View
6
Download
0
Category
Preview:
Citation preview
1
Tam Tạng Kinh Điển
Bình Anson
Trong 45 năm truyền giảng con đường
giải thoát, Đức Phật thu nhận rất nhiều đệ
tử, có người xuất gia theo ngài và lập
thành Tăng đoàn (Sangha), có người
cũng còn tại gia, gọi là các cư sĩ. Vùng
truyền giáo của ngài là vùng Đông Bắc
Ấn Độ giáp biên giới xứ Nepal, dọc theo
các nhánh sông thượng nguồn sông
Gange (Hằng hà) [1, 2, 3].
Ngài thường được gọi là Đức Phật Cồ
Đàm (Buddha Gotama). Chữ "Phật" là
tiếng gọi tắt của "Phật Đà", phiên âm từ
chữ Phạn "Buddha" - người bình dân
Việt Nam có nơi gọi là ông Bụt - nghĩa là
người đã giác ngộ (Giác Giả) . Trong các
2
kinh sách ghi lại, ngài thường tự gọi
mình là Tagatatha (Như Lai). Ngài có rất
nhiều đệ tử từ các quốc gia trong vùng,
gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, lứa
tuổi, nam nữ, và từ nhiều nguồn gốc tín
ngưỡng khác nhau.
Đức Phật đã để lại một kho tàng quí giá
gồm nhiều bài thuyết giảng (Kinh, Sutta),
thường được gọi tổng quát là "tám vạn
bốn ngàn" pháp môn, trong nhiều dịp
giảng dạy cho hàng đệ tử, bậc thánh
thanh văn, cư sĩ, ... Với sự phát triển và
bành trướng của Tăng đoàn, Ngài đặt ra
nhiều giới luật để tạo điều kiện thuận lợi
trong công tác tu tập (Vinaya, Giới).
Ngoài ra còn nhiều bài giảng đặc biệt
khác mà về sau nầy được đúc kết lại
trong bộ A Tỳ Đàm (Abhidhamma).
Kết Tập Đầu Tiên
3
Ba tháng sau khi Đức Phật tịch diệt, một
đại hội các vị tu sĩ (Tỳ khưu, Bhikkhu)
được tổ chức, ngày nay được gọi là Đại
Hội Tăng Già I, tại vùng đồi núi ngoại
thành Rajagaha (Vương Xá). Mục đích là
để kết tập các bài kinh giảng và các điều
luật thành một hệ thống chặt chẻ hơn [4].
Chủ trì phần Luật là Tỳ khưu Upali (Ưu
Ba Ly), và chủ trì phần Kinh là Tỳ khưu
Ananda (A Nan Đà), là người cận sự với
Đức Phật và vì thế có nhiều dịp nhất để
nghe và ghi nhớ các bài giảng của Ngài.
Đại hội gồm khoảng 500 vị cao tăng
duyệt lại các giới luật và các bài thuyết
pháp, sắp xếp thành hai nhóm chính:
Luật Tạng và Kinh Tạng. Qua những thu
thập lúc đó, Kinh Tạng được phân chia
làm 4 Bộ chính: Trường bộ, Trung bộ,
Tương ưng bộ, và Tăng Chi bộ.
4
Kết Tập Lần Thứ 2
Trong 45 năm hoằng dương đạo pháp,
Đức Phật đã đi nhiều nơi, giảng đạo cho
nhiều người và kết nạp nhiều đệ tử. Các
đệ tử của Ngài ở rải rác khắp nơi, không
thể nào cùng về tham dự Đại hội đầu
tiên. Do đó có thể có một số bài thuyết
giảng và giới luật phụ do Đức Phật đặt ra
đã không được kết tập trong kỳ Đại hội
đó [4].
Vì vậy mà khoảng 100 năm sau, năm 383
trước CN, một đại hội kết tập kinh điển
được tổ chức, theo yêu cầu của tăng
chúng thành Vesali và Vajji [5]. Sau lần
kết tập nầy, Luật Tạng được mở rộng với
các giới luật mà các đại biểu cho rằng đã
không được kết tập trong kỳ Đại Hội I,
và một số các bài kinh giảng khác chưa
5
kết tập, tạo thành một bộ kinh thứ 5 của
Kinh Tạng (Tiểu Bộ).
Sau lần kết tập nầy, Luật Tạng và Kinh
Tạng xem như đã thành hình, và các bài
giảng có lẽ cũng giống như bài giảng mà
chúng ta có được trong bộ Đại Tạng hiện
nay [4].
Kết Tập Lần Thứ 3
Một trăm ba mươi năm sau đó, năm 253
trước CN, vua Asoka (A Dục) của Ấn Độ
cho triệu tập Đại hội lần thứ III. Tiểu Bộ
của Kinh Tạng lại được mở rộng và kết
tập thêm nhiều bài kinh giảng khác.
Quan trọng hơn hết là việc Đại hội đã
đúc kết các bài giảng về tâm lý, thể tính
và sự tướng của vạn pháp, tạo thành
Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma, A Tỳ
Đàm, Vi Diệu Pháp, Luận Tạng).
6
Kết Tập Lần Thứ 4
Khoảng năm 20 trước CN, 500 năm sau
ngày Phật nhập Đại Niết Bàn, vua
Vattagamani của Tích Lan (Sri Lanka)
triệu tập Đại Hội Tăng Già IV tại
Aluhivihara -- gần thành phố Kandy
ngày nay [1], kết tập lại các phần Kinh,
Luật, và đúc kết phần Thắng Pháp Tạng
[6]. Để gìn giữ các bài giảng của Đức
Phật dù đã kết tập nhưng chỉ truyền khẩu
trong 500 năm qua, ba tạng kinh điển
được cho viết lại trên một loại giấy bằng
lá bối-đa khô [4, 10]. Từ đó Tam Tạng
Pali được thành hình, và không còn thay
đổi nào khác.
Trong thời kỳ gần đây, Miến Điện có tổ
chức hai kỳ kết tập khác: kết tập lần thứ
V, năm 1870, và lần thứ VI, năm 1954.
Tuy nhiên các kỳ kết tập nầy chỉ để làm
7
sáng tỏ các điểm chính trong kinh, nhưng
không thay đổi gì trong bộ Tam Tạng [5].
Tam Tạng Kinh Điển
"Tạng" hay "Tàng" là giỏ chứa, chổ
chứa, tiếng Pali gọi là Pitaka. Ngày xưa
tại các chùa lớn thường có một thư viện
gọi là "Tàng Kinh Các" để lưu trữ các bộ
kinh quí. Tam Tạng theo tiếng Pali gọi là
Tipitaka, Ba Giỏ Chứa (The Three
Baskets), gồm có Luật Tạng (Vinaya
Pitaka), Kinh Tạng (Sutta Pitaka), và
Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma Pitaka,
còn gọi là Vi Diệu Pháp, hay Luận
Tạng). Sau đây là sơ lược về các tạng
nầy:
1. Luật Tạng (Vinaya Pitaka)
Tạng nầy bao gồm các giới luật và nghi
lễ cho nam tu sĩ (Bhikkhu, Tỳ khưu) và
8
nữ tu sĩ (Bhikkhuni, Tỳ khưu ni), cách
thức gia nhập tăng đoàn, truyền giới luật,
sinh hoạt tăng chúng, cách hành xử trong
các trường hợp vi phạm giới luật, vv.
Tạng nầy thường được chia làm 5 bộ [1,
7]:
1. Ba-la-di (Parajika),
2. Ba-dật-đề (Pacittiya),
3. Đại Phẩm (Mahavagga),
4. Tiểu Phẩm (Cullavagga), và
5. Toát Yếu (Parivara).
2. Kinh Tạng (Sutta Pitaka)
Gồm 5 bộ chính (Nikaya): Trường Bộ
(Digha Nikaya), Trung Bộ (Majjhima
Nikaya), Tương Ưng Bộ (Samyutta
Nikaya), Tăng Chi Bộ (Anguttara
Nikaya), và Tiểu Bộ (Khuddaka Nikaya).
Trong hệ Sanskrit (Bắc Phạn), các bộ nầy
9
được gọi là các bộ A Hàm (Agamas).
Tuy nhiên, các bộ A Hàm nguyên thủy
đã bị thất lạc và chỉ còn tìm thấy các bản
kinh tiếng Sanskrit rời rạc, mà hiện nay
chỉ còn các bộ Hán dịch từ nhiều nguồn
gốc bộ phái và qua nhiều đời khác nhau
[6].
Trường Bộ là tập hợp các bài kinh dài,
gồm 34 bài kinh, đã được dịch sang Việt
ngữ, trong đó có hai quyển phổ thông
nhất: Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha
Parinibanna Sutta) và Kinh Đại Quán
Niệm (Maha Satipattana Sutta). Ngoài
các bài thuyết giảng của Đức Phật, Bộ
nầy cũng có các bài giảng của Đại Đức
Sariputta (Xá Lợi Phất), vị đệ tử hàng
đầu có tài thuyết giảng hùng biện nhất
thời đó, và các vị đệ tử nỗi tiếng khác.
10
Trung Bộ gồm có 152 bài kinh sắp xếp
trong 15 phẩm, theo từng chủ đề. Bộ kinh
nầy rất phổ thông trong giới Phật tử sử
dụng Anh ngữ và cũng đã được dịch sang
Việt ngữ. Bản dịch Anh ngữ được hiệu
chỉnh nhiều lần, và bản dịch mới nhất đã
được hội Buddhist Publication Society,
Tích Lan, xuất bản năm 1995. Các bài
kinh quan trọng thường có liên quan đến
phép hành thiền quán niệm (Satipattana
Sutta), chính kiến (Sammaditthi), cách
tịnh tâm (Kakacupama), cuộc đời Đức
Phật (Ariyaparyesana), tứ diệu đế
(Mahahatthipadopama), không tính
(Culasunnata), quán niệm hơi thở
(Anapanasati), vv... Có thể nói đây là
một bộ kinh quan trọng nhất, bao gồm
các bài giảng thiết yếu trên đường tu tập,
thực hành lời Phật dạy.
11
Tương Ưng Bộ gồm 2,889 bài kinh
ngắn, chia làm 5 chương và 56 phẩm.
Đây là tập hợp các bài kinh có chủ đề
giống nhau về một điểm thảo luận, hoặc
về một nhân vật nào đó trong thời Đức
Phật. Có những bài giảng quan trọng về
12 nhân duyên và về 37 phần bồ đề (37
phẩm trợ đạo).
Tăng Chi Bộ là bộ kinh dựa theo cách
sắp xếp số học (pháp số), từ các chủ đề
có liên quan đến 1 phần tử, 1 yếu tố, dần
dần lên đến các chủ đề có 11 phần tử hay
yếu tố. Vì vậy, bộ kinh được chia làm 11
chương, gồm 2,308 bài kinh.
Tiểu Bộ thật ra không phải là bộ sách
nhỏ, mà là tập hợp 15 bộ sách nhỏ:
1. Tiểu Tụng, Khuddaka Patha
2. Pháp Cú, Dhammapada
12
3. Phật Tự Thuyết, Udana
4. Như Thị Ngữ (Phật Thuyết
Như Vậy), Itivuttaka
5. Kinh Tập, Sutta Nipata
6. Thiên Cung Sự, Vimana
Vatthu
7. Ngạ Quỷ Sự, Peta Vatthu
8. Trưởng Lão Tăng Kệ,
Theragatha
9. Trưởng Lão Ni Kệ,
Therigatha
10. Bổn Sanh, Jataka
11. Nghĩa Thích, Niddesa
12. Vô Ngại Giải Đạo,
Patisambhidamagga
13. Thí Dụ, Apadana
14. Phật Sử, Buddhavamsa
15. Sở Hạnh Tạng, Cariya
Pitaka
13
3. Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma
Pitaka)
Còn gọi là Vi Diệu Pháp hay Luận Tạng,
đây là tập hợp các bài giảng của Đức
Phật về thể tính và sự tướng của vạn
pháp, phân giải triết học và tâm lý học.
Thắng Pháp Tạng gồm có 7 quyển:
1. Pháp tụ (Dhammasangani)
2. Phân biệt (Vibhanga)
3. Giới thuyết (Dhatukatha)
4. Nhân thi thiết (Puggala Pannatti)
5. Biện giải (Kathavathu)
6. Song luận (Yamaka)
7. Nhân duyên thuyết (Patthana).
4. Các thánh điển trọng yếu khác:
Ngoài Tam Tạng Kinh Điển còn có các
bộ Chú Giải và Phụ Chú Giải Kinh Điển,
và một số các tác phẩm Pali quan trọng
14
khác cũng được học tập và lưu truyền
cho đến ngày nay:
Đảo sử (Dipavamsa)
Đại sử (Mahavamsa)
Tiểu sử (Culavamsa)
Mi Lan Đa vấn đạo (Milindapanha)
Thanh tịnh đạo luận (Visuddhi Magga)
Thắng pháp tập yếu luận
(Abhidhammattha Sanghaha)
v.v.
Đại Tạng Việt Ngữ
Mặc dù Phật Giáo là một tôn giáo lớn ở
Việt Nam và đã có mặt lâu đời tại đất
nước ta trên 18 thế kỷ, cho đến nay
chúng ta vẫn chưa có một bộ Tam Tạng
đầy đủ bằng chữ Việt. Điều nầy đã được
ghi nhận từ đầu thập niên 1950 [5], mà
đã 40 năm qua, công tác dịch thuật vẫn
15
chưa hoàn tất. Thật ra, công trình dịch
thuật sang chữ quốc ngữ từ các kinh điển
Hán tạng bắt đầu trong thập niên 1930
với nhiều vị danh tăng và học giả trong
các phong trào phục hưng Phật Giáo và
chấn hưng Phật học [11].
Một chương trình phiên dịch và ấn hành
Đại Tạng Kinh Việt Nam đã được tiến
hành trở lại từ năm 1989, dựa trên các bộ
chữ Pali và chữ Hán. Đến nay (1998),
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam đã
phát hành Trường Bộ (và Trường A
Hàm), Trung Bộ (và Trung A Hàm),
Tương Ưng Bộ (và Tạp A Hàm), Tăng
Chi Bộ (và Tăng Nhất A Hàm) bằng Việt
ngữ, cùng với các quyển trong Tiểu Bộ:
Kinh Tập, Pháp Cú, Như Thị Ngữ, Phật
Tự Thuyết, Trưởng Lão tăng Kệ, Trưởng
Lão Ni Kệ, Bổn Sanh, v.v.
16
Hệ phái Nguyên Thủy (Nam Tông) Việt
Nam đã ấn hành các bộ Vi Diệu Pháp do
Hòa thượng Tịnh Sự dịch. Bộ Luật cơ
bản đã được dịch từ các bản chữ Hán
(Luật Tứ Phần Giới Bổn Như Thích, HT
Hành Trụ dịch). Các quyển Thanh Tịnh
Đạo (Ni sư Trí Hải dịch), Thắng Pháp
Tập Yếu Luận (HT Minh Châu dịch) và
Mi Lan Đa Vấn Đạo (Mi Tiên Vấn Đáp,
HT Giới Nghiêm dịch) cũng đã được
xuất bản trong những năm gần đây.
Thêm vào đó, vào cuối năm 2005, Tỳ
khưu Indacanda đã hoàn tất công tác dịch
thuật toàn bộ Tạng Luật từ nguồn Pali.
-oOo-
Ghi chú: Toàn bộ kinh điển Pali ngữ và
bản dịch Anh ngữ đã được Hội Kinh
Điển Pali (Pali Text Society) lần lượt
xuất bản trong 100 năm qua. Xin xem bài
17
giới thiệu bằng Anh ngữ tại trang web:
http://www.palitext.com/ .
Tham Khảo
[1] Narada Mahathera (1980), The
Buddha and His Teachings, Buddhist
Publication Society, Sri Lanka (Đức Phật
và Phật Pháp, bản dịch Việt ngữ của
Phạm Kim Khánh)
[2] Thích Nhất Hạnh (1992), Đường Xưa
Mây Trắng, Lá Bối, France
[3] Sister Vijira and Francis Story
(1988), The Maha Parinibbana Sutta,
Buddhist Publication Society, Sri Lanka
[4] Bodhesako (1984), Beginnings: The
Pali Suttas, Buddhist Publication Society,
Sri Lanka
[5] Thích Đức Nhuận (1983), Phật Học
18
Tinh Hoa, Phật Học Viện Quốc Tế, USA
[6] Christmas Humprhey (1962),
Buddhism, Penguin Books, UK
[7] Russell Webb (1991), An Analysis of
The Pali Canon, Buddhist Publication
Society, Sri Lanka
[8] Thích Chơn Thiện (1991), Tăng Già
Thời Đức Phật, Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam, Vietnam
[9] Phạm Kim Khánh (1997), Hành
Hương Xứ Phật, Trung Tâm Narada,
Seatle, USA
[10] H.W. Schuman, The Historical
Buddha (Đức Phật Lịch Sử, bản dịch
Việt ngữ của Trần Phương Lan, Viện
Nghiên Cứu Phật Học, Sài Gòn, 1997).
[11] Nguyễn Lang (1985), Việt Nam
Phật Giáo Sử Luận, Tập 3, Lá Bối,
France.
19
Bình Anson,
Mùa Phật Đản 1995, Perth, Western
Australia
Bổ sung: tháng 4-2006
Phụ Đính A
Kinh điển Đại Thừa
(Mahayana, Bắc Tông)
Kinh điển Đại Thừa xuất hiện về sau nầy,
vào khoảng đầu Công nguyên (CN) --
300 đến 700 năm sau ngày Phật nhập Đại
Niết bàn, không rõ nguồn gốc xuất xứ
với nhiều giả thuyết khác nhau, không
biết do ai kết tập vào thời kỳ nào, ban
đầu là vài bộ kinh ngắn rồi dần dà xuất
hiện các bộ lớn hơn với văn phong không
đồng nhất, và ngày nay cũng không còn
nguyên bản trọn vẹn. Một số đã được
20
dịch sang chữ Hán và chữ Tây Tạng qua
nhiều thời kỳ khác nhau bởi nhiều dịch
giả thuộc những tông phái khác nhau, và
được lưu truyền đến ngày nay. Một số
kinh điển Hán tự khác thì lại không có
nguồn gốc rõ ràng, mặc dù lấy danh là lời
Phật dạy nhưng có lẽ đã được trước tác
tại Trung Hoa trong thời kỳ Phật giáo
mới được phát triển tại đó.
Kinh điển Đại Thừa là một tập hợp các
bài giảng của Đức Phật, các luận giải của
tăng sĩ, và ngữ lục của các tổ sư. Ngoài
tạng Luật -- trên cơ bản rất tương tự với
tạng Luật Pali, còn có tạng Kinh gồm có
các bộ A Hàm -- dịch thuật từ nhiều
nguồn khác nhau -- và các kinh điển mới,
và tạng Luận gồm các tác phẩm chú giải
và luận thuyết của các vị tăng sĩ Đại thừa
về sau nầy. Có thể nói tính đa dạng và
21
phong phú của kinh điển Đại thừa là kết
quả của một sự dung nạp hỗn độn, không
có hệ thống và tiêu chuẩn rõ ràng, các tài
liệu về Phật giáo -- hoặc có vẻ mang tính
cách Phật giáo nhưng lại pha trộn các
giáo thuyết khác -- xuất hiện rãi rác trong
các thế kỷ đầu Công nguyên trong thời
kỳ hình thành tông phái nầy.
Dưới đây là liệt kê sơ lược danh sách
kinh điển Phật Giáo Đại Thừa [a,b]:
1. Trước thời Long Thọ (Nagarjuna,
sơ tổ của Đại thừa Phật giáo, thế kỷ III
CN):
Kinh Đại phẩm Bát Nhã
Kinh Tiểu phẩm Bát Nhã
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Kinh Hoa Nghiêm
Kinh Đại Vô Lượng Thọ
22
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội
Kinh Duy Ma Cật
Trước tác của Ngài Mã Minh
(Asvaghosa, đầu Công nguyên):
Phật sở hạnh tán
Đại Trang Nghiêm luận
Thập Bất thiện nghiệp đạo
Lục thú luân hồi
Sự sư pháp Ngũ thập tụng
Ni Kiền Tử vấn vô ngã nghĩa
Đại tôn địa huyền văn bản luận
Đại Thừa khởi tín luận
2. Thời Long Thọ (Nagarjuna), Đề Bà
(Deva), Bạt Đà La (Bhadra):
2.1 Ngài Long Thọ trước tác nhiều bộ
luận, nhưng dịch sang Hán gồm:
23
Trung quán luận
Bồ đề tâm ly tướng luận
Thập nhị môn luận
Hồi tránh luận
Đại trí độ luận
Phương tiện tâm luận
Thập trụ Tỳ Bà Sa luận
Khuyến phát chư vương yếu kệ
Thập bát Không luận
Tán pháp giới tụng
Đại thừa phá hữu luận
Quảng đại phát nguyện tụng
Bồ đề tư lương luận
2.2 Ngài Đề Bà trước tác:
Bách luận
Bách tự luận
Quảng bách luận
2.3 Ngài Bạt Đà La trước tác:
24
Chú thích Trung luận
3. Sau thời Long Thọ:
Kinh Thắng Man
Kinh Giải Thâm Mật
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Đại thừa Niết
Bàn)
Kinh Lăng Già
4. Thời Vô Trước (Asanga, thế kỷ IV-
V CN):
4.1 Trước tác của Ngài Di Lặc
(Maitreya):
Du Già Sư Địa luận
Đại Thừa Trang nghiêm kinh luận
Thập địa kinh luận
Trung biên phân biệt luận
4.2 Trước tác của Ngài Vô Trước
(Asanga):
25
Hiển dương Thánh giáo luận
Kim Cang Bát nhã Ba la mật đa kinh
luận
Nhiếp Đại thừa luận
Thuận Trung luận
Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma tạp luận
4.3 Trước tác của Ngài Thế Thân
(Vasubandhu) thì rất nhiều, nhưng các bộ
sau đây đã dịch sang Hán:
A Tỳ Đạt Ma Câu Xá luận
Nhiếp Đại Thừa luận thích
A Tỳ Đạt Ma Câu Xá bản tụng
Thập địa kinh luận
Duy thức Tam thập tụng
Diệu Pháp Liên Hoa kinh Ưu Bà Đề Xá
Duy thức Nhị thập tụng
Vô Lượng Thọ kinh Ưu Bà Đề Xá
Đại Thừa Bách pháp Minh môn luận
Chuyển Pháp luân Ưu Bà Đề Xá
26
Đại Thừa Ngũ uẩn luận
Kim Cương Bái nhã Ba la mật kinh luận
Phật tính luận
Lục môn giáo thọ tập định luận
(Bình Anson, tháng 12-1998)
[a] Giác Ngộ, số 126, tháng 08-1998.
[b] Thích Thanh Kiểm, 1995. Lược sử
Phật giáo Ấn độ.
Phụ Đính B
Kinh văn Điện tử Phật giáo Hoa ngữ
Gần đây, Hội CBETA (Chinese Buddhist
Electronic Text Association
中華電子佛典協會 , Hiệp hội Phật điển
Điện tử Trung Hoa,
http://www.cbeta.org/ ) đã số hóa toàn bộ
kinh điển chữ Hán, dựa theo Đại Chánh
27
Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taishō Shinshū
Daizōkyō) của Nhật Bản, gồm các bản
văn thuộc kinh, luật, luận của Phật giáo
Trung Hoa. Bản điện tử này được phổ
biến rộng rãi trên Internet cũng như trong
các đĩa CD.
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng (Taishō
Shinshū Daizōkyō) của Nhật Bản -- biên
tập và xuất trong thời gian 1924-1934
của triều đại Đại Chánh -- đã được số hóa
đầy đủ, có thể tải xuống từ trang web
http://21dzk.l.u-
tokyo.ac.jp/SAT/index_en.html của Khoa
Phật học và Triết học Ấn Độ, Đại học
Đông Kinh (Department of Indian
Philosophy and Buddhist Studies,
University of Tokyo). Trong đó, bản văn
số 001 đến 2184 và 2732 đến 2920 là
thuộc Hán tạng, còn bản kinh số 2185
28
đến 2731 là các bản văn của chư Tăng
Nhật biên soạn và vì thế, không được đưa
vào CBETA.
Dựa vào đó, Hội Tuệ Quang (Wisdom
Light Foundation,
http://www.daitangvietnam.com ) đã
hoán chuyển, phiên âm sang tiếng Việt,
phân chia thành 25 bộ, như sau:
Bộ A Hàm (0001-0151)
Bộ Bản Duyên (0152-0219)
Bộ Bát Nhã (0220-0261)
Bộ Pháp Hoa (0262-0277)
Bộ Hoa Nghiêm (0278-0309)
Bộ Bảo Tích (0310-0373)
Bộ Niết Bàn (0374-0396)
Bộ Đại Tập (0397-0424)
Bộ Kinh Tập (0425-0847)
29
Bộ Mật Giáo (0848-1420)
Bộ Luật (1421-1504)
Bộ Thích Kinh Luận (1505-1535)
Bộ Tỳ Đàm (1536-1563)
Bộ Trung Quán (1564-1578)
Bộ Du Già (1579-1627)
Bộ Luận Tập (1628-1692)
Bộ Kinh Sớ (1693-1803)
Bộ Luật Sớ (1804-1850)
Bộ Chư Tông (1851-2025)
Bộ Sử Truyện (2026-2120)
Bộ Sự Vị (2121-2136)
Bộ Ngoại Giáo (2137-2144)
Bộ Mục Lục (2145-2184)
(2185 - 2731: Nhật tạng, không có trong
CBETA)
30
Bộ Cổ Dật (2732-2864)
Bộ Nghi Tự (2865-2920)
Phụ Đính C
Đại tạng kinh Trung Hoa và Nhật Bản
Bộ Đại Chính Tân tu Đại tạng kinh
(Taishō Shinshū Daizōkyō,
大正新脩大藏經) là một tập hợp các
kinh văn Phật giáo Trung Hoa, Triều
Tiên và Nhật Bản, do một nhóm học giả
dưới sự lãnh đạo của Giáo sư Cao Nam
Thuận Thứ Lang (高楠 順次郎,
Takakusu Junjirō, 1866-1945) biên tập
trong thời gian 10 năm, 1924-1934, trong
triều đại Hoàng đế Đại Chính (Yoshihito
– Gia Nhân, 1879-1926) và Hoàng đế
31
Chiêu Hòa (Hirohito – Dụ Nhân, 1926-
1989).
Đại tạng kinh gồm có 100 bộ, trong đó
bộ số 1-55 và 85 có nguồn gốc chung với
Đại tạng Trung Hoa và đã được dùng
trong bộ CBETA (Chinese Buddhist
Electronic Text Association,
http://www.cbeta.org ), dạng Hán tự cổ
xưa (Cổ văn), rất phổ thông trong giới
Phật học Bắc truyền. Ấn bản CBETA đã
được Ts Trần Tiễn Khanh và nhóm Tuệ
Quang, Hoa Kỳ, hoán chuyển phiên âm
sang Việt ngữ, và lưu tại trang web
http://www.daitangvietnam.com . Còn
các bộ số 56-84 và 86-100 là các hậu bản
biên soạn tại Nhật bản, không được đưa
vào CBETA.
Toàn bộ Đại Chính Tân tu Đại tạng kinh
của Nhật Bản đã được số hóa và lưu tại
32
trang web của Khoa Phật học và Triết
học Ấn Độ thuộc Đại học Đông Kinh
(Department of Indian Philosophy and
Buddhist Studies, University of Tokyo;
http://21dzk.l.u-
tokyo.ac.jp/SAT/index_en.html ).
(Bảng nầy đọc với phông chữ VU-Times
và Arial Unicode MS)
Vo
lu
me
O
rd
er
Name Japa
nese
Viet
nam
ese
Sans
krit
D
es
cr
ip
tio
n
T0
1-
02
1-
15
1
阿含
部
Agon
-bu
Bộ
A
Hàm
Āgam
a
C
oll
ec
tio
33
ns
of
ea
rly
su
tra
s
T0
3-
04
15
2-
21
9
本緣
部
Hon'
en-bu
Bộ
Bản
Duy
ên
Jātaka Bi
rth
st
ori
es
T0
5-
08
22
0-
26
1
般若
部
Hann
ya-bu
Bộ
Bát
Nhã
Prajñ
apāra
mitā
Pe
rfe
cti
on
of
wi
sd
34
o
m
T0
9a
26
2-
27
7
法華
部
Hokk
e-bu
Bộ
Phá
p
Hoa
Saddh
arma
Puṇḍa
rīka
Lo
tu
s
of
th
e
tru
e
D
ha
rm
a
T0
9b-
10
27
8-
30
9
華嚴
部
Kego
n-bu
Bộ
Hoa
Ngh
iêm
Avata
ṁsak
a
Fl
o
w
er-
ga
35
rla
nd
T1
1-
12
a
31
0-
37
3
寶積
部
Hōsh
aku-
bu
Bộ
Bảo
Tích
Ratna
kūṭa
Je
w
el-
pe
ak
:
co
lle
ct
ed
M
ah
āy
ān
a
su
tra
36
s.
T1
2b
37
4-
39
6
涅槃
部
Neha
n-bu
Bộ
Niết
Bàn
Nirvā
ṇa
Th
e
B
ud
dh
a's
pa
ssi
ng
a
w
ay
T1
3
39
7-
42
4
大集
部
Dais
hū-
bu
Bộ
Đại
Tập
Mahā
sanni
pāta
Th
e
gr
ea
t
co
37
lle
cti
on
T1
4-
17
42
5-
84
7
經集
部
Kyōs
hū-
bu
Bộ
Kin
h
Tập
Sūtras
annip
āta
C
oll
ec
te
d
su
tra
s
T1
8-
21
84
8-
14
20
密教
部
Mikk
yō-
bu
Bộ
Mật
Giáo
Tantr
a
Es
ot
eri
c
te
ac
hi
ng
38
s
T2
2-
24
14
21
-
15
04
律部 Ritsu
-bu
Bộ
Luật
Vinay
a
M
on
ast
ic
di
sci
pli
ne
T2
5-
26
a
15
05
-
15
35
釋經
論部
Shak
ukyō
ron-
bu
Bộ
Thíc
h
Kin
h
Luậ
n
Sūtra
vyāka
raṇa
Tr
ea
tis
es
ex
pl
ai
ni
ng
th
39
e
su
tra
s
T2
6b-
29
15
36
-
15
63
毗曇
部
Bido
n-bu
Bộ
Tỳ
Đàm
Abhid
harma
Sy
ste
m
ati
c
an
al
ys
es
T3
0a
15
64
-
15
78
中觀
部類
Chūg
an-
burui
Bộ
Trun
g
Quá
n
Madh
yama
ka
Te
xt
s
of
th
e
40
M
id
dl
e-
w
ay
sc
ho
ol
T3
0b-
32
15
79
-
16
27
瑜伽
部類
Yuga
-
burui
Bộ
Du
Già
Yoga Te
xt
s
of
th
e
m
ed
ita
tio
41
n
(Y
og
āc
ār
a)
sc
ho
ol
T3
2
16
28
-
16
92
論集
部
Rons
hū-
bu
Bộ
Luậ
n
Tập
Śāstra Tr
ea
tis
es
T3
3-
39
16
93
-
18
03
經疏
部
Kyōs
ho-
bu
Bộ
Kin
h Sớ
Sūtra
vibhā
ṣa
Cl
ari
fyi
ng
th
42
e
Su
tra
T4
0a
18
04
-
18
15
律疏
部
Rissh
o-bu
Bộ
Luật
Sớ
Vinay
avibh
āṣa
Cl
ari
fyi
ng
th
e
Vi
na
ya
T4
0b-
44
a
18
16
-
18
50
論疏
部
Rons
ho-
bu
Bộ
Luậ
n Sớ
Śāstra
vibhā
ṣa
Cl
ari
fyi
ng
th
e
tre
43
ati
se
s
T4
4b-
48
18
51
-
20
25
諸宗
部
Shos
hū-
bu
Bộ
Chư
Tôn
g
Sarva
sama
ya
Al
l
th
e
se
cts
T4
9-
52
20
26
-
21
20
史傳
部
Shide
n-bu
Bộ
Sử
Truy
ện
Hi
st
ori
es
T5
3-
54
a
21
21
-
21
事彙
部
Jii-bu Bộ
Sự
Vị
C
oll
ec
te
44
36 d
m
att
er
s
T5
4b
21
37
-
21
44
外教
部
Geky
ō-bu
Bộ
Ngo
ại
Giáo
N
on
-
B
ud
dh
ist
te
ac
hi
ng
s
T5
5
21
45目錄 Mok
urok
Bộ
Mục
Ca
tal
45
-
21
84
部 u-bu Lục og
ue
s
T5
6-
83
21
85
-
27
00
續經
疏部
Zoku
kyōs
ho-
bu
(Bộ
Tục
kinh
sớ)
Ja
pa
ne
se
co
m
m
en
tar
ies
T8
4
27
01
-
27
31
悉曇
部
Sitta
n-bu
(Bộ
Tất-
đàm
)
Siddh
am
Es
sa
ys
on
Si
dd
46
ha
ṃ
sc
rip
t
T8
5a
27
32
-
28
64
古逸
部
Koits
u-bu
Bộ
Cổ
Dật
A
nc
ie
nt
T8
5b
28
65
-
29
20
疑似
部
Giji-
bu
Bộ
Ngh
i Tự
D
ou
btf
ul
T8
6-
97
圖像
部
Zuzō
-bu
(Bộ
Đồ
tượn
Ill
us
tra
47
g) tio
ns
T9
8-
10
0
昭和
法寶
總目
錄
Shōw
a
Hōhō
-sō
Mok
uryo
(Chi
êu-
hòa
Phá
p
bảo
Tổn
g
mục
lục)
In
de
x
of
Ja
pa
ne
se
lit
er
at
ur
e
Ghi chú: Các ô màu vàng là kinh văn
Nhật, không có trong CBETA.
48
Nguồn:
http://en.wikipedia.org/wiki/Taisho_Tripi
taka
Phụ Đính D
Đại tạng kinh Triều Tiên
Đại tạng kinh Hàn quốc (高麗大藏經 ,
Cao Li Đại tạng kinh) là một tập hợp
kinh điển Hán tự, khắc trên 81,340 bản
gỗ in. Mỗi bản gỗ có kích thước 24 cm x
70 cm, bề dày từ 2.6 cm đến 4 cm, nặng
khoảng 3-4 kg. Trung bình, mỗi mặt của
bản gỗ có khắc 23 hàng chữ, mỗi hàng có
14 chữ Hán cỗ.
Tạng kinh này còn được gọi là Bát vạn
Đại tạng kinh (八萬大藏經), hiện được
49
lưu trữ tại chùa Hải Ấn (海印寺 ,
Haeinsa - Hanja, Hải Ấn tự) thuộc tỉnh
Gyeongsangnam, Nam Hàn. Toàn bộ Đại
tạng được khắc trong 16 năm, từ năm
1236 đến 1251, gồm có 52,382,960 Hán
tự, trong 1,496 tựa đề và 6,568 tập (xem
http://en.wikipedia.org/wiki/Tripitaka_K
oreana ). Đây là bộ Đại tạng tương đối
đầy đủ nhất và được dùng để tham chiếu
với các bộ Đại tạng Nhật Bản (Đại Chính
Tân tu Đại tạng kinh) và Trung Hoa
(CBETA, Chinese Buddhist Electronic
Text Association 中華電子佛典協會 ,
Hiệp hội Phật điển Điện tử Trung Hoa).
Vào năm 1992, Viện Nghiên cứu Tam
tạng Cao Li (Tripitaka Koreana Research
Institute, http://www.sutra.re.kr ) thực
hiện dự án số hóa Đại tạng, và từ năm
50
1996, kết quả công trình số hóa lần lượt
được phổ biến trên các trang web của
Internet.
(Bình Anson, tháng 10-2009)
Recommended