19
CLB TRĂNG NON, THÁNG 10-2015 TÀI LIỆU THAM KHẢO LIỆU PHÁP KHAY CÁT (SANDTRAY THERAPY) BS NGUYỄN MINH TIẾN Câu lạc bộ Tâm lý Trị liệu TRĂNG NON – thuộc Hội KH Tâm lý Giáo dục Tp.HCM (Nguồn: CLB Trăng Non) LƯU HÀNH NỘI BỘ

Liệu pháp khay cát

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Liệu pháp khay cát

CLB TRĂNG NON, THÁNG 10-2015

TÀI LIỆU THAM KHẢO

LIỆU PHÁP KHAY CÁT

(SANDTRAY THERAPY)

BS NGUYỄN MINH TIẾN

Câu lạc bộ Tâm lý Trị liệu TRĂNG NON – thuộc Hội KH Tâm lý Giáo dục Tp.HCM

(Nguồn: CLB Trăng Non)

LƯU HÀNH NỘI BỘ

Page 2: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

1

Từ lâu, các phương pháp sử dụng chơi (play) và sáng tạo nghệ thuật (arts) đã được biết đến

như những công cụ được ứng dụng vào việc thực hành tâm lý liệu pháp ở trẻ em và vị thành

niên. Trong số các loại hình chơi và sáng tạo nghệ thuật ấy, có một loại công cụ đặc biệt mà

từ khá lâu cũng đã được các nhà tâm lý trị liệu trên thế giới đưa vào thực hành, đó là khay

cát (sand tray), một loại công cụ vừa có tính đa dạng về mặt thể hiện vừa tạo nên một bức

tranh sinh động mang tính ẩn dụ mà qua đó nhà trị liệu và thân chủ có thể thực hiện những

tương tác có tính trị liệu.

Về mặt ứng dụng, người ta nhận thấy khay cát có thể được áp dụng ở cả trẻ em, vị thành

niên lẫn cả những thân chủ người lớn. Tại phòng trị liệu của CLB Trăng Non, chúng tôi bắt

đầu đưa công cụ khay cát vào thực hành lâm sàng trong hơn 2 năm qua, bắt đầu từ việc

thực hành trải nghiệm qua hoạt động trên khay cát bởi những sinh viên và cử nhân tâm lý,

sau đó dần dần áp dụng trên những thân chủ trẻ em và người lớn. Khay cát cũng được sử

dụng trong đào tạo, huấn luyện và cả trong một số buổi giám sát. Trong bài viết này, chúng

tôi sẽ trình bày một số cơ sở lý luận có tính nền tảng của liệu pháp sử dụng khay cát, cách

thức thực hiện liệu pháp trong thực tế và minh họa một số các trường hợp lâm sàng để có

thể chia sẻ một số kinh nghiệm cùng những kết quả sơ khởi trong việc thực hành lâm sàng

của chúng tôi.

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LIỆU PHÁP KHAY CÁT THEO QUAN ĐIỂM CỦA TRƯỜNG PHÁI

NHÂN VĂN (HUMANISTIC SANDTRAY THERAPY)

Trò chơi trên cát là một loại công cụ sử dụng trong chơi trị liệu (play therapy) – một hình

thức tâm lý trị liệu cho trẻ nhỏ có vấn đề tâm lý, đôi khi có thể áp dụng cho cả trẻ lớn, vị

thành niên, cá nhân người lớn hoặc cả gia đình. Những hình mẫu thu nhỏ (miniatures),

tượng trưng cho những con người, thú vật, hoặc sự vật thông thường có thật trong thực

tế, sẽ được sử dụng để tạo nên những bối cảnh và nội dung chơi trên bề mặt của cát. Tên

thông dụng trong tiếng Anh chỉ cách làm này là sandplay (trò chơi trên cát) hoặc sandtray

therapy (liệu pháp chơi trên khay cát), hoặc như cách gọi tên của Magaret Lowensfeld

(tác giả của phương pháp) là World Technique (Kỹ thuật Thị hiện Thế giới). Phép tiếp cận

này được sử dụng trong một bối cảnh có tính nghi thức, có sự chuyển tiếp hoặc như một

phương pháp chữa lành các sang chấn, đau khổ về tinh thần. Trong bài này để đơn giản

Page 3: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

2

chúng tôi sẽ gọi tên phương pháp là “Trò chơi trên cát” khi gọi với ý nghĩa chung và “liệu

pháp khay cát” khi phương pháp được áp dụng trong bối cảnh trị liệu tâm lý.

Liệu pháp khay cát được phát triển nên bởi bác sĩ Magaret Lowensfeld trong thập niên

1920 do bà đã cảm hứng khi đọc Floorgames (Trò chơi trên sàn nhà) của H.G. Wells

(1906), và được áp dụng tại Trung tâm Trị liệu Trò chơi tại Luân Đôn, Anh quốc. Wells và

các con trai của mình đã cùng chơi những trò chơi trên sàn nhà; họ chọn lấy đồ chơi là

những hình mẫu thu nhỏ để bày ra những cảnh chơi đầy kịch tính trên sàn nhà của một

căn phòng sau khi đã dọn sạch các vật dụng khác. Những trò chơi này đã cho phép gia

đình của Wells có được một phương tiện để khám phá các chủ đề trong cuộc sống. Và

Wells cũng đã khuyến cáo mọi người cùng với trẻ em nên tham gia vào một tiến trình

chơi như thế.

Lowensfeld, cũng giống như Freud, Klein và Winnicott, hiểu rằng trẻ em cần có những

loại công cụ khác không phải ngôn ngữ để có thể giao tiếp và có thể tạo nên ý nghĩa cho

những trải nghiệm của mình. Bà cũng nhận ra hoạt động chơi có khả năng giúp chuyển

biến và tổng hợp lại những thế giới quan còn hạn chế của trẻ. Bằng sự thông thái của

mình, bà đã không chỉ đưa thêm vào khay đựng những nội dung chơi mà còn cho cả cát và

nước vào để cho phép đứa trẻ giải bày ra những trạng thái sinh học và siêu hình rất phức

tạp. Bộ công cụ này nhằm giúp trẻ cảm nhận được các trải nghiệm của mình chứ không

giúp gia tăng khả năng diễn giải của nhà trị liệu về thực tại của đứa trẻ.

Những thân chủ trẻ con của Lowensfeld đã sử dụng các vật liệu chơi này một cách hết sức

nhiệt tình. Bộ công cụ cũng có những tính chất rất hấp dẫn, đa năng và đa chiều kích. Và

đặc biệt là nó không cần đến bất cứ kỹ năng đặc biệt nào. Thật vậy đã có một đứa trẻ gọi

đó là “Cả thế giới để vui chơi” – điều này khiến bà đôi khi gọi đó là “Trò chơi Thế giới”

(Worldplay; hay tiếng Đức là Weltspiel), đó cũng là tiền thân cho các tên gọi World

Apparatus hoặc Lowensfeld World Technique về sau.

Nhiều thập niên trôi qua kể từ ngày Lowensfeld đưa kỹ thuật làm việc này vào Trung tâm

trị liệu của bà, các giáo viên, những nhà tư vấn và nhà nghiên cứu thuộc nhiều trường

phái lý thuyết khác nhau đã cung cấp bộ công cụ này cho những đối tượng mà họ làm

Page 4: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

3

việc. Theo thời gian, trò chơi trên cát đã được sử dụng để giúp con người kết nối và trở

nên quan tâm hơn đến thực tại cá nhân và liên cá nhân trong đời sống con người. Những

nhà thực hành đã sử dụng nó để gia tăng khả năng của ý thức, khả năng tự bình phục,

giảng dạy, học tập, sáng tạo, giao tiếp và những mối quan hệ lành mạnh giữa con người

với nhau.

Do bởi khay cát là công cụ có tính chất rất hữu hiệu và thú vị, nhiều tác giả đã phát kiến

nên những tên gọi riêng cho phương pháp của mình nhằm mô tả những cách thức tiếp

cận cuộc chơi trên khay cát; mỗi cách gọi tên thể hiện cách thức thực hiện cũng như quan

điểm riêng của từng tác giả về những tiến trình xảy ra trong khay cát.

Liệu pháp khay cát nay đã vươn xa ra khỏi phạm vi tham vấn và trị liệu tâm lý; nó được

áp dụng trong giáo dục, trong những hành trình tìm kiếm về mặt tinh thần, trong công

việc, cũng như bất cứ hoàn cảnh nào mà những người có nguồn gốc xuất thân và văn hóa

khác nhau muốn hiểu biết lẫn nhau trong thâm sâu con người của mình.

Cách gọi tên phương pháp cũng là cách thức đặc biệt gợi lên những câu chuyện kể hoặc

những thực tại có tính chuyên biệt. Trong một nghiên cứu về trò chơi trên cát tại Úc, một

đứa bé trai 12 tuổi đã gọi tên phương pháp của Lowensfeld là “bức tranh cát” (sand

picture) hoặc “tranh vẽ các ý nghĩ” (thinking picture). Đứa trẻ nói: “Cháu đã nói rất nhiều

về mọi việc đã xảy ra, nhưng ở đây cháu im lặng, cháu bận suy nghĩ. Suy nghĩ là một người

anh em khó tính. Không ai có thể nghe được bạn, nhưng ở đây, bức tranh trên cát là một

thứ suy nghĩ, và người ta có thể nghe thấy nó lên tiếng”.

Liệu pháp khay cát là một hình thức tâm lý trị liệu có tính năng động và diễn đạt (dynamic

and expressive), giúp cho thân chủ có thể giải bày thế giới nội tâm của họ thông qua các

biểu tượng và hình ảnh ẩn dụ. Liệu pháp khay cát theo trường phái nhân văn nhấn mạnh

đến việc hình thành một mối quan hệ trị liệu sâu sắc và có tính chấp nhận, cùng với một

cách tiếp cận xử lý nội dung trong khay cát chủ yếu dựa trên những trải nghiệm của thân

chủ tại đây và ngay lúc này (here-and-now).

Page 5: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

4

Quan điểm nhân văn tin rằng khi con người tăng trưởng và phát triển ở lứa tuổi trẻ em và

vị thành niên, họ sẽ có thể bị mất đi mối liên lạc với chính con người mà mình đang là. Họ

có thể đã học cách chấp nhận một số cảm xúc nào đó và không chấp nhận những cảm xúc

khác. Trong tiến trình chối bỏ những gì thuộc về con người thật của mình, họ có thể trở

nên mất liên lạc với bản ngã thực sự của chính mình. Liệu pháp khay cát theo trường phái

nhân văn mang đến những trải nghiệm về sự tái kết nối của con người với bản ngã chân

thực của mình và giúp con người trở lại khám phá các ước mơ, hy vọng và tầm nhìn của

mình.

Giống như liệu pháp chơi (play therapy) ở trẻ nhỏ, liệu pháp khay cát mang lại một trải

nghiệm có tính chủ động, không lời, gián tiếp và mang tính biểu tượng. Giai đoạn tạo cảnh

(scene creation phase), trong đó thân chủ sắp đặt các hình mẫu thu nhỏ vào trong khay

cát, là một giai đoạn rất quan trọng và cũng là giai đoạn trung tâm đạt đến các trải nghiệm

từ khay cát. Trong liệu pháp khay cát theo trường phái nhân văn, giai đoạn xử lý

(processing phase) sẽ mang lại thêm những trải nghiệm vốn đã hình thành trong giai đoạn

tạo cảnh và cho phép suy xét lại trải nghiệm ấy. Thông qua giai đoạn xử lý, thân chủ có thể

nhìn lại bối cảnh trong khay và trải nghiệm về tác động của nó.

Tất cả các thành phần như khay cát, những hình mẫu thu nhỏ, không gian an toàn trong

khay cát, những lời nói sử dụng trong khi chơi trên cát và cả công việc trong giai đoạn xử

lý đều có tầm quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả trị liệu.

Liệu pháp khay cát có thể được sử dụng cho trẻ em từ 8 tuổi trở lên, vị thành niên và cả

người lớn. Giống như liệu pháp chơi, thân chủ được trị liệu với khay cát cũng thể hiện bản

thân theo cách ẩn dụ. Mặc dù trong giai đoạn xử lý, nhà trị liệu sử dụng lời nói nhiều hơn

trong liệu pháp chơi dành cho trẻ nhỏ, việc sử dụng và xử lý hình ảnh ẩn dụ cũng tương

tự như trong liệu pháp chơi.

Nhà trị liệu trường phái nhân văn xem thân chủ là những người có khả năng tự hiện thực

hóa bản thân và vốn có sẵn khuynh hướng phát huy tiềm năng của mình. Họ có thể tự

nhận biết bản thân mình và chịu trách nhiệm về những lựa chọn của mình. Con người là

sinh vật có tính xã hội và có nhu cầu mạnh mẽ muốn kết nối với người khác. Trong liệu

Page 6: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

5

pháp nhân văn, mối quan hệ trị liệu là nguồn lực nền tảng tạo nên những thay đổi có tính

xây dựng ở thân chủ (Cain, 2002). Mục đích cơ bản của mối quan hệ trị liệu là tạo nên một

bầu khí tối ưu thuận lợi cho sự tăng trưởng xảy ra. Rogers đã viết: “Hầu hết trẻ em, nếu

được sống trong một môi trường bình thường đáp ứng phù hợp với những nhu cầu về

cảm xúc, trí tuệ và xã hội của trẻ, đều có khuynh hướng đạt đến sự lành mạnh để đáp ứng

và thích nghi với đời sống” (Kirschenbaum, 1979).

Khi nhà trị liệu gặp thân chủ, dù là trẻ em hay người lớn, họ thậm chí còn cần nhiều hơn

một “môi trường bình thường phù hợp” như thế, bởi vì họ đã không thể có được lòng tin

của một trẻ nhỏ. Vì vậy, việc thiết lập một bầu khí tối ưu cho tăng trưởng là điều tuyệt đối

quan trọng. Mối quan hệ trị liệu là trung tâm của bầu khí này, và khả năng tự nhận biết

bản thân cùng với kỹ năng của nhà trị liệu có thể tạo nên bầu khí này và làm chất xúc tác

cho sự tăng trưởng nơi thân chủ.

Trong liệu pháp khay cát, nhà trị liệu tạo lập một không gian an toàn và có tính chấp nhận

để thân chủ có thể đối diện với các chủ đề cốt lõi của họ. Giống như trong liệu pháp chơi,

bản chất mang tính ẩn dụ của khay cát giúp tạo nên một khoảng cách an toàn để thân chủ

có thể giải bày những cảm xúc đau khổ của họ. Khay cát cho phép thân chủ bộc lộ bản

thân họ dưới hình thức những biểu tượng không lời, đồng thời tạo nên một sản phẩm

phóng chiếu có tính thị hiện những thực tại chủ quan trong nội tâm cũng như trong các

mối quan hệ của thân chủ.

CHUẨN BỊ PHƯƠNG TIỆN VÀ CÁC BƯỚC THỰC HIỆN

Đối tượng

Như đã nêu trên đối tượng làm việc với khay cát là những trẻ em từ 8 tuổi trở lên, vị thành

niên và cả người lớn. Cần phân biệt việc sử dụng khay cát để tạo cảnh có tính ẩn dụ với việc

sử dụng cát như một loại vật liệu vô định hình trong các hoạt động chơi giúp phát triển tâm

vận động ở trẻ em. Các đối tượng của liệu pháp khay cát là những trẻ em và người lớn

không có vấn đề thiểu năng trí tuệ hoặc rối loạn phát triển tâm vận động, mà chủ yếu là

những thân chủ có trí năng phát triển tốt nhưng đang trải qua các sang chấn, đau khổ hoặc

Page 7: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

6

bế tắc trong đời sống tâm lý. Khay cát cũng có thể tạo khung cảnh để một người đi sâu vào

việc tìm hiểu và khám phá các trải nghiệm cảm xúc của bản thân. Trong thực tế lâm sàng,

chúng tôi đã sử dụng khay cát cho các trẻ em mồ côi sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội, trẻ

em trong gia đình có xung đột, trẻ gặp khó khăn trong học tập và những vị thành niên hoặc

người lớn có vấn đề khó khăn về cảm xúc. Tại Trăng Non, khay cát cũng được sử dụng như

một công cụ cho những người đang học tập và thực hành tâm lý trị liệu tự khám phá các trải

nghiệm của bản thân.

Phương tiện

Phương tiện chính là một khay đựng cát. Kích thước khay cát có thể lớn hay nhỏ tùy theo

mục đích sử dụng và tuổi của thân chủ, sao cho có thể đủ rộng để thân chủ có thể diễn đạt

các cảnh chơi. Khay cát có thể đặt trên nền nhà hoặc đặt trên bàn cao để thân chủ đứng

hoặc ngồi bên cạnh khay. Bên trong khay là cát sạch, có thể là cát khô hoặc có thể cho nước

vào để làm ướt cát, nhờ đó thân chủ có thể tạo hình cho địa thế của cát trong cảnh diễn.

Phòng chơi cũng phải có sẵn thật nhiều những mẫu vật thu nhỏ (miniatures) đại diện cho

thật nhiều những nhân vật, thú vật và sự vật hiện diện trong đời sống để thân chủ có thể sử

dụng bằng cách đưa vào bên trong khay cát để tạo cảnh. Các mẫu vật ấy có thể gồm:

Những hình người: lớn, nhỏ, già, trẻ, đàn ông, phụ nữ, có sắc phục và tư thế tượng

trưng cho nhiều loại nghề nghiệp hoặc kiểu người khác nhau như nông dân, binh

lính, y tá, bác sĩ, cảnh sát, học sinh... Thậm chí có cả những mẫu người trong phim

hoặc truyện như siêu nhân, robot, batman hoặc người tiền sử vv... để trẻ có thể

tưởng tượng

Những thú vật phổ biến: Nên sắp xếp và phân loại thành các thú hoang và thú nhà,

chim hoang và gia cầm, thú hiền và thú dữ, loài vật sống trên rừng, trên đồng hoặc

dưới nước, các loài thông dụng hiện có mặt trên đời lẫn các loài vật cổ đã tuyệt

chủng như khủng long, hoặc loài vật chỉ có trong truyền thuyết như rồng, quái vật...

Thậm chí có cả những con vật đã được nhân cách hóa hoặc con vật nổi tiếng từ phim,

truyện như vịt Donald, chuột Mickey... Nếu có thể, mỗi loài vật nên có những con

Page 8: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

7

kích thước lớn nhỏ khác nhau để khi cần thân chủ có thể diễn cảnh gia đình của loài

vật ấy.

(Nguồn: CLB Trăng Non)

Những sự vật, đồ vật: Cần những mẫu vật đại diện cho rất nhiều các đồ vật và sự vật

trên đời, từ những vật vô tri trong thiên nhiên như sỏi, đá, những hình tượng thực

vật: cây cỏ, bông hoa, cho đến những vật thể nhân tạo lớn nhỏ khác nhau như nhà

cửa, xe cộ, bàn ghế, xích đu, biển báo, đèn hiệu, vân vân và vân vân... Các mẫu vật

càng đa dạng thì khả năng diễn cảnh càng phong phú.

Mục đích và thời lượng làm việc

Chỉ sử dụng khay cát khi thân chủ đã có được lòng tin khá sâu sắc với nhà trị liệu. Không

thực hiện liệu pháp khi thân chủ vẫn còn lưỡng lự. Homeyer và Sweeney (1998) cho rằng

khay cát nên được sử dụng một cách có mục đích và có dự định. Nhà trị liệu nên trình bày

rõ những mục đích và thời lượng sử dụng khay cát trên từng thân chủ cụ thể. Hai tác giả

này đề nghị sử dụng khay cát như cách thức để thay đổi bước đi trong làm việc với thân

chủ, như một cách thức để tiếp thêm sức mạnh cho tiến trình trị liệu hoặc đưa việc trị liệu

Page 9: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

8

đến các tầng mức can thiệp sâu xa hơn. Khuyến cáo này cũng phù hợp với điều đã nêu ở

phần trên: khay cát có hiệu quả khi làm việc với những thân chủ bị bế tắc.

Các bước thực hiện

1. Giai đoạn tạo cảnh (scene creation phase)

Homeyer và Sweeney (1998) thường cho thân chủ một câu mào đầu trước khi bước vào

giai đoạn tạo cảnh như “Bạn hãy tạo một quang cảnh về đời sống của bạn như nó đang có

trong hiện tại. Bạn cũng có thể sử dụng những hình ảnh trong quá khứ cũng như tương lai

nhưng hãy trung thực với chính bạn về cuộc sống của bạn vào lúc này”.

Trong giai đoạn tạo cảnh, nhà trị liệu cần phải đặt mình trong hiện tại càng nhiều càng tốt

nhưng họ không nói gì đặc hiệu cả. Điều quan trọng đối với thân chủ là phải có được một

trải nghiệm bên trong về sự kết nối với các hình mẫu thu nhỏ và lựa chọn cái nào trong số

đó để tạo cảnh. Nhà trị liệu không làm gián đoạn tiến trình bên trong này nhưng cần phải

làm cho thân chủ biết rằng nhà trị liệu đang ở cùng thân chủ trong lúc họ trải nghiệm

những phút giây thực hiện việc tạo cảnh.

Điều thú vị là một số nhà trị liệu khay cát tin rằng tiến trình bình phục trong liệu pháp

khay cát chỉ xảy ra trong giai đoạn tạo cảnh. Vì thế, các nhà trị liệu này không đi qua giai

đoạn xử lý. Một số nhà trị liệu khác lại sử dụng những cảnh quan trên khay cát làm chủ đề

khởi điểm cho các tương tác bằng lời. Việc xử lý các nội dung trong khay cát bằng lời nói

có thể giúp khai triển và mở rộng những việc đang diễn biến trong nội tâm thân chủ mà

những việc này đã bắt đầu trong giai đoạn tạo cảnh.

Giai đoạn tạo cảnh sẽ giúp hình thành nên sắc thái cho quá trình thân chủ tự thăm dò và

khám phá bản thân khi họ nhìn vào những hình mẫu thu nhỏ và tìm thấy những mối liên

hệ với chúng. Một số thân chủ cảm thấy lạc lối khi tìm cách sắp xếp các hình mẫu thu nhỏ

đúng theo ý mình muốn. Nếu giai đoạn tạo cảnh được trải nghiệm một cách có ý nghĩa đối

với thân chủ, nếu thân chủ nhìn vào và suy nghĩ về những khía cạnh trong đời sống mà họ

thường không chú ý đến, khi đó giai đoạn xử lý đã bắt đầu bên trong nội tâm của họ. Việc

Page 10: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

9

chuyển sang giai đoạn xử lý bằng lời sẽ trở nên tự nhiên hơn rất nhiều khi thân chủ cho

phép bản thân họ trải nghiệm giai đoạn tạo cảnh.

Homeyer và Sweeney (1998) thường cho thân chủ một câu mào đầu trước khi bước vào

giai đoạn tạo cảnh như “Bạn hãy tạo một quang cảnh về đời sống của bạn như nó đang có

trong hiện tại. Bạn cũng có thể sử dụng những hình ảnh trong quá khứ cũng như tương lai

nhưng hãy trung thực với chính bạn về cuộc sống của bạn vào lúc này”.

Trong giai đoạn tạo cảnh, nhà trị liệu cần phải đặt mình trong hiện tại càng nhiều càng tốt

nhưng họ không nói gì đặc hiệu cả. Điều quan trọng đối với thân chủ là phải có được một

trải nghiệm bên trong về sự kết nối với các hình mẫu thu nhỏ và lựa chọn cái nào trong số

đó để tạo cảnh. Nhà trị liệu không làm gián đoạn tiến trình bên trong này nhưng cần phải

làm cho thân chủ biết rằng nhà trị liệu đang ở cùng thân chủ trong lúc họ trải nghiệm

những phút giây thực hiện việc tạo cảnh.

Điều thú vị là một số nhà trị liệu khay cát tin rằng tiến trình bình phục trong liệu pháp

khay cát chỉ xảy ra trong giai đoạn tạo cảnh. Vì thế, các nhà trị liệu này không đi qua giai

đoạn xử lý. Một số nhà trị liệu khác lại sử dụng những cảnh quan trên khay cát làm chủ đề

khởi điểm cho các tương tác bằng lời. Việc xử lý các nội dung trong khay cát bằng lời nói

có thể giúp khai triển và mở rộng những việc đang diễn biến trong nội tâm thân chủ mà

những việc này đã bắt đầu trong giai đoạn tạo cảnh.

Giai đoạn tạo cảnh sẽ giúp hình thành nên sắc thái cho quá trình thân chủ tự thăm dò và

khám phá bản thân khi họ nhìn vào những hình mẫu thu nhỏ và tìm thấy những mối liên

hệ với chúng. Một số thân chủ cảm thấy lạc lối khi tìm cách sắp xếp các hình mẫu thu nhỏ

đúng theo ý mình muốn. Nếu giai đoạn tạo cảnh được trải nghiệm một cách có ý nghĩa đối

với thân chủ, nếu thân chủ nhìn vào và suy nghĩ về những khía cạnh trong đời sống mà họ

thường không chú ý đến, khi đó giai đoạn xử lý đã bắt đầu bên trong nội tâm của họ. Việc

chuyển sang giai đoạn xử lý bằng lời sẽ trở nên tự nhiên hơn rất nhiều khi thân chủ cho

phép bản thân họ trải nghiệm giai đoạn tạo cảnh.

2. Giai đoạn xử lý (processing phase)

Page 11: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

10

Một cách điển hình, nhà trị liệu sẽ bắt đầu giai đoạn xử lý bằng cách nói với thân chủ:

“Hãy nói về quang cảnh mà bạn đã tạo nên”. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể bắt đầu khi

thân chủ cảm nhận được một điều gì đó ngay trong giai đoạn tạo cảnh. Nhà trị liệu có thể

nói: “Bạn trông có vẻ rất buồn. Bạn đang chú ý điều gì vào lúc này?” Khái niệm về việc

hiện diện cùng thân chủ trong từng khoảnh khắc là khái niệm trung tâm trong cách tiếp

cận nhân văn ở giai đoạn xử lý. Cách tiếp cận nhân văn tập trung vào việc khám phá chứ

không làm kỹ thuật diễn giải. Tiến trình khám phá là một trải nghiệm sâu sắc. Hầu hết

những gì nhà trị liệu thực hiện trong giai đoạn xử lý là tạo thuận lợi cho tiến trình khám

phá và hiểu biết bản thân của thân chủ. Theo luận điểm của Rogers, những đáp ứng có

tính trị liệu và có hiệu lực mạnh mẽ nhất là những đáp ứng nhằm giúp thân chủ vươn xa

hơn mức độ hiểu biết về bản thân mà họ có trước đó.

MINH HỌA TRƯỜNG HỢP

Trường hợp 1

L. là một cô gái 31 tuổi, chưa có gia đình và là giáo viên dạy tiếng Anh ở một trung tâm

ngoại ngữ. Cô mô tả đời sống của bản thân từ trước đến nay là khá thuận lợi, sinh ra trong

một gia đình khá giả, có một người em trai, và việc học tập suông sẻ. Cô đến Trăng Non tìm

kiếm sự giúp đỡ khi cảm thấy đời sống trống vắng, vô vị và gần đây thường tự hỏi sống để

làm gì mà bản thân cô cũng không biết phải làm gì nữa.

Vào buổi gặp đầu tiên, cô cho biết mình mới vừa nghỉ dạy tiếng Anh ở trung tâm vì cảm thấy

công việc không còn hứng thú nữa. Cô muốn dành một khoảng thời gian thư thả để đi đây đi

đó, có thể là du lịch hoặc đi theo các đoàn làm công việc thiện nguyện chẳng hạn. Cũng

trong buổi đầu tiên, cô cũng kể về chuyện tình cảm của mình. Cô có nhiều mối quan hệ với

các bạn trai mà cô gặp ở nhiều hoàn cảnh khác nhau. Trong đó có một người mà cô nói rằng

“quan hệ khá xa, vượt qua giới hạn tình bạn”. Nhưng cô không hiểu vì sao trong cả quá trình

thân quen đó, cô không hề nghĩ đến việc tiến đến xa hơn như hôn nhân chẳng hạn, rồi đến

một hôm nọ, cô cảm thấy e ngại, và cô quyết định lãng tránh dần chàng trai đó. Họ chia tay

cũng nhẹ nhàng và chẳng ai ràng buộc ai sau đó cả.

Page 12: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

11

Mặc dù được hỏi gợi mở, nhưng cô không kể nhiều về gia đình gốc của mình. Tôi chỉ biết cô

có một gia đình êm ả, nhưng với người thân thì cô rất ít khi trò chuyện. Từ lúc còn học cấp

ba, cô đã thích rời gia đình và sinh hoạt với bè bạn bên ngoài nhiều hơn. Khi ra trường, dù

độc thân nhưng cô sống trong một căn hộ riêng chứ không sống chung với bố mẹ. Với học

lực khá, cô tự tìm kiếm việc làm sau khi ra trường, và đến lúc nghỉ việc cô vẫn có đủ khả

năng tài chính để xoay trở trong lúc thu nhập đã ngưng.

Trong buổi làm việc đầu tiên, cô chỉ muốn nói nhiều, có vẻ không lưu tâm nghe những hồi

âm của tôi. Vài lần cô nêu ý kiến hơi ngờ vực những người làm tâm lý (!). Cô nói chỉ muốn

tìm người để chia sẻ những gì cô nghĩ chứ chưa cần tìm kiếm một giải pháp gì cụ thể vào lúc

này.

Sau một tuần, cô xin hẹn buổi gặp thứ hai. Cô kể rằng có một đoàn công tác từ thiện sắp đi

giúp đỡ người nghèo và cô dự định sẽ đi theo do lời mời của một người bạn trong đoàn. Cô

tự hỏi không biết có nên nhận lời không và liệu chuyến đi ấy có giúp cô nhận ra điều gì

không? Câu chuyện trong buổi thứ hai có lúc quay về với chủ đề những mối quan hệ tình

cảm cũ. Cô nhận ra rằng dường như cô e ngại tiến xa trong các mối quan hệ thân thiết, chỉ

có thể hiểu nhau đến chừng mực nào đó thôi chứ nếu tiến xa hơn thì cô không muốn. Nhiều

lần, cô tự nhận mình có ngoại hình không đẹp, mặc dù (theo thiển ý của riêng tôi) thực tế có

phần ngược lại. Cô nói thêm về dự định sẽ tham dự những lớp học thêm về nấu ăn hay cắm

hoa chẳng hạn. Và tôi có cảm giác như cô nói chỉ để nói chứ chưa thật sự quyết định gì cả.

Cả buổi 1 và buổi 2 đều diễn ra theo kiểu L. muốn nói và tôi thì chỉ cần ngồi nghe. Cuối buổi,

khi tôi hỏi về các ý định và kế hoạch sống của L. trong thời gian sắp tới, cô nói mình vẫn

chưa quyết định gì cả. Tôi đề nghị nếu L. cần nói chuyện thêm trong buổi thứ 3 thì chúng tôi

sẽ thực hành những trải nghiệm bằng khay cát. Tôi giới thiệu phương tiện và cách làm, L.

suy nghĩ một chút và nhận lời đồng ý về buổi gặp thứ 3 ấy.

Buổi thứ 3 diễn ra sau 2 tuần. L. cho biết cô đã có một chuyến đi với đoàn từ thiện trong vài

ngày. Cô có dịp nói chuyện, giao lưu với nhiều người, làm nhiều việc và đi nhiều nơi, nhưng

“cũng thấy bình thường, không biết mình như vậy là có vui hay không”. Tôi đã chuẩn bị sẵn

khay cát và các dụng cụ, nên đề nghị L. thử thể hiện và trải nghiệm.

Page 13: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

12

Trên khay cát, L. thể hiện cảnh về một khu nhà có vườn cây xung quanh với những con

người thân thiện. Tại đó có một cặp vợ chồng sinh sống yên lành, thư giãn với công việc

nuôi thú và chăm sóc cây cảnh. Khu nhà cách xa chốn thành thị một chút để có không gian

yên tĩnh, nhưng không quá xa như vùng nông thôn. Cặp vợ chồng thích sự thư nhàn, yên

tĩnh, nhưng vẫn cần một nơi có cuộc sống tiện nghi đầy đủ. L. nói rằng đây là cảnh tượng mà

cô vẫn thường tưởng tượng về tương lai của cô và có lần cô đã nói lên ý này với người bạn

trai mà cô đã chia tay. Tuy nhiên, đó chỉ là câu chuyện kể có tính tưởng tượng chứ không

thực sự là một mong muốn hoặc một kế hoạch thực tế giữa cô và người bạn trai ấy.

Quang cảnh trên khay cát: Bên trái là cảnh khu nhà vườn xa nơi đô thị với con người thân thiện và an nhàn - Bên phải vẫn là

cảnh trên nhưng có thêm một cô gái xuất hiện và một con đường mới được tạo để làm lối dẫn đến làng

(Nguồn: CLB Trăng Non)

Đặc điểm nổi bật được thấy trong cảnh diễn của L. trên khay cát đó là: cảnh diễn chỉ chiếm

một nửa bên của khay cát, nửa còn lại là phần cát để trống, mà ban đầu L. giải thích là

khoảng cách giữa khu nhà ở với chốn thành thị ồn ào. Tôi đặt cho cô một câu hỏi quan trọng

“Làm thế nào để có thể đến được khu nhà này?” L. suy nghĩ lưỡng lự một chút rồi hờ hững

đặt một vài thanh nhựa nhỏ lên cát “có thể có một con đường ở chỗ này”.

Tôi trình bày ý nghĩ của mình với L. “Làm sao để có thể đến được khu nhà này nếu không có

đường đi dẫn đến đó, cũng giống như làm thế nào để một ý tưởng về tương lai có thể đạt

đến nếu ta không có một kế hoạch để biến nó thành hiện thực”. Lần đầu tiên trong cả ba

buổi làm việc L. có vẻ im lặng và suy nghĩ nhiều. Một cách trình bày như thế thường ít khi

áp dụng khi làm việc với trẻ em và vị thành niên, vì các trao đổi chỉ nên thực hiện trong

phạm vi cảnh diễn có tính ẩn dụ hơn là có ngay những liên hệ giữa nội dung cảnh diễn với

Page 14: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

13

hoàn cảnh thực tế. Nhưng trong trường hợp của L., một người trưởng thành và không có

nhiều những sự kiện thực tế khó khăn hoặc đau buồn, thì một liên hệ kiểu như thế thực sự

lại giúp cho cuộc làm việc giữa tôi và L. có thể chuyển tiếp sang một khúc quanh. Cô bắt đầu

suy nghĩ và nói ra những cảm nhận mà cô đang thực sự cảm thấy, những nỗi lo ngại về các

mối quan hệ, về sự khó khăn trong giao tiếp với người thân, và sau cùng cô nói rằng cô sẽ

suy nghĩ kỹ về những công việc và kế hoạch sống trong tương lai sắp tới của mình.

Trường hợp 2

H. là một bé gái 8 tuổi, là con của một cặp vợ chồng vừa ly hôn một thời gian ngắn mới có

vài tháng. Bé sống với mẹ và được mẹ dẫn đến Trăng non yêu cầu giúp đỡ vì bé gần đây có

những biểu hiện lo lắng, buồn bã, hay khóc. Mẹ là một phụ nữ trí thức ngoài 30 tuổi, vẫn

còn đang trong giai đoạn buồn bã sau ly hôn. Cô đã đến gặp một chuyên viên tham vấn để

yêu cầu giúp đỡ về tâm lý của cá nhân cô, sau đó, do sự giới thiệu của chuyên viên này mà

cô đã dẫn bé H. đến gặp tôi để giúp đỡ tâm lý cho bé. Tôi hẹn gặp buổi đầu tiên chỉ làm việc

với bố mẹ với mục đích tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và rồi sẽ chuẩn bị cho cuộc gặp thứ 2 có

cả H. lẫn bố mẹ cùng đến.

Trong buổi đầu tiên, câu chuyện hôn nhân giữa bố mẹ được trình bày, nhưng sau đó người

mẹ chuyển trọng tâm thông tin sang những nỗi bận tâm về bé H. Mẹ cho biết nhiều ngày

gần đây bé hay khóc, nói với mẹ về những cảm giác sợ hãi và chỉ yên tâm khi có mẹ bên

cạnh. Người bố trong buổi làm việc thường chỉ ngồi yên lặng; khi được hỏi ý kiến về tình

trạng của con, bố nói “tôi thấy bé bình thường”, “mẹ ở gần cháu hơn tôi nên biết rõ cháu

hơn”... Bố không nói nhiều, chỉ ngồi đợi nghe câu hỏi rồi để cho mẹ kể chuyện. Tôi trình bày

ý kiến của mình về những khó khăn mà bé H. có thể gặp phải khi bố mẹ chia tay và đề nghị

bố mẹ đưa bé đến trong buổi làm việc kế tiếp sau khoảng vài ngày. Họ đã đồng ý. Sau này,

qua trung gian chuyên viên tâm lý kia, tôi mới biết chuyện bố có mối quan hệ khác ở bên

ngoài hôn nhân.

Buổi thứ hai, H. được bố mẹ đưa đến. Trước tiên H. muốn làm việc riêng với tôi trong phòng

chơi, sau đó mới làm việc chung với bố mẹ. Trong phòng chơi, tôi bày khay cát cùng các

dụng cụ và khi được đề nghị, H. đồng ý tham gia hoạt động với khay cát. Mất khoảng 20

Page 15: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

14

phút, H. trình bày một cảnh chơi về một ngôi làng bình yên, có những ngôi nhà, cây cối mọc

quanh nhà, những con người đi lại trò chuyện với nhau, những vườn hoa, chuồng thú...

Trong khay cát, có cảnh một bé gái đứng trước một ngôi nhà nhỏ, bên trong nhà bày hai

chiếc ghế trống, còn cô bé thì đứng nhìn vào bên trong nhà. Phía ngoài có một con đường

dẫn đến đầu cổng làng, có một khúc quanh của đường trước khi dẫn vào làng, bên cạnh

đường có bảng chỉ dẫn lối vào. Rồi H. thêm vào cảnh diễn một đoàn quân đi từ ngoài theo

con đường dẫn đến đầu làng, có những người lính vào làng để bảo vệ, và những người lính

khác thì đứng dọc hai bên đường dẫn vào làng. Cuối cùng, H. tạo một tình tiết kết thúc cho

cảnh diễn, đó là: Một người đàn ông dẫn một con ngựa đi bộ dọc theo con đường dẫn đến

làng và đứng lại ở trước cổng làng.

Quang cảnh “ngôi làng bình yên”

Cô bé nhìn vào ngôi nhà với hai chiếc ghế trống

Page 16: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

15

Cảnh diễn sau cùng: Người đàn ông dẫn ngựa đến trước cổng làng. Hai bên đường rất nhiều lính gác.

(Nguồn: CLB Trăng Non)

Khi H. thực hiện xong cảnh diễn, bố mẹ (nãy giờ vẫn ngồi chứng kiến H. tạo cảnh) đã được

mời vào cùng dự buổi chơi và nghe H. nói về cảnh diễn. Sau đó, bố mẹ cũng được yêu cầu

chia sẻ ý kiến. Mỗi người được yêu cầu đặt cho cảnh diễn một tên gọi theo chủ đề mà mình

cho là quan trọng. Bố cho cái tên “Hoàng hôn”, mẹ nói “Ngôi làng bình yên”. Còn H. thì cứ

phân vân không chọn lựa được chủ đề nào để đặt tên cả. Tuy vậy, điều quan trọng là lúc đó,

cả 3 người: bố, mẹ và H. đều có dịp để cùng lúc ghi nhận và chia sẻ ý kiến về cảnh diễn mà H.

đã tạo.

Khi được hỏi về tâm trạng và cảm nhận khi chơi với khay cát, H. cho biết em thấy thoải mái,

mặc dù em tỏ vẻ bẽn lẽn và không nói gì thêm cả. Lúc đó, tôi bắt đầu chia sẻ những điều mà

tôi nhận thấy trên khay cát: Cảnh quan về một ngôi làng yên bình, những con người thân

thiện, cô bé đứng bên ngoài nhìn vào ngôi nhà trống vắng, cảnh những người lính đứng bảo

vệ ngôi làng và cảnh người đàn ông trở về. Tôi có cảm nhận rằng hai chi tiết cô bé đứng

nhìn ngôi nhà và người đàn ông trở về dường như gây được chú ý của bố và mẹ. Cả hai ngồi

gần bên bé H. và họ có những cử chỉ xúc chạm nhẹ nhàng với H., mắt nhìn vào bé. Tôi nói

cho H. biết rằng em đã thể hiện rất tốt khi tham gia hoạt động chơi với khay cát và hỏi “em

có sẵn sàng trở lại và trò chuyện thêm ở những buổi sau hay không?”. H. gật đầu. Buổi thứ

hai kết thúc và tôi hẹn gặp cả hai bố mẹ vào một buổi thứ ba một tuần sau đó.

Trong buổi thứ ba, bố mẹ đến cùng lúc. Họ có vẻ gần gũi nhau hơn khi ngồi trò chuyện với

tôi, kể cả những ánh nhìn lẫn những xúc chạm. Họ có vẻ như thể là một cặp vợ chồng mới

làm lành sau khi giận nhau, dù trong thực tế họ đã ly hôn. Tôi thông báo lại những gì mà tôi

nhận định được sau buổi làm việc thứ hai. Tôi chia sẻ giả thuyết về những nỗi buồn và lo

lắng của H. có thể do sự hoang mang của bé sau khi bố mẹ chia tay, nỗi lo mất mát tình

Page 17: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

16

thương từ bố mẹ, cùng với niềm mong mỏi từ trong thâm tâm muốn bố quay trở về. Tuy

nhiên, tôi cũng chia sẻ ý nghĩ của tôi rằng thực tế bố mẹ đã chia tay, những gì mà trong thực

tế đời sống hôn nhân của bố mẹ hẳn phải có những lý do khiến cho họ có một quyết định

như thế mà H. thì không thể hiểu được. Tôi trao đổi với họ về những gì mà cha mẹ có thể

làm với đứa con còn nhỏ tuổi của họ sau khi chia tay, về những khó khăn mà trẻ phải gánh

chịu và phải dung nạp dần dần, và điều khó khăn mà một cặp vợ chồng phải đương đầu sau

khi ly hôn – “Họ không còn là vợ chồng nhưng vẫn còn là cha mẹ của con họ. Và họ có cùng

nhiệm vụ giúp con vượt qua giai đoạn thử thách này”.

Người bố lần này cũng bắt đầu chia sẻ ý kiến nhiều hơn. Anh nói mình đã không quan tâm

đủ đến con, chưa hiểu những khó khăn của bé và sẽ chú ý gần gũi bé hơn sau này. Mẹ thì có

ý thông cảm với bố, tuy đang khóc nhưng cũng nói lời khuyến khích chồng mình nên

thường xuyên đến thăm và nói chuyện với H. nhiều hơn. Không có dấu hiệu chỉ trích hoặc

quy lỗi giữa họ với nhau. Đột nhiên, khi đang nói về chủ đề kỹ năng chăm sóc con cái sau ly

hôn, người mẹ chợt phát biểu một liên tưởng của cô về tuổi thơ của mình, một tuổi thơ mà

cô nói là gắn liền với nỗi buồn khổ của mẹ mình (bà ngoại của H.). Cô nói rằng mẹ cô đã

sống một cuộc đời nhẫn nhịn, chịu đựng trong hôn nhân với chồng (ông ngoại của H.), và cô

không muốn sống giống như thế. Rồi cô chợt thấy mình đã từng cố gắng làm khác với mẹ,

để không chịu đựng trong hôn nhân giống như mẹ. Cô cho biết mình từng trải qua những

đợt trầm cảm và nhiều lúc không còn tập trung quan tâm chăm sóc con mình.

Cuộc làm việc trên khay cát với bé H. phần nào tạo được một khúc quanh chuyển biến trong

cách nhìn của bố mẹ của bé H. vì cả hai đều có dịp nhìn lại cuộc hôn nhân của họ, những

trách nhiệm của họ. Đối với H., cuộc làm việc đã góp phần giúp tạo lập sự quân bình cảm

xúc của bé, một phần là do những giải bày của bé qua trung gian cảnh diễn có tính ẩn dụ đã

được nhiều người lớn ghi nhận và hiểu, một phần quan trọng hơn là bé có dịp được ở gần

bên cạnh cả bố lẫn mẹ để nói chuyện về các chủ đề mà chính bé nêu ra. Khúc quanh trong

trị liệu cũng xảy đến ở người mẹ khi mà từ chuyện của bé H. mà mẹ có dịp nhìn lại tuổi thơ

của chính mình, liên hệ hình ảnh người mẹ, người vợ nơi mẹ mình khi xưa với hình ảnh

người mẹ, người vợ trong chính bản thân mình hôm nay, liên hệ những nỗi buồn của mẹ

mình khi xưa với những tâm trạng khó khăn của mình hiện nay. Một điều quan trọng khác

Page 18: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

17

cũng xảy ra trong buổi làm việc lần thứ ba ấy là người bố đã hiện diện, lắng nghe và hiểu

hơn câu chuyện của người mẹ.

Tôi không tiếp tục làm việc với cặp vợ chồng này thêm sau đó, vì người mẹ của H. là thân

chủ của chuyên viên tâm lý mà tôi đã nêu ở trên. Cô trở về tiếp tục quá trình trị liệu với

chuyên viên ấy với nhiều chủ đề mới nay đã bắt đầu mở rộng ra thêm – Một quá trình tìm

hiểu và khám phá bản thân đầy gian nan và cũng cần đến sự can đảm rất nhiều.

KẾT LUẬN

Trong cả hai trường hợp mà chúng tôi trình bày để minh họa trên đây, việc sử dụng khay

cát có vai trò như một đòn bẩy, một bước chuyển để thúc đẩy tiến trình trị liệu đi tới hoặc

để mở rộng tầm nhìn hoặc tạo khúc quanh trong cách nhìn của thân chủ về bản thân cũng

như về cuộc sống của họ.

Trong trường hợp của L., cô gái 31 tuổi đã có dịp trải nghiệm lại những ước muốn và sự mơ

hồ trong kế hoạch cuộc sống của bản thân mình. Cô bắt đầu nhìn lại cuộc sống của mình

một cách có trách nhiệm hơn, dẫu rằng ở thời điểm đó trở đi vẫn còn nhiều việc khó khăn

đang chờ đợi cô ở phía trước.

Trong trường hợp thứ hai, bé H. không chỉ có cơ hội trải nghiệm được sự giảm nhẹ cảm xúc

mà bé còn có dịp cải thiện các mối quan hệ quan trọng xung quanh bé: quan hệ giữa bố mẹ

với bé và quan hệ giữa bố mẹ với nhau sau ly hôn, đặc biệt cuộc làm việc còn giúp bố mẹ

trải nghiệm và giải bày các vấn đề trong cuộc sống của chính họ.

Trong cả hai trường hợp, việc ứng dụng sự trải nghiệm với khay cát không có mục tiêu giải

quyết một vấn đề cụ thể nào trong cuộc sống thực tế của thân chủ, mà mục tiêu chính là

giúp thân chủ khám phá và thấu hiểu hơn về cuộc sống của bản thân. Khay cát là một công

cụ giúp thể hiện và trải nghiệm; nó được lựa chọn khi có sự bế tắc hoặc khó khăn trong giải

bày cảm xúc cũng như trong đối thoại; nó không thay thế cho những công cụ khác trong

tâm lý liệu pháp nói chung và cũng không có vai trò quyết định hoặc kết thúc tiến trình trị

liệu.

Page 19: Liệu pháp khay cát

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON

18

Cũng như đối với nhiều loại công cụ khác trong tâm lý liệu pháp, việc lượng giá hiệu quả

của khay cát cũng dựa trên những chỉ báo có tính chủ quan và định tính. Trong hai trường

hợp minh họa nêu trên, các chỉ báo ấy có thể kể ra bao gồm: thân chủ chú tâm khám phá các

trải nghiệm cảm xúc của bản thân, chủ động tham gia vào việc giải bày nội tâm qua các hình

ảnh ẩn dụ, thân chủ đối thoại về các ý nghĩa của những chủ đề được trình bày qua các hình

ảnh ấy, đối thoại với nhà trị liệu về cuộc sống của bản thân một cách có trách nhiệm, và

đồng thời không thể hiện bất kỳ biểu hiện nào của sự phòng vệ hoặc phản kháng, không có

sự chỉ trích hoặc quy lỗi cho hoàn cảnh và người khác. Hiệu quả của việc sử dụng khay cát

trong hai trường hợp minh họa cũng được nhận thấy thông qua việc nó thúc đẩy tiến trình

thay đổi vẫn tiếp diễn cả trong những phiên trị liệu cũng như trong đời sống bên ngoài,

bước đầu có thể thay đổi về cách nhìn, về tâm trạng và rộng ra hơn là cải thiện các mối quan

hệ và chất lượng đời sống.

Ngoài những áp dụng khay cát như một công cụ trị liệu tâm lý, chúng tôi cũng sử dụng khay

cát để giúp những người học tâm lý lâm sàng tại Trăng Non có cơ hội trải nghiệm và khám

phá bản thân. Những cảm xúc có thể rất sống động khi tạo cảnh, y như đang trải nghiệm

một cảnh sống thực. Trong cảnh diễn ấy, sự phân định giữa cảnh chơi và cảnh đời, giữa

cảnh ảo và cảnh thực đôi khi không còn cần thiết nữa…

(Nguồn: CLB Trăng Non)