View
4
Download
0
Category
Preview:
Citation preview
425
PHẦN 4
ARTHROPODA - ĐỘNG VẬT CHÂN ĐỐT
426
427
Chương 14
ĐẠI CƯƠNG ĐỘNG VẬT CHÂN ĐỐT
Động vật chân đốt là ngành động vật không có xương sống, có số lượng loài
rất lớn, có khoảng trên 1.000.000 loài. Chúng sống ở đất, nước hoặc bay nhảy tự
do trong không gian ở khắp nơi trên trái đất, sống tự do hoặc kí sinh.
Môn kí sinh trùng y học nghiên cứu về đặc điểm hình thể, sinh lí, sinh thái,
vai trò y học và cách phòng chống những loài động vật chân đốt có liên quan đến
y học như: ruồi, muỗi, ve, mò, bọ chét, chấy, rận...
Hình 14.1: Một số động vật chân đốt truyền bệnh ở người.
Ruồi không hút máu
Truyền bệnh: Thương hàn
tả lị... Gây bệnh: dòi
Ruồi hút máu
Truyền bệnh: Tularemia,
onchocerciasis, ngủ
Châu Phi
Muỗi
Truyền bệnh: Sốt rét, SXH
Giun chỉ, viêm não NB-B
Ve mềm
Truyền bệnh: Sốt hồi quy Ve cứng
Truyền bệnh: Sốt Q. sốt
phát ban, viêm não ve,
Tularemia. lyme
Mò
Truyền bệnh: Sốt mò
Bọ chét
Truyền bệnh: Dịch hạch sán
dây chó, sán dây chuột
Chấy rận
Truyền bệnh: Sốt phát ban
sốt hồi quy, sốt chiến bào
Bọ xít
Truyền bệnh: Chagas
428
1. Đặc điểm hình thể.
1.1. Cấu tạo bên ngoài:
Động vật chân đốt có cấu tạo chung:
+ Thân chia thành đầu, ngực, bụng rõ rệt hoặc đầu giả và thân.
+ Chân, râu (anten), pan (palpe) là những bộ phận có cấu tạo phân đốt, đối
xứng.
+ Thân có vỏ cứng bao bọc (exoskeleton), lớp vỏ này cấu tạo bằng lớp kitin
và một lớp hoà tan trong nước (arthropodin), được coi như là bộ xương của động
vật chân đốt. Lớp vỏ này không liên tục, gián đoạn theo từng phần của cơ thể, nối
liền hai mảnh cứng có một màng kitin mỏng, có thể co giãn được nhưng rất hạn
chế, vì vậy muốn lớn lên động vật chân đốt phải lột xác. Lớp vỏ cứng này có
chức năng giống như da bao bọc che chở các cơ quan bên trong, hạn chế sự mất
nước, ngoài ra nó còn có chức năng giống như một bộ xương để các cơ bám vào
đó tạo hình dạng của động vật chân đốt (hình 14.1, 14.2).
+ Phân giới đực và cái riêng biệt.
Miệng
Đầu giả
Hình thể bên ngoài của ve
Đầu
Ngực
Ăng ten
Pan
Vòi
Thân
Bụng
Hình thể bên ngoài
của muỗi
429
1.2. Cấu tạo trong:
Hoàn thiện hơn ngành giun sán, các cơ quan tuần hoàn, bài tiết, tiêu hoá...
đã phát triển. Đặc biệt cơ quan sinh dục rất phát triển và tương đối hoàn thiện
(hình 14.3, 14.4).
+ Hệ tiêu hoá:
Miệng động vật chân đốt là vòi để châm hút hoặc để gặm nhấm. Tiếp theo là
họng, thực quản, dạ dày, ruột, hậu môn, có hai tuyến nước bọt giúp cho tiêu hoá
được dễ dàng.
+ Hệ tuần hoàn:
Gồm có những xoang máu ở mặt lưng, máu từ các xoang này đổ vào các
xoang rỗng ở toàn thân, máu không có nhiệm vụ vận chuyển oxy mà chỉ mang
chất dinh dưỡng. "Máu" thực chất chỉ là dịch tuần hoàn lưu chuyển được nhờ
một cơ quan bơm "máu" gọi là "tim".
Hình 14.4: Cấu tạo bên trong của muỗi.
Hình 14.3: Hình thể bên trong của ve.
Hình 14.2: Hình thể bên ngoài muỗi và ve.
Não
Tim Manpighi
1
10 2
3 4 5
6 7
8 9
430
1. Họng; 2. Thực quản; 3. Ống tuyến nước bọt; 5. Hạch ngực; 6.
Điều; 7. Dạ dày; 8. Ruột sau; 9. Trực tràng; 10. Ống Manpighi.
+ Hệ thần kinh:
Là những hạch nối với nhau như dây xích ở bụng, cuối cùng được nối với
một hạch to hơn ở mặt lưng, gần thực quản, được coi như "não" của động vật
chân đốt.
+ Hệ hô hấp:
Động vật chân đốt thở bằng mang hoặc khí quản tùy loại sống trên cạn hoặc
dưới nước.
+ Hệ cơ: thuộc loại cơ vân, bám trực tiếp vào mặt trong lớp vỏ kitin, để vận
động bay, nhảy, bơi...
+ Hệ bài tiết: là những ống Malpighi có chức năng bài tiết giống những ống
thận đơn giản.
+ Hệ sinh dục: phát triển tương đối hoàn thiện.
- Cơ quan sinh dục đực gồm: tinh hoàn, túi tinh, các tuyến phụ và càng sinh
dục.
- Cơ quan sinh dục cái gồm: buồng trứng, ống dẫn trứng, âm đạo, túi chứa
tinh. Một số loài như chấy, rận... có tuyến tiết chất dính để gắn trứng vào với
nhau hoặc bám lên tóc, quần áo...
2. Đặc điểm sinh học.
2.1. Đặc điểm sinh thái:
+ Động vật chân đốt muốn tồn tại, phát triển cần những điều kiện thiên nhiên
thích hợp: nguồn thức ăn, nơi trú ẩn, nơi sinh đẻ... Những điều kiện này phụ
thuộc vào yếu tố lí, hoá, sinh học của môi trường như: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng,
độ xốp của đất, các chất hữu cơ, pH, các muối hòa tan, tốc độ gió, động thực vật
và yếu tố địa hình khu vực.
+ Nghiên cứu sinh thái của động vật chân đốt là nghiên cứu mối quan hệ qua
lại giữa động vật chân đốt và những điều kiện của môi trường.
+ Nếu điều kiện thiên nhiên thích hợp, động vật chân đốt phát triển thuận lợi,
số lượng tăng lên nhiều, nếu điều kiện thiên nhiên không thích hợp, số lượng ít
đi. Hiện tượng tăng, giảm về số lượng cá thể gọi là mùa phát triển của động vật
chân đốt. Mỗi loài động vật chân đốt thường phân bố trên từng khu vực nhất định
gọi là vùng phân bố của động vật chân đốt.
431
+ Sự phát triển của động vật chân đốt chịu sự tác động của yếu tố mùa, vùng
rõ rệt. Do đó những bệnh do động vật chân đốt truyền thường là những bệnh diễn
biến theo mùa và vùng.
+ Khả năng thích nghi của động vật chân đốt với khí hậu: nhiệt độ, độ ẩm,
ánh sáng, gió, mưa đều có tác động đến sinh thái của động vật chân đốt. Khí hậu
có thể tạo điều kiện thuận lợi cho động vật chân đốt phát triển, hoạt động với
mức độ cao. Điều kiện tối thiểu chỉ giúp cho động vật chân đốt sinh tồn nhưng
khó phát triển và hoạt động. Trong những tháng rét lạnh, nhiều động vật chân đốt
có khả năng vượt đông để duy trì cuộc sống nhưng không vận động hoặc không
phát triển đáng kể.
+ Khả năng thích nghi của động vật chân đốt với quần thể sinh vật: động vật
chân đốt sống ở ngoại cảnh nhất thiết phải quần sinh với một số sinh vật khác, ở
đó động vật chân đốt tránh những yếu tố không thuận lợi và tìm đến những yếu
tố thuận lợi. Ví dụ: ruồi, nhặng sống gần người và dựa vào những chất thải như
phân, rác của người.
+ Khả năng thích nghi của động vật chân đốt với các yếu tố bất lợi:
- Động vật chân đốt có khả năng thích nghi để đối phó lại những yếu tố
chống lại chúng bằng cách tìm môi trường khác sống thuận lợi hơn.
- Khi thiếu vật chủ thích hợp, động vật chân đốt có thể tạm thời kí sinh ở
những vật chủ không thích hợp.
- Những can thiệp của con người (dùng các biện pháp xua, diệt động vật chân
đốt) cũng có thể dần dần làm thay đổi sinh thái của động vật chân đốt, chúng
không những không chịu tiếp xúc với hóa chất mà còn có thể chuyển hoá những
hóa chất đó để tạo nên sự quen hoặc sức đề kháng với hóa chất.
- Khả năng thích nghi của động vật chân đốt với các yếu tố chống lại chúng
có thể tạo nên những biến động sinh thái của động vật chân đốt. Vì vậy, đòi hỏi
phải có những biện pháp chống động vật chân đốt tận gốc như cải tạo môi trường
và ngoại cảnh, nhân giống những động vật có khả năng diệt động vật chân đốt.
2.2. Đặc điểm sinh lí:
+ Thức ăn của động vật chân đốt rất đa dạng: máu, mủ, dịch mô hay các tổ
chức bị giập nát của vật chủ. Có loài động vật chân đốt chỉ kí sinh trên một vật
chủ được gọi là loài “đơn thực”. Ví dụ: chấy, rận chỉ kí sinh ở trên người, thức ăn
chỉ là máu người, không ăn máu các loài động vật khác. Có loài động vật chân
432
đốt kí sinh trên nhiều loài vật chủ, có thể là người hoặc các loài động vật khác,
đó là loài “đa thực”. Ví dụ: bọ chét Xenopsylla cheopis kí sinh cả trên người, cả
trên chuột, chó, mèo...
+ Loài đơn thực chỉ truyền bệnh trong từng loài vật chủ, loài đa thực truyền
bệnh cho nhiều loài vật chủ khác nhau. Ví dụ: chấy, rận chỉ truyền bệnh cho
người, bọ chét truyền bệnh cho cả người và chuột...
2.3. Vòng đời:
+ Vòng đời động vật chân đốt thường phát triển qua 4 giai đoạn: trứng (eggs) -
ấu trùng (larvae) - thanh trùng (nympha) - trưởng thành (imago). Đây là loại
vòng đời thường gặp trong thiên nhiên như vòng đời của muỗi, ve, mò...
+ Có một số loài động vật chân đốt đẻ ra ấu trùng không có giai đoạn trứng,
như một số ruồi (Glossina), nhặng xám (Sarcophagidae)... những loài này mỗi
lần đẻ không nhiều, từ 1 đến 15 ấu trùng.
+ Ở giai đoạn thanh trùng, một số loài hình thành nhộng (pupa) không ăn,
không hoạt động, như ruồi (Muscidae), ruồi vàng (Simulidae)...
3. Vai trò y học.
Những động vật chân đốt có vai trò y học phần lớn là những ngoại kí sinh
trùng hút máu (trừ ruồi nhà, gián), chúng có thể truyền bệnh và gây bệnh. Vai trò
chủ yếu của chúng là truyền bệnh, vai trò gây bệnh chỉ là thứ yếu nhưng đôi khi
cũng gây nguy hiểm đến tính mạng con người.
3.1. Vai trò gây bệnh:
+ Gây bệnh tại vết đốt và dị ứng: động vật chân đốt khi hút máu truyền độc tố
gây đau, dị ứng, mẩn ngứa, lở loét, hoại tử (mò đốt), nặng hơn có thể viêm tấy
cục bộ, choáng, tê liệt (bọ cạp hoặc ve đốt).
+ Gây bệnh tại vị trí kí sinh: bọ chét Tunga kí sinh ở da, ấu trùng ruồi
Gasterophilidae kí sinh ở dạ dày, cái ghẻ Sarcoptes scabiei kí sinh ở da...
3.2. Vai trò truyền bệnh:
+ Bệnh do động vật chân đốt truyền gọi là bệnh có vật môi giới (vector), có
đặc điểm:
- Thường là những bệnh nguy hiểm, có thể chết người: dịch hạch, sốt rét...
- Bệnh phát thành dịch, lây lan nhanh: sốt xuất huyết, viêm não B Nhật Bản...
433
- Bệnh thường xảy ra theo mùa, khu trú ở từng địa phương: viêm não, sốt
mò...
- Bệnh lây lan giữa người với người, giữa người với động vật.
+ Tiêu chuẩn xác định động vật chân đốt là vector truyền bệnh:
- Động vật chân đốt phải hút máu người hoặc sống gần người.
- Mầm bệnh phát triển trong động vật chân đốt đến giai đoạn lây nhiễm.
- Mùa phát triển của động vật chân đốt phù hợp với mùa của bệnh.
- Gây nhiễm thực nghiệm có kết quả.
+ Phương thức truyền bệnh của động vật chân đốt:
Động vật chân đốt truyền bệnh theo hai phương thức: đặc hiệu và không
đặc hiệu.
- Truyền bệnh đặc hiệu (truyền sinh học): trong thiên nhiên nhiều loại động
vật chân đốt chỉ truyền được một hoặc hai loại mầm bệnh nhất định, những mầm
bệnh này tăng sinh, phát triển ở động vật chân đốt. Các hình thức phát triển hoặc
tăng sinh của mầm bệnh ở động vật chân đốt:
- Mầm bệnh trong động vật chân đốt tăng sinh đơn thuần về số lượng từ một
mầm bệnh ban đầu sau một thời gian tăng lên hàng ngàn cá thể trong động vật
chân đốt như vi khuẩn dịch hạch trong bọ chét.
- Mầm bệnh không tăng sinh về số lượng chỉ phát triển từ giai đoạn chưa
lây nhiễm được đến giai đoạn có khả năng lây nhiễm. Ví dụ: ấu trùng giun chỉ
trong muỗi.
- Mầm bệnh vừa tăng sinh số lượng vừa phát triển giai đoạn như kí sinh trùng
sốt rét trong muỗi.
- Ngoài ra còn có một vài loại mầm bệnh được động vật chân đốt truyền cho
đời sau qua trứng như mầm bệnh Rickettsia orientalis ở mò...
Do quá trình biến đổi trong cơ thể động vật chân đốt, mầm bệnh muốn truyền
được sang người hoặc sang vật chủ khác cần phải có thời gian. Thời gian này phụ
thuộc vào từng loại mầm bệnh và nhiệt độ của môi trường.
Ví dụ: Plasmodium falciparum muốn phát triển được trong muỗi, nhiệt độ
của môi trường phải lớn hơn 160C, Plasmodium vivax phải trên 14,50C.
434
- Truyền bệnh không đặc hiệu (truyền cơ học): động vật chân đốt chỉ đơn
thuần mang mầm bệnh từ nơi này đến nơi khác.
- Mầm bệnh dính bám trên động vật chân đốt, truyền vào thức ăn, nước uống
của người, mầm bệnh không sinh sản, biến đổi trong động vật chân đốt nên
không cần có thời gian. Những động vật chân đốt truyền bệnh theo phương thức
không đặc hiệu có vai trò quan trọng (ruồi nhà, nhặng xanh, gián...) vì thường
xuyên tiếp xúc với người.
- Mầm bệnh còn có thể ở trong ống tiêu hoá của động vật chân đốt, rồi theo
chất bài tiết mà lây sang người. Một số mầm bệnh như trứng giun, sán, kén đơn
bào có thể tồn tại trong cơ thể động vật chân đốt suốt trong quá trình sống của
nó. Tác hại của phương thức này rất lớn.
+ Khả năng truyền bệnh của động vật chân đốt:
Động vật chân đốt có thể truyền hầu hết các loại mầm bệnh kí sinh trùng,
vi khuẩn, virut cho người và động vật:
- Muỗi Anopheles truyền kí sinh trùng sốt rét, giun chỉ. Ví dụ: An.minimus và
An.dirus là những vector chính truyền sốt rét ở Việt Nam, tập trung ở một số
vùng sốt rét trọng điểm như vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên...
- Muỗi Culex truyền giun chỉ, viêm não B Nhật Bản...
- Muỗi Aedes truyền bệnh sốt vàng, sốt xuất huyết Dengue, giun chỉ, và một
số virus khác.
- Muỗi Mansonia truyền giun chỉ. Ở Việt Nam một số vùng có ổ dịch giun
chỉ như các tỉnh đồng bằng châu thổ sông Hồng: Thái Bình, Hà Nam, Hưng Yên,
Hải Dương..., một số tỉnh duyên hải miền Trung: Khánh Hoà, Quảng Bình…
- Muỗi cát Phlebotomus truyền Leishmania (ở Việt Nam đã phát hiện bệnh
nhân mắc Leishmania: Hải Dương, Quảng Ninh…).
- Ve truyền Rickettsia và virus viêm não châu Âu.
- Mò truyền Rickettsia orientalis gây bệnh sốt mò, Việt Nam có ổ bệnh sốt
mò ở Mộc Châu, Sơn La.
- Ruồi ngủ Tsetse (Glossina) truyền Trypanosoma gây bệnh ngủ châu Phi.
Ruồi vàng (Simulium) truyền bệnh mù đường sông. Ruồi trâu (Tabanidae) truyền
giun chỉ Loa loa. Những bệnh này chưa gặp ở Việt Nam.
435
- Ruồi nhà, nhặng, gián truyền mầm bệnh vi khuẩn: tả, lị, thương hàn, lao,
trứng giun sán, kén đơn bào, virut bại liệt, viêm gan... trong các vụ dịch tả, ruồi
nhà có vai trò truyền bệnh rất quan trọng.
- Chấy rận truyền sốt phát ban chấy rận.
- Bọ chét truyền dịch hạch, ở Việt Nam có bọ chét Xenopsylla cheopis truyền
dịch hạch, đã phát hiện được một số ổ dịch nhỏ ở Tây Nguyên.
+ Vai trò của động vật chân đốt trong ổ bệnh thiên nhiên:
- Động vật chân đốt có vai trò quan trọng trong sự tồn tại và lưu hành của
những bệnh có ổ bệnh thiên nhiên. Động vật chân đốt là vật môi giới (vector)
nhiều khi còn là vật dự trữ mầm bệnh: mò Leptotrombidium deliense mang mầm
bệnh sốt mò Rickettsia orientalis suốt đời và truyền sang đời sau.
- Do mầm bệnh phát triển trong động vật chân đốt, nên mùa phát triển bệnh
phụ thuộc vào mùa phát triển của động vật chân đốt. Ví dụ: mầm bệnh virus viêm
não Nhật Bản B chỉ phát triển trong muỗi khi nhiệt độ trên 200C, mùa phát triển
là mùa xuân - hè, ít gặp trong mùa đông. Vật môi giới là những động vật chân
đốt hút máu đảm bảo sự truyền mầm bệnh từ động vật này sang động vật khác.
4. Phân loại động vật chân đốt.
Theo phân loại hiện nay, ngành động vật chân đốt được chia làm bốn ngành
phụ là: Trilobitomorpha, Chelicerata, Branchiata (Crustacea) và Tracheata
(Uniramia), trong đó có khoảng hơn mười lớp nhưng các có hai lớp có vai trò y
học chủ yếu là lớp nhện Arachnida thuộc ngành phụ Chelicerata và lớp côn
trùng (Insecta) thuộc ngành phụ Tracheata (Uniramia).
4.1. Lớp nhện (Arachnida):
+ Đặc điểm hình thể:
Là những động vật chân đốt mà cơ thể là một khối hình bầu dục gọi là
idiosoma, miệng có bộ phận hút là kìm, không có anten, không có cánh, có 4 đôi
chân, mỗi chân gồm 6 đốt.
Lớp nhện có một số loài thở bằng khí quản (ve, mạt), có loài thở qua da
(cái ghẻ). Bộ máy tiêu hoá có cấu tạo đặc biệt: có nhiều ngăn, chứa được rất
nhiều máu, vì vậy khi ăn no thân lớn rất nhiều so với lúc đói.
+ Vòng đời và phân loại:
436
- Vòng đời: phát triển thường qua 4 giai đoạn: trứng - ấu trùng - thanh trùng và
trưởng thành. Hình thể ấu trùng gần giống trưởng thành nhưng chỉ có 3 đôi chân.
- Phân loại: lớp nhện có nhiều bộ, nhưng có hai bộ liên quan đến y học: bộ
Linguatula, và bộ ve (Acarina):
. Bộ Linguatula: đáng chú ý Linguatula serrata và Porocephalus armillatus.
. Bộ ve: ve - mò - mạt - cái ghẻ.
4.2. Lớp côn trùng (Insecta):
* Côn trùng trưởng thành: có 3 đôi chân, thân chia thành 3 phần rõ rệt:
(đầu, ngực, bụng), có vòi.
+ Đầu: thường có mắt. Có 2 loại mắt, mắt đơn và mắt kép (mắt kép gồm
nhiều mắt đơn ghép lại), mắt thường to chiếm gần hết đầu. Có 2 râu (anten) có từ
3 - 15 đốt. Có 2 pan, còn gọi là súc biện, cũng chia đốt. Có 1 vòi để hút thức ăn,
vòi có cấu tạo phức tạp gồm những bộ phận: hàm trên, hàm dưới, môi… để giúp
cho việc hút máu hoặc nghiền, liếm thức ăn.
+ Ngực: có 3 đốt, dính thành một khối, chia 3 thành phần: ngực trước, ngực
giữa, ngực sau, mỗi phần ngực mang một đôi chân. Chân côn trùng chia nhiều
đốt: đốt hông, đốt háng, đốt đùi, đốt cẳng và đốt bàn chân. Trên ngực còn có một
hoặc hai đôi cánh, cũng có loài côn trùng không có cánh. Trên cánh có gân dọc,
gân ngang, có lông hoặc vảy phủ trên các gân.
+ Bụng: có từ 5 - 11 đốt, đốt cuối cùng thường là bộ phận sinh dục đực hoặc
cái.
* Vòng đời và phân loại:
Vòng đời phát triển của côn trùng thường qua bốn giai đoạn: trứng - ấu trùng -
thanh trùng và trưởng thành. Lớp côn trùng chia thành hai nhóm: nhóm phát triển
biến thái hoàn toàn và nhóm phát triển biến thái không hoàn toàn.
+ Nhóm phát triển biến thái không hoàn toàn: Các giai đoạn phát triển ấu
trùng có hình thái tương tự như con trưởng thành, chỉ khác về kích thước, cơ
quan sinh dục. Trong nhóm này có hai bộ liên quan đến y học:
- Không cánh: bộ Anoplura (bộ Chấy rận).
- Bốn cánh: bộ Hemiptera (bộ Rệp) gồm họ Rệp và họ Bọ xít.
+ Nhóm phát triển biến thái hoàn toàn: Các giai đoạn ấu trùng và trưởng
thành rất khác nhau và trải qua giai đoạn chuyển tiếp là nhộng. Nhóm này gồm
những bộ liên quan đến y học là:
437
- Không cánh: bộ Siphonaptera (tên cũ là Aphaniptera, bộ Bọ chét).
- Hai cánh: bộ Diptera. Bộ hai cánh được phân loại theo số đốt của râu và
đường costa trên cánh:
. Râu dưới 3 đốt: bộ phụ Brachycera, trong đó có họ Tabanidae (có hai chi liên
quan đến y học là Chrysops và Tabanus), họ Muscidae, Sarcophagidae, Oestridae.
. Râu trên 3 đốt: bộ phụ Nematocera. Bộ này gồm các họ sau:
Costa chạy tới đầu cánh:
Râu ngắn: họ Simulidae (ruồi vàng).
Râu dài: họ Chiromomidae (dĩn, gián).
Costa chạy vòng quanh cánh:
Trên gân cánh có lông: họ Psychodidae có chi Phlebotomus (muỗi cát) và
Lutzomyia liên quan đến y học.
Trên gân cánh có vẩy: họ Culicidae (muỗi).
Ngoài cách phân loại như trên, người ta còn phân loại động vật chân đốt theo
vai trò của chúng đối với y học.
5. Phòng chống động vật chân đốt.
5.1. Nguyên tắc:
+ Phòng chống động vật chân đốt truyền bệnh trên quy mô rộng lớn nhưng có
trọng tâm trọng điểm. Hầu hết các bệnh kí sinh trùng do động vật chân đốt truyền
là bệnh xã hội, phổ biến, nhiều người mắc, dễ lây lan. Bệnh do động vật chân đốt
truyền có nhiều, không thể đồng loạt phòng chống mà phải chọn những bệnh
nào đó có hại nhiều đến sức khoẻ, sức sản xuất của từng vùng, cân nhắc khả
năng khống chế được bệnh với điều kiện vật chất kĩ thuật có thể có được. Ví dụ:
muỗi truyền bệnh sốt rét ở Tây Nguyên, muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết ở thành
phố, nơi đông người… Nhiều bệnh kí sinh trùng do động vật chân đốt truyền
khác có thể sẽ giảm dần trên cơ sở đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội ngày càng
được nâng cao.
+ Phải có kế hoạch phòng chống động vật chân đốt trong thời gian lâu dài,
liên tục, dựa vào kế hoạch hành chính của chính quyền từ Trung ương đến cơ sở,
vì các bệnh do động vật chân đốt truyền thường kéo dài, tái nhiễm liên tiếp.
438
+ Phòng chống động vật chân đốt truyền bệnh phải là công tác của quần
chúng, xã hội hoá công việc phòng chống, lôi cuốn cộng đồng tự giác tham gia.
Vì mức độ phổ biến của bệnh do động vật chân đốt truyền liên quan đến hàng
triệu người nên mọi người phải hiểu biết về bệnh để tự giác tham gia. Người làm
công tác chuyên môn phải biết tuyên truyền giáo dục, vận động, giúp cho mọi
người dân hiểu biết, tự nguyện phòng chống. Nhiệm vụ của ngành Y tế là phải
tham mưu cho chính quyền thấy rõ được tác hại của các loài động vật chân đốt
truyền bệnh bằng những số liệu thuyết phục, đề xuất được những kế hoạch cụ
thể, hiệu lực trong việc phòng chống.
+ Kết hợp nhiều biện pháp với nhau, từ thô sơ đến hiện đại, kết hợp các biện
pháp cơ - lí - hóa - sinh học để phòng chống động vật chân đốt truyền bệnh.
+ Lồng ghép việc phòng chống động vật chân đốt truyền bệnh với các hoạt
động/các chương trình, các dịch vụ y tế, sức khoẻ khác. Kết hợp phòng chống
động vật chân đốt truyền bệnh với việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu, nhất là ở
tuyến cơ sở.
5.2. Biện pháp chung:
+ Biện pháp cơ học - lí học: phá bỏ những ổ động vật chân đốt, thay đổi môi
trường làm mất nơi trú ẩn hoặc nơi sinh đẻ của chúng. Đối với động vật chân đốt
trưởng thành có thể bắt, đập, bẫy, quạt, hun khói, xua đuổi cách li không cho tiếp
xúc với người... biện pháp này đơn giản dễ làm, nhưng muốn đạt hiệu quả cao
mọi người để phải tham gia, tốn nhiều công sức.
+ Biện pháp hoá học: dùng các hoá chất có hiệu lực để diệt động vật chân đốt
khi chúng tiếp xúc hoặc ăn phải các hoá chất đó. Cần lựa chọn hoá chất, lựa chọn
cách thức sử dụng, không tạo điều kiện để động vật chân đốt kháng thuốc, không
gây ô nhiễm môi trường.
+ Biện pháp sinh học: sử dụng kẻ thù tự nhiên của động vật chân đốt để diệt
chúng, hoặc làm giảm mật độ động vật chân đốt gây hại. Ví dụ: dùng kiến để diệt
rệp, cá ăn bọ gậy... hoặc dùng phương pháp tiệt sinh: sử dụng những kĩ thuật làm
giảm sức sinh sản của động vật chân đốt hay làm biến đổi cấu trúc di truyền của
động vật chân đốt. Phương pháp này có thể diệt được động vật chân đốt mà
không gây độc cho người và môi trường.
439
5.3. Biện pháp cụ thể:
Do có nhiều loại động vật chân đốt truyền bệnh khác nhau nên không thể
cùng một lúc tiến hành phòng chống mọi loại động vật chân đốt. Phải căn cứ theo
yêu cầu, khả năng thực hiện để xây dựng kế hoạch phòng chống động vật chân
đốt có trọng tâm trọng điểm. Với từng loại động vật chân đốt, căn cứ theo sinh
thái mà áp dụng các biện pháp khác nhau để phòng chống một cách toàn diện. Có
ba phương pháp chính:
* Phương pháp cơ học - lí học:
Bắt và diệt các côn trùng trung gian truyền bệnh, cải tạo môi trường làm phá
vỡ, hạn chế điều kiện phát triển, bất lợi cho loài động vật chân đốt truyền bệnh,
phương pháp này không gây ô nhiễm môi trường.
Phá bỏ những ổ động vật chân đốt, thay đổi môi trường làm mất nơi ẩn, nơi
sinh đẻ của chúng, khơi thông cống rãnh, phát quang bụi rậm, phá nơi sinh sản
cư trú của động vật chân đốt.
Đối với động vật chân đốt trưởng thành có thể bắt, đập, bẫy, hun khói, xua
đuổi cách li không cho tiếp xúc với người... biện pháp này đơn giản dễ làm,
nhưng muốn đạt hiệu quả cao mọi người đều phải tham gia, tốn nhiều công sức.
* Phương pháp hoá học:
Nguyên lí của biện pháp này là dùng các hoá chất độc để diệt động vật chân
đốt khi chúng tiếp xúc hoặc ăn phải hoá chất, hoặc dùng những chất có mùi đặc
biệt làm cho côn trùng sợ không dám tấn công vào vật chủ.
Cần lựa chọn hoá chất, lựa chọn cách sử dụng, không tạo điều kiện để động
vật chân đốt kháng thuốc, không gây ô nhiễm môi trường. Phương pháp này có
tác dụng nhanh, trên phạm vi rộng. Thường sử dụng các nhóm thuốc sau:
+ Nhóm thuốc xua: dùng những hoá chất có mùi đặc biệt để xoa lên những
chỗ da hở, hoặc tẩm vào màn, lưới, quần áo... làm cho côn trùng sợ phải bỏ đi.
Có nhiều thuốc xua côn trùng có tác dụng tốt như tinh dầu xả, DEP (diethyl
phtalat), DMP (dimethyl phtalat)...
+ Nhóm thuốc diệt: nhóm này bao gồm nhiều hoá chất:
- Nhóm hoá chất vô cơ: xanh Paris, acetoarseniat đồng... Các hoá chất này
thường được thả xuống nước để diệt ấu trùng động vật chân đốt trong nước.
Vol 30; ĐS/2005 Vol 30; ĐS/2005
440
- Nhóm hoá chất clo hữu cơ: dichlorodiphenyltrichloroetan (DDT) hoặc
hexachlorocychlohexan (HCH, 666) methoxychlor... Các hoá chất này được sử
dụng từ lâu, diệt côn trùng nhanh, tồn lưu lâu nhưng có nhược điểm gây độc cho
người và động vật, làm ô nhiễm môi trường.
- Nhóm lân hữu cơ: malathion, fenthion, dichlorodivynilphosphat (DDVP)…
Các chất này có tác dụng diệt động vật chân đốt nhanh nên thường được sử dụng
khi cần dập tắt nhanh các ổ dịch. Thuốc tồn lưu ngắn (thường từ 15 ngày tới 3
tháng), rất độc đối với người và động vật nên khi sử dụng cần đề phòng nhiễm
độc.
- Nhóm carbamat: những chất kháng enzym cholinesterase thường dùng để
diệt bọ gậy tồn lưu lâu nhưng giá thành đắt nên ít được sử dụng.
- Nhóm pyrethroid: pyrethrin tự nhiên là những chất chiết xuất từ hoa cây
thuộc họ cúc, chi Chrysanthenum. Pyrethrinoid tổng hợp: permethrin, deltamethrin ,
lamdacyhalothrin (ICON), trebon... Các hoá chất thuộc nhóm này có tác dụng
tốt diệt động vật chân đốt, ít độc với người, hệ số an toàn cao, ít gây ô nhiễm
môi trường.
Cách sử dụng hoá chất: tùy theo đặc tính lí, hoá và độ an toàn mà các hoá
chất kể trên có thể được sử dụng dưới các dạng: phun tồn lưu, phun dưới dạng
sương mù, dạng khói, tẩm màn hoặc quần áo. Dùng hoá chất dưới dạng nào cũng
phải đảm bảo yêu cầu diệt được động vật chân đốt nhưng không gây độc cho
người, động vật, không làm ô nhiễm môi trường. Để tránh hiện tượng động vật
chân đốt kháng hóa chất cần sử dụng chúng đúng mục đích, đúng kĩ thuật không
để dư thừa và có kiểm soát, cần thường xuyên theo dõi mức độ kháng để kịp thời
thay đổi hoá chất hoặc phối hợp các biện pháp. Cách tăng liều hoá chất, rất ít sử
dụng vì gây độc cho người và động vật.
* Phương pháp sinh học:
+ Sử dụng kẻ thù tự nhiên của động vật chân đốt để diệt chúng, hoặc làm
giảm mật độ động vật chân đốt gây hại. Ví dụ: dùng kiến để diệt rệp, dùng cá để ăn
bọ gậy muỗi, ấu trùng muỗi Toxorhychites hoặc Culex ăn ấu trùng muỗi khác...,
hoặc dùng một số loại virut, vi khuẩn, nấm để diệt muỗi hoặc bọ gậy muỗi.
+ Phương pháp tiệt sinh: là phương pháp sử dụng những kĩ thuật làm giảm
sức sinh sản của côn trùng gây hại hay làm biến đổi cấu trúc di truyền của động
vật chân đốt. Có thể vô sinh con đực (bằng hoá chất hoặc tia X, hay , vô sinh
441
bằng phương pháp lai ghép tạo con lai F1 vô sinh) rồi thả vào thiên nhiên, những
côn trùng đực vô sinh này có khả năng giao phối cạnh tranh với quần thể ngoài tự
nhiên để sinh ra thế hệ lai không có khả năng sinh sản hoặc mất khả năng truyền
bệnh. Phương pháp này có thể diệt được một loài động vật chân đốt, không gây
độc cho người, không gây ô nhiễm môi trường, nhưng cần thời gian dài và thực
hiện ở một khu biệt lập để động vật chân đốt ở khu vực xung quanh không di
chuyển tới.
6. Động vật chân đốt và chiến tranh sinh học.
Ngành động vật chân đốt được chia thành 4 ngành phụ, trong đó có nhiều lớp
nhưng lớp côn trùng (insecta) và lớp nhện (arachnida) có vai trò quan trọng trong
truyền những tác nhân sinh học.
+ Động vật chân đốt vừa có khả năng gây bệnh vừa có khả năng vận chuyển
và truyền mầm bệnh (tác nhân sinh học) cho người. Ví dụ về khả năng gây bệnh
của động vật chân đốt: một số loài động vật chân đốt khi hút máu truyền độc tố
gây đau, dị ứng, mẩn ngứa (vết loét do mò đốt) hoặc có thể gây choáng, tê liệt
nhiễm độc và chết (bọ cạp, rết độc). Khả năng gây bệnh của động vật chân đốt
cho người rất hạn chế nhưng khả năng vận chuyển và truyền tác nhân sinh học
cho người thì vô cùng to lớn và nguy hiểm .
Một số loài động vật chân đốt chỉ nhiễm mầm bệnh một lần mà có khả năng
truyền mầm bệnh qua nhiều thế hệ sau.
Người ta có thể tạo ra các loài động vật chân đốt lạ có khả năng vận chuyển
và truyền các tác nhân sinh học đã được gây biến đổi gen, kháng thuốc và rất
nguy hiểm.
Người ta cũng có thể tạo ra các loài động vật chân đốt có khả năng chịu
đựng, dung nạp và kháng các hoá chất diệt.
Trong chiến tranh sinh học, kẻ địch có thể dùng động vật chân đốt như là một
vật mang, vận chuyển hay truyền những tác nhân sinh học, gây ra những vụ dịch
lớn, nhằm tiêu diệt đối phương.
+ Động vật chân đốt có thể vận chuyển và truyền rất nhiều loại mầm bệnh
(tác nhân sinh học) cho người và động vật:
+ Mầm bệnh là kí sinh trùng: ruồi Glossina truyền Trypanosoma gây
bệnh Chagas (bệnh ngủ), muỗi cát (Phlebotomus) truyền Leishmania gây bệnh
Kala-aza (bệnh sốt đen).
442
- Mầm bệnh là vi khuẩn: ruồi nhà, nhặng, gián truyền bệnh tả, lị, thương hàn,
lao, bọ chét truyền bệnh dịch hạch (Yersinia pestis).
- Mầm bệnh là virut: muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết (Dengue), viêm não B
Nhật Bản. Ve truyền bệnh viêm não ve, bệnh sốt Colorado.
- Mầm bệnh là Rickettsia: mò truyền bệnh sốt mò, ve truyền bệnh sốt Q, chấy
rận truyền bệnh sốt phát ban.
+ Chính vì động vật chân đốt có khả năng truyền được nhiều mầm bệnh
nguy hiểm như vậy nên nó có vai trò rất quan trọng trong khủng bố sinh học.
Thực tiễn cho thấy kẻ thù đã sử dụng nhiều loài động vật chân khớp mang những
mầm bệnh nguy hiểm tấn công vào đối phương.
Ví dụ: sử dụng vai trò truyền bệnh của bọ chét mang mầm bệnh Y.pestis như:
- Thời kỳ năm 1346 - 1347, quân đội Tác Ta đã phản công thủy quân Thiên
Chúa Giáo bằng cách sử dụng súng phóng đá, bắn xác những người Tác Ta chết
vì bệnh dịch hạch vào quân Genoe. Dịch hạch bùng phát và quân đội Genoe đã
phải rút quân về.
- Các hoạt động quân sự của Pháp ở Ai Cập vào năm 1798 đã gặp phải trở
ngại lớn vì bệnh dịch hạch và đã hủy bỏ cuộc tấn công vào Alexandria.
- Trong chiến tranh thế giới thứ II, quân đội Nhật Bản đã thành lập đơn vị
chuyên nghiên cứu vũ khí sinh học (đơn vị 731). Sau những nghiên cứu tạo ra
loài bọ chét (Pulex irritans) có sức đề kháng cao, có tính chọn lọc vật chủ là
người và lây truyền vi khuẩn dịch hạch vào quần thể chuột tại địa phương. Tháng
10/1941, Nhật Bản đã thả xuống Chanteh (Trung Quốc) nhiều hàng hoá hỗn tạp
như lúa mì, lúa, đồ bông, len… Kết quả sau 2 tuần đã có nhiều người dân ở đây
bị chết vì dịch hạch.
- Những năm tiếp theo, Mĩ và Liên Xô (cũ) đã phát triển kĩ thuật phân tán vi
khuẩn dịch hạch trực tiếp vào không khí mà không phụ thuộc vào bọ chét.
- Năm 1970, Tổ chức Y tế thế giới thông báo, nếu tung 50 kg Yersinia pestis
vào không khí một thành phố 5 triệu dân, thì có khoảng 150.000 người mắc bệnh
dịch hạch thể phổi và sẽ có khoảng 36.000 trường hợp tử vong.
Chương 15
ARACHNIDA - LỚP NHỆN
443
Có nhiều bộ, họ, trong đó có bộ Linguatula, bộ Arcarina (bộ ve) có vai trò
đối với y học.
BỘ LINGUATULA
Là những động vật chân đốt nhỏ chân bị thoái hoá, hình thể giống như giun
sán, nhưng có thớ ngang, hình dẹt hoặc tròn, thở qua da.
Linguatula có hai loài chính:
+ Linguatula serrata:
Hình dẹt, thân có thớ chia ngang. Con cái dài 8 - 10 mm, con đực nhỏ hơn,
chỉ dài 5 - 6 mm, kí sinh ở xương hốc mũi các loài chó, chồn, cừu...
Ở người, kí sinh dưới dạng ấu trùng tạo thành những nang ở cơ hoành hoặc
gan. Người bị nhiễm do ăn phải trứng có lẫn trong thực phẩm.
+ Porocephalus armillatus:
Hình ống dài, có các khúc giống như đốt trúc: có cái có 18 - 22 khúc, dài
9 - 10 cm; con đực có 10 - 17 khúc, dài 4 - 5 cm. Con trưởng thành kí sinh ở
phổi các loài rắn lớn; ở người, kí sinh dưới dạng ấu trùng tạo thành nang ở gan.
Người nhiễm do ăn phải trứng.
Cả hai bệnh này chưa gặp ở Việt Nam.
BỘ ACARINA - BỘ VE
Ve - Acarina có đầu, ngực, bụng dính liền một khối, bộ phận miệng còn gọi
là đầu giả (capitulum).
Acarina trưởng thành có 8 chân, ấu trùng có 6 chân, không có râu, không có
cánh.
Phân loại Acarina theo cách thở và lỗ thở:
+ Lỗ thở ở giữa cơ thể: Ixodidae và Gamasidae.
+ Lỗ thở ở trước thân: Trombidoiae.
+ Không có lỗ thở, thở qua da: Sarcoptoidae.
444
HỌ VE IXODIDAE
Thường gọi là ve có lỗ thở nằm ở giữa cơ thể. Đầu giả mang hai càng không di
động được, có 2 họ phụ: ve mềm (Argasinae) không có mai, đầu giả nằm ở dưới
bụng (ít gặp ở Việt Nam) và ve cứng (Ixodinae) có mai, đầu giả nằm ở phía
trước.
Ve có thành phần loài rất phong phú, kí sinh trên nhiều loài động vật. Trên thế
giới phát hiện được 750 loài Ixodinae và trên 100 loài Argasinae. Miền Bắc Việt
Nam đã phát hiện được 49 loài và phân loài ve cứng, 1 loài ve mềm kí sinh trên
các động vật máu nóng (trâu, bò, chó, chuột, gà, chim...) và bò sát (rắn, kì đà...).
1. Ve mềm (Argasinae).
+ Ve mềm (Argasinae) có các chi Argas và Ornithodoros.
+ Năm 1942 Toumanoff gặp ve mềm kí sinh trên dơi.
+ Không có mai lưng ở tất cả các giai đoạn phát triển, mặt bụng chỉ có những
đĩa bằng kitin, đầu giả nằm ở dưới bụng (hình 15.1).
Mặt lưng Mặt bụng
Ve Omithocdoros moubata (truyền bệnh sốt hồi quy ở Châu Phi).
Vòng đời của ve thân mềm
Omithodoros moubata
Trưởng
thành
Thanh trùng
Trứng trong kén
Trứng
Hình 15.1: Hình thể và vòng đời của ve mềm.
445
+ Ve mềm hoàn thành vòng đời từ 3 - 12 tháng. Ve đực và ve cái đều hút
máu, thường hút máu về đêm. Đực cái giao phối ngay trên vật chủ. Mỗi đời đẻ
100 - 200 trứng, cả đời đẻ khoảng 1200 trứng. Ve trú ẩn ở khe kẽ nền nhà, vách
tường, khe cột...
+ Ve nhịn đói lâu được tới hàng năm. Tuổi thọ của Argasidae cao, có khi tới
25 năm.
+ Ve mềm Ornithodoros moubata truyền được cho người một số loài soắn
khuẩn thuộc chi Spirochaeta và Borrelia. Ve hút máu của động vật gặm nhấm và
thú nhỏ bị nhiễm soắn khuẩn, soắn khuẩn phân tán khắp cơ thể ve và cả tuyến
nước bọt, sau đó truyền cho động vật xương sống khác.
+ Ve mềm Ornithodoros moubata gây bệnh sốt hồi quy.
2. Ve cứng (Ixodinae).
2.1. Hình thể ve cứng:
Ve trưởng thành hình bầu dục, dẹt theo chiều lưng bụng, dài khoảng 3 - 23 mm
tùy thuộc từng loài, màu từ nâu nhạt đến đậm. Thân là một khối không phân rõ
đầu, ngực, bụng.
Có bộ phận hút máu gọi là đầu giả (capitulum) nằm ở phía trước, gồm một đôi
pan, một đôi kìm và một vòi xếp thành hàng, mọc quay xuống phía thân. Mỗi pan
có 4 đốt, đốt thứ 4 nằm trong đốt thứ 3, có cơ quan khứu giác để tìm mồi. Mặt lưng
có mai (mảng kitin), con đực có mai to trùm toàn bộ lưng; con cái mai nhỏ chỉ
chiếm một phần phía trước. Đốt cuối của đôi chân trước có cơ quan cảm giác
(cơ quan Haller) để đánh hơi tìm mồi (hình 15.2). Ấu trùng ve chỉ có ba đôi chân.
Ve cứng Ixodes ricinus
Ve Amblyomma hebraeum
Ve cứng núi đá
Dermacento andersoni
446
Hình 15.2: Hình thể ve cứng. 2.2. Đặc điểm sinh học:
Vòng đời phát triển trải qua 4 giai đoạn: trứng - ấu trùng - thanh trùng -
trưởng thành. Ve đực thường chết sau khi giao phối.
Ve cái tìm mồi hút máu và đẻ trứng. Cả đời ve chỉ đẻ 1 lần, đẻ hết trứng và
teo xác lại rồi chết. Thời gian đẻ trứng kéo dài trong 14 - 20 ngày với số lượng từ
2000 - 8000 trứng. Sau 2 - 7 tuần, trứng nở ra ấu trùng. Mỗi giai đoạn phát triển
ấu trùng, thanh trùng và trưởng thành đều cần hút máu, có no mới lớn lên và lột
xác chuyển giai đoạn. Nhìn chung các loài ve hút máu nhiều loài vật chủ (đa vật
chủ), một số loài chỉ có ít vật chủ thích hợp là người và động vật. Các hình thức
kí sinh của ve có thể là:
Kí sinh trên một loài vật chủ ở tất cả các giai đoạn: Boophylus caudatus...
Kí sinh trên 2 vật chủ, giai đoạn ấu trùng và thanh trùng trên 1 vật chủ, giai
đoạn trưởng thành trên 1 vật chủ khác: Rhipicephalus bursa.
Mỗi giai đoạn phát triển vòng đời kí sinh trên 1 vật chủ như: Dermacentor,
Haemaphysalis.
Thời gian hoàn thành vòng đời phát triển của ve tùy thuộc vào thức ăn và
nhiệt độ môi trường, kéo dài 2 - 3 tháng hoặc hơn.
Khu vực phân bố của ve tùy thuộc vào vật chủ. Có loài gặp nhiều ở rừng rậm,
đồng cỏ; có loài ở xung quanh chuồng gia súc... Những động vật là vật chủ của
ve: chuột, sóc, trâu, bò, ngựa... và người. Trên vật chủ ve thường tìm nơi da ẩm
như: cổ, nách, bẹn, sau tai... để kí sinh hút máu.
Ve cái trưởng thành Đám trứng
Ve đực
Thanh trùng Ấu trùng
Trưởng thành
Thanh trùng
Đám trứng
Ấu trùng
447
Hình 15.3: Vòng đời ve cứng.
Ve rình mồi bằng cách bám trên ngọn cỏ, lá cây... ở các đường đi của vật
chủ. Ve nằm im, đưa 2 chân trước lên đánh hơi tìm mồi, hướng về phía vật chủ
đang đi lại. Khi vật chủ đi qua, ve bám ngay vào lông tóc, quần áo... sau đó tìm
nơi kí sinh. Sau khi bám vào vật chủ 50 - 60 phút ve mới hút máu. Ở nhiệt độ 19
- 200C, độ ẩm 80% ve hoạt động mạnh. Khi trời nắng ấm, khô ráo ve hoạt động
mạnh. Khi trời âm u, trời mưa ve hoạt động ít hơn, có khi ngừng hoạt động.
Mùa phát triển của ve ở Việt Nam khác nhau tùy từng loài: Haemaphysalis,
Amblioma, Dermacentor phát triển vào hè thu (tháng 4 - tháng 8); Boophylus
phát triển quanh năm nhưng nhiều vào đông xuân.
Ve có sức chịu đói cao: ấu trùng có thể nhịn đói khoảng 1 tháng, thanh trùng
và trưởng thành nhịn đói được hàng năm. Ve có thể sống khoảng 5 năm.
2.3. Vai trò y học:
2.3.1. Vai trò truyền bệnh:
Ve có thể truyền được nhiều loại mầm bệnh: vi khuẩn, vi rút, Rickettsia...
+ Mầm bệnh là Rickettsia:
- Sốt Q: mầm bệnh là R.burnetti (Coxiella burnetti). Bệnh phát hiện lần đầu
tiên ở vùng Queensland (Australia). Hiện bệnh phân bố rộng rãi trên toàn thế
giới. Bệnh do ve Rhipicephalus, Dermacentor truyền; bệnh cũng có thể lây qua
đường hô hấp và tiêu hoá.
- Sốt phát ban vùng núi đá: mầm bệnh là R.rickettsi, do ve Dermacentor
truyền, hay gặp ở vùng Tây châu Mĩ (Braxin, Canada, Colombia, Panama và Mĩ).
- Sốt phát ban Siberie: mầm bệnh là R.sibirica do ve Dermacentor,
Haemaphysalis, Rhipicephalus truyền. Bệnh phân bố ở Nhật Bản, Liên Xô (cũ)
và vùng Thái Bình Dương. Bệnh do loài ve rừng châu Á Dermacentor silvarum
truyền.
- Bệnh sốt phát ban do R.conorii: ở vùng Trung Cận Đông, châu Phi và Nam
Á do ve chó nâu Rhipicephalus sangiuneus truyền.
- Bệnh sốt phát ban do R.australis xảy ra ở vùng Queensland (Australia):
do loài ve yếm Ixodes holocychis truyền.
Điều trị: có thể dùng tetracyclin hoặc cloramphenicol.
Phòng bệnh: tránh không cho ve đốt, nhanh chóng thận trọng lấy ve ra khỏi
chỗ đốt. Rickettsia có thể nhiễm cho người vài giờ sau khi ve bám vào vật chủ.
+ Mầm bệnh là virút:
448
Một số bệnh viêm não do ve truyền là do virut gây viêm cấp ở não, màng
não, tủy sống. Triệu chứng thay đổi tùy theo bệnh. Nhiều người bị nhiễm nhưng
không có biểu hiện gì. Trường hợp nặng có đau đầu dữ dội, sốt cao, buồn nôn,
hôn mê, có thể tử vong.
- Viêm não ve hay viêm não vùng rừng Taiga (còn gọi là viêm não vùng Viễn
Đông): do ve Taiga Ixodes persulcatus truyền.
- Viêm não châu Âu (viêm não vùng Trung Âu từ Ural cho đến Pháp): do ve
đậu Ixodes ricinus truyền.
- Bệnh sốt Colorado: do ve rừng Mĩ Dermacentor andessoni, bệnh được
nghiên cứu nhiều ở châu Mĩ.
+ Mầm bệnh là vi khuẩn:
- Bệnh Tularemia: do ve Dermacentor truyền, gặp nhiều ở châu Mĩ, châu Âu.
Bệnh còn gọi là bệnh sốt thỏ, sốt ruồi hươu hay bệnh Ohara do Francisella
tularensis gây ra. Mầm bệnh do ve Dermacentor, ve thỏ Mĩ Haemaphysalis
leporis-palustris; cũng có thể do va chạm với động vật mắc bệnh như thỏ... Thợ
săn và thợ rừng có nguy cơ nhiễm bệnh cao.
Bệnh điều trị bằng kháng sinh streptomycin.
Dự phòng: tránh ve đốt; sử dụng găng tay không thấm nước để giết ve và tiếp
xúc với các động vật săn được. Nấu chín thịt động vật hoang dại và nước ở vùng
có bệnh.
- Bệnh Lime: mầm bệnh là xoắn khuẩn Borrelia burrefery, phát hiện từ năm
1975 tại làng Lime (Mĩ). Bệnh xảy ra chủ yếu ở vùng ôn đới phía Bắc Trái Đất
gồm: Trung Quốc, châu Âu, Mĩ và Liên Xô (cũ).
Bệnh đã được phát hiện ở Việt Nam trên một bệnh nhân điều trị tại Bệnh
viện 103 (Nguyễn Phú Kháng và CS, 1990).
Bệnh phát triển qua 3 giai đoạn:
. Giai đoạn cấp: giống cảm cúm, sau khi nhiễm bệnh 10 - 15 ngày. Tại chỗ ve
đốt có ban đỏ.
. Giai đoạn vào khớp: viêm khớp, viêm cơ tim, viêm màng trong tim, cuối sùng
suy tim nhất là suy tim phải và kèm theo loạn thần. Giai đoạn này tử vong 15%.
. Giai đoạn mạn tính: để lại di chứng không hồi phục.
Bệnh chủ yếu do ve Ixodes truyền, phổ biến nhất vào mùa hè, khi có nhiều
thanh trùng ve.
449
Các loài gặm nhấm nhỏ, đặc biệt là chuột, đóng vai trò nguồn bệnh trong khi
đó các thú lớn chủ yếu đóng vai trò vật chủ nuôi giữ quần thể ve. Ấu trùng ve
nhiễm bệnh trong khi đốt chuột, thanh trùng và trưởng thành có thể truyền bệnh
trong những lần đốt tiếp theo.
Tại những vùng ôn đới phía bắc bệnh đã trở nên phổ biến hơn khi những đàn
hươu, nai tăng lên và đã thích nghi với cuộc sống gần người. Có thể giảm sự tiến
triển bệnh hoặc dự phòng bằng tetracyclin hoặc penicillin trong 2 - 4 tuần.
2.3.2. Vai trò gây bệnh của ve:
+ Gây ngứa tại chỗ: vết ve đốt rất đau, ngứa do phản ứng của vật chủ; hoặc
do đầu giả của ve bị đứt lại trong da làm nổi sẩn cục, sưng đau, ngứa, phù nề.
+ Thiếu máu: nếu bị ve đốt nhiều có thể gây thiếu máu, đặc biệt ở gia súc
bị ve kí sinh nhiều có thể giảm khả năng sinh truởng, giảm sản lượng sữa
(bò, dê, ngựa...).
+ Độc tố của ve có thể gây liệt (liệt tạm thời), hay gặp ở trẻ em, đôi khi liệt
cơ hô hấp có thể gây tử vong; liệt xuất hiện sau khi bị ve đốt 5 - 7 ngày, gây tê
liệt ở chân và ảnh hưởng đến khả năng nói, nuốt và thở. Bệnh xảy ra phổ biến
trên thế giới, nguy hiểm ở trẻ em dưới 2 tuổi. Điều trị bằng cách lấy ve ra khỏi cơ
thể.
3. Phòng chống ve.
+ Khi lao động hoặc đi qua nơi có ve hoạt động, định kì khoảng 50 phút 1 lần
cần nghỉ để bắt ve trên thân thể, quần áo; tốt nhất là 2 người kiểm tra cho nhau.
Khi đã bị ve đốt, nhẹ nhàng lấy kim châm hoặc đốt vào thân ve để ve tự nhả ra,
tránh dứt mạnh làm đầu giả của ve bị đứt lại trong da gây viêm đau.
+ Dùng hoá chất xua côn trùng bôi lên chỗ da hở; không ngồi trực tiếp xuống
đất, cỏ...
+ Phá nơi sinh sản và trú ẩn của ve: lấp khe kẽ trên nền nhà, chuồng chăn
nuôi. Bộ đội trú quân ở rừng cần phát quang xung quanh lán trại, nhà và đốt sạch
mùn rác.
+ Diệt ve trên gia súc (trâu, bò, ngựa...), dùng hoá chất diệt côn trùng phun
vào nơi có nhiều ve trú ẩn.
TROMBICULIDAE - HỌ MÒ
450
Họ mò - Trombiculidae thuộc bộ ve bét (Acariformes), cho đến nay trên thế
giới đã phát hiện hơn 3000 loài, trong đó có 19 loài truyền bệnh sốt mò (sốt phát
ban Tsutsugamushi do R.tsutsugamushi) phân bố ở nhiều nơi trên thế giới.
Mò thường kí sinh ở các thú nhỏ, chủ yếu là chuột, một số ở chim, gà và bò
sát. Mò đốt gây ngứa, dị ứng.
Ở Việt Nam đã phát hiện hơn 106 loài mò, trong đó có 17 loài đặc hữu cho
khu hệ mò Việt Nam; có 5 loài trong số 19 loài đã được xác định có vai trò
truyền bệnh sốt mò trên thế giới (Nguyễn Văn Châu, 1994).
Một số đặc điểm hình thể của mò:
+ Thân dính liền thành một khối, có đầu giả, khiên (mai) ở mặt lưng.
+ Mò trưởng thành và thanh trùng có 8 chân, trên thân phủ đầy lông, kích
thước 1 - 1,25 mm.
+ Ấu trùng mò có 6 chân, kích thước lúc đói 0,25 - 0,5 mm; lúc no kích thước
có thể tăng gấp đôi. Thân ấu trùng mò hình bầu dục, có nhiều lông, mặt lưng có 1
khiên, hình dạng khiên biến đổi tùy theo từng loài: 4 cạnh, 5 cạnh hoặc 6 cạnh.
Màu sắc của mò khác nhau: vàng, đỏ, trắng...
Cả mò trưởng thành và mò thanh trùng đều không đốt máu người và động
vật. Chúng sống trong đất và ăn các bét khác, côn trùng nhỏ hoặc trứng bét. Ấu
trùng mò hút máu ở da. Trứng sau khi nở ra ấu trùng, ấu trùng bò lên cỏ hoặc
những bụi cây thấp, đám lá mục để đợi vật chủ là người hoặc động vật. Mò bám
chặt vào da của bò sát, chim, thú, người đi qua hoặc nghỉ lại ở nơi chúng sống.
Ở người chúng chọn nơi bám là những nơi quần áo bó sát vào da, thắt lưng
và mắt. Thời gian ấu trùng mò bám vào da vật chủ để hút máu từ 2 ngày đến 1
tháng tùy theo từng loài. Sau khi no, chúng rơi xuống, chui vào đất, phát triển
thành thanh trùng và trưởng thành.
Mò phân bố rải rác trong những vùng rất nhỏ vì nhu cầu riêng của chúng. Mò
thanh trùng và trưởng thành cần có điều kiện nhất định để sống, còn ấu trùng cần
có những động vật làm vật chủ như: chuột hoang, các loài động vật gặm nhấm
nhỏ và chim. Nơi thích hợp cho mò trưởng thành là những đồng cỏ, những vùng
cây bụi, rừng, đồng lúa tốt tươi và những cánh rừng đã bị phát quang. Mò còn
451
thấy cả ở những công viên, vườn, bãi cỏ và những nơi ẩm dọc theo bờ hồ, bờ
suối. Vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới, các bụi tre là những nơi mò rất ưa thích.
Ở Việt Nam đã phát hiện hơn 106 loài mò thuộc 23 chi, 2 phân họ của họ
Trombicuidae. Số lượng tập trung chủ yếu ở 2 chi: Leptotrombidium (28 loài) và
Gahrliepia (20 loài).
Trong số 106 loài, mới xác định loài Leptotrombidium deliense là vector
truyền bệnh.
LEPTOTROMBIDIUM DELIENSE
Là loài mò đỏ, phân bố rộng rãi ở khu vực phía Bắc Việt Nam.
1. Đặc điểm hình thể.
Ấu trùng Leptotrombidium deliense có thân hình trứng, màu đỏ, khiên nằm ở
phía trước thân. Khiên có hình chữ nhật, cạnh trước hơi lõm, cạnh sau hình cung.
Trên khiên có 5 lông, trong đó 4 lông mọc ở 4 góc và 1 lông nằm ở giữa cạnh
trước. Ngoài ra còn có 2 lông cảm giác, ngọn lông có phân nhánh. Mặt lưng có
28 lông xếp thành 6 hàng có thứ tự từ trên xuống dưới như sau: 2 - 8 - 6 - 6 - 4 -
2. Hai bên khiên có mắt. Mặt bụng có 18 - 20 lông.
2. Đặc điểm sinh học.
Mò phát triển qua 4 giai đoạn: trứng - ấu trùng - thanh trùng và trưởng thành.
Mò thanh trùng và trưởng thành sống tự do, ăn thực vật rữa nát hoặc trứng
các loài côn trùng nhỏ khác. Chỉ có ấu trùng mò mới sống kí sinh hút máu, dịch
mô hoặc tổ chức bị phá hủy (mò kí sinh rất lâu từ 2 ngày đến 2 tháng).
Để ăn no, ấu trùng mò L. deliense cần trung bình từ 2 - 6 ngày. Sau khi ăn no,
ấu trùng rơi xuống đất, chui xuống đất mùn. Sau khoảng 12 ngày, ấu trùng lột
xác thành thanh trùng; sau khoảng 30 ngày thanh trùng lột xác và phát triển thành
mò trưởng thành. Ở nhiệt độ 22 - 300C, độ ẩm 100% thời gian hoàn thành vòng
đời khoảng 3 tháng. Ấu trùng sống được khoảng 9 tháng.
452
Hình 15.4: Vòng đời mò đỏ L.deliense.
Mò đực sau 1 - 6 ngày xuất túi tinh ra môi trường có mùi hấp dẫn mò cái. Mò
cái dùng chân đẩy túi tinh vào lỗ sinh dục. Sau 1 tuần mò cái đẻ trứng. Mò cái đẻ
liên tục trong nhiều tháng, tổng cộng khoảng 500 trứng ở điều kiện 23 - 250C.
Trung bình mỗi ngày mò đẻ 1- 3 trứng. Sau 1- 3 tuần trứng nở ra ấu trùng.
Mò có tính chọn lọc vật chủ kí sinh: mò ưa kí sinh ở động vật gặm nhấm,
động vật ăn côn trùng. Mò cũng có thể kí sinh ở gà, chim, dơi và các loài bò sát.
ấu trùng mò L. deliense thích kí sinh trên chuột nhà (Rattus flavipectus) và một
số loài chuột khác sống người.
Ấu trùng mò cũng có tính chọn lọc vị trí kí sinh: ở chuột mò thường kí sinh
trong lỗ tai, quanh mắt, quanh vú. Ở người, mò thường kí sinh ở nách, rốn, bẹn...
Nói chung ấu trùng mò có xu hướng thích kí sinh ở nơi da mềm, ẩm của vật chủ.
Ấu trùng mò ưa vật thể màu đen, nơi có ánh sáng và CO2.
Cách ăn của ấu trùng mò: ấu trùng cắm vòi vào da vật chủ, tiết men theo
nước bọt làm tan rữa mô của vật chủ tạo thành một ống dẫn, trong có chứa dịch
lỏng của mô, máu và nước bọt. Mò hút chất dịch đó vào dạ dày, rồi lại tiết nước
bọt ra theo ống dẫn làm phá hủy sâu hơn tổ chức, mô của vật chủ. Nơi bị kí sinh
lúc đầu là một sẩn tịt có đường kính 3 - 6 mm, sau đó hình thành bọc nước ở
giữa, xung quanh tấy đỏ, đau, ngứa, khó chịu. Cuối cùng bọc nước vỡ ra để lại
một vết loét đặc hiệu có giá trị chẩn đoán bệnh. Ấu trùng mò chỉ kí sinh ở vật chủ
1 lần, ăn cho đến no mới rời vật chủ.
453
Mò thường không phát tán rải rác, chúng thường tập trung hoạt động trong
phạm vi có đường kính 3 m, gọi là ổ mò. Tuy nhiên, do nước lũ hoặc do vật chủ
hoạt động, mò có thể đi xa hơn đến nơi mới. Ở khu vực có điều kiện thích hợp,
có thể hình thành nhiều ổ mò.
Mò L. deliense phát triển quanh năm, nhưng cao nhất trong mùa hè từ tháng
5 đến tháng 8. Ở nơi có khí hậu 2 mùa: mưa và khô, mò phát triển mạnh vào
mùa mưa.
Khu vực phân bố của mò: ở vùng núi thường gặp ở thung lũng, ven suối, gần
nguồn nước, gần làng bản là những nơi có vị trí thấp, râm mát, có độ ẩm cao, cây
cỏ rậm, có nhiều chuột hoạt động; ở vùng đồng bằng, thành phố, gặp ở những
bãi, vườn hoang có nhiều hồ ao, cây cỏ rậm rạp, có nhiều chuột qua lại; ở vùng
bờ biển thường gặp ở bãi lầy, rậm ở ven đê hay bị ngập nước và có nhiều chuột.
3. Vai trò y học.
+ Mò kí sinh gây ngứa, khó chịu, tạo vết loét dễ gây nhiễm trùng. Vết loét
kéo dài 2 - 3 tháng mới khỏi.
+ Mò hút máu của các động vật mang mầm bệnh trong tự nhiên như chuột ,
các thú nhỏ... Rickettsia tập trung lên tuyến nước bọt của mò và truyền được
cho người.
+ Mò đã nhiễm mầm bệnh sẽ mang mầm bệnh Rickettsia trong suốt quá trình
phát triển từ giai đoạn thanh trùng (nhộng) cho đến trưởng thành, thậm chí truyền
cho cả mò tự do khác chỉ sống tự do ăn trứng và côn trùng nhỏ; truyền cả
Rickettsia cho trứng và thế hệ sau.
+ Mò truyền bệnh sốt mò Tsutsugamushi, còn gọi là bệnh sốt triền sông Nhật
Bản. Mầm bệnh là Rickettsia orientalis.
+ Biểu hiện lâm sàng: sốt cao, nhức đầu, nổi hạch ở nách, bẹn gần chỗ mò
đốt. Sau 4 - 5 ngày sốt có nổi ban. Đôi khi bệnh diễn biến nặng có thể hôn mê và
chết vào khoảng ngày thứ 9 đến ngày thứ 15 của bệnh.
+ Đây là bệnh có ổ bệnh thiên nhiên. Mầm bệnh được truyền cho thế hệ sau,
nhờ đó nhờ mới có khả năng truyền bệnh sốt mò vì cả đời mò chỉ kí sinh hút máu
có 1 lần.
+ Mò hút máu các động vật mang mầm bệnh trong tự nhiên như: chuột,
các thú nhỏ... làm mò bị nhiễm mầm bệnh. Mò đã mang mầm bệnh có thể mang
mầm bệnh suốt quá trình phát triển từ giai loạn trứng cho đến trưởng thành.
454
Thậm chí mò có thể truyền mầm bệnh cho mò trưởng thành sống tự do và chỉ ăn
côn trùng và động vật chân đốt nhỏ; truyền mầm bệnh Rickettsia cho thế hệ sau
thông qua trứng.
+ Ở Việt Nam phát hiện nhiều ổ bệnh sốt mò suốt từ miền Bắc đến miền
Nam: Mộc Châu (Sơn La), Quảng Ninh, Thanh Hoá, Đồ Sơn, Tây Nguyên...
+ Nguồn bệnh chủ yếu là chuột, vật môi giới là mò L. deliense.
4. Phòng chống.
+ Vệ sinh, phát quang quanh nhà ở, nơi tắm, bến nước. Triệt phá ổ mò xung
quanh làng bản, nơi đóng quân; thường xuyên diệt chuột (vật chủ của mò).
+ Dùng hoá chất xua côn trùng DMP, DETA bôi lên da khi phải tiếp xúc với
mò. Khi hành quân, lao động, lúc nghỉ ngơi không ngồi bệt xuống đất, cỏ.
+ Phun hoá chất diệt côn trùng để diệt mò.
+ Điều trị sốt mò bằng clormycetin, tetracycline.
455
Hình 15.5: Mạt gà
Dermanysus gallinae.
GAMASIDAE - HỌ MẠT
Mạt là những động vật chân đốt nhỏ, sống tự do trong mùn đất hoặc sống kí
sinh ở các động vật máu nóng, đôi khi kí sinh ở người. Ở nước ta đã phát hiện 36
loài mạt (Grakhovskaia, 1956), nhưng phổ biến hơn cả là mạt gà và mạt chuột.
1. Mạt gà - Dermanysus gallinae.
+ Hình thể:
Kích thước: con đực 0,6 0,2 mm; con cái 0,75 0,4 mm.
Thân có hình trứng, đầu nhỏ, bụng có lông ngắn, thưa. Chân ngắn khoẻ,
hai chân trước gần bằng chiều dài của thân, ống thở dài tới gốc đôi chân thứ hai
(hình 15.5). Màu trắng, đỏ hoặc tím tùy theo lúc mạt đói hay no.
+ Sinh lí, sinh thái:
Mạt hoạt động về đêm. Ban ngày mạt trú ẩn ở các tổ chim, ổ gà, khe vách
chuồng gà... đêm đến bò ra đốt chim, gà, đôi khi đốt cả người.
Mạt có khả năng nhịn đói nhiều tuần. Khi đói lâu,
mạt không đốt được người nhưng bò trên người gây
cảm giác ngứa ngáy, khó chịu.
+ Vai trò gây bệnh và truyền bệnh
Nước bọt của mạt rất độc với gà, nếu nhiều có
khả năng làm chết gà trong vòng 24 giờ, nhất là vào
cuối mùa hạ. Mạt đốt người gây ngứa dữ dội và tạo
những đám nổi mẩn mọng nước.
Mạt có khả năng truyền bệnh viêm não - màng
não cho người.
Ở Việt Nam, mạt gà có nhiều nhưng vai trò truyền
bệnh chưa rõ.
2. Mạt chuột - Dermanyssus sanguineus.
Con đực nhỏ hơn con cái; thân hình trái xoan, màu nâu vàng.
Mạt chuột thường kí sinh trên chuột đen (Rattus rattus), chuột cống (Rattus
norvegicus) phổ biến ở nước ta.
Mạt chuột có khả năng truyền bệnh đậu do Rickettsia (giống bệnh thủy đậu)
và bệnh sốt phát ban chuột.
Một số tác giả đã phân lập được mầm bệnh sốt phát ban do virut Liponyssus
bacoti, bệnh truyền từ chuột sang người.
456
Hình 15.6:
Sarcoptesscabiei.
3. Phòng chống.
Vệ sinh chuồng chim, chuồng gà, lấp hang chuột, diệt chuột thường xuyên.
Khi làm việc gần chuồng gà, chim cần dùng các hoá chất xua diệt côn trùng
để phòng mạt đốt.
Phun DDT hoặc xông hơi diêm sinh vào chuồng gà, chuồng chim để diệt
mạt.
SARCOPTOIDAE - HỌ GHẺ
Loài cái ghẻ Sarcotes scabiei kí sinh trên người gây bệnh ghẻ.
SARCOPTES SCABIEI
1. Đặc điểm hình thể.
Gần như không thể nhìn thấy cái ghẻ bằng mắt thường. Cái ghẻ có thân hình
bầu dục hoặc gần tròn (hình 15.6). kích thước: con cái 0,33 - 0,45 0,25 - 0,35 mm;
con đực 0,2 - 0,24 0,15 - 0,20 mm.
Màu vàng nhạt, mình ngắn, lưng gồ, không có mắt,
không có lỗ thở, có nhiều lông dài.
2. Đặc điểm sinh học.
Cái ghẻ đào hang trong da để đẻ trứng, mỗi ngày đẻ
1 - 2 trứng, cả đời đẻ 40 - 50 trứng. Sau 3 - 4 ngày trứng
nở ra ấu trùng, sau 3 - 10 ngày ấu trùng phát triển thành
thanh trùng (nhộng), khoảng ngày thứ 21 đến ngày thứ
22 thành ghẻ trưởng thành. Sau giao phối, ghẻ cái phải
lột xác lần nữa mới đào hang để đẻ trứng. Mỗi ngày ghẻ
cái có thể đào hang dài 2 - 10 mm. Đời sống của cái ghẻ
khoảng 2 - 5 tuần. Ghẻ đào hang về đêm.
Cái ghẻ có khả năng kí sinh trên nhiều loài vật chủ khác nhau: người, động
vật nuôi và động vật hoang dã..., hình thể rất thay đổi (quan sát KHV điện tử), do
đó có thêm nhiều tên phụ loài như: Sarcoptes scabiei hominis, S. scabiei equi,
S. scabiei ovis...
Tất cả các giai đoạn phát triển đều có khả năng đào hầm trong da, nhất là con
cái đã thụ tinh đào những đường hầm rất đặc trưng (hình 15.7). Gần như toàn bộ
457
đời sống của cái ghẻ là ở trên và trong da người, rời cơ thể vật chủ nó chỉ sống
thêm được vài ngày.
Có thể nhận biết bằng cách dùng mũi dao nhọn, kim để lẩy ở vài chỗ da nghi
ngờ, chuyển lên lam kính và soi kính hiển vi. Cũng có thể dùng dầu mỏ để kiểm
tra sự nhiễm ghẻ. Có thể dùng mực bôi lên vùng da nghi ngờ rồi rửa đi để phát
hiện các hang ghẻ.
3. Tác hại.
+ Sarcoptes scabiei gây bệnh ghẻ. Cái ghẻ khi đào hang tiết ra chất độc gây
hủy hoại mô, chúng dùng chân để đào gây ngứa dữ dội về ban đêm. Ghẻ thường
đào hang ở kẽ ngón tay, bàn tay, bìu... Do ngứa nhiều, gãi nhiều, da bị xây xát dễ
bị nhiễm trùng, mưng mủ gọi là ghẻ mủ.
+ Bệnh lây lan là do tiếp xúc, nằm cùng giường, bắt tay, chung đụng đồ
dùng... Bệnh gặp nhiều ở những khu dân cư có mức sống thấp, nhà ở chật hẹp,
điều kiện vệ sinh thấp kém.
+ Một dạng ghẻ khác hiếm gặp là ghẻ Na Uy: nó kết hợp số lượng lớn cái
ghẻ với những vẩy, nắp rõ nét, đặc biệt ở lòng bàn tay, bàn chân. Bệnh xảy ra ở
người thiếu hụt miễn dịch (như nhiễm HIV) nhiều hơn ở người có hệ miễn dịch bình
thường.
4. Phòng chống.
+ Giữ vệ sinh thân thể, quần áo... tắm giặt thường xuyên, luộc quần áo...
+ Khi mắc bệnh ghẻ có thể áp dụng kinh nghiệm dân gian dùng các loại lá
đắng (lá chuối, ba gạc...) nấu nước tắm hoặc ngâm chân, tay bị ghẻ.
+ Bôi mỡ lưu huỳnh hoặc DEP (diethylphtalat), bôi dầu permethrine 5% điều trị.
Hình 15.7: Hang ghẻ.
458
+ Thường khi nhiễm ghẻ phải điều trị cho cả gia đình hoặc tập thể.
+ Nên điều trị 2 đợt cách nhau từ 2 - 7 ngày. Các thuốc nên bôi để 15 phút
cho khô mới mặc quần áo, đến hôm sau mới rửa.
Chương 16
INSECTA - LỚP CÔN TRÙNG
DIPTERA - BỘ HAI CÁNH
Cấu trúc cơ thể của bộ hai cánh gồm 3 phần: đầu, ngực, bụng.
Đầu: có 2 mắt kép (một số loài ruồi có mắt đơn), có hai râu, hai pan và một
vòi.
Ngực có ba đốt dính liền thành một khối, mỗi đốt mang một đôi chân, đốt
giữa còn có một đôi cánh mỏng, trên cánh có những đường gân ngang và dọc.
Chân có nhiều đốt: đốt đùi, cẳng chân và bàn chân.
Bụng thường có 9 đốt, đốt cuối là bộ phận sinh dục và hậu môn.
Bộ hai cánh có hai bộ phụ được phân biệt theo số đốt của râu (anten):
Hình 16.1: Các loại côn trùng hai cánh.
459
+ Bộ phụ râu ngắn - Brachycera, râu có 3 đốt, là các họ ruồi: Muscidae,
Tabanidae, Gastrophilidae,...
+ Bộ phụ râu dài - Nematocera, râu có trên 3 đốt là các họ: Culicidae,
Ceratopogonidae, Simulidae.
460
CULICIDAE - HỌ MUỖI
ĐẠI CƯƠNG MUỖI
Muỗi thuộc lớp côn trùng, bộ 2 cánh, râu dài, chỉ có muỗi cái hút máu, muỗi
đực hút nhựa cây. Muỗi phân bố ở khắp mọi nơi từ hải đảo đến đất liền, từ vùng
nhiệt đới tới vùng hàn đới. Muỗi thuộc nhóm biến thái hoàn toàn.
Phân biệt muỗi đực, muỗi cái dựa vào râu, râu muỗi đực rậm, râu muỗi cái
thưa.
1. Hình thể.
1.1. Hình thể muỗi trưởng thành:
Đầu muỗi có một đôi râu gồm 16 đốt, dùng để đánh hơi tìm mồi, một đôi pan
có tác dụng như cơ quan xúc giác, một vòi để hút máu, một đôi mắt kép.
Ngực có 3 đôi chân chia nhiều đốt, riêng bàn chân có 5 đốt được gọi đốt bàn
1 đến đốt bàn 5 có giá trị trong phân loại muỗi. Gốc cánh muỗi ở đốt ngực giữa,
trên cánh gồm các gân dọc: gân costa, gân dưới costa và 6 đường gân khác được
dánh số thứ tự L1 - L6. Trên gân cánh có các vẩy cùng màu, hoặc khác màu, tùy
loại muỗi. Ngoài ra còn có gân ngang nối liền các gân dọc với nhau. Diềm cánh
mọc ở bờ ngoài cánh.
Bụng muỗi có 9 đốt, đốt thứ 9 có cơ quan sinh dục đực hoặc cái.
Cấu tạo bên trong của muỗi: gồm cơ quan tiêu hoá và các tuyến nước bọt,
xoang máu, cơ quan sinh dục...
1.2. Hình thể của trứng:
Trứng muỗi hình thoi, màu đen hoặc đen nâu, có thể đẻ từng chiếc như chi
Aedes hoặc thành bè nổi trên mặt nước như chi Culex, hoặc chùm ở dưới lá cây
thủy sinh như chi Mansonia...
1.3. Hình thể bọ gậy:
Bọ gậy muỗi hình giống con sâu, màu nâu hoặc nâu đen tùy môi trường sống,
cơ thể chia ra làm 3 phần. Phần đầu bọ gậy bơi tròn có hai pan, phần miệng có
các lông môi, chùm lông bàn chải và có các lông đầu.
Ngực bọ gậy phình to, có nhiều lông mọc thành từng cụm tùy loài muỗi mà
số lông và hình dạng khác nhau.
461
Bụng bọ gậy có 9 đốt, trên các đốt có vẩy kitin hình khánh và các lông lá cọ
(chi Anopheles), hoặc không có vẩy kitin và lông lá cọ (chi Aedes, Culex...).
Các loại bọ gậy muỗi không truyền sốt rét, đốt thứ 9 chia làm hai, một bên là
bánh lái và một bên là ống thở, từ ống thở có hai ống khí quản chạy dọc hai bên
bụng của bọ gậy. Bọ gậy Anopheles (muỗi truyền sốt rét), cuối đốt thứ 8 có hai lỗ
thở nối liền hai ống khí quản, đốt thứ 9 là bánh lái.
1.4. Hình thể quăng:
Quăng của muỗi hình dấu hỏi, phần đầu to, trên lưng có 2 ống thở, phần đuôi
nhỏ chia đốt giống như đuôi tôm.
2. Đặc điểm sinh học.
Vòng đời của muỗi phát triển qua 4 giai đoạn: trứng - ấu trùng (bọ gậy) - thanh
trùng (quăng) - trưởng thành.
Ba giai đoạn đầu sống dưới nước, giai đoạn muỗi trưởng thành sống tự do ở
môi trường, chúng chỉ hút máu người khi đói.
Hình 16.2: Các giai đoạn phát triển của muỗi.
1. Trứng (eggs); 2. Bọ gậy (larvae); 3. Cung quăng (pupa); 4. Muỗi trưởng thành.
2.1. Giai đoạn trước trưởng thành:
Giai đoạn sống dưới nước: muỗi đẻ trứng dưới nước, ở nơi đất ẩm hoặc nơi
có lá cây mục nát nhưng muốn phát triển thì trứng rơi xuống nước mới nở thành
Muỗi trưởng thành Cung quăng
Trứng muỗi
Mặt nước
462
bọ gậy, ở vùng nhiệt đới, trứng thường nở sau 2 - 3 ngày. Ở môi trường khô,
trứng có thể sống được nhiều tuần.
Sau khi nở, bọ gậy không phát triển liên tục, mà qua bốn giai đoạn (tuổi)
khác nhau. Ở tuổi I, kích thước khoảng 1,5 mm, và ở tuổi IV, khoảng 8 - 10 mm.
Mặc dù không có chân, bọ gậy có đầu phát triển, mình phủ nhiều lông, và bơi
bằng các chuyển động của cơ thể.
Bọ gậy rất phàm ăn, ăn tất cả các chất hữu cơ, tảo, vi khuẩn và các vi sinh vật
trong nước. Bọ gậy thở oxy của không khí qua ống thở (bọ gậy Aedes, Culex,
Mansonia), hoặc lỗ thở (bọ gậy Anopheles) nằm ở đốt cuối bụng.
Bọ gậy thường tập trung ở trên mặt nước (bọ gậy Aedes, Culex, Anopheles)
hoặc cắm ống thở vào rễ cây thủy sinh để lấy oxy (Mansonia).
Nơi khí hậu ấm, giai đoạn bọ gậy khoảng 4 - 7 ngày, hoặc dài hơn nếu thiếu
thức ăn. Sau đó bọ gậy phát triển thành quăng có hình dấu phẩy. Quăng không
ăn, có sức chịu đựng cao với môi trường và hoá chất và hầu như chỉ ở trên mặt
nước. Giai đoạn này thường ngắn khoảng 1 - 3 ngày. Toàn bộ thời gian từ trứng
đến muỗi trưởng thành, ở điều kiện tốt nhất là khoảng 7 - 13 ngày.
Thời gian hoàn thành vòng đời của muỗi phụ thuộc vào nhiệt độ và thức ăn
của môi trường.
Thời gian hoàn thành vòng đời (N) được tính:
Trong đó:
222,7 : tổng nhiệt độ cần thiết
t : nhiệt độ môi trường
10,2 : nhiệt độ tối thiểu
Nếu t = 250C thì:
Nhiệt độ môi trường càng cao, vòng đời phát triển của muỗi càng nhanh,
nhưng nếu cao quá 350C thì muỗi không phát triển được. Nhiệt độ môi trường
222,7 N =
t - 10,2
222,7
N = 15 ngày đêm 25 - 10,2
463
thích hợp cho muỗi phát triển khoảng 250C - 300C. Ngoài nhiệt độ, thức ăn cũng
là yếu tố cần thiết cho sự phát triển của bọ gậy, hai yếu tố này kết hợp chặt chẽ
với nhau, thiếu một trong hai yếu tố, muỗi chậm hoặc ngừng phát triển.
2.2. Giai đoạn muỗi trưởng thành:
Sau khi nở 24 giờ muỗi trưởng thành bay thành từng đàn, giao phối trong
không gian (thường vào các buổi chiều tối) cả đời muỗi chỉ giao phối một lần.
Sau đó muỗi bay đi tìm mồi hút máu. Muỗi bị thu hút bởi mùi, CO2 và nhiệt toả
ra từ cơ thể người hay động vật. Muỗi hút máu khoảng vài phút mới no. Mỗi loài
có vật chủ thích hợp, Anopheles minimus thích hút máu người, Aedes aegypty hút
cả máu người và động vật. Có loài muỗi chỉ thích hút máu trong nhà (endophile)
như Culex quinquefasciatus, nhưng có loài muỗi chỉ hút máu ngoài nhà
(exsophile) như: Anopheles dirus, Aedes albopictus chỉ hút máu vào ban ngày,
muỗi Mansonia annulifera chỉ hút máu ban đêm, thời gian còn lại chúng đậu
nghỉ. Khi đã tìm được mồi chúng theo mồi rất dai phải ăn đủ no mới bay đi nơi
khác.
Muỗi no, tìm nơi trú ẩn để tiêu máu, đó là nơi kín gió, ấm, ẩm và tối. Mỗi
loài muỗi có nơi trú ẩn khác nhau, Anopheles minimus đậu nghỉ ở trong nhà còn
Anopheles dirus đậu nghỉ ở ngoài nhà trong các hang hốc, lùm cây…trong thời
gian tiêu máu, đồng thời trứng cũng phát triển, máu tiêu đến đâu, trứng chín
đến đó.
Thời gian tiêu máu và chín trứng (M) được tính:
Khi muỗi hoàn thành giai đoạn tiêu máu thì trứng đã chín, muỗi tìm nơi đẻ
trứng. Tùy theo loài, muỗi cái có thể đẻ từ 30 đến 300 trứng mỗi lần. Nhiều loài
đẻ trứng rời từng chiếc một (Anopheles), hoặc dính với nhau thành bè (Culex)
trên mặt nước, một số loài (Aedes) đẻ trứng ngay cạnh thành mặt nước hoặc nơi
37 37 : tổng nhiệt độ cần thiết
M = t : nhiệt độ nơi muỗi trú ẩn
t - 9 9 : nhiệt độ tối thiểu
37
Nếu t = 25; M = ; M 2,4 ngày đêm. 25 - 9
464
bùn ướt, đất ẩm, mỗi loài muỗi cần có những ổ nước thích hợp: nước suối, ao hồ,
chum, vại, vũng nước nhỏ sau cơn mưa... sau khi đẻ, muỗi lại bay đi tìm mồi hút
máu. Thời gian vừa đẻ vừa tìm mồi hút máu cho lần đẻ sau được tính là một ngày
đêm. Thời gian: ăn - tiêu máu, chín trứng - đi đẻ - tìm mồi hút máu, gọi là chu kì
sinh thực.
Thời gian chu kì sinh thực (G) được tính:
Mỗi lần muỗi đẻ để lại một sẹo trên dây trứng, sẹo này được gọi là Polovodova,
số sẹo trên dây trứng cho biết số lần muỗi đã đẻ, dựa vào đó người ta biết được
số ngày muỗi đã sống. Mỗi sẹo được tính là một tuổi - tuổi sinh lí của muỗi.
Ví dụ: để biết được mối liên quan giữa tuổi sinh lí của muỗ i Anopheles và
thời gian hoàn thành thoi trùng của P.falciparum có thể tính toán như sau:
Công thức tính thời gian hoàn thành thoi trùng của P.falciparum trong cơ thể
muỗi (nếu nhiệt độ môi trường là 250C) là:
111
Sf = 111
25 - 16
Sf : chu kì thoi trùng của P.falciparum.
111: tổng nhiệt độ cần thiết.
25 : nhiệt độ môi trường nơi muỗi trú ẩn.
16 : nhiệt độ tối thiểu để P.falciparum phát triển.
Sf 12,7 ngày đêm.
37 Chu kì sinh thực: G = M + 1 = + 1 T - 9
37
Nếu t = 250C, G = + 1; G 3,4 ngày đêm. 25 - 9
G: chu kì sinh thực.
M: thời gian tiêu máu và chín trứng.
t : thời gian mỗi lần đẻ và tìm mồi.
465
Để hoàn thành một chu kì thoi trùng của P.falciparum ở nhiệt độ 250C muỗi
cần 3 lần đẻ (chu kì sinh thực), từ lần hút máu thứ 4 trở đi muỗi mới truyền được
P.falciparum cho người, thời gian này được gọi là tuổi nguy hiểm của muỗi.
Tuổi nguy hiểm của muỗi là khái niệm thường dùng trong dịch học bệnh sốt
rét, để đánh giá mức độ nặng, nhẹ của bệnh sốt rét lưu hành tại một khu vực nào
đó, thông qua vai trò vật chủ trung gian là muỗi. Người ta sử dụng tuổi nguy
hiểm của muỗi như một tiêu chuẩn để đánh giá kết quả công tác phòng chống
bệnh sốt rét, thông qua các biện pháp diệt muỗi truyền bệnh.
Tuổi nguy hiểm của muỗi là số chu kì sinh thực của muỗi đã thực hiện cho
đến khi muỗi có khả năng truyền được kí sinh trùng sốt rét. Tuổi nguy hiểm của
muỗi được tính theo công thức:
S P = G
P : tuổi nguy hiểm của muỗi (Polovodova).
S : chu kì thoi trùng (sporozoite).
G : chu kì sinh thực (M + 1).
Ví dụ: tuổi nguy hiểm của muỗi Anopheles truyền P.falciparum ở nhiệt độ
(t) = 300C là:
Như vậy từ lần đẻ thứ 3 của muỗi mới truyền được kí sinh trùng sốt rét.
Muỗi cái sống khoảng 2 tháng và đẻ trung bình 6 - 8 lần, sau mỗi lần đi đẻ
muỗi chết khoảng 50%. Trong phòng thí nghiệm muỗi sống lâu hơn có thể tới
3 tháng. Muỗi đực ăn nhựa cây, sau khi giao phối sống được một thời gian khoảng
10 - 15 ngày.
3. Vai trò y học.
Muỗi truyền bệnh theo phương thức đặc hiệu, truyền được các mầm bệnh là
virut và kí sinh trùng cho người và động vật.
Các mầm bệnh thường gặp do muỗi truyền ở Việt Nam là: sốt Dengue và sốt
xuất huyết Dengue, viêm não B Nhật Bản, kí sinh trùng sốt rét, giun chỉ...
S S 111 37 111 37 + 30 - 9
P = = = : ( +1) = : 2,8 G M + 1 30 - 16 30 - 9 14 30 - 9
466
4. Phòng chống.
Dựa vào đặc điểm sinh lí, sinh thái của từng loại để đề ra biện pháp phòng
chống thích hợp, kết hợp các biện pháp: cơ - lí - hoá - sinh học nhằm tạo ra hiệu
quả cao nhất để diệt muỗi.
Hiện nay các loại hoá chất diệt côn trùng nói chung và diệt muỗi nói riêng
ngày càng nhiều, khi dùng phải xem xét cân nhắc kĩ, chú ý khả năng kháng thuốc
của muỗi và tránh ô nhiễm môi trường.
Một số loài muỗi thích hút máu súc vật, ứng dụng đặc tính ấy người ta dùng
hàng rào gia súc để cản bớt muỗi vào nhà hút máu người (người ta làm các
chuồng trại gia súc xung quanh làng, quanh doanh trại, quanh các khu nhà ở).
5. Phân loại.
Họ muỗi Culicidae chia làm 3 họ phụ:
+ Họ phụ Anophelinae có chi Anopheles, trên thế giới có khoảng 380 loài
Anopheles; Việt Nam đã phát hiện 59 loài Anopheles.
+ Họ phụ Culicinae có nhiều chi: Aedes, Culex, Mansonia, Armigeres, Ficalbia,
Culiseta... Muỗi Aedes ở khắp nơi trên thế giới và có khoảng 950 loài, miền Bắc
Việt Nam đã phát hiện được 40 loài Aedes (Vũ Đức Hương, 1984). Chi Culex có
khoảng 550 loài đã được mô tả, đa số chúng sống ở các vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới. Chi Mansonia có khoảng 25 loài, thấy chủ yếu ở các nước nhiệt đới.
+ Họ phụ Toxorhynchitinae có khoảng 66 loài: là những loài muỗi không kí
sinh, ấu trùng của chúng ăn các loài bọ gậy có trong nước thậm chí còn ăn thịt
các bọ gậy đồng loại. Muỗi trưởng thành không ăn, sống trong các rừng rậm
nhiệt đới. Việt Nam có loài Toxorhynchites splendens đã được nuôi trong phòng
thí nghiệm để diệt bọ gậy muỗi Aedes aegypti. Đây là những loài muỗi có lợi,
nhưng nuôi chúng tốn kém, hiểu biết về chúng còn ít.
MUỖI ANOPHELINAE
Trên thế giới có khoảng 380 loài Anophelinae. Chừng 60 loài bị thu hút bởi
con người và có thể truyền sốt rét. Một số loài Anopheles khác cũng đồng thời là
vật truyền bệnh giun chỉ và các bệnh virut.
Muỗi Anopheles khác các loài muỗi Culex, Aedes, Mansonia là:
467
Hình 16.3: Muỗi Anopheles.
+ Chiều dài của pan bằng chiều dài của vòi.
+ Khi đậu ở tư thế nghỉ, vòi và thân muỗi thường hợp thành với mặt phẳng
nơi muỗi đậu một góc nhọn (hình 16.3). Góc này thay đổi tùy loài và trong một
số trường hợp tạo nên một góc gần bằng góc vuông. Loài Anopheles culicifacies,
một loài truyền bệnh ở Nam á là một ngoại lệ, có thân gần như song song với mặt
bằng muỗi đậu, nhìn bề ngoài gần giống như muỗi Culex.
Nơi cư trú của bọ gậy thường thay đổi theo từng loài, nhưng thường thích nơi
có ánh sáng mặt trời, và thường thấy ở nơi có cây cỏ, các đám rong rêu. Nơi
muỗi thích đẻ nhất là các vũng nước, rãnh nước, những nơi nước lặng trong suối
nước chảy chậm, ruộng nước, kẽ lá và vũng nước mưa. Những dụng cụ chứa
nước nhân tạo như vại, bể tắm, bể nước, két nước tầng thượng thường không
thích hợp, ngoại trừ trường hợp loài Anopheles stephensi ở vùng Tây Nam Á.
Trứng muỗi được đẻ từng chiếc, nổi trên mặt nước cho tới khi nở. Trứng hình
dài, thon, khoảng 1 cm, có hai phao ở hai bên. Trứng nở sau 2 - 3 ngày. Bọ gậy
nằm ngang ở trên mặt nước, ăn các hạt hữu cơ nhỏ. Ở vùng nhiệt đới, thời gian từ
khi trứng nở tới khi muỗi trưởng thành khoảng 11- 13 ngày.
Muỗi Anopheles hoạt động từ khi mặt
trời lặn tới khi mặt trời mọc. Mỗi loài có
một giờ đốt mồi cao điểm riêng, và cũng
có sự biến đổi trong việc đốt mồi trong nhà
hay ngoài nhà.
Muỗi Anopheles bay vào nhà đốt mồi
thường đậu lại trong nhà vài giờ sau khi
đốt mồi. Sau đó nó bay ra nơi nghỉ ngoài
nhà, ở các bụi cây, vũng chân loài gặm
nhấm, khe, kẽ cây hoặc kẽ đất, các hốc
dưới gầm cầu. Cũng có thể là muỗi nghỉ
trong suốt thời gian cần thiết để tiêu máu
và phát triển trứng. Muỗi thường nghỉ
trong nhà những nơi khô hoặc thoáng gió
khi nơi trú ẩn an toàn ngoài nhà hiếm. Một
khi trứng đã phát triển đầy đủ, muỗi có
trứng rời khỏi nơi trú ẩn và bay tìm nơi đẻ
thích hợp.
468
Một số loài Anopheles đốt cả người và súc vật. Tuy nhiên chúng khác nhau
về mức độ thích đốt người hay đốt súc vật. Một số loài chủ yếu đốt súc vật trong
khi đó một số loài chủ yếu đốt người. Các loài đốt người là những loài truyền sốt
rét nguy hiểm nhất.
Muỗi sốt rét phân bố rộng khắp trên thế giới, mỗi vùng có một số loài muỗi
truyền sốt rét chủ yếu. ở nước ta có khoảng 10 loài Anopheles có vai trò truyền
bệnh, quan trọng nhất là An.minimus, An.dirus, An.sundaicus và An.subpictus.
1. Anopheles minimus.
An.minimus là muỗi truyền bệnh sốt rét chủ yếu ở Việt Nam, phân bố ở các
vùng đồi núi trên khắp nước ta.
1.1. Hình thể:
An.minimus là một loài muỗi đa hình. Năm 1938, Toumanoff đã thấy có 2
kiểu cánh khác nhau, có điểm đen gốc costa gián đoạn và không gián đoạn, trong
mỗi kiểu cánh này lại có nhiều chi tiết khác nhau ở gân cánh. Ngày nay các nhà
khoa học Việt Nam và thế giới dùng những kỹ thuật hiện đại đã xác định được 3
kiểu hình và 5 kiểu gen khác nhau của An.minimus. Nhìn chung hình thể muỗi
An.minimus có những đặc điểm sau:
+ Muỗi nhỏ, màu đen, chân đen, pan có 3 băng trắng, băng đen cạnh băng
trắng đỉnh pan hẹp.
+ Gân cánh costa có 4 điểm đen.
+ Gân cánh L6 có 2 điểm đen và không có điểm trắng ở cuối.
+ Gốc gân cánh L1 không có vẩy đen hoặc xám, điểm đen trước tận cùng L1
không có điểm trắng.
1.2. Đặc điểm sinh học:
+ Muỗi Anopheles minimus: thích hút máu người, kết quả phản ứng ngưng
kết huyết thanh cho thấy 67,7 - 91,2% muỗi có hút máu người.
+ Muỗi Anopheles minimus: hoạt động hút máu về đêm, cao điểm từ 20 giờ
đến 2 giờ, về mùa đông có thể sớm hơn.
+ Vị trí trú ẩn tiêu máu: muỗi thường đậu trong nhà, gầm giường, góc tủ, nơi
treo vắt quần áo, muỗi đậu cao không quá 2 m so với sàn nhà. Ở những nơi phun
DDT nhiều năm liền hoặc nơi mới khai phá thì muỗi Anopheles minimus trú ẩn
tiêu máu ngoài nhà.
469
+ Nơi đẻ của muỗi Anopheles minimus: thường ở suối nước trong chảy chậm,
hai bên bờ suối có cỏ, ánh sáng nắng hoặc ở các ruộng bậc thang và các mương
máng nước chảy. Tuy nhiên trong điều kiện đặc biệt muỗi Anopheles minimus có
thể đẻ vào các chum vại nước ăn, bể chứa nước mưa... Trong vụ dịch sốt rét ở
Gia Lâm-Hà Nội (năm 1957) 50 - 60% các bể chứa nước của gia đình có bọ gậy
Anopheles minimus. Đây là một thay đổi tập quán để thích nghi với môi trường.
+ Mùa phát triển của muỗi An.minimus phụ thuộc vào khí hậu từng khu vực:
- Miền Bắc: muỗi An.minimus phát triển trong mùa mưa, có 2 đỉnh cao trong
năm: tháng 4 đến tháng 5 và tháng 9 đến tháng 10 (Nguyễn Thọ Viễn, 1968),
vào các tháng 6 - 7 - 8 do mưa nhiều, mưa to nước cuốn trôi hết bọ gậy, mật độ
muỗi giảm.
- Tây Nguyên: muỗi phát triển quanh năm, đỉnh cao vào cuối mùa khô và đầu
mùa mưa (Nguyễn Đức Mạnh, 1976 -1977, 1980 -1988).
- Vân Canh (Bình Định): muỗi phát triển quanh năm, đỉnh cao vào các tháng
3, 4, 5 và tháng 9, 10, 11, 12 (Nguyễn Thọ Viễn và CS, Lê Khánh Thuận và CS -
1991, 2000).
- Miền Đông Nam Bộ: mật độ muỗi tăng cao vào tháng 12 (mùa khô).
+ Ở Việt Nam muỗi An.minimus còn nhạy cảm với DDT, nhưng ở những
vùng phun DDT nhiều năm liền, muỗi thay đổi sinh thái, hút máu trong nhà
nhưng ra trú ẩn ngoài nhà. Ví dụ ở: Đồng Nai, Vân Canh (Nguyễn Thọ Viễn và
CS, 1976 và 1991) khi ngừng phun DDT một thời gian, mật độ muỗi được phục
hồi và có sức đề kháng nhất định với DDT.
1.3. Vai trò truyền bệnh:
Muỗi An.minimus đã được xác định có vai trò truyền bệnh sốt rét ở nhiều
vùng trong nước.
Tỉ lệ nhiễm nhiễm kí sinh trùng sốt rét tự nhiên: 1,4% - 4%, trong các vụ dịch
sốt rét mổ muỗi đều thấy có kí sinh trìng sốt rét.
Tỉ lệ nhiễm kí sinh trùng sốt rét thực nghiệm: 62% - 72%.
1.4. Phòng chống muỗi An.minimus:
Tùy từng vùng mà đề ra các biện pháp phòng chống cụ thể, có thể sử dụng cá
hoặc vi khuẩn Bacillus để diệt bọ gậy muỗi An.minimus ở vùng ven biển gần núi.
Ở vùng rừng núi thường dùng các hoá chất để diệt muỗi.
470
Các biện pháp cải tạo môi trường, bảo vệ cá nhân: nhà ở thoáng mát, không
treo vắt quần áo trong buồng ngủ, sinh hoạt, vui chơi buổi tối mặc quần áo dài,
dùng hoá chất xua, diệt muỗi, ngủ trong màn, dùng màn tẩm hoá chất (permethrin...)
có tác dụng tốt, thường xuyên dọn vệ sinh, phát quang bụi rậm, khơi thông dòng
chảy ở cống rãnh, suối nước quanh nơi ở để phá nơi trú ẩn, và nơi đẻ của muỗi
cũng là một biện pháp rất quan trọng làm giảm mật độ muỗi tại đó.
2. Anopheles dirus.
Muỗi An.dirus thuộc nhóm An.leucosphyrus. Đây là một nhóm rất phức tạp
gồm nhiều loài muỗi khác nhau, hiện nay nhóm này có tới 14 loài, trong đó có
muỗi An.dirus (Payton và Harison phát hiện năm 1979).
Muỗi An.dirus phân bố rất rộng rãi ở Băng La Đét, Myanma, Campuchia,
Ấn Độ, Lào, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Việt Nam ...
Trong nhóm An.leucosphyrus còn có loài An.takasagoensis được nghi ngờ là
vector truyền bệnh sốt rét ở Việt Nam nhưng còn đang được tiếp tục nghiên cứu.
2.1. Hình thể:
+ An.dirus là muỗi kích thước trung bình, màu vàng nâu, chân có nhiều đốm
trắng, khớp cẳng chân thứ ba có khoang trắng rộng.
+ Gân L1 có điểm đen thứ nhất kéo dài về phía gốc cánh, đến quá nửa điểm
đen tương ứng trên gân costa.
2.2. Đặc điểm sinh học:
+ Muỗi An.dirus thích hút máu người, nhưng khi không gặp người chúng hút
cả máu động vật: bê, khỉ...
+ Muỗi hoạt động hút máu vào ban đêm, cao điểm từ nửa đêm về sáng,
thường hút máu ngoài nhà, hoặc nếu vào nhà hút máu thì khi no cũng bay ra
ngoài trú ẩn.
+ Muỗi An.dirus thường trú ẩn tiêu máu ở các bụi cây quanh nhà, trong các
hốc cây. Chúng có tập tính rình mồi trước khi hút máu và khi đã no thì nghỉ một
thời gian ngắn rồi mới bay đi tìm nơi trú ẩn, muỗi thường đậu nghỉ ở mái tranh
hoặc mặt ngoài tường nhà ở.
+ Muỗi phát triển vào mùa mưa, đỉnh cao vào các tháng mưa nhiều.
+ Muỗi đẻ trứng vào các vũng nước đọng, trong rừng, các hốc cây, bẹ lá có
nước, vỏ đồ hộp... đặc biệt ở những ổ nước nơi có bóng cây che phủ.
471
+ Muỗi An.dirus sống hoang dại trong các rừng già bằng phẳng có nhiều
bóng râm. Ở Việt Nam, muỗi phân bố từ miền Tây Thanh Hóa (Bá Thước) đến
cuối dãy Trường Sơn, gặp nhiều ở vùng rừng bằng, rừng trồng cây cao su...
2.3. Vai trò truyền bệnh:
An.dirus là loài muỗi truyền bệnh sốt rét chủ yếu ở vùng rừng núi Đông
Nam Á và Việt Nam. Tỉ lệ nhiễm kí sinh trùng sốt rét ở Di Linh: 1,2% - 36,38%;
Tây Ninh: 1% - 10%; Vân Canh (Bình Định): 1,75%; Bình Phước: 1,4%.
Các muỗi thuộc nhóm An.leucosphyrus còn truyền kí sinh trùng sốt rét cho
khỉ, truyền giun chỉ cho người.
2.4. Phòng chống:
An.dirus ở Việt Nam còn nhạy cảm với DDT, hơn nữa ngày nay có rất nhiều
thuốc diệt muỗi tác dụng tốt. Song rất khó diệt vì muỗi sống ngoài nhà. Các biện
pháp diệt muỗi trưởng thành gặp nhiều khó khăn.
Để phòng chống muỗi, thường kết hợp với biện pháp diệt bọ gậy với vệ sinh
cải tạo môi trường, triệt phá nơi sinh đẻ, nơi trú ẩn của muỗi. Phát quang tạo
khoảng trống quanh nhà đẩy lùi nơi trú ẩn của muỗi cách xa khu vực người ở.
Để diệt muỗi trưởng thành có thể sử dụng các hoá chất thuộc nhóm
pyrethroid như phun tồn lưu hoặc tẩm màn bằng permithrin...
3. Anopheles subpictus.
Muỗi An.subpictus là muỗi truyền kí sinh trùng sốt rét ở ven biển nước ta.
Vùng dịch tễ do An.subpictus truyền bệnh có tỉ lệ P.vivax cao: 90 - 100%.
3.1. Hình thể:
+ An.subpictus là muỗi có kích thước trung bình.
+ Gân cánh costa có trên 3 điểm đen.
+ Chân muỗi có màu đồng nhất.
+ Trên pan có 3 băng trắng, băng đen cạnh băng trắng ở đỉnh pan rộng (băng
đen bằng hoặc xấp xỉ băng trắng đỉnh pan).
3.2. Đặc điểm sinh học:
Muỗi trú ẩn trong nhà và các chuồng gia súc. Hoạt động hút máu vào ban
đêm, thích hút máu gia súc hơn máu người. Theo Toumannoff: muỗi bắt ở trong
nhà, tỉ lệ hút máu người thấp (9,5%) tỉ lệ hút máu súc vật cao (90,5%).
Nơi đẻ của muỗi là vùng nước lợ ven biển từ Bắc vào Nam, hàm lượng muối
thích hợp 5 - 7g/l, cũng có thể gặp bọ gậy ở những nơi có độ mặn cao hoặc thấp
472
hơn. Ở miền Bắc mật độ muỗi An.subpitus cao ở vùng cách bờ biển từ 1 - 4 km.
ở các cửa sông lớn do nước thủy triều lên có thể thấy muỗi An.subpitus ở cách bờ
biển 7 - 10 km, hoặc xa hơn. Ở miền Nam đặc biệt là các tỉnh miền Tây Nam Bộ,
muỗi phân bố rộng rãi hơn do nước biển vào sâu trong đất liền. Mùa phát triển
của muỗi tùy thuộc vào từng khu vực địa lí, ở miền Bắc cao điểm vào các tháng
6, 7 và 9, 10, miền Nam cao điểm vào các tháng đầu mùa mưa.
3.3. Vai trò truyền bệnh:
An.subpictus là muỗi truyền bệnh sốt rét ở vùng ven biển miền Bắc nước ta,
cùng với An.sundaicus ở ven biển miền Nam, tạo lên vùng sốt rét lưu hành.
3.4. Biện pháp phòng chống:
+ An.subpitus đã được thông báo có kháng với DDT. Ở những vùng An.subpitus
đã kháng DDT có thể dùng các hoá chất khác như actelic hoặc ICON... để
diệt muỗi.
+ Muỗi An.subpitus thích hút máu trâu, bò nên có nơi người ta làm các
chuồng trâu bò xung quanh làng, có tác dụng như hàng rào thu hút muỗi để hạn
chế muỗi hút máu người.
+ Muỗi trú ẩn trong nhà, nếu nhà cửa thoáng mát, sáng sủa, vệ sinh có thể
hạn chế nơi trú ẩn của muỗi.
4. Anopheles sundaicus.
Muỗi An.sundaicus là muỗi truyền sốt rét ở ven biển miền Nam và Campuchia.
4.1. Hình thể:
+ Muỗi có kích thước trung bình; đùi và cẳng có hoa.
+ Gân cánh costa có trên 3 điểm đen.
+ Gân cánh số 6 (L6) có 2 điểm đen.
+ Pan có 3 băng trắng, băng trắng ở đỉnh pan nó rộng, dài gần gấp hai lần
băng đen kề bên.
+ Vòi màu đen.
4.2. Đặc điểm sinh học:
Muỗi An.sundaicus thích hút máu người ở trong nhà, hoạt động hút máu suốt
đêm, đỉnh cao vào khoảng 22 giờ - 2 giờ sáng, tuy nhiên muỗi có thể hút máu cả
ban ngày ở những nhà ẩm thấp, thiếu ánh sáng.
473
Muỗi trú ẩn ở trong nhà. Tỉ lệ muỗi bắt được ở trong nhà 99,1% chỉ có 0,85%
bắt được ở chuồng gia súc. Muỗi đẻ trứng ở ao, ruộng, kênh, rạch có nhiều rong
tảo, độ pH từ 6 - 8, nồng độ muối thích hợp 7 g/l; nhưng cũng có thể bắt được bọ
gậy này ở các ổ nước có nồng độ muối từ 0,3 - 28 g/l.
Mùa phát triển của muỗi: quanh năm, nhưng cao điểm vào các tháng đầu mùa
mưa (tháng 5 - 6).
Vùng phân bố của muỗi An.sundaicus thường gặp cả muỗi An.subpictus. Ở
Việt Nam muỗi An.sundaicus phân bố từ ven biển Hàm Tân (Bình Thuận) tới tận
vùng ven biển Campuchia (Viện Sốt rét - KST - CT Trung ương, 1979 - 1980).
Ở đồng bằng sông Cửu Long muỗi phân bố rộng ở những nơi có nước thủy
triều lên, xuống.
4.3. Vai trò truyền bệnh:
An.sundaicus là vectơ chính truyền bệnh sốt rét ở ven biển miền Nam Việt
Nam. Muỗi An.sundaicus có thể truyền cả P.falciparum và P.vivax nhưng ở vùng
phân bố muỗi này tỉ lệ nhiễm P.falciparum cao hơn.
4.4. Biện pháp phòng chống:
Muỗi An.sundaicus còn nhậy cảm với DDT, và các hoá chất diệt côn trùng
khác. Nhưng ở một vài nơi đã có hiện tượng An.sundaicus kháng DDT.
5. Một số muỗi Anopheles khác.
5.1. An.maculatus:
Muỗi An.maculatus phân bố rộng từ đồng bằng, ven biển đến miền núi, muỗi
hút cả máu người và động vật, sống hoang dại, phát triển quanh năm, đỉnh cao
vào mùa mưa.
Tỉ lệ mang thoi trùng tùy theo từng vùng (0,51 - 2,7%) theo Toumanoff (1936)
và 0,03% theo Nguyễn Thượng Hiền (1968). Ngoài ra còn thấy An.aconitus là
muỗi truyền sốt rét chủ yếu ở vùng đồng bằng Java, Indonesia (Reid 1968).
5.2. An.aconitus:
An.aconitus phân bố rộng từ đồng bằng, ven biển đến miền núi. Muỗi hút cả
máu người và động vật, muỗi sống hoang dại, phát triển quanh năm, đỉnh cao vào
mùa mưa.
Tỉ lệ mang thoi trùng tùy theo từng vùng: 0,51% - 2,7% theo Toumanoff (1936)
và 0,03% theo Nguyễn Thượng Hiền (1968). Ngoài ra còn thấy An.aconitus là
muỗi truyền bệnh sốt rét chủ yếu ở vùng đồng bằng Java Indonesia (Reid, 1968).
474
Hình 16.4: Muỗi Culex trưởng thành.
5.3. An.jeyporiensis:
Theo Đặng Văn Ngữ (1962): muỗi An.jeyporiensis là muỗi truyền kí sinh
trùng sốt rét thứ yếu ở các vùng miền Bắc. Đây là loài muỗi có phân bố rất rộng
ở vùng rừng núi trong cả nước. Muỗi thích hút máu người và trú ẩn trong nhà.
Muỗi phát triển quanh năm nhưng cao nhất vào mùa mưa.
Tỉ lệ mang kí sinh trùng sốt sét ở Việt Nam là 0,72% (Toumanoff, 1931),
ở Di Linh 0,75% (Nguyễn Thượng Hiền, 1968).
Muỗi này còn truyền bệnh giun chỉ ở Trung Quốc.
MUỖI CULEX
Có 550 loài Culex đã được mô tả, đa số là của các vùng nhiệt đới và cận nhiệt
đới. Một số loài là vật truyền bệnh quan trọng đối với giun chỉ W. bancrofti và
các bệnh arbovirus như viêm não Nhật Bản. Ở một số vùng, loài này là một mối
phiền hà đáng kể.
Muỗi đẻ trứng từng bè 100 trứng hoặc hơn trên mặt nước. Bè trứng nổi cho
tới khi nở, sau khoảng 2 - 3 ngày. Loài Culex đẻ ở nhiều nơi chứa nước lặng, từ
những nơi chứa nước nhân tạo, cống rãnh cho tới những thảm nước thường
xuyên rộng lớn. Loài phổ biến nhất, Culex quinquefasciatus là mối phiền hà nhất
và vật truyền bệnh giun chỉ W.bancrofti, thích đặc biệt đẻ trứng ở nơi nước bẩn
có nhiều chất hữu cơ, như chất thải, phân, cây mục.
Ở các nước đang phát triển, Culex quinquefasciatus rất phổ biến ở các đô thị
phát triển nhanh, là nơi hệ thống thoát nước và vệ sinh không được bảo đảm.
Culex tritaeniorhynchus là loài truyền bệnh viêm não B Nhật Bản ở châu Á,
ưa nước trong, thường thấy loài này ở ruộng lúa nước, mương rãnh.
Muỗi truyền bệnh giun chỉ có khoảng 40 loài, thuộc 4 chi Anopheles, Aedes,
Culex và Mansonia, nhưng ở nước ta Culex quinquefasciatus (tên cũ là C.fatigans)
và một số loài thuộc chi muỗi Mansonia là những muỗi được xác định có vai trò
truyền bệnh chính.
1. Culex quinquefasciatus.
Muỗi C.quinquefasciatus có màu nâu đậm hoặc nâu nhạt, chân và cánh
không có khoang đen trắng (hình 16.4).
Muỗi gặp nhiều ở trong nhà, chuồng
gia súc, đặc biệt trong nhà những vùng
475
đông dân, nhà cửa thấp tối, điều kiện vệ sinh kém, quanh nhà có cống rãnh nước
bẩn.
Muỗi hút máu về ban đêm, rất thích hút máu người, ít hút máu súc vật. Ban
ngày muỗi đậu nghỉ trong góc nhà, gầm giường, gầm tủ.
Muỗi đẻ trứng ở những nơi nước bẩn, cống rãnh, trứng kết lại thành bè nổi
trên mặt nước.
Muỗi phát triển quanh năm, nhưng cao điểm vào mùa xuân - hè. Ở Hà Nội
muỗi này phát triển mạnh nhất vào các tháng 3 - 4 - 5 (Đặng Văn Ngữ ,1960).
Muỗi có sức chịu đựng cao với các hoá chất diệt côn trùng, vì vậy để phòng
chống muỗi phải cải tạo điều kiện sống, vệ sinh nhà cửa, cống rãnh để triệt phá
nơi trú ẩn, nơi sinh đẻ của muỗi.
Muỗi C.quinquefasciatus truyền giun chỉ Wuchereria bancrofti.
2. Culex tritaeniorhynchus.
Muỗi truyền bệnh viêm não B Nhật Bản ở Đông Nam Á có nhiều loại thuộc
chi Culex: C.tritaeniorhynchus, C.bitaeniorhynchus, C.gelidus, C.vishnui. .. ở
Việt Nam muỗi truyền bệnh viêm não B Nhật Bản là muỗi
C.tritaeniorhynchus.
Muỗi C.tritaeniorhynchus, có màu nâu đen, gặp nhiều ở vùng nông thôn,
làng mạc đông dân có nhiều hồ, ao. Muỗi đẻ trứng ở những ao, ruộng lúa, trứng
dính thành bè nổi trên mặt nước.
Muỗi hút máu về ban đêm, cả trong và ngoài nhà, thính hút máu chim, máu
lợn hơn máu người. Trú ẩn ở các bụi rậm hoặc trong chuồng gia súc, nhất là
chuồng lợn.
Mùa phát triển của muỗi vào mùa nóng, ẩm. Ở Hà Nội muỗi phát triển mạnh
từ tháng 5 - 11, cao điểm vào tháng 8 - 9.
Muỗi truyền bệnh viêm não B Nhật Bản, trẻ em rất dễ mắc, khi khỏi để lại
những di chứng nặng nề.
MUỖI MANSONIA
Muỗi Mansonia thấy chủ yếu ở các nước nhiệt đới. Một số loài là vật truyền
bệnh quan trọng của giun chỉ Brugia sp. Ở miền Nam Ấn Độ, Indonesia và
Malaysia.
476
Chi muỗi Mansonia có hai chi phụ: Mansonia Mansonioides và Mansonia
Coquillettidia. Hai chi phụ này có những loài truyền bệnh giun chỉ. Chi phụ
Mansonia Coquillettidia có nhiều loài, nhưng loài M.(C).crassipes đã được xác
định có vai trò truyền bệnh. Chi phụ Mansonia Mansonioides có nhiều loài có
khả năng truyền bệnh, ở Việt Nam đã xác định được hai loài M.(M).annulifera và
M.(M).uniformis có khả năng truyền bệnh giun chỉ.
Gần đây, Nguyễn Duy Toàn và CS (1992), đã
xác định loài M.(M).indiana cũng truyền bệnh giun
chỉ ở Việt Nam.
Về cấu tạo muỗi Mansonia: hầu như thân các
loài muỗi, kể cả chân và cánh có vẩy phủ màu nâu
sẫm và vẩy màu nhạt làm muỗi trông như có bụi
bám hoặc được rắc muối và tiêu (hình 16.5).
Các loài truyền bệnh giun chỉ thường đẻ trứng thành từng đám, dính treo vào
mặt dưới của cây hoặc gần sát mặt nước.
Do cả bọ gậy và quăng bám vào các thực vật thủy sinh để thở, nên chỉ thấy
chúng ở những nơi nước thường xuyên có thực vật như đầm lầy, giếng nước,
mương máng có cỏ, máng dẫn nước và rất khó tìm. Cũng có thể thấy bọ gậy loài
này ở chỗ nước sâu hơn và có thực vật nổi, thường bám vào mặt dưới, nằm trong
nước, của các loài bèo.
Các loài Mansonia thường đốt vào ban đêm, chủ yếu ở ngoài nhà, nhưng một
số loài cũng vào nhà. Sau khi đốt máu, muỗi thường trú ẩn ngoài nhà.
1. Mansonia (Coquillettidia) crassipes.
Muỗi M.(C).crassipes phân bố rộng rãi ở Ấn Độ, Srilanca, Đông Nam Á...
Muỗi có kích thước trung bình, màu từ vàng nhạt đến nâu. Chân, bụng, cánh
có màu nâu sẫm, lưng và sườn màu nâu vàng. Chân màu xẫm nhưng gốc đùi có
màu vàng nhạt.
Muỗi đẻ trứng ở nơi có nhiều ao, hồ trồng cây thủy sinh, trứng hình bầu dục,
thon về phía đỉnh, có màu nâu đen hoặc đen, trứng dính thành bè nổi trên mặt
nước.
Bọ gậy ở sâu dưới nước, ống thở cắm vào rễ cây để lấy ôxy. Bọ gậy ăn các
chất hữu cơ có trong nước, bọ gậy dài khoảng 6 mm, có màu trắng sữa.
Hình 16.5: Muỗi Mansonia
477
Quăng ở sâu dưới nước, phễu thở của quăng dài, sau một thời gian quăng lột
xác thành muỗi trưởng thành.
Vai trò truyền bệnh của muỗi M.(C).crassipes ở Việt Nam chưa được nghiên
cứu, nhưng ở Malaysia, Borneo (Indonesia)… có vai trò lớn trong lan truyền
bệnh giun chỉ Brugia malayi.
2. Mansonia (Mansonioides) annulifera.
Muỗi có kích thước nhỏ hoặc trung bình, trên thân và chân có nhiều đốm
vàng trắng xen kẽ, gân cánh có vẩy vàng trắng xáo trộn, tạo cho muỗi có màu
vàng rơm. Trên lưng (mesonotum) có 7 đốm trắng. Sáu đốm xếp thành hai hàng
song song với nhau từng đôi một, đốm thứ 7 xếp giữa 2 đốm sau cùng.
Muỗi gặp nhiều ở vùng nông thôn hoặc ven thành phố, nơi có nhiều ao hồ và
chăn nuôi trâu bò, muỗi đẻ trứng ở những ao có cây thủy sinh nhất là các loại
bèo, trứng xếp thành chùm treo ở dưới mặt lá mấp mé nước.
Muỗi trú ẩn ở vườn rậm, bãi cỏ, bụi cây thấp… nơi ít ánh sáng. Muỗi đậu, trú
ẩn trong nhà ở gầm giường, tủ, bàn ghế, nơi góc nhà tối.
Muỗi thích hút máu trâu, bò, người, hút máu vào ban đêm. Muỗi thường bay
vào nhà, chuồng gia súc hút máu, khi no lại bay ra ngoài.
Muỗi có quanh năm, tại Hà Nội bắt được nhiều vào các tháng 9 - 10 - 11 - 12
(Đặng Văn Ngữ, 1960).
Muỗi truyền giun chỉ Brugia malayi.
3. Mansonia (Mansonioides) uniformis.
Muỗi cỡ trung bình, trên thân, chân có vảy nâu, trắng xen kẽ tạo cho muỗi có
màu nâu nhạt. Trên lưng (mesonotum) có các vảy trắng làm thành hai đường
thẳng chạy dọc hai bên lưng.
Sinh lí, sinh thái và khả năng truyền bệnh giống muỗi M.(M).annulifera.
MUỖI AEDES
Muỗi Aedes có mặt khắp nơi trên thế giới và có khoảng trên 950 loài. Loài
này gây ra mối phiền hà lớn do việc đốt người và súc vật, cả ở vùng nhiệt đới và
478
Hình 16.6: Muỗi Aedes
nơi có khí hậu mát mẻ hơn. Ở những nước nhiệt đới, muỗi Aedes aegypti là vật
quan trọng truyền bệnh Dengue, bệnh sốt xuất huyết, bệnh sốt vàng và các bệnh
virut khác. Một loài gần với loài này là Aedes albopictus, cũng có thể truyền
bệnh Dengue. Ở một số nơi, muỗi Aedes truyền bệnh giun chỉ.
Loài này đẻ trứng rời từng chiếc trên những diện tích ẩm ướt, ngay trên thành
hoặc gần sát với mặt nước, trong những dụng cụ chứa nước tạm thời, hoặc những
nơi có nước lên xuống. Nó chịu được độ khô trong nhiều tháng và chỉ nở khi bị
ngập nước. Tất cả các loài Aedes ở vùng có mùa đông lạnh có thể sống sót qua
thời kì này ở dạng trứng. Một số loài đẻ trứng ở vùng ven biển nước mặn và đầm
lầy, bị ngập nước từng thời kì do thủy triều lên cao bất thường, hoặc mưa to,
trong khi một số loài khác đã thích ứng được với việc tưới tiêu trong nông
nghiệp.
Bệnh sốt Dengue và sốt xuất huyết Dengue là bệnh thường gặp ở thành phố
của vùng Đông Nam Á. Muỗi truyền bệnh là Aedes aegypti và Aedes.albopictus.
1. Aedes aegypti.
Muỗi Aedes aegypti nhỏ, màu đen, chân, thân, bụng có khoang đen trắng rõ
rệt, đặc biệt vùng ngực có các vẩy trắng xếp thành hàng, trên lưng có hình chiếc
đàn 2 dây màu trắng (hình 16.6). Muỗi gặp nhiều ở thành phố nên được gọi là
muỗi vằn thành thị. Muỗi còn ở các thị trấn dọc theo các trục đường giao thông
có dân cư đông đúc.
Muỗi thích đậu cao, nơi treo vắt quần áo,
mùng màn, ở trong và ngoài nhà. Muỗi hút
máu vào ban ngày, bay rất nhanh, thấy mồi lao
vào hút máu ngay, theo mồi rất dai và chỉ bay
đi khi đã hút máu no. Hoạt động hút máu của
muỗi Aedes aegypti phụ thuộc nhiệt độ môi
trường, nếu nhiệt độ dưới 230C thì muỗi hầu
như không hút máu. Muỗi hút cả máu người và
các động vật như: chim, gà, thỏ, chuột...
Muỗi đẻ trứng ở những nơi có nước (rất
thích đẻ trứng vào nước mưa), muỗi đôi khi đẻ
479
trong đất ẩm, nhưng muốn nở ra bọ gậy trứng phải được rơi vào nước. Mỗi lần
muỗi đẻ khoảng 150 trứng, cả đời muỗi đẻ 6 - 7 lần. Ở điều kiện phòng thí
nghiệm muỗi có thể đẻ tới 13 lần.
Muỗi ham hút máu, hoàn thành vòng đời nhanh, giao phối trong không gian
nhỏ, nên muỗi được nuôi trong phòng thí nghiệm để thử thuốc hoặc tiến hành
các nghiên cứu khác trên muỗi.
Mùa phát triển của muỗi thường vào mùa mưa, ở miền Bắc muỗi phát trtển từ
tháng 4 đến tháng 11, thường có hai đỉnh cao vào tháng 5 - 6 và tháng 10 - 11.
Muỗi truyền mầm bệnh bệnh sốt Dengue/ sốt xuất huyết Dengue và mầm
bệnh sốt vàng. Phòng chống Aedes aegypti bằng cách che đậy kín nơi chứa nước,
thả cá cho cá ăn bọ gậy, thay nước thường xuyên, 7 - 10 ngày thay một lần. Khi
có nhiều muỗi hoặc đang có dịch thì dùng malathion, permethrin... phun dưới
dạng sương mù (ULV - Ultralow volum).
2. Aedes albopictus.
Muỗi Aedes albopictus về hình thể rất giống muỗi Aedes aegypti chỉ khác
trên mặt lưng có một vạch trắng, chạy dọc lưng.
Sinh lí, sinh thái của muỗi Ae.albopictus tương tự như của muỗi Aedes
aegypti, nhưng muỗi Aedes albopictus phân bố chủ yếu ở vùng nông thôn, gặp ít
ở thành phố.
480
SIMULIDAE - HỌ RUỒI VÀNG
1. Hình thể.
Ruồi vàng có thân màu đen, lông phớt vàng, dài 2 - 5 mm, đầu dẹt, anten có
11 đốt, pan có 5 đốt, vòi ngắn nhưng nhọn và khỏe, ngực to gồ về phía lưng, hai
cánh trong suốt dài hơn thân (hình 16.7).
Ấu trùng ruồi vàng có hình con sâu, phần đầu có một chùm lông xòe ra hình
quạt để vơ thức ăn, có một chân giả ở phía trước thân và cuối thân có một giác
để bám.
Thanh trùng nằm trong kén hình chóp, không ăn, không hoạt động, thở bằng
các khí quản.
2. Đặc điểm sinh học.
2.1. Vòng đời:
Ruồi vàng phát triển qua 4 giai đoạn: trứng - ấu trùng - thanh trùng - trưởng
thành. Ruồi đẻ trứng ở nơi nước suối chảy mạnh, mỗi lần đẻ từ 300 - 500 trứng,
nhiều ruồi vàng đẻ vào một chỗ tạo thành từng ổ, trứng bám vào lá cây hoặc đá
mấp mé mặt nước.
Khoảng 10 ngày sau trứng nở ra ấu trùng, ấu trùng bám vào đá hoặc cành
cây, lá cây dưới nước nhờ giác bám ở cuối thân. Ấu trùng thở qua da và 3 màng
thở ở hậu môn, sau 5 lần lột xác, ấu trùng nhả tơ làm kén, thành nhộng (thanh
trùng). Sau một thời gian thanh trùng cắn kén chui ra thành ruồi vàng trưởng
Hình 16.7: Ruồi vàng.
(a) Trưởng thành; (b) Ấu trùng; (c) Thanh trùng; (d) Trứng.
a
b d
c
481
thành. Thời gian hoàn thành vòng đời từ 15 - 30 ngày, ruồi vàng thuộc nhóm
biến thái hoàn toàn.
2.2. Sinh lí, sinh thái:
Chỉ có ruồi cái hút máu, thời gian hoạt động hút máu buổi sáng từ 6 - 8 giờ,
buổi chiều từ 16 - 18 giờ; buổi trưa nắng, trời mưa, gió mạnh trên 3m/giây, ruồi
vàng ngừng hoạt động. Ruồi vàng hoạt động ở khu vực quanh bờ suối là chủ yếu,
xa bờ ít hơn, xa trên 2000 m hoàn toàn không thấy ruồi vàng hoạt động. Ruồi có
thể bay xa 1 - 2 km, hút máu người và động vật, mỗi lần hút 4 - 5 phút mới no.
Ruồi vàng đốt ít đau, khi ngừng đốt thường để lại giọt máu ở vết đốt.
Ruồi vàng sống hoang dại, ở vùng núi đá có nước suối chảy mạnh. Ở Việt Nam
ruồi vàng phân bố nhiều ở vùng Tây Bắc, đặc biệt ở Mù Cang Chải (Nghĩa Lộ).
Ruồi vàng
Hình 16.8: Vòng đời của ruồi vàng truyền bệnh giun chỉ
482
Hình 16.9: Vòng đời của ruồi vàng
truyền bệnh giun chỉ.
3. Vai trò y học.
Ruồi vàng truyền bệnh giun chỉ Onchocherca volvulus của người. Bệnh phổ
biến ở châu Phi và Nam Mĩ. Ở Việt Nam chưa phát hiện thấy bệnh này.
Vết đốt của ruồi vàng nhanh chóng nổi mẩn, đỏ xung quanh có đường kính
tới vài centimet, ngứa dữ dội, có khi chỗ đốt phù nề, càng gãi càng ngứa, chất
độc của ruồi vàng gây loét, nhiễm trùng, nổi hạch. Thường để lại vết sẹo đen to,
đôi khi nổi sẩn cục cứng to bằng hạt ngô, kéo dài hàng năm.
4. Phòng chống.
Diệt ruồi vàng rất khó, ấu trùng sống ở nơi nước chảy mạnh, ruồi vàng
trưởng thành hoạt động ở trong rừng.
Phòng ruồi vàng đốt: mặc quần áo, đi tất, giày che kín, hoặc dùng các hoá
chất bôi vào chỗ da hở, hạn chế hoạt động ở gần suối vào các giờ ruồi vàng hoạt
động hút máu. Nếu bị ruồi vàng đốt, phải nặn hết máu, bôi cồn 700 vào vết đốt và
tránh gãi để phòng nhiễm trùng.
PHLEBOTOMUS - MUỖI CÁT
1. Hình thể.
Muỗi cát nhỏ khoảng 3mm, màu vàng trắng, mắt to đen nổi rõ. Trên chân,
cánh, thân đều có lông, cánh hình bầu dục,
đầu mút cánh hình mũi mác. Hai cánh
không khép vào thân khi đậu, mà luôn
dựng đứng tạo thành hình chữ V. Anten
dài 16 đốt phủ đầy lông (hình 16.9). Trứng
màu đen dài và thon ở hai đầu, ấu trùng
hình con sâu, thân chia đốt, đuôi có lông
dài, thanh trùng màu vàng, đầu hình tam
giác bụng chia đốt và uốn cong.
483
2. Đặc điểm sinh học.
2.1. Vòng đời:
Vòng đời phát triển qua 4 giai đoạn: trứng - ấu trùng - thanh trùng - trưởng
thành.
Sau khi hút máu no khoảng 30 - 36 giờ thì muỗi đẻ trứng vào các khe kẽ tối
ẩm ở các bãi hoang, số lượng từ 30 - 50 trứng; 6 - 12 ngày sau trứng nở ra ấu
trùng, sau 4 lần lột xác (khoảng 25 - 30 ngày) phát triển thành thanh trùng và 10
ngày sau thành con trưởng thành. Thời gian hoàn thành vòng đời từ 5 - 9 tuần.
Tuổi thọ trung bình của muỗi từ 14 - 15 ngày.
2.2. Sinh lí, sinh thái:
Muỗi cát sống hoang dại, trú ẩn ở các hốc cây, khe đá… đặc biệt hay gặp ở
các tổ mối. Có loài trú ẩn trong nhà (Ph.papatasi), có loài trú ẩn ở chuồng gia súc
(Ph.argentipes), loài Ph.sergenti lại gặp nhiều ở trong rừng.
Chỉ có muỗi cái mới hút máu. Ở Việt Nam nhiều nơi có muỗi cát nhưng chỉ
phân bố ở trong vùng rất hẹp của một địa phương. Đã phát hiện thấy muỗi cát ở:
Cẩm Bình (Hải Dương), Ghềnh (Ninh Bình), Đức Phổ (Quảng Ngãi). Nói chung
ở Việt Nam muỗi cát chưa được nghiên cứu đầy đủ.
3. Vai trò y học.
Muỗi cát truyền nhiều bệnh khác nhau:
+ Bệnh Kala - azar (bệnh Leishmania nội tạng): gặp nhiều ở vùng Trung Á,
Địa Trung Hải, Ấn Độ... ở Việt Nam năm 1979, Bệnh viện 103 đã phát hiện được
mầm bệnh kí sinh trùng này ở trên một tử thi. Sau đó Bệnh viện Thụy Điển -
Uông Bí (Quảng Ninh) cũng đã phát hiện được mầm bệnh trên 3 bệnh nhân.
+ Bệnh Leishmania ngoài da.
+ Bệnh mụn Peru.
+ Bệnh sốt muỗi cát (bệnh này và bệnh mụn Peru chưa gặp ở Việt Nam).
4. Phòng chống.
Phòng chống muỗi cát khó, vì muỗi cát thường phân bố trong một vùng rất
hẹp, khó xác định được. Thường dùng hoá chất xua diệt côn trùng để xua diệt
484
Hình 16.10: Dĩn trưởng thành.
muỗi cát, nhưng hiệu quả kém. Cần có các biện pháp phát hiện và diệt chó bị
bệnh, vì chó cũng là vật chủ của Leishmania.
CERATOPOGONIDAE - HỌ DĨN
Dĩn thuộc lớp côn trùng hai cánh hút máu, kích thước 1 - 2 mm, có nhiều
chi khác nhau, nhưng trong y học chỉ chú ý tới 3 chi: Culicoides, Lashiohelea và
Leptoconops.
Cả 3 chi này đều có ở Việt Nam, nhưng chi Culicoides phổ biến hơn.
Dĩn có màu nâu đen, chân dài, trên cánh có các lông lớn hoặc lông nhỏ
(marcrotrichi, hoặc microtrichi) (hình 16.10).
Vòng đời của dĩn phát triển qua 4
giai đoạn: trứng - ấu trùng - thanh
trùng - trưởng thành.
Dĩn thuộc nhóm côn trùng có
vòng đời biến thái hoàn toàn.
Dĩn đẻ ở nơi có nhiều mùn, rác, lá
cây mục nát, đất ẩm, hốc cây, bùn...
Hoạt động của dĩn phụ thuộc vào ánh
sáng, tốc độ gió, mưa nắng… Chi
Culicoides hút máu vào ban đêm. Chi
Leptoconops hút máu vào ban ngày; trời càng nắng chúng hút máu càng mạnh.
Chi Lashiohelea thường hút máu vào buổi sáng hoặc lúc không có ánh nắng, đặc
biệt khi có cơn giông, dĩn xuất hiện thành từng đám, dĩn rất ham hút máu vật chủ:
người, trâu, bò, dê, ngựa… Chỉ có dĩn cái mới hút máu.
Dĩn truyền một số mầm bệnh như: giun chỉ, viêm não… Vai trò truyền bệnh
của dĩn ở nước ta chưa được nghiên cứu đầy đủ.
485
Hình 16.11: Ruồi nhà trưởng thành.
Dĩn đốt có cảm giác ngứa, khó chịu, có thể nổi mẩn, dị ứng. Do kích thước
nhỏ dĩn có thể luồn vào kẽ tóc, chui qua màn hút máu, gây ngứa ngáy, mất ngủ,
ảnh hưởng đến sức khoẻ và năng suất lao động.
Phòng chống dĩn khó khăn, có thể dùng các hoá chất xua diệt côn trùng, dọn
dẹp vệ sinh quanh nhà ở, chuồng gia súc, bến tắm giặt... để triệt phá nơi sinh đẻ
của dĩn.
MUSCA DOMESTICA - RUỒI NHÀ
Ruồi nhà thuộc lớp côn trùng hai cánh, không hút máu, ruồi sinh sản nhanh,
nhiều, ruồi thường xuyên sống gần người, truyền bệnh theo phương thức không
đặc hiệu.
1. Hình thể.
Ruồi nhà màu xám đen, toàn thân và chân có nhiều lông (hình 16.11). Đầu
ruồi hình bán cầu, có hai mắt kép. Ruồi đực có hai mắt kép gần nhau, ruồi cái có
hai mắt kép xa nhau. Anten ngắn, có 3 đốt, vòi ruồi cấu tạo theo kiểu liếm hút,
khi không ăn vòi gập được vào ổ miệng.
Ngực ruồi có 3 đôi chân, một đôi cánh
mỏng, trong suốt với 5 gân dọc. Chân ruồi
được chia ra thành nhiều đốt, có lông, đốt
cuối bàn chân có móng, đệm móng và tuyến
tiết chất dính.
Bụng ruồi thường chỉ nhìn rõ 5 đốt, ruồi
cái có ống dẫn trứng, kéo dài ra khi đẻ, sau
đẻ co lại. Ruồi cái có độ dài khoảng 5,6 - 7,5
mm, ruồi đực nhỏ hơn: 5,8 - 6,5 mm.
Trứng ruồi hình bầu dục, màu trắng, nhỏ.
Ấu trùng (dòi) màu trắng ngà, thân chia
10 đốt.
Thanh trùng (nhộng) không ăn, không hoạt động; dài khoảng 5 - 6,3 mm,
màu nâu đen như hạt gạo rang cháy.
486
2. Đặc điểm sinh học.
2.1. Vòng đời:
Ruồi nhà là loài côn trùng có vòng đời biến thái hoàn toàn, phát triển qua 4
giai đoạn: trứng - ấu trùng - thanh trùng - trưởng thành (hình 16.12). Ruồi đẻ ra
trứng, sau khi giao phối 4 - 8 ngày ruồi bắt đầu đẻ, mỗi lần ruồi đẻ 100 - 150
trứng, cả đời ruồi đẻ 4 - 8 lần. Về mùa hè sau khoảng 12 - 24 giờ, trứng nở ra dòi,
dòi lột xác 2 lần, dài 1 - 1,2 cm. Sau 2 - 4 ngày dòi chui xuống đất lột xác, nhưng
xác vẫn giữ nguyên thành kén giả, đó là nhộng, sau một thời gian phá kén, chui
lên khỏi mặt đất trở thành ruồi trưởng thành.
Thời gian hoàn thành vòng đời của ruồi phụ thuộc vào nhiệt độ và thức ăn
của môi trường. Ở môi trường có đủ thức ăn và nhiệt độ 180C ruồi hoàn thành
vòng đời trong khoảng 20 ngày, ở nhiệt độ 280C, thời gian này chỉ khoảng 10,5
ngày.
Đời sống của ruồi về mùa hè ngắn: khoảng 18 - 20 ngày, mùa đông sống lâu
hơn, có khi tới 4 tháng.
Hình 16.12: Vòng đời sinh học ruồi nhà.
2.2. Sinh lí, sinh thái:
Ruồi thường đẻ trứng vào hố rác, phân người, phân gia súc hoặc xác động
vật. Sau 12 - 24 giờ trứng nở ra dòi giai đoạn I (ấu trùng I), dòi ăn các chất hữu
Nhộng Trưởng thành
Trứng
8 - 16 giờ 3 - 7 ngày
3 - 6 ngày
Ấu trùng
487
cơ trong môi trường, sau 2 lần lột xác thành dòi giai đoạn III, chúng không ăn,
tìm nơi đất xốp để chui xuống phát triển thành nhộng (thanh trùng), nhộng
thường ở độ sâu thích hợp 20 - 30 cm dưới mặt đất, nhưng có khi chỉ 1 - 2 cm.
Nếu dòi không chui được xuống đất thì không thể thành nhộng được. Nhộng
không ăn, không hoạt động. Sau một thời gian nhộng nở ra ruồi và chui lên khỏi
mặt đất, khoảng 2 giờ sau khô cánh, ruồi bay đi. Vào mùa đông lạnh, ruồi phát
triển chậm, hoặc ngừng phát triển, sang xuân ấm áp, nhộng mới nở, nếu đất chặt
quá, hoặc nhiều nước quá ruồi không chui lên được khỏi mặt đất và chết.
Sau khi nở khoảng 2 ngày, ruồi bắt đầu giao phối, nếu đói ruồi không giao
phối được, nếu thức ăn thiếu đạm, trứng thường không phát triển. Ruồi sinh sản
nhanh và nhiều. Theo Howard: một ruồi cái trung bình 1 lần đẻ 120 trứng. Chỉ
trong vòng gần 5 tháng (tính từ 15 tháng 4 đến 10 tháng 9) từ một một ruồi cái
qua nhiều thế hệ sinh sản cho ra đời 398.720.000.000 ruồi, con số này ít hơn thực
tế nhiều vì chỉ tính mỗi đời ruồi đẻ một lần. Theo Hodge cũng từ một ruồi cái qua
mùa hè có thể tạo ra 191010 1015 ruồi, số lượng này chứa đầy 180 dm3.
Ruồi không phải là kí sinh trùng. Ruồi ăn tất cả các thức ăn từ chất lỏng đến
chất rắn. Nếu thức ăn là chất rắn thì ruồi tiết nước bọt làm mềm thức ăn, rồi hút
vào dạ dày.
Ruồi ăn rất lâu, khoảng 2 giờ mới no, ăn tất cả các chất bổ đến chất thừa,
thải, ôi, thiu. Ruồi vừa ăn vừa nôn, vừa bài tiết, đạp rũ chân, gây ô nhiễm nơi ruồi
đậu.
Ruồi tìm thức ăn nhờ đôi râu, ruồi thích thức ăn có mùi thơm, tanh, thối.
Thức ăn và chất thải của người là thức ăn của ruồi, ở đâu có người ở đó có ruồi,
vì vậy được gọi là ruồi nhà (Musca domestica).
Ruồi hoạt động vào ban ngày. Ruồi không thích ánh sáng mặt trời trực tiếp
cũng không thích chỗ tối. Ruồi thích màu vàng, da cam, ruồi không thích màu
tím, màu đỏ.
Ruồi bay xa được khoảng 1.500 m. Nhưng ruồi có thể theo tàu, xe, thuyền bè,
phát tán đi rất xa.
Ruồi phát triển và hoạt động mạnh vào mùa nóng; mùa lạnh ruồi ít hoạt động,
thường tìm nơi ấm để đậu. Ruồi phát triển ở nơi có điều kiện vệ sinh kém.
3. Vai trò y học.
Ruồi truyền bệnh theo phương thức không đặc hiệu và truyền được rất nhiều
loại mầm bệnh. Ruồi có vai trò truyền bệnh rất lớn do:
488
+ Cấu tạo của ruồi có rất nhiều lông ở chân, ở vòi nên mang được nhiều loại
mầm bệnh.
+ Ruồi thích ăn phân, máu, mủ, chất nôn, các mầm bệnh vào cơ quan tiêu hoá
của ruồi, không bị tiêu diệt, vẫn tồn tại.
+ Ruồi thích ăn các thức ăn của người và sống gần với người.
+ Trong khi ăn ruồi vừa ăn, vừa nôn, vừa bài tiết...
+ Ruồi có thể vận chuyển được nhiều mầm bệnh.
Theo Derbeneva - Ukhova (1952) ruồi có thể mang trên thân 6 triệu mầm
bệnh và trong ống tiêu hoá 28 triệu mầm bệnh.
Ruồi truyền được các loại mầm bệnh sau:
- Vi khuẩn: tả, lị, lao, thương hàn...
- Virut: đậu mùa, mắt hột, viêm gan, bại liệt...
- Kí sinh trùng: amíp lị, trùng roi, trứng giun sán...
Do đặc tính sinh lí, sinh thái, khả năng vận chuyển mầm bệnh của ruồi, ruồi
đã trở thành một trong các nguyên nhân quan trọng phát sinh dịch đặc biệt là các
dịch bệnh đường tiêu hoá.
4. Phòng chống.
+ Triệt nguồn thức ăn của ruồi: vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, quản lí
và xử lí các chất thải.
+ Triệt nơi sinh đẻ của ruồi: chuồng gia súc, hố xí, hố rác phải xây gạch hoặc
nện chặt đất, đậy kín...
+ Diệt ruồi trưởng thành: đập, bẫy, bẫy dính, mồi độc, khi dùng phải bảo đảm
an toàn cho người và gia súc.
TABANIDAE - HỌ RUỒI TRÂU
Ruồi trâu thuộc lớp côn trùng hai cánh, hút máu. Ruồi trâu có nhiều chi,
nhưng chi Tabanus và chi Chrysops có vai trò y học.
1. Đặc điểm hình thể.
1.1. Ruồi trưởng thành:
Có kích thước khoảng 6 - 30 mm, chiều dài trung bình khoảng 10 - 20 mm
(hình 16.13).
489
Đầu: có đôi mắt kép màu xám, có hai anten, mỗi anten có 3 đốt. Vòi ruồi trâu
ngắn và khoẻ.
Ngực: lớn, có đôi cánh rộng, khoẻ, tùy từng chi, cánh có thể trong suốt hoặc
có băng đen chạy ngang, có 3 đôi chân. Bụng: có đốt, những đốt cuối là cơ quan
sinh dục, toàn thân ruồi có màu xám hoặc vàng, có nhiều lông cứng.
Hình 16.13: (a) Chysops fixissmus; (b) C.discalis Williston.
1.2. Trứng ruồi:
Hình bầu dục, thon dài, thường dính vào lá cây, vách đá nhô ra mặt nước.
1.3. Ấu trùng:
Ấu trùng có hình con sâu, thon ở hai đầu, miệng ấu trùng có màng kitin dài
và nhọn. Ấu trùng có 3 đốt ngực và 10 đốt bụng.
1.4. Thanh trùng (nhộng):
Giống như nhộng của ruồi nhà nhưng kích thước lớn hơn.
2. Đặc điểm sinh học.
Vòng đời ruồi trâu phát triển qua 4 giai đoạn: trứng - ấu trùng - thanh trùng -
trưởng thành.
Ruồi trưởng thành mỗi lần đẻ khoảng 100 - 800 trứng, sau 5 - 7 ngày trứng
nở ra ấu trùng. Ấu trùng rơi xuống nước hoặc có thể ở trong bùn, cát. Ấu trùng
ăn các loại côn trùng và động vật có trong môi trường. Sau khoảng gần 1 năm ấu
trùng phát triển thành nhộng, những ấu trùng ở sâu trong bùn, cát sự phát triển
thành nhộng khó khăn hơn. Sau từ 1 đến 3 tuần ruồi phá vỏ chui ra thành ruồi
trâu trưởng thành.
(a) (b)
490
Hình 16.14: Bọ chét trưởng thành.
Ruồi trâu cái hút máu người và động vật. Chi Tabanus mỗi lần hút 0,2 ml
máu trong khoảng 10 phút. Ruồi hoạt động hút máu vào những ngày nắng, ấm,
ẩm. Ruồi hoạt động nhiều ở ven suối, đồng cỏ, đầm lầy.
3. Vai trò y học.
Ở Việt Nam chưa nghiên cứu đầy đủ về vai trò truyền bệnh của ruồi trâu.
Ruồi trâu truyền được một số mầm bệnh giun chỉ, Trypanosoma, Tularemie...
Bệnh chủ yếu của động vật.
Ruồi trâu đốt rất đau, vết đốt thường bị viêm loét lâu khỏi.
4. Phòng chống.
+ Chưa có biện pháp hữu hiệu nào để phòng chống ruồi trâu.
+ Một số nước (Liên Xô cũ) dùng dầu hoả đổ vào nước để tạo màng mỏng
hoặc rút nước trong các đầm lầy để diệt ấu trùng và thanh trùng.
+ Phun hoá chất diệt côn trùng như DDT, 666,... để diệt ruồi trưởng thành
nhưng kết quả hạn chế.
APHANIPTERA - BỘ BỌ CHÉT
Bộ bọ chét là loại côn trùng không có cánh, thành phần loài rất phong phú.
Tại Việt Nam đã phát hiện được 34 loài (Đỗ Sĩ Hiển, 1992).
1. Hình thể.
Thân bọ chét dẹt 2 bên, cấu tạo đối xứng, vỏ thân bằng kitin dày, cứng. Bọ
chét dài 1- 5 mm, con đực nhỏ hơn con cái. Bọ chét có màu vàng, nâu, nâu sẫm
hoặc đen... màu sắc biến đổi đậm nhạt tùy theo môi trường sống. Toàn thân bọ
chét có phủ nhiều lông cứng, mọc xuôi về phía sau (hình 16.14).
+ Đầu: có 2 anten nằm trong rãnh anten ở phía sau mắt, có 1 đôi pan và 1
vòi. Có loài có mắt (loại mắt đơn), có loài không có mắt, có loài mắt thoái hoá.
Đầu có lông ở trước mắt, lông ở gáy; có
loài có những lông to, cứng ở gần vòi gọi
là lược má.
+ Ngực: có 3 đốt là đốt trước, đốt giữa
và đốt sau, mỗi đốt mang 1 đôi chân. Mỗi
491
Hình 16.15: Vòng đời phát triển của bọ chét.
chân có 5 đốt; đôi chân sau mập và dài nhất giúp bọ chét nhảy được cao và xa
(P.irritans nhảy cao 19,5 cm, xa 33 cm). Tấm lưng ở các đốt ngực trước và sau
đôi khi có lược, gọi là lược ngực trước và lược ngực sau.
+ Bụng: có 10 đốt, mỗi đốt có nhiều hàng lông, có loài có lược bụng. Ba đốt
cuối (đốt 8, 9, 10) phát triển thành cơ quan sinh dục. Con đực có càng sinh dục ở
đốt cuối; con cái có túi chứa tinh bên trong bụng.
Trong ống tiêu hoá của bộ chét, giữa thực quản và dạ dày là diều. Trong diều
có những gai kitin nhỏ, cấu tạo như hom giỏ giống chiếc phễu lộn ngược, có tác
dụng ngăn không cho máu chảy ngược ra khi bọ chét hút máu vào dạ dày.
2. Đặc điểm sinh học.
2.1. Vòng đời:
Vòng đời bọ chét trải qua 4 giai đoạn: trứng - ấu trùng - thanh trùng (nhộng)
và trưởng thành.
Bọ chét đực và cái đều hút máu. Sau khi giao phối con cái đẻ trứng.
Bọ chét trưởng thành đẻ trung bình 400 trứng (Xenopsylla cheopis đẻ 300 -
400 trứng; Pulex irritans đẻ 448 trứng; Ctenocephalides felis đẻ 800 trứng). Sau
khoảng 1 tuần trứng nở ra ấu trùng.
Ấu trùng có hình con sâu, trên thân có nhiều lông nhỏ dài. Ấu trùng ăn phân
của bọ chét bố mẹ, trong phân có nhiều máu khô chưa tiêu hoá và các tạp chất
hữu cơ khác. Sau khoảng 2 tuần, qua 2 lần lột xác, ấu trùng nhả tơ làm kén và
thành nhộng. Nhộng không ăn, không hoạt động, sau 1 tuần nhộng nở ra bọ chét
trưởng thành.
Thời gian hoàn thành vòng đời
của bọ chét Xenopsylla cheopis ở
21 - 230C khoảng 3 - 5 tuần.
2.2. Sinh lí, sinh thái:
Bọ chét rất ham hút máu, khi đã
no vẫn tiếp tục hút máu, vừa hút
vừa đùn máu ra hậu môn để có máu
nuôi ấu trùng. Bọ chét có sức chịu
đói rất cao: Pulex irritans không hút
máu vẫn sống được trên 4 tháng.
Bọ chét hút máu nhiều loài vật chủ:
Trưởng thành
Nhộng
Ấu trùng
Trứng
492
chuột, chó, mèo, chồn, sóc, dơi, chim, gà...và người.
Tuy nhiên, bọ chét có tính chọn lọc vật chủ để kí sinh:
+ X. cheopis thích hút máu chuột.
+ P. irritans thích hút máu chó.
+ Stivalius thích hút máu chuột và các động vật hoang dã.
Bọ chét trưởng thành có thể sống tự do ở đất, nơi có nhiều mùn, cát, rác
rưởi... trong các khe kẽ tường hoặc trong các hang ổ chuột, ổ gà, tổ chim...
Khi có nhiều bọ chét, có thể nhận biết sự có mặt của chúng bằng dấu hiệu của
các vết máu khô do bọ chét không tiêu hoá hết thải ra quần áo, giường...
Theo tính chất kí sinh có thể phân bọ chét thành các nhóm:
+ Bọ chét kí sinh cố định thường xuyên trên thân vật chủ: bọ chét chi
Tunga…
+ Bọ chét kí sinh trên thân vật chủ là chính, có thời gian ngắn sống tự do:
P.irritans, C.felis...
+ Bọ chét sống trong hang ổ động vật là chính, chỉ kí sinh ở vật chủ khi hút
máu: bọ chét chi Phadinopsylla...
Bọ chét có thể phát tán đi xa do chuột mang đi theo các phương tiện giao
thông: tàu biển, máy bay, ôtô... tới các vùng xa lạ, vì vậy bệnh dịch hạch do bọ
chét truyền có thể lan truyền từ vùng này sang vùng khác.
Mùa phát triển của bọ chét tùy theo loài: X. cheopis phát triển mạnh vào mùa
nóng từ tháng 6 đến tháng 9; P.irritans từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau, chi
Stivalis phát triển mạnh vào mùa xuân từ tháng 3 đến tháng 6.
3. Vai trò truyền bệnh.
Bọ chét có thể truyền những mầm bệnh: dịch hạch, sốt phát ban chuột, sán lá
chuột (Hymenolepis diminuta) và sán dây chó (Dipylidium canium)...
Ngoài vai trò truyền bệnh, bọ chét đốt có thể gây dị ứng, viêm da. Con người
thường bị bọ chét mèo C.felis đốt nhiều nhất, tiếp đến là bọ chét chó C.canis.
Còn P.irritans (mặc dầu có tên là bọ chét người như vậy) nhưng lại ít quan trọng
nhất. Khi đứng, người thường bị bọ chét tấn công cẳng chân, còn khi nằm thì bị ở
bất cứ vị trí nào.
493
3.1. Cơ chế truyền bệnh sán dây chuột và sán dây chó:
Những đốt sán già chứa đầy trứng theo phân hoặc tự bò ra hậu môn chó,
chuột. Đốt sán vỡ, trứng tung ra ngoại cảnh, có thể bám vào lông xung quanh hậu
môn chó, chuột. Bọ chét kí sinh ở chó, chuột nuốt phải trứng sán, trứng vào cơ
thể bọ chét phát triển thành nang ấu trùng. Nếu chó, chuột... và người (như trẻ em
chơi với chó) ăn phải bọ chét có nang ấu trùng sẽ mắc bệnh sán. Sán trưởng
thành kí sinh ở ruột.
3.2. Cơ chế truyền bệnh dịch hạch:
Để truyền bệnh vi khuẩn cần có bọ chét hút máu cả người và động vật (chuột).
P.irritans hút máu cả người và động vật nhưng hiếm khi hút máu chuột nên vai
trò không đáng kể. Chi Xenopsylla hút máu cả người và động vật, trong đó bọ
chét chuột châu Á X.cheopis có vai trò lớn.
Bệnh dịch hạch do vi khuẩn Yersinia pestis, gây ra những vụ dịch ở các động
vật hoang như: chuột, các loài gặm khác và có thể lây cho người. Trước đây, dịch
hạch được gọi là “cái chết đen” và là nguyên nhân gây ra các vụ dịch bệnh thảm
khốc. Vai trò truyền bệnh đáng chú ý là bọ chét chuột Xenopsylla.
+ Vi khuẩn dịch hạch từ vòi hoặc từ phân bọ chét theo vết đốt, vết xước xâm
nhập vào cơ thể vật chủ.
+ Vi khuẩn dịch hạch phát triển trong cơ thể bọ chét, vi khuẩn bám vào các
van ở diều tạo thành “nút” gây tắc diều. Bọ chét đói, nhưng khi hút máu vật chủ,
máu không vào tới dạ dày, bọ chét vẫn bị đói càng ham hút máu. Máu tới chỗ tắc,
bị đẩy ngược trở lại, mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể vật chủ qua vết đốt.
+ Trong vụ dịch, bọ chét có “nút tắc” được coi là có vai trò truyền bệnh nguy
hiểm hơn cả. Ở Việt Nam, bọ chét X. cheopis được xác định là vector truyền
bệnh dịch hạch. Đã phân lập được mầm bệnh P.pestis ở bọ chét X.. cheopis tại
các khu vực có bệnh dịch hạch: Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum (Nguyễn Văn Nhã,
1980). Mật độ bọ chét X.. cheopis ở khu vực này là 81- 92%. Mầm bệnh dịch
hạch ở X. cheopis cũng được phân lập ở Nha Trang (Đỗ Sĩ Hiển,1992), ở Hải
Phòng và Hà Nội (Trương Sĩ Niêm, 1987).
+ Bọ chét còn truyền Rickettsia typhi thông qua phân bọ chét nhiễm bệnh.
Vector chủ yếu là X. cheopis. Bọ chét có thể truyền mầm bệnh Pasteurella
tulaensis (Tularemia) và Salmonella enteritidis (Salmonellosis).
494
4. Phòng chống.
Do bọ chét có thể kí sinh trên vật chủ và sống tự do ở môi trường, cần áp
dụng các biện pháp:
+ Diệt bọ chét ở môi trường bằng các hoá chất diệt côn trùng: DDT, 666,
diazinon... Có thể phun hoá chất diệt hoặc dùng giấy dính, đặt chậu nước ở nơi
không thể phun hoá chất.
+ Triệt phá nơi sinh sản của bọ chét: đốt ổ gia súc, vệ sinh nhà cửa, chuồng
trại, gầm sàn nhà...
+ Diệt bọ chét kí sinh trên chuột bằng các biện pháp kết hợp: diệt bọ chét với
diệt chuột.
+ Diệt bọ chét kí sinh trên các động vật nuôi (chó, mèo...) bằng cách tắm
lysol 10%.
+ Trong các vụ dịch hạch, cần diệt bọ chét ở môi trường trước khi diệt bọ
chét kí sinh trên chuột để tránh làm tăng mật độ bọ chét ở môi trường.
BỘ CHẤY RẬN
Chấy rận là những côn trùng không có cánh, thuộc nhóm biến thái không
hoàn toàn. Chúng là những ngoại kí sinh trùng bắt buộc, chỉ kí sinh trên người.
Có 2 bộ chấy rận: Mallophaga (chấy rận cắn đốt) và Anoplura (chấy rận hút
máu).
Phần miệng của chấy rận cắn đốt có kiểu nhai, nhưng có kích thước và số
lượng giảm mạnh và khó có thể nhận biết. Phần miệng của chấy rận hút máu gồm
có 5 gai giúp nó có thể châm hút máu vật chủ.
Trong bộ Mallophagans cần chú ý tới Trichodectes latus, là vật trung gian
truyền mầm bệnh sán dây chó Dipylidium caninum cho người.
Trong bộ Anopluran, loài rận thân Pediculus humonus là loài kí sinh trên vài
động vật và cả người, là một vector quan trọng có thể truyền cho người 3 bệnh:
sốt hồi quy, sốt phát ban chấy rận hay sốt phát ban dịch và sốt chiến hào. Một
loài cũng tương đối quan trọng là rận mu Phthirus pubis có thể truyền bệnh sốt
495
Hình 16.16: Chấy rận kí sinh ở người.
phát ban do Rickettsia trên động vật thí nghiệm. Tuy nhiên, loài rận thân vẫn là
loài quan trọng nhất trong việc truyền các bệnh trong tự nhiên.
1. Hình thể.
Chấy rận có màu trắng bẩn hoặc xám.
Con cái dài 2,5 - 3 mm; con đực 1 - 2 mm.
+ Đầu chấy rận hơi tròn, cổ chấy rận có khả năng cử động, râu ngắn gồm 5 đốt,
vòi kiểu châm hút.
+ Ngực có 3 đôi chân, có móng nhọn để bám chắc vào lông tóc, quần áo vật
chủ. Trên ngực có 2 lỗ thở.
+ Bụng có 9 đốt, từ đốt 1- 6, mỗi đốt có 2 lỗ thở, những đốt cuối có bộ phận
sinh dục.
Thân chấy rận dẹt theo chiều lưng bụng
Các loài chấy rận kí sinh trên người gồm có:
- Chấy: Perdiculus humanus var catipis.
- Rận: Perdiculus humanus var corporis.
- Rận sinh dục, còn gọi là rận cua, rận bẹn Phthirius ingulatis hoặc Phthirius pubis.
2. Đặc điểm sinh học.
Vòng đời phát triển qua 3 giai đoạn: trứng - thanh trùng - trưởng thành.
Trứng có hình bầu dục, màu trắng sữa, có chất kết dính để bám vào lông tóc,
quần áo vật chủ. Sau 5 - 11 ngày trứng
nở ra thanh trùng, sau 2 tuần thanh
trùng lột xác trở thành chấy rận trưởng
thành. Con trưởng thành sống được
khoảng 30 ngày. Cả đời chấy đẻ
khoảng 140 trứng, rận đẻ khoảng 300
trứng, rận bẹn đẻ khoảng 80 trứng.
Chấy rận có thể giao phối chéo, thế
hệ sau tiếp tục sinh sản được. Hình thể
chấy rận giống nhau, chỉ khác nhau về
vị trí kí sinh. Chấy kí sinh ở đầu, rận kí
sinh ở quần áo.
Chấy rận
496
Chấy rận sống chủ yếu trên cơ thể vật chủ. Do không có cánh và chuyển
động chậm chạp nên nó chuyển từ vật chủ này sang vật chủ khác chủ yếu qua sự
tiếp xúc trực tiếp.
Cả giai đoạn thanh trùng và trưởng thành, con đực và cái đều kí sinh hút máu.
Việc hút máu xảy ra vài lần mỗi ngày. Chấy rận chỉ có thể phát triển ở môi
trường ấm gắn liền với da người, và chết trong khoảng vài ngày nếu nó không
được tiếp xúc với cơ thể người. Chúng phát tán nhờ sự tiếp xúc.
3. Vai trò y học.
Chấy rận hút máu gây ngứa ngáy khó chịu. Chất độc ở tuyến nước bọt tiêm
vào da có thể dẫn đến mệt mỏi và tạo cảm giác bị bệnh.
Các bệnh do chấy rận truyền thường phát triển về mùa đông- xuân. Rận bẹn ít
có vai trò truyền bệnh. Chấy rận có thể truyền được các mầm bệnh sau:
3.1. Sốt phát ban chấy rận:
+ Mầm bệnh là Rickettsia prowazekii, phát triển ở tế bào thành dạ dày của
chấy rận. Mầm bệnh được thải ra ngoài theo phân, qua vết xước xâm nhập vào cơ
thể người.
+ Bệnh diễn biến cấp tính với biểu hiện: đau đầu, sốt, cảm giác nóng lạnh và
đau toàn thân. Nếu không điều trị, tỉ lệ tử vong là 10 - 40%.
3.2. Sốt hồi quy chấy rận:
+ Mầm bệnh là Borrelia recurrentis, thường do chấy rận truyền. Mầm bệnh
được lưu thông trong dịch tuần hoàn của rận, truyền sang người khi rận bị giập
nát qua vết xước trên da.
+ Biểu hiện: bệnh nhân có từng đợt sốt trong 2 - 9 ngày đan xen với 2 - 4 ngày
không sốt.
3.3. Sốt chiến hào:
+ Mầm bệnh là Rickettsia quintana. Bệnh thường xảy ra trong chiến tranh,
ở những binh lính sống trong hầm hào thiếu vệ sinh. Bệnh đôi khi phát thành
dịch lớn.
+ Bệnh lây nhiễm do tiếp xúc với phân rận giống như bệnh sốt phát ban.
4. Phòng chống.
+ Vệ sinh cá nhân, thường xuyên tắm giặt. Khi đã có rận phải luộc hấp quần
áo để diệt cả giai đoạn thanh trùng, trưởng thành và trứng.
Rận cua hay rận bẹn
497
+ Cắt tóc ngắn, gội đầu thường xuyên cũng là một biện pháp chống chấy tích
cực. Kinh nghiệm dân gian: hạt na, bách bộ... có tác dụng diệt chấy.
+ Để phòng chống rận bẹn phải cắt sạch lông vùng bị nhiễm, tắm rửa sạch để
chống nhiễm trùng vết đốt.
HEMIPTERA - BỘ CÁNH NỬA
Trên thế giới, bộ Hemiptera có khoảng 40.000 loài thuộc 50 họ khác nhau.
Chỉ có 2 họ có vai trò y học là: họ Rệp - Cimicidae và họ Bọ xít - Reduviidae.
CIMICIDAE - HỌ RỆP
Họ rệp có 2 chi: Cimex và Oeciacus.
Chi Cimex còn gọi là rệp giường, có loài Cimex lecturarius là loài thường
thấy sống trong nhà của người, loài này phân bố rộng rãi trên thế giới; loài Cimex
rhotundaicus còn có tên là Cimex hemiptera thường phân bố ở các nước nhiệt
đới.
Chi Oeciacus thường thấy trong các tổ chim hoặc trên lá cây và thường hút
máu chim, hiếm gặp trong nhà ở của người.
1. Đặc điểm hình thể.
Cơ thể gồm 3 phần: đầu - ngực - bụng, toàn bộ cơ thể được bao bọc bằng lớp
kitin, có màu nâu hoặc nâu đen.
1.1. Đầu:
Hơi vuông, gắn vào đốt ngực thứ nhất, đốt này lõm vào thành một hố, phần
đầu chỉ nhô ra từ mắt. Hai bên đầu có hai mắt kép to, phía trước đầu có hai râu.
Mỗi râu có 4 đốt, giữa hai râu có vòi hút máu.
1.2. Ngực:
Có hai cánh thoái hoá, có 3 đôi chân rất phát triển, trên chân có nhiều lông
cứng. Bàn chân có 4 đốt, đốt cuối có móng nhọn sắc.
1.3. Bụng:
Bụng có 8 đốt. Ở rệp đực: đốt thứ tám phát triển thành cơ quan sinh dục. Ở
rệp cái: phần cuối bụng tròn lại, trên đốt thứ bảy nhìn rõ khe âm đạo; hai bên rìa
đốt thứ tư có 2 hố nhỏ.
498
Rệp trưởng thành có tuyến hôi nằm ở gốc đôi chân thứ ba, nhưng ở thanh
trùng tuyến này nằm ở mặt lưng từ đốt bụng thứ ba đến đốt bụng thứ năm.
Rệp trưởng thành có 2 đôi lỗ thở ở ngực và 7 đôi lỗ thở ở bụng.
Cơ quan tiêu hoá của rệp gồm: vòi hút máu, thực quản nhỏ hình ống và dạ
dày; trước dạ dày có hai tuyến nước bọt đổ vào; sau dạ dày là ruột và trực tràng.
Cơ quan bài tiết có ống Manpighi đổ vào ruột và trực tràng.
Cơ quan sinh dục: rệp cái có hai buồng trứng, mỗi buồng trứng có dây trứng
đổ vào ống dẫn trứng. Hai ống dẫn trứng này nhập làm một trước khi đổ vào âm
đạo. Trứng rệp hình bầu dục, màu trắng đục.
2. Đặc điểm sinh học.
Vòng đời của rệp phát triển qua 3 giai đoạn: trứng - thanh trùng và trưởng
thành.
Trứng thường được đẻ vào cùng một chỗ ở khe tường, tủ, giường phản, bàn
ghế... có khi đẻ vào cả trên giấy, vải... Trứng rệp có thể phát triển tốt ở gỗ,
đất... rất kém phát triển trong nước.
Thanh trùng phải qua 4 lần lột xác, hình thể rất giống con trưởng thành
nhưng nhỏ hơn; cơ quan sinh dục chưa hình thành, các đốt bàn chân chưa rõ,
râu ngắn. Thanh trùng khi mới nở dài 1,2 mm; ở giai đoạn cuối dài tới 5 mm.
Để lột xác và phát triển thanh trùng cần hút no máu. Ở nhiệt độ từ 14 - 180C
trứng cần khoảng 21 - 22 ngày mới nở, ở nhiệt độ 22 - 260C cần 8 - 9 ngày,
nhưng ở nhiệt độ 35 - 37oC chỉ cần 5 - 6 ngày. Dưới 140C trứng không phát triển.
Hình 16.17: Vòng đời phát triển của rệp.
Trưởng thành
Ấu trùng Trứng
499
Ở điều kiện nhiệt độ thích hợp, có đủ thức ăn rệp cần khoảng 28 ngày để
hoàn thành vòng đời. Nhiệt độ không thích hợp, thức ăn không đủ thì vòng đời
kéo dài tới 6 - 10 tuần hoặc lâu hơn.
Cả thanh trùng và rệp trưởng thành đều hút máu. Sau khi hút máu khoảng hai
ngày, rệp cái đẻ trứng, đẻ liên tiếp trong 5 ngày, sau đó lại tiếp tục hút máu.
Rệp thường hút máu vào ban đêm, nhưng khi đã nhịn đói lâu có thể hút máu
cả ban ngày. Rệp chỉ hút máu, không ăn chất gì khác.
Thời gian hút máu của rệp trưởng thành khoảng 15 phút, mỗi lần hút khoảng
15 mg máu. Thanh trùng chỉ hút máu trong khoảng 1 phút. Mỗi lần hút khoảng
1/3 mg máu.
Rệp có khả năng nhịn đói lâu. Ở nhiệt độ lạnh rệp có thể nhịn đói được hàng
năm, ở nhiệt độ bình thường rệp nhịn đói được vài tháng.
Mỗi phút rệp trưởng thành di chuyển được 1,25 m; thanh trùng di chuyển
được khoảng 25 cm.
Đời sống của rệp khoảng 14 tháng. Con cái đẻ 1 - 2 trứng/tuần. Trong phòng
thí nghiệm một con cái đẻ được tới 541 trứng, trên thực tế rệp đẻ ít hơn.
3. Vai trò y học.
Vai trò truyền bệnh của rệp chưa rõ ràng. Rệp đốt người gây cảm giác khó
chịu, đặc biệt là mất ngủ vào ban đêm, lâu dần làm giảm sức khoẻ.
Theo Derbeneva- Ukhova năm 1974, rệp có thể lưu giữ các mầm bệnh: dịch
hạch, sốt phát ban, sốt hồi quy, tularemia, sốt Q... nhưng vai trò truyền bệnh của
rệp chưa được nghiên cứu đầy đủ.
4. Phòng chống.
+ Vệ sinh chăn màn, giường chiếu, khe kẽ tủ, bàn ghế: giặt, phơi, quét dọn,
lau chùi sạch... làm thường xuyên hàng tháng.
+ Sử dụng các biện pháp diệt rệp:
- Đun nước sôi: cứ 200 lít nước sôi cho vào 200 gam xà phòng bột hoặc
1 bánh xà phòng giặt vào, quấy cho tan đều, tưới vào các khe kẽ có rệp. Làm
1 lần/1 tuần, liên tục trong 5 - 6 tuần liền.
- Dùng que nhọn khêu, ngoáy khe kẽ có rệp, hoặc dùng hút bụi hút rệp, diệt
rệp.
- Phơi nắng các dát giường, đệm... dùng các chất hấp dẫn kiến đến ăn rệp.
- Các hoá chất diệt côn trùng: DDT, 666... ít có kết quả.
500
- Kinh nghiệm dân gian: lấy lá sen tươi rải lên nơi có rệp, mỗi giường nằm rải
từ 4 - 5 lá sau một thời gian rệp sẽ hết.
REDUVIIDAE - HỌ BỌ XÍT
Trong họ Bọ xít chỉ có loài Triatoma megista và Rhodinus pralixus hút máu
người và động vật, truyền bệnh Chagas.
Bệnh phổ biến ở Nam Mĩ, chưa gặp ở Việt Nam.
1. Đặc điểm hình thể.
Bọ xít trưởng thành có đầu dài, râu dài, vòi được gập trong ổ miệng, khi hút
máu mới thò ra.
Chỉ thấy rõ đốt ngực thứ nhất, còn đốt thứ hai và thứ ba bị cánh che lấp. Bọ
xít có 2 cánh cứng bên ngoài, bên trong có 2 cánh mỏng.
Ngực có 3 đôi chân dài. Bụng bọ xít dài, cánh không che kín được bụng.
2. Đặc điểm sinh học.
Vòng đời bọ xít phát triển qua 3 giai đoạn: trứng - thanh trùng và trưởng
thành.
Trứng bọ xít dài khoảng 1,5 - 2,5 mm, hình bầu dục.
Sau khi đẻ được 10 ngày, trứng nở ra thanh trùng, vài ngày sau rời nơi ở để
tìm mồi hút máu.
Thanh trùng có 5 giai đoạn, tất cả các giai đoạn đều hút máu, hình thể giống
như con trưởng thành.
Sau 5 lần lột xác phát triển thành con trưởng thành, sau 10 - 14 ngày con cái
bắt đầu đẻ trứng.
Cả con đực và con cái đều hút máu, chúng kí sinh trên người hoặc động vật.
Hoạt động hút máu về đêm; ban ngày đậu nghỉ ở các khe đá, khe tường, mái
tranh... có khi ở cây, lá...
Khi hút máu, bọ xít thường bài tiết ngay ở nơi chúng hút máu, do đó mầm
bệnh từ phân bọ xít nhiễm vào người hoặc động vật.
3. Vai trò y học.
Bọ xít truyền bệnh Chagas, mầm bệnh là Trypanosoma cruzi. Ngoài ra còn
truyền một số bệnh khác, nhưng chủ yếu là bệnh của động vật lây sang người.
501
4. Phòng chống.
Vệ sinh nhà ở, triệt phá nơi trú ẩn của bọ xít, phun hoá chất diệt côn trùng:
malathion... vào nơi trú ẩn của chúng.
BLATTIDAE - HỌ GIÁN
Gián thuộc lớp côn trùng, bộ Blatophtera, có 2 đôi cánh, đôi cánh ngoài dày
và cứng, đôi cánh trong mỏng và mềm hơn. Gián di chuyển nhanh, có thể bay
hoặc chạy.
1. Đặc điểm hình thể.
Gián trưởng thành dài 0,5 - 1,5 cm, dẹt theo chiều lưng bụng, có đôi anten dài,
miệng kiểu hàm nghiền, 3 đôi chân dài giúp cho gián chạy nhanh (hình 16.18).
Gián có màu nâu hoặc nâu sẫm. Đa số các loài gián ít khi bay.
Hình 16.18: Gián trưởng thành
2. Đặc điểm sinh học.
Vòng đời của gián phát triển qua 3 giai đoạn: trứng - thanh trùng và trưởng
thành (hình 16.19).
Gián cái đẻ 20 - 50 trứng trong bọc cứng màu nâu. Lúc đầu bọc trứng được
mang sau thân (trông giống đuôi) sau đó được gắn vào nơi kín đáo (khe kẽ tủ,
quần áo...), khoảng 1 - 3 tháng sau trứng nở ra thanh trùng, khoảng 2 tháng sau
lột xác thành gián trưởng thành. Trong điều kiện không thuận lợi, thiếu thức ăn
hoặc quá rét... vòng đời có thể kéo dài hàng năm.
502
Đời sống của gián trung bình 12 tháng (có thể từ 100 - 600 ngày).
Gián trú ẩn ban ngày, đến tối mới tìm thức ăn. Thức ăn của gián rất phong
phú, từ đồ ăn thức uống của người, động vật cho đến tất cả các chất thải ôi thiu.
Gián rất phàm ăn. Đời sống của gián gắn bó mật thiết với người giống như ruồi
nhà. Gián trú ẩn ở các khe kẽ nhà bếp, nhà vệ sinh, tủ treo quần áo... hoặc các nơi
tối: trong tủ, hòm, hộp... người ít để ý tới.
Gián có khoảng 3.500 loài, nhưng chỉ có 16 loài có vai trò y học (Roth và
Willis, 1957). Ở Việt Nam gián chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Hình 16.19: Vòng đời phát triển của gián.
3. Vai trò y học.
Gián truyền bệnh và gây bệnh cho người và động vật. Gián truyền bệnh theo
phương thức không đặc hiệu giống như ruồi nhà.
Trong tự nhiên, gián có thể truyền tới 40 loài vi khuẩn khác nhau (Roth và
Willis, 1957 - 1960; Burhess và cộng sự, 1973), đó là các vi khuẩn hủi, dịch
hạch, lao, tụ cầu... Trong thực nghiệm còn thấy gián truyền được các mầm bệnh:
than, bạch hầu, uốn ván...
Thanh trùng
Bọc trứng
Trưởng thành
(a)
(c)
(b)
10
mm
503
Khả năng truyền các mầm bệnh virut của gián chưa được chứng minh. Trong
thực nghiệm thấy gián là kho dự trữ và truyền các virut: Cocxaki, bại liệt, viêm
gan truyền nhiễm...
Gián cũng có thể truyền các mầm bệnh kí sinh trùng: giun đũa, sán dây, trùng
roi thìa, amíp lị... cũng như các loài nấm Aspergillus.
Gián còn có thể gây viêm da, phù mí mắt cho người do chất độc của gián tiết
ra. Gián còn gây dị ứng nhưng hiếm gặp (Corwell, 1968).
4. Phòng chống gián.
+ Triệt phá nguồn thức ăn của gián: thức ăn, thực phẩm cần để trong tủ, hoặc
có lồng bàn đậy kín. Các chất thừa, thải, bệnh phẩm ở bệnh viện phải được xử lí
bằng các chất khử trùng. Các hố rác, thùng rác phải có nắp đậy kín.
+ Triệt phá nơi trú ẩn và sinh đẻ của gián: nhà cửa, cống rãnh phải sạch
thoáng, quần áo, giường tủ phải thường xuyên phơi, dọn.
+ Có thể sử dụng hoá chất để đặt bả hoặc phun: diazinon, propoxur,
dichlorvos, malathion...
Recommended