽ dẫn tới hậu quả là mất đi cơ hội phát triển, kìm
hãm sự tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội. Do nguồn lực của nhà nước là có
hạn, nhà nước chỉ có thể đáp ứng được yêu cầu của một nhóm đối tượng nhất
định nên một chính sách được đưa ra thường mang lại những lợi ích cho nhóm
này và gây tổn hại đến lợi ích của một nhóm khác. Vì vậy, các nhóm lợi ích càng
mạnh thì sự đấu tranh giữa chúng càng tăng và áp lực lên quyền lực nhà nước
càng lớn. Do đó khả năng bế tắc trong chính sách (policy gridlock) càng cao.
Sự bế tắc trong chính sách diễn ra còn bởi các nhóm lợi ích luôn có xu
hướng đấu tranh đòi xoá bỏ những dự luật, những chính sách còn ở dạng khởi
110
thảo… có lợi cho xã hội mà ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Sự thất bại trong
Chương trình cải cách y tế năm 1994 ở Mỹ là một ví dụ.
3.5.2. Vận động chính sách là một nhu cầu tất yếu khách quan trong
đời sống chính trị
Mặc dù bên cạnh những tác động tích cực, VĐCS công còn mang lại nhiều
tác động tiêu cực nhưng không vì thế mà phủ nhận một thực tế làVĐCS công
đang ngày càng trở thành nhu cầu tất yếu khách quan trong đời sống chính trị.
Tính tất yếu khách quan của nó như đã phân tích, xuất phát từ tính đại diện của
nhà nước nên mọi công dân đều có nhu cầu và quyền được phản ánh ý chí,
nguyện vọng và lợi ích của mình đến cơ quan đại diện, để đảm bảo họ không mất
quyền sau khi đã trao quyền. Thêm vào đó, sự bất đối xứng về thông tin là một
thực tế rất phổ biến và cũng là một trong những nan giải của chính trị và chính
sách công, đặt ra nhu cầu người dân tham gia vào các quá trình chính sách như
một kênh để cung cấp thêm thông tin cần thiết cho các cơ quan nhà nước trong
quá trình ra các quyết định công.
Ở Anh, Pháp, Mỹ, tính tất yếu, khách quan của VĐCS cũng xuất phát từ
chính nhu cầu của cả các chủ thể vận động, các chủ thể tiến hành vận động cũng
như đối tượng được vận động.Dù thái độ và quan điểm của nhà nước với hiện
tượng này thế nào dẫn đến những nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý cho nó đến
đâu thì nó vẫn cứ tồn tại và đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Điều này được
chứng minh bằng thực tiễn phát triển của hoạt động VĐCS ở Anh, Mỹ, Pháp
thông qua cả số lượng các vụ việc cũng như số lượng người tham gia vào quá
trình vận động. Tuy nhiên, cũng có một thực tế khác cần nhận thức là, nếu có quy
định cụ thể, rõ ràng và chi tiết thì sẽ góp phần kiểm soát được hoạt động VĐCS
một cách hiệu quả theo hướng thúc đẩy những khía cạnh tích cực và hạn chế
những biểu hiện tiêu cực của nó trong đời sống xã hội như trường hợp Mỹ, còn
ngược lại, nếu Chính phủ né tránh, phớt lờ hoặc nghiêm cấm VĐCS thì hoạt
động này lại vẫn được biểu hiện ra nhưng có xu hướng tiêu cực nhiều hơn như
trường hợp Pháp.
111
3.5.3. Có những tương đồng và khác biệt trong thực tiễn VĐCS công ở
Anh, Pháp, Mỹ có liên quan đến mô hình thể chế từng nước
3.5.3.1. Sự tương đồng nhất định trong thực tiễn vận động chính sách
công ở Mỹ và hai nước châu Âu
Cho đến thời điểm này, những tranh luận xoay quanh việc Anh hay Mỹ
mới là cái nôi thực sự của VĐCS có lẽ vẫn chưa thực sự ngã ngũ. Tuy nhiên, một
điều đáng lưu ý khi nghiên cứu về VĐCS ở Anh, Mỹ, Pháp là có những điểm
tương đồng nhất định trong thực tiễn VĐCS ở ba quốc gia này.
Một là, nhiều kỹ thuật VĐCS ở Mỹ giống hệt kỹ thuật được sử dụng trong
EU và châu Âu mà thực tế chứng minh phần lớn trong số kỹ thuật được sử dụng
ở Westminster và Brussels có nguồn gốc từ Washington. Sự khác biệt có lẽ là
VĐCS ở Mỹ sẽ đưa các cuộc thăm dò ở mức độ địa phương nhiều hơn nữa để
chứng minh với một Nghị sĩ Quốc hội lý do tại sao họ phải bỏ phiếu hoặc hỗ trợ
một chiến dịch cụ thể. Thêm vào đó, dù là VĐCS ở Anh, Mỹ, hay Pháp thì cũng
có một số nguyên tắc cần phải nhớ để thành công. Đó là: Bắt đầu VĐCS càng
sớm càng tốt; Nắm được càng nhiều thông tin càng tốt; Có càng nhiều quan hệ
tốt với các quan chức càng dễ vận động thành công; Càng nhiều người tham gia
hoạch định và càng nhiều giai đoạn thì càng khó để thay đổi một quyết định
chính sách.
Hai là, có mối tương quan giữa cấu trúc thể chế chính trị với thực tiễn vận
động chính sách ở Anh, Pháp và Mỹ.Trong số các lĩnh vực VĐCS thành công,
mỗi quốc gia có đặc thù riêng, trong đó nếu như ở Mỹ môi trường và phạm vi
VĐCS rất phong phú, đa dạng nhưng tập trung vào lĩnh vực kinh tế và quốc
phòng thì ở Pháp là ngành nông nghiệp, còn ở Anh là ngành dịch vụ - tài chính.
Bên cạnh đó, ở Mỹ, các đối tượng được vận động phong phú, đa dạng hơn cũng
chính là nguyên nhân tạo ra sự nhộn nhịp và sôi nổi của ngành công nghiệp vận
động, trong khi đó thì ở Anh, đặc biệt là ở Pháp, các quan chức Chính phủ được
vận động nhiều hơn là các nghị sĩ. Ngoài ra, cũng cần thấy, có mối liên hệ khá
chặt chẽ giữa sự cởi mở của hệ thống chính trị và minh bạch về thông tin trong
quy trình chính sách đến sự phát triển của công nghiệp VĐCS. Trong ba quốc gia
112
được nghiên cứu, sở dĩ thực tiễn VĐCS ở Pháp kém sôi động, kém hiệu quả nhất
cũng là do sự thiếu minh bạch, đặc biệt là minh bạch về thông tin trong quá trình
hoạch định chính sách dẫn tới việc các nhóm lợi ích không có đủ những thông tin
cần thiết để có thể chủ động lên kế hoạch vận động, đồng thời cũng dẫn đến hệ
quả khác nữa là sự kém hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực cho VĐCS.
3.5.3.2. Những khác biệt đáng kể trong thực tiễn VĐCS công ở Anh,
Pháp, Mỹ
Một là, nghiên cứu VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ cho thấy ba mô hình điều
tiết VĐCS
Nếu làm phép so sánh tổng thể giữa ba nước sẽ thấy một số điểm đáng lưu
ý: về pháp luật VĐCS, có ba mô hình chính để điều tiết hoạt động này. Tại
Washington, cơ chế này là đòi hỏi và bắt buộc. Ở Pháp, có quy định nhưng hiệu
lực và hiệu quả không cao.Còn ở Anh, quy định và đăng ký nằm trong tay của
những cơ quan thuộc riêng ngành này. Nói cách khác, ba mô hình điều tiết VĐCS
được tìm thấy ở Anh, Pháp, Mỹ lần lượt là tự điều tiết thông qua những quy định
đòi hỏi tính tự nguyện trong đăng ký và công khai hoạt động VĐCS (Anh), quy
định gián tiếp đối với VĐCS nghĩa là những quy định đưa ra để áp dụng cho
những nội dung liên quan đến công khai và minh bạch trong hoạt động chính trị
nói chung chứ không đề cập trực tiếp đến những yêu cầu chi tiết, cụ thể và bắt
buộc đối với các chuyên gia VĐCS hay các chủ thể làm công việc tươngtự (Pháp),
và quy định chặt chẽ, chi tiết về VĐCS bằng những luật cụ thể (Mỹ). Do đó, có thể
khẳng định, dù có những tranh cãi về việc Anh mới là quê hương của VĐCS thì
không ai phủ nhận được thực tế VĐCS chuyên nghiệp được thực hiện một cách
hiệu quả ở Mỹ, và hầu hết mọi người sẽ đồng ý rằng VĐCS ở Washington ở một
mức độ cao hơn so với ở London, Brussels - về cả quy mô và tính chuyên nghiệp.
Điều này được chứng minh bằng một thực tiễn VĐCS cực kỳ phong phú với
những biểu hiện rõ nét thông qua những bằng chứng, những số liệu ở Mỹ, phong
phú hơn rất nhiều so với ở Anh và càng phong phú và sinh động hơn nữa so với ở
Pháp.
Hai là, sự khác biệt trong thực tiễn VĐCScông giữa Mỹ với Anh và Pháp
113
Vì cùng là thành viên của Liên minh châu Âu nên cả pháp luật và thực tiễn
VĐCS ở Anh và Pháp đều có những điểm đặc thù rất khác với Mỹ. Cụ thể,
VĐCS ở Anh và Pháp không chỉ bao gồm vận động đối với Nghị viện và Chính
phủ hai quốc gia này mà còn bao gồm cả việc các chủ thể của hai quốc gia này,
bao gồm cả chính phủ của nó tiến hành vận động tại Nghị viện châu Âu. Tại
Brussels hiện nay, hệ thống quy định về VĐCS là do tự nguyện, và có cả thưởng
phạt. Do đó, cùng với Đức thì Anh thuộc nhóm các quốc gia có điều kiện phát
triển hoạt động này từ trước và đã nhanh chóng tiến hành và lên các kế hoạch vận
động “kép” ở cả trong nước cũng như ở EU, còn các quốc gia khác trong đó có
Pháp mặc dù không chính thức thừa nhận thậm chí là cấm các hoạt động VĐCS
phát triển trong nước nhưng trước việc một châu Âu thống nhất với rất nhiều các
lợi ích đan xen và sau những thua thiệt về lợi ích, người Pháp cũng đã phải tính
đến các hoạt động VĐCS tại EU với một số lượng khá lớn các chủ thể tham gia.
Ngoài ra, ở Anh, nơi thịnh hành các hoạt động VĐCS thì các doanh nghiệp, hiệp
hội quốc gia và các nhóm nghề nghiệp, cũng như các tổ chức Công đoàn đã tiến
hành hoạt động này khá thành công. Còn tại Pháp, do không tồn tại hoạt động
VĐCS theo đúng nghĩa nên các doanh nghiệp, hiệp hội, nhóm nghề nghiệp, các
tổ chức Công đoàn muốn tác động đến việc ra chính sách của cơ quan lập pháp
thì phải thông qua các tổ chức có chức năng tư vấn như: Hội đồng kinh tế - xã hôi
và Hội đồng Nhà nước. Bên cạnh đó là việc khai thác triệt để hiệu quả của hình
thức vận động quần chúng như các cuộc biểu tình đồng loạt… có thể được xem là
nét đặc thù trong VĐCS ở Anh và Pháp trong khi ở Mỹ, vận động hậu trường vẫn
là phổ biến và hiệu quả nhất, ngay cả khi xuất hiện đầy đủ các hình thức vận
động khác thì cũng chỉ góp phần hỗ trợ cho vận động hậu trường mà ít khi quyết
định thành công của toàn bộ cuộc vận động.
Cần phải nhìn nhận một cách khoa học, khách quan và toàn diện về
VĐCS, không nên xem vận động là cuộc chiến giữa hai bên, một bên là công
chúng, bên kia là chính quyền và cần phải thấy được trong đó có sự hợp tác, có
khả năng khai thác đôi bên để cùng phát triển để sáng suốt trong việc đưa ra
quyết định ứng xử với VĐCS công. Có một thực tế khác nữa cũng cần chú ý là,
114
những năm gần đây, các thị trường mới nổi có xu hướng cải cách hệ thống quản
lý, ngược lại, các quốc gia giàu có lại tăng cường thắt chặt quản lý, trong đó việc
thông qua và ban hành luật về VĐCS cũng nằm trong xu hướng ấy. Nhưng cần
thiết hay chưa, nên hay không nên luật hóa hoạt động VĐCS cho đến thời điểm
này còn là vấn đề gây tranh cãi ở nhiều quốc gia trên thế giới.
115
Tiểu kết chương 3
Như vậy, Anh, Pháp, Mỹ điển hình cho ba mô hình thể chế chính trị khác
nhau lần lượt là mô hình đại nghị, mô hình hỗn hợp và mô hình tổng thống. Mỗi
quốc gia cũng có quy trình chính sách công với những đặc điểm riêng xuất phát
từ chính những đặc thù về thể chế chính trị và hệ thống chính trị riêng của chúng.
Có lẽ từ những khác biệt đó dẫn đến hệ quả là thực tiễn VĐCS ở Anh, Pháp, Mỹ
bên cạnh một số điểm tương đồng mang tính khá phổ biến, thì tồn tại những khác
biệt rất rõ nét phản ánh đặc trưng trong VĐCS của từng quốc gia. Cụ thể hơn, ở
cả ba quốc gia đều tồn tại hoạt động VĐCS và thực tiễn cho thấy VĐCS như một
tất yếu khách quan trong quá trình chính sách nói riêng, quá trình chính trị nói
chung và ngày càng có xu hướng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, từ thực tiễn
VĐCS ở mỗi nước riêng biệt như đã khảo sát dựa trên những nội dung cơ bản:
pháp luật về VĐCS, chủ thể, đối tượng vận động, quy mô và tài chính cho vận
động, các phương thức và phương tiện vận động, dễ nhận thấy Mỹ là quốc gia
hoạt động VĐCS phát triển sôi nổi, mạnh mẽ và hiệu quả nhất, cũng là quốc gia
mà Chính phủ sớm thừa nhận và có luật quy định chi tiết về VĐCS và luôn điều
chỉnh cho phù hợp với thực tiễn; ở Anh tuy Chính phủ chưa có những quy định
chính thức mang tính thống nhất cho VĐCS nhưng đã tồn tại những quy định như
luật chơi chung do các công ty hàng đầu quản lý VĐCS ở Anh tự nguyện xây
dựng và cam kết thực hiện, do đó các hoạt động VĐCS diễn ra khá sôi nổi nhưng
thông tin về VĐCS chưa được công khai, minh bạch do đó chúng ta biết đến
VĐCS với những mặt trái của nó nhiều hơn những tác động tích cực của hoạt
động này; còn ở Pháp, quốc gia dường như là kém công khai và minh bạch hơn,
chính phủ cũng khép kín hơn và không thừa nhận, thậm chí cấm VĐCS thì khó
khăn hơn cho các chủ thể tham gia VĐCS, do đó cũng giống như ở Anh, hoạt
động VĐCS chủ yếu được biết đến dưới những hình thức tiêu cực, đồng thời vì
sự thiếu minh bạch về thông tin chính sách kết hợp với quan điểm không thừa
nhận VĐCS của chính phủ Pháp đã gây ra nhiều khó khăn cho các chủ thể tiến
hành VĐCS trong việc chủ động xây dựng kế hoạch và chiến lược vận động,
trong khi nhu cầu VĐCS của người dân và các chủ thể khác trong đời sống xã hội
116
là tất yếu nên khi nhu cầu VĐCS thực sự bức xúc, các hình thức biểu tình, vận
động gián tiếp lại được sử dụng phổ biến và phát huy hiệu quả ở đây. Mỗi đặc
trung trong thực tiễn VĐCS của từng quốc gia này đều gợi ra những điều cần suy
ngẫm về mối quan hệ giữa thể chế chính trị, quy trình chính sách và VĐCS cũng
như những điều kiện hay cơ sở cho hoạt động này phát triển, kể cả trong việc
nhìn lại thực tiễn này ở Việt Nam để có những gợi mở cần thiết, hữu dụng.
117
Chương 4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ GỢI MỞ VỚI VIỆT NAM
4.1. QUAN NIỆM VỀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Có người cho rằng VĐCS công ở Việt Nam thực ra không diễn ra một
cách đúng nghĩa như ở các nước trên thế giới, bởi vì ở Việt Nam, Đảng Cộng sản
là Đảng duy nhất cầm quyền, phần lớn quyết định chính sách đều do Đảng đưa
ra, Quốc hội với gần 80% đảng viên Đảng Cộng sản là nơi thể chế hóa các quyết
định chính sách của Đảng. VĐCS ở Việt Nam là vận động trong “hành lang của
Đảng”, khác với phương Tây, diễn ra trong “hành lang” của Nghị viện[22].
VĐCS ở Việt Nam thường được hiểu một cách khái quátlà việc tuyên
truyền, giải thích, động viên những người nghiên cứu, soạn thảo và ban hành các
chính sách tự nguyện xây dựng các chính sách theo nguyện vọng chính đáng của
người vận động[42]. Như vậy, ngay từ quan niệm chung, cách hiểu về VĐCS ở
nước ta dường như giảm tính mạnh mẽ của hoạt động gây ảnh hưởng đối với
chính quyền. Quan niệm về vận động ở Việt Nam trước đây thường chú trọng
vào công tác vận động quần chúng, có nghĩa là Đảng và Nhà nước có những nỗ
lực để động viên, khích lệ người dân chấp nhận và ủng hộ những chủ trương,
chính sách, những quyết định của mình hoặc động viên họ chủ động và nhiệt
tình, tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách đã được coi là đúng và được
ban hành. Hiện nay, xuất phát từ những thay đổi cơ bản trong nhận thức về tầm
quan trọng và sự khách quan của VĐCS, chúng ta đã chú trọng hơn đến VĐCS
với tư cách là một hoạt động có chủ đích của các nhóm chủ thể trong xã hội đến
các tổ chức và cá nhân của nhà nước để đề xuất, kiến nghị, đóng góp ý kiến vào
những chính sách của Đảng và Nhà nước trên những lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt,
với việc thừa nhận và trao cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chức năng giám sát và
phản biện xã hội đã cho thấy một sự đột phá trong nhận thức và tư duy của Đảng
118
ta, hứa hẹn sẽ mang lại những luồng gió mới, những thay đổi ít nhiều tích cực
hơn đối với đời sống chính sách vốn có phần lặng lẽ như ở Việt Nam.
Chính vì quan niệm và nhận thức về VĐCS còn khá mới mẻ và nhạy cảm
nên những nghiên cứu về nó là thực sự cần thiết để cải thiện tình trạng này. Có
thể nói, trong thời gian qua, với những nỗ lực của toàn hệ thống và sự thúc đẩy
của các thể chế bên ngoài nhà nước, chúng ta đã tích cực tiến hành các cuộc hội
thảo, trao đổi, tọa đàm ở những quy mô và mức độ khác nhau bàn về VĐCS cũng
như các khía cạnh cụ thể của hoạt động này. Về cơ bản, cho đến nay, chúng ta
khá thống nhất ở quan niệm cho rằng, VĐCS được hiểu là quá trình tác động vào
những nhà hoạch định chính sách, những người ra quyết định để tạo ra một chính
sách phù hợp hơn, minh bạch và hiệu quả hơn.
Không chỉ thống nhất trong nhận thức và quan niệm về VĐCS, thành công
cơ bản của các cuộc trao đổi, tọa đàm khoa học về vấn đề này còn đưa đến sự
thống nhất thứ hai về ý nghĩa, tầm quan trọng hay sự cần thiết phải có VĐCS ở
Việt Nam. Các phân tích luận giải đều tập trung vào hai điểm sau đây:
Một là, việc hoạch định và ban hành những chính sách kinh tế, xã hội ở
nước ta trong ba mươi năm đổi mới vừa qua, tuy đã có những tiến bộ nhất định,
nhưng vẫn còn những hạn chế lớn như: không ít chính sách không phù hợp ngay
từ khi ban hành cho nên phải sửa đổi, bổ sung khá nhanh và nhiều lần tạo ra một
hệ thống chắp vá, thiếu đồng bộ; một số chính sách thiếu khách quan, minh bạch,
điển hình là các văn bản về chính sách quản lý đất đai; quản lý đầu tư xây dựng;
chính sách về thuế, phí…. Một số chính sách còn xơ cứng, mang dấu ấn khá nặng
nề của tư duy kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, chậm thay đổi so với
yêu cầu của cuộc sống, điển hình là chính sách về quản lý lao động, tiền lương,
tiền công, bảo hiểm xã hội…đối với các doanh nghiệp. Những hạn chế nêu trên
tất yếu làm cho các chính sách đã ban hành kém hiệu quả. Các chính sách kinh tế,
xã hội được ban hành mang tính vĩ mô, do đó, một chính sách sai lầm có thể gây
hậu quả lớn, thậm chí có thể so sánh với hậu quả của một cuộc khủng hoảng nền
kinh tế quốc dân.
119
Hai là, một trong những cam kết về bảo đảm yêu cầu minh bạch hóa của
nước ta khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là: “Ngay từ khi gia
nhập, Việt Nam phải công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân;
thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi là 60 ngày; các văn bản nêu trên phải
được đăng công khai”. Với cam kết này, tình trạng “mẹ hát, con khen hay”
trong việc hoạch định các chính sách, ban hành các văn bản về chính sách kinh
tế, xã hội không thể tiếp tục kéo dài thêm nữa. Các chính sách khi được ban hành
phải đáp ứng được những yêu cầu bức thiết của cuộc sống.
Ba là, dù muốn hay không, VĐCS vẫn là một tất yếu khách quan, tuy
không phải là thiết chế chính thức, bắt buộc nhưng lại luôn hiện hữu trong thực
tiễn chính sách các nước và ngày càng chứng tỏ nó đã là một công nghệ trong
chính trị. Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình không thể đảo ngược. Trong
khi những hoạt động VĐCSthương mạiquốc tế đã và đang được các doanh
nghiệp, hiệp hội ở nhiều nước thực hiện mạnh mẽ và hiệu quả, ở Việt Nam, hoạt
động này còn tương đối hạn chế cả về tần suất sử dụng và hiệu quả tác động. Một
phần là do các doanh nghiệp, hiệp hội Việt Nam hoặc là chưa hiểu đầy đủ về ý
nghĩa và vai trò của các hoạt động này, hoặc là chưa được hướng dẫn cách thức
để có thể thực hiện chúng một cách hiệu quả. Khi Việt Nam chủ trương chủ
động, tích cực tham gia hội nhập ngày càng sâu rộng vào sân chơi quốc tế thì một
trong những bài học lớn là phải hiểu luật chơi và biết cách chơi làm sao cho có
lợi cho mình. Vì vậy, chúng ta cần phải tiến hành những nghiên cứu thực sự công
phu, nghiêm túc và toàn diện về VĐCS, dù chưa trả lời ngay được câu hỏi lớn là
đã đến lúc thừa nhận, luật hóa hoạt động này ở Việt Nam hay chưa, thì cũng phải
hiểu để sử dụng nó một cách hiệu quả khi chúng ta hội nhập với các quốc gia
khác, nhất là có những quốc gia mà VĐCS là một phần không thể thiếu trong quy
trình chính sáchnhư Mỹ và một số quốc gia phương Tây khác. Cũng cần quán
triệt quan điểm, VĐCS không đồng nghĩa với với việc “chạy cơ chế” đã từng xảy
ra ở nước ta trong những năm vừa qua dù trên thực tế, ranh giới giữa chúng đôi
khi là khá mong manh. Và để VĐCS tích cực, để không lẫn với tham nhũng
120
chính sách, chạy cơ chế, điều tiên quyết là phải có một khung khổ pháp lý chính
thức cho hoạt động này.
4.2. BIỂU HIỆN VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM
4.2.1. Những quy định có liên quan đến vận động chính sách ở Việt
Nam
Bàn về cơ sở pháp lý cho các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam trong
VĐCS nhiều tác giả khẳng định rằng chúng ta cũng đã có không ít văn bản như
“Sắc Luật 102/SL 1957 quy định về quyền lập Hội, Hiến pháp 1992 sửa đổi năm
2000, Chỉ thị 202/1990 của Chủ tịch HĐBT, Nghị định 88/2003 của Thủ tướng
Chính phủ v.v…[41, tr.24].
Điều 39 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003
quy định đối với đại biểu Hội đồng nhân dân: “Phải liên hệ chặt chẽ với cử tri ở
đơn vị bầu ra mình, chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản
ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri; bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cử tri; thực hiện chế độ tiếp xúc và ít nhất mỗi năm một lần báo cáo
với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu
cầu và kiến nghị của cử tri...”
Hơn thế nữa, ở góc độ quan điểm, đường lối của Đảng cầm quyền, từ diễn
đàn của Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Nhà nước ban hành
và bổ sung pháp luật để Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt
vai trò giám sát và phản biện xã hội”[10, tr.4].
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 trong
Chương “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” đã nêu:
“Điều 28: 1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia
thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương
và cả nước; 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và
xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của
công dân.”
Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 và Luật tổ chức Chính quyền địa phương
năm 2015 nêu trách nhiệm của đại biểu của dân trong việc tiếp thu ý kiến của
121
dân. Cụ thể, (1) Điều 28 Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định rõ trách
nhiệm tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân
của đại biểu Quốc hội: “Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp công dân; Khi
nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, đại biểu Quốc hội có trách
nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết và thông
báo cho người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị biết; đôn đốc, theo dõi và giám sát
việc giải quyết”; (2) Quyền tham gia đóng góp ý kiến vào Văn bản quy phạm
pháp luật: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức khác,
cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân có quyền tham gia góp ý
kiến về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật”; (3) Quyền tham gia kiến nghị xây
dựng luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể
gửi kiến nghị xây dựng luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến bộ, cơ quan ngang bộ quản lý ngành, lĩnh vực
bằng văn bản hoặc thông qua trang thông tin điện tử...”; (4) Một số văn bản của
Đảng và Chính phủ về giám sát và tư vấn, phản biện xã hội. Đặc biệt, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng ban hành Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12-12-203 về
việc ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”; (5) Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn năm 2007.
Dù kể ra những quy định như trên nhưng cũng cần thấy, những quy định
pháp luật hiện nay làm cho hoạt động VĐCS vừa thiếu, vừa không chặt chẽ, thậm
chí chưa giúp phân biệt được ranh giới giữa VĐCS với tư cách là một công nghệ
với các biểu hiện tiêu cực khác như tham nhũng, hối lộ, chạy chính sách… Do
vậy, hoàn thiện pháp luật về VĐCS dù không hướng tới thúc đẩy cũng ít nhất là
giúp kiểm soát những biểu hiện tiêu cực của VĐCS như một nhu cầu thực tế ở
Việt Nam hiện nay.
Dù chưa khẳng định có hay không VĐCS công ở Việt Nam nhưng có thể
thấy những biểu hiện của hoạt động VĐCS ở Việt Nam ngày càng rõ rệt hoặc ít
nhất cũng thấy được đang có những nỗ lực để vận động và cho VĐCS công ở
Việt Nam hiện nay.
122
4.2.2. Vận động chính sách công của các chủ thể trong và ngoài nước ở
Việt Nam
Trước hết có thể dễ dàng nhận thấy, các biểu hiện của VĐCS là tương đối
sôi nổi đối với các doanh nghiệp Việt Nam, thậm chí nó cũng được xem là một
nhu cầu hoàn toàn chính đáng của các doanh nghiệp trong tiến trình phát triển
của mình.
Những nỗ lực đầu tiên để thúc đẩy VĐCS của các doanh nghiệp trong bối
cảnh chưa có cơ chế thực sự rõ ràng cho hoạt động này là tổ chức các buổi hội
thảo, tọa đàm, trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm về vấn đề này.“VĐCS công là một
việc làm cần thiết, và phải được xem là hợp lý” là nhận định chung của các Hiệp
hội, nhà doanh nghiệp, nhà quản lý và nghiên cứu tại buổi tọa đàm “Trao đổi
kinh nghiệm VĐCS của các Hiệp hội doanh nghiệp”, do “Chương trình dự án
sáng kiến cạnh tranh Việt Nam (VNCI) và Hội doanh nghiệp trẻ thành phố Hồ
Chí Minh phối hợp tổ chức.
Ở Việt Nam cũng đã xuất hiện các các hiệp hội và chúng phát triển một
cách tự nhiên song song với các đổi mới trong đời sống kinh tế - chính trị của đất
nước những năm qua. Để bảo vệ lợi ích của mình, các hiệp hội thường sử dụng
các phương thức như: (1) Có các cuộc tiếp xúc cá nhân với những người có chức
vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước hoặc có các cuộc gặp gỡ với những
nhà lãnh đạo cấp cao của Nhà nước; (2) Tham gia phiên họp của Hội đồng dân
tộc, các Uỷ ban của Quốc hội; (3) Làm việc trong các nhóm thẩm định của các cơ
quan nhà nước; (4) Nghe báo cáo các dự án luật và kiến nghị, góp ý kiến tham
gia vào các dự án luật; (5) Tác động thông qua dư luận xã hội và các phương tiện
thông tin đại chúng, … Thông qua những phương thức này, các nhóm lợi ích đã
tích cực hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích cho các thành viên của mình. Tuy nhiên,
việc vận động, gây áp lực đối với cơ quan nhà nước trong việc ban hành chính
sách của các hội, hiệp hội ở Việt Nam còn mang tính bị động, chỉ khi nào lợi ích
bị xâm hại thì doanh nghiệp, hiệp hội mới lên tiếng. Một điều nữa là trong đa số
các trường hợp, lợi ích của các nhóm lợi ích sẽ mâu thuẫn với lợi ích cộng đồng,
123
thậm chí là lợi ích quốc gia.Mặt khác, trong quá trình hình thành và hoạt động, để
đạt được các mục tiêu của mình, doanh nghiệp kinh tế không chỉ ngồi chờ các cơ
quan quản lý tạo ra “sân chơi, luật chơi” mà phải thấy, chính doanh nghiệp, đại
diện doanh nghiệp phải chủ động tạo dựng cho mình thế chủ động. Thế chủ động
nói đến ở đây là “vận động hàng lang, vận động chính sách”. Vận động để nhằm
sớm hình thành chính sách đó, đưa chính sách đó nhanh đi vào thực tế, chính
sách đó có lợi cho doanh nghiệp và thuận lợi cho quản lý mang lại lợi ích lớn cho
cộng đồng. Đây là nhu cầu thiết thực của cộng đồng doanh nghiệp nói chung.Tuy
nhiên, hoạt động VĐCS lúc đầu khó có tính khả thi bởi nhiều lý do, một trong
những lý do đó là nhận thức của một số người, một số bộ phận quản lý chưa bắt
kịp với thực tế, vì không có điều kiện tham gia để được va chạm với các vấn đề
nảy sinh. Mặt khác, xét về tính hiệu quả có thể sẽ thêm việc cho quản lý, khó cho
quản lý và nảy sinh tâm lý “ngại”, do đó mà nhiều chính sách rất khó ra đời, nếu
có thì rất muộn… Đây là vấn đề bức xúc lâu nay của khối các doanh nghiệp kinh
doanh và được báo chí phản ánh dưới góc độ là khi chưa quản lý được thì “cấm”.
Để thúc đẩy mọi hoạt động phát triển theo chiều hướng tốt, nhanh chóng
đem lại lợi ích cho cộng đồng thì các doanh nghiệp phải dựa trên một nền tảng
pháp lý rõ ràng. Đó là nhu cầu ra đời một khung pháp lý cho hoạt động VĐCS
đối với doanh nghiệp. Xuất phát từ những luận cứ nêu trên, Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam đã chủ động cùng với báo Diễn đàn Doanh nghiệp, các
tổ chức có liên quan đã tiến hành nhiều cuộc hội thảo khoa học để cùng nhau trao
đổi nhận diện vấn đề “Vận động hành lang, vận động chính sách của khối doanh
nghiệp kinh tế”. Các cuộc hội thảo đều nhằm đến mục đích là làm rõ việc có cần
hay không việc xây dựng một khung pháp lý cho hoạt động “Vận động chính
sách đối với doanh nghiệp kinh tế thời hội nhập”. Đại đa số các chuyên gia trong
nước và nước ngoài khi tham gia hội thảo về chuyên đề này đều khẳng định, trên
thế giới loại hình của khung pháp lý này đã tồn tại và đang điều chỉnh những
hành vi có liên quan đến quá trình vận động. Vì vậy, nhiều đại diện đều nhất trí
đề nghị và cho rằng, Nhà nước sớm triển khai để cho ra đời khung pháp lý cho
loại hình hoạt động này.
124
Trung tâm Phát triển nông thôn bền vững (SRD) đã tổ chức lớp tập huấn
“Vận động chính sách về Biến đổi khí hậu”. Đây là hoạt động nằm trong khuôn
khổ dự án “Tăng cường vai trò cho các tổ chức Phi chính phủ Việt Nam trong
hoạt động truyền thông và vận động chính sách về biến đổi khí hậu” được hỗ trợ
tài chính và kỹ thuật của Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc (DFAT). Dự án nhằm
mục tiêu nâng cao năng lực truyền thông, VĐCS cho các tổ chức phi chính phủ
Việt Nam (VNGO) và các mạng lưới xã hội để tham gia tốt hơn trong quá trình
xây dựng và thực hiện các chính sách về biến đổi khí hậu (BĐKH). Là một thành
viên tích cực của Mạng lưới VNGO&CC, Trung tâm CORENARM tận dụng mọi
cơ hội để đóng góp vào sự phát triển chung của mạng lưới và nâng cao năng lực
cho chính tổ chức.
Bên cạnh những nỗ lực gián tiếp kể trên, hoạt động VĐCS của các doanh
nghiệp ở Việt Nam cũng được biểu hiện khá rõ nét thông qua những hành động
trực tiếp tác động vào chính sách.
Biểu hiện rõ nét nhất, có ý kiến cho rằng, hiện nay ở nước ta có hai nhóm
VĐCS bảo đảm lợi ích cho các nhà quản lý và doanh nghiệp. Có thể thấy điều
này ở Hiệp hội Thép như sau: Từ thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh thép và với chức năng nhiệm vụ hoạt động của Hiệp hội Thép là
so sánh giữa pháp luật hiện hành và thực tế của kinh tế thị trường, Hiệp hội Thép
đã kịp thời phát hiện những vấn đề nổi cộm, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất,
kinh doanh thép và không đi vào cuộc sống. Ví dụ, năm 2005, Bộ Thương mại
nay thuộc Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định Quản lý kinh doanh thép
xây dựng. Đây là quyết định có tính pháp quy nhưng thiếu tính thực tiễn, vi phạm
Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại. Hiệp hội Thép đã tham gia góp ý kiến xây
dựng từ lúc còn là dự thảo, tổ chức nhiều Hội nghị, chuyên đề, thuê 2 văn phòng
luật sư và nhờ Ban pháp chế VCCI hỗ trợ tư vấn và được các cơ quan: Tổ 23, Vụ
Pháp chế - Văn phòng Chính phủ, VCCI, Bộ Công nghiệp, Bộ Tư pháp ủng hộ.
Đến tháng 1-2007 quyết định này đã được ngừng hiệu lực thực hiện.
125
Thứ hai, liên minh vận động chính sách để minh bạch hóa ngành công
nghiệp khoáng sản. Chủ trương này được nhiều tổ chức xã hội dân sự tham gia
nhằm mục tiêu hướng tới minh bạch hóa ngành công nghiệp khai thác khoáng sản
ở Việt Nam.Tham gia thành lập liên minh, các tổ chức quan tâm đến khoáng sản
giai đoạn đầu, dự kiến có các tổ chức xã hội như Viện Tư vấn & Phát triển
(CODE), Trung tâm Con người & Thiên nhiên (PanNature), CGFED, CDI …
Nhóm này sẽ đóng vai trò chính trong việc phối hợp triển khai các nghiên cứu,
xây dựng mô hình thí điểm cũng như đề xuất hợp tác và kết nối sự tham gia của
các bên vào chương trình. Một nhóm nữa của liên minh là cộng đồng doanh
nghiệp, trong đó có Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các
Tập đoàn, Tổng Công ty Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản. Nhóm
này có nhiệm vụ phối hợp triển khai các nghiên cứu và mô hình thí điểm tại các
địa phương và tham gia VĐCS ở cấp Trung ương. Các nhóm khác dự kiến tham
gia liên minh sẽ là đại diện các tổ chức truyền thông, một số cơ quan chính phủ
như: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương và chính quyền một số
tỉnh.
Biểu hiện cụ thể thứ ba là những nỗ lực thực tế trong hoạt động của Hiệp
hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP). VASEP đã cung cấp và
cập nhật nhiều thông tin về các vấn đề vướng mắc mà các doanh hay gặp phải, để
từ đó có các ý kiến lên VASEP, để VASEP thay mặt doanh nghiệp kiến nghị lên
các cơ quan quản lý tìm giải pháp tháo gỡ, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh
nghiệp”. Đặc biệt VASEP thành lập và đưa vào hoạt động nhóm VĐCS mà mỗi
doanh nghiệp có 1-2 người tham gia làm thành viên. Tham gia mạng lưới VĐCS,
doanh nghiệp đã cập nhật kịp thời các vướng mắc giúp công tác VĐCS hiệu quả và
đầy đủ. Nhờ có nhóm VĐCS của VASEP, doanh nghiệp được cập nhật thêm nhiều
qui định mới được ban hành.
Gần đây nhất và cũng có thể coi là một điển hình thành công cho những nỗ
lực VĐCS công ở Việt Nam chính là hoạt động VĐCS của các doanh nghiệp
khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin nhằm bãi bỏ điều luật 292, Bộ
126
Luật Hình sự năm 2015. Cụ thể, vào khoảng tháng 6 năm 2016, cộng đồng khởi
nghiệp “startup” đã rất lo lắng khi điều 292 Bộ Luật Hình sự có hiệu lực. Theo
điều luật này, nếu cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ mà không có giấy phép hoặc
không đúng nội dung được cấp phép, thu lợi từ 50 - 200 triệu đồng hoặc có doanh
thu từ 500 triệu - 2 tỷ đồng sẽ bị phạt tiền từ 200 - 500 triệu đồng hoặc phạt cải
tạo không giam giữ đến 2 năm. Bên cạnh kinh doanh vàng trên tài khoản, sàn
giao dịch thương mại điện tử, kinh doanh đa cấp thì hoạt động trung gian thanh
toán, trò chơi điện tử trên mạng và các loại dịch vụ khác trên mạng máy tính, mạng
viễn thông đều chịu quy định của điều luật này. Điều này đã gây không ít lo lắng
và khó khăn cho cả cộng đồng khởi nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, ngày 1 tháng 9
năm 2016, tại Phiên họp thường kỳ tháng 8, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó
Thủ tướng Trương Hòa Bình, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cùng lãnh đạo các Bộ,
bao gồm cả Bộ Công an và Bộ Thông tin và Truyền thông... đều có chung quan
điểm là bỏ Điều 292. Như vậy, sau những nỗ lực không ngừng để vận động bãi bỏ
điều luật này, cuối cùng, cộng đồng khởi nghiệp ở Việt Nam đã thành công.
Sẽ là thiếu sót nếu như nói đến vận động chính sách công ở Việt Nam mà
không đề cập đến hoạt động của các tổ chức phi chính phủ. Các tổ chức phi
chính phủ ở Việt Nam bao gồm các loại hình như: Hội; Quỹ xã hội, quỹ từ thiện;
Tổ chức khoa học - công nghệ do các hội và tư nhân lập ra; Tổ chức bảo trợ xã
hội; tổ chức tư vấn pháp luật; Tổ chức câu lạc bộ, mạng lưới, nhóm không có tư
cách pháp nhân. Trong điều kiện mở rộng và phát huy dân chủ hiện nay, hoạt
động vận động và đóng góp xây dựng chính sách của các tổ chức phi chính phủ
trở nên thiết yếu. Các tổ chức này mong muốn được đóng góp nhiều hơn trong
việc hoạch định các chính sách phát triểnkinh tế - xã hội và môi trường, đặc biệt
là các chính sách phục vụ các nhóm cộng đồng thiệt thòi nhằm bảo đảm các
chính sách này sẽ đáp ứng các quyền và sự tiếp cận công bằng các dịch vụ công
cho cộng đồng.
Các tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam được ghi nhận đã tham gia một số
hoạt động chính như sau:
127
Một là, thực hiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015,
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007. Đặc biệt, một số tổ
chức phi chính phủ còn được giao chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Hai là, các tổ chức này tích cực tham gia vận động các dự án phát triển
kinh tế - xã hội, chương trình mục tiêu quốc gia như tham gia xây dựng, thực thi
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các chương trình xóa đói, giảm nghèo,
tham gia xây dựng, thực thi Luật ngân sách nhà nước và giám sát việc thực hiện.
Ba là, tư vấn, phản biện cho các chương trình, dự án góp phần làm cho các
dự án, chương trình phù hợp với thực tiễn và mang lại lợi ích cho xã hội và người
dân. Tư vấn, phản biện và giám định các chương trình phát triển kinh tế - xã hội
lớn như bô xít Tây Nguyên, Đường Hồ Chí Minh, các chương trình về môi
trường và phát triển bền vững.
Bốn là, nhiều tổ chức có mối quan hệ tốt với cơ quan Quốc hội, cơ quan
nhà nước, có sáng kiến, ký kết thảo thuận về việc tư vấn, phản biện và đóng góp
xây dựng chính sách. Tham gia vào một số đoàn giám sát của Quốc hội, Chính
phủ, các đoàn thể để kiểm tra, giám sát các đề án, chương trình phát triển kinh tế
- xã hội.
Năm là, tích cực tham gia tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật của
nhà nước cũng như các quy định của chính quyền địa phương để ngườidân biết
và thực hiện, bảo vệ quyền lợi của chính mình, đồng thời phát hiện những bất cập
trong quá trình triển khai các cơ chế, chính sách, pháp luật, phản ánh với cơ quan
nhà nước để có sự thay đổi.
Chính phủ Việt Nam đánh giá cao sự tham gia của các tổ chức phi chính
phủ vào quá trình chính sách thông qua việc vận động. Nhiều công trình khoa
học cấp quốc gia, các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phương hướng phát
triển ngành đã được các tổ chức tư vấn, phản biện theo yêu cầu của cơ quan nhà
nước hoặc chủ động đóng góp ý kiến với mong muốn các dự án phù hợp hơn với
thực tiễn và có hiệu quả khi triển khai. Các tổ chức cũng rất nhiệt tình trong việc
đóng góp ý kiến cho dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật. Một số văn bản
128
luật, pháp lệnh đã được các tổ chức đóng góp rất cụ thể: Hiến pháp năm 2013,
Luật doanh nghiệp năm 2014, Luật khoa học và công nghệ năm 2013, Luật bảo
vệ môi trường năm 2014, Luật tài nguyên năm 2009, Luật khoáng sản năm 2010,
Luật đất đai năm 2013… Một số ý kiến của các tổ chức xã hội đã được ban chủ
trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật tiếp thu và đưa vào quy định. Một số tổ
chức xã hội được cơ quan nhà nước giao cho soạn thảo văn bản pháp luật như
Hội người cao tuổi soạn thảo Luật người cao tuổi năm 2009, Hội chữ thập đỏ
soạn thảo Luật hoạt động Chữ thập đỏ năm 2008…
Một điều cũng cần lưu ý khi nghiên cứu biểu hiện VĐCS công ở Việt Nam
hiện nay là, khía cạnh tiêu cực của VĐCS cũng đã bộc lộ.
Trong tham luận “Vận động chính sách ở nước ta từ góc nhìn của một cựu
đại biểu Quốc hội”, ông Nguyễn Minh Thuyết đã cho rằng VĐCS công ở nước ta
dù chưa được thừa nhận nhưng đã manh nha hình thành theo hướng tiêu cực:
Một là, xung quanh một số nhân vật chủ chốt có vai trò quan trọng trong
các quyết sách về kinh tế của Nhà nước đã thấp thoáng các doanh nghiệp thuộc
các loại hình khác nhau.
Hai là, một số doanh nghiệp tổ chức một bộ phận trực thuộc giám đốc
hoặc hội đồng quản trị với chức năng duy trì và mở rộng quan hệ với chính
quyền, quan chức.
Ba là, doanh nghiệp hối lộ quan chức dưới nhiều hình thức như tiền, tài
sản, cổ phần, dịch vụ, cho con du học, đánh bóng, chạy chức… Đổi lại, doanh
nghiệp được hợp đồng béo bở, được hưởng chính sách ưu đãi và được che chắn,
bảo vệ.
Bốn là, doanh nghiệp nhà nước có vị trí đặc biệt, vừa độc quyền, vừa quản
lý tài sản khổng lồ, vừa tự chủ rộng rãi lại không đi kèm trách nhiệm giải trình
cao nên nhiều doanh nghiệp nhà nước là đầu mối để nhiều quan chức thiết lập
các đường dây vụ lợi cho mình. [46, tr. 204].
Có một điều dễ nhận thấy là nhiều trường hợp lợi ích của các nhóm lợi ích
tham gia vận động mâu thuẫn với lợi ích cộng đồng, thậm chí là lợi ích quốc gia.
129
Ví dụ như chính sách hạn chế phát triển phương tiện giao thông cá nhân nhằm
giảm sức ép lên hạ tầng giao thông, giảm kẹt xe lại đụng chạm lợi ích của các nhà
sản xuất ô-tô, xe máy; áp thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động đầu tư - kinh
doanh chứng khoán sẽ ảnh hưởng tới lợi ích của các thành viên thuộc Hiệp hội
các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI)... Hay trong cuộc tranh luận năm 2009
về việc có nên cho phép tiến hành các dự án khai thác tài nguyên ở Tây Nguyên
hay không chúng ta có thể thấy thấp thoáng ít nhiều trong đó sự mâu thuẫn giữa
mối quan tâm của cộng đồng về môi trường - sinh thái, thậm chí là xã hội và an
ninh quốc phòng khu vực Tây Nguyên với lợi ích kinh tế của các nhà khai thác
khoáng sản.
Trong một số trường hợp còn có thể tồn tại một liên minh không chính
thức giữa các nhóm lợi ích của Việt Nam với các nhóm lợi ích ở nước ngoài. Ví
dụ trong dự án xây dựng đường sắt cao tốc Bắc - Nam được đề xuất và đang gây
tranh cãi thời gian gần đây người ta có thể thấy các nhà thầu Việt Nam, những
người trong tương lai có thể được hưởng lợi từ việc triển khai dự án này, đã nhận
được sự hậu thuẫn lớn từ các đồng nghiệp Nhật Bản. Đơn giản là trong trường
hợp dự án này được thông qua và sử dụng vốn ODA từ Nhật để triển khai thì các
công ty, nhà thầu Nhật sẽ được hưởng lợi rất nhiều vì không khó để thấy rằng
một trong các điều kiện Nhật sẽ đưa ra cho Việt Nam để được nhận khoản vốn
ODA này chính là việc Việt Nam giành ưu tiên cho các công ty Nhật Bản tham
gia dự án. Điều tương tự cũng xảy ra trong trường hợp nhiều nhà thầu Trung
Quốc liên tiếp trúng thầu các dự án ở nước ta: đường sắt trên cao, đường ống
nước sông Đà số 2… Điều đáng nói là trong những trường hợp như vậy các công
ty nước ngoài sẽ thường chỉ quan tâm tới việc các dự án có được thông qua hay
không mà không quan tâm thực sự tới hiệu quả của các dự án đó. Thậm chí họ
còn có thể đưa ra các báo cáo, dữ liệu không thực sự đáng tin cậy để vận động
cho việc thông qua dự án mà không quan tâm tới hiệu quả, tác động của dự án
sau khi được hoàn thành. Trong trường hợp này nạn nhân tiềm tàng sẽ chính là
chính phủ và nhân dân Việt Nam. Đây chính là nguy cơ rất lớn đối với chính trị
130
và chính sách, cần nhận thức đầy đủ để có những giải pháp chính sách thực sự
phù hợp.
4.2.2. Vận động chính sách công của các chủ thể Việt Nam ở nước
ngoài
Dù còn thiếu những cơ sở pháp lý cho hoạt động VĐCS ở Việt Nam
nhưng không có nghĩa là chúng ta không biết đến và chưa từng sử dụng hoạt
động này như một dịch vụ.Khi VĐCSđã trở thành một phần không thể thiếu của
nền chính trị thì tất cả những ai muốn gây ảnh hưởng đối với dư luận hay đến
việc hoạch định chính sách đều phải tuân thủ quy luật này.Thực tế thời gian qua
cho thấy Việt Nam đã phải nhiều lần thuê các công ty VĐCS nước ngoài, đặc biệt
là ở Mỹ để vận động cho những vấn đề cụ thể có liên quan đến Việt Nam cũng
như các hiệp hội kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam trong quan hệ với Mỹ và
các nước khác.
Biểu hiện đầu tiên của VĐCS công của các chủ thể Việt Nam mà cụ thể là
Chính phủ Việt Nam ở nước ngoài chính là vận động Quốc hội Mỹ thông qua
quy chế PNTR cho Việt Nam vào năm 2006. Giữa tháng 11 năm 2006, nhiều khả
năng Quốc hội Mỹ sẽ mang Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt
Nam ra bàn tại Quốc hội. Biết được điều này một tổ chức có tên là Hội thân hữu
Mỹ - Việt vì một nước Việt Nam giàu mạnh đã ra đời và các thành viên dự tính
sẽ lên Capitol Hill để vận động cho Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn
(PNTR) với Việt Nam. Phó đô đốc hồi hưu ông Earl Preston Yates, người từng
tham chiến ở Việt Nam là Chủ tịch danh dự của Hội, đã tiến hành tập hợp các
thành viên, góp kinh phí, tạo lập mối quan hệ và xúc tiến việc VĐCS đối với các
nghị sĩ của Quốc hội Mỹ. Cũng trong thời gian này, trong cộng đồng người Việt
Nam tại Hoa Kỳ cũng đã có những tổ chức, cá nhân vận động để cho Quốc hội
Mỹ sớm thông qua PNTR cho Việt Nam. Đã có rất nhiều người Việt Nam yêu
nước tham gia vào Hội thân hữu Mỹ - Việt vì một nước Việt Nam giàu mạnh với
mục đích hoạt động của Hội như sau: 1- Kết hợp những cá nhân, tổ chức người
Mỹ và người Việt khắp nơi nhằm huy động nhân vật lực ở Hoa Kỳ giúp Việt
131
Nam phát triển. 2- Tạo điều kiện cho người dân 2 nước Mỹ, Việt hiểu biết nhau
hơn nhằm hỗ trợ cho mục tiêu của Hội. 3- Vận động lập pháp, hành pháp và công
luận Hoa Kỳ thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho
Việt Nam. 4- Tổ chức mời các cá nhân, tổ chức ngoài chính phủ ở Hoa Kỳ thăm
Việt Nam và ngược lại để tìm hiểu nhu cầu phát triển của Việt Nam.
Với mục đích hoạt động như vậy Hội thân hữu Mỹ - Việt vì một nước Việt
Nam giàu mạnh đã tiến hành phát triển các công tác “kết nghĩa” địa phương - địa
phương, trường học - trường học, bệnh viện - bệnh viện…trong chiều hướng phát
triển giáo dục, y tế, xã hội từ thiện…ngoài chính phủ để nâng cao phúc lợi người
dân Việt Nam. Vận động các tổ chức phi chính phủ (NGOs) của Hoa Kỳ cung
cấp học bổng, phương tiện cho việc phát triển nhân tài. Tìm hiểu thị trường lao
động, dịch vụ sản phẩm…ở Hoa Kỳ để giới thiệu với người Việt Nam ở trong
nước, tạo điều kiện phát triển cho Việt Nam. Với những hoạt động cụ thể này Hội
đã cung cấp rất nhiều thông tin cho các nghị sĩ của hai viện Quốc hội và đa số
người dân Mỹ, đặc biệt là các doanh nghiệp có ý định và mong muốn làm ăn với
Việt Nam ủng hộ việc thông qua PNTR cho Việt Nam. Ngoài các hoạt động đó,
các cá nhân có kinh nghiệm và uy tín của Hội cũng đã cung cấp cho phía Việt
Nam, đặc biệt là những người trực tiếp đi đàm phán hiểu thế nào là VĐCS ở Mỹ,
quy trình và sự cần thiết phải thuê các tổ chức và cá nhân lobby này. Với quyết
tâm và nỗ lực to lớn, sau một thời gian kiên trì không biết mệt mỏi, chúng ta đã
đạt được kết quả là Quốc hội Mỹ cũng đã thông qua PNTR cho Việt Nam vào
ngày 12 tháng 9 năm 2006 với số phiếu áp đảo và sau đó tổng thống Mỹ George
W. Bush đã ký phê duyệt.
Biểu hiện tiếp sau của VĐCS của các chủ thể Việt Nam ở nước ngoài
chính là những vụ vận động liên quan đến thương mại. Cụ thể là, sau những lần
thua liên tiếp trong các vụ kiện bán phá giá tôm, cá basa hay hạn ngạch xuất khẩu
sản phẩm may mặc, dần dần, Việt Nam cũng thấy rõ một điều rất vô lý, khi phía
Việt Nam thậm chí còn chưa kịp đưa ra các bằng chứng chống kiện, thì Quốc hội
Mỹ đã thông qua dự thảo đánh thuế hàng hoá của Việt Nam. Lý do rất đơn giản:
các tổ chức tại Việt Nam lúc này chưa hề nắm rõ thị trường Mỹ và cũng không có
132
một ý tưởng nào về việc thuê các nhà VĐCS trong vụ kiện. Chi phí thuê vận động
cho dù là có khá lớn, nhưng thực chất còn nhỏ hơn nhiều với thiệt hại khoảng 20
triệu USD từ việc Mỹ nâng mức thuế chống bán phá giá đánh vào sản phẩm cá tra,
basa đông lạnh. Trong khi đó, những tổ chức như Liên minh Tôm miền Nam
(SSA) và Hiệp hội Tôm bang Lousiana (LSA), ngoài việc thuê Công ty Luật
Dewey Ballantine, họ còn sử dụng hàng loạt các công ty chuyên hành nghềVĐCS
nổi tiếng tại đây như Livingston, Jones Walker, Waechter, Poitevent&Denegre…
để vận động các quan chức hai viện Mỹ ủng hộ họ trong vụ kiện bán phá giá Việt
Nam.
Như vậy, có thể thấy, người Việt Nam biết đến VĐCS thông qua những
kinh nghiệm có được trong vụ kiện về tên gọi sản phẩm đối với cá basa, các vụ
kiện về bán phá giá các sản phẩm cá da trơn, tôm vào thị trường Hoa Kỳ, bán phá
giá giày da vào thị trường EU, các cuộc vận động bên hành lang Quốc hội Hoa Kỳ
về việc dành quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cũng như việc
Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Theo thống kê của hiệp hội xuất khẩu thuỷ sản - VAEF đã phải tiêu tốn
khoảng 260.000 USD cho các hoạt động VĐCS trong các vụ kiện bán phá giá về
tôm, cá tra, ba sa tại Mỹ. Các hiệp hội khác như Hiệp hội Giày da, Dệt may,
Thép... cũng phải đối mặt với các vụ kiện chống bán phá giá từ các nước. Nhiều
ý kiến cho rằng Việt Nam còn phải đầu tư nhiều hơn nữa cho các hoạt động vận
động nếu muốn làm ăn suôn sẻ tại các nước [3, 46].
4.2.3. Đặc điểm của vận động chính sách công ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, quan niệm và nhận thức vềVĐCS ở Việt Nam hiện nay còn rất
hạn chế. Thậm chí vì không được nhắc đến một cách chính thức trong các chính
sách, văn bản pháp luật của nhà nước nên trong nhiều trường hợp nó còn là một
khái niệm nhạy cảm và người ta có tâm lý né tránh, không dám đề cập đến một
cách trực diện mà tìm các cách diễn đạt khác để đạt được mục đích.
Thứ hai, Việt Nam còn thiếu các quy định về VĐCS công.Những quy
định như đã trình bày trên hầu hết có liên quan gián tiếp đến VĐCS mà không
133
quy định trực tiếp và cụ thể những nội dung liên quan đến hoạt động VĐCS
công. Khi nghiên cứu về quy định VĐCS của Anh, Pháp, Mỹ cũng như trên thế
giới, rõ ràng mỗi quốc gia hiện nay lựa chọn những mô hình điều chỉnh VĐCS
khác nhau nhưng dù theo hệ thống nào thì sự hiện diện của các văn bản pháp lý
như thế này cũng là cần thiết. Đây là hạn chế cũng là rào cản lớn cho các hoạt
động VĐCS công trong thực tiễn Việt Nam vì chúng ta vắng hẳn một môi trường
thực sự minh bạch để thúc đẩy các tác động tích cực, hạn chế tiêu cực của các
hoạt động VĐCS vốn là nhu cầu khách quan của nhiều nhóm chủ thể trong xã
hội.
Thứ ba, ở Việt Nam đã có những biểu hiện khá rõ ràng của VĐCS với cả
hai phương diện: Việt Nam chủ động sử dụng VĐCS như một công nghệ khi
tham gia vào sân chơi quốc tế; và những biểu hiện của VĐCS trong chính các
quá trình chính trị và chính sách ở nước ta. Tuy nhiên, vì thiếu một khung khổ
pháp lý cho hoạt động này nên hầu hết các nỗ lực nhằm tác động vào chính sách
thông qua vận động ở Việt Nam vẫn còn mang tính tản mạn, chưa hệ thống, chưa
theo quy chuẩn trong đó chủ yếu là những nỗ lực nhằm nâng cao nhận thức và
tạo ra sự đồng thuận trong xã hội về VĐCS cũng như sự cần thiết của hoạt động
này trong đời sống chính trị - xã hội.
Thứ tư, VĐCS công ở Việt Nam hiện nay còn đang đứng trước những khó
khăn và thách thức rất lớn để khẳng định sự cần thiết khách quan cũng như đảm
bảo tính tích cực của nó. Thách thức lớn nhất là Việt Nam chưa có đủ những cơ
sở cần thiết cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội như các nước tư bản phát
triển để VĐCS có thể hình thành và phát triển. Ngoài ra, những hạn chế về năng
lực quản lý của các cơ quan nhà nước cũng dẫn đến có thể có những ứng xử
không phù hợp hoặc khắt khe với VĐCS. Thêm vào đó, về mặt kỹ thuật tổ chức,
bộ máy nhà nước ta còn nhiều bất cập, chưa hoàn thiện có thể sẽ là nguy cơ để
những biểu hiện tiêu cực của VĐCS có cơ hội bộc lộ và lan tràn.
4.3. ĐIỀU KIỆN, THÁCH THỨC VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN VẬN
ĐỘNG CHÍNH SÁCH Ở VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
4.3.1. Những điều kiện cho vận động chính sách ở Việt Nam
134
Thứ nhất, có quy định để đảm bảo người dân tham gia VĐCS. Cụ thể,
việc tham vấn ý kiến doanh nghiệp, người dân và xã hội là một trong những yêu
cầu bắt buộc của quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đối với mỗi
loại hình văn bản được xây dựng, ban hành, Luật đều có quy định về việc tham
gia góp ý kiến đối với dự thảo văn bản; tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự
tác động trực tiếp của văn bản. Việc lấy ý kiến có thể bằng hình thức lấy ý kiến
trực tiếp, gửi dự thảo để góp ý, tổ chức hội thảo, thông qua Trang thông tin điện
tử của Chính phủ, của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo hoặc các phương tiện
thông tin đại chúng… Bằng cách này, người dân, doanh nghiệp và các chủ thể
kháctrong đời sống xã hội có điều kiện tốt hơn để thực hiện quyền tham gia vào
quá trình chính sách như đóng góp ý kiến, phản biện… thông qua đó vừa hiện
thực hóa lợi ích của mình, vừa có thể tác động đưa ra những chính sách tốt hơn
cho xã hội.Hơn thế nữa, trong mỗi văn bản quy phạm luật đều có quy định về
chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của luật
đó. Ngoài ra, còn có các văn bản dưới luật quy định từng chính sách cụ thể của
Nhà nước. Với các quy định này, người dân hoàn toàn có thể biết được ai là người
có thẩm quyền xây dựng chính sách, pháp luật ở Việt Nam; ai là người có quyền
tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật; tham gia ở mức độ nào,
hình thức nào, giai đoạn nào của quá trình; các chính sách cơ bản thể hiện trong
mỗi văn bản quy phạm pháp luật là gì... Từ đó họ có thể chủ động lên kế hoạch để
tiến hành VĐCS.
Thứ hai, sự phát triển kinh tế xã hội làm xuất hiện cơ sở kinh tế và xã hội
cho VĐCS. Ở Việt Nam hiện nay, các nhóm lợi ích đã xuất hiện và phát triển một
cách song song với các đổi mới trong đời sống kinh tế - chính trị của đất nước
những năm qua. Cũng như ở các quốc gia khác, các nhóm lợi ích của Việt Nam
chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế. Chúng ta có thể kể đến một loạt các
nhóm lợi ích tiêu biểu ở Việt Nam trên lĩnh vực kinh tế như Hiệp hội Chế biến và
Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), Hiệp
hội Cao su Việt Nam (VRA), Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (VICOFA), Hiệp
hội các nhà Sản xuất Ô-tô Việt Nam (VAMA), Hiệp hội các nhà Đầu tư Tài chính
135
Việt nam (VAFI), Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HOREA)... Bên cạnh các hiệp
hội, nhóm lợi ích có tổ chức và đăng ký hoạt động chính thức như trên, ở Việt
Nam hiện nay còn tồn tại rất nhiều các nhóm lợi ích nhỏ lẻ khác, đôi khi chỉ liên
quan tới một số công ty, cá nhân... tập hợp lại như một liên minh tự nhiên khi họ
có lợi ích chung bị ảnh hưởng.
Thứ ba, xu hướng phát triển ở Việt Nam trong những năm qua và thời
gian tới thúc đẩy nhu cầu VĐCS. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa và chủ trương hội nhập ngày càng sâu rộng
và tích cực vào sân chơi quốc tế của Việt Nam sẽ làm cho nhu cầu về VĐCS gia
tăng theo cả hai hướng, một là các chủ thể trong và ngoài nước tiến hành VĐCS
tại Việt Nam; và hai là các chủ thể Việt Nam, nhất là các Hiệp hội, doanh nghiệp
và kể cả là Chính phủ Việt Nam tiến hành VĐCS ở các nước đối tác.
4.3.2. Những thách thức với vận động chính sách ở Việt Nam
Thứ nhất, nhận thức về VĐCS của người dân Việt Nam nói chung, các tổ
chức xã hội và doanh nghiệp nói riêng chưa đầy đủ. Doanh nghiệp vẫn có thói
quen coi Nhà nước là người quản lý và mình là người bị quản lý. Nhà nước ban
hành chính sách thế nào thì doanh nghiệp chỉ có nghĩa vụ tuân thủ và làm theo
mà chưa có suy nghĩ phổ biến rằng mình có thể can thiệp vào quá trình xây dựng
chính sách đó. Phần lớn sự can thiệp vào chính sách hiện nay xuất phát từ các tổ
chức xã hội, tổ chức phi chính phủ hoặc các cơ quan đại diện của các tổ chức
quốc tế, chính phủ các quốc gia khác ở Việt Nam, với hình thức tác động khá
phong phú, như thông qua các báo cáo, các bản kiến nghị, diễn đàn hoặc thông
qua các chương trình tài trợ, đào tạo. Các tổ chức này có ảnh hưởng khá lớn đến
chính sách thương mại, kinh tế của Chính phủ Việt Nam và tập trung ở khâu xây
dựng văn bản, nhiều hơn là khâu thực thi.
Thứ hai, sự thiếu rõ ràng của hệ thống pháp chế trong bối cảnh năng lực
quản trị của nhà nước còn hạn chế và mức độ công khai, minh bạch của nhà nước
thấp. Việc phân tích đủ và đúng lợi ích của các bên liên quan trong hoạt động
VĐCS là vô cùng quan trọng nhưng hoàn toàn không đơn giản, nhất là trong điều
136
kiện Việt Nam hiện nay. Ngay cả xác định người có thẩm quyền ra quyết định
cũng không dễ vì hệ thống phân quyền, phân cấp của Việt Nam không rõ ràng.
Do đó, khó khăn cho các chủ thể vận động vì không biết nên và phải vận động ai
và từ đâu. Dù chúng ta đã cố gắng minh bạch hóa các quyết định từ 2004 nhưng
đến nay còn khá nhiều công việc cần phải tiếp tục thực hiện. Bên cạnh đó, do sự
chồng chéo giữa các chủ thể tham gia vào quá trình chính sách, khó khăn cho
việc quy trách nhiệm của các bên có liên quan trong quá trình này, nhất là khi có
những bất cập hay những thất bại trong chính sách gây thiệt hại cho đời sống xã
hội dẫn đến việc chúng ta thiếu hẳn một môi trường công khai, minh bạch để
VĐCS công tích cực có thể phát triển. Thêm vào đó, những hạn chế về năng lực
quản trị của nhà nước cùng với mức độ công khai, minh bạch thấp trong các hoạt
động của nhà nước chính là một rào cản lớn với VĐCS công tích cực. Điều này
có nhiều điểm giống với bối cảnh chính trị của nước Pháp như đã được nghiên
cứu ở trên.
Một thực tế khác nữa là các văn bản luật của Việt Nam thường có phạm vi
điều chỉnh rộng, áp dụng với nhiều đối tượng. Lý do là vì luật Việt Nam thường
được xây dựng theo tư duy tên gọi của văn bản, nội dung văn bản phải đáp ứng
các yêu cầu của tên gọi, tên gọi văn bản phải ở mức khái quát cao, có nội hàm
rộng, dẫn đến luật Việt Nam thường khá “đồ sộ”. Nói cách khác, luật Việt Nam
thường có quy mô lớn, đề cập đến nhiều vấn đề, sử dụng nhiều công cụ pháp lý,
liên quan đến lợi ích của nhiều nhóm đối tượng trong xã hội. Điều này cũng có
nghĩa là nhu cầu VĐCS đối với mỗi văn bản luật ở Việt Nam sẽ đa dạng hơn so
với ở các nước duy trì cách thức xây dựng các đạo luật nhỏ, có phạm vi điều
chỉnh và đối tượng áp dụng hẹp, đề cập đến một vấn đề cụ thể. Ngoài ra, với cách
thức xây dựng luật ở Việt Nam như trên, khi thực tế gặp các vấn đề mới phát
sinh, cần giải quyết thì người ta áp dụng mô hình nghị định “không đầu” hoặc
thông tư “không đầu”. So với quy trình xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh thì
Quy trình xây dựng, ban hành nghị định, thông tư đơn giản hơn nhiều, đặc biệt là
thông tư. Theo quy định hiện hành thì trách nhiệm soạn thảo thông tư thuộc về
một đơn vị trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; trách nhiệm thẩm định dự thảo văn
137
bản thuộc về tổ chức pháp chế của cơ quan; quy định về tham gia ý kiến của các tổ
chức, cá nhân sơ sài, thiếu sự giám sát của các cơ quan ngoài. Chính vì điều này
mà có không ít thông tư chất lượng không cao, không khả thi, không hợp lý, thậm
chí còn trái luật, nhưng do nó lại có giá trị trực tiếp điều chỉnh những vấn đề mới
nảy sinh trong phạm vi một ngành, lĩnh vực, nên thường được các đối tượng điều
chỉnh đặc biệt quan tâm. Điều này cũng có nghĩa là khả năng gia tăng nhu cầu
VĐCS đối với loại văn bản này là điều khó tránh khỏi. Đây sẽ là một nan giải
trong điều kiện kinh nghiệm và trình độ quản lý còn nhiều hạn chế ở Việt Nam.
Thứ ba, các doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm VĐCS. Ở Việt Nam, hầu
hết các hiệp hội doanh nghiệp mới được thành lập và hoạt động trong một số năm
trở lại đây. Một số hiệp hội hoạt động khá hiệu quả, đặc biệt trong lĩnh vực xuất,
nhập khẩu, như Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep), Hiệp
hội dệt may Việt Nam (Vitas), Hiệp hội thép Việt Nam (Vsa)... Họ tham gia vào
quá trình lập chính sách liên quan đến ngành của mình, thậm chí đưa ra đề xuất
chính sách, đề xuất văn bản, nhưng đa phần các hiệp hội khác hoạt động chưa
hiệu quả. Kể từ sau khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực,
các doanh nghiệp bắt đầu được tham vấn chính sách, tuy nhiên họ vẫn còn khá bỡ
ngỡ trong việc đóng góp ý kiến vào quá trình xây dựng, ban hành chính sách,
pháp luật do thiếu kiến thức và thiếu nguồn lực (bao gồm cả nhân lực và tài
chính). Các đóng góp từ doanh nghiệp vào chính sách vẫn chưa mạnh và chưa
thực chất, mới chỉ dừng ở mức góp ý thay đổi câu từ trong văn bản pháp luật chứ
chưa tác động đến độ thay đổi được nội dung cơ bản của văn bản pháp luật hay
chính sách dài hạn của Nhà nước. Một số hình thức tham gia tác động vào chính
sách như tổ chức điều tra, khảo sát lấy ý kiến phản hồi về chính sách và thực thi
chính sách của các doanh nghiệp, hay lấy ý kiến các doanh nghiệp về đánh giá
năng lực canh tranh cấp tỉnh… cũng đã bắt đầu được triển khai. Thêm vào đó,
khó khăn về tài chính là một cản trở lớn cho hoạt động của các hiệp hội doanh
nghiệp Việt Nam. Có tới 72% số hiệp hội hiện nay hoạt động thiếu ngân sách.
Hầu hết các hiệp hội không đủ nhân lực, chuyên môn, kỹ năng VĐCS.
138
Thứ tư, chưa hình thành được đội ngũ VĐCS chuyên nghiệp. Ở Việt Nam,
chưa có một doanh nghiệp hay một tổ chức nào tự nhận mình thực hiện dịch vụ
VĐCS. Chỉ có một số tổ chức đại diện cho doanh nghiệp, hoặc các tổ chức phi
chính phủ, các tổ chức ODA thực hiện các hoạt động được gọi là “vận động
chính sách”. Họ không quan tâm đến các vụ việc cụ thể mà quan tâm rất nhiều
đến chính sách chung. Lực lượng trực tiếp VĐCS có quy mô lớn hiện nay là các
công ty luật. Họ có mối quan hệ với các cá nhân trong cơ quan nhà nước, và cung
cấp dịch vụ cho doanh nghiệp nhưng vai trò mới chỉ dừng lại ở khâu tác động
vào quá trình thực thi, áp dụng pháp luật, giải quyết các sự vụ nhiều hơn là tác
động vào khâu hoạch định chính sách. Trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, hầu
như chưa có nhân viên chuyên trách về VĐCS. Thông thường, người có tác động
chính là giám đốc, người đứng đầu doanh nghiệp. Các cá nhân này có mối quan
hệ trực tiếp từ trước hoặc tự thiết lập đối với các cá nhân trong bộ máy công
quyền.
Thứ năm, tình trạng tham nhũng phổ biến, suy thoái đạo đức của một bộ
phận cán bộ, đảng viên chưa có khả năng ngăn chặn hiệu quả. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 khóa XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định: “Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh
đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa
vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...” [11, tr. 21].Đến Văn
kiện Đại hội XII của Đảng một lần nữa chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị
đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”[12, tr. 185]. Hai chiều
hướng biểu hiện của tham nhũng và suy thoái tư tưởng đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên hiện nay là tình trạng tham nhũng vặt tràn lan, thứ hai là tham
nhũng, suy thoái tư tưởng đạo đức, lối sống đã xâm nhập vào đội ngũ những cán
bộ, đảng viên giữ những chức vụ ngày càng cao trong các cơ quan nhà nước
khiến cho các nỗ lực ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng khó phát huy được hiệu quả.
139
Tình hình này nếu không được khắc phục sẽ là thách thức rất lớn đối với việc
thừa nhận và có những quy định chi tiết về VĐCS ở Việt Nam bởi lẽ nó chính là
điều kiện để VĐCS công biểu hiện rõ nét và sinh động những mặt tiêu cực của
nó.
4.3.3. Xu hướng phát triển vận động chính sách công ở Việt Nam thời
gian tới
Như vậy, có thể thấy rằng, nhu cầu VĐCS trong điều kiện kinh tế - xã hội
hiện nay là khách quan và đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề
đặt ra là hoạt động VĐCS sẽ diễn biến thế nào trong những năm sắp tới. Từ
những phân tích và nhận định về những biểu hiện cũng như điều kiện cho VĐCS
ở Việt Nam, có thể dự đoán xu hướng phát triển hoạt động này thời gian tới như
sau:
Thứ nhất, tranh luận xung quanh việc luật hóa hay chưa luật hóa VĐCS
công ở Việt Nam đã, đang diễn ra trong thời gian vừa qua vẫn sẽ tiếp tục trở
thành đề tài được thảo luận nhiều hơn trong thời gian tới với những nỗ lực của
các bên có liên quan nhưng khả năng luật hóa VĐCS công ở Việt Nam chưa thể
thành hiện thực trong ít nhất 5 năm tới đây. Sở dĩ dự đoán như vậy là vì nhu cầu
VĐCS của các chủ thể trong đời sống chính trị thực tiễn là khách quan, nhưng
trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, chúng ta còn thiếu những điều kiện cơ bản để
VĐCS có thể phát triển đầy đủ. Hơn thế nữa, nhìn ra thế giới, nhiều nước phát
triển cũng chưa có hoặc không có những quy định về VĐCS, và cũng chưa có
những bằng chứng thực sự mạnh cho việc chỉ luật hóa VĐCS thì hoạt động này
mới phát triển và ngược lại. Ngay như trường hợp Liên bang Nga, dù vấn đề này
được trở đi trở lại trên bàn nghị sự nhưng cho đến thời điểm này một luật chính
thức cho VĐCS ở Liên bang Nga vẫn chưa có. Nhiều nước được đánh giá là phát
triển không chỉ bởi những thành tựu về kinh tế và những chỉ số về môi trường
sinh thái, an sinh xã hội, mức độ tham gia của người dân vào đời sống chính trị
cao như các nước Bắc Âu cũng gần như không có quy định về VĐCS. Hầu hết
các quốc gia châu Á kể cả Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản cho đến thời điểm
140
này cũng chưa có luật về VĐCS, cũng chưa thấy khả năng có được điều này
trong tương lai gần.
Thứ hai, dù chưa có luật VĐCS cũng, cũngchưa thừa nhậnVĐCS công
như một yếu tố cần thiết để thực hiện dân chủ trong chính sách ở Việt Nam
nhưng những biểu hiện của VĐCS công bao gồm cả những biểu hiện của vận
động ngầm của các chủ thể trong và ngoài nước ở Việt Nam cũng như nhu cầu
VĐCS của các chủ thể Việt Nam trong sân chơi quốc tế sẽ vẫn tiếp tục diễn ra,
cung cấp thêm những bằng chứng hỗ trợ cho những tranh luận về việc nên hay
không thừa nhận VĐCS công ở Việt Nam. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
đang mở ra những cơ hội nhưng cũng đặt Việt Nam trước những thách thức thực
sự lớn, yêu cầu các chủ thể của chúng ta phải nhìn nhận lại và thay đổi chiến lược
phát triển cho mình để tồn tại và phát triển. Đặc biệt, tới đây là thời điểm Việt Nam
chính thức phải thực hiện rất nhiều các cam kết mà chúng ta đã kí kết với tư cách
là thành viên, điều này cho phép chúng ta dự đoán rằng, với một môi trường sôi
động như thế, nhu cầu và khả năng các chủ thể tiến hành VĐCS công ở Việt Nam
cũng như nhu cầu tiến hành vận động đối với các nước của các chủ thể Việt Nam
là rất cao. Theo một nghiên cứu, chỉ nói riêng ở khu vực Đông Nam Á, chính phủ
những nước từ Campuchia hoặc Mynamar đến những nước phát triển hơn đều có
hoạt động VĐCS và thuê VĐCS quốc tế, ngoại trừ Việt Nam và Lào. Điều đó đặt
ra cho chúng ta yêu cầu phải suy nghĩ nghiêm túc hơn về việc sử dụng VĐCS như
một công nghệ trong quá trình hội nhập, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại, biết
và hiểu luật chơi là nhân tố quan trọng quyết định thành công.
Thứ ba, việc giám sát các hoạt động VĐCS ngầm giữa các chủ thể với
chính quyền ở Việt Nam trong thời gian tới sẽ được kiểm soát chặt chẽ hơn trước
áp lực từ xã hội. Cụ thể hơn, dù chưa chính thức được thừa nhận nhưng các hoạt
động VĐCS vẫn diễn ra ở trong nước, do cả các chủ thể Việt Nam và chủ thể
nước ngoài tiến hành ở Việt Nam. Điều đáng nói là, những hoạt động vận động
ấy đã ít nhiều bộc lộ ra ở mặt tiêu cực của VĐCS, nạn tham nhũng, hối lộ, chạy
chính sách, chạy dự án… đã được khẳng định là có thật, và tệ hại hơn là nó đã và
đang gây ra những hệ lụy vô cùng lớn cho quốc gia, trong đó có những vấn đề về
141
an ninh trật tự, về môi trường sinh thái và về cơ bản nhiều hậu quả là không thể
khắc phục được, và người cuối cùng phải gánh chịu chính là Nhà nước và nhân
dân Việt Nam. Tóm lại, người dân và dư luận xã hội ở Việt Nam bắt đầu chú ý
nhiều hơn đến VĐCS công nhưng không phải với thiện chí mà ngược lại, và đã,
đang có những nỗ lực cấp cộng đồng để chống lại những hành vi vận động đen,
vận động bẩn, trục lợi từ chính sách. Do đó, có thể dự đoán, hoạt động VĐCS ở
Việt Nam thời gian tới nếu có diễn ra cũng biểu hiện nhiều hơn ở mặt tích cực
của nó khi VĐCS để tạo môi trường thuận lợi hơn, phù hợp hơn cho các Hiệp
hội, doanh nghiệp hoạt động và phát triển, nhưng sẽ hạn chế được những mặt tiêu
cực của nó, ít nhất là so với những năm vừa qua. Nói cách khác, cùng với xu thế
chung của thế giới, các hoạt động VĐCS “đen”, vận động không chính thức
nhiều khả năng sẽ sớm được thay thế bởi các hoạt động VĐCS của hiệp hội kinh
tế. Một loại hình dịch vụ mới cần được ra đời sớm, đó là các công ty chuyên thực
hiện các hoạt động VĐCS, các công ty này sẽ đóng vai trò là cầu nối giữa các
hiệp hội kinh tế và các cơ quan công quyền nói riêng và các nhóm lợi ích nói
chung. Tuy nhiên, xu hướng này có thể còn ở một tương lai xa hơn.
Tóm lại, VĐCS ở Việt Nam đã xuất hiện như một nhu cầu khách quan
nhưng vấn đề đã luật hóa hay chưa hoạt động này còn đang gây tranh cãi và sẽ
còn tiếp tục được đưa ra tranh luận trong thời gian tới. Sở dĩ như vậy bởi vì quyết
định thừa nhận hay không hoạt động này trong nền chính trị hoàn toàn không đơn
giản với các quốc gia, ngay cả với nước Mỹ, quốc gia được coi là đi đầu về
VĐCS trên thế giới. Ngay từ những ngày đầu, người Mỹ cũng phải đứng trước
những khó khăn và thách thức khi giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích chính đáng
của những người vận động và nguy cơ tham nhũng, hối lộ các quan chức khi thừa
nhận thiết chế này. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, khảo sát thực tiễn
chính sách và VĐCS công ở Việt Nam, có tham khảo kinh nghiệm của các nước
trên thế giới là thực sự cần thiết và cần phải khuyến khích trong những năm tiếp
theo cả vì ý nghĩa lý luận và thực tiễn của nó.
4.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC NHẰM ỨNG XỬ HỢP LÝ
VỚI VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
142
4.4.1. Nâng cao nhận thức về vận động chính sách trong toàn hệ thống
chính trị và cả xã hội
Muốn điều chỉnh VĐCS cho phù hợp với mục tiêu ưu tiên của nhà nước,
trước hết cần bắt đầu từ vấn đề nhận thức. Nhận thức còn chưa đầy đủ và thiếu
thống nhất về VĐCSnhư đã phân tích ở trên là một trong những đặc điểm, cũng
là hạn chế về nhận thức ở Việt Nam hiện nay. Do đó, điều cần thiết đầu tiên là
phải nâng cao nhận thức về VĐCS công trong toàn xã hội mà trước hết là trong
hệ thống chính trị để tạo ra sự thống nhất và khả năng đồng thuận cũng như hợp
lực trong quá trình thực hiện các quan điểm, chính sách của nhà nước. Muốn
nâng cao nhận thức về VĐCS, trước hết cần tiếp tục khuyến khích các nghiên
cứu về VĐCS cả ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam để thống nhất cách quan
niệm về VĐCS, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa các nghiên cứu, truyền thông tích
cực trong nhân dân về VĐCS để hình thành sự hiểu biết, nhu cầu, thói quen tìm
hiểu về VĐCS. Bên cạnh đó, phối hợp với các đối tác, các tổ chức nước ngoài để
tổ chức các khóa tập huấn về kiến thức và kỹ năng VĐCS cho các đối tượng ưu
tiên trong xã hội, thông qua đó cũng giúp nâng cao ý thức và nhận thức về VĐCS
của người dân cũng như hệ thống chính trị. Cụ thể như sau:
Một là, tiếp tục tổ chức thêm nhiều hội thảo chuyên sâu về các chủ đề liên
quan đến VĐCS để trao đổi kỹ hơn, đồng thời giúp các đối tượng có liên quan
hiểu rõ hơn về sự cần thiết của VĐCS. Trong những buổi hội thảo sắp tới, bên
cạnh việc tiếp tục mời các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam, cần mời
nhiều hơn đại diện của các hiệp hội, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ
(NGOs) tại Việt Nam, vì hiện nay họ là những chủ thể cơ bản tiến hành hoạt
động VĐCS. Đặc biệt, cần mời những chuyên gia giỏi nước ngoài, có kinh
nghiệm về VĐCS hay đại diện các công ty tư vấn, văn phòng luật nổi tiếng của
Mỹ hoặc EU đến dự hội thảo để có thể trao đổi, nêu lên những ví dụ cụ thể và
quá trình VĐCS tại các quốc gia thịnh hành hoạt động này. Trên cơ sở đó, họ sẽ
chia sẻ thêm kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc định hình khái niệm, cách xây
dựng một nhà VĐCS chuyên nghiệp và tiến tới ban hành những quy định về hoạt
động VĐCS.
143
Hai là, mở rộng các diễn đàn về VĐCS trên các phương tiện thông tin đại
chúng; xuất bản nhiều ấn phẩm chuyên sâu về VĐCS. Thông qua những diễn đàn
này, các tầng lớp, các nhóm trong xã hội Việt Nam có thể trình bày những quan
điểm của giới mình, tầng lớp mình về hoạt động VĐCS, trên cơ sở đó cung cấp
cho Nhà nước những thông tin bổ ích và thái độ của đa số nhân dân về hoạt động
VĐCS. Hiện nay, đa số người dân Việt Nam còn chưa biết hoặc hiểu mơ hồ dẫn
đến hiểu sai về VĐCS, do đó truyền thông đại chúng sẽ như chiếc cầu nối giúp cho
họ nhận thức đúng vấn đề, thậm chí còn có những hoạt động VĐCS phù hợp.
Trong thời gian tới cần phải xuất bản nhiều hơn nữa những cuốn sách của nước
ngoài, kết quả nghiên cứu, ấn phẩm liên quan đến VĐCS để đa số người dân có thể
tiếp cận được. Nhà nước cần tạo điều kiện và hỗ trợ cho những công trình của các
dịch giả và của những nhà khoa học để họ có được cơ sở chuyên tâm nghiên cứu
làm rõ về hoạt động VĐCS, từ đó cung cấp những thông tin và tư liệu hữu ích cho
hoạt động VĐCS.
4.4.2. Đẩy mạnh cải cách quy trình chính sách theo hướng khoa học
và hiệu quả
Quy trình chính sách còn nhiều bất cập là một trong những hạn chế và là
rào cản lớn cho VĐCS tích cực. Do đó, thời gian tới chúng ta cần tập trung vào
việc rà soát lại quy trình chính sách, quy định chặt chẽ hơn về các thủ tục và phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể tham gia nhằm hạn chế tình trạng
chồng chéo về chủ thể giữa các cơ quan Đảng và Nhà nước, giữa các bộ, ngành
trong cơ quan nhà nước với nhau và giữa trung ương với địa phương nhằm tăng
cường khả năng quy trách nhiệm của các bên có liên quan, nâng cao tính minh
bạch và trách nhiệm giải trình trước nhân dân về các chính sách còn gây nhiều
tranh cãi.
Bên cạnh đó, cần tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật theo hướng bảo đảm sự minh bạch, khách quan hơn cho dự
thảo các văn bản về chính sách
Theo hướng này, cần thực hiện mấy định hướng cụ thể sau:
144
Một là, không giao cho các Bộ, ngành có liên quan chủ trì soạn dự thảo và
trình dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật. Thay vào đó, hình thành những
nhóm chuyên gia gồm các Luật sư, Luật gia, các chuyên viên cao cấp có đủ trình
độ chuyên môn trực thuộc Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đảm nhiệm việc chủ trì
dự thảo, kiểm tra, đánh giá các dự thảo và việc tiếp thu các ý kiến góp ý, phản biện
trước khi trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Hai là, từng bước cải tiến để tiến tới xóa bỏ các Thông tư hướng dẫn sau
Nghị định của Chính phủ. Nghiêm cấm và xử lý nghiêm minh những trường hợp
sử dụng công văn của ngành, thậm chí là công văn nội bộ, để sửa đổi, bổ sung
chính sách đã ban hành.
Thực hiện tốt hai nội dung kiến nghị trên cũng chính là từng bước đảm bảo
sự độc lập cao hơn nữa giữa chức năng lập pháp và chức năng hành pháp trong
nhà nước pháp quyền XHCN của chúng ta.
Pháp luật cần quy định rõ hơn yêu cầu về nội dung đối với mỗi loại văn
bản, trong đó chú ý giới hạn chặt chẽ hơn về nội dung văn bản; trình tự, thủ tục
ban hành đối với các thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, để
có thể kiểm soát được nhu cầu vận động chính sách đối với loại văn bản này.
Ngoài ra, cũng cần mở rộng quy định về đối tượng được tham gia vào quá trình
xây dựng các văn bản quy phạm và chính sách về kinh tế, xã hội. Để điều này
được thực hiện đảm bảo tính khả thi, cần tập trung vào cơ chế giải quyết các quan
hệ và quy trình nhất quán sau đây:
Một, Ủy ban pháp luật của Quốc hội là cơ quan chịu trách nhiệm chính
trong việc xây dựng dự thảo các văn bản về chính sách kinh tế, xã hội dưới các
hình thức Luật, Pháp lệnh; Ban Xây dựng pháp luật của Chính phủ chịu trách
nhiệm chính trong việc xây dựng dự thảo các văn bản về chính sách kinh tế, xã
hội thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
Hai, việc xây dựng các dự thảo Luật, Pháp lệnh, Nghị định được hình
thành dưới hình thức Dự án nghiên cứu. Cơ quan chủ trì có trách nhiệm lập Hồ
145
sơ dự án, bao gồm: yêu cầu phải đạt được về nội dung, thời hạn, những nội dung
thuộc chuyên ngành hẹp và kinh phí thực hiện.
Ba, các dự án nghiên cứu được thông báo công khai và lựa chọn đơn vị
soạn dự thảo theo phương thức đấu thầu. Điều này sẽ tạo ra cơ chế thực tế để lựa
chọn chính xác những chủ thể thực sự có khả năng, năng lực trong việc soạn các
dự thảo cũng như nâng cao khả năng chịu trách nhiệm của các bên có liên quan
nhất là trong trường hợp có tiêu cực xảy ra. Tiếp đó, nếu làm được điều này sẽ
tạo tạo tiền đề cho những dự luật và chính sách có chất lượng tốt được ra đời.
Bốn, bằng để lựa đơn vị được chọn để thực hiện dự án có trách nhiệm thực
hiện tất cả các khâu công việc để đưa ra một dự thảo có đầy đủ căn cứ khoa học
bao gồm: kinh nghiệm quốc tế về vấn đề có liên quan và những nội dung có thể
vận dụng vào thực tiễn Việt Nam; kết quả điều tra thực tiễn; các ý kiến góp ý,
phản biện; việc xử lý những ý kiến chưa thống nhất hoặc trái chiều nhau; trình
bày và bảo vệ những vấn đề được nêu trong dự thảo văn bản trước cơ quan chủ
trì và các cơ quan có liên quan, v.v…
Năm, cơ quan chủ trì thẩm tra, nghiệm thu và trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt. Khâu này trước nay vẫn bị xem nhẹ một phần xuất phát từ quan niệm của
chúng ta, phần nữa xuất phát từ sự hạn chế về nguồn lực cho các chính sách. Tuy
nhiên, thực tế chứng minh, với những diễn biến phức tạp, khó lường trong quá
trình chính sách, yêu cầu thẩm tra, nghiệm thu rồi trình cấp có thẩm quyền chính
thức phê duyệt các dự án luật sẽ giúp cho quy trình trở nên chặt chẽ hơn, giống
như hành lang cuối cùng đảm bảo và tăng cường tính đúng đắn, sát thực và phù
hợp của các dự án luật, chính sách.
4.4.3. Xây dựng và hoàn thiện quy định pháp lý về vận động chính
sách
Quy định pháp lý về VĐCS sẽ quy định rõ về nguyên tắc, nội dung, hình
thức của việc VĐCS; trách nhiệm của các cơ quan có liên quan, của các tầng lớp
dân cư, cộng đồng doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu… trong việc thực hiện các
nhiệm vụ VĐCS. Quy định này có thể được thực hiện thông qua việc sửa đổi, bổ
146
sung Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hoặc thông qua một Nghị
định của Chính phủ về vấn đề này. Xây dựng và hoàn thiện quy định này là khá
khó khăn và phức tạp trong bối cảnh hiện nay nhưng lại thực sự cần thiết để
thông qua đó thể hiện rõ quan điểm của nhà nước với VĐCS, từ đó có những ứng
xử phù hợp. Chính vì vậy, cần ưu tiên mọi nỗ lực để sớm hiện thực hóa mục tiêu
này. Khi đã có một quy định chính thức về VĐCS cũng có nghĩa là hoạt động
VĐCS chính thức được nhìn nhận như là một hoạt động cần phải quản lý, vượt
qua tâm lý né tránh, không dám đối mặt với VĐCS, coi nó như một lĩnh vực
phức tạp, nhạy cảm, ngại đề cập. Nói cách khác, nó thể hiện khả năng và quyết
tâm đối diện để giải quyết những vấn đề cơ bản trong thực tiễn VĐCS vốn luôn
rất phức tạp và nhiều biến động. Tóm lại, việc sớm nghiên cứu ban hành văn bản
điều chỉnh hình thức chủ động VĐCS của các tổ chức, cá nhân, theo hướng tận
dụng được các lợi thế của VĐCS, đó là giúp chính quyền biết được mối quan
tâm, nguyện vọng của nhân dân, nhằm điều chỉnh chính sách cho phù hợp. Ngoài
việc tạo dựng và hoàn thiện quy định pháp lý về VĐCS, Nhà nước không cần can
thiệp quá sâu vào hoạt động này bằng các quy định cấm đoán mà điều quan trọng
là để mọi chủ thể được tự do VĐCS, nhưng cần được quy phạm hóa để kiểm soát
và hướng nó tới mục đích phục vụ tích cực cho sự phát triển kinh tế, xã hội của
đất nước.
4.4.4. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế và nâng cao hiệu quả giám sát, phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã
hội
Trong những phân tích về điều kiện và những biểu hiện của VĐCS công ở
Việt Nam, có thể thấy chúng ta còn thiếu nhiều điều kiện để VĐCS có thể phát
triển đầy đủ. Tuy nhiên, không phải chưa có những cơ chế để giám sát quy trình
chính sách, trong đó có hoạt động VĐCS. Sự giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội sẽ là một kênh quan trọng và
hiệu quả để giám sát quá trình chính sách, để đảm bảo VĐCS tích cực phát
triển.Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức
147
hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hóa, phát huy vai trò nòng cốt tập
hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực
hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước
trong sạch, vững mạnh; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các
tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại” [11]. Chức năng giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng được khẳng định trong Điều 9 Hiến pháp
2013. Ngày 12-12-2013 Bộ Chính trị có Quyết định số 217-QĐ/TW ban hành
Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể chính trị - xã hội. Như vậy, giám sát và phản biện xã hội trở thành một
chức năng cơ bản của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.Những năm qua của Mặt trận
và các đoàn thể nhân dân đã tham gia tích cực, chủ động vào quá trình xây dựng
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, giám sát hoạt động
của cơ quan Nhà nước các cấp trong việc thực hiện các chủ trương chính sách ở
cơ sở, việc bầu đại biểu dân cử cũng như công tác cán bộ v.v... Tuy vậy, đến nay
vẫn còn không ít lĩnh vực giám sát của Mặt trận chưa được pháp luật cụ thể hóa
thành cơ chế; năng lực giám sát phản biện còn yếu; hoạt động giám sát, phản biện
còn gặp nhiều khó khăn nên hiệu quả chưa cao. Vì vậy, để làm tốt vai trò quan
trọng này, không chỉ Mặt trận mà toàn bộ hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo
của Đảng cần phải nhận thức đầy đủ và tạo mọi điều kiện để việc giám sát và
phản biện của Mặt trận đi vào cuộc sống thiết thực.Hoạt động giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận phải thật sự góp phần làm cho chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước sát hợp với đời sống xã hội; bộ máy và cán bộ
trong hệ thống chính trị ngày càng được nâng cao về năng lực cũng như phẩm
chất đạo đức, tác phong công tác, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí… để
ngày càng đáp ứng tốt hơn công cuộc đổi mới của đất nước, cũng như nâng cao
vị thế của Mặt trận, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng với chế độ. Hoàn
thiện được cơ chế giám sát, phản biện của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân,
kích hoạt hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện của các tổ chức này sẽ là một
kênh quan trọng đảm bảo cho việc kiểm soát được VĐCS ở Việt Nam theo
148
hướng phát huy mặt tích cực, hạn chế những biểu hiện tiêu cực của nó, đáp ứng
được nhu cầu khách quan của các chủ thể xã hội cũng như đòi hỏi từ thực tiễn đất
nước.
149
Tiểu kết chương 4
Vận động chính sách công dù đã được nghiên cứu nhiều cả về mặt thuật
ngữ cũng như thực tiễn trên thế giới nhưng rõ ràng nó còn rất mới mẻ ở Việt
Nam. Điều đáng nói hơn, trong cách quan niệm, cách hiểu và kể cả những biểu
hiện của VĐCS ở Việt Nam dưới góc độ nào đó có nhiều điểm ngược lại với thế
giới. Dù vậy, dùng quan niệm và cách tiếp cận về VĐCS như ở chương 2 để soi
vào thực tiễn chính sách Việt Nam, chúng ta thấy những nỗ lực rất đáng kể trong
việc tìm hiểu và nghiên cứu cũng như thực hành VĐCS ở nước ta hiện nay, nhất là
những nỗ lực từ phía các hiệp hội, các doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và
các thể chế khác. Tất nhiên, chúng ta cũng biết, để VĐCS hình thành và phát triển
một cách đầy đủ cần rất nhiều yếu tố mà thực tiễn Việt Nam hiện nay chưa thể đáp
ứng ngay được. Đó là lí do giải thích tại sao nhu cầu vận động được xem là tất yếu
nhưng ở Việt Nam, VĐCS ít nhiều vẫn thường bị gán cho cái mác tiêu cực với
những biểu hiện xấu của nó. Không đơn giản để đưa ra những khuyến nghị cho
Chính phủ Việt Nam dù chỉ là trong cách ứng xử như thế nào với VĐCS cho phù
hợp và khai thác hoạt động này một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên, từ thực tiễn
VĐCS ở ba quốc gia đã làm rõ trong chương 2, nhất là thông qua việc tìm hiểu về
pháp luật về VĐCS, soi vào thực tiễn chính sách và những biểu hiện VĐCS ở Việt
Nam, chỉ ra những thuận lợi cùng những thách thức cho VĐCS phát triển để bộc lộ
những khía cạnh thực sự tích cực ở Việt Nam, đưa ra những dự báo về xu hướng
vận động của hoạt động này ở Việt Nam thời gian tới, có thể gợi mở hoặc cung cấp
thêm cách tiếp cận hay dẫn liệu để giúp tìm ra những giải pháp tháo gỡ khó khăn,
tạo đà cho VĐCS tham gia và đóng góp tích cực, hiệu quả hơn vào quá trình chính
sách cũng như các quá trình kinh tế - xã hội khác ở Việt Nam.
150
KẾT LUẬN
Dù còn là vấn đề khá mới mẻ ở Việt Nam nhưng VĐCS công đã được áp
dụng và luật hóa ở nhiều quốc gia trên thế giới từ lâu. Với tư cách là một hoạt
động, cao hơn nữa là một công nghệ trong đời sống chính trị, VĐCS côngđược
hình thành và phát triển gắn với những điều kiện nhất định về kinh tế, chính trị,
văn hóa xã hội và có chủ thể, đối tượng, mục đích, phương thức và phương tiện
thực hiện riêng theo những bước tiến hành mang tính chất cơ bản. Tùy vào mục
đích, động cơ và cách thức chủ thể tiến hành vận động mà VĐCS biểu hiện ra ở
những khía cạnh tích cực hay tiêu cực của nó. Chính vì vậy, cần hiểu về VĐCS, đặt
nó vào trong những môi trường chính trị - xã hội nhất định để tạo ra những điều kiện
giúp phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của VĐCS hoặc ít nhất là có những
ứng xử phù hợp với hoạt động này.
Anh, Pháp, Mỹ không chỉ điển hình cho ba mô hình thể chế chính trị với
những đặc điểm riêng trong quy trình chính sách mà còn cho thấy ba mô hình với
ba bối cảnh thực tiễn VĐCS không giống nhau xuất phát từ sự khác biệt về điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, về quan điểm và thái độ của nhà nước với VĐCS
dẫn đến những biểu hiện và sự phát triển của VĐCS trong đời sống chính trị mỗi
quốc gia đều có những đặc thù, chứa đựng những bài học có thể tham khảo cho
Việt Nam. Là quốc gia mà VĐCS được đánh giá là diễn ra phổ biến và mạnh mẽ
cũng là quốc gia sớm quy định và chủ động hoàn thiện hệ thống quy định pháp
luật về VĐCS, Mỹ được coi là quốc gia VĐCS được thực hiện một cách chuyên
nghiệp và hiệu quả nhất. Tính chuyên nghiệp và hiệu quả của VĐCS công ở Mỹ
thể hiện từ chính hoạt động của các chủ thể VĐCS ở đây. Sự phong phú, đa dạng
của các chủ thể, đối tượng VĐCS cùng với những phương thức, phương tiện vận
động và sự duy trì ở mức cao chi phí cho VĐCS cũng như sự gia tăng quy mô và
số vụ việc vận động là những bằng chứng cho thấy bức tranh sinh động về VĐCS
công ở Mỹ. Trong khi đó, Anh và Pháp là hai đại diện của châu Âu với những
quy định về VĐCS khác nhau, bối cảnh thể chế và đặc điểm quy trình chính sách
có những đặc thù, hoạt động VĐCS diễn ra kém sôi nổi, ít hiệu quả và tính
chuyên nghiệp không cao như ở Mỹ. Tuy nhiên, sự tồn tại không thể phủ nhận
151
của VĐCS với những biểu hiện ngày càng rõ nét của VĐCS công ở Anh và Pháp
góp phần chứng minh VĐCS công là tất yếu khách quan và xu hướng mở rộng
hoạt động này trong nền chính trị mỗi quốc gia cũng như trên bình diện khu vực
và quốc tế. Nghiên cứu về thực tiễn VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ cũng cho thấy
những liên hệ chặt chẽ giữa đặc điểm thể chế chính trị, khung khổ pháp lý với sự
đa dạng, chuyên nghiệp và hiệu quả của VĐCS công, từ đó gợi mở những ý
tưởng cho Việt Nam trong ứng xử với VĐCS công như là một nhu cầu tất yếu
khách quan của các chủ thể ra sao để vừa không làm giảm động lực phát triển của
các chủ thể trong đời sống xã hội, vừa kiểm soát và kiềm chế những mặt tiêu cực
của các hoạt động này.
Ở Việt Nam hiện nay, tuy vấn đề VĐCS công chưa được quy định cụ thể
trong pháp luật nhưng đã, đang diễn ra và có xu hướng ngày càng phổ biến hơn
trong bối cảnh nước ta hội nhập ngày càng sâu, rộng, đòi hỏi cần phải hoàn thiện
khuôn khổ pháp luật để điều chỉnh. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu các vấn
đề cơ bản về VĐCS và làm rõ thực tiễn VĐCS ở ba quốc gia Anh, Pháp, Mỹ, tìm
ra những điểm tương đồng, khác biệt, những giá trị phổ biến và những điểm có
thể tham chiếu, gợi mở cho Việt Nam, nhất là từ đó đề xuất những khuyến nghị
giúp Chính phủ Việt Nam chủ động và ứng xử phù hợp hơn với VĐCS thực sự
có ý nghĩa không chỉ về lý luận mà ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Luận án này được
hoàn thành với mong muốn hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản về VĐCS làm cơ
sở khảo sát thực tiễn hoạt động này ở ba quốc gia Anh, Pháp, Mỹ từ đó soi vào
thực tiễn Việt Nam để tìm ra những giá trị có tính chất tham khảo, gợi mở là một
hướng nghiên cứu mới góp phần làm rõ hơn một trong những nội dung còn mới
mẻ và gây tranh cãi ở Việt Nam hiện nay, cả trong khoa học và trong đời sống
chính trị thực tiễn đó là VĐCS công.
152
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phạm Thị Hoa (2010), “Vận động hành lang - một hoạt động phổ biến trong
thiết chế dân chủ”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (5).
2. Phạm Thị Hoa (2013), “Những điều kiện để vận động hành lang tích cực ở
Hoa Kỳ”, Tạp chí Thông tin đối ngoại (6).
3. Phạm Thị Hoa (2014), “Các hiệp hội tự trị với việc hình thành nền dân chủ đa
trị trong quan điểm của Robert Alan Dalh”, Tạp chí Thông tin đối ngoại (6).
4. Phạm Thị Hoa (2014), “Một số khía cạnh chủ yếu của quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự ở Thụy Điển”, Tạp chí Lý luận chính
trị và truyền thông (7).
5. Phạm Thị Hoa (2015), “Vận động chính sách ở Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí Lý luận chính trị và truyền thông (2).
6. Phạm Thị Hoa (2016), “Văn hóa từ chức ở một số quốc gia Đông Á và những
giá trị tham khảo cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (3).
7. Phạm Thị Hoa (2016), “Hoàn thiện mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước ở
Việt Nam từ kinh nghiệm của Hàn Quốc”, Tạp chí Thông tin đối ngoại, (8).
153
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiếng Việt
1. Alexis de Tocqueville (1961), Nền dân chủ ở nước Mỹ, tập 2, New York,
Schocken Books, trang 128.
2. Lưu Văn An (2010), Vận động hành lang trong đời sống chính trị các nước
phương Tây, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
3. Diệu Anh (2000), “Một số yếu tố ngoài chính phủ trong quá trình hoạch
định chính sách đối ngoại của Mỹ”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, (41).
4. Vũ Hồng Anh (2002), “Tổ chức và hoạt động của Nghị viện Vương quốc
Anh”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, (10).
5. Nguyễn Bảo (2009), “Bê bối tại Thượng viện nước Anh”, Báo An ninh thế
giới (2).
6. Nguyễn Ngọc Chung (2014) “Một số vấn đề về đổi mới hoạch định chính
sách công ở Việt Nam”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (8).
7. Nguyễn Thị Hồng Chương (2010), Vận động hành lang trong hoạt động lập
pháp của Quốc hội (Nghị viện) một số nước trên thế giới, Luận văn Thạc
sĩ Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Đại học Luật, Hà Nội.
8. Nguyễn Đăng Dung (2006), “Công tác dân nguyện của Quốc hội và hoạt
động vận động hành lang”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (8).
9. Nguyễn Chí Dũng (2009) “Vận động hành lang trong hoạt động lập pháp
các nước và xu hướng ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (79).
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội X, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
154
13. Gary Wassrman (1997), Những cơ sở của nền chính trị Mỹ, (bản dịch của
thạc sỹ Đoàn Văn Thắng), Longman - New York.
14. Ngọc Hà (2007): “Vận động và hối lộ - Lằn ranh giới mong manh”, Báo
Người đại biểu nhân dân (26/9), tr. 3.
15. Trần Bách Hiếu (2009), “Vận động hành lang trong nền chính trị Mỹ và
một số liên hệ tới Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (16).
16. Hoàng Minh Hiếu (2003), “Vai trò của ủy ban trong quy trình lập pháp ở
Nghị viện một số nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (7).
17. Minh Hiểu (2007), “Lịch sử nghề vận động hành lang tại Nghị viện”,
Báođiện tử Đại biểu nhân dân.
18. Vũ Đăng Hinh (2001), Hệ thống chính trị Mỹ, Nxb Khoa học xã hội, H.
19. Nguyễn Anh Hùng (2015), “Những nhân tố tác động đến vai trò và quyền
lực Tổng thống Mỹ”, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, (1).
20. Trần Mai Hùng (2015), “Sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội vào
quá trình hoạch định và thực thi chính sách công”, Tạp chí Quản lý nhà
nước (228).
21. Trần Mai Hùng (2015), “Vai trò của các think tank trong hoạch định chính
sách - kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Quản lý nhà nước (229).
22. Trần Mai Hùng (2015), “Vận động hành lang trong hoạch định chính
sách”, Tạp chí Lý luận chính trị (5).
23. Nguyễn Văn Huyên (2008), Hệ thống chính trị của Anh, Pháp, Mỹ (mô
hình tổ chức và hoạt động), Nxb Lý luận chính trị, H.
24. Nguyễn Thái Yên Hương (2005), Liên bang Mỹ - đặc điểm xã hội và văn
hóa, Viện văn hóa và Nxb Văn hóa Thông tin, H.
25. John Mills (2005), Luận về tự do, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Khoa Chính trị học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2009), Giáo trình
Thể chế chính trị thế giới đương đại, Nxb Chính trị - Hành chính, H.
27. Khoa Chính trị học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2009), Giáo trình
Khoa học Chính sách công, Nxb Chính trị - Hành chính, H.
155
28. Trần Việt Lâm (2013), “Lý thuyết người đại diện, lý thuyết trò chơi và bài
toán người đại diện vốn nhà nước tại các doanh nghiệp”, Tạp chí Kinh tế
và phát triển (198), tr 52- 59.
29. Nguyễn Tuấn Minh (2004), “Hệ thống chính trị Mỹ và vận động hành
lang”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (11).
30. Vũ Thị Nhài (2009), “Vận động chính sách đối với doanh nghiệp kinh tế:
cần một khung pháp lý”, https://luatminhkhue.vn/kien-thuc-luat-doanh-
nghiep/van-dong-chinh-sach-doi-voi-doanh-nghiep-kinh-te-can-mot-
khung-phap-ly.aspx (Truy cập ngày 14-3-2014).
31. Dương Xuân Ngọc (2014), Tham nhũng và phòng, chống tham nhũng
trong chính sách, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, H [Tài liệu chưa
xuất bản].
32. Phan Văn Ngọc: Vận động chính sách: “chìa khóa vàng” hướng tương lai
- bài viết từ lớp tập huấn cho các thành viên Liên mạng vận động chính
sách INPA do Quỹ C&D tổ chức, 2012.
33. Nguyễn Minh Phương(2014), “Tổ chức và hoạt động của hội, tổ chức phi
chính phủ ở nước ta”, Tạp chí Lý luận chính trị (3).
34. Lưu Văn Quảng (2009), Hệ thống bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp - lý thuyết và
hiện thực, Nxb Chính trị quốc gia, H.
35. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp
năm 1992, Hà Nội.
36. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
37. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Nghị quyết
sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, Hà Nội.
38. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
năm 2013, Hà Nội.
39. Nguyễn Đăng Thành (2012), “Đánh giá chính sách công ở Việt Nam: vấn
đề và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản điện tử
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-
156
Traodoi/2012/19245/Danh-gia-chinh-sach-cong-o-Viet-Nam-van-de-va-
giai.aspx (Truy cập ngày 6-9-2014).
40. Hồ Văn Thông (1998), Hệ thống chính trị các nước tư bản phát triển hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. SPERI (2006), Tài liệu tổng quan về vận động hành lang, phục vụ Hội
thảo “Vận động hành lang - thực tiễn và pháp luật”.
42. Vũ Xuân Tiền (2008), “Vận động chính sách ở Việt Nam - những vướng
mắc và giải pháp tháo gỡ”,
https://thongtinphapluatdansu.com/2008/01/11/8756-2/
43. Ngọc Trân (21.2.2006): Vận động hành lang Quốc hội tại Hoa Kỳ,
Website: http://www.vovnews.com.
44. Đinh Gia Trinh (1958): Hiến pháp và chế độ chính trị của nước Mỹ, Nxb
Sự Thật, Hà Nội.
45. Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ (2003): Quốc hội Mỹ hoạt động như thế
nào, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Đào Trí Úc - Vũ Công giao (2015), Vận động chính sách công, lý luận và
thực tiễn, Nxb lao động, H.
47. Nguyễn Quốc Văn (2007), “Các nhóm lợi ích và vận động hành lang trong
nền chính trị Mỹ”www.thanhtra.gov.vn/webplus/viewer.print.asp?aid=39
48&l=VN, 18-01-2007)
48. Viện Khoa học pháp lý (2005), Thiết chế chính trị và bộ máy nhà nước
một số nước trên thế giới, Nxb Tư pháp, H.
49. Trần Quốc Việt (2015), “Hoạt động kiểm soát quyền hành pháp của nghị
viện các nước Anh, Pháp, Mỹ”, Tạp chí Tổ chức nhànước (3).
50. Trịnh Thị Xuyến (2008), “Vận động hành lang: từ thế giới đến thực tế Việt
Nam”, Tạp chí Mặt trận, (57), tr. 32 - 36.
51. Trịnh Thị Xuyến (2008), “Vài nét về vận động hành lang trên thế giới”,
Tạp chí Mặt trận, (58), tr. 72 - 73.
2. Tiếng Anh
52. Babette Kabak (1992) “Lobbying for Change: Women’s Lobby”, Agenda,
No. 12, Rural Politics, p.26.
157
53. Baumgartner and Leech (1998), “The Importance of Interest Groups in
Politics and Political Sciences”, Princeton, N.J., Princeton University
Press, tr. 96.
54. Belle Zeller (1958), “Regulation of Pressure Groups and Lobbyists”,
Annals of the American Academy of Political and Social Science, Vol.
319, Unoffcial Government: Pressure Groups and Lobbies, pp 94 - 103.
55. Burson Marsteller (2013), “Effective lobbying in Europe”,
http://lobbyingsurvey.eu.
56. California Law Review (1927), “Contracts: Illegality: Lobbying”, Vol. 15,
No. 4 pp. 344 - 345.
57. Christian (2015) Lobbying landscape in France:
http://www.aalep.eu/lobbying-landscape-france.
58. Cigler, Allan J., và Burdett A. Loomis (2002): Interest Group Politics,
Washington, D. C, CQ Press.
59. David Austen - Smith (1993), “Information and Influence: Lobbying for
Agendas and Votes”, American Journal of Political Science, Vol. 37, No
3, pp. 799 - 833.
60. David Austen - Smith and John R. Wright (1994), “Counteractive
Lobbying”, American Journal of Political Science, Vol. 38, No. 1, pp. 25
- 44.
61. David Austen-Smith and John R. Wright (1996), “Theory and Evidence
for Counteractive Lobbying”, American Journal of Political Science,
Vol. 40, No. 2 (May, 1996), pp. 543-564.
62. Diana Evans (1996), Before the Roll Call: “Interest Group Lobbying and
Pubblic Policy Outcomes in House Committees”, Political Research
Quarterly, Vol. 49, No. 2, pp 287 - 304.
63. Edgar Lane (1950), “Some Lessons From Past Congressional
Investigations of Lobbying”, The Public Opinion Quarterly, Vol. 14, No.
1, pp 14 - 32.
158
64. Edward T. Walker and Christopher M. Rea (2014), “The Political
Mobilisation of Firms and Industries”, Annual Review of Sociology
(web), pp.281-304].
64. Elizabeth Reid (2000), “Non profit advocacy and the policy process a
semianar series”, the Urban Institute, tr.7
65. E. Watson Kenyon (1907), “Lobbying”, The American Political Science
Review, Vol. 1, No. 4, pp. 619-620.
66. Glenn Abney (1988), “Lobbying by the Insiders: Parallels of State
Agencies and Interest Groups”, Public Administration Review, Vol. 48,
No. 5, pp. 911-917.
67. Gregory A. Caldeira and John R. Wright (1998), “Lobbying for Justice:
Organized Interests Supreme Court Nominations, and United States
Senate”, American Journal of Political Science, Vol. 42, No. 2 (Apr.,
1998), pp. 499-523.
68. Gregory A. Caldeira, Marie Hojnacki, John R. Wrigh (2000), “The
Lobbying Activities of Organized Interests in Federal Judicial
Nominations”, The Journal of Politics, Vol. 62, No. 1 (Feb., 2000), pp.
51-69.
69. Harmon Zeigler (1969), “The Effects of Lobbying: A Comparative
Assessment”, The Western Political Quarterly, Vol. 22, No. 1 (Mar.,
1969), pp. 122-140.
70. Harvard Law Review (1932), “Control of lobbying”, Vol. 45, No. 7, pp.
1241-1248.
71. James K. Pollock, Jr. (1927), “The Regulation of Lobbying”, The
American Political Science Review, Vol. 21, No. 2, pp. 335-341.
72. John A. Lapp (1915), “Lobbying - Registration”, The American Political
Science Review, Vol. 9, No. 2, pp. 312-313.
73. John Casey (2011) Understanding advocacy: a primer on the policy
making role of nonprofit, Baruch College, City University of New York.
159
74. John F. Manley (1978), “Presidential Power and White House Lobbying”,
Political Science Quarterly, Vol. 93, No. 2, pp. 255-275.
75. John Wagner (Jan 2, 2012), "Evans regains top lobbying spot in
Annapolis".
76. Kenneth M.Goldstein (1999), Interest Group, Lobbying and Participation
in American, Cambridge: Cambridge University Press, tr. 73.
77. Kennith G. Hunter, Laura Ann Wilson, Gregory G. Brunk (1991),
“Societal Complexity and Interest-Group Lobbying in the American
States”, The Journal of Politics, Vol. 53, No. 2, pp. 488-503.
78. Knut Anton Mork (1993), “Living with Lobbying: A Growth Policy Co-
Opted by Lobbyists Can Be Better than No Growth Policy at All”, The
Scandinavian Journal of Economics, Vol. 95, No. 4, pp. 597-605.
79. Lackey, Robert T (2007). "Science, scientists, and policy advocacy”
80. Lester W. Milbrath (1960), “Lobbying as a Communication Process”, The
Public Opinion Quarterly, Vol. 24, No. 1 (Spring, 1960), pp. 32-53.
81. Lionel Zetter (2008), Lobbying: the art of political persuasion.
82. Matthews Luxon (2012) Lobbying in the Dark? The Effects of Policy-
Making Transparency on Interest Group Lobbying Strategies in France
and Sweden, University of California, San Diego.
83. Morten Bennedsen and Sven E. Feldmann (2002), “Lobbying
Legislatures”, The Journal of Political Economy, Vol. 110, No. 4 (Aug,
2002), pp. 919 - 946.
84. Pierre Duchesne and Russell Ducasse (1984), “Must Lobbying Be
Regulated?”, Canadian Parliamentary Review, Vol. 7, No. 4, 1984.
85. R. Allen Hays (1991), “Intergovernmental Lobbying: Toward an
Understanding of Issue Priorities”, The Western Polictical Quarterly,
Vol. 44, No. 4, (Dec, 1991), pp. 1081 - 1098.
86. Raj Chari, Gary Murphy, và John Hogan (2010), “Regulating Lobbying: a
global comparison”, Manchester University Press Oxford Road,
Manchester M13 9NR, UK.
160
87. Raymond D. King and Terrence B. O'Keefe (1986), “Rational Economic
Behavior and Lobbying on Accounting Issues: Evidence from the Oil and
Gas Industry”, The Accounting Review, Vol. 61, No. 1, pp. 76-90.
88. Richard L. Hall and Alan V. Deardorff (2006), “Lobbying as Legislative
Subsidy”, The American Political Science Review, Vol. 100, No. 1 (Feb,
2006), pp. 69 - 84.
89. Richard M. Flanagan (1999), “Roosevelt, Mayors and the New Deal
Regime: The Origins of Intergovernmental Lobbying and
Administration”, Polity, Vol. 31, No. 3 (Spring, 1999), pp. 415. 450.
90. Robert Presthus (1974), “Interest Group Lobbying: Canada and the United
States”, Annals of the American Academy of Political and Social
Science, Vol. 413, Interest Groups in International Perspective, pp. 44-
57.
91. The University of Chicago Law Review (1951), “House Select Committee
on Lobbying Activities”, Vol. 18, No. 3 (Spring, 1951), pp. 647- 657.
92. Sajal Lahiri and Pascalis Raimondos-Moller (2000), “Lobbying by Ethnic
Groups and Aid Allocation”, The Economic Journal, Vol. 110, No. 462,
Conference Papers, pp. C62-C79.
93. Sachs, Jeffrey (2011), The Price of Civilization, New York, Random
House. p. 112
94. Suzanne Mulcahy (2015), “Lobbying in Europe”, Transparency
International.
95. Scott H. Ainsworth (1997), “The Role of Legislators in the Determination
of Interest Group Influence”, Legislative Studies Quarterly, Vol. 22, No.
4 (Nov, 1997), pp 517 - 533.
96. Stacie Fatka và Jason Milé Levien (1998), “Protecting the Right to
Petition: Why a Lobbying Contingency Fee Prohibition Violates the
Constitution”, 35 Havard Journal on Legislation (1998), 563.
161
97. Timothy Besley and Stephen Coate (2001), “Lobbying and Welfare in a
Representative Democracy”, The Review of Economic Studies, Vol. 68,
No. 1 (Jan, 2001), pp 67 - 82.
98. Yeon - Koo Che and Ian L. Gale (1998), “Caps on Polictical Lobbying”,
The American Economic Review, Vol. 88, No. 3 ( Jun, 1998), pp. 643-
651.
3. Tiếng Pháp
99. Amandine Scandolin & Rémi Lefèvre, Le lobbying en France, Université
Jean Moulin Lyon 3.
100. Anonyme (1999), Le lobby le plus puissant du monde, Courrier
International du 25-02-1999 au 03-03-1999
101. Claeys Paul-H và các cộng sự (1998), Lobbyisme, pluralisme
etintégration européenne, Presses interuniversitaires européennes,
Bruxelles, 1998, 455 pp
102. Giuliani Jean-Dominique (1991), Les Marchands d’influence, Le Seuil,
Paris.
103. Le Men, Jean-François (1984), L'information du Parlement français.
Notes et Études Documentaires 4758, La Documentations française,
Paris.
104. Le Picard Olivier, Adler Jean-Christophe, và Bouvier Nicolas (2000),
Lobbying, les règles du jeu, Editions d’Organisation, Paris, p. 14
105. Maria-Magdalena Vlaicu, Accessibilité du droit et réglementation du
lobbying : l’influence du système des États-Unis sur l’Union européenne
106. Olivier Debouzy: (2003), Le lobbying à Paris, Washington et Bruxelles,
Droits réservés, Ifri, Paris.
4. Website
107. http://www.doisongphapluat.com/tin-tuc/tam-diem-du-luan/lam-the-nao-
de-dep-bo-van-nan-chan-go-di-dem-a100135.html
108. (http://www.paraff.org/images/Other_documents/C2-
038_Tai_lieu_van_dong_chinh_sach.pdf)
162
109. http://vnn.vietnamnet.vn/thegioi/vn_tg/2006/05/571485/-Lobby trong nền
chính trị Mỹ: chìa khóa để thành công
110. http://www.aalep.eu/lobbying-landscape-france
111. http://www. AARP.org (Hiệp hội những người hưu trí Mỹ - nhóm lợi ích
lớn nhất ở Hoa Kỳ).
112. https://www.oecd.org/gov/ethics/Lobbying-Brochure: Transparency and
integrity in lobbying, tr.2].
113. http://www. Cato.org (Viện nghiên cứu chính sách Cato của Hoa Kỳ).
114. http://www Cleanup Washington.org/lobbying/page.cfm
115. http://www. Democrats.org (Đảng Dân chủ)
116. http://www. House. gov (Hạ nghị viện Mỹ)
117. http://www. Ips.org (Viện nghiên cứu chính sách Mỹ)
118. http://www.jstor.org
119. https://www.kaaac.ks.gov/docs/default-document-
library/prepaddaygen.pdf?sfvrsn
120. http://www.laits.utexas.edu/gov310/PEP/policy/
121. http://www.most.gov.vn
122. http://www. Opensecrets. Org.
123.htps://www.researchgate.net/publication/298793857_Comparison_of_Mo
dels_of_Lobbying_Regulation_in_EU_Countries
124. http://www. Senate.gov (Thượng nghị viện Mỹ)
125. http://link.springer.com/article/10.1057/iga.2012.4#Sec11: Lobbying and
transparency: A comparative analysis of regulatory reform
126. http://www. Stateaction.org (Viện nghiên cứu những chính sách thay thế)
127. http://www. Steam tannels.net (Thông tin truyền thông Mỹ)
128. http://www.thecanadianencyclopedia.ca/en/article/lobbying/
129. http://www.voanews.com
130. http://www. Washington post.com (Báo bưu điện Washington)
131. http://www. White House.gov (Nhà Trắng )
Recommended