29
1 ÁP DNG CÁC LIỆU PHÁP CHƠI VÀ LIU PHÁP NGHTHUT TRONG VIC HTRTÂM LÝ TREM SNG TRONG MT SCƠ SỞ BO TRXÃ HI TI TP.HCHÍ MINH Nhóm tác ginghiên cu: Nguyn Minh Tiến, Nguyn ThThu trúc, Cao Hunh ThThương Mỵ, Hà ThHuyn, Trn Thu Vân, Trn Thyến, Phan Văn Phúc, Nguyễn ThThy, Lâm MPhương, Nguyễn ThHnh Dân. (Chi hi Tâm lý Trliệu TRĂNG NON) PHN DN NHP Chi hội Trăng Non ngay từ khi thành lập đã định hướng làm vic htrcho các trem và vthành niên có vấn đề khó khăn về tâm lý. Bên cnh vic tiếp xúc htrnhng trem có khó khăn tâm lý những vn sống trong vòng tay gia đình, chúng tôi vẫn không quên định hướng cho vic htrtâm lý nhng trem mcôi, bt hnh sống và được nuôi dưỡng trong các cơ sở bo trxã hi. Vic chn lựa đối tượng nghiên cu là nhng trmcôi hoc trbbrơi, do vậy, đã là một trong các định hướng làm vic chính ca chúng tôi trong nhiều năm qua. Bài báo cáo này là tp hp kết qutnhng thc hành lâm sàng mà tp thhi viên và các cng tác viên Chi hội Trăng Non thực hin cùng vi các công trình nghiên cu ca sinh viên do Trăng Non phụ trách hướng dn trong khong thi gian ttháng 2-2006 cho đến tháng 5-2013 (trên thc tế cho đến nay vẫn còn đang tiếp tc thc hin). Chúng tôi mong vic trình bày các kết qulàm vic này sđóng góp một phn nhvào nhng thành quchung trong hoạt động ca Hi Khoa hc Tâm lý Giáo dc Tp. HChí Minh và

Ap dung lieu phap choi va lieu phap nghe thuat trong viec ho tro tam ly tre em song trong mot so

Embed Size (px)

Citation preview

1

ÁP DỤNG CÁC LIỆU PHÁP CHƠI VÀ LIỆU PHÁP NGHỆ THUẬT TRONG

VIỆC HỖ TRỢ TÂM LÝ TRẺ EM SỐNG TRONG MỘT SỐ CƠ SỞ BẢO TRỢ

XÃ HỘI TẠI TP.HỒ CHÍ MINH

Nhóm tác giả nghiên cứu: Nguyễn Minh Tiến, Nguyễn Thị Thu trúc, Cao Huỳnh Thị

Thương Mỵ, Hà Thị Huyền, Trần Thu Vân, Trần Thị yến, Phan Văn Phúc, Nguyễn Thị

Thủy, Lâm Mỹ Phương, Nguyễn Thị Hạnh Dân.

(Chi hội Tâm lý Trị liệu TRĂNG NON)

PHẦN DẪN NHẬP

Chi hội Trăng Non ngay từ khi thành lập đã định hướng làm việc hỗ trợ cho các trẻ em và

vị thành niên có vấn đề khó khăn về tâm lý. Bên cạnh việc tiếp xúc hỗ trợ những trẻ em

có khó khăn tâm lý những vẫn sống trong vòng tay gia đình, chúng tôi vẫn không quên

định hướng cho việc hỗ trợ tâm lý những trẻ em mồ côi, bất hạnh sống và được nuôi

dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội. Việc chọn lựa đối tượng nghiên cứu là những trẻ

mồ côi hoặc trẻ bị bỏ rơi, do vậy, đã là một trong các định hướng làm việc chính của

chúng tôi trong nhiều năm qua.

Bài báo cáo này là tập hợp kết quả từ những thực hành lâm sàng mà tập thể hội viên và

các cộng tác viên Chi hội Trăng Non thực hiện cùng với các công trình nghiên cứu của

sinh viên do Trăng Non phụ trách hướng dẫn trong khoảng thời gian từ tháng 2-2006 cho

đến tháng 5-2013 (trên thực tế cho đến nay vẫn còn đang tiếp tục thực hiện). Chúng tôi

mong việc trình bày các kết quả làm việc này sẽ đóng góp một phần nhỏ vào những thành

quả chung trong hoạt động của Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Tp. Hồ Chí Minh và

2

cũng xem việc trình bày báo cáo này như một cách tri ân những hội viên, cộng tác viên

đã góp sức vào kết quả nghiên cứu chung của Chi hội Trăng Non chúng tôi.

Phương pháp nghiên cứu: Chủ yếu là nghiên cứu trường hợp (case study).

Đối tượng nghiên cứu:

1. Trẻ mồ côi và trẻ mà gia cảnh có vấn đề nên phải sống và được nuôi dưỡng trong

các cơ sở bảo trợ xã hội (nhà mồ côi, mái ấm...)

2. Các liệu pháp tâm lý sử dụng phương pháp chơi (play therapy) hoặc nghệ thuật

(art therapy) áp dụng trong hỗ trợ tâm lý trẻ em

Khách thể nghiên cứu: Một số trường hợp trẻ mồ côi và trẻ có gia cảnh khó khăn sống

trong cơ sở bảo trợ xã hội. Bao gồm:

- 10 trẻ mồ côi tại Trung tâm Mồ Côi – Khuyết tật Thị Nghè và Nhà Mồ côi Truyền

Tin Quận Bình Thạnh (Công trình của Hà Thị Huyền – Khóa luận tốt nghiệp cử

nhân tâm lý ĐH Văn Hiến Tp.HCM năm 2006)

- 5 trẻ mồ côi và bị bỏ rơi tại Mái ấm Ánh Sáng Quận 10 (1 trẻ ở nhà nuôi trẻ nam

và 4 trẻ ở nhà nuôi trẻ nữ (Công trình hợp tác giữa các thành viên Trăng Non – BS

Nguyễn Minh Tiến, Cử nhân Nguyễn Thị Thu Trúc, Cử nhân Cao Huỳnh Thị

Thương Mỵ và mái ấm Ánh Sáng Q.10 từ cuối 2010 đến hết năm 2012)

- 1 trẻ bị bỏ rơi tại Mái ấm Pháp Võ, Huyện Nhà Bè, Tp.HCM (Trần Thị Yến –

Khóa luận Tốt nghiệp cử nhân tâm lý ĐH Văn Hiến Tp.HCM năm 2011)

- 1 trẻ mồ côi khiếm thị tại Mái ấm Thiên Ân, Quận Tân Phú, Tp.HCM (Phan Văn

Phúc – Khóa luận tốt nghịệp cử nhân tâm lý ĐH Văn Hiến Tp.HCM, năm 2012)

- 7 trẻ mồ côi và bị bỏ rơi tại Làng Trẻ em SOS Gò Vấp Tp.HCM (Công trình hợp

tác giữa Trăng Non và Làng Trẻ em SOS Gò Vấp từ tháng 2 đến tháng 5-2013).

Giả thuyết chung cho các nghiên cứu: Mặc dù việc tiến hành thực hiện các nghiên cứu

trường hợp có phần khác nhau về thời gian, nơi chốn, hoàn cảnh làm việc, cũng như có

sự khác biệt lớn về mục đích, mục tiêu nghiên cứu ở từng trường hợp trẻ cần được hỗ trợ,

chúng tôi vẫn hướng đến việc đặt ra các giả thuyết chung nhất áp dụng trong tất cả các

3

trường hợp nghiên cứu khi áp dụng các liệu pháp chơi và nghệ thuật trị liệu cho trẻ như

sau:

1. Chơi và sáng tạo nghệ thuật là cách thức đứa trẻ giải bày và bộc lộ nội tâm thay

cho lời nói, từ đó giúp nhà trị liệu tâm lý hiểu trẻ và đối thoại được với trẻ;

2. Các chất liệu tạo ra trong lúc chơi và sáng tạo nghệ thuật có tính ẩn dụ

(metaphoric) hoặc biểu trưng (symbolic) cho những nội dung và chủ đề thực tế mà

trẻ không trực tiếp nói đến. Do một số các vấn đề thực tế trong đời sống của trẻ có

thể có tính chất đau buồn hoặc dễ gây tổn thương, nên việc nói về những chủ đề ấy

một cách gián tiếp (thông qua chơi và sáng tạo nghệ thuật) có thể giúp trẻ cảm

thấy an toàn hơn khi giải bày;

3. Thông qua làm việc trên các chất liệu từ chơi và sáng tạo nghệ thuật, nhà trị liệu

có thể thực hiện các can thiệp và hỗ trợ cho trẻ, giúp trẻ giải tỏa các cảm xúc tiêu

cực, thiết lập quan hệ an toàn với nhà trị liệu, từ đó trẻ có thể được hiểu, được

nâng đỡ, có điều kiện khám phá các nguồn lực từ bản thân và đương đầu tốt hơn

với nghịch cảnh;

4. Chơi và sáng tạo nghệ thuật là những phương pháp có “tính năng kép”: vừa sử

dụng để chẩn đoán, đánh giá nội dung và mức độ của các vấn đề tâm lý của trẻ,

vừa để thông qua đó mà nhà trị liệu thực hiện những can thiệp hỗ trợ trẻ về mặt

tâm lý.

Trong phạm vi bài tham luận hội thảo, chúng tôi xin phép trình bày những cơ sở lý luận

chính và phần tóm lược một số kết quả thu nhận bước đầu qua quá trình làm việc. Đây

chưa phải là một báo cáo khoa học đầy đủ. Chúng tôi xin phép được bảo mật các thông

tin cá nhân liên quan đến những trường hợp nghiên cứu, kể cả các thông tin về lịch sử cá

nhân lẫn những hình ảnh ghi lại các sản phẩm từ những buổi làm việc thực tế (tranh vẽ,

tượng, cảnh chơi... của trẻ). Hình ảnh nếu có trình bày trong bài thì chỉ có tính chất minh

họa.

4

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP (CASE STUDY)

Phương pháp nghiên cứu trường hợp là phương pháp được chọn để nghiên cứu, khảo sát

những trường hợp cụ thể khi thực hành tâm lý lâm sàng. Còn gọi là nghiên cứu lịch sử

của trường hợp lâm sàng (clinical case history). Nền tảng của phương pháp này dựa trên

sự quan sát, mô tả và phân tích sâu sắc các vấn đề khác nhau xảy ra ở một người, một

nhóm người hoặc một sự kiện, hiện tượng nào đó.

Mỗi cuộc đời, mỗi con người và những gì xảy ra trong cuộc đời của người ấy, đều là

những hiện tượng có tính độc đáo, riêng biệt, nên việc chọn phương pháp nghiên cứu

trường hợp là hoàn toàn thích hợp. Trong khi nhà tâm lý lâm sàng tiếp cận và hỗ trợ cho

một thân chủ, về bản chất công việc mà nhà tâm lý làm với thân chủ cũng là một nghiên

cứu trường hợp.

Có hai loại nghiên cứu trường hợp: (1) Loại hồi cứu (retrospective) nhấn mạnh việc tìm

hiểu đi sâu về lịch sử của một cá nhân hoặc của nhiều người; và (2) Loại tiến cứu

(prospective) hoặc còn gọi là “nghiên cứu theo chiều dọc” (longitudinal study) thường là

nghiên cứu về kết quả của một sự kiện hoặc hoàn cảnh đặc biệt nào đó mới xảy ra, ví dụ

như ảnh hưởng của cái chết của bố mẹ lên sự phát triển của đứa trẻ hoặc ảnh hưởng của

việc đưa trẻ vào trại mồ côi đối với tâm lý của trẻ vv...

Nghiên cứu trường hợp trong tâm lý lâm sàng được thực hiện qua 4 bước chính (các bước

không hoàn toàn tách biệt mà vẫn có thể xen lẫn lên nhau trong quá trình thực hiện) như

sau:

- Thu thập thông tin cơ bản (Background Information)

- Mô tả vấn đề đang vướng mắc (Description of The Presenting Problems)

- Chẩn đoán hoặc đánh giá của người thực hiện (Your Diagnosis)

- Các bước can thiệp (Intervention)

5

Nghiên cứu trường hợp chú trọng việc tìm hiểu sâu các hiện tượng xảy ra trong bối cảnh

đời thực của một trường hợp cụ thể. Những mô tả đi theo tính chất tự nhiên vốn có, vốn

đã xảy ra của những con người và những sự kiện liên quan đến những người ấy. Nó cũng

đi theo dòng suy nghĩ và tâm trạng chủ quan của người thực hiện (nhà tâm lý lâm sàng).

Nó có tính chất độc đáo vì mỗi trường hợp là duy nhất, không lập lại ở những trường hợp

khác, và những tính chất độc đáo, riêng biệt đó không thể được thấy trong các nghiên cứu

thống kê được thực hiện trên số đông. Nghiên cứu trường hợp cũng có thể cung cấp nhiều

giả thuyết về các vấn đề bệnh lý khác nhau và cũng có thể từ đó đặt giả thuyết về các

cách thức xử lý chúng. Và khi nghiên cứu trường hợp được thực hiện với sức thuyết phục

cao, nó có thể cung cấp một bằng chứng để phủ định những giả thuyết có thể đã từng

được chấp nhận rộng rãi trước đó.

Tuy nhiên, trong nghiên cứu trường hợp, các dữ liệu thu thập có thể bị ảnh hưởng bởi

tính chủ quan của người thực hiện (nhà tâm lý lâm sàng) và cả do tính chủ quan của

người cung cấp dữ liệu (thân chủ). Kết quả nghiên cứu trường hợp không thể được khái

quát hóa, không có khả năng lập lại ở những nghiên cứu khác sau đó và do vậy không đủ

chứng cứ để xác lập liên hệ nhân quả giữa các sự kiện, hiện tượng.

Trong việc tập hợp các kết quả nghiên cứu mà chúng tôi đang thực hiện, chắc chắn cũng

không thể tránh khỏi những khuyết điểm mà phương pháp nghiên cứu này vốn có. Đó

cũng là một trong số những giới hạn quan trọng của việc tập hợp kết quả nghiên cứu của

chúng tôi.

6

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁC LOẠI LIỆU PHÁP

1. Liệu pháp chơi (Play Therapy):

Từ lâu chơi đã được biết là một nhu cầu thiết thân trong đời sống trẻ em, đặc biệt là trẻ

nhỏ. Chơi cũng được vận dụng như một cách thức để giáo dục cho trẻ nhỏ. Các nhà phân

tâm thời kỳ đầu như S. Freud và C. Jung đều xem việc chơi và sáng tạo nghệ thuật ở trẻ

em như là cách thức vừa để bộc lộ vừa để tiếp cận vô thức của trẻ, và giống như giấc mơ,

chúng là “con đường vương đạo (royal road) dẫn đến cõi vô thức” theo cách nói của

Freud. Các nhà phân tâm thời kỳ sau như Anna Freud và Melanie Klein đã vận dụng chơi

như một phương pháp trị liệu tâm lý cho trẻ có các vấn đề nhiễu tâm (neurosis), trong đó

các chất liệu và nội dung thể hiện trong khi trẻ chơi được xem là có giá trị tương tự như

lời nói của người lớn khi làm kỹ thuật liên tưởng tự do (free association).

Với thời gian, nhiều tác giả thuộc các trường phái tâm lý khác nhau đã điều chỉnh và phát

triển thêm các mô thức chơi liệu pháp, trong đó phải kể đến Virginia Axline, với Liệu

pháp Chơi không hướng dẫn (non-directive play therapy) một cách trị liệu tâm lý cho trẻ

em có vấn đề tâm lý theo kiểu “lấy đứa trẻ làm trọng tâm” (child-centered) tương tự như

cách thức tiếp cận nhân văn theo kiểu Liệu pháp thân chủ trọng tâm (client-centered

therapy) của Carl Rogers.

Liệu pháp chơi không hướng dẫn là một phương pháp tiếp cận hiệu quả và ít gây xâm

phạm (non-intrusive) trong làm việc với trẻ em và người trẻ có vấn đề khó khăn tâm lý.

Liệu pháp này có thể được sử dụng bởi những nhà chuyên môn làm việc trực tiếp với

những trẻ em có vấn đề tổn thương về cảm xúc trong những cơ sở chăm sóc trẻ em, các

trung tâm sức khỏe tâm thần và cả những cơ sở làm công tác xã hội thiện nguyện.

Liệu pháp chơi không hướng dẫn được trình bày ở đây có liên quan đến việc thiết lập

một mối quan hệ đặc biệt một-một: giữa nhà trị liệu và một đứa trẻ; trong đó nhà trị liệu

7

tạo nên một bầu khí làm việc có tính an toàn và đáng tin cậy mà qua đó đứa trẻ có thể

cảm thấy tự do để giải bày và khám phá những cảm xúc cũng như những ý nghĩ của

chính bản thân trẻ. Đứa trẻ có thể giao tiếp một cách trực tiếp thông qua lời nói (cả cách

nói cụ thể lẫn cách nói có tính ẩn dụ) hoặc một cách gián tiếp thông qua hành vi và nội

dung chơi.

Công việc của nhà trị liệu là lắng nghe, thấu hiểu và đáp ứng lại với trẻ bằng cách thức

sao cho có thể giúp trẻ hiểu được nhiều hơn những cảm xúc của chính mình. Những

khía cạnh tiêu cực về cảm xúc sẽ mất đi sức mạnh chi phối của chúng khi trẻ được phép

giải bày và được trải nghiệm những cảm xúc ấy trong một mối quan hệ có tính chấp

nhận giữa trẻ với nhà trị liệu. Điều được nhấn mạnh trong liệu pháp này là giúp trẻ

chuyển từ tình trạng phó mặc bản thân cho những cảm xúc giấu kín kia sang trạng thái

làm chủ hơn đối với những cảm xúc ấy.

Liệu pháp này được dựa trên các nguyên lý của tâm lý trị liệu không hướng dẫn (non-

directive psychotherapy) được phát triển bởi Carl Rogers tại Hoa Kỳ và được điều chỉnh

bởi Virginia Axline để áp dụng vào trị liệu tâm lý cho trẻ em (được biết nhiều thông qua

hai tác phẩm Dibs in Search of Self năm 1946 và Play Therapy năm 1947). Triết lý nền

tảng của loại liệu pháp này chính là điều hiện hữu trong tất cả mọi con người, đó chính

là khuynh hướng tự hiện thực hóa bản thân (self-actualization) cả ở người lớn lẫn ở trẻ

em. Giả định được đặt ra là khi trẻ có cơ hội tự do giải bày các cảm xúc của chính mình,

trẻ sẽ tìm thấy các giải pháp để giải quyết các khó khăn về cảm xúc của bản thân và trẻ

sẽ sử dụng nhà trị liệu cùng các trải nghiệm trong khi chơi để thực hiện điều đó.

Liệu pháp chơi không hướng dẫn được phát triển một cách đầy đủ nhất là bởi Virginia

Axline thông qua hai quyển sách xuất bản năm 1946 và 1987, cùng một loạt các bài viết

và công trình nghiên cứu về chơi trị liệu. Mặc dù cùng thời gian nhiều tác giả khác cũng

có đề cập đến loại hình tiếp cận này như Allen (1942), Dorfman (1976) và Moustakas

(1953), Axline vẫn được xem là tác giả tiêu biểu nhất. Tác phẩm đầu tiên (Axline, 1946)

8

là sự cống hiến của bà trong một nghiên cứu về trường hợp một đứa bé sáu tuổi, Dibs.

Quyển sách đã thu hút nhiều độc giả như một báo cáo đầy đủ về một mối quan hệ trị

liệu, những cách thức mà một đứa trẻ thông qua chơi có thể đạt được khả năng giải

quyết vấn đề và làm chủ các xung đột nội tâm của mình. Sách này đã được dịch sang

tiếng Việt, được hiệu đính bởi cố tiến sĩ tâm lý Tô Thị Ánh dưới nhan đề Sa Mạc Nở

Hoa rất nổi tiếng. Trong quyển sách thứ hai (Axline, 1987), bà đã nêu ra 8 nguyên tắc

thực hành cho những nhà trị liệu chơi không hướng dẫn cùng những ví dụ về những tình

huống thường xảy ra trong phiên trị liệu.

1. Nhà trị liệu phải phát triển một mối quan hệ thân thiện, nồng ấm với đứa trẻ qua

đó một mối liên hệ gắn bó phải được hình thành càng sớm càng tốt.

2. Nhà trị liệu phải chấp nhận đứa trẻ như chính con người mà trẻ đang là.

3. Nhà trị liệu phải giúp hình thành một cảm nhận về sự cho phép trong mối quan

hệ này sao cho trẻ cảm thấy tự do trong việc thể hiện những cảm xúc của mình

một cách trọn vẹn.

4. Nhà trị liệu phải sáng suốt nhận ra những cảm xúc mà trẻ đang thể hiện và phản

ảnh lại bằng một cách thức sao cho trẻ có thể thấu hiểu được những hành vi của

chính bản thân mình.

5. Nhà trị liệu duy trì một sự tôn trọng sâu sắc đối với khả năng của trẻ trong việc

tự giải quyết vấn đề của mình miễn là được tạo cơ hội. Trách nhiệm lựa chọn và

thực hiện sự thay đổi là việc của bản thân đứa trẻ.

6. Nhà trị liệu không cố gắng hướng dẫn trẻ làm gì, nói gì dưới bất kỳ hình thức

nào. Đứa trẻ là người dẫn đường; nhà trị liệu theo sau.

7. Nhà trị liệu không cố thúc đẩy tiến trình trị liệu đi tới. Cần hiểu rằng đây là một

tiến trình lâu dài, từ từ.

8. Nhà trị liệu chỉ nên thiết lập những giới hạn cần thiết để gắn kết tiến trình trị liệu

với thực tế đời sống và giúp trẻ nhận ra trách nhiệm của trẻ trong mối quan hệ trị

liệu này.

(Axline, 1987: 73-74)

9

Axline cũng nhấn mạnh rằng liệu pháp không hướng dẫn là một tiến trình hợp nhất,

trong đó mỗi nguyên lý nêu trên có tính đan xen và tương quan phụ thuộc với các

nguyên lý khác. Vì thế khi nhà trị liệu có lòng tin vào sức mạnh của thân chủ trong

việc tự giải quyết vấn đề sẽ mang lại khả năng chấp nhận thân chủ như chính con

người vốn có của họ, sẵn sàng cho phép thân chủ lựa chọn và sẵn lòng tôn trọng các

quyết định của họ. Tuy nhiên, sự chấp nhận như thế không có nghĩa là nhà trị liệu chỉ

là một người quan sát thụ động trong các phiên trị liệu. Nhà trị liệu phải có khả năng

tham gia tích cực, tạo lập bầu khí sao cho thân chủ có thể làm rõ các vấn đề và khám

phá khả năng của họ. Điều làm cho liệu pháp này khác biệt với những cách thức can

thiệp và các liệu pháp khác chính là bản chất “không hướng dẫn”. Chính đứa trẻ là

người chọn lựa các trọng tâm và chủ đề khi chơi trong phòng trị liệu, bên trong những

ranh giới, khuôn khổ được vạch ra một cách cẩn thận. Vai trò của nhà trị liệu là tạo lập

nên một mối quan hệ thân tình và tin cậy lẫn nhau, phản ảnh và đáp ứng lại các ý nghĩ,

cảm xúc và hoạt động theo cách sao cho trẻ có thể tự giải quyết các vấn đề cảm xúc

của mình bằng chính cách thức mà trẻ lựa chọn và xảy ra với nhịp độ của chính đứa trẻ

đang thực hiện. Khác với những liệu pháp khác, sự phản ảnh mà nhà trị liệu thực hiện

không bao gồm sự khen thưởng, diễn giải hoặc thách thức. Các giới hạn trong phòng

trị liệu phải được thiết lập. Nhà trị liệu phải đảm nhận trách nhiệm của một người lớn

trong việc bảo đảm sự an toàn cho trẻ, gìn giữ vật liệu chơi, phòng chơi và ấn định

khuôn khổ thời gian làm việc. Bên trong những giới hạn được thiết lập rõ ràng như

thế, bầu khí của phòng chơi trị liệu phải thực sự thư giãn. Hành vi và cách giao tiếp

của nhà trị liệu phải tạo nên nơi trẻ những cảm nhận về sự an toàn và tin cậy, từ đó nếu

trẻ muốn, trẻ sẽ tự do giải bày và khám phá các chủ đề nổi trội trong cảm xúc của trẻ.

Chơi trị liệu được dựa trên một thực tế rằng chơi là môi trường tự nhiên để đứa trẻ tự

thể hiện bản thân. Đó chính là cơ hội để trẻ bộc lộ ra qua chơi (“play out”) những cảm

xúc và vấn đề của trẻ; cũng giống như một số loại liệu pháp ở người lớn, một cá nhân

có thể nói ra (“talk out”) các khó khăn của mình

Axline, 1987

10

2. Liệu pháp nghệ thuật (tranh vẽ/nặn tƣợng) (Art Therapy)

Ảnh minh họa về hình vẽ người – (Nguồn: Hạnh Dân 2013)

Nghệ thuật trị liệu, một phương pháp được áp dụng trong trị liệu các vấn đề về sức khỏe

tinh thần, được hình thành và phát triển từ khoảng cuối thập niên 1940. Tại Anh, Adrian

Hill được biết đến như là nhà tiên phong sử dụng thuật ngữ này để nói về việc tạo hình

ảnh trong ứng dụng trị liệu. Ông là người tìm thấy lợi ích trị liệu của hoạt động động

sơn vẽ. Theo ông, giá trị của nghệ thuật trị liệu nằm ở chổ: nó hoàn toàn choáng hết tâm

trí, giải phóng năng lực sáng tạo, và nó có thể kích hoạt bệnh nhân xây dựng hàng rào tự

vệ mạnh mẽ đối với những biến cố không may.

Cùng khoảng thời gian này, tại Mỹ, nhà tâm lý học Margaret Naumberg cũng dùng

thuật ngữ này cho công việc trị liệu của mình. Bà cho rằng đây là phương pháp giải

phóng vô thức thông qua sự bộc lộ nghệ thuật một cách tự phát. Gốc rễ của nó là mối

quan hệ chuyển di giữa bệnh nhân và nhà trị liệu trong khung cảnh khuyến khích liên

tưởng tự do. Phương pháp này gần gũi với lý thuyết phân tâm. Việc trị liệu được dựa

trên sự phát triển của mối quan hệ chuyển di và hiệu quả tiếp nối của việc tự diễn giải

11

các biểu tượng được tạo ra bởi bệnh nhân. Sản phẩm tạo ra là một dạng của giao tiếp

giữa nhà trị liệu và bệnh nhân, chính họ tạo nên ngôn ngữ biểu tượng.

Đến nay, nghệ thuật trị liệu phát triển theo hai nhánh: (1) Sử dụng nghệ thuật như là

một phương pháp tự thân nó có tính trị liệu và (2) Liệu pháp tâm lý trong đó sáng tạo

nghệ thuật là môi trường để thực hiện sự giao tiếp và tương tác giữa nhà trị liệu và thân

chủ. Nhánh tiếp cận đầu nhấn mạnh tiềm năng chữa lành của nghệ thuật, trong khi đó,

nhánh thứ hai nhấn mạnh vào mối quan hệ trị liệu được thiết lập giữa nhà nghệ thuật trị

liệu và thân chủ trong hoạt động có tính nghệ thuật. Điều quan trọng phân biệt hai

nhánh quan điểm này là việc đặt trọng tâm sự thay đổi có tính trị liệu nằm ở đâu. Trong

nghệ thuật trị liệu, động lực thúc đẩy tiến trình trị liệu là một bộ ba quan hệ giữa nhà trị

liệu, thân chủ và hoạt động nghệ thuật. Tùy vào giai đoạn làm việc, mối quan hệ giữa

hai trong ba nhân tố của bộ ba này sẽ được nhấn mạnh để đạt đến hiệu quả trị liệu.

Theo quan điểm đương thời, nghệ thuật trị liệu được xem là một trong những phương

pháp trị liệu tạo nên tranh, ảnh hoặc vật thể - gọi chung là các tác phẩm nghệ thuật có

thể nhìn thấy được (visual arts); và quá trình sáng tạo nghệ thuật ấy đóng vai trò trung

tâm trong mối quan hệ giữa nhà nghệ thuật trị liệu và thân chủ.

Hiệp hội các nhà nghệ thuật trị liệu Anh Quốc định nghĩa: Nghệ thuật trị liệu là việc sử

dụng chất liệu nghệ thuật cho việc tự bộc lộ và phản ánh dưới sự hiện diện của một nhà

nghệ thuật trị liệu đã được huấn luyện. Thân chủ tham gia tiến trình nghệ thuật trị liệu

không cần có kỹ năng hoặc trải nghiệm về nghệ thuật trước đó. Khởi đầu, nhà nghệ

thuật trị liệu không chú tâm đến việc đánh giá khiếu thẩm mỹ hay chẩn đoán bệnh nhân

trên sản phẩm nghệ thuật của họ. Mục tiêu chung của các nhà thực hành là phải thúc

đẩy thân chủ thay đổi và trưởng thành lên mức độ mới thông qua sử dụng chất liệu nghệ

thuật trong điều kiện an toàn và dễ dàng.

12

Hiệp hội nghệ thuật trị liệu Mỹ định nghĩa: Nghệ thuật trị liệu như là hoạt động nghệ

thuật được sử dụng có tính trị liệu, trong mối quan hệ chuyên nghiệp, bởi những người

có trải nghiệm bệnh tật, sang chấn, đang đương đầu với những thách thức trong cuộc

sống hoặc những người tìm kiếm sự phát triển nhân cách. Thông qua tiến trình sáng tạo

nghệ thuật và phản ánh bản thân trên sản phẩm nghệ thuật, con người có thể tăng trưởng

nhận thức về bản ngã và về người khác, đương đầu với những triệu chứng, sự căng

thẳng, kinh nghiệm sang chấn, nâng cao khả năng nhận thức và trải nghiệm cuộc sống

qua sự thư giãn trong hoạt động nghệ thuật.

Hiệp hội nghệ thuật trị liệu Canada và Hiệp hội nghệ thuật trị liệu quốc gia Úc định

nghĩa: Nghệ thuật trị liệu là một hình thức tâm lý trị liệu, cho phép bộc lộ và chữa lành

cảm xúc thông qua những phương tiện không lời. Trẻ em thường không thể dễ dàng bộc

lộ bản thân qua lời nói. Còn người lớn thường dùng lời để biến hóa và tạo khoảng cách

với cảm xúc của mình. Nghệ thuật trị liệu có thể khiến cho thân chủ phá vỡ những hàng

rào ngăn trở này để tự bộc lộ qua việc sử dụng chất liệu nghệ thuật.

Bản chất của nghệ thuật trị liệu nằm ở chỗ mối quan hệ có thể thiết lập giữa nghệ thuật

và trị liệu. Mối quan hệ này tiềm ẩn sự xung đột giữa hai khuôn khổ. Đây không phải là

“đôi bạn đồng hành dễ chịu”. Trong nghệ thuật trị liệu mối quan hệ này đặc biệt tập

trung vào những thể loại nghệ thuật thị giác (sơn, vẽ, nặn tượng) và thường không bao

hàm việc sử dụng các loại hình nghệ thuật khác như nhạc, kịch hoặc nhảy múa.

Mặc dù giao tiếp của con người có nhiều dạng khác nhau, nhưng giao tiếp dùng ngôn từ

có xu hướng thống lĩnh hơn cả. Ngôn từ không chỉ là phương tiện chính để chúng ta

trao đổi thông tin về thế giới xung quanh, mà đối với hầu hết mọi người, ngôn từ còn là

phương tiện chính có sẵn để diễn tả và giao tiếp với thế giới đó. Thông qua ngôn từ, hầu

hết chúng ta đều cố gắng để định hình và gán ý nghĩa cho những trải nghiệm của mình.

Tuy nhiên, trải nghiệm của con người lại không thể chuyển tải hết qua ngôn từ. Một số

trải nghiệm và tâm trạng cảm xúc vượt ra ngoài khả năng diễn đạt bằng ngôn từ. Cảm

13

nhận về tình yêu và sự thù hận, về nỗi tuyệt vọng và các sang chấn tâm lý khó có thể

dùng ngôn từ để diễn đạt một cách chính xác. Điều này đặc biệt liên quan đến những

khó khăn có nguồn gốc thời thơ ấu. Tại điểm này, nghệ thuật trị liệu cung cấp một

phương thức để vượt qua những cảm nhận khó chịu như nản lòng, khủng hoảng và cô

độc, bằng cách chọn lựa một cách thức trung gian để giao tiếp và diễn đạt mà ở đó cảm

giác có thể được bày tỏ và được người khác hiểu.

Trong bối cảnh một mối quan hệ có tính nâng đỡ, thông qua việc tạo dựng những hình

ảnh do thân chủ sử dụng trí tưởng tượng của mình để thể hiện tư duy và cảm xúc, cùng

với sự lãnh nhận những thách thức, có thể giúp thân chủ trở nên trưởng thành hơn về

mặt cảm xúc, gia tăng lòng tự trọng, thống hợp các đặc trưng tâm lý và xã hội của bản

thân mình.

3. Liệu pháp khay cát (sandtray hoặc sandplay therapy)

Cảnh chơi trên khay cát (Nguồn: Trăng Non 2012)

14

Trò chơi trên cát là một loại công cụ sử dụng trong chơi trị liệu (play therapy) – một

hình thức tâm lý trị liệu cho trẻ nhỏ có vấn đề tâm lý, đôi khi có thể áp dụng cho cả trẻ

lớn, vị thành niên, cá nhân người lớn hoặc cả gia đình. Những hình mẫu thu nhỏ

(miniatures), tượng trưng cho những con người, thú vật, hoặc sự vật thông thường có

thật trong thực tế, sẽ được sử dụng để tạo nên những bối cảnh và nội dung chơi trên bề

mặt của cát. Tên thông dụng trong tiếng Anh chỉ cách làm này là sandplay (trò chơi trên

cát) hoặc sandtray therapy (liệu pháp chơi trên khay cát), hoặc như cách gọi tên của

Magaret Lowensfeld (tác giả của phương pháp) là World Technique (Kỹ thuật Thị hiện

Thế giới). Phép tiếp cận này được sử dụng trong một bối cảnh có tính nghi thức, có sự

chuyển tiếp hoặc như một phương pháp chữa lành các sang chấn, đau khổ về tinh thần.

Trong bài này để đơn giản chúng tôi sẽ gọi tên phương pháp là “Trò chơi trên cát” khi

gọi với ý nghĩa chung và “liệu pháp khay cát” khi phương pháp được áp dụng trong bối

cảnh trị liệu tâm lý.

Liệu pháp khay cát được phảt triển nên bởi bác sĩ Magaret Lowensfeld trong thập niên

1920 do bà đã cảm hứng khi đọc Floorgames (Trò chơi trên sàn nhà) của H.G. Wells

(1906), và được áp dụng tại Trung tâm Trị liệu Trò chơi tại Luân Đôn, Anh quốc. Wells

và các con trai của mình đã cùng chơi những trò chơi trên sàn nhà; họ chọn lấy đồ chơi

là những hình mẫu thu nhỏ để bày ra những cảnh chơi đầy kịch tính trên sàn nhà của

một căn phòng sau khi đã dọn sạch các vật dụng khác. Những trò chơi này đã cho phép

gia đình của Wells có được một phương tiện để khám phá đời sống và Wells cũng đã

khuyến cáo nhiều người lớn cùng với trẻ em nên tham gia vào một tiến trình chơi như

thế.

Lowensfeld, cũng giống như Freud, Klein và Winnicott, hiểu rằng trẻ em cần có những

loại công cụ khác không phải ngôn ngữ để có thể giao tiếp và có thể tạo nên ý nghĩa cho

những trải nghiệm của mình. Bà cũng nhận ra hoạt động chơi có khả năng giúp chuyển

biến và tổng hợp lại những thế giới quan còn hạn chế của trẻ. Bằng sự thông thái của

mình, bà đã không chỉ đưa thêm vào khay đựng những nội dung chơi mà còn cho cả cát

15

và nước vào để cho phép đứa trẻ giải bày ra những trạng thái sinh học và siêu hình rất

phức tạp. Bộ công cụ này nhằm giúp trẻ cảm nhận được các trải nghiệm của mình chứ

không giúp gia tăng khả năng diễn giải của nhà trị liệu về thực tại của đứa trẻ.

Liệu pháp khay cát là một hình thức tâm lý trị liệu có tính năng động và diễn đạt, giúp

cho thân chủ có thể giải bày thế giới nội tâm của họ thông qua các biểu tượng và hình

ảnh ẩn dụ. Liệu pháp khay cát theo trường phái nhân văn nhấn mạnh đến việc hình

thành một mối quan hệ trị liệu sâu sắc và có tính chấp nhận, cùng với một cách tiếp cận

xử lý nội dung trong khay cát chủ yếu dựa trên những trải nghiệm của thân chủ tại đây

và ngay lúc này (here-and-now).

Quan điểm nhân văn tin rằng khi con người tăng trưởng và phát triển ở lứa tuổi trẻ em

và vị thành niên, họ sẽ có thể bị mất đi mối liên lạc với chính con người mà mình đang

là. Họ có thể đã học cách chấp nhận một số cảm xúc nào đó và không chấp nhận những

cảm xúc khác. Trong tiến trình chối bỏ những gì thuộc về con người thật của mình, họ

có thể trở nên mất liên lạc với bản ngã thực sự của chính mình. Liệu pháp khay cát theo

trường phái nhân văn mang đến những trải nghiệm về sự tái kết nối của con người với

bản ngã chân thực của mình và giúp con người trở lại khám phá các ước mơ, hy vọng và

tầm nhìn của mình.

Giống như liệu pháp chơi (play therapy) ở trẻ nhỏ, liệu pháp khay cát mang lại một trải

nghiệm có tính chủ động, không lời, gián tiếp và mang tính biểu tượng. Giai đoạn tạo

cảnh (scene creation phase), trong đó thân chủ sắp đặt các hình mẫu thu nhỏ vào trong

khay cát, là một giai đoạn rất quan trọng và cũng là giai đoạn trung tâm đạt đến các trải

nghiệm từ khay cát. Trong liệu pháp khay cát theo trường phái nhân văn, giai đoạn xử

lý (processing phase) sẽ mang lại thêm những trải nghiệm vốn đã hình thành trong giai

đoạn tạo cảnh và cho phép suy xét lại trải nghiệm ấy. Thông qua giai đoạn xử lý, thân

chủ có thể nhìn lại bối cảnh trong khay và trải nghiệm về tác động của nó.

16

Tất cả các thành phần như khay cát, những hình mẫu thu nhỏ, không gian an toàn trong

khay cát, những lời nói sử dụng trong khi chơi trên cát và cả công việc trong giai đoạn

xử lý đều có tầm quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả trị liệu. Khay cát là một loại

công cụ sử dụng cho các hoạt động nghệ thuật mang tính giải bày, diễn đạt. Những gì

mà khay cát mang lại bao gồm:

1. Một môi trường được cấu trúc tốt qua đó những hình ảnh ẩn dụ của thân chủ sẽ

được tạo lập và được khám phá.

2. Một sự trình bày bằng cách hiển thị các vấn đề của thân chủ để quá trình làm

việc giữa nhà trị liệu và thân chủ có thể tập trung vào những chủ đề cốt lõi trong

suốt phiên trị liệu. Thân chủ có thể nhìn đi nhìn lại những biểu tượng trong

quang cảnh mà mình đã tạo dựng, ngay cả khi họ đã khám phá chúng và từ đó

thực hiện những sự hướng dẫn từ bên ngoài trở về vấn đề của họ.

3. Một trải nghiệm sâu sắc đối với thân chủ. Thân chủ thường ngày hay tránh né sự

trải nghiệm đầy đủ về những cảm xúc của mình. Khay cát có thể tạo điều kiện

cho thân chủ đi sâu khám phá bản ngã của họ.

4. Một phương tiện gián tiếp giúp thúc đẩy các hoạt động có tính trị liệu cho những

thân chủ bị bế tắc. Khi thân chủ xem xét các hình ảnh ẩn dụ của họ tạo nên, họ

có thể vượt qua các phản ứng phòng vệ và hóa giải các phản kháng.

Liệu pháp khay cát có thể được sử dụng cho trẻ em từ 8 tuổi trở lên, vị thành niên và

cả người lớn. Giống như liệu pháp chơi, thân chủ được trị liệu với khay cát cũng thể

hiện bản thân theo cách ẩn dụ. Mặc dù trong giai đoạn xử lý, nhà trị liệu sử dụng lời

nói nhiều hơn trong liệu pháp chơi dành cho trẻ nhỏ, việc sử dụng và xử lý hình ảnh ẩn

dụ cũng tương tự như trong liệu pháp chơi.

Nhà trị liệu theo trường phái nhân văn xem thân chủ là những người có khả năng tự

hiện thực hóa bản thân và vốn có sẵn khuynh hướng phát huy tiềm năng của mình. Họ

có thể tự nhận biết bản thân mình và chịu trách nhiệm về những lựa chọn của mình.

17

Con người là sinh vật có tính xã hội và có nhu cầu mạnh mẽ muốn kết nối với người

khác. Trong liệu pháp nhân văn, mối quan hệ trị liệu là nguồn lực nền tảng tạo nên

những thay đổi có tính xây dựng ở thân chủ (Cain, 2002). Mục đích cơ bản của mối

quan hệ trị liệu là tạo nên một bầu khí tối ưu thuận lợi cho sự tăng trưởng xảy ra.

Rogers đã viết: “Hầu hết trẻ em, nếu được sống trong một môi trường bình thường đáp

ứng phù hợp với những nhu cầu về cảm xúc, trí tuệ và xã hội của trẻ, đều có khuynh

hướng đạt đến sự lành mạnh để đáp ứng và thích nghi với đời sống” (Kirschenbaum,

1979).

Khi nhà trị liệu gặp thân chủ, dù là trẻ em hay người lớn, họ thậm chí còn cần nhiều

hơn một “môi trường bình thường phù hợp” như thế, bởi vì họ đã không thể có được

lòng tin của một trẻ nhỏ. Vì vậy, việc thiết lập một bầu khí tối ưu cho tăng trưởng là

điều tuyệt đối quan trọng. Mối quan hệ trị liệu là trung tâm của bầu khí này, và khả

năng tự nhận biết bản thân cùng với kỹ năng của nhà trị liệu có thể tạo nên bầu khí này

và làm chất xúc tác cho sự tăng trưởng nơi thân chủ.

Trong liệu pháp khay cát, nhà trị liệu tạo lập một không gian an toàn và có tính chấp

nhận để thân chủ có thể đối diện với các chủ đề cốt lõi của họ. Giống như trong liệu

pháp chơi, bản chất mang tính ẩn dụ của khay cát giúp tạo nên một khoảng cách an

toàn để thân chủ có thể giải bày những cảm xúc đau khổ của họ. Khay cát cho phép

thân chủ bộc lộ bản thân họ dưới hình thức những biểu tượng không lời, đồng thời tạo

nên một sản phẩm phóng chiếu có tính thị hiện những thực tại chủ quan trong nội tâm

cũng như trong các mối quan hệ của thân chủ.

18

Các nguyên tắc cơ bản khi làm việc với trẻ (V. Axline)

1. Phát triển một mối quan hệ thân thiện và nồng ấm với đứa trẻ.

2. Chấp nhận hiện trạng của đứa trẻ như nó đang thật sự biểu hiện.

3. Thiết lập một cảm giác lạc quan, cho phép trẻ tự do giải bày cảm xúc.

4. Nhận diện và đáp ứng lại với những cảm xúc của trẻ theo một cách thức sao

cho đứa trẻ tự hiểu được ý nghĩa của những hành vi của nó.

5. Trông đợi ở trẻ một khả năng tự giải quyết vấn đề và có trách nhiệm trong

việc lựa chọn quyết định cũng như thực hiện quyết định đó.

6. Tránh việc hướng dẫn hành vi và lời nói của trẻ; nhà trị liệu cần phải “đi theo”

sự hướng dẫn của đứa trẻ.

7. Trị liệu là một quá trình từ từ, không có gì phải vội vã.

8. Đặt ra một ít giới hạn cần thiết cho việc trị liệu và giúp trẻ có trách nhiệm

trong trị liệu.

19

CÁC KẾT QUẢ BAN ĐẦU

Về hình vẽ

Hình vẽ là một công cụ có chức năng “kép”, vừa để đánh giá, chẩn đoán, vừa để nhà trị

liệu có thể thực hiện những can thiệp, hỗ trợ tâm lý cho trẻ. Những hình vẽ của trẻ chứa

đựng các nội dung có tính ẩn dụ cao, tiết lộ nhiều điều về hoàn cảnh và nhân thân của

trẻ.

Trong công trình của Hà Thị Huyền (2006), có 9/10 trường hợp trẻ vẽ hình cây. Cách

thể hiện phổ biến là vẽ cây đơn độc hoặc cây có quả hoặc lá lìa cành. Phần lớn các trẻ

vẽ cây không có rễ và không có hoặc có ít cành nhánh. Chỉ có 1/9 trường hợp vẽ cây có

rễ và cành, nhưng cây này rất mỏng manh và lửng lơ như đang bay đi xa dần (Huyền,

2006). Thân cây từ gốc đến ngọn gần như bằng nhau, mà theo các nhà nghiên cứu cách

vẽ ấy nói lên việc trẻ khao khát tình thương; cây không có gốc rễ được giả định là có

liên hệ về mặt ý nghĩa với việc trẻ không biết rõ nguồn gốc xuất thân của mình; lá hay

quả lìa cành cũng nói lên việc trẻ xa lìa gia đình gốc của mình...

Nghiên cứu của Huyền cũng nhận thấy, mặc dù với đối tượng là trẻ mồ côi hoặc bị gia

đình bỏ rơi, hầu hết trẻ đều thể hiện nội dung gia đình qua tranh vẽ. Thể hiện chính là

những thành viên trong gia đình, với những sinh hoạt bên trong một ngôi nhà. Một nửa

số trẻ (5/10) tái hiện lại nội dung cái chết của cha hoặc mẹ. Có 3/10 trẻ khi được yêu

cầu vẽ gia đình thì thể hiện cảnh sinh hoạt của một nhóm người (không phải gia đình).

Một số còn lại nhắc đến nội dung gia đình theo kiểu hình ảnh ẩn dụ (thông qua chuyện

về thú vật). Điều này cho thấy, chủ đề gia đình thường xuyên là chủ đề rất đáng quan

tâm của trẻ, dù qua hình vẽ trẻ đang nói về một gia đình tưởng tượng, mơ ước, hoặc trẻ

nói về những ký ức về gia đình trước đây, hoặc có khi chỉ nêu cách nhìn của trẻ về gia

đình thay thế đó chính là môi trường mái ấm mà trẻ đang cư ngụ.

20

Một số trẻ từ chối khi yêu cầu vẽ hình người (8/10), nhưng khi yêu cầu tiếp tục có 5 trẻ

vẽ hình người. Những hình vẽ người có thể dưới dạng mặt ma quái (1 trường hợp),

người không tay chân (1 trường hợp), hình vẽ người như hình cây có mặt người (1

trường hợp), 1 trường hợp vẽ hình người đầy đủ nhưng được quy là một người khác (trẻ

gọi là “chị” cùng sống trong mái ấm). Những kết quả này gợi ý về các kỷ niệm đau

buồn hoặc sang chấn có thể có liên quan đến con người và hình ảnh về con người.

Một số hình ảnh tự do của trẻ có những nội dung dị thường, siêu nhiên như ma quái,

Phật, thiên đường... (3 trường hợp); hoặc những cảnh tượng liên quan đến thiên tai như

núi lửa phun trào... (1 trường hợp). Những nội dung này có thể liên quan đến tâm trạng

lo âu, hoặc tâm trạng hoang mang trước các thực trạng đời sống. Tuy nhiên, trong

khuôn khổ nghiên cứu ban đầu năm 2006 chỉ giới hạn trong phạm vi có tính khảo sát

cách thể hiện cảm xúc của trẻ (chứ không thực hiện nghiên cứu ca và can thiệp tâm lý)

nên những diễn giải trên chỉ dừng lại ở mức độ giả thuyết chứ không đủ điều kiện kiểm

chứng thông qua hoàn cảnh sống thực tế của trẻ.

Trong nghiên cứu của Trần Thị Yến (2011), tranh vẽ cũng được thực hiện bởi một cặp

trẻ gái sinh đôi 12 tuổi. Trong tranh vẽ của cô em thì có những nội dung tương phản, đối

lập trên một tranh vẽ: Một nửa bên trái vẽ cảnh trẻ em vui chơi; nửa bên phải lại vẽ một

lọ đựng hoa bị nứt nẻ. Nội dung ấy như thể ẩn dụ cho một vật lẽ ra lành lặn để chứa

đựng và bảo vệ cho hoa (ẩn dụ cho gia đình với trẻ?) lại bị nứt và mất công năng chứa

đựng, bảo vệ cho hoa. Trong khi đó, cô chị vẽ một bức tranh với một nội dung tang

thương như sau: Một chiếc thuyền chở một gia đình 4 người bị cướp biển giết chết, một

người bị ném xuống biển, có cả một hộp sữa của trẻ em đang uống dở dang cũng bị rơi

và nổi trên mặt nước. Những hình vẽ như thế phần nào bộc lộ những cách thức mà trẻ

nhìn và hiểu thế giới xung quanh cũng như về chính đời sống của trẻ. Thay cho lời nói,

hình vẽ giúp trẻ kể cho chúng ta nghe những câu chuyện quan trọng.

21

Một trẻ trai 11 tuổi, có biểu hiện ương bướng, chống đối, câm lặng khi người lớn hỏi

chuyện cũng thể hiện một tranh vẽ một chuồng gà (Tiến, 2010). Gà mẹ ngủ quên để một

trong số những quả trứng rơi ra khỏi chuồng mà không hay biết. Trẻ sau đó đã kể tiếp

câu chuyện rằng gà trống thức dậy và đi tìm được quả trứng bị rơi. Vẽ xong trẻ nhanh

chóng dùng bút xóa hết những gì đã vẽ. Bé trai ấy đã phần nào biết được lai lịch của

mình một cách gián tiếp qua một phụ nữ mà trẻ biết là mẹ nuôi. Trong thực tế, cha mẹ

ruột của trẻ đã bỏ rơi trẻ khi trẻ mới chỉ khoảng 1 tuổi. Họ đến thuê phòng một một nhà

trọ, rồi bỏ con lại. Người phụ nữ chủ nhà trọ đã giữ trẻ nuôi một thời gian, nhưng sau đó

gửi trẻ vào mái ấm. Vào lúc trẻ vẽ hình quả trứng bị rơi khỏi chuồng, trẻ đang có biểu

hiện chống đối các giáo dục viên của mái ấm, có lúc đòi bỏ mái ấm đi tìm mẹ.

Trong can thiệp hỗ trợ tâm lý cho một trường hợp trẻ khiếm thị mồ côi sống trong mái

ấm (Phúc, 2012), phương pháp sử dụng hình vẽ đã được thay thế bằng việc sử dụng đất

nặn. Tác phẩm nghệ thuật được chuyển từ tranh vẽ dành cho trẻ “sáng” thành các vật

thể làm từ đất nặn để có thể được nặn và sờ chạm bởi trẻ khiếm thị. Trường hợp được

nghiên cứu là một trẻ nữ 14 tuổi, bị bỏ rơi từ nhỏ và được đưa rất xa từ miền Bắc vào

một mái ấm tại Tp.HCM. Khi sử dụng đất nặn, chủ đề “chiếc lá lìa cành” và “quả trái bị

dư thừa” được trẻ nói đến: Quả trái dư thừa, nó là cái quả cuối cùng trên cây, nhưng

đến một ngày chiếc lá rụng đi, cái quả này không thể chịu đựng nổi. Cô đơn chồng cô

đơn. Nó hy vọng có thể rơi xuống và vỡ tan cùng chiếc lá. Có lẽ đó là giải pháp tốt

nhất... – Trích lời của trẻ nói (Phúc, 2012).

Nói chung, thông qua sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật như tranh vẽ, nặn tượng, trẻ

mồ côi và trẻ bị bỏ rơi thường cố gắng thông tin cho nhà trị liệu về hoàn cảnh, nhân

thân của trẻ, hoặc thể hiện những nỗi lo sợ của trẻ về những hoàn cảnh ấy. Việc bộc lộ

như thế rất khó cho trẻ nếu phải diễn đạt thành lời nói. Chỉ thông qua những hình ảnh có

tính ẩn dụ và ở trong một môi trường có tính an toàn với sự thấu cảm, tôn trọng của nhà

trị liệu, trẻ mới có thể thoải mái hơn và tự do hơn trong việc bộc lộ. Tự thân việc bộc lộ

ấy với sự hiện diện của nhà trị liệu đã có tính chất chữa lành những đau thương và lo âu

của trẻ.

22

Tranh vẽ của một bé gái 8 tuổi về hai chị em

(Nguồn: Trần Thu Vân, 2013)

Chơi

Như đã nêu, các nội dung chơi của trẻ cũng hàm chứa những câu chuyện kể có tính ẩn

dụ. Một bé gái 6 tuổi trong làng trẻ mồ côi vào buổi chơi đầu tiên đã nhận lầm mấy viên

long não để ở gầm tủ là những trứng thằn lằn. Bé gái khăng khăng đòi đập vỡ những

“quả trứng thằn lằn” ấy là sẽ thấy những thằn lằn con trong đó (Thu Trúc, Hạnh Dân,

2013). Mặc dù sau khi đã đập vỡ những viên long não và thấy chẳng có gì bên trong

nhưng bé vẫn tiếp tục đập thêm những viên khác... Câu chuyện không được tiếp tục,

nhưng dường như chủ đề về “quả trứng” với “thằn lằn con bên trong” cũng gợi ý về

những mối bận tâm của trẻ đối với quá trình thai nghén và sinh nở chăng?

Song song với việc sử dụng đồ chơi để tạo cảnh, bé gái ấy cũng hay kể những câu

chuyện bịa. Trẻ kể về những người anh, người chị, về “hồi em còn nhỏ”, “em được bú

sữa bình”... Trẻ dường như cố gắng tưởng tượng và hình dung về giai đoạn còn nhỏ đầy

khó khăn của mình vì trong thực tế cả bố lẫn mẹ của trẻ lần lượt bị bệnh lao và mất

sớm. Lúc chỉ mới 2 tuổi, trẻ phải về sống với người cô út, rồi sau đó được nhà ngoại gửi

vào làng trẻ mồ côi.

23

Những buổi chơi sau đó của trẻ với 2 cô tâm lý phần nào giúp trẻ thoải mái hơn, tự

nhiên hơn trong biểu lộ và nói chuyện. Sau 5 buổi, trẻ bắt đầu nói chuyện thực tế hơn, ít

bịa chuyện và trong buổi thứ 5, trẻ vẽ một bức tranh có ngôi nhà với những đứa trẻ đang

vui chơi bên ngoài. Trẻ nói về cái chết của bố mẹ “ba em chết, rồi mẹ em cũng chết. Em

và H (em của trẻ) còn nhỏ lắm. H vào đây (làng trẻ mồ côi) trước em”. Trẻ nói như thể

đang chấp nhận dần thực tế đau buồn của trẻ và cũng buổi ấy, bé đề nghị được mang

bức tranh ngôi nhà mà mình đã vẽ đem về nhà ở của mình trong làng. Vào buổi sau

cùng, trẻ vẽ một bức tranh tối màu, bên trong cũng có hình một ngôi nhà mà trẻ gọi tên

là “nghĩa địa” nhưng không nói gì thêm. Và trẻ xin mang cả 2 bức tranh sau cùng ấy về

nhà ở của mình trong làng, với mong muốn được treo ảnh ở một chỗ riêng biệt để tưởng

nhớ bố mẹ của mình. Các cô tâm lý của nhóm Trăng Non hội ý với bà mẹ nuôi trẻ trong

làng cùng giúp trẻ thực hiện ý nguyện như một nghi thức “đưa tang” của trẻ đối với bố

mẹ của mình. Những trạng thái cảm xúc của trẻ được ghi nhận sau đó là khá tích cực.

Trẻ vui vẻ ôm tranh đi về nhà ở, khoe với mọi người và có vẻ rất tự hào về việc này.

Phòng chơi trị liệu do Trăng Non thiết lập tại Làng Trẻ SOS Gò Vấp

Trên đây chỉ là mô tả về việc sử dụng các công cụ chơi và tranh vẽ trên một trường hợp

minh họa. Nhiều cảnh chơi trong những trường hợp lâm sàng khác cũng rất phong phú,

24

nhưng trong phạm vi bài tham luận này chúng tôi khó thể kể hết. Một số hoạt cảnh chơi

ở các bé trai có nhiều phần thể hiện tính xung đột và bạo lực cao như xe húc nhau, thú

rượt đuổi hoặc ăn thịt nhau vv... Phần nào cũng nói lên sự yếu đuối và lo âu của trẻ.

Chơi trên khay cát

Minh họa trường hợp: (Mỵ, Phương, 2013) Một trẻ nữ 16 tuổi, trình bày cảnh chơi trên

khay cát với 4 khu vực khác nhau: Góc 1 gồm những con thú ăn cỏ hiền lành, đang đi

lại nhởn nhơ; góc 2 với những con thú dữ như sư tử và báo đang rình rập những thú

hiền; góc 3 là hồ nước có tôm cá và hà mã bên dưới nhờ có nước che chắn nên khá an

toàn và góc 4 có những con rắn len lỏi dưới những tảng đá và một con khỉ đang ngồi

quan sát. Con khỉ dường như biết rõ mọi chuyện đang diễn ra trước mắt, nó có thể thấy

thú dữ khi nào sẽ ăn thịt những con thú hiền, dù những con này chẳng hề hay biết nguy

hiểm đang chờ đợi mình. Lẫn trong khung cảnh chung ấy là một cặp chim (một lớn, một

nhỏ) đang đi tìm chỗ trú ẩn.

Nhiều chủ đề được nêu ra cùng lúc trong cảnh chơi trên khay cát, trong đó có những

chủ đề mang tính đối lập nhau như: mối hiểm nguy (thú dữ rình rập) và sự an toàn (lặn

sâu trong nước), sự vô tư (thú hiền) và trí thông minh (con khỉ), không biết hiện trạng

(thú hiền) và biết rõ hiện trạng (con khỉ), sự thong thả của bầy thú ăn cỏ đi kèm với sự

tập trung chú ý của thú ăn thịt và chủ ý đi tìm nơi an toàn của cặp chim... Các mặt mâu

thuẫn cũng thể hiện trong giải pháp: con khỉ không định báo cho thú hiền biết rằng

chúng đang nguy hiểm, và giả sử những thú ấy chạy thoát khỏi sự săn đuổi của sư tử thì

đến lượt các sư tử con sẽ bị đói...

Các cô tâm lý của nhóm Trăng Non luôn giữ thái độ trân trọng và cùng đồng hành với

trẻ, cùng trao đổi với trẻ về các chủ đề được nêu lên trong cảnh chơi. Sự nhận biết các

chi tiết, nội dung trong từng phần của cảnh diễn là rất quan trọng để trẻ có thể thống

25

hợp dần dần các chủ đề mà trẻ đã ngoại hiện ra. Sau đó, chính trẻ đã đưa ra một giải

pháp: Con khỉ đã quyết định thông báo cho những thú hiền biết chúng đang nguy hiểm.

Những nội dung mang tính ẩn dụ này tạo điều kiện cho trẻ thể hiện các chủ đề mà trẻ

quan tâm theo một cách thức khá an toàn mà trẻ khó có thể mô tả thành lời để kể trực

tiếp những gì đang xảy ra trong thực tế cuộc sống. Ở tuổi 16, bé gái ấy bắt đầu ý thức

được thực tế cuộc sống của mình, nhân thân của mình, nhận ra những mối bận tâm và cả

những lo âu của mình. Nhưng đồng thời, trẻ cũng có thể bắt đầu có được sự tinh ý,

thông thái (ẩn dụ con khỉ) và có thể thông qua diễn cảnh và đối thoại mà trẻ dần dần có

được những quyết định của riêng mình (con khỉ quyết định thông báo nguy hiểm). Chủ

đề lo âu có lẽ được nhắc đến nhiều nhất trong một cảnh chơi như thế. Và khi trẻ cùng

làm việc với các cô tâm lý, trẻ cũng cảm nhận được sự giới hạn của các khả năng cũng

như tính bất toàn của các giải pháp: Nếu các thú hiền thoát nguy thì các thú con trong

bầy sư tử cũng sẽ bị đói – Có lẽ đó cũng là quy luật chung trong cuộc sống!

Việc trao đổi với trẻ chỉ tập trung trong các chủ đề của cảnh chơi. Phương pháp sử dụng

khay cát (cũng giống như tranh vẽ hoặc chơi trị liệu) không nhấn mạnh đến việc diễn

giải ý nghĩa hoặc liên hệ những gì ngụ ý trong khay cát với những sự việc đang diễn ra

trong thực tế đời sống của trẻ, nhằm tránh khơi dậy những đau khổ đã có nơi trẻ. Chính

thông qua cách làm việc trên những hình ảnh có tính ẩn dụ mà nhà trị liệu có thể trao

đổi với trẻ về những điều trẻ thực sự quan tâm mà trẻ vẫn cảm thấy an toàn để thể hiện

và được hiểu.

Trong khi làm việc với trẻ với công cụ khay cát, điều quan trọng là nhà tâm lý phải

nhận ra các chủ đề được nêu ra trong cảnh chơi. Trong cảnh chơi của bé gái 16 tuổi trên

đây, trẻ đã bộc lộ chủ đề về nỗi lo âu với cuộc đời, các mối nguy đang rình rập, sự tìm

kiếm nơi chốn an toàn, sự sống và cái chết, khả năng tồn tại và qua đó trẻ cũng bộc lộ

những mâu thuẫn, xung đột trong suy nghĩ và cảm nhận của trẻ. Cũng trong khi đối

thoại với trẻ về các chủ đề như vậy, nhà tâm lý cũng giúp trẻ nhận ra các giá trị nào

26

đang được xem xét, những giải pháp nào là có tính khả thi và những quyết định sẽ được

thực hiện như thế nào. Nguyên tắc chung cho các đối thoại như thế vẫn là tính chất

“không hướng dẫn” và chủ đề vẫn nằm trong khuôn khổ cảnh chơi với những hình ảnh

ẩn dụ do trẻ tạo dựng.

KẾT LUẬN

Trong khuôn khổ những giới hạn của điều kiện làm việc và hoàn cảnh nghiên cứu,

chúng tôi chỉ có thể nêu ra ở đây một số những kết luận sơ bộ mà bước đầu chúng tôi có

thể rút ra được từ những kết quả quan sát vẫn còn nhiều hạn chế của chúng tôi.

1. Tiếp cận làm việc với trẻ em sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội là một việc làm

khó khăn, phức tạp và đòi hỏi sự kiên nhẫn, tinh tế của người làm hỗ trợ tâm lý.

Bức tranh lâm sàng của từng trường hợp luôn luôn bị “pha lẫn màu sắc” bởi lịch

sử thực tế mà trẻ trải qua, cùng với những gì vẫn tiếp tục được “vẽ lên” sau khi

trẻ vào các cơ sở bảo trợ ấy. Những gì mà các cơ sở làm cho trẻ không thể hoàn

toàn giống với chức năng của một gia đình tự nhiên, do vậy khó có thể tách bạch

các vấn đề nào là do từ hoàn cảnh của riêng trẻ và vấn đề nào là chuyện phát sinh

từ trong môi trường sống của các cơ sở nuôi trẻ. Điều khó khăn này luôn phải

được xem xét đến khi phân tích các sản phẩm chơi và sáng tạo nghệ thuật của trẻ.

2. Các cán bộ tâm lý phải làm việc trong các môi trường phối hợp liên ngành, liên

bộ phận, do vậy cần mất rất nhiều thời gian để tiếp cận và làm việc với một

trường hợp trẻ em sống trong các cơ sở ấy. Cứ mỗi giờ dành cho làm việc riêng

với đứa trẻ thì cán bộ tâm lý Trăng Non cần đến khoảng 5-6 giờ làm việc với các

nhân viên khác trong cơ sở, và có trường hợp phải làm việc với thân nhân của trẻ

nếu có thể còn liên hệ được với họ.

27

3. Liệu pháp chơi hoặc sáng tạo nghệ thuật chỉ là một phần trong một chuỗi các

biện pháp can thiệp, hỗ trợ tâm lý cho trẻ. Chúng không thể thay thế cho những

việc làm khác của các cơ sở trong việc cung cấp nơi ăn, chốn ở an toàn cho trẻ,

cung cấp các điều kiện giáo dục, học tập cho trẻ và cũng không thể thay thế cho

các công tác hỗ trợ khác bao gồm cả việc giúp trẻ duy trì các mối liên hệ với gia

đình gốc của mình và đôi khi các nhân viên làm việc trong những cơ sở bảo trợ

ấy cũng cần được hỗ trợ và nâng đỡ tinh thần.

4. Tuy vậy, qua quá trình làm việc cụ thể trên các trường hợp, chúng tôi vẫn thu

nhận được kết quả rất đáng khích lệ từ việc việc sử dụng chơi và sáng tạo nghệ

thuật để hỗ trợ tâm lý cho trẻ. Trẻ có thể trở nên sẵn lòng đối thoại, tham gia toàn

tâm toàn ý với việc chơi và sáng tạo nghệ thuật, và thay đổi từng bước nhỏ về

thái độ, hành vi khi sống và tham gia các sinh hoạt trong cơ sở nuôi trẻ.

5. Việc phân tích các tranh vẽ và cảnh chơi của trẻ đã góp phần cho các cán bộ tâm

lý cùng với nhân viên của cơ sở bảo trợ hiểu biết hơn về tâm lý của trẻ, và nhiều

trẻ tham gia hoạt động chơi và sáng tạo nghệ thuật cũng đã biểu lộ sự cải thiện về

mặt tâm trạng, cảm xúc cũng như các hành vi ứng xử và những mối quan hệ của

trẻ với người xung quanh.

6. Một điều vô cùng quan trọng mà chúng tôi đạt được khi triển khai công việc

nghiên cứu này đó là đã từng bước xây dựng được một mô hình kết hợp làm việc

giữa một nhóm chuyên viên làm việc về tâm lý trị liệu trẻ em (Trăng Non) với

những cơ sở bảo trợ dành cho trẻ mồ côi và trẻ bị bỏ rơi (các mái ấm, làng mồ

côi...). Đây cũng là một mô hình đưa các dịch vụ hỗ trợ tâm lý chuyên nghiệp

đến với các đối tượng trẻ em thiệt thòi, nhận chịu hoàn cảnh sống có nguy cơ cao

và dễ bị tổn thương.

28

PHƢƠNG HƢỚNG HOẠT ĐỘNG SẮP TỚI

Chúng tôi đang chuẩn bị xây dựng và hoàn thiện tiếp tục mô hình hợp tác giữa Trăng

Non và các cơ sở bảo trợ xã hội dành cho trẻ em thiệt thòi, để nâng cao dần chất lượng

làm việc của mình và làm sao để mô hình này có tính khả thi hơn trong thời gian lâu

dài.

Chúng tôi cũng tiếp tục rút kinh nghiệm từ những kết quả ban đầu khi ứng dụng các liệu

pháp chơi và sáng tạo nghệ thuật trong hỗ trợ tâm lý trẻ dễ tổn thương nói riêng và

những trẻ em có vấn đề khó khăn tâm lý nói chung. Những nghiên cứu về sau, nếu có

đủ điều kiện, sẽ được thực hiện sâu hơn, liên tục hơn, thời gian lâu hơn để góp phần

phát triển chung cho ngành tâm lý trị liệu trẻ em còn non trẻ tại Việt Nam.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

1. Những nghiên cứu tượng tự trong tương lai rất cần được hỗ trợ về kinh phí. Tính

cho đến nay, hầu hết những công việc mà Trăng Non thực hiện trên đây đều do

bản thân chi hội và các cá nhân tham gia đóng góp, cả về công sức lẫn vật liệu và

tài chính.

2. Những mô hình phối hợp làm việc giữa một đơn vị làm chuyên môn tâm lý như

Trăng Non và các cơ sở bảo trợ xã hội cần được nghiêm túc đánh giá, chuẩn hóa

và chính thức hóa để có thể nghiệm thu và nhân rộng.

3. Các loại liệu pháp chơi và sáng tạo nghệ thuật cần được học tập, nghiên cứu và

ứng dụng trong thực tế làm việc hỗ trợ tâm lý cho trẻ em. Chi hội Trăng Non sẵn

lòng cung cấp thông tin và chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực làm việc này.

29

LỜI KẾT

Chúng tôi chân thành cảm ơn Hội Khoa học tâm lý – Giáo dục Tp. Hồ Chí Minh đã tạo

mọi điều kiện cho chi hội Trăng Non hoạt động chuyên môn trong thời gian qua.

Chúng tôi chân thành cảm ơn các thành viên và cộng tác viên của Trăng Non đã góp

công sức vào quá trình làm việc và nghiên cứu về các liệu pháp tâm lý dành cho trẻ em.

Chân thành cảm ơn các cơ sở mái ấm, nhà mồ côi đã giúp chúng tôi thực hiện nghiên

cứu. Thiếu sự hợp tác và giúp sức ấy, chúng tôi không thể hoàn thành những công việc

nghiên cứu này.

Tri ân những trẻ em thiệt thòi, những trẻ em bất hạnh sống trong các cơ sở mái ấm và

làng mồ côi. Những cuộc đời không may nhưng đã để lại cho người khác những bài học

về nghị lực và sức phấn đấu.

Cảm ơn quý đồng nghiệp cùng bạn hữu, những người đã hỗ trợ tinh thần cho Trăng Non

làm việc suốt thời gian qua.

۩